Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:49:43 pm



Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:49:43 pm
- Tên sách: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
- Tác giả: Nguyễn Bá Dương
- Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
- Năm xuất bản: 2015
- Người số hóa: giangtvx, saoden


Chiến đấu trong thời bình thế hiện rõ nhất ở cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình". Đây là cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng gay go, quyết liệt và phức tạp.

Niềm vinh dự, tự hào của người cầm bút là đem hết tinh thần trách nhiệm để làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận của Đảng.

PGS. TS. NGND. NGUYỄN BÁ DƯƠNG


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:50:23 pm
LỜI NHÀ XUẤT BẢN


Âm mưu cơ bản, xuyên suốt, lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và dập tắt phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân tiến bộ; trật tự thế giới mới do chủ nghĩa đế quốc thống trị. Để thực hiện "giấc mộng" này, các thế lực thù địch đã và đang triệt để sử dụng thủ đoạn "diễn biến hòa bình" với tư cách là một chiến lược toàn cầu phản cách mạng nhằm chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh.


Với các chiêu trò "ngoại giao thân thiện", "dân chủ và nhân quyền", "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", "phi chính trị hóa" quân đội, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta, các thế lực thù địch đang ráo riết "thay hình đổi dạng" để thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ ở Việt Nam; mưu toan phá hỏng công cuộc đổi mới đất nước, thủ tiêu thành quả cách mạng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội cũng như đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lái nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.


Để góp phần giúp bạn đọc nhận biết rõ hơn bản chất, âm mưu, thủ đoạn và các biểu hiện mới của "diễn biến hòa bình" chống phá Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam - Mệnh lệnh của cuộc sống do Thiếu tướng, PGS. TS. NGND. Nguyễn Bá Dương - Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng biên soạn. Nội dung cuốn sách tập trung phân tích, làm rõ các vấn đề then chốt, luận giải rõ hơn một số vấn đề ở các khía cạnh khác nhau nhằm vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt và tác hại của chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá Việt Nam do các thế lực thù địch gây ra; chỉ rõ sự thật về cái gọi là "cuộc cách mạng lý luận" và vấn đề "thay máu cho hệ tư tưởng" ở Việt Nam, mà thực chất là sự phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thay vào đó là hệ tư tưởng tư sản. Đồng thời, vạch trần mưu đồ thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta, đòi "phi chính trị hóa" quân đội; qua đó, đề xuất chủ trương, giải pháp đấu tranh, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch.


Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc một số thông tin về cuộc chiến trong thời bình: đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở nước ta hiện nay, cũng như những luận cứ cần thiết để đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, phản động. Qua đó, mỗi người, dù ở cương vị nào, nhìn nhận rõ hơn vai trò, ý thức, trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.


Tháng 5 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:50:58 pm
LỜI NÓI ĐẦU


Mục đích, khát vọng của nhà giáo trong các học viện, nhà trường quân đội là được đem hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp "trồng người" cao quý. Việc phải cầm bút và viết những bài báo, cuốn sách mang tính bút chiến, phê phán những nhận thức lệch lạc, sai lầm, những quan điểm sai trái, thù địch, phản động, chống đối, cản trở công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không phải là mục đích tự thân mà là lương tâm, trách nhiệm của nhà giáo - những người được xã hội tôn vinh, giao cho trọng trách giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ thành những lớp người "vừa hồng vừa chuyên", biết tôn trọng sự thật, lẽ phải, công lý, có tri thức, lương tri và đạo đức, nhân cách để sống làm người..., xứng đáng là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có đầy đủ phẩm chất và năng lực để chủ động, tích cực tham gia, đóng góp tài năng, trí tuệ, công sức của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lẽ phải đó thật giản dị, chân thành; nhà giáo đứng trên bục giảng không thể nói những điều sai trái, biết nhận thức lệch lạc không thể làm ngơ, thấy những người xấu đang "tát nước theo mưa", a dua, hùa theo các thế lực thù địch để "gây gió từ bên ngoài, tạo bão từ bên trong", chống đối sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta thì buộc phải cầm bút để vạch trần sự sai trái ấy, mong muốn những người vì những lý do nào đó đã lầm đường, lạc lối thì nhận thức lại cho đúng, tôn trọng sự thật; thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ công dân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định; thậm chí, khi cần thiết thì sẵn sàng cầm cả súng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.


Để bảo vệ chân lý buộc phải chống lại những điều vô lý. Để đất nước ta mãi mãi có hòa bình, độc lập, tự do, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không có cách nào khác, chúng ta phải kiên quyết chống lại những mưu toan, ý đồ, hành động sử dụng "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", đòi "phi chính trị hóa" quân đội đế xóa bỏ thành quả cách mạng, phá hỏng công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Cuốn sách này muốn nói lên một thông điệp: Hãy cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của "diễn biến hòa bình", nếu thờ ơ, sao nhãng, coi thường nó thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt; hãy rút kinh nghiệm từ bài học sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ờ Liên Xô và các nước Đông Âu; hãy sống xứng đáng với các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh xương máu để có được cuộc sống hôm nay. Động lực thôi thúc chúng tôi cầm bút, thể hiện những điều đang suy nghĩ, trăn trở hằng ngày là niềm tin vào lẽ phải, là ý chí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng, là tâm niệm trước khi phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của một nhà giáo, một cán bộ khoa học thì hãy làm tốt vai trò của một chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận của Đảng. Bởi vì, lúc này Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội rất cần những người cầm bút với lương tâm, trách nhiệm và trí tuệ của mình vạch trần âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, mưu toan xóa bỏ thành quả cách mạng, tước đoạt cuộc sống yên bình của hàng triệu người dân lương thiện, thiết tha yêu Tổ quốc, yêu hòa bình; đồng thời, giúp cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải và cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của dân tộc.


Khó hơn, thử thách quyết liệt khi viết và công bố những công trình khoa học mang tính bút chiến, vạch trần những quan điểm sai trái, phản động, phản khoa học, những nhận thức lệch lạc, sai trái của những người cố tình làm ngơ trước đạo lý, chân lý và pháp lý.


Là quân nhân cách mạng, được giao nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy, góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội, chúng tôi luôn cố gắng làm theo lời dạy của Bác Hồ: Việc gì có lợi cho nhân dân thì hãy gắng sức để làm, làm cho thật tốt. Nhờ đó, chúng tôi luôn ý thức sâu sắc nhiệm vụ, tích cực góp phần nhỏ bé để gìn giữ sự bình yên và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc Việt Nam. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là niềm vui, hạnh phúc của người cầm bút, là lẽ sống của "Bộ đội Cụ Hồ".


Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của tác giả và sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của đồng nghiệp, của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật nhằm phục vụ cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" do các thế lực thù địch chủ mưu, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Tuy đã rất cố gắng, nhưng khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong bạn đọc góp ý để tác giả bổ sung, hoàn thiện cuốn sách trong lần xuất bản sau.


Hà Nội, tháng 3 năm 2015
PGS. TS. NGND. Nguyễn Bá Dương


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:52:20 pm
Phần thứ nhất
BẢN CHẤT "CUỘC CÁCH MẠNG LÝ LUẬN" VÀ
ÂM MƯU "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CHỐNG PHÁ VIỆT NAM


I- HỌC THUYẾT MÁC - KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG

Hằng năm, vào ngày 5-5, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng với nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, kỷ niệm ngày sinh C. Mác - một vĩ nhân, người sáng lập chủ nghĩa Mác, người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân quốc tế trong không khí cả nước tưng bừng, phân khởi kỷ niệm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và ngày sinh Bác Hồ kính yêu. Sự cảm nhận niềm vui chiến thắng sẽ trọn vẹn hơn, sâu sắc hơn; niềm vinh dự, tự hào sẽ lớn hơn nếu chúng ta có thêm nhận thức, hiểu biết về cội nguồn chiến thắng mà dân tộc ta làm nên trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI; trong đó có cả những đau thương, mất mát mà nhân dân ta đã phải chịu đựng qua hai cuộc chiến tranh do thực dân và đế quốc gây ra.


Ai đó đã nói rất đúng, khi thời gian càng lùi xa thì người ta càng có điều kiện kiểm nghiệm lại những gì đã làm trong quá khứ, thấy rõ tốt xấu, đúng sai và mới thấu triệt triết lý nhân sinh: mình là ai, ai là bạn, ai là thù; mới thấy cuộc đời này đáng sống biết bao khi làm được nhiều điều tốt, mang lại hạnh phúc cho nhiều người.


Đúng vậy! Hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ ngày chủ nghĩa Mác còn là "một bóng ma ám ảnh châu Âu", nó đã vượt qua mọi thành kiến, trở thành học thuyết cách mạng của phong trào công nhân quốc tế vào những năm 70 của thế kỷ XIX. Với bản chất khoa học và cách mạng, học thuyết Mác đã làm thay đổi căn bản quan niệm của loài người về quá trình vận động, phát triển của lịch sử và vai trò cải tạo thế giới của con người, đồng thời phát hiện những quy luật vận động, phát triển tất yếu khách quan của lịch sử và xã hội loài người. Vì vậy, chủ nghĩa Mác không những đã trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản mà còn là "công cụ nhận thức vĩ đại" để giai cấp vô sản nhận thức và cải tạo thế giới, thực hiện tiến bộ xã hội.


Tên tuổi và sự nghiệp của C. Mác và người bạn trung thành của ông là Ph. Ăngghen đã khắc sâu vào tâm trí; làm rung động hàng trăm triệu trái tim trên thế giới, đem lại cho họ sức sống và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh trong sự nghiệp đấu tranh để chống lại áp bức, bóc lột, bất công, giải phóng mình khỏi ách thống trị, trở thành chủ nhân nắm giữ, tự quyết định vận mệnh của mình và của quốc gia, dân tộc.


Cống hiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen, là đem lại cho nhân loại và giai cấp công nhân quốc tế một thế giới quan tiên tiến, thật sự khoa học và cách mạng: chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chấm dứt sự thống trị của thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phương pháp tư duy siêu hình về thế giới. Gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen là việc chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đã trở thành khoa học, là sự luận chứng sâu sắc về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, là sự ra đời của phong trào cộng sản quốc tế và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, dù thực tiễn vừa qua, chúng ta thấy có lúc nó diễn ra quanh co, phức tạp. Trên con đường đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen luôn ở bên chúng ta, cổ vũ về mặt tư tưởng và dẫn dắt chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Học thuyết của các ông là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế; rất gần gũi với tâm tư, ý nguyện, khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.


Những cống hiến của C. Mác và Ph. Ăngghen cho nhân loại và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với tư cách là nhà khoa học vĩ đại, nhà hoạt động cách mạng kiệt xuất và ý nghĩa của học thuyết Mác đối với thời đại, cũng như đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là vô cùng quan trọng và lớn lao. Đó là sự thật không thể chối cãi và bác bỏ, cho dù ai, thế lực nào với động cơ gì, sự bất đồng quan điểm đối với chế độ ta đến đâu cũng phải tôn trọng sự thật, thừa nhận đó là sự thật, khách quan.


Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đã trở thành khoa học. Lần đầu tiên, giai cấp vô sản có một lý luận khoa học, cách mạng soi sáng, dẫn đường. Đảng Cộng sản - Bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản đã ra đời, là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận khoa học và phong trào công nhân. Điểm vượt trội của học thuyết Mác so với các học thuyết của các bậc tiền bối và đương thời ở chỗ, nó là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, lực lượng, cách thức, hình thức, phương pháp đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Nó không mang tính bè phái, khép kín, giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động; nó khắc phục triệt để thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phương pháp tư duy siêu hình; xác lập một thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng với phép biện chứng duy vật và giá trị nhân văn của nó đã làm thay đổi phương pháp tư duy của nhân loại và thời đại mà chúng ta đang sống.


Năm tháng đi qua, một số luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen có thể sẽ không còn phù hợp với thời cuộc nhưng giá trị của chủ nghĩa nhân đạo, của quan niệm duy vật về lịch sử và phép biện chứng duy vật - linh hồn của chủ nghĩa Mác là những giá trị vĩnh hằng, sống mãi. Các trào lưu, trường phái khác có thể sẽ đưa ra những học thuyết mới với những kiến giải mới dưới nhiều màu sắc, quan điểm, lập trường khác nhau, song suy xét đến cùng, chỉ có học thuyết Mác là khoa học và cách mạng, vì con người, vì sự công bằng, tiến bộ xã hội, vì học thuyết Mác không thỏa hiệp với bất kỳ sự trì trệ, bảo thủ và cản trở lịch sử nào. Lập trường thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của nó luôn đứng vững trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tôn trọng các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Những ai cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật này, kết cục đều lâm vào tình cảnh bế tắc về nhận thức, khủng hoảng về phương pháp luận. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, luôn vận động, phát triển theo quy luật khách quan vốn có của nó; con người chỉ có thể nhận thức, nắm bắt và vận dụng sáng tạo các quy luật của thế giới khách quan để cho cuộc sống thêm phần tốt đẹp mà thôi. Mọi cản trở tiến bộ xã hội đều bị lên án, tất yếu sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:52:58 pm
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một minh chứng hùng hồn, khẳng định tính tất yếu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mà còn chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của học thuyết Mác; sự sai lầm của những người theo chủ nghĩa cơ hội và xét lại cũ và mới, dưới mọi màu sắc đều tự chuốc lấy những thất bại thảm hại. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, lần đầu tiên chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội mới đã được thiết lập trên một phần sáu diện tích trái đất. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời; qua thăng trầm lịch sử, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã và đang tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình, đặc biệt là Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Xu thế phát triển tất yếu của lịch sử không thể đảo ngược; cỗ xe vận hành của thời đại không thể đổi khác; không thể đi theo con đường tư bản chủ nghĩa với những khuyết tật, bất công, bất bình đăng vốn có mà nó đang mang trong mình.


Với những sai lầm do chủ quan, duy ý chí của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản ở Đông Âu, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này đã bị sụp đổ, làm cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Chính điều đó đã khẳng định rõ rằng, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, bất kể Đảng Cộng sản nào, nếu coi thường chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; nếu vi phạm thô bạo những nguyên tắc mácxít - lêninnít, nhận thức không đúng, làm trái quy luật khách quan, mắc "bệnh" chủ quan, duy ý chí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì tất yếu, Đảng Cộng sản ấy mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước đó bị sụp đổ, nhân dân lao động rơi vào cảnh lầm than; chiến tranh, xung đột vũ trang, mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc... là không thể tránh khỏi.


Lý luận và thực tiễn cách mạng vô sản thế giới chỉ ra rằng, sau Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, tính chất thời đại đã thay đổi mang tính bước ngoặt. Điều đó vừa đặt ra những thời cơ, vận hội đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vừa đặt ra những khó khăn, thách thức mới đối với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và chính nó đòi hỏi những người cộng sản phải nhận thức sâu sắc lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là quan điểm của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng Cộng sản và sự cảnh báo của Người về những điều có thể xảy ra trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, để xác định đúng đắn con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, biện pháp giải quyết các mâu thuẫn, thay đổi nội dung, hình thức và phương thức đấu tranh cách mạng cho phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc.


Đối với Việt Nam, trước cảnh nước mất nhà tan và khủng hoảng đường lối chính trị, cũng như con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của các phong trào yêu nước và cách mạng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã lâm vào tình cảnh bế tắc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Qua gần 10 năm bôn ba, làm nhiều nghề để sinh sống và đi đến nhiều nước phát triển, Người đã không choáng ngợp trước sự giàu có của chủ nghĩa tư bản; mà ngược lại, đã tận mắt nhìn thấy và rất đau lòng phải chứng kiến nỗi đau, sự thống khổ của người dân lao động, những khuyết tật, bất công và bản chất "thiếu nhân đạo" của chủ nghĩa tư bản; hiểu thấu đáo như thế nào là "tự do, bình đẳng, bác ái" mà kẻ thù của dân tộc đã hết lòng ca ngợi, muốn áp đặt giá trị ấy ở Việt Nam.


Người khẳng định: Giai cấp tư sản không phải là người bạn của giai cấp vô sản và chủ nghĩa tư bàn không phải là tương lai tốt đẹp của loài người; nếu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì không thể cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công; nhân dân ta mãi mãi vẫn phải sống kiếp "ngựa trâu", làm phận dân nô lệ. Vì vậy, Người đã tin tưởng và đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo V.I. Lênin vĩ đại, coi Cách mạng Tháng Mười Nga và học thuyết Mác - Lênin là chân lý và là con đường duy nhất đúng đắn để giúp đồng bào ta đấu tranh, giành lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm.


Rõ ràng, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là "chiếc cẩm nang thần kỳ", đã giải đáp trúng, đúng, hết sức rõ ràng, sâu sắc những vấn đề mà bấy lâu Người băn khoăn, trăn trở, tìm kiếm mà còn giúp Người tìm thấy con đường đấu tranh và tất yếu giành thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Thực tế khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước và tư tưởng cách mạng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Từ sau khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và nhũng người dân lao động trên thế giới thoát khỏi thân phận đói khổ, nô lệ, lầm than; mới đem lại cho họ độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc; giúp họ trở thành chủ nhân của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp.


Từ đó, Người ra sức đấu tranh, bảo vệ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; vạch ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta. Thắng lợi của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, của Cách mạng Tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới gần 30 năm qua, trước hết là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là điều chứng minh sinh động nhất, thuyết phục nhất về sức sống trường tồn của một học thuyết khoa học, cách mạng; về cội nguồn chiến thắng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu; là sự thật đầy sức thuyết phục để bác bỏ mọi quan điểm sai trái, thù địch; mọi thành kiến cá nhân đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trước đây cũng như hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ tiếp tục dùng nhiều thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt, kể cả "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", đòi "phi chính trị hóa" quân đội để công kích, bài xích, xuyên tạc nhằm "hạ bệ" chủ nghĩa Mác - Lênin. Làm việc đó, chính họ đã bộc lộ sự sợ hãi, thừa nhận sự yếu thế và hoảng loạn về tinh thần và trên thực tế, là thừa nhận sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tính đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:53:35 pm
Trước sự vận động, biến đổi phức tạp của thời cuộc; thời cơ, vận hội đan xen với các nguy cơ, thách thức, hàng loạt vấn đề phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội... đang đặt ra bức xúc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải nhận thức và vận dụng sáng tạo các quy luật khách quan, từng bước làm sáng tỏ về mặt lý luận - thực tiễn nhiều vấn đề để phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một trong những giải pháp mang tính nguyên tắc không được mắc sai lầm là nhận thức đúng và tìm kiếm những lời giải đáp khôn ngoan, hiệu quả từ sự nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới, đặc biệt là phép biện chứng duy vật khoa học, cách mạng; kiên định quan điểm, lập trường: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.


Đây không chỉ là giải pháp hữu hiệu để đập tan mọi sự hoài nghi, thù địch, quan điểm sai trái, phản động, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là biện pháp tích cực để phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng hiện nay; là phương thức hữu hiệu nhất để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam. Đồng thời, góp phần tích cực vào việc giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ công tác tổng kết lý luận - thực tiễn 30 năm đổi mới đất nước (1986-2016), làm cơ sở để đóng góp ý kiến vào văn kiện đại hội đảng bộ các cấp và chuẩn bị văn kiện trình Đại hội XII của Đảng.


Chủ nghĩa Mác - một học thuyết khoa học và cách mạng với những đóng góp vô cùng quý giá vào sự phát triển khoa học triết học, kinh tế chính trị học và nhiều khoa học khác đã phát hiện ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội từ nền tảng kinh tế đến những quy luật về đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, chấm dứt sự lũng đoạn và mọi sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích các hiện tượng xã hội và lịch sử. Ph. Ăngghen viết: "Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người"1 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.499), chỉ cho nhân dân lao động toàn thế giới con đường và biện pháp thực hiện cuộc đấu tranh để xóa bỏ áp bức, bóc lột, tự giải phóng mình. Đối với C. Mác, khoa học không chỉ là một động lực thúc đẩy sự tiến triển, thực hiện sự tiên bộ xã hội, mà còn là một động lực cách mạng vô cùng mạnh mẽ, là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản với mọi thứ "bùn nhơ", thủ tiêu áp bức, bóc lột, xóa bỏ tệ nạn người nô dịch người, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, công bằng và hạnh phúc.


Đối với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu khoa học cũng là làm cuộc cách mạng vì nó hướng đến việc xóa bỏ mọi sự cổ hủ, lỗi thời, lạc hậu, cản trở tiến bộ xã hội; đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Theo C. Mác, bằng mọi cách, khoa học phải góp phần vào việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, bất bình đẳng; tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết Mác không những được thể hiện ở những giá trị lớn lao của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa nhân đạo trong hai phát kiến vĩ đại: quan niệm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, mà còn thể hiện ngay trong quá trình hình thành và phát triển học thuyết ấy với tư cách là sản phẩm phát triển chín muồi của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đặc biệt là trí tuệ, nghị lực và lao động khoa học không hề mệt mỏi của C. Mác. Các phẩm chất này không phải tự nhiên mà có, nó được sáng tạo, phát triển thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng, gắn bó với phong trào công nhân và những người nghèo khổ; làm cho C. Mác vượt lên, khác xa những người cùng thời, trở thành nhà bác học vĩ đại, người thầy của giai cấp công nhân quốc tế.


Thật vậy, ngay từ thời trẻ, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (năm 23 tuổi), C. Mác đã từ bỏ "vị thế đẳng cấp, đặc lợi đặc quyền" mà gia đình, dòng tộc đang có; từ giã ước mơ trở thành giáo sư đại học, và quyết định hiến dâng cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân; đứng về phía người nghèo, tự nguyện suốt đời đấu tranh, bênh vực và bảo vệ người lao động, bảo vệ lẽ phải, công bằng và chân lý. Để hướng đến điều tốt đẹp và làm được những điều thật sự có ích cho mọi người, khởi đầu sự nghiệp, C. Mác gắn bó với nghề báo chí, cộng tác với báo Sông Ranh - tờ báo tiến bộ ở Đức thời bấy giờ, nhằm "cất lên tiếng nói bảo vệ lẽ phải và sự công bằng", "bênh vực và bảo vệ những người dân lương thiện, những người lao động nghèo khổ". Phải thấy rằng, nếu không có trái tim nhân hậu và nhãn quan chính trị sắc bén, trí tuệ, tỉnh táo và sáng suốt thì người thanh niên trẻ tuổi C. Mác không thể có sự định hướng đúng đắn ấy. Nhờ hoạt động báo chí, C. Mác đã từng bước thoát khỏi "tháp ngà", có điều kiện tiếp xúc với đời sống thực tiễn, với các vấn đề kinh tế, tận mắt thấy rõ nỗi thống khổ của những người lao động, thấy rõ sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội và nỗi khổ cực, lầm than của người nghèo. Với tư cách là một luật sư, C. Mác đã đem tất cả "những tri thức đã được học trong nhà trường" với tinh thần, trách nhiệm cao, trí tuệ và tài năng xuất chúng để tranh luận với các nhà chức trách địa phương, bảo vệ lợi ích của những người trồng nho ở xứ Môđen, đòi thực hiện quyền tự do báo chí, hội họp, biểu tình ở tỉnh Ranh...


Qua thực tiễn, C. Mác đã hiểu rằng, bằng lý luận không thể xóa bỏ được áp bức, bất công, không thể tìm lại lẽ phải, sự công bằng, mà biện pháp duy nhất là đấu tranh cách mạng mới có thể đem lại hạnh phúc cho mọi người. Từ đó, C. Mác bắt đầu "nghi ngờ chân lý" của triết học Hêghen - luận thuyết của người thầy, thấy được "cái âm điệu dã man, kỳ quái của học thuyết ấy" và sự cần thiết phải phê phán, loại bỏ quan niệm duy tâm - tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội và cũng cần phải giữ lại "hạt nhân hợp lý" là phép biện chứng trong chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; đồng thời, phê phán chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, tiếp thu, kế thừa mặt tiến bộ trong triết học của các ông, gạn lọc cái tinh tuý nhất trong triết học của Hêghen, của Phoiơbắc "bỏ đi chín phần bã, chỉ lấy một phần chất" để xây dựng thế giới quan mới khoa học, cách mạng mà linh hồn sống động của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Rõ ràng, bằng hoạt động thực tiễn, C. Mác và Ph. Ăngghen đã bước qua cái "cổng nhà trời" của giới thượng lưu, tự "lột xác", chuyển từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản; xây dựng nên chủ nghĩa Mác - thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, công cụ nhận thức vĩ đại để giai cấp vô sản nhận thức và cải tạo thế giới.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2022, 02:54:20 pm
Với một khối lượng đồ sộ những công trình nghiên cứu lý luận và sự đóng góp công sức và trí tuệ của C. Mác và Ph. Ăngghen, với tư cách là lãnh tụ đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác thể hiện ở tính tiên phong, vạch thời đại. Khác với tất cả các học thuyết trước đó và đương thời, học thuyết Mác đã phát hiện và luận giải khoa học vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, qua đó đề ra mục tiêu, chiến lược, sách lược, điều kiện, con đường và phương pháp giải phóng triệt để xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, đói nghèo, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, công bằng và hạnh phúc.


Học thuyết Mác đã tìm ra các quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đây là cơ sở khoa học của việc luận giải sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết Mác thể hiện rõ sự thống nhất giữa học thuyết duy vật với phương pháp biện chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng và tính khoa học, làm cho chủ nghĩa Mác luôn là một học thuyết mở, có khả năng và không ngừng tự đổi mới, tự phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại.


Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết Mác thể hiện rõ các giá trị bền vững là phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Chính những giá trị bền vững này mà học thuyết Mác sống động, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh hoa trí tuệ của các thế hệ tiếp theo sẽ bổ sung và phát triển học thuyết Mác, làm cho nó luôn được cập nhật, bổ sung, phát triển với chất lượng mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một minh chứng đầy tính thuyết phục của sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác.


Giờ đây, nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ mới, thế kỷ mới với nhiều thời cơ, vận hội mới và cũng có nhiều thách thức mới. Tất cả những điều đó làm cho vai trò lý luận tiên phong của học thuyết Mác ngày càng tăng lên, nhu cầu nhận thức, giải thích thế giới và cải tạo hiện thực vì một thế giới hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội cũng như chống áp bức, cường quyền, chống chiến tranh, xung đột vũ trang, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo..., đang đặt ra những vấn đề cấp bách trong phát triển lý luận khoa học Mác - Lênin. Điều này, không chỉ những người cộng sản chúng ta mà còn nhiều nhà lý luận của giai cấp tư sản cũng nhận định như vậy. Giắccơ Đêriđa, một học giả tư sản, một triết gia hiện đại phương Tây có uy tín từng tuyên bố: "Cần phải trở về với C. Mác", đồng thời khẳng định: Loài người "không có tương lai nếu không có C. Mác, nếu không có các di sản của Mác"1 (Giắccơ Đêriđa: Những bóng ma của Mác, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.16). Còn Điđiê Êribông - nhà chính luận Pháp lại khẳng định: Sức sống mãnh liệt của học thuyết Mác là bất diệt và cho rằng, vai trò dẫn đường thời đại mới chính là chủ nghĩa Mác2 (Báo Người quan sát, ngày 17-10-1993). Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận do Đài BBC tiên hành trên internet công bố ngày 1-10-2000 thì C. Mác đã được bình chọn là nhà tư tưởng của thiên niên kỷ.


Chúng ta biết rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất nặng nề cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; trong đó có Việt Nam. Song, từ đó chúng ta cũng hiểu được rằng, bất cứ Đảng Cộng sản nào nếu xa rời lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin hoặc vi phạm những nguyên tắc mácxít - lêninnít đều dẫn đến sai lầm, rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, sụp đổ. Rõ ràng, chỉ có đảng nào trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, được vũ trang bằng một lý luận tiên phong, triệt để cách mạng và sáng tạo thì mới hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong.


Đối với nước ta, kể từ ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá học thuyết ấy vào Việt Nam, nhân dân ta đã tìm thấy con đường cách mạng, đứng lên đấu tranh và đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ thắng lợi, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Có thể nói rằng, những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong 85 năm qua của cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính chân lý không thể chối cãi về sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định chân lý: Ngày nay, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chắc chắn nhất, sâu sắc nhất và chân chính nhất, là "cẩm nang thần kỳ" cần thiết để dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một đều nhất quán khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Cho nên, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu sai trái, phản động và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội, xét lại. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền sâu rộng bản chất khoa học, cách mạng; giá trị và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin để các thế hệ con cháu kế thừa, tiếp tục bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:27:19 am
II- VỀ CÁI GỌI LÀ "CUỘC CÁCH MẠNG LÝ LUẬN" VÀ VẤN ĐỀ "THAY MÁU CHO HỆ TƯ TƯỞNG"

Trước sự biến động dữ dội của tình hình thế giới, khu vực; đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm cuối thế kỷ XX; những xung đột vũ trang, đấu tranh giai cấp, dân tộc, sắc tộc... ở Trung Đông, Bắc Phi, Ucraina; sự đổi mới, thích nghi và phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, cũng như việc chậm khắc phục những hạn chế, bất cập của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và một số hiện tượng tiêu cực trong quá trình đổi mới đất nước, một số cán bộ, đảng viên và bộ phận người dân đã dao động, giảm lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Với cái gọi là "kiến nghị tâm huyết" với Đảng, Nhà nước, số người này đã nhân danh "cấp tiến" đề xuất biện pháp nhằm "thay máu cho hệ tư tưởng", "phục sinh chủ nghĩa dân tộc" và "sửa lại chủ nghĩa Mác - Lênin" cho hợp thời, "đúng mốt", sát với thực tế Việt Nam với hy vọng thực hiện cuộc "cách mạng lý luận" để chuẩn bị cho việc thực hiện một cuộc cách mạng chính trị trong tương lai.


Hùa theo những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta, có người đã "sám hối", rằng cả đời mình "ngưỡng mộ, tin vào một học thuyết sai lầm là chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo một con đường không đúng là chủ nghĩa xã hội" nên "rơi vào tình cảnh éo le, bế tắc", "cùng đường"; nay nhận thức lại "thấy chủ nghĩa tư bản là lời giải đáp đầy đủ nhất cho mọi vấn đề đặt ra trong cuộc sống tương lai". Vì vậy, phải "chôn vùi quá khứ bi thảm", phải "tẩy sạch, rửa sạch chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác" để "thanh thản đi theo con đường tư bản chủ nghĩa", mong sớm phát tài, giàu sang.


Trong một số báo chí, tài liệu, các trang mạng gần đây, có người đã dẫn ra sự "hồi sinh" của Đông Đức, của Nga sau khi "được giải thoát khỏi sự ràng buộc của Đảng Cộng sản và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa". Chủ ý và tham vọng của họ là muốn dẫn dắt độc giả về sự cần thiết phải nhận thức rõ sự lạc hậu của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự cần thiết phải từ bỏ học thuyết này; theo đó phải đồng thời từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ đầu thế kỷ XX, đã đổ bao xương máu, mồ hôi, nước mắt và công sức để xây dựng hơn tám thập kỷ qua.


Điều đáng bàn ở đây là trong số những người này, có một số người được Đảng, Nhà nước, gia đình cho ăn học và nuôi dạy chu đáo; thậm chí đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, cho đi học tập ở nước ngoài ở những trường đại học danh tiếng; được đào tạo chính quy, cơ bản, có trình độ, có hiểu biết nhất định; số người này đã đọc và nghiên cứu khá kỹ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhưng buồn thay, họ vẫn cố tình xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán Đảng ta đã áp đặt ý muốn chủ quan khi tiếp thu, vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và họ hy vọng thay vào đó, những tư tưởng mà họ cho là "cấp tiến", "hợp thời đại" của chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng...


Ý đồ của họ là thay thế hệ tư tưởng vô sản bằng hệ tư tưởng tư sản và khi hệ tư tưởng của Đảng ta đã biến dạng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không còn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, họ sẽ "đón rước" chủ nghĩa tư bản, các nhà tư sản vào nước ta và làm cho ý thức hệ tư sản đóng vai trò thống trị trong đời sống văn hóa tinh thần xã hội Việt Nam. Như vậy, họ đã áp dụng mô thức mà các cuộc cách mạng tư sản trước đây đã từng làm là bắt đầu từ sự cần thiết phải làm cuộc cách mạng lý luận, tiếp ngay sau đó là thực hiện cuộc cách mạng về chính trị: lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận thành quả của cuộc cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình, chiến đấu, hy sinh gần 100 năm mới giành lại được.


Trên một số hội thảo khoa học thời gian qua, có người đã công khai bàn về số phận của học thuyết Mác - Lênin. Phần đông các học giả đều thừa nhận giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định sự cần thiết phải có học thuyết này trong thế giới hiện đại. Tuy nhiên, đã có quan điểm cho rằng, "chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ là của quá khứ", "chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX; không phù hợp với thời đại ngày nay, càng không phù hợp với Việt Nam", "chủ nghĩa Mác - Lênin đã chết cùng với sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu". Trắng trợn hơn, có người còn vu không: "C. Mác và V.I. Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình, là nhà không tưởng", học thuyết Mác - Lênin chỉ là "sự sao chép sống sượng" chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học Anh, triết học cổ điển Đức và văn học Nga; là "sản phẩm lai tạo", "hỗn tạp" mang tính chủ quan, áp đặt, "được nặn ra từ những cái đầu thiển cận", v.v...


Ở nước ta, lợi dụng văn đàn các cuộc hội thảo khoa học, blog cá nhân, facebook, một số người cũng "a dua, hùa theo bọn cơ hội, xét lại", đã đưa ra nhiều lý lẽ "đòi xem xét lại" con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, bôi nhọ đời tư nhằm hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng/ Nhà nước, quân đội, công an... Điều hết sức nguy hiểm là các quan điểm sai trái này bằng nhiều hình thức đã được phát tán, lan truyền rất nhanh trên mạng internet, các sách báo, đài phát thanh của các thế lực thù địch với những "tít", tiêu đề giật gân để "câu khách", thu hút bạn đọc, nhất là giới trẻ. Chúng đã và đang tung hỏa mù, đổi trắng thay đen, gieo rắc sự hoang mang, hoài nghi, bi quan cho nhiều người, nhất là một bộ phận giới trẻ, để lại những hậu quả không thể xem thường trong đời sống xã hội ta. Bằng cách này, cách khác, họ muốn "chuyển lửa về quê nhà", tạo nên sự nhiễu loạn về tư tưởng chính trị, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong xã hội ta, trước hết là diễn biến về nhận thức, tư tưởng; từ đó dẫn đến "tự diễn biến" về những mặt khác, tiến tới chuyển hóa Việt Nam.


Chúng ta không hề ngạc nhiên trước những quan điểm xét lại chủ nghĩa Mác - Lê nin, vì những "điệp khúc" này đã được "tua đi tua lại" nhiều lần kể từ khi chủ nghĩa Mác ra đời cho đến nay; chỉ có điều nó được thể hiện rất khác nhau bởi các "ngữ điệu" khác nhau qua các kiểu loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì sao họ lại chống chủ nghĩa Mác - Lênin một cách điên cuồng và quyết liệt như vậy? Hẳn là họ ý thức rất rõ sức sống mãnh liệt cũng như sự nguy hiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự tồn tại, phát triển và lợi ích của họ, nhất là khi chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng thống trị phong trào công nhân, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:27:50 am
Vì sao những người có quan điểm đối lập với Đảng ta lại tập trung bài xích, phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, xoáy sâu vào vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, công cuộc đổi mới ở nước ta?


Luận giải vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, song tựu trung lại, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta muốn dụng ý rằng, ở Việt Nam cần phải lựa chọn con đường đi khác chứ không phải là việc tiếp tục đi theo con đường cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn từ đầu thế kỷ XX. Theo họ, "có làm như vậy, người dân Việt Nam mới thật sự có điều kiện để hòa nhập, hội nhập quốc tế, mới mau chóng thực hiện được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Họ cho rằng, con đường đi "ngắn nhất, phù hợp nhất" đối với Việt Nam hiện nay là bắt tay làm ăn với các nhà tư bản, nhờ sự giúp đỡ của các nước tư bản phát triển. Họ đưa ra nhiều luận cứ khác nhau để chứng minh rằng, các nước vốn từng là xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như Ba Lan, Hunggari, Bungari,... đã từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để bắt tay làm ăn với Mỹ, với các nước phương Tây, gia nhập khối NATO nên tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước ấy rất nhanh và đạt hiệu quả thiết thực, nhưng họ lại quên đi hoặc cố tình làm ngơ trước thảm họa suy thoái kinh tế, bất ổn chính trị, xã hội do lún sâu vào nợ công chồng chất, bất đồng quan điểm do lắm phe phái, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và các tệ nạn, tiêu cực xã hội đang gây ra. Hãy nhìn lại tình hình không ổn định về mọi mặt của Hy Lạp, của Ucraina và nhiều nước khác trên thế giới thời gian vừa qua sẽ thấy rất rõ nhận định nêu trên.


Với cái gọi là "những bức thư tâm huyết", "những kiến nghị hợp lòng dân"; những người này tự cho mình là có quan điểm "cấp tiến", đứng ở phía trên, thông tỏ sử sách, nhạy bén với thời cuộc, cái gì cũng biết, làm việc gì cũng đúng; và hơn thế, họ nhân danh nhân dân kiến nghị, khuyên Đảng ta nên từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, có lợi cho dân tộc. Theo họ, "cách làm và hướng đi như vậy là đúng đắn, hợp thời"; tránh được sự chèn ép của Mỹ và phương Tây, tạo dựng được môi trường "hòa bình" để hợp tác, làm ăn giữa một nước có trình độ sản xuất, khoa học, công nghệ còn thấp như nước ta với các nước có trình độ sản xuất, khoa học, công nghệ phát triển cao là Mỹ và phương Tây; nhờ đó mà sớm chấm dứt sự lạc hậu, yếu kém, để nhanh chóng tiếp thu các giá trị tiến bộ, hiện đại ở các nước phát triển; nhanh chóng thu hút nguồn vốn đầu tư; và hơn thế, phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và chuyên gia trên các lĩnh vực; không cần phải chờ đợi quá trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia và tích lũy vốn dài lâu. Với cách đi này, vừa không phải lo đối phó với thù trong giặc ngoài; vừa có điều kiện để "tăng tốc phát triển kinh tế, đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước; nhờ đó mà đến năm 2020, nước ta mới cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".


Luận bàn như thế họ cho là chưa đủ, để tăng thêm sức mạnh, họ khẳng định: bắt tay làm ăn, hợp tác với các nước tư bản phát triển, liên minh quân sự với phương Tây là thời cơ, điều kiện tốt nhất để giảm "gánh nặng" chi phí quốc phòng, an ninh, nhờ đó mà tập trung vào xây dựng, làm cho đất nước giàu có, phồn vinh. Hơn nữa, sự hùng mạnh của quốc gia nhờ sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước lại có thêm sự bảo đảm chắc chắn từ nền quốc phòng, an ninh. Lợi dụng một số cuộc biểu tình tự phát của sinh viên và những người quá khích về việc phản đối tàu đánh cá Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo Việt Nam, cắt cáp của tàu Bình Minh 2, hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, những người "cấp tiến" vội cho rằng, Việt Nam không thể chần chừ, do dự; phải bắt tay ngay với Mỹ và liên minh quân sự với phương Tây, đó là cái đảm bảo chắc chắn nhất cho độc lập, chủ quyền quốc gia; và đó là thứ vũ khí lợi hại nhất để răn đe các nước láng giềng thù địch, làm thui chột mưu đồ xâm chiếm của thế lực ngoại xâm nước lớn, v.v...


Với những lập luận về "cái được" nêu trên, những người có quan điểm "cấp tiến", một mặt, không những không hiểu hoặc cố tình không hiểu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về giá trị của hòa bình, sự ổn định đất nước để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn không hiểu truyền thống lịch sử dân tộc qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước; mặt khác, họ còn đưa ra các kiến nghị/yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải đẩy nhanh quá trình đổi mới tư duy và nhận thức lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để sớm kết thúc thời kỳ quá độ gián tiếp "đầy đau khổ" hiện nay mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã gây ra. Những "lời khuyên", "kiến nghị" nêu trên, thoạt nghe có vẻ hấp dẫn, thực dụng đối với một số người nhẹ dạ cả tin. Song, suy xét kỹ, nó hoàn toàn vô lý vì đi ngược lại mục tiêu, con đường, lẽ sống mà chúng ta đã lựa chọn. Khi những lời khuyên, kiến nghị, khuyến nghị, yêu cầu của họ nêu trên, không được Đảng và Nhà nước ta chấp nhận thì họ quay sang nói xấu, xuyên tạc và bôi nhọ Đảng, Nhà nước ta, chế độ ta; phủ nhận những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa qua gần 30 năm đổi mới mà chúng ta đã giành được.


Bóp méo, che đậy sự thật, phủ nhận thành quả cách mạng của cả một dân tộc qua gần 30 năm đổi mới là một việc làm không hề dễ dàng vì những gì đang diễn ra trước mắt mọi người cũng như sự "thay da đổi thịt" của đất nước là không thể chối cãi, không thể bác bỏ. Vì vậy, những người có quan điểm đối lập với Đảng ta lại quay sang sử dụng ngón đòn ác hiểm, thâm độc nhất là phê phán, xuyên tạc nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các ông, hòng gây ra sự hoài nghi, bi quan về tính đúng đắn, sáng tạo của lý luận khoa học Mác - Lênin, về sự lựa chọn đúng, sai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo cách này, họ hy vọng sẽ tạo ra một khoảng trống trong lòng xã hội ta, sẽ phân hóa các lực lượng "trung thành" với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng và dễ dàng nhận biết ai là lực lượng "cấp tiến", đứng về phía họ, mong muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, một mặt, tập hợp các phần tử bất mãn với chế độ ta thành một lực lượng độc lập, tạo dựng ngọn cờ, khi đủ mạnh thì ép Đảng ta từ bỏ mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa để thực hiện mưu đồ của họ là lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, tìm thời cơ, lên tiếng vu không Đảng, Nhà nước và chế độ ta vi phạm nhân quyền, mất dân chủ; kêu gọi các thế lực phản động nước ngoài ủng hộ, giúp sức thực hiện mưu đồ đen tối: đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:28:26 am
Hết lời ca ngợi chủ nghĩa tư bản, những người có quan điểm đối lập với Đảng ta không những đã nhắm mắt, làm ngơ, không cần biết những mâu thuẫn gay gắt vốn có trong lòng xã hội tư bản đương đại và những thói hư, tật xấu của nó. Họ đã cố tình né tránh, không hề đếm xỉa đến tội ác mà các thế lực phản động, hiếu chiến đã và đang gây ra cho nhân loại. Có thể vì nó không liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ chăng? Có thể là như vậy nhưng làm sao họ có thể quên đi quá khứ thấm đầy máu và nước mắt do thực dân, đế quốc đã gây ra cho dân tộc mình, đã làm cho hàng vạn gia đình tan nát, cha mất con, vợ mất chồng, em mất anh,... Hãy nhìn thẳng vào sự thật: Vì sao chiến tranh do đế quốc Mỹ và tay sai gây ra đã kết thúc 40 năm mà nhiều người vẫn phải chết do bom, mìn, đạn pháo của quân xâm lược còn sót lại? Ai đã cướp đi cuộc sống, sự bình an, sự lành lặn của hàng ngàn trẻ em bởi bố mẹ các em đã nhiễm chất độc hóa học da cam. Ai đã gây ra tội ác giết hại hàng triệu anh hùng liệt sĩ và đồng bào mình. Hãy nhìn vào các nghĩa trang liệt sĩ với nhiều nấm mộ chưa có tên mà suy nghĩ về sự "nhân đạo" của quân xâm lược, "lòng tốt" của những người đang muốn xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Ở các nước phương Tây, chắc chắn cũng có nhiều cái hay, cái tốt, chúng ta cần phải học để áp dụng vào nước mình cho phù hợp. Nhưng, hãy đứng trên mảnh đất hiện thực của ông cha, hãy đọc lại và học thuộc bài học lịch sử của dân tộc mình; hãy nhìn lại cho kỹ, cho sâu tình cảnh các nước gọi là phát triển, các nước phương Tây "văn minh, tiến bộ", kể từ lịch sử ra đời của nó, qua thăng trầm, phát triển và những chứng bệnh không thể cứu chữa của nó chứ không phải chỉ nhìn "một chiều" vào tình hình, hiện trạng bề nổi mà nó đang có để ngợi ca. Hãy nhìn sâu vào nước Mỹ, nơi chỉ 1% dân số giàu có nhất nhưng chiếm giữ 53% tổng lượng cổ phiếu, 64% chứng khoán và 1/3 tài sản cả nước; thu nhập người da trắng cao gấp 11 lần người da màu, tỷ lệ người da đen sống trong nghèo khổ cao gấp 3 lần, tỷ lệ nạn nhân người da đen trong các vụ bị giết hại cao gấp 5 lần so với người da trắng; năm 2008, Mỹ là nước buôn bán vũ khí lớn nhất, chiếm 56,7% tổng lượng buôn bán vũ khí thế giới, v.v... Hãy nhìn sâu hơn vào các nước phát triển khác để thấy rõ bộ mặt thật của nó và so sánh với đất nước, dân tộc mình thì mới thấy hết giá trị và thật sự tự hào về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã làm nên.


Rõ ràng, nhận thức cho sâu, cho kỹ tình cảnh đất nước ta với những gì đã có, đang có sau khi bước ra từ cuộc chiến tranh thần thánh để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; từ đó, biết vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác để kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; tự tin đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đi đến thành công. Đó là điều cần bàn tính với ý thức xây dựng. Bởi vì, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch sử nước ta; đương nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng, tất yếu đã, đang và sẽ có nhiều vấn đề mới nảy sinh, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm lời giải đáp thiết thực, hiệu quả; đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Đó là biện chứng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tới đây, Việt Nam sẽ tham gia ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, hợp tác toàn diện với nhiều quốc gia, dân tộc có chế độ chính trị rất khác nhau. Chúng ta đã và đang có những gì cần có và nó là cơ sở để các nước, các quốc gia, dân tộc mong muốn quan hệ, hợp tác, làm bạn với chúng ta.


Với tư cách là một thành viên có trách nhiệm trong gìn giữ hòa binh thế giới, chúng ta sẵn sàng đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh, bình tĩnh, tự tin "đổi mới nhưng không đổi hướng", "hội nhập nhưng không hòa tan", "khởi sắc nhưng không đổi màu", trước sau như một tiếp tục vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn. Thấy rõ việc bổ sung, phát triển lý luận mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dụng và bảo vệ Tổ quốc 30 năm qua là hết sức cần thiết, là "mệnh lệnh của cuộc sống".


Điều đó đòi hỏi chúng ta không những phải biết bảo vệ, đập tan các quan điểm sai trái, phản động mà còn phải kiên định, vững vàng trước khó khăn, thử thách; biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các ông nói riêng để tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định; hoàn thành các chỉ tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm tiếp theo (2020-2030).


Không phải bây giờ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác mới là trọng điểm lý luận bị công kích, chống phá từ nhiều phía của những người có quan điểm đối lập với Đảng ta. Từ trong lịch sử cách mạng xã hội chủ nghĩa, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã được phía phản diện "quan tâm" chống phá với vô số chiêu bài "quỷ quyệt" khác nhau. Điệp khúc được "tua" lại nhiều lần mà phía đối lập lớn tiếng cho rằng, "học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã lỗi thời và vô dụng, cần đưa vào "bảo tàng lịch sử"". Theo họ, con đường và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là "sai lầm", thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là "sao chép, rập khuôn máy móc mô hình Liên Xô"; là trái với quá trình lịch sử - tự nhiên, không mang tính tất yếu khách quan, không có khả năng thực hiện ở Việt Nam. Cho nên, họ đặt ra vấn đề "cần từ bỏ chủ nghĩa xã hội, nên lựa chọn con đường đi mới cho dân tộc Việt Nam là đi theo các nước tư bản chủ nghĩa vì các nước ấy đã có hơn 500 năm tồn tại, phát triển với nhiều kinh nghiệm quý" có thể giúp ta mau chóng giàu mạnh, hiện đại.


Hơn lúc nào hết, nhiệm vụ chính trị cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lúc này là nhận thức đúng đắn bản chất khoa học, cách mạng; giá trị và ý nghĩa học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, trang bị tri thức lý luận khoa học và thực tiễn cách mạng để đứng vững trên cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận của Đảng, chống các quan điểm sai trái, phản động; bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, làm cho mọi người dân nhận thức đúng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấy đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, làm sáng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và khả năng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định, góp phần phòng, chống nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" và chiến lược "diễn biến hòa bình" mà các thế lực thù địch đang mưu toan thực hiện, mưu đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta, đòi "phi chính trị hóa" quân đội với nhiều thủ đoạn tinh vi, hiểm độc.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:29:04 am
Trước đây, bằng quan niệm của tôn giáo và duy tâm về lịch sử, các thế lực thù địch đã tuyên truyền cho người dân tin vào vai trò sáng tạo thế giới của chúa trời, thượng đế và thánh thần, các lực lượng siêu nhiên, làm cho người dân buông xuôi, an phận, tuân theo định mệnh, số phận, tước đi sức mạnh tinh thần của người dân, loại bỏ nguy cơ phản kháng của giai cấp bị trị từ sự ươn hèn, bạc nhược về chính trị của họ đế lũng loạn và áp đặt quyền thống trị. Với sự ra đời của quan niệm duy vật về lịch sử thế giới và học thuyết giá trị thặng dư, C. Mác, Ph. Angghen, V.I. Lênin đã bác bỏ vai trò sáng tạo thế giới của chúa trời, thượng đế và thánh thần, đã khẳng định dứt khoát: tiến trình lịch sử phải tuân theo quy luật khách quan; tiền đề đầu tiên của lịch sử là con người với tư cách là chủ thể sáng tạo thế giới, cải tạo hiện thực, làm nên lịch sử, chứ không phải là chúa trời, thượng đế và thánh thần hoặc sự ủy thác của lực lượng siêu nhiên cho một số người làm thay họ.


Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin chỉ rõ: Để sống, trước hết con người cần phải có cái ăn, cái mặc, nơi ở và làm việc..., những thứ đó không có sẵn trong tự nhiên, mong muốn là có được. Vì vậy, con người buộc phải lao động sản xuất, tạo ra thức ăn, vật dụng để thỏa mãn nhu cầu của mình. Muốn vậy, con người phải cần đến công cụ lao động, đối tượng lao động, sức lao động; kinh nghiệm, vốn sống, sự hiểu biết và kỹ thuật chế tạo công cụ và sản xuất. Các yếu tố đó, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin gọi là lực lượng sản xuất, tức là quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục giới tự nhiên của họ. Để sản xuất ra thức ăn, đổ dùng, vật dụng, nêu chỉ có lực lượng sản xuất không thôi thì chưa đủ, con người phải cần đến quan hệ giao tiếp, tức là quan hệ sản xuất: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức, quản lý, phân công lao động và quan hệ về phân phối sản phẩm đã tạo ra. Sự gắn kết các yếu tố nêu trên tạo thành quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, làm ra của cải nuôi sống con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Đó là một vấn đề có tính quy luật khách quan và phổ biến. Để duy trì sự tồn tại và phát triển, con người không thể làm khác. Lao động, sản xuất vật chất với đúng nghĩa của nó đã sáng tạo ra con người.


Khi phân tích mối quan hệ này, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin chỉ ra rằng: chính sự thống nhất hoặc mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng như mâu thuẫn giữa các yếu tố tạo nên từng mặt của nó là ngọn nguồn "bí mật", vạch ra động lực phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị; giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và các mối quan hệ xã hội khác. Đó là cơ sở khoa học để giải thích các căn nguyên khác đã làm nảy sinh chế độ tư hữu, giai cấp, đấu tranh giai cap, nhà nước và cách mạng xã hội. Sự vận động, phát triển biện chứng của quá trình lịch sử - tự nhiên đã chỉ ra quy luật và xu thế, khuynh hướng phát triển của lịch sử xã hội loài người và sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thật không thể bác bỏ. Nghiền ngẫm thật kỹ lịch sử thế giới, nhất là lịch sử xã hội loài người sẽ khẳng định rõ hơn điều đó.


Vì thế, quan niệm duy vật về lịch sử của C. Mác đã phá bỏ "chân lý vĩnh hằng" về vai trò sáng tạo thế giới của chúa trời và các vị thần thánh, chỗ dựa cuối cùng của giai cấp thống trị. Bị vạch trần và mất chỗ dựa "linh thiêng", đồng thời cảm nhận nguy cơ tất yếu bị diệt vong, các giai cấp thống trị, đặc biệt là giai cấp tư sản trước đây cũng như ngày nay, đã và đang căm thù chủ nghĩa Mác - Lênin đến tận xương tủy. Điều đó đã nói lên rằng, Đảng ta cũng như các Đảng Cộng sản và các Đảng Công nhân khác, khi thừa nhận chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động thì cũng có nghĩa là đã và đang tuyên chiến với giai cấp bóc lột, đụng chạm đến lợi ích "sát sườn", "thiết thân" của giai cấp tư sản thống trị ngày nay; cho nên sự phản ứng quyết liệt của giai cấp tư sản và những người có chung lợi ích với họ cũng là một lẽ đương nhiên. Ở Việt Nam, những người "theo đuôi" chủ nghĩa tư bản đang làm những công việc "phi nhân tính", dù vô tình hay hữu ý, đều đang gây khó khăn, cản trở công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Giải thích căn nguyên sự phản kháng quyết liệt của giai cấp tư sản cũng như những kẻ "theo đuôi" đối với giai cấp vô sản và hệ tư tưởng khoa học, cách mạng, V.I. Lênin chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác là học thuyết vạch ra con đường đấu tranh để tự giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; "điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.1); điều đó cũng có nghĩa là nó thẳng thừng phủ nhận vai trò thống trị xã hội của giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột, đang cản trở tiến bộ xã hội. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa Mác mang tính đảng sâu sắc nhưng chủ nghĩa Mác không có gì giống "chủ nghĩa bè phái" hiểu theo nghĩa một học thuyết phiến diện, cực đoan và khép kín, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển tất yếu của văn minh nhân loại. Khác hẳn về chất so với các học thuyết xuất hiện trong lịch sử, học thuyết Mác là sự thống nhất biện chứng giữa tính đảng và tính khoa học; chỉ ra con đường xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng con người...; đưa người lao động lên địa vị làm chủ vận mệnh, cuộc sống của chính mình.


Cơ sở khách quan của sự thống nhất đó là sự phù hợp giữa lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao động và quy luật phát triển tất yếu khách quan của xã hội. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là do chính tiến trình vận động, phát triển khách quan của lịch sử quy định. Chủ nghĩa Mác không chỉ là sự thể hiện sâu sắc ý nguyện của giai cấp công nhân, mà còn là khát vọng của toàn thể nhân loại tiến bộ, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ, tư tưởng - văn hóa của loài người một cách hợp quy luật, thâm đượm tính nhân văn.


Chính vì vậy, dẫu phải trải qua nhiều thử thách cam go, phức tạp với những bước đi thăng trầm của lịch sử, chủ nghĩa Mác ngày càng khẳng định sức sống mãnh liệt của mình; mọi âm mưu, thủ đoạn công kích, bài xích nhằm thủ tiêu, hạ bệ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đều không đủ sức thuyết phục và cuối cùng đều bị thất bại.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:29:50 am
Lợi dụng những khó khăn và sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những người theo đuổi chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các lý luận gia tư sản không chỉ dừng lại ở việc phê phán một vài luận điểm, mà công kích toàn diện hòng phủ nhận toàn bộ học thuyết Mác - Lênin; xoáy sâu vào lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của các ông. Bởi lẽ, trong chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là một vấn đề có tính chất nền tảng, nhờ nó mà quan niệm duy vật biện chứng về xã hội không còn là một giả thuyết, mà được chứng minh một cách khoa học và trở thành kim chỉ nam cho nhận thức và hành động của các Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng thế giới. C. Mác và Ph. Ăngghen cũng xác nhận rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chính là những kết quả lớn mà hai ông đã đạt được, nó đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này; là "chìa khóa" mở con đường đi lên phía trước: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Vì lẽ đó, những người theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại tập trung công kích, bài xích lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội, hy vọng từ đó, phủ nhận toàn bộ học thuyết Mác - Lênin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng và với cả tư cách là một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Họ lớn tiếng phê phán "sai lầm chủ yếu trong chủ nghĩa Mác là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội"1 (I.U. Burtin: "Những khiếm khuyết trong học thuyết lịch sử của Mác", Tạp chí OKtiabr, số 11 và 12-1989). Đồng thời, cùng với các học giả tư sản, họ ra sức ca ngợi, lý tưởng hóa xã hội tư bản hiện đại, tán dương các học thuyết xã hội ngoài mácxít, chứng minh "tính hợp lý" của học thuyết này với ý đồ thay thế, gạt bỏ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Đó là mưu đồ "thay máu cho hệ tư tưởng" mà họ đang ca ngợi.


Trong những học thuyết xã hội ngoài mácxít mà các lý luận gia tư sản, các phần tử cơ hội, xét lại ra sức tán dương, chúng ta cần chú ý đến luận thuyết về "năm thời kỳ trưởng thành của xã hội" của nhà xã hội học Mỹ U. Rôxtâu, cố vân tâm lý của nhiều đời tổng thống Mỹ và luận thuyết về sự phát triển xã hội trải qua những làn sóng xác lập những nền văn minh của nhà tương lai học A. Tôphlơ.


Dựa vào sự phát triển của công nghiệp, U. Rôxtâu phân định lịch sử xã hội cho đến nay trải qua năm giai đoạn: giai đoạn trước công nghiệp (trước tư bản chủ nghĩa) là "xã hội cổ truyền", được coi là "trung tâm của sự lạc hậu"; bốn giai đoạn tiếp theo là các nấc thang phát triển của công nghiệp, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản (từ "trạng thái quá độ" với sự xuất hiện của các nhà kinh doanh công nghiệp qua giai đoạn "cao trào nhảy vọt", giai đoạn "chín muồi công nghiệp" đến giai đoạn thứ năm là "xã hội tiêu dùng rộng rãi" với "nhà nước phúc lợi chung").


U. Rôxtâu coi giai đoạn thứ năm này là tổ chức xã hội lý tưởng (có ở Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu); nước Mỹ đang ở đỉnh cao của quá trình tiến hóa ấy, đợi các nước khác diễn lại cái quá khứ của nước Mỹ để cùng hòa vào "xã hội hậu công nghiệp" mà nước Mỹ là đại diện. Dựa vào tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, A. Tôphlơ cho rằng, nhân loại đã và đang trải qua những làn sóng thay đổi vĩ đại, xác lập những nền văn minh diễn ra với nhịp độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn. Làn sóng thứ nhất là cuộc cách mạng nông nghiệp của mười nghìn năm trước đây, xác lập nền văn minh nông nghiệp. Làn sóng thứ hai là cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu diễn ra cách đây 300 năm, xác lập nền văn minh công nghiệp. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là làn sóng thứ ba, sản sinh ra nền văn minh "hậu công nghiệp"...


Những quan điểm trên đây có chung cơ sở phương pháp luận là "quyết định luận kỹ thuật", đồng nhất tiến bộ kỹ thuật với tiến bộ xã hội, chứng minh sự phụ thuộc của các lĩnh vực của đời sống xã hội vào sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ. Từ đó dẫn tới kết luận: tiến bộ kỹ thuật trong thời đại ngày nay là yếu tố quyết định làm cho xã hội tư bản chuyển hóa thành "xã hội hậu công nghiệp", đưa loài người đến một kỷ nguyên mới mà trong đó, kỹ thuật là yếu tố chi phối, trí thức là nhân vật trung tâm. Với luận thuyết này, học thuyết Mác - Lênin "đã trở nên lỗi thời", không còn tác dụng. Người ta tuyên truyền một triết lý nhân sinh mới, lấy quan điểm của U. Rôxtâu và A. Tôphlơ kết hợp với chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực chứng mới và chủ nghĩa Tôma mới để làm hạt nhân hệ tư tưởng của thời đại. Ở đó có sự chung đúc của tất cả những gì là tinh túy nhất, hợp "model" nhất mà tất các các quốc gia, dân tộc không kể sự khác biệt về màu da, văn hóa, trình độ, đều có thể "thụ hưởng", lấy nó làm kim chỉ nam cho hành động, v.v...


Theo lôgích đó, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không còn, mà bản thân giai cấp đó cũng dần dần "biến mất" cùng giai cấp tư sản, không còn đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, "cách mạng xã hội chủ nghĩa" và "chuyên chính vô sản" chỉ là những khái niệm mơ hổ của một thời lầm lỗi thuộc về quá khứ, v.v... Do đó, không cần có học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin; không cần có chủ nghĩa của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin nhân loại vẫn tiến lên. Những người theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại đã và đang ra sức phụ họa, tán dương những luận điểm trên đây, cho rằng toàn bộ học thuyết Mác - Lênin (từ lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý luận về nhà nước và chủ nghĩa xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và chuyên chính vô sản...) đã lỗi thời, không theo kịp sự phát triển của thời đại và nó đã được thay thế bằng một luận thuyết khác, về thực chất, đó là hệ tư tưởng tư sản đã được cách tân, chỉ là "rượu cũ bình mới" mà thôi.


Do đó, cần phá bỏ, thay đổi tất cả những gì được thiết kế, xây dựng trong hiện thực theo học thuyết Mác - Lênin: cần thay thế mô hình "xã hội chủ nghĩa mácxít" bằng mô hình "xã hội chủ nghĩa phi mácxít", "xã hội chủ nghĩa không cộng sản"; không phải "thủ tiêu chế độ tư hữu" mà cần "tư hữu hóa" nhiều hơn và toàn bộ cơ sở kinh tế của xã hội; cần từ bỏ chuyên chính vô sản với sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thay thế bằng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng (hay lưỡng đảng) đối lập, v.v...


Chúng ta không phủ nhận những yếu tố hợp lý trong các học thuyết xã hội ngoài mácxít, nhất là về vai trò của khoa học và công nghệ hiện đại, về sự phát triển của lực lượng sản xuất, về đẩy mạnh giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí... Song, cần thấy rõ những khiếm khuyết và hạn chế cơ bản trong các học thuyết đó, nhất là việc né tránh giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội, với vấn đề giải phóng con người, các vấn đề xã hội và các vấn đề toàn cầu khác trong phạm vi mỗi quốc gia, dân tộc cũng như toàn nhân loại.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:30:42 am
Không phải ngẫu nhiên mà trong thông điệp của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II tỏ ý nghi ngờ: "Liệu có thể nói rằng, sau khi chủ nghĩa cộng sản thất bại thì chủ nghĩa tư bản là một hệ thống đắc thắng, và chủ nghĩa tư bản sẽ là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia hiện nay đang nỗ lực xây dựng nền kinh tế và xã hội của mình hay không? Câu trả lời dĩ nhiên là phức tạp".


Ông cũng tỏ ra lo lắng: "Có nguy cơ ý thức hệ tư sản cấp tiến lan rộng, họ mù quáng phó thác việc giải quyết các vấn đề ấy (tức các vấn đề xã hội - tác giả) cho việc phát triển tự do của các thế lực thị trường"1 (Thông điệp của Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố nhân dịp 100 năm Thông điệp "Rerum Novarum" của Giáo chủ Lê Ô XIII (1891-1991)).


Để phân tích và giải quyết một cách khách quan, khoa học, có hiệu quả các vấn đề thuộc đời sống xã hội, không thể siêu hình, phiến diện, tuyệt đối hóa một vài yếu tố nào đó, mà phải có quan điểm tổng hợp, tiếp cận theo nguyên lý tính hệ thống và xem xét nó một cách khách quan, toàn diện, cụ thể - lịch sử, thực tiễn và phát triển. Cần coi xã hội là một chỉnh thể thống nhất, có kết cấu cơ bản và phổ biến, có cơ chế vận động, phát triển theo quy luật khách quan với tư cách là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Đó chính là những vấn đề cơ bản được luận chứng khoa học trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, trong toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.


Chúng ta thừa nhận có một số luận điểm cụ thể mà C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin khái quát về thời đại, hoặc dự báo về tương lai nay không còn phù hợp. Đó là điều bình thường, đúng với quy luật khách quan của quá trình nhận thức, sự vận động, phát triển của thực tiễn lịch sử. Không vì thế mà phủ nhận giá trị khoa học và ý nghĩa thời đại sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các ông. Cũng không thể vì sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu mà suy diễn một cách thô thiển: mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, theo đó là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác sụp đổ.


Không phải ngẫu nhiên mà Thời báo Lốt Angiơlét (Mỹ), phát hành ngay sau sự kiện 19-8-1991 đã nhận định: Tư tưởng xã hội của chủ nghĩa Mác vẫn còn ghi dấu ấn không thể xóa bỏ trên lĩnh vực lý luận. Rất nhiều vấn đề chính trị học, xã hội học, kinh tế học của thế giới đương đại đều được phân tích bằng lăng kính của chủ nghĩa Mác, thậm chí còn được phân tích bằng những khái niệm mácxít. Cựu Tổng thống Mỹ R. Níchxơn, trong cuốn sách Chớp lấy thời cơ - thách thức mới đối với Hoa Kỳ trong thế giới một siêu cường cũng phải thừa nhận: Học thuyết Mác vẫn đang được hâm mộ trong các trường đại học ở Mỹ; tương lai của loài người tất yếu sẽ vận động, phát triển theo quy luật khách quan mà C. Mác đã vạch ra.


Hiểu cho đúng sự thật, tôn trọng sự thật và nói cho đúng lương tâm của một con người chân chính thì phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, điều kiện, lực lượng và phương pháp giải phóng triệt để xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, đói nghèo dưới mọi hình thức. Đó là điều mà các bậc tiền bối của C. Mác là Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen..., đã rất cố gắng giải thích thế giới dưới cái nhìn khoa học, song các ông không thể bởi ý muốn của các ông là muốn đi lên phía trước nhưng đôi chân của các ông, cái đầu của các ông đã bị "cầm tù" bởi những hạn chế lịch sử, rất khó vượt qua. Vượt lên trên các bậc tiền bối và những người đương thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác chỉ ra những quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi không gì cản nổi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; đưa giai cấp công nhân và những người dân lao động từ nô lệ, lầm than lên địa vị làm chủ xã hội; quyết định vận mệnh của mình, của lịch sử nhân loại.


Với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, chủ nghĩa Mác đã đem lại niềm tin vào thắng lợi cuối cùng cho giai cấp vô sản, khi dám đập tan gông xiềng, xích sắt, "rũ bùn đứng dậy", chấm dứt cuộc đời nô lệ. Đó cũng là điều giải thích rõ tại sao lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lại tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, tại sao Đảng ta khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, và tại sao kẻ thù của chúng ta lại quyết liệt tấn công nhằm hạ bệ, thủ tiêu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách ráo riết, quyết liệt đến như vậy.


Để công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục gặt hái những thành công mới, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; đặc biệt là trong nghiên cứu, học tập và vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, cần đi sâu khai thác, làm rõ hơn những nội dung chủ yếu nhất, cốt lõi nhất, đặc biệt là làm nổi bật phương pháp tiếp cận và bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết này; ý nghĩa lý luận, thực tiễn sự vận dụng học thuyết vào quá trình đổi mới.


Với bản lĩnh khoa học và cách mạng vững vàng, chúng ta cần khẳng định dứt khoát rằng, trước đây cũng như hiện nay và mai sau, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác vẫn là học thuyết duy nhất khoa học và cách mạng để nhận thức và giải quyết các vấn đề lịch sử, xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác thể hiện ở tính tất yếu khách quan của sự ra đời học thuyết, ở việc khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển lịch sử xã hội loài người, ở quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, ở môi quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, ở việc khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên... Không thể lấy cách tiếp cận khác, ví như cách tiếp cận của lịch sử các nền văn minh, các làn sóng văn minh, hoặc cách tiếp cận của sự phát triển khoa học, công nghệ, kỹ thuật... để "thay máu cho hệ tư tưởng", càng không thế phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của nó, mặc dù trong các cách tiếp cận, luận giải của một số luận thuyết tư sản hiện đại có một số yếu tố khoa học, chúng ta có thể chọn lọc tiếp thu, kế thừa trên tinh thần phê phán để bổ sung, phát triển làm giàu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Về điểm này, V.I. Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản nếu không muốn lạc hậu thì phải tiếp thu, kế thừa tất cả những gì là tinh túy nhất, tiến bộ nhất của thế giới đương đại để đưa vào cuộc sống, làm giàu lý luận khoa học, cách mạng. Có như vậy, học thuyết Mác - Lênin mới không ngừng phát triển, gắn liền với đời sống thực tiễn xã hội.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:31:55 am
Với quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, chúng ta cần phê phán, bác bỏ các quan điểm duy tâm chủ quan và siêu hình của những người theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Cần khẳng định rằng: trong xã hội có đối kháng giai cấp, không có thứ lý luận "phi tính đảng": nếu không có quan điểm giai cấp rõ ràng thì không thể luận giải khách quan, khoa học các hiện tượng chính trị, xã hội; mong đợi một khoa học xã hội vô tư trong xã hội có đối kháng giai cấp là "một sự ngây thơ khờ khạo", là ảo tưởng. Điều này đúng với nhận định của V.I. Lênin: "Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.57).


Khi phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác, phải luận giải và khẳng định được sự ra đời học thuyết này là một cuộc cách mạng lý luận trong toàn bộ quan niệm về lịch sử và xã hội, là sản phẩm tất yếu của lịch sử và thời đại, một trong những phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen. Thật vậy, trước Mác, chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo thống trị nhận thức xã hội và lịch sử, việc phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử hoàn toàn rơi vào ngõ cụt, bế tắc; người ta đã quan niệm rằng, động lực phát triển của lịch sử xã hội do thượng đế, thánh thần, những lực lượng này có sức mạnh siêu nhiên nên đóng vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển lịch sử, xã hội loài người.


Bác bỏ quan điểm duy tâm trừu tượng, phi lịch sử về xã hội, C. Mác chỉ ra rằng, động lực phát triển của lịch sử không phải do thánh thần mà là do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan quyết định. C. Mác đã xuất phát từ "cái sự thật hiển nhiên... là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học, v.v.."1 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.166). Luận điểm này biểu hiện tập trung nhất quan niệm duy vật về lịch sử của C. Mác. Chừng nào con người còn tồn tại trên trái đất này, nghĩa là loài người còn tiếp tục sống và phát triển thì chừng đó, họ còn phải ăn, uống và lao động... Chừng nào cái sự thật hiển nhiên đó vẫn tồn tại thì quan niệm duy vật về lịch sử của C. Mác cũng như học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là không thể lạc hậu, không thể lỗi thời và ai đó, dù cố tình bóp méo sự thật, vu không, áp đặt ý muốn chủ quan cho học thuyết Mác, chống đối, bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta thì sớm hay muộn sẽ bị lịch sử vượt qua.


Ai cũng biết, để làm ra của cải vật chất nuôi sống mình, duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội, con người buộc phải quan hệ với nhau trong quá trình lao động, sản xuất. Những quan hệ này mang tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của bất cứ ai. Xem xét tất cả các quan hệ xã hội, C. Mác nhìn thấy vai trò hàng đầu của quan hệ kinh tế và ông đã làm nổi bật những quan hệ vật chất xã hội, tức là những quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế. C. Mác coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ khác. Bằng cách này, quan niệm duy vật lịch sử trình bày trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã cung cấp cho khoa học xã hội và nhân văn một tiêu chuẩn khách quan để xem xét các hiện tượng phức tạp của lịch sử, xã hội. Nhờ có quan niệm duy vật về lịch sử, C. Mác đã chấm dứt mọi lũng đoạn trong sự giải thích các hiện tượng lịch sử của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.


Điểm vượt trội, mang ý nghĩa thuyết phục của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác so với các học thuyết xã hội khác là ở chỗ, C. Mác làm nổi bật vai trò quyết định - xét đến cùng - của nhân tố kinh tế. Tuy nhiên, C. Mác, Ph. Ăngghen không bao giờ coi kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động, biến đổi của lịch sử. Về vấn đề này, Ph. Ăngghen đã khẳng định rõ ràng: "Theo quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở hạ tầng, nhưng các yếu tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng... cũng có ảnh hưởng đến quá trình cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trường hợp chiếm ưu thế trong việc quyết định hình thức của cuộc đấu tranh ấy"1 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.641-642; t.20, tr.641).


Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội thế hiện ở chỗ, C. Mác chỉ ra vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội, con người, loài người. Nêu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người, nhờ có lao động sản xuất vật chất mà cải tạo thế giới, và do đó, luôn thỏa mãn nhu cầu của mình, làm chủ thế giới, sáng tạo ra lịch sử. Không có hoạt động sản xuất vật chất, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển. Ngoài chức năng đầu tiên và trực tiếp này, con người thông qua lao động sản xuất vật chất còn gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất và tinh thần của mình. Ph. Ăngghen khẳng định: "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người... lao động đã sáng tạo ra bản thân con người"2 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.641-642; t.20, tr.641).


Như vậy, sự tồn tại và phát triển của xã hội, trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Do đó, lịch sử xã hội không có gì khác là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Bởi thế mọi sự giải thích thế giới chỉ có thể đạt tới chân lý khi sự giải thích ấy được xuất phát từ nền sản xuất vật chất xã hội và thực tiễn khách quan, tư duy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác.


Trong khi nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác vào công cuộc đổi mới hiện nay, cần phân tích kỹ lưỡng nội dung kết cấu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác; ở đó ông đã chỉ ra rằng, lực lượng sản xuất, xét đến cùng, đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất, quyết định thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi một chế độ xã hội. C. Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình... loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp"1 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187). Khi phân tích vai trò của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, C. Mác, Ph. Ăngghen và sau này là V.I. Lênin đã chú ý làm nổi bật vai trò của khoa học, công nghệ và lao động trí tuệ, qua đó các ông khẳng định khoa học, công nghệ và hàm lượng trí tuệ, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay đang làm cho con người và sức lao động của họ trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng của sản xuất xã hội, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 04 Tháng Mười, 2022, 08:32:38 am
Từ đây, vận dụng ý nghĩa phương pháp luận giải quyết vấn đề này, chúng ta có thể giải thích, làm rõ tính đúng đắn của luận đề: Vì sao Đảng ta lại quyết định đưa ra và thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quyết tâm phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Vì sao Đảng ta lại quyết định đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc lại nền kinh tế, sớm ổn định kinh tế vĩ mô, quyết tâm kiềm chế, đẩy lùi, kiểm soát lạm phát; cố gắng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; không mắc bẫy thu nhập trung bình, v.v...


Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, quan hệ sản xuất chịu sự quy định của lực lượng sản xuất, song cũng cần nhìn thấy sự tác động trở lại mang tính tích cực, sáng tạo của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất để chủ động, tích cực xây dựng, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Theo C. Mác, sự tồn tại và phát triển của quan hệ sản xuất tất yếu phải tuân theo những quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất, xét về thực chất, là quan hệ kinh tế, quan hệ mang tính vật chất, là cơ sở, cội nguồn của đời sống văn hóa, tinh thần. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Đây là "chìa khóa" mở ra con đường để nhận thức các vấn đề khác của đời sống xã hội.


Bởi lẽ, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác, đây là mối quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Đối với nước ta, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các hình thức sở hữu hiện thời là một bước đi sáng tạo trên cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Song, những gì đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta không cho phép chúng ta bằng lòng, dừng chân, an phận với cái hiện có mà phải tích cực, chủ động nghiên cứu, dự báo, đề xuất các định hướng, giải pháp lớn để phát huy những ưu điểm, mặt tốt; đồng thời, kiên quyết đấu tranh khắc phục những hạn chế khuyết điểm, không để xảy ra những sai lầm do ý chí chủ quan; càng không để các thế lực thù địch mượn cớ, tung tín, nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.


Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học trong giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta cần đi sâu phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, chỉ ra vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam. Ai cũng biết rằng, kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra, song nó không phải là sản phẩm thụ động, tiêu cực mà luôn tác động trở lại một cách tích cực, sáng tạo đối với cơ sở hạ tầng. Sự phát triển của các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế hoàn toàn không phải chỉ có điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất đóng vai trò chủ động, còn các yêu tố khác chỉ có tác dụng phụ, đóng vai trò thụ động.


Do vậy, trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn dựa chắc vào nền tảng, cơ sở khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, để đề xuất đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở hạ tầng vững mạnh, đồng thời thấy rõ vai trò, tác động tích cực của các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng, nên đã và đang giải quyết có hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng nhằm xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng vững mạnh, trong đó đặc biệt quan tâm xây dựng môi quan hệ máu thịt giữa việc khẳng định vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.


Có thể khẳng định rằng, với đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đúng đắn và thành tựu giành được trong gần 30 năm qua đã cho phép Đảng ta xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm lần thứ tư; phấn đấu để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2050, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.


Như vậy, việc làm rõ một số vấn đề "mấu chốt" của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, đã cho phép Đảng ta vận dụng sáng tạo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cũng như môi quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào công cuộc đổi mới ở nước ta. Đây là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để chúng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và chính nó là vũ khí sắc bén để chúng ta đứng vững trên mặt trận tư tưởng lý luận, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phản động, bảo vệ chân lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trước sự tấn công của kẻ thù, sự vận động, biến đổi rất phức tạp của tình hình hiện nay; kiên quyết giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử chúng ta đạt được gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.


Trong học tập, nghiên cứu và vận dụng lý luận vào thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, cần tích cực tuyên truyền ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác và giá trị, ý nghĩa vận dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta trong 30 năm đổi mới.


Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những phát kiến vĩ đại của C. Mác, là "hạt nhân" cơ bản của quan niệm duy vật lịch sử, và là nội dung cơ bản trong học thuyết kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác. C. Mác coi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là những yếu tố không thể thiếu được để hợp thành hình thái kinh tế - xã hội; đồng thời, ông coi mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó chính là những vấn đề có tính quy luật trong quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.


Sự vận động, phát triển của các quy luật làm cho sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Đây là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để giải thích các sự kiện, các hiện tượng lịch sử và vai trò sáng tạo lịch sử của loài người, xu thế vận động, phát triển của thời đại ngày nay cũng như tính tất yếu khách quan đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dù muốn hay không thì cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn cứ diễn ra, sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp hơn là một tất yếu khách quan; một xu hướng không thể đảo ngược; không ai tự sáng tạo ra quy luật và không ai có thể "tiêu diệt" được quy luật, không thể ngăn cản bánh xe lịch sử.


Ngày nay, sự vận động của thực tiễn lịch sử và những kiến thức về lịch sử của nhân loại đã có bước phát triển mới so với giai đoạn học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác mới xuất hiện. Chính sự phát triển tri thức khoa học của nhân loại là cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để chứng minh tính đúng đắn và giá trị khoa học của học thuyết Mác. Với bản chất khoa học và cách mạng, những kết luận mà C. Mác nêu ra trong học thuyết của mình vẫn còn nguyên giá trị, đã và đang tác động sâu sắc đến thời đại ngày nay. Học thuyết của C. Mác sẽ còn sống mãi, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để chúng ta nhận thức và cải tạo thế giới, để phòng chống sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa; để đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở Việt Nam. Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hơn ba thập niên vừa qua và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, đã và đang chứng minh điều đó.


Trước sau như một, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững tin đi theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, quyết tâm vượt qua mọi chông gai, thử thách, tiếp tục tiến lên. C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh vẫn ở bên chúng ta. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin sống mãi vì nó là học thuyết khoa học và cách mạng. Chừng nào còn tồn tại con người và xã hội loài người thì chừng ấy tinh thần của phép biện chứng duy vật trong phát triển xã hội và giá trị nhân văn, nhân đạo của nó còn soi sáng, dẫn dắt, chỉ đường loài người tiến lên.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:16:06 pm
III- SỰ THẬT KHÔNG THỂ BÁC BỎ, CHÂN LÝ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Những năm qua, lợi dụng sự suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế yếu kém trong công tác quản lý nhà nước và một số vụ án tham nhũng chưa giải quyết triệt để đang gây dư luận, bất bình trong nhân dân, một số người tự cho mình là "cấp tiến", "có trách nhiệm lên tiếng chống tiêu cực", đã đưa ra nhiều lý lẽ phê phán Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Họ phê phán đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, quy những hạn chế yếu kém ấy về một nguyên nhân sai lầm là do Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Họ bài xích, phủ nhận mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; nói xấu, hạ thấp uy tín, danh dự của một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành của Trung ương và địa phương nhằm gây sự nhiễu loạn tư tưởng, mất ổn định chính trị xã hội; từ đó, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ chế độ xã hội ta, lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.


Chúng ta không hề ngạc nhiên trước thái độ, quan điểm của những người theo đuôi chủ nghĩa cơ hội, xét lại phán xét, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin. Kể từ khi Đảng ta ra đời (năm 1930) cho đến nay, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (năm 1991) của Đảng, Đảng và nhân dân ta luôn khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Ngay sau đó, trên các sách báo, đài phát thanh, các trang mạng xã hội và các kiểu loại thông tin mà các thế lực thù địch có thể sử dụng, ở trong nước và nước ngoài, đồng loạt có những bài viết xuyên tạc, vu khống, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước ta. Chúng không chỉ phê phán, phủ nhận các luận điểm này nọ như trước đây, mà còn đi sâu vào cội nguồn, gốc rễ, lịch sử hình thành, phát triển của các quan điểm, học thuyết trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phê phán, xuyên tạc, bóp méo sự thật đến mức trắng trợn, vô liêm sỉ.


Kẻ thù hiểu rõ, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở châu Âu, được truyền bá sang Việt Nam thông qua các tài liệu dịch thuật. Người Việt Nam hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và các tài liệu dịch thuật do Hồ Chí Minh chuyển về nước và các văn bản dịch ra tiếng Việt; các bài viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ, qua một số công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu đã công bố, xuất bản... Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau nên chỉ có một bộ phận nhân dân Việt Nam có điều kiện đọc, nghiên cứu và hiểu được những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, còn phần đông nhân dân lao động mới hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin ở những điểm căn bản nhất. Trong đó có một vấn đề cơ bản là lịch sử quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thì rất ít người Việt Nam hiểu biết tường tận, sâu sắc. Lợi dụng điểm hạn chế này, kẻ thù đã xuyên tạc, bóp méo sự thật về nguồn gốc và bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh.


Với hy vọng "mưa dầm thâm lâu", "nước chảy đá mòn", các thế lực thù địch nhiều lần đưa ra các luận điểm chống chủ nghĩa Mác, làm cho một số người nhẹ dạ, cả tin "tán thưởng, hùa theo", nói xấu chủ nghĩa Mác - Lênin, bôi nhọ, xuyên tạc tư tưởng và đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh; hết lòng ca ngợi chủ nghĩa tư bản, bất chấp những khuyết tật, hạn chế, yếu kém của nó. Để những người này tỉnh ngộ, nhận thức ra lẽ phải, trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, chúng ta cần làm cho nhân dân hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một "liều thuốc đặc hiệu" có thể cắt đứt "căn bệnh hoang tưởng" hay "xiên xẹo" của những người ảo tưởng về lòng tốt, đức tính "nhân từ", "bác ái" của chủ nghĩa tư bản; đưa họ trở lại mảnh đất hiện thực và cuộc sống thực tại ở Việt Nam và thế giới đương đại.


Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở nước Đức, do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập. Ban đầu, chỉ là "một bóng ma ám ảnh châu Âu", song vào những năm 70 của thế kỷ XIX, nó đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của phong trào công nhân quốc tế, là cương lĩnh và là nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản. Đến năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã vượt qua biên giới các nước châu Âu, châu Á, lan rộng ra khắp thế giới, đên tận các nước Mỹ Latinh...


Điều đó chứng minh rằng, chủ nghĩa Mác không phải là "một học thuyết bè phái" mà là một học thuyết khoa học và cách mạng, mang tính phổ biến, phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử thế giới hiện đại. Bằng lao động khoa học sáng tạo, C. Mác và Ph. Ăngghen đã có công lao to lớn trong việc chuyển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành lý luận khoa học, cách mạng và V.I. Lênin đã đưa lý luận khoa học, cách mạng của C. Mác vào thực tiễn cuộc sống, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và cách mạng vô sản.


Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử, từ các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan đã phát triển chín muồi chứ không phải "được nặn ra từ những cái đầu thiển cận", mang nặng tính chủ quan, áp đặt như người ta thường xuyên tạc, bóp méo sự thật.


Lịch sử thế giới hiện đại đã chứng minh rằng, vào những năm 40 của thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản phát triển rất mạnh mẽ, ưu thế của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được khẳng định và cách mạng tư sản đã thắng lợi. Thế nhưng, ngọn cờ "tự do, bình đẳng, bác ái" và những lời hứa của giai cấp tư sản trong cách mạng tư sản, giờ đây chỉ còn lại là "chiếc bánh vẽ", nó chẳng đem lại ích lợi gì cho những người nghèo khổ, phải bán sức lao động, làm thuê sinh sống. Thành quả và lợi ích của cuộc cách mạng tư sản đã bị giai cấp tư sản chiếm đoạt mà không hề đếm xỉa đến lợi ích của những người bạn đồng minh là giai cấp vô sản - những người đã đào hào, đắp lũy, xông pha lửa đạn, hy sinh xương máu làm nên thắng lợi của cách mạng.


Bị lừa dối và phản bội, giai cấp vô sản đã thức tỉnh và họ nhận ra rằng, kẻ thù của mình không phải là "máy móc" mà chính là giai cấp tư sản. Vì vậy, họ đã liên hợp lại, kiên quyết đứng lên đấu tranh phá bỏ gông xiềng, xích sắt, đòi lại quyền sống chính đáng của mình. Cuộc đấu tranh "một mất một còn" của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng quyết liệt và nó đã báo trước một thời kỳ lịch sử sục sôi: giai cấp vô sản sẽ tự định đoạt vận mệnh của mình, đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản; xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:16:47 pm
C. Mác và Ph. Ăngghen sống trong thời đại ấy, tận mắt chứng kiến các sự kiện, biến cố lịch sử, đã phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - những người "đào huyệt" chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Các ông đã xây dựng lý luận khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác để trang bị cho giai cấp công nhân. Trong thập kỷ thứ ba và thứ tư của thế kỷ XIX, những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã phát triển và đạt độ chín muồi, tác động trục tiếp đến C. Mác và Ph. Ăngghen, cho phép các ông tiếp thu, kế thừa và xây dựng học thuyết khoa học, cách mạng - hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Điều đó đã giải thích rõ: Tại sao các bậc tiền bối của C. Mác và Ph. Ăngghen và những người đương thời lại không thể phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Các bậc tiền bối và những người đương thời không thể xây dựng nên học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp vô sản.


Những ai nói rằng, chủ nghĩa Mác được "nặn ra từ những cái đầu thiển cận"... hẳn là phải học lại bài học lịch sử này; tự cắt nghĩa vì sao học thuyết Mác ban đầu chỉ là ''một bóng ma ám ảnh châu Âu", 30 năm sau, đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân, kiên quyết đấu tranh chống lại các thế lực phản động, thực hiện tiến bộ xã hội; đem lại sự công bằng, lẽ phải và mọi điều tốt đẹp cho nhân loại.


Chủ nghĩa Mác - hệ tư tưởng của giai cấp vô sản không phải là "sự ba hoa của kẻ làm trò ảo thuật, mà là minh chứng của lịch sử và khoa học hiện đại". Để xây dựng học thuyết của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã gạn lọc, tiếp thu, kế thừa tất cả những gì là tinh hoa trí tuệ của lịch sử tư tưởng nhân loại. V.I. Lênin viết: "Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng rằng, chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới". Người còn chỉ rõ, học thuyết của C. Mác "ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.49-50).


Về điều này, bản thân C. Mác, từ năm 1846, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, đã nói rõ. Bốn mươi lăm năm sau, tức là vào năm 1886, trong tác phẩm: L. Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph. Ăngghen đã giải đáp tường tận nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác, nói rõ C. Mác đã kế thừa những giá trị của các bậc tiền bôi và đã độc lập nêu ra các quan điểm của mình như thế nào. Ph. Ăngghen coi đó là "việc làm danh dự" rất cần thiết để "trả món nợ lương tâm" mà 40 năm trước, C. Mác đã trình bày vấn đề này trong Hệ tư tưởng Đức, nhưng thời đó, Hệ tư tưởng Đức chưa được xuất bản. Gọi là đọc chủ nghĩa Mác, hiểu chủ nghĩa Mác mà lại không rõ những chi tiết này, để rồi coi chủ nghĩa Mác là "học thuyết đẻ non", "là sản phẩm sống sượng", "nặn ra từ những cái đầu thiển cận", là "sự sao chép học thuyết của Arixtốt, Ricácđô, Xanh Ximông, Hêghen, Phoiơbắc" thì như thế không thể coi là hiểu biết chủ nghĩa Mác, mà là sự nhạo báng chủ nghĩa Mác, xuyên tạc trắng trợn, phủ nhận chân lý khoa học.


C. Mác và Ph. Ăngghen đã nghiên cứu và kế thừa tất cả những tinh hoa tư tưởng, văn hóa của nhân loại, trực tiếp là kế thừa những thành tựu của kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học của Hêghen và chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Ph. Ăngghen cho rằng, C. Mác vĩ đại bởi vì ông "biết đứng trên vai của những người khổng lổ". Đó là Ricácđô, A. Xmít, Xanh Ximông, Phuriê, Hêghen và Phoiơbắc..., không có các vị ấy và thành tựu nghiên cứu lý luận của các vị ấy, chắc chắn không thể có chủ nghĩa Mác.


Chính "tư tưởng tiến bộ" và "hạt nhân hợp lý" trong các học thuyết triết học và chính trị học của các bậc tiền bối đã được C. Mác kế thừa, bằng cách gạn lọc những gì tinh túy nhất để xây dựng nên học thuyết khoa học, cách mạng của giai cấp vô sản. Với tính cách là những bộ phận câu thành chủ nghĩa Mác, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc, xuất phát điểm của chúng. Ai đó coi chủ nghĩa Mác như là "sự lắp ghép cơ học của kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức" là không hiểu đúng bản chẩt khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, cũng như lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại.


Trong phổ biến, tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị về chủ nghĩa Mác - Lênin thời gian qua, chúng ta chưa có điều kiện làm rõ nguồn gốc hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác cho hầu hết các đối tượng mà chỉ tập trung làm rõ nội dung cơ bản trong hệ thống quan điểm của Người. Điều đó đã đem lại những nhận thức, hiểu biết khác nhau về chủ nghĩa Mác, nhất là khi mọi người "tiếp cận" những thông tin trái chiều, sai lệch, thậm chí xuyên tạc chủ nghĩa Mác thì họ không đủ sức phân biệt đúng sai, rơi vào lúng túng, mơ hồ. Có người "nửa tin nửa ngờ" về tính chân lý của học thuyết Mác, có người cảm nhận được sự sai lầm của các quan điểm phản diện nhưng không đủ sức bác bỏ, phê phán; do đó đã có hàng loạt câu hỏi đặt ra: Tại sao chủ nghĩa Mác là học thuyết khoa học, cách mạng, được các Đảng Cộng sản coi là nền tảng tư tưởng mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lại sụp đổ? Tại sao các nước theo chủ nghĩa Mác - Lênin lại là những nước nghèo đói, còn chủ nghĩa tư bản lại giàu có? Có phải C. Mác và V.I. Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng? Hay chúng ta đã rơi vào không tưởng, duy tâm, siêu hình?


Những câu hỏi tương tự nêu trên đều có vấn đề của nó. Một mặt, chúng ta trang bị hệ thống quan điểm lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân chưa đủ độ để họ có thể tự giải đáp mọi vấn đề mà thực tiễn đặt ra và đủ sức chống lại các quan điểm sai trái, phản động. Mặt khác, nhân dân không hiểu nguồn gốc hình thành và phát triển của các quan điểm ấy, chỉ nắm "phần ngọn" nên rất dễ lầm lẫn giữa đúng và sai. Nếu họ hiểu rõ các điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, khoa học tự nhiên của sự ra đời chủ nghĩa Mác, cũng như quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác, họ sẽ vững tin hơn khi xem xét và bác bỏ các quan điểm sai trái. Hiện nay, rất ít người hiểu rõ vai trò và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên hiện đại đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác, nhất là ba phát minh vạch thời đại: học thuyết tế bào của Svan, Slâyđen; định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Maiơ, Lorensơ; học thuyết tiến hóa của Đácuyn đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:17:25 pm
Kẻ thù của chúng ta hiểu rất rõ điều này, chúng đã khoét sâu, thổi phồng và khuếch đại các điểm yếu đó, gieo rắc sự hoài nghi về chủ nghĩa Mác thông qua việc "đánh lộn sòng" học thuyết khoa học, cách mạng với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Ai cũng biết rằng, giữa lý luận và thực tiễn còn có khoảng cách nhất định, trong khi đó, bản thân nguồn gốc các quan điểm lý luận chưa được làm rõ, chưa có nhận thức đầy đủ thì vấn đề này và vấn đề kia còn có khoảng cách, thậm chí bị giải thích sai là đương nhiên. Có một thực tế là cả người đi tuyên truyền lẫn người được tuyên truyền và vận dụng lý luận khoa học của Mác chưa được đọc kỹ các tác phẩm kinh điển của Mác; chưa được chuẩn bị kỹ về mặt lý luận thì trong thực tiễn, sự áp dụng, vận dụng lý luận khoa học tất yếu sẽ gặp phải vướng mắc, rơi vào tình thế bị động, lúng túng, nhất là khi gặp những vấn đề lý luận phức tạp. Chưa hiểu rõ cội nguồn, gốc rễ của sự ra đời, phát triển chủ nghĩa Mác, chưa hiểu sâu sắc lịch sử ra đời chủ nghĩa Mác thì niềm tin vào chủ nghĩa Mác chưa trọn vẹn và đầy đủ. Do đó, bản lĩnh của người cách mạng dễ bị "bẻ cong" trước những "ngón đòn tấn công hiểm độc", lắt léo của kẻ thù.


Tung ra các luận điệu: "Chủ nghĩa Mác là một học thuyết đóng kín "siêu hình, duy tâm"..., những người có quan điểm đối lập với chủ nghĩa Mác đã cố tình bóp méo sự thật, xuyên tạc quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, vu không, bịa đặt "sự sai lầm của chủ nghĩa Mác". Việc làm này diễn ra ở thời hiện tại, song về bản chất vẫn như một trăm năm trước đây các bậc thầy của họ đã từng làm.


Vượt qua mọi sự công kích, các "làn sóng" chống phá, chủ nghĩa Mác với những giá trị chân thực: khoa học và cách mạng, vẫn tỏ rõ sức sống trường tồn và bất diệt. Trước đây, các thầy "phù thuỷ" cao tay đã không thể hạ gục chủ nghĩa Mác, thì nay hậu duệ của họ, dù lắm mưu, nhiều kế, khôn ngoan hơn, xảo quyệt hơn, cũng không thể làm gì hơn các bậc tiền bối của họ để vùi dập chủ nghĩa Mác. Sức sống và sự lan tỏa của chủ nghĩa Mác được nuôi dưỡng bằng tinh hoa trí tuệ nhân loại, thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân quốc tế. Nhờ bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, C. Mác và Ph. Ăngghen đã "lột xác", chuyển lập trường từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.


Quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học đã ra đời từ mảnh đất hiện thực. Các tác phẩm trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Mác đã thể hiện rất rõ vấn đề này. Mỗi sự kiện như một nấc thang kế tiếp, nuôi dưỡng tư duy lý luận của C. Mác và chính nó đã giúp ông sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Sau Cách mạng tư sản tháng Hai năm 1848, cũng như sau Công xã Pari năm 1871..., C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiến hành tổng kết lịch sử, khái quát những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Nếu sự ra đời học thuyết Mác đã dựa chắc trên nền móng thực tiễn, thì nay, sự tồn tại, phát triển của học thuyết Mác cũng không tách rời thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và phong trào công nhân quốc tế. Hiểu cho đúng sự thật, tôn trọng sự thật thì phải thừa nhận rằng, sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là một tất yếu lịch sử. So với các học thuyết đương thời thì học thuyết Mác là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, điều kiện, lực lượng và phương pháp giải phóng triệt để xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, đói nghèo dưới mọi hình thức. Chủ nghĩa Mác chỉ ra những quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; đưa giai cấp công nhân và những người dân lao động từ địa vị nô lệ lên vị trí làm chủ xã hội, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa phồn vinh, tốt đẹp.


Với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, chủ nghĩa Mác đã đem lại niềm tin vào thắng lợi cuổi cùng cho giai cấp vô sản. Đó cũng là điều giải thích rõ tại sao Hồ Chí Minh lại đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó cũng là điều giải thích rõ ràng nhất: Tại sao Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam và tại sao kẻ thù của chúng ta lại ra sức phản bác, quyết liệt tấn công, tấn công bằng mọi cách nhằm "hạ bệ", thủ tiêu chủ nghĩa Mác - Lênin.


Vậy họ là ai, bộ mặt thật của những người chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào? Đó là những người có quan điểm đối lập với lập trường, quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin dưới mọi màu sắc: chủ nghĩa duy tâm; chủ nghĩa cơ hội, xét lại; chủ nghĩa thực chứng, thực dụng; chủ nghĩa "xã hội dân chủ"; chủ nghĩa "xã hội chân chính"; chủ nghĩa chống cộng, v.v... Đó là cơ sở lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, nền tảng chính trị của chủ nghĩa tư bản trước đây và hiện nay. Xét về hình thức biểu hiện thì hầu như các quan điểm, lý luận của các trường phái, chủ nghĩa, học thuyết nêu trên ít nhiều đã có sự thay đổi, biến dạng theo "mốt mới" cho thức thời, phù hợp với sự cách tân để thích nghi với điều kiện mới của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đương đại.


Song xét về nội dung và thực chất thì nó vẫn là âm mưu cơ bản, xuyên suốt, không hề thay đổi của họ: bằng mọi cách, tiếp tục tấn công, phản bác, phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ nhiều phía với các thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt hơn thông qua "diễn biến hòa bình"; thúc đẩy "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; làm cho ta lâm vào tình cảnh suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; làm cho các nhân tố "phi xã hội chủ nghĩa" lớn dần lên, từng bước lấn át nhân tố xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ hội tốt nhất để họ đánh sập nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa có lợi cho họ.


Với nhiều lý do khác nhau, một số người dân Việt Nam, kể cả một số cán bộ có chức, có quyền nhưng bất mãn, có quan điểm đối lập với Đảng và Nhà nước ta hoặc một số người được Đảng, Nhà nước đầu tư, gửi đi đào tạo ở nước ngoài, tự cho mình là "cấp tiến" đã hết lời ngợi ca một cách không công cho chủ nghĩa tư bản, chê bai, dè bỉu Việt Nam lạc hậu, tung hô sự "đổi mới" với nhiều "huyết thư", "lời kêu gọi", "kiến nghị" với Đảng, Nhà nước ta, đề nghị chuyển hướng, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, v.v... Chớp lấy thời cơ ấy, các thế lực thù địch đã lợi dụng, thậm chí dùng mọi thủ đoạn để "lôi kéo", "mua chuộc", biến những người bất mãn với chế độ ta "hợp tác" với họ. Vì vậy, việc a dua, nói theo, làm theo "phong cách tư bản", cái "điệp khúc" chống chủ nghĩa Mác - Lênin từ thời C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin còn sống, cho đến nay, cứ thế tiếp diễn. Nhìn lại lịch sử thế giới hiện đại và cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta sẽ hiểu thấu đáo điều nhận định nêu trên.


Hiện nay, lợi dụng sự hiểu biết và trình độ nhận thức còn có mức độ của một bộ phận lớn dân cư và sự bất mãn của một số cán bộ đã thôi giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý, các thế lực thù địch đã "khuếch đại", thổi phồng một số khuyết điểm, sai lầm của ta, vu khống, xuyên tạc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua con đường "truyền đạo trái phép", phát tờ rơi, tung tin, bóp méo sự thật, bôi nhọ lãnh tụ Đảng, Nhà nước ta; quy kết sự sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tường Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, V.V.. Bộ mặt thật của các thế lực thù địch; đặc biệt là những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta càng bộc lộ rõ trong các dịp chúng ta chuẩn bị đại hội Đảng các cấp, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân hay trưng cầu ý kiến nhân dân về đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp năm 1992, v.v...


Tình trạng nêu trên đều có vấn đề và căn nguyên của nó. Trước hết, do chúng ta trang bị hệ thống quan điểm lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin cho mọi người chưa đủ độ để họ có thể tự giải đáp mọi vấn đề mà thực tiễn đặt ra và đủ sức chống lại các quan điểm sai trái. Hơn nữa, vì nhiều lý do, có người không hiểu nguồn gốc hình thành và phát triển của các quan điểm ấy, chỉ nắm "phần ngọn" nên rất dễ lầm lẫn. Nếu hiểu rõ các điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, khoa học tự nhiên của sự ra đời chủ nghĩa Mác, cũng như quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta, họ sẽ vững tin hơn khi xem xét và bác bỏ các quan điểm sai trái.


Có thể nói rằng, những người cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin chính là những kẻ lừa dối lương tâm, cản trở tiến bộ xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh hiện thời, bảo vệ Tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, không chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, biển, đảo của Tổ quốc... mà còn phải bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; trong bảo vệ Đảng thì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:22:28 pm
IV- KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN VAI TRÒ CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Chúng ta đều biết, trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III chỉ tồn tại hơn 20 năm. Song, đó là sự kế tục xứng đáng sự nghiệp vĩ đại của Quốc tế I và những truyền thông tốt đẹp của Quốc tế II; đồng thời, những giá trị do nó mang lại luôn trường tồn, không thể bác bỏ.


Quốc tế Cộng sản ra đời, tồn tại trong một hoàn cảnh đặc biệt (3-1919 - 3-1943), có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; góp phần quyết định đến chất lượng bồi dưỡng, giáo dục các thế hệ cán bộ lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và biến các đảng đó thành đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chính điều ấy đã làm cho những kẻ cơ hội, xét lại trong Quốc tế II trước đây và hiện nay rất lo sợ, đã và đang tìm mọi cách chống đối, phủ nhận các giá trị của nó.


Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là V.I. Lênin, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung, các Đảng Cộng sản nói riêng phát triển và trường thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh đế quốc, vạch mặt bọn cơ hội, xét lại; bảo vệ và phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác trong thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và cách mạng vô sản.


Có thể khẳng định rằng, cuộc đấu tranh chống bọn cơ hội, xét lại phản bội chủ nghĩa Mác diễn ra quyết liệt ngay sau khi Ph. Ăngghen qua đời; đặc biệt là sau khi quyền lãnh đạo Quốc tế II chuyển sang tay bọn cơ hội, xét lại. Họ bắt đầu "chiến dịch phản kích", xét lại chủ nghĩa Mác. Một số đảng xã hội - dân chủ đã giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử vào nghị viện và tự quản ở các thành phố đã tạo thời cơ cho bọn cơ hội, xét lại "lộng hành", quyết liệt chống đối chủ nghĩa Mác. Chúng đòi "hạ bệ chủ nghĩa Mác" và thay vào đó hệ tư tưởng tư sản và đẩy mạnh tuyên truyền hệ tư tưởng phản động trong phong trào cộng sản. Mũi nhọn "châm chích" ác độc của chúng nhằm vào việc xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga; coi chuyên chính vô sản, liên minh giai cấp công - nông và tư tưởng "cách mạng không ngừng", chuyển cách mạng dân chủ tư sản lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là không tưởng.


Chúng hí hửng tuyên truyền luận thuyết "hòa bình giai cấp" và chủ trương đưa thuyết "chủ nghĩa tư bản hòa bình nhập vào chủ nghĩa xã hội", v.v... Đồng thời, công khai đứng về phía giai cấp tư sản, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa; chống lại những người bônsêvích với hy vọng duy trì sự tồn tại lâu dài của Quốc tế II đã mục nát, nhằm thao túng, lũng đoạn phong trào công nhân quốc tế, lái các đảng xã hội - dân chủ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, đối lập với nước Nga Xôviết và Cách mạng Tháng Mười. Trước khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, V.I. Lênin đã nhận thấy rõ sự "lạc đường, chệch hướng" của Quốc tế II và Người nhận thấy sự cần thiết phải đập tan "ảo tưởng của bọn cơ hội, xét lại", thành lập một tổ chức quốc tế mới. Vì vậy, từ những năm 1915 -1916, trong các hoạt động của mình, V.I. Lênin đã ý thức sâu sắc việc tập hợp những người cách mạng chân chính trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thành một lực lượng đủ mạnh để đấu tranh bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, chống chiến tranh đế quốc, đòi hòa bình, giải phóng dân tộc; đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đi đúng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã vạch ra. Đó là cơ sở quan trọng để tiến tới thành lập Quốc tế Cộng sản - tổ chức của giai cấp vô sản cách mạng và những người lao động ở các dân tộc thuộc địa đang bị áp bức, bóc lột.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, những điều kiện thành lập Quốc tế Cộng sản đã chín muồi. Tháng 1-1918, tại Pêtrôgrát, Hội nghị đại biểu các phái tả trong các đảng xã hội - dân chủ đã họp và nhất trí triệu tập Hội nghị quốc tế của các chiến sĩ cách mạng, đại biểu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để thảo luận biện pháp đấu tranh chống chính phủ đế quốc, ủng hộ Cách mạng Tháng Mười và nước Nga Xôviết non trẻ; bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới.


Ngay sau đó, tại Mátxcơva, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích và V.I.Lênin, Hội nghị đại biểu của 8 đảng mácxít chân chính (gồm Nga, Ba Lan, Hunggari, Đức, Áo, Látvia, Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Bancăng) đã họp, đưa ra những quyết nghị quan trọng: thông qua lời kêu gọi gồm 15 điểm, trình bày đường lối cách mạng của phong trào cách mạng thế giới, sự cấp thiết phải thành lập Quốc tế Cộng sản để lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong thời kỳ cách mạng vô sản và đấu tranh giải phóng dân tộc; chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại đang cố tình xuyên tạc, bóp chết chủ nghĩa Mác.


Đầu tháng 3-1919, tại Mátxcơva, Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản đã được khai mạc, có đại biểu của 19 đảng, nhóm Đảng Cộng sản, công nhân quốc tế và quan sát viên 15 nước với các chính đảng lớn ở phương Tây và phương Đông. Sự có mặt lần đầu tiên của đại biểu các nước phương Đông tuy không nhiều, nhưng đã chứng tỏ sự lan tỏa, sức sống mãnh liệt của Quốc tế Cộng sản. Theo đề nghị của V.I. Lênin, vấn đề tổ chức Quốc tế Cộng sản được thảo luận đầu tiên và phẩn lớn các đại biểu dự Hội nghị đều tán thành việc thành lập quốc tế mới để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, mở rộng phong trào công nhân và ảnh hưởng của nó đến các châu lục.


Ngày 4-3-1919, Đại hội tự tuyên bố là Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản đã thành công, Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) chính thức ra đời. Những văn kiện quan trọng nhất của Đại hội đã được thảo luận và thông qua. Đó là cương lĩnh, sách lược đấu tranh cách mạng của Quốc tế Cộng sản, được xây dựng trên lập trường, quan điểm khoa học, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác. Trong lời nói đầu của Cương lĩnh, V.I. Lênin khẳng định: Thời đại mới nảy sinh, thời đại tan rã của chủ nghĩa tư bản, của sự suy sụp bên trong của nó, thời đại cách mạng của giai cấp vô sản. Cương lĩnh đã vạch ra đường lối cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; công khai tuyên bố: lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, xã hội hóa sản xuất và chuyển sang xã hội cộng sản không giai cấp; đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, người nô dịch người, v.v...


Trong Tuyên ngôn gửi những người vô sản toàn thế giới, Đại hội đã khẳng định: chừng nào còn giai cấp tư sản, còn sự áp bức, bóc lột thì chừng ấy còn bất công, không có độc lập, tự do cho người lao động. Đại hội kêu gọi giai cấp vô sản toàn thế giới và tất cả các dân tộc bị áp bức, bóc lột hãy đứng dậy, kiên quyết đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; thực hiện chuyên chính vô sản.


Tuyên ngôn chỉ rõ, Quốc tế Cộng sản là Quốc tế hành động của quần chúng công khai, là Quốc tế thực hiện cách mạng, là Quốc tế việc làm, thực hiện chuyên chính vô sản nhằm đè bẹp sự phản kháng của giai cấp bị lật đổ, bọn cơ hội, xét lại và xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, Quốc tế Cộng sản đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác: "Vô sản toàn thế giới hãy liên hiệp lại" và tiếp tục tập hợp lực lượng đấu tranh cách mạng, thực hiện tiến bộ xã hội của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hướng đến thực hiện mục tiêu thiết lập nền chuyên chính vô sản, thực hiện sứ mệnh: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội và giải phóng nhân loại mà C. Mác đã vạch ra.


Sau Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có bước tiến dài, vững chắc và ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng sâu rộng trong phong trào công nhân quốc tế. Dấu ấn nổi bật là sự hình thành, phát triển, tiến bộ về mặt tổ chức của các Đảng Cộng sản theo lập trường mácxít - lêninnít. Theo đó, các tổ chức cộng sản thanh niên lần lượt xuất hiện và thành quả tất yếu của nó là Quốc tế Cộng sản Thanh niên được thành lập. Vì vậy, những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mácxít, khoa học, cách mạng từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm "nhầm đường, lạc lối" của bè phái "tả" khuynh, cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:30:37 pm
Trong 24 năm tồn tại, phát triển, Quốc tế Cộng sản đã tổ chức 7 kỳ đại hội. Qua mỗi kỳ đại hội, đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng phát triển; một loạt các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân ở các nước đã ra đời, trực tiếp lãnh đạo và đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ở các nước. Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc trong hoạt động của Quốc tế Cộng sản là trong các kỳ đại hội đều thảo luận rất kỹ các văn kiện trước khi thông qua luận cương về những nhiệm vụ, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí, ngăn ngừa không để cho những phần tử cơ hội, hữu khuynh, trước hết là những phần tử phái giữa lén lút chui vào Quốc tế Cộng sản. Điều đó, luôn bảo đảm chắc chắn để các Đảng Cộng sản trong sạch vững mạnh, đủ sức làm tròn vai trò lãnh đạo của một đảng cách mạng tiên phong. Đây là vấn đề vẫn còn nguyên giá trị đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay và mai sau, nếu các Đảng Cộng sản vẫn kiên định lập trường mácxít - lêninnít; thừa nhận và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản.


Kiên định đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch của bọn cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác, Quốc tế Cộng sản đã có công lao to lớn trong việc phát triển toàn diện vấn đề dân tộc, thuộc địa trên cơ sở vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, cũng như chỉ ra sự cần thiết phối hợp hành động giữa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của C. Mác: "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!" đã được V.I. Lênin phát triển thành: "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!".


Đó là bước ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo chính trị của những người cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng sản ngày càng phát triển, trở thành người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Với đường lối chính trị đúng đắn về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã nêu cao tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây. Tuy có lúc giai cấp vô sản đã tạm thời thất bại trong những cuộc đấu tranh giai cấp, do chính sách chia rẽ, phá hoại của các lãnh tụ đảng xã hội - dân chủ; song uy tín, vị thế của Quốc tế Cộng sản không bị suy giảm, trái lại, còn không ngừng được tăng lên. Từ chỗ mới chỉ có 10 Đảng Cộng sản tham gia, đến năm 1921, con số này tăng thành 48 đảng.


Đến đầu năm 1930, phong trào giải phóng dân tộc cũng lên cao ở Đông Bắc Á, Đông Dương và Nam Á. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhanh chóng trở thành một chi bộ của Quốc tế Cộng sản (4-1931). Từ đây, cách mạng Việt Nam hòa nhập vào dòng thác cách mạng thế giới. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội thành lập Quốc tế Nông dân với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc địa và được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản ngày càng mở rộng trong các tổ chức quần chúng và đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.


Trước sự tấn công hủy diệt của chủ nghĩa phátxít và nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản đã họp ở Mátxcơva từ ngày 25-7 đến 25-8-1935. Đại hội đã thông qua cương lĩnh hành động và kêu gọi nhân dân thế giới kiên quyết đấu tranh ngăn chặn bàn tay đẫm máu của chủ nghĩa phátxít; đề ra các đối sách bảo vệ Liên Xô, bảo vệ thành trì cách mạng và nền hòa bình thế giới. Vì vậy, Đại hội này được coi là Đại hội thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; là Đại hội thành lập Mặt trận công nhân và nhân dân thống nhất chống chủ nghĩa phátxít và chống chiến tranh thế giới. Sau Đại hội, mặt trận nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa và mặt trận chống đế quốc trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần lượt ra đời, là điều kiện cần thiết để lật đổ bọn tư bản tài chính, thủ tiêu chủ nghĩa phátxít, bảo vệ lẽ phải, sự công bằng và gìn giữ nền hòa bình thế giới.


Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, các Đảng Cộng sản đã có khả năng độc lập giải quyết những vấn đề lý luận, thực tiễn của phong trào công nhân, những nhiệm vụ dân tộc đặt ra trong mỗi nước. Vả lại, trong điều kiện chiến tranh, sự liên lạc giữa các Đảng Cộng sản hết sức khó khăn, việc duy trì một cơ quan chỉ đạo cách mạng chung trên toàn thế giới là điều khó có thể thực hiện được. Hơn thế nữa, giới cầm quyền trong nhiều nước tư bản lợi dụng Quốc tế Cộng sản như một nhân tố cản trở quá trình thành lập mặt trận đồng minh chống phátxít. Trước hoàn cảnh đó, sự tiếp tục tồn tại và hoạt động của Quốc tế Cộng sản là không còn phù hợp. Tháng 5-1943, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra nghị quyết giải tán Quốc tế Cộng sản.


Tuy Quốc tế Cộng sản không còn tồn tại với tính cách là một cơ quan lãnh đạo thường trực phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, song, quan điểm, tư tưởng, đường lối mà Quốc tế Cộng sản vạch ra luôn sống mãi. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có bước phát triển mới và thu được những thắng lợi vang dội. Vào cuối giai đoạn này, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; Đảng Cộng sản đã hoạt động ở hơn 90 nước trên thế giới với hơn 75 triệu đảng viên (trong đó có 15 Đảng Cộng sản cầm quyền ở 15 nước xã hội chủ nghĩa với gần 70 triệu đảng viên, 28 Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển gồm 3,5 triệu đảng viên, 16 Đảng Cộng sản ở các nước đang phát triển ở châu Á, 9 Đảng Cộng sản ở châu Phi và 26 Đảng Cộng sản ở Mỹ Latinh với tổng số khoảng 1,5 triệu đảng viên). Từ đây, có thể khẳng định rằng, không có một trào lưu tư tưởng chính trị nào có lực lượng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thế giới trong giai đoạn lịch sử này như chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản.


Thành tựu lớn nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, làm thay đổi bộ mặt của hành tinh chúng ta và chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản. Hậu duệ của bọn cơ hội, xét lại của Quốc tế II đã cố tình chống phá, song chúng không thể bác bỏ được bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng của Quốc tế Cộng sản. Đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự kế tiếp hợp quy luật và là kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kéo dài hàng thế kỷ với học thuyết khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường.


Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các Đảng Cộng sản và Công nhân đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế (vào các năm 1957, 1960 và 1969)... để trao đổi ý kiến, thảo luận, đánh giá các vấn đề lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, phong trào độc lập dân tộc, phong trào công nhân quốc tế và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào, của các đảng ở các khu vực, những vấn đề lý luận, chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên, do những rạn nứt, bất đồng quan điểm, chính kiến về những vấn đề quốc tế và đường lối, chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản đã dẫn đến hậu quả phong trào cộng sản lâm vào khủng hoảng và suy thoái; chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.


Tất cả điều đó đã nói lên rằng, trong thời đại ngày nay, bất kể Đảng Cộng sản nào, nếu vi phạm thô bạo những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, không được nhân dân đồng tình, ủng hộ, thì nhất định các đảng ấy sẽ lâm vào khủng hoảng, sụp đổ, mất quyền lãnh đạo. Ngược lại, các Đảng Cộng sản kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết, sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo trong đường lối đổi mới, cải cách; các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội hợp lòng dân, thì nhất định sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến thành công, dù có lúc gặp phải một số khó khăn, thử thách. Thắng lợi của đổi mới ở Việt Nam, cải cách, mở cửa ở Trung Quốc trong những năm qua, đã chứng minh điều đó.


Điều này cũng đồng thời khẳng định rằng, Quốc tế Cộng sản đã vượt lên trên mọi thành kiến để bác bỏ, đánh bại mọi kẻ thù "lớn nhỏ" của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin; chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, sự phát triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong bối cảnh hiện thời, sự cảnh báo của Quốc tế Cộng sản luôn luôn đúng và nó đang nhắc nhở chúng ta: trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, nếu vi phạm các nguyên tắc cơ bản mà Quốc tế Cộng sản đã đề ra, thì đương nhiên, sẽ phải trả giá đắt, phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, Đảng Cộng sản sẽ không còn là một đảng cầm quyền, sẽ mất vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vì vậy, không thế bác bỏ vai trò của Quốc tế Cộng sản; không thể xóa bỏ lý tưởng đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội và giải phóng nhân loại mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, các Đảng Cộng sản và các lãnh tụ chân chính của Quốc tế III đã bổ sung, phát triển.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:33:17 pm
V- LUẬN THUYẾT CỦA V.I. LÊNIN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG MÁCXÍT CẦM QUYỀN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Kế thừa những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về sự cần thiết phải xây dựng một chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, V.I. Lênin với tư cách là "một nhà cách mạng chuyên nghiệp", lãnh tụ của phong trào công nhân Nga, đã kiên trì thực hiện cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm bác bỏ những quan điểm sai trái, phản động với mưu đồ cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phá hoại phong trào công nhân; qua đó, bổ sung, phát triển sáng tạo những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Và chính Người đã trực tiếp tổ chức, thành lập, lãnh đạo Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga - một chính đảng vô sản kiếu mới - tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này. Đây là "một đảng kiểu mới, thật sự cách mạng và thật sự cộng sản", khác với tất cả các đảng kiểu cũ ở châu Âu của những người theo "chủ nghĩa xã hội chân chính" hay theo đuôi "chủ nghĩa cải lương đại nghị"...


Theo V.I. Lênin, xây dựng và củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công nhân là điều kiện cơ bản hàng đầu, mang ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, thực hiện khát vọng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Khác với tất cả các tổ chức đảng chính trị đương thời - những tổ chức không có hình thù rõ rệt, kiểu như một câu lạc bộ, một thực thể lỏng lẻo, không có trật tự, kỷ cương, kỷ luật; hoạt động không có nguyên tắc, không có quan hệ ràng buộc về mặt tổ chức, xa rời quần chúng nhân dân và quản lý đảng viên theo kiểu "thỏa hiệp", "bè phái" - Đảng Cộng sản mácxít kiểu mới phải là đội tiên phong chính trị chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình.


Đảng Cộng sản là lương tâm, trí tuệ và là niềm vinh dự, tự hào của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. V.I. Lênin cho rằng, chính Đảng Cộng sản (chứ không phải là đảng chính trị của các lực lượng nào khác) có ý thức trách nhiệm rõ ràng về việc đưa lý luận khoa học, cách mạng vào phong trào công nhân, trực tiếp lãnh đạo, định hướng chính trị và tổ chức giáo dục, động viên giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân hành động cách mạng, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là đấu tranh vứt bỏ mọi gông xiềng, xích sắt, xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người,... xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa: hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc.


Do đó, mỗi đảng viên cộng sản cũng như toàn bộ Đảng Cộng sản, từ trung ương đến cơ sở phải ý thức rõ ràng về vị trí, vai trò, nhiệm vụ chính trị và sự tiên phong, gương mẫu của mình trước giai cấp và không được lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp hoặc đồng nhất Đảng Cộng sản là giai cấp công nhân như V.I. Lênin đã cảnh báo: "Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.289).


Người vạch rõ: "Chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình, chỉ có một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cuối cùng, kiên quyết nhất, thẳng tay nhất chống lại tất cả mọi thế lực của chủ nghĩa tư bản"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.227; t.6, tr.32), những tệ nạn, thói hư, tật xấu của nó.


Trong quan điểm lý luận cũng như trong chỉ đạo thực tiễn cách mạng, V.I. Lênin đều khẳng định rằng: Một Đảng Cộng sản thực sự cách mạng sẽ trở thành nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nếu như những đảng viên của đảng đó thấm nhuần sâu sắc và giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, tự nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng vì sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi sự "tha hóa", bất công, đói nghèo, đem lại hạnh phúc cho giai cấp công nhân và toàn thế nhân dân lao động. Muốn vậy, trong đảng phải có sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Chính sự thống nhất này đã, đang và sẽ luôn đặt ra như "là sự sống còn - một mệnh lệnh tối cao của cuộc sống", đòi hỏi Đảng Cộng sản phải có nguyên tắc tổ chức khoa học và cách mạng, phải dựa trên "một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong''2 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.227; t.6, tr.32). Có như vậy, Đảng mới thực sự trong sạch vững mạnh, có uy tín và sức chiến đấu cao. Đó là điều kiện chắc chắn nhất để Đảng Cộng sản xứng tầm là đội tiền phong gương mẫu của giai cấp công nhân, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình.


Bám sát thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào công nhân và dựa vào nguyên tắc tập trung dân chủ mà C. Mác, Ph. Ấngghen đề ra, V.I. Lênin đã phát triển toàn diện nguyên tắc đó và khẳng định rằng, tập trung dân chủ không chỉ là nguyên tắc tổ chức xây dựng đảng mácxít kiểu mới mà còn là nguyên tắc mang tính khoa học trong quản lý nhà nước, tổ chức cộng đồng, chỉ đạo các hoạt động cách mạng có văn hóa, có bản lĩnh và trí tuệ, có kỷ cương, đoàn kết thống nhất. Thực chất của nguyên tắc này là kết hợp hữu cơ giữa chế độ tập trung với chế độ dân chủ triệt để vốn có của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ những đòi hỏi của nền sản xuất đại công nghiệp với trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại. Từ trong bản chất, nguyên tắc tập trung dân chủ loại bỏ hoàn toàn khuynh hướng vô chính phủ, sự thiếu thống nhất về lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức, bộ phận, cá nhân phá hoại sự thống nhất ây, đồng thời cũng loại bỏ khuynh hướng độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, cục bộ, bản vị, tham nhũng, lãng phí và quan liêu mà một số lãnh tụ của các đảng chính trị khác cũng như một số đảng viên cộng sản đã bị thoái hóa, biến chất thường mắc phải.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:34:15 pm
Theo V.I. Lênin, nguyên tắc tập trung dân chủ hoàn toàn không phải là sự tự phát, những biểu hiện ngẫu hứng, cứng nhắc, đơn độc của một cá nhân hay một nhóm người đầy thiên kiến, hẹp hòi, mà là cả một quá trình và kết quả của lao động trí tuệ, một sự gạn lọc tinh chất nhất, một sự sáng tạo triệt để nhất để dân chủ trở thành sức sống, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển, cải tạo thực tiễn vì sự tiến bộ xã hội. V.I. Lênin khẳng định, nếu không có chế độ tập trung dân chủ thì Đảng Cộng sản không thể là đội tiền phong chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; Đảng không thê tránh khỏi bị chia rẽ, tản mạn, mang tính cục bộ; thoái hóa về tư tưởng chính trị, suy đồi về đạo đức cách mạng và lối sống văn hóa. Người còn chỉ rõ: ai đó tự thừa nhận mình là đảng viên của Đảng Cộng sản mà lại phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, nghĩa là phủ nhận tính tổ chức và kỷ luật của đảng thì người ấy đã rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại và đang biến Đảng Cộng sản thành "câu lạc bộ tranh luận"; và chính nó là biểu hiện rõ ràng nhất về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống.


Rõ ràng là, nếu phá vỡ nguyên tắc tập trung dân chủ thì coi như tính chất và bản chất của Đảng Cộng sản đã bị tổn hại và đảng đứng trước nguy cơ tan rã, không thể trở thành đội tiền phong gương mẫu, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, và đương nhiên, đảng không có khả năng vạch ra một cương lĩnh hành động, một đường lối cách mạng triệt để, khoa học, cách mạng; không có sức mạnh toát lên từ sự nêu gương, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân học tập, noi theo, làm theo bằng trí tuệ, trái tim và bằng cả xương máu của mình để thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách đã đề ra và do đó, đảng không đủ uy tín để lãnh đạo cách mạng; không được nhân dân suy tôn là người lãnh đạo, người "đầy tớ thật trung thành của nhân dân"; và quần chúng nhân dân sẽ không đứng về phía đảng, dành cho đảng sự đồng tình, ủng hộ trong đấu tranh cách mạng; thậm chí sẽ nghi ngờ mục tiêu, lý tưởng của đảng, xa rời đảng.


Rơi vào hoàn cảnh ấy, V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, không ít người sẽ nhận thấy họ bị lừa dối, bị phản bội vì đã nhầm lẫn khi trao gửi niềm tin cho đảng, đã đi theo đảng; tức là họ đã sai lầm khi đứng về phía đảng, một lòng một dạ đi theo đảng, kiên quyết đấu tranh lật đổ chế độ người áp bức, bóc lột người và quá tin vào tương lai, tiền đồ của cách mạng và lời hứa của đảng về xây dựng cuộc sống mới hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc. Đó là một tổn thất lớn của đảng và nó không thể cứu vãn khi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng "lây nhiễm" từ một bộ phận quần chúng vào trong nội bộ đảng, biến đảng thành "bộ phận theo đuôi quần chúng". Chính vì vậy, V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, một trong những vấn đề then chốt, quyết định đến chất lượng xây dựng đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công nhân là xây dựng đảng thật sự trong sạch vững mạnh; là đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố mối liên hệ "máu thịt" giữa đảng và quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.35, tr.64). Trong đó, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện cơ bản hàng đầu đế tạo ra sự đoàn kết, thống nhất cao trong toàn đảng. V.I. Lênin coi sự đoàn kết, thống nhất trong toàn đảng là cội nguồn của sức mạnh đê chiến thắng mọi kẻ thù, chiến thắng đói nghèo, dốt nát.


Theo V.I. Lênin, đảng phải đặc biệt coi trọng và thường xuyên, nghiêm túc thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê bình trong đảng, vì đây là biện pháp "khó khăn, phức tạp nhất nhưng hữu dụng nhất" và chính nó là "phép màu" để nâng cao uy tín, phát huy vai trò và tăng cường sức mạnh chiến đấu của đảng, cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào đảng. V.I. Lênin khẳng định, "công tác phê bình và tự phê bình trong đảng có vai trò đặc biệt quan trọng" và "hết sức cần thiết" để nâng cao trí tuệ, để phát hiện và giải quyết mâu thuẫn kịp thời, làm cho nội bộ đảng trong sạch vững mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất. Người viết: "Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc không... Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy - đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc..."1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.51; t.5, tr.336).


Đoàn kết, thống nhất là cội nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản, V.I. Lênin chỉ ra rằng: "Nếu không có cái cơ sở tư tưởng chung thì không thể có vấn đề thống nhất"2 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.51; t.5, tr.336). Như vậy, cơ sở tư tưởng chung của sự đoàn kết thống nhất trong đảng, theo V.I. Lênin, phải dựa vào sự thống nhất của cương lĩnh, đường lối, cả trong tư tưởng, tổ chức và hành động, tức là lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, lời nói phải gắn chặt với việc làm; đảng viên Đảng Cộng sản phải luôn đề cao sự nêu gương, làm mẫu trước quần chúng nhân dân để họ nhìn vào đó học tập, noi theo, làm theo.


V.I. Lênin chỉ ra và cảnh báo về những "căn bệnh" đã và đang trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của đảng, làm phá sản thành quả cách mạng, đánh mất niềm tin, uy tín của đảng. Đó là "căn bệnh" chủ quan duy ý chí, cơ hội, hối lộ, tham nhũng, quan liêu, xa dân, v.v... Vì vậy, Người yêu cầu đảng của giai cấp công nhân phải "tẩy sạch" khỏi đảng những phần tử tha hóa, biến chất, những người "đội lôt, mang danh đảng viên Đảng Cộng sản" đế tuyên truyền quan điểm chống đảng, phá đảng. Bởi vì, nêu trong đảng mà có những người cơ hội hoặc công khai, hoặc "ngấm ngầm" thì sớm hay muộn, đảng sẽ "không thể tránh khỏi tan rã, trước tiên là tan rã về tư tưởng, sau đó sẽ tan rã về tổ chức".


Cho nên, để đảng không bị chia rẽ thành bè phái hoặc hình thành các phe nhóm, nhất thiết đảng phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, thường xuyên củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong đảng, giữ cho đảng thật sự trong sạch, vững mạnh và mỗi đảng viên của đảng phải thật sự trung thực, gương mẫu về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện tốt những điều quy định đảng viên không được làm; lấy lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc làm phương châm hành động cách mạng: cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng như "giữ gìn con ngươi của mắt mình".


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:34:58 pm
Bên cạnh việc nhắc nhở phải đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách đảng viên Đảng Cộng sản và coi đó là công việc nhất thiết phải làm, thì đồng thời, V.I. Lênin luôn đề cao vai trò của công tác giáo dục, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, lấy việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên làm nòng cốt; giúp họ tự ý thức sâu sắc về việc nâng cao danh hiệu người đảng viên cộng sản trước quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này không chỉ có ý nghĩa quyết định việc củng cố, tăng cường và nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng mà còn đặc biệt hệ trọng đối với việc củng cố niềm tin của nhân dân vào đảng cũng như việc nâng tầm cao uy tín, vị thế của mỗi đảng viên trước nhân dân, nhất là những người giữ chức vụ cao trong bộ máy của đảng, nhà nước, chính quyền các cấp. Đây là điều kiện tốt nhất để đảng gần dân, sống trong lòng nhân dân, phát huy vai trò của họ trong việc phát hiện, xem xét, nhận diện cái tốt, cái xấu để bảo vệ đảng; đóng góp ý kiến, đề xuất biện pháp giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên khi họ mắc sai lầm, khuyết điểm cũng như giới thiệu cho đảng những quần chúng ưu tú để đảng bồi dưỡng và kết nạp họ vào đội ngũ của mình. Đây là một công việc quan trọng và Tất cần thiết. Nhờ đó mà Đảng Cộng sản ngày càng vững mạnh và có như vậy, đảng mới làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình. V.I. Lênin nhấn mạnh: Một trong những điều tối kỵ nhất là đảng tuyệt đối không được để những phần tử cơ hội, "những phần tử xấu, những cặn bã của chủ nghĩa tư bản cũ len lỏi vào trong đảng chân chính"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.256).


V.I. Lênin cho rằng, việc thoái hóa, biến chất về tư tưởng, đạo đức, nhất là những sai lầm về đường lối chính trị. Đó là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với bất kỳ Đảng Cộng sản nào, nhất là đối với những "người giữ chức trọng quyền cao"; phải coi đó là sự tổn thất to lớn của đảng, nhưng nghiêm trọng hơn, tổn thất nặng nề hơn không chỉ cho đảng mà cho cả giai cấp công nhân và nhân dân lao động là sự sai lầm về đường lối chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền. Bởi vì, toàn bộ sự nghiệp của đảng, trước hết phụ thuộc vào sự đúng đắn của đường lối chính trị do đảng khởi xướng và lãnh đạo. Do đó, nhiều lần V.I. Lênin nhắc nhở rằng, đảng phải hết sức cảnh giác, đề phòng nguy cơ "chệch hướng", sai lầm về đường lối chính trị và nguy cơ trong nội bộ đảng có cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất, tham nhũng, quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân, "nói một đằng, làm một nẻo"... Phải khẳng định rõ ràng rằng, đó không chỉ là sự nguy hiểm mà là cực kỳ nguy hiểm, nếu đảng của nó lại cầm quyền ở một nước mà giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân cư. Cho nên, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, trong công tác xây dựng đảng, phải đặc biệt chú trọng quan tâm làm tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên của đảng, nhất là đội ngũ những người giữ chức vụ chủ chốt, phải rà xét thật sự nghiêm túc về phẩm chất và năng lực, cũng như giao cho họ những công việc thật sự khó khăn đế rèn luyện, thử thách và kiểm chứng sự gắn bó của họ với quần chúng nhân dân, sự tuyệt đối trung thành của họ đối với sự nghiệp cách mạng của đảng.


Mặt khác, V.I. Lênin luôn để nghị phải "trí tuệ hóa" đảng, nhất là trí tuệ hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân - những người mới bước ra từ chiến tranh, chưa có nhiều kinh nghiệm về tổ chức, quản lý công tác xây dựng, phát triển kinh tế văn hóa, xã hội. Bởi lẽ, có được cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn là một trong những phương sách tốt để nâng cao vai trò và uy tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhưng nếu trong đảng chỉ có nhiều người nhiệt tình cách mạng mà thiếu tri thức khoa học, văn hóa thấp thì đó là một nguy cơ làm suy yếu đảng từ bên trong. Nói cách khác, đảng thiếu đội ngũ cán bộ tốt thì sự nghiệp cách mạng sẽ gặp vô vàn khó khăn, thậm chí sẽ không thể thành công.


Do vậy, trong công tác cán bộ, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ chủ chốt phải nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có lòng nhân hậu, có bản lĩnh chính trị thật sự kiên định, vững vàng, có tri thức khoa học...; tức là có đủ đức, có đủ tài để giao những trọng trách đặc biệt quan trọng mà đảng và nhân dân tin cậy, phó thác.


Nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo luận thuyết của V.I. Lênin về xây dựng đảng mácxít kiểu mới trong bôi cảnh tình hình hiện nay ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam; đặc biệt là đối với việc nghiên cứu, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; suy ngẫm về những điều V.I. Lênin căn dặn đối với việc xây dựng đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công nhân, thiết nghĩ, mỗi cán bộ, đảng viên cần đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những di huấn của V.I. Lênin về xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Đó là những bài học kinh nghiệm quý báu đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.


Kể từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, chúng ta đang khẩn trương chuẩn bị cho đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thành công, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội khóa XIV, trong các đợt sinh hoạt chính trị này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đều sôi nổi thảo luận các vấn đề quốc kế, dân sinh; đặc biệt có nhiều nội dung liên quan đến con đường đi tới, vận mệnh quốc gia, dân tộc, đến Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta; hai trong các vấn đề đó là nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các thế lực thù địch đang cố tình sử dụng chiến lược "diễn biến hòa bình", chống phá ta quyết liệt cả hai vấn đề nêu trên. Điều đó cũng có nghĩa là chúng đã và đang run sợ trước sức mạnh đoàn kết, thống nhất của nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; niềm tin và sự lựa chọn đúng đắn con đường đi tới của chúng ta.


Hãy vững tin vào mục tiêu, lý tưởng, con đường đã lựa chọn; tuyệt đối không thể mắc mưu kẻ thù, không để rối loạn, sai lầm về đường lối chính trị, kiên quyết đập tan mọi mưu đồ gây rối, phá vỡ sự thống nhất nền tảng tư tưởng trong Đảng, Nhà nước và trong xã hội ta. Sự nghiệp của chúng ta do chúng ta quyết định, không có thể lực thù địch nào có thể cản bước, ngăn đường. Kiên định và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng là lòng tin, niềm tự hào và trách nhiệm thiêng liêng của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Chúng ta cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn giá trị và ý nghĩa những luận điểm của V.I. Lênin đối với cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay, nhất là cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, luôn luôn xứng đáng là một đảng "đạo đức", một đảng "văn minh"; là nhân tố lãnh đạo đóng vai trò quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bôi cảnh tình hình mới.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:36:32 pm
VI- SẼ MẤT PHƯƠNG HƯỚNG CÁCH MẠNG NẾU COI THƯỜNG THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và đang bị chi phối bởi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức và nó đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, ngoại giao và quốc phòng, an ninh, v.v... Trong bối cảnh biến động khôn lường, đặc biệt phức tạp ấy, vai trò của triết học Mác - Lênin không hề bị suy giảm, mà trái lại, ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò nhận thức và cải tạo thế giới to lớn của mình. Vì vậy, tất cả các quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển không thể không tính đến những thời cơ, vận hội và những thách thức to lớn do toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức đem lại. Hơn thế nữa, để tồn tại, phát triển và phát triển ổn định, bền vững; không bị hòa tan, không bị chệch hướng trước xu thế toàn cầu hóa, tất cả các quốc gia, dân tộc; trong đó có Việt Nam, cần phải phát triển khoa học và công nghệ hiện đại, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần đây nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn vậy, triết học phải góp phần giải đáp các vấn đề về phát huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của họ; coi đó là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng, mang ý nghĩa quyết định thành công trên con đường xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Triết học Mác - Lênin là khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng, không thể đứng ngoài cuộc mà phải góp phần tích cực hóa nhân tố con người; nghiên cứu và kịp thời cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ tốt hơn việc tham mưu, xây dựng đường lối, xác định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có. Trên cơ sở đó, triết học nước ta cần có những nghiên cứu hết sức cơ bản để vạch ra những định hướng lớn mang tầm chiến lược nhằm phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với những bước đi thích hợp cho mỗi giai đoạn, thời kỳ, phù hợp với quy luật khách quan; bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững chứ không phải phát triển bằng mọi giá.


Trước tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, bộ mặt thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đang vận động, biến đổi từng ngày. Nghiên cứu và giảng triết học ở nước ta chưa bao giờ lại phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn như vậy. Xu hướng toàn cầu hóa, trong đó có toàn cầu hóa về văn hóa, giáo dục và đào tạo đang diễn ra gay gắt, buộc các cấp có thẩm quyền và cả đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết học phải xem xét, rà soát lại tổng thể mọi vấn đề từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, tuyên truyền, phổ biến tri thức triết học đến chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy, biên soạn giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học môn triết học theo phương pháp truyền thống hay hiện đại để đổi mới cho phù hợp, đạt hiệu quả. Trong thời điểm mang tính chất bước ngoặc hiện nay, đổi mới chương trình, nội dung nghiên cứu, phương pháp giảng dạy triết học là một tất yếu khách quan, song đổi mới như thế nào, đổi mới cái gì, rất cần phải cân nhắc cẩn trọng và có những quyết định sáng suốt, chính xác để không bị chệch hướng chính trị, không xa rời mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối không để mắc mưu "diễn biến hòa bình". Trong quá trình đổi mới, cần khẳng định rõ lập trường, quan điểm có tính nguyên tắc: triết học Mác - Lênin là hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tính đảng của triết học phải gắn chặt với tính khoa học. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta không rơi vào phương pháp tư duy siêu hình, chủ quan, duy ý chí; không lầm đường, lạc lôi bởi bị "lây nhiễm" quan điểm duy tâm, tôn giáo.


Vì vậy, sứ mệnh thiêng liêng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết học ở nước ta là chú trọng nghiên cứu, tiếp thu "tinh hoa văn hóa, triết học nhân loại" một cách có hệ thống để vận dụng triết học vào thực tiễn cuộc sống đương đại; đồng thời, kiên quyết đấu tranh, phê phán mọi trào lưu, quan điểm sai trái, phản động, phản khoa học; bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phép biện chứng duy vật vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức hiện nay. Qua đó, vạch ra được những vấn đề có tính quy luật của sự vận động, phát triển của xã hội Việt Nam trong thế giới đương đại, dự báo chính xác xu hướng vận động và các nhân tố tác động, đề xuất được các giải pháp khả thi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu hoàn thành mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.


Trình độ tư duy thấp kém, tư duy giáo điều hoặc sai lầm dưới các dạng khác nhau đều không thể thúc đẩy sự phát triển, trái lại, còn kìm hãm, cản trở sự phát triển của tât cả các lĩnh vực thuộc đời sống xã hội. Vì thế, ngay từ năm 1878, Ph. Ăngghen đã nhắc nhở chúng ta rằng, "một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận"1 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.489, 487). "Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước"2 (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.489, 487). Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng theo cách nói của một số người; song, cần nhận thức rằng, trong thế giới gọi là phẳng ấy, đã và đang có không ít những chỗ lồi, lõm rất khác nhau, chịu sự tác động gay gắt của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nếu vẫn cứ tiếp tục lối mòn của phương pháp tư duy lạc hậu, áp đặt chủ quan, duy ý chí hoặc siêu hình; tức là coi thường phép biện chứng duy vật thì điều đó cũng đồng nghĩa là chúng ta "dẫm chân tại chỗ", "tự trói buộc mình", không thể bàn chuyện vượt lên phía trước; chúng ta sẽ tụt hậu xa hơn. Tình trạng đồng nhất môn triết học với môn giáo dục chính trị đã được khắc phục ít nhiều trong những năm đổi mới đất nước và nó đã đạt được những kết quả nhất định, nhất là sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.


Tuy nhiên, thời gian gần đây, căn bệnh "coi thường triết học" lại có biểu hiện tái phát và có xu hướng nặng nề hơn trước. Điều đáng lo ngại là người ta đã từng bước loại bỏ triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đến mức "coi thường" nó. Việc cắt xén, thu gọn nội dung, giảm đến mức tối đa số giờ lên lớp... đến mức biến triết học Mác - Lênin thành những nguyên lý cứng nhắc, khó hiểu, chẳng có cội nguồn, gốc rễ đã làm cho thế hệ trẻ và không ít người, trên thực tế, đã hiểu không đúng, không đầy đủ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng lý luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.


Việc "coi thường" triết học đã được Ph. Ăngghen cảnh báo rằng: Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng, họ thoát ra khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì không thể tiến lên một bước nào, và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgíc... Vì vậy, những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là nô lệ của những tàn tích thô tục hóa, tồi tệ nhất của những triết học tồi tệ nhất. Cho nên, dù ai có làm gì đi chăng nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Đối với chúng ta, sống trong một thế giới phẳng đầy biến động khôn lường như hiện nay, chúng ta không chỉ cần có tri thức tổng hợp liên ngành, đa ngành mà điều quan trọng hơn là phải biết lựa chọn những tri thức nào cho phù hợp với đời sống đương đại. Chìa khóa để mở con đường đi tới là phải nắm vững và vận dụng sáng tạo phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Vì thế, biết phê phán, biết xác định giá trị, dám nghi ngờ, dám tìm tòi, sáng tạo để rút ra chân lý, có phát kiến mới, thiết thực, hiệu quả thật sự là điều cuộc sống đòi hỏi, cần thiết. Muốn vậy, mỗi người không có cách nào khác là nắm vững chắc tri thức triết học, đặc biệt là lịch sử triết học mácxít và phép biện chứng duy vật - phương pháp nhận thức, tư duy thật sự khoa học, cách mạng làm hành trang, vốn liếng để phân tích, luận giải đúng đắn bản chất mọi vấn đề phát sinh và cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả; tránh được những sai lầm đáng tiếc.


Thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu mà chúng ta đạt được 30 năm qua đã chỉ ra rằng: xây dựng và phát triển nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp là làm theo sự áp đặt chủ quan, duy ý chí, là bất chấp quy luật khách quan, không phù hợp với thực tiễn. Những sai lầm đó có nguồn gốc sâu xa, bắt nguồn từ phương pháp tư duy siêu hình hoặc "lây nhiễm nặng" quan điểm duy tâm, tôn giáo. Điều đó cũng có nghĩa là đã mắc bệnh coi thường, nhận thức chưa đúng, chưa trúng và vận dụng sai lầm các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 27 Tháng Mười, 2022, 12:37:22 pm
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cả C. Mác và V.I. Lênin đều khẳng định rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, trong đó, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Thế nhưng, do nhận thức chưa đầy đủ quy luật này, lại rơi vào chủ quan, duy ý chí, nóng vội, mong muốn có ngay chủ nghĩa xã hội; chúng ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi quyết định đưa quan hệ sản xuất đi trước một bước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.


Việc làm đó là hoàn toàn trái với quan điểm của C. Mác và V.I. Lênin, là làm cho quan hệ sản xuất "đi trước" không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sai lầm đó đã được Đại hội VI của Đảng phê phán nghiêm khắc. Đồng thời, Đại hội cũng đưa ra kết luận mang tính triết học sâu sắc "phải xuất phát từ hiện thực khách quan; tôn trọng quy luật khách quan". Nhờ đó, chúng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện đất nước. Đó là cơ sở để chúng ta xây dựng lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Rõ ràng là, thế giới quan và phương pháp luận triết học đã và đang đóng vai trò tích cực trong việc phê phán, bác bỏ phương pháp tư duy siêu hình, quan điểm duy tâm, tôn giáo; đưa tinh thần của phép biện chứng duy vật vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu mà chúng ta giành được qua gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước là một minh chứng đầy thuyết phục, khẳng định niềm tin vào lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.


Trước tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, thế giới ngày nay ngày càng trở nên phẳng hơn, song cũng lồi lõm hơn. Đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Tri thức khoa học đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp như điều C. Mác đã dự báo trước đây đã trở thành hiện thực. Thời cơ, vận hội đã và đang mở ra cho mọi quốc gia, dân tộc đi tới, phát triển. Tuy nhiên, làm gì và làm như thế nào để nắm bắt và tận dụng thật hiệu quả thời cơ, vận hội đưa đến và hạn chế những tác động tiêu cực mà nó đưa lại là hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, nắm bắt và vận dụng sáng tạo thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng duy vật mácxít của chúng ta.


Sống trong một bối cảnh thế giới sôi động và phức tạp như vậy, chúng ta cần phải có một thế giới quan, phương pháp luận triết học chân chính dẫn đường với một triết lý nhân sinh đúng đắn, nhân văn gợi mở, giúp chúng ta vạch đường đi tới. Một triết học như vậy không thể nào khác là triết học Mác - Lênin, khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Về điều này, Giắccơ Đêriđa, nhà triết học đương đại nổi tiếng người Pháp, trong tác phẩm Những bóng ma của Mác đã nhận định rằng, "tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Mác và chủ nghĩa Mác với một mức độ nhất định...". Và Giắccơ Đêriđa khẳng định: "luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh luận nhũng tác phẩm của Mác. Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu tránh nhiệm về mặt lý luận, triết học và chính trị... Sẽ không có tương lai khi không có trách nhiệm đó. Không có tương lai mà lại không có Mác. Nêu không có ký ức về Mác và không có di sản của Mác".


Từ những vấn đề nêu trên, có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu thiếu sự dẫn đường của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hoặc coi thường tri thức triết học nói chung, triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp nếu những sai lầm cũ không được phá bỏ hoặc chậm được khắc phục. Bởi lẽ, triết học là thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng, là công cụ nhận thức vĩ đại để chúng ta sử dụng vào việc khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Trước tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta cần đổi mới nhận thức và phương pháp tư duy truyền thông, có cách nhìn nhận và giải quyết những mâu thuẫn của thời đại vốn đã bị giáo điều hóa, một cách thật sự khách quan, toàn diện, cụ thể, lịch sử và phát triển đế đúc kết, khái quát, xây dựng lý luận mới, tư duy mới và giải quyết thấu đáo mọi vấn đề do toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức đặt ra theo một triết lý nhân sinh mới, nhân văn: hướng đến sự phát triển bền vững của cả cộng đồng nhân loại trên cơ sở phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc Việt Nam.


Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu là những vấn đề mang tính toàn cầu hóa của thế giới đương đại, bao hàm sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và sự phát triển bền vững của cả cộng đồng nhân loại. Đó là cách tốt nhất để triết học nước ta không đứng ngoài cuộc những vấn đề toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề về tính tất yếu khách quan, bản chất, đặc điểm, vai trò, thực trạng tác động, nguyên nhân, các yêu cầu và đề xuất các giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực do toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gây ra. Hướng vào nghiên cứu và giải quyết những vấn đề do toàn cầu hóa đặt ra, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học đúng đắn về toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, triết học sẽ giúp cộng đồng nhân loại nói chung, nhân dân ta nói riêng, nhận thức sâu sắc hơn về vị thế làm chủ thế giới, làm chủ nhận thức, cải tạo và sáng tạo thế giới của mình trên cơ sở làm chủ tồn tại xã hội và làm chủ chính bản thân mình. Không thể có sự phát triển bền vững cộng đồng nhân loại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa nếu không có sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và ngược lại.


Đối với chúng ta, nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn mà công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra trong bối cảnh tình hình hiện nay phải được coi là một trong những định hướng chủ đạo, nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Chỉ có làm như vậy, triết học Mác - Lênin mới hoàn thành xuất sắc chức năng, vai trò thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thực tiễn; đồng thời, làm tốt các vai trò chức năng vốn có: chuẩn mực, phê phán, định hướng, tiên đoán khoa học, tổng hợp tri thức... của mình. Đó cũng là con đường cần phải đi tới của triết học Mác - Lênin trong kỷ nguyên toàn cầu hóa: đem lại cách tiếp cận phức hợp, liên ngành để nhận thức sâu sắc bản chất, xu hướng vận động, phát triển của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế phát triển kinh tế tri thức; từ đó mà có những luận chứng mới, sâu sắc về mặt lý luận, giúp cho Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng từ trung ương đến cơ sở hoạch định đúng đắn đường lối, chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội, củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa đất nước phát triển đúng định hướng, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Sai lầm trong thực tiễn là rất đáng sợ, nhưng sai lầm trong nhận thức và sự ngộ nhận mình luôn luôn đúng, trong khi thực tiễn hoàn toàn không phải là như vậy còn nguy hiểm, đáng sợ hơn nhiều. Cách tốt nhất để mỗi người chúng ta không mắc phải sai lầm là nắm vững tri thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phép biện chứng duy vật mácxít. Đây là chiếc chìa khóa mở con đường đưa chúng ta tự tin bước vào thế giới của kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức và nó cũng là bí quyết đưa chúng ta đi đến mọi thành công.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:27:08 pm
Phần thứ hai
THÚC ĐẨY "TỰ DIỄN BlẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" - CHIÊU TRÒ MỚI CỦA "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CHỐNG PHÁ VIỆT NAM


I- NHỮNG NƠI "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" ĐI QUA VÀ NỖI ĐAU ĐỂ LẠI

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã đẩy thế giới vào cuộc "chạy đua vũ trang" và "chiến tranh lạnh". Đồng hành cùng với hai cuộc chiến vừa "công khai" vừa "lặng lẽ, âm thầm" nhưng vô cùng tàn khốc, quyết liệt nêu trên, "diễn biến hòa bình" với tư cách là một chiến lược toàn cầu phản cách mạng do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chủ mưu nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, dập tắt phong trào độc lập dân tộc mà không cần chiến tranh đã được triển khai thực hiện.


Với quá trình hình thành và phát triển khá phức tạp, "diễn biến hòa bình" đã và đang được các thế lực thù địch bổ sung, hoàn thiện và triệt để sử dụng để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, dập tắt phong trào độc lập dân tộc trên thế giới. Với mục tiêu đã xác định, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bước đầu đã đạt được những thành công trong việc đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; làm rối ren, phức tạp hóa tình hình kinh tế chính trị, xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự nguy hiểm và tác hại của nó đã và đang khiến hàng triệu người sửng sốt, lo ngại và chính nó đang đặt ra sự cần thiết phải nghiên cứu, nhìn nhận, đánh giá, nhận thức rõ hơn bản chất, âm mưu, thủ đoạn và tác hại của nó để chủ động đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở nước ta hiện nay.


Có thể khái lược sự xuất hiện của chiến lược "diễn biến hòa bình" trên các khía cạnh sau: Năm 1953, F. Đalét - Ngoại trưởng Mỹ cho rằng, nước Mỹ có đủ sức mạnh để thực hiện cuộc "giải phóng" nhân loại khỏi chế độ cộng sản mà không cần chiến tranh. Phương cách mà ông ta đưa ra là dùng "biện pháp hòa bình", "phi vũ trang", đánh thẳng vào các Đảng Cộng sản, gây mâu thuẫn từ sự chia rẽ nội bộ Đảng và Nhà nước, sự phân ly giữa người dân và chính quyền các cấp; gây "tự diễn biến" trong nội bộ. Bằng cách này, F. Đalét khẳng định: Mỹ và phương Tây sẽ chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh.


Nhấn mạnh điều này, F. Đalét đã xuất phát từ quan điểm của phép biện chứng duy vật mácxít, cho rằng trong thế giới, chẳng có cái gì là trường tồn, bất biến mà luôn vận động, biến đổi không ngừng. Vì vậy, ông ta khẳng định: sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội không phải là vĩnh hằng và nó có thể được thay đổi nếu các nước Tây Âu tạo ra được sự "đột phá" trong cách hành xử với "Liên Xô cộng sản và các nước theo đuôi Liên Xô".


Một trong những chiêu thức mang ý nghĩa quyết định việc giành chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh là Mỹ và phương Tây cần đẩy mạnh đầu tư, phát triển kinh tế "đổ tiền của, đồng đôla" vào các nước xã hội chủ nghĩa đang "muốn có nhiều tiền, vốn, khoa học, công nghệ và tự do, dân chủ"; tức là Mỹ và phương Tây cần phải làm gì đó để "hé tấm màn sắt" ở các nước xã hội chủ nghĩa, sao cho các "giá trị của phương Tây có cách lọt vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa" thì ngay lập tức, người dân ở các nước này sẽ chào đón họ, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để đi theo các nước phương Tây, vì lúc đó, người dân sẽ thấy rõ giá trị của tự do và cuộc sống tốt đẹp ở các nước phát triển như một sự "cứu sinh", đem lại cuộc sống đích thực cho họ. Muốn vậy, F. Đalét đề xuất phương Tây cần phải đẩy mạnh phong tỏa, bao vây, cấm vận về kinh tế đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô; làm cho các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng kiệt quệ, nhân dân ở các nước này ngày càng đói khổ, lâm vào tình cảnh túng quẫn, cùng đường thì đến lúc đó, họ càng chán ghét chế độ, căm phẫn Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa; chính điều đó sẽ làm cho họ sớm rũ bỏ chủ nghĩa cộng sản, tự tìm đến Tây Âu.


Về điều này, Kennơđi - Tổng thống Mỹ thời đó đã lắng nghe, tiếp nhận và khẳng định rằng: "diễn biến hòa bình" là một phương án tốt, song nó cần có biện pháp cụ thể hơn là chủ trương. Kennơđi đã chỉ đạo CIA và hối thúc các quan chức Mỹ mở rộng thương mại, tăng tiếp xúc, trao đổi kinh tế, văn hóa, thông tin, khoa học, giáo dục,... với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, làm cho các giá trị Mỹ xâm nhập ngày càng sâu rộng vào các nước này. Theo Kennơđi, từng bước một, các giá trị văn hóa phương Tây sẽ xâm nhập, thẩm thấu ngày càng sâu rộng vào các nước xã hội chủ nghĩa và tất yếu nó sẽ "gặm nhấm", từng bước làm tha hóa, biến chất chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu. Với nhiều chiêu bài, sách lược khác nhau, Mỹ và phương Tây đã chính thức đưa chiến lược "diễn biến hòa bình" thành "thượng sách" để chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, trọng điểm là Liên Xô - thành trì hệ thống xã hội chủ nghĩa, quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga.


Mũi nhọn của chiến lược "diễn biến hòa bình" là từng bước làm xuất hiện "những nhân tố mới lạ, xa dần với các giá trị chuẩn mực của chủ nghĩa cộng sản", tiến tới làm thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Cuối cùng sẽ đánh sập hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Một trong những khởi phát của chiến lược "diễn biến hòa bình" là nhằm vào mắt khâu yếu nhất của sợi dây chuyền dẫn của chủ nghĩa xã hội, đó là Hunggari (năm 1956).


Hunggari là nước đầu tiên bị Mỹ và phương Tây thí điểm để áp dụng "diễn biến hòa bình" với các biện pháp can thiệp ngầm, sâu vào nội bộ Hunggari bằng kịch bản "không đánh mà thắng"; qua đó rút kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện chiến lược này để áp dụng rộng rãi vào các nước xã hội chủ nghĩa cả ở phương Tây lẫn phương Đông. Mỹ và phương Tây đã cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử truyền thông và chọn khâu then chốt nhất là đánh vào lòng người, dùng biện pháp gây ảnh hưởng tâm lý của người dân Hunggari để lôi kéo họ đứng về phía Mỹ và phương Tây, xa rời chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thất bại trong việc lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Hunggari năm 1956, song Mỹ và phương Tây vẫn không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" ở nước này. Lợi dụng làn sóng cải cách, mở cửa giữa những năm 80 của thế kỷ XX, các chuyên gia người Mỹ đã dùng mọi biện pháp tâm lý để kích động người dân Hunggari khuyến khích phát triển tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, từng bước làm cho người dân Hunggari quay lưng lại với Liên Xô; hướng về phương Tây, kết thân với Mỹ, nuôi dưỡng hy vọng được sống sung sướng. Ngón đòn nguy hiếm nhất mà Mỹ và phương Tây đã áp dụng ở Hunggari là thực hiện chiến dịch "đánh tỉa" nhằm thẳng vào giới trẻ "năng động nhất, nhạy cảm nhất, dễ sai khiến nhất". Trên cơ sở kích động tâm lý sùng bái hàng ngoại, nhạc ngoại, văn hóa ngoại, giáo dục - đào tạo ngoại..., tiến tới tiêm nhiễm tư tưởng, văn hóa phương Tây; từ đó tạo ra sự bất mãn với chế độ xã hội chủ nghĩa, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, mất niềm tin của sinh viên, thanh niên với Đảng Lao động Hunggari (tháng 11-1956, đổi tên thành Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari).


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:28:16 pm
Những động thái nêu trên diễn ra rất nhanh và trên thực tế, Mỹ và phương Tây đã chiếm được sự ủng hộ, đồng tình của phần lớn sinh viên, thanh niên Hunggari, nhất là các tổ chức của hai lực lượng này. Vì vậy, các cuộc biểu tình, tuần hành kéo dài của thanh niên, sinh viên đã "lây nhiễm" sang các tầng lớp nhân dân khác trong xã hội, làm cho hầu hết các thành phố lớn ở Hunggari hỗn loạn, trật tự, kỷ cương, sinh hoạt xã hội bị rối loạn; nhiều hoạt động khác như sản xuất, kinh doanh, xuất bản, truyền thông..., Chính phủ không kiếm soát được. Điều này đã gây áp lực vô cùng lớn cho Đảng và Nhà nước Hunggari, buộc Đảng, Nhà nước Hunggari phải thỏa hiệp, nhượng bộ phe đối lập, tiến hành sửa đổi hiến pháp và cuối cùng dẫn đến thay đổi đường lối, kết cục là chế độ xã hội chủ nghĩa của Hunggari tan rã và sụp đổ.


Cần phải nói ngay rằng, trước tình hình hỗn loạn của xã hội, nội bộ Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari phải đoàn kết, nhất trí cao nhưng ngược lại, nội bộ Đảng lại bất đồng, mâu thuẫn sâu sắc. Một bộ phận lớn cán bộ, đảng viên đã "tự diễn biến" rời khỏi hàng ngũ của Đảng. Sự suy kiệt của nền kinh tế rối loạn chính trị đã dẫn đến sự khủng hoảng lãnh đạo trong nội bộ Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari, buộc Đảng liên tục phải nhượng bộ phe đối lập nhất trí thông qua đường lối, chấp nhận chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.


Tất cả điều đó đã mở đường cho phe đối lập trỗi dậy, nắm giữ các vị trí then chốt và cuối cùng giành lấy chính quyền, thực hiện xong mưu đồ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Hunggari. Rõ ràng, Mỹ và phương Tây đã thí điểm thành công phương thức chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh, dùng "diễn biến hòa bình" như một phương án tối ưu để áp dụng vào việc đánh đổ chế độ xã hội ở các nước khác, dù rằng, chúng có "cải tiến", "cách tân", làm mới chiến lược này cho phù hợp với đặc điểm tình hình mỗi nước xã hội chủ nghĩa, phù hợp với phong tục tập quán và bản tính người dân bản địa.


Cùng thời gian ây, sự lây nhiễm của "diễn biến hòa bình" đã tràn vào Ba Lan, làm cho không ít đảng viên của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan thừa nhận, họ đã được đổi đời, như được "hồi sinh", "lột xác" nhờ tiếp nhận "luồng gió mới, mát lành". Không ai khác, chính những đảng viên Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan đã tự đốt thẻ đảng, tự "sám hối" là cả đời mình do mắc sai lầm đi theo Đảng Cộng sản và chính bộ phận "thay lòng đổi dạ" này đã kịch liệt công kích, phản kháng, phủ nhận tính hợp pháp của quân đội Liên Xô ở Ba Lan, dù trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn biết nhờ có quân đội Liên Xô, đất nước Ba Lan mới thoát khỏi thảm họa diệt vong do phát xít Đức gây ra. Nhưng ngọn lửa hận thủ đã làm họ mờ mắt, họ đã công khai phủ nhận mối quan hệ Ba Lan - Liên Xô, làm cho sự hoài nghi Liên Xô từ những người cộng sản đã ảnh hưởng sâu sắc đến lòng tin của người dân trong xã hội Ba Lan lúc bây giờ.


Đây là kẽ hở lớn nhất do nội bộ Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan tạo ra và nó đã được Mỹ và phương Tây chớp thời cơ, triệt để lợi dụng như một ngón đòn "độc chiêu" để thực hiện "diễn biến hòa bình" ở nước này. So với Hunggari, Mỹ và phương Tây đã "khôn khéo" khoét sâu vào điểm yếu nhất của xã hội Ba Lan thời đó là nước này đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền nông nghiệp kém phát triển; những người đóng vai trò lãnh đạo ở trong Đảng và Nhà nước Ba Lan chủ yếu đều xuất thân từ nông dân.


Mỹ đã tuyên truyền, kích động, lôi kéo những cán bộ cao cấp và tầng lớp trí thức, công nhân xuất thân từ nông dân để thành lập Công đoàn Đoàn kết, một lực lượng đối trọng với Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. Nội dung chủ yếu trong màn kịch "diễn biến hòa bình" ở Ba Lan là Mỹ và phương Tây luôn rùm beng tuyên truyền về mức sống quá thấp trong xã hội, làm cho người dân Ba Lan so sánh và nhìn thấy sự chênh lệch về mức sống của người dân Ba Lan với người dân phương Tây; qua đó làm cho họ chán nản chế độ xã hội chủ nghĩa và cho rằng, chính chủ nghĩa xã hội là nguyên nhân làm cho người dân Ba Lan đói khổ, đất nước tụt hậu, không thể phát triển. Mỹ và phương Tây đã hô trợ các lãnh tụ của Công đoàn Đoàn kết và nhà thờ, phát động quần chúng xuống đường biểu tình, gây bạo loạn từ thâp tới cao, làm cho sản xuất, kinh doanh đình đốn, xã hội rối loạn, qua đó gây áp lực với Đảng, Nhà nước, buộc Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan phải nhượng bộ, thỏa hiệp, bộ máy nhà nước mất khả năng điều hành, quản lý xã hội.


Thêm vào đó, Mỹ và phương Tây đã tiêm nhiễm tư tưởng "chia rẽ" vào thanh niên, sinh viên sự "xâm lược của Liên Xô", đòi Ba Lan tách khỏi "sự thống trị của Liên Xô". Với các yêu sách đề ra, vào năm 1988, các cuộc đình công kéo dài ở Ba Lan đã diễn ra, buộc Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan phải ngồi vào "bàn tròn" đàm phán với phe đối lập. Kết cục của cuộc gặp "bàn tròn" ấy là sự buông xuôi của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan, để cho các phe đối lập, đảng phái tranh giành quyền lực, lũng loạn trong Đảng, trong Quốc hội và Chính phủ. Việc Công đoàn Đoàn kết chiếm 99% số ghế ở Thượng viện đã đánh dấu sự thất bại cay đắng hoàn toàn của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan.


Tình hình ở Tiệp Khắc cũng diễn ra đúng như kịch bản "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch như đã áp dụng ở Hunggari và Ba Lan. Mỹ và phương Tây đã thực thi một cách "êm đẹp" các chiêu bài tranh giành thanh niên và trí thức, lợi dụng sức mạnh của lực lượng này để tạo ra các cuộc biểu tình, gây mâu thuẫn nội bộ và rối loạn xã hội. Việc ầm ĩ tuyên truyền rộng rãi trong xã hội Tiệp Khắc mức sống qua sự so sánh quá chênh lệch giữa chủ nghĩa tư bản và đời sống của người dân ở Tiệp Khắc là một chiêu thức vô cùng hấp dẫn đã đẩy giới trẻ, trí thức ở Tiệp Khắc đi tiên phong trong việc lên tiếng đòi quyền tự do, dân chủ, đòi Chính phủ phải nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho người dân và sinh viên, thanh niên mà lúc ấy, xã hội Tiệp Khắc không thể giải quyết được, đã làm cho xã hội Tiệp Khắc "nóng lên" từng ngày và cuối cùng rơi vào bế tắc, đất nước lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.


Rõ ràng, việc sử dụng ngón đòn đánh vào tâm lý, thu phục lòng người của Mỹ và phương Tây đã phát huy hết công năng, tác dụng. Phe đối lập ngày càng lớn mạnh nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Mỹ và phương Tây. Các cuộc biểu tình dài ngày, gây rối loạn, làm tê liệt các hoạt động xã hội, đã tạo ra áp lực rất lớn, buộc Đảng Cộng sản Tiệp Khắc phải tiến hành cải cách chính trị, cho phép thành lập hàng chục câu lạc bộ chính trị. Chính điều này đã làm cho tình hình chính trị - xã hội ở Tiệp Khắc bị rối loạn, các quan điểm trái ngược nhau trong Đảng đua nhau nảy nở đẩy xã hội Tiệp Khắc đến bờ vực thẳm. Các cuộc xung đột chính trị bắt đầu từ xung đột trong bộ máy lãnh đạo, làm cho Đảng, Nhà nước bị chia rẽ và ngày càng suy yếu.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:29:06 pm
Trước sự phản ứng yếu ớt và không rõ ràng của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, sự quản lý lỏng lẻo, bất lực của bộ máy nhà nước đã làm cho cuộc khủng hoảng trong xã hội Tiệp Khắc ngày càng trở nên trầm trọng. Trước tình cảnh ấy, nội bộ Đảng Cộng sản Tiệp Khắc lại mất đoàn kết kéo dài; không tìm ra phương pháp hữu hiệu nào để bảo vệ Đảng, Nhà nước trước nguy cơ sụp đổ. Đó là mảnh đất màu mỡ khiến cho các nước phương Tây đẩy nhanh tiến độ thực hiện "diễn biến hòa bình". Cuối năm 1989, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc mất vai trò lãnh đạo và chính phủ mới được thành lập với các thành viên đa số không phải là đảng viên Đảng Cộng sản.


Qua việc phác thảo ba bức tranh nêu trên, có thể thấy một trong những đòn ác hiểm nhất là Mỹ và phương Tây đã chọn và đánh trúng, đánh đúng vào điểm hiểm yếu nhất của các nước xã hội chủ nghĩa là sự non kém của bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng sản và nhà nước ở các nước vừa nêu trên. Giá như các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu sáng suốt, tinh táo hơn thì họ đã không mắc mưu "diễn biến hòa bình". Chính điều đó đã khẳng định rằng, trong thời đại hiện nay, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc mácxít trong lãnh đạo nhà nước và xã hội, phải nắm chắc lực lượng vũ trang và pháp luật; thật sự đoàn kết, thống nhất, ra sức chăm lo phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tôn trọng nhân dân, lấy dân làm gốc; quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ... Tất cả những điều đó nếu được làm tốt thì "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch dù có trăm ngàn phương sách, lắm trò "ảo thuật" cũng không thể gây hại cho Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.


Xem lại kịch bản "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng ở Hunggari, Ba Lan và Tiệp Khắc và triệt để áp dụng nó để xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1989 có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều nhận định trên.


Nét mới trong triển khai thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Cộng hòa Dân chủ Đức là Mỹ và phương Tây đã tăng cường hối thúc "tự diễn biến" trong lòng Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức thông qua việc lợi dụng triệt để sự phân hóa trong giới lãnh đạo do mâu thuẫn nội bộ Đảng gây nên; đồng thời, rất quyết liệt trong việc tranh giành và sử dụng lực lượng thanh niên để kích động tính dân tộc Đức nhằm đánh thẳng vào các tổ chức và người đứng đầu Đảng, Nhà nước; tùng bước chặt đứt mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với quần chúng nhân dân, làm cho sự hoài nghi, thiếu tin tưởng vào đường lối của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước tăng vọt trong dân chúng.


Mặt khác, các thế lực thù địch đã rút kinh nghiệm việc triển khai thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Hunggari, Ba Lan, Tiệp Khắc để đẩy mạnh việc chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước với Liên Xô, làm cho nội bộ Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức ngày càng mâu thuẫn gay gắt với nhau và với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, dẫn đến mất đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, kích động, cổ súy cho các lực lượng chống đối Đảng, Nhà nước dưới các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tạo điều kiện cho người dân, chủ yếu là thanh niên, trí thức rời bỏ đất nước chạy sang Cộng hòa Liên bang Đức. Để làm việc đó, Mỹ và phương Tây, nhất là Cộng hòa Liên bang Đức đã chi những khoản tiền kếch xù để hỗ trợ cho các phe phái đối lập với Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức, nhất là các tổ chức thanh niên, sinh viên để lực lượng này kéo dài biểu tình liên tục, ở nhiều thành phố với quy mô lớn, có sự tham gia của một số tầng lớp nhân dân; gây áp lực ngày càng tăng cho Đảng và bộ máy nhà nước, dẫn đến sự hỗn loạn trong lòng xã hội Cộng hòa Dân chủ Đức, khiên hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, trường học ở Cộng hòa Dân chủ Đức phải đóng cửa.


Tình hình chính trị - xã hội diễn biến ngày càng phức tạp. Trong bối cảnh ấy, Ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã tỏ ra hết sức lúng túng, bị động, không thể đưa ra được chủ trương, giải pháp phù hợp để giải quyết bất đồng và những tình huông chính trị, quân sự phát sinh phức tạp. Tất cả họ đều trông chờ vào sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô để ổn định tình hình, trong khi đó, bản thân Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức mới, tự mình chưa thể khắc phục được.


Đầu tháng 10-1989, nhân dịp tổ chức kỷ niệm ngày Quốc khánh lần thứ 40 của Cộng hòa Dân chủ Đức, tại 15 tỉnh, thành phố của nước này đã đồng loạt diễn ra các cuộc biểu tình chống Đảng, Nhà nước. Nội dung yêu sách của các cuộc biểu tình là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức, đòi thống nhất Cộng hòa Dân chủ Đức vào Cộng hòa Liên bang Đức và đòi thay đổi hiến pháp hiện thời. Trước các cuộc biểu tình ngày càng phức tạp và vô cùng quyết liệt, Ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức từng bước nhượng bộ rồi rút lui. Kết cục của những cuộc biểu tình, bạo loạn chính trị là ngày 18-11-1989, Hội nghị Trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức đã họp và Bộ Chính trị từ chức tập thể. Mười ngày sau đó, cựu Tổng Bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức Hônếchkơ bị bắt với cáo buộc phản bội Tổ quốc, vi phạm hiến pháp. Đó là cột mốc đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của Cộng hòa Dân chủ Đức, chấm dứt vai trò lãnh đạo của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức.


Có thể khẳng định rằng, kịch bản "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch từng bước được bổ sung hoàn thiện và đã đạt đến sự thành công bước đầu là xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Đức, quê hương của C. Mác và Ph. Ăngghen, lãnh tụ của phong trào cộng sản và công  nhân quốc tế.


Tuy nhiên, trong kịch bản thực hiện "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Liên Xô có những nét riêng, khá độc đáo. Để đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Mỹ và phương Tây hết sức coi trọng việc truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, thực hiện sách lược "mưa dầm thâm lâu", luồn sâu, leo cao, thận trọng từng bước, quyết tâm "hé mở tấm màn sắt" để can thiệp ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao và quốc phòng, an ninh của Liên Xô, thực hiện đánh đổ từ bên trong kết hợp với răn đe sức mạnh quân sự từ bên ngoài, đẩy mạnh chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, thúc đẩy "tự diễn biến" trong nội bộ 15 nước cộng hòa và hệ thống chuyên chính vô sản đã được thiết lập khá vững chắc từ thời V.I. Lênin.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:29:59 pm
Một trong những người có công đưa "diễn biến hòa bình" vào Liên Xô nhanh nhất, đáng kể là Kenan - đại diện lâm thời của Mỹ tại Liên Xô. Ông ta đã nghiên cứu khá kỹ tình hình xã hội Liên Xô và tham mưu cho Nhà Trắng những điều hết sức thiết thực. Theo Kenan, việc áp dụng "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô phải khác so với Hunggari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức vì "tính đặc biệt thống nhất của hệ thống chính trị ở Liên Xô". Ông ta đã khuyên Nhà Trắng không nên nôn nóng, sốt ruột, mà thực hiện chính sách kiềm chế, lâu dài, "nhẫn nhịn" chờ đợi thế hệ cũ mất đi, thế hệ mới bước vào chính trường, lúc đó Mỹ và phương Tây sẽ thúc đẩy "tự diễn biến" trong nội bộ Đảng và Nhà nước để làm tha hóa và biến chất bộ máy lãnh đạo Liên Xô.


Đầu năm 1950, Tổng thống Mỹ hồi đó là Truman đã chủ trương "gieo hạt giống thức tỉnh và hủy diệt chế độ Xôviết" bằng việc "tạo dựng ngọn cờ", xây dựng lực lượng thân cận Mỹ, chờ đợi thời cơ sẽ thay đổi tận gốc xã hội Liên Xô. Phụ họa cho điều này, Brezinski cũng cho rằng, đến năm 2017, khi người Nga kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga thì Quảng trường Đỏ Mátxcơva sẽ biến thành Quảng trường Tự Do.


Đầu năm 1961, sau khi đắc cử Tổng thống Mỹ, Kennơđi đã tuyên bố, Mỹ cần giữ thái độ cứng rắn với Liên Xô, đó là nguyên tắc, nhưng đồng thời, phải sử dụng một loạt các công cụ linh hoạt, mềm dẻo như "ngoại giao thân thiện", đẩy mạnh viện trợ kinh tế, mở rộng buôn bán, giao lưu với sinh viên, tầng lớp trí thức, các nhà khoa học, báo chí, du lịch nhằm thúc đẩy sự biến đổi hòa bình trước, trong và sau "tấm màn sắt" đầy bí hiểm của Đảng Cộng sản Liên Xô và từng bước biến đổi nhận thức của hàng triệu cựu chiến binh.


Do kiên trì thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ XX, Mỹ và phương Tây đã chớp được thời cơ khi Liên Xô thực hiện cải tổ để đẩy nhanh tiến độ "diễn biến hòa bình" ở nước này. Vào thời điểm đó, nền kinh tế của Liên Xô gặp nhiều khó khăn, thách thức nghiêm trọng. Mỹ và phương Tây đã triệt để lợi dụng cái gọi là chính sách công khai, dân chủ của Goócbachốp - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô để đẩy nhanh tiến độ thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong nhiều nước cộng hòa của Liên bang Xôviết. Vì vậy, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Liên Xô ngày càng rơi vào tình trạng hỗn loạn, lạm phát, nợ công, khủng hoảng trầm trọng. Trong Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, lực lượng cơ hội, cấp tiến ngày càng chiếm ưu thế và có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng. Nhiều ủy viên Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phản lại Đảng Cộng sản. Trong khi đó, kinh tế suy thoái, chính trị rối ren, Mỹ và phương Tây khôn khéo lợi dụng tình thế ấy đã tăng viện trợ kinh tế ép Liên Xô phải cải cách chính trị và chấp nhận cho các quốc gia vùng Ban Tích tách khỏi Liên bang Xôviết.


Ngoài việc sai lầm về đường lối chính trị, Goócbachốp, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã buông lỏng xây dựng lực lượng vũ trang, thải hồi, cho về hưu hàng trăm tướng lĩnh có kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng quân đội; từng bước nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ trong thương lượng giải trừ vũ khí hạt nhân làm cho sức mạnh quân sự của Liên Xô suy giảm nghiêm trọng; đồng thời, đổi mới công tác giáo dục chính trị trong quân đội Liên Xô theo hướng phương Tây hóa quân đội và công an. Điều đó đã làm cho quân đội Liên Xô mất phương hướng chính trị, không còn sức chiến đấu dù lúc đó, Liên Xô có quân hùng, tướng mạnh, vũ khí tối tân, hiện đại.


Vào tháng 8-1991, Mỹ và phương Tây đã tích cực hỗ trợ những kẻ phản bội trong Đảng Cộng sản Liên Xô lật đổ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, thay vào đó là thiết lập hệ thống chính trị mới theo đường lối tư bản chủ nghĩa, thân phương Tây. Liên bang Xôviết tan vỡ, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, các nước cộng hòa vốn là anh em trong đại gia đình Xôviết đã quay lưng, thậm chí một số nước đã chĩa súng bắn vào nhau, gây nên thảm cảnh "nồi da nấu thịt". Tình cảnh xung đột vũ trang đẫm máu ở Ucraina những năm qua đã nói lên điều đó.


Các tác giả của chiến lược "diễn biến hòa bình" đã hí hửng chào đón thắng lợi sau sự kiện chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu nhưng chúng đã phải im lặng khi "diễn biến hòa bình" không áp đặt thành công ở Trung Quốc, một nước chiêm diện tích bằng 1/4 châu Á và 1/4 dân số thế giới. Khác với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, từ năm 1957, Mỹ đã rất thận trọng khi xác định Trung Quốc là một trong những trọng điểm chống phá bằng biện pháp "diễn biến hòa bình". Nét đặc sắc của "diễn biến hòa bình" ở Trung Quốc được các thế lực thù địch vận dụng vô cùng khôn ngoan, xảo quyệt; song lại rất mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo; đó là sử dụng đồng thời nhiều biện pháp để làm tha hóa, biến chất bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó biện pháp tối ưu được chúng xác định là thúc đẩy "tự diễn biến, tự biến chất" do Mỹ và phương Tây chủ mưu, các thế lực phản động trong và ngoài nước trợ giúp. Để đạt được mục tiêu đặt ra, một trong những thủ đoạn nham hiểm được Mỹ và phương Tây áp dụng "khôn ngoan" ở Trung Quốc là thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhất là quan hệ kinh tế, thương mại; đồng thời, dùng đồng đôla để quyên rũ, gây chia rẽ nội bộ và luồn sâu vào các cơ quan cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội Trung Quốc.


Năm 1989, sự kiện Thiên An Môn bắt đầu khi Hồ Diệu Bang, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (người ủng hộ xu hướng tự do, dân chủ theo phương Tây) qua đời. Những kẻ cầm đầu cuộc bạo loạn Thiên An Môn đứng ra thành lập Hội Sinh viên tự trị để phát động thanh niên, sinh viên chống chính quyền, bắt đầu từ việc tuần hành và nêu yêu sách, yêu cầu Chính phủ đối thoại với sinh viên; qua đó đòi xác lập chế độ dân chủ tư sản theo kiểu phương Tây, đòi sửa đổi hiến pháp, đòi tự do hóa kinh tế, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Vào tháng 5-1989, cuộc bạo loạn chính trị phát triển tới đỉnh điểm thành bạo loạn. Trước tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã sử dụng vũ lực đế giải tán biểu tình, kiên quyết châm dứt bạo loạn.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:31:14 pm
Năm 1992, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Mỹ và phương Tây dồn sức, tập trung mọi lực lượng, chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở nước này với nhiều biện pháp rất thâm độc, trong đó các biện pháp tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo được chúng áp dụng triệt để. Trước tình hình trên, chính quyền Trung Quốc một lần nữa đã thống nhất vẫn kiên quyết dùng vũ lực để giải tán tất cả các cuộc bạo loạn ở Tây Tạng, Bắc Kinh và nhiều thành phố khác.


Vì vậy, âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ của Mỹ và phương Tây đã không thành công. Trong mọi hoàn cảnh, tình huống, Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đều chủ trương kiên quyết, kiên trì đường lối không nhượng bộ, không thỏa hiệp với bất kỳ lực lượng, phe phái đối lập nào, đồng thời dùng sức mạnh chuyên chính vô sản để đập tan mọi cuộc bạo loạn bằng sức mạnh tổng hợp, sử dụng sức mạnh của quân đội, công an để trấn áp; cấm các phóng viên nước ngoài tiếp cận, đưa tin; kịp thời tuyên truyền, vận động nhân dân chống lại chủ nghĩa khủng bố, bạo loạn; đồng thời nghiêm túc rút kinh nghiệm sau các cuộc bạo loạn lật đổ do các thế lực thù địch gây ra để triển khai đồng bộ, thống nhất trong toàn quốc.


Đó là điều khác biệt căn bản so với cách làm của các Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Vì lẽ đó, "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã không thể thực hiện được ở Trung Quốc. Điều này nói lên rằng, "diễn biến hòa bình" với các âm mưu, thủ đoạn dù có tinh vi, xảo quyệt đến mức nào, song đó chỉ là ý muốn chủ quan mang tính áp đặt của các thế lực thù địch, còn nó có thực hiện được hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối, chủ trương, chính sách của các Đảng Cộng sản và sự giác ngộ, tinh thần đề cao cảnh giác cách mạng của quần chúng nhân dân và việc nhận thức sự nguy hiểm, tác hại của "diễn biến hòa bình" do các thế lực thù địch gây ra. Từ sự phân tích trên, có hai vấn đề đặt ra đối với việc phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam hiện nay mà chúng ta cần học tập, rút kinh nghiệm.


Thứ nhất, tại sao các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lại mắc mưu "diễn biến hòa bình", lâm vào khủng hoảng trầm trọng, nhân dân mất niềm tin vào Đảng, và tự Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo, sự cầm quyền của mình, dẫn đến kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội; chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng bằng xương máu, mồ hôi, nước mắt và công sức của hàng trăm triệu người, hàng chục năm vun đắp đã bị đánh cắp, bị sụp đổ. Có thể nhìn nhận vấn đề trên ở các khía cạnh sau:

Một là, do Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Xô vi phạm thô bạo nguyên tắc mácxít - lêninnít, dẫn đến nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân bị chia rẽ, mất đoàn kết, thiếu thống nhất, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã bị tha hóa, biến chất. Đó là những điểm yếu chí mạng, dân đến những sai lầm nghiêm trọng trong xác định đường lối, chiến lược, sách lược của đảng. Mặt khác, do biến chất, thoái hóa, nên đảng không thường xuyên chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ của đảng, làm trong sạch, lành mạnh "bộ máy", nội bộ đảng, nhà nước và chính quyền các cấp. Trong nội bộ đảng, nhà nước đã bị tác động mạnh của "diễn biến hòa bình" dẫn đến tự chuyển biến, tự chuyển hóa, làm cho các phe phái nổi lên tranh giành quyển lực. Không ít cán bộ cao cấp của đảng đã phản bội đảng.

Hai là, các Đảng Cộng sản nêu trên đã bị "lây nhiễm" tư tưởng tự do, dân chủ theo kiểu phương Tây trong cải cách, cải tổ, đã thỏa hiệp, chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong quá trình cải tổ, cải cách đất nước, dẫn đến tình trạng tranh giành quyền lực, đấu đá, xâu xé lẫn nhau, làm suy yếu đảng, đánh mất niềm tin, sự giúp đỡ của nhân dân.

Ba là, các Đảng Cộng sản nêu trên không những không chăm lo xây dựng đất nước, chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mà còn mắc mưu "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch, không chăm lo xây dựng lực lượng quân đội và công an vững mạnh, làm trong sạch các cơ quan bảo vệ luật pháp như thanh tra, kiểm tra, công tố và tòa án.

Bốn là, sự can thiệp ngày càng sâu rộng của Mỹ và phương Tây, nhất là việc tạo dựng "ngọn cờ", hỗ trợ lực lượng đối lập, chống đối trong nước, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô gặp không ít khó khăn cả về kinh tế lẫn chính trị, xã hội, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng; đảng không thể lãnh đạo nhà nước và xã hội, còn nhà nước không thể kiểm soát đội ngũ công chức và chính quyền nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội khác.

Năm là, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã lợi dụng triệt để "diễn biến hòa bình" để tập hợp, lôi kéo các phần tử bất mãn với chế độ, xuyên tạc sự thật để nhân dân nghi ngờ, mất niềm tin vào đảng, chống lại đảng, nhà nước; đồng thời, kích động, mua chuộc, lôi kéo một bộ phận không nhỏ nhân dân đứng về phía chúng, gây khó khăn cho đảng, nhà nước. Mặt khác, các Đảng Cộng sản đã coi thường, không chăm lo công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tự mình làm hư hỏng nền tảng tư tưởng của Đảng.


Thứ hai, cần đặt câu hỏi: Tại sao "diễn biến hòa bình" đã không thành công ở Trung Quốc và Cuba? Phải chăng ở hai nước này, các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa không mắc mưu "diễn biến hòa bình"; đã nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của "diễn biến hòa bình", có đối sách chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" một cách hiệu quả nên không để xảy ra tình trạng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, không để cho tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây thấm sâu vào quần chúng nhân dân? Có lẽ thực tiên đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở các nước này đã trả lời, giải đáp câu hỏi đó.


Chúng ta đều thấy rằng, ở Trung Quốc và Cuba, tuy còn khó khăn về kinh tế, song vượt lên trên mọi khó khăn, thách thức, nội bộ đảng, nhà nước thật sự đoàn kết, thống nhất; đường 101, chủ trương, chính sách, pháp luật đều được triển khai đồng bộ, thống nhất, thực hiện nghiêm minh. Đảng Cộng sản và nhà nước đã đề ra chiến lược phòng, chống "diễn biến hòa bình" một cách phù hợp, thiết thực, hiệu quả; đã xử lý đúng đắn các mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới, ổn định và phát triển, giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc; luôn quan tâm phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, bảo đảm cho mọi người dân được hưởng thành quả, lợi ích của công cuộc cải cách, đổi mới; làm cho người dân tin đảng, nhà nước và chế độ, gắn bó và ra sức cùng đảng, nhà nước chăm lo xây dựng chế độ xã hội mới; người dân cảm nhận được chính họ đang làm chủ cuộc sống, vận mệnh của mình.


Hơn thế nữa, đảng, nhà nước luôn bảo đảm sự thống nhất, đoàn kết trong nội bộ, luôn tăng cường sự lãnh đạo của đảng, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, kịp thời phát hiện, đấu tranh loại bỏ các phần tử cơ hội, biến chất trong tổ chức, đặc biệt, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí rất quyết liệt, không để xảy ra hiện tượng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; không để biểu tình, bãi công kéo dài, gây mâu thuẫn, bất bình trong nhân dân, gây rồi loạn chính trị, xã hội đất nước.


Đảng, nhà nước luôn chăm lo xây dụng quân đội nhân dân, công an nhân dân, luôn kiên trì nguyên tắc đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân; chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, trừ họa từ trước, từ lúc đất nước còn thanh bình, chưa lâm nguy; không để các thế lực phản động tạo dựng ngọn cờ, xây dựng lực lượng để chống đảng, phá hoại nhà nước. Mặt khác, đảng, nhà nước luôn tôn trọng, đề cao vai trò của nhân dân trong công cuộc cải cách, đổi mới; được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm, đồng tình ủng hộ.


Ngoài ra, đảng, nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa nêu trên không để xảy ra "diễn biến hòa bình", không mắc mưu "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa", không bị "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang là do thường xuyên thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình; chủ động, tích cực sơ kết, rút kinh nghiệm đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" từ thực tiễn đấu tranh trong nước và các nước khác với tinh thẩn cảnh giác cách mạng cao. Đó là những bài học kinh nghiệm quý được đúc rút, khái quát từ thực tiễn nghiên cứu nguyên nhân sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu và sự đứng vững của các nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Cuba. Và nó có tác dụng rất thiết thực trong chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam hiện nay.


Điệp khúc của "diễn biến hòa bình" do các thế lực thù địch gây ra đối với mỗi nước tuy có những điểm khác nhau, song nhìn tổng thể, nó đều có điểm chung, khá thống nhất là tập trung đánh phá, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang,... Vì vậy, nghiên cứu, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn và các hình thức, biểu hiện mới của "diễn biến hòa bình" đối với từng nước xã hội chủ nghĩa thời gian qua để vận dụng một cách sáng tạo vào cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đó là đòi hỏi của cuộc sống, là lương tâm, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:33:29 pm
II- HÃY CẢNH GIÁC VỚI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế nhưng, một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang lợi dụng quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế đế thực hiện "diễn biến hòa bình", chống phá Việt Nam với biện pháp mới rất tinh vi, xảo quyệt và thâm độc: gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta, đòi "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang nhân dân.


Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, dù chúng có "thay hình đổi dạng như thế nào" thì bản chất, mục tiêu cơ bản, âm mun lâu dài, xuyên suốt, không hề thay đổi của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, đưa Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, có lợi cho phương Tây.


Trước đây, để chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng những biện pháp "cứng rắn", từ việc đem quân trực tiếp xâm lược đến việc đổ tiền của giúp bè lũ tay sai chống phá cách mạng nước ta; bằng các phương pháp vũ trang là chủ yếu, chúng đều thất bại thì ngày nay, chúng chuyển sang dùng biện pháp phi vũ trang là chính với việc đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta nhằm chiến thắng Việt Nam mà không cần chiến tranh.


Với các biện pháp "mềm dẻo", "linh hoạt", chúng đẩy mạnh hợp tác vừa để lôi kéo các phần tử bất mãn và giới trẻ đứng về phía chúng, vừa răn đe quân sự, gây sức ép từ bên ngoài để tạo "bão từ bên trong", gây tác động, "chuyển hóa" chế độ chính trị ở Việt Nam thông qua "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nảy sinh mâu thuẫn, mất đoàn kết, xuất hiện các phe phái đối lập nhau; nội bộ "lục đục", từng bước "mục ruỗng từ bên trong". Đây là "ngón đòn ác hiểm" hòng gây mất ổn định chính trị, làm cho xã hội ta rối loạn, cuối cùng sẽ tự sụp đổ. Chiều sâu của mọi ẩn ý được che giấu kỹ lưỡng trước những lời tung hô mỹ miều, tốt đẹp của các thế lực thù địch là sử dụng chiến lược "diễn biến hòa bình" để giành chiến thắng mà không cần chiến tranh.


Những năm gần đây, phương Tây đã gác lại những bất đồng, ra sức cải thiện và tích cực thực hiện chính sách "ngoại giao thân thiện" đối với Việt Nam; lên tiếng ủng hộ Việt Nam nhiều hơn trên các diễn đàn quốc tế; cử nhiều đoàn chuyên gia đến thăm và làm việc với Việt Nam; đồng thời, mời nhiều đoàn cán bộ Việt Nam đến thăm và làm việc với các đối tác của nước họ để ký kết các dự án đầu tư, hợp đồng kinh tế, thương mại, tích cực giao lưu, quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ; ngoại giao, môi trường; quân sự, quốc phòng, an ninh...


Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, việc điều chỉnh một số chính sách ngoại giao đối với Việt Nam, phương Tây muốn tạo ra các điều kiện thuận lợi để qua đó xâm nhập sâu hơn, leo cao hơn, thúc đẩy nhanh hơn quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam theo hướng tư bản chủ nghĩa, có lợi cho họ. Hướng tới mục tiêu đã xác định, họ đã và đang dùng tài trợ, cố vấn, chuyên gia tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chúng ta cần ý thức rõ điều này, hết sức đề cao cảnh giác, phân biệt rõ ràng đâu là thật, đâu là giả để có đối sách hợp lý, cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo, khôn ngoan, không để đất nước bị động, bất ngờ.


Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam, theo họ, cần đẩy mạnh những "cái hích từ bên ngoài", gắn chặt với "lộ trình dân chủ" bên trong một cách toàn diện, thông qua các bước:

- Thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam, làm cho thành phần kinh tế nhà nước và tập thể mất vai trò chủ đạo; dần dần chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

- Thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển "xã hội dân sự", tạo điều kiện thuận lợi cho các "tổ chức chính trị đối lập" xuất hiện và hoạt động công khai, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thể kiểm soát được tình hình; không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- "Dân chủ hóa chính quyền các cấp", từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng và đảng viên ra khỏi quần chúng; gây áp lực đối với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, tiến tới lật đổ Đảng Cộng sản.

Các chiến lược gia phương Tây cho rằng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam theo quỹ đạo phương Tây là mắt xích quan trọng nhất trong chiến lược "diễn biến hòa binh", bạo loạn lật đổ ở Việt Nam. Họ xác định rằng, "lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan trọng; lực lượng "ngầm" bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước Việt Nam đóng vai trò quyết định, là hạt nhân nòng cốt cho sự "chuyển hóa", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Vì vậy, thực hiện "chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước thông qua con đường "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ phải hướng đến xây dựng "đội ngũ cán bộ mới", tức là những người đối lập với Đảng, Nhà nước, có tinh thần "đổi mới", luôn đề cao giá trị văn hóa, lối sống phương Tây. Để quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả; phương Tây đang tìm cách "đưa các nhân tố cốt cán thân cận phương Tây", vào trong nội bộ Đảng, Quốc hội, Chính phủ; từng bước hình thành các phe phái, khuynh hướng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nham hiểm hơn, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách thâm nhập vào các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Quốc hội Việt Nam để vừa tác động nhằm thay đổi chính sách, luật pháp, vừa xây dựng "ngọn cờ", "điểm tựa" để thực hiện mưu đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Quốc hội vì nơi đây có nhiều đại biểu của dân.


Với kinh nghiệm lật đổ, hỗ trợ hoặc tiếp tay cho các cuộc "cách mạng màu" tại một số nước trên thế giới, gần đây phương Tây đẩy mạnh các hoạt động "ngầm" chống phá Việt Nam bằng cách thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO) để tránh sự chú ý của các cơ quan chức năng Việt Nam.


Xâm nhập, tác động, lái thông tin, truyền thông Việt Nam theo ý đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" rất tinh vi, thâm độc. Các chiến lược gia của phương Tây cho rằng, để đẩy nhanh quá trình "dân chủ hóa" ở Việt Nam phải đồng thời đẩy mạnh quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước và các cộng đồng dân cư Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:35:36 pm
Theo đó, con đường thực hiện dân chủ hóa thông tin, truyền thông và xã hội Việt Nam là hiệu quả nhất, trước tiên là thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành thông tin, truyền thông. Bằng con đường này, các thế lực thù địch hy vọng sẽ gây nhiễu loạn dư luận xã hội, "pha loãng" nền tảng tư tưởng của Đảng và kích động tư tưởng tự do, dân chủ theo hình mẫu phương Tây.


Nhằm đạt mục tiêu này, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã chi một khoản tiền "kếch xù" để hỗ trợ công tác thông tin, truyền thông châu Á. Trong đó, chúng đã ưu tiên đầu tư cho đài Á châu tự do (RFA); giúp nhà đài nâng cấp hệ thống phát thanh truyền hình vệ tinh, nâng cao hiệu quả truyền bá "tự do, dân chủ, nhân quyền" đến các nước mà chúng cho rằng "thiếu dân chủ", "vi phạm nhân quyền", trong đó có Việt Nam.


Trong bối cảnh tình hình hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để đẩy mạnh việc cổ súy cho cái gọi là phát huy "dân chủ, nhân quyền" ở Việt Nam. Họ đã dùng nhiều "chiêu bài", biện pháp để tuyên truyền, thậm chí xuyên tạc tình hình, vu cáo Việt Nam "không có dân chủ", thiếu công khai, minh bạch; vi phạm nhân quyền, không tôn trọng tự do tôn giáo; rằng Đảng, Nhà nước ta đối xử không công bằng với đồng bào các dân tộc thiểu số; không quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,...


Với nhiều hình thức trá hình, họ đã và đang tìm cách đưa người của họ vào Việt Nam với các danh nghĩa rất khác nhau đế xúc tiên việc tìm hiểu tình hình, thu thập thông tín, móc nối, lôi kéo, hỗ trợ các lực lượng "ngầm" gây rối ở một số địa bàn thuộc các địa phương, phản ánh sai lệch sự thật, gây hoang mang, nghi ngờ, đố kỵ, mâu thuẫn trong nội bộ các dân tộc; tạo môi trường thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", chống phá Đảng, Nhà nước và bài xích, bôi nhọ chế độ ta.


Đẩy mạnh "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, ráo riết thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngành giáo dục Việt Nam là một "ngón đòn" thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Họ xác định giáo dục - đào tạo là một trong những mũi đột phá, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", lái nền giáo dục Việt Nam đi theo quỹ đạo của phương Tây. Họ công khai rằng, để thay đổi Việt Nam, họ cần dựa vào quy luật toàn cầu về kinh tế và chất xám của thế hệ trẻ Việt Nam được học tập, đào tạo ở phương Tây.


Thực hiện mục tiêu này, trong các chính sách ngoại giao của mình, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã chủ động đề ra nhiều biện pháp thắt chặt hơn nữa quan hệ với Việt Nam trên tinh thần "dân chủ, công khai, thân thiện". Họ luôn luôn khẳng định trách nhiệm cao cả của họ là "phải giúp đỡ Việt Nam" đào tạo thế hệ trẻ để họ sớm trở thành những "chủ nhân thật sự của đất nước", có trình độ học vấn cao, văn hóa hiện đại với các điều kiện cần thiết để đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu đẹp, văn minh theo hình mẫu của họ. Song mặt khác họ đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, phủ nhận kết quả nền giáo dục - đào tạo Việt Nam, cho rằng nền giáo dục - đào tạo nước ta đang ở tình trạng khủng hoảng, bế tắc; chất lượng đào tạo nhân lực rất đáng lo ngại, không thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; rằng nền đại học Việt Nam lạc hậu hơn các nước láng giềng, v.v... Từ đó, họ quy kết trách nhiệm quản lý yếu kém, chính sách giáo dục - đào tạo lạc hậu; tệ hại hơn, họ cho rằng nguyên nhân sâu xa là do Đảng, Nhà nước ta không đủ sức lãnh đạo nền giáo dục - đào tạo Việt Nam. Đó là cái cớ để họ kêu gọi phải thay đổi hiện trạng nền giáo dục Việt Nam bằng con đường mới sáng sủa "tây học". Rõ ràng là, họ đã và đang nhằm thẳng vào các bộ óc "trí tuệ nhất" của dân tộc Việt Nam với hy vọng tạo thế, tạo lực cho những người này tham gia vào các cơ quan hoạch định chiến lược, quản lý vĩ mô Nhà nước Việt Nam sau này. Điều đó sẽ giúp cho tiến trình chuyển hóa Việt Nam nhanh hơn, chắc chắn hơn, hiệu quả hơn và đây là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện ý đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam.


Lôi kéo, chuyển hóa, gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" quân đội nhân dân và công an nhân dân nhằm làm suy yếu, thực hiện "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang - một trong những âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch trong chống phá Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhận định rằng, ở nước ta, chừng nào Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững nghĩa là chừng ấy họ còn nắm chắc quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nếu làm cho hai lực lượng này thoái hóa, biến chất, mất sức chiến đấu, thì Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó cũng sẽ mất chỗ dựa và lúc đó chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ tan rã giống như Liên Xô và Đông Âu trước đây. Vì vậy, thực hiện "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang là một mũi nhọn trọng điểm công kích trong chiến lược đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch. Trong nhận thức và hành động của phương Tây, luôn luôn cho rằng, chỉ có tách rời Đảng Cộng sản ra khỏi lực lượng vũ trang, gạt bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân thì mới có thể chuyển hóa thành công chế độ chính trị ở Việt Nam theo quỹ đạo của họ.


Trong mọi phương sách, từ trước đên nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đều hướng đến một đích duy nhất: tìm mọi cách để gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân. Đó là điều lý giải tại sao, họ ra sức mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác quân sự, an ninh; tìm cách tiếp cận gần hơn, can dự sát hơn vào công việc chuyển hóa quân đội, công an, lôi kéo Việt Nam vào cơ chế an ninh khu vực, mở rộng cuộc chiến chống khủng bố, khuếch trương sức mạnh quân dự, khả năng răn đe của họ, làm cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta "choáng ngợp", lo sợ vũ khí tối tân, hiện đại của phương Tây; từ đó gây sự hoang mang, dao động, giảm sút sức mạnh bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thực hiện "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực kinh tế đã và đang được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định là giải pháp căn cơ, chính yếu để thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam. Họ cho rằng, cái gì tuột khỏi tay Đảng Cộng sản, họ đều khuyến khích thực hiện và cố tình đạt đến. Vì vậy, xâm nhập, chiếm lĩnh các ngành kinh tế trọng yếu của Việt Nam là một trong những cái đích cần đạt tới để chuyển hóa chế độ chính trị, xã hội Việt Nam theo ý đồ của họ. Về điểm này, bằng nhiều biện pháp, họ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa, lái nền kinh tế Việt Nam chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là điều cốt lõi, bản chất nhất, phương thức hữu hiệu nhất để họ thực hiện mưu đồ làm thay đổi thể chế chính trị - xã hội Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:38:01 pm
Lợi dụng những yếu kém của Việt Nam khi tham gia WTO, họ cho rằng WTO là phép màu nhiệm có thể làm biến dạng, chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy sự thay đổi cơ chế, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế ở Việt Nam nhanh hơn. Để thực hiện điều đó, họ tìm mọi cách "nhấn chìm" thành phần kinh tế nhà nước, khoét sâu vào những yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích cổ phần hóa triệt để hoặc giải thể các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, tiến tới tư nhân hóa nền kinh tế Việt Nam.


Về thực chất, họ mong muốn thành phần kinh tế nhà nước lụi tàn, phá hỏng cơ sở, chỗ dựa của chế độ xã hội chủ nghĩa; làm suy yếu và tiến tới gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý, điều hành của nhà nước xã hội chủ nghĩa về lĩnh vực này, hướng Việt Nam đi theo nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, phụ thuộc phương Tây.


Tăng tốc, mở rộng quy mô, đổi mới hình thức chống phá Đảng, Nhà nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã và đang tiến hành nhiều thủ đoạn, biện pháp mới, rất tinh vi, thâm độc. Về chính trị tư tưởng, họ tiếp tục xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái mới của thủ đoạn này là tấn công nhằm đánh đô thần tượng Hồ Chí Minh, các lãnh tụ của Đảng. Nhằm đạt mục đích, họ không từ một thủ đoạn nào, thậm chí tạo dựng chứng cớ giả để xuyên tạc "bôi đen" đời tư, tâm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của một số lãnh tụ của Đảng nhằm tạo sự nghi ngờ, băn khoăn, gây dư luận xấu trong xã hội Việt Nam. Gần đây nhất, với mưu đồ gây rối, phá hoại đại hội đảng bộ các cấp, gây bất lợi cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, nhất là vấn đề nhân sự của đại hội; các thế lực thù địch đã tung lên mạng xã hội chuyên mục "chân dung quyền lực" để bôi nhọ đời tư, hạ thấp uy tín của một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta; gây sự nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tổ chức các ngày lễ lớn của quốc gia, dân tộc; lấy ý kiến nhân dân về văn kiện đại hội đảng bộ các cấp, các thế lực thù địch đưa ra các yêu sách đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" để "gây bầu không khí dân chủ" ở Việt Nam mà thực chất là thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá Việt Nam theo phương thức "rượu cũ bình mới".


Âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là rất nguy hiểm; trong đó, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước là những ngón đòn "độc chiêu" đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, rất cần phải đề cao cảnh giác, hết sức đề phòng.


Vì vậy, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình hiện nay nhất thiết phải giúp cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhìn rõ bộ mặt thật của kẻ thù đang "giâu mặt", hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, tác hại của "diễn biến hòa bình" để họ không mắc mưu "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay. Ý thức rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm thiêng liêng trong bảo vệ Tổ quốc thì cán bộ, đảng viên mới thực sự gương mẫu thực hành, làm tròn bổn phận của mình. Đó là phương cách tốt nhất để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho mọi người dân hiện nay.


"Diễn biến hòa bình" là một "căn bệnh" nguy hiểm, có thể đánh hỏng chế độ, phá tan thành quả cách mạng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch có thực hiện được ý đồ đen tối của chúng hay không, có thực hiện được "diễn biến hòa bình" hay không, điều đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta. Tình hình mới đang vận động, biến đổi khôn lường, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; chủ động, tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến, bổ sung, hoàn thiện các văn kiện đại hội đảng bộ các cấp; đặc biệt là văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đồng thời, đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, chiến sĩ và mọi người dân Việt Nam, trước hết là triển khai thực hiện có hiệu quả tìiến pháp năm 2013; thực hiện tốt pháp luật nhà nước, kỷ luật "thép" trong lực lượng vũ trang. Trong đó, tiếp tục triển khai thực hiện thống nhất, đồng bộ Luật quốc phòng và an ninh có ý nghĩa rất quan trọng. Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải gắn chặt với phòng, chống "diễn biến hòa bình". Đó là phương cách hiệu quả nhất để đất nước ta đổi mới, ổn định và phát triển.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:39:03 pm
III- TÁC HẠI CỦA "BỆNH" SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

Là kết quả của quá trình tư duy được thể hiện thành quan điểm, lập trường, chính kiến của chủ thể, tư tưởng luôn là một "đặc quyền" của con người, do một loại vật chất có tổ chức cao nhất, hoàn thiện nhất là bộ óc người sinh ra, có chức năng phản ánh hiện thực khách quan bằng sự suy nghĩ, hoạt động trí tuệ, thể hiện dưới những hình thức: suy nghĩ trong đầu óc người về đối tượng cần biết và toàn bộ những sản phẩm của trí tuệ do con người tạo ra, hợp thành phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, v.v... biểu đạt bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật; được con người đúc kết, khái quát từ thực tiễn, hình thành tư tưởng, hệ tư tưởng, ý thức hệ. Vì vậy, nói đến tư tưởng, là nói đến tư tưởng của con người và chỉ có con người mới có tư tưởng; tức là nói đến sự suy nghĩ, quan điểm của họ về thế giới và những sản phẩm tinh thần do hoạt động trí tuệ của "bộ óc" người tạo nên. Tư tưởng là "tấm gương phản chiếu hiện thực khách quan", được dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện tượng bên ngoài, bao gồm các mục đích, ý định và triển vọng, giúp con người tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, có những giải pháp tối ưu để cải tạo thực tiễn vì lợi ích của mình.


Suy thoái tư tưởng chính trị, về thực chất, là sự phản ánh sai lệch hiện thực khách quan từ việc phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, do tuyệt đối hóa cái chủ quan, làm cho nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ớ nước ta, những cái tốt, ưu việt của chế độ ta bị méo mó, thực hư, thật giả, trắng đen lẫn lộn. Đó là cái gốc đẻ ra các chứng bệnh: phát ngôn thiếu trách nhiệm, thực hiện pháp luật, kỷ luật không nghiêm; quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền; áp đặt quan điểm chủ quan, duy ý chí, phiến diện, siêu hình trong quan hệ đạo đức, lối sống, nên các hành vi, biểu hiện của nó hết sức phức tạp.


Sống, sinh hoạt trong một tổ chức tốt, một người có tư tưởng chính trị lành mạnh, đúng đắn thì họ luôn kiên định, vũng vàng trước mọi khó khăn, thử thách, không bao giờ nao núng tinh thần, làm những điều sai trải. Mọi cám dỗ, mua chuộc không thể chuyển lay, không vì lợi ích cá nhân mà hy sinh lợi ích tập thể và do đó, luôn thanh thản, có cuộc sống trong sạch, lành mạnh, nêu tấm gương sáng để mọi người học tập, noi theo.


Rõ ràng là, tư tưởng chỉ đạo hành động. Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tư tưởng sai thì hành động sai. Khẳng định vai trò to lớn của tư tưởng, công tác tư tưởng trong quân đội, cán bộ, chiến sĩ ta thường nói "tư tưởng không thông, mang bình tông cũng nặng" và nhân dân ta cũng thường hay nói "thỏa lương tâm lạng vàng không tiếc". Điều đó cho thấy, tư tưởng và công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội và trong quân đội, không thể xem thường và khi nó đã bị thoái hóa, biến chất thì tác hại của nó thật ghê gớm, để lại hậu họa khôn lường, rất khó khắc phục.


Muốn không bị suy thoái tư tưởng chính trị dẫn đến các loại suy thoái khác thì chính trị của ta phải mạnh lên, đạo đức, lối sống của chúng ta phải thật sự trong sạch lành mạnh, cán bộ, đảng viên phải nêu tấm gương sáng: "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Một vấn đề có tính nguyên tắc (bất di bất dịch) là phải quan tâm chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng; ra sức xây dụng môi trường văn hóa chính trị lành mạnh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tướng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chiếm vị trí thống trị trong đời sống văn hóa - tính thần xã hội ta. Đồng thời, phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên; kiên quyết xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, kịp thời đưa những cán bộ, đảng viên không đủ tư cách ra khỏi tổ chức Đảng; làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; kiên quyết không đê các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, thổi phồng, bóp méo sự thật, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước ta.


Rõ ràng là, suy thoái tư tưởng chính trị là một căn bệnh có nguồn gốc từ sự coi thường vai trò của công tác chính trị, môi trường chính trị, nhất là giáo dục tư tưởng chính trị. Phải khẳng định rằng, ở đâu, nơi nào, môi trường chính trị không tốt, trước hết là cấp ủy đảng, người chỉ huy ở đó đã để tuột hoặc buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, chất lượng sinh hoạt tổ đảng, sinh hoạt chi bộ và sinh hoạt của các tổ chức quần chúng thấp; đấu tranh tự phê bình và phê bình bị coi nhẹ hoặc bị thủ tiêu, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch; người đứng đầu thiếu tinh thần trách nhiệm, v.v... thì ở nơi đó, có nhiều người vi phạm kỷ luật, thậm chí lâm vào tình trạng thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự thoái hóa tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống giống như một căn bệnh lây nhiễm nêu không sớm phát hiện và chữa trị kịp thời. Cho nên, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới cắt bỏ căn bệnh này phải đồng thời khắc phục cả suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống; đồng thời, đẩy mạnh công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận, phê phán các quan điểm sai trái, phản động; khôi phục niềm tin trong nhân dân. Vấn đề quan trọng hàng đầu là đề cao công tác phòng ngừa; có niềm tin trong đấu tranh chống tiêu cực, chống quan điểm sai trái; không nên để "bệnh tật" xảy ra rồi mới tìm thầy thuốc bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, tìm cách cứu chữa.


Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã chỉ ra tác hại của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; những biểu hiện của nó và các giải pháp khắc phục. Đây là dịp tốt để chúng ta nhận diện ngày càng rõ hơn những người mắc "căn bệnh" này, có liệu pháp "hạ nhiệt" cho những người thường hay ác cảm và nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng; hay ca ngợi và muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, thích sống theo kiểu văn hóa phương Tây, đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền; coi thường tình nghĩa, đạo lý; phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc...


Tình hình đang đặt ra nhiều việc phải làm, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt vào thời điểm trước, trong và sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, từng tổ chức Đảng cần có những giải pháp giúp đỡ những cán bộ, đảng viên sửa chữa sai lầm, khuyết điểm do "bị thương" bởi "viên đạn bọc đường", bị mua chuộc bởi bọn làm ăn phi pháp. Công việc này có giá trị rất tốt là khi các đồng chí ấy nhận ra lỗi lầm, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, quay về đội ngũ và chính các đồng chí ây sẽ là nhân cốt tích cực trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong tổ chức Đảng và trong xã hội ta hiện nay.    Mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống là môi quan hệ giữa "kẻ tung người hứng", cùng nhau đi đến một chỗ sai là phá bỏ chế độ, nền nếp, trật tự, kỷ cương; rũ bỏ luân thường đạo lý, vi phạm kỷ luật, làm sai luật pháp; gây tiêu cực cho xã hội, cản trở tiến bộ lịch sử. Cho nên, cần hiểu rằng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh ghép gồm ba chứng bệnh: suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, suy thoái về lối sống; cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên một cơ thể người bị "lệch chuẩn"; rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên nhân của từng loại bệnh. Ai đó chỉ cần mắc một chứng bệnh là có thể bị lây nhiễm, mắc các chứng bệnh khác. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai suy thoái tư tưởng chính trị cũng dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống. Song, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu vẫn là suy thoái về tư tưởng chính trị nếu xét một cách toàn cục.


Nói cách khác, sự suy thoái vể tư tưởng chính trị thường được che giấu, ngụy trang kín đáo, tinh vi, rất khó nhìn thấy, nhất là đối với những người từng trải, có nhiều kinh nghiệm thực tế; song sự "hư đốn" lại thấy dễ dàng hơn bởi sự buông thả ở những người này như: tham nhũng, vun vén lợi ích cá nhân, v.v...


Vì vậy, phải kiên quyết hơn nữa trong triển khai thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng; kiên quyết đấu tranh, xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không để những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong tổ chức Đảng.


Đồng thời, đẩy mạnh hơn nữa việc tiếp tục học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xây dựng hệ thống pháp luật, các chế độ, quy định thật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ để ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; chọn đúng người có đức, có tài bố trí vào các vị trí quan trọng, nhất là các vị trí chủ trì cơ quan, đơn vị. Đổi mới cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ để cán bộ, đảng viên có đủ điều kiện "bảo liêm", làm tốt việc nêu gương cho quần chúng học tập, noi theo. Chân lý là khách quan và luôn luôn cụ thể. Người dân lao động chỉ thật sự tin tưởng, đặt niềm tin, hy vọng vào ai, tổ chức nào nếu tổ chức đó, người nào đó sống, chiến đấu, lao động hết lòng vì họ; thật sự chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của họ. Thực tế đã khẳng định rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ kính yêu và những cán bộ, đảng viên chân chính của Đảng mới làm tốt điều đó và xứng đáng được nhân dân ngưỡng mộ, tin yêu. Giải quyết tốt sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nhằm gột rửa cho sạch thói hư, tật xấu để uy danh của Đảng ta sống mãi trong lòng nhân dân, dân tộc; là cách tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:30:46 pm
IV- PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG VỚI VIỆC NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG NỘI BỘ TA

Trong tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra con đường đấu tranh cho cách mạng Việt Nam. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Người là tư cách một người cách mạng. Trong tác phẩm này, tiêu chuẩn đầu tiên của người cách mạng, theo Người, là cần, kiệm, vị công, vong tư (điều thứ 8 ) và ít lòng tham muốn về vật chất (điều thứ 13). Nhấn mạnh điều đó vì Người đã nhìn thấy trước tác hại của tệ nạn tham nhũng, lãng phí và sự cần thiết phải nêu gương trước quần chúng về mặt đạo đức, nhân cách của người cách mạng. Đây là phương cách tốt nhất để họ không bị vương vấn bởi lòng ham muốn vật chất, không bị "mắc bẫy" bởi lòng tham, sự ham muốn thôi thúc. Đồng thời, trong tác phẩm này, Người đã đề ra biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, nhất là đối với những cán bộ có chức, có quyền; coi tham nhũng, lãng phí là thứ "giặc nội xâm" phải dẹp bỏ nó và đó là công việc cần kíp như chống giặc ngoại xâm.


Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người cho rằng, Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cán bộ cách mạng tham gia chính quyền nhà nước là làm phận sự "công bộc của dân", tức là những người được dân tin yêu cử ra gánh vác những công việc chung, từ việc nước, việc làng đến việc lo "miếng cơm, manh áo" cho nhân dân, kể cả việc học hành của con trẻ. Người luôn luôn căn dặn: Cán bộ cách mạng phải hết lòng vì cách mạng, nhân dân tín nhiệm thì đứng ra lo giúp công việc của nhân dân chứ không phải là để "đè đầu, cưỡi cổ" nhân dân, cai trị nhân dân. Tuy nhiên, trong bộ máy chính quyền nhà nước thời kỳ sau cách mạng, ở một số địa phương, bộ, ngành đã xuất hiện không ít vụ việc: cán bộ sách nhiễu nhân dân, thậm chí đã xuất hiện tệ nạn tham nhũng, quan liêu, hách dịch ở một số làng, xã, huyện, tỉnh; gây bất bình trong nhân dân.


Vì vậy, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những khuyết điểm mà một số cán bộ mắc phải, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Người cho rằng, đó là điều đáng tiếc đối với những cán bộ cách mạng đã từng "vào sinh ra tử", sẵn sàng hy sinh vì nước, vì dân; song nay, trong độc lập, hòa bình lại muốn "ăn trên, ngồi trốc", chỉ lo chuyện ăn ngon, mặc đẹp, sống xa xỉ... trong lúc nhân dân còn đói khổ, đất nước còn nghèo. Vậy thì, tiền bạc dùng để mua sắm, tiêu pha, ăn chơi xa xỉ, những cán bộ ấy lấy đâu ra nếu như không biến của công thành của tư thì cũng bóp nặn dân chúng bằng cách này, cách khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là điều đáng buồn, đáng chê trách. Vì vậy, Người yêu cầu tổ chức đảng phải thải loại "những sâu mọt ấy" ra khỏi đội ngũ những người cách mạng; kiên quyết không để "con sâu làm rầu nồi canh", làm tổn hại thanh danh của Đảng.


Người đã viết "tiền là mạch máu cho mọi công việc, tiền là cần thật nhưng không phải vì cần tiền mà cứ đi đè đầu bóp cổ hay dùng những thủ đoạn không chính đáng để vơ vét lấy tiền"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.62) của nhân dân. Người nhấn mạnh: Đối với một nước còn nghèo, nhân dân còn đói khổ thì việc một số cán bộ tham nhũng, sống xa xỉ là một việc làm phi nhân tính, là có tội với các anh hùng, liệt sĩ, là phản bội nhân dân. Họ không những không nêu tâm gương sáng về việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để cho dân chúng noi theo, làm theo mà ngược lại, còn làm tổn hại uy tín, thanh danh của người cách mạng. Vì vậy, Người dạy rằng, trong lúc cách mạng gặp khó khăn thì tư cách đạo đức của người cách mạng chân chính phải được đặc biệt đề cao; trong gian khó, đạo đức người cách mạng phải sáng trong như gương. Khi viết tác phẩm sửa đổi lối làm việc, năm 1947, Người nêu 12 điều về tư cách của đảng chân chính cách mạng; trong đó nêu rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải gìn giữ thanh danh người cách mạng, tuyệt đối đề cao đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; tận trung với nước, tận hiếu với dân.


Người khẳng định: "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292). Người phê phán bệnh tham lam, tắt mắt, hay lấy của công làm của riêng ở một số cán bộ, những người mà làm việc gì cũng chỉ lo thu vén cho riêng mình, hạ thấp, coi thường lợi ích của tập thể, của Đảng, của dân tộc. Theo Người, tính "tự tư, tự lợi" là mầm mống đẻ ra bệnh tham ô, tham nhũng, quan liêu. Những người dựa vào thế lực của Đảng, cậy chức, dùng quyền lực mà mình đang nắm giữ đế thu vén cho lợi ích của riêng mình thì nhất thiết phải dùng đến biện pháp kỷ luật, thậm chí phải loại bỏ họ ra khỏi hàng ngũ của Đảng.


Nhiều lần, Người nhắc nhở cán bộ ta, khi xã hội còn lạc hậu, tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến còn ảnh hưởng nặng thì bệnh hám danh, hám lợi phải hết sức đề phòng, nhất là những người có chức, có quyền; những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, có điều kiện nắm giữ vật chất, tài chính, tài sản công; đừng vì công việc có chút ích lợi là sinh lòng tham, tự cho phép mình đứng trong cuộc, gọi là chỉ đạo nhưng thực chất là để trục lợi, kiếm lời. Người chỉ rõ: Nhân dân có trăm tai ngàn mắt, cán bộ làm gì, họ đều biết rõ. Vì vậy, cán bộ cách mạng hãy hết sức cảnh giác về điều ấy; thấy lợi cho cá nhân mình thì phải tránh xa. Có như vậy, nhân dân mới nể phục, tin yêu. Nếu cán bộ không dứt ra khỏi vòng danh lợi thì chắc chắn dễ mắc phải căn bệnh tham ô, tham nhũng và như vậy, cán bộ ây sẽ trở thành nô lệ của đồng tiền, của thứ vật chất thấp hèn; không nói được ai, đã tự làm hư hỏng mình, thậm chí làm hư hỏng con cái, gia đình và làm hỏng cả tổ chức.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:32:45 pm
Cùng với việc đề ra chính sách cải tạo xã hội, Đảng cũng cần đề ra chính sách cải tạo cán bộ, nhất là cán bộ có dâu hiệu vi phạm kỷ luật, mắc khuyết điểm; đề cao tinh thần trách nhiệm, có biện pháp phòng tránh từ xa, không để cán bộ mắc bệnh tham ô, lãng phí rồi sau mới kiểm điểm bởi không chỉ mất thời gian, công sức của tổ chức mà còn gây nên sự đố kỵ, nghi ngờ, mất đoàn kết trong cơ quan, đơn vị; mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Đồng thời, Người căn dặn: Đảng phải có chính sách khuyến khích, bảo vệ mọi người phát hiện những cán bộ có dâu hiệu tham ô, lãng phí, quan liêu để có biện pháp xử lý thích đáng cũng như có chính sách khen thưởng kịp thời, thỏa đáng đối với những người có công phát hiện, giới thiệu người tài, đức trong dân chúng để Đảng bồi dưỡng, đưa họ vào tổ chức để chăm lo công việc của Nhà nước, của nhân dân. Người nhấn mạnh: cán bộ cách mạng phải là những người biết thương yêu nhân dân, quý trọng sức lao động của nhân dân, thực sự vì nhân dân thì mới tránh được bệnh tự tư, tự lợi, lấy của công làm của riêng. Muốn vậy, Người yêu cầu các cấp, các ngành, cán bộ từ trung ương đến cơ sở phải đề cao tự phê bình và phê bình. Theo Người, ở đâu và nơi nào làm tốt việc tự phê bình và phê bình thì ở đó có nhiều tấm gương tiêu biểu về lãnh đạo, quản lý và lao động giỏi; ở đó hạn chế được những hiện tượng tiêu cực: tham ô.


Ngược lại, ở đâu, tổ chức nào coi thường, buông lỏng công tác lãnh đạo, quản lý, xa rời nguyên tắc tự phê bình và phê bình thì ở đó tham ô, lãng phí, tiêu cực sẽ đua nhau "sinh sôi, nảy nở", gây hại cho nhân dân. Người cho rằng, tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến thanh danh của Đảng, làm hỏng cán bộ. Vì vậy, Đảng ta cần phải đẩy mạnh chống tham ô, lãng phí.


Theo Người, bệnh tham ô, quan liêu và lãng phí luôn gắn chặt với nhau. Người mắc bệnh quan liêu thì đồng thời dễ mắc bệnh tham ô, lãng phí. Để cán bộ không mắc khuyết điểm, sai lầm, không bị "lây nhiễm" bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu thì Đảng cần phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, thiết thực, cụ thể. Trong đó, đề cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, để họ có đủ sức tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là vấn đề cấp bách, không thể làm nửa vời, hoặc lừng chừng. Các tổ chức đảng ở các cấp, các ngành cần phải quan tâm đặc biệt công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Phải coi đó là cuộc chiến đấu sinh tử để bảo vệ Đảng, Nhà nước; là việc làm thiết thực để chống giặc nội xâm.


Trong nhiều việc phải làm thì việc nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện cho được cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân là giải pháp cần được ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, chủ nghĩa cá nhân là một tệ nạn xã hội, nó làm hư hỏng cán bộ, phá hoại tổ chức một cách ngấm ngầm, âm ỉ như loại sâu mọt đục khoét thân cây từ bên trong, rất khó nhìn thấy, không thể diệt trừ tận gốc. Người mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân thì làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, chỉ lo thu vén cho mình, không lo "mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình". Hơn thế nữa, bệnh cá nhân chủ nghĩa làm cho cán bộ ngại khổ, ngại khó, thấy lợi là hám, thấy tiền là thích, thấy gái là mê và nó dẫn đến bệnh tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Sự phát tác của căn bệnh tham ô đẻ ra tính tự cao tự đại, coi mình là tài giỏi, đứng trên tập thể, xem thường quần chúng và tất yếu nảy sinh tính độc đoán, chuyên quyền, gia ơn, ban phát. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự mất dân chủ, thiếu công khai, minh bạch, mất tính đoàn kết, xa rời kỷ luật, ra sức chạy chức, chạy ghế, chạy quyền; kém tinh thần trách nhiệm, dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm hư hỏng tổ chức, phá hỏng chế độ.


Rõ ràng, người mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa thì đương nhiên, bản thân bị hư hỏng, nhân cách, đạo đức, phẩm giá người đảng viên không vẹn toàn; gia đình, con cái, người thân theo đó cũng hư hỏng và tổ chức cũng bị liên lụy, ảnh hưởng xấu. Vì vậy, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, tổ chức Đảng, chính quyền phải nhận diện cho rõ những dấu hiệu cán bộ bị mắc những chứng bệnh ấy để kịp thời "cứu chữa", kịp thời ngăn chặn, không để bệnh lây nhiễm, ảnh hưởng đến người khác. Phê phán, tích cực chống chủ nghĩa cá nhân là cần thiết, song cũng cần phân biệt rõ chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân chính đáng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng, đề cao lợi ích cá nhân, khẳng định lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích tập thể, là bộ phận của lợi ích tập thể. Vì lẽ đó, chăm lo, bảo vệ lợi ích tập thể thì lợi ích riêng, lợi ích cá nhân sẽ có điều kiện phát triển, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.


Tham nhũng ở nước ta hiện nay rất phức tạp, biểu hiện của nó muốn hình muốn vẻ với nhiều sắc thái, loại hình khác nhau; mức độ, phạm vi và hậu quả khôn lường. Biểu hiện của tham nhũng tập trung chủ yếu ở một bộ phận quan chức, công chức sa sút phẩm chất, nhân cách người cách mạng trong bộ máy công quyền của Đảng, Nhà nước thậm chí tham nhũng có cả trong lĩnh vực tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mức độ tham nhũng cũng rất khác nhau, có tham nhũng nhỏ, lặt vặt như sự sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân hoặc cố tình dây dưa, buộc người dân muốn nhanh, được việc thì phải bỏ tiền để bôi trơn, "nhờ giúp đỡ". Vì vậy, đáng chú ý là các vụ việc tham nhũng lớn, mức độ hệ trọng cao, thường xảy ra ở việc cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ, thuyên chuyển công tác, xin cho, quản lý, sử dụng ngân sách. Đây là những loại hình rất khó kiểm soát, phát hiện. Tình trạng này thường diễn ra "kín đáo" với sự "thông đồng", ngầm hiểu "tiền nào của ấy", "được việc người được việc ta", hai bên cùng có lợi, chỉ thiệt hại cho tập thể, Nhà nước. Điều này dễ xảy ra đối với các vị trí có khả năng sinh lợi cao, liên quan trực tiếp đến các vấn đề kinh tế, thương mại, tài chính. Có thể coi đây là luật bất thành văn, thường được coi là một quy định ngầm, phổ biến diễn ra qua khâu trung gian, có người môi giới, "bắn tin", "làm cò mồi", kiểu "rung chà cá nhảy" hoặc trực tiếp giao dịch, thỏa thuận theo phương thức "được người, được việc, được quan hệ", nghĩa là các bên cùng có lợi. Người chạy chức, chạy ghế thường hào phóng, làm trước khâu "ứng trước" để sau khi có chức vụ thì thu hồi sau. Hiện tượng này khá phổ biến, mang tính toàn cầu, có ở mọi quốc gia, dân tộc. Một trong những biểu hiện của tham nhũng lớn là tham nhũng nhóm, lợi ích nhóm với những hành vi trục lợi cực lớn thông qua làm ăn theo kiểu "đánh quả", "một vốn bốn mươi lời". Đây là hình thức tham nhũng có tổ chức, có người đứng ra làm "đầu nậu", chủ mưu, thao túng các tổ chức, một số người có quyền cao, chức trọng và nó thường diễn ra ở các hoạt động dự án, đầu tư, đất đai, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, xây dựng đô thị, xây dựng nông thôn mới, v.v... Đây là điều giải thích tại sao nhiều vụ khiếu kiện tập thể kéo dài, vượt cấp, rất khó điều tra, chưa thể giải quyết dứt điểm, gây khó khăn cho tổ chức, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:34:03 pm
Rõ ràng, tham nhũng đang là một căn bệnh nan y, nhức nhối trong xã hội ta, gây bất bình trong nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; làm hoen ố những hình ảnh, biểu tượng tốt đẹp mà nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bằng mồ hôi, công sức sáng tạo nên. Tham nhũng đã và đang tạo ra những vòng xoáy của tiền bạc, quyền lực, lôi cuốn không ít người lao vào việc chạy chức, chạy quyền, mua danh, đổi chác, phạm tội và làm tăng tiêu cực, tệ nạn xã hội.


Đó là những việc làm bất lương, bất chính, bất nghĩa, thậm chí gây tội ác, mất tính người. Nếu không kịp thời chặn đứng, đẩy lùi, tẩy rửa sạch nó thì xã hội ta rồi sẽ ra sao? Các thế hệ con cháu sẽ nhìn các thế hệ cha chú như thế nào? Nếu không muốn nói là họ nghi ngờ, mất niềm tin và héo mòn hy vọng tốt đẹp về một xã hội tương lai, để tự tin phấn đấu, tiến lên phía trước với mục đích, động cơ lành mạnh, trong sáng, quyết tằm thực hiện ước mơ, hoài bão: mang tài năng, trí tuệ, công sức xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, văn minh, thịnh vượng, hạnh phúc.


Có thể khẳng định rằng, dưới các vỏ bọc khác nhau, các phương cách che đậy tinh vi rất khác nhau, song xét về bản chat, tham nhũng là những hành vi ăn cướp, tước đoạt tiền của, tài sản của Nhà nước và của nhân dân, lấy của chung biến thành của riêng, làm giàu và mưu lợi bất chính nhờ lợi dụng chức quyền, quan hệ "cánh hẩu" kiểu đôi bên cùng có lợi. Điều đó đã và đang biến dạng thành "văn hóa phong bì", "thúc đẩy tiến độ" hay nói theo kiểu thông thường "làm luật rừng", "bôi trơn", v.v...


Với quyết tâm cao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân cả nước, công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua đã có những bước tiến bộ rất đáng khích lệ. Đặc biệt là việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện thế chế, thành lập, củng cố các tổ chức, sự ra mắt Ban Chi đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, cũng như việc thành lập các ban nội chính cấp tỉnh, thành phố, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tham nhũng. Mặt khác, những tác động tích cực của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã làm một số người chùn chân, không dám lún sâu vào vòng tham nhũng; đồng thời, chúng ta đã khởi tố và xét xử một số vụ án tham nhũng lớn đã có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hiện tượng tham nhũng mới phát sinh.


Tuy nhiên, tình hình tham nhũng không vì thế mà chấm dứt ngay, thậm chí nó bị biến dạng, thay hình, đổi dạng, lột xác với nhiều chiêu bài tinh vi, khôn khéo hơn. Đáng chú ý là một số cấp ủy đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị vẫn chưa tích cực vào cuộc, chưa có những quyết sách đủ mạnh để phòng, chống tham nhũng. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật tuy có chuyển biến tiến bộ, song chưa đạt kết quả như mong muốn. Việc ban hành một số văn bản dưới luật về phòng, chống tham nhũng còn chậm, chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn, tiến tới chấm dứt tệ nạn này. Công tác kiểm tra, giám sát các khâu, các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm chưa được thường xuyên, liên tục. Tiến độ xử lý một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, mà dư luận xã hội quan tâm còn chậm trễ. Công tác giám định tư pháp phục vụ xử lý án tham nhũng, án kinh tế có dấu hiệu tham nhũng còn nhiều bất cập.


Tại sao đấu tranh chống tham nhũng lại khó khăn như vậy? Ở đây có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trong khi chúng ta đang ra sức phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì ngoài mặt tích cực là chủ yếu, chúng ta đồng thời phải đối mặt với tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường mà bản thân nó chưa phải là một nền kinh tế thị trường tiên tiến, hiện đại, văn minh. Vì vậy, các chuẩn mực, giá trị của văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân chưa được hình thành rõ nét.


Với một nền kinh tế thị trường còn sơ khai thì tính hoang dã của nó còn rất mạnh, chứa đầy những tiêu cực, tệ nạn vì lợi ích cá nhân, sự sùng bái đồng tiền cũng như tính vụ lợi, ích kỷ, thích làm giàu và làm giàu bằng mọi giá trỗi dậy, không thể kiểm soát. Thêm vào đó, luật pháp của nước ta chưa đồng bộ, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập cũng là rào cản lớn đế xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, những hạn chế, yếu kém trong quản lý nền kinh tế cũng là một nguyên nhân dẫn đến các "khe hở", có đất cho tham nhũng tồn tại. Mặt khác, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta còn thâp, môi trường dân chủ, công khai, minh bạch còn hạn chế; văn hóa và sự chênh lệch về nhận thức giữa các vùng, miền rất khó khắc phục ngay một sớm một chiều. Đó là mảnh đất "màu mỡ" dung dưỡng cho bệnh tham nhũng sinh sôi, nảy nở.

Vì vậy, cần tăng tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức; đổi mới cơ chế dùng người, đặt người vào công việc, khuyến khích tài năng phát triển; hạn chế sự hám danh, hám lợi, tham chức, tham quyền, trục lợi; sự thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Khắc phục tình trạng hệ thống thể chế pháp luật và tổ chức thực hiện, thi hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp; đồng thời, từng bước cải tiến, đổi mới chính sách tiền lương đang rất lạc hậu như hiện nay, để người lao động có thể sống được bằng tiền lương, thu nhập chính đáng, không cần và không muốn, không dám tham nhũng.


Một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng là ngăn chặn, đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, đề cao tự phê bình và phê bình. Muốn vậy phải duy trì thường xuyên chế độ sinh hoạt Đảng và thực hiện việc nghiêm túc công tác tự phê bình  và phê bình, đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.


Bởi lẽ, cán bộ tốt hay xấu chủ yếu là do công tác giáo dục trong Đảng tạo nên. Giáo dục trong Đảng bao hàm cả giáo dục kiến thức, tri thức, giáo dục đạo đức, nhân cách người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập để làm người, làm cán bộ, để phụng sự giai cấp, phục vụ nhân dân, cống hiến cho Tổ quốc và nhân loại. Người cho rằng, "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.140). Con người xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải có các phẩm chất đạo đức "Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.140); đồng thời phải biết đấu tranh, kiên quyết diệt trừ, loại bỏ thói hư, tật xấu của xã hội cũ còn sót lại. Công việc đó thuộc trách nhiệm của mỗi gia đình, nhà trường, xã hội và cả cộng đồng. Người luôn đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc đẩy lùi tiêu cực, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí; đồng thời, căn dặn mọi người tự mình tu dưỡng, thành khẩn sửa chữa khuyết điểm khi mắc phải sai lầm.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:36:24 pm
Trong cuộc vận động ba xây, ba chống, Người nêu rõ: Cán bộ phải gương mẫu, xung phong, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình, có khuyết điểm thì quyết tâm sửa chữa; đặc biệt Người lưu ý những cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị; được Nhà nước, tập thể giao cho quản lý kinh phí, tài sản công, nếu không tự tu tâm, dưỡng tính thì không thể vượt qua chính mình, chiến thắng lòng tham để thỏa mãn như cầu của cá nhân và gia đình. Cho nên, cán bộ phải biết tu dưỡng theo chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có như vậy mới hạn chế được lòng tham muốn về vật chất, mới chế ngự được mình khi sử dụng quyền lực. Đồng thời, người cán bộ phải gần gũi, sâu sát quần chúng, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng, kể cả những ý kiến đóng góp về khuyết điểm, sai lầm của mình, để từ đó, nghiêm khắc tự kiểm điểm, nhận thức rõ cái đúng, cái sai; kiên quyết không để bọn cơ hội lợi dụng nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.


Mặt khác, trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đối với mình phải nghiêm khắc, trung thực, thật thà; đối với người mắc khuyết điểm phải có thái độ dứt khoát, rõ ràng, vừa chỉ ra khuyết điểm, sai lầm của họ, vừa chỉ ra con đường, biện pháp để họ sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, giúp họ tiến bộ. Điều đó có nghĩa là, phê phán, đấu tranh với khuyết điểm phải thẳng thắn, phải trung thực, phải có lý, có tình; biết động viên, cổ vũ, nêu gương người tốt việc tốt; đồng thời, "lấy cái đẹp dẹp cái xấu", làm cho cái tốt, cái thiện, cái tích cực có điều kiện phát triển. Đó là phương cách tốt nhất để đề phòng, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tệ nạn xã hội. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, cần đặc biệt lưu tâm việc đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; nhờ đó mà nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, khôi phục niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.


Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, trong đó Quốc hội nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giám sát, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm phát hiện tham nhũng hoặc tiếp nhận thư tố giác của nhân dân về các vụ việc về tham nhũng để kiến nghị xử lý các cá nhân, tổ chức tham nhũng theo quy định của pháp luật. Với vị trí, vai trò của mình, Quốc hội có nhiều công cụ và phương thức để đấu tranh chống tham nhũng.


Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, vai trò của Quốc hội trong đấu tranh chống tham nhũng thể hiện ở chỗ: thiết lập hệ thống luật pháp đủ mạnh để phòng, chống tham nhũng. Đó là việc ban hành các đạo luật thúc đẩy việc công khai, minh bạch, bảo đảm quyền tự do thông tin để giới truyền thông có điều kiện phát hiện, phanh phui các vụ việc tiêu cực hoặc thông qua các đạo luật để tăng cường sự giám sát của các thiết chế hiện hành hoặc định chế xác lập những tiêu chuẩn xã hội tối thiểu về tiền lương và bình đẳng trong việc làm, thu nhập và hưởng các phúc lợi xã hội... nhằm hạn chế các hành vi nhũng nhiễu nhân dân, tham ô, lãng phí.


Thông qua thực tiễn phòng, chống tham nhũng, Quốc hội sẽ quyết định việc bổ sung các điều khoản của pháp luật về chống tham nhũng, hiến định rõ các biện pháp hình sự, theo dõi, điều tra và trừng trị các hành vi tham nhũng. Đồng thời, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về mua sắm tài sản công bảo đảm một cách công khai, minh bạch, hiệu quả. Đặc biệt, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Mặt khác, trong lĩnh vực giám sát, Quốc hội có vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước với mục đích cơ bản là phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, một loại hình, một biểu hiện của tham nhũng. Hiệu quả pháp lý, giám sát tôi cao của Quốc hội được thể hiện trong nghị quyết của kỳ họp Quốc hội hay trong nghị quyết về chất vân và trả lời chất vấn. Qua đó, chỉ ra những hạn chế thiếu sót và nguyên nhân của nó; đồng thời đề ra các giải pháp khắc phục, nhất là việc sửa đổi chính sách pháp luật.


Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như hoạch định chính sách kinh tế, ngân sách, dự toán ngân sách, chi trả nợ, mức bội chi ngân sách, v.v..., Quốc hội quyết định về chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc triển khai các dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước; qua đó giám sát việc thực hiện ngân sách để góp phần phòng, chống tham nhũng từ khâu đầu tiên của quá trình xác lập, phân bổ nguồn lực ngay từ khâu xác định mục tiêu, lựa chọn giải pháp. Có như vậy mới phòng, chống được các hành vi sai trái của các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm thực thi quyết định, nghị quyết của Quốc hội.


Muốn vậy, cần nâng cao vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng, trước hết là củng cố, tăng cường Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Theo đó, cần khảo cứu kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước làm tốt công việc này trên thế giới và khu vực để lựa chọn mô hình thích hợp vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là giám sát văn bản, thực thi các luật, pháp lệnh.


Việc giám sát cần tập trung vào các nội dung chủ yếu như giám sát quy định của các văn bản do một số cơ quan, người có thẩm quyền ban hành, giám sát tính đúng đắn, hiệu lực, hiệu quả của các văn bản mà Quốc hội đã ban hành, giám sát tính đúng đắn, hiệu lực, hiệu quả văn bản của các cơ quan bộ, ngành ban hành; đặc biệt lưu ý giám sát việc áp dụng các quy định của pháp luật trong đời sống xã hội, nhất là kết quả thanh tra, kiểm tra, kết quả kiếm toán của Quốc hội về tài chính - ngân sách.


Song song với các công việc nêu trên, cần tăng cường năng lực của các tổ chức thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, của Kiểm toán Nhà nước và thanh tra, kiểm tra nội bộ các ngành, địa phương. Cần có quy định chặt chẽ, hợp lý về các quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là quy trình liên quan đến tài sản công, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự trong các cơ quan, đơn vị nêu trên.


Phòng, chống tham nhũng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phải vào cuộc, trong đó Quốc hội cần tham gia tích cực, chủ động hơn nữa. Việc phát huy vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng phải được coi là một giải pháp hàng đầu cần phát huy mạnh mẽ, nhất là vai trò lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước để phòng, chống tham nhũng.


Có như vậy, các đại biểu Quốc hội mới phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình trước cử tri, cùng các cơ quan chức năng kịp thời đề xuất các chủ trương, biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng như việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nhờ đó mà giáo dục, răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi tham nhũng, không để cán bộ có cơ hội tham nhũng hoặc không dám tham nhũng.


Hoạt động phòng, chống tham nhũng của Quốc hội sẽ có tác dụng, ảnh hưởng tốt đến các đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố và các cấp thuộc quyền; góp phần phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình"; không để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề này để chống phá ta.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:38:20 pm
V- ĐẰNG SAU CÁI GỌI LÀ "DÂN CHỦ" VÀ "NHÂN QUYỀN"

Sau khi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phương Tây đã "hí hửng" cho rằng, cơ hội "ngàn vàng" đã đến để xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sớm thực hiện giấc mộng "bá chủ thế giới".


Do sự biến đổi mau lẹ của thời cuộc nên phương thức "kinh điển" là dùng vũ khí, bạo lực vũ trang, gây chiến tranh, đem quân xâm lược nước khác đã trở nên kém hiệu quả, lỗi thời. Vì vậy, "diễn biến hòa bình" với các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập",... được phương Tây coi là những "ngón đòn độc chiêu", hấp dẫn, được đưa vào các chương trình nghị sự, trở thành điểm "then chốt" của chiến lược đối ngoại thời hậu "chiến tranh lạnh" của phương Tây và là phương thức hữu hiệu nhất để họ áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền tư sản "kiểu phương Tây" vào Việt Nam và nhiều nước trên thế giới với những toan tính phiêu lưu, mạo hiểm: chuyển hóa các nước vôĩi đã từng là xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo của phương Tây, tạo thuận lợi để họ xếp đặt lại trật tự thế giới sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ theo hướng có lợi cho họ.


Rõ ràng, phương Tây đang ngộ nhận là họ "đứng trên người khác", là trung tâm văn hóa phát triển, đỉnh cao của nền dân chủ, có quyền ban phát cái gọi là "dân chủ, nhân quyền" cho toàn nhân loại; thực hiện công việc "nhân đạo" là đi "khai hóa văn minh" cho các dân tộc phương Đông mà theo họ là "lạc hậu", "kém cỏi", "chậm tiến". Vì thế, họ ra sức tán dương sứ mệnh "cứu vớt loài người", vạch sẵn các chương trình "can thiệp sâu vào nội bộ nhiều nước", phán xét, xếp loại các nước này về mức độ thực hiện dân chủ, nhân quyền theo "tiêu chuẩn phương Tây" và nếu quốc gia, dân tộc nào làm trái ý họ, muốn trượt ra ngoài "vòng cương tỏa" của họ, thì ngay lập tức, bị họ đưa vào danh sách "các nước còn nhiều hạn chế về quyền tự do, dân chủ", là đối tượng "cần theo dõi", "chỉnh đốn" với các thứ bậc cao, thấp khác nhau.


Thông qua hoạt động này, phương Tây ngang nhiên không chỉ tự thừa nhận mình là trung tâm của thế giới, điểm hẹn mà loài người cần gặp gỡ, vươn tới, rằng chỉ có các nước phát triển ở phương Tây mới là đại diện chân chính cho nền dân chủ, nhân quyền, là hình mẫu lý tưởng của sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ..., mà các quốc gia, dân tộc khác cần phải làm theo; hơn thế, họ còn trắng trợn can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước có độc lập, chủ quyền, ép buộc các nước đang phát triển "quay theo vòng xoáy", thực hiện sự sắp đặt của họ, ràng buộc các nước này, trong đó có Việt Nam bằng những điều khoản cam kết về "viện trợ kinh tế", "giúp đỡ nhân đạo" mà bất đắc dĩ, các nước nghèo phải chấp nhận, làm theo, v.v...


Phương Tây không hề "đếm xỉa" đến sự khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc, vùng miền, giữa các nước ở phương Đông và phương Tây cũng như đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang phủ lên các quốc gia, dân tộc đang phát triển "làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây"; buộc mọi người phải thừa nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất mà nhân loại cần đạt tới, Việt Nam và các nước đang phát triển cần phải đi theo và làm theo. Và trên hết, sự giáo đầu về lý luận ấy đã và đang hợp lý hóa các hành vi bạo lực "đánh trước", "đánh phủ đầu" nhằm "phòng, chống, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây", kể cả chiến lược "diễn biến hòa bình".


Phương Tây đã và đang tung ra luận thuyết cực kỳ nguy hiểm "dân chủ không biên giới", "nhân quyền cao hơn chủ quyền" và coi đó là chuẩn mực để thực hiện "chủ nghĩa can thiệp mới". Côxôvô, Irắc, Ápganixtan, Lybi, Xiri là kết quả của những cuộc thử nghiệm mà phương Tây sắm vai "vừa ăn cướp vừa la làng", "vừa là tội phạm vừa là thánh nhân".


Tuy nhiên, điều mà họ hứa hão là đem đến cho các nước này nền dân chủ, quyền con người, tự do, độc lập, sự phồn vinh thì sau nhiều năm can thiệp chẳng thấy kết quả của những lời hứa, mà chỉ thấy ở các quốc gia, dân tộc ấy máu đổ thêm nhiều, xung đột vũ trang và những vụ đánh bom liều chết, khủng bố với hàng chục ngàn người dân thường vô tội bị thiệt mạng; ở đó chẳng có một ngày yên ả, đã và đang thấm đầy máu và nước mắt, nạn đói, bệnh tật, thất học tràn lan, phụ nữ và trẻ em khổ ải đến cùng cực... Nhân dân các quốc gia, dân tộc mà người phương Tây tới "khai hóa" và cả loài người tiến bộ đang rất bất bình, đều lên tiếng phản đối quân xâm lược. Phải chăng kẻ đi phân phát dân chủ, nhân quyền lại chính là kẻ đang cướp đi quyền làm chủ, quyền sống làm người của những người dân vô tội, giày xéo lên độc lập, chủ quyền của các nước mà họ cho là đi thực hiện sứ mệnh bảo vệ dân chủ, nhân quyền.


Với Việt Nam, bằng mọi phương cách, họ đã và đang tung tin bịa đặt, nào là "Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân", nào là "Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người", v.v... Việc dựng lên những câu chuyện hoang đường, phi lý ấy đều nhằm mục đích kích động nhũng phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta, tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây "điểm nóng" về xung đột sắc tộc và tôn giáo, gây rối loạn tình hình chính trị, xã hội và khi có điều kiện thì tổ chức bạo loạn lật đổ, ví như các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên các năm 2001, 2004, 2008 và một số địa phương khác.


Chúng ta ai cũng hiểu rằng, đằng sau cái gọi là "dân chủ", "nhân quyền", "viện trợ kinh tế', "giao dịch thương mại", "ngoại giao thân thiện", hợp tác là mưu đồ chính trị của họ mà mục tiêu cuối cùng là muốn chuyển hóa Việt Nam, đưa Việt Nam vào cuộc chơi với những chương trình hấp dẫn mà họ đã cài đặt sẵn; không phải và không bao giờ họ đem tiền của, công sức đến xây dựng chủ nghĩa xã hội cho chúng ta; thực hiện lời hứa đem lại hòa bình, dân chủ, nhân quyền và cuộc sống tốt đẹp cho người dân Việt Nam.


Ý đồ sâu xa của họ là làm mọi cách để lái nước ta đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, mà phương Tây là thế lực đứng đầu, thông qua chiêu bài "ngoại giao thân thiện", "hợp tác đầu tư, phát triển", cho vay vốn, hợp tác nghiên cứu, chuyên giao khoa học và công nghệ, trao đổi chuyên gia, nhằm biến Việt Nam thành "sân sau" của họ, phụ thuộc vào kinh tế và nền chính trị của họ.


Rõ ràng là, dùng con bài "tự do, dân chủ" là chưa đủ sức mạnh nên các nước phương Tây còn bổ sung, dùng thêm chiêu bài "nhân quyền" nhằm trợ giúp họ dễ bề tiếp cận, quay trở lại Việt Nam thuận lợi hơn, dễ bề che đậy mưu đồ lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa, quỹ đạo mà phương Tây đã vạch sẵn.


Thất bại ở Việt Nam là "cú sốc tính thần" mà sau nhiều năm, người phương Tây vẫn "chưa hoàn hồn". Sự cay cú và lòng hận thù của họ không thể nhạt phai một sớm một chiều. Vì vậy, xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ sự ám ảnh chỉ có thể là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và "nhân quyền" đi kèm với "dân chủ" là một trong các ngón đòn họ tung ra vào thời điểm hiện nay. Chiêu bài dân chủ, nhân quyền là ngón đòn độc chiêu có thể giúp họ thực hiện mưu đồ phiêu lưu, mạo hiểm đó.


Nhân dân Việt Nam vốn đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để tự bảo vệ mình, đã trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, đã từng đánh bại những kẻ thù hung hãn vào loại bậc nhất, nhì thế giới trong thời hiện đại; đã từng đứng lên đấu tranh tự giải phóng mình, trở thành chủ nhân đất nước; lẽ đương nhiên, biết nhìn nhận rõ ai là bạn, ai là thù, ai là tốt, ai là xấu.


Những người cổ súy cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền phương Tây cần áp dụng nguyên mâu vào Việt Nam hãy đến các nghĩa trang Trường Sơn, Đường 9 ở Quảng Trị và hàng trăm nghĩa trang khác trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam sẽ thấu hiểu như thế nào là đạo lý, lẽ phải, dân chủ, nhân quyền; chắc chắn tinh thần dân tộc sẽ được khơi dậy và họ sẽ biết phải sống như thế nào cho đúng lương tâm, danh dự, trách nhiệm của một công dân yêu nước.


Cùng với các chiêu bài về tự do, dân chủ, hợp tác, ngoại giao thân thiện là các chiêu bài "nhân quyền", "tự do thương mại", "hợp tác giáo dục - đào tạo"..., người phương Tây đến Việt Nam bằng nhiều cách; trong đó, có một phương cách "hiệu quả nhất", vừa tạo dựng được hình ảnh tốt đẹp, vừa thực hiện được mưu đồ "luồn thật sâu, leo thật cao" vào các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội ở Việt Nam; từ đó, gây dựng cơ sở, thực hiện "nội công, ngoại kích", chống phá ta trên nhiều mặt trận, cả chính trị, kinh tế, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ, cả văn hóa, ngoại giao, quốc phòng, an ninh.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:41:08 pm
Một trong những nội dung mấu chốt, cốt lõi của vấn đề "nhân quyền ở Việt Nam" là phương Tây muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết "dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây áp dụng đối với Việt Nam" là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta; từ đó, giành lại chiến thắng trong hòa bình. Sử dụng chiêu bài "dân chủ, nhân quyền" suy đến cùng là họ nhằm mục đích phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhìn tổng thể có thể thấy, các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tôn giáo, dân tộc, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang... đều nhằm vào mục đích duy nhất là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm, cố gắng xây đắp nên. Bởi lẽ, họ biết rằng, chừng nào ở Việt Nam còn có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì chừng ấy ở đất nước này vẫn sẽ còn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vẫn sẽ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và điều đó là trái với ý đồ, ngược lại sự mong muốn của họ.


Một trong những nội dung quan trọng khác của học thuyết "dân chủ, nhân quyền" của phương Tây đối với Việt Nam là họ cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam "thiếu nền dân chủ", "vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", lấy đó làm cớ để tuyên truyền sai lệch, thiếu thiện chí khi dựng nên bức tranh u ám về Việt Nam, cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không có năng lực lãnh đạo cách mạng, không có khả năng đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc và tôn giáo. Với chiêu bài này, phương Tây đang tiếp tay cho các thế lực cực đoan tôn giáo, mở rộng không gian hoạt động, tạo ra môi hiểm họa đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; qua đó, khuyến khích, kích động những phần tử bất mãn, phản động trong các tôn giáo nổi dậy chống đối Đảng, Nhà nước ta.


Sự thật của cái mà người phương Tây gọi là tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là một số tín đổ tôn giáo cực đoan đang tìm cách khôi phục lại các giáo phái đã bị đào thải trong lịch sử, cũng như phục hồi hoạt động của các tổ chức trá hình tôn giáo ở Việt Nam; đồng thời, kích động các tổ chức, lực lượng có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hạ thấp uy tín của Đảng. Thực chất của vấn đề "dân chủ, nhân quyền" mà các thế lực thù địch đang khuếch trương ầm ĩ là phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, là sự phủ nhận nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Làm việc đó, phương Tây đã và đang vi phạm luật pháp và các điều ước quốc tế về tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Việc áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây vào Việt Nam dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền, nhân đạo" chỉ là giả tạo, thực chất là vì lợi ích của họ, hoàn toàn không phải vì dân chủ, nhân quyền đích thực mang giá trị nhân đạo, nhân văn, cũng chẳng phải là lòng tốt, của giới cầm quyền các nước phát triển ở phương Tây, dành cho dân tộc Việt Nam.


Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý, không ai có thể dùng ý muốn chủ quan hoặc quyền lực chính trị, quân sự để áp đặt, chà đạp lên nó; đặc biệt là trong thế giới đương đại, khi mà giao lưu quốc tế được mở rộng, các phương tiện thông tin đại chúng đã đạt đến trình độ rất cao, không có điều gì có thể che giấu, bưng bít.


Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt của một đất nước sau 40 năm kết thúc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã hoàn toàn khác trước. Đất nước Việt Nam đã hồi sinh và đang phát triển mạnh mẽ, đời sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, không ngừng nâng lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục trong nhiều năm là trên 7%, riêng năm 2013, mặc dù chịu tác động, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 5,42%/năm, năm 2014 là 5,58%; đó là mức tăng trưởng mà nhiều nước trong khu vực không thể có được vào thời điểm suy thoái kinh tế toàn cầu.


Hằng năm, khách quốc tế, bạn bè khắp năm châu, trong đó có nhiều người phương Tây, những cựu binh Mỹ đã từng tham chiến ở chiến trường Việt Nam đến tham quan, du lịch đều nhìn thấy sự thật: Đất nước Việt Nam sau 40 năm kết thúc chiến tranh đã thay da đổi thịt, sự sống đã hồi sinh, đang phát triển; dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thật sự khá giả; song cái quý nhất là chính trị - xã hội ổn định, cuộc sống của nhân dân ta thật sự có hòa bình, an ninh tốt, nhân dân thật sự là chủ nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Hiến pháp năm 2013, nhất là chương 2 với nhiều điều mới, phản ánh rất rõ tính chất ưu việt của nền dân chủ, nhân quyền của dân tộc Việt Nam, thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam. Đó là điều hơn hẳn những người tự cho mình cái quyền đi phán xét, ban phát dân chủ, nhân quyền cho quốc gia, dân tộc khác, nhưng ở ngay nước họ, tệ nạn xã hội còn nhiều, súng đạn buôn bán tràn lan, tệ nạn khủng bố, giết người vô cớ liên tục diễn ra, biểu tình, bãi công là chuyện thường ngày như cơm bữa, v.v... Phải chăng như thế là tự do, dân chủ, là quyền con người được tôn trọng, đề cao?


Cuộc sống vẫn cứ thế, trôi đi theo quy luật vận hành của nó. Những điều giản dị ở Việt Nam là chăm lo cho nước được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành đã và đang được khẳng định. Đó là đạo lý, là lẽ sống giản dị, chân tình của người dân Việt Nam tin yêu, đi theo Đảng. Ai đó tự thừa nhận là tốt bụng, có lương tâm, biết sống vì con người thì xin hãy đừng làm những điều sai trái, phản dân, hại nước, cản trở sự tiến bộ xã hội, phủ nhận lịch sử. Giá rét sẽ qua đi, mùa xuân sẽ đến. Ai đó dù cố tình cũng chỉ có thể bóp nát được một vài bông hoa, còn muốn hủy diệt mùa xuân là không thế, không bao giờ làm được. Quy luật vận động của giới tự nhiên cũng như của xã hội ngàn đời vẫn thế. Còn nếu như ai đó vẫn cứ lên lớp về "dân chủ, nhân quyền" này nọ, thì hãy nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; xin hãy đến thăm đất nước Việt Nam và tận mắt nhìn thấy những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chắc chắn sẽ kiểm định rõ ràng đâu là phải - trái, đâu là thật - giả, trắng - đen.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:46:04 pm
VI- QUAN ĐIỂM VŨ KHÍ LUẬN "CHỈ NHÌN THẤY CÂY MÀ KHÔNG THẤY RỪNG"

Luận bàn về chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao, đã và đang có quan điểm nhấn mạnh rằng, ngày nay khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, vũ khí, trang bị quân sự rất tối tân, hiện đại nên chiến tranh và cục diện thắng thua trên chiên trường rất sớm được định đoạt bởi bên nào có vũ khí, trang bị nhiều hơn, hiện đại hơn đối phương thì bên đó sẽ giành chiến thắng. Thực hư quan điểm này như thế nào, nó có quan hệ gì với "diễn biến hòa bình", xin hãy nhìn vào các cuộc chiến tranh do NATO và Mỹ gây ra cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam, Nam Tư, Ápganixtan, Irắc..., bạn đọc phần nào sẽ hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề này.


Chúng ta đều biết, vũ khí, trang bị quân sự là công cụ để tiến hành đấu tranh vũ trang, bộ phận quan trọng cấu thành, tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Sự phát triển của vũ khí, trang bị quân sự hiện đại, một mặt phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, quốc phòng của mỗi quốc gia, dân tộc; mặt khác, phụ thuộc vào nhu cầu chuẩn bị cho chiến tranh, hiện đại hóa quân đội, tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ đất nước của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường.


Sau chiến tranh lạnh, do sự biến đổi cục diện chính trị thế giới và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các quốc gia, dân tộc đều tiến hành điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ đất nước theo hướng sát hợp với tình hình mới, trong đó, điều chỉnh chiến lược, hiện đại hóa vũ khí, trang bị quân sự được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, mang ý nghĩa then chốt để phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước trước sự biến động mau lẹ của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới. Gần đây, chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo và những cuộc đảo chính, khủng bố, chạy đua vũ trang liên tục xảy ra làm cho tình hình chính trị, quân sự trên thế giới vốn đã rất căng thẳng, phức tạp lại càng căng thẳng, phức tạp hơn.


Để bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, hầu hết các nước, đặc biệt là các nước lớn đã đầu tư những khoản tiền lớn để mua sắm vũ khí, hiện đại hóa quân đội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Với tư cách là một siêu cường, Mỹ và đồng minh của họ là NATO đã tự cho mình cái quyền "đánh đòn phủ đầu", sẵn sàng tham gia các cuộc chiến tranh cục bộ và khu vực, hỗ trợ các nước đồng minh chống lại các nước thù địch nhằm ngăn chặn và tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố, đồng thời hạn chế sức mạnh quân sự đang gia tăng của các nước có quan điểm đối lập với Mỹ và NATO.


Vì vậy, Chính phủ Mỹ đã dành cho ngân sách quốc phòng những khoản "kinh phí" đồ sộ. Vào thời điểm mà cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu suy thoái nghiêm trọng (9-2008), gây cho Mỹ những thiệt hại nặng nề về kinh tế và đời sống, thế nhưng, Chính phủ Mỹ vẫn chi cho ngân sách quốc phòng trên 600 tỷ USD, chiếm khoảng 3,5% GDP, bằng tổng chi phí quốc phòng của 20 nước sau Mỹ gộp lại1 (Đồng Đức: "Tam giác Mỹ - Nga - Trung Quốc trong cục diện thế giới đa cực hiện nay", tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010, tr.49). Với khoản ngân sách quốc phòng khổng lồ ấy, Mỹ tiếp tục sản xuất các loại vũ khí mới, tăng cường hiện đại hóa quân đội nhằm bảo vệ khả năng vượt trội của Mỹ về quân sự, duy trì lực lượng hạt nhân với quy mô đủ mạnh để răn đe đối phương bằng cách củng cố, nâng cấp và tiến tới thay thế vũ khí hạt nhân hiện có.


Đồng thời, tiếp tục phát triển máy bay chiến đấu hỗn hợp F35, nâng cấp các máy bay B52, phát triển hệ thống vệ tinh, tăng cường khả năng tấn công hạt nhân trên toàn cầu; tích cực triển khai chương trình phát triển vũ khí chiến đấu mới với đặc điểm "gọn nhẹ hóa", "chính xác hóa", "mạng hóa", phá hủy lớn, gây sát thương cao. Bất chấp sự phản đối của Nga, Mỹ tiếp tục thúc đẩy kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) tại Cộng hòa Séc và Ba Lan, tăng cường hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD) tại Nhật Bản và các khu vực xung quanh Nhật Bản, tiến hành kết nối hệ thống cảnh báo tên lửa đạn đạo giữa Mỹ và Ixaren; thúc đẩy việc mở rộng NATO về phía Đông, đẩy mạnh chống khủng bố ở Ápganixtan. Song song với các hoạt động trên, Mỹ đã loại khỏi biên chế số lượng lớn vũ khí, trang bị hết niên hạn sử dụng như máy bay chiến đấu chiến thuật F14, 12, 117, v.v...


Nhằm ứng phó với những động thái mới của cuộc chạy đua vũ trang, hiện đại hóa vũ khí, quân đội của Mỹ và NATO, nước Nga trong thực hiện chính sách cải cách và chống lại sự cấm vận của Mỹ và phương Tây sau sự kiện Crưm, xung đột ở miền Đông Ucraina đã và đang có những bước phục hồi ngoạn mục cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao lẫn quốc phòng, an ninh. Cuộc chiến tranh 5 ngày ở Nam Cápcadơ (8-2008) và sáp nhập bán đảo Crưm trở lại lãnh thổ Nga (2014) là minh chứng đầy thuyết phục về sự khôi phục vị thế cường quốc của Nga trên vũ đài chính trị thế giới, là sự thách thức đanh thép, quyết liệt của Nga đối với các nước phát triển trong cuộc chạy đua vũ trang, hiện đại hóa quân đội và vũ khí giữa các nước hiện nay.


Trước những thách thức của Mỹ về việc mở rộng NATO sang phía Đông, triển khai các hệ thống tên lửa đánh chặn Patriôt ở Ba Lan, Cộng hòa Séc và ở nhiều nước Đông Âu khác cũng như trên biển, Nga tuyên bố tự cho phép mình quyền được "đánh đòn phủ đầu" kể cả bằng hạt nhân nếu an ninh quốc gia bị đe dọa; sẵn sàng rút khỏi START-2 (Mỹ và Nga ký Hiệp định START-2 tháng 4-2010 về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược mới). Đồng thời, Nga khẳng định sẽ bố trí các tên lửa đạn đạo tại Caliningrat, triển khai các căn cứ quân sự tại vùng biển Caribê nếu Mỹ triển khai các NMD ở Đông Âu. Gần đây, Chính phủ Nga đã tăng ngân sách quốc phòng, an ninh lên tới 39 tỷ USD để chế tạo hàng loạt các loại xe tăng mới như T90, xe bọc thép BMP3, BMP4, xe tăng thế hệ mới T95, tên lửa tầm xa thế hệ mới; sản xuất các máy bay tiêm kích Su35, trực thăng chiến lược MI28H và các tàu sân bay, tàu ngầm nguyên tử, v.v... Những động thái nêu trên đã góp phần "khuếch trương" quan điểm vũ khí luận, làm tăng thêm sức sống của nó trong thế giới hiện đại.


Với việc thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, "trỗi dậy hòa bình", Trung Quốc đã đạt những tiến bộ vượt bậc trên các mặt, đặc biệt là về kinh tế quân sự. Trong vài thập niên gần đây, Trung Quốc luôn giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới từ 8 -13%. Các năm 2008, 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đã làm cho thế giới chao đảo, thế nhưng Trung Quốc vẫn đạt mức tăng trưởng hơn 8%, với dự trữ ngoại tệ khoảng 2.300 tỷ USD, làm cho Trung Quốc vượt Đức và Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Hơn thế Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới với tổng giá trị lên tới gần 2.000 tỷ USD, giữ vị trí số 2 toàn cầu về trao đổi thương mại. Sự phát triển về kinh tế đặt ra hàng loạt vấn đề mới về quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ quân sự, hiện đại hóa quân đội.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:46:59 pm
Những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quốc phòng nhằm duy trì chiến lược quân sự, phòng ngự tích cực trong điều kiện kỹ thuật cao, thực hiện tốt "chiến tranh ngăn chặn", kiềm chế, tiến tới giảm thiểu những nhân tố gây mất ổn định, đến giữa thế kỷ XXI hoàn thành mục tiêu chiến lược xây dựng quân đội tin học hóa, có thể đánh thắng cuộc chiến tranh tin học hóa của mọi đối phương. Chính phủ Trung Quốc đã chi những khoản tiền lớn đế phát triển công nghệ thống tin; nghiên cứu, chế tạo hàng loạt vũ khí tấn công tầm xa như các loại tên lửa đạn đạo, các máy bay tấn công "đặc biệt hiện đại"; đồng thời, Trung Quốc không quên nhiệm vụ phòng, chống "diễn biến hòa bình", kế cả việc triển khai thực hiện chiến lược "săn bắt cáo" kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng với việc chi một khoản ngân sách lớn để thực hiện nhiệm vụ này.


Với việc thử nghiệm thành công tên lửa bắn hạ vệ tinh, đưa người ra ngoài khoảng không vũ trụ, Trung Quốc đã vươn lên cùng với Nga và Mỹ trong tốp các nước dẫn đầu về trình độ công nghệ vũ trụ hiện đại. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Trung Quốc đã công bố hàng chục loại vũ khí mới. Hiện nay, Trung Quốc đang đẩy mạnh chuyến đổi loại hình huấn luyện tác chiến tin học hóa kết hợp với cơ giới hóa, nâng cao tính chuyên nghiệp hóa của các lực lượng không quân, hải quân chiến lược, đồng thời nghiên cứu, sản xuất máy bay chiến đấu J-14, tên lửa "Đông Phong-25" có tầm bắn từ 3.500-4.000 km và tên lửa "Đông Phong-41" có tầm bắn 12.000 km1 (Đồng Đức: "Tam giác Mỹ - Nga - Trung Quốc trong cục diện thế giới đa cực hiện nay", tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010, tr.51), v.v...


Cuộc chạy đua vũ trang trước đây giữa các siêu cường, giờ đây được khởi động lại, phát triển với tốc độ nhanh, quy mô lớn, đặc biệt nguy hiểm đã chính thức bắt đầu, trước hết giữa Nga và Mỹ. Nhân tố con người vốn là rất quan trọng song đã bị dìm xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho các loại vũ khí mới đầy sức cạnh tranh, đua nhau xuất hiện, "tác oai, tác quái" trên thị trường mua bán, chuyển nhượng đang rất sôi động hiện nay, dù rằng, trong ý thức, người ta không những không từ bỏ nhân tố con người mà ngược lại, tận dụng tối đa trí tuệ con người nhằm "trí tuệ hóa" các loại vũ khí, tạo ra mọi kiêu loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất.


Theo đó, người ta đã và đang sử dụng các kiểu loại vũ khí tối tân, hiện đại vừa tạo ra để răn đe, khống chế, dọa nạt đối phương, coi đó là phương thức tối ưu nhất, hữu hiệu nhất để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, các quan điểm đối lập về lợi ích kinh tế, chính trị, quyền thống trị về lãnh thổ do không đạt được mục đích bằng "ngoại giao thân thiện", đàm phán, thương lượng hòa bình.


Việc tuyệt đối hóa tính năng, tác dụng, quyền uy, sức mạnh của các loại vũ khí giết người hàng loạt trong thế giới đương đại phản ánh rõ sự bạc nhược, ươn hèn về mặt chính trị, sự vô lương tâm, suy thoái đạo đức, nhân phẩm của giới chính trị gia, các nhà quân sự lão luyện và cả giới tài phiệt tư bản. Họ đã dùng sức mạnh của đồng đôla, thông qua con đường chạy đua vũ trang, mua bán, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa quân đội để răn đe, khống chế nhau, áp đặt lề thói cửa quyền, những hành vi "phi nhân tính", vô nhân đạo lên người khác, bất kể đó là ai, dù là người dân lương thiện, người nghèo, phụ nữ và trẻ em hay là các chính trị gia lão luyện.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:47:45 pm
Quan điểm vũ khí luận như một chiêu bài hấp dẫn đã và đang lôi cuốn giới tài phiệt quân sự và tài chính tư bản tạo nên một thị trường mua bán, chuyển nhượng vũ khí sôi động với những khoản lợi nhuận kếch xù. Các vũ khí giết người hàng loạt, bằng nhiều phương thức đều nói lên tiếng nói của sự công phá, hủy diệt, là sự tố cáo tội ác "không còn nhân tính" của giới chóp bu là chính quyển nhà nước tư sản thôi nát, phản động.


Dù rằng, lúc tỉnh táo, có thể họ biết đó là hành động vô lương tâm, phi nhân tính, nhưng các khoản lợi nhuận kếch xù với hàng tỷ đôla thu được từ các vụ chế tạo, sản xuất, buôn bán, chuyển nhượng vũ khí đã làm những người này tối mắt, phớt lờ dư luận, sự can ngăn phản đối nguy cơ chiến tranh, bạo lực của cả cộng đồng, nhân loại. Đó cũng là điều giải thích: tại sao thuyết vũ khí luận mặc dù chứa đựng đầy rẫy khiếm khuyết, mang bản chất "phi nhân tính", độc ác là vậy, song nó vẫn tồn tại, được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi, được người ta đón nhận, sùng bái, thậm chí tạo mọi điều kiện cho nó phát triển, lây lan trong xã hội.


Đó cũng là điều giải thích tại sao nhân tố con người, kể cả lương tâm, nhân phẩm, trí tuệ, đạo đức và pháp luật lại bị coi thường. Các cuộc đánh bom liều chết, các vụ khủng bố quốc tế, các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược đã ngang nhiên hoành hành, trở thành "cơm bữa hằng ngày" ở một số khu vực, làm cho nhiều người dân yêu chuộng hòa bình lên án, phản đối nhưng các giới cầm quyền phương Tây không hề đếm xỉa đến. Chính điều này đã và đang lôi cuốn nhiều quốc gia, dân tộc cả phương Đông, phương Tây "rơi vào vòng xoáy" thời cuộc, buộc họ phải chạy đua vũ trang, hiện đại hóa quân đội, tăng cường vũ khí, kể cả những loại vũ khí đắt tiền nhất, nếu muốn tồn tại, bảo vệ được mình và phát triển.


Cũng giống như Mỹ, Nga và Trung Quốc, nhiều quốc gia, dân tộc trong thế giới đương đại đều đã và đang điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các khoản tiền lớn mà lẽ ra được dùng vào phát triển sản xuất, cải thiện đời sống dân sinh, văn hóa, giáo dục, đào tạo... đã và đang dùng cho việc mua sắm, hiện đại hóa vũ khí, quân đội. Từ nhà chính trị, quân sự gia đến người dân bình thường đều hiểu rõ, thậm chí nhận thức sâu sắc tác hại ghê gớm của việc sản xuất vũ khí giết người hàng loạt. Thế nhưng, cách hành xử của mỗi loại người lại rất khác nhau. Đối với giới cầm quyền, những kẻ thống trị thì chiến tranh, xung đột vũ trang, khủng bố, đảo chính... lại là những cơ hội tốt để họ làm ăn, mặc dù những đồng tiền ấy thấm đẫm máu và nước mắt của đồng loại, nó mang bản chất "phi nhân tính".


Đối với các thế lực thù địch, chỉ có lợi nhuận, tiền bạc, đôla là trên hết. Vì lợi nhuận, tiền bạc, đôla, họ có thể gây nhiều tội ác, kể cả giết người thân, thậm chí tự chui đầu vào thòng lọng. Chúng ta không ngạc nhiên trước những hành vi tàn ác của giai cấp thống trị, những điều mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu trong nhiều tác phẩm của mình. Nguyên nhân sâu xa của những hành vi tội ác, bất công, bất bình đẳng trong xã hội đương thời không hề khác mấy nghìn năm trước đây, khi mà trong xã hội vẫn còn tồn tại những sự khác biệt về lợi ích, sự bất công, bất bình đẳng về quyền con người do chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sản sinh ra, do sự khác biệt, đối lập về lợi ích giai cấp giữa người "ngồi mát ăn bát vàng" và những người "bán sức lao động, làm thuê", tạo ra sản phẩm nhưng không được hưởng. Sự đối lập về lợi ích giai cấp, trước hết là đối lập về lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là cái "hố ngăn cách" không thể nào lấp được giữa bọn đi áp bức bóc lột, thống trị đang chiếm đặc lợi, đặc quyền và những người dân lao động trước đây cũng như hiện nay.


Khẳng định điều này, cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đều chỉ rõ: chừng nào trong xã hội còn tồn tại chế độ tư hữu, giai cấp và đối lập lợi ích giai cấp, thì chừng ấy, chẳng thể có công bằng, bình đẳng và nền hòa bình. Vì vậy, giai cấp vô sản đừng vứt bỏ vũ khí khi còn bọn áp bức, bóc lột trên trái đất này. Quan điểm vũ khí luận thực chất chỉ là một luận thuyết của giới chính luận gia tư sản nhằm bênh vực, bảo vệ những thói "ngông cuồng, ngạo mạn" của giới tài phiệt chính trị, quân sự tư sản, những kẻ luôn đề xướng, nâng cao, tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí, coi vũ khí là phương thức duy nhất, hữu hiệu nhất để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn giữa các phe phái nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà tư bản và đồng minh của họ.


Việc sùng bái đến mức tuyệt đối hóa các loại vũ khí giết người được coi là một phương thức kiếm lời trên xương máu của đồng loại, là thứ lý luận phi nhân tính, cực kỳ hiểm độc. Sự truyền bá luận thuyết này trong thế giới đương đại chẳng khác gì sự châm ngòi, kích động chiến tranh. Nói cách khác, thế giới càng điên đảo, chiến tranh liên tục xảy ra thì càng có lợi cho giới tài phiệt, lái súng bất lương.


Tất cả những việc làm ấy đã và đang khẳng định sự bế tắc, sự khốn cùng của một chế độ đầy rẫy mâu thuẫn và tội ác trong xã hội tư bản hiện thời. Và chính nó bộc lộ rõ bản chất phản động, phản khoa học cần phải loại bỏ để tìm lại những gì vốn là lẽ phải, công bằng, bình đẳng, là quyền sống chính đáng của mọi người trong một thế giới hòa bình, không có chiến tranh.


Đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái, trực tiếp là phê phán quan điểm vũ khí luận là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi người dân, đúng về phía công lý trên thế giới, kiên quyết giành lại quyền được sống làm người chân chính và gìn giữ nền hòa bình thế giới. Có nhiều con đường đấu tranh đê loại bỏ điều ác, thực hiện điều tốt. Song, trước hết và quan trọng nhất, cả loài người tiến bộ hãy đoàn kết lại, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tệ người áp bức, nô dịch người, xóa bỏ tệ bất công, bất bình đẳng, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.


Mục tiêu và con đường đấu tranh không thể nào khác là làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bằng phương thức ấy, với con đường đấu tranh cách mạng, chúng ta mới tìm ra và bảo vệ được chân lý; những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới mới có thể giành lại cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc từ tay giai cấp thống trị, bóc lột. Cùng với việc xóa bỏ tệ người áp bức, bóc lột người, quan điểm vũ khí luận và hàng loạt các quan điểm sai trái, phản động khác sẽ tự sụp đổ.


Vì lẽ đó, mỗi người cần nhận thức lại chính mình, thấy rõ vai trò, trách nhiệm CON NGƯỜI trong thế giới đương đại. Bởi vì, con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng vũ khí và vũ khí ấy chỉ có ý nghĩa khi nó được thực hiện vào việc bảo vệ lẽ phải, công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội. Hãy lên án, phản đối chiến tranh bằng những việc làm thiết thực để bảo vệ hòa bình. Hãy tỉnh táo, khôn ngoan trong nghiên cứu, chế tạo và sản xuất các loại vũ khí thật sự cần thiết để nó có thể bảo vệ lẽ phải, công bằng và chính nghĩa. Có như vậy, chúng ta mới kiểm soát và sử dụng vũ khí để chống lại các hành vi tội ác do các thế lực thù địch dùng chiến tranh gây ra, chống lại nghèo nàn, bệnh tật, bảo vệ nền hòa bình thế giới và quyền sống làm người của chúng ta.


Và điều này nữa, rất cần ghi nhớ: dù vũ khí có tối tân hiện đại đến đâu, nó cũng đều phải do con người điều khiển, sử dụng. Người ta có thể kiểm soát được chúng về số lượng và chất lượng, nhưng "diễn biến hòa bình" thì tinh vi, tinh quái hơn nhiều; nó có lắm thủ đoạn, âm mưu bí hiểm, không hề nhận thức dễ dàng. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ do quá ỷ lại vào vũ khí, trang bị hiện đại nên đã mắc mưu "diễn biến hòa bình" do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gây nên. Do đó, quân đội Liên Xô có gần 3 triệu quân tinh nhuệ với đầy đủ vũ khí tối tân hiện đại, song không thể bảo vệ được chế độ xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:34:36 pm
VII- PHÒNG, CHỐNG SẢN PHẨM VĂN HÓA ĐỘC HẠI VÀ CÁC TỆ NẠN XÃ HỘI XÂM NHẬP VÀO CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ HIỆN NAY

Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội nếu thâm nhập vào các cơ quan, đơn vị sẽ gây tác hại khôn lường. Nó không chỉ làm cho đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta bị vẩn đục mà còn dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, người dân; là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta.


Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội nếu thâm nhập vào các cơ quan, đơn vị có thể làm xói mòn niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nghi ngờ về sự thành công của đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thậm chí làm hoen ố phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam, phai mờ hình tượng "Bộ đội Cụ Hồ" trong con mắt bạn bè quốc tế, gây dư luận xấu trong lòng xã hội ta, là cơ sở "ươm mầm", "nảy nở" mọi thói hư, tật xấu, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Và chính nó sẽ là nguy cơ dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.


Gần đây, không ít các vụ án xảy ra do "lây nhiễm" lối sống phương Tây, đề cao thái quá đời sống vật chất, sùng bái đồng tiền, vì tiền; coi thường nhân nghĩa, đạo lý, vi phạm pháp luật, kỷ luật rất nghiêm trọng. Phải chăng, việc phạm pháp, thoái hóa, biến chất, mất nhân cách ở một số cán bộ, chiến sĩ và người dân có nguyên nhân sâu xa từ sự "lây nhiễm" các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, đời sống thường nhật của cộng đồng, người dân do không được kiếm soát, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi?


Thấy rõ sự nguy hại đặc biệt nghiêm trọng của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ; lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực như xác định đúng và trúng mục tiêu, mô hình, nội dung, tiêu chuẩn xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; duy trì liên tục phong trào thi đua quyết thắng gắn với việc thực hiện cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ", đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; đưa ra và thực hiện nhiều quy chế, quy định trong quản lý kiểm duyệt, sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, các xuất bản phẩm, các nội dung sinh hoạt văn hóa, văn nghệ...; kiện toàn hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa; chủ động ngăn chặn sự thâm nhập, ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động như băng nhạc, đĩa hình, sách báo, phim ảnh "đen", nghiêm cấm sử dụng các xuất bản phẩm văn hóa "ngoài luồng" có nội dung thiếu lành mạnh như kích dục, kích động bạo lực, các tệ nạn xã hội: hút, hít, buôn bán, tàng trữ ma túy, cờ bạc, rượu chè tại các cơ quan, đơn vị. Nhờ đó đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục có hiệu quả những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa phẩm đồi trụy; không để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; giữ vững, nuôi dưỡng và phát huy tốt vai trò, bản lĩnh, nhân cách cán bộ, đảng viên là "công bộc" của dân, là "đày tớ của nhân dân"; xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh; làm cho đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ngày càng tốt hơn theo hướng chân, thiện, mỹ.


Mặc dầu đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng việc triển khai phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị và xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh trong từng cơ quan, đơn vị thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định. Một số cấp ủy, cán bộ, chiến sĩ và người dân nhận thức chưa sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này; năng lực nhận biết, phân loại, khắc phục tác hại của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các hủ tục, tệ nạn xã hội ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn có mức độ... Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, sức thuyết phục trong định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động cho cán bộ, chiến sĩ và người dân.


Hiện nay, ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn có những cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình, thiếu biện pháp tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này; nói cách khác, chưa để tâm, quan tâm đúng mức và đầu tư thỏa đáng cho công việc này. Nội dung, hình thức một số hoạt động xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh chậm được đổi mới, hoặc đổi mới chậm; thiếu sáng tạo, một số hoạt động chưa lôi cuốn, thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và người dân tham gia. Có nơi, có lúc, có mặt hoạt động còn nặng về phô trương hình thức, chạy theo thành tích. Một số nhà văn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, phòng Hồ Chí Minh, thư viện... hoạt động cầm chừng; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chức năng về hướng dẫn, tổ chức và quản lý nhà nước các mặt hoạt động văn hóa cơ sở chưa được phát huy đầy đủ. Một số cơ quan, đơn vị chưa kết hợp chặt chẽ với các phường, xã, thị trấn ở địa phương trong xây dựng đời sống văn hóa mới tại cơ quan, đơn vị và khu vực dân cư.


Cần nhận thức rằng, xây dựng môi trường văn hóa ở cơ quan, đơn vị thật sự trong sạch, lành mạnh là một trong những giải pháp tối ưu để phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào đời sống của từng gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị; góp phần khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã nêu ra, đồng thời, là giải pháp tốt để phòng, chống "diễn biến hòa bình", gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:35:31 pm
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, sự xâm nhập ấy đến đâu, ở mức nào là hoàn toàn do chúng ta. Vì vậy, nhận thức đúng bản chất, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác này là hết sức quan trọng và nó phải được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp "xây" và "chống" sau đây:


Không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn hóa hóa toàn bộ đời sống của các cơ quan, đơn vị, khu dân cư, tạo nên sức hâp dẫn, lôi cuốn cao đối với cán bộ, chiến sĩ và người dân. Xây dựng đời sống văn hóa, văn hóa hóa toàn bộ đời sống của quân nhân và người dân là xây dựng, bồi dưỡng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ và người dân có văn hóa, môi cơ quan, đơn vị, khu dân cư là một tập thể sống có văn hóa, toàn quân và toàn dân ta là một chế độ xã hội có văn hóa. Đó không chỉ là việc thực hiện nền nếp chính quy, xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư: xanh - sạch - đẹp... mà là sự biến đổi về chất mọi lĩnh vực của đời sống bộ đội và người dân từ nơi ăn, ở, học tập, lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí đến quan hệ nội bộ và quan hệ gắn bó "tình làng nghĩa xóm", "tối lửa tắt đèn có nhau", cùng nhau "chia bùi sẻ ngọt"... Việc nâng cao chất lượng của các hoạt động văn hóa là một yêu cầu khách quan của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa mới. Nhờ đó mà tạo nên đời sống văn hóa mới phong phú, đa dạng, môi trường sống tinh khiết để mỗi người được hít thở không khí trong lành, có sức đề kháng, miễn dịch tốt để ngăn chặn, đẩy lùi sự tiến công của các "vi rút văn hóa" độc hại.


Trong xây dựng đời sống văn hóa mới cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ từ khâu tổ chức điều hành đến lựa chọn nội dung, hình thức cùng với những yếu tố bảo đảm. Điều quan trọng nhất trong công tác bảo đảm không chỉ là cung cấp phương tiện vật chất hay kinh phí mà là việc cung cấp "chất liệu văn hóa" từ nguồn sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa lành mạnh do các thiết chế văn hóa chuyên nghiệp của Nhà nước, của quân đội theo hướng thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Để có nguồn này thì các thiết chế văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại chúng chuyên nghiệp có trách nhiệm sản xuất thật nhiều sản phẩm văn hóa chất lượng tốt, xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch hoạt động văn hóa hấp dẫn, đồng thời chuyên tải, phân phối một cách kịp thời, đúng tiêu chuẩn, chế độ cho cơ sở và có hướng dẫn thực hiện thống nhất trong xã hội ta.


Thường xuyên đưa các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng vào nền nếp, có hiệu quả, đẩy mạnh các hoạt động phong trào sáng tác, biếu diễn với chất lượng ngày càng tốt hơn; giữ gìn, phát huy và có kế hoạch nuôi dưỡng hạt nhân nòng cốt, "khuyến khích sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đổi mới và phát triển của dân tộc. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp lóng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.213-214) của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; chú trọng hiệu quả của nó trong nhiệm vụ văn hóa - giáo dục toàn diện nhân cách, phẩm giá con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, có tác dụng tích cực đối với xã hội.


Vì vậy, cần gắn hoạt động văn hóa, văn nghệ với các hoạt động tư tưởng chính trị, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; học tập và công tác..., không tạo ra khoảng trống để các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội có cơ hội thâm nhập vào đời sống của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.


Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ và mọi người dân gắn liền với việc chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội xâm nhập từ ngoài vào và các biểu hiện tiêu cực nảy sinh trong từng cơ quan, đơn vị. Trong phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thì yêu cầu, nội dung, biện pháp phòng, chống có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là khâu quyết định. Bởi vì, xây dựng đời sống văn hóa mới luôn luôn có yêu cầu tự thân là phải gắn liền với việc bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ mọi mặt của quân nhân và người dân; trong đó, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, luật pháp, trình độ thẩm mỹ cùng với việc bồi dưỡng, rèn luyện tri thức và kỹ năng cần thiết về quân sự chiếm vị trí hàng đầu. Cần đẩy mạnh truyền bá, giáo dục, làm cho mọi quân nhân và người dân có trình độ hiểu biết nhất định về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp họ giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cũng như nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ chính trị, về các giá trị văn hóa tiêu biểu của Đảng, của dân tộc và địa phương là cơ sở nền tảng bảo đảm tính định hướng chính trị cho quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới trong xã hội ta. Đồng thời là cơ sở cho việc phát triển năng lực thẩm mỹ của quân nhân và người dân, nhất là thế hệ trẻ.


Vì thế, quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới phải hướng tới mục đích bồi dưỡng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và người dân, nâng cao trình độ nhận thức và hưởng thụ các giá trị văn hóa cho họ. Cần chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ và người dân về cảm xúc, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ lành mạnh, từ đó nâng cao khả năng xem xét, đánh giá các giá trị thẩm mỹ: cái đẹp, xấu, bi, hài, cái tích cực, cái tiêu cực... theo quan điểm mỹ học mácxít, biết phân biệt và đấu tranh ngăn ngừa, loại bỏ những thị hiếu thẩm mỹ lệch lạc, phản động, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thông văn hóa tốt đẹp của dân tộc.


Trong xây dựng đời sống văn hóa mới, cần tập trung khắc phục triệt để những hiện tượng thiếu lành mạnh trong sinh hoạt của một số ít quân nhân và người dân như thái độ thờ ơ về chính trị, phát ngôn bừa bãi, tệ cờ bạc, rượu chè, quan hệ nam nữ bất chính, lén lút tiếp nhận, sử dụng các phim ảnh ngoài luồng, độc hại, các tài liệu tuyên truyền phản động, sử dụng internet, v.v.., sai mục đích, về vấn đề này, cán bộ, đảng viên phải đi đầu, nêu gương sáng để quần chúng noi theo, làm theo.


Quản lý chặt chẽ các hoạt động sáng tác văn học - nghệ thuật, nhất là đầu vào và đầu ra của các ấn phẩm sáng tác; ngăn chặn các ấn phẩm văn học - nghệ thuật có nội dung độc hại, chống lại quan điểm, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ và lãnh tụ thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư và từng gia đình. Tổ chức và quản lý tốt đội ngũ cán bộ làm công tác sáng tác, biên tập, xuất bản, phát hành các ấn phẩm văn học - nghệ thuật, các loại sách báo, nhất là các báo điện tử và người sử dụng nó; kết hợp tốt việc định hướng nội dung đề tài với đặt hàng trong sáng tác văn học - nghệ thuật phục vụ bộ đội và nhân dân sát với sở thích, tâm tư, nguyện vọng; yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:36:39 pm
Tăng cường công tác bảo mật, quản lý tài liệu, sách báo, văn hóa phẩm theo đúng quy định, quy chế ban hành, ngăn chặn có hiệu quả việc lưu truyền, phát tán các tài liệu, văn hóa phẩm độc hại, phản động, từ "chợ đen" vào cơ quan, đơn vị. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, phân loại, nắm vững đối tượng "chậm tiến" ở các cơ quan, đơn vị và khu dân cư, đặc biệt chú ý tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các đơn vị nhỏ lẻ, phân tán trên địa bàn phức tạp. Khi phát hiện sách, báo, băng hình, băng nhạc văn hóa phẩm mà cá nhân tự mua có nội dung thiếu lành mạnh phải thiêu hủy ngay. Quản lý chặt chẽ các đổi tượng có tiền án, tiền sự, vi phạm pháp luật... cả lúc ngoài giờ, trên đường công tác và nơi sống trong các khu dân cư và cách thức sử dụng thời gian nhàn rỗi của họ...


Nâng cao chất lượng bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và bộ đội, tăng mức đầu tư công sức, tiền của để xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, hâp dẫn, lôi cuốn mọi người tham gia các hoạt động văn hóa. Cải thiện và không ngừng nâng cao mức sống vật chất, tinh thần của nhân dân và bộ đội là giải pháp quan trọng hàng đầu trong nâng cao chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần cho họ, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn, đẩy lùi sự thẩm lậu của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội. Bởi lẽ, đời sống văn hóa nghèo, chưa bảo đảm ở mức tối cần thiết, tự nó sẽ làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của bộ đội và người dân, là mảnh đất tốt để các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Muốn thực hiện tốt công tác này cần gắn với việc khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát kinh phí, hư hỏng phương tiện vật chất, các biểu hiện làm nghèo đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội và người dân. Rà soát, bổ sung, đổi mới công tác xây dựng nếp sống văn hóa, thực hiện tốt hơn yêu cầu xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư, gia đình văn hóa mới, gắn với xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, làm cho cơ quan, đơn vị, khu dân cư vừa khang trang, đẹp đẽ, hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vừa thuận lợi cho sinh hoạt, học tập, công tác. Xây dựng cho được mối quan hệ mật thiết giữa cơ quan, đơn vị với địa phương trong phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, cùng với địa phương, khu dân cư nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân. Cần lồng ghép, kết hợp chặt chẽ cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa với cuộc vận động lớn "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở địa phương. Xây dựng kế hoạch và tăng cường giao lưu văn hóa với nhân dân, đơn vị, trường học, các đoàn thể xã hội, các cơ quan văn hóa - nghệ thuật của địa phương, tạo ra bầu không khí ấm áp, tin yêu, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Đối với các đơn vị vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng... cần chú trọng hơn nữa việc xây dựng đơn vị thành điểm sáng văn hóa ở khu vực, giúp đỡ địa phương xóa mù chữ, tuyên truyền nếp sống văn hóa mới, giáo dục y tế cộng đồng, xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, đẩy mạnh các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, nhất là tham gia hướng dẫn đồng bào đẩy mạnh tăng gia lao động sản xuất, khắc phục các tệ nạn, hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp.


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, vai trò của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là cơ quan chức năng về quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa, văn nghệ nói chung; phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư nói riêng.


Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, các tệ nạn xã hội tự bản thân nó là những "vi rút độc hại", phi nhân tính; luôn sinh sôi, nảy nở trong môi trường xã hội thiếu lành mạnh và những cá nhân thiếu rèn luyện, tu dưỡng, coi thường pháp luật, kỷ cương phép nước. Thực tế chỉ ra rằng, ở đâu, nơi nào, cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, khu dân cư buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác tư tưởng - văn hóa, chưa quan tâm đến đời sống văn hóa - tinh thần của bộ đội và nhân dân thì ở những nơi đó các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, các tệ nạn xã hội có cơ hội xâm nhập. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, khu dân cư và cơ quan chức năng về quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa, văn nghệ nói chung; phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị nói riêng là một giải pháp đặc biệt quan trọng, nếu không nói là đóng vai trò quyết định đến chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong bôi cảnh mà cuộc "xâm lăng văn hóa phương Tây" ngày càng diễn ra phức tạp như hiện nay. Trong một chuỗi các công việc cẩn phải làm để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là việc đánh giá đúng thực trạng của nó và đề xuất được các giải pháp lãnh đạo tối ưu trong các nghị quyết của từng tổ chức Đảng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật chuẩn mực về hoạt động văn hóa, văn nghệ; các hướng dẫn của cơ quan chức năng về triển khai thực hiện công tác này thống nhất trong toàn quân, toàn quốc; sớm khắc phục tình trạng lộn xộn trong một số hoạt động văn hóa, văn nghệ gần đây; kể cả hoạt động sáng tác, biểu diễn, biên tập, xuất bản, phát hành các sản phẩm văn hóa, văn nghệ. Nói cách khác là phải tăng cường hơn nữa hiệu lực quản lý nhà nước về mặt này; mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải làm đúng luật pháp.


Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống" nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh có ý nghĩa rất thiết thực trong xây dựng đời sống văn hóa mới ở nước ta; là giải pháp hữu hiệu để loại bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội; góp phần đánh bại chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, "tự diễn biến", "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch.


Để thực hiện tốt giải pháp nêu trên, các cơ quan, đơn vị, khu dân cư cần tích cực, chủ động đổi mới sáng tạo nội dung, phương thức, hình thức hoạt động văn hóa, văn nghệ cho phù hợp với tình hình mới. Hy vọng và tin tưởng rằng, cuộc đấu tranh chống lại các phản giá trị văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh sẽ gặt hái được những "mùa vàng bội thu"; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" và các biểu hiện mới của nó là "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa", gây chia rẽ nội bộ ta của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:39:15 pm
Phần thứ ba
ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" TRONG TÌNH HÌNH MỚI -
TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA


I- TỔ QUỐC LÀ THIÊNG LIÊNG, BẤT KHẢ XÂM PHẠM

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các điều khoản, quy định trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế chính trị - xã hội, để xây dựng ý thức cho mọi người dân "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật"; là cơ sở để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới hiến định về quân đội, mới cả về cách tiếp cận, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ; mới cả về hình thức trình bày, phương pháp diễn đạt.


Nhìn chung, các điểm mới hiến định về quân đội đều toát lên tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và phản ánh sâu sắc quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thực hiện quyền và nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc, khẳng định rõ hơn vai trò ngày càng tăng lên của quân đội ta trong bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới: toàn cầu hóa, hội nhập quốc tếvà phát triển kinh tế tri thức. Sự hiến định của Hiến pháp năm 2013 đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là đòn chí tử đánh sập quan điểm, thủ đoạn "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch với mưu đồ phủ nhận vai trò Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.


Một trong những nội dung trọng điểm, rất mới được hiến định; mang tính thời sự nóng bỏng, có tính hấp dẫn lớn, thu hút sự quan tâm theo dõi, bàn luận của nhiều người cả ở trong nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch cũng quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc gia dân tộc Việt Nam trong bối cảnh phức tạp hiện nay; đó là nội dung Chương IV về bảo vệ Tổ quốc và một số điều khoản khác trong bản Hiến pháp năm 2013 có quan hệ mật thiết với Chương IV về bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, về mục tiêu, nhiệm vụ, sức mạnh, lực lượng, phương thức tác chiến và tổ chức, biên chế của quân đội ta hiện nay như vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cùng toàn dân xây dựng đất nước; xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng; tham gia một số hoạt động quốc tế như cứu hộ, cứu nạn mang tính nhân đạo, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình trong khu vực và thế giới, v.v...


Có thể khẳng định rằng, các nội dung mới về quân đội, chứa đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính chân thực, chính xác, rõ ràng, góp phần làm cho bản Hiến pháp năm 2013 toát lên sức sống mới, tinh thần mới, rất sinh động, sáng tạo; phản ánh đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gần 30 năm qua và những năm tới; đó là tinh thần phấn đấu, vươn lên "phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ" của cán bộ, chiến sĩ; là ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; không để mất đất, mất biển, đảo, mất dân.


Để giữ vững môi trường hòa bình, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, trong Chương IV, tại các điều 64, 65 và 66 của bản Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó ba lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, của quân đội ta nói riêng. Điều 64 viết: "Tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân"; Điều 66 viết: "Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng".


Ngoài 5 điều nêu trong Chương IV về bảo vệ Tổ quốc, có nhiều nội dung mới được hiến định liên quan trực tiếp đến xây dựng quân đội, trong Hiến pháp năm 2013 còn có một số điều, khoản có nội dung mới liên quan đến tổ chức quân đội; quyền và nghĩa vụ công dân khi tham gia quân đội được trình bày ở các chương khác. Chẳng hạn: Điều 15, khoản 1 viết: "Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân". Điều 45 khẳng định: "1- Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2- Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân". Đây không chỉ là quyền lợi và nghĩa vụ chân chính của công dân mà còn là niềm vinh dự, tự hào của tuổi trẻ khi được khoác lên mình bộ quân phục màu xanh áo lính, mang danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ", thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương. Đó là giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, mang đậm tính nhân văn sâu sắc.


Hiến pháp năm 2013 còn có điểm mới được hiên định liên quan trực tiếp đến quân đội là, tại khoản 5, Điều 88 khẳng định: Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: "Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam".


Về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam và yêu cầu, nội dung nhiệm vụ xây dựng quân đội, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện; được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, giúp đỡ và gọi bằng cái tên thân thương, trìu mến "Bộ đội Cụ Hồ", "Bộ đội của dân". Kể từ khi ra đời cho đến nay, hơn 70 năm xây dựng và phát triển, chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Lời dạy của Bác đã phản ánh sâu sắc bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.


Tuy không có điều, khoản nào trong Chương IV của Hiến pháp bàn riêng về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, song ở từng nội dung, từng luận điểm của cả 5 điều: 64, 65, 66, 67, 68 trong Chương IV đều hàm chứa và toát lên nội dung bản chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta. Về bản chất, Chương IV của Hiến pháp đã thể hiện rõ: Quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, về chức năng, nhiệm vụ, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ: Quân đội ta là một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác và là một đội quân sản xuất.


Điều 64 khẳng định, cùng với Công an nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.


Điều 65 khẳng định rõ nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam là "tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,... bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.


Điều 66 Hiến pháp năm 2013 khẳng định lại và nhấn mạnh vai trò "làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng", xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát triển nền công nghiệp quốc phòng trong thời kỳ mới của quân đội ta. Để tạo điều kiện cho Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Điều 68 của Hiến pháp năm 2013 hiến định vai trò của Nhà nước trong giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện thuận lợi để quân đội làm tốt nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế và ngược lại, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động, lao động đặc biệt của quân đội; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.


Tóm lại, Hiến pháp năm 2013 không chỉ khẳng định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn chỉ rõ từng bước xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đẩt nước, của tổ chức, biên chế, lịch sử truyền thống của quân đội ta, nhân dân ta.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:40:32 pm
Vai trò của Hiến pháp năm 2013 trong đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, phản động, đòi "phi chính trị hóa" quân đội, thực hiện "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Như đã trình bày, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta: là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và là đội quân sản xuất; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Mọi hoạt động của lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc nói chung, hoạt động của quân đội ta nói riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự hiến định như thế là hoàn toàn đúng đắn, mang ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc, rất hợp lòng dân; phản ánh rõ ý Đảng - lòng dân; quân với dân một ý chí.


Đó là bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, là nét đẹp văn hóa của "Bộ đội Cụ Hồ", là sự kết tinh chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh; bão táp không thể chuyển lay, cám dỗ không thể mua chuộc, khó khăn, thử thách không bao giờ làm nhụt ý chí hoặc bị lung lạc tinh thần, mọi sự chống phá của kẻ thù không thể chuyến dời. Chính điều đó đã vạch mặt những luận điệu xuyên tạc, phản động, đòi "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch; đồng thời, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, cho dù các thế lực thù địch có thay hình đổi dạng, sử dụng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nham hiểm đến mức nào, dù chúng có tham vọng đến mức nào cũng không thể phủ nhận, tách sự lãnh đạo của Đảng ra khỏi quân đội, biến quân đội ta thành lực lượng trung lập, đứng ngoài chính trị.


Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, từ sự mất sức chiến đấu của quân đội các nước ấy dù họ có "quân hùng tướng mạnh, vũ khí tối tân hiện đại", song đã mắc mưu kẻ địch dẫn đến vô dụng, chế độ sụp đổ, Đảng mất vai trò lãnh đạo, đất nước hỗn loạn. Hiện nay, sự mất ổn định chính trị ở Ucraina, Thái Lan và nhiều nước trên thế giới do bạo loạn, biểu tình dài ngày và mâu thuẫn không thể giải quyết giữa các phe phái, các đảng đã nói rõ vai trò của quân đội quan trọng như thế nào khi nó là lực lượng trung lập, đứng ngoài cuộc, bị phi chính trị.


Cho nên nghiên cứu, suy ngẫm và nắm vững từng nội dung của 5 điều trong Chương IV "Bảo vệ Tổ quốc" mà Hiến pháp năm 2013 đã hiến định, chúng ta mới thấm thìa chiều sâu, ý nghĩa sâu sắc giá trị được sống trong hòa bình, Tổ quốc an lành, bình yên. Cho nên trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào cũng vậy cần quán triệt và nhận thức sâu sắc: bảo vệ Tổ quốc là thiêng liêng, là bảo vệ chính hạnh phúc của mỗi gia đình, của dòng họ, quê hương và bảo vệ cuộc sống an bình của chúng ta. Đó là sức đề kháng tốt nhất, giúp chúng ta vững mạnh, không cho bất cứ loại "vi rút": "phi chính trị hóa" quân đội, "diễn biến hòa bình", gây "tự diễn biến, tự chuyển hóa" xâm nhập vào nội bộ ta.


Nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực thi và bảo vệ Hiến pháp năm 2013. Điều 119 của Hiến pháp năm 2013 hiến định: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là văn bản pháp lý có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Điều đó có nghĩa là thực thi và bảo vệ Hiến pháp là quyền lợi, trách nhiệm và là nhiệm vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trên tinh thần "thượng tôn Hiến pháp", "thượng tôn pháp luật", Quân đội nhân dân Việt Nam với tính cách là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước, là chỗ dựa tin cậy của chế độ, là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân thì đương nhiên, quân đội phải là lực lượng tiên phong, gương mẫu, đi đầu thực thi và bảo vệ Hiến pháp nói chung, pháp luật nhà nước có liên quan đến công tác quân sự, quốc phòng, an ninh, kỷ luật quân đội nói riêng.


Việc thực thi và bảo vệ Hiến pháp của quân đội thể hiện ở chỗ: Trước hết là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt ba chức năng của mình: là một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, và là một đội quân sản xuất; chủ động, tích cực tham gia giúp dân xóa đói giảm nghèo, cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ, giúp ngư dân gặp hoạn nạn trên biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân an tâm sản xuất, kinh doanh, doanh nhân nước ngoài đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội; không để mất đất, mất đảo, biển, mất dân, mất chế độ. Đó là nhiệm vụ hết sức vẻ vang, song hết sức nặng nề.


Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải gương mẫu thực hiện pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của địa phương, đơn vị, thực hiện tốt 10 lời thề danh dự của quân nhân; 12 điều kỷ luật. Nói cách khác, nếu buông lỏng kỷ luật, xa rời hoặc vi phạm nguyên tắc, quân đội không thể hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Tóm lại, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, quân đội nói chung, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi và bảo vệ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời, xung kích, đi đầu trong tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, pháp luật trong nhân dân, cùng nhân dân, người thân, gia đình nghiêm túc thực thi Hiến pháp, pháp luật; trước hết là Luật nghĩa vụ quân sự, Luật giáo dục quốc phòng - an ninh vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua.


Các hoạt động cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, góp phần gìn giữ hòa bình ờ khu vực và trên thế giới của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Lần này, trong bản Hiến pháp năm 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: "cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế"1 (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.31) (Điều 65). Đây là cơ sở để Quân đội nhân dân và Công an nhân dân triển khai các công việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, "góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới"2 (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.31) (Điều 64).


Cần khẳng định rõ hơn quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này: Quân đội nhân dân Việt Nam kiên quyết chống chiến tranh, cực lực phản đối xâm lược và không cho phép bất cứ thế lực thù địch nào can thiệp vào công việc nội bộ của mình hoặc có hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia dân tộc Việt Nam, đe dọa nền hòa bình thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện cho phép, quân đội ta có thể tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn mang tính nhân đạo với mục đích góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, củng cố, phát triển tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị vì lợi ích chung; không tham gia, không can thiệp vào các công việc nội bộ của các nước khác.


Để làm tốt việc này phải có bước đi, lộ trình thích hợp, bắt đầu từ việc nghiên cứu, có hiểu biết luật pháp quốc tế, các vấn đề có liên quan, học tập ngoại ngữ, chuẩn bị cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm và sau đó phải huấn luyện thật kỹ chuyên môn nghiệp vụ. Về điều này, "Sách trắng quốc phòng Việt Nam" đã khẳng định rất rõ. Đối với nhân dân ta, việc trải qua hai cuộc chiến tranh thần thánh chống quân xâm lược, hy sinh hàng triệu người để có giang sơn gấm vóc ngày nay, chúng ta thiết tha yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do. Vì vậy, sẽ làm hết sức mình để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước và góp phần bảo vệ nền hòa bình thế giới, bảo vệ giá trị Việt Nam.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:41:56 pm
II- VÌ HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN VÀ CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

1. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nước ta. Vì vậy, công tác dân tộc luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng Việt Nam; các chủ trương, chính sách dân tộc luôn gắn chặt với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của cả hệ thống chính trị nhằm chăm lo hạnh phúc của nhân dân.


Hiện nay ở nước ta, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm hơn 14% tổng dân số cả nước, cư trú trên 52 tỉnh, thành phố, chủ yếu là sinh sống ở các vùng, miền đặc biệt khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế quốc phòng, an ninh...


Trong những năm qua, nhờ quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc và miền núi của Đảng, Nhà nước; sự phấn đấu vươn lên không ngừng của các cấp, các ngành ở trung ương, địa phương và sự nô lực vượt bậc của đồng bào các dân tộc, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến, tiến bộ; kinh tế - xã hội phát triển, kết cấu hạ tầng và những vấn đề xã hội bức xúc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa từng bước được giải quyết. Đó là điều kiện vật chất cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng, miền và các dân tộc. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã sản xuất giỏi, có hiệu quả đã hình thành và phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa gắn chặt với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được khẳng định và ngày càng mở rộng. Bộ mặt nông thôn mới ở hầu hết các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa hình thành rõ nét, trở thành các điểm sáng văn hóa - xã hội đang xuất hiện ngày càng nhiều, đem lại luồng sinh khí và sức sống mới trên khắp các vùng miền của Tổ quốc.


Phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa không chỉ có ý nghĩa đối với việc nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng ở địa bàn chiến lược; củng cố lòng tin của đồng bào đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; đồng thời, nâng cao ý thức phòng gian, cảnh giác cách mạng trước các âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" và phá hoại của địch.


Tuy nhiên, so với mặt bằng của đời sống xã hội, nhất là các thành phố và các tỉnh đồng bằng thì các tỉnh miền núi, nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn gặp nhiều khó khăn như: tỷ lệ hộ nghèo còn cao; nạn mù chữ (chủ yếu là những người từ 50 tuổi trở lên) chưa thể khắc phục; trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hóa, giáo dục còn thấp; việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định... Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng các "kẽ hở", thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", nhất là sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "tôn giáo" và "dân tộc" để chống phá cách mạng Việt Nam.


Gần đây, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực và việc chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ đối với Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm độc của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để tuyên truyền kích động, gây hoang mang, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm lòng tin của đồng bào các dân tộc với Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Chúng tập hợp những phần tử bất mãn với chế độ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với chính quyền nhằm tạo ra một cơ sở xã hội không ổn định, suy yếu từ bên trong; từ đó gây ra mâu thuẫn nội bộ, dẫn tới ta "tự diễn biến" rất nguy hiểm.


Lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng vu khống, nói xấu chế độ, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; sử dụng miếng mồi "đầu tư vật chất", "hỗ trợ trọn gói" nhằm thu hút lực lượng để thành lập "khu tự trị" của người dân tộc thiểu số; đồng thời, kích động, hỗ trợ, chỉ đạo những phần tử phản động trong người dân tộc thiểu số hoạt động chống đối chính quyền, tạo ra các "điểm nóng dân tộc", lấy cớ can thiệp để lái Việt Nam đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.


Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, chúng ta cần: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác dân tộc đối với việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước thành các chương trình hành động, các biện pháp cụ thể, quyết tâm đưa đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013 vào đời sống. Đầu tư thỏa đáng để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chỉ tiêu đã xác định để không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giữ gìn và làm giàu tiếng nói của mỗi dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống yêu nước; tạo mọi điều kiện để các dân tộc đóng góp vào xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng miền; xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng dân tộc thiểu số; có các phương án khả thi để kịp thời phát hiện, đấu tranh, cải tạo các đối tượng ngoan cổ, lợi dụng vấn đề dân tộc để thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng Việt Nam.


2. Trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta luôn phải đương đầu chống chọi với thiên tai, lụt bão cũng như phải gồng lên chiến đấu chống quân xâm lược và bè lũ tay sai để cứu nước, cứu nhà, ông cha ta đã rút ra quy luật sinh tồn: Đoàn kết là sức mạnh. Đoàn kết thì đất nước ổn định, phát triển; mất đoàn kết thì đất nước lâm nguy, nhân dân cực khổ. Khẳng định giá trị to lớn của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Bác Hồ kính yêu đã dạy rằng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Đây là ngọn nguồn bí mật, là bí quyết thành công của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ ngày nay cần thâu triệt, gìn giữ và phát huy truyền thống dân tộc trong thời kỳ mới.


Nhờ phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, biết "đồng cam, cộng khổ", "chung sức, đồng lòng", triệu người như một, ông cha ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo, dù chúng có quân hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại hơn ta nhiều lần. Có thể khẳng định rằng, đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, là tài sản tinh thần vô giá mà ông cha ta để lại cho con cháu muôn đời. Vì vậy, chúng ta cần nâng niu, gìn giữ và phát huy, coi đó là hành trang cần thiết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và chính nó là cội nguồn sức mạnh để Đảng và nhân dân ta chiến thắng mọi loại kẻ thù: giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt...


Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết quốc tế luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo xây dựng, bồi đắp và phát triển trên nền tảng vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích Tổ quốc lên trên hết. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là những lúc hiểm nghèo, cách mạng gặp khó khăn, thử thách; những người cộng sản đã nêu cao tâm gương sáng ngời về sự thống nhất ý chí, hành động, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh vi độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chính sự thống nhất ý chí và hành động, tính tổ chức và kỷ luật trong Đảng đã hòa quyện, rèn đúc nên "ý Đảng, lòng dân" thành một khối vững chắc, thống nhất, không sức mạnh nào có thể chuyển lay, làm nên sự đoàn kết, thống nhất trong nhân dân và toàn dân tộc, xây đắp nên tình đoàn kết quốc tế trong sáng, son sắt, thủy chung.


Trong bối cảnh tình hình phức tạp hiện nay, đấu tranh để xây dựng, củng cố và bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng cũng là truyền thống tốt đẹp, là quy luật vận động, phát triển và trưởng thành của Đảng và nhân dân ta. Sự kiên trung, vũng vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, trọn đời vì dân, vì nước, gắn bó máu thịt với nhân dân, sự trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là hạt nhân của khối đại đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, là cội nguồn sức mạnh đế chúng ta chiến thắng giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc rét, giặc dốt... Và khi ý Đảng, lòng dân đã là một khối thống nhất vững chắc thì chẳng có khó khăn, trở ngại nào có thể cản bước, chặn đường. Các thế lực thù địch và bè lũ tay sai của chúng dù có lắm "mưu ma chước quỷ", dùng mọi thủ đoạn chống phá cũng không thể ngăn đường, cản trở sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân ta.


Có thể khẳng định rằng, thành tựu của cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua là thắng lợi của sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đó là nhân tố chính trị - tinh thần mang ý nghĩa quyết định để Đảng, Nhà nước ta xây dựng, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thành công.


Đoàn kết, thống nhất không chỉ là truyền thống quý báu, tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta mà còn là sức mạnh vô địch của Đảng, Nhà nước ta. Những bài học thành công của việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng hơn 85 năm qua là kinh nghiệm quý báu và là niềm tin yêu để chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững tin tiến lên phía trước; ra sức củng cố và phát huy sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong nhân dân thời kỳ mới; lấy nó làm hành trang gắn chặt hơn nữa ý Đảng, lòng dân để tạo nên sức mạnh nội lực, giúp chúng ta hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu, nhiệm vụ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2011-2020; làm cho nước ta ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" đúng như điều Bác Hồ kính yêu mong muốn.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:44:18 pm
III- XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Nhận thức sâu sắc tiến trình có tính quốc tế của toàn cầu hóa và khẳng định nó là một "cơn lốc", một xu thế lớn của thời đại, đã và đang lôi cuốn tất cả các quốc gia, dân tộc và mọi người trên hành tinh vào vòng xoáy của nó, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã chủ trương từng bước đưa nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập vào nền kinh tếkhu vực và thế giới.


Một trong những thành công quan trọng của chiến lược đưa Việt Nam hội nhập vào cộng đồng quốc tế là nước ta đã gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và sau đó, đã ký thỏa thuận thành lập các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc; ASEAN - Ấn Độ; ASEAN - Hàn Quốc; ASEAN - Ôxtrâylia, Niu Dilân. Tham gia vào các tổ chức ấy, một mặt, chúng ta đã thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các cam kết của mình và nghiêm túc thực hiện quá trình giảm thuế AFTA; nhờ đó không để xảy ra các cú "sốc" hoặc đột biến tiêu cực, giúp ta thêm tự tin bước vào thực hiện các thỏa thuận hợp tác kinh tế mới. Mặt khác, từ năm 1996, Việt Nam tích cực xúc tiến và là sáng lập viên của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM); đến năm 1998, chúng ta đã là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).


Tích cực tham gia và làm tròn trách nhiệm của mình trong các tổ chức quốc tế và khu vực đã làm cho uy tín, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; một số sáng kiến của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao và nhiệt tình ủng hộ, tham gia; kết quả đạt được rất tốt đẹp. Với tư cách là chủ nhà của APEC 2006, chúng ta có nhiều lợi thế để phát huy thế mạnh của mình, đã tiến hành nhiều phiên đàm phán đa phương, song phương về mở cửa thị trường với các đối tác, kế cả với một số đối tác được coi là "khó khăn" như Hoa Kỳ và Mêhicô.


Qua thương lượng, đàm phán, ký kết các hiệp ước và mời các đối tác đến Việt Nam chứng kiến sự "thay da, đổi thịt" của Việt Nam, với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta đã làm cho bạn bè quốc tế và các đối tác chiến lược tin cậy, hiểu thêm về thiện chí, cũng như đất nước, con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam, tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007 và mời chúng ta tham gia một số tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác.


Trở thành thành viên thứ 150 của WTO, chúng ta chính thức hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là thời cơ, vận hội lớn để nước ta mở cửa ra thị trường thế giới, bước vào "sân chơi" rộng lớn để quảng bá hình ảnh, con người Việt Nam với bạn bè, lôi cuốn, thu hút họ giúp ta đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp nhận các nguồn vốn, công nghệ sản xuất, trao đổi chuyên gia, nắm bắt thông tin; tiếp thu, kế thừa kinh nghiệm tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất mà các nhà đầu tư đem lại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích "sát sườn, thiết thực" mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, Đảng ta đồng thời cũng chỉ ra những khó khăn, thách thức to lớn mà chúng ta phải đối mặt, phải có đối sách để vượt qua. Đó là sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn giữa các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nước ta vốn còn yếu kém về một số mặt với các công ty, doanh nghiệp các nước trên thị trường quốc tế để thu hút nguồn nhân lực bậc cao, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, chiếm giữ được niềm tin của khách hàng.


Sức ép về tài chính, công nghệ, tay nghề và uy tín, chất lượng sản phẩm hàng hóa sẽ không hề nhỏ đối với tất cả các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nước ta, nhất là đối với các doanh nghiệp đã quen với sự bảo trợ, giúp đỡ của Nhà nước, các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, công nghệ yếu kém, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, v.v... Hơn thế, hội nhập quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, nhất là sự rủi ro về mặt xã hội; trong khi đó, yêu cầu hết sức cấp bách về việc bổ sung, hoàn thiện thể chế, cải cách nền hành chính quốc gia, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật; cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân, chuyên gia đủ mạnh để làm tốt các yêu cầu, nhiệm vụ mà hội nhập quốc tế đặt ra, không để nước ta bị chèn ép, bắt chẹt hay rơi vào thế bị động trong ứng xử, quan hệ quốc tế, ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh tế, thương mại, đặc biệt là các hợp đồng, hợp tác về quốc phòng, an ninh và văn hóa, giáo dục, đào tạo. Đây là những việc làm hết sức khó khăn, luôn đòi hỏi chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh táo, không được phép sai lầm trong mỗi bước đi, quyết sách trong khi chúng ta còn thiếu kinh nghiệm quản lý nhà nước về các mặt ấy.


Trong xu thế chung của toàn cầu hóa và sự phát triển năng động, sáng tạo và đặc biệt hiệu quả của nền kinh tế tri thức, chúng ta không thể đơn độc, tự cho phép mình đứng ngoài "cuộc chơi" theo kiểu "một mình một bàn cờ", "một mình một chợ" như một số người vẫn nói. Cân nhắc mọi điều, tính toán các yếu tố, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", Đảng ta chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết tham gia đầy đủ, đúng nguyên tắc các chế định kinh tế khu vực và toàn cầu. Song, để hội nhập diễn ra đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc và phát triển bền vững các lợi ích quốc gia, dân tộc, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải tranh thủ tối đa thời cơ, vận hội do hội nhập quốc tế đem lại để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh; đồng thời phải có những đối sách tối ưu nhằm phòng, chống, khắc phục các ảnh hưởng, tác động tiêu cực do chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế gây nên một cách năng động, hiệu quả.


Nguyên tắc của hội nhập là "hội nhập nhưng không hòa tan", "đổi mới nhưng không đổi hướng". Theo đó, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, phải giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; đồng thời, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền quốc gia, dân tộc và bản sắc văn hóa, phẩm giá, đạo đức, nhân cách con người Việt Nam; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác, làm ăn kinh tế, hội nhập để thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, mặc cả, chèn ép ta về mặt đầu tư vốn, khoa học, công nghệ hoặc tiến hành "ngoại giao, quân sự" để phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu của hội nhập là bình đẳng, hai bên cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế văn hóa... nhưng phải giữ vững nguyên tắc ứng xử đã xác định.


Đảng ta chỉ rõ, muốn hội nhập kinh tế thành công, chúng ta không những phải chủ động thực hiện có kết quả các nguyên tắc, yêu cầu nêu trên mà quan trọng hơn là xây dựng cho được nền kinh tế độc lập, tự chủ; trước hết là độc lập, tự chủ về lựa chọn đường lối phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau vẫn không lệ thuộc vào sự chi phối của một nước hay nhóm nước nào, có khả năng ứng phó nhanh nhạy, có hiệu quả trước những biến động của thời cuộc như nợ công hay suy thoái, khủng hoảng kinh tế khu vực hoặc toàn cầu; kiên quyết đấu tranh đòi các đối tác thực hiện nghiêm túc các hợp đồng kinh tế; chống phá giá, thay đổi hạn ngạch, làm phức tạp thêm tình hình, v.v...


Trong các văn kiện chính trị và ngoại giao của mình, Đảng ta đều nhất quán khẳng định những khả năng có thể làm được và chỉ rõ thiện chí, những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan Tất cơ bản để Việt Nam xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là có một tiềm lực kinh tế năng động, sáng tạo; có cơ sở vật chất - kỹ thuật vững mạnh, có tiềm lực dồi dào về con người, có khoa học, kỹ thuật và công nghệ đủ mạnh để tự phát triển; nền kinh tế có sức cạnh tranh dựa trên một cơ cấu kinh tế ngành, vùng, miền hợp lý, cân đối, hiệu quả; có cơ chế quản lý kinh tế vững mạnh, kinh tế vĩ mô ổn định; có môi trường hòa bình để phát triển.


Ai đó đã cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức mà Đảng ta lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời; là tự mâu thuẫn với đường lối đổi mới do Đảng vạch ra và lãnh đạo. Theo họ, thế giới đương đại là "một thế giới phẳng", không còn rào cản, ngăn cách, cả thế giới là một cái chợ "vĩ đại", hoàn toàn thống nhất; ai cần thứ gì thì mua thứ đó, thiếu tiền thì đi vay; vì thế, không nhất thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Phải chăng làm như thế, Đảng ta đã rơi vào bảo thủ, bị trói buộc bởi phương thức tư duy siêu hình, trực quan, máy móc và giáo điều, Đảng ta đã tự làm khó mình vì đã "bớt bạn, thêm thù".


Luận đề nêu trên, nghe qua, không ít người cảm nhận có lý, nhưng nếu suy ngẫm sâu sắc và nhìn rõ hơn sự thật lịch sử, điều kiện, hoàn cảnh nước nhà thì chúng ta sẽ thấy nó không có cơ sở khoa học, phiến diện, một chiều. Thực tế, độc lập, tự chủ là một xu hướng phát triển của thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, người ta "bung ra làm ăn" dưới nhiều hình thức liên doanh, liên kết rất đa dạng, phức tạp nhưng không ai muốn bị đánh mất mình, bị lệ thuộc, theo đuôi người khác, bị người khác thâu tóm; mà ngược lại, từ các nhà tài phiệt quốc tế đến các quốc gia, dân tộc đều giữ thế chủ động, đề cao tính độc lập, tự chủ trong kinh tế và cả trong chính trị, xã hội và quân sự. Đó là một vấn đề có tính nguyên tắc, đã và đang chỉ đạo các mối quan hệ, ứng xử trước đây cũng như hiện nay, dù thành văn hay chưa thành văn; song bất kể ai, giai cấp, lực lượng nào, trong các quan hệ quốc tế, đều phải nhận thức và thực hiện các hành vi sao cho "đúng mực", cốt là không sai "luật" và "lệ" nhằm bảo vệ vững chắc lợi ích của quốc gia, dân tộc mình.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:45:17 pm
Việt Nam là một trong những nước đi sau so với những nước đã tham gia hội nhập quốc tế trước đó. Chúng ta có lợi thế lớn là "đi tắt", "đón đầu", bỏ qua một số khâu, đoạn để đi ngay vào hội nhập quốc tế; rút ngắn được thời gian mò mẫm, thử nghiệm. Những bài học thành công, không thành công của một số nước là "liều thuốc thử vô cùng quý báu", đã và đang giúp chúng ta tránh rơi vào bế tắc, sai lầm.


Chúng ta xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn khách quan là phải bảo đảm độc lập, tự chủ vững chắc về chính trị, coi đó là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững khi chúng ta mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.


Không thể nói rằng, chúng ta có độc lập, tự chủ về chính trị nhưng nền kinh tế của chúng ta lại phụ thuộc vào quốc gia, dân tộc khác, bị chi phối bởi các đối tác. Đây là một bài học kinh nghiệm "xương máu" mà một số nước tham gia hội nhập quốc tế trước ta đã mắc phải, chúng ta kiên quyết không đi lại lối mòn, lặp lại điệp khúc sai lầm.


Thực tế chỉ ra rằng, nếu không xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự chủ thì đương nhiên, chúng ta sẽ bị lệ thuộc vào nước khác, sẽ bị các thế lực thù địch lợi dụng để lôi kéo, mua chuộc, hoặc không chế ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo xã hội chủ nghĩa và nền độc lập, tự do giành lại được bằng xương máu của hàng triệu người đã hy sinh sẽ trở nên vô nghĩa. Cho nên, cần hiểu một cách biện chứng rằng, độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất vững chắc nhất để bảo đảm cho độc lập, tự chủ về chính trị; không bao giờ có độc lập, tự chủ về chính trị nếu bị phụ thuộc về kinh tế, bị người khác chi phối, giật dây, sai khiến.


Rõ ràng là, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta không có nghĩa là "đóng cửa", chỉ chăm lo xây dựng một nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín, không cần quan hệ với ai, tự ta "một mình một chợ", tách biệt với thế giới bên ngoài cho "an toàn". Trong bối cảnh hiện nay, làm như thế là chúng ta tự cô lập mình, là sự phòng vệ thụ động, tiêu cực, không chắc chắn, không hiệu quả. Bởi vì, một mặt, chúng ta không biết kế thừa, sử dụng những thành tựu, tinh hoa văn hóa, khoa học, công nghệ mà nhân loại đã sáng tạo ra để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; mặt khác, chúng ta sẽ mãi mãi nằm trong thế bị kẹt, bị bao vây, cấm vận, phong tỏa do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gây nên từ nhiều thập kỷ trước đó.


Chúng ta đều biết rằng, cho đến tận ngày nay, chưa có nước nào tồn tại biệt lập mà có nền kinh tế năng động, phát triển bền vững, quốc gia, dân tộc đi đến phồn vinh, con người phát triển toàn diện, hạnh phúc. Bài học lịch sử và kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tiếp thêm niềm tin, nghị lực, cho phép Đảng và nhân dân ta vững bước khai thông con đường mở cửa, hội nhập quốc tế để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Lý luận và thực tiễn nhiều năm hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối của Đảng đã chỉ ra rằng, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế không mâu thuẫn với nhau, nêu đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa để xem xét, luận bàn. Bởi lẽ, cả hai chủ trương - đối sách của Đảng, Nhà nước ta đều phục vụ một mục đích là lợi ích quốc gia, dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nội lực bao giờ cũng mang ý nghĩa quyết định, các nguồn ngoại lực là quan trọng. Nếu kết hợp hài hòa hai nguồn nội lực và ngoại lực thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và hiệu quả đạt được từ quá trình ấy sẽ vô cùng to lớn, nhưng nếu tách riêng từng lĩnh vực, từng nguồn lực thì công dụng, hiệu quả của từng lĩnh vực, từng nguồn lực sẽ rất thấp.


Vì vậy, chỉ có thể tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế khi chúng ta kết hợp hài hòa các yếu tố nội lực và ngoại lực; làm cho các yếu tố nội lực, nhất là nguồn nhân lực, nguồn vật lực, tức là sản phẩm hàng hóa được nâng cấp, hiện đại hóa, có đủ sức cạnh tranh khi tham gia hội nhập, và ngược lại, các yếu tố ngoại lực, khi đã nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta, chúng sẽ phát huy tác dụng, là tăng thêm sức sống cho nền kinh tế từ việc bổ sung kịp thời nguồn vốn, thông tin, các thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm điều hành, quản lý để phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả các sản phẩm hàng hóa tạo ra. Rõ ràng là, hai chủ trương - một đối sách mà Đảng, Nhà nước ta nêu trên không chỉ giống nhau về mục đích, con đường, bước đi mà còn tương đồng về điều kiện, giải pháp thực hiện nhằm tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, yếu tố nội sinh và sức "đề kháng" của nền kinh tế, giúp chúng ta tự tin, vững vàng tham gia hội nhập với tư cách là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.


Đối với nước ta, độc lập, tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm chắc chắn định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các giá trị văn hóa, bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Vì vậy, ngay từ bây giờ, bằng sự khôn ngoan và tỉnh táo của mình, chúng ta hãy ra sức xây dựng và bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ, làm cho nó sinh sôi, nảy nở, đơm hoa, kết trái trên cơ sở phát huy tối đa mọi tiềm năng sẵn có.


Trách nhiệm của mỗi công dân là thực hiện tốt các yêu cầu, nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tư an toàn xã hội; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Đương nhiên, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ là một quá trình khó khăn, phức tạp và lâu dài, chúng ta không vì mong muốn là có ngay được những điều cần có mà nóng vội, đốt cháy giai đoạn; làm sai quy trình, vi phạm cam kết, luật pháp quốc gia và quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta là một quá trình tự giác, nhất thiết phải kinh qua những bước đi tuần tự từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện với thái độ tích cực, chủ động, sáng tạo và có các chủ trương, chính sách, bước đi phù hợp, hiệu quả. Vì vậy, mỗi người cần nhận thức đúng việc tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế mà các nước đã kinh qua cũng như nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của thời cuộc vào sự nghiệp xây dụng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tóm lại, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện chủ định tạo ra thời cơ, vận hội mới với các điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Và khi có được độc lập, tự chủ về kinh tế thì mới thật sự tự tin để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là điều căn bản nhất, cốt tử nhất trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc và đó cũng là đổi sách mềm dẻo, năng động, sáng tạo để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:47:39 pm
IV- HÃY LÀ CÔNG DÂN TỐT CỦA ĐẤT NƯỚC CÓ ĐỘC LẬP, TỰ DO

Gần đây, một bộ phận giáo dân ở một số địa phương đã có những hành vi vi phạm pháp luật, gây mất an ninh, trật tự trên địa bàn. Trước tình hình ấy, đồng bào cả nước, những người có đạo hay không có đạo đều rất bất bình. Để những hành động này không còn tái diễn cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, song điều quan trọng nhất là nhận thức đúng đắn vấn đề: "Giáo dân tốt trước hết phải là công dân tốt".


Pháp luật và giáo luật đều hướng con người đến việc tốt làm điều thiện.

Để xã hội và đời sống tôn giáo phát triển ổn định, chế độ nhà nước nào cũng có pháp luật và tôn giáo nào cũng có giáo luật của mình. Pháp luật và giáo luật đều có điểm chung, rất tương đồng là định hình, định hướng hành vi và đạo đức nhân cách con người, giúp mọi người đạt đến mục đích: làm những việc thiện, ích nước lợi nhà, tốt đời đẹp đạo, vì sự phồn vinh và bình yên cuộc sống, vì hạnh phúc của con người; phù hợp với sự phát triển của chế độ nhà nước và tôn giáo, vì sự tiên bộ xã hội. Hoa Kỳ, một nhà nước được cho là "tự do nhất" trên thế giới, thì pháp luật của họ cũng có những điều khoản quy định rõ ràng về việc công dân phải thực hiện Lời thề trung thành với Hiến pháp: "Bảo vệ và hỗ trợ Hiến pháp, hỗ trợ và bảo vệ luật pháp Hoa Kỳ". Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Việt Nam thừa nhận: "Người dân Mỹ cũng nhận thức rõ ràng rằng, nếu muốn các quyền của mình được bảo vệ, họ cũng phải có trách nhiệm với xã hội. Phần lớn những người dân Mỹ đều sẵn sàng sống trong khuôn khổ của pháp luật"1 (Đại sứ quán Họp chủng quốc Hoa Kỳ, Hà Nội, Việt Nam, Quyền công dân của Hoa Kỳ). Ở Việt Nam, pháp luật của nước ta đã quy định: "Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội"; "Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng".


Nói đến tôn giáo là nói đến đạo, là đường tu. Dẫu các tôn giáo có khác nhau ở đức tin hay đường tu, song tôn giáo nào, đạo nào cũng đều hướng con người đến việc "tu nhân tích đức", làm điều hay, lẽ phải; sống tốt, làm nhiều việc thiện, tránh làm điều xấu, điều ác. Đặc biệt, Đức Chúa và Đức Phật đều khuyên con người sống chân thiện, không gây tội ác giết người, gian dâm, lấy của người, xúi bẩy người làm điều ác... Vì vậy, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, con người đều phải tránh xa tội lỗi; hạn chế tham, sân, si; một lòng thành tâm, kính Chúa, yêu nước; đi theo con đường mà các đấng cứu rỗi đã chọn, "khai tâm, khai đức", làm cầu nối, chỉ giáo nhân gian, sống có nhân, có đức, có nghĩa tình, đạo lý, đúng pháp lý. Mười điều răn của Chúa và sáu điều răn của Giáo hội đều khuyên mọi người làm việc tốt. Đức Chúa và Đức Phật đều khuyến khích mọi người "tu nhân, tích đức", hằng ngày sống và làm việc thiện... Có thể khẳng định rằng, quan điểm, tư tưởng nhân văn của các tôn giáo là trong sáng, đúng đắn, phù hợp với lòng người, với đời sống pháp luật; không tôn giáo nào khuyên khích hay xúi bẩy con người làm việc xấu, việc ác hay chống đối chính quyền và luật pháp quốc gia. Ở nước ta, các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc và cách mạng; đồng bào các tôn giáo yêu đạo, yêu nước, luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân ta giành được trong hơn 8 thập kỷ qua, đều có sự đóng góp rất đáng trân trọng của đồng bào các tôn giáo, các dân tộc Việt Nam.


Sống "tốt đời, đẹp đạo" - giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam và giá trị nhân văn của tôn giáo

Dẫu lịch sử hình thành của mỗi tôn giáo ở nước ta và mỗi tôn giáo trên thế giới có lịch sử truyền thống, giáo lý, nghi lễ riêng, song đều gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; thống nhất ở mục đích, phương châm hoạt động "kính Chúa, yêu nước", "tốt đời, đẹp đạo". Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đồng bào các tôn giáo đã cùng nhân dân cả nước đứng lên làm cách mạng, tham gia kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với ý chí, quyết tâm cao: tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, lao động quên mình, sống sâu đậm tình nghĩa quê hương, làng xóm của đồng bào các tôn giáo Việt Nam thật đáng ngưỡng mộ, tự hào, rất cần phát huy trong thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Phật giáo đã gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử; tồn tại và phát triển đúng định hướng "Đạo pháp bất ly thế gian giác" và hiện nay đang nhất quán thực hành phương châm: Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội. Công giáo trong quá trình phát triển ở Việt Nam cũng luôn răn dạy đồng bào sống kính Chúa, yêu nước, yêu thương con người, tôn trọng lẽ phải, sự thật và hiện nay là: Sống phúc âm trong lòng dân tộc đểphục vụ hạnh phúc của đồng bào. Các tôn giáo khác ở nước ta cũng luôn gắn đạo với đời, luôn định hướng các hoạt động vào sự tuân thủ pháp luật và giáo luật, gắn bó với dân tộc, vững bước trên con đường đổi mới, phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Triết lý nhân sinh sống "tốt đời, đẹp đạo" luôn tỏa sáng, là ngọn đuốc soi đường, dẫn lối, động viên đồng bào các tôn giáo và nhân dân cả nước chung một mặt trận thống nhất, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.


Sống tốt đời, đẹp đạo không chỉ là một dâu ấn sâu đậm được thể hiện hài hòa trong nếp sống sinh hoạt hằng ngày của mỗi giáo dân Việt Nam mà còn là phương châm chỉ đạo hành động vì việc thiện, vì đạo lý, nhân cách, truyền thống văn hóa con người Việt Nam. Nét đẹp văn hóa của đồng bào các tôn giáo là: Tu dưỡng tinh thần, đạo đức trong sáng, đúng với phép đời và phép đạo; nêu gương sáng và răn dạy con cháu, họ đạo làm tốt việc đời, việc họ, việc đạo; động viên cháu con và gia đình, dòng họ tích cực lao động, sản xuất, tuân thủ pháp luật, xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho sáng danh các đấng tối cao; quan tâm động viên tinh thần và ý thức của người mắc tội, lầm lỗi...


Những việc làm tốt đẹp đó, Phật giáo thường gọi là "cứu một mạng người, phúc đẳng hà sa", hay "dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người"; còn Kinh Phúc Âm của Thiên Chúa giáo truyền dạy: "Các con hãy tỏ lòng thương xót như cha các con hay thương xót"... Như vậy, sống tốt đời, đẹp đạo không chỉ là nhu cầu văn hóa, đạo đức của xã hội và công dân, mà còn là lòng tin, đức tin vào những giá trị tốt đẹp chân - thiện - mỹ của xã hội, con người, cùng những giá trị tinh thần cao đẹp của mỗi tôn giáo. Vì vậy, chẳng có lý do gì cản trở đồng bào, giáo dân phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của mình trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống hòa bình, hạnh phúc mà đồng bào giáo dân và nhân dân cả nước bằng xương máu của mình xây đắp nên.


Người công dân tốt và giáo dân tốt

Dù pháp luật và giáo luật có tốt đẹp đến đâu, dù giá trị của truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam cũng như giá trị nhân văn của các tôn giáo có sâu sắc, thắm đượm tình người như thế nào, thì tinh thần, tư tưởng và giá trị của nó cũng phải được thể hiện qua thái độ, hành vi, hành động hằng ngày của mỗi con người, ở việc thiện, việc tử tế. Một giáo dân tốt trước hết phải là một công dân tốt, sống phúc âm trong lòng dân tộc đế phục vụ hạnh phúc đồng bào, mưu cầu lợi ích cho quốc gia, dân tộc.


Là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, con dân đất Việt. Nếu biết đồng cam cộng khổ, biết chia ngọt sẻ bùi, nhất định chúng ta sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. Đừng vì khó khăn trước mắt mà đánh mất niềm tin, đừng vì lợi ích cá nhân, bị người xấu xúi giục mà chà đạp lên lợi ích tập thể; vì thiếu hiểu biết mà vi phạm pháp luật.


Không có đất nước nào và tôn giáo nào trên thế giới chấp nhận những hành vi vi phạm pháp luật. Những giáo dân coi thường pháp luật, giáo luật; những chức sắc, chức việc bất chấp luật pháp, kích động giáo dân chống đối chính quyền đều bị nghiêm trị theo pháp luật của nước sở tại.


Để không làm hổ danh Đức Chúa và không làm vẩn đục những triết lý cao cả của Ngài, mỗi giáo dân cùng chức sắc, chức việc trước hết phải là một công dân tốt. Bên cạnh việc chăm lo lao động sản xuất, phát triển kinh tế, tích cực xây dựng nông thôn mới, đồng bào có đạo, cần tôn trọng pháp luật, răn dạy con cháu trong nhà, trong họ không để bị lôi kéo và tham gia vào các hành động quá khích; đặc biệt là biết lắng nghe, phân biệt phải - trái, không nghe theo những kẻ đang lợi dụng và chiếm đoạt lòng tin vào Thiên Chúa của mình để làm những việc trái với pháp luật và giáo luật.


Nhà nước ta luôn đề cao tình thương yêu, tính thiện, sự hòa đồng cùng nhau xây dựng một xã hội phồn thịnh về vật chất và tinh thần; song dứt khoát không dung tha, sẽ nghiêm trị những người lợi dụng niềm tin tôn giáo, lòng tốt của nhân dân để mưu cầu lợi ích riêng hoặc phá hoại hạnh phúc của nhân dân. Tuân theo pháp luật cũng là hành đạo; làm đúng điều răn "Kính Chúa, yêu nước, thương yêu người", đó là đức tính, phẩm giá, nhân cách tốt của một giáo dân - của một công dân tốt.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 07:52:08 pm
V- CHIÊU TRÒ MỚI VỀ VẤN ĐỀ "DÂN CHỦ" TRONG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch luôn xác định Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Bằng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập"..., chúng đã và đang ráo riết thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta, tạo ra sự khủng hoảng về chính trị, làm chệch hướng và sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; trong đó, mục tiêu quan trọng hàng đầu mà chúng xác định là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam thông qua thực hiện "con đường dân chủ".


Vì vậy, từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, L.I. Gơnbơgiơ, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ đã "nửa kín, nửa hở" khi nêu ra bốn điều kiện về "dân chủ hóa", để "thực hiện ngoại giao thân thiện", viện trợ kinh tế "giúp Việt Nam". Theo L.I. Gơnbơgiơ, "con đường dân chủ" mà Việt Nam sẽ đi tới, cần có bôn điều kiện bảo đảm: 1. Thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chấm dứt sự độc quyền của Đảng Cộng sản; 2. Làm cho kinh tế thị trường phát triển, mà nòng cốt là phát triển kinh tế tư nhân; 3. Đề cao các quyền con người ở Việt Nam; 4. Đưa văn hóa Mỹ vào Việt Nam...


Rõ ràng, với chiêu bài "dân chủ", L.I. Gơnbơgiơ và những người ở chiến tuyến bên kia đã công khai rõ mục đích lợi dụng vấn đề "dân chủ" để phá hoại công cuộc đổi mới ở nước ta. Để thực hiện mục tiêu trên, họ sử dụng mọi thủ đoạn có thể nhằm chĩa mũi nhọn vào Đảng, đòi Đảng ta từ bỏ quyền lãnh đạo bằng việc tuyên truyền luận thuyết đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.


Với chiêu bài "dân chủ", chúng mưu toan xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ta đi theo mô hình tự do, dân chủ tư sản, dân chủ phương Tây. Chúng cho rằng, thông qua dân chủ hóa về chính trị, tự do hóa về kinh tế sẽ tạo tiền đề cho "diễn biến hòa bình", làm nảy sinh ngay trong lòng xã hội Việt Nam các khuynh hướng tư tưởng xa lạ chủ nghĩa xã hội và các lực lượng chống đối, nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ra sức đả phá nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc có ý nghĩa sống còn của Đảng Cộng sản; đồng thời, triệt để lợi dụng những khó khăn, sai lầm, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước của Đảng, Nhà nước ta để kích động dân chủ hóa đời sống chính trị, đòi tiến hành bầu cử tự do theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và tìm mọi cách tài trợ, hậu thuẫn lực lượng chống đối, các phần tử đối lập để từng bước thiết lập "chuyên chính tư sản", thay thế cho "chuyên chính vô sản" ở nước ta.


Để thực hiện "con đường dân chủ ở Việt Nam", chúng tìm mọi cách hậu thuẫn, tạo dựng ngọn cờ đối lập từ những kẻ cơ hội chính trị, những người có quan điểm chính trị đối lập, bất mãn, tán thành đa nguyên, đa đảng, những người có tư tưởng cực đoan trong các tôn giáo, theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; kết hợp với nuôi dưỡng, huấn luyện các tổ chức phản động lưu vong để đấu tranh công khai giành chính quyền, thiết lập chế độ tư bản.


Vì thế chúng không tiếc công, tiền của đổ vào Việt Nam để gây dựng các tổ chức chính trị đối lập, khuyến khích, nuôi dưỡng sự tồn tại của các tổ chức ấy trong lòng chế độ xã hội ta. Sự hoạt động của các tổ chức này dù công khai hay ngấm ngầm đều chung một mục đích: gây mất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta, tiến tới giành chính quyền thông qua kêu gọi và thực hiện "bầu cử tự do". Chúng đã, đang và vẫn tiếp tục hy vọng rằng, thông qua "bầu cử tự do", các phần tử cơ hội, xét lại và phản bội sẽ luổn sâu, leo cao vào bộ máy của Đảng, Nhà nước ta; từng bước "vô hiệu hóa", thay thế những người lãnh đạo trung kiên, nắm giữ những vị trí lãnh đạo then chôt trong bộ máy của Đảng, Nhà nước đế chuyển hóa chính quyền; thực hiện kịch bản như chúng đã làm ở Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Anbani...


Những năm gần đây, chúng tìm mọi cách tạo dựng, hậu thuẫn bọn tay sai đế làm ngọn cờ quy tụ, tập hợp những phần tử chống đối vào các hoạt động phá hoại công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; khi có thời cơ, sẽ lật đổ chính quyển bằng cuộc cách mạng "nhung lụa" kết hợp với bạo loạn chính trị và sử dụng sức mạnh quân sự. Có thể khẳng định rằng, các thế lực thù địch đang triệt để sử dụng vấn đề "dân chủ" như một công cụ hữu hiệu để ép buộc Nhà nước ta chấp nhận và hợp lý hóa sự có mặt các lực lượng đối lập, tạo dựng "ngọn cờ" hòng lật đổ chính quyền cách mạng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Sự thâm hiểm, quỷ quyệt của các thế lực thù địch là chúng triệt để sử dụng chiêu bài "dân chủ" để cấy vào trong đời sống xã hội Việt Nam tư tưởng tự do dân chủ tư sản, cố tình tạo dựng một nền tảng tư tưởng dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta đi theo quỹ đạo dân chủ tư sản. Với âm mưu, thủ đoạn này, chúng hy vọng một bộ phận quần chúng nhân dân, những người "nhẹ dạ cả tin" mất niềm tin, mất phương hướng chính trị, ngả nghiêng, quay sang lập trường dân chủ tư sản. Đây là cách chúng tranh giành quần chúng nhân dân, làm cho họ quay lưng lại với Đảng, Nhà nước, không ủng hộ, bảo vệ chính quyền và những giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chính người dân lao động bằng mồ hôi, nước mắt và thậm chí bằng xương máu của mình đã xây dựng nên.


Hơn ai hết, các thế lực thù địch đều hiểu rõ rằng, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chừng nào quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được trao quyền thực thi dân chủ của nhân dân; nhân dân là nguồn sức mạnh, là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị đất nước thì chừng ấy, chúng khó bề áp đặt các "giá trị dân chủ tư sản" ở Việt Nam. Chỉ có thông qua con đường "dân chủ" thì chúng mới có thể làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng; mới phá bỏ được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đây là ý đồ cực kỳ hiểm độc mà chúng đang rắp tâm thực hiện để làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Rõ ràng là, các thế lực thù địch đang triệt để sử dụng chiêu bài "dân chủ", coi nó là khâu đột phá của chiến lược "diễn biến hòa bình" để chống phá cách mạng Việt Nam. Cần nhắc lại là, âm mưu cơ bản, mục tiêu xuyên suốt, lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng; tuyên truyền và làm cho tư tưởng tư sản về dân chủ phát triển và sinh sôi, nảy nở trong đời sống xã hội Việt Nam, tiến tới thiết lập nền dân chủ tư sản ở nước ta. Cho nên, chiêu bài "dân chủ" trong chiến lược "diễn biến hòa bình" là một trong những ngón đòn "độc chiêu" vô cùng ác hiểm, được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để đưa vào lòng người, nhất là một bộ phận không nhỏ đồng bào ta ở vùng sâu, vùng xa..., do trình độ nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu biết sâu sắc mọi vấn đề.


Vì lẽ đó, chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận rõ mục đích, bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch trong sử dụng chiêu bài "dân chủ" trong thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng Việt Nam. Đây là vấn đề mấu chốt để chúng ta tổ chức, triển khai, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, ý đồ đen tối của các thế lực thù địch, cơ hội; xây dựng cách nhìn, quan điểm đúng đắn, niềm tin của quần chúng nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ vào nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng.


Để phá hoại sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gần đây, trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch liên tiếp tung ra "điệp khúc" với luận điệu: độc đảng là độc tài, độc đoán, là thủ tiêu dân chủ, thủ tiêu động lực phát triển của đất nước. Chúng gán cho Đảng ta là đảng theo chủ nghĩa toàn trị và xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam tự cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, rằng độc tài, đảng trị là cái gốc của những sai lầm của nhà cầm quyền Việt Nam hiện đại. Với lý lẽ ấy, các thế lực thù địch vu khống trắng trợn ta dùng "bạo lực", "pháp luật" để "bóp chết tư tưởng dân chủ"; từ đó, chúng ra sức cổ súy cho chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam. Chúng xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyên nhân chủ yếu sinh ra sự độc đoán, độc quyền, mất dân chủ. Chúng mô tả xã hội ta không có tự do, dân chủ do có một bộ máy nhà nước độc đoán, độc tài, toàn trị, v.v...


Một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đã hùa theo các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch ngụy biện rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mâu thuẫn với triết học mácxít, vì theo lý luận của triết học Mác - Lênin, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ tầng. Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa chế độ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tất yếu cần phải có đa nguyên chính trị trong kiến trúc thượng tầng.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 07:52:52 pm
Ở nước ta, không ít người đã ca ngợi không công cho nền dân chủ tư sản. Họ cố tình đề cao cái gọi là thế giới tự do mà trong đó, mọi công dân đều được tham gia bình đẳng vào đời sống chính trị đất nước. Nhưng sự thật lại không phải như vậy, trong các nước tư bản chủ nghĩa, đại đa số nhân dân lao động bị chi phối bởi quyền lực của một thiểu số người trong xã hội. Thực tế, ở Mỹ có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Cả hai đảng này đều là đại diện cho những tập đoàn tư sản Mỹ, họ vừa tranh giành quyền lực, vừa thỏa hiệp để cùng nhau thực hiện dân chủ cho giai cấp tư sản Mỹ. Vì thế, ở đó người ta càng mở rộng dân chủ cho giai cấp cầm quyền thì dân chủ đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động càng bị thu hẹp. Do việc quy định bắt buộc về tài sản của các ứng cử viên tham gia chính quyền, làm cho 80% dân số Mỹ không có quyền ứng cử. Người dân chỉ được quyền lựa chọn những người lãnh đạo trong giai cấp tư sản, những người có của, giàu có.


Bức xúc với sự bất công trong chế độ tư bản chủ nghĩa, người dân đã đứng lên đấu tranh chống lại nhà nước tư sản. Do thành quả đấu tranh của nhân dân, giai cấp tư sản buộc phải điều chỉnh theo hướng cải cách dân chủ nhất định; buộc phải công nhận các lực lượng đối lập, kể cả các Đảng Cộng sản. Song, về bản chất, chế độ dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ tư sản mà thôi; nó chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Mặc dù ở các nước tư bản có nhiều đảng chính trị, nhưng quyền lãnh đạo xã hội vẫn là đảng của giai cấp tư sản. Do đó, việc thực hiện dân chủ, về thực chất, không phải là để thực hiện dân chủ cho nhân dân lao động mà là dân chủ đối với giai cap tư sản.


Để làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng ta, các thế lực thù địch chĩa mũi nhọn vào nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng hòng phá vỡ tính tổ chức của Đảng. Chúng lừa gạt nhân dân rằng, hầu hết các Đảng Cộng sản trên thế giới đã từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, vì thực chất, sự tập trung quyền lực bao giờ cũng dẫn đến triệt tiêu dân chủ, làm cho dân chủ trở thành "đồ rởm", chỉ có tác dụng trang trí cho tập trung quyền lực. Chúng khẳng định: nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay đã lỗi thời, thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn tới mất dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào độc đoán, chuyên quyền. Dựa vào điều đó chúng ra sức tán dương và khuyến khích cho việc thực hiện dân chủ cực đoan trong Đảng; rằng trong Đảng ta nên có các phe nhóm đối lập, để bàn bạc, tranh luận, đấu tranh, cốt để chia rẽ Đảng ta thành các phe nhóm đối lập: cấp tiến, bảo thủ. Thâm độc hơn, chúng đang tim mọi cách lôi kéo những kẻ thoái hóa biến chất, chống lại Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Đối với những đảng viên chân chính, trung kiên thì bị chúng nhạo báng là bảo thủ, cứng nhắc, giáo điều. Thực chất của mưu đồ này là đối lập những cán bộ lãnh đạo của Đảng với đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng viên khác, mưu toan gây chia rẽ nội bộ Đảng, từng bước làm cho Đảng ta xa rời mục tiêu chính trị, tan rã về tổ chức.


Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng mácxít - lêninnít; bảo đảm cho Đảng ta phát huy tính năng động, sáng tạo của đảng viên và tổ chức đảng, đồng thời là điều kiện để giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện rõ nhất bản chất khoa học, cách mạng của Đảng ta; là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự lãnh đạo, có sự bảo đảm của tập trung. Chỉ giữ vững được tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển, mở rộng dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó, dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Nguyên tắc này chính là điều kiện để bảo đảm cho tổ chức đảng vững chắc về mặt tổ chức, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện ngày nay, bất cứ Đảng Cộng sản nào, nếu từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, tất yếu sẽ rơi vào tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nội bộ mất đoàn kết, bị chia rẽ, tổ chức và xã hội sẽ rối loạn dẫn tới tan rã. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu đã chứng minh điều nhận định trên.


Vì vậy, trong tình hình hiện nay, hễ là người Việt Nam yêu nước đều cần phải đề cao tinh thần cảnh giác; luôn tỉnh táo trước mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, nhất là sự chống phá, xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Gắn liền với việc chống Đảng, các thế lực thù địch đồng thời quyết liệt chống phá, xuyên tạc bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng rêu rao rằng, ở Việt Nam, do chế độ độc đảng, do Đảng Cộng sản kiểm soát nên Chính phủ Việt Nam không có quyền lực gì ngoài việc dùng quân đội, công an để ngăn cấm tự do thông tin, tự do hội họp, tự do báo chí. Chúng đối lập Đảng với Nhà nước; chia rẽ Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị đất nước; chia rẽ Nhà nước với nhân dân.


Thực chất của vấn đề lợi dụng "dân chủ" để xuyên tạc, phủ nhận bản chất dân chủ của Nhà nước ta của các thế lực thù địch, chính là lái thiết chế dân chủ ở nước ta đi theo quỹ đạo của nền dân chủ tư sản.

Ở nước ta, một số người thường lấy thu nhập bình quân đầu người của các nước tư bản để làm chỉ số đánh giá sự tiến bộ xã hội. Song, họ không hiểu rằng, về thực chất, sự dư thừa của cải vật chất ấy không đem lại bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân lao động. Thực tế đã phơi bày một nghịch lý là, ở Mỹ, những người giàu có chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm tới 43,7% tài sản của nước Mỹ. Các nước tư bản phát triển khác cũng tương tự như nước Mỹ.


Dân chủ hay không dân chủ là ở chỗ nhà nước có thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân hay không; có đem lại lợi ích cho nhân dân hay không. Thực tiễn đã chứng minh rằng, Nhà nước ta ra đời sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhà nước do nhân dân bầu cử, thông qua phổ thông đầu phiếu, bầu cử tự do; ở đó, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục đích tối thượng trong hoạt động của Nhà nước.


Với việc triệt để lợi dụng, sử dụng chiêu bài "dân chủ", "con đường dân chủ" để chống phá ta, các thế lực thù địch đã và đang cổ súy những phần tử cơ hội, xét lại về chính trị ở trong và ngoài nước chĩa mũi nhọn, tấn công, chống phá Đảng và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hành động chống phá của chúng ít nhiều gây ra sự phân tâm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt đồng bào các dân tộc thiểu số, trong các tôn giáo vì thiếu thông tin và ít hiểu biết đã suy giảm niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng; đối với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Vì vậy, từ nay đến khi tổ chức đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và sau Đại hội, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn sử dụng chiêu bài "dân chủ" để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 07:54:44 pm
VI - "THUỐC ĐẮNG SẼ DÃ TẬT", SỰ THẬT SẼ "KHÔNG SỢ MẤT LÒNG"

Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt coi trọng tự phê bình và phê bình. Tư tưởng của Người về tự phê bình và phê bình là một trong những nội dung cơ bản của công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức nhân cách người cách mạng, có đóng góp quan trọng trong bảo vệ và phát triển lý luận Mác - Lênin; là nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng đảng mácxít - lêninnít, là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các tệ nạn, tiêu cực xã hội.


Trong tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, lần đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nói về tư cách người cách mạng với vấn đề tự phê bình và phê bình, hàm chứa những nội dung giáo dục và định hướng cách mạng sâu sắc. Là nhà cách mạng thực tiễn, kê từ khi ra đi tìm đường cứu nước, đi đến nhiều châu lục, làm nhiều nghề để sinh sống, cho đến khi trở thành lãnh tụ, sáng lập Đảng, Nhà nước ta, Bác luôn là người mẫu mực về tự phê bình và phê bình, coi tự phê bình và phê bình là động lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển của mỗi người, mỗi tổ chức.


Bác hiểu sâu sắc triết lý nhân sinh mà tiền nhân đã nói "nhân vô thập toàn"; nghĩa là ở đời, người ta chẳng có ai là tuyệt đối tốt, cũng chẳng có ai là hoàn toàn xấu mà ở mỗi người, đều có nhiều điểm tốt và cũng có một số điểm chưa tốt, cần phải nhận thức đúng điểm hạn chế thiếu sót để sửa chữa, khắc phục, trở thành người tốt hơn. Bác yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên, không kể chức vụ, cấp bậc, không phân biệt người tuổi cao hay còn trẻ tuổi, đều phải tự nhận thức, tự đánh giá, hiểu đúng điểm mạnh, điểm yếu của mình, từ đó mà "cả quyết sửa lỗi mình... có lòng bày vẽ cho người... hay xem xét người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.280). Trong một số tác phẩm Người viết sau này, trên cương vị là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Bác tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện quan điểm về tự phê bình và phê bình với nhiều nội dung mới, rất thực tế. Nếu tính từ tác phẩm đầu tiên Đường cách mệnh đến tác phẩm cuối cùng là Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố hơn 200 tác phẩm, bài viết, bài nói về xây dựng Đảng và hơn 120 bài viết khác có liên quan đến xây dựng Đảng; trong đó, tự phê bình và phê bình luôn là tiêu điểm, trọng tâm.


Trong các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người, bằng cách tiếp cận này hay góc độ phản ánh khác, Bác đều đề cập đến tự phê bình và phê bình; phân tích sâu sắc về tư cách, yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người cán bộ, đảng viên, coi tự phê bình và phê bình là phương cách giữ vững khí tiết người cách mạng. Điều đó thế hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Bác về phương pháp hành động và đạo đức cách mạng của người "đầy tớ của nhân dân". Bác coi đó là "liều thuốc quý" để trị bệnh, cứu người; giữ cho cơ thể khỏe mạnh, cường tráng và chính điều đó là phương cách tốt nhất để mỗi người tự "miễn dịch" trước sự xâm nhập, tấn công của mọi loại "vi rút" độc hại.


Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Bác quan niệm: "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đối với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.307). Với cách diễn đạt giản dị, ngắn gọn và súc tích, Bác đã đưa ra khái niệm: tự phê bình và phê bình một cách rõ ràng, chính xác cả về mục đích, tính chất và nội dung. Đây là cơ sở lý luận rất quan trọng để chúng ta tiếp cận nghiên cứu, phát triển lý luận về tự phê bình và phê bình; soi rọi vào thực tiễn, liên hệ với bản thân và tổ chức đảng nơi mình đang sinh hoạt để thấy rõ hơn cái tốt để phát huy, nhân lên, làm cho nó "đơm hoa kết trái"; đồng thời, nhận ra cái chưa tốt để sửa chữa, khắc phục, làm cho mình tiến bộ, trưởng thành; nhờ đó mà góp phần xây dựng, chính đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, gây dựng, củng cố niềm tin, sự yêu mến, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân.


Theo Bác, tự phê bình phải đi đôi với phê bình. Hai mặt này phải kết hợp chặt chẽ, thống nhất với nhau, không thể tách rời nhau; không nên thiên vị, khuếch đại một mặt nào. Trong mối quan hệ biện chứng này, tự phê bình được coi là tiền đề, là cơ sở cho phê bình. Người nói: "Trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.75, 221).


Xuất phát từ triết lý nhân sinh, "người đời ai cũng có khuyết điểm nhưng ai cũng có ưu điểm...", Bác căn dặn: "Nói cái xấu phải nói cả cái tốt. Nếu chỉ chuyên nói cái xấu là lệch"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.75, 221), Do vậy, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, nhất là đánh giá con người phải đặc biệt thận trọng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh hơn, mỗi người tốt hơn. Vì vậy, "lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"; sao cho sau khi được phê bình, tình đồng chí, đồng đội tốt hơn, đoàn kết chặt chẽ hơn.


Cho nên, tự phê bình và phê bình đúng mực là chỉ ra được mặt ưu điểm và cả mặt khuyết điểm "có lý, có tình" làm cho người nghe "tâm phục, khẩu phục", thấy ưu điểm là đúng, vui vẻ hơn, phấn chấn hơn, làm việc tốt hơn; đồng thời, thấy khuyết điểm cũng là đúng nên cũng vui vẻ tiếp thu, sửa chữa khuyết điểm để tiến bộ. Không nên "yêu thì nói tốt, ghét thì nói xấu", "bằng mặt nhưng không bằng lòng"; không nên tô hồng cũng như bôi đen hiện thực khách quan, nói sai, phản ánh sai lệch sự thật. Bác dạy rằng, tự phê bình và phê bình là nhằm phát huy mặt tốt, khắc phục mặt xấu, giúp cho suy nghĩ, nhận thức, hành động đúng hơn, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng. Không nên dùng tự phê bình và phê bình để phê phán, chỉ trích, miệt thị nhau; làm cho người ta "mất mặt", làm nhục tinh thần, thể xác con người theo nghĩa "vùi dập nhau", "triệt hạ nhau"; bất luận vì lý do gì thì đều không nên "giận cá chém thớt". Theo Bác, khi tự phê bình và phê bình "phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm... phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.272). Trong mọi lúc, cái tâm của người phê bình phải sáng, cái đức phải cao; tự phê bình và phê bình sẽ kém hiệu quả nếu thiếu cái tâm, cái đức hoặc cái tâm, cái đức không trong sáng.


Trong hoạt động thực tiễn, dưới bất cứ hình thức nào, công việc nào cũng đều có mâu thuẫn. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn, về thực chất, là cuộc đấu tranh vì thắng lợi của cái đúng, cái tích cực, tiến bộ; hạn chế khắc phục, sửa chữa cái sai, cái lạc hậu, tiêu cực; nâng cao trình độ mọi mặt của người cách mạng. Phương pháp giải quyết mâu thuân đạt hiệu quả cao nhất, theo Bác, là tự phê bình và phê bình; bởi vì, đã là người cộng sản, dứt khoát không được che đậy, giấu giêm khuyết điểm mà cần công khai phê bình khuyết điểm ấy. Người viết: "luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.305, 301). Người cho rằng, "Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiên bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.305, 301).


Rõ ràng, đối với Đảng, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình là "liều thuốc quý", có tác dụng chữa và cắt được bệnh, đồng thời, bồi bổ, làm người ta phân chân, tăng thêm sức khỏe" đế phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân. Vì lẽ đó, tự phê bình và phê bình cần cho tất cả mọi người ví như họ cần không khí để thở, nước để uông, để rửa mặt, làm vệ sinh hằng ngày. Bản chất tự phê bình và phê bình là giải quyết mâu thuẫn nội bộ Đảng, củng cố môi quan hệ đoàn kết, thống nhất trong nhân dân, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng, đưa nó đi đến bến bờ thành công. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ta (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, "Đảng Lao động Việt Nam dùng lối phê bình và tự phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41; t.9, tr.413).


Đó là tính tất yếu khách quan, là giá trị phổ biến trong quá trình xây dựng, phát triển của Đảng, nhất thiết mọi cán bộ, đảng viên phải tuân thủ nghiêm ngặt, thực hiện đúng quy luật này. Nếu xa rời, làm trái quy luật, Đảng sẽ không thể tồn tại, phát triển. Bác chỉ rõ, "Đảng hằng ngày hằng giờ vận dụng nguyên tắc phê bình và tự phê bình"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41; t.9, tr.413). Tự phê bình và phê bình đã được ghi thành chế độ, quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, bảo đảm tính pháp lý để mọi tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên, bất kể là ai, đều phải chấp hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc.


Rõ ràng, quan niệm của Bác về tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại, phát triển, là nguyên tắc và là chế độ sinh hoạt Đảng, hoàn toàn không có gì mâu thuẫn mà thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo Bác, tự phê bình và phê bình còn là một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng cơ hội, xét lại, cải lương.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 07:56:58 pm
Xa rời tự phê bình và phê bình là xa rời bản chất Đảng, là nguy cơ gây ra tình trạng trì trệ, bảo thủ, là chỗ dựa vững chắc của khuyết điểm, sai lầm, yếu kém, của sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, tạo kẽ hở để những kẻ xu nịnh, thoái hóa, biến chất tồn tại; bọn cơ hội, xét lại chui vào Đảng, thậm chí, thao túng, lũng đoạn, làm cho Đảng biến chất, thoái hóa, mất sức chiến đấu. Điều đó hoàn toàn đúng với thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm 90 của thế kỷ XX, khi Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản Đông Âu bị "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa.


Điều đó có thể khẳng định rằng, trong điều kiện ngày nay, bất cứ một Đảng Cộng sản nào, nếu xem nhẹ tự phê bình và phê bình, không thường xuyên phát hiện những sai lầm, đặc biệt là những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, công tác tư tưởng và tổ chức, cán bộ, để xảy ra tình trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm suy yếu, dẫn đến phá hoại Đảng. Bác luôn luôn nhấn mạnh: tự phê bình và phê bình một mặt để sửa chữa cho nhau; mặt khác, để bắt chước nhau làm việc tốt, để nêu gương, dạy dỗ đảng viên, quần chúng tiến bộ. Vì vậy, tự phê bình và phê bình vừa là hành động cách mạng vừa là một nghệ thuật mang tính khoa học cao. Việc phê bình, xem xét, đánh giá, chỉ rõ đúng - sai nhất thiết phải bảo đảm tính trung thực, khách quan và công khai; phải phân tích kỹ lưỡng điều kiện, hoàn cảnh, nguyên nhân khách quan, chủ quan tạo nên ưu điểm, dẫn đến khuyết điểm; tức là "nói có sách, mách có chứng"; có như vậy, ý kiến đóng góp, phê bình mới chính xác, có sức thuyết phục cao.


Bác nhiều lần nhắc nhở chúng ta rằng, tự phê bình và phê bình cần có thái độ khách quan, trung thực, tôn trọng sự thật, không khách sáo xã giao, không lồng ý đồ cá nhân ích kỷ, không vội vàng quy kết, chụp mũ cho đồng chí, đồng đội của mình, phải lấy lòng nhân ái, thành thật mà phê phán đồng chí. Do đó, tự phê bình và phê bình cần công khai, hết sức tránh chuyện "bàn tán xì xào", trong hội nghị thì "thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý, thứ ba ra về" nhưng ngoài hội nghị thì bàn tán râm ran, nói sai sự thật, gây mâu thuẫn, nghi kỵ, hiếu nhầm nhau. Vì thế, Bác luôn coi trọng và đề cao tính dân chủ, công khai trong sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình. Công khai tự phê bình và phê bình có tác dụng rất tốt, cán bộ, đảng viên, quần chúng có thể học tập ưu điểm lẫn nhau và rút kinh nghiệm từ khuyết điểm của người khác mà tránh sai sót tương tự; đồng thời, ngăn ngừa được tình trạng phát ngôn "vô tổ chức", nghi kỵ, thiếu tin tưởng, không thừa nhận, thiếu tôn trọng nhau.


Bác cho rằng, "Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.324; t.9, tr.521); còn nếu như sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị khi thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình là một chứng bệnh cần khắc phục. Vì vậy, Bác luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên "phải nâng cao giác ngộ tư tưởng ngăn ngừa tự đại tự cao, mạnh dạn công khai tự phê bình, vui vẻ tiếp thu lời phê bình của người khác"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.324; t.9, tr.521).


Bác cũng dạy chúng ta rằng, muốn tự phê bình và phê bình đạt chất lượng, hiệu quả cao, cần phải "thấu lý", "đạt tình"; tức là phải kết hợp nhuần nhuyễn cả lý và tình. Bởi vì, nếu chỉ "có lý" mà không "có tình" thì tự phê bình và phê bình dễ rơi vào cứng nhắc, máy móc, giáo điều, thiếu sức thuyết phục. Nêu chỉ "có tình" mà không "có lý" sẽ dẫn đến tình trạng "dĩ hòa vi quý", "ngươi không đụng đến ta thì ta không đụng đến ngươi"; tức là xuê xoa, buông lỏng, thậm chí làm sai nguyên tắc sinh hoạt Đảng.


Vì vậy, Bác thường dạy rằng, cán bộ, đảng viên, nhất là người chủ trì đơn vị, chủ trì hội nghị phải "khéo" sử dụng "vũ khí" tự phê bình và phê bình. Theo Bác, "khéo" sử dụng "vũ khí" tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng có nghĩa là biết dùng nghệ thuật để quan hệ, ứng xử sao cho thấu tình, đạt lý; nói cách khác, là sự nhuần nhuyễn giữa tinh và lý, sự hài hòa giữa nếp sống văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây, với nếp sống, đạo lý, phong tục tập quán, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Chữ "khéo" ở đây còn là hệ thống phương pháp tác động, thúc đẩy cùng chiều, cùng hướng để tạo thành tổng hợp lực: từ sự trong sáng của cái tâm, sự chân thành giúp đõ, giáo dục, cảm hóa, thuyết phục, tỉnh táo để phê phán, áp dụng các hình thức kỷ luật là nặng hay nhẹ, cốt để người nhận ra lẽ phải, trái, đúng sai, sớm sửa chữa khuyết điểm, mau tiến bộ, trưởng thành.


"Khéo" sử dụng "vũ khí" tự phê bình và phê bình còn là một phương pháp cách mạng vừa là một nghệ thuật cách mạng. Phương pháp và thái độ đúng đắn nhất trong tự phê bình và phê bình là đứng vững trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phải xem xét sự việc một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, thực tiễn và theo quan điểm phát triển; có nhân tâm trong sáng và tinh thần cách mạng kiên cường, vì việc vì người, đúng như lời dạy của Bác: "Phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.272); làm sao sau hội nghị, sau phê bình, bản thân mình và người nhận được phê bình đều vui vẻ, thoải mái, hăng say rèn luyện, phấn đấu, không cảm thấy "lòng nặng như đá đeo", mặc cảm, thu mình trong vỏ ốc, tự vệ, phòng thủ, giữ mình, xa lánh mọi người.


Tư tưởng của Bác về tự phê bình và phê bình là một trong nhiều nội dung câu thành tư tưởng, lối sống, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, học tập vấn đề này giúp chúng ta không chỉ hiểu biết sâu sắc hơn tấm lòng, khát vọng, ý chí nghị lực phi thường và nỗi quan tâm đặc biệt của Người đối với sự nghiệp xây dựng Đảng, khẳng định con đường cách mạng Việt Nam mà còn là thang thuốc quý để dưỡng tâm, dưỡng tính, nâng cao ý chí, tinh thần; đồng thời, ngăn chặn, phòng chống, điều trị các chứng bệnh, thói hư tật xấu cản trở bước tiến của người cách mạng.


Điều Bác nói trước đây đã kiểm nghiệm là đúng, vận dụng vào xem xét tình cảnh ngày nay thấy chẳng hề sai, nhất là trong điều kiện, hoàn cảnh, chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cái tốt, cái tích cực đan xen với các tệ nạn, tiêu cực xã hội, đã và đang phát sinh, nảy nở. Các chứng bệnh vốn có của cơ chế kinh tế thị trường dù đã nhận biết, có sự việc đã nhìn rõ mặt nhưng quá trình đấu tranh loại bỏ những tiêu cực, hạn chế, thiếu sót của nó không phải dễ dàng, muốn là làm xong ngay trong một sớm một chiều.


Nhận thức đúng bản chất sự việc, có ý chí tiến thủ, nuôi dưỡng lòng kiên trì và luôn đề cao tinh thần cách mạng tiến công là vũ khí sắc bén, rất hiệu nghiệm để chúng ta xóa bỏ những tàn dư, thói hư tật xấu; tự tin, vững bước trên con đường đấu tranh cách mạng. Bí quyết của sự thành công này là thực hiện thật tốt lời dạy của Bác kính yêu: nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng và trong xã hội ta. Đây cũng là phương sách hữu hiệu để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, phòng chống "diễn biến hòa bình", không mắc mưu "tự chuyến biến", "tự chuyển hóa" do các thế lực thù địch gây ra.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 07:58:44 pm
VII- ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Tư tưởng, nhận thức lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động sống của con người và xã hội. Theo Bác Hồ: Tư tưởng, nhận thức lý luận tựa như cái "la bàn" giúp người ta định vị, xác định phương hướng, dẫn dắt người ta đi đúng con đường lựa chọn. Cho nên, tư tưởng chỉ đạo hành động, nhận thức đúng, hiểu đúng thì làm đúng; nhận thức sai, hiểu sai sẽ làm sai. Sai một ly đi một dặm. Kẻ thù của chúng ta rất hiểu điều này và chúng triệt để lợi dụng vấn đề tư tường, lý luận để chống phá ta.


Âm mưu cơ bản, mục tiêu xuyên suốt, lâu dài của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta; chúng coi đây là khâu cơ bản, mấu chốt nhất để hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chúng cho rằng, xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng thì hệ quả tất yếu của nó là xóa bỏ được Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và công cụ bạo lực của Nhà nước ta là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Đây là cơ sở để tiêu diệt tận gốc mầm mống xã hội chủ nghĩa ở nước ta và thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành được.


Vì vậy, dù có thay hình đổi dạng, thì về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chúng đối với nước ta không hề thay đổi. Việc phương Tây thông qua "hợp tác đầu tư", thực hiện một số dự án kinh tế, quan hệ thương mại với Việt Nam, đổ một ít tiền của vào Việt Nam không phải là vì "lòng tốt, hảo tâm", muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam thụ hưởng lợi ích cũng như việc săn đón, mời chào các đoàn cán bộ, học sinh, sinh viên Việt Nam du học ở phương Tây không phải để củng cố, phát triển ý thức hệ Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà trái lại, chống phá ta về lâu dài bằng cách "thay máu cho hệ tư tưởng", loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thay vào đó là lý luận của giai cấp tư sản phản động.


Cùng với việc phát tán và thẩm thấu các tài liệu qua biên giới, gần đây, các thế lực thù địch tiếp tục tận dụng triệt để mạng xã hội, facebook... nhắn, gửi, tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ nhiều người cùng kết nối và tham gia vào các tổ chức, hoạt động tuyên truyền và lập kế hoạch tiến công. Chúng không từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn xảo trá nhất để chống phá chính quyền các cấp dưới những hình thức khiếu kiện, biểu tình..., và trương những khẩu hiệu phản động, chống đối về tư tưởng chính trị nhằm tạo dựng, thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Đồng thời, chúng liên kết chặt chẽ giữa các lực lượng, thành phần cả bên trong và bên ngoài, với các tổ chức chính trị, nhân quyền, tôn giáo quốc tế phát tán rộng khắp và dày đặc các tư tưởng, quan điểm phản động.


Hơn thế, chúng triệt để tận dụng các yếu kém mà Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan truyền thông của ta nhận định, kết luận làm "bằng cớ" tiến công tư tưởng, lý luận; kết hợp bịa đặt, xuyên tạc, lật ngược và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống lịch sử dân tộc, cách mạng, hòng tác động tới tâm lý, tư tưởng, tình cảm, sự bất bình, bất mãn trong cán bộ, đảng viên, quần chúng. Chúng đã và đang tiếp tục sử dụng các chiêu bài cũ như phê phán các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, làm sai lệch mục đích, ý định sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bôi nhọ nhân cách, thân thế sự nghiệp của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ và hiện nay nhằm gây mâu thuẫn trong nội bộ, hạ thấp uy tín của Đảng ta, thực hiện mưu đồ "tự chuyến biến", "tự chuyển hóa" mà chúng đã xác định.


Nội dung chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay của các thế lực thù địch tập trung trên các vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Tiếp tục xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin trên những nguyên lý nền tảng nhất, khuyên Việt Nam nên từ bỏ lý thuyết của Các Mác, của V.I. Lênin - nền tảng của xã hội cộng sản, cốt lõi là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là mũi tiến công tư tưởng - lý luận chủ yếu, thường xuyên, liên tục với mật độ cao của các thế lực thù địch trong năm 2013, 2014 và sẽ mạnh hơn trong năm 2015, 2016. Chúng trích dẫn, cắt xén, vứt bỏ những vấn đề lịch sử, cụ thể, đảo lộn hoàn toàn học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.


2. Tập trung xuyên tạc những vấn đề cơ bản nhất trong Hiến pháp năm 2013, coi đó là mũi nhọn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Mục tiêu của chúng là:

- Tiến công phá bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Phủ nhận thể chế chính trị nhất nguyên, kêu gọi, yêu cầu hiến định thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

- Phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chế độ xã hội, nhà nước, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp. Đây là nội dung trọng điểm với cường độ, mật độ dày đặc các bài viết đã công bố trên các trang mạng, phát tán qua các tài liệu trong năm 2013.

Các luận điệu tung ra chẳng có gì mới, chúng vẫn nhai lại điệp khúc bác bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi "phi chính trị hóa" quân đội, quân đội phải trung lập, kêu gọi quốc gia hóa quân đội.

Luận thuyết về "phi chính trị hóa" quân đội, các lực lượng vũ trang gổm: Quân đội của một quốc gia phải đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết; phải "phi đảng phái", không để các đảng phái can thiệp vào các chính sách đối nội của quân đội.


3. Xuyên tạc lịch sử cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bôi nhọ và phủ nhận vai trò, công lao của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc thân thế, thanh danh và công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đảo lộn lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tuyên truyền, bịa đặt ý nghĩa dân tộc và thời đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


4. Tuyên truyền, bịa đặt sai sự thật, ra sức chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, chính quyền nhà nước; phủ nhận công lao của Đảng trong công cuộc đổi mới. Xuyên tạc tình hình chính trị ở nước ta hiện nay nhằm phủ nhận vai trò của Đảng trong sự nghiệp đổi mới; tạo dựng các vấn đề giả để chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa Đảng và Nhà nước...


5. Xuyên tạc, làm sai lệch tinh thần, nội dung và kết quả các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, cô lập nước ta trên trường quốc tế.


6. Bác bỏ, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong 30 năm đổi mới đất nước; qua đó, kích động các tư tưởng chống Đảng và bạo động, gây rối ren tình hình chính trị - xã hội.


7. Khoét sâu yêu kém, tạo dựng, lan truyền tư tưởng "chán chường", "mất niềm tin", hòng gây hoang mang trong Đảng, quần chúng nhân dân; tiêm nhiễm những tư tưởng và mưu đồ "cải tổ" xã hội trong nhân dân.


8. Xuyên tạc, vu cáo tình hình dân chủ, nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam; tuyên truyền quan điểm nhân quyền tư sản, tự do tuyệt đối, đấu tranh bất bạo động; kích động tư tưởng, hành động chống đối, lật đổ chính quyền.

Điểm đáng chú ý là chúng đã lập mới nhóm "blogger trẻ", ra "tuyên bố 258", hoạt động công khai, bán công khai, liên tục phát tán thông tin, kêu gọi biểu tình, chống đối, sự ủng hộ của dư luận trong, ngoài nước, hòng buộc Việt Nam bãi bỏ Điều 258: "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" trong Bộ luật hình sự.


9. Lợi dụng việc sửa đổi Hiến pháp, chúng tiếp tục tiến công tư tưởng đòi tách sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:00:39 pm
Trong năm 2013-2014, quân đội đã chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận và đạt được những kết quả rất đáng trân trọng với ưu điểm nổi bật là:

Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, toàn quân đã làm tốt công tác dự báo âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ.


Chúng ta đã dự báo đúng âm mưu, thủ đoạn mới trong chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, đã nhìn thấy rõ việc chúng sẽ triệt để lợi dụng việc Quốc hội chủ trương lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân về Dự thảo sửa đối Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đối Luật đất đai năm 2003 để tuyên truyền những quan điểm sai trái, phản động, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về xác định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; tiếp tục đẩy mạnh chống phá, đòi "phi chính trị hóa" quân đội, kêu gọi "quân đội trung lập về chính trị"; xuyên tạc, bóp méo thành quả của cách mạng nước ta, phủ nhận bản chất và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc ý nghĩa của việc Quốc hội tổ chức lấy ý kiến góp ý của nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, phủ nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đòi tư nhân hóa đất đai.


Đồng thời, chúng ta đã dự báo chính xác và có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động tuyên truyền nhằm xuyên tạc kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay, các nghị quyết, kết luận của các hội nghị Trung ương khóa XI, v.v...


Trên thực tế, sự chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch đã diễn ra gần đúng như kịch bản mà chúng đã dàn dựng và những điều chúng ta đã dự báo, đã nhìn thấy trước nên việc triển khai công tác đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở; trong đó có quân đội đã diễn ra đúng hướng, luôn chủ động, kịp thời, làm thất bại các thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, sự ổn định chính trị, trận tự an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Thứ hai, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, các cơ quan chức năng, cấp ủy và chỉ huy các cấp đã làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận.


Ngay từ đầu năm, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và Ban Chỉ đạo đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở các đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã làm tốt việc tổng kết đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận, sớm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp và tổ chức lực lượng đấu tranh.


Quân ủy Trung ương, trực tiếp là thủ trưởng Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo, giao nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận cho các cơ quan, đơn vị có liên quan, trong đó có bộ phận chuyên sâu của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Đặc biệt, khi xuất hiện những "điểm nóng" trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận, Ban Chỉ đạo đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo và tổ chức lực lượng xung kích, kịp thời đấu tranh có hiệu quả, như việc tổ chức đấu tranh chống các quan điểm, luận điệu sai trái dưới vỏ bọc là kiên nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, mà cốt lõi là phát tán bản Dự thảo Hiến pháp năm 2013 do các nhóm này soạn thảo.


Trong quá trình tổ chức đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận, quân đội đã thường xuyên tổ chức sơ kết, kịp thời rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn công tác này. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị, các đầu mối cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã tổ chức sơ kết đánh giá ưu điểm, hạn chế; xác định phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp đấu tranh; đề xuất, kiến nghị về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm cho nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận trong thời gian tới. Trên cơ sở sơ kết đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận, các đầu mối cơ quan, đơn vị trong toàn quân, Ban Chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị đã tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả đã đạt được của đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận thời gian qua; xác định phương hướng, nhiệm vụ, lực lượng, phương tiện, biện pháp đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận trong thời gian tới.


Thứ ba, quân đội đã phát huy được sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận.

Nhiều cơ quan, đơn vị quân đội tích cực triển khai đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực này, tiêu biểu là: Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Truyền hình Quốc phòng Việt Nam, v.v...


Nhiều cơ quan, đơn vị quân đội đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan lý luận của Đảng, Nhà nước, bộ, ban, ngành như phó'i hợp với Hội đồng lý luận Trung ương, Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Cộng sản điện tử, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Công an nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương... cùng đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận.


Thứ tư, nội dung, hình thức, biện pháp đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội phong phú, đa dạng, hiệu quả hơn.

Trong những năm qua, nhiều cơ quan, đơn vị đã kết hợp tốt các hình thức tuyên truyền giáo dục, sinh hoạt chính trị tư tưởng, trao đổi, tọa đàm, hội thảo khoa học, thông qua hội nghị góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đổi Luật đất đai năm 2003,... để đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch. Đồng thời, toàn quân đã sử dụng tốt các phương tiện thông tin báo chí, phát thanh, truyền hình, internet, báo cáo viên, tuyên truyền viên,... tuyên truyền, đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận. Tiêu biểu là báo Quân đội nhân dẩn, ngoài chuyên mục "Làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình" thứ hai, thứ tư hằng tuần, đã mở thêm mục "Góp ý Dự thảo Hiến pháp" hằng ngày, đăng tải các ý kiến góp ý của nhân dân, lực lượng vũ trang vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đổi Luật đất đai năm 2003, trực tiếp đấu tranh với những luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch, phản động.


Bên cạnh hình thức đấu tranh tư tưởng, lý luận qua các bài viết chính luận trên các báo, tạp chí và phương tiện thông tin đại chúng, đã xuất bản sách Sự thật về tôn giáo ở Việt Nam (Học viện Chính trị biên soạn); tổ chức Hội thảo khoa học: "Đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực lý luận" (Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự)..., thu hút nhiều cán bộ, nhà khoa học trong, ngoài quân đội tham gia. Sau hội thảo, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự đã tuyển chọn các bài tham luận, biên soạn và xuất bản sách đấu tranh tư tưởng, lý luận với tiêu đề: Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Đây là một trong những cuốn sách được sử dụng làm tài liệu học tập chính thức của các lớp nguồn do Ban Bí thư tổ chức ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


Trong những năm qua, nhiều đơn vị trong toàn quân, trong đó có Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự..., đã tích cực triển khai hình thức đấu tranh tư tưởng, lý luận thông qua các blog cá nhân do đơn vị quản lý nhằm sử dụng, phát huy vai trò lực lượng chuyên sâu trong đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái trên các trang mạng xã hội. Đây là hình thức đấu tranh mới, mềm dẻo, linh hoạt, lượng người đọc đông, tầm ảnh hưởng rộng, kịp thời tuyên truyền quan điểm chính thông, định hướng dư luận và phê phán các quan điểm sai trái, thù địch.


Thứ năm, số lượng, chất lượng các sản phẩm, bài viết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội được nâng lên.

Toàn quân đã triển khai đấu tranh khá toàn diện trên các nội dung mà các thế lực thù địch chống phá; số lượng các sản phẩm, bài viết đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội tăng lên đáng kể. Chất lượng sản phẩm, bài viết cũng được nâng lên, tạo được tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội.


Nhìn chung, do làm tốt công tác dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị và của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, các đơn vị, nên toàn quân đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận; kịp thời vạch trần bản chất phản động về chính trị, phản khoa học của các luận điệu tuyên truyền của chúng; phê phán những nhận thức không đúng, mơ hồ, lệch lạc, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao nhận thức, giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ quân đội và xã hội, sự ổn định chính trị đất nước, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:01:54 pm
Bên cạnh những ưu điểm, việc triển khai đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội còn có những hạn chế nhất định, trong đó nổi lên là: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị của một số cơ quan, đơn vị về đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận còn những hạn chế nhất định. Đáng lưu ý là khâu xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện đấu tranh chưa kịp thời, chỉ đạo chưa thật kiên quyết, dẫn đến kết quả còn có mặt hạn chế.


Một số ban chỉ đạo đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở một số cơ quan, đơn vị quân đội chưa phát huy tốt vai trò tham mưu, đề xuất với cấp ủy cấp mình những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo việc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận ở các đơn vị thuộc quyền.


Việc tổ chức đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội vẫn thiếu những hình thức, biện pháp hâp dẫn, quy mô lớn, tầm ảnh hưởng rộng (như các buổi tọa đàm trên Chương trình phát thanh Quân đội nhân dân, kênh Quốc phòng Việt Nam của Trung tâm phát thanh, truyền hình quân đội; xuất bản loại sách nhỏ, tuyên truyền chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, v.v...). Sự liên kết, phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan thông tấn báo chí, đơn vị, học viện, nhà trường, các viện nghiên cứu khoa học còn thiếu chặt chẽ; các hình thức, biện pháp đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận chưa được tổ chức phong phú, đa dạng và thống nhất.


Số lượng bài viết đấu tranh tư tưởng, lý luận sắc sảo, có tính thuyết phục khoa học chưa cao, còn nặng về lý luận, thiếu đấu tranh trực diện, vạch trần bản chất, âm mun, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Lực lượng tham gia viết bài đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của quân đội vẫn chủ yếu là một bộ phận thuộc lực lượng nòng cốt, chuyên sâu (cán bộ lãnh đạo, cán bộ khoa học, phóng viên, biên tập viên); bộ phận lãnh đạo chủ chốt của cơ quan chiến lược, đơn vị địa phương, cơ sở còn ít người tham gia; nhân tố mới, cán bộ, giảng viên của một số học viện, trường sĩ quan, cán bộ trẻ ít xuất hiện.


Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do ban chi đạo đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận ở một số cơ quan, đơn vị quân đội vẫn còn thụ động, trông chờ vào cấp trên, coi việc đấu tranh này chủ yếu là nhiệm vụ của các cơ quan thông tấn báo chí, các học viện, nhà trường, của các viện nghiên cứu khoa học, chưa kiên quyết trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện.


Năng lực lãnh đạo, chi đạo của cấp ủy, chỉ huy của một số cơ quan, đơn vị đối với việc đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận còn có những hạn chế; có lúc bị động, bất ngờ trước tình huống và nhiệm vụ khó khăn trên giao.


Công tác tổ chức, bảo đảm, cơ chế, chính sách trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận của Đảng, Nhà nước và quân đội còn có những bất cập nhất định, nên chưa huy động và tổ chức được đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận trên quy mô lớn với nhiều tầng, nhiều lớp tham gia; tầm ảnh hưởng chưa rộng; chưa động viên, khuyến khích được các lực lượng chủ công trong quân đội, lực lượng đông đảo ngoài quân đội tham gia.


Để nâng cao hơn nữa chất lượng đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận, cần tập trung thực hiện thật tốt một số giải pháp chính sau:

Một là, cần triển khai kịp thời việc tổng kết, rút kinh nghiệm về việc triển khai cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận, chỉ ra những việc cần làm ngay và những công việc mang tính cơ bản, căn cốt nhất để ngăn chặn, đẩy lùi mọi hành vi, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá trung thực, khách quan những kết quả, thành tựu đạt được; những hạn chế, khuyết điểm, qua đó, rút ra những kinh nghiệm về tổ chức đấu tranh tư tưởng, lý luận một cách kịp thời và cụ thể, thật sự nghiêm túc, hiệu quả.


Hai là, tập trung nâng cao nhận thức cho toàn quân và cả xã hội đối với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận. Đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, quần chúng nhận thức đúng, rõ ràng bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận của các thế lực thù địch, đặc biệt là làm chuyến biến nhận thức của giới trẻ để họ có định hướng chính trị đúng đắn; không bị mắc mưu các thế lực thù địch. Thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng bộ đội, phát hiện kịp thời những tình huống phức tạp.


Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong toàn quân. Củng cố vững chắc niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và chiến đấu của quân đội.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:02:29 pm
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp, kiến nghị đã đề xuất, tập trung chỉ đạo thống nhất nội dung, hình thức và lực lượng đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận. Cần chỉ đạo tập trung thống nhất từ trung ương đến đơn vị cơ sở, ở tất cả các cấp cả về nội dung, lực lượng và biện pháp, hình thức đấu tranh. Chú trọng khuyến khích và tăng cường lực lượng, phương tiện phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận; phát huy vai trò của các lực lượng ở các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường quân đội. Tổng cục Chính trị cần chỉ đạo tốt hơn nữa đối với các lực lượng trong toàn quân và phối, kết hợp với các lực lượng bên ngoài; đồng thời, lựa chọn một số nhà khoa học, nhà lý luận có bản lĩnh chính trị vững vàng và chuyên môn cao, có năng lực đấu tranh, kết hợp giữa xây dựng lực lượng "mũi nhọn", nòng cốt và rộng khắp trên mặt trận đấu tranh này.


Bốn là, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị có năng lực và trách nhiệm chủ động lựa chọn một số nội dung lý luận cơ bản, trọng điểm, có ảnh hưởng tư tưởng lớn, xây dựng các vấn đề đấu tranh với nhiều hình thức phong phú, tập trung nâng cao chất lượng bài viết, đăng tải các bài trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng, xuất bản sách, phát hành trong toàn quân và xã hội. Dự kiến trước các vấn đề, hướng nội dung tiến công của chúng và lực lượng đấu tranh của ta, tránh thụ động, bị động đối phó.


Tổ chức biên soạn, xuất bản và phát hành sách đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hóa trên những nội dung về quân sự, quốc phòng, hệ tư tưởng chính trị, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, đặc biệt là về nhân quyền, quyền con người, Hiến pháp, các văn bản pháp luật mới, các văn kiện Đảng. Cần thành lập ban chỉ đạo chọn tuyển sách do Tổng cục Chính trị phụ trách và lập ban tuyển chọn, biên tập các sách đấu tranh tư tưởng lý luận với sự tham gia của một số nhà khoa học, biên tập viên quân đội có đủ uy tín, đủ bản lĩnh và trình độ lý luận; đồng thời có sự bảo đảm về điều kiện vật chất, kinh phí cần thiết đủ để thực hiện nhiệm vụ.


Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức tọa đàm, hội thảo khoa học đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận kết hợp với kịp thời tuyên truyền và biên soạn, xuất bản sách chuyên đề về phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận... Tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục hướng vào những ngày lễ lớn của quốc gia và quân đội, như các ngày thành lập Đảng 3-2, Đại thắng mùa Xuân 1975, Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12...


Các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường, báo chí quân đội phải có kế hoạch nghiên cứu, tuyên truyền khẳng định rõ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chú trọng vào nhũng vấn đề nguyên tắc, nhạy cảm; đấu tranh sắc bén nhằm phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, vạch rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.


Năm là, lựa chọn và tăng cường giao nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng trực tiếp đấu tranh, những cán bộ có kinh nghiệm, trình độ, động viên tinh thần trách nhiệm đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận. Bổ sung và bảo đảm tốt hơn nữa việc đầu tư và sử dụng kinh phí hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực này theo hướng thiết thực, hiệu quả và trực tiếp đến các tập thể và cá nhân đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận...


Trước mắt, cần tập trung giải quyết ngay một số nội dung cần kíp:

- Tiếp tục đề cao cảnh giác, chủ động, tích cực đối mới công tác giáo dục lý luận chính trị, phổ biến, tuyên truyền làm cho mọi người nhận thức đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình". Chú ý tập trung vào những diễn biến mới về tình hình biển Đông và hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta...

- Phát huy hơn nữa vai trò xung kích của các cơ quan tuyên giáo, báo chí của quân đội và quản lý chặt chẽ các trang mạng xã hội trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận hiện nay. Tổ chức tốt việc phổ biến, tuyên truyền các nghị quyết Trung ương khóa XI, dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; có các bài viết phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, những nhận thức không đúng về vấn đề này.

- Tổng rà soát lại chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho các đối tượng người học; lập lại các môn học lịch sử của ba môn lý luận Mác - Lênin: Triết học, Kinh tế chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học; bổ sung Lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh, để thế hệ sau hiểu rõ nguồn gốc nền tảng lý luận của Đảng ta.

- Tích cực, chủ động bồi dưỡng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền miệng, lực lượng viết trẻ theo hướng chuyên sâu, theo mảng vấn đề qua các đợt thi hằng năm để tạo nguồn kế cận, kế tiếp đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận. Chọn lọc khoảng 30 - 35 cán bộ chuyên trách đấu tranh tư tưởng, lý luận trong toàn quân, do Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị trực tiếp quản lý, có chương trình, sinh hoạt định kỳ, biết một số thông tin hạn chế, và phân công viết bài chống "diễn biến hòa bình" từng tháng. Sau đó, hằng năm kết nạp bổ sung vào lực lượng này các cây bút trẻ nổi trội trong năm.


Cho đến nay, đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận chống quan điểm sai trái, phản động của giới cầm quyền phản động nước ngoài đối với Việt Nam, chưa thành nền nếp, chưa thành hệ thống, chưa rõ chủ thuyết của họ; nên trong nhận thức và chỉ đạo nội dung, phương thức đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận chống giới cầm quyền phản động nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, chúng ta chưa thống nhất được nhận thức về phương diện này. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu tổ chức hội thảo hay tọa đàm khoa học để làm rõ cơ sở lý luận, nguồn gốc, bản chất, âm mưu, thủ đoạn, chủ thuyết của giới cầm quyền phản động nước ngoài trong chống phá Việt Nam, giải pháp phòng tránh, đánh trả, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc. Cần sử dụng kết quả các hội thảo khoa học để tuyên truyền và chọn lực lượng cốt cán để viết các bài chống giới cầm quyền phản động nước ngoài, cũng như các lực lượng chống đối bên trong, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng...


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:03:45 pm
VIII- VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG PHÒNG, CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" HIỆN NAY

Văn bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám đã viết: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không ý thức sâu sắc việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí cho quốc gia, dân tộc hưng vượng; làm cho quốc gia, dân tộc tăng các yếu tố nội sinh để dân luôn được no ấm, luôn được yên vui, luôn có niềm tin vào triều đình mà cố sức xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là cái nền gốc để đất nước thái bình, thịnh vượng, không nảy sinh loạn lạc, không có binh đao, đổ máu.


Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định rằng, giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cho được một đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng. V.I. Lênin viết: "Thông thường thì các chính đảng đều nằm dưới quyền lãnh đạo của những nhóm ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất, được bầu ra giữ những trách nhiệm trọng yêu nhất và người ta gọi đó là các lãnh tụ"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.30), tức là những người có tri thức uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của dân tộc, thời đại; luôn gắn bó mật thiết và quy tụ được quần chúng, được quần chúng tin yêu, tín nhiệm.


Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã minh chứng rằng, nếu không có một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, đặc biệt bảo đảm về chất lượng thì không thể nói tới sự bảo tồn, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng. "Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều, những người phụ tá..., biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ"1 (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.407). Vì lẽ đó, Bác Hồ coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Theo Bác, bất luận như thế nào, phải lấy công việc để sắp xếp người, chứ không phải lấy người để đặt vào công việc. Nếu để cán bộ "ngồi nhầm ghế" do không có đức, có tài thì vừa làm khổ người ta, lại có hại cho cách mạng.


Không ít lần Bác căn dặn: Muốn chủ nghĩa xã hội thành công, thì trước hết phải có con người mới xã hội chủ nghĩa - đó là những cán bộ, công nhân, viên chức có đủ tài, đủ đức để gánh vác trọng trách nặng nề của đất nước mà nhân dân giao phó. Nếu có cán bộ tốt thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn. Đây là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có cán bộ tốt thì dù có đường lối, chính sách đúng cũng không thể biến thành hiện thực. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, thực hiện chiến lược con người ở nước ta.


Trong những năm đổi mới đất nước, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị do được thử thách, rèn luyện trong thực tiên - trường học lớn của cách mạng nên đại bộ phận có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Phần lớn cán bộ vẫn giữ được phẩm chất đạo đức người cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Không ít những tấm gương sáng của cán bộ về đạo đức, lối sống, vượt lên sự cám dỗ và dục vọng cá nhân, dám đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, được nhân dân tin yêu, tôn trọng, ủng hộ.


Tuy vậy, Đảng ta cũng đã thẳng thắn chỉ ra những yêu kém của đội ngũ cán bộ; đó là, việc ''chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"1 (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.68), "tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.15). Một số cán bộ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội còn mơ hồ, có biểu hiện hoài nghi đường lối của Đảng. Không ít cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có biểu hiện chủ quan, duy ý chí, chưa sâu sát cơ sở, chưa nhanh nhạy nắm bắt diễn biến tình hình thực tiễn nên không có quyết sách, chủ trương kịp thời, sáng tạo, chưa vào cuộc quyết liệt để giải quyết các vấn đề bức xúc đặt ra, để tồn đọng, dây dưa nhiều sự việc, gây bất bình trong nhân dân. Một số cán bộ thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, tiêu xài lãng phí của công; bè phái, cục bộ, gia trưởng, độc đoán, cơ hội chủ nghĩa. Nhìn chung, việc phát huy vai trò tiên phong, nêu gương về đạo đức, lối sống của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, gắn lời nói với việc làm, thực hiện lời hứa với nhân dân của một số cán bộ còn yếu kém.


Đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay tuy đông nhưng vẫn còn tình trạng "vừa thừa, vừa thiếu", không đồng bộ giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành, lĩnh vực với các vùng, miền, lãnh thổ. Trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ công chức hành chính và cán bộ chính quyền cơ sở còn có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là về quản lý kinh tế thị trường, quản lý xã hội. Nền hành chính nhà nước còn thiếu nhiều cán bộ, công chức là những chuyên gia giỏi, có năng lực chỉ huy, điều hành, hoạch định các chính sách và năng lực tổ chức thực hiện. Tình hình trên đang là một trong những "điểm nghẽn", gây hại lớn về chính trị, kinh tế, làm giảm uy tín và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây bất bình trong xã hội, đê các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.


Từ thực tiễn trên đây, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước vừa "hồng", vừa "chuyên", ngang tầm sự nghiệp cách mạng là yêu cầu khách quan và cấp bách. Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc, không cho phép sai lầm là xây dựng cho được đội ngũ cán bộ thật sự vừa "hồng" vừa "chuyên", thực đức, thực tài, trong đó đạo đức luôn luôn là gốc. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là phải phát hiện, chọn lọc kỹ lưỡng, đào tạo, bồi dưỡng những người tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta, phát huy phẩm chất, năng lực tổ chức thực tiễn và khả năng đoàn kết, quy tụ cán bộ, quần chúng nhân dân; có lối sống trong sạch, lành mạnh; không tham nhũng, quan liêu, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, chống quan liêu, lãng phí; đề cao sự gương mẫu của bản thân cán bộ, không lạm dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình, người thân.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:04:27 pm
Trong điều kiện lịch sử mới, người cán bộ ngoài việc mẫu mực về tư tường chính trị, đạo đức, lối sống đồng thời cần có trình độ tư duy chính trị - xã hội sâu sắc và toàn diện; biết đánh giá sự kiện, tình hình, thông tin, con người...; biết giải quyết sự việc, vấn đề khó khăn phức tạp một cách nhanh, nhạy, hiệu quả; có trình độ lý luận đủ để thấu hiểu sâu sắc các nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đủ khả năng để phổ biến, tuyên truyền và đưa các nghị quyết, chính sách và pháp luật vào cuộc sống; có trình độ lý luận chính trị đủ để phê phán và vạch trần những tư tưởng, hành vi lệch lạc, chống đối và xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trong bất kỳ tình huống nào người cán bộ cũng không được dao động, hoang mang, mà phải kiên trì thực hiện cho bằng được những nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, có tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và kỷ luật trong công việc, có ý thức tự giác, cố gắng khắc phục mọi khó khăn, trờ ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ; sống trong sạch, lành mạnh; biết điều chỉnh bản thân, điều chỉnh hành vi của bản thân phù hợp với tập thể, cộng đồng. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm, người cán bộ phải dũng cảm nhận trách nhiệm về mình và kiên quyết sửa chữa, khắc phục; thậm chí dũng cảm xin từ chức nếu thấy có lợi cho cách mạng, cho dân, cho đất nước.


Nhân cách người cán bộ của Đảng, Nhà nước không tự nhiên mà có được; học tập, rèn luyện một lần là xong, mà phải khổ công, kiên trì rèn luyện như "rửa mặt hằng ngày", thậm chí phải đấu tranh quyết liệt để chiến thắng chính bản thân mình. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, người cán bộ cần có cả đức và tài. Ở đây, mặt "tài" của người cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể xác định theo một số yêu cầu cụ thể sau đây:

- Có năng lực tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, bao gồm: sự nhạy cảm về tổ chức, sự thấu đáo và năng lực điều khiển, sự am hiểu về con người, thời cuộc; tính cởi mở, óc sáng suốt, tháo vát, tính kiên nghị, khả năng chan hòa với mọi người, thu hút nhân tâm; quy tụ, đoàn kết quần chúng; "lo trước cái lo của quần chúng, vui sau cái vui của quần chúng".

- Có năng lực ra quyết định chính xác, hợp lòng dân, đúng pháp luật; có khả năng độc lập, sáng tạo, tự chủ, vững vàng; có tầm trí tuệ, tính quyết đoán trong ra quyết định; có khả năng định hướng nhanh, chính xác các vấn đề cần giải quyết; khả năng dự báo, dự đoán, khả năng phân tích xử lý thông tin tốt; luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của quốc gia dân tộc lên trên hết.


Mặt tài trong nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thế hiện ở tầm hiểu biết sâu rộng, có tri thức và kinh nghiệm quản lý; có khả năng tổ chức, đoàn kết, liên kết; có khả năng phân tích tâm lý, biết cách làm việc với mọi người; có khả năng tác động tâm lý, gây ảnh hưởng tới quần chúng xung quanh; có trình độ chuyên môn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý; có một số kỹ năng hiện đại ở mức độ cần thiết về vi tính, ngoại ngữ, v.v...


Hiện nay, cần ưu tiên, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở cấp vĩ mô; các chuyên gia, tham mưu cấp chiến lược ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương. Cần xây dựng tiêu chuẩn và đưa ra các chính sách để những người ưu tú có điều kiện, có cơ hội tham gia vào nhóm cán bộ chiến lược; cần phải tìm kiếm, bồi dưỡng và hình thành nhóm lãnh đạo và quản lý tài năng, hội đủ các phẩm chất cần thiết của người cán bộ, đó là:

- Trí tuệ thông minh, hiểu biết sâu, rộng, tư duy lôgíc và tư duy lý luận phát triển và có năng lực dự báo, khả năng định hướng, tầm nhìn xa trông rộng để xác định đúng và trúng mục tiêu.

- Có những phẩm chất cá nhân nổi bật: giàu tính sáng tạo, nhiều ý tưởng mới; nhạy cảm và quyết đoán, kiên trì vượt qua những khó khăn, vướng mắc; có tư duy chiến lược, dự báo đúng tình huống nảy sinh và có biện pháp tối ưu để phòng, chống tiêu cực; giàu tính sáng tạo; giàu tính nhân văn, luôn hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ; có trách nhiệm trong cuộc sống gia đình, tập thể và cộng đồng.

- Có thể lực tốt và một số giác quan tương hợp phát triển: có thần kinh bền vững, có con mắt nhạy bén để nhìn người, nhìn sự việc một cách chính xác, đầy đủ.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới có chất lượng tốt, cần quán triệt các quan điểm, mục tiêu và tiêu chuẩn cán bộ một cách nghiêm túc. Trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp: vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyến chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.


Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và nhân dân để tuyến chọn cán bộ, quản lý, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.


Đổi mới, trẻ hóa cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành và địa phương; cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên giữ một chức vụ lãnh đạo ở đơn vị không quá hai nhiệm kỳ liên tục; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương. Kiên quyết không vì người mà xếp sẵn "ghế", không để lặp lại tình trạng một số ít cán bộ "ngồi nhầm ghế", gây hậu họa cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.


Đổi mới cách thức, quy trình thực hiện quy hoạch cán bộ. Đặc biệt chú trọng tạo được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu, tập trung vào cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học và chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh.


Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý và bảo vệ cán bộ.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ. Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, hệ thống chính sách đúng, hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, cố gắng yên tâm với công việc, nâng cao tính trách nhiệm của cán bộ, phát huy tính sáng tạo, thu hút nhân tài, làm cho nội bộ đoàn kết, mọi người đồng tâm hiệp lực. Đó là cơ sở nền tảng vững chắc nhất để khôi phục niềm tin yêu của quần chúng nhân dân đối với chế độ, đối với Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, là nhân tố đóng vai trò quyết định ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ chúng ta.


Tiêu đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 08:05:24 pm
LỜI KẾT


Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, gần 30 năm đổi mới vừa qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã vượt qua tình trạng đói nghèo, kém phát triển; tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh tiếp tục ổn định và phát triển; uy tín, vị thế của nước ta không ngừng nâng cao trên trường quốc tế; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm và phát triển tốt. Việt Nam tiếp tục nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Thế nhưng, "cây muốn lặng mà gió chẳng đừng", một số người do nhận thức chưa đầy đủ hoặc có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang câu kết với các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng những hạn chế, thiếu sót của ta trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế để thúc đẩy "diễn biến hòa bình" nhằm tác động "chuyển hóa" Việt Nam với những thủ đoạn ngầm, mềm, sâu, tinh vi, thâm độc hơn. Mục tiêu, âm mưu cơ bản, lâu dài, xuyên suốt, không hề thay đổi của các thế lực thù địch đối với nước ta là thực hiện "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.


Hiện nay, các thế lực thù địch đã thay đổi biện pháp chiến lược, chuyển từ "cứng rắn" sang "mềm dẻo", vừa thúc đẩy quan hệ để lôi kéo, vừa gây sức ép để tác động "chuyển hóa" chế độ chính trị ở Việt Nam theo hướng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta là chính. Gần đây, môi quan hệ giữa phương Tây và Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Phương Tây không đưa Việt Nam trở lại "danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo" (CPC); lên tiếng ủng hộ Việt Nam nhiều hơn trên các diễn đàn quốc tế; ký kết với Việt Nam nhiều dự án đầu tư, làm ăn kinh tế đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, quân sự... Nhưng bên cạnh đó vẫn có những thế lực ngầm, giấu mặt, ráo riết thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", ra sức chống phá Việt Nam.


Các thế lực thù địch luôn xác định, bằng mọi giá phải thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam nên chúng không tiếc tiền của, dùng tài trợ, cố vấn, chuyên gia tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đến các chương trình chiến lược của Việt Nam, thông qua các định chế quốc tế thông qua lực lượng "dân chủ", "cải cách" ở nước ta để tác động "chuyển hóa", làm chệch đường lối, chính sách, pháp luật Việt Nam. Theo đó, chúng cho rằng, vấn đề quan trọng hàng đầu để "chuyển hóa" chế độ chính trị ở Việt Nam là "triệt tiêu các giá trị làm nên chế độ cộng sản". Với mục tiêu này, phương Tây tăng cường đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Việt Nam, thực hiện "ba bước tiến" trên lộ trình phát triển toàn diện với Việt Nam. Thứ nhất, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, từ đó đẩy mạnh nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, làm cho nền kinh tế nước ta chệch hướng xã hội chủ nghĩa, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, hình thành "xã hội dân sự" ở Việt Nam, tạo môi trường và cơ hội để cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện công khai, gây rối loạn xã hội Việt Nam, làm cho Đảng, Nhà nước ta không thể kiểm soát được tình hình, buộc Đảng, Nhà nước ta phải chẵp nhận "dân chủ" hoặc tan vỡ do đột biến chính trị - xã hội. Thứ ba, thực hiện "dân chủ hóa" chính quyền, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, nhằm gây áp lực đối với Đảng ta, hạ thấp uy tín của Đảng. Nhìn chung, "lộ trình" trên đã được một số thế lực ở phương Tây thực hiện ở "bước hai", và họ khẳng định rằng, chỉ có đi vào Việt Nam, làm ăn với Việt Nam thì mới có điều kiện, môi trường, cơ hội để thực hiện "diễn biến hòa bình" ở "bước ba". Đây là một trong những âm mưu, thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch, chúng ta phải hết sức đề cao cảnh giác, không thể xem thường.


Nham hiểm, xảo quyệt hơn, một số chiến lược gia của phương Tây còn cho rằng, lực lượng có tính chất quyết định, nòng cốt cho việc chuyển hóa, thúc đẩy "tự diễn biến" ở Việt Nam là "những người cấp tiến" trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, chúng đã và đang tìm mọi cách "lôi kéo", "mua chuộc" nhằm xây dựng "đội ngũ mới" (lực lượng đối lập trong Đảng và Nhà nước); từ đó, đẩy mạnh việc gieo "mầm mông dân chủ" phương Tây, hình thành các phe phái, khuynh hướng trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Mặt khác, các thế lực thù địch tìm mọi cách để khuyến khích, đẩy mạnh tham nhũng và lợi dụng chống tham nhũng, đặc biệt là những sơ hở, thiếu sót của Đảng ta trong lĩnh vực này để kích động, gây chia rẽ, tạo sự hoài nghi, mâu thuẫn trong nội bộ Đảng; chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân. Qua đó, từng bước thực hiện ý đổ "dùng cộng sản lật đổ cộng sản", làm tê liệt hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Gần đây, hướng tiếp cận của chúng là hỗ trợ hoặc tiếp tay cho các cuộc "cách mạng sắc màu" tại một số nước trên thế giới, và đưa các tổ chức này vào Việt Nam hoạt động để tránh sự chú ý của các cơ quan chức năng Việt Nam.


Để "diễn biến hòa bình" xâm nhập sâu hơn vào đời sống tùng gia đình người dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông, tung tin xuyên tạc, bóp méo sự thật, tác động và đẩy nhanh tiến trình "dân chủ hóa" ở Việt Nam. Vì vậy, phương Tây đã tài trợ cho đài "Á Châu tự do" (RFA) một khoản tiền lớn để nâng cấp hệ thống đài phát thanh, truyền hình vệ tinh. Đồng thời, đẩy mạnh xâm nhập vào lĩnh vực truyền thông Việt Nam thông qua hợp tác giáo dục, hội thảo, giao lun về truyền thông để tác động, làm cho đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí Việt Nam lây nhiễm lối sống, nhận thức và phương pháp tác nghiệp giống như phương Tây.


Gần đây, phương Tây đẩy mạnh việc cổ súy cho cái gọi là "dân chủ, nhân quyền" ở Việt Nam; vu cáo Việt Nam thiếu dân chủ, không có tự do tôn giáo, đối xử không công bằng với người dân tộc thiểu số. Qua đó, tìm mọi cách đưa người vào Việt Nam với danh nghĩa khác nhau để xúc tiến việc tìm hiểu tình hình, thu thập thông tin và lợi dụng vấn đề "dân chủ, nhân quyền" để chống phá Đảng, Nhà nước ta.


Có thể khẳng định rằng, bản chất âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch là không hề thay đổi. Về thực chất, các thủ đoạn mới nảy sinh chỉ là việc "thay hình đổi dạng" cho hợp "mốt" nhằm che mắt, đánh lừa các cơ quan chức năng của ta. Những việc làm ấy không khác gì kiểu "bình cũ, rượu mới" mà thôi. Hơn ai hết, Đảng, Nhà nước, quân và dân ta hiếu rất rõ điều ấy. Vì vậy, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt là giải pháp mang tính nguyên tắc hàng đầu để chúng ta đánh bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Đồng thời, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang là cơ sở nền gốc để lực lượng vũ trang xứng tầm là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Mặt khác, cần tăng cường các biện pháp nắm địch, nắm tình hình ở cơ sở, kịp thời phát hiện các hoạt động xâm nhập của bọn phản động, sự móc nối của chúng ở trong và ngoài nước để có biện pháp quản lý, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi ý đổ xâm nhập, móc nối, chống phá Đảng, Nhà nước của chúng. Trên cơ sở đó, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy định để nâng cao chất lượng hệ thống truyền thông, thông tin đại chúng, đặc biệt là báo điện tử, internet nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, có nhiều chương trình mới, hay hơn, hấp dẫn hơn để lấn át các trào lưu truyền thông điện tử phi chính thống mà thế lực thù địch đang sử dụng để chống phá ta.


Rà soát, điều chỉnh một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành cho phù hợp với tình hình mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quảng đại quần chúng nhân dân...; không tạo sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, phản kích ta. Đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chú trọng đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng công tác trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, tăng cường giáo dục quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp họ nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", v.v...


Đó là những vấn đề then chốt, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, tạo sức mạnh nội sinh bền vững để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhất định nước ta sẽ hoàn thành thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà Đảng đã đề ra.


Chúng ta đã vượt qua những năm tháng khó khăn nhất trong cuộc đối đầu lịch sử với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như những thử thách cam go của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đã giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử thì nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, không có thế lực thù địch, phản động nào có thể cản bước, ngăn đường đi tới của chúng ta.