Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Năm, 2022, 06:52:30 am



Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Năm, 2022, 06:52:30 am
Tên sách: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Nhà xuất bản: Hải Phòng
Năm xuất bản: 2001
Số hoá: ptlinh, dungnuocgiunuoc


Chỉ đạo nội dung:
   • HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
   • BAN LIÊN LẠC ĐỒNG ĐỘI TỈNH ĐỘI HẢI DƯƠNG HƯNG YÊN

Biên soạn:
   • VÕ AN ĐÔNG    ĐT: 031.701040
   • ĐÀO NGỌC QUẾ    ĐT: 031.838558
   • NGUYỄN HUY TRƯỜNG    ĐT: 031.876862
   • NGUYỄN HỮU TRÍ    ĐT: 031.720126
   • ĐÀM MINH    ĐT: 031.737322
   (Phụ trách giao dịch)
   • MAI THỊ PHÚC    ĐT: 031.701237

Đại diện ở Hà Nội:
   • VŨ XUÂN HÒA    ĐT: 049.760332

Đại diện ở Hải Dương:
   • PHẠM BÁCH    ĐT: 0320.858417
   • NGUYỄN ĐÌNH MẬU    ĐT: 0320.853883

Đại diện ở Hưng Yên:
   • NGUYỄN NGỌC KHẢI    ĐT: 0321.862355
 


MỘT ĐÓNG GÓP LỚN CÓ Ý NGHĨA GIÁO DỤC SÂU SẮC TINH THẦN, TRÍ TUỆ VÀ NGHỆ THUẬT TÁC CHIẾN TRONG CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC

Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân HOÀNG MINH THẢO
(Nguyên Chỉ huy trưởng Mặt trận
Đường 5 năm 1948)


Tập sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi" là một công trình có giá trị, một đóng góp lớn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc tinh thần, trí tuệ và nghệ thuật tác chiến trong cuộc chiến tranh chống xâm lược. Đó là các trận chiến đấu oanh liệt, đầy sáng tạo do những người thực, việc thực đã trực tiếp tham gia chiến đấu trình bày. Các trận chiến đấu đó của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương hay dân quân du kích đều góp phần nhỏ bé của mình, của đơn vị, của nhân dân trong thắng lợi chung của cuộc chiến tranh. Đường giao thông là huyết mạch của tác chiến khi máy bay lên thẳng chưa đóng vai trò quan trọng. Đường số 5 gồm cả đường bộ, đường sắt là con đường chiến lược quan trọng số 1 ở chiến trường Bắc Bộ. Tác chiến trên đường số 5 có ý nghĩa chiến lược. Nó cùng với sân bay Cát Bi, Gia Lâm hỗ trợ phối hợp đắc lực cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Các chiến sĩ chiến đấu trên đường 5 gồm cả đường bộ và đường sắt cũng góp một phần vinh quang vào chiến tích đó.


Với trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc, các chiến sĩ đường 5 với tâm huyết đã từ tay không dưới sự chỉ đạo của đồng chí Đại tá Võ An Đông và đồng chí Lê Đức Thịnh (đã từ trần) cùng một số đồng chí khác đã một thời giữ cương vị lãnh đạo và chỉ huy các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng, được sự cổ vũ của đồng đội và được sự khuyến khích tài trợ của một số cơ quan trung ương và cáp địa phương, anh em đã đặt "quả mìn chiến thắng" xuất bản được 10 cuốn "Đường 5 anh dũng, quật khởi". Không phải là một tổ chức, không phải là một cơ quan, ban ngành gì, nhưng với truyền thống tay không làm nên sự nghiệp, với tinh thần và quyết tâm dám chiến đấu, chỉ có mấy anh em về hưu mà đã cho ra đời 10 cuốn sách để cho nhân dân biết rõ xương máu của bộ đội, du kích và nhân dân ta đầy đủ trí tuệ và sáng tạo như thế nào trong chiến đấu ở đường 5. Có người nói đó cũng là một hiện tượng.


Chúc các chiến sĩ Đường 5 cùng Ban biên tập "dân lập" thắng lợi và thắng lợi hơn nữa.

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2001


TÓM LƯỢC MỤC ĐÍCH, TÔN CHỈ, CÁCH LÀM CỦA NHỮNG
TẬP SÁCH "ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG, QUẬT KHỞI"


Mục đích:

1. Đường 5 là con đường huyết mạch quan trọng chiến lược, tại đây đã diễn ra cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài thời chống Pháp và chống Mỹ, đầy hy sinh gian khổ, nhưng cũng rất phong phú, tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho ngày nay và mai sau.


2. Những nhân chứng lịch sử nay đã nhiều tuổi, cần phải khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm viết lại phần lịch sử mà họ trải qua, khai thác kinh nghiệm và trí tuệ của họ.

3. Những tư liệu lịch sử đó sẽ rất quý giá để việc nghiên cứu sau này phân tích và chọn lọc.

4. Góp phần vào việc hun đúc lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước cho các thế hệ ngày nay và mai sau.


Tính chất, tôn chỉ, cách làm:

Tính chất là tập hợp hồi ký của các nhân chứng lịch sử chưa có hệ thống, còn thô sơ, cung cấp một số tư liệu quý giá để việc nghiên cứu khoa học mài giũa, chọn lọc.

Tôn chỉ là phải đảm bảo 2 yêu cầu của lịch sử là chân thực và công bằng.


Cách làm là:

- Bảo đảm hợp với đường lối của Đảng, đúng pháp luật Nhà nước.

- Đề cao tính tự lực trên mọi khâu xuất bản, nhưng tích cực tranh thủ các tổ chức, cả nhân ủng hộ ý tưởng và cách làm của bộ sách, thực hiện khẩu hiệu "lấy sách nuôi sách".

- Người viết hồi ký phải đảm bảo yêu cầu sự việc nêu ra phải chân thực, không hư cấu và sự việc phải có tình tiết, tâm trạng, tình huống cần xử trí.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 07:04:06 am
QUÂN DÂN ĐƯỜNG 5
NHỮNG DẤU ẤN LỊCH SỬ SÂU ĐẬM
TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ


VÕ AN ĐÔNG


Truyền thống chiến đấu giữ nước từ xa xưa.

Tại vùng đường 5, sử sách xưa đã từng ghi chép bao chiến công chống quân xâm lược của tổ tiên ta.

Năm 40 đầu công nguyên, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tại vùng Kinh Môn (Hải Dương) đã có Nguyễn Huyến cùng con gái là bà Thánh Thiên lập đội nghĩa binh nổi dậy chiếm cứ cả một vùng. Lại có bà Lê Chân lập nên căn cứ An Biên (Hải Phòng), với những dân binh vừa sản xuất, vừa luyện tập võ nghệ.


Năm 542, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí lập nên nước Vạn Xuân. Năm 545, bắt đầu chống quân nhà Lương, sau đó Lý Nam Đế trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến. Triệu Quang Phục đã lui quân về đồng bằng, chọn Dạ Trạch làm căn cứ kháng chiến. Sách sử miêu tả: "Dạ Trạch (bãi Mạn Trù tỉnh Hưng Yên) là một vùng đồng lầy rộng mênh mang, lau sậy um tùm. Triệu Quang Phục đã bí mật đóng quân ở bãi nổi, ban ngày tắt hết khói lửa, đêm đến nghĩa quân chèo thuyền ra đánh úp trại giặc, cướp vũ khí, lương thực. Quân Lương cố đánh vào vùng Dạ Trạch, nhưng đều bị thất bại. Cuối cùng, trải qua 4 năm chiến đấụ, năm 550, Triệu Việt Vương mở cuộc tấn công lớn đánh đuổi quân Lương, giành lại chủ quyền đất nước". Theo ngôn ngữ hiện nay, đó là một điển hình của chiến tranh du kích trên một vùng đồng bằng diễn ra vào thế kỷ thứ 6. Từ đó có thể suy tôn Triệu Việt Vương là ông thủy tổ đánh du kích từ cách đây 14 thế kỷ.


Năm 983, Ngô Quyền đã tạo nên chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại lần thứ nhất, đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Việt Nam, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài của đất nước.

Thời nhà Trần, ông cha ta đã lập nên chiến công lừng lẫy ở Hàm Tử, Tây Kết, chiến thắng Bạch Đằng lần thứ ba với các danh tướng như Trần Hưng Đạo (Vạn Kiếp, Hải Dương), Phạm Ngũ Lão (Phù Ủng, Ân Thi, Hưng Yên).

Thời nhà Lê đánh đuổi quân nhà Minh là chiến công của Lê Lợi; theo ông là Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) với bài "Bình Ngô Đại Cáo" nổi tiếng.


Truyền thống chiến đấu thời Pháp đô hộ

Năm 1858, Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta từ việc đánh chiếm Đà Nẵng rồi chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ. Tháng 11-1873, chúng đánh chiếm Hà Nội. Ngày 6-6-1884, bản điều ước gọi là Điều ước Pa-tơ-nốt (Patenôtre) chính thức đặt Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ của Pháp, còn Nam Kỳ là đất thuộc địa, Phong trào kháng chiến nổ ra khắp nơi. Miền Nam có cuộc khởi nghĩa của Trương Định, miền Trung và Bắc có phong trào Cần Vương, có các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Yên Thế, v.v...


Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy nổ ra trên vùng đường số 5, tóm tắt như sau: "Năm 1885, nghe theo tiếng gọi của Cần Vương, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Nguyễn Thiện Thuật vốn quê ở làng Xuân Dục, Mỹ Hào, Hưng Yên, đã từng chỉ huy quân đội triều đình đánh pháp ở Sơn Tây, được phong là Tán Tướng Quân Vụ, dân thường gọi là "Tán Thuật". Sau điều ước 1884, ông chiêu mộ nghĩa quân và lập căn cứ chống Pháp ở Bãi Sậy. Bãi Sậy chính là vùng đầm Dạ Trạch, xưa là căn cứ đánh du kích của Triệu Quang Phục hồi thế kỷ thứ 6. Khoảng giữa thế kỷ 19, vùng này xảy ra nhiều năm vỡ đê sông Hồng, trở thành vùng lau, sậy um tùm. Vùng này lại nằm trên hai ngả đường giao thông quan trọng Hà Nội - Hải Phòng và Hà Nội - Thái Bình. Trong những năm 1885 - 1889, nhiều trận đánh quyết liệt đã xảy ra giữa nghĩa quân và giặc Pháp. Nghĩa quân thường phân tán thành những nhóm nhỏ ẩn hiện trong lau sậy, thôn xóm, bất ngờ phục kích tiêu diệt các toán quân tuần tiễu, chặn đường giao thông tiếp tế, tập kích các đồn lẻ của giặc.


Nghĩa quân Bãi Sậy còn mở rộng phối hợp tác chiến với các toán nghĩa quân lân cận ở Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, trong đó có Đốc Tít hoạt động ở huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).

Giặc Pháp phải lập một hệ thống đồn bốt để kiểm soát trong vùng, điển hình là chúng đặt và duy trì bốt Bần Yên Nhân tới ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.

Khởi nghĩa Bãi Sậy kéo dài được 5 năm (1885 - 1889). Những tinh hoa chiến đấu với lòng yêu nước nồng nàn của nghĩa quân Bãi Sậy cũng như của Triệu Quang Phục xưa đã hun đúc lòng tự hào dân tộc và phương pháp đánh du kích mưu mẹo, dẻo dai của quân dân vùng đường 5 trong kháng chiến chống Pháp.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 07:05:12 am
Hoạt động vũ trang thời kỳ tiền khởi nghĩa

Chớp thời cơ khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), theo lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đường 5 cùng cả nước sôi nổi vùng lên đấu tranh, xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa.


Trong hoạt động vũ trang nổi lên hai sự kiện sau:

a) Tước súng đồn Bần Yên Nhân đêm ngày 12-3-1945.

Bần Yên Nhân cách Hà Nội có 25km, là vùng thuần túy đồng bằng. Cách đây 50 năm, chính đồn này được xây dựng để khống chế đàn áp phong trào Bãi Sậy. Trận đánh đêm ngày 12-3-1945 xảy ra chỉ sau 3 ngày Nhật đảo chính Pháp, do lực lượng tự vệ dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành. Chỉ huy đã khéo chọn thời cơ khi Pháp đang hoang mang, bỏ súng đợi nộp cho Nhật, biết vận động một số lính giác ngộ làm nội ứng dùng cách đánh úp bất ngờ, áp đảo quân địch; kết quả ta đã thu toàn bộ vũ khí.


Tại thời điểm lịch sử thời đó, trận Bần Yên Nhân đã tạo tiếng vang rất lớn tới cả vùng châu thổ sông Hồng, đã thực sự làm áp lực, gây thanh thế cho phong trào chính trị, thúc đẩy việc tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Về sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương: "Đó là một trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ".


b) Hoạt động sôi nổi của chiến khu Trần Hưng Đạo tháng 6 - 8 năm 1945.

Ngày 8-6-1945, xuất phát từ chùa Bắc Mã (Đông Triều) chính thức thành lập chiến khu Trần Hưng Đạo. Ngày hôm đó, chiến khu đã hạ luôn mấy đồn: Đông Triều, Tràng Bạch, đồn Thiên (Chi Ngãi, Chí Linh). Sau đó, ngày 20-7-1945, đã giải phóng tỉnh lỵ Quảng Yên, một tỉnh lỵ được giải phóng đầu tiên trước tổng khởi nghĩa một tháng. Thanh thế của chiến khu lên rất cao.


Hoạt động của chiến khu Trần Hưng Đạo có mấy đặc điểm sau:

- Trên cơ sở vận động được một số binh lính đồn Đông Triều, theo đề nghị của Tỉnh ủy Hải Dương, Trung ương Đảng đã chuẩn y thành lập một chiến khu thứ tư ở miền Bắc (thường có tên gọi là chiến khu Đông Triều, Đệ tứ chiến khu hay chiến khu Trần Hưng Đạo).

- Lực lượng vũ trang, bên cạnh tự vệ xã, thôn, tính chất đã là đội quân thoát ly. Vũ khí trang bị chủ yếu từ nguồn vận động hàng ngũ địch mang súng về cho cách mạng, như Đội Hiền ở Đông Triều nộp súng cho Việt Minh, hoặc tổ anh Lê Phú, thủy quân lục chiến mang 2 khẩu đại liên nộp cho Nguyễn Bình. Về sau, bằng cách đánh chiếm các đồn, trại địch, chiến khu đã thu về hàng nghìn khẩu súng các loại.

- Chỉ trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945, chiến khu đã lập được chiến công lừng lẫy, phá hàng loạt đồn, thậm chí cả một tỉnh lỵ mà trước đây chưa từng có đã thể hiện một đội quân có kỷ luật, có tổ chức chặt chẽ, có tinh thần chiến đấu dũng mãnh, một sự chỉ huy táo bạo, kiên quyết, kịp thời nắm bắt thời cơ, linh hoạt trong xử trí tình huống, tiêu biểu là tướng Nguyễn Bình, một trong những người chỉ huy chiến khu.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 07:07:02 am
Đường 5 kháng chiến chống Pháp gian khổ, lâu dài.

Quân dân đường 5 bắt đầu cuộc chiến đấu khốc liệt với quân đội Pháp và bù nhìn từ ngày 20-11-1946, và kết thúc ngày 13-5-1955, ngày giải phóng Hải Phòng, chấm dứt chế độ thực dân của Pháp ở miền Bắc.

Trải qua 8 năm kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối quân sự toàn dân đánh giặc lấy 3 thứ quân làm nòng cốt, quân dân các tỉnh ven đường 5 đã chịu đựng sự hy sinh xương máu to lớn nhưng đã chiến đấu bền bỉ, dẻo dai, phong phú, đa dạng, dần dần biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, từng bước thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta.


Dựa theo hình thái chiến trường đường 5, có thể chia mấy giai đoạn sau:

1. Từ "sự kiện Hải Phòng" đến kháng chiến toàn quốc (20-11-1946 đến 19-12-1946).

Cuộc chiến 7 ngày đêm (20 - 26/11/1946), xảy ra ở điểm mút đầu tiên của đường 5 là Hải Phòng.

Cái cớ xảy ra cuộc chiến là vấn đề tranh chấp quyền thuế quan, nhưng thực chất vấn đề là Pháp muốn tước đoạt chủ quyền đất nước của Việt Nam.

Cuộc chiến đã bộc lộ rõ thế mạnh và thế yếu của cả 2 bên. Pháp thì có ưu thế tuyệt đối về vũ khí, lại là quân đội nhà nghề, nên giữ thế chủ động về trên không, trên sông và trên bộ, nhưng không có chỗ dựa của dân. Còn phía Việt Nam thì bước vào cuộc chiến đấu hoàn toàn không cân sức, vũ khí hết sức thiếu thốn, súng ống thì cũ kỹ, đạn dược không có bổ sung, trình độ quân sự còn chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nhiều mặt còn ấu trĩ. Nhưng ta lại có chỗ mạnh vô song là được toàn dân sục sôi lòng yêu nước, tích cực ủng hộ và thiết thực tham gia kháng chiến, thanh niên nam, nữ nô nức tham gia Vệ Quốc Đoàn, tự vệ chiến đấu, v.v...


Về tác chiến, tuy phải chiến đấu không cân sức, ta buộc phải rút khỏi nội thành nhưng cũng lập một số thành tích đáng khâm phục: chiến đấu ở Nhà hát lớn, Bưu điện, Nhà ga và có những trận đánh tiêu diệt địch, thu vũ khí, làm chủ thế trận, như trận bắt sống 5 tên Pháp ở nhà máy Ca-rông (cơ sở Thảm len Hàng Kênh), bao vây, làm chủ sân bay Cát Bi, v.v...


Tầm vóc của "sự kiện Hải Phòng" thể hiện ở mấy ý nghĩa sau:

a. Đảng và Chính phủ ta dù đã cố gắng dàn xếp hòa bình càng thấy rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nên đã chỉ đạo cho toàn quốc thiết thực chuẩn bị kháng chiến.

b. Cuộc chiến ở Hải Phòng đã tạo một hình ảnh sinh động của chiến tranh toàn dân, toàn diện lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Lãnh đạo và chỉ huy của địa phương đã bước đầu thu được kinh nghiệm lãnh đạo toàn dân đánh giặc, chỉ huy lực lượng vũ trang chiến đấu.

c. Đã thấy rõ khả năng tác chiến của quân dân ta trong điều kiện địch hơn ta về nhiều mặt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm "Những chặng đường lịch sử" đã viết: "Trận chiến đấu anh dũng tại Hải Phòng đã có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho trận đánh kéo dài nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng".

d. Về quân sự đã hình thành sơ khai tổ chức lực lượng 3 thứ quân rất độc đáo ở Việt Nam, mỗi thứ quân có vị trí, tác dụng chiến lược khác nhau, kẽt hợp với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp.


2. Từ kháng chiến toàn quốc (19-12-1946) đến giải phóng biên giới.

Ngày 19-12-1946, toàn quốc kháng chiến. Cả nước chuyển sang trạng thái chiến tranh. Tại đường 5, địch từ Hà Nội đánh xuống, từ Hải Phòng đánh lên. Chúng chiếm được các thị trấn và nối đường 5 và đường sắt, rồi mở rộng hành lang đường 5 từ 5km - 10km, biến một số huyện dọc đường 5 thành vùng địch tạm chiếm, nhưng các huyện phía nam tỉnh Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên vấn là vùng tương đối tự do cho tới ngày 22-12-1949. Từ ngày đó, các tỉnh trên, nhất là tỉnh Hưng Yên, trở thành vùng địch hậu.


Theo từng thời kỳ, địch cũng dần thay đổi chiến lược như sau:

Thời kỳ 1 từ 1-1947 - 10-1947.

Sau khi đánh chiếm xong Hải Phòng, Hà Nội và đường 5, Pháp đã tấn công lên Việt Bắc (10-1947) hòng phá vỡ cơ quan đầu não của ta, nhưng bị thất bại. Về ta thì chuyển đất nước sang kháng chiến, chuyển ủy ban bảo vệ các cấp thành ủy ban kháng chiến (sau hợp nhất với ủy ban hành chính) thành Ủy ban kháng chiến - hành chính, tổ chức dân đi tản cư, thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá hoại đường xá, cầu cống, rào làng kháng chiến, đào hầm bí mật để bám trụ chiến đấu, mua sắm vũ khí, chủ yếu là tự sản xuất dao, kiếm, lập quỹ kháng chiến nuôi tự vệ, lập binh công xưởng để nhồi lắp vỏ đạn cũ, lấy bom, đạn đại bác cũ của địch bị thối biến thành bom, mìn địa lôi.


Tháng 3-1947, chính thức hình thành 3 thứ quân gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tổ chức hệ thống chỉ huy tỉnh đội, huyện đội và xã đội dân quân.

Ban đầu, ta đánh địch theo kiểu trận địa chiến, không được thành công, đáng kể có trận đánh trong thị xã Hải Dương (19 và 20/12), Như Quỳnh (Cầu Ghênh 4-1-1947), trận núi Thiên Văn ở Kiến An (25-4-1947). Sau ta chuyển sang lối đánh du kích. Đáng kể có trận tập kích vào nội thành Hải Phòng đêm 20-3-1947 có tác dụng làm cho địch phải bỏ dở cuộc hành quân ở Đông Triều; còn phổ biến là quấy rối đồn bốt, bắn tỉa, phục kích nhỏ, gọi loa địch vận, phá hoại, đặc biệt đã phát triển phong trào địa lôi, mà nổi tiếng một thời có nhân vật Quách Phú (Kiến An), Sáu Đậu (Hưng Yên), du kích Kim Thành (Hải Dương).


Ta đã chiến đấu nhiều trận, hiệu quả chiến đấu tuy chựa cao nhưng cũng làm cho địch thiệt hại, phải chùn bước.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:21:08 am
Thời kỳ 2: Từ tháng 10-1947 đến 22-12-1949.

Sau thất bại ở Việt Bắc, Pháp chuyển sang con bài chính trị lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại, tuyển mộ ngụy quân, lập ngụy quyền cấp huyện (quận), vũ trang cho một số hương dũng tổng dũng, lập hội tề ở các thôn xã vùng tranh chấp. Tại các huyện tự do phía nam, chúng thường xuyên dùng máy bay bắn phá và từng đợt tổ chức cuộc càn quét vào sâu hậu phương ta, điển hình là trận hành quân của binh đoàn Sô-va-nhắc (Sauvagnac) năm 1948 nhưng không thu được kết quả đáng kể.


Về phía ta, căn bản vẫn giữ được trạng thái cũ. Các huyện phía bắc, tuy có một số dân vì sinh kế phải hồi cư, chủ trương của ta chủ động để dân ra lập hội tề, ngoài vỏ thì làm cho địch, bên trong thì theo sự chỉ đạo của ta. Trạng thái địch làm chủ ban ngay, còn ta làm chủ ban đêm. Có một số làng nổi lên tề phản động vũ trang, một số địa phương biết áp dụng vận động chính trị kết hợp với áp lực quân sự đâ phá vỡ tề đó như Lỗ Xá (Mỹ Hào), Thanh Đặng (Văn Lâm), Lưu Trung (Yên Mỹ) nhưng có địa phương như huyện Văn Giang bị chìm đắm trong đen tối tới cuối năm 1951. Thực chất đây là cuộc đấu tranh giành và giữ dân, giành và giữ chính quyền giữa địch và ta. Cuộc đấu tranh hết sức giằng co ác liệt và kéo dài suốt thời gian vùng địch hậu đường số 5.


Ở các huyện phía nam đường 5, tuy địch có đóng thêm một số đồn bốt, vẫn cơ bản giữ được thế tự do, tiếp tục huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến, tiếp tục đưa du kích đi tập dượt chiến đấu ở phía bắc.

Về tác chiến, vũ khí vần còn non kém, trên tinh thần:

"Có vũ khí gì, ta đánh vũ khí nấy". Ta đã tích lũy kinh nghiệm chiến đấu, đã bước đầu phát huy thế mạnh về tinh thần vận dụng vào cách đánh. Cụ thể:

a. Phong trào đánh địa lôi trở thành lối đánh sở trường của ta và phong trào phá hoại đường 5 và đường sắt. Tháng 3 năm 1949 ta phá đổ 4 đoàn tàu 60 toa tại các huyện Văn Lâm, Cẩm Giàng, Kim Thành. 6 tháng cuối năm tại Hưng Yên đã phá 9 đoàn tàu; cũng thời kỳ đó tại Hải Dương cứ mỗi tháng ta đánh đổ một tàu.

Năm 1948, ta đã sản xuất được loại mìn chống bộ binh gọi là mìn muỗi, thì khắp các thôn xóm du kích đều cài mìn muỗi đánh địch đi càn, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

b. Công tác địch ngụy vận được các cấp ủy tập trung chỉ đạo, có những hình thức sinh động hơn. Từ khi địch mở rộng việc tuyển mộ ngụy binh, một phong trào vận động chồng, con quay về với Tổ quốc, hoặc cung cấp tin tức về địch, hoặc mang súng đạn cho ta. Ta cũng vận động được cả quận trưởng là Đặng Thúc Quỳnh ở quận Thanh Liên sát Lai Vu cùng 5 lính ngụy mang súng về với kháng chiến (13-10-1948). Một chiến công khác: ngày 19-12-1949 ở Kiến An, ta đã vận động cả một đội quân Com-man-đô 42 người mang theo vũ khí trở về với kháng chiến.

Hình thức gây nhân bắt mối làm nội ứng diệt đồn cũng được phát triển. Ngày 29-8-1948, bộ đội và du kích Mỹ Hào sử dụng nhân mối tập kích đồn Cầu Ba Sinh trên đường sắt. Ngày 16-9-1948, nội ứng diệt đồn Phú Hải (Kiến Thụy).


Năm 1948, du kích xã Minh Tân (Thủy Nguyên) nội ứng diệt bốt Tràng Kênh. Tháng 9-1949, nội ứng diệt bốt Cầu Duột (Văn Lâm), cùng năm diệt bốt Vũ La (Nam Sách), nội ứng diệt đồn Khuể (Kiến An).

c. Phát huy tinh thần toàn dân đánh giặc, "tay không đánh giặc" lối đánh hóa trang bằng vũ khí thô sơ cũng được phát triển. Diệt địch tuy không được nhiều nhưng cũng làm cho địch e sợ và cổ vũ, động viên tinh thần kháng chiến của dân trong vùng. Đáng kể có trận "Đòn gánh đánh Tây" ở chợ Từ Hồ (Yên Mỹ, Hưng Yên) ngày 25-4-1948, trận du kích Kim Giang (Cẩm Giàng, Hải Dương) hóa trang dùng đòn gánh, cào, cuốc diệt 3 tên địch, thu một súng (ngày 17-7-1948).

Hình thức vũ trang tuyên truyền cũng được coi trọng. Bộ đội đi sâu vào vùng địch, vừa tuyên truyền vận động dân ở các làng xã, vừa chủ động đánh địch. Ngày 25-1-1948, đại đội Trường Chinh bộ đội chủ lực cùng du kích huyện Văn Lâm đột nhập chợ Nghĩa Trai diệt địch; du kích huyện Cẩm Giàng vũ trang tuyên truyền diệt tên quận trưởng Cẩm Giàng (31-3-1948).

d. Chống địch càn quét, bảo vệ làng cũng là hình thức tác chiến phổ biến nhưng ở mức thấp.

Thông thường, nếu địch có khoảng từ một tiểu đội đến trung đội đi tuần, sục sạo vào làng càn quét thì thường bị bộ đội, du kích chặn đánh bằng súng bắn tỉa, kết hợp chông mìn. Có trận chặn đánh địch một hồi lâu rồi bộ đội, du kích phân tán xuống hầm bí mật chịu để địch đốt phá, cướp bóc. Nếu địch ở các bốt hội quân đông đi càn thì thường ta chủ động phân tán xuống hầm bí mật, cất giấu vũ khí. Cũng không ít trận, địch sục sạo, khui hầm, có chỉ điểm khai báo, bắn giết một số cán bộ, du kích.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:22:11 am
e. Liên khu ủy 3 và BTL Liên khu 3 tháng 8 năm 1948 thành lập Bộ chỉ huy Mặt trận 5 chuyên lo chỉ đạo các địa phương tác chiến trên đường 5.

Thời kỳ 3 từ 22-12-1949 đến 12-1951: Thời kỳ giằng co quyết liệt nhất giữa ta và địch.

Tình hình quốc tế phát triển có lợi cho kháng chiến ở biên giới phía bắc. Pháp thực hiện kế hoạch Revers tiến hành bình định củng cố đồng bằng Bắc Bộ. Tại mặt trận đường 5, ngày 22-12-1949, địch mở cuộc hành quân Diabolo đánh chiếm các huyện phía nam 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên. Tiếp theo đầu năm 1950 mở cuộc hành quân "Tonneau" (Cái thùng) đánh chiếm tỉnh Thái Bình và các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo của Kiến An. Các tỉnh Tả ngạn trở thành vùng địch hậu, chỉ còn một ít khu du kích nhỏ hẹp. Riêng tỉnh Hưng Yên trở thành vùng trọng điểm bình định của địch. Chúng thiết lập một hệ thống tháp canh hương đồn, ra sức xây dựng ngụy quyền tới khắp xã, thôn, tổ chức vũ trang, xây lô cốt cho hương dũng, tàn sát không tiếc tay hàng vạn cán bộ, du kích, nhiều cơ sở xã, thôn bị bật ra ngoài. Năm 1950 là năm đen tối nhất của các tỉnh đường 5, mà điển hình là tỉnh Hưng Yên. Nhưng tháng 10-1950, chiến thắng ở biên giới làm thay đổi cục diện chiến tranh đã cổ vũ động viên lại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cả về tư duy quân sự và về trang bị cho quân dân đường 5.

Phát huy thắng lợi biên giới, các địa phương đường 5 một mặt tổ chức đi tiếp nhận vũ khí, học tập cách đánh mới, mặt khác tranh thủ thời cơ đẩy mạnh hoạt động, mở thêm cơ sở, dồn ép quân địch, nhất là khi chúng phải lo đối phó với các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, v.v... của chủ lực ta. Đáng kể có tỉnh Hưng Yên, từ 31-3-1951 tới cuối năm, trong vòng 8 tháng, đã phá tan hệ thống tháp canh, mở các khu du kích ở các huyện tới sát đường số 5 tạo một thế cài răng lược giửa ta và địch.

Địch đã thấy nguy cơ một mặt trận sau lưng chúng cũng không kém phần nguy hiểm, nên lợi dụng lúc quân chủ lực ta dừng chiến dịch, địch đã chuyển nhiều binh đoàn cơ động (quân GM) tập trung phi pháo, càn dài ngày từ 5 đến 10 ngày nhằm tiêu diệt khu trục LLVT ta. Chúng mở các cuộc càn Meduse (Con Sứa) 3-1951, Reptile (Con Bò sát) 5-1951, Citron (Trái Chanh) 9-1951, Mandarine (Trái Quýt) 10-1951. Lúc đầu, do ta chưa phát hiện phương thức tác chiến mới của địch, chưa nghiên cứu biện pháp, cách đánh nên có bị thiệt hại, điển hình là trận Reptile (5-1951), cán bộ chỉ huy bị bắt, gần một tiểu đoàn bị mất sức chiến đấu.

Ta rút kinh nghiệm kịp thời, thay đổi cách đánh: bộ đội tập trung kiên quyết không xuống hầm, trụ bám công sự địa hình làng mạc, cất giấu lực lượng, bất ngờ đánh gần nổ súng mãnh liệt, phản kích diệt bộ phận địch rồi luồn càn phía sườn hay phía sau quân địch. Cách đánh này có hiệu quả, tiêu biểu là trận Trái Chanh ngày 25-9-1951, không những ta giữ vững được trận địa mà còn tiêu diệt, bắt sống hàng nghìn tên.

Năm 1950 và 1951 diễn ra trận chiến khốc liệt trong thế giàng co giữa ta và địch. Địch đã dùng đủ mọi kế từ bình định đến càn quét lớn nhưng vẫn bị thất bại, ta thì đối phó có hiệu quả các cuộc càn lớn, mở thêm khu du kích mới biến hậu phương địch thành tiền phương của ta.


Thời kỳ 4 từ 1952 đến kết thúc chiến tranh: ta đã dần tạo thế chủ động chiến trường.

Đầu năm 1952, diễn ra chiến dịch Hòa Bình, có 2 mũi thọc sâu chiến lược vào địch hậu. Đại đoàn 316 ở phía bắc sông Đuống, đại đoàn 320 ở Tả ngạn sông Hồng. Do đó, quân dân Tả ngạn đường 5 được tăng thêm lực lượng đã làm đảo lộn thế trận, nhiều đồn bốt bị tiêu diệt, vùng nông thôn bị mở toang, ngụy quyền bị phá một mảng lớn, kẻ địch chỉ còn giữ được các đô thị và đường giao thông quan trọng.

Sau chiến dịch Hòa Bình, địch quay về đồng bằng, tập trung quân cơ động và phi pháo càn quét lớn là Marao Polo ở Bác Ninh, Mercure (Thủy Ngân) ở Thái Bình, Dromadaire (Lạc Đà) ở Hải Dương, Hưng Yên, tuy chúng có đóng lại một số vị trí, sửa lại một vài con đường nhưng lực lượng vũ trang địa phương vẫn bám trụ địa bàn, vẫn làm chủ vùng nông thôn rộng lớn.

Sang chiến cuộc cuối năm 1952, phối hợp với chiến dịch Tây Bắc, ta lại chủ động tạo ra hình thức tác chiến mới là bao vây vị trí kết hợp với phá hoại đường xá. Địch phải dùng máy bay hoặc mở cuộc hành quân tiếp tế các đồn bốt. Cách bao vây vị trí đã gợi mở cho ta phải tìm cách đánh tiêu diệt vị trí địch trong khi lực lượng vũ trang địa phương chưa được trang bị vũ khí công đồn.

Năm 1953, chiến tranh du kích trên đường 5 thêm nhiều phương thức tác chiến độc đáo, đạt hiệu quả chiến đấu cao chưa từng thấy. Đó là cách tấn công vào kho tàng, hậu cứ của địch. Đêm 20-4-1952, bộ đội Kiến An đã tập kích vào thị xã Kiến An, đốt phá kho đạn lớn ở Kha Lâm; tiếp theo, đêm 18-6-1953, bộ đội Kiến An tổ chức hai mũi nhỏ tập kích, đốt phá kho dầu Thượng Lý làm bốc cháy các bồn chứa xăng hàng trăm triệu lít, phá hủy nhiều xe cơ giới. Đây là một cách đánh độc đáo của bộ đội Kiến An, dùng bộ phận nhỏ thọc sâu vào địch hậu đánh kho tàng, đạt hiệu quả cao.

Đồng thời tại Hưng Yên cũng sáng tạo ra lối đánh "mật tập". Đó là cách đánh tiêu diệt các căn cứ, vị trí lớn nhỏ của địch mà bộ đội địa phương chưa có vũ khí lớn công đồn nhưng vẫn tiêu diệt địch, làm chủ trận địa, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí. Đêm ngày 10-5-1953, bộ đội Hưng Yên đã tiêu diệt căn cứ hậu phương của GM3 (base arrière), ở Bần Yên Phú và đêm ngày 15-12-1953 lại tiêu diệt căn cứ hậu phương thứ 2 của GM3 ở Dị Sử. Cả 2 nơi cộng lại bát sống 800 tên địch và thu hàng nghìn súng các loại. Đêm ngày 16-8-1953 tiêu diệt vị trí Vân Trì (Khoái Châu), có một tiểu đoàn hỗn hợp xe tăng, pháo và bộ binh, phá hủy nhiều xe, pháo, bắt 70 tên. Ngoài ra còn tiêu diệt các vị trí cỡ một đại đội bộ binh, bình quân mỗi tháng diệt 1 đến 2 vị trí.

Năm 1954, quân dân đường 5 tạo một mặt trận địch hậu phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, có tác dụng vừa đánh phá kho tàng, phương tiện vận tải làm ngăn chặn sự tiếp tế của địch lên Điện Biên Phủ, vừa tiêu hao, tiêu diệt địch, cắt đứt đường sắt và đường 5, trực tiếp uy hiếp Hà Nội.

Ngày 4-3-1954 nổ ra trận đánh sân bay Gia Lâm, phá hủy 18 máy bay. Đêm 7-3-1954 diễn ra trận tập kích sân bay Cát Bi, phá hủy 59 máy bay. Đêm 11-3-1954, mở đầu chiến dịch tổng công kích toàn tuyến đường 5 mà BTL khu Tả ngạn chọn trọng điểm ở miền bắc Hưng Yên, tập trung hai trung đoàn là E42, E50 và 2 tiểu đoàn bộ đội Hưng Yên. Ba sự kiện trên chỉ xảy ra mấy ngày trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Ba sự kiện trên vừa có tính nghi binh chiến lược, vừa có tính thiết thực phối hợp bàng cách phá kho tàng, phá phương tiện chiến trường, phá đường giao thông huyết mạch của địch. Đợt tổng công kích đá quán triệt chỉ thị ngày 23-2-1954 của Bộ Chính trị là: "Thời gian hoạt động dài ngày và phương thức hoạt động là du kích chiến, phá đường giao thông của địch, chống địch bắt lính, đồng thời phát triển cơ sở".

Không gian hoạt động gồm 3 tỉnh Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên dài gần 100km.

Lực lượng sử dụng lúc cao điểm gồm 2 trung đoàn của khu Tả ngạn, 5 tiểu đoàn của tỉnh, tất cả các đại đội của các huyện, cộng khoảng một vạn quân và hàng chục vạn dân quân du kích; quy mô lớn nhất từ trước tới nay.

Phương thức tác chiến cũng nhiều hình, nhiều vẻ, đi từ phá hoại đến đánh mìn đường bộ, đường sắt, nhổ bốt, nội ứng, chống địch càn quét to và nhỏ. Nguy cơ đường sắt và đường 5 bị cắt đứt nên buộc địch phải điều lực lượng của GM3 về canh giữ.

Các xã nằm kẹp giữa đường 5 và đường sắt thuộc các huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Cẩm Giàng, Bình Giang đã nhất tề nổi dậy phá tề, giải tán ngụy quyền cấp xã; ngụy quyền cấp quận, tỉnh nếu còn chỉ là hình thức mà thôi. Sau ngày Điện Biên Phủ thắng lợi, quân dân đường 5 vản còn phải chiến đấu với quân địch cho tới ngày ký kết hiệp định đình chiến 20-7-1954. Nhưng đường 5 vẫn còn phải sống trong vũng tập kết 100 ngày và 300 ngày. Cuộc đấu tranh với địch chuyển từ đấu tranh quân sự sang chính trị; ta còn phải đấu tranh chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư và đấu tranh chống di chuyển máy móc, thiết bị.

Ngày 30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng. Ngày 13-5-1955, Hải Phòng được giải phóng. Ngày 15-5-1955, tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Bến Nghiêng (Đồ Sơn Hải Phòng). Địa danh này trở thành biểu tượng của sự chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp ở miền Bắc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:24:40 am
Đường 5 chống chiến tranh phá hoại lần I và lần II của đế quốc Mỹ

Sau khi giải phóng khỏi chế độ thực dân Pháp, các tỉnh có đường 5 đi qua bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế được 10 năm (1955 - 1965), đồng thời làm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn là miền Nam. Cụ thể là tại Đồ Sơn - Hải Phòng là điểm xuất phát của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển bắt đầu từ đoàn 759 của Bộ Quốc phòng và nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đã đóng những con tàu vỏ sắt không số loại VS50, VS100 chở vũ khí cho miền Nam. Hải Phòng cũng đã tổ chức xây dựng trung đoàn 42 thứ hai (gọi lái là trung đoàn 24) chi viện cho tiền tuyến lớn (sau này tại chiến trường miền Nam, trung đoàn 24 đã được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).


Tháng 3-1965, bắt đầu từ việc máy bay Mỹ đánh phá đảo Bạch Long Vỹ, quân dân đường 5 đã bước vào cuộc chiến chống 2 cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa của Mỹ.

1. Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa lần thứ nhất.

Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại bắt đầu từ khu 4, rồi leo thang dần ra toàn miền Bắc. Ý đồ chiến lược của Mỹ là triệt nguồn tiếp tế chi viện của miền Bắc cho miền Nam bằng cách dùng không quân và hải quân đánh phá ác liệt cả ngày và đêm vào các tuyến đường giao thông huyết mạch, cầu cống, kho tàng, chân hàng, vào các cơ sở sản xuất mang tính chất quốc phòng.

Cảng Hải Phòng hồi đó là cảng duy nhất của miền Bắc đón nhận tàu bè quốc tế đưa hàng viện trợ tới. Nhưng vì lý do ngoại giao quốc tế, Mỹ chưa dám ngăn chặn luồng lạch tàu nước ngoài ra vào cảng. Chúng đã phải lập ra vòng vây phong tóa lẩn lượt nhằm triệt để cô lập Cáng Hải Phòng bằng đánh phá bom mìn.

Vòng vây thứ 1: Từ bến Phà Rừng, cầu Đá Bạc, cầu Giá vòng sang cầu Phú Lương, Lai Vu, đường 5, chuyển sang cầu Nghìn, bến phà Quý Cao, Tiên Cựu trên đường 10, bến bãi sông Văn Úc.

Vòng vây thứ 2: Tiếp đó đánh bến phà Kiến An, khu vực Vật Cách, Quán Toan, các bến bãi ven sông Lạch Tray, sông Kinh Thầy.

Vòng vây thứ 3: Từ tháng 9-1967, đánh phá 4 cầu lớn ra vào nội thành Hải Phòng là cầu Rào, cầu Niệm, cầu Tam Bạc, cầu Hạ Lý, thả mìn chờ nổ xuống sông Lạch Tray.

Đến cuối tháng 9-1967, Cảng Hải Phòng đã bị phong tỏa bởi 3 vòng vây lửa gồm 2.727 quả bom từ trường, 11.731 quả bom phá (thống kê chưa đầy đủ).

Quân dân đường 5 đã phải chịu đựng những cuộc đánh phá rất ác liệt vào các nhà máy Xi măng, Bạch Đằng, vào kho dầu Thượng Lý (29-6-1966), vào cả khu dân cư, nhưng vẫn tỏ ra khí phách của mình, vì đã được quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược "bảo vệ miền Bác và chi viện miền Nam", và kế thừa, phát triển đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lấy 3 thứ quân làm nòng cốt. Ta đã đối phó thắng lợi với mọi âm mưu phá hoại, phong tỏa của địch trên tất cả các lĩnh vực sau:

a. Đánh trả máy bay địch: Ta đã phát triển mạng lưới tác chiến phòng không hết sức độc đáo và dày đặc. Đánh địch ở tầm cao có bộ đội cao xạ, tên lửa, không quân; đánh địch ở tầm thấp ở kháp nơi. Mọi thôn xã, mọi nhà máy, đâu đâu cũng có tổ trực chiến, được trang bị trung liên và đại liên; cùng có nơi được trang bị súng cao xạ 14,5, 37mm. Cá biệt ở nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Cảng Hải Phòng được trang bị thêm loại cao xạ 100mm.

Sau đây là mấy trận điển hình:

- Ngày 26-3-1965, ta bắn rơi 1 máy bay Mỹ ở đảo Bạch Long Vỹ.

- Ngày 11-7-1965, đại đội cao xạ 171 thuộc trung đoàn 240 bắn rơi tại chỗ 1 máy bay ở xã An Hồng (Hải Phòng) lần đầu tiên trên đất liền.

- Ngày 1-11-1965, tên lửa của ta bắn rơi 2 máy bay địch ở vùng biển Đồ Sơn (Hải Phòng).

- Ngày 5-11-1965, tiểu đoàn 14 thuộc BTL 350 bắn rơi 1 máy bay, bắt sống 1 giặc lái ở cầu Lai Vu.

- Ngày 17-11-1965, cụm Thành Công (Hải Phòng) là một cụm toàn những vũ khí bắn ở tầm thấp phục kích tại ven sông Văn Úc, bắn rơi 6 máy bay địch.

- Ngày 25-4-L965, lần đầu tiên không quân ta xuất kích bắn rơi 2 máy bay Mỹ.

- Cũng ngày 25-4-1965, đánh dấu một chiến thắng oanh liệt của lực lượng phòng không 3 thứ quân, kết hợp với tên lửa, không quân, hải quân, cao xạ tầm thấp, bắn hạ tổng cộng 12 máy bay, bắt sống giặc lái trong 1 ngày. Trong thời kỳ này, đã nẩy nở bao gương chiến đấu oanh liệt như chiến sĩ lái máy bay Nguyễn Văn Bẩy, nữ du kích Lai Vu huyện Kim Thành (Hải Dương).


b. Đảm bảo giao thông vận tải

Mỹ mở cuộc chiến tranh ra miền Bắc thực chất là tìm mọi cách ngăn chặn sự tiếp tế của Miền Bắc chi viện cho miền Nam. Bằng nhiều thủ đoạn, chúng phong tỏa Cảng Hải Phòng và các tuyến đường sông, đường bộ, đường sắt. Chúng chưa dám đánh thẳng vào các tàu quốc tế vận chuyển hàng viện trợ cho ta, thì chúng thả bom định hủy diệt hệ thống đèn biển, phao tiêu dắt tàu vào Cảng. Ở các cửa sông, chúng thả thủy lôi, bom từ trường chờ nổ. Trên bộ, chúng đánh phá các cầu trên đường 5. Công tác đảm bảo giao thông vận tải trở thành trung tâm đột xuất của toàn Đảng, toàn dân, là nghĩa vụ thiêng liêng của miền Bắc đối với miền Nam. Bất kể tình hình nào cũng phải quyết tâm phấn đấu đánh địch mà đi, mở đường mà tiến, từng ngày từng giờ chi viện tốt nhất cho chiến trường.


Địch phá đường 5 thì ta đã chuẩn bị xong đường 5B, đường 5C để thông xe. Địch phá cầu Phú Lương, Lai Vu thì ta đã có bến phà bằng cầu phao LPP. Đặc biệt tại cầu Tam Bạc ở Hải Phòng là cầu cho tàu hỏa đi, đã bị địch phá hỏng, ta đã mưu trí làm "cầu lắp ráp", nghĩa là cầu cho tàu hỏa đi qua thì lắp vào, xong lại tháo ra đem cất giấu. Máy bay địch qua lại vẫn chỉ thấy cây cầu đã bị đánh sập, ta đã nghi binh giỏi.


Địch thả thủy lôi, bom từ trường thì ta tích cực tìm hiểu vũ khí địch và nghiên cứu chế tạo mới và cải tiến các khí tài rà quét bom mìn với tinh thần tìm hiểu đến đâu có phương tiện gì chống phá địch thì dùng đến đấy. Ta đã kết hợp giữa thô sơ và hiện đại, dùng từ mảnh tôn, bàn nam châm, đến ca-nô, ô-tô chạy nhanh qua bãi bom, sử dụng các phương tiện phóng từ v.v... Ta đã kết hựp giữa phong trào quần chúng rộng rãi với lực lượng bộ đội công binh và hải quân làm nòng cốt.


Trong 3 năm chiến tranh phá hoại, phong tỏa lần thứ nhất, ta đã phá hủy, làm mất hiệu lực các loại bom mìn của địch, giữ vững các tuyến giao thông vận tải, vẫn đều đều đưa người và hàng hóa chi viện tiền tuyến lớn và bảo đảm đời sống xã hội.


c. Tổ chức phòng tránh, duy trì sản xuất, đời sống nhân dân.

Trong suốt 2 cuộc chiến tranh phá hoại, quân dân đường 5 đã kiên cường chịu đựng bao gian khổ, hy sinh, tổ chức phòng không nhân dân, hầm hố phòng tránh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ tối đa tiềm lực chiến tranh, chi viện có hiệu quả sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam với khẩu hiệu "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người".


2. Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (4-1972 - 12-1972).

Sau 4 năm ngừng ném bom, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền, Mỹ lại mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc (bắt đầu từ khu 4, rồi đến ngày 16-4-1972 bắn phá Hải Phòng). Chiến tranh phá hoại lần thứ hai chỉ diễn ra có 8 tháng, nhưng rất ác liệt, ta phải đối phó thắng lợi với nhiều biện pháp chiến lược của địch:

a. Ngày 16-4-1972, Mỹ bất ngờ dùng máy bay B52 thả bom rải thảm vào khu kho dầu Thương Lý, một số trận địa hỏa lực, kết hợp với việc tàu chiến ngoài khơi bắn phá ven biển Hải Phòng. Chúng có gây ra cho chúng ta một số thiệt hại về người và của nhưng quân dân Hải Phòng vẫn vững vàng chiến đấu bắn rơi 10 máy bay Mỹ, trong đó có 1 máy bay B52, bắn cháy 1 tàu chiến; nhanh chóng giải quyết hậu quả.

b. Ngày 9-5-1972, Mỹ bắt đầu thả thủy lôi xuống cửa Nam Triệu phong tỏa Cảng Hải Phòng, ngăn chặn không cho tàu quốc tế chở hàng viện trự vào Cảng và các luồng lạch khác. Để đối phó lại, các lực lượng tự vệ ngành đường biển, dân quân ven biển có lực lượng hải quân và công binh làm nòng cốt đã dũng cảm tổ chức rà phá mọi loại thủy lôi trên sông biển và bom chờ nổ trên bộ, đã bí mật mở các luồng lạch mới, đưa công nhân lên Lạng Sơn mở cảng cạn. Kết quả là tuyến vận tải trên bộ, trên biển tuy phải chịu bao gian nguy nhưng vẫn thông suốt.

c. Từ 18 đến 30-12- 1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm.

Mục tiêu trọng điểm là Hà Nội và Hải Phòng, máy bay B52 được tập trung lớn chưa từng có (792 lần/chiếc). Với cuộc chiến "Điện Biên Phủ trên không", quân dân Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác đã đánh một trận tiêu diệt xuất sắc, bắn rơi 81 máy bay các loại (có 34 máy bay B52), bắt sống 44 giặc lái. Ngày 30-12-1972, địch buộc phải tuyên bố ngừng bắn để đi tới ký kết hiệp định Pa-ri ngày 27-1-1973. Ngày 5-2-1973, ta đã đảm bảo luồng lạch cho tàu bè quốc tế ra vào Cảng Hải Phòng được an toàn cho đến ngày nay.

Kể từ ngày 26-3-1965 đến ngày 30-12-1972, quân và dân đường 5, trọng điểm là Hải Phòng, đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của Mỹ do đã phát động được chiến tranh nhân dân đất đối không, trên sông biển và trên mặt trận giao thông vận tải, làm thất bại mọi bước leo thang chiến tranh của địch, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến lược "bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam".


Kết luận chung

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trải qua 30 năm chiến tranh liên tục, đã đánh tháng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Quân dân đường 5, dưới sự lãnh đạo của Liên khu ủy 3, của Khu ủy Tả ngạn, của Đảng bộ địa phương luôn quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân, tổ chức toàn dân đánh giặc mà nòng cốt là 3 thứ quân.


Thời chống Pháp tư tưởng cốt lõi là giành dân với địch, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, phát động chiến tranh du kích, phát huy truyền thống "tay không đánh giặc", "có vũ khí gì đánh bàng vũ khí ấy", đấu tranh toàn diện với địch cả về quân sự, chính trị, binh vận.


Thời chống Mỹ, chống lại 2 cuộc chiến tranh phá hoại bàng không quân và hải quân, tư tưởng chủ yếu vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, vừa đánh giặc, vừa tổ chức phòng tránh, vừa đảm bảo giao thông, đảm bảo chi viện miền Nam ở mức cao nhất. Về trang bị tuy đã được cải tiến nhưng vẫn phải tìm tòi cải tiến, chế tạo phương tiện, khí tài để chống địch, nhất là về rà, phá bom mìn.


Thời chống Pháp và chống Mỹ, tuy hình thái và phương thức điều hành chiến tranh có khác nhau, nhưng yếu tố quyết định thắng lợi vẫn là: "Kiên định dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài với 3 thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc".


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:41:46 am
Phần một
THỜI CHỐNG PHÁP


KIÊN CƯỜNG CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN HÀ SEN


NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chi hội KHLS quân sự Hải Phòng)


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược (1946 - 1954), quân dân huyện đảo Cát Hải, Cát Bà (Hải Phòng) đã chiến đấu, đánh địch 54 trận, tiêu diệt 1.132 tên giặc, làm bị thương 156 tên, làm tan rã hơn một đại đội ngụy quân, thu hồi và phá hủy 120 súng các loại, 21 tàu, thuyền, xuồng, 05 tấn quân nhu và nhiều phương tiện vật tư chiến tranh khác.


Căn cứ kháng chiến Hà Sen trong thung lũng Trung Trang (sau này là lâm trường và Vườn quốc gia Cát Bà) nằm giữa lòng hải đảo Cát Bà, là sở chỉ huy của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đã bốn lần quân đội Pháp tấn công nhằm tiêu diệt căn cứ này, nhưng đều thất bại. Căn cứ Hà Sen vẫn tồn tại chỉ đạo phong trào du kích chiến tranh, giành những chiến công oanh liệt cho đến ngày thắng lợi, với tên gọi "căn cứ kháng chiến Hà Sen anh dũng".


Khi toàn quốc kháng chiến tháng 12-1946 thì đến ngày 8-2-1947, một trung đoàn quân đội Pháp đổ bộ đánh chiếm đảo Cát Hải, gây nên tội ác tày trời là giết hại 500 người dân vô tội. Ngày 9-2-1947, quân Pháp vượt biển đổ bộ lên thị trấn Cát Bà, mở các cuộc tấn công, càn quét một số noi trên đảo Cát Bà. Ngay trận đầu, tại Đượng Giá, Áng Sỏi (thị trấn Cát Bà), Pháp thẳng tay giết hại dân thường rất dã man. Chúng bắt được trung đội trưởng tự vệ Lê Văn Tế tra tấn rồi bắn chết.


Ngày 1-3-1949, quân Pháp tấn công vào thôn Áng Sỏi (xã Trân Châu). Ngày 15-3-1949, quân ta đánh úp chúng ở Lán Đá (xã Phù Long).

Từ đó, chứng phát hiện ra "Sở chỉ huy của Việt Minh" ở thung lũng Trung Trang với tên gọi "Căn cứ kháng chiến Hà Sen" có đơn vị bộ đội chủ lực địa phương mang phiên hiệu Đại đội 919 (thành lập đầu năm 1948). Đồng thời chúng xúc tiến kế hoạch tấn công vào Trung Trang để tiêu diệt căn cứ kháng chiến Hà Sen.


Sau đây là các trận chiến đấu đã diễn ra trong bốn lần quân Pháp tấn công vào căn cứ kháng chiến Hà Sen.


Trận đánh lần thứ nhất (ngày 19-5-1949)

Xã Gia Luận ở phía tây đảo Cát Bà, có bến thuyền, là đầu mối giao thông của ta gần căn cứ kháng chiến Hà Sen, trong thung lũng Trung Trang, nằm giữa lòng đảo Cát Bà. Đây là điểm liên lạc rất thuận tiện với đảo Tuần Châu, xã Hùng Thắng (Hòn Gai), nối liền với tỉnh Quảng Yên cũ. Bằng tuyến đường giao thông này, quân ta nhận chỉ thị, tài liệu, vũ khí, lương thực thực phẩm từ Quảng Yên về huyện đảo Cát Hải, Cát Bà.


Sáng ngày 19-5-1949, Bộ chỉ huy quân Pháp ở Quảng Yên đã huy động hơn một tiểu đoàn bộ binh, có máy bay, tàu chiến và pháo binh trợ chiến, hành quân chia làm 3 mũi tiến công tìm diệt căn cứ kháng chiến Hà Sen của Việt Minh:

Mũi 1: Từ thị trấn Cát Bà, địch hành quân qua khu Áng Sỏi, Khe Sâu vào Trung Trang.

Mũi 2: Tàu chiến chở quân lính thủy đánh bộ lên bến Hiền Hào tiến vào Trung Trang.

Mũi 3: Tàu chiến chở một lực lượng bộ binh lớn đổ bộ lên bến Gia Luận để tiến vào Trung Trang. Mũi này đông quân, nhiều vũ khí, coi như mũi chủ công của quân Pháp.

Để đối phó với trận chiến đấu quy mô lớn của quân Pháp, lực lượng quân ta chỉ có một đại đội tự vệ chủ lực của huyện (C919) cùng dân quân du kích thị trấn Cát Bà, các xã Trân Châu, Gia Luận, Xuân Đám và Hiền Hào với những vũ khí ít ỏi, có 3 khẩu trung liên, 4 khẩu tiểu liên và 20 khẩu súng trường, dao găm, mã tấu, các ngọn dáo, gậy tre và những vũ khí tự tạo (bẫy đá, bàn chông, v.v...).


Địch ra quân từ sáng sớm khi sương mù còn bao phủ núi rừng Cát Bà. Máy bay Moran bay chỉ điểm cho pháo binh từ các hạm tàu ngoài cửa biển Hiền Hào bắn dọn đường cho bộ binh tiến quân trên cả ba mũi từ thị trấn Cát Bà, từ Hiền Hào và từ Gia Luận, hướng tiến quân đều tập trung vào thung lũng Trung Trang. Khi sương mù đã tan, máy bay chiến đấu B26 của chúng bắn xối xả xuống Trung Trang.


Với thực lực hiện có, quân ta cũng chia làm 3 mũi bố trí đánh địch:

- Một mũi do một trung đội tự vệ chủ lực huyện kết hợp với dân quân Gia Luận bố trí quân phục kích hai bên sườn núi từ Thung Giữa đến Gia Luận, rồi cho 2 dân quân xung phong nghi binh lúc ẩn, lúc hiện bắn nhử cho địch tiến sâu vào trận địa phục kích của ta. Khi quân địch đã lọt vào trận địa ngang tầm súng, thì từ hai bên vách núi quân ta phát huy hỏa lực bắn cản địch. Khẩu trung liên khai hỏa giòn giã, ngay từ loạt đạn đầu đã diệt tên quan ba chỉ huy cùng hơn một chục binh lính. Nhưng chúng không dừng lại ở đây. Lập tức tên quan hai chỉ huy hô quân dạt sang hai bên sườn núi đá, đúng chỗ có hỏa lực của quân ta bắn ra. Quân ta ngừng bắn, xuống núi, đợi địch đến gần ném lựu đạn và xung phong, dùng gươm dáo diệt địch. Đồng thời cho một tổ chiến đấu luồn rừng vòng về phía bến Gia Luận thu hồi một xuồng máy, bắt tên Trảm Thầu lái xuồng (người Móng Cái) theo lòng lạch chạy vào khu căn cứ của ta. Ở mũi này, quân Pháp bị chết 2 sĩ quan (1 đại úy, 1 trung úy), hơn một chục binh lính, bị thương một số. Những tên giặc còn sống quay đầu tháo chạy về bến Gia Luận bơi ra tàu lớn.

- Mũi thứ 2 do một trung đội tự vệ chủ lực huyện kết hợp với dân quân hai xã Xuân Đám và Hiền Hào bố trí quân phục kích trên sườn núi Eo Bủa (đường mòn vào Trung Trang). Khi quân địch tiến đến thì mìn nổ, đồng thời các bẫy đá rào rào rơi như mưa xuống lối hành quân của địch. Bọn chúng hốt hoảng quay đầu tháo chạy. Quân ta truy kích, bắn đuổi. Địch bị chết vì trúng đạn và rơi xuống vực sâu hơn một chục tên.

- Mũi thứ 3, cũng do một trung đội tự vệ chủ lực huyện kết hợp với dân quân thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu bố trí quân phục kích ở khu Khoăn Uych, gài mìn trên đường mòn trong khu Đồng Cỏ (Khe Sâu) tiếp giáp với Khoăn Uỵch, ngụy trang kín. Khi quân địch hành quân qua, ta giật mìn. Chúng bị chết, bị thương một số tên và vội vàng quay đầu chạy về Khoăn Uych. Ở đó lại bị tự vệ, dân quân ta đón đánh.

Kết quả trận chiến đấu này, quân ta thu được ở cả ba mũi là 3 khẩu trung liên, 1 đại liên, 2 súng cối 60 ly, hơn 20 khẩu súng trường, 4 tiểu liên carbin, 1 xuồng máy với nhiều đạn dược, quân nhu, quân dụng. Quân Pháp bị chết, bị thương hơn 30 tên. Tên lái xuồng được Ban chỉ huy huyện phóng thích cho trở về Móng Cái.

Thế là từ ngày 19-5-1949, ta đã khai thông được con đường giao thông liên lạc giửa đảo Cát Bà với tỉnh Quảng Yên (cũ).

Thắng lợi của trận đánh này là thành tích của quân dân Cát Bà chào mừng kỷ niệm lần thứ 59 ngày sinh của Bác Hồ.

Sau trận chiến đấu này, Ban lãnh đạo đã rút kinh nghiệm. Ủy ban kháng chiến hành chính huyện đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc, đảm bảo đời sống cho đơn vị đầy đủ để chiến đấu trường kỳ.

Huyện ủy phân công đồng chí Phạm Thị Lan, Phó chủ tịch, cùng đồng chí Vũ Kính (sau là Giám đốc xí nghiệp Muối) phụ trách công tác đời sống.

Sang năm 1950, sau chiến thắng Biên giới, đại đội tự vệ chủ lực của huyện đảo và dân quân du kích các xã, thị trấn cũng được cung cấp thêm những vũ khí, thuốc men. Cùng với những vũ khí tước đoạt được của địch, lực lượng vũ trang của địa phương ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, có khả năng độc lập tác chiến, đương đầu với quân giặc trong những trận chiến đấu lớn hơn.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:49:47 am
Trận đánh lần thứ hai (các ngày 15, 16 và 17-2-1952):

Sau trận tấn công vào xã Gia Luận để vào thung lũng Trung Trang bị thất bại, quân Pháp tiếp tục cho thám báo, thổ phỉ đi do thám địa hình, địa vật để diệt bằng được cơ quan chỉ huy đầu não của huyện đảo Cát Bà, Cát Hải. Đến ngày 15-2 và liên tục các ngày 16-2, 17-2-1952, chúng lại ra quân chiến đấu một lần nữa với lực lượng lớn hơn, gần một trung đoàn Âu Phi.


Ngày 15-2-1952:

Khoảng 9 giờ sáng, một máy bay bà già (Moran) lượn vòng nhiều lần trên bầu trời chỉ điểm cho tàu chiến đậu ở cửa biển Hiền Hào pháo kích dồn dập vào thung lũng Trung Trang. Sau đó, chúng cho máy bay chiến đấu loại B16, B29 bắn phá các khu dân cư ở bao quanh các trục đường mòn, các đèo áng có lối vào thung lũng Trung Trang. Lực lượng không quân và pháo binh địch bắn phá, quần nát các mục tiêu trên, có những vạt rừng bị cháy trụi do bom napan thả xuống.


Ngày 16-2-1952:

Tàu chiến (cỡ lớn) chở quân từ thị trấn Cát Bà đổ bộ lên bến xã Hiền Hào. Sau hàng giờ pháo kích và máy bay bắn phá dọn đường, lính thủy đánh bộ tiến quân làm 4 mũi tràn vào các làng Hiền Hào, Xuân Đám, Áng Dài, tất cả đều thẳng hướng tiến về Trung Trang.    Đến gần trưa, các cánh quân trên mới tập kết được ở địa điểm hội quân. Nhiều binh lính bị chết do vấp phải mìn, do bị đá sập vào đầu, do bị đạn pháo của chứng bắn lầm và do những tổ, tiểu đội chiến đấu của tự vệ chủ lực huyện, dân quân du kích các xã giật mìn, bắn tỉa... Các chiến sĩ căn cứ kháng chiến Hà Sen lặng lẽ trong các hang hốc của núi đá, bắc ống nhòm theo dõi lũ binh lính Pháp còn sống sót rụt rè lom khom đi nhặt các xác chết của đồng đội và dìu, cáng thương binh chạy về địa điểm tập kết để rút xuống tàu biển. Họ được lệnh của Chỉ huy sở phải lui quân trở về đánh địch tại khu vực xã Gia Luận do một tàu chiến Pháp đổ quân lên bến Gia Luận để có thêm một mũi từ Gia Luận tiến về Trung Trang.


Ở mũi Gia Luận, lực lượng của ta được tập trung đông hơn, số quân lên tới một đại đội; vũ khí có cả đại, trung, tiểu liên, súng trường đầy đủ. Với địa hình địa vật thuận lợi, chủ động, nên quân ta đã đánh chặn một mũi quân Pháp đông gấp hai lần ngay tại bến xã Gia Luận. Quân địch phải rút xuống tàu, không thể tiến quân được vào làng Gia Luận.


Trận này, số binh lính Pháp bị chết tới hơn 100 tên, trong đó có 1 quan tư (thiếu tá) chỉ huy cùng một số các cấp đại, trung, thiếu úy, cai đội... Số lính bị thương cũng khá nhiều. Chiến lợi phẩm đã thu được gồm 2 đại liên, 3 trung liên, nhiều tiểu liên, súng trường, lựu đạn, đạn dược các loại. Tên Hai Thành, đặc phái viên của trung ương Quốc dân đảng phụ trách khu vực Quảng Yên, Cát Bà, Cát Hải bị bắt sống.


Ngày 17-2-1952:

Từ sáng, quân Pháp bằng đường thủy đổ bộ, bao vây, tấn công khu vực Việt Hải, Trà Báu bên bờ vịnh Lan Hạ, là địa điểm đối diện với đảo Tuần Châu (Quảng Yên), là con đường liên lạc của Cát Bà qua đảo Tuần Châu đi Quảng Yên, Hòn Gai. Đồng thời khu Việt Hải, Trà Báu còn là phía sau lưng của thung lũng Trung Trang, cự ly khoảng 5 km theo đường chim bay.


Ban chỉ huy Huyện đội đự đoán tình hình: Địch có thể đổ quân chiếm đóng bến Trà Báu để cắt đứt đường giao thông liên lạc giữa Cát Bà với Tuần Châu. Chúng cũng có thể từ Trà Báu, Việt Hải vượt rừng đánh vào phía sau thung lũng Trung Trang để tiêu diệt căn cứ kháng chiến Hà Sen. Từ nhận định ấy, Ban chỉ huy Huyện đội điều một trung đội tự vệ chủ lực luồn rừng hành quân về Việt Hải kết hợp với dân quân du kích địa phương đánh địch. Lực lượng này nhanh chóng gài mìn, lập bẫy đá ở những địa điểm hiểm yếu trong thung áng Trà Báu, những nơi mà Pháp có khả năng tập trung quân; bố trí từng toán nhỏ phục kích trong các hang hốc, núi đá che khuất.


Các toán quân Pháp đổ bộ lên bến Trà Báu êm ả, không gặp một sức đối kháng nào. Chúng vào bãi cỏ trong lòng thung lũng Trà Báu được khoảng 5-10 phút thì đột nhiên hàng loạt tiếng mìn nổ, khói bốc mù mịt cùng những tiếng súng, tiếng lựu đạn từ trong các lùm cây, hốc núi bắn ra. Một số lính Pháp gục ngã. Đội hình chúng rối loạn, bỏ chạy chui rúc vào trong các bụi cây sim mua quanh chân núi. Nhưng chúng chạy vào đâu, đi đâu cũng vấp phải mìn và vỡ đầu vì đá sập nên số thương vong ngày càng nhiều, xác chết nằm ngổn ngang.


Khi những tiếng nổ của quân ta ngừng lại thì chỉ còn khoảng hai chục tên lính Pháp sống sót, đi kéo những xác chết cho xuống lòng suối, nhờ vào thủy triều đưa xác trôi ra cửa biển là nơi có ca-nô neo đậu. Bọn tàn quân (có cả thương binh) cúi đầu bước gấp. Khi chũng ra đến đường mòn gần bến thì thình lình hàng loạt lựu đạn từ hai phía vách núi tung ra dồn dập làm tử thương thêm một số nửa. Đến khoảng hơn 12 giờ trưa thì cuộc chiến kết thúc.


Chiến trận ngày 17-2-1952, quân Pháp phải trả giá quá đắt. Bị chết, bị thương hom một trăm tên. Quân ta vô sự, thu về 2 đại liên, 3 trung liên, một số tiểu liên, súng trường, đạn dược. Trung đội tự vệ chủ lực huyện và đơn vị dân quân du kích Việt Hải vất vả thêm vì phải đi kéo những xác chết của Pháp bị giắt váo khe đá, cây rừng không trôi hết ra biển được.


Từ chiến thắng của trận đánh này, thôn Trà Báu được đổi tên là thôn Việt Hùng vẫn thuộc xã Việt Hải.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:53:06 am
Trận đánh lần thứ ba (ngày 23-3-1952)

Sau ngày 17-2-1952, xét thấy cơ quan đầu não kháng chiến đặt ở Trung Trang đã bị lộ, Ban chỉ huy quyết định dời Sở chỉ huy về làng Gia Luận để có điều kiện liên lạc dễ dàng hơn với cơ quan chỉ huy trong đất liền. Ở Gia Luận có núi Cao Vong cao hơn 300 mét, là đỉnh cao nhất đảo Cát Bà, giúp cho việc quan sát, theo dõi các diễn biến trên chiến trường tốt hơn. Đồng thời cũng có những thung áng, hang động hiểm trở như ở Trung Trang.


Sáng sớm ngày 23-3, hải quân Pháp cho tàu chiến đậu trên sông Gia Luận bắn pháo cấp tập vào xóm làng Gia Luận. Sau đó, cho máy bay phóng pháo (Hencát) bắn phá xuống khu dân cư và núi rừng Gia Luận, dọn đường cho một tiểu đoàn lính Commăngđô tiến quân.


Đồng thời ở hướng cửa biển Cát Bà, các địa điểm Đồng Tép (thị trấn Cát Bà), cửa làng Trân Châu, các thôn Tùng Gốm, Áng Sỏi, bến Lảng (xã Trân Châu) cũng đều có các cánh quân địch tiến vào. Tàu chiến địch ở ngoài cửa sông pháo kích dữ dội vào làng, vào trận địa của quân ta. Máy bay chiến đấu bắn như trút đạn xuống mặt đất yểm trợ cho bộ binh hành quân.


5 giờ sáng, các toán lính thủy đánh bộ Pháp đã đổ bộ lên đất đảo.

Ban chỉ huy căn cứ kháng chiến Hà Sen đã chủ động bố trí trận địa sẵn sàng chiến đấu.

Ở khu vực Gia Luận, Khoăn Nẻo Mui: Đồng chí Vũ Văn Chương, xã đội trưởng Gia Luận, phối hợp với đồng chí Phan Thanh Loan, đại đội phó C919 triển khai đội hình, gồm một trung đội chủ lực huyện và một trung đội tự vệ xã, do đồng chí Phan Thanh Loan chỉ huy, phục kích ở địa điểm Khoăn Nẻo Mui, phía cuối làng Gia Luận, trên đường đi Trung Trang. Khi các toán quân Pháp qua bến Gia Luận tiến vào làng thì đồng chí Vũ Văn Chương cùng hai đội viên dân quân nghi binh, lúc ẩn, lúc hiện, thi thoảng "đì đẹt" bắn phát một để khiêu khích địch. Lúc này nhân dân Gia Luận đã nhanh chóng sơ tán hết vào các thung áng trong rừng sâu. Quân Pháp truy lừng tổ "đì đẹt" của đồng chí Chương. Đến hơn 10 giờ, chúng đã vào gọn trong làng Gia Luận mà không gặp phải sự chống cự nào. Chúng thả sức đốt phá nhà cửa, bắt trâu bò, lợn gà đem theo trên đường hành quân ra khoăn Nẻo Mui với ý định tiến vào Trung Trang.


Đến chân Khoăn Nẻo Mui, chỉ huy cho quân lính nghỉ ăn uống. Lập tức, đồng chí Phan Thanh Loan phát lệnh xung phong. Hỏa lực quân ta từ trên các sườn núi bắn tới tấp xuống đầu quân giặc. Không để cho chúng chạy thoát, các chiến sĩ ta nhanh chóng xuống núi xông ra ném lựu đạn, dùng lưỡi lê, mã tấu đâm chém quân thù. Quân giặc bị động, trở tay không kịp, đứa chết, đứa bị thương kêu la bỏ chạy tán loạn theo lối trở lại làng Gia Luận. Lúc này máy bay Moran xuất hiện hoạt động, chỉ điểm cho pháo hạm ngoài sông bắn vào làng yểm trợ cho lũ tàn quân rút chạy. Khi bọn chúng chạy trở lại làng Gia Luận thì lại bị đơn vị dân quân do đồng chí Vũ Văn Chương chỉ huy, chặn đánh chết thêm một số nữa.


Kết thúc chiến đấu ở trận địa Gia Luận - Khoăn Nẻo Mui, quân Pháp chết và bị thương hơn 30 tên, 1 tiểu đội lính ngụy xin hàng. Chiến lợi phẩm thu về gồm 4 khẩu trung liên, nhiều súng trường, 12 gánh lựu đạn, đạn dược các loại, 1 máy quay phim, 1 máy vô tuyến và nhiều quân dụng khác. Những của cải vật chất giặc ăn cướp của nhân dân được thu hồi.


Ở khu vực thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu: Từ 03 giờ sáng, phát hiện được tàu chiến địch hoạt động ở cửa sông, ta bố trí phục kích ở các điểm thuộc hai hướng thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu:

- Đơn vị phục kích ở cửa làng Trân Châu do đồng chí Phạm Văn Tiết (xã đội phó) chỉ huy.

- Trận địa Đồng Tép (thị trấn Cát Bà) do đồng chí Lê Văn Mạc và lão du kích Hoàng Văn Thận chỉ huy.

- Thôn Tùng Gốm, tiếp giáp với cửa làng Trân Châu và thôn Áng Sỏi so đồng chí Hoàng Văn Cay chỉ huy.

Tổng số có một đại đội dân quân tự vệ thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu cùng một trung đội C919.

05 giờ sáng, tàu chiến địch đổ quân lên bến làng Trân Châu. Đơn vị đồng chí Phạm Văn Tiết phục kích ở cửa làng Trân Châu nổ súng đánh chặn đứng cánh quân này không cho chúng kịp phối hợp với các cánh quân bộ từ thị trấn Cát Bà vào các thôn Áng Sỏi và Tùng Gốm. Tàu chiến địch pháo kích dữ dội vào làng, vào trận địa quân ta.


Chiến trận diễn biến ngày càng ác liệt ở tất cả các mũi. Quân ta và quân địch giành giật nhau từng tấc đất. Quân địch tập trung một đại đội tạo thành mũi nhọn tấn công vào đội hình quân ta nhằm chiếm lĩnh các điểm cao. Trước sự đánh trả quyết liệt của các chiến sĩ ta, quân địch không thể nào tiến lên được. Cuộc chiến cứ giằng co cả buổi sáng. Một vài đồng chí ta anh dũng hy sinh.


Tại bến làng Trân Châu, quân địch không tài nào tiến lên được đành phải co cụm lại, án binh bất động.

Ở trận địa Áng Sỏi (xã Trân Châu), quân ta bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của địch, kiên quyết không cho chúng tiến sang Tùng Gốm về bến làng Trân Châu hợp lực cùng cánh quân ở đó.

Tại trận địa Đồng Tép (thị trấn Cát Bà), đơn vị bộ đội C919 phối hợp chặt chẽ với dân quân tự vệ thị trấn Cát Bà dùng bẫy đá trút vào đầu giặc, diệt một lúc 6 tên, buộc toán quân này phải tháo chạy và bỏ xác thêm những tên khác do quân ta truy kích.


Sau một ngày giao tranh, quân ta đã đánh chặn đứng được các cánh quân Pháp, phá vỡ kế hoạch cuộc hành quân của địch định đánh phá các khu du kích và căn cứ kháng chiến của ta, giữa các mũi không hội quân với nhau được. Sau trận chiến đấu này, tinh thần binh lính Pháp bạc nhược, chúng không thể mở rộng được phạm vi chiếm đóng, đành án binh tại các đồn bốt trên thị trấn Cát Bà.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Năm, 2022, 08:53:51 am
Trận đánh lần thứ tư (ngày 14-7-1953)

Đến ngày 14-7-1953, sau 16 tháng trôi qua đúng là ngày quốc khánh nước Pháp, chiến sự lại xảy ra. Đúng như sự tiên đoán của ta: "Chưa tiêu diệt được cơ quan đầu não chỉ huy kháng chiến của ta trên đảo, quân Pháp không yên tâm".


Lần này, địch chuẩn bị trận đánh rất công phu với lực lượng một tiểu đoàn lính lê dương, có việt gian chỉ điểm, thổ hải phỉ dẫn đường. Trên không, máy bay trinh sát địch chỉ điểm cho hạm tàu ngoài biển pháo kích vào đất đảo, dọn đường cho bộ binh hành quân. Sau đó cho máy bay chiến đấu trút bom đạn xuống mặt đất.


Mờ sáng ngày 14-7, đoàn lính "mủ nồi đỏ" đã tập kết được ở thung lũng Trung Trang, dọc đường hành quân không gặp một sự chống trả nào của đối phương.

Nắm được tình hình địch, ta triển khai lực lượng:

- Đồng chí Mai Cao (tức Vũ Văn Giai), Huyện đội trưởng, đại đội trưởng C919, chỉ huy chung trận đánh và trực tiếp chỉ huy một đơn vị đánh chặn địch tại Khoăn Cao (xã Gia Luận), nơi tiếp giáp với thung lũng Trung Trang.

- Đồng chí Phan Thanh Loan, đại đội phó C919, chỉ huy đơn vị phục kích tại Khoăn Nẻo Mui (xã Gia Luận), có nhiệm vụ đánh tạt sườn vào đội hình quân địch, phối hợp với mũi của đồng chí Mai Cao chỉ huy.

- Đồng chí Vũ Văn Chương, xã đội trưởng chỉ huy một mũi phục kích tại cửa làng Gia Luận đánh đón đầu đoàn quân địch khi chúng tiến từ Khoăn Cao vào Gia Luận.

- Đồng chí Đàm Phương, trung đội trưởng C919, chỉ huy một tiểu đội chuyên làm nhiệm vụ bắt sống chỉ huy địch và hỗ trợ mũi đồng chí Vũ Văn Chương.

Trận chiến đấu diễn ra nhanh chóng. Ngay từ phát súng đầu tiên ở Khoăn Cao, quân ta đã bắn chết tên quan ba chỉ huy cùng một số binh lính khác. Những tên còn sống hoang mang như rắn mất đầu. Hỏa lực quân ta phát huy giòn giã, vang vọng vào vách núi, địch không thể xác định được hướng tấn công của quân ta, chỉ còn cách xả súng bắn bừa vào rừng, tháo chạy.


Trong khoảng 10 phút, trận đánh kết thúc. Tên đại úy chỉ huy bị thiệt mạng, hơn một tiểu đội lính địch bị bắt. Cả tiểu đoàn lê dương tan rã, chúng chạy bạt mạng vào rừng, để lại trên chiến trường hơn 20 xác chết.

Quân ta một người bị thương nhẹ. Chiến lợi phẩm thu được 1 máy VTĐ và nhiều súng đạn các loại.

Từ chiến thắng Khoăn Cao (xã Gia Luận) ngày 14-7-1953, quân Pháp chỉ còn co cụm ở thị trấn Cát Bà, hoang mang, bất lực, không dám hành quân vào các khu dân cư, vào căn cứ kháng chiến Hà Sen của ta, cho đến ngày cúi đầu xuống tàu rút về chính quốc.

Ghi theo lời kể của một số nhân chứng


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:54:23 am
NỘI CÔNG NGOẠI KÍCH TIÊU DIỆT VỊ TRÍ BẾN TRẠI


ĐÀO ĐỨC CHÍNH
(Nguyên Chủ tịch UBKCHC
huyện Thanh Miện)


Trận tiêu diệt vị trí Bến Trại vào đêm 1-2-1950 cách đây quá nửa thế kỷ đã ghi vào lịch sử của địa phương và của Trung đoàn 42 trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp. Ngày nay, nhắc lại trận đánh đó, tôi không kể lại diễn biến và kết quả của trận đánh vì đã được tường thuật trong cuốn lịch sử của Trung đoàn 42. Tôi chỉ đề cập đến bối cảnh lịch sử lúc đó và việc tổ chức, sử dụng nhân mối.


Vào khoảng tháng 10-1949, Tỉnh ủy Hải Dương tổ chức hội nghị cán bộ ở thôn Bình Đê, huyện Bình Giang để thảo luận đề án: "Tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công". Ở hội nghị này còn đề cập đến việc chuẩn bị tiếp quản Hải Dương. Vì vậy, hầu hết cán bộ trong tỉnh nảy sinh tư tưởng chủ quan, cho rằng đã ở giai đoạn cuối của cuộc trường kỳ kháng chiến, thắng lợi hoàn toàn đã ờ trong tầm tay. Bất ngờ, ngày 22-12-1949, quân Pháp tập trung nhiều binh đoàn cơ động tinh nhuệ mở chiến dịch Đi-a-bơ-lô càn quét một vùng rộng lớn bao gồm các huyện thuộc tây nam tỉnh Hải Dương và nam tỉnh Hưng Yên. Mục đích của địch ở chiến dịch này là tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta, bình định vũng đồng bằng thuộc tả ngạn sông Hồng. Sau chiến dịch này, các đồn bốt địch ken dày đặc khắp nơi. Riêng huyện Thanh Miện đã có hơn 30 đồn bốt địch trên đê sông Luộc, sông Neo và dọc đường 20, trong đó có vị trí Bến Trại. Bốt Bến Trại đóng ở một địa điểm cao trên đê thuộc thôn Trại, xã Diên Hồng (nay là xã Tiền Phong), quân số Pháp, ngụy rất đông, có công sự kiên cố, khống chế các xã thuộc khu nam huyện Thanh Miện và tây nam huyện Ninh Giang, cắt đường nối liền giữa tỉnh Hải Dương với tỉnh Thái Bình. Cùng với việc bố trí đội quân chiếm đóng, đi theo lực lượng cơ động còn có đội GAMO (Groupement administratif mobile opérationnel) tức "Đội quân thứ hành chính lưu động" để lập ra các ban tề (ngụy quyền tay sai ở thôn xã). Trước tình hình khó khăn phức tạp nói trên, trong một số cán bộ nảy sinh tư tưởng lệch lạc như giao động, cầu an, sợ địch không dám hoạt động hoặc tả khuynh muốn phá tề hàng loạt và diệt ngay các đồn bốt địch. Thường vụ Huyện ủy Thanh Miện nhiều lần họp với các cán bộ thôn xã để phê phán những tư tưởng sai trái nói trên, nhận định và đề ra những chủ trương thích hợp:

- Trong các ban tề do địch lập ra hầu hết là người của ta hoặc do ta nắm được nên tạm thời để tồn tại tề, sử dụng và biến nó làm công cụ đấu tranh với địch theo ý định của ta. Không phá tề một cách tràn lan trong lúc nhân dân ta đang khó khăn (nhà cửa và tài sản bị địch đốt phá, người thân bị địch bắn giết và bắt đi). Nếu không thận trọng sẽ bị kẻ xấu kích động nhân dân rào làng, võ trang chống lại kháng chiến như một số trường hợp đã xảy ra ở các huyện lân cận.

- Không nóng vội đánh các vị trí chiếm đóng của địch dễ bị thất bại và gây thương vong cho ta như đã xảy ra ở bốt Đò Neo. Tổ chức các cuộc vận động binh lính ngụy trở về với kháng chiến và vận động nhân dân vùng bị chiếm đóng đấu tranh không để địch phá đình chùa và nhà dân để củng cố các đồn bốt. Phân tán bộ đội địa phương thành các đơn vị nhỏ xuống các thôn xã cùng dân quân du kích giúp dân dựng lại nhà ở, sản xuất và bảo vệ sản xuất.


Với những chủ trương đúng đắn đó, các cơ sở của ta vẫn bám dân hoạt động và được dân che chở, bảo vệ. Chính quyền ở các xã hoạt động bình thường và chỉ đạo các ban tề đấu tranh công khai hợp pháp với địch. Lúc đó, ta quan niệm là "tề hai mang", "tề ấm ớ". Nhân dân thường có câu: "Trên cờ ba gạch, dưới quân Cụ Hồ". Ở các vị trí chiếm đóng của địch, ta đã có các nhân mối, nhất là ở vị trí Bến Trại và vị trí Châu Quan. Chủ trương của ta là xây dựng và sử dụng nhân mối để tiêu diệt vị trí Bến Trại bằng một trận nội công, ngoại kích.


Tên sếp bốt Bến Trại là một sĩ quan người Pháp tên là Lơ-rơ hàng ngày huy động quân trong vị trí và phối hợp với quân ở các đồn bốt lân cận càn quét đốt phá cướp bóc và bắn giết nhân dân các xã Thanh Giang, Ngũ Hùng, Chi Lăng... Chúng bị ta đánh trả rất quyết liệt, nhưng khắp nơi bị địch tàn phá xơ xác. Tên sếp bốt Bến Trại rất ác ôn nhưng lại rất mê gái. Lúc đó, y đang theo đuổi một cô gái tên là Vũ Thị Phao, một hội viên Hội phụ nữ cứu quốc xã Diên Hồng. Nắm được tình hình đó, Huyện ủy Thanh Miện giao cho các đồng chí ở xã Diên Hồng cùng với công an huyện gặp gỡ cô Phao, vận động và thuyết phục cô vì lợi ích của kháng chiến, nhận lời lấy y theo sự khẩn khoản của y nhiều lần. Cuối cùng, cô Phao chấp thuận. Lúc ấy chúng tôi không nghĩ rằng cô có thể phục vụ nhiều cho một trận đánh sau này nhưng ít ra cô cũng cho biết tình hình trong bốt, để ta biết trước đối phó, đồng thời tạo thuận lợi cho ta đưa người vào bốt Bến Trại sau này.


Sau đó ít lâu, chính quyền xã Thanh Giang bắt một thanh niên tên là Phạm Văn Trợ giải lên huyện vì cho rằng anh này có thái độ ngang ngược, chống phá kháng chiến. UBKCHC huyện Thanh Miện xem xét thấy không đủ chứng cứ bắt giam. Qua thẩm tra, biết anh là một học sinh trường trung học Nguyễn Du (trường của tỉnh sơ tán về thôn La Ngoại, xã Ngũ Hùng). Ban giám hiệu nhà trường cho biết Phạm Văn Trợ là một học sinh năm thứ tư, tính tình thẳng thắn, học giỏi, nói và viết thông thạo tiếng Pháp, nhưng thường có thái độ ngang, hay lý sự, cái gì cũng muốn phải thật rõ ràng, như việc giải một bài toán học phải dựa trên một định lý đã có. Trước tình hình đó, bắt giam giữ người không rõ tội trạng là không đúng và không có lợi, nhưng tha về thì chính quyền địa phương cho rằng làm vậy sẽ gây khó khăn, trở ngại cho công tác ở xã. Chợt nhớ đến một tin do cô Phao cho biết là tên Lơ-rơ, sếp bốt Bến Trại đang cần một người thông ngôn (phiên dịch), Thường vụ Huyện ủy cấp tốc hội ý trong phạm vi hẹp giữa Bí thư (Nguyễn Văn Minh), Chủ tịch (Đào Đức Chính), Huyện đội trưởng (Vũ Kim Sơn), trưởng đồn công an huyện (Vũ Tá Lại) nên sử dụng đưa anh Phạm Văn Trợ vào làm thông ngôn cho tên sếp bốt Bến Trại. Để giữ bí mật cho nhân mối, chúng tôi giao cho một cán bộ công an huyện là anh Vũ Tá Thiệm (em trai đồng chí Vũ Tá Lại) gặp anh Phạm Văn Trợ, xem xét và thử thách mọi mặt. Được anh Thiệm giúp đỡ, anh Trợ vui vẻ nhận nhiệm vụ và được lãnh đạo huyện chấp thuận. Anh Thiệm đã chuẩn bị mọi hành trang cho anh Trợ bước vào cuộc đời mới như thẻ học sinh trường Nguyễn Du, giấy chứng nhận học lực của năm học trước, lệnh bắt anh Trợ của chính quyền vì có hành động chống lại kháng chiến... Anh Thiệm cũng tổ chức để anh Trợ lén lút vào bốt Bến Trại xin việc làm. Lơ-rơ chưa tin ngay, y giao anh Trợ cho bọn Phòng nhì kiểm tra và thử thách ở địa phương, đưa xuống Hải Phòng, ra Quảng Ninh. Qua một thời gian thẩm vấn và bồi dưỡng, chúng mới đưa anh trở về Bến Trại để nhận nhiệm vụ đúng như ý định của ta. Mấy tháng sau đó, anh Phạm Văn Trợ đã phát triển được thêm một vài nhân mối khác là ngụy quân và báo cho ta biết những người ở khu vực kháng chiến thường lén lút vào bốt quan hệ với địch để ta theo dõi... Một thời gian sau, ta lại tổ chức đưa thêm anh Vũ Đức Triều (người xã Ngũ Hùng, bạn học cùng lớp với anh Phạm Văn Trợ ở trường trung học Nguyễn Du) vào bốt Bến Trại để xin làm thư ký riêng cho tên sếp bốt. Nhưng không rõ ở đây không cần hay do bị lộ nên địch đưa anh Triều đi nơi khác.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:54:52 am
Từ đó, mỗi khi bốt Bến Trại càn quét ra khu căn cứ du kích của ta là nhân dân không ngớt lời "nguyền rủa" ba cái tên Phao - Trợ - Triều đã đưa địch về tàn phá quê hương. Những người biết chuyện, không ai dám giải thích rõ sự thật, e nguy hiểm đến tính mạng của các nhân mối.


Tháng 8-1950, Tỉnh ủy Hải Dương triệu tập cán bộ hội nghị do đồng chí Nguyễn Năng Hách, bí thư Tỉnh ủy kiêm chủ tịch ƯBKCHC tỉnh chủ trì, họp ở miếu Rồi Thần và hội nghị quân sự ở Rồi Son thuộc khu vực Hà Đông, huyện Thanh Hà bàn về việc diệt các hệ thống đồn bốt địch để mở rộng các khu căn cứ du kích trong tỉnh. Trong kế hoạch này, Trung đoàn 42 do đồng chí Nguyễn Như Thiết làm trung đoàn trưởng, phụ trách việc tiêu diệt vị trí Bến Trại. Một hôm, đồng chí Thiết về Thanh Miện gặp tôi để bàn việc phối hợp của địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ đó, đặc biệt là vấn đề nhân mối trong việc diệt vị trí địch bằng nội công, ngoại kích. Trung đoàn giao cho đại đội của đồng chí Cảnh trực tiếp chỉ huy trận đánh, còn huyện Thanh Miện huy động bộ đội địa phương và dân quân du kích xã làm nhiệm vụ hậu cần, tiếp tế, tải thương và các công việc khác ở vòng ngoài.


Trận đánh diễn ra vào đêm 1-12-1950 (không phải 1-11-1950 như đã ghi trong lịch sử của Trung đoàn 42) và đã tiêu diệt gọn vị trí Bến Trại, diệt và bắt sống toàn bộ binh lính Pháp - ngụy. Sau đó ít ngày, Trung đoàn 42 đã tổ chức hội nghị tổng kết trình bày diễn biến của trận đánh ở thôn Đào Lạng, xã Văn Hội, huyện Ninh Giang. Đồng chí Trần Tạo lúc ấy là Chủ tịch ƯBKCHC tỉnh Hải Dương trong lời phát biểu đã nhấn mạnh: "Đây là một trận đánh tuyệt đẹp bằng nội công ngoại kích, tiêu diệt nhanh gọn một vị trí đông quân địch, công sự kiên cố là do sự chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ, của bộ đội chủ lực, có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích), có sự cộng tác mật thiết giữa quân - dân - chính - đảng...".


Trận tiêu diệt vị trí Bến Trại (lần thứ nhất) đến đây là kết thúc. Sau đó, một số cán bộ ở Hải Dương hỏi tôi: Nhân mối ở đây giải quyết như thế nào? Tôi trả lời: Các nhân mối quê ở đâu cho về đấy làm ăn sinh sống với gia đình, trừ anh Phạm Văn Trợ được đưa về Ty Công an Hải Dương sử dụng.


Thời kỳ tôi đang công tác ở Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, có lần về thăm nơi công tác trước đây, đã gặp đồng chí Nguyễn Đình Chiểu, bí thư Huyện ủy Thanh Miện lúc đó (khi tôi làm Chủ tịch UBKCHC huyện Thanh Miện thì đồng chí làm Chủ tịch UBKCHC xã Lê Hồng). Lần đó, tôi được đồng chí Chiểu cho biết: Cô Phao khi lấy tên sếp bốt Bến Trại đã có một người con trai lai Pháp và chưa lấy ai vì đàn ông ở địa phương vẫn có thành kiến là cô đã lấy chồng Tây. Tôi nói với đồng chí Chiểu là đến lúc phải giải thích cho nhân dân biết về một con người đã biết hy sinh trong bối cảnh lịch sử và yêu cầu cách mạng khi đó, đồng thời phải bố trí cho cô Phao một công tác nhất định để bảo đảm cuộc sống gia đình. Sau đó, Huyện ủy và UBND huyện Thanh Miện đã bố trí cho cô Phao làm cửa hàng trưởng cửa hàng Bách hóa ở phố Chợ Thông, xã Đoàn Tùng. Những năm gần đây, có dịp về Thanh Miện, tôi được biết cô Phao tuổi đã cao nghỉ hưu và làm nhà ở Quán Khoang, gần thị trấn huyện Thanh Miện. Tôi đã tranh thủ đến thăm gia đình.


Còn anh Phạm Văn Trợ thì ra sao? Sau trận tiêu diệt vị trí Bến Trại cuối năm 1950, anh Trợ còn rất trẻ và có trình độ học vấn nên được đưa lên Ty Công an Hải Dương sử dụng, sau sang công tác ở Ty Thủy lợi. Khi tôi công tác ở Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, một hôm đồng chí Nguyễn Văn Lộc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, đến gặp tôi hỏi về lai lịch của anh Phạm Văn Trợ. Lúc ấy tôi mới biết anh Trợ đang công tác ờ Bộ Nông nghiệp và làm thư ký riêng cho đồng chí Bộ trưởng, nhưng có người ở Thanh Miện tố giác là anh Trợ đã có một thời gian cộng tác ở một vị trí chiếm đóng của địch trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tôi đã kể cho đồng chí Lộc nghe về nhân mối ở bốt Bến Trại trước đây và anh Trợ đã có công phục vụ cho việc tiêu diệt vị trí Bến Trại bằng nội công, ngoại kích. Sau đó, anh Phạm Văn Trợ vẫn tiếp tục làm việc ở Bộ Nông nghiệp. Những năm gần đây, có lần đến dự cuộc họp đồng hương xã Thanh Giang ở phố Thái Thịnh, quận Đống Đa, Hà Nội, tôi gặp lại anh Phạm Văn Trợ (trưởng ban liên lạc) đã về hưu và sống củng gia đình ở Nghĩa Đô, quận Thanh Xuân, Hà Nội.


Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), một lần tôi vào làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng mà lúc đó đồng chí Thứ, tức Mười Bắc (có thời gian công tác với tôi ở UBND tỉnh Hải Dương trước đây) là Chủ tịch UBND tỉnh. Đồng chí Mười Bắc cho tôi biết là đồng chí Nguyễn Như Thiết, trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 trước đây nay là thiếu tướng QĐND Việt Nam và hiện đang phụ trách Học viện quân sự Đà Lạt. Tôi vội tìm đến thăm đồng chí Thiết và giữa chúng tôi đã có đoạn ôn lại những chuyện thuộc về quá khứ. Đồng chí Thiết hẹn với tôi đến một ngày nào đó, chúng tôi sẽ cùng trở lại chiến trường xưa để thăm cảnh vật và con người đã cùng đồng cam cộng khổ ở vùng địch hậu tả ngạn sông Hồng. Nhưng rồi đồng chí Thiết bận bịu với công tác quân sự, còn tôi mấy năm đi làm nhiệm vụ quốc tế với danh nghĩa Phó đoàn chuyên gia, công tác ở Văn phòng Hội đồng nhân dân cách mạng và Hội đồng Bộ trưởng Campuchia. Rồi được tin đồng chí Nguyễn Như Thiết qua đời. Thế là chúng tôi không thực hiện được điều hẹn ước.


Trận tiêu diệt vị trí Bến Trại cách đây 51 năm. Nay nghĩ lại, trong lòng tôi vẫn rộn ràng một niềm vui dù chiến công đó rất nhỏ bé so với nhiều chiến công to lớn khác trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, vẫn lắng đọng trong tôi nỗi bùi ngùi đối với cảnh éo le của một số nhân mối trong vị trí Bến Trại trước đây.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:55:56 am
TRẬN CHỐNG CÀN THẮNG LỢI Ở
ĐÔNG CẬN, QUÁN ĐÀO


ĐỖ TRỌNG KHOÁT
(Nguyên c trưởng C75, Tỉnh đội HD)
TRƯƠNG VĂN THUÂN
(Nguyên B trưởng B3, Huyện đội Tứ Kỳ)


Trung tuần tháng 7-1953, sau khi quân ta tiêu diệt bốt Liên hiệp Pháp ở Bỉnh Di, phong trào chiến tranh du kích phát triển rất mạnh, uy hiếp trực tiếp đến thị xã Hải Dương, thị trấn Gia Lộc, đường 17 và đường 191.

Địch sử dụng GM4 cơ động cùng một số lực lượng địa phương quân, dưới sự yểm trợ của máy bay và pháo binh tổ chức càn quét vào khu bắc Tứ Kỳ hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, ngăn chặn phong trào chiến tranh du kích, động viên cổ vũ bọn tề ngụy phản động, hồi phục và củng cố khu vực chiếm đóng của chúng.


Tảng sáng hôm đó, máy bay bà già đã bay lượn thám thính trên bầu trời khu bắc huyện Tứ Kỳ chỉ điểm cho pháo binh ở thị xã Hải Dương và thị trấn Gia Lộc bắn vào những nơi chúng nghi là có lực lượng vũ trang của ta. Đồng thời từ thị xã Hải Dương, chúng hành quân bằng cơ giới theo đường 191 xuống Cống Câu, rồi triển khai đội hình càn vào khu bắc huyện Tứ Kỳ. Trên đường tiến quân, chúng bị bộ đội huyện Tứ Kỳ hiệp đồng cùng dân quân du kích xã Hưng Đạo, Đoàn Xá đánh trả quyết liệt. Nhưng chúng chỉ đánh lướt qua không càn vào làng nào mà tiến thẳng đến hai thôn Đông Cận, Quán Đào. Có thể chúng được chỉ điểm cho biết là đại đội 75 của tinh đội và trung đội 3 của huyện đội Tứ Kỳ tập trung ở khu vực này.


Với 7 xe tăng dẫn đầu, chúng lồng lộn, quần nát các cánh đồng hai thôn Đông Cận, Quán Đào. Đồng thời chúng dùng pháo binh dưới sự chỉ điểm của máy bay bà già bắn nhiều đợt dữ dội vào trong làng. Nhiều nhà cửa và cây cối bị tàn phá. Chúng còn dùng pháo 37 ly trên xe tăng chạy quanh làng bắn phá công sự và lũy tre lảng. Chúng cho rằng với hỏa lực dữ dội và dồn dập như vậy thì trong làng không thể còn sự sống, mà có còn cũng mất sức chiến đấu.


Lực lượng 3 thứ quân của ta gồm tỉnh, huyện, xã đã chủ động chuẩn bị kế hoạch hiệp đồng tác chiến hoàn chỉnh, chu đáo và chặt chẽ. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu rất cao. Quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến của ta là: "Dựa vào công sự và làng chiến đấu đã chuẩn bị từ trước. Bí mật bất ngờ giấu kín lực lượng, tránh phi pháo của địch sát thương. Chủ động lửa cho địch vào thật gần 10m, 5m và gần hơn nữa mới đồng loạt nổ súng và dũng cảm xông ra đánh giáp lá cà với địch. Đã bắn là trúng, đã đánh là diệt, là bắt tù binh, thu vũ khí làm cho địch trở tay không kịp. Hạn chế đến mức thấp nhất mọi hỏa lực chi viện của chúng. Phát huy thế mạnh về tinh thần chiến đấu của quân ta. Đồng thời khoét sâu chỗ yếu về tinh thần bạc nhược sợ chết của địch. Trên cơ sở đó mà đánh quỵ ngay từ đợt tấn công đầu tiên của địch. Ta bảo tồn được lực lượng, giữ được làng".


Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo chống phá càn của Ban chỉ huy Tỉnh đội Hải Dương là: "Tất cả các lực lượng 3 thứ quân lấy tiếng súng nổ làm mệnh lệnh hiệp đồng, bất kể nơi nào bị địch càn đến thì các lực lượng ở xung quanh phải tìm mọi cách cơ động đánh vào cạnh sườn và phía sau quân địch tạo thành thế trận chiến đấu liên hoàn. Buộc địch phải đối phó nhiều hướng. Chia lửa với bạn. Làm loãng mục tiêu càn quét cúa địch. Các lực lượng của ta vẫn giấu kín và an toàn. Khoảng 9 giờ, địch dàn đội hình dưới sự dẫn đầu của xe tăng, chúng áp sát vào chân làng 100m, rồi 50m, 30m. Quân ta vẫn im lặng. Bọn chỉ huy địch hí hửng cho là lực lượng của ta đã bị sát thương. Chúng hét quân tiến nhanh hơn. Để địch cách 10m, 5m, ta hạ lệnh phát hỏa: Các loại hỏa lực của ta, kể cả lựu đạn, thủ pháo đồng loạt bắn xả vào đội hình địch. Bọn đi đầu bị sát thương, bọn sống sót thằng nằm bẹp tại chỗ, thằng chạy tán loạn ra ngoài. Cối 60 ly của ta bắn chặn diệt thêm một số tên. Tiếp đó, trung đội 1 từ tây bắc thôn Đông Cận đã nhanh như cắt, dũng mãnh xung phong ra khỏi lũy tre đánh giáp lá cà với bọn địch tiến vào đoạn giữa hai thôn Đông Cận với Quán Đào. Ngay lúc đó, một bộ phận của trung đội 3 Huyện đội Tứ Kỳ cùng dân quân du kích thôn Quán Đào đã nhanh chóng cơ động đánh vào cạnh sườn địch, cùng trung đội 1/C75 diệt hàng chục tên, bắt sống 32 ngụy binh, thu một trung liên và một số súng trường.


Trận đánh chỉ diễn ra chừng 5-7 phút, quân ta nhanh chóng rút vào trong làng, phân tán bọn tù binh xuống hầm và củng cố công sự, giấu kín lực lượng, chuẩn bị đánh đợt tấn công tiếp theo của địch. Ta hy sinh 1, bị thương 4.


Địch bị thiệt hại nặng nề ngay từ đợt tấn cồng đầu tiên: vừa chết, vừa bị thương và bị bắt sống hai trung đội. Chúng hò hét và chửi bới nhau om xòm, đồng thời gọi pháo bắn liên tục nhiều đợt vào trong làng ngăn chặn quân ta để chúng lấy xác đồng bọn.


Trung đội 3, Huyện đội Tứ Kỳ hỗ trợ đánh tạt sườn chia cắt địch, làm địch bị động đối phó, có tác dụng rất lớn tạo điều kiện đánh bại đợt xung phong đầu tiên của chúng.

Sau thắng lợi đợt đầu, sĩ khí quân ta tăng lên gấp bội. Càng tin tưởng vào chiến thuật đánh gần, không sợ hở sườn, hở lưng. Càng tin là chống càn vẫn tiêu diệt được địch, bắt sống được tù binh, thu được vũ khí trong điều kiện địch đông và trang bị mạnh hơn ta gấp bội. Còn địch thì hoang mang dao động sợ chết, càng không thể đánh giá đúng được lực lượng và thế trận của đối phương.


Chúng tiếp tục dội pháo vào trong làng và lùi quân ra củng cố. Khoảng hai giờ sau, chúng lại xung phong vào trận địa của ta. Ta lại để địch vào gần mới nổ súng, đẩy địch ra ngoài. Qua đánh địch đợt hai này, quân ta càng tin vào cách đánh gần, vừa tiêu diệt địch chính xác, vừa hạn chế tối đa hỏa lực phi pháo của địch, giảm bớt thương vong của ta. Giữa các đợt đánh địch như vậy, ta dùng cách bắn tỉa khá hiệu nghiệm, làm địch vô cùng khiếp sợ.


Về chiều, chúng tổ chức hai đợt tấn công nữa nhưng không dám áp sát vào làng. Ta thực hiện bắn tỉa. Địch vào gần thì ta không xuất hiện để tránh phi pháo của chúng. Đến 17 giờ, chúng dùng pháo bắn chặn để lui quân, chịu sự thất bại nhục nhã chạy về thị xã Hải Dương. Trên đường rút lui, chúng lại bị bộ đội Tứ Kỳ và dân quân du kích các thôn xã trên dọc đường bắn chặn quyết liệt. Ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân tỉnh, huyện và xã. Đặc biệt là chủ động hiệp đồng tác chiến liên hoàn, bí mật bất ngờ, dựa vào công sự để bảo tồn lực lượng, cơ động kịp thời, dám đánh gần, v. v... nên trận đánh đã đạt hiệu quả chiến đấu cao, thực hiện được chiến thuật lấy ít thắng nhiều, lấy trang bị yếu thắng trang bị mạnh.


Đây là một trận chống càn, ta chỉ có một đại đội tăng cường và dân quân du kích đánh trả một GM4 cơ động và lực lượng địa phương có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ. Suốt từ sáng đến 17 giờ chiều với bốn đợt xung phong, địch không thể nào vào được làng. Ta tiêu diệt hàng chục tên, bắt sống 32 tên, thu một trung liên, một số súng trường. Bên ta hy sinh 1, bị thương 5 chiến sĩ.


Trận đánh diễn ra cách đây đã 44 năm nhưng ý nghĩa của bí mật bất ngờ, cơ động linh hoạt, thực hiện chiến thuật đánh gần, đánh liên hoàn vẫn giữ nguyên giá trị lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:56:40 am
CHUYỆN VỀ MỘT XÃ ĐỘI TRƯỞNG


CAO VINH


Ông tên là Nguyễn Văn Suy. Tôi đến thăm ông vào đúng dịp ông được tặng huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Khi biết rõ mục đích cuộc thăm hỏi của tôi, ông bắt đầu kể:

... Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo đông con, chưa đầy mười tuổi đã phải đi ăn đi ở, rồi làm con mày con nuôi. Đến khi cách mạng thành công, tôi đã ngoài hai mươi tuổi. Như hạn gặp mưa, tôi liền tham gia vào đội tự vệ của xã. Giữa lúc ấy, không may nhà tôi và hai cháu bé bị một căn bệnh hiểm nghèo chết cả. Một sự mất mát quá sức chịu đựng của mình, nhưng rồi được sự động viên tiếp sức của trên, tôi tự động viên mình gạt bỏ nỗi đau riêng, tiếp tục công tác. Đến tháng 9-1949, tôi xin vào bộ đội ở C25 - D664 - E42 thuộc Khu Tả ngạn. Trong thời gian ở bộ đội, tôi đã được tham gia những trận đánh lớn. Như trận ngày 8-10-1950 diệt một đại đội lính địch, bắt sống tên quan ba Quýt-xắc trên đê La Giang, xã Văn Tố. Tiếp đến là trận công đồn Ô Mễ, trận này tôi bị thương vào đùi và gẫy 2 mảnh xương sườn. Vết thương của tôi không đủ sức tiếp tục chiến đấu, trên cho tôi giải ngũ về địa phương. Lúc này tình hình ở địa phương tôi khá phức tạp, đầu xã có bốt Tây Kỳ, cuối xã có bốt Cõi, giữa xã có bốt Măng, trong xã lại có bọn tề, dõng ác chiếm đóng nhà thờ Đông Lâm quấy phá ngày đêm.


Tôi về nhà chưa được bao lâu ông bố nuôi bắt tôi lấy vợ để yên chí làm ăn. Rồi ban xã ủy tề đến thuyết phục ông bố nuôi vận động tôi lấy thẻ căn cước ra sống công khai. Tôi kiên quyết từ chối. Giữa lúc đầu óc tôi đang rối bời thì người vợ kế mới sinh cháu được 3 tháng lại mắc bệnh rồi chết. Lại một lần nữa tôi khóc vợ, khóc con. Vượt qua được cơn sốc này, mặc dù người còn yếu tôi cũng đề nghị với Đảng cho tôi được nhận công tác. Bước đầu tôi được phân công làm thôn đội trưởng, sau đó ít ngày (28-3-1953) tôi được giao làm xã đội trưởng. Vì là một xã nằm ven con đường liên tỉnh nên bọn địch thường xuyên qua lại càn quét, bắn phá liên tục. Ngày 2-4-1953, bọn địch từ bốt Măng càn vào thôn Đồng Kênh bắt 3 con trâu và một số đồ đạc của dân. Tôi đã chỉ huy một tiểu đội nam nữ du kích đánh đuổi chúng về tận bốt, giành lại số trâu và đồ đạc trả lại cho dân. Tiếp đến là trận hóa trang đánh bọn địch đi lại từ bốt Măng xuống nhà thờ Đông Lâm. Trong trận này có chị Chồi, chị Bến ở Mỹ Ân, chị Nhữ, chị Yến ở Đồng Kênh đóng giả làm người đi bán chè, bán lá vối, dưới thúng giấu những cái chai không để khi gặp địch dùng chai đó làm vũ khí. Các chị phối hợp với một số du kích nam phục ven đường xông lên diệt địch. Trận này ta bắt sống 3 tên, thu toàn bộ vũ khí. Trên đây là những trận tôi còn nhớ, còn những trận lẻ tẻ tôi không nhớ hết.


Cuối năm 1953, trên giao cho đơn vị du kích xã tôi bao vây, tuyên truyền và vận động bọn địch ở bốt Măng + nhà thờ Đông Lâm. Tôi đã bố trí chốt ở những nơi thuận lợi, vừa phát loa kêu gọi chúng ra hàng, vừa tuyên truyền chính sách khoan hồng của Đảng để chúng nhận rõ đúng sai. Các tổ thay nhau liên tục ngày đêm làm nhiệm vụ. Tôi còn vận động ông giáo Cờ từng đi lính cho Pháp, gọi loa bằng tiếng Pháp vào bốt. Kết quả, một tên lính người Pháp trốn ra hàng ta. Cũng thời gian ấy, để ngăn chặn bước hành quân bằng cơ giới của địch, được sự chỉ đạo của trên, tôi đã vận động một trung đội dân quân du kích ngày đêm xẻ một con hào từ trên cầu Măng đi sát vào bốt Măng, kéo xuống tận đê Đông Lâm dài hơn 1km. Trong công việc nặng nhọc vất vả và nguy hiểm này, nhiều đồng chí nêu tấm gương dũng cảm, tích cực như Oánh, Liệt, Đông, Nhạn, Yến.


Thời kỳ chống Mỹ, xã được thành lập một trung đội du kích cơ động, vũ khí trang bị có 1 khẩu 14,5 ly, 1 trung liên và một số súng trường. Trung đội chịu trách nhiệm ở các xã Văn Tố, Quang Trung, Tiên Đông, Nguyên Giáp, Hà Thanh và Hà Kỳ. Tôi được cử làm chỉ huy trưởng cùng với các đồng chí Cự, Nga, Lân xã đội phó (nay đã chết). Ngoài ra còn một trung đội được cử đi đắp ụ pháo ở chợ Yên, cầu Lai Vu (Kim Thành) phục vụ bộ đội chiến đấu. Trong đợt này, xã tôi được thưởng một Huân chương Chiến công hạng hai về thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


Về công tác hậu phương quân đội, lúc nào chúng tôi cũng coi đây là một công việc trọng tâm hàng đầu của xã. Các gia đình chính sách gặp khó khăn, đau yếu đều được giúp đỡ, động viên kịp thời. Nhất là trận lụt năm 1971, xã đã vận động hàng nghìn ngày công chạy thóc lúa, đồ đạc, sửa lại nhà cửa khi nước rút, làm cho những gia đình thương binh, liệt sĩ, bộ đội gặp khó khăn rất cảm động. Khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người" của trên đề ra, năm nào xã tôi cũng đạt và vượt mức kế hoạch một cách thuận lợi, dễ dàng. Để quy tụ hài cốt những người con quê hương đã vì nước hy sinh, với cương vị bí thư Đảng ủy kiêm chính trị viên xã đội, tôi đề nghị với xã xây dựng một nghĩa trang liệt sĩ, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn. Chúng tôi vận động nhân dân, kể cả những con em của xã đi công tác các nơi, quyên góp kẻ ít người nhiều xây dựng được một nghĩa trang.


Từ ngày bị thương ở bộ đội về, tôi nhận công tác xã đội từ tháng 3-1953 cho đến tháng 1-1977 liên tục 24 năm. Nếu cộng cả 3 năm làm bí thư Đảng ủy và chủ nhiệm hợp tác xã kiêm chính trị viên xã đội nữa là 27 năm. Ngoài ra, tôi còn tham gia 4 khóa Hội đồng nhân dân huyện và liên tục là đảng ủy viên của xã. Về khen thưởng, tôi đã cùng tập thể phấn đấu đón về cho xã nhiều huân chương về chiến đấu, phục vụ chiến đấu, công tác hậu phương quân đội, củng một số bằng khen, giấy khen. 16 năm liền, xã được công nhận là xã Quyết thắng, 20 năm liền là lá cờ đầu của huyện, tỉnh. Riêng bản thân tôi cũng được thưởng 1 Huy chương chống Pháp hạng nhất, 1 Huân chương chống Mỹ hạng nhất, 5 bằng khen của tỉnh và Quân khu, 2 lần đạt chiến sĩ thi đua, 3 lần đạt danh hiệu chiến sĩ Quyết thắng, tổng cộng là 21 lần được khen thưởng. Đến năm 1977, tôi nghỉ hưu...


Ông Nguyễn Văn Suy, người xã đội trưởng năm xưa, với vóc dáng bé nhỏ gầy gò nhưng nhanh nhẹn hoạt bát; từng vượt qua biết bao điều bất hạnh trong cuộc đời mình, đã vươn lên làm tròn nhiệm vụ của một người đảng viên. Cho đến bây giờ đã ở tuổi 80, ông vẫn là một thành viên tích cực trong Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi ở địa phương.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:57:30 am
QUẤY RỐI ĐƯỜNG 5
CHẶN ĐƯỜNG TIẾP TẾ CỦA GIẶC PHÁP


NGUYỄN ĐỨC HỌC (HÒE)
(Nguyên Thường vụ Huyện ủy Mỹ Hào,
nguyên Giám đốc cảng Hải Phòng)


Cuối năm 1947, ta có chủ trương phá tề toàn tỉnh Hưng Yên. Ở Mỹ Hào, cuối tháng 11-1947 nhân dân các thôn xóm nổi dậy đồng loạt tổ chức một đêm khua chiêng, đánh trống inh ỏi, tự xé thẻ tề. Tề ác ôn bị ta xử trí tại chỗ, một số bị bắt giam, còn phần đông cho ra vùng tự do để huấn luyện rồi cho về. Ta cũng bố trí cho một số tề sáng hôm sau chạy lên bốt kêu là đêm qua Việt Minh về xé thẻ tề, đốt hết sổ sách, tịch thu dấu tề.


Hồi ấy địch chỉ còn đóng ở vị trí Bần, Dị Sử, Kẻ Sặt, còn vùng giữa đường 5 tới sát sông Lực Điền chúng bỏ trống. Ta đã phục hồi hầu hết các chi bộ, chính quyền, đoàn thể ở các xã. Nhiều chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước được thực hiện. Ta phát động phong trào đánh phá đường 5 để cắt đứt đường tiếp tế của địch từ Hải Phòng đi Hà Nội. Nhiều chuyến tàu chở hàng bị nổ mìn, lật đổ, dân quân du kích hóa trang lên đường 5 ném lựu đạn vào xe vận tải. Đồng chí Nguyễn Hanh, phó bí thư Huyện ủy Mỹ Hào, cũng hóa trang lên đường 5 ném lựu đạn vào ô-tô địch.


Cao trào du kích quấy rối, ép sát các vị trí địch làm cho chúng không dám thò ra ngoài. Ở đồn Di Sử (Thứa), ban đêm bọn địch chỉ dùng đèn pha quét cánh đồng quanh bốt. Chúng tôi lội ruộng ban đêm trên cánh đồng Đan để vượt đường 5, nhiều phen vất vả vì ánh sáng đèn pha. Sau này cơ sở cho biết bọn lính trên tháp cao chỉ nằm, lấy chân bấm công - tắc đèn pha chứ có quan sát gì đâu.


Khoảng tháng 6/1948, biệt động phối hợp cùng du kích tổ chức trận đánh ban ngày tại chợ Bần. Khởi sự là ngọn lửa bốc lên từ chảo dầu của bà rán đậu. Bà đã cố ý đổ dầu vào chảo, lửa bùng cháy lều và lan ra cả dãy chợ. Cả chợ nhốn nháo, binh lính Tây và ngụy đang quấy rối cũng hoảng hốt chạy. Thừa cơ, quân ta xông tới đâm chém bọn chúng. Bà con đi chợ sẵn đòn gánh, cây củi cũng xông tói đánh cho chúng những đòn túi bụi. Bọn chúng nhiều đứa sứt đầu mẻ trán, máu me đầm đìa bỏ chạy. Trận đánh chớp nhoáng, dũng mãnh đã gây tiếng vang lớn. Sau này bọn địch không dám ra chợ quấy rối bà con buôn bán nữa.


Tháng 11-1948, có quyết định đốt chợ Bần. Khi ấy tôi đang là Thường vụ Huyện ủy Mỹ Hào, phụ trách Khu I, trong đó có thôn Bần. Trước hai ngày đốt chợ, tôi vào thôn Bần họp cùng chi bộ Bần Yên Nhân để xem xét kế hoạch đốt chợ và đề phòng địch khủng bố. Khi ấy, đồng chí Thân làm bí thư chi bộ, (năm 1950, tôi trở lại làng Bần, đồng chí Thân đã già rồi).


Sau hôm họp với các đồng chí ở làng Bần, tôi sang xã Văn Phú. Sáng hôm sau, tôi đi chợ Bần kiểm tra thực địa, nhất là tránh cho đỡ thiệt hại lây lan khi chợ cháy. Kế hoạch đốt chợ cũng đơn giản. Gần tối, ông quét chợ là cơ sở của ta chỉ việc dúi mồi rơm có buộc nắm que diêm và tẩm dầu phía đuôi. Khi mồi lửa lan tới đoạn có diêm làm bùng cháy, bén vào dầu sẽ phát hỏa lan ra cháy cả chợ.


Hôm ấy, trời tạnh ráo, gió bấc heo may. Chúng tôi lội tắt qua cánh đồng lúa đã gặt. Chị Hai vợ đồng chí Lợi, bí thư chi bộ Văn Phú, cùng đi. Chị đưa cho tôi xách lồng gà có mấy con gà choai, đi lẫn vào đám đông bà con đi chợ. Qua bốt gác, bọn lính không xét hỏi. Vào trong chợ, chị Hai bảo tôi:

- Anh đưa gà em bán, anh đi mua bán gì rồi quay lại cùng về. Anh cầm mấy đồng mà tiêu, em bán gà sẽ có tiền.

Cầm tiền, tôi nghĩ chả biết mua gì, lâu rồi ở địch hậu bao giờ có tiền đâu, chỉ ăn nhờ vào bà con cơ sở. Thôi, vào quách hiệu cắt tóc lại tiện cho việc quan sát chợ qua gương của thợ cạo. Sau nửa giờ cắt tóc xong, tôi đi lướt xem các dãy chợ, thế là yên tâm. Chợ ở lọt vào sau phố nên có cháy cũng ít khả năng cháy lan về phố. Quay lại hàng gà vừa lúc chị Hai bán xong, tôi cùng chị mua mấy thứ rồi về. Chị mua cái mâm đồng đưa tôi xách. Chúng tôi rời khỏi chợ an toàn.


Tối hôm ấy khoảng hơn 10 giờ, chợ cháy bùng, lửa khói bốc lên ngùn ngụt. Bọn địch bốt Bần và các đồn xung quanh hoảng loạn bắn như đổ lửa lên trời. Chúng tôi đứng ở sân nhà anh Lợi cách đấy khoảng cây số. Mọi người vui mừng hoan hô chiến thắng.


Chỉ một mồi lửa đã tiêu hao của địch hàng vạn viên đạn, gây hoảng loạn cho binh lính địch. Trận ấy đã gây tiếng vang cả vùng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 06:58:47 am
MỘT LẦN THOÁT HIỂM Ở THÔN GIAI LỆ


Đại tá TRẦN TRÍ DŨNG
(Nguyên đại đội trưởng đại đội 95)


Thôn Giai Lệ ở phía đông huyện Tiên Lữ. Trong thời chống Pháp, thôn này thuộc xã Phan Tây Hồ là một trong những làng kháng chiến điển hình xuất sắc của huyện Tiên Lữ. Mặc dù địch đóng nhiều bốt ở các xã xung quanh, thường xuyên càn quét, thúc ép lập tề, nhưng nhân dân thôn Giai Lệ vẫn dũng cảm chiến đấu, kiên quyết không chịu lập tề.


Phía đông làng có con sông nhỏ. Phía tây làng có con đường liên xã chạy từ đường 39B qua làng sang các thôn Phí Xá, Hoàng Xá. Từ đường cái liên xã có một số đường nhánh đi vào các xóm. Xung quanh làng có lũy tre, trong lũy tre có nhiều ao. Vì vậy, quân địch phải dựa các nhánh đường quanh xóm mới tiến vào làng được.


Nhân dân Giai Lệ đã tận dụng yếu tố địa hình, tổ chức thành làng chiến đấu. Lũy tre đã được liên kết lại thành hàng rào bọc kín làng. Sau lũy tre có nhiều ụ chiến đấu. Các đường vào xóm đều có cổng tre, có vọng gác kiểm soát người ra vào. Trong xóm có giao thông hào nối liền sang xóm khác, có hầm hố tránh bom đạn địch; mỗi nhà đều có hầm bí mật, xóm có đường hầm bí mật dài hàng trăm mét chứa được nhiều người. Mỗi khi địch càn, thanh niên nam nữ đều tham gia chiến đấu, sau đó rút xuống hầm bí mật. Các cụ già và trẻ nhỏ ra tập trung ở đình để đấu tranh chính trị với địch.


Các cơ quan của huyện đều có bộ phận thường trực ở Giai Lệ. Đại đội 95 cũng có một trung đội hoạt động ở xã Phan Tây Hồ, do đồng chí Hoàng Ngọc Diệp là trung đội trưởng và đồng chí Lưu Văn Trìu là chính trị viên trung đội.


Khoảng tháng 5-1950, tôi và anh Minh Chiếu, chính trị viên đại đội, từ xã Minh Hoàng phía bắc Phù Cừ về thôn Giai Lệ. Mười một giờ đêm về tới trạm gác đầu làng. Nhận đúng mật khẩu, anh em gác mở cổng cho chúng tôi vào và cho biết là đang chuẩn bị để sáng mai đánh địch càn vào xã. Chúng tôi rảo bước vào nhà ông Bùi Văn Phức ở đầu xóm để gặp trạm thường trực trung đội 1 đóng ở đây. Anh Lưu Văn Trìu báo cáo tóm tắt tình hình: Địch đã tập trung quân ở các bốt xung quanh để sáng mai càn vào xã Phan Tây Hồ. Anh Trìu vừa họp với thôn đội và chia tiểu đội 1 thành 3 tổ ghép vào các tổ du kích sẵn sàng chiến đấu. Anh Diệp, trung đội trưởng, chỉ huy 2 tiểu đội ở 2 thôn khác. Sau đó, anh Trìu dẫn chúng tôi đi thăm và động viên các tổ chiến đấu. Hai giờ sáng, ehúng tôi trở lại nhà ông Phức. Anh Trìu nói:

- Hai anh tranh thủ nghỉ, đến 4 giờ sáng chứng ta sẽ xuống các tổ chiến đấu và xuống hầm bí mật của các tổ.

Đột nhiên ông Phức từ trong nhà bước ra nói:

- Thôi, ba ông tranh thủ nằm ngả lưng cho đỡ mệt. Ngày mai địch càn, các ông ở lại hầm bí mật của nhà tôi. Tôi bảo đảm an toàn, ông không phải đi đâu nữa.

Nghe ông Phức nói, chúng tôi rất cảm động và yên tâm nghỉ lại. Chợp mắt một lúc, nghe có tiếng kẻng báo động, tôi nhìn đồng hồ mới có 4 giờ 30. Cả gia đình ông Phức đều dậy, cất giấu đồ đạc. Có thứ vất xuống ao, có thứ để ra góc vườn. Từ bờ tre phía góc vườn nhìn ra ngoài làng, tôi thấy quân địch khá đông. Chúng đang từ phía cầu Cáp đi theo đường liên xã phía tây làng Giai Lệ. Chúng dàn đội hình hàng ngang và nằm xuống mé đường, bắn tập trung vào các cổng làng rồi cho từng tốp theo các đường nhánh vào phá cổng làng. Bị trúng mìn và trúng đạn của du kích ta, một số tên bị chết và bị thương. Một tốp bò vào kéo các tên chết và bị thương ra, một tốp khác lại bò vào phá cổng, liên tiếp mấy lần như vậy. Vì số đạn của ta có hạn, nên anh em gác lùi dần vào phía trong. Đến 7 giờ, địch mới phá được cổng và lò dò tiến vào làng. Các thôn khác cũng đã có tiếng súng.


Thấy địch đã phá được cổng và đang tiến vào làng, chúng tôi nhanh chân luồn ra sau nhà để xuống hầm. Chúng tôi xuống trước, ông Phức xuống sau. Em gái ông Phức đậy cửa hầm cho chúng tôi rồi mới chạy sang hầm bên nhà hàng xóm. Lúc ấy có một thanh niên chạy tới. Ông Phức vội nói:

- Chú đi tìm hầm khác đi! Hầm này đủ người rồi.

Anh thanh niên vội chạy sang hầm nhà bên. Sau nửa giờ ngồi hầm, tôi nghe rõ tiếng giày đinh của địch đi vào trong xóm. Chúng bắn lung tung vào các nhà rồi hò hét: "Quan lớn biết rồi! Mở cửa hầm lên hàng thì sống, không chúng ông ném lựu đạn xuống thì chết hết!".


Có tiếng mìn nổ và tiếng súng bắn lẻ tẻ ở xóm bên. Tôi đoán là anh em tổ 2 đang bắn tỉa quân địch.

Một lúc sau, tôi nghe có tiếng cuốc đất ở vườn nhà bên cạnh. Tôi đoán là địch đang cuốc vườn tìm cửa hầm. Những tiếng hò hét của địch, nghe rất rõ. Tôi lo cho cô em gái ông Phức và chú thanh niên ban sáng chạy sang đấy, liệu họ có chỗ trú ẩn an toàn không. Chúng tôi ngồi im lặng dưới hầm, bụng đói cồn cào. Ông Phức giúi cho tôi chai nước, thỉnh thoảng nhấp một tí cho khỏi khô cổ.

Lúc lâu sau, địch vào lùng sục nhà ông Phức. Chúng tôi nghe rõ mọi tiếng động ở trên nhà và tiếng hò hét của địch.

Ông Phức nói nhỏ vào tai tôi: "Ông yên tâm, hầm này rất bảo đảm, địch không thể tìm được dấu vết đâu". Ngồi lâu dưới hầm, đầu óc tôi căng thẳng, bụng đói cồn cào, soi đồng hồ mới có 4 giờ chiều. Lúc này, tôi nghe thấy tiếng quân địch gọi nhau, tiếng giày đinh đi dần ra khỏi làng. Tiếp đến là tiếng nói cười vui vẻ của dân làng. Biết là quân địch đã rút lui, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Có tiếng gỗ trên nắp hầm. Nhận ra mật hiệu, ông Phức đẩy nắp hầm lên và nói: "Chúng ta lên thôi, địch rút xa rồi!".


Chúng tôi lên khỏi hầm và nhanh chóng ra phía sân tập thể dục. Sau 9 giờ ngồi bó gối dưới hầm, cơ thể mỏi mệt, nay được thư dãn một chút, sức khỏe chúng tôi dần dần hồi phục.

Trong lúc chị Liễu, chiến sĩ liên lạc của đại đội, tranh thủ nấu cơm, tôi nhắc anh Trìu đến các tổ nắm tình hình trận chiến đấu vừa qua. Đang vui vì thoát hiểm, chúng tôi lại có tiếp nguồn vui mới, vì được đón anh Võ An Đông, chính trị viên Tỉnh đội đến thăm. Anh về công tác ở xã bên cạnh, thấy địch càn vào xã Phan Tây Hồ, khi chúng rút, anh đến Giai Lệ thăm anh em chúng tôi.


Khoảng 6 giờ 30 tối, anh Trìu về báo cáo: Trung đội 1 và anh em du kích đã tiêu diệt được một số địch và rút xuống hầm bí mật được an toàn. Nhân dân trong thôn cũng không có ai bị bắt hoặc thương vong, chỉ mất mấy con lợn, mấy con gà.


Anh Võ An Đông khen làng chiến đấu Giai Lệ đánh địch giỏi, bảo vệ được nhân dân, cần rút kinh nghiệm kịp thời để trận chiến đấu sau đạt kết quả cao hơn.

Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã qua đi gần nửa thế kỷ. Mỗi khi hồi tưởng lại những ngày chiến đấu sôi nổi trên quê hương Hưng Yên, tôi lại nhớ đến làng chiến đấu Giai Lệ, nhớ tới nhân dân Giai Lệ và gia đình ông Phức đã giúp tôi thoát hiểm.


Làng chiến đấu Giai Lệ, nòng cốt của khu du kích điển hình xuất sắc Phan Tây Hồ thuộc huyện Tiên Lữ. Trong suốt thời gian kháng chiến, mặc dù có 2 năm bị địch trực tiếp bao vây uy hiếp, nhân dân Giai Lệ vẫn hiên ngang đứng vững, chiến đấu kiên cường, tiêu diệt được nhiều địch, duy trì và phát triển được lực lượng kháng chiến, tích cực góp phần giải phóng quê hương Hưng Yên thân yêu.


GHI CHÚ:

1. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Phan Tây Hồ có 6 thôn: Giai Lệ, Phù Liễu, Phí Xá, Hoàng Xá, An Tràng, Canh Hoạch. Nay tách ra làm 2 xã là Lệ Xá (gồm các thôn Giai Lệ, Phù Liễu, Phí Xá) và Trung Dũng (gồm các thôn Hoàng Xá, An Tràng và Canh Hoạch).

2. Năm 1950, anh Võ An Đông còn là chính trị viên Tỉnh đội, năm 1951 mới làm tỉnh đội trưởng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 07:00:45 am
NHỮNG CHIẾN CÔNG CỦA ĐỘI
VIỆT DŨNG THỊ XÃ HƯNG YÊN


ĐẶNG ĐÌNH THÀNH
(Báo CAND)


Được lãnh đạo Ty Công an Hưng Yên giao nhiệm vụ thành lập đội Việt Dũng của công an thị xã Hưng Yên, tháng 8-1949, ông Nguyễn Bá Kính có tên mới là Hoàng Lan. Từ đó, những cái tên Việt Dũng, Hoàng Lan gắn liền với những chiến công oai hùng của công an trong khu vực thị xã, khiến kẻ địch kinh hoàng mất ăn, mất ngủ, còn nhân dân thì hả lòng, hả dạ, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Lá cờ xuất hiện vào đêm giao thừa

Đội Việt Dũng chỉ có biên chế, vũ khí rất gọn nhẹ, nhưng biết đi sâu vào quần chúng, xây dựng cơ sở để tự bảo vệ mình, nắm tình hình địch, lập kế hoạch tiêu diệt những tên việt gian bán nước, làm tay sai cho địch.

Cuối năm 1949 địch chiếm đóng thị xã Hưng Yên. Hồi ấy lực lượng của địch đang mạnh, cơ sở của ta ở một số nơi bị vỡ. Đội Việt Dũng muốn vào thị xã hoạt động phải qua các bốt canh, tránh các đội tuần tra của địch ngày đêm sục sạo. Đội chia làm nhiều tổ. Đội trưởng Hoàng Lan trực tiếp chỉ huy tổ cơ động gồm các đội viên Dân và Tảo quê ở thị xã, Dũng quê ở chợ Đầu, Đức và Hạ, kết hợp với các tổ khác diệt tề, trừ gian, có tiếng vang, khiến địch rất lo sợ. Tổ đóng quân bên hữu ngạn sông Hồng, thuộc đất Hà Nam, thường cử các đội viên đột nhập thị xã Hưng Yên để hoạt động.


Hồi 16 giờ ngày 30 Tết, tổ được giao nhiệm vụ đột nhập thị xã Hưng Yên, phá cái Tết của quân giặc, làm cho chúng hoang mang. Khoảng 21 giờ, các đội viên ra bờ sông Hồng, thấy ở bên tả ngạn phát tín hiệu an toàn, anh em xuống thuyền xuất phát. Đêm về khuya, sương muối, gió bấc, ai nấy đều thấy rét thấu xương, chân tay tê cóng nhưng trong lòng nung nấu ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Thuyền lặng lẽ sang gần tới bờ thì bỗng có tín hiệu báo địch phục kích. Rồi hàng chục ánh đèn pin chiếu vào thuyền. Trước tình thế này, ông Hoàng Lan ra lệnh chuẩn bị chiến đấu theo phương án hai: Khi tới sát địch phải ném lựu đạn uy hiếp, gây cho chúng hoảng loạn rồi tranh thủ tản ra theo sự phân công từ trước.

Thuyền tới sát bờ, bọn địch quát lớn:

- Thuyền nào? đi đâu?

Ông Hoàng Lan bình tĩnh đáp:

- Thưa các quan, chúng tôi sang sông ăn cưới.

- Lên bờ, kiểm tra giấy tờ!

- Chúng tôi có thẻ căn cước.

- Ăn cưới gì mà đi khuya thế?

- Thưa các quan, chúng tôi còn chờ đón dâu...

- Từng người một lên trình giấy!

- Vâng!

Tiếng "vâng" vừa dứt, thuyền đã tới bờ. Người chỉ huy hô "ném". Ba quả lựu đạn rơi về phía bọn địch đứng lố nhố. Chúng hô nhau nằm xuống. Ông Hoàng Lan bắn tiếp một loạt súng ngắn. Trong lúc hoảng loạn, địch bắn lại nhưng không chiến sĩ nào dính đạn.


Cả tổ rút ra ngoài tầm đạn địch, vẫn thấy chúng bắn loạn xạ. Mươi phút sau, có tiếng xe vận tải chạy từ phía bến tàu thủy về thị xã. Lúc này là 12 giờ 55. Tiếng pháo giao thừa đã nổ ở phía vùng tự do. Ông Hoàng Lan cử đội viên Tảo đi trước quan sát nắm tình hình. Khi đến bờ hồ Bán Nguyệt, Tảo và Đức làm nhiệm vụ canh gác ở cửa Đền Mẫu và yểm hộ cho Dân và Hạ cắm cờ. Còn Hoàng Lan và Dũng gác ở ngã tư phố Khách - phố Nguyệt Hồ, nếu gặp lính đi tuần thì ném lựu đạn, đánh lạc hướng.


Sau 15 phút, Hoàng Lan nhận được tín hiệu báo nhóm cắm cờ đã hoàn thành nhiệm vụ, Hiền rút về cửa đền Trần gặp Dân và Hạ. Dân báo cáo đã buộc cán cờ đỏ sao vàng vào ngọn cây cổ thụ và đặt 2 quả mìn ở gốc cây. Bốn người đến chỗ Tảo và Đức. Ông Hoàng Lan giao cho Tảo làm nhóm trưởng, dẫn Đức và Hạ vào rải truyền đơn, đốt chợ ở cổng thành, ném lựu đạn gây tiếng nổ. Sau đó cả tổ đi tắt cánh bãi phía nam thị xã, lấy thuyền vượt sông Hồng về bên hữu ngạn. Anh em về tới nơi an toàn, cùng nhau pha trà, hút thuốc lá, ăn bánh chưng... của bà con ở thị xã gửi tặng đơn vị ăn Tết.


Sáng mồng một Tết (1950), cơ sở bên thị xã sang báo cáo: Địch đã phá tan chiếc thuyền chở tổ vượt sông đêm qua, chỗ lựu đạn nổ trên bãi cát có 2 cái hố, gần đó có nhiều vết máu, chứng tỏ địch bị thương vong. Đến trưa, đội Việt Dũng được biết: Đêm qua đã có một Tây đen, hai Tây trắng, hai lính ngụy bị thương. Sáng nay, giữa lúc bọn sĩ quan đang huênh hoang "chiến công" phục kích bắn chìm 1 thuyền của Việt Minh, tiêu diệt 2 trung đội thì chúng được tin báo trên cây cổ thụ ở bờ hồ có cờ đỏ sao vàng. Chúng liền huy động 3 xe chở lính đến khu vực đền Trần. Tên chỉ huy bắt lính trèo lên cây giật cờ Việt Minh xuống. Bọn lính vừa đặt chân vào gốc cây thì mìn nổ, chết tại chỗ 1 tên.


Lá cờ cách mạng đã khích lệ nhân dân địa phương vững tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 07:01:40 am
Bất khuất trước quân thù

Một buổi tối cuối năm 1949, có hai thanh niên đến gặp ông Hoàng Lan để xin vào đội Việt Dũng. Họ nói: "Bố em là Vệ Đan, mẹ em bán tương, mắm ở chợ Đầu. Em là Nguyễn Văn Lư, còn em em là Lự. Chúng em 19 tuổi, có biết võ. Địch đã xây bốt chợ Đầu (xã Trung Nghĩa, huyện Tiên Lữ). Nếu anh không nhận chúng em vào đội Việt Dũng thì chúng em sẽ bị địch bắt đi lính giết hại đồng bào". Qua xác minh thì được biết Bà Vệ Đan sinh đôi được 2 con trai, khỏe mạnh và giống hệt nhau. Ngay cha mẹ cũng khó phân biệt đứa nào là anh, là em. Khi các con lên hai - ba tuổi, người mẹ đi chợ về chia quà thì lần nào cứng thấy có một đứa đến trước, một đứa đến sau. Ông bà liền gọi là thằng Nhanh, thằng Chậm để phân biệt. Mãi đến khi các em đi học mới khai tên là Lư và Lự.


Được nhận vào lực lượng công an, hai anh em đều cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, rất gan dạ trong việc diệt tề, trừ gian. Một buổi tối cuối năm 1951, Lư và Lự xin phép về khu vực Đào Đặng, Đặng Cầu thăm lại hầm bí mật vì mới có trận mưa. Ông Hoàng Lan dặn các anh phải cẩn thận và cho đi.


Sáng ngày 7-12-1951, ông được tin: Lúc 3 giờ sáng, Tây và lính dõng quây 2 thôn Đào Đặng, Đặng Cầu, bắt được hai anh Lư và Lự. Ông Hoàng Lan bàn với các ông Phạm Quang Ninh, Lê Quân và Đặng Đình Đài tìm cách giải thoát cho 2 chiến sĩ. Ngay sau đó, trinh sát về báo tin: Hồi 5 giờ 30, ba xe tải của địch đã chạy về phía Chợ Gạo. Khi đến ngã ba, xe giảm tốc độ rẽ trái về thị xã Hưng Yên. Đồng chí Lự đã nhảy xuống, nhưng vì bị trói và bị đánh đau nên không chạy thoát, bị chúng bắt lại, dùng báng súng đánh tới tấp. Đồng chí Lự liên tục chửi vào mặt bọn địch. Địch đưa hai anh về Nhà Thành, ném vào phòng tra tấn. Tại đây có một Tây trắng, ba tên phòng nhì. Tên đại úy Vinh hỏi: 

- Chúng mày là Việt Dũng?

- Không!

- Chúng mày chối phải không? Ông cho ăn đòn!

Lư và Lự chịu những trận đòn dùi cui. Lự lại chửi:

- Tiên sư quân bán nước.

- Đứa nào là Lư, đứa nào là Lự?

- Chúng mày biết rồi, còn hỏi làm gì?

- Ông có quyền bắt chúng mày phải trả lời, đã vào tay ông khó lòng thoát được.

- Chúng mày là người Việt Nam mà ác hơn loài cầm thú.

Tên đại úy phòng nhì hỏi tiếp:

- Những đứa nào tham gia vào vụ giết ông Thuần, trưởng ty công an?

- Chúng tao không biết.

- Đội Việt Dũng có bao nhiêu người?

- Chúng tao biết sao được.

- Tên chỉ huy Việt Dũng thường ở nhà ai, thôn nào?

- Không biết.

Cuộc hỏi cung đầu tiên địch chẳng thu được kết quả gì, ngoài việc nghe chửi.

Ngày thứ hai, địch hỏi Nguyễn Văn Lư. Anh khai mới vào Việt Dũng được ba ngày, rồi nghe các đội viên cũ kể chuyện diệt tề trừ gian, anh sợ quá nên bỏ trốn, về nhà làm ruộng. Địch cho là khai láo, càng tra tấn dữ dội, rồi tống vào nhà giam.


Khi chúng hỏi Nguyễn Văn Lự, anh không khai gì và cắn răng chịu những trận đòn chết đi sống lại.

Ngày thứ ba, bọn phòng nhì tiếp tục hỏi Nguyễn Văn Lư, anh vẫn khăng khăng khai như trước. Tên đại úy Vinh đập bàn, đập ghế, chửi bới om xòm: 

- Ông nói cho mày biết, làm Việt Dũng ba ngày cũng đủ đi tù Côn Đảo rồi con ạ. Chúng mày tưởng ông không biết à? Chính người thầy dạy võ của chúng mày chỉ điểm đấy!

Tên Phạm Văn Độ, thầy dạy của Lư và Lự, đã theo địch, chính là kẻ chỉ điểm bắt hai anh. (Về sau, Nguyễn Văn Lư bị phạt tù 7 năm và đày đi Côn Đảo, mãi sau hòa bình lập lại, trao trả tù binh mói được về).

Bọn phòng nhì lôi Nguyễn Văn Lự lên hỏi cung. Anh hiên ngang nói:

- Chính tao là Việt Dũng. Công việc của tao là diệt tề trừ gian, bảo vệ dân. Chúng mày có giết thì cứ giết, tao không sợ, tao không khai người chỉ huy và đồng đội của tao. Đồng đội tao sẽ tìm diệt chúng mày để trả thủ cho tao. Chúng mày hỏi Hoàng Lan, người chỉ huy Việt Dũng là nam hay nữ? Công việc diệt tề trừ gian đâu phải chỉ có nam giới mới làm được! Chứng mày còn làm tay sai cho địch, Việt Dũng sẽ không tha. Tên trưởng ty công an ngụy cũng đã phải đền tội rồi đó.


Bọn địch gầm lên: "Chúng ông sẽ giết mày!". Bọn đầu trâu mặt ngựa buộc chân Lự treo ngược lên xà nhà. Thằng Tây một bên, thằng ngụy một bên, đá anh như quả bóng, máu mồm máu mũi ộc ra. Bọn khát máu còn dùng dao xẻo thịt ở cánh tay, ở đùi anh Lự... Lúc này anh Lự chỉ còn là một cái xác không hồn, nhưng máu vẫn chảy xuống nền nhà cho đến giọt cuối cùng. Anh hy sinh lúc chưa đầy 21 tuổi.


Tin anh Lự anh dũng hy sinh khiến toàn đội Việt Dũng vô củng thương cảm, chẳng thiết ăn cơm. Đau thương đâ biến thành sức mạnh, mọi người đoàn kết gắn bó, vững vàng hơn, quyết trả thủ cho động đội thân yêu của mình.

HOÀNG LAN kể


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Năm, 2022, 07:02:20 am
NHỚ VỀ NGƯỜI XÃ ĐỘI TRƯỞNG NĂM ẤY


PHẠM VĂN ẤP
(Nguyên chính trị viên xã đội xã Minh Đức)


Tôi và anh Phạm Văn Nhắc sinh ra và lớn lên ở thôn Sài Phi, xã Minh Đức (Mỹ Hào - Hưng Yên) một làng nghèo ở cạnh đường số 5. Anh hơn tôi 9 tuổi. Gia đình anh cũng nghèo như gia đình tôi. Nhà đông con, anh là con lớn nên ít được học hành.


Năm 22 tuổi, anh đi lính khố đỏ được 2 năm rồi cáo bệnh về nhà làm trương tuần coi đồng cho dân.

Khoảng tháng 3-1945, quê tôi đâ có phong trào Việt Minh lãnh đạo dân đi phá kho thóc, rồi phong trào tập quân sự cho thanh niên. Anh đã hăng hái tham gia. Sau khi giành chính quyền, anh làm phó ban quân sự thôn, rồi chỉ huy quân sự thôn. Cuối năm 1948, anh được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương và được phân công làm xã đội trưởng.


Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến, quê hương anh bị địch chiếm đóng. Anh liên tục công tác quân sự từ thôn đến xã. Năm 1948, anh Nhắc là xã đội trưởng, tôi (Phạm Văn Ấp) là chính trị viên, cùng anh Kiều, anh Đàm ở trong ban chỉ huy xã đội Minh Đức. Là một xã nằm hai bên đường 5, địch liên tục càn quét khủng bố dân.


Anh Nhắc đã xây dựng và tổ chức lực lượng dân quân du kích ngay trong các làng đã lập chính quyền ngụy. Dân quân du kích xã liên tục dùng mọi hình thức hoạt động như phá tề, xé thẻ tề, chống bắt phu, bắt lính của địch; phá hoại và đánh mìn trên đường số 5 với đoạn đường dài hơn 2km làm cho địch rất hoang mang lo sợ.


Trong làng có một số tên đi ngụy binh cho địch, đã báo rõ tên tuồi một số cán bộ hoạt động ở trong xã. Địch vây càn nhiều lần nhưng không đánh được. Chúng treo giải 500 đồng Đông Dương để bắt anh và một số anh em khác. Anh không chùn bước mà tổ chức hoạt động khôn khéo hơn.


Vào một buổi sáng đầu năm 1950, bọn chỉ điểm người làng đã đưa lính đồn Di Sử (Mỹ Hào) và một số lính các đồn xung quanh về bao vây làng từ đêm. Phát hiện được địch vây làng, anh đã đi báo cho anh em trong thôn xuống hầm bí mật. Khi quay về hầm của mình, anh chạm trán với 1 tiểu đội địch đã phục ở khu vực hầm. Lợi dụng trời còn tối, anh định thoát ra ngoài làng. Vừa đến đầu làng, anh lại gặp tiểu đội lính phục sẵn. Chúng đã bắt được anh. Tên ngụy binh người làng chỉ điểm và reo lên đã bắt được anh Nhắc. Chúng tra, đánh, dụ dỗ nhưng anh không hề khai báo điều gì. Đến 8 giờ 40 phút, anh đã chửi bọn chúng và chúng đã nổ súng bắn chết.


Phạm Văn Nhắc, người đảng viên, người cán bộ xã đội đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù, để lại cho tôi một nỗi đau vô hạn. Hàng chục năm đã trôi qua nhưng hình ảnh về anh đối với tôi như một kỷ niệm không thể nào quên về người đồng chí, người anh, người bạn chiến đấu đã anh dũng hy sinh để bảo vệ phong trào, bảo vệ quê hương.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:23:32 am
NHỚ LẠI MỘT NĂM CÔNG TÁC Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU


NGUYỄN TRƯỜNG XUÂN
(Nguyên Bí thư Huyện ủy Khoái Châu 1953 - 1954)


Sau khi rời Kim Động tháng 11-1952, đi chỉnh đảng đến tháng 3-1953 tôi về huyện Khoái Châu giữ chức bí thư Huyện ủy thay đồng chí Chương. Thời điểm này, tỉnh Hưng Yên về cơ bản đã xóa bỏ hệ thống tháp canh, hương đồn của địch; đã chống phá thắng lợi các cuộc càn quét lớn nhỏ, đặc biệt là chống phá các cuộc càn quét của các binh đoàn chiến lược của địch tại chiến dịch "Trái Chanh", "Lạc Đà" v.v... Ta đang tìm cách đánh tiêu diệt các đồn binh chính quy của địch còn trụ lại ở các đường giao thông lớn phía bắc tỉnh, dọc đường 39, 38, đê sông Hồng, sông Luộc, thị xã Hưng Yên. Như vậy là những trở ngại cơ bản trong chiến cuộc tại Hưng Yên đã và đang được khắc phục.


Khoái Châu là một huyện lớn của tỉnh có 25 xã tiếp giáp với các huyện Văn Giang, Yên Mỹ, Kim Động và sông Hồng, đã xóa bỏ hết hương đồn, lại vừa diệt đồn Lạc Thủy và Thiết Trụ, trở thành khu căn cứ du kích rộng lớn, nhưng vẫn còn lại các đồn địch tại dọc sông Hồng: có đồn Thiết Trụ (mới chiếm đóng lại), Phương Trù, Nghi Xuyên, tại đường 39 có bốt Đào Viên, Vân Trì và hương đồn thôn Cao Quán, giữa huyện có đồn Vua Bơi thuộc huyện lỵ Khoái Châu cũ.


Về phía ta, Khoái Châu đang ở bước đi mới với tinh thần phấn khởi chưa từng thấy với tốc độ rất nhanh trong công cuộc xây dựng, củng cố lại các tổ chức Đảng, chính quyền, quân sự, đoàn thể. Đồng thời với việc chuẩn bị đánh diệt địch còn lại, ra sức lao động phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định cuộc sống, xóa bỏ các hậu quả do địch để lại, thực hiện nhiệm vụ đóng góp người, của cho tiền tuyến cấp trên.


Ban lãnh đạo, cơ quan chính quyền, quân sự, đoàn thể được kiện toàn từ huyện đến xã, gồm những đảng viên, cán bộ có ý chí dũng cảm, tài năng; hầu hết các bí thư Đảng cấp xã đều gương mẫu đi đầu trong chiến đấu và công tác. Ban Huyện ủy có 15 người đều là những cán bộ có bản lĩnh, được rèn luyện trong quá trình chiến đấu, công tác. Huyện có một đại đội địa phương mang số hiệu 32, đang rất sung sức, có dàn cán bộ chỉ huy giỏi từ đại đội, trung đội đến tiểu đội. Đặc biệt, nổi lên là nữ du kích Hoàng Ngân mà tiêu biểu là các xã Đông Kinh, Mễ Sở, Bình Minh, Hồng Tiến, Việt Tiến, Đại Tập.


Những chiến công tuyệt vời của Khoái Châu, quét sạch quân thù (1953 - 1954)

Sau những chiến dịch xóa bỏ hệ thống hương đồn bằng nhiều hình thức, Khoái Châu đã trở thành một khu căn cứ liên hoàn khá mạnh. Đã có hai trận diệt địch tại đồn Thiết Trụ (lần thứ nhất) và đồn Lạc Thủy bằng binh vận. Đã giải phóng phần cơ bản đất đai, tiến hành nhiều trận phục kích và bao vây các đồn dọc sông Hồng, Vua Bơi và chống càn quét thắng lợi ở nhiều địa phương.


Thời điểm này, Khoái Châu còn 6 đồn địch, 1 đồn hương dũng là trở ngại cơ bản trong việc giải phóng hoàn toàn địa phương. Muốn tiêu diệt các đồn này, không thể chỉ bằng địch vận như trước đây mà còn phải biết đánh địch có công sự phòng ngự vửng chắc. Đã có nhiều trận đánh công sự vững chắc của bộ đội cấp trên nhưng thương vong của ta không ít, còn bộ đội Hưng Yên gồm ở tỉnh và huyện chưa đủ vũ khí đánh công kiên, tiêu diệt quân địch có công sự phòng ngự vững chắc. Nên phải tìm tòi kiếm cách đánh, giải đáp được bài toán diệt được địch trong công sự, mà ta thì bớt thương vong ỉà vấn đề đặt ra trước lực lượng vũ trang Hưng Yên cũng như Khoái Châu lúc đó. Nếu không, Hưng Yên sẽ bị bế tắc, không hoàn thành được nhiệm vụ.


Thế rồi bài toán rất khó này cũng được giải đáp. Mở đầu bằng trận tiêu diệt căn cứ hậu phương của binh đoàn cơ động số 3 tại thị trấn Bần Yên Phú của bộ đội Hưng Yên vào đêm 10-5-1953. Trận đánh này ta rất ít thương vong, tiêu diệt gần 1 tiểu đoàn địch và cả căn cứ hậu phương của GM3, bắt hơn 100 tù binh, thu hơn 300 súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự.


Trận này dưới sự chỉ huy của Tỉnh đội trưởng Võ An Đông, có các đại đội 25, 27, 29 của tiểu đoàn 58 tham chiến.

Tôi tìm hiểu khá cặn kẽ về chiến công to lớn này, đặc biệt là tìm hiểu cách đánh, sự tiến hành chuẩn bị... Lúc này tôi mừng vui vô hạn ngoài sức tưởng tượng, vì ta đã tiêu diệt gọn địch ở vùng địch hậu sâu có hệ thống phòng ngự vững chắc liên hoàn, quân số đông với sự chỉ huy chặt chẽ. Trận này ta lại không sử dụng chiến thuật công kiên mà sử dụng chiến thuật mật tập, một cách đánh rất mới mẻ đầy sáng tạo.


Tôi nghĩ đây là khả năng mới, một đáp số giúp Khoái Châu thanh toán những đồn binh của địch còn lại.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:24:13 am
Trong lúc Huyện ủy Khoái Châu cùng Huyện đội đang say sưa thông báo chiến thắng trận Bần Yên Phú và tính toán đến việc tiêu diệt các đồn địch còn lại, giao cho ban chỉ huy đại đội địa phương huyện tranh thủ học tập cách đánh mới này. Huyện ủy cũng ra chỉ thị cho các xã kế cận tiếp tục siết chặt vòng vây ở 6 điểm địch còn chiếm đóng để chờ bộ đội cấp trên về hiệp đồng tác chiến.


Cùng thời điểm này, Bộ chỉ huy tỉnh đã thông báo, chuẩn bị đánh đồn Đào Viên. Đồn này có hai trung đội bảo an làm nhiệm vụ bảo vệ quận hành chính Khoái Châu, cũng là lực lượng bảo vệ đường 39 giữa Lực Điền với Trương Xá. Sự bất ngờ về quyết định này đến quá sớm với chúng tôi.


Rồi Phạm Du, đại đội trưởng đại đội 25 đến hiệp đồng cùng huyện đội chuẩn bị. Đêm 19 rạng ngày 20-6-1953, trận đánh được thực hiện. Cuộc chiến đấu diễn ra rất nhanh, quân ta tuyệt đối an toàn, diệt và bắt gọn địch.


Ngày hôm sau, tôi gặp đồng chí Tống Đăng Bổn, huyện đội trưởng, cùng đi chỉ huy và giải quyết hậu quả trận đánh. Đồng chí Bổn hồ hởi kể cho tôi nghe toàn bộ diễn biến trận đánh, rồi kết luận: Nếu công phu học tập thì đại đội 32 của ta cũng thực hiện được, nhưng trước mắt cần xin được tham dự để theo học tập. Tôi hoàn toàn nhất trí đề nghị này.


Ít ngày sau, cuộc tổng kết trận đánh được thực hiện. Những cuộc tổng kết rút kinh nghiệm như thế này là tác phong cúng là cách huấn luyện tốt nhất của bộ đội Hưng Yên đã từng làm. Đại diện của Huyện ủy, Huyện đội được tham dự. Chúng tôi càng tin vào cách đánh này và đề nghị với tỉnh đội trưởng Võ An Đông, chính trị viên Lê Đức Thịnh cho bộ đội Khoái Châu cùng tham gia chiến đấu ở các trận tiếp theo trong địa bàn Khoái Châu.


Đề nghị này được chấp nhận, rồi các trận diệt đồn Phương Trù ngày 10-7-1953 (ngày hôm sau, bốt Vua Bơi tháo chạy, khu trung tâm huyện được giải phóng), trận Vân Trì đêm 15 rạng 16-8-1953, trận Thiết Trụ (lần thứ 2) ngày 9-11-1953. Những trận hiệp đồng chiến đấu này, bộ đội Khoái Châu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo toàn gần như trọn vẹn lực lượng của mình.


Cùng thời gian này, những trận địch đến càn quét tại các xã Tân Dân, Phùng Hưng..., những trận du kích ta bao vây đánh đồn địch trên đường 39, đê sông Hồng diễn ra liên tục.

Bẵng đi một thời gian từ tháng 11-1953 (do bộ đội tỉnh phối hợp với chiến dịch Điên Biên Phủ ở các huyện phía bắc) cho đến 26-3-1954, mới tiếp tục trận tiêu diệt Nghi Xuyên. Đồn này thuộc địa phận xã Trí Tân nằm ở tây nam huyện, trên đê sông Hồng, có một đại đội Âu Phi chiếm đóng, thuộc hệ thống chỉ huy khu chiến (tỉnh Hà Đông) của địch. Nó có nhiệm vụ khống chế vùng tây nam Khoái Châu, bảo vệ chiến tuyến sông Hồng từ Phương Trù xuống Ngọc Đồng huyện Kim Động. Nơi đây, chúng còn thí nghiệm cuộc dồn dân vào ở tập trung quanh đồn làm lá chắn bảo vệ và là nơi để bắt phu, bắt lính (kiểu dồn dân này chúng đã thực hiện ở dọc sông Đáy thuộc tỉnh Hà Đông). Trận đánh này tôi tham dự từ lúc chuẩn bị tới khi kết thúc. So với những lần đã từng trực tiếp chỉ huy, hoặc thông qua phương án tác chiến của cấp dưới, tôi thấy mình còn nhiều sơ suất. Ở đây, sự chu đáo trong các khâu công việc từ trinh sát xác lập phương án, phân công giao nhiệm vụ cho cấp dưới, tập luyện chiến đấu... tôi thấy những động tác của đồng chí tỉnh đội trưởng rất cụ thể, nhất là khâu thảo luận dân chủ về cách đánh trên sa bàn, từ động tác mở cửa đến động tác hiệp đồng. Đồng chí tỉnh đội trưởng còn trực tiếp đi trinh sát, kiểm tra trước khi chiến đấu. Vì vậy khi thực hành chiến đấu, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54 Nguyễn Quốc Chiền, đại đội trưởng đại đội 27 Trần Tòng đã hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy đánh nhanh gọn cái đồn này chưa đầy 10 phút, ta bắt được 25 tù binh, thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng quân sự. Bên ta có trung đội trưởng Xuân và 1 chiến sĩ khác bị thương nặng.


Tôi ở mũi phía bắc trận đánh có nhiệm vụ bao vây, tiêu diệt và bắt sống những tên chạy trốn và chỉ huy dân quân du kích các xã Liên Khê, Đại Tập, Đông Kính thu dọn chiến trường. Công việc diễn ra rất nhanh gọn.

Sau trận đánh Nghi Xuyên, tôi gặp tiểu đoàn trưởng 664 Lê Duy Mật và chính trị viên Phan Huy Thứ tại nơi trú quân xã Đại Hưng. Tôi hồ hởi tường thuật lại trận đánh đã toàn thắng với thời gian rất nhanh gọn bằng chiến thuật mật tập rất mới mẻ này. Anh Mật rất hoan nghênh chiến thắng này nhưng còn nhiều băn khoăn, chưa thật tin tưởng vào lối đánh mật tập của bộ đội Hưng Yên.


Chúng tôi không tranh luận vì tôi hiểu tiểu đoàn 664 và Trung đoàn 42 lúc đó thường hay sử dụng chiến thuật công kiên hoặc kết hợp với nhân mối nên chưa hình dung hết lối đánh mật tập có kết quả của bộ đội Hưng Yên.


Thế là trên dọc đê sông Hồng thuộc Khoái Châu chỉ còn đồn Phương Trù địch mới chiếm đóng lại. Đầu năm 1954, ở đường 39 địch còn duy trì lực lượng hương dũng thuộc thôn Cao Quán.

Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội và dân quân du kích Khoái Châu còn tiếp tục nhiều trận đánh phục kích ở xung quanh đồn Phương Trù và đường 39 thuộc các xã Hồng Tiến, Đồng Tiến, Dân Tiến, nơi địch bắt buộc phải qua lại bảo vệ tuyến giao thông phía nam Hưng Yên của chúng.


Thời gian này, huyện Khoái Châu đã cơ bản hết đồn giặc chiếm đóng, các trận càn quét lớn của địch cũng không còn diễn ra. Chiều theo nguyên vọng đang say sưa lập công của lực lượng vũ trang huyện, xã, Huyện ủy đã xây dựng và bổ sung một đại đội giúp tỉnh làm nhiệm vụ độc lập tác chiến ở phía đường sắt Hưng Yên. Đồng thời tạo điều kiện cho dân quân du kích các xã tiếp tục đến các huyện phía bắc tỉnh đánh địch lập công. Lúc này, Khoái Châu còn mở các chiến dịch sử dụng sức mạnh quần chúng làm công tác địch vận bằng hình thức đi tìm chồng con còn trong quân đội địch bỏ ngũ trở về. Đây là thời kỳ phong trào chiến tranh nhân dân và hiệu quả chiến đấu của Khoái Châu được nâng lên đỉnh điểm. Chỉ riêng không đầy 10 tháng đã xóa sổ 5 đồn binh kiên cố của địch từ đại đội tới tiểu đoàn. Điều đáng mừng là đại đội địa phương của huyện đã trở thành thiện chiến, trong chiến đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đã nhân lên thành hai đại đội giúp cấp trên mở rộng lực lượng.


Qua các trận đánh bằng mật tập tại Khoái Châu, tôi có suy nghĩ đây là sự sáng tạo rất đặc biệt, có tính khoa học cao ở thời điểm Hưng Yên lúc đó. Có thể nói đây là sự vận dụng rất tài tình luận điểm quân sự của ông cha ta "dĩ đoản binh chế trường trận", "lấy ít thắng nhiều", "lấy nhân nghĩa làm gốc" để thắng kẻ thù. Cách đánh này giúp chúng ta thu nhiều vũ khí, dồn hẹp địa bàn chiếm đóng của địch, làm giảm đi những xương máu của chiến binh đôi bên.


Đảng bộ, chiến sĩ, nhân dân Khoái Châu biết ơn Ban lãnh đạo của tỉnh và những người đã sáng tạo ra lối đánh giặc tuyệt vời này.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:26:02 am
Đảng bộ Khoái Châu với việc chấp hành nghị quyết của Tỉnh ủy, triệt để giảm tô như thế nào?

Cuối tháng 7-1953, Tỉnh ủy họp hội nghị mở rộng bàn việc thực hiện chủ trương triệt để giảm tô ở các huyện nhưng tập trung vào những nơi là vùng căn cứ du kích.

Ở Hưng Yên, tất cả địa chủ lớn, những tên có tội ác đều đã chạy theo giặc vào cư trú tại đô thị địch chiếm đóng. Ta đã tạm cấp ruộng đất cho nông dân sử dụng. Vậy hình thức đấu tranh nên như thế nào cho phù hợp?

Những ý kiến này được thảo luận dân chủ, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến của Bí thư Tỉnh ủy Thái Tiệm (quê Thái Bình). Vấn đề nổi lên là phải có tư tưởng kiên quyết đứng về phía nông dân, đấu tranh không khoan nhượng với địa chủ, thực hiện giảm tô, truy tô, giảm tức. Thời gian thực hiện từ tháng 8 đến tháng 9-1953.


Sau khi về, tôi họp Huyện ủy ra nghị quyết, những ý kiến nói trên được bàn bạc kỹ. Chúng tôi xác định đây là cuộc vận động có tính giai cấp nhưng phải bảo đảm sự đoàn kết nông thôn để tập trung sức lực toàn dân vào đánh giặc. Qua cuộc vận động này, phải tạo được sự phấn khởi mới trong giai cấp nông dân và nông thôn để thêm sức người, sức của cho kháng chiến. Nghị quyết được phổ biến ngay đến các xã, Thường vụ Huyện ủy phân công phó bí thư Sơn, ủy viên thường vụ Thanh đang phụ trách nông hội trực tiếp theo dõi chỉ đạo thực hiện. Sau đó, tôi đi dự cuộc đấu tranh thí điểm của tỉnh, do Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo. Những người được đến tham quan học tập là các tỉnh ủy viên, các bí thư huyện ủy, các ban, ngành của tỉnh. Địa điểm tại thùn Phú Mãn, xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ. Việc này giao cho chi ủy xã thực hiện. Đối tượng đấu tranh bị quy là địa chủ lại là hai cán bộ Huyện ủy đương chức là phó bí thư Huyện ủy và huyện ủy viên phụ trách thông tin tuyên truyền, đều quê ở xã Phan Sào Nam. Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh là lên án địa chủ bóc lột hà khắc. Những người lên kể tội địa chủ đều được bồi dưỡng khá kỹ nên họ nói rất thông những "bài bản" đã thuộc lòng. Bí thư xã làm nhiệm vụ chủ tọa phiên đấu tố này vốn là cấp dưới của hai "địa chủ", cũng phải làm theo bài bản của bí thư Tỉnh ủy đang ngồi gần bàn của ban lãnh đạo cuộc đấu tố để chỉ đạo chặt chẽ.


Sau 1 giờ 30 phút, cuộc đấu tố "vừa là đối kháng, vừa là đồng chí" kết thúc với một biên bản đã thảo sẵn, các vị chủ tọa cùng hai "địa chủ" đều ký tên phía dưới.

Suốt đêm hôm đó, tôi trằn trọc không sao ngủ được vì cảnh tượng đấu tố vừa diễn ra lúc ban ngày. Nhiều câu hỏi đặt ra trong tôi, nhắc nhở tôi phải cố gắng phân tích, chắt lọc để nắm chắc bản chất của vấn đề, hiểu cho được đâu là đúng, đâu là sai, đừng để vàng thau lẫn lộn trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt ở nông thôn lúc này.


Ngày hôm sau, dưới sự chủ trì của bí thư Tỉnh ủy, hội nghị rút kinh nghiệm được tổ chức. Mỗi bí thư Huyện ủy đều phải nói lên thu hoạch của mình qua cuộc đấu tranh thí điểm này để củng cố lập trường giai cấp, lấy đó làm mẫu về địa phương chỉ đạo, tránh được những sai lầm hữu khuynh. Nhiều người rất ngại nói sự thật về nhận thức của mình. Còn tôi tuy không tán thành cách làm này nhưng cũng rất thận trọng trong phát biểu.


Trên đường về, tôi suy nghĩ mông lung về ý đồ chỉ đạo của bí thư Tỉnh ủy những ngày sắp tới của cuộc đấu tranh này. Tôi không thông với cách làm vừa diễn ra và rất lo khi về nói gì với Đảng bộ, trong khi Huyện ủy đã có nghị quyết không giống chỉ đạo của cuộc thí điểm này.


Khi tôi về Khoái Châu thì cuộc đấu tranh giảm tô đã diễn ra ở nhiều xã. Sau khi nghe đồng chí Thanh báo cáo, tôi thấy có một số vấn đề cần nghiên cứu kỹ để chỉ đạo cuộc đấu tranh cho phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện hữu khuynh, đồng thời cũng phê phán những hiện tượng tả khuynh. Tôi đã nghe kỹ một trường hợp đấu tố địa chủ ở xã Tân Dân đã đem đấu tố ông H một địa chủ thuộc loại vừa, có con là cán bộ quân đội và gia đình này đã là nơi giúp bộ đội trú quân. Tôi cũng không quên kiểm tra lại những địa chủ cỡ lớn ở các ấp Cự Hiên, Cò Cò thuộc xã An Vĩ, ở các ấp thôn An Dân, Bình Dân, Dương Trạch, Thọ Bình..., thấy những ruộng đất nơi đây đều đã chia cho nông dân cày cấy không phải nộp tô.


Tôi lại tiếp tục họp Huyện ủy mở rộng, phân tích lại tình hình đang diễn ra, thấy cần phải khắc phục ngay hiện tượng tả, phải hiểu và làm đúng cuộc vận động giảm tô mà Huyện ủy đã có nghị quyết.

Sau cuộc họp này, tư tường chỉ đạo của Huyện ủy đã nhanh chóng đến các xã, mọi việc làm đã tuân theo nghị quyết của Huyện ủy, nhưng cũng đáng tiếc vẫn còn một vài nơi còn đấu tố nhưng về cơ bản tư tưởng tả khuynh đã được khắc phục.


Sau đó, Khu ủy Tả Ngạn phát hiện sai sót trong chỉ đạo giảm tô của Tỉnh ủy Hưng Yên. Đến ngày 14, 16-8, về dự hội nghị sơ kết giảm tô của tỉnh mở tại Ân Thi có bí thư Khu ủy Đỗ Mười. Trong quá trình hội nghị, tâm tư của tôi lúc này rất băn khoăn, lo lắng, vừa tìm cách bảo vệ nghị quyết của Huyện ủy Khoái Châu, vừa tìm cách trình bày cho phù hợp về ý kiến của mình, thì rất may là bộ đội Hưng Yên trong đó có đại đội 32 của huyện đã tiêu diệt đồn Vân Trì, diệt và bắt sống gần một tiểu đoàn hỗn hợp của địch. Tôi không kịp phát biểu trong hội nghị, được Thường vụ Tỉnh ủy cho về ngay huyện để lãnh đạo địa phương khuếch trương chiến thắng và đánh địch phản ứng trả thù.


Rồi ít ngày sau, Thường vụ Huyện ủy Khoái Châu được đón tiếp Bí thư Khu ủy Tả Ngạn Đỗ Mười đến kiểm tra. Nghe chúng tôi báo cáo những việc đã làm, Bí thư Khu ủy đánh giá những ưu, khuyết điểm và biểu dương Khoái Châu đã làm đúng đường lối của Đảng, hoàn thành tốt công cuộc vận động giảm tô mùa thu 1953 của cấp trên.


Tôi rất sung sướng với những kết luận của Khu ủy về việc làm của mình và cũng rất biết ơn sự sáng suốt của cấp trên.

Sau đó, đồng chí Thiết bí thư Tỉnh ủy được điều động về khu và Thường vụ Tỉnh ủy đã có bản báo cáo xúc tích thẳng thắn do đồng chí Lê Quý Quỳnh thay mặt Thường vụ Tỉnh ủy đọc, đã nói được những thắng lợi và những sai sót trong cuộc vận động triệt để giảm tô này và Khoái Châu được vinh dự báo cáo điển hình.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:26:35 am
Một việc làm đầy ý nghĩa

Sau trận diệt đồn Thiết Trụ lần thứ hai, ngày 9-11-1953, tất cả các cán bộ lãnh đạo từ huyện đến xã của Khoái Châu đến đây để tận mắt nhìn thấy một trong những trận đánh đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch, bắt nhiều tù binh mà đại đội 27 của tỉnh, đại đội 32 của huyện không bị thương vong một người; đồng thời tìm hiểu cái lò sát sinh đã diễn ra ở đây từ năm 1947 đến nay.


Đồn binh Thiết Trụ xây dựng ngày 23-4-1947, trước do quân đội Liên hiệp Pháp đồn trú, sau đó là quận hành chính cai quản địa phận Văn Giang, bắc Khoái Châu. Chức năng của đồn Thiết Trụ là bảo vệ Văn Giang, tây bắc Khoái Châu, đồng thời bảo vệ quận hành chính khu vực này. Suốt quá trình chiếm đóng, bọn địch ở đây rất man rợ, cướp đoạt bóc lột nhân dân quanh vùng. Quận trưởng Giáp Ngọc Phúc là tên việt gian khát máu đã biến nơi đây thành lò sát sinh. Kế đến là Đinh Văn Lực (nguyên là đại đội phó đại đội địa phương Văn Giang). Tên phản bội này làm tay sai cho giặc rất độc ác, đã một thời làm đồn trưởng ở đây lại tiếp tục gây tội ác chẳng kém thời Giáp Ngọc Phúc. Đặc biệt nó rất hận thù những người đồng đội, khi đi càn, bắt được cán bộ chiến sĩ ta là lập tức bắn giết ngay. Bởi vậy đến tháng 11-1953, cái bãi tha ma (gọi là bãi nhãn) rất rộng dài này đã dày đặc những nấm mồ người yêu nước, số đông là đảng viên, cán bộ, chiến sĩ ta bị sa vào tay chúng.


Sau khi đi thị sát trực tiếp và nghiên cứu toàn bộ khu vực bố trí phòng thủ của địch, đoàn chúng tôi dừng lại bãi chôn người. Tại đây, các đồng chí lãnh đạo xã Mễ Sở đã tường thuật khá đầy đủ tội ác của giặc. Ngoài việc thường xuyên thảm sát những người bị chúng bắn bằng súng đạn, chúng còn đem chôn sống hoặc đem thả sông. Chúng bắn giết tập thể rồi chôn chung nhiều người vào một hố. Nhiều trường hợp chúng còn đóng đinh vào đầu rồi mới đẩy xuống hố, hoặc bắt đào hố tự chôn mình...


Đứng trước cảnh tượng đau thương vô hạn này, chúng tôi xúc động nghiêng mình tưởng nhớ những người đã khuất. Tôi hô mọi người đứng nghiêm rồi cất cao giọng báo cáo trước hương hồn những người đã khuất rằng: Các đồng chí, đồng đội và nhân dân huyện ta đã diệt nhiều đồn giặc, báo thù rửa hận cho các chiến sĩ, đồng bào ở đây bằng các trận liên tiếp diệt nhiều đồn địch và noi đây đã hai lần kẻ thù phải đền mạng, và hứa rằng số phận của những tên việt gian độc ác như Giáp Ngọc Phúc và Đinh Văn Lực sẽ phải đền tội.


Đi trong đoàn có đồng chí Mạnh Hồng, huyện ủy viên quê ở Thái Bình, mới được Tỉnh ủy điều từ Ty văn hóa về bổ sung cho Khoái Châu. Đồng chí Mạnh Hồng nói: "Việc trả thù cho người đã khuất như thế là xứng đáng, là nhiệm vụ chính trị rất đáng giá. Nhưng nếu cứ để đồng chí, đồng bào ta nằm ở cái bãi chôn người vô chủ này, thì chúng ta sao nỡ bỏ qua, còn hương hồn người đã khuất sao mà an giấc ngàn thu được". Tôi đề nghị đồng chí Mạnh Hồng có sáng kiến gì thì phát biểu. Đồng chí Mạnh Hồng đưa ra phương án phải làm một cuộc đại lễ sang cát, lập một nghĩa trang có tầm cỡ xứng đáng để đón rước phần mộ những người ở đây về chôn cất thật chu đáo. Ý kiến này được mọi người trong đoàn đánh giá cao.


Huyện ủy Khoái Châu họp phiên bất thường, xác định việc xây dựng nghĩa trang là việc làm có ý nghĩa chính trị to lớn, là tình nghĩa sâu nặng với đồng chí, đồng bào đã hy sinh vì Tổ qucíc. Địa điểm nghĩa trang đặt ở thôn Thiết Trụ. Mọi việc giao hết cho ủy ban huyện và đồng chí Mạnh Hồng cùng xã Mễ Sở đứng ra thực hiện. Quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh, cùng ra sức thực hiện. Cho tới cuối quý I năm 1954, công việc hoàn thành. Cuộc đón rước các hài cốt liệt sĩ từ bãi nhãn về an nghỉ tại nghĩa trang diễn ra trang trọng, cảm động. Có hơn 100 đoàn đại biểu từ hai huyện Khoái Châu, Văn Giang đến viếng thăm với sự xúc động, nhớ thương vô hạn những người đã khuất.


Đến nay, ai đi qua con đê 199 từ dốc Thiết Trụ đến xã Cấp Tiến (nay là xã Đông Tảo) có một nghĩa trang rất trang trọng, mà phần mộ đều chỉ ghi là chiến sĩ vô danh, chính là nơi an giấc ngàn thu của đồng chí, đồng đội, đồng bào ta đã bị kẻ thủ sát hại.


Đầu tháng 4-1954, tôi được điều về Tỉnh đội nhận nhiệm vụ mới. Tại một cuộc liên hoan nhỏ nhẹ bàn giao công việc, tôi cảm ơn các đồng chí, đồng đội, đồng bào Khoái Châu giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ ở thời điểm có ý nghĩa lịch sử này.


Vợ chồng tôi cũng vô cùng biết ơn sự đùm bọc của các gia đình anh chị Ân, anh chị Lan, anh chị Điền và bà con trại Lạc Thủy, ấp Cự Yên, thôn Mãn Hòa, trong lúc chúng tôi hoạt động và sinh một cháu gái ở đây. Chúng tôi đặt tên là Thanh Thủy để kỷ niệm cháu ra đời tại thôn Lạc Thủy, nơi đầy ắp tình người.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:27:31 am
HUYỆN YÊN MỸ (HƯNG YÊN)
KHÁNG CHIẾN BỀN BỈ LÂU DÀI


ĐẤT VÀ NGƯỜI YÊN MỸ


VŨ VĂN TOÀN
(Tỉnh ủy viên - Bí thư Huyện ủy)


Theo cuốn "Đất Hưng Yên" của tác giả Mai Văn Hách (xuất bản năm 1968) thì mảnh đất Yên Mỹ được thành lập cách đây 113 năm. Vào đầu năm 1888, trong tiến trình cải cách hành chính của nhà Nguyễn, trên cơ sở cắt 6 tổng của huyện Khoái Châu, 2 tổng của huyện Mỹ Hào, 1 tổng của huyện Ân Thi, để lập ra huyện Yên Mỹ. Trải qua những biến thiên của lịch sử và sự bồi đắp của tự nhiên, huyện Yên Mỹ ngày nay có diện tích tự nhiên là 86,12km2, trong đó diện tích canh tác là 5854,1ha, có 17 xã, thị trấn và 87 làng với số dân 123.452 người. Nhân dân Yên Mỹ chủ yếu sống bằng nghề nông, trông lúa nước và hoa màu các loại. Trong huyện, đại đa số nhân dân theo đạo Phật, có 3 xứ đạo Thiên chúa: Xứ Thái Nội (xã Việt Cường), xứ Lực Điền (xã Minh Châu), xứ Bùi Xá (xã Trung Hòa). Yên Mỹ có nhiều đường giao thông quan trọng đi qua như: Đường 5, đường 39, đường 199, đường 206, đường 207, đường 200 và nhiều tuyến đường liên xã, liên huyện tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giao lưu hàng hóa của nhân dân trong vùng và các tỉnh bạn. Hệ thống sông ngòi của Yên Mỹ dọc ngang như những bàn cờ. Sông Bắc Hưng Hải, sông Cầu Treo, sông Hoan Ái, sông Kim Ngưu, sông Kênh Câu, sông Lư Giang góp phần bồi đắp và tưới tiêu cho đồng ruộng phù sa màu mỡ, hoa màu tươi tốt. Người dân Yên Mỹ luôn tự hào là mảnh đất "địa linh nhân kiệt" được cả nước biết đến với sự tôn trọng và đầy ngưỡng mộ. Chính mảnh đất nơi đây đã sản sinh ra nhà Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông, nhà thơ Đoàn Thị Điểm, Vũ Trọng Phụng, nhà sử gia Phạm Công Chứ, là quê hương của cố Tổng Bí thư Nguyễn Vãn Linh, nhà quân sự tài ba Trung tướng Nguyễn Bình, quê hương của 24 vị tiến sĩ đỗ khoa bảng được khắc ghi tên tuổi tại Vãn Miếu, Xích Đăng, Hưng Yên. Quá trình hình thành và phát triển của mảnh đất Yên Mỹ gắn liên với sự phát triển của liên văn minh sông Hồng. Những đình chùa cổ kính được các thế hệ người Yên Mỹ gìn giữ và tôn tạo từ đời này qua đời khác. Đã có 15 di tích được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng và vân hóa. Nhân dân Yên Mỹ có truyền thống cách mạng, văn hiến, cần cù lao động, thông minh sáng tạo, bằng mồ hôi, sức lực, trí tuệ và cả xương máu của mình để chống lại giặc dã, thiên tai. Truyền thống ấy như những nguồn mạch tạo thành những dòng chảy văn hóa đi từ thế hệ này đến thế hệ khác.


Mảnh đất Yên Mỹ xưa kia là một vùng lau sậy mênh mông, dân cư thưa thớt. Chính nơi đây là địa bàn tác chiến của nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật đã nhiều phen làm cho giặc Pháp khiếp vía kinh hồn.

Từ những năm đầu của thập kỷ 40, chi bộ đầu tiên ở Trung Hòa, Giai Phạm ra đời. Từ đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân bất chấp gian khổ hy sinh, vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, tranh đấu thiết lập chính quyền cách mạng. Đêm 12-3-1945, trước 5 tháng Cách mạng Tháng 8, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, ông Nguyễn Bình quê ở Bần Yên Phú, người con lỗi lạc của huyện Yên Mỹ chỉ huy tự vệ vùng ATK Bãi Sậy đã diệt đồn Bần Yên Nhân do thực dân Pháp lập ra để đàn áp phong trào Bãi Sậy từ đầu thế kỷ 20.


Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc đến khi kết thúc chiến tranh (19-12-1946 - 20-7-1954), Đảng bộ và quân dân Yên Mỹ đã phải cầm súng trực tiếp đối chọi với quân Pháp, không cân sức. Địch đã chiếm đóng các bốt Bần, Kênh Cầu, Từ Hồ, Lực Điền và xây dựng nhiều tháp canh, hương đồn, biến quân dân Yên Mỹ thành một huyện địch hậu, mà đen tối nhất là năm 1950 và năm 1951. Nhưng Đảng bộ huyện đã lãnh đạo quân dân Yên Mỹ vượt lên mọi hy sinh mất mát, đoàn kết, chiến đấu dũng cảm trên tinh thần "Đường 5 bất khuất, Bãi Sậy kiên cường". Đã có những trận vang dội như "Đòn gánh đánh Tây ở chợ Từ Hồ", mở đầu cho phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng Bắc Bộ; trận diệt căn cứ hậu phương của GM3 đêm 10-5-1953 ở Bần Yên Phú mở đầu cho chiến thuật "mật tập" của toàn tỉnh; các trận phá tháp canh hương đồn hồi cuối năm 1951 mở cơ sở cả vùng tây của huyện, rồi đến các trận đánh liên tiếp trên đường 5, đường 39, đê 199, v.v... nhân dân Yên Mỹ đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng quê hương, cùng cả nước làm nên một Điên Biên chấn động địa cầu.


Sau hòa bình, Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh. Hoàn thành thắng lợi công cuộc cải cách ruộng đất, xây dựng tổ đổi công, thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, bàng các phong trào thi đua "Sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, cờ Ba nhất", phong trào "3 ngọn cờ hồng" ở nông thôn, và tiếp tục cùng cả nước bắt tay vào thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc XHCN, chi viên giải phóng miền Nam, thực hiện đấu tranh thống nhất nước nhà. Do bị thua đau ở miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng bắn phá miền Bắc. Cùng với cả nước, quân và dân Yên Mỹ lại bắt tay vào cuộc chiến đấu. Với truyền thống "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", bằng các phong trào "3 sẵn sàng", "3 đảm đang", phong trào xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể "4 tốt", phong trào các cụ bạch đầu quân, Hội mẹ chiến sĩ, Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ gửi hàng ngàn thanh niên ưu tú ra mặt trận, ở hậu phương vừa tay cày, tay súng, tay búa, tay súng, vừa đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, vừa đóng góp hàng vạn tấn lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến. Phong trào phụ nữ 3 đảm đang thay chồng, thay con đi đánh giặc, vừa làm nên những cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ. Tự hào thay, chính trong những ngày gian khổ ấy, năm 1967, Yên Mỹ là huyện đầu tiên của tỉnh Hưng Yên đạt năng suất 5 tấn lúa 1 ha. Đội thủy lợi Trai Trang là đơn vị dẫn đầu phong trào làm thủy lợi. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ đã đóng góp gần 10 ngàn lượt người ra mặt trận, hàng vạn tấn lương thực, thực phẩm cho cuộc kháng chiến. Toàn huyện có 67 bà mẹ Việt Nam anh hùng và 2.100 liệt sĩ cùng 1.300 thương bệnh binh, 40 cán bộ tiền khởi nghĩa. Hàng vạn người được thưởng huân chương, huy chương các loại; xã Giai Phạm, xã Đồng Than được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ cùng cả nước tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tháng 4-1978, huyện Yên Mỹ sáp nhập với huyện Văn Giang thành huyện Văn Yên. Tháng 2-1979, huyện Văn Yên lại được chia thành 2 bộ phận: 14 xã sáp nhập với huyện Văn Mỹ thành huyện Mỹ Văn; 14 xã sáp nhập với huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang. Như vậy, huyện Yên Mỹ cũ được chia thành 2 bộ phận (12 xã về huyện Mỹ Văn, 5 xã về huyện Châu Giang).


Có thể nói sau 20 năm hợp nhất, với truyền thống cách mạng của mình, Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đã góp phần xứng đáng xây dựng huyện Mỹ Văn và Châu Giang trưởng thành vững mạnh trong thời kỳ đổi mới đất nước; đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 2 huyện Mỹ Văn và Châu Giang.


Ngày 01-9-1999, thực hiện nghị định số 60/CP của Chính phủ, huyện Yên Mỹ được tái lập trên cơ sở 12 xã của Mỹ Văn và 5 xã của Châu Giang chuyển về. Đảng bộ và nhân dân Yên Mỹ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, bắt tay ngay vào nhiệm vụ xây dựng và tái thiết quê hương. Chỉ sau thời gian hơn 1 năm tái lập, Yên Mỹ đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu kinh tế - xã hội: năng suất lúa đạt 12 tấn 1 ha/năm, sản lượng quy thóc đạt 61.751 tấn, bình quân lương thực 501kg/người/năm. Giá trị trên 1 ha canh tác/năm đạt 31,4 triệu đồng, thu nhập đầu người đạt 3,2 triệu đồng/năm, số hộ giàu chiếm 17,3%, số hộ có mức sống khá 73,7%, số hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) còn dưới 10%, không còn hộ đói. Trên 80% số hộ có máy thu hình, 100% số hộ dùng nước sạch, 20% số hộ có xe máy, 99% số hộ có nhà xây lợp ngói, trong đó có 10% kiên cố cao tầng. Nhu cầu ăn ở, đi lại, học hành, chứa bệnh, đối tượng chính sách và hưởng thụ văn hóa được nâng lên rõ rệt. Bước đầu hình thành 5 tụ điểm kinh tế (Lực Điền, Tân Việt, thị trấn Yên Mỹ, Giai Phạm, Từ Hồ). Hầu hết đường làng ngõ xóm được bê-tông hóa và xây lát bằng vật liệu cứng. 53,5% số phòng học xây dựng kiên cố cao tầng, gần 10km kênh mương được bê-tông hóa. Vận động nhân dân chuyển vùng đổi thửa, gắn với việc xây dựng vùng chuyên canh tập trung. Hình thành phát triển kinh tế trang trại, khôi phục làng nghề truyền thống. Hoàn thiện củng cố 14 trạm thuỷ nông và 43 trạm bơm dã chiến phục vụ sản xuất. Áp dụng tốt những tiến bộ sinh học vào sản xuất, chăn nuôi. Đưa trên 30% diện tích lúa giá trị kinh tế cao vào đồng ruộng. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển tích cực, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại chiếm tỷ trọng cao. Công tác an ninh quốc phòng luôn được củng cố và tăng cường. An ninh nông thôn được giữ vững. Từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Tuyên truyền vận động nhân dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa. Toàn huyện đã xây dựng được 32 trên tổng số 87 làng được công nhận là làng văn hóa. Công tác xây dựng Đảng đặc biệt được quan tâm, phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực. Kết quả ấy đã phản ánh rõ bức tranh toàn cảnh của Yên Mỹ để chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới trong sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức, và đi lên cùng tiến trình chung của lịch sử.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:29:12 am
MỘT SỐ TRẬN ĐÁNH CỦA NGHĨA QUÂN BÃI SẬY Ở YÊN MỸ


VŨ THANH SƠN
(Trung tâm UNESCO bảo tồn
và phát triển văn hóa Bắc Bộ)


Khi thành Hưng Yên thất thủ (28-3-1883) và thành Hải Dương thất thủ (10-8-1883) thì vùng đất Yên Mỹ ngày nay còn thuộc đất huyện Đường Hào (Hải Dương), đất Văn Giang (Bắc Ninh), đất Đông Yên, Thiện Thi (Hưng Yên)1 (Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, cắt đất các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên thành lập 4 huyện mới, trong đó có Yên Mỹ ) thì nhân dân trong huyện đã theo Đổng quân vụ Đinh Gia Quế2 (Theo dân gian, thường gọi ông là "Đổng Quế") người thôn Thọ Bình, huyện Đông Yên dựng cờ "Nam Đạo Cần vương - Bình Tây phạt tội", lập căn cứ chống Pháp ở Bãi Sậy và theo Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật quê ở làng Xuân Dục, huyện Đường Hào từ quan khởi nghĩa đánh Pháp.


Từ năm 1883, tất cả các làng xã đều là vùng đất của nghĩa quân. Nơi mạnh là các làng chiến đấu trong hào, ngoài lũy như Liêu Trung, Dịch Trì, Nguyên Xá, Tam Trạch, Phạm Xá, Tráng Võ, Cảnh Lâm, Tổ Hỏa, Thung Linh, Nhị Mễ... Các làng khác đều ủng hộ lương thực, tham gia nghĩa quân, đóng thuế cho nghĩa quân, điều tra các hoạt động của địch, báo cho nghĩa quân. Về sự kiện này, Lịch sử Đảng bộ xã Tân Việt viết: "Tại khu vực tỉnh nhà có phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do ông Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Tân Việt là một căn cứ của nghĩa quân. Nhân dân Tân Việt đã tự nguyên đứng dưới lá cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Bãi Sậy. Nhiều người là tướng lĩnh tin cậy của ông. Ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu anh dũng chống quân đội thực dân Pháp và quân đội nhà Nguyễn, làm cho chúng bao phen khiếp sợ".


Yên Mỹ giữ vị trí rất quan trọng; là khu đệm giữa vị trí Bãi Sậy với vùng Pháp chiếm đóng ở Hải Dương. Ngay tại Yên Mỹ, quân Pháp đóng các đồn Bình Phú, Thụy Lân, Lực Điền, nhưng chúng chỉ dám ra khỏi đồn khi có quân từ Hải Dương, Hưng Yên đến chi viện.


Trong hàng ngũ nghĩa quân Yên Mỹ xuất hiện nhiều tướng lĩnh như Đề đốc Nguyễn Văn Sung (Dịch Trì), Đốc binh Vũ Văn Đồng (Tam Trạch), Đốc binh Nguyễn Văn Cấp (Thung Linh), Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu (Liêu Trung), Lãnh binh Nguyễn Đức Trạch (Dịch Trì), Lãnh binh Nguyễn Văn Mậu (Nguyên Xá), Đốc binh Đoán (Cảnh Lâm), Lãnh Tuyển (Thụy Trang), Lãnh binh Phạm Văn Phát (Phạm Xá), Quản Chuyên (Thụy Trang), Quản Ngữ (Nội Tây)...


Trong 10 năm (1883 - 1892), tại Yên Mỹ đã diễn ra nhiều trận đánh. Qua một số tài liệu ít ỏi của Pháp để lại, ta còn biết một số trận như sau:

* Trận đánh Bình Phú lần thứ nhất

Đồn Bình Phú là đồn tiếp giáp với căn cứ Bãi Sậy. Đồn có 12 lính do 1 cai người Pháp chỉ huy. Nghĩa quân cho người đi lính ở đồn để làm nội ứng. Khi được tin báo thời cơ đánh đồn, Đinh Gia Quế là một tướng của nghĩa quân người làng Bình Dân đóng giả con gái tới tán tỉnh lính, rồi bất ngờ cướp súng. Nghĩa quân cải trang đi chợ lập tức xông vào đồn giết lính, cướp ít nhất là 11 súng bắn nhanh, đốt đồn1 (Theo Miribele: "Tỉnh Hưng Yên").


* Trận đánh Bình Phú lần thứ hai

Tháng 8-1885, Đinh Gia Quế thất trận ở bến đò Vạn Phúc, quân Pháp và Hoàng Cao Khải đem đại quân đánh phá Bãi Sậy. Chánh lãnh binh Nguyễn Đình Tính chia quân đánh các đồn, trong đó có đồn Bình Phú. Quân Pháp vội vã lui quân về cố thủ các đồn. Trận này nghĩa quân diệt 10 lính, thu 6 súng.


* Trận đánh bảo vệ căn cứ Đông Yên Mỹ - Nam Ân Thi

Trong năm 1885, Lãnh Chủ, Lãnh Điếc ở căn cứ Thủy Trúc, Cù Tu... (Ân Thi, Cảnh Lâm, Tổ Hỏa, Tử Dương (Yên Mỹ) đã kiên cường chiến đấu đánh bật Pháp ra khỏi các đồn Đống Tanh, Đông Cao (Cảnh Lâm).


* Đốc Sung hạ đồn Thụy Lân

Cuối năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật điều Đốc Sung về đóng ở Liêu Trung để bảo vệ phía đông căn cứ Bãi Sậy và đường 200 từ Hải Dương - Ân Thi - Câu Hầu - ơâu Treo - Đò Đừng - Bình Phú - Dốc Thiết, ông đã cùng Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu xây dựng các căn cứ Liêu Trung, Dịch Trì, Tráng Vũ, Phạm Xá (bên kia sông Nghĩa Trụ là đồn Thụy Lân). Pháp cho cai Poinnis về tăng cường cho đồn Thụy Lân. Đốc Sung cùng Lãnh binh Phạm Văn Phát đã nhổ bốt Thụy Lân mở thông đường 200.


* Đánh đồn Bình Phú lần thứ ba

Đêm 25-3-1888, một thủ lĩnh nghĩa quân chỉ huy một toán quân, tiêu diệt hoàn toàn đồn Bình Phú1 (Việt Nam cách mạng cận sử của Phạm Văn Sơn, Sài Gòn xuất bản).


* Đánh đồn Bình Phú lần thứ tư

Tháng 4-1888, nghĩa quân từ Văn Giang kéo tới cùng lúc tấn công cả ba đồn Bình Phú, Thung Linh, Lực Điền. Ba đồn này do lính Hoàng Cao Khải đóng. Tại đồn Bình Phú, 20 nghĩa quân giả làm cu-li, giấu súng trong người, kéo vào đồn làm việc, rồi bất ngờ cướp súng của lính coi phu, 2 tên chống lại bị giết chết. Nghĩa quân cướp ít nhất là 9 khẩu súng và nổi lửa đốt đồn. Quân Pháp đóng ở đồn Lực Điền tới cứu viện bị chặn đánh dữ đội, 3 lính cơ chết, 3 tên bị thương, thu thêm một số súng. Nghĩa quân cũng mai phục gần đồn Thung Linh, bọn lính vừa ra khỏi đồn đã bị đánh phủ đầu, giết chết một số tên. Bọn còn lại hốt hoảng vứt súng chạy vào đồn.

Sau trận này, quân Pháp phải kiến nghị tăng số lính ở mỗi đồn lên 50 - 60 tên1 (Báo "Le Courier de Hai Phong" số thứ năm ngày 5-4-1888).


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:30:42 am
* Trận Liêu Trung ngày 12-11-1888

Đêm 11-11-1888, Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật nhận được tin sáng 12-11-1888, Hoàng Cao Khải, tên đồn trưởng đồn Mỹ Hào Louis Ney đem quân đến gặt lúa của nghĩa quân và của dân ở Liêu Trung. Ông lập tức điều động quân của Hai Kế, Ngô Quang Huy, Đốc Sung, Đốc Đồng, Lãnh Mậu, Lãnh Tháu, Lãnh Phát với quân số 800 người, trang bị hơn 400 súng đến đánh Hoàng Cao Khải. Quân ta mai phục ở cánh đồng Liêu Trung, Câu Treo, Thư Thị, đoạn đường 200 từ Cầu Treo đi Cầu Hầu, Phố Nối và đường tắt từ Liêu Trung đi Thứa. Lệnh của Nguyễn Thiện Thuật là bắt sống Hoàng Cao Khải đưa về căn cứ tế vong hồn các quân sĩ bị quân Pháp, quân Hoàng Cao Khải giết hại.


Quân ta mai phục vừa xong thì quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải tới. Súng lệnh vừa nổ thì quân ta xông vào bắt Khải, nhưng Louis Ney và quân Pháp hộ tống Khải chạy về chùa Liêu Trung. Đề Vinh trông thấy tên mặc nam phục, tưởng là Khải nên bắn chết, nhưng đó là bang tá Nguyên Hữu Hào. Quân ta đuổi theo Hoàng Cao Khải, bắt được Louis Ney chém chết tại trận. Khải chạy vào chùa Liêu Trung, lột quần áo của người đánh giậm, chui qua lỗ chó chui chạy về nhà thờ Sặt. Quân ta đuổi đến nơi thì cha cố đưa Khải chạy về Hải Dương.


Trận này quân ta giết chết 31 lính Pháp, bắn bị thương 16 tên, thu 23 súng các loại.

Trận đánh này làm rung động Nghị viện Pháp, báo chí Pháp chất vấn Chính phủ Pháp.

Vài ngày sau, Hoàng Cao Khải đem quân lê dương và quân 5 tỉnh đến trả thù, đốt, san bằng địa 28 làng, giết hàng trăm người1 (Theo "Lính khố xanh An Nam ở Bắc Kỳ" của Dilleman, "Tỉnh Hưng Yên" của Miribele, Hồi ký của Hoàng Cao Khải, Báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương, Lịch sử 80 năm chống Pháp và Lịch sử cận đại Việt Nam viết trận này ở làng Trai Trang, tổng Sài Trang là sai. Mả tên Louis Ney ở thị trấn Mỹ Hào cũng ghi Ney chết ở Liêu Trung ngày 12-11-1888, mả này mới bị phá năm 1995).


* Tấn công quân Pháp ở Lực Điền

Ngày 3-3-1889, tổ điện báo của quân Pháp do tên cai Mourey chỉ huy 5 dân binh mắc dây điện thoại từ Kẻ Sặt đến Lực Điền đã bị một lực lượng gần 100 nghĩa quân tấn công, cắt đứt dây điện thoại, bao vây, khống chế lính ở đồn Lực Điền không ra cứu được2 (Báo "Tin tức Hải Phòng" ngày thứ năm 7-3-1889).


* Trận đánh ở Hoàng Trạch - Bình Phú

Ngày 20, Đốc Sung, Lãnh Mỹ chỉ huy 200 quân đánh quân của cai Soler ở Hoàng Trạch (Khoái Châu). Soler đem quân chạy vào đồn Bình Phú. Đốc Sung, Đốc Mỹ đuổi theo tấn công đồn Bình Phú, chặn đánh quân ở đồn Lực Điền đến cứu viện. Đây là trận đánh đồn Bình Phú Tân thứ năm3 (Miribele - tài liệu đã dẫn).


* Trận đánh đồn Bình Phú lần thứ 6

Ngày 6-4-1889, viên Vệ binh chính Soler chỉ huy đồn Bình Phú đi vắng, giao cho một tên cai người Việt trông nom. Chánh Tính, Lãnh Điển chỉ huy 50 nghĩa quân tiến đánh, cướp 10 súng các loại4 (Theo Masson Souvenirs l'Annam du Tonkin).


* Nghĩa quân đánh bại quân Pháp tấn công vào Liêu Trung

Một đạo quân 225 người vừa lê dương vừa vệ binh dân sự đến bao vây làng Liêu Trung, tổng Liêu Xá. Không rõ lực lượng nghĩa quân có bao nhiêu, do thủ lĩnh nào chỉ huy, nhưng nghĩa quân từ sau những cụm tre dày đặc cách 100 mét bắn ra, quân Pháp mở nhiều đợt tấn công nhưng không vào được làng.


Với mưu đồ tiêu diệt hoàn toàn nghĩa quân, đè bẹp làng kháng chiến Liêu Trung, bọn chỉ huy Pháp điều động các toán quân của Aubert, Soler, Parraudi và Vincillion mang quân đến tiếp viện. Mặc dù có thêm lực lượng, quân Pháp vẫn không tấn công được vào làng mà chúng phải tháo chạy. Trên đường trở về đồn Ghênh, tên Vincillion đã phải liều chết chống lại 300 nghĩa quân chặn đánh. Trận đánh giằng co, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề. Bọn Aubert và Soler phải vội vàng đưa quân đến cứu viện1 (Theo Piglowski: Lịch sử lính khố xanh An Nam ở Bắc Kỳ).


* Trận đánh Hoàng Cao Khải ở Ngân Hạnh - Đại Hạnh

Ngày 17-4-1889, nhận được tin Hoàng Cao Khải đang đóng quân ở làng Ngân Hạnh và làng Đại Hạnh, nghĩa quân Bãi Sậy bao vây chặt rồi tẩm dầu vào giẻ buộc ở đuôi trâu, đuôi chó, đuôi mèo xua vào đốt cháy trại quân của địch. Khải được quân lính hộ vệ chạy vào đến Thánh Lác ở Hoàng Vân vẫn chưa hết kinh hoàng2 (Hưng Yên địa chí của Trịnh Như Tấu).


* Đánh đồn Bình Phú lần thứ 7

Tháng 4-1890, nghĩa quân Bãi Sậy lại tiến đánh đồn Bình Phú3 (Lịch sử lính khố xanh An Nam ở Bắc Kỳ).

Các báo cáo của các công sứ Hải Dương, Hưng Yên, của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương nhắc đến Đốc Sung với nỗi kinh hoàng. 


* Phá tan cuộc càn quét của giặc Pháp vào Tam Trạch

Ngày 29-7-1891, các đồn binh Cẩm Giàng, Mỹ Hào, Đống Mối (Nghĩa Lộ, Văn Lâm), Sặt cùng với quân lưu động chia làm nhiều cánh tấn công vào làng Tam Trạch, tổng Sài Trang. Nghĩa quân do Đốc Đồng, Lãnh Mậu chỉ huy đã xây dựng nhìêu phòng tuyến đánh chặn chúng từ xa. Theo các tài liệu để lại thì máu giặc ngập mắt cá chân. Đánh suốt từ sáng sớm đến tối mịt, cả hai bên đều thiệt hại nặng nề, quân Pháp không vào được làng phải rút quân. Trên đường rút, chúng lại bị nghĩa quân chặn đánh.


* Trận Đống Long, Đốc Sung hy sinh

Đầu tháng 3-1891, khi đó nghĩa quân Bãi Sậy đã yếu thế, Đốc Sung đưa quân về hoạt động ở quê ông. Khi ông đóng quân ở chùa Đống Long thì Lãnh Vắn (ở Đông Mai, Văn Lâm) làm phản, đưa quân Pháp đến bao vây. Đốc Sung chiến đấu kiên cường, ông bị thương nặng, rút ra cánh đồng giấu thanh gươm của vua Hàm Nghi ban có 8 chữ: "Phục quốc diệt thù, Tiền trảm hậu tấu" và hai đồng tiền vàng của vua ban rồi rút súng lục tự sát. Hôm đó là ngày 17-3-1891 (27-2 âm lịch).


Các tướng lĩnh nghĩa quân còn lại vẫn tiếp tục chiến đấu tới tháng 4-1892, khi phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại lại lên Yên Thế gia nhập đạo quân của Đề Thám tiếp tục đánh Pháp.

Hưng Yên - Bãi Sậy - Nguyễn Thiện Thuật là niềm tự hào của dân tộc ta ở những thập kỷ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 và là nỗi kinh hoàng của bọn xâm lược Pháp.

Tháng 11-1943, Xứ ủy Bắc Kỳ đã thành lập An toàn khu ở vùng giáp ranh Yên Mỹ - Văn Lâm - Mỹ Hào với tên gọi là ATK Bãi Sậy. Ngày 12-3-1945, tự vệ của ATK Bãi Sậy đã diệt đồn Bần Yên Nhân vốn được Pháp lập ra để đàn áp phong trào Bãi Sậy. Tháng 5-1945, được sự chuẩn y của Xứ ủy Bắc Kỳ, Tỉnh ủy Hưng Yên đã sáp nhập An toàn khu Bãi Sậy với các huyện toàn tỉnh, thành lập ủy ban vận động Việt Minh tỉnh Tán Thuật.


Lời BBT: Trung tướng liệt sĩ Nguyễn Bình vốn quê ở Bần Yên Phú thuộc huyện Yên Mỹ (Hưng Yên). Ông nổi danh từ đêm 12-3-1945 đã chỉ huy đội tự vệ vùng ATK Bãi Sậy tiêu diệt đồn Bần Yên Nhân, cách 800m quê ông.

Tại buổi lễ truy điệu và mai táng hài cốt ông ngày 11-3-2000, có lời điếu Trung tướng liệt sĩ Nguyễn Bình của Thượng tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà, đã được giới thiệu trong tập 9 có thiếu một đoạn. Nay xin được giới thiệu toàn văn Lời điếu đó để quân dân huyện Yên Mỹ nói riêng và cả nước nói chung tự hào và chiêm ngưỡng vị tướng huyền thoại này.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:32:06 am
LỜI ĐIẾU

ĐỒNG CHÍ TRUNG TƯỚNG NGUYÊN BÌNH của Thượng tướng Phạm Văn Trà, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đọc tại lễ truy điệu ngày 11-3-2000


Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội!

Thưa toàn thể các đồng chí, các bạn và gia đình đồng chí Trung tường Nguyễn Bình!

Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm, trọng thể, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cùng gia đình tổ chức lễ truy điệu và an táng hài cốt liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình, người chiến sĩ cách mạng ưu tú, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thưa các đồng chí và các bạn!

Thưa gia đình đồng chí Nguyễn Bình!

Đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình, tức Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1908 tại xã Tinh Tiến (nay là xã Giai Phạm), huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nguyên Chỉ huy Chiến khu Đông Triều, nguyên Khu trưởng Khu 7, Tư lệnh Nam Bộ, Ủy viên xứ Quân ủy, ủy viên Quân sự trong Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ.


Sống dưới ách thống trị hà khắc của thực dân Pháp, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, từ năm 16 tuổi, người thanh niên Nguyễn Phương Thảo đã tham gia các phong trào cách mạng, cứu nước. Năm 1925, đấu tranh bãi khóa ở trường Kỹ nghệ Hải Phòng. Năm 1926, lãnh đạo học sinh làm lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh để phản đối chế độ thực dân Pháp tại Dư Hàng Kênh - Hải Phòng. Năm 1927, bị bọn thực dân truy lùng, đồng chí đã chuyển vào Sài Gòn. Năm 1928, vừa chẵn 20 tuổi, Nguyễn Phương Thảo gia nhập Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo - khi Quốc dân Đảng còn là một Đảng tiến bộ hoạt động chống Pháp xâm lược. Năm 1929, bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong lao tù đế quốc, được những người Cộng sản giác ngộ, đồng chí đã kiên quyết từ bỏ đường lối Quốc Dân Đảng. Chính sự kiện này - sự thay đổi về quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị - đồng chí đã bị những người tù Quốc Dân Đảng trả thù móc mất một con mắt. Mặc dù chưa là đảng viên nhưng đồng chí luôn đấu tranh kiên cường, bất khuất, chống mọi sự đàn áp dã man của nhà tù, tự nguyện đi theo đường lốí của Đảng Cộng sản. Năm 1935 ra tù, đồng chí hoạt động trong phong trào Bình dân và bị bắt ở Thái Nguyên. Năm 1938 hoạt động ở Hưng Yên lại bị địch bắt. Năm 1942 ra tù, được đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Viêt) phái lên Lai Châu hoạt động sưu tầm nguyên liệu để chế lựu đạn. Từ năm 1943, đồng chí được Trung ương giao hoạt động binh vận và tìm mua vũ khí cho cách mạng ở Hà Nội, Hải Phòng. Trong điều kiện chồng chất khó khăn, từ những ngày đầu chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đồng chí Nguyễn Bình với trí thông minh và lòng quả cảm đã chủ động trực tiếp chỉ huy chiến đấu lập công xuất sắc: Tháng 3-1945, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí đã chỉ huy đánh chiếm đồn Bần Yên Nhân ngay trên đường số 5 thuộc tỉnh Hưng Yên. Tháng 5-1945, đồng chí đã binh vận thành công, lấy được trọng liên trên tàu chiến địch ở Thượng Lý - Hải Phòng. Tháng 6-1945, trong cuộc khởi nghĩa vũ trang thành lập Đệ tứ Chiến khu, đồng chí đã chỉ huy hạ đồn Đông Triều, diệt đồn Bí Chợ, đánh chiếm Uông Bí. Tháng 7-1945, đồng chí đã tổ chức tiến công giải phóng thị xã Quảng Yên, là tỉnh lỵ duy nhất ở miền Bắc được giải phóng trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Từ Chiến khu Đông Triều, đồng chí đã chỉ huy các lực lượng vũ trang cách mạng phối hợp với nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức giành chính quyền ở thành phố Hải Phòng, Kiến An và Hải Dương. Cách mạng Tháng 8 thành công, đồng chí được Trung ương giao làm Khu trưởng Khu Duyên hải Bắc Bộ (nay thuộc Quân khu 3). Đồng chí đã có những công lao to lớn để bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ ở vùng Duyên hải Bắc Bộ.


Khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, quay lại xâm lược nước ta, tình hình ở Nam Bộ hết sức phức tạp. Trước một tình thế bất lợi, một bên là quân xâm lược thiện chiến được trang bị vũ khí đầy đủ, một bên là các lực lượng kháng chiến còn trứng nước lại bị xé nhỏ, phân tán, tháng 10-1945, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp động viên giao nhiệm vụ vào Nam Bộ, ban đầu với trọng trách là phái viên của Trung ương, của Cụ Hồ và sau đó giữ chức Khu trưởng Khu 7. Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1946. Năm 1947, đồng chí là ủy viên Quân khu ủy, Quân khu 7; năm 1948 được Trung ương bổ nhiệm làm Tư lệnh Nam Bộ. Đồng chí là ủy viên Xứ Quân ủy. Tháng 1-1948, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Trung tướng. Đồng chí là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Trên cương vị Khu trưởng Khu 7 rồi Tư lệnh Nam Bộ, với uy tín và tài trí của mình, đồng chí đã cùng Khu ủy và Xứ ủy Nam Bộ có những quyết định đúng đắn, giải quyết được những vấn đề rất cơ bản. Ngày 22-11-1945, đồng chí đã triệu tập Hội nghị quân sự Nam Bộ tại An Phú Xá nhằm thống nhất các lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Cùng với chủ trương tập trung xây dựng lực lượng chủ lực làm nòng cốt, đồng chí đã chú trọng lãnh đạo, phát động chiến tranh du kích ở Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Nam Bộ. Sau khi Sài Gòn bị địch chiếm đóng, một mặt vừa chỉ đạo tác chiến đánh địch ở vòng ngoài, mặt khác đồng chí đã chỉ đạo đưa chiến tranh du kích vào lòng địch. Các Ban công tác Thành được thành lập và đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Nhiều lần đồng chí đã dũng cảm táo bạo một mình vào tận sào huyệt địch để thị sát nắm địch, chỉ đạo tác chiến. Đồng chí là một trong những cán bộ có công lao to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân, dân miền Đông Nam Bộ và Nam Bộ từ những ngày đầu tiên đầy gian nan, thử thách. Đồng chí đã có những đóng góp lớn vào việc chỉnh đốn, xây dựng chính quyền và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất Nam Bộ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Sáu, 2022, 06:32:45 am
Năm 1951, trên đường ra Bắc báo cáo Trung ương, đồng chí đã bị địch phục kích và đã hy sinh ngày 29-9-1951 tại Phum Kpal-rômia, xã Srêpok, huyện Sêsan, tỉnh Stung treng, Campuchia. Gần nửa thế kỷ qua, phần mộ của đồng chí đã được nhân dân và lực lượng cách mạng ở Campuchia gìn giữ.


Từ những buổi đầu tham gia cách mạng đến lúc hy sinh, trước sự tra tấn giam cầm trong lao tù thực dân đế quốc hay trên các chiến trường nóng bỏng quyết liệt, đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình luôn giữ trọn danh hiệu cao quý của người Cộng sản, trung thành với sự nghiệp cách mạng, một lòng một dạ chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Với đồng bào và đồng đội, đồng chí là người sống có nghĩa có tình, trung thực, thẳng thắn, nghiêm khắc, quyết đoán trong xử lý mọi tình huống. Đồng chí luôn luôn tôn trọng nhân tài, đã cảm hóa, động viên các nhân sĩ, trí thức yêu nước phát huy tài năng phục vụ cách mạng.


Đồng chí Nguyễn Bình là một người cộng sản trung kiên, một tướng lĩnh quả cảm, nghĩa hiệp, giàu đức hy sinh, lòng dũng cảm và tài thao lược. Đồng chí đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tên tuổi Nguyễn Bình luôn gắn liền với Chiến khu Đông Triều, Chiến khu Duyên Hải Bắc Bộ; với Sài Gòn - Chợ Lớn, Đông Nam Bộ và Nam Bộ. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là một tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam học tập noi theo. Công lao và tên tuổi của đồng chí mãi mãi sáng ngời trên đài Tổ quốc ghi công.


Do những công lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đồng chí là người đầu tiên của quân đội ta được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất và đặc biệt là, ngày 6 tháng 3 năm 2000, Nhà nước đã có quyết định truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh - Huân chương cao quý của Nhà nước ta cho liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình. Một lần nữa Đảng và Nhà nước đánh giá xứng đáng công lao to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng.


Kính thưa các đồng chí lãnh đạo!

Thưa các đồng chí đại biểu!

Thưa gia đình Trung tướng Nguyễn Bình!

Sau gần nửa thế kỷ yên nghỉ trên đất bạn, do hoàn cảnh lịch sử, cho đến hôm nay được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và sự giúp đỡ của Chính phủ Vương quốc Campuchia, chúng ta đã tìm, đưa được hài cốt đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình về nước. Nhân đây, thay mặt cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và thay mặt gia đình Trung tướng Nguyễn Bình, chúng ta xin chân thành cảm ơn nhân dân Campuchia anh em đã giữ gìn phần mộ trong suốt mấy chục năm qua; cảm ơn Chính phủ Hoàng gia và Bộ Quốc phòng Vương quốc Campuchia đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho Đoàn công tác Việt Nam tìm kiếm và cất bốc hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình về nước.


Toàn thể tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên trong toàn quân xin kính cẩn nghiêng mình dâng hương với lòng thành kính, biết ơn vô hạn tiễn đưa đồng chí liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình về cõi vĩnh hằng, yên nghỉ ngàn thu trên đất Mẹ, đất nước mà cả cuộc đời đồng chí đã nguyên chiến đấu hy sinh.


Trong giờ phút thiêng liêng này, chúng ta xin nguyện trước hương hồn đồng chí :

Ra sức xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng. Cùng toàn Đảng, toàn dân đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến thắng lợi, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Thưa gia quyến Trung tướng Nguyễn Bình!

Trong buổi lễ trang nghiêm này, chúng tôi mong chị và gia đình đoàn kết một lòng, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, sống xứng đáng với lý tưởng, hoài bão cao quý của Trung tướng Nguyễn Bình để tiếp tục góp phần vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa


Thưa các đồng chí và các bạn!

Để tỏ lòng thương tiếc và tưởng nhớ đồng chí liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, tôi đề nghị các đồng chí và các bạn để một phút mặc niệm.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Sáu, 2022, 06:49:09 am
QUÂN DÂN YÊN MỸ CHỐNG PHÁP
NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN


HỒ QUÝ THOA


Suốt thời gian chống Pháp, cuộc đời hoạt động của tôi gắn bó rất mật thiết với quân dân tỉnh Hưng Yên, đặc biệt với huyện Yên Mỹ. Tôi xin kể những kỷ niệm sâu sắc, không thể nào quên trên lĩnh vực hoạt động quân sự mà bản thân là một nhân chứng khi còn là Chủ tịch Ủy ban Hành chính, đồng thời là Bí thứ Huyện ủy Yên Mỹ cũng như khi về công tác ở Tỉnh đội Hưng Yên.


I. Giai đoạn khi tôi gỉữ chức vụ Chủ tịch UBHC huyện rồi Bí thư Huyện ủy Yên Mỹ (1-1946 đến 3-1949)

Năm 1946, huyện Yên Mỹ còn ở trạng thái thời bình. Hồi tháng 10-1946, lần đầu tiên tiến hành bầu cử Ủy ban hành chính cấp huyện, Yên Mỹ gồm 3 ủy viên là:

- Hồ Quý Thoa, Chủ tịch.

- Ngô Quang Đạo, Phó chủ tịch (về sau làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng, sau về hưu, nay đã mất).

- Đỗ Như Duyệt, ủy viên thư ký (về sau công tác ở thị xã Sơn Tây, nay đã mất).

Nhưng sau sự kiện Hải Phòng (20-11-1946), cùng cả nước, Yên Mỹ chuyển sang trạng thái thời chiến, tiến hành một loạt biện pháp phục vụ chiến tranh như:


1. Thiết thực chuẩn bị chiến tranh

- Thành lập Ủy ban bảo vệ huyện do đồng chí Thanh làm chủ tịch (chính là Trần Phương, về sau có thời làm phó Thủ tướng, nay là hiệu trưởng trường Đại học dân lập về quản lý kinh tế). Kháng chiến bùng nổ, đổi thành Ủy ban kháng chiến. Tháng 3-1947 hợp nhất hai ủy ban thành Ủy ban kháng chiến - hành chính do Hồ Quý Thoa làm chủ tịch.

- Phá hoại đường số 5, đường số 39 và các đường khác, đắp ụ trên đê 199, tổ chức rào làng kháng chiến.

- Thành lập trung đội tự vệ tập trung huyện, tổ chức quỹ nuôi quân.

- Thực hiện tiêu thổ kháng chiến (tổ chức dân ở sát đường chiến lược đi sơ tán, phá hoại cầu cống, nhà cửa, đình miếu, nhất là vùng huyện lỵ).


2. Trung đội tự vệ tập trung huyện Yên Mỹ lần đầu chiến đấu ở Cầu Ghềnh (4-1-1947)

Từ ngày 4-1-1947, sau 15 ngày kháng chiến toàn quốc, chiến sự bắt đầu lan tới tỉnh Hưng Yên. Ta tổ chức trận địa phòng ngự tại Như Quỳnh (Cầu Ghênh) gồm đại đội 14, bộ đội Vệ quốc đoàn và các trung đội tự vệ tập trung của các huyện Văn Lâm, Mỹ Hào và Yên Mỹ. Ngày chiến đấu đầu tiên, trung đội tự vệ huyện Yên Mỹ bố trí tại phía bắc Cầu Ghênh đã chiến đấu ngoan cường, chặn và diệt nhiều tên địch, cùng với bộ đội chủ lực buộc địch phải rút lui, ta giữ vững trận địa, nhưng trung đội Yên Mỹ bị thương vong một số, trong đó có anh Lương Đình Cung, trung đội phó bị hy sinh (anh Cung người thôn Tử Dương). Ngày 5-1-1947, địch được tăng thêm quân, đánh chiếm được Câu Ghênh và tiến xuống chiếm Bần Yên Nhân.


3/ Sáu Đậu mở đầu phong trào địa lôi chiến của toàn tỉnh

Nhận thấy quân địch có vũ khí đầy đủ và hùng mạnh, còn bên ta tuy có tinh thần dũng cảm nhưng vũ khí thì vừa thiếu thốn, vừa thô sơ, lối tác chiến theo kiểu dàn trận địa là không phù hợp. Ta chuyển sang lối đánh du kích, phát triển cách đánh quấy rối, phục kích và nhất là cách đánh địa lôi. Đại đội 14 vệ quốc đoàn do ông Văn Phụng chỉ huy đóng ở khu vực Đò Đừng (Vai Bò) tổ chức hoạt động trên đường 5, phái một chiến sĩ tên là Nguyễn Văn Huân, người xã Cộng Hòa (Yên Mỹ), lên đánh địa lôi trên đoạn Phố Nối. Hồi đó mìn địa lôi chế tạo do ta cải hoán từ bom đại bác địch bị thối, không nổ, chiến sĩ phải lắp một dây dẫn cách địa lôi khoảng 30m để giật nên phải rất mưu trí và dũng cảm. Để tăng tinh thần và đợi xe địch tới, anh đã uống một cút rượu và ăn liền 6 cái đậu. Kết quả, anh Huân đã gắng sức giật mìn làm nổ tan 2 chiếc xe cơ giới của địch. Để khuyến khích phong trào địa lôi chiến toàn chiến khu 3 đang được phát động, báo chí toàn khu đã giới thiệu rất rộng rãi, tặng anh danh hiệu là Sáu Đậu. Sáu Đậu đã trở thành huyền thoại từ đó đến nay.


4. Chặn giặc thành công ở Lực Điền

Sau khi quân Pháp chiếm đóng Từ Hồ và Kênh Cầu (tháng 4 và 5-1947) thuộc phía tây huyện, ngày 9-8-1947 địch tổ chức cuộc hành quân trên đường 39A với ý đồ chiếm đóng cầu Lực Điền nằm giữa huyện, hòng biến cả huyện thành vùng chiếm đóng hoàn toàn. Nhưng chúng đã bị đại đội Hoàng Văn Thụ phối hợp với dân quân du kích chặn đánh ngoan cường, chúng không thể chiếm đóng phía nam cầu, buộc phải đóng ở chùa Son (Đạo Khê), phía bắc cầu. Hai bên cầm cự kéo dài. Từ đầu tháng 10-1947, địch buộc phải rút khỏi vị trí chùa Son về chiếm đóng thôn Nho Lâm trên đường 39 cách đường 5 3km về phía nam. Thế là, ta vẫn làm chủ nhiều xã như Tứ Trang, Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Tân Việt, Cộng Hòa cho tới tháng 3-1949.


5/ Phá tề có võ trang Lưu Trung thành công

Cuối năm 1947, đầu năm 1948, đánh dấu sự kiện phá tề có võ trang Lưu Trung thắng lợi và đã chia làm 2 bước:

- Bước thứ nhất: Từ khi tề võ trang Lưu Trung nổi lên, cán bộ thôn bị bật ra ngoài, ta tiến hành võ trang tuyên truyền, thuyết phục được lý trưởng tề Lưu Ngọc Cẩm qua trung gian ông giáo Sô, đem nộp 3 khẩu súng trường cho kháng chiến huyện, hứa hẹn sẽ không làm gì hại cho kháng chiến.

- Bước thứ hai: Sau đó vài tháng, nắm được quy luật, bọn tề ban đêm phát súng cho hương dũng canh gác, ban ngày tập trung súng về ngôi đình, ta bèn sử dụng 3 chiến sĩ, có ông giáo Hinh là cơ sở của ta đóng giả làm người chăn vịt tiến hành kỳ tập vào đình làng buổi sáng sớm, uy hiếp, buộc tên hương dũng mở cửa đình thu toàn bộ 17 khẩu súng trường còn lại. Đáng tiếc là khi anh em rút về thôn Lưu Thượng, vứt xuống ao 14 khẩu, chỉ mang về có 3 khẩu, địch phát hiện cho mò ao lấy lại số súng đó, bắn chết ông giáo Hinh và 2 anh Lưu Đình Hiểu, Lê Huy Ngữ là cơ sở của ta ở Lưu Thượng. Sau đó địch không võ trang lại cho tề Lưu Trung nữa.


Thế là huyện Yên Mỹ đã thanh toán xong tề có võ trang Lưu Trung. Tuy còn một xã có hội tề nhưng chỉ là hình thức; về thực chất huyện vẫn nắm được dân đi theo kháng chiến, vẫn làm chủ được nhiều vùng không chỉ ban đêm mà cả ban ngày nữa, như xã Lý Thường Kiệt, Tân Việt... Hình thức đó có lợi cho ta kéo dài tới sau tháng 3-1949.


Phá tề võ trang Lưu Trung là kết quả của sự nghiên cứu kỹ tình hình, biết vận động, phân loại cả những người lỡ bước theo địch, có bước đi từ thấp tới cao, đi tới hành động kỳ tập rất bất ngờ, táo bạo giành thắng lợi.


6/ Trận kỳ tập bốt Nho Lâm

Sau khi phá tề Lưu Trung thành công, vào giữa năm 1948, ta tổ chức trận kỳ tập bốt Nho Lâm giữa ban ngày.

Lực lượng chiến đấu gồm 20 người của bộ đội huyện Yên Mỹ và du kích xã Hoàng Hữu Nam, một số cải trang làm phụ nữ đi chợ, một số giả làm người đi bắt lươn, trong đó nhét đầy vải tẩm dầu, vũ khí thì giấu trong người hoặc trong bị, giỏ, người thì mang theo 1 - 2 quả lựu đạn, người mang theo súng ngắn và dao mã tấu. Theo kế hoạch, anh em diệt lính gác ngoài cổng rồi xông vào đốt trại lính làm bằng tre, nứa. Đúng 8 giờ sáng, anh em hòa cùng người đi chợ trên đường 39A, tới sát cổng bốt gặp 2 tên lính gác cổng, xông vào đánh 2 tên này, chỉ diệt được 1 tên, còn tên kia vội chạy vào đóng cổng bốt, nên các chiến sĩ ta không xung phong vào đốt vị trí được, phải rút chạy cùng với dân đi chợ, được an toàn. Mãi về sau địch mới hoàn hồn, bắn súng loạn xạ.


Trận kỳ tập này tuy không đạt được yêu cầu là đốt bốt giặc và chỉ diệt được 1 tên nhưng thể hiện cách đánh táo bạo, quả cảm, khôn khéo của du kích, gây được tiếng vang lớn trong hàng ngũ địch và trong nhân dân.

Về sau, trong dân có một bài vè ca ngợi chiến công này, có đoạn viết:

"Mồng ba tháng sáu vừa rồi (3-6-1948)
Anh em du kích đánh một trận tức thời cũng oai
Ông lươn trong đựng dao dài
Lựu đạn bỏ giỏ nào ai biết gì
Trên đầu đội nón cu-li
Giả hình mặc váy, ta thì xung phong
Anh em quyết chí đồng lòng
Rủ nhau lên bốt Liêu Râm đâm liền (tên chữ bốt Nho Lâm)
Tây đen chết ngã lăn chiêng
Anh em ta cứ lăn lưng xông vào
Lựu đạn ta ném ào ào".
..............................


7/ Đòn gánh đánh Tây ở chợ Từ Hồ

Trận đánh xảy ra vào giữa tháng 3-1948 do du kích xã Hoàn Long, Lê Lợi, Quang Phục và một số dân chợ Từ Hồ tự động tổ chức. Lợi dụng phiên chợ Từ Hồ đang họp đông, có mấy tên lính da đen không mang súng, cùng đi chợ để trêu ghẹo phụ nữ. Tức thời theo khẩu lệnh thống nhất, du kích dùng đòn gánh phang tới tấp vào một tên da đen và một tên da trắng chết tại chỗ, đồng thời cùng với bà con trong chợ hô hoán "Lính Liên hiệp Pháp quấy nhiễu, hãm hiếp phụ nữ", bọn còn lại vội chạy vào bốt đóng chặt cổng, không dám khủng bố dân.


Trận đánh này có ý nghĩa là bằng đòn gánh, với vũ khí rất thô sơ cũng có thể giết được giặc, du kích vừa đánh địch vừa đưa ra khẩu hiệu đấu tranh chính trị nên làm cho địch không khủng bố được dân và bảo toàn được lực lượng. Vì lẽ đó, để cổ vũ phong trào du kích chiến tranh rộng rãi, báo chí của Liên khu 3 thời đó đã ca ngợi trận đánh rất nhiều.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Sáu, 2022, 06:50:20 am
II- Giai đoạn khi tôi chuyển công tác vè Tỉnh đội Hưng Yên (3-1949 đến 5-1954)

Tôi thôi giữ chức Chủ tịch UBKC-HC và Bí thư Hụyện ủy Yên Mỹ, về công tác ở Tỉnh đội được vài ngày, thì địch bắt đầu đánh chiếm Lực Điền (3-1949). Sau đó, ngày 22-12-1949, địch hành quân chiếm đóng toàn tỉnh và các tỉnh lân cận, biến tỉnh Hưng Yên thành một tỉnh nằm sâu trong địch hậu. Giai đoạn này có thể chia thành 2 thời kỳ nhỏ:


A- Thời kỳ từ tháng 3-1949 tới giữa tháng 11-1951

Từ tháng 3-1949, địch chiếm đóng hoàn toàn huyện Yên Mỹ, tổ chức tề phản động ở thôn Cảnh Lâm và Bùi Xá. Đặc biệt là thôn Cảnh Lâm khét tiếng, chính tại đây, chúng đã giết hại chị Bùi Thị Cúc, nhân viên tình báo và địch vận của ta (sau này chị được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Ta cũng có 2 hành động quân sự đều không thành công. Đó là trận tấn công vị trí Lực Điền mới chiếm đóng vào cuối tháng 3-1949 của một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 64 không thành công; tại đây tiểu đoàn phó tên là Giang Văn Cang phải hy sinh. Trận thứ hai vào khoảng tháng 5-1949 do bộ đội tỉnh tấn công vào bốt hương dũng công giáo Bùi Xá, cũng không thu được thắng lợi đáng kể.


Từ sau khi địch chiếm đóng toàn tỉnh Hưng Yên (22-12-1949), lãnh đạo huyện Yên Mỹ cùng đại đội 110 của huyện Yên Mỹ đã kiên quyết trở về nội địa, giữ vững các cơ sở trong huyện.

Đây là thời kỳ Yên Mỹ chịu đựng nhiều gian khổ nhất, quyết liệt nhất, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắn giết, bắt bớ. Đơn cử như anh Phạm Bạt Tụy, Nguyễn Hữu Bính, cán bộ đại đội 110 của huyện, anh Nguyễn Hữu Đạo, chính trị viên đại đội Thanh Bình phân tán về huyện cũng bị giặc bắt trong thời gian này và đày đi Côn Đảo cho đến ngày hòa bình khi 2 bên trao trả tù binh. Tuy vậy, cán bộ chiến sĩ còn sót lại vẫn kiên cường trụ bám đất, bám dân, giữ vững cơ sở kháng chiến. Huyện ủy do anh Trọng (Chi) làm bí thư, Huyện đội do anh Vân (ứng) làm huyện đội trưởng vẫn duy trì cơ quan mình hoạt động kháng chiến. Và hồi cuối tháng 9 năm 1950, khi tôi quay trở về huyện để phổ biến nhiệm vụ phối hợp với chiến dịch Biên giới, tôi vẫn được bố trí cơ sở ở xã Nghĩa Hiệp sát đường 39 và dự hội nghị Huyện ủy bí mật ở thôn Đại Hạnh chỉ cách bốt Từ Hồ có 1km. Đồng chí Lê Kim, trung đội trưởng đại đội Bãi Sậy, là người tổ chức bảo vệ hội nghị này.


B- Thời kỳ từ tháng 11-1951 tới chiến thắng Điện Biển Phủ (5-1954)

Năm 1950, toàn tỉnh Hưng Yên ở trong thế địch hậu hoàn toàn, lâm vào cảnh đen tối khó khăn vô cùng. Nhiều huyện khác như Văn Giang, Khoái Châu còn bị tổn thất về người và của nặng nề hơn. Tháng 12-1950, Tỉnh ủy Hưng Yên đề ra chủ trương giữ vững và phát triển cơ sở, phá tan hệ thống tháp canh, hương đồn của địch. Tháng 4-1951, bộ đội ta phá hương đồn ở Thọ Lão, Trà Bồ (huyện Phù Cừ), mở ra một cục diện chiến trường mới có lợi cho ta. Tên Đội Tự, chỉ huy bốt Từ Hồ (Yên Mỹ) được lệnh đem quân đi cứu viện cho bọn hương dũng ở Trà Bồ bị quân ta bắn chết tại chỗ, làm nức lòng dân Yên Mỹ đang bị địch o ép rất nặng nề.


Ta tiếp tục mở các khu du kích ở các huyện Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu trong vòng 7 tháng. Ngày 14-11-1951, ta phá các hương đồn, mở khu du kích ở bắc Khoái Châu, tây nam huyện Yên Mỹ. Đêm đó, ta bố trí 2 đại đội của tỉnh (C22 và C27) do Võ An Đông - tỉnh đội trưởng, Nguyễn Ngọc Vũ, chính trị viên Tỉnh đội chỉ huy, phối hợp với bộ đội, du kích huyện Khoái Châu và Yên Mỹ, bắn một phát súng lớn SKZ làm vỡ tan một mảng lớn đồn hương dũng thôn Dương Trạch (xã Tân Dân, Khoái Châu), bức tên tổng Thân và hương dũng bốt đó phải đầu hàng, đồng thời giải tán tề và hương dũng thôn Thông Linh, Khóa Nhu, Bình Phú đã được cán bộ và du kích huyện, xã thuyết phục từ trước. Sáng hôm sau, ta bố trí bắt sống 5 tên ngụy ở bốt Từ Hồ về thôn Bình Phú không tốn một viên đạn. Ta tước súng, giáo dục chính trị rồi đến chiều tối thả chúng về bốt Từ Hồ, làm cái loa tuyên truyền chiến thắng cho ta.


Ngay đêm đó, để khuếch trương chiến thắng, quân ta tiến về giải tán tề hương dũng ở xã Đông Tảo, Đức Nhuận (Khoái Châu) và tước súng tề võ trang ở thôn Mỹ Xá (xã Việt Cường, Yên Mỹ) do lý Thụ cầm đầu. Do có sự vận động của cán bộ chính trị từ trước và trước uy thế của quân ta, nên chúng đã ngoan ngoãn nộp súng cho ta, không dám chống cự.


Nửa tháng sau, đầu tháng 12-1951, thiết thực phối hợp với chủ lực ta mở chiến dịch Hòa Bình, với lực lượng bộ đội tỉnh và huyện, du kích, chỉ huy như trước, ta lại tiến lên giải phóng cơ sở mới. Bộ đội ta vừa áp sát tới thì bọn bảo an ở bốt Từ Hồ đã bỏ vị trí rút chạy. Ta bỏ qua Từ Hồ, tiến lên tước súng bọn hương dũng Đại Hạnh, Ngân Hạnh, Ốc Nhiêu không tốn một viên đạn. Ngay đêm sau, bộ đội tiến về giải phóng huyện Văn Giang, phá bốt Bang tá Kim Ngưu, tước súng bọn hương dũng ở Cửu Cao, Phi Liệt, Xuân Quan, bức rút bốt bảo an Công Luận, quân lỵ Văn Giang. Về phía bộ đội và du kích huyện Yên Mỹ đã tự lực chủ động phá bốt hương dũng Thượng Tài, Châu Xá (xã Thanh Long). Thế là toàn bộ phía tây đường 39 của Yên Mỹ từ sát Bần Yên Phú, Kênh Cầu đến Từ Hồ, Từ Tây kết hợp với vùng bắc Khoái Châu, toàn huyện Văn Giang đã trở thành vùng giải phóng rộng lớn, đã biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, làm bàn đạp cho bộ đội tiến đánh Bần Yên Phú, Kênh Cầu và uy hiếp đường số 5 còn do địch khống chế. Năm 1952, địch mở 2 cuộc càn lớn là Con Cá (Poisson), Lạc Đà (Dromadaire) càn quét các thôn xã phía tây nam huyện, nhưng đều bị du kích đánh trả quyết liệt, cơ sở quân sự và chính trị của ta vẫn được bảo toàn.


Không những thế, ta còn mở rộng hoạt động trên đường 39 và phía đông huyện Yên Mỹ. Tháng 8-1952, ta dùng địch vận dụ bắt chỉ huy và hương dũng bốt Đạo Khê ở đầu cầu Lực Điền và dùng bộc phá đánh đổ cầu Lực Điền, địch buộc phải sửa chữa trong 5 ngày. Tháng 11-1952, cán bộ địch vận của ta gây nhân mối ở bốt hương dũng công giáo Bùi Xá (xã Cộng Hòa) làm nội ứng cho bộ đội và du kích tiêu diệt bốt này và tiếp theo diệt bốt Thiên Lộc, giải phóng toàn xã Cộng Hòa tạo một khu "lõm" ở phía đông huyện.


Đêm 10-5-1953, đã diễn ra một trận chiến thắng lớn ở Bần Yên Phú trên trục đường số 5. Đây là một vị trí kiên cố của căn cứ hậu phương GM3 (binh đoàn cơ động số 3) gồm 300 tên, có 3 hàng rào dây thép gai, xen kẽ có các bãi mìn các loại, chung quanh có các ụ súng. Đơn vị tấn công gồm 3 đại đội tỉnh (C75, C27, C29) dưới sự chỉ huy của Tỉnh đội, được sự phối hợp chiến đấu, phục vụ chiến trường của 500 quân của bộ đội và dân quân du kích huyện Yên Mỹ, đã áp sát trận địa, bí mật cắt rào, gỡ mìn, bất ngờ xung phong vào trận nội quân Pháp. Kết quả trận đánh diễn ra rất nhanh gọn, trong 30 phút quân ta đã làm chủ chiến trường, bắt sống hơn 100 tên sĩ quan, lính Pháp, thu được 300 súng các loại (bazôka, súng cối, trung đại liên, v.v...). Thời bấy giờ thu được một lượng súng chiến lợi phẩm nhìêu như vậy là chưa từng có.


Trận đánh tiêu diệt vị trí ở Bần Yên Phú có ý nghĩa rất lớn về quân sự và chính trị. Bộ đội địa phương vẫn có thể và có khả năng tiêu diệt một vị trí có hàng trăm tên Pháp, có công sự vững chắc, nằm sâu trong vùng địch hậu, ở ngay sát đường 5, mặc dầu không có súng lớn công đồn như bộ đội chủ lực mà vẫn bắt và diệt hàng trăm tên địch, thu rất nhiều vũ khí, còn về phía quân ta thương vong không đáng kể. Trận Bần Yên Phú đánh dấu sự sáng tạo, mang đầy tính hiệu quả trong nghệ thuật tác chiến của bộ đội tỉnh. Trận này cũng là trận thắng đầu tiên mở màn cho một loạt trận tiếp theo, một hình thức chiến thuật mới trong địch hậu mà ta thường gọi là chiến thuật "mật tập", hay gọi nôm na là "chiến thuật sờ địch".


Cũng theo hình thức chiến thuật "mật tập" này, ngay trên đất huyện Yên Mỹ, đêm 18-1-1954, C25 của tỉnh có sự phối hợp tác chiến, chặn viện của bộ đội huyện, ta đã tiêu diệt vị trí Kênh Cầu có 1 đại đội ngụy, cách Bần Yên Nhân khoảng 3km về phía tây. Chiến thắng này đã góp phần giải phóng các thôn Kênh Câu, Tráng Võ, Lạc Cầu, Tử Cầu, tạo điều kiện cho bộ đội và du kích phối hợp chiến đấu với chiến dịch Điện Biên Phủ trên đường 5 và đường sắt sau này.


Quân dân huyện Yên Mỹ bước vào cuộc chiến đấu ác liệt, nhiều gian nan, hiểm nguy ngay từ đầu cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Pháp xâm lược cho tới khi kết thúc chiến tranh, trải qua 8 nãm liên tục.

Thời gian đó, huyện Yên Mỹ đã chịu đựng những tổn thất lớn lao, nhà cửa hầu như bị đốt chụi, kinh tế bị đình trệ, nhiều cơ sở bị phá vỡ, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị sát hại, bắt bớ, điển hình như chị Bùi Thị Cúc (1950) hoặc cán bộ lãnh đạo như bí thư Huyện ủy, anh Trọng (Chi) cuối năm 1951 bị giết hại rất dã man, hoặc anh Phạm Bạt Tụy, Nguyễn Hữu Bính (cán bộ đại đội C110), anh Nguyễn Hữu Đạo (chính trị viên đại đội tỉnh Thanh Bình) cuối năm 1950 bị bắt, bị tù đày ở Côn Đảo. Nhưng lực lượng kháng chiến vẫn được duy trì liên tục, kiên quyết bám dân, bám đất, từ chỗ cơ sở luôn bị địch bao vây, o ép, càn quét lập tề đến chỗ quân dân huyện kết hợp với bộ đội tỉnh biến hậu phương địch thành tiền phương của ta. Từ cuối năm 1951, ta đã bao vây, chia cắt trở lại quân địch, lập nhiều chiến công rực rỡ. Yên Mỹ đã vinh dự có Sáu Đậu, mở đầu phong trào địa lôi chiến của toàn chiến khu 3, đầu tiên mở ra phong trào đòn gánh đánh Tây ở Từ Hồ, có chiến thuật mật tập ở Bần Yên Phú, mở màn cho cả một đợt hoạt động theo hình thức chiến thuật này cho tới toàn thắng Điện Biên Phủ.


Vinh Quang thay cho quân dân Yên Mỹ trong thời chống Pháp.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Sáu, 2022, 06:50:51 am
NHỚ LẠI TRẬN ĐẦU TIÊN Ở CẦU GHÊNH (4-1-1947)


NGUYỄN ĐÌNH PHIÊN
(Trinh sát viên đội quyết tử huyện Yên Mỹ,
nguyên Chủ tịch Hội CCS Yên Mỹ)


Theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Huyện ủy, Ủy ban hành chính - kháng chiến huyện Yên Mỹ được phép tổ chức một trung đội quyết tử quân tham gia chiến đấu đánh giặc, để chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến.

Trung đội quyết tử quân được thành lập tháng 10-1946 tại xã Trai Trang, huyện Yên Mỹ, có 3 tiểu đội do đồng chí Tuyết làm trung đội trưởng, đồng chí Cung làm trung đội phó, đồng chí Biên chính trị viên. Đến tháng 12-1946, trước khi lên đường ra mặt trận Câu Ghênh, đồng chí Hồ Quý Thoa, Chủ tịch Ủy ban hành chính - kháng chiến huyện Yên Mỹ, động viên căn dặn: "Các đồng chí là con em của nhân dân Yên Mỹ, chiến đấu phải dũng cảm, xứng đáng là đội quyết tử của huyện". Đồng chí nhắc lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: "Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Gần 40 chiến sĩ của trung đội đều nắm tay giơ cao hô: "Quyết tử, quyết tử, quyết tử!". Sau đó, đồng chí Tân lượt bắt tay anh em, tiễn anh em đi chiến đấu. Đêm hôm ra đi trời rất rét, anh em chăn áo đều thiếu thốn. Qua chợ Đường Cái, mỗi người được phép vào kho gạo lấy hai chiếc bao tải để làm chăn chống rét. Trung đội lên đến Như Quỳnh được phối hợp với đại đội 14, E44 do đồng chí Văn Phụng đại đội trưởng chỉ huy và được phân công bố trí ở phía tây bắc cầu cùng với tự vệ xã Kinh Xuyên - Minh Khai được bố trí ở hướng chính. Trung đội tự vệ chiến đấu của Mỹ Hào, tự vệ xã Trung Ngọc, xã Thọ Bình bố trí ở phía nam Cầu Ghênh. Chỉ huy chung trận chiến đấu ở Câu Ghênh lúc đó là đồng chí Văn Phụng.


17 giờ ngày 4-1-1947, quân Pháp lọt vào trận địa, phía bắc Cầu Ghênh. Các cỡ súng của ta đồng loạt nổ dồn dập bắn vào đội hình của chúng. Đồng chí Văn Phụng đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy khẩu 12,7 đặt ở phía bắc chợ Ghênh cũ, bắn chia cắt đội hình địch. Các chiến sĩ quyết tử của Yên Mỹ - Mỹ Hào khoảng 20 đồng chí mai phục sẵn ở sát đường 5, lần đầu tiên đối mặt với xe tăng địch, vẫn không rời trận địa. Các cảm tử quân do đồng chí Lương Đình Cung, trung đội phó trung đội Yên Mỹ chỉ huy xông ra lao bom ba càng, chai xăng Crếp, lựu đạn vào xe tăng địch. Từ những loạt đạn đầu, ta đã làm nhiều tên địch chết và bị thương. Lương Đình Cung cũng bị thương trong trận này. Chúng bị đánh bất ngờ, nhưng củng cố được đội hình, bắn xối xả vào trân địa. Ta thu nhặt bọn chết và bị thương rồi rút đóng tại chùa Bà thôn Lương Xá, huyện Thuận Thành (nay là xã Dương Xá - Gia Lâm). Sau hơn 1 giờ chiến đấu, ta đã giết và làm bị thương gần 100 tên địch, thu 7 súng trường, 35 lựu đạn, 2 thanh kiếm.


Đây là trận đánh đầu tiên của địch trên địa bàn Hưng Yên và trận này cũng là trận thắng đầu tiên của quân dân trong tỉnh. Ngay từ trận đầu tiên, ta đã hình thành sự phối hợp chiến đấu của 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực - cảnh vệ huyện - tự vệ xã. Địch bị thiệt hại nặng nền suốt ngày hôm sau phải đợi có viện binh lớn mới dám tiếp tục đánh. Sau trận chiến đấu ngày 4-7-1947, các đơn vị được lệnh chuyển sang khu vực chiến đấu mới, mặt trận ơâu Ghênh có đơn vị khác thay thế.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Sáu, 2022, 06:51:35 am
VỀ TRẬN ĐÒN GÁNH ĐÁNH TÂY Ở CHỢ TỪ HỒ


Ngày 10-7-2001, Ban liên lạc bộ đội huyện Yên Mỹ năm 1946 - 1954 cụm I (Hoàn Long - Yên Phú - Yên Hòa) tổ chức buổi tọa đàm về trận du kích cầm đòn gánh đánh Tây ở chợ Từ Hồ, nhằm thu thập tư liệu xây dựng lịch sử Đảng bộ huyện Yên Mỹ. Ngoài đại biểu lãnh đạo các xã Yên Hòa, Yên Phú, Hoàn Long, người ta thấy nổi bật những gương mặt của những chiến sĩ du kích năm xưa từng trực tiếp tham gia trận đánh này. Hầu hết, họ đều ở tuổi xưa nay hiếm, nhưng vẫn còn những nét kiên cường, dũng cảm thời đánh Pháp. Đó là những lão du kích: Nguyễn Thị Ngư 78 tuổi (Yên Phú), Nguyễn Ngọc Lũy 73 tuổi (Yên Phú), Vũ Hữu Ích 83 tuổi (Yên Phú), Trần Văn Nhâm 73 tuổi (Yên Hòa), Hà Văn Bít 77 tuổi (Yên Hòa), Nguyễn Văn Uyên 82 tuổi (Hoàn Long), Hoàng Văn Trạch 74 tuổi (Hoàn Long).


Trận đánh cách đây hơn 50 năm, vậy mà các đại biểu dự tọa đàm như cảm thấy mới xảy ra đâu đây...

Cuối năm 1947, giặc Pháp về chiếm đóng, xây dựng bốt Từ Hồ (bốt này chúng gọi là "Sú sếch-tơ" Từ Hồ, loại bốt lớn). Hàng ngày, bọn chúng ra chợ khua khoắng, bắt cóc, lấy tiền của những người trong chợ.

Trước những hành động tàn bạo của bọn giặc, mọi người dân đến lực lượng dân quân du kích địa phương đều căm thù và nêu quyết tâm thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ: Khi bọn giặc đến, ai có dao cầm dao, ai có cuốc cầm cuốc... cùng nhau đánh giặc, giữ làng, giữ nước.


Xuất phát yêu cầu mục đích trên, các đồng chí trong ban chỉ huy xã đội của 3 xã Hoàn Long, Lê Lợi (xã Yên Phú ngày nay), xã Quang Phục (nay là xã Yên Hòa) phân công đồng chí Khôi, xã đội trưởng xã Lê Lợi, chỉ đạo chung. Về kế hoạch, mỗi xã cử 6 người với vũ khí thô sơ mang vào chợ, phân công cụ thể như sau:

+ Xã Hoàn Long mang quang gánh giả vờ là người đi chợ, đi từ trong làng Từ Hồ đi ra.

+ Xã Lê Lợi mang gánh chuối, mía, bố trí quân từ phía Từ Tây vào trong chợ.

+ Xã Quang Phục mang cuốc, bồ, đi bắt giun, bố trí từ bô vừng tiến thẳng vào chợ.

+ Lực lượng bố trí 3 người 1 tổ, khi vào trong chợ, mỗi người bám sát một tên Tây cách chúng 3 - 4 bước, sẵn sàng chờ lệnh. Khi có lệnh phát hỏa, 3 mũi đồng khởi cùng tiến công. Khi vào trong chợ, đồng chí Vũ Hữu Ích được phân công kiểm tra 3 mũi đầy đủ để báo cáo lãnh đạo. Về thời gian thống nhất 10 giờ 30 phút phát lệnh, 3 mũi tiến công quyết định lấy sáng ngày 18 tháng 2 âm lịch (năm 1948).


Đúng như kế hoạch, hôm đó vào khoảng 9 giờ sáng, đồng chí Vũ Hữu Ích đi kiểm tra báo cáo lãnh đạo, cả 3 mũi đã chấp hành theo đúng kế hoạch. Nhưng hôm đó, bà con đi chợ bán xong hàng đều về sớm. Lúc đó mũi Quang Phục thấy hai thằng Tây (một Tây đen, một Tây trắng) đứng trước cửa hàng lò rèn ông Mận. Lập tức, đồng chí Khôi, xâ đội trưởng, cùng với đồng chí Bít, xã đội phó, dùng đòn gánh đánh hai thằng Tây ngã gục xuống. Ông Mận, phó cả lò rèn, thấy vậy, cũng cầm búa nện vào đầu hai thằng Tây. Hai mũi Lê Lợi - Hoàn Long thấy tình hình diễn ra nhanh và bất ngờ, cũng hành động tiếp theo, xong cho lực lượng rứt an toàn.


Qua trận đánh đó, giặc Pháp và bọn tay chân phản động thấy lực lượng du kích hoạt động, càng hoang mang. Ngay ngày hôm sau, chúng rào xung quanh chợ, làm cổng ra vào, hàng ngày kiểm tra ráo riết hơn và hạn chế việc đe dọa, cướp của nhân dân. Về phía ta, từ quần chúng nhân dân đến lực lượng du kích càng nêu cao ý chí chiến đấu, không sợ giặc, mặc dầu chỉ có dao, mác, đòn gánh, cuốc...


Sau trận đánh, ban chỉ huy xã đội 3 xã đã cùng rút kinh nghiệm và động viên phong trào. Tiếp đó, ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên mời các đồng chí tham gia trận đánh về tỉnh động viên và thưởng cho mỗi xã 4 khẩu súng trường.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 17 Tháng Sáu, 2022, 06:46:38 am
YÊN MỸ - NHỮNG KỶ NIỆM SÂU SẮC MỘT THỜI ĐÁNH PHÁP


PHẠM BẠT TỤY
(Nguyên đại đội trưởng đại đội Bãi Sậy)


Ông và cha tôi đã từng tham gia nghĩa quân Bãi Sậy. Cụ Đổng Quế là tướng của Tán Thuật, có lần chỉ huy nghĩa quân cải trang làm phụ nữ vào bán một số thực phẩm ở đồn thôn Thái Nồi thuộc xã Việt Cường (Yên Mỹ) hiện nay, bất ngờ xông vào bốt diệt một số tên Pháp. Sau trận này, giặc Pháp tàn sát một số gia đình nghĩa quân ở thôn tôi là thôn Bắc Khu xã Minh Châu (Yên Mỹ), trong đó có ông tôi là cụ Phạm Duy Cạnh là thầy dạy võ cho nghĩa quân và bố tôi là ông Phạm Văn Tuyển, lúc đó mới lên 16 tuổi, cũng bị đâm bị thương. Về sau, bố tôi thường cho tôi biết vết sẹo dài 7 phân ở sườn bên phải bị Pháp đâm và nhờ nghĩa quân cứu sống. Trước khi mất năm 1945, ông thường nhắc nhở tôi nên làm theo lời cha, tham gia chiến đấu diệt thù.


Tháng 3-1945, tôi được cử làm Bí thư Việt Minh, lúc đó mới 18 tuổi. Tôi đã tham gia phá kho thóc Nhật ở cầu Lực Điền chia cho dân nghèo được 200 tấn thóc, tổ chức đánh phục kích ban đêm bọn Nhật và vận động nhân dân đứng lên giành chính quyền tháng 8-1945.


19-12-1946, kháng chiến toàn quốc. Tôi được phân công làm bí thư chi bộ, kiêm chính trị viên xã đội. Anh Phạm Lương Bật là xã đội trưởng, anh Phạm Vặn Ước là chủ tịch UBKCHC xã. Chúng tôi được nhân dân tích cực ủng hộ vật liệu để rào làng chiến đấu, làm hầm hào, kể cả hầm bí mật, bên ngoài làng làm hầm chông đào sâu ngập đầu người, dọc bờ sông Bắc Khu có chông mìn ngăn không cho địch vào làng. Chúng tôi có phương án phối hợp chiến đấu với bộ đội trên đê sông Lực Điền, chi viện chiến đấu cho nhau.


Ngày 9-8-1947, quân Pháp tổ chức cuộc hành quân định đánh chiếm cầu Lực Điền, nhưng bị bộ đội C22 của tỉnh phối hợp với du kích đánh trả thắng lợi. Địch không chiếm được làng và nam cầu Lực Điền, buộc chúng phải đóng lại chùa Son ở phía bắc cầu. Trong 2 tháng trời, hai bên cầm cự với nhau ở nam, bắc cầu Lực Điền.


Có lần, quân Pháp bơi tới giữa sông, du kích thôn Bắc Khu tập trung hỏa lực bắn thủng một thuyền cao su chở đầy quân, địch không dám qua sông nữa. Sau, du kích xã Thanh Long mò được cả súng trung liên, tiểu liên mang về nộp huyện. Tại bốt chùa Son, địch lập một chòi cao cách 200m, có lính gác trên chòi. Chúng tôi thi nhau tổ chức bắn tỉa, mục tiêu là thằng lính gác, coi như là bia tập bắn. Có 3 đồng chí du kích bắn rất giỏi, đã tiêu diệt được 12 tên giặc. Bản thân tôi, nhờ tập bắn tốt, về sau đi bắn thi ở toàn quân, toàn quốc cũng được giải thưởng về môn bắn súng.


Ban đêm, chúng tôi giúp đỡ bộ đội vượt sông đánh bốt chùa Son. Có đêm phải chuyển thương binh về rất vất vả.

Cuối cùng, đầu tháng 10-1947, địch phải rút về đóng bốt Nho Lâm. Mãi đến tháng 3-1949 chúng mới chiếm lại hoàn toàn cầu Lực Điền, và huyện Yên Mỹ trở thành địch hậu hoàn toàn.

Cũng đầu năm 1949, cấp trên quyết định tôi làm chính trị viên kiêm đại đội trưởng đại đội Bãi Sậy. Đơn vị phải phân tán về các thôn xóm để xây dựng cơ sở. Bọn giặc biết đại đội đã về cơ sở, suốt ngày chúng đua nhau càn quét, tìm diệt đơn vị. Trong thời gian phân tán về cơ sở, anh em chúng tôi tuy không đánh giặc mà đã mất già nửa quân số do bị giặc giết, bắt tù đày. Vấn đề sống còn của chúng tôi trong vùng địch là làm dân vận tốt, phải làm cho dân thương, dân tin thì dân mới cho ăn, cho ở, bảo vệ bộ đội và phải có hầm bí mật thật bảo đảm. Chúng tôi ở đâu thường phân tán đến 1 tổ hoặc 1 tiểu đội. Tất cả mọi người đều có một cái xẻng cá nhân, coi đây là bảo bối bảo vệ cuộc sống. Đến đâu nếu không có hầm, tất cả mọi người đều nhảy ngay xuống ao, đào hầm bí mật ở bờ ao, chỗ có bờ tre thì rất tốt. Hầm làm ở bờ ao, đào rất nhanh, không phải mất công đào nhiều đất, giấu đất, chỉ cần đào trong một giờ, người chui vừa, đầu cao hơn mặt nước để thở. Cửa hầm làm bằng củ cây chuối ta, khi chui vào tự tay kéo nắp hầm vừa khít là được. Tha hồ cho giặc tìm cả ngày, khó mà thấy nắp hầm ở dưới nước. Nhờ kiểu hầm này, nhiều người đã thoát chết. Tuy nhiên, hầm ở bờ ao, khi trời rét ở cả ngày thì rất cực khổ. Cho nên chúng tôi làm cả hầm trên cao, khi giặc phá hầm thì phải có lối thoát. Hầm ở trong buồng, đầu hồi nhà lợp rạ, có hai lần tường vách đất, khi vào hầm phải nâng cao mái rạ. Chúng tôi được bố con cụ Xuyên ở xã Việt Cường, nhà rất nghèo, nhưng tinh thần yêu nước rất cao, đã giúp chúng tôi làm cái hầm như vậy, có 3 ngăn, địch cuốc hầm mà vẫn có lối thoát ra bờ tre, xuống ao hoặc chuồn ra ngoài đồng. Bọn giặc biết, đã hai lần bắt cụ Xuyên tra tấn, đánh đập, làm cụ chết ngất trên hầm của tôi, nhưng cụ vẫn kiên quyết không chỉ hầm. Công ơn cụ Xuyên đã cứu tôi 2 lần thoát chết, tôi không bao giờ quên ơn cụ.


Lại có lần, sau khi đánh phục kích trên đường 39 về, tôi chạy xuống hầm nhà cụ Hải. Cửa hầm ở giữa bếp, có nồi cám lợn rất to. Cụ Hải gạt đống gio bếp làm lấp lỗ thông hơi, tôi bị tắc thở. Càng chọc lỗ thông hơi, gio bếp càng tụt xuống mù mịt, có nguy cơ tôi bị chết ngạt. Thằng lính ngụy ở trên quát tháo: "Thằng Việt Minh chạy vào đây, hiện ở đâu?". Cụ Hải thưa: "Bẩm quan, không có!". Thằng ngụy lấy báng súng đập vào đầu làm cụ Hải ngã lăn quay. Tưởng cụ chết, nó đi ra. Thấy yên, tôi đánh liều, lấy chân đạp mạnh vào nắp hầm, nồi cám đang sôi cũng bị đổ và gio bếp trút xuống đầy người tôi. Tôi cố mãi mới bò lên cửa hầm nằm ngất. Rất may lúc đó thằng ngụy vừa đi khỏi và cụ Hải đã thoát chết.


Một thời gian dài, chúng tôi chỉ hoạt động ban đêm, còn ban ngày địch làm chủ. Hướng hoạt động chủ yếu là xây dựng cơ sở, giữ vững lòng tin tưởng vào kháng chiến của dân, tăng cường công tác địch vận và tìm đánh địch ở ngoài làng, vì đánh ở trong làng dễ bị địch khủng bố cơ sở trong dân.


Chúng tôi đã vận động được một lính ngụy ở bốt Nho Lâm. 2 giờ sáng ngày 19-8-1949, theo đúng mật hiệu, anh lính ngụy này đã mở cổng phía sau bốt ở bờ sông. Chúng tôi theo anh ngụy xông vào bốt, diệt tên sếp bốt người Tây, bọn còn lại hỗn loạn. Trong 20 phút, chúng tôi diệt hoàn toàn bốt Nho Lâm, thu vũ khí, rút lui an toàn.


Nhân đà chiến thắng Nho Lâm, chúng tôi đánh tiêu diệt bốt hương dũng Nhân Lý vào đúng hôm 23 tết âm lịch (tết ông Táo), bắt sống 25 tên.

Tháng 8-1950, đại đội Bãi Sậy tổ chức một trận độn thổ phục kích địch từ bốt Nho Lâm đi Phố Nối, diệt 15 tên, thu vũ khí, cho tên ngụy chạy về bốt làm cái loa tuyên truyền cho chiến thắng. Nó la ó ầm lên: "Ma Việt Minh ở bên đường bất ngờ nhảy lên, khó mà chạy thoát". Thôn Quảng Uyên, Xuân Lai, Bắc Khu (xã Minh Châu) ở sát bốt Lực Điền. Bộ đội Bãi Sậy vẫn bám dân, vẫn ngày ở thôn Quảng Uyên, ban đêm vẫn sang Bắc Khu phối hợp với du kích đánh phá cầu Lực Điền. Có đêm, chúng tôi họp ở Bắc Khu bị giặc vây kín, phải chiến đấu quyết liệt diệt 2 tên và phá vòng vây. Tổ phụ nữ thôn Bắc Khu đã vận động 12 lính ngụy về với kháng chiến. Cụ Bạch, mẹ liệt sĩ, đã vận động lính Tây cũng ra hàng ta. Cả em Đắc, là thiếu niên đi phu ở bốt Lực Điền, đã lấy trộm một súng ngắn và máy ảnh của giặc mang về cho bộ đội Bãi Sậy.


Bản thân tôi và đồng chí Ước Chủ tịch xã Minh Châu, đã đánh bọn ngụy ở chùa Xuân Lai, chúng phải bỏ chạy và tên cai sếp ở bốt Lực Điền bị bắt sống đem nó qua sông an toàn.

Có hôm, cả hai chúng tôi đang tắm ở cầu ao nhà anh Khôi thì bọn lính ập vào. Chúng tôi không kịp chạy, bị chúng bắt ra đình tập trung điểm mục. Chúng tôi giả vờ lên bờ ao lấy quần áo mặc, bất thình lình rút súng trong quần áo ra bắn, bọn ngụy chạy toán loạn. Chúng tôi chui xuống hầm bờ ao, thoát khỏi tay giặc.


Giữa tháng 9-1950, tôi chẳng may bị giặc ở bốt Lực Điền bắt. Trong 7 ngày đêm tra khảo, dụ dỗ, nhưng chúng không khai thác được gì ở tôi. Cuối cùng chúng giải tôi đi Gia Lâm, căng Đoạn Xá (Hải Phòng) và đày ra Côn Đảo. Mãi tới ngày hòa bình tôi mới được về với cách mạng theo hiệp định trao đổi tù binh giữa ta và Pháp.


Từ năm 1957 - 1975, tôi liên tục công tác ở Bộ tư lệnh 350 (Hải Phòng) với các chức vụ: Trưởng ban huấn luyện, chỉ huy trưởng Quận đội Ngô Quyền, biệt phái quân sự tại Sở Giáo dục Hải Phòng, nay đã nghỉ hưu tại quê nhà ở xã Minh Châu, huyện Yên Mỹ.

   Tôi có mấy câu thơ xin hứa với Đảng sau đây:
   "Gia đình tối quyết tàm theo Đảng
   Cả ba đời được tặng Huân chương,
   Có Đảng chỉ lối đưa đường,
   Hoàn thành nhiệm vụ chiến trường về hưu
   Sáu bố con về hưu mất sức
   Sống mẫu mực đạo đức càng cao
   Gia đình hạnh phúc vui sao
   Ông bà, con cháu thuận hòa điền viên,
   Nếu Tổ quốc đảo điên sóng gió
   Quân thù kia, xin có chúng tôi.
   Năm nhăm tuổi Đảng đời tôi
   Vì dân, vì Đảng suốt đời hiến dâng".

PHẠM BẠT TỤY, Trích hồi ký


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 17 Tháng Sáu, 2022, 06:47:54 am
NHỮNG NĂM THÁNG SỐNG VÀ CHIẾN ĐẤU Ở YÊN MỸ


Đại tá NGUYỄN HỮU BÍNH (LÊ KIM)
(Nguyên đại đội phó đại đội 110 Yên Mỹ)


Cuối năm 1949, giặc Pháp hành quân chiếm đóng hết 4 huyện phía nam của tỉnh Hưng Yên (Ân Thi, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ). Như vậy là bộ đội Yên Mỹ không còn bàn đạp ở các huyện ở phía nam. Tình hình thật là khó khăn: Làng mạc cháy trụi, khói lửa khét lẹt, dân chúng tản cư hết. Đây đó trên các trục đường còn rải rác những chiếc băng zôn bằng phên cót với khẩu hiệu: Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công. Đơn vị chúng tôi phải bật sang Thanh Miện - miền nam tỉnh Hải Dương.


Các anh lãnh đạo Huyện ủy, Huyện đội và Tỉnh đội phải vô cùng động não, tập trung trí tuệ xử lý tình huống là: Đưa cả lực lượng một đại đội (Đại đội Bãi Sậy - Yên Mỹ) vào nội địa lúc này thì "không có chỗ chứa". Nhân dân rất tốt vẫn hướng về kháng chiến, song chưa được chuẩn bị tốt về tư tưởng và biện pháp đón bộ đội về ở cố định trong điều kiện đồn bốt giặc chi chít xung quanh, chính quyền ngụy đã được xác lập khắp các làng mạc, các "xã ủy" (lý trưởng tề) đã đang cấp thẻ công dân (thẻ tề), thu thuế, huy động phu phen lên phục vụ các đồn bốt... (Tất nhiên các "làng tề" có chịu sự chi phối của ta "tề hai mang").


Bộ đội cũng chưa quen về sống phân tán với dân, nằm hầm bí mật ở trong tề kiểu "cá nằm trên thớt", mà quen đánh địch xong trận thì rút về hậu cứ, nay hậu cứ cũng không còn. Thế thì đi đâu và làm gì bây giờ ? Chẳng lẽ chạy tản cư sang Thái Bình chăng?


Sau khi cung cấp một phần lực lượng cho bộ đội chủ lực Liên khu (trong đó có 3 cán bộ trung đội là các đồng chí Giao, Sỹ, Hòe), một số cán bộ trung đội được phân tán về ngay xã mình để giúp đỡ cơ sở (đồng chí Bản về Liêu Thượng, đồng chí Thảo về Lưu Xá). Đại đội rút gọn còn khoảng 50 người tập trung vào trung đội 1 do đồng chí Lê Kim - trung đội trưởng phụ trách. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Tân - đại đội phó, tổ chức vượt sông Hồng sang căn cứ của Liên khu 3 ở Quang Thừa - Hà Nam và Nho Quan - Ninh Bình học lớp võ xung kích (nay là võ đặc công) do Liên khu huấn luyện (đồng chí Sen là hiệu trưởng).


Đây là một giải pháp tình thế rất hay, một sự hợp đồng rất ăn ý giữa Huyện đội (đồng chí Văn Ứng), Tỉnh đội (đồng chí Võ An Đông) và Bộ tư lệnh Liên khu 3.

2 tháng học xong (khoảng tháng 3-1950) thì một bộ phận khoảng 20 người do đồng chí Tân phụ trách, hành quân qua Hòa Bình lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ đặc biệt, bộ phận còn lại do đồng chí Lê Kim phụ trách vượt sông Hồng trở lại nội địa bám lấy dân với một lòng tự tin đặc biệt. Ai cũng cảm thấy mình có bản lĩnh vững vàng hơn trong cách đánh của người lính hoàn toàn sống trong địch hậu: Đánh cận kích bằng bạch binh và vũ thuật.


Anh Tụy, chính trị viên kiêm đại đội trưởng, đã đón anh em chúng tôi trở về và kế hoạch với các địa phương mỗi làng phân tán 3 - 5 anh em, mỗi gia đình bố trí từ 1 - 2 người, mỗi làng có 1 tổ trưởng. Các xã Quang Phục, Hoàn Long, Dân Chủ, Tiến Thắng, Tinh Tiến, Nghĩa Hiệp, Hoàng Hữu Nam là những cơ sở đầu tiên tiếp nhận chúng tôi trở về. Nhân dân Yên Mỹ vẫn một lòng với kháng chiến, vẫn ủng hộ bộ đội, nhưng bây giờ là nuôi cụ thể, đùm bọc, che giấu cụ thể mỗi khi giặc vây ráp lùng sục. Nhân dân rất tốt, nhưng tâm trạng thì lo sợ, sợ lắm, sợ nếu giặc bắt được chúng tôi ở gia đình nào thì chúng sẽ tàn sát khủng bố gia đình đó. Ngay cả cán bộ cơ sở cũng có người sợ tan vỡ cơ sở nếu anh em chúng tôi không kiềm chế được mà manh động với giặc, cho nên thực tế cũng có đồng chí không muốn bộ đội phân tán về làng.


Anh Tụy phổ biến phương thức hoạt động của bộ đội huyện bây giờ (1950) là bộ đội chủ yếu phân tán bám lấy dân, gây cho dân niềm tin "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi", hỗ trợ cho hoạt động chính trị của địa phương, trừ gian diệt tê phản động là chủ yếu, nếu đánh địch thì phải thực hiện được phương châm "Diệt được địch" nhưng cơ sở không bị vỡ.


Có xã như Quang Phục, địch đóng bốt ở Bình Phú đã gây cho ta biết bao khó khăn, nay bọn tề ở thôn Khóa Nhu lại nho nhoe đón giặc về lập bốt, chúng răn đe dân làng, nhân dân khiếp sợ. Hầu hết cán bộ cơ sở bị bật, cả làng duy nhất còn đồng chí Cáo - bí thư chi bộ. Anh em chúng tôi nói vui: Đồng chí Cáo vừa là bí thư, vừa là chủ tịch, vừa là xã đội trưởng, đồng thời vừa là du kích. Anh Tụy giao nhiệm vụ cho tôi phối thuộc với đồng chí Cáo khôi phục lại tình hình cơ sở này. Bản thân đồng chí Cáo cũng bị bật không ở nhà với gia đình được vì bọn địch ở Bình Phú lùng sục suốt ngày đêm.


Thế là từ hôm đó, tôi với khẩu tiểu liên "Sít-ten" và mấy quả lựu đạn về nằm cùng hầm bí mật với anh Cáo. Hầm được đào ở bãi tha ma cách bìa làng 300m. 9 giờ tối, hai anh em chúng tôi rời khỏi hầm vào làng tiếp xúc với nhân dân từng xóm, trấn áp răn đe bọn phản động mưu toan đón giặc về làng lập bốt. Đến 11 giờ đêm, có hôm muộn hơn, chúng tôi rút và trở về hầm bí mật nằm đó cho đến 9 giờ tối hôm sau lại lên và vào làng... Người đậy nắp hầm duy nhất là vợ đồng chí Cáo.


Cứ như thế gần tháng trời, cơ sở dần dần trở lại bình thường, nhân dân không còn bị bọn phản động khống chế nữa, mưu toan đón giặc về lập bốt không thực hiện được. Tôi được lệnh chia tay anh Cáo trở về với bộ đội.


Hình như bọn địch đoán biết đại đội Bãi Sậy đã trở về, nên chúng tăng cường lùng sục ngày đêm. Ta thì chưa có lệnh đánh, có trường hợp chúng vào làng chỉ có 4 - 5 tên ngon ăn lắm, nhưng anh em phải kiềm chế, phải quán triệt ý kiến của chính trị viên đại đội là diệt được địch nhưng phải bảo vệ được cơ sở, nghĩa là cơ sở cách mạng của địa phương không bị vỡ do địch khủng bố, tàn sát, bắt bớ.


Tình hình căng thẳng, hầu như không ngày nào không có người của ta bị địch bắt bớ (cán bộ cơ sở, cán bộ dân chính) và cũng không tránh khỏi có anh em không chịu được tra tấn đã dẫn địch về làng truy tìm cơ sở...

Anh em Bãi Sậy chúng tôi vẫn lạc quan tin tưởng kháng chiến nhất định thắng lợi, vẫn nhắc nhở động viên nhau hàng ngày là nhân dân nuôi ta, che chở cho ta hoạt động, tình sâu nghĩa nặng lắm, chẳng may nếu bị địch bắt thì cố gắng chịu đựng, đừng dẫn địch về làng... Nếu không chịu đựng được thì hãy tự sát, noi gương đồng chí Lượng (quê Tân Việt) trung đội phó, đã rút chốt lựu đạn khi địch cuốc hầm.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 17 Tháng Sáu, 2022, 06:48:50 am
Tôi chợt nhớ đến tờ báo "Tiến lên" của Tỉnh ủy Hưng Yên lúc bấy giờ có bài phê phán hiên tượng "Cháy nhà ra mặt chuột" của một số cán bộ cầu an chạy dài, nhưng đồng thời có bài uốn nắn là nếu chẳng may bị giặc bắt thì không nên tự sát mà phải sẵn sàng dũng cảm chấp nhận một cuộc đấu tranh mới, bởi vì chiến tranh thì hy sinh chết chóc và bị bắt tù đày là việc thường tình. Vấn đề là ở chỗ kiên định lập trường, không phản bội xưng khai.


Không khí ngột ngạt, căng thẳng đến mức chúng tôi kiểm điểm thắng lợi hàng ngày. Cứ sau một ngày không có một cán bộ, chiến sĩ nào bị địch bắt, như thế là thắng lợi rồi.

Cho đến đầu tháng 8/1950, anh Tụy phổ biến cho tôi chỉ thị của trên là bộ đội Đường 5 phải đẩy mạnh hoạt động quân sự để phối hợp với chiến trường chính. Anh nêu chủ trương sẽ diệt bọn địch buổi sáng hàng ngày đi tuần từ bốt Nho Lâm lên Phố Nối và diệt chúng khi chúng quay trở lại.


Đêm 10/8/1950, anh và tôi đi khảo sát địa hình cụ thể đoạn đường 39 tiếp giáp 2 làng Liêu Trung và Liêu Thượng và hạ quyết tâm tổ chức trận đánh tại đây. Đó là Km 2 đường 39, đánh chỗ này thì giặc không có cớ để đàn áp trả thù làng nào được, cơ sở địa phương vẫn bảo đảm ổn định.


Địa hình trống trải, không dân cư, không có vật gì che chắn, ẩn nấp. Cách đánh là phải đào hố giấu người ở mép đường, đậy nắp ngụy trang cho khéo. Khi địch lọt vào khu vực phục kích của ta, có hiệu lệnh của người chỉ huy thì bộ đội đội nắp hầm vùng lên đánh giáp lá cà. Anh Tụy giao cho tôi tổ chức và chỉ huy trận đánh này.


Vấn đề bây giờ là đào hố ở dưới ruộng hay ở lề cỏ mặt đường. Nếu đào ở dưới ruộng thì đất mềm dễ đào hơn, dễ ngụy trang hơn, nhưng khi có lệnh bật hố lên thì lại phải mất động tác bám vào mặt đường để nhảy lên, vì mặt đường cao hơn mặt ruộng 80cm, như vậy sẽ chậm thời gian tiếp xúc với giặc, lại có thể chân bị tê sau hàng giờ ngồi bó gối dưới hố. Nhưng nếu đào trên lề cỏ mặt đường thì đất rắn hơn, phải nâng niu từng vạt cỏ để rồi lấp ngụy trang lại phức tạp hơn, nhưng thuận lợi và khi đội nóc hầm lên thì ta trực diện giáp mặt ngay với giặc nhanh hơn và áp đảo hơn.


Tôi quyết định chọn cách thứ hai là đào hố trên lề cỏ mặt đường.

Trận đánh huy động 14 chiến sĩ tương ứng với lực lượng tuần tra của giặc. Phải đào 7 hố, mỗi hố ẩn 2 người. Hố chỉ huy thì lợi dụng ẩn nấp dưới cây ké ở góc ruộng bậc thang cách mép đường 20m. Vũ khí của ta tất cả là mã tấu, duy nhất có khẩu tiểu liên "Sít-ten" do chỉ huy trận đánh giữ.


9 giờ tối ngày 12/8/1950, anh em phân tán từ các cơ sở tập kết về đầu làng Ngọc Tỉnh. Ở làng này đã có một tổ 3 người làm nhiệm vụ xin tre và đan 7 cái phên (kích thước 0,80 x 1,20m) và mượn các dụng cụ đào và vận chuyển đất.


Tôi xác định với anh em là táo bạo và quyết liệt. Vì ở huyện chưa có mô hình trận đánh giấu quân như thế này. Trận địa nằm ngay trên trục đường cơ động cơ giới của địch, đồn bốt giặc bao vây xung quanh. Nếu bị lộ hoặc giải quyết không nhanh gọn, địch phản ứng thì sẽ nguy hiểm. Nhưng với thế bất ngờ tuyệt đối, với mục tiêu tiêu diệt mạng sống của chúng để chúng khiếp sợ không còn dám hung hăng lùng sục, anh em rất phấn khởi, tự tin và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.


3 giờ sáng ngày 13/8/1950, các hố giấu quân đã ổn định, tổ ngụy trang đậy phên tre phủ cỏ ngụy trang, thu dọn dụng cụ đào và vận chuyển đất rút lui trước về Ngọc Tỉnh, chúng tôi ngồi chờ địch đi "Pa-tờ-rui" trở về.

Một tình huống mà tôi không hề lường trước là buổi sáng hôm đó, sau khi toán lính giặc đi lên Phố Nối chưa về thì có một người nông dân dắt con trâu qua trận địa của ta. Tim tôi thắt lại vì có thể con trâu sẽ làm sập hầm thì sẽ xử lý ra sao, nhưng may là con trâu và người nông dân lại đi trên mặt đường nhựa.


Giờ G đã đến, lúc đó là 8 giờ sáng ngày 13/8/1950. Khi bọn giặc đã lọt hoàn toàn vào trận địa phục kích, một băng tiểu liên xả vào đội hình của chúng cũng là hiệu lệnh để các chiến sĩ ta bật dậy đội nắp hầm xông lên.

Bọn địch quá bất ngờ, sửng sốt đứng ngây người ra rồi vứt súng bỏ chạy. Một số bị diệt ngay tại chỗ, một số chạy dạt xuống cánh đồng lúa phía đông đường 39. Anh em ta truy đuổi quyết không cho chúng thoát...

Thế là anh em Bãi Sậy chúng tôi đã thỏa mãn nguyên vọng bị kìm nén từ lâu là chưa được đánh, không được manh động. Anh em đã trút căm thù lên lưỡi dao mã tấu, quyết không cho chúng còn sống để hung hãng lùng sục ngày đêm.


Trận đánh diễn ra chỉ trong 10 phút, ta tiêu diệt hoàn toàn bọn địch. Ta chỉ nhặt 3 khẩu súng làm kỷ niệm và không bị thương vong người nào.

Khi chúng tôi rút lui vượt qua con sông con phía tây đường 39 và cánh đồng phía sau làng Liêu Trung về tới làng Ngọc Tỉnh thì mới thấy địch ở bốt Nho Lâm phản ứng bắn mấy quả đạn cối về phía trận địa.

Chúng tôi bàn với các gia đình cơ sở cho tre làm nắp hầm, thủ tiêu tất cả các vết tích chặt tre đan phên. Và đêm hôm đó, lực lượng tham chiến chúng tôi đã ung dung nằm ở cơ sở xã Hoàn Long và xã Dân Chủ, các xã ở tây nam huyện.


Tháng 9/1950, chiến dịch Biên giới nổ ra. Thế là bộ đội Bãi Sậy - Yên Mỹ chúng tôi đã góp phần nhỏ bé phối hợp với chiến trường chính. Sau đó, các anh ở Tỉnh đội cho biết cách đánh của chúng tôi như thế là độn thổ phục kích. Và cuối năm đó (1950), tôi được Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Tỉnh đội cấp giấy khen về thành tích xây dựng cơ sở địch hậu và chiến đấu dũng cảm.


Chúng tôi đang vui mừng chiến thắng thì một tin không vui đến với chúng tôi: Anh Tụy, chính trị viên kiêm đại đội trưởng Bãi Sậy, đã bị bọn giặc ở bốt Lực Điền bắt; anh Bản1 (Đồng chí Nguyễn Đình Bản bị địch giam ở nhà tù Côn Đảo. Đồng chí đã cùng 80 anh em tù binh hy sinh trên biển trong cuộc vượt ngục không thành công năm 1952) - trung đội trưởng và anh Thảo2 (Đồng chí Trần Đình Thảo quê Lưu Xá, bị địch giam tại trại tù sĩ quan (PGO) Hành Thông Tây, Gò Vấp, Sài Gòn - Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Được trao trả tù binh tháng 8-1954, đồng chí về công tác tại địa phương và trở thành phó bí thư Huyện ủy Mỹ Văn. Đồng chí đã từ trần năm 1994) trung đội trưởng phân tán tại địa phương cũng bị bọn giặc ở bốt Nho Lâm bắt. Thế là hầu hết cán bộ chủ chốt của đại đội đã bị sa vào tay giặc. Một không khí trầm lặng lan tràn trong tất cả chiến sĩ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 17 Tháng Sáu, 2022, 06:49:31 am
Tháng 10/1950, tôi được lệnh của Huyện đội trưởng Lê Tất Ứng đưa tất cả chiến sĩ Bãi Sậy phân tán ở nội địa vượt sông Đuống lên vùng Sủi - Bố Hạ, Bắc Giang để củng cố lực lượng. Cơ quan Huyện đội Yên Mỹ sơ tán ở đó.

Hậu phương tự do hừng hực khí thế chiến thắng đã động viên tiếp sức anh em chúng tôi vững bước. Khòng có đối mặt với giặc hàng ngày lùng sục bắt bớ, chỉ có những chiếc Hencát hoặc Đacôta thỉnh thoảng nhào lượn ném bom bắn phá. Anh Thoa (Tỉnh đội trưởng Võ An Đông) đi dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới về thăm, chỉ đạo việc củng cố lực lượng và phổ biến tình hình chiến thắng biên giới cho cơ quan Huyện đội. Chúng tôi vô cùng phấn khởi. Cuối tháng 10, thi hành chỉ thị của cấp trên, đại đội 110 được thành lập và ra mắt tại làng Sủi (Bố Hạ - Bắc Giang) thay thế đại đội Bãi Sậy, nhưng phải làm chức năng của cả Huyện đội, tức là tinh giảm cấp Huyện đội. Biên chế chỉ huy có 5 người: 1 cấp trưởng và 4 cấp phó. Anh Vân ứng, thường vụ Huyện ủy, nguyên là Huyện đội trưởng, nay là chính trị viên trưởng kiêm đại đội trưởng. Anh Khoát (quê ở Tử Dương) làm đại đội phó phụ trách dân quân. Anh Nguyễn (quê ở Khóa Nhu) làm chính trị viên phó phụ trách dân quân. Anh Đặng Văn Giáp (quê ở Tử Dương), Bí thư huyện đoàn Thanh niên cứu quốc được điều sang làm chính trị viên phó phụ trách bộ đội. Tôi - Lê Kim- trung đội trưởng đại đội Bãi Sậy, được bể nhiệm làm đại đội phó phụ trách bộ đội. Quân số đại đội chỉ có trên 30 người, toàn là chiến sĩ Bãi Sậy cả.


Về nhiệm vụ thì cũng như đối với đại đội Bãi Sậy trước đây, tức là bám dân, xây dựng lòng tin trong nhân dân đối với chính quyền kháng chiến, đối với Hồ Chủ tịch, đặc biệt là niềm tin "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi", diệt tề phản động, trừ gian là chủ yếu, làm chỗ dựa cho hoạt động chính trị của địa phương...


Anh em chúng tôi nói chuyện vui với nhau rằng thực chất việc thay đổi phiên hiệu bằng số chỉ là "bình mới, rượu cũ" tuy nhiệm vụ có nặng nề hơn.

Khoảng đầu tháng 12/1950, từ Bố Hạ - Bắc Giang, đại đội 110 hành quân trở về nội địa, về ở với các gia đình cơ sở mà chúng tôi mới rời tạm biệt cách đây 2 tháng. Nhân dân vẫn tiếp tục nhận các anh bộ đội của Bãi Sậy xưa nhưng nay mang cái tên mới là C110, nghe có vẻ bộ đội chủ lực. Nhân dân vẫn nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở...


Anh Trọng, bí thư Huyện ủy, đến thăm và tặng chúng tôi một bài thơ, nay chỉ nhớ mỗi một câu kết:

... "Mong anh bộ đội trăm mười về đây" (C110)

Đại để ý bài thơ là nhân dân Yên Mỹ kiên trì chịu đựng khủng bố của kẻ thù, rất mong những người con cầm súng trở về tiếp tục làm nên những chiến công khiến kẻ thù phải khiếp sợ...

Chúng tôi truyền bài thơ cho anh em đọc, coi đây là tiếng nói của quê hương vẫn tin yêu, động viên, nhắc nhở sau mấy tháng trời vắng bóng.

Chúng tôi đang triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh không có gì sáng sủa hơn, nghĩa là tương quan lực lượng ta - địch trong địa bàn Yên Mỹ - Hưng Yên vẫn như trước, thì ngày 8/3/1951 có chỉ điểm, bọn địch ở Sous Secteur Bần Yên Nhân tổ chức vây ráp từ sáng sớm. Chúng lùng sục, tra khảo, truy bức nhân dân rất dã man. Đến 12 giờ trưa thì chúng phát hiện được hầm bí mật của chúng tôi. Toàn bộ cơ quan sở chỉ huy đại đội 110 bao gồm: tôi, đồng chí Thận1 (Đồng chí Trần Văn Thận, quê xã Quang Phục, nguyên chính trị viên Trung đội thuộc đại đội Bãi Sậy, được điều về làm chánh văn phòng C110, về sau hy sinh trận Đồng Than), chánh văn phòng và chú Dậu - liên lạc viên, bị địch bắt.


Thế là từ đấy tôi xa rời nhân dân Yên Mỹ, xa rời mảnh đất mà trong mấy năm khó khăn nhất của cuộc chiến tranh chống Pháp, cán bộ, chiến sĩ đại đội Bãi Sậy chúng tôi đã được nhân dân nuôi nấng, đùm bọc, che chở để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi chỉ ân hận một điều là trong những tháng ngày hào hùng nhất của tỉnh, của huyện 1952 - 1953, tôi không được cùng đồng đội, cùng nhân dân gánh vác, chia sẻ những tháng ngày mà quân dân Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy sự chỉ huy tài tình của Tỉnh đội trưởng Võ An Đông đã vùng lên diệt hết bốt này đến bốt khác, lần lượt từ các huyện phía nam đến các huyện phía bắc đến quê tôi, và ngày 10/10/1954, mảnh đất Yên Mỹ đau thương và anh dũng đã sạch bóng quân xâm lược.


10/10/2000, thế là đã ngót nửa thế kỷ trôi qua. Lịch sử đã có biết bao biến động. Cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp theo cuộc kháng chiến chống Pháp cũng vô cùng gian khổ và quyết liệt kéo dài 20 năm và đã toàn thắng. Đất nước đã qua 25 năm độc lập thống nhất và đang đi lên chủ nghĩa xã hội. Quê hương tôi, huyện Yên Mỹ cũng vừa được tái lập sau mấy chục năm sáp nhập với các huyện khác. Chúng tôi đã tổ chức về thăm chiến trường xưa, thăm quê hương, thăm các gia đình cơ sở đã nuôi nấng, đùm bọc, che chở chúng tôi để hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi đã thăm lại sở chỉ huy đại đội 110 của chúng tôi năm xưa đóng tại thôn Yên Lão - xã Nghĩa Hiệp đã bị giặc khai quật hầm ngày 8/3/1951. Bà cụ Tòng đậy nắp hầm bí mật cho chúng tôi đã chết vì tuổi già, nếu còn sống năm nay có lẽ cụ tròn 100 tuổi. Lớp người cao tuổi trong làng còn nhớ rất rõ sự kiện xảy ra ngày hôm đó cách đây nửa thế kỷ.


Tôi hồi tưởng lại và viết những dòng này kính tặng tất cả cán bộ, chiến sĩ đại đội Bãi Sậy và đại đội 110 đã ngã xuống hoặc bị giặc bắt trên mảnh đất này và tất cả các anh em còn sống sót đến ngày hôm nay với tình cảm thân thương tha thiết của một cán bộ chỉ huy phân đội lúc bấy giờ, tôn vinh các anh, các đồng đôi, đồng chí như những chiến sĩ anh hùng thầm lặng.


Cũng nhân dịp này, xin bày tỏ lòng biết ơn nhân dân Yên Mỹ đã nuôi nấng, che chở anh em Bãi Sậy - 110 chúng tôi trong những ngày tháng gay go quyết liệt nhất, khó khăn nhất để anh em chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Sáu, 2022, 06:40:45 am
DIỆT BỐT HƯƠNG DŨNG BẰNG ĐỊCH VẬN,
MỞ KHU DU KÍCH PHÍA ĐÔNG YÊN MỸ


Trung tá TRẦN XUÂN TẢO
(Nguyên huyện đội phó Yên Mỹ)


Hồi cuối năm 1951, bộ đội tỉnh, huyện và du kích mở rộng khu du kích gần như toàn bộ phía tây nam của huyện Yên Mỹ. Trong khi đó, phía đông huyện vẫn nằm trong vòng kiểm soát của địch.

Năm 1951, Huyện ủy cử cán bộ về lấy lại cơ sở xã Trung Hưng, cử đồng chí Cổn (tức Tùng), xã Trung Hòa cử đồng chí Văn, huyện ủy viên và tôi; cho một tiểu đội do đồng chí Quát phụ trách.

Qua tìm hiểu, ở ba bốt ta có cơ sở nhân mối là Đạo Khê, Bùi Xá và Tổ Hỏa.

Tháng 8-1952, sau khi gặp anh Khánh, thường vụ huyện ủy phụ trách cụm, anh Tùng (Cổn) cán bộ huyện tăng cường xã Trung Hưng, tôi bàn việc giao nhiệm vụ cho cơ sở nội tuyến, dần đần hạn chế việc địch sục sạo càn quấy vào làng, để ta gặp gỡ nhân dân xây dựng cơ sở. Các anh tạo điều kiện để tôi gặp nhân mối bốt Đạo Khê là sếp bốt Tuân. Tuân là em ruột Khải, lý trưởng tề làng Trung Đạo. Khi gặp, Tuân có vẻ mong được gặp bộ đội ta để được lập công về với chính phủ. Về sau qua điều tra, anh em thấy ta đã đánh đồn bốt giải phóng khu nam Yên Mỹ, khu bắc huyện Ân Thi gần xung quanh họ nên muốn ngả về với kháng chiến. Tôi động viên giao nhiệm vụ cho anh em không càn quét sục sạo phá cơ sở, bắt bớ cán bộ và báo cáo tình hình việc phát triển thêm nhân mối.


Tôi báo cáo Huyện ủy, Huyện đội và được Tỉnh đội đồng ý cho đánh. Đánh bốt Cầu (Đạo Khê) có hai ý nghĩa: Một là địch không sục sạo để ta lấy lại cơ sở; hai là phá sập cầu Lực Điền tạo điều kiện cho phía nam Hưng Yên hoạt động. Hình thức đánh và phục kích gọn, thu súng và dùng bộc phá đánh cầu Lực Điền.


Tôi về bàn với anh Cổn, rồi gặp Tuân giao nhiêm vụ, bàn cách đưa số anh em trong đồn giả đi tuần vào nhà lý trưởng đánh bạc như mọi ngày, ta dùng một trung đội huyện do tôi và anh Quát chỉ huy phục kích bao vây bắt gọn. Tuân đã nhận làm đúng kế hoạch. Kết quả ta bắt gọn hơn tiểu đội, thu súng, đưa về hậu phương. Mặt khác, Huyện đội cho một tổ bộc phá đánh cầu Lực Điền, nhưng bộc phá 40 cân nổ chỉ làm bật hết ván, nghiêng cầu, phải sau 5 ngày địch mới qua lại được. Ngoài ra, ta còn bày kế hoạch cho lý trưởng báo động Việt Minh về phục kích bắt trưởng đồn và lính đi mất.


Ở bốt Tổ Hỏa, các anh Khánh, Quát, Chất đã gặp giao nhiệm vụ không được lùng sục bắt bớ cán bộ, lấy của cải của dân, đi càn phải bắn súng làm hiệu, ra trận gặp bộ đội là hàng. Về sau, chúng rút chạy về Lực Điền.

Đến tháng 11-1952, tôi sang gặp anh Văn, huyện ủy viên, tăng cường cho Trung Hòa, anh Thảo, bí thư kiêm chủ tịch, anh Tựa xã đội trưởng, báo cáo tình hình. Có anh Sủi người thôn Tam Trạch trước là đảng viên, nhà nghèo, khi đi càn vào dân thường hay than vãn, vì hoàn cảnh bị bắt buộc không làm gì hại dân. Lúc này ta đánh mạnh ở xung quanh. Địch sợ rút bốt Tam Trạch về cả Bùi Xá. Sủi cũng về Bùi Xá. Tôi báo cáo xin ý kiến Huyện ủy để gặp Sủi. Việc gặp Sủi có khó khăn hơn lần gặp Tuân ở trong làng. Vì Sủi đi công giáo, lại là con nuôi đồn trưởng Thủy. Tôi với các anh xã Trung Hòa phân tích, thấy Sủi có ba điều có thể tin được là thành phần cơ bản; trước là đảng viên cộng sản năm 1948 hoạt động tích cực; các hành động tỏ ra ăn năn, chưa có biểu hiện xấu, tuy có làm con nuôi Thủy, ta vẫn cần cảnh giác nhưng chưa đáng ngại.


Vậy thì ta gặp Sủi ở đâu? Gặp ở trong làng tại một vài cơ sở của ta thì sợ lộ, chi bằng gặp ban đêm ở một chỗ xa làng, nơi quang để ta có thể cảnh giới. Ta quyết định đường ra chùa Trắng thôn Trung Hòa, còn người gặp là tôi và đồng chí Tựa xã đội trưởng. Trước đó, tôi có hỏi anh em cơ sở, tại sao Sủi được ra ngoài vào ban đêm, thì anh em nói Sủi là con nuôi Thủy nên được tin cậy cho ra ngoài ban đêm.


Ta cho người cảnh giới từ tối đến 21 giờ, ra vị trí hẹn gặp chỉ có mình Sủi. Trong khi nói chuyện, Sủi trình bày hoàn cảnh đi lính và rất mong muốn xin đánh để lập công chuộc tội về với Tổ quốc, góp phần vào giải phóng quê hương. Đầu tiên kiểm tra một số tin tức thấy khớp với điều ta đã biết, tôi hỏi: "Nếu đánh bốt, anh làm được nhiệm vụ gì?". Sủi trả lời: "Lợi dụng vào phiên gác đêm ở trên chòi. Khi nhận được ám hiệu, tôi đánh từ trên đánh xuống, giữ khóa kho súng, các ông đánh từ ngoài đánh vào cổng, không khó lắm". Anh đưa bản đồ, chỉ rõ nhà chỉ huy, nhà lính ngủ, nhà ăn, hàng rào v.v... Tôi động viên giao nhiệm vụ, có gì thay đổi thì báo ngay, phát triển thêm nhân mối vào những người tin cậy.


Nắm được tình hình, tôi báo cáo huyện, huyện báo cáo Tỉnh đội. Tỉnh đồng ý tiêu diệt bốt.

Một ngày cuối tháng 11-1952, tôi cùng đồng chí Tựa và một đồng chí liên lạc đến thôn Đào Xá, xã Vân Du, huyện Ân Thi, nơi đóng quân của đại đội 176, gặp anh Rĩnh chính trị viên, anh Độ C trưởng, anh Bế C phó. Hôm ấy gặp cả anh Võ An Đông tỉnh đội trưởng về duyệt kế hoạch tác chiến và hiệp đồng để diệt bốt Bùi Xá.


Lần này có C176, C110 (Yên Mỹ), 1B phối hợp chiến đấu, 1B chặn viện Cảnh Lâm, Cống Tráng; dân công phục vụ thì lấy du kích Thường Kiệt, Tân Việt. Khi nghe giao nhiệm vụ, có một điều thú vị bây giờ tôi còn nhớ. Tôi hỏi bộ đội hành quân như thế, khi vào vùng tề nuôi nhiều chó, khi chó sủa bị lộ thì làm thế nào? Lúc đó anh Đông trả lời: Nếu động ta vẫn đánh, trên vẫn đánh xuống, ngoài vẫn đánh vào.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Sáu, 2022, 06:41:27 am
Về dự hội nghị quân sự nhận nhiệm vụ, mọi người đều tập trung lắng nghe, vẫn có tiếng thì thào giứa cán bộ cũ với cán bộ mới: "Anh Đông chỉ huy giỏi lắm, cứ trận nào anh thông qua kế hoạch tác chiến là trận ấy thắng". Nghe nói thế làm cho tôi cũng tin tưởng thêm.


Khi nhận nhiệm vụ xong, tôi và anh Đàm Đắc Độ, C trưởng 176, cùng đi với anh Tựa về xã Trung Hòa để thực địa và nắm thêm tình hình.

Trước một ngày đánh, tôi phải gặp nhân mối để giao nhiệm vụ. Độ này anh Sủi không được ra ngoài vào ban đêm nên phải gặp ban ngày, ở cơ sở tôi nắm mà đi gặp Sủi sợ lộ, nên phải gặp nhà cô Uất xã đội phó, bố trí lợp nhà để người ra vào nhiều, bố trí cơ sở của ta có hai người lợp nhà. Gia đình phục vụ đến trưa, nghỉ ăn cơm, lúc đó mới ở dưới hầm lên, chải đầu rửa mặt, cô Uất con cụ chủ nhà là người liên lạc với Sủi, dẫn Sủi gặp tôi. Tôi hỏi "có gì thay đổi không"? Sủi trả lời "không". Tôi và Sủi thống nhất giờ đánh: 23 giờ đêm ngày 28-11-1952. Nếu có động, chó cắn nhiều vẫn cứ đánh. Tôi hỏi nhân mối có mấy người, Sủi nói: "Có 5 người đã nhận nhiệm vụ là gác cùng tôi và kho súng". Sau khi làm nhiệm vụ, anh Sủi bố trí cho hai người trốn ở lại, chạy về quận để dùng vào việc sau này.


Đêm về ngủ, tôi soát xét kế hoạch có gì sơ hở không, đánh có chắc thắng không, không thể để như lần trước, năm 1949 ta đánh Bùi Xá lần thứ nhất không thành công.

Đến tối hôm sau, tôi ra địa điểm đón bộ đội, gặp anh Bế, đại đội phó, đi mũi chủ công để cùng tôi bắt liên lạc với nhân mối. Đi được nửa đường, mũi đi qua làng, chó sủa mạnh, thỉnh thoảng bốt nổ súng, chúng tôi phải chạy nhanh quãng đường đồng để vào đầu làng Bùi Xá. Vào đến chỗ trống gần bốt, chúng tôi bấm đèn pin quay hai vòng, trả lại cũng như thế, ta đã bắt liên lạc. Anh Bế cho mũi chủ công đánh quả bộc phá 10 cân vào ngay sau lưng nhà ngủ của lính, lỗ hổng to băng cái nong. Đằng cổng cũng nổ bộc phá ống mở đường. Anh em vào rất nhanh, không có chống cự gì đáng kể vì súng đã để ở kho lô cốt, phiên canh của Sủi đã giữ chìa khóa. Chỉ trong 20 phút ta thu dọn chiến trường, bắt tù hàng binh. Kiểm lại số tù binh không có tên Thủy, chúng tôi cho bộ đội tìm củng không thấy. Sau này mới biết lúc chó cắn nhiều tên Thủy linh tính không lành, đã nhảy xuống bò ao chuồn sang hàng xóm trốn thoát. Ra đến cánh đồng, tôi hỏi Sủi về số anh em nhân mối có đủ không, đã cho hai người trốn chưa? Lúc đó Sủi mới ra báo cho hai người trốn.


Về đến địa điểm tập kết, ta kiểm điểm đã tiêu diệt bốt hoàn toàn, địch chết 2, bắt 50 tên, thu 2 trung liên, 7 tiểu liên, 45 súng trường và quân trang, quân dụng. Ta có hai bộ đội bị thương nhẹ.

Trận này ta thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt một bốt công giáo phản động, mà bộ đội thương vong rất thấp. Bốt này đóng từ năm 1949, bộ đội đã đánh một Tân không kết quả, nay ta diệt bốt này thu toàn bộ vũ khí, giải phóng nhân dân.


Mấy ngày sau chúng cho lính quận dũng về càn quét lùng sục, dọn bốt. Ta bắt liên lạc với hai người được thả đêm 28-11. Biết rõ chúng ngủ lại thôn Thiên Lộc, đêm 2-12-1952, ta lại tập kích thôn Thiên Lộc. Bộ đội lùng sục bắt được hai tên, thu hai súng trường.


Đến cuối tháng 12-1952, C27 của tỉnh diệt bốt quận dũng Yên Mỹ, thu toàn bộ vũ khí cũng do có số nhân mối ta bắt liên lạc được.

Đêm 11, ngày 12-12-1952, hai đại đội của tỉnh đánh bọn phản động Cảnh Lâm, đánh điểm diệt viện không thắng lợi hoàn toàn. Đến chiều, địch cho xe tăng xuống hỗ trợ rút bốt Dộc Cảnh Lâm, sau chúng đóng lại.

Bốt Bùi Xá bị tiêu diệt, bốt Tổ Hỏa rút chạy về Lực Điền. Ta cho bộc phá phá bốt, san đồn, nhổ hàng rào. Sau chúng không đóng lại được nữa. Từ tháng 8 đến tháng 12-1952, khu đông Yên Mỹ ta diệt 3 bốt, bức rút 4 bốt, giải phóng 12 thôn (Trung Hòa 11, Trung Hưng 1) tạo thành du kích lõm trong lòng địch, sát đường số 5 và đường 39, tạo điều kiện cho các trận chiến đấu sau này, diệt căn cứ GM3 ở Dị Sử và các trận giao thông chiến trên dường 39, đê 199 và bao vây Cảnh Lâm, Cống Tráng.


Ghi chú của BBT:

Tại tập 7 trang 132-133, cứng có giới thiệu bài "Nội công ngoại kích đánh chiếm bốt vệ sĩ Bùi Xá", tác giả Nguyễn Tất Đảo. So sánh 2 tài liệu thì thấy nội dung lịch sử chuyện dùng nội ứng diệt bốt Bùi Xá là có thật, chỉ khác nhau vài chi tiết:

- Về thời gian, đồng chí Nguyễn Tất Đảo chỉ nói chuyện xảy ra vào cuối năm 1951, còn đồng chí Trần Xuân Tảo nói rõ chuyện xảy vào đêm ngày 28-11-1952.

- Về đơn vị tỉnh tham gia trận đánh, đồng chí Nguyễn Tất Đảo viết là do C20 và C27, còn đồng chí Trần Xuân Tảo viết là do C176, nói rõ việc đồng chí Tảo đi bàn bạc cụ thể với đại đội trưởng C176, tên cụ thể là Đàm Đắc Độ.

Để rộng đường tham khảo, xin nêu cả ý kiến khác nhau về thời gian, đơn vị tỉnh đánh của 2 tác giả.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Sáu, 2022, 06:42:49 am
ĐÁNH ĐỊCH TRÊN ĐÊ 199


TRẦN XUÂN TẢO
(Trưởng ban liên lạc bộ đội
Yên Mỹ chống Pháp)


Đê 199 là con đường từ Thiết Trụ qua Từ Hồ, Lực Điền, Cống Tráng ra Sặt, chạy song song với đường số 5. Còn đoạn đê 199 mà địch gọi là "đường tử địa" là đoạn đường từ Lực Điền đến Cống Tráng dài hơn 4 cây số, thuộc xã Lý Thường Kiệt, Tân Viêt.


Cuối năm 1952 ta diệt bốt Bùi Xá, đánh thiệt hại nặng bốt Cảnh Lâm, địch rút bốt Dộc (Cảnh Lâm) và bốt Tổ Hỏa. Thấy ta đánh mạnh chúng phải đưa GM3 về cố giữ khu vực đường 5. Do vậy, mà chúng đóng lại bốt Dộc (Cảnh Lâm), xây dựng địa phương quân thôn Tử Dương, ngày ở thôn, đêm ngủ Lực Điền. Chúng đẩy mạnh càn quét, lùng bắt cán bộ, phá cơ sở, đánh mìn trên đê 199, nhiều dân thường bị trúng mìn của địch. Chúng tăng cường khủng bố, bắn chết ông Nổ, bắn bị thương ông Sản thôn Tử Dương, bắn chết đồng chí Hạnh - xã đội phó, đồng chí Bỉ - bí thư thanh niên xã Lý Thường Kiệt. Dân tình hoảng sợ, nhiều người cầu an chạy đi Hà Nội, Gia Lâm.


Năm 1953, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ quân và dân Hưng Yên đã mở rộng khu du kích bắc Ân Thi, nam Yên Mỹ, khu du kích xã Trung Hòa (đông Yên Mỹ) đã hình thành. Nhiệm vụ của huyện đề ra lúc này là xây dựng cơ sở, bảo vệ cán bộ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ nhân dân; phối hợp với các lực lượng vũ trang đánh không cho địch quấy phá nhân dân để dân sản xuất.


Sau đây xin trình bày tóm tắt 8 trận đánh du kích trên đê 199 như sau:

+ Trận thứ 1: Ngày 17-2-1953, trung đội 39 thuộc C110 huyện Yên Mỹ phối hợp với du kích xã Lý Thường Kiệt bố trí từ chùa thôn Tổ Hỏa đến chùa thôn Tử Đông đánh địch từ Lực Điền đi tuần đường xuống Cảnh Lâm hàng ngày có từ 15 đến 20 tên. Tiểu đội bố trí tại đình thôn Tổ Hỏa, trung liên đặt ở gốc cây bàng. Khi địch đến dốc ông Tào, ta phát hỏa, địch chết tại chỗ 2 tên. Tổ bố trí ở đên Ngựa Bình, xung phong bắn chết 1 tên, bọn còn sống sót chạy về Tử Đông. Tổ đồng chí Thu, nứ du kích Hoàng Ngân, khóa đuôi phất cờ xung phong ra, địch bỏ súng chạy thoát 2 tên, ta thu 2 súng. Kết quả, địch chết 3 tên, bắt sống 12 tên, thu 1 trung liên, 9 súng trường, 1 ra-đi-ô, một máy dò mìn.


+ Trận thứ 2: Ngày 29-3-1953, 4 đồng chí bộ đội huyện và 4 du kích xã cải trang làm đồng, 1 tổ phục ở trong quán Đạc. Bộ phận địch gác đê xuống đồng mò gái, ta bắn chết 2 tên, thu 2 súng trường.


+ Trận thứ 3: Ngày 5-5-1953, đại đội 3 (Ân Thi) kết hợp với du kích xã Lý Thường Kiệt cung cấp tin tức đường để bộ đội phục kích bọn lính bốt Cảnh Lâm đi tuần lên Lực Điền, tại khu vực thôn Tổ Hỏa, diệt 5 tên, thu 1 trung liên, 1 tiểu liên, 6 súng trường. Trận thứ 4: Đầu tháng 5-1953, 5 nữ du kích Hoàng Ngân cùng 2 nam du kích hóa trang nữ đi chợ Lực Điền. Chợ họp cách bốt Lực Điền 200m về địa phận xóm Nhất Đô, thôn Tử Dương (xã Lý Thường Kiệt). Ta trà trộn vào người đi chợ, dùng đòn gánh đánh bọn địa phương quân, đánh trọng thương 1 tên, thu 1 lựu đạn, 1 dao găm. Địch thấy động đóng chặt cổng bốt không dám ra cứu, phải gọi đại bác bắn hỗ trợ, gọi máy bay trực thăng xuống cấp cứu mang tên bị thương đi. Từ đó, bọn địa phương quân không dám hoành hành như trước nữa.


+ Trận thứ 5: Cuối năm 1953, một tổ du kích nữ Hoàng Ngân xã Lý Thường Kiệt phối hợp với nữ Hoàng Ngân xã Tân Trào, huyện Ân Thi, giữa ban ngày đột nhập bốt Dộc Cảnh Lâm đánh bị thương nặng 1 tên, thu 1 súng trường.


+ Trận thứ 6: Ngày 16-8-1953, đại đội 176 của tỉnh, đại đội 110 của huyện, du kích xã Lý Thường Kiệt đã độn thủy, độn thổ diệt quân đi tuần bốt Cảnh Lâm. Rút kinh nghiêm trận thua trước,chúng đi tuần bằng 3 mũi. 1 toán đi giữa đê có máy dò mìn, 1 toán đi giáp bờ sông, 1 toán đi ngoài đồng sát đường đê. Hàng ngày, nữ du kích Hoàng Ngân báo cáo tin tức cho huyện đội rất chính xác là chúng có 20 tên đi tuần vào buổi sáng. Ta dùng lực lượng của C176 và 2 trung đội C110 của huyện Yên Mỹ và du kích xã Lý Thường Kiệt đã dùng chiến thuật độn thủy, độn thổ từ lò gạch thôn Đông Mỹ, đến xóm lẻ thôn Tử Dương, điểm quyết chiến là chùa Bụt Mọc, cống Son, xóm Chu Xá, đến chùa Tổ Hỏa. Ta đã độn thủy ở bờ ao, bờ sông chùa Bụt Mọc, 3 tổ ở Mả Mức, đường Quán Đạc - Tổ Hỏa, độn thổ ở Mả Mận - Tử Dương, lò gạch Đồng Mỹ. Trận đánh diễn ra nhanh chóng, 15 phút kết thúc. Ta diệt 16 tên, bắt sống 12 tên, thu 2 trung liên, 3 tiểu liên, 10 súng trường. Bộ đội ta chết 1, bị thương 1.


+ Trận thứ 7: Đầu năm 1954, du kích xã Lý Thường Kiệt độc lập tác chiến phục kích trên đê 199, từ cột mốc giáp Tể Hỏa - Tử Đông đến chùa Tử Đồng, gài mìn vào sườn đê, chân đê, phía trong làng, du kích bố trí ngoài đồng từ cánh cây đê Tổ Hỏa bắn súng vào. Địch có hơn tiểu đội đang đi tuần, chúng sợ đạn, lăn vào đê bên trong vấp phải mìn ta chôn sẵn. Mìn nổ làm bị thương 3 tên, chúng phải bỏ cuộc đi tuần.


+ Trận thứ 8: B39 của huyện đội Yên Mỹ cùng với du kích xã Tân Việt bao vây bốt Cống Tráng gây cho địch thiệt hại. Ngày 25-4-1954, chúng cho 1 tiểu đoàn và xe tăng hỗ trợ bốt Cống Tráng để rút về Lực Điền.

(Viết theo lời kể của các đồng chí: Toán, trung đội phó;
Phan Văn Giai, tiểu đội trưởng B39 huyện Yên Mỹ;
các nữ du kích Hoàng Ngân xã Lý Thuờng Kiệt)


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Sáu, 2022, 06:34:11 am
BAO VÂY VỊ TRÍ CỐNG TRÁNG,
BỨC ĐỊCH PHẢI THÁO CHẠY


VŨ THƯ
(Nguyên bí thư chi bộ,
chính trị viên xã đội Tân Việt)


Xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ (Hưng Yên) có 5 thôn: Hoan Ái, Gia Cầu, Yến Đô, Lãng Câu và Cảnh Lâm. Riêng thôn Cảnh Lâm có một số đồng bào theo đạo Thiên chúa. Năm 1950, địch đã về Tân Việt xây dựng đồn Cống Tráng và 3 đồn hương dũng ở thôn Cảnh Lâm. Khi đến chiếm đóng, địch đã thành lập ngụy quyền, tổ chức phòng nhì và các đảng phái phản động để chống lại ta.


Có một số người không chịu được sự hy sinh gian khổ, nên đã đầu thú địch, thậm chí còn có kẻ đi lính ngụy, làm phòng nhì, chỉ điểm và tham gia vào các tổ chức đảng phái phản động chống lại ta.


Trong thời kỳ đen tối, cơ sở các thôn mất trắng, chỉ còn một tổ Đảng ở xóm Trong thôn Hoan Ái. Tổ Đảng có 4 đảng viên, tuy không liên lạc được với trên, nhưng vẫn hoạt động, nắm quần chúng tốt, theo dõi bám sát tình hình địch.


Địch mới đóng đồn được 4 tháng thì ngay đêm 30-4, các đảng viên xóm Trong đã làm quốc kỳ Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và viết áp-phích mang lên cắm giữa đê 99, cách vị trí Cống Tráng 400m, để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1950. Quốc kỳ tung bay trước gió, nhân dân tin tưởng cơ sở kháng chiến vẫn còn tồn tại. Đúng như 2 cấu thơ của thi sĩ Tố Hữu:

"Ở đâu u âm quần thù
Hướng lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi"


Mãi đến trưa, ngụy quân ở đồn Cống Tráng mới ra tháo gỡ áp-phích và quốc kỳ.

Đến trung tuần tháng 9-1950, các đồng chí Đặng Quang Của, Đặng Ngọc Tiêm và Đào Quang Hanh, được lệnh của huyện đã trở về xã và bắt liên lạc với các đồng chí đảng viên ở xóm Trong. Các đảng viên đả tích cực đào hầm bí mật để bảo vệ và nuôi dưỡng các đồng chí trở về nội địa. Ngoài ra, các đảng viên ở xóm Trong đã phối hợp với các đồng chí ở Việt Bắc về, đêm xuống các thôn xóm để khôi phục, củng cố và phát triển cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và lực lượng bán vũ trang.


Cơ sở của ta được củng cố và phát triển mạnh. Cuối năm 1951, chi bộ đã có Ban chi ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập, có ban chỉ huy xã đội để lãnh đạo du kích; các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông hội đã có ban chấp hành.


Từ 31-3-1951, phối hợp với chiến trường toàn quốc, tỉnh Hưng Yên đã nổi dậy đấu tranh vũ trang quyết liệt với địch, đã san bằng hàng trăm đồn, nhân dân được giải phóng, mở rộng được khu du kích và căn cứ du kích.


Thực hiện chủ trương của huyện và được B39 của huyện đội Yên Mỹ hỗ trợ trong đông xuân 1952 - 1953, chi bộ xã Tân Việt đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh vũ trang với địch. Dân quân du kích các thôn đã đào hàng trăm mét giao thông hào và làm công sự để lập phòng tuyến bao vây đồn Cống Tráng và các đồn hương dũng ở Cảnh Lâm. Thời gian đấu tranh vũ trang và bao vây địch, Tân Việt đã có một trung đội du kích nam và nữ du kích Hoàng Ngân, được huyện trang bị 15 khẩu súng trường các loại.


Từ đông xuân 1952 - 1953 đến đông xuân 1953 - 1954, bộ đội phối hợp với du kích liên tục bao vây các vị trí của địch, ngày đêm thường xuyên dùng súng trường, súng máy và moóc-chi-ê 81 ly xối xả bắn vào các đồn làm cho quân ngụy hoang mang hoảng sợ, mất ăn mất ngủ. Nhiêu lần địch phải huy động trên đại đội lính tiếp tế lương thực, thực phẩm cho quân ngụy.


Ngụy quân ở Cống Tráng không đủ sức cố thủ nên đầu năm 1954 địch đã huy động 1 tiểu đoàn có xe tăng yểm trợ xuống Tân Việt giải vây. Binh lính đồn Cống Tráng đã tháo chạy lên hậu cứ huyện lỵ Yên Mỹ, còn bốt trên đê và bốt Đình chúng phải co cụm xuống bốt Dộc thuộc thôn Cảnh Lâm. Khi địch tháo chạy và co cụm, dân quân du kích xã Tân Việt đã quyết tâm san bằng các đồn bốt để chống địch tái chiếm. Tại đồn Cống Tráng, ta đã thu được gần 20 hòm đạn các loại. Trong thời gian bao vây, du kích và bộ đội ta đã bắn tỉa diệt được 11 tên lính. Và trong cuộc tuyên truyền vũ trang vào Cảnh Lâm, ta đã bắn trọng thương tên Nguyễn Doãn Tín là tên phòng nhì chỉ điểm đắc lực cho Pháp, y và lính người công giáo đã giết chị Bùi Thị Cúc một cách man rợ.


Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân xã Tân Việt đã khắc phục khó khăn, chịu đựng hy sinh gian khổ, đoàn kết anh dũng chiến đấu, góp phần nhỏ vào sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Sáu, 2022, 06:34:55 am
TRẬN CHỐNG CÀN "CẬN CHIẾN" Ở THÔN ĐỒNG THAN


VŨ THÁI
(Nguyên cán bộ B206)


Ngày 18-1-1954, đồn địch tại Kênh Cầu (vị trí tiên tiêu về phía tây của cứ điểm GM3) bị ta tiêu diệt hoàn toàn, bắt sống và tiêu diệt 100 tên, thu toàn bộ vũ khí. GM3, quân Mường thuộc binh đoàn cơ động đóng tại thôn Bần Yên Phú xã Giai Phạm đã điều khoảng 1 tiểu đoàn dọc tuyến đường 206 qua đồn Kênh Cầu mới bị ta san phẳng về thôn Đồng Than (xã Dân Chủ cũ, nay là xã Đồng Than) chia làm nhiều mũi dàn hàng ngang chậm chạp tiến vào trận địa bên trong lũy tre. Khi tiến quân, chúng đều gọi phi pháo ở đồn Bần, "GM3" bắn vào làng hàng loạt. Thực hiện lệnh của ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên, B206 thuộc huyện đội Yên Mỹ gấp rút chuẩn bị, kiên quyết đánh thắng trận càn phản ứng của GM3. Vì đồn Kênh Cầu mới bị tiêu diệt, coi như phía tây nam của cứ điểm GM3 đã bị hở, phía này lại tiếp giáp với khu du kích mạnh Yên Mỹ, Khoái Châu và Văn Giang.


Nhận thức đầy đủ ý nghĩa quan trọng của trận chống càn này, lại được ban chỉ huy Huyện đội quán triệt sâu sắc, phân công nhiệm vụ từng tiểu đội thuộc trung đội 206 trấn giữ từng bụi tre ở từng khu vực trong thôn, phối hợp chặt chẽ với A1 du kích của thôn Đồng Than để cùng chiến đấu. Mặt khác, anh em du kích phải đảm bảo hậu cần và liên lạc giữa ban chỉ huy với các tiểu đội, các tổ hướng dẫn bộ đội nắm chắc hầm hố, đường ngang ngõ tắt trong làng. Đồng chí Thi Anh, huyện đội trưởng, đã quán triệt sâu sắc với toàn trung đội 206 trên mặt bằng của sa bàn, giao trách nhiệm, động viên anh em nêu cao quyết tâm đánh "cận chiến" trận này. B206 là B mạnh của huyện đội, lại đánh thắng địch ở trên mặt đường 206 mà đơn vị mang tên lại càng có ý nghĩa. Còn 2B 39 và 55 bố trí ở nơi khác làm nhiệm vụ bao vây, quấy rối các đồn địch ở Lực Điền, Bần để đánh lạc mục tiêu tiến quân và phi pháo của địch tại trận Đồng Than.


Kế hoạch trên đã phổ biến quán triệt cho toàn đơn vị tại thôn Bình Phú, xã Quang Phục. Đúng 6 giờ 30 tối ngày 25-1-1954, toàn đơn vị hành quân về Đồng Than chiếm lĩnh trận địa.

Toàn trung đội có 3 tiểu đội, mỗi tiểu đội có 3 tổ; trung đội trưởng là đồng chí Thanh Thức chỉ huy A1, đồng chí Thành chính trị viên phó chỉ huy A2, đồng chí Thụ B phó chỉ huy A3, các đồng chí tiểu đội trưởng, tiểu đội phó trực tiếp làm tổ trưởng tam chế. Quân số toàn trung đội có trên 40 người, có 1 trung liên, 3 tiểu liên, trên 100 quả lựu đạn và súng trường đầy đủ. 9 tổ bố trí ở các công sự trong bụi tre hướng về phía địch tấn công.


Bố trí xong, ban chỉ huy huyện đội và trung đội đến từng tổ để xem xét cách bố trí đánh "cận chiến", kiểm tra công sự hầm hố, động viên nhắc nhở anh em bộ đội quyết chiến và quyết thắng.

Căng thẳng và hồi hộp suốt đêm 25-1-1954, toàn trung đội đã chiếm lĩnh trận địa. 4 giờ sáng, quân báo cho biết địch đi bằng nhiều mũi đang qua Kênh Câu theo đường 206 tiến về làng Đồng Than. Phi pháo của địch ở Bẳn đang bắn vào làng đồn dập từng loạt một. 6 giờ sáng, địch dàn hàng ngang khoảng 1 đại đội tiến vào phía làng. Chúng không thấy động tĩnh gì nên cho quân từng bước chậm chạp tiến vào làng. Cách 4m, lệnh phát hỏa bắt đầu. Quân ta đồng loạt nhả đạn, địch chết như ngả rạ. Chúng phải rút ra xa, mang theo tử thi. Tiếp đó, chúng lại bắn pháo đồn dập. Dứt tiếng pháo, địch lại tiến vào. Ta bắn trả quyết liệt. Cứ như thế, 6 lần địch tiến vào đều bị bộ đội 206 đánh bật ra. Mãi đến tối, chúng mới vào được làng thì bộ đội đã rút ra khỏi làng. Mốt số anh em xuống hầm, đến gần sáng đã rút được hết. Địch cũng chỉ đóng lại có 1 đêm, sáng hôm sau bỏ dở cuộc càn rút về cứ điểm GM3. Cuộc chiến đấu không cân sức, chỉ có B206 mà đánh tan cuộc càn quét của một tiểu đoàn quân GM3, buộc chúng phải bỏ dở rút về vị trí. Trong trận này, địch đã bị diệt 1 trung đội, chúng phải cho trực thăng chở lính bị thương, bị chết đi. Phía ta hy sinh 3 bộ đội và 3 du kích. Đặc biệt nhân dân sơ tán triệt để nên không bị thiệt hại gì đáng kể.


Trung đội 206 thực xứng danh đánh thắng oanh liệt một tiểu đoàn địch ở trên đường 206 anh hùng.

LƯU ĐÌNH LINH kể - VŨ THÁI ghi


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Sáu, 2022, 06:35:28 am
HÓA TRANG BAN XE ĐịCH TRÊN ĐƯỜNG 5


HOÀNG CHẠCH


Trước sự tấn công của quân ta, quân Pháp ngày càng khốn đốn trên mặt trận Điện Biên Phủ. Nhưng chúng vẫn tăng cường tuần tiễu bảo vệ tuyến đường 5 huyết mạch của chúng.

Nhân dân Thủ đô Hà Nội có một số đã nhốn nháo sơ tán về quê. Lợi dụng thời cơ tốt đó, thế là đồng chí Trần Thụ, trung đội trưởng trung đội 206 (đại đội 110), đồng chí Quýnh, đồng chí Hoàng Chạch cùng ba cô nữ du kích Hoàng Ngân thôn Đại Hạnh: Hà Thị Thêu, Thiêu Thị Hảo, Thiêu Thị Rụt phối hợp đánh địch.


Ba cô này mượn quần trắng áo dài tân thời màu của đồng bào sơ tán về quê, đồng thời cho 3 khẩu tiểu liên Tuyn vào trong làn xách. Còn 3 chúng tôi cúng mượn quần áo făng, kính đổi màu, mũ phớt... diện vào, hành quân từ thôn Đại Hạnh thuộc xã Hoàn Long cách đường 5 khoảng 8km đường chim bay, thẳng tới thôn Tuấn Dị thuộc xã Trưng Trắc (Văn Lâm). Đầu làng của thôn này chỉ cách đường 5 khoảng trên dưới 100m. Chúng tôi quan sát địch tình hồi lâu, rồi đồng chí Thụ quyết định trực tiếp lên chiếm lĩnh trận địa, hòa nhập vào đồng bào Thủ đô đang xuôi ngược vượt đường.


Trong lúc chúng tôi đang bình tĩnh hối hả vượt đường thì thấy một xe "cát cát" từ phía Như Quỳnh xuôi về Hải Phòng. Được lệnh của đồng chí Thụ, cả 2 tổ với 3 khẩu tiểu liên đã nhanh chóng ra khỏi làng. Trong nháy mắt, đều hướng vào chiếc xe nọ mà nhả đạn. Kết quả 2 tên trong xe bị gục. Tên lái xe sống sót, hú vía phóng bạt mạng chạy trốn. Còn 2 tổ chúng tôi nhanh chóng rút lui an toàn.


Sau về rút kinh nghiệm trận đánh táo bạo này. Đồng chí Thi Anh thay mặt huyện đội nhiệt liệt biểu dương anh chị em chiến đấu dũng cảm và góp ý bổ sung cho đồng chí Thụ là nên phân công một đồng chí bắn vào lốp xe của địch để nó khựng lại, rồi tước vũ khí của địch thì trận đánh táo bạo này hoàn toàn thắng lợi to lớn.


Hiện nay sáu người vẫn còn sống cả.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Sáu, 2022, 06:36:45 am
QUÂN VÀ DÂN XÃ CÔNG HÒA PHỐI HỢP
VỚI ĐẠI ĐỘI 110 CHỐNG CÀN THẮNG LỢI


ĐỖ ĐĂNG KHỐI
(Nguyên chiến sĩ trung đội 206, đại đội 110)


Cuối năm 1952, quân ta đã mở rộng khu du kích, bức rút bốt Cầu Hầu, bốt Tam Trạch cuối cùng tiêu diệt bằng nội ứng bốt công giáo Bùi Xá. Từ đây, xã Cộng Hòa (nay gọi là xã Trung Hòa) hoàn toàn được giải phóng khỏi ách kìm kẹp của bọn phản động gian ác, đảng phái và ngụy quân, ngụy quyền bị tan rã.


Được sự chỉ đạo của huyện, phong trào cách mạng toàn xã được khôi phục và phát triển. Đặc biệt, lực lượng vũ trang xã đá thành lập được từ 1 đến 2 trung đội cơ động, thôn cũng thành lập được tiểu đội cơ động sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hàng trăm thanh niên nam nữ vào du kích, riêng nữ Hoàng Ngân được chị Nguyễn Thị Dân là xã đội phó chỉ huy du kích Trung Hòa, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nhân dân, chống địch càn quét, và động viên nhân dân tiếp tục sản xuất.


Du kích Trung Hòa còn tổ chức tìm địch để đánh, diệt địch cướp vũ khí về trang bị cho ta. Ngày 16-3-1953, du kích Trung Hòa còn lên đường 5 đặt mìn diệt 2 xe địch ở cây số 31, diệt 37 tên. Ngày 19-3-1953 phục kích ở đường 39, diệt xe zép và 2 tên lính Âu Phi ở cây số 33. Ngoài ra, còn đặt mìn ở phố Son để diệt xe địch. Có lần phối hợp với bộ đội huyện và du kích xã Lý Thường Kiệt đánh phục kích ở đê 199 Tể Hỏa diệt hàng trung đội địch. Đội nữ Hoàng Ngân còn đột nhập chợ Yên Mỹ ban ngày để đánh địch do chị Vũ Thị Vì tổ chức đánh.


Sau khi Trung Hòa được giải phóng, huyện đặt xã này trở thành căn cứ "lõm" nằm phía đông của huyện, xung quanh có hàng chục vị trí quan trọng bao vây và uy hiếp. Phía đông và bắc Trung Hòa từ Phố Nối đường 5 xuống quận lỵ Mỹ Hào và Kẻ Sặt, phía bắc và tây từ Phố Nối là đường 39 về Cầu Treo Yên Mỹ - Lực Điền. Phía tây nam từ Lực Điền dọc sông Đào - Nghĩa Trụ, đê 199 qua Cống Tráng ra Kẻ Sặt. Căn cứ "lõm" Trung Hòa như con dao găm chọc vào lưng, vào tim gan địch, thường xuyên bị địch bắn uy hiếp bằng súng cối, đại bác, súng bắn thẳng từ Kẻ Sặt, Mỹ Hào, Bần Yên Nhân, Lực Điền. Hàng ngày, bốt Cảnh Lâm chỉ cách thôn Quần Ngọc, thôn Nội Tây trên 100m, súng máy, súng trường của địch uy hiếp không cho hai thôn này sản xuất cả ban ngày và ban đêm.


Xã Trung Hòa có 11 thôn tạo thành 3 cụm dựa vào nhau chiến đấu. Các thôn Nghĩa Xuyên, Nguyễn Xá, Quần Ngọc, Nội Tây nằm dọc sông đào Nghĩa Trụ và đê 199. Các thôn Thượng Bùi, Bùi Xá, Thiên Lộc, Trung Hòa nằm án ngữ dọc đường 200 từ Cầu Treo qua Cầu Hầu, Cống Tráng. Còn các thôn Tam Trạch, Xuân Tảo, Câu Thôn nằm giữa đồng chiêm trũng phía đông của xã.


Quân và dân Trung Hòa sẵn sàng đánh địch, rào làng chiến đấu, đào giao thông hào liên hoàn, đắp ụ nổi, đào hầm ngâm và hầm bí mật... chuẩn bị cả lương thực khô (gạo rang) và thực phẩm dự trữ để sẵn sàng chiến đấu ỏ căn cứ "lõm".


Ngày 17/4/1953, được quân báo, trinh sát tiên tiêu của xã ở cây đa Tam Tầng báo cáo hướng Phố Nối có nhiều tiếng động cơ xe tăng, cơ giới gầm rú mỗi lúc một gần về Thư Thị, Cầu Treo. Lính bốt quận Yên Mỹ cúng hành quân ra ơâu Treo. Địch tập kết xe cơ giới, bộ binh, lính Pháp, lính Thổ của GM3 cùng lính quận Yên Mỹ và các bốt lân cận chuẩn bị đi càn. Xong, 4 xe tăng và thiết giáp cùng số bộ binh tiến về hướng Trung Hòa, vừa tiến chúng vừa bắn xối xả, vừa thăm dò.


Lực lượng ta có 2 trung đội của đại đội 110 huyện Yên Mỹ. Đồng chí Thi Ảnh là huyện đội trưởng, đồng chí Vân chính trị viên cùng ỏ với trung đội 39 trú quân ở Tam Trạch, còn lực lượng du kích được phân công theo kế hoạch tác chiến của xã và thôn.


Trung đội 206 do đồng chí Thành - trung đội trưởng, đồng chí Thoại - chính trị viên đã được bố trí như sau:

- Tiểu đội đồng chí Hải có 10 chiến sĩ + 2 tiểu đội du kích xã bố trí tác chiến ở thôn Trung Hòa hướng đường 200, cánh đồng Chùa Trắng. Vũ khí có 2 tiểu liên, 12 súng trường, mìn, lựu đạn.

- Tiểu đội đồng chí Sơn Càn có 8 chiến sĩ + 2 tiểu đội du kích thôn Quần Ngọc, vũ khí có 2 tiểu liên, 6 súng trường + mìn, bố trí hướng Nội Tây và Cảnh Lâm.

- Tiểu đội đồng chí Hoàng Uyên ở thôn Nguyễn Xá có 12 chiến sĩ và đồng chí Thành B trưởng cùng 2 tiểu đội du kích của thôn Nguyễn Xá cùng một số du kích của 2 xã Tân Việt và Lý Thường Kiêt phối hợp bố trí ở hướng Nội Tây và Chùa Trắng.

Đến 9 giờ cùng ngày, địch càn tới cây đa Thượng Bùi, chia thành 3 hướng: Hướng Thượng Bùi, Bùi Xá, Thiên Lộc, lính quận Yên Mỹ càn vào các thôn này lùng sục đốt phá, hãm hiếp, cướp của... Du kích mấy thôn này đánh trả yếu, thấy địch mạnh đã rút vào hầm bí mật để bảo tồn lực lượng.


Cùng lúc, 2 xe tăng và bộ binh GM3 lượn ven làng Thượng Bùi sang Đống Cao thôn Thiên Lộc hòng chặn quân ta rút khỏi cánh đồng, còn 2 xe tăng cùng bộ binh GM3 tiến thẳng đường 200 rồi thọc sang cánh đồng Chùa Trắng để tấn công vào thôn Trung Hòa. Khoảng cách 200m, rồi 100m..., 10m. Đồng chí Hạc tiểu đội trưởng rất bình tĩnh, chờ địch tới gần mới hạ lệnh đồng loạt nổ súng, nổ mìn và lựu đạn. Địch bị đánh bất ngờ, chết và bị thương 10 tên. Bị thua đau, chúng rút ra Chùa Trắng chờ quân GM3 của Lực Điền yểm trợ. Cùng lúc, quân của Lực Điền càn qua Trung Đạo, Nội Tây, lính Cảnh Lâm vượt sông sang tạo thành một mũi càn vào làng Quần Ngọc, Nguyễn Xá. Khi chúng tới chân tre 2 thôn, bị ta đánh trả quyết liệt, 4 lần tấn công chúng đều bị thất bại, địch chết và bị thương gan 20 tên.


Gần tối, bộ đội và du kích chiến đấu hết đạn, rút về hầm hào bí mật. Lúc này địch mới đột nhập được vào thôn Quần Ngọc và thôn Nguyễn Xá. Đi đến đâu chúng đều đốt phá, bắn giết, hãm hiếp.

Ở Quần Ngọc, đồng chí Thoại chính trị viên, đồng chí Sơn tiểu đội trưởng cùng một chiến sĩ và du kích bị địch bắt. Bọn Cảnh Lâm bắt được đồng chí Thoại ở cùng hầm với nữ du kích Chung. Địch tra tấn đồng chí Thoại, hỏi: "Chỉ huy của chúng bay đâu?". Đồng chí Thoại đáp: "Tao là chỉ huy". Bọn chúng đánh tiếp đồng chí Thoại chết đi sống lại với một số đồng chí khác nữa.


Ở Nguyễn Xá, địch bắn giết nhiều dân thường tại chỗ rồi đốt nhà. Có gia đình chúng giết cả nhà không còn ai. Có gia đình chỉ còn một em bé lên 2 nằm trên vũng máu người thân gào thét... Tính ra chúng đã giết chết hơn 70 người dân và một số bộ đội B206.


Một số bộ đội và du kích xuống hầm, chứng cũng moi lên tra tấn dã man như đồng chí tiểu đội trưởng Tiêu, đồng chí Trưởng chính trị viên thôn và một số đồng chí khác. Có hầm chúng ném lựu đạn, bắn tiểu liên xuống làm chết tất cả như hầm đồng chí Dũng. Đến tối, chúng đưa số bị bắt này về Cảnh Lâm và Lực Điền.


Buổi chiều, khoảng 14 giờ, bọn xe tăng bộ binh địch ở thôn Thiên Lộc quay xuống giáp chân tre thôn Tam Trạch bắn phá thăm dò. Cùng lúc, bọn xe tăng và bộ binh của GM3 ở Xuân Tảo cũng chuẩn bị tiến sang chùa Tam Trạch. Chúng đã bắt Cai Chùy mặc áo lương the đen dẫn đầu. Lực lượng ta có B39, đồng chí Long trung đội trưởng, đồng chí Thi Anh cán bộ huyện đội cúng ở Tâm Trạch cùng với một số du kích ở Trung Hoà và đồng chí Tựa xã đội trưởng.


Địch tổ chức tấn công về chiều. Chỉ thị của đồng chí Thi quyết cố thủ không cho địch tấn công vào làng, chờ đến tối ta có hướng tác chiến mới.

Đồng chí Long trung đội trưởng cùng tiểu đội đồng chí Phượng và một số du kích xã Trung Hòa, đồng chí Tựa chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu hướng chùa cổng hậu thôn Tam Trạch đón địch từ thôn Xuân Tảo tấn công sang. Vũ khí ta chỉ có tiểu liên, súng trường, mìn, lựu đạn. Đồng chí Hiền chôn mìn gần cây đa sẵn sàng chờ lệnh nổ!


Đến 15 giờ, cai Trùy dẫn gần một đại đội lính Pháp, lính Thổ, lính ngụy của GM3 vừa bắn vừa tiến vào chùa Tam Trạch, qua cây đa để đột nhập vào cổng hậu làng Tam Trạch. Đồng chí Lăm, đồng chí Phượng chỉ huy rất mưu trí, linh hoạt, bình tĩnh. Để cho bọn đi đầu gần tới cổng hậu, bọn sau đến cây đa, bọn sau nữa đến chùa, đồng chí Lăm mới hạ lệnh, mìn nổ tung, các loại súng bắn xối xả, lựu đạn ném tới tấp. Bộ đội và du kích hô vang xung phong. Bị đánh bất ngờ, địch chết và bị thương 18 tên, trong đó có 1 quan ba, số còn sống chạy tháo thân lăn xuống rãnh, hào bò về hướng chùa rồi cụm lại, tổ chức nhiều đợt tấn công khác đều không thành. Trời tối, chúng hoảng sợ rút về Xuân Tảo.


Cùng lúc, hướng Thiên Lộc có hai xe tăng cùng bộ binh tiến gần sát chân tre. Đồng chí Dai tiểu đội trưởng, đồng chí Tựa xã đội trưởng cùng du kích, bộ đội bình tĩnh chờ địch tới thật gần mới nổ súng. Lựu đạn các loại súng của ta bắn xối xả, địch chết và bị thương 15 tên, số còn lại phải rút chạy ra xa. Chúng nghi có chủ lực của ta chiếm đóng trong làng nên gọi pháo, đại bác ở Bần, Mỹ Hào, Lực Điền bắn vào Tam Trạch uy hiếp quân ta. Địch cụm lại ở thôn Xuân Tảo và Câu Thôn cho đến sáng hôm sau.


Đến khoảng 22 - 23 giờ, bộ đội cùng du kích được lệnh của đồng chí Thi rút theo cổng chính làng Tam Trạch, luôn sang cánh đồng Lưu Trung, vượt qua đường 39 về thôn Đại Hạnh an toàn. Số dân còn lại cũng rút ra khỏi làng an toàn. Khoảng 6 - 7 giờ sáng hôm sau, đại bác của địch từ các hướng trên đã bắn về dồn dập nhiều lần, rồi xe tăng và bộ binh từ các hướng Xuân Tảo, Cầu Thôn tấn công bao vây làng Tam Trạch. Vì đồng chiêm sình lầy, xe tăng địch đứng ngoài bắn vào. Bộ binh địch mãi đến 9 - 12 giờ trưa mới vào được trong lằng. Cả làng lúc này trở thành vườn không nhà trống. Cuộc càn tìm kiếm chủ lực không đạt, địch thất bại rút về căn cứ. Trận này địch chết hơn 30 tên, ta chỉ có 1 bộ đội bị thương, 1 du kích hy sinh.


Hơn một ngày, quân và dân Trung Hòa và bộ đội huyện Yên Mỹ chiến đấu dũng cảm, kiên cường ở căn cứ "lõm" chống chọi với kẻ địch đông, vũ khí tối tân, đã lập được nhiều chiến công oanh liệt và vẻ vang. Tuy có một số tổn thất và thiệt hại, quân và dân Trung Hòa càng nêu cao cám thù giặc, tiếp tục lập nhiều chiến công mới.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Sáu, 2022, 06:38:11 am
PHỤC KÍCH TRÊN ĐƯỜNG 39
(Tư liệu)


ĐỘN THỔ PHỤC KÍCH Ở CẦU TREO (YÊN MỸ)


Ngày 12 tháng giêng âm lịch năm 1953, một bộ phận của C25 đã phục kích độn thổ đánh tụi lính ở bốt Yên Mỹ đi tuần trên đường 39 từ Yên Mỹ lên bốt Dâm (Nho Lâm), đoạn Cầu Treo (xã Tân Lập). Trận đánh diễn ra chớp nhoáng. Ta thu được một số vũ khí và bắt được 10 tên địch, một số chạy thoát về Yên Mỹ. Bản thân tôi đã được tham gia trận phục kích này, nay xin kể lại.


ĐỖ XUÂN MẠO
(thôn Luu Trung, xã Liêu Xá)


TRUNG ĐỘI 206 DIỆT 6 XE

Ngày 14-3-1954, một đoàn xe địch chở quân xuống thị xã Hưng Yên. Trung đội 206 phán đoán đoàn xe giặc sẽ trở về nên giao cho tiểu đội 1 do đồng chí Nhẫn làm tiểu đội trưởng, phối hợp với du kích xã Hoàng Hữu Nam (5 nam du kích và 3 nữ Hoàng Ngân), phân công chị Nguyễn Thị Thanh quan sát trên chòi cao và 2 chiến sĩ là anh Bình và anh Thân phụ trách khẩu trung liên. Đúng 14 giờ, đài quan sát báo cáo có 6 xe địch. Đợi xe đầu vào trận địa, đồng chí Nhẫn nổ một loạt tiểu liên, lập tức khẩu trung liên của 2 đồng chí Bình và Thân bắn vỗ mặt vào đoàn xe và anh em khác từ chỗ ẩn nấp xông thẳng ra đường. Giặc bị bất ngờ, 6 xe bị đồn lại, có tên sợ quá lăn vào gầm xe, bị ta bắt sống.


Trận đánh diễn ra trong 10 phút, anh em đã diệt và phá hủy 6 xe, diệt gọn bọn địch trên xe, bắt một tên Pháp. Bên ta không bị thương vong ai. Nhân dân thấy xe địch bị đốt, tù binh bị bắt, vui mừng hoan hô bộ đội và du kích.

NGUYỄN XUÂN HÒA


PHỤC KÍCH ĐỊCH TẠI LÀNG GIỒNG VÀ LÀNG HẠ

Hồi tháng 6-1953, trung đội 55, đại đội 110 huyện Yên Mỹ phối hợp với nữ du kích Hoàng Ngân cung cấp tình hình cho biết: Từ sáng sớm hàng ngày, địch có từ 20 - 26 tên đi tuần hai bên đường và dọc đường 39 từ bốt Lực Điền về huyện Yên Mỹ.


Trung đội được huyện đội tăng cường thêm chỉ huy và du kích, xây dựng kế hoạch phục kích diệt bọn địch đi tuần này như sau:

Bộ phận chặn đầu có 6 cán bộ và chiến sĩ, có 1 trung liên cùng tiểu liên và súng trường do đồng chí Tuyến, huyện đội phó, trực tiếp chỉ huy tổ chặn đầu, nấp ở đình làng Hạ cạnh đường 39. Bộ phận xung kích có 2 tiểu đội, trang bị 4 tiểu liên và súng trường đầy đủ do đồng chí Quang, trung đội trưởng, chỉ huy trong nhà dân, bụi dứa hướng ra đường 39. Bộ phận khóa đuôi, có 1 tiểu đội do đồng chí Thanh Thực, cán bộ trung đội chỉ huy, nằm trong nhà dân ở lành Giông.


2 giờ sáng đầu tháng 6-1953, sau khi phổ biến kế hoạch, trung đội vào chiếm lĩnh trận địa được bí mật.

5 giờ 30, bộ phận đi đầu của địch tiến vào trận địa, rời đại bộ phận địch lọt vào trận địa. Khi chúng tới cách bộ phận đi đầu 25m thì trung liên, tiểu liên ta đồng loạt nổ súng. Bọn chúng nhốn nháo tìm chỗ ẩn nấp, dùng súng bắn trả lại. Bộ phận xung kích nhanh chóng áp sát địch, súng kẹp nách vừa chạy vừa bắn về phía địch. Địch lợi dụng mô đất bắn trả lại.


Đồng chí Quang đã anh dũng hy sinh. Anh em đã chiếm được cổng gạch, bắn bị thương và diệt một số tên địch, thu hút hỏa lực địch về phía mình để bộ phận khác vượt qua làn đạn địch, vòng về bên phải, phía sau địch. Đồng chí Tiến và một số đồng chí khác xông thẳng vào khẩu trung liên, nhấc bổng lên, nóng bỏng cả tay. Bấy giờ bọn địch mới ngoan ngoãn giơ tay xin hàng.


Kết quả trong 10 phút, ta đã tiêu diệt và bắt sông 12 tên, ta hy sinh 1, rút về căn cứ an toàn.

Trung đội lại tiếp tục phát huy truyền thông đi làm nhiệm vụ mới.

LUƠNG QUANG LÃNG kể


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:45:25 am
Phần hai
THỜI CHỐNG MỸ VÀ ĐỔI MỚI


BƯU ĐIỆN HẢI PHÒNG VỮNG VÀNG
TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG HỘI NHẬP THẾ KỶ 21

ĐÔNG HÀ


Với sự chân tình cởi mở, anh Trịnh Quang Tác, Giám đốc Bưu điện Hải Phòng dù bận nhiều việc vẫn dành thời gian kể cho chúng tôi nghe về quá trình phát triển của Bưu Điện Hải Phòng. Để minh họa cho lời kể của mình, anh dẫn chúng tôi thăm phòng truyền thống của đơn vị. Cô gái phụ trách phòng truyền thống và thư viện duyên dáng trong bộ trang phục nền nã, niềm nở giới thiệu với chúng tôi...

Truyền thống cách mạng của Bưu điện Hải Phòng

Chúng tôi ngỡ ngàng và xức động khi bắt gặp tấm chân dung cố Phó chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng được treo trang trọng. Cô gái nói:

- Hải Phòng được coi là chiếc nôi của giao thông liên lạc toàn quốc. Vào nãm 1926, nhà yêu nước vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã giao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng - người đầu tiên của cách mạng làm nhiệm vụ tổ chức vận chuyển tài liệu của Đảng từ nước ngoài về qua đường thủy ở Hải Phòng, để truyền bá cách mạng trong cả nước. Nhiều giao liên tiền bối khác của cách mạng cũng ở Hải Phòng đi và về chắp mối.


Chúng tôi lần lượt được chứng kiến những tấm ảnh, những hiện vật đã mô tả được một phần của Bưu điện Hải Phòng đã khắc phục khó khăn thiếu thốn, gian khổ, dũng cảm, chiến đấu để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt liên tục, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ, bảo vệ tài liệu, công văn của Đảng trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và giải phóng Hải Phòng.


Cùng đoàn quân cách mạng vào tiếp quản Hải Phòng, chỉ sau một ngày Bưu điện Hải Phòng đã đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ thành phố, phục vụ nhân dân. Hòa với phong trào thi đua "Sóng Duyên Hải", Bưu điện Hải Phòng có tổ phát thư đã phát hơn 200 bức thư không rõ địa chỉ, được Tổng cục Bưu điện và 26 sở, ty ký giao ước học tập và thi đua, trở thành "Con chim đầu đàn" trong cả nước.


Những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho miền Nam, Bưu điện Hải Phòng đã phục vụ Bộ tư lệnh Hải quân hướng dẫn hoạt động các con tàu không số trên đường Hồ Chí Minh trên biển. Đơn vị đã dũng cảm bám trụ, bám máy, bám đường dây kéo hơn 1.500km dây, đưa vào sử dụng trên 1.000 máy lẻ, 110 tổng đài lớn nhỏ, phục vụ cho hơn 600 cơ quan, xí nghiệp trung ương và địa phương sơ tán, bám trụ chiến đấu. Chuyển nhận hơn 12 triệu tiếng điện báo, 8 vạn cuộc đàm thoại, 40 triệu lá thư, bưu phẩm, bưu kiện, 3 vạn công văn hỏa tốc, phát hành 49 triệu tờ báo các loại. Tiêu biểu có 6 nữ điện thoại viên đã dũng cảm phục vụ chiến đấu cho các đơn vị bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ, được Bác Hồ thưởng Huy hiệu của Người. Bưu điện thành phố đã dũng cảm dùng thuyền vượt qua bom, mìn, ngư lôi của Mỹ đang phong tỏa Cảng Hải Phòng để chuyển công vãn, chỉ thị của Thành ủy, lãnh đạo thành phố và thư tín từ đất liền ra các đảo Cát Bà, Cát Hải.


Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Bưu điện Hải Phòng lại tập trung củng cố, nâng cao chất lượng mạng lưới thông tin. Nhiều thiết bị mới được thay thế. Đài phát tin Duyên Hải được mở rộng để dẫn dắt các con tàu nước ngoài ra vào Cảng Hải Phòng và những con tàu của ta đi viễn dương, quốc tế. Mạng điện thoại nông thôn phát triển, nhiều xã có máy điện thoại phục vụ cho sản xuất lương thực, rau xanh xuất khẩu. Tiêu biểu là Bưu điện Thủy Nguyên, một trong bảy huyện của cả nước có 100% xã có máy điện thoại, năm 1978 đã được Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa.


Là đơn vị sớm đầu tư chiều sâu cho mạng lưới

Trước năm 1985, mạng cáp ở Hải Phòng là mạng cáp chì (Pháp để lại và bổ sung sau này) để phục vụ sản xuất, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Cáp vỏ chì luồn trong cống bể, thường ngập sâu trong nước biển mỗi khi thủy triều lên. Vỏ cáp chì thường bị ăn mòn, ngấm ẩm vỏ giấy, nên mỗi khi mùa mưa bão hơn 600 máy điện thoại cùng bị mất liên lạc. Thời gian này, cả thành phố chưa đầy 1.000 máy, nhiều cơ quan, nhiều thuê bao bị gián đoạn thông tin.


Từ thành phố liên lạc với các miền trong đất nước phải chờ đợi hàng giờ, đi quốc tế chờ đợi hàng mấy giờ. Bưu điện Hải Phòng được sự quan tâm của Tổng cục Bưu điện, của thành phố, đã đi sớm một bước về đầu tư chiều sâu cho mạng lưới.


Ngày ấy, đồng chí Đoàn Duy Thành, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, đã quyết định trích từ ngân sách thành phố cho Bưu điện Hải Phòng hơn 40 ngàn USD để mua cáp vỏ nilon của Nhật thay cáp chì đang dùng. Hải Phòng là địa phương sớm nhất của miền Bắc dùng cáp nilon. Năm 1989, Bưu điện Hải Phòng xây dựng dự án phát triển mạng lưới thông tin. Trong dự án có 4 chương trình để phục vụ thành phố thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Đồng chí Trương Quang Được, Chủ tịch UBND thành phố đã ký phê duyệt, đề nghị Nhà nước cho vay vốn, còn Tổng cục Bưu điện ưu tiên đầu tư cho Hải Phòng. Sau đó, các đồng chí lãnh đạo thành phố đã tạo điều kiện cho Bưu điện dùng các cơ chế vay vốn của các cơ quan, xí nghiệp và thuê bao, để mua sắm thiết bị phục vụ cho trước mắt, tạo tiền đề cho sau này.


Vào ngày 19/5/1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ (19/5/1890 - 19/5/1990), Bưu điện Hải Phòng đã khánh thành tông đài điện tử điện báo ELTEX-VALPA - 256 số là thiết bị hiện đại. Năm 1991 lắp đặt tổng đài điện thoại điện tử số TDX 1B 5000 sô ở trung tâm kỹ thuật Lạch Tray, 512 số phục vụ cho du lịch thị xã Đồ Sơn. Hà Nội và Hải Phòng là 2 thành phố sớm nhất của miền Bắc đi vào số hóa. Đến cuối năm 1994, ở Hải Phòng đã có 100% các tổng đài trung tâm, huyện, thị, khu vực là tổng đài điện tử số. 100% các tuyến truyền dẫn từ Hải Phòng đi Trung ương, từ thành phố xuống các huyện, thị, hải đảo, khu vực là cáp quang, vi ba số.


Từ Hải Phòng đi các miền trong đất nước và quốc tế chưa đầy 1 phút đã nối thông liên lạc, thu hút nhiều nhà đầu tư, các du khách tham quan du lịch đến Hải Phòng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:46:18 am
Những con số kỳ diệu

Cuối năm 1989, bình quân 1 điểm Bưu điện phục vụ gần 20 ngàn người, bán kính phục vụ là 5km. Đến cuối năm 2000, Hải Phòng đã có 67 bưu cục, 22 ki-ốt, 97 đại lý, đặc biệt đã xây dựng hoàn chỉnh 141 điểm Bưu điện văn hóa, đạt 100% các xã có điểm Bưu điện văn hóa xã hay bưu cục khu vực để nhân dân đến đọc báo miễn phí, tìm hiểu chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kinh nghiệm phát triển kinh tế của các địa phương. Cuối năm 2000 bình quân 1 điểm phục vụ 7.747 người, bán kính rút ngắn còn 1,4km, là chỉ tiêu cao so với nhiều tỉnh trong toàn quốc. Nếu như cuối năm 1989 Hải Phòng có 30% sô xã có máy điện thoại, thì đến cuối năm 1999 đã đạt 100% xã có máy điện thoại. Hải Phòng là một trong 30 tỉnh, thành phố trong toàn quốc có 100% xã có máy điện thoại. Cuối năm 1989, tổng số máy điện thoại trên địa bàn Hải Phòng có 2.953 máy, đạt gần 0,18 máy/100 dân; đến cuối năm 2000, ở Hải Phòng có 88.803 máy, đạt bình quân 5,35 máy/100 dân, tăng 30 lần so với năm 1989. Tính từ đầu năm 2001 đến nay, Bưu điện Hải Phòng đã phát triển trên 25.000 máy điện thoại, đạt 83,3% kế hoạch năm 2001, tăng 15% so với cả năm 2000, đưa số máy ở Hải Phòng là 113.803 máy, đạt trên 6,9 máy/100 dân. Hơn 10 năm, ở Hải Phòng đã thi công trên 2.500 km cáp nilon từ 10 đôi dây đến 1.200 đôi dây. Cuối năm 2000, Hải Phòng có 15 trạm phủ sóng thông tin di động trên toàn bộ thành phố, kể cả đảo Cát Bà. Có 32 tuyến cáp quang, 21 tuyến vi ba số đi Trung ương và các điểm trong mạng nội tỉnh với 18.120 kênh, tăng hơn 20 lần so với cuối năm 1989.


Các dịch vụ viễn thông như fax, truyền số liệu, nhắn tin, internet càng ngày càng phát triển. Đặc biệt, dịch vụ 108 trên biển, mạng ki-ốt, ca-bin điện thoại thẻ phát triển đến tận vùng xa. Doanh thu bưu chính viễn thông năm 1989 thu được 2 tỷ 633 triệu đồng, năm 2000 doanh thu đạt 242 tỷ đồng. Mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước từ 10 đến 15%. Nộp ngân sách năm sau cũng cao hơn năm trước, như mức tăng trưởng của doanh thu.


Chiến lược về con người

Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Bưu điện thành phố đổi mới hoàn toàn về kỹ thuật, từ mạng thông tin analog chuyển hẳn sang mạng thông tin số. Từ các tuyến vi ba băng hẹp, dây trần, cáp đối xứng thay thế mạng truyền dẫn số. Từ tổng đài cộng điện, tự động ngang dọc bằng mạng chuyển mạch tự động điện tử số. Có thể nói đây là cuộc cách mạng kỹ thuật lớn của ngành Bưu điện, để tạo đà cho cả xã hội phát triển. Để làm chủ được trang thiết bị hiện đại, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, năng lực. Vì thế, Bưu điện Hải Phòng đã gửi hàng nghìn lượt CB-CNVC đi đào tạo trong và ngoài nước về kỹ thuật, nghiệp vụ, công tác quản lý mới. Bưu điện Hải Phòng đã kết hợp đào tạo ngắn hạn với đào tạo dài ngày để bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Song song với việc phát triển đầu tư chiều sâu cho mạng lưới và chiến lược con người, Bưu điện Hải Phòng không ngừng phát huy quyền dân chủ ở dưới các đơn vị, nhất là quyền làm chủ của người lao động. Bưu điện Hải Phòng xây dựng các quy chế về phân phối thu nhập cho tập thể cá nhân, quy chế tuyển dụng lao động, đào tạo, quy chế tham quan du lịch, quy chế về vật chất đối với người về hưu và chính sách xã hội. Ngoài ra, Bưu điện Hải Phòng đã xây dựng nội quy lao động, thỏa ước lao động. Các quy chế trên đều được thông qua Đại hội CNVC từ cơ sở đến Bưu điện thành phố. Qua mấy năm thực hiện quy chế dân chủ, đã đảm bảo quyền lợi cho người lao động và khuyến khích các nhân tố mới. Đảm bảo cho 100% người lao động có việc làm, mức thu nhập ổn định.


Điểm nổi bật trong những năm gần đây ở Bưu điện Hải Phòng là sự đoàn kết nhất trí, sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chuyên môn, công đoàn và Đoàn thanh niên ngày càng gắn bó. Nhờ có sự quan tâm của Ban cán sự Đảng Tổng cục Bưu điện, Thành ủy Hải Phòng nên Đảng bộ, Đoàn thanh niên Bưu điện Hải Phòng đã được thống nhất và trực thuộc Thành ủy, Thành đoàn. Các chi bộ, chi đoàn của các đơn vị Bưu điện huyện trước đây trực thuộc Huyện ủy, Huyện đoàn, nay trực thuộc Đảng bộ, Đoàn thanh niên Bưu điện Hải Phòng. Sự thống nhất về tổ chức đã đào tạo cho Bưu điện Hải Phòng có sức mạnh trong sản xuất, thực hiện nhiệm vụ của mình và phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Nhờ đó, năm 2000, tập thể CB-CNVC Bưu điện Hải Phòng đâ được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, Ủy ban nhân dân thành phố, Tổng cục Bưu điện tặng cờ thi đua xuất sắc toàn diện; ngoài ra còn được Bộ Công an, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý khác.


Bưu điện Hải Phòng bước vào thềm thế kỷ 21

Thực hiện Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng, Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng bộ thành phố và chương trình kế hoạch của toàn ngành trước thềm thế kỷ 21, Bưu điện Hải Phòng đang phấn đấu đến cuối năm 2005 ở Hải Phòng có trên 75 bưu cục, hàng trăm đại lý bưu điện, hoàn chỉnh mạng truyền dẫn, ngoại vi theo cấu trúc mạng RING để đáp ứng nhu cầu mở rộng cho nhiều năm sau này. Cùng dung lượng tổng đài có trên 250.000 số, toàn thành phố có trên 200.000 máy cố định, trên 50.000 máy di động, đạt từ 15 đến 16 máy/100 dân.    Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các bưu cục, các nghiệp vụ tới các điểm Bưu điện văn hóa xã. Phát triển internet chiếm thị phần cao hơn các nhà cung cấp khác. Đến cuối năm 2010, ở Hải Phòng có trên 85 bưu cục, dung lượng tổng đài có trên 450.000 số, toàn thành phố có trên 400.000 máy cố định, gần 100.000 máy di động, đạt từ 25 - 30 máy/100 dân. Phục vụ việc khai thác các dịch vụ viễn thông, ứng dụng công nghệ thông tin trên các hoạt động của bưu chính viễn thông theo chỉ thị 58 của Bộ Chính trị. Chuẩn bị chu đáo cho hội nhập, cạnh tranh phát triển. Thực hiện chủ trương của Nhà nước tách phục vụ công ích của bưu chính và kinh doanh của viễn thông trong thời gian tới. Về viễn thông, tổ chức theo mô hình không có địa giới hành chính.


Tạm biệt Giám đốc Bưu điện Hải Phòng Trịnh Quang Tác, chúng tôi rất vui mừng khi thấy các doanh nghiệp ở Hải Phòng đang trên đà phát triển. Với Bưu điện Hải Phòng vốn có truyền thống cách mạng, là đơn vị đi trước trong việc đầu tư chiều sâu cho mạng lưới, đã và đang tiếp tục xây dựng đội ngũ CB-CNVC có trình độ, tri thức, phong cách phục vụ văn minh, hiện đại, phát huy tốt nguồn lực con người. Chắc rằng Bưu điện Hải Phòng sẽ gặt hái được nhiều khi bước vào hội nhập, cạnh tranh, phát triển, trước thềm thế kỷ 21 đang mở ra.


Lời BBT. - Ngày 8-11-2000, Chú tịch nước đã có quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LL VTND cho liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang). Ngày 7-5-2001, huyện Mỹ Hào đã tổ chức đón nhận danh hiệu cao quý đó và ông Chủ tịch UBND huyện đã đọc diễn văn.

Trước đó, đầu năm 1999, bà Mai Thị Phúc đã có bài thơ tả rõ hoàn cảnh liệt sĩ Trần Thị Khang đã bị giặc Pháp bắt, tra tấn và giết hại dã man thế nào. Bài thơ đó có tác dụng gây xúc động lớn tới Ban chấp hành phụ nữ do bà Lê Thị Toàn hồi đó làm Hội trưởng phụ nữ tỉnh Hưng Yên, một số bạn bè và tới lãnh đạo tỉnh Hưng Yên, huyện Phù Cừ, huyện Mỹ Hào, đã đề nghị tôn vinh người liệt sĩ kiên trung này.

Nhận thức rõ tác dụng về mặt xã hội của bộ sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi", chúng tôi xin giới thiệu lại bài thơ của Mai Thị Phúc và bài diễn vãn cùa Chủ tịch UBND huyện Mỹ Hào trong buổi lễ truy tặng liệt sĩ Vũ Thị Kinh (tức Trần Thị Khang) danh hiệu Anh hùng LLVTND.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:47:58 am
TẤM GƯƠNG TRUNG LIỆT CỦA
ANH HÙNG LIỆT SĨ VŨ THỊ KÍNH ĐỜI ĐỜI SÁNG CHÓI!

(Diễn văn của chủ tịch UBND huyện Mỹ Hào tại lễ truy lặng liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang) danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 07 tháng 05 năm 2001)


Ngày 8 tháng 11 năm 2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 565 KT/CTN truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang).

Việc Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Vũ Thị Kính là niềm vinh dự và tự hào của nhân dân xã Xuân Dục, của nhân dân huyện Mỹ Hào, của nhân dân huyện Phù Cừ, của nhân dân tỉnh Hưng Yên, và của gia tộc họ Vũ đã sinh ra cho đất nước một người con gái kiên trung, bất khuất, nêu gương trung liệt cho muôn đời con cháu mai sau.


Với tình cảm trân trọng gương hy sinh oanh liệt của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính, với tình cảm mến thương của nhân dân huyện Phù Cừ - nơi bà đã nhiều năm công tác và đã hy sinh - ngày 4 tháng 5 năm 2001, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ và các ban, ngành, đoàn thể của huyện Phù Cừ, của xã Nguyên Hòa (La Tiến) cùng nhân dân trong xã đã đặt vòng hoa tưởng niệm tại nơi người nữ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Và sáng nay, trước khi vào buổi lễ, tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Mỹ Hào, đoàn đại biểu huyện Phù Cừ cùng toàn thể đại biểu huyện Mỹ Hào đã gắn bia lên mộ, đặt vòng hoa và kính cẩn nghiêng mình trước phần mộ người nữ anh hùng.


Biết tin về buổi lễ hôm nay, Đại tướng Văn Tiến Dũng, vị chỉ huy của Đại đoàn Đồng Bằng trong những năm 50, với tình cảm nồng hậu của bộ đội chủ lực đối với lực lượng nữ du kích Hoàng Ngân, đã cử đại diện mang vòng hoa đến viếng.


Thủ tướng Phan Văn Khải đã cử đại diện mang lảng hoa đến viếng và chúc mừng gia đình liệt sĩ Vũ Thị Kinh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Bà Vũ Thị Kính sinh năm 1929 tại thôn Xuân Đào (xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào) - nơi đây cũng chính là quê hương của người Anh hùng Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của nghĩa quân Bãi Sậy. Bà sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, có học thức, có truyền thống cách mạng. Cụ thân sinh là một nhà nho nghèo. Bà chịu ảnh hưởng cách mạng của hai người anh mình đã hoạt động cách mạng từ sớm và sau này đều là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Người anh cả của bà - bác Vũ Văn Nhung, tức Vũ Sơn, đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh năm 1951.


Cuộc đời hoạt động cách mạng của bà bắt đầu từ những ngày Tết năm Ất Dậu (1945), khi bà chứng kiến lũ mật thám Pháp do tên tri huyện dẫn đường về nhà bà truy nã người anh thứ hai - bác Vũ Văn Dung, tức bác Trần Phương1 (Đồng chí Dung tức Trần Phương hồi năm 1946-1947 đã làm bí thư Huyện Yên Mỹ; năm 1948 làm Phó bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên; năm 1984-1986 là Phó thủ tướng Chính phủ; nay làm hiệu trưởng trường Đại học Quản lý và kinh doanh Hà Nội). Bác Trần Phương hoạt động cách mạng ở Hà Nội, bị lộ, đã về quê ẩn náu để tiếp tục hoạt động. Được người anh giác ngộ, bà đã lao vào con đường cách mạng không một chút do dự, và trở thành người liên lạc tin cậy, người cán bộ vận động giác ngộ quần chúng tham gia cách mạng. Trong những tháng chuẩn bị khởi nghĩa, bà là một cán bộ phụ nữ xã Xuân Dục, một nữ tự vệ chiến đấu, được võ trang và tập luyện quân sự. Vốn tính hiền dịu, người con gái 16 tuổi ấy đã vượt lên mọi khó khăn nguy hiểm, nhờ có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí cách mạng kiên cường.


Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà được Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên điều động về Phù Cừ, tham gia Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc huyện, và từ đó lấy bí danh là Trần Thị Khang. Năm 1947, bà được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, và nãm 1949 được bầu vào Ban chấp hành huyện Đảng bộ Phù Cừ, giữ trách nhiệm Bí thư Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc huyện, được bầu vào Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên. Là một cán bộ tràn đầy nhiệt tình cách mạng, thông minh sắc sảo, có liên hệ mật thiết với quần chúng, bà được phụ nữ trong huyện, từ trẻ đến già, tin yêu, mến phục, ở những thôn đồng bào công giáo bị bọn phản động đội lốt tôn giáo lung lạc, lôi kéo vào âm mưu chống phá cách mạng của chúng, bà không quản ngại nguy hiểm, xông thẳng vào hang ổ của bọn phản động để giác ngộ quần chúng, lôi kéo quần chúng về với cách mạng.


Đầu năm 1950, giặc Pháp mở rộng vùng chiếm đóng của chúng ra toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm cả huyện Phù Cừ cùng các huyện phía nam tỉnh Hưng Yên. Với tư cách một Huyện ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ, người đứng đầu Hội phụ nữ cứu quốc huyện, bà đứng ra tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong huyện. Đội nữ du kích Hoàng Ngân do bà tổ chức và chỉ huy đã nhiều phen làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía.


Tháng 6 năm 1950, trong một cuộc bao vây lùng sục của giặc Pháp, bà bị giặc bắt từ hầm bí mật. Chúng đưa bà về bốt La Tiến là một bốt khét tiếng tàn ác, nơi đây chúng đã giết hại trên 1.000 chiến sĩ cách mạng trong 4 năm chiếm đóng. Ngày nay, chính ở nơi đóng đồn của giặc, trên bến đò La Tiến, nhân dân huyện Phù Cừ đã dựng một bia căm thù để đời đời không quên tội ác của giặc. Bốt La Tiến là một đồn binh lớn, một "phân khu quân sự" do một tiểu đoàn Âu Phi và nhiều đại đội ngụy binh đóng giữ, có nhiệm vụ án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Tháỉ Bình và phía tây tỉnh Hải Dương, ngăn chặn đường liên lạc qua sông Luộc giữa 3 tỉnh. Bốt này do một viên quan tư người Pháp rất khát máu chỉ huy. Trong bốt có một số tên phản bội, do đó giặc Pháp biết rõ bà là ai. Chúng tìm mọi cách dụ dỗ bà đầu hàng, khai báo cơ sở của Đảng và lực lượng du kích, đưa cái mồi vinh hoa phú quý ra để nhử. Dụ dỗ không được, chứng dùng cực hình tra tấn hòng khuất phục ý chí của bà. Trong bản báo cáo gửi lên cấp trên sau khi bà hy sinh, Huyện ủy Phù Cừ hồi đó đã kể về các cực hình mà giặc sử dụng để khuất phục bà: treo ngược lên cành cây mà đấm đá cho đến khi ngất xỉu, máu chảy đầm đìa; tra điện; dùng kìm rút hết móng tay rồi cắm kim vào đó. Nhưng, cực hình cũng không khuất phục được người con gái một lòng một dạ với Tổ quốc, với nhân dân. Khi tỉnh lại, bà vẫn không ngớt vạch trần tội ác của bọn xâm lược, tuyên truyền giác ngộ những kẻ lầm đường lạc lối quay về với Tổ quốc. Giặc dùng đến cái chết để đe dọa bà. Tên quan tư khát máu cho bà 5 ngày để nghĩ lại, nếu không sẽ bắn bỏ. Bà chờ đợi ngày đó mà không hề nao núng, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ lực lượng du kích, bảo vệ cơ sở của Đảng. Vào một ngày cuối tháng 6, chúng đã giết bà, cũng bằng nhửng thủ đoạn man rợ, không còn tính người: treo ngược lên cành cây đa ở bến đò La Tiến, dùng dao cắt cổ rồi hất xác xuống sông Luộc. Trước khi bị giết, bà vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến và hô to 3 khẩu hiệu:

- Đả đảo thực dân Pháp!

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

Tin chị Khang bị giặc giết hại dã man đã dấy lên một làn sóng căm thù trong phụ nữ và nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh. Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên đã phát động phong trào phụ nữ toàn tỉnh học tập gương chiến đấu anh dũng bất khuất của chị Trần Thị Khang. Lực lượng nữ du kích Hoàng Ngân tỉnh Hưng Yên đã phát động "Tuần lễ giết giặc, trả thù cho chị Khang". Nhiều trận đánh của nữ du kích, nam du kích và bộ đội địa phương đã diễn ra, nhiều tên giặc đã phải đền mạng.


Đại hội phụ nữ Liên khu III họp năm 1951, cũng là Đại hội thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ trên cơ sở Hội phụ nữ cứu quốc, đã tuyên dương công trạng và truy tặng bằng khen cho người hội viên gương mẫu, kiên trung, bất khuất Trần Thị Khang.


Chính phủ đã truy tặng liệt sĩ Trần Thị Khang bằng Tổ quốc ghi công và Huân chương Kháng chiến hạng nhì. Và ngày 08-1-2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định truy tặng bà danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Dù lớp bụi thời gian 50 năm qua đã làm phai mờ nhiều sự kiện, song trong ký ức của lớp người ở tuổi 70 của huyện Phù Cừ vẫn còn in đậm kỷ niệm về người nữ du kích anh hùng với lòng cảm phục, mến thương. Như bác Mai Thị Phúc, nguyên là nữ du kích Hoàng Ngân huyện Phù Cừ, đã viết bài ca "Nhớ chị Trần Thị Khang" đăng trên tập sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi", xuất bản đầu năm 1999.


Trong lịch sử dân tộc ta, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc - nam và nữ - đã hiến dâng cuộc đời mình để nhân dân có độc lập, tự do và cuộc sống hạnh phúc ngày hôm nay.


Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính là tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng kiên định, tinh thần tận tụy vì dân vì nước, tinh thần bất khuất trước kẻ thù xâm lược, thà hy sinh thân mình chứ quyết không chịu đầu hàng giặc, quyết bảo vệ cơ sở của Đảng, bảo vệ lực lượng du kích.


Nhân dân xã Xuân Dục và huyện Mỹ Hào tự hào là quê hương của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính.

Đảng bộ và phụ nữ huyện Phù Cừ tự hào có người đảng viên Cộng sản, người nữ du kích và người cán bộ lãnh đạo sáng ngời tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" Anh hùng liệt sĩ Trần Thị Khang.

Gia tộc họ Vũ tự hào đã sinh ra và bồi dưỡng cho đất nước một người con gái đầy khí phách, tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Tấm gương trung liệt của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính đời đời sáng chói!

Một lần nữa, xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh người nữ du kích anh hùng!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:48:36 am
NHỚ CHỊ TRẦN THỊ KHANG

MAI THỊ PHÚC
(Nguyên cán sự nữ du kích Hoàng Ngân, Phù Cừ)


La Tiến có chợ đông vui
Dưới thuyền trên bến ngược xuôi đi về
Bến đò đón khách bên đê
Chuyến qua chuyến lại đi về Quỳnh Lang.
Đầu năm bốn chín vừa sang
Giặc về đốt phá tan hoang cửa nhà
Dồn dân lập bốt chợ La
Bắt người về gốc cây đa hành hình
Biết bao chiến sĩ hy sinh
Trong đó có chị họ Trần tên Khang...1
Năm năm mươi giữa tháng năm
Lúa chiêm trĩu hạt dân mừng ấm no
Chị về bàn việc đồng quê
Lãnh đạo thôn xã làm mùa gặt nhanh
Được tin giặc đến bao vây
Phạm Xá, Tiên Tiến nơi này họp xong
Giặc đến nhiều mũi truy lùng
Dõng Tây tiếp viện tấn công vào làng
Bắt được, chúng biết chị Khang
Huyện ủy, Hội trưởng chúng càng biết tên
Khảo tra đánh đập dã man
Trước thù chị vẫn hiên ngang đối lời
Thay nhau đánh chị tơi bời
Áo quần rách nát máu rơi ròng ròng
Hò nhau giết chị cho xong
Hai anh với chị tại cùng gốc đa
Chặt đầu mổ bụng phanh da
Buộc đá thân xác vất qua để chìm
Mấy ngày hai bên địa phương
Mong tìm xác chị nổi lên ven bờ.
Âm mưu lũ giặc gian tà
Thủ tiêu chém giết gốc đa trên ngàn
Tuổi xuân chị đã hy sinh
Sông Hồng nằm giữa Thái Bình - Hưng Yên.
Dân quân du kích Hoàng Ngân
Trả thù chúng giết chị Trần Thị Khang
Trận đầu Thọ Lão, Viên Quang
Khu du kích mở, ta càng thắng to
Quân thù bối rối trăm bề
Công tác địch vận ai bì nữ hơn
Vận động lính địch trong đồn
Đi càn thì bắn chỉ thiên lên trời
Truyền đơn đem rái khắp nơi
Khoan hồng chính sách sáng ngời niềm tin.
Đoàn Đào bộ đội diệt đồn
Hai cô Bích - Lĩnh góp công có thừa
Xứng danh chiến sĩ thi đua
Đóa hoa dâng chị trong mùa lập công
Từ đây vắng bóng chị cùng
Đội nữ du kích Hoàng Ngân Phù Cừ
Nhãn lồng sâu nặng tình quê
Có người con gái nữ nhi anh hùng
Bốt La bia tạc căm thù
Quê hương mảnh đất Phù Cừ mến yêu.

(1): (Chị Trần Thị Khang quê ở xã Lê Hồng Phong nay là xã Xuân Dục thuộc huyện Mỹ Hào (tỉnh Hưng Yên), sinh trong một gia đình có nhiều người hoạt động cách mạng. Cuối năm 1949, chị được điếu động về Phù Cừ lúc đó đã bị địch chiếm đóng, trên cương vị Huyện ủy viên và Hội trưởng phụ nữ huyện. Chẳng may tháng 5-1950 chị bị vây bắt tại thôn Phạm Xá xã Tiên Tiến. Tại bốt, địch tra tấn chị rất dã man, chị không khai báo, rồi chị bị giết hại tại cây đa thôn La Tiến, lúc đó chị mới ngoài 20 tuổi. Đồng chí Phạm Hưng, nguyên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đồng chí Trần Duy Dương, nguyên Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, hồi đó là Bí thư và Huyện ủy viên Phù Cừ đã xác nhận sự thật lịch sử này).


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:49:46 am
CẦU TÀU ĐỒ SƠN - NƠI XUẤT PHÁT CỦA
"ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN"

Đại tá NGÔ VĂN NGỮ
(Trưởng ban liên lạc truyền thống
Công binh Hải Phòng)


Song song với tuyến đường 559, tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử", chúng ta còn có tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" mà cảng xuất phát là Cầu tàu Đồ Sơn do bộ đội Công binh trực tiếp thiết kế và thi công.


Hai tuyến đường lịch sử này suốt thời kỳ ác liệt của công cuộc chống Mỹ, cứu nước đã là mạch máu nối liền hai miền Nam Bắc, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng.

Từ Cầu tàu Đồ Sơn, những con tàu không số, thuộc Lữ đoàn vận tải Hải quân, sau khi ăn hàng đã xuất phát từ đây, với danh nghĩa là tàu dân đánh cá hoặc tàu nước ngoài vận tải đã vạch nhiều tuyến đi trên biển, vận chuyển vũ khí và nhiều hàng hóa khác từ Hải Phòng đến nhiều điểm đổ bộ ở các cửa sông, cửa lạch từ Quảng Trị đến Hà Tiên.


Hàng hóa được tập kết từ tầng hầm nhà Vạn Hoa cũ (nay là Casinô) và bí mật chuyển qua Cầu tàu để xếp xuống tàu.

Đồng chí Trương Thế Hùng nguyên là Đội trưởng Đội 8 công binh Hải quân anh hùng cho biết: Trên mỗi con tàu hai vỏ này còn đặt thêm bom chìm và hai khối mìn ở hai đầu tàu. Đồng chí đã từng đến lắp ráp và hướng dẫn cách sử dụng. Mục đích là nếu trên đường đi mà bị lộ, không thể tránh thoát địch, thì thực hiện phương án chiến đấu và chập mạch điện, cả lượng lớn bom mìn nổ tung, vừa tiêu diệt địch vừa chớp nhoáng phá hủy con tàu, xóa tung tích.


Đoàn thủy thủ sẵn sàng hy sinh để giữ tuyệt đối bí mật tuyến đường. Một hành động kiên cường vô cùng cảm phục, thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân, dân ta góp phần cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trọn vẹn đại thắng lợi.


Như vậy, khác với Đường Trường Sơn đã là mục tiêu của địch đánh phá vô cùng ác liệt hàng chục năm liền, thì trên tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" từ bến cảng Cầu tàu Đồ Sơn, các con tàu không số đã lặng lẽ, bí mật, kiên trì liên tục hoạt động trước sự tuần tra, cảnh giới gắt gao và sự phong tỏa chặt chẽ của không quân và hải quân Mỹ - ngụy. Kiên trì như vậy đến ngày cả nước toàn thắng. Khi công bố công khai đã làm mọi người sửng sốt cảm phục.


Vết tích hiện còn lại của tuyến đường huyền thoại này là những hàng cọc chân cầu tại khu vực Pa-gốt-đông gần Vạn Hoa - Đồ Sơn - Hải Phòng. Đây cũng là di vật duy nhất đại diện cho cả tuyến đường lịch sử này.

Năm 1964, Bộ Quốc phòng ra quyết định xây dựng Cầu tàu Đồ Sơn, thực hiện tuyến vận tải chiến lược bằng đường biển từ miền Bắc vào miền Nam.

Đồng chí Tư lệnh trưởng Công binh - Đại tá Phạm Hoàng, trực tiếp lên Bộ nhận nhiệm vụ và quán triệt được yêu cầu xây dựng Cầu tàu phải vững chắc an toàn, tuyệt đối bí mật, thuận lợi cho tàu ra vào cảng và thời gian thi công nhanh nhất.


Toàn bộ cống việc này giao cho đồng chí Nguyễn Liệu là Trưởng ban nghiên cứu kỹ thuật công binh làm chủ nhiệm thiết kế. Đồng chí đã chọn các đồng chí trợ lý có khả năng trong ban để phân công phụ trách từng mặt công tác. Kỹ sư Nguyễn Văn Nghi và kỹ Trần Văn Thấu tốt nghiệp Đại học giao thông Đường Sơn (Trung Quốc) chịu trách nhiệm thiết kế. Hai kỹ sư xây dựng Đặng Hữu Đạm và Nguyễn Xuân tốt nghiệp Đại học bách khoa Hà Nội, chỉ đạo và giám sát thi công. Đồng chí Nguyễn Hữu Gia lo chạy vật tư. Nhiều việc phải chuẩn bị đồng thời nên anh em làm ngày, làm đêm. Được sự chỉ đạo sát sao của đồng chí Tư lệnh Công binh Phạm Hoàng nên các phương án nhiệm vụ, nhất là đồ án thiết kế đã khẩn trương hoàn thành, cuối cùng cũng đã được Bộ phê duyệt.


Phần cầu chính bố trí cách bờ vài chục mét để có đủ mớn nước thích hợp cho tàu áp mạn ra vào. Dầm và mặt cầu, kể cả phần đường dẫn từ bờ ra cầu được đặt trên các hàng cọc bê-tông đóng vững chắc xuống đáy biển. Cầu có hình chữ T.


Lực lượng thi công là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Công binh 83, nay được xây dựng thành Lữ đoàn Công binh 83 chuyển sang trực thuộc Quân chủng Hải quân. Tiểu đoàn 2 thi công do đồng chí Tiểu đoàn trưởng Hoàng Duy chỉ huy đã được trang bị bổ sung nhiều xe máy, vật tư cần thiết như vồ diezen đóng cọc, xe cần cẩu, xe tải có moóc để chở cọc cầu và các cấu kiện đúc sẵn khác từ Nhà máy bê tông Hải Phòng về, v.v...


Công trường triển khai khá sôi nổi nhịp nhàng giữa các bộ phận thi công và cung ứng vật tư nguyên lịệu nên tiến độ diễn biến rất thuận lợi. Nhiều lần đồng chí Tư lệnh trưởng Công binh xuống kiểm tra hiện trường đã cho nhiều ý kiến xử lý, giải quyết kịp thời những tình huống phát sinh, và động viên anh em lao động, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vừa có chất lượng, vừa đúng thời gian quy định.


Công trình được hoàn công, Binh chủng Công binh đã bàn giao Cầu tàu cho Quân chủng Hải quân quản lý và Lữ đoàn 125 - Đoàn vận tải Hải quân trực tiếp bảo quản, sử dụng Cầu tàu này. Quá trình vận hành kết hợp với vị trí dự bị đã bảo đảm an toàn, ổn định và bí mật tuyệt đối, góp phần cho các đoàn tàu không số hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.


Thắng lợi của "Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" là thắng lợi của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và của ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta.

Hiện nay "Bến tàu không số" đang bị hủy hoại nghiêm trọng, đang bị lãng quên, có khi biết đấy song không được quan tâm. Toàn bộ mặt cầu, dầm cầu không còn nữa, toàn bộ các hàng cọc bằng bê-tông cốt thép từ đường dẫn đến khoang giữa cầu đã bị đập phá đến sát mặt đất (ảnh dưới).


Tại nhà bảo tàng Hải quân và Công binh chưa có nội dung đề cập đến Cầu tàu này.

Cầu tàu tuy quy mô không lớn song ý nghĩa và vị trí lịch sử của nó lại vô cùng to lớn và vô cùng trọng đại. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9, chúng tôi xin có mấy ý kiến đề nghị như sau:

- Di tích Cầu tàu Đồ Sơn được đề nghị trên xếp hạng là Di tích lịch sử kháng chiến.

- Có kế hoạch quản lý và tôn tạo.

- Có sa bàn rút gọn kiến trúc ban đầu của Cầu tàu và đặt trong các nhà bảo tàng, đặc biệt là Bảo tàng Công binh và Hải quân, làm tài liệu truyền thống cho các thế hệ hiện nay và mai sau.

Hy vọng nhửng nguyện vọng trên được nghiên cứu đáp ứng.


GHI CHÚ:

1- Đồng chí Đại tá kiến trúc sư Phạm Hoàng là Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Công binh (từ 1-1951 đến 4-1970). Năm 1970, đồng chí về làm Hiệu trưởng trường Đại học kỹ thuật quân sự. Năm 1975, đồng chí là ủy viên Hội đồng Nhà nước, giám sát chất lượng xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí mất năm 1979.

2- Đóng chí Đại tá kỹ sư Nguyễn Liệu tốt nghiệp Học viện Công binh Quybưsetvsư (Liên Xô cũ). Trước khi nghỉ hưu, đồng chí là Phó Tư lệnh Binh chủng Công binh. Hiện nay ở tổ 33, cụm 5, Xuân La, Hà Nội. Điện thoại số 04.7533351.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:50:58 am
CÔ DU KÍCH XÓM LAI VU NĂM NÀO, NAY Ở ĐÂU?

LÊ HOÀI THAO


Đầu tháng 11 năm 1967, phái đoàn Chính phủ do Phó thủ tướng Phạm Hùng dẫn đầu, cùng các thành viên Nguyễn Duy Trinh, nhà thơ Tố Hữu,... về thăm Lai Vu (Hải Dương). Sau khi nghe xã đội trưởng Bùi Huy Loãn báo cáo tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của quân dân Lai Vu, chuyện nữ dân quân Bùi Thị Vân, 17 tuổi, bị rắn quấn trong lúc đang chiến đấu nhưng vẫn hiên ngang bắn thù, Phó thủ tướng Phạm Hùng hỏi nhà thơ Tố Hữu:

- Anh nghĩ thế nào?

- Hữu xạ tự nhiên hương!

Nhà thơ Tố Hữu trả lời. Và ý thơ bỗng trào dâng, ông sáng tác luôn tại chỗ bài thơ bất hủ "Cô du kích xóm Lai Vu" rồi đọc ngay cho mọi người cùng nghe tại hội trường xã.

   "Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
   Rắn quấn bên chân, vẫn bắn thù
   Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước
   Rắn, mình em chịu có sao đâu!"


Bài thơ là lời khẳng định kẻ thù của dân tộc. Trong thù chung có cả thù riêng. Dù kẻ thù nào, ta cũng phải đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Nhưng người Việt Nam ta biết nghĩ suy, phân biệt. Nếu là kẻ thù chung thì ta phải tập trung trí tuệ, sức lực tiêu diệt trước. Còn kẻ thù riêng, ta phải gắng chịu trong khoảng thời gian nhất định, rồi tiêu diệt sau. Nghĩa là lo cho thiên hạ trước, lo cho mình sau. Có lẽ, không nơi đâu như trên đất nước này, người dân lại biết lo toan, đùm bọc, biết chở che cho nhau như vậy.


Hình ảnh hiên ngang, quả cảm ấy đã trở thành biểu tượng của khí phách anh hùng, quật cường chống giặc ngoại xâm của người dân nơi đây. Người nữ dân quân - nông dân mộc mạc, chân chất ấy đã đi vào thơ ca như một huyền thoại thật giản đơn, không cao siêu nhưng tồn tại mãi với thời gian và lịch sử, trong tâm trí và ký ức mọi người.

Chuyện kể rằng:

Trưa hôm ấy (5-11), nhè lúc bà còn xã viên Lai Vu đang gặt lúa, máy bay giặc Mỹ ầm ầm kéo đến. Bom nổ đinh tai, nhức óc. Khói bom mù mịt. Mảnh bom bay rào rào... Thế là sau mười một năm hòa bình, binh đao lại xảy ra. Chưa gây thiệt hại gì đáng kể nhưng chúng cũng phải đền tội. Một chiếc F.8U bị bắn tan xác. Tên trung úy giặc lái nhảy dù, bị chính trị viên xã đội Nguyễn Đình Hùng tay không bắt sống. Kẻ địch cay cú. Thế nào chúng cũng sẽ quay trở lại... Quả thật!

- Ùng oàng! ùng oàng! ùng oàng!...

Pháo cao xạ của bộ đội ở trận địa bên Nam Sách đã lên tiếng. Những quả đạn 57mm nổ tung khói trắng phía khoảng trời Kinh Môn - nơi có núi Yên Phụ (còn gọi là An Phụ) - một danh thắng của Tổ quốc. "Địch đến rồi !". Tiểu đội trưởng Bùi Đăng Đễ thốt lên 3 tiếng như dự lệnh cho toàn tổ trực chiến, rồi chạy vọt tới bên chiếc kẻng.

- Keng! Keng! Keng!!!....

Những tiếng kẻng nhịp ba lảnh lót, gấp gáp vang lên. Tim mọi người như nhảy ra khỏi lồng ngực. Các tay súng lao ra khỏi lán. Bùi Thị Vân cũng dứt luồng suy tưởng, đứng phắt dậy xách súng, chạy đến vị trí chiến đấu của mình. Nhưng mấy bà ở làng bên đi chợ về qua đã nhanh chân hơn, chiếm mất công sự của Vân. Cô chạy đến cái hố còn lại đầy nước. Một con rắn ló đầu lên thấy Vân vội lặn xuống. Ánh mắt Vân cũng kịp phát hiện ra nó. Mặc! Lúc này không thể chần chừ, do dự, cô nhảy ào xuống. Nước ngập đến đùi. Vừa lúc, một tốp máy bay phản lực của địch từ phía đông bắc lao tới. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Toàn hô to:

- Cự ly..., hướng..., tầm..., bắn!

Cả bảy khẩu súng trường cùng nhả đạn đồng loạt.

Mấy trận địa pháo cao xạ của bộ đội cũng "Cà thùng! Cà thùng! Cà thùng!" đánh "trống". Đạn nổ vang trời. Lưới lửa của ta như chụp lên tốp máy bay Mỹ. Nhưng chúng vẫn liều lĩnh, ngoan cố cắt bom ngay trên đầu các chiến sĩ dân quân. Những quả bom đen chũi như những con lợn rừng xé không khí, lao xuống cầu Lai Vu. Có lẽ do hoảng sợ nên bọn giặc lái đã ném chệch mục tiêu. Không quả bom nào rơi trúng cầu. Quả thì rơi trên bờ. Quả thì roi xuống sông. Bom nổ dựng thành những cột nước, cột cát cao hàng mấy mét. Xong, cả bốn tên giặc trời vội vã tháo chạy, không tên nào dám "ngoái đầu" lại. Những chấm đen xa dần. Những làn khói phụt ra từ đuôi máy bay đã tan loãng trong mây. Không gian qua mấy phút xao động, dần dần trở lại yên tĩnh.

Kẻng báo yên thong thả điểm từng tiếng.

Cả tổ dân quân nhảy lên khỏi công sự chiến đấu, tập hợp lại, kiểm tra cơ số đạn và rút kinh nghiệm trận đánh. Người nào chân và ống quần cũng bê bết bùn, đất. Nhanh hơn cả là Bùi Thị Vân. Cô "vọt" lên trước mọi người, quần ướt sũng tới thắt lưng. Đứng trong hàng mà hai chân cô cứ dẫm "bành bạch", mặt tái đi. Chẳng ai hiểu vì sao. Bỗng tiểu đội trưởng Bùi Đăng Đễ hét lên:

- Dưới chân cô Vân có con rắn!

Ai nấy trợn tròn mắt nhìn kinh ngạc. Rồi chẳng ai bảo ai, mọi người đều kêu lên:

- Ôi! Đúng là con rắn thật! Hãi quá!

Thì ra con rắn ở dưới công sự ấy đã quấn chặt chân Vân. Trong lúc chiến đấu cô đã cảm thấy nhưng cắn răng nén chịu. Giờ, giặc trên trời, giặc dưới đất đã "xa chạy, cao bay". Vân dần dần lấy lại bình tĩnh. Sắc mặt cũng đang hồng trở lại. Và nụ cười thường trực lại xuất hiện trên môi. Nụ cười của Vân lúc này thật khó tả.

Tiểu đội trưởng Bùi Đăng Đễ đến bên Vân hỏi nhỏ:

- Cô Vân có sợ không?

Tuy tim vẫn còn đập rộn và giọng hơi run, Vân nhỏ nhẹ:

- Sợ thì có sợ, nhưng trong lúc chiến đấu, kẻ thù hung bạo đã lộ mặt, ném bom tàn phá xóm làng quê ta, em phải bắn chúng trước đã...

Gương chiến đấu dũng cảm của nữ dân quân Bùi Thị Vân được quân và dân Quân khu Ba biết đến trong buổi lễ mừng công của tỉnh đón cờ thưởng luân lưu của Hồ Chủ tịch "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", ngày 2-12-1965!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:51:42 am
Sau những năm tháng hào hùng và oanh liệt ấy, Bùi Thị Vân làm gì, ở đâu, sinh sống ra sao, không mấy người biết. Đầu tháng 7 năm 1995, nhà báo Như Mẫn (báo Quân khu Ba) tưởng chị làm việc ở nông trường Sông Bôi, Hòa Bình, đã cất công lên đây tìm. Nghe nói, ở nông trường này có tới bốn trăm chị em trên bốn mươi tuổi chưa lấy được chồng, anh cho rằng Vân là một trong số đó. Hỏi thăm mãi nhưng không một ai biết tin gì về chị và họ cũng chưa hề gặp chị. Như Mẫn có biết đâu rằng chị lại công tác bên "Viện nghiên cưu cây ngô Sông Bôi". Có lẽ tôi may mắn hơn nhà báo Quân khu Ba vì tôi cùng quê với Vân, hơn nữa lại là người cung xóm. Nói thế nhưng mãi ba mươi năm sau, tôi mới có cơ hội gặp lại Vân (trong dịp xã Lai Vu tổ chức lễ đón nhận danh hiệu cao quý "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân", ngày 24-9-1995). Ngày tôi đi bộ đội (3/1965), Vân mới bước sang tuổi mười bảy, giờ đã xấp xỉ năm mươi rồi. Vẫn như ngày nào, Vân lúng túng, e lệ:

- Chào chú ạ!

- Ô, Vân đấy à? Khác xưa quá nhỉ! Thượng tướng Đào Đình Luyện, Tổng tham mưu trưởng, hỏi thăm Vân đấy!

- Cháu vừa gặp Thượng tướng rồi ạ!

- Thế hả? Hôm nay, có vui không, Vân?

- Vui lắm, chú ạ! Ngày hội lớn của xã ta mà!

- Vân còn nhớ những ngày giặc Mỹ đánh phá quê mình không?

- Ôi ! Làm sao mà quên được, hả chú?

Thế là những kỷ niệm hào hùng xa xưa bỗng ùa về "hiển hiện" trước mắt chúng tôi như là một khung cảnh có thực chứ không phải lả ảo ảnh hay tưởng tượng. Chuyện một thời mà như của muôn thuở. Vân kể lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra, không sót một chi tiết nào trong trận đánh sáng hôm ấy...

- Sau mấy năm chiến tranh ác liệt, Vân làm gì, ở đâu?

- Chuyện dài lắm, chú ạ!

Rồi Vân kể: "Cuối năm 1968, đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, Vân được tuyển vào làm công nhân của Viện cây lương thực do bác sĩ nông học Lương Định Của làm Viện trưởng (tại Gia Lộc - Hải Dương). Hai năm sau, Vân được cử đi học một lớp kỹ thuật ngắn hạn, rồi về phục vụ ngay tại Viện. Tại đây, Vân gặp kỹ sư Nguyễn Đức (hơn Vân 6 tuổi), quê ở huyện Nghĩa Hành, Quảng Nam - xứ sở của những cánh đồng mía bạt ngàn. Hợp duyên nhau, ít làu sau, hai người nên vợ nên chồng.


Tháng 6 năm 1979, Viện nghiên cứu cây ngô được thành lập tại vùng Sông Bôi - Hòa Bình. Vân lại cùng chồng lên đấy công tác, được giao làm thủ quỹ cho cơ quan mới này, vừa làm tròn công việc, vừa "cai quản" tốt việc nhà, chăm sóc con cái ăn học để Đức - chồng Vân có thì giờ tập trung vào việc nghiên cứu. Anh thường "bay" sang Mê-hi-cô (Mexico) - một nước ở tận Châu Mỹ La-tinh xa xôi, phía tây bán cầu để tìm hiểu giống ngô to, khỏe, năng suất cao của bạn để lai tạo, nhân giống thành những giống ngô mới phù hợp với điều kiện canh tác, khí hậu, thời tiết và thổ nhưỡng Việt Nam.


Tháng 1 năm 1989, cơ quan Vân rời Hòa Bình về Đan Phượng (Hà Tây). Tại đây, gia đình Vân có điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển kinh tế gia đình - chủ yếu là chăn nuôi lợn thịt. Mỗi năm, Vân xuất chuồng tới ba lứa, mỗi lứa trung bình 3 - 4 tạ lợn hơi. Nhờ đó mà cuộc sống gia đình Vân được cải thiện, có nhà cửa khang trang, tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, con cái học hành đến noi đến chốn và thành đạt. Vợ chồng Vân sinh được hai "tiểu thư". Chỉ có hai chị em gái nhưng các con rất thông cảm và kính yêu cha mẹ. Nguyễn Thị Kim Lệ - đứa chị theo nghề bố mẹ - là kỹ sư nông nghiệp. Đứa em, Nguyễn Thị Thu Thủy thích bay nhảy nên chọn con đường riêng. Sau bốn năm học ở khoa báo chí trường đại học Tổng hợp (Đại học Quốc gia Hà Nội), Thủy đã tốt nghiệp và trở thành phóng viên....

- Vân giỏi quá ! Tôi thành thật khen.

- Dạ, có gì đáng kể đâu ạ!

Vân vẫn khiêm tốn, thật thà, chất phác như xưa, không khoa trương, khoe mẽ mà lại có vẻ rụt rè là đằng khác.

... Đã hơn năm năm trôi qua. Vợ chồng Vân giờ đã nghỉ hưu và định cư tại xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Tây. Thỉnh thoảng, họ có về thăm quê ngoại - nơi mà Vân đã sinh ra, lớn lên trên mảnh đất và căn nhà xưa kia của bố mẹ. Bây giờ, bố đã đi xa. Anh trai đã rời quân đội, đang công tác tại địa phương - giữ cương vị đảng ủy viên kiêm bí thư chi bộ Ba. Và người mẹ của Vân suốt những năm đánh Mỹ không mấy khi bà vắng mặt trên các trận địa phòng không để ủy lạo, tiếp nước và vá áo cho các chiến sĩ, nay đã gần tròn chín mươi tuổi đời nhưng bà vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn. Vân cũng tranh thủ thăm lại "đồng đội" năm nào và dẫn hai con gái thăm lại trận địa xưa. Hình ảnh quê hương với những biến đổi nhanh chóng khiến Vân bồi hồi, xúc động, trong lòng trào dâng một cảm xúc khó nói thành lời, vừa bâng khuâng, vừa mãn nguyện và tràn đầy hạnh phúc. Vân cũng rất đỗi tự hào về làng quê nhỏ bé của mình. Đúng là "Quê ta từ đất dấy lên"....


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:52:36 am
ĐỒNG CHÍ TƯ LỆNH NGÀY ẤY... BÂY GIỜ...

TRỊNH TRỌNG GIỮ


Đến nhà đồng chí nguyên Tư lệnh Bộ tư lệnh 350 (Hải Phòng) Võ An Đông thì đồng hồ đã chỉ 11 giờ 30, cái giờ mà đồng chí thường "chợp mắt" nghỉ trưa. Tôi không muốn làm đảo lộn thói quen sinh hoạt của người khác, huống hồ lại là đồng chí tư lệnh. Một phút nghỉ ngơi với đồng chí Võ An Đông thật là quý hiếm, nghĩ thế tôi định bước ra. Song, vì công việc không thể trì hoãn, tôi lại mạnh dạn bước vào. Nhìn qua cửa xếp rộng khoảng 1,2m, nước sơn đã bong, chìa những thanh sắt gỉ, cửa không khóa, tôi thấy đồng chí Võ An Đông ngồi bên chiếc bàn đã cũ, bên cạnh là chồng giấy đủ loại với kích cỡ khác nhau. Trưa hè nắng nóng, điện vẫn sáng. Ghế thì chiếc ra, chiếc vào, có lẽ tư lệnh vừa tiễn khách. Vẫn cái đầu "cắt cua" và cặp kính lão, đại tá Võ An Đông cặm cụi đọc, viết. Tôi mạnh dạn đẩy cửa bước vào, hắng giọng thật to: "Chào thủ trưởng!". Đồng chí Võ An Đông ngẩng lên, bỏ cặp kính xuống, giọng cởi mở: "Giữ đấy à?". Đồng chí bắt tay tôi, kéo ngồi xuống ghế. Để tranh thủ thời gian, tôi chủ động bàn với đồng chí một số việc, rồi xin phép ra về. Giữa trưa hè nóng bức, đường tấp nập người qua, không làm tôi bớt phần suy nghĩ về đồng chí Võ An Đông trước kia và bây giờ, nguyên một tư lệnh, một đại tá đã nghỉ hưu.


Cách đây 27 năm, vào ngày 20-1-1973, ngày đầu tiên tôi mặc áo lính và sau đó ngày 28-2-1973 cũng là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí lãnh đạo Bộ tư lệnh 350 Hải Phòng. Đứng trước hàng quân gồm 41 cán bộ khung của Tiểu đoàn Hải Đà tại trường quân chính thuộc thị trấn Núi Đèo, huyện Thủy Nguyên, đồng chí Võ An Đông nói: "Cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã gần đến ngày thắng lợi nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhất là lực lượng chiến đấu. Thành ủy, Bộ tư lệnh thành phố quyết định thành lập Tiểu đoàn Hải Đà. Tiểu đoàn được chọn lọc gồm công nhân kỹ thuật, kỹ sư, học sinh từ cấp 3 trở lên được xây dựng đặc biệt bổ sung cho mặt trận Quảng Đà như một món quà của quân dân Hải Phòng kính tặng nhân dân thành phố Đà Nẵng kết nghĩa". Các đồng chí là cán bộ khung phải phát huy tinh thần của thành phố Cảng "Trung dũng, Quyết thắng" mà học tập, rèn luyện, sát cánh cùng quân dân thành phố Đà Nẵng giải phóng quê hương kết nghĩa". Lời nói của đồng chí Võ An Đông trước hàng quân, tôi còn nhớ mãi...


Sau ngày đồng chí tư lệnh dặn dò, chúng tôi bắt tay vào luyện tập, chuẩn bị lên đường vào Đà Nẵng chiến đấu. Ngày 26-3-1973, đơn vị tôi sát hạch bắn đạn thật. Tôi hồi hộp như ngày thi tốt nghiệp phổ thông nên tôi chuẩn bị khá chu đáo. Khoảng 7 giờ 30, công việc trên thao trường đã hoàn tất. Bỗng khu vực ban chỉ huy nhốn nháo, rồi tiếng đồng chí Trương Ngọc Thạch, chính trị viên tiểu đoàn, nói to trong niềm vui: "Tư lệnh Võ An Đông xuống kiểm tra sát hạch". Tin đó truyền rất nhanh. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn chuẩn bị đón đồng chí tư lệnh, không khí trang nghiêm trên nét mặt từng người. Tiếng ồn ào giảm hẳn, thay vào đó là tiếng chân bước thình thịch chạy tới, chạy lui. 10 phút sau, chiếc xe GAT 69 từ từ chạy về phía thao trường, rồi dừng lại. Tư lệnh Võ An Đông từ trong xe bước ra. Cả hàng quân đứng nghiêm. Đồng chí Trương Ngọc Thạch, chính tri viên tiểu đoàn, báo cáo tư lệnh về tình hình luyện tập của đơn vị và xin ý kiến. Đồng chí Võ An Đông gật đầu tỏ vẻ hài lòng cho đơn vị tiếp tục thực hiện bắn đạn thật. Không hiểu vì tư lệnh xuống kiểm tra hay vì tiểu đoàn đã luyện tập chu đáo mà kết quả cả đơn vị đều đạt khá, giỏi.


7 giờ 30 sáng chủ nhật 24-6-1973, đơn vị tôi đóng quân ở xã Kỳ Sơn huyện Thủy Nguyên. Vì là ngày chủ nhật, anh em đang tính chuyện nghỉ ngơi thì được liên lạc tiểu đoàn cho biết: Đồng chí tư lệnh Võ An Đông xuống thăm. Các đồng chí Phạm Văn Thụ, C trưởng C2, Phạm Văn Độ, chính trị viên, Nguyễn Văn Hai, chính trị viên phó, Nguyễn Văn Định, C phó, tập hợp anh em quán triệt về cuộc đến thăm của đồng chí tư lệnh. Mọi người ra về sắp xếp, quét dọn chỗ ăn, chỗ nghỉ gọn gàng chờ cuộc kiểm tra... 8 giờ, đồng chí tư lệnh cũng các cán bộ tiểu đoàn xuống thăm nhưng không thấy lệnh tập trung. Mọi người cứ thấp thỏm chờ đợi. Đồng chí tư lệnh chỉ làm việc 10 phút với Ban chỉ huy đại đội rồi đến thăm nhà bếp, khu chăn nuôi. Chúng tôi thấy đồng chí Võ An Đông vừa đi vừa chỉ trỏ, chuyện trò. Khi nhìn thấy những con lợn hàng tạ, nét mặt tư lệnh vui hẳn lên: "Phải giữ gìn sức khỏe cho anh em, thực túc binh mới cường". Qua việc đến thăm của đồng chí Võ An Đông, chúng tôi rút ra một bài học: Mọi sự chuẩn bị mang tính hình thức, che chắn đều không mang lại kết quả.


Sau lần thăm hôm ấy, mãi đến tháng 5-1975, nghĩa là sau ngày Đà Nẵng được giải phóng, đồng chí Võ An Đông cùng đoàn đại biểu lãnh đạo thành phố Cảng Hải Phòng vào thăm thành phố Đã Nẵng kết nghĩa. Đoàn đến thăm Tiểu đoàn Hải Đà tại hội trường thành phố Đà Nẵng. Đồng chí tư lệnh bắt tay, nhìn từng người. Thấy hàng quân thiếu vắng một số cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống vì Đà Nẵng thân yêu, mắt đồng chí tư lệnh chớp chớp, mờ đi vì xúc động.


Thời gian sau, tôi được điều về Xí nghiệp cơ khí Trung Dũng thuộc Bộ tư lệnh 350 làm nhiệm vụ dạy nghề cho anh em thương, bệnh binh từ các trại an dưỡng trở về. Vì vậy, tư lệnh đặc biệt quan tâm, bởi đó là một phần của công tác hậu phương quân đội, là chỗ rèn luyện, giáo dục cho những thương binh trở thành những người "tàn nhưng không phế" như Bác Hồ đã dạy. Về xí nghiệp, tôi nhớ có lần chúng tôi đang thi công phân xưởng đúc vỏ lựu đạn, vỏ mìn, đồng chí tư lệnh Võ An Đông xuống kiểm tra tiến độ, đột nhiên nhìn xuống nền cát rồi nói: "Đồng chí Giữ này, cát pha nhiều đất, không đủ tiêu chuẩn làm khuôn mẫu". Tôi giật mình về kiến thức kỹ thuật đúc của đồng chí và hứa sửa chữa ngay! Lời nhắc của đồng chí tư lệnh, tôi thấu hiểu: Làm việc gì, nhất là đụng đến kỹ thuật, phải chú ý từng chi tiết nhỏ, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Từ đó trở đi, làm việc gì tôi cũng cân nhắc kỹ lưỡng để tránh những tổn thất. Sau những năm xây dựng, Xí nghiệp cơ khí Trung Dũng đã góp phần lớn vào việc chuyển giao nghề nghiệp cho thương, bệnh binh hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời cũng làm ra một số sản phẩm cho thành phố, cho xã hội. Gần như lần giao ban nào đồng chí tư lệnh cũng quan tâm. Đến năm 1982, xí nghiệp đã xây dựng hoàn chỉnh một dây chuyền sản xuất bao gồm: Phân xưởng sửa chữa xe máy, phân xưởng cơ khí, phân xưởng mộc đúc, sửa chửa sà-lan, v.v... với trên 200 thợ làm việc, đưa giá trị sản lượng hàng hóa từ 50 triệu lên trên 100 triệu/1 tháng. Trong chỉ đạo, đồng chí tư lệnh Võ An Đông không chỉ nắm cái chung, có quy mô toàn thể trên diện rộng, mà ngay những việc rất nhỏ có liên quan đến con người, đến chất lượng sản phẩm đều được đồng chí trực tiếp điều hành. Tôi còn nhớ năm 1979, tôi phụ trách thi công lắp ráp một dây chuyền sản xuất xi-măng của nhà máy Xi-măng 71 do Bộ tư lệnh 350 Hải Phòng thiết kế. Nhà xưởng cao đã khó thi công, lại rất nguy hiểm vì phải mang vác nặng trên vùng núi. Chiếc cột đầu tiên chúng tôi dựng, đồng chí Võ An Đông có mặt ngay từ những phút đầu. Trước khi anh em leo cao, tư lệnh Võ An Đông đã cho y tế khám lại sức khỏe của công nhân thi công công trình. Sự quan tâm của thủ trưởng, anh em làm việc càng hăng say và công trình đã hoàn thành trước thời hạn 15 ngày. Hôm hoàn thành, tư lệnh cũng vui với anh em.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:53:04 am
Tháng 6-1981. Hôm ấy trời nóng đến ngột ngạt. Đồng chí Quỳnh (trợ lý của tư lệnh) cầm lệnh của thủ trưởng Võ An Đông giao cho xí nghiệp đóng mới 70 thuyền gỗ phục vụ hàn khẩu Đường 14. Lúc đó việc hàn khẩu rất phức tạp và khẩn trương, đòi hỏi gấp rút đóng thuyền mới phục vụ cho lấn biển. Lúc này, tôi là trưởng ban kế hoạch. Nhận lệnh Ban giám đốc giao cho, tôi triển khai ngay. Sau 2 ngày, đồng chí tư lệnh Võ An Đông đã xuống kiểm tra tiến độ và yêu cầu đơn vị dốc toàn lực cho chiến dịch hàn khẩu. Từ đó cứ mỗi buổi chiều sau giờ làm việc, đồng chí tư lệnh Võ An Đông thường lại xuống động viên anh em đóng thuyền để thực hiện chương trình lấn biển của thành phố. Vì vậy, bộ đội chúng tôi có linh tính, cứ mỗi lần đồng chí Võ An Đông có lệnh xuống đơn vị là mỗi lần Hải Phòng có những đổi mới mang dấu ấn lịch sử, những công trình quai đê lấn biển Đường 14, đắp đường ra đảo Đình Vũ là những ví dụ điển hình. Hiện nay, con đường xuyên đảo ai cũng biết, nhưng mấy ai đã biết sự hình thành của con đường và công sức của các chiến sĩ trung đoàn 179, tiểu đoàn 666. tiểu đoàn 667 và một số không nhỏ dân quân tự vệ thuộc Bộ tư lệnh Hải Phòng ra sao?


Theo các cụ địa phương kể lại: đảo Đình Vũ cách đất liền hơn 2km là nơi hoang vắng. Trước kia bọn thực dân Pháp thường đem các chiến sĩ cách mạng đến đây hành hình rồi quẳng xác xuống biển. Dân địa phương nghèo đói, vi miếng cơm manh áo, nhiều người đã mất tích bởi những đợt sóng thần. Ấy thế mà các chiến sĩ tiểu đoàn 666, tiểu đoàn 667 và các đơn vị khác được sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh Hải Phòng, đứng đầu là tư lệnh - đại tá Võ An Đông, kiến nghị với thành phố đã chọn đảo hoang Đình Vũ xây dựng pháo đài, kiến tạo thành vùng kinh tế mới, rồi đây còn là khu du lịch "độc nhất vô nhị" của Hải Phòng. Đình Vũ đi lên từ bàn tay người lính. Tôi còn nhớ buổi ngăn đập Đình Vũ, vẫn là đồng chí tư lệnh Võ An Đông chỉ thị cho cán bộ, chiến sĩ xí nghiệp cơ khí Trung Dũng thuộc Bộ tư lệnh Hải Phòng cắt, hàn hàng trăm rọ sắt đựng đá ném xuống sông tạo thành con đập ra đảo Đình Vũ. Rọ sắt không đủ nhiều, bị nước triều cuốn trôi. Rứt kinh nghiệm, đồng chí Võ An Đông trực tiếp chỉ huy tạo thành chiến dịch sản xuất rọ sắt, vận chuyển đá với quy mô hàng nghìn m3 tập kết; rồi cùng một ngày chờ nước triều xuống thấp, huy động lực lượng của 2 tiểu đoàn 666 và 667 nhất loạt thả rọ sắt chứa đá xuống lòng sông Đình Vũ. Lần này con đập được hình thành, thủy thần gầm gừ bằng những con sóng tung bọt trắng, cuối cùng phải khuất phục tạo thành đường xuyên đảo Đình Vũ ngày nay. Bây giờ, đảo hoang Đình Vũ đã trở thành vùng kinh tế trù phú, đường xá mở. Đảo Đình Vũ đang trở thành một miền quê thay da đổi thịt từng ngày.


Năm 1989, tôi xuất ngũ về địa phương xây dựng HTX Bạch Đằng. Chúng tôi ngồi trên boong của chiếc tàu pha sông biển 02 chạy thử do chính HTX sửa chữa. Tàu lướt sóng, đảo Đình Vũ xa xa. Lòng tôi man mác nhớ tới vị tư lệnh suốt đời chinh chiến với giặc đói, giặc ngoại xâm, tất cả vì đồng đội mà không hề thu vén cho riêng mình. Nay tôi chuyển công tác, ít có dịp gặp đồng chí tư lệnh mà tôi hằng yêu quý.


Ngày nay, mỗi khi qua các công trình lấn biển đường 14, kênh đào Cái Tráp, đường ra đảo Đình Vũ, khu sản xuất lò vôi Pháp Cổ, Xí nghiệp cơ khí Trung Dũng... tôi rất mừng vì lực lượng vũ trang chúng tôi đã tham gia tạo thế bay lên của Rồng biển, góp phần tăng trưởng của khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đồng chí Đoàn Duy Thành, nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng, trong hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 45 năm Hải Phòng giải phóng, đã có bài: "Tìm tòi chủ động tháo gỡ khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng những năm 1981 - 1985" đã nhấn mạnh: "Lịch sử phát triển đất đai của Hải Phòng là luôn luôn vươn ra biển và thay đổi cơ cấu sản xuất". Đó là dự báo về thế mạnh của Hải Phòng cần được quan tâm quản lý và khai thác.


Ngồi làm việc với ông đại tá nguyên tư lệnh Bộ tư lệnh Hải Phòng - đồng chí Võ An Đông đã nghỉ hưu, tôi mới có dịp ngắm kỹ: Ông già đi nhiều, mái tóc cắt cua trắng xóa. Ông vẫn mặc bộ quân phục bạc màu chinh chiến. Cặp kính lão cứ nhấc lên rồi lại đặt xuống. Ông đọc rồi lại viết, hình như ông đang tìm một cái gì đó, cho đời. Vâng! Ông đang viết, viết miệt mài không nghỉ để hoàn thành 10 tập cuốn "Đường 5 anh dũng, quật khởi" do ông làm chủ bút. Ông Võ An Đông biết thời gian đối với mình không còn nhiều, bởi ông trên cả tuổi "thấp thập cổ lai hy" nên ông phải tranh thủ từng giờ, chứ nói gì đến từng ngày. Hàng ngày, với chiếc xe đạp lọc cọc, ông đến từng đồng sự để lấy tài liệu, ghi lại những lời kể. Nhân chứng già rồi, ông cũng già rồi, cần phải sàng lọc, không thể bóp méo lịch sử những chiến công. "Đường 5 anh dũng, quật khởi" do ông làm chủ bút và các cộng sự của ông đang miệt mài "Nhớ lại và suy ngẫm" để viết, viết trong trưa hè như đổ lửa, viết trong đêm rét lạnh thấu xương để trọn bộ 10 tập "Đường 5 anh dũng, quật khởi" đến với bạn đọc, xứng đáng với lời tựa mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết trong trang đầu của cuốn sách như sau: "Đường 5 anh dũng, quật khởi" là bộ sách có giá trị nói lên thành tích và kinh nghiệm thực tiễn, chiến đấu sinh động của quản dân Đường 5. Tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc cả nước. Tôi hy vọng các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, các cơ quan quân sự các tỉnh, thành, Quân khu Tả ngạn quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ để cuốn sách có chất lượng và được phổ biến rộng rãi, đồng thời xác định bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử kháng chiến góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ.

(Trích hồi ký đã đăng trên tạp chí CỬA BIỂN số 52,
xuất bản năm 2000 của Hội LHVHNT Hải Phòng)


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 04 Tháng Bảy, 2022, 06:53:53 am
BAN LIÊN LẠC TRUYỀN THỐNG TRUNG ĐOÀN 179

TRẦN THANH THẢO


Là đơn vị được thành lập ngày 25-8-1978, Trung đoàn 179 mà tiền thân là tiểu đoàn 1 Cát Bà đã lớn lên theo năm tháng. Với truyền thống "Hà Sen anh dũng - Đô Lương kiên cường", đơn vị đã nêu cao tinh thần đoàn kết quân với dân một ý chí, liên tục bám trụ trên hòn đảo lớn là Cát Hải, Cát Bà có trên 360 hòn đảo nhỏ. Nơi đây không chỉ có cảnh quan kỳ thú, hấp dẫn, tiềm ẩn của giá trị kinh tế to lớn, đảo có biển, có rừng, còn có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh của thành phố Hải Phòng.


Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 179 đã có những đóng góp không nhỏ cả về tinh thần và vật chất, cùng Đảng bộ và nhân dân huyện đảo Cát Hải mở ra chương mới xây dựng quê hương, đường, trường, trạm phát triển. Dân bám tàu, bám thuyền, bám biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, xây dựng vườn quốc gia và phát triển du lịch, dịch vụ. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Cát Hải. Ban chỉ huy quân sự huyện đảo chăm lo xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ đảo; kết hợp kinh tế gắn với quốc phòng, làm đường xuyên đảo, thực hiện khẩu hiệu "Quân với dân là một ý chí". Đảng bộ, nhân dân huyện Cát Hải và Trung đoàn 179 đã huy động đến mức cao nhất tiềm lực tại chỗ làm đường xuyên đảo, phát triển kinh tế, mở mang du lịch, phục vụ quốc phòng - an ninh trên đảo. Xã Trân Châu xẻ khoan phá đá biến đường mòn thành đường ôtô dài 2,5km. Nhân dân khu vực Đô Lương chỉ trong thời gian ngắn đã đào đắp nền đường dài 11km cho ôtô khách chạy dọc đảo Cát Hải. Trung đoàn 179 nhận trách nhiệm khó khăn: hạ dốc bến Bèo, dốc Cảng cá, Áng sỏi, dốc cao Eo Bùa 25m và mở đường Hiền Hào - Mốc Trắng dài 3,2km núi đá tai mèo với tổng khối lượng nổ mìn phá đá 51.000m3 có chiều dài 15.000 mét, chi phí 20 tấn thuốc nổ. Đến ngày 19-5-1987, đường xuyên đảo thông xe từ bến phà Cái Viềng xã Phù Long đến thị trấn Cát Bà. Con đường của ý chí và quyết tâm, của tình đoàn kết gắn bó quân với dân trên đảo.


Với tình cảm sâu nặng ấy, trong suốt quá trình xây dựng, Trung đoàn 179 được Đảng bộ và nhân dân huyện Cát Hải quý mến, coi như con em ruột thịt của quê hương mình.

Trung đoàn từng vinh dự được Bác Tôn tặng lẵng hoa, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đến thăm, v.v...

Để tiếp nối truyền thống vinh quang của Trung đoàn 179 và thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, chiến sĩ đơn vị, Ban liên lạc truyền thống Trung đoàn 179 được thành lập, nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ. Trên cương vị công tác khác nhau, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn động viên nhau giữ gìn phẩm chất đạo đức, xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp, xóa đói giảm nghèo. Tích cực hoạt động tình nghĩa đồng chí, đồng đội, giúp nhau trong cuộc sống đời thường. Đặc biệt, sau Hội thảo kinh tế với quốc phòng của thành phố về đường xuyên đảo, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải một lần nữa ghi nhận, coi đó là chiến công chung của quân dân huyện đảo.


Trong chuyến thăm lại Cát Hải của Thường trực Ban liên lạc và Đại tá tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh Hải Phòng Võ An Đông, Thường trực Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã thông báo những thành quả của con đường cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống du lịch và dịch vụ nhân dân huyện đảo đang được hưởng thụ, có công sức, mồ hôi, xương máu của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 179. Tiêu biểu như: Hội viên trung đội thông tin Trần Ngôn Triệu, trung đoàn phó chính trị Hoàng Chung, Đoàn Trọng Hồi, Đoàn Ngọc Êm, Nguyễn Xuân Duy, Lê Văn Long, Ngô Xuân Trịnh, v.v... Nhiều cán bộ, chiến sĩ trưởng thành đang trụ bám công tác phục vụ huyện đảo.


Trong ngày họp mặt truyền thống kỷ niệm 23 năm ngày thành lập Trung đoàn (25-8-2001), Thiếu tướng Tăng Văn Miêu, Tư lệnh phó Quân khu và các bạn chiến đấu đang còn tại ngũ về dự, cổ vũ động viên hoạt động tình nghĩa của các bạn chiến đấu trong Ban liên lạc, đã giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Anh bộ đội Cụ Hồ.


Lời cảm ơn

Chúng tôi chân thành cảm ơn các vị lãnh đạo vã tập thế cơ quan, đơn vị, công ty đă hết lòng giúp đỡ, ung hộ tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất cho việc xuất bản tập sách này - Đó là:

Bộ tư lệnh Quân khu 3, UBND thành phố Hải Phòng, Tỉnh ủy và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hưng Yên, Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, Cảng Hải Phong, Bưu điện Hải Phòng, Công ty xăng dầu đường thủy I, Công ty đường bộ Hải Phòng, Huyện ủy và UBND huyện Yên Mỹ (Hưng Yên), cơ sở sản xuất Duy Hà, Nhà xuất bản Hải Phòng.

HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ HẢI PHÒNG
BAN LIÊN LẠC ĐỒNG ĐỘI TỈNH ĐỘI
HẢI DƯƠNG, HƯNG YÊN