Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 05:21:44 pm



Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 05:21:44 pm
- Tên sách: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
- Tác giả: Nguyễn Mạnh Hưởng
- Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
- Năm xuất bản: 2012
- Số hoá: giangtvx, saoden
 

LỜI NHÀ XUẤT BẢN


Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt từ khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu đến nay, các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược "diễn biến hòa bình". "Diễn biến hòa bình" thực sự là một nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng tập trung xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật... Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: "Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".


Âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận thật sự nguy hiểm, có thể tạo nên sự mơ hồ, hoài nghi, mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào đường lối, quan điểm, sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, gây nên rối loạn về chính trị, tư tưởng trong xã hội.


Đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng thực hiện chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hòng làm cho quân đội ta biến chất, làm suy yếu sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Điều đó ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Trong xã hội còn có những biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ nhiều nội dung liên quan đến sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, trong điều kiện xuất hiện chiến tranh công nghệ cao..., ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức tư tưởng, tình cảm và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và công dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là một nội dung quan trọng và nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Điều đó góp phần tích cực vào việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.


Nhằm giúp độc giả có thêm tài liệu tham khảo theo hướng trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Góp phần chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng của PGS. TS. Nguyễn Mạnh Hưởng. Cuốn sách tập hợp một số bài viết trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng của tác giả trong những năm gần đây, đã được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong hoạt động tư tưởng, lý luận của tác giả và đã được chỉnh sửa, cập nhật thông tin mới.


Nội dung cuốn sách bao gồm những vấn đề về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, về xây dựng quân đội, đặc biệt là xây dựng quân đội về chính trị, các vấn đề về chiến tranh, nhất là vấn đề bản chất, tính chất, mục đích chính trị của chiến tranh trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở khẳng định và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quân sự, quốc phòng và với những tư liệu sinh động, các bài viết phản bác và vạch rõ tính chất thù địch, phản động và phản khoa học của các quan điểm sai trái, thù địch, đồng thời phê phán những biểu hiện nhận thức không đúng, lệch lạc trên các vấn đề đó.


Hy vọng đây là cuốn sách tham khảo có giá trị, phục vụ kịp thời cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, đặc biệt trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng ở nước ta trong tình hình mới.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.


Tháng 4 năm 2012
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:09:21 am
PHẦN THỨ NHẤT
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


TƯ DUY MỚI CỦA ĐẢNG
VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ "trọng yếu thường xuyên" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện sự nghiệp quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát đặc điểm, tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong bối cảnh thế giới, đất nước có nhiều biến động phức tạp và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng cả về nhận thức, quan điểm lý luận, cũng như trong tổ chức hoạt động thực tiễn.


Quá trình đổi mới nhận thức, phát triển tư duy cũng chính là quá trình khắc phục những hạn chế của tư duy cũ, đồng thời đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch, nhằm khẳng định, bảo vệ và thể hiện rõ hơn những nội dung của tư duy mới. Tư duy mới của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới thể hiện cụ thể và sâu sắc trên tất cả những vấn đề cơ bản của sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.


1. Điểm nhấn quan trọng hàng đầu trong tư duy mới của Đảng ta về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là tư duy mới về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ nhận thức Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là thực thể thống nhất về tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, bao gồm toàn bộ các yếu tố địa lý, lãnh thổ, dân cư, các giá trị văn hóa - lịch sử,... và chế độ xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của Đảng đưa ra nội dung toàn diện về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị làn thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng đã cụ thể hoá: một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa1 (Xem: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.45-46).


Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội...; không để bị động, bất ngờ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.108-109, 109-110). Đồng thời đưa ra quan điểm: "Coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.108-109, 109-110).


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định và chỉ rõ: "Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng. Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.81-82).


Nội dung rộng lớn và toàn diện của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới nêu trên chi phối và quy định nội dung tư duy về lực lượng, sức mạnh; về phương thức đấu tranh; về đối tác - đối tượng; và tư duy về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng ta.


Theo tư duy của Đảng, thực chất bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ Tổ quốc trong một chỉnh thể thống nhất: bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tư duy của Đảng thể hiện rõ tính chất toàn diện, thống nhất của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, không thể tách rời giữa các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ nội dung này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ nội dung khác, và ngược lại. Bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn bó chặt chẽ với bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng bao hàm cả bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.


Những quan điểm cho rằng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay "chỉ là bảo vệ đất nước, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia", không cần phải gắn với bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng là những quan điểm thù địch, sai trái và phản khoa học. Tính chất thù địch, sai trái và phản khoa học đó thể hiện ở chỗ: thứ nhất, thực chất của những quan điểm đó là nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, thủ tiêu lực lượng lãnh đạo và chế độ xã hội mà chỉ có nó nhân dân ta mới có được độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự; thứ hai, việc tách rời mặt tự nhiên - lịch sử và mặt chính trị - xã hội là điều không thể được đối với bất cứ tổ quốc nào. Những quan điểm đòi tách rời ra đó thực chất là nhằm hướng tới hủy hoại tính chất xã hội chủ nghĩa của mặt chính trị - xã hội của Tổ quốc Việt Nam, làm cho Tổ quốc Việt Nam của nhân dân ta mang tính chất khác, tính chất tư sản.


Tính chất nguy hiểm của quan điểm này thể hiện ở chỗ, không những nó làm cho chúng ta dễ rơi vào mất cảnh giác, trong thực tiễn bảo vệ Tổ quốc dễ dẫn đến chỉ chú trọng một chiều mặt bảo vệ này mà xem nhẹ, thậm chí bỏ qua mặt bảo vệ khác; mà còn làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa - mục tiêu, lý tưởng do chính lịch sử dân tộc ta, do chính nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn và phấn đấu hy sinh với biết bao mồ hôi, công sức và cả máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam suốt hơn tám thập kỷ qua - trong ý thức của nhân dân và của cả cán bộ, đảng viên. Thực tế, trong chúng ta không phải không có người khi nói đến bảo vệ Tổ quốc là chỉ nói đến bảo vệ đất nước, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, "không nói đến" bảo vệ chế độ; tính từ "xã hội chủ nghĩa" có vẻ như "dị ứng" trong nhận thức, tư tưởng của một số ít người.


Khẳng định sự thống nhất và gắn bó chặt chẽ giữa bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là thể hiện rõ sự kiên định về con đường và mục tiêu độc lập dần tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh lịch sử mới trong tư duy của Đảng, ở đây cần phải nhận thức rõ thêm, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cũng hàm chứa cả việc bảo vệ chế độ và sự lãnh đạo của Đảng; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng cũng hàm chứa cả việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Điều đó phản ánh mối quan hệ, không thể tách rời giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa lợi ích của Đảng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Mọi sự tách rời giữa các mặt của các mối quan hệ đó đều là không đúng với bản chất và thực chất của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau, đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực tạo nên sức mạnh để dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. Có giữ vững được độc lập dân tộc thì mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội; đồng thời chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc mới được bảo đảm vững chắc. Ngày nay, chúng ta nói bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc gắn liền với bảo vệ chế độ là sự kế thừa, là sự phát triển lôgích và nâng lên tầm cao mới tư tưởng của ông cha ta về bảo vệ "sơn hà" gắn với bảo vệ "xã tắc" trong điều kiện lịch sử mới, điều kiện lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình mới, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vừa là mục tiêu xây dựng vừa là mục tiêu bảo vệ. Đó là một sự biểu đạt mới về bảo vệ độc lập dân tộc gắn liền với bảo vệ chế độ trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Ở đây, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã được diễn đạt khác, làm cho các nội dung bảo vệ trở nên rõ ràng và cụ thể hơn, phù hợp và thích ứng hơn.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:10:23 am
2. Tư duy mới về đối tác và đối tượng là một nét nổi bật trong tư duy của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Bước vào giai đoạn mới của sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, Đảng ta có nhận thức mới và ngày càng rõ hơn về đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam. Điểm nổi bật quan trọng là Đảng ta đã chuyển từ nhận thức "bạn - thù" sang nhận thức "đối tác - đối tượng"; xác định đúng vấn đề đối tác, đối tượng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Nhận thức và xử lý vấn đề đối tác và đối tượng là vấn đề đặc biệt quan trọng trong tư duy của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức đó có thể tiếp cận theo các khía cạnh khác nhau. Trong hoạch định chiến lược, sách lược cách mạng, đó là vấn đề sách lược đấu tranh; trong các hoạt động thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, đó là nghệ thuật tranh thủ và phân hóa lực lượng, tập hợp lực lượng cho cách mạng; trong các biện pháp đấu tranh, đó là cách thức (phương thức) sử dụng lực lượng, xử lý tình huống để không rơi vào bị động, bất ngờ. Nhận thức và xử lý vấn đề đối tác và đối tượng là vấn đề rất phức tạp và đặc biệt nhạy cảm trong bối cảnh mới của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế hiện nay. Việc nước ta là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta trong việc mở rộng, tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với bạn bè thế giới, đồng thời điều đó cũng là "thời cơ" cho những mưu toan chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, làm cho việc nhận thức và xử lý vấn đề đối tác và đối tượng càng trở nên phức tạp, khó khăn và nhạy cảm hơn. Mọi sự sơ xuất dù là nhỏ trong vấn đề này đều có thể dẫn đến những bất lợi, có hại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.


Đảng ta đã đúng khi khẳng định quan điểm nhất quán: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.119). Đồng thời xác định nguyên tắc phân biệt và xử lý, giải quyết vấn đề đối tác - đối tượng của cách mạng Việt Nam. Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể; đồng thời, "đề phòng sự thỏa hiệp có hại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.52).


Tiếp tục tư duy từ Đại hội IX, Đại hội X và đến Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm, Việt Nam "... là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83-84). Đây là điểm rất mới trong nhận thức của Đảng ta trong hội nhập quốc tế và tư duy về đối tác, đối tượng của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.


Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm chú trọng giữ cho "trong ấm", "ngoài êm", coi đó là "kế sách" quan trọng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới. Trong nhận thức cũng như trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn chú trọng tập trung nỗ lực giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất, phát huy cao độ nội lực đất nước, giành thế chủ động trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ; coi xây dựng là phương thức hữu hiệu để bảo vệ, chú trọng nâng cao khả năng "tự bảo vệ" của từng tổ chức, đơn vị và mỗi con người.


Quan điểm và những nguyên tắc nêu trên của Đảng ta trong xem xét và xử lý vấn đề đối tác và đối tượng là toàn diện và khoa học, cần phải được nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt trong thực tiễn. Điều cần nhấn mạnh là, trong bối cảnh mới cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt, với nội dung, hình thức và cách thức thể hiện mới, đan xen trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho việc nhận thức đối tác - đối tượng trở nên không dễ dàng, và việc bảo vệ độc lập dân tộc, an ninh quốc gia và thể chế chính trị của đất nước trở nên hết sức phức tạp, đòi hỏi việc xử lý vấn đề đối tác và đối tượng phải hết sức tỉnh táo.


Ở đây, phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải được vận dụng sáng tạo, linh hoạt. Những cái gì là "bất biến" phải kiên định, để có thể "vạn biến" được với tình hình. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, lợi ích đất nước, bản sắc văn hóa dân tộc, cuộc sống hòa bình của nhân dân... là những cái "bất biến", chúng ta phải kiên quyết bảo vệ, giữ gìn. Dù có thể có áp lực rất mạnh từ những "luật chơi" trong quan hệ kinh tế quốc tế, những áp lực từ những quốc gia, những tổ chức quốc tế là đối tác quan trọng của chúng ta, thì vẫn không bao giờ được từ bỏ những cái "bất biến" ấy; trái lại càng phải với tinh thần chủ động tranh thủ, tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi vừa phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo vệ vững chắc những cái gì thuộc về "bất biến". Không thể vì lợi ích cục bộ, nhất thời nào đó mà làm tổn hại đến lợi ích toàn cục; không để xảy ra sơ suất nào đó mà làm cho đối tác hiểu nhầm trở thành đối đầu; cũng không để đối tượng lợi dụng quá trình hợp tác kinh tế, thương mại, văn hóa để chui sâu chống phá cách mạng nước ta.


Những quan điểm cho rằng tư duy của Đảng về vấn đề đối tác và đối tượng là Đảng ta đã "xóa nhòa", đã "lờ đi" vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp; hoặc cho rằng, trong tình hình mới cần gì phải xác định đối tác và đối tượng, bởi tất cả các nước đã đều là bạn, đều là đối tác làm ăn với nước ta, vậy nên việc phân biệt đối tác và đối tượng chỉ là hành động dẫn đến "tự cô lập" mình mà thôi, đều là những quan điểm phiến diện, không đúng, không phù hợp với tình hình.


Tư duy của Đảng về vấn đề đối tác và đối tượng không phải là xóa nhòa vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp như người ta cố tình suy diễn, mà là sự thể hiện một tư duy đúng đắn trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trên cơ sở lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân Việt Nam, thể hiện sự khôn khéo cần thiết trong bối cảnh mới của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Tư duy của Đảng về vấn đề đối tác và đối tượng cũng không phải là hành động dẫn đến "tự cô lập" mình như có người gán ghép, mà là sự cảnh giác, tỉnh táo, là phép ứng xử chính xác trong một thế giới đầy biến động trong không gian toàn cầu hóa đang ngày càng mở rộng như hiện nay. Có hiểu rõ tính chất, nội dung, đặc điểm, hình thức và sắc thái biểu hiện mới của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hiện nay, thì mới có thể thấy rõ được tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo trong tư duy của Đảng ta về vấn đề đối tác và đối tượng.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:11:14 am
3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sức mạnh tổng hợp. Đảng ta chỉ rõ: "Sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.46). Quan điểm sức mạnh tổng hợp là quan điểm cơ bản của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Quan điểm sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc ở Đại hội IX được Đảng ta cụ thể hóa thêm một bước tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: "Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.233).


Trong giai đoạn hiện nay, khi các lực lượng tiến bộ, cách mạng trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn, Đảng ta tiếp tục khẳng định sức mạnh bên trong là chính, "phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc", cho thấy tầm quan trọng đặc biệt, vai trò quyết định của việc phát huy yếu tố nội lực, nhân tố bên trong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều đáng chú ý là, trong các nhân tố cấu thành sức mạnh bên trong, Đảng ta chỉ rõ, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định.


Tư duy mới của Đảng chỉ ra rằng, phẩm chất của đội ngũ cán bộ và đại đoàn kết toàn dân quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau trong viêç tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực cơ bản của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhưng khối đại đoàn kết dân tộc không thể được tăng cường, củng cố và phát huy đầy đủ sức mạnh nếu như không có được đội ngũ cán bộ thực sự đủ đức, đủ tài.


Sự suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, "những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa""1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.185) là một nguyên nhân cơ bản làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm rạn nứt, phá hủy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hủy hoại và làm suy yếu sức mạnh quốc gia, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc đã chứng minh rõ, nếu không tạo dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự là "bức thành đồng", thì đó là nguy cơ mất nước trước họa xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Vì vậy, muốn tăng cường khả năng quốc phòng, gia tăng sức mạnh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, thì vấn đề cơ bản quyết định là phải củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với việc xây dựng và đào luyện đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ cả về phẩm chất và năng lực, khắc phục tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.


Trong tình hình mới, xây dựng và bảo vệ càng quan hệ chặt chẽ với nhau, xây dựng cũng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ; bảo vệ trong xây dựng, xây dựng trong bảo vệ; bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng, xây dựng cũng là một bộ phận hợp thành của bảo vệ. Theo đó, đẩy lùi và khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho bảo vệ; khắc phục tình trạng trên là yêu cầu đặc biệt quan trọng của bảo vệ và đó cũng là bảo vệ.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:12:13 am
4. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quan điểm nhất quán của Đảng ta. Trong điều kiện mới, tư duy về sự lãnh đạo của Đảng ta đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có sự phát triển mới. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: "Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.119). Tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động quốc phòng, an ninh"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 111). Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83). Đây là nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và là quan điểm nhất quán của Đảng ta.


Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là điều không phải hoàn toàn mới. Cái mới ở đây là sự nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng là không thể thay thế, không thể bác bỏ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, để làm cho Tổ quốc này không những được bảo vệ vững chắc, mà còn thực sự là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trường tồn cùng dân tộc; làm cho vấn đề bảo vệ đất nước gắn bó chặt chẽ với bảo vệ chế độ và bảo vệ Đảng trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cái mới ở đây còn thể hiện ở sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được thực hiện bằng những nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp; ngày càng được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà nước; bằng việc phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Hiện nay, vẫn còn có quan điểm cho rằng: "không cần sự lãnh đạo của Đảng"; hoặc quan điểm có vẻ như "mềm dẻo" hơn khi cho rằng "không cần", "không nên" nói đến sự lãnh đạo của Đảng, vì như thế sẽ không phát huy được vai trò của tất cả các lực lượng, không tạo nên được sự "đồng thuận xã hội" và sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch còn lớn tiếng cho rằng, hiện nay "không cần phân biệt chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần chính trị, chỉ cần tiền, bỏ Đảng cũng được"1 (Diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.95). Chúng lập luận: "Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ"2 (Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.53, 59), chúng miêu tả Đảng ta có "một bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do dân chủ"3 (Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.53, 59). Chúng còn lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta để công kích, nói xấu Đảng ta, rồi "đòi" xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo của Đảng. Mục đích chống phá của các thế lực thù địch là rất rõ ràng. Nếu chưa thể hạ bệ được sự lãnh đạo của Đảng thì cũng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào đường lối, chính sách của Đảng, làm suy yếu Đảng, suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.


Sự chống phá của các thế lực thù địch càng nói lên một sự thật là, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không ai có thể thay thế vai trò lịch sử này của Đảng. Xem nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là điều nguy hại đến chính sự tồn vong của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tư duy về sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc chỉ ra rằng, vấn đề cơ bản đầu tiên hiện nay là Đảng phải tự nâng mình lên ngang tầm với nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đủ sức lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải thực hiện nội dung và phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng cần xác định đúng đắn và kịp thời đường lối, quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng quân đội nhân dân trong thời kỳ mới. Điều đặc biệt quan trọng là, phải dành nhiều công sức hơn nữa nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng, của mọi cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.


Tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có nội dung rộng lớn và toàn diện, quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với tư duy mới của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn 25 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng; chính trị - xã hội ổn định; môi trường hòa bình được giữ vững; quốc phòng và an ninh được củng cố và giữ vững; sức mạnh tổng hợp quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa góp phần quan trọng làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:13:34 am
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHIỆM VỤ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hóa, cũng như những vấn đề mới của thế giới đương đại, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước 25 năm qua đã đặt ra nhiều vấn đề rất mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trong bối cảnh đó, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, thể hiện sâu sắc tư duy mới của Đảng, phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra.


1. Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới được Đảng ta xác định cả trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), cả trong Chiến lược và Báo cáo chính trị: "Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82).


Tư duy của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có nhiều phát triển so với vấn đề được trình bày trong Cương lĩnh năm 1991; đặc biệt là đã phát triển nhận thức "bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân" (trong Cương lĩnh năm 1991) thành "bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa", được chính thức xác định trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011).


Tư duy của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thể hiện trên những vấn đề chính: Thứ nhất, Đảng ta nhấn mạnh sự thống nhất hữu cơ giữa bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa như một chỉnh thể thống nhất; gắn chặt bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân với bảo vệ chế độ. Thứ hai, nhận thức rõ tính chất toàn diện, thống nhất và môi quan hệ chặt chẽ giữa các nội dung bảo vệ; bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn chặt với bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; bảo vệ chế độ bao hàm cả việc bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Thứ ba, Đảng ta xác định "giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội" là điều kiện căn bản để xây dựng đất nước; xác định rõ: "Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.82). Thứ tư, đề cao yêu cầu "chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta".


Các vấn đề trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; chúng vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới. Tổ quốc bao gồm hai phương diện: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, đều phải được bảo vệ trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nội dung rộng lớn và toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bao hàm cả nhiệm vụ của quốc phòng và nhiệm vụ của an ninh trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời nhau.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2022, 09:15:06 am
2. Đảng ta xem xét quốc phòng và an ninh, nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ an ninh, chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh trong sự thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, xen lồng và thâm nhập lẫn nhau; khái niệm quốc phòng và khái niệm an ninh được Đảng ta nhìn nhận rộng lớn và toàn diện.

Một là, quốc phòng và an ninh đều được đặt trong mối quan hệ thống nhất cùng mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Theo tư duy của Đảng, quốc phòng là công việc giữ nước, nhưng không chỉ để nhằm chống xâm lược, chống sự phá hoại của các thế lực bên ngoài đối với đất nước. An ninh không chỉ là vấn đề giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội. Cả quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung bảo vệ Tổ quốc trên cả phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đồng nhất quốc phòng với an ninh, an ninh với quốc phòng. Đây vẫn là hai lĩnh vực có tính độc lập tương đối, phải căn cứ vào đối tượng, âm mưu, thủ đoạn, tính chất của sự việc để sử dụng lực lượng nào là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; và cả hai lĩnh vực này đều cần được tăng cường, đều được Đảng ta nhấn mạnh là nhiệm vụ "trọng yếu, thường xuyên" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Việc nhận rõ sự thống nhất, mối quan hệ chặt chẽ và sự khác biệt giữa quốc phòng và an ninh làm cơ sở cho việc hoạch định và thực hiện chiến lược, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được hiệu quả.


Hai là, quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ với nhau cả về thế trận và lực lượng. Thế trận và lực lượng của nền quốc phòng toàn dân quan hệ chặt chẽ với thế trận và lực lượng của nền an ninh nhân dân trong thế trận và lực lượng chung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ thống nhất, tác động lẫn nhau giữa quốc phòng và an ninh được Đảng ta nhấn mạnh trong sự kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh. Vấn đề kết hợp chiến lược quốc phòng với chiến lược an ninh trên cả phương diện tổ chức lực lượng, xây dựng thế trận, cả phương diện hoạt động thực tiễn trong chiến lược chung bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta đặc biệt quan tâm: "Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.45). Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vừa phải bảo đảm sử dụng có hiệu quả mọi lực lượng, cả vật chất và tinh thần, nhằm hoàn thành thắng lợi những yẽu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vừa phải phù hợp với tính chất, đặc thù của từng lĩnh vực. Lực lượng quốc phòng toàn dân cũng như lực lượng an ninh nhân dân bao gồm toàn bộ lực lượng vật chất, tinh thần quốc gia, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt.


Nền quốc phòng toàn dân vững mạnh với lực lượng và thế trận vững chắc đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo thuận lợi căn bản cho sự vững mạnh của nền an ninh nhân dân. Nền an ninh nhân dân vững chắc, đến lượt mình, lại là điều kiện tăng cường sức mạnh quốc phòng, đẩy lùi và ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn chống phá, gây mất an ninh chính trị - xã hội. Vì thế, xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân phải gắn bó với xây dựng lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, và ngược lại.


Đó là mối quan hệ thống nhất, biện chứng, phản ánh nội dung và yêu cầu cơ bản của việc xây dựng lực lượng và thế trận của cả hai lĩnh vực này ở nước ta trong tình hình mới. Việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng và an ninh trong xây dựng thế trận và lực lượng là cả vấn đề nghệ thuật trên quy mô toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Đảng ta xác định rõ: "Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.138, 82), cả quốc phòng và an ninh đều phải gắn bó với kinh tế và đều phải kết hợp chặt chẽ với kinh tế: "Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.138, 82).


Ba là, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận của an ninh nhân dân. Hoạt động quốc phòng và hoạt động an ninh là hoạt động của cả nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, hoàn cảnh. Mọi hoạt động quốc phòng và hoạt động an ninh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đó là vấn đề nguyên tắc, được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh tại Đại hội XI: "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83), coi đó là yếu tố cơ bản quyết định bảo đảm cho nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân thực sự vững mạnh.


Trong tình hình mới, trước sự chống phá quyết liệt và tinh vi của các thế lực thù địch, trước âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang hòng làm cho quân đội và công an mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội và công an càng trở nên cấp bách. Đây không chỉ là sự tuân thủ nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân, mà còn là đòi hỏi bức thiết từ tình hình, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong bối cảnh lịch sử mới.


Bốn là, xây dựng quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân đủ mạnh, gắn bó với nhau đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Theo tư duy của Đảng, quốc phòng và an ninh vừa phải ngăn chặn được mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, vừa phải tạo điều kiện thuận lợi cho bạn bè quốc tế trong quá trình hợp tác với Việt Nam. Đồng thời, vừa phải có sức mạnh cần thiết ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, vừa phải đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc cả vũ trang và phi vũ trang trong tình hình mới. Đây còn là yêu cầu của việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hợp tác và quan hệ kinh tế với nước ngoài đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; là yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ "tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.46) trong tình hình mới.


Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: "Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.137, 46, 82, 45); đồng thời nhấn mạnh: "Tiếp tục hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.137, 46, 82, 45). Đặc biệt, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc, phương châm xây dựng quân đội và công an trong tình hình mới: "Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.137, 46, 82, 45); "có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.137, 46, 82, 45).


Tư duy của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện tại Đại hội XI là sự tổng kết và phát triển nhận thức của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay, đặc biệt là kẽ thừa, phát triển Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Đây là cơ sở để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Chín, 2022, 08:54:24 am
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
GẮN BÓ CHẶT CHẼ VỚI NHAU


Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đối với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ cơ bản này thì sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành công; ngược lại, cách mạng sẽ gặp khó khăn, thậm chí bị thất bại. Trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, căn cứ vào tình hình cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời kỳ mà việc nhận thức và xử lý mối quan hệ này co những yêu cầu và nội dung khác nhau. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn và xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược quan hệ chặt chẽ với nhau.


1. Ngay từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước, trở thành "dân tộc", có Tổ quốc của riêng mình, thì mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã thể hiện là mối quan hệ tự nhiên, không thể tách rời. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không tự nhiên xuất hiện, cũng không mặc nhiên đứng vững. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đưa đến sự thay đổi căn bản vị thế của các giai cấp trong xã hội. Với giai cấp vô sản, từ địa vị nô lệ, làm thuê, không có Tổ quốc "trở thành dân tộc", trở thành chủ nhân thực sự cúa Tổ quõc.


Sự xuất hiện Tổ quốc xã hội chủ nghĩa quy định tính tất yếu khách quan phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và sự gắn bó khăng khít giữa hai mặt xây dựng và bảo vệ trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân khi đã có chính quyền nhà nước. C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên khẳng định một cách rõ ràng, giai cấp công nhân phải bảo vệ thành quả của mình. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin kế thừa, phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới và đã đưa ra học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm rõ hơn trên thực tiễn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.


Thực tiễn lịch sử cho thấy, sau Cách mạng Tháng Mười, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới xuất hiện thì không chỉ giai cấp tư sản Nga phản kháng lại, mà cả thế giới đế quốc chủ nghĩa đã xúm lại xâu xé nước Nga hòng tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ. Chỉ dẫn của V.I.Lênin về "Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.37, tr.145) và chủ trương bảo vệ Tổ quốc Nga ngay từ ngày 25 tháng Mưòi năm 1917 đã giúp nhân dân Nga thời kỳ đó và nhân dân Liên Xô sau này không những thành công trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn bảo vệ được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình trước mọi sự chống phá điên cuồng của kẻ thù bên trong và bên ngoài.


Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đúng đắn về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thể hiện hết sức sâu sắc trong bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 và trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được Người đọc vào mùa đông năm 1946 khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Đồng thời, tư tưởng đó thể hiện sinh động trong thực tiễn quá trình Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.


Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hết sức phong phú. Sự phong phú đó không chỉ biểu hiện ở những nội dung, hình thức, bước đi của quá trình xây dựng và bảo vệ, mà còn thể hiện ở nét đặc sắc bởi tính đặc thù lịch sử của quá trình đó. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam luôn thống nhất và tạo điều kiện cho nhau phát triển. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tạo ra những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; đồng thời quá trình bảo vệ Tổ quốc lại tạo ra sự ổn định, môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng đất nước.


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một nửa đất nước được giải phóng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bắt tay ngay vào xây dựng đất nước, đồng thời tiến hành một cách chủ động các hoạt động bảo vệ miền Bắc với tính chất là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiến hành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế miền Bắc, đẩy mạnh công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; củng cố bộ máy chính quyền nhà nước. Đại hội III của Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam ở hai miền, đẩy mạnh xây dựng kinh tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng quân đội chính quy, hiện đại... đó là những công việc phản ánh sinh động thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ một nửa đất nước được giải phóng. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tạo điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ này.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa được đặt ra một cách trực tiếp. Sau 10 năm xây dựng và chuẩn bị mọi mặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Bắc tự tin, vững vàng bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện phương châm "vừa sản xuất, vừa chiến đấu", nhân dân miền Bắc đã kiên cường, anh dũng chiến đấu bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm chỗ dựa vững chắc, chi viện sức người, sức của cho cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam, đưa cách mạng miền Nam từng bước tiến lên, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.


Kết thúc thắng lợi nhiệm vụ thiêng liêng của cách mạng Việt Nam là giải phóng miền Nam, giành độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khẩn trương triển khai đồng bộ các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Nhanh chóng tiến hành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ.


Những nội dung về chính trị được tiến hành trong thời kỳ này đã mở ra một trang mới, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những nội dung quân sự, quốc phọng được triển khai thực hiện theo yêu cầu mới. Chúng ta đã tiến hành các công việc chuyển đất nước từ thời chiến sang thời bình; tinh giản lực lượng quân đội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thời bình, chuyển một bộ phận sang làm nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; tổ chức lại lực lượng bộ đội chủ lực theo hướng giảm thường trực, tăng lực lượng dự bị động viên, bố trí lại thế trận quốc phòng thống nhất trong phạm vi cả nước, sắp xếp lại lực lượng dân quân, tự vệ cho phù hợp yêu cầu thời bình.


Trong quá trình đổi mới đất nước, mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tiếp tục thể hiện sinh động trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi toàn diện; kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.


Có được những kết quả và thành tựu trên, vấn đề có ý nghĩa quyết định là vì chúng ta đã nhận thức và giải quyết thành công mối quan hệ giữa xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Chín, 2022, 08:55:51 am
2. Quán triệt quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin; vận dụng và phát triển quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới; căn cứ vào bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng đã xác định rõ mối quan hệ thống nhất giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.10).


Đại hội VIII của Đảng khẳng định mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và chỉ rõ: "Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa".


Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục phát triển, thể hiện trong việc "Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.117). Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", tiếp tục khẳng định quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: "Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.110). Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) đã phân tích sâu sắc sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, và đặt vấn đề: "Trong điều kiện mới, cần có nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"2 (Báo cáo Tổng kết một sô vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.146).


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chỉ rõ quan hệ "giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" là một "mối quan hệ lớn", cần "phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.72).


Như vậy, trong nhận thức tư tưởng lý luận, Đảng ta luôn nhận thức và không ngừng phát triển tư duy lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình.    Đảng ta đã xác định Chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đúng đắn, có giá trị lý luận và thực tiễn cao và giáo dục, quán triệt sâu sắc các nội dung của chiến lược đó cho các tầng lớp nhân dân. Điều đó phản ánh tư duy chiến lược mới của Đảng ta về chính trị, quân sự trên cơ sở bám sát thực tiễn tình hình và những yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ với nhau, tuy nhiên trong từng giai đoạn cách mạng khác nhau, thì nội dung cụ thể và sự thể hiện mối quan hệ đó có sự khác nhau. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, nhưng lại luôn xác định nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ "trọng yếu thường xuyên". Đó là quan điểm đúng đắn và khoa học, thể hiện sâu sắc tư duy của Đảng về mối quan hệ hữu cơ này trong điều kiện lịch sử mới.


Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, không có nghĩa là coi nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là thứ yếu; xác định nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ "trọng yếu, thường xuyên", cũng không có nghĩa là không tập trung cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Bản chất mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện cụ thể và sâu sắc ở chỗ, trong bảo vệ có xây dựng, trong xây dựng có bảo vệ. Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt; khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tễ cũng là biện pháp bảo vệ, là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ; bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng, xây dựng cũng là một bộ phận hợp thành của bảo vệ; xây dựng là một "phương thúc hữu hiệu" để bảo vệ Tổ quốc. "Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.82).


Những giải pháp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong những giải pháp xây dựng đất nước; những giải pháp xây dựng đất nước còn được thể hiện trong các giải pháp bảo vệ Tổ quốc. Quốc phòng, an ninh và kinh tế ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau trong mục tiêu, nội dung, biện pháp xây dựng đất nước và cả trong mục tiêu, nội dung, biện pháp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ không chỉ là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước, mà còn là yêu cầu sống còn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Những nhận thức lý luận và quan điểm trên của Đảng cho thấy rõ mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ khăng khít với nhau, tạo điều kiện cho nhau, không thể tách rời, cần phải được kết hợp chặt chẽ trong tất cả các lĩnh vực, trong mọi cấp, mọi ngành, cả vĩ mô và vi mô, cả trung ương và địa phương. Quan điểm lý luận trên của Đảng là sự phát triển tư duy và nhận thức lý luận về quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của cách mạng xã hội chủ nghĩa, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta trong điều kiện mới.


Thế nhưng, trong tư tưởng và trong thực tế hiện nay vẫn có những biểu hiện không đúng, sai trái đối với quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đã không nhận thức đúng hoặc xuyên tạc quan điểm của Đảng về mối quan hệ cơ bản này. Thực tế hiện nay không phải không có nhận thức kinh tế đơn thuần trong phát triển kinh tế, còn có quan điểm cho rằng các đơn vị và tổ chức kinh tế chỉ làm nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, còn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là "của riêng" lực lượng vũ trang, của riêng quân đội và công an.


Vẫn còn có những biểu hiện lệch lạc, xem nhẹ, lơ là nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc ở một số cán bộ, đảng viên, như yêu cầu giảm chi phí cho quốc phòng, cho quân đội, giảm số quân thường trực đến mức tối thiểu, mà không thấy hết tầm quan trọng chiến lược của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Vẫn còn những nhận thức quân sự đơn thuần trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; cho rằng hoạt động của lực lượng vũ trang, của quân đội nhân dân chỉ thuần tuý "là hoạt động quân sự" mà không thấy hết phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội còn là để bảo vệ Tổ quốc và lực lượng vũ trang cũng cần phải tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước.


Còn có biểu hiện tư tưởng tách rời giữa xây dựng với bảo vệ khi cho rằng, ngày nay chỉ cần tập trung nỗ lực cho phát triển kinh tế, không nên nói nhiều đến bảo vệ, vì trong phát triển kinh tế đã là bảo vệ, đã có bảo vệ, hơn nữa nói nhiều đến bảo vệ, quan tâm nhiều đến bảo vệ thì "dễ bị cô lập" trong quan hệ quốc tế, "gây nhiều khó khăn cho nhiệm vụ xây dựng đất nước". Nhận thức tư tưởng này không những không đúng với thực chất của mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ, mà còn gây nguy hại đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và cả chính sự nghiệp xây dựng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Làm sao có thể thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hiện thực hóa được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh khi quốc phòng, an ninh không được giữ vững, môi trường hòa bình, ổn định không được bảo đảm, kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng bị chệch hướng. Nếu chúng ta không quan tâm đúng mức đẽn bảo vệ, không thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, không làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch thì không những kinh tế sẽ không phát triển, xã hội sẽ không ổn định, mà thậm chí còn bị trượt sang quỹ đạo khác; những thành tựu của sự nghiệp phát triển kinh tế nếu có, thì cũng không thực sự phục vụ cho lợi ích của đất nước, dân tộc, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, mà lại chỉ phục vụ cho lợi ích của một số ít người, thậm chí cho lợi ích của các thế lực thù địch. Sự chệch hướng của sự phát triển này là điều hết sức nguy hiểm bởi chúng ta không dễ dàng nhận biết được sự chuyển động của quá trình đó, và còn bởi những "lợi ích kinh tế, vật chất" sẽ làm cho không ít người bị "loá mắt", mất cảnh giác, đề phòng. Say sưa phát triển kinh tế bằng mọi giá mà không quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thì sẽ dẫn đến những hành động tự mình thủ tiêu chính những thành quả cách mạng của mình.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Chín, 2022, 08:56:33 am
3. Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới của cách mạng, cần phải tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam dựng nước đi đôi với giữ nước, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm, quy luật đó vào thực tiễn cách mạng, cần nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đó là hai mặt cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luôn gắn bó chặt chẽ, tác động lẫn nhau, tạo tiển để, điều kiện cho nhau; mọi sự tách rời hai mặt này ra đều dẫn đến những hậu quả nguy hại cho cách mạng, cần nhận thức rõ rằng, sự gắn bó giữa xây dựng và bảo vệ; giữa phát triển kinh tễ - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc là trong cùng mục tiêu thống nhất: vừa bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa giữ vững được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Chúng ta cần thống nhất nhận thức và cụ thể hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Xác định rõ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai mặt hoạt động diễn ra trong mỗi tổ chức, mỗi con người, mỗi ngành, mỗi cấp, trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, không thể tách rời nhau. Quan điểm "tự bảo vệ" với tư cách vừa là yêu cầu, vừa là phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần phải được nhận thức đúng đắn và cụ thể hơn đúng với tầm quan trọng của nó.


Tư duy về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chỉ ra rằng, kết hợp chặt chẽ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh là sự kết hợp chặt chẽ trong một chiến lược chung thống nhất nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực của đất nước, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội phải là một bước tạo điều kiện, tiền đề để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân cả tiềm lực và thế trận, gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như trong từng kế hoạch, quy hoạch cụ thể ở các địa phương, các ngành phải vừa chú ý đến mục tiêu kinh tế - xã hội vừa chú ý đến yêu cầu của quốc phòng, an ninh, phải tính đến việc sử dụng được cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa "khi cần thiết". "Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.82).


Bản chất, yêu cầu của mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa còn chỉ ra rằng, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cũng phải có "thế trận", có "thế trận" của nền kinh tế. Đó là thế bố trí chiến lược phát triển kinh tế trên tất cả các vùng, miền của Tổ quốc, trong tất cả các cấp, các ngành, tạo ra sự liên hoàn và phát triển nhịp nhàng của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Đồng thời, thế bố trí chiến lược kinh tế ấy phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Thế trận đó phải đáp ứng yêu cầu trong thời bình thì mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; khi chiến tranh xảy ra thì nhanh chóng huy động sức người, sức của đáp ứng yêu cầu chiến tranh, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, quân với dân một ý chí, quyết tâm chiến thắng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:22:33 pm
TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI


Trong thời kỳ đổi mới, hòa bình xây dựng đất nước, bàn về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc không phải không có nhận thức còn cho rằng, hiện nay nói đến đấu tranh, đặc biệt là đấu tranh vũ trang là chúng ta "vẫn theo tư duy cũ" như thời kỳ chống xâm lược, là không phù hợp, không thích ứng với tình hình, mà cần phải động viên mọi người hăng say lao động, phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh. Do đó, quân đội không có việc gì phải làm, cần phải "giảm lương" và "giảm biên chế" quân đội mạnh mẽ hơn! Nhận thức không đúng này về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là sự biểu hiện của tư tưởng "hòa bình chủ nghĩa", không thấy hết tính chất quyết liệt và phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, không thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Nhận thức đó lại được "hỗ trợ" bởi tư tưởng cần phải "chuyên nghiệp hóa" quân đội một cách khẩn trương và tư tưởng làm giàu bằng mọi giá trong điều kiện kinh tế thị trường, làm cho nó càng trở nên phức tạp và nguy hiểm.


Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở nhận thức đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có những phát triển mới trong tư duy về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn và sử dụng tổng hợp các phương thức đấu tranh vũ trang và phi vũ trang; kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy; làm phong phú các hình thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc; kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ, coi xây dựng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ. Tư duy của Đảng không những đã khắc phục một cách căn bản những nhận thức không đúng, những quan điểm lệch lạc, sai trái, mà còn luận chứng sáng rõ nhiều vấn đề mới về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.


Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tư tưởng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được biểu hiện trong các nội dung về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội VIII, Đảng ta nêu vấn đề: "Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.119).


Tại Đại hội IX của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta nhìn nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn.


Báo cáo Tổng kết một sốvấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) của Đảng chỉ rõ: "Kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ"1 (Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Sđd, tr.100).


Đây là nhận thức đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tiễn, cũng như yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, điều kiện hòa bình, hợp tác, phát triển, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Phương thức đấu tranh vũ trang là "Hình thức đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc bằng sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định, hình thức đặc trưng của chiến tranh, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương"2 (Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.346), sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự là đặc trưng của phương thức đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên, cần phải hiểu là việc sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự ấy trong mỗi thời điểm, mỗi giai đoạn khác nhau lại có sự khác nhau; điều đó đòi hỏi cần phải có sự nhận thức mới khi tình hình, nhiệm vụ có sự thay đổi.


Trong bối cảnh lịch sử mới, quan niệm về phương thức đấu tranh vũ trang ngoài ý nghĩa cơ bản, truyền thống nêu trên, nội hàm của nó đã được mở rộng hơn trên nền tảng của tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự trong điều kiện có chiến tranh, ngoài quan niệm chung, cần nhấn mạnh thêm trong điều kiện hiện nay, chiến tranh đối với nước ta nếu xảy ra sẽ là chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc, hiếu chiến, phản động chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với việc sử dụng vũ khí công nghệ cao. Trong điều kiện đó, phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc có những nội dung đồng nhất với phương thức tiến hành chiến tranh; yêu cầu thực hiện phương thức đấu tranh này là phát huy sức mạnh tổng hợp, không bị cuốn theo cách đánh của đối phương, mà nhanh chóng "bắt" đối phương đánh theo cách đánh của mình, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù.


Trong điều kiện hòa bình, vấn đề đấu tranh vũ trang phải tuân theo những yêu cầu, nội dung và hình thức mới, thích ứng với điều kiện hòa bình, đang tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Vấn đề xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân vẫn là yêu cầu quan trọng, không thể xem nhẹ. Trong tình hình mới, các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội, của lực lượng vũ trang; việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... nếu được đẩy mạnh, tăng cường, có chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Những đòi hỏi giảm chi phí cho quốc phòng, cho quân đội đẽn mức tối thiểu, xem nhẹ nhiệm vụ xây dựng quân đội là không thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu của việc thực hiện phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:23:31 pm
Phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng và được Đảng ta nhìn nhận một cách đầy đủ hơn trong quá trình đổi mới đất nước. Đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa là những nội dung và là phương thức đấu tranh quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống, với mọi quy mô và trình độ là nhiệm vụ quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ trực tiếp của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Thực hiện phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, của tất cả các lực lượng, trên tất cả các lĩnh vực, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.


Phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có những hình thức, biện pháp mới và cách thức thể hiện mới. Đó là tổng thể các hình thức, biện pháp đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; nhưng là những biện pháp phi quân sự, phi vũ trang, trong đó đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hóa, ngoại giao có tầm quan trọng đặc biệt, ngày càng trở thành mặt trận đấu tranh mũi nhọn, then chốt. Đấu tranh tư tưởng văn hóa và tính chất quan trọng của nó là một trong những nét đặc trưng cơ bản của phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Yêu cầu quan trọng trong thực hiện phương thức này là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy "xây" làm chính, "cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực, tạo môi trường, nếp sống, lối sống lành mạnh có văn hóa; lấy cái tích cực, cái tốt đẩy lùi cái tiêu cực, cái xấu"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.138).


Lực lượng tham gia đấu tranh tư tưởng văn hóa không chỉ là những lực lượng trực tiếp làm công tác tư tưởng văn hóa, tuy lực lượng này đóng vai trò nòng cốt nhưng không phải là duy nhất, mà là lực lượng của toàn xã hội. Điều đó được quy định bởi tính chất toàn dân của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vai trò nòng cốt của lực lượng làm công tác tư tưởng văn hóa biểu hiện cụ thể trên hai vấn đề chính là: thứ nhất, là lực lượng trực tiếp, trực diện đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, chống các quan điểm thù địch, sai trái, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; thứ hai, là lực lượng định hướng tư tưởng, tổ chức toàn xã hội trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.


Trong đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, quân đội có vai trò rất quan trọng. Sẽ là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn nếu cho rằng quân đội, lực lượng vũ trang là những tổ chức quân sự, cho nên không có trách nhiệm, "không có vai trò" gì trong đấu tranh phi vũ trang, đãu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa; rằng, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa không nằm trong phạm trù chức năng, nhiệm vụ của quân đội, quân đội là công cụ bạo lực nên đấu tranh vũ trang là chức năng, nhiệm vụ duy nhất! Đó là sự nhận thức không đúng, không đầy đủ, sai lệch về nội hàm của bạo lực cách mạng, về chức năng, nhiệm vụ của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, không phản ánh đúng thực tiễn quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, không thấy hết tầm quan trọng của đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Quân đội và lực lượng vũ trang tham gia đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa là vấn đề hoàn toàn không hề mâu thuẫn, trái lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết trong điều kiện hiện nay. Quân đội với ưu thế, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình phải trở thành một lực lượng hùng mạnh trong đấu tranh tư tưởng văn hóa, trong thực hiện phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc. Với ưu thế là lực lượng có tổ chức thống nhất và chặt chẽ, quân đội không những phải có trách nhiệm tham gia mà điều quan trọng phải thực sự là lực lượng mạnh, là một lực lượng mũi nhọn trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Để tham gia đấu tranh tư tưởng văn hóa có hiệu quả, quân đội cần nhận thức đầy đủ hơn vai trò, trách nhiệm của mình, nâng cao bản lĩnh, trình độ và khả năng đấu tranh; cần phải xây dựng lực lượng trực tiếp đấu tranh với sự tổ chức và chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ; cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên và bảo vệ các tập thể và cá nhân trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.


Suốt thời kỳ đổi mới đất nước và hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc, bôi nhọ, công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nhằm phá vỡ trận địa tư tưởng vô sản của chúng ta, tạo ra "khoảng trống" về tư tưởng, từ đó truyền bá tư tưởng phản động, tư sản vào xã hội và quân đội, gây hỗn loạn về nhận thức tư tưởng, làm cho quân đội mất phương hướng hành động, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Chúng cố tình lập luận: "Trong thời đại toàn cầu hóa, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị. Vì vậy, lực lượng vũ trang cần xem xét lại việc xác định kẻ thù"1 (Diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa binh, Sđd, tr.95).


Tình hình đó càng cho thấy tầm quan trọng của phương thức đấu tranh phi vũ trang, của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa và vai trò của quân đội trong thực hiện phương thức đấu tranh này trong tình hình mới.


Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang vừa là yêu cầu, nội dung vừa là tư tưởng, phương châm chỉ đạo của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Sự kết hợp các phương thức đó không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dẫn những tư tưởng quân sự của Tôn Tử để giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ quân đội: "Phải biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi tới thắng lợi hoàn toàn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.283); phải "... biết sử dụng các hình thức đấu tranh cách mạng tuỳ theo tình hình cụ thể..."2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.396). Những quan điểm tách rời các phương thức đấu tranh, hoặc tuyệt đối hóa một phương thức đấu tranh nào đều là không đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy của Đảng ta về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:24:08 pm
Tư duy của Đảng không tách rời phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang, cũng không tuyệt đối hóa một phương thức nào dù trong tình huống có chiến tranh hay trong điều kiện hòa bình. Tuyệt đối hóa một phương thức nào đó không chỉ làm cho phương thức đó trở nên kém hiệu quả, mà còn có thể dẫn đến những nguy hại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc bởi tính chất phức tạp của việc sử dụng các phương thức đấu tranh trong tình hình mới. Các phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đều có vị trí, vai trò quan trọng của mình; kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy là yêu cầu và là phương châm chỉ đạo cơ bản của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


Yêu cầu của việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang là phải tạo nên được sức mạnh tổng hợp cao nhất, tạo sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau tốt nhất nhằm phục vụ thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phạm vi và nội dung của sự kết hợp đó là toàn diện, thể hiện trong cả lĩnh vực quân sự và trong cả lĩnh vực phi quân sự, trong hoạt động quân sự và trong hoạt động dân sự, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; bao gồm từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh, hoạch định chiến lược, tổ chức lực lượng, xây dựng cơ chế phối hợp... đến việc thực hiện các hình thức, biện pháp đấu tranh trong từng giai đoạn, từng thời điểm, cũng như trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một yêu cầu quan trọng của việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang trong tình hình mới là phải "thấy hết các tình huống phức tạp để có phương án chủ động phòng ngừa, tránh bị động, đối đầu, cô lập; kiên quyết không để xảy ra những diễn biến xấu. Trong bất cứ tình huống nào cũng không để lâm vào bị động, đảm bảo đủ sức đối phó thắng lợi"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.45).


Tư duy của Đảng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc còn chỉ ra rằng, xây dựng là phương thức hữu hiệu để bảo vệ, là cách bảo vệ chủ động, tích cực nhất và có hiệu quả nhất; bảo vệ trong xây dựng, xây dựng trong bảo vệ, bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng, xây dựng cũng là một bộ phận hợp thành của bảo vệ. Đây là một nhận thức rất quan trọng của Đảng ta về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới, phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều đó làm tăng khả năng phát huy nội lực của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, cũng như để xây dựng đất nước; đồng thời làm sâu sắc thêm tính chất toàn dân, toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Những quan điểm cho rằng, xây dựng chỉ là để xây dựng, còn "bảo vệ là nhiệm vụ riêng của lực lượng vũ trang", nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là của quân đội và công an, là những quan điểm, nhận thức sai trái, cần phải khắc phục, cần nhận thức rõ thêm rằng, trong điều kiện hiện nay, khắc phục sự tụt hậu về kinh tế, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, xây dựng đất nước mạnh lên, gia tăng nội lực đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đó cũng chính là bảo vệ, là sự bảo vệ vững chắc nhất. Mọi lực lượng xây dựng đều phải có trách nhiệm bảo vệ và phải phát huy trách nhiệm tốt nhất của mình trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Quan điểm của Đảng "Nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.109-110) là vấn đề cực kỳ quan trọng không chỉ phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về một cuộc cách mạng chỉ thực sự có giá trị khi nó biết tự bảo vệ, mà còn rất phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta vừa phải sẵn sàng chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống lại cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc nếu chúng liều lĩnh phát động chống nước ta, vừa đang phải hằng ngày, hằng giờ đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" và quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong do tác động của "diễn biến hòa bình" và từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, cộng với những "ung nhọt" nảy sinh trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chỉ có nâng cao khả năng "tự bảo vệ" của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, tăng cường sức để kháng, nâng cao khả năng "tự miễn dịch" của mỗi người, của Đảng và cả cơ thể xã hội xã hội chủ nghĩa, gắn với việc khắc phục "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", mới hy vọng đem lại cho chúng ta một sức mạnh mới, để vượt qua khó khăn, thách thức, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xét từ góc độ phương thức, đây là phương thức bảo vệ đặc biệt hữu hiệu.


Thực tiễn trong những năm qua cho thấy rõ một điều là, trong điều kiện các thế lực thù địch ráo riết thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" để thúc đẩy quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong, thì phương thức bảo vệ có hiệu quả lại chính là "tự bảo vệ". Việc nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề "tự bảo vệ" và nội dung cơ bản của vấn đề là sự phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về phương thức đấu tranh, về nội lực, về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ đổi mới đất nước.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:25:09 pm
CHĂM LO QUỐC PHÒNG, QUÂN ĐỘI NHƯ "CHĂM LO CON NGƯƠI TRONG MẮT MÌNH" - DI HUẤN CỦA V.I.LÊNIN MÃI NHẮC NHỞ CHÚNG TA


1. V.I.Lênin đã tạc vào lịch sử nhân loại như là người "khổng lồ" của thế kỷ XX. Tầm vóc "khổng lồ" của V.I.Lênin được tạo nên bởi sự thiên tài và uyên bác của Người trên các lĩnh vực khoa học, tầm cao của tư duy chính trị và tài năng tổ chức hoạt động thực tiễn; bởi công lao to lớn của Người đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, đối với tiến trình cách mạng thế giới.


V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, điều kiện lịch sử chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Người đã phát triển một loạt vấn đề lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa: vấn đề cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, phải lấy công nông làm nòng cốt, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng phải dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; vấn đề lực lượng và phương pháp tiến hành cách mạng vô sản, đó là lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, sử dụng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước của giai cấp thống trị, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, thực hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đem lại hạnh phúc cho nhân dân; vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo... Đây là những vấn đề rất mới mà trước đó, do hạn chẽ của lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen chưa đề cập đến, hoặc đề cập chưa đầy đủ, được V.I.Lênin phát triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới.


Hoạt động lý luận và thực tiễn của V.I.Lênin đã để lại di sản vô cùng quý báu đối với phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. V.I.Lênin không những phát triển chủ nghĩa Mác về mặt lý luận trong điều kiện lịch sử mới, mà còn hiện thực hóa những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản trong thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. Điều đó làm cho tên tuổi của V.I.Lênin gắn liền với tên tuổi của C.Mác, Ph.Ăngghen; chủ nghĩa Lênin gắn liền với chủ nghĩa Mác, trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.


Học thuyết V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một di sản lý luận, một công hiến vô cùng quý giá vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác, đáp ứng yêu cầu bức thiết bảo vệ chế độ mới ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mưòi năm 1917, có giá trị to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, đối với sự nghiệp bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, trước mưu đồ phản kháng của giai cấp tư sản phản động trong nước và quốc tế, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Người thường xuyên chú trọng đến xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng Hồng quân vững mạnh, tăng cường khả năng quốc phòng đất nước, coi đó là một nhiệm vụ hệ trọng của chính quyền mới. V.I.Lênin chỉ rõ: "Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình, và hãy nhố rằng chúng ta không được phép lơ là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ những thành quả của họ"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.44, tr.368-369).


Hãy chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình" là luận điểm quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Thực chất giá trị của luận điểm trên thể hiện cụ thể ở hai nội dung chính là: thứ nhất, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nêu cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, chăm lo quốc phòng, xây dựng quân đội công nông; thứ hai, đồng thời còn phải biết chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng với một thái độ thận trọng, chu đáo và được thực hiện bằng những biện pháp khoa học, phù hợp. Đó là hai nội dung thống nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề chăm lo khả năng quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình", thể hiện xuyên suốt trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; đó còn là một sự biểu đạt khác về tư tưởng cách mạng phải biết tự bảo vệ của V.I.Lênin. Trong quá trình xây dựng xã hội mới, V.I.Lênin thường xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước Xôviết, nếu không để cao cảnh giác, không chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng Hồng quân vững mạnh thì "chúng ta không thể tồn tại được"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.30, tr.165).


Di sản tư tưởng quý giá này về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin cần phải được nhận thức đúng đắn và tuân thủ nghiêm ngặt trong tiến trình xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:25:39 pm
2. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới cho thấy giá trị và ý nghĩa thực tiễn to lớn của học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin nói chung, của bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ, của luận điểm hãy chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình" của Người nói riêng.


Hơn chín thập kỷ qua kể từ năm 1917, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đã phải đương đầu với sự chống phá điên cuồng, quyết liệt của các thế lực đế quốc, thù địch. Đó là sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, bao vây chống phá Nhà nước Xôviết non trẻ; đó là cuộc tiến công của chủ nghĩa phát xít hòng tiêu diệt Liên Xô; đó là việc tiến hành chiến tranh lạnh của các thế lực đế quốc, phản động làm suy yếu tiến tới sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; đó là những cuộc chiến tranh chống các nước xã hội chủ nghĩa, cùng những âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội và các Đảng Cộng sản bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Sự chống phá chủ nghĩa xã hội bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang nêu trên phản ánh sâu sắc tính chất gay go quyết liệt của thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cho thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ chế độ mới, tầm quan trọng của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có đủ sức mạnh và phải biết tự bảo vệ.


Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sai lầm của các Đảng Cộng sản ở đó trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới, đã chứng minh tính đúng đắn và hết sức nóng hổi của luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin về cách mạng phải biết tự bảo vệ, về chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con ngươi trong mắt mình". Bài học lớn về chăm lo quốc phòng mà V.I.Lênin đã từng giáo huấn cho những người cách mạng đã không được Đảng Cộng sản Liên Xô nhận thức và thực hiện đúng trong quá trình cải tổ. "Công khai hóa", "dân chủ hóa", "tư duy chính trị mới", "đa nguyên chính trị" tưởng như là "liều thuốc thần" của cải tổ, đã không thể làm cho chủ nghĩa xã hội phát triển; trái lại, còn dẫn đến thủ tiêu chế độ đó. Ban lãnh đạo Liên Xô "say sưa" với dân chủ đã làm cho tình hình phát triển đến mức chính họ cũng không thể kiểm soát nổi. Thầy "phù thủy" triệu "âm binh" lên nhưng đã không trị được những "âm binh"; trái lại, những "âm binh" ấy lại treo cổ chính những thầy "phù thuỷ". Chính những đơn thuốc mà Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra đã tạo "thời cơ", điều kiện cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu chế độ Xôviết. Đó là bức tranh diễn biến của xã hội Xôviết mà Ban lãnh đạo Liên Xô đã "vẽ lên" khi thực hành cải tổ.


Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô để lại một bài học đau xót về sự mất cảnh giác, về sự xao nhãng củng cố quốc phòng, về sự tự làm suy yếu, làm mất sức đề kháng bản thân mình của Đảng Cộng sản Liên Xô trước âm mưu, thủ đoạn và các đòn tiến công quyết liệt của các thế lực thù địch.


Thực tế lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đòi hỏi những người cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, càng phải nhận thức sâu sắc bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ, càng phải có ý thức và biết chăm lo đến khả năng quốc phòng, gia tăng sức mạnh đất nước, để có thể đủ sức đương đầu với mọi thử thách của tình hình. Không có ý thức cao trong bảo vệ, không biết tự bảo vệ, thì đó là nguy cơ to lớn đối với chính sự tồn vong của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa.


Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền còn khó hơn. Luận điểm mácxít cơ bản này cần phải hiểu sâu sắc hơn trong điều kiện lịch sử mới. Ở đây, vấn đề "giữ chính quyền" không chỉ thuần tuý là chống những hành động và mưu toan chống phá của thù trong, giặc ngoài, mà còn cần phải hiểu theo nghĩa rộng lớn hơn, đó là xây dựng và sử dụng chính quyền đó để kiến tạo một xã hội mới trong suốt tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giữ chính quyền "còn khó hơn", thì sử dụng chính quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa còn là vấn đề khó hơn rất nhiều.


Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể "mải mê" xây dựng xã hội mới mà buông lỏng việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của mình, dẫn đến mất cảnh giác. Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng không được khi nào lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề có ý nghĩa sống còn này cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:26:07 pm
3. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng sử dụng tất cả các thủ đoạn có thể, kể cả thủ đoạn vũ lực, tiến công xâm lược vũ trang nếu thấy "cần thiết" để thực hiện mưu đồ đó. Trong điều kiện đó, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo những di sản tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc, cũng như luận điểm của Người về chăm lo khả năng quốc phòng như chăm lo "con ngươi trong mắt mình" nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Nước ta đang đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế và đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Điều đó vừa tạo cơ hội cho sự phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, vừa đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc giữ vững độc lập tự chủ của nền kinh tế non trẻ và còn kém phát triển, trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, độc lập, chủ quyền, sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quá trình hội nhập không chỉ có "hoa thơm và trái ngọt" mà còn có cả những "rác rưởi", những "nọc độc" về văn hóa, chính trị thâm nhập vào bằng nhiều con đường với nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc. Những công ty tư bản xuyên quốc gia, những thế lực chủ yếu chi phối "luật chơi" của kinh tế thế giới không phải không mong muôn kiến tạo "một thế giới theo hình ảnh của nó" - như cách diễn đạt của C.Mác, Ph.Ănghen cách đây hơn 160 năm. Với góc tiếp cận này, việc nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới lại là một "thời cơ" lớn cho các thế lực thù địch trong việc thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá đó lại được ẩn náu, che giấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại, hợp tác, đầu tư, văn hóa, du lịch, làm cho chúng ta khó nhận mặt chỉ tên và cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", do đó, càng trở nên phức tạp, khó khăn. Trong điều kiện đó, nếu khống có chiến lược phù hợp thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.


Để phát triển đất nước, cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chủ động hội nhập quốc tế; cần gia tăng hợp tác với các nước tư bản phát triển, coi đó là những đối tác làm ăn quan trọng. Tuy nhiên, bài học về cảnh giác vẫn phải khắc sâu ghi lòng, tạc dạ. Càng đẩy mạnh hợp tác, làm ăn với nước ngoài, càng phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, càng phải tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Say sưa tìm kiếm sự phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức đến vấn đề quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong chiến lược phát triển thì đó là một hành động tự làm suy yếu sức mạnh của bản thân mình và sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại cho cách mạng.


Tuân theo tư tưởng của V.I.Lênin, chiến lược quốc phòng, an ninh nước ta trong điều kiện mới cần phải tập trung giải quyết hai nội dung cơ bản và cấp thiết có quan hệ biện chứng, không tách rời nhau: thứ nhất, giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thứ hai, tăng cường sức mạnh, khả năng ngăn ngừa, đẩy lùi, loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh nếu xảy ra, vâi mọi quy mô và trình độ. Yêu cầu cơ bản của việc củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới là: khi chưa xảy ra chiến tranh, thì thực hiện "cả nước một lòng, toàn dân giữ nước", mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh thì thực hiện chiến tranh nhân dân "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", quân với dân một ý chí quyết tâm chiến thắng quân thù.


Ý nghĩa thực tiễn to lớn hiện nay của luận điểm chăm lo khả năng quốc phòng như "chăm lo con ngươi trong mắt mình" là phải tự nâng cao khả năng tự bảo vệ; từng tổ chức, từng đơn vị, mỗi con người và cả đất nước, từng đảng viên và toàn Đảng phải nâng cao khả năng tự bảo vệ, nâng mình lên đủ sức ứng phó với những biến động của tình hình như Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ. Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng... đang thực sự là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, làm suy yếu khả năng tự vệ và sức đề kháng của cơ thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, cùng với "diễn biến hòa bình" sẽ tạo nên "hợp lực" thật sự nguy hiểm đe dọa đến chính sự tồn vong của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, vấn đề chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần phải được xem xét như là một nội dung, yêu cầu đặc biệt quan trọng của vấn đề tự bảo vệ, của việc xây dựng, củng cố, chăm lo khả năng quốc phòng nước ta hiện nay.


Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, về tự bảo vệ, coi sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định, trong bối cảnh hiện nay, càng trở nên gắn bó và quan hệ mật thiết, thống nhất với tư tưởng của V.I.Lênin khi Người cảnh báo những người cộng sản: "Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.311).


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:27:30 pm
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI


Quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện của nước ta, một nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân. Trong bối cảnh mới, trước tác động của cách mạng khoa học - cống nghệ hiện đại và toàn cầu hóa, xu hướng quốc phòng thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống dân sinh, quân sự thâm nhập vào dân sự và ngược lại, ngày càng phát triển. Sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn nhau giữa quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ngày càng gia tăng. Tất cả điều đó làm cho tính toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng trở nên sâu sắc hơn; vấn đề dựa vào dân, phát huy sức mạnh của toàn dân là lời giải cơ bản và càng trở nên cấp bách trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân nước ta trong tình hình mới.


Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ và sâu rộng, chúng ta vừa phải thực hiện quan hệ đối tác, vừa phải tính đến các mối quan hệ với "đối tượng"; vẫn phải mở rộng hợp tác, nhưng vẫn phải giữ được độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc; vẫn phải mở cửa làm ăn với nước ngoài, nhưng vẫn phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc gia. Nền quốc phòng toàn dân vững chắc phải là nền quốc phòng đáp ứng được yêu cầu ấy; là nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của nhân dân, lòng dân được quy tụ thống nhất, nhân dân gắn bó với chế độ, chung sức, chung lòng bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân; sức mạnh của sự nghiệp ấy là sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt. Tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng biểu hiện cụ thể và sâu sắc ở việc mọi người dân, dù hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa đơn thuần, trên địa bàn nào cũng đều phải có ý thức rõ ràng hoạt động của mình và của ngành mình cũng là góp phần bảo vệ Tổ quốc; từ đó đề cao trách nhiệm công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ sở, địa bàn hoạt động.


Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện đòi hỏi mọi hoạt động kinh tế không chỉ đơn thuần vì mục tiêu kinh tế, mà phải tính đến và đáp ứng những yêu cầu của quốc phòng. Các hoạt động quân sự, các công trình quốc phòng không chỉ thuần túy vì mục tiêu quốc phòng, quân sự mà cần tính đến cả yêu cầu phát triển kinh tế.


Yêu cầu cơ bản của nền quốc phòng nước ta trong điều kiện mới là phải xây dựng, không ngừng củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng quốc phòng. Đảng ta chỉ rõ: "Thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh..."1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.55). Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh thêm: "Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.235).


Trong điều kiện hiện nay, khi mà các mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ngày càng đan xen và thâm nhập vào nhau; khi mà hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã bị sụp đổ không còn là chỗ dựa cho chúng ta như trước nữa, thì vấn đề độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa càng trở nên quan trọng và đặt ra một cách gắt gao hơn. Nêu cao ý chí tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính để xây dựng nền quốc phòng là định hướng tư tưởng đúng đắn trong bối cảnh hiện nay. Quốc phòng là công việc phòng thủ của quốc gia để bảo vệ đất nước. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường là nội dung cơ bản của phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, trước hết và cơ bản nhất là độc lập tự chủ về đường lối, quan điểm, phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; là tự ta phải phát huy nguồn sức mạnh tổng hợp quốc gia để củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nội dung trên biểu hiện ở hai vấn đề cụ thể: một là, độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong quá trình xây dựng nền quốc phòng; hai là, phải xây dựng được nền quốc phòng độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Cả hai vấn đề này là hai mặt hợp thành nội dung của phương châm trên.


Xây dựng nền quốc phòng độc lập tự chủ, tự lực tự cửờng là xây dựng nền quốc phòng tự thân đủ sức đáp ứng những mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường đòi hỏi phát huy tốt nhất nội lực để tận dụng những điều kiện thuận lợi của quốc tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.


Nền quốc phòng của nước ta ngày nay phải đáp ứng tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới: "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82, 233).


Tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đó là một tư tưởng chiến lược cơ bản xây dựng quốc phòng, gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Đại hội XI của Đảng xác định rõ và cụ thể: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82, 233). Có phát huy được sức mạnh dân tộc mới kết hợp tốt và tận dụng được những yếu tố của sức mạnh thời đại; có kết hợp với sức mạnh thời đại mới làm cho nội lực của dân tộc được tăng cường, nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:28:12 pm
Tranh thủ, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế, nhưng không phải vì thê mà ảnh hưởng đến lợi ích quốc phòng, an ninh của đất nước; mà làm suy giảm sức mạnh quốc phòng. Trái lại, quá trình đó phải là quá trình tạo thêm những yếu tố, những điều kiện thuận lợi để nâng cao khả năng bảo vệ và sức mạnh quốc phòng đất nước. Đảng ta chỉ rõ: "Ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm "thêm bạn, bớt thù", vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu; tránh bị cô lập, lệ thuộc"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.47); kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; "Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.236).


Xây dựng nền quốc phòng toàn dân từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong quá trình xây dựng quốc phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luốn quan tâm đến hiện đại hóa nền quốc phòng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta. Ngày nay những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thống tin đã và đang được khai thác triệt để vào việc hiện đại hóa vũ khí, trang bị, tăng lên một cách nhảy vọt hàm lượng kỹ thuật, công nghệ của các phương tiện chiến tranh. Sự phát triển có tính chất cách mạng về vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh ở thập kỷ 90 của thê kỷ trước vẫn được gia tăng tốc độ ở thế kỷ này, dẫn đến những thay đổi về nghệ thuật, phương thức tiến hành chiến tranh, cách đánh, làm biến đổi cơ cấu tổ chức quân đội, quy mô, thời gian tiến hành chiến tranh. Chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh điện tử, chiến tranh thông tin, chiến tranh kỹ thuật số... được các nhà quân sự nói đến như là những mũi nhọn đặc trưng của chiến tranh tương lai.


Sự hiện đại và những thay đổi mới ấy của chiến tranh đặt ra những vấn đề mới về hiện đại hóa nền quốc phòng của nước ta, đòi hỏi phải có lộ trình hợp lý, bước đi phù hợp để hiện đại hóa nền quốc phòng. Để đáp ứng yêu cầu sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao mà các cuộc chiến tranh gần đây đã cung cấp những dữ liệu cơ bản, có người muốn thực hiện hiện đại hóa quốc phòng, hiện đại hóa quân đội một cách nhanh chóng. Theo họ, nếu không có vũ khí trang bị hiện đại thì không thể chiến thắng đối phương được trong điều kiện chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Đúng là để chiến thắng địch trong điều kiện chiến tranh đó, cần phải có phương tiện hiện đại nhất định. Thế nhưng, không phải nhất thiết đối phương có loại vũ khí trang bị gì thì chúng ta phải có vũ khí trang bị tương ứng. Hiện đại hóa nền quốc phòng không chỉ về vũ khí, kỹ thuật, dù đó là vấn đề hết sức quan trọng, không thể coi nhẹ.


Không thể hiểu đơn giản, cứ tập trung phát triển kinh tế thì tự nhiên sẽ tạo ra tiềm lực quốc phòng. Đúng là tiềm lực quốc phòng, nhất là tiềm lực vật chất, tiềm lực khoa học kỹ thuật của nền quốc phòng, phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhưng cũng cần phải thấy rằng, tự thân sự phát triển kinh tế chưa hẳn đã tạo ra sức mạnh quốc phòng tương ứng nếu không có chiến lược phát triển hợp lý, nếu không gắn với xây dựng, củng cố quốc phòng. Kinh tế tăng trưởng, nhưng phân hóa xã hội phát triển, khoảng cách giàu nghèo giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng lớn, thì đó lại là những nhân tố làm suy yếu sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc phòng. Trên thế giới có không ít quốc gia tuy bình quân GDP tính theo đầu người hàng năm gấp nhiều lần so với nước ta, nhưng tiềm lực quốc phòng và an ninh của họ chưa thể nói là đã mạnh, đã vững chắc. Hơn nữa, chính sự vững mạnh của quốc phòng lại là điều kiện căn bản đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế.


Cần phải hiểu nội dung hiện đại nền quốc phòng một cách toàn diện cả về lực lượng và thễ trận, cả về vũ khí và con người, tổ chức và cơ cấu, tiềm lực vật chất và tinh thần, tiềm lực khoa học và quân sự... những bộ phận cấu thành nền quốc phòng toàn dân của nước ta. Hiện đại nền quốc phòng phải dựa trên tư tưởng, quan điểm xây dựng quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chiến tranh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... của Đảng ta thể hiện ở các Đại hội Đảng, nhất là ở Đại hội XI. Như vậy, xét về tính hiện đại, đây là điểm khác nhau căn bản của nền quốc phòng toàn dân nước ta với nhiều nền quốc phòng của các nước khác trên thế giới.


Chúng ta hiện đại hóa nền quốc phòng theo lộ trình: từng bước. Từng bước hiện đại vừa là bước đi, yêu cầu của quá trình hiện đại hóa nền quốc phòng vừa là đặc điểm cơ bản của nền quốc phòng toàn dân của nước ta.


Riêng về hiện đại hóa vũ khí trang bị, cũng cần phải có bước đi phù hợp. V.I.Lênin từng khẳng định, một quân đội dù trung thành bao nhiêu vẫn lập tức bị tiêu diệt nếu không được trang bị đầy đủ và huấn luyện chu đáo. Hiện đại hóa về vũ khí trang bị, bên cạnh việc phát huy vũ khí trang bị hiện có, nâng cao hiệu quả của chúng thì cần phải có trang bị mới. Sự hiện đại về quốc phòng nói chung, về vũ khí trang bị nói riêng vừa phải đáp ứng yêu cầu đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù ở mọi quy mô và trình độ, vừa phải phù hợp với đặc điểm Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Đương nhiên, chúng ta có thể và cần phải đi trước đón đầu, đột phá vào những khâu, những mũi nhọn cần thiết như công nghệ thống tin, tác chiến điện tử... Đây là vấn đề to lớn phản ánh nét đặc sắc tính hiện đại của nền quốc phòng nước ta, đòi hỏi phải được thực thi với một chiến lược khoa học, một lộ trình hợp lý.


Những nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phản ánh quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, củng cố quốc phòng trong điều kiện mới. Thực hiện tốt phương châm đó, chúng ta sẽ có được nền quốc phòng toàn dân thực sự vững mạnh, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Chín, 2022, 09:29:51 pm
XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY


Quốc phòng là công việc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, quân sự... của Nhà nước và nhân dân nhằm bảo vệ Tổ quốc. Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải quan tâm đến xây dựng, củng cố quốc phòng, đều phải chú ý xây dựng tiềm lực mọi mặt của nền quốc phòng. Tuy nhiên, do bản chất của giai cấp cầm quyền, của chế độ chính trị, kinh tế và điều kiện địa lý - lịch sử - văn hóa của các nước khác nhau, nên quan niệm về xây dựng tiềm lực quốc phòng của các nước cũng khác nhau.


Đối với nước ta, việc xây dựng "thế trận lòng dân", tiềm lực chính trị - tinh thần có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng các tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân.

Xây dựng "thế trận lòng dân" là sự phản ánh sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vũ trang toàn dân, về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; là sự kế thừa, phát triển và nâng lên tầm cao mới truyền thông nghệ thuật quân sự của dân tộc ta trong giai đoạn cách mạng mới; đồng thời thể hiện bản chất, sự vững chắc của thế trận quốc phòng và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta trong tình hình mới.


Bản chất nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân đòi hỏi phải tạo dựng được một "thế trận lòng dân" thực sự vững chắc. Đồng thời, một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện vì mục đích chính nghĩa bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên bình và hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân, tự bản thân nó đã có sức quy tụ lòng người, quy tụ mọi lực lượng vật chất - tinh thần, tạo nên sức mạnh to lớn. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau giữa "thế trận lòng dân" và thế trận quốc phòng toàn dân của nước ta. Xây dựng "thế trận lòng dân" là yêu cầu, là nội dung cơ bản, là vấn đề "mấu chốt", là "nền tảng" của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.


Thực chất xây dựng "thế trận lòng dân" là quá trình khơi dậy, quy tụ và phát huy chính trị - tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân trong một thế trận quốc phòng - an ninh chung, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chỉ ra rằng, thực hiện được "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức", thu phục được nhân tâm, lòng dân về một mối, xây dựng được "bức thành lòng dân", thì đấy là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự bền vững của giang sơn, yên lành của muôn dân. Sự trở ngại lớn nhất đối với những hành động phá hoại, những mưu toan thôn tính, xâm lược của kẻ thù cũng chính bởi những yếu tố trên. Một khi xao nhãng củng cố nhân tâm, không quan tâm đến dân để trăm họ ai oán, lòng dân ly tán, không xây dựng được "bức thành lòng dân", để cho "chính sự phiền hà", thì đó là nguy cơ mất nước trước họa xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Rõ ràng, vấn đề lòng dân luôn luôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong công cuộc giữ nước, chống ngoại xâm, trong chiến lược xây dựng sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện một cách ráo riết nhưng hết sức khéo léo, tinh vi những biện pháp "đánh vào lòng người", nhằm hủy hoại cơ sở chính trị - xã hội, gây mất ổn định, làm cho dân "xa" Đảng, đối lập dân với Đảng, thì vấn đề xây dựng "thế trận lòng dân" vừa là đòi hỏi bức thiết của tình hình, vừa đặt ra yêu cầu phải có nội dung và phương thức xây dựng mới phù hợp, hiệu quả. Để xây dựng được "thế trận lòng dân" vững chắc, chúng ta phải thực hiện rất nhiều biện pháp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với sự đồng tâm hiệp lực của tất cả các cấp, các ngành, của tất cả các lực lượng và của mọi tầng lớp nhân dân.


Trong tình hình mới, cần chú ý một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, vấn đề có ý nghĩa cơ bản đầu tiên là phải củng cố mối quan hệ "máu thịt" giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đôì với Đảng, với chế độ xã hộ chủ nghĩa. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn tám thập kỷ qua cho thấy, những thắng lợi vĩ đại và huy hoàng của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh: nguồn sức mạnh to lớn và "bức thành" vững chắc nhất của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đó là mối quan hệ "máu thịt" giữa Đảng với nhân dân, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với cách mạng. Đảng là của dân, vì dân, dân một lòng một dạ theo Đảng; Đảng quan tâm chăm lo đến dân, dân sống chết chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng.

Thực chất xây dựng "thế trận lòng dân" là vấn đề "lòng người", là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho mọi người, không phân biệt già trẻ, gái trai, giai cấp, thành phần, dân tộc, tôn giáo... đều một lòng, một dạ vì Tổ quốc Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng kêu gọi. Đó là việc xây dựng nền tảng chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở sự nhất trí về chính trị - tinh thần của toàn dân, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với Nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, phải thực hiện trên thực tế và có hiệu quả chính sách hợp lòng dân. Vấn đề đặt ra ở đây không phải chỉ là giáo dục, kêu gọi, mà điều quyết định là phải có chính sách hợp lòng dân. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh phải thường xuyên quan tâm đến nhân dân, thực hiện các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Tư tưởng này là sự tiếp nối và phát triển lên tầm cao mới tư tưởng của cha ông: "Sửa đức để cầu mệnh trời; ngăn quyền hào để nuôi sức dân; cấm phiền hà để dân sống khá, cấm xa xỉ để dân phong túc; dẹp trận cướp để dân ở yên; sửa quân chính để bảo vệ dân sinh... thương nuôi dân mọn", "khoan thư sức dân lấy kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước" (Nguyễn Trãi).

Không có chính sách đúng đắn hợp lòng dân, không hiện thực hóa được những chính sách ấy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì không thể khơi dậy được những sức mạnh vật chất, tinh thần tiềm tàng và to lớn trong nhân dân. Chính sách hợp lòng dân không chỉ biểu hiện ở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà điều quan trọng phải thể hiện trong tất cả các chính sách cụ thể của địa phương, cơ sở, được hiện thực hóa trong đời sống hằng ngày của mọi người dân. Lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước trước hết và trực tiếp biểu hiện ở lòng tin đối với tổ chức đảng và chính quyền địa phương, cơ sở, đối với mọi cán bộ, đảng viên của Đảng.


Thứ ba, giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức quốc phòng, tinh thần đoàn kết dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân. Yêu nước ngày nay gắn liền vâi yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là động lực tinh thần to lớn của sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng "thế trận lòng dân" là phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, tình cảm gắn bó với chế độ; trên cơ sở đó, nâng cao ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cho mọi tầng lớp nhân dân. Phải làm cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo... đều có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Ý thức trách nhiệm và sự tham gia của nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là thước đo hiệu quả của việc xây dựng "thế trận lòng dân".


Thế trận quốc phòng toàn dân của nước ta trong điều kiện mới phải là thế trận liên hoàn, có chiều sâu, nhiều tầng, nhiều lớp trên cơ sở "thế trận lòng dân" vững chắc. Xây dựng "thế trận lòng dân" phản ánh tư tưởng bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tư duy mới của Đảng ta về sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chỉ ra rằng, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định. Yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quyết định của thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc khi chưa xảy ra chiến tranh là thực hiện "cả nước một lòng, toàn dân giữ nước", mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh là thực hiện chiến tranh nhân dân "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", "cả nước một lòng toàn dân đánh giặc", tạo ra những "tấm lưới sắt", "bức thành đồng" đánh giặc giữ nước, như tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân Việt Nam đã chỉ ra.


Đó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta, là bí quyết chiến thắng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:28:32 am
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO MỌI NGƯỜI DÂN HIỆN NAY - MỘT SỐ NỘI DUNG CẤP BÁCH


Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là nhiệm vụ "trọng yếu thường xuyên" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đòi hỏi rất cao ý thức trách nhiệm công dân của mỗi con người. Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những trực tiếp nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, mà còn định hướng, điều chỉnh hành vi của con người trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặt ra có sự khác nhau.


Trong tình hình mới, giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng, ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi tầng lớp nhân dân là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết, trước hết cần tập trung giáo dục những nội dung chính sau:


Một là, giáo dục chú nghĩa yêu nước, ý thức bảo vệ đất nước gắn với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là cội nguồn, là "bệ đỡ" của việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc Việt Nam được nảy nỏ và phát triển từ tình yêu gia đình, làng xã, quê hương, yêu nhân dân lao động, tinh thần cố kết cộng đồng. Nhà - Làng - Nước là cái "trục chính" để từ đó nhân lên sức mạnh của ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong quá trình phát triển. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành và nuôi dưỡng bởi ý thức dân tộc; đến lượt mình, chủ nghĩa yêu nước lại là động lực và cơ sở cho sự phát triển của ý thức dân tộc, ý thức tự bảo vệ, ý thức bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.


Ở đây có một câu hỏi lớn đặt ra cần giải đáp: Làm thế nào để có thể "chuyển hóa", phát triển ý thức bảo vệ đất nước thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa? Trả lời câu hỏi này có nghĩa là phải làm cho tình yêu gia đình, quê hương, làng xã - chủ nghĩa yêu nước - ý thức dân tộc - ý thức bảo vệ Tổ quốc gắn kết chặt chẽ với nhau, hòa quyện vào nhau, phát triển thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thể hiện mối quan hệ truyền thống cốt yếu của lịch sử dân tộc: Nhà - Làng - Nước trong điều kiện lịch sử mới, phản ánh việc giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. "Chuyển hóa", phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề chủ yếu, là cái "trục chính" của việc giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân hiện nay.


Theo đó, những kiến thức, những giá trị đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cả truyền thống và hiện đại; những kinh nghiệm, những tấm gương về chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử và hiện tại; tình cảm yêu mến nhân dân lao động, tình yêu con người, tinh thần cố kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm; những yêu cầu mới về chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện mới; tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội; ý thức dân tộc, ý thức tự bảo vệ gắn với ý thức trách nhiệm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng... là những nội dung đặc biệt quan trọng tạo nên sự "chuyển hóa" đó, cần tập trung giáo dục nhằm nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi tầng lớp nhân dân.


Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nhấn mạnh: "Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.109); "Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, "diễn biến hòa bình", bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.234).


Trong tình hình mới, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội được biểu hiện ở mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu. Mặc dù còn có những khó khăn, phức tạp bởi sự tác động của tình hình thế giới, khu vực trong điều kiện toàn cầu hóa và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; mặc dù có những khó khăn của tình hình đất nước, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tình trạng quan liêu, tham nhũng, nhưng tuyệt đại đa số các tầng lớp xã hội vẫn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, không dao động. Đó là một biểu hiện rõ ràng về sự gắn kết giữa ý thức bảo vệ đất nước với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong tình hình mới. Quyết tâm vươn lên làm giàu gắn bó chặt chẽ với quyết tâm bảo vệ và còn được thể hiện ở quyết tâm bảo vệ; quyết tâm bảo vệ góp phần củng cố quyết tâm làm giàu và còn được thể hiện ở quyết tâm làm giàu.


Mối quan hệ biện chứng đó là động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, ở đây cần thấy rằng, một mặt chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống những biểu biện tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tách rời ý thức bảo vệ quê hương đất nước, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng; song mặt khác cũng cần khắc phục khuynh hướng đồng nhất một cách máy móc giữa bảo vệ quê hương đất nước với bảo vệ chế độ.


Có nhiều người từ tình yêu đất nước, tình cảm sâu đậm đối với cội nguồn, nơi sinh ra và lớn lên, mặc dù chưa hẳn đã hiểu về chủ nghĩa xã hội, nhưng bằng hình thức này hay hình thức khác đã đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế cho thấy, sự gắn kết giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài được củng cố, tăng cường bởi tình cảm dòng dõi con Lạc, cháu Hồng, bởi tình yêu nước và niềm tự hào là người Việt Nam. Trung tướng ngụy Đỗ Mậu trong bài "Việt Nam trên đà lột xác" trong cuốn sách Tầm thư đã thổ lộ tình cảm của mình đối với quê hương: những hình ảnh quê mùa nhưng đầy tình bà con thắm thiết nơi chôn nhau cắt rốn, hiện ra trên tivi làm cho tôi không cầm được nước mắt, tự hỏi biết bao giờ tôi có thể trở lại cố hương?


Sự mong muốn về một nước Việt Nam phồn vinh sẽ làm cho những tình cảm đối với đất nước ấy, dù là chưa đầy đủ, trở nên có ích hơn đối với Tổ quốc, góp phần củng cố sự đồng thuận, tăng cường khối đại đoàn kết giữa người Việt Nam ở nước ngoài với người Việt Nam ở trong nước, làm gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.


Trong thời kỳ mới, với khoảng bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài giàu tình yêu quê hương đất nước, thì việc hướng tình cảm yêu nước ấy vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: "Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.116).


Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.239-240).


Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm cơ bản trên.

Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mọi người dân Việt Nam hội tụ và gắn bó chặt chẽ giữa ý thức của từng người dân với ý thức xã hội, ý thức cá nhân với ý thức cộng đồng, ý thức của người dân Việt Nam ở trong nước với ý thức người Việt Nam ở nước ngoài. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, có ý thức dân tộc cao, có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thông quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38). Truyền thống quý báu, động lực tinh thần to lớn này được nảy nở và phát triển từ tình yêu gia đình, làng xã, quê hương, yêu nhân dân lao động, tinh thần cố kết cộng đồng. Vấn đề đặt ra hiện nay là, phải trên cơ sở động lực tinh thần đó mà chuyển biến thành tình yêu chủ nghĩa xã hội, yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội.


Cần làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ, có giữ vững được độc lập dân tộc thì chúng ta mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; đồng thời chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc mới được bảo đảm vững chắc. Sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là thuộc tính của cách mạng Việt Nam; là đặc điểm cơ bản phản ánh nội dung cốt lõi và bản chất của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước kia, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục đích và động lực cơ bản để giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:29:09 am
Hai là, giáo dục mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Nhận thức đúng đắn về Tổ quốc và mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là yêu cầu quan trọng đầu tiên để nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân. Theo đó, cần quán triệt làm cho mọi tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là "... bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82). Đồng thời, động viên mọi người dân nêu cao ý thức trách nhiệm thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; nêu cao ý thức trách nhiệm góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở địa phương, cơ sở, nơi sinh sống và hoạt động.


Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không phải là một cái gì chung chung trừu tượng mà bao giờ cũng phải được thể hiện cụ thể ở hành vi bảo vệ Tổ quốc, ở việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của con người. Trong tình hình hiện nay, trước tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch, một bộ phận nhân dân có biểu hiện thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã hội, nhận thức không đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thậm chí còn có biểu hiện trốn tránh, tìm cách thoái thác nhiệm vụ khi thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Không thể nói là người có tinh thần yêu nước cao nếu người đó không có ý thức bảo vệ Tổ quốc, không sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Không thể nói là có ý thức bảo vệ Tổ quốc đầy đủ nếu không thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc; hoặc coi bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ riêng của lực lượng vũ trang, còn mình thì "đứng ngoài cuộc", chỉ biết vun vén lo cho bản thân và gia đình. Vì thế, việc giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cần phải kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các biện pháp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, đạo đức và cả pháp luật.


Trong tình hình mới, phải chú trọng làm cho toàn bộ hệ thống chính trị, ở tất cả các cấp, các ngành, trong toàn xã hội nhận thức rõ: phát triển kinh tế - xã hội không chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế, mà còn phải tạo điều kiện để tăng cường tiềm lực quốc phòng đất nước, tạo cơ sở xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Khắc phục những biểu hiện không đúng, xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là của riêng quân đội và công an; tách rời kinh tế với quốc phòng trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn ở một số người.


Thực tế hiện nay không phải không có ý kiến cho rằng, chúng ta "khuếch trương" sự chống phá của các thế lực thù địch và tính chất nguy hiểm của "diễn biến hòa bình" là để nhấn mạnh vai trò của quân đội và công an, nhấn mạnh nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; để đòi hỏi chính sách ưu tiên nào đó cho quốc phòng và an ninh. Trong khi nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế đang là nhiệm vụ trung tâm, Đảng và Nhà nước ta đang tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì những ý kiến trên lại càng có điều kiện phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của các tầng lớp nhân dân. Vai trò của quân đội và công an, cũng như tầm quan trọng của lĩnh vực quốc phòng và an ninh là khách quan do yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội và do sự chống phá của các thế lực thù địch quy định, chứ không phải do ý muốn chủ quan, không phải là cố tình gán ghép để đòi hỏi đãi ngộ.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:29:37 am
Ba là, giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch.

Chúng ta tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới diễn ra rất phức tạp. Các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đô chống phá cách mạng nước ta, nhằm xóa bỏ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Những mưu toan xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta được các thế lực thù địch thực hiện ráo riết vừa công khai trắng trợn, vừa che giấu kín đáo trong các quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, làm cho sự chống phá của chúng càng trở nên nguy hiểm. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.


Trong điều kiện đó, công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta càng trở nên khó khăn phức tạp hơn, đòi hỏi chúng ta luôn phải tỉnh táo, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng và ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cho các tầng lớp nhân dân; động viên, hướng dẫn, tạo điều kiện cho mọi người dân tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch. Chú trọng hơn nữa việc giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trình độ và khả năng xử lý vấn đề đối tác và đối tượng cho mọi người dân, đặc biệt cho các lực lượng, các doanh nghiệp, những cán bộ, đảng viên trực tiếp có quan hệ hợp tác với nước ngoài, coi đó là một yêu cầu quan trọng trong nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay không phải không có người còn tỏ ra lo ngại rằng, nếu quá kiên quyết đấu tranh thì sẽ làm "ảnh hưởng" đến quá trình hợp tác kinh tế quốc tế, nước ta sẽ bị cô lập, gây "bất lợi" cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Cần nhận thức đúng đắn vấn đề này. Đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch không làm cản trở mà chính là nhu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải biết đấu tranh. Môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi, định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước chỉ có thể có được và giữ vững được nếu chúng ta biết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.


Trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, việc nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng là vấn đề rất phức tạp và đặc biệt nhạy cảm; mọi sự sơ xuất dù là nhỏ trong vấn đề này đều có thể dẫn đến những bất lợi, có hại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Cần phải làm cho các tầng lớp xã hội nhận thức đúng, những cái gì là "bất biến" phải kiên định, để có thể "vạn biến" được với tình hình, không được chao đảo, dao động những vấn đề nguyên tắc, "bất biến"; không thể vì lợi ích cục bộ, nhất thời nào đó mà tổn hại đến toàn cục.


Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi người dân là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, các ngành, của toàn xã hội gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao tính thiết thực, hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; động viên toàn dân nỗ lực quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Ngày nay, độc lập - tự do - hạnh phúc; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là hiện thực đang phát triển và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng. Đó là sự biểu đạt mới vừa thiết thực, vừa cụ thể, giàu tính dân tộc và tính nhân dân, phản ánh thực chất chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm sự gắn kết hai mặt chính trị - xã hội và tự nhiên - lịch sử, bảo đảm sự vững chắc, trường tồn của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chống phá Đảng, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta là hướng tập trung chủ yếu, là điều cốt lõi trong chiến lược chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.


Từ phân tích trên cho thấy, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề đặc biệt hệ trọng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và nâng cao ý thức bảo vệ Tố quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là đòi hỏi bức thiết của tình hình, bảo đảm sự vững chắc của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là điều kiện căn bản để củng cố và nâng cao niềm tin, tình cảm và ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:31:07 am
PHẦN THỨ HAI
THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI LÀ CỦA DÂN TỘC"


CHỐNG ÂM MƯU "PHI CHÍNH TRỊ HÓA" QUÂN ĐỘI
MỘT YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA CUỘC ĐẤU TRANH
TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG HIỆN NAY



Âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội được các thế lực thù địch thực hiện hòng làm cho quân đội ta đứng ngoài chính trị, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu. Quân đội ta là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội, quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. "Phi chính trị hóa" quân đội là từ bỏ nguyên tắc đó, quân đội ta sẽ không còn là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, không còn là quân đội của dân, do dân, vì dân. Vì thế, đấu tranh chống âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" mà các thế lực thù địch đang tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam. Đây vừa là yêu cầu cấp bách của cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng hiện nay, vừa là yêu cầu cơ bản của việc xây dựng quân đội ta về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.


Thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền cái gọi là "quân đội đứng ngoài chính trị", "quân đội phi giai cấp", hay quân đội "không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào"1 (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, Hà Nội, 2005, tr.74)... Các luận điệu phản động đó, cùng với những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới, những tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, nhất là từ mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tư tưởng, tâm lý, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta.


Âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch thật sự nguy hiểm, nếu chưa thể làm cho quân đội ta biến chất, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu, thì cũng dễ gây nên sự xao xuyến, dao động nhất định về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, có thể làm cho một bộ phận quân nhân hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, dễ dẫn đến những biểu hiện xem nhẹ sự lãnh đạo của Đảng, nhất là đối với các tổ chức đảng ở cơ sở...


Trong tình hình đó, vấn đề giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; nâng cao bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu cho quân đội; xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần, giữ vững và phát huy danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ"..., gặp những khó khăn phức tạp và đứng trước những thách thức mới. Vấn đề đã bức thiết đòi hỏi chúng ta phải chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình", âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của chúng.


Một là, tính chất phản động và phản khoa học của cái gọi là "phi chính trị hóa" quân đội.

Lịch sử ra đời và phát triển của các kiểu quân đội trên thế giới đã chứng tỏ rằng, quân đội là sản phẩm và là yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, bao giờ cũng do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra. Do đó, bản chất giai cấp của quân đội là mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra nó. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội là phục vụ cho giai cấp và nhà nước đã tổ chức ra nó. Quân đội của nhà nước tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột, phục vụ cho đường lối đối nội, đối ngoại của nhà nước tư sản. Vì thế, vấn đề tổ chức, xây dựng quân đội, làm thế nào để nắm chắc quân đội nhằm phục vụ cho lợi ích của mình luôn luôn là vấn đề cơ bản, sự quan tâm đặc biệt của giai cấp tư sản, cũng như sự tranh giành quyền lực nhà nước của các phe phái trong xã hội tư sản.


Do đó, luận điệu cho rằng, quân đội "đứng ngoài chính trị", quân đội "phi giai cấp" là luận điệu vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn, là để đánh lừa người khác mà thôi. Nhưng điều nguy hiểm hiện nay là nó lại được tuyên truyền khéo léo làm ra vẻ khách quan, nào là, quân đội chỉ là của quốc gia, dân tộc, chỉ phục vụ cho quốc gia, nào là quân đội cần phải đứng "trung lập", "khách quan" trong các cuộc đấu tranh trong nội bộ quốc gia, không chịu sự lãnh đạo của giai cấp nào, của lực lượng chính trị nào!(?). Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức, với tư tưởng "kỹ trị" đề cao, tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố khoa học kỹ thuật, xem nhẹ nhân tố chính trị - tinh thần của các học giả tư sản làm cho các quan điểm phản động trên càng có điều kiện thẩm thấu vào tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ quân đội.


Sự phản động về khoa học và chính trị ấy cũng như tính nguy hiểm của nó cần phải bị kiên quyết đấu tranh, vạch rõ. Cần làm cho nhân dân và quân đội ta, mọi cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ mục đích chính trị thực sự của âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch là nhằm lái chính trị của quân đội ta theo chiều hướng chính trị khác, chính trị tư sản chứ không thể có và không bao giờ có thứ quân đội "phi giai cấp", "phi chính trị". Trên cơ sở đó, củng cố tư tưởng, niềm tin và ý chí quyết tâm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" nói chung, chống âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta nói riêng; nâng cao ý thức trách nhiệm cho họ đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.


Hai là, tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần, tạo ra sự "đề kháng, miễn dịch" nâng cao năng lực đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.

Muốn vô hiệu hóa và làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch thì vấn đề cơ bản, có tầm quan trọng đặc biệt là tự chúng ta phải vững vàng về chính trị. Âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội chỉ có thể bị vô hiệu hóa khi chính quân đội ta, bản thân mỗi quân nhân phải thực sự vững mạnh về chính trị. Theo đó, vấn đề tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần cho quân đội, tạo ra sự "đề kháng, miễn dịch" cao cho mọi quân nhân là đòi hỏi bức thiết của tình hình, ở đây, việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng là yêu cầu cơ bản, thường xuyên trong việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của quân đội.


Phải không ngừng bồi dưỡng, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho quân đội, nhất là đối với số chiến sĩ mới, đối với chiến sĩ con em các dân tộc, tôn giáo, đối với các chiến sĩ hoạt động trên các lĩnh vực kỹ thuật công nghệ cao. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng "miễn dịch" trước những tác động tiêu cực của tình hình, trước sự chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời nâng cao năng lực đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.


Quân đội không những phải vững mạnh về chính trị, mà còn phải thực sự tinh nhuệ về chính trị. Các thế lực thù địch muốn "phi chính trị hóa" quân đội ta, thì quân đội ta càng phải thể hiện thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước, là lực lượng chính trị tin cậy bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Yêu cầu của sự tinh nhuệ về chính trị không chỉ ở sự vững vàng, lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, mà còn ở khả năng làm tròn phận sự trung tâm ấy, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; đề phòng nguy cơ "tự diễn biến" từ trong nội bộ, "chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.233, 82).


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:31:48 am
Ba là, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phương châm xây dựng quân đội ta trong tình hình mới: "Xây dựng Quân đội nhân dân... cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.233, 82). Đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và toàn diện. Đây là phương châm cơ bản trong việc xây dựng quân đội ta. Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong tình hình mới đòi hỏi quân đội ta vừa phải có đủ sức mạnh để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước; vừa phải có đủ khả năng và trình độ làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược với mọi quy mô và trình độ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, quân đội phải có đủ khả năng và tham gia có hiệu quả trong hợp tác quân sự, quốc phòng, đối ngoại quốc phòng và đấu tranh quốc phòng trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần gia tăng sức mạnh và điều kiện để xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là những vấn đề rất cơ bản mà nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới phải hướng tới và đáp ứng.


Điều cốt lõi nhất, cơ bản nhất của phương châm này là vấn đề bản chất giai cấp, bản chất chính trị của quân đội. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, trước âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của chúng thì vấn đề xây dựng bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị cho quân đội ta càng trở nên quan trọng. Vì vậy, xây dựng quân đội về chính trị, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để xây dựng các nhân tố khác, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội là đòi hỏi bức thiết của việc thực hiện phương châm trên. Cho nên, yêu cầu đặt ra trong xây dựng quân đội trước hết là cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại về chính trị.


Theo đó, những vấn đề: bản chất giai cấp công nhân của quân đội, bản lĩnh chính trị vững vàng; sự trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; sự tinh nhuệ về chính trị... là những vấn đề cốt lõi của việc xây dựng quân đội nhằm làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch. Để xây dựng những vấn đề cốt lõi ấy thì điều trước hết và quyết định nhất là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83, 89).


Để có thể giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, vấn đề cơ bản đầu tiên Đảng phải tự nâng mình nên ngang tầm với nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, lãnh đạo quân đội; đồng thời phải có nội dung và phương thức lãnh đạo phù hợp. Đại hội XI nhấn mạnh: "Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83, 89). Việc thực hiện những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, cũng như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh là đòi hỏi bức thiết của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới.


Các nội dung trên là những vấn đề cơ bản, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, có hiệu quả thì mới có thể làm thất bại mưu đồ chống phá quân đội ta của các thế lực thù địch. Sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của chúng có bị thất bại, bị vô hiệu hóa hay khống, thì điều quyết định phụ thuộc vào sự vững mạnh và tích cực đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Do đó, hơn lúc nào hết, cần phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm mơ hồ, sai trái và những luận điệu phản động, thù địch, phải đặt đúng mức việc đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý luận trong trong tình hình mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:34:03 am
THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI LÀ CỦA DÂN TỘC"
CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


1. Chống phá quân đội ta, làm cho quân đội suy yếu và biến chất là một mũi nhọn trong chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch thực hiện chống phá quân đội ta một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, từ những vấn đề cơ bảrí về chính trị, bản chất giai cấp, hệ tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, về cơ cấu tổ chức, công tác cán bộ, về con người; từ những vấn đề về lịch sử đến hiện tại, những vấn đề chính trị - tinh thần đến vũ khí trang bị, trong đó chống phá quân đội ta về chính trị là một nội dung cơ bản trọng yếu. Thực hiện nội dung cơ bản này, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và các chiêu thức khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như là "người trong cuộc" thể hiện "thiện chí" xây dựng quân đội, cố gắng "khuyên nhủ" chúng ta thế này, thế nọ.


Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch ra sức rêu rao quan điểm rằng: "Quân đội và công an chỉ là của quốc gia, dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào"1 (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, Hà Nội, 2005, tr.74). Để nhấn mạnh thêm các luận điểm của mình, các thế lực thù địch còn đặt vấn đề quân đội ta cần trung thành với lợi ích của quốc gia dân tộc, đề cao khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" trong mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Chúng còn "khuyên nhủ" chúng ta "cần phải "chuyên nghiệp hóa" quân đội và công an càng sớm càng tốt"2 (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, Hà Nội, 2005, tr.74), "cần phải học tập kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang theo mô hình của quân đội tư sản"3 (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, Hà Nội, 2005, tr.74).


Những quan điểm trên tưởng như vô hại, nhưng rõ ràng đây thực sự là một thủ đoạn rất thâm độc và là một ngón đòn rất nguy hiểm, cần vạch rõ thực chất của cái gọi là "quân đội là của quốc gia, dân tộc", đó là thủ đoạn lừa bịp, vô căn cứ, phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn.


2. Quan điểm "quân đội chỉ là của dân tộc" của các thế lực thù địch là quan điểm phản động về chính trị và đặc biệt nguy hiểm. Quan điểm này có vẻ như được dựa trên "cơ sở" thực tiễn rằng, quân đội ta là quân đội có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua của lịch sử Việt Nam hiện đại; rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội có quan hệ máu thịt với nhân dân, là quân đội của dân, do dân, vì dân. Từ những cơ sở đó, cho nên đặt vân đề "quân đội chỉ là của dân tộc", "của đất nước", "của nhân dân" là "phù hợp", chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào! Điều đó dễ làm cho một số người nhẹ dạ cả tin trong nội bộ nhân dân ta, có thể lầm tưởng rằng các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết, và những lời "khuyên nhủ" của chúng là hợp lý, khách quan và đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta!


Dùng ngón đòn này, các thế lực thù địch đã trực tiếp lợi dụng và đánh vào tình cảm của nhân dân ta đối với quân đội. Từ tình yêu mến và lòng tự hào chính đáng về quân đội anh hùng đến việc cho rằng "quân đội chỉ là của dân tộc" có vẻ như là sự phát triển "lôgích tự nhiên" trong nhận thức và tình cảm của nhân dân ta đối với quân đội, các thế lực thù địch đã cố gắng khơi lên và đẩy đến cái sự phát triển "lôgích tự nhiên" ấy.


"Quân đội là của quốc gia, dân tộc", một giọng điệu tưởng như là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của quân đội ta sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, các thế lực thù địch đã khéo léo đi đến nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị - giai cấp của quân đội, tiến tối làm biến chất quân đội ta. Đây mới là âm mưu đích thực của các thế lực thù địch trong mục tiêu chống phá quân đội ta, nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta rơi vào chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, khó nhận biết thực chất âm mưu, thủ đoạn của chúng.


Thủ đoạn chống phá trên của các thế lực thù địch nếu chưa có thể làm suy yếu và biến chất quân đội ta, thì cũng dễ gây nên sự lẫn lộn trong xem xét bản chất của quân đội, làm cho chúng ta dễ mắc mưu chúng trong thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội, trong sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.


Các thế lực thù địch mộng tưởng rằng, thông qua quá trình "diễn biến hòa bình" chống phá Đảng và chống phá quân đội, thông qua việc "phi chính trị hóa" quân đội ta, tuyên truyền cho cái gọi là "quân đội chỉ là của dân tộc", thì sẽ làm cho sự lãnh đạo. của Đảng đối với quân đội bị vô hiệu hóa; sẽ dẫn đến Đảng không thể nắm được, không thể "điều khiển" được quân đội, đặc biệt trong những tình huống phức tạp; mà thậm chí có thể Đảng trở thành đối tượng trực tiếp của chính công cụ bạo lực này; chúng muốn làm cho quân đội ta "không biết bảo vệ ai", "chống lại ai". Vậy là, vấn đề lái chính trị của quân đội ta theo chiều hướng khác, làm cho quân đội ngả theo các thế lực phản cách mạng, chống lại Đảng và chế độ là một âm mưu rất thâm độc của các thế lực thù địch. Chúng muốn chính công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước trở thành lực lượng, công cụ trực tiếp cho hành động chống Đảng và chống Nhà nước ta.


3. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng một cách khoa học nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội, khẳng định quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài người, khi xuất hiện tư hữu và đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước của giai cấp thống trị; và để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã tổ chức ra quân đội thường trực làm công cụ bao lực của nhà nước. Bàn về quân đội, V.I.Lênin từng chỉ rõ, giai cấp công nhân sau khi thắng lợi phải tổ chức ra quân đội của mình để bảo vệ thành quả cách mạng, điều quan tâm đầu tiên của bất cứ cuộc cách mạng thắng lợi nào là phải xây dựng "một đạo quân mới, một kỷ luật mới, tổ chức quân sự mới của giai cấp mới"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.37, tr.362). Về bản chất chính trị của quân đội, Người chỉ rõ: "Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.136). Rõ ràng, không thể và không bao giờ có thứ quân đội "phi chính trị", "phi giai cấp", như sự xuyên tạc và "đòi hỏi" vô cớ của các thế lực thù địch.


Làm sao mà có thể cho rằng, "quân đội chỉ là của dân tộc" một cách chung chung, không cần có sự lãnh đạo của một đảng phái, một lực lượng chính trị nào. Quân đội là của dân tộc, nhưng quân đội "của dân tộc" ấy do ai lập nên, do ai tổ chức, rõ ràng là phải có một lực lượng chính trị nhất định nào đó. Lịch sử nhân loại cũng chứng tỏ rằng con đường phát triển của các quốc gia dân tộc, sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bao giờ cũng do một lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia dân tộc dẫn dắt và lãnh đạo. Lực lượng chính trị lãnh đạo dân tộc ấy cũng đồng thời là lực lượng tổ chức và lãnh đạo "quân đội của dân tộc". Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định, của chính lực lượng chính trị đang đại biểu cho lợi ích quốc gia dân tộc, đang lãnh đạo và dẫn dắt dân tộc trên con đường phát triển. Dù có gọi là "của dân tộc" thì quân đội cũng phải do nhà nước, do một lực lượng chính trị nhất định tổ chức và nuôi dưỡng, chứ không thể "phi chính trị" được.


Bản chất chính trị - xã hội của quân đội "dân tộc" ấy nhất thiết phải mang bản chất của nhà nước, của lực lượng chính trị đã tổ chức ra nó, chịu sự lãnh đạo và phải trung thành với nhà nước và lực lượng chính trị đã tổ chức ra quân đội.


Thử hỏi, nếu nói rằng "quân đội chỉ là của dân tộc" thì quân đội ấy mang bản chất nào, mang bản chất của ai? hay là "không có bản chất", "không có chính trị"! Đây là một kiểu nhằm để đánh lừa người khác, chứ bản thân những kẻ rêu rao cho quan điểm trên cũng thừa hiểu quân đội phải mang bản chất chính trị và phải phục vụ cho ai. Thực chất luận điểm "quân đội chỉ là của dân tộc" là nhằm loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, để một lực lượng chính trị khác sẽ nắm quân đội, chứ không phải là xây dựng quân đội "không chính trị". Do đó, quan điểm "quân đội chỉ là của dân tộc" không những là quan điểm vô căn cứ, phản khoa học mà còn là quan điểm rất có hại, ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng quân đội, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:34:56 am
4. Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưỏng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng thực rằng, quân đội ta do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Dân tộc Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã sản sinh ra Quân đội nhân dân Việt Nam, một quân đội của dân, do dân, vì dân, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi mới thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã là đội quân mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, tháng 4-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quân đội ta có "lập trường chính trị vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.398). Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy rõ quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân; quân đội ấy là của nhân dân và do giai cấp công nhân lãnh đạo.


Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ta. Hay nói cách khác, quân đội ta chiến đấu là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng trong từng giai đoạn. Đó là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta, một tổ chức quân sự kiểu mới của giai cấp công nhân, của dân tộc và nhân dân Việt Nam.


Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đưa ra luận điểm "quân đội chỉ là của dân tộc", các thế lực thù địch cố tình làm cái việc "tách" vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong bản chất, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta. Đó là quan điểm vừa phản khoa học vừa phi lịch sử.


Các thể lực thù địch cố gắng làm cái việc "tách" ra đó thực chất là nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, gắn quân đội ta với chính trị khác, chính trị tư sản. Không thể tách vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong bản chất, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, trong chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Quân đội ta là của dân tộc Việt Nam, của nhân dân Việt Nam, cũng đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, "Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435).


Trong quá trình xây dựng quân đội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng quân đội về chính trị, coi đó là gốc, là cơ sở để xây dựng quân đội ta vững mạnh về mọi mặt, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nhờ vậy, quân đội ta luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435).


5. Đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá quân đội ta của các thế lực thù địch là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Mọi sự lơ là, chủ quan, mất cảnh giác đều dẫn đến hậu quả nguy hại đối với bản chất chính trị và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Trong tình hình mới, để có thể làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa", đập tan quan điểm "quân đội chỉ là của dân tộc" của các thế lực thù địch, cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng: tích cực, chủ động tiến công. Phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động, hoặc chỉ hô hào chung chung, mà trên thực tế khống đấu tranh, cần tổ chức lực lượng đấu tranh với sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ; bồi dưỡng lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh cả về phẩm chất chính trị, trình độ và năng lực đấu tranh; nâng cao tính đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, sự nhạy bén và sắc sảo trong đấu tranh.


Dù các thế lực thù địch có chống phá quyết liệt với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc và tinh vi như thế nào chăng nữa, thì chúng sẽ bị thất bại nếu quân đội ta mạnh lên, nếu quân đội ta thực sự vững mạnh. Theo đó, trong tình hình hiện nay, cần đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo đảm quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân, có đủ sức mạnh hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng quân đội không chỉ giỏi đấu tranh vũ trang mà còn phải giỏi cả trong đấu tranh phi vũ trang, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh; đặc biệt có khả năng giành thắng lợi trong điều kiện kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao đối với nước ta. Đó là những vấn đề bức thiết, cơ bản trong sức mạnh chiến đấu của quân đội ta mà sự nghiệp xây dựng quân đội cần hướng tới và thực hiện hiệu quả.


Sự nghiệp xây dựng quân đội trong tình hình mới đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Vấn đề quan trọng hàng đầu là Đảng phải tự nâng mình lên ngang tầm với nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới đất nước và đủ sức lãnh đạo quân đội; đồng thời phải có nội dung và phương thức lãnh đạo phù hợp. Phải dành nhiều công sức tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyển thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, của mọi cán bộ, đảng viên; đồng thời, kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, cống chức, đảng viên.


Đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn quân; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là "hạt nhân", là "nòng cốt" trong xây dựng quân đội. Thực hiện có hiệu quả chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị; nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức, tác phong, tư cách của chính ủy, chính trị viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhất là xây dựng quân đội về chính trị trong tình hình mới.


Đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho mọi quân nhân, tạo ra sự "miễn dịch" cần thiết, tăng sức "đề kháng" để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các tư tưởng phi vô sản vào quân đội; thực sự chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội "như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình".


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Chín, 2022, 06:36:07 am
HAI LUẬN ĐIỆU, MỘT ÂM MƯU


Hiện đại hóa là một nội dung quan trọng trong chiến lược xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Điều này đã được ghi rõ trong các nghị quyết của Đảng, được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội XI; được thể chế hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, được công bố trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam; được toàn Đảng, toàn qụân và toàn dân ta nỗ lực thực hiện, mặc dù chúng ta vẫn tập trung cho nhiệm vụ trung tâm là xây dựng và phát triển kinh tế. Trong điều kiện mới, với nhiều lý do, vấn đề hiện đại hóa càng trở nên quan trọng và bức thiết đối với quân đội ta.


Các thế lực thù địch cũng hiểu rất rõ điều này. Chúng không bao giờ mong muốn sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói chung, hiện đại hóa quân đội ta nói riêng thành công. Chúng tìm mọi cách có thể được để làm chậm, cản trở quá trình phát triển của sự nghiệp ấy, lái sự nghiệp ấy theo hướng có lợi cho chúng. Thời gian gần đây, trong khi chúng ta đang cố gắng hiện thực hóa chương trình từng bước hiện đại hóa quân đội, bên cạnh việc tiến công quân đội ta một cách toàn diện, đặc biệt trong vấn đề xây dựng quân đội về chính trị, các thế lực thù địch lại hướng vào chống phá quân đội ta trong vấn đề hiện đại hóa. Điều đáng chú ý trong vấn đề này là, các thế lực thù địch đưa ra những luận điệu có vẻ như trái ngược nhau:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, tìm hiểu và thấy rõ vũ khí trang bị của quân đội ta đã "quá cũ và lạc hậu", thì chúng lại "khuyên" chúng ta cần phải đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa cho quân đội. Chúng cho rằng, về mặt hiện đại của quân đội ta "chỉ hơn quân đội Lào và Campuchia trong khu vực"1 (BBC VIETNAMESE.com, cập nhật ngày 31-7-2008), vì vậy cần phải nhanh chóng hiện đại hóa mới có thể đáp ứng được tình hình, mới có thể đúng với "tầm vóc" của quân đội Việt Nam. Các thế lực thù địch tìm mọi cách khoét sâu và "kích thích" nhu cầu bức thiết về hiện đại hóa vũ khí trang bị của quân đội ta, đưa ra yêu cầu có thể "giúp" ta hiện đại hóa quân đội.


Mới nghe, những tưởng đó là "thiện chí" và hoàn toàn "vô hại". Chúng ta cần nhận thức rõ hơn bản chất, âm mưu của các thế lực thù địch trong vấn đề này. Cần khẳng định rằng, các thế lực thù địch nếu có "giúp" chúng ta hiện đại hóa quân đội, thì không phải là nhằm làm cho quân đội ta mạnh lên, càng không phải làm cho quân đội ta thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.


Những luận điệu rằng, cần phải học tập kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang theo mô hình của quân đội tư sản; rằng cần xây dựng "quân đội chuyên nghiệp" như kiểu quân đội một số nước phương Tây được chúng đưa ra ở nơi này, nơi khác, được diễn đạt kiểu này, kiểu khác và gắn với việc "giúp" quân đội ta hiện đại hóa. Nếu chúng ta chấp thuận, thì sự nghiệp hiện đại hóa quân đội có thể sẽ "nhanh chóng", nhưng đó là sự nhanh chóng theo hướng "quân đội chuyên nghiệp", chứ không phải là, không còn có nghĩa là Quân đội nhân dân Việt Nam nữa. Đó thực sự là bản chất, âm mưu cơ bản của chúng đối với vấn đề "giúp" hiện đại hóa quân đội ta.


Thứ hai, khi Nhà nước ta cố gắng hiện thực hóa quá trình hiện đại hóa quân đội, thực hiện các công việc mua sắm vũ khí trang bị mới cho quân đội, thì chúng lại cho rằng chúng ta đang bị "cuốn theo cuộc chạy đua vũ trang", đang "thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực"1 (Báo Quân đội nhân dân, ngày 11-1-2010, tr.8). Và vì vậy, theo chúng, cần phải đối phó với một Việt Nam có vũ khí trang bị hiện đại mới như thế nào!? Đây là một luận điệu thật sự nguy hiểm, đầy tính kích động, xuyên tạc bản chất và ý nghĩa thực sự của quá trình hiện đại hóa quân đội của Đảng và Nhà nước ta.


Việc xây dựng quân đội vững mạnh là đòi hỏi tất yếu đối với mọi quốc gia; việc hiện đại hóa quân đội cũng là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ quân đội của quốc gia nào. Mỗi nước, căn cứ vào đặc điểm, tình hình cụ thể; điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể; tính chất, nhiệm vụ của quân đội nước mình... mà thực hiện chính sách hiện đại hóa, trang bị vũ khí phương tiện kỹ thuật cho quân đội phù hợp. Trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố... tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, thì vấn đề tất yếu trên lại càng trở nên quan trọng và cần thiết.


Các thế lực thù địch cũng thừa hiểu điều đó, nhưng tại sao khi chúng ta chưa thực hiện thì chúng lại "khuyên" ta phải thực hiện nhanh; khi chúng ta thực hiện thì chúng lại tìm cách cản trở, xuyên tạc ý nghĩa thực sự của hiện đại hóa quân đội.

Hai luận điệu của một âm mưu là đã quá rõ ràng.

Hai luận điệu có vẻ như "trái ngược nhau" ấy thực chất chỉ là một, là nằm trong một âm mưu chống phá quân đội ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại mà chúng ta đang nỗ lực phấn đấu. Những luận điệu chống phá đó thật sự nguy hiểm. Nó không những cản trở quá trình hiện đại hóa của quân đội ta, mà còn xuyên tạc chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng quân đội thời kỳ mới. Nó không những phá hoại sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại của chúng ta, mà còn nhằm gây nên những bất lợi đối với nước ta trong quan hệ quốc tế, nhất là đối với các nước trong khu vực, trong việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước.


Cần khẳng định rằng, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại nói chung, hiện đại hóa quân đội nói riêng là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta và đồng thời cũng là nguyện vọng, mong muôn của nhân dân ta. Nhân dân ta luôn mong muốn có một quân đội nhân dân thực sự hùng mạnh đủ sức bảo vệ cuộc sống yên bình của mình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thân yêu của mình, sẽ không mắc mưu chúng.


Chủ tịch Hồ Chí Minh trước kia cũng đã từng yêu cầu và căn dặn quân đội ta phải tiến lên chính quy và hiện đại hóa. Người còn căn dặn, hiện đại hóa quân đội phải phù hợp với trình độ kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho quân đội. Chúng ta thực hiện hiện đại hóa quân đội là một đòi hỏi bức thịết. Đảng và Nhà nước ta chủ trương hiện đại hóa vũ khí trang bị cho quân đội và đã xác định đúng đắn rằng, bên cạnh việc phát huy, nâng cao hiệu quả vũ khí trang bị hiện có, cũng cần phải có trang bị kỹ thuật mới. Sự hiện đại về vũ khí trang bị của quân đội ta vừa phải đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, vừa phải phù hợp với đặc điểm Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Về vấn đề này, ngày 3-8-2011, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trả lời phỏng vấn báo chí, khẳng định rõ quan điểm: tăng cường trang bị, hiện đại hóa quân đội là để bảo vệ hòa bình, "Không phải là chạy đua vũ trang. Các nước trên thế giới đều làm như vậy. Nước nào cũng cần phải bảo vệ đất nước, muốn bảo vệ đất nước phải có trang bị. Đương nhiên, con người là quyết định, nhưng nếu không tự sản xuất được vũ khí trang bị thì vẫn phải đi mua. Có khả năng tài chính đến đâu thì mua tới đó"1 (Báo Quân đội nhân dân, ngày 4-8-2011, tr.4).


Trong điều kiện nước ta còn nghèo, trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, phương châm "từng bước hiện đại" mà Đảng ta xác định trong xây dựng quân đội nhân dân là hoàn toàn phù hợp. Thực hiện phương châm này, chúng ta cũng có thể và cần phải đi trước đón đầu, đột phá vào những khâu, những mũi nhọn cần thiẽt trong trang bị vũ khí kỹ thuật cho quân đội. Đây là vấn đề to lớn phản ánh nét đặc sắc về quá trình hiện đại hóa của quân đội ta trong tình hình mới, được thực thi với một chiến lược khoa học, một lộ trình hợp lý. Việc chúng ta mua sắm trang bị kỹ thuật mới là nằm trong lộ trình "từng bước hiện đại" hợp lý ấy.


Ý thức dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ nhắc nhở chúng ta rằng, công việc của chúng ta tự chúng ta độc lập xác định và tiến hành.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:47:37 pm
DI SẢN TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN
VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI KIỂU MỚI


1. Tư tưởng V.I.Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân là một tư tưởng quan trọng trong học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn và vẫn nóng hổi tính thời sự. Cống hiến to lớn của V.I.Lênin trong vấn đề này là ở chỗ, Người không chỉ phát triển một cách toàn diện và có hệ thống, những vấn đề lý luận cơ bản vễ xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, mà còn trực tiếp lãnh đạo và tổ chức xây dựng Hồng quân công nông vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Theo V.I.Lênin, sự nghiệp cách mạng cần có quân đội cách mạng, đó là yêu cầu khách quan. Người chỉ rõ: "Điều quan tâm đầu tiên của bất cứ cuộc cách mạng thắng lợi nào - như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh - là tiêu diệt, là giải tán quân đội cũ, thay nó bằng một quân đội mới; xây dựng một đạo quân mới, một kỷ luật mới, tổ chức quân sự mới của giai cấp mới"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.362). Giải tán quân đội cũ, xây dựng quân đội mới, quân đội cách mạng là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan này được quy định bởi yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của giai cấp cống nhân nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử "trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột", "bảo vệ chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động", bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền Xôviết và chế độ mới.


Ngay từ rất sớm, qua thực tiễn cách mạng dân chủ - tư sản Nga, V.I.Lênin nghiên cứu rất sâu sắc về quân đội, Người đã viết nhiều bài báo quan trọng, chỉ ra sự cần thiết phải tổ chức quân đội và những vấn đề rất cơ bản về quân đội cách mạng. Người khái quát thành những luận điểm quan trọng: "Cần có một quân đội cách mạng để đấu tranh bằng quân sự và lãnh đạo quần chúng về mặt quân sự chống lại những tàn dư của lực lượng quân sự của chế độ chuyên chế. Cần có một quân đội cách mạng vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực mà trong cuộc đấu tranh hiện đại thì tổ chức vũ lực có nghĩa là tổ chức quân sự"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.376). Trong tác phẩm nổi tiếng Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản năm 1916, V.I.Lênin chỉ rõ, bọn phản động trong nước và tất cả giai cấp tư sản của các nước khác đều "muốn tiêu diệt giai cấp vô sản chiến thắng của nước xã hội chủ nghĩa"; điều đó đã buộc giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhất thiết phải vũ trang bảo vệ Tổ quốc của mình, nếu không chủ nghĩa xã hội sẽ "không thể tồn tại được".


Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, trước sự đòi hỏi cấp thiết của nhiệm vụ bảo vệ chính quyền Xôviết non trẻ, V.I.Lênin đã ký sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông: "Để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động và trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột, nay ra lệnh vũ trang những người lao động, thành lập Hồng quân xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.35, tr.264). Người coi quân đội cách mạng là "trụ cột của chính phủ cách mạng", "là công cụ mà quần chúng nhân dân và các giai cấp trong nhân dân sử dụng để giải quyết những cuộc xung đột vĩ đại trong lịch sử". Trong chỉ đạo thực tiễn, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến xây dựng Hồng quân vững mạnh làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Người khẳng định, sự vững bền của nước Cộng hòa trong cuộc chiến đấu chống đế quốc, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Nga và trên toàn thế giới đều tùy thuộc vào sự tăng cường quân đội.


Vấn đề bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu luôn luôn là vấn đề cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu đối với mọi quân đội, được V.I.Lênin đặc biệt quan tâm xây dựng. Người cho rằng, quân đội cách mạng mang bản chất cách mạng của giai cấp cách mạng, tiến bộ; chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của giai cấp cách mạng, giai cấp tổ chức và nuôi dưỡng quân đội. V.I.Lênin là người đầu tiên đưa ra những luận điểm cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, xác định bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội.


Trong các bài viết của mình, V.I.Lênin đã sử dụng nhiều cách diễn đạt khác nhau về quân đội vô sản. Các cụm từ: "quân đội cách mạng", "quân đội mới", "đạo quân mới", "tổ chức quân sự mới", "đạo quân xã hội chủ nghĩa"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.60), "Hồng quân xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.35, tr.264) được Người đưa ra và dùng nhiều lần trong thực tiễn lãnh đạo, tổ chức xây dựng quân đội, là các cách biểu đạt khác nhau về quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Điều đó nhằm nói lên bản chất, tính chất rất mới của quân đội vô sản hoàn toàn khác so với tất cả các kiểu quân đội trước đó trong lịch sử, quân đội của giai cấp bóc lột, giai cấp tư sản.


Bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội kiểu mới được V.I.Lênin diễn đạt một cách cụ thể và dễ hiểu: "Chúng ta biết rằng có một tiếng nói khác hiện nay đang phát ra từ trong quần chúng nhân dân, nói rang: từ nay trở đi, không còn phải sợ người cầm súng nữa. Vì anh ta bảo vệ người lao động và sẽ thẳng tay đập tan sự thống trị của bọn bóc lột"3 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.324); "Quần chúng lao động coi người cầm súng trước kia thật là đáng sợ, nhưng ngày nay thì không có gì đáng sợ nữa, vì anh ta là người tiêu biểu cho Hồng quân và là người bảo vệ quần chúng lao động"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.295).


Luận đề nêu trên trong tư tưởng của V.I.Lênin về bản chất, tính chất của quân đội kiểu mới nổi lên hai vấn đề lý luận rất cơ bản:

Thứ nhất, quân đội kiểu mới là quân đội của giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động, gắn bó, gần gũi, trỏ nên thân thiết với quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân "không còn phải sợ người cầm súng nữa". V.I.Lênin đã vạch rõ bản chất, vai trò của quân đội tư sản là "công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo đảm kỷ luật tư sản và sự thống trị của tư bản, sự giữ gìn và giáo dục tính phục tùng một cách nô lệ và sự phụ thuộc của người lao động đối với chế độ đó"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.361). Một quân đội mà quần chúng lao động "không còn phải sợ" và một quân đội mà quần chúng coi "thật là đáng sợ" rõ ràng đã nói lên sự khác nhau rất căn bản về bản chất và tính chất của hai kiểu quân đội ấy. Đây thực sự là cách thể hiện lý luận khoa học rất chính xác và rất khéo của V.I.Lênin về bản chất, tính chất của quân đội.


Thứ hai, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội kiểu mới là "đập tan sự thống trị của bọn bóc lột", chống kẻ thù của nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền Xôviết, bảo vệ nhân dân, "là người bảo vệ quần chúng lao động". V.I.Lênin khẳng định: "Quân đội chúng ta là quân đội giai cấp, chống lại giai cấp tư sản"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.227); "Một đạo quân xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu được xây dựng với hàng chục vạn người, một đạo quân hiểu rõ vì sao mình phải chiến đấu, sẵn sàng chịu nhiều hy sinh và thiếu thốn hơn dưới chế độ Nga Hoàng, vì nó biết rằng nó bảo vệ sự nghiệp của nó, ruộng đất của nó, chính quyền của nó ở nhà máy, chính quyền của những người lao động"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.60).


Hai vấn đề lý luận cơ bản trên quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, không tách rời trong tư tưởng của V.I.Lênin, phản ánh sâu sắc và rõ ràng bản chất, tính chất và mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:48:45 pm
2. V.I.Lênin luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề chính trị của quân đội và xây dựng quân đội về chính trị. Về lý luận cũng như thực tiễn, vấn đề chính trị của quân đội luôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt; đây còn là một vấn đề quan trọng và nóng bỏng trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, phản động trên lĩnh vực tư tưởng lý luận.

Trong bài "Quân đội và nhân dân" trên báo Tiếng vang (Nga) số 10 ra ngày 2-7-1906, V.I.Lênin vạch rõ bản chất phản động, phản nhân dân của giai cấp tư sản, của những người dân chủ - lập hiến với luận điệu "quân đội đứng ngoài chính trị" của chúng. Người chỉ rõ: "Cả Đảng dân chủ - lập hiến lẫn chính phủ đều theo đuổi những lợi ích riêng trong vấn đề quân đội. Bọn sát nhân cần đến quân đội làm công cụ tàn sát. Bọn tư sản tự do chủ nghĩa cần đến quân đội để bảo vệ nền dân chủ tư sản khỏi bị sự xâm phạm và yêu sách "quá đáng" của nông dân và đặc biệt là của công nhân". Đồng thời nhấn mạnh: "Cái giáo lý tầm thường ấy, giả nhân giả nghĩa và dối trá cho rằng "quân đội đứng ngoài chính trị" thì đặc biệt thuận lợi để che giấu những nguyện vọng thật sự của giai cấp tư sản về phương diện này"; "Binh lính không đứng ngoài chính trị. Họ không đồng tình với những người dân chủ - lập hiến. Họ đề ra yêu sách rõ ràng nhằm hủy bỏ quân đội mang tính chất đẳng cấp, một quân đội tách rời nhân dân, và nhằm thay thế quân đội này bằng một quân đội gồm những người công dân có toàn quyền. Và như thế chính là bãi bỏ quân đội thường trực và vũ trang cho nhân dân". V.I.Lênin khẳng định: "Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.277).


Trong các công trình nghiên cứu về quân đội đã bàn khá nhiều đến luận điểm kinh điển này của V.I.Lênin, tuy nhiên hiện nay cần phải làm rõ hơn ý nghĩa và giá trị to lớn của nó. Luận điểm kinh điển trên toát lên những vấn đề lý luận chủ yếu sau:

Thứ nhất, không thể có thứ quân đội phi chính trị, phi giai cấp, quân đội "trung lập", "đứng ngoài chính trị".

Thứ hai, bất cứ quân đội nào thì vấn đề chính trị của quân đội cũng đều là vấn đề quan trọng hàng đầu, đó thực chất là vấn đề bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, quân đội do ai tổ chức và lãnh đạo, chiến đấu cho ai, vì ai.

Thứ ba, chính trị của quân đội vô sản là thực hiện chính trị của Đảng Cộng sản, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, biểu hiện tập trung ở chiến đấu đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, xây dựng quân đội về chính trị là yêu cầu cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, xây dựng "Hồng quân vững mạnh".

Thứ năm, xem nhẹ, buông lỏng vấn đề xây dựng quân đội về chính trị là làm suy yếu, thậm chí làm biến chất quân đội.

Năm vấn đề quan trọng nêu trên hợp thành chỉnh thể thống nhất và toàn diện, phản ánh giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, dài lâu của tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của V.I.Lênin, có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta hiện nay trong sự nghiệp xây dựng quân đội.


Người cho rằng, muốn bảo vệ được chính quyền của công nông để chống lại bọn địa chủ và tư bản chúng ta phải có Hồng quân mạnh... "Có Hồng quân mạnh chúng ta sẽ vô địch"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.175-176).


Xây dựng Hồng quân về chính trị là cơ sở và phải được đặt trong tổng thể các mặt xây dựng "Hồng quân mạnh". Trong khi bàn đến vấn đề chính trị của quân đội, xây dựng quân đội về chính trị, V.I.Lênin luôn đặt nó trong mối quan hệ với các mặt xây dựng khác, đồng thời quan tâm đến xây dựng toàn bộ các yếu tố cấu thành sức mạnh chiến đấu của quân đội, của Hồng quân. V.I.Lênin chỉ rõ: "Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng, cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ. Điều đó đã rõ đến nỗi không cần phải giải thích"2 (V.I.Lênin: Toàn tạp, Sđd, t.35, tr.497).


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:50:00 pm
3. Để Hồng quân thực sự là quân đội cách mạng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin yêu cầu, Hồng quân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Người, Đảng Cộng sản là người sáng lập, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, xây dựng Hồng quân công nông: chúng ta đã thành lập một quân đội thống nhất hiện nay do một bộ phận tiên tiến những người cộng sản có kinh nghiệm lãnh đạo, mà những người cộng sản này thì bất cứ ở đâu cũng biết tổ chức tuyên truyền và cổ động. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội là nguyên tắc căn bản, bất di bất dịch trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.

Nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, V.I.Lênin cho rằng cần phải thực hiện rất nhiều vấn đề, nhiều nội dung, biện pháp. Một loạt vấn đề lý luận mới liên quan được Người nhấn mạnh, đó là: phải "thành lập các chi bộ cộng sản trong mỗi một đơn vị quân đội"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.250, 179); thực hiện tốt quan điểm giai cấp trong xây dựng quân đội; phải tiến hành công tác chính trị, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng trong quân đội; phải tăng cường kỷ luật tự giác nghiêm minh; phải chăm lo xây dựng đội ngũ chính ủy trong quân đội - những người đại biểu của Đảng trong Hồng quân, bởi vì: "Không có các chính ủy chúng ta sẽ không có Hồng quân"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.250, 179).


Trong thực tiễn, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã thành lập tổ chức đảng, xây dựng và thực hiện chế độ chính ủy, coi đó là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Hồng quân để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo chỉ thị của V.I.Lênin, từ tháng 10-1917, tổ chức đảng và chế độ chính ủy bước đầu được xác lập trong một số đơn vị Hồng quân. Đến tháng 4-1918, hệ thống tổ chức đảng, cơ quan chính trị, chế độ chính ủy được thiết lập và thực hiện thống nhất trong toàn quân. Đây là nhân tố chủ yếu quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Hồng quân.



4. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới cho thấy giá trị và ý nghĩa thực tiễn to lớn của di sản tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới, chăm lo xây dựng quốc phòng, xây dựng quân đội như chăm lo "con ngươi trong mắt mình".

Hơn chín thập kỷ qua kể từ năm 1917, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đã phải đương đầu với sự chống phá điên cuồng, quyết liệt của các thế lực đế quốc, thù địch với mọi hình thức và mức độ. Điều đó phản ánh sâu sắc tính chất gay go quyết liệt của thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cho thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh tính đúng đắn và hết sức nóng hổi của tư tưởng của V.I.Lênin về cách mạng phải biết tự bảo vệ, về chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội như chăm lo "con ngươi trong mắt mình".


5. Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, một quân đội mang đầy đủ bản chất, tính chất, đặc điểm của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, được nhân dân kính trọng và suy tôn là "Bộ đội Cụ Hồ". Quân đội nhân dân Việt Nam - "Bộ đội Cụ Hồ" - là một biểu hiện đặc thù của sự vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới; thể hiện bản chất cách mạng của quân đội của giai cấp công nhân Việt Nam, quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thương yêu, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân.


Việc gọi cán bộ, chiến sĩ của quân đội ta là "Bộ đội Cụ Hồ" làm cho bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội trở nên dễ hiểu hơn, đi vào lòng người, gần gũi với nhân dân hơn, nhân dân "không còn phải sợ người cầm súng nữa", mà lại càng yêu quý người cầm súng ấy. Hơn 70 năm qua, các thê hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh viết nên truyền thống tốt đẹp "trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" của quân đội, làm rạng rỡ hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ", thật sự là lực lượng chính trị trong sạnh, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến.


Dân tộc Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã sản sinh ra Quân đội nhân dân Việt Nam, một quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự hội tụ ý chí, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân; sự hội tụ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp vào việc xây dựng quân đội, làm cho quân đội như là một biểu tượng tập trung của những giá trị tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam - "Bộ đội Cụ Hồ", do đó, đã vượt ra ngoài quan niệm thông thường là một công cụ bạo lực có vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định, mà nó là đứa con của dân tộc và giai cấp hội tụ những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.


Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng sử dụng tất cả các thủ đoạn có thể, kể cả thủ đoạn vũ lực, tiến công xâm lược vũ trang nếu chúng thấy "cần thiết". Một trong những mũi nhọn hướng tới của "diễn biến hòa bình" là tiến công vào quân đội, thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta, hòng làm cho quân đội ta không còn là quân đội kiểu mới, của dân, do dân, vì dân nữa.


Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết đòi hỏi chúng ta càng phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo những di sản tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc, cũng như di sản tư tưởng của Người về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Muốn bảo vệ Tổ quốc, "chúng ta phải có Hồng quân mạnh" - lời giáo huấn của V.I.Lênin - nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ"; phải chăm lo xây dựng cái "gốc" chính trị của quân đội, làm cơ sở để xây dựng quân đội trên các mặt khác, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm cho quân đội ta thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:52:31 pm
TRUNG VỚI ĐẢNG, HIẾU VỚI DÂN - SỰ THỐNG NHẤT TRONG BẢN CHẤT, TRUYỀN THỐNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


Tướng Xalăng, trong cuốn sách Đông Dương đỏ, xuất bản tại Pari năm 1975, nói về Quân đội nhân dân Việt Nam, đã viết: "Quân đội của họ, gồm những người được tuyển mộ trong lớp thanh niên hăng hái - trước kia toàn là người tình nguyện - được nước Pháp dâng cho Điện Biên Phủ bằng cả hai tay, nay lại được nước Mỹ biếu không Sài Gòn và một số lượng dụng cụ chiến tranh khổng lồ đáng giá nhiều tỷ đô la, đã trở thành bộ máy chiến tranh không gì sánh kịp....


Họ là những người mà sĩ quan Pháp vẫn coi là đối thủ đáng kính trọng. Người Mỹ từng coi thường họ và hiển nhiên họ đã đánh bại người Mỹ, tuy sức mạnh về số lượng và kỹ thuật vượt hơn họ nhiều lần. Họ là cái bảo đảm cho cả một Đông Dương đỏ"1 (Điện Biên Phủ, nhìn từ phía bên kia, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.176).


Phẩm chất quan trọng hàng đầu của quân đội ta, cội nguồn sức mạnh của "bộ máy chiến tranh không gì sánh kịp" ấy là lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sự hy sinh chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam của quân đội ta. Hơn bảy thập kỷ xây dựng, trưởng thành và chiến thắng, Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là một quân đội anh hùng, đã thể hiện đầy đủ và xuất sắc phẩm chất trung - hiếu đối với Đảng, với nhân dân, được Đảng và nhân dân ta hết mực tin yêu, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục.


Quân đội là một tổ chức vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định; trung thành với giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó là phẩm chất cơ bản, yêu cầu cốt tử đối với mọi quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, giáo dục và rèn luyện, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vấn đề tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân là phẩm chất quan trọng hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh và tuyên dương: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435).


Phẩm chất trung với Đảng, hiếu với dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập song hành gắn với việc thực hiện mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội. Hai phẩm chất này quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau trong bản chất và truyền thống của quân đội ta, không thể tách ra một cách biệt lập, càng không hề mâu thuẫn nhau như sự bịa đặt và cố tình xuyên tạc của các thế lực chống đối, thù địch. Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, lòng trung thành với Đảng của quân đội ta còn được biểu hiện ở sự hiếu với dân; hiếu với dân còn biểu hiện ở sự trung thành tuyệt đối với Đảng.


Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, trung với Đảng là phấn đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng đó, là phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Trung với Đảng bao hàm cả việc tuyệt đối trung thành với quốc gia, dân tộc, với Tổ quốc và nhân dân. Phạm trù "trung với Đảng" có nội hàm rộng lớn hơn nhiều và khác hẳn về bản chất so với phạm trù "trung quân" - trung với vua, với dòng họ đương quyền (tuy có gắn với "ái quốc"), một giá trị trong xã hội phong kiến. Còn quân đội do giai cấp tư sản tổ chức, xây dựng thì sự trung thành của quân đội ấy là thực hiện đường lối đối nội, đối ngoại phản động của nhà nước tư sản, đường lối chống lại nhân dân lao động trong nước và thực hiện xâm lược, nô dịch các quốc gia, dân tộc khác.


Những quan điểm cho rằng, "quân đội đứng ngoài chính trị", "quân đội phi giai cấp"; rằng, "quân đội chỉ là công cụ bạo lực của nhà nước, không cần sự lãnh đạo của Đảng" chỉ là những thủ đoạn dối lừa, thực chất là nhằm "phi chính trị hoá" quân đội của các nước xã hội chủ nghĩa, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm cho quân đội mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu, vô hiệu hóa công cụ bạo lực sắc bén này, làm cơ sở tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sự mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu của quân đội Liên Xô (cũ), một nguyên nhân dẫn đến chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó sụp đổ là ví dụ sinh động còn nóng hổi tính thời sự minh chứng cho âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội các nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực phản động. Vì vậy, trong khi khẳng định phẩm chất quan trọng hàng đầu của quân đội ta là trung với Đảng, thì đồng thời phải tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch.


Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, một quân đội của dân, do dân, vì dân, hiếu với dân là một phẩm chất quan trọng hàng đầu. Trong lịch sử nhân loại, hiếm có một quân đội nào trên thế giới lại có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhân dân như Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ trong bản chất, mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân là mối quan hệ thống nhất và bền chặt. Nguồn sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam là từ nhân dân, dựa trên nền tảng sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435), nhân dân là "nền tảng", là "cha mẹ" của bộ đội. "Quân với dân như cá với nước" là cách thể hiện rất độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Phẩm chất hiếu với dân của quân đội phản ánh thực tiễn xây dựng, trưởng thành, chiến đấu, công tác của quân đội, được quy định bởi sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng của nhân dân và quân đội. Bao trùm nhất của lòng hiếu với dân của quân đội ta là "vì nhân dân chiến đấu, vì nhân dân phục vụ", vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó vừa là mục tiêu chiến đấu, vừa là phương châm hành động của tất cả cán bộ, chiến sĩ quân đội trong mọi giai đoạn cách mạng; ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, quân đội ta không có mục đích tự thân nào khác.


Chỉ có quân đội cách mạng mới có thể có đầy đủ nguồn sức mạnh từ nhân dân, nguồn sức mạnh vô tận, không bao giờ cạn kiệt, bảo đảm sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội, thể hiện ưu thế hơn hẳn so với quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Chính vì vậy, tăng cường mối quan hệ quân - dân luôn luôn là yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong tất cả các giai đoạn cách mạng; đồng thời đó còn là đòi hỏi của việc không ngừng củng cố, bồi đắp phẩm chất hiếu với dân của quân đội. Hiếu với dân không chỉ biểu hiện ở những thành tích huy hoàng của quân đội trong chiến đấu chống kẻ thù của đất nước, của nhân dân, mà còn biểu hiện ở tình cảm "thương yêu dân", "kính trọng dân", ở hành động giúp đỡ dân, bảo vệ dân, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân, luôn giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với dần, không đụng đến "cái kim, sợi chỉ" của nhân dân... được nhân dân yêu mến, tin tưởng, "đi dân nhớ, ở dân thương". Nội hàm và ý nghĩa khái niệm "hiếu với dân" của quân đội ta là rất rộng lớn và sâu sắc, chỉ có thể có được ở quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân, vì dân.


Trung với Đảng, hiếu với dân không phải dừng lại ở phạm vi thái độ, tình cảm, mà điều quan trọng là phải thể hiện ở hành động cách mạng cụ thể, ở sự sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội không hoàn thành tốt nhiệm vụ, sợ hy sinh, ngại khó khăn gian khổ, không vượt qua được những thử thách khắc nghiệt trong chiến tranh cũng như trong thời bình, những cám dỗ của đời thường, mà sao nhãng tay súng, mất cảnh giác hoặc vi phạm kỷ luật... thì chưa thể nói số cán bộ, chiến sĩ ấy đã tận trung với Đảng, tận hiếu với dân. Rõ ràng là, sự trung - hiếu của quân đội đối với Đảng và nhân dân không phải chỉ là ở sự trung - hiếu của một tổ chức thuộc lực lượng vũ trang, mà sự trung - hiếu ấy phải thấm vào trong từng trái tim, khối óc, trong tình cảm cách mạng của mọi quân nhân, ở sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, ở hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Để quân đội hoàn thành phận sự trung với Đảng, hiếu với dân, điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải xây dựng quân đội "thực sự là quân đội cách mạng", "quân đội vô địch", như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng giáo huấn. Một quân đội dù có trung thành bao nhiêu, nhưng nó sẽ lập tức bị tiêu diệt nếu không được trang bị đầy đủ và huấn luyện chu đáo, lời cảnh báo đó của V.I.Lênin càng có ý nghĩa đặc biệt âối với việc xây dựng quân đội ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.


Vì thế, trong khi nhấn mạnh phẩm chất trung với Đảng, hiếu với dân của quân đội, thì đồng thời phải xây dựng quân đội thực sự vững mạnh, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Mối quan hệ này cần được quán triệt sâu sắc và thực hiện một cách khoa học trong suốt quá trình xây dựng quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.37), phải "săn sóc", chăm lo đời sống vật chất - tinh thần cho bộ đội.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:54:02 pm
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thế giới và trong nước có những biến động to lớn và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa kinh tế; những diễn biến phức tạp, khó lường của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta; sự phát triển mới của tình hình kinh tế - xã hội đất nước... làm cho nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta có bước phát triển mới. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là "bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82).


Nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới đã đặt ra nhiều vấn đề rất mới đối với việc xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại nói chung, củng cố, bồi dưỡng phẩm chất trung với Đảng, hiếu với dân của quân đội nói riêng. Trong điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng quân đội ta có đủ sức mạnh, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, cả vũ trang và phi vũ trang, vừa có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh; vừa phải sẵn sàng chiến thắng địch trong điều kiện chiến tranh, cả chiến tranh thông thường và chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Đây là yêu cầu bức thiết, là nội dung cụ thể của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta, và còn là sự biểu hiện tập trung lòng trung - hiếu của quân đội đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới.


Theo đó, vấn đề quan trọng trước hết là cần tập trung mọi nỗ lực nhằm củng cố, giữ gìn và phát huy hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ", tăng cường tình đoàn kết quân - dân.

Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giữ vững và phát huy phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", đặc biệt là phẩm chất trung với Đảng, hiếu với dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong chiến tranh ác liệt, gian khổ, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của quân đội ta đã tạo được hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" hết sức tốt đẹp trong lòng nhân dân; làm cho mối quan hệ quân dân gắn bó, tạo nên sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù. Trong lao động hòa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những tác động nhiều mặt của tình hình thế giới, trong nước, từ mặt trái của kinh tế thị trường đã đặt ra những vấn đề rất mới đối với việc phát huy hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ", tăng cường tình đoàn kết quân dân.


Thực tế trong quá trình xây dựng và trưởng thành của quân đội, có không ít trường hợp mà hành động của một số cán bộ, chiến sĩ đã làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ" trong lòng nhân dân. Hình ảnh tốt đẹp của quân đội trong con mắt nhân dân bao giờ cũng thông qua những việc làm và hành động cụ thể của mọi quân nhân, từ vị chỉ huy cao nhất của quân đội cho đến người lính.


Trong giai đoạn hiện nay, mỗi quân nhân đều phải thực sự là người tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân bằng chính việc làm của mình, phải ra sức giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ quân đội đi đến đâu đều phải được dân yêu mến, tin tưởng; trong quan hệ với nhân dân, không được đụng đến "cái kim, sợi chỉ" của dân, càng tuyệt đối không làm điều gì phương hại đến lợi ích của nhân dân, củng cố mối quan hệ với nhân dân, trước hết và trực tiếp là với nhân dân ở địa phương nơi đơn vị đóng quân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội không những phải tích cực tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng mà còn phải tham gia tích cực và có hiệu quả trong các nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ở các địa bàn, nhất là trên các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tham gia xóa đói, giảm nghèo; phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn và phòng chống các tệ nạn xã hội... Trong thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào và ở đâu, cán bộ, chiến sĩ quân đội đều phải ra sức phát huy truyền thông tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", "vì nhân dân quên mình", thật sự là người chiến sĩ của quân đội cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng quân đội ta nói chung, xây dựng quân đội ta về chính trị nói riêng. Đảm bảo cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; đồng thời có đủ sức mạnh để làm tròn phận sự trung thành của mình là yêu cầu cơ bản, cốt lõi của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tất cả các giai đoạn cách mạng. Có giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, thì mới có thể xây dựng quân đội thực sự vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, đó là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Đồng thời, chính sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị, yêu cầu bồi dưỡng phẩm chất trung thành của quân đội đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Mối quan hệ biện chứng thống nhất giữa chủ thể lãnh đạo và đối tượng lãnh đạo trong quá trình xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cần phải được nhận thức đầy đủ và đúng đắn.


Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, để Đảng có thể nắm chắc quân đội trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, đòi hỏi Đảng phải tự nâng mình lên ngang tầm với nhiệm vụ; đồng thời phải có nội dung và phương thức lãnh đạo phù hợp. Điều có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phải chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn quân; xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên cả về phẩm chất, năng lực và tác phong công tác theo tinh thần Nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị về "tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng; thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam"; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là "hạt nhân", là "nòng cốt" trong xây dựng quân đội.


Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới đặt ra một cách gắt gao phải xây dựng quân đội ta thực sự vững mạnh, có sức chiến đấu cao, đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để quân đội thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Quân đội càng tiến lên chính quy, hiện đại, nhiệm vụ càng nặng nề thì càng cần phải giữ vững và phát huy phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng là một hình ảnh cao đẹp, một biểu tượng giá trị của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:55:38 pm
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG - LÝ LUẬN VỚI VẤN ĐỂ
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỀ CHÍNH TRỊ


Trong xây dựng quân đội "Phải lấy chính trị làm gốc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.398). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định như vậy. Hiện nay, chúng ta cũng nói khá nhiều đến xây dựng quân đội về chính trị, làm cơ sở để xây dựng quân đội ta trên các mặt khác. Tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các giải pháp đồng bộ, thống nhất và toàn diện, có căn cứ khoa học vững chắc trên tất cả các mặt công tác trong quân đội.


Tuy nhiên, công tác tư tưởng, lý luận trong thời gian qua còn có những bất cập, còn chưa thể hiện tốt vai trò quan trọng của mình đối với vấn đề "gốc" và "cơ sở" này của quá trình xây dựng quân đội. Mặt yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng là còn thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao, phương pháp chưa linh hoạt, chưa tạo được sự thống nhất cao và thông suốt đối với một số vấn đề trong đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng; công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng.


Công tác tư tưởng và công tác lý luận có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau trong cùng một mặt trận: mặt trận tư tưởng, lý luận, trong cùng một công tác chung: công tác tư tưởng, lý luận. Công tác tư tưởng sẽ kém hiệu quả, tính chiến đấu sẽ không cao, nếu như những nội dung mà công tác này truyền tải đến con người khống được luận giải một cách thuyết phục, có cơ sở khoa học. Công tác lý luận sẽ kém giá trị, thậm chí có hại nếu như nó không rõ phương hướng tư tưởng. Công tác lý luận trong bất kỳ trưòng hợp nào đều là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và là một lĩnh vực của cuộc đấu tranh ấy. Sự gắn kết giữa tư tưởng và lý luận trong cùng một công tác, một mặt trận là sự gắn kết hai mặt của một vấn đề trong đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.


Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong điều kiện mới đặt ra một loạt vấn đề mới về lý luận và thực tiễn: Những nhân tố nào chi phối và quyết định đến quá trình xây dựng quân đội về chính trị? Xây dựng quân đội về chính trị là xây dựng cái gì, với những nội dung nào? Phương hướng, yêu cầu, nguyên tắc và những giải pháp cơ bản nào để nâng cao hơn nữa chất lượng xây dựng quân đội về chính trị?... Đó là những vấn đề hết sức cơ bản, mà công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội trong tình hình mới phải giải đáp.


Một là, công tác tư tưởng, lý luận góp phần tích cực xây dựng quân đội thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước.

Xây dựng quân đội, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cả vũ trang và phi vũ trang trong tình hình mới là đòi hỏi bức thiết của tình hình. Nói đến quân đội là nói đến công cụ bạo lực, là nói đến một lực lượng vũ trang. Do đó, chức năng chiến đấu với phương thức vũ trang là nổi trội và cơ bản đối với bất cứ quân đội nào. Quân đội ta cũng vậy, chức năng chủ yếu của nó là chiến đấu, nhiệm vụ chủ yếu của nó là đánh thắng. Trước bối cảnh mới, nhất là với sự xuất hiện của loại hình chiến tranh mới, chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao, mà kẻ phát động chiến tranh lại có ưu thế vượt trội về kinh tế, khoa học, quân sự và đặc biệt về vũ khí công nghệ cao... thì nhiệm vụ đánh thắng của quân đội ta càng trở nên nặng nề hơn.


Đây là vấn đề rất mối, đặt ra rất gay gắt đối với việc xây dựng quân đội nói chung, xây dựng quân đội về chính trị nói riêng. "Chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.218) và đánh thắng. Tình hình đó đặt ra cho công tác tư tưởng, lý luận nhiệm vụ hết sức nặng nể. Nó không chỉ làm rõ những nội dung, yêu cầu và biện pháp xây dựng quân đội đáp ứng với tình hình trên, mà điều quan trọng là phải xây dựng, tăng cường nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội ta. Xây dựng chính trị - tinh thần của quân đội, làm cho chính trị - tinh thần thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi của quân đội ta trong chiến tranh, kể cả trong chiến tranh kiểu mới có sử dụng vũ khí công nghệ cao, phải là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay.


Gắn kết với nhiệm vụ trên, xây dựng quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh nhuệ về chính trị..., thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng là vấn đề bức thiết đặt ra đối với công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội.


Quân đội là một lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Trong lịch sử xây dựng và trưởng thành của mình, quân đội ta đã từng thể hiện như vậy. Cái mới hiện nay là ở nội dung và yêu cầu cụ thể đối với lực lượng chính trị tin cậy của Đảng trong điều kiện mới. Lực lượng chính trị tin cậy không chỉ là trung thành, mà còn phải thực sự tinh nhuệ về chính trị, là một lực lượng chiến đấu của Đảng trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Công tác tư tưởng, lý luận phải đi tiên phong và đóng vai trò nòng cốt của quân đội trong cuộc đấu tranh ấy; đồng thời chủ động xây dựng, làm cho quân đội biết chiến thắng kẻ thù trong điều kiện tác chiến phi vũ trang, trong đấu tranh chính trị - tư tưởng.


Sự phân tích trên vừa cho thấy vai trò quan trọng, nhiệm vụ nặng nề của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; đồng thời chỉ rõ tính cấp thiết nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận, đặng có thể đưa ra những giải đáp thỏa đáng, có sức thuyết phục đối với vấn đề xây dựng quân đội về chính trị. Luận chứng những nội dung, làm rõ những yêu cầu và biện pháp... của việc xây dựng quân đội về chính trị có căn cứ khoa học vững chắc cả về lý luận và thực tiễn không chỉ là đòi hỏi bức thiết của tình hình, mà còn là điều kiện căn bản, bảo đảm tính hiệu quả và sức sống của chính công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.


Hai là, tích cực, chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái và âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch.

Chống các quan điểm sai trái và âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội là một yêu cầu quan trọng trong quá trình xây dựng quân đội ta về chính trị. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua, công tác tư tưởng, lý luận chưa phê phán mạnh và đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, những quan điểm mơ hồ, sai trái, còn thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Trong bối cảnh mới của sự mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, vấn đề đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trở nên hết sức phức tạp.


Tính phức tạp của vấn đề không chỉ phản ánh ở những nội dung, tư tưởng của các quan điểm đó, mà còn thể hiện ở thái độ trong chính chúng ta đối với cuộc đấu tranh. Không phải không có tư tưởng e ngại rằng, nếu quá kiên quyết đấu tranh sẽ gây ra "những bất lợi" cho quá trình hợp tác kinh tế của nước ta với nước ngoài. Sự e ngại này không phải là không có cơ sở. Nhưng để cho sự e ngại này phát triển đi đến thiếu kiên quyết đấu tranh, không dám "phê phán mạnh" thì lại là một sai lầm hữu khuynh. Chúng ta cũng không rơi vào "tả khuynh", vì điều đó cũng không có lợi cho sự nghiệp cách mạng. Nhưng chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình", âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch phải là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay như Đảng ta đã khẳng định trong nhiều nghị quyết, đặc biệt là trong Nghị quyết Đại hội XI.


Trên mặt trận tư tưởng, lý luận, các thế lực thù địch coi việc chống phá quân đội ta về chính trị là một hướng tiến công quan trọng. Chúng ta đã rõ, "phi chính trị hóa" quân đội, thực chất là phá chính trị của quân đội ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, làm cho quân đội ta trở nên "vô hồn", xa ròi mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lái chính trị của quân đội ta theo hướng chính trị khác, tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính nguy hiểm của âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội đã rõ. Tính nguy hiểm ấy còn thể hiện ở chỗ, nó hằng ngày, hằng giờ thẩm thấu vào tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ quân đội, làm cho ta không dễ dàng nhận biết đâu là âm mưu của chúng, đâu là những thiếu sót, khuyết điểm của chúng ta. Hơn nữa, âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội lại được ngụy trang hết sức tinh vi dưới cái vỏ có vẻ "khách quan": nào là, quân đội chỉ cần đặt dưới sự quản lý, điều hành của Nhà nước, không cần sự lãnh đạo của Đảng nữa, vì đó là yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền!?; nào là, quân đội chỉ là của quốc gia, không thuộc về giai cấp, đảng phái nào!?, v.v...


Tình hình đó có thể dẫn đến sự ngộ nhận, mơ hồ về mục đích thực sự của âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội; hoặc chí ít cũng làm mất cảnh giác đối với âm mưu này. Rõ ràng, đấu tranh chống âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch thực sự là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.


Không vạch rõ được tính chất phản động về chính trị và tính chất phản khoa học của các quan điểm ấy, thì cuộc đấu tranh chống âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch không thể đạt kết quả mong muốn, ảnh hưởng xấu đến quá trình xây dựng quân đội về chính trị. Thậm chí, nếu chỉ hô hào chung chung, thì vô hình trung, sự hô hào ấy có thể trở thành sự "tuyên truyền không công" cho âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch. Vì vậy, nâng cao tính đảng, tính chiến đấu, tính khoa học; nâng cao sự nhạy bén và sắc sảo trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội là yêu cầu đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận đối với vấn đề xây dựng quân đội ta về chính trị trong giai đoạn hiện nay.


Biện chứng của quá trình xây dựng quân đội ta về chính trị đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống". Phải trên cơ sở kết hợp "xây" và "chống", trong đó lấy "xây" làm chính, cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực, tạo môi trường, nếp sống, lối sống lành mạnh có văn hóa; lấy cái tích cực, cái tốt đẩy lùi cái tiêu cực cái xấu. Vì vậy, công tác tư tưởng, lý luận chẳng những phải luận giải một cách thuyết phục những vấn đề về "xây" trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị; mà còn đấu tranh một cách sắc bén, có hiệu quả trong vấn đề "chống" những gì cản trở, phương hại và phá hoại đến quá trình đó, nhất là âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:57:57 pm
CHÍNH ỦY, CHÍNH TRỊ VIÊN VỚI VIỆC
NÂNG CAO GIÁC NGỘ MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG CHIẾN ĐẤU
CỦA QUÂN ĐỘI HIỆN NAY


Giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu luôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu đối với bất cứ quân đội nào để đảm bảo quân đội luôn trung thành tuyệt đối và chiến đấu vì sự nghiệp của giai cấp tổ chức ra nó. Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; ngoài lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân, quân đội ta không có mục đích tự thân nào khác. Hơn bảy thập kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng đó; vấn đề giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho quân đội luôn được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, quân đội của dân, do dân, vì dân.


Giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu là công việc hệ trọng của Đảng trong quá trình xây dựng quân đội ở tất cả các giai đoạn cách mạng. Việc Đảng ta thiết lập chế độ công tác chính trị trong quân đội, xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị, đội ngũ chính ủy, chính trị viên là nhằm trực tiếp hướng vào thực hiện có hiệu quả công việc hệ trọng đó, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện.


Với tư cách là người chủ trì về chính trị, đội ngũ chính ủy, chính trị viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Vai trò của chính ủy, chính trị viên trong giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội xuất phát trực tiếp từ nhiệm vụ xây dựng quân đội, tầm quan trọng của việc xây dựng, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội; và từ vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của chính ủy, chính trị viên.


Trong vấn đề này, vai trò đặc biệt quan trọng của chính ủy, chính trị viên được thể hiện cụ thể là: thứ nhất, trực tiếp định hướng chính trị, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ quân đội theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối, quan điểm của Đảng; thứ hai, thường xuyên giáo dục, xây dựng, rèn luyện và hoàn thiện các phẩm chất của người quân nhân cách mạng, xây dựng quân đội vững mạnh, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; thứ ba, trực tiếp tổ chức đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng vô sản và mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phá hoại quân đội ta của các thế lực thù địch. Giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội là công việc trực tiếp thường xuyên, liên tục, không khi nào ngừng nghỉ của đội ngũ chính ủy, chính trị viên. Trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, yêu cầu, nội dung cụ thể của việc giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu có sự khác nhau.


Hiện nay, việc giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội chịu sự tác động sâu sắc bởi những diễn biến phức tạp, khó lường của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới; những thuận lợi, khó khăn, phức tạp của tình hình đất nước. Tác động của quá trình toàn cầu hóa, mặt trái của kinh tế thị trường, cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch làm cho việc giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội gặp nhiều khó khăn, thách thức mới. Trong sự tác động đó, cùng với sự thay đổi, biến động của các nấc thang giá trị thì những yếu tố ngoại lai, lai căng có điều kiện xâm nhập, phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tư tưởng, văn hóa xã hội. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lối sống thiếu lý tưởng, thờ ơ các vấn đề chính trị - xã hội, "những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội", "tự diễn biên", "tự chuyển hóa", lối sống vì đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, các tệ nạn xã hội... có điều kiện phát triển. Những "nọc độc" về chính trị, tư tưởng thâm nhập vào bằng nhiều con đường, với nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho tư tưởng, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc. Vấn đề bảo vệ chế độ, giữ vững nền tảng tư tưởng xã hội, sự lãnh đạo của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa - những yếu tố quyết định sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu - đặt ra một cách gắt gao hơn.


Những khó khăn và thách thức mới đối với việc giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của quân đội không chỉ thể hiện ở việc xác định nội dung giáo dục, cần phải tập trung nội dung cụ thể nào; mà còn thể hiện ở chỗ, làm thế nào để những nội dung truyền tải, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trở nên sống động và thuyết phục nhất, biến thành tư tưởng, tình cảm, ý chí quyết tâm và hành động cách mạng của họ trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ quân đội, trong điều kiện đó, trước hết và trực tiếp cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề chính sau:

Một là, nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.

Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là nội dung cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu trong giáo dục, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Cán bộ, chiến sĩ quân đội không thể có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, không thể hiểu sâu sắc mình hy sinh, chiến đấu vì ai, chiến đấu vì mục tiêu gì nếu họ không được giáo dục đầy đủ cần thiết những nội dung cơ bản trên. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận cách mạng tiên tiến và khoa học, là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh giải phóng giành độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta; là cơ sở giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội.


Trong tình hình hiện nay, việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho quân đội gặp không ít khó khăn, phức tạp. Tình trạng thờ ơ, xem nhẹ, hình thức, kém hiệu quả, "làm cho xong" trong giáo dục và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số người, cả người học và người đi giáo dục, cả chiến sĩ và cán bộ diễn ra ở không ít đơn vị; thậm chí có lúc, có nơi việc giáo dục và học tập này chỉ mang tính đối phó.


Họ không thấy được tầm quan trọng, ý nghĩa quyết định của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc nhận thức và nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, đối với sự vững chắc về lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị của người quân nhân cách mạng. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: "Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.256).


Trong bối cảnh đó, việc đổi mới nội dung, chương trình, cách thức, biện pháp giáo dục là những vấn đề quan trọng mà chính ủy, chính trị viên cần thực hiện tốt; tuy nhiên, điều quan trọng là cần đi sâu hơn vào động cơ, thái độ, tình cảm của đối tượng giáo dục. Vì thế, ở đây cần nhấn mạnh, chính ủy, chính trị viên phải thực sự nêu cao tinh thần gương mẫu, tính mô phạm trong học tập, rèn luyện, trong giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; đồng thời phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thắp lên ngọn lửa nhiệt tình, say sưa học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho việc học tập trở thành một quá trình tự thân, tự giác của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Không đạt được điều đó thì việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không thể đạt hiệu quả mong muốn.


Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là để nâng cao nhận thức và hiệu quả thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng thời, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước lại là cơ sở cho cán bộ, chiến sĩ quân đội hiểu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mối quan hệ biện chứng, thống nhất trong nội dung có tầm quan trọng đặc biệt này, chính ủy, chính trị viên cần thực hiện tốt trong quá trình giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 01:59:14 pm
Hai là, giáo dục sâu sắc nhiệm vụ cách mạng, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, nghĩa vụ, trách nhiệm; ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao của quân nhân.

Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu không phải là một cái gì xa vời, chung chung, trừu tượng, mà luôn biểu hiện cụ thể trong nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ, ở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội và nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Vì thế, giáo dục nhiệm vụ cách mạng, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, nghĩa vụ, trách nhiệm, ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của quân nhân là nội dung đặc biệt quan trọng, phản ánh tính chính trị - thực tiễn của việc nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.


Trong giai đoạn hiện nay, chính ủy, chính trị viên cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ nhiệm vụ của cách mạng, những thuận lợi, khó khăn, phức tạp của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức sâu sắc mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Những nhiệm vụ như huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch; xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tham gia xây dựng đất nước, xóa đói giảm nghèo; làm tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh... là những nội dung cụ thể phản ánh chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong điều kiện mới, cần phải được chính ủy, chính trị viên giáo dục sâu sắc, phù hợp với từng đơn vị, từng đối tượng.


Mỗi đơn vị, mỗi đối tượng cán bộ, chiến sĩ có đặc điểm, nhiệm vụ cụ thể riêng, chính ủy, chính trị viên phải căn cứ vào từng đơn vị và đối tượng phụ trách mà thực hiện nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp. Giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu bao giờ cũng biểu hiện cụ thể ở hành động cách mạng thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, ở việc hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Không thể nói là đã giác ngộ cao về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, về nhiệm vụ cách mạng khi cán bộ, chiến sĩ quân đội không quyết tâm phấn đấu học tập, rèn luyện, công tác và chiến đấu, không hoàn thành tốt các nhiệm vụ hằng ngày của bản thân mình.


Vì vậy, chính ủy, chính trị viễn cần phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ quân đội nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách, nhiệm vụ của quân nhân; đồng thời phải chú trọng xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết, kỷ luật, tích cực, chủ động thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Đơn vị không vững mạnh toàn diện, cán bộ, chiễn sĩ không hoàn thành tốt nhiệm vụ thì không thể nói việc giáo dục, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ quân đội đã được nâng cao và có hiệu quả.


Ba là, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhất là âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch.

Nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhất là âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta của các thế lực thù địch là yêu cầu đặc biệt quan trọng và là vấn đề cấp thiết hiện nay. về vấn đề này, chính ủy, chính trị viên phải thực sự là lực lượng nòng cốt trong chỉ đạo, tổ chức và trực tiếp tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng vô sản trong quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.


Các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta. Những luận điệu chống phá quân đội ta được chúng đưa ra liên tiếp với nhiều hình thức tinh vi khác nhau đã và đang gây nhiều nguy hại, khó khăn đối với việc xây dựng quân đội nói chung, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội nói riêng. Điều đó dễ gây nên sự dao động, hoài nghi nhất định về mục tiêu chiến đấu, sự thiếu yên tâm phục vụ quân đội, thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng trước những khó khăn phức tạp và trong thực hiện nhiệm vụ ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ quân đội. Nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội không thể đạt được hiệu quả cao, nếu trận địa tư tưởng vô sản không được giữ vững, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch không bị phá sản, thất bại.


Trong cuộc đấu tranh này, chính ủy, chính trị viên phải thực sự là nòng cốt cho toàn quân. Vai trò nòng cốt đó thể hiện ở chỗ: một là, tổ chức lực lượng, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ đấu tranh; hai là, xác định nội dung, yêu cầu, biện pháp đấu tranh phù hợp với từng giai đoạn và từng loại quan điểm sai trái, thù địch; ba là, trực tiếp tham gia đấu tranh. Đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái đòi hỏi phải nâng cao tính chiến đấu, tính khoa học và thuyết phục để chẳng những tạo cơ sở đập tan mọi luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, mà còn trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức và lập trường cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Chính ủy, chính trị viên phải biết kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng; đồng thời phải tạo ra được khả năng miễn dịch, sức đề kháng cao và trình độ đấu tranh cho cán bộ, chiến sĩ, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.


Người đi giáo dục trước hết phải được giáo dục. Hành trang cơ bản trong giáo dục, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội đối với chính ủy, chính trị viên phải là trình độ cao về sự giác ngộ, là tấm gương mẫu mực về sự trung thành và phấn đấu không biết mệt mỏi vì sự thắng lợi của mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 02:00:59 pm
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHIỆM VỤ BẢO VỆ VÀ NHIỆM VỤ THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


Bàn về mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ và nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước của quân đội ta, thực chất là bàn về mối quan hệ giữa quân đội là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng, của Nhà nước với Nhà nước là thiết chế chính trị, đại biểu quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, là tổ chức quản lý quân đội. Đây là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được luận giải cụ thể trên cơ sở khoa học. Ở đây, phân tích mối quan hệ này trên các vấn đề cơ bản sau:


Một là, bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước là hai nhiệm vụ quan hệ mật thiết và thống nhất trong bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Quân đội là một hiện tượng chính trị - xã hội, là công cụ bạo lực của một giai cấp, một nhà nước nhất định, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp và nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng quân đội. Quân đội ta là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Chức năng chính trị - xã hội của quân đội ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: chiến đấu, công tác và lao động sản xuất. Việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó vừa bảo đảm cho quân đội ngày càng mạnh lên vừa góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng. Nội dung cụ thể của chức năng phản ánh bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta, được biểu hiện và thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng.


Bất cứ quân đội nào cũng đều phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhà nước đã tổ chức ra và nuôi dưỡng nó. Ngay quân đội tư sản cũng vậy. V.I.Lênin nhấn mạnh: "Ở bất cứ đâu quân đội thường trực cũng trở thành công cụ của thế lực phản động, tôi tớ của tư bản trong cuộc đấu tranh chống lại lao động, cũng là tên đao phủ đối với tự do của nhân dân"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.137).


Đối với quân đội ta, chiến đấu để giải phóng dân tộc, chống xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, hòa bình và hạnh phúc cho nhân dân; bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước của dân, do dân, vì dân... là những nội dung cụ thể thể hiện nhiệm vụ bảo vệ Nhà nước, phản ánh chức năng chiến đấu của quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đội quân cách mạng thực hiện nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập"1 (Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989, tr.115), "bảo vệ đồng bào, giữ gìn Tổ quốc", "sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435).


Điều quan trọng ở đây cần phải làm rõ là vấn đề quân đội ta tham gia xây dựng Nhà nước! Cần nhận thức rằng, quân đội là lực lượng tham gia. Ý nghĩa của việc tham gia đã nói lên phạm vi, mức độ có giới hạn và tính chất của việc quân đội xây dựng Nhà nước. Tham gia xây dựng Nhà nước là phải theo chức năng, nhiệm vụ của quân đội, chứ tuyệt nhiên không phải là theo tư tưởng "súng đẻ ra chính quyền", về nội dung tham gia xây dựng Nhà nước, trước hết cần phải hiểu bản thân việc thực hiện chức năng chiến đấu, bảo vệ chính quyền và bảo vệ chế độ đã hàm chứa trong đó những nội dung xây dựng Nhà nước; thứ hai, quân đội ta khi mới thành lập là nhằm trực tiếp đáp ứng nhu cầu đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, giành chính quyền về tay nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Hai vấn đề trên đã phản ánh phần nào nội dung nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước của quân đội ta.


Quân đội ta là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, là quân đội của dân, do dân, vì dân, ngoài chức năng chiến đấu, còn có chức năng công tác và lao động sản xuất. Tham gia xây dựng Nhà nước còn là sự thể hiện chức năng công tác và cả lao động sản xuất của quân đội ta. Nội dung cụ thể của việc quân đội tham gia xây dựng Nhà nước là: tham gia xây dựng hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở; tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của chính quyền, của chế độ; tham gia thực hiện và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh của Nhà nước, trên từng địa bàn và phạm vi cả nước. Đương nhiên, trong từng nhiệm vụ cụ thể đó, vai trò của quân đội không như nhau; trong xây dựng, củng cố quốc phòng, quân đội là lực lượng nòng cốt.


Như vậy, mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ và nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước của quân đội ta là mổỉ quan hệ biện chứng, thống nhất, phản ánh bản chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân, vì dân.


Hai là, bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước đều nhằm làm cho Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là của dân, do dân, vì dân.

Mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Nhà nước của Quân đội nhân dân Việt Nam là mối quan hệ trong chức năng của quân đội với tư cách là một công cụ - công cụ bạo lực chủ yếu - của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội ta thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước là thực hiện chức năng nhiệm vụ của lực lượng chính trị tin cậy, của công cụ bạo lực chủ yếu của Nhà nước. Đây là vấn đề thuộc về nguyên tắc.


Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó còn thống nhất với nhau trong mục đích hướng tối, trong định hướng hoạt động của quân đội. Cả hai nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng đều nhằm mục đích giữ vững và củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước; tăng cường sức mạnh và hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm cho Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.


Nhiệm vụ bảo vệ và nhiệm vụ xây dựng Nhà nước quan hệ chặt chẽ với nhau, các nội dung bảo vệ và xây dựng xen lồng lẫn nhau; việc tách ra đâu là nhiệm vụ bảo vệ, đâu là nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước của quân đội ta là có tính chất tương đối.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 15 Tháng Chín, 2022, 02:01:43 pm
Trong bối cảnh lịch sử mới của đất nước, một yêu cầu rất cao là phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chống lại có hiệu quả chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và nền văn hóa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra hết sức nặng nề đối với quân đội ta.


Hơn lúc nào hết, quân đội phải thực hiện và góp phần tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giữ vững môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại. Quân đội ta còn phải tích cực góp phần xây dựng địa bàn, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, xây dựng "thế trận lòng dân", xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc; tham gia vận động, giúp đỡ quần chúng nhân dân thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của Nhà nước, của chính quyền địa phương, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở trên phạm vi cả nước cũng như trên từng địa bàn...


Những nội dung cụ thể trên vừa phản ánh nhiệm vụ bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ; vừa thể hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước, xây dựng chế độ của quân đội ta. Thực hiện các nhiệm vụ đó là quân đội góp phần hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống; góp phần nâng cao hiệu lực tổ chức xây dựng và quản lý của Nhà nước; góp phần làm cho Nhà nước trong sạch, vững mạnh.


Ba là, quân đội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.


Quân đội ta bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác là thực hiện nhiệm vụ mà "Đảng và Chính phủ giao cho quân đội"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.376). Điều đó có nghĩa là quá trình quân đội tham gia xây dựng Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; dưới sự điều tiết và quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân..."2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83). Đây là nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội, là quan điểm nhất quán của Đảng ta. Không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thì việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cũng như nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước của quân đội sẽ mất phương hướng, dẫn đến những hậu quả nguy hại.


Như vậy, quân đội tham gia xây dựng Nhà nước không phải là sự tham gia một cách tuỳ tiện, tuỳ hứng, không phải là làm thay chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân và của các ngành khác. Trái lại, sự tham gia của quân đội còn phải nhằm góp phần làm cho các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các cấp, các ngành thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là yêu cầu khách quan để quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ và tham gia xây dựng Nhà nước, xây dựng chế độ của mình với tư cách là lực lượng chính trị tin cậy, là công cụ bạo lực chủ yếu của Nhà nước. Sự quản lý của Nhà nước trong việc quân đội tham gia xây dựng chính Nhà nước biểu hiện ở chỗ: Nhà nước xác định nội dung, phạm vi, yêu cầu, phương pháp, hình thức tham gia và tạo những điều kiện cần thiết để quân đội thực hiện tốt chức năng, phát huy tốt vai trò của mình, tham gia có hiệu quả nhất vào quá trình xây dựng Nhà nước.


Gần 70 năm qua, sự lớn mạnh và trưởng thành của Nhà nước ta, sự vững chắc và phát triển của chế độ ta có đóng góp rất quan trọng của quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân giao cho. Truyền thống tốt đẹp đó đã và đang được tiếp tục phát huy trong điều kiện lịch sử mới. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng đòi hỏi quân đội phải phát huy hơn nữa truyền thống tốt đẹp đó, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:10:23 am
TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI


"Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.81). Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức như hiện nay, vai trò của trí thức càng trở nên quan trọng.


Đội ngũ trí thức quân đội là một bộ phận của đội ngũ trí thức nước nhà, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trí thức quân đội có sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, có đóng góp xứng đáng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước. Trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đội ngũ trí thức đã góp phần quan trọng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận, cung cấp cơ sở khoa học cho Đảng và Nhà nước trong xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tham gia tích cực, có hiệu quả vào việc nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng; tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.


Trong chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch luôn xác định tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là một "mũi đột phá", là nội dung trọng yếu. Chúng ra sức lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông hiện đại, tuyên truyền các quan điểm thù địch, sai trái, nhằm phá vỡ trận địa tư tưởng vô sản, thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng còn trực tiếp tiến công vào những người tích cực đấu tranh, hòng làm cho những người đấu tranh dao động về tư tưởng, mất nhuệ khí, không dám đấu tranh. Đòn tiến công này thật sự nguy hiểm và gây nhiều khó khăn cho chúng ta trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận.


Yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đòi hỏi đội ngũ trí thức quân đội, đặc biệt là trí thức khoa học xã hội và nhân văn phải tích cực và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phải thật sự là một lực lượng nòng cốt, tiên phong của quần đội trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận. Tính chất và vai trò nòng cốt, tiên phong của đội ngũ trí thức quân đội trong vấn đề này thể hiện ở chỗ: thứ nhất, họ là những người tham gia tổ chức và triển khai cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong quân đội; thứ hai, với cương vị công tác của mình, họ trực tiếp đấu tranh tư tưởng, lý luận trên bục giảng, trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, lý luận, trong giáo dục cán bộ, chiến sĩ, và đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng.


Vai trò nòng cốt, tiên phong đó là khách quan do đặc điểm nhiệm vụ và trình độ lý luận, trình độ tư tưởng của đội ngũ trí thức quy định. Vấn đề quan trọng đặt ra là, trên thực tế vai trò đó có phát huy tốt hay không; từng trí thức, đặc biệt là những trí thức khoa học xã hội và nhân văn có học vị, học hàm cao có ý thức rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của mình trong đấu tranh tư tưởng, lý luận hay không.


Thời gian qua, đội ngũ trí thức quân đội đã thể hiện rõ vai trò của mình trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, chống các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch. Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn của quân đội có khá nhiều bài đăng báo, tạp chí trong và ngoài quân đội đấu tranh kịp thời, sắc bén, vạch trần nhiều âm mưu, thủ đoạn của địch lợi dụng chống phá ta trên các vấn đề về hệ tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo..., gây "tiếng vang" nhất định trong quân đội và ngoài xã hội. Điều đó đã góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ quân đội vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả quan trọng thể hiện vai trò nòng cốt, tiên phong của đội ngũ trí thức quân đội trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.


Trong bối cảnh mới của sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch càng trở nên hết sức phức tạp và đặc biệt nhạy cảm.


Chúng ta phải chủ động tiến công, phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng. Phải "Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương và các ngành, các cấp"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.45).


Đó là yêu cầu, là một nhiệm vụ chủ yếu của trí thức quân đội trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay. Để đội ngũ trí thức quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy tốt vai trò của mình trong tình hình mới, trước hết cần thực hiện một số vấn đề sau:

Một là, nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ trí thức quân đội.

Phải có "một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.32), lời giáo huấn này của V.I.Lênin cần phải được nhận thức sâu sắc hơn trong tình hình mới. Chúng ta đã có "một lý luận tiền phong", nhưng điều quan trọng là cần phải nắm chắc, hiểu đúng, hiểu rõ thực chất những vấn đề cơ bản của lý luận ấy, đồng thời biết vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.


Trong thực tiễn, các quan điểm thù địch, sai trái được các thế lực thù địch tung ra có thể trắng trợn, cũng có thể được che giấu kín đáo, hoặc ngụy trang dưới những cái vỏ có vẻ "khoa học", "khách quan", làm cho chúng ta khó nhận biết thực chất và rất khó đấu tranh. Vì thế, bên cạnh việc vạch rõ thực chất phản động, phản cách mạng, tính chất hại dân, hại nước của các quan điểm thù địch, sai trái, cần phải làm rõ tính chất phản khoa học của các quan điểm ấy một cách có cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục. Điều đó chỉ có thể có được khi đội ngũ trí thức quân đội có được sự vững chắc về lý luận, có trình độ lý luận đủ tầm.


Hiện nay có một thực tẽ là, việc vận dụng lý luận vào đấu tranh tư tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn chưa được sắc bén, tính thuyết phục chưa cao. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải ý thức rõ ràng hơn đối với vấn đề nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ trí thức quân đội. Trình độ lý luận là "cốt vật chất" cho việc nâng cao năng lực đấu tranh. Không có trình độ lý luận thực sự vững chắc thì đội ngũ trí thức quân đội không thể hoàn thành được vai trò tiên phong, nòng cốt của mình. Sức thuyết phục, tính chiến đấu và giá trị của bài đấu tranh phụ thuộc quyết định trực tiếp vào người cầm bút, vào phẩm chất, năng lực của chính người trí thức quân đội, phụ thuộc vào trình độ lý luận của bản thân họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.273). Học tập lý luận là học tập theo lý luận chân chính ấy. Sự "chân chính" của lý luận vừa được thể hiện trong nội dung lý luận, vừa thể hiện trong phương pháp nghiên cứu, vận dụng lý luận, được phản ánh sâu sắc trong mục đích của lý luận là áp dụng vào thực tiễn cách mạng, thực tiễn cuộc sống, thực tiễn đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch.


Trong tình hình mới, Đảng ta chỉ rõ: "Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng viên có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.257). Đối với trí thức quân đội, yêu cầu về việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị đặt ra càng phải cao.


Để nâng cao trình độ lý luận của đội ngũ trí thức quân đội, vấn đề tự học tập, tự nâng cao trình độ lý luận phải là nhu cầu tự thân, là sự phấn đấu, rèn luyện thường xuyên của mỗi trí thức. Quân đội, các đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là các nhà trường và viện nghiên cứu của quân đội cần tạo điều kiện, có chính sách khuyên khích tinh thần tự học tập, tự nâng cao trình độ lý luận của đội ngũ trí thức; quán triệt tốt hơn quan điểm của Đảng: "Chú trọng phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia đối với các chuyên ngành nghiên cứu, giảng dạy lý luận"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.48-49) trong bồi dưỡng đội ngũ.


Phải kiên quyết khắc phục tình trạng "xem thường" lý luận, "dị ứng" với lý luận, chạy theo mục đích thực dụng trong hoạt động thực tiễn; đồng thời phải khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn, không bám chắc vào thực tiễn cách mạng sôi động của đất nước, thực tiễn thế giới trong hoạt động lý luận. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục căn bệnh lười học lý luận trong một số trí thức quân đội. Lười học lý luận, hoặc học lý luận một cách hình thức, mang tính chất "trang trí", "cốt có chứng chỉ" để thuận lợi cho con đường công danh, thì không thể trở thành trí thức quân đội thực sự có trí tuệ, thực sự có năng lực. Không thể vin cớ do "quá bận rộn", "quá nhiều việc" mà không chịu học tập, không tự bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như những vấn đề về tình hình thế giới, đất nước, nhiệm vụ cách mạng. Lười học lý luận là một biểu hiện suy thoái, và từ sự suy thoái này dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị không phải là không thể xảy ra. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bị xem nhẹ, "bị bỏ qua", thì sẽ tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện và phát triển trong xã hội những lý thuyết, những quan điểm cơ hội, thực dụng, phi mácxít.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:11:14 am
Hai là, tổ chức, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức quân đội đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Đấu tranh tư tưởng, lý luận là trách nhiệm của tất cả trí thức quân đội, đặc biệt là trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, mỗi người có chuyên ngành, chức trách, cương vị khác nhau nên cách thức thực hiện và tham gia đấu tranh có sự khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả, cần tổ chức lực lượng đấu tranh trực tiếp có tính chuyên trách gồm các nhà khoa học, các chuyên gia trên các lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn. Thông qua hoạt động có tổ chức này sẽ góp phần rất quan trọng nâng cao năng lực đấu tranh cho toàn bộ đội ngũ trí thức quân đội, trước hết là trí thức khoa học xã hội và nhân văn.


Bồi dưỡng cho trí thức quân đội những vấn đề lý luận, thực tiễn cần thiết, những vấn đề liên quan đến trình độ, năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận. Theo đó, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt quan điểm của Đảng: "Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr.46, 48); "Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân; những vấn đề đặt ra trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong thời kỳ mới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr.46, 48). Đồng thời, vận dụng phù hợp các kết quả nghiên cứu đó vào quá trình công tác và trực tiếp đấu tranh tư tưởng, lý luận của đội ngũ trí thức quân đội.


Cần tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức quân đội phát huy trí tuệ và sự sáng tạo trong nghiên cứu lý luận, trong hoạt động khoa học theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng: "Tạo môi trường dân chủ, loại trừ việc hạn chế tự do tư tưởng, tăng cường thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và các tập thể khoa học trong nghiên cứu lý luận"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr.49). Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: "Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những công hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.241-242). Không có "môi trường dân chủ", không "khuyến khích tìm tòi, sáng tạo", không thực sự "trọng dụng trí thức" thì chúng ta không thể có được những chuyên gia giỏi lý luận, không thể có được những "chuyên gia giỏi đấu tranh"; năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận của đội ngũ trí thức quân đội không thể cao.


Ba là, nâng cao trình độ, năng lực gắn với bồi dưỡng tinh thần và ý thức trách nhiệm cho đội ngũ trí thức quân đội trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Trong tình hình mới, đấu tranh tư tưởng, lý luận là vấn đề đặc biệt khó khăn và rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm đó vừa là do nội dung vấn đề có nhiều gai góc về lý luận và cả về thực tiễn, vừa chịu sự chi phối, quy định của không khí chính trị, quan hệ chính trị, sự có lợi hay không có lợi khi viết bài đấu tranh ở từng thời điểm cụ thể. Có thể cùng một nội dung, cùng một bài viết, cùng một cách thể hiện thì thích ứng với thời điểm này, nhưng có thể lại không phù hợp, không có lợi ở thời điểm khác.


Những khó khăn đó đòi hỏi đội ngũ trí thức quân đội vừa phải có trình độ đấu tranh vừa phải có bản lĩnh và dũng khí đấu tranh. Năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận của đội ngũ trí thức quân đội, do đó, phải gắn chặt chẽ với phẩm chất chính trị, với tinh thần, ý thức trách nhiệm và dũng khí đấu tranh của bản thân họ.


Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp đổi mới đất nước mà nhân dân ta đang phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng; niềm tin vào lẽ phải, vào chính nghĩa, vào tiền đồ tương lai tốt đẹp của dân tộc, sức mạnh của đất nước, vào đường loi, quan điểm của Đảng; tinh thần phấn đấu một lòng một dạ vì nước, vì dân, vì sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc... là phẩm chất chính trị cơ bản cần có của trí thức quân đội trong cuộc đấu tranh quyết liệt này. Nắm rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch thể hiện ở những quan điểm thù địch, sai trái, hiểu thực chất những quan điểm ấy, vững vàng về lý luận, có đủ trình độ và biết đấu tranh... là những yêu cầu cơ bản về năng lực đấu tranh của họ.


Trong cuộc đấu tranh này, đội ngũ trí thức quân đội, đặc biệt là những trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội cần phải có lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm cao và dũng khí đấu tranh. Đó là vấn đề rất quan trọng và tối cần thiết. Song, điều quan trọng nữa là phải có trình độ, năng lực đấu tranh, phải biết đấu tranh, biết bác bỏ, làm "phá sản" âm mưu, thủ đoạn của những kẻ tung ra các quan điểm thù địch, sai trái. Làm được điều đó, đội ngũ trí thức quân đội còn góp phần quan trọng củng cố niềm tin, nâng cao tinh thần cảnh giác, tình yêu quê hương đất nước, yêu chế độ của cán bộ, chiến sĩ quân đội, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận chung của Đảng.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:12:36 am
PHẦN THỨ BA
CHIẾN TRANH NGÀY NAY PHẢI CHĂNG LÀ
"SỰ ĐỤNG ĐỘ GIỮA CÁC NỀN VĂN MINH"


BÀN VỀ MỤC ĐÍCH CHÍNH TRỊ CỦA CHIẾN TRANH


Thế kỷ mới đã bước vào được hơn một thập kỷ. Nhiều vấn đề mới và cấp bách đang đặt ra trước loài người, đòi hỏi phải có sự lý giải thỏa đáng. Việc làm rõ mục đích chính trị của các cuộc chiến tranh đã và đang được nhiều học giả bàn luận. Những cuộc chiến tranh đã qua trong lịch sử, đặc biệt là các cuộc chiến tranh diễn ra vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XI là những "chất liệu" thực tế cho phép chúng ta dựa vào đó có thể chỉ ra bản chất thực sự của các cuộc chiến tranh ở thế kỷ XXI.


Trong lịch sử chiến tranh nhân loại, những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới nhất của thời đại đều được sử dụng vào lĩnh vực quân sự, vào việc chẽ tạo vũ khí, trang bị, khí tài phục vụ cho chiến tranh. Ngày nay, những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin được khai thác triệt để vào việc hiện đại hóa vũ khí, trang bị, tăng lên một cách nhảy vọt hàm lượng kỹ thuật, công nghệ của các phương tiện chiến tranh. Người ta ngày càng nói nhiều đến chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh thông tin, chiến tranh điện tử, điều khiển, chiến tranh kỹ thuật số... với tư cách là những mũi nhọn đặc trưng của các cuộc chiến tranh trong tương lai.


Sự phát triển vũ khí, trang bị tất yếu dẫn đến sự thay đổi về phương thức tiến hành chiến tranh, nghệ thuật tác chiến, cách đánh và cả sự biến đổi về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Đội hình chiến đấu hình khối chỉ thích hợp thời vũ khí gươm đao, cung tên, đội hình này tỏ ra bất lợi và nhanh chóng bị tan rã khi có máy bay, đại bác. Lực lượng đông đảo về quân số sẽ ngày càng không còn là ưu thế trong điều kiện của chiến tranh công nghệ cao. Cảnh tàn sát, tiêu diệt sinh lực lẫn nhau giữa các bên tham chiến sẽ nhường chỗ cho sự đối kháng thông tin, làm suy sụp ý chí đối phương trong các cuộc chiến tranh hiện đại.


Tất cả những thay đổi ấy dù diễn ra hết sức sâu sắc, mà hiện nay chúng ta chưa có thể tiên lượng và phân tích hết được, cũng không có nghĩa là dẫn đến sự thay đổi về nguồn gốc, bản chất, tính chất của chiến tranh. Luận điểm chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực vẫn giữ nguyên giá trị. Vũ khí công nghệ cao dù có hiện đại như thế nào chăng nữa nhưng chúng vẫn chỉ là phương tiện, công cụ để tiến hành chiến tranh, chứ không phải là xóa đi mục đích chính trị của chiến tranh.


Tuy nhiên, những thay đổi có tính chất cách mạng về vũ khí, trang bị và cách đánh, phương thức tiến hành chiến tranh, cùng với những thủ đoạn mới tiến hành chiến tranh của kẻ gây chiến là hết sức tinh vi và xảo quyệt, làm cho có người lầm tưởng rằng những vấn đề cơ bản của chiến tranh như nguồn gốc, mục đích, tính chất của chiến tranh đã có sự thay đổi căn bản, chiến tranh hiện đại mất đi bản chất chính trị của nó mà chỉ còn là sự đọ sức về khoa học, công nghệ! Vì thế, việc nhận thức đâu là mục đích chính trị thực sự của chiến tranh trở nên không đơn giản chút nào.


Hiện nay, không phải không có người còn nhận thức sai lầm rằng dường như luận điểm chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực không còn giá trị, đã mất đi ý nghĩa thực tiễn của nó!? Hậu quả tất yếu của sự nhận thức sai lầm ấy sẽ dẫn đến thái độ không đúng đối với chiến tranh. Kẻ phát động chiến tranh, gây ra chiến tranh thì có thể được xem là "người đi cứu nhân dân", là "hợp pháp", "chính nghĩa"; còn các quốc gia dân tộc bị tiến công lại bị quy cho là nguyên nhân chủ yếu sinh ra chiến tranh.


Đây là vấn đề đặc biệt nguy hiểm. Sự lẫn lộn trong xem xét tính chất, đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa của chiến tranh không những bị chi phối bởi lập trường giai cấp, mà còn là hệ quả trực tiếp của việc nhận thức mơ hồ mục đích chính trị của chiến tranh, của việc "tước đi" bản chất thực sự của chiến tranh. Điều này càng trở nên trầm trọng khi kẻ gây chiến tranh lại có một lực lượng "đồng minh" đông đảo đa quốc gia và núp dưới danh nghĩa tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh: Liên hợp quốc. Vì thế, vấn đề đặt ra là cần phải khẳng định bản chất thực sự của chiến tranh, làm rõ mục đích chính trị cụ thể mà chiến tranh kế tục là gì, có điều gì mới.


Về mặt lý luận, V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh và vạch rõ bản chất, mục đích chính trị của chiến tranh. Người viết: "Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu đến cuối, chỉ là sự tiếp tục thực hiện cùng những mục đích do cũng các giai cấp đó theo đuổi với những phương pháp khác mà thôi"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.32, tr.356, 102), "Chiến tranh là sự phản ánh của chính sách đối nội mà nước đó đã thi hành trước đây"2 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.361). Nghiên cứu về bản chất Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I.Lênin viết: "Chính toàn bộ đường lối chính trị của toàn bộ hệ thống các quốc gia ở châu Âu, trong những mối quan hệ kinh tế và chính trị của các quốc gia đó, mới là cái cần phải xem xét để hiểu được rằng điều tất nhiên, không thể tránh được là hệ thống ấy đã gây ra cuộc chiến tranh hiện nay"3 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.32, tr.356, 102).


Luận điểm lêninnít về chiến tranh vẫn là cơ sở phương pháp luận khoa học cho phép chúng ta lý giải bản chất, mục đích chính trị của các cuộc chiến tranh hiện đại.

Muốn xác định mục đích chính trị cụ thể của chiến tranh cần phải xem xét đường lối chính trị của các bên tham chiến: kẻ phát động chiến tranh và người chống lại cuộc chiến tranh đó. Cuộc chiến tranh do phương Tây phát động chống Nam Tư năm 1999, chống Ápganixtan năm 2002, chống Irắc năm 2003 là những ví dụ sinh động cho thây mục đích chính trị thực sự của Mỹ và NATO khi tiến hành chiến tranh chõng các quốc gia độc lập có chủ quyền. Điều đó được biểu hiện trên hai vấn đề chủ yếu: mục đích chiến lược cơ bản và mục đích chính trị cụ thể, trực tiếp.


Mục đích chiến lược cơ bản của Mỹ là đứng ra làm vai trò điều khiển, thao túng tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, kiến tạo trật tự thế giới mới đơn cực cho Mỹ chi phối, xác lập "giá trị" của Mỹ trên toàn hành tinh; đối với NATO, đó là việc mở rộng, bành trướng về phía Đông, tiến tới nhất thể hóa châu Âu. Mục đích chiến lược cơ bản ấy được thực hiện thông qua nhiều biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại... và đặc biệt là sử dụng vũ lực. o nơi nào dùng những biện pháp phi quân sự không đạt được mục đích thì Mỹ lại sử dụng vũ lực. Vậy là, việc phát động chiến tranh chống một quốc gia dân tộc nào đó, ở nơi nào đó là biện pháp "cần thiết" để thực hiện những nhiệm vụ của mục tiêu chiến lược. Rõ ràng, tham vọng trở thành bá chủ thế giới là chính trị mà các cuộc chiến tranh do Mỹ phát động kế tục.


Mục đích chiến lược cơ bản ấy quy định mục đích chính trị cụ thể, trực tiếp của từng cuộc chiến tranh. Mục đích chính trị cụ thể của từng cuộc chiến tranh vừa là sự biểu hiện mục đích chiến lược cơ bản trong từng trường hợp cụ thể vừa phản ánh tính đặc thù, riêng biệt của mục đích chính trị trong từng cuộc chiến tranh.


Mục đích chính trị cụ thể của các cuộc chiến tranh có nhiều nét mới. Đối với bên tiến công, đó là "cưỡng bức ý chí" đối phương, đập tan ý chí, buộc đối phương phải phục tùng ý chí, chấp nhận điều kiện của mình. Đây là vấn đề cơ bản của chiến tranh chứ không phải là tiêu diệt sinh lực đối phương. Vấn đề tiêu diệt sinh lực và chiếm đóng hoàn toàn lãnh thổ nước đối phương không đặt ra trực tiếp, ở cuộc chiến Kôsôvô, mục đích cụ thể của Mỹ và NATO tuyên truyền công khai là đè bẹp ý chí phản kháng của nhân dân Nam Tư, buộc Chính phủ Nam Tư chấp nhận điều kiện do Mỹ đưa ra, đòi hạ bệ tổng thống, thực chất là đòi thay đổi thể chế chính trị, biến Nam Tư thành nước nằm trong quỹ đạo của Mỹ.


Như vậy là, cho dù mục đích cụ thể của từng cuộc chiến tranh có khác nhau đi nữa, nhưng đều là sự tiếp tục đường lối chính trị đối nội, đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Vì thế, phương pháp luận khi xem xét nguồn gốc, bản chất, tính chất của các cuộc chiến tranh hiện đại vẫn là phải xem xét bản chất giai cấp và đường lối chính trị của quốc gia tiến hành chiến tranh, phải "nghiên cứu chính trị được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến chiến tranh" như V.I.Lênin đã từng dạy.


Nếu mục đích chính trị của kẻ phát động chiến tranh là "áp đặt ý chí" của mình cho đối phương, thì việc chống lại sự "áp đặt ý chí" ấy là mục đích chính trị trực tiếp của các quốc gia dân tộc bị tấn công nhằm chống lại kẻ thù, bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình. Đó là cuộc chiến tranh để khẳng định và bảo vệ "quyền dân tộc tự quyết" - như V.I.Lênin nói - của các quốc gia dân tộc chống chủ nghĩa cường quyền mới của chủ nghĩa đế quốc.


Nhiều học giả dự đoán rằng, trong tương lai nếu một cuộc chiến tranh nổ ra giữa hai nước thì sẽ có thể dẫn đến sự can thiệp của cả cộng đồng quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống truyền thông và các phương tiện thông tin hiện đại, và với những lợi ích đan xen, ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc, cuộc chiến tranh xảy ra giữa hai nước trong một thời gian rất ngắn sẽ tập trung sự chú ý của cộng đồng thế giới. Do quan điểm, lập trường và lợi ích khác nhau sẽ hình thành một sự "tập hợp lực lượng" của các bên tham chiến. Điều đó càng làm cho cuộc chiến tranh không chỉ có tính chất nội bộ của riêng hai nước, mà có thể xuất hiện các liên minh quốc gia chống lại nhau. Mục đích chính trị của cuộc chiến tranh vẫn lấy mục đích chính trị của "quốc gia chủ thể" làm trục xoay.


Cuộc chiến tranh hiện đại trong tương lai không chỉ là sự phản ánh chính trị cụ thể của các bên tham chiến, mà còn thể hiện những mâu thuẫn của thời đại, cuộc đãu tranh của các lực lượng chính trị đối lập nhau mang tính toàn cầu.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:13:44 am
CHIẾN TRANH NGÀY NAY PHẢI CHĂNG LÀ
"SỰ ĐỤNG ĐỘ GIỮA CÁC NỀN VĂN MINH"


"Sự đụng độ giữa các nền văn minh" là một luận thuyết của S.Huntington được sinh ra sau thời kỳ Chiến tranh lạnh, nhằm tạo cơ sở lý luận cho chính sách bành trướng và xác lập "giá trị" phương Tây, "giá trị" Mỹ trên phần còn lại của quả đất. Trong luận thuyết của mình, S.Huntington cho rằng, "nguồn gốc cơ bản của mọi xung đột trên thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa"1 (S.Huntington: Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003, tr.20, 14); rằng "cuộc chiến tranh thế giới tới đây, nếu nó xảy ra, sẽ là cuộc chiến tranh qua các nền văn minh"; rằng văn hóa đã thay thế "bức màn sắt hệ tư tưởng"2 (S.Huntington: Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003, tr.20, 14), v.v...


Bằng lập luận đó, S.Huntington đã xóa bỏ vấn đề tư tưởng, kinh tế và giai cấp trong các xung đột của thế giới đương đại; đã tước bỏ bản chất thực sự của chiến tranh, thay vào đó là sự đụng độ về văn minh, văn hóa; chưa nói đến hậu quả tệ hại của luận thuyết này là làm cho loài người phải chờ đợi và chuẩn bị một cuộc chiến tranh trong tương lai, chiến tranh "giữa các nền văn minh". Có thật là các mối quan hệ trong thời đại ngày nay không còn mang dấu ấn giai cấp? Có thật là chiễn tranh ngày nay đã mất đi bản chất chính trị - giai cấp của nó? Câu trả lời ở đây rõ ràng là không phải như vậy.


Trước hết, cần khẳng định rằng bản thân lập luận của S.Huntington cũng không phải là một lập luận không có tính giai cấp; trái lại nó mang đậm bản chất giai cấp, là lập luận của một đại biểu tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc trong thời đại mới. Thử hỏi, sự đụng độ giữa các nền văn minh, đó là sự đụng độ giữa các nền văn minh nào? Phải chăng, theo S.Huntington, đó là sự đụng độ giữa văn minh phương Tây, thực chất là văn minh Mỹ với các nền văn minh "phi phương Tây", "phi Mỹ" trên thế giới? Đúng như vậy! Như thế rõ ràng là, cái văn minh, văn hóa mà S.Huntington đưa ra không phải thuần tuý chỉ là văn minh, văn hóa, mà là rất đậm đặc tư tưởng, lập trường của giai cấp mà ông ta đại biểu. S.Huntington đã đặt những nền văn minh "phi phương Tây", đặc biệt là các nền văn minh Hồi giáo, Nho giáo vào vị trí đối lập với văn minh phương Tây, coi các nền văn minh này là những "mối đe dọa chủ yếu", những "thách thức" các "giá trị" phương Tây, thậm chí những người sau còn liệt vào là "những nguy cơ khủng bố".


Như vậy là, chiến tranh, dù là theo cách diễn đạt của S.Huntington, cũng không phải là sự đụng độ giữa các nền văn minh, phi ý thức hệ, phi chính trị; mà là chiến tranh do chủ nghĩa đế quốc tiến hành chống các quốc gia độc lập có chủ quyền, là chiến tranh của nhân dân các nước đó chống chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ nền độc lập và sự sống của mình. Chẳng cần phải bàn luận nhiều, thực tế những cuộc chiến tranh của Mỹ và Đồng minh chống Nam Tư năm 1999, chống Ápganixtan năm 2002, chống Irắc năm 2003 đã chứng minh rõ điều đó. Nếu có gọi là "sự đụng độ", "sự va chạm" giữa các nền văn minh thì không phải do những khác biệt giữa các nền văn minh tạo ra, mà là do tham vọng chính trị và lợi ích vị kỷ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến.


Thứ hai, luận thuyết của S.Huntington đã cố gắng phủ nhận bản chất giai cấp, mục đích chính trị của chiến tranh, lại như được những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ làm cho nó có vẻ có sức thuyết phục hơn! Điều đó dẫn đến những hậu quả tai hại, mà dường như chúng ta cũng đã thấy được qua các cuộc chiến tranh gần đây. Đã có những nhận thức sai lầm rằng dường như luận điểm lêninnít "chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực" không còn giá trị nữa, nó đã mất đi ý nghĩa thực tiễn!? Nhận thức sai lầm ấy tất yếu dẫn đến thái độ không đúng đối với chiến tranh, dẫn đến sự lẫn lộn trong xem xét bản chất, tính chất của chiến tranh.


Cần khẳng định rằng, luận điểm lêninnít: chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Cái chính trị mà chiến tranh kế tục ấy không phải là cái gì đó gọi là "văn minh" phi giai cấp, phi ý thức hệ như S.Huntington nói; mà là chính trị của một giai cấp nhất định, của một nhà nước, một quốc gia nhất định.


Cũng không thể cho rằng, với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho chiến tranh chỉ là sự đọ sức về khoa học và công nghệ giữa các bên tham chiến. Sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt trên lĩnh vực quân sự, dù có diễn ra hết sức sâu sắc, mà hiện nay chúng ta chưa có thể tiên lượng và phân tích hết được những tác động của nó đến chiến tranh tương lai, cũng không có nghĩa là dẫn đến sự thay đổi về nguồn gốc, bản chất, tính chất của chiến tranh.


Dù cho chiến tranh hiện đại, hình thức, nghệ thuật, phương thức, cách đánh có thể có nhiều thay đổi nhưng sử dụng sức mạnh quân sự để khuất phục ý chí đối phương vẫn là mục đích của kẻ phát động chiến tranh. Vũ khí công nghệ cao mà các cuộc chiến tranh sử dụng dù có hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng chúng vẫn chỉ là phương tiện, công cụ để tiến hành chiến tranh.


Thứ ba, cần phải khẳng định bản chất thực sự của chiến tranh; đồng thời làm rõ mục đích chính trị cụ thể mà chiến tranh hiện nay kế tục là gì, có điều gì mới. Ở đây, luận điểm lêninnít về chiến tranh vẫn là cơ sở phương pháp luận khoa học cho phép lý giải bản chất chính trị của các cuộc chiến tranh trên thế giới hiện nay. Muốn xác định mục đích chính trị cụ thể của chiẽn tranh cần phải xem xét đường lối chính trị của các bên tham chiến: kẻ phát động chiến tranh và người chống lại cuộc chiến tranh đó.


Những năm cuối cùng của thê kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, loài người đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh do Mỹ và phương Tây phát động chống các quốc gia độc lập có chủ quyền, với việc sử dụng vũ khí công nghệ cao và nghệ thuật, phương thức tiến hành chiến tranh mới, thủ đoạn phát động chiến tranh, cách đánh mới. Sự phát triển mới đó thực chất là chỉ nhằm đạt được mục đích chính trị cơ bản của kẻ phát động chiến tranh.


Mục đích chiến lược cơ bản của Mỹ là đứng ra làm vai trò sen đầm quốc tế, điều khiển, thao túng tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, kiến tạo trật tự thế giới mới đơn cực do Mỹ chi phổi, xác lập "giá trị" Mỹ, mà theo cách diễn đạt của S.Huntington thì đó là "văn minh phương Tây", "văn hóa Mỹ" trên toàn hành tinh. Mục đích chiến lược cơ bản ấy được thực hiện thông qua nhiều biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại... và đặc biệt là sử dụng vũ lực. Tham vọng trở thành bá chủ thế giới là nguyên nhân chủ yếu gây ra chiến tranh và là chính trị mà các cuộc chiến tranh do các thế lực đế quốc, hiếu chiến phát động kế tục, chứ không phải là sự đụng độ giữa các nền văn minh nào cả.


Mục đích chiến lược cơ bản ấy quy định mục đích chính trị cụ thể, trực tiếp của từng cuộc chiến tranh. Mục đích chính trị cụ thể của từng cuộc chiến tranh vừa là sự biểu hiện mục đích chiến lược cơ bản trong từng trường hợp cụ thể, vừa phản ánh tính đặc thù, riêng biệt của mục đích chính trị trong từng cuộc chiến tranh. Trong chiến tranh chống Irắc, mục đích cụ thể của Mỹ cũng là nhằm làm cho nước này thành quốc gia phát triển theo những "giá trị" Mỹ. Như vậy là, cho dù mục đích cụ thể của từng cuộc chiến tranh chống các quốc gia độc lập có chủ quyền có khác nhau, nhưng đều là sự tiếp tục đường lối chính trị đổi nội, đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đều nhằm xác lập "giá trị" phương Tây, "giá trị" Mỹ lên các quốc gia dân tộc khác; và đều là sự thể hiện chủ nghĩa cường quyền mới của các thế lực đế quốc, hiếu chiến trong thời đại ngày nay.


Xem xét nguồn gốc, bản chất, tính chất của chiến tranh trong thời đại ngay nay vẫn là phải xem xét bản chất giai cấp và đường lối chính trị của quốc gia tiến hành chiến tranh, phải "nghiên cứu chính trị được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến chiến tranh" như Lênin đã từng dạy. Đó là phương pháp luận khoa học và chính xác. Theo đó, nếu mục đích chính trị của kẻ phát động chiến tranh là "áp đặt ý chí" của mình cho đối phương, thì việc chống lại sự "áp đặt ý chí" ấy là mục đích chính trị trực tiếp của các quốc gia dân tộc bị tấn công nhằm chống lại kẻ thù, bảo vệ độc lập chủ quyền của mình. Đó là cuộc chiến tranh nhằm khẳng định và bảo vệ "quyền dân tộc tự quyết" - như Lênin nói - của các quốc gia dân tộc chống chủ nghĩa cường quyền mới của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến.


Chiến tranh trong thời đại ngày nay rõ ràng không chỉ là sự phản ánh chính trị cụ thể của các bên tham chiến, mà còn thể hiện những mâu thuẫn của thời đại; là sự thể hiện bản chất và tham vọng của chủ nghĩa đế quốc và thế lực hiếu chiến; là cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị đối lập nhau mang tính toàn cầu, chứ tuyệt nhiên không phải là "sự đụng độ giữa các nền văn minh", hay "chiến tranh qua các nền văn minh", "phi ý thức hệ" như luận thuyết của S.Huntington.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:15:00 am
CẦN TÔN TRỌNG LỊCH SỬ


Dân tộc Việt Nam đang vững bước đi lên trong thế kỷ XXI với một tư thế mới, tư thế của những người làm chủ và biết làm chủ vận mệnh của mình. Với những định hướng lớn mà Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra, nhân dân Việt Nam vững vàng, tự tin hướng tới tương lai. Hơn tám thập kỷ qua, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng ta giương cao đã đem lại cho dân tộc ta tư thế ấy.


Uy tín, vị thế đất nước và mối quan hệ bầu bạn của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, kể cả với Mỹ như ngày hôm nay được tạo dựng là bởi những thắng lợi vĩ đại và huy hoàng của một dân tộc tiêu biểu cho lương tri nhân loại trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm, thống nhất đất nước; đồng thời được tạo dựng bởi những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đáng tự hào của công cuộc xây dựng và chấn hưng đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Điều đó là đã quá rõ ràng. Thế nhưng vẫn có một số người bày tỏ các quan điểm lệch lạc, sai trái, họ đổ lỗi cho chúng ta, nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc, thực dân, đã gây ra "mấy chục năm binh đao, khói lửa", gây nên những cảnh chết chóc đau thương (!). Có người còn đưa ra những đánh giá hết sức sai lệch về chiến tranh Việt Nam, rằng quyết định rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam là một sai lầm bởi "cuộc triệt thoái của Mỹ đó được trả bằng cái giá sinh mạng của nhiều triệu người vô tội" với những "đau đớn" như "nạn thuyền nhân" và "trại cải tạo"; rằng "sự kinh hoàng sau chiến tranh ở Việt Nam có thể sánh với "cánh đồng chết" ở Campuchia" dưới bàn tay diệt chủng tàn bạo của Khơme Đỏ.


Những đánh giá trên đã gây nên sự phản ứng mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế, trong đó có nhiều chính khách và các nhà sử học Mỹ, cũng như của nhân dân Việt Nam.

Thực tế lịch sử đã khẳng định, việc rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam là việc làm bắt buộc và tất yếu do sự thất bại của Mỹ trong chính sách đưa quân xâm lược Việt Nam, chứ không phải là một "sai lầm lịch sử" mà từ đó dẫn đến những "đau đớn" cho nhiều triệu người. Bởi vì, "Từ tháng 11-1968, quân đội Mỹ còn nguyên vẹn về thể xác nhưng tinh thần dao động hết rồi"1 (Maicơn Máclia: Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.172), như một tác giả người Mỹ đã nhận xét. Cái "sai lầm lịch sử" ở đây, nếu có thể nói, thì chính là dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam, về điều này, nhiều quan chức và học giả Mỹ đã thừa nhận.


Trên tờ The Independent của Anh ngày 24-8-2007, nhà báo tư sản nổi tiếng Rubert Conwell cũng đã phải lên tiếng phản bác lại cách nhìn nhận sai lệch đó "Hôm nay cách nhìn nhận đó đã sụp đổ"1 (Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 30-8-2007, tr.3). Rubert Conwell khẳng định: "Trên thực tế, không thể đổ lỗi những thảm kịch này cho việc rút quân vội vàng. Quá trình quân Mỹ rút khỏi Việt Nam là một quá trình lâu dài, có trình tự bắt đầu từ năm 1968 và diễn ra trong sáu năm. Đối với vấn đề Pôn Pốt, các nhà sử học đều nhất trí rằng nếu không có chiến tranh ở Việt Nam và những phá hủy do bom Mỹ và âm mưu của CIA trên đất Campuchia, thì chắc chắn hầu như không có thảm kịch đó"2 (Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 30-8-2007, tr.3).


Sự phản bác của nhà báo Rubert Conwell nêu trên đã cho thấy phần nào sự thật, những thảm họa đối với "nhiều triệu người vô tội", "nạn thuyền nhân" và "trại cải tạo", "sự kinh hoàng" như "cánh đồng chết" ở Campuchia là do ai gây nên rồi, chẳng cần phải luận chứng nhiều hơn nữa ở đây.


Hãy tôn trọng sự thật lịch sử như đúng nó vốn có, hãy nhìn nhận lịch sử với con mắt khách quan.

Không thể phủ nhận, coi thường những hy sinh, mất mát to lớn của nhiều thế hệ người Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta ở thế kỷ XX. Làm sao mà một dân tộc quyết đứng lên bảo vệ cuộc sống và độc lập, tự do của mình lại bị coi là kẻ gây ra chiến tranh, gây ra chết chóc đau thương!


Bất kỳ người nào có cái nhìn khách quan, đều thấy rằng, kẻ gây ra mấy chục năm "binh đao, khói lửa" đối với dân tộc Việt Nam không ai khác chính là thực dân, đế quốc. Trải qua suốt mấy chục năm "binh đao, khói lửa" ấy, nhân dân Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nên kỳ tích, khiến cả thế giới kính phục và gọi Việt Nam là "lương tri của thời đại". Nhân dân Việt Nam với ý chí "không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã đứng lên chiến đấu chấp nhận gian khổ hy sinh để bảo vệ quyền được sống trong tự do và độc lập.


Nhà báo người Anh Thomas Fowler đã có nhận xét, bình luận chí lý rằng, nguyện vọng thật sự của người Việt Nam không phải là muốn chiến tranh, mà "Họ muốn có đủ cơm ăn, họ không muốn bị bắn giết. Họ không muốn những người da trắng bảo cho họ biết họ muốn gì"1 (Thông tấn xã Việt Nam: Tlđd, tr.5). Sự anh dũng chiến đấu hy sinh chống xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc và cuộc sống của mình đã làm cho nhân dân Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở thế kỷ XX.


Thắng lợi của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược ở thế kỷ XX là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Chính thắng lợi này mới tạo cơ sở cho quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cho quan hệ Việt - Mỹ phát triển ngày càng tốt đẹp như hiện nay. Chính Ngoại trưởng Mỹ H.Clintơn đã "thực sự phấn khích" khi được trở lại Việt Nam: "Tôi tự hào được quan sát những bước tiến ngoạn mục của quan hệ song phương 15 năm qua, kể từ khi chồng tôi, Tổng thống Bin Clintơn thực hiện bình thường hóa quan hệ với Việt Nam"; đồng thời đã chuyển thông điệp của Tổng thống Mỹ B.Ôbama với mong muốn: "Tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia lên mức cao hơn". Ngoại trưởng Mỹ còn cho biết "sự năng động, tiến bộ của Việt Nam ngày nay so với niềm vui của chúng tôi cách đầy 10 năm thì hôm nay còn nhiều hơn"1 (Báo Quân đội nhân dân, ngày 2-8-2010, tr.8 ).


Một dân tộc còn đầy rẫy trên mình các vết thương chiến tranh bước vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tự hào về trang sử hào hùng oanh liệt của mình, nhưng chúng ta gác lại quá khứ để hướng tới tương lai, mở rộng vòng tay với bạn bè thế giới, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ. Chúng ta khẳng định, Việt Nam "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83-84).


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:17:35 am
CHÍNH TRỊ - TINH THẦN CỦA QUÂN DÂN TA
TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ - HAI GÓC NHÌN


1. Về chính trị - tinh thần của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự so sánh rất chính xác, khi Người nhấn mạnh: "Về tinh thần và chính trị thì ta mạnh hơn địch gấp trăm gấp ngàn lần"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 77). Người còn khẳng định, không một quân đội nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của cả một dân tộc. Sự mạnh hơn "gấp trăm gấp ngàn lần" ấy là nhân tố chủ yếu làm nên chiến thắng của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, kẻ thù không thể nào "đánh ngã" được. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định: "Thực dân Pháp sở dĩ thất bại, vì chúng là phe tà, là bọn cướp nước... Việt Nam sở dĩ thắng lợi là vì quân và dân ta đoàn kết nhất trí, kháng chiến anh dũng, vì chính nghĩa ở về phía ta"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 1.12, tr 238).


Trong tác phẩm Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Đại tưóng Võ Nguyên Giáp có sự phân tích rất sâu sắc cái làm nên sức mạnh to lớn của quân đội ta: "Chiến tranh ở Việt Nam không chỉ là sự đọ sức giữa hai quân đội; ở đây bọn thực dân xâm lược phải đánh nhau với cả một dân tộc; cả dân tộc Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam đang đứng dậy chống lại chúng. Chính vì thực dân không nhận thấy sự thật sâu sắc đó, cho nên chúng đã tưởng chừng dễ dàng giành được thắng lợi mà chung quy lại đi đến thất bại"1 (Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 100-101). Đại tướng nhấn mạnh mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân dân ta là "vì độc lập cho Tổ quốc, vì ruộng đất cho dân cày, để mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội"2 (Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr.140).


Chính trị - tinh thần của quân dân ta, những người trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên các chiến trường và ở hậu phương, là sự biểu hiện tập trung chính trị - tinh thần của cả nước, sự đoàn kết của toàn dân tộc, là sức mạnh của đất nước, của chế độ, của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội... được quy tụ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sức mạnh cơ bản ấy không phải là sức mạnh của một đội quân nhà nghề, không phải chủ yếu nằm ở vũ khí trang bị, mà là ở chính trị - tinh thần, ở ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc.


Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta là nhân tố chiếm ưu thế tuyệt đối so với quân xâm lược Pháp.

Ưu thế tuyệt đối về chính trị - tinh thần của quân dân ta biểu hiện tập trung trên những vấn đề chính: một là, ưu thế của những con người chiến đấu vì mục tiêu chính nghĩa so với những tên lính xâm lược, phi nghĩa, bọn thực dân đế quốc; hai là, ưu thế của tinh thần quyết tâm chiến đấu cao của những con người đầy khát vọng giải phóng, chống xâm lược so với quyết tâm chiến đấu của những tên lính đánh thuê; ba là, ưu thế của sức mạnh tổng hợp đang trên đà chiến thắng, hội tụ vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc so với sự cố gắng cao nhất của bọn xâm lược nhằm cứu vãn tình thế thất bại không tránh khỏi.


Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ưu thế chính trị - tinh thần của quân dân ta đã được phát huy cao độ, góp phần quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp giành chiến thắng. Từ một nhân tố chiếm ưu thế tuyệt đối, thế và lực của quân dân ta không ngừng lớn mạnh và phát triển, trở thành ưu thế toàn diện áp đảo đối phương, làm cho cứ điểm "vững chắc", "pháo đài khổng lồ không thể công phá" Điện Biên Phủ trở thành nơi chôn vùi quân xâm lược. Đây là một quy luật vận động và phát triển của nhân tố chính trị - tinh thần quân dân ta trong chiến tranh, nhất là trong các chiến dịch lớn, trong các trận quyết chiến chiến lược.

Đó là góc nhìn thứ nhất, góc nhìn của những người làm nên chiến thắng.


2. Những người bên kia chiến tuyến, trong chiến tranh và cả sau này, cũng đã có nhận thức khá rõ về sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tướng Pháp Hăngri Nava phải xót xa thừa nhận: "Về mặt chính trị... sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm ở trong tinh thần dân tộc và cả xã hội... Suốt bảy năm nay (1946 - 1953), đối phương chỉ có một lãnh tụ chính trị duy nhất là Hồ Chí Minh và Tổng chỉ huy quân sự duy nhất là Võ Nguyên Giáp"1 (Lê Kim: Tướng Hăngri Nava với Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.17, 20); "kẻ thù (quân dân ta - TG) rất thống nhất về chính trị, năng động và quyết tâm đạt đến mục tiêu bằng mọi cách"2 (Lê Kim: Tướng Hăngri Nava với Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.17, 20).


Tướng Nava phân tích khá kỹ: "ở Việt Minh, không có những chủ trương chính trị và những chủ trương quân sự riêng rẽ mà là những chủ trương chính trị, quân sự thống nhất. Những chủ trương đó được quyết định bởi một Ủy ban Trung ương mà người tổng chỉ huy đồng thời là bộ trưởng quốc phòng là một ủy viên. Kế hoạch quân sự được đặt trong một tổng thể mà tất cả mọi việc đều hướng vào nhiệm vụ bảo đảm cho sự thành công"3 (Hăngri Nava: Thời điểm của sự thật, Nxb. Plông, Pari, 1979, tr.285. 229).


Tướng Pháp Xalăng cũng phải thừa nhận về sức mạnh chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, khi cho rằng: "Một nhân tố quan trọng cực kỳ, đó là quân đội của họ (quân đội ta - TG), một quân đội... rất kỷ luật và can trường, sẵn sàng phục vụ đường lối chính trị của Chính phủ, là "đối thủ đáng kính trọng"..., là cái bảo đảm cho cả một Đông Dương đỏ"1 (Điện Biên Phủ nhìn từ phía bên kia, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.175-176, 174).


Báo Rivaron, số ra ngày 8-7-1954, cũng xác nhận sức mạnh tinh thần to lớn của quân dân ta: "Tinh thần của quân đội họ cao (quân đội Việt Minh). Đó là tinh thần của kẻ chiến thắng... Mặt khác cũng phải nói rằng, dân chúng có cảm tình với Cụ Hồ Chí Minh. Dân chúng sẵn sàng rời bỏ nơi mình ở để theo Cụ Hồ, theo Việt Minh". Nhà văn Gioócgiơ K.Tenyhen người Mỹ cho rằng: "Họ (quân đội ta - TG.) là một lực lượng được huấn luyện với nhiều nhiệm vụ riêng biệt, để thực hiện các hoạt động quân sự, các hoạt động thâm nhập và chiếm lĩnh về chính trị. Đó là chìa khóa thắng lợi của Việt Minh"2 (Điện Biên Phủ nhìn từ phía bên kia, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.175-176, 174).


Nhà văn Gioócgiơ K.Tenyhen phân tích khá kỹ cội nguồn sức mạnh của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng và chỉ rõ, quân đội Việt Minh "Có cội rễ sâu xa trong dân chúng về chính trị, quen thuộc địa hình, nhân dân cung cấp tình báo cho họ mà người Pháp không thể nào có được hy vọng như thế. Dân thường có thể giúp đỡ họ về tiếp tế, liên lạc, cung cấp nhân lực, đóng thuế lương thực. Họ được che chở, còn lính Pháp không thể hòa mình vào nhân dân như lính Việt Minh"1 (Gioócgiơ K.Tenyhen: Chiến tranh cách mạng của cộng sản, New York, 1963).


Nhà văn Giuyn Roa cũng có cách nhìn nhận khá tường tận khi cho rằng, quân đội Việt Minh biết rằng "họ chiến đấu vì một nền độc lập của mình", chống lại một chủ nghĩa thực dân đang bị xóa sổ trên toàn thế giới; "nếu họ chết đi, họ sẽ chết với tiếng thét tự do". Giuyn Roa viết tiếp: "Trong quân đội nhân dân... mỗi đội dân công..., mỗi chiến sĩ đều ham được hy sinh. Lúc đầu, những cái đó làm ta mỉm cười, nhưng rồi mọi người phải kinh ngạc vì hiệu quả của lý tưởng vì Tổ quốc"2 (Giuyn Roa: Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt của người Pháp, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.146).

Đó là góc nhìn thứ hai, góc nhìn từ phía bên kia.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:42:23 am
3. Cả hai góc nhìn trên tuy khác nhau về lập trường, quan điểm, về mức độ đánh giá và sự toàn diện, nhưng đều cho thấy sức mạnh to lớn, nhân tố làm nên chiến thắng của quân dân ta chủ yếu không phải nằm ở vũ khí trang bị, ở tiềm lực kinh tế, quân sự, không phải ở sức mạnh vật chất, mà chủ yếu là ở sức mạnh chính trị - tinh thần, với nội dung cốt lõi là ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân cả nước, của toàn thể dân tộc trước bọn thực dân xâm lược.


Trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta đã được quy tụ thống nhất, được phát huy cao độ, được thăng hoa đến độ rực rỡ, trở thành sức mạnh vật chất to lớn, kết dính và nâng cao tất cả các nguồn sức mạnh khác của cả dân tộc, của cả nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đủ sức chiến thắng đối phương.


Vai trò to lớn của nhân tố chính trị - tinh thần quân dân đã được thể hiện sinh động trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu của mọi tầng lớp nhân dân, của các dân tộc, tôn giáo, của mọi lứa tuổi, của quân dân cả nước suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Quân dân ta chiến đấu vì mục tiêu chính nghĩa, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Chiến dịch Điện Biên Phủ là sự hội tụ đến đỉnh điểm quyết tâm của quân dân cả nước nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa ấy. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, với 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, nhiều tiểu đoàn pháo, công binh, xe tăng, lại được hỗ trợ nhiều máy bay và thường xuyên tăng viện trong quá trình chiến đấu, là một "pháo đài" "vững chắc", đã bị đập tan bởi sức mạnh tổng hợp của quân dân ta, mà nhân tố chính trị - tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng, làm cho "pháo đài" đó trở thành nơi tiêu tan mọi ý chí của bọn xâm lược, làm "chấn động địa cầu".


Những người bên kia trận tuyến cũng phải thừa nhận sức mạnh tinh thần to lớn của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, dù rằng sự thừa nhận đó còn muộn màng, dù rằng sự thừa nhận đó còn chưa được đầy đủ, toàn diện. Họ đã thấy được phần nào vai trò sức mạnh tinh thần của quân dân ta và cũng đã phần nào nhìn nhận được những nguyên nhân tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn đó. Dù là chưa đầy đủ, nhưng những nhận định về quân đội ta là một quân đội "Có cội rễ sâu xa trong dân chúng về chính trị", "sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm ở trong tinh thần dân tộc và cả xã hội", có "lý tưởng vì Tổ quốc", có "chủ trương chính trị, quân sự thống nhất", có sự "thống nhất về chính trị, năng động và quyết tâm" chiến thắng của quân dân cả nước, đã cho thấy sự hiển hiện sinh động và cụ thể sức mạnh tinh thần của quân dân ta trong thực tiễn chiến tranh, mà đối phương không thể không thừa nhận.


Một sức mạnh tinh thần như thế thì không một thế lực xâm lược nào có thể chiến thắng nổi; và một quân đội "không thể hòa mình vào nhân dân", chiến đấu vì mục tiêu phi nghĩa, cho một chủ nghĩa thực dân "đang bị xóa sổ trên toàn thế giới" như quân đội thực dân Pháp, thì sự thất bại là một điều hiển nhiên, không thể tránh khỏi.


Tuy nhiên, với tư duy quân sự tư sản, những người bên kia chiến tuyến cũng không thể hiểu hết được sức mạnh tiềm tàng và to lớn của quân dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sự không biết người, không biết ta là một nguyên nhân cơ bản dẫn thực dân Pháp đến thất bại thảm hại; và sự "hiểu biết" nêu trên cũng không đủ mang đến cho các thế lực xâm lược sức mạnh cần thiết để chúng có thể giành "thắng lợi" trong các cuộc thập tự chinh sau đó, dù rằng chúng có thể giành được thắng lợi ban đầu. Kẻ xâm lược, cướp nước, phi nghĩa, "phe tà" không thể hiểu hết được sức mạnh tinh thần to lớn của các quốc gia dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, không thể hiểu hết được sức mạnh của chính nghĩa, của truyển thống lịch sử, văn hóa và ý chí quyết tâm bảo vệ sự sinh tồn của các dân tộc trước các thế lực ngoại xâm.


4. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một thực tiễn sinh động chứng minh luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin trong thời đại mới: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.147). Trong tình hình mới, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra rất cao, chúng ta phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, để có thể bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, kể cả trong điều kiện chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao, nếu xảy ra. Sức mạnh cơ bản và cái cơ sở chủ yếu để tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới vẫn là nhân tố chính trị - tinh thần.


Vì vậy, xây dựng, củng cố và phát huy chính trị - tinh thần của quân dân ta là nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết và là đòi hỏi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng, củng cố và phát huy chính trị - tinh thần là: trong thời bình thì mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; khi chiến tranh xảy ra thì nhanh chóng huy động sức người, sức của đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu chiến tranh, quân với dân một ý chí, quyết tâm chiến thắng.


Xây dựng và động viên sức mạnh chính trị - tinh thần là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các tầng lớp nhân dân, của tất cả các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều chủ yếu và quyết định nhất là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời phải gắn với việc xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:43:59 am
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975 VÀ
SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY - TIẾP CẬN TỪ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHÍNH TRỊ - TINH THẦN


Có nhiều nhân tố làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, trong đó việc xem xét nhân tố chính trị - tinh thần có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tình hình hiện nay. Chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Đại thắng mùa Xuân 1975 là sự hội tụ sức mạnh dân tộc không chỉ trong 20 năm chống Mỹ, mà là sự phát huy đến đỉnh cao sức mạnh của cả dân tộc được hun đúc trong mấy ngàn năm lịch sử vào chiến dịch quyết chiến chiến lược với kẻ thù. Chính trị - tinh thần của quân dân ta không đứng riêng biệt lập, mà gắn bó chặt chẽ trong mối quan hệ với các nhân tố khác, là sức mạnh tổng hợp của đất nước, của chế độ được quy tụ trong Đại thắng mùa Xuân 1975.


Một là, nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Đại thắng mùa Xuân 1975.

"Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy"1 (V. I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.147). Đó là luận điểm kinh điển của V.I.Lênin về vai trò nhân tố của chính trị - tinh thần trong chiẽn tranh. Trong Đại thắng mùa Xuân 1975, vai trò của nhân tố chính trị - tinh thần được thể hiện rõ ở hai nội dung:

Thứ nhất, trong Đại thắng mùa Xuân 1975, chính trị - tinh thần của quân dân ta là động lực to lớn, ưu thế tuyệt đối so với đối phương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một luận điểm nổi tiếng khi Người viết, không quân đội nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thế một dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta chiến đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại thắng mùa Xuân 1975 là sự hội tụ đến đỉnh điểm quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ quân đội và nhân dân cả nước nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa ấy. Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm, niểm tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chính nghĩa đã thôi thúc quân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ thực hiện nghiêm túc quyết tâm chiến lược của Đảng ta. Sự thắng lợi nhanh chóng của quân dân ta, sự rối loạn và thất bại nhanh chóng của quân địch trong chiến dịch Tây Nguyên những ngày tháng 3-1975, bắt đầu từ "đòn điểm huyệt" then chốt Buôn Ma Thuột, là thực tế sinh động minh chứng "ưu thế tuyệt đối" về chính trị - tinh thần của quân dân ta so với đối phương.


Sức mạnh chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Đại thắng mùa Xuân 1975 biểu hiện ở sức mạnh của những con người chiến đấu vì mục tiêu cao cả, chính nghĩa, ở tinh thần quyết tâm chiến đấu cao của những con người đầy khát vọng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, ở sức mạnh tổng hợp của đất nước nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Về nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Lúc đầu, địch mạnh hơn ta gấp trăm gấp ngàn lần về vật chất. Nhưng về tinh thần và chính trị thì ta mạnh hơn địch gấp trăm gấp ngàn lần"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.77). Chính trị - tinh thần của quân dân ta không ngừng lớn mạnh và chiếm ưu thế tuyệt đối trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh áp đảo kẻ thù trong Đại thắng mùa Xuân 1975. Từ một nhân tố chiếm ưu thế tuyệt đối, thế và lực không ngừng phát triển, trở thành ưu thế toàn diện áp đảo đối phương, giành thắng lợi hoàn toàn là một quy luật vận động và phát triển của nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta trong chiến tranh, nhất là trong các chiến dịch quyết chiến chiến lược.


Thứ hai, chính trị - tinh thần của quân đội ta trong Đại thắng mùa Xuân 1975 góp phần quan trọng làm chuyển hóa lực lượng, tạo thế và lực áp đảo quân địch và giành thắng lợi.

Chuyển hóa lực lượng trong chiến tranh không phải là sự đột biến tức thì mà là một quá trình chuyển hóa dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất cả về thế và lực. Nếu không có sự tích luỹ về lượng thì không có sự chuyển hóa về chất. Quá trình này phụ thuộc vào nhiều nhân tố và sự vận động tổng hợp của tất cả các nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao; vũ khí kỹ thuật, lực lượng và thế trận... thiên thời, địa lợi, nhân hòa..., trong đó nhân tố chính trị - tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Tầm quan trọng của chính trị - tinh thần biểu hiện ở chỗ, nó như "chất keo" dính kết tất cả các nhân tố khác, làm cho sức mạnh của quân dân ta không phải là kết quả đơn thuần của các nhân tố cộng lại, mà là kết quả tổng hợp của tất cả các nhân tố, gắn các nhân tố với nhau, làm tăng lên gấp bội sức mạnh của quân dân ta.


Để giành chiến thắng, nhất thiết ta phải tạo ra được sức mạnh hơn hẳn kẻ thù. Trong Đại thắng mùa Xuân 1975, quân dân ta đã phát huy cao độ cái "ưu thế tuyệt đối" là tinh thần yêu nước nồng nàn, tình yêu quê hương tha thiết, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước để chuyển hóa lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp hơn hẳn đối phương. Khi thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi, Bộ Chính trị chủ trương động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân theo tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam trong tháng 4-1975. Bằng sức mạnh tổng tiến công của năm cánh quân chủ lực, sự phối hợp của các lực lượng vũ trang và nổi dậy của quần chúng nhân dân các địa phương, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, quân dân ta đập tan mọi sự kháng cự của quân ngụy, ngụy quyền tay sai đầu hàng vô điều kiện, lá cò cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh giành toàn thắng.


Lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc; sự giác ngộ sâu sắc lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam; ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù... là những nội dung cốt lõi trong chính trị - tinh thần của quân dân ta. Đồng thời, đó còn là sự phản ánh cội nguồn cơ bản của sự hình thành, phát triển nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.


Toàn bộ những nội dung đó được thăng hoa, trở thành động lực trực tiếp làm xuất hiện và nở rộ những hành động anh hùng của cả dân tộc, làm nên sức mạnh thần kỳ trong Đại thắng mùa Xuân 1975. Có hiểu sâu sắc vai trò của nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh mới có thể hiểu được vì sao lại phát triển, nở rộ những hình ảnh anh hùng cao đẹp, nhưng rất đỗi bình thường, giản dị gần gũi biết bao của thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, thời kỳ "ra ngõ gặp anh hùng", đi đánh giặc như đi "trẩy hội".


Không thể cảm nhận hết ý nghĩa cao đẹp và vĩ đại của thời kỳ lịch sử hào hùng đó, của Đại thắng mùa Xuân 1975 nếu không hiểu được sức mạnh chính trị - tinh thần được biểu hiện ở những hành động dũng cảm, kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, hy sinh quên mình trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất của cán bộ, chiến sĩ quân đội và các tầng lớp nhân dân ta trên khắp mọi miền Tổ quốc.


Hiếm có ở đâu trên thế giới lại dùng từ "trẩy hội" để chỉ khí thế hừng hực ra quân, tinh thần quyết chiến quyết thắng quân thù như ở Việt Nam. Đây là một nét rất đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam và cũng là một biểu hiện rất đặc sắc về sức mạnh chính trị - tinh thần của quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong Đại thắng mùa Xuân 1975.


Tinh thần ấy, khí thế ấy trong Đại thắng mùa Xuân 1975 được nuôi dưỡng suốt quá trình chiến tranh, được phát huy đến độ rực rỡ, mà cho đến bây giờ sau hơn 35 năm kết thúc chiến tranh, những con cháu của thế hệ chống Mỹ vẫn cảm nhận sâu sắc và được thôi thúc bởi khí thế hào hùng đó như là nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:44:27 am
Hai là, một số vấn đề đặt ra trong xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong tình hình mới gặp nhiều khó khăn và thách thức mới. Cùng với chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, sự xuất hiện một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao do chủ nghĩa đế quốc tiến hành chống các quốc gia độc lập có chủ quyền trên thế giới, đã đặt ra những thách thức mới hết sức gay gắt đối với nhân tố con người, nhân tố chính trị - tinh thần. Làm thế nào để xây dựng, phát huy được nhân tố chính trị - tinh thần, tạo nên sức mạnh tổng hợp để có thể chiến thắng địch trong "diễn biến hòa bình" và cả trong điều kiện chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí cống nghệ cao là vấn đề to lớn, đặc biệt hệ trọng đặt ra đối với nước ta trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.


Nghiên cứu vai trò nhân tố chính trị - tinh thần của quân dân ta trong Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta khẳng định: 1. Một dân tộc đã từng đánh thắng hai đế quốc to, đã từng làm nên chiến thắng huy hoàng mùa Xuân năm 1975, thì dân tộc ấy nhất định sẽ có đầy đủ quyết tâm và sức mạnh chiến thắng mọi sự chống phá của kẻ thù, dù chúng có thực hiện "diễn biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ hay liều lĩnh phát động chiến tranh xâm lược, kể cả chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của mình. 2. Trong điều kiện mới, chiến tranh nhân dân vẫn là lời giải cơ bản cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta; sức mạnh cơ bản và vũ khí sắc bén của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn là chính trị - tinh thần. 3. Xây dựng, củng cố và phát huy chính trị - tinh thần của quân đội và nhân dân là nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, đòi hỏi phải thực thi chiến lược xây dựng, động viên chính trị - tinh thần phù hợp.


Chiến lược xây dựng, động viên chính trị - tinh thần trong điều kiện mới phải kết hợp chặt chẽ và nằm trong tổng thể chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là một bộ phận hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia, gắn bó chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược xây dựng đất nước.


Theo đó, vấn đề cơ bản hiện nay là phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta chỉ rõ, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là sức mạnh tổng hợp; trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định. Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, càng cần phát huy cao độ sức mạnh bên trong, yếu tố nội lực, trong đó chính trị - tinh thần, đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh cơ bản. Yêu cầu cốt lõi để xây dựng và phát huy cao nhất sức mạnh chính trị - tinh thần và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mối quan hệ giữa phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên với xây dựng chính trị - tinh thần và củng cố khối đoàn kết dân tộc là mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau.


Không thể quy tụ được lòng dân, không động viên được sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn dân tộc trong chống "diễn biến hòa bình", cũng như trong chống chiến tranh xâm lược, nếu không có được đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự trong sạch, một lòng một dạ vì nước, vì dân. Đó là một bài học quan trọng về việc xây dựng và động viên chính trị - tinh thần mà chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975 đã chỉ ra, cần phải được vận dụng và phát huy tốt trong thời kỳ mỏi.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:45:26 am
"NHÂN QUYỀN CAO HƠN CHỦ QUYỀN" -
MỘT LUẬN THUYẾT PHI NHÂN QUYỀN


Những năm gần đây, các thế lực hiếu chiến với luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" đã sử dụng sức mạnh "đồng minh", tự khoác cho mình là người "đại diện cộng đồng quốc tế", trên danh nghĩa của một tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh - Liên hợp quốc, ngang nhiên tiến công vũ trang chống các quốc gia độc lập có chủ quyền. Các cuộc tiến công của các thế lực đế quốc, hiếu chiến chống các quốc gia độc lập có chủ quyền trong những năm gần đây là những ví dụ điển hình về một liên minh đế quốc khổng lồ triển khai luận thuyết đó trên thực tế. Những chiếc áo "đạo đức", những lý do "nhân đạo", "nhân quyền" được chúng tung ra hòng che lấp bản chất phản nhân đạo, phi nhân quyền của cuộc chiến tranh do chúng phát động. Luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền", cho đến hiện nay, xem ra vẫn là một "bảo bối" được các thế lực phản động, hiếu chiến thường xuyên sử dụng để đe dọa, can thiệp và tiến công một quốc gia dân tộc nào đó trên thế giới mà chúng tự cho là "vi phạm nhân quyền".


Vì thế, hơn lúc nào hết, các quốc gia dân tộc cần phải nêu cao cảnh giác, vạch rõ thực chất của luận thuyết này là gì, tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của nó như thế nào, để không những làm cơ sở động viên sức mạnh toàn dân tộc, nêu cao ý chí quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của mình; mà còn là cơ sở cho việc tạo lập một mặt trận rộng rãi chống đế quốc và các thế lực hiếu chiến của cộng đồng quốc tế.


1. Nhân quyền là quyền con người và quyền con người ấy bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời với quyền thiêng liêng của cả dân tộc. Mọi sự tách ra, hoặc đối lập quyền của con người với quyền của quốc gia dân tộc đều là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn, sẽ dẫn đến những hậu quả nguy hại. Không phải ngẫu nhiên khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn ra những mệnh đề bất hủ về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, và gắn quyền con người đã được tuyên bố ấy với quyền dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1). Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, cũng như tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho con người và cho các dân tộc những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.


Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh cần phải được lý giải thêm là: không thể có được quyền con người đầy đủ, không thể có nhân quyền nếu như Tổ quốc không có độc lập tự do, nếu nhân dân lao động bị các thế lực thực dân, đế quốc bóc lột, giày xéo như kiếp "ngựa trâu"; muốn có nhân quyền thực sự thì vấn đề quyết định trước hết là phải giành cho được độc lập, tự do. Làm cách mạng để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì đồng thời cũng đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội là đưa nhân dân lao động lên làm chủ và đứng ra cai quản, tổ chức xây dựng xã hội mới, xây dựng, phát triển và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, là làm cho mỗi người và cả dân tộc đều "sung sướng" và "tự do".


Sự thống nhất, gắn bó giữa quyền con người và quyền dân tộc đã được "Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền" của Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định và tiếp tục được nhấn mạnh trong nhiều tuyên ngôn, công ước sau đó. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cam kết tôn trọng và bảo đảm quyền của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, dân tộc; đồng thời cũng nhấn mạnh, tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết, tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.


Nhân quyền là một giá trị cao quý của nhân loại đã được thừa nhận; quyền độc lập, tự do của các quốc gia dân tộc là một giá trị thiêng liêng đã được cả thế giới ghi nhận; sự thống nhất và gắn bó giữa quyền con người và quyền dân tộc là một tất yếu đã được lịch sử xã hội loài người xác thực. Những giá trị cao quý, thiêng liêng được thừa nhận đó không phải do ai "ban cho", không phải "từ trên trời rơi xuống", mà là kết quả đấu tranh liên tục, bền bỉ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, của nhân loại tiến bộ, của các quốc gia dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.


Con người bao giờ cũng sống trong một cộng đồng người nhất định; khi dân tộc xuất hiện thì con người sống trong và gắn bó với cộng đồng dân tộc, mang tâm hồn, cốt cách của dân tộc đó, có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ sự tồn tại, phát triển của dân tộc. Không thể tách và đối lập quyền con người với quyền dân tộc, cũng không thể mượn cớ "vì nhân quyền", vì quyền con người để xâm phạm độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc. Vì thế, luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền", từ trong bản chất, đã là một luận thuyết sai lầm và phản động, thực chất là nhằm biện minh cho những hành động xâm lược, phi nhân tính của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến.


2. Những kẻ rêu rao "nhân quyền cao hơn chủ quyền", "nhân quyền không biên giới", từ đó cho rằng "cộng đồng quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ một quốc gia dân tộc để bảo vệ nhân quyền", có thực sự vì nhân quyền hay không? Câu trả lời ở đây rõ ràng không phải là vì nhân quyền, không phải là để "bảo vệ nhân quyền" như chúng đã từng tuyên bố. Chính nhà báo - nhà văn nổi tiếng người Mỹ, Uyliam Blum, trong cuốn sách Nhà nước đỏ: Đường lối siêu cường duy nhất của thế giới, đã "trả lời giúp": Kể từ năm 1945, Mỹ đã toan tính lật đổ 40 chính phủ, đàn áp hơn 30 phong trào quốc gia, làm cho hàng chục triệu người chết, gây ra biết bao cảnh tang tóc cho các dân tộc. Trong các cụộc chiến tranh, Mỹ đã nhẫn tâm sử dụng cả những loại vũ khí đã bị Liên hợp quốc cấm, như ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phô" Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản năm 1945, giết hại cùng một lúc hàng chục vạn người dân vô tội; sử dụng vũ khí hóa học và chất độc da cam/điôxin trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.


Để tiến công Nam Tư và Irắc, chủ nghĩa đế quốc đã rêu rao tổng thống và chính phủ của những nước này là "vi phạm nhân quyên", "đàn áp sắc tộc", là "độc tài", cần phải trừng phạt, "để cứu nhân dân thoát khỏi thảm họa nhân đạo, nhân quyền". Thế rồi, với bom, đạn, các loại vũ khí công nghệ cao có với sức hủy diệt và sự tàn phá ghê gớm, chúng ngày đêm bắn phá, tàn sát các trường học, bệnh viện, khu dân cư, gieo rắc sự chết chóc, đau thương cho người dân vô tội, phụ nữ và trẻ em và biết bao gia đình ở những nước này. Bằng hành động chiến tranh xâm lược dã man đó, những kẻ rêu rao "nhân quyền cao hơn chủ quyền" đã tự tước bỏ cái mặt nạ giả nhân, giả nghĩa, lộ rõ nguyên hình là kẻ hiếu chiến. Điều đó không những đã vi phạm một cách trắng trợn độc lập, chủ quyền, quyền dân tộc tự quyết của các quốc gia dân tộc đã được chính Liên hợp quốc thừa nhận trong các tuyên ngôn và công ước của mình; mà còn vi phạm nghiêm trọng quyền sống và quyền tự do của con người.


Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc trong một đất nước độc lập, tự do của người dân là vô cùng quý giá, độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc là vô cùng thiêng liêng. Sự vi phạm đó của chủ nghĩa đế quốc đối với những điều quý giá và thiêng liêng ấy là không thể biện minh được, không thể bào chữa được. Không thể áp đặt "giá trị nhân quyền" của mình cho các quốc gia dân tộc khác. Nhân quyền là giá trị nhân loại, nhưng biểu hiện cụ thể trong mỗi quốc gia dân tộc có sự khác nhau. Không ai có thể tự cho mình cái quyền can thiệp, có quyền giải quyết các vấn đề nhân quyền trong nội bộ của các quốc gia khác, càng không thể có quyền thực hiện sự can thiệp đó bằng bom đạn. Sự tự cho đó là trái đạo lý, trái đạo đức, là phản tiến bộ.


Rõ ràng, luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" không phải vì nhân quyền nào cả; thực chất đó là cơ sở lý luận cho chính sách hiếu chiến, cường quyền và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, là vì lợi ích chính trị, kinh tế của chúng mà thôi, là sự phản ánh tập trung bản chất phản động, phi nhân quyền, phi đạo lý, phản nhân đạo của các thế lực đế quốc hiếu chiến trong điều kiện lịch sử mới. Chính những hành động dã man, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân các quốc gia dân tộc trên thế giới và sự bóc lột đối với chính nhân dân nước mình đã làm lộ rõ tính chất phi nhân quyền của luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền".


3. Trong bối cảnh lịch sử mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hiện, nay, khi mà tương quan so sánh lực lượng trên thế giới còn có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, bất lợi đối với các lực lượng cách mạng, hòa bình và tiến bộ, thì luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" mà các thế lực hiếu chiến đem ra thực thi trên thực tẽ càng trở nên nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm đó biểu hiện ở chỗ, nó dễ gây nên sự ngộ nhận, sự nhầm lẫn ở một số người trong việc xem xét bản chất chính trị, tính chất của chiến tranh. Bằng sức mạnh kinh tế, quân sự của mình, với sức mạnh và áp lực của liên minh đế quốc khổng lồ, luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" của chủ nghĩa đế quốc có vẻ càng có "sức thuyết phục" hơn.


Việc chủ nghĩa đế quốc phát động tiến công xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền nào đó thì lại có thể bị ngộ nhận đó là hành động vì "hòa bình", vì sứ mạng cao cả "cứu nhân dân ra khỏi thảm họa nhân quyền"; còn các quốc gia dân tộc bị tiến công bị xem là những người tạo ra "nguyên cớ", là nguyên nhân chủ yếu gây ra chiến tranh. Vì thế, người ta cố tình và ráo riết yêu cầu các quốc gia dân tộc phải "giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền", nếu không thì sẽ bị cấm vận, bị phong tỏa, sẽ bị tiến công bằng quân sự. Tất nhiên, việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền ấy, thậm chí cả những vấn đề nhân sự trong giới lãnh đạo của các nước là phải theo những "giá trị" dân chủ, nhân quyền và lập trường, quan điểm của chủ nghĩa đế quốc, mà trong không ít trường hợp lại được mượn danh đại diện cho cả cộng đồng quốc tế, cho Liên hợp quốc.


Tình hình đó làm cho cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền, bảo vệ những giá trị dân chủ, nhân quyền của mình, bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân ở các nước càng trỏ nên khó khăn, -phức tạp. Nếu không vạch rõ tính chất phản động, phản tiến bộ của luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền", nếu không làm cho nhân dân thấy rõ bản chất phản động, hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc, thấy được tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công xâm lược của chúng, thấy được tính chất chính nghĩa cao cả, vì đạo lý của cuộc chiến tranh chống xâm lược của nước mình, thì các quốc gia dân tộc không thể giành được thắng lợi.


Không thể đối lập nhân quyền với chủ quyền, mượn danh "vì nhân quyền" để xâm phạm chủ quyền, cũng không thể mượn danh "vì chủ quyền" mà vi phạm nhân quyền. Cố tình lợi dụng vấn đề nhân quyền mà vi phạm độc lập chủ quyền của quốc gia dân tộc khác; hoặc cố tình mượn danh nghĩa bảo vệ "lợi ích, chủ quyền quốc gia" ngoài biên giới để đem bom đạn và chết chóc, đau thương cho dân tộc khác, giết hại dân lành của quốc gia khác đều là những hành động phi nhân quyền, phản nhân loại, và nhất định sẽ bị thất bại.


Cho dù luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" có được che giấu kín đáo và tinh vi đến đâu, nhưng chắc chắn rằng, nhân loại tiến bộ sẽ ngày càng nhận rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc, càng thấy rõ bản chất hiếu chiến, xâm lược và phản động của chúng và càng đoàn kết hơn trong mặt trận đấu tranh chung chống cường quyền, chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền và những giá trị nhân quyền đích thực của mình.


Tiêu đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng
Gửi bởi: saoden trong 21 Tháng Chín, 2022, 10:46:20 am
KẾT LUẬN


1. Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, thực hiện các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" chống phá cách mạng Việt Nam, hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế, sự chống phá của chúng càng trỏ nên nguy hiểm, việc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" càng trở nên khó khăn, phức tạp. Chống phá trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng là một hướng, một nội dung rất quan trọng trong chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.


2. Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được củng cố, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi căn bản cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế của nhân dân ta.


3. Trong quá trình đó, tư duy về quân sự, quốc phòng của Đảng ta không ngừng phát triển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đầy biến động và rất phức tạp của tình hình thế giới và đất nước, đặc biệt là trong những vấn đề chiến tranh và quân đội. Các thế lực thù địch tập trung chống phá trên những vấn đề cơ bản của sự nghiệp quân sự, quốc phòng của chúng ta. Chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này trong dàn hợp xướng chung "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam. Đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn chống phá ta trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước thực sự là vấn đề cấp thiết.


4. Muốn giành thắng lợi trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng của các thế lực thù địch, phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và toàn diện, với sự cố gắng, quyết tâm rất cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Làm rõ, có sức thuyết phục những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quốc phòng, quân sự gắn với việc vạch rõ tính chất phản động, phản khoa học của các quan điểm thù địch, sai trái là yêu cầu đặc biệt quan trọng. Để giành thắng lợi, vấn đề cơ bản quyết định là chúng ta phải xây dựng mình mạnh lên về mọi mặt, phải nêu cao quyết tâm, ra sức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới mà Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định.