Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 03:14:26 pm



Tiêu đề: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 03:14:26 pm
Tên sách: Sống mãi với thời gian
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



Sống mãi
với thời gian


Tập bài viết về danh tướng Nguyễn Chánh người con của núi Ấn sông Trà





NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN CHÁNH











NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Hà Nội – 2007

 

* Sưu tầm, tuyển chọn và chỉnh lý bài viết:

                                              Bà PHẠM THỊ TRINH (vợ đồng chí Nguyễn Chánh)
                                              Và các con:
                                                   - NGUYỄN CHÍ TRỰC
                                                   - NGUYỄN TUYẾT MINH
                                                   - NGUYỄN NGỌC SƯƠNG
                                                   - NGUYỄN ANH TƯỜNG
                                                   - NGUYỄN CHÍ DŨNG
                                                   - NGUYỄN CHÍ HÒA

 

Vị tướng tài danh của nước nhà
Qua đời giữa tuổi bốn mươi ba
Ghi một dấu son hình núi Ấn
Sáng ngời soi xuống dải sông Trà

(TẾ HANH)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 03:19:55 pm

Lời giới thiệu

NGUYỄN CHÁNH là một vị tướng. Hơn thế, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá, là một "vị tướng tài". Còn viên tướng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, viên tư lệnh chỉ huy chiến dịch Atlante đánh lên Tây Nguyên là De Beaufort đã phải thừa nhận rằng Nguyễn Chánh là "vị tướng đã làm tôi điêu đứng trên chiến trường"... Nguyễn Chánh không chỉ là một vị tướng cầm quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, ông còn là một nhà lãnh đạo chính trị, một nhân vật của lịch sử.

Ông thuộc thế hệ những lớp người đầu tiên tham gia Đảng Cộng sản, từng trải ngục tù đế quốc. Ông lại là một trong những người tham gia lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ, hạt nhân đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng ở Khu 5. Ông là một trong những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của sự kiện giành chính quyền ở Quảng Ngãi vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, trước cả khi lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành.

Trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp trở lại xâm lược, ông là người lãnh đạo và bám trụ với chiến trường Khu 5, vùng tự do nằm trong sự kiểm soát của nhà nước cách mạng nhưng cũng lại lọt vào giữa vòng vây của quân thù và là mục tiêu của những cuộc càn quét và các chiến dịch quân sự của quân viễn chinh xâm lược. Ở cương vị vừa là Chính ủy lại vừa là Tư lệnh chiến trường Khu 5, Nguyễn Chánh không chỉ làm tròn nhiệm vụ là giữ vững vùng giải phóng, kiên cường chống trả mọi cuộc hành quân của giặc, đặc biệt là cản phá âm mưu của thực dân Pháp tiến chiếm vùng Tây Nguyên chiến lược mà còn phối hợp với chiến trường cả nước, đặc biệt là trong chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953-1954, góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Chỉ sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), Nguyễn Chánh theo sự chỉ đạo của Trung ương mới rời chiến trường quê hương ra Bắc tham gia xây dựng quân đội, chuẩn bị cho những nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng, nhưng trong lòng không nguôi khát vọng giải phóng quê hương Quảng Ngãi và Khu 5 kiên cường mà ông đã từng gắn bó gần như trọn đời. Nhưng cuộc đời ông chấm dứt chỉ mới ở tuổi 43 như lời đánh giá đầy thương tiếc của vị Tổng tư lệnh là "tài năng đương độ phát triển", nhưng tổng kết lại vẫn là "một cuộc đời thật đẹp của... một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực".

Cuốn sách này tập hợp những bài viết đã đăng tải trên báo chí trong 10 năm qua về sự nghiệp của một con người mới có 43 năm tuổi đời nhưng đã để lại không chỉ những công trạng mà cả những ký ức, nhiều kỷ niệm tốt đẹp của những người cùng thời cũng như lòng kính trọng của những thế hệ sau về tính cách, cuộc sống đời thường... khiến cho tên tuổi của Nguyễn Chánh "Sống mãi với thời gian".

Năm 1997, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức một cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 40 năm ngày mất của Nguyễn Chánh (1957-1997) và tượng bán thân của ông đã được đặt trang trọng tại ngôi nhà tưởng niệm của ông ở quê hương núi Ấn - sông Trà, cũng như được tặng cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.

Năm nay, nhân nửa thế kỷ ngày mất của Nguyễn Chánh (1957-2007), cuốn sách này như là một kỷ niệm để lại cho các thế hệ sau tấm gương của một trong những con người đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc... một sự nghiệp cũng "Sống mãi với thời gian".


Tháng 8-2007
DƯƠNG TRUNG QUỐC


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 03:25:36 pm

NHỚ ANH NGUYỄN CHÁNH - MỘT CÁN BỘ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG,
MỘT VỊ TƯỚNG TÀI CỦA QUÂN ĐỘI


Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

Anh Nguyễn Chánh là một cán bộ lãnh đạo trung kiên của Đảng, một vị tướng tài của quân đội, đã có cống hiến lớn với cách mạng và kháng chiến. Anh ra đi quá sớm, năm 1957, lúc mới 43 tuổi, tài năng đang độ phát triển.

Lần đầu tôi biết và làm việc với anh vào những ngày đấu tranh hào hùng của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là vào những ngày cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ diễn ra sôi nổi. Cuối thu năm 1946 tôi được Trưng ương và Chính phủ cử vào kiểm tra mặt trận phía Nam, tôi đã dừng chân tại Huế, gặp anh Trần Hữu Dực, lúc bấy giờ là Chủ tịch và anh Chánh là Ủy viên trưởng Quốc phòng của Ủy ban kháng chiến Trung Bộ.

Về sau, trong chín năm kháng chiến, anh Chánh đã mấy lần từ Liên khu 5 ra họp và làm việc ở Việt Bắc. Năm 1950 anh ra dự Hội nghị tổng kết chiến dịch Biên Giới, ở lại tham gia Đảng ủy các chiến dịch Đường 18 và Trung Du vào đầu năm 1951 với cương vị Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Anh đã dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 (1951) và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Lúc này Trung ương đã có ý định giữ anh Chánh ở lại làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay anh Nguyễn Chí Thanh để anh Thanh tập trung chuyển về công tác đảng, nhưng do nhu cầu của chiến trường nên anh lại trở về Liên khu 5.

Năm 1953, anh lại ra Việt Bắc, lần này để nhận nhiệm vụ quan trọng về chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954.

Trong thời gian đầu tiếp xúc và trực tiếp làm việc với anh Chánh, anh đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc, và chúng tôi đã quý mến nhau ngay từ lúc đó.

Sau năm 1954, anh ra làm Tổng Tham mưu phó, rồi Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, chúng tôi đã thường xuyên làm việc với nhau. Anh và cả chị Trinh, vợ anh, cũng trở nên thân thiết với gia đình tôi và bản thân tôi.

Cuộc đời, sự nghiệp, cống hiến của anh Nguyễn Chánh trước hết gắn liền với Liên khu 5, tức vùng Nam Trung Bộ, một chiến trường khó khăn về kinh tế, bị địch bao vây bốn bề, ở xa Trung ương, nhưng lại có truyền thống cách mạng lâu đời và vị trí chiến lược rất quan trọng, đặc biệt có chiến trường Tây Nguyên, khống chế cả khu vực nam bán đảo Đông Dương và nối liền hành lang huyết mạch với Nam Bộ.

Anh Chánh tham gia cách mạng rất sớm, từ những năm 1930 - 1931, là một chiến sĩ cộng sản đấu tranh kiến cường trong nhà tù của đế quốc. Năm 1945, sau khởi nghĩa Ba Tơ, được Tỉnh ủy Quảng Ngãi phân công trực tiếp tham gia lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ vừa mới ra đời, anh Chánh đã có chủ trương rất táo bạo, sáng suốt: không để đội du kích luẩn quẩn trên vùng rừng núi, trong vòng vây của quân thù mà chủ trương đưa quân về đồng bằng, dựa vào phong trào quần chúng cách mạng để xây dựng và chiến đấu, đồng thời phát triển dân quân tự vệ và tham gia phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Anh đặc biệt quan tâm đến việc củng cố sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng chi bộ Đảng trong đội du kích. Chính do chủ trương đúng đắn, sắc sảo này mà trong một thời gian rất ngắn Đội du kích Ba Tơ từ mười mấy người đã phát triển thành hai đại đội mạnh, cùng với hàng vạn dân quân tự vệ và quần chúng cách mạng, tạo nên cao trào mạnh mẽ. Ngày 14 tháng 8 năm 1945 đã tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi, một trong những địa phương đã sớm vùng lên giành chính quyền trong thời cơ phát-xít Nhật đầu hàng. Sau đó Đội du kích Ba Tơ đã thực sự trở thành nòng cốt vững chắc của Giải phóng quân ở Nam Trung Bộ. Đội du kích Ba Tơ xứng đáng là một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân chúng ta.

Nay nhìn lại, nghiên cứu kỹ cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và lịch sử Đội du kích Ba Tơ, chúng ta có thể thấy sự lãnh đạo của Đảng ở Quảng Ngãi và của anh Nguyễn Chánh hồi bấy giờ thật vững vàng, sắc sảo; ngay từ đầu đã nắm vững những vấn đề rất cơ bản trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và của nhân dân; những vấn đề về bản chất của quân đội nhân dân đã được khẳng định và thực hiện đúng đắn. Đó là điều hết sức quan trọng và không dễ chút nào, nhất là trong điều kiện cách mạng còn ở trong tình trạng trứng nước và ở xa sự chỉ đạo của Trung ương hồi bấy giờ.

Do vị trí đặc biệt của Liên khu 5 như đã nói trên, nên từ ngày đầu kháng chiến toàn quốc được phát động, đồng chí Phạm Văn Đồng đã được cử vào làm đại diện Trung ương và Chính phủ ở đây, trực tiếp chỉ đạo chiến trường này. Trong thời kỳ đó, có thể nói ở Liên khu 5, Đảng bộ, đồng bào và chiến sĩ ta đã thực hiện được kỳ tích: giữa vòng vây của quân thù, vẫn giữ được một vùng tự do gồm gần trọn 4 tỉnh đồng bằng ven biển liên hoàn, không những đứng vững trước mọi o ép của địch mà còn xây dựng được cả một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh, có kinh tế tự túc ổn định, văn hóa, giáo dục phát triển, trong nhiều năm giữ vững đường giao thông với vùng Cực Nam Trung Bộ, với Nam Bộ, thực sự đã trở thành một vùng hậu phương vững chắc cho kháng chiến lâu dài. Trong vùng địch tạm chiếm thì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng và chiến tranh du kích đã phát triển đều khắp; ba thứ quân phát triển nhịp nhàng...

Với cương vị là Chính ủy Bộ tư lệnh Liên khu 5, anh Nguyễn Chánh đã có sự đóng góp quan trọng vào kỳ tích nói trên.

Từ khoảng năm 1949 trở đi, đồng chí Phạm Văn Đồng, rồi một số đồng chí lãnh đạo khác lần lượt được điều về Trung ương. Trách nhiệm của anh Chánh ngày càng nặng nề hơn, từ năm 1951, đã giữ trọng trách vừa là Bí thư Liên khu ủy, vừa là Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5.

Đối với anh, đây là một thử thách lớn. Chính thử thách này càng làm bộc lộ bản lĩnh và tài năng của anh.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 03:36:50 pm

Phong trào cách mạng và kháng chiến ở Liên khu 5 không những tiếp tục được giữ vững, mà từ 1951 trở đi, rõ ràng có những bước phát triển mạnh mẽ và nhanh hơn. Là Bí thư Liên khu ủy, anh tỏ ra là một người lãnh đạo toàn diện. Là Chính ủy kiêm Tư lệnh, anh tỏ ra là một cán bộ có tầm nhìn chiến lược, đồng thời là một người chỉ huy kiên quyết và có tài tổ chức.

Có điều đặc biệt đáng nói rõ là ở Liên khu 5 trong thời kỳ này, đi đôi với sự phát triển của lực lượng du kích và chiến tranh nhân dân du kích, lãnh đạo Liên khu và anh Nguyễn Chánh với chủ trương và sự chi viện của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đã chú trọng đúng mức, kiên định và liên tục xây dựng lực lượng chủ lực, biết sử dụng khéo quả đấm chủ lực để thúc đẩy kháng chiến phát triển, vừa tác chiến, vừa xây dựng, trưởng thành khá vững và nhanh.

Chính đây là một trong những nhân tố rất quan trọng khiến Liên khu 5 là một trong những chiến trường giành được thắng lợi rực rỡ nhất trong chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954, phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện Biên Phủ.

Lúc này địch đưa một lực lượng khá lớn, mở chiến dịch Át-lăng hòng đánh chiếm vùng tự do đồng bằng Liên khu 5. Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương ta không bị động đối phó với địch ở vùng tự do mà chủ động đưa lực lượng chủ lực tập trung đánh lên Tây Nguyên, giành lấy địa bàn chiến lược này, đẩy địch vào thế bị động. Đó là cách tốt nhất để giữ vững vùng tự do đồng bằng. Bấy giờ một số đồng chí chủ chốt trong cơ quan lãnh đạo Liên khu và Bộ tư lệnh Liên khu còn có chỗ chưa thông, sợ mất vùng tự do, muốn dùng chủ lực giữ đồng bằng. Nhiều đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh đồng bằng cũng e ngại, lo lắng; bộ đội và đồng bào thì thắc mắc nhiều. Anh Chánh đã kiên trì thuyết phục và đấu tranh với mọi ý kiến trái ngược. Anh đã kiên quyết chấp hành nghiêm chỉnh và tổ chức thực hiện rất tốt chủ trương của Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh.

Kết quả thật rực rõ: một mảng phòng ngự lớn của địch ở Bắc Tây Nguyên bị phá vỡ, tỉnh Kon Tum và cả vùng Bắc Tây Nguyên được giải phóng. Sau đó, nhanh chóng phát triển chiến dịch, tiếp tục tiến xuống phía nam, đánh địch trên tuyến đường chiến lược số 19, tiêu diệt hoàn toàn Binh đoàn cơ động số 100, là một binh đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của quân viễn chinh Pháp vừa rút từ Triều Tiên về; bao vây Plây-cu, thọc sâu vào cao nguyên Đắc Lắc, áp sát Buôn Ma Thuột, tạo điều kiện nối liền với chiến trường Nam Bộ, đồng thời tiến xuống cùng quân và dân địa phương đánh mạnh quân địch ở Phú Yên và uy hiếp cả Nha Trang. Ở các chiến trường địch hậu trong Liên khu, thừa thắng quân dân ta đã tiêu diệt, bức hàng chục đồn bốt, giải phóng những khu vực rộng lớn với hàng chục vạn dân. Phía Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, ta phối hợp với quân dân bạn giải phóng một vùng rộng lớn. Chiến dịch Át-lăng của địch bị đánh bại hoàn toàn, vùng tự do đồng bằng Liên khu được giữ vững và mở rộng. Thế trận ở Tây Nguyên cũng như trên toàn Liên khu lúc này thật đẹp, tạo triển vọng. Giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Át-lăng (đợt 1, 2) là De Beaufort đã hết sức thán phục, và sau khi chiến tranh kết thúc đã tỏ ý muốn gặp "vị tướng đã làm cho tôi điêu đứng trên chiến trường...”. Tôi đã cho tổ chức và đã dự cuộc gặp gỡ lý thú ấy khi anh Chánh và cả tướng De Beaufort có mặt tại Hà Nội.

Sự phát triển tài năng của anh Nguyễn Chánh có thể nói là một trường hợp khá đặc biệt. Anh chưa từng được qua trường lớp nào, ngay việc được học tập văn hóa từ nhỏ cũng rất hạn chế. Nhưng đó là một con người thông minh, có ý chí tiến thủ mạnh, khiêm tốn và ham học. Những bài học cơ bản về khởi nghĩa vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính là anh đã học được từ trong nhà lao Buôn Ma Thuột, khi các đồng chí của ta ở đây đã thực hiện "biến nhà tù của đế quốc thành trường học cách mạng" và sau đó trong thực tiễn chiến đấu, anh đã vận dụng hết sức thành công.

Mấy lần anh từ Liên khu 5 ra Việt Bắc công tác, tôi luôn nhận thấy anh hết sức chăm chú tìm hiểu học tập với một tinh thần thật sự khiêm tốn và cầu thị. Nhiều anh em ở Liên khu 5 đều bảo rằng sau mỗi chuyến ở Việt Bắc về, anh Nguyễn Chánh lại tiến bộ hơn, vững vàng hơn, sắc sảo hơn.

Anh Chánh còn là một con người có đức tính đoàn kết, tập hợp được cán bộ và chiến sĩ, quân và dân. Trước hết, vì anh luôn toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp lớn của cách mạng, chí công vô tư, có tâm hồn trong sáng và cuộc sống thanh bạch. Hơn nữa tuy không được học hành nhiều ở trường lớp nào, nhưng từ nhỏ ở anh đã tiếp thu truyền thống quê hương gia đình, về sau đã nhanh chóng thấm nhuần đường lối của Đảng. Anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người chỉ huy nghiêm khắc, quyết đoán, nhưng cũng lại là một con người cởi mở, nhân hậu, giản dị, biết linh hoạt trong ứng xử, ăn ở thủy chung với đồng chí, đồng bào. Anh được cán bộ, chiến sĩ, được nhân dân Liên khu 5 hồi bấy giờ hết sức quý mến và khâm phục.

Sau năm 1954, anh chỉ mới ra làm việc ở Trung ương mấy năm nhưng cũng đã gây được lòng yêu mến và kính trọng của các cơ quan và đơn vị. Khi được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ thì mọi người đều vui mừng, tin tưởng.

Anh Chánh mất sớm là một tổn thất lớn của Đảng và của quân đội ta; tôi mất đi một người bạn chí thiết.

Cuộc đời một con người mới 43 tuổi đã để lại sự nghiệp như vậy có thể nói là một cuộc đời thật đẹp: cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực.

(Trích trong Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr.41 49)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 06:45:24 pm

NHÀ VĂN HOÁ
TRONG MỘT VỊ TƯỚNG THAO LƯỢC

Nhà văn NGUYÊN NGỌC

                                                                                                                                                                                                                  Nguyễn Chánh là một danh tướng trí dũng song toàn của Đảng, quân đội và nhân dân ta. Ông đến với cách mạng với Đảng từ năm 14 tuổi. Ông là người lãnh đạo chủ chốt của Đội du kích Ba Tơ, một trong ba tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 31 tuổi, ông đã là Ủy trưởng quốc phòng Trung Bộ đầu kháng Pháp. Năm 1951, ba mươi bảy tuổi, ông là Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5 (khi ấy bao gồm các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia). Sau năm 1954, ông là Tổng tham mưu phó rồi Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến khi mất vì bạo bệnh, năm 1957, khi mới 43 tuổi. Dù ông đã đi xa 45 năm nay, mọi người vẫn nhớ về ông với nỗi tiếc thương khôn nguôi một nhà lãnh đạo tài cao đức lớn, một vị tướng thao lược hiếm có, một con người chí nghĩa chí tình... Văn hiến Việt Nam xin giới thiệu bài viết về Nguyễn Chánh của nhà văn Nguyên Ngọc nhân 45 năm ngày mất của ông.


Thời kháng chiến chống Pháp, tôi có một thời gian dài làm việc ở báo Vệ quốc quân Liên khu 5 (từ năm 1952 đổi tên thành báo Quân đội nhân dân Liên khu 5). Là một cán bộ ở cấp rất thấp, tôi ít có dịp được làm việc trực tiếp với anh Nguyễn Chánh, bấy giờ là Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu. Nhưng anh Chánh là người rất quan tâm đến báo chí, nên anh thường hay qua chỗ toà soạn của chúng tôi, thăm hỏi từng anh em, phát biểu những ý kiến chỉ đạo chung đối với từng bài báo của chúng tôi. Tôi nhớ những ý kiến của anh thường rất nghiêm khắc, cặn kẽ, chứng tỏ anh rất coi trọng vai trò của tờ báo và anh đọc báo rất kỹ. Nhưng cách nói của anh, ngay khi phê phán, vẫn rất ân cần. Anh thường không "chụp" ngay vào những chỗ khuyết điểm sai sót của chúng tôi trên báo, mà bằng các câu nói nhẹ nhàng, khêu gợi cho chúng tôi tự thấy ra, cuối cùng chính tự chúng tôi rút ra bài học, kết luận.

Những lần đến toà soạn, anh rất quan tâm đến số anh em trẻ, là học sinh mới vào bộ đội. Lúc bấy giờ ở toà soạn có Ngọc Anh và tôi đều mười bảy, mười tám tuổi. Chúng tôi vừa làm báo, vừa tập tò sáng tác văn học chút ít: Viết đôi bài bút ký nho nhỏ. Không ngờ anh Chánh biết và chú ý đến việc đó, Một hôm anh cho gọi tôi và Ngọc Anh lên. Thú thực lúc đầu tôi rất lo: Chắc là có khuyết điểm gì nặng trong bài báo nào của chúng tôi rồi đây. Đã chuẩn bị tinh thần để nghe anh "chỉnh" ...

Nhưng, rất ngạc nhiên, anh bắt đầu như là một người anh lớn tâm sự với hai đứa em nhỏ. Anh hỏi tỉ mỉ hoàn cảnh của gia đình từng đứa, học hành ra sao, vào bộ đội đã qua những công tác gì, "có phải có nguyện vọng muốn trở thành nhà văn không" ... Chúng tôi đành nhận là quả có như thế thật, nhưng chúng tôi còn lúng túng lắm, không biết học hỏi ở đâu.

Anh bảo, đại ý: Làm văn học là công việc rất cao quý, nói là thiêng liêng cũng không quá đáng, phải học hỏi rất nhiều. Học trường, học thầy, học trong sách. Nhưng có một cái học hết sức quan trọng không thể thiếu, đó là học hỏi từng trải ở đời. Cái thiếu lớn nhất của chúng tôi bây giờ là sự từng trải đó. Nên đi ra chiến trường, đi xuống đơn vị, sống và tham gia cuộc chiến đấu cùng đồng bào và chiến sĩ, đó là trường học hay nhất. Qua đó mà tích lũy lâu dài, về sau mới mong may ra có thể có chút thành công gì trên đường văn chương ...

Quả thật tôi rất cảm động và kinh ngạc: Không ngờ một vị Tư lệnh, bận bao nhiêu lo toan lớn lao phức tạp, lại có thể quan tâm đến hai anh chàng phóng viên trẻ, vô danh, hiểu thấu đáo cả ước mơ thầm kín của chúng tôi và lo nghĩ sâu sắc đến vậy con đường đi lâu dài trong cuộc đời của chúng tôi.

Ngọc Anh và tôi đều đề nghị anh cho chúng tôi ra đơn vị chiến đấu. Anh bảo: Cũng chưa cần như thế đâu. Nhưng đừng ru rú ở toà soạn mãi làm gì, nên đi xuống chiến trường, xuống đơn vị cơ sở, và xuống đó đừng có chỉ làm anh nhà báo suông mà phải thực sự tham gia công tác cùng anh em, đồng bào ...

Sau đó, chắc là anh có nói với anh Đinh Nho Bát, Trưởng ban Tuyên huấn Quân khu, và cả anh Trương Khả Liên, rồi anh Ngô Thông, Thư ký toà soạn của chúng tôi, nên các anh đưa ngay Ngọc Anh và tôi đi làm "phóng viên chiến trường" và giao nhiệm vụ: Cứ nằm ở dưới cơ sở, càng lâu càng tốt. Tôi đi Nam Tây Nguyên, Ngọc Anh đi mặt trận miền Tây tức vùng dân tộc thiểu số Tây Quảng Ngãi, Bắc Kon Tum. Chúng tôi đã làm đúng như lời anh Chánh dặn: Ngọc Anh trở thành cán bộ gây dựng cơ sở ở mặt trận miền Tây, tôi thì trực tiếp tham gia như là một đội viên một đội vũ trang tuyên truyền ở Đắc Lắc, rồi sau ra Bắc Tây Nguyên... Có thể nói chính nhờ sự chỉ bảo của anh Chánh mà về sau này tôi mới có được "Đất nước đứng lên", Ngọc Anh có những bài thơ tuyệt vời như "Bóng cây Kơ-nia" ...

Có lần trong chiến dịch Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954, trên đường hành quân lên mặt trận, gặp tôi, anh hỏi tôi đi với đơn vị nào. Tôi báo cáo, tôi sẽ đi với tiểu đội bộc phá của Trần Xứng thuộc Tiểu đoàn 59 đánh đồn Kom Rẫy. Anh bảo vậy là tốt nhưng cũng đừng đi sâu quá thế, có thể hy sinh không cần thiết, nên đi với ban chỉ huy đại đội là vừa...

Năm 1956, ở Hà Nội, tôi viết xong quyển "Đất nước đứng lên", quyển sách vừa được xuất bản và được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam. Một buổi tối anh gọi tôi đến nhà anh ở 34 Lý Nam Đế. Anh khen, động viên và hỏi:

- Giải thưởng với nhuận bút, được bao nhiêu tiền?

Tôi báo cáo anh Chánh tôi được hơn một triệu (tiền cũ hồi bấy giờ). Anh hỏi:

- Cậu định sử dụng số tiền đó như thế nào?

Thật tình tôi rất lúng túng: tôi chỉ có một mình, chưa vợ con, gia đình gì, tiền quả cũng chẳng biết làm gì bây giờ.

Anh bảo:

- Có tiền nhiều, không khéo cũng dễ thành người ăn chơi hư hỏng. Thôi bây giờ để mình bày cho cậu cách tiêu: có nhiều gia đình cán bộ quân đội ra tập kết ở Hà Nội, nay rất khó khăn. Cậu nên cho họ mượn mỗi nhà một ít để họ nuôi heo. Cậu không quen quản lý tiền nong, để mình nói cậu Kỳ (thư ký riêng của anh Chánh) quản lý hộ và cho các bà vay.

Tôi quá mừng, liền giao gần hết số tiền vừa có cho anh Kỳ, chỉ giữ lại một ít cho cậu em trai tôi mua một chiếc xe đạp...

Tôi nghĩ có lẽ không phải ngẫu nhiên mà anh Chánh, một vị tướng giữ trọng trách chỉ huy cả một chiến trường lớn, quan trọng và khó khăn, lại có thể quan tâm, lặng lẽ nhưng tận tình, chu đáo đến cuộc đời một người lính, một người viết văn như tôi, dìu dắt và theo dõi từng bước trưởng thành, chỉ cho cả phương hướng cuộc đời lâu dài, và cẩn thận răn ngừa cho cả những khi có thể vấp váp. Chắc ở đây không chỉ có trách nhiệm của một người lãnh đạo. Ở anh Chánh còn có một sự hiểu biết và đồng cảm sâu sắc với nghệ thuật và những người làm nghệ thuật. Bởi vì trong anh, theo tôi, ẩn chứa rất sâu, có một tâm hồn nghệ sĩ, theo nghĩa sâu và đúng nhất của nó.

Anh Chánh không có Tây học bao nhiêu, nhưng Hán học thì anh khá giỏi. Gia đình anh, nhất là phía mẹ, là một gia đình có truyền thống văn chương. Không phải chỉ ở chỗ có nhiều người làm thơ phú (chính anh Chánh cũng làm nhiều thơ), mà ở chỗ những con người này có một dòng máu tài hoa phong phú và thâm thuý. Hoặc nói cho thật đúng hơn là có một nền tảng văn hoá thật sự, một tinh thần văn hoá sâu sắc.

Anh Chánh là một con người tài hoa. Trong tài hùng biện của anh - mà tất cả những người từng tiếp xúc với anh đều nhớ và cảm phục - trọng tài năng tập hợp, thu phục lòng người, kể cả nhiều loại trí thức "có cỡ" mặc dầu anh đi học ở trường chưa hết bậc phổ thông, ngay cả trong cách xử trí các tình huống khác nhau của anh ở cương vị một người lãnh đạo cao và một vị tướng, nhìn kỹ đều có in dấu chất tinh hoa đẹp đẽ ấy.

Không phải ngẫu nhiên mà anh Chánh là người am hiểu và yêu mến đến thế các loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật tuồng. Các anh chị trong ngành đã nói nhiều về công lớn của anh Chánh trong việc khôi phục, giữ gìn, phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thông tuyệt vời này. Riêng tôi, có lần được chứng kiến một trường hợp thú vị. Ấy là trong một dịp hội nghị nào đó, hình như là đại hội thi đua hay hội nghị Quân chính Quân khu thì phải. Anh em tổ chức một tối hát tuồng, toàn bộ các phòng ban của Quân khu tự diễn, tôi nhớ có anh Lô, cán bộ tác chiến, diễn rất giỏi. Lúc anh em đang tập, anh Chánh ghé qua, thấy thích quá, anh bảo:

- Cho mình đóng một vai với.

Anh em bảo:

- Không được đâu, bọn tui phải tập suốt ngày thế này, anh bận lắm, thời giờ đâu để tập mà đòi sắm vai.

Anh Chánh nói:

- Thế thì tối nay cho mình cầm chầu vậy!

Trong hát bội, người cầm chầu (đánh trống chầu) là ngươi rất sành nghệ thuật. Tối đó, trong đêm biểu diễn, anh Chánh ngồi cầm chầu, tiếng trống điểm nhịp, tiếng trống khen, tiếng trống chê... rất hay, anh em trầm trồ không ngờ Tư lệnh giỏi nghề hát bội đến thế.

Đến lúc kết thúc đêm diễn, anh em vây quanh, anh Chánh cười rất vui, nói:

- Đời mình ấy mà, không đi làm cách mạng, thì mình đã đi hát bội rồi!

Quả thật, có một tâm hồn nghệ sĩ sâu xa tiềm ẩn trong vị tướng thao lược ấy... Hơn nửa thế kỷ qua kể từ những ngày đầu tiên tôi được gặp và biết anh Nguyễn Chánh. Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày anh mất.

Trong những năm tháng về sau này, trong cuộc đời hoạt động đó đây của mình, tôi có nhiều lần nhớ và suy nghĩ về anh.

Trong hiểu biết thiển cận của tôi, tôi nghĩ anh là một vị tướng tài và một người lãnh đạo giỏi. Nhưng chắc hẳn không phải là tướng giỏi nhất, cũng không phải là người lãnh đạo tài giỏi nhất trong những người lãnh đạo của Đảng ta.

Nhưng vẫn có một dấu hỏi: vì sao anh để một dấu ấn sâu đậm, thắm thiết và một niềm nuối tiếc đến vậy trong hầu như tất cả những ai từng ít nhiều gặp và biết anh?

Có lẽ rõ nhất là vì con người của anh.

Nhưng trong con người đó, thì là điều gì?

Có lẽ có một lý do, thoạt nghe có thể hơi bất ngờ, nhưng nghĩ kỹ thì càng nghĩ càng thấy thấm: Anh Nguyễn Chánh là một con người văn hoá, một nhà văn hoá, theo nghĩa rộng và đẹp nhất của khái niệm đó. Ở anh, không ít uyên bác phương Đông và Việt Nam, mà bằng sự thông minh hiếm có, anh đã học được ngay từ nhỏ và gìn giữ, phát triển suốt đời, vận dụng sắc sảo những gì là bản chất tinh tuý nhất, trong công việc cách mạng, trong ứng xử việc lớn việc nhỏ, trong quan hệ với con người.

Cái văn hoá uyên bác đó được hoà trộn nhuần nhuyễn đến như hoàn toàn tự nhiên với văn hoá dân gian, dân tộc, mà anh hiểu, yêu và giỏi nữa.

Những vấn đề văn hoá trực tiếp anh giải quyết trong cương vị công tác của anh và cả trong đời thường, thường không nhiều và "không chính thức" (vì chủ yếu anh là tướng cầm quân đánh giặc). Nhưng nhìn lại mà xem: đều đúng, sâu, cơ bản, có cái có ý nghĩa "cứu" cả một mảng quan trọng văn hoá nghệ thuật dân tộc (như đối với tuồng...), và thật chí nghĩa chí tình.

Anh Nguyễn Chánh cho ta hiểu thế nào là một nhà văn hoá, mà chẳng phải "ồn ào văn hoá" chút nào.

(Nhà văn Nguyên Ngọc, "Nhà văn hoá trong
một vị tướng thao lược", Tạp chí Văn hiến Việt Nam –
diễn đàn của Trung tâm bảo tồn và
phát huy nghệ thuật dân tộc,
số 6, 2002, Festival Huế)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 08:48:12 pm

TƯ LỆNH NGUYỄN CHÁNH VỚI SÂN KHẤU DÂN TỘC

NSND NGUYỄN TƯỜNG NHAN

                                                                                                                                                               
             
LTS: Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận. Tại chiến trường Khu 5 ác liệt ngay trong những năm tháng khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối văn nghệ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện rất sôi động. Đảng ủy, Bộ tư lệnh Liên khu 5 mà tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Chánh (1914-1957) - Tư lệnh kiêm Chính ủy - đã trực tiếp chỉ đạo khôi phục và phát huy vốn nghệ thuật phong phú của quê hương miền Trung, đặc biệt là nghệ thuật tuồng + (hát bội). Nhân kỷ niệm 57 năm ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945), kỷ niệm lần thứ 45 ngày mất của đồng chí Nguyễn Chánh (24-9-1957) chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Tường Nhẫn về người chỉ huy chính trị, quân sự tài năng có công lớn trong khôi phục và phát triển sân khấu và văn hóa dân tộc.

Sau Cách mạng tháng Tám và mấy năm đầu kháng chiến chống Pháp, ở Nam Trung Bộ, sân khấu ca kịch dân tộc, như hát bội (tuồng), bài chòi, cải lương... không còn hoạt động. Nhưng ngay giữa lúc chiến tranh ác liệt, đồng bào vẫn khao khát được nghe, xem các loại ca kịch dân tộc vốn đã từ lâu thấm sâu trong tâm thức con người ở miền đất này.

Có thể nói chính anh Nguyễn Chánh là người đầu tiên trong lãnh đạo ở Liên khu 5 hồi bấy giờ đã cảm nhận ra nhu cầu tinh thần sâu xa này của nhân dân và đã hiểu thấu đáo vẻ đẹp độc đáo, ý nghĩa thâm thúy giá trị quý báu, vai trò của nghệ thuật dân tộc trong đời sống con người, kể cả đang sống giữa lúc chiến tranh.

Tôi được nghe Trần Tống, bấy giờ là Khu ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Liên khu 5 kể lại: Năm 1951, sau khi đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai ở Việt Bắc về, trong cuộc Hội nghị Thường vụ Liên khu ủy, anh Chánh đã kiên quyết đưa ra chủ trương khôi phục các hình thức ca kịch dân tộc truyền thống ngay trong kháng chiến và trước mắt nhằm phục vụ kháng chiến.

Theo như anh Trần Tống kể lại, trong Thường vụ Liên khu ủy lúc bấy giờ có một số đồng chí không đồng ý với anh Chánh. Các đồng chí ấy cho rằng bây giờ đang kháng chiến khó khăn, những sinh hoạt giải trí linh tinh đó là không cần thiết, hoặc bây giờ cần xây dựng "nền văn hoá mới" không nên đi khôi phục các thứ văn hóa "phong kiên, lỗi thời"...

Ý kiến đấu tranh có lúc khá căng. Anh Chánh một mặt kiên trì giải thích, thuyết phục, một mặt cũng tỏ rõ sự quyết đoán cần thiẽt. Anh nói: "Ta cứ nên làm, các đồng chí ai thích thì xem, ai không thích thì đừng xem. Thử hỏi Khu 5 không hát bội thì hát gì? Chúng ta nên mời các nghệ sĩ tuồng có tài năng lớn, họ là vốn quý của nhân dân, ta phải có trách nhiệm chăm lo giữ gìn và phát huy họ. Lời ca tiếng hát của họ có tác dụng lớn trong nhân dân, chúng ta là những người cộng sản phải biết tận dụng tài năng của họ vào công việc tuyên truyền cách mạng, kháng chiến...".

Ý kiến vừa sâu sắc và vừa mạnh mẽ của anh Chánh, cuối cùng đã thông. Thường vụ Liên khu ủy có nghị quyết về việc khôi phục, phát triển nghệ thuật tuồng và các hình thức dân ca kịch truyền thống ở Khu 5.

Thực hiện nghị quyết của Thường vụ Liên khu ủy, Ban tuyên huấn Liên khu 5 giao nhiệm vụ cho anh Hoàng Châu Ký trực tiếp lo việc này. Anh Ký giới thiệu tôi cùng anh xúc tiến thành lập đoàn tuồng Liên khu 5. Anh Ký khẩn trương đi các tỉnh sục tìm và tập hợp được các nghệ sĩ và tác giả có tên tuổi như Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, Văn Phước Khôi, Tống Phước Phổ (đa số trong các nhân vật này về sau đều trở thành Nghệ sĩ nhân dân) làm nòng cốt ban đầu, từ đó mở rộng dần, lập nên đoàn hát bội Liên khu 5. Đoàn diễn một số vở truyền thống nổi tiếng như Ngọn lửa Hồng Sơn, Trưng Nữ Vương, v.v... được công chúng khắp nơi hoan nghênh nhiệt liệt.

Cũng từ gợi ý của anh Chánh mà đoàn hát bội Liên khu 5 đã từng bước mạnh dạn thử nghiệm đưa nghệ thuật tuồng vào đề tài hiện đại (các vở: Đường về Vụ Quang của Hoàng Châu Ký, Chị Ngộ của Nguyễn Lai...). Đặc biệt thành công là vở Chị Ngộ đã gây chấn động mạnh trong đời sống tinh thần nhân dân và của bộ đội Khu 5, thật sự góp phần đắc lực tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân và dân Liên khu 5.

Từ nòng cốt là đoàn hát bội Liên khu 5, các tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định lần lượt thành lập đoàn tuồng riêng của mình.

Cùng lúc thành lập đoàn hát bội Liên khu 5, anh Chánh còn cho thành lập đoàn văn công tổng hợp, trong đó anh rất chú trọng bài chòi, là thể loại dân ca đặc trưng của Khu 5. Phần bài chòi trong đoàn được giao cho anh Ngô Quang Thắng phụ trách. Cũng chính do gợi ý của anh Chánh mà anh chị em đã tìm tòi, dần dần nâng cao bài chòi trước đây chỉ là một lối hát dân gian lên thành một ngành sân khấu ca kịch độc đáo, về sau ngày càng phát triển.

Lúc bấy giờ có anh Huỳnh Vân Cát, vốn là người Long Xuyên, lúc kháng chiến bị mắc kẹt ở Khu 5. Biết anh Cát là người có tài, anh Chánh đã thu phục anh Cát, lo thu xếp cả gia đình vợ con cho anh Cát chu đáo, để anh Cát phát huy khả năng trong đoàn văn công tổng hợp Khu 5. Chính anh Cát là người đã khởi xướng thể độc tấu rất độc đáo (có thể bắt nguồn và sáng tạo từ cơ sở lối nói vè truyền thống) trên sân khấu, có tác dụng rất tốt trong kháng chiến. Anh Huỳnh Văn Cát cũng là một trong những người đầu tiên có công khôi phục, xây dựng ngành múa rối ở ta.

Anh Cát còn tìm được anh Võ Bài, là người góp phần xây dựng đầu tiên ngành múa trên sân khấu ở Liên khu 5...

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, trong không biết bao nhiêu công việc bộn bề và quan trọng của người lãnh đạo chủ chốt và trong thời điểm rất phức tạp, anh Chánh vẫn đặc biệt chăm lo cho việc đi tập kết của các đoàn văn công. Đặc biệt đối với các nghệ sĩ nổi tiếng như bác Sáu Lai, bác Đội Tảo, bà Ngô Thị Liễu, ông Tống Phước Phổ... anh đôn đốc phải nhất thiết đưa đi tập kết chu đáo, vì đây là vốn quý của dân tộc. Đồng thời anh cho thành lập một số đoàn văn công (một đoàn ca múa tổng hợp và một đội bài chòi) ở lại phục vụ nhân dân trong thời kỳ 300 ngày, sau đó cũng lên đường đi tập kết.

... Ngày 24 thăm 9 năm 1957, tin anh Chánh đột ngột qua đời đến với chúng tôi như một tiếng sét đánh. Hầu như tất cả chúng tôi ai cũng khóc oà lên. Chín giờ sáng hôm ấy, chúng tôi đã vội chạy ùa đến nhà anh. Anh chị em nghệ thuật Liên khu 5 đã cử một đội nhạc ai điếu trang trọng đến nơi tang lễ, đau đớn tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Tháng 9 năm 2002
(NSND Nguyễn Tường Nhẫn, “Tư lệnh Nguyền Chánh với sân khấu dân tộc",
Báo Quân đội nhân dân chủ nhật, 22-9-2002,
trích hồi ký của Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Tường Nhẫn)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 08:51:39 pm
 
VỊ TƯỚNG KHÔNG MANG QUÂN HÀM
(Nhân 45 năm ngày mất của đồng chí Nguyễn Chánh)

Đại tá TRẦN NHẬT ĐỘ
(Trần Nhật)

Tháng 12 năm 1958, lần đầu tiên quân đội ta tổ chức lễ phong quân hàm cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được phong quân hàm Thượng tướng. Đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng tham mưu trưởng được phong quân hàm Trung tướng, đồng chí Lê Trọng Tấn - Hiệu trưởng trường Lục quân được phong quân hàm Thiếu tướng. Là thủ trưởng một Tổng cục quan trọng, chắc chắn nếu còn sống, Nguyễn Chánh cũng sẽ được nhận quân hàm cấp Tướng xứng đáng với công lao, thành tích của mình.

Chính vì vậy mà trong dịp tưởng niệm 40 năm ngày mất của anh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: "Anh Nguyễn Chánh là một cán bộ lãnh đạo trung kiên của Đảng, một vị tướng tài của quân đội, đã có cống hiến với cách mạng và kháng chiến. Anh ra đi quá sớm, lúc tuổi mới 43, tài năng đang độ phát triển".

Nguyễn Chánh sinh trưởng trong một gia đình nho học yêu nước ở Quảng Ngãi, mảnh đất vốn có bề dày truyền thống cách mạng. Được giáo dục và rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, anh Chánh đã có những bước thành đạt nhanh chóng trên nhiều mặt. Đặc biệt, anh có cái nhìn sắc sảo và đánh giá thời cuộc với độ khái quát cao. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), anh đã nói ngay với các đồng chí cùng bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ (Huế): "Tình hình này, thể nào ở Ba Tơ cũng có khởi nghĩa, tôi phải về Quảng Ngãi ngay". Đúng như anh dự đoán, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã nổ ra và thành công tốt đẹp. Anh Nguyễn Chánh được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời, được phân công phụ trách quân sự và trực tiếp lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ cùng các đồng chí Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt...

Lúc này, toàn Đội du kích đang lâm vào tình thế hầu như bị bế tắc, bởi vẫn giữ chủ trương lưu động trên chốn rừng núi để xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng. Trước tình hình đó, tuy mới lên chiến khu được mấy hôm, qua nghiên cứu các mặt, anh Chánh kiến nghị: Phải đưa Đội du kích về đồng bằng, dựa vào phong trào cách mạng của quần chúng để xây dựng, phát triển và chiến đấu. Dựa vào dân, được nhân dân che chở là kín đáo nhất, xây dựng căn cứ trong dân là vững chắc nhất.

Cùng với tập thể, anh Nguyễn Chánh đã đem hết sức lực và trí tuệ lãnh đạo việc xây dựng và tác chiến của Đội du kích. Nhờ đó, Đội du kích đã phát triển lớn mạnh nhanh chóng, thực sự là lực lượng nòng cốt cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công ở Quảng Ngãi. Trong những ngày hào hùng và sôi động của cao trào Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi đã nổ phát súng đầu tiên và là nơi bắt đầu cuộc Tổng khởi nghĩa sớm nhất vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, trong đó có sự đóng góp quan trọng của anh Nguyễn Chánh, với cương vị là Trưởng ban quân sự chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi.

Sau Cách mạng tháng Tám, anh Nguyễn Chánh được giao trọng trách Ủy trưởng quốc phòng Trung Bộ, chịu trách nhiệm về quân sự. Anh đã cùng tập thể nhanh chóng chuyển cao trào Tổng khởi nghĩa vào cuộc kháng chiến của quân và dân Nam Trung Bộ, nơi anh được phân công phụ trách quân sự về sau là Tư lệnh kiêm Chính ủy.

Ngay từ những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, Nguyễn Chánh đã nhận rõ phải tổ chức cho toàn dân đánh giặc, chứ không chỉ có bộ đội đánh giặc, cần phải xây dựng căn cứ cho từng tỉnh, từng huyện để chuẩn bị đánh giặc dài ngày và gian khổ.

Một nét nổi bật và độc đáo là trong suốt cuộc kháng chiến, Liên khu 5 đã bảo vệ vững chắc vùng tự do gồm gần bốn tỉnh rộng hơn ba vạn kilômét vuông và số dân 2,5 triệu, nhưng điều đặc biệt quan trọng hơn là vùng tự do ấy đã được xây dựng khá hoàn chỉnh trên tất cả các lĩnh vực: vững về chính trị trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, có chính quyền cách mạng ngày càng vững mạnh, có kinh tế tự túc không những đủ bảo đảm cho quân dân trong Liên khu, mà còn chi viện cho các chiến trường bạn.

Trên mọi cương vị, lúc lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ cũng như khi làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Tư lệnh Liên khu, Nguyễn Chánh không ngừng chăm lo nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng, luôn luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong quân đội, trong đội ngũ cán bộ, giữa Đảng và quần chúng. Anh luôn là hạt nhân của sự đoàn kết thống nhất ấy. Anh luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, có tâm hồn trong sáng và một cuộc sống thanh bạch; luôn khiêm tốn học hỏi, biết nghe và chịu nghe ý kiến của bất kỳ ai, dù những ý kiến ấy trái ngược với ý kiến của mình.

Tài năng quân sự là một nét độc đáo nổi bật của Nguyễn Chánh. Nó đã bộc lộ rất sớm từ khi anh lãnh đạo chỉ huy Đội du kích Ba Tơ và ngày càng sáng rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến này. Chính De Beaufort, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Tây Nguyên cũng đã phải thú nhận vị tướng Việt Minh chỉ huy chiến trường Nam Trung Bộ đã từng làm y phải nhiều phen điêu đứng và sau này trong buổi diện kiến ở Hà Nội đã chân thành hỏi anh: "Ngài đã qua trường lớp nào?". Nguyễn Chánh đã trả lời ông ta: "Tôi chỉ qua trường thực tiễn đấu tranh cách mạng".

Vào những năm 1951 - 1952, lúc mà Liên khu 5 gặp nhiều vấn đề khó khăn gay cấn: vụ Sơn Hà, nạn đói trầm trọng, những sai lầm trong chỉ đạo thực hiện tổng động viên và thuế nông nghiệp, những vấn đề mới nảy sinh trong việc xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang trong giai đoạn quyết định, v.v... Nguyễn Chánh một lần nữa lại tỏ rõ tài năng của mình, có khả năng bao quát mọi lĩnh vực, có tài giải quyết dứt điểm từng vấn đề, từng khâu, biết tập trung vào khâu chủ yếu trên cơ sở một tri thức sâu rộng với đầu óc thực tiễn nhạy bén. Trong chỉ đạo xây dựng ba thứ quân, anh Nguyễn Chánh là một người kiên quyết chống khuynh hướng nóng vội, muốn rút lực lượng địa phương quá sớm lên xây dựng chủ lực, làm yếu cơ sở, đồng thời lại kiên trì khắc phục tư tưởng địa phương chủ nghĩa, du kích đơn thuần, không chịu đưa lực lượng địa phương lên xây dựng chủ lực.

Tư lệnh kiêm Chính ủy Nguyễn Chánh đặc biệt coi trọng chất lượng chiến đấu của bộ đội theo hướng "tinh binh, tinh cán". Năm 1952, mặc dù trong giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến tranh, Liên khu 5 vẫn kiên quyết giảm quân, từ 5 vạn xuống còn 3 vạn mà sức chiến đấu của bộ đội vẫn được nâng cao, bảo đảm hoàn thành vượt mức nhiệm vụ. Từ năm 1950 trở đi, một yêu cầu rất cấp thiết đặt ra trước bộ đội chủ lực Liên khu 5 là phải tiến lên tiêu diệt địch trong công sự vững chắc, có thế mới đẩy cuộc kháng chiến ở đây phát triển tiến lên. Lần đầu, quân ta đã tiêu diệt cụm cứ điểm mạnh nhất của địch trên tuyến đường đông Kon Tum và các cứ điểm khác trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1953 - 1954.

Người tướng tài là người vừa phải giỏi luyện quân, vừa phải thao lược trong chiến trận. Nguyễn Chánh là người như vậy. Là tư lệnh một chiến trường trọng yếu rộng lớn gồm mười hai tỉnh Nam Trung Bộ và các tỉnh ở Hạ Lào và Đông - Bắc Cam-pu-chia, đồng thời là tư lệnh các chiến dịch lớn trong Đông Xuân 1953 - 1954 ở chiến trường Liên khu 5, Nguyễn Chánh ra trận là đem đến niềm tin và chiến thắng.

(Đại tá Trần Nhật Độ, trích Báo Công an
nhân dân cuối tuần, số 1460, 3-10-2002)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 08:54:48 pm

NHỮNG GÌ CÒN ĐỌNG LẠI QUA NĂM THÁNG


NGUYỄN TUYẾT MINH

Tuy là cha của sáu đứa con nhưng ba tôi không có diễm phúc như những người cha khác, được chứng kiến những giây phút trong đời của từng đứa con, từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc bước vào đời và trưởng thành khôn lớn. Ông đã qua đời quá sớm, khi ông mới 43 tuổi, đứa con lớn nhất chưa tròn hai mươi và đứa bé nhất mới hơn hai tuổi. Thời gian chúng tôi được sống bên ông quá ít ỏi và không cho phép chúng tôi hiểu hết người cha của mình.

Đến nay, đã qua 45 năm từ ngày ông ra đi, nhờ những hồi ức của những người đã từng sống và làm việc với ông, nhờ những tình cảm chân thành của họ dành cho ông mà chúng tôi, những đứa con của ông, mới phần nào hiểu được con người ông, cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Tôi còn nhớ cách đây 5 năm, Hội Khoa học lịch sử đã đứng ra tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm ngày ông qua đời tại Viện bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Đến dự lễ tưởng niệm có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp trong quân đội, các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ đã từng làm việc với ông, bạn bè, người thân của gia đình và nhiều nhất là đồng bào Quảng Ngãi, Liên khu 5. Tôi vô cùng xúc động khi thấy có những cụ già ngoài 80 không quản tuổi già sức yếu cũng đi xe ôm đến dự...

Trong hội trường đại diện cho các thế hệ lên phát biểu, nhắc lại những kỷ niệm sâu sắc và cảm động về ba tôi, ngoài sân mọi người tụ tập từng nhóm nhỏ ôn lại những sở thích của ông như thích văn thơ, xem hát bội, thích kể những chuyện vui, dí dỏm, họ nhắc đến thái độ gần gũi, chan hoà, mến khách của ông, có người còn biết kỹ là ông thích ăn bánh xèo, bánh tráng nướng, ngô nướng, v.v... Quả đây thực sự là một buổi tưởng niệm - chính thức và không chính thức - mọi người đã nhắc đến ông với tình cảm trìu mến, sâu đậm đọng lại trong ký ức mỗi người trong mấy chục năm qua.

Lòng tôi xót xa nghĩ thương ông vì ông đã ra đi quá sớm, không kịp nhìn thấy thành quả của sự nghiệp cách mạng mà ông đã trọn vẹn hiến dâng cả cuộc đời ngắn ngủi của mình.

Cũng trong ngày hôm đó tại Quảng Ngãi quê ông, Đảng, chính quyền, đồng bào địa phương và họ hàng gia tộc đã tổ chức lễ tưởng niệm ông rất trang nghiêm và cảm động. Hội cựu chiến binh Liên khu 5 ở thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ tưởng niệm ông rất đông, có đến trên 400 người dự lễ. Rất tiếc là gia đình chúng tôi vì bận việc tổ chức lễ tưởng niệm ở Hà Nội nên không có ai về quê và vào thành phố Hồ Chí Minh dự được, nhưng mấy hôm sau chúng tôi nhận được những băng ghi hình về buổi lễ tưởng niệm đó. Cả gia đình chúng tôi lặng đi khi thấy hình ảnh bác Trần Lương (tức Trần Nam Trung - là người đồng chí cũng bị thực dân Pháp bắt tù đày những năm ba mươi và sau này nhiều thời gian cùng công tác với ông trong kháng chiến chống pháp ở Liên khu 5) trên chín mươi tuổi, sức yếu, phải có người dìu cũng đến dự lễ. Đặc biệt khi chiếu đến cảnh Trung tướng Đặng Hoà và một số người nữa nước mắt giàn giụa khi trên bục có người đang ôn lại những kỷ niệm về Ba tôi thì cả nhà tôi đều không cầm được nước mắt.

Đã 40 năm trôi qua mà tình cảm của mọi người dành cho Ba tôi như bất chấp quy luật của thời gian, vẫn được gìn giữ nguyên vẹn, nóng hổi như những ngày ông mới ra đi.

Năm ngoái, có dịp đi công tác vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi ghé thăm bác Trần Lương. Bác vừa qua một trận ốm nặng mới đỡ. Vì mấy chục năm rồi bác cháu không gặp nhau nên bác không nhận ra tôi. Khi tôi bảo với bác: "Cháu là Tuyễt, con ông Nguyễn Chánh đây mà", thì bác ôm tôi rất cảm động và vội lấy quyển hồi ký về Ba tôi Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp để ngay đầu giường ra khoe với tôi và lại còn hỏi: "Cháu có quyển này không? Đã đọc chưa? Hay lắm! Cảm động lắm!".

Có lần tôi và anh Trực tôi đi thành phố Hồ Chí Minh ghé thăm chú Nguyễn Văn Luyện (trước kia là thư ký của Ba tôi) vừa nằm viện về còn yếu, vậy mà mấy chú cháu chuyện trò về Ba tôi tận ba tiếng đồng hồ. Chú kể chuyện say sưa, hai anh em tôi chăm chú lắng nghe, bị thu hút bởi nội dung mới mẻ của những mẩu chuyện về Ba tôi bởi sự hấp dẫn của người kể. Chú nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Chú đã từng làm thư ký cho nhiều vị tướng sau Ba các cháu, nhưng đối với chú, Ba các cháu là người gần gũi nhất. Một con người tuyệt vời! Hiếm có!", rồi giọng chú lắng xuống như tâm sự: "Trong đời chú, ngoài cha mẹ chú ra, có lẽ Ba các cháu là người duy nhất chiếm trọn tình yêu thương và lòng kính trọng của chú. Dù đã 40 năm trôi qua, nhưng làm sao chú có thể quên được đôi mắt sáng hóm hỉnh, nụ cười hiền hậu, giọng nói chân tình, ấm áp của Ba các cháu!". Khi ra về hai anh em chúng tôi cứ băn khoăn: "Không hiểu Ba mình có "ma lực" gì mà thu phục được lòng người lâu đến thế, đến cả 40 năm sau khi ông mất?".

Vừa rồi tôi và mẹ tôi về quê dự lễ tế xuân của họ tộc nội, ngoại, đi đến đâu cũng được bà con xóm giềng, chính quyền địa phương đón tiếp nồng nhiệt và chân tình.

Khi về đến khu vườn của ông nội tôi ở thôn Thọ Lộc nằm bên bờ sông Trà Khúc, nơi mấy anh chị em tôi đã từng sống qua thời thơ ấu, từ ngoài cổng đã thấy một nhà bia rất trang nghiêm, bên trong có đặt bức tượng đồng bán thân của Ba tôi bên cạnh một bình hoa, phía dưới là lư hương đồng, hai bên có hai câu đối. Sở dĩ có được cái công trình văn hoá - lịch sử này là do ý kiến đề xuất của anh Dương Trung Quốc và Hội Cựu chiến binh Liên khu 5 ở phía Nam. Anh Dương Trung Quốc đã xin ý kiến gia đình sử dụng số tiền còn lại sau khi tổ chức lễ tưởng niệm để đúc hai bức tượng bán thân cho Ba tôi: một bức trao tặng Bảo tàng Quân đội, một bức trao lại cho gia đình đem về quê thờ ông. Trong dịp tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm ngày mất của ông tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh và Du kích Ba Tơ tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đã quyên góp tiền để xây một nhà bia và đặt bức tượng này ở quê để thể hiện những tình cảm cao quý dành cho ông.

Phía sau nhà bia là nhà lưu niệm do Đảng và chính quyền địa phương lập nên ghi nhận tình cảm của quê hương dành cho Ba chúng tôi và để truyền lại cho thế hệ con cháu mai sau như một trang sử nhỏ trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của quê nhà.

Và cảm động biết bao khi mẹ tôi và tôi đến thăm trường phổ thông trung học xã Tịnh Hà quê Ba tôi, nơi có nhã ý chân thành xin phép Đảng và chính quyền tỉnh được mang tên Ba tôi. Tại phòng tiếp khách của đồng chí hiệu trưởng có mấy chục em lớp trưởng đã chờ sẵn để đón mừng chúng tôi như những vị khách quý. Tôi đưa mắt nhìn lên tủ sách dọc tường, bỗng thấy hai gáy sách quen quen - đó là quyển hồi ký Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp, bên cạnh là quyển Những chặng đường của người mẹ của mẹ tôi là bà Phạm Thị Trinh. Hai quyển sách này đã thay thế chúng tôi kể cho các em học sinh nghe về cuộc đời hoạt động của một đôi vợ chồng đã từng tham gia cách mạng từ khi mới mười lăm, mười sáu tuổi, những hy sinh ba mẹ tôi đã trải qua để góp phần dệt nên những trang sử vẻ vang của quê nhà và đất nước.

Chắc chắn không thể nói hết được tấm lòng của hàng ngàn, hàng vạn người đã dành cho Ba tôi... Nhưng là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những người bao giờ cũng bên cạnh gia đình tôi để cùng chia sẻ vui buồn, những người không bao giờ vắng mặt trong những ngày giỗ Ba tôi hàng năm, dù có được mời hay không - đó là anh Thân Hoạt, anh Nguyên Ngọc, anh Cao Hữu Thọ và nhiều người khác nữa. Hai anh Thân Hoạt và Nguyên Ngọc đã từng bỏ bao năm tháng cùng gia đình chúng tôi sưu tầm và biên tập để kịp cho ra đời quyển Hồi ký về Ba tôi gồm 68 bài hồi ức dài hơn 600 trang vào dịp tổ chức lễ tưởng niệm nhân 40 năm ngày ông mất. Qua từng dòng chữ trong quyển sách đó các anh đã gửi gắm tình cảm sâu nặng của mỗi người dành cho Ba tôi.

Thật là bất ngờ đối với gia đình tôi khi đọc hồi tưởng của Trung tướng Đặng Hoà, nguyên là Trưởng phòng Điều động và Để bạt kiêm Trưởng phòng Quân hàm của Tổng cục Cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam có tiết lộ một "bí mật" mà cả gia đình tôi đến bây giờ mới biết: "...Theo ý kiến của Bác và Bộ Chính Trị thì nên phong thêm một đại tướng là đồng chí Nguyễn Chí Thanh, còn trong số bốn người là Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái và Nguyễn Chánh nên cân nhắc phong hai thượng tướng. Khi bàn đến việc này anh Hoàng Văn Thái đã phát biểu: "Nên để anh Nguyễn Chánh là thượng tướng, tôi nhất định phải cấp thấp hơn" và Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã gật đầu đồng ý ngay. Rất tiếc là anh đã qua đời chỉ ít lâu trước khi được phong quân hàm".

Cách đây không lâu Nhà nước đã truy tặng Ba tôi Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhớ những đóng góp của ông cho Tổ quốc và đã được Bộ Quốc phòng tổ chức trao tặng một cách trọng thể. Tin này được đưa trên Đài phát thanh và truyền hình. Ngày hôm sau gia đình chúng tôi nhận được rất nhiều điện thoại của các bạn bè, người thân gọi đến chúc mừng, trong số đó có cả học trò của tôi, những người chưa từng được gặp mặt ông.

Đã 45 năm trôi qua mà bóng dáng ông, ánh mắt ông, nụ cười ông, giọng nói ông vẫn còn lắng đọng trong tâm khảm bạn bè, chiến hữu và tất cả những người đã từng biết ông hoặc đã từng chỉ một lần gặp ông.

Chúng tôi, là những đứa con của ông, vô cùng biết ơn tất cả những ai đã dành cho ông một chỗ đứng nhỏ trong trái tim, đã giúp chúng tôi hiểu được cha mình để tự hào về ông, để phấn đấu làm sao cho xứng đáng là những đứa con của ông.

(Nguyễn Tuyết Minh, "Những gì còn lại qua năm tháng",
Tạp chí Xưa và Nay, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
số 125, tháng 10-2002)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 08:59:46 pm

LIÊN KHU 5 VỚI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ


Đại tá, nhà báo, nhà thơ HỒ NGỌC SƠN

                                                                                                                                                               
                     
Tôi còn nhớ rõ, bước vào Thu Đông 1953, những mật điện khẩn giữa Bộ Tổng Tham mưu và Bộ tư lệnh Liên khu 5 tăng lên dồn dập, trong đó có cả điện của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký tên Giáp hoặc Văn gửi riêng đồng chí Nguyễn Chánh hoặc Chí Thuần (bí danh Đảng của anh Nguyễn Chánh), lúc bấy giờ là Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5. Dần về sau, cán bộ nhân viên chúng tôi ở bộ phận trực ban chiến sự, Ban Tác chiến, Phòng Tham mưu Liên khu 5 đều được biết Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh đã hoàn toàn tán thành phương hướng, kế hoạch tác chiến của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 (DU và BTL Liên khu 5) trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 phối hợp với chiến trường chính; đồng thời được biết về "Kế hoạch Na-va" trên chiến trường Liên khu 5.

1. CHIẾN DỊCH ÁT-LĂNG VÀ CUỒNG VỌNG CỦA NA-VA

Ngược lại dòng lịch sử, sau khi điều đình với Mỹ, tháng 5 năm 1953, Pháp rút viên tướng tài Na-va (Henry Navarre), Tham mưu trưởng khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp, hòng cứu vãn tình hình Đông Dương đang hấp hối. Na-va vạch một kế hoạch đầy tham vọng mang chính tên mình: "Kế hoạch Na-va", chia làm 2 giai đoạn và ấn định trong vòng một năm sẽ lật ngược tình thế chiến trường, chuyển bại thành thắng.

Giai đoạn 1, Thu Đông 1953 và Xuân 1954, phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tấn công chiến lược ở miền Nam, đánh chiếm các vùng tự do của Liên khu 5 và Khu 9 ở Nam Bộ.

Giai đoạn 2, sang Thu Đông 1954, rút toàn bộ lực lượng cơ động chiến lược ở miền Nam ra miền Bắc, chuyển sang tấn công chiến lược trên chiến trường chính, giành thắng lợi quyết định; buộc ta phải điều đình trong thế lợi cho Pháp.

Để thực hiện cuồng vọng trên, riêng chiến trường Liên khu 5, địch tập trung lớn một lực lượng cơ động chiến lược toàn binh lính Âu Phi đông gấp 5 - 7 lần ta, mở chiến dịch Át-lăng với ba bước: Bước 1, từ Khánh Hòa đánh ra chiếm tỉnh Phú Yên. Bước 2, đổ bộ lên Quy Nhơn, kết hợp với cánh quân từ Phú Yên đánh ra và từ An Khê đánh xuống, chiếm tỉnh Bình Định. Bước 3, từ Bình Định đánh ra, Quảng Nam - Đà Nẵng đánh vào, Kon Tum đánh xuống, kết hợp với cánh quân đổ bộ từ biển đánh lên, hợp điểm tại thị xã Quảng Ngãi; chiếm đóng toàn bộ vùng tự do Liên khu 5; kết thúc chiến dịch.

Ngày ấy, Liên khu 5 chỉ có trong tay 2 trung đoàn (E) chủ lực 108 và 803. Bốn tỉnh vùng tự do Liên khu 5 vừa trải qua một nạn đói khủng khiếp chưa từng thấy do địch tập trung máy bay, tàu chiến đánh phá ác liệt các làng ven biển từ Quảng Nam vào Phú Yên, đốt phá hết ghe thuyền, mành lưới, khiến cho hàng trăm ngàn dân đói đến nỗi ăn cả cây xương rồng rồi đổ lên quốc lộ 1 xin ăn; bộ đội phải san sẻ khẩu phần ăn ít ỏi của mình để cứu giúp đồng bào. Dư luận và tâm trạng xã hội trở nên rất nóng bỏng. Nhiều suy nghĩ, nhiều lo lắng, nhiều câu hỏi hóc búa được đặt ra: Ta sẽ đối phó chiến dịch Át-lăng như thế nào và bằng cách nào? Liệu ta có giữ được vùng tự do hay không? Nếu mất vùng tự do, mất hậu phương chiến lược thì cuộc kháng chiến của Liên khu 5 sẽ diễn biến ra sao? Có nên phân tán lực lượng chủ lực ra đối phó với các hướng tấn công của địch không?... Mở chiến dịch ở Tây Nguyên có giải quyết được vấn đề không? Sao lại bỏ những cánh đồng lúa ở đồng bằng để giành những rẫy sắn, bắp ở trên núi? Tất cả đều trông chờ vào lời giải của một bài toán khó.


2. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH SÁNG SUỐT, ĐÚNG ĐẮN

Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chánh, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 quyết định: Tập trung các lực lượng chủ lực, mở cuộc tấn công lớn trên Tây Nguyên. Giao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do và hậu phương chiến lược cho các lực lượng địa phương. Đẩy mạnh các hoạt động ở các vùng sau lưng địch, kìm giữ không cho địch rút quân đi nơi khác.

Vào những giờ khắc quan trọng và căng thẳng như vậy, anh Chánh vẫn rất điềm tĩnh và ung dung tính toán lợi hại của các nước cờ. Đôi mắt to, dịu hiền của anh luôn ánh lên niềm lạc quan, tin tưởng. Nói chuyện thân mật với đông đảo cán bộ được cử đi chuẩn bị cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, anh Chánh đưa ra những nhận định, lập luận, những lời giải thích:

- Địch vét hết các lực lượng Âu Phi cơ động chiến lược tổ chức co cụm lớn ở Điện Biên Phủ và tập trung trên một số trọng điểm của các chiến trường khác, thì đây là canh bạc cuối cùng trong cơn tuyệt vọng. Chúng có những điểm tạm thời rất mạnh nhưng sẽ bộc lộ hết những điểm yếu rất cơ bản, rất có thể sẽ dẫn đến sai lầm về chiến lược. Đồng thời, đây lại là thời cơ có một không hai cho chúng ta tiêu diệt lớn sinh lực chủ yếu của địch, làm cho chúng suy sụp nhanh chóng, không gượng dậy nổi.

Còn trên chiến trường Liên khu 5 chúng ta, địch tập trung sức lực cho chiến dịch Át-lăng tất sẽ sơ hở ở Tây Nguyên. Nếu chúng ta phân tán lực lượng chủ lực đối phó với các hướng tấn công của địch tức là sa vào âm mưu của chúng, rơi vào thế bị động và sẽ bị tiêu hao lực lượng. Mở cuộc tấn công lớn trên Tây Nguyên là đánh vào nơi sơ hở và hiểm yếu nhất của địch. Giành được quyền chủ động trên Tây Nguyên, thế và lực của ta sẽ có điều kiện phát triển rất mạnh và vững chắc. Còn chiến dịch Át-lăng sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, bị động và thất bại.

Một khi chiến trường chính vào cuộc, địch sẽ bị căng kéo, dàn mỏng khắp cả Đông Dương, không còn sức chi viện cho nhau, nhất định chúng sẽ sa lầy tận cổ. Nếu chúng ta giành thắng lợi lớn trong Đông Xuân 1953-1954, sẽ xuất hiện tình thế mới, cục diện mới, tác động đến toàn cục cuộc kháng chiến chống Pháp có lợi cho ta. Tất cả đang tùy thuộc vào nỗ lực chủ quan của ta. Thời cơ lớn đã đến thì nỗ lực chủ quan lại càng phải vượt bậc và có ý nghĩa quyết định. Liên khu 5 chúng ta tuy là chiến trường phụ, nhưng là một hướng chiến lược rất quan trọng, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến chiến trường chính. Trước vận hội trọng đại này, phải động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ làm hết sức mình cho chiến cuộc Đông Xuân giành thắng lợi to lớn nhất, phối hợp một cách có hiệu quả nhất với chiến trường chính. Mấy vấn đề cần làm ngay là tổ chức một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng về tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử của chiến cuộc Đông Xuân, giải quyết tư tưởng hoạt động lâu dài trên Tây Nguyên; cho bộ đội luyện tập đánh công kiên lớn; tổ chức tốt một hệ thống hậu cần nhân dân; đảm bảo tuyệt đối bí mật khu vực mở màn trận đánh then chốt của chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 09:00:38 pm

3. MƯỜI NGÀY RUNG CHUYỂN TÂY NGUYÊN

Mùa khô đã đến. Rừng Tây Nguyên giũ sạch gió mưa, thay sắc đỏ sang xuân. Dòng sông Rhe đã trở nên hiền hoà. Hàng vạn dân công, bộ đội vượt qua đói rét, gian khổ, rùng rùng tiến lên Tây Nguyên. Anh Chánh rời chỉ huy sở cơ bản lên sở chỉ huy chiến dịch, trực tiếp chỉ huy mặt trận chính ở Bắc Tây Nguyên. Anh hạ quyết tâm chọn cứ điểm Mang Đen làm điểm đột phá mở màn chiến dịch. Mang Đen là một tiểu khu quân sự khá kiên cố, cách thị xã Kon Tum 50km, án ngữ vững chắc cho thị xã Kon Tum, kiểm soát một vùng rộng lớn ở đông bắc Kon Tum, đồng thời làm bàn đạp đánh phá vùng tự do giáp ranh miền tây Quảng Ngãi. Ở đây lại có một con đường huyết mạch độc đạo đánh xuống huyện lỵ Ba Tơ, vùng đồng bằng và thị xã Quảng Ngãi.

Tháng 1 năm 1954. Chỉ huy sở cơ bản điện báo anh Chánh tin vui: Các chiến trường sau lưng địch chủ động nổ súng đồng loạt giòn giã, thu thắng lợi bước đầu đáng phấn khởi. Ở Quảng Nam, ta tiêu diệt đồn Bồ Bồ, một cứ điểm quan trọng kiểm soát cả một vùng rộng lớn ở sông Thu Bồn. Ở Đắc Lắc, ta tiêu diệt đồn Kà Tung và Bô Ba - Kà Tu. Ở Bắc Tây Nguyên, ta uy hiếp các đồn bốt và đánh mạnh vào các toán quân lùng sục, khiến cho địch co lại không dám đi xa. Cũng nhờ đó mà hàng vạn bộ đội, dân công vượt qua sông Rhe vào các vị trí tập kết quân, giữ được bí mật hoàn toàn. Ban Quân báo Liên khu 5 cũng thông báo cho anh Chánh biết địch đã hoàn thành việc rút Binh đoàn cơ động số 100 ở Triều Tiên về đóng tại An Khê (viết tắt GM100 tức groupement mobile numéro 100).

Ngày 20 tháng 1 năm 1954, địch khai cuộc chiến dịch Át-lăng, sử dụng cùng một lúc 22 tiểu đoàn của các binh đoàn cơ động số 10, 41, 42 và 100 cùng với 2 tiểu đoàn dù từ Khánh Hòa đánh ra Phú Yên. Được chuẩn bị từ trước, các lực lượng địa phương ta chặn đánh quyết liệt, gây cho địch thương vong và không dám tiến nhanh.

Chỉ một tuần sau, ngày 28 tháng 1 năm 1954, ta mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Trung đoàn (E) 108 tiêu diệt tiểu khu quân sự Mang Đen, E803 tiêu diệt hai cứ điểm Kom Rẫy, Mang Bút ở đông nam Mang Đen. Như vậy là ta đã đập tan tuyến phòng thủ và mở toang cánh cửa vùng đông bắc Kon Tum. Mang Đen bị tiêu diệt làm rung động dữ dội thị xã Kon Tum và cả Plây Ku. Ngược lại, chiến thắng Mang Đen là trận công kiên lớn nhất của Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, nên có sức cổ vũ khí thế quyết chiến quyết thắng của bộ đội và dân công lên rất cao. Anh Chánh lập tức ra lệnh cho E108 cấp tốc hành quân ra Bắc Kon Tum và E803 vào ngay nam Kon Tum, hình thành thế bao vây cô lập thị xã Kon Tum, chia cắt Kon Tum với Gia Lai. E108 lần lượt tiêu diệt hệ thống cứ điểm ở Đắc Tô, Đắc Lây, giải phóng hoàn toàn hai huyện Bắc Kon Tum. Ngày 4 tháng 2 năm 1954 E803 tiêu diệt một đoàn xe bảy chiếc và một đại đội Âu Phi trên đường 14 ở Nam Kon Tum. Anh Chánh động viên E108 nắm vững thời cơ thuận lợi, bất chấp ngày đêm, mưa nắng, thừa thắng xông lên, ngày 7 tháng 2 năm 1954 dũng mãnh đánh chiếm và làm chủ thị xã Kon Tum. Thế là, chỉ trong vòng 10 ngày sau khi mở màn chiến dịch, toàn tỉnh Kon Tum rộng trên 14.000 km2 với 20 vạn dân đã hoàn toàn được giải phóng. Chiến trường Tây Nguyên rung chuyển dữ dội. Lần đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp, Liên khu 5 với 2 trung đoàn chủ lực đã giải phóng một tỉnh. Tin chiến thắng lan nhanh làm nức lòng quân dân Liên khu 5, đồng bào và chiến sĩ cả nước. Mất tỉnh Kon Tum là tín hiệu báo trước cho Na-va kế hoạch bước 3 của chiến dịch Át-lăng đã bị bẻ gãy ngay từ đầu. Thế ta lên như nước vỡ bờ. Còn địch, không thể bỏ chiến dịch Át-lăng, cũng không có quân để chi viện cho Gia Lai đang kêu cứu. Anh Chánh rất phấn chấn, động viên các lực lượng chiến dịch hành động với tinh thần "Một ngày bằng hai mươi năm!", tức tốc tiến vào Gia Lai. Bộ đội, dân công hỏa tuyến nô nức bám theo nhau hành quân, vừa đi vừa chạy, quên ăn quên ngủ.

Mười ngày sau, tức vào trung tuần tháng 2 năm 1954, hai trung đoàn 108, 803 đã hình thành thế trận bao vây chia cắt An Khê với Plây Ku, chia cắt cô lập tỉnh Gia Lai với hai tỉnh Đắc Lắc, Bình Định. Tiếp đó, ta lần lượt tiêu diệt các cứ điểm Đắc Đoa, Plây Ring bảo vệ vòng ngoài thị xã Plây Ku và các cứ điểm Tú Thủy, Cửu An bảo vệ vòng ngoài của căn cứ quân sự An Khê, khiến cho binh lính ở Gia Lai, Đắc Lắc và GM100 vô cùng hoang mang, khiếp sợ. Thế chủ động chiến trường đã thuộc về ta. Chiến dịch Át-lăng rơi vào thế bế tắc, bị động, tiến thoái lưỡng nan. Bị các lực lượng địa phương chặn đánh liên tục, suốt 55 ngày đêm, chiến dịch Át-lăng chỉ dậm chân tại chỗ ở Phú Yên, không tiến lên được, cho đến ngày 12 tháng 3 năm 1954, để gỡ thế bí, địch liều mạng đổ bộ lên Quy Nhơn 8 tiểu đoàn lính Âu Phi phối hợp với 2 binh đoàn cơ động 41 và 42 đánh ra, chiếm Diêu Trì. GM100 được lệnh hành quân xuống Diêu Trì để thực hiện bước 2 của "Kế hoạch Na-va" đánh chiếm toàn tỉnh Bình Định. E108 đã sẵn sàng đón đánh GM100.

Không ngờ, ngày hôm sau - ngày 13 tháng 3 năm 1954 không thể nào quên, ta mở màn chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Vô cùng hốt hoảng, Na-va lệnh cho GM100 dừng cuộc hành quân, rút hết các lực lượng dù đưa ra Hà Nội. Ngày 6 tháng 4 năm 1954, ngày nhục nhã nhất của Na-va trên chiến trường Liên khu 5. Ở Điện Biên Phủ, ta mở cuộc tấn công dữ dội vào khu trung tâm. Na-va bí mật rút hết các lực lượng cơ động đang chiếm đóng ở Diêu Trì về Quy Nhơn và đưa ra tàu biển. Chiến dịch Át-lăng kết thúc không kèn không trống.


4. ĐÒN TRỜI GIÁNG CUỐI CÙNG VÀO GM100

Tình hình chiến trường diễn biến đúng như anh Chánh đã nhận định trong cuộc nói chuyện vào Thu Đông 1953. Thời cơ lớn đã đến. Như một động viên lệnh thiêng liêng: "Tất cả cho Điện Biên Phủ giành toàn thắng!", anh Chánh thay mặt Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, dân công hỏa tuyến đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, chiến đấu anh dũng hơn nữa, táo bạo hơn nữa, phối hợp tốt hơn nữa với chiến trường chính. Hai trung đoàn 108, 803 liên tục chiến đấu tiêu diệt các cứ điểm ở Đầu Đèo, Thượng An, phá vỡ phòng tuyến địch trên đường số 7 ở Đắc Lắc, khiến cho An Khê, Plây Ku và GM100 hoàn toàn bị cô lập và tuyệt vọng. Ta sẵn sàng giải phóng Gia Lai và tiến đánh Đắc Lắc.

Chủ động đi trước tình hình một bước và kịp xử trí tình hình đột biến, ngày 1 tháng 5 năm 1954, anh Chánh quyết định thành lập trung đoàn chủ lực thứ ba của Liên khu 5 mang tên E96. Anh Nguyễn Minh Châu (tức anh Năm Ngà, sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng Tư lệnh Quân khu 7), một trung đoàn trưởng nổi tiếng gan dạ, mưu trí, đang chỉ huy E108, được điều về chỉ huy E96. Bảy ngày sau khi E96 ra đời, ngày 7 tháng 5 năm 1954 lịch sử, Điện Biên Phủ giành toàn thắng. Mặc dù vậy, Na-va vẫn ra lệnh cho các chiến trường cố thủ, bảo toàn lực lượng, tìm thế lợi trong thương lượng.

Tin kỹ thuật của Ban Quân báo Liên khu 5 báo cho anh Chánh biết "GM100 với toàn bộ đội hình gần 250 xe nối đuôi đậu sít nhau và quay đầu hết về hướng Plây Ku. Tinh thần binh lính địch cực kỳ hoang mang...". Đôi mắt thâm quầng rực sáng lên, anh Chánh lệnh cho anh Nguyễn Minh Châu động viên bộ đội dốc hết tốc lực băng rừng hành quân diệt gọn GM100. Mới thành lập, một tiểu đoàn chưa về kịp trong đội hình, hỏa lực đánh cơ giới đang điều động, anh Minh Châu lo lắng là việc hoàn thành nhiệm vụ sẽ gặp nhiều khó khăn, không kịp nổ súng đúng thời gian quy định. Anh Chánh phân tích: Điện Biên Phủ thất thủ, GM100 đã mất hết tinh thần chiến đấu, đang chuẩn bị rút chạy. Bằng mọi lực lượng có trong tay và bằng mọi giá tiêu diệt những chiếc xe đi đầu và khóa chặt đuôi, kiên quyết không cho một xe nào chạy thoát. Nổ súng là nhất định thắng lớn!...

Quả thật, tại khu vực Đắc Pơ trên đường 19, sáng 24 tháng 6 năm 1954, với một lực lượng nhỏ hơn địch nhiều lần nhưng hơn hẳn về tinh thần dũng cảm, mưu trí, từ hai hướng nam bắc đường, cán bộ chiến sĩ E96 tiến sát và xông thẳng vào đoàn xe, bất thần nổ súng đánh giáp lá hô xung phong vang dậy. Bọn lính Âu Phi không kịp trở tay và sợ chết, nhanh chóng tán loạn như ong vỡ tổ. Chúng giơ súng đầu hàng cả với dân công hỏa tuyến. Ta xóa sổ binh đoàn cơ động số 100, bắn chết và bị thương 700 tên, bắt sống 1.200 tên, trong đó có tên đại tá Barrou chỉ huy binh đoàn. Đây là trận đánh giao thông lớn nhất nước ta trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ta thu rất nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, có 20 khẩu đại bác, 229 xe quân sự, trong đó có 20 xe hồng thập tự mới toanh. Tù binh gom lại từng đám lớn ngồi đầy các cánh rừng, không đủ dây để trói, nhưng chúng đều ngoan ngoãn tuân lệnh vì bộ đội, dân công ta đối xử rất tử tế và còn vì chúng sợ chạy trốn sẽ bị lạc đường, trúng chông, đói khát, bỏ mạng trong rừng. Đòn trời giáng cuối cùng vào GM100 đã góp phần làm cho các lực lượng cơ động chiến lược tinh nhuệ của địch ngã gục, không gượng dậy nổi. Ý chí xâm lược của giặc Pháp hoàn toàn tan rã. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, chúng buộc phải hạ bút ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấp nhận đình chiến ở Đông Dương. Liên khu 5 là chiến trường đã giành chiến thắng to lớn, rực rỡ nhất trong nhiệm vụ phối hợp với Mặt trận Điện Biên Phủ, được xem là "Điện Biên Phủ thứ hai" của quân đội Pháp. Đây cũng là đỉnh cao nhất thắng lợi của quân và dân Liên khu 5 trong 9 năm chống Pháp.

Đã tròn 50 năm qua đi. Song, trong tôi mãi mãi lưu lại một ấn tượng sâu sắc nhất, một dấu ấn không thể phai mờ, đó là vai trò hạt nhân lãnh đạo sáng suốt, bản lĩnh chiến đấu kiên cường của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 cùng với những cống hiến xuất sắc của đồng chí Nguyễn Chánh. Anh là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, rất sắc sảo nhưng cũng rất giản dị, dễ gần gũi, một vị tướng tài đức song toàn, luôn điềm tĩnh, quyết đoán và có quyết sách đúng đắn trước những diễn biến phức tạp nhất của thời cuộc và bước ngoặt của lịch sử.

Là một trong những người lãnh đạo, chỉ huy Đội du kích Ba Tơ nổi tiếng, tiền thân của Quân đội nhân dân Liên khu 5, anh Chánh là người anh cả kính yêu của các lực lượng vũ trang Liên khu 5. Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, anh được Trung ương Đảng giao trọng trách nặng nề: Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ quân đội, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh. Do bị tù đày, tra tấn trong lao ngục của đế quốc Pháp, làm việc căng thẳng trong chiến tranh và trong thời bình, anh không thoát được căn bệnh hiểm nghèo, đã từ trần ở độ tuổi còn rất trẻ, chỉ ngoài bốn mươi. Anh mất quá sớm nhưng tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của anh mãi mãi gắn kết với chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, lịch sử cách mạng vẻ vang của Liên khu 5 anh dũng và gian khổ và lịch sử quân sự Việt Nam quang vinh. Cũng xin được ghi thêm rằng có nhiều người còn chưa biết anh Chánh đã có nhiều bài thơ hay viết từ trong lao tù, những bài thơ tràn đầy khí phách kiên cường lạc quan cách mạng, chan chứa tình yêu thương đậm đà gia đình, quê hương, đất nước; được trân trọng lưu giữ trong kho tàng văn học cách mạng của Việt Nam (Tổng tập văn học Việt Nam, tập 35). Xin được bày tỏ lòng kính yêu anh nhân dịp kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

(Trích trong Tạp chí Sông Trà,
số kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ,
tháng 5-2004)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười, 2022, 09:05:00 pm

CHUYỆN Ở QUÊ TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH


Nhà báo TRẦN ĐĂNG

                                                                                                                                                                                                             
                     
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc đến Nguyễn Chánh như sau: "Anh qua đời, quân đội mất đi một vị tướng tài năng, tôi mất đi một người bạn chí thiết". Đó không phải là lời "ai điếu" đơn thuần xuất phát từ một tấm lòng quý trọng thật sự của vị Tổng Tư lệnh đối với bạn chiến đấu của mình. Tối 24-9-1957, một cơn đau tim đột ngột - đã khép lại cuộc đời của vị tướng thao lược này ở tuổi 43, nhưng những gì ông để lại cho quân đội cũng như giới văn nghệ sĩ trên đất Liên khu 5 thời kháng chiến chống Pháp thì vẫn vẹn nguyên như ngày nào. Ngày 5-8 này, sinh nhật lần thứ 90 của tướng Nguyễn Chánh.



GIAI THOẠI

Sau Hiệp định Genève 1954, có một viên tướng người Pháp tên là De Beaufort nhờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho ông ta gặp bằng được người chỉ huy đánh bại chiến dịch Atlante trên chiến trường Tây Nguyên năm 1953-1954. Tướng Giáp đã đồng ý và sắp xếp một cuộc gặp riêng giữa tướng De Beaufort và Nguyễn Chánh. Viên tướng bại trận người Pháp đã không tin rằng ngồi trước mặt mình là "một vị tướng đã làm cho tôi điêu đứng trên chiến trường" - như hồi ký sau này ông ta thuật lại. Nguyễn Chánh giản dị và khiêm nhường đến không ngờ. Chia lửa với Điện Biên, quân ta giải phóng Kon Tum và Bắc Tây Nguyên, đánh bại chiến dịch Atlante, tiêu diệt toàn bộ Binh đoàn cơ động số 100 - binh đoàn tinh nhuệ bậc nhất của quân viễn chinh Pháp rút về từ Triều Tiên. Người chỉ huy trận đánh "để đời" ấy là tướng Nguyễn Chánh - một trong những người lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ từ ngày còn trứng nước, quê ở xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Lâu nay, rất nhiều cuốn sách viết về tài thao lược của vị tướng lừng danh này. Vì vậy, nhiều người chỉ biết ông với tư cách là nhà chiến lược quân sự nhưng Nguyễn Chánh còn là một người rất am tường về văn hoá, nhất là cách hành xử đối với anh em văn nghệ sĩ. Ai đã một lần tiếp xúc với ông là cả đời không quên được. Nhà văn Nguyên Ngọc là một trường hợp như thế.

Ông kể rằng chính Nguyễn Chánh là người nâng đỡ ông ngay từ khi còn chập chững bước chân vào làng báo! Là Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5 nhưng Nguyễn Chánh vẫn dành rất nhiều thời gian cho văn nghệ. Có lần trong hội nghị Quân chính Quân khu, anh em tổ chức một tối hát tuồng, ông xin cho ông đóng một vai tuồng. Anh em khuyên ông không nên làm việc này vì rất mất công. Cuối cùng, ông xin được cầm chầu trong đêm diễn.   Người cầm chầu phải là người rất am tường về tuồng tích của vở diễn, thế mà Nguyễn Chánh, không hiểu ông đã thuộc tuồng từ bao giờ, buổi diễn hôm ấy, tiếng trống chầu của ông đã làm cho không ít người xem phải ngỡ ngàng!


Ở XÓM VẠN ĐÒ

Ông Nguyễn Ngoan, nay đã 77 tuổi, gọi tướng Chánh bằng chú ruột, chỉ ra phía sau vườn - nơi có ngôi nhà sinh ra 8 anh em Nguyễn Chánh, nói: "Ông nội tôi chỉ có cái ao sau nhà là đáng giá nhất thôi". Tôi hỏi: "Vậy, ổng lấy gì để nuôi 8 người con?". "Ông làm trưởng cự (cổ đông) xe nước". Một cụ ông hàng xóm góp chuyện: "Dân xe nước ở đất Sơn Tịnh này, ai mà chẳng biết ông Nguyễn Hàm Chức. Ông là một trưởng cự xe nước bậc thầy". Ngay tại bến đò xóm Vạn từng có một bờ xe nước mang tên ông. Hàng năm, cứ sau vụ gặt, những người có ruộng được hưởng nguồn nước từ bờ xe này đã nộp thóc cho chủ xe. Cái bờ xe nước ấy đã trở thành nguồn thu nhập chính cho cả gia đình. Nó đã góp phần nuôi Nguyễn Chánh và nuôi luôn những đồng chí của ông hoạt động cách mạng. Ông Nguyễn Ngoan vẫn còn nhớ nguyên hình bóng của các nhà cách mạng tiền bối như Nguyễn Nghiêm, Phan Thái Ất, Tôn Diêm... vẫn thường lui tới căn nhà này. Đến sau Cách mạng tháng Tám 1945, ngôi nhà tranh ấy đã thành tổng hành dinh của các nhà lãnh đạo Khu 5. Tuy không phải là người giàu có trong làng nhưng ông Nguyễn Hàm Chức là người rất có uy tín. Thuở trai tráng, ông từng là nghĩa quân của Lê Trung Đình. Cuộc khởi nghĩa của họ Lê bị dìm trong bể máu, ông trở về quê rồi gắn đời mình với các bờ xe nước sông Trà và kỳ vọng vào lớp con cháu, trong đó có người con út Nguyễn Chánh. Và cái xóm Vạn Đò bên bờ sông Trà - nơi người cha đã từng lỡ vận vì việc lớn ấy đã thành bến đỗ cho các nhà cách mạng.


TRONG KÝ ỨC CỦA NGƯỜI THÂN

Ông Ngoan nhớ lại: "Chú Chín (ở nhà gọi vậy vì Nguyễn Chánh là con út - thứ chín) là người điềm đạm, lành tính nhưng rất quyết đoán. Ông làm việc gì cũng đến đầu đến đũa, lại là người có tài hùng biện, ăn nói lưu loát, thấu tình đạt lý nên ai cũng phải nghe". Mười sáu tuổi, Nguyễn Chánh đã đến với cách mạng. Các nhà tù đế quốc đã thành trường học lớn rèn luyện cho ông. Một tài năng thiên bẩm cộng với môi trường khốc liệt của các nhà tù đế quốc và cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân đã làm nên vị tướng thao lược sau này. "Lúc ấy, tôi khoảng chín tuổi, cha tôi từ nhà tù ở Buôn Ma Thuột về, ghé qua đêm thăm gia đình rồi lên luôn Ba Tơ. Ông cứ thoắt ẩn thoắt hiện bằng những chuyến đi - về như thế, anh em tôi chẳng biết ông làm gì. Mãi sau này tôi mới biết ông làm cách mạng". Ông Nguyễn Chí Trực - 68 tuổi - con trai đầu tướng Chánh hồi tưởng về người cha mình bằng những ký ức đứt nối như thế. Ông nói: "Cha tôi là người giàu tình cảm. Ông ít khi ở nhà, song mỗi lần về là ông ôm tất cả anh em vào lòng, hỏi han từng đứa rất kỹ lưỡng. Em gái tôi - PGS.TSKH. Tuyết Minh - là người được ông cưng nhất. Chả là, lúc mẹ tôi ở tù tại nhà lao Quảng Ngãi, có một lần bà ngoại bế em vào thăm mẹ, nó nhất định không chịu về, bọn lính bắt nó dẫn ra, mẹ tôi phải dùng con dao đang đi làm bếp trong tay chiến đấu với bọn cai ngục để giữ nó ở lại với mẹ, thế là nó "được" ở tù cùng mẹ. Mấy người bạn tù cứ trêu em tôi rằng mày là con ông "bảy đáp" (mổ heo). Không ngờ những lời trêu chọc ấy đã ám ảnh cô bé đến lúc cách mạng thành công, rồi cha tôi về xưng "ba" với nó, nó vẫn không cho bế! Thương yêu con cái nhưng ông cũng là người cực kỳ nghiêm khắc với con. Có lần ông thấy tôi mặc chiếc áo xa xị màu nâu vải ngoại, ông buộc tôi phải cởi ra và đốt giữa sân nhà. Ông nói: "Ba đang hô hào toàn dân Khu 5 "bài" hàng ngoại, con mặc áo vải ngoại như thế, ai còn nghe ba nữa!". Đó là hồi kháng chiến chống Pháp, Khu 5 là vùng giải phóng chủ trương "tự túc tự cấp" và "bao vây kinh tế địch" nên hô hào chống sử dụng hàng ngoại nên mới có tình trạng ấy". Gần 50 năm kể từ ngày tướng Chánh tạ thế nhưng hình bóng người cha vẫn nguyên vẹn trong lòng người con trai trưởng: "Tối hôm ấy (ngày 24 tháng 9 năm 1957), ông dặn với người cần vụ rằng sáng hôm sau ông đi Quảng Ninh nhân tiện ghé thăm mấy đứa em tôi đang học ở Trường học sinh miền Nam. Nhưng chuyến thăm những đứa em của cha tôi vĩnh viễn không bao giờ thực hiện được. Bốn giờ sáng hôm ấy, trái tim ông đã ngừng đập, khép lại một chặng đường đầy gian nan nhưng cũng rất hào hùng của ông".

Trước khi mất, Nguyễn Chánh giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ. Ông mất trước khi Nhà nước phong quân hàm cho các tướng lĩnh nên chưa một ngày cầu vai trên áo ông được lấp lánh ngôi sao. Ông đã đóng góp một cách xuất sắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp trên Chiến trường Khu 5. Để tưởng nhớ công lao của ông, Hội cựu chiến binh Liên khu 5 đã xây một nhà bia, trong đó có đặt một pho tượng bán thân của ông do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tặng để tưởng nhớ đến ông và cũng nơi đây, trên mảnh vườn nhà ông, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã xây một Nhà lưu niệm - một bảo tàng danh nhân - nói về thân thế và sự nghiệp của ông và Trường trung học phổ thông xã Tịnh Hà, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi đã được mang tên ông để lưu danh người con ưu tú của quê hương núi Ấn sông Trà.

(Nhà báo Trần Đăng, "Chuyện ở quê tướng
Nguyễn Chánh", số 217/2004 báo Lao động,
ngày 4-8-2004)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:29:48 pm

NGUYỄN CHÁNH - CHÂN DUNG
ĐƯỢC NHIỀU NGÒI BÚT KHẮC HỌA

(Đọc quyển "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiêp",
Nxb Quân Đội nhân dân, Hà Nội, 1997,
nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của ông)



PHƯƠNG HOA

                                                                                                                                                               
         
LTS: Ở thị xã Hà Đông, con đường đi từ ngã tư Cầu Trắng về phía đông nam, qua Quân y viện 103 đến hết địa phận tỉnh Hà Tây, đã từng được mang tên một nhà quân sự - văn hoá tài đức song toàn, một nhân cách lớn, cả đời cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó là danh tướng Nguyễn Chánh. Người đời còn gọi ông là tướng quân Nguyễn Chánh.

Ông sinh năm 1914 ở xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông hoạt động cách mạng từ năm 15 tuổi, là Tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Ngãi, rồi làm Bí thư Liên khu ủy, kiêm Tư lệnh, Chính ủy Liên khu 5. Ông là người lãnh đạo Đội du kích Ra Tơ, lực lượng nòng cốt của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Ngãi. Năm 1954, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, trong chiến dịch Tây Nguyên, ông chỉ huy và trực tiếp tham gia chiến dịch với những chiến công lẫy lừng giành lại địa bàn có ý nghĩa chiến lược này, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch từ các chiến trường để quân và dân ta tập trung lực lượng chiến thắng thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Tên tuổi của ông đã gắn bó với Khu 5 bất khuất, anh dũng kiên cường trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm 1951, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc tham gia Quân ủy Trung ương, làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ. Giữa lúc tài năng đang đạt tới đỉnh cao, ngày 24 tháng 9 năm 1957, ông đột ngột ra đi tại Hà Nội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết về ông: "Cuộc đời của một con người mới 43 tuổi đã để lại sự nghiệp như vậy, có thể nói là một cuộc đời thật đẹp: cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức có tài, một con người mẫu mực”.

Nhân kỷ niệm lần thứ 59 Cách mạng tháng Tam thành công và Quốc khánh 2-9, kỷ niệm 90 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Chánh, Tản viên sơn trân trọng giới thiệu cuốn sách "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp" của Nhà xuất bản quân đội nhân dân, gồm những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các vị tướng lĩnh, cán bộ, đảng viên đã từng sống, làm việc, gần gũi với đồng chí Nguyễn Chánh qua bài viết, giới thiệu cuốn sách này của nhà nghiên cứu Phương Hoa.

Theo cách nghĩ thông thường của mọi người thì loại sách "hồi ký" thường nói lên sự kiện và nhân vật một cách khô khan, mang nặng phong cách "chính sử" nên chỉ thu hút được sự quan tâm của lớp người có tuổi và không hấp dẫn được lớp trẻ hiện nay. Khi cầm trên tay quyển sách "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp" tôi cũng không tránh khỏi cái tâm lý chung nói trên, và chỉ có ý định đọc lướt qua để biết thêm về một vị tướng mà tôi đã có đọc nhiều bài viết về ông trên báo chí song nội dung thường nặng về mảng "sự nghiệp" mà nhẹ về mảng "con người", vì vậy cũng ít hy vọng quyển sách này sẽ giúp tôi hiểu thêm về đặc trưng tính cách của con người ông.

Nhưng quyển hồi ký đã thực sự hấp dẫn tôi ngay từ những trang đầu, hứa hẹn cho tôi những cảm nhận thẩm mĩ sâu sắc và mới mẻ về một tác phẩm nghệ thuật với sự khắc họa chân dung của một vị tướng tài, một nhân cách lớn qua bài viết của nhiều tác giả thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau - từ các tướng lĩnh, các nhà quân sự lỗi lạc đến những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, bác sĩ, những chiến sĩ, những người bạn trong tù và đơn thuần là những người dân đã từng có dịp gặp ông. Quyển sách dày gần 600 trang gồm bài viết của 68 người mà tạo cho ta cảm giác như có một sự chắp bút của ai đó, sự sắp xếp vô hình nào đó, một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quyển sách làm nổi lên một hình tượng nhân vật sống động với những nét tính cách cá nhân nổi bật, với những sở thích đời thường, với tấm lòng chân thật không tạo dựng, không tô vẽ mà hoàn chỉnh đến từng chi tiết, tôi như nhìn thấy ông đang đứng trước mặt tôi với nụ cười cởi mở, với giọng nói ân cần, với cái nhìn hóm hỉnh, chẳng giống một vị tướng oai phong cầm quân đánh giặc tí nào. Trong quyển hồi ký này hình ảnh con người ông đã vượt lên trên những dòng trích ngang lý lịch của ông, đến với người đọc qua những chi tiết trong những cốt truyện mà mọi người tưởng nhớ về ông, về một con ngươi rất bình dị, gần gũi, tế nhị trong cách ứng xử, chu đáo trong sự quan tâm tới người khác, có tấm lòng rộng mở và chân thành và đặc biệt là có tâm hồn nghệ sĩ.

Tính "Con người" trong ông hiện lên rất sống động và rõ nét cho nên không phải ngẫu nhiên mà nguyên Phó thủ tướng Trần Quỳnh đã đặt tên bài viết của mình là: Một con người rất "con người". Riêng tên của các bài viết cũng đã phần nào nói lên tính cách của ông: "Ít người tế nhị như anh" (Nguyễn Cự), "Anh Nguyễn Chánh là người luôn nhạy cảm với cái mới" (Nguyễn Quang Bích), "Anh Nguyễn Chánh, một bộ óc sáng tạo, một tấm lòng rộng mở" (Trần Chí Cường), "Anh Nguyễn Chánh là người đầy tình nghĩa" (Nguyễn Thị Nga), "Một tâm hồn nghệ sĩ trong một vị tướng thao lược" (Nguyên Ngọc), v.v...

Nếu như bản lĩnh chính trị, tài năng quân sự, tư duy lãnh đạo của ông đã được nói đến nhiều trong các bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyễn Quyết, nguyên Bí thư Trung ương Đảng Trần Kiên thì trong bài của Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Phó thủ tướng Trần Quỳnh lại nhấn mạnh về nhân cách của một chiến sĩ cách mạng, của một con người "Nhân hậu, điềm đạm, sống gần gũi chân thành với mọi người, khiêm tốn và giản dị, một cán bộ cách mạng chân chính" (Văn Tiến Dũng, tr.52); "Anh biết lắng nghe, chịu khó nghe anh em, thậm chí thấy cán bộ cấp dưới lúng túng, anh còn tìm cách khêu gợi cho anh em nói, bộc bạch. Người ta đến với anh Chánh như đến với một người anh... Anh là một vị tướng tài năng, nhưng có lẽ điều quý giá không kém ở anh là ở chỗ anh là một con người "rất con người" (Trần Quỳnh, tr.94).

Từng mẩu chuyện một lần lượt dẫn dắt chúng ta đến với từng nét tính cách của ông. Theo nhận xét của Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích thì ông là một cán bộ lãnh đạo có đầu óc "đổi mới". Thiếu tướng viết: "Anh đã mạnh dạn bố trí sử dụng nhiều cán bộ trẻ, cán bộ trí thức, cán bộ xuất thân từ tầng lớp trên, và cả cán bộ đã từng mắc sai lầm khuyết điểm... Đặc biệt ngay từ hồi đó anh Chánh đã không mắc phải cái bệnh thành phần chủ nghĩa, bệnh kỳ thị trí thức là những căn bệnh ấu trĩ thường có trong buổi đầu của cách mạng. Tôi xin kể ra đây một số người mà tôi được biết là thuộc thành phần "không cơ bản" nhưng vẫn được anh Chánh giao các nhiệm vụ quan trọng và các anh đó đã hoàn thành tốt. Đó là các anh Giáp Văn Cương, Lư Giang, Đoàn Huyên, Phan Hàm, Phan Hạo, Nguyễn Minh Vỹ..." (Nguyễn Quang Bích, tr.325).


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:32:08 pm

Thiếu tướng Phan Hàm đã chân thành kể lại trong hồi tưởng của mình về ông: "Việt Minh, Quảng Nam đòi tôi về vì tôi xuất thân thành phần lớp trên và tôi đã học trường Thanh niên tiền tuyến do Phan Anh thuộc chính quyền Trần Trọng Kim tổ chức trước khởi nghĩa...". Có lần anh bảo tôi: "Để cậu ở Quảng Nam không được đâu, người ta sẽ không sử dụng cậu". Vì ở đó người ta coi tôi và cả em tôi là Phan Hạo, là trí thức "cỡ lớn".... Quả thực lúc đó nếu chúng tôi bị trả về tỉnh thì có thể bị nguy hiểm đến cả tính mạng... Tình hình hồi bấy giờ, cách nhìn người, cách giải quyết của anh Chánh có thể nói là rất lạ: "Rất thoáng, bình tĩnh và có tầm nhìn xa".

Còn ông Nguyễn Minh Vỹ (tức Tôn Thất Vỹ) nguyên Chánh văn phòng Liên khu ủy 5 thì viết về ông với lòng trìu mến đặc biệt "Riêng bản thân tôi, tuổi đời và học vấn có hơn anh chút ít, gia đình xuất thân là phong kiến thực sự Tôn Thất, thế mà khi làm việc với anh thấy rất hợp, rất thoải mái, có lúc tôi tưởng như tôi với anh có cái "duyên tiền định" nào đó để hợp tác với nhau ăn ý thế. Theo tôi, anh Chánh sở dĩ tập hợp được trí tuệ của nhiều người vì anh có phong cách tuyệt vời của người đứng đầu: rất chịu nghe, biết phân tích giãi bày cho quần chúng, biết... cười. Nụ cười của anh Chánh thiệt là cởi mở, thoải mái đáng tin, nó rất có sức lay động lòng người, nụ cười đó "khắc phục" cho anh cái vẻ bên ngoài gày gò, khắc khổ, nó làm cho mọi người nhanh chóng cảm nhận tấm lòng trung hậu thật thà của anh. Riêng tôi thì tôi nói anh Chánh cười thật dễ thương biết bao!..." (Nguyễn Minh Vỹ, tr. 394). Những suy nghĩ tương tự về ông có thể bắt gặp ở những bài hồi tưởng khác, như của nguyên Phó thủ tướng Trần Quỳnh (tr.90-91), Trung tướng Nguyễn Đường (tr.294) v.v… dường như những ngòi bút khác nhau này cũng xuất phát từ một điểm tựa để cảm nhận nhân cách của ông.      

Một nét nổi bật của tính cách ông được phản ánh sinh động trong các bài hồi tưởng về ông - đó là sự bình dị gần gũi, cởi mở, chân tình với mọi người, đầy lòng nhân ái và tình nghĩa sâu nặng, thông cảm với hoàn cảnh từng người thể hiện một cách nhuần nhị trong cách xưng hô, lối nói nửa đùa nửa thật rất hóm hỉnh của ông. Ông biết cách "phê bình" mà người ta không giận, ngược lại, càng thêm quý mến ông.

Thái độ cởi mở chân tình của ông thường được miêu tả bằng những tính từ như vui vẻ, cởi mở, vồn vã, ân cần và những động tác vỗ vai, kéo tay, và gần như các tác giả không bao giờ quên nhắc đến nụ cười "dễ thương" và đôi mắt tinh nhanh, "hóm hỉnh" của ông làm cho khuôn mặt của ông trở nên rạng rỡ lạ thường.

Cách xưng hô của ông trong giao tiếp thật bình dị, dân dã - lúc thì gọi "cậu với mình", lúc thì "tay này" lúc thì "chú, cô với tôi", có lúc còn chân tình gọi "mày với tao" nữa. Những cách xưng hô đó rút ngắn khoảng cách của người lãnh đạo với cấp dưới, giữa người có tuổi với lớp trẻ, giữa ông với các tầng lớp trí thức, công nông, nhân dân lao động, với tất cả những ai mà ông có dịp tiếp xúc, làm ông xích lại gần với họ tạo nên sự chan hoà cởi mở. Nhà thơ Nguyễn Viết Lãm đã nhớ về ông: "... Có một anh bạn viết truyện ngắn về chủ đề vạch tội ác của địa chủ trong thời gian Đảng ta chuẩn bị cải cách ruộng đất, hỏi anh: "... Nay đổi lại thì khó quá, không khác gì xóa bỏ hết. Thế liệu có in được không anh?". Anh Chánh cười, hỏi lại: "Giữa việc in truyện và việc vi phạm chính sách của Đảng, anh chọn việc nào?". Giữa lúc anh bạn tỏ ý hoang mang, anh vỗ vai nói thêm: "Anh bạn nhà văn ạ, nhiều khi vì lợi ích của cách mạng, chúng ta vẫn phải sẵn sàng hy sinh những cái to lớn hơn nhiều!...". Ở một đoạn khác: “có lần tôi lên tàu hỏa từ Quảng Ngãi vào Liên khu, đang đi ngoài hành lang, bỗng nghe tiếng gọi, ngoảnh nhìn ra sau thấy anh Nguyễn Chánh cùng một vài đồng chí bộ đội đang đi tới. Anh Chánh đập tay vào vai tôi, nói vui: "Tay này dám đi vào khu quân sự hả? Vào đây, vào đây!... Nói xong anh kéo tôi vào toa của mình, thân tình như một người anh".

...Trong chín năm kháng chiến ai ra đường cũng phải ngụy trang che màu sáng kim loại trên xe đạp để tránh máy bay địch. Hôm ấy, nghĩ rằng đã hết chiến tranh rồi, tôi cứ dắt xe đàng hoàng bước vào nơi cơ quan làm việc. Vừa gặp lúc anh Chánh cùng các cán bộ Bộ tư lệnh trong ngõ đi ra. Thấy tôi, anh gọi trước, nói như reo to: "Ô hay, tay này chủ quan khinh địch gớm nhỉ! Không ngụy trang mà dám đi à? Coi chừng máy bay nó bắn cho hết làm thơ đấy nhé". Tôi cũng cười: "Giặc nó sợ anh, nó chạy rồi".

Tính anh Chánh vốn thế, lúc nào cũng vui, cũng lạc quan, không phải chỉ khi thắng lợi mà cả những lúc khó khăn" (Nguyễn Viết Lãm, tr.550-552).

Và khi đọc bài của Đại tá Phan Thượng Địch thì tôi xúc động thật sự không cầm được nước mắt. Tôi tự hỏi: Tại sao lại có một vị tướng, một người đứng đầu một quân khu bận trăm công nghìn việc mà có thì giờ để lo đến chuyện riêng tư cho từng người như vậy, chắc ông phải có một tấm lòng nhân hậu vô bờ. Đại tá viết: "Anh Chánh nói: "Hiệp định Giơ-ne-vơ sắp ký rồi, ta sẽ phải tập kết… Cậu phải lo giải quyết chuyện vợ con đi". Tôi đáp: "Nhưng bận quá, anh ạ" Anh bảo: "Bận thì để tao đi hỏi vợ cho".

...Tưởng anh nói đùa, hóa ra anh đi thật. Lúc đó chúng tôi đóng ở Nghĩa Hành, nhà vợ tôi thì ở tận trên Trường An, Ba Tơ. Vậy mà anh đi, đi suốt một đêm cùng với anh bảo vệ là anh Nhành. Hồi đó ở đèo Đá Chát, cây số 13 đường lên Ba Tơ có con cọp dữ nổi tiếng đã bắt nhiều người vậy mà anh đi bất chấp nguy hiểm lên gặp mẹ vợ tôi, anh thay mặt Liên khu xin con gái bà cho tôi, bà bảo: "Anh là ngươi nắm quân đội, anh biết ai ra sao, ai hay ai dở? Thầy nó mất rồi, anh như người anh cả trong gia đình, trăm sự nhờ anh định liệu...". Hôm sau anh Chánh về, bảo tôi: "Xong rồi, lo liệu cưới đi...".

... Trước khi đi tập kết, vợ tôi xuống, chúng tôi đến thăm anh Chánh, tạ ơn anh. Hôm ấy trời mưa như trút nước. Anh Chánh hỏi: "Đêm nay chúng mày ở đâu?", "Thưa, ở nhà dân ạ!", "Không được đâu, nhà dân, vợ chồng ăn ở với nhau, ngươi ta kiêng, thôi, hai đứa vô cái lán này của tao mà ở. Ngủ cái giường tre này của tao". Tôi nói: "Không được, anh ạ!". Anh bảo: "Tao ra lệnh - và anh qua lán khác, mắc võng nằm" (Phan Thượng Địch, tr.500-503).

Ông không những chỉ quan tâm đến đồng đội, đến các chiến sĩ trong quân ngũ của ông, mà còn năng ghé qua thăm gia đình họ khi có dịp đi công tác. Đại tá Nguyễn An Trường nhớ lại những lời vợ ông đã kể cho ông nghe về những chuyến thăm viếng đó của vị lãnh đạo quân khu nhưng lại gần gũi như anh em một nhà: "Trên đường đi công tác, anh thường ghé thăm. Mỗi lần anh ghé thăm có vài đồng chí cùng đi theo bảo vệ. Anh chỉ hỏi thăm tình hình, động viên trong 5, 10 phút rồi lại ra đi...". "...Lúc nào ghé vào anh cũng bảo, có gì gửi cho nó (tức là tôi) không, nhưng chỉ gửi ít thôi còn để mà nuôi con". Anh thường dặn: "Em còn trẻ, nó lại đi luôn, gian khổ và thiếu thốn đủ thứ, đến điếu thuốc cũng không có mà hút, nên em phải cố mà giữ cho trọn vẹn nếu không thì tội nghiệp nó". "Em chỉ chảy nước mắt và hứa giữ đúng như lời anh dặn", và Đại tá Nguyễn An Trường, đã xúc cảm làm một bài thơ tặng ông khi ông mất, có đoạn:

"Vẫn quần áo vải, dép quai râu
Vẫn dáng nhà nho trải dãi dầu
Giọng nói tiếng cười vang ấm áp
Như người anh ruột vắng nhà lâu...
... Thế rồi anh lại tiếp đi xa
Tôi tiễn chân anh, mắt lệ nhòa
Anh Nguyễn Chánh ơi! Anh vẫn sống
Hòa trong suối nhạc vạn lời ca".

(Nguyễn An Trường, tr.458-460)

Hoặc trong hồi tưởng của Trung tướng Võ Thứ: "Đầu năm 1947 tôi được về làm phó cho anh Vi Dân ở khu vực An Khê. Ngày 13 tháng 4 năm 1947 ta tổ chức đánh đồn Tú Thủy. Đó là một trận đánh rất ác liệt, anh em ta chiến đấu rất dũng cảm, nhưng vì kế hoạch bị lộ nên trận đánh thất bại, anh Vi Dân cũng hy sinh. Sau trận đánh tôi nhận được điện của anh Chánh phải về ngay cơ quan Bộ tư lệnh Liên khu 5, lúc đó đóng ở Chợ Chùa Quảng Ngãi.

...Hôm ấy, trời mưa rất to. Tôi về đến nơi, vội vào gặp anh Chánh để báo cáo nhận nhiệm vụ. Thấy tôi bước vào, anh cười, nói ngay: "Chả có nhiệm vụ gì cả. Nghe trận Tú Thủy ta hy sinh nhiều, con Tâm vợ cậu chắc là cậu đã chết rồi, cứ đến đây khóc ầm lên. Mình gọi cậu về là để cho nó thấy mặt mà yên tâm, thế thôi. Thôi, chạy ù về nhà đi cho nó mừng!..." (Võ Thứ, tr.284-285).


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:33:00 pm

Sự quan tâm của ông không dừng lại ở đây. Ông còn dành tình cảm đặc biệt cho các chiến sĩ là đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên. Trung tướng Nguyễn Huy Chương đã nhớ lại về ông: "Anh vào thăm Trung đoàn 120, tức Trung đoàn Tây Nguyên chúng tôi, bấy giờ đóng ở Nam Đàn, Nghệ An. Anh dặn dò: "Trong những năm còn ở miền Bắc, các đồng chí phải biến trung đoàn này thành một trung đoàn cán bộ của các dân tộc Tây Nguyên gồm có: cán bộ quân sự, cán bộ chuyên môn các ngành phục vụ quân đội, cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền, cán bộ chuyên môn về nông nghiệp sau này sẽ phụ trách các nông trường ở Tây Nguyên, cán bộ khoa học - kỹ thuật các ngành" và anh đã trực tiếp giải quyết một số chế độ ưu tiên cho trung đoàn ở Tây Nguyên như: thêm 4 kg gạo hàng tháng cho từng chiến sĩ, cung cấp thuốc lá, giày da, mũ kê-pi cho anh em, giải quyết cho tất cả anh em đi trồng răng vì người dân tộc Tây Nguyên trước có tục cưa răng từ lúc bé...".

Có một câu chuyện nhỏ nói về sự quan tâm của ông đối với đại tá Hanx, hàng binh người Đức, tên Việt là Hồ Chí Long, mới cảm động làm sao. Không những ông đã biết mạnh dạn sử dụng ông Hanx để huấn luyện chiến thuật chiến đấu cho quân đội ta, mà còn bồi dưỡng kết nạp ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông Hanx sinh hoạt cùng một tổ đảng với ông trong cơ quan quân khu. Đại tá Lê Quốc Bảo kể: "Là người Âu châu đồng chí ấy rất quý chó và ham thích nuôi chó, một hôm đồng chí vào Bồng Sơn, Bình Định, xin được một con chó béc-giê đem về nuôi rất chu đáo, nhường cả tiêu chuẩn ăn cho chó. Chi bộ sợ đồng chí không có ăn, sức khoẻ giảm sút, đã họp quyết định đồng chí đem chó đi trả. Đồng chí thực hiện nghị quyết chi bộ một cách nghiêm túc. Lúc đó anh Chánh đi công tác ở Bình Định. Khi về thấy đồng chí buồn, anh hỏi mới biết đầu đuôi câu chuyện. Anh mời các đồng chí trong chi ủy họp và nhất trí để đồng chí nuôi lại con chó theo sở thích của người Âu châu và tìm cách tăng tiêu chuẩn cho đồng chí để đồng chí bảo đảm sức khoẻ vừa nuôi được chó tạo nguồn phấn chấn cho đồng chí công tác tốt (Lê Quốc Bảo, tr.437-438).

Chân dung ông sẽ không được khắc họa trọn vẹn nếu không nhắc đến tâm hồn nghệ sĩ của ông, ông rất say mê văn học nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca và tuồng, về phần này tôi xin nhường lời cho các nhà văn, nhà thơ, các nghệ sĩ nói, không cần bình luận thêm. Nhà văn Nguyên Ngọc nhớ lại: "Lúc bấy giờ ở toà soạn có Ngọc Anh và tôi đều mới mười bảy, mười tám tuổi. Chúng tôi vừa làm báo, vừa có tập tò sáng tác văn học chút ít: viết đôi bài bút ký nhỏ. Không ngờ anh Chánh biết và chú ý đến việc đó. Một hôm anh cho gọi tôi và Ngọc Anh lên... chúng tôi chuẩn bị tinh thần để được nghe anh "chỉnh"... Nhưng rất ngạc nhiên, anh bắt đầu như một người anh lớn tâm sự với hai em nhỏ. Anh hỏi tỉ mỉ hoàn cảnh gia đình của từng đứa, học hành ra sao, vào bộ đội đã qua công tác gì, có phải có nguyện vọng muốn trở thành nhà văn không... Chúng tôi nhận là quả có như thế thật... Anh bảo, đại ý: làm văn học là công việc rất cao quý, nói là thiêng liêng cũng không quá đáng, phải học hỏi rất nhiều. Học trường, học thầy, học trong sách. Nhưng có một cái học hết sức quan trọng đó là học hỏi từng trải ở đời. Nên đi ra chiến trường, đi xuống đơn vị, sống và tham gia cuộc chiến đấu cùng đồng bào và chiến sĩ, đó là trường học hay nhất...

... Sau đó, chắc là anh có nói với anh Đinh Nho Bát, Trưởng ban Tuyên huấn Quân khu, nên các anh đưa ngay Ngọc Anh và tôi đi làm "phóng viên chiến trường" và giao nhiệm vụ: cứ nằm dưới cơ sở càng lâu càng tốt. Tôi đi Nam Tây Nguyên, Ngọc Anh đi mặt trận miền Tây Quảng Ngãi, Bắc Kon Tum. Chúng tôi đã làm đúng như lời anh Chánh dặn... Có thể nói chính nhờ sự chỉ bảo của anh Chánh mà về sau này tôi mới có được "Đất nước đứng lên" và Ngọc Anh có những bài thơ tuyệt vời như "Bóng cây Kơ – Nia”...

Nhà văn Nguyên Ngọc còn kể một chuyện nhỏ rất lý thú về lòng say mê hát tuồng của ông: "Tôi nhớ ra có một lần anh em trong Quân khu tổ chức một tối hát tuồng. Lúc anh em đang tập, anh Chánh ghé qua, thấy thích quá, anh bảo: "Cho mình đóng một vai với". Anh em bảo: "Không được đâu, bọn tui phải tập suốt ngày thế này, anh bận lắm, thời giờ đâu để tập mà đòi sắm vai". Anh Chánh nói: "Thế thì tối nay cho mình cầm chầu vậy!".

Trong hát bội (tuồng), người cầm chầu (đánh trống chầu) là người rất sành nghệ thuật. Tối đó trong đêm biểu diễn, anh Chánh ngồi cầm chầu, tiếng trống điểm nhịp, tiếng trống khen, tiếng trống chê... rất hay, ai cũng trầm trồ không ngờ Tư lệnh giỏi nghề hát bội đến thế.

Đến lúc kẽt thúc đêm diễn, anh em vây quanh, anh Chánh cười rất vui, nói: - Đời mình ấy mà, nếu không đi làm cách mạng, thì mình đã đi hát bội rồi..." (Nguyên Ngọc, tr.532-533).

Ông không những say mê và am hiểu nghệ thuật mà ông còn biết đến sự vất vả của lao động nghệ thuật như thế nào. Đại tá Hoàng Xuân Thâm, sau khi tập kết ra Bắc, đã từng được điều sang phụ trách đội 3 văn công Liên khu 5 nhớ lại: "Ở miền Bắc, tôi về Tổng cục Chính trị làm cán bộ thanh niên quân đội thường gặp anh Chánh ở sân vận động Cột Cờ. Cũng với thái độ thân mật, gần gũi và nụ cười tươi, anh Chánh thường trao đổi với tôi về công tác thanh niên, về văn nghệ, anh tâm sự: làm cái nghề văn công ấy thế mà khó. Trên sân khấu thì thấy công việc thật vui vẻ, nhẹ nhàng, thoải mái, nhưng đằng sau thì vất vả vô cùng... Lúc tập phải đổ mồ hôi và nước mắt. Thế mà mới quyết cho các cô cậu văn công ăn chế độ trung táo đã có ý kiến. Công tác quản lý cũng khó... Làm đội trưởng mà không để xảy ra chuyện lôi thôi là khó thật. Rồi anh nở một nụ cười tươi và rất có duyên" (Hoàng Xuân Thâm, tr.516).

Các nhà văn, những người làm công tác nghệ thuật đã có sự đánh giá cô đọng và tổng quát về ông: "Qua những lần nghe anh, quan sát anh, nhìn anh suy nghĩ, gợi ra đôi điều về văn học nghệ thuật, tôi nghĩ: Anh Chánh hiểu, rất hiểu về văn học, nghệ thuật như mối quan hệ tổng hoà, một bộ phận hữu cơ, một mục đích, một nhu cầu hiện thân của đời, của người, của chính dân tộc và của cuộc đấu tranh giành độc lập, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội lâu bền và sâu xa về con người, về nhân dân, vì lao động, công bằng và văn minh" (Nguyễn Chí Trung, tr.525).

Tôi rất tâm đắc với suy nghĩ và băn khoăn của nhà văn Nguyên Ngọc về ông. Nhà văn tâm sự: "Trong hiểu biết thiển cận của tôi, tôi nghĩ anh là một vị tướng tài và một người lãnh đạo giỏi. Nhưng chắc hẳn không phải là tướng tài nhất, cũng không phải là người lãnh đạo giỏi nhất trong những người lãnh đạo hiện đại của ta.

Nhưng vẫn có một dấu hỏi: Vì sao anh để một dấu ấn sâu đậm, thắm thiết và một niềm nuối tiếc đến vậy trong hầu như tất cả những ai từng ít nhiều biết anh?

Có lẽ rõ nhất là vì con người của anh. Nhưng trong con người đó, thì là điều gì? Có lẽ một lý do thoạt nghe có thể hơi bất ngờ, nhưng nghĩ kỹ thì càng nghĩ càng thấy thấm: Anh Nguyễn Chánh là một con người văn hoá, một nhà văn hoá, theo nghĩa rộng và đẹp nhất của khái niệm đó. Ở anh, không ít đâu, có tinh hoa của văn hoá uyên bác phương Đông và Việt Nam, mà bằng sự thông minh hiếm có, anh đã học được ngay từ nhỏ và gìn giữ, phát triển suốt đời, vận dụng sắc sảo những gì là bản chất tinh tuý nhất, trong công việc cách mạng, trong ứng xử việc lớn việc nhỏ, trong quan hệ với con người. Cái văn hoá uyên bác đó được hoà trộn nhuần nhuyễn đến như hoàn toàn tự nhiên với văn hoá dân gian, dân tộc mà anh hiểu, yêu và giỏi nữa..." (Nguyên Ngọc, tr. 534).

Còn lời lẽ nào hơn để bình phẩm về con người ông, về nhân cách của ông, về tài năng và đức độ, về tư chất của con người cộng sản chân chính như ông? Tôi chỉ còn biết kính cẩn nghiêng mình trước vong linh ông và xin được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với ông, vì chính con người ông đã thay đổi cách suy nghĩ phiến diện của tôi về những người cộng sản. Quyển hồi ký "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp” đã nhắc ta nhớ đến những con người tuyệt vời đã từng dệt nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, những người con ưu tú của đất nước và vì thế có lẽ nào chúng ta lại cho phép mình không biết đến.

(Phương Hoa, "Nguyễn Chánh - chân dung được
nhiều ngòi bút khắc họa", trích từ Tạp chí Tản viên sơn,
Hội văn học nghệ thuật Hà Tây, số 9, 10-2004)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:39:29 pm

CHUYỆN TÌNH CỦA TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH

Nhà văn NGUYỆT TÚ

                                                                                                                                                             
              
Sau ngày ký Hiệp định Geneve, De Beaufort, tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp và là tư lệnh chiến dịch Atlante, tha thiết đề nghị Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho phép được gặp vị tướng Chính ủy Quân khu 5 Nguyễn Chánh. Có một điều ít ai biết, vị tướng tài ba ấy đã có một chuyện tình thật đẹp bên dòng sông Trà, Quảng Ngãi.

1. TÌNH YÊU TỪ NHỮNG VẦN THƠ

Anh chị yêu nhau qua những bài thơ trong nhà tù. Chị Trinh tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi và bị bắt giam từ cuối 1931. Trong tù, các chị em tranh thủ học thêm văn hóa. Riêng chị Trinh rất muốn học làm thơ. Chị lại không có chút kiến thức gì về thơ. Hồi ấy chưa có thơ tự do, làm thơ Đường luật rất khó. Một hôm, chị làm một bài thơ bát cú, nhờ anh Chánh chữa hộ. Anh Chánh bị bắt trước chị một thời gian ngắn, cũng đang bị giam trong nhà ngục Quảng Ngãi.

Ông ngoại anh Chánh thuộc dòng Nho học và có truyền thống văn chương. Ông cụ có năm người con, ba trai, hai gái, người nào cũng hay thơ phú. Ba người con trai, tức ba cậu ruột của anh Chánh đều là học sĩ, tú tài Nho học. Mẹ anh Chánh là một phụ nữ thông minh, có tính cách mạnh và được học hành. Bà rất thích làm thơ. Anh Chánh rất ham thích thơ văn, có tâm hồn nghệ sĩ. Có lần, anh tâm sự với nhà văn Nguyên Ngọc:

- Đời mình ấy mà, nếu không đi làm cách mạng thì mình đã đi hát bội rồi.

Thấy chị Trinh thích làm thơ, anh Chánh hứa giúp đỡ. Nhưng trong tù, trao đổi được với nhau rất khó. Viết bằng giấy không nói rõ được, còn gặp nhau trao đổi thì chúng cấm không cho nói chuyện với nhau. Cuối cùng anh chị tìm được một nhà vệ sinh nam chung tường với nhà vệ sinh nữ. Chỗ đó có hai cửa sổ quay ra đường, người bên này nói, người bên kia có thể nghe được. Đấy là nơi hai người hẹn hò nhau học làm thơ.

Anh Chánh nói:

- Làm một bài thơ cũng như một bài văn, có phần mở đầu, phần chính và phần kết luận.

Anh giải thích từng phần rất kỹ lưỡng. Đứng lâu không tiện nên mỗi hôm chị chỉ học được một ít. Dần dần, chị Trinh biết làm thơ. Chị làm thơ một cách say mê. Trong cảnh tù đày, anh chị trở thành đôi bạn thi họa. Lâu dần, anh Chánh thấy nhớ giọng đọc thơ vụng về của cô gái dong dỏng cao, có khuôn mặt trái xoan xinh xắn với đôi mắt to tròn. Còn chị Trinh cảm phục và thầm yêu thầy giáo của mình. Một bông hoa tình yêu mỏng mảnh nở giữa vòng dây thép gai của nhà tù Pháp.

Anh Chánh ra tù trước. Họ lưu luyến chia tay nhau bằng những vần thơ:

- Bạn ơi bể cạn non mòn
Mà ta với cuộc trần hoàn vẫn trơ.

- Anh đã ra về, anh bước đi
Đi trên đường cũ bấy lâu ni
Chông gai càng bước càng gian khổ
Nhưng chí làm trai có quản gì.


Sau khi anh ra tù, mẹ anh Chánh giục:

- Con đã đến tuổi lập gia đình. Thôn dưới có cô gái mẹ ưng lắm. Hay để mẹ xuống hỏi cho con.

Anh trả lời mẹ:

- Mẹ ơi, mẹ thương con thì hãy đợi con dâu của mẹ còn ở trong tù. Khi nào cô ấy được ra, con sẽ dẫn về thưa chuyện với mẹ.

Nhưng mẹ anh Chánh đã không đợi được. Bà mất mấy tháng trước khi chị Trinh ra tù. Khi chị Trinh được về nhà, anh chị bị quản thúc tại gia đình. Thỉnh thoảng, anh chị đi đò dọc đến thăm nhau. Nhà anh ở thôn Thọ Lộc, cách nhà chị chừng 7-8 cây số, cùng chung dòng nước sông Trà. Tình cảm hai người ngày càng sâu đậm. Trong một lá thư, anh đã bày tỏ lòng mình và ngỏ ý xin cưới chị. Nhưng anh chị lại vấp phải sự phản đối quyết liệt của hai bên gia đình. Hai gia đình đã quá khổ vì trong nhà có ba bốn người tù cộng sản. Những người trong làng thì thầm to nhỏ: "Nhà mụ Triêm ấy toàn là tù còn đi rước thêm tù về". Các bạn chị Trinh chê anh Chánh: "Người vừa bé vừa đen như cột nhà cháy".

Không để ý đến những lời gièm pha đó, anh chị quyết tâm đến với nhau.

Làng quê nhỏ bé của anh hôm nay không khí rộn ràng vì có đám cưới. Từ đầu làng, người ta đứng đông hai bên đường xem mặt cô dâu. Mọi người bàn tán xì xào vì thấy đám cưới chẳng giống ai. Không có họ nhà gái đi đưa dâu. Không có các bậc cha mẹ, chú bác. Đám cưới toàn thanh niên, bạn của cô dâu chú rể. Bọn trẻ con nhìn cô dâu rồi kêu lên:

- Cô dâu tóc ngắn giống như con trai.

Chị Trinh lẳng lặng đi cạnh anh Chánh. Chị không để mái tóc dài thướt tha như phụ nữ thời ấy. Chị vờ như không nghe bàn tán của người lớn:

- Tại sao không thấy họ đằng gái.

- Có phải con gái nhà ai bị dở dang, nên bán rẻ chứ gì.

Anh Chánh đưa mắt nhìn chị Trinh hơi mỉm cười. Chính chị Trinh đã nghĩ ra cách tổ chức đám cưới như vậy cho khác phong tục truyền thống. Chị không thách cưới. Ngày cưới, chị vẫn mặc bộ quần áo thường ngày.

Đám cưới về đến nhà chồng, chưa kịp ngồi vào mâm cơm thì bọn hương lý trong làng đã đến làm biên bản. Chúng ghi tên từng người có mặt. Sau đó, chúng tuyên bố: "Cô là tù cộng sản cho nên không được đến ở làng này"

Ba hôm sau ngày cưới, một buổi chiều tối anh Chánh đang trò chuyện với chị Trinh dưới gốc dừa, bỗng có tiếng hỏi: "Đây có phải nhà Nguyễn Chánh không?". Anh chị quay lại, thấy hai tên lính đưa trát và nói: "Phủ đòi Nguyễn Chánh, Phạm Thị Trinh đêm nay có mặt ở phủ, phải đi ngay bây giờ". Anh chị chỉ kịp báo tin cho bố rồi ra đi. Trong sương đêm, anh chị dẫn nhau đến nhà tù thay cho ngày "lễ phán bái" về nhà mẹ của cô dâu và chú rể.

Bị giam giữ mấy ngày, anh chị được thả về. Nhìn gian buồng cưới, chị cảm thấy hơi chạnh lòng. Căn buồng tuềnh toàng chỉ có một chiếc giường gãy, còn có ba chân ọp ẹp. Chăn màn không có, anh chị phải dùng chiếc chiếu đắp thay chăn.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:41:32 pm

2. GIA ĐÌNH

Chị Trinh có mang cháu đầu lòng. Cái quán nhỏ nơi anh dọn cái bàn cắt tóc, chị buôn bán lặt vặt trở thành cơ sở cách mạng bí mật. Gần đến ngày sinh, cuộc sống quá khó khăn, chị chia tay chồng, về quê mẹ sinh con. Cuối năm 1937, chị sinh cháu trai kháu khỉnh, đặt tên Trực. Cháu được mấy tháng, chị lại quay về cái quán nhỏ. Cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp đổ, phái hữu lên nắm quyền. Ở Đông Dương, thực dân Pháp quay lại đàn áp phong trào cách mạng. Anh chị rời cái quán nhỏ, về sống ở nhà cha anh Chánh. Lúc này, anh chị đã có thêm cháu Tuyết Minh (ở nhà thường gọi là Tuyết). Anh Chánh là Bí thư liên tỉnh, đi công tác biền biệt. Một mình chị nuôi con, chăm sóc bố chồng và nuôi giấu cán bộ cách mạng ở Bắc vào.

Một buổi tối cuối năm 1939, anh Chánh đi công tác về. Sáng hôm sau, chị Trinh đi chợ mua đồ về làm giỗ. Về đến đầu làng, chị nhìn thấy một đoàn người lố nhố áo trắng, áo đen, áo vàng. Chị vội bước nhanh đến, thấy anh Chánh mặc áo đen, hai tay bị còng, hai bên có hai tên lính mang súng, đi kèm sau cùng là một tiểu đội lính, cảnh trước mắt giống hệt giấc mơ đêm qua của chị. Chị chăm chăm nhìn anh. Anh Chánh chỉ nói được một câu:

- Tôi bị bắt.

Tên mật thám quát:

- Không được nói. Đi nhanh lên!

Đoàn người đi qua, chị ngẩn ngơ nhìn bóng áo đen của anh đến khi khuất hẳn.

Hơn nửa tháng ròng, hôm nào chị Trinh cũng gửi con nhỏ cho ông nội, trốn bọn hương lý, xuống tỉnh dò la tin tức chồng. Chị ngồi nép dưới gốc phượng ở cổng lao Quảng Ngãi. Hai bầu sữa căng nhức, sữa chảy ướt áo. Đến ngày thứ mười sáu, chị nhìn thấy anh Chánh hai tay bị xiềng chặt bị một tên lính dắt ra. Quên cả sợ hãi, chị chạy thẳng tới gặp anh. Tim chị thắt lại thấy mặt anh xanh xao, hốc hác. Anh nhìn chị, mỉm cười:

- Tôi vẫn còn trong trắng.

Tên lính chạy tới, hầm hầm nện báng súng vào chị. Hắn quất roi cá đuối vào anh Chánh, lôi anh đi xềnh xệch. Chị Trinh quay về, những giọt nước mắt thương chồng trào ra, không kìm nổi. Những ngày sau đó, chị tiếp tục đi tỉnh dò la tin tức. Bố chồng chị ngăn:

- Thôi, ở nhà trông nom con chứ chúng nó đau ốm nhiều quá, bỏ nó đi hoài, nó chết mất, mà mày cũng ốm thôi.

Chị bị ốm nặng, hai chân tự nhiên bị bại, mắt mờ không nhìn thấy gì. Bố chồng già không lo nổi cho mấy mẹ con. Mẹ chị phải xuống đưa chị và hai cháu về nhà chăm sóc. Chị Trinh lén mẹ, chống gậy ra vườn đào gói tài liệu gói kỹ lại, đem về giấu ở nhà anh Sáu Trân, anh trai chị. Mấy tháng sau, chị dần hồi phục. Cùng lúc ấy, chị nhận được tin anh Chánh bị tuyên án tù khổ sai. Chị Sáu Trân dắt chị đi bộ, gần 12 giờ trưa mới đến tỉnh. Các anh em tù nói với chị:

- Chị phải chạy trở lại. Nó vừa đưa anh ra dinh Tuần phủ để đi đày.

Hai chị em nắm tay nhau chạy tới thì xe chở tù vừa chuyển bánh. Chị cố mở to mắt nhìn anh lần cuối nhưng chỉ thấy anh em tù đều mặc quần áo xanh như nhau. Chỉ nghe tiếng anh vọng lại:

- Tôi đi đây, mình ở lại nhà chữa bệnh và nuôi các con.

Chị cứ đứng lặng nhìn theo làn khói bụi cuốn theo chiếc xe cam-nhông. Mãi đến khi mặt trời lặn, chị mới theo chị Sáu Trân về nhà.

Ba mẹ con khỏi ốm cũng là lúc gia đình anh Trân chị không còn tiền. Nhờ sự giúp đỡ của người họ hàng, chị buôn bán lặt vặt ở chợ và đi làm thêm để nuôi con. Chị nhận được thư anh Chánh viết từ trong tù:

"Bây giờ đầu óc tôi cứ nghĩ khi ra tù về đến nhà, thấy mình chỉ ngồi một chỗ, bảo tôi đến gần để sờ thử cánh tay xem gầy đến mức độ nào. Tôi muốn chia sẻ nỗi khổ ấy với mình như những ngày tôi lén bà con chòm xóm, lén gia đình đi giặt quần áo cho mình trong lúc đêm khuya khi mình sinh đẻ. Thôi đứng lên Trinh ơi! Tự tin rằng người bạn tri kỷ, đáng tin cậy sẽ vượt qua mọi khó khăn để sống...".

Ở nhà, chị Trinh vừa nuôi con vừa hoạt động cách mạng. Chị cũng bị bắt vào tù. Thương mẹ vất vả nuôi các cháu, có lần cháu Tuyết cùng bà ngoại vào tù thăm mẹ và nhất định không chịu về, chị đã đấu tranh với tuần phủ giữ cháu lại trong tù cùng với mẹ cho đến ngày hai mẹ con được tha.

Ngày anh Chánh được ra khỏi nhà lao Huế, chị Trinh được tổ chức giao nhiệm vụ đón anh và giới thiệu anh về tỉnh. Ở với gia đình được mấy tiếng đồng hồ, chưa kịp gặp các con, anh lén cha ra đi. Chị Trinh cũng gửi các con lại cho mẹ, cho chị dâu, về cơ quan tỉnh nhận công tác. Anh Chánh và chị được phân công vào Ủy ban vận động cứu quốc của tỉnh. Trong mấy ngày họp, phải giữ bí mật, anh chị không dám nhận nhau là vợ chồng vì sợ lộ với chủ nhà.

Sau giờ nghỉ họp lúc 10 giờ đêm, anh chị giả vờ múc nước hộ cho nhau giặt quần áo để trò chuyện. Anh chị kể cho nhau nghe quãng thời gian dài dằng dặc vắng nhau. Chị hỏi anh:

- Các anh trong tù hay làm thơ gửi về khuyên vợ đi lấy chồng. Anh có bài thơ nào như thế không, đọc cho em nghe thử.

Anh nói:

- Từ trước tới nay, anh chưa bao giờ nghĩ đến việc anh đi ở tù, em ở nhà sẽ đi lấy chồng. Em hỏi như vậy là chưa hiểu hết lòng anh. Bây giờ, anh muốn nghe em kể những ngày chúng đưa em về an trí tại xã, nghe chuyện các con. Đã mấy năm rồi, anh không được gặp các con Trực, Tuyết, anh nhớ con lắm.

Câu chuyện của anh chị kết thúc trong đêm thứ ba. Sáng ra, anh về núi rừng Ba Tơ, chị trở về cơ sở để xây dựng các tổ chức quần chúng.

Ngày đội quân Ba Tơ sắp làm lễ "hạ sơn", tổ chức phụ nữ đón đoàn quân ở dưới "bia lũy". Chị Trinh, lúc ấy là Bí thư Ban chấp hành Phụ nữ cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi, lên tặng quà. Lúc đó, chị đang có mang cháu thứ ba. Anh Chánh mặc bộ quần áo đen, tay đeo băng đỏ có thêu hàng chữ vàng "chánh trị viên", lên nhận thanh gươm tuốt vỏ từ tay chị. Mấy chục năm sau, chị Xân (lúc ấy là Phó bí thư) mỗi lần gặp lại chị Trinh, vẫn cười chảy nước mắt: "Bà Trinh ơi, tôi không thể nào quên được hình ảnh bà có mang con Sương mà vác thanh gươm lên tặng ông Chánh. Ổng nhận gươm mà còn đáp từ nữa chứ".


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:42:20 pm

3. ĐOÀN TỤ NGẮN NGỦI

Khởi nghĩa tháng Tám thành công, anh chị gặp nhau trong Chủ tịch đoàn của cuộc mít tinh toàn tỉnh. Hòa trong niềm vui chung của cả nước, gia đình chỉ có niềm vui sum họp. Lúc ấy, Trực đã lên tám tuổi, Tuyết bảy tuổi. Tuyết nghe mẹ kể về cha nhiều và lúc nào cũng nhắc tên cha nhưng chưa bao giờ biết mặt. Nghe những người hàng xóm trêu đùa, đó không phải là ba Chánh, Tuyết nhất định không chịu gọi ba. Cháu trốn ở một góc, nhìn trộm anh. Chị Trinh phải dỗ dành con mấy ngày, Tuyết mới chịu gọi ba. Và từ lúc ấy cháu cứ quấn quýt ba, không chịu rời nửa bước.

Sáu con của chị được sinh ra ở ba thời kỳ. Trực và Tuyết sinh trước cách mạng. Sương, Tường, Dũng sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Cha mẹ đi hoạt động cách mạng, các con chị luôn phải gửi mỗi đứa một nơi. Có lẽ không giấy bút nào tả hết những tháng ngày khó khăn gia đình anh chị đã phải vượt qua. Anh ở chiến trường, chị công lác ở Tỉnh ủy, năm con của chị sống trong vòng tay yêu thương của những người họ hàng, bạn bè.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, gia đình anh chị mới được đoàn tụ ở Thủ đô Hà Nội. Chị về công tác ở Trung ương Hội Phụ nữ. Anh Chánh là Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ. Hòa là con út, được may mắn sinh trong hòa bình, được sống gần cha mẹ, anh chị. Ngày chị chuyển dạ sinh cháu Hòa, anh lên đường trở lại miền Nam chuẩn bị chiến tranh chống Mỹ. Khi ở miền Nam ra, anh bị bệnh chảy máu dạ dày. Anh phải ra nước ngoài chữa bệnh một năm.

Chị Trinh còn nhớ, có một ngày, anh Chánh đi họp về muộn. Anh đặt ra bàn mấy chiếc hộp nhỏ màu đỏ:

- Hôm nay anh đi nhận huân chương của Đảng, Chính phủ tặng.

Anh mở chiếc hộp nhỏ, nói:

- Riêng Bác thì Bác tặng anh một cái đồng hồ có khắc tên Bác.

Chị Trinh vừa vui, vừa bất ngờ, không nói nên lời. Anh nói tiếp:

- Đáng lẽ những huân chương này Đảng tặng cho em thì đúng hơn là tặng cho anh.

Chị Trinh giật mình thốt lên:

- Anh đừng nói thế. Anh thắng giặc thì được Bác Hồ, Đảng khen thưởng chứ em làm gì mà tặng cho em.

Anh Chánh nhìn chị:

- Anh nói thật, nói những ý nghĩ của anh từ trước đến giờ, nếu trong quá trình hoạt động cách mạng mà không có sự giúp đỡ của em thì anh không được tặng huân chương này.

Chị vừa mừng vừa lúng túng, cứ cầm lên để xuống, mở ra rồi đậy lại chiếc Huân chương Quân công anh được tặng.

Cưới nhau gần hai mươi năm, nhưng thời gian anh chị được sống bên nhau cộng lại chỉ vài ba năm. Tính chị Trinh thẳng thắn, kiên quyết nhưng khắt khe và hay tự ái. Trái lại, anh Chánh luôn dịu dàng, tế nhị, tình cảm và nền nếp. Mỗi người một cá tính riêng nhưng hai vợ chồng luôn biết nhường nhịn, dung hòa để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Anh gọi chị là "bạn tri kỷ". Anh chị vẫn làm thơ, họa thơ như ngày xưa. Lâu lâu không thấy chị làm thơ, anh lại nhắc. Nhớ lại những ngày tuổi trẻ yêu nhau, chị viết những câu thơ đầy tình cảm trong bài "Nỗi nhớ":

"Nỗi nhớ của chúng tôi có cả hai người
Em ở đầu sông mong thuyền ngược gió,
Sóng phủ trắng thuyền như có anh trong đó
Chiều nào cũng đợi thuyền lên
Anh ở cuối sông, ngọn nước xuôi dòng
Uống ngụm nước có lời thơ trong lá"...


Ngày 24 tháng 9 năm 1957, chị Trinh đang học ở Trường chính trị Nguyễn Ái Quốc, có người đến tìm:

- Các anh bên Tổng cục Cán bộ cho tôi lên mời chị về.

Về đến nhà, chị thấy các đồng chí trong Bộ Chính trị, các cán bộ quân đội, bạn bè đứng chật trong nhà, ngoài hiên, còn anh Chánh nằm thiêm thiếp trên giường bệnh. Các bác sĩ đang tập trung cấp cứu. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bảo chị:

- Chị bình tĩnh để các bác sĩ làm việc nhé.

Chị chạy đến cạnh anh, hy vọng anh sẽ tỉnh lại. Sợ chị quá xúc động, anh Phạm Kiệt (anh ruột chị Trinh) đưa chị sang phòng khác và không cho ra khỏi phòng. Chị khóc nức nở rồi gục xuống, thiếp đi. Nghe tiếng giày sột soạt, chị choàng tỉnh, thấy anh Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí khác bước vào. Chị hoảng hốt:

- Anh Chánh chết rồi phải không anh?

Không ai trả lời. Chị gục đầu vào vai anh Phạm Văn Đồng, rồi òa lên khóc. Anh Chánh ra đi mà không kịp gặp chị lần cuối. Anh mất khi mới 43 tuổi. Sao anh ra đi vội thế. Bài thơ cuối cùng chị làm anh chưa kịp đọc.

Hà Nội tháng 7-2004

(Nhà văn Nguyệt Tú, "Chuyện tình của tướng Nguyễn Chánh",
Báo Tiền phong chủ nhật, số 28, ngày 11-7-2004)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:47:32 pm

CÓ MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN NHƯ THẾ

Đại tá, nhà báo, nhà thơ HỒ NGỌC SƠN

                                                                                                                                                               
           
Tên tuổi và sự nghiệp của anh Nguyễn Chánh gắn liền trước hết với phong trào cách mạng và cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 5. Anh lại mất quá sớm, 43 tuổi. Sức xuân oanh liệt tuy ngắn ngủi nhưng một con người như anh Chánh không nhiều, khá đặc biệt và thật đẹp. Trong cuốn sách "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: "Nguyễn Chánh rất giàu những phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng, từ đó cũng rất giàu trí tuệ và tài năng".

1. MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN TRUNG BẤT KHUẤT

Sớm được giác ngộ cách mạng: những năm 1928, 1929, ở tuổi 14 - 15 anh Chánh đã dám cả gan giúp gia đình che giấu, đưa cơm nước, làm liên lạc cho các chiến sĩ cách mạng. Sau đó, anh được tham gia tổ chức "Thanh niên cách mạng đồng chí hội". Anh bị bắt đi tù lần thứ nhất lúc mới 17 tuổi. Bị đánh đập dã man đến hộc máu mồm, mê man bất tỉnh nhưng anh không hề cung khai bất cứ một điều gì. Kiên quyết không ký vào bản án bị kết tội theo cộng sản, anh bị giam cầm hai năm. Ra tù, sức khoẻ suy kiệt, lại bị địch o ép, quản thúc rất chặt, nhưng anh Chánh đã bí mật rời nhà đi tìm bắt liên lạc với Đảng, chấp nhận một cuộc đời đầy gian khổ hy sinh cho nhân dân, cho đất nước.

Những năm 1936-1939, ở tuổi 23-25, anh Chánh được Xứ ủy chỉ định tham gia Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ngãi, về sau làm Bí thư Liên tỉnh ủy Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên. Các hoạt động bí mật, sau cơn thoái trào 1933-1935, dần dần sống lại sôi động ở vùng Nam Trung Bộ. Địch lo sợ cuống cuồng, ráo riết truy lùng những người cộng sản. Anh Chánh bị bắt lần thứ hai vào tháng 10 năm 1939. Ở tù đến năm 1945, nếm đủ đòn tra tấn tàn khốc của kẻ thù qua các nhà lao Quảng Ngãi, nhà đày Buôn Ma Thuột, căng "an trí" Phú Bài và khu biệt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Người nhỏ con, gầy gò ốm yếu nhưng có trường hợp anh đã lấy thân mình đỡ đòn cho đồng chí. Đặc biệt, dù kẻ thù độc ác, nham hiểm đến đâu, anh cũng tìm ra cách cùng tập thể đấu tranh quyết liệt buộc chúng phải chịu thua và nhượng bộ. Anh cũng không chịu đầu hàng số phận. Anh tranh thủ học tập, nắm rất chắc những nguyên lý cơ bản của cách mạng trên tất cả các lĩnh vực. Anh học cả tiếng Pháp để có thể giao tiếp được với bọn lính coi ngục. Những buổi học tập trong tù, anh Chánh thường phát biểu sau cùng và trở thành ý kiến kết luận. Anh em thường gọi anh là "Cây phân tích", "Ông trùm kết luận"

Các anh Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hoàng Anh, Trần Hữu Dực, Trần Văn Quang, Lê Tự Đồng, Đoàn Khuê... rất quý mến anh Chánh - một người cộng sản anh hùng bất khuất; nhạy bén sắc sảo có tư chất thông minh, thật thà, khiêm tốn và hiếu học lạ thường; tin chắc rằng anh Chánh sẽ có những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng...


2. MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC, TOÀN DIỆN

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Đang bị biệt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế), anh Chánh tiên đoán: "Nhất định các đồng chí ở căng "an trí" Ba Tơ sẽ khởi nghĩa". Anh phải nhanh chóng trở về Quảng Ngãi. Quả thật, hai ngày sau, ngày 11 tháng 3, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổi tiếng đã nổ ra. Anh Chánh là một trong số 11 tù chính trị mà địch âm mưu giam cho đến chết. Anh tìm cách liên lạc nhờ ông Tôn Quang Phiệt và ông Phan Nghị Đệ, con trai của cụ Phan Bội Châu, đấu tranh quyết liệt với bọn Nhật và cả chính phủ Trần Trọng Kim mới được ra tù. Về đến tỉnh nhà, sức khỏe hết sức suy kiệt, nhưng anh Chánh sẵn sàng nhận nhiệm vụ thay mặt Tỉnh ủy trực tiếp lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ lúc này gặp vô vàn khó khăn, chỉ hoạt động lẩn khuất trong rừng núi, không phát triển được lực lượng, do địch ráo riết vây ráp, triệt các nguồn tiếp tế. Anh Chánh bàn với các anh chỉ huy Đội du kích Ba Tơ: Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn... kiên quyết đưa đội bí mật về đồng bằng, dựa vào dân mới có thể tồn tại và lớn mạnh. Với quyết đoán vô cùng đúng đắn đó, Đội du kích Ba Tơ từ 20 người ban đầu đã nhanh chóng phát triển thành một tổ chức tập trung với hơn 2.000 đội viên, chưa kể lực lượng dự bị hùng hậu của đội gồm du kích, tự vệ bán vũ trang ở khắp các thôn xóm với hàng vạn người. Anh Chánh được giao nhiệm vụ Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang toàn tỉnh và trực tiếp làm Chính trị viên Đội du kích Ba Tơ. Những ngày 12 và 13 tháng 8 năm 1945, được tin Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, không thụ động chờ đợi chỉ thị của Trung ương, anh Chánh cùng Tỉnh ủy lập tức chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Anh Chánh cùng anh Phạm Kiệt trực tiếp chỉ huy đánh chiếm đồn Gi Lăng và đội du kích phục kích đánh úp giặc Nhật ở làng Xuân Phổ sát nách thị xã Quảng Ngãi. Quảng Ngãi là một trong những địa phương đã giành được chính quyền sớm nhất trong cả nước. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh Chánh được bổ nhiệm làm Chính ủy Liên khu 5 và là Thường vụ Liên khu ủy.

Năm 1951, anh Chánh được Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng tín nhiệm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Trung ương có ý định giữ anh Chánh ở lại làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay anh Nguyễn Chí Thanh để anh Thanh tập trung chăm lo công tác đảng bên Bộ Chính trị. Nhưng do yêu cầu của chiến trường, anh Chánh trở về Liên khu 5. Anh được bầu làm Bí thư Liên khu ủy và được bổ nhiệm Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Trước trọng trách đè nặng trĩu hai vai tưởng chừng không gánh nổi, anh Chánh càng tỏ rõ trí tuệ và tài năng của mình.

Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp có một vùng tự do 4 tỉnh gồm Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên với hơn 3 vạn ki-lô-mét vuông và 2,5 triệu dân, đã tồn tại như một "quốc gia thu nhỏ", phát triển vững mạnh mọi mặt của đời sống xã hội. Ở xa Trung ương, lại bị địch bao vây bốn mặt, nhưng Liên khu 5 - một chiến trường rộng lớn gồm 12 tỉnh, đảm trách cả nhiệm vụ quốc tế với hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, đã tự lực bảo đảm nhu cầu kháng chiến cho chính mình, cùng góp phần chi viện cho các chiến trường bạn.

Anh Chánh rất khá về Nho học nhưng trình độ Tây học thì chưa được bao nhiêu. Song, không thấy ai chê anh. Thời ấy, các anh lãnh đạo chủ chốt như Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Bùi San, Trần Lương, Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt... các anh có học vấn và tri thức cao như các tướng Nguyễn Sơn, Cao Văn Khánh, Nguyễn Thế Lâm, Phan Hàm, Đoàn Huyên... bên chính quyền có các anh Nguyễn Minh Vỹ, Lý Văn Sáu, các bác sĩ Nguyễn Thúc Trùng, Cát Huy Dương... đều khen anh Chánh là người có tầm nhìn xa trông rộng, sắc sảo, có tài nói chuyện hay và dày sức thuyết phục. "Khó tính" như các văn nghệ sĩ, nhưng được trực tiếp đối thoại, trò chuyện với anh Chánh, ai cũng ngạc nhiên và thích thú đến bất ngờ trước những am hiểu sâu sắc của anh về văn hoá và nghệ thuật. Không ít người được anh Chánh gợi ý về phương hướng, nội dung, trực tiếp "đặt hàng" và tham gia ý kiến, đã có những sáng tác thành công tốt đẹp. Các nhà văn Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung; các nhà thơ Tế Hanh, Nguyễn Viết Lãm, Lưu Trùng Dương; các nhạc sĩ Vân Đông, Dương Minh Viên, Phan Huỳnh Điểu, Đức Tùng, Nhật Lai, Vĩnh An; các nhà hoạt động nghệ thuật sân khấu như Hoàng Châu Ký, Nguyễn Tường Nhẫn, Nguyễn Nho Túy, Ngô Thị Liễu (Lệ Thi)... đều có chung một cảm nhận: "Anh Chánh - một tâm hồn nghệ sĩ trong một vị tướng thao lược" và "Giá ta được nhiều vị lãnh đạo như thế thì có lợi cho nghệ thuật biết bao". Còn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Liên khu 5 luôn tin yêu anh Chánh như một "lãnh tụ" xuất sắc, toàn diện của miền Nam Trung Bộ, đã mang lại cho họ niềm yêu thương, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp và một ngày mới tươi sáng.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:48:40 pm

3. MỘT DANH TƯỚNG TÀI ĐỨC SONG TOÀN

Trí tuệ và tài năng xuất sắc của anh Chánh tỏa sáng tập trung nhất là lĩnh vực quân sự. Khác với ý kiến của nhiều người, anh Chánh chủ trương bảo vệ vùng tự do Liên khu 5 bằng cách không thụ động phòng thủ, mà chủ động tấn công liên tục, mạnh mẽ vùng sau lưng địch. Nhờ đó, địch luôn bị động đối phó trong vùng chúng kiểm soát. Suốt 9 năm chống Pháp, địch không thực hiện được âm mưu đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5. Thực tế này khiến các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng ở Trung ương, đã có lúc đặt câu hỏi: "Tại sao chủ lực vào địch hậu ở một số chiến trường khác thì bị bật ra, còn chủ lực vào địch hậu Liên khu 5 thì đánh được?" (Hồi ký của Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).

Một quan điểm lớn, một thành công lớn và là bài học lớn của anh Chánh là xây dựng những đơn vị chủ lực mạnh, tạo những quả đấm có ý nghĩa quyết định khi có thời cơ thuận lợi. Anh Chánh luôn nắm chắc trong tay hai trung đoàn chủ lực nổi tiếng của Liên khu 5 là 108 và 803. Ngoài ra, anh còn có những trung đoàn, tiểu đoàn địa phương có sức chiến đấu cao, những đơn vị đặc công khá tinh nhuệ, những đơn vị pháo cối, công binh, thông tin, quân y... có trình độ chiến đấu hiệp đồng tốt. Về vấn đề này trong hồi ký của mình, đồng chí Trần Lê, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao có nhắc lại câu chuyện: Năm 1961, khi đồng chí Trần Lương (tức Bộ trưởng Quốc phòng Trần Nam Trung, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) lên đường vào Nam, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn có căn dặn: "Hồi kháng chiến chống Pháp, ở Nam Bộ chúng tôi chỉ nặng lo dân quân du kích, không có chủ lực mạnh, nên đến năm 1953, 1954 khi có thời cơ thì không làm ăn được lớn như các đồng chí Liên khu 5. Cần nhớ bài học đó".

Quả thật, trong chiến cục Đông-Xuân 1953 - 1954, phối hợp đắc lực và nhịp nhàng với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Liên khu 5 là một trong những chiến trường đã giành được thắng lợi rực rỡ nhất. Anh Chánh đã đương đầu và vượt qua những thử thách lớn nhất, đồng thời cũng trở thành một trong những nhà cầm quân chiến lược tài ba bậc nhất của quân đội ta. Lúc bấy giờ, địch tập trung hơn 40 tiểu đoàn lính Âu Phi cơ động chiến lược mạnh nhất của quân viễn chinh Pháp, mở chiến dịch Át-lăng quyết chiếm đóng vùng tự do Liên khu 5. Anh Chánh cùng với Đảng ủy quân sự Liên khu 5 kiên quyết thực hiện chủ trương của Trung ương, đập tan chiến dịch Át-lăng bằng cách tập trung toàn bộ lực lượng chủ lực mở chiến dịch trên Tây Nguyên. Có không ít cán bộ lãnh đạo các cấp không tin chủ trương này, đề nghị anh Chánh nên phân tán các đơn vị chủ lực đối phó các hướng tấn công của địch. Có người nói: "Mở chiến dịch Tây Nguyên khác nào bỏ vựa lúa ở đồng bằng đi giành các rẫy sắn, bắp ở trên núi". Anh Chánh kiên trì giải thích: Phân tán lực lượng đối phó là mắc mưu địch, rơi vào thế bị động. Đánh vỗ mặt, đánh theo kiểu chọi trâu với kẻ địch đông hơn gấp nhiều lần sẽ bị tiêu hao lực lượng, thất thế và thất bại. Còn đánh trên Tây Nguyên là đánh vào chỗ sơ hở, hiểm yếu nhất của địch, nhất định ta sẽ giành quyền chủ động chiến trường, bẻ gãy cuộc hành quân Át-lăng.

Đúng như quyết đoán của anh Chánh, trong chiến cục Đông - Xuân 1953-1954, Liên khu 5 đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum và vùng Bắc Tây Nguyên. Đồng thời, đã tiêu diệt hoàn toàn binh đoàn cơ động chiến lược số 100 (Groupement mobile No100, viết tắt là GM100), một binh đoàn tinh nhuệ bậc nhất của Pháp rút từ mặt trận Triều Tiên về. Đây là trận giao thông chiến lớn nhất nước ta kể cả trong chống Pháp và chống Mỹ, địch chết và bị thương 700 tên, bị bắt 1.200 tên trong đó có tên Đại tá Ba-ru, chỉ huy binh đoàn. Ngoài hàng chục xe bị bắn cháy, ta thu 229 xe quân sự, 20 khẩu đại bác, rất nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng khác. Về phía địch, sau hơn 3 tháng trời từ Khánh Hòa đánh ra, chỉ chiếm được Phú Yên, Quy Nhơn và Diêu Trì, bị tổn thất nặng nề, chúng đành rút bỏ hoàn toàn chiến dịch Át-lăng không kèn không trống, chấp nhận một thất bại nhục nhã. Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Quang, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm thuật lại câu chuyện: Tướng Đờ Bô-pho (tức De Beaufort) chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Át-lăng (đợt 1, đợi 2) hết sức thán phục anh Chánh. Sau khi kết thúc chiến tranh, y đã tỏ ý muốn được gặp "Vị tướng đã làm cho tôi điêu đứng trên chiến trường". Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho tổ chức và dự cuộc gặp gỡ lý thú này ở Hà Nội. Đờ Bô-pho nói: "Lúc đó các ông dấn lên thì bắt được tôi". Ông ta hỏi anh Chánh: "Ngài đã qua trường nào?". Anh Chánh trả lời: "Tôi chỉ qua trường thực tiễn đấu tranh cách mạng...". Cũng theo yêu cầu của Đờ Bô-pho và được anh Chánh nhận lời, anh Tạ Quang Bửu đã tổ chức bữa cơm cho ông ta được gặp: "Người đã đánh gục mình ở Tây Nguyên". Đờ Bô-pho nhìn anh Chánh rất lâu từ đầu đến chân, rồi thốt lên: "Ông cho phép tôi nhìn kỹ "người đã làm tôi mất ăn mất ngủ ở cái xứ cao nguyên ấy". Tôi sẽ viết lại cuộc gặp hiếm có này vào cuốn sách tôi đang viết...".


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:49:40 pm

4. MỘT TẤM LÒNG NHÂN ÁI BAO LA

Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Nguyễn Chánh lần lượt được bổ nhiệm làm Phó tổng tham mưu trưởng, rồi làm Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, Ủy viên Tổng Quân ủy. Anh Chánh cùng các anh Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn được Tổng Quân ủy đề nghị Bộ Chính trị, Chính phủ và Bác phong cấp Thượng tướng. Song, trái tim anh Chánh đã ngừng đập sau một cơn đau đột ngột vào sáng ngày 24 tháng 9 năm 1957, trước khi quân đội ta ban hành chính thức chế độ phong quân hàm cho sĩ quan vào năm 1958. Được tin anh Chánh mất, các bạn tù chính trị; các bậc lão thành cách mạng; các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội; các tướng lĩnh, các nhà trí thức cách mạng, văn nghệ sĩ; cán bộ, chiến sĩ, đồng chí, bạn bè, những người quen biết gần xa ở trong và ngoài quân đội, ở trong nước và ngoài nước, đã thương khóc anh như một người thân yêu ruột thịt. Có một điều rất lạ, giữa những ngày mùa thu vĩnh biệt đau thương ấy, mọi người không chỉ nói về trí tuệ, tài năng xuất chúng trong lãnh đạo, thao lược quân sự, mà nói rất nhiều về anh Chánh ở một khía cạnh khác, ấn tượng và ân tình sâu đậm hơn nhiều, đẹp đẽ và cao quý hơn rất nhiều, đó là anh Chánh sống rất thật thà, thấu đáo nghĩa tình với đồng chí, bạn bè, nhất là với cấp dưới. Anh rất nghiêm khắc với bản thân, sống rất mẫu mực, giản dị, thanh bạch, không hề đòi hỏi, tơ hào bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào cho riêng cá nhân và gia đình mình. Anh thường nhắc đến những lần được gặp Bác, những buổi tâm sự với các anh Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh... về lời dặn của Bác "dĩ công vi thượng", nhân dân và đất nước là trên hết.

Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp là đất tụ nghĩa khá đông những cán bộ công nông, trí thức ưu tú của khắp mọi miền đất nước. Anh Chánh được mọi người rất khâm phục về nghệ thuật dùng người, trọng dụng nhân tài. Anh không mắc bệnh "địa phương chủ nghĩa", "thành phần chủ nghĩa"; không định kiến hẹp hòi, thiên vị và phân biệt đối xử với bất cứ ai. Đặc biệt, anh rất chịu khó lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới, biến những cuộc làm việc thành những cuộc trò chuyện, đối thoại thân mật cởi mở, tìm hiểu rất sâu kỹ tư chất từng cán bộ để bố trí công việc thích hợp với khả năng và sở trường cá nhân, nên đội ngũ cán bộ Liên khu 5 trưởng thành rất nhanh chóng vững chắc, cung cấp cho Đảng, Nhà nước, quân đội một lực lượng không nhỏ những nhà lãnh đạo cấp cao và những tướng lĩnh đầy tài năng. Nói như anh Trần Quỳnh, nguyên là Trưởng phòng Chính trị Bộ tư lệnh Liên khu 5 và nguyên là Phó thủ tướng Chính phủ: "Anh là một vị tướng, một người lãnh đạo tài năng, nhưng có lẽ điều quý giá không kém ở anh, còn là ở chỗ anh là một con người "rất con người"... Anh có một lòng thương người chân thật, thương người, vì sự nghiệp chung".

Ở cương vị cao nhất Liên khu 5, lại bận rộn trăm công nghìn việc nhưng anh chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ rất cụ thể, nhiều khi đến bất ngờ. Đại tá Phan Thượng Địch, nguyên Trưởng ban Quân lực, kể lại câu chuyện: Một hôm, anh Chánh bảo anh Địch: "Nè, kháng chiến sắp kết thúc, lớn tuổi rồi, lấy vợ đi thì vừa".

- Nhưng công việc vẫn còn lu bù quá anh ạ! Anh Địch thực lòng trả lời.

- Bận hả? Thì để tao đi hỏi vợ cho - Anh Chánh vừa nói vừa cười.

Tưởng anh Chánh nói chơi, hoá ra anh đi thật. Anh cùng đồng chí bảo vệ đạp xe đạp suốt đêm từ huyện Nghĩa Hành lên tận Trường An của huyện Ba Tơ. Đường đi phải qua đèo Đá Chát có con cọp ba chân rất hung dữ, đã bắt ăn thịt khá nhiều người, tiếng đồn loan khắp cả tỉnh Quảng Ngãi, ai cũng lo sợ. Gia đình mà anh Chánh đi hỏi vợ cho anh Địch rất thân thiết với anh từ thời còn hoạt động bí mật, tin yêu anh Chánh như người nhà, nên vui vẻ nhận lời ngay. Trở về, anh Chánh bảo anh Địch: "Xong rồi, gia đình xem chừng cũng quý mến mày, lo liệu cưới sớm đi". Anh Địch kêu lên: "Sao, nhanh vậy anh! Trời ơi, đêm hôm, cọp beo, anh đi như vậy, xảy ra việc gì thì làm sao?". Anh Chánh chỉ cười. Sau ngày cưới, anh Địch cùng vợ đến thăm để tạ ơn anh Chánh. Trời mưa như trút nước. Anh Chánh hỏi: "Đêm nay hai đứa mày ở đâu?".

- Dạ, ở nhà dân - Anh Địch trả lời.

- Không được đâu. Vợ chồng ăn ở với nhau trong nhà dân, người ta kiêng. Thôi, hai đứa ở cái lán này. Vô cái giường tre của tao kia kìa mà ngủ".

Anh Địch ngần ngại thưa: "Dạ, không được anh ạ!". Anh Chánh nghiêm giọng: "Tao ra lệnh!". Anh cười và qua lán khác mắc võng nằm nghỉ.

Anh Địch kể xong câu chuyện, còn nói thêm: "Có hơn một chục đám cưới do anh Chánh làm "bà mối", đi hỏi vợ và làm chủ hôn, tất cả đều nên vợ nên chồng, gia đình hạnh phúc, rất biết ơn anh Chánh. Mình coi anh Chánh như anh ruột".

Anh Võ Thứ - du kích Ba Tơ, rất thân với anh Ghánh (sau này, anh Thứ là Trung tướng, Phó tư lệnh Quân khu 5 và là Tổng thanh tra quân đội), không bao giờ có thể quên câu chuyện: Năm 1947, do kế hoạch bị lộ, trận đánh đồn Tú Thủy (mặt trận An Khê) thất bại; anh Vi Dân, chỉ huy trưởng hy sinh. Anh Thứ là phó chỉ huy được điện của anh Chánh về ngay cơ quan Bộ tư lệnh Khu 5. Anh Thứ vào gặp anh Chánh để nhận nhiệm vụ. Hôm đó trời mưa rất to. Thấy anh Thứ, anh Chánh nói ngay:

- Chẳng có nhiệm vụ gì đặc biệt đâu. Nghe trận Tú Thủy ta hy sinh nhiều, con Tâm - vợ cậu, tưởng là cậu đã chết rồi, cứ đến đây khóc ầm lên. Mình gọi cậu về là để nó thấy mặt mà yên tâm. Thôi, mau chạy ù về nhà cho nó mừng.

Anh Thứ còn tâm sự: "Mình trưởng thành như ngày nay phải nói là có một phần quyết định trực tiếp của anh Chánh đã dìu dắt mình tiến bộ từng bước với tất cả tình thương yêu vừa nghiêm khắc vừa tận tình của một người anh lớn".

Riêng tôi cũng có những kỷ niệm không thể nào quên.

Năm 1950, tôi là nhân viên Tiểu ban chiến sự, Ban Tác chiến, Phòng Tham mưu Liên khu 5, mới 18 tuổi, "i tờ" về quân sự, còn non trẻ lắm. Thấy anh Chánh cương vị to quá, cán bộ cao cấp ai cũng kính nể, tôi hơi sợ, ít dám gặp. Có điện hay tài liệu gửi riêng cho anh Chánh, tôi thường chuyển cho bí thư riêng của anh Chánh là anh Nguyễn Văn Luyện. Có đôi lần trực tiếp đưa điện cho anh Chánh, tôi nhanh chóng len lén rút lui cho êm chuyện. Tôi luôn đinh ninh anh Chánh không biết tên tôi. Tôi còn nhớ tầm tháng 11 năm 1953, anh Chánh ở Việt Bắc trở về Liên khu 5. Tôi đem điện lên cho anh. Bỗng anh tươi cười và chủ động: "Chào đồng chí Sơn. Đồng chí có khoẻ không?". Anh dặn tiếp: "Nếu có điện gửi cho tôi, dù đêm hôm khuya khoắt hay mưa gió thế nào, cũng chuyển cho tôi nhé!". Tôi chỉ biết: "Dạ", hết sức ngạc nhiên. Không ngờ một nhân viên bình thường như tôi, cấp bậc rất thấp, có thể nói là thấp nhất, ít được trực tiếp gặp anh, vậy mà anh đã nhớ tên. Anh lại gọi tôi bằng "đồng chí", nghe thật bình đẳng, thân mật quá!

Hành quân đến sở chỉ huy chiến dịch, tròn năm đêm thức trắng. Mệt quá, tôi ngủ thiếp đi bên máy điện thoại. Nghe tiếng động, tôi chợt tỉnh. Ngước lên đã thấy anh Chánh đứng trước mặt. Tôi lúng lúng và hơi hoảng, cảm thấy như mình có lỗi, sẵn sàng đón nhận lời phê bình của đồng chí Tư lệnh chiến dịch. Không ngờ, anh Chánh nói rất nhẹ nhàng:

- Chưa có việc gì nhiều, tranh thủ ngủ một chút. Nay mai nổ súng rồi vắt chân lên cổ mà chạy cũng không kịp, còn thì giờ đâu mà ngủ với nghê...

Anh nở nụ cười đôn hậu và đi sang lán của Ban Tham mưu chiến dịch, trò chuyện với mọi người.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:51:00 pm

Sau khi tiêu diệt binh đoàn cơ động số 100 ở Đắc-pớt trên đường 19 vào ngày 24 tháng 6 năm 1954, Trung đoàn chủ lực 803 của ta đã áp sát và có mặt ở cửa ngõ thị xã Buôn Ma Thuột. Anh Phan Hàm điện cho anh Chánh xin đánh vào thị xã. Anh Chánh trả lời: "Đã đến lúc đình chiến rồi, nhất định ta không để cho một giọt máu nào của chiến sĩ chảy nữa".

Có một đêm ở vùng núi huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, tôi mang điện sang cho anh Chánh. Vừa quay lưng định im lặng rút lui, thì anh gọi lại: "Đồng chí Sơn, vào đây đã". Tôi không biết có việc gì sẽ xảy ra... Anh Chánh bảo các đồng chí vệ binh dừng tay đào hầm, và nhắc đồng chí bảo vệ riêng của mình mang nồi chè ra, múc cho mỗi người một bát chè đậu đen. Anh cùng ăn với tất cả chúng tôi. Đột nhiên, anh hỏi:

- Nếu nay mai ta tập kết quân ra Bắc, sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà, chúng ta sẽ trở về, thì các đồng chí thấy như thế nào?

Anh Chánh đưa mắt nhìn mọi người và nói tiếp:

- Thôi, đồng chí Sơn hãy nói trước, nghe nào?

Tôi thật thà đáp:

- Thưa anh, mình đang thắng lớn quá! Tại sao lại đình chiến và ngừng bắn? Mình đi tập kết rồi, địch nó đến, liệu đồng bào vùng tự do của mình có sống được với nó không anh?...

Lần đầu tiên tôi thấy anh Chánh vẻ trầm tư, đôi mắt đượm buồn. Rồi anh thong thả nói với giọng không vui:

- Chúng ta phải tin tưởng và chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp trên.

Bỗng nhiên, anh lại hỏi:

- Nhưng nếu ra miền Bắc rồi, sau này Đảng kêu gọi các đồng chí lại trở về cầm súng chiến đấu để giải phóng miền Nam thì các đồng chí có chấp hành không?

Tất cả chúng tôi đều vui vẻ trả lời:

- Chúng em lúc nào cũng sẵn sàng...

Bẵng đi một thời gian dài, cho đến tháng 2 năm 1955, tình cờ tôi gặp lại anh Nguyễn Chánh đang làm việc với anh Giáp Văn Cương. Anh Chánh lúc này là Phó tổng tham mưu trưởng, thay mặt Bộ vào chỉ đạo cuộc tập kết của Liên khu 5. Anh Chánh gọi tôi:

- Đồng chí Sơn, dừng lại đã, vào đây! Vào đây, đợi mình một tí...

Anh lục lọi trong túi rồi lấy ra một cuốn sổ bìa cứng. Anh tự tay ghi vào sổ: "Thân chuyển tặng đồng chí Sơn. Hãy cố gắng ghi vào đây những thành tích xứng đáng". Anh ký tên: Chí Thuần. Tôi nhìn lên phía trên của trang viết có dòng chữ: "Quà tặng của Tổng cục Chính trị" có đóng dấu tròn đỏ. Anh Chánh tặng tôi cuốn sổ và một huy hiệu Bác Hồ dành tặng cho Người tốt - Việc tốt. Tôi vô cùng xúc động. Không ngờ anh Chánh vẫn nhớ tên, vẫn yêu quý những người cấp dưới quá đỗi bình thường như tôi: Dòng lưu bút của anh Chánh là nguồn động viên to lớn của Đảng, lời căn dặn ân cần của một người anh thân yêu trong suốt cuộc đời tôi. Tôi luôn lấy đó làm mục tiêu phấn đấu và sửa mình.

Tập kết ra Bắc, tôi được đi bổ túc quân sự khóa 10 Trường sĩ quan Lục quân Việt Nam. Một ngày mùa thu năm 1956 các học viên Liên khu 5 chúng tôi được thông báo lên hội trường. Không ngờ được anh Chánh đến thăm và nói chuyện. Anh vừa đi chữa bệnh bên Trung Quốc về nhưng trông vẫn gầy yếu và già đi nhiều. Một số học viên vẫn thắc mắc về "2 năm tổng tuyển cử...". Anh Chánh chậm rãi trả lời:

- Trước đây, tôi có khuyết điểm đã nói với các đồng chí sau hai năm sẽ tổng tuyển cử nhưng điều đó sẽ không có đâu. Mỹ - Diệm đã xé hiệp định, chia cắt đất nước lâu dài và hô hào "Bắc tiến". Giờ đây, tôi muốn nói với các đồng chí, con đường duy nhất đúng là phất cao ngọn cờ quyết chiến quyết thắng, trở về giải phóng miền Nam, các đồng chí thấy thế nào?

Cả hội trường bừng bừng sôi động trong tiếng vỗ tay với khí thế sẵn sàng.

Tan cuộc, tôi nhanh chân ra cửa chào anh Chánh. Anh nhìn tôi, bắt tay tươi cười và hóm hỉnh:

- Ủa, Sơn đấy hả, em cũng về học ở đây à, tốt đấy. Trông có vẻ đẹp trai và khỏe mạnh hơn nhiều. Cố gắng nhé! Biết đâu anh em ta lại gặp nhau trên chiến trường quê hương...

Lần đầu tiên, anh Chánh gọi tôi bằng "em" và bắt tay tôi rất chặt. Tôi thật sự sung sướng vì anh đã bày tỏ lòng thương yêu, tin cậy tôi như một người thân thiết. Còn gì hạnh phúc bằng khi người ta sống thật sự tin yêu nhau!

Không ngờ, đó lại là lần cuối cùng tôi được gặp anh.

Cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ đến anh Chánh, tôi không thể nào quên hình ảnh một người cộng sản mẫu mực, cũng không quên hình ảnh một vị tướng giàu lòng nhân ái, một người anh nhân hậu lạ thường. Trái tim anh ngày đêm chan hòa cùng nỗi niềm và nỗi đau của nhân dân, đất nước. Anh đã sống với một tấm lòng trong triệu tấm lòng, một cái tâm cao thượng và trong sáng long lanh như hạt sương mai.

Đại thi hào Nguyễn Du đã viết: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Có lẽ vì vậy, dù năm tháng qua đi, dù vật đổi sao dời, anh Chánh thân yêu - người anh cả của các lực lượng vũ trang Liên khu 5, mãi mãi sống trong tâm trí của đồng chí, bạn bè.

Tháng Giêng 2005
(Đại tá, nhà báo, nhà thơ Hồ Ngọc Sơn,
"Có một người cộng sản như thế”,
Báo Nhà báo và Công luận, in trong 3 số:
từ 18-24 tháng 2 năm 2005,
từ 25 tháng 2 - mùng 3 tháng 3,
từ 4-10 tháng 3 năm 2005)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:53:28 pm

MỘT DANH TƯỚNG KHÔNG QUÂN HÀM


Nhà báo, nhà thơ THANH THẢO

Đó là danh tướng Nguyễn Chánh, người được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết những dòng thắm thiết trong hồi ức của ông: "Cuộc đời một người mới 43 tuổi đã để lại sự nghiệp như vậy, có thể nói là một cuộc đời thật đẹp: cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực" (Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp, tr. 49).

Sinh ra trong một gia đình lao động bên bờ sông Trà Khúc, lại tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, Nguyễn Chánh không có điều kiện học hành bài bản. Nhưng ông là một người bẩm sinh thông minh và có khả năng tự học hiếm thấy. Khi tham gia cách mạng, ông đã sớm trau rèn bản lĩnh, và từ một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đội du kích Ba Tơ, ông trở thành một "Vị tướng không quân hàm" của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tài thao lược của Nguyễn Chánh trong những chiến dịch lớn ở chiến trường Khu 5 thời chống Pháp không chỉ được người Việt Nam yêu nước ca ngợi, mà còn được chính đối phương - một đại tá Pháp chỉ huy chiến trường Tây Nguyên - người đã trực tiếp đối đầu và đã thua tướng Nguyễn Chánh, bày tỏ sự khâm phục rất chân thành, rất quân tử. Những người đã có thời gian sống và chiến đấu "dưới cờ" của tướng Nguyễn Chánh như nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Nguyễn Chí Trung khi nói chuyện với lớp hậu sinh chúng tôi đều không tiếc lời ca ngợi một vị tướng, một con người mà theo các ông là "độc nhất vô nhị". Tướng tài thì trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam không hiếm. Nhưng vừa là tướng tài vừa là một con người sống có nhân có nghĩa, sống hết mình vì đồng đội, hễt mình yêu thương chiến sĩ, nhìn được từng điểm mạnh điểm yếu của những người lính thuộc quyền để phát huy tốt nhất khả năng và sở trường của họ thì Nguyễn Chánh là một vị tướng thực sự hiếm. Đọc những thiên hồi ký của những quân nhân từng là "lính" của Nguyễn Chánh mới thấy hết cái nhân cái nghĩa của một người lãnh đạo, nó không đơn giản là "thuật lãnh đạo" hay "thuật dùng người", nó là nhân cách, nhân phẩm, đạo đức của một người làm tướng, một người lãnh đạo. Vì thế, từ khi Nguyễn Chánh mất đến nay đã gần 50 năm, mà những kỷ niệm về ông vẫn tươi rói nơi những người từng cùng ông chiến đấu, hay đơn giản, chỉ là những người dân lao động quê ông, là láng giềng hàng xóm của gia đình ông.

Tỉnh Quảng Ngãi vừa làm lễ khánh thành ngôi nhà lưu niệm danh tướng Nguyễn Chánh tại quê ông, ngay trên nền nhà cũ của gia đình ông. Năm nay đã 93 tuổi, bà Phạm Thị Trinh - một nhà cách mạng lão thành và là bạn đời của tướng Nguyễn Chánh - đã kể cho tôi nghe những chuyện rất đời thường của chồng mình. Số phận buộc họ phải xa lìa nhau 49 năm nay, nhưng trong giọng kể của người phụ nữ từng một thời oanh liệt này, tôi vẫn nghe những âm hưởng tha thiết của một tình yêu mà thời gian và nỗi cách biệt âm dương chỉ làm sâu nặng thêm. Người đã khuất nửa thế kỷ mà còn lung linh đến thế trong ký ức những người thân thì quả là hiếm có, quả là hạnh phúc.

Sinh thời, Nguyễn Chánh đã viết những bài thơ đầy khí khái nhưng cũng chan chứa tình yêu. Như có lần ông thổ lộ với nhà văn Nguyên Ngọc, nếu không làm cách mạng, ông chỉ khao khát được trở thành một nghệ sĩ tuồng ở làng xóm, diễn những vở tuồng đã quen thuộc cho bà con nghèo mình coi. Và làm thơ, những bài thơ mộc mạc chan chứa tình yêu quê hương đất nước, tình yêu trai gái vợ chồng. Một ước mơ thật giản dị mà thật đẹp! Một chiến sĩ cách mạng, một vị tướng tài danh lại chỉ mơ ước làm một nghệ sĩ, một nhà thơ khi đất nước thanh bình, điều đó chẳng đáng cho ta phải suy nghĩ sao? Nhưng khi phải làm lính hay làm tướng thì phụng sự hết mình, xả thân hy sinh vì nhân dân vì đất nước. Thanh thản biết bao là những con người, những tâm hồn như vậy!

Và đã thế, thì dù là "tướng có quân hàm" hay "tướng không quân hàm" cũng chẳng có gì khác biệt, chẳng có gì phải phiền lòng. Nguyễn Chánh đã luôn được hậu thế tôn vinh là một danh tướng, dù bình sinh ông chưa hề đeo trên ve áo một ngôi sao nào.

(Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Quảng Ngãi,
nhà báo, nhà thơ, giải thưởng nhà nước …,
Tạp chí Sông Trà, số tháng 9/…)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:57:26 pm

NGUYỄN CHÁNH - VỊ TƯỚNG TÀI ĐỨC VẸN TOÀN

HUỲNH THẾ

Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vừa tổ chức lễ khánh thành Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Chánh tại xóm 4, thôn Thọ Lộc Tây, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh.

Nhà lưu niệm được thiết kế theo tiêu chuẩn nhà cấp 4A, rộng 85m2 gồm: Phòng dâng hương tưởng niệm, nhà trưng bày và cảnh quan sân vườn. Tại nhà trưng bày hiện có hơn 100 hình ảnh và hiện vật, tư liệu về cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Chánh. Đánh giá cuộc đời của đồng chí Nguyễn Chánh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: "Đó là một cuộc đời thật đẹp, cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực".


MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN CƯỜNG,
MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC

Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, nhiều người tham gia, cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh chống áp bức, bóc lột và ách đô hộ của thực dân, phong kiến - đồng chí Nguyễn Chánh tham gia cách mạng từ khi 14 tuổi. Trải qua sự rèn luyện trong thực tiễn hoạt động cách mạng, đồng chí đã sớm trở thành một nhà lãnh đạo xuất sắc, toàn diện, một vị tướng mưu lược của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Chỉ với 43 tuổi đời, nhưng đồng chí đã có gần 30 năm hoạt động cách mạng, đã cống hiến cho Đảng, quân đội nhiều kinh nghiệm hoạt động thực tiễn và lý luận quý báu, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách như: Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Bí thư Liên tỉnh Nghĩa - Bình - Phú; Chính trị viên Ban Quân sự tỉnh Quảng Ngãi; Chính trị viên trưởng và Bí thư chi bộ Đội du kích Ba Tơ; Trưởng ban Soạn thảo kế hoạch Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Quảng Ngãi; Ủy viên trưởng quốc phòng Trung Bộ; Chính ủy kiêm Tư lệnh trưởng các lực lượng vũ trang nhân dân Liên khu 5; Bí thư Liên khu ủy Khu 5, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ - Bộ Quốc phòng.

Ở bất cứ cương vị, hoàn cảnh nào, khi hòa mình trong quần chúng hoạt động hay trực tiếp đấu tranh dưới nanh vuốt kẻ thù trong chốn lao tù, ở đâu đồng chí Nguyễn Chánh cũng đều một lòng, một dạ quên mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước; luôn gắn bó, sẻ chia với đồng chí, đồng đội, đồng bào; luôn nặng tình, nặng nghĩa với quê hương.


MỘT TÀI NĂNG QUÂN SỰ ĐỘC ĐÁO

Cùng tập thể, đồng chí đã đem hết sức lực, trí tuệ lãnh đạo việc xây dựng và tác chiến của Đội du kích Ba Tơ. Trong cao trào Cách mạng tháng Tám 1945 ở Quảng Ngãi, đồng chí đã tỏ rõ tài năng chính trị, quân sự vẹn toàn, nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, hành động kiên quyết và kịp thời, cùng với đảng bộ và nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng chí là người gắn bó với chiến trường Nam Trung Bộ. Từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến, đồng chí phụ trách về quân sự và ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến - giai đoạn khó khăn và quyết định nhất - đồng chí đã gánh vác trọng trách là người đứng đầu Đảng bộ Liên khu 5 và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó.

Với tư chất thông minh, lại được tắm mình trong hào khí sục sôi của phong trào cách mạng, được đường lối quân sự của Đảng soi đường, đồng chí Nguyễn Chánh đã trở thành một danh tướng có những đóng góp xuất sắc về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở chiến trường miền Nam Trung Bộ. Đồng chí cũng là một nhà lãnh đạo toàn năng, không chỉ trong lĩnh vực chính trị, quân sự mà cả trong các lĩnh vực khác như giáo dục, văn học nghệ thuật... ở lĩnh vực nào cũng in đậm dấu ấn của một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, có những quyết sách đúng đắn, sắc sảo, kịp thời. Đến nay, gần 50 năm sau ngày đồng chí Nguyễn Chánh qua đời, ấn tượng sâu đậm về một người cộng sản kiên cường, một tướng lĩnh mẫu mực, một con người giàu lòng nhân ái, vẫn còn lưu lại sống động trong nhiều thế hệ cán bộ, tướng lĩnh và chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tên tuổi của đồng chí Nguyễn Chánh gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của Quảng Ngãi, người dân ở đây luôn tự hào và ghi nhớ công lao của đồng chí - một người con của quê hương đã làm rạng danh vùng đất Ấn - Trà. Một con đường và một ngôi trường ở Quảng Ngãi đã được vinh dự mang tên vị tướng tài đức này.

(Huỳnh Thế, "Vị tướng tài đức vẹn toàn",
trích từ báo Quảng Ngãi chủ nhật, 3-9-2006)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2022, 08:29:14 am

TÌNH LÁNG GIỀNG GIỮA GIA ĐÌNH CÁC VỊ TƯỚNG


MẠNH VIỆT - TRẦN HIẾU (ghi chép)

Trong thời kỳ công tác và chiến đấu tại Chiến khu 5, tướng Nguyễn Sơn có hai người bạn chí cốt là Phạm Kiệt và Nguyễn Chánh - cũng là hai vị tướng mà tên tuổi gắn liền với khởi nghĩa Ba Tơ nổi tiếng. Tháng 9 năm 1956, tại Bắc Kinh, biết bệnh tình của mình khó qua khỏi, tướng Nguyễn Sơn đã viết bức thư cuối cùng gửi cho tướng Nguyễn Chánh. Ông Nguyễn Cương - con trai út của tướng Nguyễn Sơn - kể lại: trước khi qua đời, cha tôi hết sức lo lắng cho cuộc sống của những người vợ và các con, nên cha tôi đã viết thư gửi gắm vợ con mình nhờ bạn là bác Nguyễn Chánh chăm nom giúp. Nhận được thư của cha tôi, bác Nguyễn Chánh cùng bác Phạm Thị Trinh (em gái tướng Phạm Kiệt) - đã hết lòng thương yêu chúng tôi, lúc đó còn là những đứa trẻ thơ dại. Hai bác thường xuyên tới thăm gia đình, là chỗ dựa vững chãi cho mẹ Hằng Huân. Nhưng, tiếc thay, chưa đầy một năm sau, ngày 24 tháng 9 năm 1957, bác Nguyễn Chánh cũng đột ngột qua đời. Sau khi bác Chánh mất, bác Phạm Thị Trinh đã tìm bức thư và trao lại cho mẹ Hằng Huân. Hai người chinh phụ góa chồng ôm nhau khóc mãi...

Ngoài tình cảm thân thiết với gia đình, vợ con tướng Nguyễn Sơn, gia đình tướng Nguyễn Chánh còn có những mối quan hệ rất chân tình với hàng xóm, anh em đồng chí khác, đặc biệt là với gia đình Đại tướng Văn Tiến Dũng.

Có lẽ, "phố nhà binh" đầu tiên ở Hà Nội không phải là Lý Nam Đế mà là Hoàng Diệu. Phố này một dạo không được thông giao. Sau khi hòa bình lập lại, rất nhiều vị tướng, quan chức quân đội cư ngụ tại đây. Cũng chính nơi đây, đã có rất nhiều kỷ niệm cảm động về tình làng, nghĩa xóm giữa các gia đình tướng lĩnh. Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc nhớ lại rằng, thuở ông còn là cậu bé 13-14 tuổi, mỗi lần được cha là nhà trí thức lão thành Tạ Quang Đạm, cho theo đến thăm bác ruột (Tạ Quang Bửu - nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), đều rất háo hức. Các vị tướng đều coi chú bé Ngọc như con cháu trong nhà. Nhiều lần, Quang Ngọc còn được "giao lưu" bóng bàn với các chú, nhất là tướng Hoàng Văn Thái...

Trở lại chuyện tình cảm giữa hai gia đình tướng Nguyễn Chánh và Văn Tiến Dũng, cụ bà Phạm Thị Trinh trong hồi ức của mình còn nhớ như in ngày đầu mới đặt chân lên đất Hà Nội: "Khoảng cuối năm 1954, con tàu nước bạn Ba Lan đưa chúng tôi cập bến Sầm Sơn thì có xe của quân đội ra đón và đưa chúng tôi về nhà số 6 đường Hoàng Diệu. Anh Dũng (Đại tướng Văn Tiến Dũng - PV) từ trong nhà chạy ra đón. Anh và anh Chánh ôm nhau nghẹn ngào xúc động. Anh bảo các đồng chí cùng đi: "Các anh đưa chị và các cháu vào nhà xếp chỗ nghỉ ngơi", rồi quay lại nói với tôi: "Tối nay anh chị và các cháu dùng cơm với gia đình tôi. Cứ tạm nghỉ ở đây đã". Chúng tôi được bố trí nghỉ ở tầng dưới, còn gia đình anh ở tầng trên. Anh ân cần hỏi thăm sức khoẻ của anh Chánh và mọi người trong gia đình. Chợt anh thấy cháu Dũng (mới 5 tuổi, bị mắc bệnh khiếm thính - PV) đang đứng ngơ ngác nhìn xung quanh, anh liền ôm cháu vào lòng và nói: "Thằng bé xinh thế này mà bị bệnh tật, tội quá". Anh gọi các con Trình, Mai, Huấn trên gác xuống bảo: "Đây là các bạn Sương, Tường, Dũng, con bác Chánh ở miền Nam mới ra. Các con chơi với nhau nhé...". Tôi và chị Kỳ - (vợ anh) - chuyện trò với nhau thân thiết, các cháu cũng nhanh chóng trở thành bạn bè quấn quýt bên nhau, nhất là cháu Tường và cháu Trình, hai đứa suốt ngày quanh quẩn bên nhau, bày trò đuổi bắt, nghịch ngợm. Những ngày thơ ấu đẹp đẽ ấy đã làm cho các cháu trở thành đôi bạn thân thiết sau này...

Khi anh Chánh trở lại Liên khu 5, tôi đang trở dạ sắp sinh cháu út Chí Hoà thì hôm sau, anh Dũng và chị Kỳ vào ngay bệnh viện thăm tôi. Anh nói: "Anh Chánh vào miền Nam lần này tuy tình hình trong đó còn phức tạp, nhưng chị đừng lo, cứ tĩnh dưỡng cho khỏe..., các cháu ở nhà đã có chúng tôi lo liệu thay chị". Nói xong anh đi gặp bác sĩ Tuấn - Trưởng khoa gửi gắm nhờ bệnh viện chăm sóc chu đáo mẹ con tôi. Đầu tháng 9 năm 1957, tôi được cử đi học lớp lý luận ở Trường Nguyễn Ái Quốc. Nội quy nhà trường chỉ cho phép học viên về nhà từ chiều thứ bảy đến chiều chủ nhật, không ngờ đến tuần thứ ba tôi chia tay anh Chánh vào trường là lần vĩnh biệt, anh Chánh đã đột ngột ra đi lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 9 năm 1957. Trong lúc tôi đang nghe giảng bài thì có một xe ô tô quân đội lên đón tôi về. Dọc đường, tôi gạn hỏi đồng chí sĩ quan: "Đồng chí có biết việc gì mà đón tôi gấp thế không?". Đồng chí ấy trả lời: "Anh Văn Tiến Dũng gọi điện bảo tôi đi đón chị thì tôi đi chứ không biết cụ thể". Xe về gần tới nhà thì tôi thấy có nhiều xe con đậu trước nhà. Xe vừa dừng, anh Dũng chạy ra đỡ tôi xuống rồi nắm tay dắt tôi lên nhà. Đưa mắt nhìn sang phòng khách, thấy các anh trong Bộ Chính trị và bạn bè anh Chánh đều có mặt. Tôi vào phòng thì thấy anh Võ Nguyên Giáp đứng ở cửa phòng bảo tôi: "Chị bình tĩnh để bác sĩ chữa bệnh cho anh". Nhưng thực ra tim anh Chánh đã ngừng đập từ 5 giờ sáng rồi, các bác sĩ đang cố truyền máu vào ven nhưng không được. Anh Phạm Kiệt - anh ruột tôi - đưa tôi sang phòng bên, chị Kỳ và các chị đỡ tôi ngồi và cho tôi uống nước. Tôi ngã gục vào tường không biết gì. Một lúc sau bỗng nghe có tiếng người đi vào, tôi mở mắt ngước lên hỏi: "Anh Chánh mất rồi phải không các anh?". Lúc đó, anh Phạm Văn Đồng gục trán lên đầu tôi. Anh Dũng nắm chặt tay tôi, rồi hai anh khóc òa lên... Nhờ có sự quan tâm của tổ chức, anh Dũng, chị Kỳ và bạn bè, tôi đã bình tĩnh lại, gạt nước mắt để chuẩn bị đón nhận trách nhiệm của người mẹ của sáu đứa con mồ côi cha...

Sau này, có thời gian tôi nhiều bệnh và yếu nên Ban Tổ chức Trung ương tạo điều kiện cho đi điều dưỡng ở Quảng Bá (Hà Nội). Lúc này, các cháu đều đang trong quân ngũ và học ở nước ngoài, chỉ còn cháu Tường đang chờ công tác, phải ở nhà tự nấu ăn một mình. Biết chuyện, anh Dũng - chị Kỳ đến Quảng Bá thăm tôi và bảo: "Chị đi viện, Tường ở nhà một mình, chị cho cháu lên ở với gia đình tôi để sinh hoạt cho tiện, chị đừng ngại gì cả, cứ an tâm dưỡng sức chứ chúng tôi thấy chị xanh quá". Sau đấy, cháu Tường lên ở với anh chị Dũng hàng tháng. Lúc lên thăm tôi, cháu khoe: "Chú và cô luôn bảo con đừng ngại gì, con và Trình có bàn bóng tha hồ đánh, cô Kỳ thì đưa chiếc xe đạp vừa mua cho em Mai, cô bảo con cứ giữ lấy đi chơi và vào thăm mẹ. Con, Trình và các em cùng ăn cơm một mâm với cô chú, chú coi con như con trong nhà không hề phân biệt gì, mẹ cứ an tâm nghỉ ngơi đừng lo gì cho con cả".

Cuộc đời của hai người "chinh phụ" góa chồng Lê Hằng Huân - vợ tướng Nguyễn Sơn và Phạm Thị Trinh - Vợ tướng Nguyễn Chánh sao lại có những nét giống nhau đến vậy: Sau khi chồng qua đời, hai người đều vừa phải công tác, vừa phải một nách chăm sóc, nuôi dạy 5 - 6 đứa con mồ côi. Sau này, các con của họ đều trưởng thành hầu hết trong quân ngũ và có lẽ đây cũng là những người đầu tiên tự nguyện trả lại biệt thự cho Nhà nước.

Còn nhớ, sau khi tướng Nguyễn Chánh được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ (Bộ Quốc phòng), gia đình ông đã giao lại nhà Hoàng Diệu để chuyển về ở 34 Lý Nam Đế. Một thời gian ngắn sau khi tướng Nguyễn Chánh qua đời, người vợ liền bày tỏ ý nguyện trả lại nhà 34 Lý Nam Đế, chuyển về khu tập thể ở chung với mọi người. Nhiều người khuyên ngăn: "Chị và các cháu cứ ở đây, anh Chánh vừa mới mất, chị đừng làm thế các cháu nó lo lắng!". Có người còn bảo: "Chị lúc nào cũng nguyên tắc cứng nhắc, khi anh còn sống để đảm bảo tiêu chuẩn của anh nên không chịu ăn cơm chung, khi cùng đi họp ở Trung ương, chị không chịu đi xe ô tô chung với anh Chánh vì không phải tiêu chuẩn xe của chị. Bây giờ chị có muốn chung cũng không được nữa rồi!". Mặc dầu vậy, bà Phạm Thị Trinh vẫn tìm mọi cách để đạt nguyện vọng của mình nên sau đó, tổ chức đã bố trí cho gia đình về ở khu tập thể 38A Trần Phú. Trong thời kỳ giặc Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, các con đều đã lớn tham gia bộ đội hoặc công tác, đi học xa, một mình bà ở lại Hà Nội công tác tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bà lại xin trả lại nhà 38A Trần Phú và dọn đến ở ngay tại nơi làm việc...

Giờ đây, tuy nghèo khó, nhưng bà vẫn sống rất thanh thản, lạc quan. Ngoài những "cố nhân", thi thoảng, bà còn làm bạn với thi ca...

(Mạnh Việt - Trần Hiếu, “Tình láng giềng giữa gia đình các vị tướng",
Báo Tiền phong, số 277, 28-11-2006)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2022, 08:32:31 am

TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH VÀ ĐỘI DU KÍCH BA TƠ


NGUYỄN THẾ KỶ

                                                                                                                                                               
           
Cha mẹ đặt tên cho anh là Nguyễn Hiệp. Nhưng ở địa phương có tục kêu tên bằng thứ, nên bà con thường gọi anh là anh Chín. Năm 1929, anh làm liên lạc cho tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, anh làm công tác tuyên truyền cho "Phân ban Bắc Trà" của Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Mảnh đất "Hà Nhai Vãn độ" (nay là xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh) nơi anh cất tiếng khóc chào đời và cũng là nơi anh bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất, lúc còn ở tuổi vị thành niên.

Nhiều lần bị địch tra khảo, đánh đập... lần nào anh cũng nói trước sau như một: "Tôi sinh năm 1916 (khai sụt). Tôi tên là "Nguyễn Chánh" (không khai tên cha mẹ đặt). Cái tên Nguyễn Chánh từ đó sống chết chẳng rời anh, như lòng chung thủy của anh với Đảng, với nhân dân. Chúng giam anh 2 năm. Hết hạn tù, anh bị quản thúc tại gia.

Một bạn tù kể lại: "Anh Chánh là thầy đốt, thầy châm cứu... chữa lành cho biết bao bệnh nhân bị sưng khớp, bại liệt, loét dạ dày... ở các nhà tù mà anh đã đi qua...".

Tình yêu trung thực - dám sông chết với nhau, đã trở thành tính cách của Nguyễn Chánh. Hồi ở tù, cũng như khi giữ chức Tỉnh ủy viên thường trực phụ trách đấu tranh công khai, đạt bao nhiêu thành công to lớn, chính là do tính cách đó của anh quyết định... Thực dân Pháp bắt anh lần thứ hai khi cấp trên đã chỉ định anh làm Bí thư Liên tỉnh ủy ba tỉnh Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên. Chúng bắt anh đẩy anh ngay vào xà lim số 1. Người ta đồn rằng, ai vô đây trở ra - một là đầu hàng, hai là tàn phế. Nhưng Nguyễn Chánh thà chết không khai.

Kết án khổ sai, địch áp giải anh lên đồn Ba Tơ. Nhận thấy Nguyễn Chánh vẫn là một nguy hiểm ở đây, bọn cai ngục Ba Tơ liền chuyển anh ra Gi Lăng, rồi chúng đày lên Buôn Ma Thuột...

Ở đây anh cũng không ngừng đấu tranh chống đàn áp tù nhân, tổ chức tuyệt thực, tổ chức học tập... Càng đấu tranh, tính cách Nguvễn Chánh càng đậm sắc. Khi anh hết hạn tù, lũ tay sai của thực dân Pháp vẫn còn sợ "thả hổ về rừng". Phải đến lúc Nhật đảo chính, anh mới vượt mọi khổ ải từ căng an trí Phú Bài trở về quê hương và đã nghe có bài thơ về "Đội du kích Ba Tơ":

"Khởi nghĩa Ba Tơ dày chiến tích
Cao muôn trùng điệp gió ngàn ru
Đèo lên mây chạm đầu du kích
Dốc xuống mưa lùa chân chiến khu"

Những chính trị phạm hết án tù, địch đưa lên căng an trí Ba Tơ, để tách "cá khỏi nước". Anh em phải tự tạo ra nguồn, bươn chải để sống thích nghi theo hoàn cảnh của từng người. Anh Phạm Kiệt đã từ Buôn Ma Thuột về tới Ba Tơ và tổ chức phổ biến ngay Nghị quyết 8 của Trung ương cho mọi người học tập. Trước đó, anh em tù chính trị an trí tại Ba Tơ còn hoạt động rời rạc, lẻ tẻ, nhưng khi nghe tin quân Đồng minh thắng phát xít Đức thì nhiều người đã xem Nghị quyết 8 của Trung ương như ngọn đuốc sáng soi đường giữa đêm đen... và những anh em tù an trí đã tập hợp nhau lại thành đội ngũ, lấy tên là "Đội du kích Ba Tơ".

Đang còn sắp xếp, thì tin ở cơ sở Sông Vệ cho hay "Dưới xuôi Nhật đã chiếm hết rồi", tiếp đến là mẩu thư nhỏ chính thức báo tin, đọc xong, Ban chỉ huy bố trí ngay nhóm đội viên trang bị vũ khí đi về hướng đèo Đá Chát... Giữa đường thấy chiếc xe kéo của Pháp chạy từ thị xã Quảng Ngãi lên. Anh em chĩa giáo mác ra, chặn lại. Tên quan ba Pháp hốt hoảng nhảy xuống, hứa sẽ giao đồn. Nhưng đến lúc ta vào gặp để tiếp quản đồn thì tên này lại đề nghị du kích phối hợp với quân đội Pháp chống Nhật.

Trước tình hình rối loạn của địch, theo tinh thần Nghị quyết 8 của Trung ương - Khởi nghĩa từng phần đợi thời cơ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa toàn quốc; một mặt củng cố đội ngũ, mặt khác đội du kích đã cử người đi vào quần chúng tuyên truyền vận động đồng bào Kinh cũng như đồng bào dân tộc sẵn sàng chờ lệnh. Đúng theo chương trình hành động, trưa ngày 10 ta chiếm nha Kiếm Lý. Chiều và tối ngày hôm đó, rút kinh nghiệm bài học thất bại lần trước, Đội du kích Ba Tơ bao vây, áp sát quanh đồn, bắc loa kêu gọi binh lính địch đầu hàng...

Với sự chỉ huy của tên quan ba Pháp, mỗi lần nghe tiếng loa ta gọi bọn lính trong đồn lại bắn trả. Nhưng ta vẫn liên tục giải thích đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh, của cách mạng... Đợi đến giờ, cùng một lúc khắp Ba Tơ nổi dậy rung trời, chuyển đất. Cờ như rừng. Lửa như núi. Gươm dao, giáo mác, trống mõ... của đồng bào Kinh từ Trường An, thị trấn Ba Tơ kéo lên. Cung tên, tù và, tét hú... của đồng bào dân tộc thiểu số quanh vùng núi Cao Muôn tuôn ra. Ngay lúc đó, nội công của ta trong hàng ngũ địch chủ động mở cổng đồn. Đội du kích Ba Tơ, dưới sự chỉ huy của các đồng chí Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt tràn vào chiếm lĩnh toàn bộ đồn Ba Tơ.

Khởi nghĩa Ba Tơ ngày 11 tháng 3 năm 1945 thành công. Chi bộ đảng Đội du kích Ba Tơ chủ trương rời bỏ đồn, chuyển quân ra rừng xây dựng căn cứ địa để phát triển nhanh chóng lực lượng vũ trang. Toàn đội đã chào nhau bằng những nắm tay đưa lên "Hy sinh vì Tổ quốc" như lời thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Và, "vạn sự khỏi đầu nan" - càng đi sâu vào rừng càng gặp muôn vàn khó khăn, quân số mỗi ngày một giảm. Trước tình hình "tiến thoái lưỡng nan", anh Nguyễn Chánh xuất hiện, như là "cá gặp nước", toàn đội du kích vui mừng đón anh bên bờ suối...

Qua những điều mắt thấy tai nghe, anh Chánh đặt ra cho đội nhiều vấn đề. Trong đó, có một câu hỏi: "Bao giờ Đội du kích chúng ta mới về đồng bằng?". Như "nắng hạn gặp mưa rào", tất cả du kích Ba Tơ tham gia bàn bạc sôi nổi, gay gắt... Cuối cùng anh nhẹ nhàng nói:

"Lâu nay chúng ta quen có khái niệm căn cứ địa phải ở rừng núi, nhưng bây giờ, chúng ta phải nhớ rằng, có một nơi vô cùng rộng lớn, vô cùng kín đáo, có thể che chở và đùm bọc cho ta - đó là lòng dân". Tất cả đã lặng phắc lắng nghe chính trị viên của mình phân tích, rồi Đội du kích được lệnh hành quân...

Lên đường từ Cơ Nhứt, toàn đội đi đến đâu đều được đồng bào dân tộc thiểu số đùm bọc, cho ăn, cho đắp... Trước sự phân tích phải dựa vào dân để sống và chiến đấu của anh Chánh, anh em du kích càng đi vào thực tế, càng thấm thía. Ai cũng đồng tình với ý kiến chuyển hướng Đội du kích về đồng bằng và Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã thống nhất với đề xuất này...

Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi, phong trào dân quân, tự vệ ở đồng bằng phát triển nhanh. Đội du kích Ba Tơ chia làm hai, bổ sung thành hai đại đội đứng chân ở hai nơi. Đại đội Phan Đình Phùng phía nam tỉnh, đại đội Hoàng Hoa Thám phía bắc tỉnh. Đơn vị nào cũng tích cực bố trí chiến sĩ xuống tận xóm thôn để huấn luyện quân sự cho cơ sở. Chẳng bao lâu Đội du kích Ba Tơ từ hơn hai mươi người, đã phát triển lên tới hai ngàn vệ quốc quân, đáp ứng quân số kịp thời, góp phần cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công...

(Nguyễn Thế Kỷ, “Tướng Nguyễn Chánh và Đội du kích Ba Tơ",
Báo Sài Gòn giải phóng, số 10672, ngày 10-3-2007)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:35:54 am

NGƯỜI CON CỦA NÚI ẤN SÔNG TRÀ
(DANH TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH)


Đại tá, nhà báo, nhà văn NSUT CHI PHAN

Hằng năm, cứ đến ngày 24 tháng 9, tại nhà cụ Phạm Thị Trinh, vợ Danh tướng Nguyễn Chánh, ở quận Đống Đa, Hà Nội, những người thân trong gia đình cùng bạn bè, đồng đội lại thành kính tổ chức lễ tưởng niệm ông. Những con trai, con gái, con dâu, con rể và đàn cháu nội, ngoại, quây quần quanh cụ Trinh để nghe kể chuyện về người cha, người ông cách đây hơn nửa thế kỷ. Tuy đã trên 90 tuổi, nhưng trí nhớ của cụ còn minh mẫn, sáng suốt, giọng nói miền Trung nhỏ nhẹ, sâu lắng, nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm với người chồng mà cụ thương yêu hơn cả bản thân mình...

Nguyễn Chánh sinh ngày 5 tháng 8 năm 1914, trong một gia đình nông dân, tại thôn Thọ Lộc, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Mảnh đất "Gấm Thành" xưa đã nổi tiếng có 12 cảnh đẹp, trong đó, Tịnh Hà cũng được xếp vào một trong 12 cảnh đẹp ấy. "Gấm vóc non sông dệt khí người", quê hương ông vốn có truyền thống hiếu học, trọng việc nghĩa, không khuất phục trước uy vũ kẻ thù; đã xuất hiện nhiều vị tiến sĩ, cử nhân, tú tài, từng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược và triều đình phong kiến bán nước. Cuộc khởi nghĩa đó cụ cử nhân Lê Trung Đình lãnh đạo, đã dùng kế "nội công, ngoại kích", đánh chiếm thành Quảng Ngãi. Lúc xung trận, cụ mặc áo bào, cưỡi ngựa, hô quân xông lên. Kẻ thù xả súng bắn vào quần chúng. Cụ Lê Trung Đình bị địch bắt, mang ra pháp trường xử chém. Cụ vẫn hiên ngang đến phút cuối cùng trước lưỡi gươm của giặc.

Nguyễn Chánh thường nói với mọi người:

- Nhân dân Quảng Ngãi như thế; làng quê mình như thế, làm sao không yêu quý tự hào được...

Hơn nữa, ông cũng rất khâm phục lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, đầy khí phách anh hùng của các đồng chí: Trương Quang Trọng, Bí thư Thanh niên Cách mạng đồng chí hội năm 1929; Nguyễn Nghiêm, Bí thư Đảng Cộng sản ở Quảng Ngãi năm 1930. Sa vào tay địch, bị chúng kết án tử hình, Nguyễn Nghiêm vẫn hô vang khẩu hiệu: "Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!" giữa pháp trường, khiến tên đao phủ run sợ, phải chém nhiều nhát, đồng chí mới hy sinh. Trương Quang Trọng bị kẻ thù kết án 20 năm tù và đày đi ngục Kon Tum. Đồng chí lãnh đạo anh em đấu tranh quyết liệt chống lại chế độ nhà tù tàn ác. Bọn địch xông vào đàn áp và hỏi:

- Tên nào là Trương Quang Trọng?
- Tao đây!

Chúng hô:

- Bắn!

Người khác tiếp tục đứng lên đấu tranh. Lại bị chúng bắn lần lượt tám đồng chí hy sinh. Sự kiện bi tráng này đã ghi lại thành thơ ca ngợi:

Khí xung mất vía phường cai trị
Máu đổ kinh hồn bọn sếp lao,...

Nguyễn Chánh thuộc lòng những câu thơ trên và nói:

- Là người phải biết tử sinh như anh Trọng, anh Nghiêm...

Ông là con út trong gia đình. Cha mẹ, tám lần sinh nhưng còn sáu người – bốn gái, hai trai. Thời thơ ấu, Nguyễn Chánh là trò giỏi, con ngoan, học rất thông minh, được các thầy giáo yêu quý, bạn bè nể phục. Thường thường, tan buổi học, thầy Rôm ra về rồi, ông rủ bạn ở lại ngồi "truy" bài. Ai chưa hiểu, ông giảng lại như thầy giáo phụ giảng. Có bạn quá nghèo, Nguyễn Chánh cho cả vở để viết. Thi sơ học yếu lược (tương đương lớp 3 - tiểu học), vào môn vấn đáp, giám khảo hỏi ông:

- Tại sao người ta lập đền miếu để thờ?

Nguyễn Chánh thản nhiên trả lời:

- Thưa thầy, đó là xưa bày, nay làm; chứ con nghĩ, không có thần thánh ma quỷ nào cả.

Thầy giáo ngạc nhiên và cho điểm tốt. Cùng với các môn thi khác, ông đỗ đầu kỳ thi sơ học yếu lược. Tiếp đó, Nguyễn Chánh còn đi học chữ Hán của thầy Tú Trầm và học phương pháp châm cứu, đốt chữa bại liệt, bốc thuốc bắc của thầy Cừ. Nối nghiệp bậc ân sư, ông đã chữa lành bệnh cho nhiều người.

Cụ thân sinh ra Nguyễn Chánh thường trò chuyện với người thân trong gia đình:

- Hồi nhỏ, thằng Chín (gọi theo thứ tự các con trong gia đình, vào tù ông khai chệch thành Chánh, từ đó có tên là Nguyễn Chánh) sức yếu nhưng rất hiếu động. Cái gì nó cũng thích học, thích làm; mà đã làm thì làm đến nơi, đến chốn. Nguyễn Chánh học chữ Nho, theo các cậu đằng ngoại đều là học sĩ, tú tài nho học như: Tú Sáu, Tú Mười, Học Bấn và học mẹ đẻ để làm thơ, nói về đạo lý ở đời.

Có lần, mẹ ông - bà Trương Thị Nhẫn, ra bốn chữ: "Quân - Sư - Phụ - Hữu", bảo con trai út, lúc đó mới 12 tuổi, hãy lấy ý đó làm bài thơ. Nguyễn Chánh cầm bút hý hoáy, cặm cụi một lúc thì xong và đọc cho mẹ nghe bài thơ có tựa đề: "Thơ gùi mẹ". Ý tứ trong bài già dặn, xác định rõ sứ mệnh và nghĩa vụ của "đạo làm trai" đối với Tổ quốc đang còn bị rên xiết dưới gót giày xâm lược của thực dân đế quốc:

"Quân, sư, phụ, hữu ấy vì ai?
Chữ đó về con có một vai
Vì nước, lao đao còn gánh nặng
Vì thầy, bận việc phải xía vai
Vì ơn cốt nhục, vàng không nhạt
Vì nghĩa đồng bào, đá chẳng phai
Gánh nợ non sông thân bảy thước
Ở sao cho trọn đạo làm trai”.

Ngày cụ Phan Chu Trinh về nước, ông thường đi mua sách báo, thơ ca yêu nước rồi tập hợp gia đình, chòm xóm lại đọc cho mọi người nghe. Nguyễn Chánh đọc các tác phẩm: "Quốc gia huyết lệ”, "Nam quốc dân tu trí", "Nữ quốc dân tu trí"... và đọc thơ cách mạng. Từ đó, lúc nào ông cũng nói đến độc lập, tự do của dân tộc và căm thù bọn thực dân Pháp xâm lược.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:36:51 am

Đến tuổi 15, qua anh ruột là Nguyễn Tải, Nguyễn Chánh bắt đầu hoạt động cách mạng: làm liên lạc, bảo vệ, che giấu các đồng chí đảng viên cộng sản ở Suối Ngổ. Ông được làm liên lạc cho Trương Quang Trọng, trước lúc đồng chí này hy sinh anh dũng ở Kon Tum. Thời điểm ấy, đánh dấu một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Chánh. Ông từng kể lại, lúc đầu gặp mặt, đồng chí Trọng hỏi:

- Em có dám làm liên lạc cho các anh không? Nhiệm vụ này nguy hiểm lắm; em có sợ không?

Nguyễn Chánh trả lời ngay:

- Em không sợ! Các anh giao việc gì, em cũng làm. Muốn đánh đuổi được thằng Pháp, nếu mình sợ thì còn làm gì được nó ....

- Anh biết rồi. Anh Tải, anh Độ đã kể cho anh nghe, chuyện em đưa các anh chị cán bộ lánh lên núi an toàn. Em giỏi lắm. Anh tin em.

Sau đó, anh Trọng giao cho ông mang tài liệu tới các huyện Mộ Đức, Đức Phổ, Bình Sơn và mang thư của anh Phạm Viết Dương về cơ quan. Nguyễn Chánh giấu thư trong gánh bắp ngô, quảy đi. Về đến quán cơm ở đầu cầu Trà Khúc, gặp địch, chúng hỏi ông:

- Thằng nhỏ kia, gánh gì? Để xuống chúng tao khám.

- Thưa các thầy, em đi thăm cô em. Cô cho ít bắp mang về cho mẹ.

- Nhà mày ở đâu?

- Nhà em ở gần đây thôi. Có vườn mít và rất nhiều dừa. Hôm nào rảnh rỗi, mời các thầy đến chơi. Cha mẹ em được gặp các thầy sẽ mừng rỡ lắm đó.

Bọn chúng vẫn tiếp tục lục soát, ông vồn vã, mời:

- Cô em cho cả bắp non luộc, mời các thầy ăn cho vui.

Chúng hý hửng tranh nhau ăn bắp luộc rồi ra hiệu cho Nguyễn Chánh đi. Biết chuyện, anh Trọng khen:

- Em bình tĩnh và thông minh lắm...

Năm 1930, Nguyễn Chánh được phân công làm nhiệm vụ tuyên truyền ở phân ban Tỉnh ủy Bắc Trà. Mỗi lần đi tham gia mít tinh, diễn thuyết ở các xã về, ông thường trằn trọc suốt đêm. Nguyễn Chánh tâm sự với bạn bè:

- Đồng bào ven biển sống khổ quá: Đói khát, quần áo rách bươm. Hôm nào biển động, những ngư dân không đi đánh cá được thì cái nồi đất lại treo lên tường. Vợ con họ bụng lép kẹp, gầy trơ xương, đến cọng rau cũng không có mà ăn. Song chính những vùng quê nghèo này, phong trào cách mạng lại lên cao. Người dân nghèo khổ nhất là người có tinh thần cách mạng triệt để nhất.

Ông và Phan Bưng đang làm nhiệm vụ ở cơ sở thì gặp chuyện không may. Anh Bưng bị ốm nặng. Nguyễn Chánh không dám đưa đồng đội vào bệnh viện, sợ bị lộ nên phải dùng thuyền chở đến nhà cụ Tú Trầm chữa bằng thuốc bắc. Trên đường đi, anh Bưng sốt cao nên đã chết trên thuyền, giữa dòng sông Trà Khúc. Nguyễn Chánh thương tiếc, xin cỗ hậu sự của cha để chôn đồng đội trên bãi cát, cạnh một bụi tre làm dấu. Ông xúc động nói:

- Tôi không bao giờ quên được bữa đến thăm bà Xách, mẹ của anh Bưng. Bà ngồi một mình vò võ, trong túp lều, ra vào phải khom lưng. Bà cứ ôm lấy tôi mà khóc, nói: "Thằng Bưng của mẹ đâu con? Thằng Bưng của mẹ đâu?".

Mỗi lần công tác ghé qua nhà, Nguyễn Chánh đều ra cạnh bụi tre, cắm ba nén hương, tưởng nhớ anh Bưng.

Sau ngày 1 tháng 5 năm 1931, ông bị địch bắt trên sông Trà Khúc. Bọn xã đoàn giải ngay về huyện để lĩnh thưởng của tri huyện Nguyễn Bính. Trong phòng hỏi cung, Nguyễn Chánh khai, sinh năm 1916 (14 tuổi), trình độ văn hoá - sơ học yếu lược; đang lao động chăn trâu ở Suôi Ngổ, nơi ông bố vỡ hoang, trồng thuốc lá. Địch bắt ông phải nhận làm cộng sản. Nguyễn Chánh khai đi, khai lại, cương quyết không nhận. Tri huyện Nguyễn Bính trực tiếp hỏi cung. Mặt nó hầm hầm, quát nạt:

- Mày muốn sống thì khai đi!

- Tôi còn nhỏ, không biết cộng sản là gì. Tôi không trốn, ngày ngày tôi chăn trâu cho cha tôi ở Suối Ngổ.

- Tao đã cho lính tìm mày ở đó, không thấy.

- Tôi chăn đến bốn - năm con trâu; phải cho nó vào rừng sâu mới có cỏ. Tôi đi xa quá nên ngủ luôn ở trong núi không về; sợ bỏ trâu đói, cha mắng.

Tri huyện Nguyễn Bính dịu giọng:

- Mày khai đi, tất cả những việc làm của mày là bị bọn cộng sản lừa phỉnh ra sao. Quan sẽ chiếu cố tuổi vị thành niên, cho về với mẹ. Mẹ mày đang lo sợ, đau buồn lắm vì thằng Nguyễn Tải, anh mày là cộng sản, đang bị tra tấn gần chết ở bên tỉnh; mày có biết không?

Nguyễn Chánh không còn lạ gì thủ đoạn lừa phỉnh, doạ nạt, thuyết phục rồi đánh đập của địch. Ông mặc kệ, âm mưu của nó thì nó cứ thực hiện, còn việc của ông là kiên định, không chuyển lay. Tên Nguyễn Bính ra lệnh tra tấn. Chúng xông vào đánh Nguyễn Chánh mấy tiếng đồng hồ liền. Ông kêu la:

- Tôi là trẻ con mới 14 tuổi; tôi không biết cộng sản. Các ông đánh tôi đau quá! Cha ơi! Mẹ ơi!

Mấy ngày sau, địch chuyển Nguyễn Chánh lên nhà lao tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, có tên lãnh binh Trần Luận khét tiếng tàn ác, uống máu người. Chúng treo Nguyễn Chánh lên đánh liên tục hai ngày liền, ông vẫn không một lời khai báo. Chúng kết án Nguyễn Chánh hai năm tù vì tội (trốn) theo cộng sản. Nhà tù Quảng Ngãi là một địa ngục trần gian. Anh chị em ở đây không chỉ chết vì các đòn tra tấn dã man mà còn chết vì ngạt thở, phù thũng. Những lao "nam án", người đông, chật đến nỗi chỉ đứng hoặc ngồi, không có chỗ để nằm. Cơm tù nấu bằng gạo mục có lẫn sâu mọt. Rau muống luộc lẫn cả với giẻ rách. Ngày nào cũng có xe bò kéo xác tù đi chôn ở núi Bút.

Trước thảm cảnh đó, Nguyễn Chánh tham gia ban đấu tranh, quyết định tuyệt thực để chống chế độ nhà tù hà khắc. Ông đọc to hai câu thơ:

"Nó "đãi" mình như trâu như chó
Mình sợ gì chúng nó mà làm thinh"

Bọn địch phải nhượng bộ, cải thiện một phần chế độ ăn uống trong nhà tù. Khi hết hạn, ra tù, ông vẫn bị địch o ép, quản thúc tại nhà. Lúc đó, bà mẹ Nguyễn Chánh bị ốm nặng và không qua khỏi. Ông rất đau buồn. Với mẹ, ngoài tình mẫu tử, còn là người thầy, giúp Nguyễn Chánh có sự hiểu biết về đời sống xã hội, tầm nhìn sâu xa về đạo lý làm người. Chính bà mẹ đã động viên, hỗ trợ ông trên bước đường cách mạng từ thời niên thiếu. Vì vậy, ông đã viết bài thơ khóc mẹ lâm ly, thống thiết:

"Đầu non gãy một cành huyên,
Mặt đất nhỏ đôi dòng lệ,
Mẹ năm mươi phải đành tạ thế
Con mười chín chịu gánh càn khôn”...


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:37:40 am

Năm 1937, Nguyễn Chánh là Tỉnh ủy viên, Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ngãi, phụ trách đấu tranh công khai. Năm 1939, Xứ ủy chỉ định ông làm Bí thư Liên tỉnh: Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên. Tình thế lúc này đã thay đổi. Mặt trận bình dân Pháp thất bại. Bọn địch quay lại khủng bố mạnh, Nguyễn Chánh bị bắt lần thứ hai, lúc ông tròn 25 tuổi; đã xây dựng gia đình với bà Phạm Thị Trinh. Địch đưa Nguyễn Chánh về sở mật thám rồi giam vào xà lim số một. Thông thường, ai đã vào đây cũng trở thành tàn phế vì những đòn tra tấn dã man của bọn mật thám Bùi Trọng Lệ. Trước khi vào xà lim, chúng lột hết quần áo của ông, chỉ để lại cái quần đùi che thân. Bốn bức tường xà lim đầy vết máu: Máu của tù nhân bị tra tấn quệt vào tường; máu do muỗi nhiều như ong đốt tù nhân, Hằng ngày, tên lính mở cửa, nhét vào nắm cơm gạo mục không muối, không rau. Mùi khai thối của ống tre chứa phân, nước tiểu ở góc xà lim, khiến tù nhân càng ngột ngạt, kinh lợm. Suốt ngày đêm, họ chỉ nghe thấy tiếng chân giày của lính gác và tiếng gầm gừ đe doạ của chó béc-giê. Hôm sau, chúng đưa Nguyễn Chánh lên phòng nhì. Hai tên ác ôn Ngô và Hoành thay nhau đánh đập ông chết đi sống lại, hòng bắt ông khai ra Xứ ủy và nhận làm Bí thư Liên tỉnh. Trước sau Nguyễn Chánh kiên quyết không khai. Chúng còn đưa ảnh mấy đồng chí trong Xứ ủy ra và nói:

- Mấy tên này đã khai hết rồi. Mày có chịu nhận không?

Ông phủ định:

- Tôi không hề biết những người đó.

Lập tức, mấy tên lại xông vào tra tấn tiếp; cả tên Bùi Trọng Lệ dùng đòn võ hiểm đá vào ngực Nguyễn Chánh. Ông hộc máu, ngất đi, mê man bất tỉnh. Chúng khiêng vứt về xà lim. Không khai thác được tin tức gì ở Nguyễn Chánh, địch đưa ông lên đồn Ba Tơ, đồn Gi Lăng, rồi đày đi Buôn Ma Thuột. Tại đây, Nguyễn Chánh cũng tham gia ban lãnh đạo đấu tranh chống đàn áp tù nhân; tổ chức nhiều cuộc tuyệt thực, làm náo động cả thị xã. Ngoài ra, anh em còn tiến hành học tập rất tích cực: Học lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học đường lối chính sách của Đảng, học quân sự, học văn hoá, học tiếng Pháp và học làm thơ. Nguyễn Chánh dạy chữ Hán, dạy làm thơ Đường luật và chăm chỉ học tiếng Pháp, đủ từ ngữ giao thiệp được với bọn cai sếp Tây và học chính trị. Nhà tù đã thực sự biến thành trường học cách mạng.

Tháng 9 năm 1944, hết hạn tù, địch bắt ông đi an trí ở căng Phú Bài - Thừa Thiên. Chúng chở ông bằng tàu hoả. Người làng trông thấy, chạy về báo cho cụ thân sinh và bà Phạm Thị Trinh chạy ra ga Quảng Ngãi, lúc tàu dừng, mong nhìn thấy Nguyễn Chánh. Ra tới nơi, tàu vừa chạy, hai người chỉ nhìn thoáng qua thấy hình dáng ông tiều tụy, hai tay bị còng, đầu cạo trọc, mặt mày xanh xao, hốc hác... Ông cụ sững sờ, đau xót nhìn theo con. Bà Phạm Thị Trinh ngồi bệt xuống đất, khóc không thành tiếng... Nửa tháng sau, gia đình nhận được bài thơ của Nguyễn Chánh gửi về động viên người thân:

"Cuộc gặp gỡ đâu phải là tái hợp,
Khi chia tay ta chỉ đứng nhìn nhau,
Anh ở trên cao, không rời được con tàu,
Em dưới đất mà đôi môi mím chặt,
Đứng dậy em ơi, hãy lau nước mắt"...

Căng an trí Phú Bài thực chất là nhà tù trung cổ, làm cho tù nhân chết dần, chết mòn. Căng như ấp chiến lược, xung quanh có hào sâu, dây thép gai, hầm chông, cạm bẫy. Tù nhân bị bắt đi làm xâu, vô cùng vất vả, cực nhọc. Họ vào ra qua một cái cầu treo, cầu kéo lên, căng bị cô lập với bên ngoài. Lính gác dày đặc trên các chòi canh, sẵn sàng bắn bất cứ ai chúng tình nghi chạy trốn. Nguyễn Chánh cùng một số tù nhân khác đấu tranh quyết liệt, hô khẩu hiệu: Đả đảo khủng bố! Phải trả tự do cho anh em an trí!". Địch xông vào đánh đập và bắt ông đưa về nhốt ở ca-sô, thuộc nhà lao Thừa Phủ, Huế. Ca-sô là xà lim dưới hầm, chật cứng người; đứng phải khom lưng. Lính gác lăm lăm khẩu súng, hễ nghe tiếng động là bắn, không cần chờ lệnh. Tính mạng tù nhân như ngàn cân treo sợi tóc. Về mùa đông, ở ca-sô Huế, rét buốt xương thịt. Bọn cai ngục chỉ cho mỗi người mặc một quần đùi, một áo may ô. Nhưng quần áo lót cũng không còn vì phải xé dần để đi ngoài. Do vậy, ai nấy đều ở trần như nhộng. Bao nhiều năm ở tù, lần này Nguyễn Chánh mới thấy hết cái dã man tàn ác của kẻ thù trong mấy tháng bị đày đoạ ở ca-sô Huế. Nỗi nhớ nhà, nhớ vợ con và người thân da diết cùng với lòng tin mãnh liệt vào chiến thắng của cách mạng đã thôi thúc ông làm bài thơ "Gắng đợi ngày mai" ở ca-sô Huế. Bài thơ có đoạn:

"Ai về nhắn bạn cố tri,
Tình riêng ai lại khác gì hơn ai?
Trên đường gió bụi, chông gai
Đạp bằng ta sẽ cùng ai đi về
Bóng hồng phủ khắp thôn quê,
Tình nhà, nợ nước đôi bề vẹn hai,
Em ơi gắng đợi ngày mai"...

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam. Các tù nhân đấu tranh ráo riết, cuối cùng bọn Nhật phải thả anh em ra. Nguyễn Chánh có cái nhìn sắc sảo và đánh giá thời cuộc chính xác, có độ khái quát cao. Ông nói ngay với các đồng chí bị giam cầm trong ca-sô Huế:

- Tình hình này, theo tôi, thế nào ở Ba Tơ cũng có khởi nghĩa. Do đó, tôi phải về ngay.

Quả đúng như vậy, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 và đã thành công tốt đẹp. Căng an trí ở hạt Ba Tơ, đồng bào Kinh, Thượng đã nổi dậy cướp đồn địch, lật đổ chính quyển ngụy, Pháp, thiết lập chính quyền cách mạng. Sáng 12 tháng 3 năm 1945 Đội du kích Ba Tơ được thành lập gồm có 27 người. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang giành được thắng lợi trọn vẹn; tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cuộc Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, ở Quảng Ngãi. Vừa mới ở ca-sô Huế về, Nguyễn Chánh được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời và được phân công lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ cùng với các đồng chí Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt.

Sau khởi nghĩa Ba Tơ, chi bộ quyết định chuyển đội du kích vào rừng núi, xây dựng căn cứ và phát triển lực lượng. Song tình hình diễn biến ngày càng khó khăn, phức tạp: Số anh em đau ốm càng nhiều, không thuốc men, đói cơm, nhạt muối, thiếu quần áo mặc... Số quân không phát triển mà lại giảm đi. Trước hiện trạng đó, Nguyễn Chánh sâu sát, xem xét, suy nghĩ và kiến nghị hai vấn đề lớn: Phải xây dựng, củng cố chi bộ Đảng, làm hạt nhân lãnh đạo; phải đưa ngay đội du kích về đồng bằng, dựa vào phong trào cách mạng của quần chúng để xây dựng, phát triển và chiến đấu. Đội lấy dân làm gốc, dựa vào dân, được nhân dân che chở là kín đáo nhất, vững chắc nhất.

Những ngày đầu cách mạng, vạn sự khởi đầu nan; không thầy dạy, không sách vở, phải mò mẫm, tìm tòi... thì quan điểm, nhận thức tư tưởng này là một cống hiến đặc sắc của Nguyễn Chánh cho kho tàng lý luận cũng như hoạt động thực tiễn xây dựng và chiến đấu của quân dân ta. Nó mãi mãi là phương châm chỉ đạo của sự nghiệp cách mạng nói chung và của các lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng.

Đội du kích Ba Tơ về đồng bằng, sống trong cái nôi của nhân dân; động viên được nhân tài, vật lực để xây đựng đơn vị. Chẳng bao lâu, đội từ gần 30 người, phát triển lên hàng nghìn người cùng với mấy vạn du kích ở khắp nơi trong tỉnh. Tầm nhìn thấu suốt của Nguyễn Chánh đã góp phần xây dựng Đội du kích Ba Tơ trở thành lực lượng trung tâm của cao trào kháng Nhật, cứu nước ở miền Nam Trung Bộ; là hạt nhân của lực lượng vũ trang cách mạng, xứng đáng là một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Đội du kích Ba Tơ cùng nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi, là một trong những địa phương đã sớm vùng lên giành chính quyền trong thời cơ phát xít Nhật đầu hàng. Với cương vị là Trưởng ban quân sự, chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa, Nguyễn Chánh tỏ rõ tài năng chính trị, quân sự song toàn, nhanh nhạy, nắm bắt thời cơ, hành động kiên quyết, kịp thời, đã cùng tập thể đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:38:34 am

Liên khu 5 có vị trí chiến lược quan trọng; đặc biệt có chiến trường Tây Nguyên, khống chế cả khu vực Nam bán đảo Đông Dương và nối liền hành lang huyết mạch với Nam Bộ. Vì vậy, từ ngày đầu toàn quốc kháng chiến, đồng chí Phạm Văn Đồng được trên cử vào làm đại diện của Trung ương và Chính phủ ở miền Trung, trực tiếp chỉ đạo chiến trường này. Trong thời kỳ đó, quân và dân Liên khu 5 đã lập được kỳ tích: Giữa vòng vây của quân thù, vẫn giữ vững vùng tự do gồm bốn tỉnh đồng bằng ven biển liên hoàn - Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Bên cạnh đó, các địa phương còn xây dựng được hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh; có kinh tế tự túc ổn định; văn hoá giáo dục phát triển; hệ thống đường giao thông giữa các tỉnh với Nam Bộ, Nam Trung Bộ thực sự trở thành một hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Với cương vị là Chính ủy Bộ tư lệnh Liên khu 5, Nguyễn Chánh có sự đóng góp quan trọng vào kỳ tích nói trên.

Từ năm 1949 trở đi, đồng chí Phạm Văn Đồng, rồi một số đồng chí lãnh đạo khác như Nguyễn Duy Trinh, lần lượt về Trung ương. Vì vậy, nhiệm vụ của ông ngày càng nặng nề hơn. Nguyễn Chánh giữ trọng trách vừa là Bí thư Liên khu ủy, vừa là Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Đây là một thử thách lớn, làm bộc lộ bản lĩnh, tài năng, đức độ của ông.

Từ năm 1951 trở đi, phong trào cách mạng và kháng chiến ở Liên khu 5 không những tiếp tục được giữ vững mà còn có những bước phát triển mạnh mẽ và nhanh hơn. Là Bí thư Liên khu ủy, Nguyễn Chánh tỏ ra là một người lãnh đạo toàn diện. Là Chính ủy kiêm Tư lệnh, ông tỏ ra là một cán bộ có tầm nhìn chiến lược, đồng thời là người chỉ huy kiên quyết, có tài năng tổ chức. Vào những năm 1951-1952, Liên khu 5 gặp nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp: Vụ Sơn Hà; nạn đói trầm trọng vì thiên tai; những sai lầm trong chỉ đạo thu thuế nông nghiệp, thực hiện tổng động viên; những vấn đề nảy sinh trong xây dựng và tác chiến của các lực lượng vũ trang... Nguyễn Chánh một lần nữa lại tỏ rõ tài năng bao quát mọi lĩnh vực, giải quyết dứt điểm từng vấn đề, trên cơ sở một tri thức sâu rộng và đầu óc thực tiễn nhạy bén.

Trong khi thực hiện phong trào "Đời sống mới" ở Sơn Hà, miền Tây Quảng Ngãi, một số cán bộ đã có những việc làm quá trớn, trái với phong tục, tập quán và xâm phạm quyền lợi của đồng bào các dân tộc. Lợi dụng sai lầm này, bọn địch kích động nhân dân bạo loạn. Nguyễn Chánh chủ trương, vận dụng cả chính trị và quân sự, trong đó, chính trị là chủ yếu, vừa tác chiến vừa làm công tác dân vận, ngụy vận, chú trọng giải quyết tốt đời sống cho đồng bào, đồng thời xin tự phê bình trước mọi người về những sai lầm của một số cán bộ. Đến cuối năm 1951, vụ Sơn Hà đã giải quyết tốt.

Năm 1952, ở Bắc Quảng Ngãi, Nam Quảng Nam bị hạn hán nặng, mất mùa; nạn đói lan tràn kéo theo dịch bệnh khắp nơi. Thêm vào đó, tình hình trộm cắp nổi lên, làm mất trật tự trị an ở địa phương. Nguyễn Chánh với chiếc xe đạp cùng vài đồng chí cán bộ, đi đến tận nơi có nạn đói xảy ra. Ông sâu sát xuống tận xã, thôn thăm hỏi một số đồng bào đang nằm liệt giường vì đói, vì bệnh tật. Có người đã chết đói. Nguyễn Chánh trở về báo cáo với Liên khu ủy và đề xuất cứu đói kịp thời như cứu hoả. Ông động viên toàn quân trong Liên khu nhịn ăn một bữa, bớt gạo để cứu đói và chính bản thân nêu gương đầu. Nguyễn Chánh còn đưa một số đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đi cứu đói. Với lon gạo, bát cơm, thìa cháo, viên thuốc, bộ đội chăm sóc cho trẻ em, người già, phụ nữ đang đói khát, bệnh tật nằm liệt giường. Các đơn vị tổ chức làm tổng vệ sinh môi trường, quét dọn, khử trùng trong thôn, xóm. Qua những việc làm ấy, lòng tin của dân với Đảng được củng cố, tình quân dân ngày càng bền chặt. Bài học về "Lòng dân không mất", "Vì nhân dân phục vụ" luôn rực sáng trong con người Nguyễn Chánh. Ông có niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh nhân dân và lòng thương yêu họ như máu thịt của mình. Hơn nữa, Nguyễn Chánh công tác, chiến đấu tử sinh cùng quần chúng, lăn lộn trong quần chúng nên mới có được đức tính cao quý của một nhà lãnh đạo, chiếm được lòng tin tuyệt đối trong nhân dân. Năm 1951, khi được bầu vào Trung ương Đảng, ông đã được Bác Hồ trực tiếp căn dặn: "Làm cách mạng là luôn luôn phải học tập; có ai sinh ra để làm Trung ương đâu. Chú cứ an tâm, Đại hội tín nhiệm bầu chú vào Ban Chấp hành Trung ương là có cân nhắc. Chú về trong đó cố gắng làm tốt trách nhiệm của mình. Các đồng chí và Bác luôn luôn theo dõi và giúp chú". Từ đó, Nguyễn Chánh càng sống gần gũi với chiến sĩ, đồng bào hơn. Ông không chỉ quan tâm chăm lo cho dân mà còn rất tin và đồng cảm với họ, đặc biệt là với đồng bào các dân tộc thiểu số. Dù bận công việc nhưng Nguyễn Chánh vẫn dành thời gian về các buôn làng thăm bà con, tìm hiểu đời sống, những khó khăn và lắng nghe nguyện vọng của họ. Ông luôn luôn nhắc nhở các đoàn đi xây dựng cơ sở ở Tây Nguyên, Đông Bắc Cam-pu-chia, Hạ Lào rằng, dù đến đâu cũng phải lo làm sao cho đồng bào bớt đói, bớt đau, bớt rách rưới và bớt nhạt muối. Nguyễn Chánh nhiều lần tự mình đi khắp nơi, động viên mọi tầng lớp nhân dân đóng góp công sức, trí tuệ, bảo vệ và xây dựng vùng tự do...

Một điểm nổi bật nữa là lòng nhân hậu, tình thương yêu đồng chí, đồng đội sâu sắc. Nguyễn Chánh chăm lo đến cuộc sống tình cảm, hạnh phúc gia đình của họ một cách tự nhiên, chân thành. Ai có băn khoăn, ông đến trực tiếp giúp tháo gỡ. Ai có khuyết điểm, lỗi lầm, ông đến khuyên răn, động viên, không thành kiến. Chính vì vậy mà anh em thường nói: "Ông Chánh chửi nghe cũng sướng", hoặc "Ngồi nghe ông Chánh chỉnh ngon lành, sướng ghê!".

Thời đó, ở Liên khu 5, bộ đội thường đóng trong dân; được bà con thương yêu, đùm bọc. Nhưng cũng có hiện tượng một vài cán bộ, chiến sĩ có quan hệ không đúng với phụ nữ. Số này bị kỷ luật, đơn vị giam trong buồng tối. Dân thương bộ đội, tìm đến cấp chỉ huy xin tha cho anh em. Biết chuyện, Nguyễn Chánh nói: "Tất nhiên là bộ đội không được vi phạm kỷ luật dân vận. Nhưng đơn vị cũng đừng quá khe khắt với anh em. Họ còn trẻ, xa nhà, thiếu thốn tình cảm. Những chuyện như vậy, ta không khuyến khích nhưng chưa có gì nghiêm trọng cả. Đơn vị nên thả anh em ra; yêu cầu làm kiểm điểm và xin lỗi chủ nhà". Ông cười và nói thêm: "Hồi còn thanh niên thì mình cũng như tụi nó thôi. Vì nhiệm vụ nên phải tự kiềm chế. Do vậy, phải hiểu và thông cảm với anh em...".

Bộ đội bảo nhau: "Ông Chánh là một danh tướng, một người lãnh đạo tài năng. Ông còn là một con người "rất con người". Đồng chí Trần Quỳnh, lúc đó làm Chủ nhiệm chính trị của Liên khu 5, bị bệnh ho lao rất nặng, bị thổ huyết và rất bi quan. Mọi người xung quanh xa lánh, sợ bị lây nhiễm. Nguyễn Chánh quyết định để bệnh nhân nghỉ chữa bệnh dài hạn. Hôm ông tới thăm, Trần Quỳnh khóc rưng rức vì lo cho sức khoẻ của mình. Nguyễn Chánh đến ngồi sát, nắm tay và vuốt ve bệnh nhân như người ruột thịt. Ông hỏi han việc ăn ngủ và nói với Trần Quỳnh: "Anh đừng lo. Bệnh này không phải như người ta tưởng đâu; cứ chịu khó thuốc thang, tĩnh dưỡng, nhất định sẽ khỏi bệnh". Quả nhiên, sau một thời gian, đồng chí Trần Quỳnh đã khoẻ trở lại, tiếp tục công tác với cương vị Thường vụ Liên khu ủy Liên khu 5 và sau làm Phó thủ tướng Chính phủ.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:39:16 am

Nguyễn Chánh là người có duyên làm mối. Ông đã trực tiếp giúp đỡ hàng chục cặp cán bộ, chiến sĩ nên vợ, nên chồng. Đại tá Phan Thượng Địch, nguyên Trưởng Ban Quân lực Bộ tư lệnh Liên khu 5 kể lại:

- Hiệp định Giơ-ne-vơ sắp ký. Một hôm, anh Chánh gọi tôi lên bảo: "Ta sẽ phải đi tập kết. Cậu lo giải quyết chuyện vợ con đi!". Tôi đáp: "Nhưng bận quá anh ạ?". Anh bảo: "Bận thì để tao đi hỏi vợ cho?". Tôi tưởng nói đùa, hoá ra anh đi thật. Đường từ Nghĩa Hành, nơi ở của cơ quan, lên Ba Tơ khá xa. Hơn nữa, ở đèo Đá Chát, cây số 13, đường lên Ba Tơ, có con cọp dữ nổi tiếng, đã bắt nhiều người. Vậy mà bất chấp nguy hiểm, anh Chánh đã cùng với một đồng chí bảo vệ, đi suốt đêm để tới nhà mẹ vợ tôi sau này, xin con gái bà cho tôi. Bà cụ cảm động: "Anh là người nắm quân đội. Anh biết ai ra sao. Thầy nó mất rồi. Anh như người anh cả trong gia đình. Trăm sự như anh định liệu cho em nó...".

Hôm sau, anh Chánh về, bảo tôi: "Chuyện vợ con của cậu xong rồi? Lo liệu cưới đi". Tôi kêu lên: "Trời ơi? Đêm hôm, cọp beo như vậy, anh đi nếu xảy ra chuyện gì thì sao?".

Anh nở nụ cười rất tươi và hiền. Sau khi cưới, vợ chồng tôi đến thăm và tạ ơn anh. Hôm đó, trời đổ mưa như trút nước. Anh Chánh hỏi: "Đêm nay chúng mày ở đâu?". Tôi thưa: "Ở nhà dân ạ!". Anh nói: "Không được đâu, nhà dân, vợ chồng ăn ở với nhau, người ta kiêng. Thôi, hai đứa vô cái lán của tao, có giường tre mà nghỉ. Tao qua lán khác, mắc võng nằm". Tôi kêu lên: "Không được, anh ạ!". Anh cười giòn tan: "Đây là lệnh... đồng chí phải chấp hành...".

Cách ứng xử với đồng đội của Nguyễn Chánh là như vậy: mộc mạc, giản dị, sâu sắc, ân tình. Ông tiếp cận, nhìn người và có nhận xét, đánh giá chính xác; tiêu biểu là việc xét chọn các chiến sĩ thi đua, đặc biệt là đối với ông Đinh Núp trong Đại hội Chiến sĩ thi đua Liên khu 5. Một số ý kiến còn phân vân, cho rằng ông Đinh Núp chưa đủ tiêu chuẩn bình chọn vì trình độ văn hoá - lý luận còn quá thấp. Nguyễn Chánh đã có ý kiến sắc sảo, sinh động và cụ thể, có lý, có tình. Ông nói đại ý: Văn hoá và lý luận hết sức cần thiết; nhưng lòng căm thù giặc, kiên quyết, dũng cảm hy sinh để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ dân lại là điều cần thiết gấp bội. Có thể có văn hoá, có lý luận nhưng chưa chắc đã dũng cảm chiến đấu. Ngược lại, căm thù giặc cao độ, hy sinh dũng cảm diệt giặc nên đã tìm được cách đánh hay, đạt hiệu quả. Ông Đinh Núp biết lo cho dân; động viên họ dùng vũ khí thô sơ giết giặc, mấy lần dời làng và biết đốt tranh ăn thay muối. Đó là sự hiểu biết, là lý luận và thực tế. Tất nhiên, còn cần lý luận cao hơn nữa. Nhưng phải từ những hiểu biết và hành động cụ thể, thiết thực như thế mới đúc kết thành lý luận.

Trước những lý lẽ đầy sức thuyết phục ấy của Nguyễn Chánh, mọi người hoàn toàn nhất trí chọn Đinh Núp là chiến sĩ thi đua. Sau này, Đinh Núp đã trở thành anh hùng, nổi tiếng toàn quân, toàn quốc và là con chim đầu đàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Từ chỗ biết nhìn nhận, đánh giá con người chính xác, Nguyễn Chánh có biệt tài thu phục trí thức. Ông tuy không được học hành nhiều nhưng anh em trí thức rất mến phục. Bởi lẽ, Nguyễn Chánh có tấm lòng nhân ái, sự đồng cảm, biết dùng người, tạo mọi điều kiện cho anh em đem hết tài năng, sức lực phục vụ cách mạng. Ông có cách nói rất hấp dẫn: mạch lạc, chặt chẽ, cụ thể, sinh động và chân tình; nghiêm khắc nhưng độ lượng, thấm đượm tình người. Vì vậy, Nguyễn Chánh đã tập hợp được đông đảo anh em trí thức, sử dụng thành công và phát huy tài năng của họ phục vụ cho cách mạng. Đó là các ông: Cao Văn Khánh, Nguyễn Thế Lâm, Giáp Văn Cương, Phan Hạo, Phan Hàm, Huỳnh Đắc Hương, Đoàn Huyên, Lư Giang, Nguyễn Minh Vỹ, Hoàng Xuân Khang... Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Chánh không mắc căn bệnh ấu trĩ, "thành phần chủ nghĩa", kỳ thị trí thức. Ông vẫn tin tưởng, giao các nhiệm vụ quan trọng cho những người thuộc thành phần "không cơ bản" và tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt công việc. Ông Giáp Văn Cương nguyên là sếp ga thời Pháp, đi theo cách mạng, lúc đầu làm quân giới. Về sau, Nguyễn Chánh phát hiện thấy Giáp Văn Cương có năng khiếu về chỉ huy nên đưa sang tác chiến. Vừa ra đơn vị chiến đấu, ông đã chỉ huy đánh một trận xuất sắc ở đèo Hải Vân năm 1947. Ông Lư Giang xuất thân là gia đình địa chủ, nhưng có tài và có uy tín lớn. Nguyễn Chánh giao cho ông làm trung đoàn trưởng kiêm chính ủy một trung đoàn. Ông đã trưởng thành vững chắc trên cương vị này. Lại nữa, ông Nguyễn Minh Vỹ, dòng dõi Tôn Thất nhà vua (Tôn Thất Vỹ), được Nguyễn Chánh giao nhiệm vụ làm Chánh văn phòng Liên khu ủy 5. Sau này, ông Vỹ nói: "Nếu ông Chánh mà có óc "thành phần" thì cái dòng Tôn Thất nhà mình khi mô được làm việc này, việc nọ!".

Trường Thanh niên tiền tuyến do hai ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu tổ chức, dưới thời chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim. Các học viên của trường cũng như lớp cựu sĩ quan của chế độ cũ, phần lớn có trình độ tú tài, cử nhân. Nguyễn Chánh đã đoàn kết tất cả anh em lại vì sự nghiệp cách mạng của Đảng nhằm chiến thắng thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Các ông Phan Hàm, Hồ Văn Điềm đều là thành phần lớp trên và là học viên của Trường Thanh niên tiền tuyến. Hai ông bị Việt Minh Quảng Nam và Quảng Ngãi đòi về để xử lý. Thấy vậy, Nguyễn Chánh nhất định không cho về mà giữ lại, giao công tác xây dựng quân đội tại Huế. Lưc lượng Giải phóng quân hồi đó ở đây có khá nhiều người là trí thức, công chức và binh sĩ trong chính quyền cũ. Ông Hàm và ông Điềm đã tích cực đóng góp công sức vào việc xây dựng lực lượng Giải phóng quân ở Huế.

Ngành Quân y Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, có thể nói là nơi tập hợp nhiều trí thức nhất. Nguyễn Chánh rất thông cảm với những đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh riêng của các bác sĩ, dược sĩ. Ông có chủ trương cởi mở và thực tế, đồng ý cho các bác sĩ khám chữa bệnh ngoài giờ hành chính, giúp nhân dân địa phương. Đối với người nghèo thì chữa giúp; đối với người có khả năng thì lấy một ít tiền thù lao góp vào việc cải thiện đời sống gia đình. Chính sách linh hoạt, thông thoáng và nhân ái đã động viên các bác sĩ, dược sĩ vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, vững vàng, kiên định phục vụ kháng chiến.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:40:03 am

Nguyễn Chánh coi trọng trí thức, sử dụng người có năng lực thực sự và không định kiến với những người thuộc thành phần lớp trên, trong khi chính bản thân ông và gia đình thuộc tầng lớp nghèo khổ, học hành bị hạn chế. Điều đó thật lạ và đáng quý biết bao. Nguyễn Chánh cũng rất quan tâm đến những cán bộ hăng hái cách mạng nhưng thuộc thành phần lao động, không được học hành. Ông kiên quyết bắt buộc họ phải đi học Trường trung học bình dân do Liên khu mở, song song với các trường trung học phổ thông. Từ đó, tạo điều kiện cho anh chị em phát triển toàn diện, có khả năng phục vụ cách mạng lâu đài. Do sáng kiến này của ông, Trường trung học bình dân Liên khu 5 đã đào tạo được 500 cán bộ quân đội có trình độ văn hoá cấp II và có trình độ chính trị, quân sự nhất định. Đồng chí Võ Chí Công cũng trưởng thành lên từ trường này.

Đồng chí Võ Phấn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi đã có nhận xét:

- Nguyễn Chánh không những là nhà lãnh đạo, chỉ huy toàn tài về chính trị, quân sự, kinh tế mà còn là nhà hùng biện. Ông có cách nói rất hấp dẫn, đầy tính thuyết phục, truyền cảm mạnh mẽ, cuốn hút người nghe. Nguyễn Chánh có thể đứng nói chuyện, diễn thuyết bốn đến năm tiếng đồng hồ liền mà vẫn làm người nghe say mê. Ngoài ra, ông còn là người có năng khiếu về văn hoá - văn nghệ; có tâm hồn nghệ sĩ; đến với lĩnh vực này ở tư cách là một người am hiểu, có sự đồng cảm tinh tế về đặc điểm lao động nghệ thuật. Nguyễn Chánh thu hút và giúp đỡ, đào tạo được nhiều văn nghệ sĩ làm nòng cốt trên mặt trận văn học - nghệ thuật như: Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Bổng, Đội Tảo, Sáu Lai, Tống Phước Phổ, Ngô Thị Liễu, Minh Đức, Võ Sĩ Thừa... Vì vậy, anh chị em đến với ông bằng cả tấm lòng mến phục và niềm tin yêu sâu sắc. Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Nho Túy nói: "Giá như ta có được nhiều vị lãnh đạo như Nguyễn Chánh thì lợi cho nghệ thuật biết bao".

Có thời điểm, Liên khu 5 bị nạn đói trầm trọng. Liên khu ủy phải tiến hành giảm biên chế để đỡ gánh nặng đóng góp của dân. Song Nguyễn Chánh vẫn cho thành lập Đoàn văn công Nam Trung Bộ; mặc dù một số cán bộ chưa nhất trí. Ông nói: "Cuộc sống chiến đấu gian khổ, thiếu thốn như thế này, không sinh hoạt vui tươi thì sống sao nổi...". Nguyễn Chánh động viên, khuyến khích phát triển phong trào văn hoá - văn nghệ, phản ánh tình hình sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Các bài hát: "Du kích Ba Tơ" (Dương Minh Viên), "Tây Nguyên hành khúc" (Đức Tùng) và "Bài ca tự túc" (Lưu Trùng Dương) là do ông "đặt hàng" với những tác giả và tham gia đặt lời cho mấy ca khúc ấy. Nguyễn Chánh trao đổi ý kiến với Hoàng Châu Ký, phụ trách đội 3, Văn công Liên khu 5, đại ý: Đoàn phải chú trọng xây dựng hình tượng người dân, người chiến sĩ của Liên khu trong kháng chiến; phải sử dụng các loại hình đặc thù của Liên khu 5 như hát bội, hô bài chòi, nói lía... Đoàn vừa phục vụ vừa xây dựng; nghĩa là, cử người đi sưu tầm các làn điệu dân ca, dân vũ, xây dựng tiết mục, giới thiệu với đồng bào.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Chánh am hiểu, yêu mến đến thế các loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật tuồng. Có lần, anh chị em trong các phòng, ban của cơ quan Quân khu, tổ chức tối hát tuồng mừng Hội nghị Quân chính. Ông đảm nhiệm việc cầm chầu. Trong hát bội, người đánh trống chầu phải là tay sành nghệ thuật. Nguyễn Chánh cầm chầu, tiếng trống điểm nhịp, tiếng trống khen, tiếng trống chê... rất hay. Ai nấy ngạc nhiên, trầm trồ khen ngợi. Kết thúc đêm diễn, anh chị em vây quanh Tư lệnh chuyện trò. Ông tươi cười nói:

- Đời mình nếu không đi làm cách mạng thì đã đi hát bội rồi!...

Năm 1951, Nguyễn Chánh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng bộ Liên khu 5, đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Việt Bắc. Tại đây, trong liên hoan mừng Đảng, mừng Xuân, ông đã cùng với đồng chí Đoàn Trọng Truyến, trình bày tiết mục hát bội. Nguyễn Chánh hát giọng Quảng khá điêu luyện, hoà quyện với tiếng nhị réo rắt, diễn tả thành công một đoạn tuồng cổ về sự tích nhân dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Bác Hồ và mọi người vỗ tay khen ngợi. Bác thưởng cho hai người một quả bí đỏ khá to.

Nguyễn Chánh không những yêu mến mà còn am hiểu khá sâu nghệ thuật tuồng. Ông rất thích xem vở "Sơn Hậu" và đánh giá cao vở này. Đặc biệt, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều có tính cách riêng rất rõ. Nghệ thuật biểu diễn cũng tuyệt diệu: từng câu nói, câu hát đều đúng chỗ; từng động tác cũng vậy, không thiếu, không thừa, thể hiện đúng tính cách nhân vật.

Sau một thời gian miệt mài say sưa làm việc, Đoàn văn công Liên khu 5 mà chủ yếu là Nguyễn Lai, sáng tác được vở "Chị Ngộ" và khẩn trương dàn dựng. Nguyễn Chánh nhiều lần xem biểu diễn tác phẩm này và nhiệt liệt hoan nghênh. Tuy còn vài chỗ cần sửa chữa, nhưng cơ bản là tốt, gây chấn động mạnh trong đời sống tinh thần của nhân dân địa phương. Ông nói:

- Qua vở "Chị Ngộ", ta thấy tuồng vẫn có khả năng phản ánh cuộc sống đương đại nhưng phải chọn lọc đề tài cho phù hợp; bớt đi những chỗ sở đoản, gia tăng chỗ sở trường, sẽ thu hút được tình cảm của người xem. Bên cạnh đó, vẫn tiếp tục biểu diễn các vở tuồng cổ. Đó là những tác phẩm tuyệt diệu, có tính tư tưởng rất cao; có giá trị đích thực, mang tính kinh điển của ta...

Trong Hội nghị Thường vụ Liên khu ủy, Nguyễn Chánh có ý kiến vừa sâu sắc, vừa mạnh mẽ về việc khôi phục, phát triển nghệ thuật tuồng và các hình thức dân ca, kịch truyền thống ở Liên khu 5. Ông giải thích, thuyết phục và quyết đoán:

- Ta cứ nên làm... Thử hỏi Liên khu 5, không hát bội thì hát gì? Chúng ta phải chăm lo, giữ gìn và phát huy tài năng của các nghệ sĩ tuồng. Họ là vốn quý của nhân dân ta. Lời ca, tiếng hát của họ có tác dụng lớn trong đời sống tinh thần của đồng bào, chiến sĩ cũng như tuyên truyền cho nhiệm vụ cách mạng. Nghệ thuật dân tộc có vẻ đẹp độc đáo, có ý nghĩa thâm thúy và giá trị quý báu trong đời sống con người, kể cả đang giữa lúc bom đạn ác liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc...


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:41:42 am

Với các nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Chánh cũng dành thời gian để quan tâm đến họ. Nhà văn Nguyên Ngọc kể lại rằng, lúc ấy, ông và nhà thơ Ngọc Anh mới mười bảy, mười tám tuổi, đang làm báo và tập viết văn. Một hôm, ông cho gọi hai người lên trò chuyện. Như một người anh lớn, tâm sự với hai em nhỏ, Nguyễn Chánh hỏi tỉ mỉ hoàn cảnh gia đình, học hành ra sao và vào bộ đội từng qua công tác gì... cuối cùng, ông khuyên bảo:

- Sáng tác văn học là công việc cao quý, thiêng liêng nhưng vô cùng vất vả. Muốn viết được phải học rất nhiều: Học thầy, học bạn, học trong sách và quan trọng nhất là học qua thực tế, từng trải ở đời. Các em nên đi xuống đơn vị; sống và chiến đấu cùng đồng bào, chiến sĩ, ở đấy là trường học hay nhất, sinh động nhất. Qua đó mà tích luỹ vốn sống lâu dài; mới thể hiện hết được những tác phẩm có giá trị văn chương...

Nghe xong, Nguyên Ngọc cũng như Ngọc Anh rất cảm động và kinh ngạc: không ngờ một vị tư lệnh, bận trăm công nghìn việc mà còn dành thời gian tâm huyết với hai phóng viên trẻ, chưa hề có tiếng tăm gì.

Sau này, nhà văn Nguyên Ngọc nói với đồng nghiệp:

- Chính nhờ sự chỉ bảo của Tư lệnh Nguyễn Chánh mà tôi viết được tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" và Ngọc Anh có được bài thơ tuyệt vời "Bóng cây Kơ Nia".

Và nhà văn nhận xét:

“… Nguyễn Chánh là một con người văn hoá, một nhà văn hoá theo nghĩa rộng và đẹp nhất của khái niệm đó. Ở ông, không ít đâu, có tinh hoa của văn hoá uyên bác phương Đông và Việt Nam; bằng sự thông minh hiếm có, ông đã học được ngay từ nhỏ ở gia đình và truyền thống văn hiến quê hương và giữ gìn, phát triển suốt đời, vận dụng sắc sảo những gì là bản chất tinh tuý nhất trong công việc cách mạng, trong ứng xử các việc lớn, nhỏ, trong quan hệ với con người...

Cái văn hoá uyên bác đó, được hoà trộn nhuần nhuyễn đến hoàn toàn tự nhiên với văn hoá dân gian, dân tộc mà ông hiểu, yêu mến và giỏi nữa...

Qua Nguyễn Chánh, cho ta hiểu thế nào là một nhà văn hoá, mà chẳng phải "ồn ào văn hoá" chút nào".

Còn nhà văn Nguyễn Chí Trung, qua những lần được quan sát, được nghe Nguyễn Chánh nói về văn học nghệ thuật, cũng có nhận xét:

“… Đảng là trí tuệ, là đạo đức, là lương tâm. Ở anh Nguyễn Chánh, toát ra tư chất ấy. Anh hiểu, rất hiểu văn học nghệ thuật, như một mối quan hệ tổng hoà, một bộ phận hữu cơ, một mục đích, một nhu cầu tự thân của đời, của người, của chính dân tộc và cuộc đấu tranh giành độc lập, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Dưới con mắt nhìn nhận và đánh giá của các tướng lĩnh, Nguyễn Chánh là nhà văn hoá quân sự lỗi lạc. Ông có khả năng đặc biệt về dự đoán khoa học quân sự: Thấy trước các tình huống sẽ xảy ra trong quá trình tác chiến và tìm được các giải pháp cho từng tình huống phù hợp, chính xác, như người cao cờ, thấy được các nước đi của toàn bộ ván cờ. Nguyễn Chánh coi trọng chất lượng chiến đấu của bộ đội theo hướng "tinh binh, tinh cán". Do vậy, năm 1952, mặc dù trong giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến, Liên khu 5 vẫn kiên quyết giảm quân từ 5 vạn xuống còn 3 vạn mà sức chiến đấu của bộ đội vẫn được nâng cao. Ông yêu cầu "Phải huấn luyện những gì mà chiến tranh cần đến và huấn luyện theo cách đánh của ta".

Một đòi hỏi cấp thiết của chiến trường là bộ đội chủ lực phải đánh địch trong công sự vững chắc (đánh công kiên). Để thực hiện thắng lợi cách đánh này, Nguyễn Chánh cùng cơ quan tham mưu đã vào cuộc, giải quyết tư tưởng, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội. Là tư lệnh một chiến trường trọng yếu, rộng lớn, gồm 12 tỉnh Nam Trung Bộ cùng các tỉnh Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, đồng thời là tư lệnh các chiến dịch lớn ở Liên khu 5, ông ra trận là đem đến niềm tin và chiến thắng.

Đặc biệt, trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên năm 1953-1954, một chiến dịch có ý nghĩa to lớn đối với Liên khu 5 cũng như chiến trường cả nước, Nguyễn Chánh càng tập trung thể hiện rõ tài chỉ huy quân sự của mình. Lúc này, địch đưa một lực lượng khá lớn, mở chiến dịch Át-lăng, thực hiện kế hoạch của tướng Na-va, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, hòng đánh chiếm vùng tự do đồng bằng Liên khu 5. Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương: Ta không thụ động đối phó với địch ở vùng tự do mà chủ động đưa lực lượng chủ lực gồm Trung đoàn 108 và Trung đoàn 803 đánh lên Tây Nguyên, giành lấy địa bàn chiến lược này, đẩy địch vào thế bị động. Đó là cách tốt nhất để giữ vùng tự do đồng bằng miền Trung. Bấy giờ, một số cán bộ, chiến sĩ, đồng bào còn có chỗ chưa thông suốt, muốn dùng chủ lực để giữ đồng bằng, họ đặt câu hỏi hóm hỉnh và hình ảnh: "Tại sao lại bỏ lúa, đi nhặt bắp?".

Nguyễn Chánh kiên trì thuyết phục và đấu tranh với mọi ý kiến trái ngược. Ông kiên quyết chấp hành nghiêm chỉnh và tổ chức thực hiện rất tốt chủ trương của Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh. Trước thời điểm mở chiến dịch 10 ngày, Liên khu triệu tập Hội nghị cán bộ để Nguyễn Chánh trực tiếp giải thích rõ ý định của trên. Với cách nói giản dị, sinh động, ông làm cho mọi người hiểu ra một điều then chốt: Ta đánh Bắc Tây Nguyên là giành thế chủ động, đánh vào cái "dạ dày" của địch. Còn nếu ta đánh hướng đồng bằng Phú Yên, Bình Định là bị động, đối phó, khác nào đánh kiểu "chọi trâu"; trong khi ta lại yếu hơn địch về trang bị vũ khí và tiềm lực vật chất. Như vậy, sẽ khó mà giành thắng lợi.

Nguyễn Chánh còn nhấn mạnh thêm:

- Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nắm được Tây Nguyên là nắm được miền Nam Đông Dương. Ta đánh thắng Tây Nguyên sẽ làm chuyển biến tất cả. Lúc ấy "bắp sẽ có mà lúa cũng vẫn giữ được".

Ông làm chuyển biến nhận thức, tư tưởng cho cán bộ trước để làm đòn bẩy cho việc làm chuyển biến tư tưởng trong nhân dân.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:42:55 am

Ngày 25 tháng 1 năm 1954, ta mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Trung đoàn 108 tiêu diệt tiểu khu quân sự Mang Đen. Trung đoàn 803 tiêu diệt 2 cứ điểm Kom Rẫy, Mang Bút ở Đông Nam Mang Đen. Như vậy là, ta đã đập tan tuyến phòng thủ và mở toang cánh cửa vùng Đông Bắc Kon Tum. Mang Đen bị tiêu diệt làm rung động dữ dội thị xã Kon Tum và cả Plây Cu. Ngược lại, chiến thắng Mang Đen là trận công kiên lớn nhất của Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp. Ngày 7 tháng 2 năm 1954, quân ta dũng mãnh đánh chiếm và làm chủ thị xã Kon Tum. Thế là, chỉ trong 10 ngày, toàn tỉnh Kon Tum rộng hơn 14.000km2 với 20 vạn dân đã được hoàn toàn giải phóng. Tin chiến thắng lan nhanh, làm nức lòng quân dân Liên khu 5 và đồng bào, chiến sĩ cả nước. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nghe báo tin đã rất ngạc nhiên, không ngờ chiến dịch lại thắng lợi nhanh, gọn, đến như thế. Đồng chí hỏi lại xem có chính xác không. Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Chánh, trả lời rất rõ trong máy:

- Báo cáo! Tôi và Bộ chỉ huy chiến dịch đang ngồi tại thị xã Kon Tum!

Lúc đó, Đại tướng mới thật tin... Chiến dịch Át-lăng của quân Pháp kết thúc không kèn, không trống. Chiến thắng to lớn của Liên khu 5 đã phối hợp tích cực, nhịp nhàng với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ trong chiến cuộc Đông - Xuân năm 1953-1954. Đó cũng là đỉnh cao thắng lợi của quân dân Liên khu 5 trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Lịch sử dân tộc mãi mãi ghi nhớ vai trò lãnh đạo sáng suốt, bản lĩnh chiến đấu kiên cường của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Liên khu 5 cùng với những cống hiến xuất sắc của Tư lệnh Nguyễn Chánh. Một lần nữa minh chứng, ông là một vị tướng có tầm nhìn xa trông rộng, luôn điềm tĩnh, quyết đoán và có quyết sách chính xác, đúng đắn trước những diễn biến phức tạp nhất của thời cuộc...

Đờ Bô Pho, tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Át-lăng, sau này, hết sức thán phục Nguyễn Chánh khi được gặp ông tại Hà Nội. Đờ Bô Pho cứ ngắm Nguyễn Chánh từ đầu đến chân và nói: "Ông cho phép tôi nhìn kỹ người đã làm cho tôi mất ăn, mất ngủ ở cái xứ cao nguyên ấy. Tôi sẽ về viết lại cuộc gặp hiếm có này vào cuốn sách tôi đang viết". Trầm ngâm một lát, Đờ Bô Pho nói tiếp: "Quả thật, tôi khâm phục quân đội của các ông; họ giỏi hơn lính của chúng tôi. Các ông thắng là phải". Nguyễn Chánh trả lời ông ta: "Không phải lính Pháp kém cỏi đâu. Họ đã từng chiến thắng phát xít Đức từ châu Âu đến châu Phi. Các ông thua vì các ông không có chính nghĩa mà thôi. Bộ đội của chúng tôi biết chiến đấu vì mục đích gì; còn quân đội của các ông đi đánh không có lý tưởng nên thua là phải".

Từ sau năm 1954, Nguyễn Chánh tập kết ra Bắc và công tác tại cơ quan Bộ Quốc phòng. Trước khi đi, ông suy nghĩ rất nhiều. Trên mảnh đất Liên khu 5 thân yêu đã nhuộm đỏ bao nhiêu máu của quân và dân mới giữ được vùng tự do; giờ đây, lại phải trao cho đối phương. Trong Hội nghị cán bộ toàn Liên khu 5, với quyết tâm sắt đá và nỗi xúc động sâu sắc, Nguyễn Chánh nói:

- Tôi xin hứa với các đồng chí, nếu sau hai năm, quân thù vẫn ngăn trở nhân dân ta thực hiện nguyện vọng chính đáng của mình là hoà bình thống nhất đất nước, thì tôi sẽ xin phép Trung ương, Chính phủ, được cầm lá cờ "Quyết chiến, Quyết thắng" cùng với các đồng chí trở về giải phóng quê hương yêu quý. Chúng ta nhất định thắng!

Ở miền Bắc, Nguyễn Chánh được Nhà nước và quân đội cử giữ trọng trách Phó tổng tham mưu trưởng, rồi Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ. Có lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm bộ đội Liên khu 5 ra tập kết, đã nói: "Anh Chánh vốn là đồng chí thực sự có năng lực, giỏi, có kinh nghiệm, có tín nhiệm. Nay được gần Trung ương và Bộ Quốc phòng, càng có điều kiện phát huy trong cương vị công tác mới".

Quả đúng như vậy, Nguyễn Chánh từng đề cập đến ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cán bộ, ông quan niệm:

- Thời nào cũng cần phải có đội ngũ cán bộ giỏi để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Muốn có cán bộ giỏi phải qua một chu trình mất nhiều công sức và giải pháp công phu, từ khâu phát hiện, tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng và sử dụng; rồi lại phát hiện... Cơ quan cán bộ và người làm công tác này phải coi đây là vấn đề tiên quyết. Hơn nữa, người làm công tác cán bộ cần có đủ tài, đức, khách quan, trung thực, không nên "gọt chân cho vừa giày" thì mới thực hiện được đường lối, chính sách cán bộ của Đảng. Cơ quan tổ chức cán bộ phải thực sự là "cây cổ thụ", toả bóng mát, làm chỗ dựa cho cán bộ về niềm tin và tình cảm; làm cho anh chị em đã đi đâu, về đâu cũng đều muốn ghé về cơ quan như muốn ghé về gia đình thân thương của mình.

Lời nói của ông mộc mạc, giản dị nhưng đã trở thành nguyên tắc sống động, thành bí quyết thành công của công tác tổ chức cán bộ. Nguyễn Chánh phân tích sâu sắc đặc điểm cán bộ của ba miền Bắc, Trung, Nam để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Cán bộ miền Bắc vốn tiếp thu được truyền thống văn hoá cao; được thử thách trong chiến tranh. Đó là nguồn sản sinh ra nhân tài. Phải hết sức phát huy cả số có tuổi và số trẻ. Cán bộ miền Trung ở dải đất hẹp, bị chia cắt, kinh tế nghèo nàn; được tôi luyện trong gian khổ nên tận tuỵ, trung thành với cách mạng. Song trình độ văn hoá của anh chị em còn thấp, phải cho đi học văn hoá. Từ đó, chuẩn bị cho đội ngũ sau này. Còn cán bộ miền Nam từng chiến đấu dài ngày, ở xa Trung ương, tính tự lập tự cường cao; lại có khí phách của phương Nam. Tuy nhiên, ít được học tập, được giao lưu để mở rộng nhận thức. Song đây là vốn quý, phải hết lòng giúp họ tiến bộ về mọi mặt, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ hùng hậu cho miền Nam sau khi nước nhà thống nhất.

Nguyễn Chánh suy nghĩ sâu, rộng như vậy, nhưng lại cụ thể. Trên cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, ông giải quyết nhiều công việc rất công tâm, có tình, có lý. Do đó, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân đã phát biểu: "Ông Chánh làm công tác cán bộ thì anh em phấn khởi, yên tâm...".


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:43:59 am

Phong quân hàm, Nguyễn Chánh nêu chính kiến: Quân đội phải có chế độ quân hàm; nước nào cũng vậy. Điều quan trọng là đừng để hình thức cấp hàm làm ảnh hưởng đến tình cảm đoàn kết trong quân đội - đoàn kết giữa cán bộ với nhau và giữa cán bộ với chiến sĩ. Nước ta nhỏ, số quân không đông; cấp hàm cao nhất nên là đại tướng. Như thế được rồi. Ngoài ra, cán bộ của ta phát triển không đồng đều; có chiến trường miền Bắc, chiến trường miền Nam. Tài năng thể hiện cũng khác nhau. Đồng thời, còn phải chiếu cố khu vực, người dân tộc thiểu số. Do đó, quân hàm theo bốn cấp thì dễ xếp hơn.

Theo ý kiến Bác Hồ và Bộ Chính trị, phong Đại tướng cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Còn phong Thượng tướng thì nên cân nhắc bốn người, trong đó có đồng chí Nguyễn Chánh. Nhưng rồi, chưa kịp dự phong quân hàm, ông đột ngột ra đi, giữa lúc tài năng đang phát triển rực rỡ; để thương đau, để tiếc nuối quá nhiều cho đồng chí, đồng đội và gia đình, vợ con...

Nguyễn Chánh là một danh tướng, văn võ song toàn. Ở ông, còn là một người con hiếu thảo, một người em trên kính dưới nhường, một người chồng thủy chung son sắt và một người cha rất mực thương con... Ngay từ thuở thiếu thời, chị Ba, chị Bảy, hai người chị ruột của Nguyễn Chánh đã có nhận xét:

- Hồi còn bé, nó yếu lắm nên được cha mẹ thương nhất và chăm sóc tận tình nhất, cả nhà ai cũng cưng chiều. Cậu Chín (gọi theo thứ) càng lớn lên thì tình thương yêu đó càng tăng gấp bội; bởi vì, nó là đứa con rất ngoan, hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu các anh, chị. Là bé út trong nhà nhưng cậu Chín như sợi dây đoàn kết, gắn bó mọi người với nhau. Cứ mỗi lần, trong gia đình có việc va chạm, nó tham gia ý kiến là êm ả ngay; ai cũng theo nó.

Sau này, trở thành cán bộ lãnh đạo Liên khu 5, ông có quan niệm rất rõ ràng, ngời sáng về đạo lý, lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng đối với Tổ quốc, nhân dân và gia đình. Đó là chân lý vẹn toàn, sống mãi với thời gian. Nguyễn Chánh cho rằng, nói hy sinh tất cả vì Tổ quốc, vì nhân dân mà quên mình là đúng; nhưng bỏ mặc cha mẹ, vợ con sống chết như thế nào cũng không biết đến thì chưa đúng, không trọn nghĩa vẹn tình. Vì cha mẹ, vợ con cũng là nhân dân, lại là những người có quan hệ máu thịt mà không được quan tâm chăm sóc thì nói vì nhân dân quên mình chỉ là lý luận suông, không thuyết phục được ai. Phải nói rằng, xung phong ra trận để tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống của nhân dân cũng đồng thời là bảo vệ gia đình, bảo vệ cha mẹ, vợ con của mình. Vì thế nên không có điều kiện giúp đỡ, chăm sóc cha mẹ, vợ con được thì đành phải chịu. Nhưng với khả năng của mình, nên khuyên bảo vợ con, động viên cha mẹ và người thân, góp công, góp của vào cuộc kháng chiến. Kẻ ở tiền tuyến, người ở hậu phương, đều làm tốt nhiệm vụ đánh giặc, cứu nước để giành lấy độc lập, tự do; đem lại hạnh phúc chung cho dân. Có như thế mới gọi là hy sinh cho Tổ quốc...

Người bạn đời của Nguyễn Chánh là bà Phạm Thị Trinh, sinh năm 1914, tại xã Tịnh Minh, một vùng quê bên dòng sông Trà, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng giàu lòng yêu nước. Năm 16 tuổi, bà đã tham gia hoạt động cách mạng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Người con gái sông Trà ấy từng cầm cờ chỉ huy cuộc biểu tình của hàng nghìn đồng bào Sơn Tịnh trong cao trào cách mạng năm 1930-1931. Khi bị bọn thực dân Pháp đàn áp, bà đã hai lần phải vào tù ra tội; bất chấp mọi cực hình tra tấn dã man, vẫn giữ trọn khí tiết của người cộng sản.

Khi mãn hạn tù, bà Phạm Thị Trinh tiếp tục cùng chồng hoạt động cách mạng trên nhiều cương vị công tác, trong đó có chức vụ: Hội trưởng Phụ nữ Liên khu 5. Trong quá trình làm việc gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm; tình nhà, nghĩa nước, mang nặng hai vai nhưng bà vẫn nỗ lực vươn lên làm tròn nhiệm vụ Đảng giao; làm tròn nghĩa vụ của một người mẹ, người vợ đảm đang, trung hậu.

Năm 1954, cùng gia đình tập kết ra Bắc; từ đó, bà công tác tại Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; là đại biểu Quốc hội khoá II và khoá III. Bà Phạm Thị Trinh đem hết sức mình cống hiến cho phong trào phụ nữ, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong quá trình công tác, bà còn làm nhiều bài thơ để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược; để ca ngợi quê hương, đất nước; ca ngợi Đảng, Bác Hồ; ca ngợi tình đồng chí, tình nghĩa vợ chồng...

Có được người vợ, đồng thời là người đồng chí, cùng kề vai, sát cánh hoạt động cách mạng, Nguyễn Chánh vô cùng tự hào, lo tròn việc nước giữ trọn đạo nhà. Ông và bà Phạm Thị Trinh từng vào tù ra tội, ngược xuôi công tác nhưng lòng luôn hướng về nhau, chân thành, tha thiết. Mối tình đó đã từ lâu ấp ủ, qua bao thử thách vẫn vững vàng, trong sáng; là chỗ dựa và nguồn động viên nhau trong cuộc đấu tranh chung. Để đạt được điều đó, họ phải vượt qua khó khăn, trở ngại trong các phong tục tập quán thủ cựu, lạc hậu. Ban đầu, ông bà yêu nhau nhưng hai bên gia đình không đồng tình. Họ cho rằng, mỗi nhà đã có ba, bốn người đi tù vì hoạt động cách mạng, không ai muốn rước thêm cái khổ vào nữa. Nhưng rồi, Nguyễn Chánh khéo thuyết phục mọi người nên ông và bà Trinh vẫn thành vợ, thành chồng. Nguyễn Chánh nhớ mãi, cảnh đón cô dâu về nhà chồng, phải nằm trên một chiếc giường gãy, còn có ba chân ọp ẹp, không chăn, không màn. Mùa lạnh cũng như mùa nóng, chỉ có một chiếc chiếu thôi. Vợ chồng hai bàn tay trắng, không nghề nghiệp, không có đồng tiền dính túi; phải sống dựa vào gia đình.

Tuy nghèo khổ nhưng điều toại nguyện nhất đối với ông và bà Trinh là, ngoài tình vợ chồng còn là tình bạn, tình đồng chí. Họ tôn trọng nhau, nể phục nhau và hứa hẹn: mỗi người có cá tính riêng nhưng phải phục tùng một điều chung là, trung thành với cách mạng, với lý tưởng của mình. Bà Trinh nói với chồng:

- Em chỉ mong ở với nhau đến trọn đời; đừng va chạm, nặng lời, phải giữ lấy điều tốt đẹp vì hạnh phúc của mình và con cái sau này.

Thực ra, tính tình của ông bà không giống nhau. Bà Trinh thẳng thắn, kiên quyết nhưng có phần vụng về, khe khắt và hay tự ái. Ông Chánh luôn luôn dịu dàng, tế nhị, tình cảm và ăn ở nền nếp, vì vậy, đã bổ sung và khắc phục được nhược điểm của bà Trinh.

Nguyễn Chánh luôn gọi vợ là "bạn tri kỷ"; dạy bà Trinh học văn hoá, đọc sách và làm thơ. Hai người ngày càng gắn bó và quý trọng nhau hơn. Gánh nặng cuộc đời vợi đi và cuộc sống trở nên hạnh phúc, ấm áp trong thiếu thốn, đói nghèo.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 07:44:46 am

Khi ở tù, Nguyễn Chánh nghe tin vợ vất vả, khổ cực, vừa buôn bán kiếm sống nuôi con, vừa hoạt động cách mạng, ông viết thư động viên: "Bây giờ đầu óc tôi cứ nghĩ khi ra tù, về đến nhà, thấy mình chỉ ngồi một chỗ, bảo tôi đến gần để sờ thử cánh tay xem gầy đến mức độ nào. Trước mắt tôi, hiện ra người đàn bà, trong rổ chỉ có mươi quả trứng, dăm lon mè, đi đi, lại lại, bán cho bạn "cu-ly". Tôi muốn chia sẻ nỗi khổ ấy với mình; như những ngày tôi lén bà con chòm xóm, lén gia đình, đi giặt quần áo cho mình trong lúc đêm khuya khi mình sinh đẻ. Thôi, đứng lên Trinh ơi! Tôi tin "ngươi bạn tri kỷ", đáng tin cậy sẽ vượt qua khó khăn để sống và hoạt động".

Nguyễn Chánh còn gửi kèm theo mấy câu thơ cho vợ:

"Này lặng Trinh ơi, lặng lặng nhìn
Bóng hồng sông núi khắp nơi in
Cuộc đời đến lúc vần xoay lại
Bỏ kiếp phù sinh, bước nổi chìm".

Những bức thư, những câu thơ viết ra tự đáy lòng ông, đã góp phần hỗ trợ, an ủi, giúp bà Trinh chôn vùi cái khổ đau, đứng vững trong cuộc đấu tranh chống sự bất công xã hội đang chà đạp lên những người dân yêu nước Việt Nam.

Mẹ đẻ mất sớm, còn có cha, Nguyễn Chánh luôn luôn xót xa, ân hận, vì hoạt động cách mạng, không có điều kiện chăm sóc người đã sinh ra mình. Ông viết thư gửi cha: "Thưa cha! Con vừa ra khỏi ngục tù; đáng lẽ con phải ở nhà với cha và vợ con một thời gian. Nhưng vì nhiệm vụ cách mạng mà con phải ra đi. Cha đừng giận, đừng trách con bạc bẽo, không biết thương cha. Con chỉ mong cha mạnh khoẻ, chờ ngày tái ngộ. Lúc ấy gia đình ta sum họp, vui vẻ. Con mong cha tha lỗi cho con...".

Bệnh tình của bà cụ thân sinh ra bà Phạm Thị Trinh ngày càng nặng thêm và cụ đã qua đời. Cụ mất đi, mẹ con bà Trinh thương nhớ khôn nguôi, cứ ngẩn ngơ vì cảnh gia đình hiu quạnh. Hình ảnh bà cụ mắt đã mờ, lưng đã còng mà vẫn hết lòng chăm sóc các cháu cho con gái, con trai, trong đó có đồng chí Phạm Kiệt, Phạm Trân hoạt động cách mạng bị tù đày. Người mẹ lý tưởng ấy, luôn luôn là tấm gương sáng về lòng kiên trung, dặn dò khi con bị địch bắt: "Đừng khai báo", "Đừng yếu đuối". Bà Trinh thương nhớ mẹ; đau khổ tột cùng.

Nguyễn Chánh tìm lời an ủi vợ: "Mẹ mất, anh cũng đau lòng như em. Xưa nay, anh vẫn coi mẹ như mẹ đẻ của mình. Đau khổ, tiếc thương đâu có phải mình em. Nhưng em ơi, chúng ta là người cách mạng; đứng trước biến cố này, phải có nghị lực để giải quyết mọi việc. Em cứ khóc mãi cũng không giải quyết được gì. Hãy đứng dậy, đừng khóc nữa em! Bà mất rồi là khó khăn lớn đối với gia đình ta. Anh và em phải giải quyết việc ăn, ở cho các con thì mới mong tiếp tục đi công tác được".

Trong mọi tình huống khó khăn, hiểm nguy, Nguyễn Chánh đều bình tĩnh, dặn dò, động viên bà Trinh. Với cương vị là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, ông biết thời điểm ra đi này, có thể sẽ gặp nhiều trở ngại khôn lường. Vì vậy, Nguyễn Chánh nói với vợ: "Lần này anh đi chiến trường, có căng thẳng hơn mọi lần. Nhưng đã chuẩn bị bảo vệ chu đáo, em đừng lo; cố gắng giữ gìn sức khoẻ để học tập, công tác. Anh sẽ viết thư về cho em như mọi lần".

Ông nắm chặt tay bà Trinh rồi lên đường. Đêm sương, núi rừng trùng điệp, bóng người khuất dần. Đúng như lời hứa, đến nơi, Nguyễn Chánh viết thư ngay về cho vợ. Rồi hàng tuần, thư ông đều đặn gửi về cho bà Trinh như mười mấy năm về trước. Mỗi lá thư đều đem lại cho người nhận niềm vui, tin tưởng để tích cực học tập, công tác. Tuy nhiên, bà Trinh không tránh khỏi sự lo lắng cho chồng, đang lăn lộn nơi khói lửa chiến trường. Sau chiến thắng, Nguyễn Chánh gặp lại vợ mới nói ra sự thật của lòng mình lúc lên đường: "Hôm chia tay, sợ em lo lắng chứ anh xác định đi lần này là không hy vọng trở về. Từ trước đến giờ, chưa lần nào, chỉ huy lại nằm cách mặt trận chỉ có một ki-lô-mét. Mặt khác, thằng Nguyễn Nên là Phó tư lệnh Quân khu 5, phản bội, chạy theo địch, đã bị ta bắt lại. Nó khai ra, từng ba lần lên đạn định bắn anh rồi nhảy vào đồn giặc, nhưng sợ đội bảo vệ nên chưa dám hành động. Vì vậy, em nên ăn mừng đi!".

Ở Hà Nội, một hôm Nguyễn Chánh mang đặt trên bàn mấy cái hộp con màu đỏ. Ông nói với bà Trinh:

- Hôm nay, anh vừa đi nhận huân chương của Đảng, Chính phủ tặng - mở chiếc hộp nhỏ ra, nói tiếp - Riêng Bác Hồ, tặng anh một cái đồng hồ có khắc tên Người đây này!

Nguyễn Chánh tươi cười nhìn vợ, nói tiếp:

- Đáng lẽ những huân chương này, Đảng tặng cho em thì đúng hơn là tặng cho anh... Bởi vì, nếu trong quá trình hoạt động cách mạng mà không có sự giúp đỡ của em thì anh không được tặng huân chương. Hơn nữa, anh nhận huân chương nhưng anh không bao giờ quên công lao của cán bộ và chiến sĩ toàn quân khu đóng góp trong những chiến công thắng giặc.

Bà Trinh vừa mừng vừa lúng túng, không biết nói gì hơn; cầm hộp Huân chương Quân công mở ra ngắm nghía hồi lâu.

Khi Đảng cần cán bộ đi làm công tác sửa sai cải cách ruộng đất, bà Trinh xung phong tham gia. Biết trước được công tác sẽ khó khăn, vất vả, Nguyễn Chánh cảm thông và động viên vợ:

Biết em lúc nào cũng hăng say công tác nên anh hết sức ủng hộ. Khi ở Trung Quốc chữa bệnh, anh thường lo nghĩ đến thân hình gầy gò của em. Nhưng mỗi lần nhận được thư nhà, đọc xong, toát lên tinh thần mạnh mẽ và sự phấn đấu mãnh liệt của người cách mạng, mặc dù em là một phụ nữ đã có sáu con...

Những năm công tác ở Hà Nội, lần đầu tiên ông được sống gần các con, được nghe cháu Hoà bé nhất bập bẹ nói: "Mời ba ăn cơm". Nguyễn Chánh vỗ về, âu yếm con và được các con quấn quýt xung quanh mình. Có lẽ, đây là những giây phút đầm ấm, hạnh phúc nhất trong đời ông.

Song, ngày vui qua nhanh, nỗi buồn vô hạn xích đến. Không ai ngờ được, bốn giờ sáng, Nguyễn Chánh tỉnh dậy, chuẩn bị đi công tác mà bốn giờ bốn mươi nhăm phút, tim ông đã ngừng đập. Như một tiếng sét, bất ngờ giáng xuống đầu Phạm Thị Trinh, khiến bà hoảng hốt, bàng hoàng. Đau khổ đến với bà Trinh mà cũng là nỗi đau mất mát của quê hương Quảng Ngãi, của Đảng và quân đội. Nguyễn Chánh ra đi, còn trẻ quá; mới 43 tuổi đời. Ông để lại tiếng khóc xót thương cho khắp mọi miền Tổ quốc... Đã có hàng trăm bài viết, lời phát biểu của các tướng lĩnh, sĩ quan, bạn bè, đồng chí, đồng đội về Nguyễn Chánh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Cuộc đời một con người mới 43 tuổi, đã để lại một sự nghiệp như vậy, có thể nói là một cuộc đời thật đẹp: Cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực".

Cố vấn Phạm Văn Đồng nhận xét: "Nguyễn Chánh là người rất thông minh, hiếu học; từ đó mà cũng rất giàu trí tuệ và tài năng. Anh suốt đời phấn đấu vì mục tiêu cao cả là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Tôi tin rằng, tấm gương đó sẽ phát huy tác dụng tích cực, khác nào ánh sáng xua tan bóng tối, góp phần đem lại thành quả ngày càng tốt đẹp của sự nghiệp cách mạng mà suốt đời anh Chánh hằng phấn đấu quên mình để vươn tới".

Đại tướng Nguyễn Quyết nhắc lại một chuyện đau lòng: "Ngày 24 tháng 9 năm 1957, ngày anh Chánh (bấy giờ là Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ) hẹn xuống làm việc với tôi (lúc ấy tôi làm Chính ủy Quân khu Tả Ngạn) lại chính là ngày anh ra đi mãi mãi. Anh ra đi giữa tuổi 43, đang sung sức và đầy hứa hẹn, giữa lòng thương tiếc vô hạn của nhân dân, của đồng chí, đồng đội và cả của bạn bè quốc tế.

Anh Chánh, một con người, một cuộc đời mãi mãi sáng trong; người anh hùng đã một thời oanh liệt của khúc ruột miền Trung kiên cường và bất khuất".

Nhân kỷ piệm 50 năm ngày khởi nghĩa Ba Tơ (11-3-1945 - 11-3-1995), Hoài Bảo Ngọc có mấy vần thơ mộc mạc, xuất phát tự đáy lòng, "Nhớ anh Nguyễn Chánh":

"... Ôi một con người lừng lẫy chiến công
Như khoai, lúa quê ta vô cùng bình dị
Chỉ nhận về mình là người Anh chiến sĩ
Của Liên khu Năm anh dũng kiên cường!
Tôi đã về tìm kỷ niệm yêu thương
Bến nước, bờ sông ven làng Thọ Lộc
Bỗng được nghe Trà Giang rì rào ca hát
Mừng đường thị xã quê mình có cả tên Anh
Và con đường được mở rộng khang trang
Lớp con cháu đang theo anh tiếp bước!".

(Đại tá, nhà báo, nhà văn, NSUT Chi Phan,
"Người con của núi Ấn sông Trà - danh tướng Nguyễn Chánh",
trích từ quyển “Trái tim thắp lửa"- mười danh tướng Quân đội nhân dân Việt Nam,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 79-126)


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười, 2022, 06:21:53 pm

PHỤ LỤC



NGƯỜI ĐI TIẾP CHẶNG ĐƯỜNG CÒN LẠI

Thoạt nhìn tấm ảnh hai Ông Bà chụp hồi còn trẻ ai cũng trầm trồ khen: "Ông Bà đẹp đôi quá nhỉ!". Nhưng nếu như họ biết Ông Bà đã từng là một đôi đi diễn thuyết, tuyên truyền cho lý tưởng cộng sản từ khi 16-17 tuổi, đã từng là đôi bạn tù, đã từng là những chiến sĩ cách mạng trung kiên thà hy sinh chứ không khuất phục kẻ thù, lại còn là đôi bạn thơ tâm đắc, những tiền đề đó dẫn đến kết cục tất yếu là họ đã trở thành đôi bạn đời, thì người ta sẽ thấy ông trời đã khéo "xe duyên" để cho họ có nhau, thuộc về nhau, là một nửa của nhau tạo nên một chỉnh thể hài hoà trọn vẹn.

Vì vậy, sẽ là một khiếm khuyết lớn, nếu nói về Ông mà không nói đến Bà - là người đại diện cho ông đi tiếp quãng đường còn lại dài bằng nửa thế kỷ, mà từng bước thăng trầm trong quãng đường dằng dặc đó, trong những năm tháng chiến tranh ác liệt và tàn khốc, khó khăn và thiếu thốn, cũng như trong những giây phút hân hoan tưng bừng của niềm vui chiến thắng, khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, khi non sông quy về một mối - Ông luôn luôn song hành cùng Bà, hoà quyện trong Bà, động viên khích lệ Bà, tiếp sức cho Bà có nghị lực vượt qua mọi phong ba bão táp của cuộc đời, vượt lên mọi sự vặt vãnh của đời thường để sống một cuộc đời thanh tao, cao đẹp cho đến tận ngày nay. Và đến bây giờ, ở tuổi 94 Bà đã có thể nói với ông câu trả lời mà chính Bà đã đặt ra trong bài thơ nhớ ông sau một năm ông mất:

"... Gánh nợ non sông đứt giữa đường
Mối thù giai cấp nặng trĩu lưng
Anh trao nợ ấy cho trần thế
Ước hẹn giờ đây... mới nửa chừng"

rằng: Gánh nợ ấy Bà đã ghé vai cùng dân tộc trả xong và giờ đây Bà có thể thanh thản cùng ông đi tiếp chặng đường còn lại.

Và như vậy, đúng như chân lý mà có một nhà thơ Cách mạng nào đó đã từng viết cho người yêu của mình khi ông ở trong tù, đại khái như sau: "Khi một nửa tình yêu còn sống, có nghĩa là nửa kia vẫn sống..." vẫn hiện hữu trong nửa còn lại, không bị dòng thác thời gian cuốn lùi về quá khứ.

Từ những suy nghĩ trên đây, trong bài này chúng tôi - những đứa con đã cùng Bà bước tiếp quãng đường mà Ông chưa đi trọn, luôn sống cạnh Bà, chia sẻ vui buồn cùng Bà, vừa hoà nhập trong cuộc sống của Bà, như một bộ phận không thể tách rời, vừa quan sát để học tập cách xử thế của Bà trong mọi tình huống của cuộc đời, - xin được dành ít lời để viết đôi nét về Bà (không có tham vọng lột tả một chân dung trọn vẹn) - như một tấm gương sáng ngời về ý chí và nghị lực phi thường, về tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, không đầu hàng trước bất cứ trở ngại nào, về một tấm lòng bao dung rộng lớn, về tình người bao la được quy tụ trong một người cộng sản đích thực có 77 tuổi Đảng - bằng số năm từ ngày Đảng ra đời.

*

Sáu anh chị em tôi mồ côi cha từ sớm, khi người anh cả tròn 20 tuổi và đứa em út mới 2 tuổi rưỡi, vì vậy mẹ chúng tôi đã thay cha gánh vác sứ mạng làm cha mẹ - nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng tôi nên người, đồng thời vẫn tiếp tục sự nghiệp Cách mạng mà Bà và Ông đã lựa chọn. Về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bà đã được Bà kể khá tỉ mỉ trong quyển hồi ký "Những chặng đường của người mẹ" (Nxb Phụ nữ năm 1993), mà nhiều người đọc đã phải rơi nước mắt vì cảm động: từ cô bán hàng xôi ở các chợ của cộng đồng người Việt bên Nga, bên Đức cho đến giảng viên của trường đại học Harvard danh tiếng bên Mỹ. Trong bài này chúng tôi chỉ xin kể lại một số mẩu chuyện nhỏ trong đời thường nhưng nói lên một nhân cách lớn, nói về tấm gương có thật vô cùng trong sáng mà mỗi khi soi vào đó chúng tôi luôn tìm thấy chỗ dựa tinh thần, có được những định hướng đúng đắn trong quan điểm sống, trong đánh giá xã hội để củng cố lòng tin và phấn đấu tự hoàn thiện mình mà không cần phải có những lời giáo huấn về đạo lý làm người của Bà.

Tôi còn nhớ, khi Bà 61-62 tuổi, Bà bị một trận đau tim nặng tưởng không qua khỏi và sau đó Bà nghỉ hưu – và cũng chính từ đó Bà đã bắt đầu tập Yoga để chiến đấu với bệnh tật. Bà là thầy thuốc của chính mình, tự rèn luyện, tự tìm thuốc để chữa bệnh cho mình, cho con cháu và cho cả những người thân quen. Lòng kiên trì chữa bệnh của Bà làm cho mọi người đều phải thán phục. Suốt 32 năm liền, ngày nào bà cũng dậy từ 4 giờ 30 sáng và tập Yoga, xoa bóp toàn thân, trồng cây chuối, cho đến 6 giờ. Bà rất tin vào những bài thuốc cổ truyền và kiên trì dùng chúng, ít khi dùng thuốc tây và kháng sinh. Sau khi giải phóng miền Nam bà đọc báo nói về công hiệu của Atisô, từ đó đến nay hơn 30 năm liền Bà uống đều đặn hàng ngày, vị "thần dược" nữa mà bà "sùng bái" là rau diếp cá. Bà trồng 1 vạt rau trong vườn và thỉnh thoảng cắt hàng rổ, đun vắt lấy nước rồi cô lại với mật ong hoặc đường thành xirô để dùng khi bị đau đường ruột. Mật ong là thứ thuốc đặc trị bệnh cảm, viêm họng, viêm loét dạ dày, v.v... Bà uống mật ong đều đặn hàng mấy năm liền và đã chữa khỏi bệnh loét dạ dày. Nhờ kiên trì và quyết tâm đi đến cùng Bà đã chiến thắng 10 bệnh, đến bây giờ Bà không còn bệnh gì. Gần đây Bà kêu bị đau lưng và đầu gối, không ngồi lâu được và đi lại khó khăn. Lập tức Bà ngâm rượu gấc, mấy lít rượu và vài trăm hạt gấc được rang lên - và Bà thường xuyên xoa bóp mỗi ngày mấy lần, nhờ đó mà Bà vẫn ngồi được xe ôm đi thăm bạn bè ốm đau nằm viện, đi sinh hoạt tổ thơ và thăm con cháu. Riêng về tính kiên trì này thì chúng tôi chẳng ai học tập được ở Bà. Bà thường nói đùa: "Bọn bay không chịu khó luyện tập, uống thuốc chữa bệnh khéo lại bỏ bà ở lại trên đời này một mình thì buồn lắm!".

Bà luôn luôn có lòng tin tuyệt đối vào ý chí con người, Bà đã hai lần bị chẩn đoán "ung thư gan" và "ung thư vòm họng" vì Bà bị viêm loét cổ họng và vòm họng thường xuyên. Chúng tôi ai cũng lo lắng cho Bà, nhưng Bà rất lạc quan và tự tin động viên chúng tôi: "Nếu ung thư thì Bà phải thấy khó chịu, đau đớn trong người chứ đằng này Bà vẫn "ăn ngon ngủ yên" làm sao mà ung thư được!". Và quả vậy, bệnh gan của Bà được bà chữa bằng Atisô, còn vòm họng thì - mật ong, rau ngót, bột sắn, vitamin C, v.v... và hai bệnh "ung thư" kia sợ Bà nên cũng đã rút lui.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười, 2022, 06:22:44 pm

Lòng kiên trì và chí "quyết thắng" của Bà còn thể hiện ở nhiều mặt khác nữa. Có thể tóm tắt một câu ngắn gọn: Bà đã làm việc gì thì ắt phải làm đến thành công. Trong những năm chiến tranh ác liệt, rồi giai đoạn gian nan sau hoà bình, tất cả đều sống theo chế độ tem phiếu. Bà quyết định tăng gia, trồng rau, nuôi gà, nuôi lợn. Và trước nhà Bà giàn bí xanh, giàn mướp bao giờ cũng nặng trĩu quả, đàn gà công nghiệp của Bà có con đến 3-4kg, đẻ hàng trăm trứng và những con lợn giống của Bà "hay ăn chóng lớn" là nguồn cung cấp giống cho nhiều bà bạn già của Bà. Ai cũng bảo Bà "mát tay", còn chúng tôi chứng kiến hàng ngày Bà chăm sóc cây cối, bón phân tưới nước như thế nào, mua ốc về đập ra cho gà ăn, nấu cám lợn thơm phức có lúc đánh lừa lỗ mũi tưởng là Bà mới nghĩ ra một món ăn độc đáo nào đó... thì khẳng định chắc chắn rằng: chẳng có "mát tay, mát chân" gì hết, chẳng qua là sự chăm sóc tận tình chu đáo, ý chí "quyết thắng" của Bà đã đưa đến thành công. Nhờ đó mà chủ nhật hàng tuần về thăm Bà, khi về Bà nhét vào túi từng đứa lúc thì quả bí, quả mướp, lúc thì chục trứng, nhất là đến Tết Bà cho mỗi gia đình các con 1 con gà khoảng 3-4kg đủ để làm mâm cỗ cúng tất niên, rồi Bà ra lịch ăn Tết, mỗi hôm ăn ở nhà một đứa... Viết đến đây mắt tôi bỗng nhoà lệ, cảm kích tấm lòng bao dung của người mẹ - cao cả và đẹp đẽ biết bao - một trái tim luôn đập cùng nhịp với những trái tim của các con và hai cánh tay của Bà dang rộng ôm chặt sáu đứa con, dâu, rể, cháu chắt vào lòng che chở, truyền năng lượng và suởi ấm cho mọi người. Lòng mẹ thật là bao la không thước nào đo được!

Tuy có nhiều con, nhưng không vì thế mà tình cảm đối với các con bị san sẻ, bớt phần đậm đà thắm thiết. Bà dành riêng cho mỗi đứa chúng tôi một tình thương trọn vẹn của người mẹ, Bà như đoán biết trước số phận của từng đứa để thông cảm, giúp đỡ, khuyên răn những lúc các con gặp khó khăn, ngăn chặn những lỗi lầm, hoặc động viên, khích lệ các con làm những điều có ích cho xã hội, thực hiện được hoài bão của mình. Ai đã là dâu, rể trong nhà Bà thì mặc nhiên được coi là con Bà. Nếu vợ chồng các con có điều gì xích mích thì bao giờ Bà cũng trách con mình là chính. Bà không phân biệt con trai hay con gái vì đứa con nào Bà cũng rứt ruột đẻ ra. Sự công bằng của Bà được đo bằng một thước đo đặc biệt: đứa nào khó khăn hơn, vất vả hơn, bất hạnh hơn thì bà dành sự quan tâm và đồng cảm nhiều hơn, không có nghĩa là Bà thương đứa đó hơn. Trong số anh chị em chúng tôi có một đứa câm điếc vì hồi mới sinh ra được mấy tháng nó bị viêm tai, rồi không có điều kiện chữa chạy thành điếc, dần đến câm. Lúc đó Bà đi hoạt động thoát ly nên các con đều gửi gắm cho cô bác trong họ, đứa lớn trông đứa bé. Sự tật nguyền của đứa em này là nỗi đau lòng không gì làm vợi được, Bà xót xa cho số phận của nó. Nhà nước cho em đi Liên Xô, Trung Quốc chữa trị nhưng vẫn không khỏi. Em lấy vợ cũng câm, nhưng chịu khó làm ăn, sống biết điều, có tình. Hiện nay cả gia đình em có 4 người: 2 vợ chồng và 2 đứa con: cháu lớn học hết lớp 12, cháu nhỏ học lớp 8, ở với Bà và mọi sự quan tâm chăm sóc của Bà đều dành cho chúng. Bà thường tâm sự với chúng tôi: Em bị tật là do Bà bỏ nó đi hoạt động cách mạng, không chăm nom chu đáo lúc còn nhỏ vì vậy nó phải gánh chịu số phận không may và trong việc này lúc nào Bà cũng cảm thấy như mình có lỗi với nó. Chúng tôi tìm mọi cách an ủi nhưng không làm sao thay đổi được cách nghĩ của Bà.

Tình thương của người mẹ đối với đứa con mình rứt ruột sinh ra như là một bản năng, khó có thể giải thích bằng lí trí. Em gái tôi là phóng viên quân đội đã tham gia vào cuộc chiến đấu 12 ngày đêm đánh B52 Mỹ ở Hà Nội, trong những ngày này mẹ tôi cũng "trực chiến" ở cơ quan Phụ nữ Trung ương (tại số nhà 39 Hàng Chuối vì Bà là Bí thư Đảng ủy kiêm ủy viên thường trực Ban phụ vận Trung ương Hội). Có một đêm em tôi tranh thủ về thăm mẹ, đúng lúc đó B52 quần trên trời và thả bom rải thảm ngay trên đầu. Bà liền kéo em tôi nằm xuống và nằm đè lên trên. Em tôi kể lại chuyện này, hai mắt chớp chớp xúc động nói: "Mình là quân nhân, lại trẻ trung đáng lý mình phải che chở cho dân, mà "người dân" đó lại chính là mẹ đẻ của mình, nhưng mẹ đã làm ngược lại - với mẹ, mình lúc nào cũng vẫn chỉ là đứa con nhỏ bé, lúc nào cũng cần sự đùm bọc, chở che". Và những kỷ niệm như vậy nhiều không sao kể xiết, nhưng thiết nghĩ bấy nhiêu cũng đủ nói lên tấm lòng mẹ dành cho từng đứa chúng tôi rộng lớn và cao cả biết dường nào!

Tình cảm của Bà không giới hạn trong gia đình và họ hàng ruột thịt, Bà không bao giờ thờ ơ với nỗi đau của người khác, luôn thấu hiểu và thông cảm, và nếu như có điều kiện, cố gắng góp phần làm vợi bớt nỗi đau đó.

Tôi còn nhớ vào những năm 1963-1964 khi Bà còn đi làm, ngày đêm bận rộn với công việc cơ quan. Có một hôm chúng tôi thấy Bà tìm một mảnh vải may một túi xách có dây đeo qua vai, rồi nhặt nhạnh mấy bộ quần áo bộ đội cũ của em tôi cho vào đó. Chúng tôi hỏi, Bà không nói, chỉ giải thích ngắn gọn: "có việc cần". Sáng sớm hôm sau trước khi Bà đi làm, Bà ghé qua chợ cửa Nam (hồi đó nhà tôi ở phố Trần Phú gần đó), tôi và em gái tôi lần theo xem Bà làm gì. Ngay lúc đó thấy có một thanh niên khoảng 18-20 đang chống hai tay lê trên một tấm bìa các tông dày, hai chân bị cụt, đi về phía Bà. Bà đến gần cúi xuống đeo vào vai cậu cái túi hôm qua vừa khâu và móc túi cho mấy tờ tiền giấy, chắc cũng không nhiều, nhưng là sự san sẻ, chia sẻ với người bất hạnh. Hình ảnh đó theo suốt cuộc đời tôi, mỗi lần đi chợ thấy có người tàn tật, lê trên những tấm chiếu để xin ăn, bao giờ tôi cũng không nỡ đi qua mà không giúp họ vài đồng. Sự cảm thông và thương yêu những người có số phận bất hạnh là điều mà mẹ đã "di truyền" lại cho chúng tôi.

Vào năm 1979, khi tôi sinh cháu thứ hai mới có mấy tháng, cháu bị ốm nặng, đi ngoài hơn một tuần, gầy tọp chỉ còn da bọc xương, vào giữa trưa, khoảng 1, 2 giờ trời nắng chang chang bỗng có ai gõ gõ vào cửa sổ, tôi chạy ra thì thấy mẹ, mặt đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, câu đầu tiên mẹ hỏi: "Cháu đã đỡ chưa?". Tôi lấy nước mời bà uống và hỏi: "Mẹ đi bằng gì lên đây?" (lúc đó bà đã có tuổi nên không còn đi xe đạp được nữa). Bà bảo: "đi bộ". Tôi la lên: "Trời ơi! Nắng thế này mà mẹ đi bộ từ Vĩnh Hồ lên tận Giảng Võ! Tiết kiệm gì mà không đi xích lô cho đỡ vất vả!". Bà vội cải chính: "Chẳng phải tiết kiệm, mà không biết sao mẹ không đành lòng ngồi vào xích lô để người ta è cổ ra chở mình!". Thì ra đây là điều mấu chốt mà chúng tôi không hiểu thấu được: Đời nào một người cộng sản đã từng đấu tranh cho bình đẳng, bác ái, chống người bóc lột người, lại chịu để cho người ta đạp xe chở mình đi như một bà chủ! Bây giờ thì Bà yên tâm ngồi sau xe ôm, không cảm thấy sự "không bình đẳng" nữa mà còn biện minh là "góp phần tạo công ăn việc làm cho họ".

Khó khăn lắm chúng tôi mới thuyết phục được Bà thuê một người giúp việc khi bà đã ngoài tám mươi, không đủ sức phục vụ một gia đình sáu, bảy miệng ăn; đi chợ, cơm nước, giặt giũ nữa, vì từ đây sẽ nảy sinh mối quan hệ "chủ tớ". Nhưng rồi chúng tôi phân tích: xã hội ta bây giờ nhiều người không có công ăn việc làm, việc đồng áng ở quê ít, thu nhập thấp, họ phải ra phố tìm việc. Mượn người giúp việc cũng là tạo điều kiện cho họ có việc làm. Bà thấy có lý nên đồng ý. Khi cậu em thứ tư của tôi sinh cháu đầu, mẹ cháu rất yếu, phải mượn một cô bé 15 tuổi giúp việc. Bà đến chơi, hỏi thăm cháu, biết cháu mới học hết lớp 4, Bà đã nói với em tôi: Các con cố gắng tạo điều kiện cho cháu nó đi học văn hoá thêm, chứ mới học hết lớp 4 thì coi như chưa "thoát nạn mù chữ". Kể lại chuyện này với tôi, cậu em tôi bình luận thêm: Chắc Bà thấm nhuần ước nguyện của Bác Hồ là mong sao cho "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"; còn tôi thì cho rằng: vì hồi nhỏ Bà không được đi học nên có sự đồng cảm sâu sắc đến như vậy.

Trong quan hệ với người giúp việc Bà luôn đặt chữ "tình người" lên đầu tiên nên Bà thường bị chúng tôi trách đùa là "làm hư người giúp việc". Nhiều người đến giúp bà lúc đầu cũng siêng năng chăm chỉ, dần dần biến thành người nhà, chẳng khác gì con cháu: ăn cơm cùng mâm, ngủ trưa đến 3-4 giờ chiều, xem tivi hết các chương trình và dần dần thành lười biếng, chỉ làm qua loa cho xong việc nhà rồi dán mắt vào tivi. Ai ở với Bà sau 3-4 tháng cũng tăng cân vì ăn uống đầy đủ lại không phải làm việc nặng nhọc như ở quê. Nhưng rồi cuối cùng Bà cũng tìm được một cô thực sự là "quản gia", thay mặt Bà chăm sóc gia đình thằng em câm điếc, đỡ đần Bà trong sinh hoạt hàng ngày. Bà hay khen cô ấy với chúng tôi là: "Nó biết thương bọn trẻ và chăm sóc Bà tận tuỵ. Cũng phải thôi, bố nó là đảng viên có 50 tuổi Đảng đấy!". Với Bà, đảng viên ắt phải sinh ra con cháu là người tốt, vì vậy Bà rất an tâm. Chúng tôi cũng mừng cho Bà vì Bà đã tìm được người tâm đắc.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười, 2022, 06:23:40 pm

Sự quan tâm của Bà còn trải rộng ra hàng xóm láng giềng. Hồi Bà còn ở Vĩnh Hồ, có một lần Bà đang ngồi trong nhà, nghe thấy tiếng ồn ào bên ngôi nhà lắp ghép đối diện. Bà liền chạy sang: thì ra công an quận đang lập biên bản về việc cơi nhà trái phép của một quân nhân nghỉ hưu, con liệt sĩ, sinh hoạt cùng chi bộ với Bà. Nhà ông chỉ có 20m2 mà bảy, tám người ở. Ông thấy tầng một, tầng hai đều cơi nới thêm một phòng ra mặt đường, ông bắt chước họ định cơi nới, không ngờ bị công an đến kiểm tra lập biên bản, bắt tháo dỡ. Bà không thể thờ ơ đứng ngoài cuộc, bèn sang hỏi sự thể ra sao. Biết đầu đuôi câu chuyện Bà tham gia ý kiến: "Đồng chí cơi nới nhà mà không có giấy phép thì sai rồi, các đồng chí công an đây lập biên bản là phải. Nhưng tôi có lời đề nghị các đồng chí công an bắt hai gia đình ở tầng 1, tầng 2 cũng phá dỡ phần cơi nới kia đi. Đồng chí này cũng chỉ bắt chước họ thôi mà, luật pháp công bằng với tất cả có phải không các đồng chí?". Thế rồi bà về. Mấy hôm sau bác hàng xóm kia sang nhà Bà chơi và cám ơn Bà: "May quá, có Bác sang can thiệp, mà nhà em tiếp tục xây dựng, chẳng thấy ai cấm đoán gì nữa!". Bà nói chân tình: "ơn huệ gì, tôi thấy sao nói vậy!", rồi Bà cười một cách hóm hỉnh: "Đó cũng là một mục tiêu chiến đấu của Đảng ta mà - thiết lập sự công bằng cho toàn dân!", xong Bà rót nước mời khách uống, nói sang những chuyện vặt vãnh đời thường khác, như chưa từng có gì xảy ra. Chúng tôi thầm khâm phục cách đấu tranh vừa mềm dẻo vừa cứng rắn của Bà, lý lẽ của Bà đưa ra thật đơn giản, nhưng khó có thể bác bỏ được.

Trong những năm gần đây, sức khoẻ Bà có yếu đi nên chúng tôi cố gắng giảm bớt "sự quan tâm" của Bà đối với mọi người bằng cách giấu không cho Bà biết những người bạn già của Bà đang nằm viện hoặc ai đó trong số những người quen của Bà đã nằm xuống vì sợ Bà lại xăng xái đi mua quà, rồi bắt xe ôm đi thăm viếng, hoặc đến nhà chia buồn cùng gia quyến. Chúng tôi khuyên Bà: "Mẹ có tuổi rồi, không đi được người ta cũng thông cảm, chứ cứ lặn lội ngoài đường, xe cộ bây giờ đi lại ẩu, nhỡ chẳng may có chuyện gì thì khổ, bà điện thoại chia buồn là được rồi". Bà kiên quyết không nghe, có khi tay xách hai, ba túi cam, sữa, bánh để đi thăm một lúc mấy người liền. Bà bảo: "Trừ khi mình ốm không đi được, chứ còn có khả năng đi lại mà không đi thăm mọi người, cảm thấy không đành lòng. Nhất là khi có người nằm xuống mà không đi phúng viếng làm sao có thể yên được - nghĩa tử là nghĩa tận mà!"... Mà bạn của Bà thì rất nhiều, và đặc biệt là đa dạng thuộc nhiều tầng lớp rất khác nhau: từ những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước như các bác Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, các bác gái Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, những học giả danh tiếng như bác Vũ Khiêu, nhà thơ Khương Hữu Dụng, đến các cô cùng công tác trong cơ quan Phụ nữ Trung ương, những người đồng hương thân thiết và cả láng giềng chung quanh nơi Bà đang sống, không phân biệt trình độ và lứa tuổi, khi có điều không may trong đời họ Bà luôn sẵn lòng chia sẻ với tấm lòng rộng mở và chân thành.

Bà có một lối sống rất giản dị, khiêm tốn, tiết kiệm đến mức tối đa cho mình, nhưng lại rất rộng rãi với mọi người. Tôi còn nhớ cách đây khoảng 10 năm khi bà bán ngôi nhà 50m2 nhưng lại có 200m2 đất ở Vĩnh Hồ, để mua một chỗ ở rộng hơn sâu trong ngõ phố Khương Trung, còn dôi ra một số tiền. Chúng tôi thấy Bà rất vui vẻ tính toán cách sử dụng số tiền trên: nào là gửi về quê xây nhà thờ phía nội mấy chục triệu, đóng góp xây lại mồ mả cho phía ngoại, chia cho các con các cháu mỗi đứa một ít, để lại một số tiền sau này hương khói cho ông bà, v.v... chắc cả đời Bà chưa bao giờ có tiền, bây giờ mới có được một số tiền, nên Bà phải "tán lộc" cho phải đạo. Rồi một hôm chúng tôi phát hiện một danh sách trên dưới 100 người (trừ con cháu trong gia đình ra) với số tiền ghi bên cạnh khác nhau: người này 500 nghìn, người kia 200 nghìn, người nọ 100 nghìn. Có lần tôi ghé thăm chú thím Ba, vừa là hàng xóm vừa là đồng hương, hay đỡ đần Bà, chú là trung tá về hưu bây giờ làm bảo vệ khu phố và vừa là bí thư chi bộ, thím khoe với tôi: "Hôm bán nhà Bà biếu cô chú 500 nghìn, không nhận Bà giận, đành phải nhận để Bà vui chứ nhà cô cũng có túng thiếu lắm đâu, cô dùng tiền đó mua một chiếc nhẫn để đeo làm kỷ niệm đây này, cháu xem có được không?". Tôi chợt hiểu ra đây là nhu cầu chia sẻ niềm vui của Bà, không có ý nghĩa vật chất thuần túy.

Để đáp lại tấm lòng của Bà, có biết bao tấm lòng khác dành cho Bà những tình cảm đặc biệt cảm động. Chỉ cần Bà "khó ở" trong người là đã không biết bao nhiêu người đến thăm, ngày lễ, ngày Tết nhà Bà khách khứa ra vào tấp nập, quà cáp và hoa cũng nhiều và đặc biệt có nhũng người ở xa về đều đến thăm bà. Tôi có cậu học trò tên là Ngô Như Bình từ những năm bảy mươi hay tới lui hỏi bài, cậu này học rất giỏi và ham hiểu biết, sau đó được đi học nghiên cứu sinh ở Liên Xô, bây giờ làm giảng viên Trường đại học Harvard ở Mỹ - hàng năm mỗi lần đưa học sinh về Việt Nam thực tập, có dịp ra Hà Nội cậu đều đèo tôi sang thăm Bà, ăn với Bà một bữa cơm rau mắm, hai bà cháu chuyện trò mải mê mấy tiếng đồng hồ liền. Cậu dạy bộ môn Tiếng Việt cho sinh viên Mỹ. Khi kể về cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thường cho xem ảnh, hồi ký của Ông Bà như những nhân chứng sống. Có một cô bạn cậu em út tôi tên là Phương, sau khi đọc quyển Hồi ký của Bà từ bên Đức về cứ xin đến gặp Bà để được tỏ lòng cảm kích và ngưỡng mộ Bà. Còn chú Nguyễn Văn Tu, bạn học của em gái tôi, hiện là Giám đốc Sở Văn hoá Hà Tây, đã từng tổ chức giới thiệu quyển Hồi ký của Bà trong một cuộc sinh hoạt tư tưởng của nữ thanh niên Hà Tây nhân dịp thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20 tháng 10 để nêu gương cho thế hệ trẻ học tập. Chú thường lui tới thăm và tặng Bà, lúc thì tấm lụa may quần áo, có lúc hộp sữa để Bà bồi dưỡng... Sự quan tâm đó làm cho Bà rất cảm động. Một số bạn bè hoặc học trò của chúng tôi thì những ngày Tết, ngày sinh của Bà, ngày giỗ của Ông, chẳng phải mời, họ cũng tự đến và Bà coi họ như con cháu trong nhà. Gia đình của Bà cứ thế lớn dần lên, trước kia mỗi lần giỗ ông đặt năm mâm thì nay đã lên tám - chín mâm và có lẽ đến một lúc nào đó phải dọn mâm ra sân ăn mới đủ. Những dịp như vậy Bà rất vui vì cảm thấy, mình không bị lãng quên, không bị đứng ra ngoài lề cuộc sống.

Là những đứa con sống bên cạnh Bà chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy Bà ở tuổi 94 mà đầu óc Bà vẫn vô cùng minh mẫn, tư duy lô-gích chặt chẽ, nhận xét đánh giá con người và thực tế khách quan tinh tường, chuẩn xác, đặc biệt là không định kiến bảo thủ, nhạy bén với cái mới. Bà vẫn sánh bước cùng nhịp với thời đại. Tất cả những phẩm chất này Bà có được là nhờ Bà luôn có ý chí phấn đấu tự học, tự bổ sung kiến thức cho mình. Bà nắm vững triết học nên ứng dụng rất hiệu quả vào công tác đảng và tổ chức mà Bà đảm nhiệm mấy chục năm liền ở cơ quan Phụ nữ Trung ương với cương vị Bí thư Đảng ủy và Trưởng ban Tổ chức Cán bộ.

Có một lần, vào những năm 1975-1976 công đoàn ở khoa tiếng Nga trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội nơi tôi công tác mời Bà đến kể về đời hoạt động cách mạng của Bà, Bà vui lòng nhận lời. Tôi lo lắng vì khoảng cách lứa tuổi, không biết lớp trẻ có hiểu được quan điểm sống của Bà không. Không ngờ buổi nói chuyện thành công mỹ mãn. Có một chi tiết đáng nhớ là khi nói về phẩm chất người đảng viên Bà nhận xét: "Trước kia vào Đảng cũng khó mà cũng dễ. Khó vì đứng trước sự lựa chọn - dám hy sinh, tù đày, dứt bỏ gia đình theo Đảng chống ngoại xâm hay không? Ai dám thì được kết nạp vào Đảng. Còn người đó tính tình nóng nảy hay ôn hoà, ăn mặc trau chuốt hay giản dị không quan trọng. Còn bây giờ vào Đảng cũng dễ mà cũng khó: Dễ vì không phải lựa chọn giữa cái chết và sự sống, dấn thân vào tù đày, v.v... nhưng lại khó vì phải "làm dâu trăm họ" - nóng nảy quá, thẳng thắn quá cũng không được, ăn mặc sạch sẽ, ngay ngắn thì cho là ăn diện, không giản dị, v.v... cũng không được... mà có khi bây giờ vào Đảng lại khó hơn cũng nên, nhất là đối với đội ngũ trí thức!". Sau cuộc nói chuyện của Bà, mọi người bàn luận ý kiến của Bà rất sôi nổi. Có người nói: "Bà phê bình khéo chúng mình đấy. Trước kia người ta nhìn vào bản chất người cộng sản - dám gian khổ hy sinh vì lý tưởng để kết nạp vào Đảng, còn bây giờ thì thường thông qua những hiện tượng để đánh giá con người!".

Từ bé Bà không được đi học ở trường, chỉ tự học ở nhà, vào trong tù Bà lại tiếp tục tự học để đọc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và làm "tuyên truyền viên". Sau khi tập kết ra Bắc, Bà được học Trường Đảng cao cấp khoá I, học ở trường bổ túc công nông một năm ba lớp và Bà tốt nghiệp phổ thông, ở tuổi 55 Bà vẫn còn theo học lớp "kinh tế cụ thể" ban đêm. Tấm gương tự học của Bà đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc phấn đấu học tập của chúng tôi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã hơn 60 tuổi, đang tham gia công trình hợp tác khoa học Nga - Việt - biên soạn Đại Từ điển Việt - Nga, thầy tôi là giáo sư - viện sĩ Xônxép nhiều lần nhắc tôi: "Sao chị không phát triển luận án phó tiến sĩ (mà tôi đã bảo vệ trước đó 30 năm) thành luận án tiến sĩ hoặc in thành sách?". Tôi chỉ trả lời nửa đùa nửa thật: "Thầy thích tôi làm từ điển hay viết luận án? Vì đây là hai công việc đều khó, đòi hỏi trí lực và thời gian, tôi muốn tập trung thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao cho". Thầy không nói gì (Thực ra thì tôi cũng ngại và nghĩ mình đã có tuổi, theo đuổi công việc khó nhọc đấy làm gì, nên cứ khất lần). Nhưng rồi thầy ốm nặng có khả năng không sống nổi. Tôi "hạ quyết tâm" thực hiện nguyện ước của thầy. Tôi có viết thư về hỏi ý kiến mẹ tôi. Mẹ tôi bảo: "Cái đó tuỳ con, nhưng một khi thầy đã khuyên là ông ấy thấy có khả năng làm được. Học thì có bao giờ thừa đâu!". Tôi sực nhớ đến Bà khi ở tuổi 55 trong thời chiến công tác vất vả mà tối tối Bà vẫn còn cắp sách đi học lớp "kinh tế cụ thể", đây là động lực thúc đẩy tôi vừa làm từ điển vừa hoàn thành luận án tiến sĩ khoa học trong vòng một năm và tuy chưa kịp bảo vệ trước khi thầy qua đời, nhưng thầy đã biết một tháng sau tôi sẽ bảo vệ và thầy chúc mừng tôi và tin chắc tôi sẽ bảo vệ thành công. Trong buổi liên hoan sau khi bảo vệ tôi đã nói lên lòng biết ơn vô hạn đối với thầy và mẹ tôi, hai người đã động viên và khích lệ tôi trong con đường khoa học.


Tiêu đề: Re: Sống mãi với thời gian
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười, 2022, 06:25:35 pm

Làm từ điển, tôi thường phải làm công tác biên tập bản thảo, nên rất ngạc nhiên, khi thấy Bà chẳng qua lớp báo chí hoặc khoá học ngữ văn nào mà làm công tác biên tập sắc sảo và chính xác lạ thường. Bà đã từng tự viết quyển Hồi ký "Những chặng đường của người mẹ" dài gần 300 trang, đã cùng hai anh Thân Hoạt và Nguyên Ngọc chọn lựa trong hàng trăm bài hồi ức để biên tập 68 bài trong quyển Hồi ký về Ông: "Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp" dày 600 trang, sau đó Bà làm Trưởng ban chỉ đạo biên soạn quyển sử ký "Phụ nữ Nam Trung Bộ" do cô Hoàng Mai làm chủ biên, dày 600 trang (Nxb Đà Nẵng - 1999). Niềm đam mê của Bà là thơ ca. Bà đã học làm thơ từ khi 16-17 tuổi trong tù, do Ông dạy và niềm đam mê đó vẫn còn nóng bỏng trong Bà mãi cho đến ngày nay. Thơ của Bà được in rải rác trên các báo chí, được đưa vào quyển "Thơ ca Cách mạng 1925-1945", Bà được xếp như một tác giả riêng trong Tổng tập văn học Việt Nam (tập 35) và được đánh giá như một trong 10 nhà văn nữ tiêu biểu của nửa đầu thế kỷ XX (Nxb Phụ nữ, năm 2000). Chẳng qua trường lớp nào mà Bà có nhiều ấn phẩm được xuất bản hơn chúng tôi - là những người được đào tạo một cách bài bản. Văn thơ là một bộ phận không thể thiếu được trong đời Bà - Bà thường làm thơ tặng cho các cháu. Có lần thằng con khoảng 4-5 tuổi của em trai tôi thắc mắc, sao cháu chẳng có bài thơ nào Bà tặng cả. Ôm cháu vào lòng và suy nghĩ dăm phút rồi Bà đọc một bài thơ tặng cháu:

"Anh Tuấn mình tròn như quả dưa
Sờ vào mát ruợi ai cũng ưa
Tính hay thích thú "gien" truyền thống
Tự hào thành tích ông cha xưa"

(chẳng là thằng bé hay thích nghe kể chuyện "ngày xưa" của Ông Bà).

Chúng tôi thường trêu Bà là nhà thơ có tài "xuất khẩu thành chương". Bà sinh hoạt đều đặn ở tổ thơ "Sông Tô" và bao giờ cũng có bài tham gia "hoạ" những bài của ai đó "xướng" hoặc "tự hoạ" vào những dịp sinh nhật của Bà. Bà rất yêu văn nghệ, thích nhiều bài hát cách mạng như bài "Cùng anh tiến quân trên đường dài" về Nguyễn Viết Xuân của Huy Du, bài về Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn và thuộc lòng những bài thơ của các nhà thơ đương đại như bài "Đoàn xe không kính" của Phạm Tiến Duật, "Cuộc chia ly màu đỏ" của Nguyễn Mỹ, v.v...

Cách đây không lâu, có mấy bà bạn đến thăm Bà, mọi người có con cháu làm ăn khá giả nên biếu tiền cho họ đi nghỉ mát, đi chơi đó đây, họ cũng có vẻ hơi ái ngại cho Bà vì các con Bà chỉ sống nhờ đồng lương hưu, còn Bà tuy lương hưu có khá nhưng lại phải cáng đáng nuôi gia đình đứa em câm điếc bốn miệng ăn, Bà đoán được ý họ nên coi như vô tình, nhưng có ý muốn bộc bạch cùng họ: "Con tôi chẳng có nhiều tiền cho tôi, nhưng đứa nào cũng thương và quan tâm đến tôi, mỗi đứa một kiểu". Rồi như sực nhớ ra, Bà hỏi: "À, các cô có ăn cá bống sông Trà Khúc không? Có cả kẹo gương, mạch nha nữa đấy, chả là cháu Trực (anh cả tôi) ở trong quê, hễ có ai ra là gửi một thùng đủ cách loại". Rồi Bà tặng mỗi người một ít quà. Sau đó Bà vào tủ mang ra một đống quần áo, vải vóc, khăn quàng, giày dép mà chúng tôi sắm cho Bà vào những dịp Tết hoặc sinh nhật khoe với bạn. Bà nói như tâm sự: "Vừa rồi tôi về quê, ở nhà cháu Hoà (là cậu em út) mua giường mới, bàn ghế, tủ bếp, lắp nước nóng, che mái hiên cho tôi, vì có tôi ở nhà là tôi can ngăn, không cho làm, sợ tốn tiền, mà tôi thì lại quen sống giản dị rồi. Chủ nhật nào các cháu cũng tụ tập về thăm mẹ, mua sẵn cái ăn, để mẹ khỏi vất vả lo cơm nước. Đông con cũng sướng, nhà có chuyện gì mỗi đứa một tay là xong". Tôi đứng sau cửa nghe Bà nói mà thương quá và cảm thấy như chúng tôi có lỗi với Bà vì chưa lo được cho Bà một cuộc sống đầy đủ như người ta, có cảm giác như mình chưa trọn đạo làm con, nhưng lại cũng rất vui vì thấy Bà đã hiểu thấu được tấm lòng của chúng tôi dành cho Bà.

Mới nhìn thì tưởng như mâu thuẫn, nhưng thực ra trong tính cách của Bà đã minh chứng một phạm trù triết học là "thống nhất của đối lập". Thật vậy, trong con người Bà hoà trộn một cách nhuần nhuyễn sự đấu tranh quyết liệt, không nhân nhượng, tính nguyên tắc cứng rắn và sự mềm mỏng cảm thông của lòng nhân ái chan hoà, giữa lý trí và tình cảm, giữa chính trị và văn nghệ, giữa sự tôn trọng giá trị của truyền thống và thích nghi với hiện đại, chính vì vậy mà Bà dễ hoà đồng với mọi người, với mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và chiếm lĩnh được lòng tin, tình cảm và sự kính trọng của họ.

Một trong những thí dụ gần đây nhất, làm cho cả gia đình tôi rất cảm động, xin chia sẻ cùng bạn đọc:

Nhân dịp Đại hội Đảng lần thứ X (tháng 4 năm 2007), trong báo Quân đội nhân dân có một bài viết về Bà của phóng viên Lan Vi. Bài viết ngắn thôi, trích Hồi ký về đời hoạt động của Bà. Mấy hôm sau, bỗng nhiên có một thượng tá công an đến nhà Bà, lúc đầu Bà tưởng có chuyện gì xảy ra với cậu em câm điếc ngoài chợ, chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao, thì chú công an kia chạy đến ôm Bà khóc nức nở miệng lặp đi lặp lại: "Mẹ ơi! Con thương mẹ quá! Sao đời mẹ lại khổ thế!!!". Bà mời vào nhà hỏi ngọn ngành thì mới biết là người này tên là Lưu Xuân Lộc, hiện là Phó giám đốc Trung tâm Huấn luyện và Bồi dưỡng nghiệp vụ - Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp - Bộ Công An, khi đọc bài báo về Bà xúc động quá, gọi điện đến toà soạn báo Quân đội nhân dân biết địa chỉ và tìm đến thăm Bà. Chú Lộc có mang hoa và quà đến tặng bà và không quên "phong bì" cho Bà. Hoa và quà thì Bà nhận còn "phong bì" thì Bà từ chối với lý do là lương hưu Nhà nước cấp cho Bà là đủ dùng rồi. Chú Lộc xin phép được làm "con nuôi" của Bà. Sau này Bà giải thích với chúng tôi: "Các con xem, thời buổi này người ta lo làm giàu, mải mê làm ăn có khi quên cả bố mẹ, vậy mà có người còn quan tâm đến một cụ già đã một chân ở thế giới bên kia, chẳng giúp được gì cho mình. Tình cảm vô tư như vậy bây giờ là hiếm, nó nuôi dưỡng cho mình một lòng tin vào chân lý: thời đại nào cũng có những người sống có tình!". Nghĩ vậy nên Bà không ngần ngại gì, đồng ý nhận chú Lộc làm "con nuôi". Sau đó bà tặng chú quyển Hồi ký của Bà. Đêm hôm đó chú lại gọi điện cho Bà, khóc nức nở: "Con thương mẹ quá! Sao mẹ lại khổ thế?!". Và từ đó đến nay, ngày lễ nào chú cũng đến thăm Bà, mang hoa và quà đến tặng Bà như một người con trong nhà.

Chuyện về Bà thì còn nhiều lắm, không thể kể hết được. Hy vọng rằng những điều kể trên đây phần nào giúp bạn đọc hiểu được thế nào là người cộng sản chân chính, người mẹ bao dung, người phụ nữ Việt Nam dũng cảm và nhân hậu, một con người mà phần Người nổi trội như một nhân cách. Những người như Bà trong lịch sử nước ta không phải là hiếm bởi lẽ thế hệ của Bà đã làm nên một thời đại vẻ vang của một dân tộc anh hùng.

Trong đời, người ta bao giờ cũng đứng trước sự lựa chọn: chọn nghề nghiệp, chọn nơi làm việc, chọn vợ, chọn chồng, chọn quan điểm sống, nhưng có hai cái mà ta không có quyền chọn lựa - đó là Tổ quốc, và cha mẹ: ta sinh ra ở đâu thì nơi đó là Tổ quốc, ai sinh ra ta thì người đó là cha mẹ.

Nhưng giá như được quyền lựa chọn thì sáu anh chị em chúng tôi cùng đều nghĩ rằng: chúng tôi không thể chọn ai hơn là những người hiện là cha mẹ của chúng tôi. Cũng chưa hẳn Ông Bà đã là những con người ưu tú nhất, trọn vẹn nhất, nhưng đối với chúng tôi đó là những người cha mẹ tuyệt vời nhất, là niềm tự hào lớn lao, là nguồn thương yêu bất tận của sáu anh chị em chúng tôi, là ngọn lửa của lòng tin sáng chói dẫn dắt chúng tôi trên con đường phấn đấu làm Người.

Chúng tôi vô cùng hạnh phúc được làm con của những người cha, người mẹ như thế.

Xin nói thêm với độc giả một điều: Khi tôi viết xong bài này, đọc cho Bà nghe và xin ý kiến Bà được đăng vào tập bài viết về Ông, Bà giãy nảy lên: Tại sao lại viết về Bà, đây là ngày kỷ niệm của Ông. Chúng tôi giải thích mãi Bà vẫn không thông. Tôi hỏi Bà: "Vậy những điều viết ra đây có thật trong đời Bà không?". Bà công nhận là "có". "Thế thì tại sao không chia sẻ cùng mọi người?". Bà im lặng một lúc rồi nói: "Thôi, tuỳ các con!". Và thế là chúng tôi xin phép Ông để Bà được "song hành" cùng Ông trong quyển sách này như một phần Phụ lục.

(Những đứa con của Ông Bà: NGUYỄN CHÍ TRỰC, NGUYỄN TUYẾT MINH,
NGUYỄN NGỌC SƯƠNG, NGUYỄN ANH TƯỜNG,
NGUYỄN CHÍ DŨNG, NGUYỄN CHÍ HOÀ)



Hết!