Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 02 Tháng Chín, 2022, 04:47:13 pm



Tiêu đề: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Chín, 2022, 04:47:13 pm
(https://www.nxbctqg.org.vn/img_data/images/591795432489_tvt.jpg)




THƯỢNG TƯỚNG TRẦN VĂN TRÀ
VÀ NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ B2 THÀNH ĐỒNG



TS. QUÁCH THU NGUYỆT
(tổng hợp và tuyển chọn)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT - 2021

Nguồn: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật





Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN

Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. NGUYỄN HOÀI ANH

Biên tập nội dung:
TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
ThS. PHẠM VĂN THÔNG
ThS. NGUYỄN VĂN TUÂN
ThS. NGUYỄN CÔNG TÂY
LÊ THỊ THU HỒNG
PHAN KIM YẾN
NGUYỄN VIỆT HÀ

Trình bày bìa:      TRẦN QUYẾT THẮNG

Chế bản vi tính:        TRẦN VĂN TIẾN

Đọc sách mẫu:  PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
                        BÍCH LIỄU



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Chín, 2022, 04:49:18 pm
LỜI NHÀ XUẤT BẢN


    Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996) sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, quê ở xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông sớm tham gia hoạt động cách mạng và trở thành một trong những vị tướng tài năng của Quân đội nhân dân Việt Nam, gắn liền với những chiến công hiển hách trên chiến trường miền Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

    Kể từ khi chính thức bước vào con đường binh nghiệp với trận đánh quân Pháp ở mặt trận Cầu Bông ngày 23/9/1945, ông đã cống hiến cả cuộc đời cho cuộc trường chinh 30 năm của dân tộc, đã gắn bó với đồng chí, đồng bào Nam Bộ, với Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trong quá trình công tác, ông đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như: Khu trưởng Khu 8, Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh kiêm Chính ủy khu Sài Gòn - Gia Định, Tư lệnh Phân liên khu miền Đông, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên ở Sài Gòn, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng...

    Năm 1982, ông nghỉ hưu. Dù được nghỉ hưu nhưng ông vẫn không ngừng làm việc. Với cương vị là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh, ông đã có nhiều hoạt động để xây dựng Hội và chăm lo cho đời sống của đồng chí, đồng đội. Đặc biệt, ông cũng dành thời gian cho việc nghiên cứu và để lại cho đời nhiều công trình, bài viết nhằm tái hiện và tổng kết chặng đường 30 năm đấu tranh giải phóng của quân và dân trên vùng đất B2 Thành đồng.

    Năm 1996, Thượng tướng Trần Văn Trà từ trần, khép lại một cuộc đời cống hiến trọn vẹn cho cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc, cho lịch sử vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

    Với mong muốn xuất bản một bộ sách thể hiện tương đối đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp và những công trình, bài viết của Thượng tướng cũng như những tình cảm của các đồng chí, đồng đội dành cho Thượng tướng, gia đình Thượng tướng Trần Văn Trà đã chuyển cho TS. Quách Thu Nguyệt toàn bộ các công trình, bài viết, di cảo của ông. Sau khi nghiên cứu tập tư liệu đồ sộ đó, TS. Quách Thu Nguyệt đã tổng hợp và tuyển chọn lại thành bộ sách Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành đồng.

    Bộ sách gồm 4 phần chính và phần Phụ lục, được chia thành hai tập (Tập 1 gồm các phần I, II; Tập 2 gồm các phần III, IV và Phụ lục). Phần I tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của Thượng tướng Trần Văn Trà, được tổng hợp từ những trang nhật ký và nội dung Thượng tướng trả lời phỏng vấn của báo chí. Các phần II, III, IV là những ghi chép về chiến tranh, tái hiện cuộc chiến tranh 30 năm giải phóng trên vùng đất B2 Thành đồng, qua đó lý giải nguyên nhân thành công, thất bại ở từng trận đánh và rút ra bài học kinh nghiệm trong chỉ đạo chiến tranh. Phần Phụ lục gồm các bài viết của đồng chí, đồng đội, những người từng có dịp làm việc, tiếp xúc với Thượng tướng, qua đó làm rõ hơn nhân cách, tài năng của Thượng tướng. Cuối bộ sách còn có một số hình ảnh góp phần khắc họa sinh động thêm về cuộc đời Thượng tướng Trần Văn Trà.

    Mặc dù TS. Quách Thu Nguyệt và Nhà xuất bản đã có nhiều cố gắng trong việc thẩm định, xác minh tư liệu, sự kiện, sắp xếp, biên tập nội dung các phần cho phù hợp, nhưng bộ sách không tránh khỏi vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để’ lần xuất bản sau bộ sách được hoàn thiện hơn.

    Xin trân trọng giới thiệu bộ sách cùng bạn đọc.


                                     
   Tháng 11 năm 2021
                                           NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Chín, 2022, 04:53:39 pm
LỜI NÓI ĐẦU


     Những ngày cuối cùng của tháng Chạp năm Mậu Tuất (2018), tôi được phu nhân Thượng tướng Trần Văn Trà trao cho toàn bộ tài liệu, các công trình, bài viết, những trang đánh máy, di cảo viết tay của cố Thượng tướng với lời nhắn gửi: “Con cố gắng giúp thím sắp xếp, biên tập để xuất bản tập sách cuối cùng của chú nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của chú (1919 - 2019)”. Vậy mà tôi đã lỗi hẹn!

     Hơn hai năm để đọc tất cả nguồn tài liệu mà trong ấy phần nhiều là các trang đánh máy, các bản thảo viết tay, những trang viết nháp dở dang, những phát biểu, biên bản đúc kết được ghi chép lại từ các băng ghi âm các buổi làm việc cùng các trợ lý phục vụ cho công trình tổng kết chiến tranh Việt Nam, các bài viết từ các trang báo đã ố vàng được cắt ra, sắp xếp, gìn giữ cẩn thận..., quả là một việc thật khó khăn với cá nhân tôi.

     Làm sao nắm được toàn bộ ý tứ, nội dung trong ngồn ngộn tài liệu thấm đẫm mùi thời gian để hệ thống hóa, sắp xếp cấu trúc, bố cục sao cho thể hiện trung thực tư tưởng, tình cảm, tầm tư duy khái quát, lòng yêu nước, lý tưởng dấn thân vì độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc của một người con quê hương xứ Quảng. Làm sao khắc họa được chân dung và phẩm cách của một người lính Cụ Hồ trở về từ hai cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh; của một sĩ quan quân đội xông xáo, nhạy bén và bản lĩnh trên khắp chiến trường Nam Bộ; của một cựu chiến binh hết lòng vì đồng chí, đồng đội sau ngày đất nước im tiếng súng, sạch bóng quân xâm lược...

     Lúc còn làm Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Trẻ, cùng với gia đình và người trợ lý gần gũi nhất của Thượng tướng Trần Văn Trà là Đại tá Nguyễn Viết Tá, chúng tôi đã từng trực tiếp tổ chức, biên tập các cuốn sách về Thượng tướng và người thân trong gia đình. Đó là các cuốn sách: Gởi người đang sống (1996), 365 ngày vĩnh biệt anh - Thượng tướng Trần Văn Trà (1997), Cảm nhận về Xuân Mậu Thân (1998), Liệt sĩ - Luật sư Lê Đình Chi và gia đình (2009).  Nay, duyên may một lần nữa được tiếp cận nguồn tư liệu di sản của tướng Trà, tôi thật sự bị lôi cuốn và không khỏi thán phục vì kiến thức uyên thâm, tầm tư duy khái quát, độ nhạy bén về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong chiến tranh, trong các trận đánh cụ thể. Qua những trang tư liệu đọc được, tôi càng thêm kính phục phẩm chất, phong cách làm việc và nghiên cứu nghiêm cẩn, khoa học của một người lính trí thức, văn võ song toàn. Có thể nói, cùng với những thành tích của một chỉ huy quân đội trên chiến trường miền Nam, sau ngày hòa bình lập lại, ở cái tuổi lý ra phải được ngơi nghỉ, nhưng Thượng tướng vẫn dốc sức cho công việc tổng kết chiến tranh và chăm lo “đền ơn đáp nghĩa” cho những đồng đội, những người lính đã dành cả thanh xuân để xông pha nơi làn tên mũi đạn bảo vệ nền độc lập nước nhà trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

    Đóng góp giá trị nhất của Thượng tướng sau khi nghỉ hưu chính là việc tổ chức công trình tổng kết chiến tranh: Chặng đường 30 năm B2 Thành đồng.

    Theo kế hoạch, công trình tổng kết sẽ được phân kỳ theo mỗi giai đoạn chiến tranh, tương ứng với từng tập:

    Tập 1: Từ Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đến phong trào Đồng khởi năm 1960. Tựa sách là “Hòa bình hay chiến tranh”.

    Tập 2: Từ năm 1961 đến năm 1965 - thời kỳ đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Tựa sách dự kiến là “Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng”.

    Tập 3: Từ năm 1965 đến năm 1968. Tựa sách dự kiến là “Chiến tranh cục bộ”.

    Tập 4: Từ năm 1969 đến năm 1973. Tựa sách dự kiến là “Mỹ cút, ngụy nhào”.

    Tập 5: Từ Hiệp định Paris năm 1973 đến ngày 30/4/1975. Tựa sách là “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm”.

    Tiếc rằng, cho đến nay, công trình tổng kết chỉ kịp hoàn thành và xuất bản được Tập 1 và Tập 5, các tập còn lại: 2, 3, 4 vẫn còn dang dở. Song, thật ngẫu nhiên, Tập 5 với tiêu đề “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” cũng là tập cuối, nhưng lại được công bố và xuất bản đầu tiên vào năm 1982 và Tập 1 là tập đầu tiên được hoàn tất và công bố sau đó vào năm 1992. Như vậy, với tập mở đầu và tập kết thúc, phần nào cũng giúp người đọc thấu hiểu được nguồn gốc của cuộc chiến tranh Việt Nam (từ năm 1945 đến năm 1975), những nỗ lực của quân dân miền Nam cùng với quân dân cả nước sẵn sàng hy sinh tất cả và bền bỉ, quyết tâm đấu tranh cho nền độc lập, tự do và thống nhất nước nhà để có một kết thúc có hậu là ngày toàn thắng 30/4/1975, đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào.

    Riêng Tập 2, ngay sau khi hoàn tất Tập 1, đề cương đã được bàn bạc và cơ bản đã được bố cục xong, ngay cả chương đầu tiên của tập này cũng đã hoàn tất, các chương tiếp theo được hẹn rằng sau chuyến đi công tác nước ngoài quay về sẽ tiếp tục, vậy mà người chủ trì công trình quan trọng này đã vĩnh viễn ra đi. Thượng tướng Trần Văn Trà mất vào ngày 20/4/1996 trong sự thương tiếc của nhiều người và công trình tổng kết chiến tranh vẫn chưa hoàn thành.

    Bộ sách Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành đồng gồm 2 tập với cấu trúc 5 phần, trong đó chiếm phần lớn (ở phần II, phần III, phần IV) là những ghi chép chiến tranh. Với tư cách là chứng nhân, là người tham gia vào cuộc chiến, hơn thế với tư cách một nhà khoa học, nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam, Thượng tướng đã phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc chiến 30 năm (1945-1975). Cuộc chiến 30 năm giành độc lập, thống nhất đất nước đã được mô tả dưới góc nhìn từ hai phía: địch - ta, chính nghĩa - phi nghĩa; được phán đoán, phân tích kỹ về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, cả việc nhận định đánh giá, lý giải nguyên nhân thành công, thất bại ở từng trận đánh cụ thể để có thể rút ra những bài học quý giá về khoa học và nghệ thuật trong chỉ đạo chiến tranh.

    Phần Phụ lục gồm các bài viết của đồng chí, đồng đội, của những người từng quen biết, làm việc, tiếp xúc với Thượng tướng, đã cho chúng ta nhìn rõ hơn tài năng, phẩm cách và tâm hồn của Thượng tướng cũng như những tình cảm yêu thương, quý trọng mà mọi người dành cho ông khi còn tại thế hay kể cả khi đã vĩnh viễn rời xa cõi tạm.

    Sau cùng, nói như phu nhân Thượng tướng Trần Văn Trà, đây là bộ sách cuối cùng, tôi xin bổ sung thêm, đây cũng là bộ sách đầy đủ nhất của Thượng tướng về tổng kết cuộc chiến 30 năm diễn ra nơi mảnh đất phương Nam, về lịch sử cá nhân, về hành trạng và đóng góp của Thượng tướng dành cho quê hương, cho mảnh đất B2 mà ông đã dành cả đời hiến dâng.
    Do đây là bộ sách cuối cùng và đầy đủ nhất của Thượng tướng, nên đan xen vào các trang viết có tính chất tổng kết, hệ thống, chúng tôi đã cố gắng chụp và đánh máy lại những trang nháp viết dở dang, vừa để lưu giữ bút tích, vừa để người đọc cảm nhận được cốt cách, tâm hồn của một vị tướng như những câu thơ nhẹ nhàng, thanh thoát được ông cảm tác ngay khi hòa bình lập lại mà người thân, đồng đội, đồng chí vẫn luôn nhắc nhớ:

       “Ra đi hai bàn tay trắng,
       Trở về một dải giang san.
       “Trăng xưa hạc cũ”, dòng sông lặng,
       Mây nước yên bình, thiên mã thăng”.


    Xin được trân trọng giới thiệu bộ sách Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành đồng đến bạn đọc gần xa.

                                 
  Những ngày cuối năm 2019
TS. Quách Thu Nguyệt
                       Nguyên Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Trẻ


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:12:28 am
(https://i.imgur.com/lYK8EBl.jpg)


(https://i.imgur.com/Dr3fgDF.jpg)


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:18:28 am
Tôi sinh năm 1919. Quê ở xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Cha tôi là thợ xây, không có ruộng, mẹ tôi buôn bán gánh gồng chắt chiu nuôi anh em chúng tôi ăn học với mong muốn anh em chúng tôi trở thành người có học. Những năm 1930-1931, phong trào cách mạng ở quê tôi rất mạnh, thường biểu tình chống Pháp, chống thuế, chống phu phen tạp dịch. Cha tôi luôn tham gia các cuộc đấu tranh này. Tôi lúc đó mới 11-12 tuổi, học trường huyện nhưng cũng tham gia chép truyền đơn, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu theo hướng dẫn của các anh lớn. Huyện thường có biểu tình nên trường hay phải nghỉ học.

    Có lần, lính lê dương, khố đỏ đặt súng máy ven đường chặn không cho đoàn biểu tình lên tỉnh. Đoàn biểu tình đưa kiến nghị, nó nhận, nhưng bắt giải tán. Hai bên giằng co. Nó bắn, người cầm cờ ngã xuống. Người sau lao lên cầm cờ. Chết nhiều quá. Đoàn biểu tình chạy sang hai bên đường. Có những anh bạn lớp trên tôi cũng bị bắn chết. Cảnh tượng đó bây giờ còn đậm nét trong đầu tôi.

    Sau đó, lính về tận làng tôi khủng bố. Ở quê tôi có hai nhà nho tham gia phong trào Cần Vương là ông Lê Trung Đình (Cử Đình) và ông Nguyễn Tự Tân (Tú Tân) bị chúng chém ở bãi sông Trà Khúc. Những người già kể cho tôi nghe với lòng cảm phục. Ở trường huyện có ông giáo người Quảng Trị chắc cũng là nhà cách mạng, thường đọc thơ văn, kể chuyện về cụ Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu. Lúc ấy, dù còn bé, tôi cũng có được một quyển sách đầy thơ văn cách mạng. Ảnh hưởng này đối với tôi rất lớn, suốt đời tôi ghi nhớ bài học làm người: Phải sống như thế nào cho xứng đáng là con cháu các cụ.

    Nhà nghèo nên mặc dầu các cụ tôi rất mong tôi học cao hơn nhưng tôi không học được các ngành khác. Năm 1936, tôi thi vào Trường Kỹ nghệ ở Huế. Ở đây, tôi tham gia ngay phong trào học sinh của trường, của thành phố Huế. Năm 1938, tôi đã được Chi bộ Đảng nhà trường kết nạp.

    Bọn mật thám đánh hơi, theo dõi, nên năm học cuối cùng tôi bị quản chế, không cho ra ngoài trường và thi đậu xong không được sắp xếp công việc.

    Tôi biết anh Ba Lê Duẩn năm 1938, khi tôi được kết nạp Đảng. Năm 1939, tôi vào Sài Gòn xin làm ở nhà máy xe lửa. Tôi thi tuyển làm thợ tiện và Xứ ủy Trung Kỳ cũng giới thiệu tôi sinh hoạt Đảng ở đây dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Sài Gòn. Nhưng chỉ 6 tháng sau, do có anh em ở Huế bị bắt khai báo nên tôi cũng bị bắt đưa ra Huế. Khi ở Huế, học ở Trường Kỹ nghệ, tôi đã được theo học lớp huấn luyện, nghe anh Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ giảng. Khi vào Sài Gòn, tôi lại được gặp anh khi anh vào họp Hội nghị Trung ương Đảng ở Sài Gòn. Tôi đã nói với anh là tôi đang bị truy lùng, nên trốn hay làm thế nào. Anh bảo tôi: Đã bị lộ rồi, nếu bị bắt, nhận là đảng viên thường, không khai báo gì cũng chỉ tù mấy tháng là xong.

    Khi bị đưa ra Huế, vào nhà tù, tôi đã thấy các anh Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hoàng Anh... và các anh trong Đảng bộ Thừa Thiên, cả trong Chi bộ của tôi cũng đang ở trong tù. Anh em khai tôi là Thanh niên dân chủ. Tôi cũng nhận như vậy và bị nhẹ nhất, không bị tra tấn gì vì tôi là người cuối cùng bị bắt. Ra tòa, tôi bị chúng kết án 6 tháng tù. Nhưng 8 tháng sau, chúng mới thả, bắt về quản thúc tại Quảng Ngãi. Nhờ có bạn bè làm ở dinh quận, dinh tuần vũ, tôi tìm cách trốn đi. Anh em làm cho cái căn cước giả, cho tôi ba đồng bạc (lúc đó quý lắm). Vào Đà Lạt, tôi tá túc ở chỗ anh em cùng trường làm việc ở đấy một thời gian, sau đó về Sài Gòn. Đi xe lửa xuống đến An Lộc, không dám đi qua Biên Hòa, tôi xuống tàu và lại tá túc ở chỗ anh em học cùng trường ra. Từ đó, tôi đi bộ về Chợ Lớn. Sau đó, tôi lại xin làm thợ ở Sở Cao su, Công ty Cuốc Tơ (Cẩm Mỹ ngày nay). Làm 6 tháng, tôi lại về Sài Gòn bắt liên lạc với các đồng chí như Lê Xuân Định học cùng Trường Kỹ nghệ để trở lại hoạt động (năm 1943). Ở trường, tôi hoạt động từ năm 1936, khi tôi ra trường anh mới bắt đầu hoạt động (năm 1939). Lúc này, anh Định đã là đảng viên rồi. Anh báo cho tôi biết, anh Trường Chinh phái các anh Nguyễn Hữu Ngoạn, Nguyễn Hữu Xuyến vào bắt liên lạc với Đảng bộ trong này. Tờ Giải phóng được giao cho tôi, in bằng xu xoa. Báo đã ra được 3 hay 4 số thì Ngoạn từ miền Bắc vào, cho biết ngoài đó người ta in bằng litô. Đưa cho tôi xem một tờ in rất đẹp, nhưng đồng chí chỉ biết là in litô là viết chữ trên đá, còn cách in thế nào thì không rõ. Tôi thấy in litô rất đẹp, nhưng do không biết cách in như thế nào, tôi quyết đi tìm hiểu. Tôi mượn quần áo rất sang đi đến một nhà in (không nhớ tên) nằm trên đường Catinat, gần Nhà hát thành phố, chủ là người Việt. Nhà in lớn, in cả litô và typô. Tôi giả là sinh viên trường Mỹ thuật Hà Nội, người Đà Nẵng. Nói dóc với chủ rằng tôi có ông già khá giả lập một nhà in litô ngoài đó, nhưng thợ dở quá in không được đẹp, nên vào đây tham quan coi thế nào. Người phụ trách nghe tôi nói học trường Mỹ thuật thì thích lắm, đưa tôi đi thăm các chỗ viết, in. Khi đó, tôi mới biết in litô là như thế nào. Dịp may, tôi làm quen với ông quản đốc rồi giả bộ ra về. Nhưng ra ngoài, đợi hết giờ làm việc, tôi kéo anh ta vào khách sạn đãi cốctai hẳn hoi, rồi bàn với anh ta: Nếu anh giúp nhà in của tôi in đẹp thì tôi xin hậu tạ. Anh ta chỉ cho tôi cách viết và in rất chi tiết, làm sao bảo đảm in đẹp. Anh ta còn cho tôi chai mực và dặn: Anh in thử, nếu tốt tôi sẽ ra giúp anh. Vậy là tôi mua một tấm đá cẩm thạch, đồ nghề viết thẳng trên đá bằng tay trái, cuối cùng cũng in đẹp. Mừng quá, tôi đưa một số anh em, có cả Việt Châu - em ruột tôi, cùng viết với tôi. Tôi vừa biên tập vừa in ấn được tờ Giải phóng từ số 6 (hay số 7) đến số 11 thì bị địch bắt. Hồi ấy, tôi mướn nhà ở Tân Định (nay là Xí nghiệp Nông cơ), ban đêm thường đi ngủ chỗ khác. Vào một ngày tháng 5/1944, khoảng 12 giờ đêm, không may, khi tôi chuẩn bị ra về thì trời mưa nên đành ngủ lại. Đúng đêm đó, tôi bị địch bắt. Mật thám, cảnh sát từ Chợ Lớn được điều qua bao vây và bắt chúng tôi. Khi chúng đưa chúng tôi lên xe ngồi chung, tôi dặn anh em cứ đổ hết cho tôi, đừng khai nhận gì hết. Chúng đánh thì cứ đánh, cứ nói đó là của anh Thắng, anh em chỉ ở trọ trong nhà để đi làm. Có hai anh em bị đánh đau quá nên nhận có làm, chúng lại lôi tôi ra đánh. Tôi nói các ông đánh họ đau quá nên họ nhận bậy chớ họ có biết gì. Cứ thế chúng đánh tôi nhiều đòn, do tên Cảnh trực tiếp thực hiện. Ngoạn bị bắt trước tôi cũng bị đánh. Tôi bị tra tấn ở bót Catinat, xong chúng đưa vào Khám Lớn. Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Hải Trừng, Lưu Hữu Phước cũng bị Pháp bắt vào Catinat. Các anh nghe bọn chúng kháo nhau một số người bị bắt, bị tra tấn ở đây mới đưa vào Khám Lớn có tên Thắng đã từng bị Tây quản thúc ở quê là chủ bút, chắc chắn sẽ bị đày ra Côn Đảo, nên khi vào tù các anh đã tìm hiểu tôi là ai, ở đâu và gửi tặng tôi một cái khăn mùi xoa (khăn tay). Sau này, gặp anh Lưu Hữu Phước, anh nhắc tôi mới nhớ ra. Khi anh Nguyễn Hải Trừng ra Đồng Tháp cũng nhắc đã kéo tôi vào cầu tiêu nói chuyện Việt Minh. Như vậy là nhóm đó biết tôi hồi ở bót Catinat.

    Tụi tôi có 9 người, bị chúng đưa từ bót Catinat qua Khám Lớn Sài Gòn. Tôi tưởng chúng nhốt tôi ở khu chính trị, ai ngờ chúng nhốt chúng tôi chung với nhóm Bình Xuyên và bọn cướp ở lầu 3. Thấy một góc chưa có ai, chúng tôi ngồi vào đó tán với nhau để chờ phát cho mỗi người một chiếc chiếu. Thấy tôi lo cho anh em, bọn tù ở đây cho tôi là sếp, kêu tôi tới. Tên Sáu Khải ngồi trên một đống chiếu hỏi tôi: Tụi bây làm sao mà vào đây? Tôi nói tụi tôi không làm gì cả, nghi làm chính trị nên chúng nó bắt. Nó nói tụi bây làm chính trị đó hả, làm chính trị mà không biết tôn ti trật tự là cái gì cả, tại sao không đến đây trình diện? Sáu Khải vừa nói xong, tên Thắm nhào lại đánh tôi, tôi đứng dậy đánh lại một cái. Tụi đứng chung quanh tản ra. Mới đầu có thế thôi, chúng hăm dọa một chút. Nhưng do tôi đánh trả lại nên chúng mới nói chuyện phải chăng: Trong này cũng như ngoài đời, ai vào đây phải qua tôi, các anh là chính trị phạm nên không biết. Thôi về đi, cứ nằm ở đó. Làm cái gì sau này phải xin phép. Tên Sáu Khải là tên trọng án, Pháp nhốt chung để trị bọn tội phạm. Qua đó, tôi mới biết đây không phải là nhóm chính trị mà là bọn mặc rô (ma cô), Bình Xuyên. Tên Bảy Rô là Bình Xuyên cũng bị giam ở đây. Tên Sáu Khải và một tên nữa (tôi không nhớ tên) là sếp bọn này. Biết như thế, tôi bắt đầu vận động, nói chuyện, tìm hiểu người nào không xấu để giác ngộ dần một số người Bình Xuyên và một số ăn cắp dây đồng. Bảy Rô là một trong số được tôi giác ngộ. Tên Mười Một cũng được giác ngộ, nhưng sau ra kháng chiến nó phản thùng. Tên Thắm bị tôi đánh nên căm lắm, nó mài một cây sắt định đâm tôi, nhưng nhờ giác ngộ một số anh em như Bảy Rô, nên họ chia nhau canh gác ngày đêm đề phòng hắn đâm tôi. Bảy Rô sau ra kháng chiến giữ vững tinh thần từ đầu đến cuối. Còn Mười Một thì hỏng. Các tay khác tôi không gặp lại.

    Ngày 22/8/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim thả tù chính trị nên tôi được tự do. Ngày 25/8/1945, chúng tôi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn.

    Khi ra tù, tôi bắt liên lạc ngay với Xứ ủy và được phân công về Kỳ bộ Việt Minh do anh Nguyễn Văn Nguyễn phụ trách. Khi ấy tình hình nội bộ ở Sài Gòn cũng phức tạp. Nhóm Tiền phong do anh Giàu, anh Giáp, anh Khiêm... phụ trách. Nhóm Giải phóng do anh Dân Tôn Tử, anh Khương, chị Thập... phụ trách, không muốn đứng cùng đội hình với nhóm Tiền phong vì nghi kỵ lòng trung thành của các anh ấy và khác nhau về chủ trương.

    Khi tôi bị bắt, anh Lê Hữu Kiều thay tôi phụ trách tờ Giải phóng. Nhóm Giải phóng liên lạc với Trung ương, nên nói chung hoạt động nắm vững đường lối của Đảng hơn. Nhưng khi chúng tôi bị bắt thì đứt liên lạc với Trung ương và mãi đến năm 1945 Trung ương mới liên lạc được với Nam Bộ nhưng với nhóm Tiền phong.

    Ngày 23/9/1945, Pháp đánh ta. Cuộc kháng chiến ở Nam Bộ bùng nổ. Tôi bắt đầu là người lính cách mạng từ đấy. Và trận đầu là gậy tầm vông đánh giữ mặt trận Cầu Bông trong nội đô.

    Sau ngày 23/9/1945 ít lâu, mặt trận Sài Gòn vỡ. Cơ quan lãnh đạo ta dồn về Mỹ Tho. Tôi xin ở lại chiến đấu tại Sài Gòn. Lúc này, đáng lẽ sau khi giành được chính quyền ta phải giáo dục cách mạng, vũ trang quần chúng ngay, tổ chức lực lượng vũ trang trung kiên do Đảng lãnh đạo. Nhưng, khi ấy lại dựa vào 4 sư đoàn tự lập bao gồm lính phòng vệ đoàn của Nhật và lính của Pháp vừa chạy theo cách mạng, có bổ sung một số thanh niên do mật thám Nhật - Pháp chỉ huy như Nguyễn Hòa Hiệp, Lý Hoa Vinh..., không có một nhà cách mạng, một đảng viên cộng sản nào. Sau đó, bốn sư đoàn này không đánh giặc, mà lại chạy ra ngoại thành tước vũ khí của dân quân và cướp bóc nhân dân. Cùng lúc đó còn có lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo càng làm cho tình hình thêm phức tạp.

    Do đó, tôi cùng các anh Hoàng Dư Khương, Lê Minh Định (trong Xứ ủy Giải phóng) bàn bạc với nhau ra họp Tỉnh ủy Gia Định (nhóm Giải phóng) để bàn việc phải thành lập quân đội, phải nắm lực lượng vũ trang mới bảo vệ được chính quyền cách mạng. Chúng tôi lập ra “Giải phóng quân liên quận Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa” (3 địa phương có cơ sở mạnh). Anh Tô Ký trong Tỉnh ủy Gia Định làm Chỉ huy trưởng, anh Hoàng Dư Khương trong Xứ ủy Giải phóng làm Chính trị viên. Tôi lo công tác Đảng và quần chúng. Sau một tháng, anh Khương đề nghị thay đổi nhiệm vụ giữa tôi và anh ấy, được tập thể đồng ý. Thế là tôi làm Chính trị viên.

    Tình hình miền Nam lúc đó rất khó khăn mặc dầu được sự tăng cường của các lực lượng Nam tiến và anh Nguyễn Bình được Trung ương cho vào chỉ huy Khu 7 (miền Đông), anh Đào Văn Trường chỉ huy Khu 8 (miền Trung), anh Vũ Đức (người dân tộc Tày cùng vào với anh Nguyễn Bình) chỉ huy Khu 9 (miền Tây).

    Theo quyết định của Trung ương, anh Trần Văn Giàu ra Bắc, hai Xứ ủy Tiền phong và Giải phóng hợp nhất, mời bác Tôn Đức Thắng làm Bí thư Xứ ủy, bác không nhận, giới thiệu anh Lê Duẩn.

    Trên đường ra Trung ương, tháng 3/1946, anh Lê Duẩn gặp tôi, bàn đưa một bộ phận lực lượng “Giải phóng quân liên quận” tăng cường cho Khu 8 và tôi phải chịu trách nhiệm củng cố, chấn chỉnh Khu 8.

    Tôi cùng anh em Khu 8 lập ra Chi đội 14 (như trung đoàn sau này), tôi là Chi đội trưởng và bắt đầu xây dựng Đồng Tháp Mười làm căn cứ địa.

    Sau khi anh Lê Duẩn ra Bắc, các anh Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Lê Văn Lương và một số anh nữa cũng ra. Các anh khác như Phạm Hùng, Hà Huy Giáp..., tản mát khắp nơi. Xứ ủy không còn. Anh Phạm Văn Bạch - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính cũng ra Trung ương, bộ máy lãnh đạo hầu như không còn. Ở các tỉnh thì vẫn có hai tỉnh ủy Tiền phong và Giải phóng. Giữa lúc đó, địch đánh bung ra. Ta mạnh đâu đánh đấy. Nhiều nơi tan rã. Xây dựng được Chiến khu 8 (Đồng Tháp Mười), thì anh Ung Văn Khiêm từ Khu 9 lên gặp tôi đề nghị tôi tổ chức cho anh ấy ra Trung ương báo cáo tình hình. Tôi giữ anh ấy lại không cho đi vì đã có quá nhiều người ra Trung ương báo cáo rồi. Tôi cùng anh Khiêm đứng ra thay mặt cho nhóm Giải phóng và Tiền phong triệu tập lập nên Xứ ủy Đảng lâm thời do anh Khiêm làm Bí thư và tiếp tục thống nhất, củng cố các tỉnh ủy. Sau đó Xứ ủy xây dựng lại Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ do anh Phạm Ngọc Thuần làm quyền Chủ tịch, anh Ung Văn Khiêm làm Ủy viên nội vụ, anh Nguyễn Bình là Ủy viên quân sự.

    Đây là việc làm quan trọng, củng cố được bộ máy lãnh đạo toàn Nam Bộ cả về Đảng và chính quyền, đem lại tin tưởng cho nhân dân trong tình thế gay go của những ngày đầu kháng chiến lúc bấy giờ. Chúng tôi cũng xây dựng được lực lượng vũ trang Khu 8 và bắt đầu hoạt động đồng đều và vững.

    Tháng 9/1946, Trung ương chỉ định tôi làm Khu trưởng Khu 8, anh Nguyễn Văn Vịnh làm Chính trị viên, anh Trương Văn Giàu làm Khu phó. Tháng 11/1946, chúng tôi họp hội nghị toàn khu lần đầu tiên để củng cố tổ chức bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ. Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính đóng trên địa bàn Khu 8 tại Đồng Tháp Mười cũng tạo thêm điều kiện cho khu có nền nếp hoạt động vững vàng.

    Cũng đúng tháng 11/1946, anh Vũ Đức - Chỉ huy Khu 9 ra Bắc bị phục kích, hy sinh, Trung ương chỉ định anh Huỳnh Phan Hộ làm Khu trưởng Khu 9, anh Phan Trọng Tuệ làm Chính trị bộ.

    Năm 1947, anh Lê Duẩn vào gặp chúng tôi ở Đồng Tháp Mười. Tình hình kháng chiến Nam Bộ đang lên mạnh, Xứ ủy chính thức được bầu trong một cuộc hội nghị tại Đồng Tháp Mười do anh làm Bí thư.

    Cuối năm 1947, đơn vị chủ lực cơ động đầu tiên của Nam Bộ được thành lập, đó là Tiểu đoàn 307 thuộc Khu 8. Sau đó các khu cũng thành lập những tiểu đoàn chủ lực.

    Giữa năm 1948, Trung ương yêu cầu đoàn đại biểu quân - dân - chính Nam Bộ ra báo cáo. Tôi ra Việt Bắc và đây là lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ - đồng chí Nguyễn Ái Quốc mà khi còn hoạt động bí mật trước năm 1945, tôi đã từng biết qua tài liệu và tiếng tăm.

    Có những đơn vị chủ lực lại có sự củng cố, phát triển các lực lượng địa phương và dân quân du kích nên có được những trận đánh thắng lợi có tiếng vang như trận Cổ Cò, trận Giồng Dứa trên quốc lộ 4, trận đánh chìm tàu trên kênh Sở Thượng của Khu 8; trận Tầm Vu, trận Mương Điều của Khu 9; trận La Ngà, Trảng Táo của Khu 7. Các chiến dịch Trà Vinh, Cầu Kè, Lê Hồng Phong đã nâng tầm chỉ đạo tác chiến, sáng tạo chiến thuật đánh địch chứng tỏ một bước trưởng thành của lãnh đạo cùng quân và dân Nam Bộ. Tôi được phân công làm Phó Tư lệnh Nam Bộ, anh Nguyễn Bình là Tư lệnh.

    Năm 1949, chuẩn bị “Tổng phản công”, tôi được điều về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy khu Sài Gòn - Gia Định. Năm 1950, Trung đoàn 306 của khu bắn pháo vào tàu Mỹ ở Sài Gòn, kết hợp cùng với phong trào sinh viên học sinh biểu tình chống Mỹ rầm rộ đuổi tàu Mỹ chạy khỏi Sài Gòn.

    Năm 1951, anh Nguyễn Bình ra Bắc, trên đường đi trên đất Campuchia gặp lính tuần tiễu Campuchia, anh hy sinh.

    Và lúc đó, Nam Bộ cũng được chia thành 2 phân liên khu: miền Đông gồm các tỉnh tả ngạn, miền Tây gồm các tỉnh hữu ngạn sông Tiền Giang.

    Miền Đông, tôi làm Tư lệnh, anh Phạm Hùng làm Chính ủy, anh Nguyễn Văn Vịnh làm Phó Tư lệnh.

    Miền Tây, anh Lê Hiến Mai làm Tư lệnh, anh Phan Trọng Tuệ làm Chính ủy. Anh Lê Đức Thọ phụ trách miền Tây.

    Năm 1952, miền Đông bị lụt lớn, mất mùa nghiêm trọng. Miền Tây huy động gạo cứu giúp cũng đỡ cho một phần. Nhưng vẫn đói ghê gớm. Lợi dụng tình thế đó, địch bắn phá, càn quét dữ dội.

    Có thể nói, thời kỳ cuối năm 1946 và năm 1947-1948, phong trào kháng chiến Nam Bộ lên mạnh và đặc biệt là thời kỳ 1953-1954 ta thắng lớn thì Nam Bộ cũng có hai thời kỳ khó khăn nhất. Đó là năm 1945 và đầu năm 1946 và thời kỳ 1952-1953.

    Năm 1952, anh Lê Duẩn ra Bắc. Rút kinh nghiệm sự hy sinh của anh Vũ Đức, anh Nguyễn Bình, anh Lê Đức Anh lúc đó là Tham mưu trưởng Khu 7 đi theo tổ chức đưa anh ra thật an toàn. Anh Lê Duẩn ở lại Trung ương tới năm 1954 sau Hiệp định Giơnevơ mới lại vào. Đáng tiếc hai thời kỳ khó khăn nhất của Nam Bộ, năm 1945-1946 và năm 1952-1953 không có sự chỉ đạo trực tiếp của anh.

    Sau Hiệp định Giơnevơ, tháng 9/1954 tôi chỉ huy lực lượng tập kết ra Bắc và làm Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam.

    Năm 1956-1958, tôi đi học ở Liên Xô cùng 5 anh khác là Nam Long, Vũ Yên, Vũ Lăng, Đỗ Đức Kiên và Nguyễn Văn Minh. Đây là đoàn cán bộ Việt Nam đầu tiên học ở Học viện cao cấp Liên Xô. Nhưng rồi tôi bị bệnh phải về. Năm 1960-1961 lại sang học cùng với một số anh khác.

    Từ năm 1959, sau khi có Nghị quyết Trung ương 15, tôi đã xin đi vào Nam, nhưng bệnh chưa lành, không được đi. Sau ngày có Nghị quyết Trung ương 15, việc tổ chức lực lượng cán bộ tập kết ra Bắc trở vào Nam là một yêu cầu chính đáng. Tôi và anh Vịnh đề đạt với Tổng Bí thư và được chấp thuận. Việc phải có đường là việc cấp bách. Tôi được Trung ương và Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ tổ chức đường này. Trước nhất là vào đến Khu 5. Tôi mời anh Võ Bẩm, giao cho anh ấy đi thực hiện cụ thể kế hoạch. Tôi và anh Vịnh gặp anh Lê Duẩn, đề nghị cán bộ tập kết vô Nam. Anh Lê Duẩn chưa đồng ý ngay, nói: “Bộ Chính trị chưa bàn!”. Chúng tôi xin cho 100 anh em đã học lục quân vô trước. Anh suy nghĩ rất lâu. Chúng tôi nài xin 50 cũng được. Anh cũng cho là nhiều quá. Nếu chỉ 25 thôi thì anh có thể quyết định rồi sẽ báo cáo lại với Bác và Bộ Chính trị. Chúng tôi mừng quá, miễn được bước đầu đột phá thành công đã. Anh dặn phải tuyệt đối bí mật. Tôi đã chọn 25 người. Bắt đầu huấn luyện về quân sự, mọi kỹ năng chiến đấu. Trong lúc đó tôi lại tổ chức một đoàn đi xoi đường vào Nam Bộ và điện cho Trung ương Cục cử người đi ngược ra đón. Tháng 12/1960, đoàn vào tới nơi vừa kịp dự lễ thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đó là đoàn đầu tiên đi đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam. Từ đường mòn đi bộ, mang gùi trên lưng sau thành đường xe thồ. Đến năm tôi vào Nam chiến đấu với cương vị Chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam thì tôi bàn giao lại việc tổ chức chỉ đạo con đường 559 cho Bộ Tổng Tham mưu phụ trách và phát triển.

    Nói đến đường mòn Hồ Chí Minh trên Trường Sơn thì cũng phải ghi nhớ tới đường Hồ Chí Minh trên biển. Cùng thời làm Đường 559, tôi cũng giao cho anh Võ Bẩm tổ chức vận tải đường biển cho Khu 5 lấy tên Đường 759 (vào tháng 7/1959), nhưng thất bại, phải tạm ngừng. Đến năm 1960-1961, Trung ương Cục miền Nam cho các tỉnh ven biển Nam Bộ phái các thuyền nhỏ ra Bắc xin vũ khí. Có chiếc tới nơi, có chiếc bị nạn hay bị bắt. Do đó, Trung ương lại giao cho Quân ủy Trung ương nghiên cứu tổ chức đường biển. Tôi được giao nhiệm vụ này. Khi đã nghiên cứu xong phương án khả thi, trình với Quân ủy Trung ương, anh Võ Nguyên Giáp hỏi: Có đảm bảo 50%? Tôi xin đảm bảo được. Quân ủy đồng ý. Chuyến đầu đi tàu gỗ khởi hành năm 1962, chở 28 tấn vũ khí, cập bến Rạch Gốc, thuộc Cà Mau thành công. 5, 6 chuyến sau cũng bằng tàu gỗ như vậy đều an toàn. Sau đó, ta chủ trương đóng tàu lớn (trọng tải 100 tấn) trong thời gian ngắn (6 tháng) để chở được nhiều vũ khí hơn. Vừa thuyết phục, vừa lệnh, vừa cùng chịu trách nhiệm, có anh Đảnh đảm bảo về kỹ thuật, nên các kỹ sư đã đồng ý và tích cực thực hiện. Chiếc thứ nhất đóng xong, đúng 6 tháng mà đáng lý ra phải hơn 2 năm. Đây là một kỳ công. Chạy thử chuyến đầu được Bác Hồ tới thăm và khen ngợi. Điều này chứng tỏ tầm nhìn của Bác, không chỉ quan tâm những việc lớn mà cả những việc cụ thể có tầm quan trọng và ảnh hưởng lâu dài. Bởi vì, với đường biển đó, từ năm 1962 đã mang được những thứ vũ khí mà phải năm 1970, Đường 559 mới thực hiện được. Sau anh Nguyễn Văn Đảnh được phong Anh hùng Lao động và Bông Văn Dĩa - người thuyền trưởng chiếc tàu gỗ đầu tiên được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Cũng năm 1963, tôi bàn giao đường này cho Bộ Tổng Tham mưu phụ trách và về sau Bộ Tổng Tham mưu lại giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân, đổi thành Đoàn 125. Thời gian tôi phụ trách con đường này, may thay đã đi được nhiều chuyến và đạt tỷ lệ an toàn, thắng lợi 100%. Thế là trong Nam đã có khung cán bộ quân sự được đào tạo cơ bản, chính quy, có vũ khí nặng để xây dựng đơn vị chủ lực.

    Năm 1963, tôi được vào trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cùng đồng bào Nam Bộ. Tôi thay anh Quang lập Bộ Chỉ huy các lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi xin Trung ương Cục tuyển thanh niên chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và chuyển vũ khí từ miền Tây về Sông Bé và Bắc Tây Ninh nơi căn cứ rừng núi có Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đóng để xây dựng lực lượng chủ lực. Anh Nguyễn Văn Linh - Bí thư Trung ương Cục lúc ấy nhất trí. Nhưng cuộc đấu tranh về quan điểm quân sự này phải tới năm 1967 mới được anh em chấp nhận hoàn toàn, mặc dầu từ năm 1963 đã có trận Ấp Bắc chiến thắng vang dội như vậy theo cách đánh của chủ lực kết hợp quân sự, chính trị, binh vận; năm 1965, ta có chiến dịch Bình Giã kết hợp chính quy và du kích.

    Nhờ có chủ lực, tháng 01/1965, mới có chiến dịch Bình Giã, tiêu diệt 3 tiểu đoàn địch, 3 tiểu đoàn khác bị đánh thiệt hại nặng, 4 - 5 tiểu đoàn nữa bị tan tác. Chiến dịch này có tính quyết định kết thúc chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Tháng 12/1964, đã có trận đánh sân bay Biên Hòa của pháo binh và đặc công quân giải phóng làm Mỹ kinh hoàng.

    Mỹ vào, bắt đầu thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Những trận đầu đánh Mỹ: Ở Quảng Nam có trận Núi Thành, Quảng Ngãi có trận Vạn Tường, trong này có chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng. Rồi năm 1967, chiến đấu ngày một quyết liệt và quân Mỹ từ 20 vạn năm 1965, năm 1966 tăng lên 40 vạn, sau lên nửa triệu quân Mỹ, rồi quân đội các nước chư hầu và ngụy tổng cộng lên tới một triệu. Rồi B-52 với bom rải thảm, chất độc hóa học tràn lan.

    Sau thất bại trong Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” “hòng giành thắng lợi cuối cùng” nhưng vẫn thất bại nên phải rút quân năm 1973. Xuân năm 1975 ta đại thắng. Điều này sử sách đã nói nhiều, tuy nhiên tôi cũng muốn nói thêm một chút về Tết Mậu Thân năm 1968. Thật ra, trận đánh lớn như thế này mà chiến trường chỉ được biết trước có ba tháng. Ban đầu, anh Lê Đức Anh vào truyền đạt nghị quyết của Bộ Chính trị. Sau đó, anh Hoàng Văn Thái và anh Phạm Hùng. Nhưng cũng may là từ năm 1964-1965, chúng tôi đã có một bước chuẩn bị “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” theo Nghị quyết Trung ương 9 năm 1963 nhằm vào toàn bộ đô thị, nhất là ở Sài Gòn nên đã có tổ chức một bộ phận lực lượng bố trí sẵn ở vùng ven và nội thành Sài Gòn bám các mục tiêu quan trọng. Trước khi đánh, tôi phải ra Hà Nội để báo cáo xin duyệt kế hoạch, chỉ có anh Duẩn - Tổng Bí thư, anh Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nghe và giữ tuyệt đối bí mật. Rồi cấp tốc về ngay triển khai trận đánh. Cách đánh Tết Mậu Thân rất độc đáo, giành thắng lợi lớn lao tạo ra bước ngoặt chiến lược lớn nhất của chiến tranh, buộc Mỹ phải về nước để ta đánh cho ngụy nhào.

    Trong Mậu Thân, cả bên ta và bên địch đều thiệt hại nặng, nặng nhất so với bất kỳ thời chiến tranh nào. Thắng càng lớn thì trả giá càng cao, đó là tất nhiên. Nhưng ta bổ sung và củng cố được đòi hỏi cả năm, còn Mỹ - ngụy chỉ 2 tháng. Vì vậy mà Mỹ lợi dụng thời cơ phản kích ác liệt bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Ta gặp muôn vàn khó khăn trong năm 1969-1970. Tuy vậy, năm 1970 ta đã giúp nhân dân Campuchia giải phóng gần hết bảy tỉnh đông sông Mê Kông và một phần lớn các tỉnh Kompong Thom, Siêm Riệp bên tây sông. Qua năm 1971 trở đi ta lại chủ động tấn công, đã thắng lớn năm 1972, đi tới Hiệp nghị Paris. Nhưng Mỹ - ngụy không thi hành Hiệp nghị quốc tế này mà tưởng có thể thắng ta. Vì vậy mà có chiến thắng có tính chất chiến lược Phước Long, đòn thử sức và thử ý chí cả Mỹ và ngụy. Từ Phước Long đến Sài Gòn, việc phải đến đã đến. Chiến dịch Phước Long giúp đánh giá chính xác tình hình ta - địch, nhất là Mỹ để đi đến quyết định lịch sử: Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và kết thúc chiến tranh với Chiến dịch Hồ Chí Minh.

    Tôi lại trở về Sài Gòn, nơi tôi đã từ đó ra đi kháng chiến năm 1945 và cũng là nơi tôi làm Trưởng đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên tại Tân Sơn Nhất năm 1973. Nhưng lần này, ngày 30/4/1975, tôi cùng đoàn quân về Sài Gòn. Sài Gòn thực sự đã là Thành phố Hồ Chí Minh, tôi làm Chủ tịch Ủy ban quân quản ngay tại Dinh Độc Lập - Hội trường Thống Nhất ngày nay...



(https://i.imgur.com/UhxFjQN.jpg)


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:24:18 am
(https://i.imgur.com/8XYOMfE.jpg)


(https://i.imgur.com/jmvwNPY.jpg)


(https://i.imgur.com/H194o37.jpg)


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:34:03 am
NAM BỘ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


       Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã diễn ra ở Nam Bộ từ tháng 9/1945 đến tháng 7/1954, sẽ là thiếu sót nếu trước đó không nhắc lại diễn biến của Cách mạng Tháng Tám dù chỉ rất vắn tắt. Giành được chính quyền và 29 ngày sống trong độc lập, tự do sau đó cho đến lúc quân Pháp nổ súng gây hấn là khoảng thời gian quá ngắn ngủi nhưng vô cùng quý báu để giúp nhân dân Nam Bộ, nhân dân Sài Gòn tự khẳng định lại mình, hun đúc cho mình ý thức tự tôn dân tộc mãnh liệt. Hai mươi chín ngày quả không đủ để chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất như súng đạn, lương thực, binh lực cho chiến tranh, nhưng trong thời gian ngắn đó, quân dân Nam Bộ đã chuẩn bị đầy đủ tinh thần đặng bước vào cuộc chiến đấu mà lúc đầu thế và lực ta so với địch như “châu chấu đá xe”, “trứng chọi với đá”. Yếu tố tinh thần này chính là thành quả do Cách mạng Tháng Tám đem tới.


                     

CHƯƠNG I
Cách mạng Tháng Tám và tinh thần dân tộc quật khởi



    Nhắc lại diễn tiến cuộc Cách mạng Tháng Tám cũng không thể không nói sơ qua bối cảnh Nam Bộ lúc đó, một bối cảnh hết sức đặc biệt so với cả nước, trong đó khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Nhưng Nam Bộ đều vượt lên trên mọi trở ngại để đưa cách mạng đến thành công cùng một lúc với cả nước.

    Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11/1940, một cuộc diễn tập dữ dội dù thất bại vì chưa hội đủ điều kiện khách quan và chủ quan. Thực dân Pháp có phátxít Nhật phụ họa ra sức khủng bố, dìm phong trào cách mạng trong biển máu. Không chỉ các chiến sĩ nghĩa quân mà hàng ngàn đồng bào cùng bị lùng bắt, tra tấn. Nhiều người bị giết hại một cách thảm thương. Có thể kể: Vụ tên cò Tây ở Bà Điểm (Gia Định) cho chó bẹc giê xồ vào cắn xé người đến chết; vụ tên đốc phủ Nguyễn Văn Tâm cột xâu hàng mấy chục người rồi thả xuống sông Tiền Giang; máy bay Nhật thả bom trong buổi chợ Vĩnh Kim (Mỹ Tho) đang đông, trên 100 người mà đa số là đàn bà bị thiệt mạng và bị thương.

    Tổn thất nặng nề là từ đó đến cuối năm 1941 hầu hết các cấp ủy Đảng Cộng sản đều tan vỡ và sa lưới kẻ thù, lớp bị tù đày, lớp bị bắn chết. Đường dây liên lạc với Trung ương bị cắt đứt, đó là khó khăn rất lớn.

    Tuy nhiên, địch không thể “làm cỏ” hết những người cộng sản cũng như không thể dập tắt lòng yêu nước thương nòi của người dân Việt. Đảng viên nào còn lọt lưới địch vẫn tiếp tục bám sát đồng bào để hoạt động, dù phải ăn bờ ở bụi hoặc chuyển vùng hoạt động. Vì vậy một số cơ sở dần dần được khôi phục trước tiên ở vùng Hậu Giang, Rạch Giá.

    Lúc này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ nước ngoài về chiến khu Việt Bắc, lãnh đạo trực tiếp cách mạng. Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám tại Pác Bó từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Người gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: Hãy kịp đứng lên tổ chức hội cứu quốc chống Pháp, chống Nhật... và phải đoàn kết lại đánh đổ Pháp, Nhật và tay sai của chúng để cứu dân ta khỏi vòng nước sôi lửa bỏng.

    Đầu năm 1942, một cán bộ của Trung ương phái vào đã tìm được Liên tỉnh ủy Hậu Giang và giao một số tài liệu quan trọng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, Điều lệ Việt Minh, Điều lệ các đoàn thể cứu quốc và bức thư của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

    Rồi Hậu Giang liên lạc được với Sài Gòn - Gia Định, bàn bạc với nhau hoạt động theo đường lối chung, thành lập Ban Cán sự lâm thời Đảng bộ Nam Bộ (chưa có điều kiện thành lập Xứ ủy), thành lập Việt Minh Nam Bộ với cơ quan tuyên truyền là tờ báo Giải phóng. Phong trào phát triển từ thấp lên cao.

    Các cấp ủy đảng của các tỉnh miền Đông, miền Tây, sau khi xây dựng lại với Ban Cán sự lâm thời Nam Bộ, vừa củng cố tổ chức đảng vừa chú trọng xây dựng các hội cứu quốc. Tuy nhiên, phong trào cũng chỉ giới hạn trong nông dân và lao động ở nông thôn là chính chứ chưa phát huy ảnh hưởng được đến các tầng lớp khác, chưa đi sâu được vào thành thị. Công tác vận động vẫn theo phương pháp bí mật.

    Đáng tiếc là ở thời điểm cuối năm 1943 đầu năm 1944, trong nội bộ Đảng bộ Nam Bộ nảy sinh một vấn đề phức tạp có ảnh hưởng không thuận lợi đến tiến trình lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám trong xứ và sau Cách mạng Tháng Tám hậu quả của nó phải khắc phục trong thời gian dài.

    Một số đảng viên phần lớn trước đây hoạt động công khai trong phong trào Mặt trận dân chủ họp lại thành lập một tổ chức đảng riêng biệt, có hệ thống từ xứ đến các tỉnh, cơ quan tuyên truyền và tập hợp đảng viên là tờ báo Tiền phong. Theo phương pháp hoạt động công khai, hệ thống Đảng Tiền phong phát triển nhanh chóng trong tầng lớp tiểu tư sản, trí thức và tầng lớp trên ở Sài Gòn cũng như các thành phố, thị xã, thị trấn.

    Hai hệ thống tổ chức đảng khác nhau đã đành mà đường lối chính trị cũng có chỗ khác nhau. Đâu đó chẳng những làm cho lực lượng cách mạng bị phân tán mà sức mạnh lãnh đạo cũng không tập trung được.

    Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, dân ta chỉ được phátxít Nhật cho hưởng cái “độc lập bánh vẽ”. Hơn cả Pháp trước đây, chúng càng thẳng tay bóc lột, vơ vét của cải, chiếm đất, đuổi nhà, bắt lính, mở nhiều công trường quân sự, xưởng đóng tàu, sân bay phục vụ cho chiến tranh.

    Trước tình hình mới, ngày 25/3/1945, Ban Cán sự lâm thời Đảng bộ Nam Bộ họp tại Xoài Hột (Mỹ Tho) nhận thấy cần chuyển thành Xứ ủy lâm thời Nam Bộ và cần gấp rút hợp nhất hai Xứ ủy.

    Tháng 4/1945, hai Xứ ủy Giải phóng và Tiền phong gặp gỡ hai lần tại Bà Điểm (Gia Định) và Trung Lương (Mỹ Tho), nhất trí với nhau đi đến thành lập Ban thống nhất hành động từ xứ đến tỉnh. Còn những vấn đề khác chưa giải quyết được như Mặt trận Việt Minh, đường lối quân sự, khẩu hiệu tuyên truyền tạm thời gác lại.

    Cũng thời gian này, để tập hợp quần chúng, Xứ ủy Tiền phong chủ trương thành lập Đoàn Thanh niên Tiền phong hoạt động hợp pháp và công khai. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - một đảng viên mới, có uy tín trong nhân dân đứng ra xin phép tên Minoda cho lập đoàn thể này. Tên Thống đốc đồng ý vì thâm tâm muốn lợi dụng tổ chức Thanh niên Tiền phong làm công cụ phục vụ chúng.

    Ngày 15/5/1945, Hội nghị thành lập Đoàn Thanh niên Tiền phong tổ chức tại chùa Phú Lạc, Chợ Lớn, có đại biểu nhiều tỉnh về dự. Hiệu cờ là nền vàng sao đỏ, khác với hiệu cờ Việt Minh là nền đỏ sao vàng. Từ đây Thanh niên Tiền phong trở thành một đoàn thể hợp pháp và công khai thu hút nhiều tầng lớp tham gia, bên cạnh đại đa số là công chức, trí thức, học sinh sinh viên còn có cả các cụ già. Nhờ có một số đồng chí cộng sản có tên tuổi đứng ra làm thủ lĩnh và hoạt động sôi nổi theo chương trình tập luyện quân sự, giữ gìn trật tự, học tập văn hóa, tuyên truyền văn nghệ..., nên Thanh niên Tiền phong phát triển rất nhanh, rất mạnh, riêng thành phố Sài Gòn đã có hàng trăm ngàn đoàn viên 1.

    Mặt khác, từ tháng 5/1945, phong trào Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Giải phóng cũng trở thành một cao trào hầu như công khai và nửa công khai, thu hút đông đảo đồng bào tham gia, đến lúc này không còn giới hạn trong nông thôn mà tỏa ảnh hưởng về cả thành thị. Mười tỉnh thành lập được tỉnh ủy lâm thời và sáu tỉnh có ban cán sự tỉnh.

    Nói như vậy để thấy tinh thần cách mạng của nhân dân và những cố gắng của hai xứ ủy lâm thời Nam Bộ dù thuộc hệ thống Giải phóng hay Tiền phong. Mặt khác, cũng để thấy sự khó khăn, phức tạp của tình hình lúc đó, một tình hình rất đặc biệt so với tất cả mọi nơi khác trên toàn quốc. Việc hợp nhất giữa hai xứ ủy Giải phóng và Tiền phong không tiến triển thêm được mà có lúc mâu thuẫn gay gắt. Vì các xứ ủy, tỉnh ủy thuộc hai hệ thống đảng khác nhau tất có lúc nhận định một vấn đề khác nhau, đề ra chủ trương, hành động cũng khác nhau 2.

    Một số tổ chức, đảng phái có tính chất cơ hội cũng nhân việc Nhật hất cẳng Pháp đua nhau xuất hiện, làm cho tình hình càng thêm phức tạp. Trước đây chúng được Nhật dung dưỡng hoạt động lén lút, nay ra mặt công khai: Quốc gia độc lập đảng của Hồ Văn Ngà, Việt Nam phục quốc đồng minh hội của Trần Văn Ân, Thanh niên ái quốc đoàn của Đinh Khắc Thiệt, Thanh niên Việt - Nhật phòng vệ đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, Võ sĩ đoàn của Vũ Trâm Anh, Nghĩa đạo thực hành của Trần Quang Vinh và Lương Văn Tương... Nếu một số cầm đầu cấu kết với nhau lải nhải tuyên truyền cho chủ nghĩa Đại Đông Á và tô son trét phấn cho nền độc lập giả hiệu vừa được Nhật cho không, thì những tên khác như Trần Quang Vinh, Lương Văn Tương lại chủ trương rước Kỳ Ngoại hầu Cường Để từ Nhật Bản về nước làm vua.

    Nguy hiểm hơn, còn có cả bọn tờrốtkít đứng đầu là Tạ Thu Thâu chui vào các tổ chức chính trị và giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo hoạt động, mưu toan đứng ra lập một chính phủ thân Nhật và chống Việt Minh. Tên tờrốtkít Huỳnh Văn Phương được Nhật trao chức Trưởng công an Sài Gòn - Chợ Lớn đã cấu kết với bọn Trần Quang Vinh, Lương Văn Tương, Nguyễn Hòa Hiệp, Đinh Khắc Thiệt... làm chỗ dựa cho quân Nhật đàn áp nhân dân.

    Phân tích tình thế chung trên thế giới và ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng Cộng sản kêu gọi toàn Đảng, toàn dân sửa soạn hành động:

         Gươm đây, gươm đây
         Thời cơ đang đến
         Tiến lên! Tiến lên! Theo cờ Việt Minh!
3.

    Nhưng rõ ràng, Nam Bộ là khâu yếu nhất. Mà nếu Nam Bộ không hợp đồng ăn khớp với Bắc Bộ, Trung Bộ, cách mạng cả nước nhất định gặp khó khăn lớn. Hơn nữa, còn có thêm bài học lịch sử: Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, dù 18 tỉnh hành động nhưng Sài Gòn bị bó tay, khởi nghĩa cũng thất bại.

    Lại còn nói thêm là Nam Bộ ở quá xa sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Hội nghị Tân Trào tháng 8/1945 chỉ có hai đại biểu của Xứ ủy Tiền phong là Hà Huy Giáp và Ung Văn Khiêm có mặt. Còn ba đại biểu của Xứ ủy Giải phóng là Lê Hữu Kiều, Lý Phú Xuân và Nguyễn Thị Thập đến Hà Nội thì ở đây đã khởi nghĩa thắng lợi. Nhưng nhìn lại và lấy mốc hồi Nhật đảo chính Pháp tháng 3/1945, lúc đó địch rất mạnh và hùng hổ còn ta đang yếu, đến tháng 7/1945, lực lượng so sánh đã nghiêng hẳn về ta, dù có những khó khăn phức tạp như đã nói ở trên, địch suy sụp hẳn. Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa khẩn trương, sôi nổi khác thường. Về điểm này, tôi sẽ có dịp nói kỹ ở phần sau.




------------------------------------------------------------------
1. Theo một bản hồi ký của đồng chí Hà Huy Giáp trong phong trào Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn có cả công nhân tham gia làm nòng cốt, nếu không như vậy cũng không mạnh được.

2. Trung ương Đảng nắm được tình hình này nên kêu gọi: “Các đồng chí hãy đoàn kết lại, kịp thời gác bỏ thành kiến mà đi vào đường lối của Đảng, thủ tiêu khẩu hiệu của riêng mình mà theo khẩu hiệu của Đảng” (Báo Cờ giải phóng, số 15, ra ngày 17/7/1945).

3. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi kể lại như một kỷ niệm không thể quên, khi đi dự Hội nghị Tân Trào bàn việc tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, anh đã hát bài Theo cờ Việt Minh do anh sáng tác với lời: “Gươm đâu, gươm đâu...”, tức thì Bác Hồ nói: Bây giờ phải sửa lại “Gươm đây, gươm đây...” thì mới theo kịp tình hình.



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:43:04 am
*
*      *


    Giữa tuổi 25 đầy sinh lực, tôi được chứng kiến và hơn vậy, được tham gia cuộc Cách mạng Tháng Tám tại Sài Gòn. Tôi coi đó là hạnh phúc trong cuộc đời mình.

    Vốn sanh ra và lớn lên ở Quảng Ngãi, mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, tôi được giác ngộ và bắt đầu hoạt động cách mạng từ năm 1936. Năm 1939, tôi bị địch bắt giam ở Huế 6 tháng rồi giải về quản thúc tại quê nhà 12 tháng. Năm 1941, kiếm được một giấy thông hành giả và xin được ba đồng, tôi quyết định trốn vô Đà Lạt là nơi đất rộng người thưa tận trên cao nguyên, địch ít dòm ngó. Ẩn ở đó thời gian ngắn, tôi vẫn bơ vơ một mình, nên lần xuống mạn An Lộc (Dầu Giây). Tại đây, tôi được một người bạn là Nhâm, đút tiền làm giúp một giấy thuế thân với tên Lê Văn Thắng, ngụ tại Chợ Lớn. Đáng lẽ tôi có thể đàng hoàng sống tại đây, nhưng khi làm giấy thấy địch bắt điểm chỉ quá kỹ nên hơi chờn, lại trở ra vùng Biên Hòa và xin vô làm xu (surveillant) cho đồn điền cao su Courteney.

    Kể hơi dài như vậy để thấy một người đảng viên mất liên lạc đi tìm Đảng kỳ khu biết bao nhiêu!

    Sáu tháng sau tôi vào Sài Gòn, may mắn lần này tôi gặp anh Lê Xuân Đình (tự Biền), người của hệ thống Đảng Giải phóng, lúc đó là cuối năm 1943.

    Tôi được tổ chức phân công phụ trách tờ Giải phóng, phát hành hằng tháng. Lúc đầu in bằng nếp, sau cải tiến in bằng litô rõ và đẹp hơn. Tòa soạn và xưởng in chỉ là căn hộ nhỏ trong hẻm sâu của một gia đình cơ sở tại Tân Định.

    Báo ra được 11 số thì tôi và Châu - em ruột tôi cùng đảm trách tờ báo bị địch bắt một cách bất ngờ. Đúng nửa khuya, một đêm năm 1944, bọn mật thám sục vào nhà gọi đích danh hai anh em tôi, còng tay và giải ra xe chở đi. Tôi và Châu bị tống giam ở bót Catinat rồi chuyển sang Khám Lớn. Trùm mật thám Blaizot và hai tên tay sai khét tiếng hung bạo Trần Cảnh và Trần Khánh trực tiếp tra khảo. Tại đây, lần đầu tiên tôi được gặp gỡ một số bạn tù đã nghe tên từ lâu như Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Công Trừng...

    Sáng 22/8/1945, tên lính gác mở rộng cửa Khám Lớn. Nó đọc tên 9 người tù chính trị (gồm: tôi, Bùi Quang Dự, Lê Xuân Định, Nguyễn Việt Châu, Nguyễn Như Ý, Tại, Hùng...), rồi vênh mặt tuyên bố là khâm sai Nguyễn Văn Sâm ra lệnh phóng thích.

    Về sau, người ta bình luận là trong khoảng một trăm tiếng đồng hồ chấp chính Nguyễn Văn Sâm chỉ làm được một việc độc nhất đáng ghi nhận là phóng thích tù chính trị.

    Nhưng chúng tôi không được tự do ngay mà bị áp tải về một chùa Cao Đài ở đường Jean Eudel ngó qua kho 2 Cảng Sài Gòn, mặc dù kể từ lúc này chúng không còn được phép đối xử với chúng tôi như những người tù nữa. Một vị chức sắc trong chùa đứng ra giãi bày: “Cao Đài vì mục đích nước nhà độc lập tự cường mà xả thân hy sinh. Các vị làm chính trị dù đảng phái nào cũng là những nhà ái quốc đáng khâm phục. Nhân hội này mong quý vị cùng chúng tôi chung sức mà gánh vác, nhiều tay vỗ nên kêu. Nhật Bổn cùng máu đỏ, da vàng với mình đã hứa trao cho mình độc lập...”. Hiểu được ý đồ bọn Nhật và tay sai muốn qua tôn giáo Cao Đài lôi kéo chúng tôi hợp tác với chúng, tất cả kiên quyết từ chối và ra đi. Tôi và Châu - hai anh em về Xóm Gà (Bà Chiểu) để từ đây tìm cách liên lạc với Tỉnh ủy Gia Định.

    Một lần nữa như hai năm trước, tôi lại vừa cất công vừa nghe ngóng tìm hiểu tình hình vừa lo móc nối với tổ chức. Nhưng khác trước là bây giờ tôi có thể làm những việc này một cách công khai, đàng hoàng. Điều đó cũng dễ hiểu, vì cả Sài Gòn, Chợ Lớn, cả Gia Định, đang sôi động dữ dội. Cũng có người ví von bằng hình ảnh: Cả Sài Gòn như một cánh đồng lúa chín đã đến ngày gặt hái.

    Hà Nội đã khởi nghĩa thành công từ ngày 19/8/1945, các tỉnh thành khác thuộc Bắc Kỳ, Trung Kỳ cũng đã lần lượt về tay nhân dân.

    Còn ở Nam Kỳ, theo các đồng chí cho biết, từ ngày tôi bị bắt đến nay phong trào đã lớn mạnh vượt bậc, phát triển toàn diện, đều khắp ở thành thị và nông thôn. Ở nhiều nơi chính quyền địch rệu rã hết hiệu lực hoặc ngả về với cách mạng. Nhân dân xây dựng các lực lượng chính trị và các đội vũ trang, bắt giam hội tề, đứng ra tự quản lý trị an trong làng xóm. Thanh niên Tiền phong ngày đêm rầm rập luyện tập quân sự, canh gác, trộm cướp nhiều nơi hầu như không còn nữa. Mầm mống chính quyền nhân dân hình thành dần và trên thực tế đang thay đổi dần. Chính quyền địch bị tê liệt, binh lính và ngụy quyền các cấp hoang mang nhiều trước ngọn triều cách mạng đang dâng lên cuồn cuộn. Ta có nhiều cơ sở binh vận trong Binh đoàn lưu động Chí Hòa (Brigade mobile de Chi Hoa), Binh đoàn lưu động Gia Định (Brigade mobile de Gia Dinh), Binh đoàn phụ thuộc sở sen đầm ở Chợ Lớn (Brigade auxiliaire de la gendarmerie à Cho Lon) và ở các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Biên Hòa, Thủ Dầu Một... Cũng do đó ta lấy được khá nhiều súng đạn trong các đồn bót do cơ sở tuồn ra. Vụ lớn nhất là đêm 17/8/1945, lấy được ở trại Chí Hòa 2.000 súng mútcơtông và 10 triệu viên đạn.

    Điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi.

    Giờ quyết liệt đã đến!

    Hai xứ ủy Tiền phong và Giải phóng đã thành lập “Ban liên hợp hành động” và tổ chức một hội nghị trong ba ngày 17, 18, 19 tháng 8 tại Chợ Đệm (tỉnh Chợ Lớn). Hội nghị phân tích kỹ tình hình địch, ta và quyết định lấy Sài Gòn - Chợ Lớn làm trọng điểm tiến công địch, khởi nghĩa giành chính quyền. Tuy nhiên, trước đó cần khởi nghĩa đầu tiên ở Tân An vào ngày 23/8/1945 để rút kinh nghiệm toàn Xứ và thăm dò thái độ quân Nhật, kịp thời đề ra kế hoạch đối phó.

    Vì vậy sau cuộc họp, đại biểu các tỉnh còn lưu lại để dự họp rút kinh nghiệm khởi nghĩa của Tân An, đồng thời tham gia cuộc míttinh ra mắt toàn thể đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn của Mặt trận Việt Minh ngày 20/8/1945.

    Cuộc míttinh đó đã diễn ra tại rạp Nguyễn Văn Hảo gần chợ Bến Thành (nay là rạp Công Nhân), đúng vào ngày giỗ đầu ông Nguyễn An Ninh.

    Anh Nguyễn Văn Nguyễn đăng đàn diễn thuyết và phổ biến chương trình Việt Minh trong sự hồ hởi, náo nức của hơn một ngàn thính giả. Rồi các anh Huỳnh Văn Tiểng, Huỳnh Tấn Phát, Đặng Ngọc Tốt thay mặt Trung ương Thanh niên Tiền phong long trọng xin gia nhập Mặt trận Việt Minh và kêu gọi đồng bào hãy sát cánh nhau giành độc lập dưới ngọn cờ Việt Minh nền đỏ sao vàng. Cùng với tiếng vỗ tay hưởng ứng, tiếng hát bài Lên đàng vang dội cả rạp.

    Hôm sau, hàng chục ngàn bản truyền đơn được tung ra, hàng ngàn ápphích được dán dọc phố phường. Từng nhà, từng người như sắm sẵn giáo mác, gậy tầm vông đợi xông lên.

    Ta tiếp tục theo dõi thái độ địch. Quân đội địch đã co về án binh bất động.

    Đảng Liên minh quốc gia trước đây được Nhật vũ trang để cướp chính quyền “phỗng tay trên” Việt Minh, nhưng nội bộ mâu thuẫn và không được quần chúng ủng hộ nên đang lơ láo, rã rời.

    Ở một số tỉnh vùng Hậu Giang, bọn đầu sỏ phản động trong tôn giáo Hòa Hảo cũng mưu toan này nọ nhưng thấy lực lượng cách mạng quá mạnh nên đành chùn lại. Trộm cướp, côn đồ cũng thôi quấy nhiễu, một số ngả theo nhân dân.

    Ngày 23/8/1945, đúng kế hoạch, tỉnh Tân An tiến hành khởi nghĩa và thành công mau lẹ vì binh lính địch được vận động trước đã buông súng không chống cự. Một số làng của tỉnh Chợ Lớn (chủ yếu thuộc Trung Huyện), giáp với tỉnh Tân An cũng nổi dậy giành chính quyền ngay trong hôm đó.

    Dưới Tân An là Mỹ Tho, từ ngày 21 đến ngày 24/8/1945, Ban thống nhất hành động của hai tỉnh ủy Tiền phong và Giải phóng đã lãnh đạo giành chính quyền thành công ở các quận: Châu Thành (21/8), Cai Lậy (23/8), Cái Bè, An Hóa (24/8). Tên chủ tỉnh người Pháp hoảng sợ đến nỗi phải tìm Việt Minh để xin được trao lại chính quyền.

    Gò Công, Sóc Trăng, Bạc Liêu cũng tổ chức tuần hành thị uy, họp míttinh ở thị xã và tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng trong ngày 23/8. Long Xuyên thì ngày 24/8.

    Vậy mà thật nực cười, ngày 23/8, bọn ngụy quyền Sài Gòn và các tỉnh vẫn làm lễ đón Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm ra mắt nhậm chức và mừng Xứ ủy Nam Kỳ được quân đội Phù Tang cho về với Chính phủ Nam triều! (phải chăng bọn bù nhìn này có đặt ít nhiều hy vọng ở Anh, Mỹ, Pháp và Tưởng, khi mà Nhật đã tuyên bố đầu hàng?).

    Nhưng dự cuộc lễ này chỉ có vẻn vẹn một số trong Nhật - Việt phòng vệ đoàn và một số tín đồ Cao Đài từ lục tỉnh lên1. Trong đám đông xô bồ đó tiếng “đả đảo” lấp tiếng “hoan hô”. Thậm chí có những tên Nhật - Việt phòng vệ đoàn đã giật xé phù hiệu trên cánh tay và ném trước mặt đám đông. Rõ ràng chúng đang diễn cái trò rối này trong hoàn cảnh cực kỳ bối rối!

    Ngày 24/8/1945, công nhân Sài Gòn họp Đại hội để thống nhất lực lượng và bầu Ban chấp hành, sẵn sàng cùng mọi tầng lớp nhân dân hành động trong ngày 25/8, mà khởi đầu là cuộc míttinh dự kiến sẽ huy động hơn một triệu người ở Sài Gòn và sáu tỉnh lân cận tham gia (dân số Sài Gòn lúc này non 500.000 người).

    Cả ngày hôm đó, Sài Gòn sôi sục.

    Tiếp đêm hôm đó, Sài Gòn cũng không ngủ, sục sôi hành động.

    Trong đêm, tỉnh Biên Hòa tổ chức một chuyến xe chở 600 đại biểu, tỉnh Mỹ Tho trưng dụng tất cả xe đò và cả tàu hỏa, tỉnh Thủ Dầu Một cũng trưng dụng cả đoàn xe đò để chở công nhân, Thanh niên Tiền phong và đồng bào về Sài Gòn hợp sức.

    Cùng đó, đêm 24/8, đêm trước của bình minh ngày mới, các tổ vũ trang thực hiện kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa đã đột nhập các mục tiêu cần chiếm giữ 2 và lùng bắt các “nhân vật” đã có tên trong danh sách...

    Rạng sáng ngày 25/8, thêm nhiều tổ tự vệ chiến đấu, công đoàn xung phong, Thanh niên Tiền phong bố trí sẵn ở các nơi xung yếu trong nội ô.

    Cờ đỏ sao vàng hôm qua mới được treo công khai ở một số nơi như hiệu ăn Long Thành, hiệu ăn của xưởng Ba Son, Phaxi, Ximắc..., thì sớm nay đã biến thành một rừng cờ. Biểu ngữ xuất hiện ở khắp nơi.

    Một lễ đài lớn do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát vẽ kiểu và trực tiếp trông coi việc dàn dựng, ở sân sau nhà thờ Đức Bà trông ra đại lộ Norodom (nay là đại lộ Lê Duẩn). Người người như sóng cuộn từ các hướng đổ về đó, đoạn lộ từ Phủ Toàn quyền (nay là Hội trường Thống Nhất) đến Sở Thú (nay là Thảo Cầm Viên) đông nghẹt. Đồng bào các giới rầm rộ biểu tình thị uy, hô vang các khẩu hiệu:

    - Đả đảo chính quyền Trần Trọng Kim!

    - Nguyễn Văn Sâm từ chức!

    - Chánh quyền về tay Việt Minh!

    - Việt Nam độc lập muôn năm!

    - Đảng Cộng sản muôn năm!

    Trước khi vào cuộc míttinh, khoảng chín giờ sáng, xin ghi nhanh một không khí hết sức đặc biệt hôm ấy: Xe ngựa, xe thổ mộ, xe kéo, xe điện chở khẳm người mà không lấy tiền. Tiệm ăn người Việt, người Hoa, người Ấn đều mời khách ăn không lấy tiền vì “độc lập rồi mà...”.

    Muốn chào nhau, người ta nắm tay đưa lên trán và cười rất tươi. Rất nhiều người khản tiếng, lạc giọng vì hô khẩu hiệu quá trời!

    Từ trên lễ đài, Ủy ban lâm thời hành chính Nam Bộ (ta thường gọi là Lâm ủy hành chính Nam Bộ) ra mắt quốc dân đồng bào với thành phần:

    - Trần Văn Giàu - Chủ tịch.

    - Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên ngoại giao.

    - Nguyễn Văn Tạo - Ủy viên nội vụ.

    - Huỳnh Văn Tiểng - Ủy viên.

    - Dương Bạch Mai - Ủy viên.

    - Nguyễn Văn Tây - Ủy viên.

    Và thông báo trụ sở Ủy ban đóng tại Dinh Thống đốc cũ (nay là Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

    Chủ tịch Trần Văn Giàu đọc Lời tuyên bố:

    “Đồng bào, quốc dân,

    Hôm nay là ngày vẻ vang nhất trong lịch sử của Nam Bộ Việt Nam. Giữa thanh thiên bạch nhựt, chúng tôi, Ủy ban lâm thời hành chính, nhơn danh toàn thể quốc dân Nam Bộ tuyên bố trước mặt hoàn cầu và trước mặt toàn thể quốc dân rằng:

    Chế độ Cộng hòa Dân chủ thành lập tại Nam Bộ Việt Nam.

    Chúng tôi tuyên bố không thừa nhận Chính phủ Nam triều và cương quyết chống chế độ thực dân bất cứ từ đâu đến.

    Không một ngoại bang nào có thể viện một lý do nào mà bác bỏ được điều quyết định long trọng của đồng bào ta hoài bão lâu nay:
    Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.

    ... Chúng ta chỉ mới giựt lại chính quyền, từ bước này đến khi thực hiện được một xã hội tốt đẹp trong đó nhơn dân đồng lao cộng lạc, tất cả còn phải kiên gan bền chí tranh đấu với hoàn cảnh khó khăn.

    Hỡi đồng bào,

    Trong phút lịch sử này, chủ quyền về tay ta, nền Dân chủ Cộng hòa Việt Nam còn nhờ sức làm việc và sự phấn đấu của ta mà trở nên kiên cố và rực rỡ
3.

    Nguyễn Văn Nguyễn - đại biểu Xứ bộ Nam Bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng đọc lời tuyên bố:

    “Đồng bào! Đồng chí! Anh em chị em!

    Hơn mười lăm năm tranh đấu cho đời sống của dân chúng và cho sự độc lập quốc gia, hôm nay, Đảng Cộng sản Đông Dương mới công khai ra mặt. Mặt trận Việt Minh mà Đảng Cộng sản đã xướng xuất và đã cùng chiến đấu cùng hôm nay lật đổ chính quyền quân chủ để khai trương một kỷ nguyên tân dân chủ ở xứ này.

    ... Không say sưa khi đắc thắng, không nản chí lúc thất bại, trong tình cảnh nghiêm trọng hiện thời, Đảng Cộng sản kêu gọi hết thảy anh em, chị em, thợ thuyền, nông dân, thanh niên, binh lính và các giới đồng bào nỗ lực làm việc để kiến thiết nền dân chủ quốc gia, đem toàn lực ủng hộ Ủy ban lâm thời hành chính đặng thực hiện một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, và làm cho người Việt Nam được tự do, sung sướng.
    Việt Nam cộng hòa dân chủ muôn năm!
4.

    Từ quảng trường, rừng người lại cuồn cuộn kéo đến Phủ Khâm sai (nay là Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh), đòi Nguyễn Văn Sâm “thoái vị”. Thật ra, Sâm đã bị ta bắt nhốt lúc 21 giờ 30 phút đêm qua. Phủ Khâm sai cũng như các công sở khác đều bị các tổ vũ trang chiếm giữ mà không hề gặp sự kháng cự nào của địch.

    6 giờ chiều hôm ấy, hơn hai triệu người dự cuộc biểu tình khổng lồ mới lần lượt ra về.

    Cũng trong ngày 25/8, cuộc khởi nghĩa của một số tỉnh khác cũng nổ ra một cách thuận lợi. Riêng ở Gia Định và Biên Hòa có xảy ra xô xát nội bộ, đó cũng là điều đáng tiếc.

    Tiếp theo ngày 26/8 là Cần Thơ và Châu Đốc.

    Ngày 27/8, Rạch Giá.

    Ngày 28/8, Hà Tiên.




------------------------------------------------------------------
1. Lục tỉnh gồm cả miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Từ này chỉ dùng từ năm 1945 trở về trước.

2. Xã Tây (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh), Bót cảnh sát trung ương (nay là trụ sở Công an Thành phố Hồ Chí Minh), bưu điện, tòa tỉnh trưởng Gia Định.

3. Trích Nhật báo Sài Gòn, số 17016, ngày 27/8/1945.

4. Trích Nhật báo Sài Gòn, số 17016, ngày 27/8/1945.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 10:49:23 am
*
*      *


    Như đã nói ở phần đầu, 29 ngày sống trong độc lập, tự do của Sài Gòn kể từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công quả là quá ngắn ngủi (đối với các tỉnh của Nam Bộ, thời gian này có dài hơn chút ít). Nhưng chính vì vậy nó rất quý. Mỗi việc làm được trong thời gian này đều rất quý.

    Lúc này tôi chính thức làm việc tại Xứ bộ Việt Minh do anh Nguyễn Văn Nguyễn làm Chủ nhiệm. Anh là một trí thức trẻ, năm đó chưa đến 30, viết báo bằng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp đều rất nổi tiếng. Bút danh của anh là Ngũ Yến. Do tính chất công việc, hằng ngày chúng tôi phải nắm tình hình diễn biến ở các nơi một cách kịp thời để có kế hoạch đối phó.

    Ngày 02/9/1945, ngày Độc lập, từ Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân và toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sài Gòn và các tỉnh đều tổ chức míttinh trọng thể để lắng nghe tiếng nói của vị cha già dân tộc qua làn sóng điện. Đáng tiếc, phương tiện truyền tin của ta quá kém nên không nơi nào nghe được. Đại diện chính quyền hoặc Mặt trận Việt Minh phải đăng đàn ứng khẩu diễn thuyết, truyền thêm niềm tự hào và hạnh phúc được đổi đời đang tràn ngập tâm hồn mọi người dân nước Việt. Triệu người đồng lòng như một, sẵn lòng hy sinh tất cả vì Tổ quốc, quyết giữ trọn lời thề độc lập.

    Riêng tại Sài Gòn, máu đã đổ trong ngày lịch sử vẻ vang này.

    Một số tên Pháp mới được quân Nhật cho ra khỏi trại giam, đứng trên lầu hãng buôn Jean Comte, nhắm vào đoàn người đi diễu hành dưới lòng đường mà bắn xối xả 1, 47 đồng bào đã ngã xuống.

    Căm phẫn cao độ, vậy là cả bể người ào vào những nơi có súng nổ. Không một sức nào ngăn cản nổi, mặc dầu là súng từ trên lầu cao bắn xuống. Ta dồn bọn Pháp lại một góc và bắt trói chặt sau khi tước súng. Sau đó, trong khu vực chợ Bến Thành còn nhiều Tây và đầm bị bắt tiếp, cộng lại có hơn một trăm.

    Đến chiều tối, để tỏ thiện chí hòa bình, Lâm ủy hành chính Nam Bộ ra lệnh phóng thích tất cả bọn này.

    Vì sao quân Pháp, hiện tại thực lực không có gì cả lại giở trò khiêu khích như vậy? Rồi ta sẽ có dịp lý giải.

    Ta bắt tay xây dựng và củng cố chính quyền trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn lúc này.

    Về nội bộ, ta không chỉ chú trọng phát triển Đảng và Mặt trận Việt Minh mà còn phải giải quyết tiếp những vấn đề mâu thuẫn giữa hai xứ ủy. Hội nghị toàn kỳ tại thị xã Mỹ Tho ngày 15/01/1945 do đại diện Trung ương Đảng Hoàng Quốc Việt triệu tập đã thống nhất được nhiều vấn đề quan điểm, phương pháp vận động cách mạng theo đường lối của Trung ương, gạt bỏ những nghi ngờ hiềm khích lẫn nhau.

    Chạy đua với thời gian, ta làm được nhiều việc. Một việc lớn nữa đáng kể là việc các chiến sĩ cộng sản và người yêu nước từ nhà tù Côn Lôn về đất liền, một quyết tâm lớn của Xứ ủy ngay từ sau khi giành được chính quyền. Đồng chí Tưởng Dân Bảo và đồng chí Lý Văn Chương được giao nhiệm vụ này. Bảo tham gia cuộc bạo động Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930, bị địch bắt và đày ra Côn Lôn. Tại đây, Bảo được giác ngộ về chủ nghĩa cộng sản và kết nạp vào Chi bộ nhà tù. Với sự giúp đỡ của Tỉnh ủy Sóc Trăng, hai đồng chí Bảo, Chương đã nhờ thợ lành nghề chữa được tàu Phú Quốc có sức chở 200 - 250 người và huy động 27 ghe vùng Long Phú, Mỹ Thanh, Gò Công lập thành một đoàn ra khơi ngày 16/9. Tuy gặp cơn bão lớn nhưng đoàn đã đến nơi an toàn.

    Đợt đầu trở về đất liền ưu tiên cho những cán bộ cao cấp của Đảng và các đồng chí lớn tuổi hoặc đang đau yếu.

    Tự tay đồng chí Tôn Đức Thắng, năm đó đã 57 tuổi, sửa chữa xong một chiếc xà lúp từ mấy ngày trước. Rồi chính tay ông “cặp rằn” ở hầm xay lúa này lại lái chiếc xà lúp về đất liền 2. Trên đó có các đồng chí Phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ...

    Nội nhật ngày 25/9, tàu Phú Quốc, xà lúp và 25 chiếc ghe cập bến Đại Ngãi (Sóc Trăng). Còn 2 chiếc ghe lạc lên tận Vàm Láng (Gò Công).

    Theo báo cáo của Ban đón tiếp, tổng số các đồng chí từ Côn Lôn trở về là 2.300 người, trong đó có 1.825 tù chính trị.

    Lúc này chiến sự đã xảy ra ở Sài Gòn nên các đồng chí không kịp nghỉ ngơi, về thăm gia đình và quê hương, mà vội chia nhau đi các tỉnh Nam Bộ tham gia kháng chiến ngay.

    Không thể không nói thêm là do chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp, khi đặt chân trở lại đất liền có đến hàng trăm đồng chí kiệt sức đi không nổi, phải dìu hoặc cáng. Một số đồng chí sớm qua đời ngay tại Sóc Trăng như Võ Văn Triết, Nguyễn Văn Liên, Bùi Văn Cương...

    Thù trong và giặc ngoài đều đang rập rình ngay trước mặt, vì vậy xây dựng lực lượng vũ trang trở thành nhiệm vụ vô cùng cấp bách.

    Ở tất cả các địa phương, nơi nào cũng đều có những người hăng hái đứng ra thành lập các “bộ đội”. Bộ đội An Điền ở Thủ Đức, bộ đội An Lạc ở Trung Huyện, bộ đội ông Siêu, ông Tưởng ở Tân An, bộ đội ông Cống, ông Tá ở Bến Tre... Có hàng trăm bộ đội như vậy.

    Bên cạnh đó là Cộng hòa vệ binh của tỉnh, buổi đầu thường do các hạ sĩ quan như quản, đội trước đây chỉ huy.

    Ở Sài Gòn, phải kể đến lực lượng vũ trang của nhóm Bình Xuyên3 vừa được thống nhất dưới sự chỉ huy của Dương Văn Dương với số quân khoảng 2.000 người và 1.300 khẩu súng. Tuy trình độ giác ngộ của bộ đội Bình Xuyên không đồng đều, có tới một phần tư là dân giang hồ, ý thức kỷ luật kém, nhưng nói chung anh em đều là người lao động có tinh thần yêu nước (các nhóm Bình Xuyên đều có mặt trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vừa qua ở Sài Gòn).

    Các đội vũ trang của công nhân có trên 6.000 người, tuy không tổ chức thành đơn vị lớn nhưng sau này sẽ đóng vai trò nòng cốt cho các lực lượng chiến đấu trong nội thành.

    Xứ ủy và Lâm ủy hành chính Nam Bộ chủ trương giữ nguyên đội quân nhà nghề của đế quốc Pháp - Nhật, nay cho chuyển thành Cộng hòa vệ binh với nguyên vẹn quân hàm, trang bị vũ khí và biên chế thành bốn sư đoàn: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ sư đoàn. Vì trong các đơn vị này không thiết lập sự lãnh đạo của Đảng, số đông những người chỉ huy vốn mang bản chất phản động nên về sau chúng tan rã một cách chóng vánh. Đó là một kinh nghiệm lớn của ta về quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang.

    Ngoài ra còn một lực lượng cát cứ khác hình thành từ những năm bốn mươi, tồn tại đến nay, họ cũng tuyên bố là lực lượng yêu nước.

    Bây giờ ta nói cụ thể “thù trong giặc ngoài” là những ai?

    Đó là bọn Việt gian trong các tổ chức đảng phái phản động tờrốtkít, Quốc gia đảng, Đại Việt..., kể cả bọn phản động trong các tôn giáo..., sau một thời gian ngắn nằm im nay lại ngóc đầu dậy. Chúng câu kết với nhau trong một “Mặt trận quốc gia liên hiệp” để đối đầu với chính quyền cách mạng còn non trẻ của ta, phá vỡ Mặt trận Việt Minh - khối đoàn kết của dân tộc ta.

    Nổi lên trong những ngày này là hoạt động của bọn đầu sỏ phản động trong đạo Hòa Hảo tại miền Tây. Tôi muốn mở một dấu ngoặc để nói thêm về tình hình ở Cần Thơ - thủ phủ miền Tây. Trong thời điểm này, đúng là ở miền Tây có một lực lượng quan trọng là Hòa Hảo. Nhận thức được điều đó, trung tuần tháng 3/1945, hai đảng viên cộng sản là Ung Văn Khiêm và Nguyễn Văn Tây với danh nghĩa “cựu chính trị phạm” đã có cuộc gặp gỡ với Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ để bàn bạc việc liên minh cùng đấu tranh giành quyền độc lập. Nhưng chính sách đoàn kết dân tộc không phải bao giờ cũng được thực hiện dễ dàng. Ngày 26/8/1945, ngay sau khi Cần Thơ khởi nghĩa thắng lợi, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ nói thẳng với những người cách mạng: “Các ông phải giao đất miền Tây cho tôi!”. Ở Long Xuyên, Hòa Hảo cũng đòi đất kỳ cục như vậy.

    Tất nhiên ta không thể đáp ứng yêu cầu của họ. Ta nhắc lại và nhấn mạnh lời cam kết trước đây của hai bên liên minh nhau để giành độc lập dân tộc. Để thực hiện lời cam kết đó, phía ta chủ động mời “đạo” cử một số chức sắc có uy tín bổ sung vào bộ máy chính quyền các cấp. Đồng thời ngay sau đó ta phải bỏ nhiều công sức để giải quyết một số vụ lộn xộn mà điển hình là vụ quậy phá của Năm Lửa.

    Ngày 08/9/1945, Trần Văn Soái, tức Năm Lửa, huy động khoảng 30.000 nông dân tín đồ Hòa Hảo, mỗi người đều có trang bị vũ khí hùng hổ kéo vào thành phố Cần Thơ vừa đi vừa hò hét “giết Việt Minh!”, “giết Thanh niên Tiền phong!”.

    Chủ tịch lâm ủy hành chính Cần Thơ Trần Văn Khéo hết sức nhân nhượng, hạ lệnh cho các đơn vị cộng hòa vệ binh không được ngăn cản đoàn biểu tình, sợ xảy ra xô xát, mà phải rút từ từ về phía sau. Sau đó, ta mới viết một bản tuyên bố cuộc biểu tình này không xin phép trước là phạm pháp, yêu cầu phải giải tán ngay. Để cảnh cáo họ, cộng hòa vệ binh được phép bắn hai phát súng chỉ thiên. Không dè chỉ cần hai phát súng chỉ thiên đó đủ làm cho họ rối loạn hàng ngũ, mạnh ai nấy chạy. Một số lao xuống sông vì quá hoảng sợ, không may lại bị thương vì giáo mác của người khác, cũng vì hoảng sợ nên ném bừa xuống. Thiệt thương tâm đối với những tín đồ chất phác kia. Cuối cùng các cán bộ chỉ huy cộng hòa vệ binh Huỳnh Phan Hộ, Trần Hoài, Văn Cừ tập hợp họ lại an ủi, giải thích, cho mỗi người một ổ bánh mì và năm đồng rồi ra về. Ai bị thương nặng thì đưa đi nhà thương cứu chữa.

    Nói đi rồi phải nói lại, Việt gian phản động dù sao cũng chỉ là một nhúm nhỏ so với cả khối toàn dân to lớn. Lòng yêu nước thương nòi lúc này trào dâng trong lòng quốc dân đồng bào không phân biệt đạo hay đời, giàu hay nghèo, nông thôn hay thành thị, đang trở thành động lực mạnh mẽ thôi thúc mọi người đứng lên “xiết chặt hàng ngũ bảo vệ nền độc lập vừa giành được”. Bất kỳ ở đâu ta cũng có thể bắt gặp những người có tấm lòng yêu nước thương nòi như trên, được thể hiện một cách hồn nhiên, sôi nổi.

    Sài Gòn là nơi tập trung nhiều trí thức Tây học con nhà trâm anh thế phiệt, giàu sang, quyền quý. Nhưng hầu hết, nếu không phải là tất cả, đều đã theo cách mạng và thể hiện tinh thần yêu nước thương nòi của mình bằng hành động cụ thể.

    Thời kỳ tiền khởi nghĩa là các anh Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Huỳnh Tấn Phát, Mai Văn Bộ, Trần Văn Khê, Phạm Ngọc Thạch. Bây giờ còn có thêm nhiều anh khác như Luật sư Thái Văn Lung, Luật sư Lê Đình Chi, Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, Giáo sư Phạm Thiều, Giáo sư Ca Văn Thỉnh, nhà báo Thiếu Sơn, nhà báo Lý Văn Sâm, nhà soạn kịch Năm Châu... Các nhà tư sản Trí Độ, Nguyễn Phú Hữu, các ông hội đồng quản hạt Võ Hà Tự, Thượng Công Thuận, các nhà giáo người Hoa Ngô Liên, Trang Dung..., đều tuyên bố tán thành Mặt trận Việt Minh, một lòng đi theo Cụ Hồ.

    Quân Anh, Ấn nhân danh Đồng minh vừa thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đổ bộ lên Sài Gòn để giải giáp quân Nhật. Nhưng chúng lại làm ngược lại, nghĩa là cho phép quân Nhật giữ nguyên vũ khí và khuyến khích quân Nhật sẵn sàng để có thể tấn công Việt Minh bất cứ lúc nào.

    Thêm vụ tám tên Pháp và Anh nhảy dù từ trên máy bay xuống Biên Hòa để dò xét và liên lạc với bọn tay sai trước đây. Khi dân quân bắt được, trong người chúng có giấy do De Gaulle cấp. Vụ này phù hợp với vụ tên Jean Cédille - đại diện cho Tổng Cao ủy Pháp ở miền Nam Đông Dương nhảy dù xuống Tây Ninh ngày 22/8, hồi đó Sài Gòn và lục tỉnh chưa khởi nghĩa. Sau khi được quân Nhật đưa về Sài Gòn, y đã bắt liên lạc ngay với các kiều dân Pháp và thành lập một “Ủy ban thông tin” để nắm tình hình, đợi thời cơ.

    Có thể lý giải điều này khi biết rằng từ năm 1943, khi nước Pháp còn bị quân Đức chiếm đóng, tướng lưu vong De Gaulle đã đặt vấn đề nghiên cứu cách thức trở lại Đông Dương. Trong tháng Tám vừa rồi ở ngoài Bắc cũng có vụ tên Messemer được Cao ủy Pháp bổ nhiệm cùng một số sĩ quan và quan cai trị Pháp nhảy dù; vụ đội biệt kích thủy quân Blanchar đổ bộ vào Hải Phòng rồi tìm cách lên Hà Nội; vụ tên Sainteny phụ trách phái bộ quân sự Pháp ở Côn Minh cùng bốn tên Pháp khác theo phái đoàn Mỹ Patti đổ xuống trường bay Gia Lâm...

    Người Pháp lúc này không có một danh nghĩa nào, một tí thực lực nào ở Việt Nam và ở Sài Gòn. Ấy mà họ cứ làm tới, vì đã sẵn có âm mưu từ lâu và nhất là được quân Anh ra sức giúp đỡ.

    Ngày 27/8/1945, Cédille đến gặp ba ông: Giàu, Thạch và Tạo, đại diện Lâm ủy hành chính Nam Bộ, y trắng trợn cho biết Chính phủ Pháp sẽ áp dụng bản tuyên bố Brazzaville ngày 24/3/1945, nghĩa là Đông Dương lại trở về chế độ thuộc địa như cũ! Bên ta kiên nhẫn thuyết phục, nhưng Cédille vẫn khăng khăng giữ nguyên các điều khoản của bản tuyên bố 24/3/1945, do đó cuộc gặp không đem lại kết quả gì.

    Ngày 04/9/1945, viên tướng Anh Douglas Gracey tuy còn ở xa, đã dùng điện đài hạ lệnh cho quân Nhật ở Sài Gòn phải tăng lực lượng lên 7 tiểu đoàn để “giữ gìn trật tự”, thực chất để tiếp tay cho thực dân Pháp khiêu khích ta.

    Hai hôm sau, Gracey đến Sài Gòn và tìm gặp ngay Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch để đưa ra yêu cầu giải giáp ngay quân Việt Nam (thay vì nhiệm vụ của phái bộ quân sự Anh là giải giáp quân Nhật). Trước tình hình này, để cho không khí khỏi quá căng thẳng và để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra với quân Anh, một phần lớn lực lượng ta trong nội thành rút ra vùng ven.

    Ngày 12/9/1945, đại bộ phận các đơn vị quân Anh có nhiệm vụ giải giáp quân Nhật đến Sài Gòn. Một đại đội quân Pháp thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5e RIC) đã xen vào các đơn vị quân Anh cùng đổ bộ. Cùng ngày hôm đó, quân Anh đến “mượn” trụ sở Lâm ủy hành chính Nam Bộ (dinh thống đốc cũ) cho quân Pháp treo cờ tam tài lên cột cờ. Lập tức đồng bào ùn ùn kéo tới bao vây tòa nhà, đòi chúng ta phải hạ quốc kỳ nước Pháp xuống, trả trụ sở cho chính quyền ta làm việc. Hai tiếng đồng hồ sau, quân Anh bắt buộc phải bảo quân Pháp hạ cờ xuống, nhưng chúng lại thả tất cả tù binh Pháp và đồng tình cho quân Pháp thay thế quân Nhật chiếm đóng bến tàu, kho thuốc súng, xưởng đóng tàu Ba Son. Tình hình Sài Gòn - Chợ Lớn không hề dịu đi mà ngày càng thêm căng thẳng. Quân Anh tăng cường các lực lượng gọi là “lực lượng trật tự” để uy hiếp tinh thần dân chúng. Còn quân Pháp, và cả thường dân Pháp kiều, được quân Anh tìm mọi cách giúp đỡ nên càng ra mặt khiêu khích. Không chỉ khiêu khích, Cédille còn làm đủ mọi việc để chuẩn bị cho một cuộc tấn công quân sự. Những tên trùm thực dân được thả ra như chủ đồn điền lai Tây Bazé, thầy kiện Béziat, công sứ Lalane đều giục Cédille đánh, đánh để khôi phục lại chính quyền Pháp.

    Cédille đã tìm được một số Việt gian để nuôi dưỡng, trong đó có Nguyễn Văn Thinh, đưa vào giấu trong Trại cơ binh số 11 ở đại lộ Cộng Hòa. Theo lệnh Cédille, sau khi đã được quân Anh đồng ý làm lơ, khoảng 100 tên lính Pháp vô kho chứa súng đạn ở đường Angier lúc nửa khuya 17/9. Chúng chất súng đạn đầy 12 xe camnhông rồi trở về Trại cơ binh số 11 của Pháp.

    Ngày 19/9, Cédille lại tuyên bố “Việt Minh không phải là đại diện của nhân dân Việt Nam. Việt Minh không thể giữ trật tự được và không ngăn cản cướp bóc được. Trước hết là trật tự phải được khôi phục và sau đó chúng ta sẽ thành lập một chính phủ theo nguyên tắc của Bản tuyên bố ngày 24/3/1945”. Ngày 21/9, quân Anh ra lệnh thiết quân luật và lại cung cấp thêm hàng ngàn súng cho quân Pháp. Rồi Gracey lại nói tiếp về “trật tự”! Ngày 22/9, Gracey cho ra bản thông cáo số 1, trong đó, Gracey tuyên bố rằng y là “người chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự”. Và để giữ gìn trật tự, Gracey ra lệnh đóng cửa tất cả các báo Việt Nam, kiểm soát và bắt tất cả những người Việt Nam mang vũ khí, yêu cầu sáp nhập Quốc gia Tự vệ cuộc (công an) Việt Nam vào quân đội Anh.

    Ngày 22/9, quân Anh chiếm Khám Lớn Sài Gòn và giải thoát tất cả những tên Pháp nhảy dù xuống Nam Bộ trước ngày khởi nghĩa bị ta bắt giam.

    Đêm 22/9, quân Pháp lợi dụng tình trạng thành phố thiết quân luật, đổ ra các đường phố khủng bố, lùng bắt vô cớ đồng bào ta, chia nhau đi chiếm các đồn công an.

    Được “đằng chân lân đằng đầu”, đó là bản chất của địch. Từ mấy ngày trước, mọi người dân Sài Gòn đã cảm thấy rất rõ chiến tranh là điều không tránh khỏi.




-----------------------------------------------------------------
1. Có tài liệu nói bọn Pháp nấp trong nhà thờ và các nhà xung quanh bắn xả vào đoàn người đang tuần hành.

2. Ở Côn Lôn, bọn cai ngục bắt đồng chí Tôn Đức Thắng làm “cặp rằn” trông tù xay lúa, cho tù ăn.

3. Ấp Bình Xuyên thuộc xã Chánh Hưng, quận Nhà Bè.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Chín, 2022, 11:11:43 am
CHƯƠNG II
Chiến tranh bùng nổ, ta bao vây địch trong Sài Gòn - Chợ Lớn


    3 giờ sáng ngày chủ nhật 23/9/1945, thành phố Sài Gòn vắng ngắt vì lệnh thiết quân luật của quân Anh từ mấy hôm trước. Còn quá sớm, các nhà thờ Thiên Chúa giáo chưa gióng những hồi chuông đầu gọi giáo dân đi lễ nhất. Một thời điểm hết sức thuận lợi, quân Pháp cải trang là quân Anh thực hiện việc đánh úp ta. Chúng chia nhau tấn công Sở cảnh sát (bót lính kín cũ), Sở bưu điện, nhà kho bạc, nhà đèn. Tờ mờ sáng, chúng đánh chiếm Nam Bộ phủ, tức trụ sở của Ủy ban nhân dân Nam Bộ1 (dinh Đốc lý cũ) và Quốc gia tự vệ cuộc. Chúng đánh chiếm các cầu trọng yếu như Mạc Má Hồng (cầu Công Lý, nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Khánh Hội... Nơi nào có lính Pháp tử thương, chúng đàn áp dã man bằng cách bắn chết tại chỗ bất kỳ người Việt nào bị bắt, cho dù đó là ông già tám mươi tuổi, chị phụ nữ đang mang bầu hay cháu bé sơ sinh. Còn quân Anh giả đò đi tuần tiễu, đã bủa vây nhiều nơi để bắt cán bộ ta. Khu vực Đa Kao bị vây kín các mặt. Anh Hoàng Đôn Văn - Chủ tịch Công đoàn thành phố bị bắt tại cơ quan khi anh ở lại làm việc khuya. Vậy là cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp khởi đầu từ hôm nay!

    Viết đến đây, bỗng dưng tôi nhớ bài hát của Nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn:

        Mùa thu rồi, ngày hăm ba,
        Quân ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến
        Rền khắp trời lời hô vang
        Dân quân Nam đều chân bước tới trận tiền

        ... Nóp với giáo, mang ngang vai,
        Mà đoàn người giàu lòng vì nước
        Súng ống kém, chân đi không
        Nhưng thân trai nào kém oai hùng.


    Bài hát đầy hào khí, lãng mạn và rất hiện thực đã và đang sống với lịch sử, cũng như ngày 23/9 đã và đang sống với lịch sử giữ nước của dân tộc ta. Nói rằng, đây là lúc sơn hà nguy biến, điều đó hoàn toàn đúng. Lại nói rằng chúng ta chỉ có nóp với giáo mang ngang vai cũng không hề sai.

    Đã nói đến chiến tranh, phải đề cập đến so sánh lực lượng giữa đôi bên.

    Tính đến giờ phút này ngoài lữ đoàn quân Anh 2.500 tên và bảy tiểu đoàn quân Nhật 5.000 tên, riêng quân Pháp có tiểu đoàn biệt kích 600 tên thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5e RIC) và 1.500 tên của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 (11e RIC) là tù binh vừa được quân Anh thả ra và tái vũ trang.

    Còn lực lượng ta, trong nội thành có một bộ phận nhỏ cộng hòa vệ binh làm nhiệm vụ canh gác công sở, 6.000 tự vệ xung phong công đoàn, 2.000 thanh niên xung phong và công an xung phong, nhưng vũ khí thì chỉ có 120 súng các loại với rất ít đạn và 2.000 trái lựu đạn, còn lại là tầm vông và giáo mác.

    Sức mạnh vật chất buổi đầu nghiêng về phía địch, nhưng sức mạnh tinh thần là ưu thế tuyệt đối của ta. Địch không thấy được điều đó, vì lẽ giản đơn chúng là những đội quân xâm lược nhà nghề, còn nhân dân ta, những người vừa làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám, chúng ta ý thức rõ ý chí độc lập, tự do của một dân tộc là vô địch.

    Quân Pháp lợi dụng đêm tối đánh úp ta, nhưng ta không hề bị động, mà ngược lại, hết sức chủ động. Từ mấy ngày trước, ngày 19/9/1945, biết trước chiến tranh là điều khó tránh, Ủy ban nhân dân Nam Bộ đã ra thông báo:

    “.. Nếu người Pháp chiếm chính quyền ở đây, nếu họ đem quân đội tới định cướp xứ ta, biến đổi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập này thành xứ bảo hộ hay thuộc địa, dù là dưới mặt nạ tự trị nào thì quốc dân phải theo mệnh lệnh của Chính phủ mà sẽ:

    1) Tổng bãi công: không một ai cộng tác với người Pháp bất cứ về phương diện nào (binh bị, cai trị, kinh tế).

    2) Kháng chiến đến cùng cho đến khi toàn thắng để cho hoàn cầu thấy rằng quốc dân ta quyết giữ nền độc lập và để làm hậu thuẫn cho Chánh phủ Trung ương trong cuộc ngoại giao được thắng lợi. Trong sự kháng chiến, ta không nên đụng chạm đến người Đồng minh, không nên sát hại đàn bà con trẻ.

    Nên sẵn sàng chuẩn bị cuộc đình công và mở cuộc kháng chiến ngay khi phát tờ hịch này. Đồng bào chờ mệnh lệnh Chánh phủ, nếu người Pháp buộc ta phải dùng thủ đoạn kể trên”
.

    Ngay từ đầu tháng 9, việc điều động đại bộ phận các đơn vị vũ trang của ta ra vùng ven đô bố trí ở các nơi xung yếu để bảo toàn lực lượng và hình thành thế bao vây, đó là sự chủ động hết mực nếu không nói là cao kiến.

    Mượn từ ngữ của Mác, tôi muốn nói rằng đối với quân xâm lược Pháp không thể dùng “vũ khí phê bình” mà chỉ có thể “phê bình bằng vũ khí”, nghĩa là phải quyết đánh và quyết thắng. Đó là nguyên lý chung. Còn trong mọi trường hợp cụ thể, “hòa hay chiến”, vẫn là vấn đề cần cân nhắc thận trọng, có khi phải bàn cãi nảy lửa. Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng thường nhắc Xứ ủy Nam Bộ hết sức tránh đụng chạm với quân Đồng minh cũng như quân Pháp, cần hết sức bình tĩnh và ôn hòa.

    Ngay sáng 23/9, vì Sài Gòn đã có nhiều chiến sự, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ xúc tiến gấp cuộc họp tại một căn nhà trên đường Cây Mai tỉnh Chợ Lớn 2. Nội dung chính nhằm đi đến hành động có tính chất sống còn trước diễn biến nghiêm trọng của tình hình: Chiến hay hòa?

    Những người có mặt trong cuộc họp: Ung Văn Khiêm - Bí thư Xứ ủy, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Nguyễn, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Văn Tiểng. Đại diện Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh Hoàng Quốc Việt cùng tham dự.

    Có hai ý kiến:

    Một bên muốn “đánh ngay”, vì lòng dân đã sôi sục đến mức không kìm lại được, còn địch thì cứ lấn tới, “được đằng chân lân đằng đầu”. Nhưng thử hỏi như vậy liệu còn khả năng hòa hoãn hay không?

    Một bên khác chủ trương “chờ xem” tình hình diễn biến thêm ra sao đã. Trước mắt, chỉ nên đình công, bãi thị hoặc biểu tình phản đối địch.

    Nhưng “chờ xem” là chờ tới bao giờ, lúc đó tình hình đã đen tối liệu còn xoay trở sao kịp?

    Thảo luận qua lại tới hai tiếng đồng hồ, ý kiến sau cùng mới ngã ngũ là “đánh ngay”. Đó cũng là ý kiến của đa số từ lúc mới vào bàn họp. Nhưng đường dây liên lạc với Hà Nội đang hư, việc báo cáo ra Trung ương không thể làm ngay được. Mà tình thế nước sôi lửa bỏng cũng không thể máy móc ngồi chờ đến khi Trung ương cho phép được. Hội nghị biểu quyết nhanh gọn và bế mạc lúc 10 giờ sáng với tình tiết đó.

    Ba tiếng đồng hồ sau, bản Tuyên cáo quốc dân được ban hành rộng rãi:

    “Đồng bào Nam Bộ!

    Vì coi quân đội Anh là đại biểu của Đồng Minh tới đất nước chúng ta giúp giải giáp quân Nhật để đem lại hòa bình cho dân chúng Đông Dương, nên chúng tôi, Ủy ban nhân dân Nam Bộ luôn giúp cho quân đội Anh làm nhiệm vụ được dễ dàng. Mặc dầu có nhiều điều bất mãn, đã nhiều lần chúng tôi kêu gọi quốc dân nén lòng căm giận để chờ đợi cuộc vận động ngoại giao với Đồng Minh trên trường quốc tế, nhưng do sự nhân nhượng và dung túng của quân Anh, bọn thực dân Pháp đã làm nhiều điều quá đáng.

    ... Không lẽ chịu nhục hoài, vì danh dự của dân tộc, chúng ta phải coi trọng quyền lợi quốc gia, nên chúng tôi đã đánh điện ra Chánh phủ Trung ương xin cho phép kháng chiến. Chúng tôi đã:

    1)  Lập Ủy ban kháng chiến để lo việc quân sự.

    2)  Hạ lệnh tổng đình công và bất hợp tác với người Pháp.

    3)  Truyền đi lục tỉnh thi hành kế hoạch phá hoại đường giao thông tiếp tế để bao vây quân địch.

    4)  Kêu gọi đồng bào tố cáo Việt gian nguy hiểm.

    Đồng bào thân mến!

    Cương quyết phấn đấu, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia”
3.

    Cơ quan Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến đã dời về Chợ Đệm (quận Bình Chánh) từ trước, vì vậy guồng máy lãnh đạo điều hành vẫn hoạt động đều. Những việc cần làm ta vẫn triển khai.

    Chẳng hạn, việc phá án vụ âm mưu lật đổ của nhóm Dương Văn Giáo. Giáo câu kết với nhóm tờrốtkít và Cédihe lập “Chánh phủ lâm thời Việt Nam dân quốc”, do y làm Thủ tướng và Phan Văn Hùm làm Tổng trưởng quốc phòng, có “quốc kỳ”, có “tổng hành dinh” hẳn hoi. Nhờ bà con người Hoa giúp đỡ, ngày 24/9, ta đột nhập trụ sở của chúng ở số 8 đường Thủy Binh và “Tổng hành dinh” ở nhà nghỉ Hoàng Hậu, bắt trọn gói khi chúng chưa kịp giở trò.

    Ta đánh địch như thế nào, đánh theo cách riêng của ta đặng có thể thắng bọn xâm lược trước mắt mạnh hơn ta nhiều lần?

    Đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đã triệt để làm theo lời tuyên cáo của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ tản cư ra khỏi nội đô, tổng bãi công, bãi thị, triệt mọi đường tiếp tế lương thực của địch. Nói cách khác, đồng bào bao vây địch về tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế.

    Anh Bích Lâm, vừa từ trần giữa năm 1992, ở tuổi 77, vốn là người trong cuộc. Anh nói về người dân Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1945 mà anh hiểu thấu đáo trong một cuốn bút ký dày hơn 300 trang viết tay để lại:

    “Tinh thần kháng địch của Sài Gòn và ngoại ô khó mà tả lại cho đúng.

    Tuyệt vời: Nhưng đó chỉ là từ vựng không thể nói được điều đã thấy, việc đã nghe, cảnh đã làm cho đệ tam nhân vừa khóc vừa cười cùng một lúc.

    Nói rằng dân ta giác ngộ chính trị cao độ, đó là phóng đại. Nói lứa Tháng Tám của năm đó là “coi chết như về nhà mới”, đó là quá đáng. Vì thực tế đồng bào Sài Gòn và trong sợi dây nịt đỏ 4 lúc đó dốt đến họ nhà mình chẳng biết viết sao cho đúng và hiểu thế giới thì thô lậu đến thương xót. Chẳng hạn như đa số đồng bào cho rằng người Pháp mắt đục như nước gạo vo, “nó chẳng thấy gì hết, nếu không có Việt gian chỉ cho. Đêm nó bị quáng gà, cứ mò vô mà cứa”
.

   ... Văn hóa Pháp, ngoài mấy chữ RO, RA 5, không ra khỏi thành phố quá 12 cây số!

    Điều mà nông dân hiểu Pháp và tin vào sự hiểu biết đó là: Tây tham, ham ăn, ham gái mà nhất hạng sợ chết. Do đó mà khói lửa tơi bời, mà lệnh tản cư lớp gọi loa, lớp thuyết phục ở tổ, họ hưởng ứng rất là chiếu lệ.

    Chẳng phải họ nghèo sợ kẻ đi người ở, nồi gạo phải chia ba xẻ bốn, nên không đi. Chỉ vì họ nô nức muốn lập công: Độc lập từ đời ông, đời cha tới giờ mới có. Mà nay Tây trở lại, mình ở lại đánh nó để trọn niềm với Tổ quốc.

    Tổ quốc, vâng lứa Tháng Tám nghe hai từ Tổ quốc là máu ấm lên, mắt long lanh. Từ ngày Pháp nổ súng tái chiếm Sài Gòn, người Sài Gòn đã thề hy sanh vì Tổ quốc.

    Chữ Việt Minh, đồng nghĩa với Con thân yêu của Tổ quốc.

    Chữ Việt gian, ngược lại là sự nhục nhã, là tội đáng chết, để gọi ai theo Tây, có bất cứ hành động nào có lợi cho quân xâm lăng.

    Cái tâm lý ấy là tâm lý Sài Gòn, tâm lý của lớp người Tháng Tám.

    Một tâm lý thay cho luật pháp, thay cho tòa án, thay cho kỷ luật và mệnh lệnh lương tri của chính mình.

    Bằng cớ là Sài Gòn huyên náo bát nháo, mỗi con người là một thế giới, vậy mà thông báo giờ chót của Ủy ban nhân dân Nam Bộ được thị dân răm rắp làm theo...”
.

    Tôi nghĩ rằng anh Bích Lâm không cường điệu, quả thiệt người dân Sài Gòn -Chợ Lớn năm 1945 là như vậy.

    Ngay trong sáng 23/9, đồng bào đã đem mọi thứ vật dụng từ bàn ghế, giường tủ đến xe bò, xe thổ mộ..., chất đầy các ngã ba, ngã tư đường phố để làm chướng ngại vật. Trong lúc đó ở ngoại thành các “bộ đội” tự lập lại tiếp tục hình thành 6, hàng ngàn thanh niên nô nức xin được tòng quân giết giặc.

    Tiêu biểu cho tinh thần quyết tử trong chiến đấu, có tiểu đội bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ. Sáng 23/9, một đại đội quân Anh đến định hạ lá cờ đỏ sao vàng xuống, kéo lá cờ tam tài lên đã bị anh em dùng hỏa lực cản lại. Một tiểu đội, mà không phải tất cả đều được trang bị súng quyết chống chọi với đại đội quân Anh đến người cuối cùng vì danh dự lá cờ Tổ quốc. Viên chỉ huy người Anh, đó là một võ quan thực dân, không thể không khâm phục, đã cho đại đội sắp hàng bồng súng chào những người anh hùng của đối phương vừa ngã xuống dưới chân cột cờ. Không ai trong tiểu đội bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ để lại một di vật nào để từ đó có thể tìm ra tên tuổi, gia đình, nhưng các anh đã trở thành tập thể chiến sĩ vô danh bất tử.

    Dương Quang Đông (Năm Đông), hiện nay còn sống ở Thành phố Hồ Chí Minh có dịp kể lại trận đánh ở Dinh Xã Tây, tức trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ lúc đó:

    “... Đến 21 giờ ngày 22/9/1945, anh em báo cho tôi biết là lính Nhật gác ở vòng ngoài Dinh Xã Tây đã rút hết rồi, nhất định là lính Pháp sẽ đến. Tôi suy nghĩ nát đầu, không biết hỏi ý kiến ai vì các cơ quan Xứ ủy, Ủy ban, Mặt trận đều đã rút về Chợ Đệm từ hồi sáng. Mình được phân công ở lại mà cũng rút thì còn mặt mũi nào. Một giờ sau, anh em lại chạy vào báo quân Pháp đổ mười xe lính ở Đài phun nước (trước cửa Nhà hát lớn bấy giờ). Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy chúng đang triển khai quân rầm rập. Đầu óc tôi rối beng. Nhưng rồi tôi nhủ thầm thà chịu kỷ luật là tự động nổ súng chứ không thể chịu nhục trước kẻ thù. Vậy là tôi cho anh em chĩa súng ra ngoài, chờ lệnh tôi: Tôi quyết định hành động, bắn một phát. Súng của anh em nổ tiếp theo làm một số lính Tây ngã gục. Vậy là bọn Tây bắn trả lại, súng lớn cũng bắn cả vào trong dinh.

    Một lúc sau có tiếng kêu: “Anh Năm ơi, hết đạn rồi!”. Thì lúc bấy giờ, mỗi cây súng chỉ có năm viên đạn chứ mấy. Không còn cách nào khác, tôi cho rút lui. Có những bà, những chị lo tiếp tế cơm nước cho chúng tôi cũng kẹt ở đây, tôi bố trí rút trước. Không một ai hy sinh, chỉ mấy người bị gạch đá văng trúng bị thương. Còn quân Pháp, chết một số. Và vinh dự cho chúng tôi, tiếng súng mở màn cho cuộc kháng chiến chống Pháp chính là tiếng súng phát ra từ Dinh Xã Tây hôm đó”
.

    Đêm 23/9, anh em công nhân trong thành phố họp nhau lại, cắt ngón tay lấy máu ăn thề: “Quyết chiến đấu cho Thành phố Hồ Chí Minh thân yêu!” (như vậy, Sài Gòn có tên Thành phố Hồ Chí Minh ngay từ năm 1945, mặc dù đến năm 1976, Quốc hội mới biểu quyết chính thức). Ngay sau đó, từng tiểu đội, từng tổ lao vào mục tiêu được phân công.

    Sau khi chiếm được Sở Cứu hỏa ở đường Galliénie (nay là Trần Hưng Đạo), anh em trong tiểu đội tự vệ công nhân leo lên cắm cờ trên tháp cao. Người trước ngã, người sau tiến, quyết cắm bằng được. Bốn đội viên hy sinh anh dũng nhưng cờ đỏ sao vàng đã ngự trên đỉnh tháp. Không thể lường được nư giận của đồng bào khi nó đã dâng lên tột cùng.

    Đêm 24/9, căm phẫn vì quân Pháp bắn chết hai chiến sĩ ta, hàng ngàn đồng bào hè nhau tràn vào biệt khu của tiểu viên chức Pháp “Cité Hérault” (ở Tân Định) và đốt phá sạch. Về sau báo chí đưa tin 150 người bị giết, 105 người mất tích. Nghe động, quân Anh, Ấn, Nhật, Pháp kéo đến thì việc đã rồi 7.

    Thật là một thảm cảnh. Nhưng cũng là đỉnh cao của lòng căm thù!

    Tiếp đến, đêm 25/9, hàng ngàn người lại sôi sục xông lên cầm vũ khí đến phá Khám Lớn trong đó có nhiều người của ta địch vừa bắt giam mấy ngày qua. Búa tạ tới tấp nện mạnh cho đến lúc hai cánh cửa khám bằng sắt rất chắc chắn phải bật tung.

    Vụ này địch cũng không kịp trở tay đối phó. Tất cả người của ta bị giam trong khám đều được giải thoát.

    Đại tá Peter Dewey 8 bị bắn chết và biệt xác khi ngồi trên chiếc xe từ sân bay Tân Sơn Nhất ra ngã ba Chú Ía ngày 27/9. Tuy chỉ là cái chết của một sĩ quan trong chiến tranh, nhưng Dewey là người Mỹ, cháu ruột của Thống đốc bang New York và là nhân viên cơ quan tình báo chiến lược của Mỹ CSS, vì vậy nó trở thành một sự kiện được chú ý. Có khả năng, viên đại tá bị quân Nhật bắn chết vì đường vào sân bay lúc này quân Nhật canh gác. Nhưng quân Anh và quân Pháp lại đổ cho ta, lấy cớ để buộc ta những điều vô lý khác. Nhưng vẫn có khả năng do các tay súng của ta nữa chứ?! (trong cuốn Miền Đông Nam Bộ kháng chiến viết: “Ngày 28/9, lực lượng Gò Vấp phục kích tại ngã ba Chú Ía bắn cháy một xe jeep từ sân bay Tân Sơn Nhất chạy ra, giết chết tên đại tá Đơvai..”).

    Những ngày vây hãm địch trong thành phố, lối đánh bất ngờ, đánh mạnh, rút nhanh, xuất quỷ nhập thần đã ra đời, mà tác giả là các đội cảm tử, tổ, đội tự vệ, công đoàn xung phong.

    Quân Pháp tính đến ngày 27/9 chỉ mới kiểm soát được một vùng rất hẹp từ đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi), đường Bonard (nay là đại lộ Lê Lợi), chợ Bến Thành ngược lên đến Tân Định. Sài Gòn không có điện nước, không họp chợ, không buôn bán. Còn ở Chợ Lớn, trước đây mỗi gánh nước giá năm xu, một hào, nay lên tới mười đồng rưỡi; một chục hột vịt trước đây năm cắc, nay lên tới bốn đồng; một ký thịt gà trước đây ba đồng, nay lên tới hai mươi đồng.

    Ngày 30/9, hãng Thông tấn Anh Reuter loan báo: “Có chừng 3.000 quân Anh, một số quân Pháp và 20.000 quân Âu ở Sài Gòn hiện đang bị hàng nghìn người Việt Nam có khí giới đe dọa... Hiện thời quân Anh - Pháp phải chống với 7.000 lính Việt Nam có đủ khí giới và hàng vạn dân quân mang dao, gậy, giáo, lựu đạn nhất quyết tử chiến... Đó là tình hình Sài Gòn một tuần lễ sau ngày khởi nghĩa 9 gây nên bởi tay một số người Pháp, gồm có cựu tù binh, thường dân và cả những người trước kia theo chính phủ Vichy vừa được ra khỏi ngục. Sau bảy ngày, tình thế càng nghiêm trọng thêm. Ở Sài Gòn rất nguy ngập về lương thực, vì trên đất thì quân dân Việt Nam phong tỏa mà trên mặt bể thì quân Nhật trước kia đã thả nhiều thủy lôi đến nỗi không có một chiếc tàu Đồng minh nào có thể tới Sài Gòn được. Các kho gạo của Nhật trước đều bị người Việt Nam phá hoại bằng cách đốt cháy hết trận này đến trận khác. Hai lần máy bay phải ném lương thực xuống. Càng ngày càng khó kiếm miếng ăn và nước khiến nhiều người phải khổ sở vì khát”.

    Báo Cứu quốc số 57, ngày 03/10/1945, nhắc lại lời than thở của một Pháp kiều trong cuộc: “Sống trong cảnh tối om, mỗi người chúng tôi đều tự hỏi điều gì đã xảy ra, ngày mai ra sao...”.

    Trong cuốn Sài Gòn 9/1945, ký giả Trần Tấn Quốc trích dịch một phóng sự của nhà báo Pháp viết khá tỉ mỉ: “Sài Gòn không đèn, không nước, không chợ... Người Việt đàn ông, đàn bà, già, trẻ đã ra khỏi châu thành.

    Sài Gòn, thành phố chết! Hòn ngọc viễn đông đã biến thành một cảnh hoang vu, không một chút nào hoạt động, xe cộ đã ngừng hẳn, không một ai ra đường.

    Từ sáng đến trưa ngày 24 thì Sài Gòn được yên tĩnh. Nhưng đến xế chiều tình thế biến đổi hẳn. Một đội dân quân Việt Nam tiến theo đường Verdun10 tràn xuống trung tâm Sài Gòn chiếm chợ Bến Thành, kéo thẳng đến đại lộ Bonard11   xả súng bắn. Mặt khác, nhiều bộ đội vượt kênh Tàu Hủ đổ bộ lên Sài Gòn tiến thẳng về đại lộ De la Somme12.

    Trong vài vùng khác, người ta cho hay có nhiều trận đánh. Người ta nghe súng nổ khắp nơi.

    ... Ở xa xa, nhiều đám cháy ngùn ngụt đổ trời. Một cảnh tượng bao trùm nhà hàng Continental. Rất đông đàn bà và trẻ con Pháp lánh nạn nhưng nhà hàng không còn một miếng nước, không một tia sáng của đèn điện. Ở đây thỉnh thoảng lại được tin những người Pháp lẻ tẻ bị thiệt mạng.

    Những tin điện cầu cứu cứ truyền ra. Phần khác, tiếng súng không ngớt càng làm rối loạn tinh thần.

    Còn Việt Minh? Hiện giờ họ chiếm đóng tất cả các khu vực ngoại ô.

    Ngày 25/9, cả thành phố vẫn không nước, không lương thực. Những người Pháp chỉ còn mỗi nước là lẻn vào các quán cóc lụp xụp dơ dáy của Hoa kiều, tại đây may ra còn tha được vài cặp lạp xưởng với giá cắt cổ ăn với cơm.

    Trong những quán cóc bẩn thỉu này, bên cạnh những anh phu bến tàu, người ta thấy nhiều vị thượng quan Pháp không còn khó tánh trước sự dơ dáy, ngồi trên những chiếc ghế đẩu bằng gỗ ăn cơm bằng đũa. Ban ngày ban mặt là vậy, sụp tối khó vị nào dám vào những quán cóc đó vì bên sau những lò bếp ám khói ai biết những gì núp ở đó.

    Những ngày đêm này dân chúng Pháp không sao ngủ được. Họ mệt mỏi và luôn luôn xao xuyến. Tuy vậy, Đại tá Cédille vẫn tiếp tục chiến đấu cho hòa bình. Ông không ngớt cho tuần tiễu đi khắp nơi. Ông viết bố cáo kêu gọi người Việt Nam bình tĩnh và khuyên họ trở lại với việc làm. Song tất cả người Việt Nam đều đã ra khỏi thành phố. Đó là chứng chỉ lời đáp của họ...”
.

    Trích như vậy kể cũng dài. Nhưng đó cũng chỉ là những gì tác giả thấy được trong một không gian hẹp mà người Pháp sống. Đi dọc theo sông Sài Gòn, vùng chợ cũ, khu vực Hoa kiều và kế đó là khu vực Ấn kiều quanh chùa Chà cũng sẽ bắt gặp nhiều cảnh tượng như vậy.




-----------------------------------------------------------------
1. Từ ngày 10/9/1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ được đổi tên thành Ủy ban nhân dân Nam Bộ, do Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch.

2. Nay là số 627-629 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Báo Cứu quốc, số 54, ngày 29/9/1945.

4. Sợi dây nịt đỏ: Vùng ven đô bao quanh Sài Gòn - Chợ Lớn trước Cách mạng Tháng Tám, cơ sở cách mạng ở đây rất mạnh.

5. RO (Régie dopium): Quản lý thuốc phiện.
    RA (Régie d’acool): Quản lý rượu.

6. Các “bộ đội” tự lập lúc này có thể kể: Cao Đức Luốc, Huỳnh Tấn Chùa, Tô Ký (Hóc Môn), Nguyễn Văn Thược (Tân Bình), Huỳnh Văn Một (Đức Hòa), Trương Văn Bang (Cần Giuộc), Phạm Văn Khung, Nguyễn Văn Công (Gò Vấp), Thái Văn Lung, Đào Sơn Tây, Trần Thắng Minh (Dĩ An), Võ Văn Mỹ (Thủ Đức)...

7. Báo Cứu quốc tháng 9/1945 đưa tin: “Tối 24/9, quân ta mặc dầu có sự canh phòng cẩn mật của lính Nhật, lọt vào Tân Định bao vây khu phố Hérault, bắt và giết được gần 200 lính Pháp”. Còn cuốn Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, in năm 1990 viết: “Bọn tờrốtkít, bọn lưu manh thừa cơ tụ tập gây ra những vụ kích động điển hình như vụ tàn sát người Pháp ở khu Hérault”.

8. Lúc bấy giờ, Peter Dewey là thiếu tá, ở đây tác giả viết nhầm thành đại tá (BT).

9. Tức là cuộc chiến tranh.

10. Nay là đường Cách mạng Tháng Tám.

11. Nay là đại lộ Lê Lợi.

12. Nay là đại lộ Hàm Nghi.



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 04 Tháng Chín, 2022, 05:20:29 pm
*
*       *


    Ngày 27/9/1945, cơ quan Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ dời về Mỹ Tho để tương đối xa vùng có chiến sự, có thể đứng chân lâu.

    Trước hôm lên đường, bỗng một ý nghĩ day dứt trong lòng tôi: “Sài Gòn đang khói lửa ngút trời, hay mình hãy ở lại để trực tiếp tham gia cuộc chiến...?”. Suy nghĩ rồi đi đến quyết định dứt khoát, tôi trao đổi với anh Nguyễn Văn Nguyễn. Anh đồng ý, chúng tôi lưu luyến chia tay.

    Vậy là tôi ở lại. Nhưng nên làm việc gì, ở ngành nào, thoạt đầu tôi cũng chưa nghĩ đến. Trước tiên, móc nối với anh em quen biết cũ đã.

    Sau khi gặp gỡ và bàn bạc với nhau, tôi cùng các anh Hoàng Dư Khương, Huỳnh Văn Một, Tô Ký..., hình thành một ý định chung là đứng ra tổ chức một đơn vị vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng.

    Ý định này có cơ sở là thực tế đang cho thấy bốn sư đoàn “dân quân cách mạng”, tuy quân đông, súng nhiều nhưng sức chiến đấu quá yếu kém nếu không nói là quá bê bết, đang tự phân rã dữ dội.

    Riêng đệ nhị sư đoàn đã tan rã ngay từ đầu: Vũ Tam Anh - “Tổng tư lệnh” đệ nhị sư đoàn về đầu hàng đệ nhị phòng (2e bureau) của Pháp, rồi bày mưu cho Pháp nắm Chi đội 8 Cao Đài trở súng chống lại kháng chiến, móc nối một loạt phần tử cơ hội cùng ra làm tay sai cho giặc như Lâm Văn Phát, Trần Quang Vinh, Dương Quang Đặng, Phạm Công Tắc. Vì vậy không thể tin cậy, hy vọng ở họ nữa mà phải có những đơn vị vũ trang có hệ thống lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ do Đảng tổ chức.

    Một số đơn vị do những phần tử cơ hội, lưu manh lợi dụng tình hình đứng ra tự lập và chỉ huy nay không chiến đấu mà lui về phía sau quậy phá. Điển hình là “bộ đội H.T.29” của Hồng Tảo, bỏ chạy trước khi giặc đến, nhưng chạy đến đâu đều bắt dân đóng tiền cho “công quỹ”. Ở Thủ Đức, Ba Nhỏ rủ cò Tổng (trưởng công an) mang tiền, vàng và vũ khí của quận rồi dẫn “bộ đội” rút chạy. Còn những đơn vị khác cần được chấn chỉnh nhanh chóng.

    Trong khi cuộc chiến đấu ở nội đô Sài Gòn đang tiếp diễn, cuối tháng 9/1945, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ quyết định thành lập thêm ba mặt trận vòng ngoài.

    Mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định, còn gọi là Chiến tuyến phía bắc, kéo dài từ ngã ba sông Thị Nghè đến cầu Bông, chặn quân địch bung ra trên các trục đường 13, đường xe điện và đường bộ qua cầu Bến Phân lên Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, đường 1 qua cầu Tham Lương. Lực lượng chiến đấu có các đơn vị Nam tiến và các đơn vị địa phương khoảng 50 tay súng.

    Mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn, còn gọi là Chiến tuyến phía nam hay mặt trận đường 4, án ngữ địch tiến quân xuống miền Tây. Tại đây có bộ đội Bình Xuyên (lực lượng vũ trang thống nhất Nhà Bè), bộ đội Ba Bang (Cần Giuộc), bộ đội Bảy Trân (Bình Chánh).

    Mặt trận tiền tuyến phía tây, còn gọi là chiến tuyến Phú Lâm.

    Ngoài ra trên thực tế hình thành thêm Mặt trận tiền tuyến phía tây bắc, còn gọi là Mặt trận Tham Lương vì nhiều trận đánh quyết liệt đã diễn ra ở khu vực này. Tại đây có bộ đội Huỳnh Tấn Chùa, Phạm Văn Ngói và nhiều lực lượng nhỏ của Hóc Môn, Bà Điểm, Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo.

    Các mặt trận vòng ngoài tạo thành một vòng cung gần khép kín bao quanh Sài Gòn với thế “ngoại kích nội công” lợi hại của chiến tranh nhân dân. Có người đã ví vòng cung này chẳng khác nào “vành đai đỏ” trong những năm đấu tranh giành độc lập trước Cách mạng Tháng Tám.

    Nghe các danh từ “mặt trận”, “chiến tuyến”, có thể ai đó hình dung các thành trì kiên cố, hào rộng và sâu, các phòng tuyến bố trí đủ loại vũ khí từ súng máy đến đại bác và xe tăng hạng nặng. Nhưng thực chất đây chỉ là những tuyến chiến đấu với công sự làm bằng gỗ và đất cùng mọi thứ vật dụng mà đồng bào tự nguyện lấy từ nhà mình khiêng, vác, mang đến góp cho bộ đội.

    Còn người chiến sĩ, lúc đó được gọi là Vệ quốc quân, nếu chỉ căn cứ vào hình thức bên ngoài thì thật khó nói đó là con nhà binh. Quần áo thì đủ bộ: Xanh công nhân, bà ba đen, quần soọc áo sơ mi cộc tay... Giày dép cũng đủ loại: Giày da đi dạo phố, dép xe kéo, lại không ít anh em đi chân đất (ở đây không nói tới chỉ huy các sư đoàn mặc cả quân phục của sĩ quan Pháp và Nhật, đi ủng cao cổ, kiếm Nhật kè kè bên hông).

    Vũ khí cũng hỗn hợp của đủ các nước trên thế giới, từ Pháp, Nhật, Nga đến Mỹ, Anh, Tiệp..., dài có, ngắn có và đặc biệt rất ít đạn. Đại bộ phận cán bộ cũng như chiến sĩ trang bị lựu đạn chày, sang lắm thì được khẩu hai nòng, còn không thì gậy tầm vông vạt nhọn kèm theo cuộn dây thừng.

    Với Sài Gòn - Chợ Lớn và cả Nam Bộ là “máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam”, nên trước hành động xâm lược của thực dân Pháp, cả nước cùng hướng về đây như hướng về phần máu thịt thiêng liêng nhất của mình. Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành nơi hội tụ của cả nước.

    Về sau mấy cán bộ từ miền Bắc vào công tác nói lại cho tôi biết: Sáng ngày 23/9/1945, đông đảo đồng bào Hà Nội đã hay tin giặc Pháp gây chiến ở Sài Gòn, ùn ùn đổ ra các phố, đến trước các phòng thông tin đợi nghe thêm tin tức, gặp nhau thì câu đầu miệng là hỏi về tình hình trong đó. Ở các địa phương khác cũng vậy. Không khí chung là hừng hực căm thù. Nhiều người, không cứ là thanh niên, không cứ là nam giới, rạo rực muốn có mặt ngay tại Sài Gòn để moi gan móc ruột quân thù.

    Ngày 26/9/1945, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ, trong đó Người không quên nói đến tấm lòng ruột thịt tha thiết của đồng bào toàn quốc đối với Sài Gòn - Chợ Lớn và Nam Bộ.

    Hồ Chủ tịch và Chính phủ lâm thời quyết định cử những đoàn quân Nam tiến, nhanh chóng chi viện cho Sài Gòn.

    Muốn tổ chức các đoàn quân Nam tiến, phải lo giải quyết hai vấn đề chính là người và vũ khí. Còn một số vấn đề khác cũng cần chú ý như nguồn cung cấp, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, nhưng không quan trọng bằng.

    Về người, có thể nói vắn tắt là “cần một, có mười”. Các “Phòng Nam Bộ” đầy ắp người đến ghi tên tình nguyện Nam tiến. Họ thuộc đủ các thành phần xã hội, các lứa tuổi. Hai nhà sư Nguyễn Châu và Giác Thuyên từ Đông Triều (Quảng Ninh) lên Hà Nội yết kiến Hồ Chủ tịch để xin cho trung đội sư tăng lên đường giết giặc 1. Bà Trần Thị Thanh Lệ ở Hà Nội, cắt búi tóc cho ngắn gọn để xin được tòng quân. Học sinh nhiều trường bãi học vì phong trào “Xếp bút nghiên” đang dấy lên rầm rộ.

    Ngày 26/9, đơn vị Nam tiến đầu tiên đã có thể xuất phát từ ga xe lửa Hàng Cỏ (Hà Nội). Từ đó, ngày nào cũng có chuyến tàu chở quân hối hả băng về phương Nam. Suốt cuộc hành trình, anh em hát vang bài: Tiếng súng vang sông núi miền Nam, Ầm đất nước Việt Nam, Ta muốn băng mình tới phương Nam, Xé xác quân tham tàn... Tàu dừng ở ga nào cũng có đồng bào đón sẵn và tặng bánh trái, lương thực.

    Chỉ một thời gian ngắn, mỗi tỉnh phía Bắc đều có một, hai chi đội Nam tiến. Quân số mỗi chi đội thường tương đương trung đoàn sau này, nhưng cũng có chi đội chỉ tương đương tiểu đoàn, đại đội.

    Cũng không quên nhắc đến tỉnh Quảng Ngãi, quê hương của đội du kích Ba Tơ, với sự nỗ lực cao nhất đã xin được gửi vào Nam mười chi đội đã qua huấn luyện cơ bản 2.

    Chi đội Nam Long vào sớm nhất, đã tham gia chiến đấu ở mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định. Năm đó anh Nam Long cũng mới hăm mấy tuổi, là chiến sĩ bảo vệ tin cẩn của Hồ Chủ tịch từ Việt Bắc cho đến khi về Hà Nội. Anh hăng lắm nên đánh bạo xin Bác vào Nam tiến. Bác đồng ý. Vậy là anh lên đường ngay và được chỉ định làm Chi đội trưởng, vừa hành quân, vừa nắm tình hình đơn vị. Hiện nay anh là Trung tướng, nghỉ hưu ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy là một lão tướng từng trải với ba mươi mấy năm trận mạc, anh vẫn thích nhắc đến những trận đánh vỡ lòng ở căn cứ Việt Bắc và ở thành phố mang tên Bác với nhiều kỷ niệm sâu sắc không thể quên.

    Cũng trong cuối tháng 9/1945, lực lượng vũ trang của các tỉnh miền Tây đang lúc mới hình thành cũng cấp tốc cử một tiểu đội đến một trung đội lên góp lửa với Sài Gòn - Chợ Lớn, chủ yếu ở mặt trận đường 4 và mặt trận phía tây. Do chưa có kinh nghiệm chiến đấu và tổ chức chặt chẽ, anh em không trụ lại được lâu.

    Đầu tháng 10/1945, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ huy động các phân đội của Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá theo quốc lộ 4 đánh vào Phú Lâm nhưng trận đánh không thành công.

    Các tỉnh miền Đông, càng gần gũi với Sài Gòn - Chợ Lớn đã sát cánh chiến đấu ngay từ những ngày đầu.

    Tỉnh Biên Hòa với thành tích một tháng mở được hai lớp đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội tại Trại huấn luyện du kích Bình Đa - Vĩnh Cửu, cử một phân đội chiến đấu tại cầu Bình Lợi bên cạnh bộ đội Nam tiến.

    Ở chiến tuyến cầu Bến Phân và chiến tuyến cầu Bông, trong lực lượng chi viện cho Sài Gòn - Chợ Lớn của tỉnh Thủ Dầu Một có nhiều anh em “Việt Nam mới” người Xtiêng, Chăm, Khmer bên cạnh anh em người Việt. Vũ khí của anh em là cung ná.

    Có một việc xảy ra, lúc đó hơi căng thẳng, nhưng bây giờ gần một nửa thế kỷ trôi qua nhắc lại coi như một mẩu chuyện vui. Số là trong một trận đánh, quân Pháp bắn đạn đum đum nên nghe tiếng nổ ở phía sau. Vậy mà anh em “Việt Nam mới” cho là đồng đội người Việt chơi không tốt, bắn vào lưng mình, bèn rủ nhau bỏ về. Lúc ấy tôi đang có mặt tại đó, tôi cùng các đồng chí chỉ huy giải thích hồi lâu anh em mới thông và ở lại tiếp tục đánh giặc. Giặc rất ngán những mũi tên bay đến mục tiêu “không cần lên tiếng” của chiến sĩ “Việt Nam mới”.




-----------------------------------------------------------------
1. Trung đội sư tăng này thuộc đệ tứ chiến khu, đã được huấn luyện quân sự và hoạt động trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.

2. Từ ngày 23/10/1945, quân Pháp mở rộng chiến tranh, do đó các đơn vị Nam tiến phần lớn dừng lại chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên chứ không vào Nam Bộ nữa.



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 04 Tháng Chín, 2022, 05:23:20 pm
*
*      *


    Ngày 15/10/1945, Xứ ủy lâm thời tiến hành hội nghị tại ấp Cầu Vẽ, ngoại vi thị xã Mỹ Tho. Tham gia cuộc hội nghị có Hoàng Quốc Việt - đại diện Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Ung Văn Khiêm - Bí thư Xứ ủy, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Thị Thập, Lê Văn Sô, Huỳnh Phan Hộ, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trần Ngọc Danh, Phạm Hùng và Nguyễn Văn Vịnh. Trần Văn Giàu không có mặt.

    Ý nghĩa lịch sử của hội nghị này là cho tới hôm nay, Nam Bộ mới có được một xứ ủy thống nhất trên cơ sở giải thể cả hai xứ ủy Tiền phong, Giải phóng và bầu cử dân chủ. Xứ ủy mới gồm 11 ủy viên, trong đó có các đồng chí ở hai xứ ủy cũ và các đồng chí vừa từ Côn Đảo về. Theo một số đồng chí nói lại thì lần đó hội nghị nhất trí cử bác Tôn làm Bí thư Xứ ủy, nhưng bác khiêm tốn từ chối không muốn nhận trọng trách này.

    Hội nghị cũng quyết định thống nhất các tỉnh ủy ở những nơi đang có hai tỉnh ủy và chỉ định một số bí thư tỉnh ủy 1.

    Mặt trận Việt Minh cũng được kiện toàn, trong đó Thanh niên Tiền phong coi như đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, giới thanh niên được tập hợp trong Đoàn Thanh niên cứu quốc.

    Nội dung thứ hai được thảo luận kỹ là vấn đề tác chiến. Hội nghị phê phán cách đánh lập phòng tuyến, dàn hàng ngang cản địch là không thích hợp và quyết định lấy “đấu tranh du kích” làm chính.

    Đúng như vậy. Và trường hợp chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng tuy đáng khâm phục về tinh thần nhưng không lợi cho việc xây dựng, phát triển lực lượng, như trường hợp tiểu đội bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ hay như hai phân đội của Hổ và Bảy Thưởng ở chiến tuyến Thị Nghè.

    Còn cách đánh du kích thật ra đã xuất hiện ở mặt trận nội đô từ ngày đầu có chiến tranh. Có thể nêu vài ba trận đánh, chủ yếu bằng mưu mẹo:

    - Một tài xế người Việt, nhận làm việc cho một viên chức cao cấp Pháp - Một hôm, anh chở nó qua Cầu Kho có việc, đến con hẻm, anh giả đò nghẹt xăng và ngưng xe lại. “Việt Minh” là đồng đội của anh đã phục sẵn, cùng anh kết liễu đời tên Pháp thực dân rồi mò lưng lấy súng.

    - Còn Sáu Cúc là gái điếm ở Chợ Đũi, dùng kế mỹ nhân dụ một tên lính Pháp đi theo. Một tự vệ đã đợi sẵn, lụi ngay mũi mác nhọn vào rốn nó. Nó ôm mũi mác mà té chúi nhũi trước khi chết.

    Trở lại những ngày đầu tháng 10.

    Sau một tuần lễ chiếm đóng được dăm bảy công sở trong thành phố và nhiều lần định dựa vào lực lượng quân Anh, quân Nhật cùng phá vỡ vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng đều thất bại, bọn Pháp tự thấy đã lâm vào cảnh khốn đốn, nguy nan với chiều hướng ngày một tăng. Ngày 02/10/1945, bọn Pháp phải nhờ quân Anh đứng làm trung gian điều đình với ta. Tuy thừa biết Pháp điều đình chỉ cốt để hoãn binh chờ cứu viện đang trên đường đến Đông Dương mà Đại tá Cédihe đại diện cho Pháp ở Sài Gòn không đủ thẩm quyền điều đình, nhưng ta vẫn nhận lời để tỏ cho Đồng minh biết là ta có thiện chí.

    Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu, thay mặt Chính phủ lâm thời, đã có chỉ thị cho Ủy ban kháng chiến Nam Bộ trong khi điều đình phải đòi cho được ba điều:

    1/ Thừa nhận Việt Nam độc lập.

    2/ Thừa nhận Chính phủ dân chủ cộng hòa do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

    3/ Đình chỉ các vụ bắn giết.

    Sáng 02/10, hai đại diện bên ta là Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thạch gặp Cédille và Repiton Preneuf, cả hai cùng là đại tá Pháp. Tướng Gracey - Trưởng phái bộ Anh được mời dự.

    Vào đầu cuộc họp, hai bên thỏa thuận là sẽ ngưng bắn ngay để tạo điều kiện cho việc điều đình. Nhưng khi thật sự đi vào thảo luận, thì ý kiến thường khác nhau xa. Cédille đưa ra một danh sách những tên Pháp bị ta bắt giữ và xin được thả (kỳ thật số đông đã tử trận). Ta cho biết, chính quân Pháp khai chiến trước nên những người Pháp bị chết, bị mất tích hay bị bắt thì Ủy ban kháng chiến Nam Bộ đều hoàn toàn không chịu trách nhiệm. Nhưng nếu cuộc điều đình tiến triển tốt thì ta sẽ điều tra giúp số người Pháp còn sống sót đang bị giam giữ.

    Cédille thừa nhận sáng 23/9 Pháp đã nhờ quân Anh giúp đỡ để đánh úp ta. Ta đòi thiết lập lại chính quyền ở Sài Gòn - Chợ Lớn nguyên như trước ngày 23/9 và phải có một đội cảnh binh toàn người Việt Nam. Cédille xin để trả lời sau.

    Ta cho biết trong khi chờ đợi bên Pháp trả lời, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ vẫn tiếp tục chủ trương triệt để tổng đình công và bất hợp tác.
    Đêm 06/10/1945, lại gặp gỡ nhau lần thứ hai, ta nêu mấy yêu sách:

    - Đưa tình hình trở lại như trước ngày 23/9.

    - Định rõ trách nhiệm cuộc xung đột này thuộc về ai.

    - Quân Pháp phải giải giáp và người Pháp phải ở cả vào một khu quy định nhất định như trước ngày 23/9.

    - Quân đội Pháp không được đổ bộ thêm lên Việt Nam.

    - Thả ngay những người bị Pháp bắt.

    Cédille lại nêu vấn đề những người Pháp bị bắt, bị mất tích và ngỏ ý muốn giữ chủ quyền Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

    Về các yêu sách của ta, Cédille ngần ngừ, đoàn đại biểu ta cho biết ngay là nếu hai bên không thỏa thuận được thì sẽ không có cuộc gặp gỡ lần thứ ba nữa, chiến tranh lại tiếp tục. Cédille nài thêm 48 tiếng đồng hồ đình chiến nữa với cớ để có đủ thì giờ nghiên cứu các yêu sách của ta. Như vậy đến 10 giờ ngày 08/10 sẽ hết hạn đình chiến.

    Tuy vậy, 15 giờ ngày hôm đó, đại biểu ta lại đồng ý gặp Cédille lần thứ ba. Cédille vẫn tiếp tục giữ lập trường cũ, còn đối với những yêu sách của ta thì cho biết ý định sẽ đề đạt lên thượng cấp ở Calcutta (Ấn Độ) xét sau. Một lần nữa Cédille lại tìm cách hoãn chiến.

    Hỗ trợ đắc lực cho Cédille, tướng Anh Gracey hết hăm dọa sẽ dùng võ lực đàn áp Quân đội Việt Nam nếu có việc gì xảy ra đối với quân Anh, lại quay ra mềm dẻo vì thấy đoàn đại biểu ta rất “cứng cựa”. Gracey đề nghị kéo dài thời gian đình chiến thêm 48 tiếng đồng hồ nữa, ta chấp thuận và nói rằng đây là lần cuối cùng.

    Đúng là bọn Pháp điều đình chỉ cốt để hoãn binh.

    Ngày 03/10, một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5e RIC) đến Sài Gòn.

    Ngày 05/10, Đại tướng Leclerc, với chức danh Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, từ bản doanh ở Chandernagor (Ấn Độ), đáp máy bay tới Sài Gòn. Chức danh này của Leclerc được De Gaulle phong cho ngày 17/8/1945, hai ngày sau khi nước Nhật đầu hàng Đồng minh.

    Báo chí tường thuật, Leclerc hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong lúc trời mưa tầm tã. Nhưng sau đó họ lờ không tường thuật những hành động hiếu chiến của y như thế nào. Leclerc lập tổng hành dinh trong vòng rào của quân Anh, không quan tâm gì đến cuộc đàm phán cả. Việc làm tiếp ngay sau đó là vạch kế hoạch phá vòng vây và tấn công ta.

    Trong thời gian này, lữ đoàn cuối cùng của Sư đoàn 20 Hoàng gia Anh do Gracey chỉ huy cũng đến Sài Gòn. Tương quan lực lượng lại thay đổi lớn có lợi cho địch, vì từ ngày 10/10 trở đi cả quân Anh và quân Nhật theo lệnh của Gracey bắt đầu ra mặt phối hợp tác chiến với quân Pháp mà không cần che đậy như trước.

    Ngày 12/10, quân Anh đã dùng lực lượng mạnh tiến chiếm Gia Định và Gò Vấp.

    Ngày 17/10, quân Anh lại tấn công lên Gò Vấp, nhưng lần này bị đánh đau, bỏ lại chiến trường hơn 100 xác chết, 5 xe thiết giáp và tháo chạy.

    Cũng từ ngày 10 trở đi, hoạt động của ta dồn dập hơn trước.

    Ngày 13/10, quân ta đánh ở Cầu Hang (Gò Vấp) diệt được nhiều tên và đoạt 2 xe thiết giáp.

    Ngày 14/10, ta kịch chiến với quân Nhật tại Chợ Lớn và Phú Lâm, quân Nhật bị thiệt hại lớn.

    Đêm 15/10, ta tập kích các đội quân Anh canh gác sân bay Tân Sơn Nhất và đốt cháy chiếc tàu Pháp Alerte vừa cập bến Sài Gòn.

    Ngày 18/10, hai phân đội của Hai Hổ và Bảy Trường chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân Pháp có tàu chiến, xe tăng và pháo binh yểm trợ định chọc thủng phòng tuyến ta ở Thị Nghè. Cuối cùng địch phải rút quân. Báo chí lúc đó đưa ra số quân Pháp bị diệt là 500 tên.

    Tóm lại, tình hình quân Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn căng thẳng, khốn đốn, mặc dầu vòng vây của ta có nới rộng chút ít. Quân Pháp đã phải tổ chức một số cuộc đột kích chớp nhoáng ra các vùng ngoại thành như Tân Bình, Bà Chiểu, Gò Vấp, Thủ Đức để cướp gà, vịt, heo, bò rồi rút nhanh về. Đồng bào ở các vùng này vì vậy cũng được hướng dẫn tản cư đi nơi khác an toàn hơn phòng khi chiến sự lan tới.

    Cho tới ngày 23/10/1945, binh đoàn thiết giáp do tướng Massu chỉ huy, chủ lực quân của đội quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông, đặt gót đến Sài Gòn. Quân Anh trang bị thêm cho binh đoàn này các phương tiện chiến đấu trên sông như chiến hạm nhỏ, canô, phao...

    Leclerc tuyên bố rằng đây chưa phải là những đơn vị cuối cùng đến Sài Gòn. Nhưng với lực lượng đang có trong tay, quân Pháp cộng cả quân Anh và quân Nhật, đã mạnh hơn ta gấp bội.

    Ngày 23/10, Leclerc cho thực hiện ngay kế hoạch tấn công đã vạch ra.

    Từ 23/9 đến 23/10, đúng một tháng, quân dân ta vây hãm địch trong Sài Gòn -Chợ Lớn và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với tinh thần chủ động, quyết tâm chiến đấu cao.

    Toàn quốc tin tưởng, thương yêu hướng về Sài Gòn - Chợ Lớn, thành phố phương Nam “đi trước” để “về sau”.

    Trong một tháng quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn vây hãm địch, các địa phương khác trong toàn Nam Bộ cũng như cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên có được một thời gian quý báu để ra sức chuẩn bị mọi mặt đối phó với tình hình khi chiến tranh lan đến. Đó là đóng góp rất lớn của quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn thân thương.




------------------------------------------------------------------
1. Nguyễn Thành A - Bí thư Tỉnh ủy Tân An, Nguyễn Văn Trọng - Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Nguyễn Văn Côn - Bí thư Tỉnh ủy Gò Công, Nguyễn Tẩu - Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, Trần Thị Nhung - Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc...


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 04 Tháng Chín, 2022, 05:25:37 pm
CHƯƠNG III
Nam Bộ trong cuộc tấn công ồ ạt của quân Pháp


    Cuộc tấn công của quân Pháp khởi đầu từ ngày 23/10/1945.

    Khi binh đoàn thiết giáp Massu đến Sài Gòn, lực lượng quân Pháp lên tới 6.000. Bên cạnh đó là 20.000 quân Anh và 40.000 quân Nhật, cộng lại gấp mười lần lực lượng Pháp. Số quân này đủ đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch tấn công ba giai đoạn của Leclerc:

    -  Phá vỡ vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn, làm chủ thành phố.

    -  Mở rộng chiếm đóng toàn Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

    -  Tiến hành bình định.

    Theo Leclerc, đây không phải là một kế hoạch phiêu lưu mà có tính toán, hoạch định hẳn hoi. Tin tưởng với kế hoạch của mình và với chiến lược cổ truyền của các đội quân xâm lược “tốc chiến, tốc thắng”, ông ta tuyên bố “Sau ba tháng sẽ bình định xong Nam Kỳ”.

    Sơ lược diễn biến những ngày đầu như sau:

    23/10: Quân Anh khởi sự cho việc phá vây bằng trận đánh thốc lên Thủ Dầu Một, phía bắc Sài Gòn.

    25/10: Quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa, phía đông bắc Sài Gòn.

    Cùng ngày, cuộc hành quân mang tên Moussac về hướng đồng bằng sông Cửu Long, bắt đầu do Đại tá Massu chỉ huy.

    Quân Nhật được phân công đi trước dọn đường dọc quốc lộ 4. Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng sục vô nhà dân lôi người ra sửa lộ và tiện thể cướp của luôn. Chúng được phép tự do đốt nhà, vì vậy chúng đi tới đâu là lửa cháy ngùn ngụt tới đó.

    Xe tăng quân Pháp đi sau, vượt qua hỏa lực súng nhẹ của ta không khó khăn lắm mặc dầu ở cầu Bình Điền, cầu Bến Lức..., ta đều có những tổ mai phục.

    Theo đường sông, hai chiến hạm Pháp là Richelieu và Triomphant từ Cần Giờ qua sông Soài Rạp tiến xuống Gò Công, hợp điểm tại đây với một mũi bộ binh hành quân từ Sài Gòn theo liên tỉnh lộ 5.

    Đêm 25/10, hai chiến hạm vừa nói ở trên chở quân lên đánh chiếm thị xã Mỹ Tho. Mũi bộ binh, xe tăng đi theo lộ 4 mãi 10 giờ sáng ngày hôm sau mới đến, do cầu Tân Hương đã bị ta gỡ hết ván.

    Đến đây, các cánh quân bộc lộ rõ nhược điểm là hành quân rất chậm và thường bị tiêu hao nhiều lần trước khi đến đích, quân Pháp cấp tốc thành lập một binh chủng mới là “hạm đội nhỏ trên sông” (Flottille Fluvide). Hạm đội nhỏ trên sông sẽ đóng vai trò chủ công trong việc đánh chiếm các tỉnh còn lại ở châu thổ sông Cửu Long. Chính vai trò của binh chủng thủy quân dã chiến trên hai chiến hạm Richelieu và Triomphant đã thể hiện rõ trong đợt tiến công đầu tiên.

    29/10: Sau hai ngày cho tàu chiến từ Mỹ Thuận chạy dọc theo sông Cổ Chiên thăm dò, chúng đổ bộ đánh chiếm Vĩnh Long.

    30/10: Cũng bằng tàu chiến, chúng đổ quân đánh chiếm Cần Thơ.

    Tất nhiên, địch đã gặp sự chống cự của quân và dân ta, có nơi quyết liệt. Nhưng với lực lượng mạnh áp đảo, nhìn chung cuộc chinh phạt của chúng gọn ghẽ, đúng bài bản đã được định trước.

    Ta thử coi lại một tháng Sài Gòn - Chợ Lớn bao vây địch, các tỉnh miền Tây đã làm được những gì để chuẩn bị vào cuộc chiến.

    Có nhiều việc phải làm và đã làm được. Nhưng hãy chỉ nói riêng về mặt chuẩn bị lực lượng.

    Ở Chợ Lớn cũng như ở Tân An, hàng chục ngàn người đã mang dao, cuốc, leng ra đốn cây, xẻ rãnh, đắp mô trên quốc lộ 4 và liên tỉnh lộ 5. Năm, sáu chục chiếc ghe chài chở đất làm cản trên kênh Nước Mặn và Rạch Cát. Hàng trăm xuồng ghe được kết lại bằng dây cáp chặn ngang sông. Trạm tù và ở các cầu và từng đoạn lộ sẵn sàng báo động khi có địch.

    Mỹ Tho lập khoảng 15 phòng tuyến ngăn địch, đánh sập hoặc gỡ ván các cầu, phá hoại lộ 4 đi Sài Gòn, lộ 24 đi Gò Công, lộ 28 đi Cai Lậy, nhận chìm một số ghe chài, xà lan và một trăm cây giá tị (lấy được của Nhật) ở sông Ba Rày để cản tàu. Các binh công xưởng thành lập, bắt tay sản xuất lựu đạn chày và sửa súng ngay. Đồng Tháp Mười được chọn làm căn cứ. Còn nhân dân sẵn sàng tiêu thổ kháng chiến, tản cư khỏi các thị xã, thị trấn.

    Gò Công được Ủy ban kháng chiến Nam Bộ giao cho nhiều vật liệu, máy móc lấy ở hãng Xáng Mỹ Tho để thành lập binh công xưởng (binh công xưởng này hơi cồng kềnh), đã sản xuất được nhiều lựu đạn. Ngoài lực lượng chiến đấu tại chỗ là du kích tự vệ, cộng hòa tự vệ và cộng hòa vệ binh tỉnh, Gò Công được tăng cường một bộ phận Cộng hòa vệ binh Nam Bộ (Đệ nhất sư đoàn dân quân cách mạng) do Phó Tư lệnh Trương Văn Giàu chỉ huy. Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, bộ phận này có nhiệm vụ cản bước tiến của địch trên lộ 5 cũng như trên đường thủy đi Hậu Giang. Trong các phòng tuyến đã được xác lập, Cộng hòa vệ binh Nam Bộ chọn Cầu Nổi làm điểm phòng ngự chủ yếu.

    Anh Trương Văn Giàu chính quê ở chợ Giồng Gò Công. Anh lưu lạc lên Sài Gòn tìm kế sanh nhai, hết làm loong toong cho các hãng dầu Shell lại làm thợ cho hãng ôtô Citroen rồi vào lính khố xanh lên tới chức quản. Nhưng nay anh trở về quê cũng còn rất trẻ, mới tuổi hăm ba.
    Nội bộ cán bộ Gò Công không nhất trí với nhau trong việc thực hiện vườn không nhà trống, nên cuối cùng chỉ phá một số ngôi nhà lớn ở thị xã, cầu đường vẫn còn nguyên vẹn.

    Ngược lại, công tác phá hoại ở Vĩnh Long được thực hiện triệt để với tinh thần “không chừa lại một thứ gì địch có thể lợi dụng được”. Trên các trục đường bộ, cây lớn, cây nhỏ đều bị hạ chặt làm vật ngăn địch; mặt đường bị đào đứt hoặc thành nhiều hố nham nhở. Trên từng đoạn sông Cổ Chiên, Long Hồ, Măng Thít, nhân dân làm một số cản rất chắc chắn. Trong lúc các cơ quan dời về ngã tư Long Hồ (trên lộ Vĩnh Long - Trà Vinh), dân chúng được lệnh tản cư, thì lực lượng vũ trang được chuẩn bị trước về vũ khí và lương thực, kiên quyết ở lại nghinh chiến với địch. Anh em bố trí thành nhiều phòng tuyến trên cả ba trục lộ Vĩnh Long - Cần Thơ, Vĩnh Long - Trà Vinh, Vĩnh Long - Sa Đéc.

    Nếu ở một số tỉnh còn tình trạng các đơn vị độc lập tác chiến không phối hợp chặt chẽ với nhau thì ở Cần Thơ lúc này có “Bộ tham mưu” là cơ quan chỉ huy thống nhất các lực lượng cộng hòa vệ binh, du kích, các bộ đội. Thực chất “Bộ tham mưu” là Ban Chỉ huy quân sự.

    Trong Ủy ban kháng chiến Hậu Giang (gồm tất cả các tỉnh miền Tây), anh Trần Văn Khéo làm Chủ tịch, còn anh Huỳnh Phan Hộ làm Phó Chủ tịch kiêm Ủy viên quân sự. Anh Hộ rất xông xáo, thời gian phần nhiều dành để đi kiểm tra các phòng tuyến, kiểm tra việc di chuyển máy móc, cơ sở binh công xưởng về nông thôn.

    Khi địch chiếm Mỹ Tho thì Cần Thơ bắt đầu có lệnh tản cư và có kế hoạch phá hoại nhà đèn, nhà máy nước, nhà bưu điện... Tiếc rằng đêm 29/10, quân Nhật được lệnh của quân Anh đã đến gác ở những nơi đó nên ta không thể thực hiện được việc phá hoại.

    Như vậy, có thể khẳng định là khi địch tấn công đến ta không bị bất ngờ. Duy có chiến thuật phòng ngự theo kiểu dàn hàng ngang thành nhiều chiến tuyến là cách đánh không phù hợp.

    Mặt trận đường 4 bị vỡ sớm, nhưng Tư lệnh Dương Văn Dương kêu gọi binh sĩ Bình Xuyên “Hãy tỏ rõ mình là người chiến sĩ cách mạng”, nên đơn vị Bình Xuyên vẫn còn nguyên, sau đó thì lui xuống Rừng Sác lập căn cứ kháng chiến.

    Trên quốc lộ 4, quân Nhật tiến với tốc độ chậm như rùa vì phải đối phó với quân ta. Trong một ngày, mới đầu chúng chỉ đi được 20km. Ở khu vực Cần Giuộc - Cần Đước (Tân An), địch bị chặn đánh cả trên bộ và dưới sông, một tuần lễ sau chúng mới hoàn thành việc chiếm đóng.

    Ở Gò Công, hai chiến hạm Richelieu và Triomphant đến lởn vởn ở bến phà Cầu Nổi (cách thị xã 12km) rồi tiến vào định đổ bộ nhưng lại phải lùi ra giữa sông vì gặp phải hỏa lực của ta. Hơn một tiếng đồng hồ sau đó chúng thấy bên ta im ắng nên lại cho tàu cập bờ đổ bộ. Nhưng mới đặt chân lên bờ, chúng phải xô đẩy nhau nhảy ào xuống tàu trở lại, vì ta bắn tới tấp. Ít nhất có ba lính Pháp đền mạng, một tàu đổ bộ của chúng bị lật chìm.

    Sau đó, do cân nhắc lực lượng ta mỏng, địch đông và hỏa lực mạnh, dẫu tiếp tục chiến đấu cũng khó giữ vững phòng tuyến, trên cho các đơn vị rút về sau. Vì vậy sáng hôm sau địch đổ quân lên được Cầu Nổi.

    Ngày 26/10, địch từ Cầu Nổi vào và từ Mỹ Tho xuống chiếm được thị xã Gò Công. Chúng bị chặn đánh ở nhiều nơi. Ngay đêm đó cộng hòa tự vệ táo bạo tập kích bằng cách dỡ ngói ném lựu đạn vào các nhà có lính ngủ (góc nhà thương thị xã) gây thương vong cho chúng.

    Hơn một tháng sau khi chiếm được thị xã, địch chỉ loanh quanh tại khu vực trung tâm, vài ba lần dè dặt hành quân ra vùng ngoại ô đều bị du kích chặn đánh. Ngày 20/12/1945, hai tên lính Pháp vô làng Tân Duân Trung cướp heo, một tên bị đồng bào ta giết chết. Hôm sau, để trả thù, chúng phải mở cuộc càn lớn giết sáu đồng bào ta, cắt đầu bêu cọc và đốt trụi hơn 200 căn nhà làng Tân Duân Đông.

    Lực lượng vũ trang Vĩnh Long bám địch đánh gần ba tháng trời chúng mới hoàn toàn chiếm được thị xã. Trận Cầu Lầu là trận đánh trên đường ta rút quân, 2 tên Pháp bị diệt và 3 tên khác bị thương. Trận Cầu Ông Me (Long Hồ) sau đó, ta đánh địch suốt một ngày trời diệt một tiểu đội lính Pháp và làm bị thương nhiều tên khác, đoạt 10 súng trường, 1 súng cối 60 ly và 6 trái lựu đạn.

    Tại Cần Thơ, 1 trung đội cộng hòa vệ binh chống cự quyết liệt với cánh quân địch ở Cầu Đôi Cái Khế. Khi chúng tiến vào thành phố, 1 đại đội cộng hòa vệ binh và du kích phòng thủ tại cầu Tham Tướng cầm cự suốt cả tiếng đồng hồ, chúng không dám lên. Về sau địch tăng thêm quân đánh bọc hậu và cho pháo hạm bắn bên hông trận địa, trên cho đơn vị rút về phía Cái Răng để bảo toàn lực lượng.

    Chừng đó sự việc, chừng đó trận đánh không thể nói lên đầy đủ tinh thần chiến đấu của quân ta. Ở đâu cũng có gương dũng cảm ngoan cường rất đáng cảm phục. Nhưng qua đó ta cũng nhận thấy đúng là lực lượng vũ trang ta lúc này còn quá non kém. Rồi đây cùng với thời gian, ta phải dần dần khắc phục những mặt non kém, chuyển yếu thành mạnh, đặng đưa cuộc kháng chiến tiến tới.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 04 Tháng Chín, 2022, 05:31:40 pm
*
*      *


    Tuy muốn đánh nhanh và giải quyết nhanh, đến đây quân Pháp vẫn buộc phải dừng nửa chừng để củng cố và chờ thêm viện binh. Nhiều vùng nông thôn của ta, kể cả các tỉnh đã tạm bị chiếm, vẫn chưa bị địch đặt chân đến. Trong điều kiện như vậy, trong ba tháng cuối năm 1945, bên ta có mấy sự kiện quan trọng cần ghi lại.

    Ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Bộ mở hội nghị đại biểu các tỉnh, thành gần chợ Thiên Hộ (làng Hậu Mỹ, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). Đây là hội nghị đông nhất so với trước. Ngoài đồng chí Hoàng Quốc Việt - Đại diện Ban Thường vụ Trung ương Đảng, còn có một số đồng chí vừa ở nhà tù Côn Đảo về.

    Hội nghị nhận định tình hình và rút ra những ưu điểm, khuyết điểm về chỉ đạo kháng chiến từ sau hội nghị Cây Mai (23/9/1945). Nhiều ý kiến phê phán những lệch lạc trong việc xây dựng lực lượng vũ trang sau Cách mạng Tháng Tám và đề ra nguyên tắc Đảng phải nắm chắc lực lượng vũ trang. Hội nghị quyết định phải gấp rút xây dựng lực lượng quân sự, chính trị rộng khắp lấy du kích chiến là chính, làm vườn không nhà trống, đẩy mạnh công tác trừ gian, xây dựng cơ sở bí mật trong các thành phố, thị xã bị địch chiếm, khôi phục chính quyền ở những nơi bị tan vỡ.

    “Những lệch lạc trong việc xây dựng lực lượng vũ trang sau Cách mạng Tháng Tám” mà hội nghị nêu ra, chủ yếu nói về bốn sư đoàn dân quân cách mạng. Trước đây chưa lâu có người chưa nhận ra hoặc bênh vực, bào chữa cho nó. Nhưng đến nay thì mọi việc đều rõ ràng.

    Đệ nhất sư đoàn, còn gọi là cộng hòa vệ binh do Kiều Công Cung và Trương Văn Giàu chỉ huy, có khoảng 10.000 quân và 2.600 súng 1. Gốc của nó là ba lữ đoàn bảo an binh, sau đó thu nhận thêm công nhân, nông dân, học sinh, cựu binh sĩ. Cộng hòa vệ binh có hệ thống xuống các tỉnh là những đơn vị bảo an binh cải tổ 2.

    Qua thử lửa đoàn quân này bị phiêu bạt lung tung, nhiều phân đội nhỏ chạy về sáp nhập vô các bộ đội khác của địa phương.

    Một bộ phận do Trương Văn Giàu đưa về hoạt động ở Gò Công, như đã có nói ở phần trước.

    Một bộ phận do Kiều Công Cung dẫn về Sa Đéc, có một số hành động mất lòng địa phương như buộc lực lượng vũ trang của tỉnh sáp nhập vào cộng hòa vệ binh, bắt chính quyền cung ứng lương thực, thực phẩm đúng thời hạn, dung túng cho binh lính đi quấy nhiễu. Khi quân Pháp uy hiếp thị xã Sa Đéc, bộ phận này tiếp tục rút xuống U Minh, Cà Mau.

    Đệ nhị sư đoàn, thành phần là giáo dân Cao Đài, phái Tây Ninh, có 10.000 quân nhưng vũ khí thì kém, khoảng 100 súng mà thôi. Sự tan rã của sư đoàn này xảy ra quá sớm, từ đầu tháng 9/1945, ngay khi quân Anh lên tiếng đòi tước vũ khí bộ đội Việt Nam. Tên Vũ Tam Anh - đảng viên Đại Việt, chỉ huy sư đoàn đầu hàng địch, làm việc cho phòng nhì Pháp (2e bureau) rồi trở lại móc nối, lôi cuốn một loạt phần tử cơ hội cùng ra làm tay sai cho địch như: Lâm Văn Phát, Trần Quang Vinh, Dương Quang Đặng, Phạm Công Tắc...

    Đệ tam sư đoàn, do Nguyễn Hòa Hiệp - một nhân viên hiến binh cũ của Nhật chỉ huy. Quân số 6.000 3, súng trên 400. Nói cho công bằng, sư đoàn này có đánh được vài trận ở vùng ngoại ô, nhưng sau đó thì cứ rút lui mãi từ trước khi địch đến và biến thành thổ phỉ!

    Bằng chứng thì quá nhiều, có thể ghi thành một cuốn sách nói về những nét hằn của một đội quân “thua làm giặc”.

    Rút chạy mà Nguyễn Hòa Hiệp còn sung công cả gánh cải lương Nhạn Trắng và một số kịch sĩ đi theo để hưởng lạc. Đồ đạc cồng kềnh thì bắt xe lam chở. Rút chạy mà chúng còn ra oai, cướp không 40 khẩu súng của du kích Hóc Môn, đi đến đâu cũng “rượt hành chính, đánh công an”, bắt dân cống nạp heo gà và phục dịch mọi thứ.

    Tháng 11/1945, lúc này tôi đã thay anh Hoàng Dư Khương làm Chính trị viên Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, đóng quân ở làng Mỹ Hạnh. Một hôm anh em báo cho biết có Phạm Hữu Đức - “Phó Tư lệnh Đệ tam sư đoàn” đến gặp. Tôi cho một trung đội trang bị súng bén phục chung quanh nhà, rồi mời Đức vào tiếp đón đàng hoàng. Đức mặc quần áo sĩ quan Pháp, đeo kiếm Nhật ngang hông, chân mang bốt, trông có vẻ dữ dằn. Còn trang phục của tôi là bộ bà ba đen, trang phục phổ biến của bộ đội ta lúc này. Đức đòi Giải phóng quân liên quận trả số anh em “công binh điện xa”, khoảng hai tiểu đội mới từ trong thành ra tình nguyện gia nhập Giải phóng quân, với lý do đó là người của Đệ tam sư đoàn. Đây là một cớ thôi, tôi chắc Đức còn muốn đòi hỏi Giải phóng quân nhiều thứ khác nữa kia, và hễ được đàng chân sẽ lân đàng đầu. Tôi trả lời Đức một cách cứng rắn là Giải phóng quân không tranh người của ai cả, rồi nói thêm cho y cứng họng luôn: “Pháp đang đánh rộng ra, nếu các anh là người kháng chiến thì hãy sát cánh cùng chúng tôi chiến đấu vì Tổ quốc”. Quả nhiên Đức cảm thấy đuối lý hoàn toàn, đành cáo từ ra về.

    Đệ tam sư đoàn rút chạy một lèo từ Hóc Môn qua Đức Hòa, Đức Huệ, băng qua Cai Lậy, Cao Lãnh. Đi đến đâu chúng cướp không xuồng ghe đến nấy, đó là thứ tư liệu sản xuất và phương tiện vận chuyển, đi lại không thể thiếu của người dân. Đã vậy, có những khúc kênh cạn, chúng còn bắt dân lội xuống đẩy xuồng ghe nữa.

    Cuối cùng, đám binh lính đã biến thành thổ phỉ cũng tan tác mỗi nhóm đi một phương, những người có tinh thần dân tộc thật sự thì bỏ đi tìm những đơn vị khác tiếp tục chiến đấu. Riêng “Tư lệnh” Nguyễn Hòa Hiệp còn một trung đội tay chân, đi ghe từ Cao Lãnh về Đức Huệ rồi ra hàng Pháp ở Bến Lức (Trung Quận, Chợ Lớn). Hay tin, phòng nhì Pháp từ Sài Gòn cho xe xuống chở về thành phố ngay. Còn Phạm Hữu Đức về với kháng chiến, được chỉ huy một trung đoàn, nhưng sau đó y bị bắt và xử lý vì làm gián điệp cho địch.

    Đệ tứ sư đoàn, do Lý Huê Vinh, tay sai cũ của Nhật, chỉ huy với 5.000 quân và 100 súng. Với danh nghĩa “giữ phòng tuyến Tham Lương”, sư đoàn này toàn đùn đẩy các đơn vị khác lên phía trước, còn bản thân ở lại sau để ăn chặn đồ tiếp tế và quấy nhiễu.

    Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tiến hành công tác vận động binh sĩ, lấy được một số vũ khí và làm tan rã đệ tứ sư đoàn.

    Bộ tam “Tư lệnh” Lý Huê Vinh, “Phó Tư lệnh” Trần Xuân Nam, “Tham mưu trưởng” Nguyễn Thành Long cùng ra đầu hàng Pháp.

    Đó là thực chất của bốn sư đoàn dân quân cách mạng. Sự tan rã và cả sự quậy phá của chúng là điều không tránh khỏi. Chỉ có điều ta không thấy trước và đánh giá chúng khác nhau.

    Tuy hình thành từ tháng 10, ngày 01/11/1945, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa mới làm lễ thành lập tại làng Mỹ Hạnh (quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn). Đây là một trong những đơn vị vũ trang hình thành đúng như tinh thần hội nghị Thiên Hộ. Thật ra, trong một cuộc họp liên tịch giữa Tỉnh ủy “Giải phóng” Gia Định và một số đảng viên đang chỉ huy các bộ đội ở tây bắc Sài Gòn trước đây đã đề cập sát sườn đến việc này, dẫn đến sự ra đời của Giải phóng quân liên quận hôm nay. Những đảng viên đó đến nay kẻ còn người mất, kẻ còn chỉ ít thôi, tôi muốn nhắc lại họ tên họ: Hoàng Dư Khương, Tô Ký, Cao Đức Luốc, Ba Súng, Năm Râu, Phan Văn Voi, Phan Đức, Sáu Ngói, Hoàng Tường, Ba Nhỏ (thay Huỳnh Văn Một) và tôi (Trần Văn Trà). Bộ Tham mưu (tức Ban Chỉ huy) gồm: Tô Ký - Tư lệnh, Hoàng Dư Khương - Chính trị viên và bốn phó tư lệnh là Cao Đức Luốc, Huỳnh Văn Một, Huỳnh Tấn Chùa, Hoàng Tế Thế. Biên chế của đơn vị có 6 đại đội. Ngay sau đó anh Hoàng Dư Khương xin chuyển sang ngành dân chính, tôi thay anh làm Chính trị viên.

    Tôi có thể kể nhiều về cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhưng ở đây chỉ có thể nói qua một vài người.

    Anh Tô Ký, là một đảng viên hoạt động từ thời kỳ Nam Kỳ khởi nghĩa, bị Pháp bắt giam ở Tà Lài (Thủ Dầu Một). Năm 1941, anh vượt ngục, về lại quê nhà ở Hóc Môn và bắt được liên lạc với các đồng chí trong Tỉnh ủy “Giải phóng” Gia Định.

    Anh Huỳnh Tấn Chùa, vào đảng năm 1930, từng chỉ huy đội tự vệ đỏ trong các cuộc đấu tranh những năm 1931-1932. Anh trực tiếp chỉ huy một đại đội, đánh địch rất quyết liệt. Tác phong lại giản dị, sâu sát chiến sĩ, anh có uy tín cao trong đơn vị. Năm 1947, anh bị bệnh, từ trần, được truy phong trung đoàn trưởng.

    Anh Huỳnh Văn Một, cũng là một đảng viên kỳ cựu từ những năm 1930. Lực lượng vũ trang Đức Hòa do anh đứng ra tổ chức sau Cách mạng Tháng Tám có tới ba đại đội hoàn chỉnh, khả năng chiến đấu tốt.

    Lực lượng của Hóc Môn, Bà Điểm đóng góp vào cũng có những nhân vật nổi bật như chị Năm Bi - một cán bộ hậu cần xuất sắc, và sau đó là nữ đại đội trưởng duy nhất của miền Đông. Tư Thược, tức Nguyễn Tấn Hưng là cựu tù Bà Rá, ngang như cành bứa và thẳng như ruột ngựa, nhưng ai cũng nể và mến vì đức cương trực và võ nghệ cao cường. Sau đó chính Tư Thược sẽ cùng một số anh em quê nhà Phú Thọ Hòa đào hàng ngàn mét địa đạo để đánh giặc. Trong kháng chiến chống Mỹ, trước khi trở về miền Nam xoi đường cho bộ đội hành quân, Tư Thược vinh dự được Bác Hồ đặt tên là Lâm Quốc Đăng, một cái tên đầy ý nghĩa.

    Tôi nói luôn là ngày 15/12/1945, thì Mỹ Hạnh bị quân Pháp đánh tới. Giải phóng quân liên quận rút về và ngay sau đó anh Tô Ký trực tiếp chỉ huy Đại đội 2 hành quân về chiến khu Lạc An để phối hợp tác chiến với các đơn vị Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Anh Nguyễn Văn Của là Chính trị viên của đại đội này.

    Cùng thời điểm này sự có mặt kịp thời của Nguyễn Bình tại Nam Bộ cũng là một sự kiện quan trọng. Anh được Hồ Chủ tịch và Chính phủ lâm thời cử vào với trọng trách hàng đầu là thống nhất lực lượng vũ trang trong toàn Xứ lúc này đang trở thành một yêu cầu bức bách. Loại trừ những phần tử cơ hội, quân phiệt thì những người chỉ huy quân sự chân chính lúc này mỗi người hùng cứ và có uy tín chỉ trong một địa phương. Anh Mai Văn Vĩnh, một cán bộ Bình Xuyên, đã ví von: Gần giống “thập bát phản vương” đời Đường bên Tàu hơn “thập nhị sứ quân” đời Đinh bên ta!

    Anh Bình ghé qua Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Thủ Đức, tiếp xúc nhiều cán bộ, đảng viên, trí thức như Trần Xuân Độ (bạn tù của anh Bình ở Côn Lôn), Luật sư Thái Văn Lung, Luật sư Lê Đình Chi, Giáo sư Phạm Thiều, người thanh niên đầy nhiệt huyết Huỳnh Văn Nghệ và một người về sau giúp anh nhiều việc rất thiết thân là Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh.

    Vào tới Gia Định, anh Bình gặp tôi tại Bình Mỹ (Hóc Môn). Anh đưa cho tôi coi giấy giới thiệu của Chính phủ lâm thời do Hồ Chủ tịch ký. Tôi trao đổi với anh: “Giải phóng quân liên quận rất tán thành chủ trương thống nhất tổ chức và chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Nhưng hiện nay mỗi người nắm một đơn vị, hoạt động ở một địa phương, lại còn rất trẻ nên khó làm được việc đó lắm. Nay anh được Cụ Hồ và Trung ương cử vào, với danh nghĩa này, anh có điều kiện thuận lợi để quy tụ tất cả các đơn vị về một mối dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giải phóng quân liên quận hoàn toàn ủng hộ anh”. Được lời như cởi tấm lòng, anh Bình yên tâm bắt tay vào chuẩn bị công việc.

    Ngày 20/11/1945, anh Bình tổ chức hội nghị quân sự Nam Bộ ở An Phú Xã, Hóc Môn (có tài liệu ghi An Phú Xã thuộc Thủ Dầu Một). Tuy nhiên thực tế chỉ có 49 đại biểu của các lực lượng vũ trang và Ủy ban kháng chiến các tỉnh miền Đông và đại biểu của bộ đội Bình Xuyên, Cộng hòa vệ binh, lại có cả đại biểu của Đệ tam sư đoàn và Đệ tứ sư đoàn (!).

    Hội nghị thảo luận và nhất trí được nhiều vấn đề. Về chính trị, củng cố lại chính quyền các cấp. Về quân sự, thống nhất lực lượng, chỉ huy và chương trình hành động. Mỗi tỉnh đều tổ chức thành một chi đội, đẩy mạnh du kích chiến tranh, xây dựng căn cứ kháng chiến, binh công xưởng, tổ chức tiếp tế do Ủy ban kháng chiến đảm trách (ngay sau hội nghị này Thủ Dầu Một là tỉnh đầu tiên thành lập chi đội và cuối tháng 11/1945, được mang phiên hiệu Chi đội 1 4).

   Hội nghị bầu anh Nguyễn Bình làm Tổng Tư lệnh giải phóng quân, anh Vũ Văn Đức phụ trách chính trị.

   Từ trước đến nay, mọi người đều đánh giá Hội nghị quân sự Nam Bộ tại An Phú Xã là một hội nghị đặc biệt thành công. Ngoài những điều đã nói ở trên, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang được đem ra bàn bạc khá sâu, có lúc tranh luận căng thẳng. Bản tham luận của anh Nguyễn Đức Nhuận về công tác chính trị có nhiều ý kiến hay, được tán thưởng. Kết quả của hội nghị về sau cũng được thể hiện rõ trên thực tế là cảnh hỗn quân hỗn tướng, cát cứ dần dần chấm dứt, tình quân dân ngày một kết chặt.

    Chưa đến một tuần sau đó, ngày 25/11/1945, anh Đàm Minh Viễn lại cầm quyết định của Trung ương Đảng vào đưa trực tiếp cho Xứ ủy Nam Bộ. Theo quyết định này, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ giải thể để thành lập Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Toàn quốc chia thành 9 chiến khu trong đó Nam Bộ có 3 chiến khu là Khu 7, Khu 8, Khu 9.

     Do trên nên có Hội nghị Xứ ủy mở rộng ngày 10/12/1945 ở xã Bình Hòa Nam, hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông (lâu nay có người nói là làng Hòa Khánh, có người nói làng Hiệp Hòa bên tả ngạn, nhưng chỉ là số ít). Tôi nhớ tên một số đồng chí có mặt tại hội nghị này: Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Đàm Minh Viễn, Đào Văn Trường, Võ Văn Đức, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Kiều Công Cung, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Bình... Hội nghị đã bầu bộ máy lãnh đạo, chỉ huy theo cơ cấu mới như sau:

     Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam: Cao Hồng Lãnh

     Chủ nhiệm hậu cần: Tôn Đức Thắng

     Chủ nhiệm chính trị: Trần Ngọc Danh

     Chủ nhiệm tham mưu: Đàm Minh Viễn

   Khu 7:
     Khu bộ trưởng: Nguyễn Bình
     Khu bộ phó: Dương Văn Dương
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Trần Xuân Độ

   Khu 8:
     Khu bộ trưởng: Đào Văn Trường
     Khu bộ phó: Trương Văn Giàu
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Nguyễn Văn Trí

    Khu 9:
     Khu bộ trưởng: Vũ Đức (Hoàng Đình Dong)
     Khu bộ phó: Nguyễn Ngọc Bích
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Phan Trọng Tuệ

    Cũng tại hội nghị này, anh Lê Duẩn nhận nhiệm vụ Bí thư Xứ ủy.

    Với các sự kiện trên, tình hình nội bộ ta được cải thiện một cách cơ bản. Điều này càng có ý nghĩa khi địch đang trên đà tấn công ồ ạt, ta phải ra sức chống đỡ với kinh nghiệm buổi đầu coi như chưa có gì. Việc chia Nam Bộ thành ba chiến khu là hoàn toàn hợp lý và địa giới quân sự đó vẫn được duy trì đến hết cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.

    Riêng Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam thì không phát huy được tác dụng. Việc chọn Tây Nguyên làm căn cứ địa chung cho ba nước Đông Dương và Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam dự định đứng chân ở đó cũng không thiết thực.

    Ngày 25/11/1945, anh Đàm Minh Viễn cũng mang vào bản chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng. Bản chỉ thị nêu: “Nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ là phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong toả những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự... Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không đồng vắng” nếu quân Pháp tràn về quê”.




-----------------------------------------------------------------
1. Có tài liệu ghi 400 súng.

2. Trừ bốn tỉnh sau đây không có cộng hòa vệ binh: Biên Hòa, Sa Đéc, Rạch Giá, Hà Tiên.

3. Có tài liệu ghi quân số đệ tam sư đoàn là 5.000 - 8.000.

4. Gồm các bộ đội Lái Thiêu, Bến Cát, Bình Lý. Huỳnh Kim Trung làm Chi đội trưởng. Sau thêm Lê Đức Anh làm Chính trị viên Chi đội.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 04 Tháng Chín, 2022, 05:41:02 pm
*
*      *


    Trở lại Sài Gòn - Chợ Lớn sau khi quân Pháp phá được vòng vây, bung ra các tỉnh. Với ta, đây vẫn là mặt trận, mặt trận đô thị quyết không để địch biến thành cái sân sau an toàn của chúng.

    Nhất thời các tổ tự vệ, công đoàn xung phong của ta rút lui ra ngoại ô để bảo toàn lực lượng. Nhưng từ đầu tháng 11/1945, lúc này địch đang đổ quân xuống miền Tây thì anh em lại có điều kiện trở vào hoạt động. Mục tiêu chính là công sở và trại lính.

    Ngày 8/11/1945, tổng hành dinh của Cao ủy Pháp DArgenlieu (phòng thương mại cũ) bị tiến công. Thiệt hại không được thông báo, nhưng ngay sau đó quân Anh và quân Nhật ở các tỉnh liền phải hấp tấp rút bớt về Sài Gòn để đề phòng những vụ tương tợ có thể tái diễn (Cao ủy chẳng qua cũng là toàn quyền nhưng Pháp khôn khéo gọi khác đi. Thierry DArgenlieu vốn là tu sĩ đồng thời là thủy sư đô đốc, được De Gaulle chọn làm cao ủy Đông Dương từ ngày 17/8/1945, nghĩa là chỉ hai ngày sau khi Nhật đầu hàng).

    9 giờ đêm 8/12, ta lại tiến công trại lính ở đường Drouet (nay là đường Hùng Vương). Bị đánh bất ngờ, hàng ngàn quân Pháp trong trại không kịp trở tay, phải nằm tại chỗ bắn vung vãi. Địch cũng không thể thoát khỏi vòng vây, vì ta đã phóng hỏa đốt bốn phía trại. Trận đánh kéo dài hai giờ liền mới kết thúc, sau khi trại lính bị thiêu hủy.

    Báo chí đã tiết lộ số quân Pháp chết là 400 tên và số bị thương nằm chật các bệnh viện Sài Gòn.

    Ngày 11/12, một chiếc tàu lớn, một chiếc xà lan và ba chiếc ghe lớn chở lương thực và binh lính địch chạy trên sông Cần Đước (Chợ Lớn), bị quân ta dùng súng liên thanh đánh đắm. 17 lính Pháp trên tàu đền mạng, 3 tên Pháp và nhiều ngụy binh bị bắt sống.

    Địch dùng gần một trăm xe tăng đánh rộng ra vùng Đức Hòa. Ba đại đội giải phóng quân liên quận gây cho chúng thiệt hại nặng, phải lui về. Lần sau, chúng tăng thêm lực lượng tiến công lại mới chiếm được thị trấn Đức Hòa (tỉnh Chợ Lớn).

    Tân An, với vị trí bản lề giữa Sài Gòn và miền Tây đánh một trận lớn đêm 25/11/1945. Quân ta từ ngoại ô tập kích vào trung tâm thị xã, đánh thẳng vào trại lính Pháp. Hôm sau địch phải dùng 5 xe cam nhông chở xác chết và lính bị thương về Sài Gòn. Ta thu được 30 súng trường, 16 đại liên và nhiều đạn.

    Tỉnh Gia Định, trước đây gắn bó với đô thành bằng mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định, sau khi địch chiếm Gò Vấp, các đơn vị đã lui về lập phòng tuyến Tam Thôn (kéo dài từ ngã ba Chú Ía đến Lái Thiêu), chiến đấu với địch suốt hai tháng. Đặc biệt hai làng kế cận An Phú Đông và Thạnh Lộc, chỉ cách trung tâm Sài Gòn 4km theo đường chim bay, lại là nơi đứng chân vững chắc của các cơ quan quân dân chính đảng trong tỉnh và của cả Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại cù lao Hạnh Phú của An Phú Đông, anh Lý Chính Thắng - Thư ký Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn lập trạm đón tiếp công nhân từ thành phố ra và in báo Cảm tử. Đây cũng là vị trí xuất phát của các đội du kích Lý Thường Kiệt, Ký Con, Trần Cao Vân, Quang Trung, Nguyễn An Ninh..., hoạt động ở các vùng Gò Vấp, Bà Chiểu, Phú Nhuận, Tân Định.

    Ngày 15/12/1945 trận thử thách đầu tiên và lớn nhất đến với chiến khu An Phú Đông (bao gồm cả hai làng An Phú Đông và Thạnh Lộc).

    Cũng trong bút ký viết tay của mình, anh Bích Lâm kể lại tỉ mỉ trận đó và mấy trận tiếp theo. Anh vừa kể vừa bình một cách dí dỏm và hài hước như bản chất con người nghệ sĩ của anh:

    “... Như đã nói, nỗi lo lớn nhất của Pháp lẫn Gracey là bằng mọi giá phải bắt kỳ được Nguyễn Bình. Ngày 15/12/1945, Bộ Tổng Tham mưu của Leclerc huy động hai trung đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9 (9e DIC) của tướng Valluy bảo vệ Sài Gòn với sự chi viện to lớn của quân Anh - Ấn của Gracey tấn công vào Mỹ Hạnh và căn cứ An Phú Đông mà chúng đoán là tướng Nguyễn Bình đang ở đó 1.

    Ở Mỹ Hạnh, các đơn vị của Giải phóng quân liên quận gặp địa hình không lợi, tránh né lực lượng liên quân có cơ giới mạnh của Pháp, Anh. Chúng chiếm Mỹ Hạnh khá dễ dàng. Đoán rằng chúng “đấm vào không khí”, Nguyễn Bình không có ở đó, chúng thu quân thủy lục không quân đánh vào An Phú Đông bằng nhiều mặt.

    An Phú Đông là một xã nhỏ của huyện Gò Vấp, cách trung tâm Sài Gòn 4km theo đường chim bay 2. Bởi địa hình đặc biệt và có truyền thống yêu nước cao mà ngay ngày đầu nổ súng đã mặc nhiên làm nơi hội anh tài của tỉnh Gia Định và nhiều cơ quan của thành phố.

    Đặc điểm nổi bật về địa hình mà nhiều xã quanh Sài Gòn ít có là trước kia đó là một vùng biền lầy nước triều lớn ròng ra vào thong thả. Để biến đó thành đất canh tác, đồng bào ở đó phải đắp bờ bao ngạn cao hơn mặt ruộng đến một mét rưỡi. Đất giàu phân cỏ cây mục đòi hỏi phải đào kênh xẻ rãnh, phân vùng nơi cấy lúa, nơi trồng mía và các thứ hoa màu. Sông Bến Nghé rộng và sâu chia xã thành hai bộ phận: cù lao Hạnh Phú và phần đất liền.

    Sáng 15/12, sau các đợt pháo từ Gò Vấp bắn vào, từ Lái Thiêu, Tân Sơn Nhất bắn tới, từ các pháo hạm trên sông nã lên, thủy quân lục chiến đổ bộ tràn ngập cù lao Hạnh Phú. Chúng thẳng tay tàn sát, đốt nhà dân, bắn bừa bất cứ ai, ngay những bệnh nhân nằm trên giường bệnh chúng cũng giết chết.

    Bệnh viện tỉnh Gia Định do Bác sĩ Nguyễn Văn Hóa làm Giám đốc, khi Bà Chiểu bị chiếm đã dời về đó.

    Giặc tưởng chúng tàn sát như vậy là làm cho dân chúng và cán bộ bỏ đất mà chạy để chúng dễ tung hoành.

    Sau phút bàng hoàng, chiến sĩ ta tìm ra điểm yếu của giặc mà đánh. Mương rãnh nhiều, cầu khỉ nhiều, cơ giới trở thành vô dụng mà bộ binh cũng không hoạt động theo ý muốn chúng được. Với 50 khẩu súng trường, chiến sĩ ta chia thành nhóm bám địa hình theo đường quanh nẻo tắt mà đánh.

    Đêm đến, một số xuống thuyền, số đông ở trên bộ chen chúc nhau trong nhà bạt (tente) để tránh mưa. Đó là dịp tốt để du kích lập công. Cút bắt nhau hai ngày một đêm, thương vong chúng lên đến số trăm. Cuộc điếu phạt như vậy là bất thành, chiều 16/12, chúng rút.

    Thiệt hại ta nặng, gần một trăm mái nhà bị đốt, hai mươi con trâu bị bắn chết. Cán bộ với dân, lớp bị bắn thả trôi sông, lớp bị bắt đem đi không ít hơn một trăm, vì An Phú Đông được coi là nơi hội anh hùng. Số anh em Sài Gòn ra để nhận công tác hoặc tìm chỗ tản cư khó mà nói chính xác. Đau khổ nhiều, nhưng thấy cán bộ ta, đặc biệt là cán bộ y tế, cù lao bị chiếm đóng, bịnh viện bị thiêu hủy, nhưng đêm lớp người được coi là sang cả như “quan thầy chánh” là cụ bác sĩ Hóa vẫn theo y sĩ, y tá lén thức đêm về tìm xem bịnh nhân bị tàn sát ai còn sống sót tìm cách dời qua làng khác để mà cứu chữa.

    Rất lâu sau đó, dân An Phú Đông nghe nhắc đến hai ngày một đêm khủng khiếp đó còn đem hành động đầy tính “mẹ hiền” của cụ Hóa mà kể. Dân nói: Bịnh nhân bị bắn đổ ruột nằm rên trong luống mía cháy dở, bi đát đến thế mà Bác sĩ Hóa vẫn bảo cô y tá khiêng vượt sông đưa qua Lái Thiêu gửi nhà dân, Bác sĩ Hóa động viên các cô y tá: “Còn nước còn tát, cứu một mạng người hơn lập một kiểng chùa”.

    Gương can trường của du kích lợi dụng thế đất, đêm ngày chơi trò mèo rình chuột, giết được nhiều chuột. Xong giặc, bà con dựng nhà, du kích cũng xúm lại làm giùm.

    Có trần ai mới rõ mặt kiên trung. Các ấp còn nguyên vẹn thì ca ngợi “các con các em” không còn lời mà kể.

    Đồng bào nói: Nghe bắn quá tưởng cả người lẫn của thí âm hồn các đảng, cứ ngồi lì tại nhà chờ Tây đốt chết sống với chúng nó cho rồi. Ai ngờ du kích tới dắt chỉ đường cho trốn “tụi nó” ở lại bắn riết. Tây thua, nhà mình còn nguyên. Cứu quốc từ rày dẫu hết ngày cũng đóng góp.
    Thi sĩ Xuân Miễn độ ấy vừa ra tù chẳng biết đi đâu cứ theo đường Paul Blanchy nay là Hai Bà Trưng mà đi. Ra tới An Phú Đông ghé nhà đồng bào xin cơm ăn để rồi đi nữa. Nghe kể “hai ngày một đêm khủng khiếp”, xúc động quá, mượn bút, xin giấy viết liền bài thơ:

       “An Phú Đông, ơi An Phú Đông!
       Một làng nho nhỏ ở ven sông...”

    Bài thơ được Báo Cảm tử đăng liền và trở thành bất hủ.

    Một phát kiến có giá trị làm vẻ vang cho nền quân giới nhân dân Việt Nam nghe nói là được bắt nguồn từ trận chống càn bất hủ này, chẳng biết mức độ chính xác đến đâu, xin mạnh dạn nêu ra.

    Đồng bào An Phú Đông kể: Sau trận càn thấy hai chiếc cầu khỉ gãy gọn. Một chiếc dính máu, trên bờ có một mớ bông gòn huyên thuyên là máu. Bà con với du kích xúm lại bàn: “Máu này là máu của quân ăn no to xác, chúng nó chứ dân mình nhẹ, nhanh như sóc, lại nữa, nếu có gãy cổ đổ ruột thì cứ lá sống đời hay phấn lông cây đủng đỉnh cứ mà dùng “rịch”, chứ bông gòn đâu mà bỏ trắng đường ra. Ơn ai nhà nó, ước gì có vài cây nọc cắm đó thử coi có đổ ruột lòi phèo không thì biết”. Từ đó, chông tre được dùng chống càn xã An Phú Đông, cả Hóc Môn, Củ Chi và khắp Nam Bộ.

    Sau ngày Đồng khởi, Nhạc sĩ Nguyễn Trí Thanh sáng tác thành tiết mục tấu hài mà Đoàn Văn công Giải phóng đã dùng tiếp khách nước ngoài, mà sau khi được xem, nhà văn lại là nữ ký giả Madeleine Riffaud đã viết thành một chương phóng sự có cái tựa rất là độc đáo: “Le pal de bambou” (Cây chông tre), khởi sự bằng mấy câu vừa chân phương vừa duyên dáng và rất Nam Bộ là:

         “Cây chông là cây chông tre
         Rõ ràng đây nè, máu giặc còn loang...”.

    Thua rát quá do chọn lầm địa điểm, nhè cái đất chằng chịt mương ao, bờ lớn bờ nhỏ, sình lầy mà đưa cơ giới làm chiến cụ chủ công, do chọn lầm mặt người - người Hóc Môn, Mười tám thôn vườn trầu thua hiệp này gầy hiệp khác, dai như da tê giác, làm cho lính đã mất tinh thần lại càng sa sút tinh thần hơn nữa. Bộ Tổng Tham mưu nghĩ cách lấy lại nhuệ khí cho lính phần đông là thanh niên từ Pháp mới qua. Rút khỏi An Phú Đông rồi cho quân về trại nghỉ ngơi củng cố tinh thần, Bộ Tổng Tham mưu của Leclerc tìm một điểm tấn công khác để lấy thắng lợi giòn giã lấy lại nhuệ khí cho binh sĩ.

    Đêm 24/12, dự lễ chào mừng Chúa hài đồng nằm trong máng cỏ xong, chúng cắm trại sau nửa đêm và hừng sáng 25/12, bằng nhiều ngả: từ Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo vào; từ Phú Lâm, Bình Trị Đông vô; từ Đức Hòa xuống, phục binh dài theo tỉnh lộ 10 từ Cầu Xáng đến Bà Lác, Pháp tấn công hình chữ U bằng bộ binh chiến xa và máy bay vào Ngã Năm, Gò Mây, Gò Cát, Vĩnh Lộc, Bà Hom căn cứ địa của Tổng Công đoàn của các đơn vị công tác thành mới thành lập. Một cuộc càn quét quy mô theo lối kinh điển quân sự diễn ra từ 6 giờ sáng bằng cách nã pháo tầm xa 105 ly và 75 ly dọn đường trước xe tăng, xe bọc sắt có máy bay trợ lực dẫn đường cho bộ binh súng gắn lưỡi lê lính dàn hàng ngang mà tìm diệt và đột phá.

     Lực lượng tay không của ta quá đông vì từ 23/9 đến nay cả vùng rộng lớn này được coi là chiến khu nên mọi thứ cơ quan cấp quận của thành phố đều chạy ra đây, kho lẫm hậu cần đều đưa về đây. Cả dân tản cư cũng được đồng bào nuôi ở đây do đó trong gần suốt buổi sáng tình hình vô cùng rối rắm. Dân tay không cứ trước mặt co giò chạy, cơ giới chúng cứ rượt, cứ bắn, cứ đốt, cứ cướp, cứ quần nát nhừ nhiều đám ruộng, hàng bông mới lên.

     Dân chúng vùng này rất gan góc. Về lịch sử, đây là bãi chiến trường đẫm máu của mấy thế kỷ trước. Trong cuộc xâm lăng lâu trước khi Pháp chưa ổn định thì đây là huyện sở của Hồ Huân Nghiệp và chịu ảnh hưởng đậm của Mười tám thôn vườn trầu. Phong trào hoãn thuế năm 1930, phong trào chống khủng bố trắng sau Nam Kỳ 1940 vừa là hổ cứ của cậu Hai Đống trước kia và liền đây của các bậc anh chị Mười Trí, Sáu Thành, Sáu Hâm, Ba Tròn...

     Về cư dân, đây là vùng khá đặc biệt. Họ nào sống theo họ nấy, đất ai nấy ở, đất canh tác mà lại là đất xám, không sông, không suối, không kênh đào, người ta canh tác bằng nước trời mưa, chủ yếu bằng nước giếng, nhà nào cũng có giếng. Đã vậy mà phong tục canh tác ở đây coi hàng bông vụ Tết là nguồn thu hoạch chính nên chi giải quyết xong lúa “sà mo”, lúa “tiêu”, là nông dân đào giếng, mỗi đám ruộng ít ra cũng vài ba giếng thọc sâu ba, bốn thước để cho du kích núp mà khó cho địch hành quân, lơ đễnh là sa xuống giếng.

     Hộ dân thì hộ nào cũng có lũy tre dày đặc cách nhau chừng một đường tên tạo thành một thế liên hoàn tự nhiên. Vuông tre này dễ giúp cho vuông tre khác, luồn qua trở lại, tiện cho thế đánh vu hồi. May mắn hơn nữa là thời kỳ Mỹ ném bom Sài Gòn, nhà nào cũng có hầm trú ẩn hoặc giao thông hào để nhỡ nhà bị oanh tạc thì theo giao thông hào tìm nơi ẩn trú khác. Đường làng ở đây hầu như không có. Xóm nọ qua xóm kia bằng những đường xe bò rào hai bên bằng hai hàng dứa ngập đầu thuận cho du kích. Cả vùng rộng lớn đó từ Phú Thọ Hòa (Gò Vấp) đến Cầu Tre, Tân Hòa Đông (Quận 6) chạy lên đến Vĩnh Lộc, Gò Mây được coi là hậu cứ của Sài Gòn. Các đội cảm tử, sau này đổi là các ban công tác, đánh thì phóng nhanh vào thành phố, nghỉ hay tập huấn thậm chí đưa gia đình di tản cũng đưa ra đây gửi gắm cho đồng bào.

     Trang bị vũ khí dĩ nhiên phải thích hợp cho công tác đó. Súng lục, mì tháo bá, lựu đạn nói chung nhẹ gọn dễ thay hình đổi dạng... Có khi một chiếc khăn rằn để khi ra chợ giả làm phu vác gạo dùng khăn che đỡ rách áo, khi tấn công thì khăn đó là dây xiết cổ vặn họng địch thủ. Một ưu thế khác nữa là hầu hết anh em này là dân chợ: thợ nhà máy, phu khuân vác, học sinh, tiểu viên chức trẻ từng đối mặt với kẻ địch.

    Tảng sáng chưa nắm tình hình địch thắng, pháo dữ dội, khí thế chúng sắc sảo, anh em bình tĩnh lánh địch. Trưa lại nắng, khí hậu oi bức, chúng tọng no nước nên uể oải, đó là lúc tốt cho anh em ra tay.

    Đất cát pha, đầu mùa khô cơ giới hoạt động dễ nhưng không dễ nào chạy càn qua những vuông tre để đuổi theo những con người nhanh như sóc, nhẹ như gió. Anh em xé lẻ từng tổ ba người khi cần thì thành tiểu đội, phân đội hạ lẻ từng đứa bằng lối thủ công rồi chôn nó xuống giếng cũng bằng cách thủ công.

    Muốn thành trận lớn thì mỗi tiểu đội bám một vuông tre đánh trực diện, bắn xuyên hông, lòn ra sau bắn vén ót. Vũ khí nhẹ đánh theo tính năng của vũ khí...

    Qua bữa ăn trưa, giấy gói lương khô, lon hộp đựng “ration complète” (khẩu phần hoàn bị) bị vung vãi trắng đất, có cái chúng chẳng buồn đập nát hay đốt bỏ theo lệnh. Sức đâu mà làm. Ăn cũng biếng nhai vì mệt mỏi...

    Mặt trời ngả chưa tới trán, xe pháo lính tráng kéo thành hàng dài nhắm đình Gò Cát, Gò Mây, Ngã Năm, chợ cổng Bình Trị Đông, đình Tân Tạo, chợ Bà Hom mà co cụm tốp dựng lều, tốp canh gác, lính khỏe tắm giặt, lính mệt bao quanh cái xe hồng thập tự. Mắt trinh sát ta không nhắm trước các chi tiết đó.

    Đúng mười giờ đêm, các đội cảm tử, các ban công tác, các đơn vị vũ trang Tổng Công đoàn của Hai Râu (Huỳnh Đình Hai), của Triệu Cải, của Chín Heo (Nguyễn Đình Chính) phối hợp với bộ đội của Hai Luông (Nguyễn Văn Luông) ở Bình Trị với bộ đội Bà Hom của Hai Bào, Hai Miêng, Tư Bốn, của Tổng hành dinh Bà Quẹo của Mười Trí (Huỳnh Văn Trí)..., mở các đợt tấn công các nơi co cụm của Pháp.

    Pháo sáng rực trời. Trái phá, “tromblon VB”, bazooka, súng cối, đại liên, tiểu liên thỉnh thoảng chen những tràng lựu đạn với tiếng “xungphong” của ta, tiếng “kura! kura!” của Nhật Bổn giả với năm bảy anh Nhật Bổn thiệt ngả theo quân ta từ những ngày đầu tháng chín.

    Thiệt hại của đôi bên, bao nhiêu đố ai biết. Giữa đêm tối dễ ai đếm được, vả lại bên ta, bên địch bên nào cũng giấu, cũng vừa thổi phồng...

    Điều biết chắc là cuộc bố ráp gọi là để lấy lại tinh thần binh sĩ sau trận An Phú Đông hôm 15/12 nay dự tính là ba ngày thì mới một ngày một đêm sáng sớm 26/12 thì rút.

    Nhật ký hành quân của lính Pháp lượm được trong một trận phục kích vén ót tại bưng bốn xã phía Tân Hòa Đông Quận 6 có ghi ba chữ Pháp “Drôle de Noel” nghĩa là “Noel gàn dở”.

    Tuy nhiên, Bà Hom, chợ cổng Bình Trị Đông là điểm yết hầu Pháp phải liều chết đóng bót.

    Trong vòng mười ngày, Pháp chủ động đánh ta ba trận.

    ... Số thiệt hại của kẻ địch về vật chất, nhất là tinh thần tính ra là lớn”
(trích từ trang 54-60).

    Ta lưu ý kế hoạch tiến công của Leclerc là chọc hai mũi dùi: một mũi đánh xuống Mỹ Tho, rồi với tay xuống miền Hậu Giang; một mũi đánh lên Tây Ninh để “phá tan lực lượng Cao Đài” (tuyên bố của Leclerc).

    Sáng sớm 08/11/1945, quân Anh - Pháp với lực lượng 204 xe quân sự (theo tư liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tây Ninh là 75 xe), trong đó có cả xe tăng và xe bọc thép từ Sài Gòn tiến lên Tây Ninh. Xe tăng đi trước có nhiệm vụ ủi phá các chướng ngại vật. Lực lượng quận Trảng Bàng ở mặt trận Suối Sâu (thuộc xã An Tịnh giáp ranh với huyện Củ Chi hiện nay) dùng lựu đạn, chai cháy, súng trường, tên ná đánh đoàn xe địch, nhưng cũng không ngăn chặn được bước tiến của chúng. Tại mặt trận Trâm Vàng (Trảng Bàng), du kích dùng mủ cao su đốt giữa lộ, một xạ thủ trung liên bắn chết tên lái xe và ba tên khác.

    Một đại đội commăngđô từ Campuchia theo quốc lộ 1 tiến sang Gò Dầu. Hai cánh hợp điểm tại đây rồi theo quốc lộ 22 lên thị xã Tây Ninh. Đến khu rừng Bến Kéo, xe tăng địch lại phải ủi phá để mở đường vì ta hạ nhiều cây to ngang lộ. Đạn súng trường cùng mũi tên ná có tẩm thuốc độc bắn vào những chiếc xe GMC mui trần. Địch chết nhiều, nhưng lực lượng chúng đông nên vẫn tổ chức đánh bọc hậu ta được. Ta đành rút lui, có hai chiến sĩ ở lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng để bảo vệ anh em rút lui, sau đó mới rời trận địa.

    Đến chiều, địch đến được thị xã Tây Ninh, lọt vô được Thánh thất Cao Đài sau khi đã bỏ mạng dọc đường gần 100 xe và bị bắn hỏng một số xe. Đoàn xe địch đi giữa thị xã vắng ngắt vì đồng bào ta đã thực hiện khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với địch. Ba, bốn ngày sau, đồng bào vẫn không ra đường, cửa nhà đóng kín, chợ búa không họp.

    Điều đáng chú ý là sau khi đứng chân được ở Thủ Dầu Một và Tây Ninh, địch vội vã kéo đến chiếm lại ngay những đồn điền cao su lớn, nguồn lợi kếch xù trước đây của chúng. Công nhân ở nơi này đều bãi công, đốt máy, đốt từng lô cao su.

    Lực lượng vũ trang làng An Tịnh nổi lên những ngày đầu kháng chiến. Để xây dựng mặt trận Suối Sâu, các tiểu đội vũ trang của làng An Tịnh cùng hàng ngàn thanh niên, nhân dân trong quận đào hào chống tăng, đắp ụ chiến đấu suốt 12 ngày đêm liên tục. Khi mặt trận Suối Sâu vỡ, anh em lui vào Rừng Rong lập căn cứ tiếp tục hoạt động vũ trang tuyên truyền, địch vận và tác chiến. Ngoài ra còn đưa một trung đội sang Mỹ Hạnh tăng cường lực lượng cho Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, cùng đi với người là 20 khẩu súng bén.

    Nhiều chiến sĩ Rừng Rong năm xưa đã trưởng thành qua hai cuộc chiến tranh giải phóng. Nguyễn Thanh Tùng - Đại tá Lữ đoàn trưởng các lữ đoàn đặc nhiệm 367 và 316, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai đã nghỉ hưu. Trung tướng Nguyễn Thới Bưng hiện là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng. Trung tướng Bùi Thanh Vân (Tư lệnh Quân khu 7).

    Một số lực lượng của Sài Gòn - Chợ Lớn đã lui về Tây Ninh, kết hợp với lực lượng tại chỗ để tiếp tục chiến đấu như công an cảm tử (hơn 400 quân và 40 súng) và một bộ phận của Đệ nhất sư đoàn.

    Cũng ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Tây Ninh phải đối phó khá vất vả với nạn “cáp duồng” (giết người Việt) do Pháp kích động người Khơme và nạn Chi đội 8 Cao Đài phá phách, thủ tiêu cán bộ cách mạng 3.

    Biên Hòa là một tỉnh của tam giác Sài Gòn - Thủ Dầu Một - Biên Hòa, Leclerc có ý đồ đánh chiếm sớm để tạo “thế chân vạc” đó. Biên Hòa cũng là tỉnh rộng nhất miền Đông với diện tích 11.300km2, một đầu mối giao thông thủy và bộ quan trọng phía đông Sài Gòn.

    Rất dở, khi quân Anh mượn danh nghĩa giải giáp quân Nhật kéo ra Biên Hòa, Ủy ban kháng chiến miền Đông, đứng đầu là Lương Văn Tương không tổ chức đánh địch mà lại rút chạy ra Xuân Lộc. Ủy ban kháng chiến tỉnh Biên Hòa trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng đó cũng tan tác!

    Thừa thắng, mờ sáng ngày 30/10, một trung đội Nhật theo lệnh quân Anh từ An Lộc tiến về Xuân Lộc theo đường xe lửa. Ở Xuân Lộc, lúc đó Ủy ban kháng chiến miền Đông mải lo huy động dân chúng ra tiếp đón phái bộ Trung Hoa từ ngoài Bắc vào tìm hiểu tình hình Hoa kiều ở Nam Bộ, quân Anh - Nhật giở trò bao vây và đánh úp ta. Chỉ trong nháy mắt, tiếng súng liên thanh và đại bác nổ rền. Nhưng suốt trong nửa giờ địch vẫn bị quân ta chặn đứng. Chúng phải điều thêm 43 xe camnhông chở quân và nhiều đại bác từ An Lộc đến. Ta tạm lui khỏi Xuân Lộc 5km và bố trí thế trận mới. Khi địch đến, ta đánh mãnh liệt. Từ 11 giờ ngày 30 đến chiều 31/10, quân Anh - Nhật phải rút về lại Xuân Lộc, từ bỏ ý định kéo ra Phan Thiết. Báo Cứu quốc số ra ngày 01/10/1946, đánh giá: “Trận đánh ở Xuân Lộc là một thắng lợi lớn của quân đội ta, vũ khí thô sơ thiếu thốn mà đánh lùi được cả một liên quân Anh - Nhật”.

    “Quân đội ta” mà tờ báo của Tổng bộ Việt Minh biểu dương ở đây, chính là một đơn vị Nam tiến. Sau trận này, đơn vị không ở lại Nam Bộ mà được lệnh quay trở ra chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ. Trong chiến đấu, đơn vị bị tiêu hao nhiều vì đánh theo lối dàn trận. Nhưng những địa danh Xuân Lộc, Núi Thị, Bình Lộc mãi mãi gắn liền với chiến công đầu của các anh.

    Lực lượng vũ trang của tỉnh Biên Hòa lúc này vẫn phân tán nhỏ trên từng khu vực. Châu Thành có 5 tiểu đội và 30 súng, một đội xung phong cảm tử 30 thiếu niên do Lê Văn Ngọc chỉ huy. Long Thành có 3 phân đội của Lương Văn Nho, Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung, về sau thêm một phân đội ở thành Tuy Hạ. Chiến sĩ đa số là công nhân các sở cao su. Cán bộ có một số đã qua trại huấn luyện du kích Bình Đa - Vĩnh Cửu.

    Huỳnh Văn Nghệ vốn là một người của Ủy ban kháng chiến miền Đông, không rút chạy mà gom hơn 30 tay súng trở về quê nhà ở làng Dân Tịch, quận Tân Uyên (hiện nay huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Sông Bé), xây dựng một đơn vị. Anh quy tụ được 17 người của Chín Quỳ, là bộ phận vũ trang lưu lạc từ sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ; một phân đội công nhân hàng hải do Đào Văn Quang đưa từ Sài Gòn lên và các thanh niên tự vệ chiến đấu của quận. Cao Văn Bổ - nguyên Tổng Thư ký Ủy ban kháng chiến quận Tân Uyên cũng không rút chạy, chỉ huy một bộ phận nhỏ với 7 cây mút Pháp cùng nhập đơn vị Tám Nghệ.

    Đơn vị lấy tên Vệ quốc đoàn Biên Hòa, nhưng thực tế chỉ hoạt động trong địa bàn Tân Uyên. Mảnh đất Tân Uyên là đất rừng, địa thế hiểm yếu, có sông Đồng Nai và sông Bé bao bọc nối liền với Xuân Lộc, một lưng dựa dải rừng mênh mông trải dài lên tận Mã Đà, đường 14. Dân cư thưa thớt và sống chủ yếu bằng nghề trồng mía, làm đường, khai thác gỗ. Tân Uyên lại cách Sài Gòn không xa, cách thị xã Biên Hòa khoảng 15km đường chim bay, có thể nối sang cả đông lẫn tây, khi cần có thể rút lên hướng bắc. Từ căn cứ ban đầu của Vệ quốc đoàn Biên Hòa, dần dần nó thể hiện rõ tính chất của một địa bàn chiến lược và dẫn đến sự hình thành Chiến khu Đ nổi tiếng.

    Một trận đánh hợp lực của nhiều đơn vị, trận tiến công vào thị xã Biên Hòa vào đêm 31/12/1945 4. Về ý nghĩa đó là trận đánh ngay sau khi Hội nghị quân sự An Phú Xã và Hội nghị Xứ ủy mở rộng thành công, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 hình thành, là trận đánh cảnh cáo địch đã tàn sát dã man đồng bào ta trong các cuộc càn vô An Phú Đông, Bình Trị Đông, Bà Hom, Gò Cát vừa qua.

    Giải phóng quân Biên Hòa phụ trách phần do thám, trinh sát. Anh Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy chung.

    Các đơn vị tham gia chiến đấu có: 1 phân đội của Chi đội 1 Thủ Dầu Một, 1 phân đội pháo của Thủ Đức (do Luật sư Thái Văn Lung chỉ huy), 1 phân đội của Mười Trí ở Bà Quẹo, 1 phân đội của Hai Dung, 1 phân đội của Đào Sơn Tây, 1 phân đội của Công, 1 phân đội của Tô Ký, 1 phân đội của Huỳnh Tấn Chùa. Lực lượng tại chỗ có phân đội của Huỳnh Văn Nghệ và 10 phân đội Bình Xuyên của Dương Văn Dương 5. Bộ đội Ba Dương như ta đã biết, sau khi rời mặt trận đường 4, Sài Gòn vẫn giữ nguyên được lực lượng, về đứng chân ở Bàu Bông - Vũng Gấm vùng Rừng Sác. Một số tự vệ Công đoàn Nam Bộ bị tản lạc bây giờ cũng tự nguyện gia nhập bộ đội Ba Dương.

    Như vậy tổng cộng có 21 phân đội.

    Đúng 0 giờ, quân ta bí mật luồn vào thành phố an toàn, địch không hay biết. Mục tiêu công kích gồm các trạm gác, công sở, nhà lao, đầu cầu và trại binh.

    Kết quả thành Xăng Đá và sân bay Tân Phong trúng đạn moọcchê và đại liên rất nhiều.

    Một bồn xăng gần thành Xăng Đá cháy, ngọn lửa bốc rất cao. Dinh tỉnh trưởng sập mái trước và một phần sân thượng. Cổng sở bưu điện bể một mảng, bay mất bảng hiệu. Mái nhà kho bạc bay ngói. Trại lính Pháp ở Tân Mai cũng trúng nhiều đạn moọcchê. Chợ Biên Hòa bị tromblon VB từ bên kia sông Đồng Nai bắn qua, đạn lép không nổ nhưng làm lủng mái.

    Sinh lực địch bị diệt không nhiều, nhưng tiếng vang của trận đánh thì rất lớn. Trận đánh bất ngờ và táo bạo này nhanh chóng dội về Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Báo và đài một số nước có đưa tin, có báo phản bác lại lời tuyên bố ngày nào của Đại tướng Leclerc: “Sau ba tháng sẽ bình định xong xứ Nam Kỳ”.

    Huỳnh Văn Nghệ - người chỉ huy trận đánh, cũng là một tâm hồn thơ lai láng. Xưa nay người ta vẫn nhắc nhiều đến anh, với những chiến công của Vệ quốc đoàn Biên Hòa và Chi đội 10 sau này do anh chỉ huy, và với hai câu thơ tiêu biểu nhất của anh:

        “Từ độ mang gươm đi mở cõi
        Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...”
.

    Sau trận tập kích vô thị xã Biên Hòa vào đúng đêm Tết Tây này, có thể anh đã cao hứng làm thơ và đọc cho bạn bè, đồng đội cùng thưởng thức.

    Trên chiến trường, địch vẫn đang ở thế tiến công. Ngày 25/01/1946, chúng huy động 4.000 quân cùng một lúc mở ba mũi tấn công vào chiến khu Tân Uyên. Dưới thủy có tàu, xuất phát trước ba ngày, bắn phá làng mạc ven sông để mở đường. Trên bộ, xe cơ giới từ Biên Hòa theo quốc lộ 1 tiến thẳng ra.

    Hai phân đội Vệ quốc đoàn Biên Hòa chặn đánh địch từ sáng đến trưa tại Bình Thạnh và cầu Rạch Cốc diệt một số địch trong đó có tên quan ba Pháp.

    Đặc biệt trận đánh của hai phân đội này ở Xóm Đèn rất xuất sắc. Khoảng 4 giờ chiều hôm đó, quân địch từ Mỹ Lộc quay về Tân Uyên, khi chúng đang lò dò tìm cách qua một cây cầu đã bị phá sập thì quân ta từ mé rừng bất ngờ nổ súng rồi nhảy ra mặt đường dùng lưỡi lê, gươm, mã tấu, gậy tầm vông đánh giáp lá cà. Có lưỡi gươm chém sả vai địch. Có chiếc gậy vót nhọn xuyên thẳng ngực địch. Yểm hộ cho bộ phận đánh giáp lá cà, một khẩu trung liên bắn quét địch đang dồn sát phía bờ sông. Tiểu đội du kích Tân Hòa không có súng thì khua phèng la, đập thùng thiếc giả làm tiếng súng máy uy hiếp tinh thần địch. Chúng khiếp đảm, hàng ngũ rối loạn, một số tên phải giơ tay hàng. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Đông, bộ đội ta bắt được tù binh Pháp.

    Như vậy cuộc tấn công của quân Pháp bị thất bại hoàn toàn, mặc dù chúng đã huy động một lực lượng đông gồm nhiều binh chủng và vũ khí hiện đại. Tinh thần dũng cảm, tác phong linh hoạt cộng với cách đánh thích hợp của quân ta mang lại thắng lợi đáng khích lệ: 220 tên Pháp bị diệt, 6 xe quân sự và 2 xuồng của địch bị phá hỏng.

    Ở miền Đông, tỉnh cuối cùng bị địch chiếm là Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 08/02/1946, quân Anh làm nhiệm vụ mở đường cho khoảng 300 quân Pháp từ Long Thành (bị chiếm ngày 26/01) theo lộ 15 tiến xuống. Bộ đội Mười Tỷ, dân quân thanh niên cứu quốc Bà Rịa nổ súng chặn địch, nhưng chặn không nổi bước tiến của chúng.

    Tình hình nội bộ Bà Rịa không được tốt. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh là Lê Văn Huề đầu hàng địch ngay khi chúng mới đến cùng tất cả số vàng nhân dân đã góp vào quỹ độc lập. Bọn thổ phỉ Trịnh Ngọc Hiền - Phan Đình Tân (trước đây chỉ huy trung đội bảo vệ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ chạy về Bà Rịa) dùng áp lực quân sự tước toàn bộ 300 khẩu súng của lực lượng vũ trang tỉnh, một tỉnh có số súng nhiều nhất ở miền Đông, để khi địch đến thì trắng tay. Chúng còn lấy một số vàng của công quỹ, còn tìm cách bắt được anh Trần Xuân Độ - Ủy viên chính trị bộ Khu 7 đang về giúp tỉnh thành lập Ban Vận động xây dựng Mặt trận Việt Minh tỉnh. Anh Tân - một chiến sĩ trong lực lượng Hiền - Tân đã giải thoát cho anh Độ, nếu không, anh sẽ bị chúng ám hại. Và cuối cùng khi địch chiếm Bà Rịa, chúng cực kỳ hèn nhát bỏ chạy ra cực Nam Trung Bộ, Trung Trung Bộ rồi tan rã.

    Ngoài nhóm Hiền - Tân, những nhóm thổ phỉ khác cũng quậy phá ghê gớm. Nhóm thổ phỉ “Đệ nhị sư đoàn” từng bao vây Quận ủy Long Thành và định bắt đồng chí Bí thư, về sau bị tòa án cách mạng đặc biệt bắt giam và tuyên xử tử hình 4 tên trong tổng số 5 tên cầm đầu. Ba Nhỏ chỉ huy một đơn vị khác từ Thủ Đức chạy về, hống hách, vô cớ giết hại một số đồng bào, “bán đinh cứu quốc” (đi tống tiền, ai không đưa thì đóng đinh vào đầu), bị Tòa án binh Khu 7 do Khu trưởng Nguyễn Bình ngồi ghế chánh án tuyên xử tử hình.

    Tình hình Bà Rịa dần dần ổn định.




-----------------------------------------------------------------
1. Năm 1948, anh Nguyễn Bình mới được phong hàm Trung tướng (T.G).

2. Từ năm 1976, An Phú Đông và Thạnh Lộc tách khỏi quận Gò Vấp trở thành hai xã ngoại thành thuộc huyện Hóc Môn.

3. Từ Tây Ninh, quân Pháp tiếp tục tiến sang chiếm Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đốp (Thủ Dầu Một) và đến 01/12/1945, chiếm thị xã Buôn Ma Thuột.

4. Có tư liệu ghi là đêm 01/01/1946.

5. Có tư liệu ghi: 2 phân đội của Huỳnh Văn Nghệ. Lại có tư liệu khác ghi 2 phân đội của Dương Văn Dương.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Chín, 2022, 06:49:16 am
*
*      *


    Còn ở miền Tây, sau khi chiếm được bốn tỉnh: Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, quân Pháp tạm dừng lại vì chưa đủ lực lượng đánh rộng thêm. Diện tích miền Tây cò bay thẳng cánh lại là chiến trường “kênh rạch như bàn cờ”, từ đó đến cuối năm, chúng tạm bỏ ngỏ chín tỉnh còn lại. Trong khi chờ đợi tăng quân, chúng củng cố các nơi chiếm được, dung nạp bọn Việt gian đặng dựng lên bộ máy ngụy quyền các cấp. Biết được bọn Việt gian ở vùng Bảy Núi (Châu Đốc) đang rục rịch nổi lên, Pháp cho 1 đại đội commăngđô nhảy dù xuống Tri Tôn để móc nối (lúc này tỉnh Châu Đốc chưa bị chúng đánh tới). Du kích Tri Tôn vác súng, dao, gậy gộc truy lùng để tiêu diệt. Ngoài số bị diệt, có 14 tên là tù binh trong trận nhảy dù này.

    Đây là trận đầu tiên ở miền Tây ta bắt được tù binh Pháp và số tù binh tương đối nhiều.

    Ở Long Xuyên, lúc này quân Pháp cũng chưa đến, nhưng có sẵn một trung đội lính Nhật và khoảng 20 lính Pháp dân sự đang chiếm nhà thờ Thiên Chúa giáo ở Cù Lao Giêng để trú ẩn chờ khi quân Pháp trở lại thì phối hợp hành động (không kể 200 phụ nữ và trẻ con Pháp cùng trú ẩn nơi đây). Vì vậy, trung tuần tháng 11/1945, ta chủ trương dẹp trước bọn này. Anh Nguyễn Hữu Xuyến - Trung tướng Phó Tư lệnh Quân khu 9 đã nghỉ hưu, là người chỉ huy trận đánh này kể lại:

    “Cuối tháng 9/1945, tôi cùng các anh em tù nhân ở Côn Lôn được tàu đón về đất liền, lúc này quân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn. Quê tôi tận ngoài Bắc Ninh, anh Phạm Hữu Lầu rủ về quê anh ở Sa Đéc tham gia kháng chiến, cùng một số anh em quen biết từ hồi ở đảo là Kiều, Thái, Phúc, Quảng. Tôi được Tỉnh ủy Sa Đéc phân công chỉ huy du kích tập trung. Ngày 14/11, tôi được lệnh đưa ba đội du kích hành quân bằng tàu, phối hợp với hai đội của Châu Đốc và hai đội của Long Xuyên đánh “đồn” Cù Lao Giêng. Gọi là “đồn” Cù Lao Giêng vẫn đúng, vì đây là một điểm rộng 1 kilômét vuông, có lầu cao kiên cố, có tường thành, ụ canh, trạm gác. Chỉ huy có mấy sĩ quan Nhật. Vũ khí có hàng trăm trung liên, súng trường. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ có cử đại diện gặp ba tỉnh chúng tôi để phân công các hướng tấn công, nhưng điều đáng tiếc là đồng chí đó không đứng ra chỉ huy hoặc chỉ định ai là chỉ huy chung.

    Lực lượng Sa Đéc chịu trách nhiệm bao vây và tấn công hướng đông, tỉnh Châu Đốc hướng bắc, tỉnh Vĩnh Long hướng tây nam. Đồng chí đại diện cùng đi với lực lượng Long Xuyên.

    Từ đêm 15/11 đến hết đêm 16/11, hai đêm và một ngày ta tấn công liên tục, nhưng chưa có kết quả. Có một vài tổ dùng thang vượt tường đột kích vào bên trong, nhưng địch bắn rát nên phải lui ra. Bên ta và bên địch đều có thương vong lẻ tẻ. Lực lượng Sa Đéc của tôi có đồng chí quận đội trưởng Lấp Vò và chú nhỏ liên lạc lọt vào bên trong, bắn nhau với địch và hy sinh. Tuy chưa dứt điểm được, nhưng ta nắm được vị trí địch rõ hơn và biết chắc chúng đang hoang mang dao động. Bên ta cũng xuất hiện tình trạng mệt mỏi, uể oải, cần uốn nắn.

    Giữa lúc cần có sự chỉ đạo của cấp trên để tiếp tục hành động thì đồng chí đại diện bỏ về Long Xuyên. Nhưng “ba tỉnh” chúng tôi vẫn giữ quyết tâm cho anh em tạm nghỉ tại chỗ để hội ý với nhau. Anh em bầu tôi làm chỉ huy, còn “hai tỉnh” kia làm cấp phó (xin lỗi lâu ngày quá tôi không còn nhớ tên hai bạn). Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi nhận thấy được nếu cứ đánh theo lối cũ thì không thể thắng. Bàn qua tính lại, chúng tôi quyết định chuyển sang lối đánh bằng hỏa công.

    Lại một ngày bắn cầm chừng để lo chuẩn bị xăng, dầu, rơm, chà, giẻ rách. Đến 3 giờ sáng ngày 18/11 thì những thứ đó được đưa vào vị trí: Đó là dãy nhà lính sát liền nhà lầu bọn chỉ huy và nhà kho. Lửa bốc cháy và lan nhanh, lan rộng. Địch la ré, và có cả tiếng khóc lóc thảm thiết của bọn Tây “xivin” cùng vợ con. Nhiều ống trúc thụt thêm xăng vọt qua tường. Nhiều gói mủ dầu chai quăng liên tục vào trong. Vì vậy không chỉ có lửa nóng mà còn có cả khói mù, khét lẹt. Khói chun qua khe cửa, qua mái ngói chẳng khác gì khói công chuột. Bọn Nhật, Pháp bên trong không còn sức để bắn nữa, im re. Thấy vậy cả du kích lẫn đồng bào tràn vô phá cửa rầm rầm. Ta cũng phục sẵn ở cổng chính và phía mé sông hễ địch chạy ra là bắt sống. Bỗng có tiếng kêu “Các ông Việt Minh! Họ đã xin đầu hàng!”. Đó là tiếng của ông linh mục nhà thờ Cù Lao Dung. Vừa kêu, tay ông vừa phất qua phất lại lá cờ trắng. Trừ ông linh mục và một số người có chức phận trong nhà thờ, tất cả bọn Nhật, Pháp đều bị trói gô, chở sang đất liền giao cho cấp trên.

    Trận đánh thắng lợi mang lại phấn khởi cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, được cấp trên rất khen ngợi. Lực lượng Sa Đéc trở về với nhiều súng chiến lợi phẩm được chia, được anh Sáu Lầu khao quân và tặng cờ chiến thắng.

    Còn về mặt tác chiến, rõ ràng ta còn giản đơn, ấu trĩ quá. Nhưng ta cũng có những ưu điểm như biết phát huy yếu tố tinh thần, khai thác sơ hở của địch, linh hoạt xử trí tình huống. Còn chiến thuật hỏa công về sau ít dùng đến nữa, thì trận Cù Lao Dung này càng tỏ ra là trận đánh độc đáo của ta buổi đầu kháng chiến..”
(anh Nhật Quang có cung cấp một tư liệu trong đó nhiều chi tiết khác với lời kể của anh Tám Xuyến, mà thời gian xảy ra trận đánh là từ 12 đến 15/9/1945. Có lẽ nên tiếp tục nghiên cứu để đánh giá độ chính xác của từng nguồn tư liệu).

    Tôi biết anh Tám Xuyến rất tâm đắc với trận đánh vỡ lòng trên đây, mặc dầu sau này anh còn đánh dư trăm trận, ngay sau đó là Cổ Cò, Giồng Dứa, Cầu Kè rất giòn giã..., và kể cả những Tua Hai, Phước Thành... thời chống Mỹ. Thì ra “cái buổi ban đầu” thường lưu lại một cách sâu đậm trong mỗi người vậy.

    Nhắc đến anh Tám Xuyến, tôi lại nhớ đến người em ruột của anh là Nguyễn Hữu Ngoạn - liên lạc của Trung ương Đảng, bạn tù của tôi năm 1944, đã hy sinh trong Khám Lớn Sài Gòn.

    Cần Thơ - thủ phủ của miền Tây bên hữu ngạn Hậu Giang, kiên cường bao vây địch trong thị xã (có tư liệu nói ta bao vây địch trong thị xã Cần Thơ suốt ba tháng). Trong các trận đánh của thị xã và vùng ven nổi lên trận Cái Răng mà đồng bào và chiến sĩ ta thường gọi là trận Lê Bình, tên một trong năm chiến sĩ quốc gia tự vệ cuộc đã chiến đấu và hy sinh tại trận. Thị trấn Cái Răng cách thị xã Cần Thơ 5km. Tại đây có 1 đại đội lính Pháp và 1 đại đội thân binh đóng giữ dưới quyền của tên quan ba Rouen. Sáng 12/11/1945, chợ đang đông, tên quan ba đang ngồi trong nhà việc xét giấy thuế thân cũ và cấp giấy thông hành mới cho dân. Lê Bình, Bùi Quang Trinh và Cao Minh Lộc cùng cải trang mặc áo vải xá xẩu (kiểu áo của Hoa kiều) giả đến xin giấy. Lê Bình đứng trước mặt Rouen, móc súng lục bắn liền hai phát thì súng lép, nhưng Rouen bị thương nặng té sấp xuống. Súng của Bùi Quang Trinh và của Cao Minh Lộc bắn vào hai tên giúp việc, được một phát cũng đều lép. Lê Bình bị bọn lính gác phía sau nhà việc bắn trả và hy sinh. Nhưng Bùi Quang Trinh và Cao Minh Lộc đã kịp chạy ra trước sân hạ cờ tam tài xuống, kéo cờ đỏ sao vàng của ta lên đỉnh cột cờ. Sau đó hai anh cũng trúng đạn địch ngã xuống.

    Tại Cầu Tàu còn hai đồng đội là Lê Nhật Tảo và Trần Chiến. Hai anh có nhiệm vụ ném lựu đạn và xông vào giật súng bọn lính gác, chiếm Cầu Tàu để cả tổ rút lui. Nhưng lựu đạn không nổ, hai anh cũng hy sinh khi giật súng bọn lính gác. Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng 5 phút.

    Tên quan ba Rouen bị thương nặng được đưa về Cần Thơ, Sài Gòn điều trị rồi ít lâu sau về Pháp luôn vì mất sức chiến đấu. Nhưng về mặt tinh thần, quân Pháp vô cùng kinh hoàng, từ đó đi đâu cũng sợ Việt Minh xuất hiện bất thần. Còn đồng bào thì thật hể hả, tuy vô cùng thương tiếc các liệt sĩ trẻ tuổi của quê nhà, đêm nào cũng thắp nhang cầu nguyện cho linh hồn các anh.

    Trận đánh trên dưới 5 phút đồng hồ ngay sau đó được các báo Pháp tường thuật tỉ mỉ, mỗi báo một kiểu, nhưng tất cả đều ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của các chiến sĩ Việt Nam và cách đánh táo bạo, bất ngờ (mà về sau các đội biệt động của ta càng phát huy tốt trong khi hoạt động ở thành phố).

    Đến năm 1947, Rouen viết trên báo Humanité (Nhân đạo): “Mặt trận Cái Răng do những thanh niên trẻ tuổi tiến công vào sở chỉ huy của chúng tôi, đã làm cho tôi bất tỉnh vì những vết thương trúng vào những chỗ hiểm. Tôi được cứu sống và lương tâm đã thức tỉnh, tôi thấy chính nghĩa và tinh thần dũng cảm của một dân tộc mà trước đây tôi rất xem thường. Tôi không sợ súng của họ, nhưng khiếp sợ tinh thần chiến đấu dũng cảm của họ... Tôi sẽ vận động nhân dân Pháp cùng với chúng tôi ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam để sớm được thành công”.

    Số còn lại của Sư đoàn bộ binh số 9 và một tiểu đoàn dù 5.000 tên tiếp tục đổ sang Việt Nam. Tháng 01/1946, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Tây còn lại. Đánh vào vùng đồng bằng nhiều kênh rạch, sông ngòi, chúng có hai thông báo hạm Gazelle và Annamite đi kèm. Về vũ khí, quân Anh bắt đầu “bàn giao” đất “Nam Kỳ” cho Pháp để rút về nước với khá nhiều vũ khí để lại.

    Trong vòng chưa đầy một tháng, quân Pháp lần lượt chiếm được Sóc Trăng, Trà Vinh (04/01), Sa Đéc, Long Xuyên (09/01), Châu Đốc, Hà Tiên (20/01), Rạch Giá (26/01), Bạc Liêu (29/01), Cà Mau (05/02) và Bến Tre là tỉnh cuối cùng (08/02). Thương tiếc anh Dương Văn Dương đưa 500 quân về Bến Tre, mới đánh được một số trận thì anh hy sinh vì đạn máy bay ngày 16/02/1946 tại Xóm Cò, quận Ba Tri.

    Leclerc ra thông cáo tuyên bố với các nhà báo: “Công cuộc bình định Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ như vậy là hoàn tất”. Ta miễn bình luận về lời tuyên bố trên, vì sự thật sẽ được bày tỏ một thời gian ngắn ngay sau khoảnh khắc này, khoảnh khắc mà địch tiến tới đâu, ta lui tới đó, chúng đang làm chủ các thị xã, thị trấn và trục lộ giao thông. Miền Tây có vùng rừng ngập mặn U Minh thuộc hai tỉnh Rạch Giá và Bạc Liêu. Lúc này một bộ phận lực lượng vũ trang Trung Nam Bộ (Khu 8 ) rút về Đồng Tháp Mười, còn đại bộ phận dồn cả xuống đây, trong đó có cả Khu bộ trưởng Đào Văn Trường. Khi địch đến chiếm đất, bộ máy lãnh đạo cũng như bộ máy chính quyền của các tỉnh đều rút khỏi địa phương, nhưng điều đáng nói là tình trạng phân tán mỗi người một ngả không liên lạc được với nhau, không bàn bạc quyết định được điều gì. Sự sàng lọc và phân hóa trong tình hình này cũng là điều không tránh khỏi. Xứ ủy cũng bị phân tán, không nắm được các tỉnh ủy để chỉ đạo.

    Khái quát lại, tình hình từ tháng 12/1945 đến tháng 02/1946 như sau:

    Khu 7 còn tiếng súng lẻ tẻ ở một số nơi.

    Khu 8 hầu như không còn tiếng súng kháng chiến.

    Khu 9 bị địch đánh dồn vào rừng và phong tỏa.

    Cuối tháng 02/1946, các cán bộ quân dân chính của Khu 8, Khu 9 cũng như Trung ương ủy viên, Xứ ủy viên đang có mặt ở vùng Thới Bình, Chắc Băng, An Biên, Tân Bằng... đều nhận thấy cần thiết họp nhau lại để phân tích, đánh giá tình hình, đề ra phương hướng, biện pháp hành động. Các đồng chí có mặt trong cuộc họp đó: Võ Sĩ, Cao Hồng Lãnh, Văn Viên, Ung Văn Khiêm, Vũ Đức, Phan Trọng Tuệ, Huỳnh Phan Hộ, Đào Văn Trường... Cuộc họp này có thảo luận, có tranh cãi, nhưng không có kết luận, biểu quyết, ai thấy ý kiến nào mình cho là đúng, cứ vậy làm theo. Có ý kiến, lúc này của số ít người, chủ trương ở lại chiến đấu với địch, ai ở tỉnh nào về lại tỉnh đó, gầy dựng lại cơ sở, giữ vững liên lạc với nhau và chờ chỉ thị của Trung ương. Nhưng có ý kiến phải đưa lực lượng vũ trang lộn trở ra Trung Bộ, dựa vào lực lượng chi viện của toàn quốc đánh lấy lại Nam Bộ, đường đi lựa chọn là vòng ra biển ngược lên phía bắc, nếu cứ ở lại thì sẽ ngày càng bị địch dồn vào rừng U Minh và bao vây tiêu diệt.

    Các cán bộ quân sự hầu hết không tán thành chủ trương này, chủ trương “xuyên đông” như mọi người hay gọi. Cuối cùng chỉ có Khu trưởng Khu 8 Đào Văn Trường và 1 trung đội của Khu 8 từ Sóc Trăng đi bằng ghe biển. Thật ra cũng còn một vài đơn vị “xuyên đông”, nhưng bị địch ngăn chặn nên phải chôn giấu súng tại chỗ rồi quay trở lại U Minh, Cà Mau.

    Còn một số cán bộ, cũng ít thôi, dao động định chạy qua Thái Lan để lánh. Vừa lúc ấy, các đại biểu Quốc hội vừa đắc cử được triệu tập ra Hà Nội dự kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I, định quá cảnh qua Thái Lan. Cũng lúc ấy, Bộ Tư lệnh Khu 9 cử một số cán bộ mang vàng trong “quỹ độc lập” sang Thái Lan mua súng chở về và tổ chức cho Việt kiều trở về tham gia chiến đấu. Từ đó mà có từ “xuyên tây” thỉnh thoảng ta có nghe nói đến. “Xuyên tây” có nghĩa là “qua Thái Lan” chứ không phải là chủ trương của ai cả.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Chín, 2022, 06:56:01 am
*
*      *


    Từ 23/9/1945 đến cuối tháng 02/1946, đây chỉ là khúc dạo đầu của bản đại hùng ca kháng chiến chống Pháp mà ngay từ buổi đầu Đảng và Hồ Chủ tịch xác định là “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. Chính vì tính chất “toàn dân, toàn diện, trường kỳ” đó mà tôi muốn nói thêm một vài điều sau đây, những điều chưa nhắc đến khi chúng ta điểm lại tình hình chiến sự.

    Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, kẻ địch và cả rất nhiều người trên thế giới đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Họ không giải thích được tại sao dân “An Nam mít” vong quốc nô, lạc hậu, dốt nát, lại dám đương đầu chống lại quân Pháp, và không ít phen làm cho quân Pháp khuynh đảo?

    Đúng, mới hôm qua hai mươi lăm triệu dân Việt Nam mà thực dân Pháp khinh miệt gọi là “An Nam mít” đều là người nô lệ lầm than, đói rách và ngu dốt là bạn đồng hành của họ. Nhưng hôm nay họ đã là chủ nhân ông của một quốc gia độc lập. Sự đổi đời này làm cho toàn dân tộc Việt Nam cùng đổi về chất, nhiều cái hôm qua chưa thể có hoặc chưa hình thành rõ thì hôm nay mặc nhiên là cái “vốn có”. Một trong những cái “vốn có” đó là tinh thần yêu nước thương nòi biểu hiện bằng khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng thấy.

    Ở phần trên, tôi đã có dịp nói đến thái độ đáng quý của một số trí thức, nhân sĩ Sài Gòn đối với Cách mạng Tháng Tám, nhưng dường như tôi thấy vẫn chưa thiệt đầy đủ. Anh Phạm Ngọc Thuần, anh Nguyễn Thành Vĩnh, anh Thái Văn Lung... và còn nhiều người khác nữa, khi chiến tranh bùng nổ, thái độ của họ càng dứt khoát và quyết liệt hơn. Hành động yêu nước của họ thật đáng ca ngợi và khâm phục.

    Chẳng hạn, anh Thái Văn Lung, một trong nhiều dẫn chứng. Là dân Tây, với tên Albert, du học bên Pháp từ nhỏ, nói tiếng mẹ đẻ không thạo, tín đồ Thiên Chúa giáo, Trung úy quân đội Pháp, đã từng tham chiến ở Xiêm (Thái Lan). Là luật sư, năm 1941 giải ngũ, Tòa thượng thẩm Sài Gòn đón vô làm việc ngay, danh vọng và giàu sang chẳng phải nhọc lòng kiếm ở đâu xa. Nhưng nay anh tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp để hãnh diện làm người Việt Nam. Anh cùng ba nhà trí thức khác là Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Giáo sư Phạm Thiều và Kiến trúc sư Phạm Ngọc Thảo mở trường quân chính để đào tạo cán bộ chỉ huy cho bộ đội (theo anh Bích Lâm thì anh Thái Văn Lung có lập “bộ đội các luật sư” ở Thủ Đức).

    Chẳng may trong một chuyến đi công tác, anh Thái Văn Lung bị địch bắt được. Trước tiên là chúng dụ dỗ, không được, chúng dùng cực hình tra tấn. Anh không đầu hàng, hơn vậy, còn hiên ngang chửi thẳng vào mặt quân cướp nước. Cuối cùng, địch bí mật thủ tiêu anh rồi dùng dây thừng treo cổ anh lên xà nhà, phao tin anh tự sát. Trước đó anh đã tâm sự với một đồng chí cùng bị giam một phòng: “Tôi chắc giặc Pháp không còn để tôi sống được bao lâu nữa, nhưng dù chết tôi vẫn không buồn tức gì cả. Tôi sung sướng coi như đã hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với nước nhà. Nếu em may mắn được trở về thì hãy nói với đồng đội chúng ta cố gắng hết sức mình hướng về mục đích mà chúng ta xác định cho đến ngày chiến thắng cuối cùng”.

    Xin được miễn bình luận về thái độ sống, chiến đấu và những lời nói cuối cùng đầy lạc quan, tin tưởng, đầy tinh thần trách nhiệm của một con người từng sống trên vàng son nhung lụa như anh Lung.

    Ở miền Tây, gia đình cụ Trương Công Thiện là dẫn chứng khác. Cụ từng làm Chủ quận hàm Đốc phủ sứ rồi Chủ tỉnh Bạc Liêu. Cách mạng đến, cụ từ giã quan trường về sống ở Cái Vồn (Cần Thơ). Chính trong thời điểm thiêng liêng này của đất nước, cụ khuyên tất cả bốn người con trai của mình gia nhập bộ đội cách mạng. Người con út lúc này đang học bên Pháp, tự tay cụ biên thư gọi anh về với mục đích vừa nói trên. Năm 1983, cụ từ trần với cương vị Ủy viên Mặt trận Tổ quốc tỉnh Tiền Giang, thọ 87 tuổi.

    Còn bốn người con trai của cụ, hiện nay đều là cán bộ khoa học tài năng:

    Trương Công Trung - Giáo sư bác sĩ, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Cán - Bác sĩ, Phó Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Kháng - Kỹ sư, Phó Giám đốc Xí nhiệp Sinco Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Tín - Kỹ sư, Phó Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam.

    Ở Bến Tre, cụ Nguyễn Ngọc Tương, là Đức giáo tông, người sáng lập ra Hội thánh Ban Chỉnh đạo Cao Đài (tôn giáo Cao Đài có ba phái: Tiên Thiên, Ban Chỉnh, Tây Ninh) vào năm 1925. Dưới sự lãnh đạo của cụ, Hội thánh Ban Chỉnh đạo có sự đóng góp tích cực cho kháng chiến. Hội thánh tặng Ủy ban kháng chiến tỉnh Bến Tre một xưởng in với toàn bộ máy móc, lò đúc bản chữ, chữ in, giấy và mực. Chiến sĩ ngoài mặt trận nhận được nhiều áo lạnh, khăn choàng, khăn tay do các nữ tu và các giáo hữu gửi tặng.

    Hai anh con trai của cụ Nguyễn Ngọc Tương đều là kỹ sư du học ở Pháp về, tham gia công tác từ những ngày đầu cách mạng thành công. Anh Nguyễn Ngọc Bích là Khu bộ phó Khu 9. Anh Nguyễn Ngọc Nhựt bị địch bắt được và đem về Sài Gòn giam ba năm. Anh ra tù được ba ngày thì từ trần vì cơ thể đã tàn tạ, được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.

    Anh em công nhân trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, như ta đã biết, từ tay búa tay kềm chuyển tay súng rất nhanh chóng không hề ngỡ ngàng. Những đội cảm tử công đoàn, tự vệ công đoàn đã chứng tỏ điều đó. Khi vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn của ta bị phá thủng, đại đa số anh em đã rời thành phố ra đi, sáp nhập cùng bộ đội của các tỉnh và bộ đội Bình Xuyên. Còn công nhân của các tỉnh, chủ yếu là công nhân cao su, cũng thực hiện chính sách bất hợp tác với địch một cách triệt để. Cuốn Lịch sử nông trường cao su Cẩm Mỹ (tức đồn điền cao su Courtenay trước đây) có đoạn ghi:

    “Ngày 25/01/1946, giặc Pháp đánh chiếm các vùng cao su ở Biên Hòa và Bà Rịa. Courtenay là một đồn điền lớn của Công ty Đất Đỏ, nơi có xưởng máy, xưởng chế biến mủ, sớm muộn gì giặc Pháp cũng sẽ đánh đến. Với ý thức không để bọn chủ Tây trở lại bóc lột, trước đó mấy ngày Ban tự quản đồn điền quyết định cho công nhân “tiêu thổ kháng chiến”. Công nhân nhà mủ, chất mủ bành, mủ cờ, xếp thành đống và nổi lửa. Công nhân nhà máy, tháo gỡ máy tiện, lấy những bộ phận máy cần cho kháng chiến, đập phá máy móc. Anh em văn phòng, mang hết máy chữ và vật dụng cần thiết đi nơi khác. Lớp bồng bế con thơ, lớp gánh gồng nồi soong, bỏ sở ra đi. Một số ra rẫy làm ăn, một số về Bà Rịa, Long Thành, ra khu kháng chiến. Có nhiều anh em sau này trở thành công nhân xưởng quân giới Nam Bộ đóng tại Phú Mỹ (Bà Rịa)”.

    Số đông các công nhân đồn điền vùng Xuân Lộc (Biên Hòa) gia nhập quân đội hoặc kéo vào rừng tổ chức thành các đội du kích. Vì vậy khi chiếm xong được đồn điền nào là địch bố ráp ngay. Ở đồn điền An Lộc, địch bắn chết một lúc gần một trăm công nhân để uy hiếp tinh thần những người khác. Nhưng trước họng súng quân thù số anh em không hề run sợ, đã hô vang trước khi ngã xuống: “Đả đảo xâm lược! Việt Nam muôn năm!”.

    Vùng cao su của tỉnh Thủ Dầu Một cũng vậy. Công nhân phá hoại các cơ sở sản xuất của đồn điền một cách triệt để. Khi địch hành quân đánh chiếm đồn điền Dầu Tiếng, Quản Lợi và Lộc Ninh, hàng chục tên bỏ mạng vì vũ khí thô sơ của công nhân và nhân dân.

    Chắc chúng ta đều biết trong những ngày đầu Chính phủ lâm thời chỉ có hai triệu đồng bạc Đông Dương lấy trong kho bạc của Pháp - Nhật. Đó là số tiền quá ít ỏi so với nhu cầu chi tiêu của một quốc gia. Vì vậy Tổng bộ Việt Minh phát động “Tuần lễ vàng” từ ngày 10 đến ngày 17/9/1945 để lập “Quỹ Độc lập” xây dựng đất nước và mua sắm vũ khí trang bị cho bộ đội. Kết quả thật mỹ mãn và về mặt tinh thần yêu nước của đồng bào thật đáng tự hào.

    Dù ở nơi đô hội hay vùng hẻo lánh của đất nước đều có những mẩu chuyện cảm động. Những người vợ hiến đôi bông tai hoặc cái nhẫn cưới, vật kỷ niệm thiêng liêng của mình. Những cụ già neo đơn, nhờ người bán cỗ hậu sự của mình để lấy tiền góp vào quỹ. Những bà mua thúng bán bưng cứ sau mỗi buổi chợ lại gọi nhau bớt một ít tiền lời góp vào quỹ...

    Tiếp theo là “Tuần lễ đồng”. Nói là tuần lễ, nhưng ở nhiều nơi kéo dài cả tháng. Một khẩu hiệu kêu gọi khá văn vẻ và dễ nhớ:

          “Đem đồng, đem đỉnh đi đâu?
          Đem đi đúc đạn, đập đầu Đờ Gôn”


    Cần nhiều đồng để đúc đạn đánh giặc, đồng bào đâu tiếc, nô nức góp không biết bao nhiêu lư hương, chân đèn, mâm thau, tiền đồng, nồi đồng..., trong đó có cả hàng trăm ngôi chùa.

    Sau đó ở một số tỉnh còn “Tuần lễ áo rách”, “Tuần lễ thuốc tây”, rồi phong trào “Hũ gạo cứu đói”, “nhường cơm sẻ áo”. Chủ trương nào, phong trào nào cũng được đồng bào hưởng ứng sôi nổi và hoàn toàn tự nguyện. Năm 1945, “nạn đói Ất Dậu” cướp đi sanh mạng của hơn hai triệu người ngoài Bắc, là hậu quả tội ác tày trời của bọn thống trị Pháp - Nhật. Gần mười triệu dân trong Nam tuy chưa đói lả nhưng cũng vô cùng nheo nhóc: Ăn cơm gạo hẩm, mặc quần áo bao tời, thắp đèn dầu u, miền Tây bị dịch tả hoành hành. Nhờ lá lành đùm lá rách mà dần dần đồng bào vượt qua được.

    Nam Bộ có hàng ngàn kilômét bờ biển và nhiều làng chài ven biển. Bà con ngư dân đã vượt biển cả ra Côn Lôn đón tù chính trị về đất liền và liền sau đóng góp thêm nhiều ghe chài cho cách mạng chở súng từ Trung Bộ về, chở cán bộ qua Thái Lan công tác, và dùng làm cản qua các dòng sông, dòng kênh làm chậm bước tiến của địch.

    Các đơn vị vũ trang, nếu ví như những bông hoa, thì lúc này đang nở rộ trong vườn xuân đất nước. Loại trừ một số đơn vị ung thối do người cầm đầu là phần tử cơ hội, hàng trăm, hàng trăm đơn vị tự lập ở thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền ngược, ngay lúc ra đời đã mang rõ tính nhân dân đậm đà. Những thanh niên công nhân, nông dân, trí thức, viên chức, sinh viên, học sinh cầm súng đó, chỉ huy cũng như chiến sĩ, tất cả đều từ nhân dân mà ra. Họ được gia đình khích lệ, xóm ấp nuôi nấng, đùm bọc, dựa vào dân tồn tại và đánh giặc.

    Đây là quận Long Thành (Bà Rịa), khắp các làng ấp vang lên khẩu hiệu “thà chết không chịu làm nô lệ”. Trong sân nhà hội Long Thành - trụ sở của Ủy ban nhân dân lâm thời quận, từ sáng đến sẩm tối vang dậy tiếng bước chân đi đều, tiếng hô “một, hai” của các chiến sĩ cộng hòa vệ binh. Anh em tập đội ngũ, tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản trong chiến đấu, tập võ thuật, đánh đao, bắn ná...

    Để phục vụ việc ăn uống cho cộng hòa vệ binh, Ủy ban nhân dân lâm thời quận thành lập một ban tiếp tế do ủy viên tài chính phụ trách. Gạo, mì, khoai, bắp, cá, rau, thịt đều do ban tiếp tế lãnh của đồng bào đem đến. Mỗi ngày có tới vài ba chục chị em phụ nữ tham gia vận chuyển và nấu nướng.

    Ở quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long (đến năm 1946, thì thuộc Bến Tre), khí thế cách mạng sôi sục trong toàn dân. Ban ngày, đồng bào kêu nhau đi hàn sông phá lộ, sản xuất vũ khí, vận động quyên góp tiền bạc, lương thực... Đêm đến khắp xóm ấp đèn đuốc lửa trại nổi lên. Nơi học ca hát, nơi học võ dân tộc, học động tác chiến đấu. Đặc biệt ở những bãi tập lớn có bàn thờ Tổ quốc rất trang nghiêm. Nhiều cán bộ lãnh đạo và nhiều bậc cha mẹ đến khuyến khích con em mình học hành luyện tập. Những lúc nghỉ tập, các mẹ, các chị dọn bánh trái ra để giải lao, còn người lớn tuổi thì ngồi bên chung trà đàm đạo, mỗi người một câu góp vào đề tài chống xâm lược. Cũng có nhiều ý lo lắng rằng chí có thừa nhưng lực lại yếu và thiếu súng đạn, nhưng khi bàn đến chỗ khó khăn này thì nhiều cụ nhìn lên ảnh Bác Hồ rồi nói: “Cứ tin lời cụ, làm theo lời cụ thì xong tất cả, đánh Tây lấy súng”. Đoạn miêu tả trên đây mà tôi cho là khá sinh động, được trích trong cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Chợ Lách, in năm 1989.

    Làng Mỹ Tú cùng với 76 làng khác của tỉnh Sóc Trăng, trước khi bị quân Pháp chiếm đóng, là trạm hậu cần của một số tỉnh miền Tây. Anh Hai Bùi - Bí thư Chi bộ năm 1946 kể lại:

    “Năm ấy ở quê nhà có một số gia đình nghèo bị đói. Chính quyền đã tịch thu lúa của địa chủ và muối trong kho cấp cho bà con, cả người Việt và người Khơme. Bà con đáp lại bằng những câu rất cảm động: Đây là gạo muối của Cụ Hồ, Việt Minh thương dân thiệt tốt”.

    Giáp Tết Bính Tuất (1946), Mỹ Tú nhận lãnh mười hai thương binh về nuôi dưỡng. Tuy là một làng nghèo, nhưng sự chăm sóc anh em rất tận tình. Các má, các chị thay phiên nhau lo từng miếng cơm, tô cháo, đến viên thuốc, gói quà. Tết năm đó anh em đón xuân trong tình cảm đầm ấm, thương yêu nhất mà đồng bào dành riêng cho mình.

    Các cơ quan Quận ủy Châu Thành đóng dọc theo Kinh Xáng, các cơ quan Tỉnh ủy Sóc Trăng đóng ở Ba Rẹt, Trà Cú, đều trên địa bàn Mỹ Tú. Vì vậy, thư chúc Tết của Hồ Chủ tịch nhân dịp Tết Bính Tuất được phổ biến đến từng gia đình, từng người đến kịp thời, mang lại niềm vui lớn:

    “Hỡi đồng bào cả nước!

    Hôm nay là mồng một Tết năm Bính Tuất. Ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành.

    Tôi riêng chúc các gia quyến của các chiến sĩ thân yêu, năm mới vui vẻ.

    Năm mới, đồng bào ta sẽ phấn đấu cho một đời sống mới, ai cũng góp sức vào cuộc kháng chiến lâu dài, để làm cho nước ta được hoàn toàn tự do độc lập.

    Năm mới đồng bào ta đoàn kết càng chặt, tranh đấu càng mạnh, sản xuất càng nhiều. Chúc đồng bào:

   Trong năm Bính Tuất mới
    Muôn việc đều tiến tới.
    Kiến quốc chóng thành công,
    Kháng chiến mau thắng lợi.


    Trong dịp Tết này, đồng bào khắp nơi, từ các cụ già đến các em trẻ, đã gửi cho tôi nhiều thơ từ và quà bánh. Tiếc rằng tôi không thể trả lời từng người được. Vậy tôi xin trân trọng cảm ơn chung hết thảy đồng bào yêu mến.

    Hỡi các chiến sĩ yêu quý!

    Trong khi đồng bào ở hậu phương đốt hương trầm để thờ phụng Tổ tiên, thì các chiến sĩ ở tiền phương dùng súng đạn để giữ gìn Tổ quốc. Trong khi đồng bào ở hậu phương rót rượu mừng xuân, thì các chiến sĩ ở tiền phương tuốt gươm giết giặc. Các chiến sĩ hăng hái chống địch, để cho đồng bào được an toàn mừng xuân.

    Trong mấy ngày Tết, đồng bào ở hậu phương ai cũng đoàn tụ sum vầy chung quanh những bình hoa, mâm bánh. Mà các chiến sĩ thì ăn gió nằm mưa, lạnh lùng ở chốn sa trường. Song, hình dung các bạn thì ấm áp trong lòng thân ái của mỗi một quốc dân.

    Hiện nay, bọn thực dân Pháp ra sức tấn công, chúng nó mưu chiếm nước ta từ 16 độ trở vào Nam. Tình thế tuy nghiêm trọng, nhưng chắc các chiến sĩ quyết ra sức chống giữ để phá tan âm mưu của chúng, đồng thời Chính phủ và toàn quốc đồng bào quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng để giúp các chiến sĩ. Chúng ta quyết không để cho bọn thực dân Pháp trở lại đè nén chúng ta.

    Tôi thay mặt Chính phủ và toàn quốc đồng bào chúc các chiến sĩ năm mới mạnh khỏe và thắng lợi”.

    Trên chiến trường sông nước miền Tây, đồng bào chèo ghe đưa bộ đội sang sông đánh giặc là một hình ảnh đẹp thường được đưa vào thơ nhạc, đôi khi được miêu tả có phần thơ mộng. Nhưng trong cuộc hành quân của bộ đội Ba Dương từ Rừng Sác về chi viện cho mặt trận Bến Tre, trong mười hai ngày (từ 05/02 đến 16/02/1946) vừa đi vừa đánh địch để mở đường tiến, đoàn quân đó đã vượt qua biết bao con sông: Soài Rạp, Rạch Cốc, Vàm Cỏ, Tra, Rạch Kiến, Ba Lai... Đồng bào ở những vùng đó đã rất khôn khéo và dũng cảm để đảm bảo cho bộ đội khi tập kết, trú quân, vượt sông cách đồn bót địch chỉ trong gang tấc, nhất là đồng bào hai làng Châu Hòa và Châu Bình, thuộc quận Tán Kế tỉnh Bến Tre (quận Tán Kế thành lập sau Cách mạng Tháng Tám đến cuối năm 1949 thì giải thể, các xã sáp nhập vào hai quận Ba Tri và Châu Thành). Rồi ngày 16/02/1946, chính tại xóm Cò làng Châu Bình, Tư lệnh Bình Xuyên Dương Văn Dương trúng đạn từ máy bay địch bắn xuống và hy sinh trong sự thương tiếc của quân và dân. Vì địch đã tràn đến nên việc an táng anh Ba Dương phải tiến hành hết sức bí mật, nhưng tên tuổi, hình ảnh của anh còn đọng mãi trong lòng người dân miền sông nước.

    Có một điều cũng rất thú vị là người chiến sĩ và người dân như đã hòa vào nhau. Giặc đến, người dân xông ra đánh giặc với bất cứ vũ khí nào có trong tay, để rồi sau đó họ lại trở về làm người dân thường một cách hết sức tự nhiên. Thú vị nhưng hoàn toàn dễ hiểu, vì tục ngữ đã có câu: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Tuy nhiên không phải ở bất cứ mảnh đất nào, ở thời đại nào cũng có được.

    Năm 1985, về An Giang dự hội nghị thông qua công trình lịch sử của tỉnh, tôi ghi nhớ một hình ảnh: “tháng 11/1945, hòa thượng chùa Sân Tiên (Núi Cấm) cùng cán bộ địa phương chỉ huy lực lượng nhân dân vây bắt toàn bộ 14 tên địch ngay sau khi chúng nhảy dù xuống Tua Tà Men (Tri Tôn) để móc nối với bọn phản động, chuẩn bị cho quân Pháp đánh tới”. Hình ảnh vị hòa thượng xưa nay chỉ quen việc kinh kệ, ra khỏi cổng chùa để hòa nhập vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc, để lại trong tâm trí tôi một ấn tượng mạnh mẽ khó quên.

    Ở Tam Phước (Bà Rịa) trung tuần tháng 9/1945, có cô hàng nước xinh đẹp chịu đùa cợt nhả nhớt với hai tên lính Nhật để mấy anh trai làng có đủ thời gian lấy hai khẩu súng của chúng để trên buồng lái ôtô mang đi. Chuyện tưởng như dễ ợt nhưng nếu không có bản lãnh và mưu trí cao, vị tất đã làm được.

    Người liệt sĩ đầu tiên của chiến khu Xuyên Phước Cơ (Xuyên Mộc - Bà Rịa) là anh Kéo, đoàn viên Thanh niên Tiền phong. Tháng 10/1945, hai tiểu đội lính Pháp và Nhật đổ bộ vào đất liền, nổ súng bừa bãi và bắt đi 12 thanh niên dẫn theo lên sở cao su Láng Lớn. Lợi dụng lúc địch đang ăn nhậu, anh Kéo trèo lên mái nhà ném chai xăng châm lửa xuống ngay giữa mâm rượu của chúng. Anh trúng đạn địch, hy sinh sau khi diệt được một số tên trong bọn chúng, buộc chúng phải hoảng hốt rút lên phía lộ 1.

    Ở làng Bình Hòa thuộc chiến khu Thuận An Hòa (Thủ Dầu Một) có chuyện khó tin nhưng có thật. Bốn anh thanh niên với bốn cây tầm vông vạt nhọn dàn hàng ngang dọc lộ chặn một chiếc xe tăng Nhật đang đi tới. Nếu chiếc xe tăng tiếp tục chạy thì bốn con người tay không tấc sắt đó sẽ bị nghiền nát. Nhưng nó đã dừng lại, trù trừ trong phút chốc rồi quay đầu trở lại hướng cũ! Không có gì khác, chính khí thế của đồng bào ta lúc đó buộc chúng phải hành động ngoan ngoãn như vậy, mặc dầu chúng là những tên phátxít chính hiệu.

    Địch chiếm đất nhưng không chiếm được lòng dân.

    Ông Hồ Nguyên trước là Giám đốc Sở Thí nghiệm nông lâm Trảng Bom. Địch kêu ông trở lại làm việc cho chúng, hết dụ dỗ lại hăm dọa. Nhưng tâm niệm nghĩa vụ người dân là phải bất hợp tác với quân cướp nước, ông một mực từ chối. Bà con trong vùng đều tỏ lòng cảm phục ông, một trí thức yêu nước.

    Tháng 01/1946, quân Pháp phục kích bắt được anh Điểu Xiên, người dân tộc Chơ Ro, vừa đắc cử đại biểu Quốc hội tỉnh Biên Hòa. Chúng cũng giở trò mua chuộc, hứa cho chức cho tiền. Anh hiên ngang nói: “Thà chết tao không đầu hàng Tây”. Chúng cột anh sau xe jeep mở máy chạy cho đến khi thi thể anh bầm dập nát bét.

    Khắc sâu thù giặc và noi gương người cán bộ anh hùng của dân tộc mình, ngay sau đó đồng bào Chơ Ro ở Xuân Lộc cắt máu ăn thề, đổi họ Điểu, lấy họ Hồ Chí hoặc Nguyễn Ái với tinh thần nguyện là con cháu Cụ Hồ kính yêu.

    Ông Tài là nhà trí thức và tư sản chủ hãng xe đò chạy đường Gò Công - Sài Gòn, khi giặc chiếm Gò Công, quê nhà ông, ông bỏ tất cả sản nghiệp để tham gia kháng chiến. Tháng 02/1946, địch bắt được ông ở Bình Đại (Bến Tre). Tên quan một Tây lai Lơ Roa biết ông là tầng lớp trên nên muốn thả ông với điều kiện ông phải ra chợ Bình Đại hô: “Đại Pháp vạn tuế!”. Nhưng chúng không ngờ khi ra giữa buổi chợ đông người, ông dõng dạc hô to: “Cụ Hồ muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!”. Ông điềm nhiên lãnh đủ mấy viên đạn của địch.

    Tinh thần đấu tranh của đồng bào Sa Đéc trước tội ác man rợ của địch cũng nên nhắc lại. Cuối tháng 01/1946, sau khi chiếm được thị xã Sa Đéc, quân Pháp đi đến đâu thả cửa bắn giết trâu, bò, heo, gà, vịt, cướp lúa gạo đến đó. Chúng còn giết người, chặt đầu, moi gan ăn và xẻ thịt bắt ép dân mua. Bến chợ Sa Đéc và nhà Hội đồng Tư ở Lấp Vò là hai điểm đón ghe, bắt mỗi chiếc phải mua lkg với giá 1 đồng. Đồng bào mua xong, chèo ghe đi kiếm đèn nhang khấn vái vong hồn người bị giết hại và chôn miếng thịt. Đêm 29/02/1946, quân Pháp chở 10 người đến chặt đầu tại nhà lồng chợ Sa Đéc. Sáng hôm sau đồng bào kéo đến đông nghẹt chửi rủa, lên án địch. Chúng bắn súng chỉ thiên để giải tán, nhưng đồng bào không sợ. Về sau địch phải chấm dứt hành động man rợ này để xoa dịu lòng căm phẫn của dân.

    Qua một số sự việc nêu trên, ta thấy rõ con người Việt Nam, ý chí Việt Nam như thế nào. Rất anh hùng!

    Ngày 02/9/1945, Hồ Chủ tịch long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, báo hiệu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay ngày hôm sau, 03/9/1945, Hồ Chủ tịch lên tiếng phát động đồng bào cả nước tiến công vào ba mặt trận: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

    Cuối tháng 9, Trung ương Đảng cũng có Chỉ thị Kháng chiến và kiến quốc, đề ra những nhiệm vụ có tính chất toàn diện cho Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ. Vì vậy, Nam Bộ không chỉ tập trung đánh giặc mà còn tranh thủ làm nhiều việc khác, nhất là ở những vùng chiến sự lan tới sau.

    Cùng với việc thiết lập bộ máy chính quyền các cấp, Mặt trận Việt Minh công bố 10 chính sách ích nước lợi dân, mọi người đều tán thành. Các giới đồng bào đều có đoàn thể của mình: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc... Tuổi nhỏ có Đội Thiếu niên Tiền phong, Đội Nhi đồng cứu vong. Ai ai cũng được tập họp, cũng được tổ chức đặng có điều kiện phục vụ kháng chiến.
    Công cuộc “diệt giặc đói” đi liền với chủ trương giảm tô, giảm tức từ 25% đến 50%, chủ trương khai hoang, đào kênh. Một số nơi thành lập tổ hợp rèn, tổ sản xuất, góp tiền mua trâu luân phiên sử dụng.

    Công cuộc “diệt giặc dốt” ở nhiều nơi diễn ra như ngày hội. Thiệt vậy, thanh niên đi học đã đành, mà người lớn tuổi, ông già, bà lão đều náo nức đến những lớp mở ngay gần nhà mình. Các lớp học mở ra tấp nập. Đêm đêm ánh đèn dầu lấp lánh như đom đóm theo bà con đến lớp học. Giáo viên không thiếu vì không cần trình độ cao, người biết chữ dạy cho người chưa biết. Chuyện nơi nào cũng có là đặt kiểm tra ở ngã ba, ngã tư các bà hay đi chợ qua để hỏi mặt chữ. Ai chưa biết đều phải dừng lại học năm mười phút rồi mới được đi tiếp.

    Sự dốt nát cũng như các nỗi cực nhục trong lòng người và các tệ mê tín dị đoan, cờ bạc, trộm cắp như được luồng gió cách mạng cuốn đi tất cả. Tất nhiên không thể tuyệt đối, nhưng còn một số ít du đãng quậy phá, chính quyền cách mạng đã nghiêm khắc trừng trị.

    Một thành quả lớn của cách mạng vừa đem tới: ngày 06/01/1946, tất cả mọi công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ, tôn giáo, dân tộc, thành phần, đều được đi bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quyền lợi to lớn đồng thời là nghĩa vụ thiêng liêng này, trước đây nằm mơ cũng không có được. Ý thức công dân của đồng bào thể hiện rõ trong ngày bầu cử (ở một số nơi do tình hình khẩn trương địch sắp đánh tới nên ngày bầu cử là 25/12/1945). Ở những vùng tự do, tỷ lệ đi bầu suýt soát 100%. Còn vùng bị địch tạm chiếm, tỷ lệ đó là trên 90%. Phải nói đó là một tỷ lệ kỳ diệu. Đồng bào đã vượt qua sự ngăn cản của địch, bất chấp mũi súng, ngọn lê của chúng, đến nơi quy định để tự tay cầm lá thăm cử người thay mặt mình tại Quốc hội. Thành công của cuộc bầu cử còn do cán bộ ta, trong một số nơi bị địch o ép mạnh, đã mang hòm thăm đến từng hộ dân để thu gom đầy đủ. Hòm thăm ở đây cũng phải hiểu một cách linh hoạt, có khi chỉ là một cái bao tời cầm tay không cần phải niêm phong gì cả. Do đó, một số cán bộ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ... Tổn thất nặng nhất là Sài Gòn có đến 42 cán bộ hy sinh, trong đó có anh Lê Văn Tư - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Sài Gòn.

    Một điểm khác cũng cần ghi nhận là tất cả mọi người ứng cử do Mặt trận Việt Minh từng tỉnh giới thiệu, trong đó có cán bộ, đảng viên, trí thức, nhân sĩ tiến bộ đều trúng cử.

    Phải chăng vì vậy ngay trong một lá thư gửi đồng bào Nam Bộ trong tháng 02/1946 này, Hồ Chủ tịch thay mặt đồng bào cả nước tặng quân và dân Nam Bộ danh hiệu “THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC”.

    Ngay từ lúc địch mới khởi hấn gây chiến, quân và dân Nam Bộ đã tỏ ra xứng đáng với danh hiệu vẻ vang đó và làm đúng lời Người căn dặn: “Còn một tấc đất, còn một người dân thì còn chiến đấu”.



(https://i.imgur.com/588soPk.jpg)


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:41:14 pm
QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM


     Ngày 15/02/1961, nhằm mùng 1 Tết Tân Sửu, lễ ra mắt quân đội cách mạng thống nhất ở miền Nam - Quân giải phóng -được tổ chức trọng thể... Từ hôm đó, trong bước đường đi lên của đất nước ta, thêm một thành viên lừng lẫy: Quân giải phóng miền Nam.


    Tây Bắc Nam Bộ (Bắc Tây Ninh) - cách Sài Gòn khoảng 100km - từ năm 1957 đã lấy lại “phong độ thời kháng Pháp”: chiến khu Dương Minh Châu, nối liền căn cứ Bờ cảng Long Nguyên của Bến Cát, núi Cậu của Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), Hố Bò (Gia Định), Bời Lời, Bàu Cỏ (Nam Tây Ninh), lan sang Chiến khu Đ cũ, men quốc lộ 14 lên tận Bù Đăng, Bù Nho giáp Quảng Đức và tỏa xuống Mã Đà... Ba tháng trước, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên cáo thành lập trên địa bàn lịch sử này; và ngày 15/02/1961, nhằm mùng 1 Tết Tân Sửu, lễ ra mắt quân đội cách mạng thống nhất ở miền Nam - Quân giải phóng - được tổ chức trọng thể.

    Chiều vừa xuống, trong hơi mát dịu của rừng xuân, dưới tàn cổ thụ, chỉ huy và chiến sĩ xếp hàng nghiêm chỉnh trước khán đài. Đội ngũ toát lên một hòa hợp mới khá đặc biệt: Các vệ quốc quân xưa tóc ngả màu sương, đứng cạnh những tân binh vừa rời vùng địch kiểm soát, các quân nhân từng mang danh nghĩa nào là vũ trang tự vệ Đông Nam Bộ, nào “giáo phái”, các nhóm Việt kiều tình nguyện từ Campuchia về, các nhóm học sinh từ Sài Gòn ra, do Trung tá Tăng Thiên Kim (đổi tên là Hoàng Đình Chương) chỉ huy chưa thay bộ trang phục kongle. Đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (sau này là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Chính phủ Việt Nam thống nhất) xướng ngôn chính thức của cuộc lễ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đọc nhật lệnh thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng và trao cờ cho các đại diện. Đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên quân sự của Xứ ủy, trở thành Chính ủy đầu tiên của Quân giải phóng và đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến là Tư lệnh 1.

    Chiến thắng Tua Hai còn bàn bạc trong buổi lễ cùng các chiến thắng khác, trong đó có chiến thắng Đầm Dơi ở Tây Nam Bộ.

    Từ hôm đó, trong bước đường đi lên của đất nước ta, thêm một thành viên lừng lẫy: Quân giải phóng miền Nam.

    Đoàn Văn công giải phóng cũng vừa thành lập, biểu diễn ra mắt nhiều bài hát và múa, đặc biệt một tuồng cải lương dài nói về Đồng khởi, vở “Trăng lên khỏi núi”.

    Buổi lễ ngắn, nhưng cái đưa đến buổi lễ lại rất dài...





Phần thứ nhất
Bắt buộc phải tự vệ


    Năm 1954, Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Nam nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, ngừng bắn tập kết về nơi quy định trước khi xuống tàu ra Bắc. Các chiến sĩ trung thành với truyền thống “bộ đội Cụ Hồ”, ở đâu cũng đều tranh thủ giúp dân dựng trường học, sửa nhà, xây mộ liệt sĩ. Người được phân công ở lại miền Nam, trở lại đời thường chuẩn bị đấu tranh trong điều kiện hòa bình, không có súng trong tay trước một kẻ thù biết chắc là vô cùng giảo hoạt, được Mỹ trang bị mọi vũ khí tối tân và mang một ý thức phục thù giai cấp điên cuồng.

    Những cuộc khủng bố man rợ người kháng chiến bắt đầu ngay sau khi Hiệp định vừa được ký kết...

    Lúc đó Đảng chỉ thị cho anh em chuyển vùng hoạt động hoặc “điều lắng”. Nhiều người phải rời bỏ gia đình, thôn xóm vào các chiến khu bưng biền cũ để lánh né chờ lệnh của Đảng. Ở Khu 5, Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ tổ chức các “trại bí mật”. Ở miền Đông, các đồng chí Lâm Quốc Đăng, Lê Thanh đưa thanh niên về chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đ lập “làng chiến đấu”, “làng thoát ly”, sản xuất tự túc. Ở Đồng Tháp Mười, hình thành những túi “dân tử can” (là dân “tản cư”), theo từng đơn vị tiểu đội, trung đội... mò cua bắt ốc, câu cá, đặt lờ, xây dựng làng chiến đấu đối phó với giặc. Ở miền Tây, cán bộ chiến sĩ, du kích, thanh niên và nhân dân kéo vào rừng U Minh họp thành những “làng rừng”. Đồng bào thiểu số Xtiêng (miền Đông Nam Bộ) bỏ buôn rẫy cũ vào rừng xây dựng buôn làng mới, gọi là làng “Độc lập” bất hợp tác với giặc...

    Ngay từ năm 1955, khi Mỹ - ngụy thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” cực kỳ man rợ, thì ý thức cầm súng tự vệ đã trở thành phổ biến trong anh em. Không còn con đường nào khác. Khu 5 bắt đầu có các đội “tuần dương”, “tráng đoàn” ở một số xã ven biển. Ở miền núi có các nhóm “trả đầu”, “bảo vệ dân tộc”. Ở Nam Bộ có các đội “dân canh chống cướp”.




-----------------------------------------------------------------
1. Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam có những thay đổi theo thời gian như sau: Năm 1962, đồng chí Trần Nam Trung làm Chính ủy, đồng chí Trần Văn Quang (Bảy Tiến) - Tư lệnh; 1964, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Chính ủy, đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh; 1966, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chính ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tư lệnh... Các tướng lĩnh Lê Đức Anh, Lê Quốc Sản, Hoàng Cầm, Trần Hải Phụng, Trần Văn Danh, Trần Độ... giữ các cương vị Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy hoặc Tư lệnh, Phó Tư lệnh các Quân khu.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:45:38 pm
*
*      *

    Thực hiện chủ trương “quốc gia hóa” các lực lượng vũ trang giáo phái (thân Pháp), từ ngày 28/4/1955 Mỹ - Diệm bắt đầu tấn công Bình Xuyên ở Sài Gòn và các nơi. Ngày 21/9/1955, chúng mở cuộc hành quân “Hoàng Diệu” diệt Bình Xuyên ở Rừng Sác. Ngày 25/6/1955, mở chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” uy hiếp, bức hàng lực lượng vũ trang của Hòa Hảo ở miền Tây và miền Trung Nam Bộ. Ngày 11/3/1956 mở cuộc hành quân Thăng Long, thanh toán số còn lại của lực lượng vũ trang Cao Đài Tây Ninh.

    Các lãnh tụ chỉ huy quân sự chóp bu các giáo phái bị Diệm thanh toán, một số đầu hàng Diệm, một số phải tìm cách chống lại Diệm, hợp tác với lực lượng cách mạng, tuy rằng trong thâm tâm họ vẫn không hề từ bỏ ý đồ tiêu diệt cách mạng.

    Trước tình hình đó, lợi dụng mâu thuẫn giữa bọn tay sai đế quốc Pháp và Mỹ, ta vận động phối hợp đồng thời đưa người của ta vào các lực lượng vũ trang giáo phái, giác ngộ lòng yêu nước của chiến sĩ và số chỉ huy cấp dưới, hoặc tổ chức thành đơn vị vũ trang mang danh giáo phái chống lại Mỹ - Diệm.

    Bình Xuyên rút về Rừng Sác. Đồng chí Hai Văn (Phan Văn Đáng) - Phó Bí thư Xứ ủy cử đồng chí Nguyễn Trọng Tâm về Long Thành để móc nối với lực lượng Bình Xuyên. Đồng chí Bảy Khánh - Bí thư Liên tỉnh miền Đông cũng đã gặp Bảy Viễn. Trong Bình Xuyên có Thiếu tá Võ Văn Môn, nguyên Tham mưu trưởng quân Bình Xuyên, nhất trí hợp tác với cách mạng chống Diệm. Được các đồng chí Ba Thuận (Phú), Lâm Quốc Đăng, Lê Thanh hướng dẫn, Thiếu tá Môn đưa một tiểu đoàn cùng 2.000 thân nhân ra vùng Bàu Lâm và ra vùng Chiến khu Đ. Nhiều đoàn viên, đảng viên, bộ đội, du kích cũ được cử sáp nhập vào lực lượng Bình Xuyên của Bảy Môn, vận động giác ngộ anh em, hướng dẫn các đơn vị này chiến đấu chống Diệm.

    Lực lượng vũ trang Hòa Hảo có 4 phái riêng rẽ:

    - Trần Văn Soái (tự Năm Lửa) chiếm cứ vùng các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, có lực lượng mạnh hơn cả nên tự coi mình là Tổng Tư lệnh quân đội Hòa Hảo, đặt sở chỉ huy tại Cái Vồn.

    - Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán) kiểm soát tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên, chỉ huy sở đặt tại Cái Dầu (Long Xuyên).

    - Lê Quang Vinh (tự Ba Cụt) chiếm vùng Rạch Giá và một phần Long Xuyên, chỉ huy sở đặt tại Thốt Nốt (Long Xuyên).

    - Nguyễn Giác Ngộ kiểm soát một vùng thuộc tỉnh Long Xuyên, sở chỉ huy đặt tại Chợ Mới.

    Khi Mỹ - Diệm thanh toán Hòa Hảo, Hai Ngoán và Nguyễn Giác Ngộ nhanh chóng đầu hàng. Năm Lửa và Ba Cụt chống lại. Đánh không lại quân Diệm, Năm Lửa và Bảy Út (em Ba Cụt) kéo mấy ngàn quân vào vùng căn cứ kháng chiến cũ của ta ở Đồng Tháp Mười. Hàng trăm đảng viên, bộ đội, du kích cũ được đưa vào lực lượng này. Sáu Nhỏ, người của ta còn được Năm Lửa nhận làm con nuôi, rất tin cậy, giao cho giữ cả kho súng. Ta chủ trương hòa hoãn với bọn trên, vận động giác ngộ số chỉ huy bên dưới và binh lính. Một số cán bộ ta đưa vào, được chỉ huy Hòa Hảo mời làm chính trị viên như các đồng chí Sáu Ức, Tám Bành, Sáu Chung, Tám Dần... Khi lực lượng Hòa Hảo vào hẳn Đồng Tháp Mười, ta đưa vô thêm 50 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, phần lớn quê ở Vĩnh Thạnh như Hai Trãi, Hoàng Ba, Huỳnh Nho, Tư Khương, Hai Trung, Ba Mi... Quân Diệm đánh vào Đồng Tháp Mười, cán bộ, đảng viên của ta đã hướng dẫn và cùng lực lượng của Hòa Hảo đánh trả gây nhiều thiệt hại cho quân Diệm như trận Cỏ Ống (Mộc Hóa) diệt và bắt sống 2 trung đội, thu 30 súng; trận Tân Bửu (Bến Lức), diệt và bức rút nhiều đồn bót quân Diệm đóng sâu vào căn cứ kháng chiến cũ như ở Tân Thành, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Đông, Bình Hòa, Hưng Phú, Tân Phú... Ta tranh thủ Hòa Hảo cho tổ chức “Ủy ban quân chính” ở nhiều xã như Mỹ Quý, Mỹ Hòa, Long Hiệp. Từ Bình Hiệp đến Bình Hòa, Thạnh Hòa, Phong Phú, Thủy Đông, Tân Đông, Thuận Nghĩa... mỗi xã đều tổ chức được một tổ du kích “giáo phái”, 2 đến 3 người, được trang bị một vài khẩu súng, lo tiếp tế cho giáo phái và dùng danh nghĩa giáo phái trừ khử ác ôn. Ngày 01/01/1956 Mỹ - Diệm tập trung 4 trung đoàn, 6 chi đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn dù và nhiều lực lượng pháo binh, giang thuyền... mở cuộc hành quân lớn vào Đồng Tháp Mười hòng tiêu diệt giáo phái đồng thời triệt phá “cộng sản nằm vùng” như chúng rêu rao. Cán bộ, đảng viên, thanh niên ta cùng Hòa Hảo đã đánh trả quân Diệm, có trận như Cái Bát đánh nhau với quân Diệm suốt một ngày.

    Ngày 17/02/1956, Năm Lửa gặp Nguyễn Ngọc Thơ do Diệm cử đến và y đã chuẩn bị đầu Diệm, đưa quân ra hàng. Một số không theo Năm Lửa. Nguyên 1 đại đội do Hồng chỉ huy được ta vận động và giúp đỡ đã ở lại Đồng Tháp Mười chiến đấu, sau đó gia nhập vào bộ đội giáo phái giải phóng. Số anh em ta bí mật mang 40 súng trở về. Sáu Nhỏ giữ cả ghe súng của Năm Lửa, nhưng chưa có lệnh đành để bọn giáo phái chở ra nộp cho Diệm.

    Ở vùng Vĩnh Long, Sa Đéc, Hậu Giang, nhiều tiểu đoàn mang danh nghĩa Hòa Hảo vẫn tiếp tục hoạt động dưới sự chỉ huy của Phan Văn Thục thường được gọi là Năm Thục, thay Năm Lửa làm Tư lệnh các lực lượng Hòa Hảo chống Mỹ - Diệm. Đồng chí Sáu Ức được tín nhiệm làm Chính trị viên trong Bộ Tư lệnh. Đó là Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo do Tám Bành làm Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn Thăng Long do Hoành chỉ huy, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở do Tư Sơn chỉ huy. Ngoài ra còn có một số đại đội hoạt động rải rác.

    Cao Đài ở Tây Ninh, vừa hòa hoãn với Diệm vừa đưa một số đơn vị vũ trang ra rừng, gọi là ly khai chống Diệm nhưng thực chất là để mặc cả với Mỹ - Diệm. Một số đơn vị “Cao Đài ly khai” tản ra các vùng căn cứ kháng chiến cũ ở Tây Ninh, một số khác kéo về vùng Đức Hòa, Đồng Tháp Mười.

    Riêng nhóm Cao Đài của Nguyễn Bỉnh Khiêm kéo quân về đóng ở 3 xã Vĩnh Trị, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, đặt sở chỉ huy tại lò gạch (Vĩnh Trị). Khiêm liên lạc với ta xin mộ quân để tăng cường lực lượng. Huyện ủy Mộc Hóa chủ trương đưa một số cán bộ, đảng viên và thanh niên vào lực lượng Cao Đài của Khiêm. Mười Bộ -Huyện ủy viên, trực tiếp hướng dẫn cho 7 đồng chí ở xã Bình Hòa, như Nguyễn Văn Thôi - Xã đội phó, Phạm Đình Thái - Chính trị viên xã đội, cùng mấy anh em “giáo phái vận”. Ba Tao - Huyện ủy viên, đưa anh em qua Cả Sách, Vĩnh Lợi lên gặp số chỉ huy giáo phái. Anh em được tổ chức vào một đơn vị có 1 trung úy và 1 thiếu úy Cao Đài chỉ huy, phụ trách hoạt động từ Bình Hiệp, Bình Hòa qua Thạnh Hòa, Phong Phú, Thuận Nghĩa. Ở mỗi xã có tổ chức hệ thống chính quyền “Cao Đài tự do”, gồm 3 người: Chủ tịch, xã hội, dân vận.

    Khi Mỹ - Diệm xua quân đánh vào Đồng Tháp Mười, tên trung úy chỉ huy đơn vị “Cao Đài tự do” ra lệnh toàn đơn vị tập trung về sở chỉ huy để rút về Tây Ninh. Anh em ta bàn nhau tách khỏi bọn này, mang súng trở về địa phương chờ lệnh. Anh em ta nói thẳng:

    - Các anh vì Đạo cứ về Tây Ninh. Chúng tôi quê hương xứ sở ở đây, xin ở lại cùng súng ống bảo vệ xóm làng.

    Chúng không chịu. Ta cũng dứt khoát. Cuối cùng chúng phải năn nỉ ta cho tiền và tổ chức cho chúng về Tòa thánh Tây Ninh.

    Cao Đài Khiêm rút đi, Cao Đài Phụng lại đến chiếm đóng từ Cốc Rinh đến kênh Bo Bo, Long Ngãi Thuận, kênh Trà Cú. Ta lại chủ trương đưa người nhập vào bọn này, cho anh em đến báo với bọn chỉ huy:

    - Chúng tôi thuộc đơn vị ông Khiêm chỉ huy nhưng bị mất liên lạc, có giấy chứng nhận của ông Khiêm đây, các ngài cứ cho chúng tôi gia nhập lực lượng của các ngài.

    Cao Đài Phụng tiếp nhận và đồng ý với ta cho tổ chức 1 đơn vị mang danh 1 tiểu đoàn, đưa một số sĩ quan của chúng qua chỉ huy có 1 thiếu tá và 2 trung úy. Thiếu tá Cao Đài tên Kia nên ta lấy tên Tiểu đoàn là “Văn Kia” cho dễ hoạt động. Thực ra tiểu đoàn chỉ có 2 đại đội và tiểu đoàn bộ. Ta vận động thanh niên, đưa cán bộ vào gồm trên 60 người, có 11 đảng viên và phần lớn là đoàn viên thanh niên, tổ chức 1 chi bộ (do đồng chí Thảo làm Bí thư) và 1 chi đoàn (Bảy Thôi - Phó Bí thư kiêm Chi đoàn trưởng). Tiểu đoàn về Giồng Dinh được phát 30 súng, Tiểu đoàn bộ đóng ở Trấp Tre. Đại đội 1 đóng chung với Tiểu đoàn bộ, Đại đội 2 ở Sở Văn, Bình Thạnh.

    Với danh nghĩa Tiểu đoàn Cao Đài ly khai chống Diệm, anh em tổ chức chính quyền, ủy ban giáo phái, tiến hành trừng trị và trấn áp bọn ác ôn và cảnh sát ngụy quyền. Diệm tổ chức bầu cử. Ta bàn với bọn chỉ huy Cao Đài phá bầu cử, nhưng chúng không dám làm. Ta bàn phục kích đánh 1 trận lấy danh cho quân Cao Đài ly khai, tên trung úy chỉ huy đại đội chịu đi nhưng ngồi phía sau. Ta có 12 cây súng trang bị “mituyn” và “mútmas” 1 phục kích tại vàm Rạch Xây. Dân báo cho biết địch đi trên 3 xuồng. Lúc địch lọt vào trận địa đã bố trí, ta nổ súng giết được 4 tên. Tên trung úy Cao Đài khi nghe súng nổ đã bỏ chạy mất.

    Do ta hoạt động có hiệu quả, bọn chỉ huy Cao Đài phong cho đồng chí Thảo chức thiếu tá, làm Chính trị viên Tiểu đoàn. Bảy Ngôn làm cố vấn quân sự cho Văn Kia - Tiểu đoàn trưởng.

    Tuy nhiên, Phụng lén lút móc nối để đầu hàng Diệm. Chúng dự kiến khi ra hàng sẽ quét sạch sẽ số anh em được ta đưa vào tiểu đoàn. Trong tình hình đó, trên cho chủ trương “tách quân”, lấy súng, nhưng không được giết người. Đồng chí Lâm lúc đó có đi với tên Văn Kia - Tiểu đoàn trưởng. Ta tung tin quân của Mỹ - Diệm kéo đến cách 6km, tên chỉ huy đại đội Cao Đài ủy quyền cho ta sắp xếp canh gác, còn bọn Cao Đài thì tập trung đánh cờ tướng. Mật lệnh hành động là: “Tất cả đi ngủ”. Mật lệnh vừa phát ra, anh em liền hô to: “Tất cả đâu ngồi đó”. Bọn chúng bị bất ngờ, không kịp lấy súng. Ta mượn xe trâu của dân chở súng về Nồi Cọ. Tên tiểu đoàn trưởng không hay biết gì. Sau đó bọn Cao Đài Phụng chạy về Hội đồng Sâm, giết nhiều cán bộ và đồng bào ta.

    Số anh em tách khỏi Cao Đài, thành lập 1 đơn vị mang tên Tiểu đoàn Phước - Dư của giáo phái, Bảy Thế làm Tiểu đoàn trưởng mang quân hàm thiếu tá, Sáu Thông làm Chính trị viên Tiểu đoàn. Hổ - Thiếu úy Đại đội trưởng. Đơn vị lúc đầu mới có 36 người với 36 súng, sau đó được bổ sung tăng quân số lên 60 người. Đồng bào thường gọi là “tiểu đoàn Cao Đài dỏm” (vì biết thực chất là bộ đội cách mạng). Trong quá trình hoạt động, các đồng chí Bảy Ngôn, Thôn, Tang... và một số anh em nữa cũng đã hy sinh.

    Đến tháng 10/1956, lực lượng giáo phái ở Đồng Tháp Mười đều đầu hàng Diệm hoặc tan rã, một số ít theo ta chống Diệm. Số anh em ta bí mật vào các lực lượng trên, sau rút ra đem về được trên 200 súng làm vốn xây dựng lực lượng giải phóng sau này.

    Trong hai năm 1955-1956, bọn thân Pháp ở Paris thành lập Mặt trận “Quốc gia giải phóng” lấy cờ đỏ có chữ vạn (chữ nhà Phật) đặt ở giữa. Chúng có bắt liên lạc với ta. Ta cũng đặt tên cho các đơn vị mình là “Cao Đài giải phóng”, “Hòa Hảo giải phóng” và dùng cờ đỏ ngôi sao xanh để hoạt động. Khi giáo phái đầu Diệm, ta vận động Đại úy Hồng (Hòa Hảo) ở lại với ta đứng lên phất cờ giáo phái chống Diệm. Đồng thời lúc này Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ chủ trương xây dựng mỗi tỉnh 1 đơn vị vũ trang mang phiên hiệu tiểu đoàn như D.502 ở Kiến Phong, D.504 ở Mỹ Tho, D.506 ở Bến Tre, D.508 ở Long An, D.510 và D.512 ở An Giang... Khu 8 có một D chủ lực lấy tên là D2 “Bình Xuyên”, trang bị bằng súng chôn giấu móc lên đã han rỉ nên nhân dân gọi đùa là Tiểu đoàn “Bình Xuyên súng sét”.

    Ở miền Đông Nam Bộ, các đơn vị vũ trang cũng lần lượt được hình thành. Khi lực lượng vũ trang Cao Đài ly khai Diệm ra rừng, ta đã đưa nhiều cán bộ, đảng viên, bộ đội, du kích cũ bí mật vào các đơn vị này. Ở Đại đội 25 Cao Đài ly khai đóng tại Bàu Cỏ, ta tổ chức được 1 chi bộ mật để lãnh đạo. Tháng 3/1956 khi Diệm bắt đầu mở cuộc hành quân đánh Cao Đài ly khai, đồng chí Đình Ba bí mật phổ biến chỉ thị của tỉnh cho chi bộ lãnh đạo anh em làm binh biến. Đồng chí Ngô Thành Sáng cùng một số đồng chí đảng viên như Thế, Tư Sùng... đã nắm được phần lớn binh lính trong đại đội, vận động nổi dậy gạt tên chỉ huy lấy được hơn 100 súng, kéo quân về Sa Nghe bổ sung thêm thanh niên thành lập 1 đại đội mang tên là “C.25 Cao Đài ly khai!”. Chỉ huy trưởng là đồng chí Ngô Thành Sáng đóng vai đại úy. Có chỉ thị Liên tỉnh ủy miền Đông cho hoạt động vũ trang, Tỉnh ủy Tây Ninh không giải thể mà phân tán đơn vị này thành từng nhóm nhỏ để tránh nổi cộm, hoạt động từ Sóc Thiết qua Dương Minh Châu, đồng thời tổ chức 1 tổ vũ trang mạnh hoạt động vùng biên giới Việt Nam - Campuchia để bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Trong năm 1956, các nhóm vũ trang này đã bắt sống được 1 tiểu đoàn dân vệ ở Tầm Long, xóm Ruộng, diệt 8 tên gián điệp chỉ điểm ở Tà Nong, Ba Chàm.

    Đầu năm 1956, còn có Thiếu tá Cao Đài Huỳnh Thanh Mừng bất hợp tác với Diệm đưa một đơn vị chạy ra rừng liên kết với ta chống Diệm. Quân số đơn vị không nhiều nhưng tạo cho ta có danh nghĩa để tổ chức lực lượng.

    Ở trung tâm chỉnh huấn Tân Hiệp, Biên Hòa, địch giam giữ 6.000 anh chị em, trong đó có 250 đảng viên được bí mật tổ chức thành 1 đảng bộ. Đảng ủy trong nhà tù đã đề nghị trên cho tổ chức vượt ngục. Một đội tự vệ mật được thành lập gồm các đồng chí bộ đội và du kích cũ hơn 30 anh em. Chưa được chỉ thị trên nhưng tình thế khẩn trương vì được tin địch sẽ đày anh chị em ra Côn Đảo, Phú Quốc. Đúng 18 giờ ngày 02/12/1956, khi địch lùa anh chị em vào khám cũng là thời điểm ra mật lệnh nổi dậy. Ý định lúc đầu chỉ vượt ngục vài chục đồng chí, nhưng thời cơ thuận lợi, đội tự vệ diệt được 20 tên giặc, bắt trói số còn lại, anh em nhất tề xông vào kho cướp súng giặc. Gần 300 anh chị em ùa ra ngoài trại chạy thoát. Địch xả súng giết hại 22 anh chị em. Hơn 20 anh chị em đã về đến căn cứ Chiến khu Đ với 2 khẩu trung liên, 13 tiểu liên và 18 súng trường tổ chức thành 3 trung đội mạnh chờ lệnh chiến đấu. 7 anh em vượt ngục khác về Rừng Sác căn cứ của Tỉnh ủy Chợ Lớn, Tỉnh ủy quyết định sáp nhập thêm 3 đồng chí bảo vệ Tỉnh ủy tổ chức thành 1 đơn vị vũ trang mang tên “C.12 Bình Xuyên” (vì có 12 đồng chí) được trang bị 1 trung liên và 2 súng trường của anh em vượt ngục mang về.

    Ở Thủ Dầu Một, đồng chí Chín Quỳ được phân công ở lại miền Nam cùng đồng bào đấu tranh chính trị. Thời thực dân Pháp còn đô hộ, Chín Quỳ tổ chức đảng “Lục lâm” cướp của nhà giàu chia cho người nghèo, năm 1940 được Đảng giác ngộ sau đó anh trở thành đảng viên. Khi lực lượng vũ trang tập kết đi hết, đồng chí ở lại với đồng bào, công tác quần chúng. Không chịu nổi cảnh áp bức, đàn áp, đồng chí tự động tổ chức 1 lực lượng vũ trang dựa vào rừng Chiến khu Đ hiểm trở để sản xuất, săn bắn, đêm đêm bung ra vùng đông dân trừ gian, gây dựng cơ sở. Một số đảng viên, bộ đội, du kích cũ lánh vào chiến khu đã gia nhập “bộ đội Chín Quỳ”. Về sau, bộ đội này thành C.250 của miền Đông Nam Bộ.

    Ở vùng hóc Bà Tó cũng thuộc Thủ Dầu Một có hai anh em Liễu và Bờ, trước tham gia bộ đội trong chống Pháp, bỏ về nhà năm 1952 nhập vào quân Cao Đài. Năm 1955, Liễu, Bờ tụ tập 16 tay anh chị trốn địch bắt lính, mua được nhiều súng tốt, đi cướp của nhà giàu và của cả dân thường. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã cử đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy tìm đến thuyết phục. Liễu, Bờ nhất trí cùng ta chống Diệm, chỉ cướp của tề ác ôn, không lấy của dân thường, nhất là không cướp trâu bò của đồng bào các dân tộc. Liễu, Bờ làm nhiệm vụ trấn áp bọn phản động, cho cán bộ ta đi sâu vào xóm ấp vận động xây dựng cơ sở. Lúc đầu ta đưa 3 đảng viên và 3 du kích là đoàn viên vào cùng 16 người của Liễu, Bờ tổ chức thành 1 trung đội. Sau Liễu, Bờ xin nghỉ, các đảng viên thay chỉ huy và từ đó bộ phận này trở thành đơn vị của cách mạng.

    Ở Tân An, ngoài Tiểu đoàn Lê Phước Du còn có đại đội “Hòa Hảo giải phóng” với quân số 37 người. Lực lượng mang danh giáo phái đến cuối năm 1956 đã phát triển thành 3 đại đội 231, 233, 235. Để thống nhất chỉ huy, ta tổ chức khu bộ giáo phái đóng sở chỉ huy tại Trấp Tro do đồng chí Nguyễn Văn Khuyên tức Tám Dần mang danh Trung tá giáo phái Lưu Phước Nam làm Bộ trưởng.

    Tuy lực lượng vũ trang được tổ chức rải rác nhưng chưa có chỉ thị của Đảng cho hoạt động vũ trang nên chủ yếu là để tự vệ và tiến hành trừ khử những tên ác ôn nguy hiểm nhất. Nhiều hình thức diệt địch xuất hiện: “rút giò”, “ôm hè”, “chuốc rượu để tước súng”, diệt địch bằng phảng, dao phay, gậy gộc, rồi sau đó đưa tin là do những tên này gây thù oán nên bị giết.




-----------------------------------------------------------------
1. Mituyn: 1 loại tiểu liên cũ.
    Mútmas: 1 loại súng trường cũ.



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:48:20 pm
I- NHỮNG ĐỘI VŨ TRANG TUYÊN TRUYỀN ĐẦU TIÊN


    Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai của Xứ ủy tháng 12/1956 đã xác định: “...phải dùng bạo lực của quần chúng... phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị”.

    Xứ ủy cũng thảo đề cương vũ trang tuyên truyền, cử đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - cán bộ trung đoàn trưởng có tiếng trong chống Pháp được ở lại miền Nam chuyển làm công tác dân vận - nay phụ trách ủy viên quân sự của Xứ ủy. Đồng chí đã từ U Minh về miền Đông xây dựng căn cứ địa của Xứ ủy và xây dựng các lực lượng vũ trang tập trung.

    Thanh niên ở các tỉnh miền Đông cũng như đồng bằng sông Cửu Long đều được bí mật đưa về các Chiến khu Đông Bắc và Tây Bắc miền Đông Nam Bộ bổ sung cho các đơn vị của Xứ và Miền. Đến đầu năm 1957 hàng loạt đại đội bộ binh, đặc công, trinh sát đã được thành lập: C50, C60, C70, C80A, C80B, C30, C40, C200, C300, D500, D800... đứng chân ở Tây Bắc và Đông Bắc miền Đông.

    Ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Đồng Tháp Mười, nhiều đơn vị tập trung được hình thành từ các đơn vị mang danh giáo phái tập trung từ các xã ấp lên. Như ở Long An, với nòng cốt là D4 giáo phái bổ sung thêm “bộ đội Trâm bầu” (dùng khúc cây trâm bầu làm vũ khí), du kích để thành lập Tiểu đoàn 506 với 150 tay súng. Rồi “Đại đội 12 Bình Xuyên” làm nòng cốt tập hợp thêm du kích, bộ đội cũ và thanh niên được 70 đồng chí thành Tiểu đoàn 508. Ở Kiến Phong có Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh, sau là D502, Mỹ Tho là D504...

    Tây Ninh, sau khi rút hết phần lớn cán bộ, chiến sĩ về xây dựng đơn vị tập trung của R (Xứ), số còn lại được tổ chức thành 1 đơn vị lấy tên là D14 (vì có 14 anh em và 14 súng). Chỉ trong một thời gian rất ngắn đã phát triển thành 1 đại đội đầy đủ quân số.

    Ở Biên Hòa và Bà Rịa mỗi nơi cũng xây dựng được 1 trung đội.

    Như vậy cho đến đầu năm 1957 ở nhiều vùng của Nam Bộ đã hình thành lực lượng vũ trang tập trung của R, của tỉnh và lực lượng du kích mật mang danh các đội chống trộm cướp, dân canh...

    Ở miền Đông Nam Bộ, sau khi Xứ ủy cho tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung, ta đã tiến hành một số trận đánh có ý nghĩa quan trọng hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị và xây dựng phát triển các lực lượng vũ trang.

    Ngày 10/8/1957, C60 của R, C20 của Tây Ninh cùng lực lượng Bình Xuyên và của tỉnh Thủ Dầu Một tiến công địch ở thị trấn Ninh Thạnh, diệt cảnh sát, bắt sống lính bảo vệ, lấy xe, lấy đại liên đặt lên xe tiêu diệt những ổ đề kháng của địch, chiếm thị trấn nhiều giờ, dùng ôtô và xe ngựa chở chiến lợi phẩm: gạo, muối, vải vóc, thuốc men và tiền bạc về căn cứ an toàn.

    Ngày 18/9/1957, C250 của R phối hợp lực lượng Bình Xuyên (danh nghĩa) tấn công trại Be Biên Hòa, cơ sở khai thác cây rừng của Trần Lệ Xuân, diệt và đánh tan 3 đại đội địch, giáo dục và thả về mấy ngàn đồng bào vào rừng khai thác gỗ, thu 80 xe vận tải và vũ khí đủ trang bị cho 1 trung đội. Trận đánh có tác dụng phá âm mưu của địch định chia cắt manh mún căn cứ kháng chiến của ta, củng cố được căn cứ Đông Bắc vừa mới được xây dựng.

    Tháng 12/1957, các đơn vị tập trung của R phục kích ở Lò Than diệt và làm tan tác 1 tiểu đoàn địch.

    Đầu năm 1958, Xứ ủy quyết định thành lập “khu miền Đông” đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - Ủy viên quân sự Nam Bộ kiêm Chỉ huy trưởng miền Đông, Lâm Quốc Đăng (Nguyễn Thược) và Lê Thanh làm Chỉ huy phó. Căn cứ miền Đông ở hai hướng tây bắc và đông bắc đều được mở rộng lên tận biên giới Việt Nam -Campuchia.

    Ở khu 5, cuối 1957, đồng chí Lê Duẩn, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã trao đổi với Thường vụ Liên khu ủy 5 những kinh nghiệm về vận dụng đường lối, phương châm đấu tranh vào thực tiễn phong trào cách mạng ở Nam Bộ. Về tổ chức lực lượng vũ trang, đồng chí nêu nên tổ chức 3 người, tiểu đội, cao nhất là trung đội nhằm giữ buôn rẫy.

    Từ thực tiễn của địa phương kết hợp ý kiến của đồng chí Lê Duẩn, Liên khu ủy 5 đã họp hội nghị mở rộng, đề ra một số phương hướng, nhiệm vụ để chuyển phong trào (giữa năm 1958), trong đó có chú trọng:

    - Xây dựng miền Tây các tỉnh đồng bằng và Tây Nguyên thành căn cứ địa cách mạng.

    - Bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ở miền núi với nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ.

    Ngày 07/7/1958, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Đại hội nhân dân chống Mỹ của các dân tộc miền núi tại Gò Rô (Trà Bồng) có hơn 200 đại biểu. Đại hội nhất trí hạ quyết tâm: “Phải đánh Mỹ sớm chừng nào hay chừng đó. Đánh Mỹ - Diệm thì mới sống được, dù có cực có khổ mấy cũng quyết đánh”.

     Ở các vùng rừng núi và một số nơi ở đồng bằng lần lượt tổ chức các lực lượng vũ trang tự vệ. Một số thanh niên bí mật rủ nhau đi tìm các hầm vũ khí chôn lại từ năm 1954. Tiếng súng diệt ác từ lẻ tẻ, tự phát đến có tổ chức, có lãnh đạo. Ngày 24/10/1958, tiểu đội tự vệ mật huyện Nam An Khê do Bí thư Huyện ủy trực tiếp chỉ huy đã nổ súng chống bọn lính ngụy đi càn, bắn chết tên Kai người địa phương đầu hàng và dẫn địch đi đánh phá buôn rẫy. Ngày 15/11/1958, tổ vũ trang tự vệ của tỉnh Phú Yên do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo nổ súng diệt tên Thống Cường ác ôn đã đánh phá phong trào cách mạng ở địa phương. Những tiếng súng mở đầu có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đã báo hiệu sự vùng dậy mạnh mẽ của đồng bào miền Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Nhân dân Tây Nguyên tích cực rào làng, cắm chông như hồi chống pháp. Đến cuối năm 1958, một số xã ở Gia Lai, Kon Tum, miền Tây Quảng Ngãi đã thành lập “Ban cán sự”, “Ban tự quản”. Khắp Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng đã xây dựng căn cứ địa làm nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo và các đội du kích, vũ trang mới thành lập. Kon Tum có xã Đoàn, xã Hiêu, Tung Bung, Kô Xin, Gia Lai có 2 huyện và 7 xã (Bắc và Nam An Khê); Quảng Nam có Hiện. Khu căn cứ của Quảng Ngãi bao gồm: 22 xã nối liền nhau của vùng cao - huyện Trà Bồng và Sơn Hà, 12 xã trong khu tiếp giáp 3 huyện Sơn Hà, Đinh Long, Ba Tơ và 8 xã phía nam huyện Ba Tơ. Bình Định có khu căn cứ Vĩnh Thạnh; Phú Yên có các khu Thồ Lồ, Bắc Ma Dú; Đắk Lắk có vùng Pleiya hiểm trở; Khánh Hòa có Vĩnh Sơn, Khánh Sơn. Ninh Thuận có Bác Ái kiên cường, Bình Thuận, Lâm Đồng có Tánh Linh nối liền nhau... Đến đầu năm 1959, Khu 5 đã có 2 trung đội, tiểu đội du kích tập trung và 1 đội vũ trang công tác.

     Song song với việc xây dựng các đội vũ trang, ở Nam Bộ cũng như Khu 5 và Tây Nguyên đều có tổ chức các tổ quân y, mở trường huấn luyện tân binh, cán bộ tiểu đội, các tổ sửa chữa vũ khí và chế tạo vũ khí thô sơ, sản xuất lựu đạn, làm súng “ngựa trời”... Hậu cần nuôi quân lúc đó dựa vào trồng mì, đào củ chụp, săn bắn và sự nuôi dưỡng, đùm bọc của đồng bào các dân tộc từ Quảng Trị vào Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ. “Rẫy mì cách mạng” được phát triển bạt ngàn trên rừng núi Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, đã nuôi sống biết bao cán bộ, chiến sĩ trong những lúc thắt ngặt nhất.

     Bước vào năm 1958, phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ cũng như toàn miền Nam có bị núng thế. Nhiều cơ sở nội tuyến của ta trong hàng ngũ địch bị chúng phát hiện bắt bớ, giam cầm. Mỹ - Diệm đã phối hợp việc mở rộng các cuộc hành quân quy mô đánh phá các vùng căn cứ với đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”.

    Bộ Tư lệnh miền Đông đã đề nghị với Xứ ủy cho mở một trận tấn công vào chi khu quân sự của địch ở Dầu Tiếng, cách Sài Gòn chưa đầy 70km theo đường chim bay, nhằm gây thanh thế cho cách mạng đồng thời lấy vũ khí và cơ sở vật chất để giải quyết khó khăn về hậu cần, trang bị cho các lực lượng vũ trang, củng cố và mở rộng vùng căn cứ. Đề nghị trên được chấp nhận, đồng chí Tám Dên Dên (Nguyễn Hữu Xuyến) trực tiếp thông qua kế hoạch trận đánh. Lực lượng huy động vào trận đánh gồm 2 đơn vị tương đương tiểu đoàn mang danh nghĩa Bình Xuyên và liên quân Cao Đài cùng các đơn vị của Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Biên Hòa, tổng cộng 1.500 quân. Địch có 2 tiểu đoàn cộng hòa của Sư đoàn 13 chủ lực, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an cùng bọn công an, dân vệ chính quyền huyện, thị. Gần Dầu Tiếng có đồn Bến Củi địch đóng 1 đại đội. Riêng ở chi khu Dầu Tiếng địch có gần 1.000 quân.

    0 giờ ngày 11/8/1958, đặc công bất ngờ nổ súng mở đầu trận đánh. Đến 2 giờ 30 phút quân ta chiếm toàn bộ quận lỵ và chi khu quân sự Dầu Tiếng, làm chủ nhiều giờ, diệt nhiều địch, bắt nhiều tù binh, thu nhiều súng đạn, trên 1 triệu đồng tiền Sài Gòn. Tên Quận trưởng Đào Sanh Khê và tên Bảy Gà Lôi (Trần Trung Bảy) rất ác ôn đã may mắn trốn thoát. Đây là lần đầu tiên, kể từ sau tháng 7/1954, các lực lượng vũ trang ở miền Nam mới hình thành đã tấn công làm chủ một chi khu quân sự và quận lỵ của Mỹ - Diệm. Trong phiếu trình đặc biệt gửi Tổng thống Diệm đề ngày 12/8/1958 của tên Đại tá ngụy Lê Khương Tống - Tổng Giám đốc bảo an trong phái đoàn quân sự đến Dầu Tiếng xem xét đã thừa nhận: Đối phương tấn công 8 mục tiêu, chiếm đồn cộng hòa lúc 2 giờ 40 phút. Tướng ngụy Nguyễn Văn Là thì cho rằng: “Đây là trận của những sĩ quan tài giỏi của quân đội miền Bắc chỉ huy... đây là trận dương đông... một trận nghiên cứu của cộng sản”. Thực tế không phải trận “dương đông” gì cả, cũng chưa có chiến sĩ miền Bắc trở về.

    Sau khi hất cẳng xong thực dân Pháp khỏi Đông Dương, đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường nhân viên quân sự Mỹ làm cố vấn với danh nghĩa phái bộ viện trợ quân sự Mỹ M.A.A.G. Từ ý nghĩ phải giáng đòn phủ đầu vào bọn xâm lược mới, các chiến sĩ biệt động Biên Hòa đã chú ý đến một trụ sở của cơ quan quân sự M.A.A.G đóng tại trại của Biên Hòa, có 36 tên Mỹ thường lui tới, bên ngoài được canh gác cẩn mật.

    Một đội biệt động của Biên Hòa do anh em chỉ huy, có 2 đồng chí địa phương được trên giao nhiệm vụ nghiên cứu và trực tiếp đánh bọn cố vấn Mỹ ở trại cưa. Anh Lũy người địa phương đã theo dõi hoạt động của bọn Mỹ gần 1 tháng, nắm quy luật mỗi chiều có 10 xe do bọn Mỹ trực tiếp lái đến ăn uống ở nhà ăn sĩ quan. Anh lên căn cứ báo tình hình. Đơn vị biệt động lùi về sát Biên Hòa ém ngay trong nhà má ruột của anh Lũy là bà Nguyễn Thị Xuân tại ấp Long Thành, xã Bình Trước. Anh Lũy cùng vác trái đi đánh với anh em biệt động.

    Chiều ngày 25/10/1958, đúng như dự kiến có 10 xe, mỗi xe có 2 tên Mỹ chạy đến nhà ăn sĩ quan, anh Lũy vác trái lén vào đặt tại nhà ăn, không may bị tên ngụy gác phát hiện định đẩy trái ra. Anh Lũy bấm điện, trái nổ tung, anh hy sinh. Anh em tiếp thêm một trái “bêta” nữa. Trận đánh diễn ra nhanh, địch không đối phó kịp, hầu hết bọn Mỹ trong nhà ăn bị chết, bị thương. Hai tên Mỹ chết tại trận này đã được đứng đầu danh sách hơn 3 vạn tên Mỹ đã chết ở Việt Nam ghi trên bức tường chữ V tại Hoa Thịnh Đốn.

    Đây là trận diệt Mỹ đầu tiên ở miền Nam và ở cả Việt Nam của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:51:33 pm
II- TIẾN TỚI THÀNH LẬP “QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT”


    Tháng 01/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15. Hội nghị đánh giá tình hình cách mạng miền Nam và ra nghị quyết xác định: “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân..., lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Nghị quyết chưa phổ biến kịp đến các cấp. Nhưng mới nghe “sẽ cho khởi nghĩa giành chính quyền”, nhiều nơi ở miền Nam, Đảng bộ và nhân dân đã tự động nổi dậy với khí thế sục sôi.

    Đồng bào các dân tộc miền Trung và Tây Nguyên đứng dậy

    Dân tộc Ba Na ở Vĩnh Thạnh (Bình Thạnh): Đây là đất căn cứ của nghĩa quân Tây Sơn áo vải cờ đào năm xưa. Sau 2 năm đánh phá ác liệt, Mỹ - Diệm vẫn không kiểm soát được người dân Ba Na. Hai lần tên quận trưởng mời các già làng về dụ dỗ thuyết phục nhưng không được. Tháng 4/1958, địch đã phải giở đến cách dùng quân đội đàn áp uy hiếp, cấm dân phát rẫy làm nương, buộc dân đứng trước 2 con đường: Dời làng về quận sống tập trung hay chạy vào rừng. Đồng bào các dân tộc, nhất là ở 3 làng Tà Bốc, Tà Lét, Hà Ri, từ già làng đến trẻ con đều dứt khoát chạy vào rừng, dầu có chịu khổ, chịu cực đến đâu, cũng không hợp tác với Mỹ - Diệm. Tháng 02/1959, nhân dân 3 làng trên cùng 8 làng khác thuộc 2 xã Vĩnh Hảo và Vĩnh Hiệp nhất loạt nổi dậy dời làng vào núi rừng sâu thẳm. Địch đánh úp vào làng Hà Ri, và Tà Lét. Du kích và nhân dân quyết đánh trả bằng mọi thứ vũ khí, dao mác, mang cung, giết tại chỗ 1 trung úy và 3 lính ngụy, làm nhiều tên bị thương. Trận địch càn lần thứ 2 vào Tà Lét đã sa ngay vào trận địa chông và mang cung của du kích. Tên trung đội trưởng bị mang cung phóng chết tại chỗ. Đến giữa năm 1959, phần lớn các xã trong huyện Vĩnh Hảo với gần 5.000 dân người dân tộc đã chuyển lên thế làm chủ trên vùng rừng núi của mình.

    Đồng bào Raglai ở Bác Ái (Ninh Thuận):

    Đại bộ phận dân cư ở Bác Ái miền Tây Bắc Ninh Thuận là người dân tộc Raglai. Ở đây có phong tục khi con trai lớn theo cha trèo núi, người cha liền trao cho con một “con thóc” (dao tay), một cái ná và dạy cách dùng dao để tự vệ, cách bắn ná để diệt thú rừng giữ làng, giữ rẫy.

    Vốn trước đây là Quản đạo đất Ninh Thuận, Ngô Đình Diệm hiểu rất rõ tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Bác Ái, nên Diệm đã sử dụng những thủ đoạn đánh phá dã man nhất, không chỉ bắn giết mà còn mổ bụng moi gan, phá sạch cả hoa màu, đốt sạch nhà cửa, cây ăn trái, hòng đẩy nhân dân vào cảnh chết đói nếu không chịu vào khu tập trung. Nhưng nhiều gia đình đã bỏ chạy vào rừng quyết không theo giặc, không rời bỏ buôn rẫy. Chị Pô Pô Thị Du bị địch bắt dẫn đi lùng cán bộ đã nhảy từ núi cao xuống vực sâu, quyết không phản lại Đảng, phản lại dân. Bằng nhiều thủ đoạn phátxít, chúng gom được 5.000 dân Bác Ái dồn vào khu tập trung Brâu. Nhưng ngày 07/02/1959, phần lớn số đồng bào này đã nhất trí nổi dậy phá tan ách kìm kẹp của địch bung trở về căn cứ. Tháng 3/1959, một lực lượng cốt cán hơn 30 người do các đồng chí Pi Năng Tác, Xa Na Lê Nam chỉ huy, từ Bác Ái Đông lên tăng cường cho Bác Ái Tây. Tháng 4/1959, hơn 4.000 dân Bác Ái Tây nổi dậy phá khu tập trung Tâm Ngân trở về làng cũ. Từ đó dân Bác Ái bắt đầu dùng hầm chông, cạm bẫy, cung ná và cả thuốc độc đánh trả quân địch, xây dựng vùng căn cứ kháng chiến suốt trong gần 20 năm chống Mỹ.

    Khởi nghĩa Trà Bồng và Tây Quảng Ngãi:

    Nửa đầu năm 1959, đồng chí Võ Chí Công cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Liên khu 5 về đến chiến trường phổ biến tinh thần Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng bào các dân tộc miền núi hăng hái tham gia các đoàn thể giải phóng từ nay đã được tổ chức công khai. Đông đảo thanh niên ở đồng bằng đã thoát ly lên căn cứ tình nguyện chiến đấu.

    Tháng 3/1959, Quảng Ngãi thành lập đại đội vũ trang tập trung 359 gồm 33 cán bộ và chiến sĩ người dân tộc Cor và 10 cán bộ, chiến sĩ người Kinh.

    Từ tháng 7/1959, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên... đều thành lập vũ trang tự vệ, đơn vị vũ trang tập trung.

    Từ năm 1954 đến năm 1958, trước thủ đoạn khủng bố dã man của địch, đồng bào các dân tộc đã chống trả kiên cường giành quyền làm chủ. Chị Y Bơ Rum ở Thanh Sơn đã dùng rìu chém bể đầu tên ác ôn ngay lúc tên này vừa dùng súng bắn chết cha mình. Em thiếu nhi ở Nước Bổn ngày đêm bám địch đi càn dùng ná rình bắn chết 5 lính ngụy để trả thù cho cha mình bị chúng giết hại. Chị Mi Long ở Sơn Thủy bị địch chôn sống đã moi được đất chui lên về làng xách dao đuổi chém tên ác ôn đã chôn chị... Năm 1959, trước tình hình nhân dân nhiều buôn làng đòi nổi dậy, tỉnh đã quyết định thành lập thêm 2 đại đội tập trung mới để chuẩn bị đón thời cơ. Ngày 19/8/1959, tại thôn Trà Ngôn, xã Sơn Lập, huyện Sơn Trà, “Đại đội 89” gồm 36 cán bộ và chiến sĩ đã ra đời.

    Về phía địch, liên tục từ tháng 5 đến tháng 9/1959, địch huy động từng sư đoàn hoặc hai, ba trung đoàn chủ lực cùng quân địa phương càn quét miền Tây Quảng Ngãi, Tây Khánh Hòa, Bác Ái, Bắc Ninh Thuận đánh phá các căn cứ của ta vừa mới hình thành.

    Sáng 28/8/1959, khi 1 tiểu đội lính ngụy kéo đến càn quét khủng bố xã Trà Quân, dân làng đã dùng mác chém chết tại chỗ hai tên, đuổi theo giết những tên còn lại. Nhân dân còn “tét” (hú báo hiệu) cho các buôn làng khác biết. Các xã tiếp giáp Trà Quân nổi trống mõ, thanh la chi viện khắp núi rừng. Mọi người, mọi nhà, tất cả các buôn sóc trong toàn huyện Trà Bồng đã vác dao, mác, tên, ná xông ra rượt đuổi, đâm chém bắt trói những toán lính lùng sục trong làng. Cuộc nổi dậy lan nhanh ra toàn huyện.

    Đêm 22/8/1959, ban lãnh đạo miền Tây họp. Trước tình thế phong trào quần chúng sục sôi, hội nghị quyết định mở rộng cuộc khởi nghĩa đến các xã vùng thấp trong huyện Trà Bồng và phát động khởi nghĩa các huyện miền núi còn lại.

    Đại đội 339 cùng du kích hỗ trợ đồng bào Trà Bồng nổi dậy. Trước khí thế cách mạng dâng trào, đồn Tà Kúp, đồn Tà Lạt hoảng hốt bỏ chạy. Đồn Tầm Rung, đồn Nước Vót tẩu thoát trước khi quân khởi nghĩa kéo đến. Tại quận lỵ Trà Bồng, nhân dân phá tung nhà bầu cử, đốt trụi cơ quan cùng cờ ba que, ảnh tổng thống ngụy quyền. Binh lính, ác ôn, tay sai trốn biệt. Bọn địch ở 2 đồn Eo Chim và Eo Gió ngoan cố chống cự. Được sự hỗ trợ của Đại đội 339, quần chúng quây chặt đồn, nổi chiêng, mõ, tù và kết hợp bộ đội nổ bộc phá, kêu gọi binh lính đầu hàng. Hoảng sợ trước rừng người, rừng giáo mác ngày một tăng, súng của bộ đội ta chĩa vào đồn, lợi dụng đêm tối lính ở đồn Eo Gió tháo chạy. Ta chặn đánh giết và làm bị thương 30 tên. Giải quyết xong Eo Gió, quân khởi nghĩa cùng nhân dân bao vây Eo Chim nhiều vòng, chặn nhiều ngõ, triệt phá nguồn nước uống, dùng súng, ná bắn tỉa từng tên. Địch từ quận lỵ lên giải vây, ta chặn đánh diệt 9 tên thu 6 súng, đánh lui quân viện. Đến trưa hôm sau địch trong đồn tháo chạy nhưng không thoát. Ta đón đánh diệt cả trăm tên, thu nhiều súng đạn. Cả huyện Trà Bồng, trừ quận lỵ, còn cả hệ thống đồn bót địch đều bị quét sạch, hoặc tan rã. Tên quận trưởng và quận phó hoảng sợ bỏ chạy về tỉnh lỵ. Tính chung trong đợt khởi nghĩa Trà Bồng có 161 tên địch bị giết, 63 tên bị bắt sống.

    Ngày 02/9/1959, tại Xà Riêng, giáp giới hai huyện Ba Tơ và Minh Long, Tỉnh ủy Quảng Ngãi thành lập đơn vị tập trung thứ 2 - Đại đội 229. Ngày 03/9/1959, nhân dân xã Trà Phong mở đại hội Cò Rô bầu Ủy ban nhân dân tự quản. Các xã khác lần lượt làm theo. Khởi nghĩa thắng lợi trên toàn huyện.

    Hưởng ứng Trà Bồng, nhân dân các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long cũng lần lượt nổi dậy.

    Ở Sơn Hà, ngày 02/9/1959, địch cho 1 đại đội bảo an từ quận lỵ kéo lên các xã vùng cao bức dân đi bầu cử. Đến Sơn Long bị sa vào hầm chông phải kéo nhau về. Đơn vị 89 cùng thanh niên vừa rút ra rừng chặn đánh địch, nhân dân các dân tộc Hré, Cà Dong nhất tề nổi dậy diệt tề, đập phá trụ sở ngụy quyền, 9 xã vùng cao Sơn Hà lập ngay Ủy ban tự quản ở vùng thung lũng sông Re, các xã Sơn Kỳ, Sơn Thủy đồng bào cũng chiếm trụ sở ngụy quyền, rào làng chiến đấu, chuẩn bị đánh địch càn quét.

    Ở Minh Long, nhân dân các xã Long Quang, Long An, Long Môn thuộc vùng cao đồng loạt nổi lên diệt ác ôn, bắt dân vệ nộp súng, xóa ngụy quyền, tổ chức bố phòng chiến đấu.

    Ở Ba Tơ, các xã Ba Lê, Ba Lục, Ba Nam trước đây Mỹ - ngụy cũng không lập được chính quyền, nay đồng bào các dân tộc lập ủy ban tự quản, tổ chức canh gác, sẵn sàng chiến đấu. Các xã giáp giới vùng Trung châu như Ba Liên, Ba Lương, Ba Châu, Ba Trung đồng bào đốt trụ sở ngụy, diệt ác, lập các đội du kích. Các xã phía bắc như Ba Già, Ba Diên, Ba Tàng đã diệt và làm tan rã dân vệ, thu được 16 súng.

    Tại các vùng thấp, các nhóm vũ trang, các đội vũ trang tuyên truyền mở rộng hoạt động diệt ác, trừ gian, đánh chiếm các trụ sở ngụy quyền, phá kìm kẹp. Ở các xã Sơn Hà, Sơn Thành, Sơn Ninh, Trường Giang, các ủy ban tự quản được bí mật thành lập trước đây, nay công khai hoạt động.

    Như vậy trong 1 tuần lễ, nhân dân 3 huyện Sơn Hà, Ba Tơ, và Minh Long đã giành quyền làm chủ vùng cao Sơn Hà và 20 xã của 2 huyện Ba Tơ và Minh Long.

    Địch tập trung hơn 1 vạn quân mở cuộc hành quân lớn hòng dập tắt phong trào nổi dậy của đồng bào miền Tây Quảng Ngãi, chốt lại các đồn bót đã mất, nhưng bị tiêu hao nặng. Những cái chết khủng khiếp bất ngờ vì tên nỏ, hầm chông, đá lăn của đồng bào và chiến sĩ ta càng làm chúng kinh hoàng hơn sau 1 tháng càn quét. Tháng 10/1959, quân địch phải rút bỏ đồn Long Ngại (Minh Long) và các đồn Eo Heo, Eo Chim, chấm dứt cuộc hành quân.

    Georges Chofard đã viết trong cuốn Hai cuộc chiến tranh Việt Nam từ Valluy đến Westmoreland: “Sau khi bề ngoài chịu khuất phục, dân tộc Cor chính lại là những người đầu tiên đứng lên làm loạn. Họ đã tàn sát cả một đồn binh quốc gia trong quận Trà Bồng và cướp đoạt 54 súng. Sôi sục trước tấm gương của dân tộc Cor, một cuộc chiến tranh thật sự đã diễn ra giữa dân tộc Thượng và lính của Diệm...”.

    Tháng 4/1960, Liên khu ủy Khu 5 họp hội nghị quyết định đẩy mạnh phát động quần chúng xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, khu, khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc. Ban Quân sự trực thuộc Liên khu ủy được thành lập gồm các đồng chí Huỳnh Hữu Anh (Quang), Lê Đình Lệ (Trực), Đoàn Y Thanh (Sự) do đồng chí Võ Chí Công là Trưởng ban. Cuối tháng 6/1960, toàn khu tổ chức được 12 đội đặc công và 2 đại đội bộ binh. Liên tỉnh 3 có 2 đại đội tập trung. Quảng Nam có 1 đại đội đặc công. Quảng Ngãi 3 đại đội. Các tỉnh khác 1 đại đội hoặc tương đương. Lâm Đồng, Tuyên Đức mỗi nơi 1 đội công tác vũ trang. Các đơn vị lực lượng vũ trang vừa thành lập đã đẩy mạnh tấn công địch ở khắp nơi, kết hợp nhịp nhàng với phong trào Đồng khởi của toàn miền Nam.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:54:48 pm
***


    Đồng khởi ở đồng bằng Nam Bộ và chiến thắng Tua Hai

    Tháng 02/1959, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Trung ương ủy viên, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã nhận được điện của Ban Bí thư Trung ương về nội dung cơ bản của Hội nghị Trung ương 15.

    Tháng 9/1959, đoàn đại biểu Xứ ủy Nam Bộ do đồng chí Hai Văn (Phan Văn Đáng) dẫn đầu tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 về đến Nam Bộ.

    Sau Hội nghị Xứ ủy mở rộng tháng 11/1959, tin “Trung ương cho khởi nghĩa giành chính quyền” được cán bộ chuyển nhanh về địa phương. Một luồng gió mới thổi về mọi thôn xóm, buôn làng khắp Nam Bộ. Cán bộ nói với nhau: “Đã quá rồi các đồng chí ơi”. Dân hỏi cán bộ: “Có thiệt cho đánh không?” - “Thiệt!”. Dân nhảy cẫng lên vì sung sướng. Có người nói: “Chẻ cả vạt giường ra mà đánh bọn Mỹ - Diệm”. Thấy cán bộ mang súng công khai, không còn giấu trong mo cau như trước, đồng bào hồ hởi loan tin cho nhau: “An rồi, an đến nơi rồi bà con ơi”.

    Tại căn cứ Bắc Tây Ninh, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thư Xứ ủy triệu tập đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến từ căn cứ Đông Bắc miền Đông về giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang miền Đông phải đánh thắng một trận thật thối động để hỗ trợ cho đồng bào toàn miền Nam đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền ở nông thôn và rừng núi. Đồng chí Tám Xuyến đề đạt với Bí thư Xứ ủy 2 phương án:

    1) Tiến công từ 1 đến 2 quận lỵ, từ 4 đến 5 cứ điểm. Các lực lượng vũ trang đủ sức đảm nhiệm.

    2) Đánh căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) một căn cứ lớn, quân địch đông, nếu thắng ta sẽ lấy được nhiều súng đạn để trang bị cho mình. Ta đang có điều kiện và nắm chắc tình hình, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ.

    Đồng chí Bí thư Xứ ủy chấp thuận phương án thứ 2, động viên các lực lượng vũ trang chuẩn bị chu đáo, đánh chắc thắng làm đòn xeo cho cao trào nổi dậy của quần chúng.

    Tua Hai, thời kháng chiến chống Pháp chỉ là một tháp canh, thời Mỹ - ngụy trở thành căn cứ của Sư đoàn số 13 gồm 2 trung đoàn, trong đó 1 trung đoàn toàn lính mới. Căn cứ hình vuông mỗi cạnh 500m có thành bao bọc 2m, 24 tháp canh cao bao quanh.

    Tua Hai là nơi cơ sở nội tuyến của ta trong quân ngụy được phát triển mạnh. Hơn 100 đảng viên, cán bộ, bộ đội, du kích cũ được gài vào Trung đoàn 32, tổ chức thành 1 chi bộ mật do 1 huyện ủy viên ở ngoài trực tiếp chỉ đạo. Đầu năm 1959, chi bộ đã nhiều lần xin được binh biến khởi nghĩa, nhưng chưa đến thời cơ, Đảng chỉ đạo bình tĩnh phát triển tổ chức chờ lệnh. Tháng 6/1959, chi bộ họp bí mật ở Bờ Giếng bị bọn thám báo đánh hơi. Địch tiến hành bắt hàng loạt 120 đảng viên và cơ sở. 9 người bị đưa ra tòa và đày đi Côn Đảo. Địch phân tán lính trong trung đoàn đi nhiều đơn vị khác.

    Tỉnh ủy phái 1 tỉnh ủy viên và bí mật tổ chức củng cố lại cơ sở, 3 tháng sau đã móc nối và xây dựng được chi bộ, phát triển đảng viên mới, xâu chuỗi nhiều quần chúng tích cực chuẩn bị cho trận đánh lớn. Nội tuyến được giao nhiệm vụ nắm tình hình địch, đưa trinh sát và đặc công vào ém trước trong căn cứ.

    Lực lượng tham gia trận đánh có C59, C60, C70, C80A, C80B đặc công của R và B30 của Tây Ninh.

    Công binh xưởng tại Trảng Chiên đã sản xuất hàng trăm trái pêta loại lớn 4,5kg, loại nhỏ 1,2kg phục vụ trận đánh.

    Ngày nổ súng được quy định vào dịp Tết Nguyên đán tạo thế bất ngờ và cũng mở màn cho đồng loạt khởi nghĩa của toàn Nam Bộ.

    Đêm 27 Tết tức là 25/01/1960 trận đánh được triển khai vào 20 giờ 30. Chỉ huy trưởng là đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến. Đồng chí Lê Thanh trực tiếp đi vào cánh chủ công ở hướng đông. Các đồng chí Sáu Thịnh, Bảy Tâm, Vinh đi 3 cánh khác. Chính ủy của trận đánh là đồng chí Mai Chí Thọ.

    Sắp đến giờ nổ súng bỗng xảy ra một tình huống ngoài dự kiến: Một đoàn mấy chục xe vận tải quân sự chở đầy lính từ thị xã Tây Ninh đến ngừng ngay ở căn cứ Tua Hai. Sau đó đoàn xe tiếp tục đi về phía bắc. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến phán đoán kế hoạch chưa bị lộ và vẫn giữ vững quyết tâm tấn công căn cứ.

    Đại đội đặc công 60 do Đại đội trưởng Vinh chỉ huy chia thành nhiều tổ được trang bị 70 trái pêta lớn, đồng loạt tấn công vào sở chỉ huy, nhà sĩ quan, trận địa pháo, khu thiết giáp, nhà lính. Tiếp theo xung kích tiến vào, vừa nổ súng vừa gọi hàng. Tên Trung đoàn phó và đơn vị bảo vệ Ban Chỉ huy Trung đoàn 32 bị diệt ngay từ đầu. Tên Trung đoàn trưởng vắng trại nên thoát chết. Bị đánh bất ngờ, địch chạy hoảng loạn. Nhiều tên tung áo trắng xin hàng. Một số khá lớn liều mạng vượt bờ thành chạy thoát thân. Sau khi thấy lực lượng ta ít, một số tên ngoan cố chống trả. Chiến sĩ ta xông vào các kho súng, lấy đại liên của địch để bắn địch.

    Trận đánh kết thúc vào lúc nửa đêm. 700 tên địch bị giết và bị thương, trong đó có tên đại tá là chỉ huy phó căn cứ. Ta bắt sống 500 tên, giáo dục, thả tại chỗ, chiếm 3 kho đầy súng và 4 kho đầy đạn. Ta hy sinh 25 đồng chí. Dân công, chiến sĩ, cán bộ bộ binh, trợ chiến đều vác súng đạn chiến lợi phẩm, dùng cả xe quân sự của địch vận chuyển vũ khí về căn cứ. Dọc đường đụng tao ngộ chiến, địch lấy lại mất một số. Ngày 27/01/1960, về đến Trà Vông, vũ khí còn được 1.600 khẩu, chưa tính số súng du kích và bộ đội ngoài khu lượm.

    Ngay trong đêm 25/01 khi Tua Hai bị quân ta đánh chiếm, quân địch ở các đồn Hảo Đước, xóm Vịnh nghe tin hoảng sợ bỏ đồn tháo chạy. Sáng hôm sau một loạt đồn bót đóng dọc đường 22 từ Tây Ninh lên biên giới, các tỉnh lộ 13, 14, các lộ ủi Cần Đăng, Đồng Ban thuộc Tây Ninh và Đôn Thuận, Trảng Bàng cũng rút sạch. Huyện Châu Thành vừa kết hợp nội ứng vừa huy động quần chúng cướp bót Hòa Hiệp; huyện Trảng Bàng chiếm bót Cầu Ván. Ở mạn Bắc Tây Ninh có 7 xã ta vũ trang khởi nghĩa giải phóng 6 xã, ở phía đông Tây Ninh ta giải phóng Phan, Suối Đá, Cầu Khởi, Lộc Ninh, suối Ông Hùng. Phía tây giải phóng Long Chữ, Long Giang, Long Phước, Phước Chỉ, Phước Lưu, Bình Thạnh... Phía nam giải phóng Thạnh Phước, Phước Thạnh, Cầu Sắt, suối Bà Tươi, Lộc Hưng, phần lớn Gia Lộc, An Tịnh.

    Ở Dương Minh Châu, trong đơn vị vũ trang tham gia Tua Hai có 10 đồng chí khi trở về huyện hoạt động ngay, bắt 3 trưởng ấp mở tòa xét xử công khai tại Bàu Chòi, tử hình tên ác ôn nhất, thả 2 tên còn lại. Lực lượng vũ trang huyện phối hợp nội tuyến đánh chiếm đồn Phan, Bình Linh, Chà Là, Quy Thiện...

    Ở Thanh Điền, ngày mùng 7 Tết, lực lượng vũ trang chiếm bót Hãng Đường và nhà Vuông. Địch ở bót “Ôcônen” bị đồng bào hù dọa bỏ bót tháo chạy.

    Chiến thắng Tua Hai làm kẻ thù choáng váng. Bọn chỉ huy hoảng hốt cho rằng “quân chính quy Bắc Việt đã tràn vào”.

    Chiến thắng Tua Hai mở màn thắng lợi cho cuộc nổi dậy đồng loạt ở miền Đông Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng. Đến tháng 7/1960, Tây Ninh đã giải phóng hoàn toàn 21 xã, giải phóng cơ bản 19 xã, lập thêm 3 xã mới, chiếm 2/3 tổng số xã toàn tỉnh.

    Ở Long An, đến 27 Tết cũng đồng loạt nổi dậy bằng trận mở đầu của Trung đội 231 thuộc D5D6 có 3 nội tuyến phối hợp, bức hàng đồn Đức Lập thu toàn bộ vũ khí, đạn dược. Du kích xã Mỹ Hạnh tập kích lấy bót. Bộ đội đánh trận Gò Xoài, kéo quân công khai biểu dương lực lượng hỗ trợ quần chúng truy lùng trừng trị bọn tề điệp ác ôn. Trận Bà Vụ đánh tên quận trưởng Quả Sơn và quân dù tiếp viện ở Cầu Xáng diệt 20 tên, kỳ tập diệt đồn Rạch Chanh. Trận Tân Bửu bộ đội dùng xe đò xông vào lấy đồn. Ở nam lộ 4, bộ đội dùng mưu lấy bót thu 12 súng trường và 1 tiểu liên. Ba ngày sau chiếm đồn Hưng Long bắt 30 tên, thu 24 súng đúng vào mùng 1 Tết. Tên quận trưởng Cần Đước phải báo cáo về trên: “Trong dịp Tết, 90 trong 117 trưởng ấp không còn làm việc”. Tháng 6/1960, bộ đội Long An lại diệt gọn 1 đại đội địch, chiếm dinh quận và thị trấn Đức Hòa trong 1 ngày.

    Ở Biên Hòa, bộ đội thực hiện “diệt 1, làm rã 10”, trừng trị 1 tên ác ôn, 10 tên tề khác thôi việc, không dám làm cho giặc. Ở Dĩ An, 40 thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang được trang bị 1 tiểu liên, 2 súng ngắn, còn lại là dao rựa; đơn vị vừa mới thành lập đã ra quân tấn công đồn dân vệ Bình Trị Đông. Sau 5 phút chiến đấu đã chiếm đồn thu được 1 tiểu liên, 5 súng trường. Tại rừng Cò Mi địch truy kích, anh em đánh trả quyết liệt, hy sinh 1 thanh niên mới nhập ngũ. Anh em làm lễ truy điệu và phát biểu “đánh giặc là chấp nhận có hy sinh - thà hy sinh chớ nhất định không chịu làm nô lệ”.

    Ở Thủ Dầu Một, các lực lượng vũ trang đã tấn công quân địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy trên các đường 13, 14, 8, dọc hai bờ sông Đồng Nai, sông Sài Gòn. Huyện Bến Cát, địch có 6 ban tề xã ta giải tán cả 6. Châu Thành có 17 ban tề xã thì phá rã 11. Đến tháng 02/1960 toàn tỉnh đã giải phóng 25 trong 60 xã của tỉnh và 19 làng của sở cao su ở Dầu Tiếng, Bến Cát, Ninh Hòa, Ninh Thạnh.

    Ở Bà Rịa, đêm 02/3/1960 bộ đội 40 do đồng chí Sáu Thịnh chỉ huy đột phá vào Bình Ba diệt một lúc 3 đồn địch, làm phát pháo lệnh cho nhân dân trong tỉnh nổi dậy. Súng lấy được ở Bình Ba phát về cho các huyện và cơ sở cao su, mỗi nơi một khẩu.

    Ở Đồng Tháp Mười, với lực lượng vũ trang đã hình thành từ sớm, phong trào nổi dậy của đồng bào phát triển khá mạnh, nhất là ở các vùng căn cứ cũ trong kháng chiến chống Pháp.

    Trong lúc Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 502 đang họp trên một nhà sàn ở kênh Lung Đông, nhân mùa nước nổi, địch dùng xuồng đánh úp vào giữa trưa. Cả Ban Chỉ huy Tiểu đoàn gồm các đồng chí Thái Hoàng Ân (Nguyễn Tường Can) - Tiểu đoàn trưởng, Đặng Tâm Quảng - Chính trị viên và Tư Sâm - Tiểu đoàn phó đều bị địch bắt. Địch dẫn các đồng chí sang Vàm Cỏ Tây. Giữa đường đồng chí Tư Sâm, mặc dầu đang bị trói, bất ngờ nhảy xuống nước trốn thoát. Tiểu đoàn mất Ban Chỉ huy, phải rút về bưng sông, bị địch bỏ bom, lại rút lên trên biên giới củng cố. Đồng chí Tám Dần được khu điều về làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Sáu Chung làm Chính trị viên.

    Ngày 25/4/1959, cũng vào mùa nước lớn, Tiểu đoàn 502 được tập trung học tinh thần của Hội nghị Trung ương 15, tập luyện chiến đấu trên giồng Thị Đam, xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự. Ai cũng nóng lòng nhanh chóng bước vào cuộc chiến hỗ trợ quần chúng khởi nghĩa đổi đời.

    Địch nắm được tình hình tiểu đoàn đang huấn luyện, lại lợi dụng mùa nước nổi, địch lập lại sự kiện kênh Lung Đông. Lần này địch sử dụng Tiểu đoàn 3 trung đoàn đặc nhiệm gồm toàn người hùng, chỉ có một ít là lính mới.

    Trinh sát tiểu đoàn báo cáo địch vào 9 xuồng, sau đó 70 xuồng và ngày càng áp sát vào giồng, cuối cùng đến 83 xuồng đầy lính.

    Ta có 42 chiến sĩ với 13 xuồng, trang bị chỉ có 2 trung liên và một số súng trường cũ, đạn cũ nhồi lại. Mặc dù địch đông, ta ít người, vũ khí kém hơn địch, Tiểu đoàn trưởng Tám Dần vẫn ra lệnh “chống xuồng, tiến công ngay trên mặt nước không để địch đổ bộ”, vì tin ở chiến sĩ ta thạo nghề sông nước, từ lâu căm thù địch, được ra quân như mở cờ trong bụng. Cuộc chiến đấu bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng.

    Xuồng địch đông, nhưng bơi bằng dầm đi chậm, hai tay bơi xuồng không sử dụng được súng, khi sử dụng súng thì không bơi được. Lính địch phần lớn là dân rừng núi, không quen sông nước, chiến đấu trên xuồng rất lúng túng. Chiến sĩ ta chống xuồng băng băng lướt tới cho đồng đội nổ súng vào đội hình địch. Hai trung liên ta nổ giòn. Những loạt đạn đầu bắn chìm ngay một số xuồng địch. Sau đó ta xông thẳng vào đội hình chúng làm giặc hoảng hốt, xuồng va vào nhau mà chìm. Ta bắn chìm hết những chiếc lớn còn lại.

    Phía trước giồng Thị Đam là bưng sâu nên địch bị bắn chết thì ít - mà bị chết đuối thì nhiều. Ta vớt lên bắt sống 105 tên trong đó có tên đại úy tiểu đoàn trưởng, 4 trung úy, 6 thiếu úy. Ta thu 11 trung liên Mỹ, 2 khẩu súng cối cá nhân, 15 tiểu liên, 45 súng trường tự động, còn lại là cạcbin, tổng cộng 165 súng, 11 máy thông tin và toàn bộ 83 chiếc xuồng. Cả tiểu đoàn thiện chiến của địch bị ta tiêu diệt gọn trong vòng 40 phút.

    Diệt tiểu đoàn địch xong, đơn vị ta chuyển sang gò Quản Cung. Tù binh cũng được đưa về đây, không kịp trói vì không có dây. Ta chỉ có 1 chiến sĩ một mình với dao găm giữ 105 tù binh ngồi xếp hàng trên gò, người ướt như chuột lột.

    Ta vừa đặt chân đến gò Quản Cung, 11 giờ trưa, một tiểu đoàn khác của địch không biết số phận của đồng đội chúng bị diệt, lại mò đến gò nổi nơi ta chiếm lĩnh. Với súng đạn mới lấy được của địch ta đặt 11 khẩu trung liên của Mỹ trên gò cao, chờ địch vào 500 - 300m, khi xuồng đi đầu của địch cách gò 150m, mới đồng loạt nổ súng. Địch chết và bị thương một số lớn, nhưng nhờ ở đây nước nông, chúng thoái lui về gò Bổ Túc vừa chống trả vừa tháo chạy. Trong cả hai trận đánh ta hy sinh 1 đồng chí và 4 đồng chí bị thương. Ngoài số súng thu tại trận, sau này nước rút còn thu thêm cả trăm khẩu nữa.

    Chiến thắng giồng Thị Đam - gò Quản Cung giành thắng lợi vượt quá mong muốn của ta và làm cho địch rất kinh hoàng. Chiến thắng này đã cổ vũ rất lớn cho phong trào đồng loạt khởi nghĩa ở đồng bằng sông Cửu Long. Số tù binh được thả đã gây ảnh hưởng lớn: “Việt cộng bắn giỏi quá, chống xuồng nhanh như tên bắn, Việt cộng rất nhân đạo...”.

    Bảy ngày sau trận Thị Đam, 1 đại đội của Tiểu đoàn 502 lại đánh một tiểu đoàn của Sư đoàn 23 ngụy đi càn quét, giết và làm bị thương 60 tên, bắt sống 3 tù binh thu nhiều súng, có 2 trung liên.

    Đêm 20/11/1959, 3 đại đội của Tiểu đoàn 502 chia làm 3 mũi đột nhập Phong Mỹ (Cao Lãnh), chiếm đồn Cầu Sắt (Vàm Xáng) diệt 2 đồn dân vệ, bắt xuồng máy của cảnh sát, phát động quần chúng toàn xã lùng bắt tề điệp ác ôn. Toàn xã Phong Mỹ vùng dậy, lập tòa xét xử tại chỗ 2 tên ác ôn khét tiếng.

    Đầu tháng 12/1959, Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ họp hội nghị triển khai Nghị quyết 15. Để giúp cho các tỉnh trong khu có thêm vũ trang, tỉnh Kiến Phong tăng cường cho Định Tường 1 trung đội, An Giang 1 trung đội và cho Bến Tre 20 súng, trong đó có 2 trung liên.

    Đêm 14/12/1959, đơn vị vũ trang của huyện Mỹ An cùng quân dân nổi dậy chiếm đồn Vĩnh Huê kết hợp nội ứng bắt tề, giải phóng hoàn toàn xã Thanh Mỹ. Thực tiễn nổi dậy ở Thanh Mỹ đã thành kinh nghiệm khởi nghĩa cho đồng bằng sông Cửu Long.

    Ngày 26/01/1960, 1 đại đội và 1 tiểu đội đặc công của Tiểu đoàn 502 đánh sập ngọn tháp 10 tầng dùng làm đài quan sát của địch ở Đồng Tháp. Sau đó phát huy thắng lợi, giải phóng hoàn toàn xã Bình Thạnh, đánh địch ở Long Hưng, Lấp Vò, giồng Ông Tố, Thường Thới, Bảy Thua...

    Đến cuối tháng 3/1960, Kiến Phong đã diệt hàng trăm tên địch, diệt và bức rút hàng chục đồn bót, trụ sở tề, bắt giáo dục hàng ngàn sĩ quan, binh sĩ và nhân viên tề ngụy, thu hàng ngàn súng, giải phóng hoàn toàn 4 xã.

    Ở Bến Tre, đêm 30/12/1959, sau khi đi tiếp thu Nghị quyết 15 ở Khu ủy Khu 8 (Liên tỉnh ủy miền Trung) về, chị Nguyễn Thị Định - Phó Bí thư Tỉnh ủy chưa liên lạc được toàn bộ Tỉnh ủy do bị trắc trở vì địch chia cắt, thời gian lại gấp, nên vẫn tổ chức hội nghị trù bị tại ấp Tân Huề, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. Tỉnh ủy viên có các đồng chí Hai Thủy, Bảy Hiền và Ba Đào, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, đại biểu cho các huyện có Ba Cầu, Sáu Huấn, Hai Chiến, Bảy Tranh... Hội nghị chủ trương phát động 1 tuần lễ đồng khởi, cù lao Minh làm trước, sang cù lao Bảo rồi lan ra toàn tỉnh, lấy huyện Mỏ Cày làm trọng điểm. Tỉnh chưa có lực lượng vũ trang nên mượn danh Tiểu đoàn 502 uy hiếp địch hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy. Trước giờ hành động 2 ngày, đồng chí Nguyễn Văn Tranh - Ủy viên Thường vụ Huyện ủy Mỏ Cày bị địch bắt, trong người còn mang con dấu Tiểu đoàn 502. Giặc tra tấn dã man, đồng chí một mực không khai ý đồ đồng khởi, mặt khác làm cho quân thù hoảng sợ cho rằng Tiểu đoàn 502 đã về đến Bến Tre.

    Hội nghị trù bị Tỉnh ủy đã đề ra khẩu hiệu hành động: “Đánh, phải đánh tới tấp. Phát triển, phải phát triển lực lượng hết khả năng. Khi sóng gió nổi lên mạnh dạn căng buồm lướt tới...”.

    Ta lập kế điều tổng đoàn dân vệ khét tiếng tàn ác do đội Tý chỉ huy về xã Định Thủy chi viện cho tiểu đội dân vệ xã nhằm tiêu diệt lớn, tạo tiếng vang mở đầu Đồng khởi.

    Sáng ngày 17/01/1960, một tổ hành động do đồng chí Bảy Thống chỉ huy giả vờ đi tảo mộ, vào quán bất ngờ ôm vật và giết được tên đội Tý, bắt sống tên lính bảo vệ. Địch toan chống trả nhưng được tin đội Tý chỉ huy đã bị ta giết, một số tên bỏ trốn, số còn lại đầu hàng. Ta thu được 8 súng và nhiều lựu đạn, đạn các loại. Trong lúc đó tổ hành động thứ hai do đồng chí Tư On chỉ huy phối hợp nội tuyến là cảnh sát Huề, lấy đồn dân vệ Vàm Nước Trong, thu 15 súng, 10 lựu đạn và 1.000 viên đạn. Lúc tiếng súng diệt địch nổ, nhân dân Định Thủy ào ạt xuống đường, vũ trang giáo mác, trương cờ, đi lùng sục bọn tề và phá tan mọi tổ chức kìm kẹp của địch. Chiều 17/01, nhân dân khởi nghĩa hoàn toàn làm chủ xã Định Thủy. Ban Lãnh đạo khởi nghĩa của tỉnh tổ chức ngay cuộc míttinh có hàng ngàn người ở xã Định Thủy và cả xã Hòa Lộc sang dự. Cờ xanh sao đỏ (cờ khởi nghĩa của tỉnh) tung bay giữa rừng người và lửa sáng rực trời. Quân lệnh của Tiểu đoàn 502, của Tiểu đoàn trưởng Lê Thiết Hùng (mượn danh của tướng Lê Thiết Hùng ở miền Bắc để hù dọa địch là quân đội ngoài Bắc đã tràn về) truyền vang: “Anh em binh sĩ, sĩ quan dù có tội đến đâu mà biết hối cải đều được khoan hồng, nếu mang súng về với nhân dân sẽ được khen thưởng thích đáng. Tề, xã, ấp, liên gia trưởng, công an, chỉ điểm đi trả chức vụ thú tội với nhân dân sẽ được khoan hồng. Ai trái lệnh sẽ bị nhân dân trừng trị. Địa chủ nào dựa vào chính quyền Mỹ - Diệm giựt đất tăng tô nay trả lại cho nông dân thì được tha tội”. Ngay đêm 17/01 tổ chức được 4 tiểu đội vũ trang, trang bị súng đầy đủ. Súng mẹ đẻ súng con, lực lượng vũ trang Bến Tre nhanh chóng được xây dựng và phát triển, không còn mang danh Tiểu đoàn 502 nữa mà đã tự mình chiến đấu đánh bại địch với sự phối hợp của hàng vạn đồng bào. Trong 7 ngày đồng khởi cao điểm 1, Bến Tre diệt trên 200 tên địch, thu thêm trên 100 súng, bức hàng, bức rút 27 đồn bót, giải phóng 17 xã. Ngày 19/01/1960, Tỉnh ủy thành lập trung đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh là C260 và tiểu đội bảo vệ. Tháng 02/1960, Tỉnh ủy thành lập trung đội tập trung thứ hai C264.

    Minh Hải là tỉnh tận cùng Tổ quốc. Tháng 10/1954 tại rừng U Minh, Xứ ủy được thành lập do đồng chí Lê Duẩn được Trung ương chỉ định làm Bí thư. Lúc đó Minh Hải là tỉnh Bạc Liêu. Tháng 8/1955, được sự đồng ý của đồng chí Lê Duẩn, Tỉnh ủy đã bắt đầu xây dựng giải phóng quân bí mật để tự vệ. Hai lớp huấn luyện quân sự được mở do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến phụ trách, mỗi lớp từ 12 đến 13 cán bộ để làm khung đơn vị. Học viên là cán bộ quân sự được bố trí ở lại và được lựa chọn. Giải phóng quân được ngụy trang là “đội bảo vệ hòa bình” tổ chức theo tổ 3 người, 3 tổ thành 1 tiểu đội. Trong một thời gian ngắn 4 đại đội được xây dựng tại 4 huyện Giá Rai, Ngọc Hiển, An Biên và Trần Văn Thời (sông Ông Đốc). Đến giữa năm 1956 cả tỉnh đã có 14 đại đội giải phóng quân ở khắp các huyện. Thực hiện chủ trương binh vận của Xứ ủy, từ đầu năm 1955 Tỉnh ủy cũng đã đưa vào hàng ngũ địch 140 trong số 260 cán bộ quân sự để ở lại. Do đó nắm được phần lớn lực lượng cảnh vệ của địch, có cơ sở trong 4 tàu địch. Tổ chức được 10 chi bộ mật trong quân ngụy.

    Cuối năm 1955 khi Ngô Đình Diệm tấn công lực lượng vũ trang giáo phái, Trung đoàn Nguyễn Huệ thuộc lực lượng của Ba Cụt kéo vào Rạch Giá, Bạc Liêu. Ta đưa cán bộ vào làm cố vấn, đã đánh quân Diệm 2 trận, riêng trận Cây Bàng (xã Nguyễn Phích) diệt 150 tên, bắt sống 40 tên, thu 120 súng. Tháng 8/1956, Ba Cụt bị Diệm chặt đầu, lực lượng tan rã, một số binh sĩ Hòa Hảo trao súng lại cho chiến sĩ ta hoặc để lại trong dân. Có 1 trung đội Hòa Hảo do ta chỉ huy ở lại chống Diệm. Ngoài ra ta tổ chức lực lượng lấy danh nghĩa Hòa Hảo ly khai chống Diệm.

    Từ đầu năm 1957 thanh niên nhiều xã đã lập thành từng nhóm, từng tổ tự vệ vũ trang. Không chịu được cảnh khủng bố, tàn sát của địch, hàng vạn dân bất hợp tác với Diệm kéo vào rừng U Minh Thượng, Hạ, tổ chức “làng rừng” để tránh giặc, đánh trả giặc. Có đến 15 làng rừng với trên 20.000 dân tương trợ nhau đánh cá, săn thú, chăn nuôi, trồng trọt, dựng trường học, hoạt động văn hóa, sống theo đời sống mới tự quản, xưng là “xã hội chủ nghĩa”. Các đội du kích được tổ chức để canh gác chống giặc. Phòng tuyến chặn địch bố trí thành nhiều lớp. Địch chưa vào được làng rừng, dùng bom ném nhưng không trúng. Làng rừng trở thành căn cứ cho cán bộ, lực lượng vũ trang, làm bàn đạp hoạt động ra vùng dân cư đông đúc. Ngày kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ năm 1958 bộ đội Đinh Tiên Hoàng và Ngô Văn Sở ra mắt nhân dân, hành quân trên kênh rạch khống chế đồn bót địch, diệt nhiều tên ác ôn khét tiếng.

    Tháng 7/1959, ở 2 xã Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây huyện Trần Văn Thời (sông Ông Đốc) có Đại đội 2 Đinh Tiên Hoàng hỗ trợ nhân dân tranh thủ dân vệ, bắt cường hào ác bá, giải tán bọn “bảo vệ hương thôn” làm chủ xóm làng. Lúc này lực lượng vũ trang của tỉnh đã có 2 tiểu đoàn tập trung trên 800 quân và có nhiều cơ sở trong lòng địch.

    Tháng 10/1959, quán triệt Nghị quyết 15, Tỉnh ủy ra lời kêu gọi toàn dân khởi nghĩa: “...Đồng bào chiến sĩ hãy đứng lên. Có súng ta cầm súng, có dao ta cầm dao, có gì ta cầm nấy, quyết giết hết tụi gian ác...”.

    Đồn Cà Kao (Năm Căn) cán bộ ta vận động cả trung đội địch diệt chỉ huy, đốt đồn, mang toàn bộ súng đạn về với nhân dân.

    Đồn Chà Là (Cái Nước) kết hợp trong, ngoài do 1 huyện ủy viên chỉ huy, đốt đồn, cả trung đội trở về với nhân dân. Các làng rừng xuất quân tiến về làng cũ bao vây truy quét địch.

    Tháng 11/1959, Đại đội 1 và Đại đội 2 Đinh Tiên Hoàng kỳ tập kết hợp nội ứng diệt đồn quận lỵ sông Đốc, thu nhiều vũ khí.

    Tháng 12/1959, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở đánh chi khu Đầm Dơi. Du kích bao vây tiến công chi khu Bình Hưng (tức khu Hải Yến, là bọn nổi tiếng ăn thịt người) diệt nhiều địch, bắt sống 4 tên, thu 43 súng.

    Ở Ngọc Hiển quần chúng khởi nghĩa uy hiếp bao vây đồn Tâm Đức 7 ngày liền buộc địch đầu hàng, bắt 15 tên, thu 15 súng.

    Được chỉ thị của Tỉnh ủy, Đại đội Ngô Văn Sở vượt 20km đường biển tấn công diệt gọn 1 trung đội địch ở Hòn Khoai hỗ trợ quần chúng khởi nghĩa thắng lợi trên đảo.

    Tháng 02/1960, Khu đã thành lập Tiểu đoàn tập trung đầu tiên mang phiên hiệu 306. Sau đó các đại đội Ngô Văn Sở, Đinh Tiên Hoàng đã đánh địch thắng lợi ở Bến Dựa, sông Ông Đốc, Khánh Bình Đông, Cái Tàu...

    Phối hợp với phong trào đấu tranh chính trị đang dâng lên mạnh mẽ ở khắp nơi, nội thành Sài Gòn cũng đã tổ chức các tổ vũ trang đầu tiên vào năm 1960 do đồng chí Lê Tấn Phong và Lê Tấn Quốc chỉ huy. Các quận huyện cũng đã tổ chức đơn vị vũ trang cấp tiểu đội, trung đội mang danh hiệu tiểu đoàn như D504 ở Thủ Đức, D301 Bình Tân, C305 ở Củ Chi. Toàn thành phố tổ chức 1 đơn vị tập trung mang danh hiệu C13. Ngày 25/12/1960 tổ biệt động đã ra quân đánh Mỹ trận đầu tiên ở ngã ba Chú Ía (Gò Vấp).


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 03:56:08 pm
III- ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN, ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH

    Trong khi miền Nam bước vào cao trào “Đồng khởi”, nhằm xây dựng con đường tiếp tế người, vũ khí và nối thông liên lạc giữa Trung ương với Khu 5 và Nam Bộ, Trung ương đã chỉ thị tổ chức con đường mòn bí mật xuyên Trường Sơn và băng qua đường 9 ở Quảng Trị. Con đường ra đời vào tháng 5/1959, nên đặt tên đường là 559, sau này lớn mạnh nhanh chóng, báo chí thế giới gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” nổi tiếng. Lúc đó đường chỉ tới được Khu 5. Còn về tới Nam Bộ thì cần một thời gian nữa. Do yêu cầu đưa cán bộ quân sự tập kết về sớm đóng góp xây dựng quân giải phóng nên Trung ương đã tổ chức 1 đoàn cán bộ xoi đường về Nam, đồng thời điện cho Xứ ủy cử các đoàn vũ trang tiến lên bắt liên lạc với đoàn của Trung ương. Đoàn từ miền Bắc xoi đường vào Nam Bộ được mang ký hiệu B60 gồm 32 cán bộ chiến sĩ đủ các thành phần: Nam Bộ, Khu 5, Kinh, Thượng, đông anh em Ê Đê, H’Mông, Chơ Ro do đồng chí Đại úy Phạm Lạc làm Trưởng đoàn, Lê Ngọc Sanh - Đại úy, làm Đoàn phó, Nguyễn Văn Phước làm Bí thư Chi bộ. Ngày 01/6/1959 đoàn xuất phát từ Hà Nội, băng rừng, lội suối, chịu đói, chịu khát, có lúc phải dừng lại làm rẫy để có cái ăn đi tiếp. Phải đến đầu tháng 10/1960 mới gặp được đoàn của miền Đông Nam Bộ ra đón tại khu vực rừng Quảng Đức. Sau đó đoàn trở lùi đón B500, ký hiệu đặt cho đoàn 25 cán bộ quân sự tập kết trở về đầu tiên do Trung tá Tăng Thiên Kim (Tư Chương) chỉ huy - về căn cứ của Miền.

    Được điện của Trung ương, Xứ ủy và Khu ủy miền Đông Nam Bộ đã cử 2 đoàn vũ trang tuyên truyền và xoi đường ra Nam Tây Nguyên đón các đoàn từ Trung ương vào:

    - Hai trung đội vũ trang của Xứ và tỉnh Phước Long do đồng chí Lâm Quốc Đăng và Phạm Văn Thuận chỉ huy. Một trung đội từ Mã Đà lên Bù Đăng, Phước Long vượt đường 14 lên Phú Riềng, qua Bù Nho Nhỏ và Bù Nho Lớn, ngược sông Bé lên Bù Đốp, Đa Kia. Một trung đội lên sóc Bom Bo qua Bù Gia Mập, Bù Gia Phúc lên Bù Đăng. Các đơn vị trên xoi đường đến đâu xây dựng cơ sở đến đó, vận động nhân dân làm rẫy tích trữ lương thực vào các kho dọc hành lang.

    - Đội vũ trang của miền Đông có 17 đồng chí do Nguyễn Trọng Tấn chỉ huy, xuất phát từ suối Nhung theo sông Đồng Nai lên Bù Ta Ươ ra Lâm Đồng. Đơn vị phải cắt rừng để giữ bí mật, phải đào củ mài, củ chụp ăn thay cơm. Nhưng thời gian kéo dài anh em bám dân phát động, giáo dục, xây dựng cơ sở và được đồng bào các dân tộc giúp nuôi ăn xoi đường đi đến đích, đồng thời tạo được cơ sở dọc hành lang.

    Sau bao năm tháng vất vả tìm bắt liên lạc với nhau, đêm 04/10/1960, tính ra hơn 1 năm, 2 đoàn miền Bắc gồm có đoàn xoi đường và đoàn cán bộ quân sự mới gặp được đoàn miền Nam tại bờ sông Đồng Nai Thượng thuộc tỉnh Quảng Đức.

    Từ đây đường dây liên lạc Bắc - Nam đã nối liền, mạch máu trong cơ thể thống nhất đã lưu thông, con đường mòn mang tên Bác đã hoàn thành... Và cũng từ đây, từng đoàn cán bộ tập kết ra Bắc năm 1954 lại lần lượt nối tiếp nhau về Nam, tăng cường cho lực lượng vũ trang đang xây dựng tại chỗ.

    Chân trời cách mạng miền Nam đã rực sáng với những vùng rừng núi và nông thôn giải phóng rộng lớn liên hoàn. Ngày 20/12/1960, tại vùng căn cứ bắc Tây Nguyên rộng lớn, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã trọng thể làm lễ ra mắt. Đại diện cho lực lượng vũ trang giải phóng dự ngày lễ trọng đại này có đồng chí Lê Thanh, cán bộ chỉ huy ở lại miền Nam, cùng số tập kết trở về đầu tiên, đại diện một số binh chủng ban đầu cũng có mặt.

    Và 3 tháng sau tại Đồng Rùm, ngày 15/02/1961, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam có cuộc họp bàn về nâng đấu tranh vũ trang lên một bước ngang hàng với đấu tranh chính trị. Cuối cùng, Hội nghị quyết định lấy ngày 15/02 là ngày thành lập giải phóng quân thống nhất trên toàn miền Nam.

    Ngày “15 tháng 2” đánh dấu một chặng đường dài ngót sáu năm - “sáu năm đen tối của cách mạng miền Nam Việt Nam”. Nhưng chính trong thời kỳ đen tối ấy - thời kỳ mà quân thù đã dùng mọi phương thức phátxít đè đầu nhân dân trong máu và lửa, nhân dân miền Nam đã quật khởi, nổi dậy, chống lại để sống còn. Trong phong trào quật khởi cách mạng ấy đã lần lượt sản sinh ra những chiến sĩ vũ trang, những nhóm, những tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, giải phóng quân... Sau ngày “15 tháng 2” đã hình thành “Ban Quân sự R”, đã có Trung đoàn 1 chủ lực (khung cán bộ chỉ huy các cấp là cán bộ tập kết trở về) do anh Tư Chương làm Trung đoàn trưởng (sau này chính là Q1 - hay Q761 - cũng là trung đoàn thứ nhất, trung đoàn được mang tên “Bình Giã” của Sư đoàn 9 - Sư đoàn hai lần anh hùng - nằm trong đội hình của Quân đoàn 4, quân đoàn xuất hiện vào thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam Việt Nam). Từ vĩ tuyến 17 trở vào (Khu 5, Khu 6, Khu 7, Khu 8, Khu 9 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) đã có vùng giải phóng, có đơn vị bộ đội vũ trang giải phóng từ 1 tiểu đoàn, 1 đại đội - ít lắm cũng là 1 trung đội - với vũ khí và biên chế đầy đủ, trình độ quân sự, trình độ chỉ huy tác chiến tương đối khá, diệt được địch, làm thối động được một địa phương, một tỉnh hay một khu vực, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của đồng bào mình. Khi con đường mòn Hồ Chí Minh - con đường nối thông từ Bắc vào Nam dọc dãy Trường Sơn đã hình thành, tuy bắt đầu chỉ là “đường mòn” thật sự, nhưng nó đã có ý nghĩa rất quyết định cho cách mạng miền Nam, đặc biệt là cho lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, mà tên gọi trong dân gian lúc bấy giờ là “Bộ đội giải phóng”.

    Ngày 15/02/1961 đánh dấu sự ra đời, hình thành quân giải phóng miền Nam Việt Nam thống nhất, đồng thời cũng đánh dấu sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, sự thất bại của “cuộc chiến tranh không tuyên bố”’ của Mỹ - ngụy đối với nhân dân miền Nam (từ 1954 - 1960) buộc đế quốc Mỹ phải chuyển hướng chiến lược, tiến hành một loại chiến tranh khác, “Chiến tranh đặc biệt”, mà số phận cũng thảm hại không kém.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 04:02:12 pm
PHẦN THỨ HAI
Từ Ấp Bắc đến Chiến dịch Hồ Chí Minh



I- ĐỐI MẶT VỚI “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT”


    Trận chống càn Định Thủy

    Sau ngày Đồng khởi của nhân dân tỉnh Bến Tre (17/01/1960), địch đã lập tức huy động hơn mười ngàn quân trên bộ, quân dưới sông (hồi đó chưa xuất hiện máy bay trực thăng và các máy bay chiến đấu hiện đại của Mỹ) bủa vây suốt 12 ngày đêm ở một lõm hẹp gồm 3 xã Bình Khánh, Phước Hiệp, Định Thủy - 3 xã điểm của cuộc Đồng khởi ngày 17/01/1960. Đây là một vùng đông dân, nhà cửa san sát, ruộng vườn liền mí, sông rạch chằng chịt, đồng trống trải, sát bên thị trấn Mỏ Cày và cũng không xa tỉnh lỵ Bến Tre là mấy, thuận lợi rất nhiều cho việc triển khai quân của chúng. Khu vực này nằm lọt thỏm giữa trục đường bộ Bến Tre - Mỏ Cày -Thạnh Phú và đường sông Hàm Luông (một nhánh của Cửu Long giang) - con sông cái rất to, rộng ngăn cách giữa cù lao Minh và cù lao Bảo của Bến Tre.

    Hơn mười ngàn quân trong một lõm hẹp, dọc ngang không quá 5-7 km, có thể nói quân của chúng giăng tay nhau để vây bắt sống số quân ít ỏi của ta cũng không khó khăn gì. Số quân ta lúc đó chỉ vẻn vẹn trên dưới 50 người, biên chế làm 3 tiểu đội, gồm những thanh niên vừa mới hôm qua đây còn là dân thường, hoặc một số rất ít là dân vệ thôn xã, cũng là tay cày tay cuốc, vừa được quy tụ lại sau đêm nổi dậy “17 tháng 01”. Tuy có được một số ít súng vừa lấy được của dân vệ liên xã, có chỉ bảo cho nhau cách lên đạn nhắm bắn và mỗi người có tập qua đôi lần để được làm “anh bộ đội”, nhưng lực lượng ta vẫn chỉ là đơn vị tân binh - với đầy đủ ý nghĩa của nó - phải đối đầu với quân nhà nghề của Diệm.

    Lần đầu tiên sau 6 năm trời gọi là “hòa bình” trong Hiệp định Giơnevơ, bỗng dưng súng đạn nổ đì đùng, xóm làng nhớn nhác, cảnh chiến tranh ập đến đột ngột - gần như không có được sự chuẩn bị từ trong lòng người dân cũng như cán bộ lãnh đạo. Thế rồi mặt này lính vô, mặt kia lính tới, chỗ nọ tàu đổ bộ, trên đường lộ lính tràn đồng, rồi máy bay đầm già quần thảo, dân từ ấp này chạy qua ấp kia, làng xóm xáo trộn, chạy giặc đụng đầu nhau, hỗn loạn. Mọi trật tự vừa được xếp đặt vài ngày trước đây khi cách mạng nổi dậy bỗng dưng rối tinh trong cảnh chiến tranh thật sự. Tin tức tới tấp, toàn là tin dữ. Bốn bề, mặt nào cũng có giặc. Chúng đánh vào đâu? Xóm nào? Ấp nào?... Người chỉ huy cuộc chiến đấu chống trận đánh phủ đầu dữ dội, từ trước chưa từng có của đối phương trong những ngày đầu nổi dậy của Bến Tre thật là tài giỏi. Đó là anh Hai Thủy - tuy những năm tháng sau này, anh đã gặp những điều không hay trong cuộc đời riêng - song, những công lao và tài trí có tính chất quyết định của anh trong những ngày đầu Bến Tre nổi dậy không thể không được nhắc đến. Lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của Bến Tre tưởng như bị tiêu diệt hoàn toàn, trái lại đã tiêu diệt nhiều quân địch và thoát vây một cách tài tình, đối phương không thể nào ngờ nổi. Thương vong của trung đội vũ trang này chỉ có 2 người (1 hy sinh và 1 bị thương), một tỷ lệ rất thấp trong chiến đấu và nói lên tầm cao của chiến thắng. Anh Hai Thủy lúc ấy coi như là “tổng chỉ huy” cuộc chống càn và phá vây. Cái hay của anh là trước tình hình đó anh kiên quyết không cho lực lượng phân tán. Anh nhận định rằng số anh em bộ đội hầu hết đều là lính mới và mới làm lính cho nên nếu không có chỉ huy sát sườn thì anh em không thể nào chịu nổi cái ác liệt của trận bao vây dữ dội này. Cái hay thứ hai của anh là biết biến cuộc tản cư ngược của đồng bào thành cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt với kẻ địch buộc chúng phải nhượng bộ, rút quân. Trong trận chống càn này người chỉ huy biết vận dụng cả ba mũi giáp công cho nên vừa bảo toàn được lực lượng vũ trang non trẻ của Bến Tre, vừa diệt được khá nhiều quân địch lại vừa đẩy thế quần chúng đi lên tạo ảnh hưởng to lớn cho thế đấu tranh chính trị trong toàn tỉnh.

    Và sau đó thì lực lượng vũ trang ở tỉnh Bến Tre được phát triển gần như nhanh nhất và mạnh mẽ nhất của thời kỳ lúc bấy giờ. Điều đó nói lên rằng kẻ địch đông, mạnh, ưu thế về mọi mặt... vẫn không sao tiêu diệt nổi một nhúm bộ đội vừa mới phôi thai nhưng tinh thần cách mạng kiên cường giữa một vùng gần như trong lòng bàn tay của kẻ thù. Cái đó đang cắt nghĩa sự tồn tại của những người cầm súng giữa lòng đồng bào. Nhân dân, đồng bào chính là cái nền chính trị, giàu tinh thần cách mạng, lòng yêu nước. Kẻ thù không thể phá được cái nền móng ấy. Cái nền đó là ý chí, là lực lượng trong cuộc đương đầu với quân thù quyết liệt này.

    Vậy là, kẻ địch muốn bằng lực lượng quân sự quyết bao vây tiêu diệt một nhúm vũ trang của cách mạng nhưng không thành, ngược lại không những địch bị thương vong lớn, mà điều quan trọng hơn là đã khuấy động lên cuộc nổi dậy của quần chúng quy mô rất lớn ở Bến Tre. Sự kiện đó đã cho thấy sự thay đổi cục diện đôi bên trên toàn miền Nam. Phong trào Đồng khởi trong toàn miền Nam đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn, lập nên một chính quyền dân chủ tự quản của nhân dân chống lại chính quyền độc tài gia đình trị của Diệm được Mỹ xây dựng và nuôi sống.

    Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam có đặc trưng: Mỹ không tham gia chiến đấu, chỉ làm cố vấn, dùng đôla và vũ khí Mỹ cho người Việt Nam giết lẫn nhau. “Đây là vấn đề nội bộ của Nam Việt Nam”. Chính phủ Mỹ thông báo cho toàn thế giới và cả trong dân chúng Mỹ. Và đế quốc Mỹ tin chắc rằng sẽ thắng trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, với kế hoạch Staley Taylor bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.

    Thực hiện chủ trương đó, viện trợ của Mỹ cho Diệm càng ngày càng gia tăng. Chỉ trong vòng 1 năm, số đơn vị máy bay trực thăng chiến đấu và xe bọc thép M113 của Mỹ đổ vào miền Nam rất lớn. Đồng thời với viện trợ quân sự, Mỹ - Diệm tiếp tục gom dân lập ấp để đẩy “Việt cộng” vào thế không còn đủ sức khuấy động nổi dậy nữa. Đây là thời kỳ xuất hiện quốc sách “ấp chiến lược” - một quốc sách mà Ngô Đình Diệm nói đi nói lại là “không - được - nghĩ - đến - thất - bại” (!)

    Về phía ta, lực lượng vũ trang giải phóng vừa mới ra đời đã gặp ngay khó khăn rất lớn. Có nơi như vùng đồng bằng - nhất là các tỉnh có địa hình trống trải như Đồng Tháp Mười... bộ đội không thể hoạt động như thời mới nổi dậy được. Một số vùng đã bị thiệt hại không ít trong chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của chúng. Điển hình là trận đánh vào Trại Lòn (Kiến Tường) ta đã thiệt mất gần đại đội giữa đồng trống - vì chưa quen với loại trực thăng vũ trang này. Kẻ địch đang thắng thế. Chúng mong cho “Việt cộng” dám đứng lại với chúng. Và chúng rêu rao về chiến thuật mà theo thuật ngữ quân sự của chúng là “bủa lưới phóng lao”...

    Ấp Bắc (02/01/1963)

    Trận Ấp Bắc (Tiền Giang) là câu trả lời của quân giải phóng cho cái chiến thuật mà chúng rêu rao là bách thắng đó. Ấp Bắc là một trận điển hình về tác chiến trong giai đoạn “Chiến tranh đặc biệt”, và cũng rất điển hình về trình độ sáng tạo trong nghệ thuật quân sự của lực lượng vũ trang giải phóng thời kỳ này.

    Con người đã có ý chí và sáng tạo biện pháp hiệu quả chống lại kẻ địch lúc bấy giờ là anh Nguyễn Văn Bảy - mà anh em trong Tiểu đoàn 261 (sau này thành Tiểu đoàn Gi Rông) - thường gọi “Bảy Đen”, Đại đội trưởng Đại đội 1. Anh đã nêu lên một khẩu hiệu đối lại sự “bủa lưới” của địch rằng: “Cắm cọc chống lưới, trụ lại bẻ lao”. Anh đã rèn luyện cho đại đội của anh ý chí quyết tâm đó. Cho nên khi ta và địch gặp nhau tại trận Ấp Bắc, Đại đội 1 của Bảy Đen thuộc Tiểu đoàn 261 Quân khu 8 đã chiến đấu và chiến thắng địch trong một trận đánh cực kỳ ác liệt từ sáng cho đến tối ngày 02/01/1963.

    Trận Ấp Bắc là một trận lừng danh, chấn động cả thế giới phương Tây vào đầu năm 1963. Nhiều sách báo đã miêu tả trận này với nhiều góc độ khác nhau. Những năm gần đây, Neil Shoechan trong cuốn sách được giải thưởng quốc gia sách ở Mỹ Sự lừa dối hào nhoáng đã viết về trận Ấp Bắc thành 1 chương riêng mang tiêu đề “Trận Ấp Bắc”. Ngót 60 trang sách ông chỉ nói về trận này. Trên thực tế trong trận Ấp Bắc, bao nhiêu quân Mỹ - Diệm (sư ngụy cộng với các cố vấn Mỹ) chỉ đụng với 2 đại đội quân giải phóng của ta, Đại đội 1 của Tiểu đoàn 261, Quân khu 8 và Đại đội 1 Tiểu đoàn 514 địa phương quân tỉnh Mỹ Tho, cộng với 1 trung đội địa phương huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

    Trong nhật ký còn để lại của đồng chí Nguyễn Văn Bảy, tự Bảy Đen, đã ghi chép thật sự về một đại đội tham chiến trận Ấp Bắc, quân số chỉ vỏn vẹn 100 người và trang bị súng các loại đối đầu với một lực lượng bộ binh, quân dù, không quân trực thăng và cơ giới của Mỹ - Diệm, chẳng những bị tiêu hao rất ít - so với quy mô trận đánh - mà còn gây cho đối phương một thất bại nặng nề. Thất bại có tính chất thối động đến toàn cuộc.

    Sau chiến thắng này, cả miền Nam dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc - Giết giặc lập công”. Phong trào ấy trở thành cao trào của quân giải phóng hạ trực thăng bầy, diệt các chi đoàn xe thiết giáp.

    Dám trụ lại để thắng giặc trên chiến trường đồng bằng là một bước tiến đáng kể của quân đội giải phóng lúc bấy giờ.

    Trong khi đồng bằng Nam Bộ bẻ gãy được chiến thuật lợi hại “trực thăng vận, thiết xa vận” của Mỹ - ngụy, thì ở miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang đã nhanh chóng trưởng thành. Quy mô phát triển lực lượng chủ lực đã dần dần lên đến 3 trung đoàn. Yêu cầu rèn luyện, các thứ quân, các binh chủng và chỉ huy thống nhất các chiến trường đặt ra cấp bách.

    Vậy nên, đồng thời với việc tổ chức và phát triển lực lượng du kích, địa phương và chủ lực, hình thành các quân khu, Bộ Chỉ huy quân giải phóng miền Nam đã được kiện toàn với các ban, phòng để đủ sức chỉ huy lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn miền. Trong việc luyện tập cho quân chủ lực Miền tác chiến có hiệu quả, các cơ quan quân sự, chính trị, hậu cần Miền đã đóng một vai trò rất lớn. Các cán bộ của bộ phận Miền luôn sát cánh theo 3 trung đoàn Q-761, Q-762 và Q-763 (Q-763 được thành lập từ sau trận Ấp Bắc).

    Bình Giã

    Để phát huy vai trò quân chủ lực hỗ trợ đắc lực cho phong trào chính trị vũ trang cách mạng trên toàn Miền, Bộ Chỉ huy Miền nâng trình độ tác chiến của bộ đội lên thành chiến dịch. Chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa) đã nổ ra thắng lợi (từ 05/12/1964 đến 03/01/1965).

   Lần đầu tiên ta tập trung trên một địa bàn nhất định tới 2 trung đoàn với một số binh chủng yểm trợ, kết hợp với bộ đội địa phương, du kích rộng rãi, được nhân dân giúp đỡ và phối hợp đấu tranh. Lần đầu tiên chủ lực quân giải phóng đã đánh nhiều trận liên tiếp, tiêu diệt được nhiều tiểu đoàn sừng sỏ của quân ngụy như thủy quân lục chiến, quân dù, biệt động quân và các chi đoàn thiết giáp có phi cơ và trực thăng vũ trang yểm trợ. Chiến dịch Bình Giã đã làm Mỹ - ngụy rúng động, thấy rằng quân đội ngụy được Mỹ xây dựng, trang bị, huấn luyện và chỉ huy không còn đứng vững được. Chế độ ngụy có nguy cơ sụp đổ.

   Tiếp theo chiến thắng Bình Giã, có chiến thắng Ba Gia ở Quảng Ngãi: Trong thời gian ngắn, quân giải phóng đã đánh ngoài trời tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn địch. Rồi đến Phước Long - Đồng Xoài, chủ lực ta vừa đánh địch ngoài trời, vừa đánh địch trong công sự kiên cố. Trận đánh chiếm cứ điểm chi khu Đồng Xoài, 09/6/1965 (Biên Hòa) đã nâng trình độ tác chiến của quân giải phóng lên một bước cả về kỹ thuật chiến đấu của bộ đội lẫn về chỉ huy hợp đồng binh chủng, liên lạc trinh sát nhanh chóng chính xác, diệt điểm diệt viện, nghi binh kết hợp ngăn chặn địch từ xa, dự kiến phản ứng của địch và đoán đúng nơi địch đổ quân tạo thành thế diệt địch ngay từ phút đầu.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 04:06:10 pm
II- “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”:
“KHÔNG CÓ ÁNH SÁNG Ở CUỐI ĐƯỜNG HẦM”


   Nghệ thuật chiến dịch của quân giải phóng trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đã phát triển. Sau Đồng Xoài, quân Mỹ đã nhảy hẳn vào miền Nam. Vì Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài đánh cho ngụy quân không còn đứng vững, đã đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Một lần nữa Mỹ phải chuyển hướng chiến lược, trực tiếp đưa quân vào tham chiến ở miền Nam. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đã bắt đầu với cường độ ác liệt chưa từng có.

   Ngày 02/9/1965, tại căn cứ Trảng Chiên - Bắc Tây Ninh, là ngày khai sinh ra Sư đoàn 9 và sau đó Sư đoàn 5. Buổi ấy có mặt Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Phó Chủ tịch, có mặt Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền... Mọi người đều vui mừng tin tưởng thấy được quân giải phóng miền Nam ở chiến trường miền Đông Nam Bộ đã tổ chức lên đến sư đoàn, và nhanh chóng có 2 sư đoàn mạnh. Giữa tình hình Mỹ đang gia tăng cường độ chiến tranh ở miền Nam, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 rồi sau đến Sư đoàn 7, là niềm vinh dự và tự hào của quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền Đông Nam Bộ - chiến trường chủ yếu.

   Quân Mỹ lúc bấy giờ thủ vai trò chủ yếu càn quét đánh phá miền Nam. Quân ngụy đóng vai trò “giữ nhà”(!)

    Bàu Bàng

    Nổi bật nhất trong giai đoạn này là chiến trận Bàu Bàng ngày 12/11/1965 (Thủ Dầu Một). Sư đoàn “Anh cả đỏ” của Mỹ gặp phải “Anh cả đỏ” của quân ta - nói theo cách nói của dân gian hồi đó muốn so sánh Sư đoàn 9 của ta với sư đoàn “Anh cả đỏ” số 1 của Mỹ - và trên thực tế, cho đến lúc ấy - lúc diễn ra “trận Bàu Bàng” - ta mới bắt đầu đánh Mỹ ở cấp sư đoàn. Hai sư đoàn số 1 gặp nhau, nhưng ta vừa mới thành lập, còn “Anh cả đỏ” Sư đoàn 1 bộ binh của Mỹ, đã nổi danh từ Đệ nhị thế chiến, và trận Bàu Bàng là trận thua đau lắm của quân Mỹ. Theo tài liệu để lại, con số 2.040 quân Mỹ đã bị thương vong trong một trận đánh vận động tập kích của quân giải phóng miền Đông Nam Bộ, chứng tỏ khả năng đánh được Mỹ và đánh tiêu diệt được quân Mỹ.

    Trước đó, khi quân Mỹ vừa đến chiến trường miền Nam, chúng đã bị liền một đòn thật là bất ngờ. Một đại đội Mỹ đóng trong công sự ở Núi Thành (Quảng Nam) đã bị diệt gọn (27/5/1965). Rồi đến trận Vạn Tường 18/8/1965 cũng ở Quảng Nam, quân Mỹ cùng với xe bọc thép lội nước đổ bộ lên bờ, được pháo hạm chi viện, vẫn bị đánh thiệt hại nặng: Hàng mấy trăm tên cùng hàng chục xe tăng thiết giáp bị tiêu diệt. Trận Vạn Tường là trận đánh Mỹ nổi tiếng đầu tiên của quân ta trong “Chiến tranh cục bộ”.

    Nơi nào cũng có những trận đánh Mỹ điển hình. Nơi nào cũng có dũng sĩ diệt Mỹ. Mỹ nhảy vào miền Nam, toàn miền Nam dấy lên phong trào thi đua diệt Mỹ. Chủ lực đánh Mỹ, địa phương đánh Mỹ, du kích cũng đánh Mỹ và cho đến dân thường cũng giết được Mỹ và cũng đạt đến tiêu chuẩn cấp “dũng sĩ diệt Mỹ” - như ở Củ Chi, ở Lai Khê (Bến Cát), ở Tây Nguyên rừng núi. Thậm chí ở miền đồng bằng sông Cửu Long, với những người nông dân tay lấm chân bùn, chỉ biết vườn tược, ruộng nương quanh năm suốt tháng, vậy mà khi quân Mỹ kéo tới lập căn cứ, tức thì “Vành đai Bình Đức” đã hình thành ngay trên vùng đông dân nhiều của để bao vây quân Mỹ, và những dũng sĩ diệt Mỹ nơi đây lại nổi lên. Danh sách những dũng sĩ trong cuốn sổ vàng diệt Mỹ của huyện Châu Thành tỉnh Mỹ Tho được nối dài thêm mỗi ngày.

    Có thêm quân Mỹ, cộng với quân ngụy, cũng không bình định được miền Nam. Chỉ có mức độ chiến tranh là gia tăng. Và chiến tranh càng khốc liệt, càng bất phân thắng bại thì Mỹ càng cay cú càng leo thang. Nó giống như một con bạc đang khát nước. Đưa quân vào nghĩ là thắng. Không thắng được, lại đưa quân tiếp, và đưa quân tiếp... cho đến hàng mấy chục vạn quân Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

    Các đơn vị sừng sỏ của Mỹ cho đến hôm nay “bách chiến bách thắng” như Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ” đã chiến thắng cả trong 2 cuộc chiến tranh thế giới, Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới” đã từng tham gia chiến tranh Triều Tiên... vẫn phải nếm mùi thất bại ở Việt Nam. Mỹ bèn tổ chức ra sư đoàn tân kỳ hơn, hiện đại hơn như Sư đoàn kỵ binh không vận 101. Toàn bộ sư đoàn trên 1 vạn quân cả pháo binh, hỏa lực và bảo đảm đều cưỡi máy bay “đi mây về gió”, từ trên trời đánh xuống bất cứ ở chiến trường nào, địa hình nào, thời tiết nào, ngày hay đêm. Sư đoàn tân kỳ ấy ngay ngày đầu bay đến Việt Nam đã bị một cú thất bại ê chề. Đó là cú đánh vào chiến trường Tây Nguyên của ta tại mặt trận Plei Me (từ ngày 10 đến ngày 18/11/1965). Tại đây quân giải phóng đã đánh kỵ binh bay nhiều trận tơi bời, thiệt hại nặng nề. Đường hầm vẫn không lối thoát.

    Tìm và diệt: “ai tìm, ai diệt ai?”

    Junction City

    Tướng Westmoreland - Tổng Chỉ huy quân đội Mỹ ở chiến trường miền Nam Việt Nam đã dự kiến kế hoạch 3 giai đoạn của “Chiến tranh cục bộ”:

    Giai đoạn 1, cứu quân ngụy khỏi thua to vào năm 1965.

    Giai đoạn 2, tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương và bình định nông thôn miền Nam trong 6 tháng đầu năm 1966.

    Giai đoạn 3, là sau đó từ 1 đến 1 năm rưỡi diệt hết lực lượng quân sự đối phương còn sót lại trong các khu căn cứ. Sau nữa ngụy quyền cùng với lực lượng ngụy quân đã trưởng thành đủ sức hoàn toàn làm chủ miền Nam Việt Nam và quân Mỹ, quân chư hầu rút về nước.

    Như vậy, Mỹ đã tính trước thắng lợi hoàn toàn vào cuối năm 1967 với chiến dịch “Tìm và diệt” lớn nhất ở Bắc Tây Ninh nhằm diệt gọn chủ lực Việt cộng còn lại cùng với các cơ quan đầu não như Bộ Chỉ huy quân giải phóng và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam...

    Thế nhưng trận “quyết chiến chiến lược Junction City” của chiến lược “Tìm và diệt” trong “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã thất bại thảm hại (từ ngày 22/02 đến ngày 15/3/1967). Trên 45.000 quân Mỹ thuộc các đơn vị thiện chiến nhất như Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới”... cùng một số đơn vị ngụy, được các loại máy bay chiến đấu, các trực thăng vũ trang và chở quân, các máy bay đưa quân nhảy dù, cả máy bay chiến lược B-52 rải thảm, chi viện không hạn chế vào một khu vực chiến trường nhỏ hẹp vẫn bị tổn thất nặng và rút chạy. Bom đạn, chất độc hóa học từ phi cơ và hỏa lực pháo binh từ mặt đất kinh khủng kể cả “Vua chiến trường”, pháo 175 ly, hầu như không có hiệu quả theo như tướng Mỹ tưởng. Quân giải phóng đã bố trí sẵn trong vùng căn cứ Bắc Tây Ninh của mình một thế trận chiến tranh nhân dân tuyệt diệu bao gồm du kích và quân địa phương từ dân tại chỗ và cán bộ nhân viên cơ quan trú đóng, được trang bị mạnh bằng súng chống tăng và mìn các loại đã phối hợp chiến đấu có kết quả cao với Sư đoàn 9 chủ lực. Quân Mỹ không tìm thấy Việt cộng nào để diệt, trái lại đi đến đâu, ở đâu, ngày hay đêm đều bị đánh, bị tìm và bị diệt. Hàng ngàn lính Mỹ chết và bị thương, hàng trăm xe tăng và thiết giáp tan xác, trên 100 máy bay các loại bị bắn rơi, trên 100 pháo từ 105 ly trở lên bị hủy. Trận Junction City thất bại, ảo tưởng kết thúc chiến tranh vào cuối năm 1967 tan như mây khói.

    Mậu Thân 1968

    Ý nghĩa cơ bản của chiến lược tìm và diệt của Westmoreland là muốn đưa chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch và diệt địch ở đó. Ý đồ chiến lược đó không thành, quân giải phóng lại phá chiến lược tìm và diệt của Mỹ bằng cách đưa chiến tranh đến tận hang ổ của Mỹ - ngụy, ở các thị xã, thị trấn và ngay cả Sài Gòn là đầu não chỉ huy chiến tranh của chúng. Đó là cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968. Hàng trăm tỉnh, thành, quận lỵ, chi khu... trên hầu khắp miền Nam cho đến Tòa Bạch Ốc và Lầu 5 góc (“ngũ giác đài”) phương Đông ở Sài Gòn thảy đều bị tấn công một lượt. Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968 ấy, đã gây một bất ngờ lớn lao cho Mỹ - ngụy ngay từ phút đầu, từ những ngày đầu cho đến nhiều tháng sau trên khắp miền Nam. Bất ngờ về chiến lược, về chiến dịch và cả về chiến thuật. Bất ngờ về thời gian bắt đầu, về thời gian ác liệt kéo dài. Bất ngờ về nghệ thuật quân sự chưa hề có trong binh thư đông tây, kim cổ.

    Một trận đánh mà cho đến 20 năm sau - kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân 1968-1988..., cán bộ ta hãy còn bàn cãi và rút ra nhiều điều trong nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Quân giải phóng miền Nam, cùng với toàn dân miền Nam Việt Nam đã làm nên một trận long trời lở đất, Mỹ kinh hoàng, thế giới sửng sốt.

    Trận đánh của Tết Mậu Thân năm 1968 vẫn là một trận đánh vang dội trong lịch sử có một không hai của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước Việt Nam. Nó đã là cái mốc tạo ra được bước ngoặt chiến lược lớn nhất của cuộc chiến tranh: Đánh cho Mỹ cút, để rồi nhất định ngụy sẽ bị nhào.

    Tết Mậu Thân năm 1968, quân dân miền Nam đã đẩy quân thù vào tình thế không lối thoát, buộc phải “xuống thang chiến tranh”, chấp nhận ngồi lại thương lượng hòa bình với sự có mặt của đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, một thực thể mà lâu nay chúng cố tình không nhìn nhận.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 04:09:04 pm
III- “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH”: MỘT THỬ THÁCH MỚI


    Tuy nhiên đường đi đến thắng lợi còn lắm chông gai, không phải chỉ đầy hoa chiến thắng. Qua năm 1969, quân giải phóng miền Nam bước vào cuộc thử thách mới đầy cam go quyết liệt trước những âm mưu thủ đoạn chiến tranh mới của Mỹ - ngụy trong lúc sức mạnh chiến đấu chưa kịp phục hồi.

    Tổng thống Mỹ Nixon vừa nhậm chức, tháng 4/1969 đã thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với tham vọng vừa rút được quân Mỹ về nước, vừa tăng cường quân ngụy để thắng cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Kế hoạch bình định nông thôn, chiến tranh tâm lý được đẩy lên mức độ ác liệt và tinh vi. Chúng “tát nước bắt cá” đánh thẳng vào dân, đặc biệt là nông thôn, hòng tách cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân, ra khỏi xóm làng, quê hương. Một nhà báo Mỹ Joseph Amster đã nêu con số: từ tháng 3/1968 đến cuối năm 1969, riêng chiến dịch “Phượng Hoàng” Mỹ - ngụy đã giết chết ít nhất 20.000 nông dân và rất có thể từ 50.000 đến 100.000 người. Từng đàn máy bay các loại: cá rô, cá nóc, cá lẹp (máy bay lên thẳng trinh sát và bắn phá), máy bay B-52, C-47... ngày đêm trút bom rải thảm, bắn tên lửa vào bất cứ nơi nào còn một lùm cây, ngọn cỏ, chất độc hóa học làm trụi hàng chục ngàn hécta rừng, hàng ngàn xóm làng hòng đánh bật quân giải phóng ra khỏi nơi trú ẩn. Từ Trị Thiên, Khu 5 đến Tây Nguyên, miền Đông và miền đồng bằng sông Cửu Long, màu xanh đã biến mất trên nhiều vùng. Cây cối chết khô trơ trụi chĩa lên nền trời, càng nhìn càng thêm đau xót cho đất nước bị quân thù tàn phá. Đêm đêm chốc chốc lửa lại bùng cháy trên đỉnh ngọn cây như những đốm lửa hận thù của chiến sĩ, đồng bào vụt bốc cao. Củ Chi “đất thép” mỗi nắm đất đều có thép của mảnh bom đạn. Rừng Năm Căn, U Minh 50% bị tàn phá, cháy rụi. Kết hợp với bom đạn, địch bố trí dày đặc ở nông thôn hàng mấy trăm đoàn, đội đủ các sắc lính: bảo an, dân vệ, cảnh sát, bình định, phượng hoàng, chưa tính bọn tề điệp và lực lượng phòng vệ dân sự.

    Muôn vàn khó khăn gian khổ, ác liệt ập đến tưởng chừng như chiến sĩ, đồng bào ta không thể nào chịu đựng nổi. Mỹ - ngụy đã hí hửng nhận định: “Từ năm 1969 trở đi Việt cộng đã bị động cả về chiến lược và chiến thuật, phải trở lại đánh du kích, Việt cộng không còn nơi an toàn”. Thực tiễn trên chiến trường ta cũng đã bị mất nhiều đất, nhiều dân.

     “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Kẻ thù giàu súng đạn thì quân và dân ta giàu lòng yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất, quyết vượt lên khó khăn gian khổ ác liệt để chiến thắng quân thù. Lời chúc Tết của Bác Hồ kính yêu đầu năm 1969 là nguồn động viên to lớn tiếp thêm tinh thần sức lực cho miền Nam Thành đồng: “Năm qua thắng lợi vẻ vang - Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to - Vì độc lập vì tự do - Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào... - Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn”. Nhiều bà mẹ miền Nam cũng như miền Bắc tiếp tục dâng lên Tổ quốc những đứa con ruột thịt thứ ba, thứ tư, và cả thứ bảy, thứ tám. Má Nguyễn Thị Rành ở Củ Chi, 6 con đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp và trong chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, nay tiếp tục tiễn 2 con còn lại lên đường góp phần đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch. Má Nguyễn Thị Ngư ở Bình Thuận có 8 con tham gia chiến đấu và đều đã hy sinh. Hàng vạn thanh niên, học sinh, nông dân, công nhân, ở miền Bắc lại vượt Trường Sơn băng qua lửa đạn của quân thù vào Nam chiến đấu. Đội ngũ quân giải phóng lại được tăng cường. Nhiều đơn vị chủ lực, địa phương và cả các đội du kích đã có đến một nửa là thanh niên hậu phương lớn. Anh em rời ghế nhà trường, rời hợp tác xã vào chiến trường còn bỡ ngỡ. Nhưng cuộc chiến đấu gay go, sống chết đã rèn đúc anh em trưởng thành. Địch phá địa hình trên mặt đất, chiến sĩ đào hầm để ngủ, đào giao thông hào để đi lại ngụy trang bằng cây khô để che mắt địch. Địch phá hoại lúa màu, ruộng rẫy, lương thực, chiến sĩ, đồng bào ta đào củ mài, củ chụp, hái lá bép, lá rừng, ăn cả mít non, chuối xanh, môn thụt... để sống và chiến đấu. Những khẩu hiệu hành động xuất hiện khắp mọi nơi: “Quyết tử giữ Gò Dầu”, “Quyết tử giữ Long Đất”, “Dân bám đất, chiến sĩ bám đồng bào cùng nhau chiến đấu diệt địch”. Địch hành quân chà xát, phục kích đón đường hòng tìm dấu vết gây thương vong cho ta, ta lại “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” để bịt tai, bịt mắt địch. Địch tập trung chà xát nông thôn để thực hiện kế hoạch bình định thì chiến sĩ ta “lấy đêm làm ngày” vượt nhiều lớp đồn bót giặc về bám dân phát động dân xây dựng cơ sở. Tiểu đoàn 14 ở Tây Ninh, ngoài súng đạn mang cả nắp hầm bí mật về bám dân dựa vào dân đào hầm bí mật để hoạt động. Hàng mấy tháng trời “ăn cơm vắt, uống nước ve, ngủ hầm bí mật” anh em đã đánh cho địch nhiều đòn đau, khôi phục nhiều vùng làm chủ cho nhân dân. Khu 5 trong 6 tháng đầu năm 1969 đã diệt, trừng trị gần 2.000 tên ác ôn bình định, nổi lên tấm gương em Phan Thị Đào - chiến sĩ du kích thiếu niên dùng lựu đạn diệt tên Huân ác ôn khét tiếng, bị địch bắt tra tấn cật vấn: “Mày muốn sống hay muốn chết, muốn sống thì khai”. Em thản nhiên nói: “Muốn sống để giết hết bọn bây cho dân đỡ khổ”. Địch đã hành hạ buộc em vào xe kéo đi cho đến chết. Trong lễ truy điệu em Đào, người cha lại dẫn em gái Đào 11 tuổi đến “xin các đồng chí kết nạp con em vào đội diệt ác thay cho chị nó”. Trung đoàn 320 chiến đấu thương vong đến gần 80% quân số, hy sinh toàn bộ Ban Chỉ huy Trung đoàn, vẫn kiên cường thực hiện nhiệm vụ bám trụ vùng ven Sài Gòn để rồi bình phục và thắng giặc những năm sau. Ở thị xã Cà Mau, Hồ Thị Kỷ chỉ huy đội biệt động giấu mìn trong giỏ xách làm nổ tung 3 xe đầy giặc và hy sinh anh dũng. Cả miền Nam bùng lên phong trào diệt Mỹ đánh ngụy.

    Ngày 03/9/1969, Đài Phát thanh Hà Nội loan tin đau buồn Bác Hồ vô vàn kính yêu của toàn thể dân tộc Việt Nam đã từ trần. Mỹ - ngụy tưởng rằng có thể lợi dụng dịp này đánh quỵ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Nhưng chúng đã lầm to, cả miền Nam đã “biến đau thương thành sức mạnh”. Chiến sĩ ta đã nuốt những giọt nước mắt dồn sức mạnh lên đôi tay cầm súng bắn thẳng vào kẻ thù quyết giành giật với chúng từng tấc đất của Tổ quốc thân yêu. Ở Khu 5, địch đánh phá ác liệt và gắt gao nhưng nhân dân vẫn một lòng bền chí kiên gan cưu mang nuôi dưỡng, tiếp tế cho quân giải phóng chiến đấu. Cả mẹ già, các chị và cả các em gái 12, 13 tuổi mang từng ang gạo len lỏi qua các trạm kiểm soát của địch đem tận tay cho quân giải phóng. Đồng bào các dân tộc miền núi tiếp tục ăn củ rừng, dành từng lon gạo, trái bắp, gốc sắn nuôi bộ đội. Có chị địu con trước ngực, sau lưng gùi súng đạn tiếp tế cho chiến trường. Những đêm Trường Sơn, chiến sĩ vận tải thi đua chuyển “những chuyến hàng đền ơn Bác” với năng suất gấp đôi bình thường, với “bước chân ngàn dặm, vai trăm cân hàng”. Ở Trà Vinh, chiến sĩ và đồng bào xây dựng đền thờ Bác chỉ cách nhà tên tỉnh trưởng ngụy quyền 5.000m. Địch tức tối điên cuồng ném bom, pháo, càn quét liên miên bằng mọi thủ đoạn ác liệt, nhưng với lòng quyết tâm của quân giải phóng và đồng bào thị xã Trà Vinh, đền thờ Bác vẫn sừng sững uy nghi giữa một vùng bị địch chiếm cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Mùa xuân miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai. Địch tìm mọi cách ủi phá tan những vườn, những rừng mai vàng hòng dập tắt niềm hy vọng của chiến sĩ đồng bào. Nhưng mai vẫn đâm chồi nảy lộc trong cuộc chiến đấu và được chiến sĩ đồng bào cõng vượt Trường Sơn ra trồng và nở hoa tại lăng Bác Hồ gửi gắm niềm tin tất thắng của miền Nam.

   Nghĩa vụ quốc tế

   Được hơn một năm giành ưu thế trên chiến trường gây thiệt hại và vô vàn khó khăn cho đối phương, Mỹ - ngụy cho đây là thời cơ giành thắng lợi trọn vẹn. Chúng âm mưu bao vây triệt để bằng cách mở rộng chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh Đông Dương. Chúng đã đánh lên Campuchia nhằm diệt “Đất thánh Việt cộng” và cắt đứt đường tiếp tế qua cảng Kompongxom, cũng như đánh lên Đường 9 - Nam Lào để cắt Trường Sơn, cắt đứt miền Nam với hậu phương lớn miền Bắc.

    Abrams - Tổng chỉ huy MACV phụ họa với Tổng thống Mỹ: “Nếu phá được thánh đường của Việt cộng ở Campuchia thì chiến tranh sẽ kết thúc trong một năm”. Hết kết thúc năm 1967 của Westmoreland lại đến kết thúc 1 năm (hẳn là năm 1971) của Abrams.

    Mở đầu, Mỹ lật đổ Sihanouk và dựng lên Lonnol để làm tay sai đắc lực hơn. Ngày 30/4/1970, 15 vạn quân Mỹ và ngụy Sài Gòn gồm 2 trung đoàn Mỹ, 6 sư đoàn ngụy đã vượt biên giới đánh tràn vào đất Campuchia. Chúng tưởng sẽ dùng số quân đông đảo cùng khối lượng sắt thép khổng lồ đè bẹp quân dân cách mạng 2 nước anh em Việt Nam - Campuchia. Nhưng chúng đã đụng phải sức mạnh chiến đấu phối hợp thần kỳ của khối đoàn kết Việt - Campuchia đã có từ lâu đời. Bốn vạn quân Mỹ và ngụy Sài Gòn cùng ngụy Lonnol đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu. Cuộc hành quân chưa đầy 2 tháng đã phải chịu nhiều tổn thất đến nguy cơ sa lầy trên một chiến trường mới buộc Nixon ngày 30/6/1970 phải ra lệnh triệt phái toàn bộ quân Mỹ ra khỏi Campuchia.

    Trong lúc đó, hầu hết 7 tỉnh miền Đông Campuchia đã được giải phóng cộng với nhiều vùng phía tây bắc và tây nam đã trở thành vùng đất làm chủ của cách mạng Campuchia.

    Như vậy Mỹ - ngụy Việt Nam và ngụy Campuchia đều bị đánh đau. Cuộc hành quân chẳng những thất bại mà chúng còn mất đi 7 tỉnh và một số vùng khác, cộng lại hơn 1/3 đất nước Campuchia được giải phóng. Được như vậy là vì các sư đoàn quân giải phóng 5, 7, 9 và một số quân binh chủng đang đóng quân vùng biên giới nhân cơ hội này đánh tiêu diệt các đơn vị Mỹ - ngụy hành quân đánh Campuchia. Hành động kịp thời này vừa giúp bạn tiêu diệt quân của Lonnol, vừa quét sạch một hệ thống đồn bót của chúng. Đường tiếp tế quá cảnh qua cảng Kompongxom bị đứt thì đường Hồ Chí Minh được nối liền từ Hạ Lào qua Campuchia và nối với vùng Lộc Ninh và Bắc Tây Ninh.


*
*      *

    Trong cuộc chiến tranh nhân dân, ta đã xây dựng được một lực lượng chủ lực thiện chiến lên đến cấp sư đoàn, được rèn luyện trong chiến đấu qua nhiều năm, đó là một yếu tố vô cùng quan trọng. Lực lượng chủ lực đó là nòng cốt vững chắc để kết hợp với quân địa phương và du kích, với đấu tranh chính trị của nhân dân trở thành lực lượng có trình độ tổng hợp hoàn chỉnh của chiến lược chiến tranh nhân dân. Không phải mọi người đều hiểu rõ điều này và thấy hết giá trị của việc giữ vững các sư đoàn chủ lực tập trung trong hoàn cảnh khó khăn thiếu lương thực, đạn dược, và ngay cả chỗ đứng chân của chủ lực trong năm 1969 - năm gay go nhất của quá trình cuộc chiến...

    Rõ ràng, chỉ hơn 1 năm sau, chủ lực ta lại phát huy hiệu quả chiến đấu, cả năm 1970 mở rộng chiến trường Campuchia, cả năm 1971 phá phòng tuyến giặc, diệt từng chiến đoàn địch, thu cả pháo xe kéo và xe tăng, thiết giáp của địch để xây dựng thêm binh chủng mới cho quân giải phóng. Nếu năm 1969 ta phân tán chủ lực về khắp chiến trường miền Nam, thì làm thế nào năm 1970 ta có được các sư đoàn thiện chiến, và như vậy cuộc chiến tranh có lẽ sẽ đi theo một hướng khác mà phần thắng chưa rõ sẽ về ai.

    Xây dựng lực lượng quân giải phóng mạnh cả ba thứ quân là một vấn đề chiến lược lớn. Bố trí và sử dụng các lực lượng ấy đúng chỗ, đúng lúc, tạo thành thế trận của chiến tranh nhân dân, không nao núng dao động, là vấn đề quyết định của thành bại.

    Đây là bài học vô cùng quý giá của nghệ thuật quân sự, của chỉ đạo chiến lược và điều khiển chiến tranh.

    Đường 9 - Nam Lào

    Đầu năm 1971, địch lại tập trung phần lớn chủ lực ngụy Sài Gòn cùng với hỏa lực không quân, pháo binh được tập trung tối đa của Mỹ mở cuộc hành quân lớn vượt biên giới Lào và Campuchia để cắt đứt từ gốc đường chiến lược Hồ Chí Minh và lập vành đai ngăn chặn quá khỏi biên giới Nam Việt Nam.

    Ngày 30/02/1971, địch sử dụng toàn bộ sư đoàn tổng trù bị tinh nhuệ nhất của quân ngụy là dù và thủy quân lục chiến cùng Sư đoàn 1 bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh, 4 trung đoàn thiết giáp, 13 tiểu đoàn pháo binh ngụy Sài Gòn bắt đầu mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” hòng ồ ạt đánh chiếm Sê Pôn, cắt đứt con đường vận chuyển cơ giới, phá hủy toàn bộ kho tàng ở Sê Pôn và dọc đường chiến lược số 9 Nam Lào. Để yểm trợ và phối hợp với quân ngụy Sài Gòn, quân Mỹ đã sẵn sàng ở phía biên giới 20 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh, sử dụng 1.000 máy bay các loại và 50 máy bay chiến lược B-52.

    Từ tháng 11 là mùa khô ở Lào, phán đoán trước địch có thể đưa quân ngụy Sài Gòn hành quân lớn lên Đường 9 - Nam Lào, ta đã thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận từ tháng 12/1970 mang bí số 702 để chuẩn bị và chỉ huy cuộc phản công ở đường 9. Với quyết tâm “Nhất quyết phải thắng địch trong chiến dịch này dù phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào cũng phải quyết tâm thắng lớn, vì đây là một trận có ý nghĩa chiến lược”. Quân dân Việt Nam và Lào, hai nước anh em đã thắng to: Sau 52 ngày đêm chiến đấu kiên cường buộc địch phải bỏ xác trên chiến trường và mang bọn bị thương về nước tổng cộng 2 vạn tên, 1.142 tên bị bắt sống, 556 máy bay các loại bị bắn rơi, bắn cháy. Có trận ở Sê Pôn chiến sĩ ta đã bắn hạ hàng chục máy bay các loại. Hàng trăm xe rút chạy về miền Nam đã bị đốt cháy phơi xác trên một đoạn đường hàng chục kilômét dọc đường 9.

    Ngày 04/02/1971, phối hợp với cuộc hành quân “Lam Sơn 719”, Quân đoàn 3 ngụy mở cuộc hành quân “Toàn thắng 01/71” vào vùng Đông Bắc Campuchia với lực lượng 3 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn xe tăng thiết giáp, 1 liên đoàn biệt động, 12 tiểu đoàn pháo binh. Âm mưu của địch là thiết lập thêm 1 tuyến phòng thủ ngoài biên giới bảo vệ cho chúng ở miền Nam. Từ tháng 10/1970, ta đã chuẩn bị đánh bại cuộc hành quân lớn của địch ở vùng này. Cuộc chiến đấu đã diễn ra trên một không gian rộng 100km, sâu 60km. Chiến sĩ ta đã tấn công mãnh liệt chống chặn kiên cường. Đoàn 301 được tổ chức để chỉ huy 3 sư đoàn chủ lực tinh nhuệ của B2 trên đất bạn, tạo bước phát triển cho sự hình thành quân đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Bộ sau này, một điều mà trước đây, nhất là trong chống Pháp chưa làm được. Đó là sự trưởng thành vượt bậc của quân giải phóng miền Nam. Với khí thế thi đua sôi nổi, với quyết tâm tiêu diệt từng đơn vị lớn của quân ngụy Sài Gòn càng nhiều càng tốt hỗ trợ cho bạn mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy mới ở miền Nam, cán bộ và chiến sĩ ta đã liên tục tấn công địch. Cũng có những trận ta về mồi hụt để địch chạy thoát, chưa tiêu diệt gọn tuy thu được nhiều súng đạn, đặc biệt là đạn pháo lớn. Trận sau cùng với chiến thuật vây ép chặt buộc quân địch không chịu nổi phải rút chạy về miền Nam trên đường 13 từ Snoul về biên giới. Quân ta đã chờ sẵn xông lên tiêu diệt Chiến đoàn 8 quân ngụy Sài Gòn, thu hàng chục khẩu pháo, xe tăng và xe bọc thép. Cuộc hành quân “Toàn thắng 01/71” của ngụy quân Sài Gòn đã bị quân ta đánh cho “toàn bại”.

    Trong lúc tấn công và tiêu diệt, đuổi quân ngụy Sài Gòn, quân dân ta đã phối hợp với quân và dân bạn đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Chen la 2” lớn nhất của quân ngụy Lonnol ở hướng đường 6. Cuộc chiến đấu kéo dài hơn 100 ngày dưới làn bom ác liệt của không quân Mỹ, có máy bay B-52 chi viện cho quân ngụy Lonnol, ta và bạn đã tiêu diệt hơn 3 vạn tên, bắt sống 2.000 tên, thu gần 5.000 súng các loại, 55 xe có cả xe tăng và thiết giáp. Ở Phnôm Pênh, Đoàn đặc công biệt động 307 của quân giải phóng lên chi viện cho bạn liên tiếp 2 lần tập kích và 9 lần pháo kích sân bay Pôchetông - sân bay quân sự lớn nhất của ngụy Lonnol. Riêng trong 1 trận tập kích đêm các chiến sĩ đặc công, biệt động đã đánh 1 trận vang dội: Phá hủy 105 máy bay các loại, 100 xe vận tải và xe phục vụ hoạt động máy bay, 1 trạm rađa và nhiều súng đạn, giết và làm bị thương 1.200 tên có 300 tên giặc lái, trong đó có 60 tên giặc lái Sài Gòn và nhân viên kỹ thuật, hủy diệt 95% quân chủng không quân ngụy Lonnol. 9 chiến sĩ ta đã hy sinh anh dũng làm sâu đậm thêm tình nghĩa chiến đấu keo sơn giữa hai dân tộc anh em. Báo chí đã nêu lúc ấy: “1 trận đánh tài tình diệt 1 quân chủng”.

   Các chiến sĩ quân giải phóng đã không nề hy sinh giúp bạn giải phóng hơn nửa đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của mình, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Giúp bạn là tự giúp mình”.

   Trong lúc quân chủ lực ngụy tập trung hầu hết lên chiến trường Campuchia để chịu tổn thất nặng nề trước những đòn tấn công mãnh liệt của chủ lực ta cùng với bạn, ở miền Nam, bộ đội địa phương du kích cùng một số trung đoàn chủ lực đã tranh thủ thời cơ phối hợp cùng nhân dân đẩy mạnh đánh phá chương trình bình định của địch, từng bước khôi phục lại các vùng đã mất, tạo thế, tạo lực mới.

    Từ Trị Thiên - Huế đến đồng bằng Nam Bộ: 1972 - năm quyết định

    Bước vào năm 1972, quân và dân miền Nam đã vượt qua những ngày gian khổ có nhau. Sức chiến đấu đã tăng lên rõ rệt. Tình thế mới đang xuất hiện. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ngày càng có tiếng vang trên thế gới. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam (vừa mới thành lập) được củng cố vững mạnh. Tiếng nói chính thức của đại diện Chính phủ trên bàn hội nghị về Việt Nam ở Paris ngày càng thêm trọng lượng. Nhằm buộc kẻ thù phải đi đến ký kết Hiệp định hòa bình ở Việt Nam, toàn miền Nam sôi nổi tham gia cuộc tiến công và nổi dậy mới. Trên 2 hướng của miền Nam là Trị Thiên - Huế và miền Đông Nam Bộ, quân và dân ta tiến lên mở những chiến dịch lớn cấp quân đoàn với lực lượng 3, 4 sư đoàn bộ binh, nhiều trung đoàn pháo binh và nhiều đơn vị xe tăng. Lần đầu tiên tại chiến trường miền Nam, quân giải phóng đã được chi viện bằng pháo xe kéo và xe tăng thiết giáp trong biên chế của mình. Đây là một bước trưởng thành vượt bậc về xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang và về chiến đấu hợp đồng binh chủng.

    Ngày 30/3/1972, chiến dịch tấn công ở Trị Thiên bắt đầu. Chỉ trong 5 ngày quân giải phóng đã tiêu diệt 1 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 2 trung đoàn thiết giáp, tích cực hỗ trợ nhân dân huyện Gio Linh và Cam Lộ nổi dậy giải phóng hoàn toàn 2 huyện. Đến ngày 27/4 tấn công và nổi dậy đợt 2 trong 7 ngày đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn tập đoàn phòng ngự ở Đông Hà (Ái Tử, La Vang, Quảng Trị), giải phóng tiếp 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Địch tập trung lực lượng lớn gồm toàn bộ 2 sư đoàn quân tổng trù bị dù và thủy quân lục chiến, quân chủ lực cơ động của Quân đoàn 1 ngụy được không quân và hải quân Mỹ chi viện trực tiếp với nỗ lực cao nhất liên tiếp phản công hết sức ác liệt để chiếm lại thị xã Quảng Trị. Với nhiệm vụ giữ cho được Quảng Trị một thời gian dài để phối hợp tấn công và nổi dậy khắp miền Nam, hỗ trợ cho tiếng nói đấu tranh trên bàn hội nghị, chiến sĩ, đồng bào Quảng Trị đã chiến đấu ngoan cường hơn 200 ngày đêm. Đây là một cuộc đọ sức hết sức quyết liệt. Cái tên “Thành cổ Quảng Trị” cùng với những tấm gương chiến đấu hy sinh anh dũng của chiến sĩ giải phóng vang dội khắp mọi miền của đất nước và trên toàn thế giới. Có ngày trên mảnh đất nhỏ hẹp này, chiến sĩ ta phải chịu đựng 24 tấn bom đạn trên 1km2. Thành cổ hầu như thành bình địa nhưng chiến sĩ quân giải phóng vẫn bám trụ kiên cường dài ngày.

    Phối hợp với Quảng Trị và cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, ngày 01/4/1972, chỉ sau Quảng Trị 1 ngày, chiến dịch Nguyễn Huệ của chủ lực miền Đông đã mở màn hướng phụ và cũng là hướng nghi binh thu hút địch trên đường 22 Tây Ninh. Với xe tăng cũ lấy được của địch, 1 chiếc chạy được lại không sử dụng được pháo trên xe, 1 chiếc súng sử dụng được vào đến hàng rào nằm lại tại chỗ, nhưng tiếng súng đại bác và tiếng rầm rú của xe tăng đã tác động mạnh đến tinh thần quân địch hỗ trợ tích cực cho bộ binh mãnh liệt xung phong tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 2 chiến đoàn địch, đập tan hệ thống phòng thủ của địch dọc đường 22 biên giới Tây Ninh - Campuchia. Trong lúc Bộ Tổng Tham mưu ngụy bị mắc kế nghi binh đang điều cả đơn vị tổng trù bị để đối phó hướng Tây Ninh, ngày 05/4/1972, quân chủ lực của ta cùng với những chiếc xe tăng vượt Trường Sơn và bí mật tiến theo đường quân sự làm gấp mới mở bất ngờ tấn công vào chi khu quân sự là huyện lỵ Lộc Ninh, 1 cụm phòng ngự trên 5.000 tên địch phần lớn là quân chủ lực và đơn vị thiết giáp. Trong 2 ngày chiến đấu mãnh liệt, chiến sĩ quân giải phóng ở miền Đông đã lập công xuất sắc tiêu diệt hoàn toàn 1 chiến đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng và thiết giáp, bắt sống và làm tan rã hoàn toàn lực lượng chủ lực và bảo an, dân vệ và hệ thống kìm kẹp của địch trong toàn huyện Lộc Ninh, tiêu diệt gần hết 1 chiến đoàn khác đang rút chạy.

    Trận chiến đấu giải phóng thị trấn Lộc Ninh có biết bao hình ảnh sinh động lúc chiến đấu, trong đó có sự đóng góp của các chiến sĩ điện ảnh mà nổi bật là tấm gương hy sinh của đồng chí Cam ở Xưởng phim Quân giải phóng. Anh băng trước qua mở cửa hô to: “Các đồng chí xung phong lên diệt địch, tôi sẽ ghi hình ảnh của các đồng chí đưa vào lịch sử!”. Quay được nửa cuộn phim đồng chí gục ngã trên đường tiến quân đi đến chiến thắng của quân giải phóng. Những thước phim chiến thắng Lộc Ninh mãi mãi tồn tại với nỗi nhớ thương của đồng đội anh, nhất là những chiến sĩ đã được anh động viên trong những giờ phút chiến đấu căng thẳng nhất ở chiến trường. Chiến thắng Lộc Ninh không những đã diệt nhiều chiến đoàn bộ binh và xe tăng thiết giáp địch, thu 16 khẩu pháo và 36 xe tăng và bọc thép mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng sau này. Lộc Ninh trở thành như thủ đô của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

    Nói đến chiến dịch Nguyễn Huệ, không thể không nhắc đến những chiến sĩ chốt chặn kiên cường ở phía nam thị xã An Lộc vừa thu hút vừa ngăn chặn địch cho đồng đội tấn công dứt điểm thị xã. Ngày đêm không ngớt tiếng bom B-52. Mùa khô cũng như mùa mưa dầm mình trong bùn lầy trong những công sự đào khoét gấp rút, ngụy trang tài tình ở hai bên đường 13. Một ngày đánh lui hàng chục đợt tấn công của mọi loại quân địch. Chiến sĩ bộ binh, pháo binh và cả anh nuôi cũng chiến đấu. Trong cuộc sống chiến đấu ác liệt căng thẳng vẫn xuất hiện những bài thơ của chiến sĩ:

          “Một bông trang đỏ
          Cắm lưng vách hầm
          Bom rung đạn nổ
          Hoa vẫn tươi màu
          Màu đỏ trái tim
          Xong phiên bắn tỉa
          Ta lại vào hầm ngồi ca
          Anh nuôi mỗi lần ra giao hẹn
          Cứ giết mỗi thằng thưởng một bông hoa”


    Do nhiều nguyên nhân, khách quan và chủ quan, ta không thực hiện trọn vẹn ý đồ ban đầu là chiếm thị xã, nhưng mặt trận An Lộc đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của quân ngụy, thu hút về đây nhiều lực lượng cơ động của cả hai quân đoàn ngụy ở Nam Bộ, tạo điều kiện cho quân và dân đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Đông đẩy mạnh tấn công và nổi dậy. Sư đoàn 21 cùng một số liên đoàn biệt động từ miền Tây Nam Bộ đã bị ghìm chân và bị đánh thiệt hại tại đây gần 2 tháng trời. Nguyễn Văn Thiệu cũng đã bị quân giải phóng giáng cho một đòn cảnh cáo làm cho hắn suýt mất mạng. Thiệu liều lĩnh lên thị sát động viên tinh thần quân lính, nhưng máy bay vừa tiếp đất đã bị chiến sĩ pháo binh ta giáng trận phủ đầu. Tướng 2 sao Toiny Robert - Lữ đoàn trưởng không quân số 1 cùng một số sĩ quan Mỹ bỏ mạng. Thiệu thoát chết, chuồn thẳng về Sài Gòn.

    Cuộc tấn công và nổi dậy toàn miền 1972 có nhiều nét mới. Phối hợp với những chiến dịch tấn công của chủ lực, sử dụng lực lượng binh chủng hợp thành tương đương cấp quân đoàn, đánh chiếm, gây cho địch thiệt hại nặng ở một số thị trấn. Từ Trị Thiên đến đồng bằng Nam Bộ xuất hiện hàng loạt chiến dịch tấn công tổng hợp với lực lượng từng trung đoàn và cả sư đoàn, kết hợp bộ đội địa phương, du kích và nổi dậy của quần chúng đánh chiếm hàng loạt chi khu, quận lỵ, đánh bồi, đánh nhồi, mở mảng, mở đề, giải phóng từng vùng nông thôn rộng lớn. Các lực lượng vũ trang giải phóng tiêu diệt nhiều chi khu quân sự, nhiều tiểu đoàn địch làm đòn xeo tích cực cho phong trào nổi dậy. Ở Khu 5, tháng 4/1972 đánh chiếm quận lỵ Hoài Ân, thị xã Bồng Sơn, tiêu diệt căn cứ Đệ Đức, giải phóng toàn bộ nửa phía bắc Bình Định và nửa bắc huyện Hoài Mỹ rộng 1.500km2. Tấn công vây ép liên tục 20 đêm buộc địch rút chạy, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giải phóng huyện Hiệp Đức và nhiều xã dọc đường 16 của 2 huyện Thăng Bình, Quế Sơn. Tháng 5/1972 mở rộng vùng giải phóng dọc đường 1 liên hoàn 13 xã dọc biển từ núi Sơn Trà vào giáp sông Trà Khúc. Tháng 6/1972 tiêu diệt căn cứ Cắm Dơi, các quận lỵ Quế Sơn, làm chủ quận lỵ Duy Xuyên. Địch phản kích quyết liệt chiếm lại một số quận lỵ nhưng ta vẫn còn làm chủ nhiều vùng nông thôn rộng lớn sát thị xã, thị trấn.

    Ở đồng bằng sông Cửu Long, từ Long An, Mỹ Tho cho đến Hậu Giang, Bạc Liêu khí thế tiến công và nổi dậy bùng lên mạnh mẽ khắp nơi. Các lực lượng vũ trang giải phóng đã đánh chiếm hàng trăm đồn bót, thực hiện đánh bồi, đánh nhồi, tiêu diệt và làm thiệt hại nặng nhiều chi khu quân sự, giải phóng nhiều quận lỵ và hàng chục xã liên hoàn với nhau. Riêng Bạc Liêu - một tỉnh tận cùng của miền Nam Tổ quốc, xa sự chi viện của Trung ương, của Miền, các chiến sĩ giải phóng cũng đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng các chi khu quân sự, quận lỵ Ngang Dừa, Phước Long, Thới Bình, hỗ trợ hàng vạn nhân dân phá bỏ ấp chiến lược bung về vùng giải phóng. Gần 1 triệu đồng bào ở đồng bằng sông Cửu Long đã thoát khỏi ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy. Phong trào chiến tranh du kích, chính quyền và đoàn thể cách mạng đã được khôi phục và mở rộng trên nhiều vùng giải phóng liên hoàn hàng chục xã, có nơi 2, 3 huyện nối liền nhau.

    Những chiến thắng vang dội của đồng bào chiến sĩ miền Nam đã phối hợp nhịp nhàng với những chiến công oanh liệt của quân dân miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” bắn rơi hàng loạt máy bay chiến lược B-52 ở Hà Nội - Thủ đô của Tổ quốc.

    Một năm liên tục tấn công với tinh thần bền chí, chịu đựng khó khăn, gian khổ, hết trận này đến trận khác, cuộc chiến ngày thêm ác liệt, đồng đội hết người này ngã xuống người khác lại xông lên, chiến sĩ quân giải phóng đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình: đánh, đánh tiếp, đánh cho đến khi quân địch không còn con đường nào khác phải chịu cầm bút ký vào bản Hiệp định Paris về Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Mười, 2022, 04:12:14 pm
IV- MỸ CÚT, NGỤY NHÀO


   Lịch sử lật qua trang mới: Vừa chiến đấu đánh bại mọi âm mưu và hành động chiến tranh của địch, vừa đấu tranh quyết liệt trên bàn hội nghị đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định đã ký kết.

   Một vinh dự lớn đối với quân giải phóng: Tại Lộc Ninh, trong sự tiễn đưa nồng nhiệt của đồng bào vùng giải phóng, phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do trực thăng của Mỹ đón vào tận “thủ đô” của ngụy quyền ở Sài Gòn dự Hội nghị bốn bên, bàn về việc thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam. Gọn gàng trong những bộ quân phục quân giải phóng, đầu đội chiếc mũ tai bèo đính quân hiệu ngôi sao vàng trên nền nửa xanh nửa đỏ, vai khoác súng AK, chân mang đôi dép cao su, cán bộ chiến sĩ quân giải phóng trong phái đoàn đều thấy tự hào hiên ngang đặt chân lên sân bay Tân Sơn Nhất, nơi mà dịp Tết Mậu Thân 1968 ta đã từng đọ súng quyết liệt với Mỹ - ngụy. Các nhà báo nước ngoài cũng như trong nước thi nhau quay phim, chụp hình những giờ phút lịch sử để đưa tin, ảnh trên báo đài, truyền hình khắp thế giới với lời bình luận: “Quân giải phóng Nam Việt Nam đi vào thủ đô Sài Gòn vẫn bằng đôi dép cao su giản dị đã nổi tiếng từ Mậu Thân 1968”. Sống giữa Sài Gòn quanh mình dày đặc các binh chủng quân đội đối phương, những người đại diện quân giải phóng biết chắc rằng cuộc đấu tranh trên mặt trận mới sẽ rất nhiều cam go phức tạp, nhưng vẫn vững tin chung quanh mình có đồng bào, có đồng đội ở chiến trường đang tích cực hỗ trợ đắc lực cho tiếng nói chính nghĩa giải phóng trên bàn hội nghị.

   Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết là niềm vui lớn cho chiến sĩ đồng bào miền Nam vốn yêu chuộng hòa bình, chiến đấu kiên cường cũng cốt vì hòa bình, vì hạnh phúc toàn dân. Nhưng bọn đầu sỏ ngụy quân, ngụy quyền cố tình ra sức phá hoại Hiệp định. Nguyễn Văn Thiệu tay sai Mỹ đã bộc lộ âm mưu phá hoại Hiệp định, luôn mồm hò hét “không có hòa bình với cộng sản; không liên hiệp - không thương lượng - không có lực lượng đối lập - không để lọt vào tay Việt cộng bất cứ lãnh thổ nào”. Để thực hiện chủ trương “4 không” trên, Thiệu chỉ thị cho thuộc hạ “phản ứng mau lẹ trong các cuộc lùng diệt hạ tầng cơ sở Cộng sản... Phải làm cho chiến tranh tàn lụi dần để chỉ có một chính quyền, một quân đội duy nhất của quốc gia”. Trước âm mưu thủ đoạn chiến tranh mới của quân thù, nhiều nơi ta bị động lúng túng trong việc đánh trả địch. Chủ trương binh vận hữu khuynh: “lòng đỏ vỏ xanh”, “năm cấm chỉ” (cấm đánh địch hành quân, đóng đồn bót, cấm xây làng chiến đấu...) xuất hiện trên chiến trường đã trói tay trói chân bộ đội, du kích. Ta không đánh trả, địch càng lấn tới. Trước tình hình bị động mất đất, mất dân, cán bộ, bộ đội, du kích nhiều nơi đã giấu cấp trên tổ chức đánh lén địch càn quét, đóng đồn bót trái phép để giữ địa bàn, khôi phục nơi đứng chân, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ đồng bào. Phải chăng nhờ kinh nghiệm tổn thất nặng nề của những năm sau khi ký kết Hiệp định Giơnevơ, lần này chỉ lượng sượng, lúng túng vài tháng đã được uốn nắn kịp thời. Tháng 6/1973, toàn miền Nam đã được phép “phản công địch đã vi phạm Hiệp định”. Ngày 15/10/1973, Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam đã công khai ra lệnh cho toàn quân trên Đài Phát thanh giải phóng: “kiên quyết đánh trả họ (ngụy quân ngụy quyền) vi phạm Hiệp định ở bất cứ đâu, bằng hình thức và lực lượng thích đáng, buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam, chấm dứt mọi hành động phá hoại Hiệp định của họ”. Tại bàn hội nghị ở Tân Sơn Nhất, đại diện phái đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lên tiếng cảnh cáo quân ngụy Sài Gòn phải chịu mọi hậu quả đối với hành động phá hoại Hiệp định lấn chiếm trái phép của họ. Mỹ - ngụy đòi phân chia ranh giới rạch ròi giữa ta và địch mà phần chúng kiểm soát là những vùng đông dân, nhiều cửa đường giao thông, thị xã, thị trấn. Còn giao lại cho ta rừng núi bưng biền ít dân và kinh tế còn lạc hậu nghèo nàn. Địch không thể khôn hơn ta. Ngừng bắn nguyên tại chỗ, chiến trường cài răng lược, da beo đã là nguyên tắc và cũng là thực tế không suy suyển. Đánh trả địch vi phạm Hiệp định trở thành quyết tâm và hành động kiên quyết của tất cả các chiến trường, ngay nơi chúng hành quân lấn chiếm và cả nơi chúng xuất phát hành quân đi gây tội ác. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, tiếng súng phản công và tấn công trừng trị địch vi phạm Hiệp định nổ ra đều khắp, nổi bật là ở miền Tây Nam Bộ.

    Ngay sát thủ đô của ngụy quyền Sài Gòn, chiến sĩ Đoàn 10 không thể ngồi nhìn đế quốc Mỹ ùn ùn chở bom đạn vào cho quân ngụy giết hại đồng bào. “Rừng Sác là nhà - Lòng Tàu là trận địa - quân cảng Nhà Bè là quyết chiến điểm!”, đó là lời thề của mỗi một cán bộ, chiến sĩ đặc công Rừng Sác. Quyết giáng một đòn trừng trị quân địch ngay hang ổ đầu não của chúng, 8 chiến sĩ thuộc Đội 5 do Hà Quang Vóc chỉ huy suốt mấy tháng ròng rã đội nắng, chịu rét đói khát ẩn mình trong căn cứ địch đêm cũng như ngày sống bằng cơm nắm, gạo rang, len lỏi vào trinh sát từng kho bom, từng bồn nhiên liệu của địch. Được lệnh trên, một ngày của tháng 12/1973 Đội 5 đã bất ngờ tấn công toàn khu kho Shell gây nên trận bão lửa dữ dội sáng rực cả góc trời phía đông nam Sài Gòn làm cho bọn ngụy từ tướng đến quân kinh hoàng, hoảng hốt. Các hãng thông tấn phương Tây đều đưa tin: Cả một khu kho Shell với 140 triệu lít xăng dầu, 1 tàu chở dầu 12 vạn tấn, 1 cơ sở lọc dầu hoàn toàn bị thiêu cháy. Một đòn cảnh cáo đích đáng của quân ta đối với hành động phá hoại Hiệp định của địch.

    Ở Khu 5 trong khoảng tháng 7/1974 các lực lượng vũ trang tiêu diệt nhiều cứ điểm quan trọng của địch, nổi lên trận đánh chiếm và giữ Thượng Đức. Địch điều cả 1 sư đoàn dù thuộc quân tổng trù bị, nhằm chiếm lại Thượng Đức. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Mưa giông ập đến kéo dài làm cho chiến hào, công sự, hầm trú ẩn của quân giải phóng sũng nước. Chiến sĩ ta đầu đội mưa, chân dầm trong bùn nước lầy lội, kiên cường đánh trả liên tiếp những đợt phản kích điên cuồng của địch. Lữ đoàn dù thứ nhất xông vào bị đánh quỵ, địch cho lữ đoàn dù thứ hai tiếp tục phản kích cũng phải chịu chung số phận của bọn đi trước. Một trăm ngày đêm chiến đấu ở Thượng Đức đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn dù, không những đã làm nổi bật tinh thần chiến đấu và chiến thắng mà còn báo hiệu khả năng tiêu diệt lớn của quân giải phóng. Ở miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long cũng đã xuất hiện những chiến dịch phản công giành thắng lợi lớn từ Bù Bông - Tuy Đức, đường 7 trung tuyến bảo vệ Sài Gòn buộc quân địch phải quay về bị động đối phó.

    Từ mùa mưa năm 1974, toàn bộ chiến trường miền Nam đã chuyển động đổi thay với thế thắng lợi của quân giải phóng và sự suy yếu rõ rệt của quân ngụy. Với cái nhìn chiến lược, Bộ Chỉ huy quân giải phóng đã dự kiến một mùa khô 1974-1975 đầy hứa hẹn thành công to lớn. Kế hoạch mùa khô chia hai thời kỳ đã được vạch, và việc chuẩn bị cho thắng lợi cuối cùng đã được triển khai. Quân đoàn 4, chủ lực của chiến trường miền Đông Nam Bộ - Sài Gòn đã được thành lập và huấn luyện theo phương án tác chiến và mở đầu là Đồng Xoài - Phước Long. Trong lúc đó, Lữ đoàn biệt động 310 cũng ra đời và từng đơn vị dội bom đạn, lách càn quét để xuyên găm vào Sài Gòn. Từng đơn vị bám sát mục tiêu đã được phân công trong nội thành. Đặc công đã được chấn chỉnh, học tập chiến thuật thích hợp đánh ở vùng ven ngoại thành và tiếp sức cho các hướng biệt động bên trong nội thành Sài Gòn: Sư đoàn II được hình thành. Các đoàn thể quần chúng, các đội vũ trang tuyên truyền khẩn trương sắp xếp lại lực lượng, được tăng cường cán bộ và hội viên rút từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lên, để vận động cho một cuộc nổi dậy của quần chúng bên trong Sài Gòn phối hợp với quân giải phóng đánh từ ngoài vào.

    Những cơn mưa cuối mùa vừa dứt, cùng với tia nắng ấm mùa khô tháng 12/1974 như báo hiệu cả quân dân chiến trường B2 đang sôi động vùng lên tấn công địch và đỉnh cao thắng lợi đầu mùa khô 1974-1975 là chiến dịch đường 14 - Phước Long. Ngày 13/12/1974 mở màn chiến dịch. Chỉ 5 ngày sau, chiến sĩ miền Đông đã tiêu diệt được 1 chi khu, 1 yếu khu quân sự, gồm hơn 60 căn cứ đồn bót, diệt và bắt, làm tan rã gần 2.000 địch, thu gần 900 súng, giải phóng khu vực đường chiến lược số 14 dài hơn 100km. Một tấm gương đáng nói: Đoàn Đức Thái. Anh Đoàn Đức Thái tiến đến hàng rào thứ 6 gặp địa hình dốc đứng, 4 lần đặt bộc phá bị tuột, anh đã quyết định tự mình dùng tay đỡ bộc phá, tay kia rút nụ xòe làm nổ tung hàng rào cuối cùng của địch cho đồng đội xung phong đánh chiếm chi khu kiên cố của địch mở đầu chiến dịch thắng lợi. Tiếp đó chi khu quân sự Đồng Xoài rộng hơn 40km2 với 500 lô cốt và ụ chiến đấu 8, 9 lớp rào, án ngữ một ngã tư đường quan trọng, cắt đứt căn cứ phía tây và căn cứ khu A của ta. Sau 7 giờ chiến đấu chiến sĩ ta đã tiêu diệt và bắt sống hơn 1.000 tên giặc gồm cả chi khu trưởng. Thừa thắng xông lên, bộ binh, xe tăng, pháo hạng nặng đã phối hợp nhịp nhàng tấn công liên tục chi khu Phước Bình, điểm cao Bà Rá và đến ngày 06/01/1975 - mở đầu năm 1975 toàn thắng với trận thắng vang dội: Đánh chiếm 1 thị xã và giải phóng hoàn toàn một tỉnh - tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng chỉ cách Sài Gòn 120km. Chính quyền ngụy bày trò để tang tỉnh Phước Long 3 ngày không biết để nói lên cái gì. Nhưng chắc là để cho chủ Mỹ mủi lòng mà cứu vớt cho một chế độ tay sai sắp nguy vong. Nhưng đế quốc Mỹ chỉ diễu võ giương oai ngoài biển mà rốt cuộc không dám đưa quân trở lại đất liền miền Nam Việt Nam.

    Chiến thắng Phước Long trở thành một “đòn trinh sát chiến lược” nắn gân cốt cả đế quốc Mỹ lẫn quân ngụy Sài Gòn. Quân ngụy thua đã rõ ràng. Khả năng quân Mỹ quay trở lại miền Nam rất ít. Nhà báo Mỹ Frank Sneep đã bình luận: “mất Phước Bình (Phước Long) là một đòn đau đối với chính quyền Thiệu. Đối với Thiệu và cũng như đối với Bắc Việt Nam, trận Phước Bình là trận thăm dò chính sách của Mỹ”. Phước Long - một thực tiễn sinh động, đóng góp vào quyết tâm chiến lược 2 năm của quân và dân ta: “Năm 1975 tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng toàn miền Nam. Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Bài thơ mà Bác Hồ viết trong nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Hoa trong những năm 1940 lại vô cùng ứng hiệu trong những tình huống chiến lược năm 1975:

        “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
        Kiên quyết, không ngừng thế tấn công
        Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
        Gặp thời, một tốt cũng thành công”
.

   Thời cơ đã đến rồi, ngụy thì suy sụp khôn cùng, Mỹ thì tính chuyện bỏ cuộc. Các lực lượng vũ trang của cả hai miền đều đã hội quân ở tiền tuyến lớn miền Nam. Năm 1975, tổng tiến công và nổi dậy không chỉ trên thế chủ động vững vàng, lực lượng áp đảo mà còn bằng cả mưu lược tài tình. Cả nước dốc sức chi viện cho miền Nam trong trận quyết chiến chiến lược này.

   00 giờ ngày 10/3/1975, trong khi kẻ địch đang lo tập trung đối phó ở Pleiku, Kon Tum, quân dân ta đã bất ngờ tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Trước lưỡi lê, họng súng của bộ binh và tiếng gầm rú của xe tăng ta, 8.000 quân địch đã hoàn toàn bị tiêu diệt và tan rã, các tên đại tá tiểu khu trưởng và sư đoàn phó chạy trốn nhưng không thoát. 9 giờ sáng ngày 13/3/1975, lá cờ chiến thắng của quân giải phóng đã tung bay trên đỉnh nhà tỉnh trưởng ngụy quyền.

   Trước đây Thiệu ngoan cố phá hoại Hiệp định, luôn mồm “hò hét” không để một xã, một ấp nào rơi vào tay cộng sản. Nhưng nay: Tháng 01/1975 mất toàn tỉnh Phước Long, tháng 3/1975 mất thêm tỉnh Đắk Lắk đã làm hắn điên đầu. Hắn kêu gào công khai phải “tử thủ”, nhưng bí mật ra Cam Ranh họp bàn với Tư lệnh Quân khu 2 ngụy rút bỏ toàn bộ Tây Nguyên chuyển quân chủ lực về giữ đồng bằng ven biển, bỏ lực lượng địa phương và hệ thống chính quyền ở lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng biết. Nhưng cỗ xe đã cũ trên đà lao nhanh xuống vực thẳm không sao cản nổi. Hàng vạn quân địch tháo chạy hỗn loạn khỏi Tây Nguyên, bộ đội ta truy kích, bằng mọi phương tiện cơ giới và chạy bộ. Đêm đến lấy nứa khô và cả dép cao su làm đuốc soi đường rượt địch. Bộ đội ta lại chặn đầu. Củng Sơn, điểm cuối cùng định đoạt số phận bọn rút chạy: Toàn bộ địch quân bị tiêu diệt và bị bắt sống.

   Tây Nguyên có lợi thế về quân sự ở phía nam đất nước đã được quân dân ta giải phóng hoàn toàn. Thế chiến lược của Mỹ - ngụy đã bị phá vỡ trên một địa bàn xung yếu.

   Như con bài đôminô, thất bại Tây Nguyên nặng nề, đột ngột cuốn theo những thất bại liên tiếp của Mỹ - ngụy ở ven biển miền Trung Trung Bộ, gây kinh hoàng cho cả chế độ ngụy quyền.

   Quảng Trị năm 1972, chiến sĩ ta đã kiên cường chiến đấu giữ vững thành cổ 81 ngày đêm giữa mưa bom bão đạn của địch thì Xuân 1975 chỉ trong đêm 19/3 tiến công thần tốc đã chiếm thành cổ và thị xã, cùng nhân dân nổi dậy giải phóng toàn tỉnh.

   Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh tử thủ Huế 25/3 lại vội vàng đổi lệnh cho rút chạy. Nhưng quân địch đã bị bao vây tứ phía không còn đường chạy thoát, hoàn toàn bị tiêu diệt và tan rã. Lá cờ Tổ quốc từng ngự trị nóc Phú Văn lâu hơn 1 tháng trời trong Mậu Thân 1968 nay lại xuất hiện và tung bay mãi mãi trên bầu trời Huế và Thừa Thiên giải phóng.

    Trường Sơn chuyển mình, Biển Đông dậy sóng, quân dân ta vùng lên mạnh mẽ với chiến công nối tiếp chiến công. 24/3 chiếm Tam Kỳ giải phóng Quảng Ngãi 29/3. Trong cơn hoảng loạn của quân ngụy, thanh niên, học sinh, sinh viên và mọi tầng lớp đồng bào dùng mọi phương tiện lớn nhỏ, Honda, xích lô máy... chở bộ đội cấp tốc hành quân bao vây và tiêu diệt toàn bộ quân địch trên tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 01/4, giải phóng Quy Nhơn và Tuy Hòa, ngày 02/4 chiếm Ninh Hòa và Nha Trang. Ngày 03/4 giải phóng Cam Ranh.

    Cao trào tấn công và nổi dậy ở cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ vùng lên mạnh mẽ. Mỗi chiến sĩ, đồng bào miền Đông, miền Trung Nam Bộ đều hướng về Sài Gòn để chiến đấu, để tăng nhanh lực lượng, để dốc sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Ước mong cao nhất từ khi bắt đầu nổi dậy, bắt đầu cầm súng chiến đấu nay đã được thực hiện. “Mai vàng rực sáng chiến công - Gió ngàn vang rộn, súng xuân diệt thù”. Được lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, các lực lượng vũ trang miền Đông phối hợp quần chúng bao vây tiêu diệt từng đơn vị địch, giải phóng chi khu quận lỵ, tạo bàn đạp tấn công quyết định cho các binh đoàn chủ lực theo kế hoạch đột phá 5 mũi vào Sài Gòn, thanh toán hang ổ cuối cùng của Mỹ - ngụy, đầu não chỉ huy gây bao tội ác chiến tranh.

    Hướng bắc Sài Gòn, 13/3/1975 đánh chiếm chi khu quân sự, giải phóng quận lỵ Dầu Tiếng, suối Ông Hùng, thông đường 16. Ngày 23/3 bức địch rút chạy khỏi thị xã Bình Long, sau đó Chơn Thành, ngã ba hai đường chiến lược số 14 và số 13 cách Sài Gòn 60km. Hướng đông diệt Định Quán cắt đường 20, chiếm Di Linh, sau đó thị xã Đà Lạt, làm chủ con đường chiến lược số 20 vài đoạn dài trên đường 1 Xuân Lộc. Để bao vây triệt để Sài Gòn, ngày 09/4 quân dân ta đã làm chủ đoạn đường 4 Cai Lậy, Mỹ Tho, Long An cắt Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long về phía tây. Tại Xuân Lộc ở phía đông, ta tấn công đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 18 ngụy và buộc địch đêm 20/4 rút chạy khỏi Xuân Lộc, phá vỡ một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ của địch. Sài Gòn đã bị bao vây từ phía đông. Chiến sĩ ta không còn thì giờ nghỉ ngơi và không còn ai nghĩ đến nghỉ ngơi. Điện chỉ đạo từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đã thông suốt đến từng chiến sĩ ngay từ ngày đầu của tháng 4 lịch sử. “Bất ngờ hiện nay không còn là phương hướng nữa mà chủ yếu là khâu thời gian”. “Thời gian là lực lượng”. Từ giờ phút này mặt trận quyết chiến chiến lược Sài Gòn đã bắt đầu: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975 không thể để chậm”.

    Toàn miền Nam và cả nước thi đua với thời gian để “dứt điểm” trước mùa mưa lũ. Đồng bào lại dốc sức, dốc lực tin rằng kỳ này “làm thiệt”. Các Quân đoàn 3 ở Tây Nguyên, Quân đoàn 2 ở Khu 5 mới được thành lập đã lên đường lao về Nam. Quân đoàn dự bị chiến lược từ hậu phương lớn đã cấp tốc hành quân bằng cơ giới vào cho kịp giờ nổ súng trận cuối cùng. Miền Đông thành lập thêm Đoàn 232 tương đương quân đoàn ở hướng tây Sài Gòn. Mỗi quân khu thành lập một sư đoàn, mỗi tỉnh từ 1, 2 tiểu đoàn tăng lên 6, 7 tiểu đoàn, thành lập trung đoàn, mỗi huyện từ 1, 2 đại đội tăng lên nhiều tiểu đoàn, lực lượng vũ trang lớn lên như “Phù Đổng”. Chiến sĩ hậu cần âm thầm lao động quên mình băng qua rừng sâu, vượt trên đồng nước chuyển đạn dược, lương thực, thuốc men, chuẩn bị cho chiến dịch. Hàng trên xe hơi, hàng dưới xuồng, hàng trên gióng gánh và cả trên đôi vai chiến sĩ hậu cần, thanh niên xung phong và đồng bào tình nguyện đi dân công. Tất cả được đẩy xuống sát chiến trường, có khi băng qua hàng rào đồn bót, bom đạn dịch, và xuyên thẳng đêm “ém” kho thuốc nổ, súng đạn vào giữa lòng Sài Gòn cho chủ lực, địa phương du kích, cho đặc công, biệt động và cho cả nhân dân cầm súng nổi dậy.

    Một ngày bằng 20 năm. Thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến rồi. Mở đầu kháng chiến chỉ mới có các chiến sĩ lực lượng vũ trang giải phóng trưởng thành từ phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam. Trận kết thúc hội quân đến 20 vạn từ mọi miền của đất nước. Mở đầu chỉ có súng ngựa trời, súng trường gỉ sét. Nay tại mặt trận Sài Gòn đã có cả 2.000 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, 500 xe tăng, thiết giáp và xe vận tải quân sự. Bầu trời Sài Gòn đã được bảo vệ bằng tên lửa cộng với pháo phòng không các cỡ.

    Quá trình cuộc chiến đấu thần thánh đã được ghi dấu với những mốc lịch sử lớn lao:

    Đồng khởi năm 1960, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975. Trước: 5 phân khu, 5 mũi tấn công vào Sài Gòn kết hợp với tấn công và nổi dậy tại chỗ của biệt động và nhân dân vào 5 mục tiêu chiến lược chủ yếu và hàng trăm mục tiêu khác. Nay: 5 hướng, 5 mũi với 5 quân đoàn chủ lực và tương đương, vùng ven và nội đô Sài Gòn còn tập trung 6 trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động, 2 trung đoàn, 6 tiểu đoàn, 60 tổ biệt động, hàng trăm tự vệ mật, hàng vạn quần chúng cách mạng cũng cùng tấn công vào các mục tiêu quen thuộc mà trước đây chưa hoàn thành.

    Thần tốc của chiến tranh nhân dân Việt Nam rất linh hoạt: Từ xa bôn tập đến và ngay tại chỗ đã bám trụ hàng chục năm bất thần bung lên tấn công địch.

    Hướng bắc, hướng đông, bộ binh phối hợp xe tăng vừa tấn công tiêu diệt vừa hành tiến. Hướng tây và nam, chiến sĩ bộ binh và cả xe tăng, pháo băng qua đầm lầy, đồng trống, vượt sông Vàm Cỏ để chọc thẳng vào Sài Gòn. Tiến quân thần tốc vào trung tâm thành phố là các binh đoàn chủ lực. Bảo đảm tiến quân thắng lợi trên các trục đường từ mọi hướng vào Sài Gòn, thần tốc chiến đấu là các chiến sĩ đặc công biệt động và lực lượng vũ trang tại chỗ. Khi chủ lực chưa đến, ít hơn địch gấp nhiều lần, vẫn tấn công trước 2, 3 ngày đêm đánh chiếm hàng chục cầu lớn quan trọng bao quanh và ngay trung tâm Sài Gòn. Liên tục đánh địch phản kích để giữ cầu cho đại quân đi qua. Ngày mai sẽ toàn thắng, hôm nay còn xông lên chiến đấu không nề hy sinh xương máu, phải chăng đó là điều cao quý nhất của người chiến sĩ, cán bộ đặc công, biệt động đã hy sinh cho chiến thắng và còn biết bao đồng đội, đồng chí nữa đã ngã xuống trên mọi nẻo đường tiến quân vào thành phố thân yêu và ngay tại trung tâm thành phố trong giờ phút cuối cùng. Biết bao cô gái, em bé, bà mẹ, bác nông dân, anh công nhân, cháu học sinh, sinh viên... và cả những binh lính, viên chức ngụy quyền đã dẫn đường chỉ lối cho bộ đội tiến chiếm các mục tiêu. Phối hợp với các chiến sĩ đầu mũi xe tăng, đội mũ cứng chính quy còn có những chiến sĩ đầu trần, mặc quân phục giải phóng, đi dép lê và cả những chiến sĩ chiến đấu âm thầm trong hàng ngũ địch. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc bay cao giữa nóc Dinh Tổng thống ngụy quyền và ngay bên cạnh đó đã có lá cờ nửa xanh nửa đỏ, ngôi sao vàng phấp phới - có cả “thượng sĩ ngụy” giao chìa khóa Dinh Tổng Tham mưu trưởng ngụy, giao cả tài liệu nguyên vẹn cho “thiếu úy ngụy” nhưng cả 2 đều là đảng viên cộng sản, đều là hội viên Mặt trận Dân tộc giải phóng!

    Thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh không chỉ đóng khung trên địa bàn Sài Gòn mà còn là sự phối hợp đảm bảo của toàn bộ miền Đông và đồng bằng Nam Bộ cùng lúc - “Cửu Long đã dậy sóng”. Đồng bằng cùng Sài Gòn tổng tiến công và nổi dậy đập tan mưu kế cuối cùng của Mỹ - ngụy định “lui về đồng bằng sông Cửu Long cố thủ, lấy Cần Thơ làm thủ phủ Việt Nam Cộng hòa”.

    Trà Vinh 8 giờ ngày 30/4 cuộc chiến vẫn diễn ra ác liệt quanh rào Dinh Tỉnh trưởng ngụy quyền, 50 cán bộ, chiến sĩ ta đã hy sinh trong những giờ phút cuối cùng. Trước áp lực của tiếng súng tấn công của chiến sĩ, lục cả Sơn Xốt tình nguyện vào nhà tỉnh trưởng thuyết phục. Đòn quân sự, chính trị, binh vận phối hợp đã buộc tên tỉnh trưởng đầu hàng vô điều kiện vào 10 giờ 30 phút trong ngày.

    Bạc Liêu, ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) liên tục từ 25/4 cho đến 7 giờ ngày 30/4 buộc tên tỉnh trưởng phải chấp nhận “bàn giao chính quyền”, hạ lệnh cho binh sĩ thuộc quyền buông súng đầu hàng. Quân giải phóng làm chủ một tỉnh lỵ an toàn, không tốn một viên đạn, một giọt máu của bên nào.

    Cuộc tấn công và nổi dậy ở đồng bằng kéo dài ở mọi ngóc ngách sông rạch cho đến ngày 06/5/1975 mới hoàn toàn kết thúc khi lá cờ 3 sọc cuối cùng của ngụy quyền trên đất miền Nam bị hạ ở “Tây An cổ tự” (Chợ Mới, Long Xuyên).

    21 năm chiến đấu dưới lá cờ Tổ quốc, các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, người em của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đã làm tròn sứ mạng lịch sử của mình. Hai anh em, một cha già sinh ra và dạy dỗ dưới mái nhà xiêu vẹo ngày nào. Vì nặng nợ với non sông cẩm tú, vì tồn vong của giống nòi “Tiên Rồng”, phải lặn lội ngược xuôi, em Nam anh Bắc, và giờ đây, mùa Xuân năm 1975 vĩ đại đã tạo được “Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn” - anh em lại về chung một mái nhà, sẽ dựng lại khang trang, tuy hai mà một để xây tổ ấm, bảo vệ nó cho muôn đời sau: VIỆT NAM ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT HẠNH PHÚC DÀI LÂU.

                                                                                 
Tháng 10/1990


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Ba, 2023, 09:55:32 pm
HÒA BÌNH HAY CHIẾN TRANH



      Những cuốn sách được làm ra để liên kết người ta với nhau vượt ra ngoài cái chết và để hảo vệ cho chúng ta chống lại kẻ thù ác nghiệt nhất đời: đó là sự lãng quên.
                                                 XTÉFAN XVAIG
              (Nhà văn Áo, viết trong truyện Menden - người bán sách cũ)


    Năm 1978, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương cán bộ đã công tác và chiến đấu ở các chiến trường ghi hồi ký của mình về cuộc chiến tranh chống Mỹ oanh liệt của dân tộc ta và đề nghị tôi viết về B2 trong mùa xuân thắng lợi lớn năm 1975: B2 đã chấp hành nhiệm vụ của Trung ương giao thế nào? Đã đóng góp gì vào mùa xuân vẻ vang ấy?

     Vâng, cũng như các chiến trường trên toàn quốc, để làm tròn nhiệm vụ vinh quang của mình, B2 đã đóng góp không nhỏ vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Vùng đất B2, con người B2, đã tự hào xứng đáng là một bộ phận của Tổ quốc Việt Nam anh hùng, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Nhớ lại và ghi những sự việc xảy ra ở đây là một vinh dự và cũng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ, mỗi người của B2, tôi đã nhận lời.

     Nhưng tôi nghĩ sự đóng góp của B2, một chiến trường chủ yếu, không chỉ là riêng lẻ những trận đánh, những cân gạo, những con đường, những con người ngã xuống, mà còn là những cái gì lớn hơn nhiều, có giá trị về chiến lược, nghệ thuật tổ chức, bằng thực tế thúc đẩy quá trình thắng lợi cuộc chiến tranh, có tính chất góp phần vào chủ trương đường lối của Trung ương nữa. Cũng không phải chỉ toàn là những chiến thắng anh hùng, mà còn cả những thất bại chua cay tạm thời, từng nơi, từng lúc vì tất cả đó là sự thật, và là những kinh nghiệm quý báu. Nó cũng là những nốt nhạc không thể thiếu để dựng thành bản giao hưởng anh hùng của thời đại. Vậy thì chỉ ghi lại một số sự việc của những ngày thắng lợi cuối cùng, dù là thắng lợi rất vĩ đại, cũng sẽ là một thiếu sót lớn. Muốn tạo một mùa xuân bừng sáng, không thể không trải qua mùa đông u ám, muốn có được mùa khô thắng lợi, không thể không trên cơ sở của mùa mưa năm trước. Chỉ nói về ngọn mà không nói gốc, thì thật là khó nói và nói sẽ không đúng.

     Vì vậy, tôi quyết định ghi lại những gì tôi biết và nhớ về B2 trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài. Đây là một việc không đơn giản, phải mất nhiều thời gian suy nghĩ, tìm tòi tư liệu, gặp lại cán bộ cũ, về lại chiến trường xưa, tìm lại sự thật diễn biến hết sức trung thực... Phải nhờ nhiều anh em giúp đỡ, cộng tác, phải cộng trí nhớ của nhiều đồng chí trên nhiều cương vị, nhiều khu vực chiến trường. Nhưng tôi quyết tâm làm vì xem đó là trách nhiệm cuối cùng của mình về cuộc chiến tranh giải phóng và cũng không thể trút cho ai, đối với B2, vùng đất mà tôi rất yêu quý vì hầu như suốt cuộc đời mình, sống và phục vụ ở đó từ những ngày hoạt động chính trị bí mật trước Cách mạng Tháng Tám cho tới thắng lợi hoàn toàn, thống nhất Tổ quốc và có lẽ tôi cũng sẽ chọn nằm xuống mãi mãi ở đây.


    Tôi chia tập sách của mình thành năm đoạn:

    • Đoạn 1: Từ Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 đến phong trào Đồng khởi năm 1960 (Tập 1 lấy tên là “Hòa bình hay chiến tranh”).

    • Đoạn 2: Từ năm 1961 đến năm 1965, thời kỳ chống “Chiến tranh đặc biệt” có kết quả (Tập 2 lấy tên là“Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng”).

    • Đoạn 3: Từ năm 1965 đến năm 1968, đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (Tập 3 lấy tên “Chiến tranh cục bộ”).

    • Đoạn 4: Từ năm 1969 đến năm 1973, chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và đuổi quân Mỹ khỏi Việt Nam (Tập 4 lấy tên là “Mỹ cút, ngụy nhào”).

    • Đoạn 5: Từ Hiệp nghị Paris 1973 đến ngày toàn thắng 30/4/1975 (Tập 5 lấy tên là “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm”).



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Ba, 2023, 09:58:22 pm
*
*      *


    Nhưng B2 là gì? Cho đến nay có thể nhiều người cũng chưa rõ lắm. Để tiện cho bạn dễ hiểu hơn về những sự việc ghi lại, thiết tưởng tôi cần nói một vài nét về chiến trường B2.

    “B2” là ký hiệu để gọi một vùng đất và những con người ở phần tận cùng phía nam của Tổ quốc trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Cả miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến vĩ 17 chạy về phía Nam, lúc ấy chia ra làm bốn chiến trường.

    B1 hay thường gọi là Khu 5 gồm các tỉnh ven biển miền Trung từ Quảng Nam - Đà Nẵng vào đến Phú Khánh ngày nay. B3 là vùng Tây Nguyên bao gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk. B4 là Quảng Trị và Thừa Thiên cũ. Và B2 là phần còn lại của miền Nam từ tỉnh Quảng Đức cũ, một phần ở tỉnh Đắk Lắk ngày nay, Lâm Đồng, Thuận Hải chạy vào tới mũi Cà Mau, Côn Sơn, Hà Tiên, Phú Quốc. Nó bao gồm vùng rừng núi bao la, cái đuôi của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Từ những ngọn núi cao 1.500-2.000m ở bắc Đà Lạt, Lâm Đồng, hạ thấp dần xuống phía nam Đông Nam Bộ. Tiếp theo đó là vùng đồng bằng rộng rãi phì nhiêu, đông dân, vùng lưu vực sông Cửu Long, với những căn cứ kháng chiến nổi tiếng của ta từ xưa như rừng U Minh, Đồng Tháp Mười... Đây là một vùng địa hình bằng phẳng, trống trải, ẩm thấp, ruộng lúa xen kẽ vườn tược xóm làng, bị chia cắt bằng hệ thống sông lớn như: Đồng Nai, Soài Rạp, Vàm Cỏ, Cửu Long và rất nhiều sông con, kênh, rạch. Có khu vực hầu như quanh năm ngập nước, hoặc sáu tháng nước, sáu tháng khô. Có nơi bốn mùa đều thiếu nước ngọt. Một bờ biển dài hàng nghìn kilômét và một thềm lục địa rộng giàu tài nguyên thiên nhiên với các cảng sông lớn như Vũng Tàu, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Rạch Giá... có lợi thế chọ bọn giặc xâm lược từ đại dương vào. Hệ thống đường sá ở Nam Bộ được Mỹ củng cố xây dựng phát triển cao nhất trong toàn miền Nam để đảm bảo và thích hợp với những cuộc hành quân cơ giới của chúng. Thủ đô Sài Gòn của ngụy quyền tay sai, là thành phố lớn nhất, có lúc lên đến bốn triệu dân, là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của cả miền Nam Việt Nam, nằm ngay giữa B2, liên kết với nhiều thành phố lớn khác như Đà Lạt, Phan Thiết, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá thành một hệ thống căn cứ của Mỹ - ngụy nhằm kìm kẹp đánh phá khắp nơi. Đó cũng là trung tâm áp dụng chính sách thực dân kiểu mới, nơi lan truyền cách sống Mỹ sa đọa, nơi tiêu dùng hàng hóa Mỹ và phục vụ cho các đội quân viễn chinh đông đảo và lực lượng tay sai. Mỹ - ngụy tổ chức miền Nam thành bốn vùng chiến thuật. Kể từ Bến Hải trở vào, tính là Vùng 1 cho đến Vùng 4 ở đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Sài Gòn nằm giữa Vùng 3 chiến thuật, tổ chức thành biệt khu thủ đô, nơi đầu não chỉ huy, là trung tâm bộ máy chiến tranh xâm lược của Mỹ - ngụy.

    Chiến trường B2 của ta chiếm khoảng 1/2 đất đai và khoảng 2/3 dân số của toàn miền Nam, tương ứng với một phần Vùng 2 và cả Vùng 3, Vùng 4 của địch cộng lại.

    Để tiện cho việc chỉ đạo, chỉ huy trong cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, ta chia B2 thành: Khu 6 (phần cuối đất Trung Bộ), Khu 7 (miền Đông Nam Bộ), Khu 8 (miền Trung Nam Bộ), Khu 9 (miền Tây Nam Bộ) và thành phố Sài Gòn - Gia Định 1.

    Cũng cần nói thêm là khoảng 3/4 biên giới giữa nước ta và Campuchia là nằm trên phạm vi B2. Nơi đó có các đường bộ, đường sông nối liền hai nước như các quốc lộ 1, 22, 13, sông Cửu Long, Sở Thượng, kênh Vĩnh Tế và các đường, các sông nhỏ khác. Nhân dân hai nước từ xưa quan hệ tốt với nhau trong công việc làm ăn, buôn bán, quen biết, bà con... thường qua lại thuận lợi trên các đường sá, sông rạch dọc biên giới. Và cũng từ xưa đến nay số phận hai dân tộc trên hai bờ vai biên giới khi nào cũng gắn bó nhau, cùng chung lưng chiến đấu cho hạnh phúc của nhau, có vui cùng hưởng, có buồn cùng chia.

    Con người B2 ngay thẳng, trung thực, tính tình phóng khoáng, có lòng yêu nước nồng nàn luôn luôn hướng về Bác Hồ muôn vàn kính yêu, hướng về Thủ đô Hà Nội - Thăng Long với niềm tin bất diệt.

    Con người B2 có niềm tự hào với những chí khí quật cường cứu nước, cách mạng từ xưa như các phong trào chống Pháp của Nguyễn Trung Trực, Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều, Thủ khoa Huân, Trương Định, có tâm hồn yêu nước cương trực và tấm lòng thủy chung của Nguyễn Đình Chiểu... với “đám lá tối trời”, Cần Giuộc, Gò Công, với “Mười tám thôn vườn trầu” Hóc Môn, Bà Điểm... B2 còn ôm ấp chiến công hiển hách của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong “Tiếng sóng Rạch Gầm”, còn lưu luyến tha thiết dấu vết người đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, vị lãnh tụ Hồ Chí Minh anh minh - ở thị xã Phan Thiết, ở bến Nhà Rồng... Rồi bao nhiêu máu của những người đi trước đã đổ trong các phong trào Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, Cách mạng Tháng Tám năm 1945... Tất cả những truyền thống ấy luôn luôn nhắc nhở, thôi thúc người dân B2 sẵn sàng đứng lên một khi đã thức tỉnh, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc.




-----------------------------------------------------------------
1. Những tỉnh trong các khu vực:
    -   Khu 6: Quảng Đức (Gia Nghĩa), Tuyên Đức (Đà Lạt), Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bình Tuy.
    -   Khu 7: Phước Long, Long Khánh, Phước Tuy (Bà Rịa), Bình Long, Bình Dương (Thủ Dầu Một), Biên Hòa, Tây Ninh, Hậu Nghĩa.
    -   Khu 8: Long An (Tân An), Kiến Tường (Mộc Hóa), Kiến Phong (Sa Đéc), Định Tường (Mỹ Tho), Gò Công, Kiến Hòa (Bến Tre).
    -   Khu 9: Châu Đốc, An Giang (Long Xuyên), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Phong Dinh (Cần Thơ), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Kiên Giang (Hà Tiên, Rạch Giá), Chương Thiện, An Xuyên (Cà Mau).
    -   Đặc khu Sài Gòn - Gia Định.




Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Ba, 2023, 10:00:25 pm
*
*      *

    Viết những dòng suy nhớ này tôi chỉ mong làm tròn nghĩa vụ của một chiến sĩ được may mắn sống và hoạt động ở một thời đại quang vinh của Tổ quốc, của dân tộc, trước hết là nghĩa vụ đối với B2, đúng ra là với những con người của B2, mà tôi hằng yêu mến; đặc biệt là đối với những bạn bè, người thân, đồng chí, đồng đội, những con người đã quen biết, có quê hương khắp đất nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau, đã ngã xuống trên đất B2, đã đem máu của mình đã nhuộm thắm từng tấc đất B2 để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, cho Bắc - Nam sum họp một nhà, cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là những con người có công to đối với thắng lợi vĩ đại vừa qua của dân tộc. Đúng, chỉ có họ, những người không chút tính toán, hiến dâng trọn vẹn cuộc sống của mình là những người xứng đáng nhất cho con cháu nghìn đời sau mãi mãi ghi nhớ công ơn. Nghĩa vụ rất đỗi thiêng liêng ấy, mà cũng là mệnh lệnh của lịch sử, của nhân dân là ghi nhớ lại một cách trung thực, suy nghĩ một cách đúng đắn về những diễn biến; những sự kiện; những chịu đựng và hy sinh cao cả của mảnh đất và con người B2 mà tôi đã chứng kiến; được biết và còn nhớ.

    Tất nhiên, do sự hiểu biết cũng như trình độ ghi chép có hạn, do phạm vi mỗi bài viết, mỗi tập sách chỉ có thể tập trung nói về một số vấn đề nào thôi, nên tiếc thay, tôi không thể nói hết ở đây những sự tích thần kỳ của những con người Việt Nam trên đất B2 đã thực hiện cương quyết, dũng cảm và sáng tạo sự lãnh đạo và chỉ đạo tài tình của Trung ương Đảng trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài và oanh liệt, đã đóng góp sức lực, tài trí của mình vào cuộc chiến thắng lịch sử. Tôi chỉ mong ghi lại chút ít sự tích ấy trong phạm vi hiểu biết của mình, để đóng góp phần suy nhớ của mình với những người còn sống của ngày nay và của cả mai sau. Đó cũng là trả nợ phần nhỏ nào cho những người đã bỏ mình vì dân tộc, vì giai cấp trên đất B2.

    Chính vì trách nhiệm nặng nề như vậy mà tôi tự đề ra cho mình một quy định: Viết đúng sự thật hoàn toàn, những sự thật có người đã biết, cũng có người chưa hề biết, có người thích cũng như có người không thích. Vì lịch sử khi nào cũng công minh sẽ loại trừ không thương tiếc những gì sai sự thật, không hôm nay thì cũng ngày mai. Tôi mong rằng bạn đọc khắp nơi, nhất là anh em đã từng hoạt động ở chiến trường B2, góp ý kiến và bổ sung những thiếu sót, những gì chưa đạt. Tôi sẽ rất hãnh diện và hàm ân.

    Tôi cũng xin tỏ ở đây lòng cảm động và biết ơn đông đảo các đồng chí, bạn bè đã khuyến khích đã giúp đỡ, góp ý kiến, công tác trên mọi phương diện vô cùng quý báu.

    Xin cảm ơn các đồng chí ở các ban tổng kết chiến tranh, các bộ phận tư liệu của Bộ Quốc phòng, của Quân khu 7, Quân khu 9, của Thành phố Hồ Chí Minh, các đồng chí ở các ban chỉ huy tỉnh đội thuộc B2 cũ, đặc biệt hai đồng chí Đại tá Nguyễn Viết Tá và Trung tá Võ Trần Nhã đã để nhiều công sức sưu tầm tài liệu, liên hệ các địa phương, góp phần xứng đáng vào nội dung tập sách này 1.




------------------------------------------------------------------
1. Lời nói đầu này đã in ở Tập 5 - Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm vì Tập 5 được xuất bản trước. Nay có chỉnh sửa cho phù hợp, in lại ở Tập 1 - Hòa bình hay chiến tranh. Không in ở Tập 2, Tập 3, Tập 4 và Tập 5 (tái bản).


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Ba, 2023, 10:12:30 pm
(https://i.imgur.com/RHtkzUW.jpg)


BỐI CẢNH LỊCH SỬ
“VÌ CÓ LỬA NÊN CÓ KHÓI”


    Điện Biên Phủ - ngày 07/5/1954, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng, đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đã quyết định số phận của thực dân Pháp ở Đông Dương.

    Điện Biên Phủ thực sự là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam anh hùng, ghi dấu một thời kỳ lịch sử hiện đại vẻ vang của Tổ quốc Việt Nam hùng vĩ.

    Từ đó đến nay và mãi mãi sau này, những âm thanh đẹp, hào hùng: “Việt Nam -Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh” sẽ mãi mãi ngân vang không dứt khắp bốn phương trời, mỗi khi loài người còn nhắc đến những trang sử đấu tranh bất khuất của các dân tộc vì độc lập tự do, vì phẩm giá con người.

    “Tinh thần Điện Biên Phủ ngày nay là ánh đèn pha chiếu rọi cho hàng triệu người bị áp bức trên thế giới” - Nhà thơ yêu nước Haiiti Rone Depextoro đã phát biểu như vậy năm 1960.

    “Điện Biên Phủ được coi như là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành lại tự do và độc lập. Điện Biên Phủ đã trở nên niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức, là một cống hiến lớn lao của nhân dân ta vào cao trào giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn cõi hoàn cầu.

    Điện Biên Phủ còn là thắng lợi to lớn của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Không có thắng lợi Điện Biên Phủ thì chắc chắn Hội nghị Giơnevơ không thu được kết quả, hòa bình không được lập lại ở Đông Dương”
  1.

    Điện Biên Phủ đúng là đã đóng góp quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954.

    Khi yêu cầu Mỹ viện trợ và giúp đỡ, Thủ tướng Pháp Bidault đã nhận định: Hay dở gì thì vận mệnh của Đông Nam Á bây giờ nằm ở Điện Biên Phủ... Thắng hoặc thua ở Giơnevơ là tùy thuộc ở kết quả tại Điện Biên Phủ”  2.

    Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thì Hiệp nghị Giơnevơ cũng ngã ngũ.

    Ngày 21/7/1954, Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của một nước Việt Nam và hai nước Campuchia và Lào. Hiệp định đã quy định việc chấm dứt chiến sự, quy định giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự giữa hai miền Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) và việc chuyển quân tập kết của hai bên. Hiệp định cũng cấm đem vào Việt Nam mọi quân đội và vũ khí đạn dược, cấm thành lập các căn cứ quân sự của một nước ngoài nào, cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Hiệp định cũng giành cho nhân dân Việt Nam quyền tự do bày tỏ ý muốn rằng cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956 và có những điều khoản bảo vệ tính mệnh và tài sản của mọi người, để cho mọi người được tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống, cấm những hành động trả thù cá nhân hoặc tập thể, bất cứ hình thức nào, đối với những người và với gia đình họ, đã từng hợp tác trong chiến tranh với bên này hay bên kia.

    Bản “Tuyên bố cuối cùng” đề ngày 21/7/1954, một văn kiện quan trọng, thành phần chính thức của Hiệp định Giơnevơ, có những điều khoản rõ ràng như sau:

    “... 2. Hội nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam. Hội nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản ghi trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự sẽ làm cho ba nước Cao Miên, Lào và Việt Nam từ nay có thể đảm nhận với độc lập và chủ quyền hoàn toàn vai trò của mình trong tập thể hòa bình của các nước.

    “... 4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và việc cấm đem vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như tất cả các thứ vũ khí, đạn dược...

    5. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam quy định rằng không được thành lập một căn cứ quân sự nào của một nước ngoài trong những vùng tập kết của đôi bên. Đôi bên có nhiệm vụ không để những vùng được trao cho mình tham gia bất cứ một khối liên minh quân sự nào và dùng vào việc gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược...

    6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự, và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ. Hội nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản định trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự tạo ra cơ sở cần thiết để giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam trong một thời gian ngắn.

    7. Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20/7/1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.

    8. Phải triệt để thi hành những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mệnh và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.

    9. Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam cũng như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác, bất cứ dưới hình thức nào, với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người đó...”.

    Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Chính phủ Mỹ đã long trọng đưa ra bản tuyên bố trong đó có một số điểm chủ yếu như sau:

    “Chính phủ Mỹ kiên quyết đem hết cố gắng của mình để củng cố hòa bình phù hợp với các nguyên tắc và mục đích của Liên hợp quốc, ghi nhận các Hiệp định đã ký kết tại Giơnevơ ngày 20 và 21/7/1954.

    1. Mỹ sẽ không dùng đe dọa và vũ khí để phá hoại nó, phù hợp với khoản 2 (4) của Hiến chương Liên hợp quốc, liên quan đến nghĩa vụ của các hội viên là không đe dọa hoặc dùng vũ lực trong các quan hệ quốc tế của họ.

    2. Mỹ sẽ coi bất cứ việc diễn ra lại hành động xâm lược nào vi phạm các Hiệp định đã nói ở phần trên với sự lo ngại sâu sắc coi như là đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.

    Chúng tôi tán thành hy vọng là các Hiệp định sẽ cho phép Campuchia, Lào và Việt Nam giữ vai trò của họ, trong độc lập và chủ quyền hoàn toàn, ở trong cộng đồng hòa bình của các dân tộc và sẽ tạo điều kiện cho các dân tộc ở khu vực đó quyết định tương lai của họ”.

    Ngoài ra, chín nước tham gia Hội nghị Giơnevơ đã ra một tuyên ngôn bảo vệ hòa bình ở Đông Dương.




---------------------------------------------------------------------
1. Trích sách Điện Biên Phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979. Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1954 là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và là người chỉ huy trực tiếp chiến dịch Điện Biên Phủ.

2. Điện của Douglas Dillon - Đại sứ Mỹ tại Pháp gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Foster Dulles, ngày 05/4/1954.



Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Ba, 2023, 06:32:42 am
*
*     *


    Thế là sau ngót chín năm chiến tranh, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia sắp sửa hưởng một nền hòa bình chân chính, được quốc tế thừa nhận. Quân hai bên chuẩn bị tập kết về miền được quy định, nhân dân Việt Nam chuẩn bị một cuộc sống hòa bình nơi nào mình muốn ở và được tự do lựa chọn những người đại diện tin cậy của mình, chế độ chính trị nào đem lại hạnh phúc cho mình, vào ngày 20/7/1956, sau hai năm ký kết Hiệp định Giơnevơ. Quý báu biết bao một nền hòa bình đạt được bằng xương máu, bằng cả nước mắt đau thương và những trận cười chiến thắng của cả một dân tộc đã ý thức rõ rệt được quyền làm chủ bờ cõi non sông của ông cha để lại, đã nối dõi được truyền thống nghìn đời đấu tranh cho độc lập tự do và thống nhất.

    Thế nhưng sự thật việc đời thường rất phức tạp, chưa bao giờ lại chỉ diễn biến đơn giản theo một chiều suôn sẻ. Cùng với nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới nhiệt liệt hoan nghênh Điện Biên Phủ, hòa bình, hữu nghị, dân chủ, trong lúc đó đế quốc Mỹ mà bản chất của chúng không hề thay đổi là gây chiến và xâm lược, là thôn tính đất đai và tài nguyên người khác, là áp đặt lối sống và chế độ chính trị mà chúng muốn lên đầu lên cổ các dân tộc, gấp rút chuẩn bị một dòng nước ngược tàn phá, độc ác, chống lại hạnh phúc tự do của người dân Việt, chống lại hòa bình ở Đông Dương và trên thế giới.

    “... Bốn ngày sau khi ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hội đồng an ninh quốc gia của chính quyền Eisenhower (Mỹ) đã khẳng định rằng Hiệp định đó là “một thảm họa” và đã chấp thuận các hành động nhằm ngăn cản sự bành trướng thêm nữa của cộng sản ở Việt Nam.

    ... Các quyết định đó của Hội đồng an ninh quốc gia có nghĩa là Mỹ đã giữ một vai trò trực tiếp trong việc cuối cùng phá hoại giải pháp Giơnevơ”  1.

    Việc trước tiên mà chính quyền Mỹ gấp rút tiến hành cả trước và sau Hiệp định Giơnevơ, không đếm xỉa gì đến Hiệp định Giơnevơ và bản tuyên bố long trọng của chính mình, quyết gây chiến tranh, phá hòa bình chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam là cố dựng nên một chính quyền tay sai mạnh ở miền Nam Việt Nam  2, phá hoại và làm suy yếu rối loạn miền Bắc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ra sức ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất đất nước Việt Nam vào tháng 7/1956.

    Muốn làm như vậy Mỹ phải hất cẳng Pháp chiếm lấy miền Nam Việt Nam.

    “... Hội đồng an ninh quốc gia (Mỹ) trong cuộc họp ngày 03/8/1954, sau Hiệp định Giơnevơ, đã ra lệnh là phải có một chương trình khẩn cấp viện trợ kinh tế và quân sự, thay thế cố vấn Pháp bằng cố vấn Mỹ - cho Chính phủ Ngô Đình Diệm mới thành lập ở miền Nam Việt Nam.

    ... Các mục tiêu do Hội đồng đề ra là duy trì Nam Việt Nam thân thiện không cộng sản và ngăn chặn cộng sản thắng lợi thông qua cuộc tổng tuyển cử ở Việt Nam”  3.

    Vì biết rằng nếu tiến hành tổng tuyển cử thì chắc chắn các bè lũ Việt gian theo Mỹ sẽ thất bại, nhân dân Việt Nam sẽ bỏ những lá phiếu cho những người yêu nước chân chính, cho hòa bình độc lập và thống nhất Tổ quốc và như vậy đế quốc Mỹ sẽ bị tống cổ ngay từ ngày ấy nên Mỹ tìm mọi mưu mô không diễn ra tổng tuyển cử.

    “Ngay từ ngày 07/7/1954, trong thời gian Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles đã gợi ý là Mỹ cần phải tìm cách trì hoãn cuộc tổng tuyển cử và đòi có những điều kiện đảm bảo mà chắc là cộng sản sẽ bác bỏ”.

    Trong bức điện mật gửi Thứ trưởng Ngoại giao Walter Bedel Smith thay thế khi ông rút khỏi Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles viết:
    “Vì chắc chắn tổng tuyển cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh nên điều quan trọng hơn hết là trì hoãn tuyển cử càng lâu càng tốt sau khi ký Hiệp định đình chiến và chỉ tuyển cử trong những điều kiện không có sự đe dọa để tạo cho các phần tử dân chủ có cơ hội tốt nhất”.

    Như thế có nghĩa là chỉ tuyển cử sau khi có thời gian để tiến hành mọi mưu kế gian xảo đen tối hầu đưa lại thắng lợi cho bọn tay sai Mỹ, không được như vậy thì không tổng tuyển cử. Thật là dân chủ tự do theo kiểu Mỹ!

    Cũng không đợi đến Hội nghị Giơnevơ mới hành động, trong tháng 6/1954 chính quyền Eisenhower đã phái một phái đoàn Mỹ sang Việt Nam để bắt đầu tiến hành những hành động bí mật chống Việt Minh, trong khi hội nghị đang họp.

    Phái đoàn này do Đại tá Lansdale cầm đầu, Lansdale là nhân vật CIA nổi tiếng là chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến tranh chống du kích ở Philíppin là nơi ông đã giúp Tổng thống Romon Masaysay đàn áp những người khởi loạn Hukbalahap do cộng sản lãnh đạo.

    Nhà Trắng đã hấp tấp tiến hành phá hoại Việt Nam bằng hoạt động bán quân sự - mở màn cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam - của phái đoàn quân sự Sài Gòn (viết tắt SMM) được vội vã thành lập và điều Lansdale từ Philíppin sang cầm đầu phái đoàn này vào cuối tháng 5/1954. Lansdale kể: “Một điện văn từ Oasinhtơn đã chấm dứt công việc của tôi ở đây (Philíppin). Tôi phải sang Sài Gòn ngay bằng phương tiện chuyên chở nào sớm nhất”  4.

    Nhiệm vụ của phái đoàn Lansdale là “phải tiến hành các hoạt động bán quân sự chống kẻ địch và tiến hành chiến tranh chính trị tâm lý”.

    “Sau đó, sau Giơnevơ, phái đoàn được thay đổi để chuẩn bị các phương tiện tiến hành các hoạt động bán quân sự ở các khu vực cộng sản chứ không phải tiến hành chiến tranh không chính quy”.

    Khi thời hạn - 09/10 - ấn định cho phép rút khỏi Hà Nội tới gần, phái đoàn đã tìm cách phá hoại một số cơ sở then chốt ở Hà Nội.

    Bản báo cáo (của phái đoàn Lansdale) kể lại là: “Người ta được biết nhà in lớn nhất ở miền Bắc có ý định ở lại Hà Nội và làm việc cho Việt Minh. Phái đoàn SMM đã đề ra kế hoạch phá hủy các phương tiện ấn loát hiện đại nhưng các nhân viên an ninh của Việt Minh đã vào nhà máy và đã làm thất bại kế hoạch này”  4.

    “Chính là đội công tác của phái đoàn ở Hà Nội đã bỏ ra nhiều đêm cho thuốc vào các động cơ của hãng xe hơi ở Hà Nội để cho các xe hơi của họ dần dần bị hư hỏng sau khi Việt Minh tiếp quản thành phố”.

    “Đồng thời đội công tác của phái đoàn đã thực hiện cái mà bản báo cáo gọi bằng “những cuộc tấn công tâm lý chiến trong bóng tối”. Nghĩa là cuộc chiến tranh bằng những tài liệu giả là của đối phương. Đội đã in những cái gọi là những tờ truyền đơn ký tên Việt Minh chỉ thị cho người Bắc Bộ phải xử sự như thế nào khi Việt Minh tiếp quản Hà Nội vào đầu tháng 10 trong đó có những vấn đề tài sản, cải cách tiền tệ và cho công nhân nghỉ việc ba ngày lúc tiếp quản”.

    “Kế hoạch này nhằm đe dọa dân chúng đã thành công”.

    “Bản báo cáo cho biết một ngày sau khi phân phát những tờ truyền đơn đó, số đăng ký di cư (muốn thoát khỏi Bắc Việt Nam) đã tăng lên gấp ba...”.

    “Ở miền Nam, phái đoàn đã thuê những nhà chiêm tinh học Việt Nam - mà nghề nghiệp của họ được nhiều người châu Á rất tin tưởng - để tập hợp những niên dịch đoán định những điều không lành đối với Việt Minh và những điều tốt lành với chính phủ mới của thủ tướng Diệm”.

    “Bản báo cáo cho biết thêm để tiến hành những hoạt động ở Bắc Việt Nam sau khi đoàn đã rút khỏi Hà Nội, Thiếu tá Lucion Conein - một sĩ quan của phái đoàn SMM đã tuyển dụng một nhóm nhân viên Việt Nam mang tên mật mã là Bình”.

    “Nhóm này đã được Mỹ huấn luyện và giúp đỡ coi như những người Việt Nam yêu nước, để cuối cùng giao cho một chính phủ khi chính phủ đã sẵn sàng tiến hành những hoạt động như vậy. 13 người trong nhóm Bình này đã được bí mật đưa ra ngoài qua cảng Hải Phòng và trong giai đoạn đầu đã được các tàu hải quân Mỹ đưa tới khu vực huấn luyện của họ”.

    “Trước khí rút khỏi Hải Phòng vào tháng 5/1955 cơ quan vận tải hàng không dân dụng (CAT) - một hãng hàng không đặt trụ sở ở Đài Loan và do tướng Claire Chennault điều khiển, đã bí mật chuyển vũ khí từ Sài Gòn đến Hải Phòng cho nhóm Bình”...

    “Bản báo cáo cho biết tiếp là một đội khác gồm 21 người, mang bí danh là nhóm HAO được tuyển mộ từ Sài Gòn đã được bí mật đưa ra một chiếc tàu của hải quân Mỹ và được ngụy trang thành những người culi rồi đưa đến một địa điểm bí mật để huấn luyện”.

    “Vũ khí để cung cấp cho nhóm HAO được không quân Mỹ bí mật chuyển tới Sài Gòn”.

    “Chúng tôi đã chuyển bí mật vào Việt Nam khoảng tám tấn rưỡi đồ tiếp tế cho nhóm quân sự HAO. Số hàng này gồm 14 máy vô tuyến, 300 súng cạcbin, 90.000 viên đạn cácpin, 50 súng lục, 10.000 viên đạn súng lục và 300 pound chất nổ. Hai tấn rưỡi cung cấp cho nhóm HAO ở Bắc Kỳ, số còn lại được SMM cất giấu dọc sông Hồng với sự giúp đỡ của hải quân”...

     “Theo bản báo cáo trong năm tài chính 1955 chi phí của phái đoàn quân sự Sài Gòn (SMM) đã lên tới 228.000 đôla. Đó là chưa kể tiền lương của các sĩ quan Mỹ hoặc phí tổn về vũ khí lấy ở các kho của Mỹ”...

     “Thiếu tá Conein báo cáo tình hình cho nhóm hoạt động bán quân sự Bình biết và cho từng người thâm nhập miền Bắc”.

     “Ngày 16/5 Việt Minh tiếp quản Hải Phòng. Các đội Bình và HAO của chúng tôi ở miền Bắc đã có mặt, trang bị đầy đủ... Làm việc này công khai thật là khó khăn nhưng giữ bí mật không cho Việt Minh, Ủy ban quốc tế gồm những người Canađa, người Ba Lan và người Ấn Độ đầy nghi kỵ và thậm chí cả người Việt Nam bạn bè được biết. Việc chuyển người và trang bị phải tiến hành trên quãng đường dài hàng nghìn dặm...”.

     Đi đôi với những công tác phá hoại, hoạt động bán quân sự, chiến tranh tâm lý chống lại miền Bắc Việt Nam, chống lại “Việt cộng” có nghĩa là chống lại khối nhân dân yêu nước đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam Việt Nam, tên phù thủy Lansdale của đế quốc Mỹ còn ra sức xây dựng ngụy quyền Ngô Đình Diệm mạnh đủ sức làm tay sai đắc lực cho Mỹ. Hắn đã lặn lội nhiều lần lên tận núi Bà Đen (Tây Ninh) dùng tiền của, danh lợi lôi kéo, mua chuộc Trịnh Minh Thế về giúp Ngô Đình Diệm. Hắn đã dùng mưu kế và mọi khả năng làm thất bại sự chống đối quyết liệt lại bọn Ngô Đình Diệm của Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng ngụy quân lúc ấy, của lực lượng Bình Xuyên, của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và những tay chân khác của Pháp như tên Le Roy, tư lệnh lực lượng gọi là tự vệ lưu động Thiên Chúa giáo (chủ yếu ở An Hóa, Bến Tre) và cả người Pháp nữa. Hắn đã thảo qua kế hoạch bình định nông thôn và các kế hoạch khủng bố “tố cộng”, “diệt cộng”... cho Diệm. Hắn không từ một thủ đoạn nào, một phương tiện nào như tiền của, uy lực, tàn sát dã man, “kỹ thuật rỉ tai”, “chiến dịch rỉ tai”  5, truyền đơn và tài liệu giả... để đạt mục đích. Tên sĩ quan cao cấp CIA Landsdale quả là người thực hành có kinh nghiệm mọi mưu mô đặt ra và chỉ huy từ Nhà Trắng có sự yểm trợ của Cơ quan tình báo Mỹ (CIA), Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), Sở Thông tin Mỹ USIS, sứ quán Mỹ và tất cả các tổ chức khác ở trong cũng như ở ngoài Việt Nam của Mỹ.

    Như vậy là Hội nghị Giơnevơ đang còn thảo luận để chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương thì Mỹ đã dùng phái đoàn của Landsdale (SMM) mở đầu thời kỳ chiến tranh xâm lược của Mỹ để thay thế (từ tháng 5, 6/1954). Hòa bình chưa kịp đến thì chiến tranh đã chồng nối chiến tranh. Nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thực tình mong đợi và ra sức bảo vệ hòa bình thì đế quốc Mỹ hoảng hốt lồng lộn chống lại hòa bình.

    Người phân tích bản tài liệu cho biết Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phản đối việc Pháp thương lượng để chấm dứt chiến tranh mạnh đến mức “tổng thống buộc phải báo cho Paris biết rằng việc Pháp thỏa thuận cho cộng sản thôn tính Đông Dương sẽ gây tác hại đến địa vị là một trong ba nước lớn”  ...

    Sở dĩ như vậy là chính vì chính sách của Nhà Trắng định ra từ Oasinhtơn không phải căn cứ vào tình hình kinh tế ở Đông Dương, vào ý chí đấu tranh của nhân dân, vào nguyện vọng của các dân tộc ở vùng này, mà xuất phát từ chiến lược toàn cầu của đế quốc đầu sỏ Mỹ nhằm làm bá chủ hoàn cầu.

    “Một vấn đề then chốt xảy ra từ mùa đông 1949-1950 khi Mỹ làm cái bản tài liệu gọi là một quyết định rõ ràng làm ảnh hưởng chính sách của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm tới: Sau khi lục địa Trung Hoa rơi vào tay những người cộng sản Trung Quốc, chính quyền Truman đã chuyển sang ủng hộ vua Bảo Đại và cung cấp viện trợ quân sự cho người Pháp chống lại Việt Minh”.

    “Bản tài liệu viết: Với hành động này “đường lối chính sách của Mỹ được ấn định là ngăn chặn sự bành trướng hơn nữa của cộng sản ở châu Á”. Và sau đó Mỹ trực tiếp dính líu vào tấn bi kịch đang phát triển ở Việt Nam”...

    “Lôgic cơ bản của việc Mỹ tham gia - mà sau này được gọi bằng thuyết Đôminô - đầu tiên được Hội đồng an ninh quốc gia nêu rõ ràng vào tháng 02/1950 khi hội đồng quyết định mở rộng viện trợ quân sự cho người Pháp ở Đông Dương”.

    “Bản tài liệu cho biết thêm là trong giai đoạn thứ hai xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 1954, lúc Hội nghị Giơnevơ đang họp thì Tổng thống Eisenhower đã chỉ thị cho các phụ tá thảo ra một bản nghị quyết yêu cầu quốc hội trao cho ông quyền đưa quân Mỹ đến Đông Dương”  .

    Và từ tháng 3 năm 1954, Ngoại trưởng Mỹ Dulles đã tuyên bố: “Từ nay Đông Dương nằm trong khu vực bất khả xâm phạm của chiến lược Mỹ”.

    Mỹ đã lồng lộn chống lại cuộc thương lượng hòa bình ở Giơnevơ, làm mọi áp lực buộc Pháp phải tiếp tục chiến tranh Đông Dương nếu không Mỹ sẽ tự mình tiến hành tiếp cuộc chiến bất kể Pháp. Bị vong lục của Ủy ban đặc biệt Mỹ ngày 05/4/1954 đề nghị:

    1. Chính sách của Mỹ là không chấp nhận điều gì khác ngoài thắng lợi quân sự ở Đông Dương.

    2. Lập trường của Mỹ tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với chính sách này. Mỹ cương quyết phản đối mọi giải pháp thương lượng về Đông Dương tại Giơnevơ.

    3. Lập trường của Mỹ trong trường hợp không làm được điều 2 ở trên thì đề ra những biện pháp cấp bách với chính phủ quốc gia liên kết tiếp tục cuộc chiến tranh ở Đông Dương, có sự tham gia tích cực của Mỹ mà không có sự ủng hộ của Pháp nếu cần thiết.

    Chính vì vậy, Mỹ luôn âm mưu lôi kéo nhiều nước khác cùng với Mỹ xâm lược Đông Dương. Khi Hiệp định Giơnevơ ký chưa ráo mực, ngày 08/9/1954 Mỹ đã cùng Anh, Pháp và một số nước chư hầu thành lập khối xâm lược Đông Nam Á (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối đó.

    Tất cả những sự việc được kể hết sức tóm tắt ra trên đây là nguồn gốc cơ bản của diễn biến tình hình ở Việt Nam và Đông Dương trong những năm 1950, 1960 và 1970. Trong những năm ấy, toàn bộ Đông Nam Á đã sôi động dữ dội, Thái Bình Dương không còn thái bình nữa mà đã dậy sóng chiến tranh. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp được Mỹ tìm mọi cách nuôi dưỡng từ rất sớm:

    Ngày 08/5/1950, Oasinhtơn báo tin sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp ở Đông Dương bắt đầu bằng một khoản 10 triệu đôla... cuối cùng chương trình viện trợ quân sự của Mỹ lên tới 1,1 tỷ đôla năm 1954, gánh chịu đến 78% chiến phí của Pháp.

    Mặc dầu như vậy Pháp thua vẫn hoàn thua và phải ngậm bồ hòn mà tìm cách rút lui bỏ cuộc. Nhưng Mỹ lúc ấy cho rằng Mỹ không thể nào ngậm phải bồ hòn như Pháp (thực sự sau này còn hơn bồ hòn nhiều) và vì “thiên chức” lãnh đạo thế giới nên hùng hổ nhảy vào. Mỹ nhảy bổ vào trong lúc Pháp tiếc rẻ còn muốn ở lại bằng phương pháp khác không phải chiến tranh nên Mỹ phải hất cẳng Pháp, nhanh chóng độc chiếm miếng mồi béo bở để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Chiến tranh chồng nối chiến tranh là như vậy đó.

    Nhưng Mỹ phá Hiệp nghị Giơnevơ, phá tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, hùng hổ nhảy vào Việt Nam, muốn “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17” như đã mớm cho tên tay sai Ngô Đình Diệm tuyên bố công khai, không phải không tính toán cân nhắc. Mỹ coi thường Việt Nam là một nước nhỏ không đáng kể, chỉ gờm sự can thiệp của hai nước lớn là Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng Liên Xô thì ở xa mà Trung Quốc ở gần, vì vậy quan trọng trước mắt là phải bắt mạch Trung Quốc, việc này không khó khăn lắm. Trong suốt quá trình Hội nghị Giơnevơ Mỹ đã chủ tâm quan sát và đặc biệt là qua Pháp, người đối thoại trực tiếp với Trung Quốc mà hiểu rõ Trung Quốc nghĩ gì và muốn gì.




------------------------------------------------------------------
1. Trích sách Các văn kiện của Lầu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Thời báo Niu Oóc in thành sách và phát hành trong tháng 7/1971. Thông tấn xã Việt Nam dịch, phát hành năm 1971. Chương 1 đề “Những năm dưới thời Truman và Eisenhower 1945-1960”.

2. Hai tuần trước khi ký Hiệp định Giơnevơ, ngày 07/7/1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thành lập chính phủ bù nhìn (công cụ tay sai của Mỹ). Ngô Đình Diệm là một tên đầu sỏ phong kiến, đã từng làm tay sai cho đế quốc Pháp và đế quốc Nhật, được Mỹ nuôi dạy từ tháng 11/1951 ở trường thần học tiểu bang Niudali, dưới sự bảo trợ của Giáo sư Spenman.

3. Các văn kiện của Lâu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Sđd, Chương I.

4. Hồi ký của E.G. Lansdale do Nhà xuất bản Harper of Now (Mỹ) phát hành năm 1972, nhan đề In the Midst of Wars, Chương I.

5. Những từ chính Landsdale dùng trong hồi ký của y, đã nói ở phần trên, khi huấn luyện và chỉ đạo công tác của Phòng 5 Bộ Tổng Tham mưu ngụy năm 1954.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Ba, 2023, 06:33:49 am
*
*      *


   Các dân tộc thuộc ba nước Đông Dương mà lịch sử đấu tranh hàng trăm năm đã từng gắn bó với nhau trong tình láng giềng hữu nghị, hiện đang đứng trước nguy cơ làm những con tốt đen trên bàn cờ quốc tế. Đế quốc Pháp thất bại nặng nề nhưng vẫn tiếc rẻ con mồi thuộc địa không muốn thả ra, còn muốn dùng thủ đoạn khác để ở lại. Đế quốc Mỹ với tinh thần chống cộng điên cuồng, muốn dập tắt phong trào cách mạng giành độc lập của các dân tộc, muốn dùng Đông Dương làm lá chắn chiến lược chặn đứng ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Không buộc được Pháp trụ vững ở Đông Dương, Mỹ muốn tự mình nhảy vào, biến Đông Dương làm đầu cầu chiến lược trên đất liền châu Á, để nô dịch các dân tộc. Đi đôi với dùng biện pháp quân sự, Mỹ ra sức dùng biện pháp ngoại giao gây sức ép và ve vãn hòng làm cho Liên Xô và Trung Quốc không tích cực ủng hộ Việt Nam, đồng thời lôi kéo nhiều nước khác cùng Mỹ góp tiền và máu thực hiện tội ác xâm lược. Ba nước Đông Dương có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt ở vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương, đang trở thành sân khấu diễn biến các mưu đồ đen tối dồn dập của các cường quốc và chư hầu của họ. Nhưng nhân dân Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo mà không hèn yếu, đã có truyền thống đấu tranh bất khuất hàng nghìn năm, được lãnh tụ kính yêu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo vững vàng, đoàn kết chiến đấu cùng các dân tộc anh em Lào, Campuchia “thà chết chứ không chịu làm nô lệ”, được bạn bè khắp năm châu giúp đỡ cổ vũ đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của mình đến cùng.

   Trong bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam cũng vô cùng phức tạp và lâu dài.

   Ai có ngờ đâu bầu trời hầu như hửng sáng của mùa thu năm 1954 ở ba nước Đông Dương lúc ấy lại sắp sửa vẩn đục hơn lên vì khói lửa của chiến tranh tàn khốc, tàn khốc gấp nhiều lần chín năm đã qua.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Ba, 2023, 06:42:16 am
CHƯƠNG I
Đi và ở


    Đồng Tháp Mười trong những ngày tháng 9, tháng 10 cuối mùa mưa, nước ngập mênh mông tràn đầy sông rạch. Những trận mưa như trút nước vào buổi chiều hạ thấp vòm trời u ám. Ngược lại những buổi sáng trời cao xanh, nắng rọi dòng kênh thẳng tắp, cây cối tươi mát của làng mạc tiếp nối nhau vẽ nên một cảnh đồng quê êm đềm bát ngát. Cảnh vậy buồn hay vui? Nào ai đã xác minh được dứt khoát. Có lẽ lẫn lộn vừa buồn lại vừa vui, có phiền lo, cũng có phấn khởi của lòng người rộn ràng phức tạp đầy mâu thuẫn vào những tháng ngày lịch sử ấy của năm 1954 mà kẻ đi xây dựng tương lai và người ở đấu tranh cho hòa bình thống nhất.

    Từ giữa tháng 8/1954, chiến trường đã im tiếng súng khi lệnh ngừng bắn theo Hiệp định Giơnevơ quy định đã có hiệu lực. Thật là tuyệt diệu, kỷ luật tự giác của những người cách mạng. Khắp rừng sâu, bưng lầy hẻo lánh, khắp làng mạc phố phường, từng chiến sĩ du kích, từng đơn vị vũ trang lớn, nhỏ đang thừa thắng xông lên diệt địch, khí thế bừng bừng sông núi, tiếng kèn xung trận vang lừng; có đêm hạ hàng tá đồn bót giặc, có ngày diệt và rã đến hai ba tiểu đoàn địch; vùng giải phóng mở rộng thênh thang, cờ đỏ sao vàng Việt Minh tung bay tứ phía; nhân dân vui mừng nô nức đi dân công tiếp tế, các má, các chị đi úy lạo bộ đội và săn sóc thương binh; quân địch thì khiếp vía kinh hồn, bị diệt ít mà chạy và rã nhiều. Nhưng đúng ngày giờ quy định ngừng bắn thì chiến trận mọi nơi ngừng hẳn. Bầu trời bỗng nhiên êm ả lạ lùng. Người trong cuộc như vừa tỉnh một giấc mơ, như ngỡ ngàng trước cảnh thanh bình vụt đến khiến ta chưa kịp nghĩ rồi đây cuộc sống sẽ thế nào, trong lúc tâm tư người chiến sĩ còn đang hướng tới những chiến thắng đang chờ họ. Không, sao lại ngừng tấn công nhỉ? Ta đang thắng lợi kia mà? Sức ta còn đủ để nỗ lực thừa thắng xông lên giải phóng hoàn toàn Tổ quốc thân yêu. Thời cơ này hết sức thuận lợi sao ta không nắm lấy mà ngừng lại nửa chừng? Và vì sao lại vĩ tuyến 17 mà không 13 hay ít hơn 16? Mừng vui thật sự vì hòa bình đang đến. Đất nước rồi đây độc lập, dân ta tự do xây dựng hạnh phúc lâu dài. Nhưng ấm ức trong lòng ta bị thiệt thòi, kết quả đạt được của Hiệp nghị Giơnevơ chưa tương xứng với thắng lợi của ta! Nhưng niềm tin tưởng to lớn vào Đảng, Bác Hồ đã giúp chúng ta tự giải đáp. Chẳng qua ta chưa hiểu hết ngọn nguồn, phải đâu chỉ có chiến trường ta mà còn tình hình cả nước và tình hình quốc tế vô cùng phức tạp nữa chứ.

   Thế là những ngày tháng 8 còn lại, rộn rịp hành quân từ mọi ngả tập trung về các khu được Hiệp định quy định để rồi tập kết ra miền Bắc: Chiến trường Nam Bộ có khu 80 ngày Hàm Tân - Xuyên Mộc, khu 100 ngày Đồng Tháp Mười và khu 200 ngày Cà Mau.

   Tôi đã cùng một số lực lượng vũ trang ra đi tập kết từ khu Đồng Tháp Mười tại bến Cao Lãnh. Nam Bộ vào thời kỳ cuối cuộc chiến tranh chống Pháp ta chia làm hai phân liên khu: miền Đông và miền Tây. Các lực lượng từ các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa và một phần của Thủ Dầu Một hành quân về Hàm Tân - Xuyên Mộc và xuống tàu từ đây ra Bắc. Số lực lượng còn lại từ Thủ Dầu Một, Tây Ninh đến Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Long Châu Sa thì về Đồng Tháp Mười để xuống tàu ở bến Cao Lãnh. Các tỉnh thuộc Phân liên khu miền Tây đi tập kết tại bến Cà Mau.

   Các đồng chí trong Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ được Trung ương và Trung ương Cục chỉ định mỗi người phụ trách một công việc: anh Phạm Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư, Chính ủy Phân liên khu miền Đông, người nhiều tuổi nhất trong chúng tôi và đã từng lãnh hai án tử hình một lúc của thực dân Pháp trước đây vì đã dám làm cách mạng chống Tây (nhưng chưa kịp thi hành), cùng anh Nguyễn Văn Vịnh - Phó Tư lệnh, đảm nhận Trưởng và Phó Tiểu ban Liên hợp lãnh thổ phía Nam đóng ở Phụng Hiệp (Cần Thơ), sau dời về Sài Gòn - Gia Định. Anh Hoàng Dư Khương (Hoàng Xang) - Phó Bí thư Đảng ủy thì lãnh đạo các bộ phận ở lại và phong trào quần chúng đấu tranh thi hành Hiệp nghị. Còn tôi - Tư lệnh, thì phụ trách tổ chức và chỉ huy các lực lượng vũ trang tập kết ra miền Bắc. Chúng tôi chia tay nhau hết sức cảm động tại khu rừng căn cứ Dương Minh Châu phía bắc Tây Ninh. Không phải cảnh mưa dầm lê thê cuối mùa trong những ngày ấy làm nẫu lòng người mà chính lòng người, tình đồng chí thân yêu, vui buồn lẫn lộn trong cảnh chia tay bắt buộc, đã khiến cảnh trời có phần u ám. Nào ai đã học hết chữ ngờ. Trong lúc tạm xa nhau vì công việc sau bao ngày chung sống và chiến đấu gian khổ gay go trong chiến tranh, chúng tôi đâu có hình dung được mỗi người rồi đây gặp riêng một cảnh ngộ rất khác nhau. Có bao giờ lại nghĩ đến tương lai của riêng mình trong những ngày tháng ấy. Tương lai của mỗi người gắn chặt với tương lai của đất nước và dân tộc với nhiệm vụ của Đảng giao phải hoàn thành một cách xuất sắc nhất, không mảy may suy tính.

    Hôm nay chia tay để ngày mai gặp lại trong cảnh huy hoàng của Tổ quốc thân yêu, chỉ có lòng tin sắt đá ấy mới gạt mọi ưu tư.

    Anh Phạm Hùng và tôi may mắn hơn, lại được cùng công tác chung trong Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền những năm đánh Mỹ cho đến thắng lợi hoàn toàn. Anh Hoàng Dư Khương ở lại miền Nam trong Xứ ủy Nam Bộ. Nhưng một thời gian không lâu anh đã bị địch ngang ngược bắt đày đi Côn Đảo suốt 19 năm trời và vì cương cường bất khuất nên giặc đã nhốt anh nhiều năm trong “chuồng cọp”  1. Năm 1974, thấy anh đã tàn tạ, không còn ra ngoài nữa, địch mới thả anh ra giữa Sài Gòn với âm mưu để rồi bí mật thủ tiêu cho êm thấm. Nhưng nhanh tay hơn, chúng tôi đã tổ chức đón anh về căn cứ và thật là mừng mừng tủi tủi khi gặp lại nhau, cùng sống bên nhau một số thời trước xa xôi rồi, ngỡ ngàng trước thời cuộc, lạ lùng trước mọi sự việc. 19 năm hay gần 7.000 ngày bị giam cầm ở Côn Đảo rồi còn gì, cách biệt mịt mù với cuộc sống và đấu tranh diễn ra quyết liệt và nhanh chóng lạ thường. Tình đồng chí của chúng tôi càng thắm thiết và có lẽ đây là những ngày tôi rất sung sướng được vỗ về an ủi, chăm lo từng miếng ăn, viên thuốc cho những người bạn cùng chí hướng từ những ngày khổ cực xa xưa và có lẽ anh cũng được sung sướng nhiều trong sự săn sóc trìu mến của đồng chí giữa bầu trời tự do, nhìn rõ cảnh thắng lợi đi lên chắc chắn của cách mạng.

    Sau những ngày được Đảng săn sóc tận tình ở Hà Nội, anh trở về miền Nam khi hoàn toàn giải phóng, lấy bệnh viện làm nhà, bác sĩ và y tá làm gia đình thân thuộc trong những ngày cuối đời, thay thế cho vợ con đều đã hy sinh trong thời kỳ kháng chiến...

    Cũng cần nói thêm, vợ anh chúng tôi thường gọi là chị sáu Kim Nguyên, là một đảng viên cộng sản đấu tranh kiên cường trong cả hai cuộc chiến tranh. Chị đã dũng cảm chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man khi bị địch bắt, không hé răng để giữ vẹn toàn bí mật và tổ chức của Đảng. Chị đã từ giã cõi đời do vết thương tra tấn tàn bạo của Mỹ - Diệm trong lúc anh đang quằn quại trong chuồng cọp Côn Đảo. Vinh quang thay cuộc đời của một chiến sĩ, vẻ vang thay sự hy sinh dâng hiến của cả một gia đình cách mạng cho sự nghiệp Tổ quốc, cho hạnh phúc của toàn dân.

    Còn anh Nguyễn Văn Vịnh, sau khi hết nhiệm kỳ ở Tiểu ban Liên hiệp quân sự một thời gian, anh được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với quân hàm Trung tướng, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III và làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Chính phủ ở Hà Nội, theo dõi và bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam...




-----------------------------------------------------------------
1. Chuồng cọp: Là một loại buồng giam chật hẹp dưới hầm tối âm u ở Côn Đảo. Mỹ đã cố vấn cho ngụy tiếp tục “truyền thống” của thực dân Pháp mở rộng và củng cố khu giam cầm địa ngục này. Chuồng cọp để giam những người mà địch cho là nguy hiểm nhất, cứng đầu nhất nhằm làm cho người bị giam ngày một tàn tạ cả sức khỏe và trí tuệ tâm hồn, nếu có ra khỏi tù cũng thành một người không còn có tác dụng gì cho xã hội nữa.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Ba, 2023, 06:46:20 am
*
*      *

    Sau khi ngừng bắn có hiệu lực, các cuộc chuyển quân rộn rịp tiến hành thường xuyên qua nhiều làng mạc suốt trong những ngày tháng 8. Có những đơn vị từ căn cứ Long Nguyên, Bến Cát, từ Hố Bò, An Nhơn Tây, Dương Minh Châu ở miền Đông Nam Bộ rầm rầm rộ rộ kéo ngang gần thị xã Tây Ninh, thị trấn Gò Dầu, Đức Hòa để về Đồng Tháp. Có đơn vị từ rừng Gia Thuận, từ Bình Ninh, An Thạnh Thủy, Gò Công từ rừng Thạnh Phú vượt sông, vượt lộ hiên ngang diễu qua cạnh thị xã Mỹ Tho, thị trấn Cai Lậy để về Cao Lãnh. Rồi từ Mộc Hóa, Đức Huệ, từ Hồng Ngự, Lai Vung tiến về Mỹ Trà, Mỹ Ngãi. Thật là đội ngũ chỉnh tề rầm rập bước chân chiến thắng. Ở các vùng yếu, vùng sâu, ở thị xã, thị trấn lớn, đồng bào lâu nay dễ gì công khai gặp được anh Vệ quốc, có chăng chỉ là tưởng tượng ra những người khổng lồ, oai phong lẫm liệt, đánh ngã một lúc hàng loạt tên lính Pháp to con, sau khi nghe được trận chiến thắng của ta. Hay khó hình dung nổi khi địch tuyên truyền rằng lính Việt Minh “bảy người đeo cọng đu đủ không gãy”. Giờ đây các ông già, các bà, các chị đặc biệt là các cô nữ sinh thành thị, các em thiếu niên, từ trong vườn nhà hay kéo nhau ra một góc đường phố nhìn bộ đội Cụ Hồ hành quân ngang qua: “Ồ! Đủ cả súng nhỏ súng to, có đạn gì mà hai người khiêng cũng còn có vẻ nặng. Mà anh em khỏe quá, đẹp quá, người nào cũng tươi vui, hành quân mà như trẩy hội”. Nhưng bà con không thể biết hết được cái đẹp cao quý từ bên trong của mỗi một con người. Anh chiến sĩ Vệ quốc đoàn, người lính của Bác Hồ, mới hôm qua còn hăng say rượt giặc đầy khí phách “bầu trời xông thẳng, chín tầng chửa thấy là cao” (Cao Bá Quát) mà hôm nay được lệnh tập trung đã lưng quảy nóp  1, súng ngang vai về nơi quy định.

    Mới hôm qua vừa ngừng tiếng súng anh đã mơ về xóm ấp quê hương: Mẹ già bao năm xa cách hẳn đang mong đợi bên rào bông bụt, hay anh chị, bà con láng giềng đang ngóng ở rặng trâm bầu đầu làng. Người Việt Nam nào lại không gắn bó tình cảm của mình với bà con làng mạc, một mảnh cụ thể của Tổ quốc bao la, vì tình cảm ấy mà quyết tâm ra đi chiến đấu đến thắng lợi rồi thì được lệnh chuyển quân tập kết về miền Bắc xa xôi, cách trở cả nghìn cây số. Đành rằng miền Bắc, miền Nam vẫn là Tổ quốc của ta, vì Tổ quốc thống nhất ấy mà ta sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh. Nhưng bụi trúc, bờ tre, con kênh, cụm chuối, mẹ già, vợ trẻ, cô bác bên nhà, em trai, cháu gái vẫn là hình ảnh sao mà thân thương, sao mà bịn rịn. Đi hay ở? Lòng anh chiến sĩ thật bâng khuâng xao xuyến. Có đêm nào trong những đêm đang chiến đấu mà nằm trăn trở suốt năm canh vì chuyện ở hay đi như những đêm này. Đi hay ở? Đi để học tập huấn luyện, xây dựng một quân đội hùng mạnh cho đất nước sau này - ta đã được hoàn toàn giải phóng đâu. Đi để xây dựng miền Bắc yêu thương, nửa nước đầu tiên được độc lập, công lao xương máu của mọi người, nhất là những người đã ngã xuống. Đi còn được biết Thủ đô, còn được gặp Bác Hồ - Người cha thân yêu của cả dân tộc, mà từ lâu mơ ước trông chờ. Nhưng ở cũng phải đâu là ngừng, nghỉ. Quân thù đâu phải là người có tín, nghĩa. Chúng có trăm phương nghìn kế để không chịu thi hành hiệp nghị thì sao? Ai mà tin được bọn đã từng đi cướp nước và bán nước. Phải ở thôi, ở cùng bà con đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng buộc chúng thi hành hiệp nghị cho nước non về một mối, Nam - Bắc một nhà. Lý lẽ này thật hấp dẫn, xử sự như vậy ắt là hợp lý hợp tình...

    Không biết bao nhiêu những khó khăn giằng xé tim gan, nát lòng, nát ruột trong đi và ở. Mẹ già ở lại côi cút, con trẻ ra đi. Chồng thì tập kết mà vợ thì mới cưới vài ngày, vài tuần, vài tháng thì ở lại, hoặc ngược lại người cha thì ở lại mà mẹ và con bồng bế xuống tàu. Biết bao gia đình chia năm xẻ bảy. Vợ chồng nhà văn Lưu Quý Kỳ đi tập kết nhưng mẹ già bắt phải để hai con nhỏ lại để bà nuôi. Trong bài viết “Trên tàu tập kết”, nhà văn đã kể lại lời bà khăng khăng: “Tao già rồi tao không muốn sống đơn chiếc. Con Hai bỏ nhà đi theo kháng chiến tám, chín năm trời. Bây giờ ta đánh Tây thắng lợi rồi, chúng bây ra Bắc có đôi, có anh em bạn bè, có Cụ Hồ, có Chánh phủ mình... chúng bay phải để hai đứa nhỏ ở lại với tao cho khuây khỏa tuổi già. Hai năm nữa chúng bay về..”  2.




-------------------------------------------------------------------
1. Nóp: Là một đồ dùng của dân nghèo và chiến sĩ Vệ quốc vùng đồng bằng sông Cửu Long trước đây, đan thủ công bằng cọng bàng giã dẹt phơi khô. Cây bàng mọc nhiều ở vùng sâu vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nóp dùng làm chiếu trải nằm, dùng làm mùng ngủ chống muỗi, làm mền chống lạnh. Bộ đội hành quân thời chống Pháp gói quần áo vào trong nóp mang trên vai thay cho ba lô. Trong chiến trận nóp là bệ tì của súng để bắn. Khi đóng quân nóp là bàn kê để chép bài học hay viết thư về nhà, cho người yêu mong đợi. Như vậy chỉ một chiếc nóp thôi, anh chiến sĩ Vệ quốc đoàn đã thay thế được nhiều: mùng, mền, ba lô, bàn, bệ... Vừa giản tiện vừa nhẹ nhàng lại rẻ tiền mà ai cũng có thể sắm. Chiếc nóp trở thành vật bất ly thân, là gia tài trên lưng của người chiến sĩ Vệ quốc nghèo mà dũng cảm chịu đựng mọi khó khăn.

                                    “Chiều hôm em đứng giã bàng,
                              Thương anh quảy nóp trong hàng quân đi”.

    Chưa hết, chiếc nóp còn thủy chung theo người chiến sĩ đến cùng vào tận lòng đất: Khi chiến sĩ ngã xuống, đồng đội sẽ dùng nó làm quan tài, khâm liệm thi hài chôn cất ở nơi nào đó của đất nước thân yêu.

2. Bài “Trên tàu tập kết” của Lưu Quý Kỳ in trong sách Nước về biển cả, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1975.


Tiêu đề: Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Ba, 2023, 06:50:30 am
    Những chuyện như vậy là phổ biến. Không phải chỉ phổ biến với những người miền Nam tập kết mà có lẽ cả với những người miền Bắc bị dụ dỗ và lừa gạt vào Nam. Vì vậy mà “hai năm” đã trở thành nỗi mong chờ của hàng triệu trái tim Việt Nam thời ấy. Kẻ nào đi ngược lại ước vọng lớn lao và thiêng liêng ấy, kẻ đó nhất định sẽ bị thất bại là tất yếu rồi.

    Nhưng rồi tất cả đều phải ngã ngũ dứt khoát. Cứ nghe theo Bác Hồ, tuân lệnh của Đảng là đúng. Cấp trên đã phổ biến cặn kẽ kế hoạch ai đi, ai ở. Đi hay ở không còn chỉ có cái nghĩa thông thường là ở lại và ra đi. Nó là nhiệm vụ thiêng liêng được giao cho mỗi cán bộ, chiến sĩ. Ta đã ký Hiệp định Giơnevơ, ta làm đúng theo quy định: Bộ đội chiến sĩ phải đi tập kết, người kháng chiến khác ở lại sống như dân thường dù người ấy là đảng viên hay đoàn viên nông hội. Ta sẽ gặp lại sum vầy sau hai năm, sau tổng tuyển cử. Gần chín năm trời xa nhà đi chiến đấu còn được thì hai năm đâu có sá gì. Thế là người đi kẻ ở đều đã xác định thái độ và đều tin tưởng mãnh liệt vào sự thắng lợi cuối cùng của cách mạng, vào sự sum họp của gia đình gắn liền với thống nhất Tổ quốc sau hai năm. Hai năm không còn chỉ là cái mốc thời gian đơn giản, mà đã trở thành niềm tin và lẽ sống: Cách mạng nhất định sẽ thành công, non sông sẽ liền một dải, gia đình nhất định phải đoàn tụ, đất nước phải độc lập tự do...

    Thế là khắp các làng xã thuộc huyện Cao Lãnh, nhà cửa dọc các sông rạch từ Mỹ An, Ba Sao ra Hòa An, Cao Lãnh, từ Phong Mỹ về An Bình, Mỹ Tho, đâu đâu cũng có “bộ đội của mình” đóng. Và nữa, có phải chỉ có bộ đội hành quân tập kết đâu. Đồng bào từ khắp chốn, từ những làng mạc xa xôi, từ các thị xã, thị trấn, cả ở Sài Gòn xuống và Cần Thơ lên cùng kéo về Đồng Tháp Mười, về Cao Lãnh hoặc về Cà Mau để tìm đứa con, người em, người cháu đã ra đi từ ngày nảo ngày nào, và giờ đây lại sắp đi xa. Còn các má chiến sĩ nữa, các má cũng đổ về Đồng Tháp Mười để tiễn các con đi bộ đội ra Thủ đô, đi gặp Cụ Hồ. Các má khi nào cũng vững niềm tin, giữ trọn nghĩa tình chung thủy và muốn gửi gắm ở những đứa con chiến sĩ ra đi nỗi niềm non nước. Các má còn gửi cho con đưa ra dâng cho Bác Hồ, Trung ương Đảng “nắm đất miền Nam”. Đất này là mồ hôi nước mắt của bao đời ông cha khai phá, là máu xương của nhiều lớp chiến sĩ quyết tâm bảo vệ đến cùng. Đất này là của những trái tim và khối óc Việt Nam, con Hồng cháu Lạc sinh ra cùng một bọc, và ngày nay có chung một Cụ Hồ. “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”; “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.

    Lời Bác nói là tiếng vọng của non sông ngàn đời không tắt.

    Thôi thì tấp nập đường bộ, đường sông, bến xe nào cũng đông đặc, xe hàng nào cũng chật ních người. Các kênh, các rạch dập dìu thuyền nhỏ, thuyền to. Mang theo người cũng đủ thứ của ngon vật lạ, sản phẩm địa phương, món quà quê hương gây thương gây nhớ. Từ những trái bom 1 trân trọng gói từng trái bằng giấy mỏng, bình trà “Lý Thông Tích”, thuốc lá “Côtáp”, “Mêliaa” đỏ, trắng, vàng của người Sài Gòn, tới vài trăm con gà, con vịt, rổ bánh xèo, nồi canh chua cá lóc, ơ tép rang với niêu cơm nếp của bà má nghèo ở Hậu Thạch trên kênh Dương Văn Dương. Và những trái bầu dài, bí rợ hai da tận miền biển Vàm Láng, Cây Khô, tĩn nước mắm ngon, con cá đỏ của chị em Chợ Cũ - Mỹ Tho, trái dưa hấu đầu mùa xanh vỏ đỏ lòng của bà con Long Toàn, Long Vĩnh - Trà Vinh. Nhiều nhất vẫn là gạo dẻo nếp thơm, gạo nàng hương Chợ Đào, gạo nanh chồn Gò Công, những quả dừa xiêm ngọt nước cùng các thứ bánh kẹo, rồi thuốc giồng Thủ Đức, xim mẫn Cao Lãnh và xen vào đấy còn có những tá khăn thêu “tặng anh Vệ quốc đoàn Chiến khu 8” của các em nữ sinh Trường Côle Mỹ Tho nữa chứ. Tất cả là tình cảm tràn đầy, là tấm lòng chất chứa, có thủy, có chung, tình quân dân thắm thiết của kẻ ở gửi gắm người đi, và người đi nhắn nhủ người ở lại. Hai ngón tay giơ lên với cặp mắt long lanh hứa hẹn, thế thôi, không cần một lời nào, khi gặp nhau trên đường đi, khi chia tay sau một đêm liên hoan hay một cuộc míttinh quần chúng. Không ai bảo ai, mà “hai năm” đã thành khẩu hiệu hành động, đã là lời thề sắt đá.

    Cảm động nhất, gắn bó nhất là đám cưới tập thể diễn ra ngay tại Cao Lãnh trong ngày tháng 10 năm ấy. Những cô gái quê Gò Công, nơi “đám lá tối trời” của Trương Định, đã được các má dẫn lên tận nơi tập trung quân của Tiểu đoàn 309 để làm lễ cưới cùng các chiến sĩ của tiểu đoàn, trước khi các con đi tập kết  2. “Các con liệu mà trọn niềm chung thủy, sau hai năm về đây, các má sẽ giao lại tụi nó vẹn toàn”, các má đã bảo đảm như vậy.

    Thị trấn Cao Lãnh những ngày ấy thật tấp nập rộn ràng. Tình gia đình, tình quân dân, tình bè bạn dạt dào, sâu đậm. Cán bộ chiến sĩ trước khi về Bắc muốn lưu lại cái gì đối với địa phương thân yêu: Sửa lại các ngôi nhà cho đồng bào, dựng một mái trường cho các em nhỏ, bắc cầu, sửa đường... nghĩa là cái gì có ích cho dân là làm. Vì cũng không thể quên những đồng đội đã ngã xuống giờ đây hẳn cũng mỉm cười nơi chín suối. Họ cố xây nên một đài liệt sĩ “Tổ quốc ghi công” để nhớ ơn người đã hy sinh vì nghĩa cả. Nghĩ đến Bác Hồ vĩ đại, họ đã ra công xây lại ngôi mộ của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, người đã sinh ra một anh hùng dân tộc cho đất nước đứng lên.



------------------------------------------------------------------
1. Trái táo.

2. Tiểu đoàn 309 đã hoạt động một thời gian ở Gò Công cho đến khi ngừng bắn chuyển quân tập kết. Trai anh hùng, gái thuyền quyên đã cùng nhau hứa hẹn, nhưng đột nhiên ngừng bắn chuyển quân. Sáng kiến của các má chiến sĩ là làm lễ cưới cho chúng nó để chúng nó không bao giờ quên mảnh đất truyền thống này, sau hai năm hãy trở về sum họp.