Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2022, 11:19:00 am



Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2022, 11:19:00 am
- Tên sách: Hồi ức chiến tranh
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
- Năm xuất bản: 1999
- Người số hóa: giangtvx, vnmilitaryhistory


LỜI GIỚI THIỆU CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

(https://i.imgur.com/MKgDiz1.jpg)


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2022, 11:30:17 am
ĐIỂM ĐỘT PHÁ


Trích chương hai
Đường tới Điện Biên Phủ


1

Sáng ngày 5 tháng 8 năm 1950, đoàn nghiên cứu thực địa lên đường rất sớm. Sương mù dày đặc. Chúng tôi phóng ngựa trên con đường đá chưa có người qua lại. Đoàn khá đông. Ngoài tham mưu phó chiến dịch Phan Phác, trưởng phòng quân báo, phó văn phòng Bộ, còn có anh Lâm Kính, Tham mưu trưởng Đại đoàn 308, và anh Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn, anh Vũ Năng An, nhà nhiếp ảnh. Nhiều văn nghệ sĩ sớm có mặt ở chiến dịch. Anh Lê Liêm, Chủ nhiệm chính trị, đã đề nghị với Bộ cho hai văn nghệ sĩ cùng đi. Năm trước, Trần Đăng, một nhà văn trẻ rất có triển vọng của ta, đã hy sinh tại mặt trận này.


Mặt trời đứng bóng, chúng tôi tới đèo Mã Phục, ở đây có ngã ba Quảng Uyên - Trà Lĩnh - thị xã Cao Bằng. Đồng chí Quốc Trung, trưởng đài quan sát, đã đứng đón. Chúng tôi để ngựa lại, bỏ đường cái, bắt đầu đi theo đường rừng.

Trời không mưa, nhưng đường rất lầy lội. Trèo đèo, lội suối, qua nhiều khu rừng rậm rịt, mãi nửa buổi chiều mới tới một đỉnh núi ở ngoại vi thị xã Cao Bằng. Đài quan sát đặt tại đây với một kính viễn vọng có bội số quang học lớn. Trưởng đài nhắc mọi người chú ý ngụy trang, không đi lại, không đứng lố nhố, vì ngọn núi này nằm ngay cạnh sân bay, trong vòng lượn của máy bay. Tiểu đội bảo vệ nhanh chóng bố trí cảnh giới.


Tôi tới vị trí quan sát nhìn xuống phía dưới chỉ thấy một biển sương mù. Tôi hỏi trưởng đài:

- Từ đây tới thị xã bao xa?

- Báo cáo anh, khoảng 1.000 mét theo đường chim bay. Khi trời quang, nhìn thị xã bằng mẳt thường rất rõ. Ngọn núi này nằm ở phía đông thị xã.

Chúng tôi đứng chờ khá lâu. Chưa nhìn thấy chút bóng dáng thị xã. Tôi nói:

- Đi trinh sát thời tiết này có một ưu điểm: bảo đảm bí mật. Địch không thể nhìn thấy mình!

Mọi người đều mỉm cười. Tôi hỏi Quốc Trung:

- Phải chờ tới khi nào?

- Nếu trời có gió là nhìn rõ thị xã ngay.

Bỗng nghe tiếng hát và tiếng đàn từ đâu đây vọng lại rất gần. Quốc Trung nói:

- Đó là tiếng máy hát ở một đồn tiền tiêu.

Người chiến sĩ đứng gác máy quan sát bỗng quay lại nói:

- Trời bắt đầu có gió to. Sắp nhìn thấy thị xã.

Tôi trở lại vị trí đặt kính viễn vọng. Sương mù phía dưới đang trôi đi. Thung lũng hiện ra với những mỏm đồi đỏ loét, rồi vệt sáng lấp lánh ánh vàng của một con sông. Một người nói:

- Sông Bằng Giang!

Cả thị xã đã nằm trước mắt. Tôi đã nhiều lần qua lại Cao Bằng nhưng lúc này nhìn từ trên cao, qua kính viễn vọng, Cao Bằng rất khác.

Hai con sông Bằng và sông Hiến như đôi cánh tay ôm vòng lấy ba mặt thị xã. Những đường phố hầu như nguyên vẹn với hai dãy nhà quét vôi trẳng và nhựng hàng cây xanh. Một chiếc Dakota nằm trên sân bay dưới chân núi, bên tả ngạn sông Bằng. Nổi bật lên ở một góc thị xã là tòa thành cũ, bộ đội thường gọi là pháo đài, có tường cao và dày bao bọc. Cái tôi mới nhìn thấy lần đầu là ngoài hai con sông, còn có một hệ thống những đồn tiền tiêu địch đã xây dựng trên những quả đồi bao quanh thị xã. Màu đỏ ối của những vị trí này và những hàng rào dây thép gai như dập vào mắt. Tôi lần lượt đếm được 15 vị trí.


Đồng chí Phan Phác bước lại đứng bên tôi, trỏ con đường số 4 nằm quanh co bên sườn núi chạy vào thị xã, sân bay Nà Cạn, chiếc cầu màu đen nằm vắt ngang sông Bằng. Đây là một trục đường mà quân ta có thể tiến vào thị xã. Anh lại trỏ tiếp lần lượt từ trái qua phải, pháo đài Cao Bằng, trại lính lê dương, trại lính ngụy, phố xá, cổng ra vào thị xã, trụ sở ngụy quyền.


Tôi hỏi đồng chí Cao Pha, trưởng phòng quân báo:

- Trinh sát của ta đã vào tới sân bay và bờ sông chưa?

Tổ trưởng trinh sát báo cáo đã cho hai trinh sát viên hai lần lợi dụng ban đêm tiềm nhập nhưng đều nhưa tới được sân bay và bờ sông, vì cách sân bay 500 mét địch đã lập một hệ thống đồn bốt ngăn chặn, ngày đêm có quân cảnh lê dương đi tuần tra.

Tôi quay lại hỏi tiếp Phan Phác:

- Đồng chí đã trực tiếp quan sát phía nam pháo đài và phía tây thị xã lần nào chưa?

- Tôi đã hai lần đến thực địa quan sát cả hai phía ấy. Ở phía tây thị xã, địa hình và cách bố phòng của địch cũng như hướng này, có sông, có công sự kiên cố và chướng ngại vật vững chắc, ở phía nam thi có thành dựng đứng với nhiều lỗ châu mai, hai bên đều có lô cốt và tháp canh, bên ngoài là bãi trống bằng phẳng, chằng chịt dây thép gai. Ở cả hai hướng này, đường từ ngoài đi vào thị xã có nhiều đồi trọc nối tiếp nhau.

Tôi lần lượt quan sát từng vị trí, hỏi kỹ số lượng và thành phần binh lính, cách bố phòng, những con đường bộ đội có thể tiến vào, thử hình dung những khó khăn mà các mũi sẽ gặp trên thực địa, và nghĩ xem có thể vượt qua bằng cách nào.


Tôi đã hiểu vì sao bộ chỉ huy Pháp chưa chịu rút quân khỏi Cao Bằng. Với một vị trí được phòng thủ như thế này, địch chưa phải lo ngại một cuộc tiến công của ta.

Đèn ở thị xã đã bật sáng.

Đồng chí trưởng đài quan sát nhắc tôi ra về vì mùa này ban đêm hay mưa. Chúng tôi chợt nhớ ra khi đi không ai đem theo áo mưa.

Trời tối rất nhanh, và bắt đầu mưa lâm thâm. Xuống tới lưng chừng núi thì mưa như trút. Quốc Trung đề nghị vào lán của tổ trinh sát nghỉ tạm, chờ tạnh mưa sẽ đi tiếp.

Chiếc lán quá chật. Anh em bảo vệ đều phải đứng ngoài. Mưa vẫn không hề ngớt. Nhìn đồng hồ thấy đã hơn 7 giờ tối, tôi quyết định cứ đi tiếp.

Các chiến sĩ bảo vệ đốt hai bó đuốc. Nhưng đi được một quãng thì hai bó đuốc đều tắt ngấm. Không còn nhìn thấy lối đi. Chúng tôi mỗi người cài lên mũ một mảnh tre mục để người đi sau nhận ra người đi trước qua những đốm sáng lân tinh. Người chiến sĩ dẫn đường quyết định đi lần theo dòng nước từ trên núi đổ xuống. Cuối cùng, xuống tới chân núi, chúng tôi gặp lại con suối đã đưa tới đây. Đã nhận ra đường về. Nhưng dòng suối không còn êm đềm nên thơ như buổi sáng. Nó trở nên hung dữ. Nước chảy xiết. Lòng suối lổn nhổn đá đầy rêu trơn. Mọi người đều ngã lên ngã xuống. Riêng tôi ngã nhiều nhất. Không phải vì tôi chưa quen lội suối; sáng nay, đồng chí cần vụ khuyên tôi nên đi giày da để chống gai. Có lần ngã nước ngập tới thắt lưng.


Chúng tôi bì bõm hết lội suối lại lội bùn suốt đêm trong rừng. Quần áo ướt sũng. Gần sáng ghé vào một bản bỏ hoang nghỉ tạm. Đồng bào ở đây đã rời đi nơi khác. Các chiến sĩ kiếm củi nhen một đống lửa. Chúng tôi đều cởi quần áo, vắt cho hết nước rồi hong trên lửa. Cả đoàn công tác ngồi kín ngôi nhà sàn. Chưa lần nào có cuộc đi trinh sát đông đảo thành phần như lần này! Tôi nói với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng:

- Ngày hôm nay, trong bulletin của nó chắc lại nhận xét: Không có hiện tượng gì đáng kể chung quanh Cao Bằng!

Tác giả "Vũ Như Tô" nở một nụ cười dễ thương.

Sau chuyến đi trinh sát, mọi người có vẻ trầm ngâm. Tôi nói tiếp:

- Không chuẩn bị kỹ không bảo đảm thắng lợi!

Trời sáng, khi trở về Trà Lĩnh, chúng tôi đã có được bộ quân phục khô ráo.

Người và ngựa lại rong ruổi trên con đường về Quảng Uyên.

Tôi nói với các đồng chí Phan Phác, Lâm Kính trước khi chia tay:

- Chuyến đi trinh sát lần này vất vả một chút, nhưng rất hữu ích: thấy rõ thực địa, nắm được thực chất!

Cùng thời gian này, chỉ huy trưởng các trung đoàn cũng đi trinh sát thực địa.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2022, 11:31:32 am
   
2

Tôi yêu cầu cơ quan tham mưu mang tới một bản đồ Cao Bằng tỉ lệ lớn. Nhưng chỉ có loại bản đồ 1/500.000.

Qua chuyến đi nghiên cứu thực địa Cao Bằng, tôi càng nhận thấy không thể chọn thị xã này làm điểm đột phá cho chiến dịch. Quân địch ở Cao Bằng không quá đông, nhưng địa hình núi, sông hiểm trở đã tạo cho chúng cái thế như người xưa nói: "Một người giữ ải, muôn người khó vượt qua". Đánh Cao Bằng sẽ phải giải quyết một loạt vấn đề chiến thuật mà bộ đội ta còn ít kinh nghiệm. Phải tổ chức vượt sông. Nhiều khả năng phải đột phá tung thâm sâu, dẫn tới đánh ban ngày, đánh dài ngày. Phải đối phó với quân dù, hỏa lực máy bay, đại bác trên những địa hình trống trải. Phải tiêu diệt những công trình phòng ngự rất kiên cố trong khi bộ binh ta chỉ có hầu hết là vũ khi nhẹ... Và phải chăng chúng ta làm trái lời dạy của người xưa: đánh thành là hạ sách!


Trước đây ta dự kiến tiến công Cao Bằng sẽ có điều kiện đánh quân viện để giành một thắng lợi lớn. Nhưng lúc này nhìn trên bản đồ, tôi thấy ít có khả năng địch đưa viện binh lớn lên Cao Bằng theo đường bộ. Đoạn đường từ Thất Khê lên Cao Bằng đã trở thành quá nguy hiểm đối với quân địch. Những tháng qua, Cao Bằng chỉ nhận được tiếp tế bằng máy bay. Đoạn đường này cũng quá xa đối với những binh đoàn tăng viện nếu phải mở một con đường máu! Như vậy, trong trường hợp Cao Bằng bị uy hiếp mạnh, có nhiều khả năng địch sẽ hy sinh đội quân đồn trú ở đây, và rút những lực lượng ở Đông Khê, Thất Khê về Lạng Sơn một cách an toàn trong khi hầu hết chủ lực ta đang tập trung để giải quyết Cao Bằng!


Đánh Cao Bằng sẽ khó bảo đảm nguyên tắc "trận đầu phải thắng" của quân đội ta. Và nếu đánh thắng, cũng khó tránh khỏi tổn thất lớn trong khi ta chỉ tiêu diệt được, một bộ phận nhỏ quân địch: 2 tiểu đoàn!

Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và giải phóng Cao Bằng. Làm cách nào để đạt được mục tiêu này?

Tôi nghĩ cách mở đầu chiến dịch tốt nhất vẫn là đánh Đông Khê. Đông Khê là cứ điểm quan trọng nối liền Thất Khê với Cao Bằng. Cứ điểm Đông Khê mặc dù đã được củng cố, vẫn nằm trong khả năng tiêu diệt của bộ đội ta. Mất Đông Khê, địch hoặc sẽ phải chiếm lại, hoặc sẽ phải rút khỏi Cao Bằng. Ta sẽ có điều kiện tiêu diệt sinh lực địch ngoài công sự. Nếu địch không chiếm lại Đông Khê, ta sẽ đánh tiếp Thất Khê. Cuối cùng, ta sẽ chấn chỉnh lực lượng quay lên giải phóng Cao Bằng. Khi đã mất cả Đông Khê và Thất Khê, tinh thần quân địch sẽ khác, đánh địch sẽ thuận lợi hơn hiện nay nhiều. Tùy tình hình, không nhất định phải giải phóng Cao Bằng bằng một số trận công kiên, mà cũng có thể bao vây buộc quân địch đầu hàng.


Tôi quyết định nêu vấn đề này trong cuộc hội ý Đảng ủy Mặt trận ngày hôm sau. Đảng ủy đều nhận thấy đánh Cao Bằng không chắc thắng, nên chuyển sang đánh Đông Khê. Nhưng cũng có ý kiến: "Thường vụ đã có quyết định đánh Cao Bằng, mọi công tác chuẩn bị về tham mưu, hậu cần đã hướng cả về Cao Bằng, nếu bây giờ thay đổi, chiến dịch sẽ bị chậm lại".


Tôi kết thúc cuộc hội ý:

Thường vụ quyết định mục tiêu chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch quan trọng, giải phóng Cao Bằng để mở thông biên giới. Chủ trương mở đầu chiến dịch bằng đánh Cao Bằng là do Tổng quân ủy đề xuất. Nếu thấy mở đầu chiến dịch như vậy không bảo đảm thực hiện mục tiêu chiến dịch, ta cần báo cáo để xin quyết định của Thường vụ. Trong khi chờ đợi sự chỉ đạo của Trung ương, mọi công tác chuẩn bị vẫn tiếp tục.

Các đơn vị bắt đầu phản ánh ý kiến của cán bộ sau khi đi trinh sát về. Đại đoàn 308 được trao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt pháo đài, nhận thấy công sự của địch quá vững chắc, lo khó giành thắng lợi. Trung đoàn 209 phải vượt sông Bằng, ngại khó khăn vì sông sâu, nước chảy xiết, và không giải quyết được hỏa lực bắn chéo sườn của địch. Trung đoàn 174 đề nghị nên đánh Đông Khê, chưa nên đánh Cao Bằng.


Ngày 12 tháng 8, anh Trần Đăng Ninh sang Quảng Tây đã trở về cùng với Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Đoàn gồm các đồng chí Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Nhất Phàn... đã có mặt ở Tả Phày Tử. Đồng chí Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn, bắt đầu gặp các chuyên gia Trung Quốc đã sang trước cùng với cán bộ 308 để nắm tình hình.


Ngày 15 tháng 8, tôi nhận được điện của Bác chấp thuận chuyển hướng chiến dịch sang Đông Khê. Tôi thấy cần triệu tập ngay cuộc họp liên tịch Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến địch mở rộng tới một số trưởng phòng chủ chốt của ba cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp.


Ngày 16 tháng 8, cuộc họp được tiến hành.

Anh Hoàng Văn Thái nói Chỉ huy trưởng chiến dịch đã trực tiếp đi nghiên cứu thực địa Cao Bằng, và báo cáo dự kiến kế hoạch, nêu lên những thuận lợi, khó khăn và sự cân nhắc của Đảng ủy Mặt trận nên chọn Cao Bằng hay Đông Khê để mở đầu chiến dịch.


Hội nghị trao đổi xung quanh vấn đề nên đánh Cao Bằng hay Đông Khê. Nhiều ý kiến ngả sang nên đánh Đông Khê. Mọi người nhận thấy đánh Đông Khê không khó, tuy nhiên, công tác chuẩn bị sẽ phải làm lại từ đầu. Đông Khê cách Cao Bằng 45 kilômét về phía nam. Không chỉ điều tra vị trí Đông Khê, đã thay đổi nhiều sau trận đánh hồi tháng 5 năm 1950, mà còn phải điều tra đoạn đường số 4 từ Thất Khê lên Đông Khê, và từ Đông Khê lên Cao Bằng. Hậu cần chiến dịch thay đổi nhiều. Phải di chuyển toàn bộ hệ thống kho, trạm, bệnh viện đã được bố trí hướng về Cao Bằng, nay đưa sang phía Đông Khê, Thất Khê. Riêng đường vận tải ô tô từ Trung Quốc sang mới thông tới Quảng Uyên, nay phải sửa thêm đường từ Quảng Uyên qua Phục Hòa lên tới Thủy Khẩu dài hơn 30 kilômét. Ngoài ra còn có ý kiến đánh Đông Khê không tạo nên sự bất ngờ đối với quân địch, cũng không đạt được chiến thắng vang dội mở đầu chiến dịch.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2022, 11:32:12 am
Tôi kết luận:

- Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch đã nghe các cấp chỉ huy đi trinh sát Cao Bằng về báo cáo. Sau khi phân tích và cân nhắc kỹ mọi mặt, thấy muốn đạt được những mục tiêu chiến dịch của Trung ương đề ra cần phải thay đổi phương án tác chiến. Phương án tác chiến mới đã được Chủ tịch Hồ Chi Minh phê chuẩn. Mở đầu chiến dịch, tập trung lực lượng tiêu diệt Đông Khê, đồng thời tiêu diệt quân tiếp viện, đặc biệt là quân dù. Sau đó tập trung lực lượng tiêu diệt Thất Khê. Nếu địch ở Thất Khê chưa tăng viện thì nhanh chóng chuẩn bị tiêu diệt Thất Khê ngay. Nếu địch đã kịp tăng viện cho Thất Khê thì có thể chưa đánh Thất Khê mà chuyển sang đánh các cứ điểm nhỏ và quân cơ động địch ở phía nam Thất Khê trước. Sau khi đã tiêu diệt Đông Khê, Thất Khê và một bộ phận quân ứng chiến, bộ đội ta sẽ nghỉ ngơi một thời gian để chấn chỉnh, rồi tập trung toàn bộ lực lượng tiến công Cao Bằng. Phương án cũ đánh Cao Bằng trở thành kế hoạch nghi binh.

Tôi biết quyết định này không chỉ đảo lộn công tác chuẩn bị đã triển khai rất vất vả một tháng qua, mà còn làm mất đi hào hứng của nhiều người muốn được tham gia vào trận đánh đầu tiên giải phóng một thị xã. Nhưng không thể khác. Chiến thắng đòi hỏi sự táo bạo. Nhưng nó không chấp nhận bất cứ hành động phiêu lưu nào.


Sau cuộc họp, tôi tới Tả Phày Tử gặp đoàn cố vấn. Đồng chí Vi Quốc Thanh hơn tôi chừng vài tuổi, từ vẻ mặt đến tác phong đều biểu lộ sự chân tình, chín chắn, chừng mực của một cán bộ cách mạng lâu năm. Anh Vi là Tư lệnh binh đoàn, đang chuẩn bị đi làm đại sứ ở Anh thì được cử sang Việt Nam. Chúng tôi có cảm tình với nhau ngay từ lần gặp đầu tiên. Anh Vi là Cố vấn Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh cho tới hết kháng chiến chống Pháp. Tôi trình bày về tình hình chuẩn bị chiến dịch. Anh Vi lắng nghe nhưng chưa phát biểu, và nói đang chờ đồng chí Trần Canh sang.


Trong tổ chức giải phóng quân Trung Quốc lúc đó, cao nhất là dã chiến quân (tương đương với phương diện quân của Liên Xô), rồi tới binh đoàn (tương đương với tập đoàn quân). Đồng chí Trần Canh là Phó tư lệnh dã chiến quân, và là Trung ương ủy viên dự khuyết của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi nghĩ thời gian này đồng chí Vi dành quyền phát biểu cho đồng chí Trần Canh.


Sau hội nghị liên tịch, mọi người khẩn trương bắt tay vào công việc không một lời kêu ca. Quan hệ giữa ba cơ quan với bộ phận lãnh đạo trong Bộ Tổng tư lệnh những năm chống Pháp là quan hệ mẫu mực giữa những người đồng chí cùng chung trách nhiệm, vừa nghiêm túc, vừa thân thiết như những người con trong một gia đình.


Ngày 21 tháng 8, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch đã họp lại để nghe ba cơ quan báo cáo kế hoạch chuẩn bị. Anh Thái trình bày dự thảo kế hoạch tác chiến Đông Khê. Anh Lê Liêm báo cáo kế hoạch công tác chính trị. Anh Ninh báo cáo kế hoạch cung cấp. Mọi người đều biểu thị quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới. Tôi nhắc anh Thái nhanh chóng hoàn chỉnh kế hoạch dự thảo tác chiến thành phương án chính thức để đưa lên phê duyệt.


Hai ngày 25 và 26 tháng 8 năm 1950, Đảng ủy Mặt trận triệu tập hội nghị cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên. Hội nghị họp ở bản Nậm Tấu, cách huyện ly Quảng Uyên 6 kilômét.

Đây là hội nghị trao nhiệm vụ chiến đấu nên các đơn vị đều có mặt. Tôi biết rõ khả năng và tính cách những người ngồi đâỵ. Họ đều được thử thách, rèn luyện trong lửa đạn suốt mấy năm qua. Các anh Vương Thừa Vũ, Lê Quảng Ba, Cao Văn Khánh, Lê Trọng Tấn, Quang Trung, Vũ Yên, Thái Dũng, Vũ Lăng, Hồng Sơn, Đặng Văn Việt, Doãn Tuế... lần đầu đi vào một trận đánh hiệp đồng lớn, mỗi người đều như mang tới đây niềm tự hào của đơn vị và lời hẹn ước thi đua chiến đấu lập công.


Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê được chỉ định gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái, chỉ huy trưởng, Lê Liêm, chính ủy, Lê Trọng Tấn, chỉ huy phó.

Lực lượng đánh Đông Khê gồm hai trung đoàn: 174 và 209.

Nhiệm vụ đánh viện trao cho đại đoàn 308.

Thời gian các đơn vị vào vị trí tập kết là ngày 14 tháng 9 năm 1950.

Sau khi trao nhiệm vụ cho các đơn vị, tôi nói thêm:

- Tiêu diệt Thất Khê xong, bộ đội nghỉ ngơi, chỉnh đốn từ 10 đến 15 ngày sẽ lên đánh Cao Bằng. Nếu sau khi tiêu diệt Đông Khê, địch bỏ Cao Bằng rút chạy về phía nam thì ta tập trung lực lượng tiêu diệt địch rút chạy trên quãng đường Cao Bằng - Đông Khê... Thay đổi mục tiêu mở màn chiến dịch như vậy là: trước đánh cứ điểm nhỏ, sau đánh cứ điểm lớn, trước đánh cứ điểm yếu, sau đánh cứ điểm mạnh, vừa đánh vừa rèn luyện bộ đội. Nếu Đông Khê bị mất và quân ứng chiến bị tiêu diệt, địch ở Cao Bằng sẽ lâm vào tình thế không thể giữ được mà chỉ có tìm cách chạy. Ta sẽ có khả năng tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn và tạo điều kiện căn bản để giải phóng Cao Bằng hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:50:54 am
   
3

Những ngày đầu tháng Chín hết sức khẩn trương.

Ngày 1 tháng 9 năm 1950, Đảng ủy Mặt trận đang họp nghiên cứu địch trên đường số 4 thì có điện từ Cục 2 ở hậu phương lên báo cáo từ ngày 23 tháng 8, địch mở cuộc hành binh "Con nhộng" (Chrysalide) lên Phú Thọ và đang tập trung quân ở Lạng Sơn. Chúng tôi thấy phải xúc tiến nhanh công tác chuẩn bị, tham mưu cần phải thảo xong mệnh lệnh tác chiến và mọi chỉ thị trước ngày 3 tháng 9. Nhưng chỉ ngày hôm sau mệnh lệnh tác chiến đã được trình duyệt và gửi đi các đơn vị.


Ngày 3 tháng 9 năm 1950, Ban chỉ huy trận Đông Khê đi thực địa về báo cáo pháo đài trung tâm chỉ huy của địch có một số thay đổi, ở hướng bắc, dọc đường bộ đội ta sẽ tiến vào bám đầu cầu, cây cối trên đồi đã bị chặt trụi không còn chỗ ẩn nấp.


Ngày 9 tháng 9 năm 1950, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch triệu tập cuộc họp cán bộ chỉ huy từ trung đoàn trở lên thông qua kế hoạch đánh Đông Khê lần cuối.


Chưa có trận đánh nào được chuẩn bị kỹ lưỡng như lần này. Kế hoạch tiến công được hoạch định đến từng chi tiết. So với trận đánh hồi tháng Năm, ta đã huy động một lực lượng gần gấp ba. Trung đoàn 174 chiến thắng ở Đông Khê lần trước được chọn làm đơn vị chủ công. Phối hợp tác chiến là trung đoàn 209. Lực lượng sơn pháo phối thuộc với từng trung đoàn cũng mạnh hơn. Ta còn điều thêm những đội súng không giật giỏi của đại đoàn 308 sang tăng cường cho các mũi xung kich.


Sắp hết giờ làm việc buổi sáng thì được tin Bác đã tới Tả Phày Tử.

Tôi thúc ngựa phóng nhanh trên con đường lầy lội tới nơi Bác đang chờ.

Bác gày và đen sau một tuần lễ đi đường. Bác nói:

- Dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ ngày 2 tháng 9 xong, mình đi ngay, không ai biết mình lên đây. Năm nay ở cơ quan trung ương không tổ chức kỷ niệm ngày Độc Lập. Trên này chắc các chú cũng quên?

- Thưa Bác, không quên, nhưng không tổ chức gì!

Tôi mời Bác về sở chỉ huy.

Bác trùm chiếc khăn bông che bộ râu, đội mũ rồi lên ngựa cùng tôi về sở chỉ huy.

Buổi trưa, tôi báo cáo với Bác quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch: mở đầu bằng tiêu diệt Đông Khê, tiếp theo là diệt quân viện, đánh Thất Khê, cuối cùng là tập trung lực lượng giải phóng Cao Bằng.

Người giơ từng ngón tay, nói:

- Một là, đánh Đông Khê. Hai là, đánh quân viện. Ba là, đánh Thất Khê. Bốn là, đánh Cao Bằng. Tất cả là bốn bước.

- Dạ.

- Đông Khê không lớn nhưng rất quan trọng, vì mất Đông Khê thì Cao Bằng hoàn toàn bơ vơ. Địch buộc phải cho quân ứng cứu, bộ đội sẽ có cơ hội đánh vận động:

- Chúng tôi đã có dự kiến.

- Nhưng bộ đội ta chưa quen đánh vận động lớn?

- Thưa Bác, mùa Hè vừa rồi được luyện tập, anh em tiến bộ nhiều. Cao Bằng là địa hình rừng núi, tôi nghĩ sẽ thuận lợi.

Bác trầm ngâm rồi nói:

- Mình muốn gặp một cán bộ cấp tiểu đoàn.

- Thưa Bác, cán bộ về họp toàn cấp trung đoàn. Nhưng tôi sẽ nói đơn vị cử một tiểu đoàn trưởng lên gặp Bác vào tối mai.

Hội nghị làm việc sang ngày thứ hai. Buổi chiều, không khí sôi nổi hẳn lên khi thấy Bác xuất hiện với chiếc áo bộ đội bạc màu. Sự có mặt hoàn toàn bất ngờ của Bác nói lên tầm quan trọng đặc biệt của chiến dịch.

Bác nhìn mọi người với cặp mắt đầm ấm rồi nói:

- Bộ chỉ huy chiến dịch nói là các chú họp lần cuối cùng để chuẩn bị trận đánh. Đây chưa phải là lần cuối cùng! Chưa đánh thắng thì chưa được coi là đã chuẩn bị xong. Quân sự thì phải chuẩn bị mãi. Thắng xong trận này cũng mới chỉ là chuẩn bị xong một đợt. Khi nào toàn thắng mới là chuẩn bị xong... Trong quân sự phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại. Dũng cảm là khôn. Không phải chỉ một người kiên quyết và bạo dạn, mà phải toàn bộ, tất cả mọi người. Muốn toàn bộ kiên quyết, dũng cảm thì phải có kỷ luật. Kỷ luật là động lực giữ sức mạnh cho bộ đội... Các chú đã nghe Bộ chỉ huy chiến dịch phổ biến quyết tâm của Trung ương Đảng mở chiến dịch Biên Giới. Các chú đã được trao nhiệm vụ cụ thể. Bác không có gì phải nói thêm. Chỉ nhắc các chú: thời gian lúc này vô cùng quý báu, cần tranh thủ thời gian thật tốt để chuẩn bị chiến đấu cho đầy đủ. Chỉ có chuẩn bị đầy đủ thì mới giành được chiến thắng lớn mà đỡ tổn xương máu chiến sĩ. Chiến dịch Cao Bắc Lạng rất quan trọng, chúng ta phải quyết tâm đánh thắng trận này. Các chú có quyết tâm không?

Tiếng trả lời ran ran:

- Thưa Bác có ạ!

- Bác chúc các chú thành công.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:51:50 am
   
4

Buổi tối, Bác và tôi đi gặp đồng chí Trần Canh.

Đồng chí Trần từ Vân Nam đi thẳng sang đây đã tới Tả Phày Tử, trong khi chờ gặp Bác đã tranh thủ thời gian làm việc với Đoàn cố vấn. Về danh nghĩa đồng chí Trần là khách mời của Bác.

Bác nói với tôi:

- Trong những năm chiến tranh ở Trung Quốc, đồng chí Trần Canh thường được cử tới những nơi nào có khó khăn. Đồng chí Trần là khách, nhưng mình cố gắng tranh thủ ý kiến và kinh nghiệm.

Trần Canh chưa tới năm mươi tuổi, vóc người đậm, nước da sáng, đeo kính trắng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm nghị.

Sau khi giới thiệu chúng tôi với nhau, Bác nói từ nay để giữ bí mật mọi người sẽ gọi đồng chí Trần là đồng chí Đông.

Trần Canh hỏi tôi:

- Nghe nói Võ tổng biết cả chữ Hán?

- Tôi chỉ nhớ chút ít vì học từ ngày còn nhỏ.

- Võ Tổng có biết vì sao Hồ Chủ tịch đặt tên cho tôi là Đông không?

Tôi mỉm cười đáp chưa hiểu.

Trần Canh nói:

- Hồi còn là học viên trường Hoàng Phố, tôi rất nghịch ngợm. Chữ Trần có bộ "nhĩ" đứng bên, bỏ bộ "nhĩ" thành chữ Đông. Sang Việt Nam, tôi bị Hồ Chủ tịch "cắt tai"!

Bác và tôi cùng phì cười.

- Trước khi sang Việt Nam, nhìn bản đồ thấy nơi nào cũng có quân Pháp, tưởng không còn đường mà đi. Nhưng một tháng qua đi hàng trăm kilômét vẫn thấy đất trời thênh thang. Có nơi chợ họp, người mua bán tấp nập, không khí đại hậu phương, hỏi "cách địch bao xa?". Đồng chí dẫn đường nói: "10 kilômét"! Chỗ này cách thị xã Cao Bằng bao xa?

- 25 kilômét.

- Hồ Chủ tịch cũng ở đây, có mạo hiểm không?

- Lần này thì không, vì phía sau chúng tôi là đại hậu phương.

Trần Canh cười rồi nói:

- Đồng chí La Quý Ba mới về nước. Chúng tôi đã biết rõ khó khăn trước mắt về lương thực của Việt Nam. Chắc từ nay đến cuối năm sẽ có thêm lương thực gửi sang.

Tôi mở bản đồ trình bày về tình hình địch, những lực lượng của ta tham gia chiến dịch, rồi nói về phương án tác chiến, những lý do mở đầu chiến dịch bằng đánh Đông Khê.

Trần Canh nhìn trên bản đồ, hỏi về binh lực, địa hình, công sự phòng ngự của địch tại Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, rồi nói:

- Tôi thấy Hồ Chủ tịch và Bộ chỉ huy chiến dịch đã có quyết định đúng. Binh lực Việt Nam trong chiến dịch không nhiều. Chọn Đông Khê làm điểm đột phá là đúng. Đánh Đông Khê để kéo viện binh địch lên là chiến thuật "đánh điểm diệt viện" Giải phóng quân Trung Quốc thường dùng trong chiến tranh chống quân Tưởng. Việt Nam nên vận dụng nhiều chiến thuật này. Đánh Đông Khê, sẽ có điều kiện tiêu diệt sinh lực địch, vì muốn giải phóng đất đai thì trước hết phải tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Võ Tổng định dùng bao nhiêu binh lực trong trận Đông Khê?

- Địch phòng ngự 1 tiểu đoàn. Lực lượng tiến công của ta sẽ là 9 tiểu đoàn. Lần đầu chúng tôi sử dụng ưu thế binh lực cao như vậy trong một trận công kiên.

- Cũng chưa phải là nhiều. Hãy chờ xem sau khi Đông Khê bị tiêu diệt, địch sẽ phản ứng như thế nào. Tôi tin là với sự có mặt của Hồ Chủ tịch chiến dịch sẽ thành công.

Đêm hôm đó, hướng phối hợp Tây Bắc bắt đầu nổ súng. Trung đoàn 165 đánh đồn Pa Kha, Lao Cai.

Ngày 12 tháng 9, Bác gặp đồng chí Hoàng Cầm, tiểu đoàn trưởng của trung đoàn 209. Bác nghe báo cáo về tình hình chuẩn bị chiến đấu của tiểu đoàn, rồi hỏi:

- Chú có tin trận này ta nhất định thắng không?

Đồng chí Hoàng Cầm trả lời:

- Báo cáo Bác, tin ạ.

Ngày 13 tháng 9, sở chỉ huy tiền phương của chiến dịch di chuyển về Nà Lạn, cách Đông Khê 10 kilômét theo đường chim bay.

Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định duy trì đài quan sát ở Cao Bằng để đồng chí Quốc Trung ở lại đây với nhiệm vụ báo cáo kịp thời khi địch có triệu chứng rút quân.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:52:46 am
5

Không hiểu vì đâu tin Bác đi chiến dịch đã lan truyền rất rộng. Có thể là do trên dọc đường Bác đã nhiều lần đi cùng bộ đội và dân công. Người rất thích chuyện trò với chiến sĩ và đồng bào, cả miền ngược và miền xuôi. Bác vẫn đóng vai một cán bộ lớn tuổi đi công tác tại mặt trận. Dù Bác đã chú ý cải trang, nhưng có người vẫn nhận ra Bác.


Người ta rì rầm với nhau những câu chuyện về Bác. Người nói: "Bác đi bộ từ Thái Nguyên lên Cao Bằng mất tám ngày". Người nói: "Bác thường đi chân đất, chỉ nơi nào nhiều đá mới xỏ dép". Người nói: "Bác đem theo cả chiếu và cũng đeo gạo như chúng ta"... Những chuyện khó xác định đúng, sai.


Có những chuyện ngộ nghĩnh.

Một chiến sĩ nhìn thấy Bác đi dọc đường cứ lẽo đẽo đi sau. Bác đi nhanh anh ta cũng theo nhanh. Bác đi chậm, anh ta cũng đi chậm. Bác e lộ bí mật, khi lội qua một con suối, Bác dừng lại giữa dòng và lấy xà phòng ra giặt chiếc khăn tay. Anh chiến sĩ đi tới sau lưng Bác, cũng dừng lại vốc nước rửa mặt. Bác quay lại nhìn. Anh chiến sĩ nói: "Bác cho cháu xin một tí xà phòng!". Bác nói: "Xà phòng của chú đâu mà lại đi xin xà phòng của người ta?!". Bác đưa anh chiến sĩ miếng xà phòng: "Chú cầm lấy đem đi mà dùng". Bấy giờ anh chiến sĩ mới chịu đi vượt lên trước.


Một người còn kể lại chính mình đã gặp Bác và được ngồi nói chuyện với Bác hẳn hoi. Buổi trưa, anh ta ghé vào một ngôi nhà bỏ không bên đường để nghỉ chân, thì thấy Bác và đoàn tùy tùng đã ngồi trong đó. Anh hỏi Bác: "Thưa Cụ, đã có lệnh Tổng phản công từ lâu, sao mãi tới bây giờ vẫn chưa bắt đầu?". Bác hỏi lại: "Chú đã có con chưa?". Anh chiến sĩ thưa là mình chưa có vợ. Bác nói: "Như vậy thì đúng là chú chưa biết rồi! Người phụ nữ khi mang thai cũng phải mất, chín tháng mười ngày mới đẻ. Ta muốn Tổng phản công cũng phải có chuẩn bị. Đâu phải cứ nói "Tổng" là làm được ngay!"...


Mọi chuyện về Bác Hồ đều được chăm chú lắng nghe. Người kể, người nghe đều cảm thấy hạnh phúc. Nhưng có điều ít được nói tới là những ngày đi chiến dịch cũng đem lại cho Bác một niềm vui rất lớn.

Đó là khi trời vừa rạng sáng Bác đi ngang một bản nhỏ, thấy nhiều cô dân công ngồi dựa lưng vào nhau ngủ trên những thửa ruộng bậc thang. Bác hỏi một cô đang nhóm lửa thổi cơm sáng: "Các cô ngủ cả đêm ngoài trời ư?". Cô gái đáp: "Nhà dân chật chỉ đủ chỗ chứa lương thực cho khỏi ướt. Chúng cháu ngủ ngoài đồng càng vui!".


Đó là cảnh hàng vạn đồng bào, đủ các dân tộc, từ những bản làng heo hút trong rừng sâu, trên núi cao, từ vùng địch hậu trung du lên, người nối người với những bó đuốc tạo thành những con rồng lửa trong đêm sương giá, trườn qua những vùng núi đá tai mèo tải đạn, tải gạo cho bộ đội.


Từ những năm mười lăm triệu đồng bào còn chìm đắm trong kiếp nô lệ, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy sức mạnh văn hóa tiềm ẩn trong mỗi con người, và vững tin vào chân lý: "Có dân là có tất cả".

Thu Đông này, Người đang chứng kiến những thành quả sau năm năm kháng chiến, đang hòa vào với cái văn mới, cái đức mới của dân tộc mà mình đã góp phần tạo thành.

Dọc đường đi chiến dịch, Bác đã làm một bài thơ tặng Thanh niên xung phong:

   "Không có việc gì khó
   Chỉ sợ lòng không bền
   Đào núi và lấp biển
   Quyết chí ắt làm nên".


Trong những ngày ở mặt trận Đông Khê, cơ quan đã kiếm một ngôi nhà sàn sạch sẽ ở liền với sở chỉ huy tại Nà Lạn, dành cho Bác. Nhưng Bác lại muốn ở và làm việc trong lán ven rừng. Anh em vệ binh dựng một chiếc lán nhỏ lợp cỏ tranh bên sườn núi có cây cho gần đó. Ở miền núi, trời đã trở lạnh. Khí hậu trong rừng ẩm thấp, chúng tôi lo cho sức khỏe của Bác. Nhưng thấy Bác làm việc đều, sáng dậy vẫn tập thể dục, tắm suối, chúng tôi tạm yên tâm.


Sau trận Đông Khê, những ngày chờ địch, Bác nói: Dân mình ghê thật! Chỉ mới năm năm sau tám chục năm mất nước mà đã như thế này! Người ta tính sau ba trăm năm bị đô hộ thì một dân tộc sẽ bị đồng hóa. Giao Chỉ bị đô hộ một ngàn năm! Hai ngón chân cái thay đổi, nhưng dân Việt vẫn tồn tại. Bên trên thay đổi thì thay, dưới thôn, làng vẫn thế! Vẫn đền miếu thờ phụng Hai Bà Trưng, Bà Triệu... Lần này sẽ co một trận như Chi Lăng!...


Sự có mặt của Bác là một nhân tố quan trọng cho thành công của chiến dịch.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:54:24 am
6

Sáng ngày 15 tháng 9 năm 1950, trực ban tác chiến chiến dịch truyền thư của Bác tới từng đơn vị tham chiến theo đường dây điện thoại:

       "Hỡi các chiến sĩ yêu quỷ!
   Chiến dịch Cao Bắc Lạng rất quan trọng.
   Chúng ta quyết đánh thắng trận này.
   Để thắng trận này, các chiến sĩ ở mặt trận ấy phải kiên quyết, dũng cảm trăm phần trăm; các chiến sĩ các khu, các mặt trận khác phải ra sức thi đua giết giặc lập công để hết sức tiêu diệt địch, kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện mặt trận Cao Băc Lạng... tôi đang chờ để khen thưởng các chú".



Đêm hôm đó, các mũi tiến công của ta bí mật tiếp cận đồn địch.

Anh Hoàng Văn Thái, Chỉ huy trưởng mặt trận, bất thần bị một cơn sốt rét. Sáng hôm sau đã nổ súng, tôi rất lo.

Sáng ngày 16, Bác và tôi dậy sớm đi lên đài quan sát mới bố trí trên một mỏm núi liền với bản Nà Lạn. Ngọn núi này cách Đông Khê khoảng 10 kilômét theo đường chim bay. Từ đây có thể theo dõi tình hình chung của trận đánh qua ống nhòm.


Trên đài quan sát có đặt máy điện thoại và điện đài. Vệ binh đã dựng mấy chiếc lều cỏ để tạm trú mưa.

Trời sáng. Sương mù tan dần. Qua ống nhòm đã nhìn thấy Đông Khê nằm trên đường số 4 với đồn to, những vị trí Phìa Khóa, Cặm Phầy, đồi Yên Ngựa và những dãy nhà dọc phố.

Đúng 6 giờ, pháo 75 của ta bắt đầu nổ nhắm vào đồn chính. Sau đó, tất cả các loại pháo của ta nổ giòn giã vào các mục tiêu, cả Đông Khê, chìm trong khói pháo. Thung lũng Đông Khê như sôi lên.

Giờ đầu, địch chưa kịp phản ứng trước đòn tiến công bất ngờ.

Ban chỉ huy Đông Khê báo cáo về, ở hướng bắc và đông - bắc, trung đoàn 174 làm nhiệm vụ chủ công đã chiếm lĩnh đầu cầu. 9 giờ, 174 chiếm đồi Yên Ngựa, 10 giờ 30, chiếm tiếp Phìa Khóa. Địch chưa phản kích. Nhưng vẫn chưa có báo cáo của trung đoàn 209 ớ hướng đông - nam.


Máy bay địch xuất hiện. Từ đài quan sát nhìn rõ 6 chiếc Hellcat lồng lộn trên bầu trời, nối nhau lao xuống bắn phá. Quân địch trong vị trí đã trấn tĩnh. Từ pháo đài ở đồn to, địch bắn dữ dội vào đội hình tiến công của 174. Tôi bắt đầu lo. Vì hướng đông - nam chưa hoạt động nên quân địch có thể dồn toàn bộ sức mạnh đối phó với 174. Trận đánh kéo dài giữa ban ngày. Địch có công sự vững chắc và được máy bay yểm hộ. Ta đang lâm vào thế bất lợi. Tôi đã nhắc anh Thái ra lệnh cho 209 đánh mạnh ở hướng đông - nam, nhưng hướng này vẫn im ắng.


Buổi trưa, anh Thái báo cáo: Một bộ phận của trung đoàn 209 hành quân lạc, nên trung đoàn không kịp bố trí trận địa tiến công. Đề nghị tạm ngưng trận đánh, chấn chỉnh đội hình ở phía đông - nam, chờ khi trời tối, cả hai mũi sẽ cùng phối hợp tiến công giải quyết vị trí địch.


Mặc dù chuẩn bị kỹ lưỡng, nhưng trận đánh ngay từ những giờ đầu đã có sự trục trặc. Tôi chấp nhận đề nghị.

Bác ngồi trên đài quan sát, nhìn những vị trí máy bay địch lao xuống bắn phá rồi đối chiếu với bản đồ. Người tỏ vẻ xúc động khi những tin vui từ mặt trận báo về. Khi trận đánh gặp trắc trở, Người bình thản để cán bộ chỉ huy giải quyết công việc. Nhưng lúc này không ai biết trong đầu Người đang nảy ra những tứ thơ.


Những trận công kiên kéo dài thường gây nhiều thương vong. Không khí sở chỉ huy có chiều căng thẳng. Một cán bộ muốn Bác yên lòng, nói với người đứng bên:

- Tối nay, chỉ cần hai tiếng là giải quyết xong.

Bác quay lại nói nhẹ nhàng:

- Chú đừng chủ quan.

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt suốt đêm ngày 16. Địch dồn sức đối phó với hướng tây bắc. 4 giờ sáng ngày 17, trung đoàn 174 mới chiếm thêm Cặm Phầy. Ở phía nam, trung đoàn 209 cũng chỉ chiếm được khu phía nam Đông Khê, gồm Phủ Thiện, Nhà cũ và Trường học thì vấp phải những hỏa điểm ngầm và hỏa lực súng cối bắn chặn phải dừng lại. Cả hai mũi đều không phát triển được nữa.


Đồng chí Trần Canh nói: "Không nên để trận đánh kéo dài". Bác nhấn mạnh: "Dù khó khăn thế nào, trận đầu cũng phải thắng".

Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ thị cho ban chỉ huy Đông Khê: "Lệnh cho hai trung đoàn chấn chỉnh lại bộ đội, rút kinh nghiệm để khắc phục những thiếu sót về chiến thuật, kỹ thuật, đặc biệt là về quan hệ hợp đồng chiến đấu giữa các mũi xung kích, giữa bộ binh với pháo binh. Cần dứt điểm trong đêm 17 tháng 9".


Trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn Việt đề nghị Bộ cho chuyển hướng đột phá của trung đoàn 209 qua phía đông pháo đài, bỏ hướng bắc vì địch tập trung đối phó, và chỉ thị cho 209 đánh một mũi từ phía nam lên, một mũi vào phía sau lưng pháo đài. Đề nghị của đơn vị chủ công được chấp thuận.


8 giữ 30 ngày 17 tháng 9, đồng chí Hoàng Văn Thái ra lệnh tổng công kích. Sau khi pháo binh chế áp các mục tiêu, một mũi tiến công của 174 chiếm đầu cầu phía đông pháo đài, mũi ở phía bắc chiếm nhà thương, thọc sâu đến lô cốt số 7 thì bắt liên lạc được với 1 tiểu đoàn của 209, cùng phối hợp đánh vào sau lưng pháo đài. Bộ binh các hướng phối hợp nhịp nhàng cùng tiến công vào đồn lớn.


Đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu cực kỳ dũng cảm. Phía 174, tiểu đội trưởng La Văn Cầu chỉ huy tổ bộc phá đánh lô cốt đầu cầu, anh em đều bị thương, Cầu vẫn hăng hái ôm bộc phá tiếp tục xông lên. Vượt đến giao thông hào thứ ba, Cầu trúng đạn ngất đi. Khi tỉnh dậy, nhận thấy một cánh tay đã gãy nát, nhưng nhiệm vụ chưa hoàn thành, Cầu bảo đồng đội chặt bỏ cánh tay mình cho khỏi vướng, rồi lại ôm bộc phá lao tới đánh tan lô cốt, mở đường cho toàn đơn vị xung phong. Phía 209, đại đội trưởng Trần Cừ dẫn xung kích vượt qua một lô cốt vừa bị tiêu diệt bằng bộc phá, thì một tên lính còn sống sót bất thần từ trong bắn ra. Khẩu liên thanh ào ạt nhả đạn chặn đứng đợt xung phong. Trần Cừ bị thương nặng, nhưng vẫn cố lết về phía lô cốt, bất ngờ nhoài lên ép thân mình vào lỗ châu mai, tạo ra khoảnh khắc ngừng tiếng súng cho xung kích ta ào ạt vượt qua, xông lên tiêu diệt đồn cao. Chị Đinh Thị Dậu, dân công hỏa tuyến, dầm mình trong lửa đạn, cõng thương binh từ trận địa về nơi an toàn. Chị đã đưa 7 thương binh ra khỏi đồn địch. Chị Triệu Thị Soi, một cô gái Nùng vốn rất sợ máu, làm nhiệm vụ chuyển đạn ra trận địa pháo, khi trở về đã dùng thắt lưng lụa buộc thương binh nặng trên lưng, vượt những dốc núi đá cheo leo. Máu chiến sĩ ta đổ khiến chị xót xa, quên cả sợ.


4 giờ 30 ngày 18 tháng 9 năm 1950, bộ đội ta đánh vào sở chỉ huy Đông Khê bắt sống viên đại úy đồn trưởng và các sĩ quan tham mưu, 10 giờ, trận đánh kết thúc.

Trận Đông Khê đã toàn thẳng. Địch chết và bị bắt 300 tên. Một số chạy thoát về Thất Khê. Ta thu toàn bộ vũ khí.

Số thương vong của ta lớn hơn dự kiến. Trận đánh phải kéo dài tới 52 giờ.

Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê được giải tán để các đơn vị nhanh chóng chuyển sang chuẩn bị đánh viện.

Bác viết một bức thư gửi các chiến sĩ bị thương: "Chính phủ, đồng bào đều biết ơn các chú. Tôi gửi lời khen ngợi các chú và chúc các chú mau lành mạnh để trở lại hàng ngũ tiếp tục chiến đấu giết giặc".
 
Hữu Mai thể hiện


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:56:22 am
THEO ĐƯỜNG MÒN TRÊN BIỂN VÀO B2

VĂN PHÁC


Đợt tập trung cán bộ đi B giữa năm 1964 là đợt tập trung đông nhất, lớn nhất từ trước đến lúc đó nhiều cán bộ trung, cao cấp của các cơ quan và đơn vị. Buổi họp đầu tiên, ngồi chật cả phòng họp trên gác hai của Tổng cục Chính trị.


Sau một đợt học tập nhiều ngày về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, về chiến dịch, chiến thuật, về công tác chính trị, tư tưởng trong chiến đấu, cả lớp được Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị chiêu đãi trọng thể ở nhà khách Bộ Quốc phòng số 33 phố Phạm Ngũ Lão, Hà Nội.


Mọi người đã tưởng lên đường ngay. Không ngờ lại được về nhà chờ, đợi khi gọi là đi. Thời đó, đi B là tiếng gọi thiêng liêng của mọi người yêu nước, nhưng phải bí mật, không ồn ào. Dù là ai, khi được gọi, cứ lẳng lặng mà đi, gia đình ngậm tăm, hàng xóm biết để bụng, vờ như không biết.


Đến lượt tôi được gọi đến tập trung ở T83. T là trạm, 83 là số nhà 83, phố Lý Nam Đế, nay là Thư viện Quân đội. Tôi cũng nhằm vào giờ đi làm thường lệ buổi sáng, ra khỏi cổng khu tập thể như mọi người rồi lẳng lặng đi bộ tới T83. Mấy đồng chí cùng nhận được giấy gọi đến tập trung ở T83 như tôi, gặp nhau là bàn ngay đến cuộc lội bộ đường dài Trường Sơn sắp tới. Nhưng thật bất ngờ, khi đồng chí Phan Hàm, cán bộ Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu đến T83 trực tiếp thông báo miệng là đoàn chúng tôi không đi theo đường Trường Sơn mà đi bằng đường đặc biệt. Đồng chí Hàm còn nửa kín, nửa hở nói với chúng tôi đừng vội sốt ruột, đợi gặp thủ trưởng Tổng cục Chính trị khắc rõ đường đặc biệt là đường nào.


Quả đúng như bọn tôi nghe lỏm và đoán mò. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đến giao nhiệm vụ cho Đoàn và nói rõ chúng tôi đi theo đường biển. Anh Mậu còn bảo tôi: "Anh Thanh (tức đồng chí Nguyễn Chí Thanh) vừa điện ra, R yêu cầu ngoài này cho các cậu vào gấp đấy, đi đường biển mới nhanh được, nhưng mạo hiểm lắm!".


Đoàn có năm người gồm: đồng chí Nguyễn Thế Bôn lúc đó là Tham mưu trưởng Quân khu Hữu Ngạn, anh Văn Lân là Trưởng phòng Tổ chức cũng ở Hữu Ngạn, anh Phúc "béo" cán bộ tổ chức của Pháo binh, anh Sơn Tiêu cán bộ chỉ huy pháo và tôi. Trong nhóm chỉ có anh Sơn Tiêu là người Nam Bộ nòi, quê ở Bạc Liêu, anh là con nhà nông dân, nhưng có mẽ người cao ráo trắng trẻo, nên được gọi đùa là "công tử Bạc Liêu". Tuy ít người nhưng chúng tôi vẫn được tổ chức thành đoàn chặt chẽ. Anh Thế Bôn được chỉ định là Trưởng đoàn, tôi là chính ủy kiêm bí thư chi bộ, anh Sơn Tiêu phụ trách liên hệ với dân suốt dọc đường tới R. Còn mọi việc trên biển do thuyền trưởng chỉ huy và chịu trách nhiệm. Đoàn thủy thủ sẽ phối hợp, tham khảo ý kiến chúng tôi khi cần thiết. Nhóm cán bộ chỉ là khách Bộ gửi đi trên tàu. Còn tàu chở vũ khí, thuốc nổ vào chiến trường là chính.


Chúng tôi cũng được cấp phát đủ mọi thứ của người ra trận. Ba lô con cóc, súng ngắn, dù ngụy trang, một túi thuốc trong đó có thuốc chống rắn cắn, vì rừng miền Nam có loài "chàm oạp" rất nổi tiếng... TCCT còn cho thêm ít sách và một cái đài bán dẫn rùa Nhật. Chúng tôi được nhận các thứ tại chỗ T83 và bị "cấm vận" hoàn toàn không được ra khỏi cổng trạm nửa bước.


Buổi chiều, tôi muốn được ghé về qua nhà. T83 ở cuối phố Lý Nam Đế, còn nhà tôi ở cửa Đông, quá. Nhưng biết làm thế nào? Nội quy không châm chước riêng một ai. Tôi đành ra đứng ở cửa sổ tầng 2 của trạm, chăm chăm nhìn xuống đường chờ vợ tôi đi làm về qua. Tim rộn lên khi Hương, vợ tôi hiện ra ở cuối phố. Lúc vợ tôi tới gần, tôi buột miệng gọi khẽ: "Hương, Hương", và rất mong vợ tôi ngước mát nhìn lên; nhưng vợ tôi không nghe thấy, cứ cắm cúi đạp xe đi thẳng, chắc là vội về lo bữa chiều cho các con. Tôi vẫn đứng đó, lặng lẽ nhìn theo mãi...


Chúng tôi được hai ngày chuẩn bị ở T83. Tới ngày thứ ba rời trạm, lên đường, vẫn bí mật nghiêm ngặt. Một chiếc xe com-măng-ca đít tròn của Liên Xô chở chúng tôi, chạy một mạch từ Hà Nội xuống Hải Phòng. Tới nơi, đoàn lại được "nhốt" vào một trạm rất tươm tất của Hải quân. Hôm đó là 21 tháng 12 năm 1964.


Buổi tối, một đồng chí trong Bộ Tư lệnh Hải quân đến làm việc, giới thiệu cặn kẽ về con đường vận tải chiến lược trên biển từ Bắc vào Nam, con đường sắp đưa chúng tôi vào làm nhiệm vụ ở B2. Con đường này được hình thành từ năm 1962. Lúc đầu là thuyền gỗ. Sau cải tiến thành tàu sắt, chở cả 100 tấn vũ khí mỗi lần, đi ngoài hải phận quốc tế, bảo đảm được bí mật, bất ngờ và tới đích nhanh hơn hẳn đường bộ. Sau mỗi chuyến được phép thêm 5 cán bộ đi cùng. Tới đây tôi càng hiểu rõ thêm về con đường đặc biệt này. Đúng là thêm một con đường mới, đường mòn mới, đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Vĩ đại thật! Quả là một sáng tạo tuyệt vời của trí tuệ quân sự Việt Nam.


Chập tối ngày hôm sau, (ngày lịch sử 22/12) chúng tôi lên xe com-măng-ca và được đưa thẳng ra Đồ Sơn, qua bãi trong, qua cả Pagodon tới mỏm cuối cùng của bán đảo, thời Pháp có tên gọi là khách sạn Đầu Mũi* (Hotel de la pointe) và tên địa phương là đồi Vạn Hoa. Chúng tôi nghỉ ở doanh trại của một đơn vị phòng thủ bờ biển đóng tại đỉnh đồi. Tờ mờ sáng hôm sau đã được mời dậy ăn sáng. Sau đó có một đồng chí dẫn chúng tôi men theo con đường nhỏ xuống chân đồi Vạn Hoa để lên tàu. Con tàu đã chờ sẵn gần đó. Chỗ này sau được gọi thành tên là Bến không tên. Khi bước lên tàu, các thủy thủ chạy tới vui vẻ đỡ ba lô và đưa chúng tôi vào khoang. Chủ khách chưa kịp làm quen, tàu đã nổ máy rời bến. Trời sáng dần, một buổi sáng quang quẻ trên biển, tầm nhìn xa tít tắp. Đảo Bạch Long Vĩ xanh thẫm ở bên phải con tàu. Tàu chạy êm ả, sóng biển lăn tăn, rập rờn trong những tia nắng long lanh buổi sớm. Đứng ở mũi tàu, tôi nhìn biển, nhìn trời, hít thở khí trời trong lành của biển. Con tàu bé nhỏ đến không ngờ so với con tàu du lịch kếch sù tôi đã được đi từ bến Quảng Châu Loan ở Trung Quốc sang Giacacta trong dịp Đoàn Văn hóa Việt Num sang thăm Inđônêxia năm 1960. Con tàu này, như một thanh niên ở trần, đen trũi, thân tàu không ghi tên, không có một chữ số. Sau này được gọi là "con tàu không số". Tàu dài khoảng 30 mét, rộng chừng 8m, thế mà dám vượt biển Đông, đi từ Bắc vào Nam. To gan thật!


Cơm chiều xong, có cuộc họp chung giữa đoàn thủy thủ và đoàn chúng tôi. Đi cả ngày đường bây giờ chủ, khách mới có dịp làm quen với nhau. Thuyền trưởng tên là Nguyễn Phan Vinh, người vùng biển khu tư, có thân hình chắc nịch, đôi mắt sáng trên khuôn mặt đen ròn. Còn đồng chí lên bờ đón chúng từ buổi sáng là đồng chí Sang chính trị viên của tàu. Đồng chí tự giới thiệu quê ở Bến Tre, Nam Bộ. Cả thuyền trưởng và chính trị viên đều còn trẻ trạc tuổi 24, 25. Các thủy thủ là 7, 8 anh lính trẻ đen trũi đều là dân chài vùng biển, ngồi chụm vào nhau hiền khô khác hẳn vẻ lanh lợi lúc ban ngày, vừa làm vừa nói cười với nhau ríu rít...


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:57:16 am
Lúc đó tôi mới biết cụ thể số vũ khí và thuốc nổ trên tàu có tới trên 100 tấn chứ không phải ít, và tôi chợt hiểu ra tại sao chỉ bố trí 5 cán bộ mỗi lần. Thuyền trưởng cho biết nếu trót lọt thì chỉ sau 7 ngày đêm là tàu cập bến miền Nam, là vũ khí tới tay quân giải phóng. Như vậy số lượng đã lớn mà thời gian vận chuyển lại nhanh hơn rất nhiều so với cảnh trèo đèo, lội suối cực nhọc vượt Trường Sơn. Nhưng cũng mạo hiểm hơn nhiều. Địch phát hiện, ta sẽ khó tránh khỏi tổn thất lớn. Vì vậy, trong cuộc họp, thuyền trưởng Phan Vinh trình bày rất kỹ kế hoạch nghi trang là tàu đánh cá của người Hoa để che mắt địch. Các chiến sĩ lần lượt báo cáo các phần việc được giao chuẩn bị: lưới đánh cá, quần áo người Hoa, cờ của Đài Loan, cờ ba que của Ngụy... Anh em tỏ vẻ rất tự tin, hào hứng trước nhiệm vụ.


Sáng hôm sau, tàu của chúng tôi rời Bãi Cháy từ lúc còn mờ sương. Trời mùa đông ớn lạnh. Chúng tôi cùng nhau tìm hang Dấu Gỗ, chăm chú nhìn những núi Con Cóc, Con Gà, ngó nhìn lại núi Bài Thơ, đảo Tuần Châu chập chờn ở phía sau. Bỗng một thủy thủ cất tiếng hát, láy đi láy lại câu "các anh đi biết bao giờ trở lại..." rất đúng với tâm trạng mọi người lúc đó...


Tàu vẫn êm ả chạy về hướng Đông, giữa mênh mông biển cả. Tới xế chiều, bỗng một hòn đảo lạ hiện ra trước mắt. Tôi hỏi đồng chí Sang: "Đảo nào vậy?". Sang đáp nhẹ nhàng: "Đảo Hải Nam đó anh ạ. Tàu ta sắp vô cảng Du Lâm của Hải quân Trung Quốc, ở nhà (BTTM) đã móc ráp trước. Bạn sẵn sàng đón tàu ghé vô nghỉ tạm". Vừa lúc đó một ca nô chạy từ bờ ra, dẫn tàu chúng tôi vào bến.


Cảnh chiều ở đây êm ả quá. Bãi cát trắng trải dài trong nắng nhạt. Trên đảo dừa trĩu quả, nghiêng ngả trước gió... Ai cũng muốn được lên bờ thư giãn một chút, nhưng chỉ   một mình thuyền trưởng được mời lên làm việc với bạn. Còn tất cả chờ ở dưới tàu.


Sẩm tối, tàu lẳng lặng rời cảng Du Lâm, tiếp tục theo hướng Đông, có hai tàu chiến của Hải quân Trung Quốc đi cùng. Thuyền trưởng Phan Vinh cho biết tàu bạn sẽ hộ tống tàu ta tới hải phận quốc tế thì quay lại. Đó là một cử chỉ hữu nghị của bạn. Từ đây, tàu gối đầu trên sóng lớn mà đi, càng ra xa, tàu càng chao đảo mạnh. Các thủy thủ vẫn hoạt động bình thường. Riêng đoàn chúng tôi bắt đầu say sóng. Bỗng chốc tôi thấy người nôn nao rất khó chịu. Nằm xuống thì đầu óc quay cuồng, gượng ngồi dậy càng chóang váng buồn nôn, rồi nôn thốc nôn tháo, cả năm người không ai bảo ai đều nôn ọe khốn khổ. Các thủy thủ vội đưa đến cho mỗi người một cái bô sắt, cứ gục đầu vào đấy mà nôn, nôn ra mật xanh, mật vàng, nôn mãi đến không còn gì trong bụng vẫn cứ buồn nôn. Mệt quá, tôi đành há mồm cho nước dãi rỏ xuống bô...


Sáng hôm sau tuy mệt bã người, tôi vẫn cố gượng ra sân tàu, cùng với mấy anh Bôn, Tiêu, Phúc, vùng vẫy tay, chân và cùng lắc đầu lè lưỡi về trận say sóng đêm qua. Trong bọn, riêng anh Văn Lân là bị say sóng nặng nhất. Sau khi rời đảo Hải Nam, anh là người nôn ọe đầu tiên, bị hành hạ cực nhất, và bị nằm bẹp dài nhất trên tàu đến nỗi buồn đi giải cũng phải nhờ anh Thế Bôn hộ một tay. Anh Thế Bôn lại vui tính hay đùa. Mỗi lần anh Lân gọi, anh Bôn lại trêu: "Tôi đái của tôi chưa xong, còn đái hộ anh thế quái nào được". Cả bọn cười đau cả ruột.


Từ đây con thuyền không số của chúng tôi giống như chiếc lá tre lênh đênh trên hải phận quốc tế, từ từ trôi xuống về phía Nam. Từ quãng giới tuyến ngang Cửa Tùng trở đi càng phải cảnh giác nghiêm ngặt. Đêm thì tắt đèn mà đi, ngày thì phơi lưới, kéo cờ nước ngoài, giả là tàu đánh cá. Cả đêm và ngày đều tránh xa tàu lạ để giữ bí mật và để tránh sóng của nó. Tôi nói vui với mấy chiến sĩ: "Tránh voi chẳng xấu mặt nào!".


Tôi có dịp gần gũi với một số thủy thủ. Người hay hỏi chúng tôi cho ý kiến về ăn uống là đồng chí cấp dưỡng, một mình chú lo bữa ăn cho cả tàu. Chú đun bếp bằng than, nấu cơm bằng chảo, có lúc nhàn, có lúc rất cực. Gặp lúc sóng biển cấp 4 cấp 5 là rất vất vả, không nấu được cơm, tàu va phải sóng lắc mạnh một cái, có khi hất ụp cả chảo cơm ra khỏi bếp; chú lại lầm lũi làm lại từ đầu, bảo đảm cơm dẻo canh sốt cho mọi người. Chú là người xứ Nghệ. Tôi gọi là chú Cá gỗ, chú chỉ cười. Còn chú phụ trách điện đài, hết giờ lại gặp tôi mượn truyện vì chú là một cây mê truyện và đã đọc một số bài của tôi trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tôi tặng cuốn Thép đã tôi thế đấy, chú thích lắm. Tôi cũng đặt tên chú là Tạch tè rất đúng với nghiệp vụ của chú. Còn chú xạ thủ trên tàu cũng được tôi tặng cuốn Ông già và biển cả và chúc chú anh dũng đánh thắng như ông già vật lộn với cá mập. Mấy anh bảo đặt tên chú là Cá mập. Chú không chịu vì cá mập ác không hợp với chú nên mọi người thôi, mà gọi chú là Tư mập vì chú to béo lại là con thứ 4 ở nhà. Chú vui vẻ không phản ứng gì.


Các chú cũng bầy cho chúng tôi những trò chơi trên tàu. Ban ngày tàu không nổ máy, mà thả trôi tự nhiên. Thỉnh thoảng lại gặp đàn cá đuổi theo, đụng vào mạn tàu, chúng nhảy vọt vào trong tàu. Cả thủy thủ và nhóm chúng tôi ùa ra nhặt cá chiến lợi phẩm vào nộp cho chú Cá gỗ làm bữa ăn tươi.


Ban đêm các chú hướng dẫn cách tìm sao. Ngôi nào to hơn hẳn nhấp nháy màu xanh là sao Bắc Đẩu, còn sao Nam Tào đỏ sẫm, thấp thoáng ở chân trời phía Nam. Ban đêm các thủy thủ còn bày cách nhận dạng các hòn đảo hai bên tàu là biết được tàu đang đi ngang qua cửa Tùng, cửa Việt, Đà Nẵng, Nha Trang hay Phan Thiết nên dù tắt đèn, tàu vẫn đi đúng hướng...


Ngày thứ 7, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đến báo với chúng tôi một tin quan trọng. Tối hôm nay tàu sẽ từ hải phận quốc tế, đổ bộ vào bến đón của quân giải phóng.

Anh Thế Bôn yêu cầu trình bày kế hoạch đổ bộ cụ thể. Đồng chí Vinh đã vào vùng này cách đây không lâu nên anh tỏ ra rất tự tin: "Trước hết đít tàu dựa vào Côn Đảo, mũi tàu từ nam quay về hướng tây, theo la bàn tiến vào. Cửa sông Cổ Chiên thuộc vùng giải phóng của ta thuộc tỉnh Trà Vinh. Tới gần bờ, có người của ta dóng đáy đón vào". Chúng tôi đều lộ vẻ vui mừng vì đã sắp tới đích, nhưng cũng hiểu chặng đường cuối cùng này là gay go, nguy hiểm nhất. Theo kinh nghiệm của thuyền trưởng Phan Vinh lúc tàu vào bến, càng gặp thời tiết xấu, trời mù, gió to, mưa lớn thì độ an toàn càng cao. Vào những lúc đó, đố bọn ngụy dám ra khỏi đồn.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:58:05 am
Chúng tôi hồi hộp chờ chóng đến tối. Côn Đảo đã ở trước mắt kia rồi, nhìn rất rõ, làm mọi người càng vững tin. Khi màn đêm đổ xuống, thuyền trưởng Vinh điều khiển con tàu theo như kế hoạch. Chính trị viên Sang phụ trách việc bắt liên lạc. Các chiến sĩ sẵn sàng chiến đấu phòng bất trắc. Khoảng quá nửa đêm, bỗng một cơn dông ập đến bất thần. Gió thổi mạnh. Sóng biển ầm ầm dữ dội. Con tàu không làm chủ được hướng đi, xoay tròn. Những con sóng bạc đầu quật liên tiếp vào mạn tàu, bắn tung tóe vào cả chỗ chúng tôi ngồi. Thuyền trưởng Vinh gò mình, cố lái con tàu cắt sóng, vừa chỉ đạo các chiến sĩ việc này, việc khác. Cũng may khoảng gần sáng, gió bắt đầu giảm. Tàu dần lấy lại thế cân bằng, bỗng nghe một tiếng kịch ở dưới gầm tàu. Một tiếng hoảng hốt kêu to: "Tàu mắc cạn rồi!".


Mọi người giật mình lo lắng. Trời sáng rồi mà chưa biết tàu bị mắc cạn ở nơi nào, và chắc đã bị tạt xa hướng vào bến. Mọi người xúm lại ở sân tàu để tìm câu giải đáp: Làm thế nào cho tàu nổi lên được để tránh địch phát hiện? Có ý kiến thả bớt vũ khí xuống biển cho tàu dễ nổi. Nhiều ý kiến không đồng ý vì đã ném xuống biển thì mò lên làm sao được! Đấy là xương, là thịt của nhân dân miền Bẳc, của Đảng, của Bác Hồ gửi cho miền Nam, vứt bỏ ở dọc đường là có tội lớn. Hay là đưa đoàn cán bộ vào bờ trước? Củng không được! Điều quan trọng là phải biết tàu mình đang bị mẳc cạn ở đâu? Chớ dại mang mỡ đến miệng mèo. Thuyền trưởng Vinh, chính trị viên Sang và nhóm chúng tôi vẫn đứng ở sân tàu, chờ trời sáng thêm để tiện quan sát. Bất chợt đồng chí Sang nhìn thấy qua sương mù lờ mờ tháp canh và cờ ba que ở xa trên bờ. Anh Thế Bôn dùng ống nhòm quan sát kỹ phỏng đoán tàu cách đồn địch khoảng 3 cây số. Với kinh nghiệm của một nhà chỉ huy quân sự, sau khi xác định ba điểm chuẩn cửa sông Hậu - Mũi Cà Mau - Côn Đảo, anh Thế Bôn đã tìm ra vị trí của tàu đang ở trên làn nước nông giữa Trà Vinh - Bạc Liêu. Như vậy là tàu ta đã dạt xa bến đổ bộ và trên bờ là đồn địch hiện ra càng rõ.


Vì vậy, việc phải làm ngay là tất cả rút vào trong khoang. Tôi triệu tập họp chi bộ cấp tốc để bàn kế hoạch chiến đấu. Sau đó, thuyền trưởng Vinh cho treo cờ ba que lên, căng lưới đánh cá ngoài sân tàu. Tất cả thay quần áo của người dân Nam Bộ. Các tổ chiến đấu được thành lập xen kẽ cán bộ và chiến sĩ. Nghị quyết của chi bộ là chiến đấu đến người cuối cùng, không để người và vũ khí rơi vào tay địch. Thuyền trưởng Vinh được giao nhiệm vụ trường hợp tàu địch áp sát tàu ta, sẽ cho nổ tung toàn bộ khối thuốc nổ trên tàu, tiêu diệt càng nhiều càng tốt.


Tình hình căng thẳng kéo dài đằng đẵng suốt từ lúc sáng đến 2 giờ chiều. Bỗng có tiếng reo lên từ đài quan sát: "Triều lên, tàu nổi rồi đấy!". Mọi người trút được gánh nặng, thở phào. Chúng tôi vẫn không lơi theo dõi bọn địch ở trên bờ nhưng không thấy chúng có động tĩnh gì. Thuyền trưởng Vinh bình tĩnh đưa tàu chạy ngược lại, tập trung quan sát kỹ đường vào đúng bến rồi cho tàu chạy ra hải phận quốc tế tranh thủ chuẩn bị kỹ thêm cho cuộc đổ bộ lần thứ hai. Mặc dù đã thoát được cơn nguy hiểm hồi sáng, nhưng chúng tôi vẫn không yên tâm. Vì nếu lộ ở ngoài khơi mênh mông này, dù là ở hải phận quốc tế thì hạm đội 7 của Mỹ cũng luôn luôn sẵn sàng phối hợp với hải quân ngụy trong bờ, khi phát hiện có tàu lạ lọt vào vùng kiểm soát của chúng.


Giờ phút căng thẳng dù qua đi quá chậm chạp, nhưng buổi tối chờ đợi đã đến. Khi con tàu quay mũi về hướng tây thực hiện cuộc đổ bộ lần thứ hai, anh Thế Bôn với tôi leo lên đài chỉ huy quan sát tình hình. Như hiểu ý chúng tôi, thuyền trưởng Vinh nói quả quyết: "Tối nay trời yên rồi, không có mưa gió, em bảo đảm sẽ đưa tàu mình vào đúng bến".


Anh Bôn cũng vui vẻ khích lệ:

- Cố vào bờ, ta sẽ mừng chiến thắng nhé! Tối qua bị trục trặc, nên bọn chúng tôi đều phập phồng, ngồi lặng thinh nghe ngóng. Thỉnh thoảng lại thay nhau ra ngó trời, ngó biển. Cũng may đêm nay gió nhẹ, biển êm, trời đầy sao, tạm yên bụng. Tới 2, 3 giờ khuya, mắt cứng đờ rồi, chúng tôi vẫn hồi hộp ngồi chờ. Chính trị viên Sang mấy lần giục chúng tôi đi ngủ lấy sức, lúc nào tàu vào gần bờ sẽ gọi dậy. Nhưng ai nấy vẫn tỉnh như sáo, trừ anh Văn Lân nằm trằn trọc gần đó. Riêng chính trị viên Sang ngồi trực ngoài sân tàu, đồng chí được giao nhiệm vụ bắt liên lạc. Đồng chí Sang giơ cái đèn 3 pin dài ngoẵng và cho biết 2 bên nhấp nháy liền 5 cái là đúng ký hiệu đó! Bỗng tàu chạm vào vật gì kêu lục cục ở mũi tàu. Đồng ch Sang chạy tới quan sát vội quay lại kêu lên: "Gặp đáy rồi". Anh báo ngay cho thuyền trưởng Vinh. Vinh cho tàu chạy chậm lại rồi hỏi Sang:

- Thấy tín hiệu chưa?

- Chưa? - Vinh thận trọng bảo Sang:

- Khoan đã.

Hai người quan sát kỷ một lúc rồi vào cho chúng tôi biết gần đến bến rồi, và đây là đám đáy của bộ phận đón nhận vũ khí ở trên bờ làm để che mắt địch.

Sau đó, Sang chạy ra mũi tàu, giơ đèn pin nhấp nháy đúng 5 cái. Lần thứ nhất không có tín hiệu đáp lại. Tàu lách qua những cọc cây cắm trên biển, tiến thêm quãng nữa, đồng chí Sang lại bấm 5 cái nữa. Bỗng tất cả chúng tôi đều cùng nhìn thấy tín hiệu nhấp nháy từ phía bờ ra. Hai bên tiếp tục nhấp nháy và xích lại gần nhau. Bỗng nghe có tiếng người gọi từ một xuồng máy đang sáp lại phía chúng tôi:

- Tàu thuyền nào đó! Có phải Vinh, Sang không?

Sang đáp lại rất to bằng giọng Nam Bộ:

- Sang đây nè. Ai đó?

- Bọn tui Hai Nhỏ và Năm Bình đợi mấy chú lâu thấy mồ...

Thế là gặp nhau rồi, vui không để đâu hết!

Xuồng đã ép sát mạn tàu. Đồng chí Sang nói như hét lên:

- Anh Tư dẫn tàu vô kẻo sáng.

Đồng chí Sang kéo tay người tên là Tư lên tàu. Chúng tôi vội chạy ra làm quen. Trời còn tối quá chưa nhìn rõ mặt nhau. Anh Tư lên chỗ thuyền trưởng Vinh giúp đưa tàu tránh không vào thẳng cửa sông lớn Cổ Chiên mà hướng vào một rạch nhỏ bên trái cửa sông để địch không phát hiện được. Chiếc xuồng đi trước, tàu chạy theo. Vì làn nước gần bờ nông, dải bùn kéo ra xa nên tàu phải chạy chậm lại, một quãng lại phải dùng sào đo luồng lạch xem mực nước. Bỗng lại nghe đáy tàu kêu lạo xạo rồi tàu chựng lại không chạy nữa. Lại mắc cạn rồi!


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Tám, 2022, 06:58:45 am
Trời đã mờ sáng. Các đồng chí địa phương rất tháo vát, dùng xuồng đưa ngay 5 cán bộ lên bờ. Rồi cử người về huy động thêm xuồng đuôi tôm của dân và lực lượng trên bờ ra đưa hỏa tốc vũ khí vào bờ. Mọi việc triển khai rất mau lẹ. Tới lúc trời sáng rõ thì tất cả vũ khí và con tàu đều đã vào chỗ trú ẩn, và cất giấu an toàn.


Một chị phụ nữ đã đứng tuổi, tự giới thiệu ở nhà là con thứ tư, ở đây là tổ trưởng giao liên, nhanh nhẹn đưa chúng tôi tới một bụi cây khá xa ở biển, có trải sẵn tấm ny-lon mới, rộng. Chị thân mật hỏi: "Mấy anh mệt lắm hè?". Anh Thế Bôn nhanh nhảu đáp: "Vâng ạ! 7 ngày, 7 đêm bị sóng biển tra tấn liên tục, tàu lại lạc đường, căng thẳng quá chị Tư à", vẫn giọng nói nhẹ nhàng, chị Tư như muốn phân trần:

Đề nghị mấy anh nghỉ tạm đây. Chỗ này yên tĩnh không sợ lộ. Tối, tụi em sẽ đưa mấy anh vô nhà nghỉ".

Một em giao liên đem đến mấy quả dưa hấu kếch sù. Chị Tư tự tay bổ ra mời chúng tôi và không quên giới thiệu:

Dưa Trà Vinh bóng bằng bã tôm, ngọt không đâu bằng. Các anh ăn xem có phải như vậy không?

Đúng như chị Tư nói. Miếng dưa màu đỏ tươi, có vi ngọt lịm người. Hương vị đó còn làm tôi nhớ mãi đến bây giờ!

Sau  tiệc dưa, đến bữa cháo tôm cũng thật đặc sắc. Trong lúc bụng dạ đang háo, vị ngọt của tôm làm tỉnh hẳn người. Mỗi chúng tôi ăn liền mấy bát, vừa ăn vừa tấm tắc khen hết lời.

Một lúc sau, mắt đã nhíp lại, cả nhóm chúng tôi lăn ra ngủ, kéo một giấc dài mê mệt...

Mãi sẩm tối, chúng tôi mới được đưa vào một ngôi nhà của đơn vị bảo vệ bến. Ngôi nhà thật đơn sơ, mái vách đều là lá dừa nước, có sẵn ở vùng này. Bàn ghế cũng bằng thân cây dừa ghép lại. Có hai cây đèn dầu tỏa sáng khắp nhà. Mấy mẹ và mấy chị đã ngồi chờ sẵn ở đó. Chị Tư giới thiệu đó là mấy mẹ chiến sĩ đến thăm mấy anh vừa ở ngoài về. Cuộc gặp bất ngờ nhưng có sự thông cảm, thân mật, chan hòa ngay từ lâu. Các mẹ, các chị rất chủ động, ân cần đưa tận tay thuốc lá con cú, kẹo thèo lèo (kẹo lạc) cho từng người, rồi lần lượt hỏi tên, quê quán các anh Thế Bôn, Sơn Tiêu, Văn Lân, Phúc "béo". Có một mẹ chỉ vào tôi hỏi cụ thể: "Còn thằng này đã có vợ, con gì chưa?". Có lẽ mẹ thấy tôi còn trẻ hơn mấy anh khác chăng? Tôi còn ấp úng thì một mẹ đã chỉ vào một cô gái ngồi gần tôi và nói vui: "Con gái bả ấy đấy, chú có ưng nói ra là xong hỉ!".


Tất cả cười vui vẻ. Cô em đỏ mặt e thẹn nhìn đi chỗ khác. Giữa lúc ấy thì có một ông già từ ngoài cửa bước vào. Ông có tầm vóc nhỏ nhắn, mặt gầy, có chòm râu bạc rất đẹp. Ông chào mọi người rồi lên tiếng trước:

- Mấy chú vừa ở ngoài về hả?

Chúng tôi đứng dậy chào; rất ngạc nhiên về giọng nói đặc sệt miền Bắc của ông, chưa biết trả lời thế nào thì chị Tư vội nói ngay:

- Giới thiệu với mấy anh và các mẹ đây là bác Bảy, bác cũng là người của đơn vị này - Rồi chị quay sang ông cụ - Mời bác Bảy ngồi chơi với các anh và các mẹ.

Ông Bảy từ từ ngồi xuống, lấy thuốc rê ra cuốn, bật quẹt hút rồi chậm rãi hỏi:

- Có chú nào người Thái Bình không?

Anh Văn Lân người con của bên kia bến Tân Đệ đứng dậy ngay:

- Thưa bác có cháu ạ!

Ông già tới nắm tay anh Lân, với giọng nói đầy xúc động:

Tôi cũng từ Thái Bình lang bạt vào đây, thành người ở đây quá nửa đời người rồi! Nay cũng phấn khởi được làm nhiệm vụ ở phương này. Chỉ mong sao Đảng và Bác Hồ gửi thêm nhiều các chú vào góp sức cùng miền Nam mau đến thắng lợi để đồng bào miền Nam đỡ khổ, để tôi còn có dịp về thăm miền Bắc, thăm lại quê cha đất tổ Thái Bình là hả dạ rồi!...


Sau khi tiễn các má chiến sĩ và ông già râu bạc về, là đã khuya rồi tôi vẫn nhớ ra một việc phải làm. Tôi mở chiếc ba lô con cóc lấy ra chiếc đài bán dẫn 3 băng hiệu Panasonic do Đảng Cộng sản Nhật tặng Đảng cộng sản Việt Nam. Trước hôm rời Hà Nội, Tổng cục Chính trị tặng nhóm chúng tôi mỗi người một cái. Những hôm ở dưới tàu, tôi mở mấy lần, nhưng đài bị nhiễm từ, chẳng nghe được gì cả! Con nhà chính trị mà thiếu tin, bị đói món ăn tinh thần quan trọng này, thấy bứt rứt quá! Tôi hồi hộp mở đài. Rất may lại đúng vào lúc Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi bản tin giờ chót trong ngày. Một giọng nam phát thanhh viên cất lên đĩnh đạc báo tin chiến thắng lớn của quân và dân trong miền Đông Nam Bộ, lần đầu tiên tiêu diệt chiến đoàn ngụy trong chiến dịch Bình Giã. Lâu nay bọn địch vẫn huênh hoang chiến đoàn là đơn vị chiến thuật hoàn hảo nhất của chủ lực ngụy. Nghe tin ngày, các anh Thế Bôn, Văn Lân, Sơn Tiêu, Phúc "béo" đang nằm, đều vùng dậy xúm lại bên đài chăm chú lắng nghe.


Một ngày đầu tiên ở miền Nam dồn dập những tin tức làm nhóm 5 người chúng tôi vừa chân ướt chân ráo tới, đã thấy sốt ruột muốn nhanh chóng về R (Bộ chỉ huy miền) để nhận nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:26:49 pm
BẢN NA TRƯỚC GIỜ NỔ SÚNG


NGUYỄN CHUÔNG


Năm 1970, tôi nhớ là vào hạ tuần tháng 8, tôi và anh Quân, Chính ủy trung đoàn được gọi lên Bộ tư lệnh mặt trận Liên quân Lào - Việt họp nghe phổ biến kế hoạch triển khai chiến dịch tấn công Loong Chẹng - Bản Na. Chúng tôi lên đã thấy có mặt các cán bộ Sư đoàn 316, quân tình nguyện B66, bộ đội Pa-thét Lào, tiếp đến là cán bộ chỉ huy bộ đội đặc công lần lượt tới.   


Cũng xin nói ngay là năm 1969, sau khi ta mở chiến dịch phản công đập tan Cù Kiệt giải phóng Xiêng Khoang, cánh đồng Chum, ta rút quân về nước thì quân địch lại tràn ra chiếm đóng khắp nơi. Năm 1970 này, chúng tôi lại nhận lệnh sang giúp bạn đánh đuổi quân địch giành lại vùng đất đã giải phóng.


Lần này Sư đoàn 316, quân tình nguyện B66 cùng các đơn vị đặc công có nhiệm vụ đánh vào Loong Chẹng. Đây là thủ phủ của tướng phi Vàng Pao do Mỹ chỉ huy xây dựng, được bảo vệ rất nghiêm ngặt, công sự dựa vào các hang đá rất vững chắc và cũng rất hiểm hóc. Bộ chỉ huy mặt trận coi đây là hướng chủ yếu của chiến dịch. Bộ đội Pa-thét Lào có nhiệm vụ đánh địch trên dọc đường 13. Đây là hướng đánh phối hợp. Trung đoàn 165 chúng tôi được tăng cường tiểu đoàn ĐKB 120 ly cùng tiểu đoàn 12,7 ly, có nhiệm vụ tấn công công tập đoàn cứ điểm Bản Na. Đây là hướng chủ yếu của chiến dịch. Đi cùng trung đoàn có một đoàn dân công huyện Yên Thành - Nghệ An làm nhiệm vụ vận chuyển đạn, gạo và thương binh.


Bản Na cách Loong Chẹng về phía đông nam hơn mười kilômét là tập đoàn cứ điểm bảo vệ vòng ngoài cho Loong Chẹng.

Nhận lệnh về, chúng tôi họp cán bộ ba cơ quan và cán bộ tiểu đoàn giao nhiệm vụ đồng thời tổ chức ngay bộ phận cán bộ chủ trì từ đại đội trở lên đi nắm địch và địa hình, bố trí các cung chặng tiến quân, thiết kế các trận đánh. Tôi chỉ huy bộ phận đi trước,  anh Quân cùng cán bộ cấp phó tổ chức hành quân theo sau.


Núi rừng Lào ở khu vực này rất hiểm trở. Anh em chúng tôi lại chưa ai thuộc địa hình, dân cũng không có mà hỏi, đành dựa theo địa bàn đối chiếu với bản đồ để định hướng đi.   

Phải mất hơn một tuần trèo đèo lội suối vô cùng gian nan vất vả, chúng tôi mới tới được khu Bản Na.

Sau ba ngày điều tra nghiên cứu, chúng tôi đã nắm khá kỹ các tập đoàn cứ điểm này, hình thù nó ra sao. Bản Na nằm trong một thung lũng nhỏ có đồi có ruộng nhưng bao quanh là những dẫy núi cao tạo thành một vòng tròn gần như khép kín. Cách Bản Na 3 kilômét, dãy đồi cao phía tây bắc có một cụm bốn cứ điểm. Phía đông nam, cũng trên dãy đồi cao cách bốn  kilômét có bốn cứ điểm. Khu trung tâm Bản Na có nhiều cụm, rõ nhất là cụm pháo 105 ly và 106,7 milimét, cụm kho, sân bay trực thăng, cụm bốn cứ điểm ở mấy mỏm đồi thấp. Chúng tôi chỉ thị mục tiêu cho từng tiểu đoàn yêu cầu các cán bộ phải đến gần nắm thật chắc tình hình và dự kiến cách đánh. Để dễ cho việc chỉ huy, chúng tôi thống nhất gọi khu trung tâm Bản Na là khu một, gồm chỉ huy sở trung tâm với tiểu đoàn Thái Lan và tiểu đoàn pháo 105-106,7 hỗn hợp Thái, một tiểu đoàn BS22 có khu kho, sân bay trực thăng. Công sự ở đây khá kiên cố. Tiểu đoàn 6 và Đại đội 19 đặc công có nhiệm vụ đánh chiếm khu một. Dãy đồi cao phía tây bắc Bản Na là khu hai, có bốn cứ điểm đặt tên là điểm 3, 5, 9, 11 giao cho tiểu đoàn 4. Ở đây địch có một đại đội tăng cường của tiểu đoàn BI11 Thái Lan và tiểu đoàn BV chốt giữ. Khu ba là dãy đồi cao phía Nam do tiểu đoàn SDU phái hữu chốt giữ cũng có bốn điểm, giao cho tiểu đoàn 5...


Mọi công việc chuẩn bị chiến đấu khá kỹ, chỉ còn bốn ngày nữa là nổ súng thì đột nhiên trung đoàn nhận lệnh của Mặt trận phải điều Tiểu đoàn 5 và 6 về hướng chủ yếu, làm lực lượng dự bị cho đơn vị tấn công Loong Chẹng, trong khi đó trung đoàn vẫn phải đảm bảo nổ súng đúng ngày.


Nhận điện mà băn khoăn không sao kể xiết. Thế là toàn bộ kế hoạch chiến đấu của trung đoàn bị đảo lộn. Thời gian gấp quá. Làm thế nào điều chỉnh kế hoạch tổ chức trận đánh cho kịp ngày nổ súng. Tôi liền triệu tập các cán bộ chủ trì từ đại đội trở lên cùng ba cơ quan bàn kế hoạch bổ sung, điều chỉnh kế hoạch tác chiến cho phù hợp với lực lượng trung đoàn giống như năm 1969, đánh vào Xiêng Khoảng cũng chỉ có tiểu đoàn 4 và các đại đội trực thuộc. Vấn đề quan trọng nhất lúc này là chọn mục tiêu và cách đánh.


Tôi thay mặt chỉ huy trung đoàn trình bày trước hội nghị:

- Thưa các đồng chí! Chúng ta đang đứng trước một thử thách nhưng chúng ta không sợ. Cái chính là căn cứ vào tình hình địch và lực lượng ta còn lại, cần tìm ra phương án tác chiến nào để có thể bảo đảm thắng lợi? Tôi thấy là ta phải thay đổi từ cách đánh nhanh sang cách đánh dài ngày, từ tấn công cả tập đoàn cứ điểm cùng trong một thời gian sang kế hoạch đánh từng cứ điểm, từng khu vực. Cụ thể là ta sẽ đánh theo chiến thuật bao vây tấn công, tập trung dứt điểm từng khu vực tiến lên tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của giặc ở Bản Na. Mục tiêu tấn công đầu tiên là cụm cứ điểm Tây Bắc gồm bốn cứ điểm 3, 5, 9, 11. Trung đoàn quyết định giao cho tiểu đoàn 4 và Đại đội 19 đặc công đảm nhiệm. Cứ điểm 3 quân đội Thái Lan là mục tiêu đột phá đầu tiên. Hỏa lực dùng đánh điểm 3 này gồm đại đội 120ly, hai khẩu DKZ75, tám khẩu B41 và đại đội 12,7ly. Lực lượng vây lấn đột kích, ta chỉ dùng một đại đội của tiểu đoàn 4 cùng với đại đội 19 đặc công. Nhưng quan trọng là ta phải dùng một trung đội công binh và trung đội trinh sát làm lực lượng bảo đảm cùng với một trung đội bộ binh kết hợp có lực lượng hỏa lực tiến hành vây lấn, tấn phá trước. Yêu cầu đối với bộ phận vây, lấn, tấn, phá này là phải vây cho chặt, lấn đến tận hàng rào, đến sát chiến hào địch cùng với hỏa lực không cho máy bay lên thẳng hạ cánh, không cho thằng dưới lên. thằng trên máy bay xuống, cả thằng trong đồn cũng không ra được, thằng ngoài đồn không vào được? Phải làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên, thằng sống nằm lẫn với thằng chết. Trong khi đó, lực lượng công binh và trung đội bộ binh bao vây lấn phá rào tiến hành mở cho được bốn cửa vào đồn giặc; Hỏa lực bắn phá phải diệt các hỏa điểm và sinh lực địch ở hướng cửa mở. Khi bộ phận vây lấn đánh phá đạt được như thế, ta mới tung lực lượng xung kích vào gồm Đại đội 1 và Đại đội 19 đặc công được tổ chức thành bốn đội tấn công tiêu diệt cứ điểm 3. Đánh xong điểm 3, ta tập trung đánh điểm 5, điểm 9 rồi 11. Các đại đội pháo ĐKZ 120 ly tập trung bắn khu 1, trung tâm Bản Na chủ yếu là chế áp pháo và chỉ huy sở, tiểu đoàn Thái Lan BI11. Đối với khu 3, ta chỉ đùng đại đội 12,7ly, đại đội cối 82 cùng một tiểu đội trinh sát bắn kiềm chế và bao vây lỏng lẻo. Cụm cứ điểm Tây Bắc bị diệt nhất định sẽ làm rung chuyển cả khu trung tâm và khu Đông Nam này...


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:28:14 pm
Các cán bộ dự họp đều nhất trí với phương án tác chiến trên, cho rằng đó là cách đánh chắc tay gặp tình huống khó khăn phức tạp có thể khắc phục được. Ai nấy phấn khởi về phổ biến cho đơn vị và làm tiếp các công tác chuẩn bị.


Chỉ còn một ngày nữa thì nổ súng, khí thế đơn vị bước vào trận đánh thật đáng mừng, ai nấy cũng phấn khởi, tin là sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Tuy vậy tôi vẫn lo. Lực lượng mình quá mỏng. Trước một tập đoàn cứ điểm như vậy, cả khi trung đoàn có về đủ tập trung toàn lực tấn công cũng vẫn phải thận trọng chọn điểm đột phá chủ yếu đặng có thể dứt điểm làm cho toàn bộ quân địch phải choáng váng, huống chi lúc này, trung đoàn lại bị điều đi mất hai tiểu đoàn. Tham mưu trưởng Đỗ Phú Vang cũng cùng chung một ý nghĩ như tôi. Chúng tôi bàn nhau về kế hoạch vây, lấn, tấn, phá sao cho chẳc, bảo đảm dứt diểm trận đột phá đầu tiên diệt điểm 3 thật gọn tạo đà cho các trận tiếp theo.


Hai anh em đang bàn bạc, dường như còn nhiều điểm phải bổ sung cho công tác chuẩn bị thì có điện của Mặt trận thông báo là đoàn cán bộ của Mặt trận do phó tư lệnh Nam Hà dẫn đầu xuống làm việc, trung đoàn cho người đi đón. Thật là tin vui đến với chúng tỏi. Đang lúc còn nhiều điểm chưa thật yên tâm, lại được anh Nam Hà gỡ cho thì còn gì bằng. Cán bộ trong cơ quan trung đoàn bộ biết tin, ai cũng mừng.


Thật ra mọi người kể cả tôi, chỉ mới nghe tên biết mặt chứ chưa làm việc trực tiếp với anh Nam Hà bao giữ. Qua đôi lần gặp ở hội nghị hoặc trên đường, chào hỏi nhau, tôi biết sơ sơ bề ngoài, anh có vẻ xởi lởi dễ gần, người nhỏ thấp, dáng cân đối, động tác nhanh nhẹn. Thế thôi. Lần này được trực tiếp làm việc với anh ở ngay mặt trận ác liệt đầy gian khổ, chắc chắn rằng, với kinh nghiệm của người chỉ huy lâu năm đã từng trải qua nhiều chiến dịch, anh sẽ giúp trung đoàn, giúp bản thân tôi rất nhiều.


Tôi còn đang mải suy nghĩ như thế thì anh Nam Hà cùng ba đồng chí cán bộ tác chiến quân huấn của Mặt trận đến ngay trước mặt. Vui quá, lại có cả anh Lã Thái Hòa - Sư đoàn phó Sư đoàn 312 chúng tôi cùng đi, thời gian này, anh làm phái viên của mặt trận.


Tôi đứng lên hoan hỉ bắt tay các anh. Không khí chào hỏi tiếp đón, diễn ra thân tình cởi mở.

Anh Nam Hà hỏi tôi ngay:

- Trung đoàn đã điều hai tiểu đoàn đi rồi chứ? kế hoạch tác chiến thế nào, ổn chưa?

- Thưa anh, Tiểu đoàn 5 và 6 đã đến đúng vị trí theo lệnh trên. Kế hoạch tác chiến đã triển khai xong. Nói chung là ổn.

- Thế thì tốt quá.

Các cán bộ trung đoàn và ba cơ quan kéo đến chào phái đoàn khiến cho không khí thêm sôi nổi bộc lộ tình cảm thân thiết tin cậy. Tôi đến sát bên anh Lã Thái Hòa hỏi chuyện vui:

- Thế nào anh. Trên đường từ mặt trận xuống đây, thủ trưởng và phái đoàn bị mấy trận bom vồ?

- Ba trận. Nhưng chẳng ai làm sao cả. Hơn nữa đi càng khỏe và nhanh hơn.

Anh Nam Hà nói chen vào:

- Cậu Thái Hòa to khỏe có mã tướng đẹp nhất đoàn cho nên bom nó nể. Lúc đến cửa rừng bị một trận, còn nhìn thấy cậu ấy, đến trận thứ hai ở phía đỉnh đèo Dốc Quế, trận nữa là đèo Mây, tất cả phải vượt nhanh, chúng mình vượt lên rồi, nhìn về phía sau chỉ thấy khói bom mù mịt. Lo quá. Thái Hòa đâu rồi. Một lát mới thấy cậu ta hiện qua khói bom, dáng ì ạch bám theo, mãi một lúc sau mới theo kịp chúng minh.

Mọi người cười vui, chả nghĩ là đang giữa chiến trường và đang ở thời điểm trước ngày nổ súng.

Tôi hỏi khẽ anh Lã Thái Hòa:

- Anh vẫn nhận được thư của chị ấy chứ! Thế nào, lần về trước, gặp chị ấy có kết quả gì chưa? hay là vẫn cờ trắng?

- Mình vừa nhận được thư. Bà ấy hỏi thăm Chuông đấy. Còn cái chuyện kia, vẫn cờ trắng.

Hai chúng tôi cùng cười. Anh em chung quanh, chẳng hiểu có biết chúng tôi nói gì không, cũng cười theo.

Sau khi ăn cơm, chúng tôi họp với phái đoàn của mặt trận. Phía trung đoàn chỉ có tôi, anh Trường Quân, anh Đỗ Phú Vàng, anh Trần Lạc và các cán bộ tác chiến. Tôi báo cáo phương án tác chiến, rất hy vụng sẽ được phái đoàn của mặt trận đánh giá là sát hợp với thực tế tình hình. Nhưng tôi quan sát thấy anh Nam Hà vừa nghe vừa xem bản đồ, rồi anh ngắt lời hỏi tôi:

- Như vậy là trung đoàn không đánh tập trung vào chỉ huy sở Bản Na ư? Mà lại đánh vào khu hai?

- Thưa anh đúng, tôi bình tĩnh trả lời: Trung đoàn chỉ đủ sức đánh vào khu hai, còn khu trung tâm, ta dùng pháo bắn phá. Với khu ba phía Đông Nam, ta kiềm chế, bởi vì...

Anh Nam Hà ngắt lời:

- Cách đánh của trung đoàn như thế là không đúng tinh thần và ý định của mặt trận. Phải tập trung lực lượng đánh vào khu một, trung tâm Bản Na. Tại sao trung đoàn lại dồn lực lượng vào khu hai?

Các cán bộ trung đoàn báo cáo bổ sung tình hình địch và khả năng trung đoàn chỉ đủ sức đánh khu hai, hy vọng anh sẽ nghe ra. Nhưng không, anh vẫn kiên quyết nhắc lại và giải thích là phải tập trung lực lượng đánh vào khu một mới khiến cho quân địch choáng váng. Anh nói tiếp:

- Các anh nên tính toán cho thận trọng. Tôi nói đây là tôi đem lệnh của mặt trận xuống. Trung đoàn các anh bàn với nhau khắc phục khó khăn chấp hành lệnh. Vấn đề là phải nhìn chung thế và lực toàn chiến dịch. Phối hợp với hướng chính là Long Chẹng, ta đánh vào sào huyệt của bọn phỉ Vàng Pao thì ở hướng phụ này phải đánh thẳng vào nơi hiểm yếu của địch, có nghĩa là phải đánh vào khu trung tâm Bản Na, như thế mới có tác dụng phối hợp bởi lẽ Bản Na là tập đoàn cứ điểm bảo vệ vòng ngoài cho Loong Chẹng. Vòng ngoài rung động thì Loong Chẹng cũng rung động theo.

Cán bộ trung đoàn chúng tôi rất lo lắng vì bộ đội đã vào các vị trí tập kết, thời gian quá gấp để có thể tổ chức thực hiện mệnh lệnh này. Tất cả ngồi im nhìn nhau chờ đợi mà chẳng biết là chờ đợi cái gì. Tôi thầm nghĩ, với lực lượng trung đoàn hiện nay mà chọn đánh vào nơi hiểm yếu nhưng lại không phải là điểm yếu, kết cục bị "phơi áo" ra đấy thì liệu có thể làm rung động được cái gì. Khu hai là điểm yếu so với khu một nhưng không phải là không hiểm yếu bởi diệt được khu hai là lập tức uy hiếp khu một. Với phương án đã tính toán, tấn công khu hai là chắc thắng. Cứ thực hiện phương án của trung đoàn thôi. Đã trình bày như thế mà trên chẳng nghe thì...


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:30:35 pm
Hội nghị phải tạm dừng. Mọi người tản ra. Từng tốp cán bộ cơ quan trên với cơ quan dưới, anh Nam Hà, anh Quân, anh Lạc chụm đầu rì rầm bàn tán. Chỉ có tôi ngồi một mình rít thuốc.

Lát sau, anh Lã Thái Hòa đến ngồi bên tôi một lúc rồi mới nói.

- Chuông ơi, như vậy là tình hình phức tạp rồi.

Nghe thế, tôi hỏi lại:

- Anh là chỉ huy cấp trên có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy, anh nghĩ xem tình hình địch, như vậy thì có chấp hành được cái lệnh đó không. Tôi đâu phải là người muốn chống lệnh. Năm ngoái trung đoàn còn phải luồn qua mấy tuyến ngăn chặn địch vào chiến đấu trong vòng vây đồn bốt giặc, trên không cho một người trinh sát dẫn đường, gạo không được tiếp tế, đạn phải dè sẻn từng viên vậy chúng tôi vẫn chấp hành đầy đủ các nhiệm vụ trên giao, thương vong lại rất ít. Trong khi đó Trung đoàn 141, đánh đồn Mã Tử không dứt điểm lại thương vong nhiều, trung đoàn trưởng bị mất chức. Trận Keo Bom, Bum Lọng, Trung đoàn 209 đánh cũng không thắng, trung đoàn trưởng phải ra đi. Đến trận này sẽ là ai đây? Chắc là tôi thôi! Nếu tôi cứ mạo hiểm chấp hành mệnh lệnh đánh vào khu trung tâm Bản Na, tức là đánh vào chỗ cứng nhất, mạnh nhất của tập đoàn cụm cứ điểm này, trong khi lực lượng của trung đoàn đã bị điều đi mất hai phần ba. Tôi nói thực với anh tôi không thể đánh cách nào khác. Đề nghị cấp trên cho chúng tôi đánh theo phương án trung đoàn đã triển khai.

Anh Hòa kiên nhẫn nghe tôi nói đến đây khẽ thở dài, thủng thẳng đáp:

- Anh đã quyết như thế, tôi chẳng còn gì để nói với anh được. Tôi chịu anh thôi.

Nói xong, anh ngồi thừ ra khiến tôi lại thấy thương nên phải nói thêm để anh hiểu:

- Tôi nói là có lý do của tôi, không phải tôi nói bừa. Anh xem, ban đầu kế hoạch tác chiến là lực lượng toàn trung đoàn tấn công thì lẽ tất nhiên có bộ phận chủ yếu tấn công cả khu vực trung tâm Bản Na. Bây giờ trên điều mất của chúng tôi hai tiểu đoàn thì kế hoạch phải thay đổi cho phù hợp. Hơn nữa sắp đến giờ nổ súng, bộ đội đã vào các vị trí, làm sao có thể điều chỉnh được nữa. Nói bàn là bàn cho vui thôi chứ sao ra lẽ được. Tôi đã sẵn sàng rồi, anh yên tâm. Dù trận này có thắng tôi cũng chẳng ra sao. Điều khiến tôi phải nghĩ nhiều đó là máu xương chiến sĩ. Mà giả thử trung đoàn gặp khó khăn chắc là tôi sẽ mất chức hoặc đi tòa án binh hoặc về nhà làm ruộng, nuôi gà, đánh cá. Nếu ông còn nhớ tình bạn đến chơi, chắc rằng tôi sẽ có các thứ cây nhà lá vườn đãi ông thôi.

Nửa tiếng sau trở lại cuộc họp, tiếp tục bàn, không khí xem chừng có dịu lắng đi một chút song tôi nghĩ chỉ là bề ngoài.

Tôi tiếp tục báo cáo hội nghị: Thưa các anh, ban nãy nghe lệnh, thấy thời gian gấp mà bí quá, tôi không biết làm thế nào để thực hiện nhiệm vụ nên chưa thật bình tĩnh. Bây giờ chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thì nổ súng, bộ đội đã vào vị trí cả rồi, tôi xin lỗi và đề nghị thủ trưởng Nam Hà và các anh trên cơ quan Mặt trận cứ báo cáo lên trên, chúng tôi chịu trách nhiệm, và bảo đảm sẽ đánh thắng, sẽ chiếm lại Bản Na. Tôi đề nghị các anh đến sở chỉ huy chính của chúng tôi. Tôi, anh Nam Hà ở chung. Cơ quan trung đoàn ở một bên, cơ quan mặt trận ở một bên.

Anh Nam Hà xem bản đồ, tỏ vẻ điềm tĩnh nói:

- Thôi, thời gian gấp thì phải thế vậy.

Hôm đó, ăn cơm xong, tôi đi kiểm tra sở chỉ huy trung đoàn, đến ban tác chiến thấy các anh phái viên tham mưu của mặt trận và bộ phận thông tin vẫn chưa về vị trí của mình, tôi nói ngay:

- Các anh về bên kia suối đi, về vị trí của mặt trận. Tôi và anh Nam Hà đã thống nhất như thế.

Tôi nhắc tham mưu trưởng, trưởng ban tác chiến phải chấn chỉnh lại sở chỉ huy và giúp bên cơ quan mặt trận tổ chức vị trí chỉ huy, cho người đào công sự đồng thời cho các đồng chí ấy mượn một số cuốc xẻng. Nhắc xong, tôi sang bên chính trị, hậu cần kiểm tra tình hình mọi mặt, rất mừng, khi nghe tin dân công huyện Yên Thành - Nghệ An đã chuyển đủ đạn, gạo đến trận địa có nhiều tấm gương dũng cảm.


Một lúc sau trở về sở chỉ huy lại thấy các phái viên của mặt trận vẫn còn ở đó cười nói ồn ã, tôi chợt nghe tiếng ai đó nói "Ăn cơm rau muống không bằng tình huống ông Chuông", rồi cười khúc khích.

Khi về sở chỉ huy gặp anh Nam Hà, anh hỏi ngay:

- Đơn vị vào chiếm lĩnh đến đâu rồi?

- Báo cáo, tất cả các hướng, bộ đội đã vào vị trí an toàn.

Anh Nam Hà không nói gì. Lúc này đã hai mươi giờ, trăng đang lên tỏa sáng lấp lánh qua các vòm lá rừng. Tôi mừng thầm. Thế là bộ đội có thể chuẩn bị chiến đấu được thuận lợi hơn.

Pháo địch vẫn inh oàng cầm canh. Máy bay vẫn thả bom tọa độ khi xa khi gần. Đèn dù pháo sáng, dường như không có lúc nào thiếu vắng trên trời dập dờn bay theo chiều gió, nhạt nhòa trong ánh trăng.

Chuông điện thoại reo lên. Anh em báo cáo đã vây gọn khu 2; đài quan sát báo cáo tình hình địch không có gì thay đổi, các đơn vị đã vào vị trí, chờ lệnh nổ súng. Như vậy là quân ta đã đến rất gần mà địch vẫn chưa biết.

Chỉ còn mười phút nữa thì đến giờ nổ súng. Nghe báo cáo, tôi rất mừng mà vẫn không khỏi hồi hộp. Tình huống của trận đánh này là một thử thách vô cùng quyết liệt đối với tôi, nó buộc tôi phải thận trọng hơn bất cứ lần chỉ huy trận đánh nào trước đây. Nghĩa là tôi phải bảo đảm chỉ có thắng, không thể thua. Trách nhiệm và danh dự ngầm bảo tôi như vậy.

Mười phút qua nhanh. Anh Nam Hà nhắc tôi:

- Đến giờ rồi, ra lệnh nổ súng đi.

Trận đánh đã diễn ra không kém phần ác liệt. Tiếng pháo nổ to nhỏ, rồi tiếng trung liên, đại liên nổ rung chuyển cả núi rừng, đạn lửa đan chéo ngang trời, chớp lửa nhoàng nhoàng xé toang màn đêm sáng cả một vùng rừng.

Các đài quan sát báo cáo pháo ta bắn áp chế khu trung tâm trúng chỉ huy sở và trận địa pháo địch. Bộ đội đánh khu hai đã đến sát hàng rào, đang đào công sự. Pháo ĐKZ và cối bắn rất trúng đã đánh sập ba ụ súng, dập tắt hỏa điểm lợi hại trên hướng đánh vào điểm ba của khu hai. Địch phản ứng yếu ớt.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:31:41 pm
Nghe báo cáo tình hình, tôi rất mừng. Anh Nam Hà cũng tỏ thái độ hòa vui cùng chúng tôi. Anh nói:

- Bộ đội đánh thế là được đấy.

Đúng lúc đó có điện của mặt trận gọi anh Nam Hà về. Tôi bịn rịn tiễn chào anh. Đến lúc này hình như chúng tôi đã thông cảm với nhau hơn. Anh bắt tay tôi, vẻ xúc động, nói:

- Cậu chỉ huy, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

- Vâng! Anh đi đường thận trọng.

Nghe tiếng bom nổ mạnh và liên tục từ dốc Quế về phía bộ chỉ huy mặt trận, tôi cũng thấy lo lo. Anh Nam Hà động viên tôi:

- Cậu yên tâm.

Trận đánh tiếp tục diễn biến hết đêm hôm đó cho đến buổi sáng hôm sau, quân ta đã phá thêm hai hàng rào, sáu lô cốt, làm sập nhiều đoạn hào ở điểm 3, phá được ba ụ súng, một hàng rào ở điểm 5; điểm 9 phá được một hàng rào, ba ụ súng; điểm 11 chưa thấy báo cáo kết quả. Khu một trung tâm chỉ huy sở của địch bị trúng đạn pháo nặng nề, cụm kho bị cháy, trận địa pháo bị nặng nên địch bắn ra rất thưa thớt, không thấy chúng đi lại nhiều như hôm trước. Địch ở khu ba nằm im...


Tham mưu nhận định: bộ đội ta đánh tốt, cứ đà này, có thể chuẩn bị ngay cho Đại đội 1 và Đại đội 19 đặc công tối nay tập trung đánh dứt điểm điểm 3. Tôi nhất trí với nhận định trên và ra lệnh cho tham mưu chỉ đạo ngay những công việc cần làm, nhất là tổ chức kiểm tra các đội đột kích về cách xung phong đánh địch trong chiến hào, hầm ngầm. Chờ trăng lên mới tấn công là hai mươi mốt giờ thì nổ súng. Kế hoạch là pháo bắn chế áp ba phút, bộ đội chuẩn bị xung phong, bắn cấp tập ba phút nữa là chuyển làn sang điểm 5, điểm 9 thì bộ đội phải xung phong đánh điểm 3 ngay, không được trù trừ, phải cướp lấy thời gian lên chiếm chiến hào trước địch để áp sát tấn công diệt hỏa điểm hầm ngầm. Lúc này súng 12,7 ly bắn đạn lửa lên trời, bộ đội cần biết rõ để từng bộ phận yên tâm làm nhiệm vụ của mình. Mặt khác phải chỉ đạo bộ phận làm nhiệm vụ vây lấn phải vây chặt lấn sát hơn nữa không cho trực thăng hạ cánh đổ quân xuống hoặc bốc quân lên. Bám thật gần để đánh địch thì không lo máy bay của chúng bắn vào trận địa của mình.


Đang hào hứng với kế hoạch tấn công dứt điểm vị trí địch trong đêm nay thì có tin thủ trưởng Lê Linh thường vụ Đảng ủy, phó chính ủy mặt trận cùng một số phái viên và cán bộ kiểm sát xuống trung đoàn làm việc. Sau cuộc đón tiếp nửa vui nửa ngỡ ngàng, anh Linh bảo tôi:

- Anh cứ chỉ huy. Tôi làm việc với anh Quân, anh Lạc.

Tôi thầm nghĩ chắc là việc của mình đây. Chẳng có gì mà sợ, nhưng phải cố gắng làm tôi mới không bị phân tán tư tưởng để tập trung suy nghĩ vào việc chỉ huy trận đánh Bản Na này mà tôi hiểu, nó phải chứng minh được với cấp trên là tôi đúng.


Làm việc với anh Quân, anh Lạc xong, anh Linh nghe tôi báo cáo về tình hình chiến đấu của bộ đội, đến hai giờ chiều, anh về trên mặt trận và không hỏi han gì thêm. Trong sở chỉ huy trung đoàn lại xôn xao lên nhiều chuyện chung quanh số phận của tôi. Tôi hỏi anh Quân, anh Lạc và tham mưu trưởng Đỗ Phú Vàng đang ngồi ban bạc gì đó để biết xem anh Linh chỉ thị những gì cho trung đoàn. Anh Quân chậm rãi nói:

- Thì vẫn chỉ là vấn đề công tác chính trị tư tưởng và tổ chức.

- Nhưng anh ấy bàn cụ thể là việc gì? - Tồi hỏi anh Quân - Sao tôi nghe thấy anh đề nghị với anh Linh cứ để tôi chỉ huy xong trận này đã. Như thế nghĩa là thế nào?

- Có chuyện đó, nhưng chẳng sao anh ạ.

Chủ nhiệm chính trị Lạc tiếp lời:

- Có chuyện về thủ trưởng, cũng hơi găng đấy. Chúng tôi bàn nhiều mặt sẽ báo cáo thủ trưởng sau. Mà đâu chỉ có việc thủ trưởng.

- Thì tôi cũng hỏi các anh để hiểu thêm. Chờ làm anh cán bộ quân sự phải chịu những thử thách như thế. Tôi ở Trung đoàn 165 từ trước khi thành lập sư đoàn và ở Sư đoàn 312 từ ngày thành lập đến nay. Tôi nhận thấy các lớp đội ngũ cán bộ trưởng thành trong sư đoàn, đã đánh nhiều trận, đánh giỏi nữa là khác, hầu như ai cũng phải trải qua một hai lần đau xót đắng cay vì thua trận. Chỉ có điều qua những lần thua đó lại giúp nhau rút kinh nghiệm đúc kết thành bài học bồi dưỡng cho nhau, kết quả là trưởng thành và đoàn kết hơn. Tất cả như quy luật để có sư đoàn 312 vững mạnh như ngày nay. Ngay thủ trưởng Lê Trọng Tấn, Sư đoàn trưởng 312 đầu tiên tài giỏi là thế mà trận đầu tiên tập trung cả sư đoàn đánh Nghĩa Lộ năm 1951 cũng có thể gọi là thua đấy. Song chính anh đã nhận ra bài học quý báu cho những trận sau, trận nào cũng thắng...

Tôi nói như muốn tâm sự với mọi người về tất cả những gì đang nghĩ và đã làm, cuối cùng tôi không quên nhẳc lại một cách rành mạch rằng khi trung đoàn không đánh theo phương án của mặt trận thì không phải là chúng tôi coi thường và cũng không nên nghĩ rằng như thế là chống lệnh.

- Không - Tôi nói tiếp. Chúng ta không chống lệnh. Đây chính là chúng ta dám chịu trách nhiệm trước cấp trên khắc phục mọi tình huống bảo đảm đánh thắng trận này. Đáng tiếc là trên chưa hiểu đầy đủ cái yếu và cái mạnh của chúng ta, chứ còn việc bàn bạc chọn phương án tối ưu nào trong chiến tranh để đảm bảo đánh nhất định thắng là chuyện bình thường vẫn diễn ra. Với trận Bản Na này, bây giờ không còn là lúc bàn cãi về phương án này hay phương án kia mà các đồng chí hãy yên tâm đi, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và tôi tin rằng cán bộ chiến sĩ trung đoàn ta sẽ có đáp số trả lời đó là nhất định chiến thắng...


Trận đánh mỗi lúc thêm quyết liệt. Đến ba giờ chiều, quân địch phản ứng mạnh lên. Pháo đấu pháo. Súng bộ binh chọi súng bộ binh. Súng 12,7 ly ngăn chặn bọn máy bay thả dù hàng. Địch cho máy bay B52 rải bom xung quanh Bản Na. Đạn bay, bom nổ, đất trời Bản Na mù mịt khói lửa ngỡ như khó có thể còn sự sống ở đây.


Chúng tôi thay nhau quan sát, vừa lo cho chiến sĩ ở phía trước, vừa nghĩ về trận tấn công dứt điểm đêm nay. Sau mỗi đợt địch dội bom, chúng tôi lại gọi điện thoại lên phía trước để nắm tình hình. Nghe anh em báo cáo vẫn an toàn, lòng mừng khôn xiết. Đến 17 giờ, cơ quan tác chiến tổng hợp báo cáo tình hình, chúng tôi nghe ai cũng vui khi biết tin các đơn vị đều vẫn an toàn mà ở cao điểm 3 ta đã phá thêm 4 ụ súng và các hàng rào đã mở xong, địch không dám lên chiến hào, bọn thả dù đều thả vào trận địa ta, có dù toàn gà đã mổ sẵn, có dù bánh mỳ, có dù bắp cải, hành tây. Chỉ có hai dù lọt vào bên trong hàng rào nhưng không có tên địch nào dám ra gỡ. Tôi nói với anh em tác chiến:

- Đánh thế là tốt. Cho tôi gặp tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 với hai cán bộ đại đội trưởng đại đội 1 và đại đội 19 đặc công.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:32:55 pm
Nghe anh em báo cáo đã đưa các mũi trưởng lên quan sát mở cửa, giao nhiệm vụ và chỉ thị mục tiêu rồi, tôi mừng lắm liền hỏi:

- Thế đêm nay bảo đảm đánh tốt chứ?

- Bảo đảm đêm nay dứt điểm ạ!

- Còn băn khoăn gì và có đề nghị gì nữa không?

- Chúng tôi rất yên tâm, bảo đảm chắc thắng ạ.

- Bây giờ lấy lại đồng hồ cho thống nhất đi nhé. Cuối cùng tôi nhắc lại:

- Nhớ nhé: Trăng lên. Đúng 21 giờ nổ súng. Nhưng 20 giờ bộ đội phải có mặt ở vị trí tấn công xung phong.

- Báo cáo, tất cả chúng tôi nghe rõ.

- Bây giờ thời gian còn, cần kiểm tra nhiệm vụ chiến sĩ. Còn chuyện các dù tiếp tế của địch, ta lấy được, cứ cho anh em sử dụng.

Nói chuyện với các cán bộ ở phía trước xong, tôi thấy rất yên tâm, bèn bàn bạc thêm với tác chiến nhắc đài quan sát chú ý bám sát tình hình, nhắc đơn vị pháo binh về kế hoạch hợp đồng...

Không khí sở chỉ huy nhộn nhịp hẳn lên. Trời tối dần, sương buông nhè nhẹ. Bản Na mờ đần trong sương, thỉnh thoảng lóe lên ánh lửa và tia chớp từ quả đạn nào đó địch bắn ra từ trong đồn.

19 giờ, các hướng bộ đội đã xuất kích. 20 giờ tác chiến nhận báo cáo các đài quan sát gần xa, các đơn vị pháo binh, hai đại đội 1 bộ binh và đại đội 19 đặc công đã sẵn sàng chờ lệnh tấn công dứt điểm.

Tôi vô cùng hồi hộp nghĩ về công tác chuẩn bị và ý thức chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của các cán bộ trong trung đoàn, càng thấy phấn khởi và tin yêu anh em nhiều hơn. Chỉ còn ba phút nữa là đến giờ tôi sẽ ra lệnh cho anh em xông lên đánh địch, nghĩa là xông lên lao vào nơi đầy khó khăn hiểm nguy để chứng minh lòng trung thành vô hạn với Đảng với quân đội, thực hiện tình bạn chiến đấu cao cả đối với quân đội cách mạng và nhân dân các bộ tộc Lào. Tôi cũng không thể giấu được lòng mình rằng, chỉ ba phút nữa, trận đánh diễn ra, tất cả sẽ giải tỏa cho mọi nỗi hiềm nghi và khẳng định cái đúng cái sai mà tôi sẽ là người phải gánh chịu hoặc thế này, hoặc thế khác. Tôi tin tưởng vào sự tính toán của mình và khả năng của đơn vị song cũng hồi hộp, hồi hộp hơn bất cứ trận đánh nào trước đó trong đời người chỉ huy của tôi...


Đang suy nghĩ thì tham mưu trưởng Đỗ Phú Vàng đến nhắc, đã tới giờ nổ súng. Tôi nhìn đồng hồ rồi lập tức ra lệnh.

Tiếng các cán bộ tác chiến, thông tin tiếp lệnh truyền đi sôi động, chỉ sau chớp mắt đã nghe tiếng nổ của các loại pháo cối dội lên rung chuyển khắp núi rừng. Tôi theo dõi hết ba phút pháo cấp tập xuống điểm 3 liền ra lệnh cho chuyển làn sang điểm 5, điểm 9, súng 12,7 ly bắn đạn lửa soi đường và uy hiếp địch cho bộ đội xung phong diệt điểm 3.


Đã sáu phút. Tôi không nghe thấy tiếng súng nổ trong điểm 3, cả súng địch và súng ta đều im ắng, mà hai đại đội 1 và đại đội 19 đặc công cũng chưa báo cáo về. Tôi thực sự hồi hộp và lo lắng. Điều gì đang xảy ra cho bộ đội ta khi xung phong diệt điểm 3. Lát sau đài quan sát báo cáo đã nghe tiếng Aka nổ trong điểm 3. Đến lúc này tôi cũng bắt đầu nghe được tiếng nổ ùng oàng trong đồn địch và từng loạt Aka. Tôi đoán rằng anh em đã chiếm được các chiến hào.


Mười phút sau, anh em mới báo cáo về là đã chiếm được đồn giặc song mới chỉ chiếm trên mặt đất, chưa diệt được hầm ngầm. Tôi nghe như trút được gánh nặng. Nhiều đồng chí reo lên. Sở chỉ huy rộn rã tiếng nói tiếng cười. Tôi để mặc cho anh em được thỏa thích bởi vì lòng tôi cũng đang vui không kém, cũng muốn reo lên như tất cả mọi người.


Sau một tiếng chiến đấu vẫn nghe báo cáo về là địch dưới hầm ngầm không chịu đầu hàng, gọi mãi mà không một tên nào lên hết. Tôi ra lệnh cho đơn vị dùng lựu đạn, thủ pháo và B41 đánh mạnh hơn nữa.

Thật ra có còn đứa nào sống sót trong hầm ngầm nữa đâu. Mấy tầng hầm ngầm, quân địch rút vào trong đó hy vọng sẽ được che chở. Ta đánh từng tên, tưởng xong té ra còn tầng dưới nữa. Quân địch quá tin vào cái vỏ xi măng cốt thép nàm ngầm dưới đất, nào ngờ nó lại trở thành cái quan tài khổng lồ vùi sâu cả một lô một lốc cái kiếp đánh thuê cho đế quốc Mỹ.


Tôi gọi điện khen hai đại đội 1 và đại đội 19 đặc công đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và ra lệnh rút về vị trí đã định, giao lại nhiệm vụ giữ chốt cho bộ phận vây lấn. Đội vận tải sẽ lên thu dọn chiến lợi phẩm. Kế hoạch tấn công dứt điểm điểm 5 và điểm 9 được chuẩn bị ngay. Hai đại đội 2 và 3 của tiểu đoàn 4 nhận lệnh sẵn sàng, sở chỉ huy được chuyển vào sát trung tâm Bản Na.


Hôm sau, quân địch phản ứng vô cùng quyết liệt bằng máy bay và pháo binh. Chúng tôi vẫn vây chặt điểm 5 và điểm 9. Đến đêm sau khi quân ta diệt xong điểm 5 và điểm 9, tôi nghe trinh sát báo cáo, địch ở điểm 11 tháo chạy. Tôi ra lệnh cho các đơn vị áp sát khu 1 trung tâm Bản Na và khu 2.


Đúng lúc này tôi được điện báo là tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 6 sẽ trở về đội hình chiến đấu của trung đoàn. Mừng quá, tôi lệnh ngay cho tiểu đoàn 5 về vị trí tập kết cũ chuẩn bị tấn công vào trung tâm Bản Na, tiểu đoàn 6 về đánh khu 3.


Suốt ngày hôm đó địch phản ứng rất điên cuồng, chúng dùng cả máy bay chiến lược B52 rải thảm. Thật ra, dùng máy bay chiến lược vào nhiệm vụ của chiến dịch là thất sách rồi và đó là sự lúng túng trong cách đối phó. Dẫu sao chúng cũng gây khó khăn cho việc điều chỉnh đội hình của trung đoàn. Té ra tất cả đều nằm trong kế hoạch tháo lui. Khi chúng cho trực thăng kéo đến trung tâm Bản Na, tôi ngỡ là chúng đổ quân ứng cứu sở chỉ huy, nào ngờ chúng bốc quân tháo chạy. Khi các tiểu đoàn quân phái hữu ở khu 1 chạy, tôi mới biết giặc rút khỏi Bản Na, liền ra lệnh cho các đơn vị truy kích. Nhưng đã chậm, chúng tôi chỉ diệt được một số, bắt sống 30 tên, 19 giờ quân ta hoàn toàn làm chủ tập đoàn cứ điểm Bản Na, thu được nhiều kho tàng vũ khí.


Đến lúc này, tôi mới thực sự yên tâm. Tôi giục tác chiến báo cáo ngay về mặt trận là trung đoàn đã giải phóng Bản Na.

Bất ngờ lại nhận được tin hướng chủ yếu, quân ta chưa giải phóng được Loong Ghẹng đang rút ra, tôi phải lập tức bố trí lực lượng chốt giữ Bản Na đề phòng địch phản kích chiếm lại.

Vậy là tình huống đã xoay chuyển đúng như sự nhìn nhận đánh giá của tôi. Trung đoàn được anh Nam Hà, Lê Linh, Lã Thái Hòa khen nhiều. Tôi cũng được các anh Mặt trận khen và không bị phê bình kỷ luật gì cả. Nhớ cái lúc anh Lê Linh cùng cán bộ kiểm sát xuống cũng chờn chợn...


Bản Na trước giờ nổ súng có chuyện như vậy cũng chẳng có gì là lạ. Điều quan trọng là sau chiến thắng Bản Na, chúng tôi đã thông cảm và thân thương nhau hơn, mỗi người tự tìm thấy cho mình một cách ứng xử đúng đắn nhằm đạt cái đích cuối cùng là chiến thắng quân thù.

N.C


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:36:47 pm
MỘT CUỘC ĐẤU TRANH Ở NHÀ LAO TAM HIỆP

NGUYỄN VĂN KHẢ


Câu chuyện này xảy ra khi phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chúng tôi đang công tác ở trong trại Đa-vít giữa thành phố Sài Gòn.

Lúc 22 giờ ngày 11-2-1973, Trần Vĩnh Đắt, đại tá trưởng tiểu ban trao trả của ngụy Sài Gòn gọi điện cho đồng chí Lê Trực, Trưởng tiểu ban trao trả của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, báo một tin đặc biệt. Trần Vĩnh Đắt nói: "Trên 900 tù binh bên phía quý vị không chịu đi trao trả nên ngày mai không thể trao trả số người đó như đã thỏa thuận của các trưởng phái đoàn trong Ban liên hiệp quân sự bốn bên".


Đồng chí Lê Trực hỏi lý do tại sao mà số người này không chịu đi trao trả, hiện đang ở trại giam nào? Trần Vĩnh Đắt trả lời rằng: "Chúng tôi chỉ được giám đốc trại giam Tam Hiệp ở Biên Hòa báo cáo như vậy, chúng tôi không hiểu tại sao? Chỉ biết rằng họ đòi được gặp đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời".


Theo thỏa thuận của bốn trưởng phái đoàn trong ban liên hiệp quân sự bốn bên thì 8 giờ sáng ngày mai 12-2-1973, cuộc trao trả đầu tiên được tiến hành. Ta trao trả trên 100 tên tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm. 27 tên Mỹ ở sân bay Lộc Ninh và họ phải trao trả 935 người của ta bị bắt tại sân bay Lộc Ninh và ở một địa điểm tại Quảng Trị.


Ban lãnh đạo đoàn chúng tôi liền triệu tập một cuộc họp. Mọi người tham gia thảo luận sôi nổi về sự kiện này. Cuối cùng, anh Trần Văn Trà kết luận hai khả năng: Một là địch phá hoại và hai là anh em ta không tin có việc trao trả nên đòi gặp cho được phái đoàn ta.


Chúng ta cử một đoàn sĩ quan đến thẳng trại giam Tam Hiệp trực tiếp xem xét tại chỗ để căn cứ vào thực tiễn mà xử lý. Yêu cầu số một là phải làm cho cuộc trao trả được tiến hành theo đúng tiến trình mà các trưởng đoàn đã thỏa thuận. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được hoãn việc trao trả. Đồng thời với việc cử phái đoàn đến trại giam Tam Hiệp sáng mai, Trung tướng Trần Văn Trà trưởng đoàn quân sự của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trưởng ban liên hiệp quân sự 4 bên sẽ triệu tập Hội nghị các trưởng đoàn để giải quyết vấn đề này.


Đoàn đi Tam Hiệp, tôi được cử làm trưởng đoàn. Tôi tên chính là Nguyễn Văn Khả, nhưng hồi hoạt động trong Nam gọi là Vũ Bình, trung tá Vũ Bình. Bấy giờ tôi đang giữ chức phó trưởng tiểu ban trao trả của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cùng đi với tôi có đồng chí Nguyễn Văn Bổn làm phó đoàn. Bên đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là anh Hoàng Thương và anh Lục. Cùng đi với chúng tôi còn có một số phóng viên, báo chí, quay phim, chụp ảnh và một vài cán bộ khỏe mạnh, chắc chắn, bình tĩnh, vững vàng để hỗ trợ đoàn. Chúng tôi báo cho phái đoàn Mỹ và phái đoàn ngụy cử người đi theo và đến đón đoàn vào 6 giờ sáng cùng lên Biên Hòa. Chúng tôi mang theo một ít thuốc lá Thăng Long, Điện Biên và một ít gói chè miền Bắc để có dịp thuận lợi thì tặng anh em ta ở trại giam.


Chỉ còn hai giờ nữa là ô tô của đoàn Mỹ - ngụy đón chúng tôi lên Biên Hòa. Với cương vị là trưởng đoàn, tôi nằm nghĩ miên man về cuộc xử trí ngày mai. Tôi thấy vẫn chưa có một cái gì là cái bảo bối chắc chắn nhất cho mình, tức là một "cái gậy" gì đây, một nội dung gì mà tù đày mình có thể đối phó được với sự xảo quyệt của kẻ thù. Tôi suy nghĩ đến việc có nên báo cáo với ngoài Trung ương, đề nghị hoãn trao trả trên 100 tên Mỹ ở ngoài Bắc và 27 tên Mỹ ở Lộc Ninh để bắt chúng phải trả người của ta thì ta mới trả Mỹ hay không?...


Xem đồng hồ đã 4 giờ rưỡi sáng, tôi mạnh dạn lên phòng anh Trà. Anh cũng chưa ngủ và anh Lê Quang Hòa cũng đang có mặt. Tôi liền báo cáo ý kiến của mình. Các anh cho gọi thêm mấy anh có liên quan đến để bàn. Sự phân tích của các anh rất nhiều điều sâu sắc. Cuối cùng, anh Trà kết luận là chúng ta đã báo cáo ra Trung ương cách đây trên một giờ. Bây giờ điện ra báo cáo là việc trao trả ở Hà Nội như thế nào do Trung ương quyết định, nhưng riêng 27 tù binh Mỹ được trả ở Lộc Ninh vào 9 giờ sáng nay xin được hoãn lại. Ta báo cho Mỹ biết là chúng ta tạm hoãn đến khi nào có chuyến máy bay đầu tiên chở người bị bắt của ta hạ cánh xuống sân bay Lộc Ninh, lúc ấy mới bắt đầu làm thủ tục trao trả 27 quân nhân Mỹ bị bắt...


Vì lý do gì không rõ, bọn sĩ quan của Mỹ - ngụy hơn 9 giờ mới đến đón đoàn chúng tôi lên Tam Hiệp. Đinh Công Chất, thiếu tá sĩ quan an ninh quân đội ngụy và một trung tá Mỹ dẫn chúng tôi đi. Ngồi trên ô tô, mắt nhìn ra ngoài, nhưng hầu như tôi chẳng chú ý gì đến quang canh, vì trong đầu óc tôi đang suy nghĩ, xếp sắp những nội dung phương pháp xử trí khi đến nhà lao Tam Hiệp. "Chúng ta sắp đến trại giam Tam Hiệp rồi" - thiếu tá Chất nói với tôi như vậy!


Nhìn ra ngoài thấy rất nhiều quân cảnh ngụy, súng lăm lăm trong tay, cứ mười lăm đến hai mươi mét có một tên, tên nào ngó bộ cũng hung dữ. Tôi hỏi thiếu tá Chất: "Họ làm cái gì đấy?" Thiếu tá Chất trả lời là hình như họ bảo vệ cho cuộc trao trả hôm nay đấy! Tôi mỉm cười thốt lên: Họ bảo vệ ai đấy nhỉ?


Vào đến cổng trại giam, có khoảng một đại đội quân cảnh cùng với súng trong tay hình như họ đang phải đề phòng một chuyện gì nguy hiểm lắm?

Xuống xe, Đinh Công Chất dẫn tôi vào một hội trường lớn. Có mấy sĩ quan ngụy ra đón. Đinh Công Chất giới thiệu chúng tôi với một trung tá ngụy, ngực gắn chữ Phong và nói đấy là giám đốc trại giam Biên Hòa.

Tên Phong nói một câu bâng quơ là các ông đến xem số người của các ông không chịu đi trao trả. Tôi trả lời gì với câu nói đó? Qua cách nói của tên Phong, tôi đánh giá đây là loại người không có văn hóa!

Tôi hỏi một câu: Ở đây ai là người có trách nhiệm nói chuyện với phái đoàn của chúng tôi? Người đó phải nói với chúng tôi cho đúng đắn, rõ ràng và chính xác. Nhìn tên Phong, thấy sắc mặt có biến đổi. Tôi nói tiếp: Hôm nay là ngày các bên tiến hành trao trả người bị bắt chuyến đầu tiên. Nếu ở đây mà trở ngại việc trao trả người của chúng tôi thì ảnh hưởng đến toàn bộ việc trao trả ngày hôm nay. Chúng tôi đến đây để gặp tất cả những người bị bắt của chúng tôi để hiểu rõ tại sao anh em chúng tôi theo như các ông báo cáo là không chịu đi trao trả, không chịu về với Chính phủ cách mạng lâm thời.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:37:54 pm
Đinh Công Chất nói với Phong là sẵn sàng trả lời những câu hỏi của trung tá Vũ Bình để giải quyết sự việc nhanh chóng. Tên sĩ quan Mỹ đến thì thầm với Phong.

Tôi hỏi: Tất cả số anh em của chúng tôi bị giam giữ ở nhà lao này đã được phổ biến nghị định trao trả chưa? Và đã phổ biến cho 935 anh em được trao trả ngày hôm nay như thế nào?

Tên Phong lúng túng trả lời rằng: Tối hôm qua chúng tôi đã cho cán bộ tâm lý chiến xuống phổ biến về trao trả cho anh em rồi nhưng họ nhất định không đi! Họ đòi gặp các ông, tôi cũng không biết họ đòi gặp các ông để làm gì?

Thế là dấu hiệu đầu tiên đã hé ra. Tôi nắm tay và đánh một cú phủ đầu. Tôi nói to để cho tất cả số sĩ quan ngụy đang ngồi ở đó củng nghe được.

- Hôm qua, tức ngày 11-2-1973, các ông mới nói đến vấn đề trao trả với anh em chúng tôi ở nhà lao này. Các ông biết không: Điều 13 của nghị định thư về việc trao trả nêu rõ rằng: "Trong vòng 5 ngày sau khi ký nghị định này, các bên sẽ công bố và thông báo toàn văn nghị định thư đến tất cả những người bị bắt nói trong nghị định thư này mà bên mình đang giam giữ. Ngày 27-1-1973, nghị định thư đã được ký, nay là nghị định thư trao trả. Đây là một sự vi phạm hiệp định Pa-ri về Việt Nam. Tôi, thay mặt phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cùng với phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa nghiêm khắc lên án và cảnh cáo, Ban giám đốc trại giam Tam Hiệp - Biên Hòa đã vi phạm điều 13 của nghị định thư trao trả".

Bọn sĩ quan ngụy ở xung quanh đó im phăng phác. Chúng chăm chăm nhìn vào tôi. Tên Phong không nói lại một câu nào nữa.

Tôi nêu tiếp, chúng tôi yêu cầu được gặp tất cả 935 anh em của chúng tôi mà các ông trao trả trong đợt này. Chúng tôi cần gặp tất cả và ở ngay tại đây. Chúng tôi sẽ phổ biến cho anh em biết nghị định thư trao trả và nói rõ về đợt trao trả này. Chỉ có làm như thế thì anh em chúng tôi mới thông suốt và lúc đó họ mới nhận đi trao trả. Bọn sĩ quan ngụy nhìn nhau, chúng nhìn tên thiếu tá Mỹ và tên thiếu tá Đinh Công Chất. Hình như chúng sửng sốt trước vấn đề chúng ta đưa ra, nhất là việc ta yêu cầu gặp 935 anh em ở tại đây.


Tên trung tá Phong, giám đốc nhà lao Tam Hiệp hạ giọng với thái độ khẩn cầu nói: Xin trung tá và các vị cho phép chúng tôi được đưa những anh em đại diện của từng khu vực đến gặp các vị. Phong nói thêm là tất cả anh em lên đây sẽ không bảo đảm được an toàn. Anh Tư Bốn nói: Không bảo đảm an toàn cho ai? - Và tại sao lại không bảo đảm an toàn?


Tên Phong tỏ vẻ nhăn nhó nói là: Anh em bên quý vị dữ lắm, nếu 900 người đến đây thì không an toàn cho chúng tôi. Anh Tư Bốn lại nói: Các ông ở đây có biết bao quân cảnh với súng ống thế kia mà sợ anh em của chúng tôi à!


Tên giám đốc trại giam năn nỉ rằng: Anh em bên phía quý vị họ căm thù chúng tôi lắm, số quân cảnh ở đây vẫn không bảo đảm, họ có thể nhảy vào cướp súng mà bắn chúng tôi. Xin các vị thông cảm cho chúng tôi.

Trao đổi với anh Tư Bốn, anh Hoàng Thương và anh Lục xong, tôi hỏi: "Nhưng người mà các ông gọi là đại diện của từng khu vực là người các ông cử ra hay là do anh em chúng tôi cử ra". Tên Phong trả lời ngay: Thưa, đúng là người của anh em cử ra chứ không phải chúng tôi cử.

- Chưa thể tin các ông được - Tôi nêu ra hai vấn đề sau đây: Nếu tôi phát hiện một vấn đề nào dù là nhỏ nhất không phải là người của anh em chúng tôi cứ ra thì tôi sẽ hủy bỏ cuộc gặp, lúc đó các ông phải để chúng tôi gặp tất cả 935 người. Nếu không gặp được 935 người, tức là không có việc trao trả hôm nay. Và như vậy, cũng sẽ không có việc trao trả 27 quân nhân Mỹ ở Lộc Ninh hôm nay.

Nhìn sang phía sĩ quan Mỹ và sĩ quan ngụy trong đoàn trao trả, tôi hỏi: "Các ông có đồng ý với ý kiến của chúng tôi không?" Họ không dám trả lời và nhìn vào Phong, Giám đốc trại giam. Phong nói rằng: Nếu những người đại diện không đúng là những người do anh em cử ra, chúng tôi sẽ thực hiện theo ý kiến của các vị...


Chúng tôi chờ anh em ta tới... Nhìn từ xa xa, thấy anh em ta thân hình gày còm, đi chậm chạp, có người đi khập khiễng. Chúng tôi quan sát rất kỹ anh em ta để tìm ra một điều gì là người của ta hay của địch. Khi anh em gần tới, anh Tư Bốn, anh Hoàng Thương và các đồng chí khác ra đón, không thấy ai mỉm cười, có đồng chí đưa tay ra nhưng anh em không bắt tay. Qua ánh mắt và nét mặt đã toát lên là những con người kiên cường mãnh liệt.


Tôi rất xúc động, suy nghĩ ngay đây là người của ta, đồng thời cũng là anh em còn ấp ủ một điều gì đó đang chờ cơ hội để bộc lộ. Cũng có thể là chưa tin hẳn chúng tôi là phái đoàn của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa.


Sau khi giới thiệu vài nét tóm tắt về đoàn của chúng tôi, tôi đi thẳng vào một câu hỏi đã được tính toán kỹ. Tôi nói: Tôi hỏi các đồng chí chỉ một câu thôi, nếu có, các đồng chí nói là có, nếu không, nói là không, không cần nói thêm một ý nào nữa. Mười hai anh em nhìn thẳng vào tôi, tôi hỏi: "Các đồng chí đã được phổ biến nghị định thư trao trả chưa?" Vừa dứt lời tất cả 12 đồng chí đồng thanh nói: không có! Một đồng chí giơ tay lên và xin có ý kiến. Khẳng định là người của ta rồi, tôi mời đồng chí đó nói. Đồng chí nói rằng: Khoảng vài tuần nay, chúng tôi có nghe một sĩ quan ở trại giam này nói chuyện với nhau về nghị định Pa-ri gì đó. Hoàn toàn không có ai phổ biến về trao trả, về hiệp định. Chúng tôi yêu cầu phái đoàn phổ biến cho chúng tôi biết về hiệp định Pa-ri.


Thế là rõ, đây chính là các đồng chí của ta, những đồng chí kiên cường, bất khuất.

Tôi nói ngay hai điều với 12 đồng chí:

 - Điều thứ nhất là hôm qua Ban giám đốc trại giam này báo cáo lên với các phái đoàn liên hiệp quân sự rằng anh em không chịu đi trao trả, không chịu về với cách mạng. Trung tướng Trần Văn Trà, Thiếu tướng Lê Quang Hòa, và các sĩ quan hai phái đoàn chúng tôi không tin điều đó. Nay xuống đây, chúng tôi hỏi giám đốc trại giam thì được trả lời là tối hôm qua mới cho cán bộ tâm lý chiến xuống nói về trao trả. Như vậy ban giám đốc trại giam này đã vi phạm Hiệp định Pa-ri. Từ khi ký nghị định thư đến nay là đã qua 16 ngày mà họ không phổ biến nghị định thư trao trả đến các đồng chí. Tôi thay mặt hai phái đoàn của ta trong ban liên hiệp quân sự bốn bên lên án và cảnh cáo ban giám đốc nhà lao này về việc vi phạm đó.

- Điều thứ hai, là tôi rất xúc động và thông cảm với các đồng chí. Chính là các đồng chí không tin về cuộc trao trả này nên mới đòi được gặp phái đoàn của ta. Không tin vào việc trao trả, không phải lỗi của các đồng chí mà đây là một sự cảnh giác cần thiết. Chính la do kẻ thù của chúng ta đã từng lừa dối các đồng chí. Có trường hợp họ nói cho người này người kia chuyển trại nhưng là đem đi thủ tiêu. Các đồng chí đã rất vững vàng và tỉnh táo. Chúng tôi hoan nghênh các đồng chí. Nói đến đây tôi thấy nét mặt của anh em phấn khởi hẳn lên. Các đồng chí trong hai đoàn của chúng tôi cũng rất vui. Thuốc lá Thăng Long, Điện Biên và chè Ba Đình được anh Hoàng Thương, anh Tư Bốp đưa tặng các đồng chí. Đây là món quà của miền Bắc của cả nước tặng các đồng chí. Các phóng viên quay phim, chụp ảnh, báo chí hoạt động chụp, quay ghi hình liên tục...


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2022, 01:38:42 pm
Đến đây tôi thấy phải bắt đầu làm một việc quan trọng đó là phổ biến nghị định thư trao trả cho mười hai đồng chí. Tôi ngoảnh lại nói với các sĩ quan Mỹ ngụy rằng: Các ông không phổ biến nghị định thư cho anh em của chúng tôi, nên tôi phải phổ biến tại đây. Nếu những người này thông suốt mang theo những nghị định thư về báo lại với anh em ở trại thì mọi người mới đi trao trả.


Tên giám đốc trại giam không muốn tôi phổ biến tại đây trước mấy. chục sĩ quan ngụy và hàng trăm lính quân cảnh. Chúng chỉ muốn anh em về nói lại như tôi đã nói là đủ. Nhưng không dừng lại ở đây được, tôi nghĩ bụng, ta phải tấn công tiếp. Tôi cầm quyển nghị định thư và dõng dạc đọc, dừng lại từng chỗ cần thiết nói rõ thêm. Bọn sĩ quan Mỹ ngụy rất sốt ruột nhưng chúng phải ngồi im để nghe. Hàng trăm lính quân cảnh lúc này ngồi cả xuống, lắng nghe gần như không nhúc nhích.


Trong nghị định thư tôi nhấn mạnh phải trao trả hết những người bị bắt, không được từ chối, không được trì hoãn với bất cứ lý do gì đặc biệt, làm nổi bật về những người bị bắt phải được đối xử nhân đạo. Họ được bảo vệ và chống lại mọi hoạt động bạo lực xúc phạm đến tính mệnh và thân thể, nhất là việc giết hại họ bằng mọi hình thức, việc làm cho họ bị tàn phế, việc tra tấn nhục hình và mọi hành động xúc phạm đến nhân cách phẩm giá con người. Họ phải được ăn, mặc, ở đầy đủ và được chăm sóc về y tế theo nhu cầu của tình hình sức khỏe.


Cả mười hai đồng chí nhìn tôi, nhìn mọi người trong hai phái đoàn ta với tình đồng chí rất thân thương. Dõi theo nội dung trình bày của tôi, các đồng chí phấn khởi khi thấy ta thắng lớn, địch thua to, và phải trao trả hết những người bị bắt. Nhưng khi tôi nói đến các bên phải đối xử nhân đạo với người bị bắt thì các đồng chí biểu hiện sự phẫn uất căm thù đối với kẻ địch.


Như dồn nén bấy lâu nay, tôi vừa dứt lời và phát nghị định thư trao trả cho anh em thì hàng chục cánh tay giơ lên và xin phát biểu ý kiến. Gần như đồng chí nào cũng phát biểu, các đồng chí vạch mặt kẻ thù, lên án kẻ thù một cách rất sâu sắc, với một thái độ rất căm phẫn, đồng thời đề nghị một số ý kiến, có thể nói là làm cho kẻ thù phải hoảng sợ, phải nhục nhã; có tên không dám ngẩng mặt lên.


Đại ý có những nội dung các đồng chí phát biểu như sau:

- Chúng tôi không đi trao trả hôm nay mà đòi gặp được phái đoàn của chúng tôi là vì chúng tôi không tin các ông. Các ông lừa dối chúng tôi nhiều lần lắm rồi nên hoàn toàn không tin được.

- Chúng tôi đồng ý đi trao trả, càng nhanh càng tốt, nhưng phải trả gọn từng trại, không được chọn nhặt lẻ tẻ; những người ốm nặng phải được trả trước.

- Từ trong trại ra đến xe ô tô, chúng tôi không cần các ông cáng hoặc dìu anh em chúng tôi. Việc đó chúng tôi tự làm. Ai còn hai chân giúp người một chân, ai còn hai tay giúp người một tay, ai còn cả hai chân hai tay thì khiêng cõng người ốm. Cả thời gian giam giữ, các ông hành hạ chúng tôi, bây giờ làm ra vẻ nhân đạo lắm!

- Những quần áo mới mà các ông phát, chúng tôi không thèm mặc, ăn mặc rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu suốt cả quá trình chúng tôi bị giam; nay khoác áo mới cho chúng tôi để biểu thị là mình tốt... Thôi, hãy bỏ cái kiểu ấy đi.

- Chúng tôi yêu cầu những xe ô tô đưa chúng tôi ra sân bay không được cắm cờ "ba que" hoặc có sơn cờ "ba que".

Bọn sĩ quan ngụy ngồi tím mặt, một số tên nhìn trừng trừng vào anh em ta, nhưng một số tên mặt cúi gầm.

Tôi quay lại nói với bọn sĩ quan ngụy rằng: Các vị có ý kiến gì về những đề nghị của các đồng chí chúng tôi không?

Tên Phong nói xin chấp nhận những ý kiến đó. Những lá cờ cắm từ trước, nếu các ông không muốn thì chúng tôi cất đi.

Đinh Công Chất có ý kiến là: Nếu các vị không chấp nhận quần áo thì thôi, nhưng tôi đề nghị với trung tá Vũ Bình là bên phía trung tá cũng đừng phát quần áo mới cho người bị bắt của chúng tôi.

Tôi liền trả lời Đinh Công Chất rằng: Việc không nhận quần áo mới, không đi xe ô tô có cờ "ba sọc", không yêu cầu cáng hoặc dìu các người bị thương, bị ốm là do chính những người bị các ông giam giữ và đối xử với họ nên họ đề nghị như vậy. Còn số tù binh mà chúng tôi bắt giam giữ, tôi tin chắc rằng họ sẽ phấn khởi nhận những bộ quần áo của cách mạng để làm kỷ niệm. Tại sao ông Chất lại thay họ để đề đạt ý kiến đó?


Lại một đồng chí nữa đứng lêu dõng dạc nói to: Tôi xin được nói thẳng với các vị phụ trách trại giam này rằng: Các vị đừng có gài những tên phản động trà trộn trong số trao trả về vùng giải phóng của chúng tôi. Các vị cố tình gài thì chúng tôi sẽ xử trí ngay trước khi xuống đất vùng giải phóng của cách mạng.


Tên Phong đứng lên nói là chúng không dám làm điều đó.

Tôi thấy cuộc gặp gỡ đã đến lúc kết thúc được rồi. Lúc này là 14 giờ ngày 12-2-1973, nếu khẩn trương thì có thể trao trả được 1 đến 2 chuyến máy bay lên Lộc Ninh. Cả hai phái đoàn chúng tôi đứng xen lẫn với 12 anh em để chụp ảnh vả quay phim. Chúng tôi ôm nhau mà nước mắt cứ trào ra. Thương các đồng chí ta quá chừng, rất phục tinh thần chiến đấu của các đồng chí ta. Một đồng chí ghé tai tôi và nói: Chụp ảnh quay phim như thế này là bảo đảm lắm rồi, kẻ thù ức lắm nhưng không dám thủ tiêu chúng tôi đâu!


Tất cả mọi người trong hai phái đoàn của ta đều lên máy bay với trên 100 anh em trao trả chuyến đầu tiên để xuống sân bay Lộc Ninh. Ngồi trên máy bay C130, anh em hát vang những bài ca cách mạng.

N.V.K.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:03:51 am
TRANG BỊ THỜI CHIẾN


DƯƠNG TÙNG


ĐÔI GIẦY VẠN DẶM

Đánh xong chiến dịch Lý Thường Kiệt, Đại đoàn 312 chuyển quân về Phú Thọ "Rèn cán, luyện quân". Chuẩn bị kỹ càng, năm 1952, chúng tôi lại tiến vào Tây Bắc.

Lần này, ngoài bộ quân phục mới, chúng tôi còn được trang bị thêm đôi giầy vải, điều mà trước đó chưa hề có!

Thế là từ nay, anh nào cũng đủ giầy đi, không còn "chân đất, súng thô", tha hồ hành quân trèo đèo leo núi, nhảy vào đồn địch đỡ ngại mấy hàng rào dây thép gai sắc như chông nhọn. Có anh cẩn thận, lấy vải khâu cao thêm cổ giầy, lùa ống quần vào trong từa tựa như đi bốt, trông đến là cứng cỏi, dầu dãi gió sương lại ấm ơi là ấm...


Muốn giải phóng vùng Tây Bắc hiểm trở, rộng lớn mênh mông, trước tiên, Đại đoàn 312 cùng một số đơn vị bạn phải xóa sổ căn cứ Nghĩa Lộ (Yên Bái).

Phân khu Nghĩa Lộ bị tiêu diệt mở ra những bước tiến quân mới cho quân ta cắm sâu vào toàn bộ chiến trường Tây Bắc. Nhưng còn sót lại cứ điểm Gia Hội - căn cứ đề kháng kiên cố của địch với gần 400 tên lính "có hạng" trực tiếp bảo vệ phân khu, ngăn chặn quân ta tiến lên Sơn La. Trung đoàn 165 được lệnh tiêu diệt, đã bao vây chặt, chỉ còn nổ súng, ai ngờ chúng ranh ma quỷ quái nghi binh đánh lừa, đã rút chạy trước mấy liếng.


Tiểu đoàn 115 chúng tôi được lệnh trở thành một cánh quân cấp tốc vượt lên trước, truy kích chặn địch lại mà đánh trên đường từ Gia Hội đi Tú Lệ, It Ong.

Thế là có chuyện sướng, khổ về đôi giầy vải!

Từ khi nhận đôi giầy mới, đây là đợt hành quân chiến đấu gay go, gian khổ quyết liệt nhất, đặc biệt là đợt truy đuổi bốn, năm ngày đêm này, không kịp nấu cơm để ăn, nấu nước để uống, luồn rừng ngủ bụi, gội mưa mà đi, trèo núi mà đuổi, băng ngàn lội suối...


Mới đầu vững dạ, rất vững dạ về đôi giầy. Giầy ngoại hẳn hoi, vải rất dày, màu xanh rêu, đế cao su tráng. Phen này cứ yên trí mà đuổi!

Mấy trăm tên lính địch rút chạy thục mạng từ Gia Hội, về hội quân với 500 lính da trắng vừa chân ướt chân ráo nhảy dù xuống chiếm các cao điểm và sân bay Tú Lệ, dàn thành tuyến chặn đứng quân ta. Chúng tôi đánh địch, địch chạy. Chúng tôi lại đuổi, đuổi từ Tú Lệ qua đèo Cao Phạ mù mây, đồn Ngọc Chiến bốc lửa, dốc Pu Săm Xếp dựng đứng... tới Ít Ong.


Vào chiếm luôn tiểu khu Ít Ong, địch chạy tán loạn vào rừng, một số lẩn qua sông Đà, tẩu thoát về thị xã Sơn La. Tiểu đoàn tạm dừng quân ít hôm, củng cố đội hình, chuẩn bị gấp cho màn hai chiến dịch Tây Bắc.


Quái, chân sưng húp, bẹn nổi hạch lúc nào không biết!

Đến bây giờ thì tôi mệt lả, quỵ thật sự!

Qua mấy ngày đêm truy kích, chiến đấu nay mới có điều kiện tháo đôi giầy. Ôi, có phải quay mặt đi không thế? Một con vât nằm co quắp, lòng giầy toàn bã đậu, đôi chân trắng bệch như sáp, gan bàn chân lở loét, lồi lõm hoắm sâu da thịt đỏ hỏn... Té ra dầm mưa, lội suối, đôi giầy đá trở thành đôi trĩnh. Nước, cát, sỏi bên trong không thoát được ra ngoài nằm đó kêu oàm oạp, cứ nhè vào nạn nhân của nó mà đánh đòn thù, cắn, xé!

Cậu y tá mặt méo xệch, chân sưng vù bê chậu nước đến bắt tôi phải ngâm chân, cọ, rửa.

- Ôi, đau quá, xót quá, không chịu được đâu. Cậu bỏ đi cho tôi nhờ, tớ lạy...

- Thế mà anh cứ dặn người khác, nào là phải chân đồng da sắt, mới có thế mà đã... (nguyên văn, thường ngày chúng tôi hay nói với nhau: Chân đồng, vai sắt, mắt ngựa, bụng thần tiên!) Không biết ai đau hơn ai, cậu ta nước mắt đầm đìa.


Mấy ngày tạm nghỉ, giặt giầy, ngâm chân, sẵn thuốc quý của địch, chân khỏi rất mau. Toàn đơn vị lại lên đường lần theo dấu vết chân địch, vượt sông Đà, có ngày đêm thọc sâu vào lòng địch trên dưới 50 cây số, đánh cao điểm Cô Kết; địch trong đồn Mường Khương, Mường Bú bỏ chạy... Thừa thắng, tiểu đoàn 115 vào giải phóng, tiếp quản thị xã Sơn La, chọc thủng cửa ngõ bảo vệ khu Trung tâm chỉ huy quân khu Tây Bắc của địch.


Chưa kịp nghỉ ngơi, hè 1953, Đại đoàn 312 bước vào chiến dịch Thượng Lào cùng một số Đại đoàn bạn tiến công tập đoàn cứ điểm Sầm Nưa, đánh tan toàn bộ lực lượng quân sự địch trên đường rút chạy về Cánh Đồng Chum.


Tiểu đoàn 115 từ vị trí tập kết ở Mộc Châu được lệnh cấp tốc hành quân mấy trăm cây số thọc sâu vào Sầm Tớ chặn địch không cho chạy về Xiêng Khoảng.

Thi chạy với địch, với thời gian, máu ộc ra mồm, ra mũi; tôi không còn nhớ bộ quân phục của mình đã mấy lần thấm máu. Hành quân thần tốc suốt 6, 7 ngày đêm ròng rã, đi chạy mỗi ngày trên dưới 40 cầy số, qua các núi non hiểm trở, thác gầm thét, vực sâu rợn người, nhịn đói nhịn khát dưới bầu trời Thượng Lào khắc nghiệt, ngột ngạt đến phát điên, mưa không kịp vuốt mặt, trời khô rang, đất bốc lửa...

Mải mê trên đường quên hết!

Nhưng vẫn nhớ nhất một điều, đôi giầy, đôi chân!

Sởn gai ốc về kinh nghiệm năm trước, tôi dặn đi dặn lại anh em, đặc biệt với số chiến sĩ mới bổ sung:

- Phải bảo vệ đôi chân, nó mà giở quẻ là các cậu chết. Bọc vải vào chân làm tất, hễ mưa đi tất thay giầy, giầy tống lên thắt lưng. Đụng suối, khẩn trương tụt giầy, tất mà lội chịu khó lau qua, cuốn tất xỏ giầy. Yên trí, cứ thế mà...


Tưởng thứ kinh nghiệm trên sẽ linh thiêng, nào ngờ sau đôi ngày, mấy chiến sĩ ngồi ôm chân dọc đường than thở:

- Ôi ông bà ông vải ơi, bỏ giầy ai mà đi được, chân rát bỏng, phồng rộp, cứ như bị đưa lên chảo mà nướng!

Tôi bảo: Qua suối thì lấy đầy bi đông nước, thỉnh thoảng đổ vào chân lấy "thủy trị hỏa", may ra... ừ, thì cứ đi giầy như trước xem sao, qua suối lội cả giầy, tất có khi chân lại mát lâu...

Tôi ngập ngừng:

- Chỉ có điều... đúng, chỉ có điều các cậu cần nhớ, là nên luôn dốc mấy thứ chết tiệt cát sỏi, nước bên trong cho nó thoát ra ngoài, giam nó, nó liều thì như đã từng liều với tớ!

"Cấp tập, mãnh truy, mãnh đả", đơn vị đã kịp tới giải phóng châu lỵ Sầm Tớ giữa tiếng đạn nổ, lửa khói mịt mù của đồn địch bốc cháy, sự hoảng loạn của 400 binh lính, ngụy quyền.

Thấm thoắt thoi đưa! Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm cực kỳ gian khổ và vô cùng anh dũng của cả một dân tộc.

Rồi cuộc trường chinh lần thứ 2 lại bắt đầu.

Năm 1966, sư đoàn 304 chúng tôi lại lên đường. Đi B lần này, được trang bị kín từ đầu tới chân, ngoài đôi giầy vải, có cả đôi dép cao su đúc bốn quai. "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước..." đâu phải chuyện đùa!


Thấm thía với bao nỗi ngọt bùi, đắng cay của thời đánh Pháp năm xưa, đánh Mỹ lần này, tôi thửa riêng cho mình một đôi dép lốp cao su cực kỳ kiên cố, đế dày những ba phân, mấy bộ quai to tướng "dự trữ chiến lược".


Từ vùng địa đầu miền Bắc tới chiến trường miền Đông Nam Bộ chiến đấu, chúng tôi hành quân mất sáu tháng rưỡi, qua mấy trăm chặng đường, mấy ngàn cây số, thác ghềnh núi non không sao đếm xuể, chả thế ngày ấy trên đỉnh Trường Sơn hùng vĩ giữa mây ngàn gió núi, tôi đã ghi vội, rất vội vào cuốn nhật ký hành quân:

   ..."Vòng lá ngụy trang, trăm lần dắt vội
   Đôi dép vượt đèo dăm lượt thay quai
   Buổi đi - nắng, lá đổ dài
   Ngày về - đáy dép vẫn cài... sương đêm!".


Sau này, khi đã trở lại miền Bắc, tần ngần thế nào, có lần tôi nhìn kỹ đôi chân, đôi dép, ngắm đi ngắm lại như chưa từng nhìn, ngắm bao giờ.

Rồi giật nảy người!

Đế dép dày là thế, mòn quá hai phần ba, vẹt ở phía đầu phía cuối còn đôi... ba ly, trông đến là ngộ nghĩnh. Mấy đôi quai mít-sơ-lanh dự trữ, dăm ngàn cây số đường trường "ngốn sạch". Cây gậy Trường Sơn của bác già Thanh Hóa tặng lúc đi, đường ngàn dặm "găm" đúng một đốt...


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:04:48 am
KHOÁC ÁO TƠI LÁ CỌ ĐI CHIẾN ĐẤU

Cuối 1952, Đại đoàn 312 tiến quân vào Tây Bác. Khoác áo tơi lá cọ đi chiến dịch, chà, sao lắm tiện lợi! Sản phẩm của vùng rừng cọ đồi chè mộng mơ mặc vào, anh nọ trông anh kia cười rũ rượi. Tất cả cứ như những con nhím cụp lông, mượt mà, vàng óng. Ve vuốt đến đâu, tay mát rười rượi đến đấy. Lớp lớp lá cọ ken dày xếp nhiều tầng che kín từ cổ xuống quá đầu gối, bước đầu, vui đấy, sột... soạt. Ngữ này mà đi trinh sát thực địa sát đồn bốt địch, chỉ mong gặp được mấy tên lính địch điếc đặc. Được cái, gặp mưa nguồn, gió núi Tây Bắc, từ nay người không còn ướt như chuột lột. Trời hanh khô, trải xuống đất nằm không phải vơ lá làm ổ. Trú quân giữa rừng sâu núi thẳm, rét thấu xương, đẵn cây chặt nứa dựng khung, lấy lá chuối làm mái, lót áo tơi làm đệm, êm êm ấm ấm.


Lần thứ hai đánh phân khu Nghĩa Lộ, giấu quân ở Yên Bái, bí mật vượt sông Hồng, chúng tôi phải qua cửa ải: đèo Nậm Bằng.

Gọi là đèo nhưng cao lưng chừng trên dưới 2.000 mét. Dưới chân không thấy đỉnh, đỉnh ngập trắng trong mây. Trời mưa đường độc đạo mới mở, dốc dựng đứng phải leo bằng... bò. Dễ chừng có nhích lên, mỗi giờ được vài ba trăm mét là giỏi. Người bị nảy lên, lật xuống, may mà còn nắm được chiếc rễ cây. Tôi hét:

- Con khỉ, cẩn thận mà thế à, mũi tôi bị chân cậu đạp thẳng xuống chảy máu đây này. Còn cái gấu áo tơi sắc nhọn kia kìa, lại phóng thẳng vào mắt may mà kịp nhắm!

- Ối, em cũng bị mấy đứa ngã dây chuyền đạp xuống. Dốc trơn hơn bôi mỡ, người cứ tự động rơi.

Những tiếng hỷ mũi liên tục ở phía dưới, một bộ mặt mếu máo ngước lên:

- Chả phải chính cái gót chân của anh đã quai trúng vào chiếc cằm này, ác nhất là mấy cái tua lá cọ ở áo anh lại lùa được vào mũi của em. Cậu liên lạc đi vơi tôi vừa nói vừa khụt... khịt.

Bỗng những chuỗi cười, tiếng bẳn gắt, trách móc nhau đột ngột lặng đi, nhường cho những tiếng thét hốt hoảng:

- Cẩn thận, cẩn thận, có tiếng máy bay địch!

- Hình như lại "con mụ đầm già", đúng rồi, nó đấy!

Tôi ngó ngược nhìn xuôi! Trời ơi, nguy hiểm quá!

Cả đơn vị như một con trăn dài khổng lồ đang trườn mình trên dốc núi cheo leo. Con trăn trải dài, hằn lên một màu vàng óng, sáng lên, lấp lánh dưới những lớp bụi mưa dần tắt, nổi bật, lồ lộ giữa màu xanh xám ngút ngàn của đất đá, cỏ cây.

Đứng thẳng lên, tôi hét to:

- Cởi ngay áo tơi, ngụy trang, nấp kín. Lăn vội sang hom đá bên cạnh, đè lên chiếc áo tơi tạm gấp, tôi dúi mình vào đám lau cạnh sắc như dao.

... Chiếc máy bay do thám bay qua không thèm ngó lại.

Khoác cái áo tơi này có khi "oan gia", lại vướng víu nữa, nhưng quẳng thì gay go, không được. Tôi bảo cậu liên lạc:

- Cậu to mồm hơn tớ truyền cho anh em trong đại đội gấp ngay áo tơi, cất!

Tôi lấy hết sức cuốn áo tơi lại cho thật ngắn, mà hai đầu vẫn phình ra tựa hai cái giỏ ấm, còn dài những trên nửa mét. Cất đâu? Làm nhanh một con tính rồi hạ quyết tâm: Các thứ lỉnh kỉnh trên người cần kiên quyết vứt đi vài thứ không thể tiếc! Nào chiếc ba lô nông choèn choèn, bé tí teo, những ống nứa đựng muối, mắm tôm khô, măng khô, thịt trâu khô, quần áo, chăn màn, bi đông, bương, túi tài liệu, khẩu súng ngẳn và hai con lợn gạo nặng dăm, bảy ký căng tròn, nần nẫn... hành trang trên đường ra trận chỉ có vậy, nhưng xem ra hình như toàn những thứ "vô giá". Cân nhắc mãi mà không giải quyết được bằng tính trừ, đành thêm con tính cộng: Một nách cặp áo tơi to đùng, một tay chống gậy, ngất ngưởng trèo leo, đi, ngã...


Trận ấy, Đại đoàn 312 cùng các đại đoàn bạn tiêu diệt xong phân khu Nghĩa Lộ - tạo ra một bàn đạp cực kỳ lợi hại trên toàn bộ chiến trường Tây Bắc.

Thế mà đã gần nửa thế kỷ!

Mấy ông bạn cùng thời đến chơi, bao nhiêu chuyện trên đời nhưng rồi cũng đi vào "ôn cố tri tân".

- Này, cái hồi 9 năm đánh Pháp ấy, những gì làm ông nhớ nhất?

- Có nhiều, nhưng một trong những kỷ niệm sâu đậm là ta khoác cái áo tơi lá cọ đi đánh giặc, tôi tư lự rồi phá lên cười... thú vị đấy!

- Ừ, làm sao quên được, cứ nhớ đến nó là buồn cười! Nhưng phải chăng, hồi đó bản thân chiếc áo tơi cũng là một dấu ấn thật quan trọng, còn sau này, thay thế ra sao?

- Sau này ấy à! Đến 1966, mình ở Sư đoàn 304 đi B cùng đơn vị. Mỗi anh được trang bị một tấm tăng ni lông 2m3 x 1m50 để che một võng bạt dày cộp, (đến nay còn giữ được) và một tấm ni lông che người... So với thời kỳ 9 năm thì như thế là quá đủ nhưng nặng ơi là nặng, nặng quá sức tưởng tượng, tôi cười và nói thêm, ba thứ ấy củng với các thứ khác được tống vào chiếc ba lô con cóc nên trên người lúc nào cũng trên 30kg, đeo cứ oằn cả người mà không dám bỏ thứ nào. Đã mang chúng suốt 6 tháng rưỡi hành quân bộ mới tới được chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tây Ninh như phải đa mang chiếc áo tơi lá cọ hồi 9 năm... cho nên tôi đang có dự định đây?

- Dự định gì thế! Những cặp mắt đổ dồn về phía tôi.

- A, viết câu chuyện cũng khó tin về anh bộ đội chủ lực với chiếc áo tơi lá cọ cách đây gần 50 năm như câu chuyện cổ tích. Ngày xửa, ngày xưa ấy mà, trước khi có sự "bùng nổ ni lông" thì ông cha ta đi đánh giặc, lấy cái gì để che mưa, che nắng...

D.T


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:06:10 am
TRĂN TRỞ VỀ MỘT TỶ LỆ


NGUYỄN ĐỨC GIÁ


Trung đoàn 66 chúng tôi là một trong những đơn vị đánh Mỹ đầu tiên ở Mặt trận Tây Nguyên. Nhưng cho đến cuối năm 1966 sang đầu năm 1967, tôi vẫn cứ băn khoăn trăn trở về cái tỷ lệ diệt Mỹ chưa thật yên tâm. Tức là nếu ta diệt được một tên Mỹ thì ta cũng hy sinh một. Một đổi một. Sự hy sinh như thế đối với ta là cao, không thể chấp nhận được.


Nhưng làm thế nào đây. Sau các trận đánh, chúng tôi cũng đã tổ chức rút kinh nghiệm. Nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức chỉ huy của ta kém, mặt khác còn vì phi pháo của địch nhiều. Có ý kiến nhận xét rằng việc huấn luyện bộ đội đánh trên địa bàn rừng núi của ta còn kém. Ngẫm nghĩ mãi có lẽ cũng chỉ đến thế thôi. Song phải phân tích như thế nào thì mới thỏa đáng, ví như về tổ chức chỉ huy, có nhiều khâu, nhiều cấp. Vậy còn yếu ở khâu nào, cấp nào, phải chỉ ra cho rõ thì mới có biện pháp khắc phục?


Là trung đoàn trưởng, tôi nghĩ rất nhiều về cái tỷ lệ không thể chấp nhận được này. Quân chủ lực của ta được bổ sung chủ yếu từ nguồn thanh niên miền Bắc, đâu có dễ dàng chuyển ngay vào sau mỗi trận đánh có thương vong. Hành quân theo đường giao liên vào tới Tây Nguyên phải mấy tháng trời, sa sẩy dọc đường vì bom đạn, vì suối lũ, vì yếu đau không phải là ít. Nhất định phải tìm cách hạ tỷ lệ thương vong của mình xuống còn một trên ba rồi trên bốn, trên năm tức là mình hy sinh một thì phải diệt được năm tên Mỹ. Thêm nữa, phải tìm cách hạn chế hiệu lực của máy bay pháo binh địch, bắt cho được tù binh Mỹ. Tôi nghĩ là phải rà xét lại việc thực hành chiến đấu chủ yếu ở cấp trung đội và đại đội xem khâu nào còn có vấn đề cần phải tìm biện pháp sửa chữa.


Ngày 10 tháng 7 năm 1967, sau khi nhận nhiệm vụ về, tôi bàn với chính ủy Lã Ngọc Châu:

- Ông ở nhà gác gôn, tôi xuống tiểu đoàn 7 xem tình hình thế nào, nếu nắm được địch, tôi ở dưới đó tổ chức chiến đấu luôn.

- Nên để đồng chí trung đoàn phó đi - Anh Châu bảo tôi - Anh phải ở nhà nhỡ có nhiệm vụ gì chúng ta cần trao đổi được với nhau.

- Không! Tôi phải đi. Tôi muốn tận mắt xem các cán bộ đại đội, trung đội làm ăn thế nào.

Khoảng 7 giờ ngày 11 tháng 7, tôi xuống tới tiểu đoàn vừa lúc tiểu đoàn trưởng Võ Quang Tịnh và chính trị viên Võ Hùng Cường đã tổ chức xong các bộ phận trinh sát đi nắm địch. Tôi trao đổi với các anh ấy về hướng đi, vừa đi vừa nắm địch, còn bộ phận phía sau phải ở tư thế sẵn sàng cơ động được ngay. Tôi lưu ý các anh ấy về việc bắt tù binh. Cấp trên rất muốn ta bắt được tù binh. Những trận trước, đánh xong, ta đề phòng phi pháo nên phải rút nhanh đến vũ khí cũng chỉ thu được phần nào chưa nói gì tới việc bắt tù binh.


Bọn lính Mỹ lại rất ranh ma, có thằng nằm giả chết, khi ta rút quân rồi chúng mới bò dậy chạy tháo thân. Cho nên trận này, ta phải nhắc nhở anh em là nếu gặp cái xác Mỹ nào có ý nghi ngờ còn sống, thì phải banh mi mắt nó lên gí súng vào, nếu thấy còn chớp chớp là dựng dậy, trói lại. Tôi nói:

- Đồng chí Chu Huy Mân đã gửi cho mỗi trung đoàn một cuộn dây thừng. Như thế cũng có thể nói đó là mệnh lệnh. Mặt khác, trận này phải thay đổi tỷ lệ. Nhất định không để diễn ra cái tỷ lệ một đổi một. Một chiến sĩ của ta phải đổi lấy năm mạng giặc Mỹ. Ngoài đường 9 đã có chiến công 1 thắng 20 của tiểu đội Bùi Ngọc Đủ rồi kia mà.


Bốn giờ chiều, trinh sát đã phát hiện quãng đường địch vừa đi qua. Tôi và anh Tịnh nhìn nhau như ngầm nói: Thời cơ lập công đã tới. Tôi nhắc anh em trinh sát giữ bí mật tiếp tục bám sát địch xem chúng có thể dừng lại ở đâu. Đến sáu giờ tối, trinh sát phát hiện địch cụm lại, đang làm công sự. Tôi bàn với anh Tịnh:

- Anh cử trinh sát tiểu đoàn cùng với trinh sát trung đoàn chia thành ba tổ, mỗi tổ đi một hướng, khi chạm địch thì cho một đồng chí về báo cáo, số còn lại bố trí tiếp tục nắm địch.

Khoảng 21 giờ, các tổ trinh sát về báo cáo đã nắm được địch và sơ bộ tình hình các mũi bao vây. Tôi bàn với tiểu đoàn trưởng Tịnh về cách đánh, sau đó chúng tôi gồm tiểu đoàn trưởng Tịnh và các đại đội trưởng đến tận nơi xác định lại tình hình, quy định các vị trí chiếm lĩnh của từng đơn vị.


Đã quá nửa đêm, tức là đã sang ngày 12 tháng 7, các đại đội chuẩn bị xong, tôi trực tiếp thông qua báo ráo quyết tâm của tiểu đoàn trưởng Tịnh ngay tại thực địa, không quên một lần nữa nhắc nhở phải nâng cao tỷ lệ diệt Mỹ, một chiến sĩ ta phải đổi năm mạng Mỹ và phải bắt được tù binh. Tôi còn nói thêm:

- Các đồng chí nhớ nhé! Khi báo cáo diệt được một đại đội Mỹ tức là phải đếm được tại trận từ ba mươi xác lính Mỹ trở lên, phải thu được ít nhất ba mươi khẩu súng và phải đem về được ba cái máy vô tuyến điện thoại PRC25. Các đồng chí yên tâm. Trận này trung đoàn sẽ bảo đảm kiềm chế pháo binh và máy bay địch cho quân ta làm chủ trận địa từ ba mươi phút tới một giờ thu dọn chiến trường.


Lúc 4 giờ 30, các đơn vị chiếm lĩnh xong trận địa vẫn giữ được bí mật, tôi báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn, đặc biệt lưu ý bộ phận kiềm chế pháo địch sẵn sàng phối hợp.

Lệnh tấn công phát ra. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày 12 tháng 7 năm 1967. Tôi với với tiểu đoàn trưởng Võ Quang Tịnh:

- Tôi xuống đại đội 2 đây!

- Có cần không anh? - Võ Quang Tịnh hỏi lại tôi.

- Cần chứ! Tôi muốn trực tiếp được biết anh em tổ chức đánh chiếm đầu cầu thế nào?

Nói rồi, tôi cùng với tổ trinh sát đi luôn.

Sau mười lăm phút bị hỏa lực ta cấp tập dội xuống, quân địch bị bất ngờ không kịp đối phó. Chúng định hành quân ngăn chặn ta nên thường chủ quan, đến khi bị đánh trả là lúng túng.

Tôi tới đại đội 2 đúng lúc anh em vừa chiếm được cửa mở. Tôi xuống hẳn chỗ trung đội 2 đang phát triển đội hình tiến qua cửa mở. Đèn dù pháo sáng làm sáng rực cả một vùng rừng. Tôi thấy anh em vào chậm và lại cứ chạy theo hàng dọc. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến cái tỷ lệ một đổi một đây. Nghĩ thế, tôi liền quát:

- Nhanh lên! Vén đội hình phía sau nhanh lên. Không được chạy hàng dọc.

Chẳng biết có phải vì tôi quát to nên thằng địch nghe thấy mà nó bắn ngay một quả Krăng 40 vào gần chỗ tôi làm tôi bị một mảnh vào mông. Tiểu đoàn phó Lục đang ở phía sau vội kêu lên:

- Anh bị thương rồi. Để tôi băng lại đã.

Tôi đành phải nằm xuống cho Lục băng nhưng vẫn ngoảnh lại theo dõi đội hình chiến đấu phát triển vào tung thâm. Thấy chưa đạt với ý mình, tôi quát tiếp:

- Vén nhanh đội hình phía sau lên!

Vừa quan sát, tôi vừa tự hỏi: Phải chăng đây chính là chỗ còn yếu kém của cán bộ trung đội và cả đại đội, nên cái tỷ lệ không thay đổi được gì qua bao nhiêu là trận đánh? Nhanh ở cửa mở là một yếu tố bớt thương vong. Trận này có hy vọng sẽ khác. Tiếng hô xung phong ran lên ở phía trước cho phép tôi có thể nghĩ như vậy.


Quả nhiên diễn biến của trận đánh chỉ trong vòng bốn mươi phút, bộ đội ta đã đánh giáp lá cà với địch, dùng lưỡi lê và báng súng tiêu diệt địch, đồng thời lại bắt sống được mười tên địch, thu được 53 khẩu súng các loại. Đây là trận đánh dùng hình thức chiến thuật vận động tập kích quân địch mới dừng lại, thu được thắng lợi quan trọng là đã làm thay đổi tỷ lệ tiêu diệt địch. Bên ta bị thương 27 đồng chí, hy sinh 9, nhưng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 170 tên địch và bắt sống 10 tên.


Song thắng lợi quan trọng khác là sau trận đánh này của tiểu đoàn 7, chúng tôi đã rút ra được những kết luận rất có ý nghĩa trong chiến thuật vận động tập kích quân Mỹ mới dừng lại. Ví như về công tác tổ chức chỉ huy chiến đấu thì phải thực hiện cho được yêu cầu ba nhanh, một chậm. Tức là nắm địch phải nhanh; nắm được địch rồi phải hình thành thế bao vây nhanh; khi xung phong vào cửa mở phải thật nhanh chóng phát triển vào trung tâm chỉ huy của địch. Còn một chậm có nghĩa là công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu phải tỉ mỉ, thường xuyên tỉ mỉ, kiên trì tỉ mỉ không giâ phút nào lơ là xao nhãng.


Tuy nhiên, tôi không thể quên từ sau trận này, cái tỷ lệ diệt Mỹ như có đà được nâng lên rõ rệt trên khắp chiến trường. Chiến công 1 thẳng 20 không còn là chuyện lạ nữa.

N.Đ.G


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:07:09 am
LỄ CHÀO CỜ LỊCH SỬ


PHẠM TỰU


Hàng năm, cứ đến tháng mười, những người bạn chiến đấu của Đại đoàn Quân Tiên Phong chúng tôi lại họp mặt tại Hà Nội để kỷ niệm ngày thành lập đại đoàn và ngày giải phóng Thủ đô. Sau đó chúng tôi thường rủ nhau đi thăm lại những mảnh đất có nhiều kỷ niệm sâu sắc.


Đứng trên bậc thềm quanh chân cột cờ Hà Nội để ngắm nhìn quang cảnh thủ đô, tôi bồi hồi nhớ lại cách đây gần 45 năm. Vào đêm mồng 9 tháng 10 năm 1954, đại đội thông tin chúng tôi cùng với đại đội công binh của trung đoàn Thủ Đô được tăng cường thêm một trung đội công binh của cấp trên vào trước có nhiệm vụ chuẩn bị mọi mặt cho buổi lễ chào cờ đầu tiên của đại đoàn vào chiều mồng mười. Hai đại đội chúng tôi làm nhiệm vụ chuẩn bị sân bãi, tỏa mạng thông tin. Trung đội công binh được tăng cường phải tìm mọi cách khắc phục khó khăn đưa chiếc ống thép nặng 1.200 cân, dài 12 mét lên đỉnh tháp cột cờ trước sáng. Thật khó hình dung họ đã làm thế nào mà đưa được ống thép ấy luồn qua gần một trăm bậc cầu thang xoáy ốc chật hẹp bên trong thân cột cờ lên tới được đỉnh tháp. Mờ sáng ngày mồng mười, lá cờ Tổ quốc rộng hàng chục mét vuông đã được kéo lên. Sáng ra, nhân dân Hà Nội nhìn thấy cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời thủ đô, ai nấy đều reo lên sung sướng.


Trước mặt tôi, phía Tây Bắc cột cờ là sân "măng danh", nay là sân vận động cột cờ, nơi mà đại đoàn sau khi diễu hành qua các khu phố đã tập trung về đây để làm lễ chào cờ.

Từ 8 giờ, đại đoàn chia làm hai mũi tiến quân, ở phía tây thành phố là trung đoàn Thủ Đô có đoàn văn công Tổng cục Chính trị đi cùng do trung đoàn trưởng Nguyễn Quốc Trị - anh hùng quân đội chỉ huy tiến từ trại Quần Ngựa qua Kim Mã, cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Gai... Phía nam gồm trung đoàn Bắc Bắc và trung đoàn Tu Vũ xuất phát từ Việt Nam học xá lần lượt tiến qua Bạch Mai, phố Huế, Hàng Bài...


Sau các đơn vị bộ binh trên là đoàn xe hơi hơn một trăm chiếc. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, nguyên đại đoàn trưởng được Trung ương Đảng, chính phủ và Bác Hồ giao nhiệm vụ chỉ huy tiếp quản Thủ đô đồng thời giữ chức vụ Chủ tịch ủy ban quân chính Thành phố Hà Nội. Ông đi trên chiếc Com-măng-ca mui trần đầu tiên. Ông vốn là người con thân yêu của thành phố, nguyên chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội năm 1946, nơi mà những đơn vị tiền thân của đại đoàn đã sinh ra, lớn lên đã lập công xuất sắc trong những trận chiến đấu đầu tiên tại thủ đô yêu dấu. Tiếp sau là xe của bác sĩ Trần Duy Hưng, phó chủ tịch ủy ban quân chính thành phố. Rồi đến xe của cán bộ tư lệnh đại đoàn có chính ủy Song Hào và phó tư lệnh Vũ Yên, nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 101, tiền thân của trung đoàn Thủ Đô. Tiếp sau nữa đến các đơn vị bộ binh, cơ giới và các đơn vị pháo binh, cao xạ... cả đoàn xe rầm rập tiến lên phía Bờ Hồ nối vào khúc sau trung đoàn Thủ Đô hợp lại thành một đoàn đi xuyên qua Hàng Đào, lên chợ Đồng Xuân, vòng sang Cửa Bắc rồi tiến vào thành Hoàng Diệu.


14 giờ 30 phút, bộ đội đã tập trung xong ở trong sân Cột cờ, tổ quân kỳ giương cao lá cờ quyết chiến quyết thắng lấp lánh huân chương và hàng trăm lá cờ nền đỏ thắm ánh lên những hàng chữ vàng thêu tên đất, tên sông, tên làng, tên bản quen thuộc nơi ghi nhận những chiến công vang dội của các đơn vị. Trên tầng cao nhất của bậc thềm chân cột cờ cổ kính, các anh hùng chiến sĩ thi đua của đại đoàn và các đại biểu "chiến sĩ quyết tử thủ đô" năm xưa đứng thành một hàng danh dự tượng trưng cho ý chí kiên quyết bảo vệ Thủ Đô. Xung quanh sân vận động rợp màu cờ đỏ sao vàng và hoa. Nhân dân các khu phố đã kéo đến đông nghịt, đứng vòng trong vòng ngoài chật ních cả đường Hoàng Diệu và những phố lân cận. Hình như người nào cũng muốn có mặt trong buổi lễ chào cờ lịch sử này.


Đúng 15 giờ, còi nhà hát thành phố nổi lên một hồi dài. Cả lễ trường đang ồn ào bỗng im phăng phẳc. Những chiếc kèn đồng khuơ lên sáng loáng dưới ánh náng. Đoàn quân nhạc cử bài Tiến quân ca theo sự điều khiển nhịp nhàng của đồng chí Đinh Ngọc Liên, người nhạc trưởng già rất quen thuộc với công chúng thủ đô khi xưa. Ai nấy đều kính cẩn nhìn lên lá cờ đỏ sao vàng đang phấp phới bay trên đỉnh cột cờ cao ngất.


Chính chỗ tôi đứng hôm nay, cách đây 45 năm là nơi thiếu tướng Vương Thừa Vũ đứng trước mi-cờ-rô đọc lời kêu gọi của Bác Hồ gửi nhân dân thủ đô. Vâng! Đã gần nửa thế kỷ rồi mà những lời tâm huyết đó của Bác như vừa mới được nghe: "Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời khỏi Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào.


Ngày nay, do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, kháng chiến đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng khôn xiết kể".

Cả lễ trường im lặng như muốn nuốt lấy từng lời tâm huyết ấy của Bác sao mà thiết tha, thân thiết đến thế. Nhiều người không sao nén nổi xúc động, nước mắt rưng rưng.

Sau buổi lễ, trên đường Nguyễn Tri Phương, tôi đi lên phía Cửa Bắc. Khi qua trước cổng vào "Nhà rồng" lại được nghe mấy đồng chí quân báo vào trước kể lại các anh đã được chứng kiến lễ cuốn cờ của quân đội vién chinh Pháp trên mảnh đất này. Chả là không thể trì hoãn được nữa, đã đến những phút cuối cùng quân Pháp phải bàn giao thành Hoàng Diệu để rút về nơi tập kết bên kia sông Hồng nên chúng rất vội vã. Bắt đầu vào buổi lễ rồi mà mưa vẫn rơi, một vài phân đội lính Âu Phi còn lại cùng một số sĩ quan trong bộ tham mưu trông mệt mỏi và ngán ngẩm trong những bộ quần áo màu cứt ngựa ướt sũng đứng tập hợp trước cột cờ sơn màu trắng. Sau đội kèn "bu-dích" cử bài "Mác-xây-e" (Quốc thiều Pháp), một tên (chắc là cấp tướng) cao to, bụng phệ, dây tua lòng thòng trước ngực, đội mưa bước tới sát cột cờ, đưa hai tay đỡ lấy lá cờ ba sắc ướt nhẽo, gập lại rồi buồn rầu chuyền qua tay một sĩ quan cấp dưới cùng với đội kèn rầu rĩ nổi lên kết thúc buổi lễ hạ cờ.


Thế là ta thì kéo cờ lên, địch thì hạ cờ cuốn gói. Hai thái cực diễn ra trong những ngày tháng 10 náo nức giữa Thủ đô yêu quý của chúng ta.

P.T


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:08:22 am
ĐẠI ĐOÀN MANG TÊN ĐỒNG BẰNG


THẾ CHÂU


Đông xuân 1951-1952, tôi là chính trị viên đại đội 28 thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn 48 - trung đoàn chủ lực của đại đoàn 320.

Đầu tháng 11-1951, giặc Pháp tập trung quân cơ động đánh chiếm thị xã Hòa Bình và đường số 6. Mở đầu hoạt động Đông xuân năm ấy, đơn vị tôi và tiểu đoàn bạn đánh trận Đồi Xim, tiêu diệt một tiểu đoàn Âu Phi mới đến chiếm đóng, bảo vệ phân khu Chợ Bến, phía nam đường số 6. Đó là một trận tập kích bằng hỏa lực rất bí mật, bất ngờ, một trận "sét đánh không kịp bưng tai" có hiệu quả lớn. Đánh xong, chúng tôi lại nhậnn lệnh bôn tập thẳng một mạch về địa phận Ninh Bình. Hồi ấy, cỡ cán bộ đại đội chúng tôi lúc đầu là không thể hiểu vì sao lại như vậy. Té ra ý đồ quân sự củn trên là khi địch tập trung quân cơ động lên Hòa Bình thì chúng sẽ bị sơ hở ở đồng bằng. Do vậy chủ lực luồn được vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng, đó là thời cơ lập công. Thế là, cùng trong một mùa đông xuân, xuất hiện hai thời cơ giết giặc lập công, mở rộng vùng giải phóng.


Sau một thời gian chuẩn bị, cả trung đoàn tôi đã tiến hành tập kích thị xã Phát Diệm (9-12-1951).

Phải vượt qua mấy chục cây số cánh đồng chiêm trong giá rét, chúng tôi mới tới được vị trí triển khai đội hình chiến đấu. Đại đội tôi chia làm hai mũi, một mũi phá nhà tù thị xã, giải phóng hơn một trăm tù nhân là cán bộ và nhân dân. Một mũi đánh đồn tây ở giữa phố, tiêu hao phần lớn địch. Ta nổ súng lúc nửa đêm, sáng ra, dân vẫn cứ tưởng quân Pháp tập trận. Nhưng ngay sau đó, nhân dân vô cùng ngạc nhiên thấy quân ta đã chiếm thị xã. Nhiều đồng bào đem thức ăn ra tận nơi cho bộ đội, nào đường, sữa, xôi, nào miến gà, nhưng anh em không nhận, giơ nắm cơm nắm và cá kho cho bà con thấy là đã có cơm rồi. Chúng tôi tranh thủ thời gian trò chuyện thăm hỏi nhân dân, vạch trần tội ác của địch. Tình cảm quân dân thật vô cùng cảm động.


Ngay hôm sau, chúng tôi chuyển quân đi đánh vị trí Yên Mô và phục kích trên đường 10 từ Xuân Thành đi Yên Hòa, tiêu diệt hai đại đội địch đang tiến ra giải vây cho Phát Diệm. Tôi rất xúc động khi thấy nhân dân vùng công giáo toàn tòng này hết sức giúp đỡ bộ đội, chỉ từng ngõ xóm báo tin địch lọt vào trận địa. Trận đó đại đội tôi chỉ có vài người bị thương và đã được đồng bào nhanh chóng cáng về phía sau.


Như vậy là sau hơn một tháng địch đánh chiếm Hòa Bình, trung đoàn tôi quay về đồng bằng đã giải phóng phần lớn huyện Yên Mô, Gia Khánh. Sau này tôi mới biết là đại đoàn đã thực hiện mở rộng vùng giải phóng Ninh Bình làm chỗ đứng chân để tiến sâu vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ, phá bình định, phát triển chiến tranh du kích cũng là để phối hợp với mặt trận phá cuộc tấn công lên Hòa Bình của địch.


Địa bàn hoạt động chính của đại đoàn mùa đông xuân này là Thái Bình. Muốn sang Thái Bình phải qua Nam Định và vượt sông Hồng. Trước hết muốn vào đất Nam Định phải vượt sông Đáy. Trước khi vượt sông Đáy còn phải qua sông Vạc gần bốt Đức Hậu. Đêm đó mưa bay lất phất, gió bắc thổi từng cơn, sóng ở cánh đồng vỗ vào bờ ì ọp. Trăng mờ mờ, ở gần cũng khó nhìn thấy nhau. Chúng tôi qua sông Vạc bằng cây cầu tre do công binh bắc tạm. Ánh đèn chiếu sáng của bốt địch rọi ra xa, lúc bật lúc tắt. Bên kia sông đã là vùng địch, vùng vành đai trắng. Anh em nhắc nhau bám sát đội hình, dừng lại thì ngồi ngay xuống, chú ý giữ yên lặng.


Chúng tôi bắt đầu qua cầu, đi nhanh trên những tấm đan đặt trên thuyền, mỗi thuyền một người ngồi tát nước. Bộ đội nối đuôi nhau đi hàng một, cầu rung rinh kêu cót két. Tất cả vẫn giữ im lặng, chỉ còn tiếng chân đi và tiếng tát nước đổ nhẹ xuống sông.


Đây là chiếc "cầu ma" vượt qua sông Vạc, ban ngày tháo ra giấu kín, thuyền dìm trong cánh đồng nước, các vết tích được nhân dân xóa sạch, khúc sông nhỏ lại phẳng lặng như thường. Mỗi đêm cây cầu bắc tạm ấy đã đảm bảo cho bao nhiêu đơn vị qua sông. Những đêm sau, đêm sau nữa, các đơn vị xung kích, trợ chiến, pháo binh, vận tải, dân công ùn ùn kéo qua cây cầu này vào vùng địch hậu.


Đây là vùng vành đai trắng, những xóm làng hiu hắt im lìm, không một ngọn đèn, không một tiếng chó sủa, dưới ánh trăng mờ mờ, tôi trông thấy một vài thân cây cụt lủn, những cánh đồng bỏ hoang, những bờ tường nham nhở, những cột nhà cháy trụi chổng lên trời trông thật buồn thảm.


Chúng tôi đi chậm, sát vào nhau, không ai nói với ai trước cảnh hoang tàn của vùng này, một vài tiếng thở dài, xúc động và uất ức.

Bỗng nghe thấy tiếng trống cầm canh ở đầu làng, ngươi du kích dẫn đường cho chúng tôi biết đây là làng tề, nhưng là "tề ta" họ gác cho mình đi.

Đằng sau đại đội tôi là đoàn dân công thủy thủ, họ ở các làng ven sông khênh thuyền theo bộ đội để phục vụ vượt sông Đáy đêm mai. Cứ hai người vác một thuyền tam bản, đoàn dân công thuyền thành hàng một trên đường hành quân. Dưới ánh trăng, tôi ngoảnh lại như thấy những con ba ba khổng lồ bò theo đơn vị. Trong đoàn dân công, có cả những cụ già lấy bao tải làm áo khoác bó chặt vào thắt lưng. Lại có một số chị quần xắn cao, khăn vuông đen bịt kín đầu bước đi thoăn thoắt theo đoàn quân.


Trời gần sáng, chúng tôi đã đi qua làng Tiên Yên, nơi còn xác mấy chiếc xe bọc thép bên đường, những bụi tre và những nóc nhà cháy trụi. Tháng trước, nơi đây tiểu đoàn 3 đã tiêu diệt một đại đội Âu Phi từ Phúc Nhạc xuống giải vây, bắn cháy 3 chiếc xe bọc thép.


Đơn vị được lệnh tản vào các xóm ven đê trú quân. Bên kia sông Đáy đã là đất Nam Định.

Chuẩn bị vượt sông Đáy, đơn vị dàn quân trên mặt đê cạnh một tòa miếu cổ, nhường đường cho dân công thủy thủ tiến lên trước. Gió bấc rít từng cơn. Thuyền đã đưa xuống mặt nước. Chúng tôi cho từng trung đội chia thành từng tổ 3 đến 5 người qua sông. Dưới ánh trăng mờ nhạt trên dòng sông Đáy, hàng chục chiếc thuyền qua lại như một bến đò đông khách sang ngang, chỉ khác là không có tiếng ồn ào ngoài tiếng gió bấc và tiếng bơi chèo khuấy nước. Bộ phận cảnh giới bốt địch đặt máy điện thoại rải dây đến tận chỗ tiểu đoàn cạnh miếu cổ để báo cáo. Có ánh đèn pin quay tròn của hộ phận sang trước báo an toàn. Chúng tôi ôm súng ngồi trên thuyền theo sự điều khiển của anh chị em dân công thủy thủ. Một chiếc pháo sáng ở bốt Hải Lạng bên kia sông vọt lên xanh lè, sáng quắc, một vài quả đạn rít qua nổ ùng oàng bên trong cánh đồng.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:09:00 am
Sang sông, chúng tôi đi theo du kích dẫn đường men theo bờ ruộng tắt qua các cánh đồng, tránh vào trong các làng xóm. Nhìn về hướng đông có một quầng sáng hắt lên nền trời, anh em thì thầm đó là thành phố Nam Định.


Sang đất Nam Định, mỗi tiểu đoàn đi một hướng. Tiểu đoàn tôi phải tấn công đồn Nam Trực, nhưng cuộc hành quân quá chậm, nên phải đi nhanh, đi tắt ruộng cầy đang mùa xếp ải nên gần sáng mới đến gần đồn địch, các bộ phận bố trí xong thì đã 5 giờ sáng, địch đã dậy tập thể dục. Không còn yếu tố bất ngờ, trận đánh phải chuyển từ công đồn sang tập kích bằng hỏa lực rồi lui quân. Lúc đó đã hơn 7 giờ sáng. Tôi cùng hai người nữa bị thương, tôi bị một viên đạn súng trường xuyên vào đùi trái nhưng may chỉ ở phần mềm. Về trạm quân y tiểu đoàn, tôi được y sĩ lấy đầu đạn, máu ra nhiều nhưng không chạm xương. Tôi theo y tá dẫn vào nơi cất giấu thương binh ở khu du kích Bắc Sơn gần Liễu Đề và phân tán vào một gia đình cơ sở cùng với vài đồng chí khác. Giữa vòng vâv của địch, lại là cơ sở lạ, nhưng sự chăm sóc của nhân dân với thương binh thật quá chu đáo làm cho tôi vô cùng cảm động. Có tin báo địch ở bốt đi vào làng, chủ nhà dắt tôi xuống hầm bí mật. Độ vài tiếng ngồi dưới hầm, lại có tin địch không vào, chuẩn bị tối nay ra đón đơn vị hành quân qua.


Tôi không biết đơn vị nào sẽ hành quân qua đây, nhưng đùi đã bớt đau, tôi sang làng bên gặp bộ đội nhà, bỏ cả cáng, cảm ơn anh chị em cáng thương và về đơn vị. Chiếc xà cột tôi đeo thấy căng căng, tôi nắn sờ trong đêm tối mới biết là gói đường phèn và bao thuốc lá của nhân dân đút vào cho lúc nào không biết.


Mấy hôm sau chúng tôi lại đánh đồn Ngọc Tỉnh rồi mới hành quân tới Ngọc Giả, khu du kích của Nghĩa Hưng để chuẩn bị vượt qua đường 21 từ cổ Lễ đi Bùi Chu, ra bờ sông Hồng. Nếu không sang sông được lại phải quay về Ngọc Giả trước khi trời sáng.


Bấy giờ đã là tháng chạp âm lịch (2-1952), nhân dân đang chuẩn bị ăn tết.

Chúng tôi đã hành quân mấy đêm liền ra sát bờ sông lại có lệnh quay về vì quãng sông định vượt đều bị tàu chiến địch án ngữ, chúng vòng đi vòng lại rú máy suốt đêm. Đồng bào chẳng hiểu chúng tôi đi đâu, chỉ thấy đêm đi sáng lại về. Nhiều nhà ở mặt đường đem nước để ở đầu ngõ mời chúng tôi dừng lại uống, thân thiết như người nhà.


Cứ sáng ra, lúc chúng tôi quay về, thì là lúc nhân dân ra đồng làm lụng, vừa phân tán để tránh pháo địch. Chúng tôi bố trí một trung đội đào công sự bên bờ tre, đem rạ ra phủ và ngủ tại chỗ để sẵn sàng đánh địch nếu chúng đi càn. Các gia đình đều để lại cho chúng tôi ấm nước chè đun sẵn và gói thuốc lào với chiếc đèn dầu vặn nhỏ và bó đóm tre ngâm vì biết anh em bộ đội thích thuốc lào.


Cứ sau buổi sáng lên báo cáo tiểu đoàn, tôi lại tạt qua các trung đội xem anh em ăn ở ra sao. Những ngày trú quân ban ngày, chúng tôi như là chủ nhà, bảo nhau quét tước sân ngõ, gánh nước đầy chum, cho lợn gà ăn, coi những việc ấy như là tiêu chuẩn dân vận của từng người, ở nhà với chúng tôi là một vài cụ già, thỉnh thoảng có một thanh niên, một phụ nữ đến giúp đỡ anh nuôi nấu cơm. Thông cảm với nỗi thiếu thốn của nhân dân vùng địch hậu, chúng tôi không nhận bất cứ thứ gì nhân dân ủng hộ. Nhưng rồi nhân dân lại nghĩ ra cách khác. Thấy bộ đội kho cá ở bếp, họ bí mật đổ mắm tép vào nồi cá kho. Bữa ấy chúng tôi buộc phải chấp nhận và được thưởng thức món mắm tép đỏ rất ngon của đồng bào miền nam Nam Định. Trong đơn vị có chiến sĩ quê ở ngay trên đường hành quân qua nhưng sợ lộ bí mật nên không dám tạt về nhà. Xa quê bốn năm năm trời, anh còn ngờ ngợ cổng nhà. Lần thứ hai hành quân qua, anh vượt lên trước, gặp cô em gái đứng cạnh thùng nước uống mời bộ đội trong đêm tối, anh nói to với cô em "Bảo hộ cụ khán Đẩu, anh Tòng đi bộ đội còn sống chị nhé". Nói rồi anh lẩn trong đám đông. Cô em bị bất ngờ, trấn tĩnh lại định chạy theo nhưng không kịp vì quân đi đầy đường, ai cũng như ai. Tiếng chân bước thình thịch lẫn với tiếng lá ngụy trang rung rào rào.


Một đêm, khi từ bờ sông quay về đoạn đường 21 dưới chùa Cổ Lễ, trời đã sáng rõ. Tiểu đoàn ra lệnh tạt vào các xóm ven đường bố trí đánh địch từ Nam Định đi Bùi Chu. Đại đội tôi bố trí ở quãng giữa, chỉ cách đường nhựa một vạt đất ngắn, ruộng khố, chuẩn bị cho việc đánh tạt sườn, xế trưa, một đoàn xe 11 chiếc từ Cổ Lễ đi xuống, đi đầu là một chiếc xe bọc thép, hai xe chở lính, còn toàn là xe vận tải, xen giữa có một xe ca chở khách Hà Nội - Bùi Chu. Khi đoàn xe lọt vào trận địa, súng cối 81 của tiểu đoàn rót đều đều vào bốt Cổ Lễ, đơn vị trợ chiến với DKZ57 ly và đại liên bắn cháy luôn chiếc xe bọc thép và xe lính địch. Chúng tôi từ trong xóm quét tiểu liên dồn những tên sống sót nhảy xuống con mương bên kia đường. Chúng bị sa lầy ở cánh đồng và bị du kích bắt sống. Sau khi thu dọn chiến trường bắt tù binh, đại đội tôi nhận nhiệm vụ đưa toán hành khách hơn 30 người vào xóm nghỉ ngơi và cho người hướng dẫn họ đi về phía Bùi Chu. Vì là ngày tết, họ đều mặc quần là, áo lượt nên đi rất chậm. Lâu lẳm tôi mới lại nhìn thấy người đội khăn xếp, phụ nữ đánh môi son đi giầy cao gót. Vui nhất là có một chú nhỏ mười sáu tuổi phụ xe khách nằng nặc xin ở lại cho đi theo bộ đội vì chú bị chủ đối xử tàn tệ. Chúng tôi gửi lên bảo vệ trung đoàn để cùng quân lực xem xét bổ sung quân số cho tiểu đoàn.


Ngay sau đó, lệnh của trên cho đốt xe. Chúng tôi huy động dân quân du kích đem rơm rạ chất vào từng xe mà đốt, có anh mở thùng lấy xăng tưới vào lốp xe, lửa cháy đùng đùng, khói lên nghi ngút. Buổi chiều, một chiếc máy bay C47 lượn vài vòng quan sát rồi bay về phía Hà Nội.


Đến đêm thứ tư, chúng tôi ra đến bờ sông thì tiểu đoàn cho quay lại ngay. Đêm đó tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy trợ chiến dùng DKZ57 và đại liên bắn tàu chiến địch thả neo rú máy ở giữa sông. Tàu địch neo lại là mục tiêu cố định tạo điều kiện cho ta bắn chìm ngay hai chiếc. Gần sáng, trinh sát tiểu đoàn còn bắt được tên quan hai sống sót bơi vào bờ. Nó khai là thủy đội ở Nam Định bị đánh đắm hai chiếc, còn một chiếc chạy thoát.


Ngay tối hôm sau, nhân đà chiến thắng, trên ra lệnh tranh thủ vượt sông. Sông Hồng đêm nay mênh mông đầy sương mờ. Lần này không phải chờ lâu, vừa bắt được ký hiệu an toàn ở bờ bên kia thì chúng tôi đã thấy một đoàn thuyền đinh ba bốn chiếc đang sang sông. Được biết đoàn thuyền đã chuẩn bị từ nửa tháng trước, dìm ở cửa một con lạch có lệnh là vớt lên, vượt sông đón bộ đội. Chỉ huy đoàn thuyền là một đồng chí tỉnh ủy viên tỉnh ủy Thái Bình. Tiểu đoàn pháo 75 của đại đoàn sang trước bố trí bảo vệ đầu cầu, trợ chiến của tiểu đoàn cũng sang trước để yểm hộ cho bộ binh. Đại đội chúng tôi đi vào quãng giữa. Là thuyền gỗ loại vừa nên mỗi chuyến chở được hai trung đội, mỗi thuyền bốn tay chèo, gió lặng nên qua sông khá nhanh. Nửa đêm, đơn vị tôi sang hết, tản xuống chân đê bổ sung lá ngụy trang chuẩn bị tư thế sẵn sàng chiến đấu.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:09:38 am
Điểm đổ bộ của chúng tôi là bờ đê làng Đức Long gần khu vực Văn Môn, Lịch Bài. Từ đó chúng tôi đi tắt cánh đồng vào trú quân ở Lịch Bài. Ở đây có một cái chợ khá to, công việc phòng gian giữ bí mật càng được đặc biệt chú ý. Nhân dân đến xem chúng tôi rất đông, đông nhất vẫn là trẻ em quây quần xung quanh bộ đội nhưng chưa bắt chuyện vì bộ đội còn phải chuẩn bị chiến đấu. Thế là cả tiểu đoàn, cả trung đoàn chúng tôi đã ở trên đất Thái Bình.


Nắm chắc thời cơ, trên lệnh cho hành quân ban ngày. Bốn giờ chiều, toàn tiểu đoàn theo đường tắt ra đường 39 thuộc huyện Kiến Xương, triển khai từ Thanh Nê đến Phường Ngải đón địch từ thị xã Thái Bình xuống. Cũng trong lúc này, tiểu đoàn 1 (Đống Đa) cùng pháo binh đã bao vây quận ly Đông Hướng ở Tiền Hải.


Với việc hành quân ban ngày từ Vũ Tiên sang Kiến Xương một cách công khai làm cho nhân dân rất phấn khởi vì chưa bao giờ họ thấy quân ta đông như thế, vũ khí nhiều như thế. Quân địch đóng ở các đồn bốt nhỏ, các nhà thờ đều hết sức hoảng sợ, thanh thế quân chủ lực ta ngày càng cao.


Quận lỵ Đông Hướng là một vị trí lớn bị tiêu diệt làm rung chuyển cả mặt trận miền nam Thái Bình khiến những bốt nhỏ và địch ở nhà thờ bị bộ đội địa phương và du kích bao vây đều ra hàng hoặc bỏ chạy. Bồng Tiên ở Vũ Tiên, Vũ Lăng, Giáo Nghĩa ở Kiến Xương lần lượt nộp súng cho địa phương. Nhiều cha cố đã tìm người liên lạc với ta. Nhờ sự hỗ trợ của chủ lực, công tác kêu gọi binh lính địch có hiệu quả cao, một hình thức địch vận mới ra đời "Võ trang địch vận" kết hợp bao vây quân sự với kêu gọi địch vận đã đạt thắng lợi lớn...


Tuy mất nhiều đồn bốt nhưng địch ở thị xã Thái Bình không xuống tiếp viện, thời cơ đánh viện binh địch không còn, tiểu đoàn được lệnh vượt sông Trà Lý sang huyện Thái Ninh. Đây là lần vượt sông thứ tư của chúng tôi. Sông nhỏ, quân ta đang trong tư thế chiến thắng nên qua sông nhanh chóng dễ dàng. Khi đơn vị hành quân vào khu vực Thần Đầu, Thần Huống thì địch ở bốt Bắc Thần Đầu bỏ chạy. Đây là nơi có phong trào du kích mạnh nhất Thái Bình nên việc chuẩn bị chiến trường rất thuận lợi, du kích dẫn cán bộ các cấp lán lượt kiểm tra đồn Chợ Cổng đến hai ba lần. Mũi tiến công nào cũng có du kích "thổ công" dẫn đường. Tiểu đoàn đánh đồn Chợ Cổng, đại đội tôi đảm nhiệm hướng chủ yếu, chỉ sau mấy loạt đạn cối 82 ly bắn cháy nhà chỉ huy và mấy loạt đạn pháo 75 ly bắn thẳng, công sự gỗ đất của địch bị phá tung, bộ binh ta xông vào, bên trong địch đã sẵn sàng đầu hàng. Chưa có trận công đồn nào nhanh như vậy, chỉ với bốn mươi phút tấn công, vị trí đại đội địch đã bị tiêu diệt. Trận này ta lại chiếm được một khẩu trọng pháo 105 ly có đủ xe kéo và đạn dược. Như vậy, với chiến công này, tiểu đoàn Thanh Lũng chúng tôi đã thu được hai khẩu trọng pháo, một ở Sơn Tây và một ở Thái Bình. Với ý nghĩa đó, nhạc sĩ Vũ Trọng Hối đã sáng tác tặng chúng tôi bài hát "Tiểu đoàn Thanh Lũng cưới nàng dâu đen". Lúc anh em kéo quân về nhà mới 9 giờ tối, nhân dân các xóm còn thức chờ bộ đội, ai cũng khen đánh giỏi quá, chỉ có một vài người bị thương nhẹ. Có cụ già níu lấy áo tôi mà nói: "Từ nay nhân dân cả vùng ngủ yên suốt đêm, không sợ pháo địch bắn ra, có nhà chỉ một quả đại bác giết hại cả gia đình bên mâm cơm".


Có một kỷ niệm không thể nào quên. Ngay khi chúng tôi đang thu dọn chiến trường, giải tù binh ra thì đồng chí tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hòa đưa thiếu tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh đại đoàn vào đồn xem cách bố phòng của địch và động viên anh em. Để đảm bảo an toàn cho Tư lệnh, các cán bộ và chiến sĩ tự động vây quanh đồng chí để Tư lệnh nói chuyện ngay trong đồn địch vừa chiếm được.


Thừa thẳng, tiểu đoàn bao vây tấn công ngay đồn Chợ Mới ở gần đó, trên cho dùng luôn khẩu 105 ly vừa lấy được cho hai trâu kéo cùng với pháo 75 ly bắn thẳng vào đồn Chợ Mới. Mất đồn Chợ Cổng, mất pháo yểm hộ, nó bị cô lập và chỉ sau mấy loạt pháo bắn thẳng và bộc phá phá rào, cả một đại đội ngụy do tên quan hai tây chỉ huy xin đầu hàng. Máy bay C47 đến thả đồ hộp tiếp tế trong những ngày ta bao vây đều rơi ra công sự bao vây của ta, đủ mọi thứ cả đùi bò thui, các sọt bầu bí và thuốc men, bông băng, cùng một số ít đạn cối.


Một tuần sau, chúng tôi cùng tiểu đoàn Kiên Trung (Trung đoàn 52) tiêu diệt đồn Trà Linh nằm trên đập sông Trà Lý mở cống lấy nước tưới cho đồng ruộng huyện Thụy Anh. Trận đánh kết thúc, tên đồn trưởng tây bỏ trốn. Sáng ra ta bắt được hắn đang ngâm mình bên cửa cống. Hôm giải tên đồn trưởng lên trung đoàn, có một bà mẹ cầm con dao phay từ một lùm cây xông ra, đòi chém tên tây đồn. May mà các chiến sĩ ta đã kịp ôm lấy mẹ thu con dao mà mẹ đã mài sẵn từ mấy hôm trước. Chúng tôi giải thích cho mẹ rõ chính sách khoan hồng của Cụ Hồ đối với tù hàng binh thể hiện dân tộc Việt Nam nhân đạo và cao thượng nhường nào. Sau đó chúng tôi phải nhờ các chị phụ nữ an ủi và dìu mẹ về nhà.


Trận tiếp theo, quân ta tiêu diệt bốt Đào Thành rồi mở được cống Đào Thành cho nhân dân ba huyện Tiên Hưng, Duyên Hà và Hưng Nhân có nước kịp làm vụ chiêm.

Trong những ngày này, các huyện ở miền Nam tỉnh Thái Bình đều tổ chức mừng chiến thắng, tổ chức liên hoan quân dân. Bài hát "Về đồng bằng" và "Bộ đội về làng" cứ vang lên khắp xóm thôn. Nhân dân làm cơm thết bộ đội. Tuy rất thiếu thốn nhưng gia đình nào cũng mời được một chiến sĩ đến nhà theo phương châm "có gì đãi nấy", có gà đãi gà, có vịt đãi vịt, cá, tôm, cua, ốc đều được cả, xem như tấm lòng chân thành của nhân dân đối với bộ đội về giải phóng quê hương mình, gần trưa, có một ông vẫn còn đến đòi vì nhà ông chưa có anh bộ đội nào đến. Tôi đành xin lỗi nhà chủ đang ở để đi thay vậy. Đây là một gia đình ngư dân vẫn đi xuống bờ biển đánh cá, họ đãi tôi món cá nhệch om, đây là món cá quý vì nhân dân truyền miệng câu "chim gà, cá nhệch". Giống cá ngon nhất là nhệch nhưng rất khó bắt, dễ bị thủng lưới, chỉ có câu là chắc chắn.


Lễ mừng chiến thắng tuy đơn sơ nhưng rất cảm động, gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp với cả quân và dân, để lại trong lòng tôi những kỷ niệm sâu sắc không bao giờ quên.

Tính từ khi ở Ninh Bình ra đi cuối mùa đông 1951 cho đến cuối mùa xuân 1952, chúng tôi đã vượt qua nhiều con sông, đã đứng vững trên đất Thái Bình, mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng, chống càn thắng lợi, giúp cho bộ đội địa phương và dân quân du kích mạnh lên vượt bậc, xã nào cũng có trung đội du kích, huyện nào cũng có đại đội bộ đội địa phương được trang bị mạnh, chính quyền cơ sở các cấp được củng cố, coi đó là bước nhảy vọt của vùng địch hậu tả ngạn sông Hồng.


Đông xuân năm ấy là một bước thử thách lớn của đơn vị, chúng tôi đã thực hiện được quyết tâm kiên trì về đồng bằng và tiến sâu vào địch hậu, cùng quân dân Thái Bình chiến đấu đến ngày toàn thắng. Cũng từ sau Đông Xuân này, đại đoàn tôi mang tên Đại đoàn Đồng Bằng.

Đ.T.C


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:11:20 am
TÌNH DÂN


VŨ BÁO DIỄN


- Nào anh cố gắng dậy ăn bát cháo...

Mẹ Vinh vừa nói, vừa ngồi xuống cạnh giường, tay mẹ nhẹ nhàng nâng tôi dậy, xúc cháo cho tôi ăn. Mùi cháo cá lẫn mùi rau hành, nước mắm thơm phức. Còn hai cô con gái ngồi bên, tay phẩy quạt, nhìn tôi âu yếm như người nhà.

Mẹ nói:

- Hôm nay khỏe rồi, như ngày đầu ai cũng tưởng anh... Hai em cứ sụt sùi sợ anh... Chúng nó cứ quanh quẩn bên... Mẹ định nói, nhìn con gái lại thôi.

Lời mẹ làm tôi nhớ lại đầu đuôi câu chuyện tôi bị thương.

Đêm 21 tháng 2 năm 1952, đơn vị vừa đánh xong đồn Trà Lý, huyện Tiền Hải thì được lệnh cấp tốc hành quân sang huyện Đông Quan chống càn... Bọn Pháp - ngụy dùng ba tiểu đoàn càn vào xã Đông Tân, Đông Vệ: trên không, có bốn máy bay phóng pháo, yểm trợ cho bộ binh, ngoài ra pháo ở đồn Đống Năm, Đông Quan và thị xã Thái Bình bắn về, có máy bay bà già chỉ điểm.


Vào khoảng 5 giờ sáng ngày 22 tháng 2, đơn vị vận động qua cánh đồng lúa xanh, chúng tôi bám sát địch để phi pháo của địch mất tác dụng, quân ta lợi dụng nằm dưới con sông Đào đánh địch, bọn bảo hoàng và Lê dương ở trên đường cái chẳng thằng nào dám xuống ruộng vì nó bị chết nhiều.


Khoảng 15 giờ chiều, tôi nhìn thấy mấy tên đứng trên lò gạch ở vệ đường quốc lộ 39B, thằng cầm ba toong gọi pháo bắn vào quân ta. Tôi cho Phạm Văn Pho dùng súng máy bắn. Pho đưa súng từ cao hạ xuống chưa kịp bắn thì đã bị thương. Tôi đỡ khẩu súng của Pho và bảo Pho lăn đi mấy vòng để tránh sự chú ý của địch và tôi đưa súng từ dưới lên ngắm bắn, bóp cò gần hết băng đạn. Mấy tên địch bổ nhào. Chúng tôi chưa chuyển kịp thì một tiếng "xoẹt" nổ trên đầu, mảnh đạn cắm phập vào đầu làm tôi ngất đi.


Khi tỉnh lại tôi thấy trung đội trưởng Xuân Hải đang dùng tiểu liên quét bọn bộ binh. Chúng bò đến gần. Anh Hải thét to "Lựu đạn đâu...". Tôi rút chốt hai quả đưa cho anh Hải ném. "Ầm". Bọn chúng kêu la loạn xạ, tôi đưa cho anh trái nữa để ném. "Ầm". Bọn chúng hốt hoảng chạy như vịt tan đàn.


Tôi được đưa về trạm cứu thương. Trời đã tối đen. Trạm cứu thương ở đình làng, xung quanh xếp đầy bó rạ để tránh đạn, mấy ngọn đèn dầu thắp sáng, y bác sĩ nhìn tôi e ngại do mảnh đạn đại bác khó gắp, khó lôi ra mà đục thì...


Tôi khẽ cười và nói:

- Các anh để tôi nằm lên hai cây luồng, buộc chặt hai chân vào đó, lấy một đoạn khác đè ngang ngực để buộc chặt hai tay rồi đục sọ lấy mảnh đạn ra. Tôi chỉ xin giữ lại mảnh đạn làm kỷ niệm... Sau khi các anh làm theo như thế, tôi cảm thấy người mình như đức chúa bị đóng đanh.

"... Chát... Chát..." tiếng đục âm âm đau đớn trong cảnh nửa tỉnh nửa mê.

Việc đục sọ lấy mảnh đạn rồi cũng xong, đầu tôi được băng bó lại và y sĩ đưa mảnh đạn đã rửa sạch cho tôi. Các mẹ, các chị xung quanh nước mắt còn chưa ráo thì một mẹ tay run run bón cho tôi thìa cơm. Cơm vừa vào miệng, hạt cơm như các mũi chông đâm vào lưỡi, đau buốt phải vội lè cơm ra.


Các mẹ khóc nức nở như có người chết, thì thào "chê cơm thì...". Các mẹ nâng tôi lên cáng, dặn mọi người đi cẩn thận.

Tôi được đưa về nhà mẹ Vinh ở Đức Cơ, Thanh Giám huyện Tiền Hải. Mẹ có hai cô con gái tuổi mười lăm, mười bảy. Mẹ xin cho tôi một chai sửa tươi của một chị đang nuôi con thơ. Hàng ngày mẹ xin sữa về hòa lẫn nước bón cho tôi từng thìa...


Ông Vinh độ năm mươi tuổi mà trông như cụ già. Ngày ngày ông ra sông, ra ruộng để bắt cá, con nào to nhất dành nấu cháo nuôi tôi, còn đem bán lấy tiền đong gạo. Mỗi khi ông vác dậm ra đi đều dặn vợ con:

- Ở nhà coi có gì đưa anh xuống hầm.

Trước khi đón thương binh, gia đình đào sẵn căn hầm dưới gầm giường để tránh đạn pháo của địch.

Thôn Đức Cơ, Thanh Giám là vùng du kích ta mới giải phóng chưa được một tháng, kẻ địch có thể dùng phi pháo đánh phá hoặc chúng càn là thường. Bà con ở đây đã có truyền thống yêu nước từ năm 1930, đã nổi dậy kéo về huyện lỵ Tiền Hải đòi giảm sưu giảm thuế đến nay gọi là "Tiếng trống Tiền Hải năm ba mươi".


Một buổi sáng, vừa nghe tiếng máy bay chưa kịp xuống hầm thì tia chớp nhoằng, một tiếng nổ ầm. Bà mẹ ngả người đè lên tôi, sau vội vàng đưa tôi xuống hầm, tiếng kẻng báo động vang lên. Ngoài trời rét, mẹ và hai cô con gái mồ hôi ướt cả áo, miệng vẫn cười tươi. Có lần giặc nống ra, bộ đội, du kích chặn đánh quyết liệt từ xa.


Hôm anh Miên, anh Xuân, anh Hải đại diện đơn vị đến thăm tôi và anh em thương binh khác, anh Hải đưa cho tôi năm hộp sữa và một áo săng đay dài tay. Anh nói:

- Quà chiến lợi phẩm đánh đồn Trà Lý đêm 21 tháng 2 của tiểu đoàn đấy. Còn gói tiền là của đơn vị gửi cậu. Trận chống càn vừa rồi ta bắn chết một tên quan ba nên buộc địch phải bỏ chạy, đơn vị đang đề nghị xét khen thưởng trong đó có đồng chí đấy...

Anh Miên, anh Xuân cúi xuống hôn lên đầu tôi rồi các anh cảm ơn gia đình và bịn rịn ra đi...

Thấm thoắt đã hơn một tháng. Ông bà Vinh coi tôi như con, đi chợ hay đi đâu về đều có quà cho tôi phần hơn.

Đêm rét, ông đến ngồi bên cạnh kéo chăn đắp lại cho tôi rồi ngồi hút thuốc và nói khẽ:

- Cần gì anh cứ bảo tôi giúp, đừng ngại...

Sáng nay ông dậy sớm. Dưới ánh trăng, ông cặm cụi buộc lại cái rổ để đựng cá, cái dậm cho chặt. Xong ông rít thuốc lào rồi giắt cái điếu cày vào hông, tay cầm nón mê nói nhỏ với bà:

- Tôi ra sông Long Hầu kiếm con cá về nấu bát canh chua, bà và con ở nhà để ý đến anh, có gì đưa xuống hầm...

Bà nói:

- Vâng, ông yên tâm, mà sao đi sớm thế...?

Tôi không ngủ, ngồi nhìn ông mà rạo rực bồn chồn, tự nhiên nước mắt tuôn, lòng nghĩ: ông như cha đẻ ra mình.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:12:06 am
Hôm anh Miên thăm tôi đã tỏ lời cảm ơn. Ông nói:

- Các anh cứ lo giết giặc cho nhiều, giải phóng cho bà con càng nhanh càng đỡ cực. Còn việc chăm lo cho thương binh là trách nhiệm của mọi người dân tự nguyện anh ạ...

Nhiều đêm thức trắng ngồi nghe hơi thở rồi ông nằm cạnh theo dõi sức khỏe của tôi hơn là ông lo cho ông...

Bà đi rón rén đến gần giường tôi, thấy tôi ngồi dậy bà hỏi khẽ:

- Chắc anh đỡ rồi phải không? Tôi nấu cháo sáng anh ăn nhé. Trưa ông ấy về nấu cho anh bát canh cá chua, ăn cơm cho chóng khỏe. Hay là gọi cái gái nó dậy.

Tôi gọi mẹ lại và bảo:

- Mẹ cứ để các cô ấy ngủ, mới đi gác về, các cô vất vả vì con nhiều rồi và hôm nay con khỏe rồi...

Bà ừ, rồi đi xuống bếp.

Bà làm tôi nhớ lại đêm 25 tháng 2 năm 1952, vết thương trên đầu bị nhiễm trùng, tôi bị sốt cao. Ông cầm đèn đi tìm y tá ở trong huyện xa đến ba, bốn ki-lô-mét.

Người tôi rét run bần bật, chiếu chăn đắp hết lên mà cứ vẫn rét, hai hàm răng đánh cầm cập vào nhau. Gái nhỏ lấy chiếu rách đốt dưới gầm giường, còn gái lớn nằm đè lên chăn chiếu ôm lấy tôi để cho tôi đỡ rét.


Mãi đến khi ông Vinh đưa bác Hựu y tá thời Pháp làm ở huyện về thì gái lớn xuống chuẩn bị nước non để thay băng, rửa vết thương cho tôi. Rồi tôi được tiêm thuốc, uống nước. Bấy giờ, bác Hựu mới nhận ra tôi là người làng. Bác nhìn tôi, vui vẻ nói đùa:

- Cậu cố gắng chịu đau để mình rửa, chóng khỏi rồi làm rể ông bà ở đây cho gần...

Gái nhỏ reo lên:

- Hay quá, chị gái hơn em...

Gái lớn thẹn đỏ mặt ấp úng nói...

- Để cho mày, con ranh, chỉ...

Gái nhỏ trêu chị:

- Thích nhé, ôm chồng ở ngoài chiếu lại còn...

- Ừ... đã sao?...

Từ đấy gái nhỏ nhiều lần trêu chị:

- Chị gái, anh gọi chị vào mà...

- Mày giúp anh không được à con ranh, tao cho...

Tiếng súng nổ làm cắt dòng nhớ lại của tôi, rồi một tiếng nổ ầm rung cả đất. Mọi người chưa rõ chuyện gì xảy ra.

Sáng ra biết tin. Một trinh sát bị địch đuổi theo, anh nhảy xuống sông Long Hầu. Một ông đánh cá đưa cho anh cái nón, cái giỏ. Địch đến gần, anh ném lựu đạn nổ, anh chạy thoát, còn ông bị chúng bắt đưa đi...


Gia đình và mọi người đều đoán là ông Vinh bị bắt.

Trưa hôm đó, thương binh chúng tôi được lệnh đêm nay vượt sông Hồng về vùng tự do gấp, giặc Pháp sẽ mở trận càn lớn ở huyện Tiền Hải.

Tin vội vã. Tôi bâng khuâng, nói gì với mẹ với hai cô em gái? Chiều hôm đó tôi và mọi người ăn không ngon, nghẹn ngào cảnh chia tay đột ngột. Nhất là lúc này ông Vinh vẫn chưa về.

Tối đến, tôi nằm trên cáng, mẹ và gái lớn đi bên cạnh. Chẳng ai nói được nên lời, nước mắt cứ trào ra nghẹn cổ. Đường ra bến đò xa hai, ba cây số, không ai nói một câu nào. Trước khi tôi xuống đò, mẹ ôm chặt tôi vào lòng, tay vỗ nhẹ lên lưng như để thay lời tạm biệt...!!!

Dưới ánh trăng mờ, con đò đã rời xa bến. Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng vọng:

- Anh đi cố gắng... khỏe...

Hình ảnh gia đình mẹ Vinh còn mãi mãi in sâu trong tâm trí tôi, và chính tình cảm đó đã động viên tôi đến năm 1953, tôi lại xin tái ngũ vào trung đoàn 270, chiến đấu ở Đức Cơ, Thanh Giám để mong gặp lại ông bà Vinh và hai cô gái.


Nhưng hoàn toàn thất vọng. Dò dẫm hỏi thăm mãi vẫn không có ai biết gia đình ông bà Vinh đi đâu, ở đâu. Có thể chính trận càn khốc liệt cuối năm 1952 mà người ta gọi là trận càn "Mécquya", giặc Pháp vênh váo muốn trưng bày nền "văn minh" và sức mạnh của mình bằng cách đốt phá, tàn sát vô cùng dã man, đã không chừa một ai trong vòng vây súng đạn của chúng. Những ai may mắn thoát khỏi cảnh tàn sát, chắc cũng đã phiêu bạt tới những miền đất khác.


Từ bấy đến nay, đã 47 năm trôi qua. Tôi vẫn lưu tâm dò tìm mà không thấy tin tức, dấu hiệu gia đình ông bà Vinh ở đâu. Viết lại những dòng này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn với gia đình ông bà Vinh trong kháng chiến chống Pháp. Thêm nữa, tôi vẫn muốn coi đây là bức thông điệp tìm ân nhân, ai biết được xin cho tôi bức thư hồi âm, tôi cám ơn lắm. Thư gửi đúng tên tôi, tác giả bài này nhờ Thành hội cựu chiến binh Hà Nội chuyển, ắt là tôi nhận được.

V.B.D


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:14:08 am
BẺ GÃY MỘT PHIÊN TÒA
(Viết theo lời kể của Giang Văn Khiết)


NGUYỄN VĂN HOA


Tờ mờ sáng ngày 22 tháng 2 năm 1954. Binh lính Pháp và ngụy quân, ngụy quyền trên đảo Phú Quốc đã lục đục, hò hét nhốn nháo, om sòm. Phía trong trại, chúng bắt anh em tù binh từ trại ba tập trung sang trại một và hai. Tên trung úy Diệp giọng lè nhè trong loa: "Hôm nay anh em tù binh tập trung trước khu "nhà dù" để nghe "Tòa án binh" xử án đại hình tên Giang Văn Khiết. Anh em xếp hàng trật tự, không đi lại lộn xộn nghe hông!". Đang lúc xếp hàng, nhìn ra "Ca-xô"1 (Ca-xồ: chuồng cọp) thấy bọn lính đang dắt anh Khiết ra trói ở cột bắn.


Khoảng 8 giờ 30, một chiếc máy bay "phành phạch" đổ xuống bãi cát phía đông bắc của trại giam. Một bầy lính lốc nhốc chui ra và lên xe chạy về khu nhà dù. Một lát sau, tên thiếu tá Đắc, nói trước máy giới thiệu phiên tòa:

"Kính thưa ông đại diện chánh phủ Pháp, ngài đại tá Lơ-roa. Kính thưa ông đại diện chánh phủ Việt Nam cộng hòa, ngài Bửu Lộc. Kính thưa ngài trung tướng Nguyễn Văn Hinh, bộ trưởng bộ quốc phòng quân lực cộng hòa. Tôi xin giới thiệu thành phần phiên tòa hôm nay có ông đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, Tư lệnh quân khu Zôn 1271 (Quân khu bảo vệ tù binh Côn Đảo và Phú Quốc của quân đội Liên hiệp Pháp, gọi theo bí mật quân sự) làm chánh án phiên tòa, tòa án binh Quân khu đặc biệt. Ông thiếu tá Trần Công Đắc là ủy viên công tố. Ông trung úy Hà Quang Diệp là thư ký phiên tòa".


Tên Lễ chánh án gõ máy cọc cọc, giọng trọ trẹ:

- Cho dẫn tên Khiết "dô"! Đứng trước vành móng ngựa nghe hông!

Tên Đắc "dạ" !

Rồi hắn sai bọn đồ tể, ra cầu cởi trói anh Khiết ở cột bắn, dòng thêm một sợi dây thừng như sợ anh nhảy xuống biển. Chúng bắt anh đi trước, thân hình anh trần trùng trục, không phải anh không có áo, mà chúng tra tấn anh đã rách nát hết cả áo quần.

Chánh án Lễ hỏi:

- Anh Khiết, anh là Giang Văn Khiết phải "hông"?

- Đúng, tôi là Giang Văn Khiết.

- Anh có biết tòa án binh chúng tôi xử án anh phạm tội như thế nào hông?

- Không?

- Anh đã phạm ba tội lớn - Lễ lườm mắt như dò xét rồi nói tiếp:

- Tội thứ nhất anh đã theo Việt minh Cộng sản. Việt Minh là giặc, phá hoại trật tự an ninh quốc gia, chống đối chính sách "an dân an cư" của chánh phủ Việt Nam cộng hòa - Tên Lễ hạ giọng hỏi tiếp:

- Anh Khiết, gia đình anh ở Trôi Chợ phải hông?

Anh suy nghĩ đề phòng mưu ma chước quỷ của bọn đồ tể rồi đáp:

- Phải.

Lễ vẫn hạ giọng như dụ dỗ:

- Anh đã bỏ gia đình, bỏ quê hương, mà gia đình quê hương anh lại ở trong vùng an toàn, dưới sự kiểm soát của chánh quyền Việt Nam cộng hòa. Sao dại thế? Nghe đứa nào thế? Bỏ nhà theo giặc Việt minh, cầm súng bắn lại binh sĩ của chánh phủ, bắn lại đồng bào, đó là tội làm giặc. Tội thứ nhất nghe "hông"?

Lúc này Lễ gân cổ, được thế cao giọng tiếp:

- Tội thứ hai: anh đã bị quân đội Liên hiệp Pháp bắt làm tù binh. Chánh phủ Việt Nam cộng hòa chúng tôi tạm giam giữ các anh lại là để có ngày gần đây, các anh tự hối cải, ăn năn thì chính phủ chúng tôi sẽ mở những đợt khoan hồng, ân xá, phóng thích tha cho các anh về sống với gia đình bố mẹ, vợ con, có phải sung sướng "hông"? Ai chả muốn thế. Ai dại dột muốn tù đày mãi như vậy. Tội thứ hai của anh là làm giặc, đã bị bắt rồi, bụng dạ vẫn còn theo giặc, không chịu sửa mình, không ăn năn hối lỗi, không chịu cải tà quy chánh.

- Tội thứ ba của anh: Là một người tù binh đang bị giam giữ lại ngang nhiên dùng đòn khiêng đánh lại "nhà chức trách", rồi chạy trốn vô rừng. Muốn liều chết phải hông? Hay muốn tìm về với Việt minh?...

Tên Lễ đứng dậy thay đổi thái độ nói:

- Tòa án binh chúng tôi hôm nay mở phiên tòa đặc biệt xét xử tội của tên Giang Văn Khiết trước hàng vạn tù binh trên đảo này để tất cả những tù binh từ nay trở đi không còn một ai chạy với trốn chi nữa. Trốn chỉ có chết, không chết trước thì chết sau. Pháp luật của chánh phủ Việt Nam cộng hòa là nghiêm minh như vậy. Phiên tòa xử tên Khiết hôm nay đã phạm ba tội trên và tòa kết án là... - hắn dừng lại, nhìn mấy tên cấp cao của hắn, thấy các quan trên gật đầu, rồi hắn tiếp:

- Tòa án binh kết án tử hình. Tử hình! Giang Văn Khiết mang án tử hình!

Tên đại diện chánh phủ Bửu Lộc béo ị, gật gù, đắc chí nói:

- Phải "Sát nhất nhân, vạn nhân cụ", giết một người răn vạn người sợ. Tử hình là đúng. Rồi y đắc chí cười hô hố...

Tướng Hinh đứng dậy đáp lễ, rồi thổi phù phù vào máy, nói:

- Thay mặt đoàn chánh phủ Việt Nam cộng hòa và bộ tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa, tôi gửi tới toàn thể anh em lời thăm hỏi và mong anh em hối cải cho tốt, để chờ dịp sẽ được chánh phủ khoan hồng hoặc tha bổng về sum họp với gia đình làm ăn lương thiện. Anh em nghe rõ không?

Mọi người lúc bấy giờ không ai bảo ai đồng thanh nói:

- Không rõ!

Mặc dù anh em tù binh có nghe thấy và đều bịt mũi, tỏ thái độ phản đối chúng.

Chả biết chúng có hiểu không? Chắc cả đoàn chánh phủ quốc phòng rồi thầy cãi, luật sư, đến các nhà báo, cả bè lũ tay sai của chúng cũng cùng một giuộc đều tưởng lầm rằng: Những người tù này, trong tay quản lý của chúng, cho ăn được ăn, cho sống được sống, chúng sẽ chinh phục được tư tưởng của anh em.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:15:13 am
Không bao giờ vì họ yêu độc lập, tự do đến khát khao. Lòng yêu nước đã thấm sâu vào khối óc, trái tim của họ và quyết không thể có một chính sách nào của địch mà có thể mua chuộc, lừa bịp, dụ dỗ hoặc đe dọa, ép buộc những người tù binh theo chúng. Tên Hinh lại chỉ vào anh Khiết nói:

- Mi cứng cổ thiệt, mi muốn chết thì ta cho chết!

Rồi hắn chỉ tay về chánh án nói:

- Y lệnh!

Những người khác như luật sư, thầy cãi, nhà báo, nhà văn, người thì hí hoáy viết, kẻ thì ngồi ngây ra mà không cãi hộ cho anh Khiết được một câu. Tên thiếu tá Đác đi lại lăng xăng, đóng vai hầu bàn đắc lực, lúc bưng bê nước, khi rót rượu sâm-banh, mời bọn quan thầy. Lúc này hắn đến gõ máy cồm cộp... rồi nhai lại:

- Tử hình! Tòa tuyên án tử hình là đúng rồi. Còn mười lăm phút nữa thì bắn bỏ! Trước khi chết, tên Giang Văn Khiết muốn dặn dò giối giăng gì với gia đình, bạn bè, ta cho phép nói trước máy. Và có đề đạt chống án gì, ta cũng cho phép nói một thể. Nói đi!

Đồng chí Khiết vẫn tư thế hiên ngang, trút căm thù giặc vào đôi mắt to trừng trừng nhìn thẳng chúng. Anh thoáng nghĩ, càng kéo dài thời gian, nghĩ càng chín, nói càng chắc.

- Thưa quý tòa! Tôi khát nước, cho tôi xin ba chén nước, uống xong tôi sẽ nói.

Tên thiếu tá Đắc gọi ban đại diện:

- Lấy ba chén nước ra cho tội phạm.

- Vâng!

Bác Thu vào bảo chú Hùng1 (Chú Hùng là liên lạc bộ đội) lấy nước chè pha đường, bưng ra cho anh Khiết ba chén, cả quảng trường anh em tù binh ngồi xếp hàng, đang nóng lòng chờ đợi anh Khiết nói. Không biết bạn mình, đồng chí mình sẽ nói gì đây? Mong bạn hãy bình tĩnh nói cho cứng cỏi vào.

Chú Hùng đã bưng đĩa nước ra, Hùng nói:

- Mời anh uống nước đi. Anh đau người lắm phải không?

Chú thấy người anh chỗ nào cũng sưng, cũng tím, máu anh còn bê bết cả tóc, loang cả chiếc quần đùi, càng nhìn anh chú càng thương, ứa nước mắt rồi quay đi, sụt sịt.

Anh Khiết uống nhấp giọng.

Chà! Nước chè lại có đường, anh thoáng nghĩ: Lại có dịp hoãn binh. Anh liền dõng dạc nói trước máy:

- Thưa quý tòa, nước chè có đường tôi không uống, tôi xin nhường lại cho các anh em ốm đau. Tôi chỉ xin ba chén nước trắng đun sôi, thế thôi, uống rồi tôi sẽ nói.

Những tên đao phủ mệnh danh phiên tòa hậm hực, nhấp nhổm. Tên chánh án Lễ chửi đổng:

- Mẹ kiếp! Sắp chết còn nhường mới nhịn.

Hắn xua tay nói với chú Hùng:

- Ê này! Thằng nhép, dô trại lấy nước khác, nước trắng đun sôi nghe hông? Sai lần này moa đập chết! Mau lên!

Chú Hùng đã bưng nước ra mời anh Khiết.

Tên thiếu tá Đắc quát:

- Uống mau lên! Giối giăng chi cho nói vài câu, mau còn về âm phủ với ông nội!

Anh Khiết uống xong, bằng tư thế hiên ngang bình tĩnh, thử máy cẩn thận rồi nói:

- Thưa quý tòa, tòa đã cho phép tôi nói, phải để tôi nói hết. Tòa đã kết tội tôi là Việt minh, là đúng. Tôi không chối cãi - anh tạm ngừng.

Lúc này bọn đao phủ mệnh danh tòa án thư ký, giở kính, bút, viết lia lịa.

Anh Khiết nói tiếp:

- Nhưng tòa bảo Việt minh là giặc, chúng tôi là giặc, thì không đúng. Chúng tôi là những người Việt Nam yêu nước. Ông cha chúng ta, từ xưa đến nay, khi có giặc ngoại xâm đến xâm lược bờ cõi đất nước ta, thì cả dân tộc Việt Nam ta, mọi người đều có nhiệm vụ đứng lên chống xâm lược, bảo vệ toàn vẹn đất nước mình. Chúng tôi đi theo Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh, là Việt minh, là yêu nước vì lợi ích của nhân dân mà chiến đấu hy sinh, được nhân dân mến yêu, thì đâu gọi là giặc được? Còn về phía quân đội viễn chinh Pháp sang Việt Nam là để xâm lược, chúng định cai trị nước Việt Nam ta một lần nữa. Các ngươi không thấy cái nhục mất nước ư? Cái nhục của người dân nô lệ hàng thế kỷ trước đây ư?

Cả bọn đao phủ, tai to mặt lớn, hết thảy đều đờ người ra. Chính bọn chúng đang bị kết án.

Lúc này mặt trời bừng nắng, đàn chim đang bay bổng trên nền trời xanh biếc, hướng về phương Bắc. Chánh án phiên tòa tỏ thái độ hậm hực, bực bội trước những lời lẽ hào hùng, đĩnh đạc của anh Khiết. Chánh án lúc đứng, khi ngồi, lúc lại xua tay định ngắt lời anh. Nhưng tiếng nói của anh vẫn dõng dạc, âm vang, vừa đanh thép, vừa kết tội lại chúng. Lời lẽ và dũng khí của người cộng sản như những dòng thác lấn tới không gì ngăn cản được.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:16:08 am
Nghe anh Khiết nói, anh em tù binh phấn chấn hẳn lên. Những tiếng hô đồng thanh:

- Hoan hô anh Khiết!

- Hoan hô anh Khiết!

Tiếng anh Khiết lại vang khẳp quảng trường:

- Cái thứ hai, tòa buộc tội tôi là không chịu cải tà quy chính, không chịu theo chính phủ Việt Nam cộng hòa của các người? Tôi xin trả lời thẳng là tôi cùng toàn thể anh em tù binh chúng tôi không bao giờ hối cải với hối lỗi gì hết. Bởi lẽ chúng tôi không có tội.

- Cái thứ ba, tòa buộc tội tôi đánh lại nhà chức trách để trốn tù. Tôi xin trả lời. Là tù binh chúng tôi có nhiệm vụ trốn. Là người quản lý canh gác các ông có nhiệm vụ giữ. Bên giữ tốt thì bên kia không trốn dược. Ngược lại, muốn trốn được thì phải tìm mọi cách, mọi kế. Giữ và trốn là hai cái tất nhiên, buộc án gán tội cho tôi là không được. Trái vớì "Luật ước Quốc tế". Giả sử khi tôi đang chạy trốn mà lính của các người bắn chết thì thôi, cũng như hai bên đánh trận, bắn chết thì thôi, còn bắt được tù binh, thỉ cả hai bên đều không được bắn giết tù binh. Đây là công ước Quốc tế mà hội nghị Chữ thập đỏ Quốc tế đã họp ở Giơ-ne-vơ ngày 12 tháng 8 năm 1949. Điều 3 về bảo vệ tù binh, ghi rõ "Các nước có chiến tranh, không được bắn giết tù binh và phải cho họ ăn uống, đối xử tử tế, ốm đau phải có thuốc men, bị thương phải băng bó cứu chữa".

- Hoan hô anh Khiết! Tuyệt vời!

Nhiều anh em vui sướng đã thốt lên:

- Đã có chúng tôi ủng hộ!

- Bạn cứ nói nữa đi. Chính bạn đang là người lên án chúng, kết tội chúng.

- Hoan hô! - cả quảng trường reo lên.

Anh Khiết nói tiếp:

- Tòa hôm nay buộc tội tôi: Ba tội đều vô lý. Nếu kốt tội tôi bị án tử hình sẽ là một hành động phát xít, hoàn toàn trái với Luật ước Quốc tế và sẽ có ngày các người phải đền tội...

Tên chánh án Lễ đứng dậy, hốt hoảng, xua tay như người sắp chết đuối, miệng líu ríu:

- Thôi! Thôi! Không được nói nữa.

Phía ngoài, hàng ngàn tù binh lại đồng thanh hô vang khẩu hiệu:

-  Phải để anh Khiết nói!

-  Phải để anh Khiết nói!

- Đả đảo hành động phát xít của chính quyền cộng hòa Sài Gòn.

- Đả đảo!

- Yêu cầu nhà chức trách phải chấp hành Luật ước Quốc tế!

- Yêu cầu!...

Tiếng hô vang cả góc biển, át cả tiếng nói của tên chúa đảo, buộc chúng phải để anh Khiết nói.

Tiếng nói của anh Khiết lại vang lên, quảng trường lại trật tự, yên lặng:

- Hỡi các người làm công tác luật sư, trạng sư, thầy cãi! Các người đã học luật để bênh vực lẽ phải cho ai? Hãy ngăn chặn và nói lên những vi phạm phát xít vô nhân đạo, trái với Luật ước Quốc tế của chính quyền theo Pháp.

Bọn tướng tá nhấp nhổm như ngồi phải đống kiến lửa.

- Hỡi các người nhà báo, nhà văn! Hãy nói lên, viết lên những sự thật ở đây! Hãy vạch trần cái dân chủ giả hiệu của cái gọi là chánh phủ cộng hòa trước công luận đồng bào trong nước và ở nước ngoài, nhất là ở thành phố Hà Nội và Sài Gòn biết rằng: Chánh phủ Việt Nam cộng hòa đã lấy cớ tù binh trốn trại để lập tòa án tử hình, gây đổ máu trên đảo Phú Quốc. Hỡi toàn thể các đồng chí và các bạn! Các đồng chí và các bạn hãy đoàn kết chặt chẽ muôn người như một, kiên quyết đấu tranh. Chúng ta nhất định thắng lợi!

Cả quảng trường vỗ tay như sấm dậy:

- Hoan hô đồng chí Khiết!

- Hoan hô!

- Đả đảo kết án phát xít của tòa án binh Sài Gòn.

- Đả đảo!

- Bỏ ngay án tử hình anh Giang Văn Khiết!

- Bỏ ngay!

- Phải trả anh Khiết về với anh em trong trại!

- Phải trả!

Tiếng hô như sóng động, sấm rền, vang cả một góc trời phương biển.

Tất cả bọn đao phủ phiên tòa như vừa bị một đòn nặng nề, choáng váng, vừa bị bất ngờ, lại vừa thấy kinh sợ.

Tên đại tá Lễ hỏi trung tướng Hinh.

Hinh lại khúm núm hỏi đại tá Pháp Lơ-roa. Lơ-roa vừa xì xồ vừa ra hiệu.

Chánh án Lễ đã khàn khàn tuyên bố:

- Tòa tạm nghỉ hai mươi phút.

Người ta thấy bọn chúng lốc nhốc kéo sang chiếc dù đỏ như để họp bàn chuyện kín và quyết án lại.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Tám, 2022, 07:16:55 am
Bên ngoài, sau đợt hô khản cả tiếng, tuy có mệt và khát nước nhưng anh em lại bàn bạc: Phương án thực hiện nghị quyết của chi bộ trong tù đấu tranh không ngừng và không mệt mỏi. Có chỉ thị viết ngay kiến nghị: Đòi tòa án hủy bỏ ngay bản án tử hình anh Giang Vãn Khiết rồi lấy chữ ký của tất cả hàng nghìn tù binh trên đảo. Mọi người reo hò gọi nhau tới ký vào kiến nghị.


Cuộc đấu tranh đã có một bước ngoặt. Chúng cho anh Khiết nói trước máy, tưởng là anh sẽ nhận tội, để rồi nhận cái chết thanh thản như chúng nghĩ. Trái lại, chúng đã bị anh lên án, kết tội. Lại có dịp anh kêu gọi bọn đồng minh của chúng, phân hóa, ly gián, giác ngộ, cảnh tỉnh đối với các luật sư, thầy cãi, nhà báo, nhà văn... Những người làm việc cho chúng cũng không dám lên tiếng ủng hộ chúng. Anh Khiết bỗng trở thành cái cầu nối cuộc đấu tranh giữa cá nhân với tập thể tạo nên sức mạnh không ngờ. Sau này, anh có kể lại rằng tất cả những lý lẽ ấy anh học được từ anh Hà Huy Giáp, người bị tù cùng ca-sô đang lãnh đạo phong trào đấu tranh của anh em tù binh.


Một lát sau người ta thấy từ trong nhà dù đỏ, chúng lại lốc nhốc chui về nhà dù tráng nơi phiên tòa làm việc.

Tên thiếu tá Đắc hô loa gào hét mọi người im lặng!

Đại tá Lễ nói:

- Tòa án trở lại làm việc. Bên ngoài trật tự! Nghe rõ hông?

Rồi hắn giới thiệu trung tướng Hinh làm việc. Hinh hất hàm hỏi:

- Anh Khiết! Anh có phải là một đảng viên Đảng cộng sản không? Anh dũng cảm lắm hãy trả lời đi!

Anh Khiết bình tĩnh trả lời:

- Không! Tôi chưa phải là đảng viên Cộng sản. Đó là sự thật. Tin hay không là tùy ông.

- Thế ai đã xui anh nói những điều đó.

- Quân đội chúng tôi đã dạy chúng tôi phải chiến đấu đến cùng cho công lý và lẽ phải.

Hinh bị bất ngờ, hụt hẫng. Hắn mưu mô tìm cộng sản để đẩy lên thành vụ án chính trị.

Nhưng anh Khiết chỉ nhận là "bộ đội Cụ Hồ". Hắn giơ tay định ngắt lời, nhưng anh Khiết lại nói:

- Còn các người chấp hành Công ước Quốc tế không nghiêm chỉnh đối xử với tù binh tồi tệ, còn nhiều cuộc tra tấn, bắn giết rất phát xít, vô nhân đạo. Ông có dũng cảm nhận không?

Tên Hinh lác đầu chán nản:

- Thôi! Thôi! Anh to gan thật! Nhưng thôi...

Bên ngoài lại hô vang khẩu hiệu:

- Đả đảo hành động phát xít của tòa án binh Sài Gòn!

- Đả đảo!

Rồi kịp thời hàng tập, hàng chồng thư kiến nghị, có rất nhiều chữ ký của anh em, được Ban đại diện là ông Thu (Hà Đông) và ông Bảy (Sài Gòn) chuyển ra cho Đắc. Đắc nộp lên cho tòa. Hinh cầm lên xem: Kiến nghị đòi hủy bỏ ngay án tử hình anh Khiết. Đòi trả anh Khiết về với anh em trong trại. Hắn suy nghĩ rồi quay về phía tên đại tá Lơ-roa nói bằng tiếng Pháp... Hắn nói đại ý là: Không phải giết một người, vạn người sợ. Mà có thể giết một người, vạn người sẽ căm thù nổi loạn. Lơ-roa gật đầu rồi giơ hai ngón tay nói xì xồ... như theo phương án hai.


Hinh nói với Lễ: "Tuyên bố cho hoãn phiên tòa. Nhốt tên Khiết vào ca-xô chờ lệnh tôi. Rõ chưa?".

Tên Lễ đứng dậy đáp:

- Tuân lệnh thượng cấp!

Rồi hắn ra tuyên bố:

- Tòa án quân khu đặc biệt Sài Gòn và quân khu Zôn 127 mở phiên tòa trên đảo Phú Quốc hôm nay làm việc đến đây tạm hoãn, chờ lệnh cấp trên sẽ xét xử tiếp.

Rồi hắn quay về lệnh cho thiếu tá Đắc:

- Cho nhốt tội phạm vào ca-xô số 3! Còn tù binh cho giải tán! Người trại nào về trại ấy!

Thế rồi bọn chúng từ quan thầy Pháp đến cái gọi là phái đoàn chánh phủ Việt Nam cộng hòa, các tướng tá, luật sư, thầy cãi, nhiếp ảnh, nhà báo, nhà văn lốc nhốc cắp cặp ra xe.

Vụ án tử hình anh Giang Văn Khiết trên đảo Phú Quốc đã bị anh và tập thể tù binh trên đảo đấu tranh bẻ gãy. Chúng đã thất bại hoàn toàn và nhục nhã.

Sau hòa bình được lập lại, đến cuối tháng 8 năm 1954, anh Khiết cùng anh em tù binh trên đảo được trao trả về với quân đội nhân dân. Hiện nay, anh Khiết đã ngoài 60 tuổi, vẫn khỏe, ở làng Trôi Chợ, xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, Hà Tây. Sống bình lặng với gia đình, quê hương anh.

N.V.H


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:41:38 pm
NHỚ LẠI MỘT THỜI


NGUYỄN XUÂN PHÁN


Ngày 20 tháng 12 năm 1963, kỷ niệm lần thứ ba thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, ba đứa chúng tôi ở ba quê khác nhau, nhưng cùng đơn vị, đặc biệt là cùng họ Nguyễn, Nguyễn Xuân Hùng, Nguyễn Đình Ngân và tôi là Nguyễn Xuân Phán, đều được gọi về Quân khu Hữu Ngạn nhận nhiệm vụ đặc biệt đi B. Ăn tết xong, ba chàng trai họ Nguyễn chúng tôi về Sư đoàn 338 (đơn vị huấn luyện cán bộ chiến sĩ đi B). Trước ngày lên đường ra mặt trận, cả ba đứa đều nhận được tin mừng, chuyến vào chiêu đãi sở của ba bà xã đều đạt kết quả, ai cũng hy vọng con trai vì mỗi chúng tôi đều đã có hai cháu gái mà lính tráng thường đùa là "vịt trời".


Sau gần bốn tháng vượt Trường Sơn đầy khó khăn gian khổ ác liệt, chúng tôi đã tới "R"1 (Bí danh Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam) nghỉ ngơi tại đây hai tuần lễ thì có quyết định về I2 (Bí danh Bộ Tư lệnh Quân khu 8 (gồm 5 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang)), chiến trường trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Ba anh em đều xuống tiểu đoàn chiến đấu, tôi về nhận nhiệm vụ tiểu đoàn phó kiêm tham mưu trưởng tiểu đoàn Hirôn1 (Tên bờ biển Cu Ba ở vịnh Con Lợn, nơi diễn ra trận đánh giành thắng lợi quyết định tiêu diệt bọn tay sai và xâm lược Mỹ tháng 4-1961 (Chính phủ Cu Ba đã tặng danh hiệu này cho tiểu đoàn 261 Quân khu 8 sau chiến thắng Ấp Bắc)) đơn vị đã lập nên chiến thắng Ấp Bắc vang dội đầu năm 1963. Trước lúc chia tay, chúng tôi hứa với nhau, sống và chiến đấu xứng đáng là "anh bộ đội Cụ Hồ", xứng đáng là những đứa con miền Bắc thuộc thế hệ đầu tiên vào Nam đánh Mỹ và không quên dặn nhau lúc kháng chiến thành công, thống nhất nước nhà, đứa nào còn sống nhớ về liên lạc giúp đỡ hậu phương của bạn.


Tuy khác đơn vị nhưng cùng chiến trường, nên thỉnh thoảng ba chàng trai họ Nguyễn chúng tôi cũng có dịp gặp nhau tâm sự, hỏi tin nhà, chỉ hiềm một nỗi chưa ai nhận được lá thư nào nên chỉ động viên nhau qua những kỷ niệm vui buồn khi chia tay vợ con trên đất Thọ Xuân, Thanh Hóa.


Năm 1966, lục quân Mỹ triển khai xuống chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, chiến sự trở nên ác liệt hơn gấp bội, chúng tôi ít có điều kiện gặp nhau. Mãi cuối năm 1967, tôi và anh Ngân cùng về họp quân khu, chuẩn bị cho kế hoạch "Mậu Thân". Hai đứa ôm nhau mừng tủi, và đều thảng thốt nhắc đến Hùng. Chợt anh Tư Thân, phó tư lệnh Quân khu kêu lên: "Trời ơi! Thằng Hùng hy sinh rồi, tụi bay chưa biết à? Nó hy sinh trong trận Hậu Nghĩa..." Hai chúng tôi lặng người đi, không cầm được nước mắt. Anh Ngân buột miệng: "Thế là ba anh em mình đã mất một, may mà cậu còn bị thương nhẹ..."


Tết Mậu Thân, khi đánh vào thành phố Mỹ Tho, tôi lại bị thương lần thứ hai, còn anh Nguyễn Đình Ngân sau khi rút khỏi thành phố một thời gian, bị thương nặng trong một trận càn quét của địch. Anh bị hỏng một mầt, phải điều trị gần một năm mới trở lại chiến đấu được.


Những ngày sau đó, đồng bằng sông Cửu Long vô cùng khốc liệt. Anh Ngân và tôi, tuy cùng chiến trường nhưng thường xa nhau hàng trăm cây số, cuộc chiến lại căng thẳng ngày đêm, thậm chí không có chút rỗi rãi để nhớ tới nhau nữa. Nhưng rồi cái gì tất yếu sẽ đến cũng đã đến. Niềm tin của chúng ta đã trở thành sự thật. Cả nước đã đón mừng thắng lợi hoàn toàn trong reo hò và nước mắt...


... Sau gần mười hai năm chiến đấu liên tục, lần đầu tôi mới được trở ra Hà Nội. Về trạm 66 làm các thủ tục và nhận "món tiền cửa rừng"1 (Tiền phụ cấp cho cán bộ đi B lâu năm, lần đầu tiên về phép) xong, tôi tranh thủ lên Thụy Khê thăm gia đình cậu em ở gần sở Tàu điện. Tôi đang tìm số nhà thì gặp một cô gái, liền hỏi: "Cháu ơi! Cho bác hỏi thăm số nhà 71D ở đâu?" Cô gái giơ tay chỉ và lễ phép thưa: "Bác đi ngược khoảng 40 mét nữa thì tới", rồi chạy nhanh lên tàu.


Tôi vừa bước vào cửa thì cậu em ôm chầm lấy hỏi: "Cháu Mai vừa mới ra tàu điện anh không gặp à?". Tôi đứng sững. Ngày tôi ra đi, cháu Mai mới lên 5, tóc lút cút ngang ót, mà nay đã là cô gái, ôi thời gian xa cách. Quá trưa, cháu về là sà vào lòng tôi, khóc nức nở: "Ba không nhận ra con sao? Ba ơi, mẹ đang trên Phúc Yên, vẫn khỏe, mẹ mong ba từng ngày. Nhưng bây giờ nhà chỉ còn lại mình con, hai em đều mất cả rồi, hu, hu...". Cháu càng khóc nấc lên, càng ôm chặt lấy tôi, y như sợ tôi biến mất. Tôi cũng không cầm được nước mắt, nhưng cố nén xúc động bảo con:

- Thôi, ba biết chuyện rồi! Nín đi con! Con gái đã lơn phải dũng cảm lên!

Động viên con mà lòng tôi tan nát. Cậu em tôi vừa cho tôi biết chuyện. Cháu gái thứ hai của tôi tên là Bích Hồng, lúc tôi đi B, mới lên hai, đã nói sõi, đã biết múa, hát. Khi vợ tôi mang thai cháu thứ ba, do hoàn cảnh vợ tôi làm công nhân dệt vất vả, bèn gửi cháu về quê tận trong Đức Thọ, Hà Tĩnh nhờ vợ chồng chú em tôi nuôi dưỡng. Phải gửi con về giữa túi bom trong chiến tranh, vợ tôi đành cắn răng chịu đựng, chứ chẳng còn cách nào khác. Được chú thím nuôi cháu tử tế, cháu đã lên năm, khỏe mạnh, nhưng số phận trớ trêu, cháu không hề dính bom đạn mà chỉ một trận cảm nặng mà đành bỏ chúng tôi ra đi. Cháu thứ ba, kết quả những ngày vợ chồng tiễn chân nhau ở Thanh Hóa để vào chiến trường cũng là cháu gái, được vợ tôi đặt tên là Trà Vinh để khi gọi lên là nhớ miền Nam. Vậy mà "nỗi nhớ miền Nam" đã không cho tôi được gặp mặt. Cháu mất lúc hai tuổi vào thời kỳ bom Mỹ đánh phá ác liệt vào nhà máy dệt Nam Định, mấy mẹ con đều kiệt sức vì chạy sơ tán sang Thái Bình. Thôi, tôi đành tự an ui mình bằng số phận. Trở về được sau gần mười hai năm đội bom đội đạn, mang hai vết thương trên mình vẫn coi như còn lành lặn, vậy là hồng phúc rồi. Tôi nén nỗi đau buồn và bảo cháu Mai rằng, ba con mình đang phải thực thi nhiệm vụ tối quan trọng đây, chiều nay và cả ngày mai nữa, hai ba con mình cố gắng đưa hai ki-lô-gam thư của các chú ở các đơn vị gửi về gia đình. Ai ở Hà Nội thì đưa tới từng nhà. Còn nữa thì bỏ rải rác các thùng thư không phải dán tem gì cả, ưu tiên bộ đội mà! Ngày kia chúng ta sẽ về mẹ cũng không muộn, coi như mẹ chưa biết ba ra. Con gái tôi trở nên bình tĩnh không chút ngần ngừ, lại còn đùa: Liệu ba còn nhớ đi xe đạp và đường phố Hà Nội nữa không? Tôi bảo:

- Con yên tâm! Ba biết Hà Nội từ năm 1954, những năm 1956-1958, ba lại học trường lục quân ngoài này. Quên đường phố Hà Nội và xe đạp sao được? Con biết không, hồi ấy mẹ con ở nhà máy dệt Nam Định lên thăm ba ở chiêu đãi sở Bạch Mai mới có con trên đời này và lấy tên Bạch Mai đặt cho con đấy!


Hai ngày sau, ba con tôi về thị xã Phúc Yên, vợ tôi già đi trước tuổi, làm việc và ăn ở trong một căn buồng lợp giấy dầu 9m2. Tối lại, con gái sang ngủ nhờ nhà bạn, để ba mẹ tâm sự. Một đêm chỉ có tiếng sùi sụt và nước mắt của vợ tôi. Ôi, gần mười hai năm xa cách biết bao dồn nén làm sao có thể giãi bày san sẻ với nhau cho hết được? Sáng mai, vợ tôi vẫn dậy sớm, lo cơm nước. Ngồi vào mâm cơm còn đạm bạc, nhưng có vợ có con bên cạnh, tôi cảm thấy ấm lòng. Nom nét mặt vợ tôi đã bình thường, tôi đùa:

- Em còn trẻ chán!

Nàng lườm yêu:

- Bốn hai tuổi, già khú đế rồi đây này!

Tôi bảo:

- Em biết không, mẹ anh sinh anh năm bà đã bốn bảy. Hai năm sau còn đẻ thêm chú Thâm. Em còn thừa sức đuổi kịp các cụ!

Vợ tôi trở đầu đũa đập vào vai tôi:

- Cái ông này ham hố! Bốn hai tuổi còn đẻ để thiên hạ cười cho à?

- Ai cười thì nhe mười cái răng ra! Kệ họ!

- Ư! Ự - Nàng lại lườm yêu.

Quả thật bây giờ vợ chồng tôi đều mong ước có thêm một đứa con. Con trai con gái gì cũng được. Miễn là có sự bù đắp cho tuổi già. Chúng tôi chưa có kinh nghiệm, chưa hề sợ tác hại chất độc màu da cam như về sau này. Bây giờ đang là niềm vui đoàn tụ, đang chuyện trò luyên thuyên về mơ ước hạnh phúc. Vợ tôi còn trêu tôi:

- Liệu bao nhiêu năm xa nhà đi chiến đấu có để lại đứa con nào trong Nam không? Có thì tự thú đi, mẹ con em sẵn sàng tha thứ!

Tôi hững hờ nói vui:

- Ờ để anh xem lại thử...

Cháu gái Bạch Mai reo lên: "Thế là con có cả dì, cả em, vui biết mấy, chỉ lo ngoài mình nghèo quá, ai dám ra, phải không ba?"

Sợ con gái hiểu lầm, tôi bảo:

- Ba đùa thôi.

Không khi đang vui, tôi chuyển sang chuyện khác, chuyện ba chàng trai họ Nguyễn cùng đi B với nhau. Tôi hỏi:

- Em có còn nhớ, anh Hùng, anh Ngân nữa không?

- Sao lại không? - Vợ tôi đáp hồn nhiên. Chẳng những biết anh Hùng, anh Ngân mà còn nhớ cả các chị ấy. Dạo đó, mấy chị em đều gặp nhau ở chiêu đãi sở trong Thanh Hóa, đến và về đều cùng một lúc. Bọn em suốt ngày chuyện trò, rủ nhau đi chợ, rủ nhau đi tắm nông giang... Thời đó còn trẻ mà!

Tôi bèn kể lại những kỷ niệm của chúng tôi cho vợ con nghe. Khi biết anh Hùng đã hy sinh, anh Ngân bị thương nặng, vợ tôi buồn hẳn đi:

- Chị Ngân thì em không hề được gặp lại, còn chị Hùng em có gặp hồi Mỹ ném bom, nhà máy dệt phải tản cư sang Thái Bình. Trông chị ấy thương lắm, một mình vò võ nuôi hai con, chồng thì biệt, vô âm tín, đứa thứ ba bị sẩy. Hai lần gặp em, chị vừa kể vừa khóc, thật tội nghiệp.

... Chuyện vui, chuyện buồn gì rồi cũng trôi theo thời gian.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:42:23 pm
Tôi được giao nhiệm vụ mới: làm cán bộ giảng dạy ở Học viện quân sự cao cấp. Thời gian để lo cho công việc chung, và còn lo cho cuộc sống riêng tư, đưa vợ con về Hà Nội, tạo dựng chỗ ăn chỗ ở cho gọi là tươm tất một chút, lo cho con gái việc học hành, rồi sau đó là việc xây dựng gia thất, lo cho sức khỏe của vợ chồng già, nhất là bà xã vốn không được khỏe. Cùng với thời gian trôi nhanh hồi mới về Hà Nội, là sự mong đợi của vợ chồng tôi không thấy có tín hiệu gì, chúng tôi coi như số phận đá an bài. Thoạt đầu có xuýt xoa, càng về sau càng thấy may mắn nhất là khi nhìn thấy nỗi đau của anh Ngân.


Số là thế này, có dễ gần mười năm tim kiếm, tình cờ tôi được biết anh Nguyễn Đình Ngân đã về hưu ở quê năm 1976 với quân hàm trung tá, thương binh 2/4.

Được ngày nghỉ, tôi ngược lên Thạch Thất - Sơn Tây, tìm đến thăm. Trông dáng vóc anh vẫn thế, vẫn tầm thước, tuy hỏng một mắt và nước da hơi mai mái nhưng về quê lao động lâu lâu, nom anh còn khá nhanh nhẹn. Anh nhận ra tôi ngay, miệng cứ há hốc ra như ngạc nhiên. Hai ông bạn già ôm chầm lấy nhau, cứ "trời đất ơi!" mà nước mắt tràn mi. Thôi khỏi kể lại sự vui mừng tíu tít, câu hỏi này chồng lên câu hỏi kia, tay chân cứ luống cuống như kẻ mất hồn. Một lúc sau, tôi mới nhận ra chỉ mình anh Ngân ở nhà. Anh bảo:

- Các cháu gái lớn đã có gia đình riêng cả rồi. Bà xã nhà tôi đang đi thăm cháu ngoại. Chỉ anh em mình ờ nhà, ta kiếm chút gì nhậu. Rồi tâm sự thoải mái.

Quả thật, hôm ấy chúng tôi tha hồ chuyện trò. Đấy là buổi tâm sự giữa hai người bạn già, hai người lính, hai thằng đàn ông có nhiều nỗi niềm, ở nông thôn hoàn toàn yên tĩnh. Chỉ nghe tiếng chim cu đất gù ở ngoài đồng xa và tiếng con mái mẹ cục cục dẫn đàn con đi tìm mồi sau vườn. Giữa không khí êm đềm thơ mộng ấy, mà phải nghe tiếng khóc thì quả là nẫu ruột. Vâng, đấy là tiếng khóc nức nở của anh Ngân. Anh đang kể về cái chết của hai thằng con trai. Thằng anh đã mười ba tuổi là kết quả lần vợ chồng gặp nhau ở chiêu đãi sở tại Thanh Hóa, thằng em như thứ lộc trời cho sau ngày anh về hưu. Ôi, hóa ra hạnh phúc này chỉ là bánh vẽ. Anh Ngân ngửa mặt lên kêu trời.

Cả hai đứa bỏ chúng tôi mà đi đều cùng một căn bệnh, ung thư máu. Cái bệnh hiểm nghèo của chất độc màu da cam đã vắt kiệt sức lực và vốn liếng của vợ chồng tôi mà cuối cùng đành chịu bó tay trước số phận cay nghiệt.


Nghe chuyện, tôi chẳng biết an ủi anh thế nào, chỉ lấy chuyện mất mát của mình ra tâm sự, để mong anh Ngân đồng cảm. Chả phải trên đường đi B, ba chàng trai họ Nguyễn đã dự liệu hết mọi thứ tổn thất thiệt thòi và đã tỏ rõ quyết tâm sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng gánh chịu hay sao? Lát sau, anh Ngân đã bình tĩnh trở lại, bên mâm cơm có chén rượu vừa đủ ấm mặt, chuyện tâm sự của anh Ngân bất ngờ chuyển sang một khúc ngoặt khác, khúc ngoặt của gia đình anh đang trên bờ vực tan nát. Do hoàn cảnh anh như vậy, anh lại là tộc trưởng dòng họ, nên đang đứng giữa hai áp lực. Một phía là bà con nội tộc và nhất là mấy cô em gái khuyên anh kiếm thêm một bà nữa, để tìm người "nối dõi tông đường". Phía kia là sự phản ứng quyết liệt của vợ con. Anh cũng tự thú là nhiều lúc nghiêng ngả, muốn bỏ tất cả, bỏ hết để liều một phen, tự cứu mình.

Tôi đáp:

- Chả hiểu có phải tự cứu mình hay là tự dìm mình? Gia đình anh căng thẳng đến mức bà xã phải đến ở với con gái ư?

Anh xua tay:

- Đâu phải thế? Chưa đến mức thế! Hôm nay bà ấy đi thăm cháu thật. Nhưng quả tình tôi đang quá mệt mỏi. May được anh tới, muốn xin anh một lời khuyên.

Tôi mỉm cười:

- Tôi là nhà quân sự, anh mới là chính ủy chứ! Chính ủy phải tự quyết định lấy số phận mình, phải không? Lời khuyên thì tôi chả dám, chỉ nói với anh suy nghĩ cá nhân của một thằng bạn. Tôi nghĩ là anh đã quá lớn tuổi, sáu mươi rồi còn gì, lại thương binh 2/4, sức lực còn được bao nhiêu mà đèo bòng thêm một khoản rắc rối. Với lại, anh không sợ cái chất độc màu da cam âm ỉ trong người anh hay sao?

Anh Ngân ôm đầu ngồi trầm ngâm một lát, rồi nói:

- Được anh tiếp thêm sức mạnh cho, tôi xin nghe lời. Anh mới thực sự là chính ủy...

Sau đó, câu chuyện của chúng tôi quay sang bàn việc tìm kiếm gia đình, và mộ liệt sĩ Nguyễn Xuân Hùng. Tôi kể lại với anh Ngân rằng, năm 1979 anh Tư Thân (nguyên Phó tư lệnh Quân khu 8, người trực tiếp chỉ huy trận tấn công chi khu Hậu Nghĩa) ra Học viện quân sự cao cấp nghiên cứu, học tập. Tôi đã gặp anh và may mắn ghi lại được địa chỉ nơi an táng Nguyễn Xuân Hùng.


Còn gia đình Hùng thì vẫn chưa liên lạc được. Nghe thế, anh Ngân thở dài buồn bã nói như dặn dò: "Mọi việc chỉ trông cậy vào anh thôi, còn tôi hoàn cảnh như thế này, vết thương thỉnh thoảng lại hoành hành, làm gì được cho đồng chí, đồng đội, nghĩ mà xấu hổ".


... Tạm biệt anh, tôi mang theo bao điều trăn trở. Về Hà Nội tiếp tục công tác, tôi lại kiên trì năm này sang năm khác, biên thư cho Tỉnh đội Thái Bình, Huyện đội Thái Thụy và trực tiếp nhờ một số học viên quê Thái Bình về học ở Học viện Quân sự cao cấp giúp tim kiếm gia đình anh Hùng.


Kết quả thật bất ngờ, đúng ngày Quốc khánh 2-9-1994 chị Hùng và hai con Sâm và Nhung đã tìm đến nhà tôi. Buổi gặp gỡ diễn ra thật ấm cúng thân thiết như ruột thịt. Tôi đã đành, vợ và con gái tôi củng hết sức vui, ra sức chăm sóc mẹ con chị Hùng, từ bữa cơm, chén nước đến chuyện trò thường tình. Dường như vợ con tôi cũng muốn bù đắp thêm cho mẹ con chị Hùng điều mất mát to lớn. Trong ba chàng trai họ Nguyễn đi B, chỉ một mình anh Hùng nằm lại. Chị Hùng cho biết, sau Hiệp định Pa-ri năm 1973, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Chỉ nói anh hy sinh ở mặt trận phía Nam, chả có ngày tháng năm nào và địa chỉ cụ thể nơi an táng anh ở đâu cả. Về phía địa phương thì cán bộ đã tới chia buồn, giải quyết chính sách Nhà nước đối với gia đình liệt sĩ khá chu đáo. Về phần mình, tôi đã kể lại những kỷ niệm buồn vui của ba anh em chúng tôi ở chiến trường, ghi lại cho mẹ con chị ngày và nơi hy sinh của anh Hùng, động viên chị và các cháu thông cảm với tổ chức trong việc tìm kiếm mộ liệt sĩ. Tôi chỉ biết hứa với chị và các cháu, sẽ tích cực quan hệ chặt chẽ với địa phương trong Nam để tìm được đích xác mộ anh. Để một ngày nào đó, mẹ con chị Hùng ở dưới Thụy Phong, Thái Thụy, Thái Binh có dịp vào Nam, thắp nén nhang cho người chồng, người cha đã hy sinh trong trận tiến công tiêu diệt chi khu Hậu Nghĩa, ngày 28-11-1967, được đồng đội chôn cất ở xã Tân Phú, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.


Đấy cũng là nguyện vọng suốt đời của hai thằng bạn chiến đấu, của hai thương binh đối với liệt sĩ!

N.P


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:43:44 pm
CHIẾC NHẪN CƯỚI


TRẦN TRỌNG VỰC


Sau tạm ước 14 tháng 9 năm 1946, Bác Hồ về nước. Phía Pháp không tôn trọng chữ ký của họ, ráo riết chuẩn bị chiếm hẳn nước ta một lần nữa. Toàn dân ta sẵn sàng cho kháng chiến. Tình hình Hà Nội sôi động. Ngành y tế và quân y tìm cách đưa thuốc men ra ngoài. Chúng ta tìm mọi cách lấy bông băng, y cụ, thuốc từ bệnh viện Đồn Thủy, các viện bào chế. Các hiệu thuốc tư cũng mở kho xuất hàng miễn phí theo yêu cầu của các dược sĩ quân y. Bác sĩ Vũ Văn Cẩn kiểm tra các kho thấy rất khan hiếm những đầu vị không thể thiếu trong chiến đấu. Đó là mối lo mà bác sĩ Cẩn yêu cầu anh chị em quan tâm tìm kiếm ở Hà Nội. Dược sĩ Hoàng Xuân Hà đề xuất ý kiến là có thể tìm mua ở Hồng Công, ở đấy anh có bạn cùng lớp là dược sĩ Phạm Văn rất nhiệt tình, lại đang ăn nên làm ra. Bác sĩ Vũ Văn Cẩn đồng ý. Song cái khó là kinh phí.


Hôm sau, anh Cẩn chạy suốt cả buổi được 150 đồng tiền Đông Dương vừa đủ mua vé tàu thủy Hải Phòng - Hồng Công, còn tiền mua thuốc thì mang vàng là tốt nhất. Nhưng anh cẩn chạy hai, ba ngày vẫn không ra. Còn anh Hà sốt ruột vì vé sắp hết hạn.


Rồi tối đó, tại nhà riêng, anh Cẩn mời anh Hà đến có cả chị Giốc dự. Anh Cẩn nói chạy mãi chưa được, nấn ná thì hết hạn, đành huy động của nhà vậy. Chị Giốc liền đưa cho anh Hà một túi nhỏ. Anh Cẩn nói:

- Đấy là tất cả gia sản, mong anh Hà hiểu và khắc phục thêm. Nói xong, anh Cẩn thấy tay chị Giốc còn đeo chiếc nhẫn. Chị Giốc hiểu ý nói:

- Anneau de mariage (Nhẫn cưới)

Anh Cẩn động viên:

- Em vui lòng vậy!

Chị Giốc lặng lẽ tháo chiếc nhẫn bỏ vào túi buộc chặt đưa lại cho anh Hà, rồi xin phép vào nhà trong. Anh Hà xúc động cầm cái túi mà lòng nghẹn ngào, không nói được câu nào. Hồi trước ở Phnôm Pênh, vài lạng vàng với anh không là gì. Nhưng giờ đây, với anh Cẩn, chị Giốc nó là cái quý nhất trong buổi đầu nên vợ, nên chồng.


Cầm túi vàng ít ỏi lên tàu, anh Hà lo không biết mua được bao nhiêu, biết nói làm sao đây.

Dược sĩ Phạm Văn mang xe ra đón anh Hà. Hai người đồng môn, đồng khóa ôm chầm lấy nhau. Đến nhà hai bạn tâm sự, ôn lại thời sinh viên vẫn không sao quên được. Sôi nổi nhất là xung quanh việc ta cướp chính quyền. Phạm Văn hỏi nhiều về Bác Hồ, rồi hai anh thì thầm với nhau là cụ Nguyễn Ai Quốc đấy! Chỉ có Cụ về, nước ta mới độc lập. Đã khuya, Phạm Văn chợt hỏi:

- Thế cậu sang đây làm gì. Chả nhẽ đang lúc nước sôi lửa bỏng lại đi chơi?

Anh Hà chậm rãi nói mục đích chuyến đi. Rồi đưa cho Phạm Văn cái túi vàng:

- Xoay xở mãi, chỉ có thế. Tất cả mong ở cậu và bà con bên đây. Phạm Văn có phần bất ngờ, lặng im một lát khá lâu rồi đứng dậy:

- Thôi cậu đi nghỉ, yên tâm, mọi việc đâu có đấy.

Những ngày sau, gia đình Phạm Văn đưa anh Hà đi thăm Hồng Công, đến khu Việt kiều giới thiệu là người của Tổ quốc sang thăm bà con. Chỉ riêng Phạm Văn đi suốt ngày, khuya mới về nhưng sáng ra gặp nhau thấy vui vẻ lắm bảo cứ đi chơi, đâu có đấy. Riêng khoản thuốc, không thấy hắn đả động gì. Dược sĩ Hà bắt đầu sốt ruột.

Trưa hôm sau Phạm Văn về sớm bảo dược sĩ Hà.

- Mai cậu phải lên tàu về nhà, nó đánh Hải Phòng rồi !

- Nhưng thuốc?

- Yên trí, tối nay gặp bà con sẽ rõ.

Tối đó, tại một khách sạn cỡ bốn sao, phòng khách đã có vài chục Việt kiều. Vừa thấy dược sĩ Phạm Văn và dược sĩ Hà đến, đồng bào đổ xô tới, tay bắt mặt mừng. Dược sĩ Phạm Văn giới thiệu dược sĩ Hà rồi đọc tên các vị đã đóng góp cho Tổ quốc. Sau đó là danh mục bông băng, thuốc men đã mua được. Tất cả đóng thành kiện ngày mai lên tàu. Đại biểu Việt kiều nói lên lòng nhớ nhà, nhớ nước, của đóng góp còn ít mong đại biểu tiếp nhận, kính chúc Hồ Chủ tịch mạnh khỏe, mong Tổ quốc được hoàn toàn độc lập thống nhất.


Về đến nhà, Phạm Văn đưa cho dược sĩ Hà các biên lai tiếng Pháp. Nơi nhận: Laboratoire Lacroix rồi Pharmacie Dubois et Neyret... Hà Nội. Anh Hà không hiểu. Mình đi mua thuốc mà nơi nhận toàn là tây, thế này là thế nào? Đến Hà Nội lại phải ngửa tay xin mấy thằng Tây à. Anh hỏi Phạm Văn giọng gay gắt:

- Tôi phải làm gì với cái thằng Dubois này?

Phạm Văn ôm lấy bạn cười thoải mái:

- Ông ngố ơi! Tây nó chiếm cảng Hải Phòng rồi. Đề gửi cho Chính phủ ta, nó tha cho ông à. Đề tên mấy thằng Tây, nó chẳng cần biết Dubois "đuy biếc" gì, nó cho đi thôi. Nếu nó hoạch họe, thì đây. Vừa nói Phạm Văn đưa liền cho dược sĩ Hà mấy cái đồng hồ nữ loại xịn và một xấp tiền lẻ Đông Dương: Nhớ nhé, sĩ quan thì đồng hồ, lính "boa" mấy đồng là ổn thôi!

Hà ngớ ra, mặt đỏ bừng. Phạm Văn nói tiếp:

- Việt kiều ở đây yêu Tổ quốc, đóng góp chưa được nhiều, nhưng thật lòng, cậu đừng nghi ngại gì cả. Thôi đi ngủ, sáng mai lên tàu. Vé hạng nhất đây rồi. Cả bộ com-lê mới nữa. Phải thật chỉnh tề, Tây nó mới nể! À còn cái túi, xin đưa lại cậu mang về, ở nhà cần hơn. Anh Hà ngớ người ra, cảm động cầm lại túi vàng, nút thắt vẫn y nguyên chưa cởi.

Sáng hôm sau, cả nhà Phạm Văn và đại biểu Việt kiều tiễn dược sĩ Hà lên tàu, Phạm Văn và thuyền trưởng mời dược sĩ Hà kiểm tra các kiện hàng niêm phong cẩn thận với tư cách là người điều hành xuất nhập dược phẩm của các hãng thuốc trên.


Ngày 19 tháng 11 năm 1946. Pháp gây hấn ở Hải Phòng thì ngày 21 tháng 11, hàng về đến phao số 0. Lính Pháp định khám nhưng trên các kiện đều ghi tên Dubois Neyret nên chúng thôi. Dược sĩ Hà vẫn điềm nhiên như không để ý đến. Tới bến, toàn lính Pháp da trắng, da đen, chẳng thấy bộ đội mình đâu. Hơi lo. Hà cố trấn tĩnh thản nhiên hút thuốc lá thơm. Hàng dỡ lên. Hàng gửi cho người Pháp ở Hà Nội được xếp thuận tiện hơn. Đương nhiên, 84 kiện của hàng Dubois Neyret mà chủ nhân là dược sĩ Hà có bộ com-lê rất mốt cũng được ưu tiên. Dược sĩ Hà đàng hoàng bước lên bờ. Một viên quan ba Pháp chạy ra. Anh đưa luôn giấy biên lai toàn tiếng Pháp trực tiếp nói chuyện với hắn ta với giọng phát âm đặc quý tộc. Đồng thời, nhẹ nhàng "xùy" cho hắn chiếc đồng hồ, nói thầm: Un petit cadeau pour madame (món quà nhỏ tặng bà nhà). Hắn thích quá, ôm lấy dược sĩ Hà, hôn chụt một cái, méc-xì rối rít rồi ký ngay giấy xuất hàng khỏi cảng. Dược sĩ Hà còn bảo nó gọi cai cu-li thuê người bốc vác lên xe tập kết về hiệu thuốc Trương Văn Vĩnh, một chi nhánh của Dubois. 84 kiện là một khối lượng lớn phải năm xe tải chở mới hết và mấy tiếng đồng hồ mới ra khỏi cảng. Nhiều đứa dòm ngó. Thằng sĩ quan giám thị cảng đến hạch, lại dăm ba câu chuyện tiếng Tây và cái đồng hồ nữ mới toanh. Qua các ba-ri-e gặp thằng đội da đen, 10đ Đông Dương, thằng binh nhất 5đ, cứ thế khi tất cả 84 kiện về đến hiệu thuốc Chương Văn Vĩnh ở Hải Phòng thì mấy chiếc đồng hồ và cả xấp tiền Đông Dương cũng hết nhẵn.


Không sao, miễn là 84 kiện hàng về đến Hà Nội đầy đủ.

Thuốc nhập kho, đủ mặt thuốc chiến thương bông băng, thuốc sát trùng, thuốc sốt rét, kiết lỵ... Cục trưởng Vũ Văn Cẩn và dược sĩ Vũ Công Thuyết phó cục trưởng trực tiếp xem các mặt hàng. Hạch toán 84 kiện trị giá lúc đó là bốn lạng vàng và 5.000 đồng tiền Đông Dương (thời gian lúc đó 25đ bằng một tạ gạo).


Ngay tối đó, dược sĩ Hà đến nhà bác sĩ Vũ Văn Cẩn báo cáo chuyến đi có cả chị Giốc tham dự. Cuối cùng dược sĩ Hà rụt rè đưa túi vàng trả cho chị Giốc, nút thắt vẫn giữ nguyên. Anh Cẩn, chị Giốc nín lặng hồi lâu. Lát sau, anh Cẩn cởi túi lấy chiếc nhẫn cưới đeo vào tay chị Giốc và nói:

- Anh Hà ạ! Tôi chỉ xin lại chiếc nhẫn cưới. Anh thông cảm cho tôi. Vật kỷ niệm của vợ chồng. Còn bao nhiêu nhờ anh nộp lên văn phòng Chính phủ. Đó là phần đóng góp nhỏ bé của gia đình tôi!


*Dược sĩ thầy thuốc Hoàng Xuân Hà, nguyên là một nhà tư sản kinh doanh thuốc tây lớn ở Phnôm-pênh giác ngộ cách mạng, bỏ hết tài sản về Sài Gòn rồi ra Hà Nội vào bộ đội, phục vụ ngành quân y. Về sau là Vụ trưởng dược chính Bộ Y tế.

T.T.V


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:44:38 pm
ANH SÁU NHẬT


NGUYỄN VĂN KHIẾU


Nhắc đến các trận đánh của Trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng) trên đường số 4 những năm kháng chiến chống Pháp là tôi lại nhớ tới đồng chí Sáu Nhật người đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ trong các trận phục kích và công kiên từ Cao Bằng về Lạng Sơn xuống Bình Liêu dọc đường số 4.


Gọi anh là Sáu Nhật vì anh là sĩ quan Nhật chạy sang hàng ngũ quân đội Việt Nam cuối năm 1945.

Anh Sáu Nhật đã gắn bó với Trung đoàn 174 khi còn là đơn vị địa phương của tỉnh Lạng Sơn. Trong trận Bông Lau đầu tiên ngày 30 tháng 10 năm 1947 của tiểu đoàn 386 (sau này là 249) anh là trung đội trưởng xung kích, người cán bộ đã dẫn đầu đơn vị bật khỏi công sự tràn xuống đường xung phong tiêu diệt địch. Cũng chính anh đã chỉ huy một tổ chiến đấu vòng ra phía sau quân địch, dùng lựu đạn diệt gọn ổ đề kháng, kết thúc thắng lợi trận chiến đấu.


Năm 1948, trong trận phục kích, Nguồn Kim Trọc Ngà, khi xung phong xuống mặt đường, anh bị tên quan ba Ri-vê-ranh nấp trong khe bắn sướt má, máu chảy đầm đìa. Cùng lúc ấy, đại đội trưởng Lê Hoàn, quan sát thấy, lao tới định rút kiếm chém tên chỉ huy. Nhưng, chính anh Sáu Nhật đã ngăn đại đội trưởng lại và xin tha cho nó. Anh nói: Người chiến thắng, không thèm giết kẻ đã ra hàng.


Sau này vết thương thành sẹo dài trên má nhắc lại chuyện cũ, anh chỉ cười và nói:

- Đây là kỷ niệm địch vận của tôi, một kỷ niệm với đường số 4.

Anh Sáu Nhật đã trưởng thành lên làm đại đội trưởng, rồi tiểu đoàn phó.

Năm 1949-1950, khi tôi lên làm tham mưu phó trung đoàn, anh là đội trưởng trinh sát và trưởng ban trinh sát trung đoàn.

Có điều kiện tiếp xúc với anh qua công tác thực tế, tôi mới thấy anh là một cán bộ dũng cảm, nhanh trí, trung thành với cách mạng Việt Nam. Tôi đã học ở anh được nhiều điều về công tác tham mưu, từ cách vẽ binh yếu địa chí, các đoạn đường bố trí phục kích đến vẽ cảnh đồ các đồn, làm thế nào nhìn vào đó người chỉ huy có thể thấy rõ tung thâm và cách bố trí xung quanh của một vị trí địch.


Anh Sáu Nhật là người đóng góp công sức thiết kế một đường dây nắm địch trên dọc đường số 4 từ Mũi Ngọc đến Đông Khê (chỉ huy sở tiền phương). Mỗi khi trung đoàn phục kích là có điện báo về tình hình địch trên từng chặng một kể từ khi chúng xuất phát cùng với các trạng thái động tĩnh của chúng trên đường.


Đây là một đường dây theo dõi địch độc đáo của trinh sát trung đoàn, kết hợp với nhân dân, bộ đội địa phương bằng mọi hình thức: thông tin vô tuyến, đường dày trần qua núi rừng, đài quan sát đặt trên điểm cao, trạm chạy bộ kiểu ma-ra-tông. Nhiều trận phục kích thành công nhờ sự đóng góp của việc nắm địch, trong đó có công lao anh Sáu Nhật.


Trong chiến dịch Biên Giới, trung đoàn 174 được lệnh bám sát bao vây diệt đồn Na Sầm. Nửa đêm 13 tháng 10, quân ta áp sát chân đồn, thấy đèn sáng, máy nổ vẫn chạy ầm ĩ cứ nghĩ là địch vẫn đóng quân nguyên vẹn. Anh Sáu Nhật nhìn những đốm lửa vụt cháy bùng lên rồi tắt thì đoán rằng chúng đốt tài liệu và đang rút chạy.


Quả đúng như khắng định của anh Sáu Nhật, địch chỉ để lại một bộ phận nghi binh còn toàn bộ lực lượng đã rút từ lúc nửa đêm.

Trong trận đánh đồn Bình Liêu đêm Noel 24 tháng 12 năm 1950, ở hướng tiểu đoàn 251 gặp khó khăn vì pháo của ta bắn không diệt được mục tiêu. Do đã nghiên cứu nắm vững địa hình, anh liền đề nghị đưa sơn pháo vào khu trại con gái (gia đình vợ lính) đục một lỗ xuyên tường đặt pháo cách mục tiêu chừng 35m nhằm thẳng lô cốt bắn tiêu diệt. Nhờ thế đã tạo điều kiện cho bộ binh chiếm hoàn toàn vị trí Bình Liêu phố.


Sau trận này, anh được thăng chức tiểu đoàn phó và được bổ nhiệm thay anh Đài làm trưởng ban trinh sát trung đoàn.

Năm 1952, anh được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam, được thường huân chương. Sau đó theo yêu cầu của Đảng cộng sản Nhật; đồng chí Sáu Nhật trở về nước hoạt động.

Sau nhiều năm xa cách mới gặp nhau, anh Sáu Nhật mới cho chúng tôi biết tên thật của anh là "Koshiro Iwai" khi đã trở thành Tổng thư ký Hội Mậu dịch Nhật-Việt.

Koshiro Iwai! Chúng tôi không bao giờ quên những ngày chiến đấu hào hùng trên dọc đường số 4 Cao Bắc Lạng năm xưa có hình bóng anh Sáu Nhật; anh Koshiro Iwai!

N.V.K.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:45:43 pm
NHỮNG NGÀY PHỤC VỤ TRAO TRẢ TÙ BINH Ở SẦM SƠN


NGUYỄN THỊ NGỌC BÍCH


Đang trong không khí rạo rực vui mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, Đội điều trị 2 nhận lệnh hành quân về xuôi. Nhiệm vụ mới đang chờ đón đơn vị ở phía trước.

Đội nhanh chóng giải quyết trả về đơn vị chiến đấu những thương binh nhẹ đang hồi phục sức khỏe. Đội tổ chức thành từng đoàn chuyển thương binh nặng về Phân viện 4 và Phân viện 6 ở Phú Thọ. Hành trình tải thương về tuyến sau còn gian truân vất vả hơn nhiều so với lúc hành quân đi chiến dịch. Không khí chiến thắng đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi vượt qua gian khổ, khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Bàn giao thương binh xong, chưa được nghỉ xả hơi, Đội đã nhận được lệnh cấp tốc hành quân vào Thanh Hóa nhận nhiệm vụ mới.

Lên đường mà lòng dạ nao nao, từ đây sẽ xa Việt Bắc, Tây bắc với biết bao kỷ niệm còn lắng đọng mãi trong tâm hồn chúng tôi. Những tháng năm kháng chiến vừa qua đã ghi đậm dấu ấn mỗi bước trưởng thành của đơn vị và của mỗi người chúng tôi.


Trên đường hành quân nhận được tin hiệp định Giơ-ne-vơ đã được ký kết. Cuộc kháng chiến chống Pháp đâ giành thắng lợi. Không khí những ngày đầu hòa bình rạo rực lòng người, mừng vui khôn xiết.

Vào tới Thanh Hóa, toàn Đội tập trung ngay vào học tập quán triệt nhiệm vụ mới: phục vụ trao trả tù binh theo các điều khoản của hiệp định Giơ-ne-vơ và hiệp định cụ thể ký kết ở Hội nghị Trung Giã. Chúng tôi được học tập quán triệt chính sách nhân đạo của Nhà nước, của nhân dân ta đối với tù hàng binh.


Lãnh đạo và chỉ huy Đội liên tục nhắc nhở chúng tôi phải tận tâm chăm sóc cứu chữa tù hàng binh bị bệnh. Đây là việc làm có ý nghĩa rất lớn góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị sắp tới với địch.


Học tập kỹ như vậy nhưng khi bước vào công tác thực tế, lúc đầu chúng tôi không tránh khỏi ngỡ ngàng, phải đấu tranh tư tưởng nhiều. Mới trông thấy chúng, những tên mũi lõ mắt xanh, lông lá xồm xoàm, nghĩ đến chỉ ít ngày trước chúng đã bắn giết, sát hại bao đồng bào, đồng chí mình, chúng tôi ghê tởm chúng, lòng căm thù trào dâng. Nhưng ngày càng thấm thìa sâu sắc lời căn dặn của Bác Hồ là phải chăm sóc chu đáo, cứu chữa cho tù hàng binh lành bệnh để chúng được trả về đoàn tụ với gia đình, đó là tấm lòng nhân đạo bao la của nhân dân Việt Nam. Thêm nữa là theo quy định "một đổi sáu", cứ trao trả một tù binh địch thì sáu đồng chí chúng ta bị địch tra tấn tù đầy được trả về với quê hương, gia đình. Nghĩ sâu xa như vậy, dần dần chúng tôi cảm thấy nguôi ngoai, lao vào nhiệm vụ chăm sóc, điều trị chu đáo cho bọn tù hàng binh bị bệnh.


Thời gian trao trả tù binh đã đến. Quang cảnh bãi biển Sầm Sơn thật khác thường. Một khu rất rộng sát bờ biển dùng nơi làm nơi trao trả. Có chỗ dành riêng cho đại diện Ủy ban quốc tế giám sát việc trao trả. Có khu dựng lán tạm dùng làm buồng bệnh tạm nghỉ cho từng chuyến tù binh trao trả.


Đội đã tổ chức cho anh chị em nhân viên chuyên môn chúng tôi bàn bạc trao đổi rất kỹ từng việc làm, từng động tác cụ thể, tập đi tập lại cho thật thuần thục để bước vào thời điểm đấu tranh chính trị trực diện với kẻ thù, quyết giành thắng lợi, buộc kẻ địch và Ủy ban quốc tế phải thừa nhận rõ ràng chính sách nhân đạo, khoan hồng của ta đối với tù hàng binh và buộc phía Pháp phải thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản hiệp định đã ký kết. Đội trưởng, bác sĩ Trọng Kính. Đội phó Vô Cương đi sát từng người tận tình, hòa nhã dặn dò, động viên.


Đợt một trao trả:

Khoảng xế chiều, một chiếc tàu biển cắm cờ tam tài (quốc kỳ Pháp) và cờ ba que (của chính quyền ngụy) tiến dần vào bờ. Nhận được tin trên tàu có một phụ nữ đang trở dạ đẻ, chính trị viên Hoàng Văn Nhu chỉ thị cho chị em chúng tôi chuẩn bị cấp tốc những thứ cần thiết cho trẻ sơ sinh và sản phụ. Chúng tôi ríu rít người góp những manh vải mới, người góp khăn tắm, xúm nhau lại cắt may, khâu áo lọt lòng, băng rốn, tả vuông, tã chéo, cũng chuẩn bị đầy đủ ca những thứ cần thiết cho sản phụ. Mọi người trên bờ rất sốt ruột vì chiếc tàu của địch không nhúc nhích, cố tình lần khần chưa chịu vào bờ. Phía ta phải đấu tranh yêu cầu đại diện Ủy ban quốc tế can thiệp bắt tàu địch phải khẩn trương vào bến để kịp thời cấp cứu sản phụ, nếu chậm trễ xảy ra tử vong thì họ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.


Tàu địch từ từ cập bến đỗ sát cầu tàu. Hai nữ y sĩ, bốn nữ y tá mang theo túi thuốc cấp cứu và chiếc cáng lao nhanh xuống khoang tàu ưu tiên đón san phụ lên bờ trước, kịp thời đỡ để mẹ tròn con vuông. Chị em chúng tôi reo vui trước tiếng khóc oe oe chào đời của cháu bé. Bà mẹ trẻ nở nụ cười mãn nguyện, đưa mắt nhìn khắp lượt chị em chúng tôi, mấp máy môi biểu lộ tình cảm trìu mến đối với những chiến sĩ quân y được tiếp xúc đầu tiên trong hoàn cảnh thật đặc biệt.


Nhân dân, bộ đội ta đứng trên bờ, kể cả các thành viên phái đoàn Ủy ban quốc tế đều vô cùng ngạc nhiên khi phái đoàn Pháp đưa từ dưới tàu lên trao trả cho ta không có một người tù chính trị nào mà toàn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già ăn mặc rách rưới khổ sở. Hỏi ra được biết toàn là những người bị địch càn quét bắt đi phục vụ cho chúng, nay chúng tống lên tàu để tra cho ta. Phái đoàn ta làm việc với phái đoàn Ủy ban quốc tế và phái đoàn Pháp kịch liệt lên án bản chất xảo trá của đối phương. Nhân dân, bộ đội ta biểu lộ sự căm phẫn cao độ, không ngớt hô vang "Phản đối! Phản đối!...


Cán bộ, nhân viên quân y chúng tôi nhanh chóng kiểm tra sức khỏe cho bà con. Nhân dân, bộ đội quây vào chăm sóc, tặng quà và thăm hỏi đồng bào mới được trao trả.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:46:36 pm
Đợt hai trao trả

Tin chính thức cho biết chiều nay phía Pháp trao trả cho ta tù binh chính trị. Bãi biển Sầm Sơn chan hòa ánh nắng, rộn ràng cờ, hoa, biểu ngữ. Tiếng trống ếch của thiếu nhi khua vang hòa cùng tiếng sóng biển, thông reo như khúc nhạc quê hương chờ đón các chiến sĩ kiên cường, bất khuất trở về với đồng bào, đồng chí. Trên bãi cát dài chạy dọc bờ biển, các đồng chí lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa, các cụ phụ lão, thanh niên nam nữ, các cháu thiếu nhi đứng đông nghịt quanh khu vực tiếp đón. Khẩu hiệu "Nhiệt liệt hoan nghênh các cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt tù đày trở về với nhân dân" nổi bật trên các tấm biểu ngữ dài vải đỏ chữ vàng.


Làn sóng người rạo rực, xôn xao hẳn lên khi tàu địch xuất hiện ngoài khơi đang tiến dần vào bờ. Các cửa sổ quanh khoang tàu đóng kín mít. Chỉ thấy trên boong lố nhố những tên lính Pháp và mấy tay mặc thường phục, đeo ống nhòm, máy ảnh trước ngực đi lại lăng xăng.


Tàu cập bến. Cánh cửa lớn khoang tàu mở từ từ. Giây phút chờ đợi đã đến. Dòng người trên bờ chuyển động, lội cả xuống mép nước, ai cũng như muốn kiễng chân, nghển cao đầu để được nhìn cho rõ. Đồng chí của chúng ta đây rồi! Hai người một dìu nhau bước lên cầu tầu, giơ cao tay phất những lá cờ đỏ sao vàng nhỏ xíu vừa đi vừa hô vang "Đảng Lao động Việt Nam muôn năm", "Hồ Chủ tịch muôn năm" cùng lúc trên bờ, rừng cờ đỏ sao vàng, cờ xanh hòa bình với hình chim bồ câu trắng tung bay phần phật trước gió, tiếng hò reo vang trời át cả trếng trống ếch của thiếu nhi. Nét mặt mọi người rạng rỡ vui mừng đón những người con thân yêu của Tổ quốc được trở về với quê hương, đồng bào, đồng chí. Đôi mắt nhiều người rưng rưng ngấn lệ biểu lộ niềm thương cảm với các đồng chí, đồng đội của mình vừa thoát cảnh tra tấn tù đày.


Trước khi bước lên bờ, anh chị em được trao trả vứt xuống biển tất cả các thứ được kẻ địch trang bị như trút bỏ tất cả rác rưởi hôi tanh của chế độ lao tù hà khắc của địch.

Anh chị em cán bộ nhân viên quân y chúng tôi lao nhanh lên tàu khiêng cáng và dìu đồng chí của mình không đi nổi vì bị địch tra tấn dã man, thương xót không cầm được nước mắt, nghẹn ngào thăm hỏi không nói nên lời. Sau khi đưa anh chị em qua nơi làm việc của phái đoàn Ủy ban quốc tế để hoàn tất thủ tục, bộ phận chuyên môn chúng tôi nhanh chóng triển khai cấp phát quần áo, trang bị cá nhân, kiểm tra sức khỏe, chăm lo ăn uống cho anh chị em. Các đồng chí lãnh đạo, các cụ phụ lão, chị em phụ nữ quây kín các buồng bệnh thăm hỏi anh chị em vừa được trở về trong vòng tay đầm ấm của bà con cô bác.


Đợt ba trao trả:

Hôm nay ta trao trả các tù hàng binh địch.

Chị em chúng tôi sao mà hồi hộp đến kỳ lạ! Thời điểm trực tiếp đấu tranh chính trị chống lại âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch định xuyên tạc chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã đến, mà chị em nữ y tá chúng tôi lại được "đóng vai chính" cơ đấy. Chúng tôi nhắc nhở nhau phải làm thật tốt, thật chu đáo mọi việc được lãnh đạo Đội, trực tiếp là Đội phó Võ Cương đã căn dặn tỉ mĩ, chu đáo. Chúng tôi rất tự tin.


Đưa số tù hàng binh bị bệnh do Đội Điều trị 2 trực tiếp quản lý ra khu vực các buồng bệnh để chờ trao đổi. Chúng ngạc nhiên vì các lán tạm mới dựng làm buồng bệnh được trang trí giản dị, gọn gàng, đẹp mắt. Chị em chúng tôi ríu rít chuyện trò, thăm hỏi, động viên chúng. Riêng hai tên quan hai, quan ba được bố trí ở phòng riêng cũng được mấy chị em chăm sóc chu đáo thăm hỏi thân tình.


Các tù hàng binh này được ta trang bị cho quần áo mới, ba lo, mũ, dép, khăn mặt, ca, bát... mỗi người được một bao thuốc lá - nhiều người còn xin ta chiếc máng tre đựng thức ăn, chiếc gậy tre, cố xin cho được chiếc nón lá để mang về gia đình làm kỷ niệm quãng đời sang Việt Nam làm bia đỡ đạn cho bọn trùm đế quốc, bị bắt, được hưởng sự khoan hồng, nhân đạo của nhân dân Việt Nam mà nay được diễm phúc trao trả về quê hương, gia đình.


Phái đoàn Pháp xin phép ta cho được vào buồng bệnh thăm tù hàng binh trước khi nhận trao tra. Ta đồng ý. Họ đi từng phòng thăm hoi từng người và mời hút thuốc lá thơm. Số tù hàng binh từ người đầu đến người cuối chỉ cảm ơn nhưng không nhận thuốc lá thơm được mời, mà lại rút bao thuốc lá Việt Nam ra hút. Phái đoàn Pháp bị bẽ mặt quá. Còn chị em chúng tôi có mặt trong phòng lại rất vui, cảm thấy việc làm của mình đã có tác dụng cảm hóa những kẻ chiến bại.


Giờ trao trả bắt đầu. Chị em chúng tôi "xung trận" theo đúng bài bản đã định sẵn. Sau khi làm thủ tục trao trả xong, từng tên tù binh bước ra cầu tàu đều được một nữ y tá mặc áo blu, đội mũ trắng đi cùng, mang giúp ba lô, niềm nở chúc anh ta về đoàn tụ hưởng hạnh phúc gia đình. Tiễn vào tận trong khoang tàu, chúng tôi nhanh chóng quay lên bờ tiếp tục nhiệm vụ. Họ đứng lặng nhìn theo tần ngần, xúc động và vẫy tay "Cảm ơn! cảm ơn!".


Hai sĩ quan tù binh tỏ vẻ mệt mỏi ốm yếu, ta cũng không muốn để họ tự do tiếp xúc với bọn phóng viên nên cho chúng nằm cáng. Mấy phóng viên Pháp bâu lại định chớp thời cơ chụp mấy pô ảnh cảnh tù binh ốm yếu nhằm xuyên tạc chính sách khoan hồng, nhân đạo của nhân dân ta đối với tù binh. Mỗi cáng do bốn nữ y tá khênh và hai chị nữa đi hai bên. Sáu chiếc nón trên tay các chị lượn lên lượn xuống, sang phải sang trái nhằm không chỉ che nắng cho người nằm trên cáng mà còn che lấp ống kính máy ảnh nên phóng viên không chụp được pô ảnh nào.


Lên tới cửa khoang tàu, chúng tôi đặt cáng xuống. Vừa dìu người tù binh đứng dậy, chân bước còn run rẩy, đến lượt chị em chúng tôi bị bất ngờ. Anh ta nắm chặt tay chị P (nữ y tá dân y tăng cường cho Đội điều trị 2) và đặt một nụ hôn lên trán chị. Đôi mắt đỏ hoe anh ta chào từ biệt chị em chúng tôi, bày tỏ xúc động trước tấm lòng nhân đạo cao cả của các chiến sĩ quân y Việt Nam.


Anh chị em toàn đội vui mừng khôn xiết vì đã hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị với kẻ thù.

Chúng tôi lại lên đường nhận nhiệm vụ vinh quang về tiếp quản thủ đô. Là những người con em Hà Nội, ra đi hẹn ngày chiến thắng trở về. Chúng tôi rảo bước hành quân. Thủ đô thân yêu đang chờ đón chúng tôi. Trong lòng chúng tôi trào dâng niềm vui, xen lẫn sung sướng tự hào.

B.T.N.B


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:48:03 pm
CHOONG XIÊNG VÉP


ĐỖ SÂM


Choong Xiêng Vép đưa chiếc xe "U-oát" núp dưới bóng một cây sà-nu to bên cửa rừng. Mắt anh không rời đoàn khách đang cùng Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Sa Thày.

Đoàn người dừng trên một khu đồi cao. Cách đây gần ba chục năm, đây là cứ điểm hành quân của Lữ 1, Sư đoàn 4 Mỹ. Ở thời điểm ấy, sau tết Mậu Thân (1968) từ mảnh đất Sa Thày này, Vép rời quê hương thân yêu vào bộ đội giải phóng, trở thành một lái xe trên đường Trường Sơn. Anh đã nhiều lần vận chuyển lương thực, đạn dược đến các trận địa chiến đấu ở Đak-Suk, Đăk-Tô, Pờ-lây-cần, Tu Mơ Rông...


Có những lần, Vép đã giúp nhiều anh lái xe pháo binh mới ở Bắc vào kéo những cỗ pháo lớn qua những đoạn rừng hiểm trở, bom đạn vùng Kon Tum, Gia Lai. Cái lần không bao giờ Vép quên được là buổi sáng ngày 9 tháng 5 năm 1972 trên khu đất Kơ Leng này. Sau khi quân ta giải phóng thị trấn Tân Cảnh, quận ly Đăk Tô, đoàn xe của Vép vào thẳng căn cứ 42 Sư đoàn 22 ngụy kéo mấy khẩu pháo chiến lợi phẩm ra vùng hậu cứ. Cất giấu xong mấy khẩu 105, Vép sung sướng nhận lệnh vận chuyển đạn bổ sung cho các trận địa pháo bắn vào Kơ Leng, Đak Tô, Tân Cảnh. Lính ngụy ở Ngọc Bờ - Biêng, Ngọc - rinh - rua đã phải rút chạy hết về Pơ-lây-cần. Bà con nói đồng bào dân tộc ở các ấp chiến lược từ Võ Định đến Tân Cảnh, từ Đak Mót đã trở về bản làng cũ xây dựng chính quyền cách mạng. Lần này chuyển nhiều đạn pháo lớn cho trận đánh vào Kờ Leng, nhất định quê hương Vép sẽ được giải phóng, ở vị trí tập kết, Vép gặp nhiều anh pháo thủ trẻ măng như anh, vừa chiến thắng Đak Tô, Tân Cảnh ra lấy đạn. Rồi đúng như mong ước của Vép, quân ta đã tiêu diệt địch làm chủ toàn Kờ Leng sáng ngày 9 tháng 5 năm 1972, đoàn xe của Vép được vào Kơ Leng chuyển chiến lợi phẩm ra ngoài, Vép đã được gặp lại nhiều bà con quê hương anh ở Sa Thày.


Đã tròn 20 năm rồi, Vép còn nhớ kỹ hình ảnh những người đồng đội khi cùng chuyển đạn, kéo pháo dưới bom đạn kẻ thù, chia xẻ với nhau từng miếng cơm vắt, từng mảnh lương khô ở Tân Cảnh, ở Kờ Leng. Nghe anh chủ tịch Sa Thày giới thiệu đoàn khách này gồm toàn những cựu chiến binh pháo binh Tây Nguyên, khu 5 về thăm lại chiến trường nhân kỷ niệm 20 năm giải phóng Kon Tum1 (17 tháng 3 năm 1975 đến 17 tháng 3 năm 1995). Vép nghĩ ngay đến những anh bạn pháo thủ năm xưa ở các trung đoàn 40, 675. Và từ khi gặp, Vép có cảm tình ngay, không muốn rời các anh, mấy lần muốn nói một chuyện gì nhưng rồi lại cứ ngập ngừng...


Trên mảnh đất nhỏ ở Kờ Leng các anh chỉ về phía xa...

- Bắn vào Kờ Leng - lúc ấy đài quan sát chúng ta đặt trên cao điểm...

- Trận địa bắn ở bên sông Sa Thày, sau thung lũng xanh rậm phía kia.

... Các anh say sưa ôn lại những chuyện chiến đấu thời kháng chiến chống Mỹ. Nhiều chuyện, nhiều con người, nhiều địa danh các anh nói Vép cũng biết. Thế là Vép không ngần ngại gì nữa tiến lên nắm lấy tay anh Tô Thuận1 (Thiếu tướng, trưởng đoàn cựu chiến binh pháo binh Tây Nguyên, khu 5, nguyên chủ nhiệm pháo binh mặt trận Tây Nguyên, Quân khu 5).

- Các anh có còn nhớ em? Em là Choong Xiêng Vép, chiến sĩ lái xe nhiều lần chở đạn pháo cho các anh ở các mặt trận Đắc Tô, Tân Cảnh, Ngọc Bờ Biêng, Pờ lây Cần và cả ở Kờ Leng rồi tiến vào chiếm Kờ Leng năm 1972...

Vép kể tiếp chuyện nhiều nữa rồi tần ngần:

- À, mà các anh chẳng nhận ra em đâu. Lúc ấy Vép chỉ gặp các anh pháo thủ ở trận địa ra xe chuyển đạn, chỉ quen mấy anh lái xe pháo binh quê Nghệ An. Còn các anh chắc ở trên đài chỉ huy xa lắm. Lúc ấy Vép chưa đến 20 tuổi. Bây giờ trên 40 rồi.

Vép đưa tay lên mặt. Các anh xúc động nghe Vép kể chuyện. Nhìn bộ râu đen rậm của Vép, chủ tịch Tống Minh Điền vui vẻ:

- Đúng đấy. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, các anh Thuận, Giá, Vinh, Dực, Định, Tuệ... ở đây hôm nay đều là chỉ huy pháo binh các mặt trận Tây Nguyên, Đác Pét... các trung đoàn 40, 675... Trong chiến đấu, các anh ở đài quan sát gần địch, xa trận địa lắm nên chưa biết Vép chứ không phải vì bộ râu của Vép đâu. Các anh cho Vép nhập đoàn vì Vép cũng là lái xe phục vụ pháo binh chiến đấu lúc ấy, nhưng Vép phải kể cho các anh nghe chuyện tìm hiểu rồi lấy cô gái Nghệ An làm vợ như thế nào nhé.

Mọi người cười phá. Tiếng cười vang vọng khu rừng Kờ Leng...

Từ khi về phụ trách chiếc nhà Rông truyền thống Tây Nguyên ở huyện Sa Thày, bác Hồ Văn Sửu đã tiếp nhiều đoàn khách từ Hà Nội, từ thành phố Hồ Chí Minh... Từ Pháp, từ Úc... đến nhưng chưa lần nào bác có những tình cảm xúc động như lần đón đoàn khách cựu chiến binh pháo binh này. Họ đến từ Hà Nội, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Phú Thọ...


Mọi lần, cái anh Choong Xiêng Vép to lớn, lầm lì chỉ đưa cán bộ lãnh đạo huyện cùng các đoàn khách đến, yên lặng ngồi đợi trên xe rồi về huyện. Lần này đưa đoàn cựu chiến binh lên nhà Rông rồi, Vép rộn ràng ra các bản quanh vùng loan tin: "Các anh giải phóng quân đã giải phóng Kờ Leng, Sa Thày năm xưa nay đang ở nhà Rông...". Thế là bà con theo Vép đến nhà Rông mang theo nào cồng, nào chiêng, nào từng bình rượu cần. Vép còn mời được cả già làng đến...


Một cuộc gặp không chuẩn bị trước, tự phát, đầy xúc động. Quân dân Kinh, Thượng quây quần nhau quanh những bình rượu cần, rồi chuyện, rồi cồng, chiêng, múa hát...

Tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng hát nhộn nhịp vang khắp khu đồi núi quanh nhà Rông, quanh Sa Thày....

Một nhóm thanh niên mới đến lên gặp bác Sửu mượn thêm cồng, chiêng của nhà Rông để làm nhộn nhịp thêm cái vui của cuộc vui...

Vép nổi một hồi chiêng rồi nói to với bà con:

- Chúng tôi là chiến sĩ pháo binh, chúng tôi hò kéo pháo nhé. Rồi Vép bắt nhịp anh em hát bài Hò kéo pháo. Vép vừa chiêng vừa hát, hát to, hát như một chiến sĩ pháo binh đã từng quen hát bài hò kéo pháo nhiều lần.

Vép đề nghị anh nhiếp ảnh của đoàn khách chụp cho Vép một chiếc ảnh đang cồng, chiêng, múa hát với anh em đoàn phao binh, với dân bản của Vép.

Rồi Vép hát: "Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay".

Vép nói to như tâm sự với mọi người:

- Hai mươi năm nay rồi, từ khi giải phóng quê hương tôi mới lại có một ngày vui như hôm nay, được gặp lại các bạn, các anh, tôi được mọi người quý mến thực sự...

Vép vui, vui thực, vui cái vui của người dân Thượng đã được vinh dự đi chiến đấu giải phóng bản làng, quê hương mình...

Đoàn khách cựu chiến binh chuẩn bị chia tay nhân dân Sa Thày. Choong Xiêng Vép xúc động nói như hát, hát như nói, như nói những ý nghĩ sâu đậm của mình:

- Người ơi người ở đừng về. Người ở đừng về...

Ca-mê-ra của nhà nhiếp ảnh Tô Kim Trọng đã ghi những hình ảnh uống rượu cần, cồng, chiêng, múa hát... dưới nhà Rông lại tiếp tục hướng về Choong Xiêng Vép giờ phút chia tay với các chiến hữu của anh.

Ngồi trên xe từ Sa Thày về thị xã Kon Tum, có anh kể lại vài mẩu chuyện về cái anh lái xe người dân tộc Triêng trên cao nguyên Sa Thày, có anh giở cuốn sổ nhỏ có ghi mấy dòng chữ nghiêng ngả của Vép "Choong Xiêng Vép, dân tộc Triêng, lái xe kéo pháo Tây Nguyên".

Đ.S


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:49:28 pm
CÔ GÁI NĂM XƯA


NGUYỄN THỊ THANH NHÃ


Vào những năm sáu mươi, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã bắt đầu, một hôm, tôi lên xe điện ở Hà Nội, khách trên toa tàu khá đông, tôi phải giơ tay vịn vào thành tàu để giữ thăng bằng.

Bỗng, từ phía sau có tiếng gọi như reo lên: "Ôi! Cô gái năm xưa! Cô gái năm xưa!".

Tôi chưa biết tiếng gọi đó là của ai? Gọi ai? Thì người soát vé vỗ vào vai tôi nói: "Nữ đồng chí bộ đội, cuối toa có người gọi!". Tôi quay lại, trông thấy một đồng chí bộ đội, quân phục chỉnh tề đang rẽ đám đông, tay vươn lên nắm chặt lấy tay tôi, miệng nói liền một mạch: "Ôi! Cô gái năm xưa! Cô gái năm xưa! Ôi!... Tôi!... Tôi xin lỗi nhé! Không phải tôi quên tên cô đâu! Cô Hà Thủy, có đúng không nào? Nhưng... lính chúng tôi thích gọi như thế mà! Chúng tôi thích nghe cô hát bài "năm xưa" lắm! Chúng tôi nhớ cô. Nhớ tiếng hát của cô nên chẳng ai bảo ai, mọi người đều gọi luôn tên cô bằng tên bài hát".


Tôi vô cùng cảm động! Hai chúng tôi cùng chung màu áo, đang siết chặt tay nhau như không muốn rời ra. Tình cảm một người lính - một khán giả năm xưa với một người lính - một diễn viên năm xưa sau mười năm gặp lại.


Cũng đêm ấy, tôi không sao ngủ được "Cô gái năm xưa!... Cô gái năm xưa!...". Tiếng gọi ấy cứ văng vẳng bên tai tôi, một cái tên thật trìu mến. Một cái tên gợi nhớ trong tôi bao kỷ niệm về núi rừng Việt Bắc.


Ăn cơm mới, nói chuyện cũ. Tôi còn nhớ mãi khi cầm bút sắp ký vào lá đơn tình nguyện. Ngày đó không có lính nghĩa vụ. Tôi vừa tốt nghiệp xong, lòng tôi háo hức lắm! Nhưng cũng ngây thơ đến nực cười.


Hôm ấy, là ngày cuối cùng tôi đứng dưới mái trường thân yêu. Một sĩ quan còn trẻ đến làm thủ tục tuyển quân. Anh hỏi tôi: "nữ đồng chí tân binh, đồng chí sẽ ký vào đơn tình nguyện ba năm hay năm năm?".


Tôi sững người tự hỏi - sao lâu thế?... rồi tôi bẽn lẽn trả lời: "Em ký hai năm thôi!". Tất cả cười phá lên. Các anh ấy giải thích cho tôi:

- Chỉ có đơn tình nguyện ba năm và năm năm thôi, không có hạn hai năm đâu, tiểu thư ạ!".

Tôi cầm bút ký vào lá đơn xong, lòng không khỏi băn khoăn - những ba năm... lâu quá! Bao giờ mới hết hạn để trở về với mái trường xưa?...

Tuy vậy, tôi cũng quên khuấy ngay lá đơn chẳng biết tự bao giờ... Thoắt ngoảnh lại, tôi đã phục vụ trong quân ngũ bốn mươi hai năm có lẻ - nghĩa là gấp hơn mười bốn lần thời hạn của lá đơn tình nguyện tôi đã ký. Tôi tự hỏi, cái gì đã khiến tôi gắn bó suốt đời mình với sân khấu quân đội?


Chính là sự bắt nguồn từ những bài hát đầu tiên tôi ra mắt trung đoàn. Lòng tôi đã nao nao nghĩ về các anh - những khán giả đầu tiên, một đội ngũ vai kề vai trông thật yêu đời. Dẫu rằng, trong các anh có độ tuổi khác nhau, có những mảnh đời xuất xứ khác nhau. Anh thì trút bộ quần áo nâu sồng mặc áo lính. Có anh là sinh viên là trí thức giã từ Hà Nội ra đi. Nhưng lúc này đây, các anh đang có chung cặp mẳt trìu mến, ngóng đợi, lắng nghe một giọng hát, một tiếng đàn cho đời lính tươi thêm.


Bên ánh lửa trại bập bùng, tôi xúc động đến trào nước mắt! Những giọt nước mẳt nóng hổi bắt nguồn từ mơ ước khi còn ngồi ghế nhà trường - mai ngày tốt nghiệp ra, tôi sẽ đem tiếng hát bằng cả trái tim mình đến với các anh nơi chiến trường máu lửa!


Và ngày ấy đã đến. Chiến dịch tiếp chiến dịch. Dấu chân của chúng tôi ở nơi này, nơi kia đã in cùng dấu chân những người chiến sĩ xung kích ra trận.

Vào thu đông năm 1952, khi cuộc chiến đã bước vào giai đoạn nóng bỏng. Bỗng, một hôm vào buổi chiều đã muộn, mặt trời đã khuất chìm sau núi, chúng tôi từng tổ tam tam đang tự kiểm điểm công việc trong ngày, thình lình, xuất hiện một người lính chiến từ mặt trận về. Anh đưa mắt tìm kiếm ai đó.


Chợt, ánh dừng lại trước cái nhìn ngơ ngác của tôi và nói: "Tôi muốn gặp riêng chị!".

Tôi thật tình không quen anh nhưng tôi vẫn theo anh ra khỏi lán. Hai chúng tôi lẳng lặng đi bên nhau như hai người bạn thân. Vậy mà nhìn anh tôi không đoán được anh bao nhiêu tuổi? Anh là chiến sĩ hay là cán bộ chỉ huy? Trên gương mặt vô cảm ấy lại ẩn giấu, chứa đựng một cái gì tôi không dám đoán tiếp. Nhưng... tôi vẫn chờ đợi... hẳn không phải một tin lành?...


Đột nhiên, người lính dừng lại, anh nhắm nghiền hai mắt, đầu hơi ngả về phía sau khẽ lắc, lắc... rồi anh hít một hơi thở sâu như để lấy lại bình tĩnh. Anh nhìn thẳng vào tôi với cái nhìn sâu thẳm rọi vào đôi mắt vừa hoang mang, vừa ngóng đợi của tôi.


Cái gì sẽ đến đây? Tôi tự hỏi và không sao đoán được. Mặt anh càng tái đi, tay anh run rẩy đặt vào tay tôi một gói nhỏ hình chữ nhật, được bọc bằng mảnh áo quân phục đã bạc màu. Anh nói trong tiếng nấc - Tiếng nấc của một người đàn ông nghe đến lạnh người.


"Xin chị nhận lấy!" Tiếng nói của anh xen trong tiếng nấc. Như anh đang khóc!... anh nói: "Anh ấy đã hy sinh". Giọng anh như vỡ ra từng tiếng: "Lời cuối cùng... anh ấy dặn lại tôi... hãy đưa tận tay cho chị... chiếc gói này!".


Mắt tôi nhòa đi, không hỏi được câu nào. Rồi người lính ấy nói thêm "Đồng chí ấy hy sinh anh dũng lắm! Hai chân bị bắn nát và cả thân mình nữa... máu ra nhiều quá! Anh đã hy sinh cách đây ba tiếng". Tôi ôm chiếc gói nhỏ áp vào mặt rồi òa lên khóc, cả người tôi giụi xuống bên bụi mẫu đơn. Người lính đỡ tôi và nói: "Chị bình tĩnh! Đừng khóc!... Trước khi trút hơi thở cuối cùng anh ấy còn mỉm cười đấy!". Anh ấy còn nói với tôi: "Mình thanh thản lắm! Hoàn thành nhiệm vụ rồi... được hy sinh cho Tổ quốc giữa tuổi đời hăm bốn... Đẹp đấy chứ?...".


Nói rồi, người lính vô danh ấy đi như chạy trốn trong nỗi đau mất bạn. Tôi chạy theo gọi với: "Đồng chí ơi! Đồng chí bộ đội! Cho tôi đi theo với! Cho tôi được gặp...". Nhưng, người lính chỉ quay người lại, giơ tay ra hiệu "muộn mất rồi!... Đêm nay chuyển quân, bọn tôi vừa mai táng anh ấy xong". Nói rồi, người lính cúi đầu đi khuất.


Tôi lặng đi hồi lâu rồi mới giở gói ra xem. Đó là một cuốn nhật ký. Nhưng nó là của ai chứ? Tôi tự hỏi.

Hoàng hôn đã chạng vạng, tôi chỉ nhìn được mấy dòng chữ ngay ngắn ở trang đầu. Người lính vô danh ấy đã ghi: "Tôi viết sẵn mấy dòng này, biết đâu tôi không trở về nữa. Không có dịp được gặp lại Hà Thủy - Cô gái năm xưa". "Cô gái năm xưa" là cái tên mà chiến sĩ đặt cho tôi bằng tên một bài hát của nhạc sĩ Huy Du. Mắt tôi nhòa đi trước khoang giấy trắng dài bỏ trống, sau những dòng chữ ngắn ngủi ấy. Tôi không đọc được nữa. Vâng!... Thực vậy... Nhưng... rồi tôi cũng cố đọc tiếp những dòng chữ sau khoảng trống ở cuối trang. Nét mực còn mới. Chữ viết ngoằn ngoèo, nét thẳng, nét nghiêng, chữ đậm, chữ nhạt với những dòng đứt nối. Anh viết: "Giờ này, tôi biết mình sắp lao vào một trận ác liệt. Có thể hy sinh lảm. Mà lòng tôi vẫn thanh thản. Xin Hà Thủy hãy tha lỗi cho tôi! Tôi đã mang theo tiếng hát "Ba vì năm xưa" và hình bóng người hát cùng ra trận. Xin vĩnh biệt!".


Xin vĩnh, biệt! Tôi nhắc lại như một tiếng vọng xa xôi từ nơi hoang vẳng... Vĩnh biệt!... Thế là anh đã vĩnh viễn không còn trên thế gian này nữa ư?...

Sao lúc này đây, tôi thèm được hát cho anh nghe. Hát một lần cuối cùng gửi tới hương hồn anh và đồng đội đã cùng anh ngã xuống mảnh đất này.

Tôi muốn hát vì ngày mai sẽ chuyển quân, liệu tôi còn có thời gian, còn khi nào được trở về bên mộ anh và đồng đội để được hát lại bài "năm xưa" cho các anh nghe nữa không? Có lẽ vì thế mà tôi đã hát! Tiếng hát chìm sâu trong đáy lòng tôi... Trong trái tim yêu thương đồng đội của tôi. Còn âm thanh bật ra ngoài chỉ là tiếng nấc... những tiếng nấc thổn thức trong quạnh vắng...


Sau những tiếng hát câm lặng ấy, tôi như bừng tỉnh lại. Màn đêm đã phủ xuống tự bao giờ tôi không hay biết. Trong lòng tôi chỉ dội lên những tiếng - chiến tranh! Chiến tranh thật nghiệt ngã!

Là một diễn viên quân đội, tôi nghĩ về những khán giả của mình, rồi đây sẽ có bao người mất, người còn?

Tiếng hát của tôi dẫu còn thô mộc, nhưng tôi đã hát bằng cả trái tim mình đến với đồng đội. Nên nó đã được hòa vào bầu máu nóng của các anh. Nó có thể vĩnh viễn cùng các anh nằm lại chiến trường xa, nơi ven rừng, ven suối ngay sau đêm diễn. Và nó cũng có thể sẽ đi với các anh trong suốt cuộc đời - qua bao cuộc trường chinh ngàn dặm.


Trên ba ngàn đêm biểu diễn phục vụ đồng đội. Có bao anh đã thành liệt sĩ! Tôi làm sao nỡ phụ các anh? Làm sao quên được những gương mặt trẻ trung, tươi rói! Mà tương lai còn đang ở cả phía trước, nhưng... các anh đã ngã xuống giữa tuổi thanh xuân của cuộc đời, cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Tôi làm sao quên được? Làm sao xa đội ngũ được?...


Tiếp bước anh trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Tôi luôn nhìn thấy anh đang mỉm cười. Nghe đâu đây giọng anh thật êm ái, thiết tha - "Tôi biết mình sắp lao vào một trận ác liệt. Có thể hy sinh mà lòng tôi vẫn thanh thản... Hãy cho tôi mang theo tiếng hát "Ba Vì năm xưa" và hình bóng người hát cùng ra trận... và cùng...". Hình như anh lại mỉm cười trước lời nói cuối cùng: "Xin vĩnh biệt"


Chỉ tiếc rằng anh không ghi lại tên tuổi, đơn vị. Chỉ một chữ ký loằng ngoằng thì có trời mới đoán ra.

Giá tôi biết được tên anh, nhất định sau chiến tranh tôi sẽ tìm về làng quê... nơi ấy hẳn anh còn người mẹ già?...

Tôi sẽ quỳ xuống bên mẹ. Tạ lỗi với mẹ - người đã sinh thành ra anh - một chàng trai bất tử!...

N.T.T.N


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:50:37 pm
NHỮNG CON NGƯỜI ĐÁNG KÍNH


NGUYỄN HỮU DƯ


Ngày 30 tháng 4 năm 1968, bốn anh em kỹ sư lớp trắc địa 65 gồm: Nguyễn Hữu Dư, Hồ Sĩ Hậu, Nguyễn Xuân Diệu, Phan Văn Hợi được thày hiệu trưởng Trường đại học Mỏ - Địa chất (trường mới tách ra từ khoa mỏ - địa chất của Trường đại học Bách khoa) gọi lên gặp gỡ. Thày vui vẻ mời chúng tôi uống nước trà Thanh Tâm, mà thời bấy giờ mậu dịch chỉ bán phân phối rất hạn chế, nên quý lắm. Chúng tôi dùng hai tay nâng chén trà mới đặt lên môi đã thấy mùi chè thơm phức và liếc nhìn nhau thầm đoán: chắc là có việc gì hệ trọng lắm đây? Như đoán được ý nghĩ đó của chúng tôi, thầy hơi mỉm cười, khác hẳn với những lần gặp gỡ trước thầy luôn nghiêm nghị, sao lúc này nét mặt thầy tươi tắn thế?


Tôi hình dung như nét mặt của bác Trường Chinh trên tấm ảnh được treo trang trọng ở nhà tôi nên khẽ nói với Hồ Sĩ Hậu:

- Cậu có thấy thầy giống bác Trường Chinh không?

Hậu tưởng tôi không biết thầy là em ruột bác Đặng Xuân Khu, tức là Chủ tịch quốc hội Trường Chinh nên khẽ nói:

- Anh em ruột giống nhau có gì lạ?

Sau vài phút yên lặng, thầy Đặng Xuân Đỉnh nói chậm rãi:

- Bộ Quốc phòng cần tuyển một số kỹ sư trẻ có chuyên môn giỏi, có lý lịch tốt. Sau khi trao đổi với thày chủ nhiệm và Bí thư chi bộ lớp TĐ 64 Ban giám hiệu quyết định cử bốn em vào bộ đội, các em đều là đoàn viên thanh niên lao động có phẩm chất đạo đức tốt, lại xuất thân từ các gia đình có truyền thống cách mạng. Thầy tin là các em sẽ phát huy được những gì mà trường Đại học bách khoa và Mỏ địa chất trong hơn bốn năm qua đã trau dồi cho các em. Nhất định các em sẽ lập được nhiều chiến công, làm rạng danh cho trường của chúng ta. Từ giờ phút này, trường giao nhiệm vụ cho em Dư vì em Dư là đối tượng phát triển Đảng, là người chỉ huy nhóm của các em. Thay mặt trường, thầy chúc các em lên đường mạnh khỏe.


Chúng tôi nhập ngũ nhẹ nhàng và đơn giản thế đấy! Không biết bộ đội cần gì mà một lúc tuyển những bốn kỹ sư trắc địa trong khi cả khóa chúng tôi chỉ vẻn vẹn lúc này còn 24 người? Mấy hôm sau, lại lấy thêm 12 kỹ sư lớp chế tạo máy, thủy lợi, điện lực cùng khóa 9 trường Đại học Bách khoa. Đơn vị bộ đội của chúng tôi gọi bí danh là Công trường 18 đóng quân ở Thọ Am cách Hà Nội gần 20 km.


Sau mấy ngày nghe đại úy Phan Ninh phụ trách chính trị nói chuyện thời sự và động viên chúng tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ, thì chỉ huy trưởng công trường cho gọi bốn anh em chúng tôi đến gặp riêng. Anh nói:

- Tôi là Mai Trọng Phước - thiếu tá phụ trách đơn vị. Tôi biết các đồng chí đều có lý lịch tốt mà người ta hay gọi đùa là "con ông cháu cha" cả, các đồng chí lại rất trẻ, có năng lực. Khi chúng tôi đến tận trường tìm hiểu được nhà trường cung cấp như vậy nên rất mừng. Vì thiết kế đường ống dẫn dầu qua núi, qua sông là nhiệm vụ mới, từ xưa đến nay quân đội ta chưa làm bao giờ. Các cụ xưa thường nói "Vạn sự khởi đầu nan" thi nhất định là khó rồi. Ngay khi giao nhiệm vụ này cho chúng tôi, đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần cũng nói đây là công việc làm thử, đã là thử thì có thể bại có thể thành... Chắc các đồng chí cũng đã biết khi nghiên cứu chế tạo dây tóc bóng điện hay ác quy, nhà bác học Eđixơn đã bao nhiêu lần thất bại, nhưng do có quyết tâm cao, cuối cùng ông đã thành công, vì vậy trong việc này tôi tin là thành công. Thứ nhất, chúng ta hơn Eđixơn là có nhiều người có trình độ cao hơn Eđixơn vì Eđixơn bị đuổi học khi còn đang học phổ thông. Thứ hai, ta có mục đích cao cả là đánh thắng đế quốc Mỹ, giành độc lập cho Tổ quốc.

Nghe anh nói đến đây, chúng tôi bấm nhau:

- Ông thủ trưởng này biết khá đấy!

Ngừng một lát như để chúng tôi thấm những lời tâm huyết, anh nói tiếp:

- Chúng tôi đã mời một số chuyên gia quân sự Liên Xô giỏi về lĩnh vực này sang trực tiếp hướng dẫn cho các đồng chí. Bây giờ chỉ cần các đồng chí có quyết tâm cao và không ngại khó là làm được. Các đồng chí có quyết tâm không?

Cả bốn chúng tôi đều đồng thanh:

- Báo cáo thù trưởng, quyết tâm ạ!

Nghe chúng tôi cùng nói như hô vậy anh cười:

- Tốt! Tốt! Tôi tin là các đồng chí sẽ làm được. Nhất định chúng ta sẽ làm được.

Sau một tháng được chuyên gia Liên Xô tận tình hướng dẫn, chúng tôi đã nhanh chóng nắm bắt được các công việc thiết kế, thi công và vận hành đường ống dã chiến. Đầu tháng 6 bốn chúng tôi vào Nghệ An, Hà Tĩnh để khảo sát và thi công tuyến ống. Ở đây, chúng tôi được tách ra để chỉ đạo kỹ thuật ở bốn phân đội nhỏ. Mặc cho máy bay Mỹ ngày đêm bắn phá, chúng tôi đã nhanh chóng xác định được tuyến đi chính xác, bảo đảm đủ bốn yêu cầu "ngắn, gần, tránh, kín" và hai kho hai đầu mút bí mật an toàn.


Đến cuối tháng 8 năm 1968, đoạn tuyến dẫn dầu đầu tiên trong lịch sử của quân đội ta ra đời, chỉ có 42km mà nó đã phải vượt qua các trọng điểm ngày đêm địch bắn phá làm cháy hàng trăm xe và hàng vạn lít xăng. Đó là Truông Bàng, Truông Cau, Rú Trét (có người còn gọi là rú chết) qua sông Lam, sông La... vào Nga Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh được ký hiệu là N2. Sau khi đã bơm xăng từ N1 vào đầy ắp N2 thì tiểu đoàn đường ống đầu tiên của binh chủng xăng dầu ra đời, gọi là tiểu đoàn 668 do anh Ngọc Kỳ là tiểu đoàn trưởng (sau này anh Kỳ làm Cục trưởng Cục xăng dầu đã nghỉ hưu). Cuối năm 1968, tuyến ống được kéo dài từ xã Đức Long (Đức Thọ) để tránh cao điểm ngã ba Đồng Lộc theo đường 12 qua Cha Lo, vượt đèo Mụ Giạ sang huyện Lằng Khằng của nước bạn Lào, các tiểu đoàn 768, 868, 968 lần lượt ra đời theo chiều dài của tuyến ống! Và đầu năm 1969, binh trạm đường ống đầu tiên được thành lập mang tên BT 169 do thiếu tá Mai Trọng Phước làm binh trạm trưởng. Sau khi tuyến của BT 169 vận hành an toàn, bốn anh em chúng tôi lại tạm biệt anh Mai Trọng Phước để đi khảo sát chuẩn bị cho tuyến mới bắt đầu từ Cẩm Ly, Lệ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đi vào Ra Vơ huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị, phải vượt qua sông Xê Băng Hiêng đầy thác lũ mà cục trưởng Phan Tử Quang gọi là tuyến hướng Đông!


Do có nhiều kinh nghiệm về khảo sát thi công nên chưa đầy một năm sau, tuyến đường ống không chỉ vượt Xê Băng Hiêng mà còn vượt Xê Pôn, đường 9 vào tận huyện Mường Noòng, tỉnh Xa-va-na-khệt (Lào).


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2022, 05:51:28 pm
Ngày 20 tháng 10 năm 1970 đối với tôi là một ngày có hai tin vui cùng đến mà người "tàu" gọi "song hỉ". Đó là sau ba đêm thức trắng để chờ Lê Anh Bân (anh Bân quê Thanh Hóa đã hy sinh vì trúng bom Mỹ cuối năm 1971) gọi điện từ Hà Nội vào qua đường dây tiếp sức báo cho tôi biết:

- Chuẩn bị khao lớn nhé, theo tin của ông "cụ" anh thông báo: "Chị Nguyệt vợ anh đã sinh cháu trai đầu lòng ngày 20 tháng 10, ông nội đã đặt tên là Hữu Thọ, cháu nặng 3,4 kg" nghe rõ chưa?

Tôi phấn khởi quá, ứng khẩu đọc ngay.

- Trước hết cảm ơn Bân, mình có mấy câu thơ khao luôn nhé:

Thức trắng ba đêm mới biết rằng

Cô Nguyệt - vợ tớ, sinh một thằng

Ông nội đặt tên là Hữu Thọ

Giống cả bố "thừa" cả mẹ "trăng"?

Bân cười và nói:

- Tạm được. Bao giờ ra Hà Nội khao nhé!

Không ngờ đây là lần cuối cùng gặp anh!

Tin vui thứ hai là trung đoàn đường ống đầu tiên thuộc Bộ Tư lệnh 559 được thành lập mang tên Trung đoàn 592 và thật bất ngờ người trung đoàn trưởng lại rất quen, đó là: Thiếu tá Mai Trọng Phước!


Sau khi trung đoàn 592 đã vận hành ổn định, các anh Nguyễn Xuân Diệu, Phan Văn Hợi được gọi ra tuyến ngoài. Lúc này ở trung đoàn bộ chỉ còn có Nguyễn Hữu Dư, Hồ Sĩ Hậu, Đào Quang Nghiêm, Võ Thử Thành, riêng Lê Sơn được anh Mai Trọng Phước "biệt phái" xuống tiểu đoàn 668 mới của trung đoàn, đây là tiểu đoàn vừa có kho chứa lớn ở Pha Băng Nưa lại có nhiều trạm bơm vượt sông Xê Băng Hiêng nên là nơi địch thường xuyên bắn phá bằng đủ loại bom đạn, đủ các loại máy bay B52, B57 cả cối của OV10 và AC 130. Đầu năm 1970 (chiều 30 tết Kỷ Dậu) anh Phước cùng đi xe với anh Nguyễn Huệ, trung tá binh trạm trưởng, BT9 vào thăm và chúc tết cán bộ chiến sĩ làm kho xăng Pha Băng Nưa đã bị bom B52. Anh Huệ bị một mảnh bom găm vào thái dương trái đã lặng lẽ hy sinh! Thế nhưng chúng không làm cho một ai nao núng và không cướp đi được một giọt xăng nào! Do vậy, tiểu đoàn 668 đã được Nhà nước tuyên dương là đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Đối với chúng tôi, anh Mai Trọng Phước thường xuyên nhắc nhở:

- Các cậu là kỹ sư, tôi giao cho mỗi người ít nhất mỗi năm phải có một sáng kiến hay chuyên đề gì đó có giá trị.

Có lần anh tâm sự:

- Các cậu hơn bọn mình là được học hành cơ bản rồi đi bộ đội, còn bọn mình vừa đánh giặc vừa học cực lắm. "Con hơn cha là nhà có phúc". Do đó, các cậu phải cố lên để sau này còn thay thế bọn mình.

Chính những lời tâm huyết này thôi thúc chúng tôi vươn lên, và mỗi khi gặp khó khăn, nó như một ngọn đèn pha rọi chiếu soi sáng cho chúng tôi tiến bước vào rừng núi âm u.

Hồ Sĩ Hậu luôn luôn kè kè quyển sách tự học tiếng Nga có lúc phải bớt gạo để mang sách, rồi lại tự học chữ Lào nên đã từng dạy trẻ em Lào tập viết chữ của họ! Chính vì do anh Phước luôn nhắc nhở nên Hồ Sĩ Hậu là người có nhiều chuyên đề nhất như: "Chọn đường cong tối ưu", "Cấp phát xăng dầu tự chảy". "Kho xăng vừa nhập, vừa xuất độc lập", "Sử dụng toán đồ để tính dung tích các bể chứa xăng" do đó ai ai cũng có thể tính một cách dễ dàng. Hay dùng toán vận trù để "tìm đường vác ống ngắn nhất".


Đào Quang Nghiêm thì có "dùng đường ống dốc thủy lực để nhanh chóng khoanh vùng nơi xảy ra sự cố" đã đưa năng suất vật hành lên khá cao và lưu lượng trung bình tăng khá lớn, hạn chế được tổn thất về người về xăng, thực hiện khẩu hiệu "chỉ có xăng chờ xe, chứ không để xe chờ xăng".


Còn tôi, chuyến đi khảo sát và thi công xong lại đi đơn vị mới nên mãi đến năm 1971, khi đến trung đoàn 532 mới được tham gia chỉ huy vận hành và lúc ấy có chuyên đề "người chỉ huy vận hành phải biết điều chỉnh áp suất của các trạm bơm" mà trước đó họ chỉ biết ghi chép khi các trạm bơm báo về, rồi sử dụng số vòng quay ít nhất để được nhiều máy điện thoại đấu chữ đinh nhất" đã được các trung đoàn toàn tuyến áp dụng. Sau khi Hồ Sĩ Hậu biên tập và đã cho đăng trên tạp chí "Xăng dầu" của Cục. Cuối năm 1972, có bài "Xử lý và chống nút hơi trong vận hành" áp dụng tốt ở trung đoàn 532, sau khi báo cáo về cục cũng được anh Hồ Sĩ Hậu áp dụng cho trung đoàn 592 thành công.


Tháng 3 năm 1975, tôi và Hồ Sĩ Hậu cùng thiết kế và thi công ống treo trên sông Xê Rê Pốc thành công góp phần không nhỏ vào việc cung cấp xăng kịp thời để bộ đội ta "thần tốc" trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử!


Trung đoàn 592 đã được Nhà nước tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.

Thời gian lặng lẽ trôi qua! Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, anh Mai Trọng Phước, đại tá - Cục trưởng Cục xăng dầu đã nghỉ hưu. Sau khi nghỉ hưu, anh lại âm thầm đi làm thêm để lấy tiền ủng hộ cán bộ chiến sĩ thương tật, hay các cháu bị tật nguyền do bị nhiễm chất độc màu da cam của bố mẹ ở chiến trường. Gặp anh, vẫn tiếng cười trẻ trung năm xưa, anh tự hào nói:

- Các kỹ sư ở đơn vị mình năm xưa đến nay đều trưởng thành. Đào Quang Nghiêm sau hòa bình đã đi nghiên cứu sinh ở Tiệp Khắc nay là đại tá - PTS - Trưởng phòng kỹ thuật Cục xăng dầu, Hồ Sĩ Hậu, năm 1982 làm luận án tốt nghiệp đại học thứ 2 Kinh tế Kế hoạch, đạt điểm tối đa 10/10, nay là đại tá - Phó văn phòng Bộ Quốc phòng, Nguyễn Văn Tạo - đại tá - trưởng phòng tổ chức lao động - Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Phạm Duy Lộc - đại tá - Trưởng phòng vật tư cục xăng dầu, Dương Ngọc Văn - đại tá - Cục trưởng Cục vật tư - Bộ Quốc phòng. Riêng Lê Sơn sau khi được rèn luyện ở Pha Băng Nưa, nay là đại tá - Bí thư Đảng ủy Cục vũ khí - đạn. Song củng có người thiệt thòi. Người xưa nói "thượng đế chẳng cho ai hết, cũng chẳng lấy hết của ai".

Năm tới nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Đoàn 559, mình định họp tất cả anh em đường ống lại. Cuộc họp này có ý nghĩa chúng ta chiến thắng nhưng không quên một ai, vì ai cũng có công cả.

Tôi nói:

- Vâng, rất quý, rất có ý nghĩa! Vừa qua bạn tôi đã thăm thày Đặng Xuân Đỉnh nhân kỷ niệm 30 năm ngày chúng tôi nhập ngũ từ trường Đại học mỏ - địa chất. Khi thấy chúng tôi đều lành lặn trở về với quân hàm cấp tá và nhiều huân chương trên ngực, thầy rất vui, song lại bùi ngùi kể về người con trai duy nhất đã ngã xuống ở chiến trường. Chúng tôi cảm động thưa với thầy rằng: "Đối với chúng em, thầy mãi mãi là người thầy đáng kính".

Và hôm nay, với bài viết này, tôi muốn thay mặt anh em được nói với anh - đại tá Mai Trọng Phước rằng: "Anh củng mãi mãi là Thủ trưởng thân thương của chúng tôi".

N.H.D.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:26:37 am
NGƯỜI HÀ NỘI TRỞ VỀ


TRỊNH TRÁNG


Vào giữa tháng 8 năm 1954, hai tháng sau Hiệp định Pa-ri được ký kết, trung đoàn 36 thuộc sư đoàn 308 - quân tiên phong của chúng tôi đang đóng ở khu vực Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang để luyện tập đội ngũ chuẩn bị cho ngày tiếp quản thủ đô.


Ngày nay cứ xem lại các cuốn phim, tác phẩm văn học nghệ thuật nói về ngày lịch sử đó, người ta hay được chiêm ngưỡng các cảnh "trùng trùng say trong câu hát, lớp lớp đoàn quân tiến về" của đại quân ta tiến vào qua năm cửa ô, có các bà mẹ, cô gái vẫy cờ, tung hoa đón mừng náo nhiệt. Nhưng ít ai biết đến, có một đoàn quân tiếp quản vào trước một ngày, được chứng kiến rõ nhất các cảnh đối nghịch của những đường phố thủ đô trong cái phút giao thừa giữa chưa giải phóng và giải phóng. Đó là trung đoàn 36 chúng tôi đã vào Hà Nội từ 9 tháng 10 năm 1954 để làm việc tiếp quản theo nhiệm vụ "đi trước một bước"; thay thế kẻ địch, tiếp nhận những phần đất và dân cư mà chúng phải trả lại. Trung đoàn 36 từ Hiệp Hòa tiến về Hà Nội theo hai mũi. Tiểu đoàn 84 đi theo hướng Bắc Ninh về tiếp quản sân bay Gia Lâm. Lực lượng còn lại của trung đoàn đi theo hướng Phúc Yên và Mai Lĩnh (thuộc Hà Đông) rẽ sang Văn Điển, bám theo đường 1 từ phía nam lên nhà thương Bạch Mai tiến về ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội). Từ đó sẽ theo đường Găm bét ta (tức Trần Hưng Đạo) tiến về khu Đấu Xảo (Cung văn hóa hữu nghị bây giờ).


Về đến Mai Lĩnh, đang ở chặng dừng chấn chỉnh đốn đội hình, tôi nhận được một bức thư nhà từ vùng sơ tán tận trong Thanh Hóa, theo đường bưu điện kháng chiến đi ra. Tôi ngạc nhiên chỉ còn nhớ mang máng là có lúc nào đó hồi còn ở Trung Giã, có gặp một cán bộ dân công quen biết gia đình tôi nơi sơ tán. Tôi gửi dăm mảnh vải dù và ít thứ lặt vặt. Thế mà bố mẹ tôi cũng bắt được tin, nay bố tôi cứ đề rõ đơn vị 36 tiếp quản Thủ đô, mà thư cũng tới nơi. Người cơ động liên hồi, mà thư đến được, đó mới là chuyện lạ. Chứ từ ngày rời Điện Biên Phủ đến giờ, tôi có chút thì giờ nào rảnh rỗi đâu để báo tin cho gia đình. Trong thư, bố tôi chỉ báo tin tóm tắt là gia đình biết chắc thế nào bộ đội Điện Biên cũng về tiếp quản Hà Nội "thường tiếp quản xong là phải thiết quân luật. Bố mẹ khó lòng tìm con. Gia đình đã vào trước, ở nhà 39 Tràng Tiền. Con có vào Hà Nội thì tìm cách xin phép về thăm nhà...''


Trước lúc tiến quân vào khu vực trung tâm, đoạn Giáp Bát ngay bên đường 1, bấy giờ còn đồng hoang làng vắng, chúng tôi được giao những bó giấy tờ, mở ra toàn là lệnh thiết quân luật, chữ viết to như tờ cáo thị, để cho bộ đội ta tiếp quản đến đâu thì tỏa ra dán lên đến đấy. Đêm trước ngày 9 tháng 10 năm 1954, trời mưa to. Chúng tôi đang đóng trong một nhà dân ở  vùng này thì nhận được điện báo của tiểu đoàn là ở trạm gác khu vực Tương Mai đang làm nhiệm vụ có bốt địch ngay bên kia đường không có mái hiên. Chúng xin sang đứng nhờ. Tổ canh gác xin ý kiến trung đoàn. Chúng tôi báo cáo chỉ huy trung đoàn, rồi trả lời: "Cứ cho chúng đứng nhờ, nhưng phải canh gác và tạnh mưa là bắt chúng trở về chỗ cũ ngay". Một đêm phấp phỏng đầy lo toan nhưng tràn trề niềm vui chiến thắng đã qua đi gần như thức trắng. Sáng hôm sau, ra Mai Lĩnh, nhìn thấy đường nhựa, tôi sướng quá, nằm lăn ra đường một lúc cho khoái. Tám chín năm nay chỉ toàn đi đường rừng.


Phía trước, chúng tôi còn trông thấy xe tăng, xe bọc thép của Pháp vòng đi vòng lại để "diễu võ dương oai" và đe dọa nhân dân. Đó là những lực lượng canh gác cuối cùng. Chỉ nghe đồn đại quân của chúng đã rút về khu tập kết ba trăm ngày dưới Hải Phòng. Trước lúc đi, chúng cũng làm lễ "cuốn cờ" và cũng ra "quân luật" cấm đoán nhân dân đủ thứ. Trông phố xá vắng teo thì biết.


Trung đoàn tôi từ Văn Điển đi về Bạch Mai. Đến đây, lại gặp đường nhựa, đường số 1 thênh thang. Tôi lại lăn ra đường một lần nữa để tận hưởng cái hạnh phúc của người Hà Nội trở về. Nhưng điều làm tôi xúc động nhất, là sau cái phút ắng lặng như chết chóc của giờ phút hết bóng quân viễn chinh Pháp, là đã thấy đoàn quân mũ vải, nan tre, áo Tô Châu, giầy vải vào rầm rập trên đường, súng ống đầy vai, đạn đeo trước ngực, thì tất cả òa lên một sức sống như ngòi nổ đã bị nén chặt từ lâu, theo quân luật, họ chưa được ra đường. Nhưng trên các ô cửa, các nóc nhà, lề đường rặng găng cổng ngõ ra vào, cờ đỏ đủ cỡ mọc lên đan chen nhau một cách đột ngột. Thì ra nhân dân đã được lãnh đạo tổ chức chuẩn bị từ trước rất chặt chẽ. Họ làm gì có tập dượt dưới mũi súng kìm kẹp của kẻ địch. Vậy mà hôm nay họ ào lên thật đồng loạt. Chúng tôi ngây người vì xúc động. Trong tâm can tôi còn một điều suy nghĩ lắng sâu: bao giờ cho tôi được đi qua phố Tràng Tiền. Bố mẹ ơi con đã về đây. Cách nhà ta chỉ độ vài cây số.


Đến ngày 10 tháng 10 năm 1945, quân ta ào ạt tiến vào theo năm cửa ô. Lúc này, bổn phận của chúng tôi là phải tập trung vào canh gác, tuần tra, đảm bảo an ninh trong khu vực được phân công.

Phải vài ba ngày sau, tôi mới nghĩ đến việc đi tìm gia đình.

Hôm ấy, tôi cùng anh Ngô Ngọc Dương, mỗi người đi một xe đạp, tiến hành một cuộc vòng quanh xem xét khu vực tiếp quản. Đến đầu Hàng Khay giáp phố Tràng Tiền (lúc đó là phố Gô-đa), là hết phạm vi phụ trách. Ý muốn tạt qua nhà làm tôi nói quanh nói quẹo cùng anh Dương:

- Cứ như tư tưởng chiến thuật của chúng ta, nơi tiếp giáp là phải trùng nhau giữa hai lực lượng tiếp cận để khỏi lòi ra kẽ hở. Ta đi quá lên một đoạn đến Nhà hát lớn xem sao anh!

Anh Dương chưa biết rõ ý đồ của tôi, anh liền đồng ý. Tôi mừng thầm trong bụng và thong thả đạp xe lên trước. Tôi đi từ từ và quan sát kỷ hai bên đường. Tìm con số 39. Đã đến khoảng trống Nhà hát lớn mà chẳng thấy bóng dáng người nhà tôi đâu cả. Tôi buồn bã cùng anh Dương quay trở lại. Đi đến trước rạp Ê đen (nay là rạp Công Nhân) thì trông thấy mẹ tôi đứng ngay phía bên kia đối diện cửa rạp. Tôi mừng quá suýt lao cả xe lên vỉa hè. Cho đến khi tôi phanh két xe, nhảy xuống, bà mới nhận ra. Vẻ ngỡ ngàng, rồi sau đó bà òa lên, ôm chầm lấy tôi.

- Ôi, con, thằng Tráng, con cao lớn đổi khác thế này ư? Ở nhà nghe tin con đánh trận Điện Biên cứ lo lo là!

Tôi nghẹn ngào nhìn vào khuôn mặt đã nhăn nheo của mẹ. Nhưng cặp mắt và đôi môi mẹ vẫn vẹn nguyên nét nhân từ, hiền dịu của những ngày đưa tiễn tôi ra đi khỏi thủ đô.

Anh Dương lúc đầu mở to mắt ngơ ngác - sau đó anh quay mặt đi, có lẽ vì xúc động. Tôi hỏi thăm sức khỏe mẹ và tình hình gia đình qua vài câu bối rối. Nhà tôi ngay ở trong ngõ phía sau nhà ăn Tràng Tiền bây giờ. Mẹ kéo áo chúng tôi vào. Nhưng lấy lý do đang làm nhiệm vụ, chúng tôi khất mẹ đến ngày nghỉ cuối tuần.


Nhưng hôm ấy về, anh Chu Thanh Hương - chính ủy trung đoàn, biết chuyện. Ngay sáng hôm sau, anh bảo tôi:

- Đây tớ một xe, cậu một xe. Cậu đạp trước dẫn đường. Ta về nhà cậu, thăm ông bà cụ và gia đình.

Anh nói xong phóng xe ra trước. Tôi vội vàng "chấn chỉnh quân trang" rồi tót lên pê-đan đạp theo.

Xe rẽ vào ngõ ở số 39 Tràng Tiền. Bố tôi ra đón, mời vào nhà, cụ pha nước rất lẹ tay và cẩn trọng. Cụ nói rõ tình hình một cách minh mẫn, rõ ràng mạch lạc. Còn mẹ tôi, sau phút xúc động, vẫn con mắt nhân từ, giọng nói ngọt ngào, ấm áp. Mẹ kể lại:

- Hôm đại quân ta vào, con có biết không, mẹ ra đón từ đầu đến cuối phố Tràng Tiền, hết khối quân này, đến khối quân khác, chẳng thấy tăm hơi con đâu cả. Mẹ buồn và lo quá, hay là ở lại Điện Biên... Sau mẹ đánh bạo, mẹ gặp một anh có dáng chỉ huy, mẹ hỏi đúng đơn vị con. Anh ta bảo "Bà ra Đấu Xảo mà tìm". Ra Đấu Xảo, họ lại nói là đơn vị con đóng ở ga Hàng Cỏ. Đến ga Hàng Cỏ, lại có người bảo quay về Đấu Xảo. Mẹ buồn tủi, nghĩ bụng: Có lẽ chưa được phép gặp con. Tình thế còn đang quân luật". Đến lúc quay về, nói lại cả nhà nghe bố con chỉ cười "bình chân như vại": "Bà cứ yên tâm. Nó chưa chết đâu! Nó có chân rồi nó khắc về".

Sáng hôm đó, bố tôi thết hai anh em một bữa thịt bò khô chính hiệu đặc sản Hà Nội. Tám chín năm nay, bây giờ người Hà Nội mới lại được nhấm nháp vị ngọt bùi của thịt bò khô Hà Nội. Cái xe đẩy với tiếng kéo thép xắp đanh đanh. Sao mà thân thương thế!

(Trọng Khoát ghi)


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:27:36 am
ÔNG GIÀ Ở NGÕ CHỢ


MẠNH LÂN


Đường vào chợ Khâm Thiên có 12 ngõ nhỏ ngoắt ngoéo, chật chội. Tìm được ngõ 4 rồi mà hỏi mãi mới thấy nhà ông Giang. Trong ngôi nhà nhỏ mang số 24, tôi gặp một cụ già móm mém với hai hàm răng giả; nhưng nhìn vào đôi mắt nhân hậu tôi nhận ngay ra anh.


Anh cởi mở: "Từ lâu tôi không còn liên lạc được với anh em quyết tử, nay mới gặp lại anh!" Mời tôi uống nước, anh từ tốn: "Mấy hôm nay tôi mệt, với lại nhiều tuổi đã hay quên".

Đúng là anh yếu thật. Đã 78 tuổi, lại qua ba lần mổ chữa bệnh và vết thương củ tái phát. Nhưng ẩn sau giọng nói là sự khiêm tốn vẫn không thay đổi như từ thuở nào. Hàn huyên chuyện củ, hình ảnh người chỉ huy một mũi tiến công vào sân bay Gia Lâm hơn 50 năm về trước mà tưởng mới qua đấy chưa lâu...


Trận tập kích sân bay Gia Lâm đêm 17 rạng sáng 18 tháng 1 năm 1947 là trận đầu tiên bộ đội ta đánh vào căn cứ không quân. Địch tổ chức bố phòng chu đáo. Ngoài lực lượng canh gác, còn một tiểu đoàn lính Lê - dương có xe tăng yểm hộ sẵn sàng ứng cứu.


Ban chỉ huy trận đánh gồm đồng chí Đặng Việt Châu, chỉ huy trưởng; hai phó chỉ huy là Trần Cư, Lê Hồng, thực hiện 3 mũi đánh vào. Hướng Bắc do lực lượng tự vệ cảm tử đi theo hướng Bồ Đề, Lâm Du tiến vào khu để máy bay ném bom Đa-kô-ta. Hướng Nam do lực lượng Vệ quốc đoàn đánh vào chính diện sân bay. Hướng đông là đội công tác phá hoại có tăng cường đội Quyết tử quân chúng tôi, đánh vào nhà Hăng-ga nơi để máy bay Xpi-phai, nhà ở của bọn phi công và sĩ quan chỉ huy.


Đội Quyết tử chúng tôi sau gần một tháng chiến đấu ở thành Cửa Bắc, nhà máy nước tròn Hàng Đậu, đường Quán Thánh, ngõ Yên Ninh, được tập hợp huấn luyện cấp tốc 3 ngày tại sân đình Tứ Tổng. Một sĩ quan công binh "Việt Nam mới" dậy tập đâm bom ba càng, sử dụng chai xăng đánh xe tăng, phá máy bay. Kết thúc lớp học, chúng tôi đi làm nhiệm vụ ngay. Lễ tiễn đưa thật xúc động. Nhân dân địa phương, đại biểu các đoàn thể quàng lên cổ chúng tôi chiếc khăn chéo đỏ do chị em phụ nữ thêu hai chữ Q.T. Chiếc khăn là lời thề, là biểu tượng quyết tử hy sinh chiến đấu.


Chúng tôi vượt sông Hồng, qua đường 5, tập kết ở Phù Đổng, chiều tối qua bến Dương Hạ bằng hai chiếc đò nan. Bí mật giấu quân ở Vo Vàng dưới những rặng táo và các vườn lá dong xanh um, cao lút đầu người.


Ở đây, máy bay địch vừa đánh phá buổi chiều. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảnh hoàng hôn chập choạng, một ngôi nhà lá đổ sập, giữa nhà trên, cái phản lật nghiêng, tung tóe mâm cơm đang ăn dở; năm xác chết cả đàn bà, trẻ em. Chúng tôi đứng lặng người. Những chiếc khăn quàng đỏ có hai chữ Q.T quàng trên cổ chúng tôi như máu ứa ra từ những vết thương.


Xuất phát từ gốc gạo làng Vàng và cũng lấy cây gạo cao nhất vùng làm điểm tập kết nếu bị lạc. Theo trinh sát, đến 0 giờ 30 phút chúng tôi mới luồn qua hàng rào thứ tư. Mũi do anh Giang chỉ huy nhanh chóng vượt qua đường băng vào thẳng nhà Hăng-ga, khu chứa nhiên liệu bay.


Khi lửa khói bốc vọt, trong tiếng súng hỗn loạn, tiếng gầm rú của xe tăng; đạn xít-tốc của ta phát một bắn vào nhà của bọn giặc lái, anh em chúng tôi lao lên đặt bom vào chiếc Xpi-phai và giật nụ xòe.


Kết thúc trận đánh, một số anh em hy sinh, bị thương đã được đưa về địa điểm quy định. Số lạc đường cũng đã về đến Vo Vàng, nơi có cây gạo cao nhất vùng, vẫn không thấy bộ phận của anh Giang. Sau hơn một ngày tìm kiếm, chúng tôi đành tổ chức lễ truy điệu những người mất tích vì chắc anh em đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không chịu để giặc bắt.


Chiều ba mươi tết, mọi người chuẩn bị ăn tất niên với bà con địa phương thi nghe tin anh đã trở về. Có người đang giặt giũ, có người đang cắt tóc dở dang cũng vất đấy mà ra đón các anh. Mừng vui khôn xiết. Hóa ra bộ phận của anh bị kẹt ở khu Hăng-ga không trở ra đường cũ được phải bám theo rìa sân bay lên hướng Bắc tìm cách ra đê sông Hồng.


Gặp một số anh em hướng đấy cũng đang tìm lối ra. Bộ phận này hầu hết là người ở Việt Bắc về, chưa quen thung thổ; Lê Hồng bị thương khá nặng ở cổ và vai nên không nắm liên lạc chỉ huy được. Lúc này anh Giang cũng bị thương ở cánh tay, máu chảy nhiều. Cùng đồng đội dìu Lê Hồng, mệt lả từng bước theo dọc đê. Khoảng 7 giờ sáng đến được Cự Khối. Du kích và nhân dân địa phương nghe đánh sân bay đã tự động tổ chức đón anh em lạc đường. Lê Hồng bị nặng được bà con băng bó và dùng đò đưa ngay sang bệnh viện Thường Tín. Bộ phận anh Giang được ăn uống, nghỉ ngơi qua đêm. Sáng 30 tết, du kích dẫn đường về hậu cứ Phù Đổng như kế hoạch quy định.


Sáng mồng một tết, mọi người dậy sớm tập hợp chào cờ và chúc tết bà con ở giữa sân đình thờ Đức Thánh Gióng. Bộ đội quyết tử được bà con đón về từng nhà ăn tết. Tối mồng một, chúng tôi tổ chức một đêm kịch liên hoan với bà con. Đêm kịch là lời cảm ơn sự chăm sóc của đồng bào và cũng là lời tạm biệt. Sớm mai chúng tôi đã phải hành quân. Cũng từ đấy tôi và anh Giang xa nhau!


... Trò chuyện với một cụ già hom hem mà trong đầu tôi cứ chập chờn hình ảnh anh thanh niên vạm vỡ, hình ảnh một cán bộ xông xáo trong ánh lửa của xăng cháy giữa phi trường đêm nào.

Có tiếng nô cười râm ran của các em học sinh tan học đi qua cửa. Những chiếc khăn quàng đỏ trên cổ các em tíu tít bay trong ngõ.

Các em ơi, trong mỗi ngõ nhỏ chúng ta sống hôm nay, đang "mai danh ẩn tích" không chỉ một người Anh hùng.

M.L


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:29:22 am
BÀN TAY BÁC ẤM, ẤM CẢ LÒNG TÔI


NGUYỄN THẾ LÂM


Cuối năm 1964, khi tôi về nhận nhiệm vụ tư lệnh pháo binh đúng lúc toàn binh chủng đang thi đua sôi nổi hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ trong Hội nghị chính trị đặc biệt "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt!".


Khắp các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ đều hăng say rèn luyện nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ hiệp đồng, phục vụ cho những cách đánh truyền thống của quân đội ta.

Trong một buổi làm việc với anh Nguyễn Đôn từ chiến trường Khu 5 ra, yêu cầu đầu tiên của anh cũng là làm thế nào tăng cường được sức mạnh hỏa lực mà chỉ dùng pháo khênh vác (tất nhiên sau này có điều kiện sẽ phải cần pháo xe kéo).


Yêu cầu của anh Nguyễn Đôn càng thôi thúc chúng tôi dốc tâm dốc sức suy nghĩ nhiều hơn. Cho tới một hôm, nhân lên thăm tiểu đoàn pháo phản lực BM-14 tôi nảy ra một ước muốn: Giá mà tháo được những nòng pháo này xuống để khênh đi chiến đấu thì hay biết mấy. BM14 chính là những dàn hỏa tiễn "Ca-chiu-sa" mà quân đội Liên Xô đã sử dụng trong cuộc chiến tranh chống phát xít Đức xâm lược.


Một thời gian sau đó, Bộ Tổng tham mưu thông báo cho chúng tôi cử cán bộ xuống sân bay Bạch Mai đón nhận hàng viện trợ của Liên Xô đưa sang.

Loại pháo này sẽ dùng để hoạt động ở chiến trường B nên chúng tôi gọi là ĐKB cho dễ nhớ. Còn loại do ta cải tiến ống phóng pháo thì được đặt tên là A12. Sau này trong chiến đấu, mỗi lần báo cáo tình hình các đơn vị chỉ ghi đạn A, đạn B, có nghĩa là đạn A12 và đạn ĐKB.


Ta gọi là ĐKB nhưng các đồng chí Liên Xô thì gọi bằng cái tên "mưa đá - đá lửa" lên đầu bọn xâm lược Hoa Kỳ.

Như vậy là cùng một thời điểm rất ngắn và khẩn trương, chúng tôi đã được hai loại pháo phản lực mang vào cùng dòng dõi họ hàng "Ca-chiu-sa".

Chúng tôi vô cùng sung sướng được Bộ Tổng tham mưu cho biết chính Bác Hồ cũng đã thay mặt Trung ương Đảng ta đề nghị Liên Xô nghiên cứu sản xuất chi viện cho ta loại pháo đặc biệt này, cho phù hợp với điều kiện chiến trường Việt Nam. Như vậy là những kết quả cố gang của bộ đội pháo binh đã làm theo đúng ý kiến của Bác.


Đầu tháng 4 năm 1966, chúng tôi tổ chức bắn thực nghiệm ĐKB. Anh Trần Sâm, đại diện Bộ Quốc phòng đến xem bản. Bắn xong, anh dặn tôi chuẩn bị tổ chức bắn một lần nữa, sẽ mời các đồng chí trong Quân ủy Trung ương đến tham quan.


Khoảng 12 hay 13 tháng 4 năm 1966, Bộ Tổng tham mưu thông báo cho chúng tôi biết: lần này không chỉ có Quân ủy Trung ương mà cả các đồng chí trong Bộ Chính trị cũng lên xem bắn.

Tôi lên trường bắn để kiểm tra, động viên anh em chuẩn bị thêm cho chu đáo. Hôm trở về cơ quan, anh Hoàng nói nhỏ với tôi: "văn phòng Quân ủy Trung ương mới cho biết, có khả năng Bác cũng cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị" lên xem bắn các loại pháo phản lực.


Đối với bộ đội pháo binh, đây không phải là lần đầu tiên được đón Bác.

Trong những ngày chiến đấu chống thực dân Pháp, đúng vào đầu mùa Xuân thứ tám (1953), trung đoàn 45, đơn vị pháo 105 đầu tiên của quân đội ta đã vinh dự được Bác đến thăm.

Trong thời kỳ xây dựng chính quy sau khi hoà bình được lập lại trên miền Bắc do thắng lợi của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Bác Hồ cũng đã nhiều lần đến thăm bộ đội pháo binh.

Bác đã tới thăm lớp học của cán bộ chủ trì toàn binh chủng tại cơ quan Bộ tư lệnh pháo binh, và cán bộ chiến sĩ lữ đoàn 374, Trung đoàn 208 cũng đã từng được đón Bác.

Sáng sớm chủ nhật ngày 17 tháng 4 năm 1966, trời vẫn còn lạnh, mấy anh em chúng tôi trong Bộ Tư lệnh binh chủng đã phân công nhau đi kiểm tra lại lần cuối các khâu chuẩn bị bắn. Tôi được phân công ra khu tập kết xe ô tô để trực tiếp đón Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Quân ủy Trung ương.


Đoàn xe vừa dừng, Bác xuống xe. Tiếp đó là các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Hoàng Anh, Song Hào, Lê Quang Đạo..., đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn hôm ấy vì bận không lên, nhưng một tuần sau đó tôi lại được trực tiếp đón và đưa đồng chí đi xem bắn.


Gặp Bác lần này, tuy Bác có già hơn, gầy hơn nhưng tôi vẫn thấy Bác giữ nguyên vẻ linh hoạt, nhanh nhẹn. Thật là điều đặc biệt.

Để Bác và các đồng chí lãnh đạo đi xem ngay những nòng pháo phản lực do ta cải tiến sản xuất và do Liên Xô viện trợ, chúng tôi bố trí riêng hai khẩu A12 và ĐKB ở gần đường cái (đường Xuân Mai Sơn Tây).


Trời lắc rắc mưa. Bác bước nhanh tới nơi bộ đội đang tập hợp. Anh em vỗ tay ngay từ lúc Bác vừa ở trên đường cái rẽ vào. Thấy Bác vẫn giản dị với chiếc mũ công nhân dạ cũ, bộ quần áo ka-ki bạc trắng, đôi dép lốp mòn vẹt, có đồng chí rưng rưng nước mắt.


Nhìn khẩu A12 ghếch nòng trên bệ đất được chằng giữ bằng dây thừng to với cái mũ bộ đội chụp lên hộp điện để chống mưa, Bác nói vui:

- Cái này đích là hàng nội hóa!

- Dạ! - Tôi thưa với Bác.

Bác cười với vẻ hài lòng và nhìn qua đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng. Bác ngợi khen tinh thần dám nghĩ, dám làm để phục vụ kịp thời cho chiến trường của cán bộ, chiến sĩ ta.

Khi nghe giới thiệu khái quát về tác dụng của từng loại, Bác hỏi:

- Mỗi viên đạn nặng bao nhiêu?

- Báo cáo Bác, đạn A12 nặng gần 40 ki-lô-gam, còn đạn ĐKB nặng 45 ki-lô-gam ạ.

- Các chú tổ chức mang vác như thế nào?

Tôi liền báo cáo cách thức tổ chức một khẩu đội, về sự phân công, sự hiệp đồng giữa các pháo thủ khi có hành quân cũng như khi thao tác bắn. Tiếp đó, đồng chí Nguyễn Trung Lực giới thiệu cách nạp đạn, phòng đạn và đã chỉ huy anh em thao tác trình diễn. Do đã tập luyện thuần thục nên động tác của các anh em rất nhịp nhàng, ăn khớp.


Bác chăm chú theo dõi các pháo thủ thao tác và tỏ vẻ hài lòng. Thời gian dừng lại ở trận địa không nhiều, sau đó Bác cùng các đồng chí lãnh đạo đi lên vị trí xem bắn đạn thật ở đồi Cốt Sủ.

Đường đi lên đồi vừa dốc vừa hơi trơn, tôi liền đi sát với ý định đỡ tay Bác, nhưng Bác cứ ung dung bước đi từng bước một.

Trước khi bắn, tôi báo cáo tóm tẳt các phương án và giới thiệu khu vực mục tiêu. Tôi nói hơi dài về kỹ thuật pháo binh, có lúc dùng từ ngữ chưa thông dụng khiến cho Bác phải hỏi lại, sau đó Người uốn nắn:

- Bất cứ lúc nào, ngôn ngữ quân sự cũng phải ngắn gọn, dễ hiểu.

Phê bình xong, Bác lại nêu luôn những ví dụ làm cho chúng tôi tiếp thu rất thoải mái. Cuối cùng, tôi xin phép cho được bán. Bác gật đầu.

Chấp hành khẩu lệnh từ đài quan sát, các trận địa lần lượt "điểm hỏa". Những trái đạn A12, ĐKB nối tiếp nhau vun vút bay trong không trung, réo ầm ầm và phụt về phía sau những dải lửa màu da cam sáng rực.


Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường trực quân ủy Trung ương rất vui khi thấy đạn nổ đúng vào mục tiêu. Bác quay lại nhìn đồng chí Võ Nguyên Giáp khen bắn tốt và căn dặn: phải chú ý tiết kiệm đạn!


Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Bác và các đồng chí lãnh đạo khen ngợi bộ đội pháo binh trong một thời gian ngắn chuẩn bị và huấn luyện đã làm chủ vũ khí mới. Đồng chí nhắc nhở phải chấp hành chỉ thị của Bác, thay thế những từ ngữ mà Bác đã phê bình và có biện pháp để tiết kiệm đạn.


Trước khi Bác ra về, tôi báo cáo thêm với Bác là những đại đội bắn trình diễn sáng nay đều thuộc những đơn vị sắp lên đường làm nhiệm vụ. Hiểu ngay đó là những đơn vị sắp vào chiến trường, Bác dặn tiếp:

- Pháo đạn nặng nề, mang vác cồng kềnh nên khi đi làm nhiệm vụ sẽ gặp nhiều khó khăn. Phải động viên anh em dù khó khăn mấy cũng phải kiên quyết vượt qua để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Nghe Bác nói, một lần nữa tôi bồi hồi xúc động vì Bác quan tâm thấu hiểu những vất vả gian nan của chiến sĩ pháo binh; pháo nặng nề, mang vác cồng kềnh.

Khắc sâu lời Bác dặn: "Phải tiết kiệm đạn!", "Đi làm nhiệm vụ sẽ gặp khó khăn. Dù khó khăn mấy cũng kiên quyết vượt qua để hoàn thành tốt nhiệm vụ", chúng tôi khẩn trương chuẩn bị cho các đơn vị đi vào chiến trường.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:30:18 am
Tiểu đoàn 99 - pháo A12 chiến trường Quảng Nam -   Đà Nẵng.

Trung đoàn 84 - Pháo ĐKB vào miền Đông Nam Bộ.

Khi anh em lên đường, cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ trên đường đi rất ác liệt, hành quân mang vác vất vả, gian nan nhưng mọi người vẫn đinh ninh nhớ lời Bác dặn. Phát huy tinh thần quyết chiến và quyết thắng, mặc cho bom rền pháo dội, mặc suối sâu đèo cao vực thẳm, không cái gì có thể ngăn cản được cán bộ, chiến sĩ ta đi đến đích và lập công giòn giã.


Thật vậy, tiểu đoàn 99 đã cõng pháo vác đạn đi liền ba tháng ròng mới vào tới đất Quảng Nam "kiên cường đi đầu diệt Mỹ". Và trung đoàn 84 đã hành quân bền bỉ suốt hai trăm ngày đêm mới tới đất miền Đông "gian lao mà anh dũng". Trên đường đi, trung đoàn trưởng Trần Đáo, chính ủy trung đoàn Nguyễn Lại đã mãi mãi nằm xuống với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ.


Không một ai có thể nhớ mình đã vượt qua bao nhiêu núi bao nhiêu rừng, đã băng qua bao nhiêu suối, bao nhiêu sông, đã trèo bao nhiêu đèo, bao nhiêu dốc. Ngày tiếp ngày lưng đeo ba lô căng phồng, những trang bị của người đi chiến đấu, vai lại khiêng súng, vác gạo... chân như chùn lại, đầu gối như long ra, tai ù, vai ê ẩm, nhưng không một ai lùi bước. Nhiều khi phải vượt qua những khu vực máy bay B.52 rải thảm, cây cối ngổn ngang, đất đá bị cày xới.


Vậy mà bước vào chuẩn bị cho những trận đánh mở man cho loại đạn phản lực mang vác lại càng khó khăn gian truân gấp nhiều lần so với những đêm ngày "hành quân xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước".


Cậy có bom lắm đạn nhiều, phương tiện sẵn sàng, giặc Mỹ đánh phá rất dữ dội xuống khắp núi rừng, xuống mọi con đường nghi ngờ ta tiến quân, cày ủi, phát quang bao làng xóm, mở rộng vành đai trắng nhằm ngăn cản lực lượng vũ trang ta thâm nhập. Đã thế, chúng còn liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét, lùng sục khiến ta khó ém quân, giấu đạn.


Đế quốc Mỹ không biết rằng chúng càng đánh phá ác liệt bao nhiêụ thì lòng căm thù của quân và dân ta càng ngùn ngụt bấy nhiêu. Nhân dân đã góp sức chung tay cùng bộ đội đánh Mỹ, diệt Mỹ. Bà con cô bác sẵn sàng che mắt địch, gánh vác súng đạn, tạo điều kiện cho bộ đội pháo binh áp sát địch, dội đạn vào đầu chúng. Có lẽ trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, ít có trận nào như trận đầu tiên tiểu đoàn 99 ra quân giáng đòn sấm sét vào sân bay Đà Nẵng đêm 27 tháng 2 năm 1967.


Trong tình thế đồn bốt Mỹ ngụy ken dày, đêm cũng như ngày chúng lùng sục ráo riết, muốn điều tra nghiên cứu tình hình mục tiêu, đo đạc chuẩn bị trận địa, cán bộ chiến sĩ đã phải bằng con đường hợp pháp với sự hướng dẫn, giúp đỡ rất kín đáo của bà con, của du kích mật ở các địa phương. Cho tới ngày vận chuyển đạn từ vùng giáp ranh vào vị trí trận địa, tuy đã bị Mỹ ngụy kìm kẹp, o ép nhưng hàng ngàn người đã xung phong đi vác đạn.


Sức mạnh làm nên chiến công của tiểu đoàn 99 đêm 27 tháng 2 năm 1967: diệt hơn 1.000 tên Mỹ, phá hủy 200 xe quân sự, thiêu cháy 94 máy bay phản lực... là sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sức mạnh của ý chí quyết chiến, quyết thắng mà Bác Hồ đã giáo dục lực lượng vũ trang nhân dân ta và đó cũng là ý chí, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ pháo binh quyết thực hiện lời Bác dạy khi Bác đến thăm động viên đơn vị.


Nối tiếp chiến công của tiểu đoàn 99 là những chiến công của các đơn vị pháo ĐKB ở chiến trường Bẳc Quảng Trị, ở miền Đông Nam Bộ.

Những trận đánh mở đầu, chúng ta đều đánh tập trung từng trung đoàn pháo phản lực mang vác, bắn hàng ngàn trái đạn trong một trận, dội lửa vào căn cứ 241 ở phía Nam đường 9 đã làm cho Mỹ nín thinh không dám phản ứng gì, mặc dầu trước đó, bọn "lính cổ da" tuyên bố rằng đây là "mảnh trời riêng" của chúng. Hoặc như trận đánh vào sân bay Biên Hòa đêm 2 tháng 5 năm 1967 cũng vậy, cả trung đoàn 84 xuất quân, đã nổi lửa thiêu cháy ngót 100 máy bay Mỹ, buộc sân bay Biên Hòa, một căn cứ không quân chiến lược nằm sát Sài Gòn phải ngừng hoạt động mấy ngày.


Trong những ngày này, bộ đội pháo binh ở hai miền Nam Bắc đều lập được nhiều chiến công vẻ vang. Bác Hồ đã chăm chú theo dõi những hoạt động của binh chủng chúng tôi. Sung sướng nhất là chiều ngày 10 tháng 1 năm 1967 nhận được điện của Tổng cục Chính trị cho biết: Sáng nay, Bác Hồ đã gửi thư khen bộ đội pháo binh. Sáng hôm sau, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và các báo, đài truyền đi thư khen này.


Bộ đội pháo binh một lần nữa vinh dự được Bác Hồ động viên cổ vũ. Đầy là bức thư của Bác gửi riêng cho bộ đội pháo binh. Ngay từ dòng đầu tiên Bác viết: "Pháo binh ta có truyền thống oanh liệt CHÂN ĐỒNG VAI SẮT, ĐÁNH GIỎI, BẮN TRÚNG".


Tiếp đó, Bác dặn: "... Chớ vì thắng lợi mà chủ quan. Phải nêu cao chí khi "quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết phối hợp tốt với các đơn vị bạn và nhân dân, nắm vững chiến thuật, kỹ thuật, giữ gìn xe tốt, pháo tốt, tiết kiệm đạn dược...".


Đọc thư Bác, trong chúng tôi ai nấy như thấy mình được tiếp thêm sức mạnh. Nhiều đơn vị đã kịp thời tổ chức mít-tinh, nhiệt liệt đón mừng thư của Bác.

Cuối năm 1967, để thực hiện nghị quyết lịch sử của Bộ Chính trị Trung ương Đảng "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Quân ủy Trung ương đã triệu tập cán bộ cấp cao về để phổ biến nhiệm vụ chiến đấu xuân Mậu Thân.


Hôm ấy, Bác Hồ đã đến, trông Bác khỏe và vui hơn.

Đây là thời điểm quân và dân ta đang giành thắng lợi liên tiếp. Miền Nam đánh thẳng nhiều trận lớn. Miền Bắc bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ.

Sự có mặt của Bác ở Hội nghị này như thôi thúc giục giã mọi người trước khi bước vào trận chiến đấu mới. Đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương lần lượt giới thiệu với Bác một số cán bộ chủ trì của các quân khu, quân chủng, binh chủng.


Vinh dự cho Binh chủng Pháo binh nói chung và cho chúng tôi nói riêng, sau lời giới thiệu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Tạ Xuân Thu, Chính ủy pháo binh và tôi, Tư lệnh pháo binh, được đi lên trước bàn Đoàn chủ tịch hội nghị để Bác Hồ bắt tay.


Bác cầm bàn tay từng người. Và vẫn như hôm đón Bác lên xem bắn pháo, bàn tay Bác ấm, làm cho ấm cả lòng tôi. Vừa sung sướng, vừa cảm động, tôi rơm rớm nước mắt. Và tôi có ngờ đâu đây lại là lần gặp Bác cuối cùng.


Đã bao năm tháng qua đi, nhưng hình ảnh Bác Hồ cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị, trong Quân ủy Trung ương đến thăm các trận địa pháo phản lực, ngồi trên đài quan sát xem bắn hoặc đến thăm các lữ đoàn, trung đoàn pháo, cũng như thư khen của Bác nay vẫn là những hiện vật, những bút tích vô cùng quý giá được trưng bày trang trọng không chỉ trong nhà truyền thống của binh chủng mà còn được treo ở trung tâm phòng Hồ Chí Minh ở hầu khắp các đơn vị pháo. Và, những lời căn dặn ân tình của Bác luôn được cán bộ, chiến sĩ toàn binh chủng ra sức phấn đấu.


Nỗi niềm mong ước của Bác trước lúc đi xa đã trở thành hiện thực. Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, Bác Nam đã sum họp một nhà. Góp sức làm nên sự nghiệp lớn đó có phần nhỏ bé của các lực lượng pháo binh trong cả nước.

N.T.L


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:31:37 am
ÔNG GIÁM ĐỐC NHÀ TRẺ


QUÁCH XUÂN HÒA


Tôi vào B2 từ đầu năm 1961, thuộc lớp cán bộ tăng cường cho chiến trường miền Nam. Sau năm 1975 tôi đón vợ vào sinh cơ lập nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Lần này tôi ra Hà Nội thăm lại bạn bè xưa, đến với ông bạn chiến đấu đã một thời cùng chung đơn vị. Tôi làm tham mưu trưởng. Ông là chính ủy trung đoàn.


Hai chúng tôi thuộc lớp đàn em so với những anh đi trước như đã thuộc lớp "già làng". Mỗi khi gặp nhau chuyện dứt không ra, như một thứ keo kết dính cả không gian của một thời khói lửa, đầy ắp những buồn vui.


Tôi đến thăm ông vào một buổi chiều tháng tám, ông ở mãi tầng 5 một khu nhà tập thể, phải leo cả thảy sáu mươi bậc mới lên đến phòng ông. Lòng tôi dạt dào niềm vui, đã qua cái thời ở hầm, nằm võng. Chợt nhớ tới câu hò của bộ đội ta hồi đánh Pháp, đánh Mỹ.

"Đèo cao thì mặc đèo cao
Ta lên tới đỉnh còn cao hơn đèo"

Tôi gõ cửa. Nhà ông có chuông điện nhưng lại ghi mấy chữ "Buổi trưa xin đừng bấm chuông". Tôi thầm nghĩ ông này chính quy thật, về hưu vẫn giữ nếp ngủ trưa. Nhà hướng tây, nắng tạt vào hai phần ba căn phòng trông rõ từng đám bụi bay bay. Mặt tôi bừng bừng. Mồ hôi nhễ nhại. Mừng quá, ông không để tôi kịp thở, hỏi luôn một câu:

- Ông có huyết áp không?

- Thi thoảng chóng mặt.

Ông cười khà khà: Thời buổi chóng mặt, tôi cũng vậy. Ông pha cho tôi một cốc nước chanh. Tôi làm một hơi, lấy khăn thấm mồ hôi chùi môi chùi mép nói vui "tu cả bi đông khoái hơn". Mặt ông rạng rỡ khi ngắm bộ râu của tôi. Lúc này tôi mới để ý đến ông, thì ra ông đang cởi trần, mặc quần đùi bộ đội màu xanh lá cây. Bụng ông to như cái trống. Hai vú xệ xuống như vú đàn bà. Nôn nao ông giục tôi cởi bớt áo ngoài cho mát. Nóng quá, tôi đành làm theo ông. Vừa cởi áo vừa hỏi:

- Nhà ông mấy thế hệ?

- Ông cứ tự nhiên - Văn hóa gia đinh cũng chỉ là thói quen. Hồi đánh Pháp, chiến sĩ với mình là anh em. Đến thời đánh Mỹ ta với họ đã là chú, là cha. Đến bây giờ giữa chúng mình với chiến sĩ là ông và cháu. Trước sau vẫn bình đẳng, câu nệ làm gì. Tôi hỏi:    - Bà xã đâu?

- Bà nhà tôi về quê dự lễ quy tập mộ liệt sĩ trong Nam ngoài Bắc vào nghĩa trang quê nhà. Cũng đều là con cháu trong họ cả. Tối nay mời ông ngủ lại với tôi. Nằm giường đôi, giường cá nhân hay nằm võng thì tùy. Mọi việc đều chóng vánh như khi ta đào hầm mắc võng hồi chiến tranh. Dịch vụ rất nhiều hàng cơm ở ngay dưới chân nhà. Ba nghìn một xuất không khác gì khẩu phần bộ đội. Hôm nay có ông ra chơi tôi mua vài chai bia uống cho vui. Ông thích nhắm lạc rang hay bánh phồng tôm.

- Thế nào cũng xong.

- Nào ta bắt đầu.

Tôi ngơ ngác nhìn quanh rồi hỏi:

- Bắt đầu ăn hay uống.

- Đang còn giờ hành chính. Ta làm việc đã. Lát nữa tôi chỉ ló đầu ra ới một tiếng thì họ bưng lên tận phòng này. Thế ông ra lần này có việc gì.

- Trước khi nhận sổ hưu tôi ra thăm đất Bắc, về quê thăm họ hàng. Tôi đã vào nghĩa trang Văn Điển thăm lại mấy ông bạn đã thành người thiên cổ. Cũng như ở trong kia mỗi khi có một đồng chí mình nằm xuống tôi đã thay mặt ông có vòng hoa tiễn đưa bạn mình đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Ông gật gù khen "Thế là ông làm đúng lời nói của các cụ ngày xưa - Nén hương ở bãi tha ma đượm lòng nhân hậu hơn ở chùa".

- Tôi chả dám nghĩ thế, chỉ là chút tình của người lính, nhân chuyến đi xa này, tôi đã đến thăm cả cấp dưới, cấp trên. Nhiều ông đã chúc tôi một câu thật chí lý. "Chúc anh sống đẹp đi nhanh".

Ông vỗ vai tôi: "Đó là ý muốn của những người già, của cả lớp con trẻ và các bà xã".

Ông khoe: Bà nhà tôi rất hăng hái công tác xã hội, tham gia cấp ủy phường, là ủy viên Hội đồng nhân dân quận, Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở. Bà hoạt động không mệt mỏi, gặp đâu ăn đó. Tôi xài cơm bụi gọn nhẹ đơn giản. Hai vợ chồng chi tiêu vừa đủ lương hưu. Con dâu, con rể, trai gái đều tự lực được cả.

Hôm nay ông nói dài dài, khúc triết. Tôi nghe không chán. Bỗng nhiên có ba đứa trẻ ở trong buồng chạy ra. Chúng nhao nhao:

- Cháu chàu ông tiên ạ. Cháu chào ông tiên!

- Cháu của ông ngoan quá.

Ông bạn cho biết. Các cháu đã được nghe chuyện cổ tích, thấy ông râu dài nên các cháu chào ông như thế.

Ông bạn âu yếm nhìn các cháu. Tôi bỗng giật mình nghĩ tới ông tiên, định mặc áo xuống dưới nhà mua cho các cháu gói kẹo. Tôi thấy ông vào buồng. Lúc ra ông dúi vào tay tôi đúng thứ đang cần. Các cháu không nhìn thấy. Tôi thầm cảm ơn ông.

- Nào mời các cháu lại đây ông cho kẹo.

Ba cháu chạy đến bên tôi, mắt sáng lên nhìn chùm râu dài lạ lẫm, nuốt nước bọt chờ được ăn kẹo Hải Hà.

- Cháu xin ông ạ.

Bọn trẻ nhai kẹo đôm đốp mắt hau háu nhìn tôi như sợ ông tiên biến mất.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:32:37 am
Ông bạn tôi vắt chiếc chiếu ướt thấm lên ghế. Ánh nắng rọi vào mùi khai bốc lên hăng hăng. Ông nói "bọn trẻ đái dầm như sứa". Tôi sửng sốt nhìn các cháu nhập vai rất khéo. Một cháu cầm hai chiếc que gõ vào đầu "chiếu" đầu nghiêng nghiêng tay kéo một vệt dài như các cô chơi đàn Tơ Rưng. Cháu gái tự giới thiệu "Em xin hát bài - Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ". Cháu gái hát, cháu trai chụp ảnh, giục "tươi lên, tươi lên". Cháu khác ra tặng hoa. Cả ba cháu vỗ tay. Mặt đứa nào cũng rạng rỡ như hoa. Anh và hoa là những hộp nhựa xanh đỏ. Chúng biến hóa thành những đồ chơi khác nhau, tùy theo trí tưởng tượng như máy điện thoại, máy vi tính, xây nhà cao tầng, trồng cây bóng mát. Các cháu chơi bán hàng, làm cô giáo sắm vai nhà báo đến phỏng vấn ông giám đốc nhả trẻ. Ông bạn tôi chỉ vào đứa bé "có cái đầu hơi to quá cỡ". Nhà báo tí hon này hay đến phỏng vấn tôi. Cháu bé bước đến gần ông, cầm cái vỏ hộp bia giả làm mi-cờ-rô đưa sát vào miệng "Xin ông... ông cho biết nhà trẻ này cháu nào ngoan nhất". Ông chưa kịp trả lời, chúng tranh nhau "cháu, cháu". Tôi không hình dung nổi tuổi thơ của mình. Chắc không thông minh như thế. Tóc đứa nào cũng mượt mà như lụa. Cái gái trắng nõn, đôi má hồng hồng. Hỏi ra mới biết ông cắt tóc cho cả con gái, con trai. Cắt bằng kéo như lính ta thường cắt tóc cho nhau. Vô tình ông đánh dắm "bum, bủm". Ba cháu cùng cười reo "ông đốt pháo". Tiếng cười trong trẻo như một bản nhạc vui. Ông như trẻ lại. Tôi lạc vào thế giới tuổi thơ. Thôi ghen thầm:

- Ông hạnh phúc thật, về già vui với cháu nội, cháu ngoại thế này chẳng cần bận tâm đến thời cuộc.

Tôi càng ngạc nhiên khi ông kể:

- Từ ngày về hưu tôi làm cái việc trông trẻ. Ông chỉ vào từng cháu. Đứa này là con của một sĩ quan. Đứa kia là con nhà giáo. Con bé có má lúm đồng tiền là con của cặp vợ chồng đi Đức về đang buôn bán quần áo ở chợ Hàng Da. Tôi đã dạy dỗ nhiều lớp trẻ thơ. Nhóm này ra nhóm khác lại vào. Có cô chưa đẻ đã xí một chỗ, có chị còn hai tháng nửa mới hết thời gian nghỉ đã đến xin cho cháu được nằm trong cái nôi nhà này.


Con gái con trai tôi đã ở riêng. Chúng không muốn tôi trông trẻ. Chúng nói "đời bố trận mạc đã nhiều, về già lại chuốc lấy công việc nặng nhọc".

Đang vui câu chuyện thì cháu gái có má lúm đồng tiền nhăn nhó "ông ơi cháu đau bụng. Cháu muốn ị". Ông vội vàng dẫn cháu ra ngồi bô. Rồi ông rửa tay bằng xà phòng bột. Lúc ra, ông nói: tôi thuộc tính từng cháu. Đứa nào ngoan tôi thưởng. Thằng bé con sĩ quan rất thích chơi súng. Tôi mua cho cháu kiểu súng bắn ra nước. Nó bắn tôi ướt quần áo. Cả ba đứa cười reo như lính ta bắt được tù binh. Cậu bé con nhà giáo thích chơi gõ máy vi tính. Cháu gái hay làm nũng "Ông giới thiệu cháu đi. Cháu ra trình diễn mốt thời trang". Chúng líu lô như chim hót suốt ngày. Tôi xúc cơm cho các cháu ăn. Buổi trưa ngủ đúng hai giờ. Tôi kiểm tra giấc ngủ của các cháu như cán bộ kiểm tra chiến sĩ. Chính quy ra phết. Đến bốn giờ chiều tôi mở ti vi. Ông nghe thời sự. Cháu xem phim thủy thủ mặt trăng, xem phim hoạt hình, xem xiếc... Hết giờ tôi rửa chân tay chỉnh đốn lại trang phục chuẩn bị cho các cháu ra về.


Mải nghe chuyện tôi không nghĩ đến việc uống bia. Ông cũng quên nốt.

Bỗng đứa con của ông thầy dạy ngoại ngữ trường đại học với tay lên bàn làm rơi chiếc ấm pha trà kiểu Nhật. Một kỷ vật quý giá của ông. Ông ngồi xuống nhặt những mảnh vỡ cho vào thùng rác. Tay ông run run, cầm cái nâp ấm ngầm đi ngắm lại rồi đặt lên bàn. Ông xoa đầu đứa bé. Nó òa khóc. Tôi thầm nghĩ ông là "ông tiên không có râu", có thực trong đời thường. Ông ôm cháu vào lòng. Thằng bé đã nín. Nó thưa: "Ngày mai bố cháu mua đền ông chiếc ấm mới". Ông vội bảo cháu: Ông cũng có lúc nhỡ chân, nhỡ tay..." Thằng bé thật xinh, da trắng như sứ, đôi mắt tròn xoe ngước nhìn ông, biết lỗi.


Ánh nắng dịu dần. Có tiếng gõ cửa. Hai chúng tôi vội vàng mặc quần dài, áo ngoài. Các cháu chạy tọt vào trong buồng. Ông bạn tôi ra mở cửa. Năm bà mặc áo dài xanh đỏ lần lượt bước vào. Đi sau cùng là chị mặc áo dài xanh đội trên đầu một hộp cát tông. Tôi tưởng họ nhà trai đến ăn hỏi. Bà trưởng đoàn nhìn bao quát căn phòng. Tôi bàng hoàng. Bà tự giới thiệu.

- Xin thưa với hai cụ. Chị em chúng tôi đại diện cho Hội phụ nữ Quận trước hết đến thăm sức khỏe hai cụ, sau nữa, cũng nhân thẩm định chất lượng sinh hoạt vui chơi của các cháu. Nhóm trẻ gia đình của hai cụ, Quận biết đã lâu nhưng chúng tôi quan liêu quá, hôm nay mới hiện diện được. Chị em đem theo hộp đồ chơi của UNICEF tặng các cháu. Xin hai cụ nhận cho món quà nhỏ của Liên hiệp quốc, của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân quận và Hội phụ nữ chúng tôi. Xin cụ một chữ ký để lưu niệm - Chị chỉ vào dòng chữ UNICEF EDUC.MAP CENTRE HANOI. Chị đọc tự tin ở trinh độ tiếng Anh của mình.

Tôi đỡ lời: "Ít có nơi nào cụ ông làm giám đốc nhà trẻ. Mô hình này đẹp lắm. Hội phụ nữ nên đầu tư rồi nhân rộng điển hình".

Một bà thì thầm: "Hai cụ hợp tác liên doanh đẹp quá".

Bà nói giọng mũi: "Thưa hai cụ chúng tôi cũng định làm như thế".

Chị mặc áo xanh ngồi trên ghế xa-lông nhưng vẫn gọn gàng trông rõ đường co. Má chị ửng hồng, từ nãy đến giờ chỉ lẳng nghe, bây giờ mới chịu lên tiếng "Hai cụ quý trẻ em quá. Hồi còn là thủ trưởng chắc thương lính lẳm. Hội phụ nữ chúng em thường nhận được thông tin cán bộ trẻ bây giờ vẫn hay quát mắng chiến sĩ, làm nhiều bà mẹ xót xa lắm cơ đấy".


Tôi vội đỡ lời: "Chị thông cảm... Mô hình nào cũng thế. Nó phải đầu tư dài dài, phải đồng bộ cơ. Khi nhận thức nâng lên thì mọi hành vi tiêu cực giảm xuống. Cụ giám đốc nhà trẻ ở đây rất am hiểu tâm lý sư phạm giáo dục tuổi thơ".

Khách và chủ vỗ tay râm ran. Các cháu chạy ùa ra.

- Cháu chào các bà, các bác ạ.

Chị mặc áo xanh hớn hở: "Ôi cháu nào cũng xinh, sạch sẽ quá".

Ông bạn tôi nhìn các cháu, tủm tỉm đưa cả tay lên định vuốt râu. Thấy tôi đang làm động tác ấy, ông vội bỏ tay xuống, hai tay bưng đĩa chén mời nước từng bà, từng chị. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng các bà, các chị tỏ vẻ cảm kích lắm.


Lúc họ ra về tôi mới hỏi: "Sao bà nhà ông không đi trong đội hình này". Mặt ông rạng rỡ:

- Đây là kế hoạch đạo diễn của bà nhà tôi. Tế nhị lắm. Giá báo trước giờ giấc hẳn hoi thì cánh ta ắt chuẩn bị hạt bí, trầu cau, quân phục chỉnh tề. Thế lại mất tự nhiên.

Tôi tặc lưỡi:

- Ông lại cầu toàn. Ngày xưa đánh giặc lúc nào ta chẳng sẵn sàng chiến đấu.

- Hẹn ngày hẹn giờ thì còn gì là thanh tra giáo dục nữa!

Tôi gật gù, ông nói phải, lòng càng mến phục ông. Chưa muốn ra về nhưng biết ông từ giờ này đến tối còn nhiều việc phải làm: thu xếp dọn dẹp, rửa chân tay cho các cháu, chuẩn bị bàn giao kết quả trong ngày để bố mẹ các cháu đến nhận yên tâm. Rồi còn mua cơm, đọc báo, nghe đài. Chuẩn bị đồ chơi cho các cháu ngày hôm sau. Định ngủ lại cùng ông nói chuyện dài dài nhưng xem ra ông bận con mọn, tôi đành cáo lui, mặc dù ông cố lưu giữ.
Ông dặn ba đứa trẻ: "các cháu chơi đồ hàng, đừng làm con thỏ gãy tai, búp bê hỏng mầt. Ông xuống dưới nhà tiễn ông tiên rồi ông lên ngay", cả ba cháu chào tôi:

- Cháu chào cụ ạ!

- Cháu chào ông tiên ạ!

- Bai, bai!

Tôi âu yếm thơm các cháu. Từng cháu vuốt râu tôi. Tôi xoa đầu các cháu, lòng tôi lưu luyến căn phòng nhu trẻ của ông quá chừng.

Ông khóa cửa. Tôi lại đếm từ một đến sáu mươi bậc thang đi xuống...

Ông tiễn tôi ra tận mặt đường, giọng ông bùi ngùi: "Để tôi thuê xe ôm đưa ông đi". Thôi, tôi quen đi bộ. Đi được một quãng, ngoái lại vẫn thấy ông tần ngần đứng nhìn theo. Tôi vẫy tay: "Chào ông giám đốc nhà trẻ nhé!".

Q.X.H


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:33:53 am
CHUYỆN LÀM THÊM


ĐÀO VĂN LẠNG


Tôi và Hồng hồi còn trẻ công tác ở Cục Hậu cần Đoàn 559, cùng sinh hoạt trong một chi đoàn, một chi bộ nên chúng tôi hiểu và thân nhau lắm. Thấy hai người đẹp đôi, bạn bè vun vào, đơn vị ủng hộ nên chúng tôi đã thành vợ thành chồng.


Nay vợ chồng tôi đều đã nghỉ hưu. Chúng tôi đều nghỉ trước tuổi quy định. Nhà tôi nghỉ vì đơn vị giải thể. Tôi nghỉ vì thấy nên nghỉ. Phòng tôi quân số dư nhiều, số anh em xấp xỉ tuổi tôi bị "dồn toa" nên "kẹt". Tôi đã "kịch trần" rồi nên nghỉ để anh em trẻ còn phát triển, "cứ ngồi đó ngáng chỗ" sao tiện.


Hôm nhận quyết định nghỉ, thủ trưởng khen tôi gương mẫu, thông cảm với tổ chức. Anh em trong phòng hình như quý trọng tôi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi về nghỉ.

Đi làm, ngoài tiền lương ra, những dịp kỷ niệm, lễ, tết... dù ít dù nhiều đơn vị còn cho thêm nên mức sống gia đình tôi còn tùng tiệm ổn định. Bây giờ cả hai cùng nghỉ nên mức thu nhập tụt hẳn. Nhà bốn miệng ăn, hai cháu còn đang đi học. Cái Minh mới được vào sư phạm năm ngoái, út Hạ mới vào lớp 10. Đành rằng nhà cửa, đơn vị lo cho như thế là tốt lắm rồi nhưng còn chi tiêu hàng ngày tốn lắm, chỉ nhìn trần trụi vào lương hưu thì thiếu.


Một hôm, cơm nước xong tôi bảo với vợ thử tính toán các khoản chi tiêu trong một tháng xem hết bao nhiêu để còn liệu. Nói thì nói thế nhưng tôi cũng đã nhẩm tính khái quát trong đầu rồi, thiếu. Hai chúng tôi "nâng lên đặt xuống" từng khoản chính như ăn, mặc, học hành, điện, nước, chất đốt mà đã thấy "lõm", nếu tính đầy đủ các khoản như giỗ tết, thăm hỏi, cưới xin và những việc đột xuất khác thì càng thiếu. Nói là việc đột xuất nghe như đơn giản, nhẹ nhàng nhưng thực tế thì lại không phải vậy. Có khi việc đột xuất ngoài dự kiến lại tốn hơn việc chính trong kế hoạch. Tôi chỉ đơn cử một việc đột xuất mới xảy ra. Mọi năm thì cứ vặn vòi ra là có nước dùng nên không ai phải bận tâm đến việc nước nôi. Mùa hè năm nay, tự nhiên mất nước. Mọi người trong nhà phải phân công nhau trực nước, thế mà cả ngày củng chỉ hứng được vài xô, vợ chồng bàn nhau mua máy bơm để hút nước. Tưởng thế là thượng sách, ai ngờ bơm mãi chỉ tốn điện chứ nước thì vẫn không có. Không chỉ riêng nhà tôi mà nhà nào cũng vậy, cuối cùng cả dẫy phải làm đơn xin "mở khẩu mới" rồi mới giải quyết được chuyện nước non. Đây chỉ một chuyện đột xuất thế thôi mà đã phải chi ngót triệu bạc, gần bằng tiền ăn cả tháng của gia đình. Kể ra thì còn nhiều việc đột xuất khác nữa cũng tương tự.


Tôi đang suy nghĩ lan man thì vợ tôi lên tiếng:

- Thiếu thì thiếu rồi, bây giờ liệu sao đây?

- "Đói thì đầu gối phải bò" chứ còn sao.

Chả nói đâu xa, ngay các bác xung quanh nhà tôi cũng nhiều người làm thêm; người làm bảo vệ, làm dịch vụ ăn uống, một số bác sĩ kỳ cựu tham gia Hội chữ thập đỏ chữa bệnh cho dân, cũng có người làm để bù đắp vào chỗ thiếu hụt khi về nghỉ. Chợt vợ tôi như sực nhớ.

- Hay ta nuôi gà như thiếu tướng Chuông ấy.

- Không, anh tính ta có thể mua một bàn bóng bàn cho thuê, lúc rảnh rỗi, bố con tôi đánh cho khỏe người.

Suy nghĩ một lát, vợ tôi trả lời.

- Thế cũng được.

Ngay chủ nhật tuần ấy, nhà tôi khai trương bàn bóng. Mới sáng ra mà các cháu đã đến rất đông, cháu nào cũng đòi được đánh trước. Buổi đầu khuyến mại, chúng tôi không thu tiền nhưng các cháu lại bảo đây là tiền mở hàng nên đành phải nhận. Được vài tuần tiếp theo thì vẫn còn đông nhưng rồi khách cứ thưa dần, thưa dần. Tôi hỏi dò mới biết, các cháu nó chê phòng nhà tôi kích quá, không phát huy được tài năng. Tuy là ít nhưng mỗi ngày củng được ba, bốn tốp đến thuê. Có hôm đang giấc ngủ trưa chúng cũng gọi ơi ới. Không mở thì không xong, mà mở thì mất cả nghỉ trưa. Mở cửa cho mấy cháu vào, tôi dặn:

- Các cháu đánh trưa là phải trật tự đấy nhé!

- Vâng! - Chúng lễ phép trả lời.

Vừa lên ngả lưng được một lát thì đã thấy chúng reo hò ầm ĩ cổ vũ cho nhau. Tôi lại xuống nhắc, chúng lại vẩng, rồi lại reo hò... Buổi trưa đã thế, những lúc khác chùng cũng ầm ĩ rất khó chịu. Tệ nhất là chúng phá quá, mấy cây ngoài sân, ngứa tay chúng vặt trụi cả cành. Các cháu ngồi chầu rìa thì cứ cầm những cái vợt còn tốt nguyên thúc vào cạnh bàn, vào tường, bong hết cả cao su, trơ cả gỗ. Tôi thấy tình hình này không ổn, nhà mình cũng còn không chịu nổi huống chi hàng xóm. Giá chỉ một vài ngày lại khác, đằng này "hết ngày dài lại đêm thâu" thì ai chịu nổi. Hàng xóm chưa ai nói gì, chắc là các bác ấy thông cảm. Nhưng để đến lúc các bác ấy phải nói thì còn ra cái gì nữa. Nghĩ thế, tôi chủ động bàn với vợ.

- Không ổn rồi em ạ!

- Cái gì không ổn cơ. - Vợ tôi ngạc nhiên hỏi.

- Bóng bàn chứ còn cái gì nữa. - Tôi hơi xẵng giọng trả lời.

- Đúng đấy, nhức đầu quá! - Vợ tôi đồng tình ngay, không để ý đến thái độ của tôi.

- Em mang lợn bổ ra xem nào!

- Vâng! - Vừa nói, vợ tôi vừa lấy con lợn nhựa mà chúng tôi dùng để bỏ tiền thu được khi cho thuê bàn bóng. Đếm được một khoản tiền tính ra chỉ đủ mua bóng, mua vợt và khấu hao một phần giá trị của bàn. Ấy là chưa tính tiền điện thắp sáng. Tôi nói như động viên vợ:

- Thôi dẹp nhé!

- Vâng! Dẹp càng sớm, càng nhẹ người.

Phải đến hai tuần sau, tôi mới tìm được người để bán rẻ bàn bóng.

"Vạn sự khởi đầu nan" như vậy coi là một thất bại.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:35:14 am
Thua keo này ta bày keo khác. Chúng tôi lại bàn và thống nhất nuôi gà. Tôi hì hục làm chuồng, vợ tôi thì sang nhà bác Nguyễn Chuông hỏi kinh nghiệm chăm sóc. Đến phiên chợ Bưởi, một đàn gà con đã xuất hiện ở nhà tôi. Nhìn những con gà giống mũm mĩm, vàng ươm ngây ngô đến là vui mắt. Theo kinh nghiệm bác Chuông phổ biến, chúng tôi nuôi đàn gà lớn như thổi. Mới hơn ba tháng mà con nào, con nấy béo núc ních, nặng đến hơn hai cân. Vợ chồng tôi chắc mẩm đợt này sẽ thu được khoản tiền kha khá. Thằng út thấy đàn gà sắp được xuất chuồng nên tối hôm đó nó vừa gãi đầu, gãi tai, vừa năn nỉ:

- Bán được gà, bố mẹ mua thêm cho chúng con một chiếc xe đạp nữa nhé. Hai chị em con đi chung một cái, hôm nào chị Minh về chậm là con lại đi học muộn.

Tôi nói một cách tự tin:

- Được rồi, cứ ngoan, chịu khó học, bố mẹ chẳng tiếc gì. Mới hứa như vậy mà hai chị em đã mừng quýnh cả lên, đứa nào cũng tranh đi xe mới.

Đàn gà chưa xuất được con nào thì một hôm có mấy bác người họ xa ở quê lên. Một bác nói "Chúng tôi lên đây trước là thăm cô chú, sau là nhờ cô chú cho mấy cháu đây ở tạm mấy ngày thi".

Có khách, gà đầy chuồng mà không thịt thì bẽ quá. Tôi chỉ dám chiêu đãi hôm đến và hôm về mà bốn chú gà đã được "hóa kiếp". Sau đấy một vài lần có việc cũng phải thịt gà. Đàn gà cứ thưa dần, thưa dần. Đàn gà thưa đến đâu thì chị em thằng út lại buồn đến đấy. Một hôm chú em ở Ngọc Hà xuống bảo:

- Chủ nhật tới em khánh thành nhà, đàn gà này anh chị để cả cho em nhé. Tiền nong chúng em gửi anh chị sau.

Tôi bảo:

- Nhà có việc, chú cứ lấy mà dùng, tiền nong gì. Số gà này chú cứ coi là anh chị mừng nhà mới của cô chú.

Đàn gà như vậy coi là xong, hết cả vốn lẫn lãi. Lại thất bại.

Vợ chồng tôi lại bàn tìm việc làm mới nhưng lần này thì uể oải hơn. Vợ tôi bảo:

- Đến tháng lương này, anh mua cho em vài con lợn giống nuôi "câu dầm". Lợn thì chắc không xẻo ra ăn dần được, khi bán còn thu được mọt khoản ra tấm ra miếng.

Nghe vợ tôi nói vậy, tôi nhất trí luôn cho xong chuyện.

Chúng tôi đã nuôi được hai lứa, bốn con, lứa nào nhà tôi cũng ghi chép đầy đủ các khoản. Hôm xuất xong lứa thứ hai, vợ chồng tôi mới hạch toán xem sao. Tính toán xong chúng tôi rút ra kết luận; một con lợn, mỗi tháng tăng trọng trên 16 cân là có lãi, tăng 15 cân là hòa mà dưới 15 cân là lỗ. Lợn nhà tôi nuôi lứa nào cũng chỉ xấp xỉ 15 cân. Tôi nói với vợ:

- Chăn nuôi thế này thì ăn thua gì! Đây là các con còn đi xin nước gạo, cơm thừa của các bác hàng xóm, nếu không thì còn tốn hơn.

Vợ tôi nói như an ủi và cũng chính là tự an ủi mình:

- Nó như tiền bỏ ống ấy mà, lấy công làm lãi thôi.

Tôi lại nói:

- Cứ thế này thì làm sao thoát khỏi cảnh xo xúi?

Vợ tôi nói vẻ như vừa áy nay vừa như đồng tình.

- Đúng là cũng khó mà khá lên được!

Đấy là mới nói đơn thuần về mặt kinh tế, còn về môi trường cũng có chuyện. Một buổi sáng tôi đang đứng tập thể dục, nghe mấy bác đi bách bộ phàn nàn với nhau rằng "Cứ đi đến chỗ này là thấy mùi hôi". Nghe thấy vậy, tôi ngượng chín cả người. Đúng là chăn nuôi lợn trong điều kiện chật hẹp hôi thật! Nó hôi từ tầng dưới lên tầng trên và hôi từ nhà... ra đường.

Tôi nói với vợ như một quyết định:

- Dẹp nuôi lợn.

- Vâng! Em nhất trí. Bạn bè đến chơi họ cũng kêu lắm.

Số tiền sẵn có vợ chồng tôi mua thêm một chiếc xe đạp cho hai cháu đi học và nâng cấp chiếc ti vi cho cả nhà cùng xem.

Thế là đã "quá tam ba bận" đều thất bại.

Sau khi dẹp việc nuôi lợn. Vợ chồng tôi thấy hoang mang. Đêm nằm cứ trăn trở tự hỏi, chả lẽ không còn việc gì làm nữa hay sao. Tôi đã tâm sự hết băn khoăn của minh và những việc làm thất bại vừa qua với bạn bè. Ai cũng nhiệt tình tham gia ý kiến. Người thì góp ý đi làm bảo vệ, người bảo tráng bánh đa hoặc làm than tổ ong. Vợ chồng tôi thấy việc gì cũng có cái vướng, cần phải suy nghĩ thêm. Tôi tìm đến gặp thầy Huyên - người đã giúp tôi khi làm đồ án tốt nghiệp. Nghe tôi trình bày tỉ mỉ hoàn cảnh, việc làm vừa qua và sự cần thiết phải làm thêm cùng những ý kiến góp ý của bạn bè. Thầy trầm ngâm rồi nói:

- Cậu học quản lý kinh tế mà đi làm bảo vệ chế biến thực phẩm và chăn nuồi thì "kẹt" thật, không hợp. Còn kinh doanh lớn bây giờ thì như cậu biết đấy: thứ nhất mặt đường, thứ nhì trường vốn, mà hai cái thế mạnh đó thì cậu đều không có phải không?

- Vâng ạ!

Thầy giáo lại điềm tĩnh nói tiếp:

- Theo mình thi "mèo nhỏ, bẳt chuột nhỏ" vậy. Cậu thứ xem xem buôn bán ở chợ có được không?

Tôi hỏi lại.

- Chạy chợ có phải không ạ.

- Nói nôm na, dân dã như thế cũng được.

- Thế em chạy hàng gì cho hợp hả thầy.

- Cái đó thì cậu phải đi khảo sát thị trường mà tự quyết định. Cậu đừng coi thường việc này nhé "Buôn thất nghiệp, lãi quan viên" ấy.

- Vâng! Em cảm ơn thầy.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:36:17 am
Theo gợi ý của thầy Huyên, vợ chồng tôi tiến hành ngay việc đi tìm hiểu thị trường. Chúng tôi đi chợ gần đến chợ xa rồi lại quay về chợ gần. Chợ mà tôi quan tâm nhất là chợ Đồng Xa, vì chợ này gần nhà tôi nhất. Chợ Đồng Xa có từ bao giờ tôi không rõ. Khi tôi mới về đây ở thì chợ còn lèo tèo, chỉ có mấy dãy hàng, họp xung quanh cửa hàng bách hóa. Nguồn hàng chủ yếu là của nhân dân địa phương. Phía ngoài, dọc hai trục đường chính, có một số quán bán nước trà, hàng quà sáng, sửa chữa xe đạp... Mấy năm gần đây do đô thị hóa nhanh, dân cư đông đúc nên đường sá được nâng cấp và mở mang thêm nên chợ dần dần trở nên sầm uất. Nguồn hàng củng ngày thêm phong phú, ngoài nguồn hàng tại chỗ còn có hàng ở các nơi đưa về. Đã mấy ngày rồi chúng tôi lững thững đi chợ từ sớm, mặt hàng nào cũng nhìn, cũng hỏi giá nhưng chẳng mua cái gì. Cơ chế mới bây giờ thích thật, hàng hóa đầy rẫy, đủ loại chả bù cho ngày trước... Các cụ có câu "trăm người bán, vạn người mua". Bây giờ cái tỷ số đó có lẽ đã thay đổi. Đi mãi, ngắm mãi mà chúng tôi chưa phát hiện ra mặt hàng gì để quyết. Đang chen đám đông ở giữa chợ định về nhà, bất chợt tôi nghe thấy hai bà phàn nàn với nhau:

- Chợ lớn thế này, đủ mọi thứ hàng mà sao ốc hiếm thế?

- Hai bà thử đến dãy đằng kia xem có còn không?

- Cô bán đậu phụ ngồi gần đó nhanh nhẩu vừa nói, vừa chỉ.

- Chúng tôi vừa ở đấy ra, họ bảo: Ngày nào cũng hết từ sớm.

Nghe họ phàn nàn với nhau như vậy, tôi liền kéo nhà tôi quay lại dãy hàng hay bán ốc hến xem sao. Gần đến nơi, tôi lại thấy hai chị ca cẩm với nhau:

- Muốn ăn bát canh hến cho mát ruột mà cũng khó.

- Hai cháu nhà tôi dặn thế nào mẹ cũng mua cân ốc về luộc, vậy mà cũng hết cả, lại phải xuống chợ dưới mua kẻo rồi chúng lại nhăn cho mà xem.

Tôi đến gần một bà ngồi bán rau gần đấy hỏi:

- Bà ơi! Sao ốc hến ở đây lại hiếm thế bà nhỉ?

Bà thật thà nói:

- Hàng ngày có một chị vẫn đưa một xe vừa ốc, vừa hến đến bán. Trước đây chợ còn ít người thì thế là đủ, nay chợ đông nên hóa thiếu.

Tôi nghe bà nói vậy, bỗng buột miệng kêu:

- Đây rồi!

Vợ tôi giật mình, nhìn tôi hỏi:

- Vớ được cái gì đấy?

- Vớ được cái mình đang đi tìm! - Vừa nói, tôi vừa kéo tay vợ tôi, giục về.

Thế là con ốc, con hến đã lọt vào "mắt xanh" của vợ chồng tôi từ hôm đó.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi đã có mặt ở chợ, thấy có người chở hai tải ốc, hến đến bán, vợ tôi hỏi mua:

- Ốc, hến bác bán thế nào đấy ạ?

- Ốc hai ngàn, hến một ngàn. Cô mua bao nhiêu?

- Nếu được giá thì em mua cả.

- Mua về bán à?

- Vâng!

Bác bán ốc hến vừa nói, vừa chỉ:

- Hai cô hàng rau ngồi kia kìa, thỉnh thoảng cũng lấy của tôi dăm cân về bán kèm nhưng mua phọt phẹt và đáo để lắm, tôi không thích, nếu cô mua đều thì hợp đồng, tôi chở cho.

- Thế hôm nay bác bán cho em bao nhiêu?

- Mua cả thì tôi bớt cho một giá.

- Em còn phải trừ hao hụt nữa và bán chưa quen, bác bớt một giá thì em ăn gì?

- Cô mới đi chợ à?

- Vâng ! Hôm nay là buổi đầu.

- Vậy thì rút cho cô giá nữa, coi như tôi ra hàng cho cô, được chưa?

- Vâng! Bác cân đi.

Người bán, người mua đang lúi húi cân hàng thì hai cô bán rau đến hoạnh. Cô cao, gầy nói:

- Nói cho mà biết, đây là mối của bọn này đây, biết chưa?

Cô thấp lùn, béo ịch tiếp ngay lời:

- Ở đâu mà đến đây mua tranh, bán cướp thế này? Có thôi đi không thì bảo?

Cô cao, gầy giằng túi ốc trên tay nhà tôi, mặt hằm hằm nhìn bác bán ốc, hến giọng đe dọa:

- Bà này buôn bán thiếu đứng đắn như thế là không xong đâu nhé.

Thấy có to tiếng và giằng co nhau nên Ban quản lý chợ đến. Khi nghe rõ câu chuyện, các chú nhắc nhở hai cô hàng rau và sâp xếp tạm cho vợ chồng tôi một chỗ ngồi bán, rồi hướng dẫn thủ tục xin đăng ký kinh doanh. Đến khi quy hoạch lại chợ, Ban quản lý xếp chúng tôi ngồi trong lán, dãy hàng cá.


Ngày qua ngày, vợ tôi cứ mua đầu chợ bán cuối chợ như thế, tuy vẫn có lãi nhưng chỉ đủ tiền rau dưa. Một hôm, có một bà đến mua hàng. Bà nói trước đây bà cũng bán hàng này ở chợ Bưởi, nay già yếu rồi lên đây ở với con. Bà hết nhìn chúng tôi lại nhìn đến mấy rổ hàng đang bày bán. Bỗng bà hỏi:

- Sao bán lọc trọc thế này? Đã bán là phải bán đầy đủ chủng loại chứ.

Vợ tôi tỏ vẻ chưa hiểu. Bà giải thích:

- Chủng loại là phải có ốc đá, ốc vặn, ốc nhồi, hến, cua và cả trai, trùng trục nửa, để khách họ đến hàng mình là cứ thoải mái.

Nói xong bà cười rất hiền hậu.

Bà lại hỏi tiếp:

- Hàng này chị lấy ở đâu?

- Cháu mua đây, bán đây thôi bà ạ.

- Thế thì không ăn thua rồi ! Phải đi tận gốc mà lấy, hàng vừa tươi, giá lại mềm thì mới có lãi chứ?

- Gốc ở đâu hả bà?

- Gần đây nhất là Hồ Tây. Bảo chú ấy chịu khó xuống đấy mà "bắt mối".

- Vâng! Cảm ơn bà.

Sau đấy, mỗi lần đến mua hàng, bà lại tỉ tê hướng dẫn nhà tôi cách chọn hàng, cách bảo quản hàng... Dần dần chúng tôi có được chút kinh nghiệm. Mãi sau này chúng tôi mới dám hỏi tên bà và biết bà tên là Thùy.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Chín, 2022, 06:37:54 am
Theo lời chỉ bảo của bà Thùy, gần trưa hôm thứ hai tôi đạp xe xuống hồ. Trời cuối hạ nên tầm gần mười giờ trưa nắng lắm. Đạp xe bon bon trên đường tôi thấy lòng thanh thản. Khi còn đang làm việc, đã từng qua lại Hồ Tây nhiều lần nhưng lần này đến hồ, tôi cảm thấy như mới đến lần đầu. Nhìn mặt nước bao la, xa xa lấp ló sau dãy cây xanh là những tòa nhà cao tầng đủ màu sắc, từng tốp thuyền nan đi đánh ốc, hến đang từ từ cập bến. Làn nước gợn sóng lăn tăn, được khúc xạ ánh nắng mặt trời tạo nên một màu sắc huyền ảo. Gió hồ thổi lên mát rượi, tôi thấy khoan khoái và tỉnh táo lạ thường.


Tôi đến thẳng bãi Giữa. Dựng xe bên lề đường rồi men xuống tận mép nước. Đến gần một chiếc thuyền mới cập bến, tôi hỏi:

- Ông chủ ơi! Có ốc, hến bán không?

- Có mối rồi! - Chủ thuyền đáp.

Tôi lại hỏi tiếp:

- Tôi muốn bắt mối có được không?

- Bác lấy hàng gì, bao nhiêu, có lấy đều không?

- Mỗi ngày tôi lấy đều cả ốc, cả hến khoảng tám mươi cân, có trai trục thì lấy luôn.

- Thế hả. Từ mai tôi tăng thuyền đánh để bác lấy có được không

- Được, nhưng chắc chứ!

- Chắc!

- Thế hôm nay để cho một ít có được không?

- Để em còn xem đã, nếu dư thì để cho bác.

- Tên tôi là Lạng, còn tên chú là gì để tiện gọi?

- Em là Hùng, vợ em là Tuyết, biệt hiệu là "Tuyết hùm".

Trên đường về, tôi thấy vui vui vì ngày đầu đi "bắt mối" như thế là suôn sẻ.

Hôm sau, đúng giờ, tôi có mặt ở hồ, Hùng cũng vừa cập bến, đang khệ nệ bê từ dưới thuyền lên từng rổ hàng. Tôi đứng trên đỡ rồi đổ vào tấm bạt Hùng đã trải sẵn bên lề đường. Hùng bảo:

- Bác cứ nhặt dần đi, tý nữa nhà em ra cùng làm. Nhìn đống hàng hỗn độn đủ mọi thứ, tôi thấy ngao ngán. Tôi cứ tưởng nó sạch sẽ như họ thường bán cho mình ở chợ, ai ngờ lại thế này...

Thấy tôi chưa bắt tay vào làm, Hùng nhắc khéo:

- Bác nhặt hết rong rêu ra, nhặt vỏ vất đi rồi nhặt hến bỏ vào rổ, ốc còn lại ở dưới.

Cực chẳng đã, tôi đành làm theo hướng dẫn của Hùng. Một lúc sau thì vợ Hùng ra cùng xúm tay vào nhặt. Khi xong xuôi mọi việc đã gần mười hai giờ.

Một hôm vợ Hùng nói:

- Bác lớn tuổi rồi, mắt kém, ngồi nhặt thế này em thấy tồi tội thế nào ấy. Hay là hàng ngày bác xuống chậm đi vài tiếng ở đây chúng em nhặt xong xuôi, rửa ráy chu đáo, bác xuống chỉ việc cân là về, chúng em tính thêm lên một giá có được không ạ?

- Cô chú giúp cho như thế thì tốt quá còn gì!

Ngày này qua ngày khác, tôi phải đèo từ hồ về gần tạ hàng bằng chiếc xe đạp cọc cạch, mệt lắm. Thỉnh thoảng Viện giống cây trồng, mấy nhà nuôi ba ba lại lấy vài tạ ốc nữa nên càng mệt. Một lần thấy tôi đi lấy hàng về mồ hôi ướt đầm, vợ tôi bảo "Anh tìm mua một chiếc Ba-bét-ta mà đi cho đỡ mệt".


Tìm mãi, tôi mới mua được một chiếc xe còn tàm tạm, vừa với tầm tiền của chúng tôi. Đem xe về, các bà hàng xóm mừng cho tôi và gọi đùa là "xe ba-bét-nhè". Xe này đã cũ nên khi nổ máy, nó kêu to lắm. Các bác hàng xóm chỉ nhìn tôi mà cười.


Xe Ba-bét-ta có ưu điểm là thấp nên dễ xếp hàng nhưng lại có nhược điểm là hay hỏng vặt. Mấy lần đang chở hàng nặng thì nó trở chứng thế là phải dỡ toàn bộ hàng xuống mới sửa được. Chữa xong, lại xếp hàng lên rồi phải đẩy một thôi mới nổ.


Hỏng xe đã vất vả nhưng chưa bằng bị đổ hàng trên đường. Tôi đã bị vài ba lần như vậy.

Một hôm, xe đang chạy, bỗng dưng nghe rào một cái, xe lảo đảo, vội phanh lại, nhìn về phía sau thì ôi thôi ốc, hến đã tung tóe trên mặt đường. Tôi vội vàng tìm cách vun hàng vào lề đường, sợ tô tô đi qua sẽ cán bẹp hết. Đang lúi húi dưới trời nắng chang chang, mặt đường nóng hầm hập thi bỗng một chị bên kia đường cầm chiếc chổi tre chạy sang quét giúp. Những người đi qua đường, nhìn tôi vẻ ái ngại. Nước mắt tôi ứa ra phần vì tủi thân, phần vì cảm động trước tấm lòng của người phụ nữ chưa từng quen biết. Những lúc vất vả như thế, tôi lại tự an ủi bằng cách hồi tưởng lại những năm tháng gian nan ở chiến trường mà chúng tôi đã vượt qua, vất vả bây giờ đâu sánh bằng khi phải lo đổ xương đổ máu.


Từ lâu rồi đã thành thói quen, cứ năm giờ là chúng tôi dậy để chuẩn bị hàng. Người xách nước, người rửa hàng. Mùa hè không sao, mùa đông mà sáng sớm phải nhúng tay vào nước thì buốt đến tận xương.


Các cháu nhà tôi biết thương bố mẹ nên cứ nghe tiếng đổ ốc rào rào là chúng cũng dậy. Công việc chuẩn bị hàng xong, các cháu mới vào quét dọn nhà cửa, ăn sáng rồi đi học. Những ngày chủ nhật và dịp nghỉ hè, các cháu giúp được nhiều hơn.


Vợ tôi đã phân công rõ ràng, ra chợ, tôi sắp xếp hàng ra ngồi bán, còn nhà tôi thì đi lấy hàng mà các mối đưa đến theo hợp đồng. Khoảng chín giờ, tôi về chuẩn bị cơm nước bữa trưa rồi đi thồ hàng.

Nguồn hàng của nhà tôi ổn định và khá vững chắc. Chúng tôi có nhiều nguồn: Vừa xuống hồ lấy, vừa hợp đồng hàng từ Sơn Tây xuống và từ bắc sông Hồng đưa sang, lại còn một nguồn tại chỗ nữa là dịp hè hoặc lúc nông nhàn các cháu, các bác trong xóm đi bắt được con cua, con ốc cũng đem đến bán cho nhà tôi.


Trước đây, chúng tôi bán lẻ là chính, đến nay, bảo đảm cho cả các nhà hàng bán bún cua, bún ốc, ốc luộc, cháo trai. Bảo đảm cho nhà hàng tuy giá có thấp hơn bán lẻ nhưng họ lấy đều, lấy nhiều nên lượng hàng bán ra hàng ngày chủ động, ổn định. Tuy vậy cũng lo lắm. Lo là vì phải bảo đảm đủ số lượng, phải đúng thời gian, đúng chủng loại và chất lượng phải tốt. Lo nhất là những lúc rét đậm kéo dài, mưa nhiều, nước lớn, bà con nông dân bận mùa màng là hàng hiếm lắm. Hiếm thì hiếm cũng phải lo đủ không thì nhỡ việc của họ. Có lúc thiếu vài cân cua, mươi cân ốc mà chạy như cờ lông công, đâm phải lấy lại giá cao. Đưa cho nhà hàng, giá quy định là bị lỗ, nhưng vì để giữ chữ tín nên lỗ củng phải chịu. Giữa chúng tôi với nhà hàng gắn bó và tin tưởng nhau lắm. Việc chất lượng hàng, cân đong, giá cả không bao giờ phải phân vân. Giá lên thì bảo lên, giá xuống thì bảo xuống, có tiền thì trả, chưa có tiền, trả sau. Nhà hàng lấy cũng đa dạng lắm. Người lấy cua sống, người lấy cua xay, người ra chợ lấy, người yêu cầu đem đến nhà. Yêu cầu sao, chúng tôi cũng đáp ứng cả. Do tính chất phải bảo đảm đều đặn cho nhà hàng mà có lúc ốm chúng tôi cũng không dám bỏ nhà hàng. Người này ốm, người kia đi thay. Nhiều hôm tối về, nhà tôi kêu khó chịu, phải xoa dầu, đánh gió, sáng mai vẫn sắp hàng đi chợ. Ở quê có việc hệ trọng cũng chẳng bao giờ cả hai vợ chồng cùng về một lúc. Nhà tôi ngồi bán hàng cũng có cái khổ riêng. Bán hàng tiếp xúc nhiều với nước, lại bị cua cắp nhiều nên hai bàn tay nát cả ra. Tối nào cũng phai ngâm tay vào nước phèn rồi bôi mỡ Tê-ta.


Chợ Đồng Xa chỉ họp buổi sáng nên gần đây chúng tôi lại "với" lên chợ chiều Phú Diễn. Nhà tôi giải thích là mỗi chợ có một thế mạnh, hàng của chợ này bổ sung cho chợ kia là rất có lợi. Một ngày đi hai chợ nên chúng tôi cứ xoay như chong chóng.


Qua mấy năm thực tế bán hàng, tôi thấy do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng cao, nên thái độ mua hàng bây giờ cũng dần dần có thay đổi. Trước đây, thái độ của người mua giá, chất, cân, ân. Còn bây giờ là chất, ân, cân, giá.


Nghĩa là trước đây người mua coi trọng giá cả, giá càng rẻ càng tốt, còn những cái khác họ cũng quan tâm nhưng xếp sau giá. Bây giờ, người mua coi trọng chất lượng, hàng mà tốt, giá có cao hơn một chút họ cũng chấp nhận. Hàng kém chất lượng thì dù có rẻ họ cũng không thích mua. Bởi vậy mới có câu "Ăn muối còn hơn ăn chuối chết", hay câu "Đắt xắt ra miếng" "Của rẻ là của ôi"... Bây giờ người mua hàng còn quan tâm đến sự ân cần, chu đáo ngay sau chất lượng. Có người đến hàng nhà tôi mua cua xay, trước tiên họ xem cái cối xay có sạch không, rửa con cua có cẩn thận không, xô nước có trong không rồi họ mới mua. Nếu không được vậy thì mình có làm giúp họ cũng không nhờ chứ đừng nói đến chuyện mua bán. Đi buôn thì tất nhiên phải có lãi. Các mặt hàng khác thì tôi không rõ, còn mặt hàng nhà tôi thì lãi rất "khiêm tốn". Lấy công làm lãi thôi.


Qua mấy năm buôn bán hàng cua, ốc, hến chúng tôi rút ra là: Bình quân các mặt hàng, giữa đầu vào và đầu ra chênh nhau ba giá. Trong đó một giá chi vào tiền sửa xe, mua xăng, uống nước dọc đường, hao hụt và tiền mua sắm một số dụng cụ cần thiết... Còn lãi được hai giá. Hàng tháng, chúng tôi cũng kiếm được số tiền xấp xỉ bằng lương hưu của hai vợ chồng tôi.


Có người chân tình hỏi, sao không chuyển sang buôn bán mặt hàng khác lãi cao hơn mà đỡ vất vả. Chúng tôi nghĩ "một nghề cho chín, hơn chín mười nghề". Âu cũng là vì nhân dân phục vụ!

Đ.V.L


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:06:33 am
"NHẢY DÙ" PHÁT DIỆM


BÙI SINH


Nói "nhảy dù Phát Diệm" không phải nói về địch, mà nói về ta. Ta "nhảy dù", nghe có vẻ lạ tai. Thực ra, đấy là ngôn ngữ riêng của lính 320 trong kháng chiến chống Pháp, Đại đoàn được mang tên trìu mến: Đại đoàn Đồng bằng. Đã là lính đồng bằng thì dù đơn vị nào xuất phát từ căn cứ nào, luồn về đồng bằng tiêu diệt địch đều là chuyện cơm bữa chẳng có gì đặc biệt nên không gọi là "nhảy dù". Từ "nhảy dù" chỉ dành cho những lúc đột kích lớn, tầm cỡ đại đoàn, nhằm thực hiện ý đồ chiến lược của Trung ương. Đại đoàn 320 có hai cuộc "nhảy dù" lớn: Một cuộc "nhảy dù" Phát Diệm hồi tháng 12-1951 và một cuộc "nhảy dù" vào địch hậu Thái Bình hồi năm 1952, cả hai đều để phối hợp với mặt trận chính, mặt trận Hòa Bình. Có thể tóm tắt về tình thế chung hồi đó như thế này. Địch liều lĩnh đánh lên Hòa Bình hòng mở rộng phòng tuyến phía tây Hà Nội, ta dùng mấy đại đoàn 308, 304, 312, v.v... bao vây tiêu diệt địch. Trong lúc đó, lợi dụng địch sơ hở sau lưng, Đại đoàn 320 được Trung ương và Quân ủy Trung ương bật đèn xanh cho chớp thời cơ "nhảy dù" về đồng bằng, mạnh dạn đánh sâu vào địch hậu, mở rộng các khu căn cứ du kích, phá âm mưu: "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của địch.

Ở bài viết này, tôi xin kể lại cuộc "nhảy dù" Phát Diệm.

... Sau khi nhận được chỉ thị của trên, Đáng ủy Đại đoàn 320 quyết định đánh vào Phát Diệm. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, đầy trắc trở. vì Phát Diệm là đầu não công giáo toàn quốc, được địch rất chú trọng bảo vệ. Nó nằm sau tuyến phòng thủ kiên cố của địch mà chúng gọi là vành đai trắng sông Đáy. Nó còn được một trung đoàn trực tiếp bảo vệ với một cụm cứ điểm hơn 10 vị trí và một hệ thống tổ chức vệ sĩ trong thị trấn Phát Diệm và các làng xã xung quanh.


Đồng chí Văn Tiến Dũng khi đó là Tư lệnh trưởng kiêm Chính ủy đại đoàn. Trong Hội nghị quân sự phổ biến nhiệm vụ của đại đoàn và bàn bạc kế hoạch đánh Phát Diệm, sau khi nghe mọi ý kiến, đồng chí quyết định đòn chủ yếu đánh ngay vào trung tâm chỉ huy của địch ở Phát Diệm. Đồng chí nói:

- Nếu trận Phát Diệm là một cuộc "nhảy dù" chớp nhoáng, thì mũi đột kích vào giữa lòng Phát Diệm là một cuộc "nhảy dù" nhỏ hỗ trợ đắc lực cho toàn trận.

Mọi cán bộ đều nhất trí cao với kế hoạch. Đồng chí Văn Tiến Dũng nói tiếp:

- Có trường học quân sự nào có thể bày ra cho chúng ta cách đánh này không? Chỉ có trường học cách mạng đã rèn luyện cho chúng ta lòng tin tuyệt đối ở Đảng, ở nhân dân, tin ở tinh thần cách mạng, mới giúp chúng ta có cái gan dám làm.


Đêm 9-12-1951, cuộc "nhảy dù" vào Phát Diệm bắt đầu. Để có được cuộc "nhảy dù" vào Phát Diệm, tức là bí mật hành quân luồn sâu vào Phát Diệm, đánh địch, thì phải nói công đầu là của Tỉnh ủy Ninh Bình, các cấp ủy chi bộ địa phương, cơ sở nhân dân và du kích. Các đồng chí đưa từng đơn vị luồn lách qua hệ thống vành đai trắng sông Đáy, luồn lách qua hệ thống vị trí mà địch xây dựng từ vành đai trắng tới Phát Diệm để bảo vệ vòng ngoài Phát Diệm; các đồng chí đưa các đơn vị đến từng nơi tiến công. Có thể nói các đồng chí là "đơn vị máy bay vận tải khổng lồ" chở quân của Đại đoàn 320 "nhảy dù" vào Phát Diệm. Cái độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam là ở chỗ đó.


2 giờ 30 ngày 10-12-1951, quân ta nổ súng tiến công Phát Diệm. Chỉ trong vài giờ, nhiều vị trí địch bị tiêu diệt. Khi trung tâm chỉ huy của địch bị đập tan, nhà quan tư, quan hai bị tiêu diệt, thì về cơ bản ta làm chủ Phát Diệm.


Trời sáng dần, cả thị trấn Phát Diệm như chưa hết cơn bàng hoàng. Tiếng súng ngớt dần rồi lặng hẳn. Hồi đêm, đồng bào dường như đã trải qua những phút khủng khiếp nhất trên đời, thì đến lúc trời sáng rõ, gặp gỡ những anh bộ đội hiền lành chất phác, không chút hăm dọa, hiếp đáp dân, có anh đang gặm miếng cơm nắm gạo đỏ hôi xì với muối vừng, đồng bào lại thấy như mơ. Rồi tất cả bảo nhau tỏa ra đường như một ngày hội lớn. Khắp các thôn xã vây quanh thị trấn, khắp các khu phố của thị trấn, những đoàn công tác của tỉnh ủy, huyện ủy, cấp ủy địa phương cùng với bộ đội nhân dân họp mít tinh. Và những gánh quà bánh, đường sữa, rượu bia, cơm trắng xôi dẻo, gà luộc, thịt kho, chuối, cam... kìn kìn gánh ra tặng các anh bộ đội. Quả thật, thấy các thức ăn ngon, anh em cũng muốn một bữa tươi, nhưng vì kỷ luật quân đội, không ai dám nhận. Sau đồng bào phải nói với cán bộ địa phương để họ đề nghị với cấp trên cho anh em nhận quà của đồng bào.


Ta thắng lớn ở Phát Diệm. Địch vội cho 2 đại đội từ Ninh Bình chi viện cho Phát Diệm. Tiểu đoàn 391 do tiểu đoàn trưởng Hồ Tâm chỉ huy đã phục kích ở làng Yên Ninh tiêu diệt gọn 2 đại đội. Trận phục kích này có nhiều gương chiến đấu vô cùng dũng cảm. Nổi bật nhất là đồng chí Trương Công Man. Trên đường đưa lệnh của tiểu đoàn xuống đại đội, Trương Công Man bị trúng bom na-pan của địch. Quần áo và tấm ngụy trang bằng lá trên người bốc cháy. Sau khi được anh em dập tắt cho, Man đã bị thương rất nặng, tóc chảy trụi, da phồng rộp nhưng vẫn cố chạy đến đại đội truyền đạt mệnh lệnh xong rồi mới chịu gục xuống và sau đó thì tắt thở. Trương Công Man được phong danh hiệu Anh hùng quân đội. Còn anh em gọi anh là "Người chiến sĩ khoác áo lửa". Tiểu đoàn 391 sau này được đặt tên là tiểu đoàn Yên Ninh, tên cái làng mà tiểu đoàn đã phục kích thắng lợi.


Địch còn cho 2 đại đội từ Phúc Nhạc chi viện cho Phát Diệm. Tiểu đoàn 337 do tiểu đoàn trưởng Tạ Đinh Bích chỉ huy và tôi là trung đoàn phó trung đoàn 2 đi cùng, phục kích ở Yên Thổ, giữa đường từ Phúc Nhạc đến Phát Diệm. Rất tiếc là khi địch mới lọt bộ phận đầu vào trận địa phục kích, một số anh em đã vội nổ súng nên chỉ diệt được một trung đội đi đầu, còn đại bộ phận quân địch chạy về vị trí Phúc Nhạc.


Tuy vậy, hai trận phục kích thắng lợi ở Yên Ninh và Yên Thổ đã làm cho địch hoang mang lo sợ suốt cả ngày hôm đó không còn viện binh gì cho Phát Diệm. Ta hoàn toàn làm chủ thị trấn Phát Diệm.

Chiều hôm đó, 10-12-1951, đồng chí Lê Quân, trung đoàn trưởng trung đoàn 4, đơn vị chủ công đánh vào Phát Diệm, ra Yên Thổ gặp tôi nói:

- Bùi Sinh này, ta hoàn thành nhiệm vụ đánh Phát Diệm và phục kích cũng thắng rồi thì rút quân ra thôi chứ?

Tôi nói:

- Vâng, chứ cứ nằm đây mà ăn phi pháo của nó à?

Chúng tôi rút quân về. Đồng chí Lê Quân và tôi đến chỉ huy sở đại đoàn báo cáo. Vừa thấy mặt chúng tôi, đồng chí Văn Tiến Dũng quát:

- Ai cho các anh ra? Quân đâu cả rồi?

Khi biết chúng tôi đã rút hết quân ra, đồng chí Văn Tiến Dũng nổi trận lôi đình về chuyện không có lệnh mà tự động rút quân, đánh thắng lớn như vậy mà không để quân lại khuếch trương chiến quả, tạo những thời cơ tốt hơn nữa phối hợp với chiến dịch Hòa Bình.


Đồng chí Văn Tiến Dũng là người chỉ huy như vậy, rất thương yêu cán bộ, nhưng thấy cán bộ nào, bất cứ là ai, nếu làm sai ý đồ chiến đấu của mình, đồng chí lập tức nổi giận không kìm được. Chúng tôi thường gọi đùa những trường hợp đó là "anh Dũng cấp tập cối 81". Song các trường hợp này cũng cực kỳ hiếm hoi. Trận "cấp tập cối 81" lần này của đồng chí Dũng là nhằm chủ yếu vào đồng chí Lê Quân, trung đoàn trưởng trung đoàn chủ công. Nhưng tôi đứng ngay đấy thì cũng "dính mảnh đạn đầy người" vì chính tôi cũng đồng ý với Lê Quân kia mà.


Sau này, càng ngẫm càng thấm thìa về sai lầm tự ý rút quân, bỏ lỡ một thời cơ vô cùng thuận lợi nhằm tiêu diệt sinh lực địch mà đại đoàn đã tạo ra được. Hơn nữa, nếu chúng tôi trụ lại Phát Diệm, Yên Ninh, Yên Thổ có thể địch phải rút ít nhất 2 GM từ Hòa Bình về cứu Phát Diệm thì tốt biết bao nhiêu cho các đơn vị bạn đang đánh địch ở trên đó.


Thực tế là ít ngày sau, đồng chí Văn Tiến Dũng lại phải lệnh cho tiểu đoàn Thanh Lũng do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hòa chỉ huy vào và phục kích ngay sát Phát Diệm. Tiểu đoàn đã diệt gọn 2 đại đội Âu Phi, diệt và bắt sống 190 tên, thu nhiều vũ khí.


Sau trận này, chúng tôi càng thấy rõ trí tuệ quân sự và tầm nhìn bao quát của đồng chí Văn Tiến Dũng lúc bấy giờ và thấy trận "cấp tập cối 81" của đồng chí ấy là vô cùng chính xác.

B.S.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:10:07 am
ĐIỆN BIÊN TRONG TÔI


NGUYỄN CHUÔNG


Điện Biên trong lòng nhân dân và quân đội ta là trang sử hào hùng sánh ngang với Đống Đa, Chi Lăng, Bạch Đầng... Trong bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Điện Biên trong hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tất cả trí tuệ và mưu lược của chiến tranh nhân dân chiến thắng tên đế quốc cáo già, đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch và cũng là đỉnh cao của vinh quang cho đất nước.


Điện Biên trong tôi, phía sau của niềm tự hào chung như tất cả mọi người, tôi có nỗi đau, nỗi đau của một tên tù binh mà trước khi bị bắt tôi đang là người chiến thắng. Viết lại nỗi đau này, tôi không có ý làm khác đi vẻ hoành tráng của Điện Biên anh hùng mà chỉ muốn nói, con đường dẫn đến chiến công có muôn vàn ghềnh thác, điều quan trọng là những ghềnh thác ấy có làm cho ta nhụt chí hay ngược lại, chính nó là những thử thách vô cùng khắc nghiệt làm sáng tỏ trong ta khí phách của một con người chân chính.


Hồi ấy, tôi phụ trách tiểu đoàn 155 thuộc trung đoàn 165 do anh Khánh là chỉ huy, anh Lê Thùy là trung đoàn trưởng. Vào cuối đợt hai của chiến dịch, tiểu đoàn tôi có nhiệm vụ đánh đồn 105. Trận đánh diễn biến nửa thắng, nửa thua này khiến cho tôi thấy cay đắng trong lòng. Tức là chúng tôi nổ súng chỉ sau ba mươi phút, toàn đơn vị đã thực hành xung phong đánh chiếm và làm chủ ba phần tư đồn, bắt sống ba mươi tên, trong đó có tên quan ba chỉ huy. Địch phải dồn lại một góc lợi dụng hầm ngầm ngoan cố chống cự. Trong khi chúng tôi đang tìm cách diệt hầm ngầm thì từ trung tâm Mường Thanh, các tiểu đoàn bộ binh địch có xe tăng pháo binh yểm trợ đánh ra nhằm phản kích giải vây cho đồn 105. Trận chiến diễn ra vô cùng quyết liệt và phức tạp giữa ta và địch xen kẽ nhau trong đồn, ngoài đồn đều nổ súng. Tiểu đoàn trưởng Bế Phiên chỉ huy tiểu đoàn 564 đánh chặn viện ngoài đồn không hoàn thành nhiệm vụ. Cấp trên phải điều thêm đại đội 243 (trung đoàn 141) đánh mở đường tăng cường cho tiểu đoàn tôi chiến đấu trong đồn. Nhưng bọn địch trong trung tâm Mường Thanh vẫn tiếp tục điều thêm quân ra ngăn chặn bằng được các lực lượng chi viện của quân ta. Đến lúc này, đơn vị tôi phải chiến đấu trong thế bị bao vây thực sự. Một cuộc đọ sức ác liệt song cũng tỏ rõ phẩm chất người chiến sĩ cách mạng uy vũ bất khuất, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, bị thương vẫn không rời tay súng. Hầu như anh em chỉ bị bắt sau khi đã bị thương và không một ai chịu đầu hàng địch.


Trận đánh từ hai mươi giờ ngày hôm trước đến mười giờ sáng hôm sau, quân địch mới chiếm lại được 105. Lúc này tôi đã bị thương khá nặng, ở cả đùi, tay và ngực phải nằm bẹp không thể cử động được nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Chính vì còn tỉnh táo nên nỗi đau càng như xé ruột gan khi nhìn anh em hy sinh và bị thương nằm la liệt khắp nơi, chồng chất lên nhau nối hàng ở chỗ cửa mở như hai bờ ruộng, tiếng kêu rên nghe cháy bỏng trong lòng. Cho đến bây giờ tôi vẫn không quên hình ảnh hy sinh của các chiến sĩ tiểu đoàn tôi. Có người nằm vắt mình qua hàng rào, tay buông thõng. Có đồng chí nằm nghiêng, tay vẫn ôm súng, ngón tay đặt trong vòng cò. Có người gục xuống chiến hào, tôi chỉ nhìn thấy hai cẳng chân dang lên trên nền trời. Nhiều anh em bị thương khe khẽ gọi tên ai đó nghe thật xót xa...


Quân địch tràn vào đồn rất đông, đứa nào cũng lăm lăm khẩu súng chĩa vào anh em ta, dẫu cho chỉ còn là những cái xác không hồn. Có tiếng rên của một đồng chí bị thương cách chỗ tôi không xa. Lập tức ba tên địch quay mũi súng về phía đó xả đạn. Tôi nhắm nghiền mắt lại, vừa như không muốn chứng kiến lại vừa như sẵn sàng chờ đợi ba họng súng kia sẽ xả đạn vào chỗ mình. Tự nhiên tôi nghĩ: Ôi! Cái tuổi hai mươi lăm nằm lại Điện Biên rồi. Hình ảnh mẹ tôi, các anh chị, các em, cả ông chú bà bác cứ hiện lên trong đầu. Tôi tưởng tượng cái lúc mọi người nghe tin tôi chết ở Điện Biên òa lên khóc. Rồi hình ảnh xóm làng đình chùa, các ngày hội cứ hiện lên như in. Nhớ cái tuổi chăn bò rong ruổi khắp đồng trên bãi dưới, qua rặng vải cây si, rủ nhau trèo lên cây gạo đình làng bẻ hoa bắt chim rồi ào ào chạy ra sông tắm, nay tắm sông Hồng, mai tắm sông Đà, ngày kia lại về tắm đầm làng Thượng. Nhớ những trưa hè ngồi mát trong vườn vải hoặc rặng nhãn đầu làng, nhớ buổi cắt cỏ bên núi Mươi, Đình Bằng, đồi Bông, xóm Thuê, những khi trồng sắn trên nương với mẹ, đánh cá dưới ao với cha... nỗi nhớ tràn về cứ nối tiếp hiện lên chẳng khác nào một cuốn phim. Hết nghĩ về nhà, tôi lại nghĩ về cấp trên, đơn vị, bạn bè. Tôi không về được, bây giờ chắc cấp trên đang lo lắng, và anh em thì đang nhắc tới tôi, hai cậu Tùy và Bãi thể nào cũng khóc...


Đang suy nghĩ miên man bỗng nghe "bịch" bên tai phải sát ngay sau gáy thấy ran rát, liền theo đó là mấy tiếng súng nổ "bọp, bọp". Lại "bịch" nữa sát đầu vai bên trái... Tôi thoáng nghĩ thế là hết, mình sẽ chết ở đây mà không làm gì được chúng cũng như không thể nhắn lại đồng đội được nửa lời. Nhưng sao mình vẫn còn tỉnh táo. Lại nghĩ có chết cũng phải đàng hoàng. Tôi xoay về hướng bắc cố ghếch đầu lên đôi vai đồng chí đã tắt thở rồi nói thầm: Cho mình gối nhờ để có chết vẫn nhìn về phía quê hương. Chỉ ít phút nửa thì anh em ta gặp nhau. Tôi ghé mẳt nhìn và nhận ra trung đội trưởng Tác, đại đội 501, đôi lông mày xếch lúc này như xếch hơn lộ rõ vẻ căm uất. Con người dáng cao to nặng nề tháo vát... Vậy mà! May sao đã có một thằng con trai, ở Vĩnh Yên, vợ con cậu mà biết tin lại khóc hết nước mắt thôi.


Bỗng nghe tiếng 'bịch" động mạnh dưới đùi tiếp theo là tiếng súng nổ "bọp". Lại "bịch" sát vành tai rát rạt như bị búng mạnh vào mang tai, mắt hoa lên. Đến đây thì tôi ngất đi không hay biết gì nữa. Khi tỉnh lại, trời đã xế chiều, tôi đoán rằng khi tôi tìm cách gối đầu lên thi hài trung đội trưởng Tác, tên địch nào đó thấy tôi còn sống đã bắn tôi. May sao viên đạn chỉ sát vành tai và vào đầu làm cho tôi ngất đi thôi.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:11:04 am
Nắng buổi chiều vẫn phả ra nóng hừng hực. Tôi thấy khát nước quá, môi như khô cứng ra, nuốt thấy đau rát ở cổ họng. Tôi muốn ngồi lên như gắng gượng mãi không được, cảm thấy người mình nặng hẳn ra như có đá đè, tay phải thi đau không tài nào cử động được. Tôi dùng tay trái quờ quạng quanh người sờ soạng tim nước nhưng không có, chỉ thấy cái vỏ đạn tiểu liên. Sờ xuống dưới thắt lưng chỗ gần đũng quần thấy đất mát, ươn ướt, tôi moi lấy một miếng bỏ vào mồm nhấm nháp. Xem ra cũng dìu dịu cơn khát nhưng sao có vẻ như vừa mặn vừa khai, tôi đoán chừng nước đái hoặc máu. Cũng đành nhúm tiếp rồi nuốt thử cho qua cơn khát song không nuốt nổi. Cơn khát càng cồn cào như sắp phát điên lên, tôi muốn kêu, muốn hét thật to nhưng không thành tiếng. Ngay lúc ấy, có một chiếc ô tô từ trong Mường Thanh ra đồn để lượm xác và đón lính bị thương. Chúng tìm gần đến chỗ tôi. Thương binh của ta và lính của chúng bị thương nằm lẫn lộn cạnh nhau. Tôi khẽ kêu lên. Hai thằng Tây chạy lại, một thằng cúi xuống nhìn, nó nói:

- Xava!

Hai người phu theo sau cũng chạy đến. Một người hỏi:

- Anh là cán bộ hay chiến sĩ?

Tôi không trả lời chỉ kêu:

- Nước! Cho tôi xin nước!

Hai thằng Tây xì xồ nói gì không rõ. Một thằng lấy bi đông mở nắp đưa cho tôi. Tôi nghiêng đầu uống ừng ực. Nước vào đến đâu tôi biết đến đấy. Lúc ấy, tôi cảm thấy nước như là thứ thuốc tiên khiến đầu óc tỉnh táo hẳn ra, ruột gan mát mẻ. Chiếc bi đông không rời khỏi mồm, tiếng nước kêu ọc. Thằng Tây ngăn lại không cho uống nữa. Nó ra hiệu uống nhiều, chết. Tôi vẫn cứ uống và nói lại:

- Tôi không chết được.

Thằng Tây khác giật lấy bi đông rồi xem qua vết thương, lấy băng ra băng bó lại, vừa làm nó vừa hỏi tôi, người phu dịch lại:

- Anh là sĩ quan hay là lính, tên là gì, đơn vị nào?

Tôi nói một mạch:

- Tên tôi là Vi Hải, chức vụ chiến sĩ, đại đội 501, tiểu đoàn 15.

Hình như hai thằng Tây này là bác sĩ hay y tá gì đó, chúng chỉ hỏi qua loa rồi sai người phu đưa tôi lên ô tô để nằm chung với thương binh của chúng. Xe chạy. Tôi đoán chừng chúng chuyển thương binh vào khu trung tâm Mường Thanh. Đường rất xóc mà xe thì chạy như điên. Chắc là tên lái xe sợ ăn đạn pháo của ta nên không hề nghĩ đến những người nằm trên xe đều là thương binh. Người tôi nẩy lên như bị quăng quật, đến đoạn nào đó thì ngất lịm đi không biết gì nữa.


Khi tỉnh dậy thấy trời tối đen, nhìn lên bầu trời loáng thoáng một vài ngôi sao, nghe không xa, tiếng súng ta súng địch vẫn nổ, tiếng pháo sáng lập lòe như ma trơi. Đạn pháo cao xạ 37ly của ta nối nhau vút theo về phía tiếng máy bay nổ như hoa lửa giữa trời. Tôi không sao đoán ra mình đang ở đâu mà tại sao không có gác. Tôi lại thấy khát nước và cả đói nữa, bây giờ làm sao kiếm được cái gì cho vào mồm. Tôi thử nhúc nhích cánh tay phải. Không được. Nó đã gẫy rồi. Chân phải cũng bị hai phát đạn như lìa, đứng không được, ngồi cũng không được thì làm sao tìm được nước trong đêm tối mênh mông như thế này. Tôi dùng khuỷu tay trái, mông trái cố lết đi. Phải tìm ra nước và xem có ai ở xung quanh mình không. Lết được một đoạn không xa, tôi thấy có ánh sáng le lói, cố lết nhanh đến đó thì thấy cái cửa hào xuyên vào hầm. Tôi tiếp tục lết vào mới hay bên trong hầm có hai dãy giường nằm toàn là lính Tây bị thương, thằng nào cũng quấn băng trắng toát, thằng băng trên đầu, thằng băng kín ngực, thằng bó trắng cả chân cả tay. Chúng kêu rên khiếp lắm. Tôi lết qua trước mắt chúng mà chẳng thằng nào nói gì cả. Tôi nhìn quanh thấy có một cái giường bỏ không, trải đệm trắng tinh bên cạnh có một cái bàn, cái ghế, trên bàn có chai nước và nhiều thứ bánh cùng hoa quả. Tôi rất mừng, lết nhanh đến bên bàn, mặc cho đau đớn, cố rướn người lên lấy chai nước tu uống ồng ộc rồi vớ lấy ít bánh quy ăn, còn hoa quả thì giắt quanh vành quần đề phòng khi khát nước. Ăn uống xong, tôi chống tay ngồi lên ghế, lấy thuốc lá hút. Lúc này, thấy trong người thoải mái, hết khát, bụng đã no nhưng mệt. Tôi lê đến giường từ từ nằm xuống, cảm thấy gân cốt dãn ra, ngửa mặt nhìn lên náp hầm suy nghĩ mông lung. Chẳng hiểu số phận mình rồi ra sao. Rất có thể lát nữa một tên nào về thấy mình, nó sẽ nện mình cũng nên. Nhưng mặc mẹ nó, không sợ gì hết, miễn là được nằm cho giãn gân giãn cốt đã.


Quả nhiên, khoảng nửa đêm, tên quan ba thầy thuốc về nhìn thấy tôi trên giường, nó ngỡ ngàng trố mắt rồi la hét một cách giận dữ. Tôi nghĩ bụng, mặc mẹ mày, tao không biết tiếng, tha hồ mày chửi. Nó nhìn thẳng vào tôi. Tôi cũng nhìn thẳng vào nó bình thản cứ nằm hút thuốc. Thằng Tây vẫn quát tháo, khi thấy người lính Bảo Hoàng và hai bác phu, nó nói xì xồ như trách mắng.

Người lính Bảo Hoàng bảo tôi:

- Anh dậy mà đi ra đi.

- Tôi không dậy và không đi được.

Hai bác phu và người lính đỡ tôi xuống rồi dìu tôi trở về nơi ban đầu. Nằm một mình, nghĩ lại những việc vừa xảy ra thấy cũng buồn cười. Mới biết con người ta, chết không phải dễ. Thế rồi sau đó, tôi ngủ lúc nào không biết. Khi tỉnh dậy thì trời đã sáng, nhìn ra xung quanh thấy nhiều người đi lại quét dọn. Đây là những người phu, địch bắt vào để phục vụ bệnh viện. Thấy tôi nằm còng queo trên đất, họ đến hỏi han tỏ vẻ thông cảm. Người thì hỏi bị thương ở đâu, người lại hỏi cán bộ hay chiến sĩ, có người lấy súp cho thương binh của chúng đi qua hỏi nhỏ xem đã ăn uống gì chưa. Tôi chỉ nhìn họ không trả lời và suy nghĩ, chẳng lẽ những con người này đều là những kẻ đi theo giặc? Khoảng 8 giờ, một bác sĩ cùng một nữ y tá đều là người Pháp đến, có hai bác phu đi theo. Người bác sĩ biết tiếng Việt nói:

- Anh nằm yên, chúng tôi sẽ khám và kiểm tra vết thương cho anh.

Người nữ y tá cởi băng ở đầu tôi, xem các vết thương ở gáy và hai tai, sau đó hai người nói với nhau xì xồ. Hai bác phu cởi áo trấn thủ dài tay cho tôi không được, phải lấy dao kéo cắt từng mảnh rồi lột ra. Người bác sĩ xem vết thương ở ngực và tay phải rồi lại trao đổi ý kiến gì đó với người nữ y tá. Tôi nghe hai bác phu nói là vết thương ở vai làm cho tay phải tôi gãy rời. Họ tiếp tục kiểm tra vết thương ở đùi, ở mông. Tôi bị lột nốt cái quần. Thế là lúc này tôi nằm trần truồng, cứ tênh hênh ra đấy. Cũng hơi ngượng nhưng lại nghĩ, thôi mặc, chúng mày muốn làm gì thì làm. Họ rửa rồi thay băng từng vết thương. Riêng tay phải họ bó bột rồi băng chặt vào ngực, vào lưng. Người tôi lúc này gần như được phủ lên một lớp băng trắng toát. Tự nhiên, tôi lại nghĩ đến gia đình nếu mọi người, nhất là mẹ tôi biết như thế này thì sẽ khóc nhiều đến sinh ốm đau ra mất. Vậy mà bọn họ băng cho tôi xong lại cười cợt như không. Một tên sĩ quan Pháp biết tiếng Việt đi cùng tên lính Bảo Hoàng đến hỏi tôi. Nó cũng hỏi tên, ở đơn vị nào, là sĩ quan hay là ỉính? Tôi khai thật đơn vị vì hiểu rằng chúng đã biết rõ nhưng tôi không nói tên thật mà bịa ra cái tên Vi Hải và chỉ là lính thôi.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:49:37 am
Tôi bị bắt nhưng tôi hiểu quân địch đang ở thế thua cho nên không sợ gì cả. Chúng chỉ hỏi qua loa thế rồi quay ra bảo tôi ngồi yên để chụp ảnh. Tôi không cho chụp nhưng chúng cứ chụp. Tôi biết rằng chúng chụp ảnh tôi là để nói với thế giới rằng người Pháp đối xử nhân đạo với tù binh. Thấy tiếng máy xè xè, tôi nhăn mặt vờ kêu đau rồi nghiêng đầu ngoảnh mặt đi. Nếu chúng có chụp được chỉ là chụp được bức ảnh như thế mà thôi. Chúng xì xồ với nhau không chụp nữa rồi tản đi, chỉ còn thằng Tây đứng lại nói với tên lính Bảo Hoàng bằng tiếng Việt:

- Cho nó xuống căng!

Tôi không biết căng là gì lại tưởng nó bảo đem giết liền tỏ vẻ phẫn nộ. Tên lính Bảo Hoàng vui vẻ bảo tôi:

- Anh chuẩn bị xuống căng.

- Tao không đi đâu hết. Tao chết ở đây.

Tôi nói như hét lên rồi mắng tên lính Bảo Hoàng một cách thậm tệ, mắng nó là tên bán nước. Chúng gọi thêm hai tên lính người da đen tới. Hai tên này cầm hai khẩu súng chĩa thẳng vào tôi. Tôi nhìn và chỉ vào mặt nó như thách thức. Hai tên lính da đen cười khoác súng vào vai rồi cúi xuống túm chân tôi lại để cho hai tên lính Bảo Hoàng giữ vai và đầu tôi nhấc tôi lên cáng.


Chỗ gọi là căng cách độ bốn trăm mét, đó chính là trại tù binh, ở đây, toàn bộ anh em bộ đội ta phần đông đã bị thương. Vừa thấy khiêng tôi tới, mọi người xúm lại xem với vẻ tò mò. Anh thì hỏi:

- Tên cậu là gì?

Anh khác lại hỏi:

- Là cán bộ hay chiến sĩ đấy?

- Đánh trận nào đấy?

Tôi chỉ trả lời tên tôi là Vi Hải và giả vờ mệt không nói gì thêm nữa, chú ý quan sát và nghe xem họ bàn tán gì cũng như tỏ thái độ như thế nào về mình. Lúc ấy khoảng 5 giờ chiều. Có lẽ anh em cảm thông với sự mệt mỏi của tôi, tất cả lại tản ra và trở về hầm của họ. Một anh, sau này tôi biết tên là Hải đến gần nói nhỏ với tôi:

- Anh ở đây gần cậu Đình, cậu Điệp, các cậu ấy sẽ giúp đỡ. Nói rồi anh cũng lẳng lặng đi.

Trời tối dần. Mưa phùn nhè nhẹ. Anh Đình, anh Điệp đem cho tôi ca nước rồi cũng chui vào hầm ngủ. Tôi nằm tựa vào vách hào, quấn tấm chăn dù che lên cả mặt. Lúc này mới cảm thấy đau nhức khắp người. Càng về khuya mưa càng nặng hạt, gió thổi càng mạnh khiến tôi không sao ngủ được. Nằm nghe tiếng ngáy của những người bên cạnh, lòng thao thức khôn nguôi, tôi thoáng nghĩ, sao mà họ vô tư thế. Gần nửa đêm, anh Đình mò ra đi giải thấy tôi nằm co ro khẽ hỏi:

- Cậu có lạnh không, mưa có hắt vào chỗ cậu không?

- Lạnh và đau quá.

Anh Đình liền gọi anh Điệp dậy bàn nhau đưa tôi vào nằm trong hầm của anh Đình. Anh Điệp lại đem sang một cái bao tải xếp gọn trong hầm anh Đình rồi dìu tôi vào. Sau ít phút, người ấm hẳn lên, tôi ngủ thiếp đi một cách ngon lành. Sáng ra hai anh dậy trước. Khi thức dậy, tôi đã thấy các anh đang đun nước. Anh Điệp hỏi:

- Anh có đi đại tiểu tiện, tôi cõng đi?

Không còn cách nào khác, tôi phải nhờ anh Đình cõng lên miệng chiến hào giải quyết cái việc cần thiết, sau đó ba anh em chúng tôi ngồi uống nước ăn bánh mì cùng vài cái kẹo, hút thuốc lá. Các anh cho biết đây là mấy thứ hôm qua anh em phu cho mới ăn một nửa. Tôi cảm động nhìn hai anh Đình và Điệp rồi thủng thẳng hỏi:

- Các anh có biết những ai trong số anh em bị bắt vào đây là cán bộ không.

- Có - Anh Đình vội vã trả lời - Đến năm sáu ông ấy. Tôi biết có ông Trụ, ông Phòng, ông Hải, ông Minh, nghe như là cán bộ trung đội và đại đội. To nhất trại này chỉ có ông Trụ.

Trụ! Tôi thoáng nghĩ không biết có phải anh Trụ chính trị viên 564 không. Tôi còn đang phân vân, đột nhiên anh Đình nói:

- Anh Vi Hải là cán bộ phải không?

- Sao đồng chí nói thế, đồng chí không tin tôi ư?

Anh cười khì khì. Cả Điệp cũng cười theo làm tôi hơi chột dạ cứ nghĩ mông lung. Tôi cố tình hỏi lại:

- Căn cứ vào đâu mà hai anh nói khẳng định vậy?

Anh Đình tủm tỉm cười nói:

- Giấu đầu hở đuôi nhé! Đêm qua ngủ chung, em thấy anh nói mê gọi điện thoại cứ "Alô! Alô! Anh Lê Thùy đâu? Anh Lê Thùy đâu?". Rồi anh gọi cả tên anh Bế Thiên ở đơn vị 564 chặn viện không vào đúng vị trí thả lỏng cho quân địch tiến đến sát đồn 105 mà không thấy tiếng súng của tiểu đoàn 564. Rồi anh quát to lẳm. Lúc ấy em đánh thức anh Điệp dậy cùng nghe, chắc chắn anh là cán bộ cỡ ấy chứ. Chúng em mừng lắm.

Tôi nghe mà lạnh toát cả người. Đúng là giấu đầu hở đuôi thật. Đến lúc đó tôi đành phải nhận. Tôi nói:

- Có điều lúc này chúng ta đều là tù cả và là đồng đội của nhau, không nên phân biệt cán bộ, chiến sĩ làm gì. Tôi mong các đồng chí giúp đỡ tôi giữ bí mật. Như thế chỉ có lợi cho quân đội chúng ta thôi.

Anh Đình chân thật nói:

- Chúng em hứa sẽ bảo vệ và giúp đỡ anh.

- Thế bây giờ tôi nhờ hai anh làm thế nào mời được anh Trụ tới đây.

- Việc đó dễ quá. Anh Đình nói ngay. Em cùng đại đội với anh Trụ, cùng bị thương, cùng bị bắt. Có ngày nào anh ấy và em không gặp nhau.

Lát sau anh Đình tìm được anh Trụ đến. Chúng tôi xúc động chào nhau. Anh Trụ nắm chặt tay tôi:

- Anh cũng vào đây ư?

- Vâng. Bị bắt ở trận đánh 105.

Tôi ngắm nhìn Trụ vẫn dáng cao gầy, da đen nhưng bây giờ người khô đét, tóc bù xù, tay trái vẫn băng không co duỗi được, trông có vẻ tiều tụy. Tôi hỏi:

- Tình hình anh em ta trong này thế nào?

- Ở đây tất cả có hơn một trăm anh em bị chúng nhốt trong cái trại chỉ có gần hai trăm mét vuông, ăn, nghỉ, ỉa cả ở đấy, cho nên ruồi bọ nhiều, bệnh tật phát sinh, vết thương không chịu lành, cứ khỏi rồi lại tái phát và thuốc men băng bông cũng chẳng có. Thỉnh thoảng có xin được ít băng bông hay thuốc tím để rửa vết thương thì chỉ có anh em ta tự lo cho nhau thôi. Ăn thì ta tự nấu. Mỗi ngày chúng chia cho bốn lạng gạo với ít muối trắng, thỉnh thoảng mới có ít tép khô. Những hôm quân ta bắn mạnh như mấy ngày hôm nay thì chỉ còn có hơn ba lạng. Có ngày không, vì thế ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe và vết thương rất lâu bình phục.

- Trong này có mấy cán bộ, các anh đã gặp nhau chưa?

- Rồi. Chúng tôi đã thành lập ban lãnh đạo tù, chọn các đồng chí biết tiếng Anh, tiếng Pháp giao nhiệm vụ trực tiếp quan hệ với chúng, trong đó có anh Phòng, anh Hải. Về lãnh đạo chúng tôi đã thành lập chi bộ, anh em cử tôi phụ trách bí thư. Nói chung việc tổ chức lãnh đạo khá chặt chẽ, mỗi khu vực có một tổ Đảng. Nhờ vậy anh em ta luôn luôn giữ vững được tinh thần và ý chí, có khó khăn giúp nhau tự khắc phục và đoàn kết đỡ đần nhau.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:55:19 am
Nghe xong anh Trụ kể tôi rất mừng. Trong tình hình anh em đều bị thương mà hoàn cảnh thì vô cùng khó khăn vẫn làm được những việc như thế thật là đáng khâm phục. Tôi đề nghị cho được gặp các đồng chí lãnh đạo. Anh Trụ phấn khởi đồng ý ngay.


Sau khi anh Trụ về, anh Đình định dìu tôi vào hầm nghỉ nhưng tôi đề nghị để tôi ở ngoài cho thoáng, khi nào nắng to hay có mưa thì sẽ vào. Gọi là hầm nhưng thực ra nó chỉ được khoét vào vách hào như cái hàm ếch, vừa chật, vừa có mùi rất khó chịu. Anh Đình và anh Điệp đều cười như là đã hiểu được những gì tôi đang nghĩ trong đầu. Anh Điệp vỗ nhẹ vào đùi tôi nói.

- Anh yên tâm, ngay hôm nay chúng em sẽ khoét cho anh cái hầm tốt và xin cho anh cái chăn, cái khăn mặt. Lúc nào đó sẽ xin anh em phu cho anh cái ca.

Đúng lúc này, tôi thấy có một số lính địch đi qua, tiếp đến là anh em phu đi lại nói cười. Một số anh em ta cũng lên nói chuyện với phu, hỏi thăm quê quán họ mạc rất là ồn ào, tự nhiên. Tôi đề nghị anh Đình cõng lên mặt hào để có thể hiểu và có thể hòa nhập được cảnh sống trong tù. Lên mặt hào, tôi tận mắt nhìn thấy cảnh sống trong tù. Hầu hết anh em bị thương nhẹ đều lên khỏi mặt hào. Từng tốp phu, từng tốp lính đi làm qua đến trại tù dừng lại có người cho gói thuốc, có người cho bánh kẹo, cứ đứng ngoài ném vào. Anh em ta xúm vào nhặt. Tốp này đi qua, tốp khác lại đến, có thể tới cả nghìn người. Tôi rất khó chịu khi thấy bọn lính Âu Phi dẫn phu đi qua, bắt chước anh em phu cũng cho thuốc và bánh kẹo nhưng chúng lại nhử nhử hai ba lần rồi mới nem vào và cười khinh bỉ khi thấy anh em tù binh ta chen nhau nhặt lượm và cãi cọ nhau. Như thế này thì không ổn. Dù bị bắt làm tù binh, nhưng người chiến sĩ quân đội nhân dân không thể có hành vi tồi như thế được, trái lại, cần tỏ rõ tư thế làm cho anh em phu phải tôn trọng và kẻ thù phải nể nang. Chẳng biết có phải chỗ bánh kẹo và thuốc lá của anh Đình và anh Điệp cho tôi thưởng thức sáng nay là kết quả của cách ăn xin kiểu này không? Nghĩ thế nhưng tôi lại hỏi Đình sang chuyện khác.

- Chung quanh ta có những đồn nào nhỉ?

Đình chỉ cho tôi biết ở đây là ngã ba đường lên phía bắc sân bay, đường về Hồng Cúm, con đường đi qua cầu Mường Thanh. Phía Tây Bắc là khu tập trung phu phen có đến bốn năm nghìn người, cứ sáng đem đạn gạo đến các đồn kết hợp lấy thương binh về bệnh viện ở ngay cạnh khu phu này. Còn khu phía đông nam là khu lính An-giê-ri, Marốc không hoàn thành nhiệm vụ chạy trốn bị bắt về tập trung. Bọn này tuy có súng nhưng thực chất là tù giam lỏng rất có cảm tình và hay nói chuyện với ta.


Sáng hôm sau, anh Tựu và các anh lánh đạo đến chỗ tôi họp. Nội dung thứ nhất là bàn bạc về việc giữ vững ý chí củng cố đoàn kết, biết bảo vệ thương yêu nhau, các đồng chí khỏe giúp đỡ các đồng chí bị thương ốm nặng. Việc nhận bánh kẹo thuốc lá của địch và anh em phu đi qua cho phải tiến hành có tổ chức, sau đó tập trung phân phối đều, ưu tiên cho người yếu. Trừ ai có người nhà quen thân mới được sử dụng riêng. Về tổ chức, phải tăng cường thêm các đồng chí biết tiếng Anh tiếng Pháp đưa những kiến nghị của anh em xin cấp thuốc và ăn no. Đó là bộ phận anh Phòng. Bộ phận thứ hai do anh Hải là đại diện phải tăng cường công tác tuyên truyền trong lính Âu Phi, nhất là lính người Angiêri và Maroc thường có cảm tình với cuộc chiến đấu của ta. Cuộc họp còn bàn về việc điều chỉnh cán bộ, đảng viên để sự lãnh đạo được chặt chẽ, các tối có sinh hoạt nhóm bàn bạc cách khắc phục các khó khăn thiếu thốn, giữ vững ý chí và bản chất bộ đội Cụ Hồ làm cho anh em phu phải kính trọng và cả kẻ thù cũng phải kính nể. Với bộ phận dân phu, cũng phải thêm người cùng anh Trụ làm công tác tuyên truyền.


Sau khi bàn bạc xong, các anh trong ban lãnh đạo đề nghị tôi nói chuyện với toàn thể anh em. Tôi nhận lời.

Tối hôm đó, khi trời vừa tối hẳn, anh em đã đến tập trung gần đủ, các đồng chí bị thương nặng cũng được cõng đến. Tôi vô cùng xúc động nhìn anh em một lượt rồi thong thả nói:

- Thưa tất cả các đồng chí! Tôi là Vi Hải đánh trận 105, bị thương và bị bắt vào đây mới được ba ngày. Tình hình ở bên ngoài, về quân ta, tôi vẫn còn nắm được ít nhiều, xin trình bày để các đồng chí biết. Thứ nhất là ý chí và quyết tâm của bộ đội ta rất cao, lực lượng ta hiện nay rất mạnh. Toàn Đảng, toàn dân ta đang tập trung toàn lực để đánh thắng quân thù. Phải đánh thắng giặc Pháp, phải giải phóng Điện Biên, quyết tâm này không có sức mạnh nào lay chuyển được. Ngày thua của quân Pháp đã rõ ràng, bình thường, chúng ta ở đây cũng thấy rõ. Him Lam, Độc Lập mất. D1, D2, E2, E3, A1 ta đã chiếm được một phần. Sân bay bị cắt, ta đã áp sát đến gần trung tâm chỉ huy của Đờ Cát. Ngày chiến thắng giải phóng Điện Biên chưa rõ ngày nào, nhưng đến gần rồi. Thất bại của giặc Pháp không thể tránh khỏi. Chúng ta phải chuẩn bị ý chí tinh thần tổ chức sẵn sàng khi thời cơ đến, ngoài, bộ đội ta tấn công vào, trong ta kết hợp với phu đánh phối hợp. Đây cũng là nhiệm vụ và trách nhiệm của chúng ta.


Tôi rất mừng rằng vào đây mới ba ngày đã được nghe được thấy tình hình anh em ta bị thương, bị bắt ốm đau kho khăn là thế mà vẫn chịu đựng được. Lại còn giúp nhau thể hiện bản chất quân đội, những chiến sĩ trung kiên của cách mạng. Ta tuy đang gặp vô vàn khó khăn, song ta cũng có những thuận lợi là Pháp đang ở thế thua. Hơn bốn nghìn phu có cảm tình muốn giúp đỡ ta, lính Âu Phi cũng có cảm tình với ta. Các đồng chí phải tỏ ra là người chiến thắng, giữ tư thế Bộ đội Cụ Hồ. Lời nói và hành động của chúng ta phải là chỗ dựa cho họ đấu tranh để giúp đỡ chúng ta khắc phục được một phần nào khó khăn trong tình huống bị giặc bắt này.


Tôi tiếp tục nói cho anh em biết về tội ác của giặc Pháp mà chính mắt tôi đã nhìn thấy rõ, chúng vô cùng dã man tàn bạo như ở trận 105, các chiến sĩ ta bị thương đều bị chúng bắn chết sau khi chúng tiến vào đồn. May cho tôi, có hai đồng ch, bị thương nằm bên, chúng bắn một loạt, tưởng chúng tôi đã chết hết mới quay đi. Tôi kể tiếp về chuyện hai người phu đến chuyển thương binh của chúng về phía sau thấy tôi còn sống đã đưa tôi về đây. Tôi nói:

- Hành động tàn ác của quân giặc thế nào, đến lúc này chắc chúng ta đã rõ. Có khi chẳng cần súng đạn mà chúng cũng có thể giết được ta bằng cách không cho thuốc, để đói ăn nên bệnh tật phát triển, vết thương nặng thêm mà chết. Cho nên trong chúng ta ai trở về được với quân đội, với nhân dân, phải kiên quyết tố cáo tội ác của giặc Pháp cho mọi người biết, cho đời đời con cháu ta không bao giờ quên.


Đêm ấy, tôi nói chuyện với anh em từ bảy giờ đến chín giờ. Tôi rất xúc động thấy anh em nghe một cách chăm chú, đến lúc đó vẫn còn muốn nghe. Nhưng tôi rất mệt, phải hẹn anh em vào một buổi khác.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:56:19 am
Ngày hôm sau, khí thế anh em rất phấn khởi. Mọi quy định đề ra để giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ nhân dân, anh em đều chấp hành. Mọi người tỏ ra chan hòa thương yêu nhau hơn. Nhiều anh em đến thăm tôi trao đổi tiếp những điều rất có ý nghĩa về những ngày bị tù phải sống như thế nào để khỏi phải xấu hổ. Tôi bị thương không đi được, nhưng nhờ thế cũng quen biết được nhiều anh em. Sự chuyển biến trong trại tù chúng tôi khiến các bác phu cũng phải ngạc nhiên xin đòi gặp đại diện tù. Các đồng chí lãnh đạo tù cử tôi tiếp xúc với anh em. Té ra đến lúc đó mới biết trong số anh em phu này có tổ chức của ta do một đồng chí đại đội phó của sư đoàn 320 cùng 20 chiến sĩ được cử vào trà trộn trong số hơn bốn nghìn người dân Thái Bình, Nam Định bị địch bắt lên đây làm phu tải đạn, gạo cho các đồn và tải thương. Anh em này biết rất rõ tình hình địch, đã đề nghị với tôi từng ngày tìm cách gặp nhau để trao đổi. Tôi thật không ngờ trong hoàn cảnh như thế mà chúng ta vẫn tổ chức được một lực lượng trung kiên để lãnh đạo và nắm bắt tình hình. Thiết nghĩ, đây củng là một yếu tố tạo nên thắng lợi cho chiến dịch. Hẳn rằng, có những anh em đã phải hy sinh mà không chắc đã có ai biết đến công lao của họ.


Tình hình chiến thắng của quân ta ngày càng đến gần thì anh em chúng tôi lại càng gặp khó khăn. Ta đánh mạnh, đạn pháo bắn vào, sân bay bị cắt, địch lúng túng đối phó không chỉ với súng đạn mà cả với cái ăn hàng ngày. Lính địch cũng đói thì tất nhiên tù chúng tôi càng đói hơn. Tuy đói, nhưng nhìn thấy lính địch đào ngũ bị bắt về ở quanh chỗ chúng tôi ngày càng đông thì chúng tôi lại rất khoái.


Bọn địch cũng nhận ra sự chuyển biến khác thường trong trại tù chúng tôi, chúng đoán rằng đã có một sự lãnh đạo ngầm nào đó. Một hôm, chúng hỏi xem trong số tù binh ai là sĩ quan. Anh em đều trả lời chỉ có lính bị bắt chứ cán bộ của chúng tôi không ai bị bắt. Chúng liền cử lão cố đạo Tây xuống hai ba lần. Tôi biết nhưng không gặp. Anh em tìm cách bảo vệ tôi. Mỗi khi lão xuống, tôi vẫn cứ nằm dưới hầm không lên. Đồng chí Đình khẽ nói nhỏ với tôi:

- Anh cứ yên chí. Em đã khai anh ốm nặng. Em bảo anh bị malat (ốm).

Một hôm, khoảng 9 giờ, anh Phòng dìu tôi ra cửa hầm để thay băng. Anh cho biết là lão cố đạo đã xuống nhưng đang la cà hỏi han người này người khác, còn lâu mới đến đây. Không ngờ anh vừa nói xong thì lão cố đạo cùng một tên lính Bảo Hoàng đột nhiên xuất hiện ngay trước mặt, tỏ thái độ cởi mở hỏi tôi ngay bằng tiếng Việt:

- Anh bị thương vào những đâu?

Tôi bị bất ngờ nên trả lời lúng túng, không dám nhìn mặt "cha", chỉ nhìn từ ngực xuống:

- Thưa cha tôi bị thương ở chỗ này, chỗ này và chỗ này... Tôi vừa nói vừa chỉ vào những vết thương.

Lúc này, tôi mới đảo mắt nhìn rõ mặt "cha" thấy lão cố đạo gật đầu tỏ ra cảm thông, thương hại. Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên thấy ông cố đạo này lại mặc quần áo nhà binh, đầu đội mũ sắt. Đột nhiên, tôi hỏi vừa có ý tò mò, vừa có ý khiêu khích:

- Thưa cha, sao cha lại mặc áo nhà binh?

Lão cố đạo tỏ ra lúng túng nói như phân bua:

- Ở đây là chiến trận mà.

Tôi được thể giãi bày một cách lễ phép:

- Chúng tôi ở đây sống đói khát như thế này rồi cũng đến chết mất, chắc gì lần sau cha lại gặp lại được. Nhất là những anh em bị thương nặng không có ăn, không có thuốc làm sao mà qua khỏi. Rất mong cha cho chúng tôi ít thuốc, ít bông băng.

- Ồ! Tôi sẽ đề nghị, nếu được tôi sẽ cho người đem xuống.

- Thay mặt anh em mong cha xuống kiểm tra luôn, chúng tôi được nhờ.

- Không! Không phải tôi xuống kiểm tra mà tôi xuống thăm các anh.

Tôi càng ngạc nhiên hơn khi nghe thấy lúc về, lão cố đạo lại chào tôi bằng ông. Như thế là có vấn đề rồi. Tiếng ông ở đây chắc để chỉ ông cán bộ.

Tối hôm đó, các anh lãnh đạo lại đến gặp tôi bàn bạc quanh chuyện lão cố đạo. Các anh đều nhận định rằng phải có người chỉ điểm lão ta mới đến như thế. Cần phải xem xét lại các bộ phận xem có ai đáng nghi ngờ không. Một số anh em cho rằng người thường hay quan hệ với Pháp chỉ có anh Phòng hay lên xin thuốc. Trước đây anh đã khai với chúng là trung đội phó ngành y. Có đồng chí cho rằng cần phải tăng cường kiểm tra theo dõi, nếu tôi bị bắt thì theo quy định phải thủ tiêu ngay anh Phòng bằng phương pháp dùng chăn trùm đến chết vứt xuống hố tiêu. Nhưng có ý kiến lại cho rằng vấn đề chưa rõ ràng, chúng ta chỉ cần bảo vệ anh Vi Hải không cho chúng bắt. Trường hợp không bảo vệ được, anh Vi Hải bị chúng bắt đi thì chúng ta đi theo hết. Nhưng cuối cùng thì chuyện đó không diễn ra.


Hôm đó, còn bàn về tình hình phải đối phó với bệnh tật và đói khát, đã thống nhất được với nhau là càng khó khăn thì cán bộ, đảng viên càng phải gương mẫu, tổ chức phân phối phải hết sức công bằng. Cuối cùng anh Trụ đề nghị tôi làm bí thư thay anh. Mọi người đều đồng ý nhưng tôi không nhận vì vết thương vẫn còn nặng không đi lại được. Anh Trụ nói:

- Việc gì anh phải đi đâu. Mọi vấn đề giải quyết chúng tôi đều đến hỏi và bàn ở chỗ anh cơ mà.

Cuối cùng tôi phải nhận.

Lại nói về lão cố đạo hôm sau xuống, có một tên lính và hai bác phu đi theo vác hai cái túi to tướng. Lão đến chỗ tôi vui vẻ nói cho tôi nghe về hội nghị Giơ-ne-vơ, cuối cùng với thái độ tỏ vẻ chân thành, lão ta nói:

- Thực ra người Pháp chúng tôi rất muốn chấm dứt cuộc chiến tranh này nhưng người Mỹ lại cứ ép chính phủ chúng tôi, hứa viện trợ nhiều hơn nửa để tiếp tục chiến tranh, vì thế, ta còn đánh như chưa biết bao giờ mới chấm dứt được. Theo lời đề nghị của ông hôm trước, tôi có chuẩn bị một số thuốc, bông băng, một ít sữa, bánh kẹo và bộ đồ cắt tóc dao cạo râu, hôm nay tiện xuống thăm, tôi đem theo. Vậy ông cho người nhận rồi phân phối, chủ yếu cho người ốm nặng và bị thương.

- Cám ơn cha. - Nhân cơ hội tôi nói tiếp - Thưa cha, bên quân đội Việt Nam cũng có lần đã bắt được tù binh Pháp nhưng đều đối xử rất tử tế. Tù binh bị ốm bị thương đều được chạy chữa tận tình, thuốc thang chu đáo. Vậy mà ở đây, họ đối xử với chúng tôi quá tồi tệ.

- Ông thông cảm, người Pháp ở đây lúc này cũng khó khăn thiếu thốn, cũng đói nên không thể thực hiện theo yêu cầu của ông được, sở dĩ chúng ta cùng đói lại là tại quân đội các ông bắn vào cắt đứt đường tiếp tế - Lão ta đưa hai tay lên trời lắc đầu nói tiếp - Đành vậy thôi.


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:56:55 am
Ông cố đạo chào tôi rồi xin phép ra về tỏ vẻ rất lịch sự. Ngay đêm hôm đó, ban lãnh đạo chúng tôi lại tiếp tục họp có nhận định rằng hiện tượng lão cố đạo đến thăm và cho quà chứng tỏ Pháp chuẩn bị thua rồi. Làm thế, lão ta mong sau này có bị bắt cũng sẽ được đối xử tư tế hơn. Chúng tôi còn bàn về mặt tổ chức lực lượng phải chọn lọc ra bốn tiểu đội khỏe chờ khi bộ đội đánh vào, hai tiểu đội bảo vệ khiêng cáng anh em ốm và bị thương nặng ra, còn hai tiểu đội thì phối hợp dẫn đường cho bộ đội ta chiến đấu.


Cũng may đến thời kỳ này trong nội bộ anh em chúng tôi đã tương đối ổn định. Các mối mâu thuẫn đòi phải xử lý người này người kia đã được giải quyết, về phía địch thì càng ngày càng hoang mang rối loạn. Bọn lính Pháp đi qua khu tù không ngông nghênh như trước đây, thằng nào cũng lầm lì nhìn thấy anh em ta là đi rất nhanh. Riêng số lính Âu Phi thì lại tỏ ra có cảm tình với ta hơn, khi đi qua thường đứng lại nói chuyện. Có anh lính Maroc làm công việc canh gác tù lại gác cho ta nói chuyện với các bác phu. Có đêm, cả tổ canh gác mang súng vào nói chuyện cho anh em ta biết tình hình quân Pháp đang lúng túng đối phó như thế nào. Điều đó, khiến anh em chúng tôi càng thêm phấn khởi và tin tưởng rằng ngày giải phóng Điện Biên đã đến nơi rồi.


Quả đúng như vậy, năm ngày sau, ngày 7-5-1954, quân ta giải phóng Điện Biên. Đó là ngày đối với anh em tù chúng tôi có thể gọi là ngày tái sinh. Tôi cũng không ngờ Điện Biên giải phóng sớm thế. Lúc 7 giờ, tất cả anh em chúng tôi đều lên hết mặt hào không còn biết sợ là gì, ai nấy vô cùng xúc động được nhìn gần như toàn cảnh chiến đấu giữa ta và địch, nhìn thấy quân ta đến sát sông Nậm Rôm gần cầu Mường Thanh, chân đồi A1, nhìn xe tăng bộ binh địch hình như muốn tiến lên đánh chiếm lại, nhưng bên cạnh sao lại có toán lính bộ binh mang cờ trắng chạy về phía ta. Lính gác chúng tôi lúc đó là hai người Angiêri và Maroc chạy vào nói với chúng tôi vẻ như vừa sợ hãi, lại vừa muốn reo lên:

- Quân Pháp thua rồi. Chúng tôi xin theo các anh.

Người lính Maroc nói:

- Sĩ quan các đồn chạy về chỉ huy sở của tướng Đờ Cát họp bàn việc đầu hàng.

Ba hôm sau, tôi mệt quá không ăn uống gì được nhưng vẫn phải cấp tốc triệu tập cuộc họp với anh Trụ và ban lãnh đạo, tôi nêu vấn đề là cần phải kiểm tra lại phương án đã bàn lần trước, cử cán bộ phụ trách cụ thể từng bộ phận và triển khai kế hoạch ngay. Khoảng 9 giờ, nhiều tốp lính địch ở khắp các hướng mang theo cờ trắng đi về phía ta. Khoảng 10 giờ, bộ đội ta đến gần trại tù. Điện Biên lúc này như ong vỡ tổ. Quân địch và cả phu phen lũ lượt từng đàn mang theo cờ trắng đi xen lẫn cả vào bộ đội ta. Hai tiểu đội làm nhiệm vụ khiêng anh em ốm và bị thương nặng cũng đi chung một đường. Chỉ có điều bây giờ chúng tôi không còn là tù binh, ngược lại, bọn giặc Pháp hôm nào vẫn vênh váo trước anh em chúng tôi thì bây giờ chúng là tù binh. Đi chung một đoạn đường, anh em ta cười nói hoan hỉ còn bọn chúng thì thui thủi, mặt cúi gầm, mát lấm lét. Tôi cũng muốn reo lên để hòa cùng niềm vui chung với đoàn quân thắng trận Điện Biên, nhưng mệt quá.


Hôm đó, tôi được cáng ngay về trạm quân y và cũng từ đó đến nay tôi không hề biết một chút gì về anh em bạn tù của tôi ở Điện Biên ai còn ai mất, ai gặp phải những bước thăng trầm gì và có vượt qua được không.


Là một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn được tham gia chiến dịch Điện Biên năm đó, đã chứng kiến biết bao tấm gương chiến đấu dũng cảm kiên cường của bộ đội ta. Song lại cũng chứng kiến hơn một trăm anh em sau khi bị thương đã bị bắt làm tù binh, lâm phải cảnh ngộ đắng cay mà vẫn kiên trung với Đảng, với quân đội, với nhân dân, không một ai chịu khuất phục trước kẻ thù, liệu cấp trên có nghĩ rằng đó cũng là sự đóng góp vào chiến thắng Điện Biên. Riêng tôi, tôi không hổ thẹn, không có điều gì phải phiền muộn. Trái lại, tôi rất tự hào, cho dù không được cầm súng chống giặc cho đến giây phút cuối cùng của chiến dịch, chúng tôi vẫn không lúc nào nhụt chí, đã giữ vững được phẩm chất người chiến sĩ nhân dân trong hoàn cảnh hết sức hiểm nghèo. Chỉ rất tiếc, khi niềm vui chiến thắng Điện Biên tràn ngập khắp chốn khắp nơi, ta lại nhiều việc quá, những công việc lại lớn lao gấp bội phần, cho nên không mấy ai nhắc nhở đến cái tình huống đầy bi kịch của các chiến sĩ tù Điện Biên chúng tôi. Song xin thưa bi kịch nhưng mà lạc quan. Nghịch cảnh nhưng vẫn ẩn trong vóc dáng của chiến thắng Điện Biên vĩ đại.


Chiến thắng Điện Biên đã gần 45 năm qua rồi, không biết những người bạn tù Điện Biên của tôi hôm nay cuộc sống ra sao. Chép lại những dòng ký ức này tôi không ngoài mục đích muốn ngợi ca những người bạn tù bất khuất của tôi ở Điện Biên. Mặt khác, cũng muốn Đảng, Nhà nước biết về họ. Hơn thế nữa, năm nay tôi đã ngoài bẩy mươi tuổi rồi, quỹ thời gian không còn là bao, qua những trang ký ức này, tôi muốn nhắn tìm anh em, ai còn sống hãy đến với tôi. Nhà tôi ở phòng 204, nhà A2, khu tập thể Quân đội, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Ngày nay, trong không khí yên bình, chúng ta sẽ có nhiều thời gian để nói với nhau về Điện Biên trong ta, những người bạn tù ngày ấy, nhiều cay đắng nhưng cũng rất anh hùng.

N.C


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:58:36 am
VƯỢT SÔNG


HỮU HUÂN


Mặt trời chưa lặn, đoàn quân đã xuất phát, nhìn các đại đội từ các thôn xóm đi ra nối vào nhau thành đội hình tiểu đoàn hành quân trải dài theo ven đê sông Đáy quãng phía Nam Bồng Lạng để qua sông trên thôn Thanh Khê (Thanh Liêm - Hà Nam) tôi thấy lo lo vì địch ở phố Cà, cách gần 2 km đường chim bay có thể phát hiện.


Sau chiến dịch Biên Giới, đơn vị tôi được đi nhận vũ khí ở Lạng Sơn, trên 2 tháng hành quân và sống ở rừng núi đã làm cho thể lực của cán bộ, chiến sĩ giảm nhiều, mặc dù đã được nghỉ ngơi bồi dưỡng mấy tuần ở khu vực huyện Nho Quan (Ninh Bình), song đối với những người lính ở đồng bằng chưa biết rừng núi là gì thì ngần ấy thời gian đã đủ ngấm vi trùng sốt rét.


Nhìn đoàn quân mỗi người đều mang trên minh khối lượng súng đạn khá năng, nhiều cán bộ, chiến sĩ còn xanh gầy nhưng đều biểu lộ sự phấn chấn vì họ đều tin rằng có thêm nhiều súng đạn đem về sẽ chiến đấu có hiệu quả hơn trong việc bảo vệ nhân dân, giải phóng quê hương.


Cùng đi với chúng tôi có anh Nguyễn Khai liên khu ủy viên liên khu III, Chính ủy mặt trận đường 5 lúc ấy (mặt trận đường số 5 gồm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình) và một số cán bộ đi theo (Anh Nguyễn Khai sau này là Ủy viên Trung ương khóa 3, Phó Ban tổ chức Trung ương). Đi lên phía giữa đội hình, tôi gặp Chu Mạnh Phồn Thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam, Bí thư huyện ủy Bình Lục, người đã cùng tôi hoạt động từ trước ngày khởi nghĩa (tháng 8.1945) và đã cùng nhau sát cánh giành chính quyền huyện Duy Tiên (Hà Nam) lâu ngày mới gặp nhau chúng tôi rất hồ hởi.

- Được các ông ở địa phương cùng đi như thế này thì thuận cho đơn vị quá.

- Mình chỉ đi đến Bình Lục.

- Chúng mình không ở lại Bình Lục mà đêm nay phải vượt sông Hồng qua Thái Bình.

- Như vậy qua Bình Lục chúng ta chia tay, có gì cần giúp đỡ thì ông báo cho mình.

Không có thời gian trao đổi nhiều với đồng chí Phồn, tôi tạm biệt đi lên phía trên.

Trời nhá nhem tối. Đơn vị đầu tiên đã qua sông Đáy. Tôi Nguyễn Mạnh - tiểu đoàn trưởng và Hoàng Kim, chính trị viên Đại đội 54 trong thường vụ đảng ủy tiểu đoàn đã trao đổi và quyết định đại đội 54 do đồng chí Mạnh phụ trách cùng với bộ phận trinh sát và hỏa lực cần thiết tách khỏi đội hình tiểu đoàn, đi trước để nắm tình hình và bố trí việc vượt sông Hồng của tiểu đoàn, đại bộ phận còn lại do tôi chỉ huy đi sau.


Một lúc sau đó, đơn vị đã hình thành đội hình hành quân đi trong vùng địch tạm chiếm, nhìn đồng hồ là 20 giờ, tôi hỏi các đồng chí liên lạc người địa phương có nhiệm vụ dẫn đường:

- Đi khoảng mấy giờ thì sẽ đến bến vượt sông Hồng?

- Độ 6-7 tiếng, chúng ta sẽ cố gắng đến trước 5 giờ sáng thì mới kịp sang sông.

Đứng trên mô đất cao dưới ánh trăng thượng tuần, nhìn đoàn quân nối tiếp nhau qua các cánh đồng lúa chiêm đã nặng hạt như một con trăn khổng lồ đang trườn mạnh lên phía trước, thỉnh thoảng có tiếng nói chuyện nho nhỏ, tiếng cười rúc rích. Qua sườn dẫy núi Trà Châu tôi đi vượt lên phía trước tới đoạn vượt đường 21 nơi tiếp giáp giữa 2 huyện Thanh Liêm và Bình Lục (đường 21 từ Phủ Lý đi Nam Định) gặp tổ bám đường, nghe báo cáo tình hình có vẻ yên ắng, việc bố trí cho đơn vị qua đường thuận lợi, ban đêm địch không tuần tra đến khu vực này.


Đến địa phận Bình Lục thì đêm đã về khuya, trăng đã lặn, trời tối, tầm nhìn thu hẹp lại, pháo sáng của các đồn bốt địch quanh vùng bắn lên cùng với tiếng súng cầm canh các loại không ngớt. Trong hàng quân chỉ còn nghe tiếng lép bép ịch ịch thỉnh thoảng có tiếng uych... uych... oặp rồi tiếng hỏi nhau "ướt hết rồi phải không?". Tôi hiểu, đơn vị sau một thời gian nghỉ ngơi chưa hoàn toàn lại sức, đêm qua lại hành quân suốt đêm từ phía Nho Quan tới khu vực Bồng Lạng. Hôm nay, phải hành quân sớm, phải chuẩn bị nên không được nghỉ mấy, bây giờ nhiều anh em đã thấm mệt, vừa đi vừa ngủ. Tôi nhắc các đơn vị phải bám sát 285 vào nhau không để lạc đường, mặc dầu mỗi đơn vị dền bố trí liên lạc là người địa phương đi cùng nhưng nếu bị lạc lúc này thì sẽ vỡ kế hoạch của tiểu đoàn và sẽ là tai họa.


Đã đi được quá nửa đường chưa? Tôi hỏi các đồng chí giao liên. Được rồi, nhưng thủ trưởng nhìn kìa, tôi nhìn lên phía đông những đám mây to đang dồn lại, bầu trời đen nghịt, một trận mưa to đầu hè sắp bắt đầu.

- Mưa to có ảnh hưởng gì đến việc đến bãi vượt, sông kịp thời gian không?

- Có thể đảm bảo, ta có thể lợi dụng lúc mưa đi qua sát vào đồn Vĩnh Trụ, đường đi sẽ ngắn hơn.

- Sát bốt, cách khoảng bao nhiêu?

- Độ trên 300m, mưa tối có pháo sáng của địch cũng không trông rõ ta được.

- Cậu bảo đảm thế à?

- Mỗi lần đi qua nếu mưa chúng tôi vẫn đi như thế.

- Thế thì được.

Tôi nói anh em liên lạc của đơn vị truyền lệnh "Sắp đi qua sát đồn địch, phải tuyệt đối im lặng, kiểm tra lại hành trang, đi qua phải khẩn trương, không để phát ra tiếng động".

Sấm chớp liên tục, mưa như trút nước, bốn bề tối đen chỉ trông thấy nhau khi ánh chớp lóe lên, tôi ra lệnh "bám sát vào nhau, người sau bám người trước, người trước không thấy người sau phải chờ không để lạc". Một lúc lâu sau ước chừng đơn vị đã vượt qua bốt Vĩnh Trụ một đoạn đường, tôi nói với các đồng chí giao 286 liên: "giữ đúng hướng, tăng nhanh tốc độ hành quân để sớm đến bãi vượt nếu mưa ta tranh thu vượt có thuận lợi hơn" và một lệnh được truyền từ trên xuống dưới: "tăng nhanh tốc độ hành quân".


Mưa vẫn nặng hạt, đường hành quân vẫn qua các cánh đồng liên tiếp nhưng trên con đường đất nhỏ, qua những bờ ruộng trơn như mỡ, tốc độ hành quân không tăng mà đã chậm lại, đi quanh co một chặng khá dài lại trở lại đúng cái gò có lùm cây lúc trước đã đi qua, đồng chí giao liên tỏ vẻ lo sợ: "Báo cáo trời tối quá không nhìn ra đường đi đã bị lạc mất một quãng".


Qua ánh chớp lấp lóe tôi nhìn đồng hồ đã gần 3 giờ sáng và tôi hỏi lại:

- Quanh khu vực này các đồng chí có nắm được làng nào có tề ác, làng nào có cơ sở của ta không?

- Báo cáo, không nắm được ạ.

- Phải đi mấy tiếng nữa mới đến bến vượt? Từ đây lên đến sông Hồng mất hơn một tiếng, lên đê còn phải đi gần 3 cây số nữa mới đến đoạn vượt sông. Tôi suy nghĩ không kịp mất rồi, xử trí thế nào dây.

- Đồng chí phụ trách bến vượt sông hiện ở đâu? Tôi hỏi.

- Ở xóm nhỏ bên ngoài đê, chỗ lúc nữa ta đến đó.

- Trong 2 đồng chí một đồng chí đi nhanh đến đó báo đồng chí phụ trách bến vượt cố tìm bằng được cán bộ địa phương này cho tôi gặp.

Trời đã quang dần, những tia sáng ở phía đông đã hiện dần ra, tôi lệnh cho các đại đội phải "tăng nhanh tốc độ".


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 08:59:48 am
Từ kinh nghiệm hoạt động sâu trong vùng địch tạm chiếm mỗi người đều hiểu rằng nếu trời sáng mà còn loanh quanh ngoài đồng thì sẽ làm mồi cho địch tiêu diệt và thế là cả đơn vị theo hướng đê sông Hồng chạy tắt qua các ruộng lúa.


Ở phía dưới hàng quân truyền lên lệnh của anh Khai "Bộ đội không được dẫm lúa của dân" nhưng lệnh đó hầu như không được thực hiện. Tờ mờ sáng lên đến đê, tôi gặp đồng chí phụ trách bến vượt sông, đồng chí cán bộ phụ trách khu vực của huyện Lý Nhân và vài đồng chí địa phương khác, các đồng chí cho biết các làng trong khu vực đều là làng tề, nhưng là tề 2 mang, nghĩa là chính quyền của địch nhưng ta cũng có nắm được, các thôn đều có tổ du kích bí mật.

- Đơn vị chúng tôi đã hành quân đến đây nhưng không kịp vượt sông được nữa, tôi đề nghị các đồng chí giúp đỡ cho bộ đội trú lại để tối vượt sông - Tôi nói.

- Đó là trách nhiệm của chúng tôi.

- Tôi đề nghị các đồng chí cử cho mỗi đại đội một đồng chí nắm được tình hình trong làng mà đơn vị sẽ vào trú quân để giúp đỡ cụ thể.

Sau đó, tôi gặp các Ban chỉ huy đại đội và giao nhiệm vụ: Đại đội 58 và đại đội 60 vào làng ở sát chân đê, nếu thấy mật độ đặc quá thì có thể cho một bộ phận sang làng phía bên trong khoảng cách 800-900m nhưng phải ngụy trang thành dân và đi lẻ tẻ từng tốp một. Đại đội 50 và tiểu đoàn bộ vào làng cách đê 300m. Nhiệm vụ chung là giữ bí mật, không để địch phát hiện và đến tối vượt sông. Khi vào làng phải nắm ngay 288 các tổ du kích bí mật phong tỏa các lối thoát ra không cho các phần tử xấu, những người dễ dao động đi khỏi làng, bắt giữ bọn tề và giám sát chặt chẽ những phần tử nghi vấn, vận động nhân dân sáng ra đi như những người nom lúa, bắt cua, cá đến những ruộng lúa ven đê, ven làng dựng vuốt lại để địch khỏi nghi. Đối với địch nếu đi lẻ tẻ vài ba tiểu đội, không sục vào làng thì cứ để nó đi tự nhiên, nếu nó sục vào làng thì tìm cách bắt hoặc diệt gọn, nếu bị lộ địch đưa lực lượng lớn về càn quét thi phải chiến đấu vì vậy phải nghiên cứu địa hình, xác định kế hoạch tác chiến đối với các tinh huống có thể xảy ra và khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, đại đội 58 tổ chức cảnh giới phía Bắc xuống, đại đội 50 cảnh giới phía Nam lên và kịp thời thông báo cho nhau tình hình địch, cố gắng đảm bảo ăn uống cho bộ đội.


Các đơn vị lần lượt vào làng, bộ phận anh Nguyễn Khai đã đến, anh hỏi tôi:

- Cậu có nghe được lệnh của tôi không được dẫm lúa của dân không?

- Báo cáo anh có, trước đó tôi cũng đã lệnh không được dẫm lúa, nhưng chỉ được bộ phận đi đầu có tôi cùng đi thực hiện, các đơn vị đi sau cứ chạy bừa và dẫm vào lúa của dân không sao cấm được, tâm lý anh em sợ sáng không vào làng được thì gay go.

- Bây giờ làm thế nào?

- Đơn vị đi bị mưa, đường trơn, lại bị lạc nên đến quá muộn, bây giờ phải trú lại đến tối mới vượt sông được, và tôi báo cáo tình hình mọi mặt được các đồng chí địa phương cho biết, kế hoạch trú quân và kế hoạch đối phó với địch.

- Liệu anh em có thực hiện được đầy đủ như thế không?

- Những tình hình như thế này cán bộ của đơn vị đã hoạt động trong vùng địch tạm chiếm cũng đã gặp phải và có kinh nghiệm xử trí nên có thể anh em làm được.

- Thế thì được.

Tôi mời anh nghỉ ngơi một chút rồi anh em dẫn đến chỗ ở, bàn với các đồng chí địa phương tim chỗ ở an toàn cho anh, các đồng chí đó đề xuất nên ở ngay xóm nhỏ có dăm sáu nhà ngoài đê vì nơi đây địch không nghi và sục sạo gì, lại có hầm bí mật bảo đảm, tôi thấy như vậy là tốt hơn và mời anh đi, anh nhìn tôi và hỏi:

- Thế cậu thế nào?

- Báo cáo anh, tôi sẽ không xuống hầm vì còn đơn vị chắc sẽ còn rất nhiều tình huống phải xử trí.

Anh nhìn tôi với con mắt đồng tình, thông cảm. Tôi dặn các đồng chí địa phương dẫn anh và các đồng chí cùng đi đến nơi ở và cần kiểm tra lại thật cẩn thận.

Mặt trời đã trải ánh nắng vàng xuống các thôn xóm, những thửa ruộng ven làng, ven đê thấy lác đác có những người dân đi dựng lại các khóm lúa, tôi theo các đồng chí giao liên tới ngôi miếu nhỏ ngồi dưới tán che khuất của khóm cây nhãn nhìn thuyền bè của nhân dân đi lại trên sông Hồng như hoạt động của một ngày bình thường và tìm hiểu quy luật hoạt động của địch trên sông. Ban ngày, địch không hoạt động thành quy luật trên sông như ban đêm, các loại tàu thuyền vận chuyển thì qua lại thường xuyên có khi nó di sát vào ven sông cách miếu đang ngồi vài chục thước trông rõ các loại hàng hóa chuyên chở và lính bảo vệ trên tàu.


7 giờ 30 phút, nghe đồng chí du kích cảnh giới phía đê báo cáo "có một toán địch đi từ phía nam lên". Tôi hỏi:

- Có nhiều không?

- Độ trên 10 tên.

- Đây là bọn lính ở đồn Như Trác đi tuần tra bình thường hàng ngày lên để gặp bọn tuần tra từ Vũ Điện xuống, đồng chí phụ trách giao liên nói.

- Thông thường khi nó đi tuần tra thì các đồng chí đối phó thế nào?

- Chúng tôi cho anh em "công khai" là tuần phu tiếp đón nó, nếu nó hoạnh họe gì thì tìm cách đút lót cho nó đi.

- Vậy thì hôm nay các đồng chí cũng làm như hình thường. Nếu nó phát hiện thấy có bộ đội trong làng thì tìm cách báo cho đơn vị để làm gọn. Hơn nửa giờ sau, tôi được báo đã giải quyết xong, bọn lính địch chỉ đi trên đê, không tỏ vẻ phát hiện gì và đã đi. Tôi suy nghĩ có lẽ đây mới là tình huống nhỏ đầu tiên, cần phải khẩn trương chuẩn bị đối phó với các tình huống tiếp theo. Nắm lại tình hình, tôi biết các đơn vị đã liên lạc chặt chẽ với các tổ chức du kích bí mật khống chế được bọn tề, đã xác định xong kế hoạch tác chiến theo các tình huống, bộ đội đang làm công sự chiến đấu và nhân dân giúp đỡ chăm sóc bộ đội rất tốt. Tôi nhắc các đơn vị cần bố trí cảnh giác từ xa theo phạm vi được, phân công, cố gắng phát hiện sớm các hành động của địch để chủ động đối phó. Cần chú ý bàn kế hoạch sơ tán các cụ già, trẻ em khi xảy ra chiến đấu.


Mặt trời đã ở phía đỉnh đầu. Lúc này, theo báo cáo của các đại đội, bộ đội đã được nhân dân cho ăn bữa cơm thịnh soạn và phân công một bộ phận cảnh giới, còn phần lớn đã ngủ. Tuy rất mệt nhưng tôi không sao chợp mắt, ngồi nhìn các đoàn tàu vận tải của địch qua lại trên sông tôi suy nghĩ về các tình huống có thể xảy ra trong ngày cũng như trong lúc bộ đội vượt sông và các kế hoạch đối phó.


Khoảng hơn 16 giờ, tôi hỏi đồng chí phụ trách giao liên.

- Vào giờ này các hoạt động của địch thông thường thế nào?

- Các hoạt động lớn của địch vào thời điểm này thông thường rất ít xảy ra, nhưng vẫn có những hoạt động lẻ dò la do thám của địch.

Khi trời đã về chiều, thấy tình hình phức tạp chắc khó có thể xảy ra, tôi qua chỗ anh Khai và mấy đồng chí cùng đi để xin ý kiến. Anh Khai thong thả nói:

- Cần kiểm tra kỹ lại kế hoạch vượt sông, đề phòng lúc ta vượt sông địch mới hành động, cố bắt liên lạc với bộ phận của Mạnh đã vượt sông đêm qua để tổ chức cho đơn vị vượt ở hai bên sông cho chặt chẽ, bảo đảm cho đơn vị vượt nhanh gọn, bàn kỹ với địa phương có kế hoạch đối phó khi ta đi rồi địch sẽ khủng bố.

Cho đến gần 21 giờ mới có liên lạc từ bên kia sông sang. Anh Mạnh cho biết nhiều khả năng địch nghi ngờ có đơn vị lớn vượt sông nên nó đi tuần trên sông rất ráo riết, cứ một giờ lại có một đoàn tàu và ca nô đi lên hoặc đi xuống, ta phải lợi dụng khoảng cách trong một giờ đó để vượt sông, phương tiện vượt đảm bảo đủ mỗi chuyến trên một trung đội, phía bên Thái Bình ta bố trí sẵn trận địa hỏa lực cách bến vượt trên một cây số để nếu lộ, ta sẽ đánh phía trên để thu hút địch, phía dưới cứ tiếp tục vượt sông.


Tôi sang sông chuyến cuối cùng, đi vào trong đê phía tả ngạn sông, tôi gặp anh Nguyễn Tiệp - trung đoàn phó, người phụ trách đưa 2 tiểu đoàn 648 và 922 trung đoàn 42 đi lấy vũ khi ở Lạng Sơn và là người tổ chức chỉ huy cuộc vượt sông này, anh Tiệp rất vui bắt tay tôi, anh nói:

- Đơn vị các cậu về được trọn vẹn thế này là thắng lợi lớn rồi, bây giờ còn tổ chức cho 922 về nữa, nhưng tình hình sẽ khó khăn gấp bội vì nhiều khả năng địch đã phát hiện thấy có đơn vị lớn vượt, sông sẽ tập trung ngăn chặn ráo riết. Sau đó, địch giăng tàu trên trên sông dày đặc và càn quét lớn các khu vực vực trên địa bàn các huyện thuộc Hà Nam. Do đó tiểu đoàn 922 không qua sông được và ở lại nhập vào đội hình trung đoàn 46, chiến đấu tại hữu ngạn sông Hồng.

Cho đến khi nhớ lại và suy nghĩ để viết những dòng này, tôi càng thấy thấm thìa câu nói của Bác Hồ kính yêu: "Ở đồng bằng, các chú không có rừng nhưng có dân". Đúng là nhân dân đã đùm bọc, che chở, giúp đỡ hết lòng, nhờ có dân mà đơn vị đã vượt sông được an toàn.

Tháng 9 năm 1998
H.H


Tiêu đề: Hồi ức chiến tranh
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 19 Tháng Chín, 2022, 09:01:45 am
HÀNH QUÂN XE ĐẠP ĐUỔI Ô TÔ


TÔ BINH


Những ngày đầu xuân 1968, cả miền Bắc sục sôi đón chào tin thắng lợi từ chiến trường miền Nam. Từng giờ, trên mạng truyền thanh công cộng vang lên những tin đại thắng của Cuộc tổng tấn công và nổi dậy hòa cùng những lời thơ mừng xuân của Bác Hồ: "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua...".

Hồi ấy, tôi là trợ lý phòng huấn luyện Bộ tư lệnh Pháo binh ở Hà Nội.

Một buổi sáng đầu tuần, tôi chưa hết mệt mỏi vì chiều thứ bẩy đạp xe bẩy mươi cây số tranh thủ về thăm vợ con ở huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ và mới xuống cơ quan tối chủ nhật. Tám giờ sáng, tôi được gọi lên gặp trưởng phòng để nhận chỉ thị, ông mời tôi vấn một điếu thuốc lá sợi vụn Thăng Long đựng trong túi ni-lông, bật lửa cho tôi châm thuốc rồi nói:

- Để đề phòng địch bị thua đau ở miền Nam, liều lĩnh tấn công ra nam Quân khu 4, Bộ tư lệnh tăng cường một tiểu đoàn pháo cho trung đoàn pháo binh Bến Hải ở giới tuyến và tiểu đoàn đã xuất phát hành quân tối hôm qua. Ở ngoài này, tiểu đoàn trang bị pháo lựu 122 ly, nay lại nhận pháo lựu 105 ly, cán bộ, chiến sĩ chưa được huấn luyện thay đổi pháo. Đồng chí có nhiệm vụ đuổi theo đơn vị, cùng hành quân vào đó với 295 anh em và trong thời gian chuẩn bị chiến trường, phải huấn luyện cho đơn vị sử dụng tốt loại pháo mới trang bị. Trước khi đi, sang phòng tác chiến tìm hiểu thêm tình hình.


Thời chiến, mệnh lệnh chỉ ngắn gọn vậy, còn làm thế nào để thực hiện, đó là trách nhiệm của sĩ quan nhận lệnh.

Vì phải đạp xe đuổi theo đoàn xe cơ giới nên tôi khẩn trương chuẩn bị mọi việc trong một tiếng đồng hồ: Lấy giấy tờ, tài liệu huấn luyện, bản đồ hành quân, nhận tăng võng, vũ khí và lương thực, thực phẩm khô để tự nấu ăn dọc đường, lại còn phải săn sóc cho "con tuấn mã" là chiếc xe đạp thống nhất nữ, không quên đem theo đồ nghề sửa xe và chiếc bơm Tiệp. Không kịp viết thư về nhà vì viết dài thì không đủ thời gian, mà viết ngắn không nói được rõ lại thêm lo lắng.


Lúc ấy, đang thời bao cấp đâu có sẵn quán ăn như bây giờ. Tôi xuống nhà bếp nhận một khẩu phần bánh mì về nhai vội, chiêu với bát nước đường để thay cho bửa ăn trưa còn quá sớm. Và khoảng 10 giờ, tôi đạp xe nhằm phía tây thẳng tiến.


Đồng chí trực ban tác chiến Bộ tư lệnh (nay đã quá cố) cho biết đơn vị từ Vĩnh Yên qua Sơn Tây lên Hòa Bình rồi ra Nho Quan - Rịa để bắt vào đường 15 và có khả năng lúc này đơn vị đang tập kết ở khu vực Hòa Bình để tối nay hành quân tiếp, vì vậy, tôi hối hả đạp lên Hòa Bình hy vọng gặp được đơn vị trước giờ xuất phát, hành quân chặng thứ hai. Nhưng tôi đã không tìm thấy tiểu đoàn, đành nghỉ đêm lại thị xã Hòa Bình để hôm sau buộc một cành cây vào đuôi xe làm phanh lúc đổ dốc Cun rồi ra Nho Quan về Rịa. Lúc ấy, mạng thông tin còn kém phát triển, tôi không có cách nào liên lạc về cơ quan Bộ tư lệnh nên cứ ngày đi đêm nghỉ bám theo dấu vết đơn vị. Trên đường gặp nhiều tốp thanh niên xung phong làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông và không khí hối hả mở đường, bạt dốc, san lấp hố bom. Khi tôi hỏi thăm đều được họ trả lời là có đoàn xe pháo mới qua đây đêm trước. Những tin tức đó nuôi thêm hy vọng làm tôi quên mệt lúc phải đẩy xe lên dốc, lúc dắt xe trên đoạn đường đất đỏ bùn dẻo quánh bám chặt lấy bánh xe, thỉnh thoảng phải dừng lại gạt bùn đất ở bánh xe, đế giầy. Những con đường đó còn dằn vết bánh ô tô vẫn hút tôi lầm lũi bươn tới. Sau này, tôi mới biết những ngày chiến trường sục sôi đó đã có nhiều đoàn xe pháo đi vào, có pháo mặt đất và pháo cao xạ. Còn các bạn thanh niên xung phong thì chỉ thấy xe có đuôi phủ bạt hoặc kèm lá ngụy trang lại trong đêm tối, đâu có phân biệt là pháo trời hay pháo đất.


Mấy đêm đầu còn tìm được chỗ nghỉ trong nhà dân. Nhưng đến đoạn Nam Thanh - Bắc Nghệ, có hôm trời gần tối không tìm được làng bản, tôi đành phải vào rừng cây cách đường dăm chục mét hạ trại. Trước hết kiếm mấy cành củi thật khô dùng dao găm chẻ nhỏ, đóng hai cành cây có chạc xuống đất, treo ăng-gô lên nấu cơm trước khi trời tối, lấy nước sôi pha chút ruốc và mì chính làm canh ăn cho qua bữa tối, rồi treo võng thật cao. Thời chiến tranh, nhưng an ninh rất tốt không phải đề phòng con người mà đề phòng rắn rết, hoang thú. Nằm vắt vẻo trên võng vừa nhả khói thuốc lá, vừa ngắm những vì sao thấp thoáng qua tán lá rồi ngủ thiếp đi vì mệt nhọc sau một ngày cùng "con tuấn mã" trèo đèo lội suối.


Một hôm, trời đã về chiều, tìm trên bản đồ thấy gần tới một bản nhỏ ghi tên Bản Chuối, tôi đi cố với hy vọng tìm được mấy mái nhà sàn để tá túc qua đêm. Nhưng khi đến nơi chi thấy mấy nền nhà cũ, vài ba bụi chuối hoang sơ mọc chen cây xấu hổ, tuyệt nhiên không một bóng người.


Tôi lại lên xe vừa đi vừa ngó trước ngó sau để tìm một chỗ vừa ý lập "hành cung". May sao trông thấy bên đường có một vết lối mòn đi vào rừng. Tôi rẽ vào, lòng khấp khởi mừng thầm. Quả nhiên đi vào khoảng hai trăm mét, gặp một mái nhà tranh làm theo kiểu "nhà âm" nền nhà đào sâu xuống thành cấm thùng để tránh bom tọa độ. Ngó vào trong nhà thấy một thanh niên khoảng hai mươi tuổi mặc bộ quần áo mầu xanh công nhân làm cho khuôn mặt xanh mầu sốt rét rừng của anh như càng tái xanh hơn.


Tôi hỏi xin nghỉ nhờ qua đêm nhưng lạ thay anh một mực chối từ.

- Nhà tôi chật lắm không có chỗ nghỉ cho anh đâu!

- Tôi mắc võng vào hai cột này cũng tốt lắm rồi.

- Không được, lát nữa chỗ tôi còn mấy anh về.

Tôi bần thần dắt xe ra cách vài chục mét định "hạ trại". Vừa tháo ba lô ở sau xe ra, đang loay hoay tìm chỗ mắc võng và sửa soạn bữa chiều thì lại thấy anh ra gọi vào cho nghỉ nhờ. Anh bảo tôi, góp gạo để anh nấu cơm. Tôi để ý đợi đến tối vẫn không thấy ai về thêm.


Anh đặt một mảnh gỗ xẻ xuống nền nhà làm mâm và gọi tôi lại ăn cơm. Với tôi, từ hôm rời Hà Nội thì bửa cơm chiều đó là một bữa thịnh soạn. Hôm đó, anh bắn được một con quạ và chúng tôi ăn cơm với thịt quạ nấu muối, canh rau cải đã hơi già nấu với muối mặn và mì chính của tôi. Anh lại đem ra chai rượu chanh còn vài chén chắc anh để lại từ tết, cũng át đi được mùi hôi của thịt quạ.


Cơm xong, lúc ngồi dưới ánh đèn dầu ma dút, bên bát nước chè Ba Đình nấu trong ăng-gô và khói thuốc lá Tam Đảo là chút quà Hà Nội của tôi, chúng tôi mới có dịp chuyện trò cởi mở. Anh cho biết anh là người ốm ở lại trông hậu cứ cho một tổ địa chất. Anh đang bị sốt rét nên được ưu tiên ở nhà "an dưỡng" và làm việc nhẹ. Việc của anh là trồng rau, nhận lương thực, thực phẩm chủ yếu là gạo, muối, cá khô của đơn vị cấp để anh em đang đi khảo sát trong bán kính vài chục ki-lô-mét thỉnh thoảng về lấy. Khi tôi hỏi anh tại sao lúc chiều anh khăng khăng không cho tôi vào nghỉ nhờ, anh nói:

- Vì tôi trông anh kỳ lắm, tôi chưa thấy ai lại một mình đạp chiếc xe đạp nữ trên đường bò lăn để đuổi theo đoàn xe cơ giới. Tôi ngại là kẻ gian mà tôi chỉ có một mình, tôi sợ anh hại tôi, và anh với tay lấy khẩu súng trường dựng bên thành sàn, thận trọng keo khóa nòng tháo ra năm viên đạn, có viên đã lên nòng và nói: "anh xem, lúc anh quay ra, tôi đã kịp lắp đạn để phòng thân"!


Lúc ấy, tôi mới để ý đến mình. Chiếc ba lô màu xanh mới nhận, bộ quần áo ka ki Tô Châu năm ngày chưa thay đã ngả màu đỏ vì bụi đường. Đưa bàn tay lên mặt thì râu tua tủa. Và tôi mỉm cười nhớ lại ánh mắt nghi ngại của anh lúc mới gặp.


Đêm hôm đó, tôi ngủ thật ngon. Mờ sáng hôm sau thức giấc, tôi đã thấy anh dậy từ lúc nào, nấu cho tôi một ăng-gô cơm để tôi ăn lót dạ, một phần còn lại đem theo cho bữa ăn trưa. Anh không ăn và nói là không quen ăn sáng. Tôi lấy trong túi thuốc hành quân hai mươi viên ký ninh và một trăm viên vi-ta-min tổng hợp làm quà cho anh. Rồi chúng tôi chia tay, anh khép cửa ra rẫy còn tôi lại lên xe đi tiếp.


Cuối cùng, sau sáu ngày hành quân, tôi cũng đã tìm được tiểu đoàn đang tập kết ở Nam Đàn để cơ quan Bộ tư lệnh Pháo binh bàn giao cho Quân khu 4. Đơn vị cũng mới đến trước tôi hai ngày một đêm.


Lúc đó, hỏi ra tôi mới biết, đơn vị đã lợi dụng thời gian địch tuyên bố ném bom hạn chế từ nam vĩ tuyến hai mươi để hành quân những chặng đầu theo đường số 1. Còn tôi, vì được thông tin sai lệch mà lại do cơ quan tác chiến cung cấp, cứ cắm cúi đuổi theo đơn vị trên đường 15. Nhưng gặp được đơn vị là tôi vui mừng lắm, quên đi bao mệt nhọc trên đường và nỗi bực mình vì "được" chỉ dẫn sai.


Bàn giao xong, các đồng chí trợ lý phòng tác chiến quân lực đi theo tiểu đoàn từ Vĩnh Yên lại quay xe con ra Hà Nội, còn tôi mang xe đạp gửi vào nhà một trưởng xóm ở Nghĩa Đàn, lên xe cùng đơn vị hành quân vào giới tuyến.


Tôi sống cùng đơn vị hơn một tháng ở Vĩnh Linh và dưới tán rừng cao su, trong tiếng bom đạn địch tập trung đánh phá ác liệt nam Khu bốn, tôi đã lo lắng tập huấn cho cán bộ khẩu đội, tiểu đội trở lên về sử dụng pháo, tính toán phần tử và bắn pháo.


Hoàn thành nhiệm vụ, chia tay đơn vị, tôi lại một mình đi bộ ra Nam Đàn lấy xe đạp và cũng một mình một xe về Hà Nội. Lần hành quân trở ra không gấp gáp, tôi có dịp thưởng ngoạn phong cảnh bên đường, có thời gian vào thăm nhà Bác Hồ ở Kim Liên. Và chuyến ra cũng thêm bao kỷ niệm khó quên.


Từ ngày rời Hà Nội đến lúc trở về tròn hai tháng rưỡi. Hai tháng rưỡi bặt tin cũng làm vợ tôi ở quê bồn chồn lo lắng.

Nửa năm sau, nhân có đoàn cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh Pháo binh vào công tác, đồng chí Lương - phó tiểu đoàn trưởng gửi thư hết sức cám ơn Bộ Tư lệnh đã cử tôi vào giúp cho đơn vị huấn luyện chuyển loại pháo làm cho đơn vị thêm vững vàng trong chiến đấu.


Năm 1972, lại có dịp cùng đơn vị tham gia chiến dịch giải phóng Quảng Trị, tiểu đoàn đã sử dụng pháo lựu 105 ly hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và sau này được phong tặng danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".


Ba mươi năm đã trôi qua, tôi vẫn chưa quên con đường bò lăn đất đỏ, cái đêm treo võng một, mình dưới tán cây rừng và bữa cơm thịt quạ mùa xuân năm 1968.