Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:13:43 pm



Tiêu đề: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:13:43 pm
Tên sách: Sóng gió một vùng biển
Nhà xuất bản: Thanh niên
Năm xuất bản: 1985
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



SÓNG GIÓ
MỘT
VÙNG BIỂN

TẬP TRUYỆN VÀ KÝ
NHIỀU TÁC GIẢ




NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
HÀ NỘI — 1985


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:17:15 pm

MAI VUI



SÓNG GIÓ
MỘT VÙNG BIỂN


Đồng chí chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng chỉ đoạn đê trên đường 14 nói với tôi:

— Sóng gió ở vùng biển dữ dằn vô kể, ông bạn ạ. Một vạn con người vừa là lực lượng vũ trang vừa là nhân dân Hải Phòng chúng tôi lặn lội dưới bùn lầy gần một năm trời, mà chỉ qua một cơn bão, cơn bão rất to, sóng đỉnh triều cao tới hơn ba mét, lừng lững ập vào phá hủy con đê đang đắp, tạo thành mười lỗ hổng, có lỗ dài tới tám mươi mét, sâu bảy mét. Nước mặn tràn vào ruộng mênh mông. Các con đường từ đê cũ ra đê mới cũng ngập lút trong sóng biển...

Chẳng hiểu chỉ huy trưởng muốn cho tôi nắm bắt được đặc điểm nổi bật của một vùng biển mà đồng chí hằng yêu quý vô cùng hay không, mà lần này gặp tôi, mở đầu câu chuyện đồng chí đã nhấn mạnh tác hại của sóng gió vùng biển. Một buổi tối, tôi đang nằm đọc báo trong phòng khách Bộ chỉ huy, khác hẳn với mọi cơ quan, phòng khách ở đây nằm lọt giữa các phòng ngủ của các đồng chí trong Bộ chỉ huy quân sự thành phố, nên đồng chí chỉ huy trưởng mặc bộ thường phục từ gian kề bên cạnh bước sang lúc nào tôi không biết. Đồng chí đưa cho tôi bao thuốc lá «Sông Cầu», cất giọng trầm trầm tha thiết:

— Ông đi nhiều nơi, thử hỏi ở đâu giàu có, đẹp đẽ và đầy đủ như thành phố Hải Phòng không? Này nhé, Hải Phòng có sông, có biển, có bến cảng đã đành, lại có núi, có đảo, có đồng bằng, có công nghiệp, nông nghiệp, có hải sản lại cả lâm nghiệp, thủ công nghiệp, thú rừng nữa chứ. Tài nguyên phong phú, tiền rừng, bạc biển... như vậy mà trước đây chúng tôi muốn chi tiêu việc gì, cứ trông ngóng ở quỹ quốc phòng. Mà quỹ quốc phòng ở đất nước ta tất nhiên là ít ỏi. Ở xã, ở huyện muốn tổ chức huấn luyện cho dân quân tự vệ hàng năm, muốn tổ chức hội thao, muốn họp mặt các gia đình có công, gia đình thương binh, liệt sĩ đều phải gặp cơ quan này, cơ quan khác xin con bò, con lợn, xin gạo, xin chè, tút thuốc lá... Rõ ràng trong tay mình có vàng mà để vàng rơi. Ông bạn bảo như thế có buồn không?

Nghe đồng chí chỉ huy trưởng nói vậy, tôi trả lời:

— Đó là nỗi buồn chung của một số cán bộ quân sự địa phương chúng ta, biết làm thế nào?

Đồng chí chỉ huy trưởng khua tay, sôi nổi:

— Trước đây, trong hàng ngũ cán bộ quân sự Hải Phòng cũng có ý nghĩ tự trói buộc mình như vậy. Rồi khoanh tay chờ đợi, đời sống nhân dân, cán bộ, chiến sĩ thiếu thốn khó khăn trăm bề, mặc cho nó trôi qua. Nhưng quân khu ủy 3 chúng tôi có suy nghĩ đúng đắn, hành động táo bạo, hướng dẫn cụ thể, chỉ đạo chấp hành hai nhiệm vụ chiến lược bằng khẩu hiệu «Làm giàu, đánh thắng». Nhờ đó, chúng tôi đã "biết làm thế nào” để thêm của cải cho xã hội, dự trữ cho quốc phòng, phục vụ công tác huấn luyện quân sự, xây dựng lực lượng dự bị, cải thiện đời sống cán bộ và chiến sĩ...

Đồng chí thư ký chợt mở cửa vào báo cáo chỉ huy trưởng:

— Mời anh sang nói chuyện với anh Thành.

Câu chuyện của chúng tôi đành ngừng lại. Chỉ huy trưởng đứng dậy, bảo tôi:

— Xin lỗi nhé. Chắc đồng chí bí thư thành ủy lại hỏi về công việc chuẩn bị hội nghị ngày mai. Hội nghị lần này rất phù hợp với ý định ông bạn muốn viết. Đại biểu các tỉnh bạn cũng muốn «tìm hiểu» bí quyết «làm giàu» thế nào, tích lũy vốn ban đầu ra sao đấy, chúng tôi xin sẵn sàng.

*

*        *

Trước khi về tìm hiểu phong trào «Làm giàu, đánh thắng”ở cơ quan quân sự Hải Phòng, tôi đã được nghe nhiều dư luận khen chê. Khen hết lời mà chê cũng chẳng kém. Tôi được chứng kiến cuộc tranh luận giữa một số cán bộ quân sự với nhau, khi đồng chí thiếu tá vừa đi công tác ở huyện Vĩnh Bảo về, khoe cách làm ăn của Hải Phòng.

Một đại úy có khuôn mặt vuông, đôi lông mày sâu róm vừa rít thuốc lào vừa phản đối:

— Đã là ngành quân sự thì trước tiên phải nói đến đánh thắng đã. Sinh ra lực lượng vũ trang có phải để làm giàu đâu mà các bố bốc lên tận mây xanh thế?

Thiếu tá vui vẻ đáp:

— Về mặt đánh thắng, Hải Phòng có kém ai đâu. Tuyển quân đợt nào cũng đạt và vượt kế hoạch. Huấn luyện quân sự giỏi. Hội thao quân khu, hội thao và thi đấu toàn quân suốt ba bốn năm liền đạt 8 nhất, 5 nhì. Huy động các đơn vị dân quân tự vệ phục vụ phía trước đều hoàn thành vượt mức. Mấy lại nghĩ rộng ra, thì «làm giàu» cũng là một cách đánh thắng đấy.

Đại úy lừ mắt, hất hàm:

— Tôi chưa hiểu ý đồng chí thiếu tá nói vậy là thế nào?

— Ông nên nhớ thằng bành trướng nó không chỉ đánh ta bằng quân sự đâu nhé. Nó còn nhằm vào hậu phương ta nữa chứ. Nào bao vây kinh tế, phá hoại sản xuất hòng làm đời sống ta nghèo đói, khó khăn. Từ đó nó phao tin, chia rẽ, gây hoang mang dao động làm mất lòng tin. Mà sợ nhất là con người mất lòng tin. Mất vật chất mất ít. Mất danh dự mất nhiều. Mất lòng tin là mất hết. Vì vậy làm giàu, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống bộ đội và gia đình, để anh em yên tâm chiến đấu công tác. Tôi hỏi ông, như vậy làm giàu không phải là đánh thắng hay sao?

Đại úy xem chừng đuối lý, song vẫn đâu đã chịu thua:

— Ông biện luận ghê quá. Tôi không tán thành cách làm giàu của Hải Phòng. Làm giàu kiểu đi buôn. Bắt anh em chưa làm tròn nghĩa vụ quân sự ra lao động, kiểu «cai đầu dài... ».

— Ông căn cứ vào đâu mà nhận định như vậy?

— Tôi nghe người ta nói thế.

Thiếu tá cười ngất:

— Trăm nghe không bằng một thấy. Xin mời đại úy xuống tìm hiểu thực tế đã nhé.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:25:26 pm

*

*       *

Tháng hai năm nay, tôi được dự cuộc họp giao ước thi đua giữa các tỉnh trong quân khu. Mỗi tỉnh cử bốn đại biểu gồm chỉ huy trưởng hoặc phó, chủ nhiệm chính trị, cán bộ tuyên huấn và cán bộ kinh tế về họp. Tình cờ, tôi gặp lại đồng chí đại úy có khuôn mặt vuông, lông mày sâu róm đã từng tranh luận với đồng chí thiếu tá hồi trước. Trước buổi họp, đại biểu các tỉnh đề đạt nguyện vọng rằng trong cuộc họp năm nay, các tỉnh chỉ trao tay bản giao ước thi đua với nhau, còn dành toàn bộ thời gian yêu cầu Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng nói về kinh nghiệm và «cách làm ăn trong phong trào “Làm giàu đánh thắng” để các nơi học tập».

Đại tá Đào Đình Thản, chỉ huy phó phụ trách kinh tế đã bộc lộ chân thành tất cả «gan ruột» của mình trong cách làm ăn suốt hai tiếng đồng hồ. Các đại biểu chăm chú ghi chép ra chiều thỏa mãn. Tôi hỏi ý kiến nhận xét của đồng chí đại úy. Đồng chí cười vẻ ngượng nghịu «Thì nghe mới biết thế. Phải xuống cơ sở xem thực tế thế nào, anh ạ». Sau buổi họp, tôi không gặp đồng chí đại úy trong đoàn đại biểu đi xuống tham quan thực tế. Riêng tôi, tôi còn làm việc với đồng chí Thản và một số cán bộ chuyên trách của ban kinh tế thuộc Bộ chỉ huy. Những con số thống kê về vốn ban đầu, về phương tiện sản xuất, về tiền lãi của các huyện, quận, các ngành, các xí nghiệp, công trường... đầy kín trong sổ tay tôi; song chỉ nêu hai con số sau đây để bạn đọc suy nghĩ và tự đánh giá. Năm 1984, lực lượng vũ trang Hải Phòng đã thu lãi được gần 40 triệu đồng. Còn hướng phấn đấu của năm 1985 thu lãi 60 triệu đồng. Trong số lãi thu được, dự chi là:

— Dành để tái sản xuất    10 triệu
— Nộp lên quỹ Quân khu    10 triệu
— Dành các khoản tiêu về công tác quân sự địa phương    10 triệu
— Dành cải thiện, nâng cao đời sống cho cán bộ và chiến sĩ đơn vị    10 triệu
— Dành chi viện và ủng hộ hai tỉnh biên giới kết nghĩa    10 triệu
— Dự trữ    10 triệu

Có lần, một đồng chí trong đoàn kiểm tra Bộ quốc phòng sau những ngày làm việc với Hải Phòng đã phát biểu: «Nếu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh nào làm kinh tế cũng thu được số lãi 40 triệu, huyện nào cũng lãi hai, ba triệu như Hải Phòng thì toàn quân hàng năm sẽ thêm một số tiền khá lớn, vừa chủ động tổ chức cải thiện và nâng cao đời sống các lực lượng vũ trang, vừa giảm bớt ngân sách Nhà nước, dành cho các khoản chi tiêu lớn khác».

Cuối tháng 9 năm 1984, sau khi nghe đồng chí Tư lệnh Quân khu báo cáo về phong trào «Làm giàu, đánh thắng”Đại tướng Văn Tiến Dũng đã hỏi:

— Tại sao Hải Phòng thu lãi tới 40, 50 triệu mà các tỉnh khác chỉ thu được trên dưới một triệu?

Tư lệnh Quân khu báo cáo:

— Thưa Bộ trưởng! Vì cán bộ. Cán bộ chưa dám làm và chưa biết làm.

Đồng chí chỉ huy trưởng quân sự thành phố Hải Phòng có lần tâm sự với tôi rằng: «Đứng trước hoàn cảnh khó khăn của đất nước ta hiện nay, một số cán bộ có độ tuổi trên dưới sáu mươi như chúng tôi thường có hai chiều hướng suy nghĩ và hành động. Chiều hướng thứ nhất cho rằng, mình là cán bộ trong giai đoạn giao thời. Một vài năm nữa đã nghỉ hưu. Vì vậy làm sao giữ cho «tròn trĩnh» ở những ngày cuối đời của một cán bộ đã qua ba thời kỳ đánh giặc. Ông bạn xem phim «Người đi tìm đất» chưa nhỉ? Đấy, nhân vật bí thư Đảng ủy là một phát hiện mới về loại cán bộ cam chịu nghèo khó, đói rách, né tránh mọi cái mọi việc. Đời sống cán bộ, chiến sĩ đã có chế độ, tiêu chuẩn cấp phát. Trên rót xuống thế nào dùng thế ấy. Hậu phương cán bộ, chiến sĩ, nhà cửa công ăn việc làm, đời sống ra sao? Mặc. Đã có chính quyền, hợp tác xã lo toan. Thế là họ co mình lại, không dám nghĩ, không dám làm, không dám ủng hộ những công việc đúng phù hợp với tình hình thực tế. Chiều hướng suy nghĩ và hành động thứ hai thì ngược lại, cho rằng: Kiểu hô hào «cắn răng chịu đựng và chờ đợi» thực chất là «há miệng chờ sung». Cuộc sống của con người trong một đất nước xây dựng xã hội chủ nghĩa có những điều khác với thời kỳ cách mạng tháng Tám, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Người cán bộ và chiến sĩ dù ở tiền tuyến hay hậu phương ngoài chiếc ba-lô, khẩu súng ra, họ còn phải nghĩ tới đời sống gia đình ở hậu phương, nghĩ tới căn nhà, nghĩ tới công ăn việc làm khi rời quân ngũ, nghĩ tới cái tủ, bộ bàn ghế, chiếc xe đạp... Đó là một nhu cầu, một đòi hỏi chính đáng. Mình là cán bộ mình phải nghĩ tới những lo toan đó của anh em. Ngày đêm phải suy tư, tìm tòi, dám chịu trách nhiệm, lăn xả vào công ăn việc làm. Và làm sao mỗi ngày, mỗi tháng giúp được cán bộ, chiến sĩ bớt được phần nào khó khăn trong đời sống của anh em và hậu phương để họ yên tâm chiến đấu và công tác. Há phải chăng đó là niềm sung sướng của người chỉ huy, của người đảng viên.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:28:55 pm

*

*        *

Vậy thì cách «Làm giàu, đánh thắng» của Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng như thế nào? Vốn ban đầu lấy ở đâu ra?

Năm 1975, Bộ chỉ huy quân sự nhận đắp đê lấn biển ở xã Vĩnh Quang huyện Tiên Lãng. Một trung đoàn bộ đội địa phương được điều ra nhận nhiệm vụ này. Sau hơn một năm trời dầm mình trong bùn lầy nước mặn, cán bộ và chiến sĩ bộ đội địa phương thành phố đã hoàn thành khoanh vùng, đắp con đê dài 9 km, lấn biển được 2.000 ha canh tác, thu số lãi đầu tiên hơn một triệu đồng.

Có hơn một triệu đồng trong tay. Theo thời giá lúc đó cũng lớn đấy. Song đem ra tiêu pha, chè chén thì chẳng mấy mà hết. Các đồng chí trong Bộ chỉ huy nghĩ tới việc đầu tư vào công nghiệp. Sẵn có lò vôi nhỏ ở Pháp Cổ, trước đây lò này thường có hai, ba chục người không hoàn thành nghĩa vụ quân sự ra lao động bắt buộc. Số vôi đó không đủ để đơn vị tự sửa chữa doanh trại hàng năm.

Một câu hỏi được đặt ra: «Liệu có thể khôi phục lò vôi và mở rộng sản xuất được không?».

Thiên nhiên ở vùng này dành bao ưu đãi cho con người. Lò vôi nằm bên cạnh sông Kinh Thầy. Hai bên hai dãy núi đá, toàn thứ đá hộc sản xuất ra vôi lụa, loại vôi tốt bậc nhất trên thị trường. Pháp Cổ lại có thứ đất phụ gia rất tốt, chỉ cần trộn với xỉ than là có thể thành được tường nhà ở. Đất đó còn là một trong ba, bốn nguyên liệu sản xuất ra xi măng. Vậy có thể mạnh dạn sản xuất cả xi măng được không?

Ý kiến táo bạo đó được những cán bộ có đầu óc tính toán trao đi đổi lại nhiều lần. Và một kế hoạch được đưa lên trên xin ý kiến, được cơ quan lãnh đạo thành phố, Bộ tư lệnh Quân khu và Bộ quốc phòng khuyến khích, giúp đỡ. Bộ tư lệnh Quân khu và Bộ quốc phòng giúp ba triệu đồng, thành phố đầu tư 500.000 đồng làm vốn. Xí nghiệp liên hợp sản xuất vôi, xi măng, đất đèn và hiện nay sẽ sản xuất gạch hoa, gạch lát vỉa hè... ra đời. Song làm ăn thuở ban đầu, tránh sao khỏi vấp váp. Nguyên nhân thì có nhiều song chủ yếu do cán bộ lãnh đạo xí nghiệp thiếu đoàn kết nội bộ, không tận dụng tốt cán bộ kỹ thuật; quản lý nhân công chưa hợp lý, khâu kỹ thuật, sản xuất xi măng kém nên chất lượng xấu, hàng ế và ứ đọng.

Song sóng gió chỉ nổi lên trong thời gian ngắn. Bộ chỉ huy lập tức củng cố, chấn chỉnh bộ máy lãnh đạo và có biện pháp sửa chữa khuyết điểm, kịp thời. Từ đó, hàng năm, xí nghiệp ăn lên, làm ra. Bình quân mỗi năm sản xuất được trên dưới 15.000 tấn vôi, 3.000 tấn xi măng, 200 tấn đất đèn. Chưa kể khai thác đất phụ gia bán cho Nhà máy xi măng Hải Phòng cũng đạt vạn tấn/năm. Tổng doanh thu hàng năm của xí nghiệp lên tới 25 triệu, lãi 5 triệu đồng/năm.

«Tất cả vốn lỗ lãi của chúng tôi đều từ đất mà ra». Một đồng chí chỉ huy phó quân sự thành phố phát biểu với một số đoàn cán bộ tỉnh bạn tới tham quan Hải Phòng.

Quả đúng như vậy. Sau khi đắp đê Vinh Quang và xây dựng xí nghiệp liên hợp xong, Bộ chỉ huy nghĩ ngay tới lập đoàn vận tải sà lan để chuyển nguyên vật liệu than, đá cho xí nghiệp và chuyên chở xi măng từ xí nghiệp về kho của đơn vị hoặc đơn vị bạn... Tiếp đó, thành phố trao cho lực lượng vũ trang làm quai đê lấn biển khu vực đường 14 từ Hải Phòng ra Đồ Sơn, đào đắp 750.864 mét khối đất lấn được 2.200 ha ruộng cầy cấy, thu lãi 5 triệu đồng. Đắp đường xuyên đảo Đình Vũ, nối dài đường 5 thêm 12 km. Thành lập đội vận tải ô-tô, xây dựng xưởng cơ khí sửa chữa ô-tô, sà lan... Và hiện nay lãnh đạo thành phố còn trao cho cơ quan quân sự Hải Phòng đào kênh Cái Tráp dài hơn 3 km, rút ngắn được đường tàu biển đi Quảng Ninh hơn 10 km, tiết kiệm cho Nhà nước mỗi năm 200 triệu đồng. Đồng thời Bộ chỉ huy quân sự đã và đang tham gia thi công công trình cải tạo sông Lấp; cụm cầu An Dương và sân bay dân dụng Cát Bi... Đang có kế hoạch tham gia các mặt hàng xuất khẩu.

Tôi đã đi đến thăm xí nghiệp liên hợp sản xuất vôi, xi măng Pháp Cổ, ra tận bán đảo Đình Vũ, thăm xí nghiệp cơ khí... để tìm hiểu về cách tổ chức và quản lý lao động của Bộ chỉ huy mà đồng chí Đào Đình Thản từng giới thiệu với tôi «đó là bí quyết làm giàu, một nghệ thuật quản lý».

Ở xí nghiệp liên hợp hiện có trên dưới 200 người sản xuất gồm đủ các thành phần: sĩ quan chỉ huy, chiến sĩ, công nhân quốc phòng và công nhân hợp đồng chiếm 85%, số này là lực lượng chủ yếu trong khâu sản xuất và kỹ thuật. Còn lại 15% là những thanh niên chưa hoàn thành nghĩa vụ quân sự tới lao dộng bắt buộc chỉ phá đá, xúc than chuyển đất mà thôi.

Tôi hỏi cung cách sử dụng công nhân hợp đồng ra sao. Đồng chí Thản cho biết: Bộ chỉ huy quan hệ ký hợp đồng với cơ quan huyện, xã để «sử dụng số lao động dư thừa sau vụ cày cấy ở hai xã mà xí nghiệp trú quân. Cách hợp đồng đó đem lại lợi ích cho cả hai bên nên được địa phương hoan nghênh. Người nông dân sau khi cày cấy xong, có khoảng thời gian rỗi rãi ra làm hợp đồng với xí nghiệp, mỗi ngày thu 150 đồng nếu lao động đơn giản, 400 đồng nếu lao động kỹ thuật. Ngoài ra nếu là xã viên thì mỗi ngày góp vào quỹ hợp tác từ 2% đến 5% làm phúc lợi công cộng. Cách hợp đồng như vậy được vận dụng thích hợp với từng công trình và xí nghiệp do Bộ chỉ huy quản lý và được coi là phương thức làm ăn tốt nhất, phổ biến nhất trong hoàn cảnh hiện nay.

Tôi nêu câu hỏi với đồng chí Đào Đình Thản:

— Vậy dư luận nói các anh làm giàu vì đi buôn và «cai đầu dài» là thiếu chính xác chứ gì?

Đồng chí Thản vui vẻ, gật gù:

— Vânq! Bộ chỉ huy chúng tôi không bao giờ chủ trương như vậy. Còn trong quá trình thực hiện nơi này, nơi khác có thể có người, có đơn vị làm sai, song có điều, khi phát hiện ra những sai sót, Bộ chỉ huy chúng tôi không nhân nhượng không bao che mà kiên quyết xử lý nghiêm khắc và sửa chữa khuyết điểm kịp thời. Đội vận tải sà lan có thời kỳ mắc khuyết điểm, chúng tôi cho đình chỉ công tác, tổ chức kiểm điểm và cách chức đội trưởng, đội phó ngay. Còn dư luận thì nhiều, bịt sao được miệng thế gian nhất là ở đâu chẳng có những người không dám làm nhưng luôn luôn ngáng trở phong trào.

Tôi gợi ý:

— Được biết những dư luận ấy có lúc phát ra từ chính những người trong lực lượng vũ trang thành phố?

— Vâng, đúng! Đó là một điều đáng buồn. Cuộc đấu tranh đầy sóng gió trong nội bộ chúng tôi. Hàng tập đơn từ tố cáo, khiếu nại, kể cả bới móc, gửi lên cấp trên. Cũng hàng chục đoàn thanh tra, kiểm tra lần lượt xuống các đơn vị chúng tôi làm việc. Song sự thực vẫn là sự thực. Đảng và quần chúng rất công minh nên phân biệt đúng sai rõ ràng. Phải nói thêm thế này: Đồng chí chỉ huy trưởng của chúng tôi có lòng tin vững chắc là làm đúng đường lối của đại hội Đảng, đúng sự chỉ đạo của Quân khu, của Thành ủy nên đồng chí rất tinh tường, táo bạo, khôn ngoan trong hành động, dẫn dắt chúng tôi vượt qua mọi sóng gió, mọi quanh co, khúc khuỷu đi đến kết quả bước đầu như ngày nay.



*

*        *

Đầu năm nay tôi theo một số đơn vị trong quân khu lên chi viện biên giới. Mùa xuân ở trên này hình như đến sớm. Những cành đào trong vườn cây ven đường đã rung rinh đua nở. Song đường đi qua đèo, qua núi lại đầy ổ gà, ổ voi chi chít khiến ô-tô của chúng tôi nhấp nhô lên xuống như chiếc thuyền đi vào giữa sóng gió một vùng biển. Tôi mệt nhoài, người nôn nao khó chịu suốt hai ngày đi đường. Nhưng khi gặp anh chị em bộ đội và dân quân tự vệ Hải Phòng đang làm nhiệm vụ trên biên giới phía bắc, tôi lao ngay vào công việc của mình. Tôi đã gặp cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn công binh Hải Phòng, đơn vị trước đây đã đứng mũi chịu sào, trước cơn bão số 2 ập vào phá vỡ con đê biển năm trước, giờ đây vừa hoàn thành công trình xây dựng trận địa với chất lượng tốt vượt hai phần ba thời gian quy định. Tôi cũng gặp và trò chuyện với anh chị em đại đội dân quân tự vệ vừa được ban chỉ huy chiến dịch biểu dương đã lập một kỷ lục mới. Đoạn đường trao cho đại đội làm hai tháng. Nhưng chỉ trong 15 ngày, anh chị em đã hoàn tất, bảo đảm kỹ thuật.

Trước lúc ra đi, tôi hình dung cuộc sống gian khổ ở vùng biên giới: xa chợ, xa phố, xa nhân dân... anh chị em sẽ buồn chán, kêu ca thậm chí bỏ trốn. Song tôi đã bị bất ngờ. Tất cả cán bộ và chiến sĩ lực lượng vũ trang Hải Phòng đều vui vẻ, phấn khởi khỏe mạnh. Tôi hỏi, người nào cũng trả lời. Khi được tin có danh sách chi viện biên giới đợt này, ai nấy đều biểu lộ niềm tự hào và quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lên đây, anh em tạo ngay ra cuộc sống bình thường. Sáng dậy tập thể dục. Ăn sáng xong là ra mặt đường, lên trận địa ngay. Buổi chiều ở hiện trường về vẫn ra sân đánh bóng hoặc đánh cờ. Buổi tối ca hát, đọc báo chí...

Tôi hỏi đại đội trưởng Văn Cẩm về suy nghĩ của anh với nhiệm vụ chi viện biên giới. Văn Cẩm không trả lời câu hỏi của tôi mà lại vui vẻ giới thiệu:

— Nhà tôi ở ngoại thành, sát cầu Niệm đấy, anh ạ. Trước khi lên đây, Bộ chỉ huy đã giúp nguyên vật liệu cho tôi xây xong căn nhà ba gian và nhượng cho gia đình chiếc đầu máy khâu. Vợ tôi lại được đi học lớp máy khâu không mất tiền do Bộ chỉ huy mở cho gia đình sĩ quan trong thành phố. Phấn khởi quá, nên đi chi viện đợt này, rất yên tâm anh ạ…

Văn Cẩm say sưa kể tưởng như không dứt được câu chuyện, mặc dầu lúc đó rừng núi quanh đây đang ngả dần vào buổi hoàng hôn biên giới. Những dãy núi bạt ngàn, xanh ngắt, lô nhô kéo xa tít tắp, mờ dần trông xa tưởng như những đợt sóng đang nối tiếp nhau vô tận trên một vùng biển xa xôi. Bất giác tôi nhớ lời đồng chí chỉ huy trưởng quân sự thành phố có lần kể rằng, đồng chí có đọc hay nghe ở đâu đấy một đoạn văn «Người chiến sĩ đang chiến đấu ở biên giới bảo cái sợ nhất của họ không phải chỗ những viên đạn của quân thù nhằm vào mình, cũng không phải sự thiếu thốn, sự gian khổ, cứ cho rằng vô cùng cực khổ đi nữa thì cũng không lo sợ, không nản lòng bằng thấy thái độ dửng dưng, thờ ơ của những người hậu phương đối với người lính, với cả người thân yêu của họ ở phía sau. Ấy là chưa kể những việc làm cốt để lấy thành tích, cốt có tiếng tăm mà chẳng nghĩ đến những gia đình có nhiều khó khăn trong đời sống, đang có con em chiến đấu ngoài biên giới.

3-1985
M.V.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:36:34 pm

DƯƠNG THU HƯƠNG


TRÒ CHUYỆN VỚI NGƯỜI LÍNH GIÀ
BÊN ÁNH LỬA


“Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”! Đó là câu đầu tiên anh nói với chúng tôi ngày gặp gỡ. Sau câu nói đó, anh nở một nụ cười hiền lành. Với dáng điệu khoan thai trầm tĩnh, khổ người cao lớn vững vàng, những nếp nhăn trên trán và cái nhìn đắn đo từng trải, anh là một trong những người lính đã ra đi từ cuộc kháng chiến chống Pháp và đã đứng vững tới bây giờ, không bị sự mệt mỏi trường kỳ của thời gian lay chuyển, không bị nỗi buồn chán và thất vọng bào mòn.

«Chỉ có chủ nghĩa xã hội khoa học mới tồn tại được chứ không thể là chủ nghĩa xã hội đạo đức thần thánh duy tâm». Đó là câu nói thứ hai tôi nhớ. Câu nói đó hàm chứa chiều sâu và bề rộng của những đớn đau thua thiệt mà chúng ta đã phải chịu đựng trong một thời gian quá dài. Có lẽ, chính tôi đã nghĩ tới điều đó nhiều lần. Và có lẽ, cũng đã nhiều người nghĩ tới điều đó. Nhưng, khi nghe đại tá X. nói, trong tôi chợt lóe lên sự thức tỉnh, giống như kẻ mơ màng mãi một tiếng chuông chợt nghe nó gióng giả bên tai.

Chắc chắn rằng những người lính chống ỊPháp như đại tá X., cũng như thế hệ chống Mỹ chúng tôi, và như thế hệ chống quân Trung Quốc bành trướng sau này đều có một ý nguyện thiết tha:

Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vững mạnh.

Tổ quốc vững mạnh — Niềm mơ ước đơn sơ ấy là bài toán nan giải cho rất nhiều thời đại nối tiếp nhau. Là nỗi lo âu day dứt nhất, kinh hoàng nhất đối với tất cả những ai có một tấm lòng nhiệt thành và trung thực, những ai còn đau đáu xót xa cho số phận của đất đai xứ sở này.

Ngạn ngữ phương Tây có câu: «Từ giấc mơ đến tấm áo còn xa». Không chỉ ở phương Tây mà bất cứ nơi nào trên địa cầu, câu nói ấy cũng chính xác. Ở đâu, nhân loại cũng phải vượt qua những cánh đồng gai góc để đuổi theo niềm mơ ước của mình. Đối với một dân tộc chậm phát triển, đoạn đường đuổi bắt đó có khi là cả một vài thập kỷ, một vài thế kỷ. Không ai lường trước được. Vấn đề sống còn cho mỗi đất nước là phải tìm cho ra lối đi chắc chắn nhất, mau lẹ nhất để rút gọn cuộc hành trình.

«Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tàng».

Đại tá X. cảm khái ngâm nga câu thơ ấy. Rồi sau một khoảnh khắc yên lặng, anh ngẩng lên nhìn chúng tôi:

Hai câu thơ ấy của Nguyễn Trãi. Tôi thuộc từ lâu. Thi sĩ đã khắc họa vùng đất này thật rõ nét: Hải Phòng có địa thế chiến lược thiên hiểm, nơi biết bao nhiêu anh hùng đã sinh ra và ngã xuống. Tôi không phải người xứ này. Quê tôi ở Hưng Yên, vùng đồng bằng hiền lành của nhãn và của lúa. Nhưng tôi yêu mảnh đất tôi đang đứng. Nơi xa xưa nữ tướng Lê Chân đã dựng nên Hải Tần phòng thủ. Riêng chỉ tên gọi Hải Phòng, đã gợi cho mỗi người lính cả một chiều sâu thăm thẳm của lịch sử oai hùng. Ở đây, đã ba lần quân xâm lược bị nhấn chìm dưới sóng Bạch Đằng. Cũng ở đây, sản sinh ra nhà yêu nước Nguyễn Bỉnh Khiêm, mưu sĩ đã thảo ra một kế hoạch có tầm chiến lược giữ nước và mở nước: «Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân».

Anh ngừng lại giây phút rồi hạ gỉọng:

— Vâng, đấy là lịch sử. Một lịch sử toàn vẹn, không thể chối cãi. Bao giờ, quá trình hình thành và phát triển một quốc gia cũng là quá trình cộng hưởng của tài năng và phẩm chất dân tộc với tài năng và phẩm chất của những vĩ nhân những anh hùng. Tôi nghĩ rằng chúng ta không hổ thẹn với các bậc tiền bối. Chúng ta đã có Điện Biên Phủ năm 1954 và Điện Biên Phủ trên không năm 1972. Chính ở đất Hải Tần phòng thủ của nữ tướng Lê Chân này, chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phong tỏa và hủy diệt dã man nhất trong lịch sử loài người. Sự chịu đựng gian khổ và ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam đã trở thành một hiện tượng đáng kinh ngạc trước mắt nhân loại. Nếu như giờ đây, những người chiến thắng còn được trao vòng nguyệt quế, mảnh đất Việt Nam sẽ thiếu chỗ để trải những vòng hoa vinh quang... Nhưng! Ôi! khó khăn nhất là ở cái từ nguy hiểm này... Nhưng, con người không thể giẫm chân trong quá khứ. Chỉ sống bằng quá khứ có nghĩa là đã chết. Bởi vì, đời sống vận động không ngừng thăng tiến. Nhiệm vụ của chúng ta giờ đây không phải ngâm ngợi những gì mình đã có, mà phải tìm ra những gì mình chưa có trong tay. Làm gì để Tổ quốc giàu và mạnh? Đó là mục tiêu tồn tại cho tôi, cho các đồng chí, cho mỗi chúng ta, những người lính, những công dân trên mảnh đất này. Cái mục tiêu tưởng chừng đơn giản ấy đã và sẽ gây ra những cuộc đấu tranh gian nan, những sai lầm đau đớn, những ngộ nhận đáng tiếc, những mất mát thua thiệt không nên có. Và rồi, nó cũng sẽ khiến chúng ta phải giày vò không ít. Nhưng có lẽ đó mới chính là bản chất của cuộc đời, như Mác đã nói: «Sống là đấu tranh».

Đại tá X. ngừng lời. Bên kia tường, ai đó bỗng cất tiếng ngâm mấy câu thơ của Quang Dũng:

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm...

Những câu thơ gợi về trước mắt tôi cả một thời khói lửa. Ngày ấy, những thiếu nữ xinh đẹp và những chàng cảm tử măng tơ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch. Ngày ấy, các chiến binh dứt áo ra đi trong lời hát hào hùng: «Vệ quốc quân một lần ra đi». Lửa các đám cháy bập bùng in lên góc trời Hà Nội. Lá rơi đầy trên các dấu chân qua. Khắp các phố phường và tỉnh lỵ, tiếng mìn phá nhà tiêu thổ kháng chiến vang lên. Làn khói xám cuồn cuộn bay như màu mây trong huyền thoại. Ở các ngả đường chặn xe địch, người ta chất chồng giường, tủ, bàn ghế... Từ những chiếc tủ khảm trai tới những bộ tràng kỷ sang trọng. Cả những chiếc sập chân quỳ lẫn những chiếc bàn chạm cầu kỳ bằng gỗ quý. Những tòa nhà nguy nga đổ sập. Những mảnh sân lát xinh xắn với hàng hiên xây và dãy chậu cảnh xới tung. Người ta xóa đi trong phút chốc cả cơ nghiệp của tiên tổ ông cha mình năm bảy đời tích góp mới xây dựng được. Lòng nhỏ máu nhưng không nuối tiếc. Và những dòng người lũ lượt theo nhau lên chiến khu Việt Bắc, chiếc ba lô nhẹ tênh sau lưng. Thật là một thời khói lửa huy hoàng, đẹp đẽ. Cuộc kháng chiến chống Pháp là khoảnh khắc lịch sử siêu việt nhất mà dân tộc đã thăng hoa. Có lẽ, trên bề rộng của địa cầu và trong chiều sâu lịch đại khó có một dân tộc nào bước vào cuộc chiến tranh lộng lẫy đến như thế!...


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:44:57 pm

— Nào, xin mời các đồng chí uống nước.

Đại tá X. cao giọng. Tôi sực nhớ rằng mình đang ngồi truớc mặt chủ nhân. Anh tóm tắt sơ lược những công trình xây dựng bộ đội Hải Phòng đang quản lý: Công trình sông Lấp, công trình đào kênh Cái Tráp, công trình sân bay Cát Bi. Song song với việc điều hành sản xuất để tự làm giàu cho lực lượng vũ trang, vấn đề đặc biệt quan trọng là thực hiện chính sách hậu phương:

— Muốn củng cố đội hình quân đội một trong những biện pháp quan trọng là phải lo chính sách hậu phương thật tốt.

Đại tá X. nói thế. Và với thái độ chân thực không chút màu mè, anh tiếp tục:

— Tại sao những đại tá, trung tá cho tới những người lính của chúng ta đã đi qua mấy cuộc chiến tranh trở về lại phải chịu nép mình dưới một mái tranh dột nát? Tại sao chúng ta cứ kêu gọi tinh thần hy sinh chung chung của con người mà không nghĩ rằng họ sống bằng gì? Họ ở ra sao? Và họ đang có những ý thầm kín nào phía sau sự im lặng? Kêu gọi chung chung là cách lẩn trốn dễ dàng nhất trước trách nhiệm của mình. Cũng là cách dễ dàng nhất đẩy con người ra xa nhau, làm tan rã mối liên kết cộng đồng. Chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng những hạnh phúc cụ thể cộng gộp lại chứ không phải bằng một tá danh từ trừu tượng. Chính vì thế, khi đã có ít nhiều vật chất trong tay, việc đầu tiên chúng tôi chú ý tới là xây dựng cơ sở kinh tế vững chắc cho các gia đình quân nhân. Thay vì dựng lên những dinh thự nguy nga, chúng tôi bù đắp cho kinh tế gia đình quân nhân một cách thiết thực. Với người này, là gạch ngói xi măng để xây nhà, với người kia — là một chiếc máy khâu để kiếm thêm nghề phụ, với người khác nữa — lại là một món tiền có khả năng công trợ và nâng đỡ đời sống... Tất cả những ai có cống hiến với cách mạng phải được hưởng thụ một cách tương xứng. Vì thế, hểt thảy những ngôi nhà chúng tôi làm cho các sĩ quan cấp cao (những người chỉ có khả năng lo việc chung mà không có tài tự liệu cho mình) hoặc cho nhũng gia đình thương binh và liệt sĩ đều có tem phía trước:

«Chúc mừng hạnh phúc
Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng»

Không! Không, đã đến lúc không còn kêu gọi chung chung được nữa. Bằng mọi cách, phải làm cho những người lương thiện thấy rằng họ không bị thiệt thòi hơn những tên ăn cắp hoặc những kẻ vị kỷ đứng bên lề cách mạng. Không thể để những người tốt mãi mãi chịu đựng sự khổ hạnh. Một người lính khó có thể yên tâm chiến đấu khi vợ con anh ta túng thiếu mà những kẻ xung qunnh lại no đủ dư thừa...

Người nói chuyện ngừng lại. Hẳn anh muốn làm dịu bớt đi nỗi bất bình thầm kín đã suy ngẫm từ lâu. Tất cả những người ngồi nghe à lên tán thưởng. Rồi họ quay sang nói chuyện với nhau về những hiện tượng tiêu cực đã từ lâu tồn tại trong đời sống: Nào chuyện một hạ sĩ quan khi về phép mua được đúng một chiếc chảo gang. Gặp cơn mưa, anh ta chụp lên đầu thay nón. Nào chuyện một cô gái xinh đẹp trong thị trấn đã từ bỏ chàng binh nhất gắn bó từ thời học trò để lấy con trai gã bán phở. Nào chuyện đám tân binh chỉ tranh nhau xin vào quân y, hậu cần, quân nhu, mong kiếm chác được đôi chút...

Những câu chuyện lao xao của họ tan loãng bên tai tôi. Tôi nhớ tới những câu thơ của Mai-i-a-cốp-xki trong một trường ca gây xôn xao cho công chúng vì tính chân thực sâu sắc của nó. Mấy câu thơ tôi nhớ có thể lược dịch thế này:

Trong hội nghị của chúng ta vô cùng trang trọng
Có đồng chí vung tay lên nói về cương lĩnh Gô-ta
Nhưng
        chính lúc đó
                 diễn giả đang nhớ tới cảnh vợ con nheo nhóc
Bên suất ăn không có xúp
Rồi tất thảy mọi người đua nhau bàn tán về các luận cương
Bỗng một người kêu lên:
Các đồng chí hãy thử nghĩ tới gia đình mình tí chút
Như phép thần
         trong giây phút
                 Cả hội nghị im phăng phắc như tờ...

Mai-a là một nhà hiện thực vĩ đại. Cuộc sống không bao giờ xa lạ với ông. Chính vì thế ông đã phát hiện những giá trị chân thực mà người khác không thấy hoặc không muốn thấy. Con người không phải là thần linh nên không thể chỉ sống bằng các giá trị siêu hình. Con người là một loài cây có thân cành và gốc rễ. Trong những phút biến động của lịch sử, có thể huy động tối cao khả năng hy sinh của mỗi người. Ví như thời lửa đỏ năm bốn mươi sáu, toàn quốc lên đường chiến đấu. Ví như những ngày chống Mỹ gian nan, những người dân Quảng Bình — Vĩnh Linh đã dựng nên cái khẩu hiệu kỳ diệu này: «Xe chưa qua nhà không tiếc». Ví như năm bảy mươi chín, khi kẻ thù bành trướng xâm lấn biên cương Tổ quốc, những binh đoàn trùng điệp từ khắp miền đã hối hả xông lên... Có lẽ khó có một dân tộc nào giàu lòng yêu nước và tinh thần xả thân đến thế. Cuộc sống cũng như nghệ thuật bao giờ cũng cần những đường biên. Khi những thời khắc hiểm nghèo của Tổ quốc qua đi, cuộc sống lại phải diễn ra đúng như nó vốn có.

Đại tá X. nói:

— Chúng tôi quý con người. Vì những con người đã đi theo cách mạng lâu dài thế, hy sinh lớn lao thế không thể là kẻ xấu. Vì vậy, tôi chỉ phê phán những hành động tiêu cực, chứ không phê phán con người tiêu cực. Quân nhân của chúng ta, quần chúng của ta nói chung là những người có bản chất tốt đẹp.

Tôi không đối thoại với anh, nhưng tôi cảm mến anh vì anh có một tấm lòng nhân hậu và một nhỡn quan tinh tường.

Không phải bất cứ ai cũng đánh giá những người xung quanh với một tinh thần công bằng và ưu ái như thế. Kết tội kẻ khác bao giờ cũng dễ dàng hơn dìu đỡ họ. Và, sự tự ý thức về trách nhiệm của mình bao giờ cũng là đức tính tốt đẹp của các hiền nhân ngày xưa, cũng như những người cộng sản chân chính ngày nay.

Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa!

Đại tá X. nhắc lại lần thứ hai câu nói đó và nhấn mạnh:

— Nhưng En-ghen đã nói: «Lịch sử nhân loại là lịch sử của sản xuất». Bởi thế, bất cứ chủ nghĩa nào cũng chỉ xây dựng được khi có một nền sản xuất phát triển tương xứng kèm theo. Nói một cách giản dị: Phải nhất thiết tạo nên những thành quả lao động cho xã hội. Nhưng việc đó, giờ đây có quá nhiều trở lực. Trở lực khủng khiếp nhất là chế độ quản lý bao cấp đã trở thành thói quen cố hữu của nhiều người.

Hai sĩ quan bước vào trao đổi việc gì đó với đại tá X.

Chúng tôi bước ra ngoài phòng họp. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố trải dưới làn nắng ấm. Sau hai tuần lễ mưa sùi sụt, nắng bất chợt quay lại, lộng lẫy như ánh lửa rắc trên các mái nhà. Những khu nhà cũ mới chen nhau. Những vòm cây run rảy, trút những chiếc lá già nua để cựa mình nảy lộc. Những rặng đèn cao áp trầm tĩnh nhìn ngắm dòng người lại qua. Hải Phòng chưa phải là một thành phố đẹp. Nó giống như một công trường khổng lồ với những cánh tay cẩu vươn lên, với những đoàn camion chở vật liệu tung bụi mù mịt, với những con tàu chờ đợi trên bến cảng, với vẻ hối hả gấp gáp trên gương mặt và trong dáng điệu của con người. Ngay cả những dãy phố cũ, tường vôi nhạt thếch, màu ngói rêu phong, người ta cũng cảm thấy một vẻ gì đó bất ổn phía sau nó:

«Chắc chắn mai ngày, nơi này sẽ khác. Chắc chắn họ sẽ phá đi những ngôi nhà cũ kỹ, để dựng lên những khu nhà cao tầng theo kiến trúc của thành phố cảng lương lai... ».

Đó là ý nghĩ chung của nhiều người khi đến đây. Đời sống đang trăn trở. Thành phố đang cựa mình. Rất tự nhiên, nó gợi cho ta một cảm giác khoái hoạt như kẻ lâu năm sống giữa rừng cây và thung lũng, một sớm mai bỗng vượt qua núi nhìn thấy bình nguyên ngút ngát trải tới chân mây.

                                              ... «Tôi không thể nào chịu được cái cảm giác ghê tởm khi trở về làng cũ. Vẫn những hàng cây xơ xác, những vựa chứa lúa mì cũ kỹ. Con bò sữa vục mõm vào máng gỗ uống nước. Một con bé mười lăm tuổi đứng gãi lung cho nó, bận chiếc váy màu đen bẩn thỉu với chiếc áo xanh da trời, hệt như cô em gái tôi ngày tôi bước chân đi. Ngày đó, tôi là một chàng trai mười tám. Giờ đây, tôi là ông già qua tuổi năm mươi. Hơn ba mươi năm đã qua, nhưng cuộc sống ở nơi quê hương không hề biến động. Cái con nhỏ đứng kia kìa, phải chăng là con gái em tôi? Đôi chân trần của nó sục trong cỏ khô, bên đống phân bò còn bốc hơi hôi hổi. Cái áo xanh da trời đầy những vết nhọ và ngấn mồ hôi. Rồi nó đưa bàn tay lên vén tóc, những ngón tay dơ bẩn, móng đen sì... Trời ơi, tôi không thể nào chịu đựng cái cảnh cũ mèm ghê tởm đó. Tôi không thể nào chịu được một cuộc sống tù đọng, không luân chuyển, giống như nước trong một vũng sâu thối rữa không sông suối chảy qua...»

Tôi bỗng nhớ tới đoạn văn trong một cuốn sách dịch đã đọc từ thời thiếu nữ. Ngày ấy, tôi chỉ mê say cái âm điệu nhịp nhàng như sóng biển. Giờ đây, tôi nhận ra ý nghĩa của nó. Phải từng trải tới một mức độ nào đấy người ta mới hiểu được mọi lẽ trên đời. Xưa nay, mọi chúng ta đã chẳng yêu thương đắm đuối làng quê, nơi chôn rau cắt rốn của mình đó sao? Từ mái lá, bờ tre từ bụi cây, gốc rạ. Từ cảnh trẻ mục đồng vất vẻo trên lưng trâu thổi sáo. Từ cảnh người nông vắt diệt thúc bò cày... Nhưng các thi nhân, hãy nhận ra sự lãng mạn phi lý của mình khi véo von ca ngợi những mái nhà tranh. Nào là «Túp lều bên dòng mương lấp lánh», nào là «Tiếng hò trâu vang động cả đêm trăng», nào là «Anh mong đợi được cùng em gánh lúa»... Bởi vì, những cảm xúc màu mè giả tạo nhiều khi xóa đi gương mặt thật của đời sống, tô vẽ cảnh nghèo nàn thảm hại, làm con người cam chịu với sự thiếu thốn không cần thiết, lười biếng tìm tòi sáng tạo trong lao động. Và như vậy, tôi đã nhận bắt được một tín hiệu tốt đẹp trong khẩu hiệu:

Ngói hóa nông thôn
Ngọt hóa đồng ruộng

Ai là tác giả của nó? Tôi không biết. Nhưng chắc chắn đó là một thi sĩ thực sự của cuộc đời. Người nghệ sĩ chân chính không nên rắc những cánh hồng lên mái tranh cũ kỹ của quá vãng, mà phải rọi làn ánh sáng lên những lâu đài lấp lánh trong tương lai. Người nghệ sĩ chân chính phải thổi vào lòng con người ngọn lửa hừng hực của đời sống và sự sáng tạo, khát vọng luôn luôn đẩy cuộc sống tiến về phía trước. Người nghệ sĩ chân chính phải hun góp nghị lực cho con người thêm sức mạnh vượt qua những trở ngại chứ đừng ru họ trong sự thỏa mãn và lười nhác...

Ngói hóa nông thôn
Ngọt hóa đồng ruộng

là một câu thơ ngắn nhưng vang động — Chúng ta còn thiếu những câu thơ như thế trong đời.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:48:40 pm

Một hạ sĩ quan trẻ măng bước ra mời chúng tôi trở lại phòng họp. Trước bàn, đại tá X. ngồi uống từng ngụm nước nhỏ. Rồi anh đứng dậy rất nhanh:

— Tôi phải quần thảo với những con số. Đó không phải là một việc mơ mộng, dễ dàng. Nhưng nếu không nắm chắc tài chính và tổ chức không thể có hiệu quả trong công việc, không có lực lượng vật chất giúp cho người lính đứng vững trong đội hình chiến đấu.

Một vị khách cất tiếng cười:

— Như thế là quân đội phải nhảy dù sang mặt trận kinh tế.

Đại tá X. cười hiền lành:

— Nói như vậy cũng được. Nhưng đúng hơn là chúng tôi phải mở cuộc chiến đấu trên các mặt trận khác. Một quân đội bao cấp chỉ thích hợp với một cường quốc có nền kinh tể phát triển và cực kỳ vững mạnh. Ở nước ta điều kiện đó hiển nhiên là không thể có. Bởi thế chúng ta phải tìm cách tự nuôi mình. Tuy nhiên, điều này cũng không dễ được chấp nhận vì bệnh bao cấp từ nhiều năm nay đã ăn sâu vào thâm căn cố đế trong rất nhiều người.

«Đấy cũng là một sự lạ lùng!»

Tôi thầm nghĩ. Trong lịch sử nước ta, rất nhiều triều đại đã phải đồng nhất vai trò người lính với nông phu. Các đạo quân ngoài giờ tập luyện phải cắt nhau cấy cày, trồng trọt, xây dựng ấp trại, thành lũy. Lúc giặc tới, cầm cung tên gươm giáo, khi giặc ra khỏi bờ cõi lại cắt lúa, hái dâu. Bởi lẽ nền kinh tế tự túc tự cấp phong kiến không đủ sức bao cấp cho binh sĩ. Và hoàn cảnh sống quyết định sự ứng phó của toàn thể cộng đồng gần như vậy. Vì lẽ gì những bài học lịch sử hiển nhiên lại bị quên đi mau lẹ thế? Phải chăng lịch sử là một chuỗi mắt xích. Nhìn xuyên suốt có thể liên tục, nhưng trong thực tế là sự nối ghép các thời kỳ gián đoạn với nhau. Ở thời điểm này, con người rất dễ phủ định các giá trị của thời điểm khác. Phải có một nhỡn quan sáng suốt, thấu hiểu chiều sâu của lịch sử, mói giúp con người tránh thói bảo thủ và dễ dàng tìm ra những lối rẽ của hành trình.

Đại tá X. vẫn đang trình bày những công trình cụ thể Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng đang quản lý. Người ngồi bên tôi bỗng nói to:

— Xin lỗi anh, nhưng chúng tôi muốn anh nói cụ thể hơn vấn đề biên giới?

Đại tá X. giơ tay:

— Tôi sẽ trình bày về vấn đề biên giới. Tuy nhiên, tôi cần nói thêm về ý nghĩa vấn đề tự lực tự cường trong quân đội. Chúng tôi không muốn lặp đi lặp lại những ngôn từ trừu tượng. Xin được phép báo cáo bài toán cụ thể trong tương lai. Khoảng hai mươi năm nữa, khi các công trình quai đê lấn biển dự liệu hoàn thành, đất canh tác của Hải Phòng sẽ tăng từ 5 vạn ha lên 8 vạn ha, tương ứng với số dân ước tính một triệu sáu mươi vạn người. Nếu năng suất lúa đạt từ 8 tới 10 tấn một ha, thì tổng sản lượng sẽ là 80 vạn tấn và bình quân đầu người là năm trăm ki-lô-gam. Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, nhưng đã và đang tiến tới tự cung cãp lương thực cho mình. Nhưng điều quan trọng hơn đối với chúng ta, và với riêng tôi — một người lính, là khi hệ thống quai đê lấn biến hoàn thiện thì vòng cung phòng thủ bờ biển Hải Phòng cũng đã khép kín. Thế trận chiến tranh nhân dân được cấu trúc hoàn chỉnh Hải Phòng đầy đủ khả năng đánh bại mọi cuộc tiến công đường biển của kẻ thù.

Tới đây, đại tá X. uống môt ngụm nước nhỏ. Vẻ mặt tràn đầy niềm sung sướng và tin tưởng. Những nếp nhăn bị rọi sáng nổi rõ rệt hai bên gò má và thái dương. Lại một lần nữa, tôi bắt gặp chân dung của người lính già bình dị. Một gương mặt ta luôn luôn phảng phất nhớ đã gặp ở một thao trường, mộc góc hầm chữ A, hoặc một binh trạm nào đó trong đường dây 559...

Anh bạn phóng viên báo ngồi bên tôi gỡ kính, gõ ngón tay cộp cộp lên bàn để người nói chuyện chú ý tới mình. Đại tá X. ngẩng lên. Bắt gặp cặp mắt nhìn dò hỏi của nhà báo, anh mỉm cười:

— Tôi nhớ rồi. Tôi nhớ là đồng chí muốn biết công tác biên giới của chúng tôi.

Anh phóng viên cao giọng:

— Cảm ơn thủ trưởng. Chúng tôi đang chờ đợi đồng chí.

Đại tá X. gạt những tờ giấy ghi số liệu cụ thể về các công trình xây dựng sang một bên. Và đáp lời:

— Việc giữ vững đội hình chiến đấu đang là công việc hệ trọng hiện nay. Tôi không bao giờ quên rằng Hải Phòng là hậu phương gần gụi nhất của tiền duyên phía Bắc. Cũng như nhiều tỉnh trong toàn quốc, trước đây chúng tôi thường tổ chức những đợt quà ủng hộ các binh đoàn giữ biên giới. Nhưng giờ đây, chúng tôi hiểu rằng những hành vi tốt đẹp đó không có ý nghĩa thực tiễn bao nhiêu. Chúng ta cần nghĩ rằng nhiệm vụ của mình là phải góp phần củng cố mặt trận. Không chỉ là những chuyến hàng phục vụ sinh hoạt mà là cả một hệ thống đường sá, hầm hào, các doanh trại và đồn tiền tiêu. Tất cả những nơi đó phải tiện lợi, chắc chắn và tạo cho người lính biên thùy một cuộc sống dễ chịu, không cách biệt cuộc sống bình thường bao nhiêu. Chúng ta là những người lính đã trải qua nhiều cuộc chiến. Chúng ta hiểu rằng muốn thắng kẻ địch đều phải có thành phần cốt lõi của quân đội. Đó là những sĩ quan có nghề nghiệp, những người lính thiện chiến. Những người này không thể chỉ ở trong quân đội thời gian làm nghĩa vụ mà phải tại ngũ khá lâu. Muốn vậy, cần phải tạo ra một môi trường thích hợp. Con người không thể chịu đựng quá lâu một trạng thái sống thiếu thốn, mất thăng bằng.

Một lần nữa, ý nghĩ của đại tá X. lại khiến tôi liên tưởng tới lịch sử. Lâu rồi, tôi đã đọc trong một bài báo những nhận xét tương tự như thế:

                             - «Các triều vua thời này đều nhận rõ mối hiểm họa phương Bắc: Cần phải giữ đất. Nhưng không chỉ giữ đất nhờ binh mà còn phải nhờ dân, không chỉ bằng lực mà còn phải bằng tâm. Thế nên, các vua cha thường gả các công chúa cho đám quan châu, quan lang. Những người này được phép đem theo một đám lính hầu lẫn nữ tỳ. Dân kinh kỳ cũng được tuyển chọn theo lên phương Bắc, giúp các quan châu lang mở trại, làm vườn, xây thành, đắp lũy. Khi rảnh rỗi săn thú làm nương. Lúc có biến, xung quân ra trận. Đa số bọn họ đều được dựng vợ gả chồng, có nhà cửa vườn trại, nên gắng sức chống chọi với rợ phương Bắc bảo toàn bờ cõi nước Nam ta...»

Có lẽ lịch sử không thiếu sự trùng hợp. Nhưng đặc biệt ở đất nước ta, nơi cuộc đấu tranh tự bảo tồn diễn ra hầu như liên tục theo chiều dài của thời gian, những kinh nghiệm chống ngoại xâm sẽ còn sống trường kỳ dưới những hình vẻ và dạng thức mới.

— Tại sao chúng ta không thể lập những đội chiếu hình Vi-đê-ô — lưu động? Chỉ cần một vài chiếc máy nổ Hon-đa thôi, hai chiến sĩ văn hỏa có thể đi từ chốt này sang chốt khác, sư đoàn này qua sư đoàn kia phục vụ?...

Đại tá X. ngừng lại để uống một ngụm nước rồi tiếp:

— Con cái chúng ta, những sĩ quan trẻ, những binh lính trẻ, cần có những nguồn vui riêng biệt của thế hệ chúng. Không nên để cho họ bị bủa vây giữa núi non hiu quạnh, suốt một thời gian dài không được nhìn thấy hình bóng người con gái, không được gặp gỡ, chuyện trò với phái đẹp. Những nhu cầu đó với họ là đương nhiên. Chúng ta hãy lo cho cuộc sống của người lính với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tới khi cần, họ sẽ xả thân vì sự nghiệp cách mạng.

Người chỉ huy đã đứng tuổi và từng trải. Anh xòe bàn tay rộng, chằng chịt những đường gân tĩnh mạch trước mặt mình rồi nói:

— Tất cả những ước mơ ấy không xa xôi mông lung gì. Nó ở trong bàn tay ta. Cứ trần lực làm sẽ có tất cả. Nhưng cũng không thể nghĩ rằng những điều tốt đẹp sẽ tới một cách dễ dàng. Nếu chúng ta cứ theo thói quen mà đã nhiều người mắc: suy ngẫm, suy ngẫm và suy ngẫm mãi... Cần phải hành động. Hành động thiết thực và có hiệu quả. Đừng liều lĩnh không đếm xỉa tới mọi đắn đo cần thiết. Nhưng cũng chớ nên triết lý suông. Bản thân tư tưởng không làm nên cái gì cả nếu nó không tự nhập thân trong hành động.

Anh ngừng lại. Và trong ánh mắt anh, tôi đọc được niềm khao khát, ý chí tiến thủ mãnh liệt mà ngay ở lứa tuổi thanh niên cũng không dễ dàng có.

Trợ lý của đại tá X. bước vào, đem cho chúng tôi bài báo về mục tiêu “Làm giàu đánh thắng” của quân khu Ba. Ở bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng, khẩu hiệu “Làm giàu đánh thắng” được treo ở vị trí trang trọng buộc mọi người phải chú ý tới nhiều nhất. Tôi không sửng sốt trước câu nói mộc mạc ấy. Tôi chỉ nghĩ: Lẽ ra, nó đã phải trở thành phổ biến từ lâu. Lẽ ra, người ta không nên để quá nhiều thời gian để bàn cãi nên, hay không nên một việc làm cần thiết như thế... Nhưng, điều đáng tiếc là hành trình từ duy của con người thường lùi sau đời sống, mà nhu cầu của sự phát triển lại yêu cầu nó phải vượt lên phía trước.

Trời đã trưa. Chúng tôi rời phòng họp bước ra. Đường phố đông đúc quá. Một đoàn camion chở đầy tân binh chạy qua cuốn theo làn bụi trắng. Thời tôi còn là một cô bé tám tuổi, đã có những đoàn camion chở bộ đội từ Việt Bắc về giải phóng thủ đô:

«... Trùng trùng say trong câu hát
Lớp lớp đoàn quân tiến về.
Chúng ta đi reo vui lúc quân thù đầu hàng
Cờ ngày nào tung bay theo giỏ... »

Hình ảnh những người lính ngày khải hoàn đã in sâu vào tâm trí tôi một kỷ niệm hào hùng lộng lẫy mà bụi thời gian không thể che mờ. Có lẽ đối với những người như đại tá X. kỷ niệm đó sẽ còn sâu sắc hơn, rung động máu thịt hơn. Niềm vinh quang trong dĩ vãng không cho phép họ được quyền mệt mỏi đầu hàng những khó khăn thực tại. Tất cả những cố gắng của họ đã bắt nguồn từ một khát vọng thâm sâu: Xây dựng một thành trì cho Tổ quốc!

3-1985
D.T.H


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:51:57 pm

THAO TRƯỜNG



MÊNH MÔNG CÁI TRÁP


Anh không chỉ là một đại đội trưởng giàu kinh nghiệm trong việc sông nước, mà qua chuyện trò, tôi còn thấy anh là một người mơ mộng, ham hiểu biết. Tại sao vùng đất biển xa ngút ngát, nơi điểm mút của huyện đảo Cát Hải ngó mông sang bên kia là tỉnh Quảng Ninh này lại có tên gọi là Cái Tráp? Anh hỏi chính cái điều tôi cũng đang thắc mắc. Có phải đó là một danh từ, một thổ ngữ để chỉ vùng sông nước bến bờ, từa tựa như người miền Trung gọi những trảng cát, những vịnh nước lớn là truông, là phá? «Yêu em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang». Ở đây liệu có đôi lứa nào từ thời xa xưa vì đò giang cách trở mà đành lỗi hẹn lời nguyền? Hay tên ấy muốn ám chỉ cuộc đời cơ cực của những người dân đảo? Thường là thời xưa, những người đã phải lên rừng xuống biển, mang gan ra đánh cuộc với đời, đánh cuộc với thiên nhiên để sống thường là những người bị săn đuổi. Hoặc bị chính con người săn đuổi hoặc là đói nghèo săn đuổi nên phải quyết chí ra đi «Được ăn cả, ngã về không», quyết «đội trời khuấy nước», sống ngang tàng phóng túng «gươm đàn nửa gánh non sông một chèo ». Bởi thế nhìn những người dân đảo săn chắc, ăn sóng nói gió, tôi cứ nghĩ trong huyết quản họ, trong tim óc họ ai cũng có cái chất của Rô-bin-xơn, của An Tiêm, gan góc và bản lĩnh vô cùng. Đứng giữa vùng trời nước còn đậm chất hoang sơ này, ngó về phía sau là huyện đảo loi thoi, nhìn lên phía trước là Quảng Ninh xa ngái, những bãi sú lúp xúp trong bãi phù sa nhãy nhượi, ta cứ bần thần về Cái Tráp như ẩn bên trong một câu chuyện riêng đôi lứa, ẩn bên trong những cuộc đời bão gió. Và tên gọi này có từ bao giờ? Đồng chí đại đội trưởng trẻ tuổi ham hiểu biết, đã lưu ý tôi rằng chắc là cũng chưa xa xôi lắm. Bởi trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi khi nói đến dải đất ở phía đông của đất nước, Người chỉ dừng lại ở huyện Vĩnh Bảo trong kia. Mặc dù cụ Nguyễn Trãi đã hiểu rất tường tận đến cả cách đặt tên làng ở vùng quê Vĩnh Bảo đều có chữ Am đằng sau: những là Thượng Am, Cổ Am, Đông Am, Nam Am, Tiền Am, Hạ Am... nhưng cặp mắt của Người, bàn tay của Người chưa với tới Cát Hải. Vậy thì Cái Tráp chưa phải là một tên cổ. Nhưng quan trọng hơn tên gọi rất nhiều là nơi hoang vu trên trời dưới nước, nơi chỉ có những cánh hải âu chấp chới là vật sống động này, giờ bỗng rung chuyển lên dưới những bước chân người. Một nghìn rưỡi con người từ khắp các nơi đã rầm rập hội tụ nơi đây. Những đơn vị bộ đội chủ lực, dân quân du kích của năm huyện quanh đây, và cả những tay thợ đấu quen sống như những người Digan, nay đây mai đó, mang sức lực và đôi tay khéo léo của mình đi bán rong cho khắp thiên hạ, giờ cũng đổ về đây, góp sức làm công trình mang ý nghĩa chiến lược có tầm vóc quốc gia, vừa lợi về kinh tế dân sinh, vừa giữ được an ninh quốc phòng. Nơi đây là tai là mắt của đất liền, là một thế đứng tấn trước cửa ngõ, là một pháo đài để ta đánh địch từ xa, giữ yên cả một sườn biển phía đông.

Kênh đào Cái Tráp đã hình thành như thế nào? Sự bức xúc cần có nó ra sao? Ngay sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, một vài nhà kinh tế khi bàn về những công trình lấn biển của thành phố Cảng, đã nghĩ đến phải vươn tay ra tới đây, phải rút ngắn đoạn đường biển này lại để tàu bè vào cập bến đỡ đi vòng vèo. Do cấu tạo địa lý không thuận tiện, tất cả các tàu ra vào phía này đều phải đi quanh co theo con sông ruột lợn, vòng sang tận Quảng Ninh, rồi mới trở lại đi theo đường thẳng trên hải đồ. Tính chi ly quãng đường vòng phí phạm ấy là 23 ki-lô-mét. Nếu như cắt được một bán kính kẻ chỉ từ bến đậu ra ngoài khơi thì chỉ còn hơn ba ki-lô-mét. Bỏ được gần hai mươi ki-lô-mét vô ích trên sóng nước đối với những tàu buôn hàng vạn tấn thật là một việc không nhỏ. Chỉ tỉnh riêng mật độ số tàu của ta đi lại như hiện nay, nếu có đường mới, đã tiết kiệm được hai ngàn tấn dầu trong năm. Nhưng cụ thể mở một luồng lạch mới như thế, đường đi lối lại và kích thước ra sao, thì chưa thể hình dung nổi. Bàn đấy, rồi lại để đấy, thời gian phủ bụi dần lên những dự định. Cho đến khi nổ ra cuộc đụng độ với bọn bành trướng, vùng Cái Tráp lại thức tỉnh nhiều bộ óc có trách nhiệm. Lúc này những người quan tâm càng thấy rõ không chỉ là vấn đề kinh tế, mà nếu hoàn thành được công trình này, ta sẽ có thêm tai mắt phát hiện địch từ xa, bàn tay phòng thủ sẽ được vươn xa chặn đánh địch, ngay từ khi chúng đang thập thò ngoài hải phận. Phải có sự đầu tư trí tuệ của Trung ương. Các kỹ sư ở Bộ thủy lợi được điều xuống để khảo sát, đo lường. Nhưng rồi đến khâu thi công, khâu thực hiện để biến những lý thuyết kia, những ước mơ kia trở thành hiện thực lại là một vấn đề hết sức nan giải.

Ai sẽ đảm đương công việc này? Trong khi khảo sát, các kỹ sư đã đo đạc rất chi ly, chiều dài của kênh đào 4.250 mét, độ sâu bắt buộc phải là 9 mét, mặt sông rộng 230 mét và đáy phải là 80 mét. Đó là kích thước cần thiết, để những tàu lớn đi lại được an toàn, vậy phải đào bới, khai quật bao nhiêu ngàn, vạn khối đất? Thêm nữa bùn đất và địa thế ở đây chưa thể dùng máy xúc máy ủi được (và máy móc đó cũng chưa có trong tay). Dụng cụ thủ công và hai bàn tay con người vẫn là phuơng tiện duy nhất để đào bới, khai thông.

Đứng nhìn dải đất lô nhô sát mí nước, nơi tận cùng của huyện Cát Hải, sú vẹt và cỏ dại mọc ngợp trên bùn nước lõng bõng, đó sẽ là vùng kênh đào chạy hun hút theo đường vòng cung biển, lòng người thật dễ lao lung. Đã có mấy đơn vị chủ quản đến xem xét hiện trường, sau một hồi lâu tính toán, cân đo hơn thiệt, để rồi cuối cùng lắc đầu không nhận! Thấy rằng với hai bàn tay và đôi vai của con người thật không thể kham nổi, và hạch toán chi ly thì chỉ có lỗ. Nhưng với những người lãnh đạo, có trách nhiệm với đời sống và sinh mạng của cả vùng biển này lại không thể dễ làm khó bỏ. Rút cục, công việc đào sông lấn biển nơi đây lại đến tay những người lính. Đồng chí Bí thư thành ủy giao công trình này cho Bộ chỉ huy Quân sự thành phố. Bộ chỉ huy quân sự giao cho Ban công trình kiến thiết. Ban này chỉ vẻn vẹn có hai mươi bốn người, hoàn toàn là những cán bộ khung chỉ đạo. Ban có trách nhiệm đi giao dịch ký kết, hợp đồng với tất cả các đơn vị, các đầu mối xung quanh để thi công những công trình do Ban đảm nhiệm. Ban hoàn toàn chịu trách nhiệm trước cấp trên về phần kỹ thuật chất lượng bền vững của những công trình và là linh hồn của những công trình ấy. Sau một vài thử thách góp sức với thành phố làm các công trình, Ban công trình kiến thiết đã có tiếng vang là một đơn vị dám làm, biết làm và làm giỏi. Với đội ngũ chuyên môn vững, những kỹ sư năng nổ, thành thạo công việc, làm có tính toán tỷ mỷ, chứ không phải chỉ mang công sức ra húc bừa như một kẻ hữu dũng vô mưu. Đồng chí Bí thư thành ủy, một người chỉ đạo kinh tế rất giỏi, sau khi được chứng kiến những công trình do ban đảm nhiệm, đã khen ngợi: «Ban công trình kiến thiết của Bộ chỉ huy quân sự thành phố đã trưởng thành trong khi làm kinh tế, biết làm chủ những mũi nhọn và những công trình trọng điểm, có phong cách quản lý kinh tế mới. Nhân sự ít nhưng tinh».

Sau khi đi ký hợp đồng với các đơn vị bộ đội, các huyện xung quanh, Ban công trình kiến thiết với chức năng là một đơn vị chủ quản đã phải lo cơ sở vật chất cho hơn một nghìn con người lao động thủ công từ cái mai, cái cuốc, kéo cắt đất, thuyền chở đất đến đời sống vật chất đồng tiền bát gạo hàng ngày, tỉ mỷ chu đáo như một người nội trợ. Những người đến lao động làm theo đơn vị của mình, Ban chỉ lo về phần kỹ thuật, phân bổ lực lượng sao cho hợp lý. Khi nghiệm thu có thưởng, phạt, với những đơn vị làm tốt hay xấu. Đây là một phương thức quản lý lao động, quản lý kinh tế khoa học và hợp lý nhất khi phải điều hành những công trình lớn với số nhân công hàng ngàn người.

Tiếng lành đồn xa, do cách làm công minh và sòng phẳng, trân trọng những người thợ giỏi, Ban công trình kiến thiết đã tập hợp được một đội ngũ đông đảo với nhiều thành phần, nhiều đầu mối. Đây là nơi hội tụ của quân dân một ý chí. Những người thợ đấu già quen sống rong ruổi, nói rằng đến đây thấy mình thật sự có ích, công sức của mình được đền bù xứng đáng, không bị lợi dụng, bóc lột. Trên cơ sở ấy, công trình này ngoài tác dụng về kinh tế và quốc phòng, nó còn mang ý nghĩa là một công trình nhân đạo, công trình của trí tuệ tập thể. Trong những ngày «mộ quân», tất cả những người thành thạo công việc sông nước đều được phát hiện, điều động đến kênh đào.

— Bản thân tôi cũng chuyển về đây trong những ngày ấy — Đại đội trưởng quay sang nói với tôi.

Chúng tôi dừng bước ở đầu đoạn kênh đào. Cảm giác trước tiên dâng lên là sự kính trọng đối với sức lực của con người. Một đoạn kênh dài hun hút vươn mình ra phía biển. Đất vật lên đắp thành con đê cao sừng sững, nổi bật lên giữa cảnh trời nước mênh mang như một cái gạch nối giữa đất liền và biển cả. Những thỏi đất xắn khéo đến thành nghệ thuật, vuông thành sắc cạnh và láng mướt như những khúc giò lụa, nện khít vào nhau như xây thành. Dưới triền đê, một ngàn rưởi con người rải dọc theo kênh đào vẫn đang đánh vật với đất. Người đào, người xắn mai, người lấy kéo cắt, đất xếp lên những chiếc thuyền gỗ, kiểu thuyền lá tre, dài và mảnh. Hiện thời có ba trăm chiếc. (Ban công trình kiến thiết đang đóng thêm một trăm chiểc nữa). Sào chở thuyền tua tủa như gươm giáo. Thuyền được đưa vào những con lạch nhân tạo tới sát chân đê. Từ đấy, đất được lao theo những tấm ván trượt để đắp thành mặt bằng. Người nào việc nấy, từng đơn vị xếp theo đội hình, theo dây chuyền, sít sao như những mắt xích. Công việc theo một nhịp độ liên tục khẩn trương, không ai có thể đứng ngoài cuộc. Những kỹ sư đi lại liên tục trên hiện trường để kịp thời phát hiện, sửa sang những chỗ chưa hợp lý trong lao động, cũng như chưa đảm bảo kỹ thuật.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:52:51 pm

Tôi được biết đến hôm nay tiến độ thi công đã đi được non nửa đoạn đường. Mới hoàn thành được hơn một phần ba con kênh, vậy mà số đất mọi người đào đắp lên đã hơn chín vạn mét khối. Tính ước lượng toàn con kênh sẽ là trên hai mươi vạn mét khối. Sau khi con kênh hoàn thành, ở đây sẽ có thêm hai ngàn héc-ta đất liền. Nhà cửa và những công trình dịch vụ sẽ được dựng lên trên dải đất mới đó. Dân số ngày một đông, biển cả thì dữ dằn, cứ muốn thu hẹp đất liền lại như một miếng da lừa của Ban Dắc, nhưng bàn tay và sức lực con người đã kéo đất liền ngày một tiến ra biển. Đất sinh sôi dưới những cánh tay người. Tôi chợt nhớ đến những kênh đào nối tiếng thế giới — Kênh Xuya-ê, kênh Pa-na-ma. Và ở ta, công trình lấn biển của Nguyễn Công Trứ ở vùng Tiền Hải — Thái Bình thuở trước vẫn được nhân dân đời đời ghi tạc công ơn.

— Đồng chí Bí thư thành ủy giao nhiệm vụ đến mồng 2 tháng 9 năm nay công trình này phải hoàn thành. Ngày quốc khánh năm nay sẽ cắt băng thông tàu trên dòng kênh này — đồng chí đại đội trưởng nói giọng sôi nổi.

— Nhưng liệu có xong không? — Tôi hỏi còn chưa hết băn khoăn.

Người con của sông nước khẳng định chắc chắn:

— Nhất định chứ anh! Vì càng làm mọi người càng có kinh nghiệm, lại thêm luôn luôn được bổ sung những tay thợ khá. Riêng đại đội tôi cũng đã có đến hai chục tay thợ đấu con nhà nòi!

Và chính anh, người đại đội trưởng trẻ tuổi này cũng là một con nhà nòi của sông nước. Cha anh ngày xưa vì nghèo, không đủ tiền sắm đồ nghề, đã phải đi làm thuê cho các chủ thuyền bằng cách lặn nhử mồi. Buộc một chùm những con cá gỗ vào hai chân, khi phát hiện thấy cá đi đàn, người nhử mồi nhẹ nhàng lặn xuống, nhử cho đàn cá cùng mình lao vào tấm lưới đã buông sẵn. Khi chắc ăn làm hiệu cho những người trên thuyền cất lưới. Mỗi mẻ như vậy, người nhử mồi sây sát cả mình mẩy vi cá đánh vây, đánh ngạnh tứ tung mặt mũi chân tay. Đến đời anh, người đại đội trưởng rắn chắc như một con trắm đen này, không còn phải bán sức lao động như cha chú nhưng anh cũng đã ra khơi vào lộng từ tuổi thiếu niên. Anh đã quen sóng nước luồng lạch như những người trai làng quen những đường quê lối xóm của mình. Tôi được nghe mọi người kể, anh đã nổi tiếng trong dịp hàn khẩu đê năm trước ở vùng biển Đồ Sơn. Dạo ấy, trong một trận mưa bão, đê bị vỡ. Khi hàn khẩu cần đóng những cây cọc dài đến mười hai mét. Nhưng đóng bằng cách nào thì không một ai biết. Qiữa lúc bối rối ấy, thì một trung đội trưởng ở dưới đơn vị đến gặp ban chỉ huy xin nhận công việc nan giải đó. Anh đã học được mẹo luật đóng cọc trong sông nước, lợi dụng sức nước của cha ông và xóm chài của mình từng sống chết bao đời với biển. Khi những cây cọc đã đứng vững trong những cơn thủy triều, mọi người mới sực nhớ rằng trong sách sử có nói ngày xưa Trần Hưng Đạo có hỏi cô bán quán ở cửa Bạch Đằng về giờ lên xuống của những con nước triều. Chính là Người hỏi để rồi dùng sức nước đóng những cây cọc lừng danh trên sóng Bạch Đằng mà đời đời con cháu vẫn còn tưởng nhớ. Không ngờ tài trí của Hưng Đạo Vương vẫn còn truyền trong tim, trong óc những người dân chài hết sức cụ thể đến tận bây giờ.

Cũng những ngày hàn khẩu ấy, anh còn được mọi người nhắc mãi trong việc đi cứu dân. Khi chỗ vỡ thứ nhất vừa hàn xong, thì tiếp liền một trận bão nữa, phá bung một đoạn đê khác ở cạnh làng. Nước tràn như thác. Người chạy không kịp, hơn cả hỏa hoạn. Anh đã một mình một chiếc thuyền con, chơi vơi trên sóng nước đi cứu người già và trẻ em.

Khi chuẩn bị ra quân cho công trình Cái Tráp, những người lãnh đạo lập tức nhớ đến anh. Và anh đã không phụ lòng tin của đồng đội. Anh không chỉ biết nhìn sóng, nhìn nước để hiểu được bụng biển, mà còn biết đặt niềm tin vào mỗi con người, biết quản lý lao động khá thành thạo. Trong đơn vị anh có một vài chiến sĩ là «cậu ấm» từng sợ đi lính, sợ gian khổ, từng là những nhân vật được liệt vào loại “anh chị” ở thành phố. Trong số «cậu ấm» ấy, Hải lé là người đầu đàn, chỉ huy cả nhóm đàn em. Với con mắt hiếng, nhìn cái gì cũng xiên xiên, hấp ha hấp háy, nhưng phụ trách chỉ xểnh một tý là Hải ta biến rất nhanh, lặn một hơi không thấy sủi tăm! Hải đã từng bỏ ngũ nhiều lần lỉnh về nhà, sợ khu phố biết, nam khan trong buồng vài hôm, rồi vác quạt máy, ti-vi của chính nhà mình đi bán ăn nhậu. Đến cả những người ruột thịt cũng chán ngán anh chàng lêu têu vô dụng đó. Về đây, Hải đã từng đầu têu trong những cuộc chè chén, nói năng văng mạng, ở nhà dân thì lười nhác. Hải cứ tránh tránh lảng lảng đại đội trưởng, vì anh kiên quyết nhưng lại không hề gay gắt đao to búa lớn, nhắc nhở vừa đủ nghe. Trong lao động vẫn chỉ dẫn rất tận tình cho Hải xắn mai, chở thuyền, cách xếp đất lên đê. Nhưng Hải gờm hơn cả là sức vóc cường tráng săn như chão của đại đội trưởng, rồi lại nghe thì thầm rằng đại đội trưởng đã từng đi đấu vật trong những cuộc thi của xã, của huyện trong kia.

Thế rồi một buổi tối, đại đội trưởng được mật báo Hải và một vài chiến sĩ nữa dùng một chiếc thuyền chở đất đang phóng ra ngoài khơi nơi chiếc tàu buôn của một nước tư bản đang đậu. Mấy tướng này định giờ trò gì? Anh lập tức mượn một chiếc thuyền câu phóng theo. Khi Hải lé và mấy chiến sĩ phát hiện ra người đuổi theo mình, và lại đích thị là đại đội trưởng, thì mấy ông con giời hốt hoảng quáng quàng nhẩy ùm xuống nước. Chợt một cậu hét lên thất thanh:

— Thủ trưởng ơi, thằng Hải không biết bơi!

Trớ trêu thế, anh chàng công tử đường nhựa người đầu trò lại không biết gì chuyện sông nước. Hải lé đập ùm ùm, làm một bụng nước đang có nguy cơ chìm như một hòn đá thì được đại đội trưởng nhảy xuống kéo lên thuyền. Tỉnh táo lại, Hải lé run như rẽ. Lần đầu tiên anh chàng bất trị biết sợ, biết xấu hổ trước một việc làm vụng trộm. Thì ra không biết nghe ai, mà các tướng kiếm được đồi mồi để mang ra đổi chác với các tàu buôn. Đến cả lần ấy đại đôi trưởng cũng không làm to chuyện, vì Hải và các chiến sĩ đã thực sự ăn năn hối lỗi. Hải lé thay đổi từ sau chuyến hút chết ấy.

- Thực ra những thanh niên ấy, họ rất có lòng tự trọng. Anh nói - Khi thấy mình không bị thành kiến, không bị coi thường, vẫn tình nghĩa trong đối xử, công bằng trong mọi thứ quyền lợi, một đồng tiền thưởng khi vượt năng suất lao động cũng được chia đều, hết sức minh bạch, thì họ thấy không nỡ phụ bạc xung quanh. Ngay sau hôm Hải và mấy chiến sĩ định ra khơi đổi chác không thành, đại đội chúng tôi tổ chức liên hoan và chia quà vượt chỉ tiêu kế hoạch, Hải và mấy chiến sĩ yếu đó cũng được hưởng như anh em. Không ai có một lời nói, một ánh mắt nhìn thiếu thiện cảm với những chiến sĩ đó. Từ sau hôm ấy, tôi thấy rõ ràng Hải suy nghĩ nhiều. Anh hỏi kinh nghiệm quản lý và điều hành công việc ư? Chưa có gì đáng nói đâu. Tôi chỉ cùng ăn, cùng làm, sống hết lòng với anh em mà thôi. Cũng như toàn bộ công trình này, nhiều người ở trong thành phố cử hỏi tại sao bộ đội dám làm và làm được? Thực ra có bí quyết gì ghê gớm đâu. Việc khảo sát thiết kế thì đã có rồi, còn lại là thi công. Ở đây người điều hành phải hiếu được thiên nhiên, phải nắm chắc được đặc điểm về đất, về nước ở đây. Với con người thì biết tập hợp, biết khơi gợi những khả năng vẫn tiềm ẩn trong tâm can họ. Với công việc thì trân trọng, với quyền lợi thì công minh. Để hiểu rõ điều này, anh hãy làm quen với những người thợ đấu.

Theo sự giới thiệu của đại đội trưởng, tôi đã làm quen với người được coi là «trưởng đoàn» thợ đấu có cái tên rất phó cả là Già Quýnh. Gọi là già chỉ hàm ý sự tôn sùng của đám giai em, chứ thực ra ông Quýnh mới ngoài năm mươi. Da nâu sẫm, bắp thịt nổi từng múi, những ngón tay chuối mắn đỏ ửng, trông thô ráp, nhưng lại khéo léo đến ngạc nhiên. Già Quýnh trội hơn hẳn những bạn cùng nghề về biệt tài đào đất mò trong nước. Không nhìn thấy đất, nhưng lưỡi mai cứ như có mắt, xắn những thỏi đất đều tăm tắp, hất từ dưới nước lên, nhẹ nhàng, chuẩn xác đến thành nghệ thuật. Quanh năm suốt tháng già Quýnh không bao giờ hết việc. Từ vượt thổ tôn nền nhà, đến đào ao, đào giếng đóng gạch, ông đều thuần thục. Chưa xong việc nhà này, nhà khác đã đến mời đón, trọng vọng hết mực.

— Một hôm, cách đây sáu tháng — già Quýnh kể bằng cái giọng trầm mà vang của người quen đối mặt với sóng nước — Có một người đến tìm tôi. Không phải một lão nông, một điền chủ mới phất, mà là một ông trung tá hẳn hoi, một người chỉ huy xởi lởi và thật thà. Ông nói về công trình ích nước lợi dân này ra sao, cần có tôi để làm huấn đạo cho anh em bộ đội thế nào, đến việc công sá một khối đất, giá cả cố định một cân gạo là bao nhiêu, tất tật rõ ràng như ban ngày. Đời sống người thợ thật bảo đảm. Thế là tôi kéo cả lũ giai em đi theo. Lần đầu tiên được làm việc cho nhà nước, mà thu nhập lại cao hơn làm cho tư nhân. Chúng tôi luôn luôn được lĩnh tiền thưởng, chẳng một ai bớt xén cò kè...

Đúng như đồng chí đại đội trưởng nói, sau tất cả quyền lợi vật chất ấy, sự tin yêu giữa những con người đã gắn bó vẫy gọi biết bao những mảnh đời đã đến và trụ vững trên mảnh đất nằm thia lia trên lợi nước biển Đông này. Tôi đã hoàn toàn yên tâm giữa tính phức điệu mà đồng nhất của những con người nơi đây. Già và trẻ, nhưng tổ chức thật chặt chẽ và nền nếp, công việc cứ chạy băng băng. Tôi ngước nhìn dáng điệu tự tin của đại đội trưởng đang đi trên mặt đê chon von. Cặp mắt màu nâu của anh trở nên mơ màng trước cảnh trời chiều. Những ánh nắng cuối cùng nhuộm mặt biển vàng thẫm như dát đồng. Bầy hải âu chao lượn, sà đậu trên sóng, rồi đập cánh kêu lên cheng chéc khi mấy tàu buôn nước ngoài trang hoàng như một biệt thự nổi, chạy xình xịch cày sóng trên biển. Công trường đã đến giờ chuẩn bị ra về. Đại đội trưởng bắt tay tôi, hẹn tối nay sẽ đưa tôi đến gặp những người anh đã hứa, rồi vội vã chạy về đơn vị. Anh chàng thật khéo đánh bài lỉnh. Ban chỉ huy công trường giới thiệu tôi đến gặp anh, anh ngượng nghịu đỏ bừng cả mặt, và trước sau cứ yêu cầu tôi đừng nêu tên anh, dù trong một cái tin ngắn. Anh hứa sẽ đưa tôi đi làm quen với những người anh bảo là những chuyện vui buồn của họ rất đáng suy nghĩ. Rồi thật bất ngờ, anh giở quyển sổ công tác đọc cho tôi nghe mấy câu thơ anh bảo là mình rất thích — Thơ của Ếp-tu-sen-cô được chép bên những con số về tiền, về gạo, về số người lao động trong ngày và về năng suất công trình.

... Mỗi người chứa một nội tâm tiềm ẩn
Phút cao hứng thiêng liêng, phút hạnh phúc tuyệt vời
Cả phút đau thương, kinh hoàng, không xóa nổi
Một thế giới kín thầm, đâu phải lộ cho ai.

Tôi bỗng bâng khuâng và nôn nao cả người. Kênh đào Cái Tráp có một ngàn rưỡi con người, tức là có một ngàn rưỡi bài thơ, một ngàn rưỡi câu chuyện. Chẳng có con người nào nhạt nhẽo vô vị đâu. Những con người bình dị và phong phú ấy đang nối thêm tay thêm chân, thêm thịt da cho đất liền. Đất sinh sôi dưới những cánh tay người. Với tiến độ này, chắc chắn Cái Tráp sẽ thông tàu trước mồng 2 tháng 9. Như vậy là chỉ có hơn một năm. Hơn một năm quân dân chung lưng đấu cật làm nên một công trình sừng sững giữa trời nước mênh mang. Nơi đây là một điểm kinh tế, một điểm làm giàu của thành phố. Nơi đây là một con mắt, một cánh tay vươn xa của chúng ta chặn đánh kẻ thù. Cái Tráp như một tiếng gọi của sự sinh sôi và phòng thủ đất trời.

T.T.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:55:50 pm

NGUYỄN BẢO



GÓP MỘT TIẾNG NÓI


Tôi choàng dậy trong tiếng nổ dữ dội của mìn phá đá. Tiếng đất đá lăn ầm ầm. Xe chở đá, chở vôi, chở xi măng của xí nghiệp rú rít, tiếng còi xe gắt gỏng, tiếng động cơ xe ba bánh gắn máy chở đá ình ình. Những âm thanh xô bồ đó quyện vào nhau, nối vào nhau làm cho buổi sáng chủ nhật ở đây sôi lên, giục giã. Mở cửa nhìn ra ngoài. Mưa phùn trắng xóa. Rét. Cả tối qua tôi không rõ mình có chợp mắt được lúc nào không? Cái giá lạnh tháng ba của một vùng đồi trọc núi đá, vắng lặng heo hút... Tôi trằn trọc và nghĩ đến giám đốc xí nghiệp Nguyễn Hùng. Căn phòng anh ở gọn hơn phòng tôi đang ở đây nhưng trên chiếc giường đơn của anh cũng không có gì hơn ngoài chiếc chăn bộ đội mỏng manh. Nhìn sang bên cạnh. Giường không còn người, chăn màn được xếp gọn từ lúc nào. Những người lính của xí nghiệp cùng ngủ với tôi một phòng không biếl đã dậy từ lúc nào. Chắc họ vội ra nhà máy. Được chứng kiến bữa ăn sáng của họ, mới đạm bạc làm sao. Tôi thầm hiểu cuộc chiến đấu để làm ra của cải của người lính ở xí nghiệp 771 nằm trong vùng đất được mệnh danh là «xi bê ri» còn gian khổ xiết bao, gay go và quyết liệt xiết bao!


*

*       *


Mưa mỗi lúc một nặng hạt, gió nổi lên. Nguyễn Hùng cho biết thời tiết thế này anh em vẫn đi làm bình thường. Tôi mượn anh đôi ủng, áo bạt và chiếc mũ cối. Cùng đi với tôi có phó giám đốc trẻ vừa mới được đề bạt: Đỗ Thịnh. Anh là kỹ sư Si-li-cát, trước học ở Đại học bách khoa. Học xong anh về công tác tại nhà máy xi măng Hải Phòng. Từ nhà máy anh vào bộ đội. Ôn lại đôi kỷ niệm về những năm tháng ở chiến trường B2 anh cũng phải lấy làm lạ tại sao bom đạn dữ dằn thế mà mình còn sống được. Sau năm 1975 anh được điều về Tổng cục kỹ thuật rồi về nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Thanh Hóa rồi về đây.

Từ chân đồi Pháp Cổ, Thịnh dẫn tôi đi về phía sau quả đồi. Toàn bộ xí nghiệp nằm dọc chân quả đồi. Phía dưới chân đồi là con sông Kinh Thầy. Dòng sông phẳng lặng này cùng với những chiếc thuyền, sà lan đậu bên bờ như chờ đợi sản phẩm từ quả đồi chuyển xuống. Ngay ở triền núi đầu tiên đã có thể nhìn thấy những lò vôi khá đồ sộ đang nhả khói hoặc công nhân đang khuân đá khuân than chất vào lò. Những chàng trai, cô gái ăn mặc xuềnh xoàng, quần xanh, áo xanh, đã cũ. Họ làm việc say sưa không chú ý tới chúng tôi — những vị khách đang muốn hỏi họ một đôi điều. Đỗ Thịnh nói với tôi:

— Không phải bộ đội đâu anh ạ. Đân Pháp Cổ đây. Bây giờ toàn bộ việc làm đá, làm vôi giao cho địa phương. Xí nghiệp liên doanh với địa phương mà.

Cái liên doanh xí nghiệp với địa phương mà Nguyễn Hùng nói với tôi là thế.

— Trước đây, chưa đi làm với xí nghiệp các anh làm nghề gì? — Tôi hỏi một thanh niên trong tay cầm một tập sổ sách đang đứng cạnh lò vôi. Anh mặc bộ quần áo bộ đội đã cũ. Hình như người phụ trách nhóm lao động này.

— Làm ruộng — anh thanh niên trả lời giọng đượm buồn — Nhưng ruộng ở vùng này anh thấy đấy có đáng bao nhiêu. Mùa cày cấy bỏ ra một tuần, một tháng là xong. Còn lại thì đi khắp đó đây làm vôi, làm đá, làm thợ mộc, thợ nề, chỗ nào thuê thì làm.

— Thật ra, về làm vôi, dân ở đây giỏi hơn cánh bộ đội nhà mình anh ạ. Nung vôi từ đời ông đời cha rồi đời con, họ nhiều kinh nghiệm. Một người làm năng suất bằng hai bằng ba một bộ đội nhà mình.

Nguyễn Hùng đã nối với tôi như thế tối qua. Dĩ nhiên liên doanh kinh tế nảy ra trong các anh không phải chỉ bắt đầu bằng năng suất lao động. Nó bắt nguồn từ một tổ chức không có mặt nào chuyên của các anh. «Quân số» của xí nghiệp này đã có lúc lên tới hơn hai nghìn người. Nhưng cũng có khi chỉ còn vài trăm. Ngay cả cái thời điểm đang «ăn nên làm ra» xí nghiệp cũng chỉ vẻn vẹn hai trăm năm mươi người. Kỹ sư Thịnh hình như còn thấy chưa thỏa đáng về sự đầu tư còn hạn chế, về cái lực lượng còn mỏng manh của xí nghiệp. Tôi hiểu được nỗi niềm của Thịnh. Cũng như tôi, trước lúc về đây tôi đã hình dung xí nghiệp khác thực tế bây giờ. Một xí nghiệp làm rất nhiều mặt hàng, mà giám đốc là vị đại tá đã kinh qua ba thời kỳ đánh giặc chắc phải đông đảo, bề thế lắm.

Thực ra đấy chỉ là ước muốn của mỗi chúng ta. Đã là đơn vị bộ đội đâu phải chỉ có lao động sản xuất. Từ đây những lớp bộ đội đi ra biên giới, những lớp hết nghĩa vụ về địa phương và còn biết bao nhiêu vụ khác trên mọi miền đất nước mà người lính sẵn sàng ra đi, sẵn sàng đảm nhận. Có nhiều cán bộ chiến sĩ đến đây vừa mới bắt đầu quen công việc đã có lệnh điều đi nơi khác. Trong điều kiện như thế xí nghiệp vẫn tồn tại, phát triển đã là một cố gắng. Ấy vậy mà các anh còn làm ra «triệu» này «triệu» kia, tự trang trải lương bổng cho cán bộ chiến sĩ trong xí nghiệp, còn đóng góp cho quân đội triệu này triệu nọ, để tăng cường quốc phòng, chi viện biên giới và củng cố xây dựng trận địa ngay nơi đứng chân của xí nghiệp. Điều đó chẳng đáng tự hào lắm sao? Và còn hàng trăm nam nữ thanh niên Pháp Cổ này nữa, nếu không có các không có các anh, không có xí nghiệp 771 này hẳn hàng năm họ vẫn phải kéo nhau đi làm thuê khắp nơi. Sáng suốt thay người nào đầu tiên đã nghĩ ra sự liên doanh này. Các anh đã xây dựng quyền làm chủ chính đáng, quyền lao động chính đáng của họ, đã làm giàu có cho một vùng đất trước đây được coi là «chó ăn đá, gà ăn sỏi». Vẫn chính anh thanh niên mặc quân phục đã bạc màu tâm sự:

— Anh thấy đấy, xã chúng tôi hiện nay 95% là nhà ngói sân gạch rồi. Anh đừng tưởng lúc nào họ cũng ăn mặc thế này đâu. Tối nay có thể anh sẽ gặp họ đi dạo ở thành phố với những chiếc xe, những bộ cánh tưởng như người nước ngoài ấy chứ. — anh thanh niên cười. Bạn bè đang chuyển than chuyển đá cũng cười theo.

— Nghe nói trước kia dân tình không muốn bộ đội đóng ở đây, còn thanh niên rất hay gây gổ với bộ đội? — Tôi hỏi

— Có đấy. — Anh thanh niên đáp nhanh — Nhất là những lúc bộ đội làm ăn thua lỗ, nhân dân nghèo đói. Thôi thì đủ chuyện, đánh nhau, cướp giật trộm cắp. Thế rồi xí nghiệp làm ăn khá, dân được mùa, những cái đó mất dần. Có tiền, có gạo cả bộ đội và địa phương có thêm công quỹ xây dựng công trình quốc phòng, phối hợp với nhau giữ gìn an ninh trât tự xã hội. Mối đoàn kết tương trợ giữa xí nghiệp và chính quyền địa phương chưa lúc nào vững mạnh như lúc này.

Nói chuyện với người thanh niên mặc áo lính một chặp tôi mới biết anh là chủ tịch xã Lại Xuân trước đây đã từng ở trong quân ngũ. Anh ăn nói mộc mạc mà chí lý. Lẽ đời vẫn vậy. Cái nghèo đói xưa nay vẫn là kẻ thù gây ra mọi chuyện hận thù. Nhưng đưa những đơn vị bộ đội chưa phải trực tiếp chiến đấu vào con đường làm kinh tế hay không lại là vấn đề vẫn bàn cãi mãi từ trước đến giờ. Phải chăng trong các đơn vị cơ sở của bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng, xí nghiệp 771 này đang góp một tiếng nói, một bằng chứng sống cho sự nghiệp đánh bại kẻ thù nguy khốn kia.

Qua khỏi khu vực lò vôi là nhà máy xi măng. Đỗ Thịnh giới thiệu:

— Đây là nhà máy đầu tiên anh ạ. Thời kỳ đầu chúng tôi làm xi măng ở thể lỏng, làm như thế công cán quá nhiều, chất lượng lại kém nên nhà máy này chúng tôi bỏ lâu rồi. Nhà máy hiện đang vận hành là nhà máy kia kìa.

Tôi và Thịnh không đi vào nhà máy cũ. Ở đó chỉ còn là chứng tích của một thời làm ăn thô sơ lạc hậu. Tiếng máy nghiền xi măng và cả những luồng bụi bốc mờ mịt đằng kia mới là sức sống của xí nghiệp. Tiếng máy nổ giòn thế, cả một trục quay đồ sộ thế, đầu trục đang nhả bột xi măng mịn màng xuống sàn, tưởng như ở đó bộ đội đông lắm. Không? Vận hành máy chỉ hai chiến sĩ còn trẻ măng. Họ đeo khẩu trang chống bụi nên không nói chuyện được với chúng tôi. Nhưng niềm vui, niềm tin trên nét mặt họ đã như một lời tâm sự.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2022, 05:56:41 pm

Tới biết trong xí nghiệp, phân xưởng xi măng chiếm một lực lượng đông đảo hơn cả, cũng chiếm một vị trí chủ chốt hơn cả. Nhưng không phải thời kỳ nào nhà máy cũng được rạng rỡ như hôm nay. Những bao xi măng nhãn hiệu 771 hay còn gọi xi măng Pháp Cổ này đã từng mang tủi hổ đắng cay cho cán bộ chiến sĩ ở đây những năm 1973 - 1976. Những năm đó cơ hồ xí nghiệp đứng trước sự tan rã. Xi măng làm ra chẳng những không thu được đồng lời nào mà còn bị lỗ vốn. Xí nghiệp lâm vào cảnh rối ren, bè cánh và chẳng nói đâu xa mới năm 1982 hàng trăm lá đơn kêu ca kiện tụng vì chất lượng xi măng thấp kém.

— Vì sao thế? Giám đốc Nguyễn Hùng cau mày:

 — Nhiều nguyên nhân lắm, nhưng trong đó có nguyên nhân tổ chức không ổn định, cơ chế không thích hợp. Dĩ nhiên hồi đó mình chưa nghĩ ra được chuyện liên doanh như bây giờ.

— Nhưng vì là liên doanh họ có thể bỏ anh đi làm chỗ khác chứ — Tôi hỏi Nguyễn Hùng.

— Khó xẩy ra việc đó. Bởi vì chúng tôi không chỉ nghĩ đến lợi ích cho xí nghiệp, quân đội mà còn nghĩ đến lợi ích cho riêng họ. Khi công sức lao động của con người đổ ra được đền bù xứng đáng bằng của cải vật chất, khi công việc lao động của họ mình trân trọng đối xử bình đẳng chẳng dại gì họ bỏ đi. Vả lại, sự hợp đồng này có ký kết với chính quyền xã đúng với quy định của Nhà nước.

Giám đốc Nguyễn Hùng đưa ra một vài con số về hiệu quả kinh tế của việc sản xuất xi măng trong năm qua... Tôi biết những con số đó đang mang lại vinh quang cho xí nghiệp. Nhưng điều tôi băn khoăn là liệu những lá đơn kiện tụng kêu ca kia còn không? Nguyễn Hùng khoát tay vẻ tự tin:
 
— Hoàn toàn chấm dứt từ năm 84. Còn chất lượng xi măng anh cứ hỏi phó giám đốc phụ trách kỹ thuật Đỗ Thịnh.

Chiều nay tôi chưa kịp hỏi điều đó, Thịnh đã nói trước:

— Xi măng ở đây chúng tôi mới làm tới mác 300; 320 là cùng. Nói thật với anh cũng còn thô sơ lắm. Chất lượng phải nâng lên hơn nữa... Muốn thế phải đầu tư nguồn vốn, cán bộ kỹ thuật... Chứ chỉ tính triệu này triệu kia không thôi thì không ổn.

Tôi gật đầu tán thành ý kiến Thịnh. Mỗi người có một cách nghĩ riêng. Tôi yêu cái trẻ, lạc quan quyết tâm làm ra đồng tiền của giám đốc xí nghiệp. Hãy nghe anh tính:

— Sắp tới, chúng tôi sẽ làm thêm nhiều mặt hàng khác. Gạch tráng men, gạch lát hè phố, ngói xi măng. Thiếu người ư? Chúng tôi sẽ đào tạo công nhân cho chính người ở xã đây. Tính sơ thế này nhé. Năm nay bét ra cũng làm được 3000 tấn xi măng. 3 ngàn có 18 triệu đồng rồi. Ba năm vừa rồi chúng tôi làm được 2200 tấn. Vôi có trục trặc gì năm nay cũng làm được 1 vạn tấn. Vạn tấn có 10 triệu đồng. 1000 tấn đất đèn thì vừa làm vừa chơi, thêm ba triệu nữa. Tính khiêm tốn 4 máy gạch tráng men ngày cũng được 800 viên. Một năm hai vạn tư lãi. Ngoài các thứ đó, cứ đất đồi phụ gia sấy lên 1 tấn được 360 đồng. Đá ở hang kia một khối hộc 85 đồng. Đấy đất đá thì vô thiên lủng mà tiền không đấy chứ...

Tôi biết những con số đó, trong năm 1985 xí nghiệp này sẽ đạt được, có khi còn hơn thế. Và cho dù đó mới là khả năng thì cách nghĩ của giám đốc Nguyễn Hùng cũng vẫn là đáng khích lệ. Anh đến với công việc bằng tất cả sự hào hứng mê say. Cuộc chiến đấu tự đặt mình vào, buộc mình phải thắng chẳng là tấm gương cho chúng ta đó sao?

Còn kỹ sư trẻ Đỗ Thịnh — phó giám đốc phụ trách kỹ thuật — niềm băn khoăn của anh về chất lượng sản phẩm về một quy mô làm ăn tiên tiến hiện đại hơn chẳng là những suy nghĩ nghiêm túc và đáng trân trọng đó sao? Nếu anh không còn lo toan gì về chất lượng sản phẩm làm ra của xí nghiệp chắc tôi không thể viết được dòng nào về anh trong chuyến đi này.

Tôi chợt nhớ lời phó giám đốc phụ trách kinh doanh Nguyễn Hằng:

— Vừa rồi có anh nào đó viết một bài báo về xí nghiệp chúng tôi anh ạ. Anh em thấy nhiều điều chưa thật đúng. Có thể so sánh với một vài xí nghiệp chúng tôi có trội hơn chút ít nhưng thực tế chưa được như bài báo ấy nói đâu. Chúng tôi còn phải nỗ lực nhiều lắm, cố gắng nhiều lắm. Của cải ở vùng này như anh thấy đấy, lại có một mạng điện lưới ưu tiên, phải nói rằng tất cả những gì hiện có chưa tương xứng với nó chứ.

Tôi thông cảm nỗi lòng của Hằng, của Thịnh. Ở đời vẫn thích khen hơn là chê. Sự không bằng lòng với những thành tích vừa qua chứng tỏ các anh đang tìm tòi đang đi tới, chứng tỏ các anh còn dồi dào sung sức, còn đạt tới những thành tựu to lớn hơn nhiều.

Qua khỏi nhà máy xi măng, Thịnh dẫn tôi vào nhà máy đất đèn, nhà máy sấy đất phụ gia. Trên đường về anh còn dẫn tôi vào thăm phòng thí nghiệm của phân đội hóa nghiệm. Tôi biết rằng những cơ sở này còn nhỏ, còn thô sơ, và lực lượng còn quá mỏng. Có lẽ đôi ba năm nữa khi xí nghiệp phát triển lên, khi nhà cửa Hải Phòng đã hoàn toàn ngói hóa, những cơ sở này sẽ trở thành lỗi thời, già nua đứng chơ vơ vắng lặng như cái nhà máy xi măng làm thể lỏng kia. Nhưng cũng chẳng sao? Mỗi gia đình ai chẳng muốn nấu bếp ga, bếp điện, nhưng khi đất nước còn nghèo khó, than củi vẫn là rất quý. Xi măng mác 300 có thể không thích ứng với việc xây lát những công trình đồ sộ sau này, nhưng bây giờ mỗi bao xi măng của các anh vẫn là nỗi ước muốn của nhiều người, nhiều gia đình nhiều cơ quan xí nghiệp. Khách hàng khắp nơi, chờ đợi và mong mỏi các anh mỗi năm sản xuất nhiều hơn, chất lượng cao hơn. Các anh đã tự nghĩ ra việc liên doanh với dân, để thay cho số quân có khi còn lại rất ít ỏi của mình, chắc chắn các anh sẽ còn nghĩ ra nhiều sáng kiến khác để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.

Chiều hôm đó, ban giám đốc xí nghiệp mời tôi dự bữa cơm thân mật. Chút rượu vào làm con người hào hứng thế. Anh Quang, bí thư đảng ủy xí nghiệp là người ít nói đến lạnh lùng cũng lên tiếng:

— Nói thực với anh, nếu thành ủy tuyên bố năm 86 này sẽ ngói hóa toàn bộ Hải Phòng thì xí nghiệp chúng tôi sẽ đi sớm hơn một năm. Toàn bộ gia đình cán bộ chiến sĩ xí nghiệp này sẽ ngói hóa trong năm 1985.

Rót rượu vào ly cho giám đốc Hùng, anh nói thêm:

— Muốn thế “bố già” phải giữ gìn sức khỏe chứ — quay sang tôi, anh nói thêm — xin lỗi anh “bố già” đây là chỗ dựa của cả xí nghiệp đấy.

Quang định nói gì nữa, nhưng Nguyễn Hùng đã đưa tay khoa khoa trước mặt rồi nói:

— Thú thật với anh, cách đây hơn hai năm tôi đã làm đơn xin về hưu. Thấy mình đã già, trong tình hình phát triển mới của quân đội, sợ không kham nổi công việc có khi lại là cái ngáng ngăn trở lớp trẻ, gây khó khăn cho tổ chức. Một hôm, được gọi lên ban chỉ huy. Anh Nguyễn Trường Xuân, chỉ huy trưởng nói với tôi: “Tình hình xí nghiệp 771 đang có những khó khăn, theo anh nên vực nó lên hay bỏ?” Anh Xuân chỉ nói thế, tôi đã quên béng chuyện xin về hưu định nói với anh. Xí nghiệp771 tôi đã từng ở đó ra đi. Tôi đã mắt thấy tai nghe những của cải nằm ở vùng đất này. «Bỏ sao được anh, công sức mình đã đổ ra bao nhiêu, tiềm năng kinh tế ở đó dồi dào lắm. Thiếu người à, anh cứ cho tôi về đó. Ồ không sao hết, có phải ở đó đến hết đời tôi cũng sẵn sàng. Vì lợi ích của Đảng, của quân đội cái gì còn làm được tôi sẽ làm». Anh Xuân nhất trí ngay, còn giao toàn quyền cho tôi thay anh quyết định mọi vấn đề ở dưới. Đơn giản vậy thôi, nhưng đối với tôi là cả một sự hồi xuân. Thì ra tổ chức còn tin yêu mình. «Mình đâu đã phải là người bỏ đi». Nói tới đây, giám đốc nhấp thêm rượu, cười khà khà. Tôi hỏi anh — chắc vì thế anh đã quyết định liên doanh với người địa phương để giữ cho xí hghiệp luôn luôn hoạt động.

Giám đốc Hùng còn tỉnh lắm, anh lại khoa tay:

— Không, anh đừng quan tâm đến riêng một ai trong xí nghiệp này. Những gì chúng tôi nghĩ ra, đạt được và sẽ đạt được đều là công lao của tất cả mọi người trong xí nghiệp kể cả những người không còn công tác ở đây nữa. Chỉ mong có dịp nào đó anh quay lại đây.

Phải! Một dịp nào đó tôi sẽ quay lại với xí nghiệp 771. Tôi biết lúc đó các anh đã có những mặt hàng mới, lúc đó các anh sẽ có những kinh nghiệm, những sáng kiến quý báu hơn nữa. Các anh sẽ góp phần làm cho tiếng nói của lực lượng quân sự đóng trên địa phận Hải Phòng âm vang hơn, khẳng định hơn.

Pháp Cổ, tháng 3-1985
N.B.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:11:41 pm

TRẦN NHƯƠNG

ĐÊM ẤY
BÊN BỜ SÔNG BẠCH ĐẰNG


I

Đêm cuối năm. Trời rét, cả một vùng biển như co rúm lại. Gió lồng lên giận dữ thốc vào đất liền. Mấy cây dừa trước đồn biên phòng 32 quằn quại tưởng những tàu lá bứt ra khỏi thân mình. Ngoài kia ào ào tiếng sóng biển như hàng ngàn tiếng gào thét.

Đồn trưởng Nguyễn Văn Phang mấy hôm nay bị chứng bệnh đau dạ dày hành hạ. Hầu như anh chỉ húp ít nước cháo loãng, nằm đắp chăn trên giường. Gần năm mươi tuổi anh vẫn gắn bó với công tác biên phòng. Hồi chống Mỹ anh ở đồn biên phòng Cha Lo anh hùng rồi các đồn Lệ Thủy, Thuận An sau này. Mãi đến năm 1980 anh mới được điều động ra Hải Phòng. Đồn 32 phụ trách tuyến bờ biển gần 34 ki-lô-mét. Vùng này là nơi rất phức tạp, phía trên sát bến cảng thuôc phường Máy Chai, phía dưới sát Cây Xanh. Trong địa bàn có ba cửa sông: Nam Triệu, sông Cẩm và Lạch Tray, địa hình này rất thuận lợi cho bọn xấu xâm nhập và vượt biển. Trong thời Pháp chiếm đóng nơi đây là hang ổ của bọn tề điệp phản động. Hồi Hải Phòng là nơi tập kết ba trăm ngày sau hiệp định Giơ-ne-vơ nơi đây bọn phản động hoạt động ráo riết lôi kéo bà con di cư và ém đội quân phá hoại nằm lại chờ thời cơ.

Phang nằm trên giường nghĩ đến những tháng năm gắn bó với mảnh đất này. Đã bao lần lặn lội tuần tra truy tìm bọn vượt biên, xâm nhập. Anh muốn nghĩ cho quên cơn đau dạ dày nhưng cơn đau vẫn xói lên ngực, lên mỏ ác.

Đã mười một giờ đêm. Gió càng bốc mạnh, mấy ống tre đòn tay đầu chái nhà gió lùa vào cất thành tiếng rú nghe càng sốt ruột.

Có tiếng lạch cạch ngoài hiên rồi tiếng gõ cửa gấp gáp. Phang ôm bụng vùng dậy ra mở cửa. Người chiến sĩ khoác tấm áo mưa bạt ùa vào nhà, giọng anh run lên:

— Báo cáo đồn trưởng... ngoài bãi sú vẹt phía sông đào có hiện tượng bọn vượt biên tập kết. Lúc đầu chúng tôi tưởng ngư dân đi biển về.

Phang nén đau hỏi lại:

— Sao đồng chí biết là bọn vượt biên?

— Chúng tôi đã bí mật cho con thuyền nan ra áp sát nghe ngóng, thấy có cả tiếng trẻ con.

— Đồng chí quay lên ngay tổ kiểm soát Đập Đá cho anh em bám sát, tránh nổ súng, tôi sẽ cử người lên chi viện để tóm gọn.

Trong đêm đen, người chiến sĩ lao đi, phút chốc bóng dáng anh nhòa trong đêm. Phang tìm thượng úy Đoàn Ngọc Hòa, phó đồn trưởng phụ trách chính trị trao đổi phương án tác chiến.

Hòa thấy đồn trưởng đang đau dạ dày, liền đề nghị:

— Tôi dẫn một tổ, Hạnh đội trưởng đội cơ động dẫn một tổ lên chi viện. Anh ở nhà, trời rét thế này anh ra không chịu nổi.

— Nếu cần thêm lực lượng anh cho người về báo ngay.

Hai tổ, mỗi tổ năm người cách nhau chừng ba mươi mét nhằm phía bãi sú vẹt sông đào hết đi lại chạy. Họ đi đối diện với hướng gió nên ai nấy phải chúi đầu về phía trước mà cảm thấy như gió đang đẩy mình lùi lại. Con đê biển trước mặt sẫm màu như một bức tường đã hiện ra. Tổ đi trước do Hạnh chỉ huy vượt qua cống Nam Đông vận động nhanh ra bãi sú ngoài phía kênh đào.Thấy các chiến sĩ biên phòng đã vượt qua cống, một bóng người từ con thuyền nép bên cạnh cống, lẽ mễ vác từng bao hàng lên đê.

Năm chiến sĩ tốp đi sau do Hòa chỉ huy vừa đến chân đê thấy mùi thơm nước hoa sực lên trong gió. Hòa bấm anh em tản ra khẽ khàng tiến lên mặt đê. Vừa lên đẽn nơi Hòa dõng dạc cất tiếng:

— Ai?

— Dạ em!

— Anh đi đâu về khuya khoắt như thế này? Hàng gì đây?

— Em lấy hàng ở cảng về, có ít vải và đồ cũ của thủy thủ họ bán. Thưa anh em bỏ ra sáu bảy chục ngàn mới mua được từng này. Anh thương em...

Hòa đếm số bao hàng xếp đống trên đê thấy được mười lăm bao tất cả. Mùi nước hoa và xà phòng thơm đắt tiền sực nức mặc dù trời gió mạnh vẫn không thổi tan được. Hòa sinh nghi, cho anh em đứng xung quanh bảo vệ đống hàng, nghiêm giọng:

— Anh nên khai thật, chúng tôi mới cho đi.

— Thưa anh đêm khuya thế này anh cho em đi, thực tình là thủy thủ nước ngoài họ bán đồ cũ đấy mà.

— Không đúng, làm sao anh liên hệ được với họ để mua.

Người chủ hàng giọng bỗng nhỏ lại:

— Anh tha cho em, em xin biếu anh hai mươi ngàn. Số hàng này em san ra thành mười lăm bao nữa, anh vẫn đủ số bao nộp lên trên...


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:12:26 pm

Vừa lúc đó tiếng súng phía bãi sú vẹt ngoài mép nước vang lên. Hòa bất giác chăm chú nhìn qua màn đêm về phía đó. Lợi dụng lúc Hòa quay mặt ra phía biển, người “chủ hàng” biến vào đám lau sậy dưới chân đê trốn mất.

Tình hình trở nên phức tạp, làm sao vừa kịp thời chi viện anh em ngoài bãi tìm bắt bọn vượt biên vừa bảo vệ thu hồi số hàng chắc chắn phi pháp này. Hòa cử Mung chở về đồn báo cáo đồn trưởng Nguyễn Văn Phang.

Ba mươi phút sau Nguyễn Văn Phang dẫn năm chiến sĩ tới nơi. Hòa báo cáo vắn tắt rồi dẫn cả tổ tiến xuống bãi sú vẹt ngoài mép nước.

Đồn trưởng Nguyễn Văn Phang cử Huy chạy vào xã Nam Hải thuê xe bò chở số hàng về đồn. Trong khi chờ đợi, Phang cùng các chiến sĩ chia thành ba nhóm cảnh giới vừa bảo vệ được số hàng vừa phục sẵn chờ bọn làm ăn phi pháp có thể quay lại tẩu thoát số hàng. Trong màn đêm lờ mờ, Phang phát hiện gần cửa cống có chiếc thuyền gỗ ép sát miệng cống. Phang cùng một chiến sĩ xuống thuyền xem xét, trong thuyền không có vết tích, hàng hóa gì để lại. Bật diêm lên soi, anh thấy một chiếc kính lão nằm trên sàn thuyền. Phang nhặt chiếc kính lên mừng thầm vì đây là tang vật có thể lần ra đầu mối. Trong óc anh nảy ra bao nhiêu câu hỏi: tại sao lại có chiếc kính lão ở đây mà theo lời Hòa tên «chủ hàng» là người còn trẻ? Hay bọn chúng có nhiều tên mà khi thấy động đã trốn thoát? Tại sao hàng hóa lại sực mùi nước hoa?

Chiếc xe bò từ xã Nam Hải đã đến. Phang cẩn thận dặn các chiến sĩ xếp mười lăm bao hàng lên xe nhưng đều phải xếp đầu bao quay vào giữa xe đề tránh rơi vãi dọc đường. Sau khi chằng buộc cẩn thận các chiến sĩ áp tải số hàng đó về đồn. Phang lưỡng lự vừa muốn đưa số hàng về đồn vừa muốn tới nơi anh em đang tìm bắt bọn vượt biên. Nhưng anh nghĩ ở nhà ban chỉ huy không còn ai sẽ giải quyết số hàng hóa thu được và báo cáo lên trên ra sao. Ba giờ sáng mới về tới đồn, Phang cho anh em chuyển số hàng vào hội trường, cùng các chiến sĩ mở ra kiểm tra. Trong các bao hàng nhét đầy ga trải giường, khăn tắm, quần áo, toàn loại đắt tiền của nước ngoài, đếm được 889 thứ. Phang cho đóng gói lại như cũ. Tự tay anh buộc các đầu dây làm dấu rồi xếp đầu bao quay vào tường. Phang nói với các chiến sĩ:

— Các đồng chí chứng kiến hộ trong túi quần túi áo tôi không có một thứ hàng nào chúng ta vừa thu được.

Nói rồi anh lộn trái các túi quần, túi áo. Anh em chiến sĩ thấy đồn trưởng làm vậy, lần lượt làm theo. Hội trường được khóa lại, dán giấy niêm phong cẩn thận.

Phang ngồi thảo bức điện sơ bộ báo cáo sự việc với chủ nhiệm biên phòng, vừa lúc đó đồn phó Hòa và anh em dẫn bốn mươi tám tên vượt biên về đồn. Nhìn khắp lượt bốn mươi tám con người đó, anh vừa giận vừa thương. Căm giận những tên chủ mưu phản bội Tổ quốc trong lúc đất nước còn thiếu thốn khó khăn. Thương những đứa trẻ, cô gái ngây thơ kia bị bọn chúng mua chuộc hoặc cưỡng ép. Phang bàn với Hòa cắt cử anh em canh gác và chuẩn bị một số thủ tục kiểm tra, lập hồ sơ. Hòa đề nghị:

— Cũng sắp sáng rồi, anh viết điện báo cáo lên cơ quan chủ nhiệm biên phòng rồi đi nghỉ một chút, mọi việc để tôi lo. Anh còn đau nhiều không?

— Đau, nhưng hút vào việc nó quên đi. Anh cho mỗi tên ngồi cách xa nhau một mét và quay lưng lại với nhau. Canh gác thật chu đáo không cho chúng phi tang vũ khí, tiền, vàng. Cho người sang hải quân nhờ mấy đồng chí nữ đến giúp kiểm tra bọn con gái. Sáng ra ta tiến hành kiểm thể ngay.

Trời vừa sáng. Phang và Hòa tổ chức cho tiến hành kiểm tra. Số nữ cho từng tên vào phòng riêng nhờ các đồng chí nữ Hải quân kiểm tra. Hết lượt mà không phát hiện trong đám con gái vượt biên có giấu vàng hoặc kim loại quý. Phang không yên tâm, hỏi mấy đồng chí nữ hải quân:

— Các đồng chí đã khám kỹ chưa?

Các cô gái trẻ không hiểu hết câu hỏi của Phang, trả lời:

— Chúng cháu khám kỹ lắm, lần từ từng cái gấu áo, cạp quần.

— Xin lỗi các đồng chí nhé, chỗ kín nhất của phụ nữ đã khám chưa?

Các cô gái thẹn thùng trả lời:

— Chưa ạ.

— Phiền các đồng chí khám lại hộ nhé.

Bọn con gái vượt biên lần lượt được khám xét lại, quả nhiên còn một số nhẫn vàng giấu trong chỗ kín.

Sau kni khám xét và lập hồ sơ ban chỉ huy đồn biên phòng 32 cho chuyển số hàng và những tên vượt biên lên cơ quan có trách nhiệm xử lý.

Vậy là chỉ một đêm cán bộ và chiến sĩ đồn 32 biên phòng đã bắt giữ được toàn bộ số tên vượt biên và thu được một số hàng hóa trái phép. Vụ vượt biên như vậy đã rõ ràng, nhưng còn mười lăm bao hàng này của ai, từ đâu chở về đây tẩu tán thì vẫn còn là một bí mật khiến Phang và ban chỉ huy đồn 32 cần phải làm sáng tỏ. Phang báo cáo chi tiết với cơ quan chủ nhiệm biên phòng về chiếc kính lão. Đội trinh sát được giao nhiệm vụ tìm ra sự việc từ chiếc kính lão bỏ lại...


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:15:26 pm

II

Tại cơ quan đại điện ngoại giao của ta, nhận được một văn thư của tàu nước ngoài trình bày về việc họ bị một số người dùng vũ khí uy hiếp và cướp bóc hầu hết trang phục, đồ dùnq trên tàu. Đây là một vụ rất phức tạp ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Nếu không phá án. sớm sẽ gây hậu quả rất xấu với các thủy thủ nước ngoài khi đến đất nước ta. Cơ quan đại diện ngoại giao kịp thời đề nghị Sở công an Hải Phòng và cơ quan chủ nhiệm bộ đội biên phòng thành phố mở cuộc điều tra. Các chiến sĩ trinh sát được phái đi dò tìm dấu vết. Một tổ hỗn hợp gồm các đồng chí công an và bộ đội biên phòng được cử đến chiếc tàu nước ngcài bị trấn lột. Thuyền trưởng và các sĩ quan trên tàu cung cấp cho tổ điều tra như sau: Vào lúc giữa đêm, khi tàu còn đỗ ngoài sông Bạch Đằng để chờ vào cảng bốc hàng. Hầu hết sĩ quan và thủy thủ trên tàu đã đi ngủ, chỉ còn lại mấy người trực ban. Bỗng từ hai bên bờ sông xuất hiện mấy chiếc thuyền nan. Tưởng là thuyền ngư dân nên không ai để ý. Một lúc sau đã thấy một số người ập lên boong tàu dùng vũ khí uy hiếp. Các sĩ quan và thủy thủ chưa kịp đối phó thì một bọn người đã xông vào các buồng ngủ, buồng ăn, cướp bóc các đồ dùng tư trang.

Tổ điều tra của ta hỏi họ xem có còn giữ được tang vật gì không. Người thuyền trưởng cười pha chút mỉa mai chua xót:

— Không có gì ngoài chiếc sào tre móc trên lan can tàu.

— Xin các ông cho chúng tôi chiếc sào đó để tiến hành điều tra bằng kỹ thuật.

Người thuyền trưởng lại cười, nhún vai:

— Ô, đáng tiếc là chúng tôi đã chặt ra làm 36 đoạn phát cho 36 thành viên trên tàu để kỷ niệm...

Như vậy cuộc điều tra vẫn không mở ra một triển vọng sáng sửa nào. Chỉ mới có thể kết luận được, mười lăm bao hàng mà các chiến sĩ đồn 32 thu được chính là bị bọn trấn lột lấy đi từ con tàu này. Ai là thủ phạm? Có phải bọn ở địa bàn đồn 32 là thủ phạm hay chỉ là bọn thông đồng, tiêu thụ , tẩu tán số hàng đó?

Cơ quan đại diện ngoại giao của ta nóng lòng ngày nào cũng quay điện thoại sang quan công an và chủ nhiệm bộ đội biên phòng thành phố hỏi tình hình điều tra.

Thủ phạm là ai? Bọn chở mười lăm bao hang ở cống Nam Đông là ai? Chiếc kính lão bỏ lại trên thuyền là của ai? Bao nhiêu câu hỏi chồng chéo lên nhau khi mỗi ngày nặng nề trôi qua!




III

Vài hôm trước cái đêm đồn biên phòng 32 bắt gọn bọn vượt biên và thu mười lăm bao hàng ở cống Nam Đông thì ban chỉ huy đồn 32 nhận được lá đơn của ông Ngôi khai báo mất chiếc thuyền gỗ, trọng tải hai tấn trong lúc ông Ngôi về quê vợ ở Chí Linh xây mộ, con ông trông thuyền vô ý để kẻ gian đánh cắp. Đơn ông Ngôi có chứng thực của Ủy ban xã Nam Hải. Ông Ngôi năm nay đã gần 60 tuổi, nghề chài lưới như một việc làm thêm vì ông đã già và mắt lại kém. Đồn trưởng Nguyễn Văn Phang và đồn phó Đoàn Ngọc Hòa khẳng định chiếc thuyền của ông Ngôi chắc chắn bị đánh cắp để làm một việc phi pháp. Phang lệnh cho các trạm kiểm soát ven biển chú ý theo dõi chiếc thuyền đó.

Nhưng đến khi sự việc ở cống Nam Đông xẩy ra thì ai cũng có thể dự đoán chiếc thuyền bỏ lại cống Nam Đông là thuyền ông Ngôi, mặc dù đã bị tháo biển số và sắp đặt lại đôi chỗ trên thuyền.

Đồn trưởng Nguyễn Văn Phang báo cáo việc này lên chủ nhiệm biên phòng và một kế koạch lần ra đầu mối được vạch ra.

Hôm sau đồn biên phòng số 32 cho liên lạc xuống xã Nam Hải mời ông Ngôi lên đồn làm thủ tục nhận lại chiếc thuyền mà anh em chiến sĩ đồn đã thu được. Ông Ngôi mừng rỡ lật đật đi tắt qua cánh đồng tới trụ sở của đồn 32. Đồn trưởng Nguyễn Văn Phang hồ hởi ra tận ngoài hiên đón khách. Nhân dân vùng này ai cũng quý mến Phang, một con người hết lòng bảo vệ nhân dân, làm ăn có tình có nghĩa.

Đưa nước mời ông Ngôi, Phang vui vẻ:

— Thuyền của bác chúng tôi đã thu được ở cống Nam Đông, chắc là bọn xấu đánh cắp để chở hàng ăn cướp trên tàu nước ngoài.

Nét mặt ông Ngôi hơi khác, nhưng ông lại mừng rỡ ngay được:

— Quý hóa quá, không có anh em biên phòng thì tôi sinh sống bằng gì. Mời anh xơi thuốc, hút với tôi một điếu cho vui. — Nói rồi ông Ngôi đẩy bao thuốc lá A Lào về phía đồn trưởng Phang.

— Nhiệm vụ của chúng tôi bác Ngôi ạ. Thế bác về xây mộ trên Chí Linh xong cả rồi chứ? — Phang nói.

— Xong cả rồi anh ạ. Ấy cứ phải chiều bà xã, mà nói thực với anh, phần mộ của các cụ mà yên ổn là mình làm ăn gặp may nhiều đấy.

— Vâng, tổ tiên ai chả phải thờ kính. Bác ký vào biên bản giúp rồi ra ngoài bến Lương Sâm nhận thuyền.

Ông Ngôi đưa hai tay nắn hết túi này sang túi khác, chắc là tìm kính, ông ca cẩm:

— Thế đấy, cái tính lú lẫn lại bỏ quên kính ở đâu rồi.

Phang rút từ trong ngăn bàn ra chiếc kính lão nhặt được trên thuyền hôm nào. Phang nói như một sự vô tình:

— Hôm bác đến trình mất thuyền lại bỏ quên kính ở đây. Tôi biết là của bác nên giữ lại.

— Đúng rồi, thế mà tôi cứ tưởng bỏ quên ở quê Chí Linh kia đấy. Nào ký chỗ nào anh Phang. Khổ thế người già không có kính hóa ra mù lòa.

Phang ý nhị nói vui:

— Mắt bác còn tinh lắm, ban đêm không có kính bác vẫn còn đi được.

— Đâu có, sáu mươi tuổi rồi chứ trẻ trung gì. — Ông Ngôi cười đáp lại.

Phang bỗng nghiêm mặt, giọng chắc nịch:

— Chúng tôi đã nhặt chiếc kính này trên thuyền của ông ở cống Nam Đông đêm vừa rồi.

Ngôi hơi tái mặt nhưng vẫn tìm cách chống chế:

— Tôi về Chí Linh thật mà. Có lẽ tôi đánh rơi trên thuyền từ trước.

— Không đúng. Ông về Chí Linh thì không thể nào bỏ kính lại trên thuyền. Mà chiếc thuyền này ông lại báo là mất cắp.

— Người già lú lẫn mà ông đồn trưởng.

— Ông Ngôi, chúng tôi buộc lòng phải giữ ông lại cho tới khi tìm ra manh mối.

— Thưa ông đồn trưởng tôi có tội tình gì đâu. — Ngôi thảng thốt kêu lên.

*

*       *

Vài ngày sau tên Ngôi buộc lòng phải khai sự thật: cùng nhóm với hắn có tên Bưỡng, người mà đã tìm cách cách chạy trốn trong đêm các chiến sĩ biên phòng thu giữ mười lăm bao hàng. Ngoài nhóm này, trong đêm cướp hàng trên tàu chúng còn kết hợp với một nhóm bên huyện Thủy Nguyên do tên Phát cầm đầu.

Một kế hoạch phối hợp giữa công an và bộ đội biên phòng được vạch ra khá tỉ mỉ. Vấn đề khó khăn nhất là tìm cách bắt được tên Phát, vì tên này đi lại không có quy luật nào cả mà khi hắn ở nhà cũng không dễ gì bắt được, bởi mạng lưới tay chân hắn trong địa phương bảo vệ. Các chiến sĩ trinh sát cơ quan biên phòng thành phố tức tốc lên đường.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:18:13 pm

IV

Mấy hôm nay trên cánh đồng làng H. các chiến sĩ pháo binh dùng máy đo đạc, cắm cờ trên đồng. Bà con kháo nhau có lẽ bộ đội pháo chuẩn bị xây dựng trận địa phòng thủ bờ biển. Việc quân sự bí mật nào ai thóc mách làm gì. Các chú thiếu nhi hiếu kỳ có hỏi mấy anh chiến sĩ pháo binh, các anh chỉ cười rồi bảo:

— Đo để tính toán trước, nếu thằng Tàu tràn vào đây cho nó ăn kẹo đồng...

Các anh đo ngoài đồng rồi tiến vào trong làng. Đến giữa trưa thì đo đến một ngôi nhà ngói khá khang trang. Anh em bàn nhau nghỉ ăn trưa. Họ kéo nhau vào bóng cây đầu ngôi nhà mở cơm nắm ra ăn. Một cô gái chạc gần ba mươi tuổi mau mắn từ trong nhà bước ra. Thấy tốp bộ đội ăn cơm nắm ngoài đầu nhà, cô mời anh em vào trong nhà ăn cơm rồi nghỉ ngơi. Tốp bộ đội pháo binh thấy cô gái chủ nhà niềm nở không nỡ từ chối. Qua câu chuyện, các anh bộ đội và cô gái trở nên thân mật hơn. Các anh kể chuyện công việc đo đạc của mình trên mấy xã để phục vụ sẵn sàng chiến đấu. Lúc sau một thanh niên từ trong buồng đi ra, khuôn mặt phờ phạc, lo âu. Sau khi chào hỏi, người thanh niên lấy thuốc lá mời các anh bộ đội cùng hút. Nhìn vẻ mặt người thanh niên buồn rau, thần sắc không bình thường, các anh bộ đội gợi chuyện:

— Hình như anh không được khỏe?

Người thanh niên liếc đôi mẳt rất nhanh nhìn người vừa hỏi.

— Bình thường, chẳng có bệnh tật gì đâu anh ạ.

Anh bộ đội đeo quân hàm trung úy khuôn mặt khắc khổ trầm giọng nói:

— Trên mặt anh có một điểm bị hãm, hình như anh đang có hạn. Anh tuổi gì nhỉ?

Người thanh niên lộ vẻ ngạc nhiên nhìn anh bộ đội, hơi chột dạ:

— Anh biết xem tướng hả anh? Em tuổi thân. Tuổi Thân năm nay làm ăn thế nào hở anh?

Anh trung úy bấm đốt ngón tay lầm nhẩm tính toán:

— Tuổi Thân gặp tháng Hợi, tứ hành xung. Tháng này anh có việc không hay phải đề phòng.

Mấy anh bộ đội được thể giới thiệu thêm về ông thầy tướng nghiệp dư

— Năm ngoái ông ấy bảo tôi tháng tư tán tài thì quả nhiên đi phép nó móc túi sạch mấy nghìn bạc.

Người thanh niên ngập ngừng định nói gì, anh đưa mắt nhìn vợ rồi bảo vợ xuống bếp đun cho ấm nước. Người vợ đi rồi anh ta hạ giọng xuống nói:

— Đúng là em đang có hạn, đang có chuyện phải lo nghĩ.

Anh trung úy hồ hởi:

— Có quan trọng lắm không? Liệu chúng tôi có giúp được gì thì xin sẵn sàng.

— Thú thật với các anh nếu các anh giúp được em chẳng bao giờ dám quên.

— Giúp được là giúp không phải ơn huệ gì. Nay mai chúng tôi về đóng quân ở đây còn gặp gỡ đi lại nhiều.

— Em đang bị một bọn đầu trộm đuôi cướp ở phà Bính dọa giết. Nào em có làm gì đâu, chẳng qua là em biết chúng ăn cắp hàng hóa của Nhà nước. Em sợ cứ phải nằm bẹp ở nhà không dám ra khỏi làng. Nếu được các anh giúp, trị bọn ấy thì em đâu có quên ơn.

Anh trung úy vẻ mặt tư lự như tính toán:

— Đơn vị chúng tôi kết nghĩa với Sở công an thành phố, chắc chắn các anh ấy sẽ giúp. Nhưng anh có chắc bọn nó là bọn trộm cắp không?

— Em xin thề với các anh là đúng mà!

— Thế thì thế này, chiều nay chúng tôi cũng tạm xong việc, ta cùng nhau lên Hải Phòng.

— Em ngại bọn nó gặp em trên đó sẽ không để yên.

— Đã có chúng tôi bảo vệ, bố bảo chúng nó cũng không động đến anh được. — Một anh bộ đội quả quyết.

Thế là tốp bộ đội pháo binh và anh thanh niên chủ nhà mà họ nghỉ nhờ đạp xe lên thành phố. Đang đứng chờ phà ở bến Bính thì một tốp thanh niên đội mũ bò, đầu tóc bù xù tiến lại phía anh thanh niên. Anh ta lo sợ cầu cứư các anh bộ đội pháo binh, cả tốp bộ đội tiến lên đứng thành một hàng ngang bảo vệ cho người thanh niên. Anh trung úy dõng dạc nói:

— Ai động vào người thanh niên này đừng có trách.

Một tên trong bọn gây gổ xấn đến:

— Đây là chuyện riêng giữa chúng tôi, anh không có quyền can thiệp.

Vừa nói, tên gây gổ xông vào. Cả bọn lẩn vào hành khách chờ phà ra phía sau lưng các anh bộ đội ùa đến đánh người thanh niên. Cuộc ẩu đả diễn ra, hành khách tản nhanh sang hai bên đường. Bỗng tiếng còi vang lên, các chiến sĩ cảnh sát đã ập đến. Bọn côn đồ biến mất trong đám đông rồi lẩn vào mấy ngôi nhà cạnh đường. Nqười thanh niên và mấy anh bộ đội được mời về đồn công an cạnh đó. Người thanh niên vẻ ngập ngừng miễn cưỡng phải bước theo.

Vừa ngồi xuống dãy ghế, đồng chí thượng úy đồn trưởng nghiêm giọng nói:

— Các đồng chí ở đơn vị nào, xin cho xem giấy tờ.

Các anh bộ đội xuất trình giấy tờ của mình.

Người thượng úy nghiêm giọng nói tiếp:

— Các đồng chí có biết người thanh niên này là ai không mà các anh bảo vệ. Đây là một tên mà chúng tôi đang truy nã.

Cả tốp bộ đội lộ vẻ ngạc nhiên. Người trung úy pháo binh lên tiếng:

— Anh ta đang bị bọn trộm cắp đe giết, chúng tôi bảo vệ người lương thiện. Anh có chứng cớ gì mà dám nói anh ta đang bị truy nã.

Thượng úy công an giọng lạnh lùng:

— Đó là nhiệm vụ    của chúng tôi. Nếu thực các đồng chí ở đơn vị pháo binh như giấy tờ hộ thân, tôi quay điện thoại mời cán bộ ra nhận.

Anh thanh niên mặt tái xạm ngồi nép trên ghế, bây giờ mới ấp úng lên tiếng:

— Các anh nhầm, em có làm gì đâu ạ. Bọn chúng rủ em tham gia ăn cắp trên tàu em không làm nên chúng sợ em tố cáo...

Thượng úy công an quay điện thoại xin số máy trung đoàn pháo M. báo đơn vị cử cán bộ có trách nhiệm đến đồn công an phà Bính nhận quân nhân bị tạm giữ. Thượng úy làm xong việc đó, quay lại nói với người thanh niên:

— Chúng tôi không nhầm. Anh tên là Nguyễn Văn Phác, thủ phạm trong vụ trấn lột tàu nước ngoài.

Người thanh niên run lên bần bật, cúi gằm mặt xuống…

*

*            *

Chiếc xe con đỗ ngay trước sân cơ quan chủ nhiệm biên phòng thành phố. Mấy anh bộ đội pháo binh bước xuống xe, các anh gỡ đôi quân hàm pháo binh ra và gắn đôi quân hàm màu xanh lá cây lên ve áo. Đồng chí đại tá chủ nhiệm biên phòng từ trong nhà đi ra xiết chặt tay từng người. Thiếu tá Nguyễn Văn Phang đang họp ở đấy cũng chạy ra. Anh cười rạng rỡ:

— Kế «điệu hồ ly sơn” của các ông hay lắm. Mấy ông pháo binh giả hiệu này đã bắn trúng bọn tội phạm.

Đại tá chủ nhiệm biên phòng vui vẻ nói:

— Nhưng công đầu thuộc về ông Phang và anh em đồn 32 anh hùng. Cái đêm hôm đó các anh làm được hai việc lớn giống như một mũi tên bắn trúng hai con cáo. Này, công an vừa điện cho biết sơ bộ tên Phác đã nhận hết. Số hàng chúng giấu bên Thủy Nguyên vẫn chưa tẩu tán kịp. Có thể ngày mai ta sẽ trao lại cho tàu nước ngoài.

Đại tá chủ nhiệm quay sang thiếu tá Phang:

— Dạ dày của ông hồi này còn đau không? Địa bàn đó đang cần tới ông liệu mà giữ gìn, thủng bao tử là tôi phạt ông đó...


Hải Phòng — Hà Nội
tháng 3-1985

T. N.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:21:08 pm

TUẤN VINH

TÌNH NGƯỜI VĨNH BẢO


Sau những ngày mưa phùn rả rích kéo dài lê thê, sớm nay những tia nắng đầu tiên đã xuyên qua đám mây đùng đục màu sữa. Cái lạnh đã qua đi, ấm dần lên, quang quẻ, trả lại cho đồng ruộng, trời đất Tam Đa cái vẻ quen thuộc của một điểm lúa thuộc vùng lúa Vĩnh Bảo.

Tôi đi trên đường 10 hướng về phía Thái Bình, cứ phải lái sang phải luôn luôn bởi những tiếng còi vội vã, thúc giục của không ít những xe hàng, xe khách. Rồi nữa, một chiếc Cúp vọt lên. Một chiếc Sim-sơn bình cong vụt lên. Một chiếc Zava vọt lên. Chưa hết, cả những chiếc MT2 lực luỡng kềnh càng nhả khói đen kịt, ầm ầm cũng vượt lên.

Bên trái tôi, con sông đào Chanh Dương vùa được khai thác mở rộng đoạn cuối ăm ắp những nước. Một chiếc thuyền xi-măng lưới thép, nước mấp mé mạn thuyền đang trên dòng. Và lồ lộ trên khoang lẫn trong ngổn ngang những bao xi măng, những phân đạm, phân lân là những cô gái trẻ má cứ hồng lên vì những chiếc khăn len nhiều màu sắc.

Mới chỉ có một đoạn ngắn thôi từ huyện về xã Tam Đa mà đã gặp bao cảnh sắc như vậy. Thật vui làm sao. Nhưng sẽ còn thiếu nếu như không nhắc đến những ngôi nhà. Vâng, những ngôi nhà đang xây ở phía bên phải tôi. Mà không phải nhà ngói đâu. Nhà mái bằng kia. Bền vững, bề thế đã đành. Cái dáng của mỗi nhà, cũng cách điệu, cũng «bay» lắm. Thì ra ngói hóa nông thôn của Vĩnh Bảo, của Hải Phỏng là thế này đây. Với tôi là một thoáng ngỡ ngàng, niềm vui len đến. Nhưng còn những con người ở đây, để có sự đổi thay đó hẳn là họ đã vật lộn, vượt lên như thế nào, từ chính đồng ruộng của mình. Điều này tôi đã hiểu ra, dẫu chỉ là phần nào khi đến Tam Đa.

Thật may, trong buổi tiếp xúc thân mật và giản dị, các anh lãnh đạo chủ chốt của xã đều có mặt: Bí thư, chủ nhiệm, xã đội trưởng. Riêng đồng chí chủ tịch sau khi bắt tay xin lỗi vì công việc đột xuất của xã, anh vội vàng đi ngay sau lời dặn thân tình:

— Anh thông cảm nhé. Còn về tình hình xã chúng tôi, các đồng chí đây sẽ trao đổi với anh. Nội dung thế nào là tùy anh. Tôi cũng xin giới thiệu với anh luôn:

— Đây là xã đội trưởng Đoàn Đức Phao. Đây là chủ nhiệm Lê Kim Chung. Còn đây là đồng chí Đoàn Hải Nam hiện là bí thư đảng ủy xã. Trước đó đồng chí cũng đã làm xã đội phó, chủ tịch xã...

Bí thư Nam mặc quân phục bằng vải «Đờ-luyn» K82, kể ra cũng bình thường thôi. Nhưng hơi khác một tý, dẫu áo không còn mới, nhưng vẫn giữ được nếp gấp và thắt caravát màu xanh đen với cái nút thật khéo, ôm khít lấy cổ, trông anh vừa nền lại vừa có vẻ trang nghiêm. Nhưng không chỉ trong hình thức, mà ngay nét mặt anh cũng có cái vỏ điềm tĩnh, từng trải. Anh nói nhỏ nhẹ nhưng khúc chiết. Chủ nhiệm Chung rồi xã đội trưởng Phao cũng vậy. Khuôn mặt sương gió, dầu dãi, có dáng đi nhanh, bước nào ra bước ấy, đằm lắm. Với những con người như thế cứ lấy sự thẳng thắn, thân tình và nếu cần cũng có thể bỏ qua những câu hỏi, thậm chí chất vấn vòng vèo xa xôi, bóng gió. Cứ phải tốc độ. Bật tường, chọc khe, chớ có dè dặt.

Tôi hướng về phía bí thư Đoàn Hải Nam.

— Xin anh cho biết tình hình tuyển quân cũng như việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội của xã trong suốt những năm qua.

— Có lẽ, bước đầu cứ phải có số liệu đã. Như vậy được không anh?

— Tốt quá đi chứ. — Tôi sốt sắng trả lời câu hỏi của anh Nam.

— Xã tôi có 906 hộ, 3.500 nhân khẩu. Trong kháng chiến chống Pháp là một cửa ngõ của huyện. Còn đánh Mỹ: là một trong những bãi thải của máy bay Mỹ. Về liệt sĩ: xã chúng tôi có 135. Trong đó 52 chống Pháp, 83 chống Mỹ. Thương binh 40. Còn về công tác tuyển quân. Từ 1965 đến nay là 570 đồng chí. Chỉ tiêu huyện giao chúng tôi đều đảm bảo và vượt. Chẳng hạn tính mấy năm trở lại đây: năm 1982 huyện giao 40. Thực hiện 45. Năm 1983. Huyện giao 40. Thực hiện 44. Năm 1984. Huyện giao 41. Thực hiện 44. Năm 1985 Huyện giao đợt 1: 41. Thực hiện 46.

Giọng nói của bí thư Nam vẫn thở nhẹ đều đều. Còn tôi cùng với lắng nghe, đồng thời cặm cụi ghi chép. Tôi suy nghĩ rất nhiều điều và cũng chẳng muốn tìm những lời hoa mỹ để minh họa. Bởi những điều trên, bởi những con số trên, tự thân nó đã gọi dậy bao điều về sức chịu đựng, gánh vác và đồng thời vượt lên của một vùng quê êm ả, thậm chí bình lặng nữa.

Và, tôi cũng hiểu rằng để có được những điều trên, những con số trên không thể không nhắc đến tính truyền thống. Rồi nữa: hoàn cảnh, môi trường..., nhưng còn phải có con người. Những con người cụ thể kia. Vả lại, như tôi đã nghĩ ở Tam Đa đây có những cái riêng. Mà tôi muốn tìm những cái riêng bằng chính sự cởi mở thẳng thắn. Cũng vì thế tôi hỏi anh Nam và các anh khác những điều tin rằng vì sự thành tâm, vì yêu cầu của nghề nghiệp, sẽ không có sự mếch lòng hay phật ý của chủ nhà. «Khi tuyển quân, cán bộ mình, đảng viên mình có gương mẫu không. Hoặc có đảm bảo đúng chính sách, có công bằng hợp lý không. Rồi nữa, có vì nể nang hoặc chú trọng đến chỉ tiêu mà nhãng phần chất lượng... thậm chí ngay các anh: Nam, Chung, Phao đã đi bộ đội chưa... v.v...»

Nhưng tôi đã quá lo xa. «Tự kỉ ám thị». Tôi đã làm cho những điều đơn giản trở nên rối rắm một cách không cần thiết. Chẳng vậy mà khi câu hỏi cuối cùng của tôi vừa buông thì riêng anh Nam chỉ tủm tỉm cười rồi nói nhỏ nhẹ «Có tôi cũng đi anh ạ». Còn chủ nhiệm Chung và xã đội trưởng Phao thì cười hết cỡ. Quả là tiếng cười rất trẻ, sảng khoái ấy đã kéo tôi vốn đã gần gụi với mấy anh đây, giờ càng gần gụi hơn. Riêng Phao người ít tuổi nhất — Đinh Hợi mà, còn bổ sung thêm mấy lời rất lính «Báo cáo với ông anh, em đây dân B5, cơm Bắc đánh giặc Nam chính hiệu đấy. Em cũng không ngán cái bệnh sốt rét lắm đâu. Chỉ lo khi dứt cơn, ăn trả bữa, bà xã chạy gạo không kịp thôi!»


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:21:47 pm

Vậy là xã đội trưởng Phao đã từng có mặt ở đường 9 Khe Sanh, rồi Cồn Tiên, Dốc Miếu Quảng Trị. Dấu ấn của những ngày bão lửa, gian truân ấy vẫn còn in đậm trên khuôn mặt dầu dãi. Ờ, thế sao tôi không lưu ý đến nước da của anh, đến cả đôi môi tai tái của anh. Cứ nghĩ là do trời rét, do vị đậm đà của thuốc lào Vĩnh Bảo quê anh.

Rồi cũng qua giọng nói khiêm nhường, khiến tôi có cảm giác anh Nam đang dẫn dắt tôi với bao kỷ niệm khi gần khi xa. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên phải được trả lời bằng thực tế. Chủ tịch xã Đoàn Văn Thu vốn là thương binh thời kỳ chống Pháp vẫn gửi con đi nhập ngũ. Đồng chí Lê Văn Nhân động viên hai con trai lên đường. Trường hợp anh Thảo đáng lẽ đi bộ đội, nhưng chẳng hiểu sao lại tìm mọi cách để tuột, ra tận Thủy Nguyên dạy học. Khi ấy anh Nam đây là xã đội phó và cũng có chân trong hội đồng tuyển quân xã. Chẳng vì thiếu một anh Thảo mà Tam Đa đây bị hụt chỉ tiêu, vấn đề ở chỗ: Công bằng hợp lý. Vậy là Nam cùng với xã đội trưởng Phao cơm nắm, khăn gói ra tận Thủy Nguyên đặt vấn đề với phòng giáo dục, với nhà trường và nhất là đối với Thảo. Lần đầu chưa được, lần hai... Động viên và thuyết phục. Rồi Thảo cũng nghe ra vui vẻ lên đường.

— Bây giờ anh Thảo thế nào rồi?

— Đã hết hạn phục vụ trong quân đội, trở về tiếp tục nghề cũ. Bây giờ dạy ngay ở xã nhà.

— Còn trường hợp anh Dụng, con ông Minh đã ổn chưa?

— Mới đây nhất, giấy báo công của đơn vị gửi về gia đình phấn khởi lắm.

Những trường hợp trên chỉ là hãn hữu. Nhưng ngay cả cái hãn hữu ấy các anh cũng có cách riêng trong việc động viên thuyết phục. Không chỉ ở những biện pháp hành chính mà ở tấm lòng. Đã nói đến tấm lòng thì cũng có nghĩa là phải có sự quan tâm thường xuyên, toàn diện và rất cụ thể. Đành rằng đã có chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng người thực hiện...

Tam Đa đã lo cho những người ở nhà thế nào? Đúng hơn Tam Đa đã tạo ra nguồn của cải vật chất ra sao để chẳng những cho 3.500 nhân khẩu mà còn phải ưu tiên 135 gia đình liệt sĩ, 40 gia đình thương binh và gia đình có con em đang tại ngũ.

“Tất cả chỉ trông vào đồng ruộng” câu này được chủ nhiệm Lê Kim Chung láy đi láy lại nhiều lần đến nỗi tôi có cảm giác dường như đây chính là câu mở đầu cho mỗi trẻ thơ của Tam Đa khi cắp sách đến trường cùng với câu «Tổ quốc Việt Nam liền một dải, suốt từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau...».

Đặc điểm của Tam Đa là độc canh. Bình quân nhân khẩu hai sào mười thước. Chính những điều kiện khắc nghiệt ấy, thậm chí không có con đường nào khác ấy, bằng mọi cách và chỉ tạo ra thóc, ra gạo ở 306 ha đồng đất quê mình mà thôi. Tam Da chịu đựng hai sương một nắng, làm thủy lợi, thau chua rửa mặn, cải tạo đồng đất, qui hoạch đồng ruộng, tổ chức lại sản xuất v.v... là những việc nhiều vùng quê khác đã làm. Nhưng ở Tam Đa ổn định, năng suất lúa ngày một đi lên. Lợn xuất chuồng của hợp tác xã ngày một nhiều.

Được sự hỗ trợ không nhỏ của xí nghiệp nông cụ huyện Vĩnh Bảo, nhưng cần phải chủ động. Tam Đa đã tự mình sắm thêm hai chiếc MTZ nữa. Hai chiếc màu đỏ, oai vệ đậu ở sân kho rộng rãi, bát ngát. Còn người lái, thợ sửa chữa nữa. Tất cả 10, Hợp tác xã đang cử đi học. Tôi đọc được niềm vui, và cả phần nào ánh mắt tự hào của các anh khi nói lên điều này. Cho đến hôm nay Tam Đa thực hiện trả lương hưu cho bà con xã viên nông nghiệp. Một điều thật mới mẻ và cũng để khẳng định thêm cho con người, đồng đất Tam Đa. «Tam Đa đã tiếp thu, nắm bắt được rất nhanh các nghị quyết của thành ủy Hải Phòng. Có nhiều sáng tạo trong việc khoán...». Vụ chiêm này 100 ha vùng lúa cao sản giao cho 10 đội sản xuất có thể nắm chắc 8 tấn năm ở cao sản, 5 tấn năm ở đại trà. Riêng phân bón. Chỉ tính đạm thôi: 3,7 cân một sào Bắc bộ. Một con số khiêm tốn, nhưng nhân lên cho đủ 306 ha, không nhỏ đâu. Lúc này tôi nhớ đến hình ảnh chiếc thuyền xi măng lưới thép trên sông đào Chanh Dương với ngồn ngang xi măng, phân đạm và bao màu sắc đủ loại của khăn quàng len khiến cho má các cô gái ngồi trên khoang lựng hồng lên.

Tiếng cười giòn tan, vỡ ra, lanh lảnh. Nhưng không phải của cô gái Tam Đa. Mà của các em nhỏ Trường phổ thông cơ sở. Rời khỏi hội trường xã tôi gặp ngay cảnh tượng này. Ấy là giờ ra chơi của các em. Dẫu chưa rực rỡ, không áo nọ áo kia. Nhưng không phong phanh. Tôi cũng không muốn hỏi, trong những ánh mắt tươi trẻ, gương mặt sáng sủa kia, em nào là con liệt sĩ, thương binh, em nào có bố đi bộ đội, bố đang làm cán bộ, công nhân v.v... Đừng để cho trẻ thơ thấy sự ưu tiên, cũng như phân biệt. Các em phải được ăn no, mặc ấm và được học hành.

Trong hoàn cảnh điều kiện của mình, không ít khó khăn, nhưng Tam Đa đang từng bước, theo thời gian thực hiện cho được điều ấy.

Tôi cùng Phao vào thôn Đông Quất. Sau những ngày mưa tầm tã, đường làng vốn là những viên gạch chỉ, xây nghiêng, bết những bùn. Trong thôn hầu hết là nhà gạch. Tiếng “tang-si-to”, rồi cả tiếng loa công cộng cứ đan quyện một điệu dân ca vấn vít. Tôi đã vào nhà cụ Nhân, một trong 37 gia đình liệt sĩ có mức thu nhập trung bình. Cụ đã già nhưng vẫn còn nhanh nhẹn và tỉnh táo. Lúc chúng tôi đến phải ngồi tạm ở bếp. Cụ ông gọi cô con dâu lấy chiếu, rót nước, nhà còn đang lôi thôi, bừa bãi. Chẳng là cụ đang làm nhà mới mà. Cô con dâu đánh vữa, mấy ông thợ người tháo cốp-pha, người thì dùng bay sửa sang lại bồn hoa. Nhà mài bằng, năm gian, rộng rãi khang trang. Cái áo nâu bạc của cụ đang mặc kia, cũng có lý do của nó. Tôi hỏi công thợ: 23.000đ (hai mươi ba nghìn đồng). Số tiền ấy quả là lớn nếu như tính theo số thóc mà cụ được Hợp tác xã bán cho thường xuyên với giá 2,5đ một cân. Vả lại thì giá ở đây tương đối ổn định, không đến nỗi chóng mặt, thì chỉ riêng số tiền thuê thợ kia, rồi tiền xi-măng, sắt 6, sắt 8, vôi, cát, gạch... Biết bao nhiêu là nguyên vật liệu, bao nhiêu là công của.

— Cơ ngơi của gia đình tôi được thế này, là nhờ một phần có chính quyền địa phương giúp đỡ.

Rời Đông Quất tôi lại cùng Phao sang thôn Lễ Hợp. Đồng ruộng Tam Đa bằng phẳng, ngút một màu xanh. Lúa sẽ đẹp và chắc chắn sẽ ăn to nếu như có mưa rào và nhất là có nắng. Lúa cần ánh sáng. Lúc ấy đạm lại thúc nữa. Cầm bằng tám tấn anh ạ. Tôi nghe những điều ấy từ miệng của một người lính, của một xã đội trưởng mà lòng thấy vui vui. Vậy là việc tăng sản, chăm lo cho cây lúa rõ ràng ở đây không chỉ dựa vào kinh nghiệm. Mà phải có biện pháp kỹ thuật.

Tôi cũng đã vào nhà bà Nguyễn Thị Cống, mẹ của liệt sĩ Nguyễn Văn Líu, một trong hai mươi gia đình liệt sĩ đời sống gặp khó khăn. Mẹ già rồi. Những vết nhăn chồng chéo lên khuôn mặt. Khi nói chuyện với chúng tôi mẹ cứ húng hắng ho luôn. Lưng mẹ còn thẳng, mắt vẫn còn tinh. Nghe chuyện đời riêng của mẹ sao mà thương. Mẹ hiện giờ đang ở với đứa cháu ngoại. Cháu mới 15 tuổi... Nếu tính cả tuổi mụ thì 16 đấy, Con trai mà ngần ấy tuổi ở đồng đất này theo công điểm hợp tác là không lo đói đâu. Còn mẹ, Hợp tác vẫn cấp không mỗi tháng 16 cân thóc. Một năm 192 kg. Mẹ ở một ngôi nhà tranh nhỏ. Cái cảm giác vắng vẻ tôi có nhận ra, nhưng quạnh hưu thì không.

Trời đã về chiều nhưng nắng vẫn còn hửng. Ở đây, tuy không nghe thấy tiếng đài, tiếng loa, nhưng ở chiếc ao rộng ngay trước cửa nhà mẹ, tôi nghe thấy tiếng cá quẫy.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:24:55 pm

*

*       *

Tôi nhận ra ngay sự chân chất, hồn hậu của thiếu tá Nguyễn Mạnh Nhật — chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự huyện Vĩnh Bảo. Khi anh bắt tay tôi, bàn tay to, thô ráp nhưng nóng ấm của một người lính từ những tháng năm chống Pháp. Bằng một giọng cởi mở, thân tình như thể đã quen biết từ lâu, anh hỏi:

— Mấy ngày ở đây anh có thấy rét không. Anh đi được nhiều nơi chưa?

— Tôi đã làm việc với chỉ huy phó chính trị Bùi Văn Hựu. Cũng đã xuống một vài cơ sở.

— Có anh em tôi đi cùng chứ anh?

— Vâng. Khi thì anh Thạc, khi thì anh Quốc. Anh có những trợ lý rất tuyệt. Am hiểu, thuộc cơ sở lắm.

— Lực lượng vũ trang huyện mà. Không thuộc, không bám cơ sở, đâu có được. Kế hoạch của tôi, cả sáng nay làm việc với anh đấy. Liệu có đủ không?

— Tôi vốn tham lam. Nhưng chiều nay, theo kế hoạch anh xuống Cổ Am để chuẩn bị cho đại hội Đảng bộ xã, rồi còn phải báo cáo nghị quyết của thành ủy. Anh Hựu cho tôi biết lịch của anh mà.

— Vậy thì ta bắt đầu làm việc nhé!

Rất quân sự trong dáng dấp cử chỉ, cũng như trong cách làm việc. Nhưng tôi không nhận ra vẻ cứng nhắc, gò bó. Lại càng không nhận ra sự cách biệt khi chuyện trò với anh Nhật. Có lẽ chất bộ đội cũ của tôi vẫn còn, và những ngày ở đây, tôi cũng được quân sự hóa trở lại chăng? Trong sổ tay tôi đã có khá nhiều những số liệu cần thiết mà thượng úy Quốc đã cung cấp. Nhưng khi làm việc với anh, lạ làm sao, những số liệu tưởng như khô khốc, ngắn gọn kia lại sinh động hẳn lên. Vậy thì nên bắt đầu từ đâu để phần nào, dẫu là ít ỏi thôi nêu cho được bao công việc các anh đã suy nghĩ, đã làm. Cái đã làm. Cái đang làm. Cái sẽ làm…? Vậy là có sự liên tục, có cái dẻo dai, bền bỉ đây. Thôi, có lẽ bắt đầu từ cái mới nhất vậy. Bắt đầu từ việc thiếu tá Nhật phải bứt khỏi những công việc bộn bề của huyện mất một ngày, phóng xe lên Bộ chỉ huy quân sự để báo cáo với tư lệnh của ba quân khu. Lần này ở Hải Phòng, Bộ chỉ huy quân sự đề nghị hai đơn vị báo cáo. Về phường có Hồng Bàng. Còn cấp huyện: Vĩnh Bảo.

— Anh còn giữ bản báo cáo ấy không?   .

Anh Nhật hơi ngớ ra một tí, rồi cười, dường như hiểu ra cái đòi hỏi của tôi.

— Chỉ huy trưởng của chúng tôi chỉ cho Vĩnh Bảo hai mươi phút. Tôi có văn bản gì đâu. Nói vo thôi, vả lại, anh tính, toàn là những việc đã làm. Làm được đến đâu nói đến đó.

Và, cứ chất phác, cứ hồn nhiên như thế, những tháng năm hào hùng, những chân dung, những cuộc đời của mỗi người dân, mỗi cán bộ, chiến sĩ Vĩnh Bảo cứ dần dà, đầy ắp trong tôi.

Thế ra Vĩnh Bảo đã từng nổi tiếng bởi có «Đường 10 quật khởi». Đã có những trận tiêu diệt địch ở quán Đỏ. Đã có những trận chống càn mà du kích và bộ đội địa phương đã quần nhau với hàng tiểu đoàn Âu Phi thiện chiến để giữ từng bờ tre, tấc đất. Và, Đan Điền, Cự Lại, Dũng Tiến, Đồng Minh đã là nỗi khiếp sợ của những tên lính viễn chinh Pháp.

Thế ra ở Vĩnh Bño đây, «Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người». Không chỉ là khẩu hiệu. Mà đã trở thành một điều tự nguyện, một khát khao cháy lòng dốc sức chi viện cho tiền tuyến. Cũng chính vì vậy mà tiểu đoàn “Đường 10 quật khởi” đã được thành lập ngày 28-4-1966. Tiểu đoàn gồm 756 đồng chí là con em của Vĩnh Bảo thuộc 29 xã và hai trường phổ thông trung học. Những người con Vĩnh Bảo đã lên đường đi B. Đường tắt, lối mòn, Trường Sơn và những đêm mưa rừng, mùa dông bão không cản nổi bước chân của họ. 756 người con của Vĩnh Bảo — Tiểu đoàn 10 quật khởi ấy đã trở thành một đơn vị quân giải phóng, trở thành bộ đội địa phương của tỉnh Ninh Thuận.

Những người ở nhà, cùng với việc làm ra hạt lúa củ khoai vẫn bắn rơi máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái. Chính đơn vị nữ dân quân tập trung huyện đã độc lập chẻ xác máy bay kẻ cướp Mỹ, cả tên «cánh cụp cánh xòe». Toàn quân khu có 5 xã được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3 thì Vĩnh Bảo được 2.



Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Chín, 2022, 07:25:52 pm

Dường như anh Nhật đã nắm bắt được suy nghĩ của tôi. Anh chuyển «gam», vẫn một giọng nói hồn nhiên, chất phác:

— Huyện của chúng tôi là một trong những huyện trọng điểm lúa cộng với cây con. Đặc sản thì cùng với Tiên Lãng, thuốc lào Vĩnh Bảo nổi tiếng khắp mọi miền đất nước.

— Và còn bay qua các đại dương nữa kia. Bà con Việt kiều mình ở xa Tổ quốc vẫn nhắc, vẫn thèm thuốc lào Vĩnh Bảo, Tiên Lãng đấy. Thế còn về mặt quân sự?

— Là huyện tuyến sau của thành phố.

— Tuyến sau, nhưng chắc các anh không chịu đi sau?

— Nhất định rồi, anh ạ. Không nói chắc anh cũng rõ, lực lượng vũ trang Vĩnh Bảo không chỉ hoàn thành với cấp trên về mặt quân sự trên địa bàn huyện mà còn phải có trách nhiệm trong việc duy trì và tạo thế đứng cho huyện trọng điểm lúa.

— Vậy nhiệm vụ nào là chính, hiện nay?

— Hiện nay hả anh? Chúng tôi thường nghĩ, cả hai đều là nhiệm vụ chính cả. Dĩ nhiên khi thực hiện cần phải sáng tạo, uyển chuyển anh ạ.

— Trong sản xuất các anh cũng làm nhiệm vụ xung kích chứ?

— Vâng. Có điều cần hiểu biết chữ xung kích. Bởi vì cơ quan quân sự huyện chúng tôi chỉ có 45 đồng chí.

— Như thế có nghĩa là các anh không chỉ xung kích trong việc tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban, xung kích trong chỉ đạo và cả trong tổ chức cũng như khi tiến hành từng chiến dịch nữa?

Tôi cấp tập những câu hỏi, những nhận xét. Thiếu tá Nhật chỉ mỉm cười, nói một câu thật giản dị:

— Thì chúng tôi là người lính mà.

Chính sự giản dị của câu nói ấy là bao hàm của sự ra đời, sự hình thành những cụm chiến đấu, lực lượng cơ động hiện nay. Chính từ những cụm chiến đấu ấy, những lực lượng cơ động ấy đã được quân sự hóa, được tổ chức thành những người lính xung kích thật sự. Vì vậy bao công trình của Vĩnh Bảo đều đã được hoàn thành. Con sông đào Chanh Dương nước xanh ngắt đầy ắp đôi bờ êm ả trôi. Không chỉ mang vẻ đẹp ấy, còn là nguồn tiêu úng cho các vùng lúa cao sản: Vĩnh Phong, Tiền Phong, Cộng Hiền. Chanh Dương không chỉ giữ nước trong vụ đông xuân cho 8 xã khu 1 mà còn khai thác cho vùng bãi nữa. Xây dựng cống I Trấn Dương, một công trình trọng điểm của huyện.

Một sĩ quan trẻ chợt xuất hiện ở cửa. Có lẽ không muốn làm ngắt quãng công việc của chỉ huy với khách nên anh cứ ngập ngừng.

— Xin lỗi anh nhé — Có việc gì đấy đồng chí?

— Báo cáo chỉ huy, có khách ạ.

— Ai đấy, đồng chí?

— Bác Lự trưởng phòng giáo dục huyện ạ.

— Anh nói bác chờ tôi một lát nhé.

— Rõ.

Và trước khi quay ra, đồng chí sĩ quan còn để lại trước mặt anh Nhật một tấm thiếp báo hỷ. Cũng muốn để anh xả hơi tí chút nên tôi nói vui:

— Bọn tôi ở Hà Nội mỗi khi nhận được thiếp này vừa mừng lại vừa lo. Mà nhiều khi cái lo nhiều hơn.

Nhưng khi mở thiếp ra, lướt nhanh những dòng chữ mầu, khuôn mặt anh Nhật chợt rạng lên. Rồi có lẽ anh cũng không để ý đến câu nói vừa rồi của tôi. Anh thốt lên:

— Chóng thật đấy. Thế mà đã 20 năm rồi.

Lần này thì đến lượt tôi muốn anh san sẻ niềm vui. Thì ra đây chỉ là một thiếp báo hỷ bình thường nếu như với tôi, hoặc với bất cứ ai không nắm được số... phận, cuộc đời những con người trong này.

Người vợ trẻ cùng với đứa con gái hai tuổi ấy đã đưa tiễn chồng lên đường đi chiến đấu đúng vào cái ngày hoa xoan nở trắng đường quê Vĩnh Bảo tháng 2 năm 1965. Ít lâu sau chị nhận được tin chồng hy sinh. Lúc ấy con của anh chị đã lên 5 tuổi. Chị vẫn ở nhà chồng cũ, không chỉ là con dâu. Mà đã là con gái của mẹ.

Bây giờ chị đã 47 tuổi. Mẹ chồng chị vừa tròn 70. Còn đứa con gái đầu lòng 22 tuổi.

Thiếp mời anh Nhật đến dự ngày vui, chính là ngày chị, mẹ chị tổ chức cho cháu.

Tóm tắt câu chuyên mà tôi được nghe và kể lại là thế. Có ai dè, trong cái bình thường của cái thiếp mời ấy, lại ánh lên bao vẻ đẹp, bao sự hy sinh thầm kín, ánh lên cái ấm áp đậm đà, chân chất của tình người.

Vĩnh Bảo — Hà Nội
tháng 3-1985

T.V.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 08:49:47 am

NGUYỄN ĐỨC MẬU

BỨC ẢNH Ở VÙNG QUÊ CHẮN BÃO


Chiếc xe con đột ngột dừng lại ở đoạn đê chắn biển ngoại ô thành phố. Trung tá Vũ Sinh bước xuống, xốc lại chiếc áo bạt bạc màu. Với dáng hình cao lớn, khỏe mạnh, ít ai có thể đoán tuổi ông đã ngoài sáu mươi. Bàn tay to bè của ông khoát một vòng cung theo hướng biển và chỉ xuống con đê mới đắp có đoạn lỗ chỗ màu cỏ:

— Anh biết không, chỗ chiếc xe con đang đỗ, chỗ những ngôi nhà đang dựng dở dang kia, hồi nào còn là bãi sú, bãi vẹt, còn chìm ngập trong sóng nước. Con người ở đây đang nhích dần ra phía biển…

Chúng tôi đang bước chầm chậm trên đoạn đê mới, đang bước trên vùng biển động năm nào. Giờ này, nước thủy triều đang rút, biển trước mặt chúng tôi trở nên phẳng lặng, yên ả như một miếng vải màu đất khổng lồ. Dưới chân đê, mấy chiếc sà lan han gỉ, những bãi sú, bãi vẹt mới trồng, và xa hơn nữa là những con thuyền gỗ loi thoi của đám dân chài. Đây đó, ven bờ biển, từng đoàn người, đàn ông, đàn bà, trẻ con đang lội ngụp, kiếm cá kiếm tôm ở những đám nước mặn. Không hiểu sao, nhìn cảnh vật, nhìn biển cả nơi đây, tôi lại nghĩ đến cái sức lực tiềm ẩn của con người.

Trung tá Vũ Sinh luôn chỉ cho tôi xem những dấu tích bờ biển trên mặt đê. Dường như chỉ có những người gắn bó với nơi này như ông mới có thể nói về nó một cách hào hứng và sôi nổi đến thế. Chợt ông chỉ tay vào một mô đất bình thường: «Chỗ này là lỗ thủng thứ bốn của con đê hồi cơn bão số hai đấy...». Đi được một đoạn, ông vòng xuống chân đê và bước lên một chiếc sà lan: «Anh thấy chưa, sóng gió ở biển đã quật gãy cong chiếc sà lan như bỡn, cũng cơn bão số hai, hàng chục chiếc sà lan đã được chuyển tới đoạn đê này để hàn vá các lỗ thủng».

Tôi gợi chuyện:

— Hồi đó, anh ở ban chỉ huy công trường thủy lợi, phải không?

Vũ Sinh nói giọng điềm đạm:

— Ban chỉ huy công trường gồm ba người. Chúng tôi thay nhau tổ chức lực lượng lao động. Nhưng xin anh đừng quan tâm nhiều tới vai trò cá nhân. Điều tôi muốn nói với anh là sức mạnh của những đơn vị bộ đội và dân quân địa phương trên mặt trận kinh tế.

Đi trên mặt đê, tôi được trung tá Vũ Sinh kể cho nghe nhiều chuyện về con người nơi đây. Thêm nữa, tôi còn được xem những đoạn ghi chép của ông trong cuốn sổ tay. Có nhiều chuyện ngỡ đã qua đi, song qua giọng nói sôi nổi, hào hứng của ông, tất cả được tái hiện, rõ rệt và sống động như vừa xảy ra trước mắt.



Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 08:50:43 am

*

*         *

Cơn bảo số hai ập đến thật bất ngờ. Luồng gió xoáy từ biển tràn vào nhanh hơn mọi dự đoán. Bão ở vùng đồng bằng, rừng núi thì đổ nhà, đổ cây, nhưng dữ dằn nhất, điên cuồng nhất vẫn là bão ở vùng biển. Ở đây, cảnh vật trần trụi, cô độc hơn. Những bãi sú, bãi vẹt mới trồng vừa nhô khỏi mặt nước đã bị sóng biển bứt ra khỏi đất liền. Những cột buồm, những chiếc thuyền câu bé nhỏ bị gió bão quật vào bờ đá. Đàn chim biển như một đám lá đổi màu, bay và rụng lả tả xuống mặt đê hoặc đồng nước. Phải nói chúng là một loài chim rất thính nhạy với sự đột biến của thiên nhiên, khốn nỗi sức chúng quá mỏng manh và bất lực trước gió xoáy, sóng dữ.

Buổi sáng hôm đó, con đê ở ngoại ô thành phố Hải Phòng trầm mình trong cơn bão. Sóng ném những tảng đá lớn vào đường phố Đồ Sơn làm sập một số ngôi nhà. Sóng ném cả những chiếc sà lan, những chiếc phao ngoài xa lên đoạn đê mới đắp. Dãy lán của công trường mới dựng ở ven con đường nhựa bị gió thổi tung. Những hàng thông vặn mình răng rắc, những cột điện bị gãy nằm ngổn ngang, xiêu vẹo ở ven đường.

Đoạn đê mới đắp bị vỡ. Cái tin đồn đó lan nhanh về thành phố và các vùng lân cận. Trong khi gió bão, toàn bộ ban chỉ huy công trường, cùng một số các đơn vị công binh, bộ đội biên phòng, trường quân sự, rồi tiếp đến các cơ quan bạn, Ty thủy lợi thành phố, đều lần lượt có mặt trên đê. Đoạn đường nhựa nước dâng, nhiều đoạn có cây đổ, bùn thụt đến đầu gối, xe con không đi được, mọi người đành phải chân trần đi bộ. Dòng người đổ lên phía đoạn đê bị vỡ.

Sau gần một giờ khảo sát, ban chỉ huy công trường đếm được mười lỗ thủng trên mặt đê. Trước mắt họ, đoạn đê dài giống như một sợi chỉ mỏng manh có nhiều chõ đứt. Đê mới đắp xong, chỉ một trận bão là vỡ, bao nhiêu công sức của con người bị sóng gió cuốn đi trong chớp mắt. Đứng trên mặt đê, bao nhiêu người đều xót xa, lo lắng, song không ít người tỏ ra chán nản.

Một người dáng hình thấp bé, mặc bộ com lê màu đen, khoác mảnh vải nhựa màu trắng, tay xách đôi ủng bết bùn lách đám đông đi lại phía Vũ Sinh:

— Thôi, công dã tràng xe cát rồi ông Sinh ơi. Hàng chục triệu đồng của nhà nước chứ đâu phải ít của?

Vu Sinh nhận ra ngay cái dáng vẻ loắt choắt, giọng nói pha chút bề trên của người đang đứng trước mặt mình. Ông cố nén bình tĩnh đáp lại:

— Chúng tôi sẽ tổ chức lực lượng hàn lại đoạn đê này. Chỉ cần các anh cấp cho vật liệu để thi công.

Người mặc áo com lê màu đen vốn là một cán bộ quyền chức ở Ty thủy lợi. Ông ta ngước cặp kính lão hé mắt nhìn Vũ Sinh, giọng ngạc nhiên:

— Các anh lại nhận đoạn đê này? Không liều lĩnh chứ?

Vũ Sinh đáp gọn lỏn:

— Chúng tôi đã đắp được đê thì cũng giữ được đê. Vả lại, lao động ở đây mấy tháng ròng, các đơn vị đã quen công việc.

— Nhưng xin anh nhớ cho, việc hàn đê khác hẳn với việc đắp đê, cũng như việc đánh giặc khác hẳn với việc làm kinh tế. Chỉ có lòng quyết tâm chưa đủ đâu...

Giá như trong hội nghị, Vũ Sinh có thể tranh luận rạch ròi với người đang đứng trước mặt mình. Nhưng giữa đám đông ồn ã, giữa trời bão gió này, có bao nhiêu công việc ông phải lo, lý sự với nhau mãi cũng chẳng tích sự gì. Rời đám đông, ông đi về phía những lỗ thủng khác trên mặt đê. Nhìn dòng nước xoáy ào ào vào đoạn đê vỡ, ông suy nghĩ miên man. Làm thế nào để hàn vá được mười lỗ thủng trên quãng đê này. Ông ước tính sổ lượng đá cũng phải tới hơn một nghìn mét khối, tre pheo vài nghìn cây, rồi rọ sắt, thuyền mảng, sà lan, tàu hút bùn. Từng ấy vật liệu, có xoay xỏa được không? Tất nhiên, lực lượng bộ đội, dân quân có, dẫu khó khăn đến mấy cũng phải làm. Phía sau ông, cả một vùng đất đã được con đê mới bao bọc, rồi đây nhất định những bãi sú, bãi vẹt sẽ biến thành khu đất dựng nhà, nuôi tôm thả cá. Không lẽ từng ấy con người cứ ngồi đấy mà chịu cho đê vỡ, cho sóng gió đe dọa đất liền; Mấy tháng nay, cùng các cán bộ trong ban chỉ huy công trường đứng chân ở mặt trận này, mọi người đều xốc vác, nhiệt tình, nhưng kinh nghiệm chưa có. Hơn nữa có một vài cán bộ chủ công bên ngoài chưa tin rằng bộ đội làm được kinh tế. Mà khi chưa tin thì họ nhìn nhận mình bằng con mắt e dè ái ngại. Mình làm ăn khấm khá thì họ cho là may mắn, mình bị thất bại thì họ vạch lá tìm sâu phê phán, chụp mũ. Không hiểu sao, hình ảnh người cán bộ già mặc bộ com lê màu đen lúc nãy cứ lởn vởn trong đầu Vũ Sinh. Thực ra, hai người đã từng gặp nhau, đã từng đối thoại với nhau nhiều lần:

— Ở đơn vị anh có đến chục kỹ sư thủy lợi không?

— Có bốn. Hiện nay chúng tôi đang cử người đi học tiếp.

— Quá ít, làm sao mà đảm đương nổi với khối lượng công việc khổng lồ như thế. Làm kinh tế mà rời khoa học thì gay go lắm.

Vũ Sinh trầm tĩnh đáp:

— Chúng tôi sẽ cố gắng tận dụng hết khả năng của anh em.

— Tôi đã nói với anh: việc làm kinh tế không phải chuyện đùa. Yêu cầu cấp vốn, cấp vật liệu của anh, dĩ nhiên chúng tôi phải xem xét thận trọng đã... Vũ Sinh là người quyết đoán, dám nhận trách nhiệm về mình. Công việc đắp đê bước đầu đã gặp biết bao khó khăn. Rồi con đê đang được hoàn thành thì cơn bão số hai ập đến. Đê vỡ. Những lời đồn đại theo cơn bão tràn đi rất nhanh. Vũ Sinh biết rằng trong đám người kéo lên mặt đê kia, không phải tất cả đều có chung một nỗi lo âu, đồng cảm với mình. Một số rất ít, vì bảo thủ, ghen tị, đã mượn gió bẻ măng, nhân cớ này mà chụp mũ, kết tội người khác.

Trong lúc Vũ Sinh một mình đang bước những bước trồi sụt trên đoạn đê lầy lội thì cậu liên lạc trong ban chỉ huy công trường vượt tắt con đường qua bãi sú lên mặt đê tìm anh. Nghe tiếng gọi, Vũ Sinh quay lại. Giọng cậu liên lạc hổn hển, đứt quãng trong tiếng gió:

— Báo cáo... thủ trưởng. Bộ chỉ huy điện gọi thủ trưởng về họp.

— Ngay bây giờ.

— Vâng. Đường từ đây về thành phố cũng không xa, xe con đi không tiện lắm. Em đã thổi cơm và mượn cho thủ trưởng một xe đạp.

Đạp xe tới Bộ chỉ huy, Vũ Sinh gặp ngay đồng chí chỉ huy trưởng cũng vừa đi xuống cơ sở về. Cuộc họp diễn ra rất nhanh. Đúng như Vũ Sinh dự đoán, thành ủy vẫn giao cho ban chỉ huy công trường tổ chức lực lượng hàn đê. Đồng chí chỉ huy trưởng hỏi anh:

— Bao giờ thì các đơn vị ra quân được?

— Báo cáo. Tình hình hàn đê rất gấp. Tối nay, chúng tôi sẽ họp ban chỉ huy công trường, Ngày mai, ngày kia ra quân.

Đồng chí chỉ huy trưởng ân cần hỏi:

— Vật liệu còn thiếu những khoản nào?

— Cần khoảng hơn hai nghìn cây tre, hơn một nghìn khối đá, một trăm cái rọ sắt...

— Khối lượng đó lớn đấy, không phải ngày một ngày hai mà có đủ ngay được đâu. Nhưng theo mình, xe chở vật liệu về đến đâu ta làm ngay đến đó. Trước mắt, ta có thể tận dụng số đá của đoạn đê cũ để sử dụng vào việc hàn đê.

— Vâng. Tôi rất yên tâm vì lực lượng lao động của mình rất đông. Ngoài tiểu đoàn công binh của thành còn có trung đoàn biên phòng, các đơn vị của trường quân sự và dân quân tự vệ. Chỉ lo nhất là thiếu vật liệu thi công.

Kết thúc cuộc họp, đồng chí chỉ huy trưởng thân mật xiết chặt tay Vũ Sinh:

— Thuận lợi cũng nhiều nhưng khó khăn cũng không phải ít. Cần việc gì ông cứ đề đạt trực tiếp với mình. Xin chúc toàn thể công trường chúng ta sớm hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 08:51:42 am

*

*        *

Suốt một tháng nay, từ khi ban chỉ huy công trường mít tinh, mở những cuộc ra quân lớn trên mặt trận thủy lợi, ngày nào trên đoạn đê ngoại ô cũng đông nghịt những người. Những đơn vị bộ đội, dân quân nhận kế hoạch hàn vá các lỗ thủng. Đám thợ đấu ở thành phố và các làng lân cận cũng lũ lượt kéo về nhận việc đào đất ở những đầm nước mặn. Từng đoàn xe tải chở đất chở đá, nối nhau đổ dồn về phía mặt đê. Hàng chục chiếc sà lan chất nặng đá áp sát vào các lỗ thủng. Sáu chiếc tàu cuốc liên tục hút bùn ở những vùng lầy. Những bãi sú, bãi vẹt được phát quang. Rồi tre pheo, rọ sắt, cùng những dụng cụ lao động khác được chuyển tới, dồn lại thành đống trên mặt đê. Nhịp độ của con người và máy móc đang quay vòng theo thời gian, hối hả và bền bỉ.

Như trên đã nói, đoạn đê này là đoạn đê mới đắp. Việc nó ra đời khiến cho một số người sửng sốt, khó tin. Khi nó bị cơn bão phá vỡ, bỗng nhiên gieo vào lòng những người trước kia vốn đã nghi hoặc một sự trắc ẩn và chán nản. Vì thế, khi biết tin công trường lại ra quân, mở chiến dịch hàn đê, một số các cụ già ở gần đó, kéo đến công trường phản đối. Đã sống gần tròn một đời người ở làng biển, các cụ già cho rằng việc đắp đê lấn biển là phiêu liêu, mạo hiểm. Bởi từ bao đời nay, dân làng ở đây đã từng làm, song rốt cuộc đều thất bại trước uy vũ của biển cả. Thất bại và cam chịu, một số người tin vào thần linh. Trên đoạn đê cũ ngày trước, còn rải rác vài ngôi đền nhỏ dân làng lập nên, làm nơi cầu nguyện của những người đi biển.

Một hôm, trong lúc mọi người đang hối hả hàn đê, cụ Bậu cùng mấy bô lão trong làng Kim khăn áo tề chỉnh, kéo nhau ra mỏm Cồn Sú. Các cụ mang theo một mâm xôi gà, kê đá lập thành bàn thờ trên khoảng đất ì ầm sóng gió. Cụ Bậu cùng các bô lão đặt mâm xôi gà lên mấy hòn đá rồi thành kính thắp hương. Những dáng hình vốn đã khô gầy bỗng nhiên như nhỏ lại. Những đôi mắt mờ đục nhìn ra biển cả như tìm thấy trong khoảng không bao la kia bóng dáng của thần linh mà bấy lâu nay họ vẫn nguyện cầu để mong được cưu mang, che chở. Các cụ rì rầm khấn vái, cho tới lúc tàn hai lần hương rồi mới lặng lẽ ra về.

Trên đường về, các cụ rẽ vào nhà ban chỉ huy công trường. Trong lúc uống nước, cụ Bậu lựa lời hỏi Vũ Sinh:

— Có phải chiều hôm qua, ở công trường ta xảy ra tai nạn lao động không?

Vũ Sinh rót thêm nước mời khách:

— Vâng. Báo cáo các cụ, chiều hôm qua, có một trận mưa lớn từ biển ập vào. Mưa to và sét giật trong lúc mọi người đang làm việc...

Cụ Bậu:

— Chúng tôi nghe nói sét đánh bị thương mười hai người và một cô gái ở làng Kim bị ngã từ sà lan xuống biển?

— Vâng. Nhưng số người bị sét đánh cũng nhẹ thôi, trong số mười hai người thì hôm nay sáu người đã có mặt ở công trường. Còn cô Tân, người làng Kim thì...

Cụ Bậu rơm rớm nước mắt:

— Nó là cháu ruột tôi đấy. Vì nhà thiếu ăn, nó phải đi làm nghề thợ đấu mấy tháng nay. Tội nghiệp nó, gia đình thì neo đơn. Nó mà có mệnh hệ gì thì tôi biết trông cậy vào ai.

Vũ Sinh an ủi:

— Thưa cụ, cô Tân đã được đưa đi viện kịp thời. Chỉ ngày một ngày hai là bình phục thôi.

— Tôi chẳng tin nó sống được. Anh mới đến đây không rõ chứ, từ xưa, ở cái làng này hễ cứ đắp đê là phải cúng lễ linh đình và thần biển năm nào cũng lấy đi một cô gái đẹp nhất. Đêm hôm qua, trong lúc ngủ mơ, tôi đã được thần biển báo mộng rồi...

Một cụ già trong đám đi lễ đang ngồi cạnh cụ Bậu nói chen vào:

— Những năm trước, dân làng ở đây chỉ dám bồi đất vào con đê cũ chứ có dám tính đến chuyện đào đắp thêm ra phía biển đâu. Các anh đắp đê mới, lại còn định đưa người ra dựng nhà, trồng cây ở đây là không ổn rồi. Đấy, từ hôm các anh đắp đê đến nay, có bao nhiêu chuyện xảy ra. Đê đắp gần xong thì có bão, đê vỡ. Khi các anh hàn đê thì trời đổ mưa lớn. Sét đánh gãy cây gạo già to nhất của làng Kim, sét đánh cả vào đám dân thường. Đó là điềm dữ. Các anh là lớp hậu sinh, chúng tôi sống ở đây lâu, biết hết mọi chuyện. Nếu có ngỏ lời khuyên can cũng chỉ vì lợi ích của dân làng.

Vũ Sinh:

— Các cụ là những người cao tuổi trong làng, có lời chỉ bảo thế, chúng tôi rất cảm ơn. Nhưng chúng tôi xin đề nghị các cụ hết sức ủng hộ chúng tôi. Nếu thấy khó khăn trước mắt, các cụ suy diễn ra những điều này, điều nọ thì sẽ ảnh hưởng đến đám con cháu mình đang góp công, góp sức trong việc hàn đê...

Ông Bậu cùng các bô lão đối đáp với Vũ Sinh một hồi lâu rồi cáo lui. Đưa chân các cụ ra khỏi ban chỉ huy sở, Vũ Sinh đi thẳng tới công trường. Trước mặt ông là một biển người đang hối hả với công việc. Chiếc loa phóng thanh đang truyền đi những tin tức lao động của các đơn vị. Như thế, một tháng nay, công trường đã hàn được tám trong số mười lỗ thủng trên mặt đê. Chỉ ngày mai, ngày kia, toàn bộ lực lượng của công trường sẽ hàn tiếp hai lỗ thủng số bốn và số năm còn lại. So với các lỗ thủng khác, lỗ thủng số bốn và số năm, to hơn, khó hàn hơn. Chiều nay, ban chỉ huy công trường đã cử người đi chuẩn bị lực lượng lao động và số lượng vật liệu cho những ngày sắp tới.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 08:53:28 am

*

*         *

Muốn hàn vá lỗ thủng số bốn và số năm được bảo đảm, ngoài những vật liệu như: đá, tre, rọ sắt… cần phải có một số cọc gỗ dài khoảng mười hai thước. Cọc gỗ đã có, nhưng làm thế nào để đóng sâu, đóng chặt được vào lòng đê thì các kỹ sư thủy lợi chưa tính ra. Đồng chí Mến, cán bộ huyện Đồ Sơn xin đảm nhận việc này. Vốn là người quê gốc vùng biển, Mến thuộc giờ con nước lên xuống như người vùng rừng thuộc tên cây, tên suối. Vào lúc nước lặng, Mến cùng mấy chiến sĩ chở thuyền ra chỗ lỗ thủng trên mặt đê. Họ ngồi ở trên thuyền, dùng sức người cắm cọc. Một đầu cọc đã được vát nhọn như đòn sóc, cắm sâu vào lỗ thủng của lòng đê đầy nước. Nhưng mỗi cọc dài tới mười hai thước, cắm được đến nửa chừng thì đầu cọc chạm vào lớp đất rắn. Mến phân công hai chiến sĩ quấn hai đoạn dây thừng quanh thân gỗ, vừa kéo, vừa lắc theo chiều nước, đoạn anh trèo hẳn lên đầu cọc. Có người trèo lên, chiếc cọc thêm sức nặng. Hai đoạn dây thừng vẫn kéo đi, kéo lại, khiến chiếc cọc lún dần như mũi khoan lớn khoan sâu vào đất. Chừng nửa giờ sau, chiếc cọc dài đã cắm ngập vào lòng đê. Mến từ dưới nước bơi vào thuyền giục mọi người cắm tiếp chiếc cọc khác.

Nhân lúc giải lao, Vũ Sinh hỏi Mến:

— Vậy ra lời đồn của dân làng quả không sai. Người ta bảo ông có tài cắm cọc và bỏ kè từ thuở nhỏ. Ai truyền nghề cho ông vậy?

Mến cầm khăn tay lau khuôn mặt, ướt nước và nói như khoe: — Ông bố tôi cũng rất giỏi nghề này. Dân làng biển, ai cần cắm đăng chắn cá, muốn cho chắc chắn, thường hay gọi đến bố con tôi làm giúp. Nghe các cụ nói, ngày xưa, thời Trần Hưng Đạo cắm cọc gỗ ở sông Bạch Đằng cũng áp dụng theo cách đó. Cứ một người trèo lên, hai người ngồi ở hai thuyền, ròng dây vào cọc kéo đi kéo lại, đất rắn mấy cũng phải lút.

— Nhưng phải thay phiên nhau chứ mình ông, thấm mệt đấy. Còn cắm nhiều cọc cơ mà.

Mến nói vui:

— Ở quanh đây trừ anh ra, kiếm đâu được người nặng bẩy mươi ký như tôi. Vả lại người to mà không biết trèo, cọc trơn như bôi mỡ, dễ tụt lắm.

Mến cười vang rồi khoan thai bước xuống thuyền. Anh mặc một chiếc quần bộ đội cũ và chiếc áo cộc tay, nước da loáng nước ngăm den, tóc rễ tre dựng ngược, vồng ngực và bắp thịt ở tay nổi lên từng múi. Cả thân hình ấy toát lên vẻ đẹp trai trẻ, cường tráng.

Hai ngày sau, khi những cọc gỗ đã cắm chắc, ken dày ở lỗ thủng số bốn và số năm, thì đất đá được dòng người thi nhau chuyển xuống. Hai lỗ thủng số bốn và số năm to rộng như miệng ao đã được san bằng. Rồi đầm, rồi vồ thi nhau nện thình thịch trên lớp đất mới. Dòng người trên mặt đê vừa làm việc vừa hò reo không ngớt. Ai nấy đều sung sướng, hỉ hả, không khí công trường thoáng chốc rộn lên như một cuộc chạy đua sắp về tới đích. Mười lỗ thủng trên mặt đê đã hàn xong. Dải đê dài hóa thành vòng tay ôm chắn một vùng đất rộng lớn. Biển cả vẫn duềnh lên từng đợt sóng dữ dội hòng nhấn chìm tất cả, nhưng con đê như cao hơn, dài hơn, vững vàng hơn trước mọi đe dọa, thử thách hiểm nghèo.

Ngày cắt băng khánh thành con đê trở nên một ngày hội lớn không hẹn trước. Xe con của các cấp lãnh đạo trên thành phố, của các huyện đỗ rải rác gần mặt đê. Nhân dân địa phương nô nức rủ nhau, mang quà cáp mừng tặng các đơn vị đã tham gia lao động trên công trường, Lại có cả một số phóng viên nhà báo, mang theo máy ảnh ghi âm đến từng tốp bộ đội, dân quân đề chụp ảnh, phỏng vấn. Từng đoàn thiếu nhi mang hoa đứng thành vòng trên bãi đất dài ẩm ướt. Đoàn văn công thành phố cũng xin về biểu diễn ngoài trời. Tiếng nhạc xập xình nổi lên át cả tiếng sóng biển đang ầm ào, gào thét.


*

*         *

Biết tôi muốn tìm hiểu về công trình hàn đê của các đơn vị bộ đội và dân quân Hải Phòng, Vũ Sinh dành hẳn một buổi chiều dẫn tôi đi thăm tuyến đê mới. Để kết thúc câu chuyện, Vũ Sinh kéo tôi ngồi xuống bãi cỏ, đoạn mở cặp lấy ra một tấm ảnh cỡ lớn:

— Đây là bức ảnh tôi nhờ một trợ lý tuyên huấn bộ chỉ huy chụp nhân ngày lễ khánh thành tuyến đê này. Dĩ nhiên tôi còn có cả những tấm ảnh chụp với các đơn vị bộ đội dân quân đang hàn vá đê hoặc cánh thợ đấu đang đẩy thuyền đào đất. Nhưng riêng tôi, đây là bức ảnh đáng nhớ hơn cả. Anh thử đoán xem, những ai trong tấm ảnh này?

 
Tôi chỉ vào một người đứng tuổi, dáng hình thấp đậm, mặc bộ com lê màu đen, đeo kính trắng:

— Có phải đây là vị cán bộ thủy lợi mà anh đã kể cho tôi nghe không?

— Đúng. Trong khi chúng tôi chỉ huy đơn vị hàn đê thì ông ta dùng quyền chức của mình để cản trở công việc. Nhưng ngày lễ khánh thành tuyến đê thì ông ta đến sớm để chúc mừng tôi.

Vũ Sinh cười ý nhị và chỉ tay vào hình một cụ già râu tóc bạc phơ đứng giữa:

— Còn đây là cụ Bậu, người ở làng Kim. Hôm lễ khánh thành tuyến đê, cụ Bậu rủ các bô lão trong làng ra tận nơi thăm hỏi các đơn vị. Trông thấy anh em chúng tôi, cụ Bậu mừng lắm. Cụ mừng vì tuyến đê đã hoàn thành mà trời biển vẫn yên hàn và cô Tân cháu ruột cụ đã được anh em bộ đội cứu sống. A, tôi chưa kể cho anh nghe về cô Tân, một thợ đấu giỏi của công trường. Hôm đó, bị sét đánh, cô Tân trượt chân từ sà lan ngã xuống dòng nước xoáy. Nghe tiếng kêu, mấy anh bộ đội vội nhảy ào vào dòng nước, bơi theo. Một đợt sóng chồm vào bờ rồi cuốn cả người bị ngã lẫn người cứu mang ra xa. Lập tức, một chiếc thuyền từ bờ đê lao vút tới chỗ đám người bị nước xoáy. Cũng may hôm đó mái tóc dài của cô Tân vướng vào chiếc cọc tre nơi bãi sú, nếu không sức đàn bà con gái ắt sẽ bị sóng biển nhấn chìm. Mấy anh bộ đội đều giỏi bơi. Họ lựa theo chiều sóng nghiêng người bơi về phía chiếc cọc tre, gỡ tóc và dìu cô lên thuyền. Khi thuyền vào đến bờ, thấy máu mũi cô Tân ứa ra, mấy anh bộ đội thì mặt mày nhợt nhạt, mọi người lo quá. Bọn tôi phải lấy chiếc xe con của ban chỉ huy công trường thay xe cấp cứu, đưa họ đi viện luôn. Anh biết không, chỉ bốn năm ngày sau, mấy anh bộ đội và cô Tân thợ đấu đã xuất viện, sức khỏe trở lại bình thường. Cô Tân lại đẩy thuyền đi đào đất và lại cất tiếng hát ở loa phóng thanh công trường. Đấy cô Tân đứng bên cạnh đồng chí Mến, người cắm cọc gỗ ở lỗ thủng số bốn và số năm đấy. Anh trông cô Tân có dáng dấp của cô gái thợ đấu vùng biển không?

Vũ Sinh còn giới thiệu cho tôi biết những người khác trong bức ảnh. Đó là những cán bộ, chiến sĩ mà tôi chưa quen, chưa gặp bao giờ. Hiện tại họ ở đâu, làm gì, cuộc đời riêng của họ ra sao? Chỉ biết họ có mặt ở nơi đây, đã mang công sức của mình góp phần tạo thành con đê mới, vạm vỡ và chắc bền qua năm tháng.

Và nhìn sâu vào bức ảnh ở một góc độ khác, tôi lại thấy hiện lên một vùng đê trong cơn bão, với những lỗ thủng đã được san bằng, những xói mòn trồi sụt đã được hàn vá, trên mặt đất mới đắp đang lan dày những vạt cỏ xanh non.

N.Đ.M.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười, 2022, 01:22:34 pm

ÁNH HỒNG

BAY LÊN BẰNG NHỮNG TẤM THẢM


Trước mắt tôi là hình ảnh ngôi nhà sàn của Bác ẩn dưới những bóng cây mát rượi và hàng phượng cháy lên màu hoa đỏ rung rinh trong mặt hồ gợn sóng. Tất cả hòa vào nhau, tạo nên không khí tinh khiết, bình dị, tưởng như nghe được tiếng sỏi cựa mình trên con đường Bác mới đi qua. Và, đây nữa, Đồ Sơn, đá lớn nổi bật với những hình thù giữa biển trời hòa sắc mùi hoa hồng, mùi dầu ô liu thơm thoảng từ mảnh vườn Bắc Âu tĩnh lặng... không còn biết mình đang ở đâu nữa, nói đúng ra, tâm hồn tôi đang bay trên những tấm thảm do bàn tay tài hoa của những người thợ thảm len Hàng Kênh.

— Chào các đồng chí — Tiếng giám đốc Đinh Văn Thập kéo tôi trở về với thực tại. Giám đốc Thập bước vào phòng khách lúc nào, khi chúng tôi tới, anh còn bận họp. Các đồng chí cán bộ công ty cho biết mọi việc «Thượng vàng hạ cám” ở đơn vị đều liên quan tới anh, từ việc tiếp khách nước ngoài, xây dựng cơ bản, thiết kế bản mẫu, giá cả, chất lượng...

Anh làm việc liên miên, dường như không nghỉ, kể cả buổi tối. Khó tưởng tượng nổi anh phụ trách cả một cơ sở sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu lớn gồm hai xí nghiệp quốc doanh, 25 hợp tác xã với hơn mười nghìn lao động, hầu hết là nữ.

Anh, người chiến sĩ dũng cảm đánh sân bay Cát Bi của giặc Pháp năm nào. Hòa bình lập lại, rời quân ngũ, anh được Đảng cho đi học quản lý kinh tế. Trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau: cơ khí, xây dựng cơ bản, dệt, phó chủ tịch quận Hồng Bàng... nay là giám đốc Công ty thảm len Hàng Kênh; nói đúng ra là giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp thảm len.

“Ông vua tẩy” đang ngồi trước tôi — nói như khách hàng một số nước tư bản gọi giám đốc Thập khi công ty anh tìm ra phương pháp tẩy bóng làm cho thảm len vừa đẹp lại vừa rẻ tiền. Tôi muốn thầm cảm ơn anh bộ đội Cụ Hồ đang ngồi kia đã dám đứng mũi chịu sào cùng tập thể lãnh đạo đơn vị đem lại việc làm chính đáng cho mười nghìn con người, làm sống dậy mặt hàng mỹ nghệ thủ công từng ba chìm bảy nổi theo năm tháng và đưa nó đạt tầm quốc tế ngày càng được bè bạn nước ngoài yêu thích, sánh đôi cùng những tấm thảm Ba Tư đi vào trong huyền thoại. Và, khẳng định một điều: quân đội ta không những chỉ đánh giặc giỏi mà còn làm kinh tế cừ!

So với các nghề truyền thống khác, tuổi đời của nghề thảm len chưa được là bao. Nó mới có ở Hà Nội từ năm 1926 thuộc hãng dệt TEXO rồi chuyển sang hãng IMEX do tên «Tây râu xồm” làm chủ. Sau IMEX vỡ nợ chuyển về Hải Phòng thành Tapi Hàng Kênh... cho đến năm 1954. Suốt thời gian do tư bản Pháp quản lý, nghề thảm len Hải Phòng chỉ lèo tèo với vài chục người, chãt lượng và số lượng không đáng kể.

Khi tách khỏi nhà máy len Hải Phỏng, xí nghiệp có hơn 460 công nhân cùng một hợp tác xã, sản xuất một năm 1.587 mét vuông với một mặt hàng thuấn túy là thảm len trơn.

Nay, số người là mười nghìn, sản lượng mỗi năm xấp xỉ 80 nghìn mét vuông, chiếm một phần ba sản lượng toàn quốc; trị giá trên, dưới 600 triệu đồng, gồm đủ các mặt hàng với kích thước khác nhau: thảm trơn, thảm tranh, thảm PAX, thảm Priman, đặc biệt là thảm tư bản, xuất ra nước ngoài hàng năm thu cho nhà nước một số lớn ngoại tệ.

Song, con đường đi lên của Công ty thảm len Hàng Kênh chẳng lấy gì làm thuận buồm xuôi gió. Bản thân đơn vị đã trải qua năm đời giám đốc, cũng đủ nói lên điều đó.

Cái khó của đơn vị không chỉ là nguyên liệu (len) phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài, và từng mặt hàng phải làm theo yêu cầu của họ; mà còn đòi hỏi các tiêu chuẩn thẩm mỹ cao, phù hợp với thị hiếu của từng nước, đồng thời luôn phải đổi mới các mẫu hàng, nhất là loại sản xuất cho các nước tư bản. Chỉ cần một sự sai sót nhỏ: mấy nút thắt lỗi, đôi ba họa tiết tỉa không đều, các gam màu không lên đúng độ, thế là tấm thảm bị giáng xuống thứ phẩm, mấy chục nghìn đi toi. Lấy đâu nguyên liệu bù cho họ? Uy tín của tổ quốc ra sao? Người ta đánh giá con người Việt Nam thế nào? Ấy là không nói đến sự «sập tiệm» phá sản nếu không thực hiện đúng các hợp đồng, kéo theo hàng nghìn người không có công ăn việc làm.

Làm thế nào để cơ sở sản xuất ngày càng phát triển, đời sống những «nghệ sĩ» dệt thảm ổn định và từng bước cải thiện trong tình hình khó khăn chung của cả nước?

Làm thế nào có thể bay lên từ những tấm thảm khi trang bị, thiết bị kỹ thuật còn thiếu thốn, không đồng bộ, điện, nước thường và lối làm ăn sản xuất nhỏ: trì trệ, bao cấp còn đè nặng?

Trước những vấn đề hóc búa đó, đảng ủy công ty cùng giám đốc Thập và các cán bộ chủ chốt của đơn vị đã chủ động tìm ra những biện pháp tháo gỡ.

— Cái khó, theo chúng tôi không phải là ở nguyên liệu, trang thiết bị, cái đó mình có thể nhập được; mà ở chỗ tổ chức và quản lý con người ra sao. Đấy mới là vấn đề then chốt — giám đốc Thập nhấp hụm nước vào thẳng vấn đề chúng tôi cần tìm hiểu. Anh tiếp: — Thực tiễn hoạt động ở đơn vị đã chứng minh điều đó. Năm 1977 là thời kỳ đi xuống của đơn vị, sản lượng chỉ đạt 25 nghìn mét vuông, nguyên nhân do sự xáo trộn tổ chức vì mới tách đơn vị ra khỏi nhà máy len thành phố để thành lập công ty. Bảy mươi phần trăm cán bộ chủ chốt vướng mắc về tư tưởng.

Đồng chí biết đấy, đặc thù nghề nghiệp của chúng tôi, rất khác với một số ngành, yếu tố tâm lý quan trọng lắm, đòi hỏi mỗi người thợ phải tự giác, phải linh cảm, nhạy bén đi đôi với sự tỉ mỉ cần cù. Chỉ cần sự biến đổi tâm trạng là ảnh hưởng ngay đến sự nhận biết màu sắc, và thế là sản phẩm làm ra không đúng với bản mẫu.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười, 2022, 01:24:37 pm

Mặt khác, đơn vị hầu hết là nữ, một số chị em lại có chồng là bộ đội đang chiến đấu và công tác nơi xa; chị em đâu chỉ có mỗi việc lao vào sản xuất, còn trăm thứ khác, công việc nội trợ gia đình, chăm sóc con cái, động viên chồng yên tâm chiến đấu, nên không thể quản lý chị em như nam giới được. Mình là bộ đội, mình biết. Vả lại, công tác ở môi trường dân sự khác, không thể quân lệnh như sơn. Khối anh chỉ vì cứng nhắc, không phản ứng linh hoạt với môi trường cộng tác mới, nên ý định thì tốt, nhưng khi làm lại hỏng việc. Đâu phải ngẫu nhiên bên ngoài họ có ấn tượng với cánh cán bộ quân đội chuyển ngành. Kinh nghiệm của đồng đội đã rút cho mình tránh được những bài học cay đắng đó.

Mọi việc ở đây đều phải tế nhị, lấy động viên làm chính; đồng thời cố gắng tạo cho chị em có một nguồn thu nhập thích hợp. Nếu không, anh chồng sẽ bắt ở nhà làm việc khác. Chắc các đồng chí chẳng lạ gì thành phố cảng chúng tôi. Và, lẽ đời, anh nào nắm được kinh tế, ăn nói cũng dễ dàng hơn.

Điều này càng biểu hiện rõ trong quan hệ gia đình.

Thực tế, trình độ cơ sở đã phát triển thành Liên hiệp các xí nghiệp thảm len, đòi hỏi người lãnh đạo đơn vị phải có năng lực quản lý để mở rộng quan hệ sản xuất.

Việc đầu tiên là mạnh dạn đào tạo và đề bạt cán bộ từ những quần chúng tích cực, đó là những cán bộ, chiến sĩ quân đội chuyển ngành, là những thợ giỏi, những người thực sự có năng lực, nhất là ở lứa tuổi thanh niên.

Đối với nghề thảm, người thợ càng trẻ càng tốt, họ không chỉ nhanh tay nhanh mắt, có kiến thức văn hóa chóng tiếp thu kỹ thuật, mà còn nhạy cảm về mặt thẩm mỹ. Biết bao lớp thợ ở tuổi hai mươi, mười tám mới qua một tuổi nghề, đã có tay nghề bậc cao, nhiều em trở thành thợ giỏi. Và, nhiều cán bộ, chiến sĩ hôm qua, áo còn chưa hết mùi thuốc súng, nay đã là cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật vững, dám xông xáo trên mặt trận kinh tế.

Vào bất kỳ xí nghiệp nào, tôi cũng như lạc vào động tiên, chung quanh tôi là những nàng tiên trẻ đẹp với đôi tay thần kỳ đang mải mê dệt lên cỏ cây, hoa lá, đất trời. Hiện tại trộn cùng dĩ vãng hiện dần lên trên mặt thảm phảng lì, êm mát hơn nhung.

Đây mùa xuân, con hươu đang vờn trên cỏ biếc với vài bông hoa hé nở bên đường. Đây Mùa thu vàng, với những lá bạch dương bay nghiêng, xạc xào trong gió, làm sống dậy tâm hồn La-vi-tan qua mùa thu nước Nga.

Và đây nữa, Cô gái Ấn Độ, áo choàng và chiếc khăn Bom Bay vẫn không giấu được một tâm hồn rực cháy qua ánh mắt đa tình. Và, Ông nghè vinh quy với chiếc áo màu huyết dụ vua ban, phe phẩy chiếc quạt, nằm trên võng cho bõ lúc còng lưng đèn sách...

Tiêu biểu là xí nghiệp Toàn Thắng mới khai trương ngày 19 tháng 5 năm 1983, hầu hết thợ mới, nhất là ngành B do chị Trần Thị Hòa phụ trách. Ở đây mới từ cơ sở vật chất đến cán bộ, công nhân, từ giám đốc Phạm Thị Hồng Anh kiêm phó giám đốc Công ty, trước cũng từ công nhân dệt trưởng thành đến em Trần Thị Oanh mới vào nghề được một năm đã có tay nghề cao, là tuyển thủ dự bị trong đội tuyển thi thợ giỏi vừa qua ở Côn Sơn giữa ba địa phương Hà Nội — Hải Phòng — Hải Hưng của ngành thảm len, Oanh có năng suất cao bình quân mỗi ngày một vạn nút.

Cái khó ló cái khôn. Thiếu nhà dệt, tỉa cho chị em làm việc, giám đốc Thập quyết định vừa xây dựng vừa sản xuất ...

Nhà nào xây cơ bản xong, có thể bảo đảm cho công nhân dệt, tỉa làm việc, lập tức giám đốc Thập đưa ngay vào sản xuất, còn đâu hoàn thiện dần. Tôi đã gặp hai ba khung nhà Tiệp như thế ở xí nghiêp Toàn Thắng, Hàng Kênh, Cát Bi.

Có cái còn chưa che kính xung quanh trên cao phòng mưa hắt, nhưng chị em vẫn say mê làm việc. Và, từ những ngôi nhà này, hàng trăm mét thảm đã ra đời. Tại phân xuởng mẫu, ngôi nhà vẫn còn nồng mùi vôi vữa, chưa có cánh cửa, lớp họa sĩ thiết kế mẫu, phần lớn là con em các gia đình bộ đội, tuổi chưa đến hai mươi vẫn cặm cụi bên những tờ giấy vẽ. Phong phú, đa dạng, tươi mát và hồn nhiên; cảnh sắc trời, đất cứ hiện dần lên mặt giấy qua ngọn bút của các em. Tôi lặng lẽ, không dám hỏi sợ làm bay đi cảm giác chập chờn của màu sắc mà các em thoáng thấy được. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không phân biệt nổi dệt thảm len có nên gọi là một nghề không? Và xếp vào loại lao động nào? Tôi chỉ biết đây là một loại nghệ thuật công nghiệp đầy sáng tạo, biến hóa và tinh vi — một nghệ thuật của trái tim, tâm hồn.

Nhờ vừa xây dựng vừa sản xuất, nên trong những năm qua, Công ty không những bảo đảm được kế hoạch sản lượng thảm ký kết theo hợp đồng mà còn củng cố, phát triển được nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật như hoàn thành những khung nhà Tiệp ở xí nghiệp Toàn Thắng, cải tạo sửa chữa khu vực xí nghiệp Cát Bi, Hàng Kênh, chế tạo thêm khung dệt, xây thêm bể nước, sửa chữa nhà ở, nhà mẫu giáo.

Ngoài ra, công ty còn có nhiều sáng kiến trong việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật làm cho lao động thủ công của chị em đỡ vất vả, lại đạt hiệu suất và giá trị cao như: đưa cơ khí vào mắc dây sợi dọc, cùng với đơn vị bạn tham gia thiết kế máy đo chiều dài sợi len, lắp ráp máy sửa mặt phẳng thảm của Cộng hòa Dân chủ Đức, chế tạo hầm sấy thảm...

Nhưng, có người và phương tiện vật chất kỹ thuật, chắc gì đã sản xuất tốt. Lực lượng sản xuất chỉ được thúc đẩy và phát triển khi có quan hệ sản xuất tốt, biết tổ chức và quản lý.

Gần lúc ra về, với tâm hồn cởi mở của người lính gà cho nhau cách làm ăn, giám đốc Thập tiết lộ cái bí quyết «Ăn nên làm ra» của đơn vị anh: — Cái chốt của tình hình hiện nay vẫn là cơ chế, giải quyết tốt vấn đề cơ chế sẽ thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất tốt. Thực tế, đơn vị tôi đã làm được một phần vấn đề này, nên mới mở mày mở mặt được. Cái may của chúng tôi là có chủ trương của Đảng rất sáng suốt kịp thời trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhất là chúng tôi được Thành ủy quan tâm ủng hộ; tiêu biểu là đồng chí bí thư Thành ủy Đoàn Duy Thành chỉ bảo rất sát sao và anh dám trách nhiệm.

Giám đốc Thập dừng một lát, tiếp: — Việc đầu tiên, chúng tôi mạnh dạn tổ chức sắp xếp lại quản lý sản xuất. Làm được vấn đề này phải hết sức cụ thể, không thể chung chung.

Phải tiêu chuẩn hóa từ thủ trưởng đơn vị trở xuống. Người thủ trưởng không chỉ có nhiệt tình, mà còn phải có kiến thức, năng lực.

Từ đó, căn cứ vào tình hình đặc điểm đơn vị đề ra kế hoạch sản xuất từng thời kỳ trên cơ sở sản xuất thực tế của mình ra sao? Anh ta phải nhìn xa thấy rộng, đừng tham bát bỏ mâm, chớ cò con. Làm kinh tế, anh nào chẳng tính lỗ, lãi; nhất là đối ngoại với các nước tư bản, họ tính chi li lắm, mình phải thận trọng. Song, thận trọng không có nghĩa là đừng quan hệ.

Thí dụ ở đơn vị tôi, lúc đầu có một nước tư bản đặt làm 150 mét thảm loại mỹ thuật cao. Nếu tính mọi chi phí: nhân công, thời gian, trang thiết bị, rõ ràng mình lỗ.

Sau khi cân nhắc, thăm dò, chúng tôi cứ quyết định làm.

Nhiều người lúc đầu cho rằng khả năng đơn vị không thể làm nổi vì anh chủ hàng này chặt chẽ, quy lát quá từ màu sắc, độ dày, độ bóng, số nút, trọng lượng, kích thước từng tấm thảm.

Nhưng nhờ phát động quần chúng, khơi dậy những khả năng tiềm ẩn của họ. Cuối cùng chúng tôi đã thắng lợi. Và, hiện nay họ rất tin tưởng vào ta, đặt một số lượng lớn như kế hoạch năm 1985 là mười nghìn mét; mà một mét thảm loại này, giá trị xuất khẩu gấp ba mét thảm thường.

«Anh bộ đội Cụ Hồ này cả gan thật, làm kinh tế cũng quyết thắng như đánh giặc » — Tôi cười và nghĩ thầm.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười, 2022, 01:25:33 pm

Chúng tôi đều hể hả vì ta đã thắng một ván bài với con buôn tư bản lọc lõi trên mặt trận kinh tế.

Trong không khí vui vẻ, chan hòa đó, giám đốc Thập nói thêm: — Một phần không kém quan trọng để thúc đẩy các đơn vị kinh tế hoàn thành kế kế hoạch và có lãi cho Nhà nước là phải biết kết hợp hài hòa giữa quyền lợi của cán bộ, công nhân đơn vị mình. Phải cố tạo cho họ có thu nhập tương đối thỏa đáng, kịp thời như: phát lương đúng kỳ hạn, tiền thưởng phải kịp thời... Có thế người ta mới hăng hái tái sản xuất sức lao động.

Riêng đối với thợ giỏi, chúng tôi có quy định tiêu chuẩn và chế độ đãi ngộ như một công phải dệt được 1,8 mét thảm, bảo đảm kỹ thuật 97% xuất khẩu, không hao quá 50 gam len một mét thảm.

Thợ giỏi ngoài việc được thưởng hiện vật, còn được ưu tiên đi tham quan, an dưỡng và cử đi học.

Chính nhờ có chế độ ưu tiên, nên thợ giỏi ngày càng nhiều.

Và, như đồng chí nói đấy, chủ trương của đảng ủy và ban giám đốc chúng tôi sẽ cố hết sức để đào tạo chị em thành những chuyên gia thảm len, những «nghệ sĩ» dệt và tỉa thảm.

Để tăng thu nhập, chúng tôi còn tổ chức thu nhặt sắt vụn bán cho nhà nước. À ra thế! Bây giờ tôi mới vỡ lẽ, thảo nào khi đi thăm Xí nghiệp Toàn Thắng, tôi thấy hàng đống lớn sắt, thép cũ được xếp gọn ghẽ.

Giám đốc Thập vừa đi vừa tâm sự: — Đối với những gia đình cán bộ, công nhân, nhất là những gia đình bộ đội, công ty cũng thường xuyên trợ cấp khó khăn, đặc biệt là sắp xếp việc làm cho con em họ, cụ thể đã giải quyết việc làm cho 500 — 600 con em cán bộ công nhân viên.

Nhưng, nếu chỉ nặng vật chất cũng hỏng, đồng chí ạ. Phải kết hợp quan tâm về mặt đời sống tinh thần nữa.

Đồng chí Chúc, trưởng phòng thi đua — tuyên truyền, trước là bộ đội đặc công, từng giáp mặt nhiều trận với lính Nam Triều Tiên và lính Mỹ, sau chuyển về bộ đội biên phòng, bảo vệ cảng. Chính trong thời gian bảo vệ cảng, nhiều lần anh đã chiến đấu rất dũng cảm để chống bọn làm ăn tiêu cực, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Đôi giày đen cao cổ anh đi vẫn còn dấu vết mũi dao găm do một toán cướp ỷ đông xông lại lấy hàng của Nhà nước.

Bằng những động tác võ thuật của mình, anh đã cùng đồng đội đánh gục bọn chúng. Một tên cướp biết anh là đối thủ lợi hại, lén phi dao găm vào ngực Chúc. Lanh mắt, Chúc né mình, dùng chân đá bay con dao.

Quanh anh biết bao chuyện về phẩm chất tốt đẹp và lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng. Trông bề ngoài anh dong dỏng cao, tính tình vui vẻ, luôn cười nói, khó ai có thể biết anh là con người đã từng vào sinh ra tử trong những nằm tháng chống Mỹ cứu nước. Anh nói nhỏ nhẹ: — Riêng mặt này chúng tôi còn phải phấn đấu hơn. Hiện nay ở mỗi cơ sở mới có các đội văn nghệ như đội múa 50 chị em ở Xí nghiệp Toàn Thắng, nhưng hoạt động chưa đều lắm. Còn loa, đài, cả ba khu vực chúng tôi đều có. Riêng sách, báo mua rất đều đặn cùng việc tổ chức mua vé xem phim, xem hát cho các đơn vị.

Chúng tôi dùng hình thức văn nghệ để giáo dục một cách nhẹ nhàng những ai vướng mắc khuyết điểm. Thắng lợi lắm! Gần đây, chúng tôi liên tiếp tổ chức cho anh chị em đi thăm các công trình như: thủy điện Sông Đà, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch, giấy Bãi Bằng, cầu Thăng Long... để anh chị em có tầm nhìn rộng hơn.

Bây giờ tôi mới hiểu vì sao cán bộ, công nhân ở đây thích đọc tiểu thuyết «Đứng trước biển» của Nguyễn Mạnh Tuấn. Và, bản thân giám đốc Thập rất chí thú về cuốn tiểu thuyết ấy, anh hỏi tôi ý kiến về quyển sách này ra sao.

Chiểu theo yều cầu của tôi, giám đốc Thập mời đồng chí trưởng phòng nghiệp vụ kế hoạch đem theo tất cả các đơn đặt hàng, biên bản xác nhận quy cách phẩm chất cùng ca-tô-nô của khách hàng nước ngoài tới. Đó là một cán bộ trẻ, hoạt bát mới ngoài ba mươi tuổi, anh giới thiệu cho tôi biết các chi tiết mặt hàng, những đề nghị của khách bằng tiếng Anh khá lưu loát. Tôi chăm chú đọc từng cái «Lits», từng mẫu hàng một. Quả thật làm ăn với nước ngoài không thể dĩ hòa vi quý được. Họ quy lát, chặt chẽ từng chi tiết về số lượng, chất lượng, màu sắc loại sợi len, tỷ lệ độ ẩm, ngày, giờ giao nhận và nguyên liệu họ giao cho ta gia công từng đợt còn tồn bao nhiêu. Tất cả đều được in rất rõ trên từng tờ giấy cứng khá đẹp. Thế mà đơn vị anh Thập đáp ứng được hết, không một lời phàn nàn của khách hàng.

Giám đốc Thập nhìn tôi đang chăm chú đọc một cách soi mói những ý kiến của khách hàng, anh nói: - Chính nhờ làm ăn với nước ngoài, chúng tôi học tập và nâng cao được trình độ nghiệp vụ làm kinh tế. Không thể tùy tiện, luộm thuộm theo lối nông dân được.

— Yet, Stand and Stand — Tôi đáp. Anh cười. Và, tôi hiểu sau nụ cười kia là bao đêm anh phải vùi đầu vào học và đọc sách, báo, tài liệu nước ngoài để đối đầu bằng được và chắc thắng với các đối thủ lọc lõi trong nghề buôn bán. Chính nhờ quyết tâm tiến công vào mặt trận khoa học kỹ thuật và lòng tin của anh cùng tập thể cán bộ, công nhân công ty nên đã tìm ra phương pháp tẩy bóng tối ưu nhất; góp phần tăng giá trị những tấm thảm suất khẩu, khiến khách hàng tư bản phải ngạc nhiên.

Và cũng chính nhờ quyết tâm đó, năm 1983, mặc dù đơn vị phải thay đổi 4.000 mét vuông mặt hàng từ đề tài đến kích thước, kỹ thuật lại khó gấp ba, đơn vị vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước là 19,10%, về trước thời gian 16 ngày.

Năm 1984, lại hoàn thành kế hoạch Nhà nước với tổng giá trị là 102%; trong đó mặt hàng thảm mỹ thuật cao tăng gấp đôi. Và, cũng là lý do vì sao đơn vị anh được Thành ủy Hải Phòng tặng cờ Đảng bộ vững mạnh.

Sau mấy ngày mưa, trời hửng. Tôi bước ra cổng Công ty lững thững dạo chơi. Trước mắt tôi là chiếc cầu An Dương mới hoàn thành trong năm qua, to rộng và có dáng thanh mảnh rất đẹp. Bất giác, tôi nhớ tới hướng đi của Công ty thảm len Hàng Kênh và người lính Cụ Hồ trên một trận hết sức mới mẻ này. Chỗ kia, phía trái cách cầu khoảng trăm mét, ngày mai sẽ mọc lên một phân xưởng nhuộm mới, diện tích một—hai héc-ta với những trang bị hiện đại, đồng bộ.

Tôi tin là đơn vị sẽ sớm hoàn thành và hoàn thành tốt vì niềm tin của tôi được bảo đảm bằng một bề dày chắc chắn của đơn vị, bằng những cán bộ, chiến sĩ quân đội đã và đang không tiếc máu mình trong những năm dài bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước, giờ các anh lại đi đầu trên trận tuyến mới biết đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau với 29 tổ, đội Lao động Xã hội chủ nghĩa và hơn 100 chiến sĩ thi đua...

Phải chăng cung cách làm ăn của Công ty thảm len Hàng Kênh cũng là chiếc cầu tôi đang đứng đây—một chiếc cầu chắc chắn, khỏe đẹp bắc qua bến bờ của lối làm ăn mới, thiết thực và có lãi. Tôi đắm mình trong suy tưởng. Trước mắt tôi là cửa biển, gió lộng thổi. Chấp chới những con tàu vẫy gọi: Hãy đi xa, hỡi những con người đã từng chiếm huy chương vàng trong Hội chợ Lép-dích và Plô-díp. Hãy đi xa, đi xa!

A.H


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 08:46:33 pm

CAO TIẾN LÊ

ĐÊM ĐÊM GIỮA THÀNH PHỐ


Nghĩ rằng chuyến đi này sẽ không gặp người con gái nào cả, bởi vì tôi đến với những người lính đang ngày đêm trăn trở làm tốt hai nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên một thành phố biển hết sức cuốn hút không những đối với họ mà còn đối với mọi người từ xa đến, bởi họ có những khám phá mới mẻ, những suy nghĩ về tính chất lao động... Nhưng tôi lại gặp Tuyẽt ở nhà Thế Đính. Đính là bạn cũ, họa sĩ, hiện công tác tại Công ty du lịch Hải Phòng số nhà 55 Điện Biên.

Từ năm 1971, sau khi chiến thắng đường 9 Nam Lào, đập tan cái gọi là “cuộc hành quân Lam Sơn 719” của bọn Mỹ — Ngụy, chúng tôi mỗi người chuyển đi một mặt trận, bây giờ mới gặp lại nhau. Thôi thì bao nhiêu chuyện cần hỏi cần nghe. Hãy giản ước những sinh hoạt rườm rà bằng cách cho cơm nguội vào chảo rang lên, mỗi người một chiếc thìa xúc ăn, sống lại thời giữa Trường Sơn gian khổ, ác liệt, đầy thích thú của tuổi thanh xuân, mà giờ đây nhắc lại tưởng như mới qua đi một vài tháng thôi. Có lúc cả hai đứa ngừng nhai, trố mắt nhìn nhau, cùng khà khà cười khoái chí, khi nhắc tên một đặc điểm... Nhưng chuyện riêng của chúng tôi không thể kéo dài vì Tuyết đến. Một cô gái thoáng trông vóc dáng có vẻ hơi to, bởi hôm nay đột ngột trời trở rét, với hai chiếc áo len mặc trong và khoác ngoài, quần bò Zan trên đôi guốc nhọn kiểu cách, thân hình như lúc nào cũng sắp chuyển động theo tiếng nhạc. Thấy tôi Tuyết xin phép ra ngoài, chốc quay lại, nhưng Đính đã kịp đưa xe đạp vào phòng, khép cánh cửa, và qua thái độ hình như Tuyết cũng không muốn đi. Tuyết nhập cuộc ngay bằng nấu thêm cơm, nấu thịt, xào su hào, nấu canh và quây quần bên hai cái bếp điện.

Thế Đính đã giới thiệu nhưng tôi cho là giới thiệu không thật, hoặc giới thiệu chưa hết. Thôi, hạ hồi phân giải, cứ như thế đã. Tuyết hỏi tôi về chuyện «chiếc xe rác... ». Có phải tác giả định kết thúc như vậy không? Tôi hỏi Tuyết xem truyện ngắn ấy ở đâu? Báo Văn nghệ, hay đài truyền hình Trung ương? Tuyết trả lời là xem cả hai nơi. Tôi bảo tác giả định kết thúc truyện ở chỗ hai người đẩy chiếc xe rác đi quanh Bờ Hồ đúng đêm giao thừa, đầy pháo đầy hoa. Nhưng kết thúc như thế không có hậu.

Tuyết phê phán là các anh viết bao giờ cũng có hậu, làm câu chuyện tròn trĩnh quá — Giọng Tuyết, hơi vang, khi nói hình như cố tình cong luỡi lên như giọng của diễn viên kịch. Tôi đoán Tuyết ở trong đoàn kịch nghiệp dư nào đó, hoặc có thể là nhân viên công ty du lịch. Tôi sợ những người có giọng nói như thế lắm, sợ nhất là họ để giọng nói trên sân khấu lạc ra ngoài đời, những giọng nói áp đặt, không có nóng, không có lạnh, khô rang rảng. Tôi đã nhầm. Thế Đính cho biết Tuyết là cô giáo trường Mầm Non số 1 Hải Phòng.

Tôi nói ngay nhận xét của mình là tất cả các cô giáo nhà trẻ, các cô mẫu giáo, đều mặc rất đẹp, mặt rất tươi, rất xinh. Cứ như các cô chưa phải lo hoặc không phải lo gì hết, kể cả những cô đã có chồng, có con.

Tuyết nói: Mấy năm trước có lần hiệu trưởng đến nhà em, thấy em, bà ta ngạc nhiên “Không ngờ cậu lại mặc quần áo xoàng xĩnh đến thế”. Ở nhà em mặc quần áo cũ, vá, nhàu nát, vì phải lên gác, xuống gác, may khâu ngoài giờ để sống. Nhưng ra khỏi nhà đến lớp là phải mặc đẹp, bởi các cháu rất thích cô mặc đẹp. (Tôi đùa thêm: Bố các cháu cũng rất thích cô mặc đẹp). Phải mặc đẹp thì mặt mới vui và các cháu mới sà đến. Các cháu cứ nhao nhao gọi: Mẹ Tuyết! Mẹ Tuyết! Anh biết thế nào không? Em chưa có chồng, chưa có con và chưa có cả người yêu nữa, nhưng khi nghe các cháu gọi thế, em sững sờ. Tiếng gọi ấy như một lời ban thưởng và một cái gì cao hơn nữa, một thứ tình cảm, tin tưởng, thiêng liêng, chuyển động hết tâm hồn em, gạn lọc, xua đuổi những ti tiện, nhỏ nhen và em cảm thấy mình yêu quý các cháu vô cùng.

Đính chen vào:

— Bây giờ cô cũng như các cháu. Cũng thích ăn cơm bằng chiếc thìa nho nhỏ, xới cơm vào bát rất ít và đôi lúc làm nũng để được động viên ăn thêm bát nữa.

— Đúng là thói quen của nghề nghiệp, nhưng các cháu phản ảnh sự trung thực nhất. Các cháu về mách mẹ: hôm nay con không muốn ăn cơm, mẹ Tuyết cứ dỗ con ăn thêm bát nữa, bây giờ mẹ có thấy bụng con căng lên không. Con chẳng vòi quà nữa đâu.

Các bà mẹ đến gửi con cứ bảo cho cháu vào lớp cô Tuyết. Nhưng làm sao nhận thêm được nữa hở anh khi lớp em đã 60 cháu rồi.

Tôi biết thêm, khi nói Tuyết cũng có uốn lưỡi, nhưng tuyệt nhiên không phải vì trau giọng, vì điệu bộ mà vì cô muốn nói thật chuẩn tiếng Việt cho các em bắt chước.

Ngồi chơi một lúc tôi xin phép về và nói là đi bộ một mình vì từ đấy sang Bộ chỉ huy quân sự thành phố cũng không xa. Đính đắt ngay xe đạp xuống cầu thang dứt khoát phải đèo tôi vì đường Hải Phòng quanh co. Tôi bảo chẳng khó gì, quen đi theo góc phương vị rồi. Thực ra tôi không muốn đôi bạn ấy xa nhau dù chỉ là vài chục phút. Rất may, một đồng chí ở phòng kế hoạch đến bàn công việc với Đính, tôi bắt tay Đính, hẹn một ngày trước khi rời Hải Phòng sẽ đến chơi.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 08:48:25 pm

Vừa ra tới ngõ, đang tính đi hướng nào thì nghe có tiếng gọi phía sau. Tôi quay lại, nhận ra Tuyết. Tuyết hồ hởi: Em sẽ đưa anh về. Tôi khăng khăng không chịu, từ chối dứt khoát bằng cách bước xuống lòng đường cắm cúi đi. Tuyết đạp xe đuổi theo. Tôi đành phải dừng lại giải thích: Ban ngày thì được, nhưng ban đêm... nghe nói đêm đêm giữa thành phố, lắm chuyện xảy ra.

— Ồ, em là người Hải Phòng, em phải làm chủ thành phố chứ anh! Hơn nữa mấy năm nay ở Hải Phòng có nhiều chuyển biến lớn, kể cả việc bảo vệ trị an. Trước kia, đúng như anh nói, đã xẩy ra bao nhiêu chuyện, nào xóm “liều” làm chuyện “liều”, xóm «thiện» làm chuyện ác. Anh đã biết chuyện tướng cướp Trần Cao Vân chưa? Em nghe các anh bên công an. cho biết là nếu nó cướp vụ nào nghèo nhất cũng lấy được hai chiếc xe đạp «đủ ăn bữa trưa» còn thì phải hàng trăm nghìn đồng trở lên. Chập tối mà nó dám cướp của ở một nhà tại Cầu Đất gần đồn công an, lấy máy nghe nhạc, nhẫn vàng và chuỗi ngọc... Nhưng cuộc sống đâu phải chỉ dành cho bọn phạm pháp và bọn vô nguyên tắc hoành hành...

Tuyểt dắt xe đạp đi bên tôi. Đường Hải Phòng quả là lắm quanh co, chốc chốc lại rẽ ngang. Ở mỗi đường rẽ ngang ấy thường gặp những tổ quân nhân, đeo băng đỏ, mũ kê-pi dưới sự chỉ huy của một thượng sĩ.

Về Hải Phòng với ý định tìm hiểu, khai thác tận cùng những suy nghĩ và hành động của người mình gặp nên tôi lắng nghe câu chuyện Tuyết kể, dù chuyện không đầu không cuối, hoặc chỉ là đôi nét chấm phá, phác thảo về những náo nhiệt, những lắng sâu những trong sáng và những làm giàu đánh thắng đầy mưu trí của Hải Phòng kể cả những thủ đoạn mà Tuyết cho là bất minh.

— Bây giờ đôi lúc em cười một mình là có thời em thích đi bộ đội đến thế. Nhất là sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Nhưng rồi mẹ em bắt vào học trường dạy mẫu giáo. Em giận mẹ đến tưởng bỏ   nhà ra đi.

— Lúc này Tuyết bảo rằng, nếu bắt bỏ nghề mẫu giáo Tuyết có thể phát điên lên được?

— Đúng thế anh ạ, tính em nó thế nào ấy!

Tôi gật gù: chính là sự say mê của tuổi trẻ và say mê có định hướng.

— Lại nói về bộ đội, cũng có cái thời em ghét vô cùng bộ quần áo xanh quân nhân ấy.

— Làm sao vậy?

— Họ gây rối trong thành phố, ồn ào ở bến xe, cướp giật ở bến phà, bến tàu.

— Đơn vị nào thế?

— Chẳng phải đơn vị nào đâu anh ạ. Đấy là số trốn ngũ, số lưu manh, côn đồ, lợi dụng mặc quần áo quân đội có quân hàm, quân hiệu để cướp giật, trấn lột... Thấy quân đội là công an ngại can thiệp. Không những ban đêm đâu, mà cả ban ngày nữa thành phố cũng không yên ổn. Nhất là đối với khách nơi khác đến thành phố. Khách cũng không phải là ít, nào tàu biển nước ngoài, các công ty vận tải đường bộ, đường sông. Quảng Ninh về, Hà Nội xuống, Thái Bình sang...

Một tổ tuần tra vừa bất chợt ló ra sau con đường rẽ ngang, Tuyết chỉ vào họ và nói:

— Chính những người lính áo xanh kia, đã phát hiện rất nhanh bọn đóng giả quân nhân, bọn đóng giả ấy rất sợ các tổ tuân tra quân đội. Họ là lực lượng thuộc tiểu đoàn C1 làm nhiệm vụ phối hợp cùng công an giữ gìn trật tự an ninh trên đường phố, khi họ về không có tờ rơi và những vụ cướp giật giảm đi trông thấy. Tất nhiên những vụ áp phe lớn, móc ngoặc vào cả cơ quan nhà nước, những vụ trốn ra nước ngoài, họ cũng phát hiện, nhưng không phải chức trách của họ giải quyết. Họ báo cáo lên cấp trên và thường xuyên hỗ trợ cho công an, chính quyền thực hành nhiệm vụ.

— Làm sao mà Tuyết biết nhiệm vụ của họ tường tận đến thế?

— Cũng từ nghề nghiệp của em thôi anh ạ.

Tôi ngạc nhiên:

— Tuyết cũng công tác bên an ninh à?

Tuyết cười:

— Mọi công việc đều có ràng buộc vào nhau, và hỗ trợ cho nhau chứ anh. Em chỉ là giáo viên mẫu giáo là hạt cát trong biển cả, nhưng không có hạt cát sẽ không có biển cả, không có thành trì cũng như lớp lớp nhà nhiều tầng.

Tôi mỉm cười liếc nhìn Tuyết: Phải chăng cô đang độc thoại một màn nào đó trên sân khấu.

Tuyết không thấy cách mỉm cười của tôi nên giọng vẫn rành rọt:

— Lý giải cụ thể sự gắn liền giữa hạt cát và biển cả so với công việc của em làm là như thế này — Bắt đầu từ các cháu lớp mẫu giáo. Một hôm các cháu đến gặp em nói: «Cô ơi, ở gần nhà cháu có chốt bộ đội». Em mới hỏi «sao lại gọi là chốt bộ đội. À hay là số bộ đội hư hỏng bị bắt giam trong nhà, rồi các chú khác chốt cửa lại, đứng gác bên ngoài». Các cháu cãi: «Không phải thế đâu cô ơi». Rồi các cháu hoa hoa tay «Các chú ấy vui lắm. Cho cháu ngồi lên lưng lên cổ. Các chú ấy yêu các cháu lắm, yêu như cô yêu, và các chú còn nói thêm, mai các cháu đi học nói với cô giáo là các chú ở «chốt bộ đội» gửi lời thăm». Thì ra, bộ đội đã cử một tiểu đoàn về đóng quân trong thành phố, chia nhiều tổ, chốt ở những tụ điểm để diệt bọn cướp giật, lưu manh, đảm bảo an ninh trật tự trong thành phố.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 08:56:58 pm

*

*         *

Phó tiểu đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Mạnh Hùng kể cho tôi nghe về công việc của một phân đội thuộc tiểu đoàn được lệnh đến bảo vệ nhà máy xi măng. Có lần ở đây hiện tượng tiêu cực và lấy cắp hết sức nặng nề. Riêng 6 tháng đầu năm 1984 nhà máy đã mất 60 tấn xi măng và năm vạn chiếc vỏ bao. Xung quanh nhà máy là một vòng vây tiêu thụ và lấy cắp xi măng. Chúng gồm các loại trộm cắp lưu manh lang thang từ nơi khác đến thăm dò thấy chỗ béo bở là bám vào. Chúng mang những tên kép bộc lộ trắng trợn bản chất như Kảnh khỉ, Quang cớm, Đào đen... Hàng ngày chúng ngang nhiên vào thẳng nhà máy thành dây chuyền vác xi măng ra ném xuống chiếc thuyền không người lái để sát bờ sông; khi đã có xi măng một bọn từ bên kia bờ kéo dây cho thuyền sang. Có đêm nhà máy mất 26 bao xi măng loại bao dứa đựng đầy xi măng từ 80 đến 90 ki-lô-gam. Chúng còn mang cả đao, búa vào đục sắt thép, và lấy cắp than. Ban ngày chúng cho trẻ em vào nhà máy la cà xin chỗ này ba cân, chỗ kia năm cân, mang ra đóng vào các bao đã lấy cắp được. Chúng mua chuộc số bảo vệ, nếu không mua chuộc được thì đe dọa, và gây rối, đánh đập. Ngoài ra còn một số công nhân hư hỏng, xin ra ngoài ăn quà uống nước, mỗi lần ra là đựng xi măng vào ăng gô, túi xách, có người còn lẩn vào bụng làm đàn bà chửa. Mỗi ngày ba đến bốn lần đi ra, gặp ngay bọn tiêu thụ tuồn xi măng cho chúng.

Tiểu đoàn đã cử phó đại đội trưởng trung úy Bùi Trọng Tâm chỉ huy một phân đội đến công tác bảo vệ nhà máy. Mới đầu anh em khoanh vùng lại, ngăn chặn những bàn tay từ phía ngoài thò vào nhà máy, trong sáu tháng đã bắt được 200 vụ lấy cắp xi măng từ 10 ki-lô-gam đến ba bốn trăm ki-lô-gam. Khi bị bắt chúng đưa tiền mua chuộc. Các đồng chí Tuyền, Chi, Hường không những không tha mà còn khép chúng thêm tội hối lộ, tên Đào đen quay ra đe dọa: «Được rồi, hãy nhớ lấy mặt nhau!». Hường bảo: «Đúng rồi, mời vào đây để nhìn mặt nhau rõ hơn!». Hôm sau nữa, một tên vào lấy cắp xi măng, kéo đồng bọn dùng vũ khí hành hung gây sự, tên ấy đã bị tổ tuần tra bắn chết. Từ đó, chúng gờm và xoay sang ăn cắp xi măng bằng cách tinh vi hơn là nhờ sự tiếp tay của số công nhân tiêu cực trong nhà máy. Phải kết hợp với nhà máy, với công an cũng như chính quyền địa phương, kiểm tra lại hộ khẩu những người làm ăn bất minh, truy tận gốc, truy những ổ tiêu thụ, dọn sạch vành đai bên ngoài, thì bên trong có đưa xi măng ra cũng không còn nơi tiêu thụ. Mất sáu tháng phân đội 2 của tiểu đoàn mới dọn sạch được vành đai bên ngoài lập hồ sơ những tên như Kảnh khỉ, Quang cớm…, giao cho công an. Từ chỗ vài chục phần trăm lực lượng bảo vệ bị bọn lưu manh côn đồ khống chế, mất tác dụng, nay đã trở lại làm việc nghiêm chỉnh, đúng quy cách. Phó tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa cho tôi xem lá thư của Giám đốc nhà máy gửi tiểu đoàn, sau khi tiểu đoàn đã hỗ trợ cho nhà máy hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất quý một năm 1985, đảm bảo cho nhà máy không còn hiện tượng tiêu cực, lấy cắp xi măng nữa, tự làm chủ được mình về mặt bảo vệ trị an. Lá thư có đoạn đánh giá thành tích:

— Tiểu đoàn đã giải tỏa được các tụ điểm trộm cắp trong và ngoài nhà máy, đã loại trừ được bọn tiêu cực, kể cả bọn lưu manh côn đồ dùng vũ khí hành hung. Đã tạo thuận lợi cho nhà máy khôi phục lực lượng bảo vệ, đẩy mạnh phong trào sản xuất. Công lao của cán bộ và chiến sĩ phân đội 2 rất lớn. Nhà máy rất biết ơn sự quan tâm của Bộ chỉ huy quân sự thành phố và các đồng chí lãnh đạo tiểu đoàn C1, cụ thể là các chiến sĩ trinh sát, không quản ngày đêm mưa gió, rét buốt, lăn lộn với hiện trường, đưa lại sự trong sáng cho nhà máy. Giám đốc: Tạ Hữu Bân.

Tôi chép lại một cắch hết sức tóm tắt về trách nhiệm của tiểu đoàn C1 đối với nhà máy xi măng. Không có thời gian đi sâu để gợi thêm những chi tiết về kỹ thuật chiến thuật của các phân đội trinh sát đầy mưu trí, bởi vì chỉ lướt qua những vụ việc trong ngày trong tháng mà mỗi tổ tuần tra ghi lại hết sức tóm tắt cũng đã đầy hấp dẫn «Tổ Cầu Đất kết hợp với công an bắt vụ chiếu phim con heo, thu một máy, mười cuộn phim chiếu tại nhà 60, gác 2 Trần Nhật Duật. Tổ kiểm soát quân sự Trại Chuối do thượng sĩ Nguyễn Văn Lập chỉ huy, bám sát mục tiêu, bắt năm bao vải va-li-de gồm 285m, không có hóa đơn chứng từ của thị H. là nhân viên ngoại thương, móc ngoặc tuồn hàng ra ngoài». «Tổ Đặng Đình Bắc bắt quả tang một xe chở xăng máy bay đến bán cho chị T. ở xí nghiệp nước đá Việt Hoa...» Thấy tôi dừng lại hơi lâu trước trang ghi chép về vụ việc này Nguyễn Mạnh Hùng giải thích: khi tổ tuần tra ập tới, họ đã xả bán được 900 lít. Trên xe có một thiếu úy lái xe, một nhân viên xăng dầu và một trợ lý tham mưu. Tôi tỏ thái độ căm giận hết mức với những người lấy cắp quá đáng vào những nơi hết sức nghiêm cấm của quân đội này. Nhưng Hùng lại căm giận theo một hướng khác: Những người đi trên xe có nhiệm vụ theo dõi lúc nạp xăng vào máy bay, họ là những cán bộ kỹ thuật đảm bảo an toàn cho máy bay. Vậy mà họ dám xả xăng bán dọc đường. Chiếc téc chở 7.200 lít, họ xả mất 900 lít, tội ấy cũng nghiêm trọng, nhưng nghiêm trọng hơn là số xăng còn lại sẽ mất phẩm chất, vì theo quy định nạp xăng vào máy bay là nạp từ téc sang, khi téc đang được niêm cất, để không khí ngoài vào là xăng không dùng cho máy bay nữa, nếu cứ nạp liều sẽ bị hủy cả chiếc máy bay.

Xem những trang ghi chép này, quả là đau đầu quá và tôi đặt câu hỏi: Nếu như không có các lực lượng an ninh thì trật tự trên đường phố, trật tự trong xã hội sẽ ra sao? Phải cám ơn họ, phải khen thưởng họ, phải săn sóc họ, những người chiến sĩ quân hàm thấp nhất, áo vải, dày vải, với chiếc cặp và khẩu súng đi suốt đêm sang ngày, suốt ngày sang đêm, kết hợp với các lực lượng khác đảm bảo hạnh phúc cho nhân dân.

Lật sang trang lại với những ghi chép: «Ở chốt Thượng Lý, quận Hồng Bàng trung úy Phạm Văn Bảo cùng hai chiến sĩ đã triển khai bắt hai tên giả danh bộ đội dùng một dao phay, một dao găm, trấn lấy tiền và quần áo của công ty xuất khẩu Gia Lai Kom Tum». «Chốt Bến Bính đã thu về cho trung đoàn 240 bốn mươi nghìn đồng bị mắt cắp». «Nguyễn Văn Thoan đã bắt một chiếc tàu vận tải đường sông ghé bến bán 1116 kg gạo». «Bùi Xuân Sắc thuộc đại đội 2 bắt một quân nhân chuyên nghiệp đã ra quân vẫn đeo quân hàm thiếu úy, buôn bán hàng trái phép trị giá 20.000 đồng. Khi bị bắt anh ta đưa 1.600 đồng hối lộ. Sắc kiên quyết bắt giữ».

Tôi đang đọc tiếp thì đại úy tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Nghị và đại úy phó tiểu đoàn trưởng chính trị Trần Văn Liên bí thư đảng ủy tiểu đoàn, vừa đi xuống các cơ sở về.

Nghị rất ít nói, và nếu nói thì bao giờ cũng rất chính xác bằng cách mở sổ tay, trong đó ghi đủ ngày giờ, nơi xẩy ra vụ việc. Còn Liên,   nếu có khoảng hở, giữa câu chuyện là anh giới thiệu ngay đảng bộ tiểu đoàn anh là đảng bộ vững mạnh, và anh nói tiếp về công tác đảng, công tác đoàn.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 08:57:48 pm

Nguyễn Mạnh Hùng liến thoắng, nói vanh vách: ít bữa nữa anh về là không gặp tôi. Đáng ra hôm nay tôi đi bổ sung cho biên giới phía Bắc nhưng rồi chẳng hiểu làm sao trên tạm hoãn. Anh Liên bị thương, gãy chân ở miền Đông Nam Bộ. Địch lấy được giấy tờ thế nào ấy, chúng cứ ra rả trên cái đài tâm lý chiến, «gửi miền Bắc thân yêu» Trần Văn Liên quê ở Chí Linh đã chết ngày... Nó thông báo cụ thể quá, rồi có người báo lại, thành ra gia đình tin, làm mâm cúng. Cái mục tâm lý chiến ghê gớm thật... Nhà con một nên bà mẹ cũng chẳng muốn xây dựng cơ ngơi làm gì nữa, làm thêm một chái, đòn, cột bằng cổ tay, ở cho qua ngày đoạn tháng. Kết thúc chiến tranh anh về lại mải lo công việc ở quận Ngô Quyền, sau đó chuyển qua đây lo trị an bảo vệ. Nhà của đời sống còn khó khăn lắm, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã lo cho chút ít, rồi sẽ lo thêm. Nhưng vẫn chưa đâu vào đâu cả.

Còn anh Nghị, chị ấy làm việc ở nhà máy thảm len, đi xe đạp tới đó chỉ mất mười lăm phút, nhưng chui vào nhà mất năm phút, vì phải luồn lách bởi vì người ta triển khai mọi thứ ra hè phố và lòng đường. Mười ngày nửa tháng anh ấy mới tạt qua nhà được một tý. Công việc bận ghê gớm mà thời gian thì cứ trôi đi vùn vụt.

Tôi hỏi:

— Đối với người lính chốt giữa thành phố cần phải có những yêu cầu gì?

Đỗ Văn Nghị cho biết:

— Chúng tôi duy trì rất nghiêm túc điều lệnh và tư thế tác phong. Nếu một chiến sĩ kiểm soát mà không mặc quần áo gọn gàng, nói năng không lễ độ thì còn uốn nắn được ai nữa. Giáo dục cho anh em hiểu biết về pháp luật và chức trách của kiểm soát quân sự, phải làm nổi lên hai mặt là duy trì kỷ luật quân đội và giúp đỡ các quân nhân trên đường công tác qua khu vực mình hoàn thành nhiệm vụ.

Về chuyên môn chúng tôi dạy cho đơn vị học công tác tham mưu gồm binh địa, chiến thuật, điều tra vị trí bắt tù binh, bám địch tạm dừng, cải trang trinh sát. Kết hợp với các bài học khác như: Điều tra con người, vụ việc, nắm tin tức. Hàng năm có huấn luyện theo chương trình đặc công như leo trèo trong thành phố, đánh bộc phá, cách dùng lượng nổ, luồn sâu lót sát võ thuật. Trong binh địa đi sâu vào vẽ bản đồ, đắp bản đồ, đọc bản đồ, đi góc phương vị... Phải hiểu biết về địch, tính chất thâm độc của bọn phản động Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan... Người chiến sĩ chốt giữa thành phố, tầm suy nghĩ và sự hiểu biết phải bằng một cán bộ sơ cấp.

Ngoài ra, chiến sĩ phải tự thu lượm được kinh nghiệm trong cuộc sống tạo được cách nhìn con người qua bề nổi cũng như bề sâu. Anh em đã tổng kết là số chở hàng lậu bao giờ tư thế tác phong cũng đàng hoàng, tóc cẳt ngắn, quần áo nghiêm chỉnh. Nhưng điều không thể tránh được và phía mình phải có một người đứng hướng khác quan sát mới phát hiện được, đó là mắt la mày lét... số cắt bọc, cướp giật thường hay mặc quần áo ga-ba-đin, hoặc áo bay, mũ giày đầy đủ, xe đẹp và tốt... Bọn giả danh không thể biết hết những vấn đề hiện hành của quân đội, hỏi một chi tiết nhỏ về công tác phí, hoặc tiền lương của cấp nào đó sẽ lúng túng ngay... Bắt được quả tang đồ ăn cắp, chúng sẽ trả lời không chính xác. Nếu cả tổ thì tìm ra mâu thuẫn riêng từng đứa rồi động viên chính trị, tình cảm, nhưng có tên mình phải rất rắn.

Đỗ Văn Nghị vừa gập sách lại, phó tiểu đoàn trưởng chính trị Trần Văn Liên đã tiếp ngay:

— Chúng tôi nêu cao khẩu hiệu: kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Chiến sĩ đơn vị chúng tôi phải hơn chiến sĩ đơn vị khác một cái đầu. Muốn chống tiêu cực bên ngoài trước hết phải chống tiêu cực trong đơn vị trong bản thân từng người đã.

— Tôi nghe nói tiểu đoàn các đồng chí được phép chọn chiến sĩ, và có quyền chuyển những người không đủ tiêu chuẩn đi đơn vị khác?

Vẫn Trần Văn Liên:

— Đúng thế. Chúng tôi có quyền chuyển chiến sĩ phạm kỷ luật đi đơn vị khác, nhưng anh xem: đơn vị mình có trách nhiệm giải cuyết những chuyện xấu trong xã hội mà không giải quyết được người xấu trong đơn vị hay sao. Cũng có chiến sĩ phạm kỷ luật đấy, phạm trầm trọng nữa là đằng khác như trường hợp trung sĩ Bùi Đăng T. hai lần mắc khuyết điểm về kinh tế và quan hệ nam nữ bất chính, cơ quan tham mưu cấp trên đã quyết định phạt giam 7 ngày và sau đó nếu không tiến bộ tiểu đoàn được phép chuyển T. về đơn vị cải tạo lao động. Chúng tôi nghĩ giải quyết như thế thì rất thuận lợi cho tiểu đoàn, nhưng mình lại đẩy cho đơn vị khác một người xấu ư và nhất là đối với thanh niên, phê phán hết sức nghiêm khắc, nhưng xử lý có mức độ, phải tìm cho ra những tiềm tàng năng lực của họ, tạo cho họ một sự say mê lao động, yêu công việc, đấy là cách tốt nhất để tẩy trừ những thói hư tật xấu, những tiêu pha tiền nong và la cà hàng quán. Chúng tôi thấy T. rất khá về kỹ thuật, chiến thuật, có sức khỏe và tiếp thu nhanh. Cũng vừa dịp đơn vị cần tổ chức một phân đội đi dự hội thao hàng năm ở Quân khu. Chúng tôi xin phép cấp trên được đưa T. về tiểu đoàn tự quản và giao cho T. huấn luyện anh em đi dự hội thao. Phân đội do T. phụ trách đã đứng thứ nhì trong số 11 đoàn dự ở Quân khu. Riêng T. về võ thuật đã nhất Quân khu. Vẽ sơ đồ và đi góc phương vị cũng nhất Quân khu. Riêng môn đi góc phương vị trên quy định cho người trinh sát phải tìm 5 mục tiêu với bán kính là 5 ki-lô-mét và thời gian hai tiếng rưỡi, trong thời tiết xấu, ban đêm, T. đã hoàn thành xuất sắc, tìm chính xác 5 mục tiêu mà chỉ mất một giờ bốn phút. Đấy là cách chúng tôi tạo đà cho T. Sau này cán bộ không cần phải nhắc nhở chuyện cũ mà chính T. lại nhắc đến, T. gặp cấp trên xin lỗi và đặt câu hỏi là làm sao có thời mình hư hỏng và quanh quẩn đến thế. Còn nhiều trường hợp nữa, nhưng dù trường hợp nào xảy ra, chúng tôi cũng tìm hiểu nguyên nhân cặn kẽ của sự việc, tôi, anh Hùng, hoặc anh Nghị đến tận nơi, gặp những chiến sĩ đó. Họ phạm khuyết điểm cũng là bài học cho mình, kinh nghiệm cho mình rút ra để sau này kịp thời dự kiến ngăn chặn trước những trường hợp khác. Năm nào chúng tôi cũng rút người bổ sung cho biên giới phía Bắc, cho đơn vị khác, nhưng không bao giờ chúng tôi đưa người xấu đi, mà đưa người tốt nhất của đơn vị.

— Tôi đã đọc lướt sổ ghi chép vụ việc hàng ngày của các đồng chí, thấy sự việc xảy ra đều do tổ, phân đội, phối hợp với công an, chính quyền địa phương giải quyết, có trường hợp nào cán bộ tiểu đoàn phải trực tiếp giải quyết không?

Đỗ Văn Nghị mở sổ tay chậm rãi nói:

— Lúc 21 giờ ngày 27 tháng 4 tổ kiểm soát và công an bắt được một thuyền đánh cá Hải Hậu chở 18 phuy dầu máy quân sự, họ khai là mua của tàu Hải Quân. Hai tổ đã đến làm việc với tàu Hải Quân, nhưng tàu đó không nhận, đã báo với quân pháp, nhưng quân pháp trả lời là họ không nhận tức là không có, lấy chứng cớ đâu? Được anh em báo cáo về, tôi trực tiếp xuống xem xét: Chúng tôi phân công nhau tách người trên tàu ra để hỏi chuyện. Đồng chí trưởng phòng cảnh sát giao thông làm việc với thượng úy thuyền trưởng, còn tôi và đồng chí Mấm làm việc với thiếu úy máy trưởng. Thuyền trưởng và máy trưởng chối cãi một cách quyết liệt. Tôi đã nói rõ người trên thuyền Hải Hậu khai các anh bán, nếu nhận lỗi sẽ được giảm nhẹ tội, nếu khăng khăng không nhận chúng tôi sẽ báo về Bộ tư lệnh Hải Quân, sẽ báo với Bộ Tổng Tham mưu. Tôi khơi động lòng tốt, trách nhiệm của cán bộ và chiến sĩ, thái độ trước lầm lỡ mắc phải... Các khe hở được lộ dần ra, những khớp vênh nhau. Tôi tiếp tục bám vào đó nêu lý lẽ đấu tranh... Máy trưởng nhận đầu tiên. Máy trưởng nhận là thuyền trưởng nhận. Họ phải tự giác giao nộp một bì tải đựng tiền. Lúc ấy trời cũng vừa sáng... Còn nhiều việc nghiêm trọng khác nữa, cán bộ tiểu đoàn đã trực tiếp giải quyết, không có thời gian kể lại, anh cứ xem trong sổ ghi chép, cần chỗ nào chúng tôi sẽ nói chi tiết.

— Từ Bộ chỉ huy quân sự thành tôi được nghe khen các anh là một đơn vị khá, từ một người dân bất ngờ gặp giữa thành phố ở đêm hôm nọ khi tôi mới đến Hải Phòng cũng nghe họ khen các anh, nhưng các anh còn có những băn khoăn gì, những kiến nghị gì không?

Nguyễn Mạnh Hùng:

— Mặt tốt như anh đã nghe, mặt thắc mắc thì còn nhiều. Có cái chúng tôi tự thắc mắc rồi tự giải quyết, có cái phải chờ đợi ở trên.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười, 2022, 08:59:00 pm

*

*         *


Chiếc xe ba bánh nổ máy đứng ở góc sân phía đằng kia chuẩn bị đưa chúng tôi ra chốt 99 Cầu Đất, Phó tiểu đoàn trưởng Trần Văn Liên xoa xoa tay nói: Mùa hè anh về đây thì mát vô cùng, cứ như ở trên bãi biển giữa trưa mùa hè mà chúng tôi phải đắp chăn đây, thương cho các anh trong Bộ chỉ huy mở quạt máy vù vù mà áo lót lúc nào cũng ướt sẫm mồ hôi.

Mấy hôm nay ở Hải Phòng rét quá, cái rét nàng Bân sao mà tê buốt đến thế, toàn thân cứ run lên cầm cập, người như ướp trong tủ lạnh. Ở giữa thành phố lạnh năm thì ra chỗ tiểu đoàn C, lạnh bảy, bởi vì nhà ở trống trải chưa có ngăn che, chưa có cây trồng, tiểu đoàn đang mải lo cho cái yên ổn của thành phố. Trần Văn Liên ngại chúng tôi kêu rét nên kể cái niềm vui của mùa hè. Tôi chắc rằng nếu trở lại đây vào mùa hè anh ta sẽ kể mùa đông ở đây ấm áp lắm. Con người yêu mến nhiệm vụ, yêu mến đơn vị bao giờ cũng lúng túng khi người khác đến với khó khăn của mình.

Chiếc xe ba bánh len qua những ngõ ngách rồi đưa chúng tôi ra giữa thành phố. Đường Hải Phòng rất hẹp, lại đi hai chiều. Người và xe cộ làm cho mình rối mắt, tưởng như sắp xô vào nhau, nhưng chỉ trong nhấp nháy thôi, họ đã ngoặt phải, ngoặt trái và đâu vào đó, không xảy ra va quệt, tai nạn nào cả. Mấy hôm trước tôi hỏi người bạn cùng đi, làm sao ở thành phố khác đường một chiều, rộng thênh thênh, vắng vẻ, mà sao tai nạn giao thông thường hay xẩy ra? Anh bạn tôi trả lời có thể là đùa, nhưng tôi cho rằng cũng có ý chấp nhận được ở chỗ một số người hay quan tâm đến việc của người khác một cách không cần thiết. Ví như ra đường, việc trước hết là đi cho đúng phần đường, giữ đúng luật lệ giao thông và nhanh chóng tới nơi mình định đến. Nhưng có số họ không làm như thế, chân để bàn đạp đầu quay bên phải, bên trái, đặt ra những thắc mắc vớ vẩn khi thấy người xung quanh: «Tại sao anh chàng đẹp trai kia lại lấy cái cô mặt rỗ ấy nhỉ». «Tại sao cô nàng cao kều lại lấy cái anh chàng lùn tịt. Họ là vợ chồng, hay dân ba vạ. Đuổi kịp, nghe thử». Vậy là phóng bừa, va vào ô-tô, xe máy... Tai nạn giao thông xẩy ra từ những nếp nghĩ. Ở Hải Phòng đường còn hẹp người đông nên ai cũng lo tránh va quệt, thành ra không va quệt, hơn nữa là thành phố làm kinh tế, không mong theo lối hành chính bao cấp, nên thời gian của họ thực sự là vàng ngọc, giờ nào làm ra của ấy. Hải Phòng còn là thành phố có nền nếp trật tự trị an, nên xảy ra chuyện gì, họ tin là có cơ quan pháp luật Nhà nước chịu trách nhiệm, mình dừng lại chỉ mất thời gian, không góp thêm được ý kiến hay, và biết thêm được việc ấy cũng chẳng chuyển đổi gì về tinh thần và vật chất của gia đình. Cái thời rỗi rãi kiếm chuyện làm quà đã qua rồi.

Chốt 99 Cầu Đất do phân đội 2, đại đội 3 phụ trách, đóng quân trong hội trường tiểu khu 19, trung đội trưởng là thượng sĩ Nguyễn Ngọc Trân.

Khi nghe tôi hỏi về công việc của trung đội, Trân cho biết:

— Phân đội chia thành hai khu làm việc. Khu thứ nhất ở ga tàu hỏa, thường xuyên có một tổ ba người tuần tra, đặc biệt chú ý vào khoảng chín giờ và mười giờ ba mươi đêm, đó là lúc tầu đi và tầu về. Tổ này làm nhiệm vụ kiểm soát quân sự, chỉ đường và nhắc nhở mọi quân nhân giữ đúng tác phong... Khu làm việc thứ hai là phối hợp với công an, cứ ba công an một bộ đội, tuần tra suốt đêm trên địa bàn mình phụ trách.

Thấy một tổ vừa đi làm nhiệm vụ về, sà vào chiếc bếp để ở góc nhà, xòe hai bàn tay hơ lửa, tôi cũng tìm tới bắt chuyện. Một chiến sĩ nói rất khẽ, và trong câu nói tưởng như anh ta đang có lỗi:

— So với bộ đội ở biên giới thì chúng em ở đây còn sướng hơn nhiều. Nhưng quả là rét quá anh ạ.

— Nhưng trong nhiệm vụ các đồng chí thấy có những khó khăn gì?

Vẫn chiến sĩ lúc nãy trả lời:

— Nghiệp vụ này cần có kinh nghiệm sống để rút ra từ thực tế những tiếng lóng tiếng gió. Kết hợp hài hòa giữa nếp sống bình thường với tư thế quân nhân. Thấy cắt tóc cao, quần áo gọn gàng, số lưu manh côn đồ bỏ đi chỗ khác, làm sao mà la cà thâm nhập, bám sát mục tiêu... Vậy, mình phải tìm ra cách trinh sát riêng. Nhưng mất khá nhiều thời gian và khi tìm ra được cách trinh sát riêng cũng là lúc hết hạn nghĩa vụ quân sự. Đào tạo được những chiến sĩ có kinh nghiệm đã khó, giữ được những chiến sĩ có kinh nghiệm ở lại quân đội càng khó hơn... Em thấy cấp trên cần có chuyên đề nghiên cứu chuyện này.

Tôi đang định gợi thêm những suy nghĩ của chiến sĩ trinh sát thì phó tiểu đoàn trưởng Trần Văn Liên đi tới nói:

— Anh đã nghe vụ bắt tên tướng cướp Trần Cao Vân chưa?

Tôi hỏi lại:

— Bắt được rồi à?

Liên:

— Bắt được rồi, một đồng chí thuộc tiểu đoàn tôi bắt đấy. May quá, cậu ta đang ở chơi tại đây, tôi gọi cậu ta vào gặp anh nhé?

Đó là thượng sĩ Trịnh Văn Tảo, đảng viên, nhập ngũ tháng 1 năm 1981, quê ở thôn Xái Nghi, xã Mỹ Đức, huyện Kiến An

Tảo kể:

— Hôm đó, em đang ở tại chốt 99 này, thì anh Nguyễn Văn Chính trưởng phòng công an Cầu Đất đến bảo em bẩy giờ sang bên đồn để kết hợp với công an có tý việc ở Đồ Sơn. Khi em sang các anh ấy mới cho biết tên tướng cướp Trần Cao Vân sau    một thời gian trốn tù đã lảng vảng ở Hải Phòng và theo cơ sở cho biết sáng nay nó và đồng bọn sẽ ở bên kia Bến Bính để dự đám cưới.

Em chưa gặp tên Vân, nhưng biết mặt nó qua ảnh truy nã về chuyện nó vào cướp ở một nhà thuộc phường Cầu Đất. Mới chập tối nó đã vào trói người vợ lại, ném vào nhà, vừa lúc người chồng về cũng bị trói, nó lấy máy nghe nhạc, nhẫn vàng và chuỗi ngọc. Sau đó có bà chị biết chuyện kêu cứu. Bữa đó em cũng có mặt tại nhà người bị cướp. Chủ nhà cho biết, tên cướp là Trần Cao Vân. Nhưng tên Vân cũng trốn khỏi Hải Phòng. Nó còn gây tội ác ở Sài Gòn, Huế, Quảng Ninh. Bị bắt ở Quảng Ninh.

Anh Chính nói, đây là một tên cướp rất nguy hiểm, nhiều lần bị bắt, và nhiều lần trốn thoát. Cần phải phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội và công an. Anh Chính động viên tư tưởng mọi người và bàn kế hoạch: Ba đồng chí công an đóng giả bộ đội cùng với em thành một tổ hành động chính diện, ba đồng chí công an khác mặc thường phục, có đầy đủ trang bị vũ khí. Riêng em mang khẩu B63 cho vào chiếc ba lô cóc lộn trái như kiểu đi chợ mua hàng. Chín giờ sáng tất cả lên ô tô ca của công an và bắt đầu sang phà bến Bính. Khi xe lên hẳn trên phà, mọi người nhìn thấy Trần Cao Vân đứng đầu mũi phà đang nói chuyện cùng ba tên khác. Hắn mặc quần bò, áo gió đi giày a-di-đát, đội mũ phớt, chân hơi khuỳnh. Do không hợp đồng trước nên công nhân phà cầm loa yêu cầu mọi người trên xe xuống hết. Anh Chính thấy tên Vân liếc nhìn chiếc xe, đôi mắt lộ vẻ nghi ngờ, nếu xuống xe, rất có thể hắn sẽ nhận ra các anh và tìm đường tẩu thoát. Chi bằng cứ ngồi yên tại chỗ. Phà cập bến Trần Cao Vân và đồng bọn bước lên rồi rẽ phải theo bờ đê đi vào khu nhà đang có đám cưới. Xe ca vừa lên khỏi phà thì chết máy, lái xe chui xuống gầm sửa chữa, bốn người mặc quần áo bộ đội chia thành hai tốp theo bờ đê thong dong dạo mát chờ đợi. Anh Chính hội ý là không thể bắt Trần Cao Vân giữa đám cưới, gây ồn ào và nó dễ đường chạy thoát. Em và Năm được anh Chính bố trí bám sát Vân và hành động kịp thời khi có điều kiện bắt nó. Chúng em đi quá bờ đê một quãng là quay lại cũng vừa lúc không hiểu vì nghi ngờ hay sao mà tên Vân và tên Sơn bỏ đám cưới ra ngoài đi ngược chiều với chúng em. Nhanh như chớp, Năm nhảy vào xiết cổ Vân, cùng lúc em không kịp rút súng, để súng trong ba-lô, đập vào mắt, vào đầu làm tên Vân ngã xuống bất tỉnh. Tên Sơn nhảy ra định chặt vào cổ Năm nhưng Dương kịp thời đá vào mạng sườn Sơn, và em bồi thêm cho nó một cú đập nữa. Số người xung quanh ập tới, chưa đầy ba phút đã trói gọn hai tên cho lên xe chạy về lối phà Kiềm. Trong kia, đám cưới không hề ai hay biết. Về đến đồn công an Thủy Nguyên, Vân tỉnh lại và nói: «Cái gì đã không sợ thì mãi mãi không bao giờ sợ cả. Tiếc rằng hôm nay chưa kịp đọ súng cùng các anh. Nhưng chưa phải là tuyệt vọng. Vẫn còn có dịp».

Ngoài kia đêm đã xuống, thành phố lên đèn, nhưng trong nhà hội trường của tiểu khu 19 không có điện. Anh em đã xin dây và bóng điện nhưng chưa được cấp trên chuẩn y. Bên bếp lửa đốt bằng than quả bàng các chiến sĩ đang hơ tay chống lạnh. Gió hú trên những hàng cây, thúc đẩy mọi gia đình đóng kín cửa đắp thêm chăn. Trong không gian vẳng tới một hồi còi tàu. Hồi còi như hiệu lệnh, các chiến sĩ bảo nhau «tàu về» rồi họ đứng dậy chỉnh đốn trang phục, thắt gọn dây giày, đeo xắc-cốt đi ra bến tàu, còn tổ khác đi về phía đồn công an, cùng phối thuộc tuần tra canh gác đảm bảo trật tự an ninh cho thành phố. Đêm đêm giữa thành phố, nơi những tụ điểm của bọn gian phi, nơi dự đoán sẽ xẩy ra những việc làm ăn bất chính, đã có những «chốt bộ đội», những tổ trinh sát sẵn sàng tóm gọn bọn chúng.

22-3-1985
C.T.L


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười, 2022, 10:32:54 pm

TÔ ĐỨC CHIÊU

ĐƯỜNG RA BIỂN


Khi mặt cát phơi dài làm lộ chân bãi sú vẹt khổng lồ và xương xẩu đón nắng mặt trời thì đôi trai gái ấy đã đứng chờ trước phòng làm việc của trụ sở ủy ban nhân dân xã. Anh con trai kẹp bên nách cái cặp mỏng tang. Cô con gái xách làn lớn trong có một cái phích và những thứ gì đó chật lèn.

Xã đội trưởng Lương Văn Duy và bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch xã Trần Văn Kiệm đi đến. Đôi trai gái cất tiếng chào:

— Bác ạ... Anh ạ!...

Xã đội trưởng xởi lởi:

— Sao sớm thế này?

— Vâng! — Anh con trai xác nhận — Bác và anh tha thứ cho. Chúng cháu vội. Thời gian gấp quá. Mà cháu thì...

— Anh là lính pháo, là sĩ quan chỉ huy kia mà. Nghe nói anh có cái ống nhòm nhìn xa mấy cây số? Pháo đối kính hả? Của ấy chúng tôi cũng có. Trên cấp đủ. Anh đã mau mắn từ đâu về lấy được con gái làng tôi kè cũng cho là giỏi. Nhưng chúng tôi lại đã hạ lệnh cho con gái xã này phải bắt cóc anh. Thật đó! Rồi xem ai thắng ai.

Cả tốp vui mừng. Cô gái đỏ chín má như vầng mặt trời. Chủ tịch mở khóa. Họ bước vào và ngồi trước bàn. Cô gái lấy trong làn ra bộ ấm chén, cái phích, một đĩa nhỏ đựng bao thuốc lá, một đĩa lớn đựng đầy kẹo nuga. Cô pha chè, đưa từng chén tới trước mặt mọi người và lẽ phép mời. Chủ tịch Kiệm chỉ nhẹ nhàng hỏi chuyện còn xã đội trưởng cứ nói vang vang đến cả thôn nghe thấy:

— Anh đưa giấy giới thiệu và đơn xin đăng ký kết hôn ra đây. Chúng tôi sẽ ký ngay. Nghĩa là từ phút này anh chị thành vợ chồng. Nhưng tôi không buông tha anh đâu đồng chí sĩ quan chỉ huy ạ. Đại úy à? Trẻ quá! Con Mai phải xích chân chàng đại úy này lại. — Rồi nhìn thẳng vào anh con trai lúc này mặc thường phục — Nhưng anh đã tìm hiểu kỹ về xã này chưa? Con Mai đã nói cho anh nghe chưa?

— Thưa bác, đây là xã anh hùng mà mọi người, mọi nơi biết tiếng.

— Anh chỉ có thể nói được mấy câu tròn vo như thế hay sao? Thế những lần đi chơi với nhau các anh chị chỉ tỉ tê những lời yêu đương thôi à? Mai! — Ông quay sang cô gái — Bố cháu làm gì?

— Thưa bác, bố cháu đi bộ đội năm 1961 và hiện là trung tá chỉ huy một trung đoàn bộ binh ở Lạng Sơn.

— Còn ông nội cháu?

— Thưa bác, ông nội cháu trước là du kích xã đã đánh trận đầu tiên góp phần diệt nhiều lính Pháp theo đường biển đổ bộ lên thôn Thái Bình ngày 16 tháng Chạp năm 1947. Bên ta có ba chiến sĩ hy sinh là Lương Văn Reo, Trần Văn Đắc, Vũ Văn Vị và một người bị bắt mang đi mất tích là Vũ Văn Kha.

— Thế cụ nội nhà cháu?

Chủ tịch xã bật cười. Anh chàng rể giữ ý chỉ mủm mỉm. Cô gái e thẹn và một lần nữa đỏ mặt. Nhưng họ vui. Chính cô gái cũng vui. Cô hơi cúi xuống và cất giọng nhỏ nhẹ:

— Cụ nội thì cháu xin chịu ạ.

Họ uống trà, ăn kẹo, hút thuốc, hỏi thăm và chúc tụng nhau. Chủ tịch xã ký vào đơn đăng ký kết hôn và đóng dấu trao cho đôi thanh niên đang hạnh phúc kia. Xã đội trưởng liền chuyển sang giọng nhẹ nhàng:

— Anh đừng trách người già hay hoài cổ. Xã này ngày xưa là đất sa bồi. Các cụ từ Hùng Thắng kéo tới sinh cơ lập nghiệp. Nhưng rồi họ bị chèn ép. Truyền rằng cụ Nguyễn Văn Giáp đi bộ vào tận kinh đô Huế xin được chiếu chỉ nhà vua. Thôn Thái Bình hình thành. Bà con đánh cá đổi cơm và khổ cực quanh năm suốt tháng. «Không đâu như đất Thái Bình » — Không có con đường cho anh chị đi như hôm nay đâu.

Xã đội trưởng im lặng một lát. Dường như ông đang cân nhắc xem mình có nên nói tiếp nữa hay không. Ông sợ khách sốt ruột hoặc tệ hại hơn còn cho rằng ông ba hoa. Nhưng khát vọng muốn nói đang đốt cháy ông. Ông không kìm được nữa:

— Tên tổng đốc Hoàng Trọng Phu cùng với đồng bọn là Hoàng Gia Luận thấy đất đai béo bở đã vội vàng mộ phu lập ấp, đắp đê quai... Dân đói kém của mười tám dòng họ từ năm tỉnh: Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, kéo nhau tới trở thành tá điền. Cả vùng Yên Cố, xóm Vam, xóm Kim... đều nộp tô. Năm 1945 chết đói ba trăm sáu mươi người. Một chi của họ Vũ chết mười sáu người. Có gia đình chết hết phải đốt luôn mái tranh thiêu xác. Bao gia đình phiêu bạt và mất tăm mất tích.

Nói xong câu ấy xã đội trưởng thôi hẳn. Nhắc nhiều chuyện buồn thương ngày xưa ở chỗ này dường như không đúng lúc. Ông im lặng nhìn đôi trẻ. Trên khuôn mặt già nua từ từ nở ra nụ cười rạng rỡ. Đôi trai gái đang lúc vui say sẵn sàng bỏ qua tất cả nên có ý đợi. Nhưng xã đội trưởng không nói nữa. Khi biết chắc câu chuyện đã được chấm dứt anh con trai lên tiếng:

— Ngày... chúng tôi tổ chức, được phép hai gia đình chúng tôi mời Đảng ủy và Chính quyền...

— Này! — Xã đội trưởng cướp lời — Anh nói thế là đủ. Nhưng với con Mai thì không xong. Nó là lính của tôi. Nó là pháo thủ. Tôi là xã đội trưởng. Tôi đã có cả một kế hoạch tổ chức lễ cưới cho anh chị ngay trên trận địa pháo.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười, 2022, 10:33:48 pm

Đám cưới hôm ấy thật vui. Chỉ tiếc là trời mưa. Mưa mấy ngày liền. Cái mưa đầu năm cứ lay phay và dai nhách đến khó chịu. Đường lầy lội. Một ít hàng gạch rải ra bị trâu bò giẫm lên đạp xuống lộn nhào với bùn đất. Con đường lớn duy nhất chạy thẳng từ Vàm Láng ra biển là có đá răm. Đám cưới chỉ có thể đi một đoạn trên con đường ấy. Rồi rẽ lên đê. Trời đã tạnh. Chân trời hồng lên và mặt biển ngời sáng. Nhưng đường vẫn lầy. Bùn đất lép nhép. Hai người có tuổi đi trước. Đó là xã đội trưởng Lương Văn Duy thay mặt cho họ nhà gái và một đồng chí thiếu tá thay mặt họ nhà trai. Họ sóng đôi bên nhau. Cả hai đều nện ủng bậm bụp trên mặt đê quai nhầy nhẫy. Rồi đến đôi trai gái nọ. Cô dâu ôm bó hoa mặc áo va-li-de màu lòng trứng. Anh con trai mặc quân phục dáng nghiêm chỉnh. Cả hai cùng đi ủng. Tất tận mọi người trong đám cưới đều đi ủng. Lụp bụp! Lập bập! Bum bum!... Ủng nện trên đất bùn nhão nhoét. Ngoài bìa sóng vỗ ì oạp rồi xèo xèo chạy dài theo chân cồn cát. Rùng sú vẹt xương xẩu và khô khốc rẽ vào chân trời những đường nhằng nhịt.

Hai chiến sĩ ra đón đứng ngay bên giường pháo. Đoàn rước rể tới nơi họ đốt hai bánh pháo rõ dài. Khẩu 57 ly nâng cao nòng dường như cũng vênh vang với những người chủ của mình. Khói lượn quanh và quấn tụ trên miệng súng. Xã đội trưởng Lương Văn Duy dẫn thiếu tá bước xuống. Đường mòn trơn truội. Bùn đất nhộp nhoạp dưới đế cao su. Những dãy bàn ghế trên bày lọ hoa hiện ra. Tấm dù lớn căng cao như vòm trời thu nhỏ. Căn hầm bê tông rất rộng liền đó cũng có dãy bàn chạy dài. Khách ngồi chật. Người ta nâng cốc. Người ta chúc tụng. Người ta nhấm nháp những hạt lạc béo vàng và ăn kẹo. Không ai để ý đến một chiếc xe U-oát đang phóng tới như bay. Xe rú máy chồm lên đê bon thẳng ra trận địa pháo.

— Báo động!

Lệnh ban ra bằng lời và bằng súng hiệu. Xã đội trưởng kịp nhận ra đồng chí tham mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự thành phố đang đứng trên giường pháo. Ông biết là có tình hình khẩn cấp. Ông hiểu được người ra lệnh đã không dự kiến trước có sự kiện này. Ông chỉ thị các khẩu đội về vị trí. Theo mục tiêu do đồng chí tham mưu trưởng chỉ thị ông ra lệnh chế áp hoặc tiêu diệt.

Mặt biển phập phồng. Sóng quẫy mình chồm lên bãi cát. Hàng cây khô làm rạn nứt chân trời. Sau những loạt giật cò không đạn tham mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự thành phố đến xin lỗi đôi trai gái và đề nghị đám cưới tiếp tục. Cuộc vui không bị lãng quên. Nó chỉ bị gián đoạn chừng ba mươi phút. Nó trở nên ồn ào vì những lời bàn tán. Tham mưu trưởng nâng cốc chúc mừng đôi trai gái và mọi người quanh những bàn tiệc.

— Bác làm xã đội trưởng bao lâu rồi? — Tham Mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự thành phố nói với người chủ trì cuộc vui.

— Thưa thủ trưởng, mười lăm năm.

— Thế kia à? Có nghĩa là từ năm 1968. Trước đó bác làm gì?

— Du kích! — Làm đội trưởng sản xuất và có ba năm 1959 - 1962 là bộ đội nghĩa vụ.

— Dạ.

— Bác có biết những ai ở xã này đã tham gia đột kích sân bay Cát Bi phối hợp với Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp không?

— Biết. Và biết rất rõ! — Xã đội trưởng nêu tên hai người.

— Họ còn sống chứ?

— Thưa thủ trưởng, còn.

— Ai chèo đò qua sông Văn Úc những năm chống Pháp gian khổ?

— Người xã này.

— Bác biết chứ?

— Biết. Biết rất tường tận.

— Ai đó?

Xã đội trưởng chớp mắt. Ông bần thần nhìn ra một điểm vô hình tít tắp. Đôi môi ông mấp máy muốn mời tham mưu trưởng về nhà mình song lại lo đám cưới có thể vì vậy mà bị ngừng đột ngột. Ông nói với giọng trang nghiêm và phẳng phất buồn: Tôi biết. Thưa thủ trưởng, tôi có quyền tự hào mà không sợ quá đáng là ở xã này không việc gì tôi không biết. Chín năm chống Pháp giặc càn đi, quét lại. Chúng đốt phá. Nhưng chúng không thể nào đứng chân trên mảnh đất nghèo xác xơ như các chỏm mũi của huyện Tiên Lãng này. Năm 1951, một đại đội ngụy từ Kiến An kéo về định xây bốt và dồn dân lập tề đã bị du kích xã phối hợp với bộ đội Quang Trung đánh tan, diệt ba mươi sáu tên, bắt sống sáu tên, bọn còn lại tháo chạy. Những năm gian khổ ấy dân quân du kích Vinh Quang đã đánh ba mươi sáu trận diệt nhiều địch và thu bốn mươi hai súng. Mở đầu thời kỳ chống Mỹ, ngày 5 tháng 8 năm 1964 ba chiến sĩ dân quân là Vũ Văn Thiết, Vũ Xuân Đạt và Vũ Văn Lục cùng một em thiếu nhi đã mưu trí và dũng cảm bắt sống sáu tên biệt kích của Mỹ — Diệm ngồi trên thuyền cao su đang chuẩn bị đổ bộ vào bờ.

Ông Duy im lặng. Ông nhớ tới hình ảnh người chèo đò qua sông Văn Úc những năm kháng chiến chống Pháp. Có đêm người lái đò đã gan dạ quên cả thân mình đưa bộ đội ta qua sông. Một lần ông chỉ huy tỉnh đội Kiến An xúc động xé sổ tay viết mấy chữ và trao cho người lái đò: đồng chí cầm lấy. Mai này kháng chiến thắng lợi nhân dân sẽ không quên thành tích xuất sắc hôm nay.

Người lái đò ấy là cha của xã đội trưởng. Trước phút qua đời ông trao mảnh giấy ấy cho con là Lương Văn Duy và dặn giữ gìn cẩn thận.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười, 2022, 10:35:27 pm

Bộ chỉ huy quân sự thành phố báo động để kiểm tra tinh thần sẵn sàng chiến đấu của quân dân xã Vinh Quang nhưng cũng là để chuẩn bị cho đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam tới thăm. Người ta rộn rịch chuẩn bị. Các chiến sĩ pháo binh dân quân, dù là nam hay nữ vốn có sẵn đồng phục được phép mặc là cẩn thận và chỉ đem ra mặc khi có chỉ lệnh. Từng khẩu đội gấp rút ôn luyện thao tác, tập dùng pháo, thu pháo, tập bắn, tập đội ngũ, tập trả lời những câu hỏi về binh khí, về xạ kích, về tất cả những gì liên quan tới khẩu thủy pháo đang vươn nòng rõ dài kia.

Chưa yên tâm, xã đội trưởng Lương Văn Duy liền nghĩ tới ngay chàng rể của xã và mò đến nhà anh ta. Đại úy pháo binh dừng tay cuốc và mời xã đội trưởng vào nhà. ông Duy giãy lên:

— Đang vội. Chính tôi đang vội! — ông nháy mắt một cái nhiều ý nghĩa rồi bóng gió — Hôm trước anh nói thời gian gấp gáp chắc là để làm mảnh vườn này giúp vợ — Rồi ông dắt dẫn vấn đề vòng quanh như như thế này — Vợ ông không phải người ở đây. Tôi làm rể thiên hạ. Cái lệ ngày xưa khốn khổ. Họ bắt phải nộp ba nghìn gạch để lát đường làng. Lại còn chăng dây lúc đón dâu. Tôi khốn khổ mới đưa nổi bà xã về đây.

— Vâng... Đại úy pháo binh ngập ngừng. Anh chưa hiểu ý ông già choai choai này.

— Với anh chúng tôi không bắt nộp gạch. Cũng đã không chăng dây. Chúng tôi coi anh là con của làng, của xã và anh phải có nghĩa vụ với làng, với xã. Chúng tôi có một yêu cầu... Này, không được từ chối đâu đấy nhá. Anh phải giúp chúng tôi huấn luyện đơn vị pháo binh dân quân, nhất là về bắn biển. Anh đã tham gia bắn cháy tàu tuần dương ngoài khơi bờ biển Vĩnh Linh phải không?

— Nhưng mà... Theo cháu biết thì pháo dân quân của ta cũng góp phần bắn cháy tàu chiến Mỹ ở gần hòn Ráu.

— Ấy! Chuyên ấy qua rồi. Những tay súng ngày ấy lấy vợ, lấy chồng và chuyển công tác khác cả. Vũ Xuân Đào, Nguyễn Thị Ngọ, Vũ Thị Giá... Chẳng còn ai ở trận địa pháo. Chúng tôi cần anh. Chúng tôi muốn anh huấn luyện cho dân quân theo bài bản chính quy. Vui lòng đi thôi!

— Vui lòng thì nhất định là cháu cũng vui lòng...

Chàng rể của xã trả lời như vậy. Song mọi việc chưa kịp tiến hành thì đồng chí trên Bộ đã xuống. Tám giờ các cán bộ chủ trì của xã đã tề tựu. Bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân chỉnh tề trong bộ quân phục đã phai màu và không có quân hàm quân hiệu. Anh đứng đầu tốp người trên bờ đê. Anh quay nhìn xã đội trưởng như muốn dặn trước: «Có nói năng cũng từ từ và phải cân nhắc bác nhớ. Thế nào đồng chí cấp trên cũng hỏi đến bác vì bác là quyển sử biên niên ở xã này». Nhưng sợ người có tuổi phật lòng nên anh im lặng. Xã đội trưởng dường như hiểu ý gật gật cái đầu và khe khẽ bàn bạc: có lẽ ta phải chuẩn bị trước những câu trả lời...

Trời trong xanh. Một chấm đen xuất hiện từ tít xa rồi một máy bay nhỏ xíu như chuồn chuồn hiện ra. Máy bay to dần. Tiếng động cơ vọng tới. Khi chiếc máy bay lượn trên bầu trời trận địa thì cây cối giạt cả xuống. Hàng tre rũ rượi reo cười. Cỏ cây vui múa. Quả trên cành nhảy nhót đung đưa.

Máy bay đỗ ngay trên mặt đê. Đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng đeo quân hàm cấp tướng bước ra. Bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân xã chạy tới báo cáo. Rồi anh cùng với xã đội trưởng hướng dẫn Phó Tổng tham mưu trưởng xem dân quân ta thao tác. Ngoài khơi xa một chiếc thuyền nhỏ xíu đang trôi nhanh do một ca nô kéo qua sợi dây nối rất dài. Mục tiêu đó! Phó Tổng tham mưu trưởng chỉ thị: tàu biệt kích... Diệt!... tiếng hô khẩu lệnh the thé — đó! Mai chỉ huy trung đội đó — Tiếng hộp khóa nòng đóng đánh sập. Giật cò! Lửa chớp ở miệng nòng. Mọi cặp mắt hướng ra biển. Một cột khói dựng lên. Đạn gần. Lệnh tăng tầm. Máy điều khiển nòng pháo quay xè xè. Viên thứ hai, viên thứ ba... Mục tiêu bị xóa giữa lớp sóng bạc đầu đang chồm lên...

Gần một giờ sau chủ và khách ngồi trong chiếc com-măng-ca chạy vòng trên bờ đê. Từng đoạn một xe lại dừng. Phó Tổng tham mưu trưởng ngắm nhìn địa thế và đặc biệt chú ý tới từng chi tiết đổi thay của xóm làng.

Xã Vinh Quang như cái mũi vuốt dài của huyện Tiên Lãng nằm giữa cửa sông Văn Úc và cửa sông Thái Bình. Người dân nơi đây xây dựng cuộc sống bằng cả hai chân: kinh tế và quân sự.

Đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng khoan thai bước trên con đê Ngự Hàm bao quanh xã. Mái ngói lấp ló sau những vòm cây. Ngày xưa ớt không có mà ăn nay xóm thôn xanh mượt bóng tre, phi lao, bạch đàn, dừa...

— Con đường kia đẹp quá nhỉ! — Phó Tổng tham mưu trưởng chỉ tay và nói — Ngày xưa đâu đã có.

Bí thư xã báo cáo:

— Thưa đồng chí, mọi việc được bắt đầu từ năm 1965 khi có chủ trương xây dựng làng chiến đấu.

— Đường sá, nhà cửa, vườn cây... tất cả đều được đặt nền móng từ ngày ấy?

— Vâng ạ! Đó là một buổi sớm giữa mùa hè năm 1965 toàn xã đổ ra đào kênh và đắp con đường 212 kia. Một hòn đất vật lên phải đạt ba tác dụng: mương dẫn nước, đường đi lại và vườn cây. Rồi những đường nhánh, đường nối xóm đến xóm, đường vào từng gia đình được hình thành mới hoặc sửa sang. Chúng tôi chưa có điều kiện lát gạch. Trời mưa dầm có ngập ngụa và chưa nơi đâu ủng cao su có giá trị như ở nơi đây. Nhưng đường đã thành hệ thống mà ngày xưa các cụ chúng tôi ước mơ.

Bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch xã báo cáo tiếp:

— Thưa đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng! Ngày xưa đã có những năm tháng dài đồng chí hoạt động ở đây. Nay đồng chí trở về tin chắc vui lòng vì những đổi thay. Nhân dân chúng tôi đủ ăn. Mỗi năm làm nghĩa vụ với nhà nước trên ba trăm tấn lương thực. Ba năm liền số dư gửi tiền tiết kiệm đều trên một triệu đồng. Có gia đình gửi hàng chục ngàn. Gia đình ông Phụ gửi trên ba mươi ngàn. Một trăm phần trăm gia đình mua công trái. Ngôi trường phổ thông hai tầng kia chúng tôi vừa xây xong. Giá thành trên ba triệu. Trên cho một nửa kinh phí. Nửa còn lại nhân dân trong xã lo liệu lấy.

Bí thư im lặng. Phó Tổng Tham mưu trưởng nói thong thả:

— Đồng chí vừa nhắc tới ước mơ phải không? Chính tôi cũng ước mơ. Hàng chục năm xa tôi luôn luôn nghĩ về Vinh Quang với những khát vọng. Giờ đây trở lại không còn nhận ra mũi đất ngày xưa nữa. Ở chiến trường lớn đánh Mỹ tôi nghe đài và xem báo biết một ngày giữa tháng tám năm 1967 dân quân xã Vinh Quang bắn rơi một F4H và hai mươi mốt ngày sau đó bắn rơi chiếc thứ hai.

— Thưa Thủ trưởng, cô gái Nguyễn Thị Vát chỉ huy trận đó ạ! — xã đội trưởng nói xen vào — Con bé giỏi đáo để. Nó hiện đang công tác trên huyện.

— Còn ngày nào bắn chìm hay bắn cháy tàu chiến nhỉ?

Bí thư đảng ủy nhăn mặt suy nghĩ. Anh còn trẻ. Nhưng ngày ấy anh ở chiến trường miền Nam. Sau này trở về công tác địa phương anh biết có sự kiện như thế nhưng mỗi lần có khách tới làm việc lại phải mở sổ ra xem nó ở vào ngày tháng năm nào. May thay đã có «bộ nhớ» hay còn gọi là «quyển sử biên niên» cùng đi với anh. Ông già chuẩn bị nghỉ hưu và sẽ giao chức trách này cho một chiến sĩ từ miền đông Nam Bộ những ngày đánh Mỹ vừa mới trở về. Song ông tuyên bố vẫn sẵn sàng làm bất cứ việc gì khi được phân công.

Ông nhanh nhảu như học sinh lên đọc bài học thuộc lòng:

— Năm 1967, dân quân Vinh Quang dùng pháo 57 ly cùng bộ đội đánh thắng nhiều trận bọn giặc biển. Trên trang bị thêm pháo 85 ly. Giữa năm 1972, phân đội pháo dân quân mặt biển do Vũ Xuân Đào chỉ huy đã cùng bộ đội bắn cháy hai tàu chiến Mỹ ngoài khơi cửa sông Văn Úc

Phó Tổng Tham mưu trưởng do một linh cảm nào đó thích nghe chuyện người cán bộ địa phương đứng tuổi Lương Văn Duy có dáng người nhỏ nhắn, bước đi nhanh và có phần hơi lập bập như giọng nói của ông. Bên ông là đồng chí cấp tướng tóc hoa râm, cao lớn, thả những bước khoan thai trên mặt đê uốn lượn.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười, 2022, 10:37:07 pm

Họ trở về ô tô. Xe bon trên đê lướt ngang khu vực nông trường. Bờ đê cao cao. Dương năm đó thủ trưởng ạ! — xã đội trưởng tiếp tục giới thiệu — Con đê này cũng bắt đầu đắp từ năm 1965 khi có chủ trương xây dựng làng chiến đấu. Lúa hai vụ từ ngày ấy. Cây cối xã này mọc lên từ ngày ấy. Nhà ngói có từ ngày ấy. Chúng tôi chỉ thiếu đường gạch nhưng rồi sẽ có đường gạch.

— Đồng chí Duy này — Phó Tổng tham mưu trưởng từ tốn — truyền thuyết nói rằng, khi bà Âu Cơ đẻ cái bọc trăm trứng nở trăm con thì năm mươi con theo cha lên núi, năm mươi con theo mẹ xuống biển. Nhưng ông cha ta vừa tới biển thì lập tức xây lưng ra biển. Một phần nghèo vì thế. Biển chứa chấp nguồn của cải vô tận. Biển cần và mãi mãi cần được khai thác.

— Vâng, mới hôm qua đảng ủy xã chúng tôi đã quyết định lập hợp tác xã đánh cá. Ngày xưa ông cha chúng tôi đánh cá đổi cơm. Ngày nay chúng tôi đi biển để ăn cơm với cá. Chúng tôi cũng đã có kế hoạch khai thác vùng bãi ngoài đê bên cửa sông Văn Úc. Sẽ cấy vào mùa nước ngọt. Và sẽ quai đê mới để biến thành đất đai canh tác hai vụ sau này.

Đê Hàm Ngư thật đẹp. Nó lượn quanh. Dưới chân nó chụy dài chín cây số trồng ba mươi nghìn mống tre. Tre bạt ngàn. Tre tạo lũy chiến đấu và cho vật liệu xây dựng. Ngoài kia là bãi sú vẹt trồng từ năm 1965, hàng vạn cây, cành khô tua tủa giương lên trời như rừng chông và thân của nó vững chãi như hàng cọc của ông cha ta trên sông Bạch Đằng.

Sú vẹt cùng với tre làm phên giậu che chở cho làng. Nhung sú vẹt mà nơi đây gọi là cây lậu còn cho củi đun, cho vỏ làm thuốc nhuộm, cho mật hoa nuôi ong và cho mỗi năm hàng chục tấn rễ làm mũ đội đầu.

Họ dừng lại ngắm nhìn. Mặt trời mùa thu chói chang. Biển kiêu hãnh tung sóng và từ tít khơi xa đã sáng lên ngời ngợi. Phía Đồ Sơn hòn Ráu nhô ra chắn ngang tầm mắt. Gió ào ào. Hàng tre kẽo kẹt.

Đột nhiên Phó Tổng Tham mưu trưởng hỏi:

— Pháo biển khống chế xạ giới bao nhiêu độ?

— Thưa thủ trưởng, từ cửa sông Văn Úc tới cửa sông Thái Bình.

— Tôi nói với các đồng chí điều này như một lời tâm sự. Ông cha ta xây lưng ra biển thì chúng ta phải vươn tới biển. Bên Đồ Sơn mở công trường «Mười bốn» đẩy biển ra xa hàng mấy cây số và có thêm hàng vạn héc ta gieo trồng. Nhưng đâu phải chỉ là thêm ruộng đất mà tầm súng của chúng ta sẽ xa hơn. Có nghĩa là kẻ thù sẽ phải lùi ra xa hơn.

Họ lên xe để về trụ sở ủy ban nhân dân. Một cuộc họp cán bộ và đại biểu nhân dân đã được triệu tập. Phó Tổng tham mưu trưởng gặp gỡ bà con. Ông hết sức ân cần với hai chiến sĩ trong số ba mươi tư chiến sĩ đánh sân bay Cát Bi năm xưa. Nhưng có phút ông bỗng nhìn ra cửa sông Văn Úc lặng im suy nghĩ. Ông nhớ người lái đò. Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự thành phố nói là đã tìm được ông già đó nhưng giờ đây hỏi chủ tịch xã anh ta lại báo cáo không.

Sau buổi nói chuyện ông gặp riêng xã đội trưởng Lương Văn Duy:

— Bác biết ai chèo đò trên sông Văn Úc những năm chống Pháp không?

— Một ông già...

Đột nhiên xã đội trưởng ngập ngừng, ông thọc tay vào túi áo. Tờ giấy chứng nhận đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đêm đó của người cha ngọ nguậy trong tay ông. Ông muốn rút ra. Rồi cứ để im. Ông muốn nói thật to: tôi biết rõ chứ! Đó là một ông già, ông già ấy là cha tôi. Có chứng cứ đây. Nhưng môi ông chỉ khẽ rung lên. Tim ông đập mạnh, ông quay nhanh để giấu đôi giọt nước mắt cực lớn hiện ra. Lời ai đó đang nhắn nhủ ông: đừng nói. Đừng có nói! Làm cách mạng chỉ cốt để được thưởng công hay sao? Chính cha của người cũng đã giữ im tờ giấy đó trong rương kia mà!

Ông đã không nói thật. Tờ giấy trong túi cứng lại giữa lòng bàn tay ông. Ông khẽ lắc đầu: Thưa thủ trưởng, tôi chỉ biết đó là một ông già.

Phó tổng tham mưu trưởng thoáng buồn:

— Hay ông ta đã khuất?

— Vâng. Đúng thế ạ. Những ông già thời ấy chẳng còn sót lại bao nhiêu. Ông già chèo đó đó chắc chắn đã quy tiên rồi

Phút chia tay lưu luyến. Phó Tổng Tham mưu trưởng nắm lấy bàn tay Lương Văn Duy thì đột ngột thấy bàn tay răn nheo ấy nóng ran lên. Ông buông ra để lên ô tô tới chỗ máy bay đậu. Từ khung cửa trực thăng ông vẫy mãi. Vẫy mãi. Ông ngắm say sưa con đường xuyên xã thẳng căng từ Vàm Láng tới, một bên là nông giang có dừa xanh soi bóng, một bên là bạch đàn và phi lao. Con đường thẳng tắp đến nỗi ta cứ tưởng tượng đó là mũi tên vút bay ra biển.

Máy bay cao dần. Khi chấm đen nhỏ xíu ấy mất hút vào vòm trời bao la những người đưa tiễn mới giải tán. Đảng ủy nhóm họp. Những vấn đề cấp bách được đưa ra bàn: phân phối hạt ớt giống của Công ty xuất khẩu cho các gia đình. Lập kế hoạch chi tiết khai thác hàng trăm héc-ta đất bồi ven cửa sông Văn Úc. Đánh giá trữ lượng tre có thể khai thác. Cử người sang làm bí thư chi bộ kiêm chủ nhiệm hợp tác xã nghề cá. Cử đồng chí đảng ủy viên Nguyễn Viết Điền làm xã đội trưởng thay đồng chí Lương Văn Duy nghỉ hưu.

Sau cuộc họp hai cán bộ chỉ huy trao đổi với nhau:

— Cậu phụ trách quân sự được đấy. Lính chiến trường miền đông Nam Bộ kia mà.

— Tôi là lính vận tải. Tôi chỉ giỏi thồ hàng.

— Thì nay chỉ huy. Có ai sinh ra là biết chỉ huy ngay đâu. Cậu hiểu về pháo bắn biển chứ?

— Tôi mù tịt. Bác phải giúp tôi rồi.

— Tớ bàn thế này. Chồng con Mai vẫn còn nghỉ phép. Hắn nghỉ dồn hai phép với ngày nghỉ cưới nên còn ở nhà ít lâu. Hắn là chỉ huy pháo binh đã từng chiến đấu ở Quảng Trị và bờ biển Vĩnh Linh. Tại sao ta không nhờ hắn luyện tập gấp cho trung đội dân quân?

— Anh ta đang lao vào cuốc vườn chuẩn bị trồng ớt xuất khẩu giúp vợ và bố mẹ vợ.

— Sẽ cho người làm thay. Vả lại tớ đã nói với con Mai và cả hẳn rồi.

— Thì đến!

Hai người đứng lên. Bí thư kiêm chủ tịch gọi với:

— Này, các bố chuẩn bị khi có quyết định của trên là bàn giao công việc đấy nhớ.

— Sẵn sàng! — Lương Văn Duy nói to — Chúng tôi đi địa hình gấp đã — Rồi quay sang Nguyễn Viết Điền, cựu xã đội trưởng nói rất say sưa và tự nhiên như câu chuyện không hề bị ngắt quãng — Hồi nãy tớ thấy ông phó Tổng Tham mưu trưởng hỏi con bé pháo thủ số một: Bắn giao hội là như thế nào hả cháu?

— Trả lời tốt chứ?

— Nếu vậy còn việc gì phải bàn. Đằng này nó đực mặt ra rõ lâu rồi láu táu như trẻ con cười trừ khi biết mình có lỗi. Bắn giao hội là bắn để trúng tàu địch ạ.

Nguyễn Viết Điền thú nhận:

— Tôi cũng chẳng biết bắn giáo hội là như thế nào cả

— Cho nên phải học. Chồng con Mai giúp chúng ta.

— Nhưng bắn giao hội là như thế nào chứ? Bác nói qua xem nào.

— Nghĩa là có hai cái đài quan sát nhìn kẹp vào nhau.

— Thế kia à?

— Vậy đó. Nhưng còn ngắm và tính toán thế nào thì tớ chịu.

Họ đi nhanh trên con đường xuyên xã — Con đường phóng thẳng ra biển như mũi tên!

T.Đ.C.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười, 2022, 02:41:20 pm

LÊ LỰU

CẢ ĐỒNG BẰNG GỬI TỚI CÁC ANH


Có thể đêm nay là đêm cuối cùng của một mùa đông lạnh giá!

Có thể đêm nay đã là đêm đầu tiên của một năm mới đầy những hẹn hò và khát khao!

Có thể đêm nay mới bắt đầu nếm trải cái tái tê đầu tiên của cơn gió bắc lạnh lùng tràn đến làng quê!

Cuộc hành trình của thời gian không để lại dấu vết của sự phân chia ngày và đêm, nếu không có lúc hầng lên cái ánh sáng đục mờ gần một tiếng đồng hồ vào giữa buổi trưa thì anh chiến sĩ ở đài quan sát trên điểm cao 2073 không thể biết đã có một ngày đi qua, một nấc thời gian của trái đất đã tự quay hết một vòng quanh nó. Năm người lên đây đã trọn hai vòng trái đất quay quanh mặt trời, đã hai mùa đông dài đi qua, và cả hai mùa xuân cũng đều qua đi trong mịt mù của sương giá và tuyết phủ. Những chiếc bánh chưng và mứt, những gói thuốc lá và kẹo của đơn vị gửi lên từ mười ngày trước như là những tín hiệu báo cho các anh cái khoảng thời gian vô cùng thiêng liêng, vô cùng hệ trọng và nghiêm trang đang đến với Tổ quốc hậu phương bao la ở sau mình. Cái giờ phút đất nước vào xuân, một năm mới bắt đầu. Giờ phút ấy các anh có nghe những lời đầu tiên của một năm mới từ xóm làng, đường phố dành cho người đi xa, người chịu đựng gian nan và hy sinh lớn lao ngoài mặt trận:

«Anh đẹp lắm, ơi anh bộ đội!»

Không phải bằng một tình cảm bình thường, một năm tháng bình thường của một con người bình thường mà một nhà thơ nào đấy đã thốt lên như là sự ngỡ ngàng, như sự xáo động mãnh liệt để khẳng định với riêng mình, khẳng định với cả dân tộc về phẩm chất tốt đẹp của các anh, người chiến sĩ giản dị và cao quý.

*

*       *


«Anh đẹp lắm, ơi anh bộ đội!
— Quê từ chín núi mười sông».

Và cuối mùa đông, có những năm gần đây tôi đã có dịp đi hết chiều dài cái vòng cung hiên ngang và khắc nghiệt trên dải đất biên cương của Tổ quốc từ Phong Thổ — Lai Châu đến Bát Xát — Mường Khương, từ Mèo Vạc — Đồng Văn đến Tràng Định — Lộc Bình, từ Tiên Yên đến Móng Cái... Ở đâu cũng có những dãy núi mờ mịt, sừng sững như những bức tường khổng lồ mà nền trời màu chì là mái nhà lợp trên những bức tường núi sừng sững mờ xanh ấy. Anh bộ đội trên đài quan sát, trên những điểm tựa thăm thẳm cao xanh đêm nay đã lo toan và ao ước điều gì! Một lá thư viết cho người yêu chưa hết lời nồng cháy thì ngòi mực đã đông lại vì cả tuần lễ nước vẫn đóng băng! Những bữa cơm còn thiếu muối và đêm không sao ngủ được vì nửa người thò ra ngoài hầm tuyết đã phủ trắng lạnh trên chiếc chăn bông mỏng! Và, những viên đạn bắn tỉa của kẻ thù! Nguy hiểm ập đến bất cứ lúc nào! Nỗi gian truân vất vả tưởng không sao chịu nổi cũng vẫn mịt mù vây lấy các anh.

Nhưng đừng ai hoảng hốt nghi ngờ sợ chiến sĩ ta không trụ vững nổi ở nơi cực kỳ gian khổ, ở một phía nào đó còn gian khổ hơn cả thời đánh Pháp và thời đánh Mỹ xưa kia. Cũng đừng nên hỏi vì sao người chiến sĩ ấy lại sống được qua mùa này tới mùa khác, qua năm này tới năm khác! Bởi vì nếu ngỡ ngàng, điều đó có nghĩa bạn chưa hiểu được người lính, chưa hiểu nổi bản chất của họ, nói đúng ra nó là bản chất mang tính truyền thống của dân tộc này, một dân tộc có bản tính độc đáo, ấy là sức chịu đựng dai dẳng, sức chống chọi dai dẳng với cả quân thù tứ phía, với cả đất trời khi sóng to gió cả vây bủa nơi nơi.

Ở một điểm cao gần 2.000 mét thuộc tỉnh Hà Tuyên, rất vô tình tôi gặp lại anh bạn đồng hương quê ở Hưng Yên cũ, nay là tỉnh Hải Hưng. Anh có cái dáng nặng nề, chậm và ít nói, càng không thể nói ra điều gì nếu không phải là ý nghĩ nung nấu của lòng mình. Anh bảo rằng cái đáng sợ nhất của người lính không ở chỗ những viên đạn của kẻ thù nhằm vào mình, cũng không phải sự thiếu thốn — cứ cho là vô cùng cực khổ đi nữa thì cũng không lo sợ, không nản lòng bằng nhìn thấy một cử chỉ nào đó, nghe thấy một lời nói nào đó bộc lộ một thái độ dửng dưng, một thái độ thờ ơ của người ở hậu phương. Thờ ơ với cả người lính, thờ ơ với cả người thân yêu của họ ở phía sau. Ấy là chưa kể những việc làm nhẫn tâm, những việc làm cốt là để lấy thành tích, cốt có tiếng tăm, sự quan tâm như là sự đối phó, làm cho đủ lệ bộ, làm cho đủ những quy định còn trong lòng vẫn lạnh nguội hững hờ.

Tôi hiểu rõ lắm. Tôi hiểu những lời anh đã nói ra. Tôi hiểu cả những lời chưa nói của anh bạn đồng hương trên xanh cao vời vợi! Có thế ở đâu đó, có những ngày tháng tẻ lạnh trùm lấp lên đôi mắt và trái tim nhỏ hẹp ích kỷ của ai đó, nhưng tấm lòng và những lo toan của một đồng bằng rộng lớn, một trong những hậu phương rộng lớn của những cuộc chiến tranh thì vẫn thủy chung, nguyên vẹn. Đồng bằng ấy được liên kết thành một đơn vị quân sự là quân khu 3. Những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cả thủ đô Hà Nội, Thanh Hóa, Hà Bắc, Quảng Ninh đều thuộc quân khu này. Cùng với Hà Nam Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Hải Hưng và Hà Tây cho đến nay đồng bằng khu 3 vẫn kiêu hãnh về một thời kỳ hy sinh hết lòng, chi viện hết sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, vì đồng bào miền Nam ruột thịt. Vì tiền tuyến thắng to mà hậu phương đồng bằng khu 3 dốc sức, dốc lòng với khẩu hiệu giản dị mà kiên quyết, nôm na và triệt để «Thóc không thiếu một cân — Quân không thiếu một người». 224.500 người con đẻ của đồng bằng khu 3 ra đi đánh giặc trong suổt 3 cuộc kháng chiến vừa qua, ít ra cũng có 500 vạn người mẹ, người vợ của đồng bằng khu 3 thắt lưng buộc bụng đảm đang thay chồng thay con cấy cày vun xới, làm ra hạt lúa củ khoai giữa bom đạn của giặc trút xuống ruộng đồng, trút xuống phố phường, làng xóm. Người đàn bà khu 3 không chỉ thay chồng con làm ra lúa gạo, thay cả chồng con đánh giặc giữ nhà, giành giật từng giây phút làm ra hạt gạo nuôi con và gửi ra tiền tuyến. Em bé Trần Đăng Khoa 7 tuổi ngày ấy đã cảm nhận ý nghĩa thiêng liêng của từng hạt gạo của người ở hậu phương.

«Hạt gạo làng ta, có nắng tháng 7, có mưa tháng 3». Và, «Những trưa tháng 6, nước như ai nấu, chết cả cá cờ, cua ngoi lên bờ, mẹ em xuống cấy».

Có một nhà văn nước ngoài bảo rằng nhìn vào thái độ người phụ nữ sẽ biết cuộc chiến tranh ấy là chính nghĩa hay phi nghĩa. Điều đó cũng tương tự như nhận định của một vị tướng nào đó nói rằng: Nhìn vào hậu phương của người lính sẽ biết quân đội của họ chiến thắng hay thất bại.

Anh chiến sĩ trinh sát đoàn B.45 cầm con dao găm khom người đi trước cắm phập xuống đất và bàn chân đặt vào đúng chỗ vừa rút dao lên. Mỗi nhát dao thăm dò, chân bước lên một bước, cả đoạn đường luồn trong gai góc um tùm hoang vu gần 2 cây số anh phải dò mìn của bọn thám báo và bọn lấn chiếm để dẫn tôi tiếp cận gần nhất nhìn cho rõ mặt những tên lính Tầu. Công việc nguy hiểm ấy anh làm một cách thành thạo và mạch lạc, không chút do dự, nhưng lại ngập ngừng run run khi dò hỏi tôi về trận mưa cuối tháng 10 vừa qua ở phía đường 1 thuộc huyện Thường Tín quê anh nhiều ruộng khoai tây bị úng không?

Nếu chì có một dòng tin từ quê nhà gửi cho người chiến sĩ nói rằng: cái ruộng khoai tây ấy đã được tháo nước ngay trong đêm mưa, cây chuối tiêu ở đầu hè đã có đòn gánh chống ngang cây đỡ cho buồng chuối dài chấm đất còn nguyên vẹn, chỗ mái nhà tốc đã lợp lại và con lợn con thôi không chê cám nữa... Chỉ cần có như thế thì ngày mai, ngày kia vào trận anh sẽ đánh giặc với sức mạnh của cả bố và mẹ, của cả vợ và con đã vượt qua giông bão để có cái tốt tươi của ruộng đồng và vườn tược. Nhưng nếu ruộng khoai tây đã bị úng thối, một bữa cơm của vợ và con vẫn chưa thật no thì cũng không phải vì thế người lính ở chiến hào gục ngã. Đức tính dũng cảm, sự hy sinh và sức dẻo dai chịu đựng của anh chiến sĩ ở chiến hào, còn như là sự chia sẻ, một đòi hỏi cần thiết để xứng đáng với sức chịu đựng khó khăn, hoạn nạn của quê nhà.

Điều quan trọng ở đây là sự công bằng về nghĩa vụ, công bằng về quyền lợi, công bằng cả trong tình nghĩa con người, một tấm lòng nhân hậu, có trước, có sau dành cho người ở phía trước.

«Anh đẹp lắm, ơi anh bộ đội
Quê từ chín núi, mười sông ».

Cả đồng bằng vẫn lắng nghe những đòi hỏi của các anh từ nơi ấy. Cả đồng bằng biết mình phải lao động và sẵn sàng như thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc cùng một trận chiến đấu như các anh.

Những công trình lớn cấp thiết cho công nghiệp và nông nghiệp mọc lên từ sau ngày Tổ quốc thống nhất đến nay đều có bàn tay của người lính. Người lính khu 3 không chỉ là những người thợ đứng máy, thợ đào đắp, mang vác, họ đã từng đảm nhiệm hoàn toàn những công trình lớn, từng là tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, tổng chỉ huy, là những nhóm kỹ sư, kỹ thuật chủ chốt ở các công trình. Từ thủy điện sông Đà, nhà máy xi măng Hoàng Thạch, nhà máy nhiệt điện Phả Lại đến các công trình thủy lợi lớn Quảng Châu (Thanh Hóa), An Thổ (Hải Hưng) đều có bàn tay và trí tuệ của người lính khu 3. Góp phần quản lý, củng cố mở rộng và cải tiến cách làm ăn mới ở nhà máy xi măng và cảng Hải Phòng, công ty than Hòn Gai đến việc lấn biển làm đường xuyên đảo của thành phố cảng đều có sức lực và tâm huyết của người chiến sĩ ở đây.


Tiêu đề: Re: Sóng gió một vùng biển
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười, 2022, 02:42:55 pm

Quân khu 3 đã xây dựng, sửa chữa và sản xuất ra nguyên vật liệu để làm hàng chục vạn ngôi nhà cho cán bộ chiến sĩ, gia đình thương binh liệt sĩ, nâng mức sống cho hậu phương người lính trên 85% có đời sống khá. Chăm lo cho hậu phương quân đội là nghĩa vụ hàng đầu của quân khu 3. Tôi đã chứng kiến cuộc nói chuyện giữa thượng tướng tư lệnh quân khu với đồng chí phó Cục trưởng Cục nhà trường Bộ tổng tham mưu. Tư lệnh nói rằng: hãy tìm mọi cách cho con em các gia đình thương binh liệt sĩ được đi học, được có việc làm thì bao nhiêu cũng không sợ ai tị nạnh, không sợ ai kiện cáo, không sợ ai gièm pha. Làm bao nhiêu cũng không đủ, làm suốt đời mình vẫn cảm thấy còn thiếu, vẫn thấy mình còn nợ. Nhưng muốn có sức để mà lo toan, để bảo đảm hậu phương vững chắc làm yên lòng người ở xa phải táo bạo và chủ động. Không được ỷ lại và ngóng chờ. Tư lệnh đã nghĩ thế. Cả bộ tư lệnh của ông đều nghĩ thế. Các cấp chỉ huy và chiến sĩ trong toàn quân khu đều nghĩ thế. Trong một bữa cơm cuối năm ở bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng dường như từ khi ngồi vào bàn đến khi đứng dậy, đại tá Trường Xuân chỉ huy trưởng chỉ say sưa nói về những người lính đánh giặc và lao động. Muốn đánh giặc giỏi phải rèn luyện, phải mưu trí sáng tạo và nắm vững thời cơ. Muốn có năng suất lao động cao cũng phải biết lo toan, sáng tạo và nắm vững thời cơ.

Tuy chưa nói ra cái nguyên nhân trực tiếp vì sao chỉ riêng cơ quan của bộ chỉ huy thành phố chưa đầy trăm người mà một năm làm ra lãi cả 30 triệu đồng! Con số ấy chưa được giải thích nhưng nó đã là con số thật, làm ra từ những bàn tay và khối óc thật mạnh dạn và biết lo toan. «Một người lo bằng kho người làm». Có ai là không biết lời ông cha mình dạy nhưng mà vẫn biển đấy, vẫn đồng ruộng phì nhiêu, nhà máy lớn, nhà máy nhỏ, cảng hẹp, cảng rộng như thế sao năm bẩy năm trước Hải Phòng vẫn nghèo và riêng cơ quan quân sự này không làm ra lấy một trăm, một nghìn? Cơ bản là người đứng đầu cơ quan ấy có biết lo toan, nghĩ ngợi hay không? Biết lo rồi có dám chịu trách nhiệm, nói một cách không quá đáng rằng, người chỉ huy ấy có dám xả thân vì sự no ấm, yên ổn của đồng đội mình không. Dám chịu trách nhiệm rồi có dám thay đổi một cơ chế, một cung cách chỉ huy, một lề thói làm ăn hay không? Nói tóm lại, phải có một cái đầu biết nghĩ và dám làm có thể được coi như là một cái đầu tài hoa nghệ thuật của chỉ huy trưởng mới tạo dựng nên cuộc sống hăm hở của ngày hôm nay. Anh Ứng, anh Hồ, anh Chung, anh Am trong phòng chính trị của bộ chỉ huy Hải Phòng nói với tôi về chỉ huy trưởng của mình như thế. Có thể Hải Phòng có những đặc điểm riêng biệt, có những thuận lợi nào đó nhưng Hà Tây và Thái Bình, Hà Nam Ninh và Hải Hưng vẫn lắng nghe, vẫn xem xét để vận dụng và cũng có những bước chuyển vượt qua khó khăn ban đầu. Vượt qua một quan niệm, một cung cách ban đầu mới là khó, mới là quyết định sự thành bại của cả một giai đoạn hết sức hệ trọng như những tháng năm này. Cả đồng bằng khu 3 đã tìm ra đặc điểm riêng biệt của mình, cái thế mạnh của riêng mình để đổi khác, để thênh thang bước vào năm 1985 với dáng ung dung đĩnh đạc mà người lính ở vị trí nào cũng làm tròn nhiệm vụ xung kích.

Nhưng những người làm ra hạt lúa củ khoai vốn biết ăn nhịn để dành suốt một cuộc đời làm lụng, nuôi chồng, nuôi con đánh giặc có bao giờ yên ổn với sự khang trang đầy đủ của riêng mình. Suốt 40 năm qua, niềm vui của người đàn bà khu 3 cũng như tất cả những người đàn bà ở khắp nơi trên Tổ quốc đều ngóng chờ niềm vui và phấp phỏng nỗi lo âu nhìn ra mặt trận. Hạnh phúc lớn lao vô cùng của người hậu phương là tin thắng trận từ tiền tuyến gửi về. Có ai khắc khoải đêm đêm bên ngọn đèn dầu để cầu mong chờ đợi, để phập phồng niềm vui trong những năm tháng đánh giặc bằng 8.000 người mẹ của đồng bằng khu 3 đã có từ bốn đến bảy người con đi chiến đấu! Tám trăm bà mẹ khác hết tiễn chồng, tiễn con, rồi cháu ra mặt trận, có nhà đến nay cả ba ông cháu vẫn tại ngũ. Có ai hơn những người mẹ, người vợ ấy để hiểu những nỗi lòng, những khát vọng của người chiến sĩ nơi xa!

Gần hết một cuộc đời hoạt động cách mạng ở đồng bằng khu 3 có lẽ vị tư lệnh quân khu đã lắng nghe cả những nỗi niềm sâu xa của những người mẹ, người vợ, khiến suốt mấy chục năm qua ông đã tâm đắc và bền bỉ cùng với bộ tư lệnh và các địa phương làm nên những nỗi ngạc nhiên về xây dựng hậu phương vững mạnh và chi viện cho tiền tuyến. Vào cuối của năm 84 này, ông lại chủ động quyết định về nhiệm vụ chi viện biên giới. Chi viện biên giới không đợi ai phân bổ, chưa ai giao phó, nhưng cũng như việc quan tâm đến hậu phương trong ông vẫn nung nấu một ý nghĩ thiết tha, một tình cảm sâu nặng. Làm cho người chiến sĩ ở biên giới bớt khó khăn gian khổ, vững tâm chiến đấu thì bao nhiêu cũng không đủ, bao nhiêu cũng thấy mình còn thiếu, thấy mình đang còn nợ.

Trung tá Lương Hiền chủ nhiệm công binh quân khu, người được tư lệnh giao cho chỉ huy toàn bộ các công trình chi viện dọc tuyến biên giới. Anh có tám người làm chỉ huy cấp phó cho anh ở tám điểm cụ thể khác nhau, còn anh phải có mặt ở khắp nơi, trực tiếp khảo sát và chỉ đạo thi công. Đã năm tháng nay cuộc sống của anh ở trên xe. Khi thì chiếc xe con, khi xe tải, xe ben, xe cần cẩu, xe chở nước, chở dầu... Ăn và ngủ, tính toán và bàn bạc hầu như ở cả trên xe.

Vào một buổi chiều cuối tháng 8 anh đang ở Đồ Sơn chỉ huy một công trình xây dựng. Tư lệnh đi họp trung ương về cho gọi anh. Vốn là người có rất nhiều nắng lực ở nhiều lĩnh vực và quan trọng hơn ở anh bao giờ cũng có cái đầu «bốc lửa», trái tim «bốc lửa», hình như con người ấy sinh ra để mà lao động, để mà tìm tòi hành động cho kỳ được, bất kể nhiệm vụ nào trong mọi hoàn cảnh. Người cán bộ cấp dưới ấy luôn luôn là mũi nhọn, luôn luôn là niềm tin trước những công việc đầy thử thách khiến vị tư lệnh giàu kinh nghiệm, giàu cả tình yêu thương, biết bỏ quá những dư luận vặt vãnh về tác phong, về cá tính để tìm một niềm tin có thật và hết sức chắc chắn ở người cán bộ cấp dưới của mình. Tuy vậy trước nhiệm vụ này ông mới chỉ nêu ra như một sự thăm dò thì Lương Hiền đã sốt sắng: «Báo cáo tư lệnh, như vậy là rất hay. Sẽ có điều kiện rèn luyện bộ đội và các lực lượng dân quân tự vệ làm quen với chiến trường, gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến và cũng để kiểm tra lại sự chuẩn bị, sẵn sàng của các địa phương, các đơn vị chi viện cho phía trước». Tất nhiên là thế. Tư lệnh không nghi ngờ gì nhiệt tình và trách nhiệm của anh. Điều ông băn khoăn là tất cả những công trình của quân khu chi viện cho biên giới, phải giành giật từng giờ, từng phút với kẻ thù làm sao hoàn thành được trong một thời gian ngắn nhất để đông xuân này bộ đội «ấm lưng» mà đánh giặc. Nhưng quyết tâm và tình cảm của tư lệnh quân khu dành cho biên giới đã bắt gặp lòng mong mỏi và ý nguyện của cán bộ cấp dưới, của chiến sĩ các lực lượng và của cả nhân dân vùng đồng bằng rộng lớn này. Chỉ một tuần sau khi nhận lệnh, các cán bộ chỉ huy lên đường đi khảo sát thì đá và xi măng, ván khuôn và sắt thép của tất cả các đơn vị, các địa phương đã đổ thành những khối, những thanh bê tông. Và, mười ngày sau, nhận điện từ các tiền trạm gửi về, những đơn vị đầu tiên của Hải Hưng, Hải Phòng, của xưởng 10, của đoàn B.50, N.13, M.78, B.30, N.73, B.08, M.78, S.70, S.53. Những đơn vị này lên đường thì những khối bê tông đúc sẵn cũng theo xe trên các ngả đường bộ và đẩy những chuyến sà lan theo các rạch sông ra biển lên trên Tiên Yên, Ba Chẽ. Trong khi ấy Hà Tây và Thái Bình, Hà Nam Ninh và các đơn vị chủ lực khác sẵn sàng phương tiện, cả đồng bằng khu 3 gửi người và của, gửi tình yêu thương và quyết tâm lên biên giới làm đường, làm hầm hào kiên cố bền vững cho bộ đội yên tâm đánh giặc.

Đã là hết sức hết lòng, nhưng với những đòi hỏi cần thiết ở phía trước nào đã là bao! Người đồng bằng biết ở miền rừng núi xa xôi ấy các anh còn thiếu thốn nhiều lắm, còn gian nan vất vả lắm lắm! Dù chưa được đầy đủ thì cả đồng bằng vẫn ở bên các anh, ngay giữa giá lạnh mịt mùng của đêm nay, những người chiến sĩ các lực lượng bộ đội và dân quân tự vệ của đồng bằng khu 3 vẫn đào hào, xây đắp công sự và dựng lán, làm đường nơi các anh chốt giữ. Và ở những xóm làng, những đường phố đang rạo rực đón mùa xuân mới này vẫn dành những lời tốt đẹp nhất, vẫn dành những của cải và sức lực, vẫn dành một niềm tin trọn vẹn gửi tới các anh một hậu phương lớn như bao hậu phương lớn của đất nước này trong suốt bao năm dằng dặc đánh giặc, trong suốt bao năm vượt qua mọi hiểm nguy thách đố của kẻ thù, của thiên tai. Chẳng có khó khăn chồng chất nào làm nhụt được ý chí, làm nguôi được lòng tin của mỗi người dân, nơi hậu phương đang ngày đêm hướng đến những nơi đầu sóng ngọn gió, hướng đến nơi điểm cao, nơi biên cương.

Phải rồi, cùng với khu ba, cả khu bốn, khu năm, cả miền Trung dằng dặc, cả miền Đông, miền Tây Nam Bộ bát ngát tình người, chắc chắn giờ này đều hướng về phía trước, hướng về các anh.

«Anh đẹp lắm ơi anh bộ đội
Quê từ chín núi mười sông... »

Hẳn là đêm nay, anh vẫn sừng sững như tạc vào không gian vời vợi cái dáng hiên ngang mà cũng hết mực bình dị như núi sông, đồng ruộng, như xóm làng và đường phố thân yêu đang bước vào một năm mới đầy những hẹn hò, đầy những hy vọng và, đầy ắp cả niềm tin.

L.L


Hết!