Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 19 Tháng Năm, 2022, 05:40:41 pm



Tiêu đề: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Năm, 2022, 05:40:41 pm
Tên sách: 50 năm QĐND Việt Nam
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 1995
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


50 NĂM
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

(BIÊN NIÊN SỰ KIỆN)



NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Hà Nội - 1995



 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày 22 tháng 12 năm 1994, Quân đội nhân dân Việt Nam vừa tròn 50 tuổi. Nửa thế kỷ xây dựng và liên tục chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân tổng khởi nghĩa vũ trang giành được chính quyền (tháng 8 năm 1945), tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), bảo vệ vững chắc Tổ quốc (từ 1975 đến nay).

Là một quân đội của dân, do dân và vì dân, có lịch sử xây dựng, chiến đấu và chiến thắng oanh liệt, một đội quân sản xuất và vận động quần chúng giỏi, Quân đội nhân dân Việt Nam được nhân dân tin yêu, khen tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành một hiện tượng của lịch sử Việt Nam hiện đại, một đối tượng nghiên cứu của khoa học quân sự và lịch sử quân sự, của khoa học xã hội và nhân văn.

Trong dịp kỷ niệm 50 ngày thành lập quân đội, cùng với việc tái bản (có sửa chữa, bổ sung) “Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam” tập 1 và tập II, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức biên soạn cuốn sách “50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Nội dung cuốn sách gồm ba phần:

1. Ghi chép theo thể biên niên những sự kiện chính trong lịch sử 50 năm của Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1994).

2. Lịch sử (tóm tắt) một số cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam.

3. Phụ lục những số liệu chính về xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chép lại lịch sử 50 năm của Quân đội nhân dân Việt Nam là một việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu, sưu tầm tư liệu. Quá trình biên soạn, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình, đầy trách nhiệm của nhiều cơ quan, đơn vị và nhiều nhà khoa học. Nhưng do trình độ của những người viết có hạn, do tư liệu chưa được sưu tầm đầy đủ, nhất là giai đoạn sau năm 1975, công trình không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được sự phê bình, bổ sung, đính chính tư liệu, sự kiện của các cơ quan, đơn vị, của bạn đọc trong và ngoài quân đội.

Nhân dịp cuốn sách “50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam” được xuất bản, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam trân trọng cám ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ của các Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội.


VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Năm, 2022, 06:02:37 pm

PHẦN THỨ NHẤT
BIÊN NIÊN SỰ KIỆN 50 NĂM
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
(1944-1994)


I

THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ KHÁNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

(1944-1954)


Từ năm 1930 - 1931 và trong những năm vận động cách mạng, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1939 - 1945), một số tổ chức vũ trang cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo đã ra đời. Đó là Tự vệ đỏ (còn gọi là tự vệ công nông) trong phong trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh; các đội du kích trong khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn (1940); các trung đội Cứu quốc quân và các đội du kích ở Cao - Bắc - Lạng (1941-1944), đội vũ trang Cao Bằng (1941), một số tổ chức vũ trang ở chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh), chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông Triều), chiến khu Vân (Lào Cai - Yên Bái), Đội tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu (Hà Nội)...



NĂM 1944

Tháng 12.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Toàn văn chỉ thị như sau:

“1. Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.

Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.

2. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.

3. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam.
Tháng 12 năm 1944
Hồ Chí Minh"1


22 tháng 12.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Đội gồm 34 chiến sĩ, có 34 khẩu súng các loại, biên chế thành ba tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo.

Đội trưởng: Hoàng Sâm.
Chính trị viên: Xích Thắng.

Quản lý: Văn Tiên (tức Lộc Văn Lùng). Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy tuyên bố thành lập Đội: “Nhiệm vụ mà Đoàn thể ủy thác cho chúng ta là một nhiệm vụ quan trọng và nặng nề. Chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, nhiệm vụ ấy có tính chất là một nhiệm vụ giao thời. Vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này... Theo chỉ thị của Đoàn thể, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, tôi xin tuyên bố: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập và hạ lệnh cho các đồng chí tiến lên con đường vũ trang tranh đấu...”2.

Tiếp đó, toàn Đội long trọng tuyên đọc Mười lời thề danh dự của Đội quân giải phóng Việt Nam.

“Chúng tôi, đội viên Đội quân giải phóng Việt Nam, xin lấy danh dự một người chiến sĩ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh:

1. Xin thề: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bọn việt gian phản quốc, để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước Dân chủ, Độc lập, Tự do, ngang hàng với các nước Dân chủ trên thế giới.

2. Xin thề: Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, khi nhận một nhiệm vụ gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.

3. Xin thề: Bao giờ cũng kiên quyết phấn đấu, dù gian lao khổ hạnh cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận mạc quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.

4. Xin thề: Lúc nào cũng khẩn trương, hoạt bát, hết sức học tập, chiến đấu để tự rèn luyện thành một người quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc, cứu nước.

5. Xin thề: Tuyệt đối giữ bí mật cho mọi việc của đội như nội dung, tổ chức, kế hoạch hành động cùng những người chỉ huy trong đội và giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc.

6. Xin thề: Nếu trong lúc chiến đấu bị quân địch bắt được, dù bị cực hình tàn khốc thế nào, cũng quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cứu quốc, không bao giờ phản bội xưng khai.

7. Xin thề: Hết sức ái hộ các bạn chiến đấu trong đội cũng như ái hộ bản thân, hết lòng giúp nhau trong lúc thường cũng như lúc ra trận.

8. Xin thề: Bao giờ cũng chủ trương giữ gìn vũ khí của Đội, quyết không để cho vũ khí hư hỏng hoặc rơi vào tay quân thù.

9. Xin thề: Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng với ba điều nên: kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân; và ba điều răn: không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân để gây lòng tin cậy ái đới của dân chúng, thực hiện quân dân nhất trí, cứu nước diệt gian.

10. Xin thề: Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình và sửa chữa giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh của đội quân giải phóng và hại đến quốc thể Việt Nam”.

Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là một tác phẩm lý luận quân sự, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực quân sự. Chỉ thị xác định một số vấn đề cơ bản của đường lối quân sự và một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng ta và dân tộc ta trong thời đại mới.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22 tháng 12 năm 1944 đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc Việt Nam. Ngày đó được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.


25 và 26 tháng 12.

Trận Phai Khắt và trận Nà Ngần. Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”; ngày 25, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã cải trang, dùng mưu tập kích diệt đồn Phai Khắt (xã Tam Lộng, tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng); ngày 26 diệt đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15 ki-lô-mét về phía đông-bắc) bắt 30 lính ngụy, diệt hai sĩ quan (một sĩ quan Pháp), thu vũ khí. Đây là hai trận đánh đầu tiên, thể hiện sự gan dạ mưu trí, tính thần triệt để chấp hành mệnh lệnh của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Hai trận đánh có tiếng vang lớn, cổ vũ phong trào cách mạng trong khu căn cứ, mở đầu truyền thõng đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng ngay từ trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
_____________________________________________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr.377-378.
2. Những ngày kỷ niệm lớn trong nước. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1972. tr.189 - 190.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:06:08 pm

NĂM 1945


9-12 tháng 3.

Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Về nhiệm vụ quân sự, Chỉ thị nêu rõ:

“- Tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu đội du kích.
- Thành lập những căn cứ địa mới.
- Thống nhất các chiến khu, thành lập “Việt Nam giải phóng quân”.
- Tổ chức “Ủy ban quân sự” (tức Ủy ban khởi nghĩa) để thống nhất chỉ huy du kích và các chiến khu.


12 tháng 3

Thành lập Đội du kích Ba Tơ, tại tỉnh Quảng Ngãi, gồm 28 chiến sĩ, 24 khẩu súng.

Đội trưởng: Phạm Kiệt.
Chính trị ủy viên: Nguyễn Đôn.

Ở các địa phương khác (Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Sa Đéc...) nhiều đội tự vệ, đội vũ trang công tác... được thành lập.


15-20 tháng 4.

Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ do Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập, tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang). Đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị phát động tổng khởi nghĩa, thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các lực lượng vũ trang cách mạng thành Việt Nam giải phóng quân; mở Trường Quân chính kháng Nhật, ra sức thu nhặt và sửa chữa vũ khí, lập xưởng sửa chữa vũ khí, chế tạo súng ống, bom đạn, tích trữ lương thực, lập kho thóc giải phóng quân ở các xã; phát triển bộ đội giải phóng, tổ chức rộng rãi những đội tự vệ, tự vệ chiến đấu và bộ đội địa phương, dùng “chiến thuật đánh úp quân địch bằng những trận nhỏ, nắm chắc phần thắng để giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta”, “nếu địch bao vây căn cứ địa thì phải dùng chiến thuật” dĩ công vi thủ “mà đối phó”, thành lập bảy chiến khu trong cả nước; thành lập Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ gồm các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn để “chỉ huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương về mặt chính trị và quân sự, đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự”.


15 tháng 5.

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân gặp nhau ở bãi Thàn Mát (tên một loài cây) phía sau đình làng Quặng (xã Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên). Cùng ngày, tại đình làng Quặng, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thống nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam giải phóng quân. Lực lượng ban đầu gồm 13 đại đội (thống nhất từ các đại đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, trung đội Cứu quân) và các đội vũ trang tập trung ở các tỉnh, huyện.


Tháng 5 - tháng 6.

Việt Nam giải phóng quân cùng nhân dân các dân tộc Việt Bắc đánh bại cuộc tiến công của 2.000 quân phát xít Nhật, bảo vệ căn cứ địa.


4 tháng 6.

Thành lập Khu Giải phóng: gồm sáu tỉnh Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn - Thái Nguyên - Hà Giang - Tuyên Quang và một phần các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên (hơn bốn vạn ki-lô-mét vuông, với hơn một triệu dân, lực lượng vũ trang lên tới gần ba trăm người). Vùng Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) là trung tâm của khu giải phóng.


8 tháng 6.

Thành lập chiến khu Đông Triều (Trần Hưng Đạo). Đội du kích chống Nhật của chiến khu ra đời do các đồng chí Nguyễn Bình, Hải Thanh, Trần Cung... chỉ huy. Từ Đông Triều, Chí Linh (Hải Dương) địa bàn chiến khu nhanh chóng phát triển ra Quảng Yên, Kiến An, Hải Ninh, Hải Phòng, vùng duyên hải đông bắc Bắc Bộ.


20 tháng 6.

Tại Quỳnh Lưu (Ninh Bình), thành lập trung đội giải phóng quân của chiến khu Hòa - Ninh - Thanh, gồm 40 người, trang bị 19 khẩu súng, một số mã tấu, biên chế thành ba tiểu đội.

Trung đội trưởng: Lương Nhân.


Tháng 6.

Trường Quân chính kháng Nhật khai giảng khóa 1 tại xóm Khuổi Kịch, xã Tân Trào, châu Tự Do (nay là huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt Trung ương Đảng giao nhiệm vụ: đào tạo cấp tốc cán bộ trung đội trưởng và chính trị viên trung đội, đáp ứng nhu cầu cán bộ cho chiến đấu và xây dựng lực lượng vũ trang.

Phụ trách lớp: Hoàng Văn Thái và Nguyễn Thanh Phong.

Học viên là cán bộ, chiến sĩ Việt Nam giải phóng quân, một số cán bộ và hội viên cứu quốc nhiều tỉnh khác. Nội dung học tập: tình hình thế giới và trong nước, chương trình Mặt trận Việt Minh, Mười lời thề, Mười hai điều kỷ luật, công tác chính trị trong quân đội; kỹ thuật tháo lắp, sử dụng các loại súng trường, súng máy, cách đánh phục kích, tập kích, chiến đấu du kích, vũ trang tuyên truyền, công tác bí mật, địch vận...

Sau khóa 1, trường mở tiếp khóa 2 và 3. Cán bộ chính trị, quân sự ra trường trong ba khóa gồm 260 người được bổ sung cho các đơn vị vũ trang và các địa phương.
________________________________________________
1. Bảy chiến khu là: Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Quang Trung (ở Bắc Kỳ); Phan Đình Phùng, Trưng Trắc (ở Trung Kỳ); Nguyễn Tri Phương (ở Nam Kỳ).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:10:41 pm

1 tháng 7.

Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ và Bộ Tư lệnh Việt Nam giải phóng quân kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Cơ hội có một không hai đã ở trong tay chúng ta rồi. Thống nhất, hy sinh, kiên quyết chiến đấu, nhất định chúng ta sẽ thắng”.

 
16 tháng 7.

Việt Nam giải phóng quân diệt đồn Tam Đảo (Vĩnh Phú) do quân Nhật đóng giữ.


20 tháng 7.

Lực lượng vũ trang chiến khu Đông Triều cùng nhân dân đánh chiếm thị xã Quảng Yên và huyện lỵ Yên Hưng.


5 tháng 8.

Báo “Quân giải phóng" ra số đầu.


13-15 tháng 8.

Hội nghị toàn quốc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đối với lực lượng vũ trang, Trung ương Đảng quyết định: “Chấn chỉnh và phát triển bộ đội”; “Tổ chức thêm những bộ đội mới. Chỉnh đốn đội tự vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích để thành lập Giải phóng quân ở ngoài khu giải phóng”; cử ra Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Việt Nam.

Đêm 13 tháng 8, Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1:

"... Hỡi các tướng sĩ và đội viên Giải phóng quân Việt Nam:

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng, kịp đánh vào các đô thị và trọng trấn của quân địch; đánh chặn các đường rút lui của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực các bạn hãy kiên quyết tiến!".


16 tháng 8.

Đại hội quốc dân khai mạc tại đình Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; thông qua mười chính sách của Mặt trận Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay trong ngày 16 tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quân và dân cả nước “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa".


Tháng 8.

Việt Nam Giải phóng quân cùng toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.

Đêm 15 và ngày 16 tháng 8, từ Tân Trào, Việt Nam Giải phóng quân chia thành hai bộ phận, tiến đánh tỉnh lỵ Tuyên Quang và Thái Nguyên; ngày 17, tiến công trại lính Nhật (hơn một tiểu đoàn) ở thị xã Tuyên Quang; ngày 20 đến 25 tháng 8 bao vây tiến công các vị trí quân Nhật ở Thái Nguyên, kêu gọi chúng đầu hàng. Ngày 19 tháng 8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23 tháng 8 ở Huế và ngày 25 tháng 8 ở Sài Gòn. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa thắng lợi trên cả nước.

Việt Nam giải phóng quân phát triển nhanh chóng trong quá trình tổng khởi nghĩa.


28 tháng 8.

Giải phóng quân tiền vào Hà Nội; ngày 30 tháng 8, duyệt binh tại Quảng trường Nhà hát lớn thành phố, biểu thị quyết tâm cùng toàn dân bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.


2 tháng 9.

Tại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Giải phóng quân và đồng bào diễu hành biểu dương lực lượng, nguyện đoàn kết, đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải giữ vững nền độc lập.

Tại Sài Gòn, Lâm ủy hành chính Nam Bộ chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang cách mạng để bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. Đồng chí Nguyễn Lưu phụ trách Tổng công đoàn Nam Bộ được cử chỉ huy lực lượng vũ trang công nhân cách mạng.


4 tháng 9.

Chính phủ ra sắc lệnh lập “Quỹ độc lập”. Một phần của quỹ dành cho việc quốc phòng.


7 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Bộ Tổng Tham mưu: cơ quan tham mưu quân sự cơ mật của Đoàn thể, cơ quan đầu não của quân đội, có nhiệm vụ: “tổ chức, huấn luyện quân đội cho giỏi, tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng; bày mưu kế khôn khéo; tổ chức chỉ huy thông suốt, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng”.

Lúc mới thành lập, Bộ Tổng Tham mưu (gồm các phòng tác chiến – đồ bản, tình báo, thông tin liên lạc quân sự, văn phòng và đội vệ binh) đóng tại nhà số 16 phố Ri-ki-ê (nay là nhà số 18, phố Nguyễn Du) Hà Nội.

Tổng Tham mưu trưởng: Hoàng Văn Thái.


8 tháng 9.

Thành lập cơ quan Quân lực Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 8 tháng 9 trở thành ngày truyền thống ngành Tổ chức động viên quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:12:56 pm

9 tháng 9.

Thành lập Phòng Thông tin liên lạc quân sự Bộ Tổng Tham mưu do đồng chí Hoàng Đạo Thúy phụ trách. Ngày 9 tháng 9 trở thành ngày truyền thống của bộ đội Thông tin liên lạc.


Tháng 9-1945 đến tháng 3-1946.

Tại Hà Nội, Trường Quân chính Việt Nam (kế tục Trường Quân chính kháng Nhật) mở các khóa 4, 5, 6, 7 đào tạo 1.070 cán bộ chính trị, quân sự, đáp ứng yêu cầu mở rộng Vệ quốc đoàn.

Hiệu trưởng: Nguyễn An (khóa 4, 5); Vương Thừa Vũ (khóa 6, 7). Chính ủy: Trần Tử Bình (khóa 6, 7).

Sau khóa 4, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị đổi tên thành “Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam”.


12 tháng 9.

Thành lập Ban Mật mã quân sự (thuộc Phòng Thông tin liên lạc quân sự - Bộ Tổng Tham mưu) có nhiệm vụ nghiên cứu, biên soạn và sử dụng luật mật mã, bảo đảm bí mật nội dung lãnh đạo và chỉ huy của các cấp trong quân đội khi chuyển qua các phương tiện thông tin.

Cán bộ phụ trách: Tạ Quang Đệ.

Ngày 12 tháng 9 trở thành ngày truyền thống của ngành Mật mã (Cơ yếu) của Quân đội nhân dân Việt Nam.


13 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thiết lập các tòa án quân sự.

“Điều 1 - Sẽ lập tòa án quân sự ở Bắc Bộ: tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ: tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam Bộ: tại Sài Gòn, Mỹ Tho.

Điều 2 - Tòa án quân sự sẽ xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trừ phi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật".

Ngày 13 tháng 9 trở thành ngày truyền thống của ngành Tòa án quân sự.


15 tháng 9.

Thành lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: thu thập, mua sắm và tổ chức các cơ sở sản xuất vũ khí để trang bị cho quân đội. Tổ chức gồm các bộ phận: Sưu tầm, mua sắm, phân phối vũ khí; lập các bản vẽ kỹ thuật vũ khí; văn phòng.

Phụ trách chung: Vũ Anh. Trưởng phòng: Nguyễn Ngọc Xuân.

Ngày 15 tháng 9 trở thành ngày truyền thống của ngành Quân giới Việt Nam; ngày truyền thống của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế ngày nay.


Giữa tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chấn chỉnh, mở rộng và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn - quân đội của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người căn dặn Vệ quốc đoàn, các lực lượng vũ trang và nhân dân thực hiện sách lược mềm dẻo đối với quân đội Tưởng Giới Thạch (dưới danh nghĩa quân đông minh, kéo theo bọn phản động tay sai vào miền Bắc, giải giáp quân đội Nhật): phải hết sức tránh khiêu khích, không để xảy ra xung đột với quân Tưởng. Nếu xảy ra xung đột thì biến xung đột lớn thành xung đột nhỏ, biến xung đột nhỏ thành không có xung đột. Thực hiện chỉ thị mở rộng lực lượng của Bác, từ một số chi đội, đại đội (khoảng 5.000 người) trong những ngày tổng khởi nghĩa đến cuối năm 1945, Vệ quốc đoàn đã phát triển lên 50.000 người, gồm 40 chi đội (mỗi chi đội từ 1.000 đến 2.000 người).


17-24 tháng 9.

Chính phủ phát động “Tuần lễ vàng” quyên góp được 370 ki-lô-gam vàng, 20 triệu đồng, giải quyết kịp thời những khó khăn trước mắt, đồng thời “dùng vào việc cần kíp và quan trọng nhất lúc này là việc quốc phòng”.


19 tháng 9.

Thành lập trung đoàn 95 (trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật) Bình-Trị-Thiên.


23 tháng 9.

Nam Bộ mở đầu kháng chiến. Các chiến sĩ tự vệ chiến đấu, thanh niên xung phong, xung phong công đoàn, thanh niên tiên phong cùng nhân dân Sài Gòn anh dũng chiến đấu đánh trả quân Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ thành lập Ủy ban kháng chiến. Nhân dân quyên góp lương thực, thực phẩm, thuốc men cho bộ đội đánh giặc. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ họp tại nhà số 269 đường Cây Mai, Chợ Lớn quyết định điện báo ra Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin chỉ thị; đồng thời phát động ngay cuộc kháng chiến chống Pháp.


Tháng 9.

- Vệ quốc đoàn Nam tiến cùng nhân dân Nam Bộ kháng chiến. Ngày 26 chi đội đầu tiên (gồm 3 đại đội: Bắc Sơn, Bắc Cạn, Hà Nội), chi đội trưởng: Hoàng Thơ, chi đội phó: Vũ Nam Long, hành quân bằng tàu hỏa từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Dọc đường, chi đội đầu tiên được bổ sung hai đại đội của tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Chi đội đầu tiên chiến đấu tại cầu Bình Lợi, Xuân Lộc (Đông Nam Bộ).

Đến tháng 3 năm 1946, đã có 12 chi đội (mỗi chi đội tương đương trung đoàn hoặc tiểu đoàn) và 6 đại đội Vệ quốc đoàn Nam tiến.

- Thành lập Ủy ban Binh lương - cơ quan giúp Trung ương Đảng và Chính phủ về bảo đảm ăn, mặc cho quân đội (sau đổi tên thành Phòng Quân lương). Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ: “Quân nhu là như cầu của quân đội... Cái gì bộ đội cần, quân sự yêu cầu là ta phải giải quyết. Sẽ có khó khăn vất vả, nhưng ta phải biết dựa vào dân. Được dân lo cho, được dân ủng hộ mọi việc sẽ xong... Trọng tâm công tác của quân nhu lúc này là vũ khí. Phải có nhiều vũ khí, có nhiều súng đạn. Phải chuyển một số nhà máy, xí nghiệp để lo phục vụ cho quốc phòng. Quân nhu chưa đủ sức đảm nhiệm thì đã có nhân dân, có anh em công nhân giúp”. Cơ quan Ủy ban Binh lương (Phòng Quân lương) đạt ở nhà số 17 phố Thụy Khuê (Hà Nội), có gần 20 nhân viên.

Cán bộ phụ trách: Vũ Anh.


Cuối tháng 9.

Thành lập Bộ chỉ huy mặt trận Nam Trung Bộ gồm các đồng chí Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Trương Quang Giao. Nhiệm vụ: - bảo đảm hành lang và bàn đạp vận chuyển trang bị, vũ khí, lương thực... của Trung ương và các tỉnh phía Bắc vào Nam Bộ - sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công của Pháp và Nhật - đưa lực lượng vào chi viện Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:15:32 pm

15 tháng 10.

Thành lập Chiến khu 4 gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Khu trưởng: Lê Thiết Hùng (tức Lê Văn Sửu).
Chính trị ủy viên: Hồ Tùng Mậu.

Ngày 15 tháng 10 trở thành ngày truyền thống của các lực lượng vũ trang Quân khu 4.

Thời gian này, cả nước được chia thành 12 khu hành chính và quân sự (sáu chiến khu ở Bắc Bộ, ba chiến khu ở Trung Bộ, ba chiến khu ở Nam Bộ).


18 tháng 10.

Trận Thị Nghè (Sài Gòn), bộ đội Nam tiến cùng nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh quân Pháp xâm lược, làm thương vong hàng trăm tên.


19 tháng 10.

Nam Trung Bộ kháng chiến. Lực lượng vũ trang địa phương cùng các chi đội Nam tiến lập phòng tuyến bao vây đánh địch ở khắp các mặt trận.


20 tháng 10.

Hội nghị quân sự Nam Bộ tại An Phú Xã (Thủ Dầu Một) chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang, thống nhất chỉ huy, phân chia khu vực hoạt động và kế hoạch chống Pháp ở Nam Bộ.


25 tháng 10.

- Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tại Thiên Hộ (Cái Bè, Mỹ Tho). Các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng... chỉ đạo. Hội nghị nhấn mạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố các đơn vị vũ trang đã được tổ chức, tích cực xây dựng thêm nhiều đơn vị mới. Đồng chí Tôn Đức Thắng phụ trách Ủy ban kháng chiến trực tiếp lãnh đạo các lực lượng vũ trang Nam Bộ.

- Thành lập Phòng Tình báo (Bộ Tổng Tham mưu) tại nhà số 67 phố Bà Triệu, Hà Nội.

Trưởng phòng: Hoàng Minh Đạo.

Ngày 25 tháng 10 trở thành ngày truyền thống của Tổng cục 2 ngày nay.


31 tháng 10.

Thành lập Chiến khu 3.

Tư lệnh: Hoàng Minh Thảo.
Chính trị ủy viên: Lê Quang Hòa.

Ngày 31 tháng 10 được xác định là ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 3.


Tháng 10.

- Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị xây dựng Vệ quốc đoàn. Các ủy viên quân sự khu, tỉnh, thành phố, chỉ huy các chi đội từ Khu 4 trở ra tham dự. Hội nghị kiến nghị Với Trung ương Đảng về tổ chức biên chế, trang bị của vệ quốc đoàn, xác định một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức lực lượng vũ trang chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Thành lập Trường Quân chính Xứ ủy Trung Kỳ, tại thành nội Huế; đào tạo, bổ túc cán bộ quân sự, chính trị trung đội, đại đội. Khóa 1 có 200 học viên.

Hiệu trưởng: Nguyễn Hữu Điểu.
Chính trị viên: Hoàng Lưu Đáng.

Sau khóa 1 (12-1945), trường chuyển về Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Chiến khu 4, và gọi là “Trường Quân chính Chiến khu 4".


10 tháng 11.

Thành lập Trường Quân chính Nam Bộ (Trường Quân chính Quang Trung), đào tạo tiểu đội trưởng và trung đội trưởng. Khóa 1 khai giảng tại bãi Khai Long (Ngọc Hiển, Cà Mau).

Hiệu trưởng kiêm chính trị viên: Võ Quang Anh.


24 tháng 11.

Chính phủ ra sắc lệnh số 66/SL trưng dụng y sĩ, bác sĩ, dược sĩ phục vụ quân đội, người ít tuổi và người ít con đi trước, thời gian phục vụ sáu tháng.


25 tháng 11.

Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác định một số vấn đề cơ bản về đường lối và nhiệm vụ kháng chiến, nêu rõ phương châm tác chiến lúc này là đánh du kích, các lực lượng vũ trang phải bám dân, bám đất, lập các căn cứ du kích, dựa vào dân mà đánh giặc.


Tháng 11.

- Hội nghị các đồng chí phụ trách Đảng trong Vệ quốc đoàn, bàn việc liên lạc và xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội.

- Thành lập mặt trận Tây Bắc, ngăn chặn quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) kéo vào Lai Châu, phá âm mưu chiếm Tây Bắc làm bàn đạp tiến xuống Bắc Bộ và sang Thượng Lào của địch. Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 4 năm 1946, Bộ Tổng Tham mưu điều 7 đại đội Vệ quốc đoàn từ Hà Nội, Bắc Giang, Hà Đông, Sơn Tây, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Yên Bái lên Tây Bắc xây dựng cơ sở chính trị và đánh địch.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:16:31 pm

7 tháng 12.

Phòng Thông tin liên lạc quân sự (Bộ Tổng Tham mưu) khai giảng lớp hiệu thính viên quân sự.


10 tháng 12.

- Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ (mở rộng) tại Bình Hòa Nam quyết định thành lập Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và chia Nam Bộ thành ba khu: 7, 8. 9.

Khu bộ trưởng Khu 7: Nguyễn Bình.
Chính trị viên: Trần Xuân Độ.

Ngày 10 tháng 12 trở thành ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 7.

- Tại Vinh (Nghệ An) thành lập Chi đội Giải phóng quân Đội Cung.

Chi đội trưởng: Hoàng Quang Việt.
Chính trị viên: Phạm Thùy.

Tháng 6 năm 1946 chuyển thành trung đoàn 57.


Tháng 12.

- Các chi đội Nam tiến Hà Nội, Nghệ An, Quảng Ngãi, Nam Định, Ninh Bình, các chiến sĩ du kích Ba Tơ cùng đồng bào các dân tộc chặn đánh quân Pháp ở Tây Nguyên.

- Thành lập một số chi đội, đại đội Vệ quốc đoàn. Ở các tỉnh Nam Trung Bộ có các chi đội: Trần Cao Vân (Quảng Nam), Lê Trung Đình (Quảng Ngãi), Phan Đình Phùng (Bình Định), chi đội 1 (Bình Thuận), chi đội 2 (Ninh Thuận), chi đội 3 (Khánh Hòa), Hoàng Hoa Thám (Công Tum), Thu Sơn, Bắc Bắc, Di Viên, Hữu Thanh, Hùng Việt và chi đội 51. Hai đại đội N’Trang Lơn (Đắc Lắc), Phan Thanh (Đà Nẵng) và một số phân đội ở Lâm Viên, Đồng Nai Thượng. Ở Nam Bộ có chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25 (bộ đội Bình Xuyên), chi đội 6 (Gia Định), chi đội 1 (Thủ Dầu Một), chi đội 17 (Mỹ Tho), chi đội 18 (Sa Đéc), chi đội 10 (Biên Hòa), chi đội 11 (Tây Ninh), chi đội 12 (Gia Định), chi đội 13 (công nhân Sài Gòn), chi đội 14 (Tân An), chi đội 15 (Chợ Lớn).

- Thành lập Ban Y tế Vệ quốc đoàn.

Giám đốc: bác sĩ Vũ Văn Cẩn.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:18:49 pm

NĂM 1946


1 tháng 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố về chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời. Về quân sự: “Thống nhất các bộ đội vũ trang dưới quyền chỉ huy của Chính phủ, các đảng phái không được có quân đội riêng”.


6 tháng 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban Âm nhạc Vệ quốc quân (nguyên là Ban Âm nhạc Giải phóng quân, thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1945, tổ chức tiền thân của Quân nhạc Việt Nam).


22 tháng 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban bố “Quốc lệnh của Chính phủ” gồm 10 điều thưởng (nhà có ba con tòng quân, những người lập được quân công, vì nước hy sinh ...) và 10 điều phạt (thông với giặc, phản quốc, trái quân lệnh, ra trận tự ý rút lui, phá hoại quân khí, để cho bộ đội hại dân ...).


Tháng 1.

Thành lập Trung ương Quân ủy, giúp Trung ương Đảng lãnh đạo các mặt công tác của Đảng trong quân đội.

Bí thư: Võ Nguyên Giáp.


22 tháng 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời hiệu triệu giữ vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ”, nêu rõ “cách thực hành trường kỳ kháng chiến và toàn dân kháng chiến bằng quân sự (dũng cảm, kỷ luật), bằng chính trị (đoàn kết, trật tự), bằng kinh tế (tăng gia sản xuất), bằng ngoại giao (thêm bạn, bớt thù)”.


2 tháng 3.

Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên tại Hà Nội, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến, thành lập “Toàn quốc kháng chiến ủy viên hội”.

Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 10 bộ, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Bộ Quốc phòng quản lý hành chính quân đội. Bộ trưởng: Phan Anh.

“Toàn quốc kháng chiến ủy viên hội” chỉ huy quân đội và các lực lượng vũ trang cả nước. Chủ tịch: Võ Nguyên Giáp.


5 tháng 3.

Thành lập Phòng Bào chế tiếp tế quân y tại Ba Thá (Hà Đông). Nhiệm vụ chủ yếu: pha chế một số thuốc thông thường để cấp phát cho các đơn vị.

Phụ trách: dược sĩ Vũ Công Thuyết.


6 tháng 3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện Chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ tại Hà Nội.

Thực hiện Hiệp định, từ ngày 8 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4 năm 1946,   hai bên đã bàn và ký hiệp định về quân tiếp phòng thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc. Quy định như sau: quân tiếp phòng của Pháp vào đóng ở Hà Nội (5.000, kể cả 1.000 ở sân bay Gia Lâm), Hải Phòng (1.750), Hòn Gai (1.025), Nam Định (825), Huế (825), Đà Nẵng (225), Hải Dương (cả cầu Phú Lương, Lai Khê: 650), Điện Biên Phủ (825), các vùng biên giới (2.775). Quân tiếp phòng của Việt Nam đóng ở Hà Nội (952), Hải Dương (904), Huế (500), Phủ Lý (500), Thái Bình (500), Nam Định (500), Thanh Hóa (684), Đông Hà (684), Đồng Hới (220), Vinh (904), Đà Nẵng (904). Các tỉnh biên giới: Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu sẽ được quy định sau. Thành lập Ủy ban liên lạc và kiểm soát quân sự Trung ương Việt - Pháp (gọi tắt là Ủy ban liên kiểm) để theo dõi và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành hiệp định. Đồng chí Hoàng Hữu Nam – Thứ trưởng Bộ Nội vụ đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, chỉ đạo; đồng chí Cao Xuân Hổ làm trưởng ban, đồng chí Phan Mỹ làm tổng thư ký.

Thành lập bộ chỉ huy quân tiếp phòng của mỗi bên. Bộ Chỉ huy quân tiếp phòng Việt Nam do Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, nguyên Khu trưởng Khu 4 làm Tư lệnh.


17 tháng 3.

Trung ương Đảng mở Trường Quân chính Bắc Sơn, bổ túc quân sự, chính trị cho đảng viên và hội viên cứu quốc.


22 tháng 3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 33/SL đặt các cấp bậc, quân phục, phù hiệu, cấp hiệu cho lục quân toàn quốc.


25 tháng 3.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 34, quy định tổ chức Bộ Quốc phòng. Gồm Văn phòng và Chế tạo Quân nhu, chế tạo Quân giới, Chính trị, Tình báo, Quân chính, Quân huấn, Công chính giao thông, Quân pháp, Quân nhu, Quân y Cục.

Ngày 25 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của bộ đội Công binh.

- Thành lập Ty quản lý Bộ Quốc phòng, cơ quan tài chính đầu tiên của quân đội.

Quản lý Ty trưởng: Nguyễn Tấn


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:21:17 pm

16 tháng 4.

Thành lập Quân y Cục (nghị định số 12/NĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: tổ chức việc y tế và thú y trong quân đội.

Cục trưởng: bác sĩ Vũ Văn Cẩn.

Ngày 16 tháng 4 trở thành ngày truyền thống của ngành Quân y.


17 tháng 4.

Thành lập Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn trên cơ sở Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam.

Giám đốc: Hoàng Đạo Thúy.
Phó giám đốc: Trần Tử Bình.

Ngày 26 tháng 5 năm 1946, trường khai giảng tại Sơn Tây (288 học viên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự, tặng nhà trường lá cờ thêu dòng chữ: “Trung với nước, hiếu với dân”.


6 tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 60/SL đổi tên “Ủy ban kháng chiến toàn quốc” thành “Quân sự ủy viên hội", sắc lệnh gồm bảy điều quy định tên gọi, thành viên, chức năng, quyền hạn và các cơ quan của Quân ủy hội.

Điều 3 nêu rõ: “Quân sự ủy viên hội là một cơ quan tối cao quân sự đặt thẳng dưới quyền điều khiển của Chính phủ và có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc …”

Điều 5 quy định Quân sự ủy viên hội gồm các cơ quan:

1. Cục Tổng vụ có nhiệm vụ thu phát công văn, phụ trách về nhân sự, quản lý ngân sách tài chính của Quân sự ủy viên hội và liên lạc hành chính với các cơ quan khác.

2. Cục Tham mưu có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị kế hoạch điều khiển quân đội và thi hành mệnh lệnh của Quân sự ủy viên hội.

3. Cục Chính trị có nhiệm vụ điều khiển và kiểm tra công tác chính trị trong bộ đội, phát hành sách, báo, phòng ngừa phản tuyên truyền của địch và phụ trách địch vận, dân vận.

4. Cục Tổng chỉ huy quân đội tiếp phòng Việt Nam.

5. Ủy ban Liên lạc và Kiểm soát quân sự Trung ương Việt - Pháp có nhiệm vụ liên lạc và kiểm soát giữa quân tiếp phòng Việt Nam và quân đội Pháp, giữa quân đội Pháp và quân đội quốc gia Việt Nam.

Ủy ban này do đặc phái viên của Quân sự ủy viên hội lãnh đạo.


16 tháng 5.

Chính phủ đặt “Quỹ tham gia kháng chiến", kêu gọi mỗi người dân đóng góp một số tiền bằng mười ngày sinh hoạt phí của bộ đội. Kết quả thu được 174 triệu đồng.


17-5 đến 15-12.

Báo “Cứu quốc" đăng nhiều bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh Q.T.H hoặc Q.T: “Phải biết xét đoán trước” (17-5), “Muốn biết người phải thế nào?" (24-5), “Phương pháp dùng gián điệp” (31-5), “Đặt kế hoạch tác chiến” (7-6), “Phương pháp tác chiến" (14-6), “Vấn đề quân nhu và lương thực" (21-6), "Hình thức chiến tranh ngày nay” (20-9), “Chiến tranh tư tưởng” (11-10), “Bàn về địa hình” (25-10), “Địa thế” (8-11), “Phương pháp chiến đấu và hành quân trên các địa hình” (15-11), “Chiến đấu vì chính nghĩa” (3-12), “Chiến lược của quân ta và của quân Pháp” (13-12), "Động viên kinh tế” (15-12). Đây là những tư tưởng chỉ đạo, thiết thực bồi dưỡng kiến thức quân sự cho quân và dân cả nước chuẩn bị bước vào kháng chiến chống xâm lược.


22 tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 71/SL Về quân đội quốc gia Việt Nam. Kèm theo sắc lệnh có bản Quy tắc quân đội quốc gia Việt Nam (62 điều) quy định biên chế, tuyển binh, cấp bậc, thăng giáng và thuyên chuyển, kỷ luật, thưởng phạt, lễ nghi của quân đội.

Về tổ chức, quy định biên chế tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn, liên đoàn, tập đoàn của bộ binh, các đơn vị chuyên môn và hỏa lực trợ chiến. Từ cấp trung đội trở lên có chính trị viên.


30 tháng 5.

Báo “Sao Vàng’’ (kế tục báo “Quân giải phóng") - cơ quan tuyên truyền huấn luyện binh sĩ của Quân ủy hội, ra số đầu. Bài xã luận của báo viết: “Sao vàng là dấu hiêu của quân Việt Nam, Sao vàng vạch rõ những nhiệm vụ trước mắt. Nó muốn cùng anh em nâng cao tinh thần và tư cách của mình để xứng đáng là quân cách mạng. Nó muốn cùng anh em nghiên cứu kỹ thuật và thời sự cùng những môn học về chính trị để đi tới một đạo quân thiện chiến có một đường lối rõ ràng”.

Tòa soạn: nhà số 28, phố Triệu Quang Phục (nay là phố Hàng Bài) Hà Nội.
Chủ bút: Trần Huy Liệu.


Tháng 5.

Hội nghị mật mã quân sự lần thứ nhất, bàn công tác bí mật mật mã và giao nhận luật.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:23:15 pm

1 tháng 6.

Ủy ban kháng chiến miền Nam mở Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, tại thị xã Quảng Ngãi, có 500 học viên, đào tạo và bổ túc cán bộ tiểu đội, trung đội.

Hiệu trưởng: Trần Nguyên Bát (tức Nguyễn Sơn), nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam.
Chính trị viên: Nguyễn Chính Giao.

Tháng 11, khóa học bế giảng.


20 tháng 6.

Bộ Quốc phòng ra nghị định số 49/NĐ quy định một số điểm trong Quân đội quốc gia gồm 7 chương, 48 điều. Chương I: quân phục, phù hiệu, cấp hiệu. Chương II: Sổ sách tuyển binh. Chương III: Quân phong quân kỷ. Chương IV: Công việc trong đồn trại. Chương V: Công việc hàng ngày trong mỗi đại đội. Chương VI: Vệ sinh và thứ tự. Chương VII: Công tác ở địa phương.


24-26 tháng 6.

Chi đội Trần Quốc Toản (sau đổi là trung đoàn 92) diệt bọn phản động Quốc dân đảng ở thị xã Phú Thọ và Việt Trì.


29 tháng 6.

Thành lập ba trung đội pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh tại trại Vệ quốc đoàn trung ương (nay là nhà số 40, phố Hàng Bài, Hà Nội). Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đọc quyết định thành lập của Bộ Quốc phòng, nêu rõ đây là những trung đội pháo binh chủ lực đầu tiên của quân đội ta.

Ngày 29 tháng 6 trở thành ngày truyền thống của pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tháng 6.

Quân y Cục tổ chức hội nghị cán bộ quân y lần thứ nhất, thông qua hệ thống tổ chức quân y, thành lập Quân y viện trung ương, Viện bào chế tiếp tế trung ương. Các khu 1,2,3,10,11 thành lập quân y vụ, các ban quân y trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Ở Trung Bộ thành lập Quân y phân cục. Các khu 7,8,9 tổ chức phòng quân y. Phát hành báo “Vui sống” - cơ quan truyền bá vệ sinh và y học trong quân đội.


1 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quy định tổ chức của Công chính Giao thông cục (Nghị định số 55-NĐ); gồm 1 - Phòng hành chính. 2 - Phòng quản lý. 3 - Ban liên lạc thông tin. 4 - Ban liên lạc vận tải. 5. - Phòng đồ bản. 6 - Xưởng sửa chữa xe cộ, máy móc. 7 - Xưởng công binh.


7-7 đến 30-8.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp bổ túc quân sự trung cấp tại Tông (Sơn Tây).

Phụ trách: Trần Hưng Nghĩa (tức Trương Trung Phụng).
Chính trị ủy viên: Hoàng Điền.

Học viên: gần 100 cán bộ quân sự, chính trị từ trung đội đến trung đoàn (chi đội). Nội dung học tập: về quân sự, bồi dưỡng kỹ thuật đâm lê, bắn súng, ném lựu đạn, sử dụng súng trường, súng máy, súng cối 60 ly; chiến thuật từ cá nhân đến tiểu đoàn; một số kiến thức phòng không, phòng pháo, phòng tăng, tổ chức luyện quân, nội vụ, lễ tiết tác phong quân nhân... Về chính trị, bồi dưỡng tình hình cách mạng Việt Nam, công tác chính trị trong quân đội, tư cách người cán bộ cách mạng, người chính trị viên. Đây là lớp bổ túc quân sự trung cấp đầu tiên của quân đội ta.

Ngày 7 tháng 7 được xác định là ngày truyền thống của Học viện Lục quân ngày nay.

 
Tháng 7.

Thành lập bốn trung đoàn:
79 (Đắc Lắc), 80 (Khánh Hòa), 81 (Ninh Thuận), 82 (Bình Thuận).


9 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra nghị định số 101 /NĐ về "các hiệu lệnh bằng tiếng kèn dùng trong Quân đội quốc gia Việt Nam". Gồm 38 hiệu lệnh như đứng nghiêm, chào Quốc kỳ, báo thức thường ngày, báo thức ngày lễ, tập hợp, điểm danh, cử lễ gắn huy chương...


Tháng 9.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp đào tạo cán bộ mật mã quân đội mang tên “khóa Hoàng Diệu”.


19 tháng 10.

Hội nghị quân sự toàn quốc
tại nhà số 58 phố Nguyễn Du, Hà Nội. Đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Các đồng chí ủy viên Trung ương Quân ủy hội và cán bộ quân sự, chính trị chủ chốt của các khu tham dự. Hội nghị nhận định: “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”; quyết định gấp rút chuẩn bị kháng chiến, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là công tác đảng - công tác chính trị trong Vệ quốc đoàn". Mỗi đại đội hay một cơ quan từ tiểu đoàn trở lên tổ chức một chi bộ. Chỉnh đốn các cán bộ chính trị viên bằng cách đưa người có năng lực vào. Mở trường huấn luyện chính trị viên. Quy định rõ chế độ chính trị viên và các cơ quan chính trị trong bộ đội...


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:26:20 pm

28-10 đến 9-11.

Quốc hội khóa I họp kỳ thứ hai, quyết định thống nhất Bộ Quốc phòng với Quân sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Ngày 30 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 230/SL, bổ nhiệm đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Quốc phòng- Tổng chỉ huy.

Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều thứ tư của chương II (Nghĩa vụ và quyền lợi công dân) quy định: “Mỗi công dân Việt Nam phải:

- Bảo vệ Tổ quốc.
- Tôn trọng Hiến pháp.
- Tuân theo pháp luật".


Tháng 10.

- Chính phủ lập quỹ "Mùa đông binh sĩ”
. Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng áo, tư trang và lương của Người cho bộ đội. Các tầng lớp nhân dân, đoàn thể cứu quốc quyên góp được nhiều vải, quần áo, chăn, màn. Áo trấn thủ, do một cửa hàng ở phố Hàng Trống, Hà Nội may bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong quân đội.

- Thành lập Nha tổng giám đốc các công binh xưởng.

Giám đốc: Nguyễn Duy Thái.


5 tháng 11.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ"
, nêu rõ các nhiệm vụ quân sự, chính trị và kinh tế để kháng chiến và kiến quốc. Về quân sự: “Tổ chức bộ đội (tự vệ, dân quân); chỉ huy bộ đội (tự vệ, dân quân); làm khí giới; cung cấp lương thực”.


12 tháng 11.

Trung đoàn 92 (sau đổi phiên hiệu là trung đoàn 115) cùng lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái diệt lực lượng Quốc dân đảng phản động ở địa phương.


14 tháng 11.

Chính phủ phát hành “Công phiếu kháng chiến”
thu được 283 triệu đồng, trong đó dành phần lớn cho ngân sách quốc phòng.


18 tháng 11.

Bộ Quốc phòng quy định tiêu chuẩn ăn và sinh hoạt phí cho bộ đội. Mỗi quân nhân được hưởng 180 đồng tiền ăn, và 5 đồng phụ cấp tiêu vặt trong một tháng.


20-28 tháng 11.

- Trung đoàn 41, tự vệ thành, công an xung phong và nhân dân Hải Phòng dựng chiến lũy, đánh quân Pháp xâm lược trên các đường phố. Tại khu vực Nhà hát thành phố, một tiểu đoàn Vệ quốc quân và một tiểu đội tuyên truyền xung phong dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh bật nhiều đợt tiến công có xe tăng của địch. Ngày 28 tháng 11, Vệ quốc quân rút ra ngoài thành phố, lập phòng tuyến chặn đánh địch.

- Trung đoàn 125, tự vệ và nhân dân thị xã Lạng Sơn đánh trả quân Pháp xâm lược, gây cho địch nhiều thiệt hại ở Trường Nữ học và khu vực chợ Kỳ Lừa. Ngày 27 tháng 11, các đơn vị rút ra ngoài thị xã, lập phòng tuyến tiếp tục chiến đấu.


21 tháng 11.

Quân y Cục mở hệ đại học quân y tại Trường đại học y dược Hà Nội
. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ khai giảng. Người căn dặn cán bộ, học viên: "Hàng hái, hy sinh, bác ái, đoàn kết và kỷ luật".



Tháng 11.

Thành lập Ủy ban bảo vệ, Ban chỉ huy và Đảng ủy mặt trận Hà Nội
. Đồng chí Nguyễn Văn Trân, Bí thư Đảng ủy mặt trận kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ thành phố. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Phó bí thư xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo chung.


Cuối tháng 11.

Tổng di chuyển cơ sở vật chất (chủ yếu là quân giới) ở Hà Nội, các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ vào các căn cứ ở nông thôn và rừng núi. Các cơ sở ở Nam Bộ tiếp tục chuyển vào các căn cứ. Đến tháng 4 năm 1947, chỉ tính từ Liên khu 5 trở ra, cán bộ, chiến sĩ, công nhân quân giới đã chuyển được khoảng 40.000 tấn máy móc, phương tiện, nguyên vật liệu.


13 tháng 12.

Hội nghị các khu trưởng
do Trung ương Quân ủy và Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy triệu tập tại Hà Đông, chủ trương “chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kỳ”, rút kinh nghiệm chiến đấu ở Hải Phòng, Lạng Sơn; chỉ đạo chiến đấu ở các địa phương và kế hoạch làm “vườn không nhà trống”.


14 tháng 12.

Đồng chí Vương Thừa Vũ, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội báo cáo Tổng chỉ huy kế hoạch chiến đấu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:29:59 pm

17 tháng 12.

Thành lập Ban liên lạc đặc biệt thuộc Văn phòng Bộ Quốc phòng
. Nhiệm vụ: chuyển công văn từ các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy về các chiến khu, tỉnh và các trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ. Tổ chức gồm lực lượng chạy chân, xe đạp và mô tô. Mỗi chiến sĩ được phát một thẻ “bài cấp tốc” dùng để đi các phương tiện giao thông.

Trưởng ban: Phạm Thành Vinh (tức Hồng Lĩnh).


17 và 18 tháng 12.

Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.


19 tháng 12.

Toàn quốc kháng chiến.


Sáng 19, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các mặt trận và các chiến khu: “Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ đã bác bức tối hậu thư ấy. Như vậy chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: “Tất cả hãy sẵn sàng!”.

Buổi chiều, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp hạ mệnh lệnh cho lực lượng vũ trang: “Giờ chiến đấu đã đến!”.

Đêm 19 rạng ngày 20, các lực lượng vũ trang và nhân dân thủ đô Hà Nội và các thành phố nổ súng chiến đấu. Toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 20 tháng 12,

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ hgười già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”

Ngày 22 tháng 12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Chỉ thị đề ra nhiệm vụ của lực lượng vũ trang: “Quân: Không hàng giặc. Không để mất súng. Không bắn phí đạn. Không xâm phạm tính mệnh, tài sản của dân. Không ngược đãi tù hinh. Ủng hộ Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch. Bảo vệ tính mệnh tài sản cho dân. Kính trọng và giúp đỡ dân. Sĩ quan và binh lính một lòng. Tuân lệnh cấp trên. Phục tùng kỷ luật”.

Tại Hà Nội, cuộc chiến đấu ở nội thành dự kiến một tháng đã kéo dài đến tháng 2 năm 1947. Lực lượng vũ trang mặt trận Hà Nội gồm: năm tiểu đoàn Vệ quốc quân (101, 77, 212, 145, 523), một đại đội pháo binh, tám trung đội công an xung phong, một đại đội tự vệ chiến đấu, 28.500 dân quân tự vệ nội, ngoại thành, được nhân dân và các trung đoàn Vệ quốc quân các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Thái Nguyên - Phúc Yên chi viện đã thực hiện “trong ngoài cùng đánh”. Nhiều trận đánh diễn ra ở Bắc Bộ Phủ (19-12-1946), nhà Xô-va (6-2-1947), chợ Đồng Xuân (14-2-1947)...

Tháng 1 năm 1947, lực lượng chiến đấu ở Hà Nội được tổ chức thành trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn 48 và trung đoàn 52. Ngày 17 tháng 2 năm 1947. Trung đoàn Thủ Đô bí mật rút khỏi thành phố để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Trong 60 ngày đêm khói lửa, quân và dân Hà Nội đánh gần 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch (đa số là lính Âu - Phi), phá hủy hơn 100 xe, bắn chìm một ca nô, bắn rơi và phá hủy năm máy bay. Các đồng chí Lê Gia Đính (chính trị viên đại đội), Tưởng (công nhân), tiểu đội du kích Hòng Hà do Nguyễn Văn Nại làm tiểu đội trưởng và nhiều cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, tiêu biểu cho tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Tại Hải Dương, trung đoàn 44 (Chiến khu 3) cùng tự vệ, du kích làm tê liệt một số đơn vị quân Pháp ở Trường Nữ học, cầu Phú Lương; đánh địch trên đường số 5, ngăn chặn quân tiếp viện của Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội.

Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, trung đoàn Bắc - Bắc (Chiến khu 12) tiến công tiểu đoàn địch chiếm đóng thị xã Phủ Lạng Thương, sân bay Hạ Vĩ, trại bảo an binh (thành Bắc Ninh).

Tại Nam Định, cuộc chiến đấu diễn ra trong 90 ngày đêm. Lực lượng vũ trang Nam Định có trung đoàn 33 (Chiến khu 2), gần 1.000 tự vệ thành, được nhân dân nội ngoại thành và tỉnh Thái Bình chi viện. Một số trận đánh ác liệt diễn ra ở trại Ca-rô, khu nhà ga, nhà sĩ quan Pháp, nhà máy sợi, nhà máy dệt... Trung đoàn 33 được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu “trung đoàn Tất Thắng”. Ngày 15 tháng 3 năm 1947,   trung đoàn rút ra chiến đấu ở vòng ngoài.

Tại Vinh, một đại đội của trung đoàn 57 (Chiến khu 4) cùng một đại đội tự vệ thành bao vây, tiến công một trung đội Pháp tại Sở Canh nông, ở đề-pô ga và sân bay Nghi Lộc.

Tại Huế, trung đoàn Trần Cao Vân (trung đoàn 101), một số đơn vị tiếp phòng quân, tự vệ và nhân dân địa phương diệt gần 200 tên địch, duy trì cuộc chiến đấu ở nội thành trong 50 ngày đêm.

Tại Đà Nẵng, cuộc chiến đấu diễn ra trong 90 ngày đêm. Trung đoàn 93, trung đoàn 96, các đơn vị tự vệ, công an, biệt động diệt hàng trăm tên địch. Đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tặng trung đoàn 96 lá cờ “Giữ Vững”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Năm, 2022, 08:30:58 pm

26 tháng 12.

Thành lập chi đội Trần Phú
gồm 426 cán bộ, chiến sĩ tuyển chọn trong các tổ chức Việt kiều yêu nước ở Lào và Thái Lan. Chi đội gồm ba đại đội, một phân đội trinh sát, một phân đội vận tải và tiểu đoàn bộ.

Chi đội trưởng: Nguyễn Chánh.
Chính trị viên: Trần Văn Sáu.

Sau lễ thành lập, chi đội hành quân về nước tham gia chiến đấu ở Nam Bộ với tên gọi “chi đội Hải ngoại IV”. Cùng trong thời gian này còn có một số tổ chức vũ trang của Việt kiều yêu nước về tham gia kháng chiến như các đơn vị “bộ đội Ngô Thất Sơn” (bộ đội độc lập số 1), “bộ đội Quang Trung”, “bộ đội Cửu Long 2"...


Cuối năm 1946.

Toàn quốc hình thành 12 chiến khu (theo quyết định của Chủ tịch nước từ tháng 10 năm 1945).

Chiến khu 1: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phúc Yên. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 22 (Thái Nguyên, Phúc Yên), 23 (Bắc Cạn), 24 (Cao Bằng).

Chiến khu 2: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 35 (Sơn Tây), 37 (Hà Đông), 39 (Sơn La), 33 (Nam Định).

Chiến khu 3: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương (trừ Đông Triều, Chí Linh). Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 41 (Thái Bình, Kiến An), 44 (Hải Dương, Hưng Yên), 50 (Quảng Yên).

Chiến khu 4: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 55 (Thanh Hóa), 59 (Nghệ An), 63 (Hà Tĩnh), 57 (Quảng Trị), 71 (Thừa Thiên), hai tiểu đoàn 70 (Quảng Bình), và 75 (Cửa Lò).

Chiến khu 5: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Công Tum, Gia Lai. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 67, 93, 94, 95, 96.

Chiến khu 6: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đông Nai Thượng. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 79, 80, 81, 82.

Chiến khu 7: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.

Chiến khu 8: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.

Chiến khu 9: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.

Chiến khu 10: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 76 (Việt Trì, Phú Thọ), 81 (Vĩnh Yên), 86 (Hà Giang - Tuyên Quang), 91 (Lào Cai) và tiểu đoàn 420 (Phú Thọ).

Chiến khu 11: Hà Nội. Lực lượng vũ trang có các tiểu đoàn 145, 523, 77, 101, 212.

Chiến khu 12: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên (cả Đông Triều, Chí Linh). Lực lượng vũ trang có các trung đoàn 125 (Lạng Sơn), 118 (Bắc Ninh - Bắc Giang), 132 (Chũ) và hai tiểu đoàn 515, 517.

Ở Nam Bộ, các chiến khu 7, 8, 9 vẫn giữ tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:45:54 am

NĂM 1947

6 tháng 1.

Thành lập trung đoàn Thủ Đô
. Các đơn vị Vệ quốc quân, tự vệ, công an xung phong của Liên khu I Hà Nội (khu vực quận Hoàn Kiếm ngày nay) chính thức làm lễ thành lập trung đoàn, lúc đầu mang tên “trung đoàn Liên khu 1". Hội nghị quân sự toàn quốc (12 đến 16-1-1947) tặng danh hiệu “trung đoàn Thủ Đô”. Biên chế: ba tiểu đoàn 101, 102, 103.

Trung đoàn trưởng: Hoàng Siêu Hải.
Chính trị viên: Lê Trung Toản.
Tham mưu trưởng: Hoàng Phương.

Ngày 13 tháng 1 trung đoàn làm lễ tuyên thệ tại rạp hát Tố Như (nay là rạp Chuông Vàng), thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ngày 17 tháng 1, nhân dịp tết Đinh Hợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn: “Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”.

Cùng với trung đoàn Thủ Đô, tháng 1 năm 1947, các đơn vị tự vệ chiến đấu và Vệ quốc quân trên các cửa ô Hà Nội được tổ chức thành trung đoàn 48 (Ban Thường vụ Quốc hội tặng danh hiệu “Trung đoàn Thăng Long”) và trung đoàn 52.


12-16 tháng 1.

Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất
họp tại Chúc Sơn (Chương Mỹ, Hà Đông). Đồng chí Trường Chinh - Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng chỉ huy chủ trì. Hội nghị nhận định: với viện binh đang kéo tới, quân Pháp sẽ mở cuộc phản công và tiến công. “Nhiệm vụ chính lúc này là bảo toàn chủ lực và duy trì sức chiến đấu của bộ đội”.


21 tháng 1.

- Thành lập tổ chức quân dân y
ở các khu để phân phối, điều động cán bộ, thuốc, dụng cụ y tế phục vụ quân đội.

- Chi đội 17 (Mỹ Tho), chi đội 18 (Sa Đéc) và một phân đội học viên Trường quân chính Khu 8 phục kích đoàn xe quân sự địch trên đường số 16 (khu vực xã An Thái Trung), làm thương vong 180 tên, phá hủy 8 xe thiết giáp, 6 xe vận tải quân sự, thu hơn 100 súng các loại.


22 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ra Nghị định (số 216/NĐ) thành lập ở mỗi chiến khu một Bộ chỉ huy khu gồm khu trưởng, chính trị ủy viên, khu phó và tham mưu trưởng. Khu bộ có các phòng: chính trị, tham mưu, quân nhu-tài chính, quân y vụ, ty quân giới.


Tháng 1.

- Thành lập Viện Khảo cứu chế tạo dược phẩm
, cơ sở nghiên cứu, sản xuất thuốc đầu tiên của ngành quân y.

Phụ trách: dược sĩ Vũ Công Thuyết.

- Thành lập Phòng Giao thông vận tải quân sự miền Nam. Nhiệm vụ: sử dụng số xe trưng dụng của tư nhân để vận tải cho Khu 5 và một phần cho Nam Bộ. Trụ sở: Bình Định.


1 tháng 2.

Bộ Tổng Tham mưu ra “Huấn lệnh về du kích vận động chiến”
, xác định: “Trong cuộc chiến tranh này, để thắng địch, chiến thuật của ta phải là du kích vận động chiến”. “Ở tiền phương, bộ đội phải luôn thay đổi sự bố trí, chiến thuật phải linh động sẵn sàng đối phó với sự chuyển biến của mặt trận”. “Ở hậu phương, phải tẩy trừ hình thức dồn đống; trái lại, các bộ đội phải luôn luôn lưu động tập kích, thường vận động tụ tản”.


4 tháng 2.

Thành lập Cục Quân giới
, gồm Nha Giám đốc công binh xưởng, Nha Nghiên cứu kỹ thuật, Nha Mậu dịch, Nha Sự vụ.

Cục trưởng: Trần Đại Nghĩa.


1 tháng 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 20-SL) về “hưu bổng thương tật’’ và "tiền tuất cho thương binh, liệt sĩ”.


12 tháng 2.

Thành lập Phòng Dân quân thuộc Cục Chính trị
(sắc lệnh Chính phủ số 16/SL).

Trưởng phòng: Khuất Duy Tiến.

Ngày 19 tháng 2 năm 1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư về việc mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, quy định hệ thống tổ chức, nhiệm vụ các cơ quan dân quân, tự vệ, du kích thuộc các khu, tỉnh, huyện, xã.


15 tháng 2.

Hội nghị chính trị viên lần thứ nhất
. Đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bí thư Trung ương quân ủy, và đồng chí Văn Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Chính trị chủ trì. Hội nghị quyết định nhiệm vụ của công tác chính trị, của đảng viên trong quân đội: “Dù trong trường hợp nào cũng phải nắm cho vững bộ đội, củng cố và mở rộng cơ sở Đảng, thi hành cho được nhiệm vụ quân sự”. Hội nghị đề ra 12 điều kỷ luật dân vận, 10 nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội, quyết định ra báo “Vệ quốc quân”.


Tháng 2.

Hội nghị đại biểu các Ban liên lạc các chiến khu
, bàn nguyên tắc, trách nhiệm tổ chức mạng liên lạc đặc biệt giữa Bộ Tổng chỉ huy với các chiến khu và ngược lại.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:46:53 am

10 tháng 3.

- Báo “Vệ quốc quân” ra số đầu
. Ngày 27 tháng 3, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho báo: “Vệ quốc quân là quân đội của nhân dân, để bảo vệ đồng bào, giữ gìn Tổ quốc. Báo Vệ quốc quân cốt để nâng cao tinh thần và kỷ luật của bộ đội”.

- Bộ Quôc phòng - Tổng chỉ huy phát hành tem “Hỏa tốc”. Tem hình chữ nhật, bốn cạnh trổ răng cưa, bên trong có hình ngọn lửa và chữ “hỏa tốc”.


20 tháng 3.

Thành lập Cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy
. Cục trưởng: Hoàng Mỹ (Trần Hiệu) nguyên Phó giám đốc Nha Công an Bắc Bộ.


22 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức lại Cục Quân nhu
(Nghị định số 258/NĐ). Năm chi cục (Thanh Hóa, -Nho Quan, Hà Đông, Chiêm Hóa, Thái Nguyên) được thu gọn lại thành ba phân sở ở Thanh Hóa, Ninh Bình và Chiêm Hóa trực thuộc Cục.


29 tháng 3.

Bốn tiểu đội (thuộc hai tiểu đoàn 16 và 18, trung đoàn Trần Cao Vân) tập kích đồn Đất Đỏ (Khu 4)
, mở đầu sự chuyển hướng từ đánh “dàn trận” sang “du kích, vận động” của các lực lượng vũ trang trên chiến trường Bình-Trị-Thiên.


Tháng 3.

Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ; thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc Ủy ban kháng chiến các cấp.


3-6 tháng 4.

Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai
. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa. Hội nghị quyết định: 1 - Đối với bộ đội: nắm vững và rèn luyện... làm cho bộ đội ta xứng đáng là bộ đội cách mạng của nhân dân... 2 - Chiến lược, chiến thuật:... cương quyết chuyển sang du kích vân động chiến, giành quyền chủ động về chiến thuật... 3 - Vấn đề dân quân: Cấp tốc xúc tiến việc tổ chức, huấn luyện, vũ trang và lãnh đạo dân quân... 4 - Căn cứ địa: tổ chức căn cứ địa ở miền rừng núi và đồng bằng. 5 - Quân giới:... chế tạo các vũ khí phá xe tăng, ca nô (ba-zô-ka, mìn, địa lôi) và vũ khí thô sơ... 6 - Quân lương: thực hành việc bộ đội tham gia sản xuất.


Tháng 4 và tháng 5.

Các chiến trường đẩy mạnh chống càn và đánh giao thông
. Ở Bắc Bộ: tiểu đoàn 60 (Khu 2) phá chiến dịch đường số 6 của địch. Quân và dân làng Cự Nẫm (Quảng Bình) đánh bại cuộc càn lớn của địch, được tuyên dương là “làng chiến đấu kiểu mẫu”. Ở Trung Bộ: trung đoàn 81 phục kích diệt 40 tên địch tại Suối Ván; tiếp đó, diệt 4 xe quân sự, 35 tên địch tại Lăng Ông. Tiểu đoàn 193 (trung đoàn 108) diệt một đoàn xe quân sự, thu nhiều vũ khí tại đèo Hải Vân. Ở Nam Bộ: bộ đội Khu 8 diệt một đoàn xe vận tải quân sự tại Giồng Dừa, bộ đội Khu 9 diệt 6 xe vận tải, hơn 100 lính Pháp, thu nhiều vũ khí tại Tầm Vu (Rạch Giá). Qua các trận đánh trên, bộ đội ta được rèn luyện, tiến bộ trong cách đánh “du kích vận động chiến”.


Tháng 4.

Chế tạo thành công súng ba-zô-ka
. Việc nghiên cứu, chế tạo đã được thực hiện ở xưởng quân giới Giang Tiên (Thái Nguyên) từ giữa năm 1946. Sau đó, kỹ sư Trần Đại Nghĩa trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo chế tạo thành công ba-zô-ka theo mẫu của Mỹ (kiểu ATM6A1), cỡ 60 ly, dài 1,27 mét, nặng 11 ki-lô-gam, có thể vác vai, bắn không giật, cự ly bắn hiệu quả từ 50 đến 60 mét, xa nhất 300 mét. Đạn ba-zô-ka là đạn lõm chống tăng. Ngày 3 tháng 3 năm 1947, ba-zô-ka được sử dụng diệt xe tăng Pháp tại Sơn Lộ - chùa Trầm, Hà Đông. Cùng thời gian trên, các cơ sở quân giới còn nghiên cứu, chế tạo được một số vũ khí chống tăng cỡ nhỏ (AT), súng phóng lựu, cối 51 ly...


1 tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 47/SL về tổ chức Bộ Tổng chỉ huy
. Gồm: 1 - Bộ Tổng Tham mưu. 2 - Cục Chính trị. 3 - Cục Tình báo. 4 - Văn phòng. 5 - Cục Tổng Quân huấn. 6 - Cục Thanh tra. 7 - Cục Dân quân. Sắc lệnh quy định tổ chức cụ thể của Bộ Tổng Tham mưu, Cục Chính trị và Văn phòng.


15 tháng 5.

Chính phủ ra sắc lệnh đặt Huân chương Quân công, Huân chương Chiến sĩ; tiếp đó, ngày 6 tháng 6, đặt Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Độc lập.


21 tháng 5.

Hội nghị quân y lần thứ tư
. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy nói chuyện với hội nghị: “Phải lo cho tất cả nhân viên quân y hiểu rõ và yêu mến nhiệm vụ thiêng liêng của mình. Phải đặc biệt chú ý đề phòng và điều trị bệnh sốt rét rừng bằng đủ mọi phương pháp. Chú trọng đào tạo nhân viên quân y cho bộ đội...”.


24 tháng 5.

Hội nghị dân quân, du kích toàn quốc lần thứ nhất
, thống nhất việc tổ chức dân quân tự vệ và du kích từ những tổ chức vũ trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc xây dựng trở thành một bộ phận trong các lực lượng vũ trang Nhà nước, do các cơ quan quân sự địa phương chỉ huy. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị: “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”.


Cuối tháng 5.

Thành lập đội liên lạc vô tuyến điện 59 thuộc Phòng Thông tin liên lạc quân sự
, bảo đảm liên lạc vô tuyến điện từ Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng Tham mưu tại căn cứ địa Việt Bắc đi cả nước.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:48:16 am

12-15 tháng 6.

Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba
, đề ra kế hoạch bồi dưỡng chấn chỉnh bộ đội, củng cố căn cứ địa kháng chiến, dự kiến âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch trong thu-đông 1947, đúc rút kinh nghiệm tác chiến của các lực lượng vũ trang nhân dân, chuẩn bị tác chiến để phá sự chuẩn bị tiến công mùa đông của địch.


14 tháng 7.

Chi đội 10 tiến công đoàn xe lửa địch tại Bầu Cá
(trên đường Biên Hòa- Phan Thiết), diệt 200 tên, thu 60 súng các loại, 3 máy vô tuỵến điện.


15 tháng 7.

Ở Trung Bộ, trung đoàn 82 phá hủy 3 xe vận tải quân sự, diệt 40 tên địch thu toàn bộ vũ khí tại khu vực cầu Ai Lâm.


27 tháng 7.

Ngày toàn quốc chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đem chiếc áo lụa do Hội Phụ nữ cứu quốc biếu Người và một tháng lương cùng tiêu chuẩn bữa ăn tặng thương binh.


Tháng 7.

- Thành lập Ban Pháo binh khu 10
, lực lượng có 5 trung đội (175, 200, 225, 250, 275), quân số 250 người, các đồng chí Phạm Văn Đôn và Doãn Tuế phụ trách.

- Khu 8 quyết định thành lập trung đoàn 120 trên cơ sở chi đội 14 (Tân An), trung đoàn 105 trên cơ sở chi đội 17 (Mỹ Tho), trung đoàn 115 trên cơ sở chi đội 18 (Sa Đéc).


16 tháng 8.

Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 56 và Nghị định số 57/NCCB
, quy định phụ cấp chức vụ cho công nhân các xưởng, phụ cấp chức vụ và phụ cấp gia đình cho nhân viên quốc phòng.


20 tháng 8.

Chi đội 16 chống càn
, diệt một đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí tại An Nhơn Tây (Gia Định).


2 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ quân đội quốc gia.


..."CÁC CẤP CHỈ HUY CẦN PHẢI:

a. Biết rõ bộ đội, chăm nom bộ đội.

b. Mỗi một mệnh lệnh đưa ra thì cần phải mau chóng chuyển khắp đến từng đội viên và phải thi hành triệt để.

c. Mỗi người chỉ huy về quân sự cũng như về chính trị, phải làm kiểu mẫu, phải giữ đúng đạo đức của quân nhân cách mạng.

TẤT CẢ CÁC ĐỘI VIÊN CẦN PHẢI:

a. Ra sức bọc tập kinh nghiệm và cố gắng nghiên cứu kỹ thuật.

b. Rèn luyện tinh thần chịu khó chịu khổ.

TOÀN THỂ BỘ ĐỘI CẦN PHẢI:

Ra sức thực hành những nghị quyết do những hội nghị quân sự toàn quốc ấn định. Phải thực hành cho đến nơi đến chốn.

Quân đội ta quyết phải làm được những điều đó để khỏi phụ lòng tin cậy của Chính phủ, của đồng bào và để trở nên một quân đội tất thắng".


5 tháng 9.

Chiến khu 1 thành lập Trường Quân chính
đào tạo tiểu đội trưởng, trung đội trưởng. Khóa 1 khai giảng ngày 5 tháng 9, tại Bắc Máng, Cù Vân, Đại Từ, Thái Nguyên, có 60 học viên.

Giám đốc: Tạ Hữu Khang.
Chính trị viên: Lê Quang An.

Cùng thời gian này, Trường Quân chính Chiến khu 2, Trường Bổ túc văn hóa cán bộ cũng được thành lập.


20 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 88-SL, thưởng những gia đình có ba con trở lên tòng quân
. Thưởng tiền (500 đồng); hoặc thưởng danh dự (tặng một bằng danh dự, hoặc được biệt đãi ở địa phương trong các cuộc họp công cộng).


25 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cụ Chủ tịch Ủy ban Trung ương “Mùa đông binh sĩ”:
“...Đồng bào ta đã giúp nhiều lần. Lần này, mặc dầu hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong diệt địch...”


27-29 tháng 9.

Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ tư
, nhận định: “Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc...”. Hội nghị chủ trương kiên quyết nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa các khu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá tan âm mưu lập ngụy quyền của địch. Cách đánh của ta là du kích chiến và vận động chiến, “dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trường của mỗi địa phương” và “tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến”, “tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh, hóa trang lẫn vào dân khi cần”.


Cuối tháng 9.

Bộ Tổng chỉ huy tổ chức hội nghị nghiên cứu chiến dịch, chiến thuật
, đặc biệt là cách đánh “kỳ tập”, “cường tập”, kỹ thuật bắn máy bay bằng vũ khí sẵn có...


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:49:08 am

7-10 đến 9-12.

Chiến dịch phản công Việt Bắc.


Bộ Tổng chỉ huy sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ), 72, 74, 121 (Khu 1), 11, 36, 59, 98 (Khu 12), một tiểu đoàn pháo binh và trung đoàn Sông Lô (Khu 10), năm tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích đánh bại cuộc tiến công lớn của quân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc.

Ngày 8 tháng 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ ra sức tiêu diệt địch. Ngày 15 tháng 10, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”.

Chiến dịch diễn ra thành hai đợt. Các đơn vị thực hiện phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” và cách đánh du kích, vận động, đánh địch trên các địa bàn, trọng điểm là các mặt trận Đường số 3, Đường số 4 và Sông Lô, bẻ gãy các mũi tiến công đường không, đường bộ và đường thủy của binh đoàn đổ bộ đường không, binh đoàn bộ binh thuộc địa, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa, lính thủy đánh bộ cùng lực lượng dự bị của Pháp (tổng số khoảng 1,2 vạn quân). Nhiều trận gây cho địch tổn thất lớn: bắn rơi tại chỗ máy bay chở viên tham mưu phó quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, thu tài liệu kế hoạch chiến dịch của địch (9-10); phục kích tại bản Sao - đèo Bông Lau (30-10); bắn tàu chiến, ca-nô tại Khoan Bộ (23-10), Đoan Hùng (24-10), La Hoàng (2-11), Khe Lau (10-11)... trên sông Lô; tập kích đồn Phủ Thông (30-11); phục kích tại đèo Giàng trên đường số 3 (15-12)...

Toàn chiến dịch, các đơn vị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 quân Pháp, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến và ca-nô, phá hủy 100 khẩu pháo, cối, hàng nghìn súng, hàng trăm xe quân sự, thu hàng chục tấn chiến lợi phẩm.

Chiến dịch phản công Việt Bắc đánh dấu bước trưởng thành mới của quân đội ta. Bộ đội ta dần dần quen tác chiến. Bộ chỉ huy của ta học được những kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh...

Chiến thắng Việt Bắc làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang một giai đoạn mới.


10 tháng 11.

Bộ Tổng chỉ huy ra “Huấn lệnh về cuộc vận động luyện quân đội, lập chiến công”
(luyện quân, lập công). Mục đích: - “Huấn luyện cho bộ đội ta trở dần nên một quân đội quốc gia xứng đáng, bổ cứu những khuyết điểm hiện tại”. - “Rèn luyện các bộ đội ta có một trình độ kỹ thuật đầy đủ để phát động du kích chiến tranh rộng rãi, và đánh vận động trong điều kiện thuận lợi”. - “Nâng cao tinh thần hy sinh vì nước, anh dũng giết giặc, gây truyền thống oanh liệt cho quân đội quốc gia...”.


14 tháng 11.

Bộ Tổng chỉ huy ra “Huấn lệnh về phát động du kích chiến tranh, nhiệm vụ quân sự cơ bản trong giai đoạn này”
, chỉ rõ: “Nếu du kích chiến tranh là căn bản thì vận động chiến là phù trợ... Trong khi những đơn vị tập trung của quân đội chính quy tiến hành vận động chiến, nếu du kích chiến tranh không phát triển thì quân đội chính quy rất khó làm tròn nhiệm vụ của mình. Vì vậy phát triển du kích chiến tranh tức là gây điều kiện thuận lợi cho vận động chiến... Quân chính quy phải hiểu rõ du kích chiến tranh là cần thiết cho vận động chiến, tự mình phải tận lực nâng đỡ du kích quân và khi cần phải cho một bộ phận của mình ra hoạt động du kích và đảm nhiệm việc phát động du kích”.


12 tháng 12.

Thành lập Ban Quân sự Nam Bộ
. Trưởng ban: Nguyễn Thanh Sơn.


22 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ quân đội quốc gia.


... “Từ Giải phóng quân đến Vệ quốc quân.

Đội thứ nhất của Giải phóng quân ngày trước là cái hạt giống bé nhỏ, do đó mà nảy nở thành cái rừng to lớn là Vệ quốc quân ngày nay".

“Ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn. Bộ đội thường phải nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười”.

“Giải phóng quân đã làm tròn nhiệm vụ đoạn trước, là giúp sức hoàn thành cuộc Cách mạng tháng Tám, xây dựng nền Dân chủ cộng hòa, cũng làm tròn nhiệm vụ đoạn sau, là để lại cho Vệ quốc quân một số cán bộ rất tốt và một cái truyền thống oanh liệt vẻ vang”.

Tháng 12.

Ở Nam Trung Bộ, trung đoàn 81 mở thông đường liên lạc mang tên "Đường Hồ Chí Minh" dài hơn 300 ki-lô-mét, nối liền Nam Trung Bộ với Nam Bộ (từ Phú Yên đến Bà Rịa), góp phần đưa đón cán bộ, bảo đảm thông tin liên lạc, tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:50:23 am

NĂM 1948

1 tháng 1.

Thành lập tiểu đoàn pháo binh 410 (Liên khu 10) nòng cốt là năm trung đội 175, 200, 225, 250, 275 thuộc Ban Pháo binh Khu 10 cũ. Tiểu đoàn trưởng: Phạm Văn Đôn.

Đây là tiểu đoàn pháo binh tập trung đầu tiên của quân đội ta.


Đầu năm.

- Thành lập các trung đoàn 300, 301, 302, 304, 306, 307, 308, 310, 311, 312 và một tiểu đoàn lưu động thuộc Khu 7. Sau khi thành lập, trung đoàn 302 sát nhập thêm một chi đội và đổi thành trung đoàn 309, hai trung đoàn 307 và 309 sát nhập thành trung đoàn 397.

- Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy thành lập Trường Cán bộ dân quân Lê Bình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân quân tự vệ và du kích huyện, tỉnh. Một số cán bộ, giáo viên Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn được điều động về xây dựng trường.


15-17 tháng 1.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (mở rộng)
, chủ trương chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới; phát triển dân quân, phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là trong vùng địch kiểm soát, đồng thời tùy theo tình thế tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của địch, bắt địch thu hẹp địa bàn, đột kích những thành phố nhỏ..., xúc tiến luyện quân lập công, huấn luyện bộ đội và đào tạo cán bộ quân sự theo những kinh nghiệm mới nhất ngoài mặt trận; chỉnh đốn quân giới, quân nhu, quân y, giao thông liên lạc, tình báo..., tăng cường công tác chính trị, nhất là địch vận; quy định cấp bậc trong quân đội.


20 tháng 1.

- Chính phủ ra sắc lệnh phong hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo chỉ huy quân đội.


Quân hàm Đại tướng: Võ Nguyên Giáp.
Quân hàm Trung tướng: Nguyễn Bình.
Quân hàm Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình.

- Bộ Tổng chỉ huy ra chỉ thị số 114/BT về xây dựng căn cứ Tây Bắc, một nhiệm vụ quan trọng về chính trị và quân sự, nhằm “bảo toàn lãnh thổ, giải phóng đồng bào, mở rộng căn cứ địa dự bị ở Bắc Bộ, phá tan âm mưu dùng người Việt giết người Việt; khoét sâu nhược điểm thiếu nhân lực của địch, đặt cơ sở cho công cuộc quốc phòng vững chắc về sau, mở một con đường quốc tế...”. Chỉ thị đề ra phương châm công tác của các lực lượng vũ trang tại Tây Bắc.


25 tháng 1.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 119/SL) thành lập Cục Tổng thanh tra Quân đội
thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.

Cục trưởng: Thiếu tướng Lê Thiết Hùng.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 120-SL tổ chức lại các khu. Khu 1 và Khu 12 hợp nhất thành Liên khu 1. Khu 2, Khu 3 và Khu 11 hợp nhất thành Liên khu 3. Khu 4 đổi tên thành Liên khu 4 (gồm cả phân khu Bình - Trị - Thiên); Khu 5 và Khu 6 hợp nhất thành Liên khu 5. Ở Nam Bộ vẫn giữ ba Khu 7, 8, 9 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Tổ chức Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính liên khu. Ủy ban kháng chiến miền Nam đổi thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính miền Nam - Trung Bộ.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 116/SL đặt hệ thống quân hàm từ hạ sĩ đến Trung tướng dành cho nhân viên thuộc Bộ Quốc phòng không phải là quân nhân.


28 tháng 1.

Bộ Tổng chỉ huy chỉ thị về nhiệm vụ của bộ đội công binh.


- Phá hoại: đường sá, cầu cống, kho tàng, đồn trại, phương tiện giao thông..., của địch.

- Xây dựng: sửa chữa đường, bắc cầu, công sự phòng ngự, kiến trúc quân sự lớn, cung cấp chất nổ và dụng cụ công binh cho bộ đội, kiến lập các căn cứ địa.

- Tác chiến: đánh địa lôi và thủy lôi chiến, bộc phá đồn trại, kho tàng, vị trí địch, phá chiến xa, trường bay...


29 tháng 1.

Bộ Tổng chỉ huy chỉ thị nhiệm vụ cho mặt trận Đông Bắc:
vũ trang tuyên truyền sâu vào vùng địch hậu đến An Châu, Đông Triều, Hòn Gai, Cẩm Phả, Hải Ninh, giúp đỡ bộ đội Việt Bắc..., có kế hoạch tuyển người địa phương vào bộ đội hoặc đem về hậu phương huấn luyện. Về tác chiến chú trọng đường số 4 từ Tiên Yên đến Lạng Sơn, từ Lạng Sơn đến Đông Khê..., đánh địch ở Lục Nam, Phả Lại, Đông Triều.


Tháng 1.

Các đơn vị đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá ấm mưu bình định của địch.


Ở Bắc Bộ: tiểu đoàn 223 (trực thuộc Bộ), tiểu đoàn 249 (trung đoàn 28 Lạng Sơn) cùng một số đại đội độc lập, dân quân, du kích phá hủy bốn xe quân sự, diệt gần hai trung đội địch, thu nhiều chiến lợi phẩm tại Bố Củng - Lũng Vài trên đường số 4A (8-1). Sau trận này, tiểu đoàn 223 được tặng danh hiệu “tiểu đoàn Lũng Vài”.

Ở Trung Bộ: bộ đội công binh (trung đoàn 82) đánh phục kích, làm đổ một đoàn tàu quân sự địch tại khu vực Suối Kiệt (7-1). Trung đoàn 108 (Khu 5) đánh đoàn xe 62 chiếc có 1.500 lính và máy bay yểm trợ tại đèo Hải Vân, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên, thu nhiều vũ khí (24-1).

Ở Nam Bộ: một số đơn vị thuộc Khu 7 đánh bại cuộc hành quân “Vê-ga” của 11 tiểu đoàn địch có xe bọc thép lội nước, pháo binh, máy bay chi viện tại chiến khu Đồng Tháp Mười (14 đến 18-1). Đây là trận chống càn lớn nhất từ trước đến nay của các lực lượng vũ trang Khu 7.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:51:35 am

12 tháng 2.

Hội nghị quân giới lần thứ ba
, quyết định: -Tổ chức lại các cơ sở quân giới với quy mô thích hợp gồm xưởng chủ lực, xưởng nhỏ (hay công trường), xưởng dụng cụ và kíp lưu động để vừa đáp ứng yêu cầu sản xuất, vừa đi vào chuyên môn hóa, tăng năng suất, chất lượng, tiện bảo vệ, di chuyển... - Phương hướng sản xuất phải sát yêu cầu chiến đấu, trong đó hết sức phát triển địa lôi, lựu đạn.


15 tháng 2.

Bộ Quốc phòng phát động phong trào “gây cơ sở, phá kỷ lục"
trong các cơ quan, cơ sở quốc phòng.


29 tháng 2.

- Chính phủ ra sắc lệnh 410/SL, thành lập Cục Tiếp tế vận tải
trực thuộc Bộ Kinh tế. Nhiệm vụ: vận tải tiếp tế cho Trung ương và cho quân đội.

- Bộ Tổng chỉ huy giao cho Liên khu 10 thành lập Ban Xung phong Tây Bắc. Các đội xung phong “Trung Dũng”, “Quyết Tiến”, “Quyết Thắng”, “Lào Bắc” được thành lập cùng với một số đại đội độc lập, đội vũ trang tuyên truyền tiến sâu vào vùng địch hậu cùng với lực lượng của bạn gây cơ sở, phát động du kích chiến tranh.


Tháng 2.

Tổng chỉ huy quyết định thành lập Đội Vũ trang công tác biên phòng
(gọi tắt là Vũ công đội biên phòng), hoạt động ở các tỉnh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang. Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Tổng chỉ huy ra Nghị định (số 151-TCH) thống nhất các đội vũ trang tuyên truyền ở biên giới vào hệ thống của quân đội quốc gia.

Phụ trách: Lý Ban, đặc phái viên Bộ Tổng chỉ huy.


1 tháng 3.

Trung đoàn 310 (Biên Hòa) do trung đoàn phó Nguyễn Văn Lung chỉ huy
, cùng du kích phục kích đoàn xe quân sự của địch tại La Ngà - Định Quán (trên đường Sài Gòn - Đà Lạt), phá hủy gần 60 xe, diệt 150 tên địch (trong đó có đại tá Pa-ruýt, tổng tham mưu phó quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, và đại tá Đờ Sê-ri-nhê, chỉ huy sư đoàn lê dương số 13).


6 tháng 3.

Hội nghị chính trị viên (chính trị ủy viên khu và chính trị viên trung đoàn) toàn quốc lần thứ hai
, quán triệt nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn mới; rút kinh nghiệm và đề ra nhiệm vụ, kế hoạch công tác chính trị; quy định thống nhất về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan công tác chính trị các cấp, công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị viên và bổ túc về chính trị cho cán bộ quân sự.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị, nêu rõ ba nhiệm vụ của chính trị viên: “1 - Đối với bộ đội, phải săn sóc luôn luôn đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hóa, phát triển văn hóa và đường lối chính trị trong bộ đội... Chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”. “2 - Đối với nhân dân... Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội”. “3 - Đối với quân địch,... Chính trị viên phải biết cách tuyên truyền khôn khéo, thiết thực, để giác ngộ họ, lôi kéo họ về phía ta”.


7-23 tháng 3.

Các đại đội 105, 117, 124 bộ đội địa phương, cùng dân quân, du kích chống càn tại Hòa Mỹ (Hương Trà, Thừa Thiên)
, diệt và làm bị thương 200 tên, bắn rơi hai máy bay.


9 tháng 3.

Hội nghị quân y lần thứ sáu
, nêu khẩu hiệu “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, quyết định sửa đổi lại chương trình đại học y khoa, mở lớp đào tạo y tá phẫu thuật...

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị nhấn mạnh đạo đức và trách nhiệm của người thầy thuốc: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền”.


15-25 tháng 3.

Chiến dịch Nghĩa Lộ (Tây Bắc):
bốn tiểu đoàn chủ lực và dân quân, du kích Liên khu 10 tiến công bức rút bảy vị trí, tiêu diệt một phần sinh lực địch, tạo điều kiện cho các đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập của liên khu tiến vào hoạt động trong vùng tạm bị địch chiếm.


15 tháng 3.

Thành lập Trường Bổ túc quân chính trung cấp
(nghị định số 88/BCH), kế tục các lớp bổ túc quân sự trung cấp.

Giám đốc: Cao Xuân Hổ, nguyên Tham mưu trưởng Chiến khu 2.
Chính trị ủy viên: Hoàng Mười.

Khóa 1 khai giảng cuối tháng 3, tại Soi Mít, Tân Cương, Đồng Hỷ, Thái Nguyên, có 110 học viên.


16 tháng 3.

Tiểu đoàn 48 độc lập (Liên khu 1) phối hợp với tiểu đoàn 249 Lạng Sơn phục kích
, phá hủy bảy xe địch, diệt và làm bị thương hơn 140 tên trên đường số 4 (đoạn Na Sầm - Thất Khê).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:52:56 am

17-19 tháng 3.

Hội nghị tham mưu toàn quân lần thứ nhất
, rút kinh nghiệm về công tác nghiệp vụ, quyết nghị chấn chỉnh cơ quan tham mưu các cấp, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ tham mưu của từng chuyên ngành (tác chiến, quân báo, nhân sự, quân huấn, trang bị cấp dưỡng...).


18 tháng 3.

- Tiểu đoàn 45 thuộc trung đoàn 17 chủ lực Bộ được tăng cường hỏa lực pháo binh, tiến công cứ điểm Tu Vũ
, cách Hòa Bình 25 ki-lô-mét về phía bắc, diệt và làm bị thương 60 tên địch, phá hủy hai phần ba công sự. Qua trận đánh, bộ đội ta có thêm kinh nghiệm hiệp đồng giữa pháo binh và bộ binh trong tác chiến diệt cứ điểm.

- Du kích huyện Tân Uyên (tỉnh Thủ Biên), do Trần Công An chỉ huy diệt tháp canh cầu Bà Kiên bằng cách cải trang, lợi dụng lúc địch thay gác, bí mật tiếp cận, dùng thang leo lên, ném lựu đạn qua lỗ bắn vào tháp canh, diệt 10 tên, thu 8 khẩu súng rồi rút lui an toàn. Cách đánh "công đồn đặc biệt” (gọi tắt là đặc công) ra đời.


21 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra nghị định số 24/NĐ-CB về chế độ liên lạc viên và thiếu sinh viên liên lạc ở Nam Bộ và các cục.



22 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra chỉ thị số 26/TT
, ban hành thể lệ chi tiêu, thanh toán, định mẫu sổ sách, giấy tờ thi hành trong toàn quân.


27 tháng 3.

Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động thi đua ái quốc
. “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc chóng thành công”. Trong quân đội tiếp tục đẩy mạnh các phong trào “luyện quân, lập công”, “gây cơ sở, phá kỷ lục”.


Tháng 3.

- Báo “Quân du kích” - Cơ quan của dân quân Việt Nam, ra số đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho báo (7-1949):

“Làm cho: mỗi quốc dân là một chiến sĩ.
Mỗi xóm làng là một pháo đài.
Làm cho: quân đội giặc đến đâu cũng bị khuấy, bị phá, bị diệt.

Bộ đội ta đến đâu cũng được giúp đỡ đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là nhiệm vụ của báo “Quân du kích”.

- Thành lập tiểu đoàn 307 trên cơ sở tập hợp một số cán bộ, chiến sĩ từ các trung đoàn, đại đội xung phong, Trường Quân chính Khu 8 và tiểu đoàn 404. Tiểu đoàn có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Ban quân sự Nam Bộ, Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ.


4-7 tháng 4.

Tiểu đoàn 73 (trung đoàn 74, Liên khu 1) do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tiến Công chỉ huy, phục kích đoàn xe quân sự địch trên đường số 4A thuộc tỉnh Cao Bằng, phá hủy tại chỗ bảy xe, làm hư hỏng 50 xe, diệt và làm bị thương hơn 200 tên, thu chiến lợi phẩm.


7 tháng 4.

Đại đội 87 (tiểu đoàn 400, trung đoàn 9) và một đại đội của chi đội Nguyễn Thiện Thuật (phân khu Trị-Thiên) chống địch càn quét tại làng Đồng Dương (Quảng Trị); diệt hai trung đội địch, bắt 29 tên.


10 tháng 4.

Bốn chiến sĩ Mạc Thị Loan, Hoàng Thị Thanh, Nguyễn Thị Kim Dung, Bùi Thị Huệ
thuộc trung đội nữ biệt động Minh Khai, tiến công rạp chiếu bóng Ma-giét-tích (Sài Gòn) bằng lựu đạn, diệt và làm bị thương 50 sĩ quan thủy binh Pháp.


15 tháng 4.

- Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ hai
, rút kinh nghiệm hoạt động của dân quân du kích cả nước; đề ra phương hướng hoạt động, tổ chức, biên chế, trạng bị, huấn luyện, tác chiến và các chế độ công tác của dân quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị, biểu dương thành tích, nêu những khuyết điểm và đề ra bảy điểm để dân quân du kích thực hiện: “1 - Thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện dân quân du kích từng làng. Lấy dân quân du kích làm nền tảng, đồng thời phải kiện toàn các đội du kích thoát ly sản xuất. 2 - Làm cho mỗi đội viên hiểu rõ và tin tưởng vào lực lượng của ta, tin tưởng vào vũ khí thô sơ của ta. 3 - Phối hợp chặt chẽ với Vệ quốc quân. 4 - Làm cho mỗi đội viên hiểu rõ nhiệm vụ vẻ vang của họ. 5 - Làm cho họ hiểu rõ chiến thuật du kích là: phải luôn luôn giữ quyền chủ động, phải tìm địch mà đánh, phải luôn khuấy rối phá hoại địch, phải cộng những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to. 6 - Phải thực hành tự cấp tự túc bằng cách thiết thực tăng gia sản xuất; 7 - Phải thực hành những điều đó bằng cách thi đua. Làng này thi đua với làng khác; huyện, tỉnh, khu này thi đua với huyện, tỉnh, khu khác”.

- Thành lập Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn trên cơ sở hợp nhất Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi và các trường, lớp đào tạo cán bộ trung đội. Khóa học có 450 học viên. Thiếu tướng Lê Thiết Hùng nguyên Cục trưởng Cục Quân huấn được cử làm giám đốc.


16-20 tháng 4

Hội nghị công binh toàn quân lần thứ nhất
, thống nhất hoạt động và từng bước xây dựng công binh thành một lực lượng kỹ thuật mạnh.


19 tháng 4.

Năm đại đội bộ đội địa phương Cần Thơ và Rạch Giá (Khu 9)
phục kích, phá hủy 14 xe vận tải, diệt 200 tên địch tại Tầm Vu (Rạch Giá).


20 tháng 4.

Chi đội Nguyễn Thiện Thuật đổi phiên hiệu thành trung đoàn 95, chi đội Trần Cao Vân thành trung đoàn 101 và chi đội Lê Trực thành tiểu đoàn 274.


Tháng 4.

“Quân sự tập san" ra số đầu
. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho tập san: “Muốn trở nên người quân nhân mới, xứng đáng với cái vinh hạnh đứng trong quân đội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thì mỗi chiến sĩ, từ trên đến dưới các cấp bực đều phải nghiên cứu, học tập, luôn luôn cầu tiến bộ”. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng viết lời giới thiệu: “Tập san này giúp cho cán bộ nghiên cứu học hỏi những kinh nghiệm trong chiến tranh để rồi trở lại chỉ đạo chiến tranh”. Tháng 10 năm 1948, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy ra quyết định (số 414/TCH) đổi tên thành “Quân chính tập san”. Tháng 4 hàng năm được kỷ niệm là ngày truyền thống của Tạp chí “Quốc phòng toàn dân” ngày nay.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:55:07 am

20 tháng 5.

Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư (miền Bắc Đông Dương)
xác định: “Nhiệm vụ của ta là tích cực lợi dụng thời gian bổ sung bộ đội, phát triển dân quân, ở những nơi địch có thể tiến công ráo riết thì đề phòng phá các cuộc tiến công của địch. Mở rộng công tác chính trị, nhất là công tác vận động ngụy binh, chuẩn bị mọi điều kiện đầy đủ để đẩy mạnh cuộc kháng chiến...”


1-15 tháng 6.

Chiến dịch Yên Bình Xã I
. Bộ Tư lệnh Liên khu 10 sử dụng các tiểu đoàn 532 (chủ lực liên khu), 534 (Hà Giang), 45 (chủ lực bộ), hai đại đội độc lập (700 và Ngô Khê) tiến công tại Yên Bình Xã (khu vực Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang), nhằm tiêu diệt sinh lực, phá kế hoạch tiến công của địch, rèn luyện bộ đội tác chiến tập trung…


29 tháng 6.

Trung đoàn 103 (Liên khu 4) do trung đoàn trưởng Tùng Lâm chỉ huy
, tiêu diệt các vị trí Ba Đồn, Thụ Lộc, Cự Nẫm, Sen Bằng, Hy Diệt (bắc Quảng Bình).


Tháng 6.

- Trung ương Quân ủy mở cuộc vận động “Chi bộ tự động công tác"
, làm cho các chi bộ ở các đại đội độc lập và các đội vũ trang tuyên truyền lãnh đạo đơn vị ứng phó với mọi tình huống chiến tranh ở vùng sau lưng địch và coi đây là phương pháp chính để củng cố cơ sở Đảng.

- Bộ Tổng tham mưu mở lớp bổ túc sĩ quan tham mưu khóa 1, gồm 40 học viên.


9 tháng 7.

Tiểu đoàn 319 (trung đoàn 101, Liên khu 4)
diệt đồn Hà Thanh (Phú Vang, Thừa Thiên).


12 và 13 tháng 7.

Du kích và nhân dân làng Cảnh Dương
(Quảng Trạch, Quảng Bình) dựa vào “làng chiến đấu” đánh bại cuộc càn lớn của địch.


25-7 đến 2-8.

Chiến dịch Đường số 3.


Bộ chỉ huy Liên khu 1 chỉ huy hai trung đoàn (308, 74), ba tiểu đoàn và một số đại đội độc lập, cùng du kích tiến công địch tại Bắc Cạn - Ngân Sơn (có hai đại đội lê dương, một đại đội cơ động và lính ngụy) trên tuyến phòng thủ Bắc Cạn - Cao Bằng, nhằm phá kế hoạch thu-đông 1948 của địch...

Chỉ huy trưởng chiến dịch: Thanh Phong.
Chỉ huy phó: Lâm Kính.

Mở đầu, tiểu đoàn 11 (trung đoàn 308) được tăng cường một đại đội pháo tiến công cứ điểm Phủ Thông. Tiếp đó, các đơn vị tăng cường đánh du kích, đánh giao thông, chặn viện trên đường số 3. Địch thiệt hại gần 60 tên và hơn 50 súng, cối. Tiểu đoàn 11 được tặng danh hiệu “tiểu đoàn Phủ Thông”.


Tháng 7.

Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất
họp tại Chiến khu Đồng Tháp Mười quyết định phát triển phong trào dân quân, lập làng chiến đấu, xây dựng chủ lực mạnh để đánh những trận lớn, phát triển đánh giao thông, đi đến đánh đồn, tiêu diệt từng bộ phận của địch...

Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Xứ ủy.


8-16 tháng 8.

Hội nghị cán bộ trung ương Đảng lần thứ năm
. Đồng chí Trường Chinh - Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng trình bày văn kiện “Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ”. Về quân sự, hội nghị nhấn mạnh vấn đề tổ chức Đảng trong quân đội, rút ra những bài học lớn về tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong quá trình chuyển từ du kích chiến lên vận động chiến. “Muốn đánh giặc phải bám chắc lấy dân, đất có thể tạm thời mất, nhưng nắm chắc được dân thì sẽ lấy lại được hết”. “Phải phối hợp chiến lược trên chiến trường toàn quốc”, “phối hợp tác chiến giữa bộ đội và dân quân du kích”, “giữa mặt trận trước mặt địch và mặt trận sau lưng địch”. “Mục đích tác chiến thiết thực của ta là tiêu diệt lực lượng sắc bén của địch cho thật nhiều”. “Diệt cứ điểm nhỏ và riêng lẻ của địch trước mới đánh những cứ điểm trung binh và cứ điểm lớn”. “Học đánh vận động từng tiểu đoàn đến trung đoàn”.


9 tháng 8.

Đại đội du kích Lê Hồng Phong tỉnh Quảng Trị phục kích đoàn xe quân sự địch trên đường số 9
, phá hủy 13 xe, diệt 25 tên địch, thu 30 súng. Đại đội được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen là “Đơn vị kiểu mẫu của Liên khu 4".


10 tháng 8.

Tiểu đoàn 274 (Quảng Bĩnh) được một bộ phận của tiểu đoàn 400 (trung đoàn 301) phối hợp, phục kích, phá hủy năm xe, diệt 17 tên địch tại Tiên Lương.


18-31 tháng 8.

Trung đoàn 209 (trung đoàn Sông Lô) cùng nhân dân và lực lượng vũ trang Liên khu 10
chống cuộc càn Ca-ni-gu của 3.000 quân địch tại Vĩnh Yên, Phúc Yên.


19 tháng 8.

- Thành lập Hội đồng quốc phòng tối cao
. Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Phó chủ tịch: Lê Văn Hiến (Bộ trưởng Bộ Tài chính); các ủy viên: Phan Kế Toại (quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ), Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Kinh tế), Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam), Tạ Quang Bửu (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng).

- Chính phủ ra quyết định về nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng (tổ chức và quản trị quân đội và các cơ quan quốc phòng, điều khiển các cơ sở sản xuất quốc phòng), Tổng tư lệnh (phụ trách chỉ huy quân đội và dân quân Việt Nam, sử dụng các cơ quan giúp việc chỉ huy, quyết định việc điều động và sử dụng các sản phẩm). Cơ quan Bộ Quốc phòng gồm Văn phòng và các ngành sự vụ, Nha Quân giới, Nha Quân dược, Bộ Tổng Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Dân quân, Cục Quân huấn, Cục Quân pháp, Cục Tình báo, Cục Pháo binh, Cục Quân giới, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Thông tin liên lạc, Cục Vận tải.


20 tháng 8.

Trung đoàn 95 (Liên khu 4) do trung đoàn trưởng Nguyễn Nam Thắng và chính ủy Lê Chưởng chỉ huy
phục kích đoàn xe 27 chiếc của địch tại đèo Tàn Lâm (đường số 9), phá hủy 16 xe, diệt và bắt 30 tên. Đây là trận vận động phục kích giao thông cấp trung đoàn đầu tiên trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.


Tháng 8.

- Thành lập Mặt trận 3 (Mặt trận Trung Du)
. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp làm chỉ huy trưởng mặt trận.

- Hội nghị quân y lần thứ bảy quyết định thành lập Ban Truyền bá vệ sinh trong quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2022, 09:57:19 am

2 tháng 9.

Hội nghị quân giới toàn quốc lần thứ nhất
, thống nhất kiểu mẫu vũ khí, tổ chức sản xuất và phương pháp chế tạo, quản lý sản xuất và đào tạo, bồi dưỡng công nhân, cán bộ.


16 tháng 9.

Tiểu đoàn 307 chủ lực Khu 8 phục kích diệt hai trung đội địch tại Mộc Hóa (Tân An).


16-25 tháng 9.

Trung đoàn 95 (thiếu) Liên khu 4 chống càn tại chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị)
diệt 300 tên, làm bị thương 100 tên, đánh chìm 39 thuyền, một ca nô, phá hủy bảy xe quân sự.


24 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị tổ chức Ban Quân sự Nam Bộ
. “Tên và thành phần: để phù hợp với hệ thống chung, Ban Quân sự Nam Bộ gọi là Bộ Tư lệnh Nam Bộ”. “Nhiệm vụ và quyền hạn trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ: 1) Về bàn việc, theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nghĩa là kế hoạch chủ trương phải đưa ra thảo luận trong Ban Thường vụ hay Bộ Tư lệnh tùy điều kiện. 2) Chính phủ phải có quyền quyết định tối hậu. Nhưng trong lúc dùng quyền ấy, cần trọng uy tín của Tư lệnh và Phó tư lệnh và không lấn át sáng kiến chuyên môn”.


5-7 tháng 10.

Bộ Tư lệnh Liên khu 10 sử dụng tiểu đoàn 453, đại đội 522 (trung đoàn 115), hai đại đội độc lập (671, 672), một đại đội sơn pháo, mở chiến dịch tiến công địch ở Yên Bình Xá1 (Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang), diệt và làm bị thương 58 tên địch, thu một số vũ khí, lương thực, giải phóng 70 gia đình bị địch tập trung.


8-10 đến 26-11.

Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tư lệnh Liên khu 1 sử dụng ba trung đoàn 98, 28, 55 (chủ lực khu), hai tiểu đoàn 18, 29 (trung đoàn 308), ba tiểu đoàn độc lập 215, 426, 517, một đại đội và một trung đội trợ chiến và dân quân du kích mở chiến dịch tiến công địch ở khu vực An Châu - Đồng Dương (chiến dịch Đông Bắc I).

Chỉ huy trưởng chiến dịch: Lê Quảng Ba.

Kết quả: diệt hai cứ điểm, bức rút bảy vị trí, làm thương vong 150 tên, thu một số vũ khí.


23 tháng 10.

Đại diện Chính phủ tại miền Nam ra nghị định số 141/QSMNTB thành lập Phân khu Tây Nguyên, trung đoàn 210, hai liên trung đoàn 81-82 và 80-83
... Phân khu Tây Nguyên là địa bàn của Khu 15 cũ. Phân khu trưởng: Nguyễn Nen; Chính trị viên: Bùi San; Tham mưu trưởng: Phạm Văn Tho. Trung đoàn 210 gồm hai trung đoàn 210, 215 sáp nhập lại. Trung đoàn trưởng: Thu Sơn; chính trị viên: Lê Văn Nhiêu. Liên trung đoàn 81-82 (Khu 6 cũ), phụ trách bốn tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên, Đồng Nai. Liên trung đoàn trưởng: Đàm Quang Trung; chính trị viên liên trung đoàn: Nguyễn Sắc Kim. Liên trung đoàn 80-83 (Khu 6 cũ), phụ trách hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa. Liên trung đoàn trưởng: Lư Giang; chính trị viên liên trung đoàn: Nguyễn Đường.


27 tháng 10.

Ban Thường vụ Trung Ương Đảng ra Nghị quyết “Lập chế độ chính trị ủy viên đại diện Đảng phụ trách trong quân đội”
. Cấp Trung ương có Tổng Chính ủy (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Quốc phòng). Cấp khu và cấp trung đoàn có chính ủy là các đồng chí ủy viên khu ủy và ủy viên tỉnh ủy do Trung ương chỉ định. Cấp tiểu đoàn, đại đội có liên chi ủy và chi ủy.


Tháng 10.

Thành lập bộ Tư lệnh Nam Bộ
. Tư lệnh: Trung tướng Nguyễn Bình.


10 tháng 11.

Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy ra nghị định số 496/TCH, mở các lớp và trường thiếu sinh quân
ở các liên khu. Thiếu sinh quân sẽ tuyển trong con, em ruột của quân nhân còn tại ngũ, tử trận…, đào tạo để khi đủ tuổi làm cán bộ sơ cấp về quân sự, văn hóa, chính trị cho quân đội


11 tháng 11.

Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 5 mở đợt hoạt động đông-xuân 1948-1949
nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh du kích chiến tranh. Ở Khánh Hòa, Phú Yên: liên trung đoàn 80 - 83 do trung đoàn trưởng Lư Giang, chính ủy Nguyễn Đường chỉ huy, diệt một số vị trí địch. Ở Quảng Nam: trung đoàn 108 do trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát, chính ủy Nguyễn Quyết chỉ huy, được tăng cường hai tiểu đoàn 79 và 19, tập kích một số đồn địch ở khu vực thị xã Hội An, phục kích xe quân sự địch trên đèo Hải Vân. Ở Tây Nguyên: tiểu đoàn 50 (trung đoàn 120) do trung đoàn trưởng Trương Cao Dũng chỉ huy, cùng lực lượng vũ trang địa phương Gia Lai đánh giao thông trên đường số 19.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng liên trung đoàn 80 - 83 lá cờ “Danh Dự”.


19 tháng 11.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 259/SL quy định sinh hoạt phí, phụ cấp hàng tháng và phụ cấp thâm niên của quân đội
. Mỗi quân nhân, bất cứ ở cấp nào, giữ chức vụ gì đều được hưởng sinh hoạt phí tối thiểu 6 đồng một ngày. Phụ cấp hàng tháng: binh nhì 30 đồng, hạ sĩ 50 đồng, trung sĩ 60 đồng, thượng sĩ 80 đồng, chuẩn úy 100 đồng, thiếu úy 120 đồng, trung úy 160 đồng, đại úy 200 đồng, thiếu tá 280 đồng, trung tá 360 đồng, đại tá 440 đồng, thiếu tướng 600 đồng, trung tướng 700 đồng, đại tướng 800 đồng. Phụ cấp thâm niên đủ ba tuổi quân được cấp 30 đồng một tháng. Cứ thêm hai năm được thêm 30 đồng. Quân nhân làm chuyên môn (vô tuyến điện, giao thông liên lạc, quân nhạc ...) có thêm khoản phụ cấp kỹ thuật chuyên môn hoặc tiên thù lao hàng tháng.

- Chính phủ ban hành “Quân dụng phiếu”, sử dụng thay một phần tiền mặt trong việc trao đổi, phục vụ các nhu cầu cần thiết của quân đội.


25 tháng 11.

Thành tập Liên khu 3 (sắc lệnh 120/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2 và Chiến khu 3

Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Sâm.
Chính ủy: Lê Quang Hòa.


19 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi” kỷ niệm hai năm toàn quốc kháng chiến
. “Để đi đến thắng lợi cuối cùng, chúng ta còn phải kinh qua những bước gay go hơn trước, còn phải chiến đấu hăng hơn trước, mạnh hơn trước”.


Tháng 12.

Xuất bản cuốn “Mật mã đại cương"
- tài liệu lý thuyết mật mã đầu tiên lưu hành trong cơ quan chỉ huy và cơ quan mật mã toàn quân.
________________________________________________
1. Lần thứ hai.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:53:21 pm

Năm 1949

14-18 tháng 1.

Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu
, chủ trương: “Mạnh bạo đẩy vận động chiến đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để tiến sang giai đoạn phản công”. “Trọng tâm công tác trong lúc này là tiếp tục xây dựng các bộ đội chủ lực, tập trung cán bộ, tập trung vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc cho những đơn vị có nhiệm vụ đánh vận động chiến. Biên chế, huấn luyện, trang bị đều phải nhằm mục đích thực hiện vận động chiến mà tiến hành”.


20 tháng 1.

Hội nghị cán bộ quân sự cấp cao
, thảo luận “Kế hoạch quân sự năm 1949”, xác định: “Để phát động vận động chiến, thực hiện chủ động chiến dịch đi tới chủ động chiến lược cục bộ, nguyên tắc tập trung binh lực cần được cương quyết thực hiện, đặc biệt trên chiến trường chính và hướng chính. Việc tập trung binh lực cần thích hợp với điều kiện địa hình, chiến thuật áp dụng, địch tình trên mỗi chiến trường".


Tháng 1.

- Thành lập Liên khu 5
trên cơ sở hợp nhất Khu 5, Khu 6 và Phân khu 15 (Tây Nguyên).

Quyền tư lệnh: Nguyễn Thế Lâm.
Chính ủy: Nguyễn Chánh.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cán bộ dân quân Trường Lê Bình (khóa 2): “Muốn đánh giặc phải dựa vào ai? Trước nhất và mọi việc phải dựa vào nhân dân. Vậy mỗi cán bộ và mọi chiến sĩ dân quân du kích phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Hai là phải tổ chức chặt chẽ, tập huấn hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo. Hễ có giặc là đánh. Đánh khéo, đánh gan, đánh mạnh, đánh dai, đánh cho tan giặc”.


3 tháng 2.

Hội nghị công binh toàn quân lần thứ hai
, tổng kết kinh nghiệm và đề ra phương hướng xây dựng, củng cố lực lượng công binh trong tình hình mới.


Tháng 2.

- Tổng Chính ủy triệu tập hội nghị bí thư chi bộ toàn quân và hội nghị tổ chức, tuyên huấn toàn quân
, bồi dưỡng công tác lãnh đạo, rèn luyện đảng viên, đề cao tự phê bình và phê bình; xây dựng nền nếp công tác giáo dục chính trị, mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật trong quân đội.

- Hội nghị Xây dựng lực lượng vũ trang do Bộ Tổng Tham mưu triệu tập, thảo luận phương án tổ chức biên chế đại đoàn chủ lực thuộc Bộ và trung đoàn chủ lực liên khu, chuẩn bị cho Bộ Quốc phòng ban hành nghị định chính thức về tổ chức biên chế của đại đoàn và trung đoàn chủ lực.


1-3 đến 20-4.

Bô Tư lệnh Liên khu 10 sử dụng các tiểu đoàn 453, 532, 530, 930, một số đại đội độc lập và đội vũ trang tuyên truyền mở chiến dịch Lao-Hà (Lào Cai - Hà Giang) phối hợp với Mặt trận 7 (chiến dịch Cao-Bắc-Lạng và chiến dịch Đông Bắc) diệt hai vị trí, bức địch rút khỏi 22 vị trí khác, phá âm mưu lập “Xứ Nùng tự trị” của địch.


4-3 đến 27-4.

Bộ Tổng chỉ huy sử dụng trung đoàn 98, trung đoàn độc lập Hải Ninh, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 59) mở chiến dịch tiến công địch ở đông bắc Bắc Bộ (chiến dịch Đông Bắc II). Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch: Lê Quảng Ba. Các đơn vị đánh hơn 40 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 700 tên địch, phá hủy hơn 80 xe quân sự.


8 tháng 3.

Thành lập Ban nghiên cứu thủy quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu
. Nhiệm vụ: nghiên cứu phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng thủy quân phù hợp với thực tiễn hiện nay và trong tương lai gần.

Trưởng ban: Nguyễn Văn Khương.
Chính trị viên: Nguyễn Việt.


9 tháng 3

Thành lập Ban nghiên cứu không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu
. Nhiệm vụ: tìm hiểu hoạt động và biện pháp chống không quân Pháp; chuẩn bị cơ sở xây dựng không quân Việt Nam.

Trưởng ban: Hà Đổng.
Chính trị viên: Trần Hiếu Tâm.


10 tháng 3.

Trường Quân y sĩ Việt Nam
(được thành lập theo sắc lệnh số 234/SL, ngày 28 tháng 8 năm 1948 của Chủ tịch Hồ Chí Minh), khai giảng khóa 1 (55 học viên).

Giám đốc: bác sĩ Đinh Văn Thắng.

Ngày 10 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của Học viện Quân y ngày nay.


12 tháng 3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 14/SL
đổi tên “Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam” thành “Bộ Tổng tư lệnh quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam”; các bộ chỉ huy liên khu đổi thành bộ tư lệnh liên khu. Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam đổi thành Tổng tư lệnh quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam; liên khu trưởng đổi thành tư lệnh liên khu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:54:17 pm

15-3 đến 30-4.

Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tư lệnh Liên khu 1 sử dụng các trung đoàn 28, 72, 74, tiểu đoàn 517 (Liên khu 1) và bốn tiểu đoàn 29, 35, 23, 18 bộ binh, tiểu đoàn 410 pháo binh trực thuộc Bộ, mở chiến dịch Cao – Bắc - Lạng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn).

Tư lệnh chiến dịch: Đào Văn Trường.
Chính ủy: Hà Kế Tấn.

Các đơn vị tổ chức nhiều trận đánh giao thông trên đường số 4, diệt và bức rút 17 đồn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.400 tên địch; phá hủy 80 xe quân sự. Trình độ đánh cứ điểm, đánh giao thông của các đơn vị có nhiều tiến bộ.


7 tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương:
“Quân đội quốc gia Việt Nam gồm có hai phần: quân đội chính quy và quân đội địa phương. Bộ đội địa phương có ba đặc điểm chính là: có tính cách địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, tự trang bị và tự túc về cấp dưỡng”.

Thi hành sắc lệnh của Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra nghị định số 103/NQ (7-7-1949) tổ chức bộ đội địa phương, và thông tư số 46/TT (7-7-1949) quy định nhiệm vụ của cơ quan các cấp, các ngành đối với việc xây dựng bộ đội địa phương.

Đến cuối năm 1949, ở Bắc Bộ có 20.500 bộ đội địa phương tổ chức thành trung đội (huyện) và đại đội hoặc tiểu đoàn (tỉnh); ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, các liên khu cũng xúc tiến kế hoạch xây dựng bộ đội địa phương.


29-4 đến 30-5.

Trung đoàn 308 (chủ lực Bộ), trung đoàn 209 (Liên khu 10) cùng nhân dân và du kích chống cuộc càn Pô-môn (Pomone) của 2.500 quân địch ở Phú Thọ, Tuyên Quang. Chỉ huy trưởng: Bằng Giang. Chỉ huy phó: Vương Thừa Vũ và Lâm Kính. Các đơn vị được rèn luyện, có nhiều tiến bộ về trình độ vận động chiến ở địa hình rừng núi.


16 tháng 5.

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quyết định sáp nhập các phòng, ban vũ khí dân quân, các xưởng vũ khí dân quân ở các khu, các xưởng thuộc Tổng liên đoàn lao động vào quân giới. Mỗi tỉnh duy trì một công trường hoặc một kíp thợ (20-30 người) bảo đảm vũ khí tại chỗ cho bộ đội địa phương và dân quân du kích. Các huyện lập tổ nhồi lắp vũ khí (mìn, lựu đạn) và sản xuất vũ khí thô sơ.


19-5 đến 18-7.

Bộ Tổng tư lệnh sử dụng các tiểu đoàn 11, 45 (trung đoàn 308), bốn tiểu đoàn của Liên khu 10 và một số đơn vị binh chủng, mở chiến dịch Sông Thao (Sơn La, Yên Bái).

Chỉ huy tníởng: Lê Trọng Tấn.
Chỉ huy phó: Cao Văn Khánh.

Các đơn vị diệt 9 cứ điểm, bức rút 16 đồn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên địch, thu nhiều vũ khí, phá vỡ từng mảng lớn phòng tuyến sông Thao bảo vệ hậu phương địch ở Tây Bắc, mở rộng vùng cơ sở của ta trong vùng địch hậu.


21 tháng 5.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về cuộc vận động “Rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội”
. Mục tiêu: rèn luyện cán bộ tinh thông kỹ thuật, chiến thuật, trình độ chỉ huy, đạo đức cách mạng; xây dựng bộ đội chủ lực tinh nhuệ, lực lượng hậu bị hùng hậu.

Thực hiện chỉ thị, tháng 5 năm 1949, Tổng chính ủy mở cuộc vận động “Rèn luyện đảng viên, chấn chỉnh tổ chức” và cuộc vận động “Rèn luyện cán bộ, mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật”.


Tháng 5.

- Thành lập Cục Pháo binh
. Nhiệm vụ: nghiên cứu, chế tạo vũ khí có sức công phá phù hợp với khả năng, điều kiện của ta; mở trường đào tạo chỉ huy pháo binh, lớp đào tạo thợ pháo...

Cục trưởng: Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa.

- Hội nghị quân huấn toàn quân, đánh giá công tác huấn luyện chiến đấu, rút kinh nghiệm về tổ chức và chỉ đạo nội dung huấn luyện. Sau hội nghị, Bộ Tổng Tham mưu đã biên soạn các tài liệu: “Chiến thuật đánh vào bên trong cứ điểm”, “Kinh nghiệm sử dụng các loại vũ khí công đồn và đánh giao thông thủy bộ”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:55:05 pm

Tháng 6 - tháng 10.

Chiến dịch "Thập vạn Đại Sơn”. Thực hiện thỏa thuận giữa Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng ta, ngày 23 tháng 4 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh số 264-bis/TTL, giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Liên khu 1: “Giúp Giải phóng quân (Trung Quốc) xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung - Long - Khâm liền với biên giới đông bắc của ta, thông ra biển, gây điều kiện để khuếch trương lực lượng đón quân tiến xuống phía nam, đồng thời hoạt động ở đông bắc để mở rộng khu tự do của ta ra sát tận biên giới và thông ra biển, liền với khu giải phóng Việt Quế”.

Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch: Lê Quảng Ba.
Chính trị ủy viên: Trần Minh Giang (Trung Quốc).

Chiến dịch diễn ra trên hai mặt trận. Mặt trận Điền Quế do đồng chí Nam Long làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Bình (Trung Quốc) làm chỉ huy phó, đồng chí Đỗ Trình làm chính trị viên. Mặt trận Tả Giang - Long Châu do đồng chí Thanh Phong, Tư lệnh phó Liên khu 1 làm tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân, trung đoàn trưởng trung đoàn 74 và đồng chí Long Xuyên, trung đoàn phó trung đoàn 28 làm tư lệnh phó. Các đơn vị tham gia chiến dịch: tiểu đoàn 73 (trung đoàn 74), tiểu đoàn 35 (trung đoàn 308), tiểu đoàn 426 (trung đoàn 59), tiểu đoàn 1 (trung đoàn Hải Ninh) và một số đại đội binh chủng, đơn vị bảo đảm.

Ngày 10 tháng 6, chiến dịch bắt đầu. Phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc, bộ đội ta tiêu diệt nhiều đồn bốt, mở rộng khu Điền Quế, Việt Quế và các khu căn cứ Tả Giang, Thập Vạn Đại Sơn. Tháng 10 năm 1949, các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước.


8 tháng 6.

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra thông tri số 33-TIẾP TỤC/CT về công tác văn nghệ trong quân đội
. “Văn nghệ trong quân đội là một hình thức tuyên truyền nhẹ nhàng, hứng thú và linh động để nâng cao hiệu suất của công tác chính trị về mọi mặt: nội bộ, dân vận và địch vận”, “cần xúc tiến việc nâng đỡ các mầm văn nghệ đã có, để xây dựng một nền văn nghệ trong quân đội quốc gia Việt Nam, góp phần vào việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới”. Hệ thống tổ chức: Ban Văn nghệ (ở Trung ương), tiểu ban văn nghệ (ở liên khu, đại đoàn), tổ văn nghệ ở trung đoàn). Từ tiểu đoàn, đại đội trở xuống, chính trị viên có nhiệm vụ đôn đốc, phân công để toàn thể quân nhân tham gia hoạt động văn nghệ.


18 tháng 6.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 50/SL quy định nhiệm vụ và tổ chức các cơ quan của Bộ Quốc phòng.


Nhiệm vụ: - Tổ chức và quản trị quân đội và các cơ quan quốc phòng. - Điều khiển các cơ quan sản xuất quốc phòng.

Tổ chức: Bộ Quốc phòng gồm: 1- Các cơ quan trực tiếp giúp Bộ trưởng: Văn phòng và sự vụ; 2 - Các nha chuyên việc sản xuất: Quân giới, Quân nhu, Quân dược; 3 - Bộ Tổng Tham mưu và các cục: Chính trị, Dân quân, Quân huấn, Quân chính, Quân pháp, Tình báo, Pháo binh, Công binh. Quân giới, Quân nhu, Quân y, Thông tin liên lạc, Vận tải; 4 - Đoàn Thanh tra.

Cục Vận tải chính thức được thành lập theo sắc lệnh này. Ngày 18 tháng 6 được xác định là ngày truyền thống của ngành Vận tải quân sự.


23 tháng 6.

Thành lập Phân hiệu Lục quân Nam Bộ
(nghị định Bộ Quốc phòng).

Hiệu trưởng: Trương Văn Giàu - nguyên Khu trưởng Khu 9.
Chính trị viên: Nguyễn Văn Long.

Khóa 1 khai giảng tháng 9 năm 1950 tại xã Hồ Văn Tố, Long Mỹ, Cần Thơ, có 350 học viên.


Tháng 6.

- Hội nghị Cục trưởng và Giám đốc Nha Quân giới
, mở cuộc vận động “Rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh cơ quan”. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng giao nhiệm vụ cho ngành Quân giới: “Sản xuất vũ khí công đồn và đánh giao thông, chú trọng vũ khí đánh đường thủy”.

- Cục Quân y tổ chức hội nghị y tá đại đội, bàn về tổ chức và nhiệm vụ của ban quân y đại đội; trao đổi kinh nghiệm phục vụ, kinh nghiệm vận động quần chúng; thông qua bản kỷ luật chuyên môn gồm 10 điểm; học tập tài liệu “Tư cách đạo đức người quân y cách mạng”.

- Thành lập Trường trung cấp kỹ thuật Công binh. Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ công binh về chính trị, quân sự, văn hóa, chuyên môn kỹ thuật theo một chương trình cơ bản, hệ thống.


4 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quy định thang lương 18 bậc
cho công nhân và 25 bậc cho nhân viên quốc phòng, quyết định trả lương theo giá gạo (tối thiểu là 30 ki-lô-gam, tối đa là 53 ki-lô-gam một tháng).


11 tháng 7.

Phòng Thông tin liên lạc quân sự mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu thông tin
. Khóa 1 có 15 học viên.


31 tháng 7.

Thành lập Cục Thông tin liên lạc thuộc Bộ Tổng tư lệnh (nghị định số 123-NĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh)
. Nhiệm vụ: tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về thông tin liên lạc; tổ chức giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị trong toàn quân; trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị thông tin liên lạc thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực luợng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam về cục.

Cục trưởng: Hoàng Đạo Thúy.
Cục phó: Nguyễn Văn Tình.


Tháng 7.

Hội nghị dân quân Khu 7
quyết định phát triển dân quân du kích, đặc biệt là ở vùng dân tộc ít người, thành lập các làng chiến đấu để chống càn, bảo vệ địa phương.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:56:12 pm

2 tháng 8.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập "Hội đồng xét cấp bậc cho quân nhân”
. Chủ tịch Hội đồng: Tổng Tham mưu trưởng.


6 tháng 8.

Thành lập Phân hiệu Lục quân Trung Bộ
(nghị định Bộ Quốc phòng).

Giám đốc: Hoàng Điền.
Chính trị viên: Hoàng Lưu.

Khóa 1 khai giảng ngày 21 tháng 9, tại Hà Cháy, Thanh Chương, Nghệ An. có 800 học viên.


18 tháng 8.

- Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân:
“Muốn xây dựng một đội quân chủ lực mạnh mẽ cần phải có sự phát triển rộng rãi của phong trào dân quân và những bộ đội địa phương đã trưởng thành. Bộ đội địa phương và dân quân trong quá trình tiến triển của chiến tranh, là lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực”. “Xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân là một công tác then chốt để đẩy mạnh chiến tranh tiến tới”.

- Các tiểu đoàn 277, 310 (trung đoàn 95), 364 (Liên khu 4) chống cuộc càn lớn của địch tại Mỹ Xuyên (Phong Điền, Quảng Trị).


20 tháng 8.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào bán gạo giúp Người khao thưởng bộ đội:
“Tôi lấy danh nghĩa cá nhân mà nhờ đồng bào giúp tôi. Tôi muốn nhờ đồng bào, mỗi gia đình bán cho tôi 10 ki-lô-gam thóc để khao quân đội nhân dịp Quốc khánh”. Nhân dân cả nước nhiệt liệt hưởng ứng, bán hàng vạn tấn gạo để Hồ Chủ tịch khao quân.


28 tháng 8.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 308
, tại thị trấn Đồn Đu, huyện Đồng Hỷ (nay là Phú Lương, Thái Nguyên). Biên chế: ba trung đoàn bộ binh: 88, 102, 36, tiểu đoàn bộ binh 11 (tiểu đoàn Phủ Thông), tiểu đoàn pháo binh 410 và một số đơn vị binh chủng, trực thuộc. Trung đoàn 88 thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1949, gồm các tiểu đoàn 23, 29, 38, 322. Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thái Dũng, chính ủy: Đặng Quốc Bảo. Trung đoàn 102 (trung đoàn Thủ Đô) gồm các tiểu đoàn 18, 69, 79. Trung đoàn trưởng Vũ Yên, chính ủy: Hoàng Thế Dũng. Trung đoàn 36 (trung đoàn Bắc - Bắc) thành lập tháng 8 năm 1946 gồm các tiểu đoàn 54, 55, 56. Trung đoàn trưởng: Phạm Hồng Sơn, chính ủy: Hoàng Xuân Tùy.

Đại đoàn trưởng kiêm chính ủy Đại đoàn 308: Vương Thừa Vũ.

Đại đoàn 308 là sư đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta, được mang danh hiệu “Quân Tiên Phong”.


Tháng 8.

- Thành lập Phái đoàn Mậu dịch thống nhất quốc phòng (nghị định số 07/NĐ)
, gồm một số cán bộ quân giới, quân nhu, quân dược. Trưởng đoàn: Vũ Văn Đôn - nguyên Giám đốc Nha Sự vụ. Nhiệm vụ: liên hệ với các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban hành chính - kháng chiến các địa phương và các đoàn thể quần chúng để mua và nhận hàng viện trợ chuyển về Việt Bắc.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi hội nghị tình báo, nêu rõ: “Tình báo là tai mắt của quân đội. Tai phải nghe rõ, mắt phải thấy rõ tình hình của địch thì ta mới dễ đánh thắng địch...”.


26 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra chỉ thị số 78/CT-BQP về tổ chức thông tin liên lạc ở các liên khu và quân đội quốc gia.



Tháng 9.

Hội nghị quân sự Xứ ủy Nam Bộ
. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy đọc báo cáo nêu rõ một số công tác quan trọng: gấp rút chấn chỉnh bộ máy quân sự các cấp; xây dựng ba thứ quân; rèn cán, chỉnh quân; tổ chức lại bộ máy quân giới, quân nhu; tăng cường công tác chính trị, địch vận; đẩy mạnh phong trào thi đua giết giặc lập công.


10-14 tháng 10.

Hội nghị quân giới lần thứ tư
quyết định tổ chức lại các xưởng theo hướng chuyên môn hóa; phân công một số xưởng sản xuất, một số xưởng sửa chữa từng loại vũ khí; tổ chức các kíp lưu động theo bộ đội để sữa chữa vũ khí hư hỏng nhẹ và nhồi lắp đạn


Tháng 10.

Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập “Mặt trận Bình - Trị - Thiên - Trung Lào"
. Nhiệm vụ: đẩy mạnh tác chiến tập trung ở hướng đường số 9 - miền Trung Đông Dương, dùng chủ lực tác chiến để phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.

Chỉ huy trưởng: Hà Văn Lâu.
Ủy viên chính trị: Trần Quý Hai.

Lực lượng thuộc Bộ chỉ huy mặt trận có các trung đoàn 95, 88, 301 và tiểu đoàn 88.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:57:04 pm

4 tháng 11.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 127/SL, hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10 thành Liên khu Việt Bắc.


Ngày 7 tháng 12 năm 1949, Bộ Quốc phòng ra chỉ thị về nhiệm vụ của Liên khu Việt Bắc: 1 - Chỉ đạo các lực lượng vũ trang liên khu về mặt tác chiến, xây dựng và củng cố hậu phương. 2 - Tổ chức huấn luyện bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và quân hậu bị. 3 - Chỉ đạo lực lượng vũ trang tham gia bảo vệ trật tự an toàn xã hội. 4 - Chỉ đạo lực lượng vũ trang nhân dân phát triển chiến tranh nhân dân và bảo vệ cơ sở hậu phương, kho tàng, nhà máy của liên khu và của Bộ. 5 - Phối hợp với các đơn vị chủ lực chuẩn bị chiến trường và hiệp đồng tác chiến khi Bộ mở chiến dịch trong địa bàn liên khu hoặc khi địch tiến công vào liên khu. 6 - Tham gia huy động nhân vật lực, tài lực phục vụ chiến tranh khi có quyết định của Hội đồng Quốc phòng tối cao, hoặc Chính phủ Trung ương. 7 - Trực tiếp quan hệ với bạn để giải quyết các vấn đề liên quan giữa hai bên ở biên giới khi có lệnh của Bộ.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 226/SL về nghĩa vụ quân sự, quy định tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi phải có hai năm tại ngũ. Khi có chiến tranh có thể kéo dài đến hết chiến tranh.


5 tháng 11.

Hội đồng Quốc phòng tối cao ra thông tư số 124/HDTT đặt Thẻ quân vụ
, cấp cho nam công dân từ 18 đến 45 tuổi.

Căn cứ vào thông tư, trong năm 1949, Bộ Quốc phòng ra nghị định (6 chương, 14 điều về chế độ tòng quân của phụ nữ Việt Nam. “Công dân Việt Nam. phụ nữ nếu tình nguyện tòng quân, củng có thể được chấp nhận” (điều 1, chương I). “Nhưng quân nhân phụ nữ không giữ những chức vụ trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu ở tiền tuyến, mà chỉ công tác trong các ngành chuyên môn của quân đội” (điều 6, chương II).


18 tháng 11.

Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra mệnh lệnh số 137 thành lập các liên trung đoàn
. Thuộc Khu 7 có các liên trung đoàn 301 - 310 và 300 - 397. Thuộc khu Sài Gòn - Chợ Lớn có các liên trung đoàn 306 - 312 và 308 - 311.


25 - 11 đến 30 - 12.

Chiến dịch Lê Lợi.


Bộ Tổng tư lệnh sử dụng các trung đoàn 209 (thuộc Bộ), 66 (Liên khu 3), 9 (Liên khu 4), hai trung đoàn địa phương 42, 48 (thuộc Liên khu 3), tiểu đoàn độc lập 930 (Liên khu 10), một số đơn vị binh chủng và du kích tiến công địch tại vùng Chợ Bờ (Hòa Bình) nhằm phá thế uy hiếp của địch, mở rộng đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu 3, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch.

Tư lệnh chiến dịch: Hoàng Sâm; Chính ủy: Lê Quang Hòa. Phó tư lệnh: Lê Trọng Tấn.

Các đơn vị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 800 tên địch.


Tháng 11.

- Tại chiến khu Đ, Bộ Tư lệnh Khu 7 tổ chức hội nghị chuyên đề về đánh tháp canh.


- Bộ Tư lệnh Liên khu 10 sử dụng một số đơn vị của trung đoàn 148 (Sơn La) phổi hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào tiến công phòng tuyến sông Mã của địch, mở thông biên giới Lào-Việt ở phía bắc, góp phần xây dựng căn cứ địa của bạn.


7 - 26 tháng 12.

Bộ Tư lệnh Khu 8 sử dụng hai trung đoàn 109, 111, bốn đại đội bộ đội địa phương, công an xung phong và du kích, mở chiến dịch Cầu Kè (trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá âm mưu lập bảo an, dân vệ; bảo vệ và mở rộng căn cứ, tạo bàn đạp đứng chân cho bộ đội chủ lực.


15 tháng 12.

Phân khu Bình - Trị - Thiên sử dụng các trung đoàn 95, 18, 101, 57; một số tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích, mở đợt hoạt động mang tên “chiến dịch Lê Lai” trên địa bàn nam Quảng Bình đến bắc Thừa Thiên, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ nhân dân bảo vệ mùa màng. Đồng chí Hà Văn Lâu - Tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên làm Tư lệnh, đồng chí Hoàng Anh làm Chính ủy Bộ chỉ huy chiến dịch.


19 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dịp ba năm toàn quốc kháng chiến:
“Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thực sự”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 02:59:38 pm

NĂM 1950



6 tháng 1.

Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về mở chiến dịch Tây Bắc và chuẩn bị chiến trường Đông Bắc.


“1. Mở chiến dịch Tây Bắc để:

a. Phối hợp với Quân giải phóng Trung Hoa tiêu diệt tàn quân Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch nếu chúng tràn qua biên giới.

b. Làm tan rã khối ngụy binh và phá ngụy quyền.

c. Tiêu diệt một số vị trí địch.

d. Khôi phục lại Lào Cai, mở thông đường quốc tế.

2. Chuẩn bị chiến trường Đông Bắc cho thật đầy đủ để khi có điều kiện sẽ mở một chiến dịch lớn, quét địch ra khỏi đường số 4 và một số đoạn bờ biển, đánh bại quân địch ở vùng Đông Bắc”.

“Ở Tây Bắc phải tích cực chuẩn bị cho đầy đủ và kịp thời, đặc biệt chú trọng đến việc tiếp tế cấp dưỡng cho quân đội làm tan rã ngụy binh, phá tề trừ gian...”. “Ở Đông Bắc... việc chuẩn bị cần chú trọng đến củng cố, phát triển cơ sở chính trị và vũ trang, gây cơ sở du kích miền biển... điều tra địch tình, phá hoại kinh tế địch, chuẩn bị lương thực tiếp tế cho bộ đội đến đánh”.


Đầu năm:

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quyết định thành lập Trường Thiếu sinh quân
. Đồng chí Lê Chiêu và một số cán bộ, giáo viên Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn được điều động về xây dựng trường.


10-1 đến 31-3.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng hai trung đoàn 210, 108, một số đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích mở chiến dịch tiến công địch ở bắc Quảng Nam nhằm tiêu diệt sinh lực địch, cắt giao thông; đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.

Tư lệnh chiến dịch: Đàm Quang Trung.
Chính ủy: Nguyên Đôn.

Kết quả: làm thương vong gần 800 tên, bắt 453 tên, phá hủy nhiều vũ khí, xe quân sự, giải phóng huyện Duy Xuyên và phía tây huyện Đại Lộc.


18 tháng 1.

- 36 chiến sĩ tiểu đoàn 108 (Hà Nội) phối hợp với dân quân du kích và được nhân dân giúp đỡ tập kích sân bay Bạch Mai, phá hủy 27 máy bay, đốt cháy 600.000 lít xăng dầu.

- Bộ Tư lệnh Khu 8 sử dụng tiểu đoàn 307, hai đại đội 109 và 101 bộ đội địa phương mở chiến dịch tiến công địch ở khu vực Cầu Ngang.


21-1 đến 2-2.

Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng
, đề ra “Nhiệm vụ quân sự cụ thể và cần kíp: một mặt chiến đấu để tiêu diệt sinh lực của địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân, ngày càng tinh nhuệ, ngày càng chính quy hóa, trung thành với lợi ích của nhân dân và lợi ích của cách mạng”. “Xây dựng bộ đội chủ lực hợp với khả năng và tinh thần mới”. “Về tác chiến, phát triển du kích đến cực độ vẫn là nhiệm vụ chính trong lúc này, song đồng thời phải tập đánh vận động thực sự”. Hội nghị quyết định tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tăng cường trang bị, cấp dưỡng, huấn luyện, đào tạo cán bộ cho các lực lượng vũ trang, kiện toàn các cơ quan chỉ đạo, làm cho sự lãnh đạo được thống nhất và nhanh chóng.


25-27 tháng 1.

Bộ Tư lệnh đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn sử dụng hai trung đoàn 306, 312 phối hợp với hai trung đoàn 301, 310 (Khu 7) và nhân dân, du kích địa phương chống càn tại vùng Hớn Quản và bắc huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một), mở rộng khu căn cứ Thanh Tuyền - Long Xuyên1.

26-1 đến 1-2.

Bộ tư lệnh Khu 8 sử dụng trung đoàn 115, tiểu đoàn 309, bốn đại đội bộ đội địa phương và du kích mở chiến dịch Cao Lãnh (tỉnh Sa Đéc) ngăn chặn địch đánh vào Đồng Tháp Mười. Chỉ huy chiến dịch: Đặng Văn Thông. Kết quả: diệt gần 100 tên địch, diệt và bức rút 10 đồn, giải phóng 6.000 dân các xã Hòa An, Tân An, Tân Thuận Tây (huyện Cao Lãnh).


Tháng 1 - tháng 3.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng ba tiểu đoàn 365, 121, 120 thuộc trung đoàn 80 và trung đoàn 83, hai đại đội độc lập, bộ đội địa phương và dân quân du kích, mở chiến dịch tiến công địch ờ nam Khánh Hòa, tiêu diệt sinh lực địch, đánh giao thông trên đường số 1 và đường sẳt Nha Trang - Sài Gòn, đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.

Chỉ huy trưởng chiến dịch: Lư Giang.
Chính ủy: Nguyễn Đường.
_________________________________________________
1. Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 03:01:00 pm

7-2 đến 15-3.

Thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (5-1-1950) về mở chiến dịch Tây Bắc, Bộ Tư lệnh Liên khu 10 sử dụng các trung đoàn 102 (Đại đoàn 308), 165 (Liên khu), tiểu đoàn 11, hai tiểu đoàn 69 và 40 pháo binh, 10 trung đội bộ đội địa phương mở chiến dịch Lê Hồng Phong I.

Chỉ huy trương chiến dịch: Bằng Giang.
Chính ủy: Song Hào.


9 tháng 2.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 75/QP) tổ chức bộ tư lệnh liên khu
chỉ đạo chỉ huy bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên địa bàn.

Bộ Tư lệnh địa phương Liên khu 4 được thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1950 (nghị định số 62/NĐA của Bộ Tổng Tư lệnh). Nhiệm vụ: “Lãnh đạo xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực còn lại, bộ đội địa phương và dân quân liên khu”.

Tư lệnh: Trần Sâm.
Chính ủy: Lê Chưởng.


12 tháng 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 20/SL quyết định tổng động viên nhân, tài, vật lực
. “Tất cả nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân đều đặt dưới chế độ pháp luật đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh” (điều 2).


27 tháng 2.

Tiểu đoàn Nguyễn Huệ (trung đoàn 66) tiến công vị trí Lê Xá (Nam Định)
diệt hai trung đội, thu toàn bộ vũ khí.


10 tháng 3.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 304 (Đại đoàn Vinh Quang)
tại đình Tam Lạc (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Đại đoàn biên chế ba trung đoàn bộ binh: trung đoàn 66 (nguyên chủ lực Liên khu 3), trung đoàn 9 (nguyên chủ lực Liên khu 4) và trung đoàn 57 chủ lực tỉnh Nghệ An, một số đơn vị trợ chiến và bảo đảm.

Đại đoàn trưởng: Hoàng Minh Thảo.
Chính ủy: Trần Văn Quang.


19 tháng 3.

Hơn 300 nghìn nhân dân Sài Gòn biểu tình phản đối Mỹ đưa hai chiến hạm vào cảng Sài Gòn. Ngày 19-3 trở thành “Ngày toàn quốc chống Mỹ”.


24 tháng 3.

Hội nghị công binh lần thứ ba
, đề ra nhiệm vụ của công binh trong giai đoạn mới: phổ biến thật sâu rộng trong toàn thể bộ đội về kỹ thuật công binh tác nghiệp, cách sử dụng các loại thuốc nổ trong tiến công, chú ý học tập, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, nâng cao kỹ thuật công binh trong tổ chức vượt sông, sửa chữa đường, cầu, kiến thiết cấp tốc các trận địa; kiện toàn và phát triển tổ chức của Binh chủng Công binh, tích cực sản xuất đồ bản, các loại quân cụ, trang bị và đào tạo cán bộ công binh...


25-3 đến 6-5.

Bộ Tư lệnh Nam Bộ sử dụng các tiểu đoàn 307, 308, 309, 310, 312 cùng dân quân du kích mở đợt hoạt động “mùa xuân Nam Bộ” nhằm tiêu diệt sinh lực, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, phát triển chiến tranh du kích, phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.

Chỉ huy trưởng: Nguyễn Văn Quạn (Tư lệnh Khu 8 ).
Chỉ huy phó: Nguyễn Đăng (Phó tư lệnh Khu 8 ) và Nguyễn Xuyến.


2-16 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị tham mưu quân huấn toàn quân
. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng kết luận hội nghị: “Từ nay công tác tham mưu phải thường xuyên thực hiện ba nhiệm vụ lớn: tổ chức chiến đấu, công tác quản lý bộ đội, công tác huấn luyện bộ đội”.


4-28 tháng 4.

Bộ Tư lệnh Nam Bộ sử dụng hai tiểu đoàn 404 (Nam Bộ), 402 (Khu 9) và một số đơn vị bộ đội địa phương, du kích tiến công địch ở các huyện Châu Thành, Long Phú, Thạnh Trị tỉnh Sóc Trăng (chiến dịch Sóc Trăng I), nhằm thu hẹp phạm vi chiếm đóng, phá hệ thống phòng ngự của địch, bảo vệ nguồn dự trữ của ta.

Tư lệnh: Võ Quang Anh.
Chính ủy: Nguyễn Hoàn.


Tháng 4.

Khai giảng khóa 1 bổ túc cán bộ phòng không
, gồm 40 học viên nguyên là cán bộ trung đội, đại đội bộ binh của các đơn vị chủ lực trực thuộc Bộ, hai Liên khu 3 và 4.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 03:03:31 pm

9 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ra nghị định số 210-NĐ về nguyên tắc và thể thức gọi công dân Việt Nam ra tòng quân, và nghị định số 211-NĐ vế hình thức và tổ chức thi hành nghĩa vụ quân sự
. Nghị định 210-NĐ gồm 12 điều. Điều 2 quy định thứ tự gọi ra tòng quân: a- Những người tình nguyện, b- Những người không có vợ con, theo thứ tự từ ít đến nhiều tuổi, c- Những người có con dưới 16 tuổi, theo thứ tự từ ít đến nhiều con dưới 16 tuổi. Những người không có cha mẹ và có em dưới 16 tuổi thì cũng tính như con, và việc gọi ra tòng quân sẽ theo thể thức của trường hợp thứ ba. Nghị định 211-NĐ gồm 3 chương, 14. Điều 1 (chương I) quy định: “Trong thời kỳ có nghĩa vụ quân sự, tất cả công dân có thẻ quân vụ đều phải: a- Tham gia vào những công cuộc bảo vệ địa phương hoặc cơ quan trong những tổ chức ấn định ở chương II. b- Tòng quân trong điều kiện đã ấn định trong sắc lệnh 126-SL ngày 4-11-1949. c- Tham gia những tổ chức huấn luyện quân sự ở địa phương để sẵn sàng nhập ngũ khi có lệnh gọi ra tòng quân”.


12 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ấn định tiền ăn theo khu vực cho bộ đội
. Liên khu Việt Bắc: 17,5 đồng một ngày. Liên khu 3: 14 đồng một ngày. Liên khu 4: 12,5 đồng một ngày. Bình - Trị - Thiên: 15,5 đồng một ngày. Tại Nam Bộ, mỗi quân nhân được chi tiền thức ăn hàng ngày bằng giá tiền một lít gạo1 ở địa phương đó. Tại Nam Trung Bộ, mỗi quân nhân được cấp 650 gam gạo và 0,6 đồng tiền thức ăn một ngày.


17 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ra chỉ thị thành lập “Bộ chỉ huy Mặt trận Bình - Trị - Thiên"
. Nhiệm vụ: “Thực hiện kế hoạch quân sự của Tổng tư lệnh, trực tiếp chỉ huy bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân thuộc mặt trận; phối hợp với Bộ Tư lệnh địa phương liên khu và Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4 trong việc lãnh đạo và xây dựng bộ đội địa phương. Phát triển dân quân, chuẩn bị chiến trường và bảo vệ địa phương”. Mặt trận có ba trung đoàn 18, 95, 101 bộ binh, tiểu đoàn 888 pháo binh.

Chỉ huy trưởng: Trần Quý Hai.
Chính ủy: Chu Văn Biên.


19 tháng 5.

Thành lập trung đoàn 120
thuộc Liên khu 4 làm nhiệm vụ quốc tế tại Trung Lào. Trung đoàn trưởng: Trường Sinh. Chính ủy: Lê Hữu Khai.


20 tháng 5.

Trung đoàn 18 (Liên khu 4)
cùng du kích và nhân dân địa phương chống càn tại Xuân Bồ (Lệ Thủy, Quảng Bình), diệt và làm bị thương 500 tên địch.


25 tháng 5.

Trung đoàn 174 (chủ lực Bộ) tiến công cứ điểm Đông Khê
(Cao Bằng), tiêu diệt hoàn toàn quân địch (hai đại đội thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn bộ binh thuộc địa số 8 ), thu toàn bộ vũ khí.


Tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp đào tạo cán bộ mật mã “Lê Lai”
tại rừng bản Cọ (Yên Thông, Định Hóa, Thái Nguyên). Người căn dặn cán bộ, học viên: “Mật mã là một công tác cơ mật, quan trọng, vẻ vang. Bộ Tổng Tham mưu mở lớp học đông thế này là cần thiết. Các cô, các chú được Trung ương Đảng, Bộ Tổng tin cậy, cần phải học tập và làm viếc tốt. Mật mã phải bí mật, nhanh chóng, chính xác. Các chú làm mật mã phải bí mật và đoàn kết”.


15-18 tháng 6

Hội nghị thông tin liên lạc toàn quân lần thứ nhất
, thống nhất quy ước liên lạc vô tuyến điện, công tác chuyển đạt, phối hợp sử dụng đường dây điện thoại giữa quân sự và bưu điện.


15-6 đến 24-10.

Bộ chỉ huy Mặt trận Bình-Trị-Thiên sử dụng hai trung đoàn 18, 95 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích mở chiến dịch Phan Đình Phùng tiến công địch ở Quảng Bình, Quảng Trị, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, nâng cao trình độ chỉ huy và tổ chức đánh tập trung.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Trần Quý Hai.
Phó tư lệnh: Lê Nam Thắng.


22 tháng 6.

Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra nghị quyết chấn chỉnh tổ chức Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh và kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự Trung ương
. Bộ Tổng tư lệnh gồm: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Nhiệm vụ, chức trách các cơ quan Bộ Tổng tư lệnh được quy định cụ thể.


Giữa năm 1950.

Thành lập Đoàn 99 trực thuộc Bộ
. Nhiệm vụ: đứng chân ở Việt Bắc để thu dung, bổ sung quân cho các chiến dịch.

Đoàn trưởng: Trần Công Khanh.
Chính ủy: Phạm Ngũ Kiên.

Đến đầu năm 1951, phát triển thêm Đoàn 403 làm nhiệm vụ ở Liên khu 4.
________________________________________________
1. Một lít tương đương 750 gam.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 03:05:00 pm

3-31 tháng 7.

Bộ Tư lệnh Khu 8 sử dụng các tiểu đoàn chủ lực 307, 308, 310, đại đội 891 và các lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công địch ở địa bàn hai huyện Lách và Mỏ Cày (tỉnh Bến Tre); nhằm tiêu diệt sinh lực, phá kế hoạch chiếm đóng Cù Lao Minh của địch.

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Đang.
Các Phó tư lệnh: Đồng Văn Cống, Võ Văn Thời và Phan Văn Kinh.


11 tháng 7.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 121/SL về tổ chức nhiệm vụ của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam. Thực hiện sắc lệnh, ngày 13 tháng 7, Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra thông tư số 47/TT quy định tổ chức mới của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh
, gồm Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp, Bộ Tổng Tham mưu.

Bộ Tổng Tham mưu gồm các cục: Tác chiến, Quân báo, Quân huấn, Dân quân, Thông tin liên lạc, Quân lực và trực tiếp chỉ đạo Cục Công binh, Cục Pháo binh.

Tổng Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái.

Tổng cục Chính trị gồm các cục: Tổ chức, Tuyên huấn, Địch vận, Quân pháp, Nhà xuất bản Vệ quốc quân (gồm cả tòa báo Quân chính tập san).

Chủ nhiệm: Nguyễn Chí Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng.

Tổng cục Cung cấp gồm các cục: Quân lương, Quân y, Quân dược, Vận tải, Quân giới, Quân trang, Quân khí.

Chủ nhiệm: Trần Đăng Ninh- Ủy viên Trung ương Đảng.

Ngày 11 tháng 7 được xác định là ngày truyền thống của ngành Hậu cần quân đội.


Tháng 7 tháng 9.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng hai trung đoàn 803, 84 mở chiến dịch Đắc Lắc 1, tiến công địch trên địa bàn khu vực tam giác Ma Đrắc, Cheo Reo, Buôn Hồ tỉnh Đắc Lắc, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh việc gây cơ sở vùng sau lưng địch, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Đôn.
Chính ủy: Trương Quang Giao.


5-8 đến 4-11.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng trung đoàn 108 và lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam mở chiến dịch Hoàng Diệu, tiến công địch trên địa bàn bắc Quảng Nam - Đà Nẵng, nhằm tiêu diệt sinh lực, chống âm mưu cướp phá và kiềm chế lực lượng ứng chiến của địch, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Bá Phát.
Chính ủy: Nguyễn Quyết.


Tháng 8.

Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng Lần thứ bảy, kiểm điểm việc xây dựng quân đội, rút kinh nghiệm chỉ đạo việc tập trung các đại đội độc lập thành các tiểu đoàn tập trung.


16-9 đến 14-10.

Chiến dịch Biên Giới.


Tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch. Ngày 7 tháng 7, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh về chiến dịch Biên giới Cao-Lạng (Chiến dịch Lê Hồng Phong II). Mục đích: tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng làm Tham mưu trưởng; đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp phụ trách hậu cần chiến dịch; đồng chí Lê Liêm - Chủ nhiệm chính trị chiến dịch.

Lực lượng chiến đấu: Đại đoàn 308, hai trung đoàn 174, 209, ba tiểu đoàn độc lập 426, 428, 888 của Lạng Sơn và Liên khu Việt Bắc, bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh và bộ đội địa phương, du kích địa phương. Hàng vạn dân công là người các dân tộc Việt Bắc mở đường vận chuyển 4.000 tấn lương thực, vũ khí, đạn phục vụ chiến dịch.

Ngày 2 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội: “Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này”. Trung tuần tháng 9, Người lên đường đi chiến dịch.

Từ 16 đến 18 tháng 9, hai trung đoàn 174, 209, hai tiểu đoàn 11, 426, ba tiểu đoàn pháo binh, tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Từ 2 đến 8 tháng 10, Đại đoàn 308, trung đoàn 209 vận động tiến công tiêu diệt binh đoàn Lơ-pa-giơ từ Thất Khê lên và binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng rút về, tại khu vực Cốc Xá, điểm cao 477. Từ 10 đến 23 tháng 10, quân địch bỏ Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, An Châu tháo chạy.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu trên 8.000 tên, gồm tám tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn ứng chiến (hơn một nửa lực lượng cơ động chiến lược của Pháp ở Bắc Đông Dương); phá vỡ hệ thống phòng ngự đường số 4 của địch; giải phóng năm thị xã, 13 thị trấn với 35 vạn dân, nhiều vùng quan trọng ở vùng biên giới Việt-Trung; củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, nối liền nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa.

Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn, tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến của quân đội ta.


Tháng 9.

Thành lập trung đoàn pháo binh 95
gồm ba tiểu đoàn sơn pháo 40, 178, 253.

Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thước.
Chính ủy: Hoàng Phương.

Sau khi tham gia chiến dịch Biên giới, trung đoàn được đổi phiên hiệu thành trung đoàn 675, biên chế sáu liên đội pháo (751, 752, 753, 754, 755, 756), mỗi liên đội có bốn khẩu sơn pháo 75 ly. Ngày 20 tháng 11 năm 1950, trung đoàn chính thức làm lễ thành lập tại bản Nà Tấu (Quảng Uyên, Cao Bằng).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 03:06:11 pm

3-12 tháng 10.

Chiến dịch Long Châu Hà 1
. Bộ Tư lệnh Khu 9 sử dụng hai tiểu đoàn 404, 406 (trung đoàn Tây Đô), ba đại đội địa phương, một đội biệt động, một tiểu đội bộ đội Ít-xa-rắc, hai trung đội dân quân mở chiến dịch tiến công địch ở hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn (tỉnh Long Châu Hậu), nhằm giành dân, khôi phục cơ sở, tiêu diệt sinh lực địch, và phối hợp với chiến dịch Biên Giới (Bắc Bộ).

Chỉ huy trưởng chiến dịch: Huỳnh Thủy.
Chính ủy: Nguyễn Văn Bê.


7-10 đến 15-11.

Bộ Tư lệnh Khu 7 sử dụng các tiểu đoàn 302, 303, 304 (thiếu) bảy đại đội độc lập và du kích địa phương mở chiến dịch Bến Cát (tây bắc Sài Gòn), nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp với chiến dịch Biên Giới.

Chỉ huy trưởng: Tô Ký.
Chính trị viên: Nguyễn Duy Hanh.


20 tháng 10.

Báo “Quân đội nhân dân” ra số đầu
. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: "Nói những điều thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình bày rõ ràng, ít tiếp sang trang khác".


24 tháng 10.

Tiểu đoàn 227 (trung đoàn 95, Liên khu 4)
được tăng cường một số đơn vị, phục kích đoàn tàu quân sự tại Tân Điền (Quảng Trị), phá hủy đầu máy và 10 trong số 16 toa xe, thu một pháo, 42 thùng đạn 40 ly, diệt và làm bị thương hơn 100 tên địch.


Tháng 11.

- Hội nghị tổng kết chiến dịch Biên Giới
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với hội nghị:

“Ta đã thắng hai trận.

Thắng lợi thứ nhất là chúng ta đã tiêu diệt địch và giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê.

Thắng lợi thứ hai là ta đã thấy rõ những ưu điểm và khuyết điểm của ta".

“Nhưng chúng ta chớ vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch, chúng ta phải nhớ rằng: trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến thì thắng lợi này chỉ mới là một bước đầu. Chúng ta còn phải đánh và thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa, mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

- Thành lập hai đại đội 200 và 203 ô tô vận tải thuộc Tổng cục Cung cấp. Đại đội 200 có 36 xe, đại đội 203 có 16 xe. Đây là hai đại đội vận tải cơ giới đầu tiên của quân đội ta. Nói chuyện với cán bộ chiến sĩ hai đại đội trên đường vận chuyển (3-1951). Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Xe xăng là mồ hôi nước mắt của nhân dân. Các chú phải yêu xe như con, quý xăng như máu".


19 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi nhân ngày toàn quốc kháng chiến:
“nói tóm lại ... tình thế bên địch ngày càng khó khăn ... ta đã từ bị động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ thế thủ chuyển dần sang thế công


25-12-1950 đến 17-1-1951.

Bộ Tổng tư lệnh sử dụng hai Đại đoàn 308, 312, hai trung đoàn 174, 98 độc lập, ba trung đoàn 48, 64, 52 (Liên khu 3) cùng lực lượng vũ trang địa phương, mở chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung Du); nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ ... Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 tên, diệt 30 vị trí, 40 tháp canh, thu nhiều vũ khí, giải phóng một số vùng thuộc các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, mở rộng vùng tự do Hải Ninh đến sát đường Tiên Yên - Móng Cái. Do chọn hướng không phù hợp, địch phát huy được sức cơ động và hỏa lực; trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn yếu, công tác bảo đảm có khó khăn, chiến dịch không đạt được các yêu cầu đề ra.


27 tháng 12.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 312
(Đại đoàn Chiến Thắng) tại Kim Lăng (Phú Thọ). Biên chế: trung đoàn bộ binh 209 (trung đoàn Sông Lô, chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh), trung đoàn bộ binh 141 (mới tổ chức từ các tiểu đoàn của “Nghĩa quân Hồng Hà” và tiểu đoàn Phủ Thông), trung đoàn bộ binh 165 (trung đoàn Lao-Hà-Yên thuộc Mặt trận Tây Bắc) và các đơn vị trợ chiến, bảo đảm.

Đại đoàn trưởng: Lê Trọng Tấn.
Chính ủy: Trần Độ.


Tháng 12.

- Thành lập Phòng Quân khí thuộc Tổng cục Cung cấp
. Nhiệm vụ: nắm tình hình, đề xuất kế hoạch cung cấp và dự trữ vũ khí, đạn cho quân đội; tổ chức các kho quân khí; thực hiện việc thu nhận, phân phối vũ khí đạn theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Cung cấp; điều khiển những xưởng và kíp sửa chữa vũ khí ... Trưởng phòng: Lê Đình Tạo.

- Cuối năm 1950, Cục Quân giới xây dựng thành công khu lò cao sản xuất gang tại Như Xuân (Thanh Hóa).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 10:43:02 pm

NĂM 1951

15 tháng 1.

Thành lập trung đoàn công binh 151
tại rừng Khuôn Lân (Hợp Thành, Phú Lương, Thái Nguyên). Biên chế: Tiểu đoàn 333 (thành lập năm 1949), tiểu đoàn 444 (nguyên là tiểu đoàn 60, Đại đoàn bộ binh 308) và các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp, quân y, xưởng sửa chữa quân cụ, trung đội vận tải, đại đội thông tin liên lạc và cảnh vệ1.

Trung đoàn trưởng: Phạm Hoàng. Chính ủy: Lê Khắc.

Đây là trung đoàn công binh chủ lực đầu tiên của quân đội ta.


16 tháng 1.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 320 (Đại đoàn Đồng Bằng)
tại đình Móng Lá (Nho Quan, Ninh Bình). Biên chế: trung đoàn 64 “Quyết Thắng”, trung đoàn 48 “Thăng Long” (hai trung đoàn chủ lực Liên khu 3); trung đoàn 52 “Tây Tiến”, và các cơ quan, đơn vị trợ chiến và bảo đảm.

Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy: Văn Tiến Dũng.


Tháng 1.

Tổng Chính ủy ra chỉ thị “Mạnh dạn đề bạt cán bộ”
, chú trọng công nông, khai thác nguồn cán bộ từ quần chúng, chiến sĩ và cán bộ cấp dưới đã qua thử thách trong chiến đấu ở các đơn vị.


Đầu năm 1951.

Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra nghị quyết quân sự:
“Chủ động kiềm chế địch trên chiến trường Nam Bộ và tiến lên kịp với phong trào toàn quốc”."Du kích chiến là chính, học tập đánh vận động chiến, đẩy mạnh vận động chiến tiến tới".


11-19 tháng 2.

Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II
, họp tại căn cứ địa Việt Bắc. 156 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt 766.349 đảng viên dự Đại hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Báo cáo chính trị. Đồng chí Trường Chinh trình bày luận cương “Hoàn thành giải phóng dân tộc phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đại hội quyết định đổi tên Đảng thành Đảng lao động Việt Nam; thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Đại hội nhận định: “Từ thế giới đại chiến lần thứ hai, trên 10 năm qua Đảng ta đã nắm phương châm vũ trang đấu tranh, đã xây dựng được một quân đội lớn mạnh, từ du kích lẻ tẻ lúc đầu tiên đến cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện ngày nay. Trong cuộc võ trang đấu tranh đó, đặc biệt trong sáu năm kháng chiến chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, Người sáng lập và giáo dục Quân đội nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thu dược nhiều thắng lợi vẻ vang”. “Để giành lấy thắng lợi hoàn toàn, để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, Đảng và Chính phủ ta phải xây dựng một quân đội nhân dân mạnh mẽ, chân chính với ba đặc điểm: dân tộc, nhân dân và dân chủ; phải tích cực xây dựng bộ đội chính quy, củng cố bộ đội địa phương và phát triển dân quân du kích, xây dựng Đảng và công tác chính trị trong quân đội, tích cực cải thiện sinh hoạt, đào tạo cán bộ, đặc biệt nâng đỡ cán bộ công nông, giáo dục tư tưởng, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, đề cao việc học tập lý luận quân sự kết hợp với kinh nghiệm thực tế của chiến trường Việt Nam”. “Vì Đông Dương là một chiến trường và cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Miên, Lào nên lúc này phải tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến Miên - Lào phát triển du kích chiến tranh, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa”. “Để đưa kháng chiến đến toàn thắng, lúc này Đảng ta phải kiện toàn sự lãnh đạo chiến tranh, tập trung lực lượng, điều động cán bộ nhiều hơn vào công tác quân sự, hướng hoạt động của mỗi ngành vào việc phụng sự kháng chiến, đề cao việc học tập quân sự trong toàn Đảng”.


12-2 đến 13-3.

Bộ Tư lệnh Khu 9 sử dụng “trung đoàn Tây Đô”, hai đại đội Long-Châu-Hà, một đại đội biệt động và du kích, mở chiến dịch Long-Châu-Hà II tại hai huyện Châu Phú A và Châu Thành (tỉnh Long Xuyên), nhằm diệt sinh lực địch, gây cơ sở chính trị, vũ trang trong đồng bào theo đạo Cao Đài, Hòa Hảo, mở hành lang nối liền Khu 8 với Khu 9.

Chỉ huy trường chiến dịch: Vũ Quang Anh
Chỉ huy phó kiêm trưởng ban chính trị: Hoàng Thế Thiện.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên địch, phá 4 lò cốt, thu 21 súng, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang tiến vào hoạt động trong vùng sau lưng địch.


16 tháng 2.

Hội nghị quân y toàn quân lần thứ 9
. Bộ trưởng Y tế Hoàng Tích Trí, giáo sư cố vấn phẫu thuật Bộ Quốc phòng Tôn Thất Tùng và 133 đại biểu y dược toàn quân tham dự hội nghị. Các đề án được thông qua: - Hệ thống tổ chức cơ quan quân y toàn cục - Tổ chức, biên chế và điều lệ công tác của phòng quân y đại đoàn ... chế độ và danh hiệu quân y - Kế hoạch đề bạt và đào tạo cán bộ quân y. - Đề án giáo dục. - Điều lệ vết thương chiến tranh - Tổ chức ngoại khoa chiến thương - Đề án phòng bệnh - Quan niệm dùng thuốc. - Tổ chức dược chính.
_______________________________________________
1. Tháng 9 năm 1951 thành lập tiểu đoàn 555.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 10:44:22 pm

1 tháng 3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trung đội 2 (đại đội 250, tiểu đoàn 333, trung đoàn 151 công binh)
. Người dạy: công binh như cán mác, bộ binh như mũi mác, không có cán mác thì mũi mác không đâm được giặc.


10-13 tháng 3.

Trung đoàn 95 và trung đoàn 101 (Liên khu 4)
cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh bại cuộc càn của địch tại căn cứ Thanh Hương - Mỹ Xuyên (Thừa Thiên).


Giữa tháng 3.

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam
(khóa II), quyết định một số vấn đề về phương châm tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang. Ở Bắc Bộ: “Bộ đội chủ lực phải đề cao vận động chiến và phát triển du kích chiến, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng ta”. “Riêng Khu 3, chú trọng phát triển chiến tranh du kích đến cao độ”, “củng cố và gia cường bộ đội chủ lực, đồng thời củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích”. Ở Trung Bộ và Nam Bộ: "du kích chiến là chính, học tập đánh vận động trong những trường hợp có điều kiện thuận lợi, nắm vững nguyên tắc tiêu diệt chiến, để bồi dưỡng lực lượng ta”. “Củng cố các trung đoàn chủ lực đã thành lập”, ”cải tiến tổ chức, giáo dục tư tưởng chiến thuật mới và học tập kinh nghiệm của chiến trường Bắc Bộ”.


23-3 đến 5-4.

Chiến dịch Hoàng Hoa Thám.


Bộ Tổng tư lệnh sử dụng hai đại đoàn (308, 312) hai trung đoàn (98, 174), bốn đại đội pháo binh, hai tiểu đoàn công binh và bộ đội địa phương, dân quân du kích tiến công tuyến phòng ngự đường số 18 của địch (khu vực từ Phả Lại đến Uông Bí). Ở Trung du và đồng bằng Liên khu 3, hai đại đoàn 304 và 320 đẩy mạnh tiến công địch phối hợp với chiến dịch. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.900 tên địch, diệt và bức rút hơn 130 vị trí, tháp canh. Bộ đội ta đánh thắng nhiều trận, nhưng cũng có trận không thành công và bị thương vong cao (2.350 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, mất tích và bị thương trong toàn chiến dịch). Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta bị tiêu hao”.


27 tháng 3.

Thành lập Đại đoàn công - pháo 351
. Biên chế: trung đoàn 151 công binh (thành lập tháng 1-1951), trung đoàn 675 sơn pháo 75 ly (được tổ chức trên cơ sở ba tiểu đoàn pháo binh thuộc Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và trung đoàn 209), trung đoàn 45 pháo xe kéo 105 ly (nguyên là trung đoàn 33" Tất Thắng" thuộc Liên khu 3), xưởng sửa chữa xe, pháo, khí tài và các cơ quan. Đồng chí Vũ Hiển nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng được bổ nhiệm làm Đại đoàn phó quyền Đại đoàn trưởng. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu - ủy viên Liên khu ủy Việt Bắc, chính ủy trung đoàn 246 (trung đoàn bảo vệ căn cứ của Bộ Tổng tư lệnh) được bổ nhiệm làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Đây là đại đoàn binh chủng (công binh - pháo binh) đầu tiên của quân đội ta.


19 tháng 4.

Chiến sĩ biệt động Phạm Thị Biên
đánh mìn kho dầu Shell (Đà Nẵng), đốt cháy hàng nghìn phuy xăng.


1 tháng 5.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 316
tại Cốc Lùng (Thoát Lãng, Lạng Sơn). Biên chế: trung đoàn 174 (trực thuộc Bộ), trung đoàn 98 (thuộc Mặt trận Đông Bắc), trung đoàn 176 (tỉnh lạng Sơn), một số đơn vị binh chủng và cơ quan đại đoàn.

Đại đoàn trưởng: Lê Quảng Ba.
Chính ủy: Chu Huy Mân.


12-25 tháng 5.

Bộ Tư lệnh Khu 9 sừ dụng “trung đoàn Tây Đô”, ba tiểu đoàn 406, 408, 410, bộ đội địa phương và dân quân du kích, mở chiến dịch Sóc Trăng II tại ba huyện Vĩnh Châu, Thạnh Trị, Long Phú (tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Cần Thơ); nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng khu vực kiểm soát, nối liền giao thông liên lạc giữa Khu 9 và Khu 8 ...

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Chánh.
Chính ủy: Phan Văn Chiêm.


14 tháng 5.

Thành lập Trường Huấn luyện kỹ thuật mật mã Bộ Tổng Tham mưu
. Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ, nhân viên cơ yếu đáp ứng nhu cầu phát triển mới về tổ chức và kỹ thuật của ngành. Ngày 2 tháng 9 năm 1951, trường khai giảng khóa 1 (phiên hiệu C40), có 250 học viên.

Giám đốc: Nguyễn Duy Phê.
Chính trị hiệp lý viên: Phạm Tự Cáp.


28 tháng 5 - 20 tháng 6.

Chiến dịch Quang Trung (Hà Nam Ninh).


Bộ Tổng tư lệnh sử dụng ba Đại đoàn 308, 304, 312, các đơn vị binh chủng, các tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương, dân quân du kích, tiến công địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phá khối ngụy quân. Đảng ủy Mặt trận gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp (Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy), Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm. Các địa phương huy động 100.000 dân công và 100 tấn gạo phục vụ chiến dịch.

Kết quả: Loại khỏi vòng chiến đấu 4.000 tên địch (có 40 phần trăm lính Âu-Phi thuộc các đơn vị cơ động chiến lược đi ứng cứu), diệt và bức rút hơn 30 vị trí, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng một số xã thuộc hai huyện Yên Mô, Yên Khánh (Ninh Bình), xây dựng khu căn cứ Bình Lục, Lý Nhân (Hà Nam), gây ảnh hưởng chính trị trong nhân dân. Nhưng do địch phát huy được hỏa lực không quân, pháo binh, việc chỉ đạo, vận dụng phương châm tác chiến và kỹ thuật, chiến thuật, cách xử trí tình huống của ta còn hạn chế, nên đã bỏ lỡ một số thời cơ tiêu diệt địch.


Tháng 5.

- Giải thể các khu 7, 8, 9. Chiến trường Nam Bộ được phân chia thành hai Phân liên khu miền Đông và miền Tây. Giải thể các trung đoàn, liên trung đoàn, thành lập các tiểu đoàn chủ lực của phân liên khu và các tỉnh.

- Thành lập đạo đội pháo cao xạ 612, bảo vệ cầu Tà Lùng (Cao Bằng), đơn vị đầu tiên sử dụng pháo cao xạ 37 ly (bốn khẩu) của quân đội ta.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 10:45:56 pm

Tháng 5 - tháng 8.

Tổng cục Cung cấp mở lớp huấn luyện cán bộ cung cấp khóa 1
tại Phú Lương Thái Nguyên, có 88 học viên là cán bộ cung cấp đại đoàn, trung đoàn, tỉnh đội. Chỉ đạo lớp: Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm tổng cục. Phụ trách chung: Nguyễn Thanh Bình - Cục trưởng Cục Quân nhu. Ngày 15 tháng 6, đồng chí Trần Đăng Ninh viết thư báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 6, Bác Hồ gửi thư cho lớp: "... Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc ngoài mặt trận (...). Nhiệm vụ chính của cán bộ cung cấp là phụng sự đại đa số của bộ đội, tức là người binh nhì. Phải thương yêu săn sóc người binh nhì. Cán bộ cung cấp phải như người mẹ, người chị của người binh nhì…”. Ngày 15 tháng 6 trở thành ngày truyền thống của Trường sĩ quan Hậu cần, và Học viện Hậu cần ngày nay.


Tháng 6.

- Tổ đặc công (năm chiến sĩ) thuộc tiểu đoàn 300 (tỉnh Bà Chợ, Phân liên khu Miền Đông Nam Bộ)
tập kích kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hơn nửa triệu lít xăng.

- Bộ Quốc phòng quyết định thành lập trung đoàn 44 (trên cơ sở khung của Đoàn 403 giải thể) trực thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu 4. Nhiệm vụ: đứng chân ở Nghệ An - Hà Tĩnh để tuyển mộ tân binh, huấn luyện, bổ sung cho bộ đội chủ lực. Trung đoàn trưởng: Văn Lễ. Trung đoàn phó: Phạm Vạc. Phó chính ủy: Nguyễn Ngự.


11 tháng 7.

Chính phủ giao cho Tổng cục Cung cấp đảm nhiệm việc cung cấp cho bộ đội địa phương.



20 tháng 7.

Đại đội 55 (tiểu đoàn 303) và một đội biệt động tỉnh Thủ Biên do Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy tiến công yếu khu quân sự Trảng Bom, diệt và bắt 100 tên thuộc hai đại đội lính Âu-Phi và ngụy cùng toàn bộ bọn tề điệp, thu nhiều chiến lợi phẩm.


26 tháng 7.

Trung đoàn 101 (Liên khu 4) do trung đoàn trưởng Lê Thuyết chỉ huy đánh bại cuộc càn của địch tại khu vực cầu Thanh Lâm Bồ (Phú Vang, Quảng Trị). Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen.


Tháng 7

Thành lập Trường Chính trị trung cấp
. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm giám đốc. Đồng chí Võ Hồng Cương - Cục trưởng Cục Tuyên huấn làm phó giám đốc trực tiếp phụ trách. Ngày 28 tháng 8 năm 1951, Trường khai giảng khóa 1 tại bản Nà Hang (Định Hóa, Thái Nguyên), có 190 học viên. Ngày 25 tháng 10 năm 1951. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm trường. Người dạy: “Cán bộ phải thương yêu săn sóc đội viên. Cán bộ phải chăm lo cho đội viên đủ ăn đủ mặc. Cán bộ có coi đội viên như chân tay, đội viên mới coi cán bộ như đầu như óc”.


21-30 tháng 8.

Hội nghị tuyên huấn toàn quân lần thứ nhất
, thông qua chương trình, nội dung giáo dục, quy định các bước cụ thể của công tác giáo dục chính trị trong quân đội.


Tháng 8.

Hội nghị phòng bệnh toàn quân
. Thực hiện phương châm “lấy phòng bệnh làm chính”; Cục Quân y phát động phong trào “diệt, chống muỗi đốt và cải thiện sinh hoạt”, duy trì nền nếp làm vệ sinh, diệt muỗi, ngủ có màn, uống thuốc phòng bệnh, uống nước đun sôi, ăn đũa hai đầu ... trong toàn quân.


24 tháng 9.

Trung đoàn 42 (Liên khu 3) cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn "Trái chanh"
(Citron) tại vùng bắc sông Luộc và phía tây huyện Ninh Giang (Hưng Yên).


27-9 đến 5-10.

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ra Nghị quyết “Về nhiệm vụ quân sự trước mắt”: - Đề cao chất lượng của bộ đội chủ lực, đẩy mạnh xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích. - Nắm vững phương châm: trên chiến trường toàn quốc thì du kích chiến là chính. Trên chiến trường Bắc Bộ thì đẩy mạnh vận động chiến, chú trọng công kiên chiến, đồng thời giữ vững và phát triển du kích chiến. Trên các chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ thì đẩy mạnh du kích chiến, học tập đánh vận động trong những điều kiện thuận lợi. Mở rộng công tác vận động ngụy binh. Củng cố sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội.


29-9 đến 31-10.

Bộ Tổng tư lệnh sử dụng Đại đoàn 312, trung đoàn 148 độc lập, hai đại đội và một tiểu đoàn bộ đội địa phương, mở “chiến dịch Lý Thường Kiệt” ở khu vực Nghĩa Lộ (Yên Bái) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, diệt trừ thổ phỉ, mở rộng cơ sở ở vùng sau lưng địch, bảo vệ mùa màng.

Tư lệnh chiến dịch: Lê Trọng Tấn.

Trận đánh đồn Nghĩa Lộ không thành công. Các trận khác, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.000 tên địch (có 100 lính Âu-Phi), thu trên 200 súng.


30-9 đến 8-10.

Trung đoàn 42 (Liên khu 3) cùng các lực lượng vũ trang chống cuộc càn quét “Trái quýt” (Madarine) của bốn binh đoàn cơ động (GM1, GM3, GM4, GM6) của địch tại ba huyện Tiên Hưng, Duyên Hà, Hưng Nhân (Thái Bình)
. Đồng chí Dương Hữu Miên chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Khai chính ủy Mặt trận Tả ngạn sông Hồng chỉ đạo chống càn.


16 tháng 10.

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ban hành chế độ tiểu chuẩn cung cấp tạm thời
. Gạo 0,8 ki-lô-gam một ngày (riêng lực lượng làm việc nặng nhọc như pháo binh, công binh được 0,9 ki-lô-gam). Muối và tiền thức ăn định mức theo giá gạo và cụ thể hóa lúc thường, lúc tham gia chiến dịch, khi ốm hoặc bị thương. Các khoản phụ cấp (tiêu vặt, hàng tháng, thâm niên, phụ cấp cho các ngành vô tuyến điện, lái xe, đi công tác ...) cũng được quy định cụ thể. Mỗi năm phát hai bộ quần áo Vệ quốc đoàn, hai quần đùi, ba năm được cấp một màn, một chăn, một áo trấn thủ.


Tháng 10.

Thành lập Trường lái xe Tiến Bộ. Nhiệm vụ: đào tạo lái xe và thợ sửa chữa. Học viên là thanh niên được tuyển chọn có đủ tiêu chuẩn về chính trị (đảng viên hoặc quần chúng tốt), văn hóa và sức khỏe. Đây là cơ sở đào tạo lái xe đầu tiên của quân đội ta.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Năm, 2022, 10:46:45 pm

9-10 tháng 11.

Hội nghị Tổng Quân ủy (mở rộng)
, quyết định thay đổi hình thức hoạt động của bộ đội chủ lực ở Bắc Bộ, thực hiện phương châm du kích vận động chiến: "Trước kia thì tập trung chủ lực đánh lớn trên một chiến trường, trong một thời gian nhất định; nay cần hoạt động phân tán trên nhiều chiến trường, trong thời gian khác nhau, mỗi lần hoạt động độ trên dưới một đại đoàn (...) Phương châm du kích vận động chiến không trái ngược với phương châm mà Trung ương đã nêu lên; trái lại, nó là một hình thức hoạt động để thực hiện phương châm đó một cách thuận lợi hơn".


11 tháng 11

Thành lập Trường Thông tin
(quyết định số 132/QĐg của Bộ Tổng Tham mưu) trên cơ sở sáp nhập Trường Thông tin Liên khu 3 với những lớp đào tạo cán bộ và nhân viên của Cục Thông tin liên lạc. Nhiệm vụ: đào tạo trung đội trưởng thông tin vô tuyến điện, hữu tuyến điện, cơ công sơ cấp và báo vụ.

Hiệu trưởng: Trịnh Đình Chung.

Khóa đầu khai giảng tháng 11, tại bản Piềng, Định Hóa, Thái Nguyên, có 281 học viên. Ngày 11 tháng 11 trở thành ngày truyền thống của Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật thông tin ngày nay.


10-12-1951 đến 25-2-1952.

Chiến dịch Hòa Bình.


Ngày 18 tháng 11, Tổng Quân ủy họp nhận định âm mưu địch đánh ra Hòa Bình, đề nghị Bộ Chính trị cho mở chiến dịch phá cuộc tiến công của địch.

Hạ tuần tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các lực lượng vũ trang:

“Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh.
Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là một cơ hội rất tốt cho ta".

Các Đại đoàn bộ binh 308, 312, 304 đánh địch ở Mặt trận Hòa Bình (hướng chính). Hai Đại đoàn bộ binh 316 và 320 hoạt động ở vùng sau lưng địch.

Tư lệnh chiến dịch: Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Sau ba đợt chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 tên địch, bức hàng bức rút hơn 1.000 đồn bốt, thu và phá hủy nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh, mở rộng các căn cứ du kích, giải phóng hơn hai triệu dân. Nhiều đơn vị và cán bộ, chiến sĩ lập thành tích xuất sắc. Chiến sĩ Cù Chính Lan anh dũng diệt xe tăng địch. Chiến sĩ Hoàng Cầm sáng tạo kiểu bếp nấu không khói. Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) diệt cứ điểm Tu Vũ, được tặng danh hiệu “trung đoàn Tu Vũ”.


19 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân ngày toàn quốc kháng chiến:
“Chúng ta quyết vượt mọi khó khăn để thực hiện khẩu hiệu: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:27:26 pm

NĂM 1952

20 tháng 1.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “Đẩy mạnh du kích chiến tranh trên chiến trường Bắc Bộ"
; tiếp đó, ngày 26 tháng 1, ra chỉ thị “Phát triển và củng cố các vùng du kích, tích cực chuẩn bị chống giặc càn quét” (số 002/CT-TW).


Đầu năm.

Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra nghị quyết quân sự năm 1952
, xác định phương châm chiến lược của ta ở Nam Bộ vẫn du kích chiến là chính, học tập đánh vận động chiến trong trường hợp có điều kiện thuận lợi và phải liên tục tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch.


8 tháng 2.

Đại đội 29 (tiểu đoàn 183, trung đoàn 246) thành lập chi đoàn Thanh niên cứu quốc - tổ chức Đoàn Thanh niên đầu tiên trong quân đội.



Tháng 2.

- Tiểu đoàn 304 (Phần liên khu miền Đông Nam Bộ) và đội biệt động tỉnh Dầu Tiếng tiến công sở chỉ huy cuộc hành quân "Nhà lá”
của địch tại Suối Đá (Dầu Tiếng), buộc địch phải bỏ dở kế hoạch càn quét chiến khu Dương Minh Châu.

- Các đơn vị tại chiến khu Đồng Tháp Mười chống cuộc càn “Gió lốc 2”, trong 17 ngày đêm, diệt 790 tên, bắn chìm ba tàu, đánh hỏng ba xe lội nước, buộc địch phải lui quân.


3-18 tháng 3.

Trung đoàn 95 (Liên khu 4), tiểu đoàn 230 (Quảng Trị)
do trung đoàn trưởng Lê Văn Tri và chính ủy Nguyễn Hữu Cầu chỉ huy, cùng dân quân du kích tiến công hệ thống đồn bốt địch tại Nam Đông (Gio Linh, Quảng Trị), mở rộng vùng căn cứ du kích bắc Quảng Trị.


10-18 tháng 3.

Trung đoàn 64 (Đại đoàn 320)
do trung đoàn trưởng Lê Ngọc Hiền chỉ huy cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn “Lội nước” (Amphibie) của địch tại khu căn cứ du kích Lý Nhân (Bình Lục, Hà Nam).


15 tháng 3.

Tổng cục Cung cấp xuất bản "Tạp chí Hậu cần”
. Đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp làm chủ nhiệm. Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh, làm chủ bút. Tháng 5 năm 1952, tạp chí ra số đầu.


22 tháng 3.

Bộ Tổng tư lệnh ra nghị định số 022/NĐ thành lập tổ kinh tế
ở đại đội và huyện đội, thành lập hội đồng thẩm kế ở cấp trung đoàn, tỉnh đội, các cục, đại đoàn, liên khu, giúp chỉ huy trưởng đơn vị quản lý tài sản, bảo đảm cấp dưỡng cho chiến sĩ, chấp hành chính sách kinh tế, tài chính.


25 tháng 3 - 6 tháng 4.

Hai trung đoàn 48, 52 (Đại đoàn 320)
cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn “Thủy ngân” (Mercure) của địch tại căn cứ du kích liên huyện Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải, Vũ Xương (Thái Bình), loại khỏi vòng chiến đấu 2.500 tên thuộc các binh đoàn cơ động GM1, GM2, GM3, GM4, GM7. Riêng Đại đoàn 320 đánh 20 trận, diệt 1.750 tên, bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến tỉnh và bộ đội chủ lực trên địa bàn.


12 tháng 4.

Hội nghị thi đua toàn quân
, bầu 50 chiến sĩ thi đua tiêu biểu cho phong trào thi đua lập công của quân đội.


14-22 tháng 4.

Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316)
cùng lực lượng vũ trang địa phương chống các cuộc càn Poóc-tô (Porto), Pô-lô (Polo) và Tuyếc-cô (Turco) tại vùng nam - bắc sông Đuống (Bắc Ninh), loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch.


22 - 28 tháng 4.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
quyết định chấn chỉnh quân đội: “Quân đội ta đã tiến bộ nhiều, nhưng còn nhiều nhược điểm: trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn kém, nhất là trình độ chính trị chưa được nâng cao, lập trường giai cấp chưa vững, cán bộ công nông chưa được cất nhắc đúng mức...”. “Trong việc chỉnh huấn bộ đội, lấy chính trị làm gốc khởi đầu từ cán bộ, dần dần đến toàn thể đội viên, phải chú trọng bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ công nông, phải làm cho quân đội ta trở nên thật là một quân đội cách mạng của nhân dân, một quân đội vô địch”.


23 tháng 4 - cuối tháng 5.

Trung đoàn 42 (Liên khu 3)
cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn Đờ-rô-ma-đe (Dromadaire) tại vùng căn cứ du kích liên tỉnh Hưng Yên - Hải Dương (bắc sông Luộc), diệt 2.000 tên, bảo vệ được lực lượng, giữ vững vùng căn cứ du kích.


30-4 đến 6-5.

Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất
. 154 đại biểu (công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang) tiêu biểu cho phong trào thi đua ái quốc trong cả nước về dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đại hội. Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm phong trào thi đua chiến đấu, sản xuất, học tập, lựa chọn bảy chiến sĩ thi đua ưu tú nhất để nhận danh hiệu Anh hùng của Chính phủ tuyên dương, trong đó có năm Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Cù Chính Lan (truy tặng), La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Văn Song, Nguyễn Thị Chiên và hai Anh hùng lao động: Trần Đại Nghĩa, Ngô Gia Khảm.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:29:09 pm

1 tháng 5.

- Hội nghị thông tin liên lạc toàn quân lần thứ hai
, tổng kết chiến thuật thông tin trong đánh đồn, đánh vận động, đánh tập kích, đánh độn thổ (ở đồng bằng), bảo đảm liên lạc vô tuyến điện, hiệp đồng giữa các phương tiện thông tin, thống nhất biên chế phân đội thông tin liên lạc từ cấp đại đội bộ binh trở lên để Bộ Tổng Tham mưu duyệt.

- Thành lập tiểu đoàn 320 vận tải thuộc Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Nhiệm vụ: tiếp nhận; vận chuyển hàng hóa từ Liên khu 5 về chiến khu Đ, giữ vững đường liên lạc giữa Nam Bộ với Trung ương; đưa đón, bảo vệ các đoàn cán bộ Trung ương vào Nam Bộ và ngược lại. Tiểu đoàn trưởng: Nguyễn Văn Lung.


4-15 tháng 5.

Hai trung đoàn 108, 803 (Liên khu 5) chống cuộc càn La-tê-rít (Latérite) tại căn cứ miền Tây Quảng Ngãi.


20 tháng 5.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết “Về tổ chức Đảng trong bộ đội chủ lực”
, quyết định bỏ chế độ chính ủy “tối hậu quyết định”, thành lập chế độ cấp ủy Đảng trong bộ đội chủ lực; quy định tổ chức Đảng ở các cấp, nhiệm vụ quyền hạn và các mối quan hệ của cấp ủy Đảng...

Hệ thống tổ chức Đảng ở các cấp được quy định như sau:

“- Ở đại đội có hội nghị toàn thể chi bộ và ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là chi ủy).

- Ở tiểu đoàn có đại hội đại biểu tiểu đoàn và ban chấp hành tiểu đoàn (gọi tắt là tiểu đoàn ủy).

- Ở trung đoàn có đại hội đại biểu trung đoàn và ban chấp hành trung đoàn (gọi tắt là trung đoàn ủy).

- Ở đại đoàn có đại hội đại biểu đại đoàn và ban chấp hành đại đoàn (gọi tắt là đại đoàn ủy).

- Ở các trường, nếu nhỏ thì có hội nghị toàn thể chi bộ trong trường và ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là chi ủy), nếu lớn thì có đại hội đại biểu toàn trường và ban chấp hành nhà trường (gọi tắt là hiệu ủy).

- Ở các cơ quan đoàn bộ, nếu nhỏ thì có hội nghị toàn thể chi bộ trong cơ quan và ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là chi ủy), nếu lớn, có từ hai chi bộ trở lên thì có đại hội đại biểu cơ quan và ban chấp hành liên chi (gọi tắt là liên chi ủy). Ở đại đoàn bộ hoặc các tổng cục thuộc Bộ Tổng tư lệnh, nếu có nhiều liên chi, thì có đại hội đại biểu toàn cơ quan và ban chấp hành đại đoàn bộ, tổng cục...

- Tổng Quân ủy do Trung ương chỉ định, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị.


28 tháng 5 - 2 tháng 6.

Tiểu đoàn 57 (trung đoàn 46, Liên khu 3) cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn Căng-gu-ru (Kangourou) tại khu vực tây Phú Xuyên, Ứng Hóa (Hà Đông) và Kim Bảng (Hà Nam), diệt và làm bị thương 400 tên, ta bảo toàn lực lượng.


Tháng 5.

- Các đơn vị từ Liên khu 5 trở ra chỉnh huấn chính trị, quân sự, tổ chức biên chế, trang bị
. Về chính trị: cán bộ từ cấp đại đội trở lên học tài liệu “Mấy vấn đề cách mạng Việt Nam". Cán bộ từ trung đội đến chiến sĩ học các tài liệu "Quân đội nhân dân Việt Nam”, "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Về quân sự: các đại đoàn thống nhất huấn luyện năm kỹ thuật (bắn súng, đầm lê, ném lựu đạn, đào công sự, sử dụng bộc phá); chiến thuật công kiên cứ điểm, đánh vận động, chống càn quét, hiệp đồng với các đơn vị binh chủng... Về tổ chức, biên chế, trang bị: Bộ Tổng Tham mưu quy định mỗi đại đoàn có ba trung đoàn bộ binh và các tiểu đoàn binh chủng (công binh, pháo binh, phòng không, thông tin, vận tải...). Mỗi tiểu đoàn tổ chức một đại đội mạnh có bốn trung đội để làm nhiệm vụ chủ công trong chiến đấu công kiên. Mỗi đại đội bộ binh giảm 11 người, nhưng được trang bị thêm 6 súng trường, 15 tiểu liên. Cơ quan từ đại đội bộ đến đại đoàn bộ giảm 800 người. Toàn đại đoàn giảm 1.000 người. Các cơ quan trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh xác định rõ chức trách, cải tiến nếp làm việc, giảm trung gian, rút cán bộ và chiến sĩ tăng cường cho các đơn vị chiến đấu. Thực hiện tiêu chuẩn cung cấp mới cho bộ đội, chính sách đối với thương binh, nữ quân nhân...

- Thành lập Khu Tả ngạn sông Hồng. Gồm các tỉnh: Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên và Thái Bình, tách từ Liên khu 3 ra.

Bộ Tư lệnh khu gồm các đồng chí: Đỗ Mười - Bí thư kiêm Chính ủy; Nguyễn Khai - Tư lệnh; Dương Hữu Miên - Phó tư lệnh; Đặng Tính - Phó chính ủy.


2-6 tháng 6.

Tiểu đoàn 922 (trung đoàn 46, Liên khu 3) chống cuộc càn Ăng-ti-lốp (Antilop) tại khu vực đông Phú Xuyên (Hà Đông) và Duy Tiên (Hà Nam), diệt và làm bị thương 300 tên.


16 tháng 6.

Đại đội bộ đội địa phương huyện Châu Thành (Mỹ Tho) do huyện đội trưởng Lê Phước Hải chỉ huy, tiến công trường hạ sĩ quan ngụy tại Bình Đức, diệt và bắt hơn 250 tên, thu 200 súng và 100.000 viên đạn. Đại đội được Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ khen: “thọc sâu, đánh hiểm, bảo toàn lực lượng”.


19 - 20 tháng 6.

Trung đoàn 101 (Liên khu 4) đánh bại cuộc tiến công của hai tiểu đoàn Âu - Phi, bảo vệ chiến khu Dương Hòa (tây Thừa Thiên).


22 tháng 6.

Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất
. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hội nghị: “Mỗi cán bộ cung cấp nói riêng, Tổng cục Cung cấp nói chung, phải phụ trách trước bộ đội, trước nhân dân, trước Đảng, trước Chính phủ... Bổn phận của cán bộ cung cấp là phục vụ chiến sĩ đi đánh giặc và những người dân công đi giúp chiến dịch. Đối với chiến sĩ, phải săn sóc họ, làm sao cho họ đủ ăn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc... Một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải phải đi thẳng đến chiến sĩ”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:30:48 pm

15-7 đến 26-9.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng trung đoàn 803 và lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công địch tại Quảng Nam; nhằm tiêu diệt sinh lực, phá hệ thống đồn bốt, tháp canh của địch, mở rộng vùng du kích.

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Bá Phát.
Chính ủy: Bùi San.


Tháng 7.

Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy tổ chức hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ
. Đại biểu các ngành quân, dân, chính, đảng các địa phương ở vùng sau lưng địch (Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Liên khu 5) tham dự. Hội nghị tổng kết kinh nghiệm chống càn, khẳng định vai trò của bộ đội địa phương và dân quân du kích; giải quyết một số vấn đề cụ thể và thống nhất lãnh đạo, biên chế tổ chức, công tác cung cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho hội nghị: “Điều trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi”.


2-13 tháng 8.

Hội nghị tổ chức toàn quân lần thứ nhất
, tổng kết kinh nghiệm công tác chi bộ trong quân đội, nâng cao chất lượng đảng viên, chấn chỉnh tổ chức và sinh hoạt, tăng cường sự lãnh đạo tập thể, phát huy sự lãnh đạo của chi bộ, làm cho chi bộ thành trụ cột vững mạnh bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ tác chiến và xây dựng. Hội nghị quán triệt nghị quyết của Trung ương Đảng về thực hiện chế độ đảng ủy, củng cố hội đồng quân nhân và tổ chức đoàn thanh niên trong quân đội.


2 tháng 8.

Tổng cục Cung cấp ban hành “Quy chế tổ chức Đội Thanh niên xung phong”
, nêu rõ nhiệm vụ, tổ chức, quyền hạn, các mối quan hệ công tác, chế độ, tiêu chuẩn về ăn, mặc, tài chính, chữa bệnh của Đội Thanh niên xung phong.


25-29 tháng 8.

Trung đoàn 101 (Liên khu 4) do trung đoàn trưởng Lê Thiết chỉ huy chống cuộc càn mang tên “Chiến dịch Châu chấu” (Opération Sauterelle) tại Thanh Hương - Vĩnh Xương.


31 tháng 8.

Tổ đặc công do Nguyễn Văn Thọ chỉ huy đánh kho bom Phú Thọ (Sài Gòn)
phá hủy 52 nghìn tấn bom và 50 triệu viên đạn các loại. Tiếng nổ kéo dài hơn một ngày đêm làm rung chuyển thành phố Sài Gòn và các vùng lân cận.


Tháng 8.

- Thành lập Trường du kích chiến tranh
. Khóa 1 khai giảng vào cuối năm 1952, tại Vai Cày, Đại Từ, Thái Nguyên, bổ túc cán bộ tỉnh đội, huyện đội, cán bộ tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương. Nội dung: về chính trị, bồi dưỡng theo các tài liệu trường kỳ kháng chiến, nghị quyết công tác trong vùng tạm chiếm và vùng du kích, đẩy mạnh du kích chiến tranh... Về quân sự, học bắn súng, ném lựu đạn, sử dụng các loại vũ khí thô sơ (chông, mìn, cạm, bãy), các hình thức chiến thuật phục kích, tập kích, chống càn, đánh giao thông...

Hiệu trưởng: Trần Mạnh Quỳ - nguyên Cục trưởng Cục Dân quân.

- Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh thành lập Trường Bổ túc quân chính sơ cấp, đối tượng chính là cán bộ đại đội.

Hiệu trưởng: Đào Chính Nam.
Chính trị ủy viên: Ngô Tấn Văn.

Khóa 1 khai giảng ngày 20 tháng 9 năm 1952, tại xã Tiền Phong, Đồng Hỷ, Thái Nguyên, có 192 học viên.


4-7 tháng 9.

Trung đoàn 101 (Liên khu 4) chống cuộc càn “Cá sấu” (Caiman) tại khu vực Cửa Việt, Phong Điền, Hải Lăng (Quảng Trị).


14-10 đến 10-12.

Chiến dịch Tây Bắc.


Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị chuẩn bị chiến dịch từ tháng 4 năm 1952. Đầu tháng 9, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc. Ở hướng chính, Bộ Tổng tư lệnh sử dụng các đại đoàn bộ binh 308, 312, 316, Đại đoàn Công pháo 351, trung đoàn bộ binh 148 và lực lượng vũ trang địa phương đánh địch ở Tây Bắc. Hai đại đoàn bộ binh 320, 304 hoạt động nghi binh và phối hợp ở vùng sau lưng địch.

Các tỉnh từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra huy động 35.000 dân công cùng các đơn vị công binh sửa đường và vận tải tiếp tế.

Chỉ huy trưởng chiến dịch: Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái. Chủ nhiệm chính trị: Nguyễn Chí Thanh. Chủ nhiệm cung cấp: Nguyễn Thanh Bình.

Chiến dịch diễn ra qua ba đợt. Trên cả hai mặt trận, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 13.800 tên, đánh bại âm mưu củng cố “Xứ Thái”, “Xứ Mường”, “Xứ Nùng” tự trị của địch, giải phóng 28.500 ki-lô-mét vuông với 25 vạn dân thuộc các tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện phía nam tỉnh Lai Châu, hai huyện phía tây tỉnh Yên Bái, nối liền Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc.

Các đơn vị tham gia chiến dịch tiến bộ rõ rệt về trình độ đánh công kiên, đánh vận động ở chiến trường rừng núi xa hậu phương. Tại hội nghị tổng kết chiến dịch (29-1-1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương: “Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải là hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước”.


Tháng 10.

Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ khắc phục trận lũ lụt lớn, giữ gìn lực lượng, tích cực đánh địch để giành lại thế chủ động, phối hợp với các chiến trường.


Tháng 11.

Cục Thông tin liên lạc mở lớp tập huấn đài trưởng vô tuyến điện lần thứ nhất.



1-30 tháng 12.

Trung đoàn 48 (Liên khu 3) cùng lực lượng vũ trang địa phương phá cuộc càn Brơ-ta-nhơ của năm binh đoàn cơ động địch ở Nam Định. Các trung đoàn 57, 66, 9, 52 phối hợp với bộ đội địa phương, du kích đánh địch ở Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình.


5 tháng 12.

Thành lập Đại đoàn bộ binh 325
. Từ ngày 17 tháng 5 năm 1950, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định “chấn chỉnh tổ chức quân chính quy ở Bình - Trị - Thiên... củng cố các đơn vị chủ lực hiện có, tiến tới xây dựng thành đại đoàn chủ lực cơ động tác chiến dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh”. Ngày 23 tháng 6 năm 1951, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho mặt trận Bình - Trị - Thiên “gấp rút củng cố bộ đội địa phương, phát triển dân quân du kích, sẵn sàng thay thế lực lượng chủ lực, tiến tới xây dựng đại đoàn chủ lực ở Bình - Trị - Thiên”. Ngày 5 tháng 12 năm 1952, Thường vụ Liên khu ủy Liên khu 4 quyết nghị: “Rút các trung đoàn chủ lực ra khỏi chiến trường để xây dựng thành đại đoàn chủ lực”. Thực hiện chủ trương trên, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đưa các trung đoàn bộ binh 101, 18, 95 và một số phân đội binh chủng ra vùng tự do Nghệ - Tĩnh xây dựng Đại đoàn bộ binh 325.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Trần Quý Hai.

Đại đoàn bộ binh 325 mang tên truyền thống “Đại đoàn Binh - Trị - Thiên”.


19 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi nhân ngày toàn quốc kháng chiến:
“Chúng ta bước sang năm thứ bảy của cuộc kháng chiến toàn quốc... ta càng ngày càng mạnh, địch càng ngày càng yếu. Từ chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950 đến nay, trên chiến trường Bắc Bộ, ta đã giành và giữ chủ động, còn địch thì bị động”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:32:10 pm

Năm 1953

13-28 tháng 1.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng hai trung đoàn 108, 803, tiểu đoàn 40 chủ lực liên khu và trung đoàn 120 địa phương mở chiến dịch tiến công địch, địa bàn chính là An Khê, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phối hợp với chiến trường toàn quốc.

Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch: Nguyễn Chánh.

Các đơn vị đã diệt một số cứ điểm, đánh viện binh địch trên đường số 19, diệt nhiều sinh lực, phá hủy một số xe quân sự địch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng gửi thư khen: “Thắng lợi này chứng tỏ các đồng chí đã tiến bộ về chính trị cũng như về kỹ thuật sau thời kỳ chỉnh huấn, đặc biệt kỹ thuật đánh điểm nhỏ, viện nhỏ”.


25-30 tháng 1.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự:

“1. Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do.

Đó là phương hướng chiến lược của ta hiện nay.

2. Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt, để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiến từng bộ phận, để tranh lấy những cứ điểm và thị trấn nhỏ ở đó địch sơ hở, yếu ớt. Làm như vậy để đạt mục đích đánh chắc, ăn chắc, mở rộng vùng tự do. Đồng thời có thể dùng công kiên chiến hút lực lượng của địch đến mà đánh, phân tán lực lượng địch, làm rối loạn kế hoạch của địch và tạo điều kiện cho vận động chiến.

3. Chiến trường sau lưng địch phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân, để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch.

4. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích khá to cần phải xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất. Những tổ chức dân quân du kích ấy chẳng những có thể phụ trách việc đàn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an trong làng xã, bảo vệ lợi ích của quần chúng, đấu tranh với địch và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, mà lại có thể dùng để bổ sung bộ đội chủ lực.

5. Về việc chỉ đạo quân sự, cần phải kết hợp những hình thức đấu tranh nói trên một cách linh hoạt, khôn khéo. Như thế, một mặt lợi cho bộ đội chủ lực có thể tìm nhiều cơ hội để tiêu diệt địch; một mặt khác có thể giúp bộ đội, du kích hoạt động và giúp căn cứ du kích của ta sau lưng địch phát triển và củng cố.

6. Trong sự chỉ đạo các hình thức đấu tranh nói trên, cần phải thiết thực nhận rõ tính chất trường kỳ của kháng chiến. Cho nên, phải rất chú ý giữ gìn sức chiến đấu nhất định của bộ đội, không nên làm cho bộ đội hao mòn, mệt mỏi quá.

Đồng thời cần phải yêu cầu bộ đội chịu khó, chịu khổ, kiên quyết, gan dạ thi đua diệt địch lập công. Hai điều đó không trái nhau, mà kết hợp với nhau.

7. Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải đảm bảo sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội.

8. Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội. Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác.

Phải tăng cường công tác của Bộ Tổng Tham mưu và của Tổng cục Cung cấp. Công tác của Bộ Tổng Tham mưu phải tăng cường mới có thể nâng cao chiến thuật và kỹ thuật của bộ đội. Công tác của Tổng cục Cung cấp phải tăng cường thì mới có thể đảm bảo được sự cung cấp đầy đủ cho chiến tranh và nâng cao sức chiến đấu của bộ đội.

Nhưng phải kiên quyết phản đối xu hướng sai lầm làm cho các cơ quan phình lên.

9. Phải có kế hoạch chung về việc xây dựng và bổ sung bộ đội. Ngoài việc động viên thanh niên ở vùng tự do tòng quân, cần phải rất chú ý tranh thủ và cải tạo ngụy binh đã đầu hàng ta để bổ sung cho bộ đội ta. Tổ chức bộ đội mới thì không nên hoàn toàn dùng cán bộ mới và binh sĩ mới, mà nên dùng cách lấy bộ đội cũ làm nền tảng để mở rộng bộ đội mới. Đồng thời cũng không nên vét sạch bộ đội du kích để bổ sung cho bộ đội chủ lực.

10. Cần phải tăng cường và cải thiện dần việc trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh".


Tháng 2.

Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị nghiên cứu chiến thuật đánh tập đoàn cứ điểm
, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu trong phòng ngự tập đoàn cứ điểm của địch, thảo luận các cách đánh, đặc biệt là cách khắc phục hỏa lực địch, chiến đấu ban ngày và liên tục.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:33:14 pm

1 tháng 4.

Thành lập trung đoàn 367 phòng không (quyết định sổ 06/QĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh)
. Biên chế: sáu tiểu đoàn hỏa lực (381, 383, 385, 392, 394, 396), mỗi tiểu đoàn có ba đại đội pháo cao xạ 37 ly (12 khẩu); một đại đội súng máy 12,7 ly (12 khẩu); một tiểu đoàn xe kéo pháo, vận tải và sửa chữa; cơ quan trung đoàn bộ (tham mưu, chính trị, cung cấp).

Trung đoàn trưởng: Lê Văn Tri.
Chính trị viên: Đoàn Phụng.

Trung đoàn 367 là trung đoàn phòng không đầu tiên của quân đội ta. Ngày thành lập trung đoàn (1-4) trở thành ngày truyền thống của bộ đội phòng không.


8-4 đến 3-5.

Chiến dịch Thượng Lào.


Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và theo yêu cầu của Chính phủ kháng chiến Lào, Mặt trận Ít-xa-la, Bộ Tổng tư lệnh điều các Đại đoàn 308, 312, 316, 304, trung đoàn bộ binh 148, phối hợp với lực lượng vũ trang Pa-thét Lào mở chiến dịch tiến công địch ở Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào) nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, xây dựng và củng cố các căn cứ du kích, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Tham gia Bộ chỉ huy chiến dịch có Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản và đồng chí Thao-ma (Bí thư tỉnh Sầm Nưa). Về phía ta có Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chỉ huy trưởng), Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm chính trị), Thiếu tướng Hoàng Văn Thái (Tham mưu trưởng), Nguyễn Văn Nam (Chủ nhiệm cung cấp) và đồng chí Nguyễn Khang đặc trách công tác ở chiến trường nước bạn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư (3-4) căn dặn bộ đội làm nhiệm vụ quốc tế: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.

Trước sức tiến công của Liên quân Lào - Việt, quân địch bỏ chạy. Bộ đội ta chuyển sang truy kích, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Sa Lỳ (bằng một phần năm diện tích nước Lào). Căn cứ kháng chiến của cách mạng Lào được mở rộng, nối liền với vùng tự do của Việt Nam.

Thắng lợi của chiến dịch góp phần củng cố tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân hai nước Việt - Lào.


21 tháng 4.

Bộ đội địa phương tỉnh Kiến An do Tỉnh đội trưởng Đặng Kinh chỉ huy, tập kích một số vị trí địch trong thị xã Kiến An, diệt và làm bị thương hơn 400 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.


21-31 tháng 5.

Hội nghị, cán bộ cơ sở Tổng cục Cung cấp lần thứ nhất
. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị: “Trách nhiệm của Tổng cục Cung cấp từ trên đến dưới là toàn tâm, toàn lực phục vụ bộ đội. Chớ tham ô, chớ lãng phí một đồng tiên, một bát gạo, một ngày công của nhân dân đóng góp cho bộ đội”.


Tháng 5.

- Tổng Quân ủy ra nghị quyết về chỉnh quân chính trị:
“Nhằm nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp của bộ đội, làm cho tổ chức được trong sạch và củng cố, đề cao sức chiến đấu, để bộ đội trở thành một lực lượng lớn mạnh kiên quyết ủng hộ việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ”.

- Bộ Quốc phòng quyết định:

+ Chia đoàn 99 (thu dung, an dưỡng ở Việt Bắc) thành đoàn 99 (thu dung, an dưỡng) và trung đoàn 77 (trung đoàn trưởng: Văn Giáo; chính ủy: Hùng Phong), đứng chân ở Phú Thọ, để huấn luyện, bổ sung quân.

+ Xây dựng trung đoàn 55 (trung đoàn trưởng: Chu Văn Yêm; trung đoàn phó: Hồ Sĩ Lễ, chính ủy: Nguyễn Lập, phó chính ủy: Phạm Đức Nhuận). Trung đoàn đứng chân ở Thanh Hóa để tuyển mộ, huấn luyện, bổ sung tân binh.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:34:56 pm

23 tháng 6.

Tổng Quân ủy mở lớp chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung cấp, cao cấp tại Việt Bắc
. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Mục đích chỉnh quân là làm cho quân đội ta thành một quân đội nhân dân cách mạng, quyết chiến quyết thắng”.


24 tháng 6.

Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh ra nghị quyết số 12/NĐA tăng tiêu chuẩn cung cấp cho bộ đội.



27 tháng 7.

Hội nghị xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở vùng tự do.



28 tháng 7 - 5 tháng 8.

Trung đoàn bộ binh 95 (Đại đoàn 325) cùng lực lượng vũ trang địa phương chống cuộc càn “Các-ma-giơ” tại vùng du kích thuộc bốn huyện Phong Điền-Quảng Điền-Triệu Phong-Hải Lăng (Quảng Trị).


Tháng 7-tháng 8.

Cán bộ sơ cấp và chiến sĩ toàn quân chỉnh quân chính trị.


17 tháng 8.

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ban hành nghị định 14A/NĐA về tổ chức hệ thống cung cấp toàn quân
(từ tổng cục xuống đại đội chủ lực và tỉnh đội địa phương); vai trò và sự lãnh đạo của thủ trưởng quân chính đối với công tác hậu cần; quan hệ giữa các ngành quân nhu, quân y, quân khí, vận tải trong hệ thống tổ chức cung cấp.


28 tháng 8.

Ba đại đội 295, 196, 331 bộ đội địa phương tỉnh Kiến An, huyện Tiên Lãng và du kích chống cuộc càn Cơ-lốt (Claude) của hai binh đoàn cơ động và bốn tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 677 tên, phá hủy ba xe lội nước, bắn chìm hai ca-nô, bắn cháy hai máy bay. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và tặng quân và dân huyện Tiên Lãng Huân chương Kháng chiến hạng nhất.


14 tháng 9.

Trường cán bộ cung cấp (thành lập trên cơ sở lớp huấn luyện cung cấp) khai giảng khóa 1. Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Trần Hữu Dực kiêm Giám đốc. Số học viên: 62 cán bộ đào tạo từ cấp tiểu đoàn trở lên. Địa điểm: Phố Ngữ, Thái Nguyên.


18-23 tháng 9.

Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ hai
, nghiên cứu tổ chức cung cấp ở các đơn vị, bàn biện pháp kiện toàn tổ chức cung cấp, thống nhất chỉ đạo các chuyên ngành trong bộ máy cung cấp, xác định quan hệ, các vấn đề nghiệp vụ, tiêu chuẩn chế độ quân nhu, quân y...


22-9 đến 2-10.

Hai trung đoàn 50, 42 (Liên khu 3) cùng bộ đội địa phương, du kích chống cuộc càn Brô-xê của địch ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.200 tên, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, giữ vững căn cứ du kích.


Tháng 9.

Bộ Chính trị họp bàn chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954
, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, quyết định đưa bộ đội chủ lực lên hướng Tây Bắc, buộc địch phải phân tán lực lượng, tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ở các chiến trường sau lưng địch.


Tháng 9 - tháng 11.

Toàn quân chỉnh huấn quân sự
. Bộ Tổng tư lệnh mở lớp tập huấn cán bộ trung cấp, cao cấp, nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, bàn cách đánh cứ điểm, đánh địch đang vận động, hoặc mới chiếm lĩnh trận địa và chống càn quét. Về kỹ thuật: huấn luyện năm môn (bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn, công sự và bộc phá). Về chiến thuật: huấn luyện đánh vận động, đánh công kiên quân địch trong công sự và tập đoàn cứ điểm trong điều kiện quân địch có máy bay, pháo binh và cơ giới yểm hộ cả ban ngày và ban đêm. Các liên khu từ Nam Bộ trở ra phát triển các trung đoàn chủ lực khu. Các tỉnh phát triển bộ đội địa phương và du kích.


15-10 đến 6-11.

Đại đoàn bộ binh 320 chống cuộc càn “Hải âu” (Mouetre) của sáu binh đoàn cơ động, chín tiểu đoàn pháo binh, ba tiểu đoàn thiết giáp địch tại tây nam Ninh Bình, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.500 tên, đánh bại ý đồ giành lại thế chủ động trên chiến trường của Na-va.


17 tháng 10.

Bộ Quốc phòng quy định tiêu chuẩn quân trang, bổ sung một số loại mới như ba lô, khăn mặt, bi đông, thắt lưng ...


19 tháng 11.

Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng triệu tập cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên phổ biến kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954
, động viên cán bộ vượt mọi khó khăn giành thắng lợi lớn nhất trong đông-xuân 1953-1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: “Hướng chính là Tây Bắc, kiên quyết tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng Lai Châu và mở rộng căn cứ kháng chiến, uy hiếp Thượng Lào để phân tán địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến sau này. Lực lượng sử dụng hai đến ba đại đoàn. Hướng phụ là Trung Lào, lực lượng sử dụng hai trung đoàn. Hướng phối hợp là đồng bằng…”


Tháng 11.

Đồng chí Văn Tiến Dũng - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Đại đoàn 320 được cử làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.


6 tháng 12.

Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị “Phương án tác chiến mùa xuân năm 1954"
. Phương án gồm bốn phần: 1 - Tình hình địch và phương hướng chiến dịch. 2 - Binh lực sử dụng và thời gian tác chiến. 3 - Nhu cầu nhân lực, vật lực. 4 - Kế hoạch đường sá và vận chuyển. Phân tích tình hình địch và phương hướng chiến dịch, Tổng Quân ủy cho rằng, trong đông-xuân 1953-1954 “phải nhằm trường hợp địch tăng cường thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị…”. “Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay, không kém Nà Sản và đường sá còn xa hơn. Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp; nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn”. Bộ Chính trị thông qua phương án, quyết định mở chiến dịch Điên Biên Phủ.


10 tháng 12.

Đại đoàn bộ binh 316 do Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba và Chính ủy Chu Huy Mân chỉ huy tiến đánh Lai Châu mở đầu cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Trong trận Mường Pồn (12-12), chiến sĩ Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội tiêu diệt địch.


20 tháng 12.

Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị kế hoạch quân sự năm 1954
. Nội dung chủ yếu: 1 - Mấy nét nhận định về địch và ta. 2 - Chủ trương chiến lược và kế hoạch tác chiến. 3 - Kế hoạch xây dựng bộ đội. 4 - Vấn đề giáo dục bộ đội và cán bộ. 5 - Vấn đề đường sá và cung cấp mặt trận. 6 - Vấn đề miền Nam và Cao Miên. 7 - Vấn đề Lào. 8 - Vấn đề chấn chỉnh và tăng cường cơ quan chỉ đạo. Kế hoạch xác định: “Phương hướng chiến lược là trước hết giải phóng Tây Bắc và Tây Nguyên, uy hiếp Nam Bộ, tạo điều kiện để giải phóng Bắc Bộ”.


21-12-1953 đến 31-1-1954.

Các trung đoàn bộ binh 66 (Đại đoàn 304), 101 (Đại đoàn 325), 280 và 120 bộ đội tình nguyện và một số đơn vị binh chủng phối hợp với một bộ phận quân giải phóng Pa-thét Lào, mở chiến dịch tiến công địch ở Trung Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, phối hợp với các chiến trường.

Tư lệnh: Hoàng Sâm.
Chính ủy: Trần Quý Hai.

Kết quả: đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn; giải phóng thị xã Thà Khẹt, một phần tỉnh Sa Vẳn Nạ Khệt, thị xã At Tô Pơ và toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven. Phát triển thắng lợi, trung đoàn 101 tiến công xuống phía nam phối hợp với quân giải phóng Ít-xa-rắc (Cam-pu-chia) giải phóng và mở rộng căn cứ ở đông bắc Cam-pu-chia.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:37:45 pm

NĂM 1954

26 tháng 1 - 10 tháng 2.

Đại đoàn bộ binh 308 phối hợp với quân giải phóng Pa-thét Lào tiến công phòng tuyến sông Nậm Hu (Thượng Lào), diệt 17 đại đội, giải phóng tỉnh Phong Sa Lỳ, uy hiếp kinh đô Luông Pha Băng, phá vỡ “con đường liên lạc chiến lược” giữa Thượng Lào với Điện Biên Phủ của địch.


27-1 đến 5 -2.

Bộ Tư lệnh Liên khu 5 sử dụng hai trung đoàn 108, 803, bộ đội địa phương và du kích mở chiến dịch tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, phá cuộc càn Át-lăng của địch ở Phú Yên.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Nguyễn Chánh.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 tên, giải phóng thị xã Công Tum, buộc địch phải bỏ dở cuộc càn Át-lăng.


31 tháng 1.

- Bộ đội địa phương tỉnh Kiến An tập kích sân bay Đồ Sơn, phá hủy năm máy bay, đốt cháy năm triệu lít xăng dầu.

- Trung đội du kích huyện Kim Thành (Hải Dương) phục kích đoàn tàu quân sự địch tại khu vực gần ga Phạm Xá, làm đổ đầu máy và tám toa tàu, diệt 778 lính Âu - Phi, làm ngừng trệ vận chuyển của địch trên tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng trong bốn ngày đêm.

- Bộ Tư lệnh Phân khu Bình-Trị-Thiên sử dụng trung đoàn 101 (Đại đoàn 325), một đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực Pa-thét Lào mở chiến dịch Hạ Lào. Trong hơn hai tháng, các đơn vị tiến công địch ở vùng cao nguyên Bô Lô Ven (Lào) và bắc Stung Treng (Cam-pu-chia), loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 1.000 tên, giải phóng một vùng đất rộng lớn, thực hiện phối hợp tốt với các chiến trường trong cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954.


Tháng 1 - tháng 2.

Các chiến trường đẩy mạnh hoạt động theo kế hoạch tác chiến Đông-Xuân
. Ở Bắc Bộ, Đại đoàn bộ binh 320 cùng các lực lượng vũ trang Liên khu 3 diệt hàng loạt vị trí, phá vỡ phòng tuyến sông Đáy, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch. Ở Liên khu 4, các lực lượng vũ trang địa phương đánh giao thông địch trên đường số 1, đường số 7, bức rút nhiều vị trí, giải phóng huyện Hướng Hóa (Quảng Trị). Ở Nam Trung Bộ, các lực lượng vũ trang tập kích thị xã Hội An, Phan Thiết, bao vây bức hàng và diệt một số cứ điểm, mở rộng vùng giải phóng. Ở Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực khu (302, 304, 307) và các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh (311, 410...) tiến vào vùng tạm bị địch chiếm, hỗ trợ nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích.


3 tháng 3.

Phân đội chiến đấu gồm 16 chiến sĩ do đồng chí Vũ Văn Sự chỉ huy tập kích sân bay Gia Lâm (Hà Nội), phá hủy 18 máy bay, một nhà sửa chữa máy bay, đốt cháy một kho xăng, diệt 16 tên địch.


7 tháng 3.

Phân đội chiến đấu gồm 32 chiến sĩ thuộc Khu Tả Ngạn và tỉnh đội Kiến An do các đồng chí Lê Thừa Giao, Đỗ Tất Yến chỉ huy tập kích sân bay Cát Bi (Hải Phòng), phá hủy 59 máy bay địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng phân đội Huân chương Quân công hạng nhất và danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi”.


13-3 đến 7-5.

Chiến dịch Điện Biên Phủ.


Ngày 22 tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cờ Quyết chiến quyết thắng cho quân đội. Người chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch. Phó thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp Mặt trận. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Phó tổng tham mưu trưởng làm Tham mưu trưởng chiến dịch. Đồng chí Lê Liêm làm Chủ nhiệm Chính trị chiến dịch. Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Trần Đăng Ninh phụ trách công tác đường sá, tiếp tế chiến dịch.

Lực lượng tham gia gồm các đại đoàn bộ binh 308 (ba trung đoàn 102, 88, 36), 312 (ba trung đoàn 141, 209, 165), 316 (hai trung đoàn 174, 98), 304 (trung đoàn 57), 351 công-pháo (các trung đoàn 45 lựu pháo 105 ly, 675 sơn pháo và cối, 367 cao xạ, 151 công binh)1, các đơn vị thông tin, vận tải (16 đại đội), quân y..., số quân khoảng 55.000 người, và 260 nghìn dân công hỏa tuyến. Phương tiện và vật chất huy động gồm 628 ô tô, 11.800 thuyền, 20 nghìn xe đạp thồ và các loại xe thô sơ, hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh.

Thời gian đầu, khi địch chưa tăng cường lực lượng và hệ thống công sự, phương châm tác chiến chiến dịch là “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Ngày 26 tháng 1 năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị và được Bộ Chính trị đồng ý, chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Các mặt công tác chuẩn bị chiến dịch chuyển theo phương châm tác chiến mới.

Ngày 11 tháng 3, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ: “Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang”.

Ngày 13 tháng 3, Chiến dịch bắt đầu và trải qua ba đợt. Đợt một (13 - 17 tháng 3), các đại đoàn 312, 308 tiến công diệt các cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo (phân khu Bắc). Đợt hai (30 tháng 3 - 24 tháng 4), các đại đoàn 316, 308, 312 tiến công các cứ điểm phía đông (các ngọn đồi C1, E, D, A1), xây dựng trận địa bao vây, đánh lấn, chia cắt tập đoàn cứ điểm, khống chế và triệt chi viện đường không của địch. Riêng trận đánh đồi A1 gặp khó khăn, ta phải tổ chức đánh đến ba lần. Đợt ba (1-7 tháng 5), các đại đoàn 308, 312, 304, 316 đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch ở phía tây (các điểm cao 505, 505A, 511A, 311B, C2, 506, 310) và chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5, trong 55 ngày đêm, trải qua ba đợt chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và bắt hơn 16.000 tên, bắt sống toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm do tướng Đờ Cát-xtơ-ri chỉ huy. Về đơn vị, diệt 21 tiểu đoàn (17 tiểu đoàn bộ binh và dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh); bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, bắn hỏng 4 xe tăng; thu 30 trọng pháo, 6 xe tăng, hơn 30 nghìn chiếc dù, toàn bộ vũ khí, đạn, quân trang, quân dụng.

Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Na-va của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, môt chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.
________________________________________________
1. Quá trình chiến dịch xây dựng thêm một tiểu đoàn ĐKZ75 và một tiểu đoàn hỏa tiễn H6.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Năm, 2022, 02:38:27 pm

Tháng 3 - tháng 7.

Các chiến trường đẩy mạnh hoạt động phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại Nam Bộ
, tiểu đoàn 302 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia diệt một số vị trí địch, mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh phía đông Cam-pu-chia. Đại đội đặc công 205 tập kích kho bom Phú Thọ Hòa (Sài Gòn), thiêu hủy gần 10.000 tấn bom và thuốc nổ, 10 triệu lít xăng dầu, diệt một đại đội lính Âu - Phi. Tiểu đoàn 303 (Thủ Biên) phối hợp với bộ đội địa phương diệt một đại đội lính Com-măng-đô, thu toàn bộ vũ khí. Đại đội 65 và đại đội Lê Hồng Phong (Bến Cát) diệt một đại đội địch tại đồn Bến Tranh. Đại đội 55 và đại đội Nguyễn An Ninh (Lái Thiêu) diệt một trung đội tại đồn Cây Trắc. Đội đặc công Rừng Sác bắn chìm ba tàu chở lính Pháp trên sông Lòng Tàu (tháng 6)... Tại Trung Bộ; lực lượng vũ trang Liên khu 5 đánh bại cuộc càn Át-lăng 2 của địch. Trung đoàn 96 vận động phục kích diệt binh đoàn cơ động GM100 trên đường số 19. Tại đồng bằng Bắc Bộ, trung đoàn 42 (Liên khu 3) phục kích trên đường số 5 (Bần Yên Nhân, Hưng Yên), diệt 315 tên thuộc binh đoàn cơ động số 3. Các trung đoàn 52, 48 (Đại đoàn 320) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động ở Nam Định, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch. Các tiểu đoàn 400, 353, 375 (trung đoàn 9, Đại đoàn 304) phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông.


Tháng 4.

Trường Bổ túc quân chính sơ cấp được chuyển thành Trường Bổ túc quân chính trung cấp
. Nhiệm vụ: bồi dưỡng cán bộ trung cấp, cao cấp.

Hiệu trưởng: Hoàng Minh Thảo, nguyên Tư lệnh Đại đoàn bộ binh 304.
Chính ủy: Hoàng Phương.

Địa điểm: Tân Hương, Bắc Sơn, Lạng Sơn.


8 tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ:
“Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ mới đi đến những thắng lợi hoàn toàn”.


13 tháng 5.

Lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ
, được tổ chức trọng thể tại cánh đồng Mường Thanh - trung tâm tập đoàn cứ điểm của địch vừa bị tiêu diệt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh chiến dịch thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ tuyên dương công trạng các đơn vị tham gia chiến dịch, các đơn vị trong toàn quân, đồng bào ở hậu phương trong cả nước đã tạo nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ. Đại đoàn 312 được nhận cờ “Quyết chiến quyết thắng”.


4-27 tháng 7.

Hội nghị quân sự Trung Giã
. Đoàn đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn. Đoàn đại diện Bộ Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương do Đại tá Len-nuy làm trưởng đoàn. Hội nghị bàn những vấn đề quân sự mà Hội nghị Giơ-ne-vơ và những vấn đề khác do tình hình cụ thể tại chỗ đặt ra, về trao trả tù binh, thực hiện ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường Việt Nam.


15-17 tháng 7.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (mở rộng)
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo về “Tình hình mới và nhiệm vụ mới” đề ra “…Phương châm, sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hòa bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”. Hội nghị quyết định “Tăng cường lực lượng quân sự, xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, thích hợp với yều cầu của tình hình mới”.


21 tháng 7.

Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương kết thúc
. Các nước tham gia hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào; quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương. “Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết. Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ở phía bắc giới tuyến, lực lượng quân đội “Liên hiệp Pháp” ở phía nam giới tuyến. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi như là một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Thời gian tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam được ấn định vào tháng 7 năm 1956.


Ngày 22 tháng 7.

Vào lúc 0 giờ, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Việt Nam
. Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Lịch sử quân đội chuyển sang một giai đoạn mới.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:05:33 pm

II

THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)



NĂM 1954

Cuối tháng 7.

Lực lượng vũ trang trên cả nước nghiêm chỉnh chấp hành lệnh ngừng bắn
. Ở Bắc Bộ, các đơn vị chuẩn bị tiếp quản các thành phố, thị xã, vùng nông thôn mới giải phóng. Ở Nam Bộ và Liên khu 5, các đơn vị vũ trang tập trung tập kết ra miền Bắc. Một số cán bộ quân sự được Đảng phân công ở lại. Các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cam-pu-chia hoàn thành nhiệm vụ quốc tế rút về nước. Toàn quân chuyển từ thời chiến sang xây dựng và sẵn sàng chiến đấu trong thời bình.


17 tháng 8.

Thành lập Phòng Công binh
(nghị định số 026 của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Nhiệm vụ: giúp Tổng tham mưu trưởng chỉ huy và xây dựng các đơn vị công binh, nghiên cứu kế hoạch và lãnh đạo các đơn vị công binh huấn luyện về kỹ thuật, đặt kế hoạch dự trù cung cấp, đảm bảo phân phối dụng cụ cho các đơn vị công binh, nghiên cứu về biên chế, tổ chức, trang bị, điều động và đề bạt cán bộ công binh.

Chủ nhiệm: Phạm Hoàng.
Phó chủ nhiệm: Nguyễn Văn Nhạn.


24 tháng 8.

Thành lập hai thủy đội: Sông Lô, Bạch Đằng
. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng tới dự. Đại tướng nói: “Hai thủy đội này là những viên gạch đầu tiên, là tiền thân của lực lượng tầu chiến đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam sau này...”.


5-7 tháng 9.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”.


Nghị quyết xác định: “Quân đội nhân dân là cột trụ chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình..., tăng cường Quân đội nhân dân là nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Chính phủ và của toàn thể nhân dân ta. Cần phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại. Xây dựng Quân đội nhân dân là một nhiệm vụ trường kỳ và phức tạp, trong đó công tác quan trọng nhất và thường xuyên nhất là huấn luyện bộ đội, đặc biệt là huấn luyện cán bộ. Cần phải đặt kế hoạch huấn luyện cán bộ và kế hoạch huấn luyện cho quân đội cho thiết thực”.


7 tháng 9.

Thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh
(nghị định số 33-NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Nhiệm vụ:

- Chỉ huy các đơn vị trọng pháo, dã pháo và pháo cao xạ của Bộ, chỉ đạo về huấn luyện, tổ chức trang bị các đơn vị sơn pháo và pháo cao xạ cho các đại đoàn bộ binh.

- Nghiên cứu kế hoạch huấn luyện và lãnh đạo việc giáo dục các đơn vị pháo binh.

- Dự trù, phân phối, bảo quản các vũ khí, khí tài và các phương tiện cần thiết.

- Nghiên cứu đề đạt ý kiến về tổ chức, biên chế, trang bị và sử dụng các đơn vị pháo binh, bổ nhiệm và đào tạo cán bộ pháo binh.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Nguyễn Chánh.
Tham mưu trưởng: Lê Thiết Hùng.
Chủ nhiệm Chính trị: Phạm Ngọc Mậu.

 
16 tháng 9.

Thành lập hai đại đoàn pháo binh 675 và 349
(nghị định số 30 và 32/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Chỉ huy Pháo binh.

- Đại đoàn 675 gồm hai trung đoàn 82 và 84 pháo chống tăng, trung đoàn 86 pháo lựu 105 ly.

Đại đoàn trưởng: Doãn Tuế.
Chính ủy: Đoàn Khuê.

- Đại đoàn 349 pháo lựu 105 ly gồm năm trung đoàn (4,5,6,34,44), nòng cốt là trung đoàn 349 Quân khu Việt Bắc, tiểu đoàn 460 pháo binh, một số đại đội bộ đội địa phương các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các trung đoàn 34,39,52 bộ đội miền Nam tập kết.

Đại đoàn trưởng: Phùng Thế Tài.
Chính ủy: Lê Đình Thiệp.


18 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp đại biểu cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại đền Hùng
(xã Hi Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú), trên đường đại đoàn về tiếp quản thủ đô Hà Nội.

Bác giao nhiệm vụ: Tiếp quản Thủ đô phải thận trọng, chu đáo; tổ chức và kỷ luật trong công tác và sinh hoạt phải nghiêm minh; giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân; chống mọi hành động phá hoại vì: kẻ địch còn lẩn lút, dân ta còn có những việc làm vô ý, cán bộ và chiến sĩ ta còn có những nhận thức và việc làm sơ hở thiếu sót; phải bảo vệ công thương nghiệp, kể cả công thương nghiệp của ngoại kiều.

Bác căn dặn những khuyết điểm cần phải tránh: thiếu tổ chức kỷ luật, ví dụ: như ăn ở, đi lại, mua bán..., xa xỉ ăn diện, tự do bắt chước lối sống không tốt. Vì những lý do trên dễ sinh ra tham ô hư hỏng. Muốn tránh khuyết điểm phải có dân chủ, phải thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau, phê bình và tự phê bình, phải giữ tác phong giản dị, chất phác của người cách mạng.

Nhiệm vụ giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta còn rất nặng nề và quan trọng. Cáo cháu đã thấy: CÁC VUA HÙNG ĐÃ CÓ CÔNG DỰNG NƯỚC, BÁC CHÁU TA PHẢI CÙNG NHAU GIỮ LẤY NƯỚC.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:06:33 pm

21 tháng 9.

- Thành lập Đại đoàn pháo cao xạ 367
(nghị định số 34/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Chỉ huy Pháo binh, nòng cốt là trung đoàn pháo cao xạ 367 và một số tiểu đoàn súng máy cao xạ của các đại đoàn bộ binh. Biên chế: ba trung đoàn (681,685,689) và một số tiểu đoàn độc lập, trang bị pháo cao xạ 88, 40, 37 và 20 ly.

Đại đoàn trưởng: Hoàng Kiện.
Chính ủy: Đoàn Phụng.

- Thành lập Đại đoàn (sau đổi là Sư đoàn) bộ binh 350 (nghị định, số 35/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Tổng tư lệnh, nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và bộ đội địa phương thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu 3. Nhiệm vụ: bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và thủ đô Hà Nội. Biên chế ba trung đoàn (600,254,53).

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Hà Kế Tấn.


10 tháng 10.

Đại đoàn 308, trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) và các lực lượng vũ trang địa phương tiếp quản Hà Nội
. Nhân dân Thủ đô phấn khởi chào đón “Bộ đội Cụ Hồ”, trong đó có các chiến sĩ trung đoàn Thủ Đô về giải phóng thành phố. 15 giờ, Anh hùng Nguyễn Quốc Trị kéo lá cờ Tổ quốc lên đỉnh cột cờ thành Thăng Long. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ - Chủ tịch Ủy ban quân chính đọc thư Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn quân và dân Hà Nội phấn đấu xây dựng “thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và hạnh phúc”.


15 tháng 11.

Thành lập Trường Tập huấn pháo binh
(Đội huấn luyện 351, theo nghị định số 39/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Chỉ huy Pháo binh. Nhiệm vụ: bồi dưỡng kỹ thuật, chiến thuật pháo binh, huấn luyện động tác yếu lĩnh cơ bản để chuyển binh chủng cho cán bộ pháo binh mặt đất và pháo cao xạ.

Giám đốc: Lê Thiết Hùng.
Chính ủy: Nguyễn Nam Thắng.


20 tháng 11.

Thành lập sư đoàn bộ binh 305
(quyết định số 47/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực ở chiến trường Bắc Tây Nguyên và Trung Trung Bộ vừa tập kết ra miền Bắc.


20 tháng 12.

Toàn quân bước vào huấn luyện quân sự chính quy trong thời bình.


22 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho quân đội, nhân kỷ niệm 10 năm ngày thành lập
. Bác giao nhiệm vụ: “Làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh để củng cố hòa bình, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc... giữ vững và nâng cao ý chí chiến đấu, ra sức thi đua học tập quân sự và chính trị, làm cho quân đội ta ngày càng mạnh mẽ”.


31 tháng 12.

Hoàn thành việc tiếp quản sân bay Gia Lâm (Hà Nội).


Chuyến bay đầu tiên do cán bộ, chiến sĩ hàng không Việt Nam chỉ huy từ sân bay Tân Sơn Nhất (Sài Gòn) hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm an toàn (2-1-1955). Đơn vị sân bay Gia Lâm được thành lập, do đồng chí Trần Quý Hai, nguyên đại đoàn trưởng đại đoàn 325 phụ trách. Đồng chí Nguyễn Văn Giáo, nguyên trung đoàn trưởng thuộc đại đoàn 325 được cử làm giám đốc sân bay.


Những tháng cuối năm 1954.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, toàn quân tham gia vận động quần chúng, ổn định vùng mới giải phóng, giúp dân sản xuất, chống đói, chống âm mưu địch dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào di cư vào miền Nam. Một số đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương ở Liên khu Tây Bắc, Việt Bắc cùng nhân dân tiễu trừ thổ phỉ, bảo vệ an ninh chính trị ở vùng biên giới, góp phần thực hiên chính sách dân tộc của Đảng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:07:38 pm

NĂM 1955

1 tháng 1.

Đại đoàn 308 cùng một số đơn vị đại diện cho các chiến trường Tây Bắc, Đông Bắc, Trung du, Đồng bằng, Liên khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cam-pu-chia và đại diện các đại đoàn pháo binh, phòng không tổ chức duyệt binh tại Quảng trường Ba Đình mừng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp, chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về thủ đô Hà Nội.

Nói chuyện với các đơn vị quân đội tham gia cuộc duyệt binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “… Muốn cho bộ đội ta hùng mạnh và nhất định bộ đội ta phải hùng mạnh, chúng ta phải cố gắng học tập chính trị và kỹ thuật để tiến lên chính quy”.


13 tháng 1.

Tổng cục Cung cấp đổi tên thành Tổng cục Hậu cần
(chỉ thị số 221 của Bộ Tổng Tham mưu), các tổ chức cung cấp trong toàn quân thống nhất tên gọi là hậu cần.

Tổng cục Hậu cần có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu, chấn chỉnh tổ chức hậu cần các cấp.

- Bảo đảm cấp vật chất đầy đủ, kịp thời cho bộ đội, nghiên cứu và ban hành các tiêu chuẩn cung cấp mới.

- Bồi dưỡng, huấn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật hậu cần.

- Xây dựng hậu phương có kế hoạch, có trọng điểm vững chắc.

- Tăng cường công tác bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cao hiệu suất vận chuyển của các phương tiện vận tải.

Chủ nhiệm tổng cục: Trần Đăng Ninh.


Tháng 1.

Thành lập Sư đoàn bộ binh 330
, nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và Trung Nam Bộ vừa tập kết ra miền Bắc.


Tháng 2.

Tổng Quân ủy xác định kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng (1955-1959):


“Tích cực xây dựng quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước lên chính quy hóa và hiện đại hóa. Phải đi từ quân đội đơn thuần là bộ binh đến một quân đội có đủ các binh chủng, quân chủng... Xây dựng một lục quân cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại, có bộ binh, pháo binh và một số binh chủng bảo đảm, đồng thời đặt cơ sở đầu tiên cho các binh quân chủng như thiết giáp, không quân, hải quân, chuẩn bị điều kiện để sang kế hoạch sau sẽ thực hiện hiện đại hóa lên một trình độ cao hơn”.


3 tháng 3.

Thành lập Ban Nghiên cứu sân bay, phiên hiệu C47
(quyết định số 15/QĐA của Bộ trưởng Quốc phòng) thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Nhiệm vụ: chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có, tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày, đồng thời giúp Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu những nội dung về tổ chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.

Trưởng ban: Trần Quý Hai.
Chính ủy: Hoàng Thế Thiện.

Ngày 3 tháng 3 hàng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội không quân.


3-12 tháng 3.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ bảy
. Về nhiệm vụ quốc phòng, Trung ương Đảng quyết nghị: “Xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, củng cố quốc phòng trong hòa bình là một công tác chủ yếu để tăng cường lực lượng. Phương châm xây dựng quân đội là tiến dần từng bước đến chính quy và hiện đại. Việc xây dựng quân đội chính quy hóa và hiện đại hóa là một công cuộc lâu dài, to lớn, bao gồm các mặt công tác như quân sự và chính trị, cất nhắc, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, chấn chỉnh biên chế và tổ chức... Đặc biệt là tăng cường công tác chính trị và lãnh đạo của Đảng trong quân đội”.


26 tháng 4.

Thành lập Trường Huấn luyện bờ biển và xưởng 46
(quyết định số 1125/QF-TTL của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh). Nhiệm vụ: huấn luyện, đào tạo cán bộ, thủy binh cho các thủy đội và đài quan sát; cùng Bộ nghiên cứu kế hoạch huấn luyện và hoạt động của hải quân. Xưởng 46 có nhiệm vụ đóng ca nô sửa chữa tàu thuyền hoạt động trên biển và sông.


29 tháng 4.

Thành lập Cục Quân nhu thuộc Tổng cục Hậu cần
. Nhiệm vụ: quản lý, bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng cho toàn quân. Biên chế: phòng kế hoạch, trang dụng cấp dưỡng, tài vụ và các ban bí thư, chính trị, quản lý kho. Cơ sở của cục gồm ba kho ở Thái Nguyên, Thanh Hóa và Gia Lâm (Hà Nội).

Cục trưởng: Lương Nhân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:08:28 pm

7 tháng 5.

Thành lập Cục Phòng thủ bờ biển
thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, (nghị định số 284/NĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh).

Nhiệm vụ: giúp Tổng Tư lệnh chỉ huy bộ đội phòng thủ bờ biển, đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ và xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển giao cho các liên khu.

Cục trưởng: Nguyễn Bá Phát.


13 tháng 5.

Đại đoàn 320, trung đoàn 53 và trung đoàn 42 “Trung Dũng” cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến vào tiếp quản “khu vực 300 ngày” gồm thành phố Hải Phòng và một số địa bàn của Kiến An.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về ngày Hải Phòng được giải phóng: “Cán bộ và chiến sĩ ta hiên ngang tiến vào tiếp quản... Hôm nay, Hải Phòng đã vươn mình dậy, giải phóng. Khắp phố phường cờ đỏ sao vàng tung bay rực rỡ như hoa nở mùa xuân. Hàng vạn đồng bào, già trẻ, gái trai, đủ các tầng lớp, tỏa ra hoan nghênh bộ đội...”.

Ngày 16 tháng 5, những tên lính cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi đảo Cát Bà. Từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.


17 tháng 5.

Tổng Quân ủy ra chỉ thị về công tác cán bộ:
“Nắm vững tiêu chuẩn đức tài, hết sức mạnh dạn đề bạt cán bộ công nông, đồng thời cất nhắc thích đáng cán bộ các thành phần khác đã được thử thách, biểu hiện tiến bộ, trung thành với cách mạng”.


18 tháng 5.

Thành lập Trường Văn hóa thuộc Bộ Tổng tư lệnh, phiên hiệu tiểu đoàn 126 (quyết định số 301/QĐ-QP).


Tháng 5.

Thành lập Trường Bổ túc chính trị trung cao cấp
do đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng làm hiệu trưởng và Trường Bổ túc quân sự trung cao cấp do đồng chí Hoàng Minh Thảo làm hiệu trưởng, trên cơ sở Trường Quân chính trung cấp trong kháng chiến chống Pháp.

Nhiệm vụ: mở các lớp bổ túc về chính trị và quân sự cho cán bộ trung cao cấp quân đội nắm vững về lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối cách mạng và đường lối quân sự của Đảng, những vấn đề chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong chiến tranh hiện đại, công tác chỉ huy, công tác đảng - công tác chính trị và công tác hậu cần - kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


25 tháng 6.

Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra nghị định (số 315/NĐA) về “Tiêu chuẩn cung cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam"
, quy định tiền ăn, phụ cấp hàng tháng (tính theo giá trị gạo) cho cán bộ, chiến sĩ theo hai loại. Loại A (bộ đội pháo binh, công binh, ra-đa, bộ đội biên phòng, hải đảo...) ăn 0,8 ki-lô-gam gạo một người một ngày. Loại B chủ yếu là bộ binh ăn mức 0,78 ki-lô-gam gạo một người một ngày.


Tháng 6.

Thành lập bốn sư đoàn bộ binh:


- Sư đoàn 328 và sư đoàn 332, nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và bộ đội địa phương Liên khu 3.

- Sư đoàn 324, nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội chủ lực ở chiến trường Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên vừa tập kết ra miền Bắc (các trung đoàn bộ binh 803, 90, 93, trung đoàn pháo binh 14 và các tiểu đoàn binh chủng).

Tư lệnh kiêm chính ủy: Nguyễn Đôn.

Ngày 1 tháng 7 sư đoàn làm lễ thành lập tại Tĩnh Gia (Thanh Hóa).

- Sư đoàn 335, nòng cốt là các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Lào và Cam-pu-chia trở về nước.

Các đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325 thống nhất tên gọi là sư đoàn bộ binh.


Giữa năm 1955.

Thành lập bộ đội Phòng thủ bờ biển, bộ đội Biên phòng, bộ đội Bảo vệ yếu địa


- Bộ đội Phòng thủ bờ biển gồm: hai trung đoàn 267, 279 và tiểu đoàn 500 (Liên khu 3), hai trung đoàn 244, 713 (khu Tả Ngạn), trung đoàn 248 (khu Đông Bắc).

- Bộ đội Biên phòng gồm trung đoàn Tây Bắc có bốn tiểu đoàn (953, 955, 957, 959) hoạt động ở Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ; bốn tiểu đoàn (923, 925, 927, 929) hoạt động ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; 28 đồn, trạm làm nhiệm vụ kiểm soát, bảo vệ các cửa khẩu dọc biên giới và một số tiểu đoàn địa phương các tỉnh có chung biên giới với Trung Quốc.

- Bộ đội Bảo vệ yếu địa gồm 10 tiểu đoàn, 7 đại đội, 15 trung đội bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:10:51 pm

10 tháng 8.

Thành lập Cục Doanh trại thuộc Tổng cục Hậu cần
. Nhiệm vụ: bảo đảm công tác doanh trại cho toàn quân.

Cục trưởng: Nguyễn Trọng Ba.


31 Tháng 8.

Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ tuyên dương danh hiệu Anh hùng quân đội lần thứ hai
(lần thứ nhất năm 1952). Đại hội tuyên dương 26 cán bộ, chiến sĩ (có 8 liệt sĩ) là Anh hùng quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự.

Bác chỉ thị: “Các đồng chí càng phải giữ vững lá cờ thi đua..., phải đẩy mạnh thi đua cho rộng khắp... Ngành nào cũng thi đua tiến mạnh hơn nữa, học tập và đào tạo được nhiều Anh hùng, chiến sĩ thi đua hơn nữa”.


25 tháng 9.

Một cơn bão lớn đổ bộ vào Hải Phòng, Kiến An. Sư đoàn 350 cùng lực lượng vũ trang địa phương tham gia cứu đê chống lụt. Tại Hải Phòng hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ lặn lội giữa dòng nước xoáy, trong mưa to, gió mạnh, tìm cứu người và tài sản của nhân dân. Đồng chí Phạm Minh Đức (Sư đoàn 350) anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, được Quốc hội và Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng quân đội (1956).


Tháng 9.

Thành lập Tổng cục Quân huấn
(Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Chủ nhiệm) và Tổng cục Cán bộ (đồng chí Nguyễn Chánh làm Chủ nhiệm. Nhiệm vụ: giúp Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng quân đội trong thời bình.


3 tháng 10.

Thành lập Cục Tài vụ
(quyết định số 170/QĐA của Bộ Quốc phòng) thuộc Tổng cục Hậu cần. Nhiệm vụ: chịu trách nhiệm về ngân sách tài chính toàn quân.

Phụ trách: Hoàng Anh.


3 tháng 11.

Thành lập Cục Công binh
(quyết định số 170/QĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) gồm ba phòng (tham mưu, chính trị, khí tài). Nhiệm vụ: lãnh đạo, xây dựng các đơn vị công binh dự bị của Bộ; chỉ đạo xây dựng lực lượng công binh chiến đấu trong toàn quân, nghiên cứu và đề nghị Bộ kế hoạch xây dựng binh chủng lâu dài và từng năm, làm kế hoạch bảo đảm công trình các chiến dịch do Bộ chỉ huy.

Cục trưởng: Trần Đình Xu.
Chính ủy: Trần Thế Môn.


25 tháng 11.

Sư đoàn bộ bình 320 và trung đoàn 53 thuộc Sư đoàn 350 được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất vì đã lập thành tích xuất sắc trong chống bão lụt, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân (sắc lệnh số 248/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký).


26 tháng 12.

Thành lập Trường Công binh
(một phân hiệu thuộc Trường sĩ quan Lục quân, nay là Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Công binh),

Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ sơ cấp công binh cho toàn quân theo chương trình cơ bản, hệ thống (ba năm). Ngày 26 tháng 12 trở thành ngày truyền thống của Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Công binh.


Năm 1955.

Các đơn vị bộ đội tập trung ở miền Nam và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cam-pu-chia hoàn thành nhiệm vụ chuyển quân tập kết ra Bắc. Một số cán bộ, bộ đội được Đảng phân công ở lại các căn cứ Tây Nguyên, Liên khu 5, Nam Bộ tổ chức thành từng tổ, đội vũ trang. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.

Trên miền Bắc, nhiều đơn vị được Đảng, Chính phủ giao nhiệm vụ tiễu trừ thổ phỉ ở vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, làm công tác vận động quần chúng chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào miền Nam, giúp nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, chống hạn, chống lụt, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:12:05 pm

Năm 1956

Tháng 4.

Tại Hà Nội, Trường sĩ quan Lục quân Việt Nam (Hiệu trường: Lê Trọng Tấn, Chính ủy: Lê Quang Hòa) khai giảng khóa 10 (gồm 4.000 học viên tuyển chọn trong toàn quân), đào tạo sĩ quan theo chương trình cơ bản, dài hạn (ba năm).

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Quốc phòng dự lễ khai giảng.

Bế giảng khóa học (5-4-1958), trường vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Bác căn dặn học viên trước khi trở về đơn vị: “... Mạnh dạn áp dụng những điều đã học được, nhưng phải áp dụng một cách thiết thực, thích hợp với hoàn cảnh của ta, chớ giáo điều, chớ máy móc …”.


7 tháng 5.

Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ tuyên dương danh hiệu Anh hùng quân đội lần thứ ba
cho 43 cán bộ, chiến sĩ (có 11 liệt sĩ). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với các đại biểu: "... Trong sự nghiệp đấu tranh xây dựng hòa bình, cán bộ chiến sĩ phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hóa, phải thi đua làm tròn nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bảo vệ bờ biển, bảo vệ thành thị và giữ gìn trật tự an ninh cho nhân dân... Phải ra sức tham gia và giúp đỡ nhân dân thực hiện kế hoạch nhà nước ...”


28 tháng 5.

Thành lập Bộ Tư lệnh Pháo binh
(chỉ thị số 880/G6 của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) trên cơ sở Bộ Chỉ huy Pháo binh.

Nhiệm vụ: Giúp Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy, huấn luyện và xây dựng các đơn vị pháo mặt đất và pháo cao xạ dã chiến trực thuộc Bộ và chỉ đạo các quân khu, sư đoàn bộ binh trực thuộc về mặt huấn luyện và sử dụng pháo binh trong biên chế (gồm cả pháo bờ biển).

Tư lệnh: Lê Thiết Hùng.
Chính ủy: Phạm Ngọc Mậu.

 
Tháng 6.

Thành lập Trường Lý luận chính trị (trên cơ sở Trường chính trị trung cấp quân đội trong chống Pháp) thuộc Tổng cục Chính trị (quyết định số 37/QĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh). Nhiệm vụ: bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác—Lê-nin, đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng cho cán bộ trung, cao cấp trong quân đội.

Giám đốc: Nguyễn Chí Thanh.
Phó giám đốc: Nguyễn Xuân Hoàng.

Ngày 15 tháng 6, trường tổ chức lễ khai giảng cho 95 học viên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Quốc phòng tới dự.


8-9 tháng 6.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết (số 64-N) về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam:

“Củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có, xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.


Giữa năm 1956.

Toàn quân học tập và thực hiện Điều lệnh nội vụ (quy định chức trách của quân nhân, quan hệ chỉ huy, các chế độ, quy tắc nội vụ), Điều lệnh đội ngũ, Điều lệnh kỷ luật, Điều lệnh cảnh vệ (quy định công tác quản lý bộ đội, kỷ luật, tác phong quân nhân, hướng dẫn quân nhân thực hiện chức trách trong sinh hoạt, huấn luyện và chiến đấu).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:12:50 pm

18 tháng 8.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Xứ ủy Nam Bộ:
“... Cần tổ chức ra những đội tự vệ ở các thôn, xã, nhà máy, đường phố, trường học. Nhiệm vụ của những đội tự vệ này là giữ gìn trật tự và bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng; thông tin, báo hiệu, canh gác các cuộc hội nghị của cán bộ và giải thoát cán bộ khi cần thiết ... Các đội viên phải là thanh niên lao động hoặc đảng viên, tổ chức thành từng tổ và đội, có đội trưởng, đội phó”.


20 tháng 8.

Thành lập Ban Thanh tra quân đội
(quyết định số 1012 của Phủ Thủ tướng) thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh.


Ngày 23 tháng 8.

Thành lập Cục Nông binh
sau đổi thành Cục Nông trường (nghị định số 030/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Tổng cục Hậu cần.

Nhiệm vụ: quản lý, tổ chức lực lượng xây dựng các nông trường quân đội.

Cục trưởng: Lê Nam Thắng.
Cục phó: Võ Bẩm.
Chính ủy: Kim Ngọc.


11 tháng 12.

Thành lập Sư đoàn bộ binh 338 (nghị định số 70-NĐ) nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực ở chiến trường Tây Nam Bộ vừa tập kết ra miền Bắc (bốn trung đoàn bộ binh 656, 658, 660, 664, một tiểu đoàn pháo binh).

Sư đoàn trưởng: Nguyễn Văn Quạn.
Chính ủy: Tô Ký.


22 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho quân đội, nhân kỷ niệm 12 năm ngày thành lập:
“Quân đội ta cần phát huy truyền thống cách mạng anh dũng và vẻ vang, nâng cao chí khí phấn đấu, giữ vững kỷ luật, đoàn kết trên dưới, đoàn kết quân dân, ra sức làm tròn mọi nhiệm vụ do Đảng và Chính phủ giao phó cho.

Các quân nhân phục viên, các thương binh cần ra sức khắc phục khó khăn, phát huy tính tích cực của mình trong sản xuất và mọi công tác khác".


Tháng 12.

Xứ ủy Nam Bộ ra nghị quyết về tổ chức và phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang tự vệ.


“Về tổ chức, thành lập từng tiểu đội, trung đội. Ăn ở đi lại, hoạt động thì phân tán từng tổ, từng tiểu đội, nhưng phải thành lập trung đội có ban chỉ huy để quản lý đơn vị, tiến hành công tác chính trị và rèn luyện bộ đội. Trang bị phải gọn nhẹ. Nội dung huấn luyện gồm công tác tuyên truyền, giáo dục, phát động quần chúng, vận động binh lính địch, nâng cao hiểu biết về Đảng và một số kỹ thuật quân sự”.


Những tháng cuối năm 1956.

Gần một vạn cán bộ, chiến sĩ thuộc các đơn vị đóng quân trên miền Bắc về nông thôn làm đội quân công tác, cùng cán bộ địa phương và bà con nông dân sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức, góp phần ổn định tình hình, giúp nhân dân đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.


Cuối năm 1956.

Toàn quân căn bản hoàn thành chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị
. Từ chỗ đơn thuần là bộ binh, hoạt động phân tán trên các chiến trường, quân đội ta đã tập trung xây dựng thành 14 sư đoàn (308, 312, 316, 320, 325, 350, 305, 330, 328, 332, 324, 335, 338), năm trung đoàn bộ binh độc lập, bốn sư đoàn pháo binh, và các trung đoàn, tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải với biên chế và trang bị tương đối thống nhất, đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ huy và sẵn sàng chiến đấu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:15:12 pm

Năm 1957

30 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 15) chuyển các sư đoàn 324, 325 trực thuộc Quân khu 4; sư đoàn 320 trực thuộc Quân khu Tả Ngạn, sư đoàn 332 và trung đoàn 248 trực thuộc Quân khu Đông Bắc, sư đoàn 304 trực thuộc Quân khu Hữu Ngạn, sư đoàn 335 trực thuộc Quân khu Tây Bắc.


12 tháng 2.

Thành lập Trường cán bộ Hậu cần
(trên cơ sở Trường huấn luyện Cung cấp trong kháng chiến chống Pháp) thuộc Tổng cục Hậu cần (nghị định số 27/NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh)1. Nhiệm vụ: “Đào tạo cán bộ sơ cấp hậu cần thuộc các ngành quản lý xe, quân khí, quân nhu, tài vụ, xăng dầu và bổ túc nghiệp vụ cho các chủ nhiệm hậu cần và các chuyên ngành thuộc cấp trung đoàn, sư đoàn và quân khu”.

Hiệu trưởng kiêm Chính ủy: Nguyễn Thanh Bình.


18 tháng 2.

Thành lập Trường sĩ quan Pháo binh
(nghị định số 32-NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) trên cơ sở phân khoa pháo binh thuộc Trường sĩ quan Lục quân. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp và trung cấp pháo binh (gồm pháo mặt đất và cao xạ; cán bộ quân sự và chính trị).

Hiệu trưởng: Thiếu tướng Lê Thiết Hùng.


Tháng 3.

- Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.


Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ của quân đội là: “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và tay sai”.

Phương châm xây dựng quân đội:"Tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại hóa".

- Trung ương Đảng phê chuẩn kế hoạch xây dựng quân đội 5 năm (1955-1959) gồm:

1. Tổ chức biên chế.
2. Cải tiến trang bị vũ khí.
3. Huấn luyện chính quy về quân sự, chính trị, văn hóa và thể lực.
4. Huấn luyện cán bộ.
5. Thực hiện các điều lệnh.
6. Kiện toàn cơ quan tham mưu các cấp.
7. Xây dựng và nâng cao cơ sở vật chất.
8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị.


Tháng 5.

Toàn quân học tập Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.

Lớp học đầu tiên gồm cán bộ cao cấp toàn quân và cán bộ trung cấp thuộc cơ quan Bộ tổ chức tại Hà Nội, do Tổng Quân ủy trực tiếp chỉ đạo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tổng Quân ủy, Bộ trưởng Quốc phòng phổ biến nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 12 và nhiệm vụ, phương hướng xây dựng quân đội giai đoạn mới. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Tổng Quân ủy, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giới thiệu tài liệu: “Nâng cao tư tưởng xã hội chủ nghĩa, khắc phục chủ nghĩa cá nhân".

Cuối khóa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với cán bộ: “… Phải đề cao trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng quân đội, trước mắt là hoàn thành tốt chỉnh huấn cán bộ sơ cấp và chiến sĩ, đồng thời cố gắng giúp Đảng, Chính phủ và quân đội giải quyết khó khăn, phát huy thuận lợi …”.


Cuối tháng 5.

Trung đoàn 88 Sư đoàn 308 được tăng cường một số phân đội binh chủng diễn tập trung đoàn tiến công quân địch phòng ngự có chuẩn bị. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra thao trường theo dõi bộ đội diễn tập. Bác chỉ thị: Tác chiến của bộ đội chủ lực phải phối hợp chặt chẽ với chiến tranh du kích của toàn dân; cần rút kinh nghiệm và phát huy truyền thống tốt đẹp của sư đoàn trong kháng chiến chống Pháp vào nhiệm vụ huấn luyện và xây dựng đơn vị hiện nay.


3 tháng 6.

Thành lập 6 quân khu
(sắc lệnh số 017/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký): Quân khu Việt Bắc, Quân khu Đông Bắc, Quân khu Tây Bắc, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tả Ngạn và Quân khu 4. Nhiệm vụ: chỉ đạo mọi công việc chuẩn bị tác chiến (gồm cả xây dựng công sự quốc phòng), huấn luyện bộ đội, duy trì trật tự an ninh ở địa phương thời bình; chỉ đạo chỉ huy các lực lượng vũ trang quân khu tác chiến thời chiến.


Tháng 7.

Các sư đoàn bộ binh 308, 350 cùng một số đơn vị công binh, pháo binh và lực lượng vũ trang địa phương tham gia cứu đê, chống lụt ở miền Bắc. Tại đê Mai Lâm (ngoại thành Hà Nội) hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ lấy thân mình ngăn dòng nước lũ.


9-12 tháng 10.

Hội nghị chính ủy toàn quân quán triệt Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 12, đề ra nhiệm vụ tập trung hoàn thành tốt chương trình huấn luyện quân sự, chấp hành các điều lệnh: thực hiện chế độ chính quy, xây dựng quân đội từng bước tiến lên hiện đại; tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp và công tác khen thưởng tổng kết trong toàn quân.


17 tháng 10.

Thành lập trung đoàn thông tin 303
(Nghị định số 319-NĐA của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Cục Thông tin liên lạc. Biên chế: tiểu đoàn 132 dây trần, tiểu đoàn 333 hữu tuyến điện, đại đội 7 vô tuyến điện, đội thông tin vận động và cơ quan trung đoàn.

Ngày 23 tháng 10 năm 1958, đổi phiên hiệu là trung đoàn 205 gồm ba tiểu đoàn (tiểu đoàn 1 vô tuyến điện, tiểu đoàn 2 hữu tuyến điện, tiểu đoàn 132 xây dựng đường dây trần) và cơ quan.

Trung đoàn trưởng: trung tá Hồ Xuân Anh.
Chính ủy: thiếu tá Lê Tự Lập.


Tháng 10.

- Thành lập sáu đại đội 50, 60, 70, 80, 200, 300 (Đông Nam Bộ) và ba đại đội (Tây Nam Bộ). Một số tỉnh thành lập đơn vị vũ trang tập trung như đại đội 250 Biên Hòa, đại đội 40 tỉnh Bà Rịa, đại đội Thủ Dầu Một. Các tỉnh Cà Mau, Rạch Giá, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An, An Giang xây dựng một số đội mang danh nghĩa lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo: “tiểu đoàn Ngô Văn Sở”, “tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng”, “tiểu đoàn U Minh”, “tiểu đoàn 502”, “tiểu đoàn 504”, “tiểu đoàn 506”, “tiểu đoàn 512”.

Tại vùng rừng núi các tỉnh Khu 5 và Tây Nguyên xuất hiện các nhóm vũ trang tự vệ như Vạt Quýt, Phó Nía ở Sơn Hà; Cả Trươm, Lang ở Trà Bồng; Hoi ở Ba Tơ và một số tổ, đội vũ trang tuyên truyền.

- Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Trường Quân y sĩ (thành lập năm 1949) thành Trường sĩ quan Quân y thuộc Tổng cục Hậu cần. Nhiệm vụ: đào tạo y sĩ cao cấp, phối hợp với Bộ Y tế đạo tạo dược sĩ cao cấp, chuẩn bị đào tạo cán bộ quân y bậc đại học

Hiệu trưởng: giáo sư Đỗ Xuân Hợp


Những tháng cuối năm 1957.

Các đơn vị vũ trang miền Đông Nam Bộ tập kích đồn Minh Thạnh (10-8-1957), thu một số lương thực, thực phẩm; tập kích địch ở Trại Be (18-9-1957), thu vũ khí và quân trang, giải tỏa thế uy hiếp của địch đối với chiến khu Đ từ phía Đông-Bắc; phục kích ở Lò Than (12-1957), diệt gần một đại đội địch.
________________________________________________
1. Tháng 8 năm 1958, đổi tên thành Trường sĩ quan Hậu cần.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:16:48 pm

1958

Đầu năm.

Bộ Quốc phòng tổ chức thực hiện thí điểm gọi thanh niên nhập ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự ở hai tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Tiếp đó mở rộng ra các tỉnh Hải Dương, Nghệ An, Hà Nam và huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La).


Trung tuần tháng 3.

Tổng Quân ủy quyết định điều chỉnh kế hoạch dài hạn xây dựng quân đội
, tăng thời gian đến năm 1960 cho phù hợp với kế hoạch Nhà nước (1958-1960). Những nội dung lớn của kế hoạch điều chỉnh là:

1. Giảm tổng quân số, cải tiến trang bị, vũ khí, xây dựng các đơn vị binh chủng chính quy, tương đối hiện đại; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế.

2. Xúc tiến đào tạo cán bộ, xây dựng các trường quân sự.

3. Đẩy mạnh công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học quân sự.


20 tháng 3.

Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân nghiên cứu những vấn đề điều chỉnh trong kế hoạch xây dựng quân đội (1958-1960)
. Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho quân đội:

“Một là, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ đó bao gồm việc xây dựng quân đội thường trực và xây dựng lực lượng hậu bị.

Hai là, tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây dựng và củng cố hậu phương”.


21 tháng 3.

- Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức, biên chế, trang bị của các đơn vị trong lục quân
(bộ binh, phòng không, pháo binh, công binh, thông tin, thiết giáp, vận tải, phòng hóa học) và những đơn vị đầu tiên của không quân, hải quân.

- Trường lý luận chính trị thuộc Tổng cục Chính trị đổi tên thành Trường chính trị trung cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (quyết định số 055/QĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ trung cao cấp quân đội.

- Bộ Quốc phòng ra nghị định (số 047/NĐ) thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không (trên cơ sở tách sư đoàn pháo cao xạ 367 khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh). Nhiệm vụ: bảo vệ yếu địa.

Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không: sáu trung đoàn pháo cao xạ 210, 220, 230, 240, 250, 280, tiểu đoàn thông tin 56 và trường huấn luyện.

Tư lệnh: Hoàng Kiện.
Chính ủy: Đoàn Phụng.


Tháng 3.

Các sư đoàn bộ binh 316, 350, 335, 305, 338 chuyển thành lữ đoàn. Số quân ngoài biên chế được tổ chức thành các trung đoàn, tiểu đoàn tham gia xây dựng các khu công nghiệp (Việt Trì, Thái Nguyên), xây dựng 35 nông trường (ở Điện Biên, Mộc Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây, Hòa Bình, Phát Diệm, miền Tây các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) và xây dựng các tuyến đường giao thông chiến lược ở Tây Bắc.   


19 tháng 4.

- Thành lập Phòng Hóa học
(nghị định số 098 của Bộ Quốc phòng) trực thuộc Cục Huấn luyện chiến đấu (Tổng cục Quân huấn). Nhiệm vụ: giúp Tổng cục Quân huấn chỉ đạo phòng chống chiến tranh hóa học, nguyên tử và xây dựng một số cơ quan, đơn vị hóa học.

Trưởng phòng: Đặng Quân Thụy.

- Bộ Tổng Tham mưu quyết định (số 214 - BMG) thành lập tiểu đoàn 6 phòng hóa đầu tiên của quân đội ta (sau đổi thành tiểu đoàn 901) và hai đại đội phòng hóa thuộc hai sư đoàn bộ binh 308, 320.

Ngày 19 tháng 4 trở thành ngày truyền thống của Bộ đội Hóa học.


Tháng 5.

Liên khu ủy Khu 5 ra nghị quyết về xây dựng căn cứ địa cách mạng và bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang:
“Củng cố lực lượng vũ trang và nửa vũ trang hiện có... Đồng thời, xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.


Tháng 6.

Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ
(sau đổi là Ban Quân sự Miền). Lực lượng trực thuộc: ba đại đội bộ binh (250, 9,59) và đại đội đặc công 60.

Trưởng ban: Nguyễn Hữu Xuyến.


7 tháng 7.

Hội nghị nhân dân huyện Trà Bồng (gồm 200 cán bộ và đại biểu các dân tộc bốn huyện miền tây Quảng Ngãi) ra lời kêu gọi: “Mọi người không phân biệt dân tộc, già, trẻ, gái, trai phải tham gia lực lượng vũ trang, luyện tập quân sự, làm vũ khí..., sẵn sàng nổi dậy, giành chính quyền”.


7-8 tháng 7.

Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ hai
. 456 chiến sĩ thi đua và đại biểu của 76 đơn vị trong cả nước dự đại hội. Nói chuyện với Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Các anh hùng và Chiến sĩ thi đua cần phải luôn luôn dắt dìu, giúp đỡ những người xung quanh mình cùng tiến bộ. Mọi người đều phải cố gắng... Như vậy, đời sống của nhân dân ta chắc chắn sẻ cải thiện hơn nữa. Như vậy, chúng ta sẽ vững bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội...”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:18:01 pm

3 tháng 8.

Thành lập Trường Hàng không
(còn gọi là Câu lạc bộ Hàng không) tiền thân của Trường sĩ quan Chỉ huy - kỹ thuật không quân ngày nay.


15 tháng 8.

Thành lập đoàn 130
thuộc Cục Phòng thủ bờ biển, nòng cốt là học viên khóa 2 Trường Huấn luyện bờ biển. Đoàn 130 gồm ba phân đội 1, 2, 3. Mỗi phân đội có bốn tàu; mỗi tàu trang bị hai khẩu pháo 40 ly, hai khẩu 20 ly và một số bom, mìn đánh tàu ngầm, làm nhiệm vụ tuần tiễu vùng ven biển Đông Bắc đến Thanh Hóa.


22-27 tháng 8.

Hội nghị xây dựng lực lượng hậu bị trên miền Bắc
quyết định cùng với việc tuyển quân theo chế độ nghĩa vụ quân sự sẽ thực hiện đăng ký, quản lý cán bộ, chiến sĩ phục viên, chuyển ngành dưới 45 tuổi, thanh niên từ 18 đến 25 tuổi và nhân viên kỹ thuật trong các cơ quan nhà nước, có đủ sức khỏe và điều kiện vào diện dự bị, tổ chức huấn luyện quân sự từ 10 đến 15 ngày trong một năm cho lực lượng dự bị và học sinh các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao quốc phòng trong toàn dân.


Tháng 8.

- Trung đoàn 4 thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không được tổ chức thành trung đoan tình báo phòng không 260
gồm sáu đại đội, (phiên hiệu từ 1 đến 6) trang bị ra-đa P-8) và ba đại đội quan sát mắt (phiên hiệu từ 7 đến 9).

Trung đoàn trưởng: Lương Hữu Sắt.
Chính ủy: Lê Đình Truy.

Đây là trung đoàn tình báo phòng không (ra-đa) đầu tiên của quân đội ta.

- Đảng ủy Quân khu Việt Bắc quyết định chuyển Trường Quân chính Liên khu Việt Bắc thành Trường bổ túc quân chính Quân khu Việt Bắc. Nhiệm vụ: bổ túc cán bộ từ trung đội đến tiểu đoàn và bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ. Trong lễ khai giảng (24-12-1958), trường vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Bác căn dặn: “Là quân đội phải chiến đấu giỏi, làm công tác dân vận giỏi, tôn trọng tập quán của nhân dân các địa phương, đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau làm sao cho miền núi theo kịp miền xuôi và phải vươn lên cao hơn nữa. Đặc biệt, nhà trường phải chính quy mẫu mực về mọi mặt...”.


Đêm 10 rạng 11 tháng 10.

Hai đại đội bộ binh (80, 90) và đại đội đặc công 50 do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - Trưởng ban quân sự Miền chỉ huy, tiến công quận lỵ Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), diệt 200 tên địch, bắt 30 tên, thu hàng trăm súng các loại. Đây là một trong những trận đánh có tiếng vang lớn của lực lượng vũ trang ta ở miền Nam.


20 tháng 10.

Thành lập Trường Quân chính Quân khu 4. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ trung đội, đại đội.


25 tháng 10.

Đại đội đặc công 60 miền Đông Nam Bộ do đồng chí Năm Hoa chỉ huy tiến công trụ sở phái đoán MAAG của Mỹ ở Biên Hòa, làm thương vong 19 cố vấn Mỹ.

 
Tháng 10.

Các sư đoàn chủ lực thuộc Bộ cùng một số đơn vị bộ đội công binh, pháo binh và lực lượng vũ trang Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn tham gia xây dựng công trình thủy nông Bắc - Hưng - Hải. Sau một năm lao động, các đơn vị đóng góp hơn 20 vạn ngày công, đào 50 vạn mét khối đất, góp phần hoàn thành công trình thủy nông, bảo đảm tưới tiêu cho hàng vạn héc-ta ruộng đồng thuộc 18 huyện đồng bằng Bắc Bộ.


4 tháng 11.

Bộ Quốc phòng ra nghị định (số 262/NĐA) sáp nhập Cục Quân giới và Cục Quân khí thành Cục Quân giới thuộc Tổng cục Hậu cần
. Nhiệm vụ:

- Quản lý, cung cấp các loại binh khí, khí tài, đạn dược, phương tiện kỹ thuật toàn quân.

- Nghiên cứu, hướng dẫn toàn quân sử dụng các loại binh khí, kỹ thuật.

- Tổ chức tiếp nhận, cất giữ, bảo quản, sửa chữa các loại binh khí, khí tài và sản xuất một số vũ khí, đạn dược.

Cục trưởng: Nguyễn Văn Nam.


19 tháng 11.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 58/NQ-TW) về “Xây dựng lực lượng cảnh vệ nôi địa và biên cương" (sau đổi tên là lực lượng Công an nhân dân vũ trang). Nhiệm vụ: “Trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an ninh biên giới, bờ biển, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn các cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng...”.


Tháng 11.

- Tổng Quân ủy triệu tập hội nghị chính ủy và chủ nhiệm chính trị toàn quân phổ biến bàn dự thảo điều lệ công tác chính trị của quân đội
. Điều lệ quy định tính chất, nhiệm vụ và nội dung chủ yếu của công tác chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xác định nhiệm vụ, chức trách của các cơ quan chính trị, làm cơ sở cho mọi hoạt động công tác đảng - công tác chính trị trong toàn quân.

- Bộ Quốc phòng ra nghị định ban hành quy định chính thức về tiêu chuẩn cung cấp quân trang mới cho sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ trong quân đội.


Cuối tháng 11.

- Tổng Quân ủy phát động phong trào thi đua “Tiến nhanh hoàn thành vượt mức kế hoạch xây dựng quân đội” trong toàn quân.

- Tổng cục Chính trị hoàn thành tổng kết công tác đảng - công tác chính trị
của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.


15 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trường Quân chính Quân khu Tả Ngạn
tại Kiến An. Nhiệm vụ: bổ túc cán bộ trung đội, đại đội, tập huấn sĩ quan dự bị.

Hiệu trưởng: Nguyễn Hữu Sở.
Chính ủy: Nguyễn Duy Tường.


20 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 109/SL-LK) về chế độ phục vụ của sĩ quan:
chế độ quân hàm, quân hiệu; chế độ tiền lương và chế độ khen thưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam (căn cứ vào nghị quyết được Quốc hội thông qua, tháng 4 năm 1958).


22 tháng 12.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho quân đội nhân kỷ niệm 14 năm ngày thành lập.

- Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ trao quân hàm cho cán bộ cấp cao toàn quân
(gồm 22 cán bộ cấp Thiếu tướng đến Đại tướng, 37 đại tá, 75 thượng tá). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Dù ở cương vị nào, các đồng chí phải luôn luôn gương mẫu, luôn luôn xứng đáng là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.


Cuối năm 1958.

Hai sư đoàn bộ binh (324, 325) diễn tập sư đoàn chiến đấu phòng ngự ở Quân khu 4. Sư đoàn bộ binh 320 diễn tập đánh địch đổ bộ đường biển trên địa hình đồng bằng có ruộng nước ở hữu ngạn sông Hồng. Lữ đoàn bộ binh 335 diễn tập đánh địch đổ bộ đường không trên địa hình rừng núi Tây Bắc.

Trong năm 1958, toàn quân có 48 cuộc diễn tập cơ quan tham mưu hai cấp (sư đoàn, trung đoàn). Đây là bước trưởng thành mới về trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội ta.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:19:22 pm

NĂM 1959

12-21 tháng 1.

Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định đường lối cách mạng miền Nam, phương hướng xây dựng và chiến đấu của các lực lượng vũ trang ở miền Nam.


Trung ương Đảng nêu rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền... Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc ít hoặc nhiều tùy tình hình... Khi sử dụng lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền, cần phải thấu suốt nguyên tắc phục vụ cho đấu tranh chính trị và phục tùng lợi ích của đấu tranh chính trị... Phải hết sức che giấu và giữ gìn lực lượng... Nhưng do đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... Đảng ta phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó trong mọi tình thế”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận hội nghị: “Ta giương cao ngọn cờ hòa bình vì rất có lợi cho ta. Nhưng hòa bình không phải là ta không chuẩn bị lực lượng... Nếu ta tổ chức lực lượng chính trị cho tốt, thì khi cần vũ trang sẽ không khó”.

 
24 tháng 1.

- Thành lập Cục Không quân
thuộc Bộ Tổng Tham mưu (nghị định số 319/NĐ của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh). Nhiệm vụ: giúp Bộ Quốc phòng nghiên cứu chủ trương và kế hoạch tổ chức, xây dựng lực lượng không quân và các căn cứ không quân; tổ chức và chỉ huy các đơn vị mặt đất và đơn vị trên không; đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nhân viên kỹ thuật; bảo quản tu sửa các sân bay hiện có, xây dựng các sân bay mới, chỉ đạo hoạt động của Câu lạc bộ Hàng không, đào tạo lực lượng hậu bị của không quân.

Cục trưởng: đại tá Đặng Tính.
Chính ủy: thượng tá Hoàng Thế Thiện.

- Thành lập Cục Hải quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu (nghị định số 322/NĐA) của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh.

Nhiệm vụ: giúp Bộ nghiên cứu, thực hiện kế hoạch xây dựng, chỉ huy lực lượng hải quân, quản lý các quân cảng, bảo vệ hải phận miền Bắc trong thời bình, phối hợp với các binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu trong thời chiến.

Cục trưởng kiêm Chính ủy: đại tá Tạ Xuân Thu.
Cục phó: đại tá Nguyễn Bá Phát.


6 tháng 2.

Nhân dân ba làng Tà Lốc, Tà Léc, Hà Ri cùng tám làng khác thuộc hai xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo (Bình Định) nổi dậy, chống địch dồn dân, dời vào rừng sâu tổ chức chiến đấu, thành lập các đội tự vệ, trang bị bằng cung, nỏ, sẵn sàng đánh địch càn quét.


Tháng 2.

Tổng Quân ủy quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15, bàn việc xây dựng quân đội trong giai đoạn mới:


“Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta và quân đội ta sẽ phải tiến hành vẫn là chiến tranh nhân dân... Do đó, cần thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Xây dựng quân đội ta thành một quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại, có số lượng thích hợp và chất lượng chiến đấu cao, được trang bị và huấn luyện chu đáo. Kết hợp khoa học quân sự hiện đại, nguyên tắc tác chiến của một quân đội gồm nhiều binh chủng hợp thành với kinh nghiệm tác chiến trong cuộc chiến tranh vừa qua để định ra nội dung huấn luyện bộ đội cho thích hợp với yêu cầu tác chiến mới”.


Cuối tháng 2.

- Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết và một số trung đoàn bộ binh trên miền Bắc chuyển thành các đoàn huấn luyện, chuẩn bị đưa bộ đội vào chiến trường miền Nam.

- Một số sư đoàn, lữ đoàn bộ binh của Bộ và trực thuộc Quân khu 4, Quân khu Tây Bắc chuyển sang biên chế thời chiến, sẵn sàng cơ động chiến đấu.


1 tháng 3.

Các đài ra-đa thuộc trung đoàn 260 bố trí ở Điện Biên (Lai Châu), Đồ Sơn (Hải Phòng), Trùng Quang (Nam Định), Quảng Xương (Thanh Hóa), Điền Lư (Nam Quân khu 4) chính thức phát sóng trên toàn mạng, cảnh giới bầu trời Tổ quốc. Ngày 1 tháng 3 trờ thành ngày truyền thống của Bộ đội Ra-đa.


3 tháng 3.

- Thành lập đơn vị 339
gồm 43 cán bộ, chiến sĩ tại xã Trà Thọ, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Toàn đội làm lễ tuyên thệ dưới cờ Tổ quốc: “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để đánh đổ Mỹ - Diệm, giành chính quyền về tay nhân dân”.

Chỉ huy trưởng: đồng chí Trung (dân tộc Cor).
Chính trị viên: Lữ Quốc Trị (dân tộc Kinh).

- Thành lập Công an nhân dân vũ trang (nghị định số 100/TTg của Thủ tướng Chính phủ): “Nay thống nhất các đơn vị bộ đội đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang, thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang”. Trực thuộc Bộ Tư lệnh có hai trung đoàn 600 và 254, tiểu đoàn cơ động 12, thủy đội 18, bốn cục (Tham mưu, Trinh sát, Chính trị, Hậu cần), các trường (văn hóa, lái xe, hạ sĩ quan, huấn luyện ngựa, huấn luyện chó nghiệp vụ) và một số đơn vị chuyên môn kỹ thuật.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ.

Ngày 3 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng).


21 tháng 3.

Thành lập trung đoàn ra-đa trinh sát thứ hai
phiên hiệu 290 thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không. Biên chế bốn đại đội, đến tháng 7 có bảy đại đội ra-đa và một đại đội chỉ huy, hoạt động tại địa bàn Quân khu 4.

Trung đoàn trưởng: Lương Hữu Sắt (nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 260).
Chính ủy: Phạm Đăng Ty.


Tháng 3.

- Sư đoàn bộ binh 324 và lữ đoàn 305
diễn tập hành quân cơ động xe pháo trên địa hình rừng núi, đồng bằng, phối hợp bộ binh với đặc công, bộ binh với pháo binh tiêu diệt các cứ điểm kiên cố của “địch”. Một số phân đội thuộc lữ đoàn 305 huấn luyện bộ đội nhảy dù.

- Sư đoàn bộ binh 330 huấn luyện chiến đấu trên địa hình đồng bằng có nhiều làng mạc, sông ngòi, đồng nước và diễn tập tiến công quân địch đang vận động hoặc lâm thời chuyển sang phòng ngự.

- Lữ đoàn bộ binh 335 nghiên cứu huấn luyện chiến đấu tiến công và phòng ngự trên địa hình rừng núi.

Các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn cơ động của Bộ đẩy mạnh nghiên cứu, huấn luyện, sẵn sàng nhận nhiệm vụ vào Nam chiến đấu khi có lệnh.


Cuối tháng 3.

- Đại hội thi bắn pháo toàn quân lần thứ nhất
. 11 đại đội thuộc các đơn vị pháo binh dự bị, pháo binh quân khu và sư đoàn tham dự. Kết quả: đại đội 9 (lữ đoàn 364) giành giải nhất về bắn loại pháo bắn ngắm gián tiếp, khẩu đội 1 (đại đội 1, trung đoàn 82) pháo phòng tăng giải nhất về loại pháo bắn ngắm trực tiếp.

- Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị tổng kết công tác huấn luyện chiến đấu trong bốn năm.

Hội nghị đánh giá: các khóa huấn luyện bộ đội từ năm 1955 đến 1959 đã nâng cao năng lực chỉ huy và hiểu biết cơ bản của cán bộ, chiến sĩ về tác chiến hiện đại, tạo cơ sở để nghiên cứu, xây dựng chiến thuật của ta sau này.

Hội nghị đề ra phương hướng đến năm 1960: sơ bộ kết luận những vấn đề chủ yếu về chiến thuật của quân đội và giao cho các quân khu, sư đoàn, lữ đoàn nghiên cứu một số hình thức chiến thuật vận dụng vào việc xây dựng, huấn luyện bộ đội


30 tháng 3.

Thành lập Trường sĩ quan Công binh
(trên cơ sở phân khoa công binh của Trường sĩ quan Lục quân). Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội công binh (gồm các chuyên ngành công binh công trình, công binh cầu phà, xe máy công binh) cho các đơn vị công binh toàn quân. (Ngày 20 tháng 10 năm 1964 chuyển thành phân khoa công binh thuộc Trường sĩ quan Lục quân).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:21:39 pm

25 tháng 4.

Thành lập hai trung đoàn phòng không 210 và 280
, trang bị pháo cao xạ 90 ly (chuyển từ hai trung đoàn 224 và 218 Bộ Tư lệnh Pháo binh sang) thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không (quyết định số 410/QĐ của Bộ Quốc phòng). Trung đoàn 210 bảo vệ khu công nghiệp Thái Nguyên. Trung đoàn 280 bảo vệ thành phố Vinh và cảng Bến Thủy (Nghệ An).


1 tháng 5.

Thành lập trung đoàn không quân vận tải 919
(nghị định số 429/NĐ của Bộ Quốc phòng) thuộc Cục Không quân, biên chế hai đại đội. Đại đội bay (gồm ba trung đội IL.14, LI.2, AN.2) và đại đội máy. Đây là trung đoàn không quân vận tải đầu tiên của quân đội ta.

7 tháng 5.

Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị cho Xứ ủy Nam Bộ:
“Cần sử dụng một cách linh hoạt hoạt động vũ trang tuyên truyền để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị; trong những trường hợp cần thiết, để phục vụ cho phong trào đấu tranh chính trị, lực lượng vũ trang tuyên truyền có thể tiêu diệt từng bộ phận gian ác nhất của địch”.


18 tháng 5.

Thành lập đoàn 135
(sau đổi phiên hiệu là 140) - đơn vị tàu tuần tiễu thứ hai của hải quân ta. Biên chế: ba phân đội (5,6,7) trang bị 12 tàu tuần tiễu. Đoàn có nhiệm vụ tuần tiễu ven biển từ Nghệ An đến Cửa Tùng.


19 tháng 5.

Thành lập Đoàn 559
. Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng thành lập tổ chức hoạt động chi viện miền Nam, Lúc đầu lấy tên là “Đoàn công tác quân sự đặc biệt”. Nhiệm vụ: vận chuyển hàng quân sự, tổ chức đưa đón bộ đội cán bộ vào miền Nam và từ Nam ra Bắc. Thượng tá Võ Bẩm - Cục phó Cục Nông trường được cử làm đoàn trưởng kiêm chính ủy.

Ngày 1 tháng 6, tiểu đoàn vận tải bộ 301 được thành lập trực thuộc “Đoàn công tác quân sự đặc biệt”. Tiểu đoàn biên chế 440 cán bộ, chiến sĩ. Đại úy Chu Đăng Chữ tiểu đoàn trưởng; đại úy Nguyễn Danh (tức Chính) chính trị viên.

Tháng 7 năm 1959, Bộ Quốc phòng tổ chức tiểu đoàn vận tải biển 603 có nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho miền Nam.

Ngày 12 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 446/QĐ hợp thức việc thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” lấy tên là đoàn 559 (tên gọi thời điểm thành lập) và quy định lại nhiệm vụ của đoàn:

- Tổ chức mở đường giao thông quân sự vào miền Nam dọc theo dãy Trường Sơn.
- Vận chuyển hàng quân sự cho miền Nam
- Đưa đón cán bộ, bộ đội hành quân vào chiến trường...


Tháng 7.

Xứ ủy Nam bộ cử ba đội vũ trang tuyên truyền do các đồng chí Lâm Quốc Đăng, Phạm Thuận, Nguyễn Văn Tâm phụ trách, mở đường từ miền Đông Nam Bộ ra các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, nối liên lạc với đường giao liên dọc theo dãy Trường Sơn từ miền Bắc vào.


19 tháng 8.

- Tỉnh ủy Quảng Ngãi thành lập đơn vị vũ trang tập trung thứ hai mang phiên hiệu 89 gồm 36 cán bộ, chiến sĩ tại thôn Trà Ngôn, xã Sơn Lập, huyện Sơn Hà. Đội trưởng: đồng chí Hà (dân tộc Re). Chính trị viên: đồng chí Hồng.

- Ngày 2 tháng 9, thành lập đơn vị vũ trang thứ ba phiên hiệu 229 gồm 32 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Long (dân tộc Re) đội phó, đồng chí Tiến chính trị viên. Trong tháng 9, thành lập đơn vị thứ tư phiên hiệu V9 gồm 30 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Bân làm đội trưởng. Tháng 12, thành lập đơn vị V12 gồm 30 cán bộ, chiến sĩ, phần lớn đã được huấn luyện ở miền Bắc, đồng chí Kỳ làm đội trưởng.


26 tháng 8.

Đại đội 3 và một bộ phận đại đội 1 “tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng” phối hợp với đội vũ trang tuyên truyền xã Khánh An, tiến công đồn Vàm Cái Tàu, cách thị xã Cà Mau 10 ki-lô-mét, diệt trung đội dân vệ và hội đồng xã Khánh An, bắt 12 tên, thu 56 súng các loại. Tiếp đó, các đơn vị hỗ trợ nhân dân địa phương vây đồn Cả Giữa, diệt ác ôn, giải tán tề ngụy, đánh bại địch càn vào vùng Cây Bàng, diệt dinh điền đồi Đức Mẹ, làm chủ huyện Trần Văn Thời một thời gian.


28 tháng 8.

- Nhân dân các dân tộc huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) được đơn vị 339 của tỉnh hỗ trợ nổi dậy diệt ác, phá kìm ở 16 xã, bức rút 7 đồn, diệt 161 tên, trừng trị 61 tên tề ngụy ác ôn, lập chính quyền cách mạng ở một số thôn, xã vùng rừng núi, xóa bỏ tề ở 6 xã vùng thấp. Đến ngày 1 tháng 9 năm 1959, nhân dân làm chủ toàn huyện Trà Bồng (trừ quận lỵ).

- Nhân dân miền tây Quảng Ngãi cùng nổi dậy lật đổ ngụy quyền ở thôn, xã và bao vây uy hiếp đồn bốt địch. Chỉ trong một tuần, toàn bộ vùng cao huyện Sơn Hà và hơn 20 xã thuộc các huyện Ba Tơ, Minh Long do nhân dân làm chủ.

Thắng lợi của khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi mở đầu thời kỳ phong trào cách mạng ở Khu 5 chuyển sang thế tiến công, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng trên toàn miền Nam.


26 tháng 9.

Chiến thắng giồng Thị Đam - gò Quản Cung
. Tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong (gồm hơn 100 cán bộ, chiến sĩ) phục kích trung đoàn 42 ngụy ở giồng Thị Đam và gò Quản Cung (xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự), đánh thiệt hại một tiểu đoàn, bắt 105 tên (có ban chỉ huy), thu 48 tàu xuồng, 11 máy vô tuyến điện, 365 súng các loại và 30.000 viên đạn. Vũ khí thu được đã trang bị cho 23 đội vũ trang công tác ở các huyện Hồng Ngự, Cao Lãnh (Kiến Tường).

Chiến thắng giồng Thị Đam - gò Quản Cung có tiếng vang lớn ở Nam Bộ, cổ vũ nhân dân các địa phương “đồng khởi”.


12 tháng 9.

Thành lập Đoàn 959
thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 446/QĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: làm chuyên gia về quân sự cho Quân ủy Trung ương và Bộ chỉ huy tối cao Quân đội giải phóng nhân dân Lào, tổ chức chi viện vật chất từ Việt Nam sang Lào và trực tiếp chỉ huy các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam hoạt động trên chiến trường nước bạn.


30 tháng 9.

Thành lập trường Không quân Việt Nam
, phiên hiệu trung đoàn không quân 910 (nghị định số 429/NĐ của Bộ trưởng Quốc phòng). Nhiệm vụ: đào tạo phi công, nhân viên dẫn đường, thông tin và cơ giới trên không.


5 tháng 10.

Thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên
, phiên hiệu trung đoàn xe tăng 202 (nghị định số 449/NĐ của Bộ trưởng Quốc phòng) thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh.

Biên chế: ba tiểu đoàn xe tăng chiến đấu (1,2,3), một đại đội sửa chữa, một đại đội công binh, một đại đội huấn luyện, một đại đội vệ binh, một đại đội thông tin và bốn cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật).

Trung đoàn trưởng: thiếu tá Đào Huy Vũ.
Chính ủy: thiếu tá Đặng Quang Long.

Ngày 5 tháng 10 trở thành ngày truyền thống của Bộ đội Thiết giáp.


Cuối tháng 11.

Cục Công binh triển lãm sáng kiến, cải tiến kỹ thuật tại Hà Nội
. 184 sáng kiến, trong đó có 134 sáng kiến dự triển lãm được cấp giấy chứng nhận và bằng khen. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến xem triển lãm và ghi sổ lưu niệm: “Các chiến sĩ trong ngành Công binh ta đã cố gắng thi đua tìm tòi, nghiên cứu, phát huy sáng kiến mãi nhằm mục đích làm cho mọi công việc nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Thế là trực tiếp góp vào công việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm nền tảng vững mạnh đấu tranh thống nhất nước nhà”.


Đầu tháng 12.

Khu ủy Khu 8 (Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ) quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương, chỉ thị cho các địa phương chuẩn bị khởi nghĩa đồng loạt.


22 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho quân đội, nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập:
“Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, kỹ thuật và văn hóa, ra sức công tác và lao động, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội; phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết khiêm tốn, biết vì Đảng vì dân; phải nâng cao chí khí chiến đấu, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Hòa Bình”.

Khánh thành nhà Bảo tàng quân đội tại Hà Nội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:23:03 pm

NĂM 1960

Đầu tháng 1.

- Hội nghị cán bộ quân sự miền Đông Nam Bộ
bàn nhiệm vụ xây dựng và đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang trong năm 1960, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ ở vùng nông thôn, lấy vũ khí địch trang bị cho các đơn vị vũ trang ta. Phương án đánh Tua Hai được Xứ ủy Nam Bộ phê chuẩn.

- Thành lập Khu Sài Gòn - Gia Định gồm Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Lực lượng vũ trang tập trung có đơn vị C13, gồm ba tiểu đội hoạt động ở Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.

Bí thư Khu ủy: Võ Văn Kiệt.


19 tháng 1.

Đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên
(đại đội 264) ra đời trong phong trào Đồng khởi tại xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày (Bến Tre). Đơn vị gồm 50 cán bộ, chiến sĩ, trang bị 23 khẩu súng các loại, do đồng chí Lê Minh Đào (Ba Đào) chỉ huy.


Đêm 25 rạng 26 tháng 1.

Trận tập kích Tua Hai
, căn cứ trung đoàn 3 sư đoàn 21 ngụy, cách thị xã Tây Ninh 7 ki-lô-mét về phía bắc.

Lực lượng tham gia trận đánh có các đại đội bộ binh 59, 70, 80, đại đội đặc công 60 (chủ lực Miền) và ba tiểu đội vũ trang tỉnh Tây Ninh, do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, Trưởng ban quân sự Miền chỉ huy. Ta diệt và bắt 500 tên địch, thu 1.500 súng các loại.

Chiến thắng Tua Hai gây chấn động lớn trên toàn Miền, cổ vũ mạnh mẽ quần chúng đứng lên Đồng khởi.


Tháng 2.

Đại hội thi bắn pháo toàn quân lần thứ hai
. 22 đơn vị và 24 cán bộ đại diện cho các đơn vị pháo binh toàn quân dự thi.

Kết quả: - Về pháo mặt đất: đại đội 2 trung đoàn 68 pháo binh sư đoàn 304 giành giải nhất về bắn ngắm gián tiếp; khẩu đội 2 đại đội 4 trung đoàn 82 đoạt giải nhất về bắn ngắm trực tiếp.

-   Về pháo cao xạ: đại đội pháo cao xạ Quân khu 4 giành giải nhất.

-   Về thi bắn của cán bộ: đoàn tuyển thủ Trường sĩ quan Pháo binh giành giải nhất (cả ba giáo viên: Trịnh Ngọc Thủy, Vũ Quang Anh, Trần Lâm Bản đều đạt điểm tuyệt đối 40-40).


24 tháng 2.

Thành lập đại đội khung nhảy dù
(phiên hiệu C45) (quyết định số 133/QĐ của Cục trưởng Cục Không quân). Biên chế: hai trung đội và ban chỉ huy đại đội. Nhiệm vụ: tham gia bảo vệ an ninh vùng biên giới, chống thổ phỉ; huấn luyện kỹ thuật nhảy dù cho một số đơn vị bộ binh thuộc lữ đoàn dù 305 và huấn luyện lực lượng hậu bị cho đơn vị dù.


10-13 tháng 3.

- Cục Công binh diễn tập bắc cầu phao
qua sông Hồng bằng khí tài hỗn hợp ở Chèm (Hà Nội). Trung đoàn 239 sử dụng một số khí tài của trung đoàn 249 bắc xong chiếc cầu dài 639 mét trong hai giờ. Cuộc diễn tập bảo đảm vượt sông đánh dấu bước tiến mới của Bộ đội Công binh trong huấn luyện, bảo đảm cơ động cho tác chiến hiệp đồng binh chủng.

- Tiếp đó, tại Trung Hà (Sơn Tây), Cục Công binh tổ chức đại hội thao diễn kỹ thuật công binh (tháng 4 năm 1960). Các đơn vị công binh của Bộ, quân khu và các sư đoàn, lữ đoàn toàn quân về dự. Hơn 100 sáng kiến các loại được trình diễn. Đây là bước trưởng thành mới về trình độ chuyên môn kỹ thuật của Bộ đội Công binh Việt Nam.


28 tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh (số 11/SL) ban hành Luật Nghĩa vụ quân sự.



8 tháng 5.

Bầu cử Quốc hội khóa II. Trong số 362 đại biểu trúng cử, có 20 đại biểu quân đội.


Tháng 5.

Thành lập Ban Quân sự trực thuộc Khu ủy Khu 5
. Lực lượng vũ trang của khu có 12 đại đội đặc công và hai đại đội bộ binh. Riêng tỉnh Quảng Nam có một đại đội đặc công, một đội quân báo, sáu khung đại đội, Quảng Ngãi có ba đại đội. Các tỉnh khác đều có một đại đội.

Trưởng ban: Võ Chí Công.


18 tháng 6.

Từ kinh nghiệm của đại đội 2 sơn pháo (trung đoàn pháo binh 68 sư đoàn 304), Tổng cục Chính trị phát động phong trào thi đua “Ba nhất” (đạt thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu) trong toàn thể các lực lượng vũ trang nhân dân.


Tháng 6.

- Bộ Quốc phòng chỉ thị hợp nhất Trường Quân chính Quân khu Hữu Ngạn và Trường Quân chính Quân khu Tả Ngạn (mang tên Trường Quân chính Quân khu Tả Ngạn). Nhiệm vụ: bồi dưỡng cán bộ cho hai Quân khu Hữu Ngạn, Tả Ngạn và các sư đoàn bộ binh 308, 312, 316, 320

- Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công mìn chống tăng và mìn sát thương.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:23:45 pm

21 tháng 7.

Đại hội Đảng toàn quân:
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Đại hội: phải đoàn kết, nâng cao tinh thần cảnh giác, phải cố gắng thi đua, phải chịu khó lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, phải giữ kỷ luật cho nghiêm túc để xứng đáng là một đội quân cách mạng.


Cuối tháng 7.

Khu ủy Khu 5 chủ trương mở đợt hoạt động vũ trang trong toàn khu
nhằm củng cố và mở rộng căn cứ Tây Nguyên và miền tây các tỉnh, giành quyền làm chủ ở vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi.

Mở đầu đợt hoạt động, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận tiến công đồn Bắc Ruộng, quận Hoài Đức (31-7-1960), diệt và bắt 300 tên địch. Tiếp đó, lực lượng vũ trang Ninh Thuận diệt các đồn Tà Lú, Ma Ty, bao vây đồn Suối Đầu huyện Bác Ái (8-1960).


Tháng 7.

Thành lập Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Đông (Quân khu miền Đông) và Khu ủy miền Đông Nam Bộ. Sở chỉ huy Quân khu đóng ở Suối Linh (Chiến khu Đ).

Chỉ huy trưởng: Nguyễn Hữu Xuyến.
Chỉ huy phó: Lâm Quốc Đăng.


5-10 tháng 9.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội
. Đại hội tuyên dương công trạng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước, phát triển kinh tế văn hóa những năm 1954-1960.

Đại hội đề ra nhiệm vụ của quân đội: bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế... Tích cực xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại, củng cố và phát triển dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng hậu bị, gắn liền xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.


Tháng 9.

Lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam
(bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự vệ ở xã ấp) phát triển mạnh trong cao trào Đồng khởi.

Bộ đội tập trung có tiểu đoàn 500 (gồm 997 người) thuộc Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ; tiểu đoàn 261 (gồm 266 người) thuộc Liên tỉnh miền Trung Nam Bộ; tiểu đoàn 306 (gồm 771 người) thuộc Liên tỉnh miền Tây Nam Bộ. Liên khu 5 có hai đại đội bộ binh và 12 đội đặc công (khoảng 1.000 người). Đây là những đơn vị chủ lực được lựa chọn từ các đơn vị vũ trang tập trung tỉnh, huyện, phần lớn đã trải qua kháng chiến chống Pháp và trưởng thành trong cao trào Đồng khởi.

Bộ đội địa phương: Nam Bộ có 17 đại đội tỉnh và 70 trung đội huyện (khoảng 7.000 người). Liên khu 5 có 123 trung đội và 76 đội vũ trang công tác (gồm 5.500 người). Đây là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên địa bàn tỉnh, huyện.

Dân quân tự vệ xã, ấp: 560 xã ở Nam Bộ có tiểu đội du kích, 190 xã thành lập trung đội du kích (khoảng 7.000 người). Ở Liên khu 5, lực lượng tự vệ du kích các xã miền núi có khoảng 3.000 người. Đây là lực lượng vũ trang rộng rãi ở cơ sở, làm nhiệm vụ hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị, bảo vệ chính quyền cách mạng ở xã, ấp, phối hợp với bộ đội tập trung trong chiến đấu.


12 tháng 10.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 470/QĐ) thành lập Cục nghiên cứu Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: nghiên cứu kỹ thuật, giúp Bộ chỉ đạo công tác nghiên cứu và cải tiến kỹ thuật, phổ biến khoa học kỹ thuật quân sự, chỉ đạo công tác nghiên cứu kỹ thuật toàn quân.

Cục trưởng: Trần Sâm.
Cục phó: Hoàng Đình Phu.


Tháng 10.

Thành lập Ban Quân sự Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn
do đồng chí Nguyễn Hồng Đào (Mười Hồ) phụ trách. Nhiệm vụ: xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh hoạt động vũ trang, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị ở nội và ngoại thành Sài Gòn.


20 tháng 12.

Tại Rùm Đuôn, xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu quốc dân miền Nam tiến hành đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, bầu ra Ủy ban Trung ương do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.


ưTháng 12.

Kết thúc kế hoạch quân sự dài hạn lần thứ nhất (1955-1960).


Tiếp theo thời kỳ chiến đấu và xây dựng trong kháng chiến chống Pháp, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được xây dựng và trưởng thành. Từ đơn thuần bộ binh, tổ chức chưa thống nhất, trang bị kém trở thành một quân đội có lục quân chính quy, tương đối hiện đại và đã đặt được cơ sở đầu tiên cho các quân chủng Hải quân, Phòng không, Không quân. Sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội được nâng lên một bước rõ rệt. Đây là cơ sở rất quan trọng cho quân đội ta tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong những năm sau này.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:25:06 pm

NĂM 1961

Tháng 1.

Tổng Quân ủy ra chỉ thị thành lập “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam”
, “một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo ... Kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân miền Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam, mục tiêu chiến đấu của quân đội đó là kiên quyết thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vừa là một đội quân chiến đấu, vừa là một đội quân công tác và sản xuất. Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, Quân giải phóng miền Nam sẽ xây dựng ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Phương châm xây dựng là khẩn trương, nhưng phải phù hợp với tình hình và khả năng thực tế và có đủ điều kiện để đối phó với những tình huống đột biến, lấy việc xây dựng các đơn vị tập trung làm chủ yếu, đồng thời hết sức coi trọng việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích".


Cuối tháng 1.

Thành lập Trung ương Cục miền Nam
. Đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung), Phan Văn Đáng, Nguyễn Văn Xô, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Ba Hường, Trần Văn Quang là ủy viên


31 tháng 1.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam
, nhận định: thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ-Diệm đã qua, thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu ... Do lực lượng so sánh đã thay đổi, cần phải chuyển phương châm đấu tranh. Bộ Chính trị chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đủ mạnh để tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Ngoài việc xây dựng dân quân và du kích xã, bộ đội địa phương của huyện và bộ đội tập trung của tỉnh, cần đặc biệt chú trọng một số đơn vị tập trung mạnh. Đi đôi với việc xây dựng lực lượng vũ trang, cần tích cực giải quyết vấn đề trang bị, cung cấp cho bộ đội.


Tháng 1 - tháng 3.

Một số tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, công binh thuộc sư đoàn 325 và trung đoàn 274 (Quân khu 4), hai lữ đoàn 316, 335 (Quân khu Tây Bắc) phối hợp với nhân dân và bộ đội Pa-thét Lào chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Cánh Đồng Chum, Noọng Hét thuộc tỉnh Xiêng Khoảng và nhiều địa phương khác.


15 tháng 2.

Thống nhất các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam
. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trao cho Quân giải phóng quân kỳ mang dòng chữ: “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng”.

Hệ thống chỉ huy quân sự hình thành từ Miền đến xã. Ban Quân sự trực thuộc Trung ương Cục miền Nam do Thiếu tướng Trần Lương - Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm trưởng ban. Bộ Tư lệnh các Quân khu 1 (Đông Nam Bộ), Quân khu 2 (Trung Nam Bộ), Quân khu 3 (Tây Nam Bộ), Quân khu 4 (Sài Gòn - Gia Định), Quân khu 6 (Nam Trung Bộ) được thành lập. Các tỉnh, huyện đều có ban quân sự. Ở xã có xã đội. Các thành phố, thị xã có cơ sở vũ trang bí mật, các tổ biệt động, đội tuyên truyền vũ trang.


17 tháng 2.

Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định
(số 06/TM6) thành lập tiểu đoàn xe lội nước 69 gồm một đại đội xe BAV, một đại đội xe xích K61, một trung đội sửa chữa, một trung đội thông tin trinh sát và một trung đội điều chỉnh giao thông.


25 tháng 2.

Bộ Chính trị thông qua kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai
(1961-1965). Nội dung:

1. Xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng trên miền Bắc. Tăng cường sức mạnh của lục quân, xây dựng bộ đội phòng không, không quân, hải quân. Hoàn thành chính quy hóa, tạo cho quân đội có đủ các thành phần binh chủng, quân chủng mạnh, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.

2. Xây dựng ở miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung mạnh. Bộ đội địa phương huyện tổ chức đến trung đội, đại đội. Bộ đội tập trung tỉnh tổ chức đến đại đội, tiểu đoàn. Xây dựng 10 đến 15 trung đoàn mạnh về xung lực, hỏa lực và một số đơn vị pháo hỗn hợp có khả năng phá công sự, diệt xe tăng, bắn rơi máy bay địch.

3. Giúp đỡ cách mạng Lào về chuyên gia quân sự, đào tạo cán bộ và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức quân tình nguyện phối hợp chiến đấu khi bạn yêu cầu

4. Kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất, của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự hội nghị và chỉ thị: “Quân đội ta là Quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân. Quân đội ta phải gắn chặt với dân. Trong quân đội tác phong đồng cam cộng khổ là rất quan trọng. Trang bị kỹ thuật phải tiến lên, nhưng sinh hoạt của bộ đội phải phù hợp với sinh hoạt của nhân dân”.


Tháng 2.

- Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị các tỉnh Nam Bộ tổ chức lực lượng nhận vũ khí của miền Bắc, đồng thời giao nhiệm vụ cho Cục Hải quân nghiên cứu đường vận chuyển chiến lược trên biển để phục vụ cho hoạt động chi viện chiến trường.

- Thành lập tiểu đoàn chủ lực đầu tiên phiên hiệu d500 trên cơ sở các đơn vị C59, C80, C300 (đơn vị sản xuất và bảo vệ) thuộc Quân khu Miền Đông.

Biên chế: hai đại đội bộ binh, một đại đội trợ chiến và một đại đội trinh sát (gồm 600 người).

Tiểu đoàn trưởng: Đặng Ngọc Sĩ.
Chính trị viên: Nguyễn Trọng Tâm.

Ngày 15 tháng 4, tiểu đoàn 500 chính thức ra mắt tại Suối Linh (Chiến khu Đ).


Cuối tháng 2.

- Trung đoàn 102 và trung đoàn 36 (sư đoàn 308) được tăng cường pháo binh, thiết giáp, công binh, diễn tập hành quân cơ động của bộ binh và cơ giới trên địa hình đồng bằng có nhiều sông ngòi và ruộng nước ở Thanh Oai, Ứng Hòa (Hà Tây). Tháng 11 năm 1961, trên địa bàn ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, sư đoàn 308 tổ chức diễn tập quy mô lớn hơn (123 xe kéo pháo, 15 xe tăng và pháo tự hành, 519 xe ô tô và mô tô dã chiến tham gia) nhằm kiểm tra khả năng cơ động, trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực cơ động trực thuộc Bộ.

- Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh các quân khu, quân chủng, binh chủng và các sư đoàn tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu tiến công và phòng ngự trên địa hình rừng núi, đồng bằng, diễn tập chống địch đổ bộ đường không và đường biển, rút kinh nghiệm về tổ chức, biên chế, trang bị, cách đánh của đơn vị chiến thuật và mối quan hệ hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng, giữa chủ lực và địa phương.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:26:25 pm

3 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 12/QP) sáp nhập Trường Bổ túc quân sự trung cao cấp và Trường Chính trị trung cao cấp thành Học viện Quân chính. Nhiệm vụ: bổ túc, đào tạo cán bộ chính trị và quân sự trung cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tháng 3.

- Thành lập Ban Tổng kết chiến lược thuộc Bộ Tổng Tham mưu
. Nhiệm vụ: tổng kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội trong giai đoạn mới.

Trưởng ban: Trung tướng Hoàng Văn Thái.

- Phòng viết sử thuộc Tổng cục Chính trị, Cục nghiên cứu Khoa học quân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu và hệ thống các cơ quan tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, biên soạn lịch sử đơn vị, nghiên cứu khoa học quân sự được thành lập, tổ chức theo ngành dọc đến cấp sư đoàn.


11 tháng 4.

Thành lập Trường Quân chính Quân khu 5
tại Quảng Nam-Đà Nẵng. Nhiệm vụ: bồi dưỡng cán bộ tiểu đội, trung đội.

Hiệu trưởng: Quách Tự Hấp.
Chính ủy: Hoàng Minh Thắng.


14 tháng 4.

Thành lập trung đoàn xây dựng công trình 259
(quyết định số 160/QĐ của Bộ trưởng Quốc phòng) thuộc Cục Công binh (gồm 719 người). Nhiệm vụ: xây dựng các công trình quốc phòng.


Tháng 4 - tháng 5.

Quân tình nguyện Việt Nam
gồm sư đoàn bộ binh 325, tiểu đoàn 19 bộ đội biên phòng Quân khu 4, tiểu đoàn 927 bộ đội địa phương tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào mở chiến dịch Tà Khống. Bộ đội ta tiến công các vị trí địch dọc đường số 7 và đường số 9, mở rộng vùng giải phóng của bạn nối liền với các căn cứ kháng chiến của ta ở tây Quảng Nam và tây Quảng Bình, tạo điều kiện cho Đoàn 559 mở đường sang tây Trường Sơn.


5 tháng 5.

Đoàn cán bộ quân sự tăng cường cho Ban Quân sự Miền và các quân khu ở miền Nam
, gồm 500 người hầu hết là cán bộ cao cấp, trung cấp do Thiếu tướng Trần Văn Quang - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng dẫn đầu, xuất phát từ Xuân Mai (Hòa Bình) theo đường tây Trường Sơn vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đoàn lên đường vào lúc Liên Xô phóng thành công con tàu mang tên “Phương Đông” đưa anh hùng Ga-ga-rin - người đầu tiên trên thế giới bay vào vũ trụ, nên đặt tên là “đoàn Phương Đông”. Ngày 28 tháng 7, đoàn vào đến vị trí tập kết - đồi 300 (Bình Long).


29 tháng 5.

Toàn quân phát động phong trào: “Xây dựng quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy hiện đại”.


1 tháng 6.

Đoàn cán bộ quân sự thứ hai tăng cường cho chiến trường miền Nam
gồm 400 người, do đồng chí Nguyễn Hoàng Lâm (Nguyễn Văn Bứa) và đồng chí Lê Quốc Sản dẫn đầu hành quân từ miền Bắc vào chiến trường.


Tháng 6.

- Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân khu 4 mở đường vận tải cơ giới nối đường số 12 với đường số 9 (đường 129)
. Sau hai tháng lao động khẩn trương, hai tiểu đoàn 939 và 3 (Quân khu 4) và hai tiểu đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 325 đã hoàn thành, đưa đường 129 vào sử dụng, kịp thời vận chuyển một số vũ khí và hàng quý vào chiến trường miền Nam.

- Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trường sĩ quan Kỹ thuật. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc sĩ quan kỹ thuật các chuyên ngành quân khí, ra-đa, máy chỉ huy, thông tin, xăng dầu, quản lý xe, công binh, hóa học.


8 tháng 7.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 37/LCT) tậng thưởng Huân chương Chiến công cho các đơn vị, cán bộ và chiến sĩ quân đội đã có thành tích chiến đấu tiễu phỉ, bảo vệ biên giới Tổ quốc.


10-12 tháng 7.

Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân họp tại thủ đô Hà Nội
. 224 chiến sĩ thi đua, 48 đại biểu các đơn vị tiên tiến, đại diện các quân chủng, binh chủng, quân khu và dân quân tự vệ trên miền Bắc về dự.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Đại hội:

“Toàn thể cán bộ và chiến sĩ ta phải luôn luôn nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và mức hiểu biết về khoa học và kỹ thuật.

Phải giữ gìn kỷ luật một cách rất nghiêm túc. Nâng cao cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu nham hiểm của địch ...

Phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để tự cải thiện mức sống của mình và giảm nhẹ sự đóng góp của đồng bào. Đồng thời phải nghiêm khắc chống tham ô lãng phí.

Đoàn kết và giúp đỡ nhân dân, nhất là đoàn kết, học hỏi, giúp đỡ và thi đua với công nhân và nông dân".


27 tháng 7.

Thành lập Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Quân khu 6
. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 do đồng chí Nguyễn Đôn - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy; đồng chí Võ Thứ - Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên) - Chủ nhiệm hậu cần.

Bộ Tư lệnh Quân khu 6 do đồng chí YBlok quyền Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Mơ (Tư Khiêm) - Chính ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên (Sáu Phúc) - Tham mưu trưởng, đồng chí Trần Phòng (Bảy Kiên) - Chủ nhiệm hậu cần.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:27:20 pm

3 tháng 8.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 74/QĐ), thành lập căn cứ hải quân I thuộc Cục Hải quân, phụ trách vùng biển, hải đảo từ biên giới Việt-Trung đến Cửa Hội và căn cứ Hải quân II phụ trách vùng biển, hải đảo từ Cửa Hội tới Cửa Tùng.

Nhiệm vụ hai căn cứ:

1. Lãnh đạo, chỉ huy xây dựng lực lượng hải quân.

2. Độc lập hoặc phối hợp với các quân binh chủng, bảo vệ trật tự trị an trên hải phận, ven bờ, hải đảo, bảo vệ quyền lợi quốc gia trên biển, bảo vệ nhân dân làm ăn, phối hợp với các đơn vị bạn chiến đấu khi chiến tranh xảy ra.

3. Liên hệ với địa phương xây dựng lực lượng hậu bị hải quân.

4. Lập kế hoạch bảo vệ, chỉ huy cung ứng vật tư cho các đơn vị hải quân, vận chuyển tiếp tế cho các lực lượng trên đảo.


9 tháng 8.

Thành lập trung đoàn ra-đa trinh sát thứ ba
(trung đoàn 292) thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không (quyết định số 64/QĐ của Bộ Quốc phòng). Biên chế: ba đại đội ra-đa và một đại đội quan sát mắt, hoạt động trên địa bàn Tây Bắc.

Trung đoàn trưởng: Hứa Mạnh Tài.
Chính ủy: Nguyễn Thanh Liêm.


27 tháng 8.

Thành lập Trường Quân chính sơ cấp Miền (phiên hiệu C86) trên cơ sở hợp nhất hai trường C50 và 850 tại Tây Ninh (nay là Trường sĩ quan Lục quân 2). Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ quân sự, chính trị sơ cấp, mỗi năm hai khóa.

Hiệu trưởng: Đỗ Phong (Hai Trung).

Ngày 27 tháng 8 trở thành ngày truyền thống của Trường sĩ quan Lục quân 2 ngày nay.


Giữa năm 1961.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định thực hiện biên chế thời chiến
đối với sư đoàn 325, lữ đoàn 341, trung đoàn 244 thuộc Quân khu 4, hai lữ đoàn 316, 333 và trung đoàn 148 thuộc Quân khu Tây Bắc, sẵn sàng cơ động vào chiến trường khi cần thiết.


30 tháng 8.

Tiểu đoàn 90, đội đặc công 406, phân đội học viên Trường Quân chính Quân khu 5 và hai tiểu đội du kích tập kích quận lỵ Đắc Hà (Công Tum), diệt và bắt 180 tên địch, thu nhiều súng các loại; tiếp đó, ngày 2 tháng 9, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn địch từ Đắc Tô kéo xuống ứng cứu, tạo điều kiện cho nhân dân 28 làng dọc đường số 5 từ Đắc Hà đến Giá Vụt nổi dậy diệt ác ôn, phá “ấp chiến lược”, mở rộng vùng căn cứ.


2 tháng 9.

Hai tiểu đoàn 1 và 2 chủ lực Miền làm lễ ra mắt tại chiến khu Dương Minh Châu (Đông Nam Bộ). Tiểu đoàn 1 do đồng chí Bùi Thanh Vân (Út Liêm) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đặng Vân Thượng làm chính trị viên. Tiểu đoàn 2 do đồng chí Huỳnh Leo (Bình Minh) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Hải (Bảy Trượt) làm chính trị viên. Mỗi tiểu đoàn biên chế trên 120 cán bộ, chiến sĩ, trang bị hơn 100 khẩu súng các loại. Đây là hai tiểu đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam căn dặn: “Nước ta còn nghèo, dân ta đang bị áp bức bóc lột, nên người và vũ khi hiện chỉ có bấy nhiêu. Các đồng chí hãy lấy đó làm vốn rồi liên hệ với địa phương xin thêm người, tổ chức và huấn luyện cho tốt để gấp rút ra chiến đấu hỗ trợ phong trào”.


16 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh công bố “Pháp lệnh đặt Huân chương và Huy chương Chiến sĩ vẻ vang"
cho cán bộ, chiến sĩ có công xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam sau ngày hòa bình lập lại (20-7-1954).


Tháng 9.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua đề án do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị về xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam những năm 1961-1963.



Đêm 17 rạng 18 tháng 9.

Chiến thắng Phước Vĩnh. Tiểu đoàn 500 chủ lực Quân khu 7 và một trung đội đặc công phối hợp với bộ đội địa phương hai huyện Phú Giáo và Tân Uyên, tập kích tỉnh lỵ Phước Vĩnh, do một tiểu đoàn biệt động và một đại đội cảnh sát ngụy đóng giữ. Sau một giờ chiến đấu, bộ đội ta làm chủ tỉnh lỵ, diệt 180 tên, trong đó có tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, bắt khoảng 100 tên, giải thoát 300 cán bộ bị địch giam giữ. Với 600 súng thu được của địch, ta thành lập tiểu đoàn 700 và tiểu đoàn 900 trợ chiến. Đây là thắng lợi lớn của lực lượng vũ trang ta trên chiến trường Nam Bộ.


23 tháng 10.

Thành lập Đoàn 759 vận tải quân sự đường biển
(quyết định số 97/QĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: mua sắm phương tiện, tiến hành vận chuyển các loại hàng tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Số quân lúc đầu của đoàn là 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó 20 người do các tỉnh Nam Bộ vừa cử ra.

Đoàn trưởng: Đoàn Hồng Phước.
Chính ủy: Võ Huy Phúc.


Cuối năm 1961.

- Đại hội thi bắn pháo toàn quân lần thứ ba
. 10 tiểu đoàn đại diện cho các đơn vị pháo trong toàn quân về dự.

Kết quả: về tập thể, tiểu đoàn 4 lữ đoàn 364 giành giải nhất. Về cá nhân: thiếu úy Ngô Huy Hùng chủ nhiệm trinh sát tiểu đoàn thuộc trung đoàn 204 đoạt giải nhất.

- Thành lập Trường Quân chính Quân khu 9. Nhiệm vụ: huấn luyện cán bộ quân sự, chính trị sơ cấp.

Hiệu trưởng: Tư Thắng.

- Lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và du kích tự vệ) ở miền Nam phát triển về tổ chức, biên chế, trang bị:

Bộ đội chủ lực thuộc các quân khu có 11 tiểu đoàn, gồm sáu tiểu đoàn ở Khu 5, năm tiểu đoàn ở các Quân khu 6 (Nam Trung Bộ), Quân khu 7 (Đông Nam Bộ), Quân khu 8 (Trung Nam Bộ), Quân khu 9 (Tây Nam Bộ) và Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Mỗi tiểu đoàn khoảng 500 người, biên chế từ hai đến ba đại đội bộ binh, một đại đội đặc công, một đại đội (trung đội) trợ chiến và các phân đội bảo đảm, trang bị chủ yếu là súng từ miền Bắc đưa vào và súng thu được của địch.

Bộ đội địa phương tỉnh, huyện và bộ đội chủ lực khu có 24.500 cán bộ, chiến sĩ. Mỗi huyện tổ chức được một trung đội hoặc một đại đội; tỉnh có từ một đến hai đại đội, biên chế thành các trung đội bộ binh, công binh, trợ chiến và các phân đội bảo đảm, trang bị vũ khí thu được của địch. Một số đơn vị ở Khu 5, Tây Nguyên bắt đầu trang bị vũ khí từ miền Bắc đưa vào.

Du kích tự vệ có khoảng 100.000 người, trong đó 70.000 ở Nam Bộ, 30.000 ở Khu 5. Nhiều xã giải phóng tổ chức được trung đội du kích tập trung, trang bị các loại vũ khí tự chế tạo và một số súng thu được của địch.

Cùng với các đơn vị chiến đấu, đã hình thành 16 căn cứ hậu cần, trong đó hai căn cứ thuộc Ban Quân sự Miền; hai căn cứ thuộc Quân khu 7; năm căn cứ thuộc Quân khu 8; ba căn cứ thuộc Quân khu 9; hai căn cứ thuộc Quân khu Sài Gòn - Gia Định và hai căn cứ thuộc Quân khu 5.

Hệ thống chỉ đạo, chỉ huy quân sự thuộc các khu ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và chi bộ xã được củng cố. Hệ thống cơ quan công tác đảng - công tác chính trị trong các đơn vị vũ trang tập trung hình thành. Đại đội bộ đội địa phương có chính trị viên, trung đội bộ đội địa phương huyện có chi bộ Đảng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:28:15 pm

Năm 1962

9 tháng 2.

Thành lập trung đoàn bộ binh 1
(Q.761, còn gọi là c.56) chủ lực Miền tại Trảng Dài (Tây Ninh). Biên chế (2-1962) hai tiểu đoàn bộ binh 1 và 2, một số phân đội trợ chiến và ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Cán bộ từ trung đoàn trưởng đến tiểu đội trưởng đều được huấn luyện chính quy trên miền Bắc.

Trung đoàn trưởng: Tăng Thiên Kim (tức Hoàng Đình Chương)
Chính ủy: Lê Văn Nhỏ (tức Hai Lâm)

Đây là trung đoàn chủ lực cơ động đầu tiên trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


17 tháng 2.

Thành lập Cục Vật tư nhiên liệu
thuộc Tổng cục Hậu cần. Nhiệm vụ: tổ chức cung cấp, quản lý vật tư dân dụng của quân đội, quản lý các xí nghiệp quốc phòng về vật tư, thiết bị, nhân công; cung cấp, quản lý xăng dầu trong toàn quân.

Cục trưởng: Trần Hiếu Tâm.


18 tháng 2.

Lực lượng vũ trang Cà Mau phối hợp với nhân dân địa phương tiến công địch ở Đầm Dơi, Cái Nước và nhiều vị trí khác, diệt 572 tên, góp phần làm thất bại cuộc càn quét gom dân lập “ấp chiến lược” của chín tiểu đoàn địch vào U Minh.


26-27 tháng 2.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về những công tác trước mắt của cách mạng miền Nam:
“Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ động hơn nữa... Lực lượng vũ trang của tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang của huyện và xã ... đánh tan các lực lượng dân vệ, bảo an và cả những đơn vị biệt kích của địch. Lực lượng vũ trang tập trung của khu và toàn Miền có nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực địch, chủ động đánh những trận tiêu diệt, giúp cho các địa phương phát triển chiến tranh du kích, chống càn, phá ấp chiến lược và đẩy mạnh đấu tranh chính trị”.

“Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, kể cả du kích, bộ đội địa phương và chủ lực..., trên tư tưởng tự lực cánh sinh, lấy của địch trang bị cho mình là chủ yếu, mặc dầu sự giúp đỡ của miền Bắc là hết sức tích cực và quan trọng”.


Tháng 2 - tháng 5.

Bộ đội chủ lực Khu 5 phối hợp với bộ đội địa phương và du kích tiến công quận lỵ Trà My (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi); các căn cứ Định Quang, Hương Nhơn (Bình Định), An Lĩnh, Núi Miếu, Hòn Ngang (Phú Yên), các bốt bảo an, dân vệ Hữu Đức, Từ Lâm (Ninh Thuận), Đồng Kho (Bình Thuận); phục kích diệt bốn đoàn tàu quân sự địch trên đoạn đường Ma Lâm - Long Thạnh, Ma Lâm - Mường Mán (Bình Thuận).


23 tháng 3.

Thành lập Viện nghiên cứu Y học quân sự
(quyết định số 80/QĐ của Bộ trưởng Quốc phòng) trên cơ sở Trường Sĩ quan Quân y. Nhiệm vụ: nghiên cứu y học quân sự phục vụ quân đội huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, đào tạo và bổ túc cán bộ quân y cho toàn quân.

Viện trưởng: Giáo sư Đỗ Xuân Hợp.
Chính ủy: Trần Huy.


Tháng 3 - tháng 6.

Bộ đội chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Tuy, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định đánh trả cuộc hành quân “Mặt trời mọc” của 8.000 quân ngụy.


2-4 đến 12-5.

Chiến dịch Nậm Thà (Thượng Lào).


Lực lượng tham gia: quân tình nguyện Việt Nam có hai lữ đoàn (335, 316), tiểu đoàn 3 lữ đoàn 330 bộ binh, một tiểu đoàn sơn pháo 75 ly, một tiểu đoàn súng cối 120 ly, một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 ly. Bộ đội Pa-thét Lào: hai tiểu đoàn bộ binh 2 và 701.

Bộ Tư lệnh chiến dịch, về phía Việt Nam có: Thiếu tướng Nguyễn Bằng Giang-Tư lệnh; Thiếu tướng Trần Độ-Chính ủy.

Sau hơn một tháng chuẩn bị, kết hợp đột phá với bao vây vu hồi, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào giải phóng Mường Sinh, Nậm Thà, phát triển tiến công, truy kích địch. Ngày 12 tháng 5, chiến dịch kết thúc. Được sụ hỗ trợ của quân tình nguyện Việt Nam, bộ đội Pa-thét Lào diệt 137 tên địch, bắt 1.424 tên, thu 400 súng, 596 tấn đạn, 1.500 phuy xăng, mở rộng vùng giải phóng Thượng Lào (800 ki-lô-mét vuông, với 76.000 dân).

Chiến dịch Nậm Thà đánh dấu bước trưởng thành của quân đội ta về tổ chức hành quân, xây dựng trận địa phòng ngự, đột phá, thọc sâu, bao vây, vu hồi, truy kích... trong chiến dịch tiến công địch ở vùng rừng núi.


8 tháng 4.

Chuyến tàu đi trinh sát và mang chỉ thị Trung ương về “mở đường vận tải trên biển” của Đoàn 759 do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy vào đến bến Ghềnh Hào (Cà Mau) an toàn. Sau chuyến đi mở đường, trong năm 1962, Đoàn 759 vận chuyển được bốn chuyến (112 tấn hàng) vào đến Nam Bộ.


Tháng 4.

Hội nghị Trung ương Cục bàn kế hoạch thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị (2-1962):
“Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng cả ba thứ quân để đủ sức chặn đánh và đánh bại những âm mưu quân sự của địch”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Năm, 2022, 03:29:19 pm

4-6 tháng 5:

Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quân lần thứ ba.


1.060 đại biểu gồm Anh hùng và Chiến sĩ thi đua thuộc các ngành, các địa phương và đại diện của nhiều đơn vị tiên tiến (gồm cả các lực lượng vũ trang) đã về Thủ đô dự Đại hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và căn dặn: “Anh hùng, Chiến sĩ thi đua và lao động tiên tiến phải làm đầu tàu lôi cuốn người khác cùng tiến bộ, đồng thời phải luôn luôn khiêm tốn, luôn luôn cố gắng học hỏi để tiến bộ không ngừng. Đảng viên, đoàn thanh niên và cán bộ công đoàn phải làm gương mẫu trong mọi công việc. Như vậy thì đội ngũ lao động của chúng ta nhất định khắc phục được khó khăn, đánh thắng sự bần cùng và lạc hậu, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân...”.

Đại hội đã tuyên dương phong trào thi đua “Ba nhất” trong quân đội và 45 Anh hùng lao động.


8-5-1962 đến 1-1963.

Bộ đội chủ lực Khu 5 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh trả cuộc hành quân “Hải Yến” của địch ở Phú Yên, cuộc hành quân “Đồng Tiến” ở Bình Định. Trong tám tháng chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang các địa phương đánh 150 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.600 tên, phá hủy 5 đoàn xe lửa chở quân ứng cứu, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng chở quân, bắn bị thương 5 chiếc khác.


Đầu tháng 5.

Tiểu đội đặc công tỉnh Quảng Nam gồm 10 chiến sĩ do tiểu đội phó Võ Như Hưng chỉ huy cùng tổ du kích xã do Lê Tấn Hiển chỉ huy, đánh lui hàng chục đợt tiến công của một tiểu đoàn địch tại xã Điện Ngọc (Điện Bàn). Về ta, bốn chiến sĩ anh dũng hy sinh, một bị thương, năm chiến sĩ bám trận địa chiến đấu đến tối mới rút ra ngoài. Chiến công của 10 dũng sĩ Điện Ngọc có tiếng vang lớn.


Tháng 5.

Thành lập ba trung đoàn bộ binh 1, 2, 3 chủ lực thuộc Quân khu 5.


Trung đoàn 1 gồm hai tiểu đoàn bộ binh (60 và 91), hoạt động ở Quảng Nam.

Trung đoàn 2 gồm ba tiểu đoàn (95, 90, 85) và một khung tiểu đoàn trợ chiến hoạt động ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Công Tum.

Trung đoàn 3 gồm ba tiểu đoàn (50, 32, 30) và một khung trợ chiến hoạt động ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên và Gia Rai.


Cuối tháng 5.

Đại tá Võ Bẩm, Đoàn trưởng Đoàn 559 trực tiếp báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình mở đường, vận chuyển hàng, đưa bộ đội vào chiến trường và sự giúp đỡ to lớn của đồng bào các dân tộc dọc tuyến đường. Bác khen ngợi tinh thần phục vụ tân tụy của cán bộ, chiến sĩ và chỉ thị cho Đoàn 559 tiếp tục làm tốt, làm nhiều hơn nữa, đưa thật nhiều hàng vào chiến trường. Bác gửi muối, vải vào tặng đồng bào các dân tộc trên đường Trường Sơn.


Tháng 6.

- Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam: “Đẩy mạnh hoạt động quân sự, kết hợp với đấu tranh chính trị, bảo vệ và phát triển lực lượng, phá tan âm mưu lập ấp chiến lược của địch".

- Thành lập trung đoàn bộ binh 2 (phiên hiệu Q.762, còn gọi là c58) tại Chiến khu Đ. Nòng cốt là cán bộ chiến sĩ quê ở miền Bắc đã trải qua huấn luyện, được trang bị tốt vừa hành quân từ Xuân Mai (Hòa Bình) vào.

Trung đoàn trưởng: Nguyễn Văn Cộng.
Chính ủy: Nguyễn Văn Bảy.

Đây là trung đoàn chủ lực cơ động thứ hai trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.


9 tháng 7.

Thành lập ba trung đoàn vận tải ô tô 225, 235, 245
(quyết định số 317/TMA của Bộ Tổng Tham mưu). Mỗi trung đoàn biên chế sáu đại đội xe. Một nửa số phương tiện của các trung đoàn là xe Gát 63, loại xe vận tải hai cầu, có thể làm nhiệm vụ ở các tuyến đường hiểm trở. Khả năng vận tải của ba trung đoàn xe là 14 triệu tấn/ki-lô-mét trong một năm.


15-30 tháng 8.

- Bộ đội chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh Cà Mau, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long An, Tây Ninh, Bình Dương, đánh bại cuộc hành quân “Bình Tây” của 5.000 quân ngụy.

- Bộ đội địa phương tỉnh Bình Thuận tiến công quận lỵ Hàm Tân, đánh địch tiếp viện, diệt gọn một đại đội và 150 tên khác. Tiểu đoàn 90 bộ đội địa phương Quảng Ngãi đánh bại cuộc tiến công bằng chiến thuật “trực thăng vận” của một tiểu đoàn biệt kích dù ngụy vào khu căn cứ Nà Niu, huyện Trà Bồng, bắn rơi 13 máy bay lên thẳng.


23 tháng 9.

- Tiểu đoàn 514 bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho phục kích địch trên đường số 4, diệt 40 tên, thu một số vũ khí.

- Bộ Tư lệnh Quân khu 5, sử dụng 4 tiểu đoàn chủ lực, cùng lực lượng vũ trang địa phương mở đợt hoạt động vượt sông Tiên, tiến công hệ thống kìm kẹp của địch ở Tiên Phước, Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá 24 ấp chiến lược, làm chủ 7 xã và 13 thôn.


Tháng 10.

- Tiểu đoàn 840 bộ đội địa phương Khánh Hòa phối hợp với tiểu đoàn 186 chống địch càn quét vào khu căn cứ B5 (Tuyên Đức) loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên.

- Đại đội 1 tiểu đoàn 514 bộ đội địa phương Mỹ Tho đánh bại cuộc càn quét của một đại đội biệt động ngụy, bắn rơi ba máy bay.


Cuối tháng 11.

Trung ương Cục và ban quân sự Miền chỉ thị cho các đơn vị vũ trang ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ đẩy mạnh chống địch càn quét.

“Nếu không tích cực chống càn và thông qua chống càn mà tiêu diệt địch thì không những không ngăn chặn và đánh bại âm mưu gom dân, lập ấp chiến lược của địch mà lực lượng vũ trang của ta cũng có thể bị tiêu hao và lâm vào thế bị động. Do đó, đóng quân ở đâu cũng phải có kế hoạch chống càn, kết hợp với du kích và dựa vào xã chiến đấu hoặc những trận địa đã chuẩn bị kiên quyết tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ mình. Đồng thời phải chủ động tìm địch mà đánh, chủ yếu là đánh giao thông, phục kích địch hành quân, dùng chiến thuật đặc công đánh các đồn bốt nhỏ và tập kích những nơi địch sơ hở".


Tháng 11.

Hội nghị dân quân du kích Nam Bộ lần thứ nhất
tại chiến khu Dương Minh Châu. Một số địa phương có phong trào chiến tranh du kích mạnh như huyện Bác Ái (Ninh Thuận), các xã Thới Hòa, Bến Tường (Bình Dương), Phước Vĩnh An, Tân Xuân (Gia Định), Tân Phú Trung (Mỹ Tho), Tân Thanh, Khánh Thạnh Tân (Bến Tre), Hậu Mỹ (Long An), An Bình (Cần Thơ), Vĩnh Châu, Gia Hòa (Sóc Trăng) báo cáo kinh nghiệm phát động toàn dân chống càn, phá “ấp chiến lược”. Hội nghị biểu dương các chiến sĩ du kích xuất sắc trong đó có các chị: Út Tịch (Trà Vinh), Tạ Thị Kiều (Bến Tre).


Đêm 4 rạng 5 tháng 12.

Đại đội đặc công 121 và đại đội bộ binh 25 chủ lực Quân khu 6 tiến công cứ điểm Đầm Ròn (sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 23 ngụy ở Tuyên Đức), cách Đà Lạt 25 ki-lô-mét, diệt và làm bị thương 300 tên địch, phá hỏng 2 đại bác 105 ly...


10 tháng 12.

Bộ Chính trị họp bàn về phương hướng và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, trong đó chủ trương phát động toàn Đảng, toàn dân xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, tập trung nghiên cứu và phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích, đặc công để phá ấp chiến lược của địch trên từng vùng, tranh thủ điều kiện có lợi, dùng tiểu đoàn hoặc phối hợp từ hai đến ba tiểu đoàn tiêu diệt các đơn vị chính quy và biệt kích đường bộ, đường không của địch.


Tháng 12.

Lực lượng vũ trang Khu 8 đẩy mạnh hoạt động. Nguyễn Viết Khái, chiến sĩ du kích xã Tân Hưng Tây (Cà Mau) dùng súng trường bắn rơi máy bay lên thẳng địch; Đoàn Văn Mạnh, chiến sĩ tiểu đoàn 261 chủ lực Khu 8 dùng súng tiểu lên bắn trả máy bay địch... Phong trào dùng súng bộ binh bắn máy bay lên thẳng phát triển rộng rãi trong các lực lượng vũ trang miền Nam.


Cuối năm 1962

- Bộ Tổng Tham mưu thực hiện hai biểu biên chế thời chiến và thời bình.


Biên chế thời chiến (đủ quân số) cho các đơn vị bộ binh thường trực chiến đấu, bộ đội phòng không, không quân và hải quân. Biên chế thời bình cho các đơn vị không đủ quân số theo biên chế và đơn vị khung gồm cán bộ và nhân viên kỹ thuật. Số cán bộ ngoài biên chế được dự trữ ở các cơ quan, nhà trường. Cán bộ chiến sĩ phục viên về địa phương và chuyển sang các ngành kinh tế, văn hóa được đăng ký vào ngạch dự bị và tăng cường cho lực lượng dân quân tự vệ, khi có nhu cầu sẽ gọi trở lại quân đội.

- Đoàn 559 được tăng cường quân số, phương tiện mở rộng tuyến vận tải chiến lược. Lực lượng gồm 6.000 người, tổ chức thành hai trung đoàn 70 và 71, một số tiểu đoàn, đại đội công binh, vận tải, giao liên. Phương tiện có hơn 1.000 xe thồ, một số xe ô tô và voi, lừa, ngựa để vận chuyển.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:28:06 pm

Năm 1963

Tháng 1.

- Khu 5 mở đợt sinh hoạt chính trị trong các đảng bộ, lực lượng vũ trang tập trung, khắc phục tư tưởng ngại đánh xe bọc thép địch, rút kinh nghiệm thực hiện phương châm “hai chân ba mũi” trong chống càn quét và phá “ấp chiến lược”.

- Đoàn 555 (thành lập năm 1962) đổi phiên hiệu là đoàn 1.500, lực lượng gồm 3 tiểu đoàn, một tiểu đoàn đứng chân ở khu vực sông Ráy, một tiểu đoàn ở nam Bưng Biềng (bến Thá) và một tiểu đoàn ở rừng Sác (tỉnh Bà Rịa).

Đoàn trưởng: Mai Văn Vĩnh (Tư Phúc).
Chính ủy: Sáu Chí.


2 tháng 1.

Chiến thắng Ấp Bắc


Bộ Chỉ huy Quân khu 8 và Tỉnh đội Mỹ Tho chủ động bố trí lực lượng, kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, đánh bại cuộc càn lớn của 8 tiểu đoàn quân chủ lực ngụy, có 35 máy bay các loại, 13 xe bọc thép M113 và 13 tàu chiến, 10 khẩu pháo 105 ly, do cố vấn Mỹ chỉ huy ở Ấp Bắc (xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho).

Lực lượng vũ trang tham gia trận đánh có đại đội 1 (tiểu đoàn 261) chủ lực Khu 8, đại đội 1 (tiểu đoàn 515) bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho, trung đội bộ đội địa phương huyện Châu Thành và trung đội du kích xã Tân Phú Trung, do đồng chí Hai Hoàng (tức Nguyễn Văn Điều) tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 261 chỉ huy.

Sau một ngày chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 450 tên địch, bắn rơi và bắn hỏng 16 máy bay, phá hủy 3 xe M113, bắn chìm 2 tàu chiến, đánh bại hai chiến thuật chủ yếu trong “chiến tranh đặc biệt” là “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của quân chủ lực cơ động ngụy do cố vấn Mỹ chỉ huy. Phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” phát triển mạnh trên khắp chiến trường miền Nam.


20 tháng 1.

Thành lập Trường sĩ quan Biên phòng
. Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan có đủ năng lực phẩm chất đảm đương một trong các nhiệm vụ: sĩ quan chỉ huy, đồn trưởng hoặc đồn phó đồn biên phòng; sĩ quan chính trị, phó đồn trưởng đồn biên phòng; sĩ quan trinh sát, phó đồn biên phòng hoặc đội trưởng trinh sát biên phòng.


13-17 tháng 3.

Quân và dân Đồng Tháp Mười đánh bại cuộc càn “Đức Thắng” của 9.000 quân ngụy, có nhiều máy bay và xe thiết giáp hỗ trợ, do tướng Huỳnh Văn Cao chỉ huy.


Tháng 6.

- Quân ủy Trung ương đánh giá kết quả xây dựng quân đội những năm 1961-1963, thông qua kế hoạch phòng thủ miền Bắc
gồm phương án tác chiến, kế hoạch động viên, mở rộng lực lượng vũ trang thời kỳ đầu chiến tranh, chuyển dần kinh tế từ thời bình sang thời chiến.

- Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu, chế thử thành công súng CKC.


12-19 tháng 6.

Lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một đánh bại trận càn của một trung đoàn địch ở Bến Cát. Lực lượng vũ trang Khu 5 đánh bại một số cuộc hành quân càn quét của địch ở đông Plây Cu, tây Quảng Ngãi và Bình Định.


Cuối tháng 7.

Thành lập Đoàn 763
, đơn vị mở đường Trường Sơn ở Hạ Lào. Nhiệm vụ: giúp Quân khu Hạ Lào xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, mở thêm tuyến đường chi viện chiến trường miền Nam. Đoàn tổ chức thành hai bộ phận: bộ phận giúp Quân khu Hạ Lào do đồng chí Lê Kính phụ trách. Bộ phận mở đường giao liên từ phía Bắc vào đến sông Sa Thầy (Gia Lai - Công Tum) do đồng chí Đức Phương phụ trách.


Đầu tháng 8.

Thường trực Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho hải quân phụ trách vận chuyển vũ khí theo đường biển từ Bắc vào Nam. Tuyến vận tải đường biển do Đoàn 759 phụ trách tăng nhịp độ và quy mô vận tải, đưa được 1.318 tấn hàng, trong đó có nhiều súng cối, ĐKZ, súng máy cao xạ 12,7 ly, và một số cán bộ cao cấp, trung cấp của Đảng và quân đội vào các chiến trường Khu 7, 8, 9 an toàn (từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1962).


26 tháng 8.

Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thành công súng và đạn B50 có tính năng như B40 của Liên Xô.


Đêm 9 rạng 10 tháng 9.

Hai tiểu đoàn chủ lực Khu 9 (Tây Nam Bộ) và tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau dưới sự chỉ huy của đồng chí Phạm Thái Bường, trưởng ban quân sự khu, tiến công tiêu diệt hai chi khu quân sự Đầm Dơi và Cái Nước.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:29:24 pm

18 tháng 10.

Tiểu đoàn bộ binh 5 (trung đoàn 2 chủ lực Miền) được tăng cường một đại đội đặc công diệt một đại đội bảo an địch ở đồn Cây Trường, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một). Trong trận này, tiểu đội trưởng Trừ Văn Thố đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đồng đội diệt đồn địch. Anh là người thứ ba trong quân đội ta (sau Trần Cừ trong trận Đông Khê ở chiến dịch Biên Giới và Phan Đình Giót ở Điện Biên Phủ) lấy thân mình lấp lỗ châu mai, nêu gương hy sinh cao cả vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Liệt sĩ Trừ Văn Thố được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và là chiến sĩ đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Nam được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


19 tháng 10.

Thành lập Cục Phòng không nhân dân
(quyết định số 47 của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh) thuộc Bộ Tổng Tham mưu.


22 tháng 10.

Thành lập Quân chủng Phòng không - Không quân
(trên cơ sở hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân), (quyết định số 50 của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh). Quân chủng Phòng không - Không quân gồm ba binh chủng:

Binh chủng Pháo cao xạ có 11 trung đoàn (220, 230, 260, 240, 250, 210, 280, 234, 218, 224, 228) và 2 tiểu đoàn (217, 270) gồm 72 đại đội pháo cao xạ các loại (27 đại đội pháo cao xạ 100 ly, 6 đại đội pháo cao xạ 90 ly, 7 đại đội pháo cao xạ 88 ly, 5 đại đội pháo cao xạ 85 ly, 26 đại đội pháo cao xạ 57 ly, 1 đại đội pháo cao xạ 37 ly).

Binh chủng Ra-đa có ba trung đoàn (290, 291, 292) gồm 18 đại đội ra-đa (26 máy) và ba đại đội quan sát mắt.

Binh chủng Không quân có trung đoàn không quân vận tải 919, trung đoàn huấn luyện 910, trung đoàn không quân tiêm kích 921 (gồm ba đại đội máy bay MIG 17A đang học tập ở nước ngoài).

Tư lệnh Quân chủng: Phùng Thế Tài.
Chính ủy: Đặng Tính.


Tháng 10.

- Thành lập Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.


Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Ủy viên Trung ương Đảng: Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Quân ủy.

Trung tướng Trần Văn Trà - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó tổng Tham mưu trưởng: Tư lệnh.

- Đoàn pháo binh chủ lực Miền mang phiên hiệu U.80 (tương đương trung đoàn) được thành lập gồm bốn tiểu đoàn pháo cối Z35, Z37, Z39, Z41 và một tiểu đoàn súng máy cao xạ 12,7 ly (Z.36).

Đoàn trưởng: Lương Văn Nho (tức Hai Nhã).
Chính ủy: Hoàng Minh Khanh (tức Đào Sơn Tây).

Tại miền Tây Nam Bô, thành lập đoàn 480 pháo binh gồm ba tiểu đoàn 198, 217, 700 pháo cối và súng máy cao xạ.

- Cục Nghiên cứu Kỹ thuật (Bộ Quốc phòng) và Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công mìn định hướng sát thương bộ binh, chống các loại xe vận tải, xe thiết giáp, tàu, thuyền trên sông.


1 tháng 11.

Điều chinh địa giới Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn, tổ chức lại với tên mới là Quân khu Đông Bắc và Quân khu 3.


23 tháng 11.

Bộ đội địa phương tỉnh Long An tiến công trại huấn luyện biệt kích Đức Hòa (Hiệp Hòa), diệt và bắt 170 tên, thu 540 súng các loại.


24 tháng 11.

Bộ đội chủ lực Khu 9 phối hợp với bộ đội địa phương Cà Mau tiến công cứ điểm Chà Là (xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Đước) diệt và làm bị thương hàng trăm tên.


30 tháng 11.

Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công súng cối 81 ly.


13 tháng 12.

Bộ Quốc phòng ra các quyết định (số 68, 69, 70/QĐ) chuyển lữ đoàn 350 thành sư đoàn bộ binh 350 và thành lập trung đoàn pháo cao xạ 213 thuộc Quân khu 3; chấn chỉnh lữ đoàn 316 và trung đoàn 148 thành sư đoàn bộ binh 316.


31 tháng 12.

Trung đoàn bộ binh 2 chủ lực Miền đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 32 “Cọp Đen” sư đoàn 5 ngụy, do cố vấn Mỹ chỉ huy tại ấp Đường Long, xã Thanh Tuyền, huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một).


Tháng 12.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: “Một trong những nhiệm vụ cụ thể quan trọng vào bậc nhất là phải khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh mau chóng... Ba thứ quân của lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam (quân chủ lực, quân địa phương và dân quân du kích) đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng ... Trong việc xây dựng quân đội, phải bảo đảm phát huy dân chủ và kỷ luật nghiêm minh, thực hiện cán binh đoàn kết nhất trí, quân dân đoàn kết nhất trí …”


Cuối năm 1963.

Thành lập các đoàn hậu cần 81, 82, 83, 84 thuộc Bộ tư lệnh Miền
. Đoàn 81 hoạt động trên địa bàn chiến khu Đ (Khu A). Đoàn 82 ở chiến khu Dương Minh Châu (khu B). Đoàn 83 ở vùng Bến Cát, Thủ Dầu Một (khu C). Đoàn 84 ở khu vực Bà Rịa (khu E). Mỗi đoàn hậu cần có thể bảo đảm cho một trung đoàn chủ lực tác chiến trên một hướng chiến dịch.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:31:22 pm

NĂM 1964

Đầu tháng 1.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổng kết kinh nghiệm (về chiến lược) cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
. Các cơ quan thuộc Bộ Tổng tư lệnh, các quân khu, quân chủng, binh chủng và sư đoàn tổng kết, nghiên cứu các vấn đề chiến dịch, chiến thuật.


3 tháng 1.

Thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân
trên cơ sở Cục Hải quân (quyết định số 01/QĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: “Chỉ huy, lãnh đạo xây dựng Quân chủng Hải quân, đảm nhận nhiệm vụ hoạt động chiến đấu trên không phận, hải phận, bờ biển miền Bắc”.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Tạ Xuân Thu.
Phó tư lệnh: đại tá Nguyễn Bá Phát.


9 tháng 1.

Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất, bàn kế hoạch triển khai hệ thống phòng không ba thứ quân và các biện pháp phòng tránh, sơ tán nhằm bảo vệ tài sản, tính mạng nhân dân, sẵn sàng đánh trả không quân Mỹ xâm phạm miền Bắc, hạn chế thiệt hại do chúng gây ra.


17 tháng 1.

Tiểu đoàn 263 bộ đội địa phương Bến Tre phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc càn quét của bốn chiến đoàn thủy quân lục chiến, một tiểu đoàn bộ binh (sư đoàn 7) và sáu đại đội biệt kích cùng nhiều máy bav, tàu chiến, pháo lớn, do cố vấn Mỹ chỉ huy tại Thạnh Phú.


24 tháng 1.

Đoàn 559 thuộc Tổng tư lệnh chuyển thuộc Tổng cục Hậu cần
(quyết định số 19/QĐ của Bộ Quốc phòng).


Tháng 1.

Đoàn 559 được tăng cường thêm hai trung đoàn công binh 83, 98 và tiểu đoàn công binh sư đoàn 325 mở đường vận tải cơ giới từ đường số 9 vào Bạc và Tà Xẻng.


27 - 1 đến 12 - 2.

Bộ Tư lệnh Quân khu 4 sử dụng hai trung đoàn 95 và 101 (sư đoàn 325), tiểu đoàn 3 (lữ đoàn 324), hai tiểu đoàn biên phòng 927 và 929, hai đại đội pháo và súng cối, một đại đội súng máy phòng không, một trung đội đặc công, hỗ trợ bạn mở chiến dịch 128, tiến công địch ở khu vực đường số 8 và số 12 (Trung Lào).

Tư lệnh chiến dịch: Nguyễn Ích Tỉ.
Chính ủy: Quách Sĩ Kha.

Bộ đội tình nguyện cùng với nhân dân và lực lượng vũ trang bạn, loại khỏi vòng chiến đấu 800 tên địch, giải phóng nhiều vùng ở Trung Lào.


28 tháng 1.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 27/QĐ) đặt Thành đội Hà Nội trực thuộc Quân khu 3, do Bộ Tư lệnh Quân khu 3 chỉ huy, quản lý mọi mặt. Ngày 1 tháng 9, Bộ Quốc phòng quyết định (số 102/QĐ) thành lập Bộ Tư lệnh Thủ Đô, thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Hà Nội.


29 tháng 1.

Đoàn 759 thuộc Bộ Tổng Tham mưu đổi phiên hiệu thành Đoàn 125
(quyết định số 30/QĐ của Bộ Quốc phòng) thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đoàn 125 biên chế hai tiểu đoàn tàu vận tải và một tiểu đoàn huấn luyện nghiệp vụ hàng hải, cơ điện, súng pháo, thông tin... Nhiệm vụ: vận chuyển hàng bằng đường biển từ miền Bắc vào Nam Bộ, cực nam Trung Bộ và Khu 5.


Tháng 1 - tháng 5.

Bộ đội đặc công và biệt động miền Nam tập kích nhiều vị trí địch ở nội thành Sài Gòn: sân bay Tân Sơn Nhất (18-1), rạp Kinh Đô (16-2), đánh chìm tàu Ca-đơ trọng tái 15.000 tấn trên sông Sài Gòn (2-5)... Chiến sĩ biệt động Nguyễn Văn Trỗi gài mìn ở cầu Công Lý (Sài Gòn) nơi bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Mac Na-ma-ra sẽ đi qua. Kế hoạch bị lộ, Nguyễn Văn Trỗi bị địch bắt và giết hại. Sự kiện Nguyễn Văn Trỗi làm xúc động nhân dân cả nước và bè bạn trên thế giới. Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi được truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” (1965).


3 tháng 2.

Thành lập trung đoàn không quân tiêm kích 921
(quyết định số 18/QĐ của Bộ Quốc phòng), gồm 160 phi công được đào tạo ở nước ngoài, trang bị 36 máy bay (có 32 MIG.17, bốn máy bay huấn luyện MIG.15).

Trung đoàn trưởng: trung tá Đào Đình Luyện.
Chính ủy: thiếu tá Đỗ Long.


Đầu tháng 3.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định chuyển một bộ phận lực lượng vũ trang trên miền Bắc, trong đó có Quân chủng Phòng không - Không quân từ trạng thái thời bình sang trạng thái có tính chất thời chiến.


13 tháng 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và nói chuyện
với đại đội 130 pháo cao xạ bảo vệ Hà Nội. Bác chỉ thị: “Các chú phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu, phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Muốn làm được như vậy, các chú phải ra sức rèn luyện kỹ thuật cho giỏi. Cán bộ, chiến sĩ cần đoàn kết chặt chẽ, thương yêu nhau như con một nhà”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:33:00 pm

13-3 đến 26- 6.

Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc sử dụng sư đoàn 316 và lữ đoàn 335, tiểu đoàn 8 (sư đoàn 304) tiểu đoàn 925 (Quân khu 4) và 14 đại đội biên phòng phối hợp với 2 tiểu đoàn bộ đội Pa-thét Lào mở chiến dịch 74A, tiến công địch ở Cánh Đồng Chum (Lào).

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm Tư lệnh: Bằng Giang; Chính ủy: Sin-ca-pô (Pa-thét Lào) và đại tá Đươn (phái trung lập Lào). Kết quả: bạn và ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thu 30 khẩu pháo, 195 ĐKZ và súng cối, 19 xe tăng, 13 xe AM, 81 ô tô, bắn rơi 4 máy bay, giải phóng toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum.


Tháng 3.

Thành lập tiểu đoàn trinh sát đặc công 74B
gồm chín đội huấn luyện cán bộ, chiến sĩ trinh sát cho toàn quân và tăng cường cho chiến trường miền Nam, bốn đội (S1, S2, S3, S4) huấn luyện chiến sĩ đặc công làm nhiệm vụ quốc tế.

Tiểu đoàn trưởng: Nguyễn Kim Huống.
Chính trị viên: Hoàng Thái Thuận.


27-28 tháng 3.

Tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Người giao nhiệm vụ: “Quân đội và các lực lượng vũ trang nhân dân... Phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự trị an, kiên quyết đập tan mọi hành động của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng”.


4-8 tháng 4.

Bộ đội chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công chi khu quân sự Vĩnh Thuận (Rạch giá) diệt hơn 1.000 tên địch, bắt 300 tên (trong đó có tên chỉ huy chi khu), bắn rơi 2 máy bay, thu nhiều vũ khí.


Tháng 4 đến tháng 5.

Trung đoàn 1 chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bình Dương, Gia Định đánh bại các cuộc càn quét lớn của quân chủ lực ngụy tại bắc Suối Đá (Tây Ninh), Bến Súc (Thủ Dầu Một), An Nhơn (Gia Định), hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược ở Bình Mỹ, Bình Cơ, Nhà Đỏ, Chánh Lưu; mở rộng vùng giải phóng ở phía bắc Sài Gòn.


23 tháng 4 đến 22 tháng 5.

Lực lượng vũ trang Khu 5 đánh bại cuộc tiến công của 10 tiểu đoàn địch vào căn cứ Đỗ Xá, huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi), diệt và làm bị thương hơn 5.000 tên, bắn rơi và bắn hỏng 39 máy bay lên thẳng.


27 tháng 4.

- Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 49/QĐ-QP) thành lập Trường sĩ quan Công binh
. Nhiệm vụ: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung đội, đại đội ngắn hạn, đào tạo cán bộ kỹ thuật các cơ quan nhà nước chuyển vào quân đội, đào tạo sĩ quan dự bị ngành công binh cho học sinh tốt nghiệp đại học bách khoa.

- Bộ Quốc phòng ra nghị định (số 61) tách hệ đào tạo chính trị viên đại đội ra khỏi Trường sĩ quan Lục quân để thành lập Trường Chính trị sơ cấp.


1 tháng 5.

Thành lập Mặt trận Tây Nguyên (B3)
đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh; đồng thời chịu sự lãnh đạo của Khu ủy 5 và quan hệ mật thiết với Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 5. Nhiệm vụ: xây dựng Tây Nguyên thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn, có quân chủ lực mạnh làm nòng cốt thúc đẩy lực lượng vũ trang ba thứ quân, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, thu hút giam chân quân chủ lực địch, tạo điều kiện cho đồng bằng và thành phố nổi dậy. Phối hợp với lực lượng vũ trang Trị - Thiên, Khu 5, Đông Nam Bộ tiến công địch trong thời điểm chiến lược.

Tư lệnh: đại tá Nguyễn Chánh.
Chính ủy: đại tá Đoàn Khuê.


28 tháng 5.

Chuyển Cục Phòng không nhân dân trực thuộc Cục Động viên dân quân - Bộ Tổng Tham mưu (quyết định số 60/QĐ của Bộ Quốc phòng).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:33:57 pm

29 tháng 6.

Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân Mỹ”.

Lực lượng vũ trang trên miền Bắc phải sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết tiêu diệt địch nếu chúng xâm phạm miền Bắc, đẩy mạnh chi viện miền Nam. Các lực lượng vũ trang ở miền Nam phải đánh cho địch những đòn thiệt hại nặng nề hơn nữa, phối hợp bảo vệ miền Bắc. Tích cực giúp đỡ cách mạng Lào, cùng với bạn đẩy mạnh hoạt động khi địch đánh phá miền Bắc.


Cuối tháng 6.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng ra mệnh lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu trong các lực lượng vũ trang trên toàn miền Bắc.


Tháng 6.

Trung đoàn pháo cao xạ 234 (Quân chủng Phòng không - Không quân) và tiểu đoàn 24 pháo cao xạ (Quân khu 4) phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào chiến đấu trên đường số 7, bắn rơi sáu máy bay T.28 của địch.


4 tháng 7.

Tiểu đoàn 407 đặc công, tiểu đoàn 300 súng máy cao xạ và tiểu đoàn 200 pháo cối chủ lực Tây Nguyên tập kích trung tâm huấn luyện biệt kích ngụy ở Plây Cơ Rông (bắc Công Tum) diệt và làm bị thương 500 tên, bắt 65, thu 170 súng các loại.


Tháng 7.

Thành lập Trường sĩ quan Pháo cao xạ
thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân (quyết định số 79/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội pháo phòng không.


2 tháng 8.

Phân đội 3 gồm ba tàu phóng lôi 333, 336, 339 (Đoàn 135, Bộ Tư lệnh Hải quân) đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc.


5 tháng 8.

Hải quân nhân dân Việt Nam cùng bộ đội phòng không, lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Ninh đánh bại cuộc tiến công “Mũi tên xuyên” của không quân Mỹ, bắn rơi tám máy bay.

Ngày 5 tháng 8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam.


6 tháng 8.

Trung đoàn không quân tiêm kích 921 (đoàn Sao Đỏ) từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) trở về sân bay Nội Bài, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng trời Tổ quốc.


6 và 7 tháng 8.

Trung đoàn 2 chủ lực Khu 5 và tiểu đoàn 409 đặc công phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công ba cứ điểm 193, Đồi Mít, Hội Long và chi khu quân sự An Lão (Bình Định), diệt và bắt gần 700 tên địch, phá hủy 6 xe M.113, thu hơn 600 súng các loại, giải phóng huyện An Lão gồm 11.000 dân.


7 tháng 8.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng Huân chương Quân công (2 hạng hai và 8 hạng ba) cho 10 đơn vị phòng không và không quân đã có thành tích đánh đuổi tàu chiến Mỹ, bắn rơi máy bay Mỹ trong các ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964.

Cùng ngày, Bộ Tổng tư lệnh tổ chức lễ tuyên dương công trạng các đơn vị đánh thắng địch trong ngày 5 tháng 8. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “cần rút kinh nghiệm để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm..., tiếp tục đẩy mạnh mọi công tác và luôn luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc".


9 tháng 8.

- Tiểu đoàn 90 trung đoàn 1, chủ lực Khu 5 tiến công “ấp chiến lược” Kỳ Sanh (Quảng Nam), đánh bại một tiểu đoàn quân tiếp viện, phá hủy tám xe M.113. Lần đầu tiên bộ đội chủ lực Khu 5 đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của địch.

- Thanh niên thủ đô Hà Nội phát động phong trào “Ba sẵn sàng”: sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng nhập ngũ; sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần. Tuổi trẻ trên miền Bắc đã nhiệt liệt hưởng ứng phong trào này. Tiếp sau phong trào “Ba sẵn sàng”, trong nữ thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động phong trào “Phụ nữ Ba đảm đang”: đảm đang sản xuất và công tác; đảm đang việc nhà; đảm đang chiến đấu và phục vụ chiến đấu thay chồng con ra trận. Tuổi trẻ miền Nam có phong trào “Năm xung phong”: xung phong tiêu diệt nhiều sinh lực địch; xung phong tòng quân diệt giặc; xung phong đấu tranh chính trị ở đô thị và nông thôn; xung phong phục vụ tiền tuyến, vào các đội thanh niên xung phong; xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội.

Đây là những phong trào quần chúng rộng rãi và sôi nổi của tuổi trẻ cả nước quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.


25-26 tháng 9.

Bộ Chính trị họp quyết định “động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, tập trung mọi khả năng, lực lượng để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm sắp tới. Tăng cường xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, đặc biệt là chủ lực.

Về du kích, cần tổ chức mỗi thôn từ một tiểu đội, mỗi xã từ một vài trung đội đến đại đội du kích, có năng lực chống càn, phục kích đánh giao thông, đánh cơ giới, bắn máy bay lên thẳng...

Về bộ đội địa phương, mỗi tỉnh cần tổ chức một vài tiểu đoàn, có khả năng bắn máy bay, đánh xe cơ giới.

Về xây dựng lực lượng chủ lực, không những phải chú trọng về số lượng mà đặc biệt phải chú trọng về chất lượng. Bộ đội chủ lực phải có trình độ kỹ thuật, chiến thuật và giác ngộ chính trị cao, trang bị hỏa lực mạnh, trình độ chỉ huy của cán bộ phải giỏi...".


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 02:35:41 pm

11 tháng 10.

Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động đông xuân 1964-1965. Ở Nam Bộ, lấy Long Khánh - Bình Tuy hoặc Bình Long - Phước Long làm hướng điểm; Khu 5 có thể hoạt động trên cả hai hướng nam Quảng Ngãi và bắc Bình Định, trọng điểm là khu vực từ đường số 9 đến đường số 5 và một hướng trên đường số 14, Tây Nguyên. Để giành lợi thế về thời cơ, Nam Bộ có thể nổ súng trước, sau đó là các chiến trường phối hợp.


Tháng 10.

Bộ Chính trị cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương vào chiến trường làm Chính ủy Miền. Cùng vào chiến trường đợt này có Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Trần Độ, đại tá Hoàng Cầm và nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp có kinh nghiệm xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy đánh lớn.


31 tháng 10.

Đoàn 563 pháo binh thuộc Bộ Tư lệnh Miền tập kích hỏa lực sân bay Biên Hòa, phá hủy 13 máy bay B.57 địch, gây tiếng vang lớn. Sau trận đánh, đoàn 563 pháo binh Miền Được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất và vinh dự mang tên “Đoàn pháo binh Biên Hòa”


18 tháng 11.

Tại Cha Lo (miền Tây Quảng Bình) đại đội 3 tiểu đoàn 14 pháo cao xạ 37 (sư đoàn bộ binh 325) do đại đội trưởng Lê Hữu Mai và chính trị viên Nguyễn Viết Xuân chỉ huy, bắn rơi một máy bay RF.101 và hai chiếc T.28. Lời hô “Nhằm thẳng quân thù, bắn” của chính trị viên Nguyễn Viết Xuân trong trận đánh trở thành khẩu lệnh chiến đấu của bộ đội phòng không - không quân và các lực lượng vũ trang nhân dân trên miền Bắc trong suốt những năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.


20 tháng 11.

Trung đoàn bộ binh 95 (sư đoàn bộ binh 325), trung đoàn chủ lực cơ động đầu tiên hành quân đội hình trung đoàn từ Quảng Bình vượt Trường Sơn vào Tây Nguyên với đầy đủ quân số và trang bị. Tiếp đó, hai trung đoàn 101 và 18 (sư đoàn bộ binh 325) tiếp tục hành quân đội hình trung đoàn vào chiến trường. Các trung đoàn mới trong đội hình sư đoàn 325 được thành lập mang phiên hiệu 95B, 101B, 18B.


Tháng 11.

Quân ủy Trung ương xác định 11 nguyên tắc tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân.


1. Tích cực tiêu diệt sinh lực địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta.

2. Đánh chắc thắng, đánh có tổ chức, có chuẩn bị, đánh thắng trận đầu.

3. Phối hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.

4. Tập trung lực lượng, tiêu diệt từng bộ phận quân địch.

5. Tiến công kiên quyết, liên tục, phòng ngự tích cực, ngoan cường.

6. Bố trí binh lực có trọng điểm, nắm lực lượng dự bị mạnh.

7. Độc lập tác chiến, chủ động phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ.

8. Phát huy sở trường đánh gần, đánh đêm, đánh liên tục.

9. Kết hợp chặt chẽ chính trị với quân sự, tác chiến với binh vận.

10. Phát huy ưu thế chính trị, tinh thần chiến đấu kiên cường, chiến thắng quân địch có ưu thế trang bị kỹ thuật.

11. Tích cực chủ động, cơ động linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, bí mật bất ngờ.


2-12-1964 đến 3-1-1965.

Chiến dịch Bình Giã


Lực lượng tham gia: hai trung đoàn bộ binh 1 và 2, đoàn 80 pháo binh chủ lực Miền, hai tiểu đoàn bộ binh 500 và 800 (Quân khu 7), tiểu đoàn bộ binh 186 (Quân khu 6) và lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch.

Ban chỉ huy chiến dịch có các đồng chí: Trần Đình Xu chỉ huy trưởng; Lê Văn Tưởng chính ủy; Nguyễn Hòa phó chỉ huy trưởng kiêm tham mưu trưởng; Nguyễn Văn Bứa phó chỉ huy trưởng; Lê Xuân Lựu chủ nhiệm chính trị.

Trong hơn một tháng chiến đấu, các đơn vị đã đánh năm trận cấp trung đoàn, hai trận cấp tiểu đoàn, diệt hai tiểu đoàn chủ lực ngụy (có một tiểu đoàn thuộc lực lượng dự bị chiến lược, đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch.

Đây là chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực trên chiến trường Nam Bộ và cực nam Trung Bộ, một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự thất bại của Mỹ-ngụy trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.


22 tháng 12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội
. Bác nói: ..."Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

“Toàn quân ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, hăng hái thi đua yêu nước với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai để xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững mạnh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà”.


24 tháng 12.

Một tổ biệt động cụm3-4-5 (Sài Gòn) tập kích khách sạn Brinh ở trung tâm thành phố Sài Gòn. Oét-mo-len thú nhận: hai cố vấn Mỹ chết, hơn 100 bị thương (có 66 Mỹ).


Tháng 12.

Thành lập trung đoàn bộ binh 3 chủ lực Miền. Nòng cốt là các đơn vị vũ trang tập trung được điều động từ miền Tây, miền Trung Nam Bộ lên và một số cán bộ, chiến sĩ được huấn luyện chính quy trên miền Bắc,

Trung đoàn trưởng: Võ Minh Thư (Chín Cần).
Chính ủy: Lê Thanh.


Cuối năm 1964.

Cục nghiên cứu Khoa học quân sự (Bộ Tổng Tham mưu) và Tạp chí "Quân đội nhân dân” hội thảo tám vấn đề tư tưởng chiến thuật vận dụng trong nghiên cứu, biên soạn tài liệu và tổ chức huấn luyện chiến thuật:

1. Phát huy ưu thế chính trị và tinh thần, tận dụng mọi trang bị để đánh thắng.
2. Tích cực tiêu diệt địch.
3. Đánh chắc thắng.
4. Tập trung lực lượng ưu thế hơn địch, tiêu diệt gọn từng bộ phận quân địch.
5. Tiến công kiên quyết, phòng ngự tích cực, ngoan cường.
6. Đoàn kết hiệp đồng, tự động chi viện, độc lập tác chiến.
7. Tích cực chủ động, cơ động, mưu trí, linh hoạt.
8. Đánh liên tục, phát huy sở trường đánh gần, đánh đêm.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:36:16 pm

NĂM 1965

Tháng 1.

Hội đồng Quốc phòng quyết định phương hướng, nhiệm vụ công tác quốc phòng trước mắt của miền Bắc:


1. Tăng cường công tác phòng thủ, trị an và sẵn sàng chiến đấu cao.

2. Ra sức xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và lực lượng hậu bị đúng với đường lối quân sự của Đảng, với truyền thống, kinh nghiệm và điều kiện thực tế của ta, đủ sức đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

3. Tích cực xây dựng và củng cố miền Bắc về mọi mặt, kết hợp yêu cầu kinh tế với yêu cầu quốc phòng, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng thêm tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước.


7 tháng 1.

Thành lập trung đoàn tên lửa phòng không 236
(đoàn Sông Đà). Trung đoàn trưởng: Nguyễn Quang Tuyến, chính ủy: Phạm Đăng Ty. Ngày 1 tháng 5, trung đoàn bước vào huấn luyện. Đây là trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của quân đội ta.


1 tháng 2.

Đại đội 13 (trung đoàn pháo binh 34, sư đoàn 341) bắn cháy một tàu biệt kích ngụy bằng pháo 57 ly ở vùng biển Vĩnh Linh.


7 tháng 2.

Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 tiến công chi khu quân sự Việt An (Quảng Nam) và đánh địch giải tỏa tỉnh lộ số 6, diệt hàng trăm tên, bắn rơi ba máy bay lên thẳng, bắn cháy tám xe M.113.

Tiểu đoàn 70 bộ đội địa phương Quảng Nam phối hợp với du kích, phá 10 “ấp chiến lược” giải phóng nhiều xã thuộc hai huyện Quế Sơn và Thăng Bình.

Trung đoàn 2 chủ lực Quân khu 5 tiến công cứ điểm Dương Liễu và vận động phục kích địch ở Đèo Nhông (Bình Định), loại khỏi vòng chiến đấu hai tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn xe bọc thép M.113.

Tiểu đoàn 409 đặc công Quân khu 5 tập kích sân bay Plây Cu và trại lính Mỹ Hô-lô-uây (Plây Cu), diệt và làm bị thương 107 tên, phá hủy 47 máy bay trực thăng.


7-11 tháng 2.

Các đơn vị bộ đội phòng không, hải quân và lực lượng phòng không các tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh, Nghệ An đánh trả quyết liệt máy bay địch, bắn rơi 22 chiếc; riêng ngày 11 tháng 2, bắn rơi 9 chiếc, bắn bị thương một số máy bay khác.


Tháng 2.

Viện Kỹ thuật quân sự và Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) thiết kế chế tạo thiết bị phóng tên lửa A.12, bằng phương pháp ứng dụng mới rất hiệu lực.


15 tháng 3.

Dân quân xã Diễn Hùng (Diễn Châu, Nghệ An) dùng súng trường bắn rơi một máy bay phản lực A.4 Mỹ, mở đầu phong trào thi đua bắn rơi máy bay phản lực hiện đại Mỹ bằng súng bộ binh trong dân quân tự vệ toàn miền Bắc.


18 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 18/QĐ-QP) thành lập trung đoàn công binh công trình và cầu đường 279 trực thuộc Cục Công binh, gồm ba tiểu đoàn (quân số 1.184 người). Đến tháng 9, trung đoàn được điều động vào công tác ở Đoàn 559.


25-27 tháng 3.

Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định cả nước đã có chiến tranh, miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn. Trung ương Đảng quyết định:

“Động viên quân và dân cả nước phát triển thế chủ động tiến công địch. Nhanh chóng mở rộng bộ đội thường trực, tăng cường sức mạnh quốc phòng, tranh thủ sự giúp đỡ tới mức cao nhất về mặt quân sự của các nước anh em”. Nhiệm vụ của quân đội là “Kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch”, “chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra”, “ra sức giúp đỡ cách mạng Lào”.


30 tháng 3.

Cụm biệt đồng 3-4-5 (Sài Gòn) do đồng chí Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) chỉ huy tập kích tòa đại sứ Mỹ ở trung tâm thành phố, diệt và làm bị thương hơn 100 tên Mỹ.


31 tháng 3.

- Quân ủy Trung ương phát động phong trào thi đua: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong các lực lượng vũ trang nhân dân.

- Quân và dân Hà Tĩnh bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 100 trên miền Bắc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:37:27 pm

3 tháng 4.

- Biên đội MIG.17 do biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan chỉ huy bắn rơi hai chiếc F.8. Ngày 4 tháng 4, biên đội MIG.17 do biên đội trưởng Trần Hanh chỉ huy bắn rơi hai chiếc F.105. Lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta xuất hiện mặt trận chiến đấu trên không. Ngày 3 tháng 4 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân nhân dân Việt Nam.

- Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết (số 54) chuyển Đoàn 559 thành một đơn vị tương đương cấp quân khu. Nhiệm vụ:

1. Mở đường vận chuyển chi viện người, của cho chiến trường miền Nam và Lào.
2. Bảo đảm ăn ở cho các lực lượng hành quân qua tuyến.
3. Bảo đảm các mặt cho các đơn vị bảo vệ hành lang.
4. Vận chuyển hàng cung cấp cho các đơn vị hành quân ở Lào.
5. Bảo đảm vận chuyển công văn, tài liệu của Trung ương và các cơ quan chỉ đạo cho cách mạng miền Nam.


7-10 tháng 4.

Quốc hội khóa III kỳ họp thứ ba quyết định sửa đổi và bổ sung một số điều trong Luật nghĩa vụ quân sự.


17 tháng 4.

Quân và dân Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 200 trên miền Bắc.


22 tháng 4.

Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ số 34-37):

- Chấn chỉnh lữ đoàn 335 thành trung đoàn 335 thuộc Quân khu Tây Bắc.

- Thành lập ba trung đoàn pháo cao xạ 238, 222 và 216 thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân.

- Chấn chỉnh lữ đoàn 330 thành sư đoàn 330, lữ đoàn 350 thành sư đoàn 350.

- Thống nhất cơ quan tỉnh đội Quảng Ninh vào cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu Đông Bắc.


26 tháng 4.

Thành lập lại Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần
. Nhiệm vụ: thực hiện công tác vận tải quân sự trên các tuyến hậu phương của Tổng cục Hậu cần, vận tải chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam trên tuyến hậu phương miền Bắc và cho chiến trường Trung Lào, Thượng Lào, làm tham mưu cho chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ vận tải quân sự trong toàn quốc.

Cục trưởng: thượng tá Nguyễn Danh Phan.
Chính ủy: thượng tá Trần Minh Chúng (từ ngày 20-5-1965, thượng tá Nguyễn Danh Phan kiêm Chính ủy).


27 tháng 4.

Quân ủy Trung ương chỉ thị cho lực lượng vũ trang trên các chiến trường: “Đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực, mở những đợt hoạt động quy mô chiến dịch cùng lúc trên nhiều hướng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa của quần chúng ở từng khu vực, thúc đẩy nhanh quá trình sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền... chuẩn bị điều kiện đối phó và quyết thắng địch nếu chúng mở rộng thành chiến tranh cục bộ”.


Tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành Luật nghĩa vụ quân sự thời chiến, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu. Trong năm 1965, gần 290.000 người trên miền Bắc tình nguyện vào quân đội; riêng tháng 5, có 150.000 người.


2-6 tháng 5.

Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất
họp tại chiến khu Dương Minh Châu. 150 chiến sĩ thi đua thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích dự đại hội.

Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn nêu rõ: “Đây là đại hội của tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của toàn quân, toàn dân ta, là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang giải phóng của ta”.

Đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đọc quyết định của Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam tuyên dương 23 cán bộ, chiến sĩ là Anh hùng quân giải phóng, trong đó có hai nữ (Tạ Thị Kiều, Nguyễn Thị Út).



5 tháng 5.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh động viên cục bộ
, động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị quân đội nhưng chưa phục vụ tại ngũ, tăng cường lực lượng quốc phòng đến mức cần thiết, bảo đảm cho cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


11-5 đến 22-7.

Chiến dịch Đồng Xoài.


Diễn ra trên địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long (hướng chính) Lâm Đồng, Bình Thuận, Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa (hướng phối hợp).

Lực lượng: ba trung đoàn bộ binh 1,2,3, đoàn pháo binh 80 chủ lực Miền, trung đoàn 4 và hai tiểu đoàn chủ lực Quân khu 7, lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch, các đoàn hậu cần 81, 83 và dân công, thanh niên xung phong các địa phương.

Chỉ huy chiến dịch: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tư lệnh Miền - chỉ huy trưởng; Thiếu tướng Trần Đô, Phó chính ủy Miền - chính ủy, đại tá Hoàng Cầm - tham mưu trưởng.

Sau hơn hai tháng chiến đấu, các đơn vị tham gia chiến dịch loại khỏi vòng chiến đấu 4.459 tên (có 73 Mỹ). Bốn tiểu đoàn chủ lực ngụy, trong đó có tiểu đoàn dù thuộc lực lượng dự bị chiến lược và hàng chục đại đội bảo an bị đánh thiệt hại nặng. Ta thu 1.652 khẩu súng các loại, phá hủy 28 xe bọc thép, 5 xe tăng, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 6 đầu máy và 12 toa xe lửa.

Đây là chiến dịch hiệp đồng bộ binh với pháo binh và đặc công đánh địch trong công sự vững chắc giành thắng lợi lớn, đánh dấu bước trưởng thành mới về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến của bộ đội ta trên chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:39:58 pm

19 tháng 5.

- Thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội
(sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng (sư đoàn phòng không 363) thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân (quyết, định số 66/QĐ của Bộ Quốc phòng).

Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội gồm năm trung đoàn pháo cao xạ: trung đoàn 220 pháo 100 (đoàn Sông Đuống); trung đoàn 260 (đoàn Sông Thương); trung đoàn 224 pháo 100 (đoàn Tô Vĩnh Diện); trung đoàn 230 pháo 57 (đoàn Thống Nhất); trung đoàn 218 pháo 85 (đoàn Hoa Lư) và các cơ quan đơn vị trực thuộc. Tư lệnh: Nguyễn Dương Hán, Chính ủy: Trần Văn Giang.

Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng gồm Tư lệnh: Nguyễn Hữu Ích, Chính ủy: Lương Tý.

- Báo “Quân đội nhân dân" bắt đầu ra hàng ngày.


21 tháng 5.

- Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 68/QĐ) tách Học viện Quân chính thành Học viện Quân sự và Học viên Chính trị thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ của Học viện Chính trị: bổ túc về chính trị cho cán bộ trung cao cấp toàn quân. Giám đốc kiêm Bí thư: Thiếu tướng Tô Ký.

- Thành lập Trường sĩ quan Thông tin (quyết định số 69/QĐ-QP) trên cơ sở sáp nhập khoa thông tin cùng các tiểu đoàn 4 và 5 Trường sĩ quan Lục quân Việt Nam, khoa thông tin và tiểu đoàn 3 Trường sĩ quan Kỹ thuật. Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ chỉ huy trung đội, cán bộ kỹ thuật trung cấp thông tin ngắn hạn (từ ba đến sáu tháng).

- Sáp nhập Trường sĩ quan Kỹ thuật vào Trường sĩ quan Hậu cần (quyết định số 70/QĐ-QP). Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp, trung cấp hậu cần kỹ thuật cho toàn quân.


26 tháng 5.

Chiến thắng núi Thành.


Đại đội 2 (tiểu đoàn 70 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam) được tăng cường tổ đặc công (gồm tám chiến sĩ) diệt một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở núi Thành. Đây là trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Khu 5


27 tháng 5.

Quân và dân Nghệ An bắn rơi chiếc máy bay thứ 300 trên miền Bắc.


28 tháng 5.

Thành lập Cục Liên lạc đối ngoại quân sự. Nhiệm vụ: quản lý và giải quyết mọi công việc có quan hệ với nước ngoài của Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo ra bước phát triển mới của hoạt động đối ngoại quân sự, góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và các lực lượng vũ trang ta với nhân dân và quân đội các nước anh em, bạn bè.


29-5 đến 20-7.

Chiến dịch Ba Gia


Địa bàn: Các huyện Ba Gia, Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi).

Lực lượng: trung đoàn 1 và tiểu đoàn 45 chủ lực Khu 5, hai đại đội pháo 75, một đại đội phòng không và lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch.

Thiếu tướng Chu Huy Mân - Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch.

Sau 51 ngày chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 2.054 tên, thu 973 súng các loại, phá hủy 15 xe quân sự, bắn rơi 1 máy bay.

Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng chiến đoàn, đơn vị ứng cứu lớn nhất của quân chủ lực ngụy, đánh bại biện pháp ứng chiến giải tỏa nhanh bằng đơn vị cấp chiến đoàn của chúng.


Tháng 5.

Viện Kỹ thuật quân sự và Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công vũ khí phá rào; đầu năm 1972, đưa vào sử dụng ở chiến trường Trị-Thiên.


21 tháng 6.

Thành lập Bộ Tư lệnh 350
(trên cơ sở hợp nhất sư đoàn 350 và thành đội Hải Phòng). Nhiệm vụ:

- Thống nhất chỉ huy các đơn vị bộ đội chủ lực Quân khu 3 đứng trên địa bàn thành phố Hải Phòng và bộ đội địa phương, dân quân tự vệ.

- Làm tham mưu cho Thành ủy và chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân trên địa bàn thành phố.

- Chủ trì hiệp đồng tác chiến với các quân chủng, binh chủng có lực lượng chiến đấu bảo vệ Hải Phòng.

Tư lệnh: thượng tá Nguyễn Tiệp.
Chính ủy: thượng tá Đỗ Chính.


22 tháng 6.

Thành lập trung đoàn xe tăng 203
(quyết định số 100/QĐ-QP) và thành lập Bộ Tư lệnh Thiết giáp (quyết định số 101 QĐ-QP). Nhiệm vụ: “lãnh đạo, chỉ huy xây dựng và quản lý các đơn vị xe tăng thiết giáp dự bị của Bộ và làm tham mưu cho Bộ về binh chủng Thiết giáp”.

Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh: hai trung đoàn xe tăng (202,203), một tiểu đoàn huấn luyện, ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần-kỹ thuật) và một số đơn vị trực thuộc.

Tư lệnh: Đào Huy Vũ.
Chính ủy: Lê Ngọc Quang.


28 tháng 6.

Thành lập Bộ Tư lệnh Công binh
(quyết định số 102/QP). Nhiệm vụ:

- Chỉ đạo, chỉ huy xây dựng và quản lý các đơn vị công binh dự bị của Bộ.

- Làm tham mưu cho Bộ về kế hoạch bảo đảm công trình quân sự (công trình chiến đấu, sở chỉ huy, đường sá, sân bay, quân cảng...), giúp Bộ chỉ đạo các quân khu, quân chủng, binh chủng làm các công trình quốc phòng.

- Trực tiếp làm một số công trình do Bộ giao.

- Giúp Bộ chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị công binh quân khu, quân chủng, binh chủng và sư đoàn.

- Cùng các cơ quan nhà nước xây dựng các tuyến giao thông thủy bộ. Lực lượng trực thuộc Bộ tư lệnh có các trung đoàn 239, 249 (vượt sông), 219, 229 (công trình), 83, 98, 279 (cầu đường) và sáu phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần, khí tài, công trình và sân bay).

Tư lệnh: Phạm Hoàng.
Chính ủy: Chu Thành Hương.


Tháng 6.

Thành lập Đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước
, làm nhiệm vụ mở đường, bảo đảm giao thông vận tải ở Quân khu 4 và các tuyến đường vận tải chiến lược vào chiến trường.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:42:46 pm

3 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 114 và 115/QĐ-QP) thành lập trung đoàn thông tin 26 (trên cơ sở tiểu đoàn 26) và thành lập trung đoàn pháo cao xạ 237 thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân.


14 tháng 7.

Thành lập công trường Z.3 tương đương cấp sư đoàn
(quyết định số 116/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng), thuộc Bộ Tư lệnh Công binh. Nhiệm vụ: xây dựng sở chỉ huy cao cấp ở khu căn cứ. Công trường gồm ba trung đoàn công binh kiến trúc 259, 289 và 299.


15 tháng 7.

Thành lập trung đoàn thông tin 132
(quyết định số 118/QĐ của Bộ Quốc phòng) trực thuộc Cục Thông tin liên lạc. Nhiệm vụ: xây dựng các đường dây trần, dây cáp theo quy hoạch chiến lược của Bộ.

Trung đoàn trưởng: Trịnh Am.
Chính ủy: Huỳnh Tình.


24 tháng 7.

Bộ đội tên lửa đánh thắng trận đầu
. Hai tiểu đoàn 63 và 64 (trung đoàn tên lửa phòng không 236) bắn rơi chiếc máy bay F.4C tại Suối Hai, huyện Bất Bạt (Hà Tây). Đây là chiếc máy bay thứ 400 bị bắn rơi trên miền Bắc. Ngày 24 tháng 7 trở thành ngày truyền thống vẻ vang của bộ đội tên lửa Việt Nam.


7 tháng 8.

Đại hội thi đua "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”
của các lực lượng vũ trang nhân dân trên miền Bắc họp tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Xây dựng nhiều đơn vị quyết thắng hơn nữa …, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, ra sức tiêu diệt địch và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó”. 367 đơn vị quân đội, công an nhân dân và dân quân du kích được tặng danh hiệu “Đơn vị Quyết thắng”.


18 tháng 8.

Chiến thắng Vạn Tường.


Trung đoàn 1 (sư đoàn 2) chủ lực Khu 5, đại đội 21 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ngãi dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, đánh bại cuộc càn lớn của 6.000 quân Mỹ, 2.000 quân ngụy có nhiều máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến hỗ trợ tại thôn Vạn Tường, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi).

Sau một ngày chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên Mỹ, phá hủy 22 xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay. Cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn của quân viễn chinh Mỹ bị đánh bại. Quân và dân ta trên chiến trường bước đầu tìm ra cách đánh quân Mỹ.


23 tháng 8.

Thành lập sư đoàn bộ binh 320B
(quyết định số 225/TMH). Biên chế: ba trung đoàn bộ binh 3, 4, 5 và các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần.

Quyền sư đoàn trưởng: Phạm Thanh Sơn.
Quyền chính ủy: Nguyễn Duy Tường.

Ngày 4 tháng 5 năm 1979, sư đoàn 320B đổi phiên hiệu thành sư đoàn 390 (quyết định số 530/CP do Trung tướng Lê Trọng Tấn ký).


26 tháng 8.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm tiểu đoàn 61, trung đoàn 236 bộ đội tên lửa.


29 tháng 8.

- Quân và dân tỉnh Nghệ An bắn rơi chiếc máy hay Mỹ thứ 500 trên miền Bắc.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất cho Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân, quân và dân tỉnh Quảng Bình, Đặc khu Vĩnh Linh; Huân chương Độc lập hạng hai cho Hải quân nhân dân Việt Nam, quân và dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Sơn La.


Tháng 8.

Viện Kỹ thuật quân sự nghiên cứu chế tạo thành công bóng chứa khí nhẹ làm vật chướng ngại trên không chống máy bay địch bay thấp.


2 tháng 9.

- Thành lập sư đoàn bộ binh 9 chủ lực Miền
tại Suối Nhung, tỉnh Phước Thành (Đông Nam Bộ). Biên chế ba trung đoàn: trung đoàn 1 (đoàn Bình Giã), trung đoàn 2 (đoàn Đồng Xoài), trung đoàn 3 vừa được tổ chức gồm một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tiểu đoàn, đại đội binh chủng.

Sư đoàn trưởng: đại tá Hoàng Cầm (Năm Thạch).
Chính ủy: đại tá Lê Văn Tưởng (Lê Chân).

- Thành lập sư đoàn bộ binh 3 chủ lực Quân khu 5 tại xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Nhơn (Bình Định). Biên chế: trung đoàn 2 chủ lực Khu 5 và hai trung đoàn 12, 22 vừa từ miền Bắc hành quân vào.

Sư đoàn trưởng: Giáp Văn Cương.
Chính ủy: Đặng Hòa.


7 tháng 9.

Thành lập trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai
, phiên hiệu 923 thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân.

Trung đoàn trưởng: thiếu tá Nguyễn Phúc Trạch.
Chính ủy: thiếu tá Nguyễn Văn Tiến.

Căn cứ: sân bay Kép (Hà Bắc).


8 tháng 9.

Đại đội 11 pháo bờ biển Vĩnh Linh bắn chìm một tàu biệt kích ngụy.


24 tháng 9.

Quân và dân Vĩnh Linh bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 600 trên miền Bắc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:45:31 pm

10 tháng 10.

Tiểu đội du kích xã An Điền (Bến Cát, Thủ Dầu Một) do xã đội trưởng Út Mối chỉ huy, đánh bại cuộc càn lớn của một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 173 không vận Mỹ, diệt và làm bị thương 150 tên.


15 tháng 10.

Thành lập đoàn pháo binh 69 chủ lực Miền
(đoàn pháo binh Biên Hòa) tương đương sư đoàn. Biên chế hai tiểu đoàn 35 và 52 pháo cối và ĐKZ, tiểu đoàn 34 sơn pháo 75, tiểu đoàn 36 và tiểu đoàn 43 súng máy cao xạ.

Đoàn trưởng: Lương Văn Nho.
Chính ủy: Hoàng Minh Khanh (tức Đào Sơn Tây).


19-10 đến 26-11.

Chiến dịch Plây Me (Tây Nguyên).


Lực lượng tham gia: ba trung đoàn bộ binh (33, 66, 320), tiểu đoàn 952 đặc công, tiểu đoàn 200 pháo binh, tiểu đoàn 32 súng máy phòng không.

Chỉ huy chiến dịch: Chu Huy Mân (Tư lệnh), Nam Hà (Chính ủy).

Trong hơn một tháng chiến đấu, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên Mỹ, 1.270 tên ngụy, diệt tiểu đoàn 1, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2 (sư đoàn kỵ binh bay Mỹ), bắn rơi 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự và nhiều pháo, súng các loại. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ cơ động bằng máy bay lên thẳng (lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh) bị quân đội ta đánh bại trên chiến trường.

Chiến thắng Plây Me là thực tế chứng minh quân đội ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ, phá chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam.


20 tháng 10.

Thành lập sư đoàn bộ binh 2 chủ lực Khu 5
tại Tiên Phước, Quảng Nam. Biên chế gồm trung đoàn 1 (đoàn Ba Gia) chủ lực Khu 5, trung đoàn 21 vừa từ miền Bắc hành quân vào và tiểu đoàn 70.

Sư đoàn trưởng: Nguyễn Năng (tức Nguyễn Việt).
Chính ủy: Nguyễn Minh Đức (tức Nguyễn Minh Đạo).


26 tháng 10.

Quân và dân đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 700 trên miền Bắc.


27 tháng 10.

- Tiểu đoàn đặc công 484 Khu 5 sử dụng 30 chiến sĩ tập kích sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng, Quảng Nam), phá hủy và phá hỏng 106 máy bay trực thăng, hai kho đạn, diệt và làm bị thương một số phi công và nhân viên kỹ thuật Mỹ.

- Tiểu đoàn đặc công 409 Khu 5 sử dụng 22 chiến sĩ tập kích sân bay Chu Lai (Quảng Nam), phá hủy, phá hỏng 45 máy bay phản lực và nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ.


29 tháng 10.

Thành lập đội giao liên 665
(quyết định số 2049/QĐ) thuộc Bộ tham mưu Tổng cục Hậu cần. Nhiệm vụ: đưa quân vào giao cho Đoàn 559 và đón nhận thương binh từ chiến trường ra các bệnh viện ở hậu phương miền Bắc điều trị. Đội 665 tổ chức năm trạm giao liên ở Ninh Bình, bảy trạm ở Thanh Hóa, năm trạm ở Nghệ An và chín trạm ở Hà Tĩnh.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Năm, 2022, 10:46:35 pm

8 tháng 11.

Chiến thắng Đất Cuốc.


Tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 (sư đoàn 9 chủ lực Miền) dưới sự chỉ huy của phó trung đoàn trưởng Bùi Thanh Vân tập kích lữ đoàn 173 không vận Mỹ ở Đất Cuốc, cách thị xã Biên Hòa 30 ki-lô-mét về phía bắc, diệt và làm bị thương gần 300 tên, bắn rơi 4 máy bay, thu nhiều vũ khí. Đây là trận đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn quân Mỹ đầu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.


12 tháng 11.

Thành lập hai công trường 7 và 211
(quyết định số 203/QP-QĐ của Bộ Quốc phòng) làm nhiệm vụ bảo đảm các tuyến đường từ biên giới Việt Nam tới các căn cứ cách mạng Lào và thành lập trung đoàn công binh 251 xây dựng sân bay thuộc Bộ Tư lệnh Công binh.


12-27 tháng 11.

Chiến dịch Bàu Bàng – Dầu Tiếng
(miền Đông Nam Bộ).

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 9 chủ lực Miền và một tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Bình Dương.

Chỉ huy chiến dịch: Lê Trọng Tấn (Tư lệnh), Hoàng Cầm (Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng).

Trong 15 ngày, bộ đội ta đánh sáu trận, trong đó có hai trận đánh quy mô trung đoàn tăng cường đến sư đoàn: trận Bàu Bàng (12-11) và trận Dầu Tiếng (27-11) gây thiệt hại nặng cho lữ đoàn 3 sư đoàn 1 Mỹ và chiến đoàn 7 ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 4.250 tên, phá hủy 300 xe quân sự (có 80 xe tăng và xe M.113), 10 khẩu pháo 105 ly, bắn rơi hai máy bay.

Chiến thắng Bàu Bàng - Dầu Tiếng củng cố niềm tin đánh thắng quân Mỹ, mở ra phong trào: “Tìm Mỹ mà diệt”, “Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh” trong các lực lượng vũ trang miền Nam.


15 tháng 11.

Đoàn đại biểu Anh hùng và Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (gồm các Anh hùng: Hồ Vai, Tạ Thị Kiều, Huỳnh Văn Đảnh, Trần Dưỡng và Chiến sĩ thi đua Lê Chí Nguyện) ra thăm miền Bắc.


17-11 đến 18-12.

Chiến dịch Đồng Dương.


Diễn ra trên địa bàn các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước tỉnh Quảng Nam.

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 2 (thiếu) chủ lực Khu 5, tiểu đoàn bộ binh độc lập 70, một tiểu đoàn đặc công (thiếu), một tiểu đoàn cối 120 và ĐKZ, một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 ly, tiểu đoàn bộ binh 72 Quảng Nam và lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch.

Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm Tư lệnh: Nguyễn Năng (sư đoàn trưởng sư đoàn 2); Chính ủy: Võ Minh Thành (Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam); Tham mưu trường: Lê Hữu Trữ.

Trong hơn một tháng chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến đấu 6.184 tên địch (có 1.142 Mỹ), bắn rơi và bắn hỏng 61 máy bay, thu 809 súng các loại, giải phóng 43.500 dân (gồm quận lỵ Hoài Đức, 7 xã và 21 thôn).


20 tháng 11.

Bộ chỉ huy Miền phát động phong trào thi đua giành danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” và “Đơn vị anh dũng diệt Mỹ” trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam.


23 tháng 11.

Thành lập sư đoàn bộ binh 5 chủ lực Miền
tại Bà Rịa. Biên chế lúc đầu có trung đoàn 4 (trung đoàn Đồng Nai) bộ đội chủ lực Quân khu 7 và trung đoàn 5 vừa được tổ chức từ một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh Nam Bộ.

Sư đoàn trưởng: Nguyễn Hòa.
Chính ủy: Lê Xuân Lựu.


27 tháng 11.

Quân và dân tỉnh Yên Bái bắn rơi chiếc máy bav Mỹ thứ 800 trên miền Bắc.


Tháng 11.

Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) chế tạo thành công súng cối 60 ly.


1 tháng 12.

Cụm biệt động 3-4-5 thành phố Sài Gòn đặt mìn ở khách sạn Mê-trô-pôn, diệt 200 sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ.


5 tháng 12.

Trung đoàn 2 (sư đoàn 9) vận động tiến công hai tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 bộ binh Mỹ ở bàu Da Dốt, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một), đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch, thu 40 súng.


20 tháng 12.

- Thành lập sư đoàn bộ binh 1 chủ lực Tây Nguyên
. Biên chế ba trung đoàn 33, 66 và 320 vừa từ miền Bắc hành quân vào.

Sư đoàn trưởng: Hoàng Kiện.
Chính ủy: Huỳnh Đắc Hương.

- Thành lập Trường Hậu cần Quân khu 5 tại Sơn Hà, Quảng Ngãi. Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ, nhân viên hậu cần tại chỗ cho các đơn vị, địa phương.

Hiệu trưởng: Nguyễn Hữu Doang.


27 tháng 12.

Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
quyết định: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước ... xây dựng lực lượng vũ trang mạnh về số lượng và chất lượng để bảo vệ miền Bắc và chi viện miền Nam ... Tăng cường giáo dục chính trị, làm cho bộ đội nhận rõ nhiệm vụ và vinh dự chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào để mọi người hăng hái và quyết tâm đi chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu ở bất cứ nơi nào mà Tổ quốc cần đến.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 09:20:23 pm

NĂM 1966

Tháng 1.

- Thành lập Bộ Chỉ huy mặt trận Bình Định
thuộc Quân khu 5. Nhiệm vụ: chỉ đạo tập trung, thống nhất mọi hoạt động của lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Chỉ huy trưởng: Giáp Văn Cương, Sư đoàn trưởng sư đoàn 3.
Chính ủy: Trần Quang Khanh (Hai Lâm), Bí thư tỉnh ủy Bình Định.

- Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) thiết kế, chế tạo thành công lựu đạn phóng ghép mảnh.


Tháng 1 - tháng 4.

Quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất
(gồm 450 cuộc hành quân càn quét, trong đó có 20 cuộc hành quân lớn) của 20 vạn quân Mỹ, chư hầu và 50 vạn quân ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu gần bảy vạn tên địch (có ba vạn Mỹ), đánh thiệt hại 15 tiểu đoàn (có chín tiểu đoàn Mỹ), bắn rơi, phá hủy 940 máy bay; bắn cháy và phá hủy 6.000 xe quân sự (có 300 xe tăng, xe bọc thép)...


5 tháng 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm hai trung đoàn công binh vượt sông 239 và 249 diễn tập bắc cầu phao qua sông Hồng.


7 tháng 2.

Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết kinh nghiệm chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện Củ Chi, rút ra 10 bài học đánh Mỹ:

1. Ai cũng đánh được Mỹ.

2. Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.

3. Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh và đều đánh thắng.

4. Ở đâu cũng đánh được Mỹ, đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đầm lầy. Chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch mà đánh là được.

5. Ngày cũng đánh, đêm cũng đánh được Mỹ, vì cả ngày cả đêm Mỹ đều có sơ hở, nhược điểm.

6. Đánh địch phản công là cơ hội tốt để ta diệt chúng.

7. Đánh ở cả tiền tuyến, đánh cả ở hậu phương địch, đánh đều khắp, càng làm cho giặc Mỹ bối rối, bị động, ta diệt địch càng dễ dàng hơn.

8. Đánh cả trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt.

9. Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ.

10. Đánh bằng võ trang, đánh bằng chính trị, đánh bằng binh vận.


20-2 đến 20-4.

Chiến dịch tây Sơn Tịnh
(Quảng Ngãi).

Chỉ huy: Nguyễn Năng (Tư lệnh); Nguyễn Minh Đức (Chính ủy).

Lực lượng tham gia gồm sư đoàn bộ binh 2 (thiếu) chủ lực Khu 5, một tiểu đoàn đặc công (thiếu), một tiểu đoàn cối 120 và ĐKZ.75, một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7, hai tiểu đoàn (48, 83) và một đại đội đặc công tỉnh Quảng Ngãi, sáu đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh và du kích trên địa bàn chiến dịch.

Kết quả: đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, bốn đại đội thủy quân lục chiến Mỹ, 12 đại đội và 22 trung đội ngụy, bắn rơi và phá hủy 102 máy bay, 27 xe cơ giới, thu 823 súng các loại, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.


23 tháng 2.

Đại đội 10 pháo binh địa phương Quảng Bình bắn chìm ba tàu biệt kích ngụy.


Tháng 2.

Quân ủy Trung ương đề ra sáu phương thức tác chiến của các lực lượng vũ trang nhân dân:


1. Đẩy mạnh tác chiến tập trung, mở những chiến dịch vừa và lớn của bộ đội chủ lực trên những hướng quan trọng.

2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình dộ cao, phối hợp tác chiến giữa dân quân du kích, bộ đội địa phương và một bộ phận quân chủ lực.

3. Đánh phá các cơ sở hậu phương, cơ quan đầu não địch.

4. Phát triển cách đánh giao thông.

5. Kết hợp hoạt động vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng ở đô thị và vùng ven.

6. Phối hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và binh vận.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:44:35 pm

4 tháng 3.

Biên đội MIG.21
(gồm Phan Thành Chung, Ngô Đức Mai, Trần Minh Phương, Nguyễn Thế Hôn) trung đoàn không quân 923 xuất kích trận đầu, bắn rơi một máy bay trinh sát không người lái Mỹ.


7 tháng 3.

- Tại trận địa Quỳnh Thắng (Quỳnh Lưu, Nghệ An), bằng một quả đạn, tiểu đoàn 61 (trung đoàn tên lửa 236) bắn rơi hai máy bay trinh sát RF.101, trong đó có chiếc máy bay thứ 900 của Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc.

- Đại đội 2 pháo cao xạ đoàn Sông Đà (Thanh Hóa) bằng tám viên đạn ngay loạt đầu bắn rơi tại chỗ một máy bay phản lực F.105D của Mỹ.


Tháng 3.

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ tư
, đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, phát động du kích chiến tranh rộng khắp, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ - ngụy, quyết tâm đánh bại địch trong mùa mưa sắp tới... Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên các mặt chỉ đạo tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị hậu cần đối với lực lượng vũ trang...”.


31 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 27/QĐ-QP) chuyển Trường cán bộ Chính trị sơ cấp vào Học viện Chính trị. Nhiệm vụ:

- Đào tạo cán bộ cấp đại đội và bổ túc cán bộ chính trị từ cấp tiểu đoàn trở lên.

- Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chính trị và cán bộ chính trị toàn quân.

- Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác—Lê-nin về chiến tranh và xây dựng lực lượng vũ trang, về công tác đảng - công tác chính trị trong lực lượng vũ trang.

Giám đốc kiêm bí thư: đại tá Lê Đình Thiệp.


13 tháng 4.

- Thành lập trung đoàn đặc công trinh sát 426
(quyết định số 28/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Biên chế: sáu tiểu đoàn (bốn tiểu đoàn đặc công bộ, một tiểu đoàn đặc công nước, một tiểu đoàn huấn luyện cán bộ) và ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần.

Trung đoàn trưởng: Nguyễn Việt.
Chính ủy: Hoàng Kim.

Ngày 19 tháng 3 năm 1967, trung đoàn 426 giải thể, các tiểu đoàn chuyển trực thuộc Bộ Tư lệnh Đặc công.

- Thành lập đoàn huấn luyện trinh sát đặc công nước, phiên hiệu đoàn 126. Lực lượng nòng cốt của đoàn gồm 40 người đã qua huấn luyện ở đoàn 8 và 74 người ở đại đội đặc công đánh biển thuộc Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 5 năm 1966, Bộ Tư lệnh Hải quân điều 700 cán bộ, chiến sĩ từ các đơn vị về tổ chức thành 12 đội chiến đấu. Cơ quan đoàn bộ đóng tại huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng).

Đoàn trưởng: Hoàng Đắc Cót.
Chính ủy; Phạm Điệng.


17 tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội tham quan tiểu đoàn 99 và trung đoàn 84B bắn thử pháo phản lực A.12 và ĐKB tại Hòa Lạc, Hà Tây.


20 tháng 4.

Thành lập trung đoàn ra-đa dẫn đường 293 (quyết định số 32/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng) thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân. Biên chế: 10 đại đội, trong đó có sáu đại đội ra-đa dẫn đường, ba đại đội ra-đa cảnh giới, một đại đội chỉ huy và cơ quan trực thuộc.

Quyền trung đoàn trưởng: Tạ Văn Hoan.
Chính ủy: Nguyễn Đức Chính.


22 tháng 4.

Đại đội 4 pháo 85 Hà Tĩnh bắn cháy tàu khu trục số 567 của Mỹ.


29 tháng 4.

Trung đoàn pháo phòng không 210 do trung đoàn trưởng Nguyễn Luân và chính ủy Nguyễn Đắc Thái chỉ huy cùng quân dân Bắc Thái bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.000 trên miền Bắc.


30 tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng 5 Huân chương Độc lập và 8 Huân chương Quân công cho 13 đơn vị thuộc Quân khu 3, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tây Bắc, Quân chủng Hải quân, Quảng chủng Phòng không - Không quân, Binh chủng Công binh, Cục Vận tải quân sự (Tổng cục Hậu cần) và đảo Cồn Cỏ đã lập nhiều chiến công vẻ vang, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.


Tháng 4.

- Thành lập Quân khu Trị Thiên (B4)
trên cơ sở phân khu Bắc (Khu 5)

Lực lượng vũ trang trên địa bàn có trung đoàn bộ binh 6 và một số phân đội binh chủng, bốn tiểu đoàn (804, 808, 810, 814) bộ đội địa phương hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Lê Chưởng.

- Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu sản xuất thành công pháo khói dùng để ngụy trang, nghi binh các trận địa pháo, tên lửa và sản xuất thành công “súng cối giải phóng”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:45:37 pm

Tháng 5.

Thành lập Đặc khu quân sự Rừng Sác
(Đoàn 10) thuộc Bộ Tư lệnh Miền. Nhiệm vụ: chỉ đạo hoạt động quân sự và xây dựng khu căn cứ Rừng Sác.

Đặc khu trưởng kiêm chính ủy: Lương Văn Nho (Hai Nhã).


18-24 tháng 5.

Đại hội thanh niên quyết thắng toàn quân lần thứ nhất đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác giáo dục, vận động thanh niên quân đội, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.


21 tháng 5.

Tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 chủ lực Tây Nguyên tiến công địch ở Tu Mơ Rông (Công Tum), diệt một tiểu đoàn Mỹ thuộc sư đoàn dù 101.


Cuối tháng 5.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết phát động phong trào thi đua lập công đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
, giành danh hiệu “Chiến sĩ Quyết thắng” và “Đơn vị Quyết thắng” trong các lực lượng vũ trang nhân dân.


30 tháng 5.

Thành lập ba trung đoàn tên lửa 261, 263 và 267
(quyết định số 42/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng) thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân.

Nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ sân bay Nội Bài.


6 tháng 6.

Quân và dân Nghệ An bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.100 trên miền Bắc.


8 tháng 6.

Trung đoàn 2 (sư đoàn 9) phục kích một đoàn xe quân sự Mỹ ở Cần Đâm (Thủ Dầu Một), phá hủy, phá hỏng 40 xe quân sự (có 12 xe tăng, 19 xe M.113), diệt và làm bị thương 300 lính Mỹ, 200 lính ngụy, bắn rơi 8 máy bay, thu nhiều súng đạn.


13 tháng 6.

Thành lập sư đoàn bộ binh 7 chủ lực Miền
tại căn cứ tỉnh Phước Long (Đông Nam Bộ). Biên chế: ba trung đoàn bộ binh 141, 165, 52 và các đơn vị binh chủng.

Sư đoàn trưởng: Nguyễn Hòa.
Chính ủy: Dương Thanh (Dương Cự Tẩm).


15 tháng 6.

Thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Quân khu 4
. Nhiệm vụ: chỉ huy toàn bộ lực lượng phòng không trên địa bàn quân khu.

Tư lệnh: đại tá Hoàng Kiện.
Chính ủy: đại tá Trần Vinh.


21 tháng 6.

- Thành lập sư đoàn phòng không 367
thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Biên chế: bốn trung đoàn pháo cao xạ (234, 230, 218, 241) và một trung đoàn tên lửa (trung đoàn 278) làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu.

Sư đoàn trưởng: Hoàng Khải Tiến.
Chính ủy: Lê Đình Truy.

- Bộ Tổng Tham mưu tổ chức Bộ Tư lệnh Phòng không đường số 2 và 3. Nhiệm vụ: chỉ đạo, chỉ huy và quản lý các lực lượng tác chiến phòng không ở Thái Nguyên - Việt Trì. Lực lượng gồm các trung đoàn phòng không 210, 226, 270 và trung đoàn tên lửa 274.

Tư lệnh: Nguyễn QuaỊng Tiến.
Phụ trách chính trị: Lê Đình Truy.

Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Bộ Tư lệnh Phòng không đường số 2 và 3 giải thể.


23 tháng 6.

Thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc
(quyết định số 46-QĐ của Bộ Quốc phòng).

Nhiệm vụ: chỉ huy các đơn vị phòng không bảo vệ giao thông đường số 1 và sân bay Kép, sân bay Nội Bài. Lực lượng gồm: bốn trung đoàn pháo cao xạ (216, 221, 225, 226) và trung đoàn tên lửa 257 triển khai theo trục đường số 1.

Tư lệnh: Hoàng Văn Khánh.
Chính ủy: Hoàng Đức Tiêu.

Ngày 16 tháng 3 năm 1967, Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc đổi tên là sư đoàn phòng không 365 (quyết định số 16-TM-QĐ của Bộ Tổng Tham mưu).


30 tháng 6.

Trung đoàn 1 (sư đoàn 9) phục kích một đoàn xe cơ giới thuộc sư đoàn 1 bộ binh Mỹ ở cầu Cần Lê trên đường số 13 từ Hớn Quản đi Lộc Ninh (Thủ Dầu Một), phá hủy 43 xe quân sự (có 25 xe tăng, 18 xe M.113), diệt và làm bị thương 300 tên Mỹ.


Tháng 6.

Quân ủy Trung ương quyết định mở mặt trận Đường 9 – bắc Quảng Trị
(B5) nhằm tạo nên một hướng tiến công mới vào nơi hiểm yếu của địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng lên vùng rừng núi để ta thực hiện tiêu diệt chiến lược quân cơ động Mỹ-ngụy, kìm giữ một bộ phận địch, tạo điều kiện cho các chiến trường khác mà trực tiếp là đồng bằng Trị - Thiên hoạt động, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh trên bộ ra nam Quân khu 4 của địch, thăm dò phản ứng của Mỹ và quốc tế.

Tư lệnh: đại tá Vũ Nam Long.
Chính ủy: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Hoàng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:47:10 pm

Đầu tháng 7.

Hội đồng quốc phòng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp tại Thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội đồng đã nghe báo cáo về tình hình chiến đấu và sản xuất của quân dân hai miền Nam-Bắc, nhận định âm mưu mới của địch, quyết định những chủ trương lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


14 tháng 7.

Biên đội MIG.17 gồm Phan Thành Trung và Ngô Đức Mai (trung đoàn không quân 923) bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.200 trên miền Bắc.

Ngày 20, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen Không quân nhân dân và chỉ thị phải phối hợp tốt với nhân dân và các đơn vị khác của lực lượng vũ trang nhân dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


17 tháng 7.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước:
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.


7 tháng 8.

- Tại Hà Bắc, tiểu đoàn 76 trung đoàn tên lửa 257 ra quân trận đầu, bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.300 trên miền Bắc.

- Cùng ngày, quân và dân các địa phương trên miền Bắc phối hợp chiến đấu bắn rơi 12 máy bay Mỹ. Phi công Mỹ coi ngày 7 tháng 8 năm 1966 là một ngày “chủ nhật đen”.


8 tháng 8.

- Thành lập Trường đại học Quân y
(quyết định số 145/CP của Chính phủ). Nhiệm vụ: đào tạo và bồi dưỡng bác sĩ, dược sĩ quân y có trình độ đại học theo các hình thức dài hạn, chuyên tu, tại chức; cùng với Viện nghiên cứu Y học quân sự nghiên cứu khoa học quân y, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quân y bậc sau đại học.

- Thành lập cơ sở đào tạo cán bộ kỹ thuật trình độ đại học của quân đội lấy tên là phân hiệu 2 Đại học Bách khoa (quyết định số 146/CP của Chính phủ). Ngày 8 tháng 8 được xác định là ngày thành lập, ngày truyền thống của Học viện Kỹ thuật quân sự.

- Thành lập trung đoàn thông tin 134 (trên cơ sở tiểu đoàn thông tin 134) thuộc Cục Thông tin liên lạc. Biên chế: sáu đại đội và một trung đội cơ động.

Trung đoàn trưởng: Đoàn Đình Đạm.
Chính ủy: Phạm Ngọc Thăng.

- Thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 4.

Tư lệnh: Đàm Quang Trung.
Chính ủy: Trần Thế Môn.


Giữa tháng 8.

Hội nghị công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ hai
nêu rõ: trong tình hình mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tư tưởng phải chủ động, linh hoạt và kịp thời; phải làm cho các lực lượng vũ trang luôn tin tưởng ở mục tiêu chiến đấu và ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hội nghị biểu dương sư đoàn 9, sư đoàn 5 (chủ lực Miền), sư đoàn 2, sư đoàn 3 (chủ lực Khu 5); bộ đội địa phương các tỉnh Long An, Bình Dương, Quảng Nam; bộ đội địa phương và du kích các huyện Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), Đức Hòa (Long An), Bến Cát (Thủ Dầu Một), Châu Thành (Mỹ Tho), Mỏ Cày (Bến Tre) ... là những đơn vị đã làm tốt công tác chính trị trong xây dựng và chiến đấu.


17 tháng 8.

Đại đội 1 tiểu đoàn đặc công 489 Khu 5 tập kích căn cứ Cẩm Bình, xã Hòa Thọ, (Hòa Vang, Quảng Nam), diệt và làm bị thương hơn 100 tên Mỹ, phá hỏng 110 xe quân sự (có 50 xe tăng xe, bọc thép).


Cuối tháng 8.

- Quân khu 5 tổ chức hội nghị tổng kết kinh nghiệm các đợt hoạt động của bộ đội chủ lực
từ mùa xuân 1965 đến mùa hè 1966. Trung tướng Hoàng Văn Thái - Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy quân khu chủ trì hội nghị.

Hội nghị đã nêu lên nhiều vấn đề mới về nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật và công tác chính trị trong chiến đấu chống quân viễn chinh Mỹ.

- Ở Nam Bộ và cực nam Trung Bộ, Bộ Tư lệnh Miền tổng kết và phổ biến một số kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy, về công tác đảng - công tác chính trị trong chiến đấu với bộ binh và cơ giới Mỹ, về xây dựng vành đai diệt Mỹ.


7 tháng 9.

Thành lập xưởng sửa chữa, sản xuất khí tài quang học thuộc Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần). Nhiệm vụ: sản xuất các loại máy, dụng cụ và khí tài quang học dùng trong và ngoài quân đội.

Giám đốc: Nguyễn Quang Thuần.


9 tháng 9.

Quân và dân Lạng Sơn bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.400 trên miền Bắc.


14-9 đến 25-11.

Sư đoàn 9, trung đoàn 16 chủ lực Miền và quân dân tỉnh Tây Ninh đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ của Mỹ (gồm ba lữ đoàn) vào chiến khu Dương Minh Châu.

Kết hợp với tiến công quân sự, nhân dân vùng Trảng Lớn, Gò Dầu, Trảng Bàng nổi dậy, phá “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:48:02 pm

Đầu tháng 10.

Bàn về nhiệm vụ quân sự trong mùa khô 1966-1967, Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam. Bộ đội chủ lực phải phát huy tác chiến lên một bước mới, đạt yêu cầu tiêu diệt tiểu đoàn, tiến tới diệt lữ đoàn quân Mỹ và chư hầu, đánh qụy từng sư đoàn quân ngụy, làm thất bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ, tạo thời cơ và điều kiện cho các hoạt động lớn tiếp theo, làm thay đổi cục diện chiến tranh.


14 tháng 10.

Quân và dân Nghệ An bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.500 trên miền Bắc.


18-10 đến 6-12.

Chiến dịch Sa Thầy.


Diễn ra trên địa bàn các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Công Tum. Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức và chỉ huy chiến dịch.

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 1 chủ lực Tây Nguyên được tăng cường ba trung đoàn 24, 95 (thiếu), 33 (Đẳc Lắc), hai tiểu đoàn độc lập, một tiểu đoàn cối 120, hai tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 và lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn.

Kết quả: đánh thiệt hại năng một tiểu đoàn, tám đại đội Mỹ, năm đại đội ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 2.410 tên (có hơn 2.000 Mỹ), bắn rơi 20 máy bay, phá hủy 25 khẩu pháo, 12 xe quân sự, thu 71 súng các loại.

Thắng lợi của chiến dịch Sa Thầy đánh dấu bước trưởng thành mới của chủ lực ta về tổ chức và thực hành tác chiến, về việc đánh giá đúng địch, lừa địch vào thế trận của ta, đánh bại cuộc hành quân Pôn-ri-vơ 4 của Mỹ, giải phóng vùng đất rộng lớn dọc sông Sa Thầy, từ Công Tum đến Gia Lai.


25 tháng 10.

Hai đại đội 1 và 2 pháo binh Quảng Bình bắn bị thương tàu khu trục số 723 Mỹ.


Tháng 10.

Hội nghị chiến tranh du kích toàn miền Nam lần thứ ba
, nêu lên 12 khả năng của chiến tranh du kích, vạch rõ những yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của phong trào; quyết định phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, quyết tâm đánh bại “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.


10-1966 đến 4-1967.

Quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của hơn một triệu quân địch (có hơn 40 vạn quân Mỹ và chư hầu) trang bị nhiều máy bay, xe tăng, thiết giáp và pháo các loại.

Trong hơn sáu tháng, các lực lượng vũ trang miền Nam đánh trả 895 cuộc hành quân lớn nhỏ của địch, làm thất bại các cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ vào chiến khu Dương Minh Châu, cuộc hành quân Xê-đa-phôn vào Củ Chi - Bến Cát - Bến Súc; đặc biệt là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty của 45.000 quân Mỹ vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng 2 đến tháng 4 năm 1967).

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch (có 70.000 Mỹ, 15.000 chư hầu), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 8 tiểu đoàn bộ binh, 15 chi đoàn xe bọc thép, 5 tiểu đoàn pháo binh Mỹ, bắn rơi và phá hủy 1.800 máy bay các loại, phá hủy 1.786 xe quân sự, 340 khẩu pháo, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu xuồng trên sông...


Cuối tháng 10.

Thành lập Khu 10
gồm hai tỉnh Quảng Đức, Phước Long (Khu 6) và tỉnh Bình Long (Khu 7). Nhiệm vụ: chỉ đạo, củng cố, xây dựng vững chắc căn cứ miền núi, xây dựng hành lang, phục vụ bộ đội chủ lực tác chiến trên địa bàn của khu.


4 tháng 11.

Cụm pháo binh Vĩnh Kim (Vĩnh Linh) gồm bốn đại đội bắn bị thương tàu khu trục số 630 Mỹ.


3 tháng 12.

Đội biệt động F.100 (Sài Gòn) tập kích sân bay Tân Sơn Nhất (sân bay quân sự lớn nhất ở miền Nam), phá hủy, phá hỏng hàng trăm máy bay các loại, diệt và làm bị thương nhiều phi công và nhân viên kỹ thuật Mỹ.


14 tháng 12.

Quân và dân Hà Nội bắn rơi tám máy bay Mỹ, trong đó có chiếc thứ 1.600 trên miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và gửi tặng quân dân Thủ đô lá cờ: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.


Đêm 26 rạng 27 tháng 12.

Trung đoàn 22 (thiếu) sư đoàn bộ binh 3 (Quân khu 5) tập kích cứ điểm Xuân Sơn, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân (Bình Định), diệt và làm bị thương khoảng 600 tên Mỹ, phá hủy 11 khẩu pháo, 5 máy bay, thu 34 súng các loại.


29 tháng 12.

Đại đội 8 pháo 85 bộ đội địa phương Quảng Bình bắn bị thương tàu khu trục O-bri-an Mỹ, buộc hai tàu khu trục khác phải bỏ chạy.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:49:31 pm

NĂM 1967

1 tháng 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 117/LCT) tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 22 đơn vị và 36 cá nhân thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân tự vệ đã lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.


Đầu tháng 1.

Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước trên miền Bắc
. 500 anh hùng, chiến sĩ thi đua thuộc các quân chủng, binh chủng và những chiến sĩ xuất sắc trên các mặt trận sản xuất, văn hóa, giáo dục dự đại hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các cô, các chú, các cháu được khen thưởng hôm nay về phải ra sức học tập, cố gắng tiến bộ, tiến bộ nữa, tiến bộ mãi, phải khiêm tốn, không được kiêu ngạo... Mong sau này chúng ta sẽ có nhiều anh hùng và chiến sĩ thi đua hơn nữa”.


Tháng 1.

Đại hội thi đua các đội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước toàn miền Bắc
. Hơn 300 thanh niên ưu tú đại diện cho hàng vạn đoàn viên và các đơn vị thanh niên xung phong đã về dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Đại hội: “Các cháu nào đã là anh hùng, thì phải cố gắng tiến lên nữa, các cháu nào chưa là anh hùng thì cố gắng phấn đấu để trở thành anh hùng”.


15 tháng 2.

Trung đoàn 1 sư đoàn bộ binh 2 (Quân khu 5) tiến công tiểu đoàn thủy quân lục chiến thuộc lữ đoàn “Rồng Xanh” (quân Nam Triều Tiên) ở Quang Thạnh, xã Sơn Kim, huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), diệt 420 tên, thu 30 súng và nhiều quân trang, quân dụng.


Đêm 27 tháng 2.

Tiểu đoàn 99 pháo hỏa tiễn A.12 được thành ủy, thành đội Đà Nẵng, huyện ủy hai huyện Hòa Vang, Điện Bàn và nhân dân địa phương giúp đỡ, tập kích hỏa lực sân bay Đà Nẵng phá hủy 94 máy bay, 200 xe quân sự, diệt nhiều phi công, nhân viên kỹ thuật địch.


28 tháng 2.

Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ (trung đoàn 84B, sư đoàn 325) gồm 10 người đánh lui 15 đợt tiến công của 200 lính thủy đánh bộ Mỹ ở tây Quảng Trị, lập chiến công: “1 thắng 20".


Tháng 2.

- Đại hội quyết thắng của Quân chủng Phòng không - Không quân
. Về dự đại hội có gần 200 đại biểu các đơn vị quyết thắng, đại biểu cho hàng nghìn chiến sĩ thi đua các binh chủng pháo cao xạ, tên lửa, không quân, trinh sát, ra-đa, thông tin... Đại hội đánh giá, bộ đội phòng không - không quân đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cùng với quân dân miền Bắc đánh bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, bảo đảm chi viện mọi mặt cho miền Nam.

- Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho các lực lượng với trang trên miền Bắc: “Kiên quyết đánh bại các bước leo thang đánh phá bằng không quân, hải quân của địch”.


1 tháng 3.

- Đại đội 8 pháo binh Quảng Bình bắn bị thương tàu tuần dương Can-be-ra Mỹ.

- Quân và dân tỉnh Thanh Hóa bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.700 trên miền Bắc.

Ngày 6 tháng 3, Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ thư khen ngợi và căn dặn quân dân Thanh Hóa cố gắng giành nhiều thắng lợi hơn nữa.


16 tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định đặt lại phiên hiệu cho các sư đoàn phòng không (quyết định số 16/TM-QĐ).

- Sư đoàn phòng không 361 (Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội) bảo vệ yếu địa Hà Nội. Tư lệnh: Nguyễn Quang Bích; chính ủy: Văn Giang.

- Sư đoàn phòng không 363: (Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng) bảo vệ yếu địa Hải Phòng. Tư lệnh: Nguyễn Hữu Ích; chính ủy: Lương Tý.

- Sư đoàn phòng không 365: (Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc) cơ động bảo vệ giao thông đường số 1 (bắc Hà Nội). Tư lệnh: Đinh Đình Sành; chính ủy: Trần Đức Tiêu.

- Sư đoàn phòng không 367: cơ động của Bộ, bảo vệ giao thông phía nam Hà Nội. Tư lệnh: Nguyễn Dương Hán. Chính ủy: Lê Đình Truy.


19 tháng 3.

Thành lập Binh chủng Đặc công
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ: “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt”...

Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh gồm: chín tiểu đoàn (phiên hiệu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 10, 20), ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và trường bổ túc cán bộ đặc công (thành lập 20-7-1967).

Tư lệnh: thượng tá Nguyễn Chí Điềm.
Chính ủy: thượng tá Vũ Chí Đạo.

Ngày 19 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của bộ đội đặc công.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:51:38 pm

20 tháng 3.

- Hai trung đoàn 2 và 16 (sư đoàn 9) tiến công cụm quân Mỹ ở Đồng Rùm, diệt và làm bị thương 1.270 tên, phá hủy 87 xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi 12 máy bay.

- Trung đoàn 164 pháo xe kéo xây dựng trận địa ở bờ bắc sông Bến Hải tập kích hỏa lực căn cứ Dốc Miếu, làm thương vong 100 tên địch, phá hủy 17 khẩu pháo, 57 xe quân sự, 5 máy bay lên thẳng.


24 tháng 3.

Thành lập các Binh chủng Ra-đa, Tên lửa, Không quân
thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân (quyết định số 04/QĐ-QP của Bộ trưởng Quốc phòng).

- Binh chủng Ra-đa (phiên hiệu sư đoàn 373) gồm bốn trung đoàn (37 đại đội).

Quyền tư lệnh: Lương Hữu Sắt.
Quyền chính ủy: Hoàng Văn Ngữ.

- Binh chủng Tên lửa (phiên hiệu sư đoàn 369) gồm 10 trung đoàn.

Tư lệnh: Đoàn Huyên;
Chính ủy: Trương Công Cẩn.

- Binh chủng Không quân (phiên hiệu sư đoàn 371) gồm hai trung đoàn không quân tiêm kích, một trung đoàn không quân vận tải, phụ trách bảy sân bay (Nội Bài, Gia Lâm, Kép, Hòa Lạc, Kiến An, Thọ Xuân, Vinh).

Tư lệnh: Nguyễn Văn Tiên.
Chính ủy: Phan Khắc Hy.


27 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra các quyết định
(từ số 22-24/QĐ):

- Chia Quân khu 3 thành hai Quân khu Hữu Ngạn và Tả Ngạn. Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn: Thiếu tướng Hoàng Sâm; Chính ủy: Thiếu tướng Tô Ký.

Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn: đại tá Đặng Kinh.
Chính ủy: đại tá Nguyễn Quyết.

- Hợp nhất Bộ Tư lệnh Hải quân và Quân khu Đông Bắc lấy tên là Bộ Tư lệnh Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc1. Tư lệnh: đại tá Nguyễn Bá Phát; Chính ủy: đại tá Đoàn Phụng.

- Chuyển trung đoàn 46 (sư đoàn 330) về thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn; trung đoàn 556 (sư đoàn 330) về Bộ Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn. Các đơn vị và cơ quan còn lại của sư đoàn 330 chuyển thành khung huấn luyện quân chi viện chiến trường.


Tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra rác quyết định (từ số 16-20/QĐ) thành lập: Trường kỹ thuật trung cấp Quân khí (Cục Quân khí, Tổng cục Hậu cần), Trường kỹ thuật trung cấp Phòng không (Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân), Trường kỹ thuật trung cấp ô tô (Cục Quản lý xe, Tổng cục Hậu cần), Trường kỹ thuật trung cấp Quân giới (Cục Quân giới, Tổng cục Hậu cần) và Trường kỹ thuật Thông tin (Cục Thông tin liên lạc - Bộ Tổng Tham mưu).


6 tháng 4.

- Hai đại đội đặc công Trị-Thiên phối hợp với năm trung đội bộ binh tập kích căn cứ La Vang của trung đoàn 1 sư đoàn bộ binh số 1 ngụy, nam thị xã Quảng Trị, diệt và làm bị thương hơn 500 tên, phá hủy ba máy bay và bốn khẩu pháo.

- Ba đại đội đặc công Trị-Thiên, hai đại đội và một trung đội bộ binh tập kích căn cứ Từ Hạ của trung đoàn 3 sư đoàn bộ binh 1 ngụy, phía bắc Huế, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên Mỹ, ngụy.


13 tháng 4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen bộ đội pháo binh: “Chân đồng vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”.


20 tháng 4.

Sư đoàn phòng không 363, trung đoàn 241 pháo cao xạ, hai tiểu đoàn 67, 69 (trung đoàn 275 tên lửa) và các lực lượng phòng không thành phố Hải Phòng chiến đấu dũng cảm, bắn rơi năm máy bay Mỹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi quân dân Hải Phòng: “Đã đánh thắng vẻ vang, trừng trị đích đáng bước leo thang mới đầy tội ác của giặc Mỹ ... Đồng bào, cán bộ và bộ đội không được vì thắng lợi mà chủ quan. Phải nâng cao cảnh giác, làm tốt công tác phòng không nhân dân, đánh giỏi, thắng lớn hơn nữa”.


25 tháng 4.

- Các lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội gồm 10 trung đoàn pháo cao xạ thuộc ba sư đoàn phòng không (361, 365, 367), năm trung đoàn tên lửa, hai trung đoàn không quân tiêm kích, 20 tàu hải quân (trung đoàn 134) cùng tự vệ các nhà máy, xí nghiệp chiến đấu quyết liệt, bắn rơi 10 máy bay Mỹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 36/LCT) thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất cho quân dân Hà Nội và gửi thư khen ngợi quân và dân thành phố đã lập chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay địch, bảo vệ vững chắc Thủ đô.

- Bộ đội tên lửa, không quân phối hợp với quân và dân thành phố Hải Phòng bắn rơi 12 máy bay Mỹ. Biên đội máy bay tiêm kích gồm bốn chiếc MIG.17 do biên đội trưởng Nguyễn Văn Bảy chỉ huy bắn rơi chiếc thứ 1.800 trên miền Bắc. Ngày 29 tháng 4, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 35/LCT) thưởng quân và dân thành phố Cảng Huân chương Độc lập hạng nhất.
_______________________________________________
1. Năm 1970, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định Bộ Tư lệnh Hải quân thôi kiêm nhiệm Quân khu Đông Bắc. Tỉnh đội Quảng Ninh và các lực lượng thuộc Quân khu Đông Bắc được bàn giao sang Quân khu Tả Ngạn.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:52:38 pm

Tháng 5.

Thành lập các đoàn 4,5,6,7 và 31 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu Trị-Thiên.

- Đoàn 4 gồm tiểu đoàn 804 bộ binh và hai tiểu đoàn công binh chuyên đánh giao thông, phụ trách từ nam Phú Lộc đến bắc đèo Hải Vân.

- Đoàn 5 gồm ba tiểu đoàn bộ binh (804A, 810, 845), hai tiểu đoàn đặc công (K1, K2) và 14 đội biệt động, phụ trách ba huyện vùng ven và nội thành Huế.

- Đoàn 6 gồm trung đoàn bộ binh 6, phụ trách hai huyện Phong Điền, Quảng Điền (Thừa Thiên).

- Đoàn 7 gồm trung đoàn 7 (sư đoàn bộ binh 304), hai tiểu đoàn bộ binh (808, 814), tiểu đoàn đặc công K10 và hai đại đội bộ đội địa phương huyện, phụ trách hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng (Quảng Trị).

- Đoàn 31 gồm hai tiểu đoàn bộ binh dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh mặt trận Đường 9-bắc Quảng Trị (B5), phụ trách khu vực từ đường số 9 đến giới tuyến quân sự tạm thời.


17 tháng 5.

Quân và dân Nghệ An bắn rơi chiếc máy bay thứ 1.900 trên miền Bắc.


Tháng 6.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam
về nhiệm vụ quân sự năm 1967: “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, phấn đấu đưa tổng số chủ lực, bộ đội địa phương và du kích lên ... Chú trọng nâng cao chất lượng của bộ đội một cách toàn diện, làm cho bộ đội ta có tinh thần chiến đấu cao, tổ chức biên chế thích hợp với yêu câu tác chiến, bảo đảm cho bộ đội ta ăn no, sức khỏe tốt, đánh giỏi”.


5 tháng 6.

Quân và dân Thanh Hóa bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.000 trên miền Bắc.

Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng:

- Huân chương Độc lập hạng nhất: quân dân tỉnh Quảng Ninh.

- Huân chương Độc lập hạng hai: quân dân các tỉnh Ninh Bình, Nam Hà, Hà Bắc, Yên Bái, Bắc Thái, Lạng Sơn.

- Huân chương Quân công hạng nhất: Không quân nhân dân, bộ đội Tên lửa, Pháo binh, Pháo cao xạ, Vận tải, Binh chủng Thông tin.

- Huân chương Quân công hạng hai: Binh chủng Ra-đa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và căn dặn: “Cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ trang tuyệt đối chớ vì thắng lợi mà chủ quan, khinh địch. Phải luôn luôn nâng cao cảnh giác ... Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”.


16 tháng 6.

Trung đội dân quân gái xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa), đơn vị dân quân gái đầu tiên trên miền Bắc bằng 27 viên đạn súng bộ binh bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ.


6 tháng 7.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng, Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy Bộ Tư lệnh Miền từ trần sau một cơn đau tim nặng, thọ 53 tuổi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 75/LCT) truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Quân công hạng nhất cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh do những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.


11 tháng 7.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị (số 43/ĐU) về tăng cường quản lý ngân sách quốc phòng.

 
16 tháng 7.

Quân và dân Nam Hà hắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.100 trên miền Bắc.


20 tháng 7.

- Thành lập Trường bổ túc cán bộ đặc công
thuộc Bộ Tư lệnh Đặc công.

Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội, đại đội (có thể đảm nhiệm cấp tiểu đoàn) cho toàn quân.

- Hội đồng chính phủ ra nghị định bổ sung về chế độ đãi ngộ đối với quân nhân, cán bộ, công nhân viên chức quốc phòng bị thương, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước.


27 tháng 7.

Bộ Tư lệnh Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc ra quyết định (số 210/QĐ) sáp nhập Trường quân chính Quân khu Đông Bắc vào Trường sĩ quan Hải quân.


Cuối tháng 7.

- Quân ủy Trung ương mở lớp tập huấn cho 150 cán bộ cao cấp, trung cấp thuộc các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và các binh đoàn cơ động về tình hình, nhiệm vụ mới và những vấn đề đặt ra đối với tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, nhằm thực hiện yêu cầu tiêu diệt lữ đoàn quân Mỹ trên chiến trường miền Nam.

- Bộ Tư lệnh Quân khu 5 thành lập Mặt trận 4 chỉ huy hướng trọng điểm Đà Nẵng. Lực lượng trực thuộc mặt trận có ba tiểu đoàn bộ binh và trung đoàn 575 pháo hỏa tiễn ĐKB.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Năm, 2022, 10:54:46 pm

5 tháng 8.

Bộ Tư lệnh Thiết giáp điều hai đại đội 3 và 9 thuộc tiểu đoàn 3 trung đoàn 203 xe tăng vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Ngày 21 tháng 12, đơn vị vào đến Quảng Trị an toàn.


21 tháng 8.

Quân và dân miền Bắc bắn rơi 13 máy bay Mỹ. Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, có chiếc thứ 2.200 trên miền Bắc.


Tháng 8,

Quân ủy Trung ương mở cuộc vận động: “Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong toàn quân.


Trung tuần tháng 9.

Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua và Dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam lần thứ hai
. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chào mừng Đại hội. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn nêu rõ: đây là đại hội mừng công, xứng đáng với tên gọi: “Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ”. Đại hội tuyên dương 47 cán bộ, chiến sĩ là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


17 tháng 9.

- Tại trận địa Hiệp Hòa (Hà Bắc), tiểu đoàn 76 trung đoàn tên lửa 257 do tiểu đoàn trưởng Trịnh Lan chỉ huy vận dụng kinh nghiệm chọn dải nhiễu của tiểu đoàn 63, bắn rơi tại chỗ một máy bay RF.4C Mỹ ở phía tây Hà Nội. Đây là chiếc máy bay thứ 2.300 bị bắn rơi trên miền Bắc.

- Tại trận địa T5 nông trường Quyết Thắng, tiểu đoàn 84 trung đoàn tên lửa 238 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên bắn rơi chiếc B.52 đầu tiên trên vùng trời Vĩnh Linh.

Ngày 20 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số 100/LCT) thưởng Huân chương Quân công hạng hai cho tiểu đoàn 84 và gửi thư khen quân, dân Khu 4 lần đầu tiên bắn rơi máy bay B.52 của Mỹ trên miền Bắc.


Tháng 9.

Hội nghị phòng không nhân dân trên miền Bắc
tổng kết kinh nghiệm tổ chức, báo động, đào hầm hố, che phòng, sơ tán, cứu chữa và khắc phục hậu quả địch đánh phá, giữ vững mạch máu giao thông chi viện miền Nam, quyết định đẩy mạnh công tác động viên lực lượng trên miền Bắc bổ sung quân cho chiến trường.


Tháng 10.

Giải thể Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định, thành lập 6 phân khu:


- Phân khu 1 gồm Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Bến Cát, Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.

- Phân khu 2 gồm Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ, Tân Bình, Bình Chánh.

- Phân khu 3 gồm Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc, Nhà Bè.

- Phân khu 4 gồm Vũng Tàu, Bà Rịa, Nhơn Thạch.

- Phân khu 5 gồm Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An, Thủ Đức.

- Phân khu 6 gồm các quận nội thành Sài Gòn do các đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư và Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư1.


14 tháng 10.

Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) dùng súng bộ binh bắn rơi chiếc máy bay thứ 2.400 của Mỹ trên miền Bắc.

Ngày 17 tháng 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng Huân chương Quân công hạng ba cho trung đội lão dân quân xã Hoằng Hóa và gửi thư khen các cụ “Tuổi cao chí càng cao” nêu gương sáng cho đồng bào cả nước.


Giữa tháng 10.

Thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương 1 và 2. Bộ Chỉ huy tiền phương 1 phụ trách các cánh quân phía đông, phía bắc và lực lượng chủ lực. Bộ Chỉ huy tiền phương 2 phụ trách các cánh quân phía tây, phía nam và lực lượng nội thành Sài Gòn.


17 tháng 10.

Tiểu đoàn pháo phòng không 18 sư đoàn 365 bảo vệ Đáp Cầu (Hà Bắc) dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Nông Văn Dũng trong một thời gian ngắn với số lượng đạn không nhiều (5.441 viên đạn 37 và 7.318 viên đạn 14,5) bắn rơi năm máy bay F.105D Mỹ, có bốn chiếc rơi tại chỗ.

Kinh nghiệm chiến đấu của tiểu đoàn 18 được Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân phổ biến, vận dụng trong công tác huấn luyện bộ đội.


20-22 tháng 10.

Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tổng kết năm tháng hoạt động hè-thu 1967 của quân và dân miền Nam, kêu gọi các lực lượng vũ trang trên chiến trường phát triển mạnh mẽ thế chủ động liên tục tiến công địch, đập tan kế hoạch phản công mới của Mỹ-ngụy, giành thắng lợi thật to lớn trong đông-xuân 1967-1968.


26-10 đến 5-12.

Chiến dịch Lộc Ninh.


Lực lượng tham gia: hai sư đoàn bộ binh (7, 9), đoàn pháo binh 69 chủ lực Miền và lực lượng vũ trang các tỉnh Bình Long, Phước Long.

Trong hơn một tháng, các đơn vị đánh 60 trận (có hai trận cấp sư đoàn, bảy trận cấp trung đoàn, 16 trận cấp tiểu đoàn), loại khỏi vòng chiến đấu 5.400 tên (có 2.900 Mỹ), bắt 617 tên, phá hủy 103 xe quân sự, 63 khẩu pháo, thu 172 súng các loại.


3-30 tháng 11.

Chiến dịch Đắc Tô (bắc Công Tum).


Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 1 (thiếu) chủ lực Tây Nguyên, trung đoàn 174, tiểu đoàn bộ binh 6 độc lập và trung đoàn pháo binh 40 thuộc Mặt trận Tây Nguyên.

Sau 27 ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 4.090 tên địch, phá hủy 32 xe quân sự và 38 máy bay các loại.


6 tháng 11.

Quân và dân Hà Nội bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.500 trên miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và căn dặn quân dân Thủ đô nâng cao cảnh giác, thi đua chiến đấu, giành thắng lợi to lớn hơn.


19 tháng 11.

Biên đội MIG.21 gồm Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Đăng Kính thuộc trung đoàn không quân 921 lần đầu tiên bắn rơi một máy bay trinh sát điện tử EB.66 Mỹ.


20 tháng 11.

Thành lập đại đội pháo binh dân quân gái xã Ngư Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình) gồm 34 chiến sĩ tuổi từ 16-20, trang bị bốn khẩu pháo 85. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, đại đội đánh thắng trận đầu, bắn cháy tàu khu trục số 013 Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen, tặng mỗi chiến sĩ một Huy hiệu của Người.


25 tháng 11.

Quân và dân Hải Phòng bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.600 trên miền Bắc.


6 tháng 12.

Thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9.


Tư lệnh: Trần Quý Hai.
Chính ủy: Lê Quang Đạo.


8-12-1967 đến 1-1968.

Sư đoàn bộ binh 9 (chủ lực Miền) phối hợp với lực lượng vũ trang Tây Ninh đánh bại cuộc hành quân “Hòn đá vàng” của sư đoàn 25 Mỹ và một số tiểu đoàn ngụy vào chiến khu Dương Minh Châu. Gần một tháng chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 2.500 tên (có 2.000 Mỹ), phá hủy 184 xe quân sự, 28 đại bác, bắn rơi và bắn cháy 60 máy bay ...


Tháng 12.

Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
, đưa cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới.
________________________________________________
1. Lực lượng vũ trang mỗi phân khu có từ hai đến bốn tiểu đoàn bộ binh trang bị gọn nhẹ. Riêng phân khu 6 có 11 đội đặc công, biệt động.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:26:03 pm

NĂM 1968

Tháng 1.

- Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
thông qua nghị quyết Bộ Chính trị (12-1968): “Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”.

- Thành lập nhà máy sản xuất đạn chống tăng thuộc Cục Quân giới gồm sáu phân xưởng, 12 phòng ban kỹ thuật.

Giám đốc: Phạm Khắc Thư.
Bí thư Đảng ủy: Hán Công Tích.


5 tháng 1.

Quân và dân tỉnh Ninh Bình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.700 trên miền Bắc.


12-27 tháng 1.

Liên quân Lào-Việt mở chiến dịch giải phóng Nậm Bạc
(Thượng Lào).

Quân tình nguyện Việt Nam có sư đoàn bộ binh 316 (thiếu) hai trung đoàn bộ binh 5 và 7, ba tiểu đoàn súng máy cao xạ, một tiểu đoàn pháo ĐKB, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn thông tin và một số đơn vị bảo đảm, phục vụ khác. Bộ đội Pa-thét Lào có tiểu đoàn bộ binh 409 và lực lượng vũ trang địa phương.

Bộ Chỉ huy chiến dịch về phía Việt Nam có các đồng chí Vũ Lập (Tư lệnh), Huỳnh Đắc Hương (Chính ủy).

Kết quả: bộ đội tình nguyện hỗ trợ bộ đội Pa-thét Lào loại khỏi vòng chiến đấu 3.189 tên, diệt sáu tiểu đoàn, đánh thiệt hại năm tiểu đoàn khác, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, giải phóng khu vực Nậm Bạc gồm trên một vạn dân.


20-1 đến 15-7.

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh.


Lực lượng tham gia trong quá trình diễn biến chiến dịch: bốn sư đoàn bộ binh (304, 320, 324, 325), hai trung đoàn bộ binh (Vĩnh Linh, Quảng Trị), năm trung đoàn pháo binh (84, 45 pháo phản lực ĐKB; 164, 204, 675 pháo xe kéo, một tiểu đoàn pháo phản lực BM.14), ba trung đoàn phòng không (228, 208, 244), hai tiểu đoàn (thiếu) thiết giáp, một trung đoàn và một tiểu đoàn công binh, sáu tiểu đoàn vận tải và một số đơn vị bảo đảm, phục vụ khác.

Bộ Chỉ huy chiến dịch: Trần Quý Hai (Tư lệnh), Lê Quang Đạo (Chính ủy), Cao Văn Khánh (Tham mưu trưởng).

Sau 170 ngày đêm tiến công, vây hãm và đánh quân địch rút chạy, ta đã diệt và làm bị thương 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và phá hủy 480 máy bay, 120 xe quân sự, 65 đại bác, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa với hơn một vạn dân. Ta đã thu hút và kìm giữ một lực lượng lớn quản địch ở Khe Sanh (lúc cao nhất là 32 tiểu đoàn Mỹ, tức một phần tư lực lượng chiến đấu của Mỹ trên chiến trường) tạo điều kiện và phối hợp với cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam.


Cuối tháng 1.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập sư đoàn phòng không 375 ở nam sông Gianh thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Biên chế: ba trung đoàn pháo cao xạ 214, 218, 282; trung đoàn tên lửa 238 và tiểu đoàn pháo cao xạ 14 Nguyễn Viết Xuân.

Tư lệnh: Hoàng Văn Khánh.
Chính ủy: Trần Sinh.


30-1 đến 31-3.

Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam. Ở Huế, ta làm chủ thành phố 25 ngày, thành lập chính quyền cách mạng. Ở Sài Gòn - Gia Định, đặc công, biệt động tiến công đồng loạt các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy như tòa đại sứ Mỹ, dinh tổng thống, bộ tổng tham mưu, tổng nha cảnh sát, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất ... Các lực lượng vũ trang trên toàn miền đồng loạt tiến công nhiều sở chỉ huy quân đoàn, sư đoàn, tiểu khu, chi khu quân sự ngụy, 45 sân bay, nhiều tổng kho, bến tàu, căn cứ hải quân ... Nhân dân nhiều vùng nông thôn và đô thị nổi dậy diệt ác, trừ gian giải tán dân vệ, phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã diệt và làm tan rã 147.000 tên địch (có 43.000 tên Mỹ), phá hủy 34 phần trăm vật tư dự trữ chiến tranh của Mỹ ở miền Nam, phá hủy 4.200 (trong số 5.400) “ấp chiến lược”, giải phóng thêm 1,4 triệu dân. Đây là đòn quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc Mỹ phải “xuống thang chiến tranh” tạo ra bước ngoặt, mở đầu thời kỳ đi xuống về chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.


31 tháng 1.

Thành lập Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc:
Nhiệm vụ: chỉ đạo xây dựng, tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc, kỹ thuật thông tin đối với các đơn vị thông tin toàn quân và trực tiếp chỉ huy các đơn vị thông tin binh chủng.

Tư lệnh: Tạ Đình Hiểu.
Chính ủy: Lê Cư.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:27:21 pm

6-7 tháng 2.

Chiến thắng Làng Vây.


Trung đoàn bộ binh 24 (sư đoàn 304), tiểu đoàn 3 trung đoàn 101 (sư đoàn 325), tiểu đoàn 2 pháo lựu (trung đoàn 675), hai tiểu đoàn công binh (trung đoàn 7), hai đại đội 3 và 6 (tiểu đoàn thiết giáp 198) và một số đơn vị binh chủng tiến công cứ điểm Làng Vây trên tuyến phòng thủ Đường 9-Khe Sanh của Mỹ - ngụy. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta đánh hiệp đồng binh chủng (có xe tăng tham gia) diệt một tiểu đoàn địch trong công sự vững chắc.


22 tháng 2.

Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Tư lệnh Binh chủng Tên lửa. Ba trung đoàn tên lửa 236, 257, 263 chuyển thuộc sư đoàn phòng không 361. Hai trung đoàn tên lửa 285, 267 chuyển thuộc sư đoàn phòng không 363. Hai trung đoàn 261, 274 chuyển thuộc sư đoàn phòng không 365. Trung đoàn 278 chuyển thuộc sư đoàn phòng không 367. Riêng trung đoàn tên lửa 275 đang chiến đấu ở Quân khu 4 trực thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân.


17 tháng 3.

Quân và dân Hà Nội bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.800 trên miền Bắc.


31 tháng 3.

Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, cách chức tướng Oét-mo-len, tư lệnh quân Mỹ ở Việt Nam (22-3), thừa nhận thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, cử người đàm phán với đại diện Chính phủ ta tại Pa-ri.


24 tháng 4.

- Bộ Chính trị nhận định về đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ra nghị quyết về phương hướng nỗ lực mới nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định.

- Bộ chỉ huy Miền thành lập năm tiểu đoàn (3, 4, 5, 7, 8 ) đặc công cơ động.


Tháng 4.

Viện Kỹ thuật quân sự phối hợp với các Trường đại học Tổng hợp, đại học Bách khoa và Tổng cục Bưu điện nghiên cứu, thiết kế phương tiện rà phá bom, mìn từ trường.


Tháng 5.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy (đợt 2) bắt đầu từ đêm 4 tháng 5, mạnh nhất là ở Sài Gòn - Gia Định. Cuộc tiến công gây cho địch một số thiệt hại, nhưng không đạt được các yêu cầu đề ra về chính trị, quân sự.


8 tháng 5.

Quân và dân tỉnh Hà Tĩnh bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 2.900 trên miền Bắc.


13 tháng 5.

Phiên họp đầu tiên giữa đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và đại diện chính phủ Hoa Kỳ tại Pa-ri.


27 tháng 5.

Thành lập sư đoàn phòng không 377
(quyết định số 53/QĐ-QP) biên chế ba trung đoàn pháo cao xạ 224, 233, 256 và hai trung đoàn tên lửa 278, 275.

Tư lệnh: Nguyễn Quang Bích.
Chính ủy: Lê Tư.


18 tháng 6.

Thành lập Trường đại học Kỹ thuật quân sự trên cơ sở phân hiệu 2
Trường đại học Bách khoa.


25 tháng 6.

Quân dân Quảng Bình và trung đoàn 230 (sư đoàn phòng không 367) bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.000 trên miền Bắc.


28 tháng 6.

Thành lập Đoàn 968 quân tình nguyện Việt Nam ở Lào
(quyết định số 98/TM-QĐ của Bộ Tổng Tham mưu). Biên chế năm tiểu đoàn bộ binh và các đại đội đặc công, cao xạ, pháo binh, công binh, thông tin, trinh sát, vận tải.

Tư lệnh: thượng tá Hà Tuấn Khanh.
Chính ủy: thượng tá Phạm Sinh.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:28:52 pm

24 tháng 7.

Tiểu đội nữ thanh niên xung phong (10 người) do Võ Thị Tần chỉ huy anh dũng hy sinh tại ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) trong khi làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông.


Cuối tháng 7.

Hội nghị các chiến sĩ lái xe giỏi và công nhân sửa chữa xe giỏi toàn quân.


Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Ngành Xe quân đội lá cờ thêu 16 chữ vàng truyền thống:

“Yêu xe như con
Quý xăng như máu
Vượt mọi khó khăn
Hoàn thành nhiệm vụ”.


Tháng 7.

Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công súng chống tăng B.40. Tiếp đó, ngày 20 tháng 10 năm 1969, chế thử thành công đạn B.40.


Tháng 8.

Hội nghị chiến sĩ nuôi quân giỏi toàn quân.


10 tháng 8.

Tuyến ống dẫn dầu của quân đội từ Nam Thanh (Nam Đàn, Nghệ An) vượt sông Lam tới Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) bước vào hoạt động. Tuyến dài 42 ki-lô-mét, do công trường 18 thuộc Cục Quản lý xe (thành lập ngày 20 tháng 4 năm 1968) thi công.


22 tháng 8.

Thực hiện thông tri của Ban Bí thư Trung ương Đảng (ngày 2-8-1968) về việc tổ chức hệ thống vận tải tại Quân khu 4, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4 đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và thường trực Hội đồng chính phủ.

Tư lệnh: Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ - Bộ trưởng Giao thông vận tải.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Chính ủy Quân khu 4.

Các Phó tư lệnh: Nguyễn Tường Lân - Thứ trưởng Giao thông vận tải; đại tá Hoàng Văn Thái - Chủ nhiệm tiền phương Tổng cục Hậu cần, đại tá Lê Văn Tri - Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân; Chu Mạnh - Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Nghệ An; Nguyễn Tiến Chương - Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh; Cổ Kim Thành - Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Quảng Bình.


24 tháng 8.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 95/QĐ-QP) thành lập Cục Xăng dầu thuộc Tổng cục Hậu cần.

Nhiệm vụ: chỉ đạo công tác xăng dầu trong toàn quân; trực tiếp tiếp nhận, bảo quản, cung cấp và vận chuyển xăng dầu, các khí tài xăng dầu cho lực lượng vũ trang xây dựng và chiến đấu.

Quân số (lúc thành lập): 2.055 cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên. Các cơ sở gồm: ba tiểu đoàn, chín đại đội, một xí nghiệp sửa chữa, 11 kho...

Cục phó 1: trung tá Phan Tử Quang.


17-8 đến 28-9.

Chiến dịch Tây Ninh - Bình Long
. Lực lượng chiến đấu: ba sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, các đơn vị binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương.

Chỉ huy: Bộ Tư lệnh Miền.

Kết quả: đánh 315 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 17.200 tên, đánh thiệt hại bảy tiểu đoàn địch, phá hủy 1.500 xe quân sự, 107 khẩu pháo cối, bắn rơi 122 máy bay.


Tháng 10.

Hội nghị chiến tranh du kích miền Nam lần thứ tư
tuyên dương ba lá cờ đầu là: “Bến Tre - Anh dũng đồng khởi thắng Mỹ, diệt ngụy”, “Trà Vinh - Toàn dân nổi dậy đoàn kết lập công”, “Thừa Thiên - Tiến công, nổi dậy anh dũng kiên cường”.


28 tháng 10.

- Tổ chức Bộ Tư lệnh 500 thay tiền phương Tổng cục Hậu cần.


Nhiệm vụ: tổ chức chỉ huy toàn bộ công tác giao thông vận tải ở phía tây và nam Quân khu 4.

Lực lượng: hai trung đoàn và 35 tiểu đoàn công binh; một sư đoàn, ba trung đoàn và 23 tiểu đoàn phòng không; 18 tiểu đoàn ô tô vận tải; hai tiểu đoàn đường ống. Quân số 33.384 cán bộ, chiến sĩ.

Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Đôn - Phó tổng tham mưu trưởng.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

- Đại đội 25 (tiểu đoàn 1) sử dụng pháo 130, bắn bị thương thiết giáp hạm Niu-giơ-di của Mỹ ở vùng biển Vĩnh Kim (Vĩnh Linh).


1 tháng 11.

Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc chiến tranh nhân dân của quân và dân ta trên miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ kết thúc thắng lợi.

Từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến ngày 1 tháng 11 năm 1968, quân và dân ta bắn rơi 3.243 máy bay các loại (có sáu chiếc B.52), 143 lần bắn chìm, bắn bị thương tàu biệt kích, tàu khu trục và tàu tuần dương Mỹ.


3 tháng 11.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu ... Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”.

“Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi".


17 tháng 12.

Hội nghị tổng kết đặc công toàn quân lần thứ nhất
bế mạc sau hai tháng làm việc. Hội nghị đã tổng kết quá trình hình thành và phát triển của bộ đội đặc công, nêu lên những vấn đề mới về lý luận tổ chức và nghệ thuật tác chiến đặc công. Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghe báo cáo kết quả hội nghị. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo, kết luận hội nghị.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:30:03 pm

NĂM 1969

1 tháng 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng quân và dân cả nước nhân dịp năm mới: “Năm 1968 là một năm quân và dân cả nước ta chiến thắng rất oanh liệt... Chắc chắn giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Quân và dân trong cả nước thừa thắng xông lên, nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn.

... Vì độc lập vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào...".


Tháng 1.

Trung ương Cục miền Nam chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam khắc phục mọi khó khăn, củng cố lực lượng, bổ sung trang bị, tạo thế và lực mới tiến lên giành thắng lợi quyết định.


13 tháng 1.

Tiểu đoàn bộ binh 307 và đội đặc công Quân khu 9 tập kích sân bay Lộ Tẻ (Cần Thơ), phá hủy, phá hỏng 66 máy bay các loại, diệt và làm bị thương 150 tên Mỹ, 50 ngụy.


24 tháng 1.

Trung đoàn bộ binh 6 chủ lực Quân khu Trị-Thiên được tăng cường tiểu đoàn đặc công 3 và lực lượng vũ trang địa phương đánh thiệt hại nặng trung đoàn 9 sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ và một số tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 ngụy ở Cô-ca-va (tây Thừa Thiên).


28 tháng 1.

Đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của bộ đội thông tin toàn quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội thông tin liên lạc đã lập nhiều thành tích vẻ vang, đã dũng cảm, nhanh nhẹn, khắc phục khó khăn, giữ vững thông tin liên lạc, bảo đảm tốt cho công tác chiến đấu và công tác chung. Đã có cố gắng cần luôn luôn cố gắng hơn nữa, phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, ra sức học tập thêm nghiệp vụ kỹ thuật, bảo đảm công tác thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn, ngày càng tiến bộ và lập nhiều thành tích mới”.


29 tháng 1.

Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam quyết định thưởng Huân chương Tổ quốc cho các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam.


Đầu tháng 2.

Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ lực lượng vũ trang Trị-Thiên-Huế. Đại hội tuyên dương tám đơn vị “Thành đông quyết thắng”, 25 tập thể, cá nhân lá cờ đầu đã lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


22-2 đến 30-3.

Quân và dân miền Nam mở đợt tiến công xuân 1969 vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã; hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35 sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn..., loại khỏi vòng chiến đấu 104.000 tên, bắn rơi và phá hủy 1.600 máy bay các loại, bắn cháy 2.900 xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh của địch.


Đêm 25 rạng 26 tháng 2.

Chiến thắng Đồng Dù.


Tiểu đoàn 3 đặc công Miền và tiểu đoàn 28 đặc công (sư đoàn 7) được tăng cường một tiểu đoàn pháo hỗn hợp do Anh hùng lực lượng vụ trang nhân dân Nguyễn Cụ, phó chỉ huy bộ đội đặc công Miền chỉ huy tập kích căn cứ sư đoàn 25 bộ binh cơ giới Mỹ ở Đồng Dù (Củ Chi), làm thương vong hơn 1.000 tên địch, phá hủy 50 máy bay các loại, 176 xe quân sự, 12 khẩu pháo. Ta hy sinh 18, bị thương 14 đồng chí.


17-27 tháng 3.

Quân và dân Thủ Dầu Một đánh bại cuộc hành quân lớn của hơn một vạn quân Mỹ-ngụy, diệt hơn 2.000 tên, bắn cháy 210 xe quân sự, bắn rơi 20 máy bay, thu một số vũ khí.


Đầu tháng 4.

Quân khu 4 mở đại hội thi đua lập công đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong bốn năm (1965-1969), quân khu đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập. Riêng năm 1968 được thưởng 3.141 Huân chương Quân công, Chiến công các loại.


Tháng 4.

Bộ Chính trị ra nghị quyết: “Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt”:
“Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ..., đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:32:31 pm

Tháng 5.

Tổng cục Chính trị mở lớp nghiên cứu về tình hình nhiệm vụ cho cán bộ cao cấp, trung cấp toàn quân tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho lớp học: “Vấn đề số một là phải không ngừng nâng cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... Quyết tâm phải biến thành hành động dũng cảm, chiến đấu kiên quyết, không sợ hy sinh gian khổ, triệt để chấp hành nghiêm chỉnh mọi chỉ thị, mệnh lệnh, trong bất kỳ tình huống nào cũng phải chỉ huy đơn vị quyết đánh, quyết thắng, cũng phải quản lý đơn vị chặt chẽ, giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành tốt mọi chính sách”.


5-5 đến 17-6.

Chiến dịch Đắc Tô (bắc Công Tum).


Lực lượng tham gia: ba trung đoàn bộ binh (28,66,95), trung đoàn pháo binh 40, tiểu đoàn 5 (trung đoàn 4), tiểu đoàn 631 và hai tiểu đoàn đặc công (20,37).

Sau hơn một tháng chiến đấu, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 13.000 tên địch, bắt 164 tên, phá hủy 1.151 xe quân sự, 74 khẩu pháo, 260 máy bay và nhiều phương tiện chiến tranh khác.


5-5 đến 20-6.

Chiến dịch Long Khánh (Đông Nam Bộ).


Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 5 chủ lực Miền, trung đoàn bộ binh 29 và đại đội 1 tiểu đoàn 24.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên địch, phá hủy 47 khẩu pháo, 216 xe quân sự (có 32 xe bọc thép), 79 máy bay, thu 113 súng các loại.


9 tháng 5.

Trung đoàn 5 (sư đoàn 5) chủ lực Miền vận động tiến công trung đoàn 43 sư đoàn 18 ngụy ở Tầm Bung, xã Bình Hòa (Xuân Lộc, Long Khánh), diệt và làm bị thương 770 tên, bắn rơi hai máy bay, thu 30 súng các loại.


11 tháng 5.

Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân
họp tại Hà Nội. Đây là một hội nghị quân sự lớn, có tầm quan trọng làm chuyển biến chất lượng chiến đấu và xây dựng quân đội trong tình hình mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với các đại biểu dự hội nghị.

Người nói: “Từ Tết Mậu Thân đến nay, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã bước vào giai đoạn mới. Đồng bào và chiến sĩ ta ở miền Nam đã đánh rất giỏi, thắng rất to. Ở miền Bắc cũng đánh rất giỏi, thắng rất to. Quân và dân cả nước ta đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Thế giặc Mỹ thua đã rõ ràng, nhất định chúng sẽ hoàn toàn thất bại... Vì độc lập, tự do, bộ đội ta, nhân dân ta không sợ hy sinh, gian khổ. Chỉ khi nào quét sạch hết giặc Mỹ ra khỏi đất nước, đánh đổ bọn việt gian bán nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì nhân dân ta mới có hòa bình, tự do thực sự, Bắc Nam sum họp một nhà. Để mau tiến tới ngày vui lớn ấy, các chú phải ra sức phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao phó”.

Bác chỉ thị cho quân đội “Phải xây dựng lực lượng thật tốt, chất lượng thật cao. Trần Hưng Đạo xưa từng nói “quân cần tinh, không cần nhiều”. Phải cố gắng học tập và luôn luôn gương mẫu về đạo đức cách mạng”.

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ thay mặt hội nghị mang hoa lên chúc thọ Bác: “Thưa Bác, nhân dịp mừng thọ Bác 79 tuổi, cháu xin thay mặt anh em và thay mặt cán bộ chiến sĩ toàn quân kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu. Toàn thể các lực lượng vũ trang nhân dân tin tưởng tuyệt đối và biết ơn sâu sắc sự lãnh đạo, giáo dục và thương yêu chăm sóc của Đảng, của Bác”.


12 tháng 5.

Tiểu đoàn đặc công 5 (trung đoàn 429) và đại đội 48 đặc công cơ giới do đồng chí Nguyễn Hòa chỉ huy tiến công căn cứ lữ đoàn 12 (sư đoàn bộ binh 1) và căn cứ lữ đoàn 3 (sư đoàn kỵ binh bay) Mỹ ở Téc Ních (Bình Long) diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch.


6 - 8 tháng 6.

Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam
do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, thành lập Hội đồng cố vấn chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

Trong tháng 6, có 23 nước công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời công hòa miền Nam Việt Nam, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.


10 tháng 6.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 17 đơn vị và 12 cá nhân có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


23-6 đến 1-7.

Chiến dịch Mường sủi
(Lào). Bộ đội tình nguyện Việt Nam tham gia chiến dịch có sư đoàn bộ binh 316 (thiếu), ba tiểu đoàn đặc công, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đoàn phòng không, một tiểu đoàn vận tải, hai đại đội xe tăng... do đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh, đồng chí Huỳnh Đắc Hương làm Chính ủy. Bộ đội Pa-thét Lào có hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn và một đại đội súng máy cao xạ, một trung đội xe tăng. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.


29 tháng 6.

Sáp nhập Đoàn 500 (lực lượng vận tải và bảo đảm vận tải từ nam sông Gianh trở vào vĩ tuyến 17 gồm bảy tiểu đoàn xe, tám tiểu đoàn công binh, hai tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một tiểu đoàn đường ống, một công trường đường ống, ba đội điều trị, năm trạm hành quân chuyển thương) vào Đoàn 559.


Cuối tháng 6.

Quân chủng Phòng không - Không quân mở đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Đại hội tuyên dương thành tích của bộ đội pháo cao xạ, tên lửa, không quân, ra-đa đã lập chiến công oanh liệt, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc và hoạt động chi viện miền Nam.


Tháng 6.

Toàn quân sinh hoạt chính trị về tình hình nhiệm vụ mới
, thực hiện chỉ thị của Quân ủv Trung ương về: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và điều chỉnh số lượng bộ đội thường trực một cách thích hợp”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:34:23 pm

2 tháng 7.

Thành lập Viện khoa học Quân sự Việt Nam
(quyết định số 62/QĐ của Bộ Quốc phòng) thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng nghiên cứu những vấn đề chiến lược, chiến dịch và chỉ đạo công tác tổng kết, nghiên cứu khoa học quân sự trong toàn quân.


Đầu tháng 7.

- Quân khu 3 tổng kết 4 năm (1965-1968) đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên các mặt chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố hậu phương, động viên sức người sức của cho chiến trường miền Nam.

- Binh chủng Pháo binh mở đại hội thi đua quyết thắng bốn năm (1965-1968). Phát huy truyền thống “Chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng”, bộ đội pháo binh đã bắn chìm, bắn cháy 150 lần chiếc tàu chiến, tàu biệt kích của Mỹ-ngụy, góp phần cùng quân, dân các địa phương đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đế quốc Mỹ đối với miền Bắc.


Tháng 7.

Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Cục miền Nam chủ trương: “Đẩy mạnh tiến công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân... làm thất bại kế hoạch quét và giữ” trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.


20 tháng 7.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước:
“Triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hy sinh, gian khổ, kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.


29 tháng 7.

Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ 72-74/QĐ)

- Giải thể trung đoàn công binh cầu phà 269 (thành lập 21-8-1968).

- Giải thể sư đoàn pháo cao xạ 375 (Quân khu 4). Các trung đoàn cao xạ của sư đoàn chuyển trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4.

- Chuyển Cục Kỹ thuật (Tổng cục Hậu cần) thành Viện Kỹ thuật quân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu.


Tháng 8.

Quân khu Việt Bắc mở đại hội thi đua lập công đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bốn năm (1965-1968). Đại hội tuyên dương quân dân các dân tộc đã lập chiến công oanh liệt, bắn rơi 314 máy bay Mỹ; củng cố hậu phương, bảo đảm chi viện sức người, sức của cho miền Nam.


1-8 đến 15-9.

Các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam mở cuộc tiến công mới vào gần 40 thành phố, thị xã, 60 sở chỉ huy cấp trung đoàn trở lên, hơn 30 sân bay, nhiều bến cảng, kho tàng, diệt và làm bị thương hàng nghìn tên địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.


2 tháng 9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc từ trần. Bác đã để lại bản Di chúc lịch sử. Tiếp theo lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lời kêu gọi:

“Giương cao ngọn cờ quyết chiến quyết thắng của Bác trao cho, với khí thế thừa thắng xông lên, các lực lượng vũ trang nhân dân hãy cùng toàn dân đẩy mạnh sự nghiêp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”.

Toàn quân mở đợt sinh hoạt chính trị “học tập và làm theo Di chúc của Bác”, thi đua lập công đền ơn Bác.


4 tháng 9.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Cục Kỹ thuật Quân chủng Phòng không - Không quân.

Cục trưởng: Lương Hữu Sắt.


Tháng 9.

Hội nghị Khu ủy Khu 5 đề ra nhiệm vụ: “diệt kẹp giành dân, tác chiến của bộ đội chủ lực phải gắn liền với nhiệm vụ giành dân, cùng với phát triển lực lượng vũ trang địa phương phải tập trung củng cố các đơn vị chủ lực, đánh những trận lớn có tác dụng làm chuyển biến tình hình trên chiến trường toàn khu”.


22 và 23 tháng 9.

Quốc hội khóa III kỳ họp thứ 5 bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Phó chủ tịch nước.


26-9 đến 8-12.

Bộ Tư lệnh Quân khu 9 do đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Chính ủy tập trung hai trung đoàn 1 và 2, các đội tự vệ cơ quan và lực lượng du kích 18 xã vùng căn cứ U Minh, tổ chức thành thế trận chiến tranh nhân dân, đánh bại cuộc càn lớn của Mỹ-ngụy (gồm lữ đoàn 4 thủy quân lục chiến Mỹ và một bộ phận lực lượng của hai sư đoàn 9,21 ngụy).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:35:03 pm

20-10 đến 1-12.

Bộ Tư lệnh Tây Nguyên (B3) sử dụng hai trung đoàn bộ binh (66,88A), trung đoàn pháo binh 40, ba tiểu đoàn (20,37,401), một đại đội công binh mở chiến dịch tiến công địch trên tuyến phòng thủ từ Bu Prăng đến Đức Lập (Đắc Lắc, Quảng Đức), diệt và làm bị thương 4.300 tên, phá hủy 112 máy bay, 87 xe quân sự, 29 khẩu pháo, thu 248 súng các loại.


25-10-1969 đến 25-4-1970.

Quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào mở chiến dịch phản công giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (chiến dịch 139).


Lực lượng tham gia: hai sư đoàn bộ binh (316,312), trung đoàn bộ binh 866 (hai tiểu đoàn), trung đoàn pháo binh 16, một đại đội xe tăng, sáu tiểu đoàn đặc công, công binh, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Nghệ An và 10 tiểu đoàn bộ đội Pa-thét Lào.

Tham gia Bộ chỉ huy chiến dịch, về phía quân tình nguyện Việt Nam có các đồng chí Vũ Lập (Tư lệnh), Huỳnh Đắc Hương (Chính ủy).

Sau ba đợt chiến đấu, Liên quân Việt-Lào đánh thiệt hại nặng một bộ phận “lực lượng đặc biệt” của Vàng Pao gồm 13 tiểu đoàn (khoảng 7.800 tên), phá hỏng và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, mở rộng vùng giải phóng Lào, từ Bản Na đến Nậm Ngàn, gồm hai vạn dân.

Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đánh dấu bước tiến bộ mới về trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch và tác chiến trên địa bàn rừng húi của chủ lực ta.


3-11 đến 10-12.

Sư đoàn 7 chủ lực Miền Được tăng cường một trung đoàn pháo binh và một tiểu đoàn đặc công mở đợt hoạt động ở Phước Long, Phước Bình, Bù Đốp, Bổ Tức, Lộc Ninh, đánh hàng trăm trận, trong đó có một trận quy mô cấp trung đoàn, 23 trận cấp tiểu đoàn, diệt hàng nghìn tên địch.


23 tháng 11.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương 28 đơn vị và 23 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tháng 11.

Thành lập lữ đoàn 429 đặc công
(trên cơ sở trung đoàn 429) tại chiến khu Dương Minh Châu. Biên chế: ba tiểu đoàn (7,8,9) và sáu đại đội trực thuộc.

Lữ đoàn trưởng: Mười Thọ.
Chính ủy: Tư Định.


4 tháng 12.

Khu ủy Trị - Thiên - Huế chỉ thị cho phân khu III động viên mọi lực lượng ra sức xây dựng miền núi thành căn cứ cách mạng vững chắc, góp phần tích cực làm chuyển biến lớn trên chiến trường.


19 tháng 12.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tuyên dương 23 đơn vị và 17 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:36:35 pm

NĂM 1970


15 tháng 1.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự nhà nước
, trong đó có danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Pháp lệnh quy định danh hiệu, tiêu chuẩn đối với mỗi người hoặc đơn vị để được tặng hay truy tặng.

Ngày 27 tháng 1, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký lệnh công bố pháp lệnh này.


Tháng 1.

Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đề ra nhiệm vụ kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, tạo ra cục diện mới trong cục diện chiến tranh, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Đi đôi với phát triển chiến tranh nhân dân, cần phát triển bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với xây dựng nhằm đưa quân đội ta vượt qua khó khăn, thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, cùng với các lực lượng vũ trang địa phương và toàn dân đánh thắng địch về quân sự.


10 tháng 2.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tuyên dương 10 đơn vị và 28 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp đó, ngày 15 tháng 2, tuyên dương 12 đơn vị, 9 cá nhân và ngày 5 tháng 9 tuyên dương 6 đơn vị và 13 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.


Tháng 2.

- Hội nghị Quân ủy Trung ương bàn việc thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


Xác định vị trí của đấu tranh quân sự, vai trò của bộ đội chủ lực và yêu cầu đưa quân đội lên tác chiến hiệp đồng binh chủng ở các chiến trường. Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của quân đội ta lúc này là xây dựng các binh đoàn chủ lực mạnh, làm trụ cột cho chiến trường Đông Dương; xây dựng bộ đội chủ lực ở miền Nam đủ mạnh để đánh những trận tiêu diệt lớn; nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng dự bị trên miền Bắc sát với nhiệm vụ của những binh đoàn chủ lực cơ động, có khả năng tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng trên các chiến trường.

- Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào mở cuộc tiến công (từ 10-2 đến 21-2) giải phóng hoàn toàn khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Cù Kiệt” của Mỹ và quân ngụy Lào (từ tháng 8-1969) lấn chiếm vùng giải phóng của cách mạng Lào.


Tháng 3.

Thường trực Quân ủy Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về công tác nhà trường trong quân đội.


Trong hai năm 1970-1971, lấy bổ túc nâng cao trình độ cán bộ lên đồng đều là chủ yếu (trừ các trường đào tạo cán bộ kỹ thuật), đồng thời coi trọng hệ thống đào tạo cán bộ cơ bản, toàn diện và lâu dài.


8 - 17 tháng 3.

Bộ đội chủ lực Khu 9 phối hợp với lực lượng vũ trang Cà Mau chặn đánh cuộc hành quân hỗn hợp “U Minh 2" của Mỹ-ngụy vào căn cứ Cà Mau, Rạch Giá, bảo vệ được lực lượng và khu căn cứ của ta.


18 tháng 3.

Mỹ chủ mưu đảo chính, lật đổ Xi-ha-núc ở Cam-pu-chia.


18 - 19 tháng 3.

Bộ Tư lệnh Thiết giáp mở đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi thư khen ngợi: “Binh chủng Thiết giáp tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã phát huy truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vượt nhiều khó khăn, lập thành tích to lớn và ngày càng trưởng thành”.


27 tháng 3.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam và Quân khu ủy Khu 5 đẩy mạnh hoạt động, mở rộng vùng giải phóng
. Chỉ thị nêu rõ cần tiếp tục tiến công địch mạnh mẽ, mở rộng vùng giải phóng trên tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, phối hợp với phong trào nổi dậy của nhân dân Cam-pu-chia chống chính quyền phản động, giúp bạn phát triển lực lượng cách mạng và giải quyết những khó khăn về hậu cần cho bộ đội ta. Ngày 4 tháng 4, Bộ Chính trị chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Miền chuẩn bị lực lượng và kế hoạch tác chiến sẵn sàng giúp nhân dân Cam-pu-chia giành quyền làm chủ ở những tỉnh giáp với nước ta khi bạn yêu cầu.


31 tháng 3.

Hai đại đội bộ binh và một đại đội đặc công Khu 6 được pháo binh chi viện hỏa lực tập kích căn cứ Sông Mao (Bình Thuận) đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy sư đoàn 23, sở chỉ huy trung đoàn 44, chi đoàn thiết giáp, tiểu đoàn 3 trung đoàn 44, diệt và làm bị thương hơn 1.000 tên địch, phá hủy 70 xe quân sự.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:38:03 pm

Đầu tháng 4.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị bàn việc huấn luyện quân bổ sung và tổ chức đưa quân từ miền Bắc vào các chiến trường. Quân bổ sung thuộc binh chủng nào do bộ tư lệnh binh chủng ấy đảm nhiệm. Quân bổ sung là nhân viên kỹ thuật do các trường, lớp đào tạo, bổ túc chuyên sâu kỹ thuật phụ trách. Các quân khu tổ chức huấn luyện bộ binh cấp trung đoàn, sư đoàn. Trong hai năm 1970-1971, ta đã đưa 195.000 quân bổ sung, trong đó có nhiều cán bộ, chiến sĩ thuộc các binh chủng kỹ thuật hành quân đến các chiến trường.


1 - 26 tháng 4.

Bộ đội chủ lực Tây Nguyên phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành quân “Tất thắng” của 13 tiểu đoàn chủ lực cơ động, một trung đoàn xe tăng và xe bọc thép ngụy, có nhiều máy bay, đại bác hỗ trợ tại Đắc Siêng (Công Tum).


Tháng 4.

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên “lớp Hồ Chí Minh”. Quân ủy Trung ương ra nghị quyết thực hiện cuộc vận động trong quân đội. Đến cuối năm 1970 có 23.000 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được kết nạp vào Đảng - lớp đảng viên Hồ Chí Minh.

- Hội nghị tổng kết công tác thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1968.

Hội nghị đánh giá: Thanh niên xung phong đã dũng cảm mưu trí, sáng tạo trong việc mở đường, lấp hố bom, phá bom nổ chậm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải với khẩu hiệu “địch đánh ta cứ đi”, góp phần xây dựng các công trình quốc phòng, chuyển đạn, chăm sóc thương binh, bắn rơi máy bay Mỹ... Nhân dịp này, Quốc hội quyết định thưởng lực lượng Thanh niên xung phong Huân chương Độc lập hạng nhất.


Tháng 4 - tháng 6.

Quân tình nguyện Việt Nam (hai trung đoàn 28, 14 và tiểu đoàn 631) hỗ trợ bộ đội Pa-thét Lào tiến công giải phóng A-tô-pơ và Xa-ra-van.


24 tháng 4.

Thành lập sư đoàn vận tải 470
(quyết định số 67/QĐTU của Quân ủy Trung ương) thuộc Đoàn 559. Nhiệm vụ: vận tải hàng cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, đông bắc Cam-pu-chia; phối hợp với các đơn vị chiến đấu, bảo vệ tuyến vận tải và giúp lực lượng cách mạng Cam-pu-chia xây dựng cơ sở chính trị, quân sự, củng cố vùng giải phóng.

Biên chế: năm binh trạm vận tải, một trung đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37.

Sư đoàn trưởng: thượng tá Nguyễn An.


29-4 đến 30-6.

Các sư đoàn 1, 5, 7, 9 chủ lực Miền do đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục làm Chính ủy và đồng chí Hoàng Văn Thái, Tư lệnh Miền chỉ huy; các trung đoàn 44, 95 và một số tiểu đoàn độc lập Mặt trận Tây Nguyên do đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh; Trần Thế Môn - Chính ủy Mặt trận chỉ huy phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của quân Mỹ và ngụy Sài Gòn sang đông bắc Cam-pu-chia.


Tháng 5.

Cục Xăng dầu thành lập công trường T70 xây dựng công trình đường ống, hàn nối tuyến đường ống dẫn xăng dầu do quân đội phụ trách với tuyến đường ống hậu phương quốc gia. Phụ trách công trường: Hồng Cẩm. Ngày 11 tháng 7, Thủ tướng Chính phủ gửi công văn (số 96/K4) chỉ thị cho các tỉnh có đường ống đi qua phải cung cấp nhân lực, phương tiện thi công cho công trường. Ngày 21 tháng 11, Thủ tướng Chính phủ xác định cụ thể kế hoạch xây dựng đường ống dẫn dầu nối từ B12 đến S9 dài 1.650 ki-lô-mét. Công trình T70 gồm hai phần:

- Tuyến 559 xây dựng ống dã chiến dài 550 ki-lô-mét, kho dầu có sức chứa 8.720 tấn.

- Tuyến 6.970 xây dựng băng ống hàn dài 750 ki-lô-mét, kho dầu có sức chứa 13.800 tấn.

Ngày 17 tháng 4 năm 1971, Cục Xăng dầu thành lập thêm công trường 711H do đoàn 18 phụ trách thi công từ Vinh trở ra (112 ki-lô-mét đường ống) nối với tuyến 400H của binh trạm 170.

13 giờ ngày 13 tháng 12 năm 1971, tuyến 400H được nối với tuyến 711H, công trình đặc biệt T70 hoàn thành.


19 tháng 6.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về “Tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta”
, nêu rõ: “lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có trách nhiệm nặng nề trên chiến trường Đông Dương... Phải không ngừng nâng cao chất lượng chiến đấu của các lực lượng vũ trang cách mạng để làm tròn nhiệm vụ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế, cùng với quân và dân các nước bạn sát cánh chiến đấu, đánh bại kẻ thù chung”.


Tháng 6.

- Thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương
, động viên toàn quân, toàn dân trên miền Bắc phát huy sức mạnh của hậu phương lớn chi viện các chiến trường.

Chủ tịch: Phó thủ tướng Đỗ Mười.

- Thành lập Mặt trận Bình Long. Lực lượng trực thuộc có trung đoàn 1 (sư đoàn 1), bốn tiểu đoàn đặc công, bộ binh và tám đoàn hậu cần khu vực (10, 20, 30, 40, 400, 340, 500, 770).

- Tổ chức lại Đoàn 559 thành đơn vị tương đương quân khu do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy. Trực thuộc Bộ Tư lệnh 559 có năm bộ tư lệnh khu vực: 470, 471, 472, 473, 571 tương đương sư đoàn; 40 trung đoàn, tiểu đoàn vận tải ô tô, vận tải đường ống, pháo cao xạ, công binh; mặt trận 968 và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào.

Quân số Đoàn 559: 90.000 người.

Tư lệnh: đại tá Đồng Sỹ Nguyên.
Chính ủy: đại tá Đặng Tính.

- Bộ Tổng Tham mưu vạch kế hoạch tác chiến, bắt đầu điều động lực lượng và chuẩn bị chiến trường ở khu vực Đường 9 - Nam Lào.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Năm, 2022, 07:38:53 pm

28 tháng 7.

Bộ Chính trị ra chỉ thị củng cố và xây dựng căn cứ địa cách mạng
của từng chiến trường ở miền Nam; đồng thời có kế hoạch xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn, phù hợp với yêu cầu chung của cách mạng ba nước Đông Dương.


Tháng 7.

Hội nghị, quân sự địa phương toàn miền Bắc
quyết định đẩy mạnh củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, động viên toàn dân bảo vệ miền Bắc và chi viện miền Nam.


19 tháng 8.

Ủy ban Thường vụ quốc hội quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 55 đơn vị và 43 cá nhân thuộc các lực lượng vũ trang (quân đội và công an nhân dân) đã lập thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


24-8 đến 26-9.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn quân sự cho hơn 300 cán bộ cấp cao toàn quân học tập một số vấn đề đường lối quân sự của Đảng, một số cách đánh mới về chiến dịch, chiến thuật, công tác tham mưu, công tác đảng - công tác chính trị, công tác hậu cần trong chiến dịch và chiến đấu. Những kinh nghiệm hay và cách đánh hiệu quả ở chiến trường được trao đổi tại lớp học.


2 tháng 9.

Thành lập đoàn đặc công 367
tại căn cứ sông Chiêm (miền Đông Nam Bộ). Biên chế ba Z (tương đương tiểu đoàn). Năm 1972 phát triển thành chín Z, gồm bảy Z đặc công bộ, một Z đặc công nước, một Z pháo.

Đoàn trưởng: Nguyễn Thanh Tùng.
Chính ủy: Nguyễn Văn Được.


8 tháng 9.

Tiểu đoàn đặc công 406 Quân khu 5 tiến công các vị trí địch ở quận lỵ Trà Bồng (Quảng Ngãi), diệt và làm bị thương 650 tên địch (có quận trưởng, quận phó và 15 lính Mỹ), bắt sống một số quan chức ngụy quyền quận, xã; phá hủy 18 xe quân sự và 2 máy bay.


Tháng 9.

- Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền mở hội nghị tổng kết chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực trên chiến trường Cam-pu-chia, nêu lên những vấn đề mới về công tác chỉ huy của cán bộ và cơ quan sư đoàn trong các trận đánh then chốt nhằm tiêu diệt gọn quân địch, về tác chiến độc lập và hiệp đồng của các trung đoàn, tiểu đoàn ...

- Hội nghị khoa học quân sự toàn quân.


10 tháng 10.

Thành lập Binh đoàn 70
tại nam Quân khu 4. Nhiệm vụ: làm lực lượng nòng cốt cùng các đơn vị tại chỗ tiêu diệt địch trong các chiến dịch lớn. Biên chế ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 320), trung đoàn pháo mặt đất 45, trung đoàn pháo cao xạ 241, trung đoàn công binh 219 và một số đơn vị binh chủng, phục vụ.

Tư lệnh: đại tá Cao Văn khánh.
Chính ủy: đại tá Hoàng Phương.


Tháng 10.

Bộ tư lệnh 559 và Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc mở đại hội thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


Tháng 11.

Quân ủy Trung ương triệu tập hội nghị tổng kết công tác xây dựng chi bộ đảng trong quân đội, nêu lên một trong những bài học có tính nguyên tắc là có chi bộ mạnh mới có đơn vị cơ sở vững mạnh và có điều kiện xây dựng đảng bộ, xây dựng trung đoàn, sư đoàn mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ.


10 tháng 12.

- Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kêu gọi quân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra mệnh lệnh cho cán bộ và chiến sĩ cả nước thực hiện lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ, quyết tâm đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 02:55:34 pm

NĂM 1971


30-1 đến 23-3.

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào
đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719" của Mỹ-ngụy.

Tham gia chiến dịch: năm sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, 2), hai trung đoàn bộ binh (27, 278), tám trung đoàn pháo binh, ba trung đoàn công binh, ba tiểu đoàn xe tăng, sáu trung đoàn phòng không, tám tiểu đoàn đặc công, các đơn vị binh chủng khác và lực lượng hậu cần, vận tải của Đoàn 559, Tổng cục Hậu cần. Số quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu lên tới trên 60.000 cán bộ, chiến sĩ.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng là đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận. Bộ Chỉ huy chiến dịch (mật danh là mặt trận 702) do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy.

Lực lượng địch lúc cao nhất có 15 trung đoàn bộ binh (ba sư đoàn dù, thủy quân lục chiến, bộ binh số 1), hai trung đoàn thiết giáp (460 xe), 21 tiểu đoàn pháo binh (250 khẩu), 700 máy bay (có 300 trực thăng), bốn tiểu đoàn quân ngụy Lào gồm trên 42.000 quân (có 9.000 quân Mỹ). Đây là cuộc hành quân lớn nhất, điển hình của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Sau hơn một tháng phản công, trong đó có nhiều trận đánh ác liệt giữa Binh đoàn 70 với quân chủ lực cơ động ngụy ở bắc đường số 9 (tập kích điểm cao 655, vây lấn điểm cao 500, 543...), đầu tháng 3 năm 1971, bộ đội ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận, bao vây, truy kích tập đoàn lớn quân địch ở Bản Đông, tiêu diệt quân địch ở các điểm cao 273, 660, 550...

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh; phá hủy 1.100 xe (có 528 xe tăng, xe bọc thép), hơn 100 khẩu pháo lớn, bắn rơi 550 máy bay. Ta bắt hơn 1.000 tù binh, thu trên 3.000 khẩu súng các loại và nhiều trang bị quân sự. Quân đội Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta thực hành thắng lợi một chiến dịch phản công quy mô lớn bằng các lực lượng binh chủng hợp thành, đánh tiêu diệt quân chủ lực ngụy được quân Mỹ chi viện hỏa lực và cơ động. Lực lượng tham gia chiến dịch được Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen (31-3-1971): “Đánh giỏi, thắng giòn giã, lập chiến công xuất sắc”.


Tháng 2.

Hội nghị lần thứ 19 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
chỉ rõ phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam là đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”, phá kế hoạch “bình định” nông thôn của Mỹ-ngụy, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song, thực hành ba mũi giáp công, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao.


4-2 đến 24-6.

Chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực Miền
đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1.71" của Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở đông bắc Cam-pu-chia. Chiến dịch do Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền chỉ huy. Lực lượng tham gia gồm ba sư đoàn bộ binh (3, 7, 9) và trung đoàn pháo binh 28 chủ lực Miền (Đoàn 301), các đơn vị bộ binh và binh chủng của quân khu và các tỉnh trên địa bàn chiến dịch.

Quân ngụy huy động toàn bộ lực lượng cơ động của Quân đoàn 3 (ba sư đoàn bộ binh, một liên đoàn biệt động quân, năm thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép...) được 15 phi đoàn không quân Mỹ yểm trợ.

Kết quả: ta loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn tên địch, bắt 700 tên, đánh thiệt hại nặng một trung đoàn thiết giáp, sáu chiến đoàn bộ binh, phá hủy 1.500 xe (369 xe tăng, xe bọc thép), 160 khẩu pháo, bắn rơi 200 máy bay.

Quân đội Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng, các mục tiêu của cuộc hành quân bị thất bại. Bộ đội chủ lực Miền có bước tiến rõ rệt về trình độ đánh tập trung cấp sư đoàn.


6 và 7 tháng 2.

Trung đoàn 2 và trung đoàn 3 (sư đoàn 9) hai lần tập kích vào sân bay Chúp, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 36 biệt động quân và một chi đoàn xe bọc thép ngụy.


27-2 đến tháng 4.

Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “Quang Trung 4"
ở vùng ngã ba biên giới của bộ đội chủ lực Tây Nguyên. Từ 27 tháng 2 đến 4 tháng 3, ba trung đoàn 66, 28, 31 bộ binh diệt ba tiểu đoàn địch ở Ngọc Tô Ba. Ngày 1 tháng 4, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) và một đại đội đặc công diệt một tiểu đoàn địch ở điểm cao Ngọc Rinh Rua.

Quân ủy Trung ương gửi điện khen bộ đội Tây Nguyên: "Đánh giỏi, lập công xuất sắc, trưởng thành nhanh chóng”.


17 tháng 3.

Hợp nhất Trường sĩ quan Phòng không và Trường kỹ thuật Phòng không thành Trường Phòng không trực thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân.


18 tháng 3.

Thành lập Đoàn 301
(cơ quan chỉ huy tiền phương Bộ Tư lệnh Miền), trực tiếp chỉ huy các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, trung đoàn pháo binh 28, tiểu đoàn phòng không 12 và các đơn vị bảo đảm, phục vụ khác.

Bộ Chỉ huy Đoàn 301: Trần Văn Trà (Tư lệnh Miền), Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Trần Độ, Trần Văn Phác.


23 tháng 3.

Đại đội 61 tiểu đoàn 35 Bộ Tư lệnh Đặc công tham gia chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào được pháo binh chi viện hỏa lực tập kích sân bay Tà Cơn, phá hủy và phá hỏng 43 máy bay, 3 kho xăng, 1 kho đạn, diệt 100 tên Mỹ. Ta hy sinh 15, bị thương 2 đồng chí.


27 tháng 3.

Tiểu đoàn đặc công 409 Quân khu 5 tập kích trung đoàn 46 (lữ đoàn 198, sư đoàn A-mê-ri-cơn) ở xã Đốc (Trà My, Quảng Nam), diệt và làm bị thương 350 tên Mỹ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 02:56:31 pm

11 tháng 4.

Bầu cử Quốc hội khóa IV nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
. Trong số 420 đại biểu trúng cử có 27 đại biểu quân đội. Từ ngày 7 đến 20 tháng 6, Quốc hội khóa 4 họp kỳ thứ nhất, bầu đồng chí Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.


Tháng 5.

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương “phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương
, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Cam-pu-chia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua; đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.

- Vận dụng kinh nghiệm của hai binh trạm 32, 31, Bộ Tư lệnh 559 huy động toàn bộ lực lượng công binh, thanh niên xung phong và một bộ phận các lực lượng khác xây dựng mạng đường kín (đường K) ở tây Trường Sơn. Đến đâu mùa khô 1971-1972, con đường kín dài 778 ki-lô-mét chạy dọc tuyến và con đường kín rải đá ở cửa khẩu dài 141 ki-lô-mét hình thành. Quân đội ta có thêm một tuyến vận tải chiến lược mới. Đoàn 559 chuyển sang phương thức vận tải cơ giới quy mô lớn vào ban ngày, làm vô hiệu hóa thủ đoạn ngăn chặn bằng máy bay AC.130 của địch trên tuyến vận tải Bắc-Nam. Mùa khô 1971-1972, trên 71 phần trăm xe vận tải và hàng hóa chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972 được thực hiện qua tuyến đường kín.


Tháng 6.

- Hội nghị Quân ủy Trung ương nghiên cứu, thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị
, xác định quyết tâm chiến lược năm 1972: “tập trung mọi cố gắng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng ở miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương” ..."phối hợp đòn chủ lực mạnh ở rừng núi, phong trào tiến công nổi dậy mạnh ở đồng bằng, phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh ở đô thị, tiến công mạnh vào ba chỗ dựa của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tạo nên một cục diện mới có lợi cho ta trong trường hợp ngừng bắn, tạo điều kiện để đưa phong trào cách mạng tiến lên một cách vững chắc trong tình hình mới”.

- Tiểu đoàn đặc công 405 Quân khu 5 ba lần tập kích kho đạn Đèo Son (Bình Định) trong các ngày 22, 28 và 29, phá hủy 42 dãy kho gồm 41.200 tấn bom, đạn, thuốc nổ, 4 tấn xăng, 61 xe quân sự, diệt 1 đại đội ngụy bảo vệ.

- Hội nghị tổng kết chiến dịch Đường 9 - Nam Lào do Quân ủy Trung ương triệu tập. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho hội nghị: “Vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm đã được tổng kết, nhanh chóng nâng cao năng lực tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng của các đơn vị”.


Tháng 7.

Bộ Quốc phòng tổ chức lớp tập huấn cán bộ cao cấp, trung cấp
về một số vấn đề nghệ thuật chiến dịch tiến công và đánh địch trong công sự, tiêu diệt căn cứ tiểu đoàn, trung đoàn địch; học tập kinh nghiệm đánh tiêu diệt lớn quân địch trong công sự vững chắc, trong tác chiến vận động của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.


8 tháng 7.

Thành lập Ủy ban Thanh tra quân đội thuộc Bộ Quốc phòng.

Chủ nhiệm: Trung tướng Nguyễn Đôn.


10 tháng 7.

- Thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Phòng không cửa khẩu
có quyền hạn tương đương cấp sư đoàn, phiên hiệu sư đoàn phòng không 377 (quyết định số 109/QĐ của Bộ Quốc phòng). Lực lượng gồm bốn trung đoàn pháo cao xạ (224, 227, 243, 250), hai trung đoàn tên lửa (237, 275).

Tư lệnh: Nguyễn Hữu Ích.
Chính ủy: Lương Tý.

- Thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân chủng Phòng không - Không quân có nhiệm vụ chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị thuộc quân chủng trong thời gian mở chiến dịch Trị - Thiên và chiến đấu ở khu vực Quảng Bình - Vĩnh Linh.


20 tháng 7.

Thành lập các bộ tư lệnh khu vực thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559
có quyền hạn tương đương cấp sư đoàn, làm nhiệm vụ vận chuyển, mở đường, bảo đảm giao thông, tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng đánh địch trên không và dưới mặt đất. Mỗi bộ tư lệnh khu vực phụ trách một số tuyến vận tải và một cụm binh trạm.

- Bộ Tư lệnh 471 phụ trách trục đường phía tây, tiếp chuyển hàng của Bộ Tư lệnh 472 gồm sáu binh trạm (35, 36, 38, 44, 46, và 47).

- Bộ Tư lệnh 472 phụ trách khu vực trung tâm phía tây Trường Sơn gồm sáu binh trạm (32, 33, 34, 39, 45, 12).

- Bộ Tư lệnh 473 phụ trách các trục đường 16, 9, 14, 29, 128 và B45 phía đông Trường Sơn gồm bốn binh trạm (27, 28, 41, 42).

- Bộ Tư lệnh 470 (thành lập tháng 4-1970) gồm năm binh trạm (37, 50, 51, 52 và 53).

- Bộ Tư lệnh hậu phương (571) gồm Trường Quân chính, Viện quân y 59, đoàn giao nhận xe (tương đương trung đoàn) và các đơn vị trực thuộc khác.


Tháng 7.

Quân ủy Trung ương quyết định hợp nhất Binh đoàn 70 và mặt trận Đường 9 thành Bộ Tư lệnh B5
trực thuộc Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 02:57:51 pm

Tháng 8.

Một số địa phương trên miền Bắc bị lụt lớn. Hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội đã tham gia cứu người, cứu đê, cứu tài sản của Nhà nước và của nhân dân.


7-12 tháng 9.

Bộ đội chủ lực Quân khu 9 (ba trung đoàn 2, 10, 20) và lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm căn cứ U Minh (lần thứ ba) của Mỹ-ngụy.


20 tháng 9.

Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương 21 đơn vị và 16 cá nhân danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.


20-23 tháng 9.

Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Đông Nam Bộ và Sài Gòn - Gia Định năm 1971.



26-9 đến 20-10.

Bộ Tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn bộ binh 7, một tiểu đoàn bộ binh (sư đoàn 9), hai tiểu đoàn công binh 26 và 27 (trung đoàn 301) và một số đơn vị binh chủng tiến công tuyến phòng thủ địch trên đường số 22 (Cần Đăng - Xa Mát), loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên, phá hủy 50 xe quân sự, 35 máy bay, thu 163 khẩu súng các loại.


29 tháng 9.

Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 15 đơn vị và 6 cá nhân thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tháng 9.

Mặt trận Tây Nguyên mở hội mừng công lần thứ 5.


12 tháng 10.

Hội đồng Chính phủ quy định tên gọi và nhiệm vụ cơ quan quân sự địa phương các cấp.

- Thành phố trực thuộc Trung ương: Bộ Tư lệnh.

- Cấp tỉnh: Bộ chỉ huy quân sự.

- Thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, huyện: Ban chỉ huy quân sự.

- Xã: Ban chỉ huy.


25-10 đến 4-12.

Sư đoàn bộ binh 9, hai trung đoàn bộ binh 205, 207 chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Chen la 2" ở khu vực đường số 6, Công-pông-thom (Cam-pu-chia).


18 tháng 11.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 211/QĐ):

- Thành lập trung đoàn xe tăng 201 gồm bốn tiểu đoàn chiến đấu. Trung đoàn trưởng: Lê Quang Âm, chính ủy: Đỗ Văn Thất.

- Chuyển trung đoàn xe tăng 202 thành trung đoàn bộ binh cơ giới 202, gồm một tiểu đoàn xe tăng, hai tiểu đoàn bộ binh cơ giới. Trung đoàn trưởng: Nguyễn Văn Lãng, chính ủy: Vũ Ngọc Hải.


20 tháng 11.

Phi công Vũ Đình Rạng, trung đoàn không quân 921 lái MIG.21 cất cánh từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An), bắn bị thương một máy bay B.52 Mỹ.


Tháng 11.

- Mặt trận B5 (bắc Quảng Trị) mở đại hội thi đua lập công quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Cục Quân huấn (Bộ Tổng Tham mưu) và Viện Khoa học Quân sự chỉ đạo sư đoàn bộ binh 308 diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng (có sử dụng một số vũ khí mới như tên lửa chống tăng, tên lửa (mang vác) bắn máy bay, bộ khí tài phá rào...) tiêu diệt quân địch trong công sự vững chắc.


18 tháng 12.

Quân tình nguyện Việt Nam (hai sư đoàn 312, 316, hai trung đoàn bộ binh 335, 866, sáu tiểu đoàn pháo binh, xe tăng) phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 27 tiểu đoàn địch, khôi phục vùng giải phóng Cánh Đồng Chum.


Tháng 12.

- Sư đoàn 968 bộ binh
phối hợp với Quân giải phóng Lào đánh bại cuộc hành quân của 18 tiểu đoàn địch, giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược.

- Sư đoàn 5 và sư đoàn 7 chủ lực Miền đánh bại cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn ở Đầm Be.

- Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền chuyển các “khu căn cứ” thành các đoàn hậu cần khu vực, chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam. Tuyến trước có năm đoàn hậu cần (210, 220, 230, 235, 814); tuyến sau có ba đoàn (340, 500, 770). Hướng tây-nam (Cam-pu-chia) có đoàn 200. Các tuyến vận tải chiến dịch (sáu tuyến) nối liền các căn cứ với các đoàn hậu cần phía trước, bám sát phục vụ các đơn vị chiến đấu.


28 tháng 12.

Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang trên miền Bắc: “nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, chủ động kịp thời giáng trả địch những đòn mãnh liệt..., nâng cao sức mạnh chiến đấu về mọi mặt, tổ chức chiến đấu tốt, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ, đánh mạnh, tiêu diệt gọn, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, bắt sống giặc lái”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 02:59:41 pm

NĂM 1972


Đầu tháng 1.

- Thành lập sư đoàn pháo binh 75
(trên cơ sở đoàn 69) thuộc Bộ Tư lệnh Miền gồm hai trung đoàn pháo mặt đất (96, 208), tiểu đoàn cao xạ 56 và trường đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp pháo binh.

- Thành lập sư đoàn bộ binh 711 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Biên chế: ba trung đoàn bộ binh (31, 38, 57) và một số đơn vị binh chủng.


7 tháng 1.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn 10 huấn luyện, phiên hiệu C.600 thuộc Bộ Tư lệnh Thiết giáp. Biên chế: bốn tiểu đoàn (1, 2, 9, 61) và các phòng huấn luyện, chính trị, hậu cần, kỹ thuật.

Đoàn trưởng: Lê Quang Phước.


21 tháng 2.

Thành lập Phân hiệu Kỹ thuật quân giới
thuộc Cục Quân giới (quyết định số 62/QĐ của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần). Nhiệm vụ: đào tạo thợ quân giới cho các đơn vị toàn quân, tổ chức và quản lý các đội quân giới vào chiến trường.

Hiệu trưởng: Trần Văn Đạt.


Cuối tháng 2.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự năm 1972:
“Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho các chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam ... Phải đẩy mạnh đòn chiến lược của bộ đội chủ lực trên những hướng và chiến trường có lợi, tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân ngụy miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của địch, mở rộng vùng giải phóng. Trong lúc coi quân ngụy là đối tượng tác chiến chủ yếu, cần tiếp tục tiến công và tiêu diệt quân Mỹ..., đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy của quần chúng”.

 
11 tháng 3.

Thường vụ Quần ủy Trung ương ra nghị quyết về kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972
. “Trị-Thiên từ vị trí là hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”.

Các chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để tạo thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam và sẵn sàng đưa một sư đoàn chủ lực xuống đồng bằng khi có thời cơ.


30-3 đến 27-6.

Chiến dịch tiến công Trị-Thiên.


Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo.

Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (367, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng-thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.

Từ 30 tháng 3 đến 5 tháng 4, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9.

Từ 10 tháng 4 đến 2 tháng 5, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.

Từ 3 tháng 5 đến 27 tháng 6, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.

Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên địch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).


30-3 đến 5-6.

Chiến dịch bắc Tây Nguyên.


Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo.
Chính ủy: Trương Chí Cương - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Lực lượng tham gia: hai sư đoàn (320A và 2), bốn trung đoàn bộ binh (24, 28, 95, 66), hai trung đoàn pháo binh (40, 675), trung đoàn pháo cao xạ 234, hai tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng.

Từ 30 tháng 3 đến 24 tháng 4, bộ đội ta tiến công địch ở tây sông Pô Cô, bắc Võ Định, các điểm cao 1.015, 1.049, đập vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài; tiếp đó mở đợt tiến công tiêu diệt căn cứ 42, căn cứ Đắc Tô, giải phóng thị trấn Tân Cảnh, quận lỵ Đắc Tô. Lần đầu tiên bộ đội ta diệt một sư đoàn (thiếu) trên tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở chiến trường bắc Tây Nguyên.

Từ 25 tháng 4 đến 5 tháng 6, ta tập trung lực lượng tiến công địch ở thị xã Công Tum, cắt đường số 4, đánh địch phản kích. Do mùa mưa đã đến, việc cơ động lực lượng và chuẩn bị vật chất, binh khí kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, ta không chiếm được thị xã Công Tum.


31-3-1972 đến 28-1-1973.

Chiến dịch tiến công “Nguyễn Huệ” (miền Đông Nam Bộ).


Tư lệnh: Trung tướng Trần Văn Trà.
Chính ủy: Thiếu tướng Trần Độ.

Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), ba trung đoàn bộ binh độc lập, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, một trung đoàn pháo cao xạ, ba trung đoàn pháo binh (đoàn 75 chủ lực Miền), một trung đoàn thiết giáp và lực lượng vũ trang địa phương.

Sau trận đánh mở đầu diệt cứ điểm Xa Mát, Bàu Dưng trên đường số 22, ngày 5 tháng 4, sư đoàn 5 và trung đoàn 3 (sư đoàn 9) có hai đại đội xe tăng và pháo binh chi viện đánh chiếm chi khu quân sự Lộc Ninh. Đây là trận thắng lớn, tiêu diệt chiến đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc, đánh dấu bước tiến mới về trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực Miền.

Ngày 13 tháng 4, sư đoàn 9 có một đại đội xe tăng phối hợp tiến công thị xã Bình Long. Quân địch phản kích quyết liệt.

Trong các đợt chiến đấu (từ 16 tháng 5 đến 30 tháng 9 và từ 1 tháng 10 năm 1972 đến 28 tháng 1 năm 1973), quân ta tiếp tục bao vây thị xã Bình Long, chốt chặn trên đường số 13 và đánh địch phản kích trên các hướng, hỗ trợ các lực lượng vũ trang địa phương đánh phá “bình định”.

Sau gần 10 tháng chiến đấu, ta diệt và đánh thiệt hại nặng năm chiến đoàn, bảy trung đoàn, 16 tiểu đoàn bộ binh, ba trung đoàn thiết giáp, 13 đại đội pháo binh, loại khỏi vòng chiến đấu 7.985 tên, bắn rơi và phá hủy 897 máy bay, bắn chìm 20 tàu xuồng, phá hủy và phá hỏng 1.881 xe quân sự, thu 282 xe (có 12 xe tăng), 6.637 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh. Vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ được mở rộng, nối liền với vùng giải phóng đông bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên và hậu phương lớn miền Bắc, tạo thế vững chắc cho bộ đội chủ lực Miền phát triển tiến công những năm sau này.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:02:32 pm

6 tháng 4.

- Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân, hải quân gây lại cuộc chiến tranh phá hoại (lần thứ hai) trên miền Bắc; đồng thời tăng cường chi viện lớn về hỏa lực và sức cơ động cho quân ngụy phản kích ta ở miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh cho toàn quân: quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Quân dân tỉnh Quảng Bình và khu Vĩnh Linh bắn rơi 10 máy bay Mỹ.


9-4 đến 2-6.

Chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định.


Tư lệnh: Thiếu tướng Chu Huy Mân.
Chính ủy: Võ Chí Công.

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 3, hai tiểu đoàn đặc công, lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị quần chúng.

Sau trận mở đầu diệt cứ điểm Gò Lôi, ngày 18 tháng 4, hai trung đoàn 2 và 21B (sư đoàn 3) bao vây và tiến công trung đoàn 42 ngụy, giải phóng huyện Hoài Ân. Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5, sư đoàn 3 vây lấn, diệt hai căn cứ Bình Dương (huyện Phù Mỹ) và Đệ Đức (huyện Hoài Nhơn).

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, hàng vạn quần chúng ở các xã ấp đã cùng du kích bao vây, bức rút hơn 100 đồn bốt bảo an.

Sau gần hai tháng chiến đấu, ta diệt và làm tan rã 13.000 tên địch (bắt 4.000 tên), giải phóng hai huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và một phần huyện Phù Mỹ. Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi sư đoàn 3 và lực lượng vũ trang Bình Định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp, liên tục tiến công, đánh giỏi thắng lớn”.


11 tháng 4.

Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam ra mệnh lệnh cho cán bộ, chiến sĩ, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích:


1. Quyết tâm đánh thật   mạnh, tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch.

2. Hỗ trợ đồng bào ở vùng địch kiểm soát tiến công và nổi dậy, giành quyền làm chủ.

3. Kết hợp chặt chẽ địch vận với tác chiến, vận động binh lính và sĩ quan địch phản chiến rời bỏ hàng ngũ trở về với nhân dân.


16 tháng 4.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kêu gọi:
“Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.

Các lực lượng vũ trang hãy dũng cảm xông lên, liên tục chiến đấu, giết giặc, cứu nước".


19 tháng 4.

Biên đội MIG.17 gồm Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (trung đoàn không quân 923) cất cánh từ sân bay Gát (Đồng Hới, Quảng Bình) đánh bị thương tàu khu trục của hạm đội 7 Mỹ trên vùng biển miền Bắc.


20 tháng 4.

Quân và dân Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.500 trên miền Bắc.


Tháng 5.

Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định tăng cường các lực lượng vũ trang trên miền Bắc.

Hai sư đoàn bộ binh 325, 320 cơ động của Bộ và sáu trung đoàn chủ lực cơ động các Quân khu 4, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn được bổ sung quân số và trang bị theo biên chế. Học viên sĩ quan các trường lục quân và binh chủng tổ chức thành một sư đoàn dự bị mạnh (phiên hiệu sư đoàn 312B) thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ phía bắc Quân khu 4. Lực lượng phòng không phát triển thêm một sư đoàn, ba trung đoàn, 20 tiểu đoàn, trang bị pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa và nhiều khí tài mới. Hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh được thành lập. Vào thời điểm giữa năm 1972, lực lượng vũ trang tập trung trên miền Bắc có 530.000 người1, trong đó, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu tăng gần hai lần, riêng Quân khu 4 tăng gấp năm lần.

Lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân tự vệ cũng tăng nhanh và được trang bị khá mạnh. Giữa năm 1972, ngoài các tổ, đội chiến đấu, dân quân miền Bắc có hàng chục đại đội trang bị pháo cao xạ; 170 đại đội, trung đội trang bị súng máy cao xạ, 20 đại đội trang bị pháo 85 đánh tàu chiến Mỹ.


9 tháng 5.

Đế quốc Mỹ thả thủy lôi phong tỏa các cảng, vùng ven biển và các luồng sông nội địa miền Bắc. Các khu vực bị phong tỏa nặng nhất là Hải Phòng (1.733 quả), Cửa Hội (1.352 quả), Hòn La (1.162 quả) ... Quân và dân các địa phương đã tìm mở luồng mới và tìm nhiều phương thức, phương tiện tháo gỡ, phá hủy hàng nghìn quả thủy lôi, mìn từ trường, giữ vững mạch máu giao thông vận tải đường bộ và đường thủy trên miền Bắc, duy trì việc tiếp nhận hàng viện trợ và đưa khối lượng lớn hàng vào chiến trường miền Nam.


19 tháng 5.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tuyên dương 34 đơn vị và 18 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; tiếp đó, ngày 20 tháng 12, quyết định tuyên dương 13 đơn vị Anh hùng đã lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.


21-5 đến 15-11.

Quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào tổ chức chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.


Tham gia Bộ Tư lệnh chiến dịch về phía Việt Nam có đại tá Vũ Lập (Tư lệnh); đại tá Lê Linh (Chính ủy).

Lực lượng tham gia: quân tình nguyện Việt Nam có sư đoàn bộ binh 316, ba trung đoàn bộ binh 866, 335, 88 (thuộc sư đoàn 308B) và chín tiểu đoàn binh chủng (xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ, đặc công, công binh).

Sau 179 ngày đêm chiến đấu, quân tình nguyện đã hỗ trợ lực lượng Pa-thét Lào loại khỏi vòng chiến đấu 5.600 tên địch, đánh thiệt hại nặng ba GM (22, 23, 26) ba tiểu đoàn quân Thái Lan, làm tổn thất năm GM (15, 22, 24, 30, 32), đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân ngụy Lào và quân Thái Lan, giữ vững địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum.


30 tháng 5.

Quân ủy Trung ương nhận định ba tháng đầu của cuộc tiến công chiến lược năm 1972
. Bộ đội chủ lực ta đã biết tập trung ưu thế hỏa lực, binh khí kỹ thuật, chọn đúng phương hướng tiến công, phát huy sức mạnh hiệp đồng, đột phá thành công các trận địa phòng ngự kiên cố của địch. Nhưng do hạn chế về trình độ tổ chức, chỉ huy, về chuẩn bị chiến trường và hậu cần nên khi chuyển sang phát triển tiến công, đánh địch rút lui hoặc lúc chúng hỗn loạn thường chậm, mất thời cơ ...
________________________________________________
1. Tổng 10 vạn so với năm 1968.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:04:25 pm

3 tháng 6.

Thành lập trung đoàn 113 đặc công
tại miền Đông Nam Bộ. Biên chế: hai tiểu đoàn đặc công bộ (9, 12), một tiểu đoàn đặc công pháo (174), một đại đội đặc công nước (22), một đại đội trinh sát (53).

Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thanh Tùng.
Chính ủy: Mai Văn Thoại.


10-6 đến 10-9.

Chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8.


Địa bàn: các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre.

Bộ chỉ huy chiến dịch: Hoàng Văn Thái - Tư lệnh kiêm Chính ủy; Đồng Văn Cống (Chín Hồng) - Phó tư lệnh; Lê Văn Tưởng - Phó chính ủy.

Lực lượng tham gia: sư đoàn 5, ba trung đoàn bộ binh (24,271,207), trung đoàn 28 pháo binh, một tiểu đoàn đặc công và một tiểu đoàn công binh (chủ lực Miền); ba trung đoàn bộ binh (1,88,320) chủ lực Quân khu 8; lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần chúng các tỉnh, huyện.

Sau 93 ngày đêm tiến công và nổi dậy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 34.500 tên địch, bắn rơi 60 máy bay, phá hủy 126 xe M.113, 179 xe quân sự, 73 tàu xuồng, thu 3.222 súng các loại; diệt, bức hàng, bức rút 356 đồn bốt, giải phóng 27 xã, 22 ấp với 240.000 dân.


27 tháng 6.

Quân và dân miền Bắc bắn rơi 11 máy bay Mỹ, trong đó Không quân nhân dân bắn rơi bốn chiếc trên vùng trời Sơn La, Hà Nội bắn rơi năm chiếc, tiểu đoàn tên lửa 57 bắn rơi một máy bay F4E thứ 3.700 trên miền Bắc.


28-6-1972 đến 31-1-1973.

Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị.


Bộ Tư lệnh chiến dịch: Thiếu tướng Trần Quý Hai (Tư lệnh), Trung tướng Song Hào (Chính ủy).

Lực lượng tham gia: năm sư đoàn bộ binh (304,305,320,325,312), trung đoàn 27 và trung đoàn 6 độc lập, ba trung đoàn pháo binh (164,45,84), bốn trung đoàn pháo cao xạ (241,243,250,280), trung đoàn 236 tên lửa, trung đoàn 203 thiết giáp, hai trung đoàn công binh (229,249), năm tiểu đoàn đặc công và lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch.

Từ 28 tháng 6 đến 30 tháng 8, bộ đội ta tổ chức năm đợt phản kích đánh bại nhiều cuộc phản công của địch. Tuy vậy do địch tập trung lực lượng và hỏa lực phản kích, ta bị thương vong lớn. Địch tái chiếm được thành cổ Quảng Trị.

Từ 1 tháng 9 năm 1972 đến 31 tháng 1 năm 1973, ta tổ chức trận địa và tác chiến phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 29.822 tên, diệt gọn một lữ đoàn và 12 đại đội, phá hủy 330 xe tăng, thiết giáp, 273 khẩu pháo, bắn rơi 169 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 20 tàu xuồng, thu 877 súng các loại.


8 tháng 7.

Tiểu đoàn đặc công 269 được tăng cường một đại đội bộ đội địa phương tập kích chi khu Sầm Giang (Mỹ Tho), loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên địch, phá hủy một kho bom 200 tấn.


Tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Phòng không-Không quân thực hiện gấp việc tiếp tục nghiên cứu và triển khai kế hoạch đánh B.52, biên soạn tài liệu huấn luyện và tiến hành tập huấn bộ đội đánh B.52 trong các tình huống phức tạp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng trực tiếp làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Tư lệnh các binh chủng Ra-đa, Tên lửa, Không quân, sư đoàn trưởng sư đoàn phòng không Hà Nội xác định phương án tác chiến trong chiến dịch phòng không đánh máy bay B.52, bảo vệ Hà Nội.

Tháng 9 năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân hoàn thành kế hoạch chiến dịch phòng không gồm một số vấn đề cơ bản như phán đoán âm mưu, thủ đoạn, hướng và mục tiêu tiến công của địch, quyết định sử dụng lực lượng và cách đánh của ta.


1 tháng 8.

Tiểu đoàn pháo 174 (trung đoàn đặc công 113) tập kích sân bay Biên Hòa (bắn 202 quả đạn ĐKB và 45 qủa H.12 vào 25 mục tiêu), phá hủy và hỏng 74 máy bay, làm thương vong nhiều phi công, nhân viên kỹ thuật của địch.


6 tháng 8.

Quân dân thành phố Hải Phòng bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.800 trên miền Bắc.


6-8 đến 11-9.

Bộ đội chủ lực Miền phản công, đánh bại cuộc hành quân Sô-sy-a/2 và từ ngày 8 đến 28 tháng 8, đánh bại cuộc hành quân Ăng-ko-chay của quân ngụy Lon-non.


13 tháng 8.

Hai tiểu đoàn đặc công 9,12 và đại đội 53 thuộc trung đoàn đặc công 113 do đồng chí Đỗ Văn Ninh chỉ huy tập kích khu kho 53 (tổng kho Long Bình), phá hủy 15.000 tấn bom, 200 tấn thuốc nổ, diệt và làm bị thương 300 tên địch.


25 tháng 8.

Hoàn thành xây dựng công trình đường ống dẫn dầu T.72
dài 386 ki-lô-mét gồm bốn tuyến đường ống song song. Ngày 31 tháng 12, hoàn thành công trình T.72b xây dựng tuyến đường ống từ Quảng Ninh nối với tuyến T.72. Hệ thống đường ống xăng dầu từ biên giới Việt-Trung vào đến miền Đông Nam Bộ (2.000 ki-lô-mét) được hoàn thành, góp phần quan trọng bảo đảm nhiên liệu cho công cuộc xây dựng và chiến đấu quy mô ngày càng lớn trên hai miền Nam-Bắc, đánh bại cuộc phong tỏa và ngăn chặn của địch.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:18:26 pm

12 tháng 9.

Quân dân tỉnh Lạng Sơn bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.900 trên miền Bắc.


18 tháng 9.

Chiến thắng Cấm Dơi-Quế Sơn.


Sư đoàn 711 (thiếu) được một phân đội pháo 130 của Quân khu 5 chi viện hỏa lực đánh địch ở khu vực Cấm Dơi-Quế Sơn (Quảng Nam). Đây là trận đánh then chốt trong chiến dịch tiến công tổng hợp trên địa bàn các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam và Quảng Ngãi.


20 tháng 9.

Thành lập sư đoàn Bộ binh 10
thuộc Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế ba trung đoàn bộ binh (28,66,95) và tám tiểu đoàn binh chủng. Các đơn vị hợp thành sư đoàn đều được xây dựng chính quy trên miền Bắc và đã trải qua nhiều năm chiến đấu, trưởng thành trong sự tin yêu, giúp đỡ nhiệt tình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Sư Đoàn trưởng: Nguyễn Mạnh Quân.
Chính ủy: Đặng Vũ Hiệp.


23 tháng 9.

Tổng cục Hậu cần ra quyết định (số 498/QĐ) thành lập nhà máy sản xuất linh kiện điện tử. Nhiệm vụ: sản xuất linh kiện điện tử, lắp ráp bộ phận điện và phụ kiện cho khí tài điện tử; sửa chữa các loại ra-đa, khí tài điều khiển, đồ điện, khí tài đo điện tử và đồng hồ đo điện.


Đầu tháng 10.

- Đảng ủy Quân chủng Phòng không-Không quân ra nghị quyết tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ quyết tâm bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, kể cả B.52.


- Các binh chủng mở hội nghị sơ kết, rút kinh nghiệm về xây dựng và chiến đấu trong sáu tháng đầu năm chống chiến tranh phá hoại (lần thứ hai) của đế quốc Mỹ; hội nghị chuyên đề bàn về cách đánh B.52. Một số kinh nghiệm về chống nhiễu, phân biệt máy bay B.52 thật và giả trong tầm đánh, kết hợp đánh địch của lực lượng cơ động và tại chỗ được đúc kết, làm cơ sở cho các binh chủng biên soạn tài liệu và huấn luyện bộ đội.


17 tháng 10.

Quân và dân tỉnh Vĩnh Phú bắn rơi chiến máy bay Mỹ thứ 4.000 trên miền Bắc.


26 tháng 10.

Chính phủ ta ra tuyên bố về tình hình cuộc đàm phán ở Pa-ri về vấn đề Việt Nam
. Bản tuyên bố vạch trần thái độ lặt lọng, ngoan cố, dã tâm xâm lược của chính quyền Ních-Xơn và khẳng định quyết tâm kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta.

Về nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới, Chính phủ chỉ rõ: cần xây dựng và phát triển lực lượng, tiếp tục cuộc tiến công chiến lược, đánh bại địch lấn chiếm ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại mức độ cao hơn trên miền Bắc, thực hiện tốt việc chi viện chiến trường... kề vai sát cánh cùng với quân và dân Lào, Cam-pu-chia anh em đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai trên bán đảo Đông Dương.


Cuối tháng 10.

Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức hội nghị các trắc thủ ra-đa toàn quân, tập trung nghiên cứu những đặc điểm của nhiễu B.52, khả năng phát hiện của từng loại máy ra-đa, xây dựng “quy trình bắt B.52 trong nhiễu”.


Đầu tháng 11.

Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức hội nghị bàn cách đánh B.52 của bộ đội tên lửa.


21 tháng 11.

Chiến thắng Đức Cơ (Gia Lai).


Sư đoàn 320A được lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương giúp đỡ đánh chiếm căn cứ cuối cùng của địch trên đường số 19, tiếp đó đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn địch lên ứng cứu, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên.


23 tháng 11.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập lại sư đoàn bộ binh 341
(sư đoàn Sông Lam) tại Nam Đàn (Nghệ An). Biên chế: ba trung đoàn bộ binh 52,270,266 (thành lập 26-9-1973), trung đoàn pháo binh 55 và một số đơn vị binh chủng.

Sư đoàn trưởng: Bảo Cường.
Chính ủy: Phạm Thành Minh.

 
25 tháng 11.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu” trong các lực lượng vũ trang miền Bắc, đề phòng địch có thể có những hành động phiêu lưu mới. Chúng có thể ném bom bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra. Đặc biệt là chúng có thể liều lĩnh dùng máy bay B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và những trọng điểm khác trên miền Bắc. Các đơn vị lực lượng vũ trang phải đề cao cảnh giác, hoàn thành kế hoạch tác chiến, sẵn sàng chiến đấu.


Đầu tháng 12.

- Quân khu 4 mở đại hội quyết thắng, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước.

- Quân khu 3 mở hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu và phục vụ chiến đấu của dân quân tự vệ.


17 tháng 12.

Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh cho bộ đội phòng không-không quân chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đề phòng máy bay B.52 đánh đêm từ vĩ tuyến 20 trở ra.


18-30 tháng 12.

Quân chủng Phòng không-Không quân mở chiến dịch phòng không cùng các lực lượng vũ trang trên miền Bắc đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bav B.52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B.52, năm máy bay F.1111. Dư luận thế giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”. Quân dân Hà Nội bắn rơi 25 máy bay B.52. Bộ đội tên lửa, lực lượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch bắn rơi 30 máy bay B.52. Không quân ta lần đầu tiên bắn rơi B.52 địch.


28 tháng 12.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký lệnh thưởng năm Huân chương Quân công hạng nhất, năm Huân chương Quân công hạng ba, tám Huân chương Chiến công hạng nhất và sáu Huân chương Chiến công hạng ba cho 24 đơn vị chủ lực và dân quân tự vệ đã lập công xuất sắc trong chiến đấu đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ.
________________________________________________
1.
Ngày 18, bắn rơi 7 máy bay có 3 chiếc B.52, 1 chiếc F.111.
Ngày 19    ”      6      2   
Ngày 20    ”      14      4   1
Ngày 21    “      11      3   1
Ngày 22    ”      6      3   2
Ngày 23    ”      4      2   
Ngày 24    ”      5      1   
Ngày 26    ”      10      8   
Ngàý 27    ”      13      5   
Ngày 28    ”      3      2   
Ngày 29    ”      2      1   


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:20:06 pm

NĂM 1973


4-10 tháng 1.

Các lực lượng phòng không trên miền Bắc bắn rơi 11 máy bay Mỹ, trong đó có 5 máy bay B.52 trên vùng trời hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.


9 tháng 1.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 24 đơn vị và 12 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân tự vệ; ngày 3 tháng 9, tuyên dương 46 đơn vị, 16 cán bộ, chiến sĩ và ngày 31 tháng 12 cùng năm tuyên dương 45 đơn vị, 20 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân, tự vệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


11 tháng 1.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tặng thưởng Huân chương Thành đồng cho 32 tỉnh và địa phương đã lập được nhiều thành tích về mọi mặt, đặc biệt là trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972.


15 tháng 1.

Chính phủ Mỹ ra tuyên bố cam kết “chấm dứt mọi hoạt động quân sự tiến công bao gồm ném bom, bắn trọng pháo và thả mìn” trên lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa.


17 tháng 1.

Dân quân huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) bắn rơi một máy bay do thám, chiếc máy bay Mỹ cuối cùng bị bắn rơi trên miền Bắc.

Từ ngày 5-8-1964 đến ngày 17-1-1973 số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên vùng trời các tỉnh, thành phố như sau:

Quảng Bình: 704 (có 3 B.52, 3 F.111)   Ninh Bình: 90
Nghệ An: 553 (có 12 B.52, 1 F.111)   Lạng Sơn: 85
Thanh Hóa: 376 (có 3 B.52)         Hải Hưng: 85
Hà Nội: 358 (có 23 B.52, 2 F.111)      Hà Tây: 83 (có 1 B.52, 2 F.111)
Hải Phòng: 317 (có 5 B.52, 1 F.111)   Bắc Thái: 69 (có 2 B.52)
Vĩnh Linh: 283 (có 15 B.52)         Sơn La: 68
Hà Tĩnh: 267 (có 1 B.52, 1 F.111)      Hòa Bình: 47 (có 1 B.52)
Quảng Ninh: 199               Thái Bình: 44
Hà Bắc: 162 (có 1 F.111)         Tuyên Quang: 21
Nam Hà: 120               Nghĩa Lộ: 16
Vĩnh Phú: 120 (có 2 B.52, 1 F.111)      Lai Châu: 14
Yên Bái: 98 (có 1 F.111)         Lào Cai: 2.

Tổng số máy bay bị bắn rơi: 4.181 chiếc (có 68 chiếc B.52 và 13 chiếc F.111).


26 tháng 1.

Thủ đô Hà Nội tổ chức mừng công và trao tặng huân chương cho một số đơn vị lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B.52 của địch trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972.


27 tháng 1.

Hiêp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Pa-ri, thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều. Kèm theo hiệp định có các nghị định thư: 1- Về ngừng bắn tại miền Nam Việt Nam và các ban liên hợp quân sự. 2- Về Ủy ban quốc tế kiểm sát và giám sát. 3- Về trao trả các nhân viên quân sự bị bắt, dân thường nước ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ. 4- Về việc Hoa Kỳ tháo gỡ làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá hủy mìn ở vùng biển, các cảng và sông ngòi Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nội dung cơ bản của hiệp định là Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và các nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Hiệp định có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28-1-1973.


30 tháng 1.

Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do Thiếu tướng Lê Quang Hòa làm trưởng đoàn từ Hà Nội vào Sài Gòn tham gia Ban liên hợp quân sự bốn bên.


Tháng 1.

Thường vụ Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thực hiện đấu tranh chính trị, xây dựng căn cứ địa và vùng giải phóng vững mạnh ở miền Nam, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại hiệp định và gây chiến tranh của địch, tích cực xây dựng quân đội cách mạng chính quy, hiện đại, hùng mạnh.


31 tháng 1.

Chiến thắng Cửa Việt.


Trung đoàn 101 (sư đoàn 325), trung đoàn 66 bộ binh cơ giới, tiểu đoàn 47 và tiểu đoàn 10 bộ binh (sư đoàn 304), sư đoàn 320B, trung đoàn 126 và K5 hải quân hiệp đồng với pháo binh và xe tăng thực hành trận phản đột kích xuất sắc, đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của địch tại khu vực Cửa Việt (Quảng Trị).


Tháng 1 - tháng 3.

Bộ đội chủ lực Quân khu 8, Quân khu 9 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh trả các cuộc hành quân lấn chiếm của địch ở nam-bắc đường số 4, Đồng Tháp Mười, giữ vững vùng giải phóng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:21:07 pm

5 tháng 2.

Khai thông luồng Nam Triệu cho tàu trọng tải lớn vào Hải Phòng. Quân và dân miền Bắc đánh bại hoàn toàn cuộc phong tỏa quy mô lớn của đế quốc Mỹ.


8 tháng 3.

Sư đoàn 320 chủ lực Tây Nguyên diệt căn cứ Lệ Ngọc nằm trên tuyến bảo vệ vòng ngoài thị xã Plây Cu, căn cứ 711 và điểm cao 601, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng ở phía tây tỉnh Gia Lai và tây-bắc tỉnh Công Tum.


9-13 tháng 3.

Lực lượng vũ trang Quảng Nam đánh trả cuộc hành quân lấn chiếm của hai trung đoàn bộ binh 51 và 56 ngụy ở Châu Sơn, Liệt Khẩn, giữ vững vùng giải phóng.


10 tháng 3.

Thành lập Trường sĩ quan Thiết giáp thuộc Bộ Tư lệnh Thiết giáp
(quyết định số 56/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng).

Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy xe tăng, sĩ quan kỹ thuật xe tăng, xe bọc thép và xe chiến đấu bộ binh, sĩ quan chính trị đại đội xe tăng, nghiên cứu khoa học kỹ thuật tăng-thiết giáp, bổ túc cán bộ chỉ huy tăng-thiết giáp cho binh chủng và toàn quân.


16 tháng 3.

Thành lập đoàn 27 đặc công
trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền gồm sáu đoàn (113, 115, 116, 117, 119, 10) và trung đoàn 429.

Đoàn trưởng: Đặng Ngọc Sĩ.
Chính ủy: Lê Thanh.


29 tháng 3.

- Thành lập sư đoàn phòng không 673
tại Trị-Thiên. Biên chế sáu trung đoàn (287, 250, 243, 263, 245, 233) trang bị mạnh (có tên lửa đất đối không tầm trung).

Tư lệnh: thượng tá Bùi Đặng Tự.
Chính ủy: thượng tá Lê Văn Hối.

- Bộ Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ. Tướng Uây-en, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cùng 2.501 tên lính viễn chinh Mỹ cuối cùng rút ra khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban liên hiệp quân sự bốn bên.


Tháng 3.

Chủ nhiệm và các cục trưởng thuộc Tổng cục Hậu cần vào chiến trường miền Nam
bàn cụ thể kế hoạch chi viện ba năm 1973-1975, chỉ đạo và hướng dẫn các chiến trường xây dựng căn cứ, hậu phương tại chỗ, phát triển sản xuất, củng cố hệ thống giao thông vận tải...


21 tháng 5.

Tổng cục Hậu cần tổ chức lại lực lượng vận tải thủy trên cơ sở đoàn vận tải Hồng Hà
. Thành lập đoàn vận tải đường sông gồm ba tiểu đoàn (1, 2, 3), đại đội huấn luyện và trạm sửa chữa; căn cứ là cảng sông Hồng (Hà Nội). Thành lập đoàn vận tải ven biển gồm bốn đại đội tàu (107, 102, 103 và 25); căn cứ và xưởng sửa chữa đặt tại Hải Phòng.

Đoàn trưởng: trung tá Dương Quang Đàm.
Chính ủy: trung tá Nguyễn Vãn Sửu.


21-23 tháng 5.

Khu Sài Gòn-Gia Định mở đại hội chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang năm 1972.


Tháng 5.

Binh chủng Đặc công mở đại hội thi đua quyết thắng. Bộ Tư lệnh Miền tổ chức hội nghị tổng kết đặc công Miền. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tổ chức hội nghị tổng kết đặc công căn cứ và hội nghị tổng kết đặc công địa phương.


31 tháng 5.

Tiểu đoàn 19 (đoàn 113 đặc công Miền) tập kích tổng kho Long Bình, phá 25 nhà kho chứa đạn của địch.


8 tháng 6.

Tổng cục Hậu cần ra quyết định (số 454) tổ chức lại tuyến vận tải ở Quân khu 4 (thành bốn binh trạm), thành lập hai trung đoàn xe (510, 525); đoàn 174 phụ trách toàn bộ tuyến giao liên, chuyển thương trên miền Bắc.


25 tháng 6.

Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết (số 90-QUTƯ) về tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới
. Nghị quyết nêu rõ: “Các lực lượng vũ trang ở miền Nam cần nắm vững chiến lược tiến công, đánh bại mọi hành động bình định lấn chiếm của địch, giành dân và giữ dân, giữ vững vùng giải phóng và chính quyền cách mạng. Đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, nếu địch mở rộng chiến tranh, gây lại chiến tranh quy mô lớn thì kiên quyết tiêu diệt chúng”.

Thực hiện nghị quyết Quân ủy Trung ương, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, đảng ủy và Bộ Tư lệnh các quân khu ở miền Nam đã tổng kết tình hình, nhiệm vụ quân sự sáu tháng đầu năm 1973, kịp thời đề ra những chủ trương mới nhằm củng cố, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị, các địa phương kiên quyết phản công và tiến công địch, đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm của chúng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:21:52 pm

12 tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định số 63/CTU-TM chuyển sư đoàn khu vực 571 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn (Đoàn 559) thành sư đoàn ô tô vận tải quân sự 571. Sư đoàn ô tô vận tải 571 gồm bốn trung đoàn (11, 512, 13, 17) và các cơ quan.

Sư đoàn trưởng: thượng tá Nguyễn Đàm.
Chính ủy: thượng tá Phan Hữu Đại.


Tháng 7.

Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ra nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới”. Nghị quyết đã tổng kết kinh nghiệm 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; phân tích tình hình và các khả năng; đề ra nhiệm vụ cơ bản, phương châm, phương thức hoạt động của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới.

Về nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang:   Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phải luôn luôn chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng trong tư thế đánh địch, chủ động đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng, kiên quyết thực hành phản công và tiến công, đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh để bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng... Phải có kế hoạch toàn diện về xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng và hiệu suất chiến đấu, làm cho bộ đội chủ lực thành lực lượng rất tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động và linh hoạt, phù hợp với điều kiện chiến đấu trên từng chiến trường...

Coi trọng việc xây dựng, phát triển và tăng cường bộ đội địa phương từ khu đến huyện, ra sức khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Xây dựng bộ đội địa phương thành những đơn vị gọn, sắc, tinh nhuệ, vừa trang bị tương đối hiện đại, vừa tận dụng vũ khí thô sơ, đủ sức phản công và tiến công bẻ gãy và đập tan các cuộc hành quân gom dân lấn chiếm của quân ngụy trong phạm vi địa phương. Ra sức phát triển dân quân du kích thành một lực lượng vũ trang mạnh của quần chúng...”.


31-7 đến 2-8.

Đảng ủy Tổng cục Hậu cần họp, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác hậu cần ba năm (1973-1975): “Tập trung bảo đảm chi viện và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng căn cứ địa ở miền Nam là nhiệm vụ khẩn trương hàng đầu; đồng thời tập trung bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, khắc phục hậu qủa chiến tranh, củng cố lực lượng ở miền Bắc theo phương hướng xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, kết hợp kinh tế quốc phòng và tham gia xây dựng kinh tế miền Bắc là nhiệm vụ quan trọng cơ bản”.


21 tháng 8.

Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần ra các quyết định (số 578 và 579/QĐ):

- Thành lập Viện thiết kế Quân giới thuộc Cục Quân giới.

Nhiệm vụ: thiết kế sản xuất vũ khí, khí tài quân giới, đạn dược, quân cụ theo yêu cầu trang bị toàn quân. Nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, chế độ về công tác thiết kế ngành Quân giới. Quản lý các tài liệu thiết kế và quản lý sản xuất theo thiết kế.

Viện trưởng: trung tá Nguyễn Văn Tài.

- Thành lập Viện công nghệ Quân giới thuộc Cục Quân giới.

Nhiệm vụ: nghiên cứu, vận dụng công nghệ mới vào sản xuất vũ khí. Sử dụng những trang bị mới, cải tiến thiết bị cũ, sử dụng vật liệu thay thế trong sản xuất vũ khí, sắp xếp cơ cấu sản xuất khoa học, trang bị công nghệ, dây chuyền sản xuất sản phẩm ở các nhà máy quân giới, xây dựng những quy trình công nghệ điển hình, trung tâm đo lường và thử nghiệm của Tổng cục Hậu cần.

Viện trưởng: trung tá Nguyễn Văn Thu.


24 tháng 8.

Cục Quân giới (Tổng cục Hậu cần) thiết kế sản xuất thành công súng chống tăng B.41 phù hợp với điều kiện con người và khí hậu Việt Nam.


3 tháng 9.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị (số 116/QUTƯ) về việc tổng kiểm tra trang bị kỹ thuật và vật tư trong quân đội. Mục đích: “nắm chắc tình hình và vật tư, hiểu rõ việc quản lý, giữ gìn, sử dụng trang bị, thiết bị kỹ thuật và vật tư trong thời gian qua. Trên cơ sở đó chấn chỉnh, đôn đốc việc quản lý, giữ gìn, sử dụng trang bị, thiết bị kỹ thuật vật tư đúng chế độ, quy định, thủ tục theo nền nếp ngày càng chặt chẽ, chính quy".

Cuộc tổng kiểm tra được thực hiện trong toàn quân, ở tất cả các cấp, các ngành, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 1973, kết thúc vào cuối năm 1973. Lấy số liệu ngày 31 tháng 12 năm 1970 (thời gian kết thúc cuộc tổng kiểm tra lần trước) để đối chiếu.


23 tháng 9.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tuyên dương 46 đơn vị và 20 cá nhân là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; tiếp đó, ngày 20 tháng 12, tuyên dương 56 đơn vị và 33 cá nhân là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đã lập thành tích đặc biêt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


24 tháng 10.

Thành lập Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết Thắng
(quyết định số 124/QĐ-QP).

Biên chế: ba sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 45, lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin 240, các đơn vị binh chủng, phục vụ và các cơ quan.

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm chức).
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Hòa (Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm chức).


17 tháng 11.

Hội đồng chính phủ ra quyết định (số 243/TTG) về việc xây dựng, củng cố, mở rộng đường chiến lược Trường Sơn.

“Xây dựng cơ bản 1.920 ki-lô-mét đường mới gồm tuyến đông Trường Sơn dài 1.200 ki-lô-mét từ Khe Gát (Quảng Bình) tới Bù Gia Mập (Đông Nam Bộ); tuyến tây Trường Sơn có hai trục, nay mới xây dựng cơ bản trục một dài 720 ki-lô-mét từ Phong Nha (đầu đường số 20, Quảng Bình) đi Plây Khốc (Tây Nguyên), nối với tuyến đường phía đông, kể cả nhánh đường số 16 từ Thạch Bàn đi Bản Đông nối với trục thứ nhất ở Sê-ca-mán”.

Đây là công trình lớn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế và quốc phòng. Nhà nước giao cho quân đội xây dựng toàn bộ.

Lực lượng thi công trên tuyến (cuối năm 1973) gồm một sư đoàn, 17 trung đoàn, 40 tiểu đoàn công binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn (36.341 người), 2.741 thanh niên xung phong và dân công, 660 xe máy các loại (123 máy húc), 340 xe ben, 51 xe lu, 99 máy ép hơi, 37 máy nghiền đá...

Ngày 11 tháng 11, thông xe trục đường phía tây từ Thạch Bàn đến Bù Gia Mập dài 847 ki-lô-mét (các đơn vị công binh đã khôi phục, mở rộng tuyến này từ đầu năm 1973). Ngày 1 tháng 2 năm 1974 thông xe trục đường phía đông từ Thạch Bàn (Quảng Bình) đến Giàng (Quảng Nam) dài 336 ki-lô-mét. Các tuyến đường ngang Phong Nha - Lùm Bùm - Na Bo dài 176 ki-lô-mét; Hướng Hóa - Bản Đông - Mường Phìn dài 104 ki-lô-mét; Sa-ra-van - A-tô-pơ dài 320 ki-lô-mét cũng được hoàn thành.

Vào đầu năm 1975, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài tới 20.000 ki-lô-mét, gồm bốn hệ thống đường trục dọc dài 6.810 ki-lô-mét; 13 trục ngang dài 4.980 ki-lô-mét, năm hệ thống đường vượt khẩu dài 700 ki-lô-mét, hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm tổng cộng chiều dài 4.700 ki-lô-mét và hệ thống đường ống dẫn dầu dài 1.300 ki-lô-mét.


19-22 tháng 11.

Lực lượng vũ trang Quảng Trị mở đại hội mừng công thắng Mỹ.


3 tháng 12.

Đội 5 (đoàn 10 đặc công Rừng Sác) do Hà Quang Vóc chỉ huy tập kích kho xăng Nhà Bè (Sài Gòn), kho dự trữ xăng dầu lớn nhất của quân đội Sài Gòn, thiêu hủy 14 triệu lít xăng dầu, phá hủy một tàu chở dầu 12.000 tấn và hệ thống lọc dầu. Đội 5 và hai đồng chí Hà Quang Vóc, Nguyễn Hồng Thế được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:22:44 pm

NĂM 1974


Tháng 1.

Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị hậu cần các chiến trường
bàn việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng, tích lũy vật chất, phương tiện kỹ thuật, tăng cường khả năng bảo đảm hậu cần tại chỗ.


1-6 tháng 2.

Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam lần thứ tư
. Chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam - Huỳnh Tấn Phát trao cờ Quyết thắng cho 19 trung đoàn được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng. Đồng chí Trần Nam Trung trao cờ “Trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời, chiến thắng vẻ vang” cho đại diện bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng.


13 tháng 2.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 13 QĐ-QP) chuyển Trường Bổ túc cán bộ đặc công thành Trường sĩ quan Đặc công.


Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ đặc công từ trung đội trưởng đến tiểu đoàn trưởng; đào tạo, bổ túc cán bộ tham mưu và giáo viên cho bộ đội đặc công; bổ túc cán bộ sơ cấp chính trị đặc công; biên soạn tài liệu giáo khoa quân sự đặc công; tham gia nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội đặc công.

Hiệu trưởng: trung tá Nguyễn Kim Huống.
Chính ủy: trung tá Phạm Huy.


Giữa tháng 2.

Lực lượng vũ trang Khu 8 đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm quy mô lớn của địch ở Kiến Tường, bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ Đồng Tháp Mười.


15 tháng 3.

Hội nghị Quân ủy Trung ương tổng kết tình hình quân sự năm 1973, đề ra nhiệm vụ trước mắt của các lực lượng vũ trang ở miền Nam là giành dân, giành quyền làm chủ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định lấn chiếm phân tuyến của địch. Bộ đội chủ lực vừa đánh vừa xây dựng, từng bước nâng dần quy mô đánh tiêu diệt.


16-17 tháng 3.

Lực lượng vũ trang Tây Nguyên đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của địch ở Chư Nghé.


20 tháng 3.

Thành lập lữ đoàn 316 đặc công - biệt động
tại miền Đông Nam Bộ. Biên chế: bốn tiểu đoàn đặc công và 12Z biệt động, một tiểu đoàn trinh sát.


5 tháng 4.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 39/QUTƯ) thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.

Nhiệm vụ: giúp Bộ trưởng Quốc phòng chỉ đạo công tác bảo đảm và quản lý trang bị, bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân, nghiên cứu kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng.

Tổng cục Kỹ thuật có các cơ quan và đơn vị: Bộ Tham mưu, các cục: Hậu cần, Chính trị, Quản lý xe máy, Quản lý kỹ thuật, Sản xuất, Quản lý xí nghiệp, Quản lý vũ khí - khí tài - đạn dược; các phòng quản lý trang bị khí tài đặc chủng (máy bay, tên lửa, tàu hải quân), vật tư, tài vụ và văn phòng; các viện kỹ thuật quân sự, thiết kế; các trường đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật; các xí nghiệp sản xuất quốc phòng.

Chủ nhiệm: Trung tướng Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chức).
Các Phó chủ nhiệm: Trần Sâm, Trần Đại Nghĩa, Vũ Văn Đôn, Nguyễn Văn Tiên.

Ngày 10 tháng 9, Hội đồng chính phủ ra nghị định (số 221/CP) thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.


Tháng 4.

- Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân
nghiên cứu Nghị quyết hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (7-1973) và Nghị quyết Quân ủy Trung ương (3-1974). Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến thăm hội nghị và chỉ thị nhiệm vụ cho quân đội. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân tích các khả năng phát triển của tình hình, xác định một số nhiệm vụ trước mắt của quân đội.

- Bộ Tổng Tham mưu và các chiến trường tích cực chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược hai năm 1974-1975.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:24:30 pm

15 tháng 5.

Trung đoàn 66 (sư đoàn 10) và trung đoàn 3 (sư đoàn 324) tiến công căn cứ Đắc Pét (cách thị xã Công Tum 80 ki-lô-mét về phía tây-bắc), loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn quân biệt động và lực lượng bảo an, dân vệ; xóa bỏ điểm chốt cuối cùng của địch trên đường số 14.


16-5 đến 30-9.

Sư đoàn 9 mở chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ vùng trung tuyến (khu vực đường số 7 ngang tây Bến Cát, cách Sài Gòn 30 ki-lô-mét) của địch, thu hút một bộ phận lực lượng của quân đoàn 3 ngụy, đẩy lùi kế hoạch bình định, lấn chiếm của chúng, tạo thế trận tiến công mới trên hướng tây-bắc Sài Gòn. Qua 135 ngày đêm chiến đấu, sư đoàn đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.500 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.


17 tháng 5.

Thành lập Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang
(quyết định số 67/QP-QĐ).

Biên chế: ba sư đoàn bộ binh (304, 325, 324), sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn pháo binh 164, lữ đoàn xe tăng 203, lữ đoàn công binh 219, trung đoàn thông tin 463 và các cơ quan, đơn vị bảo đảm, phục vụ.

Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Linh.

Căn cứ: Chiến khu Ba Lòng (Bình-Trị-Thiên).


26 tháng 5.

Thành lập Cục Sản xuất
thuộc Tổng cục Hậu cần (quyết định số 79/QP-QĐ của Bộ Quốc phòng).

Nhiệm vụ: giúp Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần nghiên cứu, chỉ đạo việc quân đội tham gia xây dựng kinh tế, tăng gia sản xuất tự túc.

Cục trưởng: đại tá Đặng Quốc Tuyển.


9-12 tháng 6.

Đại hội chiến sĩ thi đua và dũng sĩ Sài Gòn-Gia Định
tuyên dương 9 đơn vị Thành đông quyết thắng và 24 chiến sĩ thi đua trong năm 1973.


14 tháng 6.

Chính phủ cách mạng làm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định thưởng Huân chương Thành đồng quyết thắng cho 36 địa phương và đơn vị lập thành tích xuất sắc trong năm 1973.


Tháng 6.

Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đẩy mạnh xây dựng khối chủ lực
gồm hai sư đoàn 10 và 320A, hai trung đoàn bộ binh 95 và 25, hai trung đoàn pháo binh 40 và 675, trung đoàn phòng không 234, trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273, hai trung đoàn công binh 7 và 545, trung đoàn thông tin 29..., theo phương hướng tập trung thành binh đoàn tác chiến hiệp đồng binh chủng.


18-7 đến 20-12

Chiến dịch Nông Sơn - Trung Phước
(K.711).

Địa bàn Nông Sơn - Trung Phước - Thượng Đức (Khu 5).

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 2 (Quân khu 5), sư đoàn bộ binh 304 và một số đơn vị binh chủng (Quân đoàn 2), bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam (bốn tiểu đoàn), Quảng Đà (năm tiểu đoàn).

Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ huy chiến dịch.

Từ ngày 17 đến 23 tháng 7, sư đoàn 2 được tăng cường hỏa lực tiến công tiêu diệt căn cứ Nông Sơn - Trung Phước; tiếp đó, đánh bại cuộc hành quân “sóng thần nam” ứng cứu Nông Sơn - Trung Phước của hai trung đoàn 1, 31 (sư đoàn 2 ngụy).

Từ ngày 28 tháng 7 đến ngày 8 tháng 7, các lực lượng của Quân đoàn 2 tiến công giải phóng toàn bộ chi khu quận lỵ Thượng Đức.

Từ sau ngày 8 tháng 7 đến 20 tháng 12, trung đoàn 66 (sư đoàn 304), trung đoàn 3 (sư đoàn 324) và lực lượng bộ đội địa phương tổ chức trận địa phòng ngự đánh bại các cuộc phản kích của địch, đặc biệt là cuộc phản kích của sư đoàn dù số 3.

Kết quả chiến dịch: ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 10.000 tên địch, tiêu diệt bốn tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng chín tiểu đoàn, thu 2.106 súng các loại, 24 xe quân sự và nhiều đạn dược trang bị của địch.

Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức chứng minh trên thực tế chiến trường sức mạnh chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch.


20 tháng 7

Thành lập Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long
. Đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam công bố quyết định thành lập.

Biên chế: hai sư đoàn bộ binh 7 và 9, trung đoàn pháo binh 24, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn đặc công 429, trung đoàn thông tin 69 và các cơ quan, đơn vị phục vụ, bảo đảm.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Hoàng Cầm.

Tháng 3 năm 1975, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện được cử làm Chính ủy.

Căn cứ: miền Đông Nam Bộ


23 tháng 7.

Thành lập Học viện Hậu cần trực thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 188/QP-QĐ) trên cơ sở Trường sĩ quan Hậu cần.

Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc về công tác hậu cần cho cán bộ sơ cấp, trung cấp và cao cấp của ba quân chủng và ba thứ quân; tham gia tổng kết kinh nghiệm công tác hậu cần, nghiên cứu lý luận và biên soạn hệ thống tài liệu giáo khoa về hậu cần.

Viện trưởng: đại tá Hoàng Kiện.
Chính ủy: đại tá Trần Huy.

Nơi đóng quân: huyện Gia Lâm, Hà Nội.


Tháng 7.

Hội nghị đặc công toàn quân lần thứ hai
, tổng kết các hoạt động xây dựng lực lượng và tác chiến đặc công, nghiên cứu cách đánh của bộ đội đặc công trong các chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn. Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Phó tổng tham mưu trưởng đánh giá: “Hội nghị tổng kết lần này của Binh chủng Đặc công đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:25:47 pm

19 tháng 8.

- Thành lập sư đoàn bộ binh 303
thuộc Bộ Tư lệnh Miền (trên cơ sở sư đoàn bộ binh 3).

Biên chế: ba trung đoàn bộ binh 201, 271, 205, trung đoàn pháo binh 262.

Sư đoàn trưởng: Đỗ Quang Hưng.
Chính ủy: Nguyễn Ngọc Doãn.

- Thành lập trung đoàn 198 đặc công tại Tây Nguyên trên cơ sở một số đơn vị đặc công của Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế: bốn tiểu đoàn xung lực, một tiểu đoàn hỏa lực (ĐKB, ĐKZ) và bốn đại đội (trinh sát, thông tin, quân y, vận tải).

Trung đoàn trưởng: Đỗ Văn Kính.


28-8 đến 28-9.

Chiến dịch La Sơn
- Chiến dịch K18.

Địa bàn La Sơn - Mỏ Tàu (tây nam Huế).

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 324 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường một số đơn vị hỏa lực, binh chủng của Quân đoàn 2 và trung đoàn 6 chủ lực Trị-Thiên. Sau hơn một tháng chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.500 tên địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo bàn đạp tiến công Huế và uy hiếp địch trên tuyến quốc lộ số 1 nối Huế với Đà Nẵng.


30-9 đến 8-10.

Bộ Chính trị họp nhận định: “Mỹ chẳng những phải giảm bớt chi viện cho ngụy mà còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng có can thiệp thế nào đi nữa cũng không cứu vãn được ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ...”. “Chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”.

Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976, chiến trường Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp trong năm 1975. Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu theo dõi và có kết luận về phản ứng của Mỹ qua hoạt động tiến công của ta trong mùa khô 1974-1975, tính toán kỹ cơ sở vật chất, đạn dược, xe máy, vì viện trợ quân sự đã giảm nhiều; có kế hoạch sản xuất và triệt để tiết kiệm trong sử dụng.


3 tháng 10.

Lực lượng vũ trang Tây Nguyên tiêu diệt các chi khu quân sự, quận lỵ Măng Đen, Mang Bút, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế trận mới ở bắc - đông bắc Công Tum.


28 tháng 10.

Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1974-1975 trình lên Bộ Chính trị.


Đầu tháng 11.

Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương triệu tập hội nghị về công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Đại biểu các bộ, ngành ở Trung ương, các Bí thư tỉnh ủy, tư lệnh và chính ủy quân khu, quân chủng, binh chủng, và bộ chỉ huy quân sự các tỉnh dự hội nghị.


4-12-1974 đến 6-1-1975.

Đoàn đại biểu Anh hùng và Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phòng miền Nam thăm miền Bắc
, dự lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.


5-12-1974 đến 11-1-1975.

Sư đoàn bộ binh 4, đoàn 6 và lực lượng vũ trang địa phương Quân khu 9 mở chiến dịch tiến công đánh bại kế hoạch lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, Long Mỹ (Cần Thơ). Các đơn vị đánh 160 trận, làm thương vong hơn 2.600 tên địch, diệt và bức rút 15 yếu khu, chi khu quân sự, giải phóng hoàn toàn 7 xã, nối thông hành lang U Minh - Cần Thơ.


14-12-1974 đến 6-1-1975.

Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long.


Quân đoàn 4 sử dụng một bộ phận lực lượng đánh chiếm chi khu quân sự Bù Đăng, yếu khu Bù Na, chi khu quân sự Đồng Xoài, giải phóng đường số 14 và toàn tỉnh Phước Long. Chiến dịch là một thực tế chứng minh, quân đội ta có khả năng mở chiến dịch quy mô quân đoàn, đánh chiếm chi khu, tiểu khu quân sự địch, giải phóng thị xã, thành phố. Thắng lợi của chiến dịch củng cố vững chắc quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị xác định, cho thấy khả năng đối phó hạn chế của Mỹ khi ta mở cuộc tiến công quy mô lớn.


15 tháng 12.

Khai mạc Hội thao quyết thắng toàn quân
, kiểm tra, đánh giá kết quả huấn luyện năm 1974 về kỹ thuật, thể dục thể thao và chấp hành điều lệnh.


18-12-1974 đến 8-1-1975.

Hội nghị Bộ Chính trị (mở rộng) bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn. Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”.

“Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975-1976, cần chuẩn bị một phương án khác, một phương hướng hành động cực kỳ quan trọng là: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.


22 tháng 12.

Quân và dân cả nước kỷ niệm trọng thể lần thứ 30 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh tuyên dương công trạng của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, ký lệnh thưởng Huân chương Sao vàng cho quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:27:10 pm

NĂM 1975


9 tháng 1.

Thường trực Quân ủy Trung ương bàn nhiệm vụ quân sự mùa xuân 1975, thực hiện bước một của kế hoạch tác chiến chiến lược.

Quân ủy Trung ương xác định, trong mùa khô 1974-1975, hướng tiến công chủ yếu là nam Tây Nguyên. Nhiệm vụ cụ thể là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Mục tiêu then chốt quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột. Nếu có thời cơ sẽ phát triển giải phóng Plây Cu, Công Tum, hoặc tiến xuống Phú Yên, Khánh Hòa; hỗ trợ quần chúng nổi dậy mở rộng vùng giải phóng, phát triển lực lượng vũ trang tại chỗ, phối hợp với các chiến trường toàn Miền.


5 tháng 2.

- Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng được Bộ Chính trị cử vào chiến trường Tây Nguyên thay mặt Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chỉ huy chiến dịch.

- Thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên.

Tư lệnh: Trung tướng Hoàng Minh Thảo.
Chính ủy: đại tá Đặng Vũ Hiệp.


17 tháng 2.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên bàn phương án tác chiến. Ngày 25 tháng 2, Đại tướng Văn Tiến Dũng, đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn kế hoạch chiến dịch Tây Nguyên.


Tháng 2.

Thành lập đoàn 232 (tương đương quân đoàn) gồm hai sư đoàn bộ binh 3 và 5 (sau đó được tăng cường sư đoàn 9) và một số đơn vị binh chủng đảm nhiệm tiến công hướng tây, tây nam Sài Gòn.

Tư lệnh: Trung tướng Lê Đức Anh.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Văn Tưởng.


4-24 tháng 3.

Chiến dịch Tây Nguyên.


Lực lượng tham gia chiến dịch gồm bốn sư đoàn (10, 320A, 316, 968), bốn trung đoàn bộ binh (95A, 95B, 25, 271), hai trung đoàn pháo binh (40 và 675), ba trung đoàn pháo cao xạ (232, 234, 593), trung đoàn 273 xe tăng thiết giáp, trung đoàn 198 và hai tiểu đoàn đặc công (14, 27), hai trung đoàn công binh (7 và 575), trung đoàn 29 thông tin và các đơn vị hậu cần, vận tải. Sư đoàn 3 bộ binh (Quân khu 5) tác chiến phối hợp trên đường số 19.

Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3, quân ta tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận then chốt quyết định của chiến dịch, một trận “điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở chiến trường Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Từ ngày 14 đến 18 tháng 3, quân ta đánh trận then chốt thứ hai, đập tan cuộc phản kích của quân đoàn 2 ngụy, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy quân địch ở Tây Nguyên vào thế tan vỡ.

Từ ngày 17 đến 24 tháng 3, quân ta đánh trận then chốt thứ ba, truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên đường số 7, giải phóng Công Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên.

Quân đội ta có bước trưởng thành mới về trình độ tổ chức chỉ huy và thực hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, về nghệ thuật đánh chiếm thành phố, đánh địch phản kích lớn bằng đổ bộ đường không và truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên địa hình rừng núi.


12-3 đến 2-4.

Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang Nam Bộ - cực nam Trung Bộ đẩy mạnh, hoạt động phối hợp
với chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tạo bàn đạp và mở đường tiến công Sài Gòn trên các hướng bắc, đông-bắc và tây, tây-nam. Sư đoàn 9 và một bộ phận sư đoàn 341 đánh chiếm các chi khu quân sự, quận lỵ Dầu Tiếng (12-3), Chơn Thành và toàn tỉnh Bình Long, mở thông đường số 13, 14 (2-4). Sư đoàn 3 và sư đoàn 5 (đoàn 232) diệt khu quân sự Bến Cầu, Đức Huệ, cắt đường số 4. Sư đoàn 7 đánh chiếm chi khu quân sự Định Quán (20-3), giải phóng đường số 20 và tỉnh Lâm Đồng (31-3).


18 tháng 3.

Bộ Chính trị họp, nhận định: thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của ta đánh dấu một bước rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp mới của Mỹ-ngụy. Địch đang thực hiện co cụm chiến lược, có thể co cụm ở Đà Nẵng và Cam Ranh ... Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975; nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt quân đoàn 1 của địch không cho chúng rút về Sài Gòn, giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ.


21-29 tháng 3.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng.


Lực lượng tham gia: Quân đoàn 2, lực lượng vũ trang Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5, Đoàn 559. Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm Tư lệnh: Trung tướng Lê Trọng Tấn; Chính ủy: Thượng tướng Chu Huy Mân.

Chiến dịch hình thành trong quá trình phát triển của cuộc tiến công chiến lược, trên cơ sở chiến dịch xuân-hè của Quân đoàn 2, Quân khu Trị-Thiên và Quân khu 5, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy.

Kết quả: tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đoàn 1 và quân khu 1 của địch, đập tan hệ thống phòng thù kiên cố của chúng, giải phóng năm tỉnh liên hoàn là Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có hai thành phố lớn là Huế (25-3), Đà Nẵng (29-3); làm thay đổi hẳn cục diện và so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo điều kiện rất thuận lợi cho chiến dịch quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Quân đội ta tiến bộ vượt bậc về trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch tiến công gấp rút khi có thời cơ thuận lợi, tích lũy được nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật tổ chức, chỉ huy, tác chiến và phát triển tiến công trong chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.


25 tháng 3.

- Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn
và toàn miền Nam trước mùa mưa (tháng 5-1975).

- Thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương (Nghị quyết số 241-NQTƯ của Bộ Chính trị). Chủ tịch: Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ. Phó chủ tịch: Lê Thanh Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ.

- Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều động bộ phận lớn Quân đoàn 1 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Sư đoàn 308 làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ và bảo vệ miền Bắc.


27 tháng 3.

Thành lập Quân đoàn 3 - Binh đoàn Tây Nguyên
(quyết định số 54/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Biên chế: ba sư đoàn bộ binh 10, 316, 320A, hai trung đoàn pháo binh 40 và 675, ba trung đoàn phòng không 232, 234, 593, trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273, hai trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn thông tin 29 và các cơ quan, đơn vị bảo đảm, phục vụ.

Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng.
Chính ủy: đại tá Đặng Vũ Hiệp.

Căn cứ: Tây Nguyên.


31 tháng 3.

Bộ Chính trị nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm.

Nhiệm vụ của quân đội ta lúc này là gấp rút tăng thêm lực lượng vào hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4, áp sát Sài Gòn, đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông, đông-nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tổ chức sẵn những đơn vị binh chủng hợp thành mạnh để khi thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh chiếm các mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố.

Tư tưởng chỉ đạo: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Năm, 2022, 03:29:02 pm

8 tháng 4.

Thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.


Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng.
Chính ủy: Phạm Hùng.
Phó tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện.

(Ngày 22 tháng 4 bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó tư lệnh; Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó chính ủy).


9-21 tháng 4.

Quân đoàn 4 (thiếu sư đoàn 9) và sư đoàn 6 chủ lực Quân khu 7 tiến đánh thị xã Xuân Lộc (Long Khánh) gây thiệt, hại nặng cho quân đoàn 3 ngụy, tạo bàn đạp tiến công Sài Gòn từ hướng đông, đông-nam.


14 tháng 4.

Bộ Chính trị điện cho Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn (số 37/TK): “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh... Chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, có kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc chiến tranh. Đó là chiến dịch quyết chiến chiến lược lịch sử”.


14-29 tháng 4.

Giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn chiếm đóng thuộc quần đảo Trương Sa. Ngày 4 tháng 4, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân: “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng”1. Ngày 10 tháng 4. Bộ Tư lệnh Hải quân điều ba tàu vận tải 673, 674, 675 (trung đoàn 125) từ Hải Phòng vào Đà Nẵng. Ngày 11 tháng 4, lực lượng chiến đấu gồm đội 4 (trung đoàn 126 đặc công nước), một số đội đặc công của Quân khu 5 và tỉnh Khánh Hòa do trung tá Mai Năng chỉ huy tiến ra Trường Sa. Ngày 14 tháng 4, bộ đội ta giải phóng đảo Song Tử Tây. Từ ngày 25 đến 29 tháng 4, giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa...


16 tháng 4.

Cánh quân Duyên Hải (lực lượng gồm Quân đoàn 2 (thiếu sư đoàn 324) và sư đoàn 3 (Quân khu 5) đập tan tuyến phòng thủ từ xa của quân đoàn 3 ngụy ở Phan Rang, chiếm sân bay Thành Sơn, bắt sống hai tướng ngụy là Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang. Quân đội ta có bước tiến bộ mới về sức mạnh và nghệ thuật tiến công tập đoàn phòng ngự địch bằng lực lượng binh chủng hợp thành trong hành tiến.


20-25 tháng 4.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh
giao nhiệm vụ cho các quân đoàn và lực lượng vũ trang địa phương.

- Hướng tây-bắc Sài Gòn, Quân đoàn 3 do Thiếu tướng Vũ Lăng (Tư lệnh), đại tá Đặng Vũ Hiệp (Chính ủy) chỉ huy, cùng hai trung đoàn 1 và 2 Gia Định, các đội đặc công - biệt động của thành đội Sài Gòn được pháo binh và lực lượng phòng không chiến dịch chi viện hỏa lực đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy, chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, cùng với Quân đoàn 1 đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.

- Hướng bắc và đông-bắc Sài Gòn, Quân đoàn 1 do Thiếu tướng Nguyễn Hòa (Tư lệnh), Thiếu tướng Hoàng Minh Thi (Chính ủy) chỉ huy, được tăng cường trung đoàn 95 (sư đoàn 325, Quân đoàn 2) và một trung đoàn phòng không đánh chiếm căn cứ Phú Lộc, diệt sư đoàn 5 ngụy, đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy và căn cứ bộ tư lệnh các binh chủng địch ở Gò Vấp.

- Hướng đông và đông-nam Sài Gòn, Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Hoàng Cầm (Tư lệnh), Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (Chính ủy) chỉ huy, được tăng cường lữ đoàn bộ binh 52 (Quân khu 5) và một số tiểu đoàn binh chủng tiêu diệt sở chỉ huy bộ tư lệnh quân đoàn 3 và sư đoàn 18 ngụy ở Biên Hòa, sau đó thọc sâu vào nội thành đánh chiếm dinh Độc Lập. Quân đoàn 2 do Thiếu tướng Nguyễn Hữu An (Tư lệnh), Thiếu tướng Lê Linh (Chính ủy) chỉ huy đánh chiếm Bà Rịa, các căn cứ Nước Trong, Long Bình, chặn đường rút chạy của địch trên sông Lòng Tàu, sau đó tiến vào nội thành, cùng Quân đoàn 4 chiếm dinh Độc Lập.

- Hướng tây và tây-nam Sài Gòn, đoàn 232 do Trung tướng Lê Đức Anh (Tư lệnh), Thiếu tướng Lê Văn Tưởng (Chính ủy) chỉ huy và lực lượng vũ trang Quân khu 8 có nhiệm vụ cắt đường số 4, đánh chiếm biệt khu Thủ Đô và tổng nha cảnh sát ngụy.

Các đơn vị đặc công biệt động và lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn có nhiệm vụ đánh địch, giữ các cầu vào thành phố, dẫn đường cho các binh đoàn thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự.


26-30 tháng 4.

Tổng công kích giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định, đồng bằng sông Cửu Long và toàn bộ vùng đất, vùng biển, các đảo của Tổ quốc.


17 giờ ngày 26, quân ta nổ súng tiến công mạnh và đồng loạt trên các hướng, tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch còn lại, đánh chiếm các căn cứ, mục tiêu quan trọng, phá vỡ các khu vực phòng thủ vòng ngoài của địch. Ngày 28, một biên đội máy bay A.37 (phi đội Quyết Thắng) của Binh chủng Không quân ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, làm quân địch thêm hoảng loạn. Việc di tản bằng máy bay có cánh cố định của chúng bị ngưng trệ. Ngày 29, quân ta tiêu diệt và làm ta rã các sư đoàn chủ lực 5, 7, 25, 18, 22 của quân ngụy. Các binh đoàn thọc sâu tiến vào cách trung tâm thành phố 10 đến 20 ki-lô-mét. Đại sứ Mỹ G. Ma-tin và các nhân viên quân sự, binh lính cuối cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn (sáng 30-4). 5 giờ ngày 30 tháng 4, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, xe tăng 843 do trung úy Bùi Quang Thận, đại đội trưởng đại đội 4 xe tăng chỉ huy dẫn đầu lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm dinh Độc Lập. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn bộ binh 66 (sư đoàn 304) và lữ đoàn xe tăng 203 (Quân đoàn 2) là những đơn vị đầu tiên cùng một số chiến sĩ biệt động đánh vào sào huyệt địch, buộc tổng thống ngụy quyền và toàn bộ nội các địch đầu hàng. Cờ giải phóng tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, ngay từ đầu tháng 3 năm 1975, thực hiện đợt 2 kế hoạch tác chiến chiến lược trên phạm vi toàn Miền, lực lượng vũ trang Quân khu 8 và Quân khu 9 đẩy mạnh tiến công địch, phối hợp với quần chúng nổi dậy mở rộng vùng giải phóng, tạo thế trận mới, phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Trong thời gian các quân đoàn chủ lực chuẩn bị và thực hành chiến dịch giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang hai quân khu áp sát các thành phố, thị xã, cắt đường số 4 và các đường giao thông quan trọng, kìm giữ quân đoàn 4 ngụy. Trên cơ sở thắng lợi đã giành được, trong các ngày 30 tháng 4 đến 2 tháng 5, bộ đội chủ lực hai quân khu và lực lượng vũ trang các tỉnh nắm bắt chính xác thời cơ ngụy quyền trung ương đầu hàng, quân ngụy tan rã, đã kết hợp tiến công quân sự với phát động quần chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã quân đoàn 4, quân khu 4 và lực lượng kìm kẹp của địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng Nam Bô, vùng biển và giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở tây nam của Tổ quốc.


30 tháng 4.

Bộ Chính trị gửi điện khen ngợi quân và dân Sài Gòn - Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tình nguyện, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng.
________________________________________________
1. Điện số 990b/TK, ngày 4-4-1975 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:28:53 pm

III

THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 1994)


NĂM 1975


Đầu tháng 5.

- Nhân dân và lực lượng vũ trang cả nước mở lễ hội mừng chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

- Thành lập Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định do Thượng tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch và Ủy ban quân quản các địa phương ở miền Nam.


4 tháng 5.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị (số 126/QUTƯ) về “Công tác thu hồi, quản lý, bảo quản, sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật lấy được của địch trong vùng giải phóng”, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng.


9 tháng 5.

Thực hiện quyết định (số 44/QĐ-QP ngày 20-3-1975) của Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định (số 212/QĐ-TM) về nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức, biên chế Cục Kế hoạch Kinh tế quân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu.

Cục trưởng: đại tá Vũ Hải.


13 tháng 5.

Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định về một số công tác trước mắt của quân đội:

1. Tham gia quản lý ổn định các vùng mới giải phóng

2. Chuẩn bị tổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

3. Xác định phương hướng xây dựng và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang thời gian tới.


21 tháng 5.

Bộ Tổng Tham mưu ra hai chỉ thị:

- Chỉ thị (số 82/CT-TM) chấn chỉnh ngành động viên ở cơ quan Bộ, các quân khu và các cơ quan quân sự tỉnh, thành phố; bố trí người có phẩm chất chính trị và có năng lực làm công tác động viên.

- Chỉ thị (số 02/CT-TM) mở đợt giáo dục, rèn luyện kỷ luật, tác phong, nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và duy trì trật tự trị an.


4 tháng 6.

Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa V họp kỳ thứ nhất tại Hà Nội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Quốc phòng báo cáo những diễn biến lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


11 tháng 6.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị (số 84/CT-TM) về “Việc tổng kiểm tra quân số trong quân đội” làm căn cứ cho việc nghiên cứu, lập kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang trước mắt cũng như lâu dài; làm cơ sở cho công tác quản lý quân số và giải quyết một số chính sách lớn của Đảng trong quân đội. Thời điểm kiểm tra: 0 giờ ngày 1 tháng 8 đến ngày 2 tháng 8 năm 1975.


8 tháng 7.

Thủ tướng Chính phủ ra thông tư (số 248-TTg) áp dụng chế độ đối với quân nhân xuất ngũ có thời gian phục vụ trong quân đội dưới 5 năm được tuyển dụng vào các cơ quan, xí nghiệp nhà nước, hoặc vào học ở các trường đại học, trung học, sơ học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề.


Tháng 7.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra hai chỉ thị:

- Giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang cùng nhân dân phá gỡ bom mìn, thu dọn chất nổ, khắc phục hậu quả chiến tranh.

- Về trách nhiệm của Đảng và các ngành, các cấp đối với công tác thương binh, xã hội sau chiến tranh. Yêu cầu chung là chăm lo, hồi phục sức khỏe, sắp xếp việc làm cho các đối tượng; từng bước ổn định đời sống và tạo điều kiện để các đối tượng có thể đóng góp thích hợp đối với nhiệm vụ chung của cả nước trong tình hình mới, giải quyết ngay việc chuyển tin tức các quân nhân tại ngũ cho các gia đình; động viên và giúp đỡ những gia đình bộ đội khó khăn về đời sống; hoàn thành việc xác nhận liệt sĩ, quân nhân mất tích hoặc từ trần; giải quyết chu đáo các chính sách về quyền lợi của thân nhân liệt sĩ; xếp hạng thương tật và biểu dương, khen thưởng kịp thời cho thương binh có cống hiến xứng đáng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; cải thiện đời sống vật chất cho thương binh ở trại điều dưỡng, giúp đỡ trẻ mồ côi.

Nhân dịp ngày thương binh liệt sĩ (27-7), Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động và bằng khen cho các đơn vị và cá nhân có thành tích trong việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội, các gia đình liệt sĩ, thương binh, gương mẫu.


27 tháng 7.

Bộ Quốc phòng đề nghị Nhà nước đào tạo bổ sung cán bộ khoa học kỹ thuật cho quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:30:54 pm

2 tháng 8.

Bộ trưởng Quốc phòng ra quyết định (số 97/QĐ-QP) điều chình chỉ tiêu xây dựng cơ bản năm 1975 của các tổng cục và cơ quan trực thuộc Bộ.


3 tháng 8.

Thủ tướng Chính phủ ra quyết định (số 315 TTg) giao cho quân đội thực hiện một số nhiệm vụ xây dựng kinh tế trong kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980):

- Xây dựng các khu kinh tế nông nghiệp với diện tích 40 vạn héc-ta, gồm các khu chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực ở Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Thuận Hải.

- Trồng rừng khai thác gỗ, kinh doanh tổng hợp về lâm nghiệp ở Gia Nghĩa, Kông Hà Nừng, nam Long Đại, tây Nghệ An, sông Đà, khu nguyên liệu giấy Hàm Yên - Bắc Quang, khu lâm nghiệp Hắc Xam ở miền núi Bắc Bộ.

- Làm đường sắt thống nhất từ Minh Cầm đến Tiên An, làm đường Trường Sơn, giúp Lào làm các đường số 7, 8, 9.

- Xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng ở mỏ A-pa-tít Lào Cai, khu mỏ Quảng Ninh, nhà máy thủy điện Hòa Bình, khu nhà ở Xuân Mai và Hà Nội.

- Sản xuất vật liệu xây dựng.

- Đánh bắt hải sản kết hợp với bảo vệ vùng biển, nuôi tôm xuất khẩu ở Năm Căn.

Lực lượng tham gia xây dựng kinh tế toàn quân có: Đoàn 559 và Đoàn 773 trực thuộc Bộ Quốc phòng; đoàn 331, 332, 333, 334, 352 thuộc Quân khu 5, sư đoàn 344, 345 thuộc Quân khu 2, các đơn vị xây dựng cơ bản của Tổng cục Hậu cần; các đơn vị tàu đánh cá của hải quân và một số đơn vị khác của các quân khu, quân chủng, binh chủng. Quân số làm kinh tế: 256.000 người.


25 tháng 8.

Tổng Tham mưu trưởng ra quyết định (số 286/QĐ-TM) quy định tổ chức ngành Quân pháp ở các quân khu, quân đoàn, quân chủng.


27 tháng 8.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị (số 108/CT-TM) về việc chỉnh lý, biên soạn hệ thống tài liệu huấn luyện quân sự theo yêu cầu chuyển hướng huấn luyện sang thời bình, gồm tài liệu huấn luyện về kỹ thuật, chiến thuật đến cấp sư đoàn; công tác tham mưu, điều lệnh, các ngành, quân chủng, binh chủng, thể dục thể thao; tài liệu sư phạm huấn luyện và tài liệu về địch.


29 tháng 8.

Khánh thành lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (khởi công ngày 2-9-1973). Nhiều đơn vị quân đội vinh dự tham gia công trình có ý nghĩa này. Sau lễ khánh thành, tiểu đoàn 275 (thuộc trung đoàn 144), tiếp đó là Bộ Tư lệnh bảo vệ lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bộ Tư lệnh 969) được giao nhiệm vụ bảo vệ và tham gia quản lý công trình.


Tháng 8.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp bồi dưỡng công tác xây dựng lực lượng dự bị, động viên tuyển quân và phổ biến nhiệm vụ trước mắt của công tác quân sự địa phương, nhằm tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng nền nếp thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự, giữ gìn an ninh trật tự, thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, làm cơ sở đẩy mạnh công tác quân sự địa phương.


2 tháng 9.

Duyệt binh mừng Quốc khánh lần thứ 30 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, đọc nhật lệnh.


10 tháng 9.

Thủ tướng Chính phủ ra thông tư (số 297/TTg) hướng dẫn việc khen thưởng gia đình quân nhân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; lấy ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày kết thúc cuộc kháng chiến để tính khen thưởng; giải quyết sớm việc xác định liệt sĩ, tử sĩ, từ trần, mất tích, việc báo tử, thông báo quân nhân nhập ngũ cho xã, khu phố, góp phần tích cực giải quyết hậu quả chiến tranh.


12 tháng 9.

Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 59 đơn vị và 6 cán bộ, chiến sĩ đã lập nhiều thành tích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.


13 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 114/QĐ-QP) tổ chức các đơn vị phòng thủ đảo thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ từng đảo mà bố trí lực lượng cho phù hợp.


18 tháng 9.

Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị quản lý, bảo quản công trình chiến đấu.


21 tháng 9.

Thay đổi phù hiệu của Binh chủng Thiết giáp (quyết định số 300/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu):

Cán bộ cấp tướng mang phù hiệu hình xe tăng mạ màu vàng, cán bộ cấp tá trở xuống hạ sĩ quan, chiến sĩ mang phù hiệu hình xe tăng màu trắng.


29 tháng 9.

Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam ra nghị quyết về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh trong giai đoạn mới là: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta..., bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất... Các lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị thường trực, phải tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với tất cả trai tráng và chế độ quân đội tham gia xây dựng kinh tế... Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn, có quân đội nhân dân chính quy hiện đại, có lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp và vững chắc”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:31:25 pm

10 tháng 10.

Thành lập Trường sĩ quan Lục quân 2
(trên cơ sở trường Lục quân tổng hợp trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền trong kháng chiến chống Mỹ) tại Long Thành, Đồng Nai.

Chính ủy: Thiếu tướng Dương Cự Tẩm.
Hiệu trưởng: đại tá Mạnh Quân.


13-18 tháng 10.

Quân ủy Trung ương mở Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân, quán triệt nghị quyết lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và ra chỉ thị (số 238/QUTƯ) về sinh hoạt chính trị, học tập nghị quyết 24 và nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình nhiệm vụ quân sự.


30 tháng 10.

Bộ Tổng Tham mưu ra các quyết định (từ số 319-322/QĐ-TM) điều động một số đơn vị thuộc các Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu 4 và sư đoàn 338 về trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế.


1 tháng 11.

Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ số 163-175/QĐ-QP) thành lập và hợp nhất một số tỉnh đội, huyện đội phía nam thành bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố thuộc các Quân khu 5, 7 và 9 theo đơn vị hành chính mới.


5 tháng 11.

Tách Cục Hàng không dân dụng thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân về trực thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 146-QĐ-QP của Bộ trưởng Quốc phòng).

Ngày 12 tháng 1 năm 1976. Cục Hàng không dân dụng đổi thành Tổng cục Hàng không dân dụng và chuyển sang trực thuộc Hội đồng Chính phủ.


10 tháng 12.

- Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 265/QUTƯ) về “Nhiệm vụ quân đội tham gia xây dựng kinh tế”, góp phần xây dựng đất nước, giảm nhẹ ngân sách quốc phòng, tạo điều kiện xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân; rèn luyện cán bộ, chiến sĩ có trình độ khoa học kỹ thuật, biết làm kinh tế và quản lý kinh tế, vừa là người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc, vừa là người lao động sản xuất giỏi.

Lực lượng tham gia xây dựng kinh tế gồm các đơn vị thường trực, các xí nghiệp quốc phòng, các đơn vị sản xuất chuyên nghiệp.

- Thường vụ Quân ủy Trung ương ra chỉ thị (số 266/QUTƯ) về nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quân đội. Chỉ thị đánh giá những mặt ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân của một số biểu hiện vi phạm trong chấp hành kỷ luật, trong việc xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại, việc giảm quân số, việc quân đội tham gia xây dựng kinh tế. Chỉ thị nêu rõ: cần tăng cường giáo dục và quản lý chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành kỷ luật của bộ đội, có biện pháp hiệu quả, phù hợp với từng địa phương, từng đơn vị, từng đối tượng, tránh chủ quan đơn giản trong tổ chức biên chế và giảm quân số, quán triệt sâu sắc một trong hai nhiệm vụ chiến lược của quân đội hiện nay là tham gia xây dựng kinh tế.


13 tháng 12.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng phát động Phong trào thi đua quyết thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới.


16-12-1975 đến 21-1-1976.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức các nước: Cộng hòa Cu Ba, Cộng hòa An-giê-ri, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.


Cuối tháng 12.

Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố bãi bỏ lệnh động viên cục bộ (ban hành ngày 21-4-1965); thực hiện tuyển quân thời bình và chuẩn bị động viên thời chiến, sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự (ban hành ngày 10-4-1965).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:32:51 pm

NĂM 1976


4 tháng 1.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị thu hồi, bảo quản và tổng kiểm kê trang bị kỹ thuật, vật tư trong quân đội.


14 tháng 1.

Thành lập Trường sĩ quan Chính trị - Quân sự
(quyết định số 18/QĐ-QP của Bộ trưởng Quốc phòng). Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội có đủ phẩm chất và năng lực công tác đảng - công tác chính trị.

Hiệu trưởng: đại tá Lê Văn Nhiễu.


15 tháng 1.

Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ công hòa công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 54 đơn vị và 42 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nhiều thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


21 tháng 1.

Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định kết thúc nhiệm vụ, bàn giao việc quản lý thành phố cho Ủy ban nhân dân thành phố.


6 tháng 2.

Quân khu 4 và Quân khu Trị-Thiên hợp nhất thành Quân khu 4 gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.

Tư lệnh: Thiếu tướng Đàm Quang Trung.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Tự Đồng.


21 tháng 2.

Thành lập Học viện Quân sự cao cấp
. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ cao cấp của các lực lượng vũ trang, giúp bạn bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự, tham gia nghiên cứu khoa học quân sự.

Giám đốc: Trung tướng Lê Trọng Tấn.

Ngày 3 tháng 1 năm 1977, Học viên khai giảng khóa đầu tiên bổ túc cán bộ cao cấp.


22 tháng 2.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn mở đại hội mừng công kết thúc nhiệm vụ chi viện chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chuyển sang nhiệm vụ mới: tham gia sản xuất xây dựng đất nước, xây dựng quân đội và huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


24 tháng 2.

Hội nghị hậu cần toàn quân, quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về quản lý vật tư, tài sản, chiến lợi phẩm; đánh giá thành tích của ngành trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bàn phương hướng công tác hậu cần 5 năm (1976-1980).


24 - 27 tháng 3.

Hội nghị văn hóa văn nghệ toàn quân, tổng kết những đóng góp của ngành đối với nền văn học nghệ thuật trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; bàn kế hoạch công tác văn hóa văn nghệ 5 năm (1976-1980).


31 tháng 3.

Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế:

1. Xây dựng vùng kinh tế mới, kết hợp kinh tế - quốc phòng.

2. Xây dựng cơ bản.

3. Đánh cá, khai thác hải sản kết hợp bảo vệ vùng biển và hải đảo.

4. Sản xuất và xây dựng quốc phòng cho quân đội và nhân dân

5. Giúp bạn xây dựng các công trình kinh tế và quốc phòng.

Ngày 19 tháng 4 năm 1976, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị cán bộ trung, cao cấp toàn quân nghiên cứu, quán triệt nội dung nghị quyết về quân đội làm nhiệm vụ kinh tế.


Tháng 3.

- Tổng cục Chính trị ra chỉ thị Xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh trong tình hình mới.

- Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục tổ chức hội nghị về tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng, huấn luyện quân sự trong các trường phổ thông và sư phạm. Công tác giáo dục ý thức quốc phòng và huấn luyện quân sự là một trong những nội dung đào tạo chính khóa ở nhà trường.

- Hội nghị tài chính toàn quân, tổng kết kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ và bàn công tác tài chính trong tình hình mới.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:34:10 pm

5 tháng 4.

- Thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế
thuộc Bộ Quốc phòng (Nghị quyết 59/CP của Hội đồng Chính phủ). Nhiệm vụ: giúp Bộ Quốc phòng lập kế hoạch, chỉ đạo lực lượng tham gia xây dựng kinh tế, xây dựng các đơn vị chuyên làm kinh tế; thay mặt Bộ quan hệ các cơ quan ngoài quân đội; chấp hành các chế độ kinh doanh, hạch toán kinh tế, các chính sách của Nhà nước và quân đội.

- Hội đồng chính phủ quyết định (số 60-CP) xây dựng nghĩa trang, đài kỷ niệm, bia ghi công liệt sĩ để tưởng nhớ công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang liệt sĩ, đài kỷ niệm... phải đặt ở nơi có ý nghĩa tiêu biểu, phong cảnh đẹp, thuận tiện cho thăm viếng và phù hợp với quy hoạch xây dựng và phát triển của địa phương.


8 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị thực hiện quy tập mộ liệt sĩ ở các chiến trường; quy định trách nhiệm, bảo đảm vật tư, ngân sách, lực lượng, biện pháp, thời gian hoàn thành và phân công: Quân đoàn 2 phụ trách quy tập mộ liệt sĩ hy sinh ở khu vực đường số 9, Khe Sanh và tây nam Thừa Thiên. Quân đoàn 3 phụ trách ở Tây Nguyên. Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách tuyến đường Trường Sơn. Quân khu 4 phụ trách Vĩnh Linh, Quảng Trị, Thừa Thiên và Trung Lào. Quân khu Tây Bắc phụ trách các tỉnh Bắc Lào. Việc quy tập mộ liệt sĩ sau chiến tranh là một công tác lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng.


10 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị “Về công tác báo tử và giải quyết tin tức quân nhân". Yêu cầu đối với những người được giao phụ trách công tác này là chỉ đạo các cơ quan phát huy tinh thần trách nhiệm, giải quyết nhanh chóng, kịp thời việc chuyển tin tức quân nhân tại ngũ và công tác báo tử về cho gia đình của họ.


15 tháng 4.

Thành lập trường Đại học Kỹ thuật mật mã
(chỉ thị số 239 của Ban Bí thư Trung ương Đảng). Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ và sĩ quan có trình độ khoa học kỹ thuật cho ngành; giúp Lào, Cam-pu-chia đào tạo, bổ túc cán bộ về cơ yếu.

Hiệu trưởng: Võ Doãn Tiến.

Tháng 4 năm 1977, trường khai giảng khóa đầu tiên.

Ngày 1 tháng 9 năm 1978, đổi tên là Trường Cơ yếu quân đội.


25 tháng 4.

Tổng tuyển cứ bầu Quốc hội nước Việt Nam thống nhất. 492 đại biểu trúng cử, trong đó có 45 đại biểu quân đội.


25 tháng 5.

Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố chính sách 12 điểm đối với những người làm việc trong quân đội, chính quyền và các tổ chức chính trị phản động của chế độ cũ.


3 tháng 6.

Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 90 đơn vị và 13 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


16 tháng 6.

Hội đồng chính phủ quyết định (số 94-CP) thành lập Vụ Quản lý chính sách quân nhân phục viên, chuyển ngành. Bộ Quốc phòng có trách nhiệm cung cấp tài liệu và số liệu cần thiết, phục vụ công tác quản lý trên.


24-6 đến 3-7.

Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp kỳ thứ nhất, quyết định đặt tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô; bầu các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Nhà nước:

- Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng.
- Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Trường Chinh.
- Thủ tướng Chính phủ: Phạm Văn Đồng.
- Bộ trưởng Quốc phòng: Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
- Hội đồng Quốc phòng: Tôn Đức Thắng (Chủ tịch), Phạm Văn Đồng (Phó chủ tịch) và các ủy viên: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng.


6 tháng 7.

Binh chủng Đặc công đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


7 tháng 7.

- Giải thế Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Miền, chấn chỉnh tổ chức các Quân khu 5, 7 và 9.

- Bộ Tư lệnh bộ đội Trường Sơn đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 
16 tháng 7.

Binh chủng Thông tin đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


17 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Cục Hóa học thành Binh chủng Hóa học. Nhiệm vụ: giúp Bộ chỉ đạo công tác phòng chống vũ khí hóa học trong chiến tranh hóa học, hạt nhân, nghiên cứu kỹ thuật phòng chống vũ khí hóa học; đào tạo cán bộ nhân viên chuyên môn kỹ thuật về phòng chống vũ khí hóa học và hạt nhân, chỉ đạo về mặt kỹ thuật và nghiệp vụ các đơn vị hóa học toàn quân.

Tư lệnh: đại tá Đặng Quân Thụy.
Chính ủy: đại tá Lê Hữu Lập.


Tháng 7.

Tổng cục Chính trị tập huấn chủ nhiệm chính trị về nghiệp vụ công tác chính trị toàn quân, thống nhất nhận thức, quan điểm nhiệm vụ công tác chính trị, chức trách cơ quan chính trị.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Năm, 2022, 01:35:04 pm

2 tháng 8.

Quân ủy Trung ương chỉ thị “Toàn quân phải thực hiện thật tốt hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ chung, nhiệm vụ chiến lược quan trọng bậc nhất; lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng”.


3 tháng 8.

Thủ tướng Chính phủ quyết định quân đội xây dựng kinh tế dưới các hình thức tổ chức:

1. Lực lượng chuyên xây dựng và sản xuất là lực lượng chính của quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế lâu dài.

2. Các xí nghiệp công nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng quản lý nhận thêm nhiệm vụ sản xuất các mặt hàng dân dụng.

3. Các lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu kết hợp sản xuất, xây dựng.

 
25 tháng 8.

Bộ Quốc phòng ban hành Nghị định (số 266/QĐ-QP) xác định hệ thống ngành Thanh tra quân đội, tổ chức ở các cấp tổng cục, quân khu, quân chủng, binh đoàn và Cục Tài vụ Bộ Quốc phòng. Hình thành hai cấp chiến dịch và chiến lược về công tác thanh tra chuyên trách.


Tháng 8.

Quân đoàn 3 phối hợp với các đơn vị bạn và lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương mở đợt truy quét Phun-rô và các tổ chức phản động ở Tây Nguyên. Đợt hoạt động diễn ra trên phạm vi rộng và kéo dài đến đầu năm 1977. Chính quyền cách mạng, an ninh chính trị, cuộc sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên được bảo vệ và củng cố vững chắc.


2 tháng 9.

Quân ủy Trung ương nghiên cứu một số vấn đề chính về phương hướng nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong 5 năm (1976-1980):
giữ quân số thích hợp, triển khai quân đội làm hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu và xây dựng kinh tế, tăng cường bố trí phòng thủ, nâng cao chất lượng cán bộ, bộ đội, xây dựng nền nếp chỉ huy chặt chẽ để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu; chấn chỉnh, sắp xếp lực lượng thường trực cho phù hợp với thời bình, tăng cường xây dựng dân quân tự vệ và lực lượng hậu bị; tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của quân đội, nâng cao một bước đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm nơi ở, làm việc cho bộ đội.


21 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường sĩ quan Hóa học. Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy phòng hóa cấp phân đội, cán bộ, trợ lý phòng hóa cho các cơ quan đơn vị toàn quân.


27 tháng 9.

Thành lập Viện kỹ thuật Thông tin
(quyết định số 589/G3-QD của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc). Nhiệm vụ: nghiên cứu các đề tài kỹ thuật có liên quan, đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng, bảo quản sửa chữa khí tài và các nhiệm vụ phát triển kỹ thuật lâu dài của binh chủng. Viện trưởng: trung tá Đào Sửu.


Tháng 9.

Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị chuyên đề về công tác lãnh đạo của Đảng trong các xí nghiệp quốc phòng.


20 tháng 10.

Quốc hội và Chủ tịch nước công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 97 đơn vị và 20 cán bộ chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân du kích đã lập nhiều thành tích xuất sắc về chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tháng 10.

- Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị sơ kết công tác phá gỡ bom, mìn sau chiến tranh và chỉ đạo các đơn vị, địa phương tiếp tục công việc này trong năm 1977.

- Tổng cục Chính trị chỉ thị các đơn vị toàn quân tổng kết công tác đảng - công tác chính trị trong kháng chiến chống Mỹ và tiến hành đại hội đảng các cấp.


16 - 22 tháng 11.

Đại hội đại biểu đảng bộ toàn quân, thảo luận và đóng góp ý kiến vào đề cương Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dự thảo điều lệ (sửa đổi) và bầu 118 đồng chí thay mặt đảng bộ quân đội dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.


14 - 20 tháng 12.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư Đảng cộng sản Việt Nam
tại Hà Nội. Đại hội lần thứ IV của Đảng là cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Đây là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Đại hội tuyên dương thành tích của cán bộ, chiến sĩ ta trong mấy chục năm qua đã chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công oanh liệt từ trận Điện Biên Phủ đến chiến dịch Hồ Chí Minh, làm rạng rỡ truyền thống quân đội, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Đại hội quyết nghị: “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu”.

Ban Chấp hành Trung ương khóa IV gồm 101 ủy viên chính thức (18 ủy viên trong quân đội), 32 ủy viên dự khuyết (5 ủy viên trong quân đội). Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.


31 tháng 12.

Hoàn thành xây dựng tuyến đường sắt thống nhất Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh dài 1.730 ki-lô-mét. Nhiều đơn vị quân đội tham gia công trình có ý nghĩa quan trọng này.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:35:25 pm

NĂM 1977

1 tháng 1.

Nhân dịp Tết dương lịch, Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa cho các quân khu, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Quân đoàn 2, Tổng cục Xây dựng kinh tế, Tổng cục Hàng không dân dụng.


27 tháng 1.

- Thành lập Trường Thiếu sinh quân 1 tại Quân khu 3; Trường Thiếu sinh quân 2 tại Quân khu 7
(quyết định số 13/QP-QĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: giáo dục, rèn luyện những thiếu niên là con liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ quân đội, cán bộ cách mạng, thành quân nhân ưu tú toàn diện, góp phần tạo nguồn cán bộ cho quân đội.

- Thành lập các Cục Xây dựng kinh tế (các quyết định số 08, 09 và 10/QP-QĐ của Bộ Quốc phòng) thuộc các Quân khu 5, 7, 9. Nhiệm vụ: giúp bộ tư lệnh quân khu chỉ huy, quản lý các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế.


11 tháng 3.

Thành lập các trường quân sự địa phương (quyết định số 46/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng) thuộc bộ chỉ huy quân sự các tỉnh thành phố. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc cán bộ xã đội, đại đội, tiểu đoàn dân quân tự vệ; tập huấn cán bộ cơ quan quân sự huyện, giáo viên các trường phổ thông, đại học, trung học và công nhân kỹ thuật trên địa bàn; bồi dưỡng đường lối quân sự của Đảng, kiến thức quân sự của cán bộ các ngành, đoàn thể huyện, tỉnh; tham gia nghiên cứu, biên soạn tài liệu quân sự địa phương.


8-3 đến 30-4.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm Liên bang Công hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri, Cộng hòa nhân dân Ba Lan.


Tháng 3.

Khai giảng lớp tập huấn kinh tế (khóa 2) cho cán bộ cao cấp, trung cấp quân đội; thời gian học sáu tháng.


10 tháng 4.

Khánh thành nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (khởi công từ tháng 10 năm 1975).


12 tháng 4.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn 384 và đoàn 386 làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế thuộc Tổng cục Xây dựng kinh tế.


12 tháng 5.

Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

 
20 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 107/QĐ - QP) giải thể Cục Kế hoạch kinh tế quân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu; thành lập phòng kế hoạch kinh tế quốc phòng và phòng thống kê thuộc Văn phòng Bộ Quốc phòng.


30 tháng 5.

Căn cứ sắc lệnh (số 34/LCT ngày 16-5-1977) của Chủ tịch nước và nghị quyết (số 84/QUTƯ ngày 13-5-1977) của Thường vụ Quân ủy Trung ương về việc tách Quân chủng Phòng không - Không quân thành hai quân chủng, Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 114-QĐ-QP) thành lập Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân.

Tư lệnh Quân chủng Phòng không: đại tá Hoàng Văn Khánh.
Chính ủy: đại tá Nguyễn Xuân Mậu.

Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng Không quân: đại tá Đào Đình Luyện.


2 - 20 tháng 6.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.


2 - 5 tháng 6.

Tiếp tục đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tại Pa-ri về những vấn đề tồn tại sau chiến tranh. Phía Việt Nam đưa ra một giải pháp toàn bộ gồm: tìm kiếm những người Mỹ mất tích ở Việt Nam; Hoa Kỳ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam; bình thường hóa quan hệ hai nước.


16 tháng 6.

Bộ Quốc phòng báo cáo Hội đồng chính phủ kế hoạch xây dựng kinh tế của quân đội từ 1976 - 1980.


20 tháng 6.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập ba trường trung cấp: xây dựng, cầu đường và quản lý kinh tế (tương đương cấp trung đoàn) thuộc Tổng cục Xây dựng kinh tế.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:43:01 pm

18 tháng 7.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác tại Viêng Chăn, trong đó có các vấn đề về hoạch định biên giới quốc gia; tăng cường mối quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về quốc phòng, an ninh.


Tháng 7.

Bế giảng khóa đào tạo giáo viên lý luận chính trị đầu tiên theo phương hướng cơ bản, toàn diện tại Học viện Chính trị.


24 tháng 8.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 177/QUTƯ) về việc vận dụng một số chính sách (tiền lương, phụ cấp, khen thưởng, nghỉ phép, y tế...) đối với lực lượng quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ ở miền tây, hải đảo, biên giới.


16 tháng 9.

Quân khu 7 phát động đợt truy quét các lực lượng phản động nội địa. Đợt truy quét tiến hành đến 15 tháng 1 năm 1978, phá các tổ chức phản động “mặt trận quốc gia giải phóng”, “mặt trận dân tộc tự quyết”, “mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia giải phóng”... diệt, bắt và buộc ra đầu thú 1.192 tên. Được nhân dân tham gia, giúp đỡ, các lực lượng vũ trang trên địa bàn quân khu đã phát huy chức năng đội quân công tác góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.


20 tháng 9.

Việt Nam trở thành hội viên chính thức của Liên hợp quốc.


Tháng 9.

Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân quán triệt nhiệm vụ xây dựng kinh tế 5 năm (1976-1980).


6 tháng 10.

Quân ủy Trung ương chỉ thị nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc vùng biên giới, bờ biển và hải đảo thuộc các quân khu phía nam


11 tháng 10.

Thành lập hai binh đoàn xây dựng kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 362-TTg của Thủ tướng Chính phủ).

- Binh đoàn 12 gồm hai sư đoàn (470 và 472), đoàn 387 cầu đường bộ; sư đoàn 341b cầu đường sắt, sư đoàn 473 xây dựng cơ bản nông nghiệp, hai trung đoàn cầu (95 và 509) và một số đơn vị trực thuộc, các cơ quan. Nhiệm vụ: xây dựng các công trình cầu đường, công nghiệp, lâm nghiệp, khu kinh tế mới (Tây Nguyên), kết hợp sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.

- Binh đoàn 14 gồm sư đoàn 31, đoàn 15, một sư đoàn xây dựng cơ bản nông nghiệp và một số đơn vị trực thuộc, các cơ quan. Nhiệm vụ: xây dựng cơ bản nông nghiệp, xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng (phía nam). Ngày 11 tháng 12 năm 1978, Binh đoàn 14 giải thể.


25 tháng 10.

Quân đội, Công an nhân dân vũ trang và nhân dân địa phương tổ chức hiệp đồng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.


5 tháng 11.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 217/QĐ) chuyển Viện Khảo sát thiết kế thuộc Tổng cục Xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng.


28 tháng 11.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 300/NQ-QUTƯ) về một số quy định mới trong chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, nhân viên quốc phòng, thực hiện việc bồi dưỡng trình độ, chuyển sang ngạch sĩ quan kỹ thuật, bảo đảm an toàn lao động, bảo đảm đời sống cho quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, nhân viên quốc phòng và gia đình của họ.


14 - 16 tháng 12.

Hội nghị thương binh, gia đình liệt sĩ tiêu biểu toàn quốc tại Hà Nội. Nhiều đại biểu thương binh, gia đình liệt sĩ tiêu biểu toàn quốc về dự hội nghị như cụ Lê Văn Đại, 93 tuổi, thân sinh đồng chí Lý Tự Trọng; cụ Nguyễn Thị Lành, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh có 8 con trai, 2 cháu là liệt sĩ; cụ Trần Thị Mít, tỉnh Bình - Trị - Thiên có 7 con trai là liệt sĩ; cụ Nguyễn Văn Thoàn, thân sinh anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi; ông Lê Văn Phước, thân sinh nữ anh hùng liệt sĩ Lê Thị Hồng Gấm...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng bày tỏ lòng biết ơn đối với các liệt sĩ, thương binh và các gia đình có thân nhân đã hy sinh vì thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.


20 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức cơ sở 2 Trường đại học Kỹ thuật quân sự tại thành phố Hồ Chí Minh.


29 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định bổ sung một số chế độ, chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng.


22 tháng 12.

Đại hội thể thao quân sự toàn quân. 21 đoàn tuyển thủ của 20 đơn vị gồm 242 vận động viên nam, 47 vận động viên nữ về Quân đoàn 1 dự đại hội.

Giải nhất toàn đoàn: Trường sĩ quan Lục quân 1.


31 tháng 12.

- Bộ Quôc phòng quyết định thành lập trung đoàn hóa học đầu tiên thuộc Bộ Tư lệnh Hóa học.

Trung đoàn trưởng: trung tá Lương Minh Hải.

- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam — Cam-pu-chia, nêu rõ lập trường, quan điểm của Việt Nam là tôn trọng chủ quyền lãnh thổ hai nước theo nguyên tắc công bằng hợp lý. Do phía Cam-pu-chia liên tục xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam ở vùng biên giới buộc phải chiến đấu tự vệ, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tính mạng, và cuộc sống bình yên của mình.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:44:22 pm

NĂM 1978


1 tháng 1.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa cho 10 đơn vị quân đội lập thành tích xuất sắc trong huấn luyện, xây dựng kinh tế và sẵn sàng chiến đấu: lữ đoàn 299 (Quân đoàn 1), trung đoàn 101 sư đoàn 325 (Quân đoàn 2), sư đoàn 10 (Quân đoàn 3), lữ đoàn 22 (Quân đoàn 4), trung đoàn 95 (Quân khu 5), tiểu đoàn 5 trung đoàn 174 (Quân khu 7), trung đoàn 2 (Quân khu 9), đoàn 919 (Tổng cục Hàng không dân dụng).


2 tháng 1.

Hội đồng Hòa Bình thế giới ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam— Cam-pu-chia
, ủng hộ đề nghị của Chính phủ Việt Nam về một cuộc thương lượng trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.


4 tháng 1.

Đoàn Thể dục thể thao quân đội được thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất.


5 tháng 1.

Học viên Quân sự cấp cao bế giảng khóa bổ túc cán bộ cao cấp đầu tiên.


12 tháng 1.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra chỉ thị tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới nhằm thắt chặt hơn nữa mối quan hệ liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước.


24 - 27 tháng 1.

Hội nghị văn hóa văn nghệ toàn quân
, bàn việc tổ chức đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội, đặc biêt là các đơn vị sẵn sàng chiến đấu ở biên giới và hải đảo.


Tháng 1 - tháng 3.

Quân và dân các tỉnh khu vực biên giới tây nam (An Giang, Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Tháp ...) đánh đuổi quân Pôn-pốt xâm lấn, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.


3 tháng 3.

Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Tổng cục Xây dựng kinh tế xây dựng đoạn đường số 9 từ Lao Bảo đến cầu Tà Khống.


31 tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu ban hành “Điều lệ công tác của ngành cơ yếu Quân đội nhân dân Việt Nam” (dự thảo), gồm 8 chương, 96 điều, quy định những nguyên tắc về nghiên cứu kỹ thuật và quản lý kỹ thuật mật mã, chức năng của cán bộ, nhân viên trong ngành.


13 tháng 4.

Hội đồng chính phủ ra quyết định (số 78-CP) bổ sung, chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh là quân nhân nhập ngũ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.


18 tháng 4.

Bộ Quốc phòng quyết định chuyển giao bệnh viện Thống Nhất thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần sang Bộ Y tế quản lý (quyết định số 45 TTg/B của Thủ tướng Chính phủ, ngày 25-3-1978).


28 tháng 4.

Hội đồng Chính phủ ra quyết định (số 97-CP) xác định quân nhân chuyên nghiệp là những quân nhân có trình độ sơ cấp, trung cấp về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phục vụ cho công tác chỉ huy, chiến đấu, bảo đảm chiến đấu và xây dựng quân đội; hưởng lương theo cấp bậc ngành nghề và tình nguyện phục vụ lâu dài trong quân đội.

Quân hàm của quân nhân chuyên nghiệp có: thượng sĩ, chuẩn úy, thiếu úy, trung úy, thượng úy, đại úy, thiếu tá và trung tá chuyên nghiệp.


5 tháng 5.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra quyết định (số 1426/NQ-NS-TW) kiện toàn Bộ Tư lệnh Quân khu 7.


Tư lệnh kiêm Chính ủy: Trung tướng Lê Đức Anh.
Phó chính ủy: Thiếu tướng Dương Cự Tẩm.
Phó tư lệnh: Thiếu tướng Đồng Văn Cống, Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa, đại tá Lương Văn Nho và đại tá Nguyễn Thới Bưng.


18 tháng 5.

Quân ủy Trung ương ra quyết định (số 43/QĐ-QUTƯ) thành lập Hội đồng Nhà trường, cơ quan giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng nghiên cứu, chỉ đạo công tác nhà trường trong quân đội.

Chủ tịch hội đồng: Thượng tướng Chu Huy Mân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:46:20 pm

20 tháng 6.

Thường trực Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 228/QUTƯ) về nhiệm vụ công tác nhà trường trong tình hình mới: “Xây dựng một hệ thống nhà trường hoàn chỉnh, đồng bộ, đáp ứng một cách chủ động về số lượng và chất lượng cán bộ, bảo đảm xây dựng thành công quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, hùng mạnh, giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới tây nam, đối phó có hiệu quả với các hành động xâm lấn trên các hướng khác và sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nếu xảy ra, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển sản xuất quốc phòng và xây dựng kinh tế”.


21 tháng 6.

Thành lập Quân khu 2
gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phú1.

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Vũ Lập.


Tháng 6.

Quân và dân các tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, An Giang, Gia Lai - Công Tum đánh lui nhiều cuộc tiến công xâm lược của quân Pôn-pốt ở biên giới tây nam.


27 tháng 7.

Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IV), ra nghị quyết về tình hình nhiệm vụ mới, xác định tình trạng vừa có hòa bình vừa có chiến tranh trên một bộ phận đất nước. Nghị quyết nêu rõ: “Khẩn trương xây dựng và rèn luyện bộ đội chủ lực tinh nhuệ và cơ động; tăng cường trang bị và năng lực chỉ huy cho bộ đội địa phương, chuẩn bị lực lượng dự bị hùng hậu, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp có chất lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao. Ở những nơi chưa có chiến sự, quân đội phải sẵn sàng chiến đấu và tích cực làm tốt nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Tổ chức lãnh đạo và chỉ huy thống nhất công tác quốc phòng và an ninh trên từng địa bàn huyện, tỉnh và từng mặt trận”.


2 tháng 8.

Hội đồng chính phủ ra quyết định (số 193-CP) thực hiện chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở miền Nam đã tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nếu chưa rõ tin tức thì gia đình được hưởng chế độ trợ cấp như đối với gia đình liệt sĩ kể từ ngày 17 tháng 6 năm 1976. Quy định này cũng áp dụng đối với cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc vào công tác hoặc chiến đấu ở miền Nam, chưa rõ tin tức.


11 tháng 9.

Hợp nhất Học viện Quân sự cấp cao và Viện khoa học Quân sự thành Học viện Quân sự cấp cao (quyết định số 646/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng).

Nhiệm vụ:

1. Đào tạo, bổ túc, tập huấn, hướng dẫn học tại chức, học hàm thụ cho cán bộ cao cấp toàn quân.

2. Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự của Việt Nam giai đoạn mới.

3. Biên soạn các tài liệu lý luận quân sự, lịch sử quân sự, các điều lệnh, điều lệ chung của quân đội.

4. Giúp Quân ủy Trung ương tổng kết kinh nghiệm chiến tranh.

5. Quản lý công tác khoa học quân sự toàn quân.

Giám đốc: Trung tướng Hoàng Minh Thảo.

Ngày 15 tháng 9, Học viện khai giảng khóa đào tạo đầu tiên.


15 tháng 9.

Cục Vật tư, Cục Quy hoạch và Cục Quản lý xây dựng cơ bản (Bộ Tổng Tham mưu) chuyển trực thuộc Bộ Quốc phòng.


19 tháng 9.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
, nêu rõ “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng đảng bộ quân đội vững mạnh. Các tổ chức đảng trong quân đội phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phát huy tinh thần trách nhiệm cá nhân


3 tháng 10.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định (số 29/QĐ-TƯ) đặt hệ thống trường quân sự và chuyên môn kỹ thuật trong quân đội thành một bộ phận của hệ thống các nhà trường của Nhà nước.
________________________________________________
1. Hiện nay gồm các tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phú.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:47:03 pm

6 tháng 11.

Quốc hội và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 262 đơn vị và 251 cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân, dân quân du kích đã lập thành tích xuất sắc về chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


10 tháng 11.

Quân và dân tỉnh Đồng Tháp đánh bại cuộc tiến công xâm lược của quân Pôn-pốt, ở vùng biên giới huyện Hồng Ngự.


28 tháng 11.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định chuyển nhiệm vụ, hệ thống tổ chức và cán bộ làm công tác động viên tuyển quân thuộc cơ quan động viên và dân quân các cấp sang cơ quan quân lực các cấp.


Tháng 11.

Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị mở cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”. Thời gian thực hiện từ ngày 22 tháng 12 năm 1978 đến 22 tháng 12 năm 1980. Mục đích: không ngừng nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang, phát huy bản chất truyền thống cách mạng của quân đội. Cuộc vận động thực hiện ba nội dung lớn: rèn luyện, xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu; phát huy truyền thống quân với dân một ý chí, nêu gương tốt của người quân nhân cách mạng trên mọi lĩnh vực; nêu cao tinh thần quốc tế vô sản.


Đầu tháng 12.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 5
, xúc tiến các mặt công tác chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra ở phía bắc.


11 tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu xác định nội dung cơ bản của vấn đề xây dựng huyện thành pháo đài quân sự bao gồm:

1. Xây dựng kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản.

2. Xây dựng hệ thống làng, xã, xí nghiệp, công, nông, lâm trường chiến đấu, cụm chiến đấu liên hoàn, hệ thống điểm tựa (chốt), cụm điểm tựa, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện, thị.

3. Quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân.

4. Xây dựng lực lượng dự bị đáp ứng yêu cầu thời chiến.

5. Kết hợp kinh tế với quốc phòng.

6. Kiện toàn tổ chức lãnh đạo và chỉ huy.


13 tháng 12.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 923/NQ-QƯ) về tổ chức công đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quy định hình thức, nguyên tắc hoạt động, quan hệ lãnh đạo chỉ dạo với đảng ủy cơ sở và thủ trưởng.


16 tháng 12.

Bộ Quốc phòng ra quyết định số 900/QP chuyển Viện kỹ thuật quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng về trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật.


27 - 29 tháng 12.

Hội nghị điều lệnh toàn quân
, quán triệt mệnh lệnh huấn luyện quân sự năm 1979 của Bộ Quốc phòng và trao đổi kinh nghiệm tổ chức và phương pháp tiến hành quản lý bộ đội chấp hành điều lệnh ở đơn vị.


28 tháng 12.

Quân ủy Trung ương chỉ thị về việc thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục trong hệ thống nhà trường quân đội. Chỉ thị nêu rõ: “Ra sức phấn đấu xây dựng một hệ thống nhà trường hoàn chỉnh đồng bộ; đưa công tác nhà trường vào thể chế chính quy. Mọi mặt công tác nhà trường đều thực hiện đúng các tiêu chuẩn chế độ Nhà nước đã quy định”.

 
Tháng 12.

Quân và dân các tỉnh phía nam đẩy mạnh phản công và tiến công đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn-pốt, Iêng-xa-ri bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:48:13 pm

NĂM 1979


1 tháng 1.

Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa cho 11 đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân:

Đoàn 3 bộ binh (Quân khu 1); đoàn bộ binh Mộc Châu Tây Bắc; trung đoàn 31 (đoàn 9, Quân khu 5); trung đoàn 174 (đoàn 5, Quân khu 7); trung đoàn 18 (đoàn 8, Quân khu 9); đoàn 10 (Binh đoàn Tây Nguyên); đoàn Sông Lam (Binh đoàn Cửu Long); trung đoàn 935 (đoàn 72, Quân chủng Không quân); hải đoàn 28 (Quân chủng Hải quân); trung đoàn 33 (Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần); đoàn 600 (Cục Xây dựng, Tổng cục Xây dựng kinh tế).


7 tháng 1.

Đáp lời kêu gọi của nhân dân và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân nước bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn-pốt, Iêng-xa-ri. Nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia ra đời.


8 tháng 1.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra chỉ thị sẵn sàng chiến đấu: “Tất cả các quân khu, quân chủng, binh chủng, đặc biệt là Quân khu 1, Quân khu 2 và các tỉnh biên giới phía bắc; các quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân phải ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Các sư đoàn, các đơn vị trực thuộc của quân khu và quân binh chủng, các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương tỉnh và huyện phải bảo đảm từ một phần ba đến hai phần ba quân số luôn luôn tại trận địa, chiến hào. Các trận địa pháo mặt đất, pháo phòng không phải bố trí sẵn ở trận địa, nếu có địch là nổ súng được ngay”.


5 tháng 1.

Bộ Quốc phòng chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”.


10 tháng 1.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị về nhiệm vụ khoa học quân sự hai năm 1979-1980: chỉ đạo chặt chẽ, tăng cường tổ chức, bổ sung cán bộ, hoàn thành tổng kết toàn bộ khái niệm đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng của quân và dân ta trong những năm qua, nghiên cứu những vấn đề mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các tài liệu lý luận cơ bản, các điều lệnh, điều lệ của quân đội, góp phần giải quyết tốt nhiệm vụ xây dựng nên quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.


30 tháng 1.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 27/QU-TƯ) đặt danh hiệu “Dũng sĩ giữ nước”.


Tháng 1.

Cục Quân huấn (Bộ Tổng Tham mưu) tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật bộ binh toàn quân. Hơn 200 trợ lý kỹ thuật cấp sư đoàn trở lên và cán bộ, giáo viên các nhà trường, các quân chủng, binh chủng tham dự.


17-2 đến 18-3.

Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược trên biên giới phía Bắc.


Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc huy động trên 60 vạn quân với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và hàng nghìn khẩu pháo, mở cuộc tiến công ồ ạt vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu.

Qua 30 ngày đêm (17-2 đến 18-3) chiến đấu anh dũng, quân và dân ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng ba trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí ...

Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân và dân ta, đồng thời bị dư luận tiến bộ trên thế giới kịch liệt lên án, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rút quân về nước.


18 tháng 2.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia ký Hiệp ước Hòa Bình hữu nghị và hợp tác tại Pnôm Pênh (Thủ đô Cam-pu-chia).


22 tháng 2.

Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý trật tự an ninh trên vùng biên giới tây nam.


Tháng 2.

Thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Cao Bằng
(Quân khu 1).

Tư lệnh: đại tá Đàm Văn Ngụy.
Chính ủy: Dương Tường (Bí thư tỉnh ủy Cao Bằng).

Cuối tháng 3 năm 1979, Bộ tư lệnh Mặt trận Cao Bằng giải thể, thành lập lại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:49:12 pm

2 tháng 3.

- Thành lập Quân đoàn 5
thuộc Quân khu 1.

- Chủ tịch nước công bố lệnh (số 18/LCT) tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho: Bộ đội Trường Sơn, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tây Bắc, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 đã có thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu, xây dựng lực lượng ngày càng lớn mạnh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


4 tháng 3.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.


5 tháng 3.

- Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên. Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng công bố lệnh.

- Hội đồng chính phủ ra nghị định số (82-CP) gồm tám điều, thành lập bộ chỉ huy quân sự thống nhất ở các tỉnh, thành phố; ban chỉ huy quân sự thống nhất các huyện, thị xã; nghị định (số 83-CP) gồm 10 điều, quy định mọi công dân (nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi) có đủ điều kiện đều gia nhập dân quân du kích tự vệ; thực hiện chế độ làm việc và luyện tập quân sự đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Thành lập Quân khu Thủ đô (quyết định số 35/QĐ-TƯ của Bộ Chính trị).

Tư lệnh kiêm Chính ủy: Đồng Sỹ Nguyên.

- Hội đồng chính phủ ra quyết định (số 86/CP) đặt các trường quân sự và chuyên môn kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam trong hệ thống các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Bao gồm: các học viện, các trường đại học và cao đẳng quân sự; trường quân chính quân khu, quân đoàn, tỉnh; trường đào tạo hạ sĩ quan, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, văn hóa và nghệ thuật quân đội.


6 - 8 tháng 3.

Tại Hen-xin-ki (Phần Lan), Hội đồng Hòa Bình thế giới tổ chức Hội nghị quốc tế khẩn cấp ủng hộ Việt Nam. Hơn 100 nước và 30 tổ chức quốc tế dự hội nghị đã lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam; kêu gọi nhân dân Trung Quốc đòi Chính phủ của họ rút toàn bộ quân đội ra khỏi Việt Nam; đề ra chương trình hành động quốc tế đoàn kết và bảo vệ Việt Nam.


6 tháng 3.

Quốc hội và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định thưởng huân chương cho 48 đơn vị và 7 cá nhân thuộc lực lượng vũ trang nhân dân đã lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


9 tháng 3.

Thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Ninh
(quyết định số 247/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng), cơ quan chỉ huy chiến dịch ở một hướng chiến lược quan trọng do Bộ trực tiếp chỉ huy.


20 tháng 3.

Thủ tướng Chính phủ ra quyết định (số 93-TTg) giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học cho một số viên nghiên cứu và trường đại học thuộc Bộ Quốc phòng: Viện Kỹ thuật quân sự, Trường Đại học Kỹ thuật quân sự và Trường Đại học Quân y.


30 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ chỉ huy Mặt trận 379 thuộc Bộ Tư lệnh Binh đoàn 678.


16 tháng 4.

- Thành lập Quân đoàn 6
thuộc Quân khu 2.

- Thành lập Quân đoàn 7 thuộc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.


20 tháng 4.

Thành lập Đặc khu Quảng Ninh
, trên cơ sở tách tỉnh Quảng Ninh thuộc Quân khu 1, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.


28 tháng 5.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI họp kỳ thứ năm tại Hà Nội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Quốc phòng báo cáo về thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ của toàn dân và toàn quân ta trong tình hình mới.


29 tháng 5.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết về tổ chức thực hiện chế độ thủ trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, xác định những căn cứ và mục đích; cơ cấu tổ chức đảng ủy và chế độ thủ trưởng, quan hệ giữa lãnh đạo của tập thể và quản lý, chỉ huy của thủ trưởng và những quy định để tổ chức thực hiện từng bước.

Nghị quyết nêu rõ: “Chế độ thủ trưởng thực hiện trong toàn quân, từ đại đội trở lên”, “Ở mỗi cấp có các phó tư lệnh hay phó chỉ huy giúp thủ trưởng về các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật ... Phó quân sự có thể một hoặc hai người, trong đó có một phó kiêm tham mưu trưởng. Các phó tư lệnh hay phó chỉ huy không nhất thiết có cấp quân hàm ngang nhau”.


30 tháng 5.

Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ năm quyết định thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, gồm có thị xã Vũng Tàu, xã Long Sơn (thuộc huyện Châu Thành, tĩnh Đồng Nai) và huyện Côn Đảo (thuộc tỉnh Hậu Giang).


31 tháng 5.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến đấu trên biên giới phía bắc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Sáu, 2022, 01:50:20 pm

27 tháng 6.

Bộ Quốc phòng và Tổng cục Dầu mỏ khí đốt Việt Nam quyết định thành lập Công ty Dịch vụ tàu biển Việt Nam.


29 tháng 6.

Thủ tướng Chính phủ ra quyết định (số 228-TTg) về việc tổ chức đơn vị dự bị động viên và tập trung huấn luyện từ hai đến ba tháng do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm.


Tháng 6.

Bộ Quốc phòng, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp mở hội nghị thống nhất chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị cho sinh viên tốt nghiệp đại học.


5 tháng 7.

Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các bộ, ngành, đoàn thể và Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường hơn nữa việc thực hiện các chính sách thương binh, liệt sĩ và xã hội trong tình hình mới.


16 tháng 7.

Thành lập Quân đoàn 8
(Binh đoàn Pắc Bó) thuộc Quân khu 1.


2 tháng 8.

Khai mạc Đại hội khỏe toàn quân tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.


6 và 7 tháng 8.

Bộ Tư lệnh Không quân tổ chức hội nghị nghiên cứu sáng kiến cải tiến kỹ thuật của quân chủng lần thứ nhất, tổng kết phong trào nghiên cứu, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong hai năm 1979-1980.


10 tháng 9.

Hội đồng chính phủ quyết định thành lập Bộ chỉ huy quân sự thống nhất các tỉnh Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Cao Bằng, Hà-Tuyên và Lai Châu.


10 tháng 10.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 92/NQ-TW) chuyển giao nhiệm vụ và lực lượng Công an nhân dân vũ trang sang Bộ Quốc phòng.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 11 tháng 12 năm 1979 Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 1148/QĐ-QP) chuyển lực lượng Công an nhân dân vũ trang thành Bộ đội Biên phòng, một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt thực hiện công tác biên phòng của các lực lượng vũ trang nhân dân.


25 tháng 10.

Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị mở hội nghị công tác nhà trường toàn quân năm 1979-1980, quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục và chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương về công tác nhà trường quân đội trang tình hình mới.


3 tháng 11.

Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức ban tổng kết thuộc bộ chỉ huy quân sự các tỉnh thành phố, hệ thống phòng khoa học quân sự thuộc bộ tư lệnh các quân khu, quân đoàn, quân chủng và binh chủng để giúp Bộ và cơ quan các cấp chỉ đạo công tác khoa học quân sự.


5 tháng 11.

Đoàn tàu quân sự Hải quân Liên Xô do Phó đô đốc N.Ia-ia-xa-cốp — Phó tư lệnh thứ nhất hạm đội Thái Bình Dương chỉ huy thăm Việt Nam đến Hải Phòng.


15 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định chấn chỉnh tổ chức cơ quan quân lực các cấp trong toàn quân thành cơ quan tổ chức và động viên.


15 - 20 tháng 12.

Đoàn đại biểu quân sự các nước Cam-pu-chia, Lào, Cu Ba và Liên Xô thăm Việt Nam, dự lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.


20 tháng 12.

- Quốc hội và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 126 đơn vị và 68 cá nhân (trong đó có 100 đơn vị và 48 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân tự vệ) đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong công cuộc chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía nam và phía bắc.

- Chủ tịch nước công bố lệnh (số 186/LCT) tặng thưởng Huân chương Sao vàng lần thứ hai cho các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, đã có thành tích đặc biệt xuất sắc qua 35 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đã lập nên những chiến công oanh liệt trong nhiệm vụ giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả.

- Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 429/NQ-QU) “Về việc thực hiện chính sách nghỉ hưu đối với cán bộ quân đội”.


21 tháng 12.

- Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ kỳ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và đón nhận Huân chương Sao vàng lần thứ hai.

- Chủ tịch nước công bố lệnh (số 194/LCT) tặng thường Huân chương Hồ Chí Minh cho: Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Quân chủng Phòng không, Quân chủng Không quân, Binh chủng Pháo binh, Binh chủng Đặc công, Binh chủng Công binh, Binh chủng Thông tin liên lạc, Binh chủng Hóa học, Binh chủng Thiết giáp, Bộ đội Vận tải thuộc Tổng cục Hậu cần, sư đoàn 372 không quân thuộc Quân chủng Không quân, các đơn vị tiền phương thuộc Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Kỹ thuật đã có nhiều thành tích xuất sắc, trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở biên giới tây nam của Tổ quốc.

- Chủ tịch nước công bố lệnh tặng thưởng Huân chương Độc lập, Huân chương Kháng chiến hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng ba cho 104 đơn vị tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới tây nam và biên giới phía bắc.


27 tháng 12.

Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị (số 387-TTg) về việc huấn luyện sĩ quan dự bị cho học sinh các trường đại học, cán bộ các ngành có liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng.


28 tháng 12.

- Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 439/NQ-QU) về quy hoạch dài hạn xây dựng đội ngũ cán bộ (1979-1995), đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và biện pháp lớn về công tác cán bộ; xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ phải theo một cơ cấu cân đối, hợp lý và phải có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Quân ủy Trung ương ra chỉ thị (số 26/CT-QUTƯ) thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục trong hệ thống nhà trường quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:09:42 am

NĂM 1980


1 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệnh nội vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm phần mở đầu, 9 chương với 21 mục, 215 điều và 10 phụ lục), quy định chức trách quân nhân; chức trách thủ trưởng; bố trí nơi ăn ở, sinh hoạt của quân nhân; phân phối thời gian sinh hoạt, công tác trong ngày; trực ban; báo động; quản lý quân nhân; quản lý trang bị, tài sản, tài chính; phòng gian bảo mật, phòng chống cháy nổ, bão lụt, tai nạn...


19 tháng 1.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về những công tác lớn trong năm 1980
, nhấn mạnh việc cảnh giác trước âm mưu địch, kiểm tra và chỉ đạo chặt chẽ công tác củng cố quốc phòng, tuyển quân, xây dựng các đơn vị chủ lực cơ động đi đôi với phát triển và củng cố quân sự địa phương, tổ chức cho bộ đội tham gia xây dựng kinh tế, góp phần khắc phục khó khăn chung của đất nước.


21 tháng 1.

Liên Bộ Quốc phòng - Đại học và trung học chuyên nghiệp ra thông tư (số 107-LB/QP-ĐH) xác định những vấn đề cơ bản về huấn luyện sĩ quan dự bị trong học sinh các trường đại học và cao đẳng.


Tháng 1.

Hội nghị khoa học quân sự toàn quân
, quyết định tiếp tục tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự, hệ thống điều lệnh, tài liệu giáo khoa phục vụ yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ mới.


27 tháng 2.

Bộ Quốc phòng quy định về tổ chức lễ tang trong quân đội (số 27/QĐ-QP).


3 tháng 3.

- Thành lập Hội đồng xuất bản Bộ Quốc phòng, giúp Bộ thống nhất quản lý công tác xuất bản trong quân đội.

Chủ tịch hội đồng: Trung tướng Lê Quang Hòa - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định (số 108/QĐ-TM) ban hành biên chế cơ quan động viên tuyển quân cấp tỉnh, huyện. Cấp tỉnh: loại I (trên dưới 2 triệu dân) từ 15-20 người; loại II (trên dưới 1,5 triệu dân) từ 11-15 người; loại III (trên dưới 1 triệu dân) từ 10-13 người. Cấp huyện: loại I (trên dưới 20 vạn dân) từ 9-12 người; loại II (trên dưới 15 vạn dân) từ 8-10 người; loại III (trên dưới 10 vạn dân) từ 7-9 người.


4 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định tách một bộ phận Học viện Hậu cần, thành lập Trường sĩ quan Hậu cần, đào tạo sĩ quan chỉ huy hậu cần cấp phân đội.


21 tháng 3.

Thành lập Hội đồng Y học quân sự Bộ Quốc phòng (quyết định số 170/QĐ-QP). Nhiệm vụ: giúp Bộ nghiên cứu và chỉ đạo những chuyên đề về y học quân sự.


22 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra chỉ lệnh về sẵn sàng chiến đấu: “Các lực lượng vũ trang phải hết sức đề cao cảnh giác. Từng ngày, từng giờ, từng phút phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch, hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng vũ trang: bảo vệ Tổ quốc, tích cực tham gia xây dựng kinh tế và nghĩa vụ quốc tế".


17 - 30 tháng 4.

Hội nghị tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực nam Trung Bộ tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh.


22 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị “toàn quân hành động theo điều lệnh” (gồm các điều lệnh chung như nội vụ, đội ngũ, kỷ luật, đóng quân, canh phòng), thực hiện chỉ lệnh sẵn sàng chiến đấu và các chế độ quy định đã ban hành.


23 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định (số 194/QĐ-TM) kiện toàn cơ quan Tổng thanh tra quân đội; chuyển đổi các đoàn thanh tra chuyên ngành thành thanh tra các quân chủng: lục quân, hải quân, không quân, phòng không; các ngành: hậu cần, kinh tế và kỹ thuật.


29 tháng 4.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 274/QP-QĐ) đổi tên Cục Quân sự địa phương thành Cục Dân quân tự vệ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:11:24 am

8 tháng 5.

Liên Bộ Quốc phòng - Nội vụ ra chỉ thị (số 01-CT/LB) về nâng cao trách nhiệm, tăng cường đoàn kết và hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, một công tác có ý nghĩa quan trọng, tạo nên sức mạnh cùng nhau hoàn thành mọi nhiệm vụ.


10 tháng 5.

Bộ Quốc phòng quyết định chuyển tạp chí "Quân đội nhân dân” thuộc Tổng cục Chính trị về trực thuộc Bộ Quốc phòng.


19 tháng 5.

Quân ủy Trung ương ra chỉ thị về quán triệt đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị xác định: “Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong sạch, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa lao động sản xuất góp phần xây dựng kinh tế; có quân chủ lực và quân địa phương, có lực lượng thường trực và lực lượng hậu bị, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, làm chủ địa phương, làm chủ cả nước...”.


2 tháng 6.

Thường vụ Quản ủy Trung ương ra nghị quyết (số 159/NQ-QU) về công tác bảo vệ lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới.


16 tháng 6.

Thành lập Cục Kế hoạch-Kinh tế
trực thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 383/QP-QĐ của Bộ Quốc phòng).

Nhiệm vụ: đề xuất nhiệm vụ, kế hoạch quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, chuẩn bị kế hoạch để Bộ giao nhiệm vụ cho các đơn vị, hướng dẫn việc ký kết các hợp đồng kinh tế và thi hành các luật, chế độ, chính sách, thủ tục, nguyên tắc làm kinh tế.


18 tháng 6.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 385/QP-QĐ) tách Cục Quân nhu thành Cục Quân lương và Cục Quân trang.


11 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Binh đoàn 23 trồng cao su thuộc Quân khu 7, Binh đoàn 318 dầu khí thuộc Bộ Quốc phòng.


23 - 31 tháng 7.

Chuyến bay vũ trụ Việt-Xô
. Đội bay quốc tế điều khiển con tàu vũ trụ “Liên hợp 37" gồm đại tá Gor-bat-cô, hai lần Anh hùng Liên Xô và trung tá Phạm Tuân, Anh hùng Việt Nam.


24 tháng 7.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 465 và 466 /QĐ-QP) về xuất bản và tổ chức ngành in trong quân đội. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân giúp Bộ Quốc phòng quản lý công tác xuất bản của toàn quân. Tổ chức ngành in gồm hai nhà máy in quân đội 1 và 2 do Nhà xuất bản Quân đội trực tiếp quản lý; ba nhà máy in chuyên ngành của Cục Bản đồ, Ban Cơ yếu và Tòa soạn báo “Quân đội nhân dân”.


18 tháng 8.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 527/QĐ-QP) xác định ngày 12 tháng 9 năm 1945 là ngày truyền thống của ngành Cơ yếu Việt Nam.


17 tháng 9.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị về nghiên cứu biên soạn tài liệu giảng dạy ở các học viện, nhà trường quân đội năm 1981-1982 phù hợp với yêu cầu cải cách giáo dục trong quân đội.


20 tháng 9.

- Hội đồng chính phủ ra quyết định (số 301 - CP) bổ sung tiêu chuẩn xác nhận liệt sĩ, thương binh; bổ sung chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ - những đối tượng mới bị thương hoặc hy sinh từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 trở đi.

- Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 571/QĐ-QP) thành lập Binh đoàn kinh tế Tây Nguyên (đoàn 773) thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Nhiệm vụ: sản xuất, xây dựng kinh tế, sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, cùng các lực lượng vũ trang, lực lượng an ninh địa phương giữ gìn trật tự, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên.


30 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 580/QĐ-QP) thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội (từ 1-10-1980).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:12:45 am

10 tháng 10.

Bộ Quốc phòng quyết định Bộ Tư lệnh bảo vệ lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Quốc phòng.


12 - 14 tháng 10.

Đại hội “Chiến sĩ khỏe toàn quân”
giải báo “Quân đội nhân dân” tại Hải Phòng. 138 vận động viên của 23 đội đại biểu cho các đơn vị trong toàn quân về dự. Trường sĩ quan Lục quân 1 đoạt cúp luân lưu; chiến sĩ Khương Văn Vui (Trường sĩ quan Lục quân 1) đạt danh hiệu “Chiến sĩ khỏe toàn quân”.


18 tháng 10.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 278/QUTƯ) đặt huy hiệu “Vì nghĩa vụ quốc tế”, biểu dương, động viên cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, công nhân viên quốc phòng phát huy truyền thống quyết chiến, quyết thắng, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế, và biểu dương, động viên những người nước ngoài sang nước ta xây dựng lực lượng vũ trang.


20 - 22 tháng 10.

Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân
họp tại Hà Nội. Hơn 400 đại biểu đại diện cho tuổi trẻ quân đội cả nước dự đại hội. Đại tướng Văn Tiến Dũng- Bộ trưởng Quốc phòng đọc lời khai mạc. Thiếu tướng Đặng Vũ Hiệp - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đọc báo cáo, nêu bật những cống hiến và sự trưởng thành của thanh niên quân đội trong quá trình chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội bầu 58 đại biểu thanh niên lực lượng vũ trang tham dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 14.


Tháng 10.

Tổng cục Hậu cần mở hội nghị tổng kết công tác hậu cần ở chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


20 tháng 11.

- Sơ kết đợt 1 công nhận chức danh khoa học và bàn phương hướng 5 năm tới (1981-1985).

- Tổng kết đào tạo sĩ quan dự bị trong các trường đại học sư phạm.


1 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quy định thống nhất quản lý đo lường trong quân đội


2 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định tách Bộ Tư lệnh 350 - Hải Phòng thành Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng và sư đoàn 350.


Bộ chỉ huy quân sự Hải Phòng làm nhiệm vụ của một cơ quan quân sự địa phương đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy Hải Phòng và Bộ Tư lệnh Quân khu 3.


5 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Cục Quân pháp thành cơ quan Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng.


15 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 771-QĐ-QP) chuyển Cục Quản lý khoa học thuộc Học viện Quân sự cấp cao trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và đổi tên là Cục Khoa học quân sự. Nhiệm vụ: nghiên cứu, đề đạt với Bộ phương hướng, nhiệm vụ xây dựng kế hoạch công tác khoa học quân sự ngắn hạn, dài hạn, chỉ đạo và quản lý công tác khoa học quân sự toàn quân.

Cục trưởng: Thiếu tướng Đoàn Huyên.


18 tháng 12.

Quốc hội khóa VI họp kỳ thứ bảy nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 19 tháng 12 năm 1980 Chủ tịch nước ban hành lệnh công bố Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiến pháp năm 1980 gồm: Lời nói đầu, 12 chương, 147 điều.

Chương IV: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” gồm ba điều: 50, 51 và 52 quy định trách nhiệm của toàn dân và toàn quân trong công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


29 tháng 12.

Bộ Quốc phòng tổng kết công tác khoa học quân sự 10 năm (1970-1980), đánh giá: công tác khoa học quân sự đã phát huy tác dụng to lớn, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, đánh thắng đế quốc Mỹ.

Trong giai đoạn mới “tiếp tục xây dựng, phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam cách mạng, khoa học hiện đại, có bản sắc dân tộc độc đáo, quán triệt sâu sắc đường lối và tư tưởng quân sự của Đảng, không ngừng hoàn chỉnh lý luận về chiến tranh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ vững chắc và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”... “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học quân sự, củng cố hệ thống cơ quan chỉ đạo, quản lý chặt chẽ các hoạt động khoa học quân sự”. Trong 5 năm (1981-1985), phải hoàn thành tổng kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng của quân và dân ta trong 35 năm qua; biên soạn lịch sử quân đội và lịch sử chiến tranh, kiện toàn và ổn định hệ thống tổ chức cơ quan khoa học quân sự chuyên ngành toàn quân.


31 tháng 12.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 335/NQ-TƯ) về phương hướng nhiệm vụ công tác khoa học quân sự trong giai đoạn mới và trong 5 năm (1981-1985) thực hiện nghị quyết 27 của Bộ Chính trị.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:31:30 am

NĂM 1981


19 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ban hành điều lệ công tác văn thư (quyết định số 15/QĐ-QP), gồm 5 chương, 11 mục, 51 điều và 18 bản phụ lục.


21 tháng 1.

Giải thể Cục Sản xuất thuộc Tổng cục Hậu cần, thành lập phòng sản xuất nông nghiệp thuộc Cục Quân lương có nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý công tác sản xuất và chăn nuôi trong quân đội (quyết định số 12/QĐ-QP).


Tháng 1.

- Binh đoàn Trường Sơn hoàn thành xây dựng đường 297 dài 980 ki-lô-mét, nối liền Việt Bắc với Tây Bắc.

- Bộ Quốc phòng mở hội nghị tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”. 71 đơn vị được thưởng Huân chương Chiến công, 49 đơn vị được nhận cờ thưởng.


9 tháng 2.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị (số 105/CT-TƯ) tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” trong hai năm 1984-1985 với những yêu cầu mới:

1. Ý chí mạnh, trách nhiệm cao, kỷ luật nghiêm, đoàn kết tốt.

2. Nâng cao ý thức và năng lực làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất.

3. Nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy, quản lý, xây dựng cơ sở vững mạnh.

4. Đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế tốt.

5. Tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội.


21 tháng 2.

- Bộ Tổng Tham mưu ban hành Điều lệnh kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam (dự thảo) gồm 5 chương, 10 mục, 77 điều và 8 phụ lục, quy định nguyên tắc chung; khen thưởng; xử phạt (những trường hợp đặc biệt và đối với lực lượng ngoài quân đội thường trực; khiếu nại, tố cáo, phát hiện...)

- Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 50/QĐ-QP) đổi tên cơ quan quân pháp các cấp trong quân đội thành cơ quan điều tra hình sự; có nhiệm vụ điều tra những hành động phạm tội hình sự, kể cả tội phản cách mạnh, thuộc quyền xét xử của tòa án quân sự theo đúng pháp luật, các nguyên tắc, thủ tục của Nhà nước.


Tháng 2.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị khoa học quân sự toàn quân lần thứ hai, bàn biện pháp thực hiện nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác khoa học quân sự trong giai đoạn 1981-1985.


Tháng 3.

- Hội nghị xuất bản toàn quân lần thứ nhất
do Bộ Quốc phòng triệu tập, quán triệt nghị quyết 430 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng cường và cải tiến công tác xuất bản và in trong quân đội.

- Hội nghị tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Trị - Thiên nêu lên nhiều kinh nghiệm về vận dụng, kết hợp giữa hai phương thức tác chiến chiến lược: chiến tranh nhân dân địa phương và chiến tranh chính quy hiện đại, về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy và mối quan hệ giữa tiền tuyến với hậu phương...


20 tháng 4.

Bộ Chính trị ra nghị quyết “Về chính sách khoa học và kỹ thuật" gồm 7 phần. Phần II xác định: “Chính sách khoa học và kỹ thuật nước ta cần hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ thiết thực phục vụ phát triển sản xuất, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước”.


26 tháng 4.

Bầu cử Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII. Trong số 496 đại biểu trúng cử có 49 quân nhân.


Tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu báo cáo về tình hình quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế 5 năm (1976-1980): tham gia xây dựng tuyến đường chiến lược, các vùng chuyên canh lớn về lúa và cây công nghiệp, các vùng lâm nghiệp lớn, xây dựng cơ bản, đánh bắt hải sản, giúp bạn Lào... Tổng giá trị sản lượng thu được là 1.646.000 đồng.

Trong 5 năm (1981-1985), quân đội cùng các ngành của Nhà nước tiếp tục xây dựng bốn vùng chuyên canh lớn về nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh bắt hải sản, góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển ngành dầu khí, khai khoáng, điện, xây dựng các tuyến đường chiến lược, dịch vụ hàng không và giúp bạn Lào, Cam-pu-chia.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:32:35 am

Đầu tháng 5.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị biên phòng toàn quân lần thứ nhất
, biểu dương Bộ đội Biên phòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi. Nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng trong thời gian tới là xây dựng thành một lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, chính quy, hiện đại, cùng với nhân dân địa phương và các lực lượng vũ trang khác bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong tình huống chiến tranh.

Ngày 26 tháng 5, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị (số 85/CT-TM), “chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức, tăng cường chỉ đạo, chỉ huy đối với Bộ đội Biên phòng”.


14 tháng 5.

Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chính sách ưu tiên đối với quân nhân đã hoàn thành nhiệm vụ tại ngũ.


20 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ban hành quy chế về ngày truyền thống và các hoạt động nhân ngày truyền thống Quân đội, của các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, để thực hiện thống nhất trong toàn quân (quyết định số 164/QĐ-QP).


28 tháng 5.

Thành lập Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 172/QĐ-QP) trên cơ sở Ban tổng kết lịch sử (Cục Khoa học quân sự), Phân viên Lịch sử quân sự (Học viện Quân sự cấp cao) và Ban nghiên cứu lịch sử quân đội (Tổng cục Chính trị). Viện Lịch sử quân sự Việt Nam là cơ quan trung tâm đầu ngành khoa học lịch sử quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Viện trưởng: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Hoàng.


25-6 đến 4-7.

Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ nhất bầu:

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước: Trường Chinh.

Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Hữu Thọ.

Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng: Phạm Văn Đồng

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Đại tướng Văn Tiến Dũng.

Chủ tịch Hội đồng quốc phòng: Trường Chinh; Phó chủ tịch: Phạm Văn Đồng; các ủy viên: Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu.


23 tháng 7.

Liên Bộ Quốc phòng - Nội vụ ra chỉ thị (số 02/CT-LB) tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chỉ thị 01 của Liên Bộ Quốc phòng - Nội vụ về nâng cao trách nhiệm, tăng cường đoàn kết và hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng quân đội và công an nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự.


3 - 4 tháng 8.

Cục Bản đồ (Bộ Tổng Tham rnưu) mở hội nghị địa hình quân sự toàn quân, đánh giá hoạt động của ngành trong 5 năm (1976-1980) và bàn phương hướng đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, phát huy sáng kiến, đẩy nhanh việc sản xuất các loại bản đồ phục vụ yêu cầu quốc phòng và xây dựng kinh tế.


8 tháng 8.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 21-HĐBT) bổ sung một số điểm về chế độ nghỉ hưu và nghỉ việc vì mất sức lao động đối với công nhân, nhân viên nhà nước và quân nhân.

Quyết định gồm 12 điều quy định độ tuổi, thời gian công tác, mức trợ cấp... Điều 6 quy định: “quân nhân khi về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động, ngoài các chế độ hiện hành, hàng tháng được hưởng một khoản trợ cấp bằng 10 đến 20 phần trăm lương chính trước khi về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động (nếu là sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp) hoặc bằng 5 đồng (nếu là hạ sĩ quan và chiến sĩ). Thời gian được hưởng khoản trợ cấp này bằng một nửa thời gian phục vụ trong quân đội của mỗi người...”.


23 tháng 8.

- Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị “Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng nhân dân chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc". Mục tiêu giáo dục là:

1. Tạo ra một lực lượng hậu bị hùng hậu vừa có khả năng sẵn sàng chiến đấu tại chỗ vừa nhanh chóng bổ sung cho quân đội chính quy khi cần thiết.

2. Rút ngắn thời gian huấn luyện của bộ đội chủ lực, nâng cao chất lượng và trình độ sẵn sàng chiến đấu.

3. Giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, bồi dưỡng nhân viên kỹ thuật, sĩ quan dự bị cho các lực lượng vũ trang, tạo nguồn nhân viên kỹ thuật cho các ngành kỹ thuật, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài đất nước.

- Hội đồng Nhà nước công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 21 đơn vị và 6 cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong xây dựng, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2022, 09:34:08 am

5 - 10 tháng 9.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu sang thăm và dự cuộc tập trận của quân đội và hải quân Liên Xô.


17 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị (số 150/CT) yêu cầu tất cả các ngành, các cấp phải bảo đảm cung cấp, phục vụ tốt đời sống cho các lực lượng vũ trang, một việc làm có tầm quan trọng đặc biệt và có tính cấp bách.


25 tháng 9.

Bộ Quốc phòng quyết định đặt phiên hiệu quân sự cho Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam là Binh đoàn Không quân vận tải 909


29 tháng 9.

Hội đồng bộ trưởng ban hành “Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích chống Mỹ cứu nước”, gồm 11 điều, quy định đối tượng, tiêu chuẩn, thủ tục đề nghị khen thưởng và điều khoản thi thành.


6 - 8 tháng 10.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị cán bộ chủ trì toàn quân về tăng cường kỷ luật, nâng cao đời sống bộ đội. Hội nghị quán triệt chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng về tích cực chăm lo, bảo đảm và tổ chức tốt đời sống cho bộ đội; đánh giá tình hình kỷ luật của quân đội, tìm nguyên nhân và những biện pháp khắc phục mặt yếu kém của từng đơn vị và người lãnh đạo chỉ huy.


22 tháng 10.

Ban hành Điều lệnh đóng quân và canh phòng, Điều lệnh đội ngũ của Quân đội nhân dân Việt Nam (quyết định số 938 và 984/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng).

- Điều lệnh đóng quân và canh phòng có 8 chương, 154 điều và 8 phụ lục, gồm những quy định chung về đóng quân và canh phòng; nhiệm vụ, chức trách của chỉ huy trưởng khu vực đóng quân và những cán bộ giúp việc; công tác kiểm soát quân sự; công tác phục vụ nghi lễ và hoạt động xã hội tại khu vực đóng quân; những quy định chung về canh phòng; chức trách và quyền hạn của các thành phần trong đội canh phòng; quy tắc hoạt động của đội canh phòng; đặc điểm công tác canh phòng khi chuyển hàng và chuyển quân.

- Điều lệnh đội ngũ có 6 chương, 27 mục, 323 điều và 4 phụ lục, gồm những quy định cụ thể của đội ngũ từng người, đội ngũ đơn vị, đội ngũ xe cơ giới, duyệt đội ngũ và đội ngũ tổ Quân kỳ.


21 tháng 10.

Thành lập Ban chỉ đạo Giáo dục quốc phòng nhân dân các cấp.

Thượng tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Quốc phòng kiêm Chủ tịch.


15 - 16 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quyết định:

- Thành lập Học viện Kỹ thuật quân sự trên cơ sở Trường đại học Kỹ thuật quân sự thuộc Tổng cục Kỹ thuật; Học viện Quân y trên cơ sở Trường đại học Quân y; Trường đại học Ngoại ngữ quân sự trên cơ sở Trường cao đẳng Ngoại ngữ quân đội thuộc Bộ Quốc phòng.

- Đổi tên Học viện Chính trị thành Học viện Chính trị - Quân sự; Học viện Quân sự thành Học viện Lục quân; Học viện Quân sự cao cấp thành Học viện Quân sự cấp cao thuộc Bộ Quốc phòng; Trường sĩ quan Chính trị thành Trường sĩ quan Chính trị - Quân sự thuộc Bộ Quốc phòng; Trường sĩ quan Công binh thành Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Công binh thuộc Bộ Tư lệnh Công binh; Trường sĩ quan Thông tin thành Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Thông tin thuộc Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc.

- Chuyển Học viện Hậu cần (Tổng cục Hậu cần), Trường sĩ quan Lục quân 2 (Quân khu 7), Trường sĩ quan lục quân 3 (Quân khu 5) và Trường sĩ quan Tài chính (Cục Tài vụ) trực thuộc Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:05:29 pm

NĂM 1982


10 tháng 1.

Hội đồng Nhà nước công bố Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, thay cho Luật nghĩa vụ quân sự năm 1960, các luật sửa đổi, bổ sung năm 1962, 1965 và luật về chế độ phục vụ của sĩ quan quân đội nhân dân năm 1958. Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ hai, ngày 30 tháng 12 năm 1981 đã thông qua hai đạo luật này.

- Luật nghĩa vụ quân sự có 11 chương, 4 mục, 73 điều, gồm:

Chương I: Những quy định chung; chương II: Việc phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ; chương III: Việc chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ; chương IV: Việc nhập ngũ và xuất ngũ; chương V: Việc phục vụ của hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị; chương VI: Việc phục vụ của quân nhân chuyên nghiệp; chương VII: Nghĩa vụ, quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ và dự bị; chương VIII: Việc đăng ký nghĩa vụ quân sự; chương IX: Việc nhập ngũ theo lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ, việc xuất ngũ theo lệnh động viên; chương X: Việc xử lý các vi phạm; chương XI: Điều khoản cuối cùng.

- Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có 5 chương, 45 điều gồm: chương I: Những quy định chung; chương II: Quân hàm và chức vụ của sĩ quan; chương III: sĩ quan dự bị; chương IV: Nghĩa vụ và quyền lợi của sĩ quan; chương V: Điều khoản cuối cùng.

Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được ban hành nhằm phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho công dân Việt Nam làm tròn nghĩa vụ quân sự, góp phần xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, tăng cường quốc phòng, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xác định trách nhiệm, nâng cao ý chí chiến đấu, tính tổ chức và kỷ luật của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.


15 - 19 tháng 1.

Đại hội đại biểu đảng bộ toàn quân
. 422 đại biểu (382 cán bộ cao cấp, 27 Anh hùng) dự đại hội. Đại hội đã thảo luận, nhất trí với nội dung các văn kiện sẽ được trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V; đóng góp ý kiến làm sáng tỏ thêm nhận định của Trung ương Đảng về tình hình đất nước những năm qua và bàn biện pháp khắc phục khó khăn, giải quyết những vấn đề cấp bách trong xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Đại hội bầu 93 đại biểu dự đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V.


18 tháng 1.

Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa - lãnh thổ của Việt Nam”.


30 tháng 1.

Thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 36/NQ-QƯ) về công tác nhà trường quân đội trong 5 năm (1981-1985), thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thường trực và dự bị, đáp ứng số lượng và chất lượng, góp phần quyết định vào việc xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại.

Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị trên, từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1982. Bộ Quốc phòng đã ra các chỉ thị về tổ chức và nhiệm vụ của Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Lục quân, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Kỹ thuật quân sự, Trường đại học Ngoại ngữ quân sự; quyết định chấn chỉnh các trường sĩ quan trong quân đội; duy trì hệ thống các trường bổ túc cán bộ ở các quân khu, quân đoàn, binh đoàn.


10 tháng 2.

Bộ Quốc phòng chỉ thị bổ sung một số điểm về chính sách, chế độ với quân nhân, công nhân viên quốc phòng làm nghĩa vụ quốc tế.


16 tháng 2.

- Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 24-HĐBT) về hệ thống các học viện, trường đại học và cao đẳng quân sự. Sáu học viện gồm: Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Lục quân, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y, Học viện Hậu cần. 21 trường đại học, cao đẳng quân sự gồm: Đại học Ngoại ngữ quân sự; các Trường sĩ quan Lục quân 1, 2, 3; Trường sĩ quan Chính trị - Quân sự; Trường sĩ quan Hậu cần; Trường sĩ quan Tài chính; Trường sĩ quan Kỹ thuật; Trường sĩ quan Vũ khí đạn; Trường sĩ quan Bản đồ; Trường sĩ quan Phòng hóa; Trường sĩ quan Biên phòng; Trường sĩ quan Đặc công; Trường sĩ quan Pháo binh; Trường sĩ quan Pháo phòng không; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật không quân; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật hải quân; Trường sĩ quan kỹ thuật tên lửa—ra-đa; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật tăng; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật thông tin; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật công binh; Trường sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật ô tô.

- Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 25/HĐBT) về công tác tuyển sinh vào các học viện, trường đại học và cao đẳng quân sự, bắt đầu thực hiện từ khóa học 1982-1983.

- Ban hành điều lệ công tác thanh tra quân đội (quyết định số 187/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng), gồm 4 chương, 25 điều, quy định vị trí nhiệm vụ công tác thanh tra; nhiệm vụ quyền hạn, quan hệ công tác của cơ quan Tổng thanh tra quân đội; tổ chức cơ quan Tổng thanh tra và thực hành thanh tra.

 
2 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập ban tuyển sinh quân sự (số 275 QP).


19 tháng 3.

Thành lập Cục Chính sách thuộc Bộ Quốc phòng
(số 348/QĐ-QP). Nhiệm vụ: giúp Bộ nghiên cứu các chế độ, chính sách của Nhà nước, của quân đội và chỉ đạo toàn quân thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành đối với quân đội, công nhân viên quốc phòng và các lực lượng vũ trang.


27 - 31 tháng 3.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam
. Đoàn đại biểu đảng bộ quân đội có 93 đồng chí. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa V gồm 116 ủy viên chính thức, 36 ủy viên dự khuyết (quân đội có 21 đồng chí). Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:07:03 pm
      
8 tháng 4.

- Thành lập Trung tâm thông tin khoa học và kỹ thuật quân sự
thuộc Bộ Tổng Tham mưu (quyết định số 445/QĐ-QP) trên cơ sở hợp nhất Phân viện thông tin khoa học quân sự (Học viện Quân sự cấp cao) với Phân viện thông tin và phổ biến khoa học kỹ thuật quân sự (Viện kỹ thuật Quân sự).

Giám đốc: đại tá Trần Minh Bắc.

- Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị về việc bố trí công tác cho sĩ quan dự bị hết hạn phục vụ tại ngũ chuyển về các địa phương

- Giải thể Cục Điều lệnh thuộc Bộ Tổng Tham mưu (quyết định số 466/QĐ của Bộ Quốc phòng).


9 tháng 4.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 463/QP) sửa đổi kiểu quân phục của Quân đội nhân dân Việt Nam (kiểu K.82), quy định riêng cho từng cấp bậc và chủng loại, gồm sĩ quan và chuẩn úy, học viên các trường sĩ quan, sĩ quan và binh sĩ ở đơn vị; hạ sĩ quan binh sĩ làm nhiệm vụ riêng (bộ đội gác lăng Chủ tịch Hồ Chí minh, danh dự, quân nhạc, văn công).


20 tháng 4.

Thành lập Vụ các vấn đề quốc phòng và động viên nền kinh tế quốc dân (Vụ 1) thuộc Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng (quyết định số 71/HĐBT). Nhiệm vụ: giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng theo dõi, kiểm tra các ngành, các địa phương thực hiện kế hoạch động viên nền kinh tế quốc dân, sẵn sàng đáp ứng khi chiến tranh xảy ra và các vấn đề về quốc phòng đất nước.


26 tháng 4.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định về quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và lễ phục của Quân đội nhân dân Việt Nam.


4 tháng 5.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị quyết (số 129/HĐBT) về nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội trong 5 năm (1981-1985).


6 tháng 5.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định (số 82/HĐBTi về miễn gọi nhập ngũ khi có lộnh động viên những người thuộc đối tượng thực hiện nghĩ ì vụ quân sự ở các ngành sản xuất, nghiên cứu khoa học. giáo dục. vS hóa, V tế, xã hội, thế thao...


11 tháng 5.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định (số 85/HĐBT) về hệ thống chức vụ và cấp bậc quân hàm của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị định (số 86-HĐBT) về chế độ biệt phái của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, về việc mang cấp hiệu của sĩ quan cấp đại tá và tên gọi cấp tướng hải quân. Theo nghị định, sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm chức vụ từ trung đội trưởng trở lên có các cấp bậc quân hàm thiếu úy, trung úy, thượng úy, đại úy, thiếu tá, trung tá, đại tá, thiếu tướng, trung tướng, thượng tướng, đại tướng.


15 - 26 tháng 5.

Hội nghị tổng kết phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật toàn quân lần thứ nhất,


4 tháng 6.

Thành lập Trọng tài kinh tế Bộ Quốc phòng (quyết định số 1193 QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: chỉ đạo hướng dẫn các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và các đơn vị tương đương thực hiện các chế độ hợp đồng kinh tế; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế độ hợp đồng kinh tế; xét xử các vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp không cùng trong một tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng.


25 tháng 6.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 105-HĐBT) về đảm bảo chế độ cung cấp hàng hóa và phụ cấp tạm thời cho thương binh, bệnh binh, quân nhân phục viên, chuyển ngành và gia đình liệt sĩ.


14 tháng 7.

Quân đội nhân dân Việt Nam rút một bộ phận quân tình nguyện tại Cam-pu-chia về nước
. Đây là đợt rút quân đầu tiên theo thông cáo chung của hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương lần thứ sáu. Nhân dịp này, Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Quân công hạng nhất cho các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam vừa hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về tổ quốc.


7 tháng 8.

Thành lập Cục Xuất bản Quân đội nhân dân
trực thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 1217-QĐ/QP của Bộ trưởng Quốc phòng) đồng thời là Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Cục trưởng Cục xuất bản Quân đội nhân dân đồng thời là Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

Cục trưởng: Thiếu tướng Đoàn Chương.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:07:51 pm

8 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định (số 153/HĐBT) về chế độ sĩ quan dự bị Quân đội nhân dân Việt Nam. Nghị định gồm 5 chương, 24 điều, quy định cụ thể về chế độ sĩ quan dự bị và việc đào tạo bồi dưỡng sĩ quan dự bị, đăng ký, quản lý sĩ quan dự bị, gọi sĩ quan dự bị ra phục vụ tại ngũ; nghĩa vụ và quyền lợi của sĩ quan dự bị.


13 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng quy định (số 157/HĐBT) về việc sử dụng trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam. Các trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, lễ phục, quân phục thường dùng và các loại quân trang khác chỉ dành riêng cho cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng trong khi làm nhiệm vụ theo chức năng mà Nhà nước giao cho... Bộ trưởng Quốc phòng có trách nhiệm quy định hướng dẫn cụ thể việc sử dụng trang phục.


23 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng quy định (số 163/HĐBT) về thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc dân tộc ít người là hai năm.


29 tháng 9.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 1474/QĐ-QP) đổi tên Cục Xây dựng (Bộ Quốc phòng) thành Cục Xây dựng cơ bản.


30 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị (số 257/CT) cho các ngành lương thực và giao thông vận tải có trách nhiệm cung cấp và vận chuyển lương thực giao trực tiếp cho quân đội ở các tỉnh phía bắc.


12 tháng 10.

Thành lập Ban thường trực triển lãm kinh tế - kỹ thuật quân đội trực thuộc Bộ Quốc phòng.


13 tháng 10.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 175/HĐBT) về việc chuyển giao một số đơn vị và cơ sở sản xuất do quân đội xây dựng sang các ngành kinh tế quản lý.


25 tháng 10.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 01 NQ-TƯ) về đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.


2 tháng 11.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 183/HĐBT) về việc đăng ký nghĩa vụ quân sự đối với phụ nữ có ngành nghề chuyên môn kỹ thuật bậc đại học, trung cấp và sơ cấp cần cho quân đội như y, dược, ngoại ngữ, máy tính, lưu trữ, tài chính, cơ yếu...


Tháng 11.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định về chế độ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hết hạn phục vụ tại ngũ, quy định chế độ phục viên, chuyển ra cơ quan nhà nước hoặc đi học, chế độ mất sức và chế độ nghỉ hưu.


15 tháng 12.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 07/NQ-TW) “về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội”, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống, phát huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, không ngừng nâng cao chất lượng của Đảng và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nghị quyết gồm các nội dung:

1. Những vấn đề cơ bản trong cơ chế lãnh đạo mới của Đảng.

2. Thực hiện chế độ một người chỉ huy và thành lập các hội đồng quân sự.

3. Đổi mới chức năng và phát huy mạnh mẽ hiệu lực của hệ thống cơ quan chính trị, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh.

4. Quan hệ giữa quân khu và đơn vị bộ đội chủ lực với cấp ủy đảng và chính quyền địa phương,


16 tháng 12.

Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân kỷ niệm 10 năm đánh thắng máy bay B.52 của Mỹ (1972-1982). Nhân dịp này, Hội đồng Nhà nước công bố lệnh tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Quân chủng Phòng không và sư đoàn 371 không quân đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


18 - 29 tháng 12.

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia thăm hữu nghị chính thức nước ta.

Ngày 23 tháng 12, Bộ trưởng Quốc phòng nước ta và Cam-pu-chia ký văn kiện tăng cường hợp tác giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Cam-pu-chia.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:09:31 pm

NĂM 1983


3 tháng 1.

Bộ Quốc phòng quy định việc mang cấp hiệu của sĩ quan cấp đại tá (ba sao, hai vạch), bỏ cấp thượng tá. Quy định cấp tướng Hải quân theo Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (thiếu tướng - chuẩn đô đốc; trung tướng - phó đô đốc; thượng tướng - đô đốc).

3 - 8 tháng 1.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.


25 tháng 1.

Hội đồng Nhà nước công bố lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 66 đơn vị và 13 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và các nhiệm vụ khác.


9 tháng 2.

Bộ Tổng Tham mưu quy định trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam, áp dụng thống nhất trong toàn quân (kiểu K.82).


10 tháng 2.

Hội đồng Nhà nước thưởng 10 Huân chương Chiến công cho một số đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế thuộc Quân khu 5 và Quân khu 7.


9 tháng 2.

Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô tặng Huy chương “Vì sự củng cố liên minh chiến đấu” cho một số đồng chí lãnh đạo, tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam.


7 tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị biên soạn tài liệu giảng dạy trong các học viện, trường đại học quân sự và trường sĩ quan theo yêu cầu của chương trình cải cách giáo dục đào tạo trong quân đội từ năm học 1983-1984.


21 - 22 tháng 3.

Bộ Quốc phòng tổng kết bốn năm (1979-1982) toàn quân thực hiện cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” do Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương phát động. 16 đơn vị được nhận cờ thưởng luân lưu của Hội đồng Bộ trưởng.


29 tháng 3.

- Bộ Quốc phòng ra chỉ thị (số 376/CT-QP) về việc cất bốc, quy tụ mộ liệt sĩ ở trong nước, quân tình nguyện ở Lào, Cam-pu-chia và xây dựng bia kỷ niệm các trận chiến đấu và chiến dịch có ý nghĩa.

- Bộ Quốc phòng tổng kết bảy năm quân đội tham gia xây dựng kinh tế (1976-1982). Nhiều công trình lớn (các khu chuyên canh ở Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, các đường chiến lược, một số công trình trọng điểm của Nhà nước...) do quân đội xây dựng đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ba đơn vị được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lao động, 20 đơn vị được thưởng Huân chương Quân công, Chiến công.


1 tháng 4.

Bộ Quốc phòng ban hành “Điều lệ xử lý vết thương chiến tranh” (quyết định số 387/QĐ-QP), gồm 5 phần, 39 chương, 394 điều, quy định việc tổ chức cứu chữa thương binh, bệnh binh; một số vấn đề ngoại khoa chung, các loại thương tổn, tổn thương từng bộ phận, lý liệu và phục hồi chức năng.


1 - 4 tháng 4.

Hội nghị xây dựng pháo đài quân sự huyện ven biển tại Thái Bình, do Bộ Quốc phòng triệu tập. Thượng tướng Lê Trọng Tấn - Tổng Tham mưu trưởng quân đội chỉ đạo hội nghị.


9 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định (số 92/QĐ-TM) chuyển giao nhiệm vụ giáo dục văn hóa từ Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị) sang Cục Nhà trường (Bộ Tổng Tham mưu).


14 - 20 tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp tập huấn chiến thuật phân đội tại Quân đoàn 1, bồi dưỡng một số nội dung và phương pháp huấn luyện chiến thuật phân đội, bảo đảm thống nhất cho toàn quân.


19 tháng 4.

Bộ Quốc phòng ban hành quy chế quản lý và hợp tác khoa học kỹ thuật đối với các cơ quan khoa học và kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm 3 chương, 12 điều).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:10:58 pm

2 – 31 tháng 5.

Hoàn thành việc rút Quân đoàn 4 quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia về nước. Quân đoàn được Hội đồng Nhà nước Cam-pu-chia tặng Huân chương Ăng Co. Hội đồng Nhà nước Việt Nam thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.


16 tháng 5.

Hội đồng Bộ trưởng ban hành “Điều lệ đăng ký nghĩa vụ quân sự” (số 48 HĐ-BT) gồm 5 chương, 44 điều, về các quy định chung, quy tắc đăng ký, nhiệm vụ của các cơ quan thi hành.


17 tháng 5.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị quyết (số 30/HĐBT) “Xây dựng mỗi huyện thành một pháo đài để giữ vững an ninh quốc phòng trong thời bình, đủ sức tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh”.


19 tháng 5.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị (số 20/CT-TƯ) tiếp tục cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”, trong ba năm 1983-1985) với yêu cầu mới:

1. Xây dựng cơ bản và vững chắc ý chí, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, xây dựng mối quan hệ đoàn kết nội bộ, quân đội với nhân dân.

2. Quản lý, giữ gìn và sử dụng có hiệu quả cao các loại vũ khí, trang bị.

3. Tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ.


24 - 28 tháng 5.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị chuyên đề về các trường quân chính quân khu, trường quân sự địa phương tỉnh, thành phố tại Quảng Nam- Đà Nẵng. Phấn đấu củng cố, kiện toàn hệ thống các trường, bảo đảm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ về số lượng, chất lượng góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới.

 
27 tháng 5.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 12 NQ-TƯ) về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc trong những năm 1985-1990.


26 tháng 6.

Bộ Quốc phòng ban hành chương trình huấn luyện quân sự phổ thông cho các trường học. Trường phổ thông cơ sở: 72 giờ; phổ thông trung học: 126 giờ; trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp: 252 giờ; trường cao đẳng và đại học: 336 giờ.


8 - 11 tháng 7.

Tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị lịch sử quân sự toàn quân lần thứ nhất, đánh giá công tác tổng kết chiến tranh, biên soạn và giảng dạy lịch sử quân sự, đề ra phương hướng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự, đẩy mạnh việc xây dựng ngành lịch sử quân sự và phát triển khoa học lịch sử quân sự trong các lực lượng vũ trang nhân dân.


19 - 20 tháng 7.

Hội nghị thường kỳ lần thứ 7 Bộ trưởng ngoại giao ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia tại Phnôm-pênh, ra thông báo về việc rút dần hàng năm quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia về nước.


27 tháng 7.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định về chế độ đãi ngộ quân nhân dự bị khi tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Nhà nước và Bộ Quốc phòng đài thọ mọi chi phí về sinh hoạt, đi lại, phụ cấp ...


Tháng 7.

Bộ Quốc phòng tổ chức lớp tập huấn cán bộ quân sự địa phương các quân khu, tỉnh và thành phố phía nam.


1 tháng 8.

Liên Bộ Y tế - Quốc phòng ra thông tư (số 1054 YT-QP) kiểm tra sức khỏe, khám sức khỏe cho thanh niên để thực hiện nghĩa vụ quân sự.


20 tháng 8.

Bộ Quốc phòng chỉ thị (số 1129/CT-QP) đẩy mạnh việc hệ thống hóa pháp luật đối với các cơ quan đầu ngành nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật trong quân đội nhằm cung cấp cho các cơ quan, đơn vị thuộc ngành phụ trách dùng làm cơ sở pháp lý thống nhất điều hành mọi hoạt động theo nguyên tắc quản lý ngành.


Tháng 11.

Cục Khoa học quân sự mở lớp tập huấn cán bộ khoa học quân sự toàn quân về lý luận khoa học quân sự Việt Nam, phương pháp tổ chức nghiên cứu chiến thuật qua diễn tập thực nghiệm, tổ chức và nghiên cứu khoa học quân sự địa phương.


26 tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định (số 382/QĐ-TM) hợp nhất ngành vũ khí và ngành đạn dược thành ngành vũ khí - đạn; hợp nhất ngành ô tô máy kéo và ngành tàu thuyền, trạm nguồn điện thành ngành ô tô máy kéo – trạm nguồn thuộc cục kỹ thuật các quân khu, quân chủng, đặc khu, quân đoàn.


27 tháng 12.

Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị về việc thu hồi kim loại ở dạng phế liệu, phế thải trong quân đội, ngành giao thông vận tải và ở các địa phương Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ tổ chức, thu hồi phân loại và tháo gỡ kim loại trong số thiết bị, phương tiện trang bị cho quân đội đã hư hỏng và có quyết định thanh lý để chế biến, gia công thành sản phẩm ưu tiên phục vụ nhu cầu của quân đội và các ngành kinh tế.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:12:09 pm

NĂM 1984


4 tháng 1.

Khánh thành tượng đài tưởng nhớ các chiến sĩ quốc tế Việt Nam tại Phnôm-pênh (Cam-pu-chia).


7 tháng 2.

Bộ Chính trị ra nghị quyết tổ chức những ngày kỷ niệm lớn trong hai năm 1984-1985: 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ; 10 năm chiến thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; 40 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9; 40 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.


15 tháng 2.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 172/QĐ-QP) thành lập Cục cán bộ Chính trị trực thuộc Tổng cục Chính trị.


Giữa tháng 3.

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị khoa học về chiến thắng Điện Biên Phủ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng vĩ đại này. Nhiều báo cáo khoa học về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch; bổ sung và phát triển những bài học kinh nghiệm đã được tổng kết về chiến thắng Điện Biên Phủ và vận dụng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đã được trình bày tại hội nghị.


16 tháng 3.

Quân ủy Trung ương quyết định thành lập hội đồng học viện, hội đồng nhà trường ở các học viện và nhà trường đào tạo sĩ quan. Nhiệm vụ: xem xét tập thể và quyết định theo đa số những chủ trương, biện pháp lớn trong hoạt động và đời sống của học viện, nhà trường.


19 tháng 3.

Bộ Thương binh - Xã hội quy định thống nhất một số chế độ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.


26 tháng 3.

Bộ Quốc phòng quyết định nâng mức tiền ăn từ 1,62 đồng lên 3,00 đồng một ngày, cấp thêm trang phục cho giáo viên, học viên đào tạo và bổ túc sĩ quan sơ cấp tại các học viện, nhà trường đại học, trường sĩ quan và trường quân chính


31 tháng 3.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết (số 07/NQ-QU) về tăng cường liên minh chiến lược và chiến đấu giữa Việt Nam và Cam-pu-ehia trong những năm tới.


Tháng 3.

Thành lập Hội đồng nhà đất - Bộ Quốc phòng.


Tháng 4.

Bộ Quốc phòng quyết định: đổi tên Cục Địch vận thuộc Tổng cục Chính trị thành Cục Tuyên truyền đặc biệt; Cục Quản lý thuộc Tổng cục Chính trị thành Cục Hậu cần; thành lập Trường trung cấp nghệ thuật quân đội thuộc Tổng cục Chính trị.


6 tháng 5.

Khai mạc triển lãm “Đường Hồ Chí Minh” tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập tuyến vận tải quân sự chiến lược (5-1959 — 5-1984). Hơn 200 hiện vật và nhóm hiện vật, hơn 200 hình ảnh và nhiều biểu đồ, thống kê, sa bàn, bản đồ... được trưng bày thể hiện một phần cuộc chiến đấu quyết liệt, lâu dài, gian khổ của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


12 tháng 5.

Ban hành điều lệ nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam (quyết định số 707 QĐ-QP của Bộ Quốc phòng), gồm lời nói đầu, 7 chương, 118 điều.


15-5 đến 5-6.

Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức các nước Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Ba Lan, Liên Xô.


Tháng 5.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định chuyển bệnh viện 109 và 110 thuộc Tổng cục Hậu cần về quân khu 2 và Quân khu 1.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:13:25 pm

4 tháng 6.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 827/QP), thành lập trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu và dịch vụ, giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo toàn quân làm hàng xuất khẩu và làm dịch vụ thu ngoại tệ.


5 tháng 6.

Hội đồng Bô trưởng ra tuyên bố về vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Khoảng không gian ở trên đất liền, nội thủy, lãnh hải và các hải đảo Việt Nam là thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để Nhà nước Việt Nam thực hiện việc bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh quốc gia trên vùng trời Tổ quốc.


9 tháng 6.

Bộ Quốc phòng bổ sung chính sách đối với quân nhân, công nhân viên quốc phòng đang làm nhiệm vụ ở tuyến 1, biên giới và hải đảo xa (phụ cấp khuyến khích bằng 30 phần trăm lương chính); quân nhân, công nhân viên quốc phòng đang làm nhiệm vụ ở các địa phương có đường biên giới (phụ cấp bằng 100 phần trăm lương chính).


16 tháng 6.

Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia thỏa thuận rút một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam tại các tỉnh miền tây và tây-bắc Cam-pu-chia về nước. Số lượng quân gồm hai lữ đoàn, một trung đoàn và một số tiểu đoàn độc lập.


23 tháng 6.

Lữ đoàn 688, lữ đoàn 689, trung đoàn 550 và một số tiểu đoàn độc lập quân tình nguyện Việt Nam từ các tỉnh phía tây và tây-bắc Cam-pu-chia trở về tổ quốc.


12 tháng 7.

Bộ Quốc phòng ra nghị định về tổ chức thi tốt nghiệp quốc gia ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.


13 tháng 7.

Khánh thành trung tâm phục hồi chức năng cho thương binh và nạn nhân chiến tranh ở Hải Phòng do Vương quốc Na Uy giúp.


14 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các trường quân sự địa phương thuộc Quân khu Thủ Đô và Đặc khu Quảng Ninh.


16 tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ lệnh sẵn sàng động viên và huấn luyện động viên, giúp người chỉ huy nắm vững các biện pháp động viên trong đơn vị, nâng cao trình độ sẵn sàng động viên quân đội trên cơ sở tổ chức lực lượng đã được xác định, nhằm triển khai và hoàn thành tốt công tác động viên năm 1984-1985.


21 tháng 7.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 1095/QP), thành lập Hội đồng đánh giá tài liệu lưu trữ các cấp trong quân đội.


17 tháng 8.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều Trường văn hóa quân đội về trực thuộc Quân khu Thủ Đô.


5 tháng 9.

Bộ Quốc phòng bổ sung chế độ phụ cấp đối với bộ đội làm nhiệm vụ ở Cam-pu-chia, Lào, ở các đảo và các địa phương vùng biên giới.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 04:14:40 pm

6 tháng 10.

Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho lực lượng vũ trang Thủ đô.


22 tháng 10.

Thành lập Ban giám khảo xét duyệt sáng kiến, sáng chế phục vụ công tác dạy và học của các trường quân đội.

Trưởng ban: Thiếu tướng Nguyễn Dương Hán - Cục trưởng Cục Nhà trường.


24 tháng 10.

Bộ Quốc phòng quy định trang phục nghiệp vụ cho các đoàn nghệ thuật quân đội bao gồm phù hiệu, mũ, quân phục...


25 tháng 10.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định (số 281/QĐ-TM) chuyển bệnh viện 108 thuộc Cục Quân y trực thuộc Tổng cục Hậu cần.


27 tháng 10.

Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao vàng (lần thứ ba) cho các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Cũng nhân dịp này, Hội đồng Nhà nước đã ra quyết nghị (số 572-HĐNN) quy định Huy chương Quân kỳ quyết thắng để tặng thưởng cho những quân nhân và công nhân viên quốc phòng đã phục vụ quân đội từ 25 năm trở lên.


Đầu tháng 11.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định chuyển Trường trung học quân y 2 thuộc Tổng cục Hậu cần trực thuộc Quân khu 7.


18 - 25 tháng 11.

Đại hội thể dục thể thao toàn quân lần thứ hai tổ chức tại Hà Nội và Hải Phòng. 40 đoàn tuyển thủ gồm 2.000 vận động viên, thi đấu 12 môn thể thao Ô-lim-pic và thể thao quân sự; 34 đội thi đấu môn “chiến sĩ khỏe” giải “Báo quân đội nhân dân”. Giải nhất toàn đoàn: Quân khu 3.


Tháng 11.

Hội nghị cán bộ lãnh đạo chính trị quân đội ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, trao đổi một số kinh nghiệm về công tác đảng - công tác chính trị, góp phần nâng can trình độ sẵn sàng chiến đấu; bàn biện pháp phối hợp hoạt động tăng cường củng cố tình đoàn kết giữa quân đội và nhân dân ba nước và với các nước khác.


3 tháng 12.

Bộ Quốc phòng quy định chính sách, chế độ đối với cán bộ chuyên trách công tác đảng, công tác đoàn thể trong quân đội được hưởng như đối với các chỉ huy, phó chỉ huy cùng cấp.


5 - 23 tháng 12.

Giải vô địch bóng đá SKDA lần thứ năm tổ chức tại Việt Nam. Tham dự giải có các đội bóng quân đội và lực lượng vũ trang Tiệp Khắc, Ba Lan, Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Cu Ba, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la, I-rắc và hai đội Việt Nam. Đội quân đội Hung-ga-ri giành cúp vô địch và Huy chương vàng.


18 tháng 12.

Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng Quân đội nhân dân Việt Nam Huân chương Sao vàng quốc gia (huân chương cao quý nhất của Lào).


19 tháng 12.

- Nhà nước Cam-pu-chia tặng Quân đội nhân dân Việt Nam Huân chương Ăng Co (huân chương cao quý nhất của Cam-pu-chia).

- Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho 10 đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam (Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, lực lượng vũ trang Quảng Ninh, các sư đoàn 304, 308, 312, 316, 320, 325 và Trường sĩ quan Lục quân 1).


20 tháng 12.

Ban Chấp hành Tinng ương Đảng ra nghị quyết (số 23/NQ-TW) về công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, bảo đảm an ninh quốc phòng vững mạnh. “Tăng cường xây dựng pháo đài quân sự và an ninh trên địa bàn huyện. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng thế trận làm chủ của chiến tranh nhân dân, tổ chức lực lượng lao động sản xuất đồng thời là lực lượng quốc phòng, bảo đảm chiến đấu và hậu cần tại chỗ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội. Làm tốt việc giáo dục chính trị tư tưởng, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, quản lý quân dự bị, xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân vững mạnh, trong sạch về chính trị và tổ chức”.


22 tháng 12.

Tại Hà Nội, mít tinh kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ Quốc phòng đón nhận Huân chương Sao vàng lần thứ ba.


23 tháng 12.

Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký hiệp định về liên minh quân sự giữa hai nước.


27 tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị (số 205/CT-TM) về công tác báo tử, báo mất tích và lập danh sách quân nhân (bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng) chết hoặc mặt tích từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 trở về sau.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 08:02:41 pm

NĂM 1985


7 - 10 tháng 1.

Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia.


7 tháng 2.

Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định chế độ đối với phụ nữ tình nguyện phục vụ quân đội theo chế độ quân nhân, có nghĩa vụ và quyền lợi như nam quân nhân.


18 tháng 2.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trường quân sự địa phương trực thuộc Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo; hợp nhất hai trường quân chính thuộc Bộ Tư lệnh 479 thành một trường quân chính.


19 - 22 tháng 2.

Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị quân báo toàn quân, đánh giá công tác tổ chức nắm địch và xây dựng, huấn luyện năm 1984; quán triệt tình hình và yêu cầu nhiệm vụ nắm địch của Bộ để bổ sung cho phương hướng nhiệm vụ huấn luyện năm 1985.


20 tháng 2.

Thành lập Binh đoàn xây dựng kinh tế Tây Nguyên
(Binh đoàn 15), chuyên xây dựng kinh tế tổ chức sản xuất kinh doanh như một liên hiệp các xí nghiệp khu vực. Nhiệm vụ: sản xuất, kinh doanh cây cao su kết hợp với kinh doanh tổng hợp trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất lâm nghiệp trên các địa bàn; kết hợp kinh tế với quốc phòng tại Tây Nguyên.


1 - 25 tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp tập huấn nghiệp vụ trinh sát nhân dân cho các tỉnh phía Bắc, nhằm bồi dưỡng cho cán bộ phụ trách trinh sát nhân dân một số nội dung nghiệp vụ trong công tác xây dựng trinh sát nhân dân và tổ chức nắm địch.


2 - 31 tháng 3.

Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức triển lãm “Tuổi trẻ sáng tạo khoa học xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” lần thứ nhất tại Hà Nội. Trong số hơn 1.100 đề tài nghiên cứu, phát minh sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật và sản phẩm sáng tạo của thanh niên cả nước có 172 sản phẩm của tuổi trẻ quân đội.


7 tháng 3.

Hội đồng Nhà nước quyết định (số 619/KT-HĐNN7), tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho lực lượng vũ trang và nhân dân tỉnh Đắc Lắc; tiếp đó là lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh (thành phố): Gia Lai - Công Tum (quyết định số 620 KT/HĐND7, ngày 12 tháng 3), Bình - Trị - Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng (quyết định số 621, 622 ngày 19 tháng 3), thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Lai Châu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà - Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Quảng Ninh, Hà-Sơn-Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Thái Bình, Hà-Nam-Ninh, Thanh Hóa, Nghệ - Tĩnh, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Lâm Đồng, Thuận Hải, Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh, Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Minh Hải, Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (quyết định số 628/KT-HĐNN, ngày 26 tháng 3 năm 1985).


22 tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị (số 39/CT-TW), quy định trách nhiệm của cơ quan quân sự địa phương và các đơn vị quân đội đóng tại địa phương đối với việc huấn luyện quân sự phổ thông ở các trường phổ thông trung học, trường dạy nghề và các trường cao đẳng, đại học.


25 tháng 3.

Trên cơ sở quyết định (số 331/QĐ-TM) ngày 15-11-1978 của Bộ Tổng Tham mưu về việc hợp nhất Trường Quân y Miền và Trường Đại học Quân y, Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 488/QĐ-QP) thành lập Phân viện học viện Quân y tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ: đào tạo, bổ túc sĩ quan quân y ở các tỉnh phía nam và Tây Nguyên; huấn luyện chuyên tu y sĩ, sĩ quan dự bị, nghiên cứu y học quân sự.


26-3 đến 1-4.

Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Ấn Độ.


Tháng 3.

Thực hiện thông tư (214/QP ngày 22-2-1983) của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị chuyên đề tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố kỷ luật ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 08:04:52 pm

3-4 đến đầu tháng 5.

- Đợt rút quân thứ tư quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia về nước, gồm một sư đoàn bộ binh, bốn lữ đoàn kỹ thuật và ba lữ đoàn bộ binh thuộc Binh đoàn 52.

- Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho Binh đoàn 52, mặt trận 579 Quân khu 5 đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế.


4 - 6 tháng 4.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị khoa học kỷ niệm lần thứ 10 ngày thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (30-4-1975 - 30-4-1985). Hội nghị tập trung thảo luận các vấn đề: những thành công và bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975; nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và những tác động to lớn của sự kiện lịch sử vĩ đại này đối với dân tộc và thời đại.


9 - 13 tháng 4.

Hội nghị tổng kết công tác đảng - công tác chính trị trong kháng chiến chống Mỹ.


22 tháng 4.

Ban hành quy chế thi tốt nghiệp quốc gia và công nhận tốt nghiệp cho các học viện, trường đại học, trường sĩ quan, gồm 17 điều và 2 phụ lục.


12 - 18 tháng 4.

Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa In-đô-nê-xi-a.


23 - 24 tháng 4.

Viện Mác—Lê-nin và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức hội nghị khoa học nghiên cứu những văn kiện của Đảng trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.


27 tháng 4.

Thành lập Hội đồng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước của Bộ Quốc phòng (quyết định số 741/QP).


16 tháng 5.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 848/QĐ - QP), chuyển công ty Đức Cơ thành đoàn Đức Cơ (đoàn 385) và nông trường 732 (Plây Cần) trực thuộc Binh đoàn Tây Nguyên.


28 tháng 5.

Thành lập Hội đồng đánh giá tài liệu lưu trữ cơ quan Bộ Tổng Tham mưu (quyết định số 184/QĐ-TM).

Chủ tịch: Đại tá Võ Thiện Kế - Phó văn phòng Bộ Tổng Tham mưu.


9 tháng 6.   

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 24/NQ-TƯ), về những vấn đề cơ bản của đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
, nêu rõ: “Đường lối quân sự của Đảng ta ngày nay là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc”. “Phương hướng xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân là xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, hùng mạnh, có trình độ chính quy hiện đại ngày càng cao, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng vững mạnh và rộng khắp”. “Về tổ chức, lực lượng vũ trang nhân dân gồm quân đội nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng) và dân quân tự vệ. Quân đội nhân dân có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị. Quân đội nhân dân phải có số lượng đủ, nhất là có chất lượng cao..., giải quyết những vấn đề tổ chức một cách khoa học làm cho các đơn vị với số lượng nhất định có thể tạo nên hiệu suất chiến đấu cao. Từng đơn vị có đủ số quân theo biên chế, phát huy hết khả năng của từng người và của toàn đơn vị, xây dựng tổ chức mạnh và từng người mạnh, đơn vị mạnh, cơ quan mạnh...” Nghị quyết xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, Ủy ban quốc phòng của Đảng, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, chế độ một người chỉ huy, công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội...


15 tháng 6.

Thành lập Ban tuyển sinh quân sự Bộ Tổng Tham mưu.

Trưởng ban: Trung tướng Doãn Tuế - Phó tổng tham mưu trưởng.


Tháng 6.

Cục Nhà trường (Bộ Tổng Tham mưu) tổ chức hội nghị khoa học chuyên đề về sách giáo khoa, tài liệu giáo khoa trong các học viện, trường đại học và trường sĩ quan trong quân đội; thống nhất việc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn biên soạn sách giáo khoa quân sự.


4 tháng 7.

Bộ Chính trị ra các nghị quyết:

- Nghị quyết (số 26/NQ-TW) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trên mặt trận quốc phòng an ninh: “Thanh niên trong quân đội phải có ý chí chiến đấu cao, kỹ thuật giỏi, lao động tốt, kỷ luật nghiêm, nếp sống lành mạnh, phát huy truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

- Nghị quyết (số 27/NQ-TW) về việc tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng”, xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; Ủy ban quốc phòng của Đảng, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, chế độ một người chỉ huy; công tác đảng - công tác chính trị trang quân đội; chỉ định Đảng ủy Quân sự Trung ương.


6 - 8 tháng 7.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị cải tiến quản lý xí nghiệp công nghiệp quốc phòng và xây dựng cơ bản toàn quân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 08:07:11 pm

17 tháng 8.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho bảy quân khu (1, 2, 3, 4, 5, 7, 9) và ba quân chủng (Không quân, Hải quân, Phòng không); tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho 51 đơn vị và Huân chương Độc lập hạng nhất cho 15 đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


29 tháng 8.

Hội đồng Nhà nước công bố lệnh tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 218 đơn vị và 125 cá nhân trong đó có 75 đơn vị và 20 cá nhân thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tháng 8.

- Nhà nước ta tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho một số đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng, cơ quan An ninh quốc gia, Bộ Nội vụ các nước Liên Xô, Cu Ba, Cộng hòa dân chủ Đức đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng và bảo vệ an ninh Tổ quốc Việt Nam.

- Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định việc thành lập hội đồng quân sự cấp sư đoàn; cơ quan cấp tỉnh, thành phố, Tổng cục Hậu cần; Đảng ủy Binh chủng Pháo binh, Công binh, Thông tin, Thiết giáp, Đặc công, Hóa học, Biên phòng và cơ quan Bộ Quốc phòng.


5-9 đến 1-10.

Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị chính thức các nước Liên Xô, Mông Cổ, Cộng hòa dân chủ Đức.


11 tháng 9.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị (số 297/KT), kiện toàn trường quân sự địa phương tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương. Trường quân sự địa phương tổ chức theo cơ cấu một trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của tỉnh (thành, đặc khu) và do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành, đặc khu) trực tiếp quản lý.


18 tháng 9.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định (số 235/HĐBT) về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân viên chức và các lực lượng vũ trang. Mức lương mới được quy định gấp 10 lần mức lương cũ. Tổng cục Hậu cần và Cục Tài vụ - Bộ Quốc phòng ra văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của Bộ Quốc phòng về chế độ tiền ăn, phụ cấp của chiến sĩ, chế độ lương tạm thời của quân nhân chuyên nghiệp.


Tháng 9.

Hội đồng Nhà nước công bố lệnh tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Quân chủng Không quân và Quân đoàn 1.


4 tháng 10.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 1670/QĐ-QP) thành lập Ủy ban kế hoạch hóa gia đình trong quân đội. Chủ tịch: Trung tướng Bùi Phùng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.


13 - 16 tháng 10.

Hội thi chiến sĩ khỏe toàn quân, giải Báo Quân đội nhân dân tại thành phố Hồ Chí Minh. Đội tuyển Trường sĩ quan Lục quân 2 đoạt cúp luân lưu Báo Quân đội nhân dân. Vận động viên Nguyễn Xuân Chuyên (Quân khu 5) lần thứ 2 vô địch toàn năng, được công nhận là người khỏe nhất toàn quân năm 1985.


15 tháng 10.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 1738/QĐ-QP) về việc thống nhất sử dụng “phiếu quân nhân” thay cho lý lịch của quân nhân, hạ sĩ quan, binh sĩ và một số sổ sách quản lý quân số trong toàn quân. Người chỉ huy cấp trung đoàn (và tương đương) chịu trách nhiệm lập và quản lý phiếu quân nhân.


4 - 8 tháng 11.

Bộ Tư lệnh Công binh tổ chức hội nghị khoa học chuyên đề “Về công sự biên giới” tại Đặc khu Quảng Ninh.


7 tháng 11.

Thành lập Tổng cục Kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng, cơ quan giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo, quản lý các lực lượng quân đội làm kinh tế theo chính sách, chế độ chung của Đảng và Nhà nước.


Tháng 11.

Ban hành điều lệ công tác ngành Điều tra hình sự.


21 tháng 12.

- Học viện Chính trị - Quân sự tổ chức hội nghị khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang nhân dân”. Hội nghị tập trung vào ba vấn đề lớn: Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng Đảng; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác đảng-công tác chính trị; Chủ tịch Hồ Chí Minh với người cán bộ chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân.

- Học viện Quân sự cấp cao hội thảo khoa học về “Kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực trong huấn luyện, nghiên cứu”. Hội nghị tập trung phản ánh thực tiễn phong phú của sự kết hợp hai phương thức chiến tranh trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước trước đây và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc ngày nay vào quá trình huấn luyện, nghiên cứu; làm sáng tỏ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, khả năng, nội dung và phương pháp kết hợp hai loại hình chiến tranh trong phạm vi chiến lược, nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật; trong tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng... phục vụ việc nghiên cứu, cải tiến nội dung huấn luyện của học viện sát thực tế hơn.


25 tháng 12.

Hội nghị tổng kết 5 năm công tác thanh tra - kiểm tra toàn quân (1981-1985).


27 - 28 tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị tổng kết công tác khoa học quân sự năm 1985 và phổ biến, quán triệt chỉ thị và kế hoạch công tác khoa học quân sự năm 1986.


30 tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị về việc thực hiện chế độ phụ cấp trên hạn định của hạ sĩ quan, binh sĩ, vào năm thứ nhất thêm 60 phần trăm mức phụ cấp, năm thứ hai trở đi thêm 100 phần trăm mức phụ cấp.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 08:09:01 pm

NĂM 1986


3 tháng 1.

Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự và tổ chức viện kiểm sát quân sự:

- Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự (4 chương, 38 điều), quy định: “Các tòa án quân sự là những cơ quan xét xử thuộc hệ thống tòa án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức trong quân đội nhân dân, gồm tòa án quân sự cấp cao, các tòa án quân sự cấp quân khu và cấp tương đương, các tòa án quân sự khu vực”.

- Pháp lệnh tổ chức viện kiểm sát quân sự (4 chương, 34 điều), quy định “các viện kiểm sát quân sự là những cơ quan kiểm sát việc tuân thủ pháp luật Nhà nước được tổ chức trong Quân đội nhân dân, gồm Viện kiểm sát quân sự Trung ương, viện kiểm sát quân sự quân khu, quân chủng, tổng cục và cấp tương đương, viện kiểm sát quân sự quân đoàn, tỉnh và khu vực”.


6 tháng 1.

Hội đồng Bộ trưởng quyết định tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc cho 37 cán bộ, chiến sĩ quân đội.


16 - 17 tháng 1.

Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ năm tại Hà Nội. 565 đại biểu tập thể và cá nhân Anh hùng, Chiến sĩ thi đua (trong đó có 75 đơn vị, 20 đại biểu quân đội) về dự. Đại hội tuyên dương 218 tập thể, 126 cá nhân Anh hùng và 223 Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Quân đội có 75 đơn vị và 10 cá nhân được tuyên dương Anh hùng.


Giữa tháng 1.

Hội đồng Nhà nước quyết định tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho các mặt trận 479 và 779, sư đoàn bộ binh 5, lực lượng vũ trang thành phố Hồ Chí Minh, Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, các tỉnh Long An, Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh.


Tháng 1.

- Bộ Quốc phòng sơ kết cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”. 16 đơn vị được nhận cờ luân lưu và 14 đơn vị được tặng bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng.

- Hội nghị bàn về sản xuất, xây dựng kinh tế toàn quân và hội nghị ngành Tài chính toàn quân.


Tháng 2.

Ngành Xe quân đội đẩy mạnh phong trào “giữ xe tốt, dùng bền” nâng cao chất lượng sử dụng xe - máy.


11 tháng 3.

Đảng ủy quân sự Trung ương chỉ đạo đợt tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng toàn quân theo chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng.


24 - 26 tháng 3.

Hội nghị tổng kết công tác nhà trường quân đội trong 5 năm (1981-1985), quán triệt đường lối quân sự của Đảng, quan điểm thực tiễn trong công tác đào tạo, kết hợp công tác cán bộ và công tác nhà trường, chủ động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng nhà trường quân đội vững mạnh trong những năm 1986-1990.


Tháng 3.

- Quân ủy Trung ương ra chỉ thị thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên trong quân đội
. Cấp ủy các cơ sở cần đánh giá đúng tình hình thanh niên, tổ chức đoàn ở đơn vị mình, phân tích rõ nguyên nhân, trách nhiệm, đề ra biện pháp cơ bản nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của các cấp ủy đảng và chỉ huy trong tình hình mới.

- Hội nghị tổng kết cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 (chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, cuộc tiến công và nổi dậy ở Huế, cuộc tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định).


18 tháng 4.

Hội đồng Bộ trưởng giao nhiệm vụ cho các cơ quan nhà nước và các địa phương có trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng và trường đại học đào tạo cán bộ công nhân viên chuyên môn kỹ thuật phục vụ Quân đội nhân dân Việt Nam.


8 tháng 5.

Thành lập Trường Đảng Quân khu Thủ Đô (quyết định số 109/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu), trên cơ sở lớp bồi dưỡng công tác đảng - công tác chính trị Trường Quân chính Quân khu Thủ Đô.


9 tháng 5.

- Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết về việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ cao cấp nghỉ hưu và cán bộ dư biên chế, nhấn mạnh yêu cầu làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ lớp trước thực hiện chế độ nghỉ hưu và làm gương cho cán bộ cấp dưới thực hiện nghiêm túc các chế độ quy định.

- Bộ Quốc phòng quyết định (số 592/QĐ-QP) giải thể các tòa án quân sự Quân chủng Không quân, Quân chủng Hải quân, Đặc khu Quảng Ninh, Mặt trận 479, các quân đoàn 1, 2, 3 và 4.


27 tháng 5.

Binh đoàn 98 và một số lữ đoàn, trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia trở về Tổ quốc. Hội đồng Nhà nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia, Hội đồng toàn quốc Mặt trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia tặng Huân chương Ăng Co, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc cho Binh đoàn 98, sư đoàn 8 bộ binh, lữ đoàn 95 và trung đoàn 37 quân tình nguyện Việt Nam.


29 tháng 5.

Hội đồng Nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho Binh đoàn 98.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Sáu, 2022, 08:10:53 pm

23 tháng 6.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị tổng kết công tác khoa học quân sự 5 năm (1981-1985).


Cuối tháng 6 - tháng 9.

Học viện Kỹ thuật quân sự tổ chức lớp bồi dưỡng cán bộ chỉ huy tham mưu kỹ thuật cấp trung đoàn và tương đương cho các đơn vị ở phía nam tại thành phố Hồ Chí Minh.


2 tháng 7.

Đại tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Quốc phòng từ trần
. Đại tướng Hoàng Văn Thái (Hoàng Văn Xiêm) sinh năm 1915 ở Tiền Hải, Thái Bình. Ủy viên Trung ương Đảng các khóa 3, 4, 5. Ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, nguyên Tổng Tham mưu trường Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, nguyên Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Phó bí thư Quân ủy Miền, đại biểu Quốc hội khóa VII. Đại tướng Hoàng Văn Thái đã có nhiều cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, với hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Đại tướng đã được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, nhiều huân chương và phần thưởng cao quý khác.


6 - 10 tháng 7.

Đại hội thể thao quân sự toàn quân năm 1986 tại Quân khu 5.


9 tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu quy định về hiệp đồng giữa bộ đội biên phòng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ trong nhiệm vụ biên phòng và tác chiến. Kế hoạch hiệp đồng được thực hiện ở ba cấp:

- Tư lệnh bộ đội biên phòng với các bộ tư lệnh quân khu.

- Chỉ huy trưởng bộ đội biên phòng với chỉ huy trưởng quân sự tỉnh (thành phố, đặc khu),

- Tiểu khu hoặc đồn biên phòng với chỉ huy quân sự huyện.


10 tháng 7.

Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam từ trần, thọ 79 tuổi.



14 tháng 7.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


21 tháng 7.

Bộ Chính trị ra Nghị quyết (số 33 NQ-TƯ) về nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1986-1990):
"Ra sức củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh. Nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại... làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ quốc tế và nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế. Đẩy mạnh xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng”.


25 tháng 7.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định (số 77/QĐ-TƯ) về tổ chức Đảng trong bộ đội biên phòng
, quy định hệ thống tổ chức, nhiệm vụ của đảng ủy các cấp, tổ chức cơ quan chính trị và cán bộ chính trị; quan hệ giữa cấp ủy đảng bộ đội biên phòng với cấp ủy đảng địa phương.


21 tháng 8.

Hội nghị cán bộ cao cấp (có nhiều tướng lĩnh đã nghỉ hưu), nghiên cứu và góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội VI của Đảng.


22 tháng 8.

Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị cho các ngành, các cấp phải cung cấp các mặt hàng, định lượng ăn của lực lượng vũ trang và tạo điều kiện phát triển nguôn thực phẩm tại chỗ ở các địa phương để bảo đảm đời sống cho bộ đội.


13 - 18 tháng 10.

Đại hội đai biểu Đảng bộ quân đội lần thứ IV
tại Hà Nội. 437 đại biểu dự Đại hội đã tập trung thảo luận những vấn đề về đường lối, quan điểm của Đảng; đánh giá tình hình kinh tế, xã hội, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, vị tri và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, xác định nhiệm vụ trước mắt của quân đội trong tình hình mới. Đại hội bầu 71 đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.


31 tháng 10.

Hội đồng Bộ trưởng quy định (số 278-CT) về chế độ, chính sách đối với công nhân viên chức và các lực lượng vũ trang công tác tại Lào và Cam-pu-chia

Ngày 18 tháng 7 năm 1987, Bộ Lao động và Thương binh - Xã hội ra thông tư hương dẫn thực hiện.


1 - 15 tháng 11.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định: - Thành lập hội đồng xét duyệt
sáng kiến - sáng chế về phương tiện kỹ thuật huấn luyện khối các học viện, trường sĩ quan. Chủ tịch hội đồng: Thiếu tướng Nguyễn Dương Hán, Cục trưởng Cục Nhà trường. - Hợp nhất ngành quân lương và ngành quân trang thuộc các cơ quan hậu cần toàn quân thành một cơ quan gọi là phòng, ban hoặc trợ lý quân trang nằm trong cơ quan hậu cần. – Hợp nhất phòng (ban) khoa học quân sự, lịch sử quân sự và tổng kết các đơn vị thành phòng (ban) khoa học và lịch sử quân sự thuộc cơ quan tham mưu. - Điều động trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu thu ngoại tệ thuộc Cục Tài vụ - Bộ Quốc phòng trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật.


4 và 5 tháng 11.

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với viện Mác—Lê-nin và Nhà xuất bản Sự thật tổ chức hội nghị khoa học nghiên cứu văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dịp kỷ niệm 40 năm toàn quốc kháng chiến chống Pháp (12.1946 - 12.1986). 50 báo cáo khoa học đề cập nhiều vấn đề về đường lối kháng chiến đúng dắn, sáng tạo của Đảng.


29 tháng 11.

Bộ Quốc phòng quyết định (số 1456/QĐ-QP) chuyển nhiệm vụ tiếp nhận vật tư hàng hóa nhập ngoại của Bộ Quốc phòng từ Cục Vật tư (Tổng cục Hậu cần) sang Cục Vật tư (Bộ Quốc phòng).


7 tháng 12.

Đại tướng Lê Trọng Tấn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam từ trần
. Đại tướng Lê Trọng Tấn (Lê Trọng Tố) sinh năm 1914 ở Hoài Đức, Hà Tây, Ủy viên Trung ương Đảng khóa 4, 5, Ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, đại biểu Quốc hội khóa VII, nguyên Ủy viên Quân ủy Miền, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam... Đại tướng Lê Trọng Tấn có những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đồng chí đã được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương, nhiều phần thưởng cao quý khác.


15 - 18 tháng 12.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam
họp tại Hà Nội. 1.129 đại biểu dự đại hội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí Trường Chinh đọc báo cáo chính trị. Đồng chí Võ Văn Kiệt đọc báo cáo về phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm (1986-1990).

Đại hội thể hiện quyết tâm đổi mới, nhất là đổi mới về tư duy kinh tế; đánh giá đúng vai trò của các thành phần kinh tế, có quan điểm và chủ trương mới về công nghiệp hóa, về cơ chế quản lý kinh tế, kiên quyết xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, nhấn mạnh sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.

Đối với vấn đề an ninh quốc phòng, Đại hôi nhấn mạnh: phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm: toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.

Đại hội đánh giá thành tích của các lực lượng vũ trang trên các mặt, nhất là về xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, củng cố cơ sở chính trị ở địa bàn xung yếu, xây dựng lực lượng dự bị, kết hợp kinh tế với quốc phòng ... Đại hội quyết nghị “Xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, tiếp tục phát triển dân quân tự vệ với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Tăng cường xây dựng lực lượng dự bị. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam ... Thực hiện đầy đủ các chính sách hậu phương quân đội. Từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực về kinh tế của đất nước

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức (15 trong quân đội) và 49 ủy viên dự khuyết (2 trong quân đội). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:37:57 pm

NĂM 1987


22 tháng 1.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm Quân đoàn 1, sư đoàn 308 và trung đoàn Thủ Đô
. Nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ, đồng chí Tổng Bí thư biểu dương những thành tích trong chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng và làm nghĩa vụ quốc tế của quân đoàn và sư đoàn anh hùng; đồng chí căn dặn cán bộ, chiến sĩ phấn đấu rèn luyện, giữ gìn phẩm chất cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ”, gắn bó mật thiết với nhân dân, sống trong sạch, lành mạnh, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân.


31 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ra thông tư hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách đối với quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia và Lào.


Tháng 1.

Hội nghị huấn luyện quân sự toàn quân nghiên cứu, quán triệt mệnh lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng và chỉ lệnh huấn luyện của Bộ Tổng Tham mưu năm 1987.


10 tháng 2.

Hội đồng Nhà nước ra quyết định (số 951/HK-HĐNN7) tặng Huân chương Quân công cho 506 đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân các quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh đã có thành tích xuất sắc trong 40 năm xây dựng lực lượng vũ trang (1947-1987).


16 tháng 2.

Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Đoàn Khuê làm Tổng Tham mưu trưởng; Thượng tướng Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.


18 tháng 3.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 86/TTG) về việc giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học cho bốn học viện thuộc Bộ Quốc phòng: Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Lục quân, Học viện Chính trị - Quân sự và Học viện Hậu cần. Trường đại học Quân y (sau đổi là Học viện Quân y), Đại học Kỹ thuật quân sự (sau đổi là Học viện Kỹ thuật quân sự) và Viện kỹ thuật quân sự đã được giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học từ năm 1979 (quyết định số 93/TTG, ngày 20-3-1979 của Hội đồng Bộ trưởng). Từ 1979-1990 các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học trong quân đội đã đào tạo được 56 phó tiến sĩ bằng các hình thức tập trung (4 năm), tại chức (5 năm), ngắn hạn (1 năm).


19 tháng 4.

Bầu cử Quốc hội khóa VIII. 487 đại biểu trúng cử, trong đó có 38 đại biểu quân đội.


Tháng 4.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp tập huấn chiến thuật phân đội toàn quân nhằm nâng cao năng lực thực hành cho sĩ quan, hạ sĩ quan phân đội.


7 tháng 5.

Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra nghị quyết (số 120/NQ-ĐUQSTW) “Về kiện toàn tổ chức cơ quan bảo vệ và cơ chế hoạt động của công tác bảo vệ an ninh chính trị trong quân đội”, bảo đảm bí mật quân sự, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho mọi hoạt động của quân đội, góp phần xây dựng quân đội mạnh về chính trị, nâng cao sức mạnh chiến đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ.


Tháng 5.

Khánh thành tượng đài chiến thắng Ba Gia, tại đồi Cổ Rùa, xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.


17 và 18 tháng 6.

Quốc hội khóa VIII họp kỳ thứ nhất
, bầu các cơ quan lãnh đạo và các vị lãnh đạo cao nhất của Nhà nước.

- Chủ tịch Hội đồng Nhà nước: Võ Chí Công

- Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội: Lê Quang Đạo.

- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Phạm Hùng.

- Bộ trưởng Quốc phòng: Lê Đức Anh.

- Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng: Võ Chí Công

- Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng: Phạm Hùng và các ủy viên: Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:39:21 pm

4 tháng 7.

Nhà nước Lào tặng Huân chương Tự do cho tiểu đoàn 580 (trung đoàn 665) quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào vì đã lập nhiều thành tích xuất sắc giúp bạn xây dựng một số công trình quốc phòng kinh tế.


7 tháng 7.

Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết nghị hợp nhất Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu và Đảng bộ cơ quan Bộ Quốc phòng.


26 tháng 7.

Nhà nước Cam-pu-chia tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc cho bộ đội tình nguyện và một số chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước.


30 tháng 7.

- Bộ Chính trị ra nghị quyết xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo:


1. Phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế.

3. Làm tốt nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và Cam-pu-chia.

- Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định tổ chức Đảng và tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tổ chức Đảng
theo hệ thống dọc từ cơ sở đến toàn quân. Mỗi cấp có ban chấp hành đảng bộ (gọi tắt là đảng ủy). Toàn quân có Đảng ủy quân sự Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương. Dưới Đảng ủy Quân sự Trung ương có đảng ủy quân khu, quân chủng, quân đoàn, binh chủng, tổng cục, học viện, trường sĩ quan, sư đoàn, lữ đoàn và các cấp tương đương, các đảng ủy cơ sở.

Hệ thống tổ chức cơ quan chính trị trong quân đội gồm Tổng cục Chính trị, cục chính trị cấp quân khu, quân chủng, quân đoàn và tương đương; phòng chính trị cấp sư đoàn, cơ quan quân sự địa phương, cơ quan bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố và tương đương; ban chính trị cấp trung đoàn, cơ quan quân sự địa phương huyện, thị xã và tương đương.


Tháng 7.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 02/BCT)
về củng cố nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.


11 tháng 8.

Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương chỉ thị đẩy mạnh công tác tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự.


14 tháng 8.

Hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 (Nghị quyết số 154/NQ-ĐUQS của Đảng ủy quân sự Trung ương).

Tư lệnh: thiếu tướng Nguyễn Trọng Xuyên.
Phó tư lệnh chính trị: Trung tướng Đỗ Quốc Tuấn.


19 tháng 8.

Đảng ủy quân sự Trung ương ra chỉ thị số 189/CT-ĐU kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của các tổ chức đảng, xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị.


21 - 22 tháng 9.

Bộ Quốc phòng triệu tập Hội nghị lịch sử quân sự toàn quân (lần thứ hai) tại Hà Nội
. Hội nghị tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng và sự cần thiết của công tác tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, nêu quyết tâm và biện pháp tổ chức thực hiện chủ trương của Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương trong thời gian tới.


11 tháng 10.

Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Cam-pu-chia ra thông báo về việc rút một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia về nước trong tháng 11 năm 1987. Đây là đợt rút quân thứ sáu, gồm Binh đoàn 94 (một sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn và một số đơn vị binh chủng trực thuộc), Binh đoàn 99 (2 lữ đoàn bộ binh và một số đơn vị binh chủng trực thuộc).


13 tháng 11.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 216-HĐBT) về tổ chức Thanh niên xung phong trong tình hình mới.


16 - 18 tháng 11.

Đại hội Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân lần thứ III
. Nói chuyện với 416 đại biểu đại diện cho các cơ sở đoàn toàn quân dự đại hội, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ thị: Coi trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống cho thanh niên, coi trọng phê bình và tự phê bình, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, động viên thanh niên quân đội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội và củng cố đất nước.


9 tháng 12.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 337-CT) về phương thức bảo đảm phương tiện và vật chất cho bộ đội biên phòng
, quy định: Bộ Quốc phòng có trách nhiệm bảo đảm về trang bị, vũ khí và khí tài quân sự; bảo đảm kỹ thuật, hậu cần và vật chất cho bộ đội biên phòng như một bộ phận của quân đội.


12 tháng 12.

Đảng ủy quân sự Trung ương ra quy chế về lãnh đạo của đảng ủy các cấp đối với viện kiểm sát quân sự (số 365/ĐUQSTW) và quy định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban kiểm tra đảng ủy các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam (số 366/ĐUQSTW).


19 tháng 12.

Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết thực hiện cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức mạnh chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội trong quân đội.


Tháng 12.

Đảng ủy quân sự Trung ương ra các quy chế về chế độ làm việc, về công tác cán bộ của đảng ủy các cấp; về công tác nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách đãi ngộ tinh thần, vật chất, trong quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:40:43 pm

NĂM 1988


Đầu tháng 1.

Tổng Thanh tra quân đội triệu tập hội nghị công tác thanh tra toàn quân, bàn phương hướng, mục tiêu phấn đấu của công tác thanh tra trong lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.


20 tháng 1.

Bộ Quốc phòng Lào trao tặng Huân chương Tự do, Huân chương Lao động, Huân chương Anh dũng và Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Lào cho cán bộ, chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã lập thành tích xuất sắc trong quá trình giúp đỡ Quân đội nhân dân Lào xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


26 tháng 1.

Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương ra quyết định (số 06/ĐUQS) đổi tên Tạp chí Quân đội nhân dân thành Tạp chí Quốc phòng toàn dân.

Tháng 4 năm 1988. Tạp chí Quân đội nhân dân tổ chức kỷ niệm lần thứ 40 ngày truyền thống và công bố quyết định đổi tên tạp chí.


Cuối tháng 1.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị bàn về tình hình văn học trong các lực lượng vũ trang
. Hội nghị đánh giá tình hình văn học và đội ngũ những người lãnh đạo quản lý, sáng tác trong các lực lượng vũ trang; đề ra nhiệm vụ đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lãnh đạo văn hóa, văn nghệ, phát huy khả năng sáng tạo trong các lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước.


Tháng 1 - tháng 4.

Trung Quốc cho quân chiếm đóng các bãi đá: Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Ken Nan, Gạc Ma, Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt, ngày 14 tháng 3, tàu chiến của hải quân Trung Quốc đã nổ súng tiến công hai tàu vận tải của Việt Nam ở bãi đá Gạc Ma.


5 - 6 tháng 2.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị các đơn vị xây dựng kinh tế toàn quân
, bàn việc thực hiện quyết định (số 217/HĐBT) về đổi mới cơ chế quản lý, tạo sự chuyển biến to lớn cho nền kinh tế quốc dân.


10 tháng 2.

Bộ Quốc phòng ra thông tư (số 182/QP-TT) hướng dẫn thực hiện phụ cấp thâm niên đặc biệt đối với công nhân viên quốc phòng, tối đa không quá 20 phần trăm lương chính. Đối với công nhân viên thường xuyên làm trong các mỏ, hầm lò, công trình ngầm quốc phòng thì mức phụ cấp tối đa không quá 25 phần trăm.


Tháng 4.

- Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị "Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội”
. Các ngành, các cấp phải thường xuyên giáo dục toàn dân về quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nêu cao trách nhiệm của gia đình quân nhân tại ngũ; thu hút quân nhân phục viên, xuất ngũ, cán bộ nghỉ hưu, chăm lo xây dựng lực lượng dự bị, dân quân tự vệ và tiếp tục giải quyết những vấn đề chính sách tồn đọng sau chiến tranh.

- Hội nghị bàn về đổi mới công tác đào tạo cán bộ tại các học viện, trường đại học trong quân đội; thống nhất các vấn đề về đổi mới phương pháp giảng dạy, chú trọng huấn luyện thực hành, kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy kiến thức và rèn luyện phẩm chất cách mạng cho học viên, bảo đảm đời sống cho cán bộ, giáo viên, học viên; bảo đảm vật chất trong huấn luyện.

- Hội đồng Nhà nước quyết định tặng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công cho 15 đơn vị và 14 cá nhân, trong đó có 13 đơn vị và 12 cá nhân thuộc Quân đội nhân dân đã lập thành tích xuất sắc trong nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.


24 tháng 5.

Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết (số 115/NQ-ĐU) về "Công tác nhà trường trong thời gian 1988-1990 và những năm tiếp theo”: “Tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công tác nhà trường đi vào chiều sâu... Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng về chính trị, có trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và phong cách lãnh đạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có độ tuổi và sức khỏe phù hợp, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống...”.


26 tháng 5.

Bộ Quốc phòng Việt Nam ra thông báo rút quân tình nguyện Việt Nam và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Cam-pu-chia về nước trong năm 1988; bộ phận quân tình nguyện còn lại ở Cam-pu-chia sẽ đặt dưới sự chỉ đạo của Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia và sẽ rút hết về nước trong năm 1989.


31 tháng 5.

- Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị (số 41/CT-TW) chuyển giao lực lượng bộ đội biên phòng từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ, việc chuyển giao phải bảo đảm tính liên tục trong xây dựng và chiến đấu, nhằm tăng cường công tác biên phòng, xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới.

- Hội đồng Bộ trưởng quyết định chuyển giao nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, trang bị cơ sở vật chất của lực lượng bộ đội biên phòng từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ.

- Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết (số 134/NQ-ĐUQSTW) về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả báo chí quân đội và nghị quyết (số 145/NQ-ĐUQSTW) về công tác văn hóa, văn nghệ trong quân đội.

Thực hiện nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng ban hành quy chế quản lý báo chí (ngày 31-5-1988), quy chế quản lý xuất bản và in (ngày 23-6-1988) trong Quân đội nhân dân Việt Nam.


23 tháng 6.

Hội đồng Nhà nước quyết định tặng Huân chương Sao vàng cho quân tình nguyện Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia về nước. Nhà nước Cam-pu-chia tặng Huân chương Ăng Co cho Bộ Tư lệnh quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam (29-6).


Tháng 7.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị công tác đảng - công tác chính trị quân sự địa phương
. Nhiệm vụ trước mắt là phát huy hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng, xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ xây dựng kinh tế và quốc phòng an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương chất lượng cao, lấy chính trị làm chính, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng đảng bộ quân sự địa phương trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ.


27 - 29 tháng 9.

Đại hội đại biểu công đoàn toàn quân lần thứ III
, kiểm điểm tình hình giải quyết việc làm và đời sống công nhân quốc phòng thời gian qua, đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện các chính sách xã hội, chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân viên quốc phòng, đổi mới công tác giáo dục và công tác tổ chức cán bộ, xây dựng công đoàn vững mạnh.


11 tháng 11.

Hội đồng Nhà nước quyết định tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú (đợt 1) cho 272 cán bộ, giáo viên; danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú (đợt 2). Trong quân đội có hai Nhà giáo Nhân dân và sáu Nhà giáo Ưu tú; một Nghệ si Nhân dân và 10 Nghệ sĩ Ưu tú.


12 tháng 11.

Khai mạc Hội chợ triển lãm kinh tế - kỹ thuật Việt Nam lần thứ tư tại Hà Nội. Quân đội có 22 công trình và 204 sản phẩm tham gia hội chợ.


17 tháng 12.

Nhà nước Cam-pu-chia trao lặng Huân chương Ăng Co cho sáu sư đoàn (4, 5, 307, 309, 315, 339) quân tình nguyện Việt Nam và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất cho 31 đơn vị thuộc sáu sư đoàn đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang ở Cam-pu-chia.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:45:05 pm

NĂM 1989


Đầu tháng 1.

Hội nghị tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng toàn quân
, kiểm điểm việc thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, sự nghiệp quốc phòng; đề ra mục tiêu phấn đấu trong thời gian tới: tiếp tục thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và xây dựng chi bộ làm nòng cốt, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện


Tháng 1.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị tập huấn biên soạn “Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam”. Hội nghị xác định, phần quân sự trong “Từ điển bách khoa Việt Nam” và “Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam” là một công trình khoa học có tầm quan trọng và tính tổng kết cao, là những tri thức quân sự đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn chiến đấu của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những tri thức quân sự thể hiện trong từ điển bách khoa gồm: chiến tranh và chính trị, nghệ thuật quân sự, lịch sử quân sự, kỹ thuật quân sự, hậu cần quân sự, tổ chức lực lượng vũ trang, nhân vật quân sự và địa lý quân sự.


25 tháng 2.

Bộ Quốc phòng tổ chức lễ trao Huân chương Hồ Chí Minh cho Đoàn 478 chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia về nước.


3 tháng 3.

Thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế
thuộc Bộ Quốc phòng, trên cơ sở hợp nhất và sắp xếp lại cơ quan Tổng cục Kinh tế và Cơ quan quản lý các xí nghiệp sản xuất quốc phòng.

Nhiệm vụ: quản lý các cơ sở sản xuất quốc phòng và cơ sở kinh tế toàn quân, giúp Bộ làm tham mưu cho Nhà nước về động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng.

Chủ nhiệm: Thiếu tướng Phan Thu.


20 - 29 tháng 3.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khóa VI)
kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và bàn phương hướng nhiệm vụ ba năm tới. Về quốc phòng - an ninh, hội nghị nhận định: “đã điều chỉnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ trên các chiến trường, giảm quân số và bước đầu chấn chỉnh quân đội thường trực, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân. Đã có những chuyển hướng về công tác bảo vệ an ninh chính trị phù hợp với tình hình mới


23 tháng 3.

Hội đồng Nhà nước tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân, Thầy thuốc Ưu tú (đợt 2) cho 179 cán bộ, bác sĩ. Trong đó, quân đội có 14 Thầy thuốc Nhân dân và 59 Thầy thuốc Ưu tú.


Tháng 3.

Hội nghị khoa học kỹ thuật toàn quân năm 1989
, nhận định: công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật cần đáp ứng đòi hỏi bức thiết về thực tiễn huấn luyện, chiến đấu và sản xuất của đơn vị; đồng thời cần thiết phải huy động lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật của quân đội để giải quyết các yêu cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng chế độ chính sách phát triển tài năng sáng tạo, đổi mới công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, tăng cường hợp tác với các ngành dân sự và nước ngoài.


4 tháng 4.

Hội đồng Nhà nước công bố pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
. Chương II, điều 4 quy định: Tổ chức cơ quan điều tra trong quân đội gồm: Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; phòng điều tra hình sự tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và cấp tương đương; Cục An ninh quân đội ở Bộ Quốc phòng và phòng an ninh quân đội ở tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và cấp tương đương; ban điều tra hình sự ở bộ chỉ huy quân sự tỉnh và cấp tương đương.


11 tháng 4.

Bộ Quốc phòng trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Độc lập cho 118 cán bộ có công lớn trong sự nghiệp xây dựng quân đội.


Tháng 4.

Hội đồng Nhà nước quyết định tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho Đoàn 565 thuộc Binh đoàn 12 (nay là Tổng công ty Trường Sơn) và trung tá Trần Văn Cường, trung đoàn trưởng trung đoàn 14 (Đoàn 565) đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong việc xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình. Đây là đơn vị quân đội xây dựng kinh tế và một sĩ quan đầu tiên được tuyên dương Anh hùng lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:46:03 pm

15 - 16 tháng 5.

Tổng cục Hậu cần và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức hội nghị khoa học nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Đoàn 559 (1959-1989)
. 37 bản tham luận được trình bày tại hội nghị đã phân tích những thành tựu lớn, những bài học kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy, về vận chuyển và công tác bảo đảm trên tuyến đường Trường Sơn nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


15 - 18 tháng 5.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị về đổi mới tư duy trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học xã hội trong các nhà trường quân sự.


16 tháng 5.

Liên Bộ Tài chính - Quốc phòng ra thông tư hướng dẫn, bổ sung một số chế độ đối với dân quân tự vệ và quân nhân dự bị; quy định thời gian huấn luyện quân sự hàng năm đối với cán bộ các cấp, trang thời gian huấn luyện được Nhà nước và Bộ Quốc phòng đài thọ toàn bộ.


Tháng 5.

- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị thực hiện một số chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, đặc biệt chú ý đối tượng bộ đội tình nguyện, đồng thời mở cuộc vận động chính trị lớn trong cả nước thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội và củng cố quốc phòng ở địa phương.

- Bộ Tổng Tham mưu tổ chức lớp tập huấn cán bộ các đơn vị phía Bắc về phương pháp huấn luyện và rèn luyện thực hành; thống nhất nội dung, kế hoạch, phương pháp huấn luyện chiến thuật tiến công và phòng ngự, từng người đến đại đội; nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội.


1 tháng 6.

Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định (số 58/HĐBT) thành lập các tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng
, gồm: Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty 4, Tổng công ty Điện tử - thiết bị thông tin, Công ty Thăng Long, Công ty Xuất nhập khẩu và dịch vụ, Tổng công ty Bay và dịch vụ, Công ty Tìm kiếm - cứu hộ và Công ty Dịch vụ trên biển. Các tổ chức này là những đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập.


8 - 10 tháng 6.

Hội nghị xây dựng bộ đội địa phương biên giới phía Bắc, đề ra phương hướng xây dựng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, xây dựng Đảng làm trung tâm, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm khâu then chốt, tạo ra chuyển biến mới, góp phần giữ vững địa bàn biên giới Tổ quốc.


15 và 16 tháng 6.

Sơ kết công tác tổng điều tra dân số. Đến 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1989, dân số Việt Nam là 64.411.668 người. Trong 10 năm (1979-1989) tăng thêm 11,7 triệu, tỉ lệ tăng dân số là 2,13 phần trăm một năm.


19 - 30 tháng 6.

Quốc hội khóa VIII họp kỳ thứ năm tại Hà Nội
. Thượng tướng Đoàn Khuê. Thứ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam báo cáo trước Quốc hội về việc bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, trở về Tổ quốc trong tháng 9 năm 1989. Quốc hội ra nghị quyết tuyên dương công trạng Quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia quân sự Việt Nam.


30 tháng 8.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 45 đơn vị và 8 cán bộ, chiến sĩ có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.


14 - 26 tháng 9.

Đảng ủy quân sự Trung ương mở hội nghị cán bộ toàn quân quán triệt nghị quyết 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI).


21 - 26 tháng 9.

Hoàn thành rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam cùng các loại vũ khí, trang bị ở Cam-pu-chia về nước
. Đây là đợt rút quân cuối cùng, gồm bốn mặt trận 479, 579, 779, 979 và các đơn vị còn lại của hai sư đoàn bộ binh 330 và 302, đoàn 5 hải quân, trung đoàn căn cứ không quân 901 và một số tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh, binh chủng, các đơn vị bảo đảm cùng các loại xe tăng, xe bọc thép, pháo mặt đất, pháo phòng không.


9 tháng 10.

Bò Quốc phòng ra quyết định (số 263/QĐ-QP) lấy ngày 1 tháng 4 hàng năm là ngày truyền thống của Quân chủng Phòng không (ngày thành lập trung đoàn 367 pháo cao xạ, 1 tháng 4 năm 1953).


Tháng 10.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị tổ chức ngày hội “Quốc phòng toàn dân”
nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về bản chất tốt đẹp, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục nhân dân tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện.


10 tháng 11.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thăm và nói chuyện với hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân: lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân đội vững mạnh; bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội thường trực mạnh, đồng thời xây dựng quân dự bị động viên và dân quân tự vệ rộng khắp.


Đầu tháng 12.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị tăng cường lãnh đạo của cấp ủy đảng, xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ trong tình hình mới, chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội ở cơ sở.


3 - 21 tháng 12.

Giải bóng đá SKĐA lần thứ sáu tổ chức tại Việt Nam
. Tham dự giải có các đội bóng quân đội Liên Xô, Hung-ga-ri, Lào, Cam-pu-chia, Việt Nam 1, Việt Nam 2. Đội Liên Xô đoạt cúp vô địch, đội Hung-ga-ri thứ hai, đội Việt Nam 1 thứ ba.


7 - 8 tháng 12.

Viên Lịch sử quân sự tổ chức hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (12-1944 - 12-1989).

Chủ đề: “Từ kinh nghiệm xây dựng quân đội 45 năm qua, nêu lên những vấn đề vận dụng phát triển hiện nay để giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”.


11 tháng 12.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 197/HĐBT) sửa đổi phương pháp giao kế hoạch nhà nước năm 1990. Đối với quân đội, quyết định nêu rõ: “Chuyển các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc lực lượng vũ trang sang thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh, chế độ tự chủ tài chính như các đơn vị kinh tế quốc doanh khác”.


13 tháng 12.

Hội đồng nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 18 đơn vị và tám cá nhân (có ba liệt sĩ), danh hiệu Anh hùng lao động cho hai đơn vị và hai cán bộ thuộc Bộ Quốc phòng.


20 tháng 12.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội gặp mặt các tướng lĩnh, cán bộ cao cấp quân đội đã chuyển ngành, nghỉ hưu, tại Hà Nội.


21 tháng 12.

Bộ Quốc phòng tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 45 ngay thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và Ngày hội quốc phòng toàn dân tại Hà Nội
. Đồng chí Đỗ Mười, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đọc diễn văn biểu dương thành tích của quân đội trong 45 năm chiến đấu, xây dựng.


Tháng 12.

Hội nghị cán bộ đoàn toàn quân đề ra phương hướng phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” và “xây dựng chi đoàn vững mạnh”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:47:51 pm

NĂM 1990


9 tháng 1.

Bộ Quốc phòng trao tặng thưởng cho 78 tác pbẩm văn học nghệ thuật xuất sắc về đề tài quốc phòng và lực lượng vũ trang nhân dân trong thời gian 1984-1989.


11 tháng 1.

Thành lập Viện Chiến lược quân sự
thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: nghiên cứu, đề đạt các kiến nghị và tư vấn cho Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng về những vấn đề có tính chất chiến lược; nghiên cứu tư tưởng, đường lối quân sự và chiến lược quân sự của Đảng trong thời bình và thời chiến. Ngày 16 tháng 8 năm 1990, Bộ Tổng Tham mưu ban hành biên chế của viện (theo quyết định số 27/QĐ-TM ngày 31-1-1990). Thượng tướng, giáo sư Hoàng Minh Thảo được bổ nhiệm làm Viện trưởng.


29 tháng 1.

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ dân quân tự vệ
, gồm 6 chương, 25 điều. Chương I: Những quy định chung; Chương II: Tổ chức, biên chế, trang bị; Chương III: Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự; Chương IV: Hoạt động chiến đấu của dân quân tự vệ; Chương V: Chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ; Chương VI: Trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các, cấp!


3 tháng 2.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội cựu chiến binh Việt Nam. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được chỉ định gồm 31 đồng chí do Thượng tướng Song Hào làm chủ tịch.

Trụ sở tại nhà số 34 Lý Nam Đế, Hà Nội.

Ngày 22-4-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về hoạt động của hội. Ngày 24 tháng 4 năm 1990, Ủy ban Trung uơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam công nhận Hội cựu chiến binh Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


17 tháng 2.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 51/QĐ-QP) “Về việc điều chỉnh, bổ sung một số chế độ phụ cấp đối với lực lượng trên tàu hải quân và đảo”. “Nâng mức phụ cấp quân binh chủng kỹ thuật đối với tàu mặt nước từ 5-10-15 phần trăm lên 20-30-50 phần trăm tính trên lương chính, hoặc phụ cấp quân hàm; bộ đội ở các đảo chìm, lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa được hưởng khoản phụ cấp khuyến khích bằng 20 phần trăm tính trên lương chính hoặc phụ cấp quân hàm”.


Tháng 2.

Tổng cục Chính trị và Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế tổ chức hội thảo “Đổi mới công tác đảng - công tác chính trị trong cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự”.


22 tháng 3.

Hội thảo “Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ” tại Nam Đàn (Nghệ An). Chủ đề: giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong cuộc sống hôm nay, khẳng định niềm tin của nhân dân đối với quân đội.


Tháng 3.

Tập huấn công tác sĩ quan dự bị toàn quân tại Quân khu 5.


9 tháng 4.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự ngày 21 tháng 12 năm 1985, gồm: điều 6; điểm a, khoản 1; điều 17, đoạn 1; điều 29; điều 25; điều 34; đoạn 3, điều 36.


3 - 11 tháng 5.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân, học tập, quán triệt nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự, chỉ thị nhiệm vụ cho quân đội.


15 - 16 tháng 5.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị đại biểu thanh niên xuất sắc toàn quân trong phong trào phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”. Hội nghị biểu dương thành tích của tuổi trẻ toàn quân. 37 tổ chức đoàn cơ sở được tặng cờ của Tổng cục Chính trị.


18 tháng 5.

Tổng cục Hậu cần tổ chức hội thảo “Bác Hồ với ngành Hậu cần quân đội”, biểu dương các điển hình xuất sắc, nổi bật là phong trào “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác”.


Cuối tháng 5.

Quân khu 7 khánh thành Bảo tàng lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ tại nhà số 247A - đường Hoàng Văn Thụ - thành phố Hồ Chí Minh.


18 tháng 9.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 220-QĐ/QP) lấy ngày 3 tháng 3 năm 1955 làm ngày thành lập và truyền thống của Quân chủng Không quân (ngày thành lập Ban Nghiên cứu sân bay).


30 tháng 10.

Hội đồng Nhà nước tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Nhà giáo ưu tú (Lần thứ hai) cho 504 cán bộ, giáo viên. Quân đội có 2 Nhà giáo Nhân dân và 56 Nhà giáo ưu tú.


Tháng 10.

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam hoàn thành biên soạn và xuất bản “Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập II” (gồm hai quyển 1 và 2) thời kỳ 1954 - 1975.


20 tháng 12.

- Hội đồng Nhà nước quyết định tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Xí nghiêp phim quân đội (Tổng cục Chính trị) và nhà máy Z113 (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế), danh hiệu Anh hùng lao động cho công ty xây dựng 470 (Tổng công ty xây dựng Trường Sơn) và đại tá Lê Xuân Bá, giám đốc công ty.

- Khánh thành Đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến tại Châu Trang (xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình).


21 tháng 12.

Quốc hội khóa VIII họp kỳ thứ tám thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.


24 - 27 tháng 12.

Hội nghị quân chính toàn quân tổng kết nhiệm vụ quân sự và quốc phòng 5 năm (1986 - 1990); bàn phương hướng nhiệm vụ 5 năm tiếp theo (1991 - 1995). Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh căn dặn: Trong bất kỳ tình huống nào, phải ra sức phấn đấu nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang và sức mạnh quốc phòng toàn dân, bảo vệ đất nước.


Tháng 12.

Thành lập Ủy ban phòng chống SIDA - Bộ Quốc phòng gồm năm tiểu ban có nhiệm vụ giám sát, huấn luyện, thông tin, tuyên truyền, giáo dục sức khỏe cho bộ đội, góp phần vào công tác phòng chống SIDA của cả nước.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:50:02 pm

NĂM 1991


2 tháng 1.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, đã được Quốc hội thông qua ngày 21-12-1990.


6 tháng 1.

Kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập lực lượng biệt động, đặc công Sài Gòn - Gia Định
tại thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ thị: cần sưu tập đầy đủ các trận đánh, tên tuổi của các cán bộ, chiến sĩ lập nhiều chiến công nhằm giáo dục thế hệ trẻ phát huy truyền thống cha anh.


24 tháng 1.

Bộ Tổng Tham mưu ban hành “Điều lệnh quản lý bộ đội" (gồm 8 chương. 277 điều, 7 phụ lục) trên cơ sở các điều lệnh đã ban hành (điều lệnh kỷ luật, điều lệnh nội vụ, điều lệnh đóng quân canh phòng), đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


14 tháng 3.

Tổng cục Chính trị kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống ngành nghệ thuật ca múa nhạc và sân khấu quân đội. Nhân dịp này, Hội đồng Nhà nước, Bộ trưởng Quốc phòng, Trung ương Đoàn đã tặng thưởng Huân chương Lao động, bằng khen, huy hiệu “Vì thế hệ trẻ” cho nhiều tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong xây dựng ngành ca múa nhạc và sân khấu quân đội.


20 tháng 4.

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 129-HĐBT) trợ cấp 15 phần trăm mức lương chức vụ (cấp bậc), mức trợ cấp và sinh hoạt phí cho công nhân viên chức hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội. Riêng, hạ sĩ quan và binh sĩ được tính trợ cấp trên phụ cấp quân hàm.


23 - 27 tháng 4.

Đại hội đai biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ V
. 324 đại biểu thuộc 47 đầu mối trực thuộc Đảng ủy quân sự Trung ương dự Đại hội đã thảo luận và nhất trí với những quan điểm lớn của Đảng, kiến nghị một số nội dung quan trọng trong xây dựng cương lĩnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng, nhiệm vụ quốc phòng và xây dựng quân đội trong tình hình mới. Đại hội bầu 58 đại biểu chính thức và 5 đại biểu dự khuyết dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.


27 tháng 4.

Hội đồng Bộ trưởng ra hai quyết định (số 144 và 145/HĐBT):

- Về mức lương bậc thượng tá, chế độ nâng lương và phụ cấp thâm niên đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Sửa đổi chế độ phụ cấp hàng tháng, chế độ nghỉ phép của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời hạn tại ngũ.


Tháng 4.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đất nước:
“Khoa học và công nghệ phục vụ đắc lực nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh. Phấn đấu vươn lên góp phần giải quyết những vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật của quốc phòng và an ninh theo yêu cầu của giai đoạn mới. Tiếp tục xây dựng nền khoa học và nghệ thuật quân sự của dân tộc”.


10 tháng 5.

Tổng cục-Chính trị tiếp nhậm trạm thu phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh trang bị cho bộ đội ở Trường Sa và Tây Nguyên, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của bộ đội ở biên giới và hải đảo.


6 - 8 tháng 6.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua quyết thắng (1986-1990) của các lực lượng vũ trang. Hội nghị rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức thực hiện phong trào thi đua quyết thắng trong những năm qua, bàn phương hướng, mục tiêu thi đua những năm tới của lực lượng vũ trang nhân dân.


24 - 27 tháng 6.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hà Nội
. 1.176 đại biểu thay mặt hơn hai triệu đảng viên toàn quốc, trong đó có 58 đại biểu quân đội dự Đại hội.

Đại hội khẳng định thắng lợi của đường lối đổi mới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Nguyễn Văn Linh trình bày chỉ rõ: Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ trọng yếu trong thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có chất lượng và sức mạnh chiến đấu cao; đồng thời xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ rộng khắp. Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VII gồm 146 ủy viên, trong đó 15 ủy viên là đại biểu quân đội. Đồng chí Đỗ Mười - Ủy viên Bộ Chính trị được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


1 tháng 7.

Bộ Quốc phòng và Hội chữ thập đỏ Việt Nam phối hợp hoạt động nhân đạo trong công tác cứu trợ, phòng chống bão lụt, chăm sóc sức khỏe nhân dân, củng cố quan hệ đoàn kết quân dân.


18 - 20 tháng 7.

Bộ Quốc phòng tổng kết nhiệm vụ quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế trong 5 năm (1986-1990); đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng kinh tế trong những năm 1991-1995.


Tháng 7.

Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động - Thương binh - xã hội tổ chức hội nghị bàn việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội và tập hung giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh.


3 tháng 8.

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quân nhân chuyên nghiệp (nghị định số 238/HĐBT) bao gồm 4 chương, 17 điều. Chương I: Những quy định chung; Chương II: Chế độ phục vụ của quân nhân chuyên nghiệp; Chương III: Nghĩa vụ và quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp; Chương IV: Điều khoản cuối cùng.


10 tháng 8.

Quốc hội khóa VIII họp kỳ thứ 9 cử Đại tướng Đoàn Khuê - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Bộ trưởng Quốc phòng thay Đại tướng Lê Đức Anh chuyển sang công tác khác.


10 tháng 9.

Hội đồng Nhà nước quyết định bổ nhiệm Thượng tướng Đào Đình Luyện - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Quốc phòng giữ chức Tổng Tham mưu trưởng thay Đại tướng Đoàn Khuê, Trung tướng Lê Khả Phiêu - Ủy viên Trung ương Đảng - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay Đại tướng Nguyễn Quyết.


Tháng 11.

Bộ Quốc phòng tổ chức lễ trao quyết định chức danh khoa học cho 24 giáo sư và 75 phó giáo sư trong quân đội.


5 - 8 tháng 12.

Hội nghị quân chính toàn quân năm 1991 tại Hà Nội, tổng kết công tác quốc phòng năm 1991 và bàn nhiệm vụ quốc phòng trong thời gian tới. Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm và nói chuyện với cán bộ quân đội.


17 - 18 tháng 12.

Liên Bộ Quốc phòng - Giáo dục - Đào tạo mở hội nghị tổng kết 10 năm giáo dục quốc phòng, đào tạo sĩ quan dự bị trong học sinh, sinh viên; đánh giá công tác huấn luyện quân sự và đào tạo sĩ quan dự bị đối với nhiệm vụ đào tạo; thực hiện công tác quân sự ở cơ sở, góp phần xây dựng lực lượng tự vệ trong nhà trường và bảo đảm an ninh.


Cuối tháng 12.

Tổng cục Chính trị ban hành (dự thảo) về tổ chức hội đồng quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, gồm các quy định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn, chế độ hoạt động và các mối quan hệ của hội đồng.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:53:24 pm

NĂM 1992


3 tháng 1.

Học viện Quân sự cấp cao kỷ niệm 15 năm ngày khai giảng khóa 1. Với 42 khóa đào tạo, bổ túc; bảy khóa quân sự địa phương; bảy khóa huấn luyện cán bộ trung cao cấp Lào, Cam-pu-chia và nhiều khóa bồi dưỡng nghiên cứu sinh, cán bộ nghiên cứu khoa học và giáo viên nhiều bộ môn, Học viện đã góp phần tích cực nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân


Đầu tháng 3.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị thống nhất mặc quân phục trong toàn quân.


1. Tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp khi làm việc ở doanh trại, công tác hoặc dã ngoại đều mặc quân phục đồng bộ theo màu sắc từng quân chủng.

2. Khi dự lễ, hội họp, tiếp khách nước ngoài, Đảng, Nhà nước, đoàn thể phải mặc lễ phục K.82.

3. Các quân khu 7, 9 đang thực hiện mặc quân phục chính quy trong giờ làm việc ở doanh trại, dự lễ, phải thực hiện thường xuyên.

4. Khi đưa hình ảnh quân nhân lên các phương tiện thông tin phải là những tấm gương mẫu mực để tuyên truyền trong toàn quân.


Tháng 3.

- Tổng cục Chính trị và Bộ Tổng Tham mưu tổ chức Hội nghị đại biểu xuất sắc thiếu sinh quân toàn quân
; đánh giá hoạt động của các trường thiếu sinh quân và rút kinh nghiệm phối hợp giữa quân đội, đoàn thanh niên, với nhà trường, xã hội trong việc bồi dưỡng, giáo dục thanh thiếu niên học sinh về truyền thống cách mạng, ý thức quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.

- Tổng cục Hậu cần mở hội nghị rút kinh nghiệm hai năm thực hiện phương thức bảo đảm hậu cần theo cơ chế mới, bảo đảm chất lượng, giá cả phù hợp; tiết kiệm kinh phí.


15 tháng 4.

Quốc hội khóa VIII kỷ họp thứ 11 thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
gồm 12 chương, 147 điều. Đối với các lực lượng vũ trang, Hiến pháp quy định: "Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ... phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu".


27 - 29 tháng 4.

Bộ Quốc phòng tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương về khoa học, công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng cho cán bộ cao cấp toàn quân.


30 tháng 4.

Bộ Quốc phòng công bố quyết định của Nhà nước phong chức danh khoa học đợt 2 năm 1992 cho 6 giáo sư và 74 phó giáo sư trong quân đội.


Tháng 4.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị dân vận ở các đơn vị phía nam tại Quân khu 7.


6 - 7 tháng 5.

Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quân lần thứ nhất tại Hà Nội
, gồm 186 đại biểu đại diện cho hơn 50 nghìn quân nhân, nữ công nhân viên quốc phòng trong toàn quân; tổng kết công tác phụ nữ trong quân đội; đề ra nhiệm vụ trong những năm tới, thành lập Ban nữ công quân đội và bầu đại biểu đi dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc.


7 tháng 5.

Tổng cục Chính trị phát động “Cuộc vận động sáng tác văn học và nghệ thuật về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang"
(từ 1992-1995), đặc biệt khuyến khích các đề tài về Điện Biên Phủ và 50 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam với hình tượng anh Bộ đội Cụ Hồ hôm qua và hôm nay.


11 tháng 5.

Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định (số 469/QP) thành lập “Quỹ thể thao quốc phòng” trong toàn quân nhằm đẩy mạnh việc rèn luyện thể lực, củng cố và phát triển thể dục thể thao quốc phòng, nâng cao sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần cho bộ đội, hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác và sẵn sàng chiến đấu.


14 tháng 5.

Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh - xã hội và Bộ Quốc phòng phát động phong trào “Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa” trong cả nước, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân đối với những người có công với cách mạng.


19 tháng 5.

Thành lập Chi hội nhà văn trong quân đội
(khu vực Hà Nội) gồm 31 hội viên. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương được bầu làm Thư ký chi hội nhà văn quân đội.



21 - 23 tháng 5.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị công tác dân vận các tỉnh phía bắc tại Hà Nội. Hội nghị tổng kết bốn hình thức vận động quần chúng và xây dựng cơ sở được các đơn vị thực hiện có kết quả. Đại tướng Đoàn Khuê đến thăm và nói chuyện với hội nghị.


25 - 27 tháng 5.

Hội nghị báo chí, xuất bản toàn quân.


Tháng 5.

Tổng cục Chính trị phát động cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở các đơn vị cơ sở” trong toàn quân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Sáu, 2022, 09:54:28 pm

Tháng 6.

- Thành lập Hội đồng văn học về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam.

- Toàn quân mở cuộc thi sáng tạo về kỹ thuật trong hai năm 1992-1993 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, niêm cất vũ khí, trang bị, vật tư kỹ thuật trong quân đội.

- Đoàn cán bộ khoa học kỹ thuật (Cục Quản lý khoa học) khảo sát, nghiên cứu cây xanh, môi trường và phương pháp chống bệnh tật cho bộ đội tại quần đảo Trường Sa.


8 tháng 6.

- Học viện Quân y và Viện Quân y 103 cùng một số bác sĩ dân y tiến hành thành công ca ghép thận đầu tiên ở Việt Nam. Đây là một thành tựu mới của y học Việt Nam. Tiếp theo ca ghép thận thứ nhất là ca ghép thận thứ hai. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn kiệt đã đến thăm và chứng kiến ca ghép thận thứ hai.

- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị về việc quân đội tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.


18 - 26 tháng 6.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
, xác định: xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần của các lực lượng vũ trang.


19 tháng 7.

Bâu cử Quốc hội khóa IX, 395 đại biểu trúng cử, trong đó có 27 đại biểu quân đội.


2 - 30 tháng 7.

Hội thao quốc phòng toàn quân năm 1992 tại Quân khu 5
. Gần 800 vận động viên đại diện khối bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ về dự. Quân khu 3 nhất khối chủ lực, Hải Phòng nhất khối dân quân tự vệ. Vận động viên Bùi Anh Nghệ (Quân khu 3) là chiến sĩ khỏe nhất toàn quân.


27 - 29 tháng 7.

Hội nghị thương binh, gia đình liệt sĩ tiểu biểu toàn quốc lần thứ hai
tại Hà Nội, đề ra phương hướng thực hiện công tác thương binh, gia đình liệt sĩ trong tình hình mới.

Nhân dịp này, Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Độc lập cho 166 gia đình có nhiều con và con độc nhất là liệt sĩ, 58 Huân chương Lao động cho 58 tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác thương binh, liệt sĩ.


17 - 27 tháng 8.

Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng mở hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân
, nghiên cứu và quán triệt nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), thực hiện chương trình hành động trước mắt, tập trung hoàn thành nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội trong năm 1992.


20 tháng 8.

- Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng.

- Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định (số 303/HĐBT) trợ cấp thêm 25 phần trăm mức lương chức vụ (cấp bậc), mức trợ cấp sinh hoạt phí đối với công nhân viên chức, hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang. Đối với hạ sĩ quan và binh sĩ, khoản trợ cấp trên chỉ tính trên phụ cấp quân hàm.


27 tháng 8.

Đảng ủy Quân sự Trung ương ra nghị quyết về việc quán triệt và thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ quân đội.


27 - 29 tháng 8.

Đại hội Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân lần thứ IV
. 300 đại biểu thay mặt toàn thể đoàn viên, thanh niên trong quân đội dự đại hội, thống nhất đánh giá hoạt động của tuổi trẻ quân đội những năm qua, đề ra nhiệm vụ công tác vận động thanh niên quân đội trong thời gian tới, làm cho tổ chức đoàn thực sự là hạt nhân đoàn kết, tập hợp thanh niên trong đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ. Đại hội bầu 37 đại biểu dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI.


Tháng 9.

Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ thị: tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, in và phát hành văn hóa phẩm quân đội trong tình hình mới. Tập trung đầu tư cho bảy cơ quan báo chí quân đội lưu hành trong cả nước gồm: báo Quân đội nhân dân, tạp chí Quốc phòng toàn dân, tạp chí Văn nghệ quân đội. Chương trình phát thanh quân đội nhân dân, Chương trình truyền hình Quân đội nhân dân, Xí nghiệp phim Quân đội và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.


1 tháng 10.

Quốc hội khóa IX họp kỳ thứ nhất phê chuẩn Hội đồng Quốc phòng an ninh
, Chủ tịch: Lê Đức Anh, Phó Chủ tịch: Võ Văn kiệt và bốn ủy viên là Nông Đức Mạnh, Đoàn Khuê, Bùi Thiện Ngộ, Nguyễn Mạnh Cầm; quyết định cơ cấu tổ chức Chính phủ và bổ nhiệm các bộ trưởng. Đại tướng Đoàn Khuê được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng.


4 - 8 tháng 10.

Quân chủng Phòng không tổ chức diễn tập và bắn đạn thật súng máy phòng không và pháo phòng không ba thứ quân khu vực phía bắc.


15 - 18 tháng 10.

Đại hội Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ VI
. Đại tướng Đoàn Khuê đến dự, đánh giá cao những hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh như “vì điểm tựa tiền tiêu”, “vì Trường Sa thân yêu”, “xây dựng nhà tình nghĩa”, “tặng sổ tiết kiệm”, góp phần động viên cán bộ, chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ và ổn định hậu phương quân đội.


20 - 26 tháng 10.

Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam lần thứ nhất tại Hà Nội. Hơn 100 mặt hàng do quân đội sản xuất tham gia trưng bày tại hội chợ.


9 tháng 11.

Chủ tịch nước quyết định (số 07/KT-CTN) tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú (đợt 3) cho 394 cán bộ, giáo viên. Quân đội có 30 Nhà giáo Ưu tú.


9 - 21 tháng 11.

Hội nghị nghiên cứu về những nội dung chủ yếu trong chương trình giáo dục lý luận Mác—Lê-nin ở các học viện, nhà trường quân đội.


19 và 20 tháng 11.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội cựu chiến binh Việt Nam lần thứ nhất
. Hơn 300 đại biểu thay mặt hàng triệu cựu chiến binh cả nước dự đại hội. Trung tướng Nguyễn Đôn đọc báo cáo về tổ chức và hoạt động của hội trong hai năm qua và phương hướng nhiệm vụ cụ thể của hội trong những năm 1992-1997. Đại hội thông qua nghị quyết, điều lệ hội và bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam khóa I. Thượng tướng Trần Văn Quang được bầu làm Chủ tịch hội; Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự Hội cựu chiến binh Việt Nam.


7 - 15 tháng 12.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Đoàn Khuê - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.


Đầu tháng 12.

Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị tổng kết ba năm (1990-1992) về đổi mới công tác huấn luyện bộ đội và tập huấn quân sự toàn quân. Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng đến dự, chỉ thị cho các đơn vị toàn quân phải luôn có đủ quân số, đủ cán bộ tiểu đội, trung đội, huấn luyện có chất lượng, sẵn sàng chiến đấu cao.


Tháng 12.

- Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào tạo thông qua đề án: thành lập “Trung tâm Giáo dục quốc phòng thành phố Thái Nguyên”
(Bắc Thái). Đây là trung tâm giáo dục quốc phòng đầu tiên ở nước ta, có nhiệm vụ lập kế hoạch, tổ chức huấn luyện chương trình giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

- Bộ Quốc phòng nghiệm thu đề tài: “Xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”, do Tổng cục Chính trị chỉ đạo, Trường sĩ quan Chính trị - Quân sự thực hiện. Đây là một công trình nghiên cứu có tính lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ của quân đội ta.

- Bộ Quốc phòng chỉ thị thi hành Pháp lệnh bảo hộ lao động trong toàn quân (Pháp lệnh ban hành ngày 10-9-1991, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:18:15 pm

NĂM 1993


Đầu tháng 1.

Bộ Tổng Tham mưu tập huấn cán bộ cao cấp toàn quân
về quan điểm, tư tưởng quân sự về chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, nguyên tắc chiến đấu của quân đội (chủ yếu là cấp sư đoàn).


2 tháng 1.

Kỷ niệm 30 năm ngày chiến thắng Ấp Bắc tại xã Tân Phú, huyện Cai Lậy (Tiền Giang). Đại tướng Đoàn Khuê – Bộ trưởng Quốc phòng nêu rõ: Chiến thắng Ấp Bắc trở thành chiến công vang dội, mở đầu quá trình đánh bại chiến thuật dùng máy bay lên thẳng, kết hợp với xe bọc thép của Mỹ - ngụy, báo hiệu sự thất bại không tránh khỏi của chiến tranh đặc biệt; là niềm cổ vũ lớn lao cuộc chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam.


14 tháng 1.

Chủ tịch nước Lê Đức Anh ra quyết định tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân và Nghệ sĩ Ưu tú cho 37 nghệ sĩ quân đội đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nghệ thuật của dân tộc, của quân đội.


Tháng 1.

- Bộ Quốc phòng tổ chức hội thảo đào tạo sau đại học và nhân tài quân sự trong các học viện, nhà trường quân đội.

- Bộ Tổng Tham mưu tập huấn cán bộ quản lý và giáo viên đào tạo hạ sĩ quan toàn quân về phương pháp huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật bộ binh, công tác quản lý bộ đội, võ thuật và văn hóa, văn nghệ.

- Bộ Tư lệnh Pháo binh tổng kết ba năm đổi mới công tác huấn luyện pháo binh toàn quân.


Tháng 2.

Bộ Quốc phòng đưa chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình vào giảng dạy ở các trường quân đội, thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục từng đối tượng ở các đơn vị trong toàn quân, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số.


4 tháng 3.

Viện Y học dân tộc quân đội khai giảng lớp thạc sĩ y học cổ truyền đầu tiên ở nước ta.


10 tháng 3.

Thành lập Học viện Phòng không
(quyết định số 104/QĐ-QP của Bộ trưởng Quốc phòng) trên cơ sở sát nhập Trường Trung cao cấp phòng không và Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật phòng không thuộc Quân chủng Phòng không. Nhiệm vụ: đào tạo cán bộ cho quân chủng và toàn quân.

Giám đốc: đại tá Nguyễn Văn Thực.


14 tháng 3.

Đảng ủy quân sự Trung ương ra chỉ thị số 37/CT-ĐƯQSTƯ “Về đẩy mạnh xây dựng chính quy quân đội nhân dân lên một bước mới”, nêu rõ: “Tập trung nâng cao trình độ chính quy về trang phục, lễ tiết, tác phong quân nhân; thực hiện có nền nếp quy định trong điều lệnh quản lý bộ đội, trước tiên là các chế độ sinh hoạt trong ngày, các chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, chế độ quân lý vũ khí, trang bị kỹ thuật”.


30 - 3 đến 3 - 4.

Hội nghị tổ chức toàn quân bàn xây dựng tổ chức cơ sở đảng, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


3 tháng 4.

Thành lập Học viện Hải quân
trên cơ sở Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật hải quân.


5 - 29 tháng 4.

Tổng cục Chính trị tập huấn giáo viên khoa học xã hội, cán bộ dân vận toàn quân về một số vấn đề quốc phòng và an ninh về việc giảng dạy các bộ môn khoa học xã hội trong các trường sĩ quan quân đội và công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.


19 tháng 4.

Công bố Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự
(gồm 5 chương, 40 điều) và Pháp lệnh tổ chức viện kiểm soát quân sự (gồm 4 chương, 37 điều).

Tòa án quân sự gồm: Tòa án quân sự Trung ương, các tòa án quân sự quân khu và tương đương, các tòa án quân sự khu vực.

Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, các Viện kiểm sát quân sự quân khu, các viện kiểm sát quân sự tỉnh và khu vực.


Tháng 4.

Bộ Tư lệnh Pháo binh tập huấn cán bộ trung cấp pháo binh toàn quân về “quy tắc bắn và chỉ huy bắn” trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:20:02 pm

4 tháng 5.

Tổng cục Chính trị tổ chức tại Học viện Chính trị - Quân sự lớp bổ túc chính trị trung cao cấp toàn quân, bồi dưỡng hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa Mác — Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm đổi mới của Đảng về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội.


13 - 21 tháng 5.

Đoàn đại biểu quân sự Trung Quốc do Thượng tướng Trì Hạo Điền - Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm Việt Nam.


2 - 6 tháng 6.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm hữu nghị In-đô-nê-xi-a.


22 tháng 6.

- Thành lập Tổng công ty xây dựng Trường Sơn
gồm tám công ty xây dựng (470, 472, 565, 118, 344, 384, 98, 99); Công ty Tư vấn và khảo sát thiết kế xây dựng; Công ty Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng; Công ty Vật liệu vận tải và xây dựng 17; Công ty Vật tư vận tải và xây dựng 532; Xí nghiệp khai thác than 35; Xí nghiệp khai thác than 86; Nông trường 53; các xí nghiệp xây dựng 4, 144, 145, 335; Trường trung học cầu đường và dạy nghề.

Tổng giám đốc: Đỗ Xuân Diễn.

- Bộ Quốc phòng ra các quyết định (số 276, 277, 278 và 289/QĐ-QP) thành lập các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Miền Trung gồm: Công ty lâm nghiệp 715; Công ty xây lắp 711; Xí nghiệp khảo sát thiết kế tại tỉnh Gia Lai và Công ty dịch vụ thương mại 15 tại tỉnh Bình Định.

- Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ số 269-272/QĐ-QP):

Thành lập bốn doanh nghiêp Nhà nước tại tỉnh Gia Lai (gồm các nông trường cao su 701, 703, 706, 707) thuộc Tổng công ty Miền Trung. Nhiệm vụ: trồng, chăm sóc và khai thác cao su.

- Thành lập xí nghiệp chế biến cao su và xí nghiệp cao su 15 (quyết định số 3 và 275/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng) tại tỉnh Gia Lai. Nhiệm vụ: khai thác, sản xuất các loại cao su dân dụng, chế biến và tiêu thụ mủ cao su.


23 tháng 6.

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc, phòng), nghiệm thu công trình “Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam" trong 30 năm chiến tranh giải phóng.


24 - 27 tháng 6.

Hội thao điền kinh, việt dã, chiến sĩ khỏe toàn quân tại Vinh (Quân khu 4). Kết quả: Quân khu 5 nhất điền kinh, Quân khu 9 nhất việt dã, Trường sĩ quan Lục quân 2 nhất chiến sĩ khỏe. Vận động viên Nguyễn Văn Đông (Trường sĩ quan Lục quân 2) là người khỏe nhất toàn quân.


Tháng 6.

- Bộ Tư lệnh Hải quân bàn biện pháp xây dựng quân chủng chính quy, vững mạnh, toàn diện. Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ thị: ngoài việc xây dựng tư tưởng và nhận thức; vấn đề nâng cao trình độ huấn luyện, xây dựng nền nếp chính quy, giữ gìn tốt các trang thiết bị kỹ thuật là quan trọng hàng đầu. Đồng thời tích cực đổi mới, tăng cường quan hệ với các ngành, các địa phương, xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam thành một quân chủng chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo và thềm lục địa của Tổ quốc.

- Binh chủng Công binh hội thao cán bộ công binh huấn luyện giỏi toàn quân (khu vực phía bắc). Đội tuyển Quân khu 3 đoạt giải nhất.


3 tháng 7.

Bộ Quốc phòng tuyên dương Đoàn thể thao quân đội (gồm 3 huấn luyện viên và 18 vận động viên) tham gia Seagame 17 tại Xinh-ga-po đoạt 3 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, góp phần đưa đoàn thể thao Việt Nam lên vị trí thứ 6; tặng Huân chương Lao động hạng hai cho vận động viên Đặng Thị Đông.


15 tháng 7.

Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Độc lập hạng nhất cho 15 tướng lĩnh, sĩ quan quân đội có nhiều công lao trong sự nghiệp chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


27 tháng 7.

Thành lập Xí nghiệp lắp đặt thiết bị kỹ thuật tại Hà Nội (quyết định số 371/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: sửa chữa, lắp ráp, thiết kế các phòng chuẩn, phòng kiểm nghiệm đo lường, các công trình điện, điện lạnh, mua bán trao đổi vật tư, thiết bị kỹ thuật.


29 tháng 7.

Bộ Quốc phòng và Tổng cục Thể dục thể thao ra thông tri phối hợp chỉ đạo, đầu tư huấn luyện thể lực đối với lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ), mở rộng phong trào “chiến sĩ khỏe”, phát triển các môn thể thao quốc phòng, tổ chức đại hội thể dục thể thao toàn quân lần thứ ba nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân đội và 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.


Tháng 7.

Thành lập phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và phòng thi hành án thuộc bộ tư lệnh các quân khu. Từ ngày 28 tháng 7, công tác thi hành án trong quân đội tách khỏi tòa án quân sự, hoạt động độc lập dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy, chỉ huy các cấp và chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:22:22 pm

17 và 18 tháng 8.

Hội nghị lịch sử quân sự toàn quân lần thứ ba
, do Bộ Quốc phòng triệu tập, đánh giá hoạt động của ngành trong những năm 1987-1993, đề ra phương hướng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự và tổng kết chiến tranh trong những năm tới.

Từ năm 1987 đến tháng 7 năm 1993, ngành lịch sử quân sự đã biên soạn được 311 đầu sách, tài liệu (tổng kết: 79; lịch sử: 200; tài liệu (bản thảo): 32). Trong đó khối các quân khu có 57, các quân đoàn có 29, các quân, binh chủng có 47, các học viện, nhà trường có 13, các cơ quan Bộ có 27 và Viện Lịch sử quân sự có 39 đầu sách, tài liệu.

Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ thị cho hội nghị về vị trí, phương hướng xây dựng ngành, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu lịch sử quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện tại và cho tương lai.


19 - 20 tháng 8.

Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị, đối ngoại toàn quân
, tổng kết công tác đối ngoại quân sự 5 năm qua và đề ra phương hướng cho những năm tới. Báo cáo tổng kết nêu rõ công tác đối ngoại quân sự đã vận dụng linh hoạt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn, triển khai hoạt động trên nhiều hướng, với nhiều đối tượng khác nhau, góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác của quân đội ta với quân đội và nhân dân các dân tộc trên thế giới, với nhiều tổ chức quốc tế. Từ năm 1990, công tác đối ngoại quân sự đã được mở rộng sang lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại, trong sản xuất công nghiệp quốc phòng và sản xuất hàng dân dụng dưới các dạng công ty của lực lượng bộ đội làm kinh tế.


6 tháng 9.

Bộ Tổng tham mưu, cơ quan Bộ Quốc phòng mở lớp đào tạo tại chức quân sự cấp cao khóa 1993-1994 cho 40 học viên về khoa học nghệ thuật quân sự, công tác tham mưu chiến lược và kiến thức chung về chính trị, kinh tế, xã hội, quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ quan Bộ trong tình hình mới.


8 - 9 tháng 9.

Đại hội đại biểu Công đoàn toàn quân lần thứ IV
tại Hà Nội. 250 đại biểu (88 là sĩ quan quân đội) đại diện cho gần 70.000 đoàn viên công nhân, viên chức quốc phòng đã kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội Công đoàn toàn quân lần thứ III (9-1988), phân tích thực trạng phong trào công nhân viên chức quốc phòng và hoạt động của công đoàn; xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của phong trào công nhân viên chức, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn 5 năm (1993-1998); góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện và bầu đại biểu đi dự Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VII.


Tháng 9.

Quân khu 7 diễn tập đại đội bộ binh chiến đấu tiến công. 14 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trên địa bàn quân khu tham gia diễn tập. Riêng bắn đạn thật, 100 phần trăm đạt khá giỏi.


21 - 9 đến 7 - 10.

Hội nghị tập huấn công tác cán bộ toàn quân
tại thành phố Hồ Chí Minh. Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng nêu rõ: xây dựng đội ngũ cán bộ phải đi đôi với việc xây dựng đội ngũ đảng viên, trong đó phẩm chất chính trị là hàng đầu. Bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào nhiệm vụ, thu hút nhân tài xây dựng quân đội, kết hợp cán bộ trẻ, cán bộ lớn tuổi, bảo đảm tính kế thừa và liên tục. Tất cả quân nhân trở thành sĩ quan phải qua đào tạo cơ bản tại trường sĩ quan lục quân, kể cả các sĩ quan đào tạo chuyên ngành. Đồng thời phải có chế độ, chính sách, khuyến khích nâng cao kiến thức cán bộ và tạo sự ổn định về hậu phương.


12 - 16 tháng 10.

Bộ Tổng Tham mưu mở lớp tập huấn cán bộ về công tác giáo dục quốc phòng trong các cơ quan, nhà trường ngoài quân đội và toàn dân.


14 - 16 tháng 10.

Đảng ủy quân sự Trung ương tổ chức Hội nghị nghiên cứu góp ý kiến vào bản dự thảo Báo cáo chính trị tại Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ (3-1994).


18 - 21 tháng 10.

Bộ Quốc phòng tổng kết 5 năm thực hiện công tác chính sách quân đội, bàn chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách đối với cán bộ khi nghỉ hưu hoặc chuyển ngành.


23 tháng 10.

Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 06/NQ-TƯ) về tổ chức kỷ niệm những ngày lịch sử lớn trong hai năm 1994-1995: 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 50 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 65 năm thành lập Đảng, 20 năm thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 105 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9.


28 tháng 10.

Học viện Chính trị - Quân sự hội thảo khoa học: “Về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay”.


Cuối tháng 10.

Bộ Quốc phòng bàn biện pháp đẩy mạnh công tác tổng kết chiến tranh, viết lịch sử quân sự ở các đơn vị, địa phương khu vực phía nam.


Đầu tháng 11.

Quân đoàn 2 sơ kết hai năm thực hiện chương trình 12 - kết hợp quân dân y
. Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng đến dự, nêu rõ: kết hợp quân dân y, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, làm tốt công tác dân vận là nhiệm vụ có tính chất chiến lược của quân đội ta. Cần đẩy mạnh và xây dựng cho được đơn vị quân y 5 tốt, có nhiều chiến sĩ quân y làm theo lời Bác. Củng cố tình đoàn kết quân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.


4 tháng 11.

Bộ Quốc phòng sơ kết hoạt động khoa học công nghệ
do Nhà nước đầu tư từ 1991 - 1993, đánh giá: Quân đội đã tham gia ngày càng nhiều vào thực hiện các chương trình trọng điểm của Nhà nước, hòa nhập với lực lượng khoa học công nghệ nhà nước, thu hút phần lớn tiềm lực khoa học của các viện, học viện vào giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, giữ gìn sử dụng, chế tạo, cải tiến vũ khí trang bị, huấn luyện, chỉ huy, quản lý bộ đội. Bộ Quốc phòng có 15 đề tài trọng điểm cấp nhà nước, 40 đề tài khác trong 11 chương trình của bộ, 105 đề tài độc lập do nhà nước hỗ trợ được triển khai nghiên cứu, quản lý chặt chẽ, đạt hiệu quả thiết thực.


9 - 11 tháng 11.

Hội nghị toàn quốc về công tác quốc phòng
đánh giá tình hình thực hiện công tác quốc phòng những năm qua và bàn phương hướng nhiệm vụ công tác quốc phòng những năm tới. Tổng Bí thư Đỗ Mười đến dự và chỉ thị: “Để củng cố quốc phòng an ninh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần nắm vững mấy quan điểm lớn sau đây:

1. Bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa phải gắn chặt với nhau và phải quán triệt trên mọi lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ mới, bảo vệ chính quyền cách mạng của dân, do dân và vì dân. Đó cũng chính là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

2. Quốc phòng là lĩnh vực rộng lớn, không đơn thuần về quân sự. Vì vậy, quản lý quốc phòng là bộ phận quan trọng trong tổng thể quản lý quốc gia của Nhà nước. Thực hiện tốt quản lý nhà nước cả về kinh tế và quốc phòng.

3. Quốc phòng là sự nghiệp của toàn dân - đó là quan điểm cơ bản của Đảng. Đương nhiên quân đội giữ vai trò chủ đạo, song như vậy không có nghĩa quốc phòng là việc riêng của quân đội, của Bộ Quốc phòng, mà là của cả xã hội, của Nhà nước, của toàn hệ thống chính trị với ý nghĩa đầy đủ của quốc phòng toàn dân".


20 tháng 12.

Kỳ họp thứ Tư Quốc hội khóa IX bàn về nhiệm vụ công tác năm 1994
, nêu rõ: “Toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thường xuyên đề cao cảnh giác, phòng chống âm mưu diễn biến hòa bình. Ra sức nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, trong sạch có trình độ chiến đấu cao, nghiệp vụ thành thạo, có nền nếp chính quy và kỷ luật chặt chẽ. Nâng cao chất lượng tuyển chọn thanh niên nhập ngũ, quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên. Cải thiện một bước các điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của lực lượng vũ trang”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:36:35 pm

NĂM 1994


22 tháng 1.

Bộ Quốc phòng ra chỉ thị (số 54/CT-QP) tiếp tục cuộc vận động: “Xây dựng đơn vị có phong trào quân y 5 tốt và chiến sĩ quân y làm theo lời Bác Hồ". Thời gian thực hiện từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1994.


Tháng 1.

Bộ Quốc phòng phát động phong trào hoạt động thể dục thể thao thường xuyên rộng khắp, vững chắc trong các lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức tốt Đại hội thể thao quốc phòng lần thứ ba trong năm 1994.


7 tháng 2.

Bộ Giáo dục - Đào tạo ra các quyết định (số 402-404/GD-ĐT) công nhận trình độ đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp đại học cho Học viện Lục quân, Học viện Chính trị - Quân sự và Học viện Hậu cần.


19 tháng 2.

Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng cờ thi đua luân lưu cho 12 đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập thành tích xuất sắc, dẫn đầu toàn quân trong phong trào thi đua quyết thắng năm 1993. Đặc biệt là bốn đơn vị (trung đoàn bộ binh 165 sư đoàn 312 Quân đoàn 1; đoàn đặc công 113 Bộ Tư lệnh Đặc công; nhà máy Z113 Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế; nhà máy Z151 Cục Quản lý xe máy Tổng cục Kỹ thuật) liên tục từ năm 1989-1993 được Thủ tướng Chính phủ tặng cờ luân lưu.


1 - 4 tháng 3.

Hội nghị đại biểu Đảng toàn quân giữa nhiệm kỳ
. 183 đại biểu (có 19 đại biểu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đương nhiệm) đã về dự. Hội nghị thảo luận, nhất trí với Báo cáo chính trị của Đảng ủy quân sự Trung ương về kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trong hơn hai năm qua và bàn phương hướng nhiệm vụ quốc phòng trong hai năm 1994-1995. Tổng Bí thư Đỗ Mười đến dự, biểu dương những thành tích của quân đội trong thời gian qua, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của quân đội trong thời gian tới là xây dựng quân đội nhân dân ngày càng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và nhân dân.


5 - 8 tháng 3.

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do Thượng tướng Chum-ma-ly Xay-nhạ-xỏn - Bộ trưởng Quốc phòng làm trưởng đoàn, sang thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


12 tháng 3.

Hội đồng chính phủ ra nghị định (số 19/CP) về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương (thay cho chỉ thị 198 ngày 16-7-1971 và nghị định số 165/CP ngày 23-7-1981). Hội đồng chính phủ quy định: công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương gồm vấn đề giáo dục, động viên, tổ chức toàn dân làm công tác quốc phòng, chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác quốc phòng của Nhà nước. Cần phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tổ chức thực hiện tốt công tác quốc phòng.


18 tháng 3.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị (số 35 CT-TW) về xét khen thưởng nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn trong hai năm 1994-1995 cho các đối tượng:

- Danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho những bà mẹ có nhiều đóng góp, hy sinh vì Tổ quốc.

- Danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho quân và dân các huyện (quận), xã (phường), các đơn vị bộ đội địa phương và các cá nhân đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

- Danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” và khen thưởng huân chương cho các tập thể, cá nhân trong quân đội có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ 1986-1994.

- Tặng thưởng huân chương cho các sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng đã có thành tích xuất sắc trong hai cuộc chiến tranh chống Mỹ, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế và đã đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


26 tháng 3.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 167/QĐ-QP) bổ sung kiểu mẫu và sắc phục của Quân đội nhân dân Việt Nam, quy định về quân phục, mũ, giày thực hiện thống nhất trong toàn quân từ 10 tháng 11 năm 1994.


29-3 đến 1-4.

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Vương quốc Cam-pu-chia do Đại tướng Tia-banh và Đại tướng Tia-chom-rath đồng Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:37:48 pm

22 - 24 tháng 4.

Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế ban hành thông tư liên bộ về chương trình lồng ghép huấn luyện y học quân sự cho sinh viên y học trong cả nước và đào tạo sĩ quan dự bị quân y, quân dược.


28 tháng 4.

- Viện Lịch sử quân sự, Viện Sử học, Viện Lịch sử Đảng, Khoa lịch sử Trường đại học tổng hợp Hà Nội, Khoa lịch sử Trường đại học sư phạm I Hà Nội phối hợp tổ chức hội thảo: “Chiến thắng Điện Biên Phủ - sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại’’ nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ đến dự nói rõ thêm quá trình hình thành và đi đến trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, những điều kiện dẫn đến sự thay đổi từ phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh sang phương châm đánh chắc tiến chắc...

- Tĩnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh khánh thành di tích lịch sử khu căn cứ Trung ương cục miền Nam.


7 tháng 5.

- Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ tại Điện Biên
(Lai Châu). Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng nêu rõ: chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là sản phẩm của sự kết hợp truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta với trí tuệ và tài thao lược Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh. Phát huy truyền thống Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành thắng lợi hoàn toàn mùa xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ra sức xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

- Khánh thành “Đài kỷ niệm các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tư do của Tổ quốc” tại Hà Nội.


Tháng 5.

Bộ Tổng Tham mưu sơ kết ba năm xây dựng lực lượng dự bị động viên các đơn vị ở khu vực phía nam.


17 tháng 5.

Quân đoàn 2 kỷ niệm lần thứ 20 ngày truyền thống. Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng đến dự, biểu dương những thành tích mà quân đoàn đã đạt được trong 20 năm qua, động viên cán bộ, chiến sĩ phát huy truyền thống anh hùng, phấn đấu xây dựng binh đoàn chủ lực mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.


Đầu tháng 6.

Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn dự án bảo tồn, tôn tạo và bảo vệ di tích lịch sử khu rừng Trần Hưng Đạo - nơi ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và hai di tích: Phai Khắt, Nà Ngằn (Nguyên Bình, Cao Bằng) - nơi diễn ra hai trận đánh thắng lợi, mở đầu truyền thống đánh thắng ngay từ trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam.


3 tháng 6.

Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký lệnh (số 36/CTN) công bố Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự (gồm 5 chương 22 điều), quy định: Công trình quốc phòng và khu quân sự là tài sản của Nhà nước được giao cho lực lượng vũ trang và chính quyền các cấp tổ chức xây dựng, quản lý, sử dụng, bảo vệ để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.


14 - 21 tháng 6.

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao do Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu, thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên.


22 tháng 6.

Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa IX thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đối và bổ sung các điều 10, 11, 17, 19, 21, 23, 24, 25, 26, 29, 40, 42, 51, 52, 53, 55, 56, 61, 64) cho phù hợp với yêu cầu của nghiệp vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.


Tháng 6.

- Đảng ủy Quân sự Trung ương tổ chức hội nghị bồi dưỡng công tác kiểm tra đảng cho các bí thư đảng ủy sư đoàn toàn quân, xác định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra trong công tác xây dựng đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người bí thư trong lãnh đạo, chỉ huy; góp phần rèn luyện đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh.

- Tổng cục Chính trị mở lớp tập huấn cán bộ dân vận, tuyên truyền đặc biệt toàn quân, nghiên cứu các quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng, về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phương thức tiến hành công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương của quân đội.


25 tháng 6.

Bộ Quốc phòng tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho Trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên Thường vụ Khu ủy Hữu Ngạn, Bí thư Khu ủy Trị-Thiên và Trung tướng Đặng Kinh (tức Lê Trung Trực), nguyên Bí thư Quân khu ủy, kiêm Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn; Huân chương Độc lập hạng nhất cho Trung tướng Lê Linh, nguyên Chính ủy mặt trận 31, phó Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao và Trung tướng Đỗ Quốc Tuấn, nguyên Chính ủy Trường sĩ quan Lục quân 1, Phó tư lệnh Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 đã có nhiều thành tích cống hiến vì sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.


29 - 30 tháng 6.

Bộ Quốc phòng sơ kết cuộc vận động “Quản lý xe máy tốt, bền, an toàn, tiết kiệm" 1992 - 1993. 37 tập thể và cá nhân lập thành tich xuất sắc đã được tặng thưởng Huân chương Lao động, Huân chương Chiến công, 7 đơn vị được nhận cờ thi đua xuất sắc của Bộ Quốc phòng.


Cuối tháng 6.

- Tổng cục Chính trị phát động đợt thi đua: “50 ngày hành động tiến tới kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân đội" trong toàn quân, nhằm tạo sự chuyển biến quan trọng về trình độ, bản lĩnh chính trị, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.

- Binh chủng Pháo binh tổ chức hội thi pháo binh giỏi toàn quân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:41:59 pm

Đầu tháng 7.

- Cục Quản lý xe máy (Tổng cục Kỹ thuật) đón nhận Huân chương Chiến công hạng nhất. Trong 5 năm (1989 - 1993), Cục Quân lý xe đã thực hiện tốt cuộc vận động: “Quản lý, sử dụng xe máy tốt, bền, an toàn, tiết kiệm”; nghiên cứu thành công 11 đề tài cấp nhà nước, 29 đề tài cấp bộ, đồng thời thực hiện tốt các chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ, Tổng cục Kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện của các đơn vị toàn quân.

- Hội nghị “Phụ nữ làm kinh tế gia đình giỏi”, sơ kết phong trào: “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” của phụ nữ toàn quân từ năm 1992 - 1994. 100 nữ quân nhân có thành tích làm kinh tế gia đình giỏi đã được biểu dương và tặng bằng khen, giấy khen.


5 - 22 tháng 7.

Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị nghiên cứu lý luận toàn quân (lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác vận động quần chúng và phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện mới).


6 tháng 7.

Bộ Quốc phòng sơ kết công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và phòng chống AIDS trong quân đội.


Tháng 7.

- Bộ Tổng Tham mưu tổ chức tập huấn cán bộ điều lệnh toàn quân (khu vực phía nam). Nội dung cơ bản của việc xây dựng quân đội chính quy trong ba năm (1993-1995) là: thống nhất về mang mặc, trang phục, thực hiện nghiêm túc lễ tiết tác phong quân nhân, tổ chức thực hiện theo chức trách và các chế độ quy định, nâng cao trình độ quản lý bộ đội và quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật của đội ngũ cán bộ.

- Cục Phòng không lục quân (Quân chủng Phòng không) tổ chức hội thao lực lượng súng máy 12,7 li và chiến sĩ tiêu đồ toàn quân.


20 tháng 7.

Quân đoàn 4 kỷ niệm 20 năm ngày thành lập
. Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Quốc phòng đến dự, khen ngợi những thành tích to lớn mà cán bộ, chiến sĩ quân đoàn đạt được trong 20 năm qua. Đại tướng nêu rõ nhiệm vụ trước mắt là:

1. Tập trung xây dựng quân đoàn vững mạnh, toàn diện, thực sự là quân đoàn chủ lực cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

2. Thường xuyên chăm lo xây dựng đảng bộ quân đoàn trong sạch vững mạnh.

3. Thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ xây dựng chính quy, coi đó là nhiệm vụ trong tâm xuyên suốt mọi hoạt động của quân đoàn.

4. Làm tốt công tác dân vận.

5. Nêu cao tinh thần tự lực tự cường, chủ động sáng tạo, làm tốt công tác hậu cần - kỹ thuật, quản lý và sử dụng hiệu quả vũ khí trang bị.


22 - 23 tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu sơ kết công tác huấn luyện sáu tháng đầu năm 1994, đánh giá: tất cả các lực lượng bộ binh, quân binh chủng, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, quân dự bị đều đã hoàn thành kế hoạch huấn luyện với chất lượng cao. Đặc biêt là các nội dung huấn luyện về điều lệnh, rèn luyện nền nếp chính quy và huấn luyện cán bộ tiến bộ rõ rệt. Nội dung huấn luyện cho từng người và phân đội do vận dụng phương pháp tổ chức huấn luyện mới nên đạt thành tích tốt.


28 tháng 7.

Trao tặng Huy chương “Vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn'’ cho 165 cán bộ công đoàn và cán bộ lãnh đạo, chỉ huy một số quân chủng, binh chủng và các cơ sở quốc phòng nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Công đoàn Việt Nam và 45 năm thành lập Công đoàn quốc phòng.


29 tháng 7.

Ban Thanh niên quân đội phát động phong trào thi đua “Tuổi trẻ quân đội tiếp sức cha anh, quyết giành ba nhất, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và bốn chương trình hành động chào mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.


1 - 4 tháng 8.

Tổng cục Chính trị và Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức hội nghị bàn về công tác bảo tồn, bảo tàng, bảo vệ di tích quân sự.


18 tháng 8.

Trung đoàn Thủ Đô (sư đoàn 308 Quân đoàn 1) phát động phong trào thi đua mang tên “Phát huy truyền thống Tiên Phong anh hùng, trung đoàn Thủ Đô tiếp bước cha anh, quyết giành năm nhất, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Trung đoàn đã gửi thư giao ước thi đua với các trung đoàn trong toàn quân.


19 tháng 8.

Hội thảo “Phát huy bản chất, truyền thống, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” tại sư đoàn bộ binh 325 Quân đoàn 2.


24 tháng 8.

Đại tướng Vi-chit Xui-mac, Bộ trưởng Quốc phòng Vương quốc Thái Lan thăm hữu nghị chính thức Việt Nam theo lời mời của Đại tướng Đoàn Khuê - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Tháng 8.

- Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn cán bộ quản lý khoa học và công nghệ toàn quân. Nội dung nghiên cứu về xây dựng, quản lý và điều hành kế hoạch hoạt động công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng, quản lý các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quân sự, xây dựng quản lý tiềm lực khoa học và công nghệ trong quân sự.

- Quân khu 3 hội thảo về cách đánh của sư đoàn bộ binh kết hợp với khu vực phòng thủ địa phương.


19 - 31 tháng 8.

Ủy ban thường vụ Quốc hội họp thông qua nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến) nhằm thể chế hóa chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Sáu, 2022, 03:43:45 pm

1 tháng 11.

Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ sáu thông qua nghị quyết về tăng cường giám sát các cơ quan nhà nước, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1995. Về nhiệm vụ quốc phòng an ninh, nghị quyết nêu rõ: “Động viên toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, bảo vệ an ninh quốc gia

Tích cực nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang..., xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân. Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.


1 - 5 tháng 11.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Ma-lai-xi-a.


18 - 23 tháng 11.

Đoàn đại biểu quân sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên do Phó nguyên soái Chuê Quang, quyền Bộ trưởng các lực lượng vũ trang, Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Triều Tiên làm trưởng đoàn thăm hữu nghị chính thức nước ta.


27-11 đến 4-12.

Đại hội thể thao quốc phòng lần thứ 3 tổ chức tại Hà Nội thành công rực rỡ.


28-11 đến 1-12.

Đại hội điển hình tiên tiến toàn quân tổ chức tại Hà Nội. Gần 400 đại biểu trong đó có chín Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và đại biểu các đơn vị, cá nhân điển hình tiên tiến toàn quân dự đại hội. Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến dự và nói chuyện với đại hội.


5 - 9 tháng 12:.

Đoàn đại biểu quân sự nước ta do Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng làm trưởng đoàn thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Phi-líp-pin.


7 tháng 12.

Tại Hà Nội, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội, xây dựng quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh” nhân kỷ niệm 50 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiều đồng chí lãnh đạo, chỉ huy quân đội qua các thời kỳ, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội đến dự, đọc báo cáo tham luận.


17 tháng 12.

Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký quyết định tặng và truy tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho 19.879 bà mẹ của 53 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (có 9.672 mẹ được tặng, 10.272 mẹ truy tặng, trong đó có 390 mẹ và vợ liệt sĩ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.

Cùng với việc ban hành quyết định phong tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước cho 60 “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” trước đó, cả nước đã có 19.939 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý này.


20 tháng 12.

- Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký quyết định phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 243 đơn vị (237 đơn vị trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, 6 đơn vị trong giai đoạn 1986-1994, 76 cá nhân (3 cá nhân trước năm 1945 và trong kháng chiến chống Pháp, 72 trong kháng chiến chống Mỹ, 1 trong giai đoạn 1986-1994) đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới 1986-1994.

- Nhà nước công bố thành lập Học viện Quốc phòng (nghị định số 188/CP của Hội đồng chính phủ, ngày 20-12-1994) trên cơ sở Học viện Quân sự cấp cao, trực thuộc Chính phủ, do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Nhiệm vụ: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự, bồi dưỡng kiến thức quốc phóng cho cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể, nghiên cứu khoa học quân sự và hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự,

Giám đốc: Thượng tướng Phó giáo sư Nguyễn Hữu An


21 tháng 12.

Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày hội quốc phòng toàn dân tại Hà Nội
. Các đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận tổ quốc Việt Nam đến dự. Tổng Bí thư Đỗ Mười đọc lời chào mừng đánh giá những thành tích to lớn của quân đội ta trong suốt nửa thế kỷ qua và nêu rõ nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới: “Đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đi đôi với tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng vững mạnh và rộng khắp, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện. Tăng cường sức mạnh chính trị, lấy sức mạnh chính trị làm cơ sở để nâng cao trình độ từ kỹ thuật, chiến thuật đến tổ chức chỉ huy. Đó là những nội dung cơ bản cần luôn luôn nắm vững trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của ta...”.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2022, 02:35:54 pm

PHẦN THỨ HAI
LỊCH SỬ TÓM TẮT MỘT SỐ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ




BỘ QUỐC PHÒNG

Cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức xây dựng và chỉ huy quân đội nhân dân, dân quân tự vệ về mọi mặt, nhằm củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước và các lực lượng vũ trang nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bộ Quốc phòng được tổ chức tháng 8 năm 1945, là một bộ trong Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngày 25 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 34/SL) về tổ chức Bộ Quốc phòng gồm Văn phòng và các cục chuyên môn (Quân nhu, Chế tạo Quân giới, Chính trị, Tình báo, Quân chính, Quân huấn, Công chính giao thông, Quân pháp, Quân y). Do tình hình cụ thể lúc ấy, “Toàn quốc kháng chiến ủy viên hội” được thành lập (tháng 3 năm 1946). Ngày 6 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 60/SL) đổi tên Ủy ban kháng chiến toàn quốc thành Quân sự ủy viên hội. Tháng 11 năm 1946, thực hiện quyết định của Quốc hội khóa I kỳ họp thứ hai về thống nhất Bộ Quốc phòng với Quân sự ủy viên hội, Quân sự ủy viên hội ngừng hoạt động, cơ quan đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng. Ngày 1 tháng 5 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 47/SL) thành lập Bộ Tổng chỉ huy gồm văn phòng, Bộ Tổng Tham mưu, các cục: Chính trị, Tình báo, Quân huấn, Dân quân và Tổng thanh tra. Tháng 8 năm 1948, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy hợp nhất, gọi là Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Tháng 3 năm 1949, theo sắc lệnh 14/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy đổi là Bộ Tổng Tư lệnh. Từ đây thống nhất tên gọi là Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh.

Từ năm 1961 là Bộ Quốc phòng (không dùng danh hiệu Bộ Tổng tư lệnh).

Các đồng chí từng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng: Phan Anh (1945-1946); Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1946-1978); Đại tướng Văn Tiến Dũng (1978-1987); Đại tướng Lê Đức Anh (1987-1991); Đại tướng Đoàn Khuê (từ năm 1991).



ĐẢNG ỦY QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Quân đội nhân dân Việt Nam, được tổ chức tháng 1 năm 1946 với tên gọi Trung ương Quân ủy. Từ tháng 8 năm 1948 đến tháng 5 năm 1952 là Tổng Chính ủy. Từ tháng 5 năm 1952 đến tháng 1 năm 1961 là Tổng Quân ủy. Từ tháng 1 năm 1961 đến tháng 12 năm 1982 là Quân ủy Trung ương. Tháng 12 năm 1982 thành lập Hội đồng quân sự. Ngày 4 tháng 7 năm 1985. Bộ Chính trị ra nghị quyết về hệ thống cấp ủy Đảng trong quân đội, cơ quan cao nhất là Đảng ủy quân sự Trung ương.

Đảng ủy quân sự Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ định, gồm một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong quân đội và một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Đảng ủy quân sự Trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng, đồng thời lãnh đạo mọi mặt công tác trong quân đội.

Các đồng chí đã từng giữ chức Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương: Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười.



BỘ TỔNG THAM MƯU

Cơ quan tham mưu cao nhất trong hệ thống tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thành lập ngày 7 tháng 9 năm 1945 theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham mưu được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị lúc thành lập: “Tổ chức, huấn luyện bộ đội cho giỏi; tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng; bày mưu kế khôn khéo; tổ chức chỉ huy thống nhất, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ cách mạng”. Qua các thời kỳ, chức trách, nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham mưu có bước phát triển mới.

Được sự chỉ đạo và quán triệt, các chỉ thị của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đội ngũ cán bộ Bộ Tổng Tham mưu từ một số ít chưa hiểu biết bao nhiêu về công tác tham mưu, đã vừa học, vừa làm và rút kinh nghiệm, xây dựng cơ quan ngày càng vững mạnh, tổ chức thực hiện một cách kiên quyết, sáng tạo và có hiệu quả các nhiệm vụ trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.

Về tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu đã nắm chắc địch, nắm chắc ta, xây dựng các kế hoạch chiến lược, chiến dịch, xác định các hình thức chiến thuật, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; đã tổ chức, điều hành nhiều chiến dịch lớn và các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược (chiến dịch Biên Giới 1950, chiến dịch Hòa Bình 1951-1952, chiến dịch Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971, chiến dịch Quảng Trị 1972, các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; các chiến dịch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và làm nhiệm vụ quốc tế).

Về xây dựng lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, có lực lượng chủ lực chính quy tương đối hiện đại, lực lượng địa phương, dân quân (du kích) tự vệ rộng rãi, có lực lượng hậu bị hùng hậu.

Bộ Tổng Tham mưu đã góp phần to lớn trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang “vừa hồng, vừa chuyên” có trình độ tổ chức chỉ huy giỏi; kế thừa, phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông để xây dựng và phát triển nền nghê thuật quân sự Việt Nam.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tổng tham mưu trưởng: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái (9.1945 - 11.1953), Thiếu tướng (sau là Đại tướng) Văn Tiến Dũng (11.1953 - 1978), Trung tướng (sau là Đại tướng) Lê Trọng Tấn (1978-1986), Đại tướng Lê Đức Anh (12.1986 - 2.1987), Thượng tướng (sau là Đại tướng) Đoàn Khuê (1987-1990)...

Bộ Tổng Tham mưu, các cục và các đơn vị trực thuộc đã được Nhà nước, quân đội tặng thưởng nhiều huân chương và nhiều phần thưởng cao quý.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2022, 02:46:24 pm

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ

Cơ quan đảm nhiệm công tác chính trị đối với toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và sự lãnh đạo trực tiếp thường xuyên của Đảng ủy quân sự Trung ương.

Từ năm 1946 đến năm 1950 là Cục Chính trị.

Ngày 11 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh (số 121/SL) về tổ chức của Bộ Tổng tư lệnh quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, trong đó có Tổng cục Chính trị.

Theo sắc lệnh trên, Tổng cục Chính trị gồm các cục: Tổ chức, Tuyên huấn, Địch vận, Quân pháp, Nhà xuất bản Vệ quốc quân và Văn phòng.

Cùng với sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị đã có sự phát triển về tổ chức và chức năng, nhiệm vụ; góp phần thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, làm lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước.

Các đồng chí đã từng giữ chức Chủ nhiệm tổng cục: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1950-1961), Thượng tướng Song Hào (1961-1976), Đại tướng Chu Huy Mân (1977-1987), Đại tướng Nguyễn Quyết (1987-1991).

Tổng cục Chính trị, các cục và đơn vị trực thuộc đã được Nhà nước, quân đội tặng thưởng nhiều huân chương và nhiều phần thưởng cao quý.





TỔNG CỤC HẬU CẦN

Cơ quan tổ chức bảo đảm hậu cần và chỉ đạo công tác hậu cần của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập tổng cục: 11 tháng 7 năm 1950.

Các đồng chí đã từng giữ chức Chủ nhiệm tổng cục: Trần Đăng Ninh (1930-1955), Trần Hữu Dực (1955-1956), Hoàng Anh (1956-1958), Thiếu tướng Trần Quý Hai (1960-1962), Thiếu tướng Trần Sâm (1963-1965), Trung tướng Đinh Đức Thiện (1965-5.1969 và 11.1969 - 4.1976), Thiếu tướng Nguyễn Đôn (tháng 6.1969 - 11.1969), Trung tướng Vũ Xuân Chiêm (5.1976 - 2.1977), Trung tướng Bùi Phùng (2.1977-1981), Thiếu tướng Đinh Thiện (1982-1983 và 11.1987-1988 là Quyền chủ nhiệm), Trung tướng Nguyễn Chánh (1984-1986), Trung tướng (sau là Thượng tướng) Nguyễn Trọng Xuyên (1988-1993).

Những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, trong hệ thống tổ chức quân đội quốc gia đã hình thành một số chuyên ngành bảo đảm hậu cần kỹ thuật như các cục Quân giới, Quân nhu, Quân y (1945-1946), Vận tải (1949). Năm 1950, Tổng cục Cung cấp được thành lập, các cơ quan, cơ sở hậu cần kỹ thuật được tổ chức thành hệ thống với các chế độ, quy định từng bước được thống nhất trong toàn quân. Dựa vào nhân dân và dựa vào các căn cứ hậu phương, ngành hậu cần – kỹ thuật vừa xây dựng, phát triển ngành, vừa bảo đảm cho các lực lượng vũ trang xây dựng và chiến đấu trong các chiến dịch, trên các chiến trường, đỉnh cao là cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.

Thời kỳ 1954-1964, Tổng cục Hậu cần (được đổi tên từ ngày 13-1-1955) đã tổ chức chỉ đạo ngành hậu cần - kỹ thuật xây dựng và bảo đảm cho quân đội xây dựng chính quy, hiện đại; góp phần bảo vệ và xây dựng miền Bắc; đồng thời tích cực chuẩn bị và mở đường chi viện lực lượng, vật chất, xây dựng hệ thống hậu cần - kỹ thuật cho lực lượng vũ trang trên các chiến trường.

Thời kỳ 1965-1975, ngành hậu cần - kỹ thuật phát triển với quy mô lớn, đảm nhiệm việc tiếp nhận viện trợ quốc tế, sản xuất tạo nguồn, xây dựng và giữ vững các tuyến vận tải chiến lược từ hậu phương lớn ra các chiến trường, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang phát triển lớn về tổ chức, chiến đấu thắng lợi trên hai miền Nam - Bắc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, giành thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975-1994), Tổng cục Hậu cần đã tổ chức chỉ đạo toàn ngành bảo đảm kịp thời cho lực lượng vũ trang giành thắng lợi trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam, biên giới phía bắc và làm nghĩa vụ quốc tế; bảo đảm cho quân đội xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống; đồng thời đã xây dựng ngành hậu cần và tích cực sản xuất tạo nguồn, góp phần xây dựng thế trận hậu cần và phát triển kinh tế đất nước.

Quá trình xây dựng và bảo đảm, phục vụ, ngành hậu cần đã xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp: Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; tận tâm phục vụ quân đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tự lực tự cường khắc phục khó khăn; nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể.

Phần thưởng:
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- Toàn ngành hậu cần có 153 đơn vị và 141 cán bộ, chiến sĩ (riêng Tổng cục Hậu cần có 75 đơn vị và 45 cán bộ, chiến sĩ) được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương và phần thưởng cao quý khác.





TỔNG CỤC KỸ THUẬT

Cơ quan chỉ đạo công tác quản lý và bảo đảm trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang, nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng.

Ngày thành lập tổng cục: 10 tháng 9 năm 1974.

Các đồng chí đã từng giữ chức Chủ nhiệm tổng cục: Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Văn Tri, Trung tướng Đào Đình Luyện...

Trước khi thành lập Tổng cục Kỹ thuật, công tác chỉ đạo và bảo đảm kỹ thuật trong quân đội do Tổng cục Hậu cần đảm nhiệm. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã hình thành một số cục chuyên ngành (Quân giới, Quân khí), các xưởng sản xuất vũ khí, sửa chữa xe, máy, khí tài trực thuộc các cục và các liên khu, góp phần quan trọng bảo đảm vũ khí kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang xây dựng và chiến đấu thắng lợi. Sau khi miền Bắc được giải phóng, một số cục chuyên ngành trực thuộc Tổng cục Hậu cần được thành lập như Cục Quản lý xe máy, Cục Nghiên cứu kỹ thuật (nay là Viện Kỹ thuật quân sự), Cục Vật tư và một số nhà máy, xí nghiệp quốc phòng, đáp ứng như cầu xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang trên hai miền Nam – Bắc.

Năm 1974, trước yêu cầu ngày càng lớn về nghiên cứu, chỉ đạo và bảo đảm trang bị kỹ thuật vật tư cho quân đội tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, Tổng cục Kỹ thuật được thành lập. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, các cơ quan, đơn vị của tổng cục đã huy động cao độ lực lượng, vật chất đưa vào chiến trường 19.070 tấn vũ khí, 1.283 xe ô tô các loại, 55 tổ bảo dưỡng, 15 trạm tiểu tu xe..., bảo đảm cho các quân đoàn và các đơn vị binh chủng cơ động thần tốc, tiến hành thắng lợi các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổng cục Kỹ thuật tổ chức tiếp quản, thu hồi và khôi phục, củng cố được nhiều cơ sở kỹ thuật trong cả nước; khẩn trương củng cố tổ chức, hình thành và phát triển hệ thống chỉ đạo và bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự, phục vụ các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế và xây dựng theo phương hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Quá trình xây dựng và thực hiện nhiệm vụ, ngành kỹ thuật quân sự đã xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp: Trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; tận tụy phục vụ bộ đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi; cần kiệm liềm chính, chí công vô tư, tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, đoàn kết, hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Phần thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng nhất.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2022, 02:47:34 pm

TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG - KINH TẾ

Cơ quan giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với các xí nghiệp sản xuất quốc phòng, các cơ sở kinh tế của quân đội và làm tham mưu cho Nhà nước về động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng; đồng thời trực tiếp quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh và nghiên cứu khoa học kỹ thuật trực thuộc tổng cục.

Ngày thành lập tổng cục: 3 tháng 3 năm 1989.

Ngày truyền thống: 15 tháng 9 năm 1945 (ngày thành lập Phòng Quân giới).

Ngay từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, một số xưởng chế tạo vũ khí được tổ chức ở các căn cứ đã bảo đảm một phần vũ khí cho các lực lượng vũ trang cùng nhân dân khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Cách mạng tháng Tám thành công, Phòng (sau đổi thành cục) Quân giới được thành lập theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã chỉ đạo các xưởng quân giới ở các địa phương trên cả nước chế tạo một số loại vũ khí, đặc biệt là vũ khí diệt xe tăng, cơ giới, bảo đảm một phần quan trọng vũ khí cho các lực lượng vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, nhất là từ khi Đảng ta chủ trương đấu tranh vũ trang ở miền Nam, nhiều xí nghiệp quốc phòng chuyên sản xuất và sửa chữa súng, đạn của bộ binh, khí tài, súng pháo..., đã được thành lập, phối hợp với các viện nghiên cứu, các trường đại học, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước bạn về trang bị kỹ thuật, ngành quân giới đã cải tiến nhiều loại vũ khí, đặc biệt là vũ khí phòng không, chế tạo phương tiện rà phá thủy lôi, bom từ trường, góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa quy mô lớn của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.

Hướng về chiến trường miền Nam, các cơ quan kỹ thuật, các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng đã nghiên cứu, chế tạo và cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài, đặc biệt là các loại vũ khí bộ binh, một số vũ khí cho pháo binh, đặc công..., đáp ứng kịp thời nhu cầu của các chiến trường.

Được sự chi viện từ miền Bắc về cán bộ, công nhân kỹ thuật, máy móc, nguyên vật liệu..., hệ thống các xưởng quân giới ở miền Nam đã hình thành, ngày càng phát triển. Tuy quy mô không lớn, các xưởng này đã sản xuất tại chỗ được một số lượng quan trọng vũ khí; trong đó có những loại vũ khí diệt địch có hiệu quả, lại dễ sử dụng, phù hợp với trình độ tổ chức và cách đánh của các lực lượng vũ trang ba thứ quân; đồng thời tích cực nghiên cứu cải tiến vũ khí thu được của địch để đánh địch, góp phần đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân, đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đất nước thống nhất, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, các cơ sở công nghiệp quốc phòng được tổ chức và từng bước đổi mới công nghệ, góp phần xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đồng thời phát huy năng lực sản xuất công nghiệp phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế của đất nước.

Tổng cục Công nghiêp quốc phòng và kinh tế được thành lập (năm 1989) đánh dấu bước phát triển mới của nền công nghiệp quốc phòng nước ta trong việc bảo đảm nhu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân.

Phần thưởng:
- Bốn đơn vị và tám cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.





TỔNG CỤC TÌNH BÁO

Cơ quan nghiên cứu về tình hình địch, trực thuộc Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng.

Ngày truyền thống: 25 tháng 10 năm 1945.

Ngày thành lập tổng cục: 18 tháng 9 năm 1992.

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, Phòng Tình báo Bộ Tổng Tham mưu được thành lập ngày 25 tháng 10 năm 1945. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, vừa làm vừa học hỏi; vừa làm, vừa tuyển chọn lực lượng, xây dựng tổ chức..., nên chỉ trong một thời gian ngắn, Phòng Tình báo đã đặt được cơ sở ở 20 tỉnh Bắc Bộ và sáu tỉnh Trung Bộ. Ở Nam Bộ, công tác nắm địch do Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tổ chức và lực lượng tình báo có bước phát triển mới. Ngày 20 tháng 3 năm 1947, Cục Tình báo Bộ Tổng chỉ huy được thành lập. Ở Bộ Tổng Tham mưu, thành lập Phòng 2 - Quân báo. Trong thư gửi hội nghị tình báo toàn quốc ngày 10 tháng 3 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “Tình báo là tai mắt của quân đội, trách nhiệm của nó rất quan trọng”. Binh pháp nói: “biết mình, biết địch, trăm trận đều thắng. Muốn biết địch thì phải có tình báo giỏi; muốn khỏi địch biết ta cũng phải có tình báo giỏi”.

Đầu năm 1950, trước những yêu cầu mới của cuộc kháng chiến, Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ thị đưa một bộ phận của Cục Tình báo tăng cường cho Phòng Quân báo để thành lập Cục Quân báo Bộ Tổng Tham mưu (7-1950). Một bộ phận của Cục Tình báo sáp nhập với Nha Công an để thành lập Ty Tình báo Nha Công an; tháng 5 năm 1951 tổ chức lại thành Nha. Liên lạc trực thuộc Phủ Thủ tướng.

Thực hiện chỉ thị của Bác, công tác tình báo và tổ chức tình báo đã được chấn chỉnh, thống nhất chỉ đạo trong toàn quốc, phát triển nhiều phương thức nắm địch như: điệp báo, trinh sát bộ đội, trinh sát kỹ thuật, nghiên cứu tổng hợp, khai thác tù hàng binh... Lực lượng quân báo luôn bám sát các chiến trường, phục vụ các chiến dịch, góp phần cùng toàn quân, toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, ngày 10 tháng 6 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định thống nhất các tổ chức tình báo và quân báo - thành lập Cục Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Các phương thức nắm địch được phát triển cả chiều rộng, chiều sâu trên các chiến trường. Vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ và thử thách quyết liệt, các lực lượng làm công tác nắm địch đã kiên cường dũng cảm, mưu trí, thu thập được nhiều tin chiến lược, chiến dịch phục vụ quân và dân cả nước đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi.

Đất nước thống nhất, các lực lượng và tổ chức tình báo từng bước được kiện toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả trên tất cả các mặt hoạt động phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, góp phần bảo vệ Tổ quốc, chống âm mưu diễn biến hòa bình, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, các lực lượng và tổ chức tình báo có những yêu cầu cao hơn. Để đáp ứng yêu cầu phục vụ giai đoạn cách mạng mới, ngày 18 tháng 9 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra nghị định thành lập Tổng cục Tình báo - Bộ Quốc phòng.

50 năm xây dựng và hoạt động, ngành tình báo đã trưởng thành vững chắc, lập nhiều chiến công xuất sắc, xây dựng nên những truyền thống rất vẻ vang, được Đảng, Nhà nước tin cậy, nhân dân yêu mến.

Phần thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Độc lập hạng nhất.
- Huân chương Quân công hạng nhất.
- Nhiều Huân chương Chiến công và các phần thưởng cao quý khác.

Trong tổng cục có 12 đơn vị và 14 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có một đơn vị được tuyên dương ba lần.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2022, 02:48:33 pm

THANH TRA BỘ QUỐC PHÒNG

Cơ quan thanh tra quản lý nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng.

Trụ sở: nhà số 30 - phố Điên Biên Phủ - Hà Nội

Ngày thành lập: 25 tháng 1 năm 1948 (Cục Tổng thanh tra thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam).

Từ tổ chức tiền thân là Phòng Kiểm tra Bộ Tổng chỉ huy (1947). Cơ quan thanh tra quân đội đã nhiều lần thay đổi tổ chức và mang những tên gọi khác nhau: Cục Tổng Thanh tra (1948), Đoàn Thanh tra Bộ Quốc phòng (1949), Ban Thanh tra quân đội (1956), Ủy ban Thanh tra quân đội (1971), Tổng Thanh tra quân đội (1980), từ năm 1992 là Thanh tra Bộ Quốc phòng.

Các đồng chí đã từng lãnh đạo, chỉ huy cơ quan thanh tra quân đội qua các thời kỳ: Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (Tổng thanh tra quân đội-1948), Thiếu tướng Trần Tử Binh (Tổng thanh tra quân đội-1956), Trung tướng Nguyễn Đôn (Chủ nhiệm Ủy ban thanh tra quân đội-1971), Trung tướng Trần Quý Hai (Chủ nhiệm, Ủy ban thanh tra quân đội - 1973), Thượng tướng Lê Quang Hòa (Tổng thanh tra quân đội-1980), Thượng tướng Hoàng Cầm (Tổng thanh tra quân đội-1987).

Từ ngày thành lập, cơ quan thanh tra quân đội đã tổ chức hàng nghìn cuộc thanh tra, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quân sự, quốc phòng và phục vụ cho các nhiệm vụ kinh tế, xã hội cấp thiết, theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, góp phần xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

Cơ quan thanh tra quân đội đã soạn thảo các văn bản pháp quy về thanh tra quân đội như: Điều lệ công tác thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam; Quy chế công tác thanh tra trong lực lượng vũ trang; Quy chế tổ chức và hoạt động thanh tra quốc phòng; thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh khiếu nại, tố cáo trong quân đội; tham gia soạn thảo pháp lệnh thanh tra Nhà nước và pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân...

Hai phái viên thanh tra quân đội đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ tại chiến trường trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước.

Phần thưởng:
Huân chương Quân công hạng nhất.
Huân chương Chiến công hạng hai và nhiều phần thưởng cao quý khác.





VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG

Cơ quan thuộc cơ cấu Viện Kiếm sát nhân dân tối cao, thực hiện chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong quân đội.

Trụ sở: nhà số 2 - phố Lý Nam Đế - Hà Nội.

Ngày thành lập: 12 tháng 5 năm 1961.

Ngày truyền thống: 26 tháng 7 năm 1960.

Các đồng chí đã từng được cử làm Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương: Thiếu tướng Lê Quang Đạo (1961 - 1962), Đại tá Lê Đình Thiệp (1962 - 1967), Thiếu tướng Nguyễn Văn Nam (1967 - 1978), Thiếu tướng Đoàn Quang Thìn (1978-1982).

Những năm 1946 - 1960, trong hệ thống tòa án binh các cấp đã có ủy viên công tố, thực hiện quyền công tố nhà nước. Từ năm 1961, căn cứ vào Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 và Luật tổ chức Việt kiểm sát nhân dân năm 1960, hệ thống các viện kiểm sát quân sự trong đó có Viện Kiểm sát quân sự Trung ương được thiết lập, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổng cục trực thuộc Bộ Quốc phòng, các quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn và cấp tương đương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan điều tra trong quân đội, trong việc xét xử các vụ án hình sự của tòa án quân sự; trong việc thi hành án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; trong việc giam giữ, cải tạo và phạt giam kỷ luật quân nhân; chỉ đạo viện kiểm sát quân sự các cấp thực hiện các mặt công tác kiểm sát và xây dựng ngành.

Từ năm 1961 đến năm 1991, viện Kiểm sát quân sự Trung ương đã tiến hành và chỉ đạo toàn ngành thực hiện hơn 6.300 cuộc kiểm sát việc chấp hành pháp luật, kiểm sát điều tra; xử lý trên 37.000 vụ án hình sự; góp phần đấu tranh phòng và chống vi phạm, tội phạm, làm trong sạch nội bộ; giáo dục cán bộ, chiến sĩ sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật, trả lại cho Nhà nước và quân đội hàng tỷ đồng do hành vi vi phạm và phạm tội gây ra.

Phần thưởng:
- Huân chương Quân công hạng hai.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng.





TÒA ÁN QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG

Cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức trong quân đội thuộc cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân tối cao. Bộ phận cao nhất của hệ thống tổ chức tòa án quân sự.

Có nhiệm vụ:

+ Xét xử theo các trình tự:

- Sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, những vụ án mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi khởi tố có quân hàm cấp tướng hoặc là người có chức vụ chỉ huy trưởng sư đoàn, cục trưởng và cấp tương đương trở lên, những vụ án thuộc thẩm quyền tòa án quân sự quân khu và tương đương nhưng Tòa án quân sự Trung ương lấy lên để xét xử.

- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của các tòa án quân sự cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị

- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các tòa án quân sự cấp dưới trực tiếp bị kháng nghị.

+ Giám đốc việc xét xử của các tòa án quân sự cấp dưới.

+ Hướng dẫn cụ thể việc áp dụng thống nhất pháp luật tại các tòa án quân sự.

+ Tổng kết kinh nghiệm xét xử của các tòa án quân sự.

+ Tổ chức thực hiện và hướng dẫn thực hiện công tác thi hành án hình sự và dân sự nảy sinh trong vụ án hình sự (năm 1993 giao công tác thi hành án dân sự cho tổ chức thi hành án trực thuộc Bộ Quốc phòng).

Trụ sở: nhà số 25, phố Lý Nam Đế - Hà Nội.

Ngày thành lập, đồng thời là ngày truyền thống: 13 tháng 9 năm 1945.

Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời, ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập Tòa án quân sự. Ngày 23 tháng 8 năm 1946, Chủ tịch nước ra sắc lệnh (số 163) thành lập Tòa án binh lâm thời. Ngày 25 tháng 4 năm 1947, Chủ tịch nước ra sắc lệnh thành lập Tòa án binh tối cao.

Ngày 21 tháng 2 năm 1961, Bộ Tổng Tham mưu ra quyết định (số 165) quy định tạm thời biên chế ngành tòa án quân sự, trong đó có Tòa án quân sự Trung ương.

Trước năm 1961, chỉ khi có vụ án thì Bộ trưởng Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Tư pháp cử ra chánh án và hai hội thẩm để xét xử. Cán bộ làm công tác tòa án là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy kiêm nhiệm.

Từ năm 1961 đến nay, các đồng chí đã được cử làm Chánh án Tòa án quân sự Trung ương là: Trung tướng Trần Văn Trà, Đại tá Lê Hiền, Thiếu tướng Tô Ký, Đại tá Nguyễn Đình Tùng, Thiếu tướng Trần Thế Môn, Thiếu tướng Nguyễn Trường Châu, Trung tướng Nguyễn Huân...

Tòa án quân sự Trung ương đã trực tiếp tổ chức xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng phức tạp; xét xử phúc thẩm hàng nghìn vụ án; xét xử giám đốc nhiều vụ án.

Tòa án Quân sự Trung ương đã tham gia xây dựng một số văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành; tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật tại các tòa án quân sự, xuất bản nhiều tập sách hệ thống hóa các văn bản cần thiết cho việc xét xử của tòa án quân sự và các văn bản khác về tuyên truyền giáo dục pháp luật, thi hành án, bồi dưỡng hội thẩm quân nhân; ban hành quy chế hoạt động các mặt của các cấp tòa án quân sự, xây dựng nhiều chuyên đề về thực hiện các trình tự tố tụng sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm; hướng dẫn xét xử các loại tội và về thi hành án.

Tòa án quân sự Trung ương đã mở nhiều lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành và bồi dưỡng hội thẩm quân nhân; giúp Tòa án quân sự Lào và Tòa án quân sự Cam-pu-chia trong việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác xét xử và kinh nghiệm hoạt động của tòa án quân sự.

Phần thưởng:
- Huân chương Quân công hạng hai.
- Huân chương Chiến công hạng ba (khen thưởng cho phòng nghiên cứu xét xử).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:41:47 pm

QUÂN KHU THỦ ĐÔ

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ trên địa bàn thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập quân khu: 5 tháng 3 năm 1979.

Những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, địa bàn Hà Nội ngày nay được tổ chức thành ba liên khu (1, 2 và 3) ở nội thành, năm khu ngoại thành; sau đó tổ chức thành chiến khu Hà Nội (1946-1947); Mặt trận Hà Nội (1948 - 1954). Miền Bắc giải phóng, tổ chức quân sự trên địa bàn Hà Nội là thành đội, sau đó tổ chức thành Bộ Tư lệnh Thủ Đô và từ năm 1979 là Quân khu Thủ Đô.

Thời kỳ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, trên địa bàn Thủ đô đã ra đời một số tổ chức vũ trang cách mạng như Đội tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu, các đội tự vệ chiến đấu, công nhân xung phong, thanh niên xung phong... Các tổ chức vũ trang này đã cùng toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô, thúc đẩy Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Mở đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nhân dân và các lực lượng vũ trang Thủ đô đã chiến đấu anh dũng, kìm giữ, giam chân địch ở nội thành 60 ngày đêm, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của quân và dân cả nước, bảo đảm cho Trung ương và Chính phủ rút lên căn cứ địa Việt Bắc tổ chức cả nước kháng chiến lâu dài. Nằm trong vùng tạm bị địch chiếm, quân và dân Thủ đô vẫn tiếp tục xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và vũ trang, tổ chức những trận tập kích táo bạo vào sân bay Bạch Mai (1950), Gia Lâm (1954), phối hợp với các chiến trường cả nước, đặc biệt là trong Đông-Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thủ đô Hà Nội là linh hồn, trung tâm đầu não lãnh đạo và chỉ huy cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam của quân và dân cả nước. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, nhân dân và các lực lượng vũ trang Thủ đô đã cùng các lực lượng phòng không - không quân đánh hàng nghìn trận, bắn rơi hàng trăm máy bay phản lực hiện đại của đế quốc Mỹ, đưa cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không lên một trình độ mới, đỉnh cao là chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối năm 1972 đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” vĩ đại. Hướng về miền Nam ruột thịt, gần chín vạn thanh niên Thủ đô đã lên đường chiến đấu, 42 tiểu đoàn được tổ chức, huấn luyện tăng cường cho các chiến trường.

Sau thắng lợi của 30 năm chiến tranh giải phóng, Hà Nội, Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” và ngày càng đổi mới. Cùng với quân và dân cả nước, lực lượng vũ trang Thủ đô đã góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng theo phương hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Thủ đô.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Một đơn vị và 18 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






QUÂN KHU 1

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ ở phía bắc của Tổ quốc, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập: 4 tháng 6 năm 1945 (ngày thành lập Khu giải phóng Việt Bắc).

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, trên địa bàn Quân khu 1 ngày nay đã hình thành khu giải phóng gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Thời kỳ 1945-1946, tổ chức thành chiến khu 1; năm 1947, tách ra thành hai chiến khu (1 và 12), từ đầu năm 1948 sáp nhập thành Liên khu 1, năm 1949 - 1956 gọi là Liên khu Việt Bắc, từ 1957 - 1975 là Quân khu Việt Bắc.

Quân khu 1 được tổ chức từ năm 1976, gồm bốn tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Bắc, diện tích 27.735 ki-lô-mét vuông, gồm ba vùng (núi, trung du, đồng bằng) với tài nguyên phong phú, là nơi cư trú của 19 dân tộc. Phía bắc quân khu giáp Trung Quốc, phía nam là Quân khu Thủ Đô, phía đông là Quân khu 3 và phía tây là Quân khu 2.

Thời kỳ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền tháng Tám năm 1945, đây là vùng căn cứ cách mạng, khu giải phóng, là nơi ra đời các tổ chức vũ trang đầu tiên, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc, là chiến khu kháng chiến của cả nước, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo, chỉ huy toàn quốc kháng chiến, nơi ra đời và địa bàn đứng chân của các đơn vị chủ lực, hậu phương lớn và trực tiếp của các chiến dịch, các mặt trận. Quân và dân quân khu đã lập nên chiến thắng Việt Bắc (Thu-Đông 1947), bảo vệ căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, tiếp đó là chiến thắng Biên Giới (Thu - Đông 1950) tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến và đã cùng cả nước lập nên chiến thắng Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 1 vừa tích cực tham gia xây dựng và chiến đấu bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc (đánh hàng trăm trận, phối hợp với bộ đội phòng không chủ lực, bắn rơi 316 máy bay phản lực hiện đại (có 2 chiếc B.52), rà phá 802.722 quả bom, mìn), giữ vững sự ổn định của hậu phương và các con đường ra tiền tuyến; vừa động viên lớn sức người, sức của chi viện chiến trường miền Nam (tổ chức và đưa vào chiến trường 4 trung đoàn, 252 tiểu đoàn, 13 đại đội, 4 trung đội chuyên môn kỹ thuật (tương đương 16 sư đoàn bộ binh) và hàng vạn quân bổ sung).

Đất nước thống nhất, Quân khu 1 trở thành tuyến đầu. Nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chiến thắng vẻ vang trong cuộc chiến đấu chống xâm lược năm 1979 và các hành động lấn chiếm của đối phương; đồng thời tích cực xây dựng quân khu thành địa bàn vững chắc về chính trị, phát triển về kinh tế, văn hóa, mạnh về quốc phòng, an ninh.

Nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang Quân khu 1 xứng đáng với lời khen của Bác Hồ: “Cách mạng đã do Việt Bắc mà thành công thì kháng chiến đã do Việt Bắc mà thắng lợi”.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- 25 đơn vị và 98 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương và phần thưởng cao quý khác.






QUÂN KHU 2

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ ở Tây Bắc Tổ quốc, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày truyền thống: 19 tháng 10 năm 1946.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược của thực dân pháp, vùng tây bắc được tổ chức thành hai chiến khu 1 và 2. Năm 1946 - 1948 đổi là khu 10 và khu 14, sau đó sáp nhập thành Liên khu 10 (1948-1949), nhập vào Liên Khu Việt Bắc (từ 1949-1952), lập Khu Tây Bắc gồm các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La (1952-1954); Quân khu Tây Bắc (1955 - 1975), sáp nhập vào Quân khu 1 (1976-1978) và tổ chức thành Quân khu 2 (từ 1978).

Địa bàn Quân khu 2 gồm bảy tỉnh tây bắc Bắc Bộ (Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Sơn La, Lai Châu), diện tích 65.102 ki-lô-mét vuông, gồm ba vùng (núi, trung du, đồng bằng) với tài nguyên phong phú, là nơi cư trú của hơn 30 dân tộc anh em. Phía bắc quân khu giáp Trung Quốc, phía đông và nam là các quân khu 1, 3, 4 và Thủ Đô.

Kháng chiến chống Pháp, tây bắc là địa bàn sớm xuất hiện các hoạt động vũ trang, là chiến trường rèn luyện bộ đội đánh vận động trong các chiến dịch quy mô (1948 - 1950) và là nơi diễn ra các chiến dịch lớn, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc chiến tranh. Nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang Tây Bắc vừa chiến đấu, vừa phục vụ bộ đội chủ lực trong các chiến dịch, đồng thời tham gia các chiến dịch của Liên quân Lào - Việt ở Thượng Lào.

Miền Bắc giải phóng, tây bắc được xây dựng, phát triển nhanh chóng về kinh tế, văn hóa, phát huy vai trò hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam và chiến trường Lào. Nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu đã đánh hàng trăm trận, phối hợp với bộ đội phòng không chủ lực bắn rơi 339 máy bay phản lực hiện đại (có 2 chiếc B.52), góp phần bảo vệ miền Bắc, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, phát huy vai trò hậu phương lớn đối với các chiến trường miền Nam và Lào (động viên 209.000 thanh niên vào quân đội). Các sư đoàn chủ lực quân khu đã tham gia nhiều chiến dịch trên chiến trường Lào, đồng thời tăng cường nhiều đơn vị vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía bắc, nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu đã lập nhiều chiến công xuất sắc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Phát huy truyền thống “Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, gắn bó với dân, đoàn kết chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, tự lực tự cường, hăng say học tập, đoàn kết quốc tế”, các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Quân khu 2 đang nỗ lực phấn đấu xây dựng tây bắc giàu đẹp, vững mạnh về chính trị và an ninh, quốc phòng.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- 47 đơn vị và 59 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.






QUÂN KHU 3

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ ở đông bắc và đồng bằng châu thổ sông Hồng, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh.

Ngày thành lập: 31 tháng 10 năm 1945 (thành lập Chiến khu 3).

Năm 1952, tách thành hai khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn (từ năm 1955 đổi là quân khu). Năm 1964 sáp nhập hai quân khu thành Quân khu 3. Đến năm 1967 lại tách thành hai quân khu. Sau ngày miền Nam được giải phóng, Quân khu 3 được thành lập lại trên cơ sở hai Quân khu Tả Ngạn, Hữu Ngạn, gồm bảy tỉnh (Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Hưng, Ninh Bình, Nam Hà, Hà Tây, Hòa Bình) và thành phố Hải Phòng. Với diện tích tự nhiên 16.000 ki-lô-mét vuông, địa hình Quân khu 3 rất đa dạng, gồm phần lớn là đồng bằng trù phú, vùng trung du và miền núi. Quân khu 3 còn có vùng biển rộng lớn gồm nhiều đảo và quần đảo, sản vật phong phú, cư dân đông đúc, có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế. Nằm ở cửa ngõ vùng đông bắc của Tổ quốc, nối liền với Thủ đô Hà Nội ở phía tây, có vùng biển rộng ở phía đông, giáp Trung Quốc ở phía bắc, Quân khu 2 và Quân khu 4 ở phía tây và phía nam, Quân khu 3 có vị trí chiến lược rất quan trọng.

Thời kỳ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, trên địa bàn Quân khu 3 ngày nay đã hình thành một số chiến khu cách mạng (Trần Hưng Đạo ở Đông Triều, Quang Trung ở vùng tiếp giáp ba tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa) và nhiều tổ chức vũ trang cách mạng.

Kháng chiến chống thực dân Pháp, Khu 3 là vùng tạm bị địch chiếm, là chiến trường giành giật quyết liệt giữa ta và địch. Phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn quân khu phát triển mạnh, vừa kìm giữ, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch phối hợp với các chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực, vừa là nơi diễn ra nhiều chiến dịch như Trần Hưng Đạo, Đường số 18, Hà-Nam-Ninh, Hòa Bình...

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân khu 3 là mặt trận chiến đấu quyết liệt chống chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa của địch. Lực lượng vũ trang trên địa bàn quân khu đã phát triển cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, đánh 16.089 trận, góp phần cùng lực lượng phòng không - không quân và hải quân bắn rơi 1.526 máy bay phản lực hiện đại (có 10 chiếc B.52), bắn chìm và cháy 75 tàu chiến, tháo gỡ và phá hủy 68.972 quả thủy lôi, mìn từ trường, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn, cửa ngõ tiếp nhận viện trợ quốc tế của miền Bắc và các con đường vận tải chiến lược đường bộ, đường biển vào chiến trường. Là địa bàn đông dân, nhiều của, nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 3 đã nêu cao khẩu hiệu “Thóc thừa cân, quân thừa người” động viên hơn 1,2 triệu lượt thanh niên vào quân đội, xây dựng 10 sư đoàn, hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn và hàng chục vạn quân bổ sung cho các chiến trường; huy động hàng chục vạn tấn lương thực thực phẩm và vật chất khác ra tiền tuyến.

Đất nước thống nhất, nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, xây dựng Quân khu 3 thành địa bàn vững chắc về chính trị, quốc phòng và an ninh, phát triển nhanh về kinh tế và văn hóa, cùng quân và dân cả nước giành thắng lợi to lớn trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang quân khu ra sức xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, nâng cao sức mạnh chiến đấu toàn diện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân, đồng thời tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng đất nước.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- 60 đơn vị và 257 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:44:48 pm

QUÂN KHU 4

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ ở phía bắc Trung Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập: 15 tháng 10 năm 1945.

Là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh; những năm kháng chiến chống Pháp, tổ chức thành Chiến khu 4 (1945 - 1946), Khu 4 (1946 - 1950), Liên khu 4 (1950 - 1954) gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Những năm 1955 - 1976, Quân khu 4 gồm ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Đặc khu Vĩnh Linh. Từ năm 1976, địa bàn Quân khu 4 gồm sáu tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) có diện tích đất liền 56.062 ki-lô-mét-vuông và vùng biển rộng lớn, nơi cư trú của 49 dân tộc anh em. Phía bắc Quân khu 4 là Quân khu 2 và Quân khu 3, phía nam là Quân khu 5, phía tây giáp Lào và phía đông là Biển Đông.

Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Bình-Trị-Thiên là chiến trường giành giật, quyết liệt giữa ta và địch, nơi ra đời sư đoàn bộ binh 325 (sư đoàn Bình-Trị-Thiên) và sư đoàn 304 (sư đoàn Vinh Quang). Các tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh là vùng tự do, hậu phương trực tiếp của Mặt trận Bình-Trị-Thiên và chiến trường chính Bắc Bộ. Với tinh thần tự lực, tự cường, nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 4 vừa anh dũng chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ hậu phương, phối hợp chiến trường, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường Bắc Bộ và Trung-Hạ Lào, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đỉnh cao là cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân khu 4 vừa là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, đặc biệt là Trị - Thiên và chiến trường Lào, là cửa khẩu của tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, vừa là tuyến đầu của cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc và phát huy vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu đã tổ chức và phát triển lên một trình độ mới cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không, chiến tranh nhân dân, toàn dân trên mặt trận giao thông vận tải, cùng lực lượng phòng không chủ lực và không quân, pháo binh đánh hàng vạn trận, bắn rơi 2.183 máy bay phản lực hiện đại, 258 lần bắn cháy và bắn chìm tàu chiến Mỹ, tàu biệt kích ngụy, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn của địch, giữ vững các con đường ra mặt trận, chi viện lớn sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ quốc tế.

Thời kỳ xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, ra sức xây dựng, phát triển tiềm lực kinh tế, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang quân khu theo hướng chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại, đồng thời tích cực tham gia lao động sản xuất xây dựng đất nước.

Phân thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- Hai Huân chương Độc lập và nhiều huân chương cao quý khác.
- 56 đơn vị bộ đội chủ lực khu, 20 đơn vị bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang và nhân dân 73 địa phương và 97 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân1.





QUÂN KHU 5

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ ở miền Trung, miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập: tháng 1 năm 1949 (hợp nhất Chiến khu 5, Chiến khu 6 và Phân khu 15 thành Liên khu 5).

Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, địa bàn Quân khu V được tổ chức thành Chiến khu 5 (gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Công Tum, Gia Lai); Chiến khu 6 (gồm các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng) và Phân khu 15 (gồm các tỉnh Công Tum, Gia Lai, các vùng phía tây tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi). Trong kháng chiến chống Mỹ, Khu 5 gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên (tháng 4-1966, thành lập Quân khu Trị-Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình định, Phú Yên; Khu 6 gồm các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng; Mặt trận Tây Nguyên (B3) gồm các tỉnh Gia Lai, Công Tum, Đắc Lắc.

Hiện nay, Quân khu 5 gồm 11 tỉnh (Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Công Tum, Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng), diện tích tự nhiên và nội địa 100.336 ki-lô-mét vuông, thềm lục địa rộng 200.000 ki-lô-mét vuông, với bờ biển dài 1.077 ki-lô-mét, có hai huyện đảo (Trường Sa, Hoàng Sa), trên 100 đảo lớn nhỏ, là địa bàn cư trú của 43 dân tộc. Phía bắc quân khu là Quân khu 4, phía nam là Quân khu 7, phía tây giáp hai nước Lào, Cam-pu-chia, phía đông là Biển Đông.

Trước Cách mạng tháng Tám, trên địa bàn Quân khu 5 đã xuất hiện một số tổ chức vũ trang do Đảng tổ chức và lãnh đạo (đội du kích Ba Tơ thành lập ngày 12-3-1945). Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Khu 5 có bốn tỉnh vùng tự do (Nam, Ngãi, Bình, Phú) và vùng du kích địch hậu, nơi giành giật quyết liệt giữa ta và địch. Nhân dân và lực lượng vũ trang quân khu đã đánh trên 15.000 trận, mở một số chiến dịch và đợt hoạt động, loại khỏi vòng chiến đấu 82.320 tên địch (phần lớn là lính Âu-Phi), diệt 478 cứ điểm, đồn bốt, thu và phá hủy 20.142 khẩu súng các loại, 1.497 xe quân sự, 696 tấn đạn, 36 máy bay. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954, quân và dân Khu 5 đã mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên, giải phóng thị xã Công Tum (5-2-1954), diệt binh đoàn cơ động số 100... phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ và các chiến trường toàn quốc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang Khu 5 đã nêu cao truyền thống tự lực tự cường, vượt qua mọi khó khăn thử thách, xây dựng lực lượng và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh vũ trang, mở đầu là khởi nghĩa Trà Bồng và khởi nghĩa giành quyền làm chủ ở các thôn xã miền núi, đưa phong trào cách mạng lên thế tiến công. Kiên trì bám đất, bám dân, sáng tạo cách đánh thích hợp và có hiệu quả, lực lượng vũ trang quân khu và các tỉnh, huyện đã độc lập tác chiến và phối hợp với chủ lực của Bộ đánh bại nhiều biện pháp chiến thuật của Mỹ - ngụy, nêu cao tinh thần dám đánh và biết cách đánh quân Mỹ. Cho đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, lực lượng vũ trang quân khu đã đánh hàng nghìn trận, tham gia nhiều chiến dịch (tiến công, phản công, tiến công tổng hợp...) đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục vạn quân Mỹ, ngụy và chư hầu, thu và phá hủy một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch, góp phần giành toàn thắng cho cuộc kháng chiến.

Đất nước thống nhất, nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 5 cùng cả nước bước vào thời kỳ mới, kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng các pháo đài quân sự huyện, khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc; tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên hướng tây nam và làm nhiệm vụ quốc tế.

Trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng, tiếp đó là chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, 166.000 người con ưu tú của các dân tộc Khu 5 đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc (có 74.679 quân nhân), 75.030 thương binh. Với tinh thần đền ơn, đáp nghĩa, quân khu đã quy tập được 161.236 mộ liệt sĩ trên địa bàn quân khu, xây dựng 6.197 nhà và sửa chữa 1.139 nhà tình nghĩa.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- Ba Huân chương Hồ Chí Minh.
- Bảy tỉnh, một đơn vị được tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
- Năm tỉnh, ba đơn vị và 141 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (trong đó một đơn vị được tuyên dương ba lần).
- 185 Huân chương Quân công giải phóng và 96.629 Huân chương Chiến công giải phóng.





QUÂN KHU 7

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, có vị tri chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập: 10 tháng 12 năm 1945.

Trải qua gần 50 năm xây dựng và chiến đấu giải phóng, tiếp đó là bảo vệ Tổ quốc, địa bàn và tên gọi của quân khu có nhiều thay đổi. Những năm 1945 - 1948 và 1949 - 1950 là Khu 7. Năm 1948 - 1949 và 1950-1951 tách thành Khu 7 và Khu (Đặc khu) Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ 1951 đến 1954 là Phân liên khu miền Đông và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ 1954 đến 1967 tổ chức Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định. Những năm 1968 - 1972, chia thành các phân khu 1, 2, 3, 4, 5, và 6 (nội thành Sài Gòn). Từ năm 1972 đến 1976 tổ chức lại Quân khu 7 và Khu Sài Gòn - Gia Định.

Địa bàn Quân khu 7 ngày nay gồm thành phố Hồ Chí Minh và năm tỉnh (Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sông Bé, Tây Ninh, Long An), diện tích 31.930 ki-lô-mét vuông, gồm vùng rừng núi, đồng bằng và đô thị. Phía đông bắc, Quân khu 7 tiếp giáp với Quân khu 5, phía tây giáp Quân khu 9, phía bắc và tây-bắc giáp Cam-pu-chia, phía đông nam là Biển Đông.

Chưa tròn một tháng sau ngày thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân và các lực lượng vũ trang Nam Bộ đã kiên quyết đứng lên chiến đấu, mở đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược. Trong quá trình chiến đấu ngăn chặn và tiến công tiêu diệt địch, lực lượng vũ trang Khu 7 từng bước thống nhất về tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhanh chóng phát triển lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng tạm bị địch chiếm, sáng tạo cách đánh đặc công có hiệu suất cao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ và các chiến trường toàn quốc.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Đông Nam Bộ là chiến trường có vị trí đặc biệt, quan trọng, là nơi đứng chân của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, nơi ra đời và hoạt động của nhiều sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng. Cùng với các đơn vị chủ lực Miền, lực lượng vũ trang quân khu và các địa phương đã kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh sâu vào hậu cứ, cơ quan đầu não địch ở Sài Gòn, đánh bại từng biện pháp chiến thuật và góp phần cùng các chiến trường làm thất bại nhiều chiến lược chiến tranh của địch. Quân và dân quân khu 7 đã lập nhiều chiến công xuất sắc trong các chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài, trong chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhân dân và các lực lượng vũ trang quân khu đã khẩn trương khôi phục, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị ở thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương. Cùng với các đơn vị bạn và được sự chi viện của cả nước, quân và dân quân khu đã kiên quyết đánh trả hành động xâm lược của địch, giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng vũ trang quân khu đang ra sức xây dựng, nâng cao trình độ chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và lao động sản xuất góp phần xây dựng đất nước, xứng đáng với truyền thống của miền Đông “gian lao mà anh dũng”, của Nam Bộ “Thành đồng của Tổ quốc”.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- 11 Huân chương Hồ Chí Minh (2 cho Quân khu, 9 cho các đơn vị và địa phương).
- 147 đơn vị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





QUÂN KHU 9

Tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ gồm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, địa bàn phía nam của Tổ quốc, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Ngày thành lập: 10 tháng 12 năm 1945.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức thành hai chiến khu (8 và 9). Từ năm 1951 đến 1954, thành hai phân liên khu. Một số tỉnh Khu 8 nhập với Phân liên khu miền Đông. Số còn lại thuộc Phân liên khu miền Tây. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các tỉnh bên tả ngạn sông Hậu được tổ chức thành Liên tỉnh miền Trung (sau tổ chức thành Quân khu 9). Năm 1976, vùng đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức thành Quân khu 9 gồm 10 tỉnh (Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh), diện tích canh tác 2.313.800 héc-ta, phần lớn là đồng bằng phì nhiêu, vựa lúa và cây trái của cả nước. Phía đông-bắc quân khu là Quân khu 7, phía tây và tây-bắc giáp Cam-pu-chia, phía đông, nam và tây-nam là Biển Đông và vùng biển tây nam.

Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bằng sông Cửu Long là chiến trường giành giật quyết liệt giữa ta và địch, các căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười, U Minh sớm hình thành, chiến tranh du kích phát triển mạnh, phân tán và kìm giữ một bộ phận quan trọng sinh lực địch; phối hợp với các chiến trường toàn quốc, đặc biệt là trong cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồng thời là nơi cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân đồng bằng sông Cửu Long đã sáng tạo phương thức “Đồng khởi” rất độc đáo, chuyển từ đấu tranh chính trị là chủ yếu lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang bằng hai chân, ba mũi giáp công, đỉnh cao là loại hình chiến dịch tổng hợp. Nhân dân và các lực lượng vũ trang đồng bằng sông Cửu Long đã đưa cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện lên trình độ rất cao, đánh bại các chiến lược, thủ đoạn chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới với các phương tiện rất hiện đại và nguy hiểm của đế quốc Mỹ; phối hợp nhịp nhàng với các chiến trường trong các chiến dịch, các cuộc tiến công chiến lược, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mùa xuân 1975, phối hợp với chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long trong ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5 năm 1975.

Đất nước thống nhất, nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 9 bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của địch trên biên giới tây nam, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế với nhân dân Cam-pu-chia anh em; vừa tích cực tham gia lao động sản xuất xây dựng đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, vừa nỗ lực xây dựng các lực lượng vũ trang theo phương hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gồm cả vùng trời, vùng biển, hải đảo và đất liền trên địa bàn phía nam của Tổ quốc.

Quá trình xây dựng và chiến đấu, lực lượng vũ trang quân khu đã xây dựng nên truyền thống: Trung thành với Đảng, với Bác Hồ và nhân dân; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quyết chiến quyết thắng; tự lực tự cường, đoàn kết, thủy chung, hết lòng vì nghĩa vụ quốc tế.

Phần thưởng:
- Huân chương Sao vàng.
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- 223 đơn vị và 179 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________________________________________
1. Thời kỳ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc chưa thống kê được số liệu.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:52:08 pm

QUÂN ĐOÀN 1
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh đoàn chủ lực cơ động được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 24 tháng 10 năm 1973.

Tổ chức lực lượng lúc thành lập: ba sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), sư đoàn phòng không 367, các lữ đoàn pháo binh 45, xe tăng 22, công binh 299, trung đoàn thông tin 140 và các cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân đoàn:

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (1973-1974), Thiếu tướng Nguyễn Hòa (1974-1975), Thiếu tướng Lê Nam Phong (1979-1983), Thiếu tướng Nguyễn Kiệm (1983-1988)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Thiếu tướng Lê Quang Hòa (1973-1974), Thiếu tướng Hoàng Minh Thi (1974-1979), Thiếu tướng Đỗ Mạnh Đạo (1979-1985), Thiếu tướng Đỗ Trường Quân (1985-1988), Đại tá Hoàng Ngọc Chiêu (1988-1989)...

- Sư đoàn bộ binh 308 (sư đoàn Quân Tiên Phong) là sư đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta, thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1949 tại Đồn Đu, Đồng Hỉ, Thái Nguyên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, sư đoàn tham gia tất cả các chiến dịch lớn trên chiến trường Bắc Bộ và Thượng Lào, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, sư đoàn tham gia các chiến dịch Khe Sanh (1968), Đường 9-Nam Lào (1971), Trị-Thiên (1972), làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975; từ năm 1979 đến 1989 được xây dựng thành sư đoàn bộ binh cơ giới.

Sư đoàn 308 đã xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp: Kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; đi đầu trong mọi mặt, xung phong nhận nhiệm vụ khó; hành quân thần tốc, tiến công dũng mãnh, liên tục chiến đấu, diệt địch đến cùng.

Su đoàn và 8 đơn vị (có 2 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 2 đại đội) và 8 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Sư đoàn bộ binh 312 (sư đoàn Chiến Thắng), thành lập năm 1950 tại Kim Lăng, Phú Thọ, lấy ngày chiến thắng Xuân Trạch (27 tháng 12 năm 1950) làm ngày truyền thống. Trong kháng chiến chống Pháp, sư đoàn tham gia hầu hết các chiến dịch lớn trên chiến trường chính Bắc Bộ và Thượng Lào; đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu, đánh chiếm Him Lam và khu trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ “Quyết chiến quyết thắng”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sư đoàn đã xây dựng nhiều đơn vị tăng cường cho chiến trường miền Nam, là lực lượng nòng cốt xây dựng sư đoàn 7 (chủ lực Miền), sư đoàn 3 (chủ lực Khu 5). Từ năm 1969-1972, sư đoàn liên tục làm nhiệm vụ quốc tế, tham gia nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường Lào. Mùa xuân 1975, trong đội hình Quân đoàn 1 trên hướng bắc Sài Gòn, sư đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Truyền thống: Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng.

Sư đoàn và 5 đơn vị (2 trung đoàn, 1 tiểu đoàn, 2 đại đội), 8 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Sư đoàn bộ binh 320B được thành lập ngày 23 tháng 8 năm 1965, trên cơ sở các đơn vị nòng cốt của sư đoàn 320 (sư đoàn Đồng Bằng). Năm 1979 đổi phiên hiệu là 390. Từ ngày thành lập đến năm 1971, sư đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện quân tăng cường cho chiến trường miền Nam, năm 1972 tham gia chiến dịch Quảng Trị, năm 1975 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, cùng các đơn vị bạn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.   

Truyền thống: Đoàn kết, nghiêm túc, dũng cảm, chiến thắng.

Sư đoàn và 5 đơn vị (2 trung đoàn, 1 tiểu đoàn, 2 đại đội) và 6 cán bộ chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Sư đoàn phòng không 367 là đơn vị thành lập sớm nhất, có truyền thống chiến đấu rất vẻ vang của Quân chủng Phòng không. Một số đơn vị và nhiều cán bộ đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Là sư đoàn phòng không cơ động, sư đoàn 367 đã tham gia chiến đấu bảo vệ Hà Nội, các tuyến đường chiến lược nam Quân khu 4, tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), chiến dịch Trị - Thiên (1972), chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Sư đoàn đã bắn rơi 687 máy bav các loại, trong đó có 8 chiếc B.52. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh, trừ trung đoàn pháo cao xạ 241, phần lớn lực lượng của sư đoàn trở về đội hình Quân chủng Phòng không.

Sư đoàn và 17 đơn vị (6 trung đoàn, 7 tiểu đoàn, 4 đại đội) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Các đơn vị binh chủng: lữ đoàn pháo binh 45 (từ năm 1986 là lữ đoàn pháo binh 368), lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin 140..., đều là những đơn vị có truyền thống xây dựng và chiến đấu vẻ vang.   

Là binh đoàn chủ lực cơ động được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Quân đoàn 1 vừa làm nhiệm vụ dự bị chiến lược bảo vệ miền Bắc, hậu phương lớn của cả nước, vừa thực hiện cuộc hành quân thần tốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần cùng toàn quân, toàn dân giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Từ năm 1975, Quân đoàn tiếp tục làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ, huấn luyện và bổ sung hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cho các chiến trường và các đơn vị bạn, một số đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Quân đoàn đang ra sức huấn luyện nâng cao khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng quân đoàn chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, kế thừa và phát huy truyền thống “Thần tốc- Quyết thắng

Phần thưởng:

- Quân đoàn, ba sư đoàn bộ binh (308, 312, 390), bốn lữ đoàn binh chủng (241, 368, 299, 202), 16 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, 17 đại đội và 25 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- 19 Huân chương Quân công, 277 Huân chương Chiến công và nhiều phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:54:24 pm

QUÂN ĐOÀN 2
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 17 tháng 5 năm 1974, tại căn cứ Ba Lòng - tỉnh Quảng Trị.

Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: ba sư đoàn bộ binh (304, 325, 324), sư đoàn phòng không 673, các lữ đoàn xe tăng 203, pháo binh 164, công binh 219, trung đoàn thông tin 463 và các cơ quan, đơn vị trực thuộc khác.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân đoàn:

Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái (1974-1975), Thiếu tướng Nguyễn Hữu An (1975-1979), Thiếu tướng Nguyễn Chơn (1979-1982), Thiếu tướng Bùi Công Ái (1983-1988), Thiếu tướng Nguyễn Phúc Thanh (1988-1992)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Thiếu tướng Lê Linh (1974-1978), Thiếu tướng Hùng Phong (1979-1982), Thiếu tướng Mai Thuận (1983-1988) ...

- Sư đoàn bộ binh 304 (sư đoàn Vinh Quang) - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thành lập tháng 2 năm 1950 tại Thọ Xuân, Thanh Hóa. Kháng chiến chống Pháp, tham gia 9 chiến dịch, đánh hơn 200 trận. Kháng chiến chống Mỹ, tham gia các chiến dịch Khe Sanh (1968), Đường 9-Nam Lào (1971), Trị-Thiên (1972), Nông Sơn-Thượng Đức (1974) và chiến dịch Hồ Chí Minh. Là một trong những đơn vị đầu tiên đánh vào Sài Gòn, chiếm dinh Độc Lập.

Truyền thống: Thần tốc, táo bạo, quyết chiến, quyết thắng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Sư đoàn 304 là một trong những sư đoàn thép của Quân đội nhân dân Việt Nam”.

- Sư đoàn bộ binh 325 (sư đoàn Bình-Trị-Thiên) - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thành lập cuối năm 1952 tại Bình-Trị-Thiên1. Kháng chiến chống Pháp, sư đoàn cơ động chiến đấu trên nhiều chiến trường, đặc biệt là ở Trung Bộ và Trung, Hạ Lào, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ “Quyết chiến quyết thắng”. Kháng chiến chống Mỹ, phát triển thành bốn sư đoàn (A. B. C. D) chiến đấu trên nhiều chiến trường ở miền Nam, tham gia nhiều chiến dịch lớn như Trị-Thiên (1972), Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).

Truyền thống: Đoàn kết, kiên cường, thần tốc, táo bạo, quyết thắng.

- Sư đoàn bộ binh 324 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thành lập tháng 7 năm 1955 tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Kháng chiến chống Mỹ, sư đoàn hoạt động nhiều năm trên chiến trường Trị-Thiên. Trong Tổng tiến công nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, sư đoàn tiến công làm chủ, giữ thành Huế 25 ngày đêm; tham gia các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Trị-Thiên (1972), Huế-Đà Nẵng (1975).

Truyền thống: Bám trụ kiên cường, chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, tự lực tự cường, đoàn kết, chiến thắng2.

Các sư đoàn phòng không, lữ đoàn xe tăng, pháo binh, công binh, trung đoàn thông tin đều có bề dày lịch sử và truyền thống, lập nhiều chiến công oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ.

Ngay sau khi thành lập, Quân đoàn 2 đã tham gia các chiến dịch Nông Sơn-Thượng Đức (1974), chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ chí Minh mùa xuân 1975, đánh chiếm dinh Độc Lập, cùng các đơn vị bạn giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Tiếp tục phát huy vai trò và truyền thống binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ, Quân đoàn đã tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên biên giới tây nam, biên giới phía bắc và nhiệm vụ quốc tế, lập nhiều chiến công mới. Hiện nay, cán bộ, chiến sĩ quân đoàn đang nỗ lực phấn đấu xây dựng theo phương hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng kinh tế.

Truyền thống: Thần tốc, Táo bạo, Quyết thắng.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.

- 57 đơn vị và 28 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (9 cá nhân được tuyên dương trong kháng chiến chống Pháp, 35 đơn vị và 15 cá nhân được tuyên dương trong kháng chiến chống Mỹ, 22 đơn vị và 4 cá nhân được tuyên dương trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc).

- Nhiều huân chương các loại và nhiều phần thưởng cao quý khác.
__________________________________________
1. Sư đoàn 325 lấy ngày 11-3-1951 - ngày thắng trận Thanh Hương làm ngày truyền thống.
2. Năm 1976, sư đoàn 324 chuyển thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Sư đoàn bộ binh 968 được điều động về quân đoàn 2. Một thời gian sau, sư đoàn 968 đi làm nhiệm vụ quốc tế nên ngày 15-11-1978, Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 823/QĐ-QP) thành lập sư đoàn 306 thuộc Quân đoàn 2. Năm 1987, sư đoàn 353 thuộc Quân khu 1 chuyển về đội hình Quân đoàn 2, năm 1989 giải thể.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:56:54 pm

QUÂN ĐOÀN 3
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 27 tháng 3 năm 1975 tại Tây Nguyên.

Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: ba sư đoàn bộ binh (316, 320A, 10), các trung đoàn pháo binh 674, phòng không 312, xe tăng 273, đặc công 198, công binh 545, thông tin 29 và các cơ quan, đơn vị trực thuộc1.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân đoàn:

Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng (1975-1977), Đại tá (sau là Thiếu tướng) Nguyễn Kim Tuấn (1977-1979), Đại tá Nguyễn Quốc Thước (1979-1984), Đại tá (sau là Thiếu tướng) Khuất Duy Tiến (1984-1990), Thiếu tướng Trần Tất Thanh (1990-1991), Đại tá Lê Quang Bình (1991-1993)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Đại tá Đặng Vũ Hiệp (1975-1977), Đại tá Phí Triệu Hàm (1977-1978), Thiếu tướng Phạm Sinh (1978-1979), Đại tá Hà Quốc Toản (1979-1987), Đại tá Tiêu Văn Mẫn (1988-1990)..;

- Sư đoàn bộ binh 316 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thành lập tháng 5-1951, tại Lạng Sơn. Kháng chiến chống Pháp, tham gia nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường chính Bắc Bộ, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng cờ “Quyết chiến quyết thắng”. Kháng chiến chống Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế trong nhiều năm trên chiến trường Lào, tham gia nhiều chiến dịch như Nậm Thà (1962), Đường 9 - Nam Lào (1971), Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975)...

Truyền thống: Triệt để cách mạng, dũng cảm kiên cường, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, bền bỉ vững chắc, trung thực vô tư, khiêm tốn đoàn kết, chủ động sáng tạo.

- Sư đoàn bộ binh 320 (Sư đọàn Đồng Bằng) - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương hai lần), thành lập tháng 4-1951 tại Nho Quan, Ninh Bình. Kháng chiến chống Pháp liên tục chiến đấu ở chiến trường địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, tham gia nhiều chiến dịch lớn, góp phần phát triển chiến tranh du kích, phối hợp với mặt trận chính. Kháng chiến chống Mỹ phát triển thành hai sư đoàn (A và B)2 cơ động chiến đấu ở chiến trường Trị-Thiên, tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), chiến dịch Trị-Thiên (1972), các chiến dịch Tây Nguyên và Hồ Chí Minh (1975).

Truyền thống: Đoàn kết, nghiêm túc, dũng cảm, chiến thắng.

- Sư đoàn bộ binh 10 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương hai lần), thành lập tháng 9 năm 1972, tại Tây Nguyên. Kháng chiến chống Mỹ tham gia nhiều chiến dịch và trận đánh nổi tiếng trên chiến trường Tây Nguyên, Khu 5, đặc biệt là trong chiến dịch Tây Nguyên (3-1975) và chiến dịch Hồ Chí Minh.

Truyền thống: Đoàn kết, thống nhất, kiên cường, quyết thắng.

Các trung đoàn, đơn vị, binh chủng đều được xây dựng từ sớm, có truyền thống chiến đấu và chiến thắng vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Được tổ chức thành quân đoàn ngay trong quá trình phát triển của chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 đã thực hiện xuất sắc trận mở đầu Buôn Ma Thuột, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên và một số tỉnh miền Trung Trung Bộ, tạo ra sự đổ vỡ chiến lược của địch, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975; tiếp đó tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng chú yếu của chiến dịch, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tổng tham mưu quân ngụy và nhiều mục tiêu quan trọng khác, góp phần giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam.

Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, Quân đoàn tiếp tục chiến đấu, lập thêm nhiều chiến công mới trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam, phía bắc và làm nhiệm vụ quốc tế; xây dựng quân đoàn chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia lao động sản xuất xây dựng đất nước.

Truyền thống: Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực.

Phần thưởng:
- 58 đơn vị và 26 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (có 11 đơn vị được tuyên dương lần thứ hai).
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Độc Lập.
- Nhiều Huân chương Quân công, Chiến công và phần thưởng cao quý khác.
___________________________________________
1. Tháng 6-1976, Bộ điều sư đoàn 316 về trực thuộc Quân khu 2, sư đoàn bộ binh 31 về trực thuộc Quân đoàn 3 (3-1978).
2. Sư đoàn 320B thuộc Quân đoàn 1 sau đổi phiên hiệu là 390.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 08:58:48 pm

QUÂN ĐOÀN 4
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 20 tháng 7 năm 1974 tại miền Đông Nam Bộ.

Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: hai sư đoàn bộ binh 7 và 9, các trung đoàn pháo binh 24, phòng không 71, đặc công 429, thông tin 69 và các cơ quan, đơn vị trực thuộc1.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân đoàn:

Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Cầm (1974-1977, từ 1977-1981 là Tư lệnh kiêm Chính ủy), Đại tá Nguyễn Văn Quảng (1981-1982), Thiếu tướng Võ Văn Dần (1982-1988), Thiếu tướng Vũ Văn Thược (1988-1991)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (1975-1977), Thiếu tướng Hoàng Kim (1984-1988), Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh (1988-1990)...

- Sư đoàn bộ binh 9 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương hai lần) thành lập tháng 9 năm 1965 tại miền Đông Nam Bộ, trên cơ sở các trung đoàn chủ lực đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ. Là sư đoàn chủ lực cơ động của Bộ và Bộ Tư lệnh Miền được thành lập sớm nhất trên chiến trường, có truyền thống chiến đấu và chiến thắng rất oanh liệt. Sư đoàn 9 đã tham gia 18 chiến dịch, đánh trên một vạn trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nổi bật là chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti của quân Mỹ (1967), đánh vào Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công 1968, chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), đánh vào Sài Gòn lần thứ hai, chiếm biệt khu Thủ Đô ngụy trong chiến dịch Hồ Chí Minh... Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam và làm nhiệm vụ quốc tế, sư đoàn lập nhiều chiến công xuất sắc, được tuyên dương “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" lần thứ hai.

Truyền thống: Đoàn kết, khiêm tốn, đi là chiến thắng, đánh là diệt gọn.

- Sư đoàn bộ binh 7 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương hai lần) thành lập tháng 6 năm 1966 tại miền Đông Nam Bộ, trên cơ sở các trung đoàn có truyền thống chiến đấu của sư đoàn 312 (sư đoàn Chiến thắng). Kháng chiến chống Mỹ, sư đoàn tham gia nhiều chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Nguyễn Huệ (1972) và chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975. Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây nam và làm nhiệm vụ quốc tế, sư đoàn lập tiếp nhiều chiến công mới xuất sắc, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ hai.

Truyền thống: Đoàn kết, anh dũng, chiến thắng.

- Sư đoàn bộ binh 341 (sư đoàn Sông Lam) - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương hai lần), thành lập năm 1962 tại Nam Đàn, Nghệ An, trên cơ sở lữ đoàn 341. Năm 1965, sư đoàn phát triển hoàn chỉnh, sau đó lần lượt được điều động từng trung đoàn vào miền Nam chiến đấu. Năm 1972, thành lập lại sư đoàn. Trong đội hình Quân đoàn 4, sư đoàn lập chiến công xuất sắc trong trận Xuân Lộc và nhiều trận đánh ở cửa ngõ Sài Gòn, cùng các đơn vị bạn đánh chiếm các mục tiêu trong nội thành, góp phần giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam.

Truyền thống: Trung thành vô hạn, kỷ luật nghiêm minh, quyết chiến quyết thắng.

- Sư đoàn bộ binh 339 (nguyên thuộc Quân khu 9) và sư đoàn bộ binh 309 (nguyên thuộc Quân khu 5) đứng trong đội hình Quân đoàn 4 đều là những đơn vị có truyền thống vẻ vang trong chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế.

Các trung đoàn binh chủng trong đội hình quân đoàn đều ra đời và trưởng thành trên chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, lập nhiều chiến công oanh liệt trong chiến đấu và bảo đảm, phục vụ chiến đấu.

Được thành lập trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh giải phóng, nhưng các đơn vị của Quân đoàn 4 có quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành gắn liền với sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Tiếp theo thắng lợi giòn giã trong chiến dịch Đường số 14 - Phước Long (đông - xuân 1974-1975), Quân đoàn đẩy mạnh hoạt động, vừa có ý nghĩa phối hợp chiến trường (với chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng) theo kế hoạch tác chiến chiến lược, vừa tạo địa bàn đứng chân, tập kết lực lượng và mở các hướng tiến công quan trọng cho các quân đoàn bạn đánh vào Sài Gòn. Ở hướng bắc, Quân đoàn diệt chi khu Định Quán, mở thông thường số 20; ở hướng tây-bắc, diệt chi khu Dầu Tiếng và Chơn Thành, mở đường số 13; tiếp đó đánh chiếm Xuân Lộc “cánh cửa thép” của địch trên hướng đông-bắc, cùng các đơn vị bạn đánh chiếm Biên Hòa và nhiều mục tiêu quan trọng ở Sài Gòn, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau thắng lợi mùa xuân 1975, Quân đoàn tiếp tục xây dựng, nâng cao trình độ chính quy, hiện đại và sức mạnh chiến đấu, lập chiến công xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và trong nhiệm vụ quốc tế, xứng đáng với niềm tin yêu của quân và dân cả nước đối với một binh đoàn chủ lực, cơ động ở phía Nam.

Truyền thống: Đoàn kết, Anh dũng, Sáng tạo.

Phần thưởng:
- 53 đơn vị và 31 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (có 5 đơn vị được tuyên dương hai lần).
- Ba Huân chương Hồ Chí Minh.
- Nhiều Huân chương Quân công, Chiến công và các phần thưởng cao quý khác.
- Huân chương Ăng Co (Nhà nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia tặng).
___________________________________________
1. Tháng 3 năm 1975, Bộ điều động sư đoàn bộ binh 341 trực thuộc Quân đoàn 4. Tiếp đó là sư đoàn bộ binh 339 (Quân khu 9) thay sư đoàn 341 và sư đoàn bộ binh 309 (Quân khu 5) thay sư đoàn 339.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:05:53 pm

QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Quân chủng kỹ thuật hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân đất đối không, bảo vệ yếu địa, bảo vệ giao thông vận tải và chiến đấu trong binh chủng hợp thành.

Ngày truyền thống: 1 tháng 4 năm 1953 (thành lập trung đoàn pháo cao xạ 37 ly đầu tiên, phiên hiệu 367).

Ngày thành lập Quân chủng Phòng không: 16 tháng 5 năm 1977.

Quá trình xây dựng: ngày 21 tháng 3 năm 1958, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không trực thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh (nghị định 47/NĐ) gồm năm trung đoàn pháo cao xạ và các cơ quan. Ngày 22 tháng 10 năm 1963, Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân hợp nhất thành Quân chủng Phòng không - Không quân gồm Binh chủng Pháo cao xạ (11 trung đoàn), Binh chủng Ra-đa (ba trung đoàn), Binh chủng Không quân (ba trung đoàn) và Binh chủng Tên lửa (thành lập năm 1965). Năm 1977, Quân chủng Phòng không tách khỏi Quân chủng Phòng không - Không quân tổ chức thành một quân chủng gồm ba binh chủng Pháo cao xạ, Tên lửa và Ra-đa.

Binh chủng Pháo cao xạ - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương ngày 20 tháng 10 năm 1976) ra quân trận đầu trong chiến dịch Điện Biên Phủ và đã lập công xuất sắc, bắn rơi 52 máy bay, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội pháo cao xạ đã bắn rơi gần 2.000 máy bay phản lực hiện đại gồm nhiều kiểu loại của đế quốc Mỹ. Đặc biệt trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, bộ đội pháo cao xạ đã lập công xuất sắc bắn rơi hơn 100 máy bay và chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, bắn rơi hơn 400 máy bay.

Binh chủng Tên lửa phòng không là binh chủng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 11 tháng 1 năm 1973) do lập chiến công đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (bắn rơi 788 máy bay hiện đại của Mỹ, trong đó có 62 chiếc B.52); đặc biệt trong"Trận Điện Biên Phủ trên không", cuối năm 1972, đã mưu trí, dũng cảm bắn rơi 29 máy bay B.52, có 15 chiếc rơi tại chỗ.

Binh chủng Ra-đa - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (tuyên dương ngày 20 tháng 10 năm 1976) thường xuyên cảnh giác, quyết tâm cao, trong tình huống nào cũng “không để Tổ quốc bị bất ngờ”, mưu trí sáng tạo “vạch nhiễu tìm thù”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trinh sát trên không, phục vụ các đơn vị hỏa lực chiến đấu thắng lợi.

Cùng với các binh chủng, các đơn vị kỹ thuật, bảo đảm, phục vụ, nhà trường..., thuộc quân chủng đều lập công xuất sắc.

Từ một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly được thành lập trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bộ đội phòng không đã được xây dựng, phát triển vượt bậc về tổ chức, trang bị và sức mạnh chiến đấu, trở thành một quân chủng kỹ thuật hiện đại. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội phòng không đã hoàn thành xuất sắc vai trò và nhiệm vụ của lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không, hai lần đánh bại chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa chủ yếu bằng không quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc hậu phương lớn, căn cứ địa của cách mạng cả nước; đồng thời đã tham gia tác chiến trong đội hình binh chủng hợp thành trong nhiều chiến dịch quy mô lớn ở chiến trường miền Nam và chiến trường nước bạn, chiến đấu bảo vệ các tuyến giao thông vận tải chiến lược từ hậu phương ra tiền tuyến. Trong tám năm chiến đấu bảo vệ miền Bắc (1965-1972), bộ đội phòng không bắn rơi gần 3.000 máy bay gồm 40 kiểu loại hiện đại của đế quốc Mỹ (có 62 chiếc B.52, năm chiếc F.111); trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối năm 1972 đã hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn, lập công đặc biệt xuất sắc đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, bắn rơi 81 máy bay các loại (có 34 chiếc B.52), trong đó có nhiều chiếc rơi tại chỗ.

Quá trình xây dựng và chiến đấu, bộ đội phòng không đã xây dựng nên truyền thống tốt đẹp: Trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc; sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ; không ngừng học tập nâng cao trình độ, làm chủ vũ khí trang bị; dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu; yêu quý giữ gìn tốt vũ khí trang bị; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, chủ động hiệp đồng, lập công tập thể.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh và Chính ủy:

- Bộ Tư lệnh Phòng không: Hoàng Kiên (Tư lệnh, 1958 - 1962), Phùng Thế Tài (Tư lệnh, 1962 - 1963), Đoàn Phụng (Chính ủy, 1962 - 1963)

- Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân: Phùng Thế Tài (Tư lệnh 1963 - 1967), Đặng Tính (Chính ủy, 1963-1967; Chính ủy kiêm Tư lệnh, 1967 - 1970), Lê Văn Tri (Tư lệnh, 1970 - 1976), Hoàng Phương (Chính ủy, 1970 - 1976).

- Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không: Hoàng Văn Khánh (Tư lệnh, 1977-1983), Trần Nhẫn (Tư lệnh 1983-1993), Nguyễn Xuân Mậu (Chính ủy 1977 – 1983), Vũ Trọng Cảnh (Phó tư lệnh chính trị 1983-1992)...

Phần thưởng:

- Huân chương Sao vàng.
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Nhiều Huân chương Quân công, Chiến công và các phần thưởng cao quý khác.

- 61 đơn vị và 24 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (có 3 đơn vị cấp binh chủng, 4 đơn vị cấp sư đoàn. 20 đơn vị cấp trung đoàn).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:08:43 pm

QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Quân chủng chiến đấu bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 3 tháng 3 năm 1955 (thành lập Ban Nghiên cứu sân bay, tổ chức đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam).

Ngày truyền thống - chiến thắng trận đầu: 3 tháng 4 năm 1965.

Ngày thành lập quân chủng: 16 tháng 5 năm 1977.

Từ một số tổ chức như Ban Nghiên cứu không quân (1949), Ban Nghiên cứu sân bay (1955), không quân đã được xây dựng từng bước và phát triển nhanh chóng từ không quân vận tải, huấn luyện, đến chiến đấu, được trang bị các loại máy bay tiêm kích phản lực ngày càng hiện đại, trở thành một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân trong kháng chiến chống Mỹ và từ năm 1977 là một quân chủng chiến đấu bằng phương tiện hiện đại, bảo vệ vùng trời và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân chủng:

Tư lệnh (Trưởng ban, Cục trưởng); Trần Quý Hai (1955), Đặng Tính (1955-1963), đại tá Phùng Thế Tài (1963-1967), thượng tá Nguyễn Văn Tiên1 (tháng 3 năm 1967), thượng tá Đào Đình Luyện2 (1967-1977), đại tá Đào Đình Luyện (1977-1986), Thiếu tướng Trần Hanh (1986-1989)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Hoàng Thế Thiện (1955 - 1963), đại tá Đặng Tính (1963-1967), thượng tá Phan Khắc Hy3 (tháng 3 năm 1967), trung tá Đỗ Long4 (1967-1977), đại tá Đào Đình Luyện (1977-1980), thiếu tướng Chu Duy Kính (1980 - 1987), thiếu tướng Phạm Thanh Ngân (1987-1989)...

Ngay từ 1949, giữa chiến khu Việt Bắc, trong vòng vây của quân thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra bước đi đầu tiên trên con đường xây dựng không quân nhân dân là tổ chức một bộ phận nghiên cứu, mở lớp học về không quân. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Ban Nghiên cứu sân bay - tổ chức đầu tiên của không quân nhân dân được thành lập, nhiều cán bộ chỉ huy, phi công, thợ máy, nhân viên kỹ thuật được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Với đường lối đúng đắn và bước đi thích hợp, Không quân nhân dân Việt Nam đã được xây dựng và phát triển từng bước vững chắc, từ không quân vận tải đến không quân chiến đấu, từ sử dụng máy bay MIG.17 đến máy bay MIG.21..., ngày càng nâng cao trình độ chính quy hiện đại, phù hợp với tình hình đất nước, sự giúp đỡ của các nước bạn và nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội không quân đã mở “Mặt trận trên không” thắng lợi. Phát huy tinh thần dũng cảm và cách đánh sáng tạo, nắm vững nguyên tắc, phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến là “tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu, giữ gìn lực lượng ta”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông”, đánh độc lập và đánh hiệp đồng, bộ đội không quân trẻ tuổi Việt Nam đã chiến thắng không quân hiện đại của đế quốc Mỹ. Từ trận đầu chiến thắng (3-4-1965) đến chiến dịch 12 ngày đêm năm 1972 và trận tiến công sân bay Tân Sơn Nhất của “Phi đội Quyết Thắng” ngày 28-4-1975 trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Không quân nhân dân Việt Nam đã đánh hơn 300 trận, bắn rơi 320 máy bay gồm 19 loại, trong đó có 2 máy bay chiến lược B.52, phá hủy 24 chiếc khác, đánh chìm và bắn cháy 6 tàu chiến và tàu biệt kích, đánh thiệt hại 3 căn cứ không quân địch, lập nên chiến thắng trên không vĩ đại, góp phần vào thắng lợi to lớn của kháng chiến chống Mỹ, góp phần phát triển và làm phong phú kho tàng tri thức quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Sau thắng lợi của 30 năm chiến tranh giải phóng, không quân nhân dân được tổ chức thành một quân chủng. Kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng, bộ đội không quân bước vào một giai đoạn xây dựng và chiến đấu mới, lập nên những chiến công mới trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế và tham gia xây dựng đất nước.

Quân chủng Không quân nhân dân Việt Nam đang tích cực xây dựng theo hướng chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm 'vụ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Truyền thống:

Trung thành vô hạn.
Tiến công kiên quyết
Đoàn kết hiệp đồng
Lập công tập thể.


Phần thưởng:

- Huân chương Sao vàng.

- 19 đơn vị và 27 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó đại đội 4 (trung đoàn 923) được tuyên dương ba lần, bốn đơn vị khác (trung đoàn 917, đại đội 1 và đại đội 3 (trung đoàn 921), đại đội 2 (trung đoàn 923) được tuyên dương hai lần.
___________________________________________
1. Tư lệnh Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân.
2. Tư lệnh và Chính ủy Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân.
3. Tư lệnh và Chính ủy Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân.
4. Tư lệnh và Chính ủy Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:10:06 pm

QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Quân chủng chiến đấu bằng lực lượng binh chủng hợp thành và phương tiện kỹ thuật hiện đại, lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tổ quốc.

Ngày thành lập: 7 tháng 5 năm 1955 (thành lập Cục Phòng thủ bờ biển).

Ngày truyền thống - chiến thắng trận đầu: 5 tháng 8 năm 1964.

Từ Ban Nghiên cứu thủy quân, đội huấn luyện thủy binh (năm 1949- 1950), các thủy đội Sông Lô, Bạch Đằng (1955), lực lượng hải quân đã được xây dựng, phát triển từng bước, hình thành các đơn vị tuần tiễu bảo vệ vùng nước, hải quân đánh bộ, tên lửa bờ, công binh, vận tải, các vùng hải quân, học viện, trường trung cấp và trung tâm huấn luyện chuyên môn kỹ thuật hải quân.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) quân chủng:

Tư lệnh (Cục trưởng): Nguyễn Bá Phát (1955-1959), đại tá (sau là Thiếu tướng) Tạ Xuân Thu (1959-1967), Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát (1967-1974), đại tá (sau là Thiếu tướng) Đoàn Bá Khánh (1974-1977 và 1980-1984), Thiếu tướng (sau là Thượng tướng - Đô đốc) Giáp Văn Cương (1977-1980 và 1984-1990), Trung tướng (Phó đô đốc) Hoàng Hữu Thái (1990-1992)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): đại tá (sau là Thiếu tướng) Tạ Xuân Thu (1959 -1967), đại tá Đoàn Phụng (1967-1970), Thiếu tướng Hoàng Trà (1970-1974), đại tá Trần Văn Giang (1974-1986)...

Từ một số tổ chức tiền thân làm nhiệm vụ nghiên cứu và huấn luyện trong kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng hải quân đã xây dựng, phát triển nhanh chóng trong 10 năm xây dựng hòa bình (1954-1964), lập chiến công đầu xuất sắc trong trận đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc và đánh trả quyết liệt máy bay của hải quân Mỹ trong trận ngày 5 tháng 8 năm 1964, mở đầu oanh liệt cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.

Trong 10 năm chiến đấu quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội hải quân đã chiến đấu bảo vệ vùng biển, hải đảo của Tổ quốc, bắn rơi nhiều máy bay, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến của Mỹ-ngụy, phá hủy nhiều thủy lôi, bom, mìn, làm thất bại cuộc phong tỏa biển quy mô lớn của Mỹ, vừa tổ chức lực lượng đặc công nước (trung đoàn 126) đánh phá các căn cứ hải quân địch, đặc biệt là ở Quảng Trị, đánh chìm nhiều tàu chiến đấu và vận tải của Mỹ-ngụy; đồng thời đã tổ chức lực lượng (trung đoàn 125) thực hiện xuất sắc nhiệm vụ vận tải chiến lược đường biển chi viện chiến trường. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, hải quân vừa làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng biển, vừa cơ động lực lượng và vật chất phục vụ cuộc Tổng tiến công; đặc biệt đã tổ chức lực lượng, kịp thời giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và ở vùng biển tây nam, góp phần giải phóng hoàn toàn, trọn vẹn Tổ quốc.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hải quân tiếp tục được xây dựng thành một quân chủng chính quy, ngày càng hiện đại, nâng cao khả năng làm chủ, bảo vệ vùng biển và các hải đảo của Tổ quốc, bảo vệ các cơ sở khai thác dầu khí và kinh tế trên biển, đồng thời tích cực tham gia xây dựng kinh tế.

Truyền thống: Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng.

Phần thưởng:

- Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.

- 40 đơn vị và 31 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, (có một đơn vị được tuyên dương ba lần, ba đơn vị được tuyên dương hai lần).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:11:07 pm

BINH CHỦNG CÔNG BINH
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh chủng kỹ thuật, bảo đảm chiến đấu và chiến đấu bằng vũ khí chuyên dùng của Lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 25 tháng 3 năm 1946 (ngày thành lập Công chính giao thông Cục thuộc Bộ Quốc phòng, theo sắc lệnh số 34 của Chủ tịch Hồ Chí Minh).

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chủng:

Tư lệnh (Cục trưởng): Nguyễn Duy Thanh (1946), Hoàng Đạo Thúy (1946-1947), Lê Khắc (1947-1951), đại tá Phạm Hoàng (trung đoàn trưởng trung đoàn công binh 151, trưởng phòng công binh, Tham mưu trưởng Cục Công binh những năm 1951-1955, Cục trưởng và Tư lệnh binh chủng từ 1961 - 1970), đại tá Trần Đình Xu (1956-1961), Thiếu tướng Trần Bá Đặng (1970-1987), Thiếu tướng Vũ Trọng Hà (1987-1990)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Lê Khắc (1951-1956), Thiếu tướng Trần Thế Môn (1956-1965, 1974-1975), đại tá Chu Thanh Hương (1965-1974), Thiếu tướng Nguyễn Huân (1975-1980), đại tá Nguyễn Ích (1980-1983)...

Là một trong những binh chủng được thành lập sớm nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bộ đội công binh đã vừa xây dựng, vừa chiến đấu và bảo đảm chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc, đỉnh cao là cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Bộ đội công binh đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng cờ “Mở đường thắng lợi”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội công binh đã nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, hiệp đồng chặt chẽ với các quân chủng, binh chủng bạn, các ngành của Nhà nước và với nhân dân, anh dũng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, lao động sáng tạo, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, bạt núi, xuyên rừng, lấy mặt đường, cầu phà, bến sông, công trình làm trận địa, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công xuất sắc, xây dựng binh chủng trưởng thành về mọi mặt.

Với quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, bộ đội công binh đã cùng các đơn vị bạn mở và giữ vững con đường chiến lược nối liền Bắc-Nam, còn đường mang tên Bác Hồ vĩ đại, lập nên một kỳ công trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược của nhân dân ta; đã đào đắp hàng trăm triệu mét khối đất đá, mở được 25.000 ki-lô-mét đường, phục vụ đắc lực cho việc cơ động lực lượng và vận chuyển tiếp tế với quy mô ngày càng lớn của quân đội ta trên các chiến trường.

Ở chiến trường miền Nam, bộ đội công binh đã cùng các lực lượng công binh nhân dân liên tục đánh phá giao thông địch, gây cho chúng nhiều khó khăn, tổn thất, diệt hơn 75.000 tên (có 8.200 tên Mỹ và quân chư hầu của Mỹ), phá hủy hơn 6.000 xe quân sự, hàng nghìn khẩu pháo, bắn chìm và bắn cháy 104 tàu xuồng, phá sập 845 cầu, đánh lật nhào hàng trăm đoàn tàu quân sự, bắn rơi 165 máy bay các loại của Mỹ-ngụy.

Trên miền Bắc, bộ đội công binh cùng các lực lượng khác giữ vững mạch máu giao thông, xây dựng các công trình quốc phòng và các công trình quan trọng khác, đặc biệt là đã đem hết khả năng lao động và trí tuệ của mình, góp phần xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa của địch, bộ đội công binh đã chống phá có hiệu quả các hành động địch phong tỏa giao thông đường biển, đường sông, đường bộ, khai thông các luồng lạch, các cửa sông, phá gỡ bom, mìn, góp phần tích cực bảo đảm giao thông và khôi phục nhiều diện tích canh tác cho các địa phương, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, bộ đội công binh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở đường thắng lợi và bảo đảm công trình chiến đấu, trong đó nổi bật là mở đường cơ động, tạo điều kiện cho các quân đoàn, binh chủng tiến công thần tốc, đánh thắng quân thù, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Quá trình xây dựng, chiến đấu và bảo đảm chiến đấu, binh chủng đã thực hiện tốt việc đào tạo cán bộ, tăng cường lực lượng công binh cho các chiến trường, đáp ứng yêu cầu chiến đấu và xây dựng của binh chủng; đồng thời đã tích cực rèn luyện, phổ biến kinh nghiệm chống phá bom, mìn, thủy lôi của địch cho các lực lượng vũ trang địa phương.

Sau khi chiến tranh kết thúc, bộ đội công binh đã thực hiện vai trò lực lượng xung kích trong việc phá gỡ bom, mìn, góp phần khôi phục sản xuất, bảo đảm an toàn cho các công trình xây dựng; đồng thời đã tích cực tham gia xây dựng kinh tế, làm đường, bắc cầu, xây dựng nhiều công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng.

Truyền thống: Mở đường thắng lợi.

Phần thưởng:

- 74 đơn vị và 55 cán bộ, chiến sĩ công binh được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:12:40 pm

BINH CHỦNG PHÁO BINH
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh chủng chiến đấu, hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 29 tháng 6 năm 1946 (ngày thành lập ba trung đội pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh - ba đơn vị pháo binh chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam).

Ngày thành lập Bộ chỉ huy Pháo binh1: 7 tháng 9 năm 1954, tại Hà Nội.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chủng:

Tư lệnh (Cục trưởng): Trần Đại Nghĩa (1946 - 1951), Vũ Hiển (1951 - 1953), Đào Văn Trường (1953 - 1954), Lê Thiết Hùng (1954 - 1963), Nguyễn Thế Lâm (1964 - 1969), Doãn Tuế (1969 - 1980), Nguyễn Trung Kiên (1980 - 1988).

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Phạm Ngọc Mậu (1951 - 1957), Lê Hiến Mai (1958 - 1962), Lê Quang Hòa (1962 - 1963), Trương Công Cẩn (1964 - 1965), Nguyễn Xuân Hoàng (1965 - 1968), Tạ Xuân Thu (1967 - 1969), Phạm Thạch Tâm (1969 - 1970), Đặng Hòa (1971 - 1972 và 1979 - 1980), Nam Thắng (1973 - 1978); Hoàng Văn Thạ (1981 - 1987), Hoàng Định (1988 - 1993)...

Pháo binh lá một trong những binh chủng ra đời sớm, có lịch sử chiến đấu anh dũng và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ tiếng pháo mở đầu toàn quốc kháng chiến ở Thủ đô Hà Nội đến chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, bộ đội pháo binh đã đánh hàng trăm trận, cả đánh độc lập và hiệp đồng, diệt và làm bị thương hàng vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, pháo binh ba thứ quân trên chiến trường miền Nam đã đánh 48.132 trận (trong đó có 29.403 trận đánh độc lập và 18.729 trận đánh hiệp đồng. Phân theo mục tiêu, có 1.397 trận đánh vào các sở chỉ huy từ trung đoàn đến quân đoàn địch; 2.762 trận đánh vào trận địa pháo binh địch; 1.078 trận đánh địch ngoài công sự; 7.769 trận đánh địch trong công sự vững chắc; 1.570 trận đánh sân bay; 602 trận đánh vào chi khu, quận lỵ; 23.754 trận đánh tàu biển, quân đổ bộ đường không và các đối tượng khác). Bộ đội pháo binh đã diệt, hàng vạn tên địch, phá hủy hàng nghìn máy bay, khẩu pháo, xe quân sự, hàng trăm tàu xuồng và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Trên miền Bắc, bộ đội pháo binh đánh 702 trận, bắn chìm 22 tàu biệt kích, một tàu quét lôi, bắn cháy và bị thương 271 tàu chiến và nhiều tàu biệt kích của Mỹ - ngụy.

Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, bộ đội pháo binh đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành một binh chủng chiến đấu có trình độ chính quy, ngày càng hiện đại, hình thành một hệ thống hỏa lực mạnh trong lực lượng vũ trang ba thứ quân đã sáng tạo nhiều lối đánh hiểm, có hiệu suất cao, phù hợp với thực tiễn chiến trường Việt Nam, với trình độ trang bị, đối tượng tác chiến và nhiệm vụ chiến đấu.

Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen tặng tám chữ vàng truyền thống "Chân đồng vai sát, đánh giỏi bắn trúng”.

Phần thưởng:

- 56 đơn vị và 9 cán bộ, chiến sĩ pháo binh được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.
____________________________________________
1. Ngày 28-5-1956 đổi tên thành Bộ Tư lệnh Pháo binh.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:13:21 pm

BINH CHỦNG THIẾT GIÁP
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh chủng chiến đấu, lực lượng đột kích quan trọng của Lục quân nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 5 tháng 10 năm 1959 (ngày thành lập trung đoàn 202 - trung đoàn xe tăng đầu tiên của quân đội ta).

Ngày thành lập Bộ Tư lệnh Thiết giáp: 22 tháng 6 năm 1965.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chủng:

Tư lệnh Binh chủng: trung tá Đào Huy Vũ (trung đoàn trưởng trung đoàn xe tăng 202 từ 1959 - 1965, Phó tư lệnh Binh chủng 1965 - 1975), Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm (1971 - 19741. Thiếu tướng Đào Huy Vũ (1975 - 1979), Thiếu tướng Lê Xuân Kiện (1980 - 1989), Thiếu tướng Trần Doãn Kỷ (1989 - 1993)...

Chính ủy (Phó tư lệnh về chính trị): trung tá Đặng Quang Long (chính ủy trung đoàn xe tăng 202 từ 1959 - 1965), thượng tá Lê Ngọc Quang (từ 1965), đại tá Phạm Thạch Tâm (từ 1971), Thiếu tướng Phạm Sinh (1976 - 1977), đại tá Trịnh Hoàng Đĩnh (Phó Chính ủy - Chủ nhiệm chính trị Binh chủng 1977 - 1978), Thiếu tướng Bùi Văn Quỳ (1978 - 1989)...

Từ một trung đoàn ra đời trong thời kỳ quân đội ta bước vào xây dựng chính quy, hiện đại, trải qua 35 năm xây đựng và chiến đấu, Binh chủng Thiết giáp đã lớn mạnh nhanh chóng, với nhiều lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, nhà trường, kho, xưởng, nhà máy thuộc binh chủng và thuộc các quân khu, quân đoàn, sư đoàn với phương tiện chiến đấu ngày càng hiện đại.

Bước vào chiến đấu, trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh mùa xuân 1968, Binh chủng đã chiến thắng oanh liệt ở Tà Mây-Làng Vây (Quảng Trị); tiếp đó tham gia nhiều chiến dịch ở chiến trường miền Nam và chiến trường Lào; đánh 210 trận, trong đó nhiều trận có hiệu suất cao, hiệp đồng tốt với các binh chủng, các đơn vị bạn diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ là lực lượng đột kích quan trọng trên các chiến trường. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Binh chủng đã phát huy sức mạnh đột kích, cơ động thần tốc, cùng các binh chủng bạn đánh chiếm các mục tiêu quan trọng, đè bẹp sự kháng cự của địch, góp phần cùng toàn quân, toàn dân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Binh chủng tiếp tục xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc tế.

Quá trình xây dựng và chiến đấu, Binh chủng đã xây dựng nên truyền thống vẻ vang: “Đã ra quân là đánh thắng”.

Phần thưởng:

- Ba lữ đoàn xe tăng: 203 (Quân đoàn 2), 202 (Quân đoàn 1), 273 (Quân đoàn 3); bốn tiểu đoàn: 66 (lữ đoàn 202, Quân đoàn 1), 21 (trung đoàn 26 thiết giáp, Quân khu 7), 22 (trung đoàn 26 thiết giáp, Quân khu 7), 2 (trung đoàn xe tăng 22, Quân đoàn 4); 12 đại đội và 10 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó lữ đoàn 273 được tuyên dương hai lần.

- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:14:09 pm

BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập binh chủng: 19 tháng 3 năm 1967, tại Hà Nội.

Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: chín tiểu đoàn đặc công, trường bổ túc cán bộ, ba cơ quan.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chúng:

Tư lệnh: đại tá Nguyễn Chí Điềm (1967 - 1976), đại tá Nguyễn Đức Trúng (1977 - 1980), đại tá Nguyễn Chi (1980 - 1982), Trung tướng Nguyễn Anh Đệ (1983 - 1985), Thiếu tướng Nguyễn Tư Cường (1985 - 1992)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): đại tá Vũ Chí Đạo (1967 - 1975), đại tá Trần Nhật Độ (1977 - 1979), đại tá Bạch Ngọc Liễn (1979 - 1983), Trung tướng Nguyễn Anh Đệ (1983 - 1984), Thiếu tướng Lê Toàn (1985 - 1993)...

Hình thành từ cách đánh “công đồn đặc biệt” (gọi tắt là đặc công) ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức đặc công đã phát triển nhanh chóng trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, hình thành ba loại lực lượng: đặc công bộ, đặc công nước và đặc công biệt động trên các chiến trường.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tổ chức và cách đánh đặc công phát triển rất mạnh, trở thành phương thức tác chiến độc đáo, lợi hại, đánh sâu vào các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông huyết mạch, diệt những bộ phận quan trọng sinh lực của địch. Bên cạnh cách đánh độc lập giành hiệu suất chiến đấu cao, bộ đội đặc công đã tham gia nhiều chiến dịch, cuộc tiến công chiến lược, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mũi nhọn tiến công sắc bén trong đội hình chiến đấu của binh chủng hợp thành, lập nên những chiến công vô cùng oanh liệt. Bộ đội đặc công trên các chiến trường đã đánh hàng vạn trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên địch (có nhiều quân Mỹ, chư hầu, nhiều phi công, sĩ quan, nhân viên kỹ thuật, cao cấp...), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng hàng trăm sở chỉ huy các cấp (trong đó có hàng chục sở chỉ huy cấp sư đoàn, quân đoàn, lữ đoàn và tương đương), phá hủy, phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại, 1.600 khẩu pháo, 30 giàn tên lửa, 9.000 xe quân sự, 2,7 triệu tấn bom đạn, 600 triệu lít xăng dầu, đánh chìm, đánh hỏng 400 tàu xuồng chiến đấu... Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mùa xuân 1968, bộ đội đặc công đã đánh đồng loạt vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố, thị xã miền Nam, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, bộ đội đặc công biệt động đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực tiến công thần tốc, giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn.

Đất nước thống nhất, bộ đội đặc công tham gia nhiệm vụ quân quản, truy quét bọn phản động, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời đã tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế.

Cùng với các binh chủng, các đơn vị trong toàn quân, Binh chủng Đặc công đang tiếp tục xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu toàn diện, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ vững chắc công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước.

Truyền thống: “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí, táo bạo, đánh hiểm thắng lớn”.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Hai Huân chương Quân công hạng nhất.

- 69 đơn vị và 144 cán bộ, chiến sĩ đặc công - biệt động được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó, đại đội 1 (đoàn 126) được tuyên dương ba lần; đoàn 126, trung đoàn 113, đội 5 (đoàn 10) được tuyên dương hai lần.

- Nhiều huân chương và phân thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:14:55 pm

BINH CHỦNG HÓA HỌC

Binh chủng kỹ thuật, phục vụ chiến đấu và chiến đấu bằng các phương tiện chuyên môn, lực lượng nòng cốt phòng chống vũ khí hủy diệt lớn.

Ngày truyền thống: 19 tháng 4 năm 1958 (ngày thành lập tiểu đoàn 6 hóa học thuộc Trường sĩ quan Lục quân 1 và hai đại đội hóa học trong biên chế hai sư đoàn bộ binh 308 và 320).

Ngày thành lập Bộ Tư lệnh Hóa học: 17 tháng 7 năm 1976, tại Hà Nội.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chủng:

Tư lệnh (Cục trưởng): Thiếu tướng Đặng Quân Thụy (1958 - 1986), Thiếu tướng Nguyễn Tiến Phát (1987 - 1993)...

Chính úy (Phó tư lệnh chính trị): đại tá Lê Hữu Lập (1958 - 1986)...

Từ Phòng hóa học thuộc Cục Huấn luyện chiến đấu (Bộ Tổng Tham mưu), một số phân đội huấn luyện trong biên chế Trường sĩ quan Lục quân 1 và một số đơn vị bộ binh, bộ đội hóa học đã xây dựng, phát triển nhanh chóng về tổ chức lực lượng và trang bị kỹ thuật, hình thành các đơn vị phòng hóa với các thành phần chuyên môn (trinh sát, phòng hóa, khói, lửa, tiêu độc, tẩy xạ...), Viện Hóa học quân sự, Trường sĩ quan Phòng hóa...

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội hóa học đã tích cực phổ biến kiến thức, huấn luyện các biện pháp phóng chống vũ khí hủy diệt lớn cho các lực lượng vũ trang và nhân dân; tham gia ngụy trang bảo vệ một số mục tiêu kinh tế, quân sự quan trọng, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ trên miền Bắc; báo đảm phòng chống vũ khí hóa học cho các cơ quan, đơn vị chiến đấu và tham gia chiến đấu bằng vũ khí, phương tiện chuyên môn trên các chiến trường (chiến dịch Khe Sanh 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971, chiến dịch Quảng Trị 1972...), góp phần cùng toàn quân, toàn dân đánh thắng âm mưu và hành động sử dụng vũ khí hóa học của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bộ đội hóa học được xây dựng thành binh chủng, chính quy, ngày càng hiện đại, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ quốc tế và tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.

Phân thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Hai Huân chương Quân công và nhiều phân thưởng cao quý khác


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Chín, 2022, 09:15:43 pm

BINH CHỦNG THÔNG TIN LIÊN LẠC
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Binh chủng kỹ thuật, bảo đảm chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 9 tháng 9 năm 1945 (thành lập Phòng Thông tin liên lạc quân sự, Bộ Tổng Tham mưu).

Ngày thành lập Bộ Tư lệnh binh chủng: 31 tháng 1 năm 1968, tại Hà Nội.

Tổ chức gồm các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn... với các trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại trực thuộc Bộ Tư lệnh binh chủng và các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Các đồng chí đã từng giữ chức Tư lệnh, Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị) binh chủng:

Tư lệnh (Cục trưởng): Hoàng Đạo Thúy (1949-1962), thượng tá Nguyễn Anh Bảo (1962-1965), thượng tá Hoàng Niệm (quyền Cục trưởng 1965-1968), thượng tá Tạ Đình Hiểu (1968-1973), đại tá Phạm Niên (1973-1976), đại tá Nguyễn Xuân Thăng (1977-1978), Thiếu tướng Hoàng Niệm (1979-1988), đại tá Phan Hoan (quyền Tư lệnh 1980), Thiếu tướng Nguyễn Diệp (1988-1991)...

Chính ủy (Phó tư lệnh chính trị): Hoàng Bửu Đôn (1952-1958), thượng tá Phạm Quang Minh (1958-1962), đại tá Lê Cừ (1966-1978), đại tá Nguyễn Xuân Thăng (1978-1980), đại tá Nguyễn Duy Lạc (1980-1984), Thiếu tướng Hà Kiến Thiết (1985-1991)...

Là một trong những binh chủng ra đời sớm nhất của quân đội, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, bộ đội thông tin liên lạc đã khắc phục nhiều khó khăn, vận dụng và sáng tạo nhiều phương thức bảo đảm thông tin phục vụ Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy toàn quân, toàn dân giữ vững chính quyền cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc; bảo đảm cho các lực lượng vũ trang xây dựng và chiến đấu thắng lợi, đặc biệt là trong các chiến dịch, đỉnh cao là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), bộ đội thông tin liên lạc tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng và mạng lưới thông tin liên lạc quân sự với các trang bị, khí tài ngày càng hiện đại, kết hợp với thông tin bưu điện của Nhà nước và thông tin nhân dân, hình thành mạng thông tin rộng khắp và vững chắc trên hậu phương lớn miền Bắc, vươn dài theo dãy Trường Sơn nối liền với tiền tuyến lớn miền Nam và các chiến trường Đông Dương. Trong chiến tranh ác liệt, bộ đội thông tin liên lạc đã dũng cảm vượt qua bom đạn, vượt lên mọi khó khăn về địa hình và thời tiết, giữ vững mạch máu thông tin liên lạc trong mọi tình huống, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, chính xác, bí mật và an toàn, phục vụ các lực lượng vũ trang nhân dân xây dựng và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế.

Sau thắng lợi mùa xuân 1975, bộ đội thông tin liên lạc tiếp tục xây dựng chính quy, tinh nhuệ ngày càng hiện đạl, phục vụ các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng kinh tế.

Truyền thống: “Dũng cảm, nhanh nhẹn, khắc phục khó khăn, bảo đảm thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn".

Phần thưởng:

- 35 đơn vị, 37 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó 33 nam, 4 nữ.
- Nhiều huân chương các loại và phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:09:38 pm

HỌC VIỆN QUÂN SỰ CẤP CAO

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chỉ huy - tham mưu binh chủng hợp thành cấp chiến dịch, chiến lược; trung tâm nghiên cứu và đào tạo cán bộ trên đại học về khoa học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 3 tháng 1 năm 1977 (ngày khai giảng khóa 1 bổ túc).

Năm 1976, Học viên Quân sự cao cấp được thành lập trên cơ sở hệ cao cấp của Học viên Quân sự (tiền thân là Học viện Quân chính thành lập năm 1961). Năm 1978, Học viện Quân sự cao cấp và Viện Khoa học quân sự Việt Nam hợp nhất thành Học viện Quân sự cao cấp. Năm 1981, Học viện Quân sự cao cấp được đổi tên thành Học viện Quân sự cấp cao. Ngày 20 tháng 12 năm 1994. Học viện Quân sự cấp cao đổi thành Học viên Quốc phòng. Tổ chức học viện bước đầu gồm một số khoa, phòng, ban, phân viện Lịch sử quân sự và ban Tổng kết chiến tranh. Năm 1994, tổ chức gồm 20 khoa, 5 phòng, 3 hệ và một số ban trực thuộc.

Các đồng chí đã từng giữ chức Giám đốc: Trung tướng Lê Trọng Tấn (1976-1977), Trung tướng (sau là Thượng tướng) giáo sư Hoàng Minh Thảo (1977 - 1990), Trung tướng, giáo sư, phó tiến sĩ Đỗ Trình (1990 - 1991)...

Từ năm 1977 đến năm 1994, Học viện đã mở 55 khóa học (13 khóa đào tạo, 14 khóa bổ túc chỉ huy - tham mưu, 10 khóa quân sự địa phương, 4 khóa nghiên cứu khoa học quân sự, 7 khóa bồi dưỡng giáo viên chiến dịch - chiến thuật, 1 khóa bổ túc tham mưu quân báo chiến dịch. 3 khóa nghiên cứu sinh khoa học quân sự, 2 khóa đào tạo cao học khoa học quân sự), một số khóa đào tạo và bổ túc cán bộ trung, cao cấp quân sự cho một số nước bạn. Đã có 2.526 cán bộ được cấp bằng chứng nhận tốt nghiệp và 12 cán bộ bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học tại học viện. Học viện còn đảm nhiệm giảng dạy các lớp đào tạo tại chức của các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân chủng, binh chủng; tham gia giảng dạy ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội; giới thiệu kinh nghiệm chiến tranh nhân dân Việt Nam cho các đoàn khách quốc tế.

Với đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ chuyên sâu về khoa học và nghệ thuật quân sự (trong đó có hơn 30 giáo sư, phó giáo sư, phó tiến sĩ). Học viện đã đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, biên soạn hệ thống tài liệu lý luận, bài giảng, bài tập về nghệ thuật quân sự. Học viện đã chủ động liên kết với các đơn vị, hàng năm biên soạn được từ 100 đến 150 tài liệu các loại, góp phần thiết thực nâng cao chất lượng đào tạo; cùng với Viện Chiến lược và các cơ quan Bộ Quốc phòng nghiên cứu 15 đề tài khoa hục cấp bộ và cấp nhà nước; chủ trì nghiên cứu và biên soạn 21 đề tài. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã được đưa vào huấn luyện.

Phần thưởng: Huân chương Quân công hạng nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác.






HỌC VIỆN LỤC QUÂN

Cơ sở đào tạo, bổ túc cán bộ quân sự cấp tiểu đoàn, trung đoàn có trình độ đại học và sau đại học, một trong những trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 7 tháng 7 năm 1946 (ngày Bộ Tổng Tham mưu mở lớp thứ nhất bổ túc cán bộ quân sự trung cấp).

Là một học viện có truyền thống lịch sử gần nửa thế kỷ, gắn liền với quá trình xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Học viện đã từng thay đổi nhiều tên gọi; chức năng, nhiệm vụ luôn phát triển theo yêu cầu của các giai đoạn cách mạng. Từ những lớp bổ túc cán bộ quân sự trung cấp đầu tiên (1946-1948) đến Trường bổ túc Quân chính trung cấp (1948-1950; từ 1950-1956 sáp nhập vào trường Lục quân Việt Nam) và Trường bổ túc Quân sự trung - cao cấp (1955-1964); từ hệ Quân sự của Học viện Quân chính (1961-1965) phát triển thành Học viện Quân sự (1965-1981) và từ năm 1981 đến nay là Học viện Lục quân.

Các đồng chí đã từng giữ chức Viện trưởng (Giám đốc, Hiệu trưởng): Trần Hưng Nghĩa (1946-1947); Thiếu tướng Hoàng Văn Thái (1947-1949); Cao Xuân Hổ (1948); Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1948); Đào Chính Nam (1948-1952); Đào Văn Trường (1952-1953); Ngô Tấn Văn (1953-1954); Thiếu tướng (sau là Trung tướng) Hoàng Minh Thảo (1954-1961, 1965-1966 và 1976-1977); Trung tướng Trần Văn Trà (1961-1965); Thiếu tướng (sau là Trung tướng) Vương Thừa Vũ (1966-1976); Trung tướng (sau là Thượng tướng) Vũ Lăng (1977-1988); Thượng tướng Nguyễn Hữu An (1988-1991)...

Các đồng chí đã từng giữ chức Chính ủy (Chính trị ủy viên): Hoàng Điền (7.1946 - 8.1948); Lê Hiến Mai (9.1946 - 11.1946); Trần Tử Bình (8.1947 và từ tháng 9.1948 - 6.1950); Hoàng Mười (3.1948 - 6.1948); Phan Phúc Tường (7.1948 - 9.1948); Ngô Tấn Văn (8.1952 - 6.1953); Hoàng Phương (5.1955 - 1958); Lê Chưởng (3.1961 - 12.1964); Nguyễn Xuân Hoàng (1.1965 - 5.1965); Đàm Quang Thìn (1965 - 4.1969); Tạ Xuân Thu (5.1969 - 10.1971); Nguyễn Quyết (1.1974 - 6.1976); Nguyễn Văn Thanh (9.1976 -12.1977)...

Các đồng chí Phó viện trưởng về chính trị: đại tá Đặng Hồng Thanh (11.1985 - 1988); Thiếu tướng Trần Nguyên Độ (5.1986 - 3.1989); Thiếu tướng Dương Minh Ngọ (3.1989 - 1992).,.

Từ năm 1946 đến năm 1994, Học viện đã tổ chức và huấn luyện 193 khóa học với 27.756 học viên (cán bộ trung cấp, cao cấp binh chủng hợp thành, binh chủng chuyên ngành, giáo viên chiến thuật, cán bộ quân sự địa phương). Trong đó có 67 khóa cho 1.679 cán bộ trung, cao cấp và giáo viên của quân đội bạn, góp phần quan trọng vào việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội, vào sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; đã giới thiệu về đường lối quân sự của Đảng và kinh nghiệm đấu tranh vũ trang cách mạng cho 43 đoàn đại biểu quân sự của 19 nước và phong trào giải phóng dân tộc thuộc 4 châu (Âu, Á, Phi, Mỹ La-tinh). Từ năm 1960 đến nay (1994), Học viện đã cử 10 đoàn cán bộ đi giúp đỡ xây dựng yà huấn luyện ở các trường trung, cao cấp quân sự của nước bạn.

Những năm gần đây, Học viện đã nghiên cứu và hoàn thành nhiều đề tài khoa học, tài liệu và giáo trình cấp bộ, cấp học viện về chiến dịch, chiến thuật, công tác chỉ huy tham mưu, trinh sát, hậu cần kỹ thuật, công tác quân sự địa phương, công tác đảng - công tác chính trị..., phục vụ thiết thực giảng dạy, học tập và góp phần phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đội ngũ cán bộ, giáo viên của học viện ngày một trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Bảy đồng chí có học hàm giáo sư, phó giáo sư, bốn đồng chí có học vị phó tiến sĩ khoa học quân sự và sáu đồng chí được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Ba Huân chương Quân công.
- Hai Huân chương Chiến công.
- Huân chương Tự do hạng nhất (Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào).
- Bốn lần được Chủ tịch nước (Chủ tịch Hội đồng Nhà nước) tặng lẵng hoa.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:13:14 pm

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - QUÂN SỰ

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị, quân sự, cấp chiến dịch, chiến thuật, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày truyền thống: 25 tháng 10 năm 1951 (ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm khóa 1 trường Chính trị trung cấp).

Quá trình hình thành và phát triển: Trường Chính trị trung cấp (1951-1956), Trường Lý luận chính trị (1956-1958), Trường Chính trị trung cao cấp (1958-1961), Hệ Chính trị thuộc Học viện Quân chính (1961-1965), Học viện Chính trị (1965-1981), Học viện Chính trị - Quân sự từ 1981.

Các đồng chí đã từng giữ chức Viện trưởng (Giám đốc): Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1951-1960), Thiếu tướng Tô Ký (1965-1966), đại tá Lê Đình Thiệp (1966-1969), Thiếu tướng Lê Hiến Mai (1969-1973), Trung tướng Lê Quang Đạo (1973-1976), Thiếu tướng Nguyễn Nam Khánh (1978-1979), Trung tướng Giáo sư Lê Xuân Lựu (1980-1992)...

Trong hơn 40 năm xây dựng và hoạt động, Học viện đã đào tạo, bồi dưỡng 27.061 cán bộ chính trị, quân sự; có sáu cán bộ học viên bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học chuyên ngành triết học và kinh tế chính trị trong lĩnh vực quân sự, góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị, quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam; bảo đảm sự vững chắc về chính trị, nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội; đồng thời đã đào tạo, bồi dưỡng hàng nghìn cán bộ chính trị, quân sự cho quân đội các nước bạn.

Học viện đã chủ trì và tham gia nghiên cứu nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ, như “Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay”, “Tác động của những biến đổi kinh tế xã hội đến nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ chiến sĩ và một số vấn đề đổi mới công tác tư tưởng và tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị cấp chiến lược của quân đội”... Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn được vận dụng trong biên soạn giáo trình, giảng dạy và học tập của học viên, góp phần làm phong phú những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, về công tác chính trị trong xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội trong tình hình mới.

Truyền thống: Kiên định, đoàn kết, kỷ luật, chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Hai Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng hai.

- Huân chương Tự do (Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) và nhiều phần thường cao quý khác.





HỌC VIỆN HẬU CẦN

Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập học viện: 23 tháng 7 năm 1974.

Ngày truyền thống: 15 tháng 6 năm 1951.

Quá trình hình thành và phát triển: lớp huấn luyện cán bộ cung cấp (1951 -1953), Trường cán bộ cung cấp (1953-1955), Trường huấn luyện cán bộ hậu cần (1955-1957), Trường sĩ quan Hậu cần (1958-1974), Học viện Hậu cần (từ 1974).

Các đồng chí đã từng giữ chức Giám đốc (Viện trưởng, hoặc phụ trách): Trần Đăng Ninh (1951), Nguyễn Thanh Bình (1951-1953, 1955, 1957-1961), Trần Hữu Dực (1953-1955), Bùi Phùng (1955-1957), trung tá Hoàng Xuân (1961-1969), thượng tá Nguyễn Đan Thành (1969-1970), thượng tá Trần Chí Cường (1970-1974), đại tá (sau là Thiếu tướng) Hoàng Kiện (1974-1980), đại tá Bùi Nam Hà (1980-1982), Thiếu tướng Giáo sư Hoàng Điền (1982-1988)...

Đội ngũ cán bộ, giáo viên của học viện được đào tạo, trưởng thành qua thực tế công tác (đến năm 1994 có hai giáo sư, một phó giáo sư, hai phó tiến sĩ). Trường lớp được xây dựng ngày càng hiện đại. Cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học được tăng cường và đổi mới.

Từ khóa 1 - lớp huấn luyện cán bộ cung cấp (tháng 5 năm 1951) đến năm 1994, nhà trường (Học viện) đã mở 120 khóa đào tạo, bổ túc và tập huấn được 23.420 cán bộ hậu cần - kỹ thuật (trong đó có hàng nghìn cán bộ trung cấp, cán bộ cao cấp), góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhiệm vụ quốc tế, Học viện mở được 56 khóa, đào tạo và bổ túc 1.274 cán bộ hậu cần quân đội nước bạn.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, từ năm 1974, Học viện đã biên soạn một hệ thống tài liệu gồm 10 giáo trình, 63 đề cương giáo trình môn học cho 26 đối tượng thuộc 6 chuyên ngành (chỉ huy - tham mưu hậu cần, quân lương - quân trang, doanh trại, vận tải quân sự, xăng dầu và tài chính). Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học và nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã được nghiên cứu thành công, được ứng dụng trong giảng dạy và học tập. Chỉ tính 20 năm (1974-1994), Học viện đã thực hiện 3 đề tài khoa học cấp bộ, 22 đề tài cấp tổng cục và 280 đề tài cấp học viện.

Là một trung tâm đào tạo cán bộ hậu cần quân sự của quân đội, Học viện đã tổ chức bảo vệ thành công bảy luận án phó tiến sĩ khoa học chuyên ngành hậu cần trong lực lượng vũ trang. Hiên nay, Học viên đang đào tạo cán bộ trung cấp, cao cấp về hậu cần theo ba bậc học vấn: cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ về khoa học hậu cần quân sự với sáu chuyên ngành thuộc hệ chỉ huy - tham mưu hậu cần.

Truyền thống: Nghiêm chỉnh chấp hành mọi nhiệm vụ, vượt qua khó khăn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết tình nghĩa, luôn gắn bó với chiến trường, với đơn vị.

Phần thưởng (từ 1951 đến nay):

- Hai Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng ba).
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Huân chương Lao động hạng hai.

- Một cán bộ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Ba đồng chí được tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:14:09 pm

HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 28 tháng 10 năm 1966.

Từ cơ sở bước đầu, với 81 cán bộ, giáo viên, mang tên “Phân hiệu 2 Đại học Bách khoa”, Học viện Kỹ thuật quân sự (từ 1968-1981 là Đại học Kỹ thuật quân sự) đã phát triển nhanh chóng với 12 chuyên ngành đào tạo, gần 800 cán bộ, giáo viên (trong đó có 2 giáo sư, 38 phó giáo sư, 6 tiến sĩ, 128 phó tiến sĩ, một nhà giáo nhân dân, 3 nhà giáo ưu tú); cơ sở vật chất kỹ thuật (giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, xưởng...) ngày càng đồng bộ và hiện đại.

Các đồng chí đã từng giữ chức Giám đốc: trung tá Vũ Văn Hà (1966-1968); Thiếu tướng Đặng Quốc Bảo (1968-1970 và 1974), đại tá, kiến trúc sư Phạm Hoàng (1970-1974); đại tá Trần Đình Cửu (1974-1977); Thiếu tướng Hoàng Phương (1977-1979); Thiếu tướng, giáo sư, phó tiến sĩ Nguyễn Văn Tiên (1979-1980); Thiếu tướng, giáo sư, phó tiến sĩ Nguyễn Quỳ (1980-1988)...

Trong hơn 25 năm xây dựng và hoạt động (1966-1993), Học viện đã đào tạo hàng nghìn kỹ sư quân sự, cán bộ chỉ huy - tham mưu kỹ thuật cấp chiến thuật, chiến dịch; đồng thời đã bồi dưỡng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, chỉ huy - tham mưu kỹ thuật cho hàng nghìn cán bộ quân đội thông qua các hình thức đào tạo, bổ túc, chuyển loại kỹ sư, tập huấn kỹ thuật, huấn luyện sĩ quan dự bị, bồi dưỡng ngoại ngữ... Với 23 khóa đào tạo dài hạn (5 năm), Học viện đã cung cấp cho quân đội 4.486 kỹ sư các chuyên ngành quân sự. Từ năm 1979, Học viện bắt đầu đào tạo cao học và trên đại học cho 8 chuyên ngành, đã tổ chức bảo vệ thành công 10 luận án phó tiến sĩ khoa học kỹ thuật quân sự.

Về nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự, trong thời gian 10 năm (1981-1991), Học viện chủ trì và tham gia nghiên cứu 9 đề tài cấp nhà nước, 68 đề tài cấp bộ, 4 dự án được Nhà nước đầu tư phát triển nghiên cứu khoa học, 20 đề tài áp dụng tiến bộ kỹ thuật cấp bộ, 359 đề tài cấp học viện và nhiều hợp đồng nghiên cứu với các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị trong và ngoài quân đội. Nhiều đề tài nghiên cứu đã được ứng dụng, phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, phục vụ kinh tế và quốc phòng. Nhiều sản phẩm khoa học được tặng thưởng tại các hội chợ triển lãm kinh tế kỹ thuật toàn quốc (10 huy chương vàng, 5 huy chương “Tuổi trẻ sáng tạo khoa học”). Những năm gần đây, công tác nghiên cứu khoa học của học viện đã và đang hướng vào những vấn đề mũi nhọn như tin học và kỷ thuật tin học, kỹ thuật điện tử và kỹ thuật thông tin, kỹ thuật tự động hóa và tin học công nghiệp, cơ học ứng dụng.

Truyền thống: "Kiên định trong mọi tình huống, bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn xây dựng, chiến đấu của các lực lượng vũ trang; nỗ lực vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học kỹ thuật; đoàn kết nhất trí, khắc phục mọi khó khăn...".

Phần thưởng:

- Huân chương Độc lập hạng ha.
- Hai Huân chương Quân công hạng nhất và hạng hai.
- 18 Huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.





HỌC VIỆN QUÂN Y

Trung tâm đào tạo và nghiên cứu y học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập học viện: 16 tháng 12 năm 1981

Ngày truyền thống: 10 tháng 3 năm 1949 (thành lập Trường Quân y sĩ Việt Nam).

Quá trình phát triển và xây dựng: Trường Quân y sĩ Việt Nam (1949-1957), Trường sĩ quan Quân y (1957-1962), Viện nghiên cứu Y học quân sự (1962-1966), Trường Đại học Quân y (1966-1981), từ 1981 là Học viện Quân y.

Ngoài cơ sở chính, Học viện có phân hiệu 2 tại thành phố Hồ Chí Minh (thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1985, trên cơ sở Trường Quân y sĩ Miền). Cơ sở thực hành của học viện là bệnh viện 103 (tiền thân là Đội điều trị 3, thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1950).

Đội ngũ cán bộ, giáo viên, bác sĩ, công nhân viên ngày càng trưởng thành về chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó có 7 giáo sư, 31 phó giáo sư, 8 tiến sĩ, 63 phó tiến sĩ, 350 bác sĩ chuyên khoa cấp 1 và cấp 2; có 2 thầy thuốc Nhân dân, 6 thầy thuốc Ưu tú, 1 nhà giáo Nhân dân, 9 nhà giáo Ưu tú (tính đến năm 1992). Cơ sở vật chất (giảng đường, phòng thí nghiệm, phòng điều trị, trang thiết bị phục vụ dạy, học và thực hành) được trang bị ngày càng hiện đại.

Các đồng chí đã từng giữ chức Giám đốc (Viện trưởng, Hiệu trưởng): giáo sư Đinh Văn Thắng (1949); giáo sư Nguyễn Trinh Cơ (1950), Thiếu tướng, giáo sư Đỗ Xuân Hợp (1951-1979), Thiếu tướng, giáo sư Nguyễn Thúc Mậu (1979-1986)...

Từ khóa 1 - Trường Quân y sĩ Việt Nam (1949) đến năm 1993, Trường (Học viện) đã đào tạo 17.000 y sĩ, bác sĩ, dược sĩ, 100 phó tiến sĩ và hàng trăm cán bộ quân y nước bạn, góp phần phát triển đội ngũ cán bộ y học quân sự có trình độ cao, xây dựng ngành Quân y nói riêng và ngành Y tế nói chung. Học viện đã nghiên cứu và đưa vào sử dụng 19 đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, hợp tác quốc tế, trên 1.000 đề tài khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Một số đề tài có giá trị khoa học và thực tiễn như: đánh giá các bài thuốc cổ truyền, ghép thận trên người, ứng dụng kỹ thuật hạt nhân tiên tiến trong y học, nghiên cứu phòng chống sốt rét cho bộ đội khu vực Tây Nguyên, ảnh hưởng sóng siêu cao tần tới bộ đội ra-đa, tên lửa, kết hợp hai nền y học...

Là trung tâm đào tạo, đóng thời có cơ sở thực hành là bệnh viện 103, Học viện đã điều trị hàng chục nghìn thương binh, bệnh binh và nhân dân, thực hiện thành công ca ghép thận đầu tiên ở Việt Nam. Thực hiện tốt việc kết hợp hai nền y học, Học viện đã sản xuất được nhiều loại thuốc có giá trị cao từ dược liệu trong nước như: thuốc chữa bỏng B76, Maduxin, Becberin, thuốc bổ đinh lăng, thuốc hỗ trợ điều trị ung thư Philamin; chế tạo thành công một số chế phẩm phục vụ nghiên cứu và chẩn đoán bệnh (như Ghelatin y học, Ghelatin xốp cầm máu, kháng nguyên Streptôlysin O, sinh khối B12 gravohocmon, đạm thủy phân...), góp phần điều trị chăm sóc sức khóe của bộ đội, nhân dân và phát triển nền kinh tế quốc dân.

Truyền thống: “Trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; bám sát chiến trường, đơn vị bộ đội, vì sức khỏe của bộ đội, vì thương binh, bệnh binh, vì yêu cầu của chiến trường; kiên trì khắc phục khó khăn, tự lực tự cường, yêu ngành yêu nghề, say mê học tập rèn luyện nghiên cứu khoa học; đoàn kết nhất trí”.

Phần thưởng:

- Huân chương Độc lập hạng nhất.
- Tám Huân chương Quân công.
- Chín Huân chương Chiến công

- Hai tập thể và 11 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng lao động.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:15:29 pm

TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội binh chủng hợp thành và nghiên cứu khoa học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập và ngày truyền thống: 15 tháng 4 năm 1945.

Từ ngày thành lập, Trường đã nhiều lần thay đổi tên gọi: Trường Quân chính kháng Nhật (1945), Trường Quân chính Việt Nam (1945), Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam (1945-1946), Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946-1948), Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn (1948-1950), Trường Lục quân Việt Nam (1950-1956), Trường sĩ quan Lục quân Việt Nam (1956-1976), Trường sĩ quan Lục quân 1 (từ 1976 )

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Trường có hai phân hiệu: Lục quân Nam Bộ (1949-1952) và Lục quân Trung Bộ (1949-1951).

Các đồng chí đã từng giữ chức Hiệu trưởng: Hoàng Văn Thái (6-1945), Nguyễn Thanh Phong (7.1945 - 8.1946), Hoàng Đạo Thúy (5.1946 - 11.1946 và 5.1947 – 12.1947), Nguyễn Sơn (12.1946 - 9.1947), Lê Thiết Hùng (1948-1954), Lê Trọng Tấn (1955-1961), Cao Văn Khánh (10.1961 - 4.1964), Nguyễn Bằng Giang (5.1964-12.1968), Nguyễn Thái Dũng (1.1969 - 1.1978), Vũ Yên (1.1978 - 8.1980), Lưu Bá Xảo (8.1980 - 2.1989), Nguyễn Ân (2.1989 - 3.1993)...

Chính ủy (Phó hiệu trưởng chính trị): Trần Tử Bình (9.1945 - 12.1946 và 1950-1950), Lê Đình (6.1947 - 10.1947), Lê Quang Hòa (1957-10.1960 và 3.1961 - 12.1962), Đoàn Quang Thìn (10.1960 - 3.1961), Lê Tự Đồng (12.1962 - 8.1968), Hoàng Minh Thi (8.1968 - 8.1971), Lê Chiêu (8.1971 - 3.1979), Lã Ngọc Châu (5.1984 - 10.1987), Nguyễn Ngọc Tiến (10.1987 - 6.1990)...

Quá trình xây dựng, phát triển của Trường sĩ quan Lục quân 1 gắn liền với sự ra đời, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam, với những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ khóa 1 (tháng 5 năm 1945) đến năm 1993, trong thời gian gần 50 năm, Trường đã mở gần 60 khóa học, 13 lớp; đào tạo và bồi dưỡng gần 70.000 cán bộ, trong đó có 2.356 giáo viên quân sự sơ cấp. 2.071 học viên quân sự của 10 nước bạn, góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Hàng vạn đồng chí do trường đào tạo, sau này trở thành cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội; nhiều người trở thành tướng lĩnh, 16 người được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều đồng chí đã và đang giữ các chức vụ quan trọng ở Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhà trường.

Bên cạnh việc đào tạo, bổ túc cán bộ, Trường đã chủ trì nghiên cứu 26 đề tài khoa học trực tiếp phục vụ đào tạo cán bộ quân sự cấp phân đội, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ dạy và học.

Trường vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp trao tặng lá cờ “Trung với nước, hiếu với dân”, chín lần được Bác về thăm và hai lần Bác viết thư thăm, động viên.

Truyền thống vẻ vang của nhà trường được khái quát cô đọng trong sáu chữ vàng “Trung với nước, hiếu với dân", được thể hiện ở các nội dung: học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với đơn vị. với chiến trường - dạy tốt, phục vụ tốt, - học tốt, rèn luyện tốt, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ - tự lực tự cường, độc lập, sáng tạo - đoàn kết nhất trí.

Những năm gần đây, Trường đang được đầu tư về mọi mặt để hình thành một trung tâm lớn đào tạo sĩ quan bậc đại học ở phía bắc.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Bốn Huân chương Quân công.
- Bảy Huân chương Chiến công.
- Ba Huân chương Lao động.
- Huân chương Tự do (Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào).
- Bốn giáo viên được tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.





TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2

Trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội binh chủng hợp thành và nghiên cứu khoa học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập trường: 10 tháng 10 năm 1975.

Ngày truyền thống: 27 tháng 8 năm 1961 (thành lập Trường Quân chính trung-sơ cấp Quân giải phóng miền Nam Việt Nam).

Các đồng chí đã từng giữ chức Hiệu trưởng: thiếu tá Đỗ Phong, trung tá Phi Hùng, thượng tá Tô Việt Hồng, trung tá Nguyễn Văn Tây, trung tá Nguyễn Văn Thiều, trung tá Đỗ Quang Hưng, đại tá Tăng Thiên Kim, đại tá Mạnh Quân, Thiếu tướng Nguyễn Như Thiết, Thiếu tướng Mạc Đình Vinh...

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiệm vụ chính của Trường Quân chính trung-sơ cấp Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (từ năm 1972 - đổi là Trường Lục quân tổng hợp) là đào tạo ngắn hạn cán bộ sơ cấp bộ binh, trinh sát, công binh, thông tin, chính trị viên đại đội và đại đội trưởng, bổ túc cán bộ trung cấp, sơ cấp, cung cấp hàng vạn cán bộ cho các mặt trận thuộc chiến trường Nam Bộ. Thực hiện phương châm vừa huấn luyện, vừa chiến đấu, cán bộ, giáo viên, học viên nhà trường đã tham gia chiến đấu một số trận, tiêu diệt nhiều sinh lực, thu và phá hủy nhiều vũ khí trang bị của địch. Nhà trường còn đào tạo, bồi dưỡng một số cán bộ quân đội các nước anh em.

Trong 30 năm (1961-1991), trường đã mở 38 khóa, đào tạo hơn 20,000 sĩ quan sơ cấp, trung cấp thuộc các chuyên ngành (chỉ huy bộ binh, trinh sát bộ binh, chính trị quân sự, pháo cối đi cùng, đặc công). 555 sĩ quan dự bị, nhiều cán bộ quân sự địa phương. Cùng với việc giảng dạy, Trường đã nghiên cứu biên soạn và được nghiệm thu 56 đề tài về khoa học giáo dục, có 15 sáng kiến cải tiến kỹ thuật được ứng dụng trong giảng dạy và học tập. Những năm gần đây, Trường đang được đầu tư về mọi mặt để xây dựng thành trung tâm lớn, đào tạo sĩ quan bậc đại học phía nam

Truyền thống tốt đẹp của trường là: “Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; nghiêm chỉnh chấp hành và hoàn thành nhiệm vụ; vừa huấn luyện, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; gắn liền nhà trường với thực tế chiến trường, đơn vị và xã hội; tự lực tự cường, chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn; bảo đảm huấn luyện đào tạo có chắt lượng cao; ý chí chiến đấu cao, kỷ luật nghiêm, nếp sống cách mạng, chính quy, mẫu mực; đoàn kết thống nhất nội bộ, đoàn kết với đảng bộ, chính quyền, nhân dân, đơn vị bạn và quốc tế”.

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công.
- Sáu Huân chương Chiến công.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.





TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ - QUÂN SỰ

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị - quân sự cấp phân đội và nghiên cứu khoa học quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 14 tháng 1 năm 1976 (trên cơ sở Hệ sơ cấp, Học viện Chính trị - Quân sự).

Các đồng chí đã từng giữ chức Hiệu trưởng: đại tá Lê Văn Nhiễu (1976), đại tá Trần Văn Phác (1976 - 1977), Trung tướng Trương Công Cẩn (1977 - 1987)...

Từ năm 1976 đến 1991, Trường hoàn thành 93 khóa học (29 khóa đào tạo dài hạn 4 năm, 9 khóa ngắn hạn, 11 khóa bổ túc, 12 khóa bồi dưỡng giáo viên, 10 khóa đào tạo sĩ quan dự bị, phóng viên báo chí quân đội, nghiệp vụ văn hóa quần chúng và công tác bảo vệ, 20 khóa đào tạo cán bộ quân đội các nước bạn gồm hơn 10.000 học viên (trong đó có gần 1.500 giáo viên, 67 phóng viên…), góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ sĩ quan chính trị - quân sự cấp phân đội; đáp ứng nhiệm vụ xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với đội ngũ cán bộ, giáo viên ngày một trưởng thành (18 phần trăm có trình độ cao học, 74 phần trăm có trình độ đại học), trường đã biên soạn, nâng cao chất lượng hệ thống giáo trình, bài giảng; chủ trì nghiên cứu 11 đề tài khoa học cấp bộ, tổng cục, nhà trường, và tham gia một số đề tài cấp nhà nước. Một số đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn như: “Xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”, “Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc trong giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay”, “Nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn công tác chính trị”, “Hoàn thiện chương trình nội dung và tổ chức phương pháp đào tạo sĩ quan chính trị phân đội người dân tộc”...

Tháng 2 năm 1979, Trường tổ chức cho học viên thuộc bốn chuyên ban đào tạo đi thực tập ở biên giới, trực tiếp đảm nhiệm cương vị lãnh đạo, chỉ huy đại đội và trực liếp tham gia chiến đấu, gắn liền nội dung đào tạo của nhà trường với nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội, thể nghiệm thực tế chất lượng, hiệu quả đào tạo của trường.

Phần thưởng:

- Hai Huân chương Quân công (hạng nhất và hạng hai).
- Huân chương Chiến công hạng hai.
- Chín Huân chương Chiến công cho các tập thể.

Một học viên (liệt sĩ) được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Một giáo viên được tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:16:56 pm

CỤC TÀI CHÍNH - BỘ QUỐC PHÒNG

Cơ quan tham mưu về tài chính, bảo đảm, quản lý tài chính và chỉ đạo ngành tài chính toàn quân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 25 tháng 3 năm 1946 (ngày thành lập Ty Quản lý - Bộ Quốc phòng, cơ quan tài chính đầu tiên của quân đội).

Quá trình phát triển: Ty Quản lý - Bộ Quốc phòng (1946-1949)1, Cục Tài vụ - Tổng cục Hậu cần (1955-1970), Cục Tài vụ - Bộ Quốc phòng (1970-1989), Cục Tài chính – Bộ Quốc phòng (từ 1989).

Các đồng chí đã từng giữ chức Cục trưởng và tương đương: Nguyễn Tấn (1946-1949), Trần Hữu Dực (1955-1957), thượng tá Vũ Ngọc Điện (1957-1965), Trung tướng Nguyễn Đường (1966-1979)...

Khoảng 10 ngày trước khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp 500 đồng tiền Đông Dương để chuẩn bị cho việc thành lập đội. Hoạt động tài chính của quân đội ta thực sự đã bắt đầu từ lúc đó. Khi thành lập Ty Quản lý, cơ quan chỉ có một số ít cán bộ và ngân quỹ hạn hẹp. Quá trình bảo đảm, phục vụ đã từng bước phát triển, ổn định gồm nhiều bộ phận (phòng, ban) chuyên môn, trung tâm huấn luyện, tạp chí ... Đội ngũ cán bộ, công nhân viên được tăng cường có tiêu chuẩn chính trị, văn hỏa, nghiệp vụ ngày càng cao. Phần lớn cán bộ của cục hiện nay có trình độ đại học và trên đại học.

Cán bộ, chiến sĩ của cục và toàn ngành vừa học vừa làm, cùng các ngành liên quan khắc phục khó khăn, huy động, quản lý và sử dạng có hiệu quả nguồn ngân sách quốc phòng ngày càng lớn do ngân sách Nhà nước cấp, do nhân dân đóng góp, bạn bè quốc tế giúp đỡ và các nguồn thu khác, bảo đảm tốt mọi nhu cầu (ăn, mặc, ở, chữa bệnh, huấn luyện, mua sắm và bảo quản vũ khí trang bị, xây dựng cơ bản...), phục vụ quân đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và làm nghĩa vụ quốc tế.

Bám sát tình hình kinh tế đất nước, nhiệm vụ của quân đội trong các giai đoạn, Cục đã nghiên cứu đề xuất với Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng những vấn đề có tính chiến lược về tài chính trong các chủ trương chính sách lớn về xây dựng quân đội chính quy, hiện đại; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, chính sách hậu phương quân đội..., góp phần sử dụng ngân sách quốc phòng hợp lý, tiết kiệm, hiệu qủa. Cục Tài chính đã đề xuất với Bộ Quốc phòng nhiều vấn đề cơ bản về chỉ đạo công tác quản lý tài chính, ngân sách qua từng thời kỳ; biên soạn “Điều lệ công tác tài chính quân đội” (1964); phát động phong trào thu 100 triệu đồng vì đồng bào miền Nam ruột thịt (1968); chế độ lập và quản lý ngân sách quốc phòng (1970); xây dựng đơn vị quản lý tài chính tốt (1970); chế độ thanh toán tài chính trong quân đội (1977); sửa đổi phương thức bảo đảm và quản lý tài chính quân đội (1977-1978); tạo nguồn thu chính đáng để tự cân đối ngân sách (1986); đổi mới công tác kế hoạch hóa tài chính (1986); thực hành triệt để tiết kiệm (1987); đổi mới phương thức quản lý ngân sách và bảo đảm toàn quân của các ngành nghiệp vụ theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước (1990). Cục còn vận dụng các chính sách, chế độ về cải tiến quản lý của Nhà nước vào lĩnh vực quốc phòng, đối với các hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản, xây dựng kinh tế theo hướng xóa bỏ quan liêu bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tháo gỡ những lúng túng ban đầu, xác định rõ phương hướng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, dần dần ổn định và phát triển; nghiên cứu đề xuất với trên các chính sách đãi ngô, đặc biệt là các bước cải tiến, đổi mới tiền lương.

Thực hiện đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Cục không ngừng cải tiến công tác nghiệp vụ, tác phong lề lối làm việc, đưa công tác tài chính từ chỗ còn giản đơn tiến tới xây dựng thành chế độ, nguyên tắc; đưa việc chấp hành kỷ luật tài chính vào nền nếp chặt chẽ, chống tham ô, lãng phí; kiện toàn cơ quan và hệ thống ngành theo hướng chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng ba.
- Tạp chí Tài chính được tặng Huân chương Chiến công hạng ba.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.
__________________________________________
1. Từ tháng 5-1949 đến tháng 7-1955 theo quyết định của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, Ty Quản lý giải thể. Cơ quan tài chính là một bộ phận thuộc Cục Quân nhu - Tổng cục Cung cấp.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:17:49 pm

VIỆN CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ

Cơ quan nghiên cứu, đề đạt các kiến nghị và tư vấn cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng về những vấn đề chiến lược quân sự.

Ngày thành lập: 11 tháng 1 năm 1990.

Cán bộ nghiên cứu của viện là những chuyên gia có trình độ cao và chuyên sâu về khoa học quân sự, trong đó có nhiều giáo sư, phó giáo sư, phó tiến sĩ.

Từ ngày thành lập, Viện đã chủ trì và tham gia nghiên cứu nhiều chương trình và đề tài có ý nghĩa chiến lược cấp nhà nước và cấp bộ; góp phần quan trọng vào sự nghiệp củng cố nền quốc phòng toàn dân, nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.





VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM

Cơ quan đầu ngành khoa học lịch sử quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, trung tâm nghiên cứu lịch sử quân sự và đào tạo trên đại học về lịch sử quân sự.

Trụ sở: 1B phố Hoàng Diệu, Hà Nội.

Ngày thành lập: 28 tháng 5 năm 1981.

Viện trưởng: Trung tướng Nguyễn Xuân Hoàng (1981-1983); Trung tướng, phó giáo sư, phó tiến sĩ Hoàng Phương (từ năm 1983).

Từ các tổ chức nghiên cứu đầu tiên trong quân đội về lịch sử quân sự như Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị (thành lập năm 1961), Phòng Lịch sử nghệ thuật quân sự thuộc Viện Khoa học quân sự (thành lập năm 1969), Phân viện Lịch sử thuộc Học viện Quân sự cấp cao (thành lập năm 1978), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam được thành lập, trở thành cơ quan đầu ngành nghiên cứu về khoa học lịch sử quân sự toàn quân. Những nội dung lớn viện đang tập trung nghiên cứu là lịch sử hai cuộc chiến tranh trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), lịch sử tổ chức quân sự Việt Nam, lịch sử nghệ thuật quân sự, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, lịch sử kỹ thuật quân sự, lịch sử quân sự dân tộc, lịch sử quân sự nước ngoài... Viện còn tham gia chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về an ninh - quốc phòng, chủ trì đề tài độc lập cấp nhà nước về chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng; chủ trì và tham gia nhiều cuộc hội thảo khoa học về “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, về “Phát huy bản chất bộ đội Cụ Hồ”, "200 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa”. “Chiến tranh vùng Vịnh”...

Trong thời gian 10 năm (1981-1991), Viện đã hoàn thành nghiên cứu, biên soạn và xuất bản 38 công trình tổng kết chiến tranh và lịch sử quân sự, trong đó có những công trình lớn như: lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (sáu tập), lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (hai tập), lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam tập 2 (gồm hai quyển), sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng (ba tập)...

Là cơ quan đầu ngành về lịch sử quân sự của toàn quân, Viện đã có nhiều đóng góp vào việc xây dựng ngành, chỉ đạo hướng dẫn các cơ quan, đơn vị nghiên cứu biên soạn lịch sử, tổng kết các trận chiến đấu... Viện đã biên soạn tài liệu về kinh nghiệm nghiên cứu biên soạn lịch sử, mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng phương pháp luận sử học cho toàn quân, tham gia biên soạn giáo trình giảng dạy về lịch sử quân sự, tham gia biên soạn Bách khoa Việt Nam và Bách khoa quân sự Việt Nam.

Đội ngũ cán bộ của Viện và của ngành lịch sử quân sự ngày càng trưởng thành, tích lũy được một số kinh nghiệm bước đầu về nghiên cứu biên soạn lịch sử. Nhiều cán bộ có trình độ đại học, có năm phó giáo sư, năm phó tiến sĩ.

Tạp chí Lịch sử quân sự (có lúc là Tập san, Thông tin Lịch sử quân sự) phát hành số 1 từ năm 1983, đã ra được gần 70 số, nội dung phong phú, hấp dẫn, được bạn đọc trong và ngoài quân đội yêu thích, nhiệt tình cộng tác.

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng ba.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:19:06 pm

VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ - BỘ QUỐC PHÒNG

Trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 12 tháng 10 năm 1960 (thành lập Cục nghiên cứu kỹ thuật, năm 1968 đổi là Cục Kỹ thuật, từ năm 1969 đến nay là Viện Kỹ thuật quân sự).

Các đồng chí từng giữ chức Viện trưởng (Cục trưởng): Thiếu tướng Trần Sâm, đồng chí Nguyễn Hữu Thành, đại tá Hoàng Đình Phu, Thiếu tướng Phan Thu, Thiếu tướng, giáo sư, phó tiến sĩ Trần Thúc Vân

Từ một phòng nghiên cứu với 65 cán bộ, công nhân viên lúc mới thành lập, sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển trong hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự phục vụ quân đội chiến đấu, huấn luyện, Viện Kỹ thuật quân sự đã trở thành một trung tâm nghiên cứu về khoa học kỹ thuật quân sự với sáu chuyên ngành, một số phòng nghiên cứu và cơ sở thí nghiệm. Đến nay, có ba viện và sáu trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự chuyên ngành. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao và chuyên sâu, trong đó có nhiều giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ khoa học kỹ thuật.

Viện đã nghiên cứu, phát minh sáng chế, giải quyết một khối lượng lớn nhiệm vụ khoa học kỹ thuật phục vụ kịp thời cho chiến đấu đạt hiệu quả cao. Nhiều đề tài khoa học kỹ thuật quân sự được đánh giá xuất sắc, góp phần hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng và kinh tế đất nước. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Viện đã có nhiều đề tài nghiên cứu độc lập và phối hợp với các cơ quan khoa học trong và ngoài quân đội, hoàn thành hơn 100 đề tài khoa học kỹ thuật quân sự phục vụ kịp thời cho chiến đấu; trong đó có nhiều đề tài thiết thực phục vụ việc cải tiến nâng cao hiệu quả của vũ khí đánh địch, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật của quân đội, làm vô hiệu hóa và phá hủy một số loại vũ khí kỹ thuật hiện đại của Mỹ, góp phần đánh chìm hàng trăm tàu địch; đánh phá một số sân bay địch có hiệu quả; sáng chế các phương tiện rà phá bom của địch, phá được hàng vạn quả bom, mìn, thủy lôi trên sông, biển, đồng ruộng, làng mạc; mở đường, thông tuyến ra phía trước...

Tập trung cao độ trí tuệ, dốc toàn bộ tiềm lực góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Viện Kỹ thuật quân sự có bảy cán bộ khoa học đã anh dũng hy sinh trong khi thử nghiệm vũ khí và thực hành ứng dụng ngoài chiến trường.

Từ năm 1975, Viện chủ trì và tham gia hàng trăm đề tài khoa học cấp Nhà nước và Bộ Quốc phòng, một số đề tài được ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Một số đề tài có ý nghĩa thiết thực với công cuộc xây dựng đất nước như: tự động hóa điều khiển từ xa hệ thống thủy văn của nhà máy điện Đa Nhim; tự động hóa cấp than vào lò của nhà máy điện Ninh Bình; cải tiến hệ thống ăng-ten máy định vị của Công ty Vật lý địa chất (Tổng cục Dầu khí); tự động điều khiển dừng máy dệt khi sợi bị đứt của Nhà máy dệt lụa Nam Định...

Từ năm 1982 đến năm 1993, Viện đã tổ chức bảo vệ thành công 22 luận án phó tiến sĩ khoa học kỹ thuật về các chuyên ngành hóa lý thuyết và hóa lý, thiết bị kỹ thuật vô tuyến điện tử, bảo đảm toán học cho máy tính, vật lý vô tuyến và lượng tử, điều khiển học kỹ thuật và lý thuyết thông tin, công nghệ quá trình điện hóa.

Hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, Viện Kỹ thuật quân sự đã được Nhà nước tặng thưởng:

- Hai Huân chương Quân công hạng hai.
- 57 Huân chương Chiến công các loại cho tập thể và cá nhân…

- Viện Điện tử và đại tá, kỹ sư Nguyễn Văn Đệ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.





VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN DÂN TỘC QUÂN ĐỘI

Viện đầu ngành về y học cổ truyền của toàn quân, trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ y học cổ truyền dân tộc thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần.

Địa điểm: Đại Kim, Thanh Trì, Hà Nội.

Ngày thành lập: 4 tháng 7 năm 1978 (ngày thành lập Bệnh viện Y học dân tộc quân đội); từ tháng 2 năm 1994, đổi là “Viện Y học cổ truyền dân tộc quân đội”.

Viện trưởng: đại tá, bác sĩ Vũ Văn Ngạn (1978-1985), thượng tá (sau là đại tá), bác sĩ Hoàng Thủ (1985-1990), thượng tá, phó giáo sư Bành Văn Khìu (từ năm 1990).

Từ cơ sở nòng cốt là khoa đông y thuộc Viện quân y 108 với hơn 40 cán bộ, nhân viên, trải qua 15 năm xây dựng, phát triển theo đường lối kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc, Viện đã trưởng thành nhanh chóng. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của viện lên tới 300 người (trong đó có một phó giáo sư, một phó tiến sĩ, hai bác sĩ chuyên khoa cấp 2 và 10 bác sĩ chuyên khoa cấp 1, 51 bác sĩ, 8 dược sĩ cao cấp), được tổ chức thành khối thực hành gồm nhiều chuyên khoa, khối trung tâm điều hành, huấn luyện cán bộ và các cơ quan.

Từ năm 1980 đến năm 1993, Viện đã điều trị nội trú, ngoại trú và điều trị không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp) cho hơn 320.000 lượt người (phần lớn là cán bộ trung cấp, cao cấp quân đội) tiến hành 1.800 ca phẫu thuật, chiếu chụp và xét nghiệm hơn 180.000 lần. Viện chủ trì nghiên cứu 41 đề tài khoa học (7 đề tài cấp bộ, 2 đề tài cấp ngành, 32 đề tài cấp viện), có 4 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, trong đó 23 đề tài và sáng kiến đã được ứng dụng có kết quả tốt (“Góp phần điều trị sốt rét bằng thuốc y học dân tộc khu vực Tây Nguyên 5-1993”, “Tổng kết điều trị 124 trường hợp viêm tắc động mạch chi bằng y học dân tộc"...).

Quá trình điều trị và nghiên cứu, Viện đã khảo sát 1.250 bài thuốc của 718 lương y và bác sĩ ở 12 tỉnh, thành; kế thừa và ứng dụng chữa bệnh được 66 bài; đã mở 8 khóa đào tạo 239 bác sĩ chuyên khoa về y học dân tộc (1 khóa cho 3 học viên Lào), 6 khóa đào tạo 230 y sĩ về y học dân tộc; mở khóa đầu tiên đào tạo thạc sĩ y học dân tộc; huấn luyện bổ túc nghiệp vụ cho 365 bác sĩ, y sĩ của các đơn vị; chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ cho nhiều bệnh viện, bệnh xá, các đơn vị, địa phương; tham gia phòng chống sốt rét ở Tây Nguyên...

Để phục vụ điều trị, Viện đã thu mua, thu hái và gieo trồng được gần 200.000 ki-lô-gam dược liệu, sản xuất và chế biến gần 150.000 ki-lô-gam thuốc phiến, thuốc hoàn, thuốc cốm; hơn 300.000 lít thuốc nước và chai thuốc sắc... Hơn 30 loại bệnh đã được viện điều trị có kết quả, trong đó có những bệnh khó chữa như điều trị trĩ, viêm tắc động mạch chi, viêm loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mãn các thể..., góp phần nâng cao sức khỏe bộ đội và nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa và phát huy truyền thống y học cổ truyền của dân tộc.

Phần thưởng:

- Huân chương Chiến công hạng ba

- Hai cán bộ được Nhà nước tặng danh hiệu Thầy thuốc Ưu tú, một cán bộ được tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:20:01 pm

BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Bệnh viện tuyến cuối của toàn quân và khu vực; bệnh viện cán bộ; trung tám nghiên cứu y học lâm sàng.

Địa điểm: số 1 phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội.

Ngày thành lập và truyền thống: 1 tháng 4 năm 1951 (thành lập bệnh viện Trung ương)

Các đồng chí từng giữ chức Viện trưởng: bác sĩ Vũ Văn Cẩn (tháng 4 - tháng 6.1951); bác sĩ Trần Bảo (quyền Viện trưởng từ tháng 6.1951- 1952); bác sĩ Phạm Gia Triệu (1952-1954); bác sĩ (sau là Thiếu tướng, giáo sư, phó tiến sĩ) Nguyễn Thế Khánh (1954-1955 và 1966-1985); bác sĩ Nhữ Thế Bảo (1955-1956); bác sĩ Lê Văn Phụng (1956-1960); bác sĩ Nguyễn Minh Tâm (1960-1963); bác sĩ Lê Khắc Thiền (quyền Viện trưởng, 1963-1966); Thiếu tướng, giáo sư, tiến sĩ Bùi Đại (từ năm 1985)

Từ một bệnh viện dã chiến (bệnh viện Thủy Khẩu) phục vụ chiến dịch Biên Giới thu-đông 1950, bệnh viện Trung ương (sau đổi là Phân viện 8 ) thành lập năm 1951 là cơ sở thực hành cho các lớp bổ túc quân y và làm nhiệm vụ một bệnh viện hậu phương khu vực. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Phân viện 8 tiếp quản cơ sở bệnh viện Đồn Thủy của quân đội Pháp, được tổ chức thành Quân y viện 108 (có thời gian gọi là Viện quân y 108, nay là Bệnh viện Trung ương quân đội 108).

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Bệnh viện 108 đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong việc chăm sóc sức khỏe cán bộ, nhất là cán bộ cao cấp, điều trị thương binh, bệnh binh và nghiên cứu y học quân sự. Từ sau khi miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Bệnh viện đã có nhiều cố gắng lớn trong việc thu dung điều trị thương binh, bệnh binh, khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh, phục vụ cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và được xây dựng trở thành một trung tâm y học quân sự ngày càng hiện đại, được cán bộ, chiến sĩ toàn quân và nhân dân tin tưởng, kính trọng.

Là bệnh viện đầu ngành trong quân đội, với một hệ thống điều trị gồm 11 khoa nội, 7 khoa ngoại, 5 chuyên khoa, 11 khoa cận lâm sàng và nhiều cơ quan nghiên cứu, phục vụ, bảo đảm khác; với hơn 600 giường bệnh; với đội ngũ bác sĩ nhân viên chuyên môn kỹ thuật lành nghề (trong đó có 5 tiến sĩ, 35 phó tiến sĩ, 12 giáo sư, 20 phó giáo sư, nhiều chuyên viên đầu ngành, chuyên viên kỹ thuật giỏi); với những trang thiết bị hiện đại (trong đó có máy vi tính cắt lớp)..., Bệnh viện 108 đã có nhiều thành tựu trong điều trị và nghiên cứu y học lâm sàng. Thành tựu nổi bật nhất là vi phẫu thuật, thực hiện thành công kỹ thuật nối bàn tay, nối ruột non, thay thực quản, kéo dài chi.... trả lại chức năng và thẩm mĩ cho người bệnh.

Bệnh viện đào tạo nhiều khóa bác sĩ chuyên khoa cấp 1, hàng chục khóa y tá sơ cấp, trung cấp cho viện và cho ngành Quân y.

Bệnh viện và ba cán bộ của bệnh viện được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; năm cán bộ được tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân, 13 cán bộ được tặng danh hiệu Thầy thuốc Ưu tú.

Phần thưởng:

- Huân chương Độc lập hạng nhất.
- Bốn huân chương Quân công (một hạng hai, ba hạng ba).
- 13 Huân chương Chiến công (hai hạng nhất, hai hạng hai, chín hạng ba).
- Huân chương Giải phóng hạng ba.
- Huân chương Độc lập (Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào).
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2022, 01:21:38 pm

VIỆN BẢO TÀNG QUÂN ĐỘI

Trung tâm lưu giữ, trưng bày hình ảnh, hiện vật lịch sử của Quân đội và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo, hướng dẫn công tác bảo tàng truyền thống trong toàn quân; góp phần tuyên truyền, giáo dục lịch sử và truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày thành lập: 22 tháng 12 năm 1959 (Phòng Bảo tàng Quân đội thuộc Cục Tuyên huấn). Năm 1964, tổ chức Viện Bảo tàng Quân đội thuộc Tổng cục Chính trị.

Ngoài cơ sở chính ở 28, phố Điện Biên Phủ - Hà Nội, Viện Bảo tàng Quân đội có phân viện ở Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu.

Các đồng chí từng giữ chức Trưởng phòng Bảo tàng quân đội: trung tá Phạm Đức Phỉ (1959-1964); Viện trưởng bảo tàng Quân đội: đại-tá Nguyễn Văn Từ (1964-1980), đại tá Vũ Chính (quyền Viện trưởng, 1980-1981), Thiếu tướng Lê Chiêu (1981-1987), đại tá Phạm Đức Đại (từ năm 1987).

Viện Bảo tàng Quân đội đang lưu giữ trên 135.000 hiện vật, hơn 9.600 phim, ảnh lịch sử. Từ ngày thành lập, Viện đã 11 lần tham gia triển lãm quốc gia, tổ chức gần 100 cuộc triển lãm chuyên đề.

10.160.000 lượt người, trong đó có 80.000 lượt khách quốc tế, nhiều vị nguyên thủ các quốc gia đã tham quan Viện Bảo tàng Quân đội (tính đến năm 1993).

Phần thưởng:

- Hai Huân chương Quân công hạng hai và hạng ba.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Nhiều phần thưởng, kỷ niệm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, khách quốc tế.





TẠP CHÍ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Cơ quan lý luận quân sự, chính trị của Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng.

Tòa soạn: 57 phố Cửa Đông, Hà Nội. Cơ quan đại diện phía nam: 63 phố Lý Tự Trọng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày truyền thống: tháng 4 năm 1948 (ngày Bác Hồ gửi thư cho “Quân sự tập san").

Các đồng chí Bộ trưởng Quốc phòng trực tiếp là Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo.

Các đồng chí từng giữ chức Tổng biên tập: Vương Tuấn Kiệt, Lê Liêm (1957-1961), Thiếu tướng Lê Quang Hòa (1961-1964), đại tá Lê Hai (1964-1978), Trung tướng Phạm Quang Cận (từ năm 1978).

Sau chiến thắng Việt Bắc (thu-đông 1947), theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 1948, Quân sự tập san ra số đầu, sau đổi tên là Quân chính tập san. Tháng 6 năm 1957, Tổng Quân ủy ra quyết định xuất bản Tạp chí Quân đội nhân dân, tờ “Tạp chí lý luận của Đảng trong quân đội”. Tháng 8 năm 1957, Tạp chí Quân đội nhân dân ra số đầu. Ngày 26 tháng 1 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương ra quyết định phát triển nhiệm vụ của Tạp chí Quân đội nhân dân và đổi tên thành Tạp chí Quốc phòng toàn dân (từ số tháng 4 năm 1988).

Với các chuyên mục nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, truyền thống quân sự dân tộc, lực lượng vũ trang các nước, tin tức..., Tạp chí Quốc phòng toàn dân là cơ quan nghiên cứu, trao đổi các vấn đề lý luận, khoa học, nghệ thuật, truyền thống quân sự... của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tòa soạn đã phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo, trao đổi ý kiến nghiên cứu về những vấn đề khoa học quân sự. Cuộc trao đổi về tư tưởng chiến thuật của quân đội (năm 1964) có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với việc xây dựng phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tạp chí đã góp phần bồi dưỡng tư duy quân sự, nâng cao trình độ lý luận quân sự và chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ trung cấp, cao cấp quân đội, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng trong các giai đoạn cách mạng.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:19:41 pm

BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Cơ quan ngôn luận của Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, góp phần tuyên truyền đường lối chính trị, quân sự của Đảng, hướng dẫn toàn dân, toàn quân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thực hiện chính sách hậu phương quân đội.

Tòa soạn: số 7, phố Phan Đình Phùng, Hà Nội.

Ngày thành lập và truyền thống: 20 tháng 10 năm 1950 (ngày sáp nhập báo "Vệ quốc đoàn” và báo “Quân du kích", ra số đầu tiên của báo Quân đội nhân dân).

Tử năm 1950 đến năm 1953, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trực tiếp làm Chủ nhiệm báo Quân đội nhân dân. Từ năm 1953 đến nay, các đồng chí từng giữ chức Tổng biên tập là Hoàng Xuân Tùy (1953-1954), Văn Doãn (1954-1960), Hoàng Thế Dũng (1960-1963), đại tá Văn Phác (1963-1964), đại tá Nguyễn Đình Ước (1964-1978), Thiếu tướng Trần Công Mân (1978-1989), Thiếu tướng Phan Khắc Hải (từ năm 1989).

Tiên thân của báo Quân đội nhân dân là các tờ báo "Tiếng súng reo”, “Quân giải phóng”, “Sao vàng”, “Vệ Quốc quân”, “Quân du kích” ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1950 đến năm 1954, báo xuất bản định kỳ, lưu hành nội bộ. Sau khi miền Bắc được giải phóng, báo ra mỗi tuần hai kỳ. Từ ngày 19 tháng 5 năm 1964, báo Quân đội nhân dân phát hành hàng ngày.

Với một đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên có trình độ chuyên môn cao, yêu nghề, luôn bám sát chiến trường, bám sát mọi hoạt động xây dựng, chiến đấu và đời sống của quân đội, với nội dung phong phú, sinh động, cách viết hấp dẫn, hình thức trình bày và công nghệ in ấn ngày càng đổi mới, báo Quân đội nhân dân được đông đảo bạn đọc trong và ngoài quân đội yêu thích, tìm đọc và nhiệt tình cộng tác.

Đến nay, báo đã ra được hơn 12.000 số với hàng triệu bản (báo hàng ngày), trên 200 số báo Quân đội nhân dân Thứ Bảy, nhiều số đặc san phát hành trong toàn quân, toàn quốc và phát hành đến một số nước trên thế giới. Báo có cơ quan đại diện, thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, đến nay đã có bốn điểm in (Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) cùng một lúc phát hành trên toàn quốc. Tòa soạn báo Quân đội nhân dân đã mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho phóng viên, cộng tác viên các tờ báo trong quân đội, trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ báo quân đội một số nước.

10 phóng viên của báo Quân đội nhân dân đã anh dũng hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ trong hai quộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và làm nghĩa vụ quốc tế.

Phần thưởng:

- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công hạng nhất
- Huân chương Chiến công hạng nhất và hạng ba
- Huân chương Lao động hạng hai.
- Nhiều phần thưởng cao quý khác.





NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Nhà xuất bân Quân đội nhân dân là cơ quan xuất bản chuyên ngành tổng hợp về quân sự của Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng; trong hệ thống xuất bản của Nhà nước, chịu trách nhiệm xuất bản các loại sách quân sự, chính trị, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, phát hành rộng rãi trong quân đội và ngoài nhân dân, các sách lưu hành nội bộ quân đội.

Trụ sở: nhà số 23 Lý Nam Đế, Hà Nội.

Đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh: số 8 Nguyễn Bình Khiêm, quận 1.

Ngày thành lập: 11 tháng 12 năm 1957.

Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã xuất bản 2.300 đầu sách với 32 triệu bản và 5,5 tỷ trang in. Sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân hình thành tám bộ loại:

- Sách kinh điển và lý luận quân sự.

- Sách khoa học và kỹ thuật quân sự.

- Sách lịch sử, hồi ký quân sự.

- Sách điều lệnh, điều lệ và chế độ chính sách trong quân đội.

- Sách hướng dẫn nghiệp vụ tham mưu, chính trị, hậu cần, phổ biến kinh nghiệm quân sự địa phương...

- Sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy trong quân đội.

- Sách văn học, nghệ thuật, văn hóa phẩm.

- Sách tham khảo.

Sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã góp phần vào việc: truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến đường lối, nhiệm vụ quân sự của Đảng; hướng dẫn quân và dân hành động thực hiện thắng lợi đường lối nhiệm vụ quân sự của Đảng; xây dựng rèn luyện giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống anh hùng của lực lượng vũ trang nhân dân, giáo dục cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu; xây dựng nền khoa học quân sự Việt Nam, xây dựng nền văn học cách mạng về đề tài lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn dân, góp phần mở rộng giao lưu văn hóa, khoa học kỹ thuật.

Các đồng chí từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội nhân dân: Lê Chưởng (1957-1960); Nguyễn Xuân Hoàng (1961-1962); Nguyễn Xuân Đài (1963-1966); Mạc Ninh (1966-1974); Mai Trọng Thường (1974-1976); Lữ Giang (1976-1982); Đoàn Chương (1982-1990); Phó tiến sĩ Phạm Gia Đức (từ năm 1990).

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Huy chương Vàng hội chợ sách Mát-xcơ-va.

- Nhiều phần thưởng cao quý khác của Bộ Quốc phòng, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà văn Việt Nam...


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:20:36 pm

TẠP CHÍ VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI

Tạp chí sáng tác và bình luận văn nghệ của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tòa soạn: số 4, phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Cơ quan đại diện tại 63, Lý Tự Trọng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày thành lập: 15 tháng 1 năm 1957.

Các đồng chí từng là Tổng biên tập hoặc phụ trách: đại tá, nhà văn Trần Văn Phác (1957-1964); thượng tá, nhà thơ Thanh Tịnh (1965-1967); đại tá, nhà thơ Vũ Cao (1968-1978); thượng tá, nhà văn Nguyễn Trọng Oánh (phụ trách 1979-1989); Thiếu tướng, nhà văn Dũng Hà (1981-1992); trung tá, nhà văn Nguyễn Trí Huân (từ năm 1992).

Từ tờ Sinh hoạt văn nghệ xuất bản không thường kỳ trong những năm 1951-1955, đến tạp chí Văn nghệ quân đội, với phong cách riêng rất gần gũi với người lính, nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ, cán bộ nghiên cứu văn học trong quân đội đã trưởng thành, được chiến sĩ và nhân dân yêu mến. 30 nhà vàn, nhà thơ công tác tại tạp chí được tặng giải thưởng văn học trong nước và quốc tế.

Từ ngày ra số đầu đến nay, tạp chí phát hành đều đặn mỗi tháng một kỳ, thời kỳ chiến tranh từ 90.000 đến 100.000 bản, những năm gần đây là 32.000 bản. Một số chuyên mục đã trở thành truyền thống như văn xuôi, thơ, lý luận phê bình, văn học nước ngoài, nhạc, tư liệu, tin tức, tranh, ảnh phản ánh sinh động cuộc sống chiến đấu và xây dựng của quân và dân ta, nổi bật là mảng đề tài về chiến tranh cách mạng, về các lực lượng vũ trang, về “Anh bộ đội Cụ Hồ”...

Tạp chí đã tổ chức sáu cuộc thi truyện ngắn và thơ trong toàn quân, toàn quốc; đã phát hiện, bồi dưỡng nhiều cây bút trẻ trong và ngoài quân đội.

Với nội dung phong phú, hấp dẫn, Văn nghệ quân đội được bạn đọc cả nước yêu thích, nhiệt tình cộng tác. Tạp chí là một cơ quan ngôn luận uy tín và quan trọng của văn học Việt Nam hiện đại, góp phần xứng đáng vào quá trình xây dựng, phát triển nền văn học cách mạng Việt Nam, và sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân, thiết thực nâng cao đòi sống văn hóa tinh thần của người chiến sĩ.

Phần thưởng: Huân chương Quân công hạng nhất.





CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Tiếng nói của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam, là một trong những chương trình chính của đài, góp phần cùng các cơ quan báo chí trong quân đội tuyên truyền đường lối chính trị, quân sự của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước tới lực lượng vũ trang và toàn dân, cổ vũ kịp thời những điển hình tiên tiến trong chiến đấu và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trụ sở: 58 phố Quán Sứ, Hà Nội.

Ngày phát sóng đầu tiên: 16 tháng 3 năm 1959.

Các đồng chí từng giữ chức Trưởng ban biên tập: trung tá Phạm Chí Nhân (1959-1963), thiếu tá Ngô Thế Kỷ (1963-1965), thượng tá Phạm Hồng Lân (1965-1975), trung tá Nguyễn Tất Đắc (1975-1978), thượng tá Lê Hào (1978-1986), thượng tá Đặng Văn Nhưng (1986-1992), thượng tá Nguyễn Xuân Ngân (từ năm 1992).

Thời gian đầu, chương trình phát thanh Quân đội nhân dân thực hiện 15 phút trong ngày, chủ yếu đưa tin hoạt động quân sự; sau đó, tăng lên 60 phút, gồm hai chương trình trong ngày (từ 6 giờ 30 đến 7 giờ và từ 21 giờ đến 21 giờ 30). Chương trình nội dung ngày càng phong phú về nhiều mặt, mang tính toàn quân, toàn quốc, kịp thời và luôn luôn có định hướng đúng theo quan điểm, đường lối của Đảng và nhiệm vụ chính trị của quân đội. Ngoài các vấn đề thời sự được phản ánh hàng ngày, chương trình phát thanh Quân đội nhân dân có các chuyên mục: “Nói chuyện chuyên đề”, “Chương trình dành cho các bạn trẻ trong quân đội”, “Câu chuyện truyền thanh”, “Chuyện kể ở đại đội”, “Người chiến sĩ hôm nay”, “Chương trình văn nghệ tổng hợp”..., phát ổn định trong tuần, được bạn nghe đài cả nước quan tâm, theo dõi, động viên và tích cực cộng tác.

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng hai.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Huân chương Lao động hạng hai và nhiều phân thưởng cao quý khác.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:22:11 pm

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Tờ báo hình của lực lượng vũ trang nhân dân, chường trình chính thức của Đài truyền hình Việt Nam, góp phần cùng các cơ quan báo chí trong quân đội tuyên truyền đường lối chính trị, quân sự của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước tới các lực lượng vũ trang và toàn dân, giáo dục và phát huy bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trụ sở: 84 phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội.

Ngày thành lập: 20 tháng 9 năm 1975.

Các đồng chí từng giữ chức Trưởng ban biên tập: đại tá Nguyễn Hồng Lân (1975-1979), đại tá Ngô Bình Lâm (1979-1983), thượng tá Úy Anh Khóa (1983-1990), thượng tá Nguyễn Chi Phan (đầu năm 1991).

Thời gian đầu là một tổ truyền hình nhỏ, các phương tiện kỹ thuật dựa vào Đài truyền hình Trung ương, hai tuần phát một buổi, mỗi buổi 30 phút, nội dung chương trình là các tin, phóng sự về hoạt động quân sự. Truyền hình quân đội nhân dân là một trong những chuyên mục của Đài truyền hình Việt Nam, có hình hiệu và nhạc hiệu riêng. Hiện nay, phim nhựa 16 ly được thay bằng phim Vidéo; hàng tuần phát vào buổi tối chủ nhật, thời gian là 30 phút và chương trình bổ sung vào chiều thứ tư hàng tuần. Chương trình truyền hình quân đội ngày càng phong phú, hấp dẫn gồm tin hoạt động của các lực lượng vũ trang, phóng sự, ghi nhanh và các mục: “Chuyện của chúng tôi”, “Chiến sĩ sinh hoạt văn hóa văn nghệ”, “Hoa đời thường”, “Ý kiến chiến sĩ", “Những dấu son lịch sử”...

Chương trình truyền hình Quân đội nhân dân đã tham dự ba lần liên hoan truyền hình toàn quốc (lần thứ 8, thứ 9 và thứ 10), được tặng hai huy chương vàng, hai huy chương bạc và nhiều bằng khen.





ĐIỆN ẢNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
(Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân)

Cơ sở làm phim của Quân đội nhân dân Việt Nam, chuyên sản xuất phim thời sự, phim tài liệu khoa học giáo dục quân sự, phim truyền thống lịch sử và phim truyện.

Trụ sở: 17 phố Lý Nam Đế, Hà Nội.

Ngày thành lập: 17 tháng 8 năm 1960 (Đoàn điện ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam). Năm 1962, một bộ phận vào chiến trường miền Nam tổ chức xưởng phim Quân giải phóng do đại úy Trương Thành Hỷ phụ trách.

Các đồng chí từng giữ chức Giám đốc: trung tá (sau là thượng tá) Dương Minh Đẩu (1960-1972 và 1976-1982), thượng tá Vũ Chính (1972-1974), trung tá Trần Việt (quyền Giám đốc 1974-1976), đại tá Ngô Thế Kỷ (1982-1988), đại tá Phạm Hòa (từ năm 1988).

Những năm đầu, cơ sở làm phim của Điện ảnh Quân đội nhân dân rất nghèo nàn. Các khâu thu thanh, in, tráng phim phải nhờ các xưởng bạn. Từ năm 1975, các khâu này được thực hiện ở xưởng và ngày càng hoàn thiện về phương tiện, đáp ứng yêu cầu của kỹ thuật điện ảnh hiện đại.

Trong mảng phim về đề tài chiến tranh và người chiến sĩ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Điện ảnh quân đội có những đóng góp quan trọng. Đến năm 1992, đã sản xuất được 850 bộ phim, chủ yếu là phim thời sự, tài liệu, phim khoa học giáo dục, một bộ phim về nghệ thuật vũ kịch, bảy phim truyện, đặc biệt đã quay được hàng chục vạn thước phim tư liệu quý hiếm trong chiến tranh.

Điện ảnh quân đội đã tham dự nhiều liên hoan phim trong nước và quốc tế, được nhiều giải thưởng, trong đó có 17 giải Bông sen vàng, 38 Bông sen bạc tại các Liên hoan phim Việt Nam; ba giải Bồ câu vàng, một giải Bồ câu bạc, một giải đặc biệt Jô-rít I-ven1; một giải nhất, hai giải nhì, hai giải ba tại các liên hoan phim quân đội các nước xã hội chủ nghĩa (cũ).

16 nhà quay phim của Điện ảnh quân đội đã hy sinh anh dũng trong khi quay phim tại mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Hai đồng chí Trần Việt và Nguyễn Văn Thông được Nhà nước tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Hai liệt sĩ (Lê Văn Bằng và Phan Văn Cam, tức Đồng Cam) và sáu đồng chí (Dương Minh Đẩu, Lê Lâm, Nguyễn Kha, Đặng Xuân Hải, Phạm Tiến Đại, Phùng Đệ) được tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.

Phần thưởng:

- Hai Huân chương Quân công hạng hai.
- Hai Huân chương Chiến công hạng nhất và hạng hai.
- Huân chương Lao động hạng nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác.
_________________________________________
1. Giải thưởng mang tên nhà đạo diễn điện ảnh Hà Lan Jô-rít I-ven.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:23:02 pm

THƯ VIỆN TRƯNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI

Cơ quan văn hóa, giáo dục và thông tin khoa học, thư viện khoa học tổng hợp chuyên ngành cấp Nhà nước về quân sự và là trung tâm đầu ngành của hệ thống thư viện Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ thu thập, tàng trữ sách, báo, tư liệu về quân sự, khai thác và tổ chức phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, nhận lưu chiểu các xuất bản phẩm trong quân đội, trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ thư viện và phát hành sách trong toàn quân, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho bộ đội.

Trụ sở: 83, phố Lý Nam Đế, Hà Nội.

Ngày thành lập: 15 tháng 11 năm 1957.

Các đồng chí từng giữ chức Giám đốc: thiếu tá Nguyễn Hữu Bưởi (1957-1966), thiếu tá Hoàng Cơ Quảng (quyền Giám đốc, 1966-1968), đại tá Đinh Quang Thiệu (1968-1989), thượng tá phó tiến sĩ Mạc Văn Trọng (từ năm 1989).

Từ một tủ sách với gần 500 cuốn, đến nay, số lượng sách lưu giữ tại thư viện đã lên tới trên 30 vạn bản, hơn 1.500 loại báo, tạp chí. Hàng năm, thư viện phục vụ gần 200.000 lượt bạn đọc với khoảng 50 000 lượt sách, tài liệu đưa ra phục vụ.

Thư viện đã tổ chức nhiều hình thức phục vụ bạn đọc như: triển lãm sách, sinh hoạt khoa học, nói chuyện chuyên đề, hội nghị “Bạn đọc tọa đàm về sách”, “Đối thoại giữa tác giả và bạn đọc”..., thu hút đông đảo bạn đọc trong và ngoài quân đội.

Thư viện đã biên soạn gần 1.500 tài liệu, thư mục chuyên đề với nhiều hình thức; phát hành tập san “Thông tin chuyên đề” phục vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục chính trị tư tưởng; đã tổ chức hơn 100 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho gần 2.000 nhân viên thư viện toàn quân; biên soạn, cung cấp cho các đơn vị hàng trăm bộ giáo trình về công tác thư viện, hàng triệu tài liệu, phích, phiếu nghiệp vụ cho thư viện cơ sở; trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ thư viện quân đội Lào và Cam-pu-chia.

Phần thưởng:

- Hai Huân chương Quân công hạng hai và hạng ba.
- Huân chương Lao động hạng hai và nhiều phần thưởng cao quý khác.





ĐOÀN CA MÚA QUÂN ĐỘI

Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm đội ca múa nhạc nhẹ và đội ca múa nhạc dân tộc) biểu diễn phục vụ bộ đội và nhân dân, đặc biệt là trong các lễ hội, ở trong nước và quốc tế, góp phần giáo dục phẩm chất chính trị, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và nhân dân, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của người lính.

Trụ sở: Khu văn công quân đội, thị trấn Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội.

Ngày thành lập: 15 tháng 3 năm 1951 (ngày thành lập Tổng đội Văn công).

Năm 1954 được tổ chức thành Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị, năm 1976 đổi là Đoàn ca múa Quân đội.

Từ năm 1951-1954, nhà thơ Chính Hữu là Tổng đội trưởng kiêm chính ủy. Từ năm 1954 đến nay, các đồng chí từng giữ chức Đoàn trưởng là: Nhạc sĩ Đỗ Nhuận (1954-1958), nhạc sĩ Lương Ngọc Trác (1958-1962, 1966-1969 và 1983-1988), nhạc sĩ Huy Du (1962-1965 và 1976-1979), nhạc sĩ Vũ Trọng Hối (quyền Đoàn trưởng 1965-1966), biên đạo múa Khắc Tuế (1969-1976), biên đạo múa Minh Tiến (1979-1983), nhạc sĩ Huy Thục (1988-1989), phó tiến sĩ văn học Đinh Xuân Dũng (1989-1990), biên đạo múa Ứng Duy Thịnh (từ năm 1990).

Với đề tài trung tâm là hình tượng người lính trong xây dựng và chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, hàng năm đoàn phục vụ từ 100 đến 150 đêm diễn, từ Bắc vào Nam, từ biên giới đến hải đảo, đáp ứng một phần nhu cầu văn hóa tinh thần của người lính và nhân dân; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đại diện cho quân đội trong các ngày lễ lớn, chào đón các đoàn khách quốc tế và giới thiệu văn hóa nghệ thuật Việt Nam với nhiều nước trên thế giới.

Nhiều chương trình, tác phẩm nghệ thuật, nhiều nghệ sĩ giành giải thưởng lớn trong các cuộc thi ca múa nhạc ở trong nước và quốc tế.

Các nghệ sĩ Tường Vi, Lê Đóa, Lê Dung được Nhà nước tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, 24 nghệ sĩ là Mạnh Thắng, Huy Luân, Trọng Mai, Minh Tiến, Ngọc Canh, Trọng Lanh, Kim Tiến, Ứng Duy Thịnh, Linh Nhâm, Kim Cúc, Kim Ngọc, Trần Chất, Đoàn Thiều, Hoài Thu, Tường Thụ, Mạnh Hưng, Doãn Tần, Thúy My, Bích Việt, Thanh Nga, Hoàng Mi, Ngọc Lê, Nguyễn Lương, Tiến Định được Nhà nước tăng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.

Phần thưởng:

- Ba Huân chương Chiến công (hạng nhất, hai, ba).
- Ba Huân chương Giải phóng (hạng nhất, hai, ba).
- Hai Huân chương Lao động hạng nhất.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:25:24 pm

ĐOÀN KỊCH NÓI QUÂN ĐỘI

Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc bộ môn sân khấu kịch nói, chuyên biểu diễn phục vụ nhu cầu nghệ thuật của bộ đội và nhân dân, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người lính.

Địa điểm: Khu văn công quân đội, thị trấn Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội.

Ngày thành lập: 10 tháng 1 năm 1955.

Trưởng đoàn: Hoàng Cầm (1955-1956), Hoàng Tích Linh (1956-1959), đại tá Đào Hồng Cẩm (1959-1966), đại tá Nguyễn Vượng (1966-1967), đại tá Đào Ngọ (1967-1976), đại tá Phan Mai (1976-1986), đại tá Quý Hải (1986-1990), trung tá Tạ Xuyên (từ năm 1990).

Tiền thân của đoàn là Đội kịch Chiến thắng (thành lập năm 1948), với những văn nghệ sĩ yêu nước tham gia kháng chiến như Thế Lữ, Song Kim, Phạm Văn Khoa, Thanh Tịnh... Năm 1951, đội kịch sáp nhập vào Tổng đội Văn công. Thực hiện chủ trương thành lập các đội văn công chuyên ngành, ngày 10 tháng 1 năm 1955, Đoàn Kịch nói Tổng cục Chính trị được thành lập. Năm 1990, đổi tên là Đoàn Kịch nói Quân đội (gồm đội biểu diễn 1, đội biểu diễn 2, ban nghệ thuật, ban kỹ thuật hậu cần ...).

Với đối tượng phục vụ là các lực lượng vũ trang và nhân dân, Đoàn đã mang chương trình biểu diễn phục vụ đến mọi miền của Tổ quốc, từ miền Bắc đến chiến trường miền Nam, từ biên giới đến hải đảo, từ các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đến các vùng nông thôn hẻo lánh, từ trong nước đến quốc tế..., góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, thông qua việc làm giàu thẩm mĩ nghệ thuật, tâm hồn người lính, làm phong phú cuộc sống văn hóa, tinh thần của bộ đội...

Quá trình xây dựng và trưởng thành, dù trong hoàn cảnh nào, Đoàn kịch nói Quân đội luôn giữ vững khuynh hướng nghệ thuật chân chính, đề cao giá trị thẩm mĩ và yếu tố chính trị, đưa nghệ thuật kịch nói đến công chúng qua các vở diễn có nội dung giáo dục sâu sắc, giàu sức sống và giá trị nghệ thuật. Đề tài chiến tranh cách mạng, hình tượng người lính, “Bộ đội Cụ Hồ” và các vấn đề có tính thời sự của xã hội, của đất nước luôn là chủ đề xuyên suốt trong các vở diễn và chương trình biểu diễn của đoàn1.

Gần 30 năm xây dựng và phục vụ, Đoàn đã dàn dựng trên 100 vở kịch, 5 vở giành huy chương vàng, 10 vở giành huy chương bạc, 3 giải đạo diễn, 12 giải diễn viên xuất sắc trong các hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc.

Hàng năm, đoàn đều biểu diễn từ 200 đến 250 đêm diễn, với trên 500.000 lượt người xem. Tám cán bộ và diễn viên của đoàn đã được Nhà nước tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú (Thùy Chi, Xuân Thức, Trường Sơn, Thúy Nga, Thành Ngọc Căn, Vũ Minh, Minh Hằng, Đoàn Bôn).

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng hai.
- Ba Huân chương Chiến công hạng nhất, hai, ba.
- Hai Huân chương Chiến công giải phóng hạng hai.
- Ba Huân chương Lao động hạng nhất, hai, ba.





ĐOÀN THỂ DỤC THỂ THAO QUÂN ĐỘI

Trung tâm huấn luyện và nâng cao thành tích của các vận động viên thể dục thể thao quân đội; đại diện cho Quân đội nhân dân Việt Nam trong các cuộc thi đấu thể dục thể thao trong nước và quốc tế; là lực lượng nòng cốt của phong trào thể dục thể thao, rèn luyện thân thể trong các lực lượng vũ trang, góp phần nâng cao sức khỏe bộ đội, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu, học tập, công tác; nơi đào tạo cán bộ thể dục thể thao và cung cấp huấn luyện viên, vận động viên cho các đội tuyển quốc gia.

Đoàn thể dục thể thao gồm các đội 1 (bóng đá, bóng chuyền, bắn súng, bóng bàn, thể dục dụng cụ, điền kinh, bóng rổ, bơi lội, xe đạp, vật tự do, ka-ra-te, tê-kun-đô); các đội trẻ (bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền, bắn súng); các đội năng khiếu (bóng đá, bóng bàn, bắn súng, thể dục dụng cụ, điền kinh, cờ vua, cờ tướng).

Địa điểm chính: Câu lạc bộ quân đội - 19, Hoàng Diệu, Hà Nội.

Ngày thành lập và truyền thống: 23 tháng 9 năm 1954 (ngày thành lập Đội Thể công thuộc Tổng cục Chính   trị, nay trực thuộc Cục Huấn luyện chiến đấu - Bộ Tổng Tham mưu).

Các đồng chí từng giữ chức Đoàn trưởng: Nguyễn Văn Bưởi (1954-1955), Trương Văn Ngàn (1955-1957), thiếu tá Tống Viết Khánh (1957-1961), trung tá Hồ Quang Quới (1961 -1970), thiếu tá Công Võ Hiển (1970-1973), đại úy sau là thiếu tá và đại tá Ngô Xuân Quýnh (1973-1976, 1979-1980 và 1984-1991), trung tá Bùi Hữu Nam (1976-1979), thượng tá Trịnh Xuân Kỷ (1980-1981), trung tá Phạm Mạnh Soạn (1981-1982), trung tá Phạm Tất Thắng (1982-1983), thượng tá Nguyễn Tác Chiến (1983-1984), đại tá Bùi Huy Cường (1991-1993), trung tá Nguyễn Sĩ Hiển (từ năm 1993).

Đoàn thể dục thể thao Quân đội là một trong những trung tâm mạnh của phong trào thể dục thể thao Việt Nam, đặc biệt ở các bộ môn bắn súng (đội mạnh toàn quốc, thường xuyên giữ vị trí nhất, nhì) bóng đá (15 lần vô địch toàn quốc) bóng bàn (từ năm 1984 thường xuyên giữ vị trí nhất, nhì giải đồng đội nam, nữ)...

Trên 60 vận động viên được phong cấp kiện tướng, nhiều vận động viên đạt danh hiệu vận động viên cấp 1. Các vận động viên được bầu chọn là vận động viên tiêu biểu toàn quốc: Nguyễn Quốc Cường (bắn súng - ba lần), Đặng Thị Đông (bắn súng - hai lần), Trần Quang Vinh (bắn súng), Nguyễn Thế Ngọc (bóng bàn), Lê Xuân Phong (bóng bàn), Vũ Thị Nô En (bóng bàn), Nguyễn Cao Cường (bóng đá - hai lần), Bùi Văn Luân (bóng chuyền). Nhiều vận động viên và các đội mạnh của đoàn tham gia đội tuyển quốc gia trong các giải thể thao khu vực, quốc tế và thi đấu hữu nghị đạt thành tích xuất sắc như: vận động viên bắn súng Trần Oanh - Huy chương vàng tại giải SKDA (12 nước quân đội xã hội chủ nghĩa) năm 1962, tại Tiệp Khắc. Vận động viên bắn súng Đặng Thị Đông phá kỷ lục châu Á tại Segams 17, năm 1993...

Bên cạnh Đoàn thể dục thể thao quân đội, các đội bóng đá Quân khu 3, Quân khu Thủ đô, Quân khu 7, Quân khu 5; đội bóng chuyền nữ Bộ Tư lệnh Thông tin, Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân; đội bóng chuyền nam Quân đoàn 4, đội bóng rổ Quân chủng Không quân, đội bơi Quân chủng Hải quân... là những đội mạnh, từng lập thành tích cao trong các giải thể thao toàn quốc.

Phần thưởng:

- Huân chương Quân công hạng ba.
- Bốn Huân chương Chiến công (hạng nhất, hai, ba) và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Vận động viên Đặng Thị Đông được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng hai.

Liệt sĩ Phạm Ngọc Khánh, nguyên là vận động viên bóng đá (1962-1966) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
_________________________________________
1. Bên cạnh Đoàn kịch nói Quân đội, các tổng cục, quân khu, quân chủng, quân đoàn... đều có các đội văn nghệ chuyên và không chuyên, trong đó nhiều đoàn, đội được quần chúng trong và ngoài quân đội rất yêu mến như đoàn chèo Tổng cục Hậu cần, đoàn nghệ thuật Quân khu 5, Quân khu 7...



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2022, 04:51:19 pm

PHẦN THỨ BA

PHỤ LỤC

1. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
7-1954

BỘ QUỐC PHÒNG – TỔNG TƯ LỆNH --- TỔNG QUÂN ỦY

        TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ --- BỘ TỔNG THAM MƯU --- TỔNG CỤC CUNG CẤP

                      6 Đại đoàn (308, 304, 312, 320, 325, 316) và 2 trung đoàn bộ binh trực thuộc

                      Đại đoàn công pháo 351 gồm 2 trung đoàn pháobinh (45, 675), 2 tiểu đoàn (75, 98), trung đoàn phòng không 367 và trung đoàn công binh 151

                      Một số tiểu đoàn, đại đội trinh sát, thông tin, vận tải

                      Hệ thống nhà trường quân sự1

                      LIÊN KHU VIỆT BẮC – LIÊN KHU TÂY BẮC – KHU TẢ NGẠN – KHU HỮU NGẠN – LIÊN KHU 4 – LIÊN KHU 5 – PHÂN LIÊN KHU MIỀN ĐÔNG NAM BỘ - PHÂN LIÊN KHU MIỀN TÂY NAM BỘ - THÀNH HÀ NỘI (Các lực lượng vũ trang liên khu có 14 trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 8 đại đội, 47 trung đội. Bộ đội địa phương có 40 tiểu đoàn, 254 đại đội, 135 trung đội)

                       MẶT TRẬN THƯỢNG LÀO – MẶT TRẬN TRUNG LÀO – MẶT TRẬN HẠ LÀO – MẶT TRẬN MIÊN

                       5 đoàn bộ đội tình nguyện ở Lào
______________________________________________________
1. Xem sơ đồ hệ thống nhà trường quân sự 1947-1954


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Chín, 2022, 01:14:06 pm

2. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
4-1975

BỘ QUỐC PHÒNG --- QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG

TỔNG CỤC HẬU CẦN - TỔNG CỤC KỸ THUẬT - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ - BỘ TỔNG THAM MƯU - CỤC QUÂN PHÁP - CỤC TÀI VỤ - CỤC ĐỐI NGOẠI

                    QUÂN ĐOÀN 1-QUÂN ĐOÀN 2-QUÂN ĐOÀN 3-QUÂN ĐOÀN 4-ĐOÀN 232

                    QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

                                    BINH CHỦNG PHÁO CAO XẠ

                                    BINH CHỦNG TÊN LỬA

                                    BINH CHỦNG KHÔNG QUÂN

                                    BINH CHỦNG RA-ĐA

                    QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN

                    BINH CHỦNG CÔNG BINH

                    BINH CHỦNG PHÁO BINH

                    BINH CHỦNG THIẾT GIÁP

                    BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG

                    BINH CHỦNG HÓA HỌC

                    BINH CHỦNG THÔNG TIN LIÊN LẠC

                    ĐOÀN 559

                    ĐOÀN 959

                    Hệ thống nhà trường quân sự1

                    BỘ TƯ LỆNH THỦ ĐÔ   

                    QUÂN KHU VIỆT BẮC

                    QUÂN KHU TÂY BẮC

                    QUÂN KHU TẢ NGẠN

                    QUÂN KHU HỮU NGẠN

                    QUÂN KHU 4

                    MẶT TRẬN B5

                    QUÂN KHU TRỊ-THIÊN (B4)

                    QUÂN KHU 5 (B1)

                    MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN (B3)

                    BỘ TƯ LỆNH MIỀN (B2)

                    QUÂN KHU 6

                    QUÂN KHU 7

                    QUÂN KHU 8

                    QUÂN KHU 9

                    THÀNH ĐỘI SÀI GÒN-GIA ĐỊNH
________________________________________
1. Xem sơ đồ hệ thống nhà trường quân sự 1965-1975


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Chín, 2022, 01:30:56 pm

4. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁN BỘ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM QUA CÁC NĂM


a. SỐ LƯỢNG CÁN BỘ
(So với tổng quân số)

1954: số lượng cán bộ chiếm       17,4%
1975: số lượng cán bộ chiếm       17,8%




b. PHÂN THEO LOẠI CÁN BỘ
(So với tổng số cán bộ)

Năm 1954

Chỉ huy 59%
Hậu cần 10%
Quân y 6%
Hành chính 3%
Kỹ thuật 2%



NĂM 1975

Chỉ huy 51%
Chính trị 26%
Hậu cần 13%
Hành chính 4%
Kỹ thuật 4%
Quân y 2%





c. CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ
(So với tổng số cán bộ)

Đảng viên 96,5%
Qua trường 48,2%
Cơ bản 16,3%
Bổ túc ngắn hạn 31,9%
Qua chiến đấu 94,4%




d. VĂN HÓA

1954

Cấp 1: 74,3%
Cấp 2: 22%
Cấp 3: 3%
Cao đẳng, đại học: 0,7%



1975

Cấp 1: 20%
Cấp 2: 61,7%
Cấp 3: 23,2%
Cao đẳng, đại học: 8,9%


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Chín, 2022, 01:48:54 pm

5. TRƯỜNG, LỚP QUÂN SỰ 1945 - 1946

BỘ QUỐC PHÒNG

                   BỘ TỔNG THAM MƯU

                   CỤC QUÂN HUẤN

                                     CHÍNH TRỊ VIÊN C (1946)

                                     THÔNG TIN (7-12-1945)

                                     MẬT MÃ (7-1946)

                                     TÌNH BÁO QUÂN SỰ (4-1946)

                                     • BTQS TRUNG CẤP (7-7-1946)

                                     • QC KHÁNG NHẬT (15-4-1945)

                                     • LQTH QUẢNG NGÃI (1-6-1946)

                                     • QC BẮC SƠN (7-4-1946)

                    CK 2

                                     • TỰ VỆ HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI

                                     ĐT a + b

                    CK 3

                                     • QC BẠCH ĐẰNG (4-1946)

                    CK 4

                                     • QC CHIẾN KHU (10-1945)

                    CK 5

                                     ĐT a + b

                    CK 6

                                     • QUÂN SỰ ĐỒNG ĐẾ

                    CK 7

                                     ĐT a + b

                    CK 8

                                     ĐT a + b

                    CK 9

                                     • QC QUANG TRUNG (11-1946)



* Ký hiệu: • - trường,  - lớp

* Chữ viết tắt:   
BTQS – bổ túc quân sự
QC – quân chính
LQTH – lục quân trung học
CK – chiến khu
ĐT – đào tạo
c – cán bộ đại đội
b – cán bộ trung đội
a – cán bộ tiểu đội


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Chín, 2022, 01:59:02 pm

6. HỆ THỐNG NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 1947 - 1954

BỘ QUỐC PHÒNG – TỔNG TƯ LỆNH

     TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ – BỘ TỔNG THAM MƯU – TỔNG CỤC CUNG CẤP

            CỤC QUÂN HUẤN

                          • CHÍNH TRỊ TRUNG CẤP (25-10-1951)

                          • DU KÍCH CHIẾN TRANH (8-1952)

                          • CÁN BỘ DÂN QUÂN LÊ BÌNH (1948)

                          • BỔ TÚC QC SƠ CẤP (8-1952)

                          • BỔ TÚC QUÂN SỰ TRUNG CẤP

                          • LỤC QUÂN VIỆT NAM

                          • LỤC QUÂN TRUNG BỘ (16-8-1950)

                          • LỤC QUÂN NAM BỘ (23-6-1949)

                          • HẬU CẦN (15-6-1951)

                          • QUÂN Y SĨ VIỆT NAM (10-8-1949)

                          THỦY QUÂN (14-6-1950)

                          PHI CÔNG (21-7-1949)

                          TÌNH BÁO

                          SQ THAM MƯU (6-1948)

                          CÔNG BINH (12-1947)

                          CAO XẠ (4-1950)

                          • THIẾU SINH QUÂN (1948)

                          • VĂN HÓA (1948)

                          • THÔNG TIN (11-11-1951)

                          • CƠ YẾU (14-5-1951)

                          • LK VIỆT BẮC
                                        • QC VIỆT BẮC

                          • LK 10
                                        0

                          • LK 3
                                       • LQ NGUYỄN HUỆ

                          • LK 4
                                       • QCLK 4

                          • LK 5
                                       0

                          • LK 7
                                       0

                          • LK 8
                                       0

                          • LK 9
                                       • QC QUANG TRUNG


* Ký hiệu: • - trường,  - lớp, 0 – chưa có thông tin

* Số trong ngoặc đơn: ngày tháng năm thành lập, truyền thống

* Chữ viết tắt:   
        QC – quân chính
        SQ – sĩ quan
        LK – liên khu
        LQ – lục quân


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Chín, 2022, 02:10:12 pm

7. HỆ THỐNG NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 1955 - 1964

BỘ QUỐC PHÒNG

     TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ - BỘ TỔNG THAM MƯU – TỔNG CỤC QUÂN HUẤN - TỔNG CỤC HẬU CẦN

          TRUNG ƯƠNG CỤC Ban quân sự - CỤC NHÀ TRƯỜNG

                          • CHÍNH TRỊ TRUNG CAO CẤP

                          • BỔ TÚC CÁN BỘ QUÂN SỰ TRUNG CAO CẤP

                          • QC SƠ CẤP

                          • SQ LỤC QUÂN (1945)

                          • SQ PHÁO BINH (18-2-1957)

                          • SQ CAO XẠ (16-7-1964)

                          • HẢI QUÂN VIỆT NAM (26-4-1955)

                          • KHÔNG QUÂN TỔNG HỢP (3-1-1958)

                          • CƠ YẾU

                          • TRƯỜNG THÔNG TIN (7-1958 sáp nhập SQLQ)

                          • SQ CÔNG BINH (12-1955)

                          • SQ KỸ THUẬT (6-1961)

                          • VĂN HÓA

                          • SQ HẬU CẦN

                          • SQ QUÂN Y

                          • QK VIỆT BẮC
                                       • QC VIỆT BẮC

                          • QK TÂY BẮC
                                       • 0

                          • QK ĐÔNG BẮC
                                       • 0

                          • QK TẢ NGẠN
                                       • QC TẢ NGẠN (1958)

                          • QK HỮU NGẠN
                                       • QC HỮU NGẠN (1958)

                          • QK 4
                                       • QC QK 4                       

                          • QK 5
                                       • QC QK 5 (11-4-1961)
                                       • GIA LAI (1960)
                                       • CÔNG TUM (1960)
                                       • ĐẮC LẮC (1960)
                                       • BUÔN MA THUỘT (1960)

                          • QK 6
                                       • 0

                          • QK 7
                                       • 0

                          • QK 8
                                       • 0

                          • QK 9
                                       • QC QK 9 (dừng hoạt động 1954 – 1960)
                                       • RẠCH GIÁ (1960)
                                       • CÀ MAU (1959)

                          • ĐK SÀI GÒN
                                       • 0



* Chữ viết tắt:    
                QC – quân chính
                SQ – sĩ quan
                QK – quân khu

* Số trong ngoặc đơn: ngày tháng năm thành lập, truyền thống

* Ký hiệu: 0 chưa có số liệu



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:07:33 pm

8. HỆ THỐNG NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 1965 - 1975



BỘ QUỐC PHÒNG

    BỘ TƯ LỆNH MIỀN-B2

      • QC SƠ CẤP (28 7.1961)

      • CHÍNH TRỊ SƠ CẤP (11.2.1973)

      • HẬU CẦN (21 3-1964)

    TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ - BỘ TỔNG THAM MƯU – TỔNG CỤC HẬU CẦN

      CỤC NHÀ TRƯỜNG

         • ĐÀO TẠO BÁC SĨ (1964)

         • BỔ TÚC TRUNG CAO (3.11.1968)

         • HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

         • HỌC VIỆN QUÂN SỰ

         • ĐẠI HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ (28.10.1966)

         • ĐẠI HỌC QUÂN Y

         • HỌC VIỆN HẬU CẦN (1974)

         • SQ KHÔNG QUÂN

         • SQ HẢI QUÂN

         • SQ PHÒNG KHÔNG

         • SQ LỤC QUÂN

         • SQ PHÁO BINH

         • SQ THIẾT GIÁP (10.4.1973)

         • SQ ĐẶC CÔNG (20.7.1967)

         • SQ THÔNG TIN

         • SQ CÔNG BINH

         • CƠ YẾU

         • VĂN HÓA

         • QK 5
            • QCQK (11.4.1961)
            • HẬU CẦN QK
            • GIA LAI
            • CÔNG TUM
            • ĐẮC LẮC
            • BUÔN MA THUỘT

         • BTL B3
            • QC TÂY NGUYÊN (8.1966)

         • QK 9
            • QC QK
            • RẠCH GIÁ
            • CÀ MAU

         • QK 7
            • QC QK

         • QK VIỆT BẮC
            • QC QK

         • QK ĐÔNG BẮC
            • QC QK

         • QK HỮU NGẠN
            • QC HỮU NGẠN

         • QK TẢ NGẠN
            • QC TẢ NGẠN
            • HẢI HƯNG (1968)
            • HẢI PHÒNG (1973)

         • QK 4
            • QC QK
            • NGHỆ AN (1965)

         • QĐ 1
            • QCQĐ (1.1974)

         • QĐ 2
            • QCQĐ (10.1974)

         • QĐ 3
            • QCQĐ (3.1975)

         • QĐ 4
            • QCQĐ (12.1976)



* Chữ viết tắt:   QC: quân chính, SQ: sĩ quan

         QK: quân khu, BTL: Bô Tư lệnh

         QĐ: quân đoàn, QCQK: quân chính quân khu

         QCQĐ: quân chính quân đoàn

* Số trong ngoặc đơn: ngày, tháng, năm thành lập, truyền thống.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:09:33 pm

9. HỆ THỐNG NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 1976 - 1990

BỘ QUỐC PHÒNG

   TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ - BỘ TỔNG THAM MƯU - TỔNG CỤC HẬU CẦN - TỔNG CỤC KỸ THUẬT

      CỤC NHÀ TRƯỜNG

         • TC Phòng không (14-6-1986)

         • TC Không quân (15-2-1979)

         • ĐH Ngoại ngữ QS (16-2-1982)

         • T500 (17-8-1979)

         • HV Quân sự cấp cao

         • HV Lục quân (1974)

         • HV Chính trị - Quân sự

         • HV Hậu cần

         • HV Kỹ thuật quân sự

         • HV Quân y

         • SQ Lục quân I (1945)

         • SQ Lục quân II (1961)

         • SQ Lục quân III (1980)

         • SQ Pháo binh

         • SQ Đặc công

         • SQ Phòng hóa (1976)

         • SQ CH-KT Tăng

         • SQ CH-KT Công binh

         • SQ CH-KT Thông tin

         • SQ Chính trị - Quân sự (1976)

         • SQ Hậu cần (1951)

         • SQ Tài chính (1980)

         • SQ CH-KT Tên lửa – Rađa (1980)

         • SQ CH-KT Không quân (1958)

         • SQ CH-KT Hải quân (1955)

         • SQ Pháo phòng không (1964)

         • SQ Kỹ thuật vũ khí đạn (1981)

         • SQ Kỹ thuật ô tô (1980)

         • SQ Kỹ thuật Vim-hem-píc (1978)

         • SQ Biên phòng

         • 481 (1982)

         • Cơ yếu

         • Văn hóa

         • QC QK 1

         • BC QK 1

         • QC QK 2

         • QC QK 3

         • BC QK 3

         • QC QK 4

         • QCI QK 5

         • QCII QK 5

         • QC QK 7

         • QC QK 9

         • QC Hà Nội

         • QC Quảng Ninh

         • QC QĐ 1

         • QC QĐ 2

         • QC QĐ 3

         • QC QĐ 4

         • QC 379

         • QC 579

         • QC 779

         • QC 479

         • QC BĐ 12

         • QC 979

         • Đảng QK1

         • Đảng QK2

         • Đảng QK3

         • Đảng QK4

         • Đảng QK5

         • Đảng QK7

         • Đảng QK9

         • Đảng QKTĐ

         • Đảng ĐKQN

         • Đảng QĐ1

         • Đảng QĐ2

         • Đảng QĐ3

         • Đảng QĐ4

         • Đảng KQ

         • Đảng HQ

         • Đảng PK

         • Đảng BĐ12

         • Đảng Công binh

         • Đảng Thông tin

         • Đảng Đặc công

         • Đảng Thiết giáp

         • Đảng Biên phòng

         • Đảng TCKT

         • Đảng TCHC

         • VH QK1

         • VH QK2

         • VH QK3

         • VH QK4

         • VH QK5

         • VH QK7

         • VH QK9

         • VH Hà Nội

         • VH ĐKQN

         • VH QĐ1

         • VH QĐ2

         • VH QĐ3

         • VH QĐ4

         • VH 379

         • VH Không quân

         • VH Hải quân

         • VH Phòng không

         • VH BĐ12

         • 41 trường quân sự địa phương tỉnh, thành phố

         • 28 khoa quân sự trong các trường đại học dân sự



* Năm 1986, thực hiện nghị quyết 36/NQ-TƯ của Thường vụ Quân ủy Trung ương về công tác nhà trường và các quyết định 86/CP.24 HĐBT, chỉ thị 297/CT của Hội đồng Bộ trưởng, quyết định 28QĐ/TW Ban Bí thư Trung ương Đảng, hệ thống nhà trường quân sự gồm 10 học viện, trường đại học, trường trung cao, 22 trường sĩ quan, 22 trường quân chính, 24 trường Đảng, 18 trường văn hóa, 41 trường quân sự địa phương, 28 khoa quân sự

* Chữ viết tắt: TC: trung cao, ĐH: đại học, HV: học viện, SQ: sĩ quan, CH-KT: chỉ huy-kỹ thuật, QC: quân chính, BC: binh chủng, QK: quân khu, QĐ: quân đoàn, BĐ: binh đoàn, ĐKQN: Đặc khu Quảng Ninh, TCTK: Tổng cục Kỹ thuật, TCHC: Tổng cục Hậu cần, VH: văn hóa.

* Số trong ngoặc đơn: ngày, tháng, năm thành lập, truyền thống.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:23:45 pm

10. HỆ THỐNG NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 1992


BỘ QUỐC PHÒNG

   TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ - BỘ TỔNG THAM MƯU - TỔNG CỤC HẬU CẦN - TỔNG CỤC KỸ THUẬT

      CỤC NHÀ TRƯỜNG

         • HV QUÂN Y (1949)

         • HV KỸ THUẬT QUÂN SỰ (1966)

         • HV HẬU CẦN (1974)

         • HV CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ (1951)

         • HV QUÂN SỰ CẤP CAO (1976)

         • HV LỤC QUÂN (1974)

         • HV PHÒNG KHÔNG (1986)

         • HV HẢI QUÂN (1958)

         • TC KHÔNG QUÂN (1979)

         • ĐH NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ (1982)

         • SQ PHÒNG HÓA (1976)

         • SQ ĐẶC CÔNG (1967)

         • SQ PHÁO BINH (1957)

         • SQ HẬU CẦN (1951)

         • SQ CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ (1976)

         • SQ LỤC QUÂN I (1945)

         • SQ LỤC QUÂN II (1961)

         • SQ CHKT THÔNG TIN (1951)

         • SQ CHKT CÔNG BINH (1955)

         • SQ CHKT TĂNG (1973)

         • SQ CHKT KHÔNG QUÂN (1958)

         • SQ KỸ THUẬT VIN-HEM-PÍC (1978)

         • QC QUÂN KHU 1 (1947)

         • QC QUÂN KHU 2 (1978)

         • QC QUÂN KHU 3 (1958)

         • QC QUÂN KHU 4 (1945)

         • QC I QUÂN KHU 5 (1961)

         • QC II QUÂN KHU 5

         • QC QUÂN KHU 7 (1948)

         • QC QUÂN KHU 9 (1945)

         • QC HÀ NỘI (1979)

         • QC QUÂN ĐOÀN 1 (1974)

         • QC QUÂN ĐOÀN 2 (1974)

         • QC QUÂN ĐOÀN 3 (1975)

         • QC QUÂN ĐOÀN 4 (1976)

         • 52 trường quân sự địa phương tỉnh, thành phố

         • 28 khoa quân sự trong các trường đại học dân sự

         • THKT Ô tô

         • THKT Quân khí

         • THKT Thông tin

         • THKT Phòng không

         • THKT Tàu hải quân

         • TH Quân y 1

         • THKT Trinh sát

         • TH Quân y 2

         • THKT Cơ yếu

         • TH Dạy nghề

         • THKT Nghệ thuật

         • TSQ QK1

         • TSQ QK5

         • TSQ QK9

         • TSQ Đặc công

* Chữ viết tắt: HV: Học viện, QC: Quân chính, TC: Trung cao, THKT: Trung học kỹ thuật, ĐH: Đại học, TH: Trung học, SQ: Sĩ quan, TSQ: Thiếu sinh quân, CHKT: Chỉ huy kỹ thuật, QK: Quân khu

* Số trong ngoặc đơn: ngày, tháng, năm thành lập, truyền thống.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:26:25 pm

11. PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐƯỢC NHÀ NƯỚC TẶNG THƯỞNG

- 14 Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của Nhà nước.

+ Tặng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam năm 1974, 1979 và 1984.

+ Tặng quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia năm 1978.

+ Tặng bảy quân khu (1, 2, 3, 4. 5, 7, 9) và ba quân chủng: Phòng không, Không quân, Hải quân.

- 119 Huân chương Hồ Chí Minh, trong đó 88 Huân chương tặng các đơn vị và lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố; 31 Huân chương tặng cán bộ lãnh đạo, tướng lĩnh.

- 315 Huân chương Độc lập (48 cho các đơn vị, 267 cho các cá nhân).

- 44 Huân chương Lao động (11 cho các đơn vị, 33 cho các cá nhân).

- 7.557 đơn vị và 277.208 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công (tính.từ 1977 đến 1992).

- 139.335 cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương và Huy chương kháng chiến.

- 1.512.798 cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng, Huân chương Chiến sĩ giải phóng và Huy chương chiến sĩ giải phóng.

- Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ, viên chức quốc phòng được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng, Huân chương chiến sĩ vẻ vang, Huy chương Quân kỳ quyết thắng.

- 240 gia đình liệt sĩ được tăng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất.

- 5.850 gia đình liệt sĩ được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng hai.

- 15.510 gia đình liệt sĩ được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba.

- 19.939 bà mẹ được phong tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Có 9.672 mẹ được phong tặng, 10.272 mẹ được truy tặng, 390 mẹ và vợ liệt sĩ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:27:36 pm

TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VÀ DÂN QUÂN TỰ VỆ
ĐƯỢC PHONG TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

A. TẬP THỂ

- Tuyên dương ngày 1-1-1967: 22 đơn vị, trong đó có 5 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 23-11-1969: 28 đơn vị, trong đó có 7 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 22-12-1969: 23 đơn vị, trong đó có 4 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 10-2-1970: 10 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 15-2-1970: 12 đơn vị, trong đó có 4 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 25-8-1970: 41 đơn vị, trong đó có 6 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 5-9-1970: 6 đơn vị, trong đó có 1 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 20-9-1971: 21 đơn vị, trong đó có 3 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 1-10-1971: 15 đơn vị. trong đó có 4 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 19-5-1972: 34 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 20-12-1972: 31 đơn vị, trong đó có 5 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 11-1-1973: 24 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 3-9-1973: 46 đơn vị, trong đó có 13 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 23-9-1973: 46 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 20-12-1973: 56 đơn vị, trong đó có 7 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 31-12-1973: 45 đơn vị, trong đó có 11 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 12-9-1975: 59 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 15-1-1976: 54 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 3-6-1976: 90 đơn vị, trong đó có 3 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 20-10-1976: 97 đơn vị, trong đó có 44 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 6-11-1978: 262 đơn vị, trong đó có 167 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 20-12-1979: 100 đơn vị, trong đó có 11 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 28-8-1981: 21 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 31-12-1982: 2 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 25-1-1983: 66 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 29-8-1985: 75 đơn vị, trong đó có 3 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 6-1-1989: 2 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 30-8-1989: 45 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 13-12-1989: 18 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 29-11-1990: 2 đơn vị.

- Tuyên dương ngày 20-12-1990: 14 đơn vị, trong đó có 9 đơn vị dân quân tự vệ.

- Tuyên dương ngày 20-12-1994: 243 đơn vị, trong đó có 237 đơn vị được tuyên dương về thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), 6 đơn vị có thành tích đặc biệt xuất sắc trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1986-1994).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 09:55:28 pm
B. CÁ NHÂN

* Tuyên dương tháng 5 năm 1952

1. Cù Chính Lan4. Nguyễn Quốc Trị
2. La Văn Cầu5. Nguyễn Văn Song1
3. Nguyễn Thị Chiên
   


* Tuyên dương ngày 31 tháng 8 năm 1955

1. Mạc Thị Bưởi14. Chu Văn Khâm
2. Trần Văn Chuông15. Chu Văn Mùi
3. Trần Cừ16. Đinh Núp
4. Bế Văn Đàn17. Phùng Văn Khầu
5. Phan Đình Giót18. Võ Văn Ngôn
6. Ngô Mây19. Nguyễn Văn Ty
7. Trương Công Man20. Phan Tư
8. Lâm Úy21. Sơn Ton
9. Hoàng Khắc Dược22. Nguyễn Văn Thuần
10. Đặng Quang Cầm23. Lý Văn Thím
11. Bùi Chát24. Lê Văn Thọ
12. Bùi Đình Cư25. Lộc Văn Trọng
13. Phạm Đường26. Nguyễn Phú Vỵ.
_________________________________________
1. Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc (5-1952) tuyên dương 4 Anh hùng quân đội và 2 Anh hùng lao động (Trần Đại Nghĩa, Ngô Gia Khảm); Ngoài ra Đại hội dành một số Huân chương và danh hiệu Anh hùng cho các chiến sĩ Thi đua ở Nam Bộ không đến dự được. Tháng 2-1953. tại Đại hội chiến sĩ thi đua miền Tây Nam Bộ, chiến sĩ du kích Nguyễn Văn Song được bầu là Anh hùng quân đội.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2022, 11:02:39 pm

* Tuyên dương ngày 7 tháng 5 năm 1956

1. Trần Can  15. Lò Văn Bường29. Nguyễn Thái Nhự
2. Cao Thế Chiến  16. Dương Quảng Châu30. Hoàng Văn Phác
3. Tô Vĩnh Diện  17. Đỗ Văn Châu31. Trần Hiền Quang
4. Trần Đức  18. Nguyễn Cụ32. Phạm Văn Ry
5. Lê Công Khai  19. Phan Trọng Đường33. Nguyễn Riềng
6. Phạm Minh Đức  20. Đặng Đình Hồ34. Sùng Phái Sinh
7. Nguyễn Đô Lương  21. Trần Đình Hùng35. Đặng Đức Song
8. Trương Văn Lý  22 Nguyễn Xuân Lực36. Nguyễn Văn Thành
9. Lý Văn Mưu  23. Bùi Quang Mại37. Hà Nguyên Thị
10. Ngô Chí Quốc  24. Vũ Mạnh (Đỗ Văn Doãn)38. Võ Thiết
11. Đồng chí Vừu  25. Võ Văn Mừng (Võ Văn Hóa)39. Lưu Viết Thoảng
12. Trần Á  26. Đinh Văn Mẫu40. Nguyễn Văn Tịch
13. Bùi Văn Ba  27. Lê Văn Nổ (Lê Cường)41. Nguyễn Thành Út
14. Triệu Văn Báo  28. Đàm Văn Ngụy42. Nông Văn Vương
  43. Nguyễn Văn Thâm




* Tuyên dương ngày 17 tháng 10 năm 1964

1. Nguyễn Văn Trỗi1



* Tuyên dương ngày 5 tháng 5 năm 1965

1. Nguyễn Văn Đừng  9. Lê Quang Công  17. Nguyễn Văn Quỳ
2. Võ Văn Hưng  10. Trần Dưỡng (Trần Phát)  18. Pi Năng Tắc
3. Nguyễn Viết Khái (Nguyễn Văn Huôi)  11. Huỳnh Văn Đảnh  19. Nguyễn Minh Tua
4. Nguyễn Văn Tư  12. Nguyễn Hội  20. Nguyễn Trung Thành (Ba thợ rèn)
5. Mai Văn Thế  13. Phạm Văn Hai  21. Nguyễn Thị Út (Út Tịch)
6. Trừ Văn Thố  14. Tạ Thị Kiều (Mười Lý)  22. Hồ Vai (Ku Thời)
7. Đồng chí Trị (Ba Bảy)  15. Nguyễn Kim  23. Puih Thu
8. Hồ Văn Bé  16. Nguyễn Thanh Liêm

____________________________________________
1. Ngày 17-10-1964, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Chín, 2022, 01:26:26 pm

* Tuyên dương ngày 1 tháng 1 năm 1967


1. Nguyễn Viết Xuân   13. Nông Văn Việt    25. Mùa A Páo
2. Thái Văn A   14. Đặng Văn Thanh    26. Phạm Hữu Thoan
3. Nguyễn Văn Mật   15. Hồ Đức Thắng    27. Phạm Gia Triệu
4. Nguyễn Hữu Ngoãn   16 Trần Ngọc Thái    28. Đỗ Trọng Ngân
5. Dương Chí Uyển   17. Trần Minh Khâm    29. Ngô Thị Tuyển
6. Hoàng Ngọc Chương   18. Nguyễn Viết Sinh    30. Trần Thị Lý
7. Trần Hanh   19. Đỗ Trực    31. Lê Văn Ban
8. Lâm Văn Lích20. Hoàng Văn Vịnh    32. Lê Đăng Tới
9. Nguyễn Văn Bảy   21. Trần Ngọc Phương    33. Lý A Coỏng
10. Nguyễn Tuyên   22. Đỗ Văn Trì    34. Giàng Lao Pà
11. Hoàng Văn Nghiên   23. Đèo Văn Khổ    35. Sùng Dúng Lù
12. Cao Văn Khang   24. Hà Văn Kẹp




* Tuyên dương ngày 17 tháng 9 năm 1967


1. Phạm Văn Cội16. Bông Văn Dĩa31. Nguyễn Đức Nghĩa
2. Đoàn Phước Huyến17. Hồ Dục32. Phạm Đình Nghiệp
3. Tô Thị Huỳnh18. Đặng Văn Đâu33. Đinh Nghít
4. Nguyễn Văn Lịch19. Trần Văn Đình34. Nguyễn Viết Phong
5. Lưu Văn Liệt20. Tô Văn Đực35. Từ Văn Thức (Từ Văn Phao)
6. Hoàng Đình Nghĩa21. Nguyễn Thị Hạnh (Trần Thị Bé)36. Nguyễn Văn Quang (Nguyễn Văn Sên)
7. Nguyễn Văn Quang22 Trương Văn Hòa37. Ngô Văn Rạnh
8. Huỳnh Văn Tạo23. Võ Lai38. Thanh Minh Tám
9. Huỳnh Việt Thanh (Thanh Vân)24. Lý Văn Lâm (Lý Ngọc Báu)39. Ngô Lê Tân
10 Huỳnh Thúc Bá25. Nguyễn Văn Lên (Nguyễn Văn Tới)40. Lê Thị Thanh (Nguyễn Thị Lan)
11. Nguyễn Văn Bé1 26. Kpa Kơ Lơng41. Nguyễn Văn Thể
12. Nguyễn Văn Bình27. Kan Lịch42. Nguyễn Công Tòng
13. Lê Văn Bằng28. Trần Văn Lư43. Ngô Thành Trang
14. Đoàn Văn Chia29. Đoàn Hoàng Minh (Đoàn Văn Tới)44. Bành Văn Trân
15. Phan Thanh Chung30. Nguyễn Văn Mốt45. Tạ Quang Tỷ
46. Nguyễn Văn Tăng
__________________________________________
1. Trung đội trưởng bộ đội địa phương Phú Lợi, Sông Bé.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Chín, 2022, 01:45:27 pm

* Tuyên dương ngày 18 tháng 6 năm 1969

1. Nguyễn Hồng Nhị7. Trần Công Nhỡn
2. Phạm Thanh Ngân8. Trương Xuân Hòa
3. Nguyễn Văn Cốc9. Cao Tất Đắc
4. Nguyễn Huy Hồng10. Tạ Lưu
5 Bùi Xuân Chiến11. Nguyễn Văn Vy
6. Ngô Văn Tác12. Trương Thị Khuê




* Tuyên dương ngày 23 tháng 11 năm 1969

1. Bùi Ngọc Dương12. Đồng chí Tía
2. Tạ Văn Thiều13. Đồng chí Xâu
3. Nguyễn Văn Tình14. Nguyễn Trọng Nghĩa
4. Nguyễn Hữu Quyền15. Pi Năng Thanh
5. Trần Tiến Lực16. Nguyễn Văn Sơ
6. Nguyễn Thị Lài (Nguyễn Thị Quyến)17 Bế Văn Cắm
7. Nguyễn Chí Phi18. Nguyễn Văn Chánh
8. Hồ Văn Biển19. Nguyễn Văn Bích
9. Lê Văn Cao20. Trịnh Xuân Bảng
10. A Nun21. Nguyễn Quyết Chiến
11. Phan Hành Sơn22. Lê Xuân Sinh
23. Đoàn Văn Thái



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Chín, 2022, 02:07:43 pm

* Tuyên dương ngày 22 tháng 12 năm 1969

1. Cà Van Khum10. Trần Xuân Sinh
2. Cao Lương Bằng11. Vũ Tiến Đề
3. Trần Ngọc Mật12. Tô Quang Lập
4. La Thị Tám13. Đỗ Văn Chiến
5. Lưu Huy Chao14. Hà Văn Tơ
6. Mai Văn Cương15. Khúc Văn Lượng
7. Đặng Minh Chức16. Kim Ngọc Quản
8. Vũ Ngọc Diệu17. Trần Hành
9. Lê Cấp Bằng



*Tuyên dương ngày 10 tháng 2 năm 1970

1. Từ Văn Tư10. Nguyễn Văn Cho
2. Nguyễn Hữu Trí11. Nguyễn Thế Đoàn
3. Bùi Văn Hòa (Bùi Văn Hai)12. Nguyễn Văn Tòng (Nguyễn Công Sanh)
4. Vũ Văn Huynh13. Nguyễn Việt Hồng
5. Phan Công Nam14. Nguyễn Văn Trường
6. Lê Thị Sáu (Trần Thị Biết)15. Nguyễn Văn Hùng (Nguyễn Văn Hộ)
7. Nguyễn Xuân Tình16. Vũ Tiến Trung (Vũ Hữu Bảy)
8. Trương Văn Thành17. Nguyễn Thanh Phú
9. Ngô Văn Nhạc




* Tuyên dương ngày 15 tháng 2 năm 1970

1. Phạm Ngọc Khánh6. Nguyễn Chơn
2. Nguyễn Văn Nuôi7. Nguyễn Hữu Quang
3. Hoàng Kim Nông8. Nguyễn Hồng Quảng
4. Lê Trung Kiên9. Lê Hữu Tựu
5. Lê Văn Quý




* Tuyên dương ngày 25 tháng 8 năm 1970

1. Đinh Thị Vân11. Bùi Xuân Chúc21. Nguyễn Văn Mạo
2. Vũ Ngọc Đỉnh12. Nguyễn Văn Ngữ22. Hoàng Văn Cón
3. Nguyễn Ngọc Độ13. Vi Đức Cường23. Đỗ Văn Chuyền
4. Phan Như Cẩn14. Lương Sơn Tuyết24. Lê Văn Long
5. Phan Thu15. Đinh Văn Rì25. Nguyễn Ngọc Sâm
6. Lê Hải16. Nguyễn Văn Thân26. Nguyễn Như Hoạt
7. Nguyễn Xuân Đài17. Ma Văn Viên27. Trần Hữu Bào
8. Nguyễn Văn Thực18. Nguyễn Văn Thoát28. Phạm Xuân Thản
9. Nông Văn Nghi19. Phạm Văn Sức29. Nguyễn Thị Hằng
10. Nguyễn Phan Vinh20. Đoàn Minh Nguyệt30. Đặng Đình Ghí


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Chín, 2022, 09:05:12 pm

* Tuyên dương ngày 5 tháng 9 năm 1970

1. Rơ Chăm Ớt7. Huỳnh Phi Hùng
2. Nguyễn Văn Mười8. Nguyễn Văn Bửu
3. Lê Văn Phích9. Hoàng Đạo Cật
4. Lê Thanh10. Lê Văn Tuân
5. Võ Viết Thanh11. Lâm Tương
6. Lê Minh Xuân12. Bùi Văn Cường (Bùi Văn Sợi)





* Tuyên dương ngày 20 tháng 9 năm 1971

1. Nguyễn Hùng Lễ9. Lương Tấn Thịnh
2. Nguyễn Văn Thái10. Bùi Đức Sơn
3. Lê Thị Hồng Gấm11. Trần Kim Cầu
4. Lê Mã Lương12. Nguyễn Hữu Trí
5. Phùng Quang Thanh13. Bùi Thị Thuyên
6. Lê Văn Ức14. Mai Dinh
7. Triệu Tiến Xuân15. Võ Văn Huỳnh
8. Trịnh Tố Tâm16. Nguyễn Văn Nguyên





* Tuyên dương ngày 1 tháng 10 năm 1971

1. Trần Văn Phước6. Hà Văn Vấn
2. Hoàng Hữu Thanh7. Nguyễn Ngọc Khuyến
3. Phạm Viết Đức8. Lê Hữu Hành
4. Trịnh Minh Đích9. Hồ Thị Cảnh
5. Hồ Sĩ Tư





* Tuyên dương ngày 19 tháng 5 năm 1972

1. Lê Xuân Tấn 7. Trần Thị Tâm 13. Vi Văn Vinh
2. Hồ Khắc Luận 8. Trần Phước Yên 14. Đinh Công Chấn
3. Hồ Soi 9. Hồ Thị Kỷ 15. Trần Văn Chín
4. Nguyễn Bách Y 10. Nguyễn Minh Chữ 16. Nguyễn Tấn Định
5. Lê Xuân Sênh 11. Nguyễn Hữu Giảng 17. Trần Văn Côi
6. Dương Quang Bổ 12. Nguyễn Văn Phùng 18. Ngô Xuân Đệ




Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Chín, 2022, 09:29:26 pm

* Tuyên dương ngày 11 tháng 1 năm 1973

1. Đặng Ngọc Ngự8. Bùi Hạnh 15. Vi Văn Pụn22. Nguyễn Văn Nghĩa
2. Lê Quang Biện9. Lê Thanh Đạo16. Lương Văn Hạt23. Phạm Tuân
3. Hoàng Trọng Sén10. Nguyễn Đức Soát17. Nguyễn Thái Giám24. Nguyễn Văn Giằng
4. Nguyễn Bá Tòng11. Đỗ Văn Lanh18. Hà Văn Thanh25. Nguyễn Đức Quốc
5. Nguyễn Ngọc Quỳnh12. Nguyễn Tiến Sâm19. Bùi Thị Thiêm26. Nguyễn Hữu Trị
6. Cao Duy Thuần13. Ngô Xuân Quảng20. Phạm Trương Uy27. Vũ Thị Thanh Nhâm
7. Nguyễn Văn Tân14. Nguyễn Bá Vanh21. Nguyễn Văn Phiệt28. Trần Văn Đo





* Tuyên dương ngày 23 tháng 9 năm 1973

1. Kiều Ngọc Luân8. Vũ Trung Thướng15. Bùi Đình Đột
2. Hoàng Đăng Miện9. Phạm Văn Đỗ16. Lục Vĩnh Tưởng
3. Đinh Văn Hòe10. Hoàng Đình Kiền17. Lê Văn Trung
4. Đặng Đình Khanh11. Nguyễn Văn Hoạt18. Trần Duy Hoan
5. Nguyễn Chất Xê12. Phạm Thanh Quyết19. Mai Ngọc Thoảng
6. Phạm Văn Vượng13. Đỗ Viết Cường20. Bùi Trung Thành
7. Nguyễn Thế Thao14. Cao Văn Hậu




* Tuyên dương ngày 20 tháng 12 năm 1973

1. Bùi Văn Nê12. Đinh Bang23. Đặng Văn Lợi
2. Hoàng Thế Cao13. Nguyễn Thị Phúc24. Phạm Văn Dẫn
3. Trần Xuân Lai14. Nguyễn Đức Quân25. Hoàng Văn Vẻ
4. Nguyễn Nhân Biểu15. Dương Công Sửu26. Đỗ Hoài Nam
5. Đỗ Mạnh Đạo16. Hồ Sĩ Nhất27. Nguyễn Ngọc Đắc
6. Hà Kiện Toàn17. Hồ Trung Thành28. Nguyễn Thị E
7. Trần Văn Dần18. Ngô Văn Lủi 29. Bùi Văn Quảng
8. Đặng Tiến Lợi19. Phạm Thanh Tâm 30. Bùi Văn Minh
9. Nguyễn Văn O20. Nguyễn Minh Thắng 31. Y Buông
10. Nguyễn Huy Hiệu21. Trần Thanh Hải 32. Trương Quang Thọ
11. Trần Công Đoàn22. Nguyễn Thế Cự 33. Văn Thị Xuân


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2022, 04:31:42 pm

* Tuyên dương ngày 31 tháng 12 năm 1973

1. Nguyễn Đức Hạnh8. Nguyễn Quang Hạnh15. Nguyễn Nhật Chiêu
2. Triệu Xuân Tâng9. Phan Văn Trình16. Nguyễn Đinh Tôn
3. Trần Tấn Mới10. Nguyễn Công Tường17. Trương Khánh Châu
4. Nguyễn Tiến Nhự11. Nguyễn Văn Tấn18. Nguyễn Văn Nghiêm
5. Hoàng Quang Tính12. Nguyễn Như Hành19. Lê Thị Cửu
6. Phạm Văn Cờ13. Kiều Văn Tịnh20. Lê Thị Mịch
7. Nguyễn Việt Hồng14. Nguyễn Trường Xuân





* Tuyên dương ngày 12 tháng 9 năm 1975

1. Hoàng Thọ Mạc4. Nguyễn Hồng Thế
2. Nguyễn Văn Kiệp5. Lê Minh Trung
3. Đoàn Sinh Hưởng6. Nguyễn Thanh Khương




* Tuyên dương ngày 15 tháng 1 năm 1976

1. Biện Văn Thanh11. Nguyễn Thị Ba21. Nguyễn Thiệu Tỉnh32. Hán Duy Long
2. Trần Kiệt (Trần Thùng)12. Trương Thị Mỹ22. Vũ Trọng Thiện33. Nguyễn Đức Thụy
3. Phùng Văn Sinh13. Lê Thị Thu Hạnh23. Nguyễn Thanh Bảng34. Lê Huy Hoàng
4. Nguyễn Tuấn Việt14. Nguyễn Văn Trung24. Nguyễn Văn Tư35. Trịnh Xuân Hiệp
5. Lê Công Tiến15. Nguyễn Văn Sơn25. Nguyễn Xuân Liêm36. Nguyễn Vi Hợi
6. Bùi Văn Nguyên16. Nguyễn Văn Được26. Lâm Sắt37. Đoàn Văn Phán
7. Hà Quang Vóc17. Lê Xuân Bồng 27. Phan Công Khánh38. Đinh Văn Biệng
8. Bùi Văn Hợp18. Lê Văn Đính 28. Cao Xuân Cới39. Lương Văn Biệng
9. Ngô Xuân Thu19. Nguyễn Văn Bách 29. Hồ Văn Sinh40. Nguyễn Văn Chồn
10. Đoàn Đức Thái20. Bùi Văn Bin 30. Nguyễn Quang Trung41. Đinh Văn Đen
31. Trần Huỳnh Vách42. Phạm Văn Cán




* Tuyên dương ngày 3 tháng 6 năm 1976

1. Lê Văn Lẫm5. Nguyễn Văn Tửu9. Hoàng Trọng Lập
2. Ngô Viết Hữu6. Trần Minh Thiệt10. Vũ Thanh Sơn
3. Lê Thị Tám7. Nguyễn Tiến Lải 11. Thái Anh Kia
4. Nguyễn Thị Thu Trang8. Ngô Văn Sơn 12. Hồ Đức Tự
13. Nguyễn Đức Toàn


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2022, 05:31:38 pm

* Tuyên dương ngày 20 tháng 10 năm 1976

1. Lê Văn Tách8. Nguyễn Văn Tài15. Phạm Văn Quý
2. Nguyễn Văn Phùng9. Phùng Văn Lừu16. Hoàng Đình Chiến
3. A Dừa 10. Lê Văn Hòa17. Trần Thanh Hùng
4. Nguyễn Văn Lo11. Trần Văn Sơn 18. Phạm Văn Lái
5. Hồ Thị Lý12. Huỳnh Văn Tý 19. Bo Bo Tới
6. Phạm Văn Trà13. Nguyễn Văn Hoạt 20. Võ Duy Chín
7. Nguyễn Tấn Đang14. Hoàng Văn Quyết




* Tuyên dương ngày 6 tháng 11 năm 1978

1. Đoàn Trần Nghiệp (Đoàn Thị Bảy)21. Ngô Văn Cẩn41. Nguyễn Văn Đằng (Đội)61. Nguyễn Văn Hổn
2. Trần Thị Trung22. Nguyễn Văn Hưng42. Trần Ngọc Sương62. Lê Văn Lăng
3. Huỳnh Thị Chấn23. Trần Quốc Đại (Trần Văn Nha)43. Nguyễn Thanh Tâm63. Bế Văn Thành
4. Trần Thị Sanh24. Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen)44. Châu Thọ Chín64. Nguyễn Văn Tiền
5. Nguyễn Thị Ba (tức Bình)25. Lương Văn Năm45. Trần Phú Cương (Năm Mộc)65. Nguyễn Minh Trí
6. Lê Thị Pha26. Đổng Dận (Thắng)46. Võ Hữu (Rẫy)66. Bùi Anh Tuấn
7. Nguyễn Thị Nhạ27. Điểu Ong47. Trần Vĩnh Kiết67. Nguyễn Văn Tám
8. Huỳnh Thị Khá28. Lê Văn Thế48. Võ Thành Long68. Nguyễn Hữu Nghĩa
9. Phạm Thị Đào29. Phạm Văn Xuyên49. Lê Thanh Mừng (Sáu Trương)69. Kiều Duy Cư
10. Kiên Thị Nhẫn30. Nguyễn Văn Bá (Năm Lý)50. Lê Công Nhân70. Trần Văn Đang
11. Trần Thị Thu31. Ngô Thị Kế51. Lê Hồng Sơn (Thành Hiếu)71. Đặng Văn Bình
12. Nguyễn Thị Mười32. Nguyễn Thế Sinh (Hai Vũ)52. Đoàn Bường72. Lê Thiệt (Dũng)
13. Hồ Thị Ngọc Đoàn (Tám Nhân)33. Nguyễn Văn Nở53. Y Đôn73. Lê Văn Tâm
14. Trần Bá34. Tống Duy Kiên54. Mai Thành Tâm74. Ngô Văn Thành (tức Bưởi)
15. Võ Văn Điến (Hai Hoàng)35. Lê Tấn Quốc (Lê Thanh Tòng)55. Đoàn Công Chánh75. Võ Văn Tưởng
16. Nguyễn Đình Trọng (tức Huyện)36. Trương Văn Hải56. Dương Văn Hòa76. Lê A
17. Nguyễn Hữu Đức (Đinh Châu)37. Lê Đức Nhuận57. Trần Văn Nuôi77. Trần Văn Cải
18. Trương Công Xưởng38. Đoàn Quý Phi58. Nguyễn Bi78. Nguyễn Văn Chê
19. Nguyễn Việt Dũng39. Phù Quang Phong59. Nguyễn Đình Quận79. Nguyễn Văn Chư
20. Ngô Quốc Trị (Bảy Hùng)40. Nguyễn Văn Hiệu60. Đỗ Đức Tốc80. Đặng Văn Lãnh


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2022, 07:16:16 pm

* Tuyên dương ngày 6 tháng 11 năm 1978
(Tiếp theo)

81. Nguyễn Phú Mai123. Lê Thị Hồng165. Trần Việt Hùng207. Vũ Đức Chính
82. Trần Văn Mười124. Võ Thị Huy (tức Tín)166. Cao Văn Hưởng208. Nguyễn Văn Thương
83. Phạm Văn Sinh125. Đỗ Thị Năm167. Nguyễn Thanh Hòa209. Lê Văn Trung
84. Thạch Thia126. Phan Thị Đạt168. Phan Trung Kiên210. Trần Văn Xuân
85. Trần Văn Tét127. Phạm Thị Bay (Ba Bay)169. Nguyễn Văn Minh211. Trần Văn Cát
86. Nguyễn Văn Ẩn128. Trịnh Thị Liền170. Chiêm Thành Tấn212. Khấu Trung Gương
87. Nguyễn Văn Chấn129. Kơ Pa Ó171. Lê Văn Tình213. Lộc Văn Sanh
88. Phạm Văn Tèo130. Võ Thị Nhã (Võ Thị Cưu)172. Hoàng Văn Thượng214. Đinh Quyết Tâm (Đinh Văn Nhẫn)
89. Lê Hoàng Thá131. Nguyễn Thị Trường173. Phạm Văn Trọng (Phạm Văn Trân)215. Nguyễn Minh Tâm
90. Nguyễn Văn Che132. Dương Thị Lệ174. Lê Văn Vàng216. Chu Văn Tua
91. Đinh Ruối133. Nguyễn Thanh Tùng175. Lê Văn Vịnh217. Nguyễn Văn Tiệp
92. Nguyễn Vàn Bảnh (Già Rền)134. Tống Viết Dương176. Nguyễn Minh Hồng218. Dương Văn Thà
93. U Re135. Lê Hữu Kiến177. Phan Châu Mỹ219. Đặng Văn Đối
94. Nguyễn Bá136. Lê Hữu Thời178. Phạm Văn Thọ220. Hà Văn Hổ
95. Lê Văn Đức (Lê Tiến Dũng)137. Lê Thế Trung179. Nguyễn Đình Thi221. Trịnh Trọng Thập
96. Hồ Văn Nhánh138. Trần Đối180. Trần Kim Xuân222. Trần Xuân Thiện
97. Lâm Thị Chi139. Nguyễn Minh Quang (Nguyễn Tấn Khoa)181. Phạm Việt Bảo223. Cầm Bá Trùng
98. Trần Thị Điền140. Đỗ Tấn Phong182. Nguyễn Xuân Hinh224. Nguyễn Mận
99. Lê Thị Nhiễm141. Lê Thanh Sơn183. Tôn Minh Lai225. Phạm Tuấn Kịp
100. Nguyễn Thị Rành142. Đặng Tấn Triệu (Năm Lạc)184. Đinh Đức Dừa226. Nguyễn Đình Khởi
101. Đố Thị Phúc (Gấm)143. Lê Văn Vĩnh (Phạm Hữu Nghĩa)185. Nguyễn Ngọc Quế227. Trần Văn Lâm
102. Vũ Thị Thừa144. Lê Quang Văn186. Lê Văn Bé228. Phạm Huy Nghệ
103. Huỳnh Thị Tâm (Má Tám)145. Đỗ Văn Ninh187. Nguyễn Văn Bịch (Thanh Sơn)229. Ngô Văn Ngộ
104. Y Ớn146. Trần Công Bằng188. Ngô Quang Điền230. Nguyễn Văn Tiết (ông già Bá Đỏ)
105. Trương Thị Giao (má Chính)147. Ngọc Văn Dòng189. Nguyễn Văn Hữu (Nguyễn Văn Gặp)231. Nguyễn Văn Thới (Ba Sáu)
106. Dương Thị Lang148. Trần Văn Đức (Ba Quốc)190. Nguyễn Văn Hoàng232. Lê Văn Đạm
107. Phạm Thị Ngư149. Võ Hoàng Lê (Võ Văn Quân)191. Bùi Thanh Hường233. Nguyễn Văn Chắc (Ba Ốm)
108. Nguyễn Thị Tố150. Lê Duy Chín192. Hồ Thanh Lâm234. Phạm Văn Lần
109. Dương Thị Hoa151. Nguyễn Văn Dứt193. Đặng Văn Nhàn235. Trương Văn Rắt (Bảy Tiến)
110. Bùi Thị Thêm152. Nguyễn Văn Hượng194. Trần Văn Phú236. Mang Đa
111. Phan Thị Tư (Tư Bốn)153. Lê Hoàng Sương195. Nguyễn Văn Quân237. Nguyễn Văn Tròn
112. Hoàng Thị Nghị (Năm Hà)154. Phan Thành Sự196. Phạm Minh Tư238. Đinh Cơ Mé
113. Hồ Thị Bời155. Hà Quang Đinh197. Dương Văn Thì239. Bhơ Nướu
114. Đặng Thị Én156. Nguyễn Văn Tây198. Đoàn Văn Thắng240. Huỳnh Tấn Nam
115. Phạm Thị Nhung157. Nguyễn Đức Thắng (Nguyễn Văn Chính)199. Trịnh Xuân Thiều241. Trần Văn Ngôn
116. Lê Thị Hiến Tâm158. Phạm Hồng Thấy200. Bùi Văn Viết (Tư Thắng)242. Võ Phố (Phước)
117. Phạm Thị Mỹ159. Nguyễn Thanh Vọng201. Lương Văn Mướt243. Nguyễn Văn A
118. Nguyễn Thị Điểm (Thanh Tùng)160. Đoàn Ái Việt (Đoàn Công Quyền)202. Cao Văn Bé244. Phạm Văn Dũng
119. Trần Thị Mai161. Mai Văn Ánh203. Đặng Văn Dầy245. Lê Hoàng Minh
120. Đoàn Thị Ánh Tuyết162. A Lăng Bin204. Nguyễn Văn Trung (Nguyễn Văn Già)246. Trương Diệu
121. Ngô Thị Nho163. Nguyễn Tấn Bửu205. Đỗ Đình Văn247. Trần Văn Trọng
122. Nguyễn Thị Vân (Nguyễn Thị Hồng)164. Nguyễn Văn Huê206. Dương Văn Ngọ248. Phạm Trợ
249. Đặng Công Nhân


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:40:57 pm

* Tuyên dương ngày 20 tháng 12 năm 1979

1. Trần Thế Lại12. Trần Ngọc Sơn23. La Văn Tiến35. Hà Thị Sen
2. Bùi Văn Phượng13. Đỗ Duy Phú24. Tòng Văn Chô36. Nguyễn Đình Khoa
3. Phạn Bá Mạnh14. Nguyễn Nho Bông25. Hoàng Minh Phương37. Lê Khương
4. Phạm Ngọc Yên15. Nguyễn Văn Trường26. Vàng A Sình38. Âu Văn Hùng
5. Phạm Xuân Huân16. Đào Văn Quân27. Trương Hữu Dem39. Nguyễn Văn Kháng
6. Nguyễn Văn Nhân17. Lê Đình Thịnh28. Trần Nghiêm40. Vũ Duy Vang
7. Phạm Đình Linh18. Nguyễn Chí Cường29. Nguyễn Ngọc Hà41. Nguyễn Đình Tâm
8. Hoàng Quý Nam19. Phạm Văn Thắng30. Nguyễn Công Tiến42. Trần Ngọc Giao
9. Trần Xuân Vinh20. Kiều Văn Thành31. Tạ Đông Trung43. Lê Hoàng Sơn
10. Nguyễn Xuân Kim21. Nguyễn Duy Nhất32. Nguyễn Song Thao44. Lê Thái Bê
11. Trần Trọng Thường22. Lý Trung Phẩm33. Phạm Đình Thiện45. Vũ Trọng Cường
34. Trần Văn Thế46. Huỳnh Vũ Hùng





* Tuyên dương ngày 12 tháng 8 năm 1980

1. Đinh Trọng Lịch





* Tuyên dương ngày 28 tháng 8 năm 1981

1. Hoàng Đình Hợp4. Ngô Khắc Quyền
2. Lê Văn Hữu5. Rơ Ơ Cheo
3. Trần Minh Xung6. Lương Văn Xuân




* Tuyên dương ngày 25 tháng 1 năm 1983

1. Nguyễn Văn Thuyền (Dũng)5. Quách Văn Thắm9. Hoàng Văn Lượng
2. Bùi Xuân Tiếp6. Tống Duy Tụng10. Trần Đức Cơ
3. Nguyễn Văn Tấn7. Nguyễn Văn Ngộ11. Lâm Thanh Hồng
4. Trần Văn Sứ8. Triệu Xuân Hòa12. Dương Đức Thăng
13. Nguyễn Văn Nghĩa


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Chín, 2022, 09:05:44 pm

* Tuyên dương ngày 29 tháng 8 năm 1985

1. Hoàng Hữu Chuyên8. Nguyễn Viết Ninh15. Nguyễn Văn Đệ
2. Nguyễn Quốc Thất9. Lê Trần Mẫn16. Nguyễn Văn Bình
3. Phạm Hoàng Dũng10. Ngô Đình Quỳ17. Nguyễn Văn Vượng
4. Trần Văn Thái11. Bùi Văn Tình18. Nguyễn Văn Khả
5. Nguyễn Hồng Cao12. Đỗ Xuân Hợp19. Phùng Hạnh Phúc
6. Bùi Văn Bình13. Nguyễn Ngọc Doãn20. Phạm Văn Nhờ (Tư Mao)
7. Huỳnh Thị Hường (Sáu Hồng)14. Đặng Trung Thành




* Tuyên dương ngày 6 tháng 1 năm 1989

1. Vũ Huy Lễ     2. Trần Văn Phương




* Tuyên dương ngày 30 tháng 8 năm 1989

1. Phạm Văn Đắp5. Lê Cao Thăng
2. Lê Văn Vằn6. Lê Quang
3. Nguyễn Đức Hành7. Hồ Khải Hoàng
4. Nguyễn Văn Việt8. Nguyễn Văn Tham.




* Tuyên dương ngày 13 tháng 12 năm 1989

1. Trần Đức Thông5. Phùng Hồng Lâm
2. Vũ Phi Trừ6. Trương Quang Luật
3. Nguyễn Đình Hoàn7. Hà Minh Thám
4. Bùi Đại8. Nguyễn Văn Lanh.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Chín, 2022, 09:32:41 pm

* Tuyên dương ngày 20 tháng 12 năm 1994

- Trước năm 1945 và trong kháng chiến chống Pháp

1. Nguyễn Đình Chính       2. Ngô Thất Sơn (Trịnh Ngọc Ánh)


- Trong kháng chiến chống Mỹ:

1. Nguyễn Bá Lại19. Nguyễn Nhàn (Nguyễn Ánh)37. Sơn Khinh55. Huỳnh Thị Hườn (má Hai)
2. Hà Văn Cách20. Hồ Tương38. Nguyễn Văn Bé Bảy (Nguyễn Vân A)56. Phan Định
3. A Vâu21. Lê Tự Thống Nhất39. Võ Văn Kiết (Mười Quốc)57. Hồ Đông
4. Phạm Thị Liên22. Nguyễn Văn Trầm40. Phan Thị Ràng (Tư Phùng)58. Nguyễn Thị Bé
5. Nguyễn Đăng Bạn23. Trần Văn Hùm41. Mai Thị Nương (Mai Hồng Hạnh)59. Nguyễn Văn Phước
6. Huỳnh Khái24. Phạm Văn Khuy42. Nguyễn Văn Kiến60. Phan Nhu
7. Phạm Nổi25. Ngô Văn Tô43. Trần Thanh Lạc61. Lê Văn A
8. Huỳnh Thị Trà26. Trương Văn Sến44. Nguyễn Văn Khải62. Mai Thị Út (má Tá Hội)
9. Trần Luân (Trần Dũng)27. Lê Văn Việt45. Nguyễn Hùng Cường (Phạm Văn Bảy)63. Hồ Thị Đơm
10. Trần Thị Kỹ28. Nguyễn Văn Khánh (Nguyễn Văn Be)46. Nguyễn Thị Phiến (Võ Thị Hồng)64. Châu Thanh Truyền
11. Lâm Văn Tương (Lâm Tài)29. Võ Tấn Đồ47. Phan Bình Trung (Hòa Lam)65. Cha Ma Lé Châu
12. Võ Giữ (Võ Văn Sơn)30. Nguyễn Văn Bửu48. Trần Hoàng Na66. Phùng Thị Tám
13. Nguyễn Tiệm (Nguyễn Văn Phi)31. Lê Văn Rí49. Nguyễn Phi Hùng67. Trương Thị Hoa
14. Huỳnh Phước (Huỳnh Hữu Phước)32. Phạm Văn Tình50. Lê Quang Trung68. Cao Văn Đạt (Cao Văn Hồng)
15. Siu Bleh33. Châu Văn Biết51. Nguyễn Văn Bẩy (b)69. Nguyễn Văn Út (Út Nồi)
16. Đinh Văn Gió34. Đoàn Triết Minh (Bảy Đen)52. Vũ Xuân Thiều70. Hồ Thị Bi (Hồ Thị Hoa)
17. Nguyễn Hồng Đạo (Trần Quang Giáo)35. Nguyễn Văn Cống (Út Ruộng)53. Lê Hồng Thịnh (Lê Văn Cao)71. Nguyễn Thành Trung (Đinh Khắc Chung)
18. Huỳnh Thị Hào36. Hồ Minh Luông54. Nguyễn Thị Hồng72. Vũ Xuân Đài


- Từ năm 1986 đến 1994:

1. Lê Kim Hà.


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 07:18:20 am

12. CÁN BỘ QUÂN ĐỘI ĐƯỢC PHONG CHỨC DANH KHOA HỌC GIÁO SƯ VÀ PHÓ GIÁO SƯ

(TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 1992)1

I. Giáo sư


1. Thiếu tướng Nguyễn Văn Âu      32. Thiếu tướng Nguyễn Thúc Mậu
2. Đại tá Nguyễn Cảnh Cầu      33. Đại tá Nguyễn Hữu Mô
3. Đại tá Vũ Tá Cúc      34. Đại tá Nguyễn Văn Nhân
4. Đại tá Hà Huy Cương      35. Đại tá Lê Văn Ốc
5. Đại tá Phạm Văn Cự      36. Thiếu tướng Nguyễn Huy Phan
6. Đại tá Trần Mạnh Chu      37. Đại tá Nguyễn Xuân Phách
7. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doãn      38. Thượng tá Trần Hữu Phát
8. Thiếu tướng Phạm Tử Dương      39. Thiếu tướng Nguyễn Hưng Phúc
9. Đại tá Lê Cao Đài      40. Thiếu tướng Nguyễn Sĩ Quốc
10. Thiếu tướng Bùi Đại      41. Thiếu tướng Nguyễn Quỳ
11. Thiếu tướng Hoàng Điền      42. Trung tướng Phạm Hồng Sơn
12. Thiếu tướng Đặng Ngọc Giao      43. Đại tá Bùi Xuân Tám
13. Đại tá Từ Giấy      44. Đại tá Nguyễn Quí Tảo
14. Đại tá Nguyễn Xuân Hiền      45. Đại tá Nguyễn Duy Tuân
15. Phan Hữu Hoàn      46. Đại tá Nguyễn Thúc Tùng
16. Đại tá Đặng Đình Huấn      47. Thiếu tướng Nguyễn Tụ
17. Thiếu tướng Đoàn Huyên      48. Đại tá Vũ Duy Thanh
18. Thượng tá Đỗ Công Huỳnh      49. Đại tá Nguyễn Thiện Thành
19. Thiếu tướng Nguyễn Thế Khánh      50. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
20. Thượng tá Phan Quốc Khánh      51. Đại tá Ngô Vi Thiện
21. Đại tá Phan Đức Khâm      52. Đại tá Nguyễn Hoa Thịnh
22. Đại tá Đặng Hanh Khôi      53. Đại tá Nguyễn Văn Thọ
23. Đại tá Tô Như Khuê      54. Trung tá Quách Đăng Triều
24. Đại tá Nguyễn Lãm      55. Thiếu tướng Phạm Gia Triệu
25. Thượng tướng Vũ Lăng      56. Trung tướng Đỗ Trình
26. Đại tá Phan Chúc Lâm      57. Thiếu tướng Lê Thế Trung
27. Đại tá Nguyễn Mạnh Liên      58. Đại tá Đặng Hiếu Trung
28. Đại tá Ngô Ứng Long      59. Trung tướng Trần Xuân Trường
29. Đại tá Đỗ Đình Luận      60. Thiếu tướng Trần Thúc Vân
30. Trung tướng Lê Xuân Lựu      61. Đại tá Trần Quang Việp
31. Đại tá Hà Văn Mạo      62. Thiếu tướng Võ Văn Vinh
_________________________________________
1. - Danh sách xếp theo thứ tự vần chữ cái
    - Cấp bậc ở thời điểm phong học hàm



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 07:32:12 am
II. Phó giáo sư

1. Thượng tá Đặng Ngọc A        31. Đại tá Trà Công
2. Thiếu tá Nguyễn Quang A        32. Thượng tá Nguyễn Đức Cương
3. Trung tá Trịnh Đông A        33. Trung tướng Văn Cương
4. Thiếu tướng Bùi Công Ái        34. Đại tá Bạch Huy Cường
5. Thượng tướng Nguyễn Hữu An        35. Chu Việt Cường
6. Đại tá Nguyễn Trí Anh        36. Trung tá Nguyễn Tăng Cường
7. Thượng tá Nguyễn Xuân Anh        37. Trung tá Phạm Gia Cường
8. Đại tá Trần Quang Anh        38. Thượng tá Phan Văn Chạy
9. Thượng tá Võ Ngọc Anh        39. Trung tướng Trương Khánh Châu
10. Thượng tá Lê Đăng Ánh        40. Đại tá Vũ Chấn
11. Thượng tá Phan Bá        41. Thượng tá Nguyễn Bá Chất
12 Đại tá Nguyễn Hồng Bàng        42. Đại tá Lê Hải Chi
13. Thiếu tướng Hoàng Bát        43. Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi
14. Trung tá Nguyễn Đình Bảng        44. Thượng tá Đào Hữu Chí
15. Thượng tá Phùng Kim Bảng        45. Đại tá Trần Mạnh Chí
16. Thượng tá Nguyễn Duy Bảo        46. Đại tá Phan Chỉ
17. Đại tá Nguyễn Ngọc Bảo        47. Thiếu tướng Lê Văn Chiểu
18. Thượng tá Trần Trí Bảo        48. Đại tá Đỗ Xuân Chương
19. Đại tá Nguyễn Báu        49. Thượng tá Phan Đình Chương
20. Đại tá Nguyễn Anh Bắc        50. Thượng tá Phạm Huy Chương
21. Trung tá Nguyễn Việt Bắc        51. Thượng tá Trần Bá Chữ
22. Đại tá Vũ Quang Bích        52. Đại tá Võ An Dậu
23. Thiếu tướng Ngô Huy Biên        53. Thượng tá Phan Nguyên Di
24. Nguyễn Bình        54. Thượng tá Thái Văn Di
25. Trung tá Phạm Văn Bính        55. Đại tá Đỗ Duy Dịch
26. Đại tá Trần Bưởi        56. Thượng tá Bùi Quang Diệu
27. Thiếu tướng Đào Quang Cát        57. Thượng tá Cao Nhật Doãn
28. Thượng tá Lê Công Cát        58. Thượng tá Đỗ Thị Dung
29. Đại tá Phùng Căn        59. Thượng tá Đinh Xuân Dũng
30 Thượng tá Đỗ Văn Cẩm        60. Thượng tá Lê Anh Dũng


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 03:52:31 pm

II. Phó giáo sư
(Tiếp theo)

61. Thiếu tướng Lê Văn Dương        91. Đại tá Vũ Phi Hoàng
62. Trung tá Nguyễn Ngọc Dương        92. Thiếu tướng Phan Văn Hòe
63. Thiếu tướng Bùi Thúc Dưỡng        93. Đại tá Trần Đức Hòe
64. Thiếu tá Phạm Quang Dự        94. Đại tá Phạm Hồng
65. Thượng tá Tô Văn Dực        95. Thượng tá Nguyễn Văn Hợi
66. Đại tá Lê Minh Đại        96. Thượng tá Nguyễn Đức Hùng
67. Đại tá Ngô Vi Đại        97. Thiếu tướng Nguyễn Kim Hùng
68. Đại tá Trương Xuân Đàn        98. Thượng tá Nguyễn Mạnh Hùng
69. Đại tá Phan Hữu Đào        99. Trung tá Nguyễn Quang Hùng
70. Đại tá Dương Xuân Đạm        100. Thượng tá Ngô Vi Hùng
71. Thượng tá Lê Xuân Đình        101. Trung tá Phạm Mạnh Hùng
72. Đại tá Vũ Bằng Đình        102. Trung tá Cao Tiến Huỳnh
73. Đại tá Nguyễn Địch        103. Đại tá Phạm Văn Hựu
74. Thượng tá Hoàng Văn Điều        104. Thượng tá Đặng Đức Kim
75. Thượng tá Trần Đăng Điện        105. Thượng tá Võ Kim
76. Thượng tá Lê Văn Đoan        106. Thượng tá Đinh Huỳnh Kiệt
77. Thượng tá Nguyễn Hữu Độ        107. Thượng tá Đào Đức Kính
78. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Độ        108. Thượng tá Nguyễn Mạnh Kính
79. Đại tá Lê Thị Đơn        109. Thiếu tướng Vũ Trọng Kính
80. Trung tướng Lê Hữu Đức        110. Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ
81. Trung tá Nguyễn Hữu Giao        111. Đại tá Đặng Chu Kỷ
82. Thượng tá Vũ Như Giao        112. Trung tướng Hoàng Nghĩa Khánh
83. Thượng tá Đỗ Huy Giác        113. Thượng tá Phạm Gia Khánh
84. Thượng tá Nguyễn Mạnh Hà        114. Đại tá Phan Trọng Khoa
85. Đại tá Nguyễn Đăng Hạ        115. Đại tá Trần Lưu Khôi
86. Thượng tá Bạch Vọng Hải        116. Thượng tá Vũ Quý Khôi
87. Thượng tá Lê Đông Hải        117. Thượng tá Ngô Thế Khuề
88. Trung tá Nguyễn Việt Hải        118. Trung tá Bành Văn Khừu
89. Thiếu tướng Trần Duy Hạnh        119. Thiếu tướng Nguyễn Khắc Lãi
90. Thượng tá Trần Văn Hạnh        120. Thượng tá Trần Khánh Lan


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 03:54:07 pm

II. Phó giáo sư
(Tiếp theo)

121. Đại tá Đinh Ngọc Lâm      151. Thượng tá Trần Đình Ngạn
122. Trung tướng Khiếu Anh Lân      152. Trung tá Phạm Xuân Ngọc
123. Thiếu tướng Nguyễn Anh Lân      153. Thượng tá Nguyễn Văn Nguyên
124. Thiếu tướng Hoàng Lê      154. Thượng tá Nguyễn Thế Nghiêm
125. Đại tá Lê Sỹ Liêm      155. Đại tá Huỳnh Nghĩ
126. Thượng tá Nguyễn Liêm      156. Đại tá Đỗ Nghị
127. Trung tá Đỗ Ngọc Liễn      157. Thượng tá Lê Văn Nghị
128. Đại tá Hoàng Linh      158. Thượng tá Nguyễn Thiện Nghị
129. Đại tá Nguyễn Tăng Long      159. Đại tá Lê Đức Nhân
130. Thiếu tá Phạm Thế Long      160. Trung tá Phan Sĩ Nhân
131. Đại tá Phạm Văn Long      161. Thượng tá Trần Đức Nhiên
132. Đại tá Tạ Long      162. Thiếu tướng Cao Pha
133. Thượng tá Trần Văn Lộc      163. Đại tá Hoàng Ngọc Phách
134. Trung tá Phạm Văn Lợi      164. Trung tá Lê Đình Phái
135. Đại tá Trịnh Văn Luận      165. Thiếu tướng Cao Phát
136. Đại tá Nguyễn Lụng      166. Thiếu tướng Ngô Huy Phát
137. Thượng tá Nguyễn Đức Luyện      167. Đại tá Lê Triệu Phong
138. Thiếu tướng Cao Thượng Lương      168. Đại tá Vũ Văn Phong
139. Thượng tá Hồ Hữu Lương      169. Thượng tá Nguyễn Ngọc Phú
140. Thượng tá Hoàng Xuân Lượng      170. Thượng tá Nguyễn Khoa Phúc
141. Thượng tá Nguyễn Trần Lý      171. Thượng tá Phạm Ngọc Phúc
142. Đại tá Lê Minh      172. Đại tá Phạm Ngọc Phụng
143. Thiếu tướng Hồ Thanh Minh      173. Thiếu tướng Đặng Huyền Phương
144. Đại tá Lê Ngọc Mô      174. Trung tướng Hoàng Phương
145. Trung tá Phạm Ngọc Nam      175. Đại tá Hoàng Lữ Quang
146. Trung tướng Nguyễn Văn Năng      176. Thiếu tướng Lê Hồng Quang
147. Thượng tá Đinh Văn Niệm      177. Thượng tá Thái Hồng Quang
148. Thượng tá Nguyễn Phúc Ninh      178. Thiếu tướng Đặng Tích Quân
149. Đại tá Ngô Thế Nùng      179. Thượng tá Nguyễn Ngọc Quí
150. Đại tá Hà Văn Ngạc      180. Đại tá Nguyễn Gia Quyền


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 03:55:00 pm

II. Phó giáo sư
(Tiếp theo)

181. Thượng tá Hoàng Trong Quỳnh        212. Đại tá Lê Thân
182. Trung tá Bùi Văn Sáng        213. Thiếu tướng Phan Chí Thiết
183. Đại tá Nguyễn Đình Sắc        214. Đại tá Đào Gia Thìn
184. Đại tá Nguyễn Đức Sâm        215. Thiếu tướng Vũ Hắc Thông
185. Thượng tá Nguyễn Hoành Sơn        216. Trung tướng Phan Thu
186. Đại tá Bùi Thế Sinh        217. Thiếu tướng Trần Xuân Thu
187. Đại tá Bùi Thiện Sự        218. Đại tá Nguyễn Văn Thụ
188. Nguyễn Quân Sỹ        219. Đại tá Vũ Ngọc Thụ
189. Đại tá Nguyễn Văn Tài        220. Thượng tá Nguyễn Thuận
190. Đại tá Phan Huy Tài        221. Thiếu tướng Tống Trần Thuật
191. Trung tá Hoàng Văn Tảo        222. Đại tá Hoàng Thị Thục
192. Đại tá Nguyễn Văn Tảo        223. Thượng tá Lê Xuân Thục
193. Đại tá Trịnh Quang Tân        224. Đại tá Nguyễn Công Thụy
194. Thượng tá Nguyễn Văn Tần        225. Đại tá Lê Quý Thức
195. Đại tá Lê Văn Tiến        226. Đại tá Nguyễn Ấu Thực
196. Đại tá Lê Sĩ Toàn        227. Thiếu tướng Nguyễn Duy Thương
197. Đại tá Nguyễn Thị Ngọc Toản        228. Thượng tá Nguyễn Văn Thường
198. Trung tá Trần Đình Toại        229. Đại tá Đào Xuân Trà
199. Thượng tá Hoàng Thọ Tu        230. Trung tá Đinh Bá Trụ
200. Đại tá Lê Đức Tu        231. Trung tá Bùi Trung
201. Thượng tá Nguyễn Tu        232. Đại tá Cung Bỉnh Trung
202. Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn        233. Đại tá Nguyễn Chính Trung
203. Đại tá Đinh Quang Tuệ        234. Đại tá Nguyễn Văn Trung
204. Đại tá Trần Hậu Tư        235. Thiếu tướng Nguyễn Đình Ước
205. Đại tá Nguyễn Đăng Tường        236. Trung tướng Nguyễn Như Văn
206. Thượng tá Ngô Quý Tỵ        237. Đại tá Phan Gia Văn
207. Đại tá Trần Bá Thả        238. Thiếu tướng Tạ Vân
208. Thượng tá Hoàng Ngọc Thái        239. Thượng tá Nguyễn Hữu Vi
209. Đại tá Vũ Huy Thành        240. Đại tá Hồ Kiếm Việt
210. Thượng tá Lê Nhật Thăng        241. Thượng tá Nguyễn Đình Vinh
211. Đại tá Vũ Đình Thắng        242. Thượng tá Nguyễn Hồng Vũ
243. Đại tá Trần Quang Vỹ


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2022, 04:07:17 pm

13. NGHIÊN CỨU SINH BẢO VỆ THÀNH CÔNG LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ
TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM




* Chuyên ngành chiến lược quân sự:

1. Phạm Hồng Sơn       3. Cao Thượng Lương
2. Đỗ Trình       4. Trần Độ




* Chuyên ngành nghệ thuật chiến dịch:

1. Ngô Huy Biên      2. Huỳnh Nghĩ



* Chuyên ngành những vấn đề triết học, chính trị-kinh tế học trong lĩnh vực quân sự:

1. Nguyễn Tiến Bình      4. Nguyễn Quốc Chiến
2. Nguyễn Văn Quyết      5. Nguyễn Thanh Long
3. Lại Ngọc Hải      6. Nguyễn Kim Khánh



* Chuyên ngành hậu cần quân đội:

1. Nguyễn Đình Sắc      3. Lê Kim Long
2. Lê Đức Thâu      4. Trần Ngọc Diễm



* Chuyên ngành sư phạm quân sự:

1. Nguyễn Chính Trung      2. Đào Văn Giá



* Chuyên ngành lịch sử quân sự:

1. Vũ Cao Phan      2. Nguyến Quốc Dũng


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 01:01:27 pm

* Nhóm các chuyên ngành khoa học kỹ thuật:

1. Nguyễn Hữu Thung      17. Phạm Hải Bắc
2. Phạm Văn Vy      18. Đinh Kim Dục
3. Nguyễn Bình      19. Lê Thái Lai
4. Hồ Ước      20. Đinh Văn Đức
5. Nguyễn Thuận      21. Trần Quốc Tùy
6. Nguyễn Thiện Luân      22. Lê Thu Sương
7. Nguyễn Nam Hồng      23. Lê Trường Tùng
8. Nguyễn Văn Cường      24. Bạch Nhật Hồng
9. Lê Chung      25. Nguyễn Văn Mật
10. Trần Minh      26. Nguyễn Tài Cần
11. Nguyễn Đặng Diệp      27. Lê Đình Thành
12. Phan Văn Ban      28. Phạm Gia Thọ
13. Bùi Huy Hoàng      29. Tô Bá Trường
14. Lê Huy Du      30. Nguyễn Phan Cường
15. Nguyễn Ngọc Kiên      31. Hộ Quang Quý
16. Nguyễn Trọng Kim      32. Nguyễn Đình Hưng



* Nhóm các chuyên ngành Y, dược:

1. Cung Bình Trung      21. Hồ Hữu Lương
2. Đỗ Thị Hoàng Dung      22. Nguyễn Trọng Đạt
3. Phạm Quang Ngọc      23. Trần Đình Ngạn
4. Nguyễn Liêm      24. Nguyễn Duy Tuân
5. Trần Chí Bảo      25. Nguyễn Đình Bảng
6. Vũ Duy Thành      26. Hoàng Thị Như Mai
7. Trần Văn Ân      27. Ngô Tiến Dũng
8. Lê Ngọc Bảo      28. Phùng Kim Bảng
9. Trần Mạnh Chí      29. Lê Thị Mỹ Dung
10. Ngô Vi Hùng      30. Nguyễn Văn Thành
11. Nguyễn Đăng Quang      31. Xà Thiệu Hùng
12. Võ Tá Thông      32. Lê Khắc Đức
13. Thạch Thị Trinh      33. Trần Minh Kháng
14. Đỗ Lợi      34. Thái Hồng Kháng
15. Nguyễn Đát      35. Nguyễn Thị Ty
16. Nguyễn Văn Hồ      36. Hoàng Ngọc Hiểu
17. Đồng Sĩ Thuyên      37. Lê Võ Đinh Tường
18. Nguyễn Văn Tảo      38. Nguyễn Khắc Viện
19. Nguyễn Xuân Giang      39. Nguyễn Hoàng Tuấn
20. Nguyễn Bằng Quyền      40. Đinh Ngọc Sỹ


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 01:05:08 pm

* Nhóm các chuyên ngành Y, dược:
(Tiếp theo)

41. Vũ Quang Ngọ        71. Nguyễn Xuân Thiều
42. Vũ Dương Quý        72. Vũ Toán
43. Vũ Đình Hùng        73. Hoàng Văn Minh
44. Nguyễn Quý Tảo        74. Lê Kế Sơn
45. Trương Quang Xuân        75. Đào Xuân Vinh
46. Bùi Xuân Tám        76. Nguyễn Văn Kim
47. Nguyễn Tụ        77. Nguyễn Đức Ninh
48. Nguyễn Bá Sơn        78. Hồ Bá Đo
49. Nguyễn Văn Thọ        79. Bùi Ngọc Tiến
50. Nguyễn Ngọc Thìn        80. Nguyễn Kỳ
51. Phạm Tử Dương        81. Nguyễn Anh Trí
52. Lê Đức Chính        82. Thái Văn Cớn
53. Dương Văn Chính        83. Đinh Ngọc Duy
54. Nguyễn Văn Xuyên        84. Đỗ Phú Đông
55. Nguyễn Đình Hường        85. Vũ Quang Huy
56. Đinh Minh Tân        86. Lê Trung Hải
57. Nguyễn Sanh Dân        87. Nguyễn Văn Thông
58. Ngô Văn Hoàng Linh        88. Phạm Khắc Lâm
59. Vũ Ngọc Thủ        89. Nguyễn Văn Quýnh
60. Trần Minh Từ        90. Nguyễn Ngọc Báu
61. Nguyễn Địch        91. Bùi Quang Tuyến
62. Hà Văn Mạo        92. Trần Minh Đạo
63. Hoàng Quốc Toàn        93. Nguyễn Thọ Lộ
64. Nguyễn Văn Ngân        94. Nguyễn Mạnh Nhâm
65. Lê Viết Định        95. Phạm Văn Thức
66. Vũ Hoàng Liên        96. Trần Nguyệt Hồng
67. Phạm Văn Lĩnh        97. Hà Văn Ngọc
68. Nguyễn Đình Phàn        98. Bun-tự Chan-đa-vông
69. Tạ Long        99. Som-sa-rát Sit-thi-đét
70. Vũ Đình Cầu        100. Nguyễn Đỗ Quyên



*Số lượng tiến sĩ, phó tiến sĩ khoa học công tác trong quân đội do Nhà nước đào tạo (ở trong và ngoài nước)
và bảo vệ thành công luân án phó tiến sĩ tại các cơ sở đào tạo trong quân đội tính đến năm 1992 bao gồm:


Tiến sĩ: 31 người.

Phó tiến sĩ: 900 người (riêng hai ngành y, dược có 610 người).


Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Chín, 2022, 01:24:45 pm

14. THẦY THUỐC NHÂN DÂN VÀ THẦY THUỐC ƯU TÚ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM1

A. Thầy thuốc nhân dân


1. Bác sĩ Trần Văn Dược      7. Giáo sư Đỗ Đình Luận
2 Giáo sư Bùi Đại      8. Bác sĩ Đỗ Hoài Nam
3. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoa      9. Giáo sư Nguyễn Văn Nhân
4. Giáo sư Đặng Đình Huấn      10. Giáo sư Nguyễn Huy Phan
5. Giáo sư Nguyễn Thế Khánh      11. Giáo sư Phạm Gia Triệu
6. Giáo sư Vũ Trọng Kính      12. Giáo sư Lê Thế Trung
13. Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng



B. Thầy thuốc ưu tú

1. Phó giáo sư Nguyễn Văn Âu      31. Phó giáo sư Phan Chúc Lâm
2. Phó giáo sư Nguyễn Văn Báu      32. Bác sĩ Trần Văn Lê
3. Bác sĩ Dương Bình      33. Bác sĩ Tạ Lưu
4. Bác sĩ Đào Bình      34. Bác sĩ Trương Tấn Lập
5. Bác sĩ Lê Tấn Bình      35. Bác sĩ Tống Sơn Minh
6. Bác sĩ Nguyễn Thế Bùi      36. Bác sĩ Văn Đức Minh
7. Bác sĩ Đặng Xuân Cảnh      37. Bác sĩ Nguyễn Văn Nhẽ
8. Bác sĩ Nguyễn Đức Châu      38. Bác sĩ Nguyễn Đức Phan
9. Lương y Trần Ngọc Chấn      39. Bác sĩ Đào Thế Phượng
10. Giáo sư Trần Mạnh Chu      40. Bác sĩ Lê Quang
11. Phó giáo sư Đỗ Xuân Chương      41. Bác sĩ Bùi Hồng Tâm
12. Phó giáo sư Phạm Văn Cự      42. Phó giáo sư Bùi Xuân Tám
13. Bác sĩ Nguyễn Tiến Dậu      43. Phó giáo sư Nguyễn Văn Thọ
14. Phó giáo sư Nguyễn An Dậu      44. Phó giáo sư Hoàng Thị Thục
15. Phó giáo sư Thái Văn Di      45. Phó giáo sư Vũ Huy Thành
16. Bác sĩ Đỗ Dung Dịch      46. Bác sĩ Lương Công Thảo
17. Phó giáo sư Phạm Tử Dương      47. Bác sĩ Nguyễn Dung Thận
18. Phó giáo sư Trương Xuân Đàn      48. Bác sĩ Lý Trần Thi
19. Bác sĩ Nguyễn Thu Định      49. Bác sĩ Võ Tá Thông
20. Bác sĩ Mai Đông      50. Bác sĩ Nguyễn Thành Thới
21. Bác sĩ Lê Thị Mẫu Đơn      51. Phó giáo sư Vũ Ngọc Thụ
22 Bác sĩ Hà Văn Giao      52. Bác sĩ Nguyễn Đức Tiến
23. Bác sĩ Bùi Hạnh      53. Phó giáo sư Lê Văn Tiến
24. Bác sĩ Võ Văn Hạp      54. Phó giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Toản
25. Bác sĩ Nguyễn Huy      55. Phó giáo sư Đặng Hiếu Trưng
26. Giáo sư Nguyễn Xuân Hiền      56. Bác sĩ Lê Ngọc Trác
27. Bác sĩ Trần Nam Hưng      57. Phó giáo sư Trần Hậu Tư
28. Phó giáo sư Trần Lưu Khôi      58. Phó giáo sư Trần Quang Việp
29. Bác sĩ Bành Văn Khừu      59. Bác sĩ Đào Trọng Xuân
30. Bác sĩ Vũ Bá Lại
______________________________________________
1. Phong tặng ngày 23 tháng 9 năm 1989
    - Danh sách xếp theo thứ tự vần chữ cái.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2022, 02:18:02 pm

15. NHÀ GIÁO NHÂN DÂN VÀ NHÀ GIÁO ƯU TÚ TRONG QUÂN ĐỘI1

A. NHÀ GIÁO NHÂN DÂN:


1. Đại tá Lê Quang Bửu
2. Thiếu tướng, giáo sư Nguyễn Hưng Phúc
3. Thượng tướng, giáo sư Hoàng Minh Thảo
4. Đại tá, giáo sư Nguyễn Hoa Thịnh.



B. NHÀ GIÁO ƯU TÚ:

1. Đại tá Nguyễn Thanh Bạch      21. Trung tá Nguyễn Đức Giới
2. Trung tá Lương Văn Bài      22. Thượng tá, phó giáo sư Đỗ Huy Giác
3. Trung tá Nguyễn Xuân Biếc      23. Đàm Quang Giang
4. Trung tá Trần Văn Bốn      24. Thượng tá A Ma Hai
5. Đại tá Phùng Căn      25. Đại tá Nguyễn Duy Hàm
6. Đại tá, phó giáo sư Nguyễn Cảnh Cầu      26. Trần Thị Hảo
7. Trung tá Bùi Văn Cân      27. Thiếu tướng, phó giáo sư Phạm Văn Hòe
8. Thiếu tướng Lê Minh Châu      28. Đại tá Đinh Khắc Hiệu
9. Đại tá, phó giáo sư Vũ Chấn      29. Đại tá Nguyễn Hồng
10. Đại tá, phó giáo sư Trần Mạnh Chí      30. Nguyễn Thị Hương
11. Đại tá, phó giáo sư Trà Công      31. Đại tá Cấn Đỗ Kết
12. Đại tá Nguyễn Bá Côn      32. Đại tá Nguyễn Minh Kha
13. Đại tá, giáo sư Vũ Tá Cúc      33. Đại tá Nguyễn Văn Khiếu
14. Trung tá Trần Công Chiến      34. Trung tá Nguyễn Văn Kiếm
15. Đại tá Nguyễn Quang Diệu      35. Thượng tá, phó giáo sư Phạm Gia Khánh
16. Nguyễn Thị Dung      36. Đại tá, giáo sư Tô Như Khuê
17. Đại tá Bùi Thanh Duyên      37. Thiếu tướng Nguyễn Khắc Lãi
18. Đại tá Phạm Trung Đôi      38. Đại tá Mai Xuân Lại
19. Thiếu tá Tạ Đôn      39. Đại tá Lê Kế Lâm
20. Thiếu tướng, phó giáo sư Đặng Ngọc Giao      40. Đại tá Hoàng Linh
_____________________________________________
1. Các đợt phong từ năm 1988 đến năm 1989
  - Danh sách xếp theo thư tự vần chữ cái
  - Cấp bậc khi được phong tặng danh hiệu cao quý.



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2022, 02:38:58 pm

B. NHÀ GIÁO ƯU TÚ:
(Tiếp theo)

41. Trung tá Nguyễn Linh       66. Đại tá Nguyễn Văn Sự
42. Trung tá Hà Đình Loan       67. Đại tá Nguyễn Súy
43. Trung tướng Lê Xuân Lựu       68. Thượng tá Huỳnh Kim Sang
44. Trung tá Trần Đức Lũng       69. Đại tá Phan Huy Tài
45. Đại tá Biện Hữu Lý       70. Đại tá, phó giáo sư Nguyễn Quý Tảo
46. Đại tá, giáo sư Nguyễn Mạnh Liên      71. Trung tá Phan Thị Thanh
47. Đại tá Vũ Tiến Luyến      72. Phạm Thị Thành
48. Nguyễn Thị Ngọc Mai      73. Trung tá Phan Tấn Thế
49. Trung tá Nguyễn Ngọc Mậu      74. Tô Thị Thịnh
50. Đại tá Hồ Văn Minh      75. Đại tá Hoàng Thủ
51. Đại tá, giáo sư Nguyễn Hữu Mô      76. Đại tá, phó giáo sư Nguyễn Ấu Thực
52. Đại tá Hoàng Ngọc Minh      77. Thượng tá, Phó giáo sư Hoàng Ngọc Thái
53. Lê Thị Minh      78. Nguyễn Thị Thanh
54. Đại tá Lê Đức Nhân      79. Đại tá Phạm Toan
55. Đại tá Huỳnh Nghĩ      80. Thiếu tướng, giáo sư Trần Xuân Trường
56. Trung tá Nguyễn Thành Nguyên      81. Đại tá, phó giáo sư Nguyễn Duy Tuân
57. Đại tá Bùi Ngưng      82. Đại tá Hoàng Tước
58. Đại tá, phó giáo sư Phạm Ngọc Phúc      83. Đại tá Vũ Văn Tứ
59. Thiếu tướng, phó giáo sư Lê Hồng Quang      84. Đại tá Nguyễn Từ
60. Thượng tá, phó giáo sư Thái Hồng Quang      85. Đại tá, phó giáo sư Nguyễn Chính Trung
61. Thiếu tướng, phó giáo sư Đinh Tích Quân      86. Đại tá, phó giáo sư Phạm Gia Văn
62. Đại tá Trần Ngọc Quý      87. Thiếu tá Lê Vân
63. Trung tá Trương Quang Sải      88. Trung tá Đỗ Hùng Vĩ
64. Trung tá Lý Văn Sản      89. Thượng tá Phan Xuân Vinh
65. Đại tá Nguyễn Đức Sâm      90. Thiếu tá Đào Thế Vĩ
91. Trần Thị Yêm



Tiêu đề: Re: 50 năm QĐND Việt Nam
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2022, 03:00:36 pm

16. NGHỆ SĨ NHÂN DÂN VÀ NGHỆ SĨ ƯU TÚ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM1

A. Nghệ sĩ nhân dân


1. Lê Đóa: chỉ huy dàn nhạc   
2. Đinh Ngọc Liên: chỉ huy dàn nhạc
3. Nguyễn Đăng Thục (Tào Mạt): đạo diễn chèo
4. Trương Tường Vi: nghệ sĩ hát
5. Trần Việt: đạo diễn điện ảnh   



B. Nghệ sĩ ưu tú

1. Lê Văn Bằng: quay phim      36. Ngô Trọng Mai: chỉ huy dàn nhạc
2. Đoàn Bôn: nghệ sĩ kịch nói      37. Hoàng Mi: nghệ sĩ múa
3. Phạm Cam (liệt sĩ): quay phim      38. Đinh Ngọc Minh: biên đạo múa
4. Lê Ngọc Canh: biên đạo múa      39. Vũ Minh: đạo diễn kịch nói
5. Kim Cúc: nghệ sĩ ngâm thơ      40. Nguyễn Thúy My: nghệ sĩ hát
6. Trần Chất: nghệ sĩ hát      41. Hoàng Thúy Nga: nghệ sĩ kịch nói
7 Thành Ngọc Căn: đạo diễn kịch      42. Lê Thanh Nga: nghệ sĩ múa
8 Hoàng Chè: nghệ sĩ hát      43. Phan Ngạn: nghệ sĩ hát
9 Phạm Thùy Chi: nghệ sĩ kịch nói      44. Hồ Thế Ngọc: chỉ huy nghệ thuật
10. Lê Dung: nghệ sĩ hát2      45. Nguyễn Kim Ngọc:
11. Phạm Tiến Đại: đạo diễn điện ảnh      46. Nguyễn Thị Thanh Nhanh: nghệ sĩ cải lương
12 Dương Minh Đẩu: đạo diễn diện ảnh      47. Hồ Phong Nhã: nghệ sĩ kịch nói
13. Phùng Đệ: đạo diễn điện ảnh      48. Trần Linh Nhâm: nghệ sĩ hát, ngâm thơ
14 Đỗ Tiến Định: nghệ sĩ múa      49. Trần Nhu: đạo diễn và quay phim
15. Dương Minh Đức: nghệ sĩ hát      50. Nguyễn Chí Phúc: đạo diễn điện ảnh
16. Phùng Bá Gia: quay phim      51. Nguyễn Xuân Sơn: nghệ sĩ múa
17. Bùi Xuân Hanh: biên đạo múa      52. Vũ Trường Sơn: nghệ sĩ kịch nói
18. Đặng Xuân Hải: đạo diễn điện ảnh      53. Phan Doãn Tần: nghệ sĩ hát
19 Trần Hoàng Hải: biên dạo múa      54. Đỗ Minh Tiến: biên đạo múa
20. Lê Lệ Hảo (Lê Hằng): nghệ sĩ hát      55. Lê Kim Tiến: biên đạo múa
21. Đỏ Minh Hằng: nghệ sĩ kịch nói      56. Bùi Tòng: biên đạo múa
22. Phạm Thu Hằng: nghệ sĩ hát      57. Đỗ Ngọc Thà: nghệ sĩ nhạc cụ dân tộc
23. Phan Thị Thu Hòa: nghệ sĩ hát chèo      58. Nguyễn Mạnh Thắng: nghệ sĩ đàn bầu
24. Lê Huân: biên đạo múa      59. Đặng Thị Xuân Theo: nghệ sĩ hát chèo
25. Lê Mạnh Hưng: nghệ sĩ hát      60. Đoàn Thiều: nghệ sĩ hát
26. Vương Văn Kếp: nghệ sĩ múa      61. Ứng Duy Thịnh: biên đạo múa
27. Nguyễn Kha: quay phim      62. Nguyễn Tiến Thọ: nghệ sĩ nhạc cụ dân tộc
28. Phạm Khắc: quay phim      63. Nguyễn Văn Thông: đạo diễn điện ảnh
29. Nguyễn Trọng Lanh: biên đạo múa      64. Trịnh Hoài Thu: nghệ sĩ hát
30. Lê Lâm: đạo diễu điện ảnh      65. Đổng Tường Thụ: nghệ sĩ hát
31. Phạm Lập: nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ      66. Nguyễn Xuân Thức: nghệ sĩ kịch nói
32. Phạm Quế Loan: chỉ đạo nghệ thuật      67. Nguyễn Thị Trúc (Trúc Linh): nghệ sĩ cải lương
33. Nguyễn Huy Luân: nghệ sĩ đàn      68. Trần Thị Minh Vân: nghệ sĩ múa
34. Phạm Quốc Lũng: nghệ sĩ hát      69. Nguyễn Thị Ngọc Viễn: nghệ sĩ hát chèo
35. Nguyễn Thị Lương: nghệ sĩ múa      70. Ma Thị Bích Việt: nghệ sĩ hát.
______________________________________________
1. Danh sách xếp theo thứ tự vần chữ cái
2. Đã chuyển ra ngoài quân đội, năm 1993 được phong tặng danh hiệu: nghệ sĩ Nhân dân.


Hết!