Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 07:58:14 am



Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 07:58:14 am
Tên sách: Cuộc chiến đấu ở phía trước
Tác giả: trung tướng Trần Phi Hổ
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật
Năm xuất bản: 2014
Số hóa: macbupda

(https://i.imgur.com/SYocF0Z.jpg)

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Lịch sử đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực thù địch dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh của dân tộc ta đã đi vào sử sách như những mốc son chói lọi, hào hùng. Tinh thần bất diệt vì chính nghĩa, vì độc lập, tự do của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta không những được ghi lại trên các kênh phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí, truyền hình... mà còn được khắc họa trong ký ức của hàng triệu người dân và những người đã trực tiếp vào sinh ra tử trên các chiến trường. Trên góc nhìn của một người con quê hương Nam Bộ “thành đồng”, lớn lên trong gia đình cách mạng, trên quê hương giàu truyền thống yêu nước, đồng thời là người lính Cụ Hồ từng bước trưởng thành cùng với sự lớn mạnh và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam trung kiên, Trung tướng Trần Phi Hổ cũng đã ghi lại những năm tháng lịch sử đó theo cách của riêng mình thông qua cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước.

Đọc cuốn hồi ký này, bạn đọc sẽ nhận thấy sự hiện diện của Quân đội nhân dân Việt Nam và bản thân Trần Phi Hổ, trải qua năm tháng với những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử, luôn cùng nhau lớn lên, trưởng thành và lớn mạnh. Bằng lối kể chuyện mộc mạc cùng chất giọng Nam Bộ thân thương, tác giả Trần Phi Hổ đã đưa người đọc đi từ những năm tháng ấu thơ đến khi trở thành người cán bộ, vị tướng lĩnh lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang chiến đấu trên mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, cũng như trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình” trong thời kỳ mới, góp phần xây dựng Quân khu 9 nói riêng, Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”.

Có lẽ những ai đã đi qua những năm tháng đấu tranh đó đều có thể thấy được mình trong những câu chuyện của Trung tướng Trần Phi Hổ. Giá trị lớn nhất của cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước là đã góp phần làm sáng rõ tính chính nghĩa, cách mạng trong cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam nói chung và hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ” kiên cường, dũng cảm nói riêng. Chính vì vậy, cuốn hồi ký rất có ý nghĩa trong giáo dục truyền thống tốt đẹp cho thế hệ trẻ hôm nay và đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 9 năm 2014
                                                                                           
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 07:59:16 am
LỜI GIỚI THIỆU

Trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược nói chung và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia nói riêng, quân và dân ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù có tiềm lực quân sự hùng mạnh, những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo và vô cùng thâm độc. Vượt qua tất cả, nhân dân ta đã lần lượt đánh thắng chúng, bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế giúp bạn vẻ vang. Điều gì đã làm nên sức mạnh to lớn đó? Đó là do quân và dân ta đã phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thế trận của chiến tranh nhân dân, cùng với trang bị vũ khí đã phát huy cao độ kinh nghiệm truyền thống đánh giặc của tổ tiên, ưu thế chính trị, tinh thần, tài trí, thông minh, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, tìm ra phương thức tác chiến thích hợp; đó là cách đánh Việt Nam, nhằm tiêu diệt địch, hoàn thành thắng lợi mục đích, nhiệm vụ chiến đấu, chiến dịch, chiến lược trong mỗi cuộc kháng chiến.

Là một sĩ quan quân đội, sinh ra trong giai đoạn chuyển giao của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong một gia đình có truyền thống cách mạng, lớn lên được nuôi dưỡng từ những giá trị văn hóa tốt đẹp, lòng yêu nước sâu sắc của hai mảnh đất giàu truyền thống cách mạng Ba Tri, Bến Tre và Đầm Dơi, Cà Mau; được Đảng dìu dắt, bồi dưỡng và rèn luyện, được anh em đồng chí, đồng bào giúp đỡ, nuôi dưỡng và hết lòng ủng hộ; đồng chí Trần Phi Hổ sớm tham gia cách mạng, trực tiếp chiến đấu, chỉ huy chiến đấu giải phóng quê hương trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu thời kỳ mới.

Trên bất kỳ cương vị nào, từ chiến sĩ du kích xã Trần Phán anh hùng đến Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Trần Phi Hổ đều tỏ rõ tinh thần chiến đấu dũng cảm, chỉ huy bộ đội mưu trí, sáng tạo, kiên quyết tiêu diệt địch, quyết đánh và quyết thắng.

Sau nhiều năm ấp ủ, đồng chí Trần Phi Hổ đã hoàn thành cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước, khép lại 42 năm rèn luyện, học tập, chiến đấu và trưởng thành trong Quân đội ta. Cuốn hồi ký đã mô tả một cách trung thực những khó khăn, thử thách to lớn của quân và dân ta trước sức mạnh quân sự và âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari. Vượt qua tất cả, bằng ý chí chiến đấu kiên cường, thông minh, sáng tạo trong từng trận chiến đấu, trong mỗi chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ ta đã đoàn kết, không sợ gian khổ, hi sinh, lập nên những chiến công vẻ vang.

Dựng lại các sự kiện mắt thấy, tai nghe và những suy nghĩ, tình cảm của mình hơn 40 năm sát cánh cùng với đồng chí, đồng đội và nhân dân chiến đấu giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới, đồng chí Trần Phi Hổ cho bạn đọc thấy rõ hơn những năm tháng mà Đảng ta. Quân đội ta, nhân dân ta đã giáo dục, rèn luyện nên một thế hệ thanh niên xuất sắc thời chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ Tổ quốc, luôn hướng ra “trận tuyến đánh quân thù” với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”.

Đây là cuốn sách viết với nhiều tâm huyết, phục vụ tốt cho việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống, gọi mở nhiều vấn đề về kinh nghiệm tổ chức chiến đấu, tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, công tác bảo đảm ở chiến trường, giúp cho việc trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu và vận dụng vào học tập, huấn luyện bộ đội trong thời kỳ mới.

Xin trân trọng giới thiệu cùng các đồng chí và bạn đọc.

Thượng tướng LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Nguyên Phó Chính ủy, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 07:59:51 am
LỜI TÁC GIẢ

Tôi sanh ra trên quê hương Bến Tre, Đồng Khởi, lớn lên trên mảnh đất Đầm Dơi, Cà Mau, cái nôi căn cứ địa cách mạng của “Nam Bộ thành đồng”; được nuôi dưỡng từ truyền thống cách mạng của gia đình, của quê hương - những mảnh đất anh hùng; sớm được tiếp cận, giáo dục hình ảnh cao đẹp của anh giải phóng quân, căm phẫn trước tội ác dã man, tàn bạo của Mỹ - ngụy... Hoàn cảnh đó đã thúc giục tôi tham gia cách mạng từ rất sớm, ngay khi vừa tròn 16 tuổi (năm 1969).

Cùng với sự phát triển phong trào cách mạng của quê hương căn cứ địa cách mạng và sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang Quân khu, trải qua những năm tháng chiến đấu trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược và trong thời kỳ đổi mới, từ khi còn là chiến sĩ du kích xã Trần Phán cho đến khi đảm nhiệm Tư lệnh Quân khu, trong suốt 42 năm chiến đấu dưới lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội ta, chứng kiến biết bao sự kiện anh hùng của đồng bào, đồng chí, những tấm gương lẫm liệt đã cống hiến và hi sinh trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng ta, tôi luôn nuôi dưỡng trong mình nguồn cảm xúc to lớn, sự kính trọng, tự hào về những năm tháng chiến đấu không thể nào quên.

Hưởng ứng cuộc vận động của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam “Viết về kỷ niệm sâu sắc trong kháng chiến”, được sự giúp đỡ của Cục Chính trị Quân khu, tôi viết cuốn hồi ký này nhằm tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn và góp phần cắt nghĩa vì sao quân và dân ta đã đánh thắng đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch. Cảm ơn anh em, đồng chí, đồng bào đã sát cánh cùng tôi chiến đấu, đã đùm bọc, cưu mang tôi trong suốt chặng đường phấn đấu 42 năm quân ngũ làm người lính Cụ Hồ, mà cho đến hôm nay có người còn, người mất.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, cảm ơn Cục Chính trị và Ban Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị, nhất là Đại tá Đặng Văn Tọa cùng nhiều đồng chí khác đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện của mình.

Trung tướng TRẦN PHI HỔ


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:00:28 am
Chương I

QUÊ HƯƠNG VÀ THỜI THƠ ẤU
(1953-1969)

Tôi sinh ngày 16 tháng 3 năm 1953, khi quê hương, đất nước đang bước vào giai đoạn cuối của chiến dịch Tổng tiến công kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại xã An Bình Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Được sự đồng ý của ông bà ngoại, ba má đặt tên tôi là Lê Đức Quý, mang họ bên ngoại vì ông bà nội tôi mất sớm, ba má rất quý ông bà ngoại; hơn nữa ông bà ngoại rất thương quý tôi, là một trong những đứa cháu ông bà thương yêu, tin cậy.

Lớn lên trên mảnh đất Trần Phán anh hùng, thuộc huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Khi vào du kích xã, được lãnh đạo, chỉ huy góp ý, tôi đổi lại tên là Trần Lê Quý cho đúng với tổ tông, dòng họ đã sinh ra mình (họ Trần), tuy vậy tôi vẫn giữ lại chữ “Lê” làm tên đệm, như muốn ghi lại tình cảm, mối quan hệ bang giao sâu đậm của hai dòng họ lớn Trần - Lê đã làm nền vững chắc tạo dựng tình cảm hạnh phúc cho ba má tôi nên vợ chồng. Đối với tôi, đây cũng là việc lưu giữ một kỷ niệm đẹp với bên ngoại trong những năm tháng vất vả đầu đời.

Tôi được sinh ra, nuôi dưỡng, giáo dục và trưởng thành trong hai gia đình nội, ngoại có truyền thống cách mạng. Ông nội tôi họ Trần, Trần Văn Nhơn, lấy bà nội tôi họ Nguyễn, Nguyễn Thị Giang, quê ở xóm Giữa, Cầu Ngang, Trà Vinh. Hai ông bà lấy nhau sinh được ba người con, chị hai của ba bị bệnh và mất lúc nhỏ, ba tôi, Trần Tư Hiện, là con trai thứ hai, em trai của ba khi nhỏ bị thất lạc trong chiến tranh; sau giải phóng (1975) tôi và gia đình nhiều lần cất công đi tìm, song không có kết quả gì. Năm ba tôi 14 tuổi, ông nội tôi mất. Gia cảnh mất đi người đàn ông trụ cột, làng xã, xóm ấp lại đang thời kỳ chiến tranh loạn lạc, không biết bấu bíu vào ai, cuối cùng bà nội tôi quyết định: Bà và ba tôi sang nương tựa vào ông cậu, em trai của bà.

Ông cậu sinh được 10 người con, hầu hết đều tham gia kháng chiến, người đi bộ đội, người tham gia phong trào cách mạng của địa phương. Con thứ hai của cậu đi bộ đội ở Trung đoàn 1 chủ lực Khu, con thứ sáu là cán bộ xã đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, con thứ bảy (Tám Lời) đi bộ đội làm Chính trị viên Đại đội 2 - Tiểu đoàn 309, hi sinh trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, con thứ mười đi bộ đội tỉnh, là thương binh mù cả hai mắt. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, con đông, thu nhập thấp, song gia đình ông cậu thực sự là nơi ấm cúng nhất, là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất và tinh thần cho bà nội và ba tôi nương tựa trong hoàn cảnh khó khăn, loạn lạc.

Năm 16 tuổi, được các chú, các bác dìu dắt, ba tôi tạm biệt bà nội đi làm cách mạng, được kết nạp Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ông công tác ở Ban Binh vận R, sau khi ổn định công tác, giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ba tôi được các chú, các bác ở Ban Binh vận Miền cho về phép xây dựng gia đình với má tôi (Lê Thị Dung). Ba má tôi sinh được 10 người con, chị hai tôi là Trần Kim Loan, chị tham gia cách mạng thời chống Mỹ, cứu nước, làm công tác Đoàn (Phân đoàn trưởng); tôi là con thứ hai trong gia đình (Lê Đức Quý, Trần Lê Quý), dưới tôi còn có tám em trai và gái. Em sát tôi là Trần Phi Hùng, từng là Xã đội trưởng xã Trần Phán vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau đó chuyển về đại đội địa phương quân của huyện Đầm Dơi; kế đến là Trần Phi Dũng đi bộ đội ở Sư đoàn bộ binh 4, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ chiến đấu giúp bạn ở Campuchia trên địa bàn tỉnh Cô Công; các em còn lại công tác và làm ăn sinh sống tại địa phương.

Trong những năm chiến tranh, trước sự mua chuộc, đe dọa, đàn áp, truy bức của chủ nghĩa thực dân mới; xã hội miền Nam bị đảo lộn, phân hóa thành nhiều lực lượng. Một bộ phận tham gia ngụy quân, ngụy quyền, cầm súng làm tay sai cho Mỹ, phản bội con đường cách mạng của dân tộc, của đất nước. Còn lại phần đông nhân dân miền Nam dù phải sống dưới chế độ phát xít của Mỹ - ngụy vẫn một lòng một dạ hướng về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tích cực đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Rất may, cả 10 chị em tôi được sống trong địa bàn căn cứ cách mạng, được ông bà ngoại và ba tôi đều là những chiến sĩ cách mạng, đảng viên cộng sản nuôi dưỡng dạy bảo, do vậy không một ai làm tay sai cho địch.

Gia đình bên ngoại tỏi, ông ngoại (Lê Văn Quảng) tham gia cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ chống thực dân Pháp. Ông lấy bà ngoại (Nguyễn Thị Tốt) là cơ sở cách mạng. Khi ông hoạt động vận động cách mạng ở địa phương, gia đình bà là cơ sở đùm bọc, nuôi giấu, cho chở, bảo vệ ông. Quá trình hoạt động tại đây, ông tích cực tuyên truyền giác ngộ bà trở thành một cơ sở cách mạng tin cậy. Bà vừa nuôi giấu cán bộ, vừa tham gia và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ ông giao. Cảm phục, tin cậy tính cách, chí hướng của nhau, hai ông bà đã nên vợ nên chồng trong sự nhất trí cao của anh em đồng chí, đồng đội và hai gia đình thân tộc.

Hai ông bà cùng sinh được 10 người con, má tôi (Lê Thị Dung) là con thứ ba (theo cách gọi của Nam Bộ). Cũng như gia đình bên nội, cà 10 người con của ông bà ngoại lớn lên không ai bị bắt đi làm tay sai cho địch, nhiều cậu mợ tham gia và trưởng thành cùng kháng chiến, như cậu Lê Văn Thành (Tư Thành) là cán bộ, Chính trị viên phó Tiểu đoàn 306 (nay là Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 1 - Sư đoàn 330); cậu Lê Văn Quang - cán bộ cách mạng hoạt động ở địa phương, là liệt sĩ (tôi sẽ kể vào đoạn sau về cuộc đời và cái chết của cậu). một trong sự kiện sâu sắc tác động mạnh đến suy nghĩ, tình cảm và chí hướng của tôi, quyết định con đường đi theo kháng chiến của tôi; cậu Lê Văn Tân (Bảy Tân), đảng viên thời chống Mỹ, cứu nước; dì Lê Thị Kiểu (Dì Tám) là cơ sở cách mạng; cậu Lê Văn Quân là chiến sĩ du kích xã Trần Phán anh hùng, cậu chiến đấu dũng cảm, bị thương vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:01:41 am
Do ông bà nội mất sớm, ba lại thường xuyên vắng nhà đi hoạt động cách mạng, má và các chị em tôi thường xuyên ở bên ngoại, gắn bó với ông bà ngoại và các cậu, các dì suốt quá trình từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành, cho đến hôm nay khi đã đi hết cuộc đời quân ngũ, nhìn lại mình, tôi phải ghi nhận tình cảm, tính cách, nhận thức của tôi được hình thành, nuôi dưỡng bồi đắp bắt đầu từ môi trường bên ngoại. Cùng với má, ông bà ngoại, cậu Lê Văn Quang (Năm Quang) không chỉ giành cho tôi sự yêu thương, đùm bọc, tin cậy của những người thân tộc, mà còn là những tấm gương để lại trong tôi những dấu ấn sâu đậm đầu đời, quyết định con đường tham gia kháng chiến và những năm tháng phục vụ cách mạng sau này.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào giai đoạn cuối của chiến lược “chiến tranh đơn phương” (1958-1960). Trước tội ác dã man, tàn bạo, cuồng sát của Mỹ - Diệm, trong các năm 1958-1959, để giữ gìn lực lượng, Trung ương có chủ trương thực hiện giải pháp “điều lắng” lực lượng cách mạng ở miền Nam, chuyển cán bộ, đảng viên từ địa phương này sang địa phương khác, từ trên xuống cơ sở, từ cơ sở lên R (Xứ ủy) để che giấu tung tích quá trình hoạt động cách mạng, tránh bị địch phát hiện.

Thời điểm này, địa bàn Khu 8 và Khu 9 không thể chịu được hành động và âm mưu đàn áp, bắt bớ, truy sát dã man, tàn bạo của kẻ thù. Trước đòi hỏi của tình hình, để đáp ứng một phần nguyện vọng thiết tha, cháy bỏng của quần chúng, nhiều cấp ủy đảng ở các tỉnh đã tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền nhằm diệt ác trừ gian, tạo điều kiện cho quần chúng nới lỏng ách kìm kẹp, đồng thời làm cho bọn tề điệp ác ôn ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ phải co lại. Tôi nghe ba kể lại, phong trào này vướng với chủ trương của trên (chưa cho đấu tranh vũ trang), song được quần chúng hả lòng hả dạ, ủng hộ đồng tình. Lợi dụng chủ trương này của cấp ủy (tỉnh ủy), nhiều địa phương chỉ đạo, lãnh đạo không chặt chẽ, kiên quyết, nên đã xảy ra hiện tượng diệt ác ôn tràn lan, manh động, bộc lộ lực lượng; có địa phương địch tập trung lực lượng bao vây tiêu diệt, xóa sạch cơ sở cách mạng và đã phải trả giá bằng sự hi sinh của nhiều đồng bào, đồng chí.

Trước tình hình trên, thực hiện chủ trương của Trung ương, Xứ ủy đã quán triệt, triển khai kế hoạch “điều lắng” cán bộ, đảng viên, ở miền Tây Nam Bộ, Khu ủy Khu 9 đã điều lắng 2.751 đảng viên(1). Kế hoạch “điều lắng” của Khu ủy Khu 9 không chỉ thực hiện giai đoạn trước Đồng Khởi mà sau Đồng Khởi năm 1960 vẫn tiếp tục triển khai. Nằm trong số đó, năm 1960, sau Đồng Khởi, ông ngoại tôi (Lê Văn Quảng) bị lộ ở địa bàn Ba Tri, Bến Tre, địch truy nã ráo riết vì tội làm “Cộng sản”. Được tổ chức phân công, ông đã đưa toàn bộ gia đình bên ngoại và gia đình tôi vào “điều lắng” ở U Minh (Cà Mau). Năm ấy tôi vừa tròn 7 tuổi, cái tuổi thơ này hôm nay bắt đầu vào lớp 1 của hệ phổ thông tiểu học; còn trước đó, con cháu của chúng ta đã được chăm sóc, dạy dỗ trong các lớp mầm, lớp lá, chồi ở các trường mầm non. Với tôi, ở thời điểm đó cũng được dăm ba chữ mà ông bà ngoại dạy cho, má tôi cũng không có điều kiện dạy chữ cho tôi nhiều vì suốt ngày phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, lao động ở ngoài đồng lo cái ăn, cái mặc cho một đàn con nheo nhóc khi ba vắng nhà đi kháng chiến. Chuyện đi, ở, ông ngoại không cho ai biết, ngoại trừ má, bà ngoại và tôi. Tôi đành phải chia tay đám bạn nhỏ thời ấu thơ một cách lặng lẽ vì phải bảo đảm yếu tố bí mật của nhiệm vụ “điều lắng”, ông bà ngoại và má tôi trước ngày lên đường hạn chế tôi gặp gỡ bạn bè trang lứa; song mỗi khi có điều kiện gặp mấy thằng bạn thân, thấy tôi không vui vẻ, sôi nổi và hăng hái như những lần trước, chúng nó tưởng gia đình có chuyện gì quay lại tìm hiểu, động viên tôi rất nhiều. Nhớ lời ngoại dặn, tôi không nói nhiều, việc chia tay với bạn bè trang lúa ở miền quê đã sinh ra mình rất lặng lẽ, âm thầm, song nó chất chứa nhiều kỷ niệm đầu đời sâu nặng không thể nào quên.

Gia đình ông bà ngoại và má tôi chuyển đến cư ngụ ở xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Tại đây, được sự giúp đỡ của chính quyền và bà con, cô bác trong vùng căn cứ địa kháng chiến nổi tiếng này, gia đình ngoại và gia đình tôi đã nhanh chóng có chỗ ăn, chỗ ở, có đất làm nhà, làm ruộng và sớm ổn định cuộc sống. Biết tin vợ và các con được ông bà ngoại đưa về cư ngụ ở Đầm Dơi, Cà Mau, theo nguyện vọng của ba, Ban Dân vận của Xử ủy đã nhất trí “điều lắng” ba về Ban Dân vận tỉnh Cà Mau. Từ đó, gia đình tôi sau bao nhiêu năm xa cách nay được đoàn tụ tại căn cứ địa U Minh, trên mảnh đất căn cứ địa với những làng rừng nổi tiếng giữa vòng vây tầng tầng lớp lớp của Mỹ - ngụy.

Ở cái tuổi thiếu nhi (7 tuổi), cái tuổi còn đòi ăn, đòi mặc, vô tư, lo nghĩ chưa tới này, chị em tôi rất náo nức được đến với một vùng đất mới, không biết rằng vùng đất ấy (Cà Mau) lại là nơi mình được đùm bọc, nuôi nấng, dạy dỗ nên người và trưởng thành trong muôn vàn khó khăn, thử thách sau này. Sống, trưởng thành, kiếm miếng cơm manh áo đã phải lao động cật lực, huống hồ lại bị cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, dã man nhất, ngày đêm mang đến sự bất an về tài sản, ruộng vườn, sinh mạng của bản thân, gia đình và quê hương thì thử thách ấy càng tăng lên bội phần.


(1) Ban Biên soạn lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến, Tập 2 (1955 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, 2010, tr. 148.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:03:44 am
Cà Mau là một tỉnh ở cực Nam của Tổ quốc, một thành viên trong gia đình các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất Cà Mau tận cùng của Tổ quốc (nếu theo cách gọi của một số văn nghệ sĩ là mảnh đất cuối trời cực Nam của Tổ quốc) một bức tranh thiên nhiên hài hòa với rừng tràm, rừng đước bạt ngàn, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, với biển cả mênh mông nhiều sản vật phong phú và quý hiếm. Sự gặp gỡ tương tác giữa hai dòng hải lưu của Biển Đông và vịnh Thái Lan cùng với các cửa sông lớn gặp nhau ở mũi Cà Mau làm cho một khối lượng lớn phù sa theo sông Cửu Long tích tụ về đây bồi đắp cho đất mũi mỗi năm vươn dài ra biển hàng chục mét. Vì vậy, khi giới thiệu về lịch sử, truyền thống của mảnh đất này, Nhà thơ Xuân Diệu, trong bài thơ Mũi Cà Mau đã viết:

“Mũi Cà Mau: Mỏm đất tươi non
Mấy năm trời lấn luôn ra biển
Phù sa vạn dặm tới đây tuôn
Lắng lại và chân người bước đến
Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau...”.


Trong cuộc trường chinh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hàng ngàn năm của dân tộc ta, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, mỗi địa phương, mỗi vùng đất của Tổ quốc đều có những đóng góp to lớn, xuất sắc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc. Mỗi địa phương do điều kiện địa lý, truyền thống văn hóa và cách mạng đặc thù đã có những đóng góp và vai trò, ý nghĩa độc đáo riêng, góp sức tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, cả dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù. Với vị trí là “mũi của một con tàu”, Cà Mau cùng với cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy cao nhất truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí cách mạng kiên cường, góp phần đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đạp qua sóng to gió cả đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, cập bến vinh quang.

Người dân trên vùng đất Cà Mau vốn mang trong mình truyền thống anh hùng, cần cù, thông minh, sáng tạo của ông cha. Những giá trị truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng luôn được kế thừa, phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhất là khi Đảng ta ra đời, có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn và sâu sắc hơn. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khi bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, ngày 23 tháng 11 năm 1940 tại Cà Mau, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Phan Ngọc Hiển, cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai đã giành thắng lợi, nghĩa quân chiếm được đảo và lấy được súng. Thắng lợi cuộc khởi nghĩa và sự hì sinh anh dũng của các chiến sĩ không chỉ nói lên lòng yêu nước, ý chí cách mạng kiên cường của quân dân Cà Mau, đồng thời Hòn Khoai đã viết lên những trang sử hào hùng, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Cà Mau, Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay và mai sau. Không chỉ sáng tạo trong khẩn hoang, dựng làng lập ấp, quân dân Cà Mau còn sáng tạo ra nhiều vũ khí và xây dựng nhiều cách đánh độc đáo, giành những chiến công vẻ vang, làm nức lòng đồng bào và chiến sĩ cả nước trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Với địa hình hiểm trở, được rừng tràm, rừng đước bao bọc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, cùng với Đồng Tháp Mười, U Minh đã trở thành căn cứ địa kháng chiến của “Nam Bộ thành đồng”, là trung tâm xây dựng, phát triển lực lượng, là đầu não trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào kháng chiến ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với Nam Bộ, quân dân Cà Mau đã lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiêu biểu là trong kháng chiến chống thực dân Pháp sáng tạo ra thủy lôi chiến, tổ chức diệt tàu chiến Pháp ở Mây Dốc - Vàm Đình năm 1946, đắp cản ngăn sông ở Mương Điều năm 1947...; trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân Cà Mau đã xây dựng và tổ chức những làng rừng (1959-1960), chiến thắng Cái Nước, Đầm Dơi, Chà Là năm 1963,...

Biển rộng có nhiều đảo và hải đảo. Bờ biển dài với ba mặt giáp biển cùng với hệ thống sông, kinh(1), rạch chằng chịt, có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển như Cửa Lớn, Ông Đốc, Đầm Dơi, Đầm Chim, Trèm Trẹm... tạo nên hệ thống giao thông đường thủy vô cùng thuận lợi. Chính vì vậy, trong những giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân Cà Mau theo sự chỉ đạo của Khu ủy đã thiết lập các bến bãi và tổ chức các đơn vị vận tải đặc biệt góp phần hình thành nên con đường Hồ Chí Minh trên biển như ghi nhận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Anh cả của Quân đội ta: “Là một kỳ tích anh hùng, một chiến công huyền thoại, là khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, một sáng tạo chiến lược tuyệt vời của Đảng ta trong thời đại Hồ Chí Minh”(2).


(1) Kênh (BT).
(2) Quân chủng Hải quân: Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 7.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:04:16 am
Những chiến công chói lọi này không chỉ nói lên lòng yêu nước nồng nàn, sự hi sinh to lớn, ý chí cách mạng quật cường, tinh thần chiến đấu quả cảm, thông minh, sáng tạo, quyết chiến quyết thắng của quân dân Cà Mau, mà còn thể hiện rõ niềm tin, tấm lòng thủy chung son sắt với Đảng, Bác Hồ, sức mạnh đoàn kết to lớn vô địch của thế trận chiến tranh nhân dân, của quân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Năm tháng sẽ đi qua, song những giá trị truyền thống hào hùng ấy của Cà Mau anh hùng sẽ tiếp tục được các thế hệ người Cà Mau bồi đắp, phát triển, tỏa sáng, tạo nên sức mạnh to lớn hơn để quân dân Cà Mau thực sự xứng đáng là “mũi tàu”, đưa con tàu Việt Nam vững vàng chống chọi với phong ba bão táp, sóng to gió cả, dưới sự chèo lái của Đảng, ra biển lớn hòa nhập với cộng đồng quốc tế.

Sau khi ông ngoại thực hiện nhiệm vụ “điều lắng” của trên giao, cả gia đình tôi và ông bà ngoại ổn định nơi cư trú ở xã Trần Phán, Đầm Dơi, Cà Mau. Đây là một xã nghèo, song có truyền thống cách mạng. Xã được thành lập năm 1950 thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Bạc Liêu. Khi thành lập, theo nguyện vọng của nhân dân, theo đề nghị của lãnh đạo, chính quyền xã, sự chuẩn y của trên, đã nhất trí đặt tên xã là Trần Phán, tên một đồng chí cán bộ tiêu biểu, ưu tú của Đảng. Đồng chí Trần Phán thuộc thế hệ cán bộ, đảng viên tiền khởi nghĩa, một chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng, là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu. Trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), đồng chí đã hi sinh anh dũng, để lại cho Đảng, cho dân tấm gương một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường.

Khi mới đến, do còn nhỏ, tôi ít quan tâm đến tên tuổi của xã được mang tên ông. Lớn lên khi cắp sách đến lớp học, được thầy cô giải thích, về nhà ông bà ngoại dặn dò, tôi và đám bạn cùng trang lứa bắt đầu tìm hiểu về ông sâu hơn, kỹ hơn. Đầu tiên thấy tự hào, kính phục, đến tuổi thanh niên thấy phải noi gương ông, phải làm việc tốt cho xã, ấp, để xứng đáng với ông. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ, cứu nước, địa danh, địa giới của xã có nhiều biến động; đến nay xã Trần Phán thuộc huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Xã Trần Phán nằm giữa hai con sông Đội Cường - Bảy Háp và Mương Điều. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã có 7 ấp (Bờ Đập, Tân Điền, Công Điền, Tân Phú, Thành Vọng, Trung Cang và Nhị Nguyệt); ngày nay phía bắc xã giáp sông Gành Hào, bên kia là thành phố Cà Mau; phía nam giáp xã Quách Văn Phẩm A, phía đông giáp với xã Tạ An Khương qua ranh giới sông Mương Điều, phía tây giáp xã Tân Hưng, Lý Văn Lâm(1), qua ranh giới sông Đội Cường - Bảy Háp.

Người dân quê tôi sống chủ yếu bằng nghề nông; bám dọc theo các tuyến sông, kinh rạch để làm nhà, trồng lúa... Tuy vậy, việc trồng trọt năng suất còn rất thấp, phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên vì đất thấp, nước ngọt ít, chủ yếu là nước lợ, nguy cơ nước mặn tràn vào phá hoại hoa màu rất cao, vì vậy mỗi hộ gia đỉnh có hàng chục hoặc vài chục công đất trồng lúa, song vẫn nghèo. Sau này, mặc dù chuyển đổi từ trồng lúa sang chăn nuôi, thủy sản, nhưng đời sống kinh tế của nhân dân nhìn chung vẫn còn thấp.

Dù vậy, nhân dân xã Trần Phán vẫn giữ gìn, nuôi dưỡng truyền thống đoàn kết, yêu nước và cách mạng. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong lịch sử khai khẩn đất hoang, lập làng dựng ấp; trong quá trình chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, với cường quyền áp bức. Đặc biệt, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống cao đẹp ấy như được tiếp thêm sức mạnh mới, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành nhiều chiến công vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia và trong thời kỳ đổi mới. Với truyền thống và những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 6 tháng 1 năm 1978, Đảng bộ và nhân dân xã Trần Phán đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.

Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở, do ba tôi thường xuyên đi công tác vắng nhà nên má con tôi chủ yếu sống bên nhà ngoại, được ông bà ngoại chăm lo, dạy dỗ hằng ngày. Mặc dù đã 8-9 tuổi, dáng vóc tôi vẫn nhỏ thó, tính tình trầm lắng, ít nói, nhưng rất nhanh nhẹn, vừa đi học vừa đi làm. Má cho tôi đi học ở các lớp vùng ven, đây là vùng giáp ranh giữa ấp chiến lược và vùng ta (vùng giải phóng, ta làm chủ). Tại vùng này, cách mạng đã tổ chức các lớp học giành cho con em từ trong ấp chiến lược ra và vùng giải phóng theo học. Các lớp học ở thời điểm này luôn bị các cuộc càn quét và máy bay địch uy hiếp, bắn phá; vì vậy khi được báo động, thầy trò đều phải tìm nơi ẩn trú; báo động tan, thì quay lại lớp trong tình trạng khi thì ướt đẫm mồ hôi, khi thì quần áo dính đầy bùn đất, có bạn phải bỏ về “ngang xương” giữa buổi học.


(1) Tên các xã này đều được mang danh các đồng chí cán bộ kiên trung tiêu biểu cho phong trào cách mạng của địa phương qua các thời kỳ.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:06:16 am
Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở, do ba tôi thường xuyên đi công tác vắng nhà nên má con tôi chủ yếu sống bên nhà ngoại, được ông bà ngoại chăm lo, dạy dỗ hằng ngày. Mặc dù đã 8-9 tuổi, dáng vóc tôi vẫn nhỏ thó, tính tình trầm lắng, ít nói, nhưng rất nhanh nhẹn, vừa đi học vừa đi làm. Má cho tôi đi học ở các lớp vùng ven, đây là vùng giáp ranh giữa ấp chiến lược và vùng ta (vùng giải phóng, ta làm chủ). Tại vùng này, cách mạng đã tổ chức các lớp học giành cho con em từ trong ấp chiến lược ra và vùng giải phóng theo học. Các lớp học ở thời điểm này luôn bị các cuộc càn quét và máy bay địch uy hiếp, bắn phá; vì vậy khi được báo động, thầy trò đều phải tìm nơi ẩn trú; báo động tan, thì quay lại lớp trong tình trạng khi thì ướt đẫm mồ hôi, khi thì quần áo dính đầy bùn đất, có bạn phải bỏ về “ngang xương” giữa buổi học.

Tôi còn nhớ, trong một học kỳ, lớp học của tôi bị bỏ bom napan tới ba lần; do được báo động kịp thời nên chúng tôi chạy kịp, không ai bị hại. Tuy vậy, báo động tan, lớp học chỉ còn là một đống tro tàn nghi ngút khói. Các thầy cô, nhất là cô Phượng, thầy Kiệt cùng với chính quyền đã nhanh chóng vận động bà con đóng góp, người ít tranh, người ít cây que... quyết tâm dựng lại lớp học. Chỉ trong hơn một ngày, đám trẻ chúng tôi đã có một ngôi nhà mới để tiếp tục học tập. Sau khi ta giải phóng đồn Mương Điều, tình hình đỡ căng thẳng hơn, việc học hành của chúng tôi ổn định hơn, nền nếp hơn, trường lớp được dựng bằng các cây tràm, xung quanh đã có vách, bàn ghế cũng được đóng bằng cây tràm, dùng sậy làm mặt. Trong chiến tranh, lớp học được xây dựng như vậy là khá tươm tất. Tôi đã học đến lớp 6, lớp do cô Dung và thầy Thọ phụ trách. Do thiếu giáo viên, mỗi thầy cô đứng lớp phải đảm nhiệm ba đến bốn môn. Mặc dù điều kiện học tập khó khăn như vậy, song chúng tôi vẫn luôn nỗ lực duy trì học tập một cách đều đặn, rất chăm chỉ đến lớp, tập trung nghe thầy cô giảng bài, kết quả học tập có nhiều tiến bộ. Trong số học sinh thời ấy, đến nay nhiều người đã thành đạt như: Sáu Trường, Ba Hổ...

Học hết lớp 8, tôi phải nghỉ học để trông em và tham gia lao động sản xuất phụ giúp má như: đi đào đầm thuê, trông coi đầm tôm, cá thuê, cấy mướn... Lúc rảnh rỗi, tôi đan thúng, dần, sàng... - cái nghề mà lúc còn sống ông ngoại đã dạy tôi; sau đó đem bán lấy tiền giúp má trang trải cuộc sống.

Tôi nhớ đầu năm 1962, trước khi ông ngoại hi sinh vài tháng, khi đó tôi được 9 tuổi. Một buổi sáng ông gọi tôi và nói: “Thằng Ba, cháu ngoại ngoan của ông, có muốn ông dạy cho biết đan thúng, dần, sàng không?”. Thấy tôi còn lưỡng lự, ông động viên: “Làm người, muốn trưởng thành phải giỏi một nghề, biết nhiều nghề cháu ạ. Miếng cơm manh áo nó không xa lánh những người chăm chỉ, cần cù lao động”. Thương ông, thấy ông nói vậy, tôi vui vẻ nhận lời. Đầu tiên, ông dạy tôi cách ra nan rất cụ thể, tỉ mỉ và đồng bộ, từ khâu chọn tre, ra thanh, vót nan. Quan sát ông làm, nghe ông hướng dẫn, tôi nghĩ: “Việc này dễ ợt”. Khi bắt tay vào làm mới thấy khó trăm bề, không đơn giản chút nào, thao tác được vài lần, đôi bàn tay tôi khi bị dao, khi thì bị nan cứa, máu ra ở nhiều nơi, sưng vù như muốn nát bàn tay. Thấy vậy ông cười bảo: “Để làm cho giỏi, phải yêu nghề, tinh trí, tinh mắt, khéo tay và kiên trì cháu ạ!”. Tuy vậy, sau ít ngày học ông, tôi bắt đầu thích công việc này và ra nan khá thành thạo.

Bắt tay vào học đan, ông đọc cho tôi nghe câu ca dao lục bát mà ông yêu cầu tôi phải nhớ:

“Bắt tam, đệ tứ, anh ơi
Bắt nhị xong rồi, trở lại đề tam”.

Thấy tôi ngạc nhiên, học đan thúng mà cũng phải bắt học cả dân ca, ông ngoại rắc rối quá! Mặt ông vui lên, giọng ông ôn tồn, chậm rãi kể cho tôi nghe câu chuyện “Mối tình của người đan thúng”. Sà vào lòng ông, mắt tôi chăm chăm nhìn cái miệng kể chuyện rất duyên của ông. Câu chuyện ấy đã hút hết sự chú ý của tôi từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc. Ông kể:

“Có một chàng thanh niên nghèo khó, đi ở đợ cho gia chủ khá giả ở trong làng. Với tính tình hiền lành, nhưng lại thông minh, chịu thương chịu khó, vì vậy chàng đã lọt vào mắt xanh cô con gái rượu chủ nhà. Hay chuyện, vợ chồng ông tìm mọi cách ngăn cấm, thậm chí đầy ải chàng thanh niên này ra trông coi “đìa cá” ngoài làng, cách xa nhà năm đến bảy cây số nhằm chia cắt mối tình “phạm thượng” của họ. Song, càng tách họ ra bao nhiêu thì đôi trai gái ấy tìm mọi cách gắn chặt lại bấy nhiêu. Biết không thể ngăn cách họ bằng cấm đoán, ông chủ nghĩ ra một kế thử tài chàng bằng cách bắt chàng đan một cái thúng, nếu làm được sẽ gả con gái cho, bằng không phải chịu phạt 100 roi và đuổi việc. Biết người mình yêu có tố chất thông minh, sáng dạ, có bàn tay khéo léo, ra nan giỏi, song chưa biết đan thúng bao giờ, cô gái bèn nghĩ ra một kế, nhéo vào đít em cho nó khóc ầm lên, rồi nhanh chóng bồng em lên võng đung đưa và cất lên lời ru ngọt ngào, tha thiết. Nội dung của lời ru chính là câu ca dao lục bát mà ông đã bắt tôi học thuộc. Biết người yêu của mình mách bảo, chàng thanh niên đã hoàn thành xuất sắc lời thách đố của ông chủ. Hai người yêu nhau đã nên vợ nên chồng”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:07:11 am
Chăm chú nghe câu chuyện kể về chàng thanh niên ấy, tôi cảm thấy ông ngoại rất xúc động như kể về chính cuộc đời mình, vì vậy tôi càng thương ông ngoại hơn, tích cực làm theo lời chỉ bảo, hướng dẫn của ông. Ít lâu sau, tôi cũng đã trở thành “người thợ vừa ra nan khá thành thạo, vừa biết đan thúng gần bằng được như ông”. Không ngờ cái nghề đan dát mà ông truyền lại giúp tôi ra nghề hữu hiệu, giúp một phần khó khăn cho má.

Qua lao động tôi cảm nhận thấy, cùng với sự phát triển về dáng vóc, tôi từng bước có sự trưởng thành trong nhận thức về quê hương, đất nước; nhất là mỗi lần ba về, gia đình được sum họp đông đủ trong căn cứ địa kháng chiến, gần ba, nghe ba kể chuyện về những tấm gương chiến đấu, hi sinh của các chiến sĩ cách mạng, về những người anh hùng, về Bác Hồ... đã gieo vào lòng tôi những tình cảm yêu thương kính trọng những người đi kháng chiến, như ông ngoại, như ba, cậu Năm. Đặc biệt, sống trong vòng vây kẻ thù, tiếng nói, niềm tin cách mạng đã như ánh sáng mặt trời dù Mỹ - ngụy dùng muôn vàn âm mưu, thủ đoạn thâm độc, trăm phương ngàn kế cũng không thể che lấp, ngăn cản được “ánh sáng tự nhiên” ấy đến với nhân dân, đến với lớp thanh thiếu niên mới lớn chúng tôi. Mỗi khi có điều kiện, chúng tôi tập trung lại, chọn nơi kín đáo mở Đài Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam nghe tin tức, nhất là chương trình “Tiếng thơ”, nghe sao mà hấp dẫn, thích thú đến thế! Một lần được nghe bài thơ “Bài ca Xuân 68” của Tố Hữu phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi thích nhất đoạn:

“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỳ XX
Một dây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ”.


Nghe không hiểu nhiều, song mỗi chúng tôi đếu thấy, hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân đẹp quá, từng đứa ước được đi chiến đấu và chiến đấu anh dũng như anh giải phóng quân.

Giữa năm 1966, năm ấy tôi đã 13 tuổi, xảy ra một chuyện và mãi mãi là một kỷ niệm khó quên đối với tôi. Lúc đó ba tôi đang bị bệnh thận nặng ở trên cứ; ở nhà, trong một trận càn, địch bắn cối trúng hầm nhà dì tôi, làm Lam (em của dì) chết, tôi bị mảnh cối găm vào trúng phổi, máu ra nhiều. Được sự giúp đỡ của bà con, má lấy ghe chở tôi đi tìm nơi cứu thương, ở một vùng xảy ra chiến tranh ác liệt như thế này, tìm đâu ra các điểm y tế cơ sở, huống chi tôi bị thương khá nặng cần phẫu thuật cấp cứu kịp thời. Thấy vậy, cậu Ba cùng ấp đã lập tức lấy xuồng gắn máy của nhà chở cấp tốc đưa má con tôi ra Cà Mau. Dọc đường đi, nhiều trạm gác của địch chặn lại, cậu Ba chỉ vào tôi la lớn: “Pháo của các ông bắn người ta bị thương, để cho người ta đi bệnh viện, mọi chuyện tính sau”. Thấy vậy, bọn địch cho đi ngay. Đến bệnh viện, nhờ có người bà con của cậu Ba mà tôi được nhập viện ngay. Tuy vậy, bệnh của tôi khá nặng, sau khi sơ cứu, Ban Giám đốc quyết định chuyển tôi lên bệnh viện tuyến trên, Bệnh viện Phan Thanh Giản (Cần Thơ) bằng máy bay trực thăng.

Tại đây, tôi được phẫu thuật dưới bàn tay có trình độ chuyên môn cao của một nữ bác sĩ người Mỹ và êkíp mổ của bệnh viện. Do hoàn cảnh gia đình nghèo, tôi phải được tiếp máu, rất may mắn nhóm máu tôi trùng với nhóm máu của má. Bà bác sĩ người Mỹ nói tiếng Việt rất giỏi. Quá trình chăm sóc tôi, bà đã nảy ra tình cảm má con thân thiện, bà nói với má tôi: “Tôi là người Mỹ, hiện chưa có gia đình, tôi rất thích cậu bé, vóc dáng tướng số nó ngon lành, đề nghị với bà tôi xin cháu làm con nuôi, dạy bảo nó nên người”. Mặc dù đã nhiều lần năn nỉ, má tôi vẫn kiên quyết không cho. Sau một tuần điều trị, tôi đã trốn viện, hai má con lặn lội về vùng giải phóng xã Bảy Đồng (sau này đổi tên là xã Tạ An Khương) - xã anh hùng.

Sống giữa cái nôi của cách mạng, nhỏ là gia đình, lớn lên là quê hương Đồng Khởi và quê hương Cà Mau, nhất là trong vùng căn cứ địa kháng chiến, tôi được sự tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cách mạng rất sớm, từ gia đình, các tổ chức quần chúng cách mạng như đội, đoàn thanh niên; sự giúp đỡ của các cô, các chú cán bộ, đảng viên đi trước. Ngay trên quê hương mình, bản thân tôi được chứng kiến những thủ đoạn thâm độc, tội ác dã man, tàn bạo của kẻ thù. Vì vậy, mặc dù ngay từ khi chưa đến tuổi trưởng thành, song tôi đã có ý nguyện lớn lên sẽ đi theo kháng chiến, theo ba, các bác, các chú, đánh giặc trả thù cho quê hương, cho đồng bào thoát khỏi cảnh “đầu rơi, máu chảy” và sự truy sát của kẻ thù. Tôi và thế hệ thanh niên chúng tôi với hành trang là trang sử truyền thống hào hùng của quê hương Bến Tre đồng khởi, của Cà Mau đất mũi kiên cường, nhất định sẽ trưởng thành như anh giải phóng quân. Tôi tin mình sẽ sống và làm được như thế. Niềm tin ấy lớn dần trong tôi, thường trực trong tôi cả lúc ăn, lúc ngủ và lúc làm việc trong suốt giai đoạn này.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:08:15 am
Chương II

CHIẾN ĐẤU GIỮA VÒNG VÂY ĐỒN GIẶC
(1969-1975)

Sau thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 của ta, Tổng thống Níchxơn buộc phải thay đổi chiến lược từ “chiến tranh cục bộ” sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Âm mưu cơ bản của chiến lược mới này là: Níchxơn và chính quyền Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh dùng “người Việt đánh người Việt”, rút dần quân Mỹ về nước hòng xoa dịu làn sóng đấu tranh ngày một dâng cao của nhân dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh, đưa con em họ trở về với gia đình.

Thực hiện âm mưu đen tối trên, Mỹ - ngụy vẫn dựa vào ba phương thức chủ yếu mà Mỹ gọi là ba cuộc chiến tranh: “chiến tranh giành dân”, “chiến tranh hủy diệt”, “chiến tranh bóp ngẹt”. Cùng với việc đôn quân bắt lính, tăng cường trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại cho ngụy, chúng còn đẩy mạnh các cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác liệt vào các vùng giải phóng, khu vực căn cứ địa cách mạng để bình định, gom dân, chia cắt dân với cách mạng bằng các kế hoạch “bình định cấp tốc”, “bình định bổ sung”, “bình định phát triển”.

Càn quét bình định đến đâu chúng tổ chức lực lượng đóng dày thêm hàng ngàn đồn bốt, phát triển thêm các ấp chiến lược để kìm kẹp, khống chế dân, bóc dỡ, truy sát phong trào cách mạng. Đây là cuộc phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc của địch vào địa bàn chiến lược nông thôn của ta.

Tại Cà Mau quê tôi, hơi nóng và tính hủy diệt của “Việt Nam hóa chiến tranh” đã hiện diện và ngày một tăng lên trên vùng căn cứ địa kháng chiến. Ngay từ cuối năm 1968, địch đã đẩy mạnh các cuộc hành quân bình định với tham vọng sẽ lấn chiếm xong U Minh vào cuối năm 1969. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng đưa lực lượng chiếm và xây dựng căn cứ tiếp vận Năm Căn, tổ chức lực lượng hải quân (Giang đoàn 42, 45), tàu chiến kết hợp với lực lượng Hạm đội 7 vừa phong tỏa bờ biển, kiểm soát chặt chẽ các cửa Bồ Đề, cửa Lớn, Gành Hào, Bảy Háp, sông Đốc..., vừa đánh phá ác liệt các tuyến sông Tam Giang, kinh xáng Cả Ngay, sông Bảy Háp, Đội Cường. Độc ác hơn, tàn bạo hơn, Mỹ - ngụy dùng B52 ném bom rải thảm vào các khu vực Cái Chồn Lớn, kinh Ba, kinh Năm, rải chất độc hóa học tàn phá màu xanh của các cánh rừng U Minh Hạ, gây nên biết bao cảnh tang thương, chết chóc cho bà con, cô bác. các em nhỏ vô tội; nhà cửa, ruộng vườn bị thiêu rụi và tàn phá xác xơ, mồ mả ông cha bị cày xới, san ủi, cuộc sống của hàng ngàn người dân trong vùng căn cứ bị đảo lộn, đe dọa.

Chứng kiến thảm cảnh dã man này, tôi và đảm bạn bè đồng trang lứa trong ấp vô cùng đau xót và căm phẫn chiến tranh, mong muốn mảnh đất này, quê hương mình không còn chiến tranh để mọi người được sống trong thanh bình, yên tâm làm ăn, sum vầy trong tình làng nghĩa xóm.

Trên địa bàn xã Trần Phán quê tôi, tội ác của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” diễn ra không kém phần khốc liệt. Cùng với việc củng cố hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị phản động, các lực lượng vũ trang phòng vệ dân sự, cảnh sát, tề ấp, cán bộ bình định chìm nổi phát triển như nấm, có mặt ở khắp nơi để theo dõi, mua chuộc, đe dọa khống chế nhân dân; đồng thời chúng ra sức nâng cấp, củng cố hệ thống đồn bốt, cả xã có 7 ấp, chúng bố trí 7 đồn, ngoài ra còn 4 đồn giáp ranh với các xã lân cận.

Hàng ngàn người dân xã tôi phải sống trong các ấp chiến lược, lại bị tác động, tra tấn bằng vô vàn những âm mưu và hành động độc ác của kẻ thù như: các luận điệu chiến tranh tâm lý, các cuộc càn quét, lùng sục, truy bắt, truy quét cán bộ, đảng viên. Cuộc sống hết sức ngột ngạt, bức xúc.

Cũng như bao nhiêu người dân xã Trần Phán, tôi vô cùng căm phẫn trước tội ác của giặc; lớp thanh niên chúng tôi luôn trăn trở cần phải làm gì, phải hành động như thế nào để ngăn chặn và tiêu diệt bàn tay vấy máu của kẻ thù, bảo vệ bà con, cô bác, bảo vệ đồng bào. Ở tuổi 15, 16, cũng như biết bao thế hệ thanh niên của dân tộc, của đất nước từ xưa tới nay, chúng tôi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, phải lựa chọn và trả lời nhiều câu hỏi để xác định hướng đi cho tương lai. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước ở từng giai đoạn lịch sử, mỗi thế hệ thanh niên lại có những hướng đi riêng mang tính thời đại. Các bạn trẻ hôm nay, khi đất nước đã độc lập, thống nhất, trên con đường đổi mới, đang mở cửa hòa nhập với cộng đồng quốc tế, có biết bao con đường để lựa chọn, còn chúng tôi và các thế hệ thanh niên lớp trước, khi đất nước chìm đắm trong đêm dài nô lệ thì ít có con đường lựa chọn, chỉ có con đường đúng đắn nhất là “trên trận tuyến đánh quân thù”.

Sau mỗi ngày đi đào đất, cấy thuê cho chủ, tối đến bọn thanh niên đồng sàng lại tụ tập dăm ba đứa bàn chuyện kháng chiến, tìm cách gặp gỡ các cô chú là đồng chí của ba đề đạt nguyện vọng tham gia du kích hoặc thoát ly theo giải phóng quân. Tôi nhớ, một buổi tối khi chúng tôi đang tụm năm, tụm ba bàn chuyện kháng chiến, bà Năm (bà ngoại tôi) đi qua ghé lại tỉ tê góp chuyện: “Tụi bây sao còn bàn tới bàn lui chuyện đi ở. Phải đi đi (đi theo kháng chiến)”. Ngoại đọc luôn mấy câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Bính về vai trò danh phận làm trai:

“Thà rằng chết giữa chiến trường
Còn hơn chết ở trên giường thê nhi”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:10:32 am
Đây là một trong những vần thơ hay nhất của nhà thơ Nguyễn Bính khi ông cùng với “Đoàn nghệ sĩ chiến binh” sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 từ bỏ Sài Gòn hoa lệ vào Chiến khu Đồng Tháp Mười theo kháng chiến. Ở Đồng Tháp Mười, ông có bài thơ xuất sắc về Đồng Tháp Mười; đến năm 1950, ông cùng Ban Văn nghệ Khu 8 về căn cứ U Minh, ông tiếp tục có bài thơ hay về mảnh đất lịch sử này. Nhiều câu thơ, bài thơ xuất sắc của ông được phố nhạc, lưu truyền trong các thế hệ lưu dân vùng căn cứ kháng chiến và lan tỏa cả vùng đất Nam Bộ và cả nước, như bài thơ, bài hát Tiểu đoàn 307 đã sống mãi với thời gian, đi cùng năm tháng.

Là vùng đất cách mạng, căn cứ địa, cái nôi trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cao nhất của cách mạng miền Nam, Khu ủy (Trung ương Cục) trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, cũng như các địa phương khác ở Nam Bộ phải sống trong sự kìm kẹp của Mỹ - ngụy, song vùng đất quê tôi, mọi người, nhất là lớp thanh niên thường xuyên được soi rọi lý tưởng cách mạng do ông bà, cô bác cùng với các cô, các chú hướng dẫn chỉ đường.

Đối với tôi, nợ nước thù nhà đè nặng cả hai vai. Năm 1962, tỏi lên 9 tuổi, đã phải chứng kiến một tai họa, một thảm kịch diễn ra trong gia đình mình. Trong một chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, Mỹ - ngụy đã cho quân lùng bắt được ông ngoại cùng với ông thông gia của ông bà và cậu Năm của tôi (Lê Văn Quang). Ông ngoại là đảng viên cộng sản tích cực hoạt động trên mảnh đất cù lao giàu truyền thống cách mạng, được Đảng “điều lắng” về căn cứ địa kháng chiến tiếp tục xây dựng, phát triển phong trào cách mạng. Cậu Năm là chiến sĩ du kích của xã Trần Phán. Vì hoạt động cách mạng của hai người này mà ông thông gia của ngoại bị bắt oan. Chúng tổ chức tra tấn vô cùng dã man ngay tại nhà, song ngoại và cậu Năm không khai lấy nửa lời, ông thông gia của ngoại nói: “Tôi bị bắt oan”, nhưng chúng không tin, càng đánh ông nặng tay hơn. Chúng lần lượt bắn từng người một hòng lấy cái chết của người trước uy hiếp tinh thần của người sau. Cậu Năm bị chúng bắn đầu tiên, tiếp đó đến ông thông gia, ông ngoại tôi bị bắn sau cùng. Trước khi “tử hình ông ngoại”, chúng cho ông được gặp bà ngoại. Với phong thái, niềm tin bất diệt của người cộng sản, ông bình tĩnh, ân cần động viên bà: “Nó giết tôi nhưng không diệt được cộng sản, bà cố gắng nuôi dạy thằng Quý nên người và nói với nó ai là người giết ông ngoại của nó”. Ông vừa dứt lời, chúng lôi bà khỏi ông và nổ súng. Riêng thi thể của cậu Năm, chúng đem thả dưới đìa sau nhà. Khi chủng rút di, thi thể cậu được đông đảo bà con, cô bác cùng với bà ngoại vớt lên và tổ chức chôn cất ba người chu đáo sau nhà.

Do hoàn cảnh gia đình, ông bà nội mất sớm, ba thường xuyên vắng nhà, cả nhà tôi phải tá túc bên ngoại, nôn tôi là người thường xuyên gần gũi ông, được ông chỉ bảo, chăm lo, nuôi dạy từ miếng cơm, manh áo đến từng điều hay lẽ phải. Vì vậy, ngày ông bị kẻ thù giết hại, tôi buồn rầu, bỏ ăn, ít nói, lầm lũi mấy ngày liền. Được bà ngoại, má và các cậu, các dì động viên, tôi ra mộ thắp hương cho ông và cậu rồi tiếp tục vác dá đi đào đất mướn, song tâm trí tôi không thể quên được vóc dáng, hình ảnh của ông; trong lòng nung nấu quyết tâm phải trả thù cho ông, đó là suy nghĩ duy nhất ngự trị trong tôi sau khi ông mất.

Sau này, khi đã trưởng thành, mỗi lần về quê sang bên ngoại, việc làm đầu tiên của tôi như đã trở thành thói quen, là nhanh chóng ra mộ ngoại thắp hương cho ông và kính báo với ông sự tiến bộ của mình theo lời ngoại dặn. Mỗi lần như vậy tôi không cầm được nước mắt, nhớ ông và biết ơn ông ngoại vô cùng. Tuy ngoại mất đã nhiều năm, song gia đình ngoại được địch xếp loại A (gia đình cộng sản), tiếp tục cho lực lượng hội đồng xã, dân vệ, bảo an, cảnh sát chìm nổi bao vây, mật phục, theo dõi để tiêu diệt “gốc rễ cộng sản” như hội đồng xã tuyên bố.

Nhớ lời ông dặn, bà ngoại vừa tần tảo nuôi dạy đứa cháu ngoại nên người, vừa đấu trí, đấu sức với giặc, tỉm trăm phương ngàn kế bịt mắt chúng, đào hầm nuôi chứa cách mạng. Trong nhà của bà có hầm tránh pháo và các căn hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ. Đánh hơi thấy hoạt động của bà, giữa năm 1969, một buổi sáng khi ngoại đang gói bánh cho mấy đứa em tôi đi bán sớm, địch bất ngờ ập đến, sau một hồi sục sạo, tìm kiếm, không phát hiện được gì, chúng đưa bà ngoại về hội đồng xã tra khảo. Ra tù, ngoại kể: Ở cái tuổi của một bà già hơn 60, phải đương đầu với hệ thống giam cầm, tù đày những người yêu nước của Mỹ - ngụy, ngoại phải cắn răng, cắn lợi, gồng mình lên vượt qua ba ngón đòn tra tấn của xã trưởng và chân tay của hắn. Đòn đầu tiên nó cho bà nếm là ngón đòn “máy bay cất cánh”, dùng dây trói chân, tay bà treo lên khỏi mặt đất, bà không khai nửa lời; thấy vậy chúng lại triển khai ngón đòn thứ hai, cho bà đi “tàu ngầm”, cột chân tay bà ngâm dìm xuống kinh cho đến khi gần chết mới kéo lên, bà vẫn không khai; chúng tức quá lồng lộn “thưởng” cho bà ngoại đòn thứ ba, chúng gọi tên là “xích đu”. Quá sức chịu đựng sau ngón đòn thứ hai, bà ngất đi, người lạnh toát, khi tỉnh lại mở mắt thấy ba thằng cảnh sát to cao lực lưỡng ở ba góc treo bà lên, đá qua đá lại. Nghĩ đến ông, bà ráng chịu dựng, sức cùng lực kiệt bà lại ngất đi một lần nữa, tỉnh dậy bà thấy mình được chăm sóc trong những vòng tay, sự quan tâm yêu mến của các cô, các chú tại nơi giam giữ của Hội đồng xã. Hôm sau, không khai thác được gì, trước sự đấu tranh của bà con, bọn Hội đồng xã phải thà bà về. Đúng là luật pháp hà khắc, vũ khí hiện đại, tâm địa độc ác, âm mưu, hành động dã man và tàn bạo của kẻ thù không làm lung lay ý chí, niềm tin của nhân dân miền Nam nói chung, những người phụ nữ như bà ngoại tôi nói riêng đối với con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:18:00 am
Đón ngoại về trong vòng tay yêu thương của cả nhà, nghe ngoại kể những đòn tra tấn. tinh thần chiến đấu và chiến thắng trước âm mưu, hành động dã man, tàn bạo của địch để bảo vệ cách mạng, tôi càng thấy tự hào và xác định ngay con đường mình đã chọn. Đó là con đường cách mạng mà ông bà nội, ông bà ngoại, ba và các chú, các cô đã đi. Nợ nước, thù nhà càng thôi thúc tôi đi theo kháng chiến.

Ngày 5 tháng 7 năm 1969, tôi chính thức tham gia cách mạng. Tôi nhớ tối hôm ấy, cơm nước xong, bà ngoại nhắc: “Tối nay con đừng đi chơi đâu, nhà có việc đấy”. Hiểu ý ngoại, tôi không đi đâu cả. Đến khuya, ngoại đánh thức tôi, dẫn tôi xuống hầm bí mật, căn hầm mà một đôi lần ngoại cho tôi xuống để gặp ba và chú Tám Phớn (cán bộ giao liên của tỉnh) mỗi lần ba về thăm nhà. Trong căn hầm này, ngoài ngoại còn có cậu Bảy Thắng, nghe bà giới thiệu là cán bộ huyện đoàn, gặp tôi cậu nói luôn: “Ba Quý năm nay đã 16 tuổi, có muốn tham gia cách mạng không?”. “Cháu đã sẵn sàng”, tôi khẳng định ngay với cậu. Nói xong tôi nhìn ngoại, ngoại thấy tôi lập tức trả lời dứt khoát với cậu Bảy Thắng mà không cần suy nghĩ, ngoại nói luôn: “Việc cách mạng gian khổ lắm đó con, cái sống cái chết liền kề, liệu con có vượt qua được không, con suy nghĩ cho kỹ. Đi là phải tiến, dừng lùi, xấu hổ với ông ngoại lắm đó!”.

Nhìn ngoại, tôi biết ngoại sung sướng biết nhường nào vì đứa cháu ngoại cưng đã lớn khôn, biết chọn con đường mà ông ngoại, ba nó đã đi. Bà đã sớm hoàn thành phần quan trọng nhất trong ước nguyện của ông ngoại trước lúc ra đi. Bà rưng rưng nước mất, giọt nước mắt ấy tôi biết bà rất sung sướng vì tôi đã làm đúng những điều bà hằng mong ước. Tuy vậy bà rất lo cho tôi, vì con đường phía trước đầy gian khổ, hi sinh, thử thách, không biết đứa cháu yêu của bà còn non nớt như vậy có vượt qua nổi không?

Cậu Bảy phổ biến luôn: “Thời gian qua, tổ chức đã theo dõi và giao cho cháu một số việc cháu đã hoàn thành, nay cháu đã đủ điều kiện trở thành Đoàn viên thanh niên lao động Việt Nam (Đoàn Thanh niên giải phóng). Hôm nay, tổ chức Đoàn sẽ làm lễ kết nạp cho cháu”. Tuy phải sống trong lòng địch, song trong căn hầm của ngoại vẫn được các cô, chú, ngoại trang trí khá nghiêm chỉnh, có cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ. Khi tổ chức lễ kết nạp, ngoại ra khỏi hầm làm nhiệm vụ cảnh giới. Cậu Lê Văn Tân (Bảy Tân), chị Hai (Trần Kim Loan) vào hầm cùng tham dự. Cậu Bảy Thắng đọc quyết định kết nạp. Tôi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Tổ quốc, có cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng, ở giữa hai lá cờ có ảnh Bác Hồ. Trong niềm xúc động, tự hào, tôi giơ tay xin thề ba lần, nguyện hi sinh, phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đọc mấy câu đầu, tôi xúc động quá, tim đập thình thịch, người cứ rung lên, miệng lắp bắp không nói nên lời. Được chị Hai động viên, tôi bớt hồi hộp hơn, đọc các câu còn lại khá hơn, tuy được chị Hai nhắc nhở nhiều lần.

Sau phần tuyên thệ, cậu Bảy Thắng phân công tôi sinh hoạt Tổ du kích bí mật do cậu Tân làm Phân đoàn trưởng, chị Hai tôi làm Phân đoàn phó. Lúc đó, tôi mới biết hai người này là chiến sĩ du kích của xã. Từ đây, tôi vừa là em, vừa là đồng chí của chị. Tôi hứa với lòng mình sẽ sống, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, xứng đáng với sự tin tưởng của cách mạng, sự quan tâm, yêu thương của mọi người, trong đó có ngoại, ba, má, cậu Bảy và chị Hai của tôi. Lặng đi ít lâu, cậu Bảy Thắng lại nói tiếp: “Để dễ bề hoạt động, tổ chức đổi tên cho cháu là Trần Phi Hổ, thay cho tên Trần Lê Quý mà cháu đang mang. Mang danh này tổ chức muốn cháu dũng mãnh lên trong hoạt động cách mạng, xứng đáng với truyền thống cách mạng kiên cường của quê hương Cà Mau vùng căn cứ địa kháng chiến”.

Từ đây, tôi được mang tên Trần Phi Hổ, cái tên gắn bó với cuộc đời chiến đấu của tôi từ khi đó đến những năm tháng trưởng thành, phát triển sau này. Sau lễ kết nạp, cậu Bảy Thắng giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi: “Cháu hoạt động bán công khai, vừa đi làm giúp má vừa theo dõi, phát hiện các hoạt động của bọn tề điệp, hội đồng xã... kịp thời cung cấp thông tin về địch cho cậu Bảy Tân”. Lần đầu tiên được cách mạng trực tiếp giao nhiệm vụ, tôi phấn khởi và háo hức vô cùng, từ tận sâu trái tim mình tôi như thầm hứa với ông ngoại, với các cô, các chú sẽ quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng giao dù phải hi sinh đến tính mạng. Muốn nói lắm mà không nói nên lời.

Ngay sau ngày giải phóng, tôi tranh thủ về thăm ngoại, cùng ngoại thăm lại căn hầm này, ngoại nói: “Ba ạ! Chiến tranh kết thúc rồi, ngoại muốn tháo gỡ căn hầm này để khép lại quá khứ của chiến tranh, mọi người tập trung lo làm ăn, xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn và cũng để ngoại đỡ nhớ ông ngoại, cậu Năm, cậu Bảy mày hơn”. Vâng lời ngoại, tôi đã mất hơn một buổi mới tháo gỡ hết căn hầm này trong sự ngỡ ngàng của hàng xóm láng giềng về quy mô, độ mật, tính bất ngờ của nó. Bà Sáu Lùng, bà Năm Đá, hàng xóm của ngoại chia sẻ với tôi: “Tao biết căn hầm này từ lâu, địch tra hỏi tao nhiều lần, tao đâu có khai”. Đồng bào ta là vậy! Cách mạng có cái gì, cả ưu điểm và khuyết điểm mà giấu được dân! Càng trưởng thành, trên các cương vị khác nhau, tôi lại càng cảm nhận vai trò to lớn của quần chúng, của nhân dân với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với từng nhiệm vụ của đơn vị mà tối tham gia lãnh đạo, chỉ huy. Từ thông tin của bà Sáu Lùng, bà Năm Đá, hai bà hàng xóm của ngoại, tôi càng thấm tình làng nghĩa xóm; lòng tin vào cách mạng của người dân quê tôi là trên tất cả, hơn cả cái chết của họ. Lặng đi một hồi lâu, tôi chỉ còn biết cảm ơn bà Sáu và bà Năm.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:18:21 am
Sau lễ kết nạp Đoàn đầy ấn tượng ấy, tôi tiếp tục đi làm mướn lấy tiền giúp má và ngoại. Công việc hằng ngày của tôi thường không ổn định, khi đào đìa mướn, khi đi cấy mướn... việc gì làm ra tiền tôi đều chịu khó làm. Tuy vậy, so với trước, tôi đã biết chú ý hơn tới hoạt động của địch, nhất là bọn Hội đồng xã trong thôn, trong ấp.

Giữa năm 1969, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thực sự được Mỹ - ngụy thực thi một cách quyết liệt trên địa bàn U Minh. Họ nhằm bình định bằng được căn cứ địa kháng chiến của ta. Ở Đầm Dơi, Tiểu khu An Xuyên, ngụy tăng cường lực lượng, trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh cho căn cứ Chà Là, phân chi khu Tân Hưng và các đồn bốt; bố trí cả trận địa pháo hai khẩu 105mm tại Đầm Dơi, khống chế tuyến sông Đội Cường (Bảy Háp); triển khai hệ thống đồn bốt dầy đặc như các đồn: Hòa Trung, Hội đồng Viễn, Hội đồng Ninh, Cài Keo, Bờ Đập, Nhị Nguyệt, Chà Là... Đồng thời với việc tổ chức, hệ thống đồn bốt, chúng liên tục tổ chức các cuộc hành quân càn quét thọc sâu vào hai bên sông Đội Cường (Bảy Háp), gây thiệt hại nhiều tài sản, tính mạng của nhân dân, uy hiếp tinh thần cách mạng của quần chúng.

Tại xã Trần Phán, do đặc thù địa hình của xã nằm giữa hai con sông Mương Điều và Đội Cường (Bảy Háp), nên địch quyết tâm sớm bình định cho được địa bàn quan trọng này, làm bàn đạp bình định sang địa bàn các xã khác. Chúng tập trung nâng cấp đồn Tân Hưng thành Hội đồng xã, có cảnh sát, xã trưởng, xã phó, chủ ấp, lực lượng phòng vệ dân sự, lực lượng thám báo, biệt kích thường xuyên hoạt động; chúng rình rập, thọc sâu vào khu vực Nhị Nguyệt, Cây Trâm, kinh Giáo Cử, kinh Quẹo... để phục kích phát hiện, bắt cóc, bắn giết cán bộ ta, đe dọa, uy hiếp gia đình có con em tham gia kháng chiến. Nguy hại nhất là bọn tâm lý chiến, ngày đêm cùng với bọn tình báo, cảnh sát, tề ấp, bọn tay sai rình rập chỉ điểm cơ sở cách mạng, truy bức, sát hại nhân dân, truy bắt những người cộng sản nhằm chia cắt, tách dân ra khỏi lực lượng cách mạng. Phối hợp với lực lượng này, địch tập trung một lực lượng lớn bảo an, dân vệ tổ chức càn quét, chiếm đất, giành dân, tổ chức hệ thống đồn bốt tiếp tục khống chế dân, đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi dân nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch bình định cấp tốc của địch. Trên địa bàn xã Trần Phán, chúng đã tổ chức được một hệ thống đồn bốt dày đặc với 7 đồn nằm ở 7 ấp và 3 đồn giáp ranh ở khu vực xã liền kề và 1 đồn ở giáp phân chi khu.

Trước hành động càn quét và bình định của địch, trong xã Trần Phán có một số cán bộ ta bị tróc khỏi địa bàn, chạy dạt sang xã khác, làm cho xã trở thành vùng trắng. Quán triệt chủ trương về chống phá bình định của địch, giữ vững phong trào cách mạng của Huyện ủy Đầm Dơi với phương châm cơ bản là “cán bộ bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”, thực hiện quyết tâm “một tấc không đi, một ly không rời”. Triển khai chủ trương của Huyện ủy, Chi bộ xã Trần Phán đã quán triệt thông suốt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân xác định rõ tư tưởng bám trụ (ba bám như chủ trương của Huyện ủy Đầm Dơi). Trong đó, trước hết phải xây dựng được cơ sở bám trụ (cơ sở cách mạng không để vùng trắng), tiếp đó là củng cố ngay lực lượng giao liên để kịp thời nhận chỉ thị của trên, nắm tin tức địch, truyền đạt được mệnh lệnh lãnh đạo, chỉ huy; củng cố, phát triển lực lượng dân quân du kích, nhất là phải củng cố, kiện toàn tổ du kích mật.

Giai đoạn này, Ban Chỉ huy Xã đội Trần Phán, có đồng chí Lâm Văn Tống (Tư Long) trên đường đi công tác bị rơi vào ổ phục kích của bọn biệt kích Mỹ đã hi sinh anh dũng. Trên quyết định đồng chí Ba Luyến làm Xã đội trưởng, đồng chí Trần Văn Cơ (Bảy Cơ) làm Chính trị viên, đồng chí Cọp làm Xã đội phó, đồng chí Huỳnh Thành Quyền làm Chính trị viên phó. Lực lượng du kích phát triển hơn một tiểu đội bao gồm nhiều tổ, trong đó có tổ du kích mật do cậu Lê Văn Tân - Phân đoàn trưởng làm Tổ trưởng.

Sau khi được đứng trong đội ngũ của Đoàn, là chiến sĩ của Tổ du kích mật xã Trần Phán, chờ mãi mà không thấy cậu Bảy (Lê Văn Tân) - Tổ trưởng phân công nhiệm vụ cụ thể nào, tôi rất sốt ruột hỏi chị Hai, chị nhìn tôi mỉm cười rồi bảo: “Chuyện đánh giặc là chuyện lớn, lâu dài, phải kiên nhẫn chờ đợi, em còn trẻ lại mới vô du kích, các chú, các anh phải giao việc cho em từ dễ đến khó, từ nhỏ đến lớn để rèn luyện bản lĩnh, đừng nóng vội mà hỏng việc”. Nghe lời chị, tôi tiếp tục chờ đợi. Rồi một buổi tối, cậu Bảy Tân gọi tôi ra sau nhà giao cho tôi một số lượng lớn truyền đơn và nói: “Theo thông báo của trên, sắp tới bọn chủ lực ngụy thuộc Sư đoàn 21 cùng với lực lượng hải quân, không quân, sẽ mở cuộc càn quét nhằm bình định cho được căn cứ U Minh, trong đó huyện Đầm Dơi, xã Trần Phán là địa bàn quan trọng mà địch muốn chiếm. Nhân cơ hội này, bọn Hội đồng xã sẽ tung lực lượng kết hợp quân chủ lực thực hiện chiến lược “Phượng hoàng” đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, dùng loa phóng thanh, truyền đơn trên máy bay phóng xuống hòng đe dọa, mua chuộc lực lượng vũ trang và nhân dân, bôi xấu cách mạng, ca ngợi quân lực Việt Nam cộng hòa để tổ chức bắt lính. Chi bộ xã quyết định giao cho em tổ chức hai việc: thu tin địch và rải truyền đơn vào đồn bốt, các cơ sở, trụ sở trong Hội đồng xã”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:18:44 am
Nhận nhiệm vụ, tôi nghĩ, hai việc này liên quan với nhau dữ lắm. Nắm, thu được tin địch mới có kế hoạch đưa truyền đơn vào các cơ sở của địch, phải ưu tiên tổ chức nắm thu tin địch trước. Lực lượng làm tốt cả hai việc này là các em thiếu niên và các chị phụ nữ dễ tiếp xúc với bọn lính ngụy, ít bị chúng nghi ngờ. Nói là làm, hàng ngày đi đào đất mướn, tôi vừa kết hợp tranh thủ quan sát các cơ sở của địch, làm quen với bọn lính. Tối tôi gom một số em thiếu niên gợi mở chuyện về tội ác của bọn ngụy, dò thử thái độ của từng em để chọn lựa giao nhiệm vụ. Khi đã hiểu được các em, tôi hướng dẫn cho các em biết cách dò la thu tin địch. Cùng với việc tổ chức các tổ thiếu niên thu tin địch, tôi còn tổ chức phát triển được hai cơ sở phụ vận.

Sau một thời gian, được sự cung cấp thông tin của các em, của các cơ sở cách mạng, tôi đã nắm khá rõ hệ thống đồn bốt và hoạt động của địch ở trong xã, tôi đã làm kế hoạch rải truyền đơn vào các cơ sở của địch. Được cậu Lê Vân Tân – Tổ trưởng nhất trí, các tổ thiếu niên, các cơ sở cách mạng lợi dụng sự sơ hở của địch, vừa bí mật, vừa công khai tiếp cận đưa truyền đơn vào tận sào huyệt địch, bảo đảm an toàn.

Chiến công đầu tiên của tôi được các cô, các chú biểu dương vì đã góp phần vạch trần âm mưu, thủ đoạn nhằm đổi trắng thay đen của địch. Tôi cũng bước đầu rút ra cho mình một bài học đầu tiên về công tác tổ chức lực lượng cách mạng: Bất cứ nhiệm vụ nào, dù phức tạp hay đơn giản, dù khó hay dễ, phải dựa vào nhiều người, căn cứ vào khả năng, đặc điểm của từng đối tượng để tổ chức và giao việc thì sẽ giành thắng lợi.

Sau ngày Quốc khánh 2-9-1969, qua Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh Giải phóng, được tin Bác Hồ kính yêu qua đời, người dân quê tôi, khắp nơi từ những người đang làm đồng đến làm việc nhà, ở trong các nhà thương, chợ búa, trường học... đều đau buồn khôn xiết; mọi hoạt động như ngừng lại, một không khí đau thương, mất mát to lớn bao trùm mọi làng quê, thôn ấp của khắp vùng căn cứ địa. Theo chủ trương của Huyện ủy Đầm Dơi, trong điều kiện khó khăn ác liệt của chiến tranh, tùy điều kiện cụ thể từng xã tổ chức lễ truy điệu và để tang Bác thật trang nghiêm, chu đáo, bảo đảm an toàn. Riêng huyện sẽ tổ chức xây dựng đền thờ Bác ở Bầu Hầm để bà con có dịp đến lễ viếng thỏa lòng mong nhớ Người.

Xã Trần Phán là xã vùng trắng, các cơ sở chính trị, lực lượng vũ trang địa phương mới khôi phục lại chưa mạnh, để bảo đảm an toàn, Chi ủy quyết định không tổ chức lễ viếng tập trung, chỉ tích cực kịp thời phổ biến tin Bác mất cho các đối tượng, từng tổ du kích phát động phong trào “Biến đau thương thành hành động cách mạng”, tổ chức các trận đánh tiêu hao, tiêu diệt địch.

Thực hiện chủ trương của Chi ủy giao, cậu Lê Văn Tân họp toàn tổ bàn kế hoạch tổ chức một trận đánh. Nhiệm vụ đang triển khai tích cực thì cậu Bảy Tân lâm bệnh nặng rồi mất. Chi ủy quyết định giao cho tôi thay cậu làm Đội trưởng chỉ huy Tổ du kích bí mật của xã. Cậu mất, lòng tôi đau xót, ngổn ngang bối rối vô cùng. Cậu mất, tôi mất đi một người cậu mà tôi hết mực yêu thương, quý trọng. Sau ông ngoại, cậu Năm, giờ đến cậu Bảy, không biết bà ngoại tôi có chịu nổi những đau thương, mất mát quá lớn này không? Chiến tranh ác liệt quá! Nó cướp dần đi từng người con ưu tú của mỗi gia đình. Chính vì vậy, đất nước này, dân tộc này đang phải tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa để loại bỏ cuộc chiến tranh phi nghĩa.

Cậu Bảy mất, tôi mất đi một người đồng chí, người chỉ huy trực tiếp đã định hướng, hướng dẫn tôi đến với cách mạng, dìu dắt tôi những ngày đầu tham gia kháng chiến. Nay cậu đi rồi, tôi không còn người chỉ bảo thân tình, ruột thịt như cậu, cấp trên lại giao cho tôi đảm nhiệm nhiệm vụ của cậu để lại. Thật là một thử thách quá lớn với tôi! Song, chiến tranh không cho phép mỗi người trong cuộc kéo dài sự ủy mị, đau buồn quá lâu. Ngoại, má, các chú, các cô đã phải nhiều lần gạt nước mắt nhìn về phía trước. Thương cậu, thương ngoại, tôi tự hứa với lòng mình dù phải hi sinh đến tính mạng, tôi quyết phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà cậu để lại, nối tiếp xứng đáng con đường mà cậu đã đi.

Cuối năm 1969, Ban Chỉ huy Xã đội Trần Phán có sự thay đổi. Đồng chí Trần Vãn Cơ lên làm Xã đội trưởng, đồng chí Huỳnh Thanh Quyền làm Chính trị viên phó, đồng chí Nguyễn Văn Huấn làm Xã đội phó. Thời kỳ này, địch đẩy mạnh chiến lược “bình định cấp tốc”, là xã trọng điểm trong kế hoạch bình định của địch nên đã khó khăn, càng khó khăn hơn.

Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1970, trên địa bàn xã, địch tiếp tục củng cố thêm các đồn Mương Điều, ngã tư xóm Ruộng, Miễu Ông Tà, Tân Lợi, Tân Bình và Tân Long. Lợi dụng lực lượng địa phương quân của xã Trần Phán đang giai đoạn củng cố, chưa mạnh, địch đi lại tự do, chúng tích cực tổ chức lực lượng lùng sục thôn xóm, ruộng vườn trong các ấp để tìm kiếm, bắt bớ lực lượng cán bộ bám trụ của ta.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:20:26 am
Ngày 29 tháng 3 năm 1970, được tin cơ sở báo có hai tên thám báo từ vàm Nhị Nguyệt đi xuồng máy vào ngọn Nhị Nguyệt. Lực lượng du kích xã Trần Phán do đồng chí Huỳnh Thanh Quyền chỉ huy, tổ chức trận phục kích gồm hai tổ; trong đó Tổ 1 (Tổ du kích mật) do tôi phụ trách, làm nhiệm vụ đánh xuyên hông (chính diện). Đúng kế hoạch, hai tên thám báo lọt vào trận địa phục kích của ta, tôi phát lệnh nổ súng tiêu diệt gọn hai tên tại chỗ, trong đó có tên Nhân - thám báo ác ôn vùng này, thu 2 súng M16.

Trong những năm 1970, địch tiếp tục gia tăng kế hoạch “bình định cấp tốc” trên địa bàn huyện Đầm Dơi, xã Trần Phán là trọng điểm của Tiểu khu An Xuyên. Chúng tiếp tục tô dày hệ thống đồn bốt, xây dựng Giá Ngựa thành đặc khu tổ chức trận địa pháo 105mm; nâng Hội đồng xã và đồn Tân Hưng lên thành phân chi khu. Địch đẩy mạnh các cuộc càn quét, bình định chà đi xát lại, bao vây chia cắt địa bàn, khủng bố, vây ráp, bắt bớ, giam cầm. bắt tất cả những người mà chúng nghi là cộng sản. Tên Xã trường Út Đệ, một tên tay sai đắc lực của Mỹ - ngụy(1), được trên tâng bốc và khuyến khích, đã cùng với bọn ác ôn khát máu ngày đêm lừng sục, đe dọa, truy sát cán bộ, đảng viên ta; tích cực đôn đốc sát cánh với bọn chủ ấp áp sát gia đình cán bộ, chỉ điểm nhiều cơ sở cách mạng cho địch, bắt bớ, chém giết rất dã man. Trước âm mưu, thủ đoạn và hành động đánh phá quyết liệt của kẻ thù, nhiều cán bộ không bám nổi địa bàn, phải lánh qua xã bạn, kể cả lực lượng du kích xã. Tình hình xã Trần Phán giai đoạn này gặp rất nhiều khó khăn, thử thách to lớn. Từ vùng trắng mới củng cố lại, lực lượng cách mạng tuy chưa mạnh song ít nhiều cũng đã có cơ sở cách mạng bám trụ. nay đứng trước nguy cơ trở lại vùng trắng.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Đầm Dơi về chống phá đến cùng kế hoạch bình định cấp tốc của địch, Chi ủy xã Trần Phán có chủ trương: “Gấp rút củng cố lực lượng từ trên xuống dưới, tập trung cố gắng xây dựng cơ sở, bám trụ địa bàn, đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh”. Xã Trần Phán được Huyện ủy Đầm Dơi chọn làm điểm để chỉ đạo đánh phá kế hoạch bình định của địch. Huyện đã đưa đồng chí Lê Công Bình (Bảy Rẫy) về làm Bí thư Chi bộ xã Trần Phán.

Trước mắt, vì chưa có cơ sở cách mạng vững vàng, lực lượng vũ trang xã Trần Phán phải rút về xóm mới, Cây Kè, Cống Đá thuộc xã Tân Duyệt: Nhà Cũ, Lung Lá. kinh Cạn.- thuộc xã Quách Văn Phẩm A; Nông trường Thanh Tùng, Hiệp Hòa thuộc xã Quách Văn Phẩm B. Tuy hoạt động ở xã bạn, song du kích xã Trần Phán phải trực tiếp tham gia chiến đấu chống càn theo kế hoạch chung của Ban Chỉ huy Huyện đội. Vừa đánh giặc, vừa xin gạo của dân ăn, lại chiến đấu trên địa bàn xã bạn, anh em nói đùa “đi đánh giặc mướn”. Khi lực lượng vũ trang xã phải rời khỏi địa bàn, theo chỉ đạo của đồng chí Lê Công Bình - Bí thư Chi bộ xã, đồng chí Trần Văn Cơ - Xã đội trưởng giao nhiệm vụ cho tôi chỉ huy Tổ du kích nòng cốt của xã trụ lại bám địch xây dựng cơ sở cách mạng, khôi phục lại phong trào.

Trước nhiệm vụ khó khăn, phức tạp này, tôi đã động viên anh em: “Đảng, cách mạng và nhân dân rất tin yêu và đang cần sự hi sinh, cống hiến của anh em. Đừng vì thiếu suy nghĩ, cân đong đo đếm thiệt hơn mà đánh mất đi danh dự của mình, quên đi nhiệm vụ trả thù cho biết bao đồng bào, đồng chí đã bị địch sát hại”. Được động viên kịp thời, cả Tổ du kích mật của xã trụ lại địa bàn, hăng hái đi bám địch và xây dựng cơ sở cách mạng. Thực hiện các nhiệm vụ này trong điều kiện địch vây ráp, khủng bố liên miên, cơ sở cách mạng trên địa bàn của xã rất yếu, là một thử thách to lớn đối với anh em. Toàn đội nhiều ngày đêm không vào được các ấp vì địch phục kích, lùng sục ráo riết phải ở bờ đìa, bờ liếp, bờ sậy. Ngày nắng đã vậy, ngày mưa người ướt sũng, lạnh rét đến run người. Cực nhất là bị vắt cắn, hễ thấy chỗ nào ngứa là thấy có máu do vắt cắn. Trong những ngày bám địa bàn, ban ngày nằm ngoài bờ, ngoài bụi, chờ đêm xuống mới xâm nhập vào các thôn ấp thực hiện nhiệm vụ được giao. Có đồng chí nằm phục cả ngày ở đám lức dưới trời nắng chang chang, bụng đói, ráng chịu chờ trời tối vô ấp đến nhà dân xin cơm ăn. Cực là vậy, nhưng toàn đội đã bám trụ dài ngày, hoàn thành tốt hai nhiệm vụ trên giao: nắm địch và xây dựng được cơ sở bí mật trong xã, được đồng chí Trần Văn Cơ - Xã đội trường và đồng chí Lê Công Bình - Bí thư Chi bộ xã biểu dương.

Trong số các cơ sở bí mật, tôi đã xây dựng được cơ sở bí mật ở đồn Mương Điều. Cuối năm 1970, thông qua cơ sở mật ở đồn này, ta đã điều được tên Hai Giái - Phó đồn có nhiều nợ máu với dân, rất hung hăng, hận thù với cách mạng. Đúng kế hoạch, cơ sở đã dụ được hắn ra khỏi đồn đến đoạn trống của đập Bảy Gương, hắn lọt vào ổ phục kích của Tổ du kích. Tôi hạ lệnh nổ súng xử tử hắn, găm lên ngực hắn bản án tử hình của “Việt cộng” vì tội làm tay sai cho giặc, phản nước, hại dân, để cảnh cáo những tên tay sai, ác ôn đầu sỏ khác. Sau cái chết của Hai Giái, tình hình trong ấp dễ thở hơn rất nhiều, bọn địch trong đồn không còn nghênh ngang, hống hách như trước.


(1) Tên Út Đệ thời chống thực dân Pháp đã từng làm Chủ ấp, nay tiếp tục theo Mỹ làm Chủ ấp.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Năm, 2022, 08:21:23 am
Thông qua công tác nắm địch, Tổ du kích mật của xã đã kịp thời cung cấp thông tin cho Ban Chỉ huy Xã đội, góp phần vào những chiến công của du kích xã Trần Phán trong giai đoạn này là diệt hai tên lính ngụy trong đồn Cai Hựu (tháng 4-1970), cùng với lực lượng nội tuyến diệt đồn ngã tư xóm Ruộng (tháng 12-1970); trong trận này lực lượng vũ trang của xã đã diệt 15 tên địch, thu 11 súng các loại, 1 máy vô tuyến điện PRC-25 và nhiều trang bị vũ khí khác.

Sống giữa vòng vây kìm kẹp của Mỹ - ngụy, ngày đêm chúng huy động mọi lực lượng, sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc chia rẽ, mua chuộc, đe dọa, bắt bớ, giam cầm, bắn bỏ. Chấp nhận tất cả, bà con, cô bác xã Trần Phán vẫn hướng về cách mạng, hướng về Đảng, Bác Hồ với niềm tin son sắt. Ý chí, tình cảm, niềm tin ấy được thể hiện bằng những biểu hiện tình cảm và việc làm cụ thể đối với cách mạng. Tổ chức chỉ huy Tổ du kích mật của xã trụ lại bám địch trong thời điểm thử thách, khó khăn, gian khổ ấy, tôi càng cảm nhận rõ hơn tấm lòng nồng nàn và sâu nặng với cách mạng của bà con thân thuộc quê tôi.

Nói xã Trần Phán trong giai đoạn 1969-1970 là vùng trắng là do các cơ sở không bám trụ được, hoặc là tạm thời không hoạt động vì không an toàn, chứ tấm lòng của bà con vẫn hướng về cách mạng, nhiều gia đình vẫn âm thầm lặng lẽ đào hầm bí mật, tích trữ lương thực, sẵn sàng đón “người đàng mình” về nuôi giấu, đùm bọc, bám trụ để hoạt động. Tổ du kích mật đã móc nối xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng như gia đình chị Lê Thị Bây, gia đình bà Thu Hồng, gia đình bà ngoại…

Giữa năm 1971, một tổ do tôi chỉ huy gồm Sáu Ân và Tài, giả làm người giăng câu đột nhập vào nhà Tư Quang - Trưởng ấp Hội đồng Viễn để phát triển, xây dựng cơ sở mật. Qua nắm tình hình thông tin của cơ sở cung cấp, Tư Quang tuy là Trưởng ấp song cư xử đối với dân khá lễ phép, không hống hách, chèn ép, thường giữ thái độ im lặng khi nói về cách mạng, không như những tên tay sai khác, tôi quyết định cho tổ tiếp cận với Tư Quang tại nhà ông ta vào một buổi tối, ban đầu Tư Quang từ chối, chỉ hứa làm Ấp trưởng, sẽ không tố giác (báo cáo lên trên) về hoạt động của du kích. Sau một hồi vận động, thuyết phục, tôi chủ yếu đi sâu so sánh: “Bọn bán dân, hại nước của ngụy quân, ngụy quyền hiện nay có mạnh, song không tồn tại được lâu. Tình thế cách mạng tuy còn khó khăn song được dân ủng hộ, cưu mang tất yếu sẽ giành thắng lợi. Tôi biết ông làm Ấp trưởng cũng chỉ là mưu cầu sự yên ổn, bình an cho gia đình, thực tình ông không có hận thù cách mạng”. Đánh trúng vào thái độ lừng khừng của Tư Quang, cuối cùng ông ta đã nhận lời làm cơ sở cho cách mạng. Sau này, với vị thế là Trưởng ấp, ông đã có nhiều đóng góp cho kháng chiến.

Hoàn thành xong nhiệm vụ, để tránh gây hậu quả cho ông, ba chúng tôi liên hệ với nhà bên tìm chỗ ngủ vì đêm đã khuya không kịp lánh ra ngoài. Đang ngủ, chúng tôi bỗng nghe tiếng chó sủa dữ dội, mỗi lúc một gần, tiếp theo là tiếng chạy uỷnh uỵch vội vã và nặng trịch của bọn lính ngụy đi vây ráp và bắt bớ. Tư Quang chạy sang báo: “Có biến, bọn lính ngụy đi bắt lính”. Tài kéo Sáu Ân ở lại vì chủ quan có ông già là thương phế binh của ngụy chắc không hề hấn gì. Còn tôi không có giấy tờ nên phải xé vách nhà chạy sang nhà bên, không ngờ lại là nhà của một tên lính ngụy. Quá bất ngờ vì một vị khách không mời mà đến giữa đêm khuya khoắt, vợ của người lính ngụy hỏi: “Ông là ai, từ đâu đến?”. Tôi trả lời: “Tôi bị bắt lính”. Ngoài ngõ, tiếng bọn ngụy quát tháo ầm ĩ. Vợ của người lính ngụy đã hiểu ra sự việc, thông cảm với hoàn cảnh của tôi, chị chỉ ngay vào cái giường ngủ của vợ chồng chị nói: “Ông vô mùng đi, chúng nó vây ráp sát lắm rồi, không có con đường nào khác”. Tôi chui ngay vào mùng mà trước đó vợ người lính ngụy đang nằm, lặng im, hồi hộp nằm theo dõi diễn biến sự đối đáp, xử lý tình huống này của chị. Kết thúc đợt vây ráp này, Sáu Ân và Tài bị bắt đi lính ngụy, còn tôi thoát được. Cảm ơn sự may mắn và lòng tốt của dân, ngay cả với vợ con của những người thuộc lực lượng bên kia, nhiều người cầm súng không phải ai cũng thực tâm theo giặc, mà chủ yếu vì bị ép buộc, vì miếng cơm manh áo mà phải mang tiếng với đồng bào, với dân, với nước.

Đầu năm 1972, Tổ du kích mật do tôi phụ trách đã có những hoạt động thực sự hiệu quả, góp phần vào những chiến thắng liên tiếp của lực lượng vũ trang xã Trần Phán, làm cho lực lượng du kích, cơ sở cách mạng phát triển mạnh, lực lượng vũ trang đã quay về địa bàn bám địch, cán bộ, đảng viên đã bám dân, bám cơ sở, nhân dân đã quay về bám đất, bám ruộng vườn để làm ăn sinh sống. Sự phát triển của cách mạng làm cho dân tin tưởng, phấn khởi bao nhiêu, thì lại làm cho kẻ thù tức tối, hằn học bấy nhiêu. Biết tôi chỉ huy Đội du kích bí mật của xã, tên Lê Chí Cường - Tỉnh trưởng Cà Mau đã chỉ đạo cho tên Liêm - Xã trưởng, Út Đệ -Trưởng ấp rêu rao trao giải thưởng: “Ai bắt được Phi Hổ đem nộp sổ được thưởng 400.000 đồng tiền ngụy”.

Số tiền y trao thưởng để lấy đầu tôi thật là một việc “khôi hài” của kẻ làm tay sai cho giặc. Năm ấy tôi vừa tròn 20 tuổi, mới vào du kích được 4 năm, thành tích chiến đấu của tôi còn rất ít ỏi, những chiến công làm cho địch ăn không ngon, ngủ không yên chủ yếu là của lực lượng vũ trang xã Trần Phán, có một phần đóng góp nhỏ bé của Tổ du kích mật mà tôi chỉ huy. Lẽ ra, nếu muốn an toàn, không còn bị cách mạng đe dọa, trừng trị thì tên Tỉnh trưởng Lê Chí Cường và chân tay của y phải trao giải thưởng để bắt hết lực lượng vũ trang xã Trần Phán, chứ chỉ đặt ra giải thưởng bắt một mình tôi thì thấm tháp gì! Nhưng để làm được điều đó đâu có dễ vì cuộc chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến tranh nhân dân, làm sao bắt hết dân; triệt hết dân, chúng sống với ai? Kẻ thù không hiểu về cách mạng, về nhân dân thì làm sao thắng nổi! Hiểu sai, làm sai thì thất bại sẽ là cái kết cục chắc chắn xảy ra đối với bè lũ cướp nước, bán nước, hại dân.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:54:03 am
Nghĩ vậy, tôi cười thầm vì đồng tiền đặt không đúng chỗ của những kẻ nhục nhã cúi mình làm tay sai cho giặc như tên Lê Chí Cường, tên Liêm... Tuy vậy, tôi thấy mình sau bốn năm tham gia du kích đã ít nhiều trưởng thành cùng với sự phát triển của cách mạng và lực lượng vũ trang xã Trần Phán. Một khoảng thời gian đầu đời tham gia kháng chiến đã đi qua trong thử thách, gian khổ, hi sinh, song rất quan trọng vi con đường tôi chọn đã đúng hướng, như ý nguyện của ông bà ngoại, của ba, của các cô, các cậu. Còn gì hạnh phúc hơn khi được tắm trong dòng nước mát trên những con kinh quê hương, được ăn những hạt gạo từ đất làng mình do người dân nghèo đóng góp cho cách mạng với biết bao nghĩa tình, niềm tin yêu cháy bỏng với Đảng và Bác Hồ. Điều sung sướng hơn đó là được cầm súng tiêu diệt địch, bảo vệ mảnh đất mình gắn bó, yêu thương. Nghĩ như vậy, tôi thấy mình phải cố gắng nhiều hơn cho những chặng đường tiếp theo.

Cuộc phản công mùa mưa cuối năm 1971 của lực lượng vũ trang Quân khu 9 giành thắng lợi lớn, bẻ gãy và đập tan kế hoạch “tô dày lấp kín U Minh” của địch, buộc chúng phải rút một số đồn bốt, chốt ở rạch Cái Tàu và xã Khánh Bình. Thắng lợi trên tạo nên đà phát triển mới về thế và lực cho phong trào cách mạng trên địa bàn Quân khu.

Trên địa bàn xã Trần Phán, thực hiện chỉ thị của trên và chủ trương của Huyện ủy Đầm Dơi; lãnh đạo, chỉ huy Đội du kích xã đã quán triệt và thực hiện tốt chủ trương: “Bám trụ kiên cường, phát triển mạnh mẽ cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang địa phương, kiên quyết đánh bại kế hoạch bình định cấp tốc, bình định đặc biệt của địch. Đẩy mạnh tiến công địch bằng ba mũi giáp công, giành ưu thế trên địa bàn”(1). Bằng một loạt trận đánh diệt ác ôn, chống càn, tiến công đồn giành thắng lợi, làm cho phong trào cách mạng có bước phát triển mới. Lực lượng vũ trang xã được củng cố và tăng cường, thường xuyên tổ chức được một trung đội du kích có từ 20 đến 30 đồng chí, trang bị vũ khí có súng trường, cácbin, M16, AR15, M79, đại liên, trung liên do trên cấp, song chủ yếu là do đánh địch thu được trang bị cho ta. Tổ chức đảng phát triển mạnh từ chi bộ xã đã thành lập được đảng bộ với nhiều chi bộ. Ban Chỉ huy Xã đội lúc này do đồng chí Dương Văn Luyến làm Xã đội trưởng, đồng chí Nguyễn Quốc Việt - Xã đội phó làm Bí thư chi bộ. Trong Ban Chỉ huy Xã đội còn có các đồng chí: Huỳnh Thanh Quyền, Võ Văn Mức, Nguyễn Văn Huấn làm Xã đội phó. Riêng gia đình tôi, tham gia lực lượng du kích xã Trần Phán lúc này có ba người, ngoài tôi, chị Hai (Trần Kim Loan) và em thứ Tư (Trần Phi Hùng) cũng đã là chiến sĩ du kích xã.

Như vậy, sau một thời gian là xã trắng, được sự tăng cường lãnh đạo của Huyện ủy Đầm Dơi, thực lực và phong trào cách mạng của xã Trần Phán đã có sự phát triển khá vững chắc, so với nhiều năm trước đây, chưa bao giờ du kích xã có lực lượng (quân số, trang bị vũ khí) mạnh như giai đoạn này, lại được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy xã, nhân dân địa phương hết lòng cưu mang, đùm bọc, che chở; trình độ chỉ huy tác chiến qua từng trận chiến đấu đã được nâng lên. Đây là những thuận lợi cơ bản, to lớn để lực lượng vũ trang xã tiếp tục giành thắng lợi những trận đánh tiếp theo, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và lòng yêu mến, tin tưởng của nhân dân.

Khi phong trào xã đang lên, ngày 2 tháng 5 năm 1972, tôi bất ngờ nhận được quyết định điều về căn cứ (vùng giải phóng) cùng với bốn đồng chí (Chín, Chín Nghé, Út Lùng, Út Bảnh) do quá trình hoạt động ở cơ sở đã bị địch phát hiện, để bảo đảm an toàn. Nhận được quyết định “điều lắng” của trên, tôi vô cùng sửng sốt vì quá bất ngờ. Bởi lẽ, được trực tiếp cầm súng tiêu diệt kẻ thù để trả thù cho ông ngoại, các cậu tôi và biết bao đồng bào, đồng chí bị địch sát hại ngay trên quê hương mình là điều tôi hằng mơ ước. Mấy năm vào du kích, thành tích chiến đấu của tôi chưa được nhiều, giữa lúc phong trào phát triển thuận lợi, thời cơ diệt nhiều địch để trả thù nhà, đền nợ nước đã tới, tôi lại phải ra đi. Buồn thật! Nghĩ vậy, tôi quyết định, trước mắt chấp hành mệnh lệnh của trên, sau đó về gặp các anh trong lãnh đạo, chỉ huy, sẽ đề xuất nguyện vọng được ở lại bám trụ, trực tiếp chiến đấu.

Trong năm người được lệnh “điều lắng” về cứ, trên giao cho tôi chỉ huy. Nhận được lệnh, tôi gom anh em lại phổ biến quyết định của trên và thống nhất kế hoạch hành quân. Khi giáp mặt, mọi người mới biết mặt nhau, biết tôi là Trần Phi Hổ chỉ huy tổ, cả tổ đề xuất ý kiến: Gần đến Tết mùng 5 tháng 5 âm lịch, xin các chú ăn tết xong mới về cứ, vì lên cứ vào vùng giải phóng biết bao giờ mới trở lại nhà, hơn nữa chiến tranh biết ai còn, ai mất. Tôi thấy có lý và đề đạt lên trên, các chú gạt đi ngay “quân lệnh như sơn”. Trước khi đi, tôi còn tổ chức cho cả nhóm rải truyền đơn trong các ấp với yêu cầu “không được đàn áp cộng sản, không được truy bức gia đình kháng chiến, không truy đuổi Trần Phi Hổ”. Một số truyền đơn được rải trực tiếp vào nhà của một số tên lính ngụy, trưởng ấp, hội đồng xã ác ôn có nợ máu với dân để có tác dụng răn đe, cảnh cáo.


(1) Đảng ủy - Ủy ban nhân dân xã Trần Phán: Lịch sử du kích xã Trần Phán (1964-1975), Nxb. Phương Đông, 2005, tr. 44.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:54:36 am
Theo kế hoạch, 20 giờ ngày 2 tháng 5 năm 1972, cả nhóm từ nhiều ngả tập trung tại một điểm gần nhà ngoại tôi, đó là đìa “Trâm Bầu”, nơi cách đây 10 năm (1962), địch đã giết cậu Năm, thông gia của ngoại và ông ngoại, rồi vứt xác cậu Năm dưới đìa này. Sở dĩ tôi chọn địa điểm này vì nó thuận tiện và bảo đảm kín đáo. Hơn nữa, trước khi đi xa, tôi muốn thăm lại nơi ông ngoại tôi và cậu Năm đã hiên ngang, bất khuất, hi sinh trước mũi súng của kẻ thù và cũng là nơi bà ngoại nhận từ ông một lời trăng trối cuối cùng của người sắp đi xa mãi mãi không về, một lời dặn dò rốt quan trọng đối với tôi: Ráng nuôi thằng Quý nên người để trả thù cho ông. Vượt qua biết bao gian khổ, hi sinh, trong nghèo khó và sự truy bức, truy sát của kẻ thù, cho đến hôm nay bà đã thực hiện đúng lời ông dặn. Tôi muốn xuất phát chuyến đi xa này từ chính nơi ông hi sinh, làm nguồn sức mạnh để tôi vững vàng vượt qua những thử thách cho những chặng đường sắp tới. Sau này trưởng thành, tôi cảm nhận tâm lý, tình cảm tôi lúc đó đúng như nhà thơ Hoàng Trung Thông mô tả:

“Con lớn lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”


Đất nước mình là như vậy! Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biết bao thế hệ người Việt Nam lớp cha trước, lớp con sau, phải cầm súng xuống đường ra trận. Trong cuộc trường chinh ấy, bằng mồ hôi, xương máu và những chiến công hiển hách, ông cha ta đã viết nên những trang sử hào hùng, dân tộc Việt Nam đã trở thành một dân tộc tiên phong chống xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do trong mọi thời đại.

Đúng giờ hẹn, tôi nghe thấy từ xa ba tiếng chim cú kêu “Cú! Cú! Cú!”, tôi đáp lại “Quốc.! Quốc! Quốc!”. Nhận đúng tín hiệu đáp trả, hai cán bộ giao liên của xã và tôi nhanh chóng tiếp xúc với nhau thống nhất một số quy định an toàn dọc đường hành quân. Tạm xa làng quê, thôn ấp lúc này, lòng tôi buồn da diết. Buồn vì ở đó còn có gia đình với những người thân yêu thương tôi hết mực, buồn vì quân giặc còn đó ngày đêm chúng đang điên cuồng truy sát, giết hại đồng bào; buồn vì tôi chưa diệt được nhiều tên ác ôn trả thù cho ngoại, cho cậu. Đi được một đoạn, tôi quay lại nhìn bóng dáng làng quê xã Trần Phán mờ mờ trong màn đêm, tôi nhớ đến một bài ca dao rất nổi tiếng được lan truyền sâu rộng trên mảnh đất căn cứ địa này thời chống thực dân Pháp:

“Đêm nay đứng ở đầu làng
Nhìn đồn giặc đóng lòng càng giận thay
Tay vớ lấy lưỡi dao phay
Tao thề xé xác quân mày Tây Dương”.


Đi mãi, đi mãi, đến hết đêm 2 tháng 5 năm 1972, tổ của chúng tôi mới vượt qua xóm Nhị Nguyệt; trời sáng, chúng tôi ém lại đây, chờ đến tối tiếp tục hành trình. Chúng tôi mất hơn hai ngày hành quân vất vả, song không gặp phải bất cứ sự ngăn chặn nào của địch. Tối 4 tháng 5 năm 1972, chúng tôi đã đến được khu vực trú quân của Đội du kích xã Trần Phán, đến với vùng giải phóng. Nơi chúng tôi đặt chân đầu tiên là một căn nhà lá đơn sơ nằm gọn trong một khu vườn rộng. Sáng ra, tôi được anh em giới thiệu đây là khu vườn trước đây của địa chủ Chinh (Sáu Chinh), một tên địa chủ giàu có trên địa bàn này thời chống thực dân Pháp. Trong vườn cây lá xanh tươi, có dừa, có bình bát và nhiều loại cây đặc sản ăn trái của Nam Bộ. Nhìn phong cảnh này, tôi lại nghĩ về mảnh đất quê tôi xã Trần Phán, hai địa điểm này chỉ cách nhau vài ngày đi bộ, sao một nơi nóng bỏng khói súng của chiến tranh, một nơi ấm áp, thanh bình, tự do thoải mái đến thế.

Sáng 5 tháng 5 năm 1972, chúng tôi được Út Việt - giao liên của xã đón đưa về nhà Quảng Hanh gặp cấp ủy, Ban Chỉ huy Đội du kích xã Trần Phán. Thay mặt lãnh đạo, chỉ huy Đội, trực tiếp hai đồng chí Dương Văn Luyến (Ba Luyến) - Xã đội trưởng và Nguyễn Quốc Việt - Xã đội phó - Bí thư chi bộ gặp gỡ, động viên và giao nhiệm vụ cho từng người. Sau một hồi thăm hỏi về gia đình, về sức khỏe, về quá trình hành quân, đồng chí Ba Luyến nhắc nhở chúng tôi tập trung ăn, nghỉ lấy lại sức và thông báo một số quy định chung, tình hình hoạt động của địch, chủ yếu phòng tránh pháo hạm và máy bay địch ném bom. Đồng chí Quốc Việt động viên chúng tôi và yêu cầu: “Xác định sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới”.

Tại nhà Quảng Hanh, trước khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi được cấp quân trang: một bộ đồ điphăng, một nón tai bèo, một đôi dép và khẩu súng. Mặc bộ đồ mới xúng xính, trong bộ đồng phục Quân giải phóng lòng tôi dâng trào một niềm vui, sung sướng khó tả, đúng như như các cụ xưa nói: “Già được bát canh ngon, trẻ được manh áo mới”. Đối với tôi lúc này, đúng thật niềm vui ấy trong tôi như được nhân lên gấp bội vì đây là ước mơ của tôi từ tấm bé, từ tuổi thiếu niên cho đến bây giờ.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:55:06 am
Đang xúng xính, vui sướng trong bộ quần áo mới thì ba đến, trông ba ốm và già đi nhiều. Tuy vậy, những gian khổ, thử thách của chiến tranh không làm mất đi tác phong sôi nổi, tính cách thẳng thắn và làn da trắng trẻo, thư sinh của ba. Nhìn tôi vừa vặn trong bộ quân phục Quân giải phóng, ông mỉm cười, lặng đi một hồi. Tôi biết, gặp tôi ở khu trú quân này, lại nhìn con trai được mặc quân phục Quân giải phóng, ông xúc động lắm. Không chỉ riêng tôi, niềm vui, hạnh phúc của ba cũng trào dâng trong niềm tự hào sâu sắc vì con đã nối tiếp theo ba.

Lặng đi hồi lâu, ba nói với tôi: “Đáng lẽ ba không nói với con tin này, song ba nghĩ con đã lớn và trưởng thành nên ba thông báo với con một hung tin. Khi con vừa đi, bọn địch trong đồn Hội đồng Diễn đã lập tức cho lính đến vây bắt bà ngoại, má và em Phi Hùng. Chúng tra khảo bà ngoại và má, tra tấn Phi Hùng hòng truy tìm con. Song cả ba người không khai lấy một lời. Sau bốn ngày điên cuồng tra khảo, tra tấn thấy không moi được tin tức gì, hơn nữa sau khi ngoại, má và Phi Hùng bị địch bắt, bà con, cô bác đã tổ chức ngay lực lượng kéo về đồn Hội đồng Diễn đấu tranh với địch. Trước lý lẽ sắc bén của bà con, địch đã thả ngoại, má và em Phi Hùng”. Thấy tôi im lặng, mặt buồn rười rượi, biết tôi quá lo lắng cho ngoại, má và em, ba động viên: “Địch đã không làm gì được ba má con, được anh em, bà con, cô bác đùm bọc, giúp đỡ, sau này chúng cũng chẳng làm gì được. Con yên tâm tập trung làm tốt nhiệm vụ cách mạng giao”.

Tôi đã hứa với ba: “Sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, bất cứ nhiệm vụ nào”. Thấy tôi vui trở lại, ba hỏi tôi: “Đưa con về cứ, các chú có hỏi ý ba muốn giữ con lại đưa con sang công tác bên huyện đoàn cho đỡ vất vả và an toàn hơn, ý con sao?”. Không cần phải suy nghĩ nhiều, tôi nói luôn: “Ba thưa với các chú, con không về huyện đoàn, con muốn quay lại Đội du kích xã Trần Phán, bám trụ đánh địch. Ba ủng hộ con, các chú ủng hộ con, ngày mai con sẽ trở về xã Trần Phán đánh giặc”. Thấy thái độ dứt khoát và quyết tâm cao của tôi, ba tôi mừng lắm, ông nói với tôi: “Ba tôn trọng ý kiến của con” và nắm tay tôi thật chặt, không nói thêm lời nào. Tôi biết lòng ba lúc này phân vân, đắn đo nhiều! Ba chắc hẳn muốn con ở lại cứ sang làm công tác đoàn để cha con gần nhau, độ an toàn cho tôi cao hơn nhưng mặt khác lại muốn tôn trọng quyết định của con vì thấy con đã trưởng thành. Cuối cùng, trách nhiệm người làm ba trong ông đã đúng. Đất nước còn chiến tranh, trách nhiệm và chỗ đứng của thanh niên là phải trên trận tuyến đánh quân thù. Sau này, tôi được biết, cả một thế hệ thanh niên chúng tôi, mà tiêu biểu như anh hùng Lê Mã Lương cũng đã nhận thức và hành động đúng như thế.

Ngày 9 tháng 5 năm 1972, tôi được đồng chí Nguyễn Quốc Việt - Xã đội phó, Bí thư chi bộ gọi lên giao nhiệm vụ: “Đồng chí được bổ nhiệm từ Đội trưởng Đội du kích bí mật lên Tiểu đội phó và cùng với Tiểu đội trưởng phụ trách 12 chiến sĩ du kích quay về bám trụ xã Trần Phán chiến đấu giải phóng quê hương”. Mừng quá! Tôi khẩn trương lên đường vì sợ trên thay đổi quyết định. Với tâm trạng háo hức, phấn khởi, sung sướng, tôi không kịp đến tạm biệt ba. Không sung sướng sao được! Khi đi, chúng tôi chỉ có năm người, không súng ống, không quân phục, ai có gì mặc nấy; nay trở về cả một tiểu đội 12 người, súng ống và quân phục chỉnh tề với tâm nguyện được chiến đấu trên quê hương mình, giữa lòng dân xã Trần Phán là một niềm hạnh phúc không tả xiết.

Về đến địa bàn, tôi cùng đồng chí Tiểu đội trưởng tập trung huấn luyện cách đánh (chiến thuật) cho Tiểu đội, chủ yếu giới thiệu về cách bố trí đội hình ở hai loại chiến thuật chiến đấu cơ bản là phục kích và tiến công; huấn luyện bồi dưỡng cho các chiến sĩ du kích các động tác chiến đấu (lăn lê bò toài, sử dụng các loại súng, ngắm bắn...); tổ chức lực lượng trinh sát đi nắm bắt thông tin địch...

Trong thời kỳ này, tình thế cách mạng đang lên, do vậy bọn địch cũng không còn hung hăng tung quân càn quét như trước. Tuy nhiên, được sự chi viện hỏa lực của trên, bọn địch ở xã Trần Phán ban ngày thì bung ra “nằm” ngoài đường theo các trục lộ, ban đêm lại kéo nhau về đồn cố thủ; có lúc ban đêm chúng cho một lực lượng bí mật ra ngoài phục kích nơi nghi ngờ có lực lượng ta qua lại hoạt động. Nếu bị pháo ta pháo kích thì chúng gọi pháo 105mm từ Giá Ngựa, Đầm Dơi, Cà Mau, Chà Và bắn vào chi viện. Đặc biệt, trong giai đoạn này có một trung đội thám báo ác ôn thường xuyên hoạt động lùng sục, phục kích vào ban đêm trong khu vực từ Đầm Dơi kéo về các tuyến đường trong xã. Hệ thống đồn bốt của địch vẫn dày đặc, chúng đóng đồn cách nhau khoảng 1.500 đến 3.000 mét.

Đêm ngày 22 tháng 5 năm 1972, theo tin từ cơ sở, bọn địch tại Hội đồng Ninh cho một lực lượng đi xuồng vào kinh Kẹo để canh giữ đồn. Ban Chỉ huy Xã đội đã sử dụng Tiểu đội tôi do đồng chí Nguyễn Văn Huấn - Xã đội phó trực tiếp chỉ huy. Cùng với đồng chí Tiểu đội trưởng, tôi (Tiểu đội phó) chỉ huy Tiểu đội chia làm hai lực lượng chặn đầu, khóa đuôi tại khu vực đầu kinh Kẹo. Bọn địch vừa vào ổ phục kích, được lệnh nổ súng, cả hai bộ phận đồng loạt nhả đạn tiêu diệt hai tên địch, thu hai súng M16.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:55:44 am
Ngày 4 tháng 10 năm 1972, một trung đội địch từ Cây Trâm hành quân càn quét vào ngã ba Hai Thép. Ban Chỉ huy du kích xã Trần Phán giao nhiệm vụ cho Tiểu đội tôi dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Văn Mức - Xã đội phó vận động tiến công địch. Toàn Tiểu đội đang vận động lên, lọt vào ổ phục kích của địch, bị địch đánh giữa đội hình chia cắt lực lượng làm hai; trong đó bộ phận đi đầu gồm các đồng chí Võ Văn Mức, Hồ Văn Đấu, Nguyễn Văn Chín, Sáu Huỳnh và tôi. Khi bị địch tập kích vào đội hình, đồng chí Võ Văn Mức và Hồ Văn Đấu bị thương nặng. Tôi bình tĩnh chỉ huy Nguyễn Văn Chín và Sáu Huỳnh chiếm địa hình có lợi chặn địch lại. Trong trận chiến đấu không cân sức ấy, đồng chí Nguyễn Văn Chín và Sáu Huỳnh tiếp tục bị thương nặng, còn lại một mình tôi nhanh chóng xử lý tình huống, tích cực cơ động trên địa hình có lợi, liên tiếp bắn gần hết 12 hộp tiếp đạn súng M16; khi nổ súng ở điểm này nhanh chóng di chuyển đến địa điểm kia tiếp tục nổ súng bắn trả địch. Bọn địch mắc mưu, thấy tiếng súng nổ ở nhiều nơi, tưởng lực lượng ta còn đông, tên chỉ huy ra lệnh rút lui.

Tan trận, tôi băng bó vết thương cho hai đồng chí Nguyễn Văn Chín, Sáu Huỳnh và kiểm tra vết thương cho các đồng chí Võ Văn Mức, Hồ Văn Đấu. Anh Hồ Văn Đấu bị thương quá nặng, biết mình khó qua khỏi, Đấu gỡ nón tai bèo đưa cho tôi và dặn: “Hổ gửi cái này về cho Hai Hồng, người vợ sắp cưới của tôi nhé!”. Sau khi sơ cứu cho thương binh xong, tôi lấy súng bắn ba viên đạn liên tiếp báo hiệu lực lượng đến cứu viện. Ít phút sau, các đồng chí được Ban Chỉ huy Đội du kích và nhân dân đưa về phía sau nuôi dưỡng và điều trị.

Cuối năm 1972, Sư đoàn 21 ngụy đổ quân xuống Cầu Kè - Nhà Cũ. Đụng với chủ lực ngụy, một số đội du kích các xã khác rút lui để bảo toàn lực lượng. Riêng Đội du kích xã Trần Phán, trong đó có Tiểu đội du kích của tôi kiên quyết trụ chống càn. Tiểu đội tôi được Ban Chỉ huy xã phân công xây dựng trận địa tại vườn ông Sáu Trinh, đánh vào sau lưng địch. Nghe thấy tiếng súng nổ, biết lực lượng du kích xã Trần Phán bám trụ đánh vu hồi quân ngụy đi càn, Ban Chỉ huy Huyện đội cử người xuống nắm tình hình, đưa lực lượng và hỏa lực xuống chi viện để đánh tiếp. Sau trận này, Đội du kích xã Trần Phán nhận được lời khen của đồng chí Tư Tấn - Tỉnh đội phó: “Du kích xã Trần Phán đánh nở hoa trong lòng địch”.

Khi bọn địch đánh chiếm khu vực đồn ngã tư xóm Ruộng. Trước sức mạnh tấn công của địch, quân đông, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, tấn công nhiều mũi, nhiều hướng, ở hướng chính, địch tập trung lực lượng rất mạnh, các hướng phụ khác lực lượng giảm đi rõ rệt. Còn cách đánh của du kích chủ yếu bám sau lưng địch, chỗ nào mạnh thì rút, chỗ nào yếu thì bám sát nổ súng tiến công, hiệu quả chiến đấu thấp. Thấy vậy, tôi ra lệnh cho Tiểu đội du kích rút lui, tôi cùng một tổ ba người ở lại nghiên cứu thị sát tìm hiểu cách đánh của địch, sau đó về nhà suy nghĩ xem trước các cách đánh của ta như: chống càn, tập kích, phục kích, vận động tiến công... thì phản ứng và hành động của địch như thế nào, khả năng và kết quả thu được của ta ra sao; từ đó đi sâu vào việc bố trí đội hình, sử dụng lực lượng; sau đó đem trao đổi với các anh trong Ban Chỉ huy Đội du kích xã: Huỳnh Tấn Đạt (Út An) - Xã đội trưởng, Nguyễn Quốc Việt, Huỳnh Hành Quyền - Xã đội phó. Được các anh khuyến khích, tôi từng bước hoàn chỉnh ý kiến của mình, phổ biến và huấn luyện cho Trung đội du kích xã, góp phần nâng cao trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang xã.

Trong năm 1972, thực hiện đứng đắn chủ trương của Huyện ủy, các lực lượng vũ trang của huyện đã bám trụ vững chắc, chiến đấu kiên cường, dũng cảm, tham gia có hiệu quả các cao điểm kế hoạch tiến công tổng hợp của trên, góp phần làm phá sản kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch. Huyện Đầm Dơi đã bao vây bức rút 13 đồn. làm chủ tuyến sông Bảy Háp - Đội Cường, giải phóng hoàn toàn hai xã Tân Tiến, Tân Thuận và phần lớn các xã Tạ An Khương. Trần Phán, Quách Văn Phẩm, giải phóng gần 20.000 dân. Lực lượng vũ trang xã Trần Phán đã phải vượt qua một giai đoạn khó khăn, gian khổ, ác liệt, từ vùng trắng thực hiện quyết tâm của Đảng bộ xã, Đội du kích xã quyết tâm bám trụ, bám đất, bám dân, bám địch, vừa xây dựng cơ sở cách mạng, vừa phát triển, củng cố lực lượng du kích, tiếp tục tiến công địch, từng bước phát triển thực lực cách mạng, đưa phong trào cách mạng phát triển vững chắc, lập những chiến công xuất sắc. Trong sự phát triển chung ấy, tôi thấy mình cũng có sự tiến bộ về nhiều mặt, cả về nhận thức tình hình nhiệm vụ cách mạng, cả về phong cách chỉ huy và kiến thức quân sự. Tất cả những kinh nghiệm và kiến thức quan trọng ấy hết sức quý báu, là bản lề giúp cho tôi trong quá trình đảm nhiệm các chức vụ mà Đảng, Quân đội giao cho sau này.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, sau nhiều lần tráo trở, lật lọng, Mỹ - ngụy buộc phải ký Hiệp định Pari về lập lại hòa bình ở Đông Dương, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đối với chính quyền Thiệu, ký Hiệp định Pari không phải để chấm dứt chiến tranh, mà để tiếp tục chiến tranh.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:57:03 am
Trước âm mưu và thủ đoạn ngoan cố, hiếu chiến của địch: thực hiện chủ trương của trên, lực lượng vũ trang huyện Đầm Dơi vẫn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, trừng trị hành động lấn đất, giành dân, vi phạm Hiệp định Pari của địch. Lực lượng vũ trang xã Trần Phán tiếp tục bao vây đồn Hòa Điền. Toàn bộ lực lượng vũ trang du kích xã lúc này cỏ 30 đồng chí.

10 giờ ngày 30 tháng 1 năm 1972, quân ngụy trở mặt không thi hành Hiệp định, bọn địch trên địa bàn tấn công vào lực lượng du kích đang vây đồn Ba Tu. làm cho đồng chí Huỳnh Tấn Đạt (Út Ẩn) - Xã đội trưởng hì sinh, lực lượng du kích xã phải rút về để cùng cố. Khi về đến nơi tập kết, thấy thiếu Út Ẩn, tôi tổ chức cho anh em đi tìm. Riêng tôi dẫn một tổ đi theo con đường mà anh đã chỉ huy lực lượng đội du kích vận động bao vây đồn Ba Tu. Khi đến giáp bờ sông thấy cái nón tai bèo của anh trôi lềnh bềnh trên một nước, biết anh đã hi sinh khu vực này, chúng tôi chia nhau đi tìm và phát hiện anh đã hi sinh sát bờ sông. Đưa anh về cứ, toàn Đội tổ chức lễ truy điệu cho anh, trong tang lễ tôi bắn ba phát súng để từ biệt anh. Cà Đội du kích và hàng chục người dân tham dự lễ tang đều không cầm được nước mắt vì thương nhớ anh, một người đồng chí sống trung hậu, chiến đấu quả cảm, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời thanh xuân của mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Tại lễ truy điệu, thương nhớ anh, tôi và các đồng chí của anh nguyện đoàn kết sát cánh bên nhau, chiến đấu giỏi, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, sớm giải phóng quê hương, tiếp bước xứng đáng con đường anh đã đi.

Để tiếp tục duy trì lãnh đạo, chỉ huy Đội du kích, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu ngày càng tăng lên. Ngày 15 tháng 2 năm 1973, theo đề nghị của Đảng ủy xã Trần Phán, Ban Cán sự Huyện đội Đầm Dơi quyết định bổ nhiệm đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Thường vụ Xã ủy, Xã đội phó thay đồng chí Huỳnh Tấn Đạt làm Xã đội trưởng, tôi làm Xã đội phó. Trong Ban Chỉ huy Đội du kích lúc này còn hai đồng chí Xã đội phó là Trương Vĩnh Tuấn và Nguyễn Quốc Việt; đồng chí Việt vẫn đảm nhiệm chức Bí thư Chi bộ, phụ trách luôn công trường của xã.

Sau một thời gian phấn đấu, được Chi đoàn bồi dưỡng, các đồng chí đảng viên trong Chi bộ Đội du kích giúp đỡ, dìu dắt; Cấp ủy, Chi bộ thử thách, tổ chức đảng thấy tôi có đủ điều kiện trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 22 tháng 3 năm 1973, tại ngôi nhà mượn của dân ở ấp 8 Đồng Tâm, xã Tân Duyệt (vùng giải phóng), Chi bộ Đội du kích xã Trần Phán đã tổ chức trọng thể Lễ kết nạp tôi vào Đảng. Trong căn phòng ấm cúng được trang hoàng nghiêm túc, có cờ Đảng, cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ; tôi thấy có đầy đủ các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Đội. Đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Thường vụ Xã ủy, Xã đội trưởng tuyên bố lý do, giới thiệu tôi lên đứng trước cờ Đảng. Đồng chí Nguyễn Quốc Việt - Xã đội phó, Bí thư Chi bộ đọc quyết định của Đảng ủy xã Trần Phán kết nạp tôi vào Đảng. Trong niềm xúc động, tự hào sâu sắc, tôi giơ cánh tay phải lên ngang đầu, bàn tay nắm lại, đọc lời thề đầy tâm huyết với quyết tâm cao: “Nguyện tuyệt đối trung thành với Đảng, hi sinh phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng đến phút cuốỉ cùng”. Tôi nghĩ lời thề ấy là lý tưởng thiêng liêng, cao quý mà các thế hệ thanh niên Việt Nam từ khi có Đảng, có Bác Hồ dẫn đường chỉ lối đến nay luôn đi theo để phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ vượt bậc, xứng đáng là lực lượng xung kích đi đầu, lập nhiều chiến công vẻ vang. Mỗi một thế hệ thanh niên có một lý tưởng riêng, con đường riêng, trách nhiệm xã hội riêng; đối với thế hệ chúng tôi, con đường xứng đáng nhất, vị trí xứng đáng nhất là trên trận tuyến đánh quân thù. Đó cũng là ước mơ, nguyện vọng của ông ngoại đối với tôi trước lúc bị kẻ thù sát hại.

Ngày 21 tháng 4 năm 1973, Đội du kích xã Trần Phán tổ chức một trận phục kích tiêu diệt bọn địch ở đồn Hòa Điền nống ra đi càn quét giết hại đồng bào. Sau khi trinh sát thực địa, đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Xã đội trưởng chia toàn đội làm ba tổ: Tổ l làm nhiệm vụ chặn đầu do tôi chỉ huy, Tổ 2 đánh chính diện, Tổ 3 khóa đuôi do các đồng chí Trương Vĩnh Tuấn, Huỳnh Thanh Quyền chỉ huy. 10 giờ sáng, một tốp lính trong đồn nống ra, chờ cho chúng lọt vào trận địa phục kích, tôi ra lệnh nổ súng, ta tiêu diệt gọn tốp lính này (3 tên), thu 2 súng M16.

Đang chỉ huy Đội du kích bám trụ đánh địch, đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Xã đội trưởng nhận được hung tin từ gia đình: Ba của anh (bác Năm Danh) - Huyện ủy viên, Trưởng ban Dân vận Huyện ủy Đầm Dơi hi sinh. Sau Hiệp định Pari, cùng với việc chủ động tiến công trừng trị hành động lấn chiếm đất, giành dân của địch, ta chủ trương gặp gỡ chỉ huy đôi bên bàn các biện pháp thực hiện Hiệp định sao cho giảm được tối đa sự đổ máu, tránh được thảm họa nồi da nấu thịt, giảm đi nỗi đau thương, mất mát của cả dân tộc trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Địch nhận lời, đúng kế hoạch, đoàn cán bộ của ta do bác Năm Danh làm Trưởng đoàn đến địa điểm làm việc nhưng địch lật lọng, bắt và giết ông. Nhận được tin này, cả Đội du kích dây lên lòng căm thù tột độ đòi đi giết quân tráo trở, trả thù cho ba đồng chí Quyền.

Bằng bản lĩnh của người chỉ huy, anh không rơi nước mắt để ổn định tư tưởng cho toàn đội. Tuy không khóc trước mất mát, tang thương to lớn của gia đình, song tôi biết anh đau đớn lắm. Tôi nghe nói cái đau đớn của người đàn ông có bản lĩnh là làm cho nước mắt chảy vào trong. Anh bình tĩnh báo cáo trên, bàn giao toàn bộ công việc, nhiệm vụ chỉ huy Đội du kích cho tôi, xin phép được về chịu tang ba. Sau đêm chôn cất ba xong, tôi thấy anh đã về ngay đơn vị để chỉ huy đơn vị chiến đấu. Được sống với những con người như các anh Huỳnh Thanh Quyền, Nguyễn Quốc Việt... tôi rất tự hào, kính trọng. Các anh không chỉ tràn đầy nhiệt huyết cách mạng, chiến đấu dũng cảm, thương yêu đồng chí, đồng đội mà đối với gia đình đều là những người con hiếu nghĩa, việc nước, việc nhà trọn vẹn cả hai vai. Sau này, về công tác trong Bộ Tư lệnh Quân khu 9, tôi đề nghị Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu xin xây một căn nhà “Tình đồng đội” cho bác Năm Danh để tỏ lòng cảm ơn và trân trọng sự hi sinh vô giá của lực lượng vũ trang Quân khu 9 đối với thế hệ các chú, các cô lớp trước.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:57:30 am
Tháng 8 năm 1973, theo yêu cầu của lãnh đạo xã, lực lượng du kích xã Trần Phán phải trừng trị tên Chủ ấp Xuân về tội chiêu hồi làm tay sai cho giặc, có nhiều nợ máu với nhân dân. Từ khi ra đầu thú, tên Xuân vừa khai báo các cơ sở cách mạng, vừa hăng hái cùng với bọn phòng vệ dân sự thường xuyên đi lùng sục, vây ráp, bắt bớ, tra tấn dã man cán bộ, đồng bào ta, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của phong trào cách mạng, gây hoang mang trong nhân dân, bị quần chúng hết sức căm phẫn.

Tôi được đồng chí Xã đội trưởng giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch đột nhập vào nhà tên Xuân. Nhận nhiệm vụ, tôi cùng với Tổ điều tra nghiên cứu địa hình bố trí căn nhà, quy luật sinh hoạt, hoạt động của y và xây dựng kế hoạch đột nhập được Ban Chỉ huy Xã đội nhất trí thông qua. Đúng kế hoạch, Ban Chỉ huy Xã đội gồm tôi, Trương Vĩnh Tuấn, Nguyễn Văn Đấu, do trực tiếp đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Xã đội trưởng chỉ huy, đột nhập vào nhà tên Chủ ấp Xuân. Nhà của y được tổ chức canh phòng rất cẩn mật, nếu đột nhập không thành vừa không hoàn thành nhiệm vụ, vừa bị địch phản kích thì hết đường thoát, hi sinh mất mát, hậu quả rất lớn. Vì địa bàn xã Trần Phán nằm ở giữa lòng địch, muốn vào xã phải qua hai xã Quách Văn Phẩm và Mười Dũng cũng bị địch chiếm đóng, đánh không được thì khó có đường thoát. Trước khó khăn trên, Ban Chỉ huy Xã đội dùng cách đánh mật tập, chọn một tổ gồm những chiến sĩ gan dạ nhất bí mật đột nhập vào nhà tên Xuân vào thời điểm bất ngờ, táo bạo, xóa sổ hắn. Thấy động, tên Xuân vọt qua cửa sổ tìm đường tẩu thoát, gặp ngay chiến sĩ du kích phục kích tại đây nổ súng, y đã phải đền tội xứng đáng. Tổ du kích còn giải tán 7 tên phòng vệ dân sự của ấp phục dịch, bảo vệ trong nhà hắn, thu 4 súng cacbin và bắt sống tên Chín Lộc là tay sai ác ôn ở nhà bên cạnh.

Trong số các anh trong Ban Chỉ huy Xã đội Trần Phán thời điểm năm 1973, sau này có điều kiện thuận lợi tôi đều tích cực tìm gặp, thăm hỏi, giúp đỡ các anh[86] vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống đời thường. Anh Trương Vĩnh Tuấn, sau giải phóng về công tác ở Bạc Liêu, làm ở Nhà máy Đông lạnh Gành Hào, bao nhiêu năm tích góp gia đình anh vẫn không đủ tiền mua đất cất nhà, vẫn phải đi ở mướn. Qua vận động các doanh nghiệp, các nhà tài trợ, đủ tiền mua đất xây tặng anh căn nhà “Tình đồng đội”. Cầm chìa khóa trao tay căn nhà mới, anh chị rưng rưng nước mắt, không nói nên lời.

Cuối năm 1973, Đội du kích xã Trần Phán đã phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương quân huyện Đầm Dơi tổ chức trận địa phục kích tại đập ông Hai Nhường nhằm chặn đánh Tiểu đoàn bảo an 490 do tên Đại úy Triết làm Tiểu đoàn trưởng đưa lực lượng từ Giá Ngựa lên chi viện cho các đồn trên tuyến sông Mương Điều. Tôi được đồng chí Lương Minh Chiến - Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang địa phương quân của huyện giao cho cùng với đồng chí Huỳnh Thanh Quyền chỉ huy lực lượng du kích xã đánh mũi chính diện. Hòa với tiếng súng mũi chặn đầu, tôi đã chỉ huy lực lượng du kích xã nổ súng kịp thời. Bị tập kích bất ngờ, địch để lại 16 xác chết, dìu bọn bị thương rút lui, hủy bỏ kế hoạch càn quét và tăng viện.

Để củng cố, trấn an tinh thần binh lính còn lại ở Đầm Dơi, đầu năm 1974, địch mở nhiều cuộc hành quân và đóng lại đồn Xóm Ruộng, Mương Điều trên địa bàn xã Trần Phán. Theo hiệp đồng với Đào Văn Tài - lính nghĩa quân đang đóng ở đồn Cai Hựu, 8 giờ, ngày 20 tháng 2 năm 1974, anh sẽ dẫn đường cho lực lượng địa phương quân vào chiếm đồn khi mà lực lượng của đồn đi nằm đường cho chiếc tàu sắt vào tiếp tế Chi khu Đầm Dơi. Phối hợp với lực lượng địa phương quân của huyện, lực lượng du kích xã Trần Phán chia làm hai tổ: Tổ 1 do tôi phụ trách vận động từ kinh Hai Tân đánh vào ngang đồn Cái Hựu, phía xã Tạ An Khương nếu trung đội biệt kích đến chi viện; Tổ 2 do đồng chí Huỳnh Thanh Quyền (Tư Quyền) phụ trách, phối hợp với lực lượng địa phương quân của huyện, ém quân ở vườn ông Tư Khỏe, chờ cho tàu sắt của địch về Cà Mau, lực lượng địa phương quân đánh đồn Cai Hựu, còn lực lượng du kích chiếm đập Hai Nhất phục kích lực lượng chỉ viện từ đồn Mương Điều vào. Đúng như dự kiến của ta, khi phát hiện bọn biệt kích nằm đường để bảo vệ chiếc tàu sắt vào tiếp tế cho Chi khu Đầm Dơi, tôi lệnh cho toàn tổ bí mật tiếp cận mục tiêu, bất ngờ nổ súng không cho chúng chạy vào đồn. Bị đánh bất ngờ, từ hướng Tạ An Khương, địch hoảng hốt bỏ chạy về Đầm Dơi, ta diệt và bắn bị thương 2 tên, thu 2 súng M16. Ở mũi thứ hai, lực lượng du kích xã cũng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, diệt và làm bị thương 4 tên địch.

Cuối tháng 3 năm 1974, lực lượng du kích xã kết hợp với Đoàn 962 Quân khu bắn pháo vào đồn Mương Điều. Lực lượng du kích xã tổ chức trận địa phục kích bọn địch từ trong đồn nống ra. Đúng như dự kiến của ta, không chịu được hỏa lực của Quân khu, một tốp địch đã nống ra khỏi đồn, tôi ra lệnh nổ súng diệt 3 tên, thu 3 súng M16, số còn lại tháo chạy về đồn. Trong trận này có sự tham gia của em Nguyễn Văn Bạch (Hoàng Tâm), em quê ở Trần Phán ra Cà Mau học văn hóa. Dáng em nhỏ nhắn, lanh lợi, tôi và anh Huỳnh Thanh Quyền đã giao nhiệm vụ cho em vừa học vừa nắm tin tức địch, có gì về báo cho chúng tôi. Bữa đó, trong dịp về thăm nhà, nghe tin Đội triển khai kế hoạch đánh địch, em đã tình nguyện tham gia trận đánh. Trận đánh kết thúc, em lại về Cà Mau học tiếp và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ Xã đội giao.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:58:34 am
Thắng trận, diệt được địch, thu được súng; lãnh đạo xã tổ chức khao quân. Trước lúc liên hoan, cơ sở của tôi báo có tốp địch vào đập Hai Thép. Tôi và Tư Quyền tổ chức một tổ du kích vận động tiến công địch. Bị đánh phủ đầu, bọn địch chạy tán loạn, để lại 2 xác chết và 2 khẩu M16. Đến giờ liên hoan, không thấy tôi và Tư Quyền đâu, mà nghe thấy tiếng súng, các chú bảo: “Biết chúng nó ở đâu rồi!”. Giữa tiệc liên hoan, tôi mang 2 khẩu súng về đặt lên bàn: “Tặng mấy chú”. Các chú khen: “Thằng Ba và thằng Tư đánh giặc như đi chợ”(1).

Từ tháng 4 năm 1974 đến tháng 10 năm 1974, trên đà phát triển của cuộc kháng chiến, tôi cùng với các anh trong Ban Chỉ huy Đội du kích xã Trần Phán liên tiếp tổ chức chỉ huy các trận đánh phục kích, bao vây bọn địch trong đồn nống ra hoặc bao vây bức hàng, bức rút nhiều đán bốt địch đang đóng trên địa bàn xã, tập trung là tuyến Mương Điều - Đầm Dơi, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Tiêu biểu như các trận phục kích tại đập Ông Hai Nhượng, phục kích đồn Ngã tư xóm Ruộng, bao vây chiếm đồn Hội đồng Viễn, Hội đồng Ninh...

Giữa tháng 5 năm 1974, tôi cùng hai đồng chí trong Ban Chỉ huy Đội du kích xã tổ chức trận phục kích địch tại đập Ông Hai Nhượng cặp mé sông Mương Điều. Qua điều nghiên tình hình địa hình và hoạt động của địch, tôi bố trí lực lượng du kích thành hai tổ (chặn đầu và chính diện). Gần trưa, một tiểu đội thám báo (7 tên) đi đầu đội hình, tiếp đó là một đại đội bảo an. Chờ bọn địch lọt vào ổ phục kích, tôi ra lệnh nổ súng. Bị đánh bất ngờ, bọn địch phải ào xuống sông, số còn lại bỏ chạy tán loạn về đồn Mương Điều. Ta diệt và bắt sống 9 tên, thu 9 khẩu súng M16 và nhiều đồ dùng quân sự khác.

Trận phục kích tại đập Ông Hai Nhường có hiệu quá chiến đấu cao hơn những trận đánh trước, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống nhiều hơn. Bằng chiến thuật phục kích, Đội du kích xã Trần Phán quy mô cỡ trung đội đã đánh bại đại đội bảo an của địch. Với kết quá trên, sau trận đánh, tôi tổ chức rút kinh nghiệm và đi đến kết luận: Thắng lợi này có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng nhất chính là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa hai lực lượng chặn đầu và chính diện, làm cho địch rối loạn, bất ngờ ngay từ đầu. Kết luận này được các anh trong Ban Chỉ huy đồng tình, nhất trí cao.

Đầu tháng 6 năm 1974, lực lượng du kích xã Trần Phán phối hợp với du kích xã Tân Duyệt tổ chức phục kích địch cách đồn Ngã tư xóm Ruộng 300m, sát mé sông Mương Điều. Như thường lệ, đầu giờ buổi sáng, địch đi ra nằm đường, theo kế hoạch, chờ địch lọt vào ổ phục kích của Tổ 1, ta nổ súng tiêu diệt bọn này, chặn đường rút về đồn. Nhân cơ hội này, Tổ 2 và Tổ 3 cũng đã nhanh chóng vận động tiến công bao vây đồn Cai Hựu. Sau gần một ngày bị bao vây, giữa đêm bọn địch bỏ đồn Cai Hựu chạy về Hội đồng Viễn, gặp phải du kích ấp Trung Cang chặn lại đánh tiếp, địch thiệt hại thêm một số nữa. Lực lượng vũ trang xã Trần Phán nhanh chóng chiến đấu cùng với nhân dân san bằng đồn. Kết quả trận chiến đấu này, Đội du kích xã đã diệt 9 tên địch, san bằng đồn Cai Hựu. Không chịu thất bại, địch cho một đại đội bảo an từ Đầm Dơi tổ chức hành quân chiếm lại đồn. Tôi cùng Ban Chỉ huy Xã đội quyết định chia lực lượng du kích làm hai tổ, Tổ chặn đầu do tôi phụ trách, Tổ chính diện do đồng chí Huỳnh Thanh Quyền chỉ huy bố trí tại đập Ông Hường, cách đồn Cai Hựu 700m nhằm ngăn cản bọn địch chiếm đồn. Khi một tốp đi đầu của địch (một tiểu đội thám báo) lọt vào ổ phục kích, tôi cho qua, chờ đánh bọn bảo an. Khi đơn vị nổ súng, ban đầu địch hoảng loạn chống trả yếu ớt, sau khi chúng củng cố lại, lợi dụng quân đông, có vũ khí lợi hại M79 và lựu đạn cay, chúng phản kích mạnh. Lực lượng ta buộc phải rút lui, trận đánh tuy hiệu quả chiến đấu chưa cao, song đã thể hiện rõ sự tiến bộ của lực lượng du kích xã Trần Phán cả về trình độ hiệp đồng lẫn khả năng vận dụng các hình thức chiến thuật, từ chỗ chỉ tổ chức các trận đánh đơn lẻ (phục kích, tập kích...), nay liên kết các hình thức này (từ phục kích, tập kích phá đồn, diệt viện...) trong một trận đánh. Bản thân tôi cũng đã rút ra được nhiều bài học thực tiễn quý giá trong tổ chức chỉ huy trận đánh.

Khi trở thành cán bộ chỉ huy của Đội du kích xã Trần Phán, tôi cùng với các anh trong Ban Chỉ huy tổ chức đánh du kích bằng nhiều hình thức chiến thuật phong phú, linh hoạt như: hóa trang mật tập, phục kích, xây dựng cơ mật dùng nội công ngoại kích, xuất quỷ nhập thần.. làm cho địch ăn không ngon, ngủ không yên, đối phó lo sợ du kích xã Trần Phán như sợ cọp.

Xâ tôi cách xã Lý Văn Năm một con sông Đội Cường, Bảy Háp. ở xã này có đồng chí Xã đội trưởng chỉ huy Đội du kích xã đánh giặc cũng rất giỏi. Trong một trận chiến đấu, khi bị thương vào tay, đồng chí đề nghị bác sĩ cưa chéo cánh tay của mình để còn chỗ có thể bóp cò súng, tiếp tục đánh giặc. Vốn là xạ thủ bắn tỉa xuất sắc, đồng chí vừa chỉ huy đội du kích chiến đấu kiên cường quả cảm, vừa trực tiếp tiêu diệt địch, làm cho bọn địch rất hoang mang, lo sợ.

Từ đó anh em hay nói vui: “Bên kia có ông Cụt, bên này có ông Cọp (là tôi), thằng địch khi nghe danh đã sợ vỡ tim rồi”. Bọn địch thường dọa nhau: “Lớ xớ thằng Cụt ăn mày đấy, thằng Cọp cụt giò mày đấy (lấy giò mày đấy)”. Những câu chuyện bên lề tưởng chừng không đi về đâu, song thực tế đã góp phần tác động đến tâm lý, tinh thần chiến đấu của bọn ngụy quân, ngụy quyền trong giai đoạn này trên địa bàn; do đó sức chiến đấu của chúng cũng bị xuống dốc ngày một rệu rã.


(1) Tôi và anh Tư Quyền.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 08:00:47 am
Tháng 10 năm 1974, theo đề nghị của Đảng ủy xã Trần Phán, Ban Cán sự Huyện đội Đầm Dơi bổ nhiệm đồng chí Huỳnh Thanh Quyền - Ủy viên Thường vụ Xã ủy từ Xã đội trưởng sang làm Chính trị viên, tôi (Trần Phi Hổ) - Xã đội phó lên làm Xã đội trưởng.

Đầu tháng 10 năm 1974, trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình địch - ta, Bộ Chính trị Trung ương Đảng kết luận: “Thời cơ chiến lược mới đã mở ra”. Tỉnh ủy Cà Mau ra nghị quyết “Quyết tâm đánh bại kế hoạch bình định của địch, tiến lên giải phóng tỉnh nhà”. Huyện ủy Đầm Dơi tổ chức quán triệt nghị quyết của trên và đề ra kế hoạch hoạt động với phương châm: “Tiếp tục thực hiện ba mũi tiến công, thực hiện tác chiến nhỏ, lẻ, rộng khắp nhằm kìm căng quân địch, dồn sức tiến công trên khu vực chủ yếu, thực hiện “công đồn đã viện”, tiêu diệt, bức hàng, bức rút các đồn bốt, giải phóng quê nhà”.

Được học tập, quán triệt chủ trương của trên, tôi hiểu thời cơ lớn đã đến, quyết tâm cùng với đội du kích đánh nhiều trận xuất sắc hơn, góp phần cùng lực lượng vũ trang của trên, nhanh chóng giải phóng quê nhà.

Cuối tháng 10 năm 1974, nhận lệnh chiến đấu từ Ban Chỉ huy Huyện đội Đầm Dơi, lực lượng du kích xã Trần Phán phối hợp với đợt hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương quân của huyện. Trong đợt hoạt động này, Đội du kích xã Trần Phán tiến công bao vây đồn Hội đồng Viễn và Hội đồng Ninh. Sau khi trao đổi với đồng chí Bí thư chi bộ, Chính trị viên Xã đội Huỳnh Thanh Quyền, tôi chia lực lượng du kích xã thành hai tổ, kết hợp với lực lượng binh vận của xã bao vây bức hàng, bức rút hai đồn nói trên. Sau hai ngày bị ta bao vây kết hợp với binh vận, nội bộ địch trong đồn Hội đồng Viễn bị phân hóa và bỏ chạy. Tôi cho một tổ nhanh chóng chiếm đồn, cùng thời điểm này đồng chí Huỳnh Thanh Quyển chiếm đồn Hội đồng Ninh không tốn một viên đạn. Chiếm xong đồn, đồng chí cùng với lực lượng dân công của xã san phẳng hai đồn khác.

Thừa thắng xông lên, ngày 2 tháng 11 năm 1974, tôi tiếp tục chỉ huy Đội du kích bao vây và san phẳng đồn Nhị Nguyệt. Ngày 7 tháng 12 năm 1974, bao vây đồn Tân Hưng. Theo kế hoạch hiệp đồng chiến đấu với Ban Chỉ huy Huyện đội, tôi chỉ huy lực lượng du kích xã tiến công từ kinh Giáo Cử xuống. Lực lượng địa phương quân của huyện đánh từ Nhị Nguyệt lên. Đúng 7 giờ ngày 7 tháng 12 năm 1974, tôi tổ chức lực lượng du kích xã phục kích đánh cách đồn 700m chờ cho bọn địch nống ra. Đúng như dự đoán của ta, sau khi ta bố trí xong lực lượng, bọn địch ở trong đồn lục đục kéo ra, tôi ra lệnh nổ súng diệt nhiều tên, trong đó có tên Tha, địch hốt hoảng kéo nhau về đồn. Tôi lệnh cho các tổ siết chặt vòng vây không cho chúng ra ngoài và tổ chức bắn tỉa, đánh “làn xà bom” vào liên tục. Làn xà bom là súng tự chế của đồng chí Hoàng Anh, anh đã dùng đầu đạn 105mm của Mỹ và ống thép của công trường huyện chế tạo để phóng đầu đạn này vào các mục tiêu trong đồn địch. Để hoàn chỉnh vũ khí này, tôi được Hoàng Anh phân công thi công phần đế. Sau nhiều ngày đi tìm nguyên liệu, cuối cùng tôi đã nhờ công trường của xã đúc cho bộ đế bằng gang, đem đi thử súng có thể bắn xa từ 70 đến 80m.

Trận đầu tiên mang súng này tác chiến uy hiếp địch là ngày 2 tháng 11 năm 1974, tôi chỉ huy Đội du kích bao vây đồn Nhị Nguyệt. Đồn trưởng là một tên lai người Pháp có tên là Út Ca Răng, theo Mỹ. Khi lực lượng du kích xiết chặt vòng vây, tôi lệnh cho Hoàng Anh bắn làn xà bom vào đồn, làm sập lô cốt số 1. Tuy vậy chúng vẫn ngoan cố không đầu hàng, trong khi lệnh của Ban Chỉ huy Huyện đội là Du kích xã Trần Phán phải bao vây bức rút bằng được mục tiêu này.

Lực lượng địch vận của xã cho biết, lúc bấy giờ, vợ Út Ca đang ở nhà. Tôi quyết định đến gặp vợ y, vào thuyết phục chồng hạ vũ khí, nộp đồn cho du kích xã. Đến nhà, vợ y đang nhai trầu, ban đầu bà ta sợ không chịu đi, quá trình vận động thuyết phục, bà ta đồng ý. Tôi bố trí hai tên lính ngụy dẫn vợ hắn vào đồn, gần đến đồn 50m, Út Ca cho lính bắn ra thị uy, khi vợ y vào thuyết phục, y kiên quyết không hạ đồn, tôi dùng loa vừa thị uy vừa đe dọa, vừa thuyết phục, y cũng kiên quyết không đầu hàng, song hẹn đến 18 giờ tối mời chỉ huy đến nói chuyện. Tôi nhận định, địch tuy chưa đầu hàng, song có ý định rút chạy, vì vậy lệnh cho Hoàng Anh bắn 4 trái làn xà bom vô đồn, trúng bốt 2 và 3, địch bỏ chạy. Tôi chỉ huy lực lượng du kích chiếm được đồn Nhị Nguyệt đúng kế hoạch của Ban Chỉ huy Huyện đội giao.

Sau trận này, tôi tổ chức rút kinh nghiệm, nhất là việc sử dụng vũ khí mới làn xà bom để đánh có hiệu quả hơn. Từ kinh nghiệm đó, tôi đã sử dụng hỏa lực quan trọng này để đánh đồn Tân Hưng, tạo nên uy lực lớn khiến bọn địch trong đồn đã hoang mang lại càng thêm hoang mang dao động.

Không chịu nổi vòng vây của du kích, ngày 12 tháng 12 năm 1974, địch bỏ chạy về Cà Mau, lực lượng du kích nhanh chóng chiếm được đồn Tân Hưng. Đây là đồn cuối cùng trên địa bàn xã Trần Phán bị san bằng và ngày 12 tháng 12 năm 1974 là ngày xã Trần Phán hoàn toàn được giải phóng và giữ cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 cùng cả nước vỡ òa trong niềm vui đại thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trọn vẹn 20 năm vượt qua muôn vàn thử thách, gian khổ, hi sinh, chiến đấu kiên cường, quả cảm trước một kẻ thù to lớn, mạnh về quân sự, có nhiều âm mưu thủ đoạn thâm độc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Trần Phán đã đoàn kết phát huy cao nhất thế trận chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đánh bại mọi hành động xâm lược của kẻ thù, giải phóng quê hương. Được làm chủ mảnh đất thân yêu, bà con bám trụ cùng với các cô bác tản cư trước đây nay cùng đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, hỗ trợ nhau trở về ruộng vườn cũ, chăm lo sản xuất, ổn định cuộc sống, tiếp tục chiến đấu, góp phần cùng quân dân trong tỉnh đập tan các căn cứ quân sự, bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng tỉnh nhà.

Hòa trong tiếng súng Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 của cả miền Nam, quán triệt và thực hiện phương châm tự giải phóng: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh của Trung ương Cục đối với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, theo chủ trương của Tỉnh ủy, các huyện nhanh chóng rút lực lượng vũ trang cáo xã hành lập quy mô cỡ tiểu đoàn tăng cường cho bộ đội tỉnh. Thực hiện quyết định trên, tháng 2 năm 1975, Đảng ủy, Ủy ban lâm thời xã Trần Phán quyết định thành lập một đại đội gồm 120 đồng chí đưa về huyện Đầm Dơi để thành lập Tiểu đoàn 11 tăng cường cho tỉnh.

Lên đến huyện, tôi được biết Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 11 lúc này gồm các đồng chí: Nguyễn Tấn Bộ (Tư Bộ) làm Tiểu đoàn trưởng, Võ Hải Biên (Hai A) và Trần Phương Mến (Tư Mến) làm Chính trị viên; các anh Nguyễn Chiến Lược, Trang Hoàng Nam (Năm Bạ), Nguyễn Quốc Tuấn (Bảy Tuấn) làm Tiểu đoàn phó. Trên biên chế Tiểu đoàn có hai đại đội: Đại đội 1 do đồng chí Huỳnh Thanh Quyền làm Đại đội trưởng, Đại đội 2 do tôi làm Đại đội trưởng.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 08:01:12 am
Khi đã ổn định biên chế tổ chức, tôi được Ban Chỉ huy Tiểu đoàn gọi lên cùng với các đồng chí cán bộ chủ trì nghe quán triệt nhiệm vụ. Đồng chí Nguyễn Tấn Bộ phổ biến: Trên giao cho Tiểu đoàn tổ chức một lực lượng tiếp tục bao vây Chi khu Đầm Dơi, lực lượng còn lại tiến công vào sân bay Cà Mau. Đại đội 2 do tôi làm Đại đội trưởng nằm trong đội hình tiến công vào sân bay Cà Mau. Để chuẩn bị tiến công vào sân bay Cà Mau, Tiểu đoàn đã tổ chức một lực lượng tinh gọn bao gồm cán bộ chỉ huy Tiểu đoàn, Đại đội và lực lượng trinh sát đi thực địa tại hậu cứ Trung đoàn 32, thuộc Sư đoàn 21 ngụy và sân bay Cà Mau.

Đêm 30 tháng 4 năm 1975, tôi chỉ huy Đại đội 2 cùng với lực lượng của Tiểu đoàn 11 vận động tiến công đồn Tắc Vân. 3 giờ sáng 1 tháng 5, bọn địch trong đồn Tắc Vân đầu hàng, Tiểu đoàn vào chiếm đồn, sau đó bàn giao cho Tiểu đoàn 12 và nhanh chóng dồn đội hình tiếp tục vận động tiến công áp sát sân bay Cà Mau và hậu cứ Trung đoàn 32 ngụy. Trong vòng vây ngày càng siết chặt của Tiểu đoàn, bọn địch tại đây còn rất ngoan cố. Để bớt đổ máu, đồng chí Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 dùng máy vô tuyến điện PRC-25 bắt liên lạc với bọn chỉ huy buộc chúng phải đầu hàng. Mãi đến 6 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975, chúng mới chịu đầu hàng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên, tôi tiếp tục chỉ huy Đại đội 2 cùng với Tiểu đoàn vào tiếp quản hậu cứ Trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 21 ngụy trong thị xã, đến hết sáng 1 tháng 5 năm 1975, toàn bộ thị xã Cà Mau hoàn toàn giải phóng.

Những năm 1973-1975, tôi vẫn đang ở cái tuổi đôi mươi tràn đầy sức lực, đánh giặc liên miên, hết trận này đến trận khác làm tôi không có thời gian yêu đương, chú chưa nói đến chuyện xây dựng gia đình, vợ con. Hơn nữa, tôi nghĩ, cuộc chiến đấu giải phóng quê hương còn đang tiếp tục, cái sống, cái chết liền kề, nếu lấy vợ sinh con, bị mệnh hệ gì thì khổ cho người ta. Tuy vậy, với dáng dấp thư sinh, trắng trẻo, trẻ trung, người mảnh mai, tầm thước cao ráo, lại là Xã đội trưởng, chỉ huy một đội du kích nổi tiếng cả một vùng, tôi được nhiều cô gái tuổi cập kê trong vùng để ý, làm quen. Nhưng lúc đó tôi cũng không quan tâm nhiều, chỉ tập trung lo chuyện đánh giặc. Mấy cô khi gặp tôi, chọc ghẹo, có ý trách móc: “Anh Ba đẹp trai không có trái tim, súng đạn làm cho tâm hồn anh Ba chai sạn...”. Nghe thấy thế, tôi chỉ cười và chọc lại mấy em: “Ráng chờ anh Ba ngày độc lập, thống nhất”. Cuộc đời nhiều khi không thể chiều lòng người, có khi cái mà ta không muốn và không có, bằng nhiều cách khác nó vẫn đến với mình và không thể chống lại.

Càng chiến đấu hăng say, có thành tích, tôi càng được các chú quý mến. Các chú quan tâm đến tôi không chỉ trong phương pháp, tác phong lãnh đạo, chỉ huy mà ngay trong cuộc sống đời thường. Khi đó, Đội du kích đóng quân tại nhà dân ở ấp Bờ Đập, xã Trần Phán. Tại đây, gia đình chú Hai Ấn có mấy cô con gái xinh đẹp, nết na, rất chăm chỉ làm ăn, tích cực tham gia phong trào cách mạng địa phương. Gia đình chú Hai Ấn là gia đình nông dân và là cơ sở cách mạng. Trong số các cô con gái của ông bà, nổi lên có cô Phạm Thị Bé, người tầm thước, trắng trẻo, xinh gái, lao động giỏi, đã trở thành đối tượng mà các cô chú muốn mai mối cho tôi. Biết chuyện, tôi chỉ cười trừ vì đường còn dài, hơn nữa chuyện “lắp ghép” này có hợp nhau không? Thấy tôi lừng khừng chưa chịu, các chú Lê Công Bình, Bảy Rây - Huyện ủy viên, Lê Văn Huỳnh (Hai Lễ) - Huyện đội phó, Tám Diệp đều nói: “Các chú lo cho mày đâu có lo cho tao”, “Chính vì cuộc chiến đấu còn dài, cháu phải lấy vợ để có hậu phương ổn định. Hậu phương ổn định sẽ quyết định đến sức mạnh của tiền tuyến”. Tôi hiểu các chú rất quý tôi, lo cho tôi mới làm như thế, tôi im lặng, gật đầu. Thế là sau lễ kết nạp tôi vào Đảng (22-3-1973), các chú đến nhà ông bố vợ tương lai Hai Ấn hỏi cô Phạm Thị Bé cho tôi. Sau năm 1975, tổ chức ăn hỏi, lễ cưới của chúng tôi được tổ chức sau đó một năm (1976). Cuối năm 1976, chúng tôi có một cháu trai Trần Quốc Cường (hiện nay cháu đã tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ, đang công tác tại Phòng Giáo dục huyện Đầm Dơi, là đảng viên, có vợ và một con gái tên là Trần Phi Yến).

*
*   *

Suốt sáu năm chiến đấu trên mảnh đất quê hương yêu dấu, được sự giáo dục của Đảng, được sống trong tình cảm yêu thương, tin cậy của các cô, các chú, sự giúp đỡ, chia sẻ, hiệp lực đậm tình anh em, đồng chí trong Đội du kích xã, sự nuôi dưỡng, đùm bọc, bảo vệ của bà con, nhân dân xã Trần Phán đã giúp tôi từ một thanh niên mang nặng thù nhà, nợ nước, có cơ hội phấn đấu, nay đã trở thành cán bộ, đảng viên của Đảng, chiến đấu trong lực lượng vũ trang địa phương tỉnh.

Trong những ngày quê hương được giải phóng, tôi rất xúc động và biết ơn vô hạn những đồng bào, đồng chí, trong đó có ông ngoại và các cậu tôi đã hi sinh; chính họ đã định hướng, chắp cánh cho con đường tôi đi. Phải chiến đấu trong lòng địch suốt sáu năm ròng trên một địa bàn trọng điểm bình định của địch, nếu không có sự đùm bọc, nuôi nấng, giúp đỡ, bảo vệ của bà con, nhân dân xã Trần Phán và các xã bên cạnh, tôi và Đội du kích xã Trần Phán chắc chắn khó tồn tại, chứ chưa nói gì đến sự phát triển, lập nhiều chiến công, trở thành đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đối với bản thân, bằng sự cố gắng của mình, tôi đã góp phần nhỏ bé vào những chiến công của lực lượng vũ trang xã Trần Phán vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong sáu năm trực tiếp chiến đấu với các cương vị khác nhau, từ chiến sĩ du kích xã đến Xã đội trưởng, Đại đội trưởng Đại đội địa phương quân của Tiểu đoàn 11 bộ đội tỉnh Cà Mau, tôi tham gia chiến đấu và trực tiếp chiến đấu trên 200 trận chống càn, tập kích, phục kích, trong đó có các trận tiêu biểu như đánh đồn địch, đánh lực lượng ứng cứu quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn địch, tiêu diệt 87 tên, thu 32 súng các loại, góp phần xây dựng, phát triển lực lượng và phong trào cách mạng xã Trần Phán. Đối với tôi, những chiến công ấy mãi mãi thuộc về nhân dân và lực lượng vũ trang xã Trần Phán. Tuy vậy, trong cái chung có cái riêng, xét thành tích chiến đấu của tôi, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã nhất trí đề nghị Nhà nước phong tặng tôi danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; đề nghị này được Chủ tịch nước ký duyệt vào ngày 26 tháng 7 năm 2012.

Được thử thách trong muôn vàn gian khổ, hi sinh, tôi đã trưởng thành về mọi mặt, chắc chắn những gì tôi tích lũy được trong sáu năm trực tiếp chiến đấu ở Đội du kích xã Trần Phán không chỉ là những kỷ niệm cao đẹp, sâu đậm trong cuộc đời chiến đấu của tôi mà còn là những bài học và những trải nghiệm quý, hết sức bổ ích cho những chặng đường phấn đấu của tôi sau này.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 08:05:23 am
Chương III

CUỘC CHIẾN ĐẤU MỚI
(1976-1989)
(1)

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với những thuận lợi cơ bản, Tổ quốc độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta lại tiếp tục phải đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn mới. Đất nước ta một mặt phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục những hậu quả hết sức nặng nề do 30 năm chiến tranh để lại; mặt khác tập trung sức củng cố quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị nhằm đập tan hành động phản kháng của các thế lực thù địch không chịu cải tạo, quy hàng đồng thời đối phó, đánh trả âm mưu, hành động lấn chiếm biên giới của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari. Trong bối cảnh vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, quân dân Đồng bằng sông Cửu Long cùng với cả nước tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên địa bàn tỉnh Cà Mau, ngay sau khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và Khu ủy, Tỉnh ủy đã thành lập ngay chính quyền quân quản để quản lý, điều hành mọi công việc trong những ngày đầu mới giải phóng. Ủy ban quân quản tỉnh Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp (Tám Khanh) làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Tòng Bá (Út Điệp) làm Phó Chủ tịch.

Trong thời gian này, tôi đang làm Đại đội trưởng Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 11. Khi Tiểu đoàn giải thể, trên điều tôi về làm Đại đội phó quân sự huyện Đầm Dơi; sau đó lại được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 4 (Đại đội huấn luyện) của Tiểu đoàn U Minh 2. Nhiệm vụ chính của Đại đội tôi là tập trung huấn luyện, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu trấn áp và truy quét tàn quân địch, bảo vệ chính quyền cách mạng, hỗ trợ Ủy ban Quân quản thực thi nhiệm vụ quản lý, điều hành địa bàn mới giải phóng.

Trên biên giới Tây Nam, sau khi tiến hành các cuộc tiến công xâm chiếm các đảo trên biển, lấn chiếm trên bộ vào các năm 1975-1976 không thành, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari bị quân và dân ta trừng trị nghiêm khắc và đích đáng. Được sự xúi giục, giúp đỡ của bọn phản động quốc tế, lợi dụng những mâu thuẫn do lịch sử để lại, với bản chất dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chúng đã thực hiện ở Campuchia thứ “chủ nghĩa cực đoan tàn bạo” chưa từng có trong lịch sử. Về đối nội, chúng triệt hại những người trí thức chân chính, tổ chức ở Campuchia một xã hội không nhà cửa, tiền bạc, chợ búa, nhà thương, trường học; với chính sách diệt chủng dã man, tàn bạo, khủng khiếp thời trung cổ. Về đối ngoại, chúng ra sức tuyên truyền “Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù số một”.

Với quan điểm, đường lối hòa bình và hữu nghị, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã kiên trì, nhẫn nại, nhiều lần đề nghị Khmer Đỏ giải quyết mâu thuẫn và bất đồng giữa hai nước bằng con đường hòa bình thương lượng. Song, với tham vọng điên cuồng, nhân lúc nhân dân cả nước, quân dân Đồng bằng sông Cửu Long vui mừng kỷ niệm hai năm ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (30-4-1975 - 30-4-1977), đêm 30 tháng 4 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Trên biên giới Tây Nam, từ Mộc Hóa (Long An) đến Hà Tiên (Kiên Giang), chúng đã huy động lực lượng tới bảy tiểu đoàn của hai sư đoàn bộ bình và lực lượng vũ trang các tỉnh giáp biên giới, cùng với xe tăng, đại bác tiến công đánh chiếm các mục tiêu, địa bàn chiến lược trên tuyến biên giới, gây ra biết bao tội ác đối với đồng bào ta. Ở khu vực Bảy Núi (An Giang), chúng đã đốt phá hơn 100 ngôi nhà, giết hại dã man 754 người, cướp đi hơn 6.000 giạ lúa. Hành động dã man, tàn bạo của kẻ thù là điều không thể chấp nhận được. Chúng đã ngang nhiên xâm phạm đến độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, tàn sát dã man đồng bào ta, phá hoại truyền thống đoàn kết, hòa bình, hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, chà đạp lên luật pháp quốc tế, thách thức dư luận tiến bộ trên thế giới.

Chấp hành chủ trương của Quân ủy Trung ương và mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định chuyển lực lượng vũ trang Quân khu từ thời bình sang thời chiến, đồng thời triển khai kế hoạch tác chiến đánh địch, bảo vệ biên giới.

Cùng với các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu lên biên giới đánh địch, cuối năm 1977, với cương vị là Đại đội trưởng của Tiểu đoàn U Minh 2 (bộ đội địa phương của tỉnh Minh Hải), tôi nhận lệnh chỉ huy Đại đội cùng với Tiểu đoàn hành quân lên biên giới phối hợp cùng với Trung đoàn 110 và lực lượng vũ trang tỉnh An Giang đánh địch bảo vệ biên giới. Trong thời gian này, tôi chỉ huy Đại đội cùng với Tiểu đoàn phản kích địch ở núi Xom, Ăngtachao bên đất Campuchia, sau đó được lệnh trên về chiến đấu khôi phục tuyến biên giới ở Vĩnh Gia, Vĩnh Điều (Ba Trúc); hành quân sang Hà Tiên đánh địch ở Sa Kỳ, Địa Tạng, Cáp Cô. Đặc biệt, cuộc chiến đấu ở Sa Kỳ diễn ra vô cùng ác liệt, địch chiếm, ta phản kích; ta chiếm, địch phản kích; cuối cùng ta đẩy chúng ra khỏi mục tiêu quan trọng này, khôi phục tuyến biên giới.


(1) Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2022, 08:06:44 am
Tháng 3 năm 1978, khi Quân khu thành lập Sư đoàn 339 gồm 3 trung đoàn: Trung đoàn 156 (Trung đoàn 8 sau này), Trung đoàn 10, Trung đoàn 157 (Trung đoàn 9 sau này). Với cương vị là Đại đội trưởng Đại đội 4 của Tiểu đoàn U Minh 2, Đại đội tôi cùng với Tiểu đoàn U Minh 2 chuyển về trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn 9(1), dưới phiên hiệu mới là Đại đội 5, Tiểu đoàn 5, do đồng chí Lê Trung Tính (Tám Tính) làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Phạm Ngọc Lợi (Sáu Nhỏ) làm Chính trị viên. Sau khi dự lễ thành lập Trung đoàn, tôi chỉ huy Đại đội cùng hành quân trong đội hình Tiểu đoàn 5 về đứng chân trên địa bàn xã Vĩnh Xương, huyện Phú Châu, tỉnh An Giang. Do có công tác tiền trạm từ trước của Tiểu đoàn và Trung đoàn, khi Đại đội tôi vừa về đến nơi đã được lãnh đạo, chính quyền và các cơ quan, đoàn thể, nhân dân địa phương đón tiếp niềm nở, gần gũi và hết sức chân tình. Bà con giành cho chúng tôi nơi ăn ở thoải mái để nhanh chóng bắt tay vào nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đơn vị vừa ổn định nơi ăn ở, ngay tối hôm đó, tôi và đồng chí Chính trị viên Đại đội được Tiểu đoàn gọi lên. Đồng chí Lê Trung Tính - Tiểu đoàn trưởng giao nhiệm vụ: “Đại đội phối hợp lực lượng vũ trang tại chỗ, xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc đánh địch lấn chiếm. Trước mắt tranh thủ thời gian huấn luyện đơn vị theo nội dung chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng”.

Bắt tay vào tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tôi thấy có biết bao nhiêu điều mới mẻ. Mặc dù đã có sáu năm trực tiếp chiến đấu trong Đội du kích xã Trần Phán và gần ba năm làm cán bộ đại đội của Tiểu đoàn quân sự địa phương tỉnh nhưng bây giờ làm cán bộ đại đội chiến đấu trong đội hình đơn vị chủ lực của Khu, tôi vẫn không tránh khỏi bỡ ngỡ. Từ phong cách chỉ huy đến quản lý giáo dục bộ đội, từ công tác chuẩn bị chiến đấu đến xây dựng, chọn lựa cách đánh, bố trí đội hình, giao nhiệm vụ cho các trung đội, hiệp đồng với đơn vị bạn, tổ chức huấn luyện bổ sung... tất cả đều phải có kế hoạch, triển khai chặt chẽ, nghiêm túc, với tác phong chính quy, giờ nào việc nấy.

Giai đoạn đánh địch ở du kích xã, có địch là kéo nhau đi, vì địa hình đã nắm chắc, còn địch thì trừ hành động của Sư đoàn 21 ngụy, còn bọn địa phương quân về cơ bản là nắm được cả, những hành động cụ thể đều có cơ sở cung cấp. Do vậy, có khi vừa đi vừa tính toán cách đánh, phân công nhiệm vụ cụ thể, cứ thế đánh hoài. Bây giờ, lên chủ lực, nhiều việc quá, việc nào cũng quan trọng! Do trong những năm tháng lăn lộn trong thực tiễn chiến đấu ở quê nhà, thường xuyên cọ xát với địch, nên tôi đã phần nào tích lũy những kinh nghiệm, tri thức quân sự. Lên đơn vị chủ lực, tiếp xúc, thực hiện phong cách chỉ huy mới, dạng chính quy, lại được các anh trong Tiểu đoàn, Trung đoàn chỉ bảo, tôi đã nhanh chóng làm quen, bước đầu có những thuận lợi trong thực hiện nhiệm vụ.

Trong lúc cán bộ, chiến sĩ Đại đội tôi đang tranh thủ thời gian cho nhiệm vụ huấn luyện, làm công tác chuẩn bị chiến đấu tại Phú Châu (An Giang), được tin đêm 20 tháng 4 năm 1978, Pôn Pốt đã dừng hai trung đoàn chủ lực (12, 13) và Trung đoàn 14 địa phương quân Tà Keo đánh vào Ba Chúc giết hại hơn 2.000 người, bắt đi 2.000 người dân vô tội, đốt phá nhiều trường học, bệnh viện, chùa chiền, gây nên những tội ác “trời không dung, đất không tha” đối với đồng bào ta. Tội ác của giặc làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ Đại đội tôi vô cùng căm phẫn. Được sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Ngọc Lợi - Chính trị viên Tiểu đoàn, tôi đã đề xuất: tổ chức đợt thi đua “giết giặc lập công”, trong đó vừa tổ chức tốt đợt tuyên truyền phát động căm thù quân Pôn Pốt, vừa xây dựng ý chí quyết tâm cao, kiên quyết tiêu diệt địch; trước mắt thực hiện có chất lượng các bài tập huấn luyện bổ sung. Hiệu quả trông thấy, tất cả mọi cán bộ, chiến sĩ trong Đại đội chúng tôi đều hướng về Ba Chúc, hướng về biên giới, thực hiện tốt kế hoạch huấn luyện chiến đấu bổ sung của Tiểu đoàn, Trung đoàn.

Ngày 2 tháng 5 năm 1978, Pôn Pốt sử dụng một trung đoàn của Sư đoàn 218 tiến công vào các xã Vĩnh Xương, Phú Hữu, Tân An, nhằm tạo bàn đạp chiếm thị trấn Phú Châu. Trung đoàn 9 đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương kiên quyết chiến đấu, ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, buộc địch phải lâm thời phòng ngự trên tuyến kinh Năm Xã thuộc xã Vĩnh Xương để củng cố lực lượng, chờ tăng viện.

Phải tiêu diệt bọn này, trả thù cho đồng bào Ba Chúc, đồng chí Dương Quốc Phục (Ba Phục) - Trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 5: Tiến công theo hướng Vĩnh Xương vào kinh Năm Xã, phối hợp với Tiểu đoàn 4 ở đầu kinh Năm Xã. Quá trình tiến công sẽ được chi viện của Tàu 962 hải quân - lực lượng tăng cường của Quân khu. Ngày 15 tháng 5 năm 1978, tôi được đồng chí Tiểu đoàn trưởng Lê Trung Tính giao nhiệm vụ: “Chỉ huy Đại đội cùng với Tiểu đoàn tiến công địch theo hướng Vĩnh Xương vào kinh Năm Xã”. Nhiệm vụ cụ thể của Đại đội tôi là đảm nhiệm hướng vu hồi.

Quá trình chỉ huy bộ đội tiếp cận mục tiêu, tôi đạp phải chông, máu ra nhiều lắm. Tôi đã yêu cầu cậu y tế Đại đội nhanh chóng xử lý vết, thương để tiếp tục chiến đấu. Song tai ác là, mũi chông đã xuyên qua bàn chân, máu me bê bết hòa lẫn với bùn. Việc này bình thường là phải phẫu thuật để tránh nhiễm trùng, hơn nữa mũi tên lại có “ngạnh”, xử lý là nhiệm vụ quá khả năng chuyên môn của một y tá đại đội. Thấy đồng đội còn chần chừ, tôi nhanh chóng duỗi thẳng chân và yêu cầu cậu y tá rút chông ra khỏi bàn chân, băng bó lại để tôi tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu và yêu cầu giữ kín chuyện này. Thế nhưng, chuyện tôi bị thương đã không giữ được, anh em biết hết cả, song thấy tôi vẫn bình tĩnh chỉ huy bộ đội, cán bộ, chiến sĩ Đại đội vừa thương tôi, vừa căm thù giặc, giữ vững tinh thần, chiến đấu dũng cảm, nhanh chóng tiêu diệt mục tiêu được phản công, diệt 15 tên địch, thu nhiều súng đạn, góp phần cùng với Tiểu đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao: tiêu diệt nhiều địch, giải phóng và làm chủ được địa bàn, trả thù cho đồng bào Ba Chúc bị kẻ thù sát hại. Đối với tôi, đó là trận đánh bài bản đầu tiên được chỉ huy bộ đội chủ lực tác chiến trong chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng. Dù vất vả, bị thương, song bản thân nhận thấy có bước trưởng thành quan trọng cả về tri thức quân sự và năng lực chỉ huy tác chiến.


(1) Xin sử dụng phiên hiệu Trung đoàn 156 là Trung đoàn 8, Trung đoàn 157 là Trung đoàn 9 để tiện theo dõi.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:52:35 am
Sau trận chiến đấu này, tháng 9 năm 1978, tôi được trên bổ nhiệm làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 9, Sư đoàn 339, tôi nhanh chóng bàn giao đơn vị lên Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ mới. Đến Tiểu đoàn, tôi cùng các anh trong Ban Chỉ huy khẩn trương triển khai kế hoạch hành quân đưa Tiểu đoàn về đứng chân trên địa bàn huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp, vì thời điểm này vào mùa mưa (mùa nước nổi), các hoạt động quân sự của ta và địch gần như phải dừng lại. Theo lệnh trên, Tiểu đoàn rút sâu vào nội địa tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện. Đây là thời điểm vào giữa mùa mưa, nước sông Tiền và sông Hậu đoạn đầu nguồn dâng lên rất cao, làm ngập lụt cả một vùng rộng lớn mênh mông. Về mùa này, tổ chức cho bộ đội hành quân hết sức vất vả, trên trời những đám mây bụng đẩy nước, đổ mưa bất kỳ lúc nào; dưới đất, nước đục ngầu, mênh mông làm chìm các trục lộ liên xã, liên huyện, thậm chí đến tỉnh lộ. Bộ đội dầm mình trong mưa lũ, ban ngày thì đỡ, ban đêm ướt lạnh đến run người. Do đơn vị thiếu phương tiện cơ động, lãnh đạo chính quyền và nhân dân huyện Phú Châu đã huy động hàng trăm xuồng ghe giúp bộ đội hành quân qua sông về đích an toàn.

Chứng kiến đoàn ghe hùng hậu tấp nập, nhộn nhịp vào ra rất trật tự, chở bộ đội qua sông, tôi rất xúc động, tự hào. Đây không chỉ là những chiếc ghe, con thuyền độc mộc đơn sơ, gần gũi, thân thiết với mỗi người dân Nam Bộ mà trong lòng nó chứa đầy tình cảm “quân dân cá nước”, là nguồn sống và là sức mạnh vô địch của Quân đội ta để chiến thắng mọi kẻ thù.

Về Hồng Ngự chưa ấm chỗ, Tiểu đoàn tôi được lệnh “nhổ neo” hành quân về Đầm Lác, Sa Đéc để có nhiều thuận lợi cho việc củng cố lực lượng, triển khai nhiệm vụ huấn luyện. Về vị trí mới trong điều kiện nơi ăn ở hết sức khó khăn, nước ngập lụt, đời sống vật chất, tinh thần thiếu thốn, sức khỏe của bộ đội giảm sút. Trước tình hình trên, tôi đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy: Trước hết phải làm tốt công tác tư tưởng, ổn định tổ chức, tiếp đó tăng cường công tác quản lý tiêu chuẩn chế độ của bộ đội, từng đơn vị cơ sở nêu cao ý thức tự lực tự cường, tranh thủ thời gian rảnh rỗi ngoài giờ tổ chức cho bộ đội tăng gia cải thiện thêm.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu, từ lãnh đạo, chỉ huy đến mọi cán bộ, chiến sĩ xác định rõ phải mau chóng hoàn tất mọi công tác chuẩn bị chiến đấu với chất lượng cao theo tinh thần “vừa xếp hàng vừa đánh địch”. Chỉ trong thời gian ngắn, đơn vị đã ổn định, tinh thần phấn khởi, khẩn trương ra quân huấn luyện với khí thế và quyết tâm cao. Tất cả các khoa mục quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật trong chiến đấu, Tiểu đoàn đều đạt kết quả cao về quân số và chất lượng huấn luyện. Đặc biệt, trong huấn luyện giáo dục chính trị, khi được quán triệt các nghị quyết của Trung ương, chỉ thị của Quân khu về “Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới”, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn nhất trí rất cao việc nhận định, đánh giá và những chủ trương, giải pháp của trên; trong đó đã xác định rất rõ kẻ thù, từ đó nêu cao ý chí chiến đấu, tập trung và kiên quyết trừng trị đích đáng quân xâm lược Khmer Đỏ, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

Các bài giáo dục chính trị trong kháng chiến từ những năm chống thực dân Pháp, chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, ta làm rất tốt, làm rung động trong sâu tận trái tim, tâm hồn người chiến sĩ và kịp thời chuyển hóa thành hành động chiến đấu thiết thực nên hiệu quả rất cao. Được học chính trị, có thêm nhiều thông tin bổ ích ở những thời kỳ đó là điều hết sức phấn khởi đối với cán bộ, chiến sĩ.

Cuối năm 1978, lợi dụng nước xuống, sau khi tiến công vào Hồng Ngự thất bại, Sư đoàn 805 của địch cùng với Tiểu đoàn đặc công đánh chiếm Tuyến Giồng - Sa Rài (Đồng Tháp) nhằm chiếm Đôn Phục, làm bàn đạp tiến công thị trấn Hồng Ngự. Địch đã chiếm được Gò Việc Thuộc, Gò Châu Giang, Gò Đúc, Gò Suông sâu trong đất ta. Để đánh bại ý đồ tiến công của địch, Sư đoàn 339 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 9 phối hợp với các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Đồng Tháp tiến công tiêu diệt địch, chiếm lại khu vực đã mất. Sau khi nhận nhiệm vụ tại căn cứ Đầm Lác, Trung đoàn đã tổ chức cho các đơn vị đi trinh sát nắm địch, tích cực triển khai công tác chuẩn bị chiến đấu. Trong đó, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 được Ban Chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ đánh chiếm Gò Việc Thuộc, sau đó phát triển lên hướng sông Tân Thành.

Đêm 14 tháng 12 năm 1978, Tiểu đoàn 5 tiền nhập tiếp cận mục tiêu. 5 giờ ngày 15 tháng 12 được lệnh nổ súng tiến công. Điều kiện địa hình bất lợi cho ta, địch phòng ngự trên gò, có công sự; ta tiến công ở dưới nước lên. Địch chống cự quyết liệt; lực lượng ta ở các mũi, các hướng của Tiểu đoàn bình tĩnh, khôn khéo, linh hoạt, dũng cảm, táo bạo xung phong kiên quyết tiêu diệt địch. Chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt, ta và địch giằng nhau từng ụ đất, khúc chiến hào, từng mục tiêu; ta chiếm, địch phản kích; địch chiếm, ta tiến công. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song đội hình chiến đấu của Tiểu đoàn không thể phát triển được, lực lượng thương vong ngày càng nhiều.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:53:48 am
Quan sát, tìm hiểu tình hình, tôi thấy địch đang lợi dụng địa hình sông nước, đặt hai khẩu súng trung liên trên gò khống chế rất hiệu quả đội hình tiến công của ta. Không tiêu diệt được hai ổ hỏa lực này, bộ đội sẽ sát thương nhiều, ta khó đánh chiếm được mục tiêu; tôi để xuất với Ban Chỉ huy Tiểu đoàn bổ sung cách đánh: tổ chức một mũi vu hồi đánh vào sau lưng địch. Được Tiểu đoàn nhất trí, tôi quyết định chọn một tổ gồm năm cán bộ, chiến sĩ Trần Huy Du, Lư Đằng (quê ở Cà Mau), Nguyễn Xuân Tích (Hà Nội), Nguyễn Đình Kha (Thanh Hóa) và Nguyễn Văn Minh (Nghệ Tĩnh), do tôi trực tiếp chỉ huy, trang bị mạnh gồm B40 và lựu đạn, trang phục gọn nhẹ (cởi trần), nông(1) dọc sông Ba Rài bí mật mở một mũi vu hồi tiếp cận mục tiêu.

Đúng như dự kiến, tôi chỉ huy mũi vu hồi của Tiểu đoàn nhanh chóng tiếp cận được mục tiêu, địch hoàn toàn bất ngờ, toàn tổ dùng B40 và lựu đạn đánh úp từ phía sau, hỏa lực chính của địch im bặt, đội hình phòng ngự của địch rối loạn, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu, làm chủ trận địa. Kết quả trận chiến đấu này, Tiểu đoàn cùng với Trung đoàn đã tiêu diệt 158 tên địch, thu 79 súng. Riêng mũi vu hồi thu được 22 khẩu AK, 2 đại liên, 1 khẩu 12,7mm, góp phần vào chiến thắng vẻ vang của Trung đoàn. Ngay sau chiến thắng, đồng chí Dương Quốc Phục - Trung đoàn trường xuống ngay trận địa của Tiểu đoàn tại Gò Tắm Máu cầm tay tôi xúc động nói: “Nếu đồng chí không xử lý tình huống này, lực lượng Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 sẽ tổn thất lớn, Trung đoàn không hoàn thành nhiệm vụ trên giao”.

Chiến thắng Gò Việc Thuộc cho tôi nhiều bài học quý, song bài học sâu sắc nhất là: Trong chiến đấu có nhiều tình huống phải xử lý, nhất là lúc khó khăn, người chỉ huy không chỉ có lòng dũng cảm để làm điểm tựa tinh thần cho toàn đơn vị mà phải hết sức bình tĩnh, linh hoạt, suy nghĩ, tìm tòi ra phương án xử lý kịp thời, hợp lý nhất, với tinh thần kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, hạn chế thương vong để đơn vị có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Tổ quốc ta, tập đoàn Khmer Đỏ do Pôn Pốt - Iêng Xari cầm đầu đã bị quân dân ta đánh bại. Cuối tháng 10 năm 1978, bằng chiến dịch phản công tiến công, quân và dân ta đã nghiêm trị đích đáng các hành động xâm lược của kẻ thù, thế trận phòng thủ biên giới đã được khôi phục, sẵn sàng giáng trả mọi âm mưu và hành động xâm lược của Pôn Pốt - Iêng Xari. Ở Campuchia, không chịu nổi hành động khát máu và các chính sách dã man, tàn bạo nhất trong lịch sử, các lực lượng cách mạng yêu nước cùng với nhân dân Campuchia đã nổi dậy đấu tranh nhằm tự bảo vệ mình, quyết tâm đánh đổ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, cứu nhân dân Campuchia ra khỏi họa diệt chủng.

Đáp lời kêu gọi giúp đỡ của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia; sau khi xem xét, phân tích, đánh giá mọi mặt tình hình quốc tế, khu vực, trong nước, tháng 12 năm 1978, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định mở một đợt phản công tiến công quy mô lớn vào Pôn Pốt - Iêng Xari trên đất Campuchia, giải phóng Phnôm Pênh, cứu nhân dân Campuchia ra khỏi họa diệt chủng, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của ta.

Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng, mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc phòng và Tư lệnh Quân khu, Trung đoàn 9 cùng với các đơn vị bạn trong Sư đoàn 339 đã lên đường làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Nằm trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn 9, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 đã tham gia ngay từ những ngày đầu chiến dịch. Đầu tháng 12 năm 1978, tại Hồng Ngự, Đồng Tháp, Tiểu đoàn được Trung đoàn 9 giao nhiệm vụ: Ngày 3 tháng 1 năm 1979, cùng với các đơn vị bạn tiến hành gỡ phá vật nổ, đánh chiếm các chốt tiền tiêu trên quốc lộ 2, hỗ trợ lực lượng công binh Quân khu bắc cầu dã chiến qua sông Vĩnh Tế, thực hành mở cửa mở đánh chiếm núi Thâm Đưng. Nhận nhiệm vụ Trung đoàn giao, đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính trị viên Tiểu đoàn đã tổ chức họp Đảng ủy quán triệt nhiệm vụ trên giao, xác định một số chủ trương, biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu.

Toàn Tiểu đoàn bước vào giai đoạn chuẩn bị chiến đấu rất khẩn trương, tích cực với khí thế quyết tâm cao. Bước vào trận chiến đấu này, Tiểu đoàn do đã được học tập, quán triệt chủ trương, giải pháp của trên nhàm giải quyết vấn đề Campuchia nên cán bộ, chiến sĩ rất phấn khởi và biểu lộ sự đồng tình với quyết tâm rất cao. Trên cơ sở xác định rõ kẻ thù, bản chất của cuộc chiến tranh đối với ta là chính nghĩa, là nghiêm trị kẻ đi xâm lược; Pôn Pốt - Iêng Xari là kẻ đi xâm lược, là bọn phản động gây nhiều tội ác với nhân dân Campuchia. Đây chính là bản chất cách mạng, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, của Quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu giúp bạn ở Campuchia và cũng là chỗ yếu cơ bản của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari.


(1) Nông: phương ngữ Nam Bộ, có nghĩa là lội.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:54:28 am
Sau các năm chiến đấu và xây dựng, được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn gian khổ, ác liệt của chiến trường, lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, đảng viên của Tiểu đoàn đã nâng cao được bản lĩnh chính trị, nàng lực và kinh nghiệm tổ chức, chỉ huy chiến đấu. Đảng bộ cơ sở Tiểu đoàn có năm chi bộ, mỗi đại đội cỏ một chi bộ với khoảng 20 đến 30 đảng viên. Mặc dù quá trình chiến đấu có tổn thất, hi sinh, nhưng 100% các chi bộ đại đội được kiện toàn có cấp ủy, hệ thống cán bộ chính trị, quân sự, hậu cần từ tiểu đoàn đến đại đội, trung đội được tăng cường đầy đủ. Công tác đảng, công tác chính trị của Tiểu đoàn được triển khai cụ thể, sôi nổi, thiết thực, có chiều sâu, tạo nên sự đoàn kết, khí thế và quyết tâm chiến đấu rất cao.

Theo chủ trương của Đảng ủy Tiểu đoàn, các chi bộ đã tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc việc quán triệt nhiệm vụ chiến đấu, ra nghị quyết lãnh đạo. Các đại đội cùng với Tiểu đoàn đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tập trung giáo dục cho bộ đội về chủ trương, quan điểm của Đảng trong làm nhiệm vụ quốc tế giúp bọn với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, giới thiệu về văn hóa, phong tục, tập quán của dân tộc Khmer, phổ biến chín điều quy định của Tổng cục Chính trị, gắn kết nội dung giáo dục chung với các nội dung cụ thể của yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu sắp tới như: mục đích yêu cầu nhiệm vụ của chiến dịch, nhiệm vụ chiến đấu của Trung đoàn, của Tiểu đoàn và các đơn vị có liên quan...

Thực hiện kế hoạch chiến đấu, cuối tháng 12 năm 1078, Tiểu đoàn đã tổ chức một lực lượng cán bộ chỉ huy chủ trì, cùng với Trung đội trinh sát do tôi chỉ huy từ Hồng Ngự (Đồng Tháp) bí mật hành quân lên Tịnh Biên thực hành nhiệm vụ trinh sát địa hình và nắm địch ở hai mục tiêu: chốt tiền tiêu đầu quốc lộ 2 và núi Thâm Đưng. Tuy đã cuối tháng 12, bắt đầu vào mùa khô, nhưng do hậu quả của trận lũ lịch sử lớn chưa từng có nên đồng nước ngập mênh mông, địa hình trống trải, vật cản nổ và không nổ của địch bố trí dày đặc để bảo vệ các mục tiêu trong mùa khô, nay ngập nước không phân biệt được vị trí các bãi vật cản. Do đó, nhiệm vụ trinh sát các mục tiêu nói trên gặp vô vàn khó khăn; có cán bộ đại đội, chiến sỉ trinh sát của Tiểu đoàn đã hi sinh như đồng chí Lê Văn Tính - Đại đội trưởng Đại đội 6 đạp phải mìn địch gài ở dưới nước mất luôn hai chân phải đưa về tuyến sau. Thế nhưng tất cả hi sinh gian khổ đó cũng không làm giảm sút ý chí chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ; mọi người vẫn giữ vững quyết tâm, vượt lên gian khổ, ngâm mình dưới nước, lợi dụng cỏ, lục bình để tiếp cận mục tiêu.

Sau hai ngày đêm đi nghiên cứu chiến trường, ban ngày lợi dụng các vật che khuất leo lên cây để quan sát nắm địch và địa hình, ban đêm bí mật tiếp cận các mục tiêu, đoàn cán bộ đi trinh sát của Tiểu đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trinh sát núi Thâm Đưng, trụ lại mục tiêu ở đầu quốc lộ 2 đánh địch phản kích, tạo điều kiện cho công binh Quân khu trinh sát bắc cầu qua sông Vĩnh Tế. Cuộc xuất quân lần này của lực lượng vũ trang Quân khu nói chung và cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 5 chúng tôi nói riêng là một cuộc chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng có sự tham gia của nhiều đơn vị trong ba thứ quân (chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích), các quân binh chủng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tất cả đã sẵn sàng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, vì nhiệm vụ quốc tế vẻ vang với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình” như lời dạy của Bác Hồ. Đó cũng là quy luật phát triển của Quân đội ta trên con đường xây dựng một quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”.

Một trong nhiệm vụ của Tiểu đoàn là bảo vệ lực lượng công binh của Trung đoàn 25 trinh sát, tổ chức bắc cầu qua sông Vĩnh Tế. Tuy đã vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô, song vẫn còn nhiều nước, đây là một trong những con kinh lớn, dài nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nó gần như chạy dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia, nơi gần nhất cách biên giới 1.500m, nơi xa nhất chừng 4.500m. Kinh dài ngót 100km từ Châu Đốc ra Hà Tiên, đưa nước ngọt từ sông Cửu Long về biển Tây qua rạch Giang Thành, ra vịnh Hà Tiên, về mùa mưa, dòng sông cuồn cuộn chảy, nước đục ngầu phù sa của miền thượng lưu sông Mê Kông. Về mùa khô, dòng sông hiền hòa, mực nước hạ xuống độ sâu chừng 3 đến 4m, lòng kinh hẹp dần từ 70 đến 80m. Đây là con kinh lịch sử gắn liền với mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam - Campuchia, nhất là dọc hai bên kinh nhiều ngôi nhà mà chủ của nó là những gia đình người Việt và người Khmer lấy nhau, nên vợ nên chồng, sinh con đẻ cái, nhiều thế hệ con người ở đây mang hai dòng máu Việt Nam - Campuchia, làm ăn, sinh sống yên bình, có những đóng góp cho cách mạng và chính quyền sở tại, không ngừng phấn đấu vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

Nói đến con sông lịch sử này, người ta nghĩ ngay đến công lao của vợ chồng Thống chế Nguyễn Văn Thoại và Châu Thị Tế, một viên quan triều Nguyễn. Mùa xuân 1818, Nguyễn Văn Thoại được triều Nguyễn giao nhiệm vụ vào quản lý khai khẩn vùng Châu Đốc - Tân Cương, một địa bàn vùng biên cương hiểm yếu đầu sóng, ngọn gió. Để chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm qua đường Campuchia tràn xuống đồng thời thoát một phần nước ra biển Tây về mùa nước nổi, hạn chế cảnh lụt lội, Nguyễn Văn Thoại đã tổ chức đào vét bùn lầy nối rạch Đông Xuyên với Rạch Giá dài 30km, rộng 50m, sâu 2m. Ghi công lao của ông, Vua Gia Long đổi tên rạch Đông Xuyên là Thoại Hà và núi Sập thành Thoại Sơn. Một năm sau (1819), ông lại tổ chức đào kinh, đến năm 1824 hoàn thiện con kinh này với chiều dài khoảng 100km nối liền Châu Đốc với Hà Tiên. Đây là công trình giao thông thủy lợi lớn nhất ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XIX, có tính chiến lược lâu dài cả kinh tế và quốc phòng, an ninh. Công trình hoàn thành có công lao to lớn của bà Châu Thị Tế (vợ Thống chế Nguyễn Văn Thoại) trong việc tổ chức bảo đảm hậu cần phục vụ đào kinh. Ghi ơn bà, Vua Minh Mạng ban lệnh đặt tên kinh là Vĩnh Tế, tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn. Năm 1836, vua đã cho khắc hình kinh Vĩnh Tế vào Cửu đỉnh (đặt ở sân Thế Miếu trong Hoàng Thành Huế).


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:54:57 am
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, nhất là suốt 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, những người lính chúng tôi trong đoàn quân của lực lượng vũ trang Quân khu 9, Quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu giúp bạn đều qua kinh Vĩnh Tế; con kinh lịch sử này là hình ảnh rất gần gũi thân thương của quê hương, đất nước, đưa chúng tôi đi, đón chúng tôi về trong những năm tháng làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Vì vậy, kinh Vĩnh Tế không chỉ là con kinh huyền thoại đi vào sử sách, đi vào thơ ca mà còn là một nhân chứng chiến tranh đi vào trong sâu tận trái tim mỗi người lính chúng tôi thời ấy; đó là những dấu ấn tình cảm thân thương, sâu sắc của quê hương giữa thời trận mạc.

Nhiệm vụ của Trung đoàn 9 được Sư đoàn giao: “Đánh chiếm đầu cầu quốc lộ 2, tấn công chiếm núi Thâm Đưng làm bàn đạp cùng với Sư đoàn và các đơn vị bạn tiến công trên hướng chủ yếu, giải phóng Phnôm Pênh”. Sau khi đi trinh sát thực địa về, Tiểu đoàn tôi chính thức được Trung đoàn giao nhiệm vụ cụ thể: Ngày 3 tháng 1 năm 1979 thực hành mở cửa vận động tiến công trên quốc lộ 2, cùng với Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 của Trung đoàn hình thành thế bao vây tiêu diệt địch ở núi Thâm Đưng.

Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi cùng các anh trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nhanh chóng bổ sung nhiệm vụ cho các đại đội, tổ chức hành quân chiếm lĩnh trận địa, tổ chức tiến công. Ngày 31 tháng 1 năm 1978, Tiểu đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh chiếm chốt tiền tiêu ở đầu Cầu quốc lộ 2, nhiệm vụ tiếp theo là tiến công địch ở phía Bắc núi Thâm Đưng, cùng với Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 xóa sổ bọn địch ở đây.

Khó khăn, thử thách đầu tiên đối với tiểu đoàn là nhiệm vụ mở cửa mở, nhiệm vụ này được giao cho Trung đội mở cửa mở của Đại đội 5, do đồng chí Minh - Trung đội trưởng phụ trách. Tuy vậy, nhận thấy đây là một nhiệm vụ rất quan trọng nếu không giải quyết gọn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch hiệp đồng chiến đấu của Tiểu đoàn, nhiệm vụ chiến đấu của Trung đoàn, Sư đoàn và cả Quân khu sẽ không hoàn thành, lực lượng sẽ bị sứt mẻ, khí thế quyết tâm chiến đấu sẽ giảm sút. Hơn nữa, qua trinh sát, chúng tôi nhận thấy đây là căn cứ mà địch tổ chức phòng ngự khá kiên cố, việc mở cửa mở sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, tôi bàn với các anh trong Ban Chỉ huy, tôi phải trực tiếp chỉ huy nhiệm vụ mở cửa mở.

Căn cứ núi Thâm Đưng có vị trí rất quan trọng, án ngữ khống chế đầu cầu quốc lộ 2, vì vậy bọn địch ở đây không chỉ chiếm giữ điểm cao tạo lợi thế phòng ngự khi ta tiến công mà còn tổ chức hệ thống hàng rào, vật cản, nhất là các bãi mìn dày đặc. Bằng cố gắng cao nhất của mình, tôi cùng đồng chí Minh tổ chức bộ đội bí mật tiếp cận mục tiêu, chỉ trong ba ngày (từ ngày 31-1 đến ngày 2-3-1979), Trung đội mở cửa mở phải căng mình trong đêm dò gỡ từng quả một. Đêm cuối tháng, trời tối như bưng, từng cán bộ, chiến sĩ tập trung cao nhất tinh thần và sức lực, tỉnh táo, thận trọng trong từng động tác nhỏ không để sai sót, vừa để an toàn vừa giữ đúng định hướng, bảo đảm tuyệt đối bí mật, không để lộ ý định và hướng tiến công. Họ lầm lũi, âm thầm dò gỡ; trong đêm vắng lặng chỉ có tiếng dế kêu và tiếng chim quốc gọi nhau đi ăn đêm.

Chiến tranh luôn có những quy luật riêng của nó, một trong những quy luật ấy là trạng thái trước giờ G (giờ nổ súng), bao giờ cũng im lặng, hồi hộp đến ghê người. Bởi lẽ, các hoạt động lớn, nhất là việc bố trí lực lượng đã vào vị trí xuất phát theo dạng cài thế, súng đã lên nòng, tất cả đã sẵn sàng tập trung chờ lệnh. Sự dồn nén ấy để bung ra dồn dập, quyết liệt, gầm thét sau giờ phát lệnh. Trong những giây phút căng thẳng ấy, tôi đã động viên anh em tập trung tư tưởng. Kết quả thật không uổng, gần đến giờ G của ngày N(1), Trung đội mở cửa mở đã tháo gỡ được gần 900 quả mìn, riêng tôi gỡ được 200 quả. Đến giờ nổ súng, tôi phải quay về Ban Chỉ huy Tiểu đoàn để chỉ huy bộ đội chiến đấu. Qua báo cáo của Trung đội mở cửa mở, bãi mìn còn dài tới 50m, trong khi giờ G đã đến. Tôi lệnh cho đồng chí Trung đội trưởng phải tranh thủ thời gian lúc pháo ta phát hỏa hỏa lực chuẩn bị mở màn chiến dịch, địch bị khống chế, thì tung hết lực lượng của Trung đội tổ chức theo phương án kích nổ để giải quyết bãi mìn, thông cửa mở.

Thực hiện đúng mệnh lệnh chiến đấu của Tiểu đoàn, đồng chí Trung đội trưởng đã huy động hết lực lượng, tổ chức phá mìn theo phương án kích nổ, giải quyết gọn mục tiêu, giải phóng cửa mở, cho lực lượng tiến công của Tiểu đoàn đánh chiếm các mục tiêu của địch phía bắc căn cứ núi Thâm Đưng, nổ súng sau lưng địch; cùng với Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 thành thế bao vây tiêu diệt gọn căn cứ này, làm chủ núi Thâm Đưng trước giờ quy định; đánh tan Trung đoàn 14 thuộc Sư đoàn 210 của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở cửa mở cho đội hình của Sư đoàn 339 và binh khí kỹ thuật của trên phát triển chiến đấu thuận lợi theo kế hoạch chiến đấu của chiến dịch. Trung đội mở cửa mở của Đại đội 5 cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; trong cuộc chiến đấu này, Trung đội trưởng, Thiếu úy Minh và ba chiến sĩ đã anh dũng hi sinh. Người Trung đội trưởng gan dạ, dũng cảm, kiên cường ấy mới được Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn giao quân hàm sĩ quan cấp thiếu úy chưa đầy 8 tám tiếng đồng hồ; anh hi sinh khi tuổi đời, tuổi quân, tuổi sĩ quan của anh còn rất trẻ. Thương nhớ và cảm phục người đồng chí, đồng đội thân yêu này, sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, rút quân về nước (1989), tôi đã giành thời gian về Cà Mau quê anh để viếng anh và động viên gia đình.


(1) Ngày N là ngày nổ súng.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:56:30 am
Chiến thắng núi Thâm Đưng là trận mở màn chiến dịch của Tiểu đoàn và Trung đoàn, đây là trận đánh có ý nghĩa rất lớn với Tiểu đoàn chúng tôi. Thắng lợi của trận đánh vừa tạo ra khí thế, vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi khác cho Tiểu đoàn, Trung đoàn phát triển chiến đấu thuận lợi; nó khẳng định năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn đã có nhiều tiến bộ sau những đợt huấn luyện ở Đầm Lác (Sa Đéc), Hồng Ngự (Đồng Tháp). Chiến thắng này càng củng cố và giữ vững niềm tin cho mọi cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn vượt qua những khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp bạn.

Bị bất ngờ và có nhiều sai lầm trong bố trí đội hình phòng ngự chiến lược, bị đòn phản công chiến lược đầu tiên của ta trên tuyến biên giới, địch đã bị thất bại, lui dần sâu về nội địa phòng ngự bị động. Trên hướng tiến công của Tiểu đoàn, địch mất toàn tuyến phòng thủ quan trọng từ đầu quốc lộ 2 đến ngã ba Tà Lập, chúng phải lui về lập tuyến phòng thủ trên các địa bàn hiểm yếu quan trọng ở Thnốt Bak, núi Sang Công, Tà Ni và ngã ba Ăng Tà Xom trên quốc lộ 3 để bảo vệ Tà Keo và Thủ đô Phnôm Pênh.

Ngày 6 tháng 1 năm 1979, thực hiện kế hoạch chiến đấu, Tiểu đoàn nằm trong đội hình của Trung đoàn cùng với các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu tiến công đập tan các tuyến phòng thủ ngăn chặn của địch ở Tà Keo, Tà Ni, ngã ba Ăng Tà Xom, phát triển tiến công theo quốc lộ 3 đánh chiếm Thủ đô Phnôm Pênh.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, sáng ngày 7 tháng l năm 1979, tôi cùng các anh trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn được Trung đoàn giao nhiệm vụ tổ chức chỉ huy đơn vị cùng với Trung đoàn và Sư đoàn tiến công địch trên quốc lộ 3, bằng sức mạnh hiệp đồng quân binh chủng nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt địch, đánh chiếm sân bay Pô Chen Tông, chiếm Đài Phát thanh, bắt tay với Quân đoàn 4 giải phóng Phnôm Pênh. Tiếp theo, trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn, giải phóng và làm chủ thị xã Côngpông Xpư (ngày 8-1-1979), Côngpông Chnăng (ngày 11-1-1979), phát triển lên đánh chiếm giải phóng và làm chủ thị xã Pursat (ngày 17-1-1979).

Trong quá trình vận động tiến công, cùng với việc đập tan sự kháng cự quyết liệt “một sống một chết” của quân Pôn Pốt; cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn còn phải khắc phục nhiều khó khăn về địa hình, vật cản mà địch để lại hòng ngăn chặn và làm suy hao lực lượng tiến công các mũi, các hướng của ta, phá cầu cống, tổ chức bãi mìn, sơ tán bắt dân đi theo chúng...

Vượt mọi khó khăn, quyết giành thắng lợi là truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội ta. Mang theo truyền thống ấy, mỗi cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm tiêu diệt địch, đã chủ động khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, vượt lên hi sinh, mất mát, gỡ mìn mà đi; địch phá cầu, ta tìm đường mà tiến, cùng với Trung đoàn tiêu diệt được địch, đánh chiếm các mục tiêu được phân công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mục tiêu từng trận chiến đấu, chiến dịch.

Giải phóng thị xã Pursat trong sự hoang tàn, đổ nát của một thị xã đã bị tàn phá nặng nề của chính sách “ba không” (không trường học, bệnh viện; không chợ búa, tiền bạc; không chùa chiền) của Khmer Đỏ. Thực hiện chủ trương, chỉ thị của trên về thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia là “giành thắng lợi cả quân sự và chính trị”. Căn cứ vào hướng dẫn của Ban Chính trị Trung đoàn, tôi cùng với các anh trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nhanh chóng nhắc nhở bộ đội thực hiện chín điều quy định, ba điều cam kết, tổ chức năm tổ công tác về các khu phố tiếp cận với dân, phối hợp với lực lượng cách mạng của bạn làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng.

Bộ đội ta chia nhau về từng phum, sóc, khu phố, giải thích chính sách của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, tinh thần và nhiệm vụ quốc tế của Quân tình nguyện Việt Nam. Ban đầu người dân ở những nơi bộ đội ta đến còn ngại tiếp xúc với bộ đội Việt Nam vì còn sợ Pôn Pốt, ít nhiều còn bị chúng khống chế hoặc còn bị ngộ nhận trước lời lẽ tuyên truyền kích động, đe dọa, xuyên tạc của địch. Qua tuyên truyền, sự giải thích, vận động, nhân dân đã dồn tin tưởng vào sự chính nghĩa của bộ đội Việt Nam và lực lượng cách mạng của bạn; đặc biệt cảm kích trước những hành động cứu đói, cứu đau, chia sớt phần lương thực, băng bó cứu chữa từng vết thương cho mỗi gia đình, cho người dân Campuchia bị nạn; tổ chức dựng nhà, sửa cửa, giúp dân tăng gia sản xuất ổn định cuộc sống. Ta cũng đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng cách mạng của bạn tổ chức hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở, đưa các hoạt động của địa phương vào thế ổn định. Bằng những việc làm cụ thể, các tổ công tác của Tiểu đoàn đã góp phần ổn định trật tự an ninh xã hội của thị xã sau giải phóng, chiếm trọn niềm tin, tình cảm chân thành của mỗi người dân ở thị xã vùng Tây Bắc Campuchia xây dựng được hình ảnh cao đẹp “Anh bộ đội Cụ Hồ”, Quân tình nguyện Việt Nam trên đất bạn.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:56:40 am
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn đánh chiếm mục tiêu cuối cùng tại thị xã Pursat, giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia, góp phần đập tan chế độ Pôn Pốt. cứu nhân dân Campuchia ra khỏi họa diệt chủng, Tiểu đoàn 5 được lệnh của Trung đoàn bàn giao địa bàn cho đơn vị bạn, cùng với Trung đoàn và Sư đoàn về Côngpông Chnăng nhận nhiệm vụ mới.

Ngày 19 tháng 1 năm 1979, trên đường hành quân về Côngpông Chnăng, cách thị xã này hơn một chục cây số về hướng nam, Tiểu đoàn 5 lọt vào trận địa phục kích của địch. Trận đánh diễn ra rất gay go, quyết liệt. Địch chủ động chiếm địa hình có lợi, bất ngờ tiến công ta từ nhiều mũi, nhiều hướng. Ta ở thế bị động, địa hình bất lợi, ngay từ giây phút chiến đấu đầu tiên ta bị hi sinh một số cán bộ, chiến sĩ.

Do đã có kinh nghiệm giáp mặt, đánh Pôn Pốt nhiều trận, tôi rút ra một điều: Bọn này thấy ta phàn kích mạnh, chúng rút lui ngay; thấy ta phàn kích yếu, chứng bu bám lấn tới. Trước tình thế trên, hội ý nhanh với các anh trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn, tôi lệnh cho các đại đội xuống xe phân tán đội hình, nhanh chóng chiếm lĩnh địa hình có lợi, bình tĩnh tổ chức chiến đấu đánh trả, bẻ gãy từng mũi, hướng tiến công của địch; điện cho Trung đoàn xỉn hỏa lực và lực lượng chi viện.

Riêng tôi, trong chiến đấu lúc nào trên mình cũng mang theo hai khẩu súng (một khẩu B40, một khẩu M79), tôi đã lần lượt sử dụng hai khẩu này bắn vào mũi tiến công phía trước của địch, góp phần tạo điều kiện cho lực lượng tiểu đoàn triển khai đội hình chiến đấu. Nhìn về phía sau, một mũi vu hồi của địch đang tiếp cận đến gần 3 khẩu pháo 105mm của Trung đoàn tăng cường cho Tiểu đoàn đánh Pursat, lập tức tôi lệnh cho lực lượng phía sau của Tiểu đoàn quay lại tập trung hỏa lực tiêu diệt bọn này. Được bộ binh hỗ trợ, lực lượng pháo binh nhanh chóng triển khai phương pháp bắn ứng dụng, hạ nòng bắn thẳng vào đội hình tiến công của địch. Bị phản kích bất ngờ, mũi vu hồi của địch tháo chạy tán loạn, để lại nhiều xác chết và đồ dùng quân sự. Được Tiểu đoàn 6 và hỏa lực của Trung đoàn chi viện, sau hơn một giờ chiến đấu, trước sự đề kháng và sức mạnh phản đột kích của Tiểu đoàn, quân Pôn Pốt đã bị đánh thiệt hại, bỏ chạy, để lại hàng chục xác chết; phía ta cũng bị tổn thất khá nặng.

Trận chiến đấu này cho tôi thêm một kinh nghiệm mới. Trong chiến đấu, người chỉ huy dù có tài giỏi đến bao nhiêu cũng không thể dự đoán hết tất cả các tình huống có thể xảy ra, cả những yếu tố thuận lợi và bất lợi. Ở những tình huống xấu, bất lợi, điều quan trọng với người chỉ huy là phải bình tĩnh, đánh giá đúng thực trạng tình hình, nhanh chóng có giải pháp trúng, đúng, kịp thời, nhằm chuyển đơn vị từ thế bị động sang thế chủ động, từ bất lợi sang thế có lợi. Cuộc chiến đấu đánh địch phục kích của Tiểu đoàn 5 trên đường về Côngpông Chnăng cho tôi một kinh nghiệm quý trong nỗi vui buồn đan xen sau trận chiến đấu. Vui vì đơn vị đã đánh bại trận phục kích của địch, buồn vì Tiểu đoàn có 13 đồng chí hi sinh anh dũng trên đất bạn, 40 đồng chí bị thương; đó là một tổn thất quá lớn đối với quân số một tiểu đoàn. Đây là một bài học sâu sắc cho lãnh đạo, chỉ huy Tiểu đoàn về trinh sát nắm địch và tổ chức hành quân trên địa bàn địch đang tăng cường hoạt động tập kích, phục kích, phải có nhiều giải pháp trong nắm địch và tổ chức đội hình hành quân với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng đánh trả trong mọi tình huống.

Các đồng chí bị thương được sơ cứu, nhanh chóng phân loại đưa về các tuyến điều trị sớm trở lại đơn vị chiến đấu. 13 đồng đội hi sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, mười chín đôi mươi. Tiểu đoàn sau lễ truy điệu đã tạm gửi các anh ở lại trên cánh rừng của vùng đất Côngpông Chnăng nước bạn, thiết lập sơ đồ mộ chí để sau này Tổ quốc đón các anh về với đất mẹ thân yêu.

Toàn Tiểu đoàn xốc lại đội hình, tiếp tục lên đường.

Xa dần những ngôi mộ, những người đồng chí thân yêu đã cùng tôi vào sinh ra tử trong các trận đánh quân Pôn Pốt, lòng tôi trào dâng niềm xúc động nhớ thương vô hạn. Đối với mỗi người lính Cụ Hồ, được sống, chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc là một vinh dự lớn và hết sức tự hào. Sống, chiến đấu trong lòng Tổ quốc, được nhân dân đùm bọc, che chở, nuôi dạy, nếu có phải hi sinh cũng vẫn được nhân dân chăm lo hương khói, bảo vệ; vì vậy, anh em, đồng chí cảm thấy gần gũi, ấm áp vô cùng. Khi làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, phải chiến đấu xa Tổ quốc, lúc hi sinh, do điều kiện chiến tranh và nhiệm vụ chiến đấu, đơn vị phải tạm gửi các anh nằm lại trên các cánh rừng, gò đất, ven sông đất bạn, xa Tổ quốc; vì vậy những đồng chí đồng đội hi sinh chắc chắn sẽ cảm thấy lạnh lẽo, những người còn sống cũng không yên lòng. Đây thực sự là sự hi sinh rất lớn, không gì bù đắp được.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:57:15 am
Càng nghĩ càng thương anh em, đồng chí, đồng đội, sự hi sinh của các anh làm nặng thêm những bước chân hành quân của chúng tôi về địa điểm mới. Tuy vậy, nhiệm vụ giúp bạn ở phía trước còn rất lớn, chúng tôi buộc phải tạm xa những ngôi mộ, những đồng chí thân yêu, để tiếp tục hành quân lên đường chiến đấu trả thù cho các anh, giúp bạn mau chóng trưởng thành, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nạn diệt chủng và rút ngắn thời gian, quãng đường đưa chúng tôi trở về với Tổ quốc.

Sau khi cùng với các đơn vị bạn đánh địch, mở thông tuyến quốc lộ 5. Cuối tháng 1 năm 1979, tôi và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn được Trung đoàn 9 giao nhiệm vụ cùng với Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 tiến công tiêu diệt Trung đoàn 16 của địch, giải phóng thị trấn Côngpông Leng. Qua lực lượng trinh sát nắm địch, lực lượng địch ở thị trấn này còn rất đông, quy mô cấp trung đoàn, chúng tổ chức trận địa hỏa lực ĐKZ75 trên các cao điếm bên tả ngạn sông Tông Lê Sáp, phối hợp với bộ binh bết ngờ tập kích uy hiếp sở Chỉ huy Tiền phương Quân khu ở thị xã Côngpông Chnăng, kìm kẹp không cho dân vượt sông trở về thị xã. Muốn tiếp cận mục tiêu, Tiểu đoàn phải tổ chức vượt ba đoạn sông của dòng sông Tông Lê Sáp. Đây thực sự là vấn đề phức tạp, đầy khó khăn của trận chiến đấu này. Bởi lẽ trong chiến đấu tiến công, bộ đội vận động qua các địa hình rừng núi, đồng bằng, còn lợi dụng địa hình, địa vật che đỡ, che khuất. Còn vận động qua sông, có người biết bơi, có người không biết bơi đã là một điều khó. Toàn bộ lực lượng lộ diện trên mặt nước, nếu bị lộ sẽ là mục tiêu cho các loại hỏa lực của địch tiêu diệt, tổn thất và hi sinh rất lớn.

Sau khi nhận nhiệm vụ, quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn, khi Tiểu đoàn giao nhiệm vụ triển khai kế hoạch chiến đấu cho các đại đội và các trung đội trực thuộc, tôi đề nghị: Trong tổ chức vượt sông, phải tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân. Công tác tổ chức vượt sông phải hết sức chặt chẽ, tỉ mỉ, bí mật, an toàn. Các đại đội, trung đội phải bố trí kèm cặp người biết bơi với người chưa biết bơi, đưa lực lượng trinh sát bí mật vượt sông trước, chiếm vị trí tập kết bên kia sông, nắm địch, bảo vệ an toàn cho lực lượng vượt sông của Tiểu đoàn.

Do công tác chuẩn bị chu đáo, 2 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1979, Tiểu đoàn 5 cùng các tiểu đoàn bạn đã vượt sông an toàn và nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công, hình thành thế bao vây Trung đoàn 16 địch. Đến 5 giờ, Tiểu đoàn 5 cùng với hai tiểu đoàn bạn (Tiểu đoàn 4 và 6) đồng loạt nổ súng từ hai bên sườn, phía sau đội hình địch. Bị đánh bất ngờ, quân địch rối loạn chống trả yếu ớt. Nắm chắc thời cơ, tôi đề nghị với đồng chí Tiểu đoàn trưởng cho lực lượng thọc sâu của Tiểu đoàn nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trong tung thâm sở Chỉ huy Trung đoàn địch. Sau một giờ nổ súng, Trung đoàn hoàn toàn làm chủ thị trấn Côngpông Leng, tiêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 16 địch, diệt 320 tên, bắt sống 20 tên, thu 106 súng các loại, 1 xe jeep, 1 máy PRC-25, giải phóng 3.000 dân, hoàn thành nhiệm vụ 1 trên giao. Trong chiến công vẻ vang này của Trung đoàn 9 có sự đóng góp xứng đáng của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5.

Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của Sư đoàn, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu tiêu diệt địch, giải phóng thị trấn Côngpông Leng, Tiểu đoàn 5 trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn đã nhanh chóng hành quân về quốc lộ 3 cùng với các đơn vị bạn đánh địch mở thông quốc lộ 3.

Ngày 4 tháng 2 năm 1979, Tiểu đoàn 5 nhận nhiệm vụ của Trung đoàn, phối hợp với Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 tiêu diệt địch ở ngã tư Tà Bông. Tại điểm tạm dừng, Tiểu đoàn làm công tác chuẩn bị chiến đấu, trong Tiểu đoàn xuất hiện một số cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện tư tưởng mỏi mệt do nhiều ngày hành quân, tác chiến liên tục, sức khỏe suy giảm. Trước tình hình trên, tôi đề nghị đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính trị viên Tiểu đoàn phân công cán bộ Tiểu đoàn xuống từng phân đội động viên cán bộ, chiến sĩ. Riêng tôi xin xuống ngay Đại đội chủ công của Tiểu đoàn gặp gỡ cấp ủy, chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ vừa tham gia công tác chuẩn bị chiến đấu, vừa động viên bộ đội.

Được động viên tháo gỡ kịp thời về mặt tư tưởng, toàn Tiểu đoàn tiếp tục nêu cao ý chí, quyết tâm tiêu diệt địch. Chỉ sau một đêm luồn sâu, các hướng, các mũi của Tiểu đoàn đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa, xuất phát tiến công, hình thành thế bao vây địch tại ngã tư Tà Bông. 6 giờ ngày 5 tháng 2 năm 1979, Tiểu đoàn cùng với các đơn vị bạn đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch tháo chạy tán loạn, bỏ lại 50 xác chết, ta làm chủ ngã tư Tà Bông, thu 48 súng các loại. Qua quan sát địa hình, thấy dấu hiệu có đường ô tô dẫn vào khu vực được bố trí hệ thống hàng rào, vật cản khá kiên cố, tôi đề nghị Tiểu đoàn cho lực lượng tiếp cận khu vực trên và phát hiện một kho súng của địch khoảng 10 tấn, có cả đạn pháo 105mm, địch đã bỏ chạy không kịp phá nổ.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:57:36 am
Qua nhiều ngày chiến đấu liên tục, quân số Tiểu đoàn 5 bị hao hụt, số cán bộ phân đội bị thiếu hụt, sức khỏe bộ đội bị giảm sút, tuy vậy tinh thần chiến đấu của bộ đội rất cao, nhất là sau khi chiến thắng ở Côngpông Leng và ngã tư Tà Bông. Để duy trì sức chiến đấu của Tiểu đoàn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu tới, đầu tháng 2 năm 1979, Tiểu đoàn nhận lệnh của Trung đoàn lui về hướng đông quốc lộ 3 để củng cố đơn vị về mọi mặt.

Về cán bộ trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 5, đồng chí Phái - Tiểu đoàn trưởng về Sư đoàn nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Trần Minh Chiến thay đồng chí Phái làm Tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn được bổ sung anh em tân binh mới và một số cán bộ phân đội, quân số bảo đảm đủ theo biên chế. Tại đây, toàn Tiểu đoàn bước vào đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt nhiệm vụ giúp bạn lâu dài, tổ chức huấn luyện quân sự bổ sung. Qua đợt củng cố toàn diện này, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 hoàn toàn nhất trí cao với chủ trương của trên: giúp bạn lâu dài với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”. Trong công tác kiểm điểm, phát biểu trước hội nghị Đảng ủy Tiểu đoàn, tôi thẳng thắn nêu ý kiến: Bên cạnh những ưu điểm trong lãnh đạo, chỉ huy thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng đơn vị mà kết quả Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chiến đấu, tôi thấy còn nổi lên thiếu sót chủ yếu trong xây dựng đơn vị, chưa coi trọng công tác chính trị tư tưởng, chăm sóc sức khỏe cho bộ đội, do vậy ảnh hưởng đến hiệu quả chiến đấu của đơn vị. Ý kiến đóng góp của tôi được Đảng ủy tiểu đoàn nhất trí cao vì phản ánh đúng thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ huy của Tiểu đoàn trong thời gian qua.

Từ ngày 11 tháng 2 đến 20 tháng 7 năm 1979, lực lượng vũ trang Quân khu liên tiếp mở bảy chiến dịch tiến công địch ở Tây Nam Campuchia nhằm truy quét, truy đánh địch tận các căn cứ cuối cùng của Quân khu Tây Nam và tàn quân của các sư đoàn địch trong các vùng ven, vùng rừng núi như Núi Lớn, Tà Lơn, Chàng Ô, Cam Chay, Tượng Lăng.

Trong giai đoạn này, tuy ta và bạn đã đánh chiếm và làm chủ tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn, còn địch bị thất bại về chiến lược nhưng lực lượng, các đơn vị, cơ quan đầu não chỉ huy chiến tranh của chúng chưa bị tiêu diệt tan rã hoàn toàn. Được sự giúp đỡ của bọn phản động quốc tế, chúng chủ trương vận chuyển vũ khí, phương tiện chiến tranh vào rừng núi, xây dựng các căn cứ, phát triển, củng cố lực lượng kết hợp với chính quyền hai mặt, lực lượng ngầm ở vùng nông thôn để tiến hành cuộc chiến tranh du kích lâu dài với ta, hòng lật ngược tình thế, lật đổ chính quyền cách mạng. Trên địa bàn Quân khu đảm nhiệm, dưới sự chỉ huy của Tà Mốc, một trong tên chỉ huy khát máu của Khmer Đỏ đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, tổ chức các đầu mối đơn vị quy mô sư đoàn đóng ở khu vực phía tây Ăng Tà Xom. Lực lượng địch vừa đẩy mạnh các hoạt động chia cắt các trục lộ giao thông quốc lộ 3, quốc lộ 4, vừa chuẩn bị lực lượng phản kích lấy lại Tà Keo.

Để đập tan ý đồ và âm mưu của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định: Từ ngày 11 đến 20 tháng 2 năm 1979, mở Chiến dịch 1. Trong chiến dịch này, Tiểu đoàn được Trung đoàn giao nhiệm vụ cùng với các tiểu đoàn bạn (Tiểu đoàn 4 và 6) đánh địch khu vực núi Tượng Lăng, sau đó vận động tiến công phát triển về hướng tây đánh vào Quân khu Tây Nam Pôn Pốt ở Núi Lớn.

Nhận nhiệm vụ và triển khai nhiệm vụ cho các đơn vị xong, tôi đề nghị Ban Chỉ huy Tiểu đoàn chia nhau xuống từng đại đội, trung đội trực thuộc cùng các đồng chí chỉ huy phân đội quán triệt, triển khai nhiệm vụ chiến đấu, động viên bộ đội. Trong lần ra quân đợt này, lãnh đạo, chỉ huy Tiểu đoàn nhận thấy, ngoài tinh thần, ý chí chiến đấu của bộ đội vẫn được giữ vững, song có 1/3 cán bộ phân đội và chiến sĩ mới bổ sung tuy đã được bồi dưỡng huấn luyện sát với thực tiễn chiến trường trong dịp toàn Tiểu đoàn lui về hướng đông quốc lộ 3 (đầu tháng 2-1979) để củng cố toàn diện, nhưng kinh nghiệm chỉ huy, tâm lý lần đầu ra trận của chiến sĩ mới sẽ có nhiều bỡ ngỡ. Vì vậy, việc tăng cường cán bộ xuống tận cơ sở tiểu đội, trung đội, trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, tâm tình, động viên anh em đối với Tiểu đoàn lúc này là hết sức cần thiết.

Sáng sớm 11 tháng 2 năm 1979, Tiểu đoàn 5 vào đến ngã tư Tà Bông triển khai đội hình xuất phát tiến công. Vượt qua ngã tư Tà Bông thì gặp địch, chúng dùng bộ binh, xe tăng, pháo phòng không 37mm ngăn chặn Tiểu đoàn rất quyết liệt; Tiểu đoàn dựa vào địa hình, địa vật tổ chức xung phong nhiều lần nhưng không phát triển được. Tôi đề nghị với Ban Chỉ huy Tiểu đoàn chuyển Tiểu đoàn sang lâm thời phòng ngự và đề nghị Trung đoàn chi viện cả hỏa lực và xung lực. Ý kiến của tôi được Ban Chỉ huy Tiểu đoàn chấp thuận.

Đối với Tiểu đoàn, đây là trận đánh đầu tiên xuất hiện xe tăng địch, khi chúng đến gần đội hình chiến đấu, Tiểu đoàn không còn đạn B40, xe tăng địch tràn qua trận địa của Tiểu đoàn 5, anh em dùng súng bộ binh bắn tỉa những tên lính Pôn Pốt ngạo mạn đưa đầu ra khỏi nắp đậy xe tăng; khi đến trận địa tiến công của Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn dùng B40 bắn cháy chiếc xe tăng đi đầu, số còn lại tháo chạy.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:57:58 am
Được sự chi viện kịp thời hỏa lực của Trung đoàn và Tiểu đoàn 4, bất ngờ đánh từ bên sườn phía sau, địch hoảng loạn tháo chạy, ta làm chủ trận đánh, diệt 50 tên, bắn cháy 1 xc tăng, thu 30 súng các loại. Trận đánh lúc đầu ta gặp rất nhiều khó khăn, song Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã đánh giá đúng tình hình, nhạy bén, chủ động xử lý tốt các tình huống, đưa tình thế ta từ bị động thành chủ động, địch từ chủ động thành bị động, sớm kết thúc trận đánh, đạt mục tiêu đề ra.

Ngày 25 tháng 2 năm 1979, tham gia Chiến dịch 2, Tiểu đoàn 5 được Trung đoàn giao nhiệm vụ cùng với Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 tiến công vào sở Chỉ huy Sư đoàn 250 địch ở phía nam núi Lớn. Địa bàn tác chiến của Tiểu đoàn là một thung lũng chạy lên đỉnh núi Lớn về hướng đông có con đê ngăn nước chạy từ bắc xuống nam và có một lộ đất chạy song song với đê ngăn nước. Địa hình này rất thuận lợi cho việc cơ động xe cơ giới và các trang bị vũ khí, nhất là với hỏa lực đi cùng.

Được sự phân công của đồng chí Tiểu đoàn trưởng, tôi cùng lực lượng trinh sát đi trước nắm địch. Qua quan sát và tổng hợp tin tức từ các mũi, tôi trực tiếp báo cáo với Ban Chỉ huy Tiểu đoàn: Lực lượng địch bố trí tại đây gồm một đại đội bộ binh được tăng cường hỏa lực ĐKZ75 và súng máy 12,7mm, chúng bố trí trận địa lâm thời phòng ngự có công sự, vật cản là các bãi mìn, trong đó hướng phòng ngự chủ yếu là theo trục lộ, ngăn chặn hướng tiến công chủ yếu của ta theo trục lộ này. Với cách bố trí trên, tôi đề xuất hướng tiến công chủ yếu của ta từ phía sau nơi địch có nhiều sơ hở. Phương án của tôi được Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn thông qua.

Sáng sớm 26 tháng 2 năm 1979, cùng với các Tiểu đoàn bạn, Tiểu đoàn 5 đã bí mật tiếp cận áp sát địch từ phía sau bất ngờ nổ súng tiến công. Địch chống cự yếu ớt và tháo chạy. Các đại đội trong Tiểu đoàn vận động tiến công truy kích địch, phát triển đánh chiếm toàn bộ bờ đê, diệt 30 tên, thu 25 súng và 1 xe ủi.

Trong khi các tiểu đoàn của Trung đoàn 9 phát triển chiến đấu thuận lợi, thì ở các hướng khác của Sư đoàn 339 gặp rất nhiều khó khăn, do địa hình phức tạp, hệ thống vật cản của địch dày đặc. Tình hình trên địch có điều kiện tập trung lực lượng ngăn chặn hướng tiến công của Trung đoàn 9. Khi tiếp tục vận động tiến công vào bên trong thung lũng, Tiểu đoàn 5 bị địch tăng cường hỏa lực và lực lượng bộ binh từ các trận địa phòng ngự ra phản kích chống trả quyết liệt. Tiểu đoàn một mặt tận dụng hỏa lực chi viện của Trung đoàn, lợi dụng địa hình, địa vật tổ chức nhiều đợt xung phong tiêu diệt địch; mặt khác được sự phân công của Ban Chỉ huy Tiểu đoàn, tôi tổ chức một tổ gọn nhẹ bí mật luồn sau lưng địch, bất ngờ nổ súng tiến công. Bị đánh vỡ mặt và sau lưng, địch hoảng loạn; chớp thời cơ, các hướng, các mũi tiến công của Tiểu đoàn đồng loạt xung phong tiêu diệt địch và làm chủ trận địa.

Trong tổ luồn sâu vu hồi của Tiểu đoàn trong trận chiến đấu này có đồng chí Nguyễn Bá Thân - chiến sĩ thuộc Trung đội trinh sát của Tiểu đoàn đã nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường khi tiếp cận mục tiêu, trước hỏa lực điên cuồng của địch bắn trả quyết liệt hòng ngăn chặn các đợt xung phong của ta. Quyết tâm diệt ổ đề kháng này, đồng chí bí mật, khôn khéo luồn qua các bãi mìn dày đặc của địch, liên tiếp dùng lựu đạn dập tắt các ổ đề kháng, diệt 3 tên, thu 3 súng, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên tiêu diệt địch. Trước tinh thần chiến đấu dũng cảm. kiên quyết tiến công tiêu diệt địch của đồng chí Nguyễn Bá Thân, tôi đã mạnh dạn đề nghị Ban Chỉ huy Tiểu đoàn và đồng chí chính trị viên tổ chức phát động phong trào thi đua “Giết giặc như Nguyễn Bá Thân” trong toàn đơn vị. Học tập tấm gương chiến đấu tiêu biểu này, toàn đơn vị đã dấy lên phong trào thi đua với quyết tâm “Có lệnh là lên đường, đi là đến, đánh là thắng”.

Chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari tuy đã bị sụp đổ, song chưa chịu thất bại hoàn toàn; được sự giúp đỡ của bọn phản động quốc tế, chúng ra sức củng cố, phát triển lực lượng, lợi dụng những sơ hở của ta, nhất là do thông thạo địa hình, địa vật, chúng đưa lực lượng luồn lách từ phía sau, tổ chức tập kích, phục kích, tiến công vào các đơn vị của ta, gây cho ta những thiệt hại và những khó khăn. Ngày 21 và 22 tháng 3 năm 1979, khi Tiểu đoàn 5 cùng với Tiểu đoàn bạn trong Trung đoàn vận động tiến công địch về phía Tà Âm, địch bất ngờ dùng xe tăng, bộ binh tiến công từ phía sau Sở Chỉ huy Sư đoàn 339. Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 5 quay trở lại đánh địch, bảo vệ sở Chỉ huy Sư đoàn.

Được sự phân công của đồng chí Tiểu đoàn trưởng, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy bộ đội nhanh chóng tiếp cận địch từ phía sau lưng chúng. Qua ba tiếng đồng hồ hành quân vất vả, tôi đưa bộ đội vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. Bọn địch hoàn toàn bất ngờ, không phát hiện được. Khi kiểm tra các mũi, các hướng đã chiếm lĩnh được vị trí xuất phát xung phong, tôi hạ lệnh nổ súng. Bản thân vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chỉ huy bộ đội. Để dập tắt một ổ đề kháng lợi hại của địch đang khống chế đội hình tiến công của Tiểu đoàn, với sở trường của mình, tôi đã dùng B40, M79 nhả đạn tiêu diệt ngay mục tiêu này, Khi ổ đề kháng của địch im bặt, tôi hạ lệnh xung phong, toàn tiểu đoàn đã vận động tiến công đồng loạt. Tuy địch chống trả quyết liệt, song với tinh thần chiến đấu dũng cảm, hiệp đồng chặt chẽ các hướng, các mũi, toàn tiểu đoàn đã đánh bật địch ra khỏi khu vực xuất phát tiến công Sở Chỉ huy Sư đoàn 339, diệt 35 tên, thu 20 súng, bảo vệ được Sở Chỉ huy Sư đoàn, được Sư đoàn nhiệt liệt biểu dương vì chấp hành nghiêm và thực hiện xuất sắc mệnh lệnh chiến đấu được giao.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:58:22 am
Trên biên giới phía Bắc, tập đoàn phản động nước lớn đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Tổ quốc ta, bị quân và dân ta đánh cho thiệt hại nặng, phải rút quân về nước. Lực lượng Khmer Đỏ hết hy vọng về sự chi viện, cứu giúp bằng chiến tranh; sức chiến đấu của chúng yếu dần, khả năng phản kích ngày một suy giảm. Tuy vậy, chúng vẫn còn nhận được sự giúp đỡ chi viện trang bị vũ khí của bọn phản động quốc tế. Để củng cố, phát triển lực lượng tiếp tục chống phá cách mạng Campuchia, hòng đảo ngược tình thế, địch chủ trương rút lực lượng và các cơ quan đầu não về biên giới Campuchia - Thái Lan, xây dựng các căn cứ để nhận viện trợ từ bên ngoài, chia lẻ các đơn vị thành các phân đội nhỏ để tránh đòn tiêu diệt lớn của ta, tổ chức sử dụng lực lượng trá hình cài cắm trong dân, thực hiện chính quyền hai mặt hòng phá cách mạng Campuchia từ bên trong.

Để đánh bại âm mưu nham hiểm của địch, không cho chúng còn khả năng phục hồi sức chiến đấu, Quân khu quyết định liên tiếp mở nhiều chiến dịch truy đánh, truy quét tàn quân địch trên địa bàn. Tham gia các chiến dịch này từ tháng 4 năm 1979, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 đã cùng với các tiểu đoàn bạn trong Trung đoàn 9 thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên các địa bàn bắc lộ 4, đánh theo trục lộ 43 lên cao nguyên Ki Ri Rôm (cao gần 1.000m) ở Cô Công. Trung đoàn đã thực hành trận tập kích địch ở căn cứ La Ét, tiêu diệt hơn 100 tên địch, thu 2 khẩu pháo 105mm, phá hủy nhiều kho tàng trong căn cứ của Sư đoàn 164 địch, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Trong chiến công vẻ vang ấy của Trung đoàn có sự đóng góp xứng đáng của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5.

Đầu tháng 7 năm 1979, Tiểu đoàn 5 được Trung đoàn giao nhiệm vụ đứng chân ở ngã tư La Ét, vừa hoạt động tác chiến đánh địch cùng với bạn, vừa tổ chức xây dựng củng cố chính quyền và lực lượng cách mạng của bạn trên địa bàn, tích cực làm tốt công tác vận động quần chúng, bảo đảm thế và lực cách mạng của bạn trên địa bàn phát triển vững chắc.

Trong phiên họp Đẳng ủy Tiểu đoàn quán triệt nhiệm vụ trên giao, triển khai chủ trương lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, tôi đề nghị: Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mới này cần phải thực hiện đồng bộ cáfc giải pháp cơ bản sau:

- Một là, quán triệt thật sâu, thật kỹ nhiệm vụ mới, là đơn vị chủ lực, Tiểu đoàn rất mạnh (có nhiều kinh nghiệm) hoạt động tác chiến; việc xây dựng chính quyền, vận động quần chúng chưa có nhiều kinh nghiệm; nói và nghe tiếng Khmer, am hiểu văn hóa, phong tục, tập quán của bạn còn nhiều hạn chế; vì vậy phải làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ tích cực học tiếng Khmer, tìm hiểu sâu văn hóa của bạn, hiểu rõ việc tham gia củng cố thực lực cách mạng cho bạn để bạn mạnh lên, cách mạng Campuchia phát triển vững chắc, từng bước tự đảm nhiệm nhiệm vụ của mình. Đó là mục đích cao nhất của nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, hiểu được như vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn mới nhiệt tình, hăng say, sáng tạo làm tốt nhiệm vụ mới được giao.

- Hai là, cần chọn lựa cán bộ, chiến sĩ bố trí vào các tổ công tác, có kinh nghiệm và năng lực trong tiếp xúc với dân, với chính quyền cách mạng của bạn; có khả năng giúp bạn củng cố và xây dựng cơ sở chính trị, phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Điều quan trọng là phải bồi dưỡng nội dung, phương pháp để anh em chủ động, tích cực trong thực hiện nhiệm vụ.

- Ba là, phải có công tác bảo đảm, mặc dù Tiểu đoàn nhiều tháng chiến đấu liên tục, sức khỏe bộ đội giảm sút, lương thực, thuốc men có hạn, song Tiểu đoàn vẫn trích một phần thuốc men, lương thực cho các tổ công tác trực tiếp đi các phum, sóc cứu đói, cứu đau kịp thời cho dân.

- Bốn là, phải kết hợp cả hai nhiệm vụ: truy quét địch với công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng cho bạn. Hai nhiệm vụ này không thể coi nhẹ mặt nào.

Đảng ủy Tiểu đoàn nhất trí cao với các giải pháp nêu trên. Những tháng thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Tiểu đoàn vừa thực hiện tốt nhiệm vụ truy quét, truy đánh địch trên địa bàn, vừa góp phần xây dựng, củng cố chính quyền, hệ thống chính trị của bạn ở cơ sở, phối hợp chặt chẽ với chính quyền đưa dân trở về quê gốc, sớm tổ chức sản xuất, ổn định cuộc sống.

Thành tích nổi bật nhất của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn trong giai đoạn này là: Qua vận động, tuyên truyền trong dân, đã đưa nhiều binh lính Pôn Pốt trở về với gia đình; vạch mặt chỉ tên, lôi ra ánh sáng một số tên Pôn Pốt trá hình; phá vỡ, bóc được một số tổ chức chính quyền thôn ấp, phum, sóc hai mặt của địch. Các tổ công tác của Tiểu đoàn đi về các phum, sóc hướng dẫn bà con nông dân thành lập cả chục tổ đoàn kết sản xuất, tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ tổ chức cho bộ đội tham gia dựng nhà, sửa cửa cho hàng chục hộ gia đình; trích từ định lượng ăn cả tấn gạo để cứu đói cho dân, điều trị cho hàng trăm người bị bệnh tật với tất cả niềm thương yêu, quý trọng “coi dân bạn như nhân dân mình”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 07:59:54 am
Việc kết hợp tác chiến (hoạt động quân sự) với dân vận, địch vận là kinh nghiệm, là vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân của dân tộc ta. Tuy vậy, nội dung, phương thức, hiệu quả của sự kết hợp, mỗi cuộc chiến tranh, từng giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử có độ sâu khác nhau và hiệu quả khác nhau, nên sức mạnh đoàn kết dân tộc trong mỗi cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng có sự khác nhau.

Khi Đảng ta ra đời, trải qua quá trình lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chấng thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, Đảng đề ra nhiều phương châm chiến đấu, trong đó “hai chân, ba mũi” đã trở thành phương châm chủ yếu khi chỉ đạo các cuộc kháng chiến. Đây là nét sáng tạo độc đáo của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng, nó tạo nên sức mạnh to lớn để quân và dân ta kết thúc thắng lợi vẻ vang hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Vận dụng sáng tạo phương châm này để giành thắng lợi “cả quân sự và chính trị”, lực lượng vũ trang Quân khu nói chung, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 nói riêng trong những năm tháng giúp bạn ở Campuchia đã tích cực tìm hiểu truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của bạn, khiêm tốn học hỏi bạn, nhất là học tiếng Khmer để chủ động tiếp xúc với bạn. xây dựng lòng tin và tình cảm yêu thương trọn vẹn với lực lượng cách mạng của bạn và nhân dân hạn. Bằng lời nói, việc làm cụ thể với những hành động giàu tính nhân văn của người lính Cụ Hồ trong đánh giặc, trong cứu đói cứu đau... họ đã để lại trong đội ngũ lãnh đạo. chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân Campuchia một niềm tin yêu, kinh phục. Vì vậy, hiệu quả của việc hoạt động quản sự kết hợp với công tác dân vận, địch vận ngày càng nâng lên và hiệu quả hơn.

Thành tích nổi bật này của Quân tình nguyện Việt Nam trong năm tháng giúp bạn ở Campuchia không chỉ được lãnh đạo, chính quyền và nhân dần Campuchia ghi nhận mà còn được dư luận quốc tế đánh giá cao. Một đội quân đi ra nước ngoài, chiến đấu làm nhiệm vụ quốc tế, không chỉ đánh giặc giúp bạn mà còn cứu đói, cứu đau, hướng dẫn, tổ chức nhân dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, chăm lo xây dựng, phát triển thực lực cách mạng cho bạn; đây quả thực là một điều hiếm thấy trong thế kỷ XX. Chỉ có Quân đội Việt Nam, Quân đội của Cụ Hồ mang bản chất cách mạng, Quân đội vì dân và do dân mới làm được như thế. Quân đội ta, Quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là niềm tự hào, tin yêu của mỗi người Việt Nam hôm nay và mài mãi mai sau.

Đầu tháng 8 năm 1979, do yêu cầu nhiệm vụ, Tiểu đoàn cùng với Trung đoàn 9 và Sư đoàn 339 được trên điều động về trong đội hình chiến đấu của Quân đoàn 4 làm nhiệm vụ truy quét, truy đánh địch và làm công tác vận động quần chúng vùng Svây Đôn Keo (Puvsat). Đảm nhiệm nhiệm vụ chiến đấu trong điều kiện địa hình rất phức tạp, núi cao. rừng rậm, thời tiết khắc nghiệt, là vùng vi trùng sốt rét đang hoành hành; về mặt tổ chức. Tiểu đoàn 5 được chuyển về đơn vị mới (Quân đoàn 4): do đó, tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ trong Tiểu đoàn đã nảy sinh vấn đề mới, đó là: so sánh giữa tác chiến trong đội hình Quân khu gần hậu phương, có sự giúp đỡ của các tỉnh; với tác chiến trong đội hình Quân đoàn chủ lực, cảm thấy xa gia đình, hậu phương. Từ đó, một số cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn cỏ tư tưởng ngán ngại, thiếu an tâm, dao động, cỏ người đào bỏ ngũ.

Qua theo dõi, nắm tình hình đơn vị, tôi dề nghị Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn phải có nghị quyết lãnh đạo chuyên đề về công tác tư tưởng, xác định rõ nhiệm vụ trong đội hình chiến đấu mới. Nhất trí với đề xuất của tôi, Đảng ủy Tiểu đoàn đã ra nghị quyết chuyên dề về công tác tư tưởng xác định rô nhiệm vụ trên giao. Nghị quyết của Đảng ủy tiểu đoàn chỉ rõ: “Phát huy truyền thống đơn vị luôn chấp hành tuyệt đối nhiệm vụ cấp trên, cần tổ chức tốt việc quán triệt nhiệm vụ gắn với vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên; phấn đấu 100% cán bộ, chiến sĩ thông suốt nhiệm vụ với quyết tâm chiến đấu cao”.

Sau khi được học tập, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ mới, trên địa bàn mới, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn đã đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực vượt lên mọi gian khổ, hi sinh, tiếp tục truy quét tàn quân địch, tổ chức các đội công tác bám địa bàn Svây Đôn Keo làm tốt công tác vận động quần chúng. Trong tháng 10 năm 1979, Tiểu đoàn đã tiêu diệt và gọi hàng cả chục tên địch, giúp dân 5 tạ gạo, phối hợp với địa phương làm nhà cho 30 hộ gia đình, xây dựng được 10 tổ tự vệ làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ phum, sóc.

Đầu tháng 11 năm 1979, được Trung đoàn giao nhiệm vụ cùng với Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 bạn rời địa bàn Svây Đôn Keo hành quân về Sa Phiêng trên đường 56 để tiến hành đợt hoạt động truy quét địch, phối hợp với lãnh đạo chính quyền địa phương củng cố lực lượng cách mạng. Đây là địa hình rừng núi, địch đang hoạt động mạnh, cơ sở cách mạng trên địa bàn do địch cài cắm, khống chế phát triển chậm. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn chưa thông thuộc địa hình, do vậy giai đoạn đầu của đợt hoạt động kết quả rất thấp, cả trong tiêu diệt địch và xây dựng thực lực cách mạng cho bạn.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 08:00:22 am
Trước khó khăn trên, tôi đề nghị Ban Chỉ huy Tiểu đoàn có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với địa phương, đồng thời vừa chiến đấu, xen kẽ các đợt công tác, tích cực tổ chức các buổi tập huấn, bồi dưỡng cán bộ phân đội về đặc điểm tình hình địa bàn, quy luật hoạt động của địch, nâng cao công tác tham mưu quân sự như: sử dụng bản đồ, địa bàn và một số phương pháp vận động quần chúng, yêu cầu nâng cao chất lượng củng cố xây dựng hệ thống chính trị trên địa bàn... Sau mỗi đợt tập huấn, rút kinh nghiệm, chất lượng, hiệu quả các đợt công tác của Tiểu đoàn được nâng lên rõ rệt. Kết thúc đợt hoạt động này, Tiểu đoàn đã tiêu diệt và vận động ra đầu thú hàng chục tên địch, thu 35 khẩu súng, củng cố được 9 tổ du kích ở các phum, sóc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Cuối tháng 12 năm 1979, tôi được Đảng ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn 9 giao nhiệm vụ đi học ở Trường Quân chính Quân đoàn 4, thời gian học một năm. Tôi tranh thủ bàn giao công việc, trở lại hậu phương chuẩn bị những việc cần thiết để lần đầu tiên được đi làm học viên một trường quân sự chính quy cấp Quân đoàn chủ lực của Bộ.

Đầu năm 1980, lớp học của tôi đã khai giảng. Đây là lớp học đào tạo cán bộ cấp chiến thuật của binh chủng hợp thành. Đối tượng học tập chủ yếu là những cán bộ cấp chiến thuật từ khắp các đơn vị trong Quân đoàn. Học viên đều là những cán bộ đã trưởng thành trong thực tiễn chiến đấu, chưa có điều kiện đào tạo cơ bản qua trường lớp, vì vậy lớp học rất sôi nổi, nhất là trong các buổi mạn đàm, trao đổi, thảo luận các chuyên đề vì anh em trưởng thành từ thực tiễn nên tích lũy nhiều kinh nghiệm rất phong phú. Được học một lớp học mà nhà trường rất sát với chiến trường, nhiều học viên trong lớp học đã mang cả hơi nóng của chiến trường Campuchia vào trong mỗi bài kiểm tra, trong mạn đàm, trao đổi ở các môn học. Cảm nhận chung của học viên từ những ngày đầu khóa đến ngày bãi khóa là rất thiết thực, bổ ích, đáp ứng được yêu cầu cơ bản trước mắt, có tính phát triển trong tương lai khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đối với tôi, chương trình lớp học rất toàn diện. Lần đầu tiên được tiếp cận một cách cơ bản hệ thống các môn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, ban đầu thấy khó, quá trình học làm quen với phương pháp, qua trao đổi với bạn bè trong lớp, với thầy, cụ thể hóa vấn đề chung (mang tính trừu tượng) thành các ví dụ cụ thể, thế là hiểu sâu và nhớ lâu. Hấp dẫn nhất đối với tôi là học và thực hành các môn quân sự, được tiếp cận một cách có hệ thống từ đường lối, tư tưởng, nghệ thuật quân sự của Đảng ta. Trong nghệ thuật quân sự được học từ dễ đến khó, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chiến thuật (chiến đấu) đến chiến dịch, chiến lược. Tôi thấy mình đang đứng trước cả khối lớn tri thức hùng hậu về quân sự, nội dung nào đối với tôi cũng rất mới, hào hứng và hấp dẫn, học quên cả thời gian.

Khi được tiếp cận với môn nghệ thuật quân sự, nhất là đi sâu vào cách đánh của cấp chiến thuật với các hình thức cơ bản tiến công, phòng ngự và các hình thức vận dụng khác, tôi lại có dịp liên hệ những việc mình đã làm, đã thực hành trong những năm tháng chỉ huy du kích xã Trần Phán, hoặc chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn ở Trung đoàn 9, Sư đoàn 339, thấy có việc đúng, có việc chưa đúng; nếu trước đó được học thi chắc chắn hiệu quả chỉ huy chiến đấu đã cao hơn. Lý luận đã soi rọi những hoạt động thực tiễn của tôi trên chiến trường với những cương vị khác nhau càng giúp tôi hiểu sâu thêm nghệ thuật quân sự của Đảng ta, tôi càng tự tin tiếp cận, nghiên cứu từng bài học, mạnh dạn trao đổi những kinh nghiệm thực tiễn trên chiến trường mà mình đã trải qua trong các buổi thảo luận được bạn bè, thầy giáo ghi nhận.

Không chỉ được học bài bản, hệ thống các môn nghệ thuật quân sự, tôi còn được trang bị những nhận thức mới về kỹ thuật quân sự, học về một số vũ khí, trang bị kỹ thuật của binh chủng hợp thành, các binh chủng, quân chủng như pháo binh, xe tăng, công binh, thông tin, cao xạ... Càng học, tôi càng thấy sự phát triển, lớn mạnh không ngừng của Quân đội ta, tính tất yếu và yêu cầu ngày càng cao cả về bản lĩnh chính trị, tri thức quân sự toàn diện của người chỉ huy trong Quân đội ta, cả trong hiện tại và tương lai. Trong suốt thời gian theo học, tôi gặp nhiều khó khăn về sức khỏe, những cơn sốt rét rừng chưa buông tha tôi, nó còn xuất hiện khá nhiều lần trong thời gian theo học ở mái trường này.

Những tri thức thu nhận được, qua quá trình rèn luyện của bàn thân và sự tác động thông qua hướng dẫn giáo dục của nhà trường giúp tôi trưởng thành khá toàn diện, nhất là phong cách, phương pháp chỉ huy tự tin hơn, bài bản và linh hoạt hơn.

Say mê, tập trung học tập hết môn này sang môn khác, từ lên lớp, thảo luận, kiểm tra đến thực hành, những tháng cuối năm 1980 đến với tôi lúc nào không hay, chỉ biết rằng tôi và các học viên của lớp này đón nhận hàng trăm câu hỏi mà phải trả lời bằng các phương pháp viết bài kiểm tra hoặc thi vấn đáp cuối khóa, mới biết rằng năm học sắp kết thúc. Sau một tháng ôn thi vất vả, tôi kết thúc khóa học với kết quả khá. Tạm xa mái trường và lần đầu tiên được làm học viên, tôi càng nghiệm ra rằng, vì sao ngày xưa ông cha ta trân trọng người thầy đến thế, những câu thành ngữ “Không thầy đố mày làm nên”, “Tôn sư trọng đạo”, “Bán tự vi sư, nhất tự vi sư” mãi mãi là chân lý, là biểu hiện của giá trị nhân văn trong nhân cách sống hàng ngàn năm của ông cha ta. Đó chính là sức sống mãnh liệt, sức mạnh to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 08:00:49 am
Một năm được học hành trong sự vất vả, song tôi cảm nhận mình đã trưởng thành, lớn lên rất nhiều cả trí tuệ và phong cách, phương pháp lãnh đạo, chỉ huy. Chắc chắn những gì tôi thu nhận được sẽ là những hành trang rất cơ bản, đặt nền móng cho tôi thực hiện các nhiệm vụ trên giao trong những năm tháng sau này.

Đầu năm 1981, tạm biệt mái trường Quân chính Quân đoàn 4 và cuộc đời học viên, tôi quay lại chiến trường Campuchia tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Trở về đơn vị cũ (Trung đoàn 9), tôi được trên bổ nhiệm làm Tham mưu phó Trung đoàn kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6. Đón tiếp tôi tại Ban Chỉ huy Trung đoàn là đồng chí Hà Ngọc Thường (Hà Phương) - quyền Trung đoàn trưởng, thay đồng chí Dương Quốc Phục - Trung đoàn trưởng đã được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 cho đi học văn hóa; đồng chí Nguyễn Ngọc Thảo - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung đoàn, thay đồng chí Lê Trung Thắng cũng đã được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 (7-1979) cho đi học tại Học viện Chính trị - Quân sự.

Về lại Trung đoàn lần này, tôi không được gặp trực tiếp hai người anh, hai người đồng chí lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của tôi, tôi và các anh đã từng sát cảnh chiến đấu với nhau trong những khó khăn, thử thách ngay từ những ngày đầu Trung đoàn thành lập. Hiểu nhau, thương nhau, quý mến nhau sâu nặng trên tình đồng chí, thương nhau như anh em ruột thịt một nhà. Các anh coi tôi như đứa em ruột thịt, cái gì chưa phải cả trong nhiệm vụ và trong cuộc sống đời thường các anh đều ân cần chỉ bảo, khi rất gay gắt quyết liệt, lúc rất ân cần, giúp tôi trưởng thành lên rất nhiều. Tôi học ở anh Dương Quốc Phục, người Trung đoàn trưởng tính cương trực, quyết đoán, nhất là lúc Trung đoàn gặp nhiều khó khăn, luôn có giải pháp sáng tạo, đúng đắn, đưa Trung đoàn vượt qua khó khăn, thử thách. Kiên quyết trong lãnh đạo, chỉ huy là thế, song trong quan hệ với cán bộ, chiến sĩ thì rất thương người, sống chan hòa, tình cảm với cán bộ, chiến sĩ.

Anh Lê Trung Thắng để lại ấn tượng sâu đậm trong trái tim tôi là một người anh, người đồng chí, một cán bộ chính trị mẫu mực. Với tác phong lãnh đạo gần gũi, giản dị, chân thành, thẳng thắn, anh đã thu hút, tập trung mọi tình cảm, ý chí quyết tâm của mọi người thành một khối đoàn kết cùng với Trung đoàn, vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Đó chính là bản lĩnh vững vàng của người lãnh đạo được tôi luyện, trưởng thành trong thực tiễn chiến đấu của Quân đội ta, một Chính ủy có tính nêu gương cao, được cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn yêu thương và tin cậy.

Trước khi giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi, anh Lê Ngọc Thảo - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung đoàn dành thời gian nói với tôi về tình hình địch - ta; nhiệm vụ của Trung đoàn và Tiểu đoàn 6. Anh nói: Bước vào mùa khô 1980-1981, với âm mưu chiến lược củng cố, phục hồi lực lượng, Pôn Pốt đã tập trung vừa củng cố khôi phục được hệ thống chỉ huy từ Trung ương đến cơ sở, phát triển lực lượng tăng cường tác chiến của chủ lực kết hợp du kích chiến; tập trung lực lượng bu bám tập kích hỏa lực vào các điểm tựa, cụm điểm tựa của Trung đoàn 10 ở Mười Hai Nhà, Trung đoàn 14 (biên phòng) ở Bảy Nhà. Về chiến thuật, chúng có sự điều chỉnh xé nhỏ lực lượng kết hợp lực lượng du kích chiến tăng cường phục kích, tập kích, cài mìn lực lượng ta trên đường 56 nhằm tránh bị tiêu diệt lớn, hạn chế hoạt động của ta, gây căng thẳng cho cán bộ, chiến sĩ ta đang chốt giữ trên các điểm tựa để mở rộng hành lang đưa lực lượng, vũ khí vào nội địa, ngăn chặn công tác vận chuyển lương thực, thực phẩm, đạn dược của ta từ phía sau lên phía trước. Sự điều chỉnh chiến thuật này của địch bước đầu đã phát huy hiệu quả, gây cho ta nhiều khó khăn, nhất là khả năng tiêu diệt lớn quân địch rất hạn chế. Để nối thông và bảo đảm an toàn tuyến trung gian trên đường 56, Sư đoàn đã giao nhiệm vụ cho Trung đoàn bảo vệ đường 56 với cung đường 60km (từ phía đông suối Ô Tức Lay đến phía tây Pra Muôi). Đảng ủy Trung đoàn đã ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ này với quyết tâm: “Tổ chức lực lượng hợp lý, quyết tâm thông đường 56, bảo đảm an toàn cung đường được Sư đoàn giao”.

Đầu năm 1981, tôi về Tiểu đoàn 6 làm Tiểu đoàn trưởng, sau một thời gian Tiểu đoàn bám đánh địch trên đường 56, được lệnh lui quân về trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn. Trong thời gian này, Tiểu đoàn vẫn lấy quy mô hoạt động cấp Tiểu đoàn làm đơn vị để xây dựng các phương án tác chiến, chưa vận dụng hình thức tổ chức phân đội nhỏ do đánh giá chưa đúng địch ở khu trung tuyến khi địch có điều chỉnh về chiến thuật. Còn ta là đơn vị chủ lực, sẵn tư tưởng ham đánh lớn, tiêu diệt nhiều, đúng với vai trò, vị trí của chủ lực, nay tổ chức đánh phân đội nhỏ, trong cán bộ, chiến sĩ sẽ có những tư tưởng ngán ngại, sợ hở lưng, hở sườn. Thực tế trong thời gian qua chưa có trận đánh phục kích hành lang, tập kích địch trong căn cứ lõm, khu sản xuất mà đạt hiệu quả chiến đấu cao. Thực tiễn đó đang đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn, các tiểu đoàn phải thay đổi hình thức chiến thuật, nếu cứ xây dựng các phương án tác chiến quy mô cấp tiểu đoàn, chắc chắn hiệu quả chiến đấu không cao, khả năng hoàn thành nhiệm vụ thấp.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 08:01:24 am
Ngày 30 tháng 5 năm 1981, chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của đồng chí Hà Ngọc Thường - quyền Tiểu đoàn trưởng, tôi trực tiếp chỉ huy Đại đội 9 thực hiện nhiệm vụ truy quét địch ở nam đường 56, khu vực Sa Phiêng. Sau nhiều ngày bám địch, gặp đường mòn địch đi lại nhiều, tôi quyết định chia lực lượng của đại đội tổ chức trận địa phục kích, kết hợp với cài mìn KP2. Đúng như dự báo, lực lượng địch cỡ một trung đội lọt vào trận địa, ta cho mìn nổ trước, sau đó lực lượng bộ binh đồng loạt xung phong, truy quét tiêu diệt những tên tháo chạy. Kết quả truy kích, Đại đội 9 đã diệt 13 tên, số còn lại bị bắt làm tù binh, thu 17 súng, toàn bộ trung đội địch bị ta bắt, diệt gọn. Đây là trận phục kích đạt hiệu quả chiến đấu cao nhất của Tiểu đoàn và Trung đoàn 9 từ đầu năm 1980 đến nay.

Từ thực tiễn trận đánh phục kích của Đại đội 9 ở Sa Phiêng và tổng hợp kết quả hoạt động của Tiểu đoàn 6 trong thời gian đánh địch ở Viên Viêng trên tuyến trung gian, Đảng ủy Trung đoàn 9 đã ra nghị quyết chuyên đề về điều chỉnh cách đánh mới “tác chiến phân đội nhỏ”. Quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 6 tổ chức hội nghị dân chủ về quân sự để xây dựng cách đánh phân đội nhỏ, bàn biện pháp nâng cao hiệu quả cách đánh này. Phát biểu trước hội nghị, tôi tập trung làm rõ ba vấn đề chủ yếu:

- Một là, địch đã điều chỉnh chiến thuật, xé nhỏ lực lượng kết hợp với du kích chiến, tăng cường bu bám, phục kích, tập kích ta. Địch sử dụng lực lượng như vậy nhằm tránh bị ta tiêu diệt lớn, chúng dụng ta phát hiện lực lượng lớn thì rút lui, lực lượng nhỏ thi tiến công tiêu diệt, rất linh hoạt bu bám ta dài ngày, bảo đảm bí mật. Hạn chế của chiến thuật này là do xé nhỏ lực lượng nên việc chi viện cho nhau rất hạn chế.

- Hai là, về phía ta, nếu giữ quy mô hình thức hoạt động cũ (cấp tiểu đoàn), không bám địch được dài ngày, công tác bảo đảm có nhiều khó khăn, lực lượng đông nên trong quá trình vận động khó có thể giữ được bí mật, bất ngờ. Ngược lại, ta dùng cách đánh phân đội nhỏ, bám địch dài ngày, có thể bảo đảm bí mật, linh hoạt trong sử dụng các hình thức chiến thuật.

- Ba là, để nâng cao hiệu quả cách đánh phân đội nhỏ, cần tập trung huấn luyện cho bộ đội vận dụng thành thạo các hình thức chiến thuật tập kích, phục kích, kết hợp tốt tác chiến bằng xung lực với cài mìn.

Sau hội nghị, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 6 nhất trí cao việc điều chỉnh chiến thuật của Trung đoàn, quyết tâm xây dựng và triển khai cách đánh phân đội nhỏ. Toàn tiểu đoàn giành thời gian huấn luyện từng đại đội, trung đội thành thạo các hình thức chiến thuật cơ bản để sớm lên đường trở lại khu trung tuyến bám đánh địch. Khi tổng kết cách đánh này ở Đảng ủy Sư đoàn, đồng chí Lê Duy Tý - Bí thư Đảng ủy, Phó Sư đoàn trưởng về chính trị đánh giá: “Phương thức tác chiến độc đáo của bộ đội chủ lực quen đánh quy mô lớn được tổng kết sáng tạo từ thực tiễn, cần sớm tổng kết phổ biến rộng trong toàn Sư đoàn”.

Mùa khô 1981-1982, trên tuyến biên giới Pursat, địch tăng cường lực lượng tổ chức nhiều đợt tập kích vào các điểm tựa, cụm điểm tựa của Trung đoàn bộ binh 10, Trung đoàn 14 ở khu vực Mười Hai Nhà, Bảy Nhà và điểm cao 492 nhằm hạn chế hoạt động của ta trên tuyến biên giới, tạo điều kiện vận chuyển lương thực, vũ khí chi viện cho lực lượng trong nội địa. Ở khu vực trung tuyến, chúng tích cực xây dựng căn cứ lõm, khu sản xuất, tổ chức lực lượng vận chuyển lương thực, vũ khí trên các con đường hành lang nam - bắc đường 56 để đưa hàng vào sâu nội địa.

Kiên quyết tiêu diệt địch, triệt phá các căn cứ lõm, khu sản xuất, chặt đứt con đường tiếp tế chi viện của địch, Quân đoàn 4 mở đợt hoạt động dài ngày từ tháng 11 năm 1981 đến tháng 4 năm 1982. Thực hiện nhiệm vụ của Trung đoàn giao, tôi cùng các anh trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã linh hoạt vận dụng cách đánh phân đội nhỏ, tiêu diệt được địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao. Tiêu biểu như các trận đánh của Đại đội 7 phục kích địch ở đường hành lang Vườn Thông (ngày 5 tháng 4 năm 1981), trận đánh của Đại đội 9 phục kích địch ở hành lang phía đông Rừng Thông (ngày 8 tháng 12 năm 1981) diệt cả chục tên địch, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Kết thúc đợt hoạt động này, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn đã đề nghị Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 khen thưởng cho Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 6 và Đại đội công binh vì đã thực hiện tốt cách đánh phân đội nhỏ, đạt hiệu quả chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Năm, 2022, 08:01:59 am
Năm 1982, trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, địch ra sức củng cố hệ thống căn cứ, kho tàng Trung ương Pôn Pốt (Văn phòng 870) để tiếp nhận, dự trữ lương thực, vũ khí viện trợ từ bên ngoài vào. Từ đây, bằng nhiều ngả đường, chúng tổ chức tiếp viện cho lực lượng trong nội địa tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động du kích, xây dựng chính quyền hai mặt, nhằm thực hiện âm mưu chiến lược tạo thế hai vùng, hai lực lượng, đề phòng khi phải chấp nhận giải pháp hòa hợp, có thế và lực mặc cả tranh giành quyền lực với cách mạng và Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia. Nhằm thực hiện ý đồ trên, trên tuyến biên giới Pursat, chúng tăng cường lực lượng tập kích các căn cứ phòng thủ của Trung đoàn 10, Trung đoàn 14 dọc theo sông Cơ Long, từ điểm cao 492 đến khu vực Mười Hai Nhà nhằm hạn chế hoạt động của ta trên tuyến biên giới, tạo điều kiện cho chúng củng cố kho tàng, bến bãi và tổ chức lực lượng đưa vũ khí vào sâu trong nội địa. Ở khu vực trung tuyến, chúng tích cực tổ chức lực lượng đưa vũ khí, lương thực vào sâu nội địa tiếp viện cho bọn phản động bên trong tăng cường hoạt động chống phá cách mạng Campuchia.

Quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn, Hội nghị Đảng ủy Tiểu đoàn 6 đề ra chủ trương: “Phát huy cách đánh phân đội nhỏ, kiên quyết tiêu diệt địch, cắt đứt hành lang vận chuyển vũ khí, lương thực của địch vào sâu trong nội địa, tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng nội địa phát triển và trưởng thành”. Thực hiện nhiệm vụ của đồng chí Trung đoàn trưởng giao, quán triệt chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy Tiểu đoàn, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nhất trí giao nhiệm vụ cho Đại đội 9 đánh một trận bằng chiến thuật phân đội nhỏ, đạt hiệu quả chiến đấu cao, để các đại đội rút kinh nghiệm học tập.

Ngày 17 tháng 2 năm 1982, tôi trực tiếp chỉ huy Đại đội 9, Tiểu đoàn 6 tập kích căn cứ Suối Lao. Qua trinh sát nắm địch cho thấy, đây là một căn cứ địch lợi dụng địa hình, địa vật bí mật bố trí hệ thống kho tàng, trận địa hỏa lực rất kín đáo, bất ngờ, có thể phòng ngự khá vững chắc. Vì vậy, công tác chuẩn bị chiến đấu phải hết sức tỉ mỉ, chu đáo, chặt chẽ, có cách đánh sáng tạo thì mới giành thắng lợi. Thực tế là đã lâu không chỉ Tiểu đoàn mà ngay cả Trung đoàn chưa quan tâm nhiều đánh các căn cứ lõm, vì vậy kinh nghiệm đánh mục tiêu này chưa nhiều. Với những khó khăn trên, tôi nghĩ đây là trận đánh rất quan trọng, phải thắng vì là trận đánh điểm của Tiểu đoàn. Thắng sẽ tạo nên khí thế, niềm tin vào cách đánh phân đội nhỏ; thua thì nhiều mặt sẽ giảm sút từ trận đánh điểm này.

Suy nghĩ như vậy, tôi yêu cầu Ban Chỉ huy Đại đội 9 phải xây dựng cách đánh sát, đúng, vì tất cả các yếu tố khác từ khí thế quyết tâm, đoàn kết nhất trí đến tình hình nắm địch... đều phải được thể hiện qua cách đánh. Qua mạn đàm, trao đổi từ tiểu đoàn đến đại đội, mọi người đều thống nhất cao với cách đánh “tận dụng thời cơ hỏa lực mạnh của Trung đoàn, Tiểu đoàn, nhanh chóng bí mật, bất ngờ tiếp cận mục tiêu, đột phá nhanh, đột kích mạnh, nhanh chóng đánh chiếm trọng tâm căn cứ địch, làm chủ trận địa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao”.

Sau khi xác định đúng cách đánh, tôi yêu cầu Ban Chỉ huy Đại đội 9 phải xác định đúng hướng tiến công chủ yếu địa hình tuy không thuận lợi nhưng là nơi địch có nhiều sơ hở, hệ thống phòng ngự của địch mỏng, yếu hơn các hướng khác, chủ động khắc phục địa hình; tổ chức lực lượng hợp lý và nhanh chóng tổ chức quán triệt, giao nhiệm vụ cho các phân đội, chú ý phải làm cho từng cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ cách đánh, nắm chắc nhiệm vụ của đại đội, tiểu đội và bản thân để làm cơ sở xây dựng niềm tin, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ hiệp đồng chiến đấu. Từ thực tiễn bản thân, kết hợp những tri thức tiếp thu trong nhà trường, soi rọi vào điều kiện cụ thể thực tế ở căn cứ Suối Lao để chỉ huy Đại đội 9 tổ chức và thực hành trận tập kích có nhiều ý nghĩa này. Do chuẩn bị chu đáo, xác định đúng cách đánh, có nhiều sáng tạo, bộ đội Đại đội 9 không chỉ có quyết tâm cao mà còn nắm chắc nhiệm vụ nên hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, kiên cường. Khi được lệnh nổ súng, Tiểu đoàn và toàn đại đội bí mật, bất ngờ dũng mãnh tiến công, cùng với hỏa lực mạnh nhanh chóng chia cắt đội hình địch, đánh chiếm tung thâm Sở Chỉ huy căn cứ làm cho địch rối loạn, nhanh chóng đầu hàng. Trận này ta tiêu diệt 23 tên, bắt 16 tên, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.

Kết quả trận chiến đấu trên là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố, song quan trọng nhất là Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nhất trí cao với chủ trương của trên, kiên quyết điều chỉnh cách đánh mới, cách đánh phân đội nhỏ. Trong tổ chức thực hiện, có nhiều giải pháp sáng tạo, linh hoạt từ quán triệt nhiệm vụ, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, phát huy dân chủ quân sự trong xây dựng cách đánh đúng... Đối với riêng tôi, hiệu quả một năm học bài bản ở trường, cả trong công tác chuẩn bị chiến đấu, thực hành chiến đấu và kết thúc trận đánh, tôi đều nghiên cứu, triển khai vận dụng trong trận đánh này. Trận đánh thắng lợi làm cho cán bộ, chiến sĩ phấn khởi, tự hào, riêng tôi niềm vui được nhân đôi vì mình đã gắn được tri thức tiếp nhận từ nhà trường với thực tế chiến trường một cách có hiệu quả. Đúng là lý luận phải đi đôi với thực tiễn, phương châm ấy càng được củng cố, ăn sâu trong tiềm thức của tôi, chi phối tới tác phong lãnh đạo, chỉ huy của tôi trong bước đường công tác sau này.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:41:12 am
Song song với nhiệm vụ cơ động chiến đấu, trong giai đoạn này tới cùng với đồng chí Tiểu đoàn phó chính trị, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn và các anh trong Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng đảng, công tác đảng, công tác chính trị, công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, nhất là việc chăm lo giữ gìn sức khỏe, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội trong điều kiện ở chiến trường. Trú quân ở đâu, dù ngắn ngày hay dài ngày, sau khi ổn định kế hoạch đóng quân, canh phòng, sẵn sàng chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ liền triển khai ngay kế hoạch tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống. Mặc dù bận nhiều việc, song tôi và nhiều đồng chí cán bộ trong Tiểu đoàn đều gương mẫu thực hiện nhiệm vụ này. Tranh thủ thời gian, Tiểu đoàn vẫn duy trì tổ chức và hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị hằng năm; tổ chức tốt việc phát động và thực hiện cuộc vận động lớn “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang”. Kết quả, cuối năm 1982, trong nhiệm vụ xây dựng đơn vị, Tiểu đoàn 6 tổ chức huấn luyện quân sự qua kiểm tra đạt khá, giáo dục chính trị 16 bài cơ bản đạt khá; trong năm bồi dưỡng đối tượng đảng cho 32 đồng chí, kết nạp được 7 đồng chí vào Đảng; 1 tập thể và 2 cá nhân được tặng Huân chương Chiến công.

Cuối tháng 12 năm 1962, trên bổ nhiệm tôi làm Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng và bàn giao vị trí Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 cho đồng chí Nguyễn Phương Nam. Ban Chỉ huy Trung đoàn lúc này gồm các anh: Đoàn Văn Thắng làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Thảo (Bảy Đấu) làm Bí thư Đảng ủy, Trung đoàn phó chính trị; tôi làm Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng; Nguyễn Lộc Nhu - Trung đoàn phó chính trị.

Hơn bốn năm (1979-1983), với tinh thần giúp đỡ vô tư, khẳng khái của các lực lượng cách mạng Việt Nam, cách mạng Campuchia đã dần trưởng thành, phát triển vượt bậc; lực lượng cách mạng của bạn từng bước vươn lên đảm nhiệm các nhiệm vụ, thế và lực của cách mạng Campuchia mạnh hơn hẳn địch, tình thế là không thể đảo ngược. Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực cũng có những diễn biến mới tác động trực tiếp đến cách mạng Campuchia. Ngày 22 tháng 2 năm 1983, tại Thủ đô Viên Chăn (Lào), lãnh đạo ba nước Đông Dương (Lào - Việt Nam - Campuchia) tổ chức hội nghị cấp cao ra tuyên bố: Xây dựng đoàn kết liên minh chiến lược. Một trong những thỏa thuận quan trọng của lãnh đạo ba nước là: Hằng năm Quân tình nguyên Việt Nam ở Campuchia sẽ rút dần về nước.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, ngày 1 tháng 5 năm 1983, Quân đoàn 4 tổ chức rút một phần lực lượng về nước, Sư đoàn 339 trở về trong đội hình chiến đấu của Mặt trận 979.

Được trở về trong đội hình chiến đấu cũ (Mặt trận 979), Trung đoàn có thay đổi một số vị trí trong Ban Chỉ huy, song hầu hết cán bộ đã biết nhau suốt quá trình xây dựng, chiến đấu nên rất hiểu nhau, hiểu tình hình đơn vị, do đó mối quan hệ lãnh đạo, chỉ huy của Trung đoàn có nhiều thuận lợi, đoàn kết, tích cực choàng gánh cho nhau, phát huy cao nhất nhiệm vụ, chức trách của từng người và sức mạnh tập thể. Vị trí đóng quân của Trung đoàn ở Suối Lớn, cách Nam Sa Phiêng 8km, với nhiệm vụ được Sư đoàn giao cho là truy quét địch ở tuyến trung gian, nam - bắc đường 56.

Mùa mưa năm 1983, Trung đoàn tổ chức huấn luyện theo kế hoạch hằng năm để cùng làm tốt hai nhiệm vụ chính trị: huấn luyện và cơ động đánh địch. Giữa tháng 5 năm 1983, Đảng ủy Trung đoàn ra nghị quyết lãnh đạo xác định: “Phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ huấn luyện và tác chiến đánh địch, đưa kinh nghiệm thực tiễn đánh địch lồng vào trong bài giải huấn luyện bộ đội”. Thực hiện chủ trương này, đồng chí Đoàn Văn Thắng - Trung đoàn trưởng giao cho cơ quan tham mưu xây dựng kế hoạch. Khi cơ quan tham mưu báo cáo kế hoạch huấn luyện với đồng chí Trung đoàn trưởng, tôi đề nghị: Lực lượng của Trung đoàn thường xuyên luân chuyển, duy trì 2/3 ở vị trí đóng quân để thực hành huấn luyện, 1/3 còn lại tổ chức cơ động chiến đấu thường xuyên ở nam - bắc đường 56; sau một đợt hoạt động, huấn luyện tổ chức rút kinh nghiệm tiếp tục thay đơn vị khác, lên đường bám địa bàn đánh địch.

Được đồng chí Trung đoàn trưởng phê duyệt, các đại đội trong Tiểu đoàn vừa hoàn thành có chất lượng nhiệm vụ huấn luyện, vừa tham gia đánh địch đạt hiệu quả cao. Tiêu biểu như Đại đội 5, Tiểu đoàn 5, ngày 23 tháng 7 năm 1983, tổ chức trận địa phục kích nam đường 56 diệt 11 tên địch, thu nhiều súng và đồ dùng quân sự. Chiến thắng của Đại đội 5, Tiểu đoàn 5 không chỉ khẳng định tính sát thực, đúng đắn trong chủ trương, nghị quyết Đảng ủy Trung đoàn mà nó còn khẳng định năng lực tổ chức, điều hành của hệ thống chỉ huy các cấp, khẳng định giá trị một phương châm đúng đắn: lý luận gắn liền với thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với chiến trường... trong phương châm đào tạo, huấn luyện của các nhà trường Quân đội ta. Có như vậy mới hấp dẫn được người học, gây dựng được niềm tin đối với người đi chiến đấu trong phương án đánh địch vì nó đã phát huy được kinh nghiệm từ các trận đánh trước đó. Là mẫu người ưa hành động, tôi đánh giá rất cao phương châm cơ bản, quan trọng này.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:41:39 am
Bước vào chiến dịch mùa khô 1983-1984, sau khi hoàn thành nhiệm vụ khôi phục lại trận địa của Binh đoàn 2 bạn. Đầu tháng 4 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 339 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn tiến công căn cứ Trung đoàn 11 thuộc Sư đoàn 111 của địch ở bắc Năm Nhà. Qua trinh sát nắm địch và địa hình cho thấy, đây là một căn cứ địch bố trí phòng ngự chặt chẽ, có hệ thống công sự vật cản khá kiên cố, kết hợp việc tổ chức hệ thống hỏa lực mạnh, được hiệp đồng chặt chẽ từ các trận địa pháo cối cả bên trong lẫn bên ngoài. Căn cứ này từ trước đến nay chưa bị đánh lần nào nên chúng rất đề phòng, cảnh giác với ta, thường xuyên đôn đốc lính canh gác cẩn mật cả ngày lẫn đêm; nhất là về đêm thường bung các lực lượng từ trong căn cứ ra ngoài mặt phục nhằm phát hiện ta từ xa.

Để đánh giá chính xác về địch, Đảng ủy, Chỉ huy Trung đoàn đã tổ chức một lực lượng hoạt động thăm dò địch, làm cơ sở xây dựng quyết tâm và cách đánh chính xác, chắc thắng. Ngày 5 tháng 4 năm 1984, lực lượng Tiểu đoàn 4 do đồng chí Hồ Khải Hoàn - Phó Tham mưu trưởng Trung đoàn chỉ huy triển khai thực hiện nhiệm vụ này ở bắc cao điểm 1167. Sau một ngày hoạt động, địch phát hiện ra lực lượng ta, chúng dùng lực lượng bộ binh và pháo cối ở các trận địa trong và ngoài căn cứ bu bám đánh phá ta quyết liệt, gây cho ta một số thiệt hại đáng kể. Trước tình hình trên, trong cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn xuất hiện tư tưởng cho rằng địch quá mạnh, nhất là hỏa lực, không tin vào cách đánh và khả năng giành thắng lợi của ta trong chiến đấu, từ đó ngán ngại trong nhận và thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu, sợ mìn, sợ hỏa lực địch.

Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn kịp thời ra chủ trương: “Để làm tốt công tác tư tưởng, lấy lại hình ảnh, truyền thống của Trung đoàn, “sẵn sàng nhận nhiệm vụ”, phải giải cho được bài toán về hỏa lực địch”. Thực hiện chủ trương này, tôi đề nghị với Ban Thường vụ Đảng ủy phải tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:

- Một là, xem lại cách đánh của ta vừa qua, điều chỉnh lại cho hợp lý. Thực tế vừa qua, Trung đoàn, các tiểu đoàn tập trung đánh vào một khu vực nên các trận địa pháo cối của địch cả trong lẫn ngoài căn cứ có điều kiện tập trung bắn pháo vào đội hình của ta. Vì vậy, khi tiến công địch, cần tổ chức nhiều mũi, nhiều hướng, nhanh chóng tập trung đánh chiếm mục tiêu chủ yếu, khi đã chiếm được rồi không co cụm lại để tránh hỏa lực tập trung của địch.

- Hai là, ngay từ bước trinh sát nắm địch và quá trình thực hành chiến đấu, sớm xác định các trận địa hỏa lực địch để chế áp, tiêu diệt.

- Ba là, tổ chức ngay một lực lượng cán bộ có kinh nghiệm để tìm ra giải pháp khống chế, phá vỡ kế hoạch hiệp đồng hỏa lực với bộ binh địch.

Trước đề xuất của tôi, tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn nhất trí cao, đồng chí Đoàn Văn Thắng - Trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho cơ quan tham mưu nhanh chóng triển khai.

Thực hiện nhiệm vụ của đồng chí Trung đoàn trưởng, tôi ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu chế áp hỏa lực địch, gồm bốn đồng chí: Tống Thanh Phong, Quách Văn Sáu, Nguyễn Văn Dinh - Phó Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, do tôi trực tiếp phụ trách. Sau nhiều ngày bám sát, theo dõi, tổng hợp cách bắn pháo, cối ở các trận địa hỏa lực; tiếp thu ý kiến đóng góp của cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị, Tổ nghiên cứu chế áp hỏa lực địch phát hiện ra quy luật hiệp đồng giữa hỏa lực và bộ binh địch bằng tín hiệu tiếng súng bộ binh.

Từ kết quả nghiên cứu này, Tổ đề xuất giải pháp phá vỡ tín hiệu hiệp đồng của địch. Sau khi nghe báo cáo kết quả nghiên cứu của Tổ, tôi yêu cẩu Tổ triển khai trên thực địa, qua kiểm chứng một số trận bắn pháo cối của địch đúng như kết quả nghiên cứu của Tổ. Tôi nhanh chóng báo cáo với đồng chí Trung đoàn trưởng về quy luật hiệp đồng bằng súng bộ binh giữa hỏa lực và bộ binh địch. Tôi đi sâu nêu rõ giải pháp phá vỡ tín hiệu hiệp đồng này bằng cách: khi phát hiện ra tín hiệu hiệp đồng của bộ binh địch yêu cầu hỏa lực chi viện, ta cũng dùng súng bộ binh bắn gây nhiễu loạn, làm cho các trận địa pháo, cối của địch không còn phân biệt tín hiệu hiệp đồng hỏa lực các đơn vị bộ binh của chúng, dẫn đến chúng bắn loạn xạ, có khi rơi cả vào đội hình tác chiến của chúng. Khi đã có giải pháp, đồng chí Trung đoàn trưởng yêu cầu cơ quan tham mưu tiếp tục theo dõi hiệu quả của giải pháp này và cách đối phó của địch, nhanh chóng triển khai, chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu áp dụng và báo cáo kết quả về Trung đoàn.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:42:11 am
Ở Tiểu đoàn 4, đồng chí Tiểu đoàn trưởng Mai Văn Lập tổ chức triển khai ngay giải pháp trên trong trận tiến công căn cứ 11 của Sư đoàn bộ binh 111 địch, trên hướng bắc điểm cao 1167, buộc địch phải ngừng bắn, tạo điều kiện cho Trung đoàn nhanh chóng đánh chiếm được mục tiêu, làm chủ trận địa. Từ áp dụng thành công của Tiểu đoàn 4, tôi yêu cầu cơ quan tham mưu tổng kết rút kinh nghiệm hoàn chỉnh giải pháp hướng dẫn cho các đơn vị triển khai đại trà (trên diện rộng) và Trung đoàn áp dụng ngay trong trận đánh sắp tới.

Ngày 7 tháng 4 năm 1984, Trung đoàn thực hành tiến công vào khu vực tọa độ 65-68. Đồng chí Trung đoàn trưởng giao cho tôi tổ chức một bộ phận trinh sát phát hiện tín hiệu hiệp đồng hỏa lực của bọn bộ binh địch. Đúng như dự báo của ta, khi ta nổ súng, địch trong căn cứ bắn súng yêu cầu hỏa lực chi viện, ta lập tức dùng tiếng súng bộ binh làm nhiễu loạn tín hiệu hiệp đồng với các trận địa pháo cối của chúng. Địch mất phương hướng chi viện cho bộ binh, bắn vu vơ, không trúng các mục tiêu theo yêu cầu của bộ binh. Không có hỏa lực chi viện (thế mạnh của địch trong giai đoạn này), bọn địch trong căn cứ hoang mang, lo sợ, rối loạn cả lên; tạo điều kiện thuận lợi cho các mũi, các hướng của các đơn vị ta đồng loạt xung phong đánh chiếm căn cứ địch, làm chủ địa bàn. Kết quả trận đánh này, ta diệt 15 tên, thu 7 súng, 1 máy vô tuyến PRC-25, 2,5 tấn gạo, 2,5 tấn đạn và nhiều đồ dùng quân trang, quân dụng khác.

Chiến tranh luôn có các quy luật riêng của nó, bên nào tìm ra những quy luật chung, phát hiện quy luật hoạt động riêng của đối phương sẽ biến yếu thành mạnh, biến thế bị động thành chủ động, tất yếu sẽ giành thắng lợi. Trong trận này, ngay từ khi mở màn trận đánh, Trung đoàn đã phá được tín hiệu hiệp đồng hỏa lực của đích, tạo thời cơ phát triển chiến đấu thuận lợi, giải quyết nhanh mục tiêu, hạn chế được thương vong. Từ đó, liên tiếp các trận sau ta đều giành thắng lợi. Điều quan trọng hơn, Trung đoàn đã kịp thời giải tỏa tư tưởng sợ hỏa lực mạnh của địch trong bộ phận cán bộ, chiến sĩ của ta. Trong niềm tin chiến thắng, Trung đoàn tiến công căn cứ Pimta, diệt 18 tên, bắt sống 3 tên, thu 21 súng, làm chủ căn cứ này, kết thúc nhiệm vụ tham gia chiến dịch mùa khô 1983-1984 với khí thế quyết tâm mới trong tiêu diệt địch, làm chủ địa bàn, giữ vững thế tiến công.

Trong chiến dịch này ta thắng lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, triệt phá nhiều căn cứ, kho tàng, bóc dỡ nhiều cơ sở phản động trong nội địa, chính quyền hai mặt của địch, gây cho chúng nhiều khó khăn, thế và lực của chúng đã suy giảm. Tuy vậy, Pôn Pốt vẫn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của bọn phản động quốc tế, không chịu từ bỏ âm mưu tiêu diệt lực lượng cách mạng Campuchia, hòng đảo ngược tình thế.

Đầu tháng 5 năm 1984, Trung đoàn lùi về đứng chân ở Sa Phiêng, kết thúc đợt hoạt động mùa khô 1983-1984. Tại đây, theo chỉ đạo của Sư đoàn, Trung đoàn tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm trong chiến dịch và củng cố toàn diện đơn vị. Tháng 7 năm 1984, trên quyết định giao nhiệm vụ cho đồng chí Đoàn Văn Thắng đi học, bổ nhiệm tôi - Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng lên làm Trung đoàn trưởng. Ban Chỉ huy Trung đoàn thời điểm này gồm: tôi làm Trung đoàn trưởng, Phó Bí thư Đảng ủy; anh Nguyễn Văn Mười làm Phó Trung đoàn về chính trị, Bí thư Đảng ủy; anh Hồ Khải Hoàn - Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng; anh Trần Kim Lân - Phó Trung đoàn trưởng phụ trách hậu cần.

Lúc này, Trung đoàn đang bước vào múa huấn luyện, gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khâu cán bộ từ cơ quan đến đơn vị đều thiếu. Tôi đã chủ động bàn với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị Nguyễn Văn Mười ra nghị quyết chuyên đề tập trung lãnh đạo công tác huấn luyện. Đồng chí Bí thư Đảng ủy nhất trí ngay vì đó cũng là suy nghĩ của người chủ trì công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở đã nhiều năm, rất năng động, linh hoạt và nhạy bén trước những diễn biến, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

Dưới sự chủ trì của đồng chí Bí thư Đảng ủy, Đảng ủy Trung đoàn đã ra nghị quyết chuyên đề về công tác huấn luyện. Trên cơ sở kế hoạch huấn luyện của Trung đoàn, từng cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch gắn huấn luyện kỹ - chiến thuật với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu; lấy phương án chiến đấu để huấn luyện bộ đội, nhất là phương án đánh phân đội nhỏ.

Giữa tháng 7 năm 1984, đang vào giai đoạn cuối của đợt huấn luyện, Sư đoàn giao nhiệm vụ cho Trung đoàn vào phối hợp Trung đoàn 14 bạn đánh chiếm lại điểm cao 954. Nhận nhiệm vụ trên giao, Trung đoàn gặp khó khăn về quân số. Tiểu đoàn 5 vừa tăng cường cho đơn vị bạn; ở Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 thì 1/3 là tân binh từ cơ bản mới đưa sang Trung đoàn được một tháng, đang tập trung huấn luyện kỹ - chiến thuật, tư tưởng chưa ổn định, chưa quen với chiến trường. Từ thực tiễn trên, tôi đề xuất với Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn phải đưa số chiến sĩ mới này vào chiến đấu ngay, vì để lại thiếu cán bộ quản lý chỉ huy sẽ xuất hiện vấn đề tư tưởng, không bảo đảm quân số chiến đấu; hơn nữa, vừa qua, ta đã tích cực huấn luyện anh em gần một tháng, bước đầu đã làm quen được với không khí chiến trường. Điều quan trọng là giải pháp, chỉ đạo cho các đơn vị lấy “tổ ba người” kèm cặp (hai chiến sĩ cũ, một chiến sĩ mới). Do làm tốt công tác tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Đảng ủy, từng đơn vị, cơ quan thực hiện tất việc kèm cặp, dẫn dắt, bồi dưỡng, truyền thụ kinh nghiệm giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa chiến sĩ cũ và chiến sĩ mới. Tất cả số tân binh của Trung đoàn ở Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 đều hăng hái lên đường đi chiến đấu với tinh thần quyết tâm chiến đấu cao.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:42:34 am
Sau hai ngày hành quân vất vả, đội hình của Trung đoàn trên 500 đồng chí đã vào đến Năm Nhà. Tại địa điểm này, Trung đoàn dừng lại làm công tác chuẩn bị chiến đấu, tôi tổ chức lực lượng trinh sát cùng với một số cán bộ chủ trì của các cơ quan, Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 đi trinh sát điểm cao 954 mà địch đã chiếm. Được sự nhất trí của Ban Thường vụ Đảng ủy, tôi tiến hành giao nhiệm vụ cho các đơn vị và thống nhất kế hoạch chiến đấu với Trung đoàn 14 của bạn. Tiểu đoàn 6 tiến công địch từ hướng tây cao điểm 954. Trung đoàn 14 bạn tiến công địch từ hướng bắc. Tiểu đoàn 4 tiến công địch từ hướng đông. Trung đoàn xác định cách đánh trong trận chiến đấu này là: “Bí mật, bất ngờ tiếp cận mục tiêu, đơn vị nào gặp địch trước nổ súng trước, đơn vị nào chưa gặp địch thì tiếp tục phát triển lên mục tiêu quy định”. Ta tiến công địch ở ba hướng, trong đó hướng của Tiểu đoàn 6 (hướng tây cao điểm 954) là hướng chủ yếu. Thời gian nổ súng là 16 giờ.

Hoàn thành xong công tác chuẩn bị chiến đấu, các đơn vị đã vào triển khai trận địa xuất phát tiến công đúng kế hoạch, thì bất ngờ đồng chí Lê Khả Phiêu (Năm Phiêu) - Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận 719 đến thăm và kiểm tra kế hoạch chiến đấu của đơn vị. Đúng lúc đó, tôi bị cơn sốt rét hành hạ, thấy vậy đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận 719 nói: “Ba Hổ sốt thế này còn đánh đấm cái gì”. Tôi nói luôn: “Báo cáo đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận 719, đơn vị đã triển khai đội hình chiến đấu xong rồi, giờ còn báo cáo lên Sư đoàn và Mặt trận là nổ súng, nếu hoãn lại ngày mai, địch sẽ tăng cường lực lượng thì không đánh được”. Nghe xong, đồng chí nhất trí cho Trung đoàn nổ súng theo kế hoạch.

Các đơn vị xuất phát tiến công đúng kế hoạch. Trên hướng Tiểu đoàn 6 quá trình vận động tiến công gặp một lực lượng địch 20 tên, tôi lệnh cho Tiểu đoàn tổ chức tập kích đánh địch. Bị tập kích bất ngờ, địch tán loạn bỏ chạy, để lại 6 xác chết và 7 khẩu súng. Phát hiện lực lượng ta tiến công từ phía sau, địch tập trung hỏa lực và xung lực ngăn chặn Tiểu đoàn 6, tạo điều kiện cho bọn ở điểm cao 954 tháo chạy. Tôi lệnh cho Tiểu đoàn 6 vừa tổ chức lực lượng phản kích địch, vừa dùng hỏa lực kìm chế hỏa lực địch, lệnh cho Tiểu đoàn 4 và yêu cầu Tiểu đoàn 14 của bạn chớp thời cơ đẩy mạnh tiến công địch, nhanh chóng đánh chiếm cao điểm 954, xóa sổ bọn địch ở đây, làm bàn đạp tấn công tiêu diệt và làm chủ điểm cao 1167.

Sau 5 ngày hiệp đồng chiến đấu với Trung đoàn 14 bạn, Trung đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao, tiêu diệt được địch ở điểm cao 954, thu được vũ khí, làm chủ cao điểm 1167 bàn giao lại cho bạn. Điều đáng mừng là số chiến sĩ mới ra trận lần đầu, được sự dìu dắt, giúp đỡ của cán bộ, chiến sĩ cũ, anh em đã vượt qua tâm lý căng thẳng, hồi hộp, lo lắng ban đầu, vào trận tự tin; một số đồng chí đã nổ súng diệt được địch, lập công đầu. Có được thành công đó là do Đảng ủy, Chỉ huy Trung đoàn đã có một loạt các chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời, song hai giải pháp quan trọng nhất mà tôi rút ra được đó là: công tác tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm và công tác tổ chức phân công lực lượng chặt chẽ, hợp lý, chiến sĩ cũ kèm cặp chiến sĩ mới trong chiến đấu. Sau trận chiến đấu này, Trung đoàn quay trở về vị trí đứng chân ở Sa Phiêng, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trong mùa mưa.

Cuối tháng 7 năm 1984, Sư đoàn 339 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn tổ chức lực lượng truy tìm địch trong khu vực Tứ giác ở khu vực phía nam Hai Mươi Nhà. Nhiệm vụ của Trung đoàn là tiêu diệt bọn địch đóng chiếm ở đây, phá vỡ kế hoạch tiến công của chủng, bảo vệ an toàn cho Sở Chỉ huy Sư đoàn 4 của bạn.

Nhận nhiệm vụ trên giao, do có khó khăn về thời gian làm công tác chuẩn bị, tôi tranh thủ trao đổi một số nội dung cơ bản trong kế hoạch chiến đấu với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị Nguyễn Văn Mười. Được sự nhất trí cao của Ban Thường vụ, tôi nhanh chóng triển khai kế hoạch chiến đấu cho Tiểu đoàn 4; Tiểu đoàn 6; trong đó, về cách đánh, tôi nhấn mạnh: Do chưa nắm chắc địch, chỉ dự báo được một số vị trí địch có khả năng tạm dừng, do vậy Trung đoàn vận dụng phương pháp vận động tiến công, vừa nắm địch vừa bao vây tiêu diệt chúng; lấy đại đội làm đơn vị hoạt động theo kế hoạch chung của Trung đoàn, trực tiếp do Trung đoàn trưởng chỉ huy.

Sau hai ngày tích cực truy tìm, lùng sục địch trên hướng Đại đội 3 của Tiểu đoàn 4, ta phát hiện một tốp địch khoảng 17 tên đang ở một vị trí tạm dừng, Đại đội nổ súng diệt 5 tên, thu 2 súng và nhiều trang bị vũ khí khác. Nhận được báo cáo của Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn 4, tôi lệnh cho các đại đội của Tiểu đoàn 6 thực hiện tốt kế hoạch hiệp đồng theo tiếng súng tiến công của Đại đội 3, Tiểu đoàn 4, hình thành thế bao vây, kiên quyết tiêu diệt gọn quân địch. Kết quả, ta tiêu diệt thêm một số tên, thu vũ khí, bẻ gãy ý định tiến công của địch vào Sở Chỉ huy Sư đoàn 4 bạn.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:43:01 am
Đầu tháng 8 năm 1984, Sư đoàn giao nhiệm vụ cho Trung đoàn sử dụng lực lượng hoạt động liên tục trong tháng 8 ở khu trung tuyến ở các địa bàn Vườn Thông, Viêng Viêng, nam đường 56, nhằm ngăn chặn các tuyến hành lang vận chuyển từ biên giới vào nội địa, đồng thời triệt phá các căn cứ lõm, các khu sản xuất của địch. Đây là đợt ra quân thực hiện kế hoạch phối hợp hoạt động nằm trong đợt hoạt động tổng hợp giữa Sư đoàn và tỉnh Pursat, gắn tác chiến với việc phát động quần chúng, bóc gỡ địch ngầm, tạo điều kiện cho bạn xây dựng và phát triển lực lượng, củng cố các cấp chính quyền.

Trước nhiệm vụ mới được giao, Đảng ủy Trung đoàn đã họp dưới sự chủ trì của đồng chí Bí thư Đảng ủy Nguyễn Văn Mười nhằm quán triệt nhiệm vụ, ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quan trọng này. Trước hội nghị Đảng ủy, tôi báo cáo về khả năng của địch cũng như những thuận lợi, khó khăn của Trung đoàn; đề xuất các phương án đánh địch để Đảng ủy cho ý kiến. Tôi nhấn mạnh: Nếu ta và bạn hoạt động mạnh ở nội địa, địch có khả năng lui ra khu trung tuyến, vì đây là khu vực địa hình phúc tạp, núi cao, rừng rậm, có các khu sản xuất, khu căn cứ lõm để ẩn nấp, bảo toàn lực lượng. Vì vậy có hai phương án đánh địch:

- Phương án 1: Tiếp tục sử dụng lực lượng phân đội nhỏ, cấp đại đội, hoạt động theo từng đợt 15 đến 20 ngày rồi rút về. Thực hiện phương án này, không gian hoạt động có chiều sâu, chính diện hẹp, công tác bảo đảm có nhiều thuận lợi, giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ, địch khó có khả năng nắm được ý đồ hoạt động của ta. Thay nhau đi bám địch, các đơn vị vừa được nghỉ ngơi, vừa hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện.

- Phương án 2: Tổ chức một lực lượng quy mô cấp tiểu đoàn, hoạt động liên tục dài ngày, công tác bảo đảm gặp khó khăn phải tổ chức một đến hai trạm trung chuyển, lực lượng cơ động lớn rất dễ bị lộ, không tiêu diệt được địch, đơn vị mệt mỏi, căng thẳng, không hoàn thành được nhiệm vụ huấn luyện.

Đảng ủy Trung đoàn sau khi thống nhất quyết định lựa chọn phương án 1, tôi tiến hành giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Tiểu đoàn 5 hoạt động ở khu vực nam Đèo Đá, có nhiệm vụ phục kích địch trên đường hành lang ở Vườn Thông, tổ chức lực lượng trinh sát tìm căn cứ lõm và các khu sản xuất của Pôn Pốt, thời gian hoạt động từ ngày 4 đến ngày 15 tháng 8 năm 1984. Tiểu đoàn 4 hoạt động ở khu vực nam Sa Phiêng, với nhiệm vụ phục kích địch đường hành lang tây Vườn Thông, thời gian từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1984. Về tổ chức lực lượng mỗi tiểu đoàn bảo đảm quân số từ 40 đến 45 đồng chí. Sau khi giao nhiệm vụ cho hai tiểu đoàn, tôi chỉ thị một số công tác bảo đảm với tinh thần chuẩn bị chu đáo sử dụng hiệu quả, tích cực thu hồi vũ khí địch đánh địch.

Nhận nhiệm vụ Trung đoàn giao, đồng chí Quách Sáu - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 và đồng chí Mai Văn Lập - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 nhất trí cao, bày tỏ quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đầu tháng 8 năm 1984, Tiểu đoàn 5 xuất phát. Hơn một ngày hành quân, Tiểu đoàn đến địa điểm khu vực được phân công bám địch, tổ chức trận địa phục kích, bố trí đội hình, tổ chức cài mìn. Sau ba ngày chờ đợi căng thẳng, 8 giờ ngày 8 tháng 8 năm 1984, một tốp địch gồm 12 tên lọt vào ổ phục kích của Đại đội, Tiểu đoàn lệnh nổ súng diệt tại chỗ 9 tên, thu 8 súng. Nhận được kết quả trận đánh, tôi gọi điện biểu dương cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5, lệnh cho đồng chí Mai Văn Lập - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, sẵn sàng cơ động đánh địch.

Cuối tháng 8 năm 1984, Tiểu đoàn 4 xuất phát. Sau khi đến địa điểm tập kết, Tiểu đoàn triển khai xây dựng trận địa phục kích, bố trí đội hình, bí mật cài mìn. Qua hai ngày chờ đợi, ngày 24 tháng 8 năm 1984, lực lượng địch khoảng hơn 20 tên chủ quan dẫn xác vào trận địa phục kích, Tiểu đoàn trưởng Mai Văn Lập chờ địch đến thật gần, lệnh cho Tiểu đoàn nổ súng xung phong. Bị đánh bất ngờ, địch chạy tán loạn, ta diệt gọn toán địch này, chúng bị diệt 17 tên, bắt sống 3 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Hai chiến thắng liên tiếp của Trung đoàn đánh địch trên khu vực trung tuyến có ý nghĩa rất lớn. Nó chứng minh những chủ trương, giải pháp của Đảng ủy, Chỉ huy Trung đoàn trước nhiệm vụ trên giao là hoàn toàn đúng đắn, nhất là việc chọn đúng phương án đánh địch, phát huy được hiệu quả cách đánh phân đội nhỏ. Chiến thắng này ghi nhận sự sáng tạo, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, ý chí quyết thắng vượt mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh, quyết tâm tiêu diệt địch của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn, góp phần vào xây dựng giá trị truyền thống của Trung đoàn “đã đi là đến, đã nổ súng là tiêu diệt được địch”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:44:12 am
Những chiến thắng giòn giã của Trung đoàn vừa là nguồn động viên, cổ vũ lực lượng cách mạng của bạn, vừa góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đẩy mạnh phong trào cách mạng, quyết tâm giành thắng lợi ba mục tiêu chiến lược(1), hoàn thành mục tiêu của kế hoạch phối hợp trong đợt hoạt động tổng hợp giữa Sư đoàn 339 và tỉnh Pursat. Sau những chiến thắng này, thực hiện chủ trương của Đảng ủy, tôi chỉ đạo cho các cơ quan, đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá chính xác những gì đã làm được, chưa làm được, tiếp tục phát huy, nhân rộng cách đánh, tạo hiệu quả chiến đấu cao hơn.

Từ kinh nghiệm đã thu được trong thực tiễn chiến đấu, phấn khởi, tin tưởng vào cách đánh đã xác định, cán bộ, chiến sĩ các tiểu đoàn trong Trung đoàn đều hăng hái sẵn sàng lên đường đánh địch. Đầu tháng 10 năm 1984, Tiểu đoàn 4 được Trung đoàn giao nhiệm vụ tiếp tục bám địch tại hành lang Vườn Thông để ngăn chặn địch tăng cường vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ biên giới vào tiếp tế cho lực lượng ở nội địa đang gặp khó khăn, Ban Chỉ huy Trung đoàn qua thảo luận nhất trí cho rằng: Địch nhiều khả năng chọn con đường Vườn Thông để đi vì con đường này gần với nội địa, ít hiểm trở, hơn nữa từ tháng 9 ta không hoạt động ở khu vực này. Đúng như dự đoán của Trung đoàn, địch đã chọn con đường này để hoạt động. Vượt qua khó khăn về địa hình, thời tiết của mùa mưa, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 đã tổ chức hai trận phục kích đánh địch diệt cả chục tên, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.

Cuối năm 1984, Trung đoàn thực hiện liên tiếp các hoạt động bám địch, đánh địch trong mùa mưa trên khu vực tuyến trung gian, đường 56. Do độ ẩm cao, bộ đội nhiều ngày đêm dầm mình trong mưa, sức khỏe giảm sút, nhiều đồng chí chân không đi được giày dép vì nước ăn chân, lở loét, rỉ máu, ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chiến đấu. Được lệnh của Sư đoàn, Trung đoàn tập trung về cứ để củng cố các mặt, nhất là chữa trị, ổn định sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ. Đi thăm từng lán trại, đến với từng chiến sĩ, băn khoăn, tâm tư lớn nhất của anh em chính là về vấn đề bảo vệ sức khỏe, nhanh chóng điều trị tìm phương án phòng ngừa bệnh sốt rét và bệnh loét chân. Nói chuyện với một chiến sĩ còn rất trẻ, nhìn xuống đôi bàn chân lở loét, sưng vù của anh, tôi hỏi: “Nỗi buồn nhất của đồng chí hiện nay là gì?”, đồng chí trả lời ngay: “Nếu bị bệnh mà không được cùng đơn vị đi chiến đấu thì buồn lắm Thủ trưởng ạ!”.

Quả thật, khó khăn, gian khổ đã không lay chuyển được ý chí chiến đấu của người chiến sĩ Quân đội ta. Với những chiến sĩ ấy, Quân đội ta có đủ sức mạnh đánh thắng bất kỳ kẻ thù nào, bất kỳ ở đâu, bảo vệ vững chắc độc lập, tự do cho Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Tâm tư, nguyện vọng chân thành và tấm lòng đầy nhiệt huyết của anh em, đồng chí, đồng đội đã cùng tôi trong những ngày qua không sợ hi sinh vất vả “vào sinh ra tử”, làm tôi rất cảm động. Về đến Ban Chỉ huy Trung đoàn, tôi tranh thủ trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Trung đoàn phó về chính trị. Ngay lập tức, một chủ trương kịp thời, kiên quyết được đưa ra của Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn: “Củng cố và nâng cao sức khỏe cho bộ đội”.

Hệ thống quân y của Trung đoàn được quân y Sư đoàn chi viện làm nòng cốt đã vào cuộc. Cùng với biện pháp chữa trị bằng thuốc tây, phổ biến chế độ ăn uống, ngủ nghỉ, nhiều bài thuốc nam được triển khai rất hiệu nghiệm, tận dụng những thang thuốc sẵn có trong điều kiện ở chiến trường như dùng trái cau và đọt cau rừng nấu lên để ngâm chân cho bộ đội... Sau một thời gian, sức khỏe của bộ đội được củng cố và nâng lên, đơn vị lại phấn khởi, khí thế quyết tâm cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.

Đầu tháng 11 năm 1984, tôi và đồng chí Nguyễn Văn Mười được Sư đoàn triệu tập về dự Hội nghị Đảng ủy, quán triệt nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu trong chiến dịch mùa khô 1984-1985, nhiệm vụ và chủ trương lãnh đạo của Đảng ủy Sư đoàn. Được dự hội nghị lãnh đạo của trên, nghe trên quán triệt về tình hình, nhiệm vụ với tầm nhìn toàn diện, sâu sắc, đầy đủ cả ta và địch, giúp tôi hiểu hơn sự suy yếu của địch, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng Campuchia, đồng thời đặt ra những thời cơ lớn có tính bước ngoặt trong tiến trình phát triển cách mạng Campuchia.

Với thắng lợi của chiến dịch mùa khô 1983 1984, thế và lực của địch bị sa sút nghiêm trọng một loạt các căn cứ lõm, khu sản xuất trên tuyến biên giới bị ta triệt phá; trong khi đó thế và lực của cách mạng Campuchia được nâng lên, có bước phát triển mới mạnh mẽ và vững chắc, mở ra những điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang của ta và của bạn đánh bại địch trên tuyến biên giới, tạo ra bước ngoặt mới cho cách mạng Campuchia.


(1) Ba mục tiêu chiến lược được Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta và Đảng bạn xác định trong năm 1983 là: Làm cho địch suy tàn, bạn vượt lên đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:44:52 am
Với thắng lợi của chiến dịch mùa khô 1983 1984, thế và lực của địch bị sa sút nghiêm trọng một loạt các căn cứ lõm, khu sản xuất trên tuyến biên giới bị ta triệt phá; trong khi đó thế và lực của cách mạng Campuchia được nâng lên, có bước phát triển mới mạnh mẽ và vững chắc, mở ra những điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang của ta và của bạn đánh bại địch trên tuyến biên giới, tạo ra bước ngoặt mới cho cách mạng Campuchia.

Chấp hành mệnh lệnh của Tiền phương Bộ, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu và Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 thống nhất với bạn mở chiến dịch mùa khô 1984-1985 trên toàn tuyến biên giới thuộc Quân khu đảm nhiệm. Nhiệm vụ, mục đích chủ yếu của chiến dịch này là; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng của ba phái phản động Campuchia, phá tan các căn cứ, kho tàng, đập tan cơ quan Trung ương Pôn Pốt và Quân khu Tây Nam Sêrâyca, làm thất bại âm mưu lập thế hai vùng, hai chính quyền của địch; đồng thời giúp lực lượng bạn vươn lên mạnh mẽ, đảm đường nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ (K5), làm chủ hoàn toàn biên giới và nội địa một cách vững chắc. Đây là chiến dịch lớn nhất từ sau ngày giải phóng Campuchia đến nay. Trong chiến dịch này, Quân khu xác định hướng tiến công chủ yếu là; đường 10 về đường 56, hướng thứ yếu là Cô Công. Quân khu giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 339 được tăng cường một trung đoàn của Sư đoàn 330, có pháo binh chi viện phối hợp với Sư đoàn bộ binh 4 của bạn tấn công địch trên,hướng chủ yếu đường 56 trên tuyến biên giới tỉnh Pursat.

Ngay sau Hội nghị Đảng ủy Sư đoàn, đầu tháng 11 năm 1984, tại Sở Chỉ huy Trung đoàn ở Vườn Me, đồng chí Nguyễn Văn Tấn - Sư đoàn trưởng chính thức giao nhiệm vụ cho Trung đoàn trong chiến dịch quan trọng này: “Cùng với các đơn vị bạn, có hỏa lực chi viện, tiến công địch trên hướng chủ yếu của Sư đoàn (hướng Pursat), đánh chiếm căn cứ Trung ương Pôn Pốt (Cácđamon)”.

Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi tranh thủ trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy nhanh chóng tổ chức họp Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn quán triệt nhiệm vụ trên, triển khai một số chủ trương, biện pháp lãnh đạo, triệu tập cuộc họp cán bộ chủ trì triển khai một số nội dung chủ yếu cho công tác chuẩn bị chiến đấu. Tại cuộc họp này, tôi yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần quán triệt tốt yêu cầu nhiệm vụ sắp tới của Trung đoàn, phân tích rõ thuận lợi, khó khăn và những yêu cầu của chiến dịch để mỗi cán bộ, chiến sĩ xây dựng ỷ chí quyết tâm cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tôi nhấn mạnh phải quán triệt sâu, kỹ cho cán bộ, chiến sĩ nắm chắc: Ta mở chiến dịch này trên một địa bàn rừng núi vùng biên giới, cỏ địa hình phức tạp, không gian dài, là sào huyệt đầu não của địch, nơi địch tổ chức căn cứ Trung ương (Cácđamon), có tổng khu hậu cần nên địch bố trí địa hình kín đáo, hiểm trở, có hệ thống hầm hào, vật cản kiên cố, lực lượng đông, hỏa lực mạnh, có các trận địa phòng ngự vững chắc, sát biên giới Thái Lan, được hậu thuẫn, chi viện của bọn phản động quốc tế; là căn cứ đầu não Trung ương nên chúng sẽ ngoan cố chống đối quyết liệt khi bị tấn công; vì vậy chiến dịch sẽ diễn ra vô cùng gay go, quyết liệt và phức tạp. Yêu cầu đặt ra cho lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong Trung đoàn là phải tiến hành tốt bước quán triệt nhiệm vụ, hạ quyết tâm và làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu.

Ngay sau hội nghị này, tôi tổ chức lực lượng trinh sát của Trung đoàn được tăng cường lực lượng trinh sát của Sư đoàn, có nhiệm vụ nắm chắc vị trí của Văn phòng 870 Trung ương Pôn Pốt, lực lượng và vị trí bố trí của Sở Chỉ huy Sư đoàn 111 và đường lộ xe từ biên giới qua Bảy Nhà nối liền đường 56. Toàn bộ lực lượng trinh sát của Trung đoàn và Sư đoàn tăng cường có 65 đồng chí, do đồng chí Hồ Khải Hoàn - Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy, chia làm ba bộ phận: lực lượng trinh sát Sở Chỉ huy Sư đoàn 111 và các cây cầu bắc qua sông Cơ Long nối liền đường 56 do trinh sát Sư đoàn đảm nhiệm; một bộ phận lớn lực lượng trinh sát dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hồ Khải Hoàn làm nhiệm vụ điều tra nghiên cứu Vãn phòng 870 Trung ương Pôn Pốt và đầu đường 66 giáp biên giới Thái Lan; số còn lại tổ chức bộ phận trung chuyển đứng ở điểm cao 1604.

Quá trình thực hiện nhiệm vụ cả ba lực lượng đều gặp khó khăn, vướng mìn, bị địch phát hiện đưa lực lượng tập kích ngăn chặn. Tuy vậy, với tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm, khôn khéo, các mũi trinh sát của ta tuy không luồn sâu vào bên trong, song cơ bản đã điều nghiên kỹ địa hình, lực lượng bố phòng, hệ thống trận địa phòng ngự của địch giúp cho Sư đoàn, Trung đoàn hạ quyết tâm tiến công tiêu diệt căn cứ Cácđamon.

Ngày 20 tháng 12 năm 1984, tại Sở Chỉ huy Sư đoàn, đồng chí Nguyễn Văn Tấn - Sư đoàn trưởng chính thức giao nhiệm vụ cụ thể cho Trung đoàn: Phối hợp với các Trung đoàn của Sư đoàn và Sư đoàn 330 của ta cùng với Sư đoàn 4 của bạn đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu đánh chiếm căn cứ Cácđamon. Thực hành tiến công được chia làm hai bước:

- Bước 1: Từ ngày 26 tháng 12 năm 1984, đánh chiếm điểm cao 1600, A3, A4, tạo bàn đạp cho bước 2 tiến công đánh chiếm căn cứ Cácđamon.

- Bước 2: Từ ngày 16 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2 năm 1985, phối hợp các Trung đoàn bạn tiến công căn cứ Cácđamon.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:45:44 am
Ngày 21 tháng 12 năm 1984, sau khi nhận nhiệm vụ, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng, ngoài các đồng chí đảng ủy viên, có sự tham dự của tất cả cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Sau khi quán triệt nhiệm vụ của Sư đoàn giao, Đảng ủy Trung đoàn thống nhất đề ra yêu cầu lãnh đạo phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trên giao.

Thực hiện quyết tâm của Đảng ủy, Trung đoàn trưởng tiến hành giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị;

- Tiểu đoàn 4 tăng cường cho Trung đoàn 14 đánh chiếm mục tiêu A3, sau đó phát triển xuống A4.

- Tiểu đoàn 5 đánh chiếm điểm cao 1500, phát triển xuống A3 bắt tay với Tiểu đoàn 4.

- Tiểu đoàn 6 làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn và Trung đoàn.

12 giờ ngày 26 tháng 12 năm 1984, sau khi hỏa lực chuẩn bị, tôi phát lệnh nổ súng tiến công bọn địch ở điểm cao 1500, bọn địch ở A3 bị ta tiến công bất ngờ, hoảng loạn, rối loạn, chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về hướng A4, ta diệt 18 tên, thu 8 súng, 12 tấn đạn, phá hủy một kho đạn 20 tấn.

Sau cú đánh bất ngờ, địch củng cố khu vực A4, dùng hỏa lực cối 100mm, 120mm, ĐKZ75, H12 bắn mạnh sang khu vực đã mất, chi viện mạnh cho bộ binh phản kích lực lượng tiến công của ta vào A4 làm cho Trung đoàn 14, Trung đoàn 10 tiến công điểm cao A4 và Đèo Gà gặp nhiều khó khăn, phát triển chiến đấu chậm.

Trước khó khăn trên, để nhanh chóng hoàn thành mục tiêu chiến đấu bước 1, đồng chí Nguyễn Văn Tấn - Sư đoàn trưởng lệnh cho tôi tổ chức cho Trung đoàn thực hiện mũi vu hồi bao vây điểm cao A4, cùng Trung đoàn 10, Trung đoàn 14 giải quyết gọn các mục tiêu còn lại. Chấp hành mệnh lệnh của Sư đoàn, tôi để lại một lực lượng củng cố khu vực A3, đề nghị Sư đoàn dùng hỏa lực kiềm chế hỏa lực địch ở Đèo Gà và khu vực A4; giao nhiệm vụ Tiểu đoàn 4 vận động tiến công địch từ hướng tây theo sườn bắc dãy Sa Mác Đen bắt tay với Trung đoàn 14 tại A4; sử dụng Tiểu đoàn 6 phát triển về hướng tây theo dãy Sa Mác Đen đánh chiếm Đèo Gà, bắt tay với Trung đoàn 10 từ hướng đông đánh chiếm A4; Tiểu đoàn 5 làm lực lượng dự bị.

14 giờ ngày 27 tháng 12 năm 1984, trước sức tiến công, bao vây của ta, địch liên tiếp dùng hỏa lực và bộ binh thực hành phản kích ngăn chặn các hướng tiến công của ta nhưng đều thất bại, chúng buộc bỏ chạy về Đèo Gà. Tiểu đoàn 4 đã bắt tay với Trung đoàn 14 làm chủ Đèo Gà lúc 15 giờ cùng ngày.

Ngày 28 tháng 12 năm 1984, Tiểu đoàn 6 tiếp tục vận động tiến công đánh chiếm Đèo Gà, lợi dụng lúc địch tập trung lực lượng đối phó với các hướng tiến công của Trung đoàn 10, chớp thời cơ, Tiểu đoàn đã bí mật cơ động áp sát mục tiêu bất ngờ nổ sủng. Bị đánh bất ngờ, địch tháo chạy, Tiểu đoàn bắt tay được Trung đoàn 10 làm chủ trận địa, diệt 25 tên, thu 21 súng và nhiều quân trang, quân dụng.

Đầu tháng 1 năm 1985, cùng với các đơn vị bạn đang tập trung củng cố, bảo vệ các khu vực đã chiếm làm bàn đạp cho sư đoàn và các đơn vị bạn tiếp tục tiến công căn cứ Cácđamon theo kế hoạch. Đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Tấn lại giao nhiệm vụ mới cho Trung đoàn: Để lại một lực lượng làm dự bị cho Sư đoàn, còn lại nhanh chóng cơ động lực lượng về phía bắc Năm Nhà, hiệp đồng chiến đấu với Sư đoàn 4 của bạn đánh chiếm căn cứ Trung đoàn 11 thuộc Sư đoàn 111 địch đang gây nhiều khó khăn cho Sư đoàn 4 bạn không phát triển chiến đấu được.

Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của trên, tôi giao nhiệm vụ Tiểu đoàn 6 cùng Đại đội Trinh sát ở lại làm nhiệm vụ dự bị cho Sư đoàn và Trung đoàn, sẵn sàng đánh địch phản kích ở khu vực Đèo Gà; còn lại lực lượng Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 nhanh chóng hành quân đến điểm cao 837 bắc Năm Nhà. Tại đây, tôi được nghe đồng chí Nguyễn Hoàng Danh - Chuyên gia, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 4 của bạn thông báo tình hình địch ở khu vực bắc Năm Nhà. Tại vị trí tạm dừng, sau khi thông báo tình hình địch, khó khăn của bạn, được sự nhất trí của Ban Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn về kế hoạch chiến đấu, tôi tiến hành giao nhiệm vụ cho các đơn vị về yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan đơn vị làm tốt công tác động viên chính trị, tinh thần cho bộ đội. Sau nhiều ngày chiến đấu liên tục đơn vị chưa có dịp nghỉ ngơi, lại tiếp tục cơ động chiến đấu, sức khỏe suy giảm, nay bắt tay vào nhiệm vụ chiến đấu mới phải khắc phục nhiều khó khăn, chịu đựng gian khổ, vì vậy phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội, động viên anh em tích cực chiến đấu giúp bạn vì giúp Trung đoàn 3 bạn chính là giúp mình (vì Trung đoàn 3 bạn do cán bộ Trung đoàn 9 đang làm chuyên gia). Hơn nữa, chi viện cho bạn, dìu dắt bạn để bạn nhanh chóng trưởng thành trong chiến đấu, sớm đảm đương được nhiệm vụ là mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của Quân tỉnh nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa cao đẹp ấy, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn tiếp tục xác định tốt nhiệm vụ, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu được giao.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:46:07 am
15 giờ ngày 9 tháng 1 năm 1985, các tiểu đoàn của Trung đoàn vào vị trí triển khai vận động tiến công địch. Trên hướng Tiểu đoàn 5, khi phát hiện có một tốp địch khoảng 30 tên, Tiểu đoàn nổ súng tiến công chính diện và tổ chức một đại đội đánh vu hồi vào bên sườn phía sau lưng địch. Bị tấn công dồn dập từ nhiều hướng, toán địch hoảng loạn bỏ chạy, ta làm chủ trận địa, diệt 7 tên. Phát hiện lực lượng ta tiến công, bọn địch trong căn cứ Trung đoàn 11 và các căn cứ xung quanh cho lực lượng phân tán để tránh bị tiêu diệt. Đến ngày 10 tháng 1 năm 1985, ta làm chủ căn cứ bắc Năm Nhà, bắt tay với Trung đoàn 13 của bạn.

Với tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, phát huy truyền thống tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh cấp trên, “đã đi là đến, đã nổ súng là tiêu diệt địch”, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9 đã đoàn kết vượt qua muôn vàn gian khổ, hi sinh, góp phần vào những chiến công vẻ vang, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ chiến đấu bước 1, tạo thuận lợi cho Sư đoàn, Trung đoàn triển khai bước 2 của chiến dịch quan trọng có ý nghĩa to lớn này.

Trong hội nghị lãnh đạo, chỉ huy chủ trì các cơ quan, đơn vị rút kinh nghiệm trong chiến đấu bước 1, tiếp tục quán triệt nhiệm vụ chiến đấu bước 2, tôi nhấn mạnh ba nguyên nhân và cũng là ba bài học kinh nghiệm góp phần làm nên những chiến thắng của Trung đoàn trong thời gian qua:

- Một là, cùng với Đảng ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị dà làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội, luôn nêu cao ý thức chính trị “giúp bạn là tự giúp mình”, luôn nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, vượt lên trên khó khăn, gian khổ, chấp nhận hi sinh; tinh thần ấy đã góp phần quyết định vào chiến thắng của Trung đoàn.

- Hai là, trong từng nhiệm vụ chiến đấu, mỗi trận đánh, Đảng ủy, Chỉ huy Trung đoàn xác định cách đánh đúng, phát huy sức mạnh của đơn vị, hạn chế khả năng của địch, khắc phục địa hình, địa vật.

- Ba là, chăm lo sức khỏe bộ đội để chiến đấu giúp bạn lâu dài, bảo đảm sức mạnh chiến đấu của đơn vị.

Từ những gợi mở này, lãnh đạo chỉ huy các cơ quan, đơn vị tiếp tục suy nghĩ, tổng kết rút kinh nghiệm ở đơn vị mình, nghiên cứu, vận dụng cho những đợt hoạt động sắp tới.

Thực hiện kế hoạch bước 2 đánh chiếm căn cứ Cácđamon, Bộ Tư lệnh Mặt trận điều Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 của Sư đoàn bộ binh 330 từ Tức Sóc hành quân về Năm Nhà phối thuộc với Sư đoàn 339 tiêu diệt căn cứ Trung ương Pôn Pốt. Giữa tháng 1 năm 1985, Trung đoàn nhận lệnh của Sư đoàn để lại một bộ phận giữ cứ, còn lại nhanh chóng tổ chức hành quân đánh chiếm điểm cao 501, bắt tay với Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 của Sư đoàn bộ binh 330.

Nhận nhiệm vụ trên giao trong điều kiện Trung đoàn đang bung lực lượng ra lùng sục tìm kho tàng xung quanh căn cứ địch; thời gian thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao 501 gấp, không có thời gian làm công tác chuẩn bị; tôi nhanh chóng trao đổi ý định chiến đấu với đồng chí Nguyễn Văn Mười - Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị và tổ chức quán triệt giao nhiệm vụ cho các đơn vị.

Sau khi triển khai xong đội hình xuất phát tiến công, tôi lên điểm cao 1047 quan sát thấy dưới chân đều là nhà, các điểm tựa, cụm điểm tựa phòng ngự của địch cùng với hệ thống hỏa lực dày đặc được bố trí trên điểm cao có lợi, nhiều tầng, nhiều lớp, có thể chi viện vòng trong, vòng ngoài của căn cứ. Theo kế hoạch hiệp đồng chiến đấu, tôi lệnh cho Tiểu đoàn 5 nổ súng mở màn trận đánh. Địch dùng hỏa lực mạnh kết hợp với bộ binh phản kích quyết liệt, làm cho Tiểu đoàn 5 phải dạt lên hướng tây bắc của điểm cao 501. Trên hướng Tiểu đoàn 7 - Trung đoàn 2 - Sư đoàn 330, địch cũng phản kích mạnh, Tiểu đoàn bị thương vong nhiều, không chiếm được mục tiêu, buộc phải lùi về vị trí xuất phát tiến công củng cố lại lực lượng. Trước tình hình trên, tôi lệnh cho anh Mai Văn Lập - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 cho bộ đội xuất phát tiếp tục tiến công địch. Anh Lập chỉ huy bộ đội vận động lên gần đồi, địch tập trung hỏa lực bắn quyết liệt. Đồi xanh là thế, sau ba ngày đêm, hỏa lực địch đã cày xới xung quanh đồi xơ xác, cây cối ngả nghiêng, bị thiêu trụi, lớp này đè lên đến lớp khác. Tôi và một số anh em tháng sau lỗ tai còn ù đặc.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:46:28 am
Tiểu đoàn 4 không thể tiếp cận được mục tiêu, bị thương và hi sinh gần chục đồng chí. Tôi mở máy liên lạc với đồng chí Đặng Trọng Lư (Dương Tử) - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Mặt trận 979 để báo cáo tình hình, song không thể nào liên lạc được. Sau này, trong hội nghị tổng kết chiến dịch mùa khô 1984-1985 của Mặt trận, chú kể lại: Khi Mặt trận mất liên lạc với Trung đoàn 9, mình có nói với mọi người trong Sở Chỉ huy rằng: “Trong chiến đấu, thằng Ba Hổ không bao giờ tắt máy, nay không liên lạc được với nó, nó đi rồi”. Khi kết thúc trận đánh, tôi tiếp tục mở máy liên lạc được với chú. Với tính cách bộc trực, thẳng thắn, hay la rầy cấp dưới khi có khuyết điểm, nhưng sau đó lại rất xuề xòa, gần gũi với cấp dưới, nên mọi người hiểu và rất thương, quý chú. Song, riêng chuyện này của tôi, chú không la mắng gì mà reo lên: “Ba Hổ đây rồi, khôn đấy con ạ, lúc đó mà mở máy thì con đi rồi”.

Do địa hình mới lạ, công tác chuẩn bị chiến đấu lại quá gấp gáp nên ta tổ chức chiến đấu chưa chặt chẽ, nhất là khâu nắm địch trong khi địch tập trung hỏa lực mạnh với cối 100mm, 120mm. Quá trình phát triển chiến đấu của cả Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 gặp nhiều khó khăn, không đánh chiếm được điểm cao 501. 9 giờ ngày 18 tháng 1 năm 1985, Trung đoàn đã bắt tay được với Trung đoàn 1, Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn bộ binh 330, song lực lượng của Trung đoàn bị tổn thất lớn, số hi sinh, bị thương tổng cộng là 30 đồng chí. Theo kế hoạch, Trung đoàn hành quân về Năm Nhà để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu mới, bước vào bước 2 của chiến dịch.

Tại khu vực Năm Nhà, Trung đoàn tổ chức họp rút kinh nghiệm trận chiến đấu vừa qua: Hiệu quả chiến đấu thấp, bộ đội thương vong nhiều, nguyên nhân chủ yếu được tổng kết là do: “Sử dụng lực lượng phân tán, hệ thống lãnh đạo, chỉ huy chưa chặt chẽ (Trung đoàn có lúc mất liên lạc với mặt trận, Tiểu đoàn 4 mất liên lạc với Trung đoàn...)”. Đối với tôi, đây thực sự là bài học thực tiễn hết sức sâu sắc trong điều kiện tổ chức chỉ huy bộ đội không có thời gian làm công tác chuẩn bị. Bất kỳ nhiệm vụ chiến đấu nào, có thời gian hay không có thời gian đều phải làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu, có thời gian thì tiến hành bài bản, tuần tự các bước; không có thời gian thì phải tổ chức triển khai tốt các nội dung cơ bản, tăng cường các biện pháp tham mưu song song để hoàn thành tốt nhất công tác chuẩn bị chiến đấu, vì vai trò của công tác chuẩn bị có khi quyết định đến 50% thắng lợi của trận đánh. Đối với tôi, nó là một trong yếu tố quyết định đến thắng lợi của một trận chiến đấu.

Ngày 6 tháng 2 năm 1985, tại Sở Chỉ huy của Trung đoàn ở phía tây dãy Sa Mác Đen, đồng chí Nguyễn Văn Tấn - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 339 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn: “Tổ chức thọc sâu vào nam đường 56, vượt qua sông Cơ Long, luồn sâu sát biên giới Thái Lan bịt lấp đầu đường 56 thông với căn cứ Cácđamon, không cho địch tháo chạy”.

Nhận nhiệm vụ được giao, tôi tranh thủ trao đổi với đồng chí Nguyễn Văn Mười - Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị những thuận lợi, khó khăn của Trung đoàn trong trận chiến đấu này, xác định một số việc làm ngay, trong đó tổ chức một lực lượng đi trinh sát nắm địch, dự kiến đường cơ động, bến vượt sông Cơ Long. Trong hội nghị Đảng ủy thông qua quyết tâm chiến đấu của Trung đoàn, tôi phát biểu nhấn mạnh vai trò ý nghĩa và vinh dự của Trung đoàn được trên tin tưởng giao tiến công đánh chiếm cơ quan đầu não Trung ương của Pôn Pốt. Khó khăn muôn vàn, vì vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ vẻ vang này, yêu cầu từng cấp ủy, các ban chỉ huy tiểu đoàn, đại đội, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đầu tàu đi trước, kiên quyết lãnh đạo, chỉ huy đơn vị giành thắng lợi cho trận đánh lịch sử này.

Sau khi được Sư đoàn phê duyệt quyết tâm chiến đấu, tôi tiến hành giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị. Tôi yêu cầu: Đây là trận đánh vào cơ quan đầu não của địch nên có nhiều khó khăn trong đột phá đánh chiếm các mục tiêu; có nhiều đơn vị tham gia nên phải làm tốt và kiên quyết thực hiện kế hoạch hiệp đồng chiến đấu. Đặc biệt, từ nơi làm công tác chuẩn bị chiến đấu (trú quân) đến trận địa xuất phát tiến công cự ly khá xa, lại phải vượt sông Cơ Long, nếu bị lộ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức vượt sông, vì vậy phải bảo đảm tuyệt đối bí mật trong hành quân, tổ chức vượt sông phải khẩn trương, chặt chẽ, có nhiều phương án.

Đúng như dự báo của Trung đoàn, sau khi không kể ngày đêm hành quân vất vả, Trung đoàn đến sông Cơ Long tổ chức hai bến vượt sông, bị địch phát hiện, chúng dùng hỏa lực bắn quyết liệt vào khu vực hai bến vượt. Lúc này, Trung đoàn đã có 1/3 lực lượng vượt qua được sông, 2/3 lực lượng đang làm công tác chuẩn bị. Trước tình thế khó khăn này, tôi lệnh cho lực lượng đã vượt sông nhanh chóng cơ động vào vị trí triển khai chiến đấu, lực lượng còn lại chuyển sang thực hiện phương án 2 (bí mật tổ chức vượt sông ở bến dự bị). Toàn Trung đoàn đã vượt sông an toàn trong sự đánh phá, ngăn cản quyết liệt bằng hỏa lực của địch, nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:46:45 am
Ngày 9 tháng 2 năm 1985, sau những loạt pháo lệnh của chiến dịch (hỏa lực chuẩn bị), toàn Trung đoàn đồng loạt nổ súng tiến công đánh chiếm các mục tiêu được phân công. Đúng theo kế hoạch hiệp đồng chiến đấu, Trung đoàn đã phối hợp tốt với Trung đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 330 đánh chiếm cầu Vạn Thắng. Sau một ngày chiến đấu càng thẳng, quyết liệt, địch liên tiếp dùng hỏa lực mạnh và nhiều lần cho bộ binh thực hành phản kích nhằm ngăn chặn, đẩy ta ra xa, bẻ gãy các đợt xung phong đánh chiếm mục tiêu của ta, ta và địch giành nhau từng mét đất. Song, trước tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm của bộ đội ta, địch một phần bị tiêu diệt, số còn lại bỏ chạy. Trưa 10 tháng 2, ta đã chiếm được cầu Vạn Thắng, mở toang cửa cho Sư đoàn 339 và 330 nhanh chóng phát triển chiến đấu vào bên trong, xóa sổ căn cứ trung tâm chỉ huy của địch.

Theo lệnh của Sư đoàn, tôi chỉ huy Trung đoàn cùng với các lực lượng khác nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu được phân công trong Cácđamon. Trước sức tiến công mạnh mẽ từ các mũi, các hướng của ta, bọn địch trong căn cứ này không chịu đựng nổi, số thì bị diệt, số tháo chạy; rất tiếc lực lượng ta được giao nhiệm vụ chốt giữ bịt chặt đường tháo chạy của địch đã chốt không chắc, bịt không chặt, để một phần sinh lực địch chạy thoát sang đất Thái Lan. Kết quả là ta và bạn đã làm chủ căn cứ Cácđamon do Sư đoàn 111 địch và Trung ương Pôn Pốt chiếm giữ, diệt 550 tên, thu 2.304 súng các loại, 476 tấn đạn, 66 tấn lương thực, phá 16 kho chứa lương thực và vũ khí của địch.

Đóng góp vào chiến công chung ấy, trong trận này cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9 đã diệt 63 tên, thu 121 súng, 3 xe vận tải, được Bộ Tư lệnh Mặt trận biểu dương là một trong các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu. Viết đến đây, tôi lại nhớ bài thơ nối tiếng về Tà Sanh của nhà thơ Vương Trọng khi ông mô tả chính xác về những trận chiến đấu này:

“Trận đánh kéo dài những ngày nắng lửa
Những điểm cao không tên
Những điểm cao xác định bằng tọa độ
Những điểm cao xác định bằng máu đổ
Lửa ta thiêu trụi cứ Son San
Tan tành mật khu Pôn Pốt
Cửa thông sang Thái Lan bịt chặt
Những trung đoàn chiến thắng gặp nhau”.


Cảm ơn anh! Cảm ơn nhà thơ Vương Trọng đã nói hộ tôi về tính chất ác liệt của những trận chiến đấu này. Để làm nên chiến thắng to lớn ấy, nhiều đồng chí, đồng đội tôi đã phải nằm xuống trong mỗi khu rừng, bờ suối, ven sông, nương rẫy trên đất bạn xa xôi, ngày toàn thắng vắng mặt các anh trong đoàn quân chiến thắng trở về.

Trong trận này, ngay giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, tôi thấy người ngai ngái, khó chịu, biểu hiện cơn sốt rét sắp đến, tôi uống thuốc chặn lại và lao vào công việc. Tuy vậy, giữa lúc đang chỉ huy bộ đội chiến đấu đánh những trận lớn, liên tiếp các cơn sốt rét kéo đến hành hạ tôi, có lúc tôi đã bị đái huyết cầu tố. Ai đã từng sống, chiến đấu trên đất bạn Campuchia, nhất là đã từng chiến đấu vùng rừng núi Tà Sanh, Tức Sóc, một vùng nổi tiếng rừng thiêng nước độc, mới cảm nhân hết được những vần thơ hay của nhà thơ Vương Trọng khi ông mô tả về độ khắc nghiệt, nguy hại của mảnh đất này:

“Tà Sanh một vùng bí hiểm
Bát Đom Boong rùng mình khi nghĩ đến
Chướng khí bay lên đen kịt mây trời”.


“Sốt Tà Sanh không ai tránh nổi đâu
Người Pailin đi dân công hỏa tuyến
Vài tuần thôi về sốt trọc đầu
Bác sĩ chuyên khoa vi trùng sốt rét
Lên dăm ngày, cấp cứu về sau...

... Con voi trụi lông quay đầu đi hướng khác”.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:47:26 am
Điều kiện thời tiết, khí hậu của một địa bàn độc hại, bí hiểm như vậy, cùng với điều kiện khó khăn, thiếu thốn ở chiến trường, khó có cán bộ, chiến sĩ nào không bị sốt rét. Qua tổng kết 10 năm chiến đấu giúp bạn của Quân khu, sốt rét rừng là một trong nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hi sinh, mất mát, tổn thất lực lượng của ta trên chiến trường đất bạn. Sốt rét rừng ở Tà Sanh nói riêng, ở các khu rừng độc hại khác của núi rừng Campuchia nói chung không lay chuyển được ý chí chiến đấu và tinh thần giúp bạn của người lính Quân tình nguyện Việt Nam, đứng như nhà thơ Vương Trọng khẳng dinh:

“Nhưng bạn tôi ở lại chẳng đi đâu
Ra viện lại xin vào giữ chốt
Tự nguyện che lá chắn tuyến đầu”.


Thấy tôi bị bệnh, các anh trong Ban Chỉ huy Trung đoàn động viên tôi bàn giao công việc, về tuyên sau chữa trị, giữ gìn sức khỏe. Tôi nghĩ, đơn vị đang đảm nhiệm nhiệm vụ chiến đấu trên hướng tấn công chủ yếu của chiến dịch, là người chỉ huy, tôi cùng với các cơ quan xây dựng kế hoạch và trực tiếp điều hành tổ chức chỉ huy tác chiến đánh địch ngay từ lúc mở màn, nay về tuyến sau đơn vị sẽ gặp nhiều khó khăn; ở thời điểm quyết liệt này thêm một khó khăn là mất một thời cơ, khả năng tiêu diệt địch; hơn nữa trong lúc khó khăn quyết liệt nhất, người chỉ huy về phía sau trị bệnh, còn anh em, đồng chí tiếp tục phải vào sinh ra tử, tôi không đành lòng, bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn chắc chắn sẽ bị tác động đến tư tưởng. Nghĩ vậy, dù Sư đoàn, các anh trong Ban Chỉ huy Trung đoàn yêu cầu tôi phải về tuyến sau, song tôi kiên quyết ở lại, lệnh cho đơn vị vận tải làm cáng đưa tôi đi đến các vị trí chỉ huy của Trung đoàn theo dõi tiến độ tiến công, vừa truyền dịch, vừa nghe tác chiến báo cáo tình hình, vừa sử dụng máy thông tin PRC-25 chỉ huy đơn vị đánh chiếm các điểm cao 954, 1167, 1500, 1004, làm chủ khu vực A3, A4, Đèo Gà, cầu Vạn Thắng và căn cứ Cácđamon.

Trung đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trên giao, tôi nhận thấy mình cũng đã hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy của bản thân. Chiến dịch vừa kết thúc, đồng chí Lê Khả Phiêu - Chủ nhiệm Chính trị của Mặt trận 719 đã đến ngay Trung đoàn động viên cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu. Khi nói về nguyên nhân thắng lợi, đồng chí khẳng định: “Do phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ nêu cao ý chí chiến đấu kiên cường, quả cảm, không sợ hi sinh; một trong những tấm gương đó là đồng chí Trung đoàn trưởng, dù bị sốt rét quyết không rời trận địa. Trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt này, không phải không có cán bộ tìm mọi cách ốm đau để về phía sau, còn đồng chí Trung đoàn trưởng vẫn kiên cường bám trận địa, chỉ huy chiến đấu giành thắng lợi; không có cán bộ, đảng viên như thế, không có chiến thắng vẻ vang này...”.

Lời động viên của đồng chí Lê Khả Phiêu đối với đơn vị và cá nhân tôi là nguồn động viên cổ vũ kịp thời, to lớn, giúp chúng tôi vững vàng hơn trong nhiệm vụ chiến đấu giúp bạn. Còn gì sung sướng, hạnh phúc, tự hào hơn, giữa chiến trường nóng bỏng còn hơi mùi thuốc súng, giữa núi cao, rừng sâu thăm thẳm của một vùng khí hậu độc hại sát biên giới Campuchia - Thái Lan, lại được một trong những người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của Mặt trận 719 kịp thời có mặt, động viên, cổ vũ Trung đoàn; điều đó có sức mạnh tinh thần to lớn lắm! Lời động viên, cố vũ này không chỉ đã phát huy vai trò công tác đảng, công tác chính trị mà cao hơn chính là lời động viên cổ vũ của Đảng, Quân đội, của hậu phương lớn cả nước đối với Quân tình nguyện Việt Nam đang chiến đấu giúp bạn ở Campuchia. Ghi lòng, tạc dạ những lời động viên căn dặn của đồng chí Lê Khả Phiêu, tôi thay mặt anh em trong đơn vị xin hứa với đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận 719: “Quyết tâm lập nhiều chiến công xuất sắc hơn nữa, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân”.

Chiến thắng Cácđamon kết thức thắng lợi chiến dịch mùa khô 1984-1985 của lực lượng vũ trang Quân khu 9 trên chiến trường Campuchia giúp bạn. Thắng lợi to lớn này có ý nghĩa quyết định đập tan mưu đồ phản công giành thế chủ động trên chiến trường của địch, tạo ra những thời cơ, điều kiện thuận lợi cho bạn vươn lên làm chủ phum, sóc, địa bàn nông thôn chiến lược, bảo đảm cho cách mạng Campuchia có bước phát triển toàn diện, đủ khả năng tự đảm đương toàn bộ sự nghiệp cách mạng vẻ vang của mình, từng bước thay thế để Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút quân về nước.

Sau chiến dịch Cácđamon, tôi tiếp tục chỉ huy Trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch K5 (công trình rào chắn biên giới), truy quét tàn quân địch, tham gia huấn luyện, xây dựng lực lượng vũ trang cho bạn, góp phần giúp bạn đứng vững vả làm chủ biên giới.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:47:59 am
Đánh giá cao thành tích của Trung đoàn, trong Hội nghị tổng kết chiến dịch 1984-1985, đồng chí Lê Đức Anh - Đại tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia tặng cho Trung đoàn bộ binh 9 danh hiệu “Trung đoàn sơn cước” và tặng tôi danh hiệu “Con cọp xám rừng Ca La Van”. Nhận danh hiệu này, tôi nghĩ, đây là sự đánh giá, ghi nhận của đồng chí nguyên là người chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia dành cho tôi trước hết thuộc về cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn bộ binh 9, một trung đoàn đã ba lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng: lần thứ nhất (năm 1983), lần thứ hai (năm 1989), lần thứ ba (năm 2007); tập thể anh hùng ấy đã nói lên tất cả.

Tháng 9 năm 1985, cấp trên quyết định để tôi bàn giao chức Trung đoàn trưởng cho đồng chí Hồ Khải Hoàn - Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, để về Trường Văn hóa Quân khu 9 ở Đồng Tâm học văn hóa. Cũng tại thời điểm này, Ban Chỉ huy Trung đoàn 9 có nhiều thay đổi: anh Nguyễn Văn Mười - Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng về chính trị Bệnh viện 120, anh Đặng Văn Năm thay anh Mười làm Bí thư Đảng ủy, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị; anh Nguyễn Thành Tho thay anh Hoàn làm Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng; trên bổ nhiệm anh Mai Văn Lập, Lê Văn Bi làm Phó Trung đoàn trưởng.

Tạm rời xa Trung đoàn, giữa lúc đơn vị đang bước vào giai đoạn cuối của nhiệm vụ 10 năm giúp bạn ở Campuchia, có nhiều điều mới mẻ, khó khăn, phức tạp. Nhận quyết định đi học, trong tôi trào lên niềm cảm xúc vui buồn, vui vì được trên quan tâm cho đi học, buồn vì phải xa đơn vị, xa đồng chí, đồng đội. Tôi biết cuộc chiến đấu này rồi sẽ kết thúc, chúng tôi - những người lính chiến đấu giúp bạn ở Campuchia trở về trước yêu cầu xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ phải “đại học hóa”. Được đi học là một vinh dự lớn, là sự quan tâm của trên, là bước chuẩn bị tiếp theo trên giành cho tôi trên con đường phấn đấu sau này. Tuy vậy, phải xa Trung đoàn, xa đơn vị đã gắn bó với tôi suốt bảy năm trời từ ngày đầu thành lập (1978-1985), nơi tôi trưởng thành từ cán bộ đại đội, phát triển đảm nhiệm Chỉ huy trưởng Trung đoàn, đảm nhiệm các nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, đến những năm tháng gian lao, vất vả, đầy gian khổ, hi sinh, chiến đấu làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia. Trung đoàn đã phát triển, trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, nhất là thành tích và kinh nghiệm chiến đấu, được trên khen tặng là “Trung đoàn sơn cước”, Trung đoàn có truyền thống chấp hành nghiêm mệnh lệnh, một trung đoàn “có lệnh là đi, đã đi là đến, đã nổ súng là tiêu diệt được địch”, mang chiến thắng trở về... Là người chỉ huy trưởng đơn vị, cũng như các anh trong Ban Chỉ huy Trung đoàn, tôi rất tự hào, hạnh phúc trước sự phát triển và truyền thống chiến đấu của Trung đoàn. Tuy vậy, hơn ai hết, tôi rất hiểu Trung đoàn 9 lúc này mạnh - yếu những gì, nhiệm vụ giúp bạn trong thời gian tôi còn rất nhiều khó khăn, vất vả, gian khổ, hi sinh; những thử thách, khó khăn ở phía trước đang chờ đón cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn.

Xa Trung đoàn, tôi thực sự buồn vì không còn được kề vai sát cánh, đoàn kết, chung sức chung lòng với cán bộ, chiến sĩ, những người anh em đồng chí đã cùng tôi chiến đấu vào sinh ra tử trong gần chục năm qua với hàng trăm trận đánh vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình theo chủ trương của Đảng, cứu giúp dân tộc Campuchia ra khỏi họa diệt chủng theo truyền thống văn hóa, nhân văn của dân tộc Việt Nam, ra sức cứu giúp bạn khi bạn lâm nguy, gặp cơn hoạn nạn, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”. Trung đoàn 9 chính là nơi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn trong tôi. Vui vì Trung đoàn trong chiến đấu lập nhiều chiến công, cán bộ, chiến sĩ trưởng thành, tiến bộ; buồn vì những đồng chí, đồng đội thân yêu đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Có những đồng chí đã được trở về quê hương, đất mẹ, được đoàn tụ với gia đình, vợ con; còn có những đồng chí tận đến hôm nay vẫn còn nằm đó trong những khu rừng, bờ suối, ruộng đồng, nương rẫy trên đất bạn mà ta và bạn đang tích cực tìm kiếm, cất bốc đưa về Tổ quốc. Cảm ơn những người mẹ Việt Nam anh hùng đã sinh ra những người con trung hiếu, chiến đấu kiên cường, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho quê hương, đất nước, sống rất nhân hậu, nghĩa tình, hiếu thảo với gia đình và nhân dân, coi nhân dân bạn cũng như nhân dân mình.

Khi phải xa Ban Chỉ huy Trung đoàn, nơi tôi rất hạnh phúc được sống, công tác với những người anh em đồng chí hết sức thân tình như các anh Nguyễn Văn Mười, Hồ Khải Hoàn, Mai Văn Lập... Đây thực sự là một tập thể lãnh đạo, chỉ huy đoàn kết, trách nhiệm cao với đơn vị, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, gian khổ, luôn hướng về phía trước. Trong cuộc sống đời thường, tập thể Ban Chỉ huy ấy sống có nghĩa tình, tôn trọng nhau, choàng gánh cho nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Một tập thể mạnh mẽ, nghĩa tình như vậy mà phải tạm xa, lòng tôi không buồn sao được.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:48:31 am
Tháng 10 năm 1985, tôi có mặt ở Trường Văn hóa Quân khu ở Đồng Tâm làm thủ tục nhập học. Học văn hóa đối với tôi thật là khó khăn, vất vả, bởi lẽ kiến thức cơ bản thiếu tính hệ thống, chắp vá những kiến thức có được khi học ở lớp học thời chiến tranh vùng giáp ranh giữa ta và địch, trong căn cứ địa U Minh đã rơi rụng đi nhiều. Được sự giúp đỡ, động viên của anh em trong lớp học, nhất là tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, tính kiên trì, phương pháp giảng giải đậm chất sư phạm đối với những đối tượng như tôi của các thầy cô làm tôi tự tin và quyết tâm phấn đấu “học cho được”. Tôi nghĩ, anh em học được, sao mình không học được! Đánh giặc được, học cũng phải được! Bằng sự cố gắng ngày đêm cùng với sự giúp đỡ của thầy cô, đồng chí, đồng đội, sau hơn một năm chịu khó “dùi mài kinh sử”, tôi đã hoàn thành xong chương trình phổ thông trung học. Đây là nền tảng văn hóa cơ bản nhất giúp tôi có điều kiện tổng kết và tiếp thu các tri thức chính trị, văn hóa, xã hội và quân sự sau này.

Rời mái trường văn hóa ở Đồng Tâm, tôi lại được trên tiếp tục cho đi học, làm học viên Trường H16, nơi bổ túc cán bộ cấp chiến thuật, chiến dịch của Quân khu 9. Hơn một năm học tập, tôi đã có nhiều kiến thức mới về chính trị, quân sự, đã hiểu sâu sắc hơn đặc điểm tình hình, địa hình, thời tiết, hình thái ta và địch trong các chiến lược và sự vận dụng sáng tạo trong xây dựng và phát triển cách đánh của Đảng ủy, Bộ Tự lệnh Quân khu 9, lãnh đạo chỉ huy các đơn vị trong cá cuộc kháng chiến chống xâm lược, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia.

Tháng 5 năm 1988, kết thúc khóa học quan trọng này, tôi nhận được quyết định bổ nhiệm làm Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 339. Tôi về đến Sư đoàn thì được biết Ban Chỉ huy Sư đoàn có sự thay đổi lớn. Đồng chí Nguyễn Minh Châu được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng thay đồng chí Nguyễn Văn Tấn, đồng chí Bùi Văn Minh làm Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng.

Trở về Sư đoàn đang vào giai đoạn đánh địch cuối mùa khô và đã giành nhiều thắng lợi rất quan trọng. Những chiến thắng liên tiếp của Sư đoàn và các đơn vị bạn đã làm thất bại ý đồ phản công của địch, tiêu diệt địch trên toàn khu vực trung tuyến và biên giới, bóc dỡ nhiều cơ sở mật trong nội địa, làm cho địch đã suy yếu càng suy yếu thêm, tạo điều kiện cho bạn vươn lên đảm nhiệm các nhiệm vụ xây dựng và quản lý đất nước một cách vững chắc.

Gặp anh Nguyễn Minh Châu - Sư đoàn trưởng ở Ban Chỉ huy Sư đoàn, với tác phong lãnh đạo, chỉ huy cởi mở, chân thành, gần gũi, anh ân cần trao đổi, thông báo với tôi tình hình chung về ta và địch, tình hình nhiệm vụ của Sư đoàn, nhất là kết quả và nhiệm vụ chiến đấu mà Sư đoàn đang đảm nhiệm. Anh nói với tôi, trước mắt tập trung nắm tình hình Sư đoàn, vì tôi xa Sư đoàn đã mấy năm, tình hình Sư đoàn có nhiều thay đổi, nhất là về đội ngũ cán bộ. Anh yêu cầu tôi cần đi sâu nắm tình hình các trung đoàn đang chiến đấu ở phía trước, sau đó Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn sẽ giao nhiệm vụ cụ thể sau. Sau khi nắm toàn bộ tình hình của Sư đoàn, tôi đi sâu theo dõi kết quả chiến đấu và phối hợp với bạn xây dựng cơ sở, thực lực chính trị của các Trung đoàn trên các địa bàn như Trung đoàn 9 đang hoạt động độc lập ở huyện 14 và huyện 19 - Côngpông Chnăng, Trung đoàn 8 đang đánh địch ở Pursat, Trung đoàn 10 và Trung đoàn 14 đang hỗ trợ đắc lực cho Sư đoàn 196 bạn đánh địch ở Pailin và nội địa.

Để xiết chặt biên giới, khóa chặt địch, Trung đoàn đã tổ chức các chốt: Năm Nhà, Hai Mươi Nhà, khu vực sông Mê Tức, Bảy Nhà. Nhận rõ vai trò, vị trí quan trọng của các chốt này, địch tập kích liên tục, Trung đoàn 14 gặp rất nhiều khó khăn, mất chốt liên tục. Để tăng cường sức chiến đấu cho Trung đoàn 14, trên quyết định bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Phương Nam về làm Trung đoàn trưởng. Trước đó tôi đề xuất với Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn đề nghị lên trên bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Phương Nam từ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 lên làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 14, khi đồng chí Lê Đức Anh đến làm việc tại Sở Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 339, có hỏi tôi: “Căn cứ vào đâu đồng chí bảo đảm đồng chí Nguyễn Phương Nam từ Tiểu đoàn trưởng lên làm Trung đoàn trưởng, có thể hoàn thành nhiệm vụ ở một Trung đoàn đang gặp nhiều khó khăn như vậy. Đồng chí lấy cái gì bảo đảm?”. Tôi trả lời: “Tôi lấy cái đầu tôi”. Đồng chí Lê Đức Anh cười vang. Chỉ ít lâu sau, anh Bảy Nam có quyết định bổ nhiệm từ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 giữ chức Trung đoàn trưởng. Một quyết định bổ nhiệm vượt cấp cán bộ ở chiến trường vừa kịp thời, vừa chính xác.

Sư đoàn cũng kịp thời hỗ trợ các mặt cho Trung đoàn đứng vững trên các chốt tiền tiêu biên giới Campuchia - Thái Lan. Đây là Trung đoàn hoạt động tuyến 1, chốt chặn đường biên giới, phải đứng chân trên vùng rừng núi khắc nghiệt, đường giao thông cách trở, nhất là về mùa mưa, mọi hoạt động bảo đảm hậu cần, kỹ thuật từ phía sau ra phía trước và vận chuyển thương binh, bệnh binh về phía sau phải dùng trực thăng của Bộ Quốc phòng. Để cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đứng vững trên các chốt tiền tiêu quan trọng này, lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn sau khi được củng cố đã triển khai tích cực, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp từ làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, triển khai xây dựng hệ thống hầm hào, công sự, kho tàng, trạm xá, doanh trại kín đáo, thoáng mát, bảo đảm cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu, có điều kiện ngủ nghỉ an toàn, nâng cao sức khỏe, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2022, 07:49:06 am
Khi đến thăm, tôi nhận thấy Trung đoàn được tổ chức, chỉ huy chặt chẽ, có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, đời sống ăn ở được cải thiện, tư tưởng phấn khởi, không mang tư tưởng tạm bợ, tôi ghi nhận sự sáng tạo, quyết tâm cao của lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn và tin tưởng Trung đoàn sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Thực tiễn Trung đoàn đã đứng vững trên tuyến biên giới, góp phần cùng với các đơn vị bạn đánh bại ý đồ lấn chiếm Tà Sanh, Bãi Tàng, Săm Lốp của địch, tạo điều kiện cho ta và bạn khôi phục lại thế trận biên giới, củng cố K5, tiếp tục rút quân theo kế hoạch.

Để bảo đảm thế làm chủ vững chắc của bạn, ta chủ trương đánh một số trận vào sâu đất Thái Lan từ 7 đến 9km, nơi có các kho tàng, căn cứ của Pôn Pốt lợi dụng sự giúp đỡ của người Thái xây dựng các căn cứ tiếp nhận sự viện trợ, giúp đỡ của bọn phản động quốc tế để duy trì phát triển lực lượng, hòng lật ngược thế cờ ở Campuchia.

Đầu năm 1989, Sư đoàn 339 tổ chức đánh điểm cao 408, trong đó có ba mục tiêu: điểm cao 215, điểm cao 113 trên đất Thái, điểm cao 183 trên đất Campuchia. Trong trận này tôi và đồng chí Nguyễn Phương Nam - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 14 có một kỷ niệm sâu sắc thấm đượm tình anh em, đồng chí. Để nắm và theo dõi tình hình địch, tôi lên điểm cao 171, từ đây tôi nhìn rất rõ ba điểm cao là căn cứ Pôn Pốt tập trung xây dựng hệ thống kho tàng, trang trại để tiếp nhận hàng đưa vào nội địa. Trên điểm cao 408, địch bô trí một khẩu súng (dàn hỏa tiễn) H12 mới sản xuất, nước sơn còn bóng loáng, đạn dài tới 2m, bắn như ĐK. Tôi gọi Bảy Nam (Nguyễn Phương Nam) di chuyển vị trí chỉ huy về địa điểm mới cho an toàn để mình tôi ở lại tổ chức đánh lấy khẩu súng này. Bảy Nam không nghe, dứt khoát khẳng định: “Em không đi, chết thì cùng chết, bỏ anh một mình chỉ huy sao được”. Tôi và Bảy Nam chỉ huy Đại đội 21 đánh và thu được khẩu súng này mang về phía sau phục vụ cho việc nghiên cứu vũ khí mới của địch. Tất cả các Trung đoàn trong Sư đoàn đều chiến đấu đạt kết quả tốt, tiêu diệt địch, làm chủ địa bàn, phối hợp tốt với bạn, cùng với bạn làm tốt công tác vận động quần chúng, chăm lo củng cố hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho bạn vươn lên làm chủ, thực hiện vững chắc ba mục tiêu chiến lược.

Đang tìm hiểu, nắm tình hình mọi mặt của Sư đoàn, tháng 9 năm 1989 tôi được trên quyết định đi học tại Học viện Quân sự cấp cao ở Hà Nội, nơi đào tạo cán bộ quân sự cấp chiến thuật, chiến dịch. Lại một bước ngoặt nữa trong cuộc đời quân ngũ của tôi. Tạm biệt chiến trường, tôi lại quay về với nhiệm vụ học tập, nơi không chỉ cho tôi bản lĩnh, trí tuệ mà còn uốn nắn, rèn luyện tôi sống xứng đáng với phẩm chất, danh hiệu “Anh bộ đội Cụ Hồ”, nhà trường tiếp tục sẽ chắp cánh cho tôi trên con đường phấn đấu. Tôi tự nhủ sẽ cố gắng học thật tốt, rèn luyện tốt, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Quân đội và nhân dân.

*
*   *

Gần một thập kỷ tham gia chiến đấu, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, tôi thấy mình trưởng thành, phát triển lên nhiều, cả về bản lĩnh lẫn tri thức quân sự, chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy. Để đạt được kết quả đó, ngoài sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, còn có sự quan tâm, động viên sâu sắc của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, sự ủng hộ giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn bộ binh 9. Những gì tôi có được trong gần 10 năm ấy có sự đóng góp, hi sinh của anh em, đồng chí, đồng đội trong “Trung đoàn sơn cước” anh hùng này.

Trung đoàn 9 ba lần được tặng danh hiệu anh hùng, hôm nay vẫn còn đây, từ Nam ra Bắc, trên mọi nẻo đường quê hương, đất nước, đã hiến dâng những đứa con ưu tú, nhiều thế hệ thanh niên xuất sắc hội tụ về đây, bằng công sức, máu xương, tài năng và phẩm chất cao đẹp của “Anh bộ đội Cụ Hồ” xây đắp nên truyền thống vinh quang của Trung đoàn. Với tư cách là một trong cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ trì của Trung đoàn ở một trong những giai đoạn gian khổ, ác liệt nhất, tôi xin tỏ lòng cảm ơn đến mọi cán bộ, chiến sĩ đã từng sống, học tập, công tác, chiến đấu ở Trung đoàn 9 trên mọi miền Tổ quốc. Chúc anh em, đồng chí, đồng đội mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Đã nhiều lần được đi học, riêng lần đi học này, tôi định gói ghém toàn bộ những thực tiễn kinh nghiệm quý báu từ chiến trường về nhà trường để kiểm nghiệm nó, để chứng minh bản lĩnh, sự sáng tạo, nhạy bén của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn, của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên chiến trường giúp bạn. Đây là một trong những nhân tố làm nên những chiến công xuất sắc của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia. Lý luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với chiến trường, đó là phương châm giáo dục, đào tạo rất đúng đắn của nhà trường Quân đội ta; nó cũng rất đúng đối với tôi, từ chiến trường về các nhà trường, từ nhà trường lại ra chiến trường, sau đó quay lại nhà trường tiếp tục trau dồi kiến thức. Cuộc đời quân ngũ của tôi đã đi đúng phương châm ấy. Nghĩ vậy, tôi vui vẻ hăng hái lên đường.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:18:30 am
Chương IV

SÁNG DANH NGƯỜI LÍNH CỤ HỒ
(1990-2012)

Sau ba thập kỷ chiến đấu kiên cường quả cảm, nhân dân ta đã phát huy hết sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc và cống hiến tất cả những gì thân thiết nhất, quý báu nhất trong mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam cho sự nghiệp thiêng liêng cứu nước và giữ nước. Đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất, trong niềm hạnh phúc to lớn của ngày toàn thắng, được sự giúp sức của bọn phản động quốc tế, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, phản bội nhân dân Campuchia, tổ chức xây dựng và thực hiện một thứ “chủ nghĩa cực đoan, tàn bạo, diệt chủng” chưa từng có trong lịch sử. Đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, lực lượng vũ trang Quân khu cùng với các đơn vị bạn đã lên đường chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, trở về Tổ quốc trong sự chào đón và niềm tin yêu vô hạn của nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long và nhân dân cả nước; sự tin tưởng, quý mến của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ, các cấp lãnh đạo, chính quyền Campuchia. Nhiều người dân Campuchia gọi cán bộ, chiến sĩ ta là “Bộ đội của nhà Phật”. Đó là phần thưởng cao quý nhất của một đội quân đi làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn đã giành thắng lợi to lớn cả quân sự và chính trị.

Tháng 9 năm 1989, trong niềm vui lớn của Sư đoàn 339 và lực lượng vũ trang Quân khu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp bạn trở về Tổ quốc, tôi tạm xa gia đình, đơn vị lên đường ra Hà Nội học tại Học viện Quân sự cấp cao.

Sau nhiều năm trực tiếp chiến đấu trên mảnh đất quê hương xã Trần Phán anh hùng, tiếp theo đó tham gia lực lượng chủ lực của Quân khu chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, một vài lần được đi học, chủ yếu các trường của Quân khu, Bộ, nằm trên địa bàn các tỉnh phía Nam, tôi chưa có điều kiện, thời gian nhiều ở miền Bắc như đợt đi học này. Từ miền Tây, tôi đến ga Sài Gòn, sau ba ngày ba đêm, con tàu Thống Nhất, con tàu của khát vọng, niềm tin và ý chí Bắc - Nam một nhà của dân tộc Việt Nam trải qua những thăng trầm lịch sử, nay đã trở thành hiện thực, băng băng từ thành phố mang tên Bác đưa chúng tôi và những người khách đồng hành qua các ga trung tâm Đà Nẵng, Huế, Vinh, từ từ tiến vào ga Hàng Cỏ (Hà Nội).

Được chiêm ngưỡng địa hình, phong cảnh ruộng đồng, nương rẫy rộng lớn, xanh tươi, núi rừng bát ngát, biển đảo mênh mông của Tổ quốc hình chữ S, trong tôi trào dâng niềm tự hào sâu sắc về ý chí và công lao to lớn của ông cha trên con đường xác lập và làm chủ đất nước Việt Nam tươi đẹp, hùng vĩ. Bằng mồ hôi, công sức và máu xương của nhiều thế hệ, ông cha ta đã xây dựng và bảo vệ vững chắc non sông, đất nước và bàn giao cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau một sản nghiệp vô cùng to lớn và thiêng liêng. Đó là một giang sơn thống nhất từ mũi Cà Mau đến Mục Nam Quan sừng sững soi mình bên bờ biển Thái Bình Dương, cùng chung sống hòa bình, hữu nghị và thân thiện với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Tôi nhớ lại lời dặn ân cần, sâu sắc của Bác Hồ vào mùa thu năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ trở về Thủ đô, Người ghé thăm Đền Hùng nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 308 (Sư đoàn Quân tiên phong), Bác dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; Bác đã tổng kết một cách nhẹ nhàng, sâu sắc quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta đó là: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Đây không chỉ là quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương Đảng, của Quân đội ta mà là niềm tin, quyết tâm sắt đá của mỗi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Tranh thủ thời gian làm công tác chuẩn bị cho ngày khai giảng, tôi háo hức đi thăm Thủ đô, vào lăng viếng Bác. Ở miền Nam, tôi đã được nghe nói nhiều về lăng Bác, nơi yên nghỉ của Người.

Từ ngoài vào trong lăng, được ngắm nhìn thi hài Bác, tôi mỗi lúc một hồi hộp, dồn nén, tự hào, xúc động sâu sắc. Không xúc động sao được khi tất cả giá trị truyền thống văn hóa hàng ngàn năm văn vật của dân tộc được tích tụ từ trong nhân cách, tư tưởng và tầm vóc của Người; nay lại được tỏa sáng, truyền cảm, lan tỏa tới các thế hệ người dân Việt Nam. Từ sâu tận trong trái tim mình, lòng tôi dâng trào niềm yêu thương, quý trọng, thương nhớ Bác khôn nguôi. Đó cũng chính là tình cảm của những đứa con miền Nam, của đồng bào quê tôi dành cho Bác trong suốt những năm kháng chiến cho đến tận bây giờ. Tôi nhớ vào thập kỷ 50 của thế kỷ trước, khi Mỹ - Diệm thực hiện chiến lược “chiến tranh đơn phương” ở miền Nam bằng một loạt âm mưu, thủ đoạn, chính sách dã man và tàn bạo như “tố cộng, diệt cộng” hòng truy sát, tiêu diệt cộng sản, diệt tận gốc con đường cách mạng miền Nam. Một gia đình nông dân ở Cà Mau quê tôi treo một bức tranh vẽ cảnh một ông già ngồi câu cá ở một vị trí trang trọng nhất trên tường nhà, dưới bức ảnh có bốn câu thơ đề vịnh:

“Cụ già thong thả buông cành trúc
Hồ rộng thênh thang cá vẫy vùng
Muôn dặm khơi xa làn nước biếc
Tuổi già vui mãi với non sông”.


Lính Diệm, từ bọn cảnh sát ác ôn đến bọn chiến tranh tâm lý, bọn mật vụ chìm nổi ra vào nhiều lần, tích cực khám xét mà không phát hiện ra chữ đầu của tứ thơ là câu khẩu hiệu “Cụ Hồ muôn tuổi”. Niềm tin, tình cảm của quân dân miền Nam đối với Đảng, Bác Hồ vô cùng sâu nặng, lớn lao, không có thứ vũ khí nào, súng đạn nào ngăn cản được, cũng không có thủ đoạn nào che lấp được.

Vào viếng lăng Bác, thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh, được tận mắt ngắm nhìn cuộc đời, công đức, những di sản mà Người để lại, tôi càng hiểu sâu sắc hơn những tình cảm yêu thương, quý trọng mà nhân dân quê tôi, quân dân miền Nam, đồng bào, chiến sĩ cả nước giành cho Bác sâu nặng đến nhường nào. Xúc động trong niềm tự hào, sung sướng được vào lăng viếng Bác, tôi nhanh chóng hoàn tất công tác chuẩn bi cho ngày khai giảng khóa học với quyết tâm phấn đấu đạt kết quả cao nhất.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:18:53 am
Ba năm theo học khóa đào tạo cán bộ quân sự cấp chiến thuật, chiến dịch khóa 10 ở Học viện Quân sự cấp cao, phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo ở một học viện danh tiếng của Quân đội ta, nơi đã đào tạo nên những cán bộ quân sự cấp cao của Quân đội, trực tiếp góp phần vào sự phát triển, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang của Quân đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia. Đây là khóa học tôi được nghiên cứu, học tập một cách cơ bản nhất, toàn diện, chuyên sâu về tri thức khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quân sự, nhất là các môn: cơ sở lý luận, quan điểm, tư tưởng đường lối chính trị, quân sự của Đảng, nghệ thuật quân sự, phục vụ tốt cho nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy mà tôi đảm nhiệm sau này.

Tháng 7 năm 1991, tốt nghiệp Học viện, tạm biệt ngôi trường danh tiếng này, về Quân khu, tôi được trên bổ nhiệm làm Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn bộ binh 339. Về đến Sư đoàn giữa lúc Đảng bộ Sư đoàn đang bước vào chuẩn bị Đại hội vòng II nhiệm kỳ 1991-1995. Do làm tốt công tác chuẩn bị cả về nhân sự, hệ thống các văn kiện, nhất là đã phát huy dân chủ, nêu cao trách nhiệm chính trị của đảng viên, từng tổ chức cơ sở đảng, Đại hội vòng II Đảng bộ Sư đoàn 339 đã thành công tốt đẹp cả trong việc xác định chủ trương, giải pháp đúng đắn trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, Sư đoàn vững mạnh toàn diện, lẫn việc bầu Đảng ủy, bầu đoàn đại biểu Đảng bộ Sư đoàn đi dự Đại hội Đảng bộ Quân khu. Đại hội cũng đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Sư đoàn do đồng chí Huỳnh Minh Chí - Phó Sư đoàn trưởng về chính trị làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Minh Châu - Sư đoàn trưởng làm Phó Bí thư. Tôi được Đại hội bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Sư đoàn.

Sau khi nắm tình hình đơn vị, trên cương vị được giao, tôi đề xuất với Đảng ủy Sư đoàn ra nghị quyết chuyên đề “Đổi mới công tác huấn luyện”, trong đó vừa quán triệt tốt phương châm “thiết thực, thực tế, vững chắc” phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và nhiệm vụ của Sư đoàn; vừa tiếp tục kết hợp huấn luyện dã ngoại với công tác vận động quần chúng, trong đó Sư đoàn chọn Trung đoàn 9 làm điểm. Thực hiện chủ trương và kế hoạch huấn luyện của Sư đoàn, các cơ quan, đơn vị bước vào mùa huấn luyện với khí thế và quyết tâm cao, đạt nhiều kết quả tốt, nổi bật nhất là huấn luyện kỹ - chiến thuật phục vụ cho diễn tập tiểu đoàn tiến công, phòng ngự ở đồng bằng có nhiều kinh rạch; huấn luyện gắn liền rèn luyện kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy; huấn luyện dã ngoại kết hợp với công tác vận động quần chúng.

Những kết quả đạt được của Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 9 trong quá trình hành quân dã ngoại về các xã thuộc huyện Lai Vung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp mang nhiều lợi ích, ý nghĩa quan trọng cho cả đơn vị và địa phương. Đối với đơn vị, qua đợt hoạt động này, cán bộ, chiến sĩ được sống với dân nên tình hình chính trị, tư tưởng, tác phong sinh hoạt có chuyển biến tốt, trình độ chỉ huy vận dụng kỹ - chiến thuật ở địa hình đồng bằng có nhiều kinh rạch của cán bộ được nâng lên. Đối với địa phương, từ những hoạt động của đơn vị làm cho nhân dân càng yêu mến “Anh bộ đội Cụ Hồ”, tin tưởng vào chính quyền địa phương, góp phần xây dựng củng cố thế trận lòng dân vững chắc.

Ở thời điểm này, Sư đoàn khó khăn về quỹ vốn để tổ chức tăng gia sản xuất. Qua nhiều đêm suy nghĩ, tôi đề xuất với các anh Nguyễn Minh Châu - Sư đoàn trưởng, Huỳnh Minh Chí - Phó Sư đoàn trưởng về chính trị cho tôi về Cà Mau xin đất nuôi tôm mở khu tăng gia sản xuất cho Sư đoàn. Được hai anh nhất trí, tôi về Cà Mau xin 300ha đất ở Nông trường Trảng Sáo, huyện Ngọc Hiển làm vuông tôm. Để có tiền đầu tư đào kinh, tôi đi vay công ty kiều hối, lãi suất 13%. Kết quả vuông tôm trúng nhiều vụ, không chỉ hoàn trả cả vốn lẫn lời mà hằng năm đưa về cho Sư đoàn từ 5 đến 6 tỷ đồng, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho đơn vị.

Cuộc sống, tình cảm gia đình của những người lính về cơ bản cũng như bao nhiêu các gia đình khác trong xã hội, song có không ít khó khăn thử thách riêng, nhất là trong chiến tranh. Do không có điều kiện tìm hiểu kỹ từ ban đầu, tôi và người vợ đầu (Phạm Thị Bé) sau khi lấy nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn; mặt khác trong những năm 1976-1980 tôi phải xa nhà liên tục, cùng đơn vị tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, trở thành bộ đội chủ lực của lực lượng vũ trang Quân khu. Vì vậy càng ít được gần gũi gia đình, vợ con; mâu thuẫn gia đình ngày càng tăng lên, không thể hàn gắn được. Biết chuyện riêng của tôi không “thuận buồm xuôi gió”, má động viên tôi: “Cố gắng sắp xếp chuyện gia đình để yên tâm tập trung lo nhiệm vụ cho đơn vị con ạ! Đừng để việc riêng ảnh hưởng tới việc chung”. Hiểu lòng má, chuyện riêng của tôi do tôi quyết định. Đầu năm 1980, tôi giải quyết xong chuyện gia đình, ổn định đòi sống tình cảm, tinh thần, tập trung lo cho đơn vị.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:20:20 am
Những năm 1987-1988, khi đang học văn hóa của Trường Văn hóa Quân khu ở Đồng Tâm, tôi về Trung đoàn 9 chơi và quen anh Lê Niệm trước đây là y sĩ chuyên bảo vệ sức khỏe của đồng chí Lê Đức Anh - nguyên là Tư lệnh Quân khu. Là bạn bè thân của nhau, anh mời tôi về nhà chơi và giới thiệu tôi làm quen với em gái anh (Lê Thị Quyến). Cuối năm 1991, tốt nghiệp xong Học viện Quân sự cấp cao, tôi lại về Sư đoàn 339 nhận nhiệm vụ. Lúc này, anh Lê Niệm từ trợ lý tác chiến xuống làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn bộ binh 9.

Được sự quan tâm của Tỉnh ủy Cà Mau, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn 339 và đông đảo họ hàng hai gia đình, anh em bạn bè, năm 1992, tôi quyết định xây dựng gia đình với vợ tôi (Lê Thị Quyến). Lễ cưới được tổ chức tại Hội trường Ủy ban nhân dân tỉnh, do Tỉnh ủy và Sư đoàn 339 phối hợp tổ chức. Năm 1994, vợ chồng tôi sinh được một cháu gái Trần Thị Tố Như, sau khi học xong phổ thông trung học, cháu học đại học ở Xingapo. Tố Như là cô con gái cưng mà vợ chồng tôi hết mực yêu thương. Chứng tôi sinh cháu và nuôi dạy cháu những năm đầu đời gặp rất nhiều khó khăn, lên 5-6 tuổi cháu bị bệnh nặng phải chữa trị trên Thành phố(1). Tôi vừa phải đi làm, vừa tranh thủ chủ nhật, có lúc phải nhảy xe đò đi thăm con và động viên vợ ráng cố gắng chăm sóc con sớm khỏi bệnh. Rất may cô con gái cưng của vợ chồng tôi nhanh chóng vượt qua “thử thách”; dường như thấu hiểu nỗi vất vả của ba má, cháu thông minh, học giỏi, hiếu thảo với ba má, lễ phép với ông bà... Là con gái, cháu thường xuyên gần gũi má, song rất quý trọng và yêu thương ba, luôn dành cho ba sự quan tâm sâu sắc, những chia sẻ, động viên, cổ vũ kịp thời, tình nghĩa cha con vô cùng sâu đậm. Sự trưởng thành của cháu đã chiếm trọn niềm tin và lòng tự hào của vợ chồng tôi. Ở tuổi tôi bây giờ, con cái chính là mạch sống, sự hứng khởi, hạnh phúc và niềm tin để đi trọn cuộc đòi. Tố Như, cô con gái cưng của chúng tôi chính là đứa con đã đem lại cho vợ chồng tôi đầy đủ những niềm hạnh phúc đó.

Gia đình bên vợ tôi là gia đình cách mạng, ba vợ (Lê Việt Cương) đi bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở Lữ đoàn 6 Pháo binh Quân khu. Trong gia đình vợ, anh Lê Niệm là anh hai, chị Lê Thị Ánh là chị ba, chị xây dựng gia đình với anh Trần Văn Việt (Hai Dũng), anh Việt tham gia cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từng kinh qua các nhiệm vụ: Bí thư Huyện ủy, Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Cà Mau; đến vợ tôi Tư Quyến.

Ngày 11 tháng 4 năm 1994, thực hiện chủ trương và quy định của Bộ, Tư lệnh Quân khu ra quyết định sáp nhập Sư đoàn bộ binh 8 và Sư đoàn bộ binh 339 thành một Sư đoàn, lấy phiên hiệu là Sư đoàn bộ binh 8. Toàn bộ Sư đoàn bộ, Trung đoàn 8, Trung đoàn 10 (khung thường trực huấn luyện dự bị động viên) của Sư đoàn 339 chuyển về căn cứ Đồng Tâm, xã Bình Đức, Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Riêng Trung đoàn 9 đứng chân ở căn cứ Trần Quốc Toản trên địa bàn thị xã Cao Lãnh(2), tỉnh Đồng Tháp, trực thuộc Quân khu. Như vậy, biên chế tổ chức của Sư đoàn 8 sau sáp nhập gồm bốn cơ quan Sư đoàn bộ, Tiểu đoàn văn hóa, có ba Trung đoàn (1, 10, 2) khung thường trực huấn luyện dự bị động viên (Trung đoàn 8 sáp nhập Trung đoàn 2). Ban Chỉ huy Sư đoàn sau sáp nhập gồm các đồng chí: Bùi Văn Minh - Sư đoàn trưởng, Huỳnh Văn Chí - Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, tôi (Trần Phi Hổ) - Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng; các anh Nguyễn Văn Thận, Hồ Bé làm Phó Sư đoàn trưởng.

Năm 2010, thực hiện chủ trương của Quân khu về việc sớm hoàn thành các công trình lịch sử truyền thống các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu. Đối với Sư đoàn bộ binh 339 do Sư đoàn đã giải tán, được Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đồng tình, nhất trí cao, tôi đã giao nhiệm vụ cho Đảng ủy, Đan Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 8 và Phòng Khoa học - Công nghệ - Môi trường Bộ Tham mưu Quân khu (nay là Phòng Khoa học quân sự Quân khu) nghiên cứu biên soạn “Lịch sử Sư đoàn bộ binh 339 Quân khu 9 (1978-1994)”. Được sự chỉ đạo, hỗ trợ của Quân khu, sau gần hai năm tích cực nghiên cứu, sưu tầm tư liệu và biên soạn, năm 2012, Ban Biên soạn công trình đã hoàn thành bản thảo, được Hội đồng Khoa học - Công nghệ quân sự Quân khu nghiệm thu đưa vào xuất bản và phát hành, đáp ứng được sự mong mỏi, nguyện vọng chân thành của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ binh 339 trên mọi miền Tổ quốc. Đây là một công trình lịch sử tổ chức quân sự, ghi lại và mô tả quá trình ra đời, xây dựng, chiến đấu của Sư đoàn đã lập nhiều chiến công xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và suốt 10 năm chiến đấu giúp bạn ở Campuchia. Với dung lượng hơn 200 trang, bạn đọc có dịp tiếp cận với các nguồn sử liệu trung thực để hiểu rõ hơn những hi sinh, gian khổ cũng như ý chí chiến đấu kiên cường, trách nhiệm chính trị cao trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân (cả nhân dân ta và nhân dân Campuchia) của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 339, một trong những sư đoàn xuất sắc của lực lượng vũ trang Quân khu 9, của Quân đội ta; một sư đoàn với nhiều tập thể, cá nhân được Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Khi cuốn sách được xuất bản, đọc xong trang cuối của cuốn lịch sử này, trong tôi vẫn còn tràn ngập niềm vui, phấn khởi, tự hào được sống, chiến đấu cùng với đồng chí, đồng đội, góp phần vào những trang sử vẻ vang của Sư đoàn, đồng thời cũng trỗi dậy niềm tiếc thương vô hạn biết bao anh em, đồng chí của Sư đoàn đã hi sinh anh dũng vì sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang của nhân dân bạn. Với những cống hiến và sự hi sinh cao cả ấy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn đã góp phần xây đắp tình hữu nghị đoàn kết liên minh chiến đấu lâu đời giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia thêm vững chắc, ngày càng bền chặt, không kẻ thù nào chia rẽ, phá vỡ được.


(1) Người Cần Thơ quen dùng từ “Thành phố” để gọi Thành phố Hồ Chí Minh.
(2) Nay là thành phố Cao Lãnh.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:20:48 am
Ổn định xong biên chế tổ chức, nơi ăn, chốn ở của các cơ quan, đơn vị tại căn cứ Đồng Tâm, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn được Quân khu giao nhiệm vụ; “Làm nhiệm vụ huấn luyện dự bị động viên, xây dựng, quy hoạch cải tạo căn cứ Đồng Tâm thành căn cứ quân sự, kết hợp trồng cây ăn quả, phủ xanh đất trống và sản xuất tự túc cải thiện đời sống”. Sau khi nhận nhiệm vụ, trong Hội nghị Đảng ủy Sư đoàn về quán triệt, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ mới, tôi xin ý kiến khẳng định bên cạnh những thuận lợi, Sư đoàn đứng trước ba khó khăn chủ yếu:

- Khó khăn lớn nhất là các nhiệm vụ trên giao đều là những nhiệm vụ mới đối với Sư đoàn. Là những đơn vị chủ lực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chuyển sang làm đơn vị huấn luyện lực lượng tổ chức dự bị động viên, đối tượng huấn luyện mới, kinh nghiệm huấn luyện chưa có; tâm lý xác định nhiệm vụ trong cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn chắc chắn là kém phấn khởi.

- Nhiệm vụ tăng gia sản xuất cải thiện đời sống là một nhiệm vụ thường nhật của Quân đội ta, còn nhiệm vụ lao động cải tạo một căn cứ cũ của địch thành căn cứ quân sự kết hợp với trồng cây ăn quả, cây xanh phủ xanh đất trống, cả mô hình xây dựng căn cứ quân sự nội hàm là gì, bắt đầu từ đâu, đây là vấn đề mới, rất mới, nên ta phải vừa làm vừa học, mô hình sẽ rõ dần ra.

- Căn cứ Đồng Tâm là căn cứ hậu cần kỹ thuật cũ của địch, sau 20 năm giải phóng (1975-2005), nhà của, cơ sở hậu cần kỹ thuật đã xuống cấp nghiêm trọng. Thực tế này đòi hỏi cùng với sự chi viện của trên, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn phải phát huy mạnh tinh thần và ý chí tự lực tự cường.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng mới mẻ này, giải pháp hàng đầu là phải làm tốt công tác tư tưởng, phải 100% cán bộ, chiến sĩ thông suốt nhiệm vụ; giải pháp thứ hai là về công tác cán bộ, phải sớm ổn định cán bộ chủ trì, sớm giải quyết khâu tồn đọng số cán bộ có lý có tình; giải pháp thứ ba là phải xây dựng quy hoạch với tầm nhìn dài hạn, từ đó có kế hoạch cụ thể với bước đi sát thực, vừa sức.

Tiếp thu các ý kiến của các đảng ủy viên, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn đã triển khai đồng bộ các giải pháp cơ bản, trong tâm là công tác tư tưởng, cán bộ, quy hoạch... Sau gần hai năm (1994-1995) thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Sư đoàn 8 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao, tổ chức huấn luyện dự bị động viên cho các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, bảo đảm được về quân số và chất lượng. Tổ chức trồng cây xanh theo đúng quy hoạch cơ bản kết hợp với Xí nghiệp 408 cải tạo căn cứ Đồng Tâm bước đầu hình thành khu căn cứ quốc phòng.

Năm 1996, Sư đoàn được Bộ Tư lệnh Quân khu giao tập trung “làm nhiệm vụ dự bị động viên, trước mắt đảm nhiệm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên hướng sông Tiền, khi có yêu cầu sẽ biên chế thành Sư đoàn đủ quân để thực hiện nhiệm vụ Bộ Tư lệnh Quân khu giao”. Đây là thế bố trí chiến lược mới của Quân khu sau rút quân. Một lần nữa nhiệm vụ của Sư đoàn có sự điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới. Để thực hiện nhiệm vụ trên giao, Sư đoàn có thay đổi về biên chế tổ chức lực lượng. Tiểu đoàn đào tạo văn hóa được giao về cho Trường Quân sự Quân khu ở Sóc Trăng; Trung đoàn bộ binh 9 từ trực thuộc Sư đoàn bộ binh 330 nay có quyết định trở về trong đội hình của Sư đoàn. Như vậy, biên chế tổ chức của Sư đoàn lức này gồm: ngoài bốn cơ quan của Sư đoàn, còn có hai trung đoàn khung thường trực huấn luyện dự bị động viên (Trung đoàn 1, Trung đoàn 2); Trung đoàn 9 làm nhiệm vụ huấn luyện cơ động sẵn sàng chiến đấu; Trung đoàn 10 được Quân khu điều sang Đoàn 4 kinh tế quốc phòng.

Về công tác cán bộ, đầu năm 1997, các anh Bùi Văn Minh - Sư đoàn trưởng, Nguyễn Văn Nghĩa - Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, Hồ Bé - Phó Sư đoàn trưởng đã đến tuổi nghỉ hưu. Đây là những người anh, những người đồng chí tôi hằng yêu mến, kính phục. Các anh đã trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ, thử thách, hi sinh; từng có mặt ở hầu hết các chiến trường trên địa bàn Quân khu trong những năm đánh Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia; là những cán bộ, đảng viên dày dạn kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ huy, đã đề xuất và triển khai nhiều giải pháp sáng tạo, chủ động, bảo đảm cho Sư đoàn vượt qua những khó khăn, hoàn thành các nhiệm vụ trên giao trong điều kiện mới. Về với đời thường, những phẩm chất cao đẹp của “Anh bộ đội Cụ Hồ” được rèn giũa trong những năm tháng quân ngũ của các anh sẽ tiếp tục tòa sáng, góp phần xây dựng quê hương vững mạnh, tiếp tục làm sáng danh “Anh bộ đội Cụ Hồ” trên môi trường mới.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:21:12 am
Kiện toàn Ban Chỉ huy Sư đoàn, trên bổ nhiệm tôi - Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng làm Sư đoàn trưởng, Phó Bí thư Đảng ủy Sư đoàn; đồng chí Võ Văn Liêm - Phó Phòng Tuyên huấn Cục Chính trị Quân khu về làm Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn; đồng chí Nguyễn Thành Tho - Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330 về làm Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng; đồng chí Lê Công Trường - Phó Tham mưu trưởng được bổ nhiệm làm Phó Sư đoàn trưởng.

Đây thực sự là một Ban Chỉ huy Sư đoàn trẻ trung, trên 40 tuổi, người nhiều tuổi nhất là tôi 44 tuổi, anh Võ Văn Liêm 43 tuổi... Tuy tuổi đời còn trẻ, song tất cả đã trưởng thành trong những năm đánh Mỹ, trực tiếp tham gia chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và suốt 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia. Cùng trang lứa với nhau, hiểu nhau, trên cơ sở nhiệm vụ, chức trách được giao, chúng tôi xây dựng mối quan hệ làm việc, quan hệ anh em, đồng chí rất hòa thuận trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị và trong cuộc sống đời thường.

Cuối năm 2000, anh Nguyễn Thành Tho - Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng mắc bệnh nặng. Tôi và các anh lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn đã phối hợp cùng với gia đình chăm sóc, lo toan chữa trị cho anh, nhưng vì căn bệnh nan y hiểm nghèo anh không qua khỏi, ra đi khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp, con đường phấn đấu đang phát triển, tương lai còn dài ở phía trước. Anh Tho sống chân thành, giản dị, gần gũi với anh em, đồng chí, đồng đội, anh có nhiều kinh nghiệm trong công tác tham mưu quân sự; với tác phong lãnh đạo, chỉ huy miệng nói tay làm do vậy đã giúp tôi rất nhiều trong việc quán triệt, xây dựng kế hoạch triển khai nhiệm vụ quân sự hằng năm, trong xây dựng Sư đoàn vững mạnh toàn diện. Anh mất đi, Đảng, Quân đội mất đi một cán bộ, đảng viên kiên trung, gia đình mất đi một người con hiếu thảo, tôi không còn một người cộng sự đầy tâm huyết, năng nổ và trách nhiệm cao với nhiệm vụ, chức trách được giao. Lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương quê anh và gia đình tổ chức chu đáo lễ tang đưa anh về nơi yên nghỉ cuối cùng một cách trọng thể, trang nghiêm theo nghi lễ của Quân đội, trong niềm xúc động, tiếc thương vô hạn của gia đình, anh em, đồng chí và bạn bè.

Sau khi đồng chí Nguyễn Thành Tho từ trần, trên bổ nhiệm đồng chí Lê Công Trường thay đồng chí Tho làm Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, đồng chí Lữ Văn Khanh làm Phó Sư đoàn trưởng.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao, trước thực tế tình hình đội ngũ cán bộ của Sư đoàn sau 5 năm (1995-2000) thực hiện Nghị quyết 93/NQ-ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Nghị quyết 55/NQ-ĐUQK của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu về “Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhằm đại học hóa đội ngũ sĩ quan”, kết quả còn rất hạn chế, mới đạt trên 86% qua trường lớp, trong đó trên 58% qua đào tạo cơ bản có trình độ đại học. Trình độ học vấn này chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tôi bàn với anh Võ Văn Liêm - Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, Bí thư Đảng ủy: Đảng ủy Sư đoàn phải tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác cán bộ. Hai chúng tôi nhanh chóng thống nhất cao, Đảng ủy Sư đoàn ra được nghị quyết chuyên đề “Đại học hóa đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới”.

Với nhiều chủ trương, giải pháp sáng tạo, kiên quyết và đồng bộ; cùng với việc hoàn thành đủ chỉ tiêu, có chất lượng chiêu sinh hằng năm, một phong trào thi đua học văn hóa, học ngoại ngữ diễn ra sôi nổi trong đội ngũ sĩ quan Sư đoàn. Sau hai năm phấn đấu (2000-2001), tỷ lệ cán bộ qua trường từ 86% nâng lên 90% số cán bộ được đào tạo cơ bản có trình độ đại học từ 58% nâng lên hơn 60%.

Thực tiễn ở Sư đoàn trong giai đoạn này, quá trình quán triệt triển khai thực hiện các nhiệm vụ trên giao, chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện được anh em tổ chức triển khai hiệu quả hơn, chủ động, tích cực hơn. Khi đi kiểm tra một số đơn vị cơ sở, do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc quán triệt chưa sâu nên tổ chức chưa có hiệu quả Nghị quyết số 8B-NQHN/TW ngày 27-3-.1990 của Ban Chấp hành Trung ương và nghị quyết của Đảng ủy Quân khu về đổi mới công tác vận động quần chúng trong tình hình mới. Nhận thức tầm quan trọng chiến lược của công tác này, anh Bảy Liêm cùng với tôi trao đổi và sớm thống nhất: Đảng ủy Sư đoàn có nghị quyết chuyên đề “Tăng cường lãnh đạo đổi mới công tác dân vận trong tình hình mới”. Bằng một loạt các giải pháp tổ chức quán triệt sâu sắc nghị quyết này cho mọi cán bộ, chiến sĩ tăng cường trao đổi, gặp gỡ giữa lãnh đạo các tỉnh với Đảng ủy Sư đoàn, đưa lực lượng của Sư đoàn đi dã ngoại vừa huấn luyện vừa làm công tác vận động quần chúng, thông qua diễn tập... Mối quan hệ giữa Sư đoàn với các tỉnh, nhất là tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre được mở rộng đi vào chiều sâu và ngày càng bền chặt. Anh Hồng Nhân - Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp rất gắn bó và thường xuyên xây dựng mối quan hệ với Sư đoàn 339, nay rất nhiệt tình với Sư đoàn 8; anh Bé Ba - Bí thư Tỉnh ủy, anh Chín Bình - Chủ tịch tỉnh Tiền Giang thường xuyên ghé thăm và quan tâm tới những thuận lợi, khó khăn của Sư đoàn. Đối với Bến Tre, giai đoạn đầu do chưa nắm rõ tình hình của Sư đoàn nên lãnh đạo chưa nhiệt tình, về sau thông qua diễn tập, bộ đội đi dã ngoại làm công tác dân vận... Bến Tre đã trở nên rất gần gũi, gắn bó với Sư đoàn chúng tôi.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:21:55 am
Từ những kinh nghiệm tăng gia sản xuất, phát huy các cơ sở sản xuất của Sư đoàn 339 trước đây như nuôi tôm ở Trảng Sáo (Ngọc Hiển, Cà Mau), đóng đáy bắt cá linh ở Tân Hồng (Hồng Ngự), nuôi cá và trồng tràm ở Nông trường U Minh (Cà Mau), Tân Hiệp (Kiên Giang)..., tôi tiếp tục đề xuất với Đảng ủy, Ban Chỉ huy Sư đoàn tổ chức làm gạch, khai thác cảng, làm nhà máy sản xuất nước đá... cho Sư đoàn, hằng năm mang về cho quỹ vốn Sư đoàn kết quả tăng gia sản xuất từ 5 đến 7 tỷ đồng, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội.

Tháng 9 năm 2001, trên có quyết định điều tôi đi học lớp cán bộ chiến dịch, chiến lược ở Học viện Quốc phòng. Thế là sau 10 năm (1991-2001), từ Học viện Quân sự cấp cao, tôi về đảm nhiệm nhiệm vụ Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn 339; khi Sư đoàn 339 sáp nhập với Sư đoàn 8 thành Sư đoàn 8, tôi tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Phó Sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, rồi Sư đoàn trưởng. Quá trình thực hiện nhiệm vụ. bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Sư đoàn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách gay gắt; nhiệm vụ không ổn định; có nhiều nội dung nhiệm vụ mới, biên chế tổ chức không ổn định, đây cũng là giai đoạn chuyển giao đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ trì của Sư đoàn giữa lớp cũ và lớp mới. Sư đoàn chúng tôi đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ huy sâu sát, hiệu quả của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, sự giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm của các cơ quan Quân khu, sự ủng hộ to lớn của cấp ủy chính quyền và nhân dân các tỉnh trên địa bàn, nhất là lãnh đạo, chính quyền và nhân dân các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre. Bằng sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã cùng tập thể lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn chủ động khắc phục mọi khó khăn, phát huy cao nhất vai trò tiền phong gương mẫu của người cán bộ, đảng viên, sức mạnh đoàn kết, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm cho Sư đoàn vượt qua những khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trên giao, xây dựng Sư đoàn từng bước ổn định, trưởng thành, phát triển vững chắc về mọi mặt.

Nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu trên nhiều lĩnh vực có năng lực và sự phấn đấu cao xuất hiện; tiêu biểu là tập thể cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9, là đơn vị đã đạt danh hiệu “Trung đoàn vững mạnh toàn diện” đầu tiên thuộc khối các trung đoàn chủ lực của Quân khu. được Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Quân khu tặng Cờ luân lưu đơn vị có phong trào thi đua xuất sắc. Nối tiếp truyền thống vẻ vang “khắc phục khó khăn, liên tục chiến đấu, xây dựng toàn diện, lập công xuất sắc”. Được xây dựng ngay từ năm đầu thành lập (1978), phát huy truyền thống đơn vị ba lần anh hùng, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9 hôm nay vẫn khẳng định được bản lĩnh, vị thế của mình trong thời kỳ mới, là một trung đoàn xuất sắc, vững mạnh toàn diện, xứng đáng là nơi góp phần đào tạo, bồi dưỡng, trưởng thành nhiều cán bộ cao cấp của Quân khu, Quân đoàn như các đồng chí: Trần Phi Hổ, Hồ Khải Hoàn. Đặng Văn Năm, Đoàn Văn Thắng, Trần Chí Dũng, Nguyễn Phương Nam... Trước truyền thống vẻ vang của Sư đoàn, tôi nguyện cố gắng học thật tốt, xứng đáng với sự tin tưởng của trên và sự yêu mến, tin cậy dõi theo của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 8, một Sư đoàn có bề dày truyền thống của Quân đội ta, của lực lượng vũ trang Quân khu.

Bàn giao chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 8 cho đồng chí Lê Công Trường - Phó Sư đoàn trưởng. Tham mưu trưởng, tôi ra Hà Nội làm thủ tục nhập học làm học viên khóa 1 lớp đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược Học viện Quốc phòng. Trước khi vào học, lãnh đạo. chỉ huy Học viện đã tổ chức cho toàn bộ học viên khóa 1 chúng tôi đến trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh làm lễ báo cáo kết quả rèn luyện phấn đấu ở đơn vị, bày tỏ quyết tâm “học giỏi, rèn tốt”, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng và tình yêu thương của Bác.

Thấm thoát gần hai năm theo học ở Học viện Quốc phòng, tháng 7 năm 2002 tôi tốt nghiệp lớp đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược khóa 1 của Học viện Quốc phòng. Được nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống những quan điểm, tư tưởng đổi mới, trong đó có những vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc, có những nội dung phát triển mới cả trong lý luận cơ bản, trong đường lối chính trị, quân sự của Đảng, một số vấn đề phát triển trong nghệ thuật quân sự Việt Nam, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc... Cuối khóa học, tôi có chuyến đi thực tế về Thanh Hóa, được các anh trong Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh giúp đỡ tận tình, tôi đã hoàn thành luận án tốt nghiệp với đề tài “Sư đoàn bộ binh phòng ngự chống địch tấn công đổ bộ đường biển” và đạt kết quả tốt. Tất cả kiến thức đã học giúp tôi có tầm nhìn mới, nhận thức mới để xây dựng niềm tin, tiếp tục quán triệt tiếp thu những quan điểm, tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cơ sở tổ chức thực hiện thắng lợi đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ quân sự - quốc phòng trên địa bàn Quân khu sau này.

Hoàn thành xong nhiệm vụ học tập ở Học viện, trước khi trở về Nam, tôi dành ít thời gian đi thăm một số bạn bè, gia đình anh em, đồng chí đã cùng tôi sát cánh bên nhau chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia. Tôi vào Hà Tĩnh tìm thăm nhà Nguyễn Xuân Minh, anh hi sinh trong trận đánh ở Tượng Lăng; ra Thanh Hóa thăm Nguyễn Đình Kha - Một người lính chiến đấu dũng cảm, đạp mìn bị cụt chân trong một trận đánh phục kích địch trên đường 56. Hai anh em gặp nhau mừng rơi nước mắt, ngồi với nhau cả đêm, cùng với ly rượu quê, đĩa lạc (đậu phộng) rang, bát chè xanh và những kỷ niệm chiến đấu xưa được hai anh em ôn lại liên tục tái hiện về.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:23:26 am
Kha kể, trong trận đánh ở Đôn Phục, địa hình sông nước, địch chiếm địa hình có lợi trên gò, chúng bố trí hai khẩu trung liên khống chế hướng tiến công chính diện Đại đội 5, Đại đội 6 của Tiểu đoàn. Bộ đội ta cứ nhô đầu lên, chúng lập tức nhả đạn dày đặc, khi vận động tiến công rời khỏi địa hình che lấp, che khuất là nằm phơi mình trên địa hình bằng phẳng, địch sẽ bắn xuyên áo hết. Trước tình thế hiểm nghèo này, anh đã tổ chức một tổ xung kích gồm các đồng chí Trần Huy Du, Lư Bằng (Cà Mau), Nghiêm Xuân Tích (Hà Nội), Nguyễn Đình Kha (Thanh Hóa), Nguyễn Xuân Minh (Hà Tĩnh), trang bị chủ yếu là lựu đạn, tổ chức mũi vu hồi vượt qua sông, bí mật tiếp cận mục tiêu, diệt gọn hai ổ trung liên của địch, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 5 xông lên tiêu diệt địch, làm chủ gò Đôn Phục.

Tôi kể cho Kha nghe một kỷ niệm vui trong trận đánh Pôn Pốt ở Vĩnh Xương, Vĩnh Hòa năm 1978! Sau khi tiêu diệt địch, làm chủ trận địa, lúc đổi qua khu vực tác chiến, không có dân, kiếm mãi không có gì ăn, lực lượng hậu cần tổ chức cơm nước chưa tới, trong trận địa chốt của Đại đội có một đám cà rừng. Kha hỏi tôi: “Anh Ba ơi, em xin ít cà của dân nấu tạm chống đói chờ cơm của hậu cần mang đến”. Tôi đồng tình. Thế là một ănggô cà rừng om với muối nóng hổi bồi dưỡng kịp thời cho những người lính chiến qua bữa. Ăn xong từng đứa bị ngộ độc, ói mửa đến “mật xanh nanh vàng”, đến mức không có gì để ói nữa mới thôi; hôm sau cả đám sưng hết cả họng.

Kha hỏi thăm tôi về Trần Huy Du và Lư Bằng. Tôi nói với Kha: “Sau khi rút quân, trong những lần đi phép về quê hay đi công tác xuống Cà Mau, anh đều dành thời gian tìm địa chỉ của Du và Bằng, song chưa tìm được”. Kết thúc chiến tranh, người lính thôi cầm súng trở về với đời thường phải đối mặt với miếng cơm, manh áo, phải lo cho cái hạnh phúc nho nhỏ của mình trong điều kiện thua thiệt nhiều mặt với anh em bạn bè cùng lứa. Vì vậy cũng như em Du và Bằng sau khi ra quân chắc là phải bươn chải, chọn lựa nơi này nơi kia ổn định cuộc sống. Song, chắc chắn anh sẽ tìm bằng được Du và Bằng, những đứa em ngoan, những người đồng chí còn in đậm những kỷ niệm chiến đấu của một thời trận mạc. Nói tới đó, tôi và Kha nắm tay nhau, hai anh em ngập tràn cảm xúc về tình đồng chí, về những kỷ niệm chiến đấu không thể nào quên. Chúng tôi còn kể cho nhau nghe nhiều câu chuyện, đến khi trời sáng lúc nào không hay. Tôi tạm biệt Kha, bịn rịn, lưu luyến về Hà Nội, tìm thăm gia đình Nghiêm Xuân Tích, song do địa chỉ không rõ ràng nên không tới được gia đình anh.

Tôi rủ hai người bạn (Huỳnh Be ở Bến Tre và Năm Thắng(1) ở Vĩnh Long) đi thăm Đền Hùng. Được thắp nén nhang trước lăng mộ vua Hùng, chúng tôi, những đứa con của miền Nam xa xôi xin tỏ lòng biết ơn công lao dựng nước của bậc thánh hiền, người có công đầu trong việc tạo hình hài cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu; thắp hương đền Công chúa, xin tạ ơn hai công chúa Ngọc Hoa và Quỳnh Hoa đã có công tìm ra giống lúa nước để đến hôm nay dân tộc xây đắp, tôn tạo phát triển được một nền văn minh lúa nước phong phú, đa dạng và đầy sức mạnh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian còn lại, tôi có dịp đi thăm các di tích lịch sử, văn hóa, có dịp chiêm ngưỡng phong cảnh, sinh hoạt của người Hà Nội. Nhìn phố phường rợp bóng cây xanh, từng đoàn xe đạp, xe máy hối hả đưa con cháu đến trường, người lớn đến nơi công sở, tôi cảm nhận sâu sắc hơn về nơi đây và nhận thấy Hà Nội thật xứng đáng là trái tim của cả nước, xứng đáng với niềm tin của bạn bè quốc tế, xứng đáng được vinh danh “Thành phố hòa bình”, “Thủ đô anh hùng”.

Trước khi trở về Nam, tôi cùng với bạn bè lại vào lăng viếng Bác. Mỗi lần vào thăm Bác, tôi cảm thấy cảm phục, xúc động ngập tràn, càng cảm thấy gần Bác hơn. Những cây vú sữa trong vườn Bác mà lúc Bác còn sống Người rất quan tâm chăm sóc cẩn thận, nay vẫn xanh tốt, xum xuê giữa lòng Hà Nội. Đây là một trong những kỷ vật sâu sắc ghi nhận tấm lòng và niềm tin của miền Nam đối với Bác trong những thời điểm khó khăn, gian nan và khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Cây vú sữa của đồng bào miền Nam trao tặng, được Bác dành tình cảm đặc biệt và được Người coi là biểu tượng của miền Nam ruột thịt luôn bên Bác. Là những đứa con của miền Nam, tôi xúc động vô cùng, xin hứa với Bác trở về Nam sẽ sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trên giao.

Tạm biệt mùa thu đẹp của Hà Nội, tôi về Quân khu 9, trên bổ nhiệm tôi làm Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu, thay anh Phạm Hồng Lợi được trên bổ nhiệm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong Bộ Tư lệnh lúc này, anh Huỳnh Tiền Phong làm Tư lệnh, Phó Bí thư Đảng ủy, anh Bùi Văn Huấn (Út Lê) làm Phó Tư lệnh về chính trị, Bí thư Đảng ủy; đến tháng 3 năm 2003, anh Út Lê được trên bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh Lưu Phước Lượng thay anh Út Lê. Các anh Nguyễn Minh Chữ, Ngô Văn Dương làm Phó Tư lệnh; cuối năm 2004, hai anh được trên cho nghỉ hưu, trên bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Văn Lưỡng - Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang làm Phó Tư lệnh.


(1) Huỳnh Be (anh Phương Hùng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre); anh Năm Thắng - Thiếu tướng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Vĩnh Long.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:24:58 am
Qua trao đổi với các anh trong Bộ Tư lệnh Quân khu, đi nắm tình hình các cơ quan, đơn vị và các địa phương trên địa bàn, tôi vô cùng phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng. Sau gần 20 năm đổi mới (1986-2002), quân dân Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu rất quan trọng, kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, hoạt động đối ngoại đạt được nhiều kết quả, đời sống nhân dân, ngay cả đồng bào vùng sâu, vùng xa đã được cải thiện. Với vai trò, vị trí là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, lực lượng vũ trang Quân khu luôn đoàn kết, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, gắn bó với dân, được dân tin, dân yêu, giữ vững bản chất “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Đặc biệt, quá trình xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nhất là thực hiện chính quy hóa, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu có nhiều giải pháp đột phá trong xây dựng doanh trại, tạo ra hạ tầng cơ sở ăn, ở, ngủ, nghỉ của bộ đội; hệ thống kho tàng, trạm, xưởng... khang trang, chính quy, thống nhất.

Tuy vậy, trên địa bàn Quân khu 9, các thế lực thù địch, nhất là bọn phản động Việt Nam lưu vong dùng nhiều thủ đoạn thâm độc xâm nhập vào nội địa, tranh chấp đất đai ở một số địa phương còn kéo dài, vấn đề dân tộc, tôn giáo còn nổi cộm lên một số vụ gây nên tình hình căng thẳng, tạo nên một số điểm nóng ở một sở địa phương, dẫn đến khiếu kiện vượt cấp, đông người, dễ bị địch lợi dụng, mua chuộc, phá hoại, gây rối an ninh trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Lực lượng vũ trang Quân khu có nhiều chuyển biến căn bản, toàn diện, song còn có mặt chưa vững chắc, nhất là trong chấp hành kỷ luật, trình độ chuyên môn kỹ - chiến thuật, năng lực thực hành tác chiến ban đêm trên địa bàn đồng bằng có nhiều kênh rạch còn có một hạn chế.

Quán triệt chủ trương của Đảng ủy, thực hiện sự chỉ đạo của Tư lệnh Quân khu, tôi yêu cầu các cơ quan, nhất là cơ quan tham mưu, tập trung nắm chắc tình hình địch trên địa bàn biên giới, chống bọn xâm nhập; làm tham mưu cho Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu rà soát, bổ sung, điều chỉnh các kế hoạch sẵn sàng chiến đấu (A, A2, A3, A4), chỉ đạo các cơ quan phối hợp chặt chẽ với các tỉnh tích cực kiên quyết xử lý các điểm nóng bằng các giải pháp tổng hợp, chủ yếu bằng tuyên truyền, vận động, kết hợp chia cắt, cô lập, xử lý nghiêm những đối tượng đầu sỏ manh động; đẩy mạnh cuộc vận động “Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện” theo Chỉ thị số 917/1999/CT-QP ngày 22-6-1999 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

Trên cương vị chức trách được giao, tôi cùng với cơ quan tham mưu đã tích cực làm tốt công tác tham mưu cho Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch “xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”. Trong kế hoạch, tôi đã đề xuất Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu ba giải pháp quan trọng:

- Một là, làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm, gắn với việc từng cơ quan, đơn vị cụ thể hóa nội dung, chỉ tiêu xây dựng đơn vị, cơ quan vững mạnh toàn diện của đơn vị, cơ quan mình.

- Hai là, gắn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng nền nếp chính quy, xây dựng môi trường văn hóa.

- Ba là, chọn Bộ Tham mưu Quân khu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Cần Thơ, Bến Tre làm điểm.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp này, bước đầu các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu đã có những chuyển biến quan trọng trong chấp hành kỷ luật, thực hiện nền nếp chính quy.

Thực hiện nghị quyết chuyên đề “Đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện lực lượng vũ trang Quân khu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới”, trong hội nghị quân sự, triển khai chỉ lệnh huấn luyện của Tư lệnh Quân khu đầu năm 2003, tôi yêu cầu: Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tăng cường lãnh đạo chỉ huy đối với nhiệm vụ huấn luyện; trong xây dựng nghị quyết lãnh đạo, triển khai kế hoạch huấn luyện phải bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, nắm chắc “ba quan điểm, tám nguyên tắc, sáu mối kết hợp”, kiên quyết thực hiện nghiêm túc kế hoạch huấn luyện cho các đối tượng; quá trình tổ chức huấn luyện tiếp tục kết hợp hành quân dã ngoại với làm công tác vận động quần chúng và huấn luyện diễn tập vòng tổng hợp có bắn đạn thật.

Tôi cùng các cơ quan Quân khu tổ chức nhiều đoàn kiểm tra công tác huấn luyện chiến đấu ở các cơ quan, đơn vị. Rất mừng, từng cấp ủy, chỉ huy đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, hầu như cấp ủy nào cũng đều ra được nghị quyết lãnh đạo chuyên đề. Cùng với việc đầu tư củng cố cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập, rất coi trọng việc bồi dưỡng tập huấn cán bộ. Cuối năm 2003, Quân khu đã được đoàn kiểm tra của Bộ Quốc phòng đánh giá công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu đạt khá, kiểm tra toàn diện đạt giỏi.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:26:08 am
Tháng 7 năm 2003, tôi được phong quân hàm Thiếu tướng. Đầu năm 2004, trên phân công tôi làm Phó Tư lệnh phụ trách một số mặt, trong đó có công tác phát triển khoa học - công nghệ quân sự Quân khu. Đây là giai đoạn tôi giành nhiều thời gian nghiên cứu, quán triệt kỹ Nghị quyết 10/ĐUQSTƯ ngày 8-1-1999 của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương về “Đẩy mạnh nghiên cứu, phát huy vai trò của khoa học lịch sử quân sự trong thời kỳ mới” và Nghị quyết 364 ngày 6-12-2002 của Đảng ủy Quân khu về “Công tác tổng kết lịch sử quân sự”. Cùng với quan điểm đúng đắn, những chủ trương, giải pháp kiên quyết, tích cực của các nghị quyết nói trên cũng như từ thực tiễn chỉ đạo các công trình tổng kết chiến tranh, nghiên cứu biên soạn lịch sử của Sư đoàn bộ binh 8, tôi nhận thấy, để giúp Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi những nghị quyết trên thì phải làm chuyển biến sâu sắc nhận thức của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu về vai trò, vị trí của nhiệm vụ cơ bản quan trọng này. Làm tốt và có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ này không chỉ là giáo dục truyền thống mà còn rút ra được những bài học thiết thực cho việc tổ chức tiến hành xây dựng, phát triển sử dụng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Để hoàn thành tốt và có chất lượng, đúng kế hoạch các công trình tổng kết chiến tranh, lịch sử quân sự, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải đầu tư cả con người, tài chính, huy động các nguồn lực trong và ngoài đơn vị phục vụ, bảo đảm cho các công trình. Khi các công trình được nghiệm thu đưa vào xuất bản, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần chỉ đạo các cơ quan, đơn vị khai thác, phát huy kết quả nghiên cứu, biên soạn, tổng kết và sử dụng những thông tin nghiên cứu được để đưa vào tuyên truyền, giáo dục các thế hệ cán bộ, chiến sĩ nhằm củng cố, phát huy niềm tự hào về truyền thống của Quân đội ta nói chung và Sư đoàn nói riêng. Từ nhận thức này, hằng năm, Đảng ủy Quân khu đều có nội dung lãnh đạo, thông qua hội nghị Ngành khoa học - công nghệ quân sự Quân khu chỉ đạo quyết liệt các cơ quan, đơn vị tích cực đầu tư cho nhiệm vụ quan trọng này. Thực hiện nghị quyết của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu, cùng với việc kiện toàn Ban Lịch sử - Khoa học - Công nghệ và môi trường các tỉnh, Ban Lịch sử ở các cơ quan, Quân khu kịp thời kiện toàn hai Hội đồng: hội đồng Khoa học - Công nghệ quân sự Quân khu do tôi trực tiếp làm Chủ tịch Hội đồng; Hội đồng Khoa học xã hội và nhân văn quân sự Quân khu do đồng chí Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh về chính trị Quân khu làm Chủ tịch.

Được sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, đầu tư mạnh mẽ của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, nhiều đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ giao cho Quân khu tiến hành), cấp Quân khu, cấp cơ sở đã được đầu tư triển khai tích cực; các công trình trọng điểm tổng kết chiến tranh, nghiên cứu biên soạn lịch sử quân sự cấp Quân khu, cấp cơ sở tiếp tục được triển khai đúng tiến độ, nhiều công trình bước vào giai đoạn hoàn thiện, nghiệm thu đạt kết quả tốt, như các công trình: “Tổng kết chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia” (TK/QK9), “Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 9 (1975-2005)”, lịch sử các sư đoàn (4, 8, 330)... Tôi trực tiếp làm Chủ tịch Hội đồng Khoa học - Công nghệ quân sự Quân khu nghiệm thu ba đề tài khoa học về nghệ thuật quân sự tác chiến đồng nước, giang thuyền và xây dựng khu căn cứ hậu phương. Cục Chính trị Quân khu cũng bảo vệ thành công công trình “Xây dựng lực lượng vũ trang ven biển Quân khu 9 vững mạnh về chính trị”, được Tổng cục Chính trị đánh giá cao. Hầu hết các công trình khoa học tổng kết chiến tranh, lịch sử quân sự được các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu khai thác, sử dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống, huấn luyện cho lực lượng vũ trang Quân khu đạt hiệu quả thiết thực.

Để tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu 9 lần thứ VII ngày 2 tháng 10 năm 2005, anh Nguyễn Việt Quân được Bộ Quốc phòng bổ nhiệm Phó Tư lệnh về chính trị. Giữa tháng 11 năm 2005, Đảng bộ Quân khu tiến hành Đại hội lần thứ VII nhiệm kỳ 2006-2010, đồng chí Phạm Văn Trà - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến dự và chỉ đạo đại hội. Sau khi hoàn thành việc đóng góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của trên, thông qua nghị quyết cấp mình, đại hội đã bầu 15 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ cùng 12 đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy trên địa bàn Quân khu được Ban Bí thư Trung ương chỉ định. Trong phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu năm đồng chí vào Ban Thường vụ, bầu đồng chí Nguyễn Việt Quân - Phó Tư lệnh về chính trị làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Tiền Phong - Tư lệnh Quân khu làm Phó Bí thư, các đồng chí Lưu Phước Lượng, Võ Văn Liêm và tôi làm ủy viên Ban Thường vụ.

Đại hội Đảng bộ Quân khu lần thứ VII không chi quán triệt sâu sắc các quan điểm, định hướng lãnh đạo nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng bộ Quân khu còn tiếp tục đề ra những chủ trương giải pháp đúng đắn theo yêu cầu đổi mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đại hội đã phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất cao, bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tiêu biểu cho bản lĩnh, trí tuệ của Đảng bộ Quân khu 9 đủ sức lãnh đạo thành công các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ lần thứ VII đã xác định.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:27:39 am
Trong niềm vui, phấn khởi trước thành công của đại hội, cùng với các đại biểu, tôi nhận thấy bản thân thực sự vinh dự vì đã được tham gia một số đại hội Đảng bộ Quân khu ngay từ khi còn là cán bộ trung đoàn. Mỗi lần đại hội là một mốc ghi nhận sự phát triển, trưởng thành của Đảng bộ Quân khu 9 trước sự thay đổi, phát triển, chuyển biến của tình hình. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, lực lượng vũ trang Quân khu, quân dân trên địa bàn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn. Do đó, trên cơ sở những định hướng lãnh đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Quân khu, các ý kiến phát biểu trên diễn đàn đại hội khi tiếp cận các nội dung lãnh đạo không phải một chiều, đã có sự so sánh, cân nhắc kỹ lưỡng, thậm chí còn băn khoăn trước tính khả thi trong một số chỉ tiêu, phương hướng. Tuy vậy, tuyệt nhiên không có đại biểu nào tỏ rõ sự kêu ca, phàn nàn, do dự, hoặc có biểu hiện suy giảm ý chí, lòng tin. Đó là bản lĩnh, là truyền thống đoàn kết, sáng tạo, là ý thức tự lực tự cường của Đảng bộ Quân khu 9, một trong những đảng bộ quân đội được rèn luyện, trưởng thành vững mạnh trong lò lửa của các cuộc chiến tranh cách mạng, ngày nay đang vươn mình, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, của lực lượng vũ trang Quân khu.

Là thế hệ lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu trong giai đoạn hiện nay, tôi rất tự hào hạnh phúc được học tập, nối tiếp bản chất cách mạng kiên cường, ý chí tự lực tự cường và những giá trị truyền thống vẻ vang của Đảng bộ Quân khu do các thế hệ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy qua các thời kỳ đã góp phần xây đắp nên. Tiêu biểu như các đồng chí Đào Văn Trường, Vũ Đức, Trần Văn Trà, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Văn Vịnh... trong kháng chiến chống thực dân Pháp; Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt... trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây thực sự là những người cộng sản kiên cường, những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tài năng, mẫu mực của Đảng, Quân đội và của lực lượng vũ trang Quân khu 9. Vinh dự và tự hào về các thế hệ lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu lớp trước, thế hệ hiện tại và tiếp theo nguyện phấn đấu hết sức mình, nối tiếp xứng đáng sự nghiệp và truyền thống vẻ vang mà các thế hệ lớp trước tạo dựng nên.

Những quyết sách đúng đắn của Đại hội Đảng bộ Quân khu lần thứ VII, cùng với quyết tâm cao của mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu, sự giúp đỡ của lãnh đạo, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể và nhân dân trên địa bàn đã bảo đảm cho lực lượng vũ trang Quân khu vượt qua các khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngay từ những năm đầu nhiệm kỳ (2006-2010).

Cuối năm 2007, trên có quyết định cho anh Huỳnh Tiền Phong - Trung tướng, Tư lệnh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu nghỉ hưu và bổ nhiệm tôi làm Tư lệnh Quân khu. Tôi được phong hàm Trung tướng, Đảng ủy Quân khu nhất trí bầu tôi làm Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu và đề nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương chuẩn y. Đầu năm 2008, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương do đồng chí Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra quyết định chuẩn y tôi giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu; các anh Nguyễn Phương Nam - Phó Tư lệnh Quân khu, Đinh Văn Cai - Chủ nhiệm Chính trị Quân khu làm Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu.

Nhận nhiệm vụ, trọng trách được giao, tôi nhận thấy, “vinh dự càng cao, trách nhiệm càng lớn”. Được cấp trên tin cậy, bản thân đã từ thực tiễn chiến trường quay về học tập ở các nhà trường, trải qua các cương vị được giao từ cơ sở đến các cấp cao hơn, nay đảm nhiệm nhiệm vụ mới, tôi biết mình còn có mặt hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ, song chính sự giúp đỡ của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, sự ủng hộ của lãnh đạo, chính quyền và nhân dân các tỉnh trên địa bàn, sự ủng hộ của cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu đã giúp tôi hoàn thiện dần bản thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao.

Tư lệnh là một trong những người lãnh đạo, chỉ huy có trách nhiệm cao nhất của lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong thời kỳ đổi mới, đòi hỏi người chỉ huy phải có bản lĩnh vững vàng, năng động, sáng tạo, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong việc vận dụng quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp của lực lượng vũ trang Quân khu đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thành các nhiệm vụ cơ bản, quan trọng này ở một địa bàn chiến lược như địa bàn Quân khu 9 có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Trước hết, thế hệ hiện tại đã tiếp nối xứng đáng truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng vẻ vang của mảnh đất “Thành đồng” của Tổ quốc, xứng đáng với sự hi sinh to lớn của biết bao đồng bào, đồng chí trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh, trực tiếp góp phần bảo đảm ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, để Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phát huy vai trò to lớn của mình trong thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Năm, 2022, 08:29:48 am
Tôi đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường, ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được sau hơn 20 năm đổi mới (1986-2008), đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách gay gắt, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để kích động, lôi kéo các phần tử chống đối, gây rối nhằm gây mất ổn định về chính trị.

Trên địa bàn Quân khu, được các thế lực đế quốc, phản động nước ngoài giúp sức, bọn phản động, các phần tử cơ hội lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” ra sức tuyên truyền tập hợp lực lượng gây rối, khi cần sẵn sàng đối đầu với chính quyền. Tình hình khiếu kiện vượt cấp, tập trung đông người diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương, nhất là vấn đề giải tỏa, đền bù đất đai phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tình hình trên đã gây ảnh hưởng lớn tới an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đối với lực lượng vũ trang Quân khu, sau nhiều năm tập trung xây dựng theo mục tiêu “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại” đã đạt nhiều thành tích toàn diện trong quá trình phát triển, sức mạnh tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu đã nâng lên một bước. Tuy vậy, còn có mặt chưa vững chắc, đứng trước nhiều khó khăn thử thách, nhất là về chấp hành kỷ luật, trình độ chính quy hóa, mất cân đối trên một số mặt về thu chi kinh phí quốc phòng.

Cuối năm 2007, để chuẩn bị cho Hội nghị Đảng ủy Quân khu phiên cuối năm, qua trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu, tôi đề xuất một chủ trương quan trọng, coi đó là phương châm lãnh đạo tập trung, kiên quyết của Đảng ủy Quân khu trong năm 2008 và các năm tiếp theo. Đó là: “Đổi mới và nâng cao hiệu quả huấn luyện làm cơ bản, xây dựng Đảng làm khâu then chối; bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm trung tâm”. Được đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu thống nhất cao vì chúng tôi cho rằng: Phải đột phá, làm chuyển biến những vấn đề cơ bản, then chốt nhất. Phương châm này đã được thể hiện trong nghị quyết Đảng ủy Quân khu lãnh đạo nhiệm vụ năm 2008 và được quán triệt triển khai sâu sắc trong hội nghị quân chính lực lượng vũ trang Quân khu đầu năm 2008.

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương này, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu và hướng dẫn cụ thể của Cục Chính trị, từ Đảng ủy Quân khu đến các tổ chức đảng cơ sở đã tập trung triển khai một loạt các giải pháp như: gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; tập trung xây dựng chi bộ cơ sở, nhất là đại đội đủ quân có chi ủy; nâng cao chất lượng sinh hoạt... Với những giải pháp trên, kết thúc Đại hội VII nhiệm kỳ 2006-2010 của Đảng bộ, tỷ lệ chi bộ có chi ủy đạt gần 80%, trong đó chi bộ đại đội đủ quân đạt trên 90%, năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên một bước.

Sau khi quán triệt Nghị quyết số 51/NQ-TW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 513/NQ-ĐUQSTW ngày 17-11-2005 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Quá trình quán triệt, triển khai nghị quyết của Quân khu về thực hiện các nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, qua nghe báo cáo tổng hợp của Cục Chính trị, trực tiếp đi kiểm tra các cơ quan, đơn vị, tôi nhận thấy: Việc quán triệt triển khai nghị quyết quan trọng này ở một số cơ quan, đơn vị chưa sâu, chưa kỹ: nhận thức của một số cán bộ còn có biểu hiện lệch lạc, chưa đúng với tinh thần của nghị quyết; có cán bộ cho rằng, khôi phục lại chế độ chính ủy, chính trị viên trong chế độ một người chỉ huy là thay đổi tên gọi, còn thực chất chính ủy vẫn là cấp dưới, thậm chí là người giúp việc cho người chỉ huy. Nhận thức chưa tới này của một số cán bộ chứng tỏ khâu quán triệt học tập ở một số cơ quan, đơn vị chưa đạt yêu cầu.

Trước tình hình trên, tôi trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu: Quân khu cần tiếp tục quán triệt nghị quyết quan trọng này, gắn liền với việc kiểm điểm sau hai năm thực hiện nội dung chuyên đề của Đảng ủy Quân khu về “Đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ 5 năm (2006-2010)”, vừa làm tốt công tác tư tưởng, xem xét, chọn lựa, bổ nhiệm đúng người, đúng việc với các chức danh chính ủy, chính trị viên; gắn với việc bồi dưỡng nhiệm vụ chức trách cho đối tượng này. Từ kết quả sau hai năm thực hiện nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ của Đảng ủy Quân khu, tiếp tục thực hiện chủ trương đại học hóa sĩ quan.

Từ các chủ trương, giải pháp tích cực trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã quán triệt và triển khai nghiêm túc, chặt chẽ, có hiệu quả cao Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị; công tác quy hoạch, bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo cán bộ có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả hơn. Đến hết nhiệm kỳ 2006-2010, Quân khu 9 đã xếp đủ 100% chính ủy, chính trị viên theo biên chế, 100% cán bộ qua đào tạo, trong đó trên 90% đã tốt nghiệp đại học. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã quán triệt và thực hiện có kết quả tốt Nghị quyết số 94/NQ-ĐUQSTW ngày 29-4-1998 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:07:10 am
Từ thực tiễn làm cán bộ quản lý, chỉ huy từ cơ sở đến cấp Quân khu, tôi nhận thấy rằng: Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện là một trong những giải pháp hàng đầu để nâng cao sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu. Với nhận thức trên, qua trao đổi với các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy, chúng tôi đã đi đến thống nhất quan điểm khâu đổi mới đầu tiên trong công tác huấn luyện là đổi mới nhận thức, tư duy lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đến lãnh đạo, chỉ huy các cấp.

Vì vậy, hằng năm, nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Quân khu trên cơ sở tiếp tục quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng đã có bước đổi mới trong cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, điều hành huấn luyện, bảo đảm đồng bộ, thống nhất chỉ đạo, tổ chức thực hiện từ trên xuống dưới. Nghiêm túc thực hiện nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy hằng năm, tôi chỉ đạo cho cơ quan tham mưu xây dựng và triển khai kế hoạch huấn luyện phải đạt được các yêu cầu cơ bản là:

- Phải quán triệt sâu sắc phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, trong đó phải đề cao yêu cầu “nhanh, mạnh, chính xác” trong từng động tác chiến đấu cũng như trong huấn luyện các loại hình chiến thuật. Bởi lẽ, trong tình hình mới, kẻ thù sẽ triển khai chiến tranh công nghệ cao, đòi hỏi các hoạt động tác chiến của Quân đội ta, cả trước, trong và sau chiến đấu phải linh hoạt, khẩn trương, mang tính cơ động cao, hiệp đồng chặt chẽ. Khi Quân khu báo cáo yêu cầu này vận dụng trong quá trình huấn luyện bộ đội, đồng chí Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đánh giá cao yêu cầu trên và chỉ đạo cho Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu phổ biến ứng dụng trong toàn quân. Cụ thể là:

- Phải gắn huấn luyện để rèn luyện chỉ huy và cơ quan, rèn luyện bộ đội và phân đội.

- Đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện cho sát với từng đối tượng, trên cơ sở giữ vững phương châm, nguyên tắc, cần linh hoạt trong tổ chức và phương pháp huấn luyện cho phù hợp với sự phát triển của tình hình.

- Làm tốt việc tập huấn cán bộ, coi trọng hội thao, hội thi.

- Dành thời gian tổ chức cho bộ đội hành quân dã ngoại vừa huấn luyện vừa làm công tác vận động quần chúng.

- Tổ chức lực lượng đủ sức nghiên cứu, biên soạn tài liệu huấn luyện phù hợp với đặc điểm địa hình đồng bằng có nhiều kênh rạch. Đối với Quân khu, sẽ tăng cường kinh phí cùng với các cơ quan, đơn vị đầu tư cải tạo hệ thống thao trường, bãi tập để nâng cao hiệu quả huấn luyện bộ đội.

Với các giải pháp trên, nhiệm vụ huấn luyện của lực lượng vũ trang Quân khu có tiến bộ toàn diện, trình độ, năng lực quản lý tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp, chất lượng huấn luyện ở các lực lượng, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, dự bị động viên được nâng lên một bước. Hằng năm qua kiểm tra, 100% đạt yêu cầu, trong đó có 75% đến 85% khá giỏi. Do kết hợp chặt chẽ huấn luyện bộ đội với rèn luyện kỷ luật, thực hiện chính quy hóa nên trình độ chính quy hóa, chấp hành kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhất là việc chấp hành kỷ luật quân đội giảm đáng kể (năm 2006 còn 0,28%, đến năm 2010 giảm chỉ còn 0,11%).

Những năm đầu đảm nhiệm Tư lệnh Quân khu, tôi thường xuyên quan tâm củng cố, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu với lãnh đạo, chính quyền; giữa các cơ quan quân khu với các ban ngành, đoàn thể trong hệ thống chính trị của các tỉnh trên địa bàn vì nó xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng. Đây là quan điểm, đường lối cách mạng có ý nghĩa chiến lược, là phương châm chỉ đạo có ý nghĩa xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia và trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở cơ sở đến cấp sư đoàn, từ giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, suốt 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia và thời kỳ đổi mới; trong những năm tháng gian khổ, hi sinh, đầy thử thách, gắn bó với dân, được dân nuôi, dân tin, dân đùm bọc, cùng dân đánh giặc, cho tôi một nhận thức sâu sắc rằng: Đối với Quân đội ta nói chung, lực lượng vũ trang Quân khu 9 nói riêng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân trên địa bàn là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển và chiến thắng vẻ vang. Theo quy định của Bộ Chính trị, ngay từ Đại hội I (tháng 10-1976) của Đảng bộ Quân khu nhiệm kỳ 1976-1980, tám đồng chí bí thư tỉnh ủy các tỉnh trên địa bàn đã trực tiếp tham gia làm đảng ủy viên trong Đảng bộ Quân khu, tạo ra những thuận lợi lớn cơ bản trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trưởng thành, lớn mạnh.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:07:39 am
Tháng 12 năm 1978, Hội nghị Đảng ủy Quân khu họp có mặt đầy đủ tám đồng chí bí thư tỉnh ủy trên địa bàn để huy động, động viên tổng lực sức người sức của Đồng bằng sông Cửu Long cho chiến dịch tổng phản công của lực lượng vũ trang Quân khu sang Campuchia giành thắng lợi. Đó là những sự kiện điển hình không thể nào quên trong cuộc đời chiến đấu của tôi, để lại trong tôi những nhận thức sâu sắc về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân, về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng trong thế trận chiến tranh nhân dân của Đảng.

Ý thức được tầm vóc, vai trò, vị trí to lớn có ý nghĩa chiến lược của nhiệm vụ này, qua trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu, chúng tôi yêu cầu các cơ quan trong Quân khu, nhất là cơ quan Bộ Tham mưu và Cục Chính trị làm tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xây dựng quy chế lãnh đạo, chỉ huy phù hợp giữa Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu với tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân các tỉnh, giữa Quân khu và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, trọng tâm là các vấn đề thực hiện cơ chế lãnh đạo song trùng của Đảng trong hệ thống quân sự địa phương; triển khai xây dựng, củng cố khu vực phòng thủ; giải quyết vấn đề an ninh, chính trị trên địa bàn, nhất là giải quyết các điểm nóng, giải quyết khắc phục hậu quả trong phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Quân khu đã phối hợp chặt chẽ với các tỉnh kịp thời chỉ đạo đảng ủy, bộ chỉ huy quân sự các tỉnh làm tham mưu cho tỉnh và trực tiếp xử lý kịp thời các điểm nóng như: bãi bồi ở Cà Mau (năm 1992), Nông trường Sông Hậu (1993), vụ học viên Trường trung cấp Phật giáo Bali ở Sóc Trăng (1997), nhà trẻ Hoa Mai ở Bạc Liêu (2006)...

Quy chế này sau một kỳ đại hội hoặc có những vấn đề mới được Đảng ủy Quân khu bổ sung, hoàn thiện kịp thời, đáp ứng sự phát triển của tình hình. Từ quy chế của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, các phòng, ban Quân khu cùng với các ban ngành, đoàn thể các tỉnh, thành cũng đã xây dựng được quy chế phối hợp, bước đầu đi vào hoạt động có nền nếp, chất lượng và hiệu quả. Thông qua những hoạt động đồng bộ, hiệu quả của từng cấp, từng ngành, cùng với phong trào kết nghĩa của các đơn vị, cơ quan lực lượng vũ trang Quân khu với các địa phương càng tạo nên sự gắn bó “máu thịt” giữa Quân khu và các tỉnh trên địa bàn.

Quán triệt Nghị quyết 02/NQ-TW ngày 30-7-1987 của Bộ Chính trị, các tỉnh ủy, thành ủy trên địa bàn tiếp tục cơ cấu: đồng chí tỉnh đội trưởng trong thường vụ, chính ủy lực lượng vũ trang tỉnh trong ban chấp hành đảng bộ ở mỗi kỳ đại hội là một minh chứng về sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Quân khu và các tỉnh, thành, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ.

Đồng bằng sông Cửu Long cùng với Nam Bộ “thành đồng Tổ quốc” là địa bàn “đi trước về sau” của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước của dân tộc; dũng cảm, kiên cường vượt qua muôn vàn khó khăn; thử thách, gian khổ, hi sinh, lập nhiều chiến công vẻ vang; tiêu biểu, xuất sắc nhất là phong trào Đồng khởi 1959-1960, Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, đánh địch bình định 1968-1973... Các sự kiện lịch sử này đã có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học, nhiều cuộc hội thảo ở nhiều cấp, nhiều ngành từ Trung ương đến các địa phương. Kết quả của các báo cáo khoa học, các cuộc hội thảo về cơ bản đã nhất trí cao khi đánh giá vai trò, ý nghĩa, diễn biến các sự kiện chủ yếu, các bài học lớn. Tuy vậy, vẫn còn có ý kiến chưa đồng thuận về đánh giá thắng lợi, thiếu sót, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo... trong các sự kiện nói trên. Vì vậy, nhân dịp kỷ niệm 40 năm Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 (1968-2008), thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học lịch sử “Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và đánh địch bình định từ 1968 đến 1973 ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Phát biểu tại hội thảo, thay mặt Đảng ủy. Bộ Tư lệnh Quân khu, tôi nêu bật ý nghĩa lịch sử to lớn của những chiến công vẻ vang này: Với thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, cùng quân dân miền Nam quân dân Đồng bằng sông Cửu Long đã làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Sau Tết Mậu Thân năm 1968, lợi dụng sơ hở, sai lầm trong chỉ đạo điều chỉnh mục tiêu chiến lược, địch tăng cường phản kích gây cho ta nhiều khó khăn. Một lần nữa. quân dân Đồng bằng sông Cửu Long cùng với toàn miền tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972 thắng lợi, làm xoay chuyển tình thế. tạo đà cho việc đánh bại kế hoạch lấn chiếm bình định của địch năm 1973, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đáy chính là thắng lợi của một chủ trương đúng đắn, sáng tạo, kịp thời, kiên quyết của Khu ủy, Quân khu ủy Quân khu 8 và Quân khu 9; của tinh thần chiến đấu quả cảm, ý chí, tư tưởng cách mạng tiến công của quân dân Đồng bằng sông Cửu Long. Những bài học thực tiễn rút ra trong những sự kiện lịch sử vẻ vang này còn nguyên giá trị đối với quân dân Đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Hội thảo đã có 31 báo cáo khoa học tập trung làm rõ nhận định trên với sự tham gia trực tiếp của các nhân chúng lịch sử, các đồng chí nguyên lãnh đạo của Khu ủy, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, bí thư các tỉnh ủy, thành ủy qua các thời kỳ.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:08:02 am
Từ thắng lợi và kinh nghiệm tổ chức cuộc hội thảo này, cuối năm 2009, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã phối hợp với Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Phong trào Đồng khởi (1959-1960) - Trí tuệ sáng tạo của quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long”. Thay mặt Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, tôi đọc lời khai mạc; Thượng tướng Phan Trung Kiên - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đọc lời chào mừng; Thiếu tướng Nguyễn Phương Nam - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu trình bày đề dẫn hội thảo; Trung tướng Nguyễn Việt Quân - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu trình bày bản tổng luận. Cuộc hội thảo đã nhận được 50 bài tham luận rất phong phú, sâu sắc về nội dung; đa dạng, nhiều chiều về phương pháp tiếp cận. Hầu hết các tham luận đã để cập khá đầy đủ, sâu sắc về tầm vóc, vai trò, ý nghĩa lịch sử to lớn của phong trào Đồng khởi, cung cấp thêm những sự kiện lịch sử và rút ra nhiều bài học quý phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Công tác quân sự địa phương nói chung, nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc nói riêng là một trong những nhiệm vụ chính trị của lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới. Là Tư lệnh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu, tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu quán triệt chủ trương, chỉ thị của trên, vừa đề xuất nhiều giải pháp lãnh đạo với Đảng ủy và trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 02/NQ-TW ngày 30-7-1987 của Bộ Chính trị về “Nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới” và Chỉ thị số 56/CT ngày 11-3-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về “Xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc”. Đầu năm 2010, sau Hội nghị quân chính của Quần khu, Đảng ủy Quân khu tiến hành tổng kết quá trình triển khai nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Tham gia hội nghị quan trọng này có đầy đủ các đồng chí đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu, các đồng chí lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn. Được Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu phân công báo cáo trước hội nghị, tôi tập trung làm rõ những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu trong những năm vừa qua như: Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã quán triệt và triển khai sâu rộng Nghị quyết số 02/NQ-TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số56/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; ra nghị quyết lãnh đạo “Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc các tỉnh, thành phố” trong thời kỳ mới. Quá trình triển khai, tổ chức thực hiện đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, củng cố, phát triển hiệu quả 13 hội đồng giáo dục cấp quân khu và các tỉnh, thành.

Quân khu cùng với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trên địa bàn đã làm tốt công tác tham mưu cho các tỉnh về xây dựng các khu vực phòng thủ, chọn đúng, trúng vị trí chiến lược, bảo đảm phòng ngự vững chắc, tiến công mạnh mẽ; huy động mọi tiềm lực, lợi thể trên địa bàn mỗi tỉnh và quân khu trong xây dựng và quản lý khu vực phòng thủ; gắn kết quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, tổ chức xây dựng các công trình quốc phòng, phát triển các cụm, tuyến dân cư, tuyến giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, các đường tuần tra với việc triển khai kế hoạch di dân định cư ở các vùng trọng điểm trong khu vực phòng thủ. Chăm lo xây dựng phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; nghiên cứu toàn diện các mặt hoàn thành kế hoạch chiến đấu trong khu vực phòng thủ theo các phương án sẵn sàng chiến đấu; tổ chức diễn tập ba cấp (quân khu, tỉnh, huyện) với nội dung, quy mô sát với thực tiễn, tập trung chủ yếu vào việc vận hành cơ chế, huy động công nghiệp quốc phòng, chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, xử lý các tình huống(1).

Với các chủ trương và giải pháp trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã quán triệt sâu sắc chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của trên, động viên phát huy ý thức tự lực tự cường, triển khai nhiều giải pháp chủ động, sáng tạo... đã phát huy mọi tiềm năng, lợi thế trong vùng, tận dụng tốt thời cơ và nguồn lực, giữ vững truyền thống đoàn kết xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành có chiều sâu, ngày càng vững chắc. Tuy vậy, trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, Quân khu còn có mặt hạn chế, việc quán triệt chủ trương, kế hoạch, công tác tuyên truyền có mặt, có địa phương chưa sâu, chưa rộng; công tác tham mưu cho các tỉnh còn hạn chế, tổ chức thực hành diễn tập còn có mặt yếu; cả trong xây dựng các văn kiện, cà trong điều hành vận hành cơ chế...

Nhất trí cao với đánh giá tổng kết của Quân khu, các đảng ủy viên, nhất là các đồng chí đảng ủy viên là bí thư các tỉnh trên địa bàn đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Các đồng chí cho rằng: Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc tỉnh, thành phố là một chủ trương chiến lược trong việc đổi mới đường lối quân sự của Đảng ta, là sự phát triển cao của nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị quan trọng này, trong thời gian tới đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy đảng, sự điều hành của chính quyền và sự chỉ huy thống nhất của người chỉ huy.


(1) Cho đến năm 2010, 100% các tỉnh, thành phố, trên 75% các huyện, thị đã tổ chức diễn tập; có tỉnh, huyện, thị xã đã diễn tập lần thứ hai, lần thứ ba.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:10:04 am
Hội nghị Đảng ủy Quân khu tổng kết và bàn định nhằm thực hiện thắng lợi một nhiệm vụ chiến lược quan trọng về quân sự, quốc phòng đạt kết quả tốt. Tôi và các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu vô cùng phấn khởi. Hội nghị thành công một lần nữa khẳng định truyền thống đoàn kết phối hợp chặt chẽ, hiệu quả cao giữa Quân khu và các tỉnh trên địa bàn ngày càng bền chặt.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của lực lượng vũ trang Quân khu mà tôi và các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu rất quan tâm trong giai đoạn này là việc “các đội K”(1) của Quân khu sau nhiều năm triển khai thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm và cất bốc các liệt sĩ Việt Nam trải qua các thời kỳ chiến tranh đưa về nước. Kết thúc mùa khô 2009-2010, tuy đạt nhiều kết quả tốt, song đang đứng trước một số khó khăn làm ảnh hưởng lớn tới kết quả tìm kiếm như: tình hình chính trị Campuchia không ổn định, lượng thông tin của cả ta và bạn cung cấp ngày càng ít, địa hình khảo sát, tìm kiếm ngày càng phức tạp, hiểm trở, phải đi vào địa bàn các vùng sâu, vùng xa, các vùng rừng núi hiểm trở của bạn. Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi yêu cầu Cục Chính trị tổng hợp báo cáo kết quả quán triệt và triển khai nhiệm vụ này, để xuất giải pháp với Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu để tháo gỡ khó khăn, thực hiện tốt chủ trương của trên.

Tháng 11 năm 2010, Đại tá Phan Hoàng Thụ - Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu thay một Cục Chính trị báo cáo trước Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu về tình hình thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cát bốc, di dời hài cốt liệt sĩ Việt Nam ở Campuchia về nước, bản báo cáo nêu rõ: Chín năm qua (2001-2010), thực hiện sự ký kết của hai chính phủ Việt Nam và Campuchia, công tác tìm kiếm, cất bốc, di dời hài cốt liệt sĩ Việt Nam về nước được tiến hành thuận lợi, hoàn thành tốt kế hoạch đề ra. Từ năm 2001 đến năm 2010, các đội K của Quân khu đã tổ chức khảo sát tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ trên 147 xã của 38 huyện thuộc 9 tỉnh, 2 thành phố thuộc Vương quốc Campuchia. Kết quả, ta đã quy tập đưa về nước 4.763 hài cốt liệt sĩ; riêng mùa khô 2009-2010, ta đã cất bốc được 155 hài cốt.

Phát biểu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, tôi nêu rõ: Là những người lính đã từng sống và chiến đấu làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, chung ta có may mắn còn được sống và trở về, trong khi nhiều đồng chí, đồng đội đã phải hi sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, hạnh phúc của nhân dân bạn, đã không cùng chúng ta trở về Tổ quốc trong ngày toàn thắng. Bằng cố gắng cao nhất của mình, chúng ta đã đưa được nhiều hài cốt liệt sĩ trở về đoàn tụ với gia đình; tuy vậy, vẫn còn một phần số lượng hài cốt liệt sĩ Việt Nam nằm trên đất bạn. Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ còn lại, bằng trách nhiệm và tình cảm của mình, chúng ta phải tổ chức giáo dục tốt cho từng cán bộ, chiến sĩ các đội K hiểu sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ này, đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, một việc làm thể hiện rõ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các cơ quan chức năng của Quân khu, Ban Chuyên trách của Quân khu và các tỉnh, các đội K cần mở rộng thông tin đến các cơ quan, các tổ chức, mọi người dân của ta và bạn, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, quân đội và nhân dân bạn, nâng cao hiệu quả quy tập mộ liệt sĩ, hoàn thành xuất sắc kế hoạch nhiệm vụ quan trọng này. Về phía Quân khu, tôi đề xuất với các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tập trung tăng cường hoạt động đối ngoại quân sự với Quân đội Hoàng gia Campuchia để bạn tạo điều kiện thuận lợi cho ta thực hiện tốt kế hoạch tiếp tục tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ Việt Nam về nước.

Được phép của Bộ Quốc phòng, thực hiện chủ trương của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, hằng năm Quân khu cử nhiều đoàn đại biểu sang thăm hữu nghị, trao đổi kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang giữa Quân khu 9 và Quân khu 3, Quân khu 5, Quân khu đặc biệt của bạn. Những ngày lễ tết, những ngày kỷ niệm hoạt động truyền thống của Quân khu, ta cũng mời các quân khu bạn sang thăm và có nhiều hoạt động giao lưu và kết nghĩa để tăng cường hiểu biết, đoàn kết giữa giữa lực lượng vũ trang ta và bạn. Hằng năm; Quân khu dành ngân sách, quỹ vốn hàng tỷ đồng giúp bạn xóa đói giảm nghèo, xây dựng hạ tầng cơ sở, kho tàng, doanh trại, thao trường, bãi tập... phục vụ cho việc nâng cao đời sống, chất lượng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tôi tích cực chỉ đạo cho Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, nhất là các tỉnh biên giới An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, vừa đẩy mạnh hoạt động đối ngoại quân sự, vừa tích cực hướng dẫn, phát triển ngoại giao nhân dân, thắt chặt mối quan hệ đoàn kết truyền thống quân dân hai nước Việt Nam - Campuchia trên tuyến biên giới ngày càng sâu sắc, cùng nhau chăm lo xây dựng cuộc sống hòa bình, hữu nghị bền chặt, chống mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Vì vậy, nhiều năm qua, về cơ bản, lãnh đạo các địa phương của bạn với Quân khu 9 và các tỉnh bảo đảm được sự tin cậy, đoàn kết, hữu nghị; đây là nhân tố cơ bản đó xây dựng tình đoàn kết; hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, là cơ sở quan trọng để duy trì tuyến biên giới hòa bình, ổn định và phát triển.


(1) Các đội công tác làm nhiệm vụ tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ Việt Nam ở Campuchia về nước.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:10:47 am
Giữa năm 2010, toàn quân thực hiện Chỉ thị số 917/1999/CT-QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Quân khu (tháng 11-2001) về “Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh”, ở Quân khu 9 việc chấp hành kỷ luật tại cơ quan, đơn vị tuy đã có tiến bộ nhưng chưa thực sự vững chắc; việc xây dựng chính quy hóa còn có mặt hạn chế. Để nâng cao hiệu quả cuộc vận động này, tạo nên những chuyển biến mới trong cơ quan, đơn vị, thiết thực hướng tới chào mừng 65 năm ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu (10-12-1945 - 10-12-2010), tôi đề xuất với các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tiến hành Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Quân khu về “Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh”. Phát biểu chỉ đạo hội nghị, thay mặt Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, tôi khẳng định; “Gần 10 năm qua, thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nghị quyết của Đảng ủy Quân khu, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã có quyết tâm cao, có nhiều chủ trương, giải pháp sáng tạo trong quán triệt và triển khai cuộc vận động này. Do vậy, phong trào xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đạt được nhiều kết quả khá toàn diện. Tuy vậy, trong quá trình quán triệt và triển khai còn nổi lên một số mặt hạn chế là: còn có đơn vị chưa kết hợp tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với giáo dục thường xuyên, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; nhiệm vụ xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật tuy có chuyển biến nhưng chưa vững chắc”.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động này nhằm tạo nên những chuyển biến mới trong mỗi cơ quan, đơn vị, thiết thực chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu lần thứ VIII và kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần làm tốt một số giải pháp cơ bản sau: Phải tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, chiến sĩ; trên cơ sở kết quả tổng kết ở cấp mình, có chủ trương lãnh đạo, xây dựng kế hoạch phấn đấu, xác định rõ thời gian, mục tiêu phấn đấu và các giải pháp cụ thể, trong đó phải gắn việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng đội ngũ đảng viên. Đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng, trong đó lấy nội dung, mục tiêu của các cuộc vận động lớn như “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Ngành hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, Cuộc vận động 50 trong lực lượng vũ trang về “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”... làm nội dung, mục tiêu của phong trào thi đua quyết thắng trong các giai đoạn.

Thực hiện chủ trương, giải pháp kịp thời đúng đắn của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, lực lượng vũ trang Quân khu đã đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng sôi nổi, rộng khắp và mạnh mẽ, có nhiều chuyển biến trên các mặt như chấp hành kỷ luật, xây dựng chính quy, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, cải thiện đời sống... góp phần vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng ủy Quân khu về “Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh”. Đây thực sự là những thành tích nổi trội, xuất sắc, có nhiều ý nghĩa của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu lần thứ VIII nhiệm kỳ 2010-2015 và 65 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân khu.

Những tiến bộ của lực lượng vũ trang Quân khu trong cuộc vận động xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện làm cho tôi và các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu rất phấn khởi, tự hào về bản lĩnh, trách nhiệm chính trị cao của mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu. Trong điều kiện cuộc sống gia đình có nhiều khó khăn, vất vả, hậu phương cùng xã hội đang trải qua những tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới; mặt trái cơ chế thị trường ảnh hưởng tới nhiều một của đời sống xã hội, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của mọi cán bộ, chiến sĩ. Vượt qua tất cả, trước yêu cầu nhiệm vụ. khi được động viên trách nhiệm chính trị, từng cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu đã nhanh chóng lao vào làm việc, rèn luyện với tinh thần tự nguyện, tự giác cao, tạo ra hiệu quả lớn trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng cơ quan, đơn vị. Tôi thiết nghĩ, là người lãnh đạo, chỉ huy, phải nhạy bén. linh hoạt, bám và nắm chắc tình hình, kịp thời có chủ trương đúng, trúng, có những giải pháp sáng tạo; đó sẽ là chìa khóa quan trọng để tập hợp sức mạnh của quân dân vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Là người lãnh đạo, chỉ huy của Quân khu trong thời kỳ đổi mới, tôi rất tự hào và ý thức sâu sắc rằng, Quân khu 9 là một trong những địa bàn chiến lược rất quan trọng trong các cuộc chiến tranh cách mạng, bảo vệ Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đã có những đóng góp xứng đáng sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long giàu truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng, nhưng khi bước vào thời kỳ đổi mới, cũng gặp không ít khó khăn, thử thách cả về khách quan lẫn chủ quan: hạ tầng cơ sở phát triển chậm; đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ còn nhiều khó khăn, thiếu thốn; là địa bàn có nhiều dân tộc, tôn giáo, có những yếu tố do lịch sử để lại về đất đai, chủ quyền biên giới trên bộ, trên biển đối với nước bạn Campuchia, dễ bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, tuyên truyền, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất dân tộc, gây ra ảnh hưởng lớn đối với sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... Làm thế nào để tập hợp mọi lực lượng, phát huy mọi tiềm năng, lợi thế trong vùng để thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện? tôi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; lực lượng vũ trang Quân khu phải thực sự gắn bó với dân, không ngừng xây dựng, phát triển lòng yêu mến, tin cậy, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân. Đó là mối quan hệ truyền thống, mang ý nghĩa sống còn của Quân đội ta, của lực lượng vũ trang Quân khu 9 trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào. Vì vậy, tôi thường xuyên trao đổi, nhấn mạnh chú trọng đến vấn đề này với các anh trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, nhất là với các đồng chí bí thư đảng ủy, chính ủy. Lực lượng vũ trang Quân khu tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 355/CT-ĐUQK của Đảng ủy Quân khu về “Đổi mới và tăng cường công tác dân vận trong thời kỳ mới”, đưa công tác dân vận đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tích cực tham gia đóng góp ý kiến với lãnh đạo, chính quyền các địa phương trên địa bàn, các kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; các đơn vị đổi mới hoạt động công tác dân vận.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:11:27 am
Nếu trước đây, cùng với việc hành quân huấn luyện dã ngoại và làm công tác vận động quần chúng, các đơn vị chủ yếu là lao động giúp dân, thì nay tập trung hoạt động góp phần củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước đây, bộ đội đến với dân tổ chức giúp dân sửa nhà cửa, thu hoạch mùa màng, nay hướng dẫn, giúp đỡ dân tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Trong số 50 đội công tác của lực lượng vũ trang Quân khu, nhiều đội đã làm tốt nhiệm vụ này, được dân tín nhiệm, lãnh đạo, chính quyền các cấp đánh giá cao. Đặc biệt, trong những năm qua, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, thiên tai, lũ lụt, đã để lại những hình ảnh đẹp về phẩm chất “Anh bộ đội Cụ Hồ” trong thời bình. Quân khu đã trích quỹ hàng chục tỷ đồng và cử hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ về các địa bàn bị thiên tai, dịch bệnh khắc phục hậu quả, xây dựng hàng ngàn căn nhà đại đoàn kết, góp phần tích cực thực hiện tốt phong trào “Xóa đói giảm nghèo”, “Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, khắc sâu tình cảm yêu mến của nhân dân, tin cậy của lãnh đạo, chính quyền các địa phương đối với Quân đội, với lực lượng vũ trang Quân khu, góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc.

Trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ, cứu nước, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia; khi đi công tác về các địa phương, tôi nhận thấy, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ sau khi hoàn thành nhiệm vụ với Quân đội, với Tổ quốc, trở về địa phương sinh sống, lao động sản xuất gặp rất nhiều khó khăn, nhất là về nhà ở. Do đó, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập lực lượng vũ trang Quân khu, tôi đề xuất với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu phát động sâu rộng trong và ngoài Quân đội cuộc vận động “Quyên góp xây dựng 700 đến 1.000 căn nhà tình đồng đội”. Cuộc vận động đã nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi trong Quân đội, các địa phương, các nhà doanh nghiệp... Đến đầu năm 2011, tổng số tiền quyên góp được lên đến gần 45 tỷ đồng, đủ xây 1.318 căn nhà tình đồng đội. Phấn khởi trước kết quả trên, tôi tiếp tục đề xuất với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tiếp tục phát động duy trì sâu rộng hơn nữa cuộc vận động mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc này. Đây thực sự là một việc làm thiết thực, một nghĩa cử mang đậm truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, của Quân đội và lực lượng vũ trang Quân khu; một món quà sâu đậm nghĩa tình đồng đội nhằm giúp đỡ những đồng chí, đồng đội có những hi sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Quân đội ta nói chung và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nói riêng.

Trong những năm tháng chiến đấu, học tập, công tác và xa nhà, tôi đau đáu một nỗi niềm thương nhớ quê hương Ba Tri (Bến Tre), Đầm Dơi (Cà Mau), những mảnh đất nơi tôi sinh ra và đào luyện tôi trưởng thành bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, theo chân các anh giải phóng quân giải phóng quê hương, đất nước. Vì vậy, sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mặc dù bận nhiều việc, được sự đồng ý của ba má, tôi đã về quê Ba Tri (Bến Tre) để tìm gặp, thăm hỏi họ hàng sau gần 20 năm xa cách. Trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, mảnh đất quê hương tôi cùng như bao làng quê Việt Nam đã bị tàn phá và đảo lộn tất cả, cha xa con, vợ xa chồng, anh em họ mạc tứ tán mỗi người một phương. Đến nay, đất nước hòa bình, thống nhất, hòa trong niềm vui tột cùng của những ngày toàn thắng, mỗi gia đình người Việt Nam từ Bắc đến Nam đều hồi hộp, sung sướng, ngóng tin những đứa con trung hiếu từ chiến trường trở về, những người thân lưu tán từ các địa phương khác nay trở về quê hương tìm lại ông bà, chú bác, họ hàng thân tộc; gia đình tôi cũng hòa trong không khí chung đó của cả nước.

Từ Cà Mau, tôi bắt xe đò về Bến Tre, suốt một ngày vất vả, phải ba lần chuyển phương tiện, từ xe đò chuyển sang xe lôi, xe đạp ôm, tôi mới về đến Giồng Trôm. Đoạn từ Giồng Trôm về đến Ba Tri, tôi phải đi bộ suốt một ngày đêm mới về đến Ba Tri. Khó khăn, vất vả là thế, phần đang tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, phần được về thăm lại ông bà, chú bác, được sống lại những kỷ niệm vui buồn thời ấu thơ làm cho tôi phấn chấn quên cả mệt nhọc. Đặt chân tới mảnh đất đã sinh ra mình, quan sát, ngắm nhìn những cánh đồng, đường sá, phố phường từ Cà Mau đến Bến Tre xơ xác tiêu điều; trên gương mặt mỗi người dân sau nụ cười tươi tắn rạng rỡ của ngày toàn thắng, là những nỗi buồn vì không đón được những người thân sau chiến thắng trở về đoàn tụ với gia đình, tôi cũng hiểu sâu sắc hơn cái giá phải trả của dân tộc, của đất nước cho chiến tranh để có hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Về đến quê, tôi háo hức được gặp những người thân sau bao năm xa cách, song tận mắt chứng kiến cảnh nghèẻo nàn, thiếu thốn, nhà tranh vách lá của một mảnh đất rất trù phú, người dân cần cù, sáng tạo trong lao động, nay đang hứng chịu biết bao hậu quả của chiến tranh. Chính đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đã gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa này, làm cho đất nước bị chia cắt, người dân bị đói khổ, mất mát, hi sinh. Là người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu với kẻ thù, sớm kết thúc chiến tranh, tôi càng hiểu thấu đáo hơn giá trị to lớn của “hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc”, đúng như lời dạy của Bác: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là niềm tin, là sức mạnh cho thế hệ thanh niên chúng tôi, thế hệ chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, sẵn sàng hi sinh, lập công xuất sắc.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:12:07 am
Sau gần 20 năm xa quê, quang cảnh đã thay đổi nhiều vì chiến tranh. Theo dự định, về đến quê tôi tìm gặp gia đình ông chú Lê Văn Trinh, tìm mãi mà không gặp được ông chú, tôi mạnh bạo vào một nhà dân để hỏi thăm, không ngờ gặp ngay cậu Tư Sử, cậu trước là cán bộ cách mạng tham gia kháng chiến bị thương, nay là thương binh. Trông thấy tôi, cậu không nhận ra, gặng hỏi: “Mày là ai, ở đâu về?”. Nghe tôi giới thiệu về mình, cậu ôm chầm lấy tôi không nói nên lời. Lặng đi một hồi lâu trong sự xúc động, nghẹn ngào, mừng vui khôn xiết, cậu nói: “Con của bác Dung (tên của mẹ tôi) đã về, thằng Quý (Ba Hổ) đã lớn ngần này, lại là chiến sĩ quân giải phóng nữa, mừng quá, tự hào lắm!”.

Sau khi hỏi thăm tình hình ba má tôi, tình hình công tác của tôi, ông yêu cầu tôi nằm nghỉ và lắng lặng ra vườn bắt con gà mái đang nuôi con - một trong số tài sản lớn nhất của gia đình sau chiến tranh để chiêu đãi tôi. Thực lòng nhìn đàn gà con chạy lăng xăng, ngơ ngác trong vườn, nơi này một đám, nơi kia một đám đi tìm mẹ, tôi không thể nào nuốt trôi được bát cháo gà thơm phức giữa lúc bụng đói cồn cào sau mấy ngày không có hạt cơm trong bụng.

Cơm cháo xong, cậu Tư Sử đưa tôi sang gặp ông chú. Nghe cậu Chín la lên từ đầu ngõ, nhìn thấy tôi, đôi mắt ông chú nhòe đi, nước mắt trào ra trên khuôn mặt đầy xúc động của ông. Biết ông chú rất cảm động, sung sướng khi gặp tôi và mong muốn biết tin tức gia đình, tôi từ tốn kể hết mọi chuyện cho ông chú nghe, từ chuyện gia đình, chuyện chiến đấu, công tác của tôi. Nghe xong, ông mừng lắm, trong xúc động, tự hào ông phán một câu chắc nịch: “Con cháu họ Trần Lê ở Ba Tri, Bến Tre phải như vậy chứ!”.

Năm 1980, tôi là cán bộ Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 9, Sư đoàn 339 thuộc Quân đoàn 4, được trên cho đi học Trường Quân chính, nhân dịp nhà trường cho nghỉ hè, xin phép ba mẹ, tôi lại về Bến Tre thăm ông chú. Trong thời gian ở nhà ông, tôi được cùng ông đi chặt trúc bán lấy tiền đi học và đi tìm bà con dòng họ. Hằng tuần, tôi được ông chú đưa đi giới thiệu hết nhà này sang nhà khác. Phần lớn bà con dòng họ của tôi ở Ba Tri đều tham gia cách mạng, gia cảnh nghèo nàn, song tình cảm thì lúc nào cũng đong đầy, nhất là đối với những đứa con, cháu đi xa được quý mến yêu thương hơn nhiều.

Trong lần thứ hai về thăm quê, tôi đã tìm được cậu Ba, dáng cậu cao to, giọng nói sang sảng. Cậu hỏi tôi: “Giải phóng xong, con về thăm ba má chưa?”, cậu hỏi về cái chết của cậu Năm Quang và nhắc tôi khi nào về nhà nhớ ra nghĩa trang thắp hương cho cậu Năm và sang nhà ngoại thắp hộ cậu nén nhang trước bàn thờ ông ngoại. Từ đó, hằng năm, khi có điều kiện, tôi thường dành thời gian về thăm quê Ba Tri, lần nào cũng để lại trong tôi những kỷ niệm gần gũi, thân thương vô cùng xúc động.

Trong những năm 1996-1997, tôi đảm nhiệm Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 8, đóng quân ở Đồng Tâm (Tiền Giang), do đó tôi có điều kiện về Bến Tre nhiều hơn. Trong gia tộc còn có người bà dì con thứ sáu của bà ngoại, năm đó đã hơn 90 tuổi song vẫn còn minh mẫn lắm, bà dì thương tôi vô cùng. Nhà bà và nhà bên cạnh giống nhau lắm, tôi về thăm vài ba lần mà lần nào cũng lộn nhà. Thấy xe tôi về, bà dì nhận ra ngay và đốc thúc các em phải chạy ra ngay “đón Ba Hổ, dừng để nó lộn nhà, tội nó lắm”.

Một bữa, tôi về họp Đảng ủy Quân khu thì nhận được điện của đứa em: “Bà muốn gặp anh vì nhớ anh lắm, anh về ngay!”. Cuộc họp kéo dài hơn dự kiến, đến 8 giờ tối tôi mới về đến nhà bà, nhưng 6 giờ chiều bà dì đã qua đời. Qua các em kể lại, trước lúc lâm chung, bà tỉnh táo lạ thường, luôn nhắc đến tôi và mong được gặp tôi. Khi các em bảo gọi điện kêu tôi về, bà ngăn lại và bảo: “Thôi, nó nhiều việc lắm, để nó tập trung lo việc cho đơn vị...”. Nói xong bà ra đi; trong lòng mong muốn được gặp đứa cháu yêu mà không gặp được. Tôi buồn và thương nhớ bà vô cùng.

Giai đoạn làm Tư lệnh Quân khu, hằng năm khi có điều kiện thuận lợi, tôi đều về thăm Ba Tri, trong những chuyến thăm ấy, ngoài việc viếng thăm các cô, chú, cậu và anh em họ mạc, tôi đều dành thời gian làm việc với lãnh đạo, chính quyền của huyện hoặc xã để nắm bắt tình hình phát triển kinh tế - xã hội, kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... Đặc biệt, tôi rất quan tâm tới việc thực hiện các chính sách xã hội, nhất là các phong trào “Xóa đói giảm nghèo”, “Nông dân sản xuất giỏi”... của các xã và huyện. Bằng những kinh nghiệm, kiến thức của mình, qua nắm bắt thực tiễn ở các địa phương làm ăn giỏi, tôi tích cực góp nhiều ý kiến với lãnh đạo, chính quyền, bàn cách xóa đói giảm nghèo, phát huy thế mạnh của địa phương, dựa vào dân, đoàn kết, thực hành dân chủ, vươn lên làm giàu chính đáng, xứng đáng với truyền thống đơn vị anh hùng. Là đứa con của quê hương Ba Tri, tôi vô cùng phấn khởi, trên con đường đổi mới, Ba Tri đã chuyển mình thực sự. Năm 1996, mảnh đất quê nhà đã ghi một sự kiện lịch sử trên con đường phát triển, toàn huyện đã thoát nghèo một cách vững chắc.

Về Ba Tri sau gần 30 năm đổi mới, thấy nhà cửa khang trang, làng quê trù phú, ruộng vườn tốt tươi, thị trấn, thị tứ đông đúc, đường nông thôn được bê tông hóa phẳng lì, liên thôn, liên xã, các hộ gia đình đều sáng ánh điện... mới thấy hết được thành quả của sự nghiệp đổi mới, cũng như sự vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, đất nước sau chiến tranh, trong đó có Ba Tri, Bến Tre anh hùng.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:12:24 am
So với nhiều địa phương khác, xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi - mảnh đất nuôi dưỡng, đùm bọc tôi trưởng thành, là bệ phóng đưa tôi vào cuộc kháng chiến, trở thành chiến sĩ du kích, anh giải phóng quân, còn nhiều khó khăn vất vả; điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở yếu kém, các mặt bằng chung về kinh tế, văn hóa, xã hội so với nhiều địa phương còn bị tụt hậu. Phát huy truyền thống kiên cường trong những năm kháng chiến, lãnh đạo, chính quyền và nhân dân các xã, huyện nhà đã có nhiều nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, vươn lên mạnh mẽ, đạt được nhiều mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh vững chắc trong thời kỳ đổi mới. Mỗi lần về thăm quê, bên cạnh việc góp ý với lãnh đạo, chính quyền địa phương, trong khả năng hiện có, kết hợp vận động tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau, tôi đã góp một phần vật chất gửi về hỗ trợ quê hương xây nhà tình thương, tình đồng đội, bắc cầu nối con đường liên thôn, liên xã; đầu tư xây dựng trạm xá, mua sắm trang thiết bị y tế cho xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa kháng chiến cũ. Đó là những món quà nhỏ bé tri ân của những đứa con được bà con, cô bác đùm bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ trong những năm tháng kháng chiến, chiến đấu một mất một còn với kẻ thù. Đó là sự đền ơn, đáp nghĩa sâu nặng của Quân đội, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đối với mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, có vai trò to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, kháng chiến để miền Nam có thể tồn tại và được giải phóng qua hai cuộc kháng chiến vẻ vang chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước.

Năm tháng sẽ qua đi, theo quy luật tất yếu của tạo hóa, cuộc đời của mỗi con người sẽ khép lại. Nhìn lại hơn bốn thập kỷ chiến đấu dưới lá cờ vinh quang của Đảng, tôi vô cùng xúc động, tự hào. Gần sáu năm chiến đấu trong lực lượng du kích xã Trần Phán anh hùng là một trong giai đoạn ác liệt, đầy gian khổ, thử thách, hi sinh, song cũng rất vẻ vang. Được sự giáo dục, rèn luyện của các cô, các chú, lớp cán bộ cách mạng đi trước, được sống và hoạt động trong sự yêu thương, ủng hộ của cán bộ, chiến sĩ Đội du kích xã Trần Phán, tôi không ngừng trưởng thành, chiến đấu, chỉ huy chiến đấu tiêu diệt địch, góp phần giải phóng quê hương, làm tròn sứ mệnh, trọng trách thế hệ thanh niên mang tên Bác. Xin thắp nén nhang thơm kính viếng hương hồn các anh chị, những cán bộ, chiến sĩ du kích xã Trần Phán đã chiến đấu dũng cảm và hi sinh anh dũng vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang cà dân tộc. Xin tỏ lòng biết ơn các cô, các chú, các anh, các chị, các em, những người đồng chí đã góp công sức, mồ hôi, xương máu của mình cho lực lượng vũ trang xã Trần Phán càng chiến đấu càng trưởng thành, lập nhiều chiến công xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau nhiều lần họp mặt và cất công tìm tòi, tôi cùng với các anh lãnh đạo, chỉ huy Đội du kích xã Trần Phán qua các thời kỳ đã tích cực truy tìm, tổng kết cán bộ, chiến sĩ du kích xã Trần Phán trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đề xuất trên có chính sách thỏa đáng; đồng thời trong khả năng của mình, vận động tài trợ xây dựng một số căn nhà “Tình đồng đội” cho cán bộ, chiến sĩ quá khó khăn. Đó là một tình cảm, tấm lòng tri ân của tôi với Đội du kích xã Trần Phán, nơi rèn luyện tôi trong những bước đi đầu tiên của cuộc đời cách mạng, từ đó mà trưởng thành, phát triển.

Sau nhiều lần tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng đã tìm được nơi cư trú của hai thành viên còn lại của tổ luồn sâu trong trận Đôn Phục (1978), đó là Trần Huy Du và Lương Bằng. Do gia đình Du hiện nay còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, thông qua Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cà Mau, tôi đã chỉ đạo Ban Chỉ huy Quân sự huyện xây cất một căn nhà “Tình đồng đội” tặng cho Du và gia đình. Đó là sự đền đáp của Quân đội đối với sự hi sinh cống hiến của anh với đất nước, cùng là món quà của những người lính cùng nhau ra trận, không chỉ cùng nhau sống chết với kẻ thù khi đất nước có chiến tranh mà còn sống nghĩa tình khi đất nước hòa bình.

Tôi rất tự hào về mảnh đất kiên cường này, tuy còn nhiều khó khăn, vất vả, song vẫn một lòng trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng vào con tàu đổi mới của Việt Nam, mà Cà Mau là đất mũi, dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ vươn ra khơi xa, hội nhập với cộng đồng quốc tế, tiếp tục giành nhiều thành tựu to lớn hơn trên con đường hội nhập và phát triển.

Tháng 6 năm 2011, trên quyết định giao tôi nhiệm vụ đảm trách chức vụ Phó Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ. Tôi nhanh chóng bàn giao chức Tư lệnh Quân khu cho đồng chí Nguyễn Phương Nam - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu ra nhận nhiệm vụ mới. Trước những diễn biến phức tạp trên ba địa bàn chiến lược (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ). Đảng và Nhà nước quyết định thành lập các Ban Chỉ đạo, do trực tiếp một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị (hoặc Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương) làm Trưởng ban, cùng một số đồng chí cán bộ là bí thư (phó bí thư), chủ tịch (phó chủ tịch) có uy tín và kinh nghiệm của các tỉnh trên địa bàn được điều về. Ban có nhiệm vụ nắm chắc tình hình, vừa làm tốt công tác tham mưu cho Trung ương, vừa giúp Trung ương theo dõi, chỉ đạo các tỉnh, quân khu liên kết thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Nguyên là Tư lệnh Quân khu. tôi có điều kiện hiểu và nắm bắt tình hình các mặt, nhất là về quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Tiếp tục phát huy kinh nghiệm, hiểu biết của mình, tôi cùng các anh trong Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tích cực hoạt động nắm bắt tình hình, phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo, chính quyền các tỉnh và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 thực hiện nhiều giải pháp liên kết vùng, cùng nhau thống nhất hành động trong xử lý các điểm nóng, chống biến đổi khí hậu, tranh thủ vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào các địa bàn, góp phần cho Đồng bằng sông Cửu Long ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; quốc phòng, an ninh được tăng cường, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:13:10 am
KẾT LUẬN
   
Gần nửa thế kỷ, được Đảng dẫn đường chỉ lối, Quân đội rèn luyện, thử thách, nhân dân nuôi dưỡng đùm bọc, đồng chí, đồng đội yêu thương, tin cậy, gia đình dạy bảo, động viên, tôi không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh, có bước phát triển, trưởng thành từ một thanh niên đi làm thuê trở thành một chiến sĩ du kích của một đơn vị anh hùng, từ một cán bộ đại đội địa phương quân trở thành Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 9, có những đóng góp nhỏ bé vào các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia và thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới.

Thời gian vội vã trôi đi, cũng như bao đồng chí. đồng đội của tôi cùng thế hệ đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời, tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, hoàn thành ước mơ, hoài bão, trọng trách của một thế hệ thanh niên phấn đấu hết sức mình cho độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, tạo thời cơ đặt nền tảng cho đất nước nâng cao vị thế trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển. Theo quy luật, bất kỳ dân tộc nào cũng vậy, con đường phát triển là sự kế tiếp nhau của các thế hệ thanh niên. Trong dòng chảy ấy của lịch sử, tôi đang từng bước “khép lại” cuộc đời hoạt động cách mạng của mình với một niềm tự hào sâu sắc về đất nước, dân tộc. quê hương, lực lượng vũ trang Quân khu với một niềm tin tuyệt đối vào thế hệ trẻ, thế hệ kế tiếp ấy sẽ tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của cha anh, bằng bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam sẽ đưa cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như con đường Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.

Ngẫm nghĩ con đường chiến đấu, phát triển và trưởng thành của cuộc đời mình, tôi nhận thấy, điều quan trọng đầu tiên là phải chọn đúng đắn, chính xác con đường đi. Nếu chọn được con đường đúng đắn, phù hợp chúng ta sẽ phát huy tất cả nội lực của bản thân, cống hiến nhiều nhất cho đất nước. Ngày nay, thế hệ trẻ khi trưởng thành bước vào đời có nhiều con đường đã lựa chọn; ở thế hệ chúng tôi, nhất là lớp thanh niên miền Nam sống trong vùng địch chiếm chỉ có hai con đường, đó là: đi theo cách mạng, hoặc đi vào hàng ngũ địch làm ngụy quân, ngụy quyền, đi ngược lại con đường của dân tộc đang đi. Tôi rất may mắn được gia đình giáo dục, định hướng từ rất sớm; được các cô, chú dìu dắt, giúp đỡ nên đã sớm xác định đúng con đường đi cho cuộc đời mình.

Cuộc sống vốn đã không bình yên, phẳng lặng, cuộc sống chiến đấu sinh tử một mất một còn với kẻ thù càng tiềm ẩn vô vàn những biến động của những khó khăn, thử thách, gian khổ, hi sinh... Vì vậy, để tồn tại, trưởng thành và phát triển, thế hệ chúng tôi phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, đó là con đường, mục tiêu mà mình đã chọn và nguyện phấn đấu, sẵn sàng hi sinh trọn vẹn cuộc đời mình. Khi đã xác định rõ mục tiêu, lý tưởng ấy, chúng ta sẽ bình tĩnh, tự tin, chủ động khắc phục mọi khó khăn, thử thách, dành hết tâm huyết, tuổi trẻ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đảng, của nhân dân, không hề so đo, tính toán. Ai đã từng có mặt trong lực lượng Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, nhất là làm nhiệm vụ chiến đấu trên biên giới Campuchia - Thái Lan thì không thể quên được những trận sốt rét rừng, đái huyết cầu tố, mà chúng tôi gọi vui là “hết đường về quê mẹ”. Từ năm 1982 đến 1985, tôi đã trải qua năm lần sốt rét, đái huyết cầu tố: năm 1982 hai lần; năm 1988 và 1984, mỗi năm một lần, đến năm 1985 khi đang chỉ huy bộ đội đánh vào căn cứ Cácđamon, trung tâm đầu não chỉ huy của Pôn Pốt bị một lần và cũng là lần bị nặng nhất, Khi bị sốt rét múc ấy, sức mệnh nào đã làm tôi vẫn đủ tỉnh táo, dũng khí bám trận địa, chỉ huy bộ đội chiến đấu? Đó chính 1à bản chất, truyền thống “Anh bộ đội Cụ Hồ” mà linh hồn của nó chính là bản lĩnh chính trị, trách nhiệm chính trị của một quân nhân cách mạng trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân.

Sống, trưởng thành trong vùng chiếm đóng của địch, việc học văn hóa của tôi thiếu cơ bản, bị ngắt quãng liên tục vì chiến tranh, do yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu, tôi vừa chiến đấu vừa học tập. Trong hoàn cảnh ấy, một số anh em trực tiếp tham gia chiến đấu thường nghĩ sẽ chấp nhận sự hi sinh, mất mát nên ít nghĩ hoặc chểnh mảng việc học hành. Song, tôi nghĩ, bất kỳ môi trường nào, thực hiện nhiệm vụ gì, ở đâu đều phải học. phải dành thời gian cho việc học hành, phải nhận thức nhiệm vụ học tập là một khái niệm rộng không phải theo khái niệm hẹp (chỉ đến lớp, có giáo viên hướng dẫn mới là học hành) mà học mọi lúc mọi nơi. học trong sách vở, học từ đồng chí, đồng đội; từ nhận thức đó, tôi đã cố gắng sắp xếp một cách hợp lý nhất có thế để gắn kết nhiệm vụ công tác, chiến đấu với nhiệm vụ học tập, đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi trên từng nhiệm vụ. chức trách được giao.

Hơn nửa đời người, sống, chiến đấu, trải qua hàng trăm trận đánh vào sinh ra tử, nhiều lần cái chết đã cận kể; nhờ đồng chí, đồng đội cưu mang, nhân dân đùm bọc, che chở, bảo vệ, mạng sống mới vẹn toàn. Vì vậy. trong chiến đấu, công tác và học tập, tôi đều tâm niệm phải gắng sức gấp hai, gấp ba, không chỉ cho bản thân mà còn cho cả đồng bào, đồng chí đã phải hi sinh cho mình, cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc và Đảng; phải gắn bó với tập thể, gắn bó với dân mới có thể tạo ra sức mạnh. Đó vừa là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, vừa là bài học thực tiễn sinh động có ý nghĩa sống còn đối với Quân đội ta nói chung và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nói riêng. Đốt với tôi đó là con đường sống, tồn tại, phát triển, trưởng thành của cả cuộc đời mình.

Nay đặt bút viết về hơn bốn thập kỳ làm người lính chiến đấu ở phía trước, dưới lá cờ vinh quang của Đảng và truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội ta, từ sâu tận đáy lòng tôi, chân thành cảm ơn Đảng ủy, Bộ Tư lệnh và toàn thể cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9; cảm ơn lãnh đạo, chính quyền và nhân dân các tỉnh trên địa bàn, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, đã tận tình giúp đỡ, ủng hộ, động viên tôi hoàn thành các nhiệm vụ được giao trên con đường phấn đấu của mình; cảm ơn gia đình, dòng họ, bà con thân tộc, ba má tôi và hai mảnh đất quê (Ba Tri, Đầm Dơi), không chỉ cỏ công sinh thành, nuôi dạy tôi mà còn là nền tảng vật chất, tinh thần giúp tôi đủ dũng khí phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sình, từng bước trưởng thành và tiến bộ; cảm ơn các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9, đơn vị ba lần đạt danh hiệu Anh hùng, nơi tôi đã cùng anh em đồng chí anh dũng vượt qua muôn vàn thử thách, gian khổ, hi sinh, chiến đấu kiên cường, dũng cảm, lập công xuất sắc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và 10 năm chiến đấu giúp bạn ở Campuchia. Ngày nay, tiếp tục phát huy phẩm chất “Trung đoàn sơn cước”, truyền thống “có lệnh là đi, đã đi là đến, đã đánh là thắng”, xây dựng Trung đoàn vững mạnh, xuất sắc trong thời kỳ mới.

Phần kết của cuốn sách này, tôi muốn dành tình cảm và lòng tin yêu, kính trọng sâu sắc nhất đến các vị tướng “chiến trường” tiêu biểu xuất sắc của Quân đội ta, đó là Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia; Thượng tướng Lê Khả Phiêu - nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Chính ủy, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9. Hai vị tướng thường xuyên có mặt ở chiến trường trong suốt 10 năm chiến đấu giúp bạn ở Campuchia; ở những lúc khó khăn, gian khổ nhất, đã kịp thời động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi và đơn vị chiến đấu chiến thắng vẻ vang; quan tâm, theo dõi, giúp đỡ, ủng hộ tôi rèn luyện, học tập, công tác và trưởng thành trên con đường phấn đấu sau này.

Và trên tất cả, cuốn hồi ký này cũng chính là lời tri ân sâu sắc, chân thành nhất của tôi đối với các anh hùng, liệt sĩ, đồng chí, đồng đội đã anh dũng hi sinh trong các cuộc chiến đấu với kẻ thù. Xương máu của các anh, các em đổ xuống cho Tổ quốc được hòa bình, độc lập, thống nhất, cho dân tộc ta ngẩng cao đầu, đoàn kết triệu người như một, tạo ra nội lực lớn kết hợp với ngoại lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, trên con đường hội nhập và phát triển. Công ơn đó - chúng tôi đời đời ghi tạc.


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:14:27 am
PHỤ LỤC

KHEN THƯỞNG

- Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
- 2 Huân chương Quân công hạng Ba
- 4 Huân chương Chiến công hạng Nhất
- 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì
- 3 Huân chương Chiến công hạng Ba
- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba
- Huân chương Ăng Co
- Huy chương Ăng Co
- Huy chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba
- Huân chương Quân kỳ quyết thắng
- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
Và nhiều phần thưởng, danh hiệu thi đua khác.

(https://i.imgur.com/cDw5F5H.jpg)

(https://i.imgur.com/EILhzch.jpg)


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:15:54 am
(https://i.imgur.com/bm2qp3u.jpg)

(https://i.imgur.com/WeLcAdv.jpg)

(https://i.imgur.com/xZQIQxG.jpg)

(https://i.imgur.com/GfDIt8c.jpg)

(https://i.imgur.com/cZHvctx.jpg)

(https://i.imgur.com/SfGXr30.jpg)

(https://i.imgur.com/GvQtgVt.jpg)

(https://i.imgur.com/i8KMmnU.jpg)


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:18:05 am
(https://i.imgur.com/YoMvmIL.jpg)

(https://i.imgur.com/edAisNS.jpg)

(https://i.imgur.com/nQQ9TBb.jpg)

(https://i.imgur.com/KDUMvRp.jpg)

(https://i.imgur.com/hjtDbIF.jpg)

(https://i.imgur.com/wgoiQsi.jpg)

(https://i.imgur.com/aPQhNRK.jpg)

(https://i.imgur.com/Lt8N6Su.jpg)


Tiêu đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước - trung tướng Trần Phi Hổ
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2022, 08:19:32 am
(https://i.imgur.com/NYe4zOI.jpg)

(https://i.imgur.com/8Ed5PIW.jpg)

(https://i.imgur.com/t7uTeFn.jpg)

(https://i.imgur.com/xVMSSeI.jpg)

(https://i.imgur.com/ijONp9J.jpg)