Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: saoden trong 03 Tháng Năm, 2022, 10:43:08 am



Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 03 Tháng Năm, 2022, 10:43:08 am
- Tên sách: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
- Tác giả: Lê Tuấn
- Nhà xuất bản: Công an nhân dân
- Năm xuất bản:
- Người số hóa: giangtvx, saoden


Lời nói đầu


Tác giả Lê Tuấn, tên thật là Phạm Thuỵ Uông, sinh năm 1924 tại Hà Nội, tham gia phong trào Thanh niên Phản đế từ năm 1940, hoạt động ở nội thành Hà Nội cho đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Ngay sau ngày giành chính quyền ở Thủ đô, tháng 9-1945 ông chỉ huy một đơn vị giải phóng quân sang Lào, chiến đấu dọc dải vùng Thượng Lào, giúp nước bạn giành chính quyền từ tay thực dân Pháp. Đó là đoàn quân Tây Tiến đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, sau này được nhắc đến rất nhiều trong sử sách và văn chương. Tròn một năm sau, ông trở về Hà Nội, chuyển sang công tác ở Sở Công an Bắc Bộ. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông chỉ huy tự vệ chiến đấu ở Liên khu II - Hà Nội, trải qua những ngày tháng hào hùng, anh dũng "sống chết với Thủ đô". Sau đó ông làm quận trưởng Công an Quận 5 - Ty Công an Hà Nội, rồi làm Tưởng ty Điệp báo miền Nam Hà Nội. Từ Hà Nội đến Hoà Bình, Thanh Hoá, đến Việt Bắc, ông đã đặt dấu chân trường chinh đến những vùng gian nguy nhất, cùng toàn dân làm nên thắng lợi cuộc Kháng chiến chống Pháp. Với sự kiện làm báo Hồ Gươm năm 1948, ông là một trong những người đầu tiên làm báo Công an nhân dân. Báo Hồ Gươm sau trở thành báo An ninh Thủ đô. Năm 1957, ông cũng là một trong những người đầu tiên tổ chức nên tờ báo Công an nhân dân.


Cuốn Từ Sở Công an Bác Bộ ra đi không chỉ là câu chuyện về cuộc đời một con người, mà là một tư liệu quý, làm sống lại nhiều sự kiện, nhiều gương mặt lịch sử của thế kỷ XX. Đặc biệt, là người công tác trong ngành Công an từ những ngày đầu tiên, những câu chuyện của tác già đã cho chúng ta biết về nhiều mảng hiện thực sinh động mà không một cuốn lịch sử nào có thể mô tả được.

Nhà xuất bản Công an nhân dân xin trân trọng giới thiệu!

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:40:29 am
1. Đi làm cách mạng

Ông nội tôi là Phạm Văn Toán, tướng của Quận công, phò mã, thống chế Hoàng Kế Viêm. Dưới thời vua Tự Đức, vào những năm 1867-1870, phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa, dưới chiêu bài "phản Thanh, phục Minh", đã chiếm được một phần phía Nam Trung Hoa, nhưng sau đó lại bị quân nhà Thanh tiêu diệt. Tàn quân của Lưu Côn, một tướng của Thái Bình Thiên Quốc, chạy dạt sang Việt Nam chiếm cứ vùng biên giới nước ta.


Ông Ích Khiêm đem quân đánh giặc Lưu Côn ở biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn, gần một năm trời mới dẹp yên bọn giặc phỉ này. Nhưng dư đáng của chúng còn sống sót liền chia ra làm ba đạo quân: Lưu Vĩnh Phúc - quân Cờ Đen; Hoàng Sùng Anh - quân Cờ Vàng; Lương Văn Lợi - quân Cờ Trắng, cát cứ từng vùng của nước ta để cướp bóc nhân dân ta.


Thừa lệnh thống chế Hoàng Kế Viêm, năm 1885, ông nội tôi đang làm bang biện, tỉnh vụ Sơn Tây đem quân dẹp tan bọn Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh ở đồn Vàng, bên bờ sông Hồng chạy qua địa phận Sơn Tủy. Năm 1888, ông tôi được cử làm tán tương quân vụ dẹp giặc Lưu Vĩnh Phúc Cờ Đen vì lúc này chúng đang hoành hành ở vùng Quốc Oai - Sài Sơn. Ông tôi đã thuyết phục Lưu Vĩnh Phúc về hàng. Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp đánh chiếm xong Hà Nội, muốn mở rộng chiếm đóng các tỉnh ở Bắc Kỳ. Ông tôi đã điều động quân Cờ Đen phối hợp cùng với quân của triều đình bố trí chặn đánh quàn Pháp ở cửa ngõ thành Thăng Long, tại vùng Cầu Giấy, giết chết tên Henri Rivière, sau đó lại phục kích đánh quân tiếp viện của thực dân Pháp ở vùng Đê La Thành, giết chết tên Francis Garnier.


Sau khi phối hợp cùng với quân Việt Nam đánh giặc thắng lợi, Lưu Vĩnh Phúc sinh kiêu ngạo, tự tiện đem quân cướp bóc, hãm hiếp nhân dân ở những nơi chúng đóng quân, buộc lòng ông tôi lại phải đem quân tiêu diệt Lưu Vĩnh Phúc. Tên Lương Văn Lợi, giặc Cờ Trắng hoành hành vùng Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên... cũng bị quân của triều đình dẹp tan.


Năm 1908, ông tôi làm tổng đốc Nam Định, hàm Thượng thư, được triều đình Huế phong Hiệp tá Đại học sĩ. Đến năm 1909 lại được phong hàm Thái tử Thái bảo, phẩm hàm cao nhất của triều đình, ngang cùng với phẩm hàm của Quận công, phò mã Hoàng Kế Viêm1 (Hiện nay ông tôi còn có văn bia và ảnh thờ ở đền Mây (Đằng Châu Tư) tại thị xã Hưng Yên; ở đền Thiên Trường, đển Cổ Lễ tại Nam Định cũng có hoành phi, câu đối, ngài thờ bài vị ông tôi).


Năm 1911 ông tôi về hưu tại quê làng Láng, gia sản cũng chỉ có ngôi nhà gỗ 5 gian và một mảnh vườn, ruộng nương không có lấy một sào. Năm 1912, ông tôi mất, thọ 69 tuổi.

Bố tôi là con cả, hai lần thi Hương chi đỗ đến cử nhân. Khi triều đình bãi bỏ thi Hương, bố tôi được vào học ở trường Hậu bổ (sau này bổ ra làm quan). Trường Hậu bổ là trường Hàm Long cũ, nay là trường Ngô Sĩ Liên.

Khi bố tôi ra trường, thực dân Pháp vẫn có định kiến về ông nội tôi đã một thời đem quân chống lại chúng, nên khi thôi học, ông chỉ được bổ làm chức quan nhỏ hết chuyển từ huyện này đến phủ khác, không ở đâu lâu quá 3 năm. Đến ngày cách mạng tháng Tám thì lại chính anh thứ tư của tôi đi đầu phong trào Việt Minh, cầm cờ vào chiếm phủ lỵ. Gia đình bố tôi được Ủy ban cách mạng bố trí đưa về quê sinh sống lại làng Láng Trung.


Cũng từ truyền thống chống thực dân Pháp từ đời ông nội, nhưng đến bố chỉ là một lãn quan, không chịu hoạt động gì nên đến năm 1940, lúc tôi vừa tròn 16 tuổi đã theo anh ruột tham gia phong trào Thanh niên Phản đế.

Thi đỗ bằng Sơ học yếu lược (Certificat), đang chuẩn bị thi vào Thành chung, thì anh thứ ba tôi bảo: "Em đã giỏi tiếng Pháp rồi, bây giờ phải học thêm tiếng Anh ở hệ Secondaire mà nên học ở trường Thăng Long, vì anh có quen nhiều người bạn học ở đấy và trường Thăng Long cũng có nhiều thầiy giáo giỏi lắm!"

Tôi biết vậy, vì việc học hành đều do các anh lớn. Thế là tôi vào học ở trường Thăng Long mà không theo học trường công nữa.

Năm 1938, nhân dịp ngày lễ 1-5, anh tôi đưa tôi đến dự hội chợ ở nhà đấu xảo Louis Finot1 (Tên một viên công sứ Pháp cai trị Đông Dương) (Cung văn hoá Hữu nghị bây giờ). Đến nơi tôi mới biết là các anh tổ chức cuộc mít tinh lớn để vạch trần thái độ áp bức của đế quốc Pháp. Từ hôm đó tôi mới biết anh tôi đã là người của cách mạng theo Đảng Cộng sản.


Năm 1940, tôi đã học hết lớp 3ème secondaire thì anh tôi bảo: "Em có muốn vào đoàn Thanh niên Phản đế không?" Tôi không hiểu Thanh niên Phản đế là gì nên hỏi lại anh thì được anh giải thích: "Thanh niên Phản đế là thanh niên phản đối, chống lại đế quốc Pháp". Anh nói như vậy, tôi hiểu ngay và vui mừng xin được gia nhập đoàn thể đó. Sau một thời gian thử thách anh giao cho tôi đưa các thư tay đến một số bạn bè của anh như anh Luyến (Dân) ở phố René Daurelle (Nguyễn Bỉnh Khiêm bây giờ), anh An tức Đoàn ở Làng Mọc, anh Hội v.v... Anh thứ ba tôi lúc này đi làm hiệu thính viên của đài thu, phát tin tức của Pháp đặt ở gác hai phía sau Nhà hát lớn. Cùng làm với anh có anh Nghiệp, người nhỏ nhắn, chân đi khập khiễng. Anh Nghiệp hay đến nhà tôi chơi nên quen biết tất cả các anh chị em tôi. (Sau này anh Nghiệp lấy bí danh là Xuân Trường làm bí thư tỉnh ủy Hà Đông, rồi thứ trưởng Bộ Nông nghiệp). Tôi được các anh tin cậy nên thường đến tận nhà của các anh đưa thư mà không cần phải qua nơi hẹn bí mật.


Đầu năm 1941, anh tôi giới thiệu tôi với anh Ngô Duy Cáo cũng đang học ở trường Thăng Long để anh kết nạp tôi vào tổ Thanh niên Phản đế trường, do anh làm tổ trưởng.

Thời gian này, hoạt động cách mạng chủ yếu chỉ là tuyên truyền và kết nạp người vào tổ chức. Anh Cảo bảo tôi chọn trong số những bạn học thật thân ở trường, nếu thấy họ có xu hướng chống Pháp thì tổ chức họ vào hoạt động cách mạng.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:42:25 am
Trong năm 1941, tôi đã tuyên truyền được anh Nguyễn Văn Quế, cùng học một lớp, cùng ngồi một bàn với tôi. Anh Quế là con ông tổng Mai, quê ở Nam Sách, Hải Dương, đang trọ học ở nhà hộ sinh Con Rồng số 129 Henri d'Orléans (Phùng Hưng bây giờ). Tôi cũng tổ chức anh Nguyễn Thanh là cháu bà đồng Tài ở đền 52 Takou (Hàng Cót). Tôi báo cáo với anh Cảo và được anh đồng ý để tôi thành lập riêng một tổ Thanh niên Phản đế. Sau đó đến cuối năm 1941, Thanh niên Phản Đế đổi thành Thanh niên Cứu quốc, trong mật trận Việt Minh. Các anh Quế và anh Thanh cũng đã tuyên truyền được một số bạn thân có tinh thần chống Pháp. Anh Quế đã kết nạp anh Lê Tất Thành, là con trai bà chủ nhà Hộ sinh Con Rồng và là em ruột chị Lê Tuỵ Phương, một cơ sở hoạt động tài chính của anh Cả Sao Đỏ (Nguyễn Lương Bằng), anh Linh ở phố Colomb (Phan Bội Châu), anh Savanakhet, cũng cùng học một lớp với tôi và anh Quế. Anh Savanakhet có tên Lào vì bố anh là ông Phạm Văn Luận làm việc ở Sở Dây thép (Bưu điện) tại tỉnh Savanakhet và lấy vợ là người Lào nên sinh ra anh, đặt tên anh theo tỉnh là nơi ông làm việc.


Anh Nguyễn Thanh cũng kết nạp thêm được anh Đồng, anh Khang lập thành một tổ riêng.

Ngày 19-11-1942, anh thứ ba tôi ăn cơm tối xong liền gọi tôi ra bảo: "Tối nay anh đi rải truyền đơn kỷ niệm 25 năm nước Nga làm cách mạng thành công!" Tôi xin anh cho đi cùng nhưng anh bảo: "Tuấn ở nhà. Tối nay nguy hiểm đấy, vì bọn mật thám cũng đề phòng nhân ngày kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga, chúng bố trí mật thám tuần tra dày đặc khắp đường phố Hà Nội... Nếu đến sáng mà anh chưa về thì em phải đến báo ngay cho anh Luyến, anh Hội biết để các anh đối phó cho kịp!"


Cả tối hôm ấy, tôi cứ phấp phỏng không ngủ được chờ nghe anh tôi về gọi cửa là dậy mở ngay. Nhưng mãi đến 4-5 giờ sáng, anh tôi vẫn không về, tôi biết ngay là đã xảy ra chuyện không may cho anh rồi, liền chờ sáng hẳn, chạy vội đến báo cho anh Luyến ở phố René Daurelle để anh cũng báo tin cho một số các anh khác biết. Đến hơn 10 giờ thì mật thám dẫn anh tôi về nhà, máu me đầy người, để chúng khám xét tìm tài liệu bí mật. Nhưng vì tôi đã biết trước nên đã chuyển hết tài liệu bí mật của anh tôi để lại đến gửi nhờ những cơ sở khác trong mấy tổ Việt Minh của tôi. Sau này tôi được biết, mật thám bắt được anh An (Đoàn) sau đó chúng bắt anh Doanh tôi, rồi anh Luyến. Các anh trong ban cán sự Thành đều sa vào tay địch. Mật thám truy quét bắt tiếp anh Nghiệp, rồi đến em con chú ruột tôi là Phạm Khắc Minh (tức Nguyễn Quốc Hồng, sau này là phó Viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao) cho mãi đến tháng 3 1943 mới tạm dứt. Trong đợt truy lùng này, các cán sự Thành Đảng bộ đều bị bắt, duy có anh Vũ Quý là bí thư ban cán sự Thành thoát khỏi tay địch. Sau này anh Vũ Quý bị nghi là AB (Anti Bolchévich) nên bị điều đi nơi khác.


Các anh bị bắt đều do toà án binh ở phố Maréchal Joffre (Lý Nam Đế) xét xử. Anh tôi bị kết án 20 năm tù và bị đày đi Côn Đảo. Anh Nghiệp và Phạm Khắc Minh bị mỗi người 1 năm tù, giam ở nhà giam Hoả Lò, đến đầu năm 1944 mới được tha.


Lúc bấy giờ tôi mới 16 tuổi nên mật thám không nghi ngờ, nhưng bố tôi vẫn sợ liền bắt tôi về phủ Thuận Thành để tránh địch khủng bố. Nhưng chỉ sau 6-7 tháng kể từ tháng 11-1942, tôi thấy yên ổn nên lại xin phép bố ra Hà Nội học. Khi đến trường Thăng Long, tôi đã không còn liên lạc được với anh Ngô Duy Cảo vì anh cũng bị động nên đã về quê Thái Bình hoạt động cho đến ngày cách mạng tháng Tám. Tôi ra Hà Nội liền tìm đến nhà cô em họ là Ngô Thị Minh Tâm (tức Tuyết Minh, một nhân chứng lịch sử được nhiều cơ quan, đoàn thể biết). Cô em tôi không bị gì, chỉ bị một phen hoảng sợ. Tôi đến lấy lại một va li tài liệu bí mật để đem về tiếp lục hoạt động gây nhân mối mới. Tôi bắt liên lạc lại với anh Quế, anh Thanh để duy trì hoạt động cách mạng và tổ chức thêm người mới thành lập thêm các tổ Việt Minh khác. Qua cô Tuyết Minh, tôi đã liên lạc được với chị Phú (tức Hảo, sau là chuyên viên trường Nguyễn Ái Quốc), chị Tâm Khanh (tức Đinh Thị Yên, sau là Vụ trưởng của Bộ Nội vụ cũ), chị Liên (tức Hà Hoa, tức Hoàng Lê Vân, chuyên viên của Báo Nhân dân) chị Lê Thi (Dương Thị Thoa, giáo sư triết học).


Lúc này, địch khủng bố trắng, tôi mất hết liên lạc với các anh, nhưng cứ lặng lẽ hoạt động, duy trì sinh hoạt với tổ anh Quế, anh Thanh, Tuyết Minh, vì tôi vẫn giữ được nhiều tài liệu bí mật. Trong năm 1943, địch lập ra tổ chức Thanh niên khỏe Ducouroy, một hình thức cũng như Hướng Đạo Sinh, nhưng chủ yếu là để chúng tuyển người làm tay sai cho chúng sau khi đã cho họ đi học hai lớp ESEPIC và ELSEJIC - học về thể thao và lý thuyết huấn luyện. Tôi không còn liên lạc được với cấp trên, tuy vẫn đi học, nhưng vì không có chỉ đạo của thượng cấp nên cứ âm thầm hoạt động một mình. Tôi thấy địch lập ra tổ chức Jeune équype du Tonkin, tôi nghĩ không thể để cho chúng mua chuộc thanh niên mình được. Cân nhắc mãi tôi đến gặp anh Nguyễn Huy Khôi (tức Khôi Kingkong) và anh Đinh Nữu để xin gia nhập tổ chức này. Anh Khôi giới thiệu tôi với tên Fleutot Em đang phụ trách huấn luyện thể thao cho đội Jeune équypc. Tôi biết lên Fleutot Anh là mật thám cho Pháp và hai anh em đều là Tây lai. Tôi được chúng cử ngay làm xếp Jeune équype du Tonkin, có toàn quyền kết nạp đội viên, thành lập các đội theo như tổ chức của Hướng Đạo Sinh mà trước kia tôi đã làm đến Tráng sinh (Routier) do anh họ tôi là Ngô Bích San và anh Hoàng Đạo Thuý thành lập. Tôi đã lợi dùng hình thức đưa anh em đi cắm trại ở những nơi danh lam thắng cảnh và có ý nghĩa lịch sử để tuyên truyền khêu gợi lòng yêu nước.


Ngay trong năm 1943, tôi đã tuyên truyền và kết nạp được anh Ngô Tất Oánh ở xóm chùa Từ Ân - chợ Hôm (sau này là đại tá Thanh Quang, ban chỉ huy quân sự Hà Sơn Bình). Trong các đội Thanh niên Bắc Kỳ, tôi cũng đã tuyên truyền, tổ chức thêm được anh Wan Fooc Thoòng (tức Nguyễn Đường, chủ nhiệm Ty Văn hoá Cao Bằng), anh Bân con trai bà chủ cửa hàng bán vàng giả Mie Ky (Mỹ Ký), anh Chu Quang Hùng, anh Bảo Toàn, anh Chính, anh Đức, anh Ngọc, anh Vinh, anh Tiết, anh Diệp. Sau này các anh đều là cán bộ lãnh đạo của cơ quan kháng chiến và là quân tình nguyện Nam tiến đợt đầu tiên, như anh Chu Quang Hùng, anh Ba v.v...


Đầu năm 1944, anh Nghiệp được ra tù, đến tìm gặp tôi hỏi đã bắt liên lạc được với người của Đảng chưa, tôi nói cho anh biết là vẫn chưa bắt được liên lạc với ai, nhưng tuy vậy tôi vẫn âm thầm tổ chức thêm được 6 tổ hoạt động bí mật (6 tổ là tổ anh Quế, tổ anh Thanh, tổ anh Oánh, tổ Tuyết Minh, tổ anh Đường và tổ anh Bân). Anh Nghiệp khen tôi kiên trì hoạt động và anh bảo: "Anh sẽ giới thiệu Tuấn với một trong ba anh là Lê Quang Đạo (tức Nguyện) anh Nguyễn Khang (tức Đệ) và anh Đặng Kim Giang đến bắt liên lạc với Tuấn, còn anh đã được anh Lê Quang Đạo điều về Bắc Ninh làm háo Cứu quốc bí mật".


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:43:16 am
Theo ám hiệu do anh Nghiệp dặn trước, ít lâu sau tôi bắt liên lạc được với anh Đệ, cũng là bạn của anh Doanh tôi. Lúc đầu anh còn thử thách tôi nên hỏi lại:

- Ai giới thiệu cậu gặp tôi?

- Anh Nghiệp "thọt", nay anh đổi tên là Xuân Trường.

Anh Đệ không nói gì, chỉ gật đầu.

- Anh Nghiệp có báo cáo với tôi về hoạt động của cậu. Như thế là tốt. Từ nay đừng gọi tên thật của tôi nữa. Cứ gọi là Trường cũng được. Chẳng ai biết Trường nào! (Sau khởi nghĩa tôi mới biết anh là Nguyễn Khang, Xứ ủy viên, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội và trước đây anh cũng lãnh đạo phong trào cách mạng ở hai trường Thăng Long và Gia Long).

Cũng vào tháng 4-1944, Phạm Khắc Minh cũng được ra tù. Chú Minh cũng tìm đến tôi hỏi xem đã bắt liên lạc được với Đảng chưa. Tuy tôi mới liên lạc được với anh Đệ, nhưng tôi cũng nói là chưa bắt được liên lạc với ai vì đề phòng chỉ có một đầu mối chỉ đạo, bất ngờ mất liên lạc thì lại bơ vơ không biết hoạt động ra sao. Chú Phạm Khắc Minh liền giới thiệu tôi liên lạc với anh Bí, sau này anh Bí cũng đột nhiên chuyển đi, nhưng tôi vẫn duy trì sinh hoạt với anh Đào là người cùng trong một tổ với anh Bí. Tháng 8-1944, chú Phạm Khắc Minh được kết nạp vào Đảng, anh Vũ Quý tổ chức lễ kết nạp cùng với anh Vũ Duy Chương (tức Vũ Oanh), anh Phúc (tức Vân Bụ), anh Tiết (tức Bảo thé)1 (Vì anh Tiết có giọng nói rất lạ, đang trầm ấm, đột nhiên đổi giọng the thé như con gái) ở một nhà tại phố Bát Đàn.


4 người này được cử làm ban cán sự Thanh niên. Sau khi được kết nạp vào Đảng, Phạm Khắc Minh được trên điều đi nhận công tác ở Sơn Tây. Chú Minh đã bàn giao thêm cho tôi tổ anh Lều Đức Huy (đại tá Lê Thái Mỹ, Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào và Campuchia). Sau đó tôi lại liên lạc chỉ đạo thêm tổ anh Nguyễn Vũ Hiệp, anh Lê Văn Cử, anh Phạm Khải Thuỵ... Các anh này cũng đã tổ chức thêm các tổ viên và số người trong 11 tổ đã lên tới 41. Các anh đều là học sinh, hay người làm công nhỏ, tuổi đời mới chỉ 18-20. Tôi đã giữ đầu mối liên lạc của 11 tổ này với cấp trên. Tổ chức đã đông nên hoạt động cách mạng cũng gánh thêm nhiều chức trách. Việc rải truyền đơn lúc đầu chỉ nhờ anh Đào là công nhân hãng in Taupin, thi thoảng lấy cắp được ít chữ chì nên việc in bướm (truyền đơn nhỏ) thuận lợi hơn là phải viết tay. Tuy vậy in bướm theo cách này cũng chậm và lệch lạc, không đẹp. Sau khi tôi liên lạc với anh Lều Đức Huy, nhà anh có hiệu khắc dấu Ích Cát ở đầu phố Hàng Gai, anh Huy đã khắc các khẩu hiệu lên gỗ nên in được nhanh chóng, đủ số lượng cần thiết phát cho các tổ đi rải khắp đường phố trong nội thành.


Ngay sau ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, tôi gặp lại anh Nguyễn Khang, anh chỉ thị cho tôi là muốn hoạt động tích cực thì phải có súng. Tôi cũng chưa biết làm thế nào để có súng liền hỏi anh thì anh dặn: "Cứ về bàn với các anh chị em trong các tổ thì ra súng!" Khẩu súng đầu tiên đường dây Việt Minh nội thành chúng tôi có dược là khẩu do chị Liên (Hà Hoa) vận động người trong họ là ông Đỗ Dũng, một nhà buôn lớn ở phố Tiền An - Bắc Ninh ủng hộ và do tôi trực tiếp theo mật hiệu sang tận Bắc Ninh lấy về. Khẩu súng thứ hai đáng là một kỷ niệm trong đời hoạt động cách mạng của tôi. Đó là khẩu súng lấy trộm được của một tên sĩ quan Nhật say rượu trong trường hợp rất ngẫu nhiên. Lúc đó tôi đi dạy học tiếng Anh cho mấy thanh niên trong đội Jeune Équype du Tonkin, khi về qua đường Gambetta (Trần Hưng Đạo) gặp một người kéo xe cứ ca cẩm vì phải kéo tên Nhật say rượu ngủ trên xe mà không biết đưa nó về đâu. Tôi nảy ra ý kiến táo bạo liền bảo ông phu xe kéo nó vào trong sân toà án, ở đó tối tăm, um tùm, rồi hai chúng tôi khiêng nó xuống đặt lên sân trước thềm toà án, thấy nó vẫn ngủ mê mệt, tôi liều lĩnh mở bao da đựng súng, rút rộm được khẩu súng còn mới nguyên. Đó là khẩu súng hiệu Chiêu Hoà mà tôi đã dùng chiến đấu một năm trời khắp vùng Thượng Lào rồi trở về kháng chiến ở Thủ đô trong 2 tháng trước khi rút khỏi Hà Nội.


Kinh nghiệm tìm súng được phổ biến trong tất cả anh chị em ở 11 tổ, để mọi người tích cực tự trang bị lấy súng. Chỉ trong vòng 5 tháng, các anh Tất Oánh, anh Đường, anh Ba, anh Lều Đức Huy, anh Cử đã tìm mọi cách vận động những cơ sở yêu nước, ủng hộ Việl Minh những khẩu súng ngắn. Anh Lều Đức Huy vận động ông Hách Hiên là anh ruột Trần Tâm ủng hộ khẩu Browning, anh Thanh Quang và anh Ba cũng theo tôi nhờ hai chị gái nhảy là chị Chinh và chị Nguyệt, cùng ở trong xóm chùa Từ Ân, lừa dịp một tên Nhật say rượu, dìu nó ra hồ Halais để cho anh lấy trộm súng. Anh Đường cũng vận động ông bố là Wan Fooc Quẩy, người Hoa tìm mua được khẩu súng Colt Tàu ủng hộ cho Việt Minh. Anh Huy còn vận động anh Phạm Lê Khánh, con trai ông Phạm Lê Bổng, một nghị viên và là nhà tư bản có cửa hàng ở phố Hàng Bồ bán pháo Tường An, ủng hộ khẩu Smith Watson. Hai em gái của anh Khánh là chị Chung và chị Chinh cũng ủng hộ cách mạng nhiều tiền và mua tín phiếu Việt Minh. Anh Huy còn mua được của một tên Nhật khẩu Smith Watson nữa. Anh Cử có ông bố làm ở sở Lục lộ (Travauw Publics) được Pháp phát cho khẩu súng Browning nhỏ xíu. Anh vẫn thường dùng trộm khi ông bố đi vắng để súng ở nhà. Anh Ba cũng vận động ông bố là người gốc Hoa làm giám thị ở nhà giam Hoả Lò, ủng hộ một khẩu Colt Tàu. Ông này có hai người con trai của vợ trước là Trương Văn Huỳnh và Trương Văn Hụych đều là bộ đội chống Pháp. Anh Huỳnh là C trưởng quân báo, hy sinh trong chiến dịch Tây Bắc. Anh Huỵch tham gia quân lình nguyện Nam tiến hồi tháng 10-1945 và đã hy sinh ở chiến trường miền Nam.


Như vậy là trong một thời gian ngắn, nhờ có lực lượng những gia đình có cảm tình với cách mạng mà 11 tổ Việt Minh trong đường dây do tôi phụ trách đã tìm được 10 khẩu súng ngắn.

Có vũ khí rồi thì phải có huấn luyện quân sự. Bố tôi làm việc ở phủ Thuận Thành, có một cơ đội lính Khố xanh bảo vệ phủ. Những ngày nghỉ hè, ngày chủ nhật, tôi thường về thăm bố mẹ và chơi với các lính Khố xanh này để họ dạy cho tôi cách sử dụng súng, và đồng thời tôi cũng tuyên truyền khêu gợi ở họ lòng yêu nước, căm thù đế quốc Pháp. Khi được chỉ thị của anh Khang là phải huấn luyện cho anh chị em hiểu về quân sự, tôi đã mượn khẩu súng Mousqueton của anh em lính Khố xanh mà trước đây tôi vẫn thường mượn súng để đi bắn chim mòng, két, vịt giời... Tôi tổ chức cho số anh em đi bắn đạn thật, anh Huy, anh Vĩnh, anh Oánh, anh Đường... bắn đợt đầu. Các anh đã đạp xe từ Hà Nội về phủ Thuận Thành và được tôi đưa đến rìa bụi tre làng, hướng dẫn cách mở súng, cách lắp đạn, ngắm bắn v.v... và mỗi anh được bắn một phát đạn thật lên trời. Đạn thì chúng tôi đã vận động lính Khố xanh trong trại Bảo an binh ủng hộ lúc thì vài ba viên, lúc cả kẹp đạn có 5 viên... Khi nổ súng xong, anh em lại đạp xe về Hà Nội. Lúc đó bố tôi đang trông nom việc giữ đê ở bến đò Hồ, nghe tiếng súng tưởng là cộng sản đã cướp phủ vội về ngay nhưng thấy cơ lính Khố xanh vẫn canh gác bình thường. Bố tôi biết chuyện liền trói tôi vào gốc cây ngay trước cửa phủ, mãi đến trưa anh em lính mới cởi trói cho tôi và đưa tôi lên lô cốt chơi nói chuyện về súng đạn với họ.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:44:10 am
Đợt huấn luyện bắn súng thứ hai tôi đã điều chị Tuyết Minh, chị Hảo, chị Liên, chị Tâm Khanh về Đình Bảng bắn súng tập. Thời gian này hoạt động của Việt Minh đã rầm rộ gần như công khai, và hôm các chị được đi tập bắn súng cũng là ngày 17-8-1945, đang có cuộc mít tinh của tổng hội viên chức do chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim tổ chức ở Nhà hát lớn. Các chị bắn tập xong liền quay về Hà Nội để kịp dự cuộc mít tinh, không phải để ủng hộ mà để biến nó thành cuộc biểu tình lớn của nhân dân Hà Nội.


Khi đường đây 11 tổ Việt Minh có đủ súng, tôi liền xin phép anh Khang cho trừng trị con Hồng ở phố Luro (Lê Ngọc Hân) làm tay sai cho Nhật, mà anh Cử đã điều tra theo dõi lâu ngày. Nhưng anh Khang chưa cho phép chúng tôi xử trí Hồng. Tôi lại xin xử trí tên võ sư Lộc ở ngõ chợ Hôm, hắn đã đi học lớp huấn luyện ESEPIC ở Phan Thiết và được cử làm cảnh sát có đeo súng ngắn thật. (Vì thường lúc đó cảnh sát người Việt chỉ được đeo bao da đựng súng, nhưng trong chỉ có diêm và thuốc lào, mà không có súng). Việc ám sát tên Lộc cũng chưa được chỉ thị của thượng cấp, thì anh Khang đã giao cho tôi huy động một số anh em bảo vệ vòng ngoài cho đội ám sát con Nga ở quán Thiên Hương, phố Hàm Long, tên Trương Anh Tự, giáo viên dạy Anh văn ở chỗ Tám Gian, phố Huế, tên Hoàng Si Nhu ở phố Laveran (Lê Văn Hưu). Anh chị em chúng tôi còn được giao nhiệm vụ bảo vệ hai cuộc mít tinh ở làng Canh và làng Mễ Trì. Trong cuộc tuyên truyền ở rạp Tố Như (Chuông Vàng ngày nay) tôi được giao nhiệm vụ bịt mặt, cầm súng lên chế áp ông Paul Chí, nhạc trưởng để ép ban nhạc cử hài Tiến quân ca. Nhưng khi một chiến sĩ Việt Minh vừa lên sân khấu thì ở hàng ghế khán giả có tên sĩ quan Nhật vùng lên chạy ra. Nó bị một chiến sĩ nổ súng bắn, nhưng tên Nhật còn cố chạy được ra Bờ Hồ mới ngã. Trong lúc lộn xộn, một đội viên tuyên truyền xung phong tay cầm súng, trèo lên cửa sổ nhìn ra phố Tạ Hiện, định nhảy xuống đấy, nhưng tay chạm vào cò súng làm nổ và bị thương một tuyên truyền xung phong khác. Nhật bắt được đội viên này và sau cách mạng tháng Tám, anh em mới đến nhà dầu Shell đón được anh. Trước ngày 17-6-1945, anh Khang có giao nhiệm vụ cho đường dây Việt Minh nội thành chúng tôi là phải phá cho được cuộc mít tinh do bọn Đại Việt tổ chức, hình thức là để kỷ niệm ngày Nguyễn Thái Học bị Pháp xử tử trước đây, nhưng thực ra là để chúng tuyên truyền thuyết Đại Đông Á của Nhật. Các tiểu tổ mang tất cả số súng ngắn đã có, cờ đỏ sao vàng, hàng tập truyền đơn, tờ bướm... giấu trong áo, sẽ có mặt vào lúc 8 giờ sáng ngày 17-6-1945 ở ngay xung quanh hồ phía trước núi Nùng. Trên miếu nhỏ ở núi Nùng chúng đặt một bàn, bày chiếc đỉnh đồng lớn và ảnh Nguyễn Thái Học, chăng các khẩu hiệu và những vòng hoa bằng hạt cườm. Cứ sau mỗi vòng hoa là một tên Thanh niên áo nâu của Võ Văn Cầm đứng như là tiêu binh danh dự. Dưới chân khán đài là trung đội Thanh niên áo nâu mang súng trường đứng thành hàng nghiêm chỉnh. Xung quanh hồ và ở khắp các bãi cỏ phía trước khán đài đã có nhiều người đến tham dự. Anh chị em chúng tôi cũng trà trộn vào trong đám đông nhân dân, nhưng tập trung nhiều ở phía trước hồ nước. Khi tên Nguyễn Thế Nghiệp đăng đàn, diễn thuyết nói về thuyết Đại Đông Á của Nhật, tôi khẽ bấm tay anh Ngô Tất Oánh ra hiệu cho anh hô lớn: "Đả đảo Nghiệp, Sơn là chó săn của Nhật! Đánh đổ giặc Nhật ủng hộ Việt Minh!" Hưởng ứng tiếng hô của anh Oánh là hàng trăm lời hô vang tiếp theo. Có người dân không phải là Việt Minh nhưng cũng hô theo chúng tôi. Truyền đơn, bướm được rải trắng mặt cỏ. Trong khi ấy các chị trong tổ nữ sinh đã len lỏi trong đám đông nhân dân nói to: "Về đi! Về đi! Giặc Nhật khủng bố đấy!" Đám đông nhân dân rùng rùng bỏ ra về với những lời nói cười ồn ào làm cho tên Nghiệp ở trên khán đài phải ấp úng nói vào micro: "Các anh Việt Minh hiểu lầm chúng tôi rồi!"


Chúng đã nhận ra đối thủ của chúng là Việt Minh, nhưng không dám vọng động ra tay đàn áp vì chúng thấy khí thế của nhân dân hùng hậu ủng hộ Việt Minh.

Đúng lúc ấy, anh Quế bảo tôi: "Tuấn lên đi! Bắt chúng nó giải tán". Thấy khí thế của nhân dân rất cao và thấy tên Nghiệp ấp úng thanh minh, tôi càng thêm hăng hái, vừa chạy lên chỗ khán đài, vừa rút khẩu Chiêu Hoà giấu trong áo, chạy lên trước. Quế và anh Đường bám sát ngay theo bên tôi. Đến chỗ bọn Thanh niên áo nâu, tôi vung khẩu súng ngắn chỉ vào mặt chúng, quát to "Giải tán! Giải tán mau!"


Bọn này hoảng sợ chỉ chúi vào nhau không dám có hành động nào phản ứng. Tôi thấy tình hình nhân dân đang rùng rùng bỏ ra về, biết là đã thắng lợi, nên bảo Quế và Đường: "Rút lui thôi!"

Ngày hôm sau, tôi đã đi gặp từng tổ nhắc nhở anh chị em phải chú ý đến việc chúng sẽ trả thù ra tay khủng bố. Quả nhiên như vậy! Nhà anh Lều Đức Huy, là hiệu khắc dấu Ích Cát bị Nhật đến khám xét. Nhưng anh Huy đã nhanh trí làm một chuyện bất ngờ là giấu số truyền đơn còn lại, cuộn vào chiếc mành mành nứa treo ngay trước cửa hiệu. Bọn lính Nhật không tìm thấy được tài liệu nào nên phải ra về. Anh Mạc Phúc Ứng là con chủ hiệu in Tân Dân, đi chơi về đến cửa nhà thấy lính Nhật đang khám xét nên anh đi luôn không về nhà nữa. Anh Oánh đi làm ở nhà dầu Tam Đa, phố Thuỵ Khuê, sáng hôm sau đến nơi làm việc thì ông chủ cười nói: "Lộ mặt rồi nhé! Sao hôm qua hét to thế!" Ông nói xong cũng bỏ qua chuyện này mà không đả động gì tới việc anh Oánh tham gia Việt Minh. Riêng tôi, mấy hôm sau đang ngủ thì chợt nghe thấy tiếng xe ô tô xịch đỗ và bọn Nhật nói xí xố ngay trước cửa nhà. Tôi vùng dậy, xuống chỗ đống củi để ở dưới bếp ngôi nhà số 36 Hoà Mã, lấy vội chiếc cặp đựng ba khẩu súng, nhảy qua tường sang nhà bên cạnh, vì khu đó là một dãy nhà xây liền nhau cùng một kiểu để cho thuê. Vượt qua tường của mấy nhà láng giềng, tôi ra cửa sau nơi công nhân đổ thùng đến làm vệ sinh, chạy luồn qua các bụi tre, qua các ruộng rau muống, các vũng nước, chạy dài đến tận phố Luro rồi đi mất. Sáng hôm sau tôi báo cáo lại sự việc phá cuộc mít tinh của bọn Đại Việt với anh Khang thì anh chỉ nói: "Làm được đấy! Nhưng việc Tuấn rút súng chạy lên bắt bọn Thanh niên áo nâu của Võ Văn Cầm giải tán là liều lĩnh!" Tôi im lặng biết lỗi của mình.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:44:50 am
Ngày 19-8-1945, tất cả anh chị em trong 11 tổ của đường dây Việt Minh nội thành chúng tôi đã tuỳ tình hình của mỗi người tham gia vào việc chiếm Bắc Bộ phủ, chiếm trại Bảo an binh. Đặc biệt khi chúng tôi cùng mọi người vào chiếm trại Bảo an binh thì bị quân Nhật cho xe tăng đến án ngữ ở ngay hai đầu phố trước cửa trại. Bí thư Thành ủy và các đồng chí trong ban khởi nghĩa liền cho người ra gọi tổ nữ sinh vào hỗ trợ. Chị Tuyết Minh, Tâm Khanh, Phú Hảo, Hà Hoa, Lê Thi vẫn áo dài quần trắng thướt tha, mang lá cờ đỏ sao vàng lớn từ ngoài, đi qua mặt xe tăng Nhật tiến vào ngách nhỏ của cổng trại, đến gặp ban chỉ huy khởi nghĩa, ở đó các chị thấy ông quản Liên, phụ trách quân nhạc của Bảo an binh còn ngồi lại để chờ thái độ của quân cách mạng.


Sau này khi đã làm việc với Bộ Quốc phòng, đến khi về hưu, ông đã viết hồi ký, nhớ lại ngày hôm ấy và có ghi một câu: "Không ngờ lại là 5 cô nữ sinh cành vàng, lá ngọc tiến vào trong trại..."

Ông Trần Huy Khôi (Trần Quang Huy) ủy viên Ban khởi nghĩa, sau đó là chủ tịch đầu tiên của Ủy ban nhân dân Hà Nội đã nhớ lại trong những trang hồi ký: "Hà Nội hôm ấy cực đẹp. Vòm trời trong xanh không gợn chút mây. Nắng thu như mật ong vàng óng. Rừng cờ đỏ phấp phới bay trong gió lộng..."


Tiếp sau đó là những hoạt động chiếm lĩnh các vị trí quan trọng như Sở Liêm phóng, Hoả Lò, Toà án, Xưởng đúc tiền ở cuối phố Lò Đúc v.v..., tuần tra lùng bắt những tên phản cách mạng còn lẩn tránh.

Pháp tái chiếm Nam Bộ, những anh chị em đi Nam tiến đợt đầu gồm có: Cử, Huy, Thái Vĩnh, Hùng Síu, Phú Hảo, Tâm, Hải Ba... Họ đã chiến đấu suốt dọc chiều dài của đất nước.

Khi địch phản công ở Đông Bắc thì đã có Long, Nguyễn Thanh, Đường lên Đông Bắc đánh Pháp, tiễu phí, tham gia xây dựng chính quyền cách mạng.

Tôi theo đoàn giải phóng quân được đặc cử sang Lào làm cuộc khởi nghĩa thứ hai giành chính quyền cách mạng cho nhân dân vùng Thượng Lào. Tôi làm trung đội trưởng cùng với hai trung đội giải phóng quân người Tày ở chiến khu Cao Bằng, hành quân bí mật sang đánh Pháp từ Bắc Thượng Lào xuống đến Trung Lào gần Luang Prabana là đất của nhà vua Lào rồi rút quân về bảo vệ Sầm Nưa (Hủa Phăn bây giờ).


Nhiều người đã hy sinh trên chiến trường Đông Dương, bị thương như Ly Sơn, Long, Bảo Toàn, Vinh v.v...

Trong đường dây Việt Minh nội thành, đặc biệt có anh Đào, quê ở Thanh Nhàn được tôi giới thiệu đi học lớp quân sự ở Mương Khói, Lạc Sơn, Hoà Bình do anh Vương Thừa Vũ huấn luyện. Trước khi anh Đào đi học, tôi đã giao cho anh khẩu súng Saint Étienne mà ông Đỗ Dũng đã ủng hộ cho chúng tôi. Anh Đào sau này là Bí thư Thành ủy Hà Nội (1946 - 1947) rồi bí thư Tỉnh ủy Hà-Nam-Ninh trong thời kỳ kháng chiến và là thứ trưởng Bộ Ngoại thương khi hoà bình lập lại.


Trong cuốn hồi ký "Hồi ức tuổi xanh" do Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 2001, anh Đào có viết như sau:

"Khoảng giữa năm 1944, đồng chí Bí được chuyển đi nhận nhiệm vụ khác thì tôi lại được giới thiệu với đồng chí Lê Tuấn, cho đến ngày tôi được đồng chí Tuấn giới thiệu đi học lớp quân sự ở Mường Khói, Lạc Sơn, Hoà Bình. Đồng chí Tuấn giới thiệu tôi cùng đi với ba đồng chí khác là Lê Quân, Hoàng Hữu Nhân, Thôi Hữu. Sau đó đồng chí Quyết đến tận Sở dầu Shell là nơi tôi đang làm việc để dặn thời gian và địa điểm cùng đi với đồng chí Lê Quân..."


Gần 50 năm sau, đến tận 1990, chúng tôi mới có dịp họp mặt nhau ở nhà tôi để hồi nhớ lại những ai còn, ai mất và tìm gặp lại số anh chị em có mặt ở Hà Nội, viết lại hồi ức của một đường dây Việt Minh hoạt động trong nội thành từ năm 1940 đến 1945.


Những kỷ niệm vui buồn lẫn lộn của những người còn sống, đến nay cũng đã ngoài 70-80 tuổi, đã là ông, bà, cụ của lớp con, cháu, chắt sau này rồi. Tôi nhắc lại chuyện cũ vẫn thấy lòng bồi hồi những kỷ niệm khó quên của một thời trai trẻ.


Năm 1942, anh ruột thứ 3 của tôi là Phạm Bộ Doanh, cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương tại thành phố Hà Nội, (chưa gọi là thành ủy viên) đi rải truyền đơn nhân dịp 25 năm Cách mạng Nga thành công, thì bị lộ, thực dân Pháp bắt được anh tôi, đưa ra xét xử ở toà án binh, kết án anh tôi 20 năm tù và đày đi Côn Đảo, cho đến ngày cách mạng thành công, anh tôi và các chiến sĩ tù Côn Đảo được đón về đất liền rồi tham gia kháng chiến ngay ở miền Nam cho đến ngày hoà bình mới tập kết ra Bắc.


Sau cách mạng tháng Tám, tôi có 12 anh, chị em ruột thì 10 người đã tham gia kháng chiến. Trong đó có 5 người ở bộ đội chính quy chiến đấu chống Pháp ở cả ba miền: Bắc, Trung, Nam và có hai người là quân tình nguyện chiến đấu ở Lào và Campuchia. Anh thứ tư của tôi là quân tình nguyện chiến đấu ở Campuchia, còn tôi là quân tình nguyện chiến đấu ở Lào, đánh Pháp, giành lại chính quyền cách mạng cho nhân dân vùng Thượng Lào từ tháng 9-1945 cho đến tháng 9-1946, khi có Tạm ước 14-9, mới về nước. Em trai út của tôi là liệt sĩ đánh trận ở Cầu Trắng thuộc Kim Anh cũ. Cũng vì gia đình có thành tích như vậy nên khi hoà bình lập lại, năm 1955, bố mẹ tôi đã được Chính phủ tặng Bảng Vàng Danh Dự và Huân chương Kháng chiến hạng Ba.


Khi tôi ở Lào về được đồng chí Hoàng Sâm, chỉ huy Chiến khu II cử về báo cáo tình hình chiến sự ở Lào với Hội đồng, Quân sự ủy viên hội đóng ở trường Đồng Khánh cũ, nay là trường Trưng Vương. Hết hạn nghỉ phép, tôi chuẩn bị lên Tông - Sơn Tây để nhận nhiệm vụ mới thì được gặp ông Lê Giản và ông Hoàng Mỹ. Hai ông đã xin bên Quốc phòng cho tôi chuyển sang công tác ngành Công an, vì lúc đó ngành Công an rất thiếu cán bộ nên vẫn phải sử dụng viên chức lưu dụng của Sở Mật thám cũ.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:45:51 am
2. Cuộc trường chinh lần đầu trong đời

Đây là một giai đoạn chiến đấu mà những tài liệu nghiên cứu của quân đội và báo chí cũng ít biết và nói đến.

Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy một phân đội gồm đa số là các học sinh, thanh niên Hà Nội đã hoạt động từ thời kỳ bí mật. Chúng tôi được đồng chí Vương Thừa Vũ nhận làm đơn vị trực thuộc, đưa về đồn Ba Thá, thuộc Thanh Oai, Hà Đông để huấn luyện cấp tốc quân sự. Một tối đồng chí Vương Thừa Vũ gọi riêng tôi ra chỗ đình, cạnh đồn Ba Thá và bảo tôi: "Tôi được các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Nội cho biết quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí, nên tôi tin tưởng và đã nhận đơn vị của đồng chí là trực thuộc của tôi. Nay tôi cho đồng chí biết... các đồng chí sắp lên đường nhận nhiệm vụ vô cùng khó khăn, gian khổ, trực tiếp đối mặt với quân thù. Đồng chí thấy có cáng đáng nổi không?"

- Thưa đồng chí! Tôi hoạt động cách mạng cũng không sợ tra tấn, tù đày, và mục đích cuối cùng cũng chí là đánh đuổi quân Ihù, giành độc lập cho nước nhà. Vì vậy, dù nhiệm vụ có khó khăn đến đâu, tôi cũng quyết đảm nhận trách nhiệm của mình.

- Tốt! Bây giờ đồng chí cho anh em vào lĩnh vũ khí và lương thực dự trữ. Nay mai sẽ có nhiệm vụ mới cho phân đội của đồng chí!

Mấy ngày hôm sau, phân đội tôi sáp nhập vào chi đội Nông Ích Cao, đã có hai phân đội Giải phóng quán người dân tộc Tày ở Cao Bằng. Cả chi đội bí mật xuất phát từ đồn Ba Thá tiến quân lên Tây Bắc. Lên đến Xuân Mai, chúng tôi gặp đồng chí Lê Hiến Mai, đại diện Tổng bộ Việt Minh ở Ai Lao (Lào) và đồng chí Hoàng Sâm, chỉ huy trưởng Chiến khu II.


Mục đích cuộc hành quân và nhiệm vụ đã rõ ràng, chi đội Ích Cao đã lặng lẽ, bí mật lên Tây Bắc. Để tránh đụng độ với quân Tàu Tưởng, nên chi đội chỉ hành quân theo đường rừng, xuyên qua rừng sâu, núi cao mà đi. Sau những ngày trèo đèo lội suối, luồn rừng, chi đội đã đến gần tỉnh lỵ Sầm Nưa thì được tin quân Pháp biết được tin quân đội Việt Minh tiến sang Lào đã rút khỏi Sầm Nưa, bỏ chạy về Luang Prabang.


Trung đội chúng tôi hầu hết là thanh niên, học sinh Hà Nội, được phân công vào tiếp quản Sầm Nưa, còn hai trung đội của Nông Văn Tần và Kim Thành đóng ở vòng ngoài tỉnh lỵ để bảo vệ cho Sầm Nưa.

Tôi đem trung đội vào tỉnh, nhưng khi qua ngã ba vào đến tỉnh lỵ, anh em chúng tôi đều ngỡ ngàng, tỉnh lỵ Sầm Nưa chỉ nhỏ như cái phố huyện con con ở bên ta. Tỉnh lỵ nằm trong thung lũng hẹp, bao quanh là núi cao, rừng rậm, chỉ có một quãng đường rải đá, dài gần 1 cây số, rồi lại đến đường rừng. Phố duy nhất ở Sầm Nưa chỉ dài độ gần 200 mét, gồm hơn 50 nóc nhà tranh, vách đất. Đoạn đầu phố là nhà của Việt kiều thường mở cửa hàng bán tạp hoá và làm thợ may. Sau đó đến đoạn phố của người Hó (dân tộc Sạ Phang của Trung Quốc), rồi lại là cánh đồng hẹp dẫn đến bản Lào ở cuối tỉnh. Sầm Nưa chỉ có một nhà máy thủy điện nhỏ, cung cấp điện chủ yếu cho đồn binh Pháp cũ và nhà mấy quan chức đầu tỉnh, nhưng sức điện yếu, bóng điện chỉ đỏ như ngọn đèn dầu, chập chờn lúc sáng, lúc mờ. Án ngữ chỗ ngã ba đường là quả đồi trên đó là đồn binh Pháp và nhà ông Châu Khoẻng cùng ông quan Ba của chế độ cũ.


Tôi đặt ban chỉ huy ở ngôi nhà sàn bằng gỗ, lợp ngói ngay bên cạnh vách nhà ông bếp Cầu, bán bánh cuốn. Ngôi nhà sàn này trống tuềnh trống toàng, nên chúng tôi chỉ quét sạch sàn gỗ làm chỗ nằm, ngoài ra không có đồ đạc gì hết.


Sau khi đã ổn định nơi đóng quân cho các tiểu đội, đặt các vọng gác bảo vệ hai đầu Nam và Bắc tỉnh, tôi bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền cách mạng cho nhân dân Sầm Nưa. Tôi mời hoàng thân Phumi Vongvichít, trước đây vẫn là tỉnh trưởng của Sầm Nưa sang làm chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng Lào và mời ông quan Ba Khăm Kiểu làm chỉ huy quân sự của tỉnh. Những ngày tiếp sau, chúng tôi vừa đi thăm nhân dân trong phố vừa họp bàn với ông Khăm Kiểu tuyển mộ số thanh niên tình nguyện Lào vào đơn vị giải phóng quân đầu tiên của tỉnh Sầm Nưa. Tôi chịu trách nhiệm huấn luyện quân sự cho đơn vị mới thành lập của Lào. Ngày ngày trên thao trường tôi đem vốn liếng quân sự học được của đồng chí Vương Thừa Vũ để huấn luyện cho bộ đội nước bạn.


Thấm thoát đã gần cuối năm, chúng tôi thấy bà con Việt kiều rục rịch chuẩn bị ăn cái Tết thật to để mừng Tổ quốc được độc lập và đón tiếp con em giải phóng quân Việt Nam về nhà ăn Tết...

Nhưng một đêm, chúng tôi được lệnh để lại hết tư trang, chỉ mang theo súng đạn cấp tốc hành quân về phía Nam tỉnh. Trong khi hành quân, tôi mới được phép phổ biến cho anh em biết nhiệm vụ đánh quân Pháp mới quay trở lại chiếm Mường Láp, cách phía Nam tỉnh độ hơn 60 cây số... Biết đây là trận đánh đầu tiên của quân đội cách mạng, nên anh em chúng tôi ai cũng hồi hộp, bí mật hành quân. Đến gần Mường Láp, chúng tôi lại hợp quân với các phân đội khác. Phân đội của đồng chí Nông Vân Tần sẽ chịu trách nhiệm mặt phía Nam. Phân đội của tôi sẽ trực diện tiến công phía Bắc. Còn phân đội của Kim Thành làm lực lượng dự bị. Đến nửa đêm, tôi đưa phân đội vào vị trí chiến đấu, ven bờ con suối lớn chạy bên dưới bản. Tôi bảo anh em lấy cành lá nguỵ trang kín người, chờ hiệu lệnh tấn công là tràng súng máy nổ dài của phân đội Tần làm lệnh xung phong.


Đêm hôm ấy, sương phủ trắng núi rừng, chờ đến tang tảng sáng, cách nhau vài mét cũng chỉ nhìn thấy hình mờ mờ của nhau mà không rõ mặt người. Nằm phục ven bờ suối, chúng tôi chỉ cho nhau từng tổ tiến đánh căn nhà sàn nào rộng là nơi quân Pháp đóng. Tôi phụ trách một tiểu đội đánh vào ngôi nhà sàn to rộng ở ngay giữa bản, có chăng chiếc dù trắng và đoán đó là nơi chỉ huy của quân Pháp.


Trong giờ phút căng thẳng chờ hiệu lệnh tấn công, tôi đến gặp từng tổ, thấy anh em run lập cập vì giá lạnh. Nhưng điều chủ yếu đây là lần đầu tiên trong đời ra trận nên ai cũng hồi hộp. Bản thân tôi cũng thấy tim đập mạnh vừa lo đến trách nhiệm của người chỉ huy, vừa lo nghĩ không biết mình sẽ chiến đấu ra sao. Tôi hít vào lồng ngực một hơi dài để cố nén sự hồi hộp, hai bàn tay vẫn run run, nghĩ đến lúc xung trận phái chỉ huy anh em chiến đấu ra sao và cũng để quên giây phút căng thẳng như thế này.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:46:47 am
Trời sáng dần, màn sương mờ đục đã loãng, một tốp các chị trong bản vác ống bương xuống suối lấy nước. Tôi nằm phục ngay ven suối nên nghe rõ tiếng các chị nói với nhau:

- Phạ ơi! Nao hênh! Pị noọng à! (Trời ơi! Rét quá chị em à!)

- Bọn Pha Lăng (chỉ quân Pháp) này độc ác quá. Chị em mình phải hầu hạ chúng suốt ngày, đêm đến cũng không sao được ngủ yên với bọn chúng...

- Sao Trời không làm chúng chết hết đi! Chúng còn đóng ở bản mình ngày nào thì chị em mình còn khổ nhục với chúng...

Một chị lội ra giữa dòng suối, vục ống bương xuống nước, chợt ngẩng đầu lên khẽ kêu: "Lạ quá! Lạ quá! Sao bén kia suối lại mọc ra nhiều bụi cây mới đến thế!"

Tôi chưa nghe hiểu hết tiếng nói của các chị, nhưng thấy chị trỏ tay sang bờ suối bên này thì tôi hiểu là nguỵ trang của chúng tôi đã bị lộ vì không hợp với địa hình. Chị ấy vứt bỏ ống bương xuống dòng suối, chạy vội về bản kêu lên: "Phạ ơi! Bố mế ơi!"


Không còn kịp chờ tràng súng máy của phân đội Tần, tôi nổ ngay phát súng đầu tiên trong đời, bắn chết tên lính gác gần đấy rồi hô anh em xung phong ngay. May quá, cùng lúc đó súng máy của phân đội Tần cũng bắt đầu rung lên từng tràng dài. Tất cả các chiến sĩ của hai phân đội cùng xông ngay vào bản, núp dưới các cây cột dưới sàn nhà, nổ súng vào những nơi thấy tiếng chân địch chạy rậm rịch. Loang loáng trong màn sương, tôi thấy các chiến sĩ của phân đội Tần lạnh lùng xung trận, không hò reo. Trong khi ấy anh em ở phân đội tôi lại cứ hò hét xung phong như kiểu đánh trận giả. Tôi thấy như vậy bất lợi vì dễ lộ mục tiêu, nên cố hét to bảo anh em không hò hét, cứ lặng lẽ như các chiến sĩ của phân đội Tần, tay kẹp súng, mồm ngậm dao găm, tay bám vào cột gỗ đu lên nhà sàn. Các chiến sĩ áo chàm tung hoành khắp nơi, đuổi theo từng tên lính Pháp quần áo kaki vàng sẫm, trở báng súng quật vào chúng. Tôi hô anh em cứ theo cách đánh của các chiến sĩ phân đội Tần. Tôi dẫn tiểu đội chạy vòng ra phía sân sau ngôi nhà chỉ huy của địch, cùng anh em leo lên nhà sàn, ép kẻ địch vào thế gọng kìm. Không chịu được sức ép ở cả hai phía, bọn địch đạp tung liếp vách, nhảy xuống đất, chạy lên rừng. Các chiến sĩ cứ nhằm vào những áo vàng nổi bật trên màu xanh của lá cây rừng, nổ súng bắn gục từng tên.


Cuộc chiến đấu kết thúc nhanh chóng. Quân giải phóng Việt Nam đã làm chủ bản Mường Láp, thu hai khẩu "Bách kích pháo" (súng cối), nhiều vũ khí, súng đạn, quân trang, quân dụng, lương thực và thuốc men. Hơn 20 xác giặc chết rải rác khắp nơi, được thu gom về chỗ sân rộng giữa bản. Nhân dân có vài người bị thương, nhưng không nặng lắm. Còn chúng tôi cũng có hơn 10 người bị thương, cả nặng và nhẹ.


Nhân dân đã tụ tập ở giữa bản, tôi và đồng chí Tần giải thích cho bà con hiểu, vừa bằng lời nói, vừa bằng cử chỉ là quân giải phóng Việt Nam giúp nước bạn Lào đánh đuổi Pha Lăng để cho dân bản khỏi chịu cảnh khổ.

Trong cuộc hành quân chiến đấu này, tôi cũng được phép của ông Khăm Kiểu đem theo một tiểu đội giải phóng quân Lào để thực tập chiến đấu. Anh em chiến sĩ Lào vui mừng quá, đá vào những xác giặc, ôm lấy nhau cười nói. Có anh còn nổ thêm phát súng vào xác giặc.


Sau khi đã thu dọn chiến trường, tôi nhờ ông trưởng bản mượn nhân dân hơn 10 con ngựa thồ các chiến lợi phẩm về tỉnh. Chúng tôi cũng để lại ít lương thực và thuốc men, căn dặn người dân cách điều trị cho những người bị thương... rồi mới rút quân về tỉnh. Trong khi chúng tôi bí mật hành quân tiến đánh Mường Láp, thì ở tỉnh lỵ, các em nhỏ hàng ngày vẫn đến chỗ đóng quân để vui với các anh giải phóng, nhưng sáng hôm ấy các em đến thấy nhà cửa vắng ngắt, không còn ai đứng gác..., có em đã oà lên khóc, chạy vội về báo tin cho người lớn biết.


Được tin này, bà con Việt kiều ngơ ngác, hoang mang không hiểu có việc gì xảy ra. Có người đoán già, đoán non hay là ở trong nước đã có việc gì xảy ra nên bộ đội mới lặng lẽ rút quân như vậy, không kịp từ biệt bà con. Việc chuẩn bị Tết đang náo nức bỗng chìm hẳn xuống. Các em và các chị đã thuộc tên từng chiến sĩ, bần thần đứng ở cửa nhìn lên rặng núi xanh ngắt trước nhà như muốn tìm kiếm bóng dáng của các anh trên nẻo đường rừng nào! Nhưng đến khi trời tối, nghe tiếng vó ngựa chạy dồn dập trên đường và tiếng người la to: "Bố mế à! noọng à! Coong tháp (quân đội) Việt Nam đánh đuổi Pha Lăng rồi, đang về sau đấy!..."


Mọi người chạy ra đường thấy một chiến sĩ Lào, tay cầm thanh đuốc cháy ngùn ngụt, kẹp mấy chiếc lông gà và mấy quả ớt, tay vuốt mồ hôi trên mặt, há miệng ra cười mà không thành tiếng. (Lông gà tượng trưng cho việc khẩn cấp, quả ớt tượng trưng cho việc cấp thiết, nóng hổi...)


Thế là cả tỉnh Sầm Nưa như bừng tỉnh dậy. Nhà nào cũng mở toang cửa đốt đèn, đuốc sáng trưng cả đoạn phố dài. Số thanh niên nam, nữ Việt-Lào không hẹn nhau, cùng đốt đuốc chạy ra phía đầu tỉnh để đón quân Giải phóng Việt Nam. Khi đội quân của tôi và đồng chí Tần về đến tỉnh lỵ, còn cách hai, ba cây số đã thấy đuốc sáng lập loè. Đám đông người ùa chạy tới đón, tíu tít mang vác hộ súng đạn cho anh em chiến sĩ. Các bà mẹ chạy theo sau, hổn hển với những túi cam quít, bưởi để anh cm ãn cho đỡ mệt. Tối hôm ấy cả tỉnh Sầm Nưa không ngủ. Nơi đâu cũng tiếng cười nói rộn ràng. Các bà, các chị rủ nhau lên y xá thăm anh em bị thương.


Sáng hôm sau, tôi lên gặp hoàng thân chủ tịch tỉnh, đã thấy ông Khăm Kiểu cũng có mặt từ sớm. Hai ông đang ngồi nói chuyện hỉ hả, vui vẻ lắm. Khi thấy tôi bước vào nhà, cả hai ông cùng dứng dậy, nắm lấy tay tôi lắc mãi, nét mặt rạng rỡ hiền hậu chân tình, cười nói: "Bộ đội Lê Tuấn giỏi lắm! Chúng tôi đã nhận được tin này từ đêm hôm qua mà cũng không làm sao ngủ được!"


Tôi kể qua trận đánh để hai vị đứng đầu tỉnh nắm được tình hình và nói xin tặng lại cho đơn vị giải phóng của quân đội Lào một số súng đạn, thuốc men. Tôi cũng tặng hoàng thân và ông Khăm Kiểu, mỗi người một khẩu súng ngắn là chiến lợi phẩm thu được trong trận đánh Mường Láp. Nét mặt hoàng thân hiền dịu, cầm tay tôi nói như tình cha con:

"Bộ đội Lê Tuấn có nhận giúp đỡ quân đội Lào không? Nếu được phép thì cứ ở lại Sầm Nưa nhé. Nhân dân Lào quý mến khách lắm đấy!"

Tôi cũng lễ phép trả lời là vui lòng nhận trách nhiệm giúp đỡ quân đội Lào nhanh chóng trưởng thành.

- Bộ đội Lê Tuấn năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

- Thưa ông chỉ huy trưởng! Năm nay tôi vừa tròn 21 tuổi!

- Giỏi lắm! Chúc bộ đội Lê Tuấn đạt được nhiều thắng lợi trong chiến đấu chống giặc Pha Lăng...


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 20 Tháng Sáu, 2022, 06:47:45 am
Gần đến ngày Tết, bà con Việt kiều đến gặp tôi để xin đón các anh em chiến sĩ về nhà ăn Tết. Tôi bàn với đồng chí Nhân là chính trị viên phân đội thấv cũng nên để cho anh em được ăn cái Tết đầu tiên xa nhà ở đây. Tôi dặn các chiến sĩ ở các tiểu đội được phép phân nhau về các gia đình Việt kiều ăn Tết, nhưng luôn đảm bảo các vị trí canh gác ở đầu và cuối tỉnh. Bà con tíu tít chia nhau đến các tiểu đội để đón các anh em về nhà và nhà nào cũng phải có được một giải phóng quân Việt Nam cùng ăn Tết mới bằng lòng.


Sáng 30 Tết, tôi nhận được chiếc phong bì của hoàng thân Phumi Vongvichít, đề hàng chữ "À Son Excellence Lê Tuấn"1 (Có nghĩa là Ngài hay Tướng công, rất trọng vọng). Tôi bóc phong bì mới rõ tuy người Lào không ăn Tết âm lịch như Việt Nam, mà chỉ ăn Tết to nhất vào cuối tháng Ba âm lịch, là Tết Bun Pimảy (Tết té nước cầu phúc) nhưng Hoàng thân cũng đã tổ chức bữa cơm đêm 30 để đón giao thừa theo phong tục Việt Nam. Hoàng thân mời ban chỉ huy phân đội lên trên đồn cùng ăn Tết đón giao thừa với gia đình. Đồng chí Nhân là học sinh trường Đỗ Hữu Vị, đã tốt nghiệp Diplôme, có anh là Nghĩa hoạt động trong đơn vị Tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu, nhìn phong bì rồi nhìn tôi cười nói đùa: "Thưa ngài Lê Tuấn oắt con!"


Tôi nói ngay: "Đây có thể là những phong bì của hoàng thân đã ghi sẵn và nay tiện thì gửi cho tôi đó thôi!"

Gần đến giờ đón Giao thừa, tôi rủ đồng chí Nhân cùng đi lên đồn, nhưng đồng chí nhất định không chịu đi vì đã hẹn với gia đình thầy giáo Tuệ là người luôn giúp đơn vị chúng tôi trong mọi việc giao tiếp với nhân dân và chính quyền tỉnh.


Bữa tiệc chỉ có gia đình Hoàng thân và hai vợ chồng ông Khăm Kiểu. Khi đã yên vị, Hoàng thân nói lời chúc Tết, giới thiệu vợ và cô cháu gái lớn trông nom một em gái nhỏ... (vì Hoàng thân không có con). Ông Khăm Kiểu cũng chúc Tết, nhưng vì ông nói tiếng Việt chưa sõi nên tôi xin ông cứ nói chuyện bằng tiếng Pháp là thứ tiếng ông thành thạo. Khi cô cháu gái theo lời hoàng thân cầm ép xôi (giỏ đan bằng cật tre như chiếc bồ con của bên ta) đi mời khách, đến chỗ tôi cô nói tiếng Việt rất giỏi (vì cô đã chơi thân thuộc với nhiều cô gái Việt kiều):

- Mời anh xơi xôi!

Tôi đứng lên nhận nắm xôi cô đưa cho và nói "Khốp chay! Noọng à!"1 ("Cảm ơn em gái") Hoàng thân cười vang, vui vẻ: "Bộ đội Lê Tuấn học tiếng Lào từ bao giờ thế?" Tôi đỏ mặt không biết trả lời bằng tiếng Lào ra sao. Thực ra tôi cũng chỉ nhờ thầy giáo Tuệ dạy cho dăm ba câu nói chuyện, thăm hỏi nhân dân mà thôi.


Trong ba ngày Tết, tôi luôn bận rộn đi hết nhà này đến nhà khác. Một cái Tết xa nhà đầu tiên trong đời bộ đội và cũng là Tết đầu tiên nước nhà độc lập, thật ấm cúng vì tình người ở nơi xa xứ...

Thấm thoắt đã đến tháng Tư, cái nắng vàng óng xua tan những ngày lạnh giá đầy trời sương. Hoa trầu nở trắng suốt hai bên đường phố. Nhân dân Lào chuẩn bị cái Tết Té nước cầu phúc thật to để mừng ngày được mùa và đất nước không còn bóng giặc Pha Lăng.


Các chiến sĩ cũng lặng lẽ chuẩn bị mỗi người một bi đông nước phẩm màu để vui chung cùng nhân dân nước bạn. Sau Tết Bunpimảy, bên nước nhà đã gửi một đơn vị sang Sầm Nưa, thì cũng đúng lúc đó, đơn vị của tôi lại được lệnh của chi đội trưởng Nông Ích Cao lặng lẽ rời khỏi tỉnh hành quân lên phía Bắc để chặn đánh giặc đang chiếm đóng bản Na Veung.


Cuộc hành quân lên Na Veung cực kỳ gian khổ và nguy hiểm, chỉ đi trên các đỉnh núi cao ngất, không có lấy một tiếng chim hay vết chân con thú, chỉ thấy bầu trời lồng lộng trên đầu. Chi đội Nông Ích Cao đã đến vị trí chiến đấu thật bí mật và trận đánh Na Veung diễn ra thắng lợi. Trong trận chiến đấu ở Na Veung, cũng còn có một đơn vị quân đội Lào, nhưng không phải là đơn vị của ông Khăm Kiểu ở Sầm Nưa.


Tiếp sau đó là những trận chiến đấu từ Nam lên Bắc, từ Tây sang Đông khắp cả vùng Thượng Lào. Những trận đánh địch như ở bản Hốp, Mường Son, Mường Lầm, Mường Hung, Sốp Cộp và những bản nhỏ, gặp địch ở đâu là tiến quân chặn đánh chúng ngay. Chi đội Nông Ích Cao đã thực hiện được ý đồ cầm chân quân địch không cho chúng rảnh tay để củng cố các vị trí chiếm đóng trên vùng thượng Lào.


Những cuộc hành quân và tác chiến liên miên làm cho quân số của chi đội Ích Cao giảm dần. Nhiều anh em đã nằm lại rải rác trên những đỉnh núi mù sương hay trong những bản Lào xa lạ...

Cuối cùng chúng tôi cũng lại được về ven sông Mã, nhưng vì dòng sông chảy quanh co hết bên nước bạn, lại về Việt Nam, nên chúng tôi cũng không thể biết được mình đang ở trên đất Tổ quốc hay trên đất nước bạn. Trận đánh ở bản Mường Lầm để chặn tàn quân của Alexandrie từ Lai Châu tiến theo dọc sông Mã, là lớn nhất. Cả hai bên ta và địch cùng thiệt hại nhiều. Nhưng rồi địch chiếm được Mường Lầm. Chúng tôi phải rút lui, nhưng vẫn kiên trì bám sát địch đánh du kích. Những ngày chiến đấu dọc sông Mã thật gian khổ, vì nhân dân các bản nghe tiếng súng đã sơ tán vào rừng sâu nên đơn vị không có cách nào xin trợ giúp lương thực. Đã nhiều ngày, anh em phải ăn trái cây rừng, nõn chuối nên rất xót ruột.


Những trận chiến đấu cứ kéo dài, giành đi, giật lại hết Mường Hung, đến Sốp Cộp... Chi đội đã mất hơn 130 người lúc quân đội do đồng chí Anh Đệ và Tuấn Sơn lên thay thế cho đơn vị chúng tôi về nghỉ ngơi củng cố lại lực lượng. Bấy giờ tòan chi đội chỉ còn lại 18 người, cả Kinh lẫn Thổ, do tôi chịu trách nhiệm chỉ huy chung.


Về nghỉ ở Mai Châu, chúng tôi mới thấy buồn vì vừa phải xa mặt trận, vừa thấy mình không còn đủ sức lực để đánh giặc. Đến Mai Châu, chúng tôi được gặp đồng chí Hoàng Sâm. Đồng chí đón chúng tôi mà cứ ngớ mắt ra nhìn vì thấy anh em áo quần rách, buộc chằng chịt, tóc tai bù xù, mặt hốc hác vì đói vì sốt rét, vắt cắn máu đọng đầy người chưa khô.

- Đồng chí Tuấn đấy à. Sao anh em tiều tuỵ quá thế? Gian khổ lắm phải không?

- Thưa đồng chí! Cả chi đội chỉ còn lại 18 người mà thôi. Chúng tôi dù có gian khổ nhưng luôn lo đến trách nhiệm là không kìm được chân kẻ địch và để mất Mường Lầm...

- Không sao! Các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rồi đó. Trong gần 1 năm qua, cách mạng đã kịp tuyển quân và huấn luyện các đơn vị, nay đã đưa lên án ngữ được suốt mạn Tây Bắc. Các đồng chí thực sự đã lập chiến công không nhỏ. Nói thật với đồng chí Tuấn, lúc đầu để các đồng chí đi chiến đấu ở xa lại làm nhiệm vụ của những người đi trước, chặn đánh quân thù, tôi cũng áy náy không yên. Dù biết các đồng chí hầu hết đều đã là người hoạt động thời kỳ bí mật nhưng dù sao các đồng chí còn quá trẻ, lại mới rời ghế nhà trường phải cáng đáng trọng trách quá nặng nề như vậy, nên tôi không yên tâm... Nhưng nay thì tốt rồi. Các đồng chí thật xứng đáng là những chàng trai Hà Nội, không sợ hy sinh, không sợ gian khổ, lạc quan chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ chiến lược là kìm chân quân địch để Tổ quốc kịp tuyển quân điều lên hảo vệ biên giới... Nay đồng chí đưa anh em về Tông và gặp đồng chí Hiến Mai để nhận nhiệm vụ mới...


Vậy là, một năm trời đã qua với cuộc trường chinh luôn để lại trong tâm trí tôi những kỷ niệm không thể nào quên về các chiến sĩ đã hy sinh và những tình cảm thân thiết của nhân dân hai nước Việt - Lào dành cho chúng tôi.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:32:22 pm
3. Chiến đấu ở Liên khu II

Vừa mới đánh Pháp ở chiến trường Lào trở về hồi cuối tháng 9-1946, trên người còn vương bụi đường xa và những nỗi gian khổ ở chiến trường rừng núi, ăn bát cơm tẻ vẫn thấy nhạt mồm, lại nhớ đến nắm xôi nếp Lào dẻo chấm với "chéo" (muối rang, ớt, tỏi, giã trộn vào nhau để chấm) cay đến chảy nước mắt, nước mũi. Vài ba ngày lại lên cơn sốt rét run cầm cập do ký sinh trùng Anophène hành hạ, rét từ trong lòng rét ra. Cơ thể tôi vốn cân đối do luyện tập thể thao, nay ngực lép, bụng to với cái bảng số 2. Anh em đùa gọi tôi là "hình thang lộn ngược". Tôi chỉ cười trừ và cũng thấy buồn cho sức khoẻ của mình.


Sau những cơn "nhớ rừng" như vậy, tôi ngày càng xanh xao và gầy rộc hẳn đi. Bộ quần áo lính Tàu mà Bộ Quốc phòng phát cho khi tôi ở Lào về, trông lụng thụng càng thêm vẻ ốm yếu.

Hết hạn nghỉ một tháng ở Hà Nội, một sáng trước khi lên đường về đơn vị, tôi đến thăm mấy anh em thanh niên cứu quốc cũ trong đội Việt Minh của tôi đang công tác tại Sở Công an Bắc Bộ thì được anh Quỳ giới thiệu với anh Hoàng Mỹ1 (Anh Hoàng Mỹ, tức Trần Hiệu, Cục trưởng Cục tình báo). Thấy tôi xanh xao, không còn chút máu mặt, lại sắp về đơn vị, anh Hoàng Mỹ bảo:

- Trông cậu yếu lắm! Ở lại đây công tác với bọn mình. Công tác công an cũng hợp với tính thanh niên sôi nổi của cậu. Hơn nữa, bọn mình đang thiếu người nên phải dùng cả những công chức lưu dung thời cũ.

- Em phải về đơn vị vì em là cán bộ chỉ huy.

- Nếu cậu đồng ý ở lại, mình sẽ gặp anh Lê Giản2 (Anh Lê Giản, tổng giám đốc Nha Công an Trung ương) đề nghị anh nói chuyện với anh Văn3 (Anh Văn, tức đại tướng Võ Nguyên Giáp) về việc chuyển công tác của cậu. Được không?

- Xin tuỳ ở các anh, nếu anh thấy em ở lại đây là cần.

- Được rồi: Ngày mai cậu đến làm việc chỗ cụ Minh nhé4 (Cụ Minh tức ông giáo Hách, chủ nhiệm Phòng Chính trị Công an Bắc Bộ).

Tôi chuyển công tác từ quân đội sang công an nhẹ nhàng chẳng cần thủ tục giấy tờ hành chính gì mà chỉ do câu chuyện trao đổi bằng miệng giữa các anh ấy thôi. Gia đình được biết tôi sẽ công tác ở Hà Nội liền tích cực đi mua thuốc chống sốt rét ở cửa hiệu "Phúc Đình père" chỗ đường Bà Triệu gần ngã tư Nguyễn Du bây giờ, cho tôi uống.


Tôi công tác ở Phòng Chính trị Sở Công an Bắc Bộ, chỉ có nhiệm vụ đọc báo hàng ngày để nắm tình hình xã hội chung, chủ yếu là nắm rõ các hành động khiêu khích gây hấn của Pháp và những vụ bắt cóc, tống tiền nhân dân của bọn Đại Việt Quốc dân đảng, để tổng kết tình hình hàng tuần.


Có những lúc xem báo chán, tôi lại ra đường dạo quanh các phố để thấy trực tiếp các việc gây rối, cướp giật, bóc lột người đi đường của bọn lính Pháp mà Ban Liên kiểm Việt - Pháp không thể nào nêu ra hết và đưa vào biên bản. Mỗi lần đi ra phố như vậy, lâu không thấy tôi về, anh Hoàng Mỹ lại bảo anh Phú hay anh Quỳ đi tìm tôi, vì anh biết tôi vẫn còn giữ khẩu súng ngắn và vẫn mang tính nóng nẩy ở chiến trường rừng núi. Anh sợ tôi lại gây rắc rối với bọn lính Pháp và đúng thế thật.


Một lần tôi đang đi trên hè, dưới mái hiên của hiệu Godart thì gặp hai tên lính Pháp mũ đỏ, loại lính lê dương đánh thuê ngổ ngáo nhất. Chúng thấy tôi mặc bộ quần áo của lính Tàu Tưởng, người xanh rớt, còm nhòm, liền xoạc cẳng chân, hai tay chống vào cạnh sườn, chắn đường tôi đi, nghiêng ngoẹo cái đầu cười khẩy chế nhạo tôi. Tôi né tránh bọn chúng không phải vì sợ mà vì giữ kỷ luật không để xảy ra đụng độ với chúng.


Lúc bấy giờ, nhân dân, bộ đội và cán bộ Việt Minh được lệnh cụ Hồ phải hết sức nhịn nhục, tránh gây đổ máu để cho ta còn có thời gian củng cố lực lượng kháng chiến.

Hai tên lính Pháp tưởng tôi sợ chúng nên há mồm ra cười hô hố. Một tên xông đến bàn thuốc lá của một chị bán rong đứng gần đấy, cướp lấy bao thuốc lá Domino đỏ, dứ dứ trước mặt tôi. Tôi vẫn dè chừng theo dõi hành động của chúng, khi chị bán thuốc lá kêu lên, tôi không kìm được nữa, liền một tay rút khẩu súng ngắn giấu trong áo, chân nhảy tránh một bước tiến lên, dùng sức quật nòng súng vào cổ tay tên cướp giật làm nó phải bỏ rơi bao thuốc lá xuống đất, ôm lấy cổ tay nhăn nhó. Chị bán hàng nhặt vội bao Domino, cắp bàn đựng thuốc bỏ chạy. Tôi đưa nhanh mắt xem tình thế và nhảy lùi lại, nấp sau cột hàng hiên, gằn giọng quát:

- Vas t'en! Si non je te tue! (Cút ngay! Nếu không tao giết mày!)

Tên đi cùng với hắn gườm gườm mắt nhìn quanh để tìm xem có bọn lính mũ đỏ nào đi trên đường, hắn lại nhìn đến khẩu súng ngắn của tôi vẫn chĩa nòng về phía chúng, đành rút lui, miệng lầu bầu:

- Cochon Việt Minh! Tu nous verras! (Đồ con lợn Việt Minh! Mày sẽ biết tay chúng tao!)

Những người đi đường sợ có đụng chạm nổ súng nên chạy giạt sang hè đường bên kia, nấp sau các gốc cây và cửa hàng, nhìn sang. Khi họ thấy hai tên lính Pháp phải lùi lũi đi, một tên vẫn ôm cổ tay, mồm méo xệch, họ khoái chí, cười vang.


Không khí đầu mùa Đông se lạnh, nhưng cả Hà Nội cứ hừng hực khí thế chiến đấu. Đi trên đường phố nào, tôi cũng gặp những nam nữ thanh niên, hồng hào, khoẻ mạnh, chiếc mũ ca lô đội nghiêng trên đầu một cách hờ hững duyên dáng, có gắn ngôi sao vàng trong hình kim loại vuông màu đỏ, bước chân rắn rỏi, nét mặt tươi tỉnh, bình tĩnh với cái vẻ hào hoa đáng yêu của người Hà Nội. Anh chị em sôi nổi bàn tán đến những câu chuyện hàng ngày trên đường phố và báo chí.


Trong một đêm trực ở Sở Công an Bắc Bộ, vừa mới chập tối, tôi đang ngồi xem báo thì chuông điện thoại réo vang hối hả. Biết là có chuyện, tôi cầm lấy ống nghe, chăm chú theo dõi câu chuyện, hỏi lại vài điều cho rõ, rồi lại gọi dây nói báo cáo sang chỗ anh Lê Hữu Qua, chủ sự Phòng Trinh sát, phụ trách lực lượng Công an xung phong, rồi lại gọi dây nói báo cáo với anh Hoàng Mỹ và anh Lê Giản biết tình hình mới xảy ra. Tôi gọi dây nói sang ban Liên kiểm Việt - Pháp hẹn cử người đến phố Paulbert (Tràng Tiền) có việc lính Pháp bắn bị thương và chết một số người.


Tôi thắt lưng súng ngắn, nhảy ba bước một xuống cầu thang đã thấy chiếc xe Jeep nổ máy sẵn. Đầu mũi xe có cắm lá cờ hiệu của Công an xung phong. Tôi ngồi trong xe với anh Lê Hữu Qua, có hai công anh xung phong, dáng người to lớn, đứng ghếch chân lên mũi xe, tay nắm khẩu tiểu liên Thompson băng đạn tròn, sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:33:19 pm
Xe phóng đến trụ sở Ban Liên kiểm Việt - Pháp ở đầu phố Gia Long1 (Nay là phố Bà Triệu và là trụ sợ của Quận ủy quận Hoàn Kiếm) đã thấy xe của Liên kiểm Việt - Pháp nổ máy chờ xe của chúng tôi đến là bám theo sau ngay. Hai xe rẽ vào phố Paulbert, đến gần ngã ba Bùi Huy Bích cũ (nay là phố Nguyễn Khắc Cần) liền đỗ lại. Anh em tự vệ khu phố canh gác bí mật, thấy xe chúng tôi tới liền chạy ra kể lại tình hình sự việc. Anh Lê Hữu Qua cử hai đồng chí công an xung phong đứng gác ngay ngoài cửa. Chúng tôi cùng cán bộ Ban Liên kiểm và tên sĩ quan Pháp vào trong nhà. Ngay trên nền nhà gần cửa ra vào, người đàn ông bị trúng đạn vào ngực, nằm trên vũng máu, đã chốt. Còn người bị thương ở ngoài hè đã được xe chữ thập đỏ đem đi nhà thương cấp cứu.


Hơn một giờ sau, Ban Liên kiểm mới lập xong biên bản, tên sĩ quan Pháp nhận sai lầm về phía chúng. Trước khi hắn ký vào biên bản, còn làm điệu bộ nghiêng đầu, nhún vai. Anh Qua và tôi chỉ ký vào biên bản theo danh nghĩa cơ quan công an xác nhận sự việc.


Trên đường về, tôi có hỏi đồng chí sĩ quan thiếu tá Dương Văn Đàm là luật sư, đại diện cho phía Việt Nam trong Ban Liên kiểm về những vụ Pháp gây hấn như thế này mà đại diện của chúng đã ký vào biên bản nhận tội, thì chúng có đền bù gì cho gia đình thân nhân người bị hại không!

- Ban Liên kiểm Việt - Pháp chỉ là tổ chức hình thức. Bọn tôi đã lập hơn hai trăm biên bản, từ những vụ chó của Pháp cắn chết mèo của người Việt Nam, từ vụ lính Pháp cướp thuốc lá, ăn quịt tiền xe v.v... đến những vụ chúng nổ súng bừa bãi giết hại nhân dân ta, có chữ ký của chúng đàng hoàng, nhưng bọn chúng nhận lỗi chỉ để biết lỗi, còn có chịu đền bù cho ai đâu. Ngược lại biên bản cứ lập, cứ ký chung, nhưng các vụ lính Pháp khiêu khích vẫn tăng với sự việc ngày càng nghiêm trọng. Bọn chúng lấy lý do là lính lê dương say rượu nên không thể quản được chúng nó. Có thế thôi!


Rồi anh Đàm khẽ nói với tôi: "Nói chuyện với bọn lính Pháp bằng giấy tờ không xong được đâu! Trước sau gì chúng la cũng cần phải có cái này", rồi anh cong ngón tay làm hiệu bóp cò súng. "Nhưng chúng ta cứ phải kiên trì chịu nhịn để tranh thủ thời gian hoà hoãn."


Bọn lính Pháp được chỉ huy khuyến khích nên càng lộng hành. Ban ngày chúng phóng xe Jeep khắp nơi, sục sạo cả vào những ngõ nhỏ, nổ súng uy hiếp tinh thần nhân dân ta. Các đội tự vệ khu phố và Vệ quốc đoàn được lệnh đắp ụ đất để cản xe chúng ở ngay các đầu ngõ. Anh chị em tự vệ cắt nhau canh gác thường xuyên. Mỗi lần thấy xe của chúng xộc đến, anh chị em lại rút vào trong nhà. Lính Pháp không đi xe được phải vòng lại nên chúng tức tối xả hàng tràng đạn vào các ụ đất lạnh lùng mà chúng thấy mỗi ngày lại mọc thêm ở mọi đường phố Hà Nội.


Ở các nơi công sở có Vệ quốc đoàn canh gác đều phải che chắn bao cát vì đã có lần lính Pháp bắn cả vào các đồng chí gác ở phố Lò Đúc làm một anh Vệ quốc bị thương nặng.

Bước sang đầu tháng 12, không khí chiến tranh đã bao trùm khắp thành phố. Chính phủ kêu gọi nhân dân đi tản cư ra các vùng nông thôn, nên phố xá thưa thớt hẳn, im lìm, nặng nề, vắng vẻ. Lúc này Sở Công an Bắc Bộ cũng không còn việc gì làm ngoài việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Sở đã chia người ra làm ba bộ phận. Bộ phận thứ nhất có trách nhiệm xem xét lại các hồ sơ, giấy tờ cần thiết đóng hòm để chuyển ra hậu phương, còn cái nào không cần thì đem thiêu huỷ.


Bộ phận thứ hai có trách nhiệm tổ chức chiến đấu bảo vệ cơ quan. Nhũng cán bộ khoẻ mạnh, có tinh thần hăng hái được chia thành từng đội, trang bị đầy đủ vũ khí như đội Công an xung phong, đảm bảo tác chiến chống quân Pháp. Có đơn vị còn được bổ sung, phối hợp với tự vệ thành, bố trí ở nhà Đấu xảo Louis Finot, ở công ty Hoả xa Vân Nam (Trụ sợ Tổng liên đoàn Lao động bây giờ) để đánh chặn quân Pháp từ xa.


Lực lượng trinh sát được phân tán chia về tăng cường cho các liên khu để nắm tình hình địch và những bọn phá hoại.

Bộ phận thứ ba làm công tác hậu cần, phục vụ ăn uống, tiếp tế súng đạn cho các đơn vị chiến đấu.

Riêng hai anh Lê Giản và Hoàng Mỹ cùng số cán bộ chủ sự các phòng sẽ rút ra ngoài hậu phương trước khi nổ súng để đón nhận lại số cán bộ công an rút ra ngoài, củng cố lại tổ chức cho phù hợp với tình hình kháng chiến.

Không khí trong Sở Công an Bắc bộ nhộn nhịp hẳn lên. Phòng nào cũng ngổn ngang các giấy tờ đã được phân loại lưu trữ hay thiêu huỷ. Các chiến sĩ ở đơn vị chiến đấu nhận súng đạn, học cách sử dụng, cách tác chiến trên đường phố và trong từng ngôi nhà gác.


Mấy anh em chúng tôi ở Phòng Chính trị được anh Hoàng Mỹ phân công nhiệm vụ mới: Anh Tài, anh Nguyễn Vũ và anh Phú đi cùng với các anh Lê Giản và Hoàng Mỹ ra hậu phương trước. Tôi, anh Quỳ, anh Hùng, anh Tuấn Em là người cùng ở khu phố chợ Hôm nên được các anh giao cho nhiệm vụ về tiểu khu, giúp anh chị em tự vệ tham gia tác chiến phối hợp với Vệ quốc đoàn.


Ở tiểu khu 6, phố chợ Hôm, tôi lại gặp anh Ngô Tất Oánh1 (Sau này anh Oánh lấy tên là Lê Thanh Quang, đại tá, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Quán sự Hà Sơn Bình, đã về hưu, ở Hà Cầu, Hà Trì, Hà Đông). Hai chúng tôi đã quen biết nhau từ trước. Chúng tỏi lấy nhà anh Hùng số 108 phố Huế làm trụ sở chỉ huy tác chiến của tiểu khu. Một hôm anh Oánh thì thào bảo tôi: "Tuấn này! Mình thấy anh chị em tự vệ xì xào nói mấy đêm nay quân ta ở ngoại thành kéo vào nội đô cứ rì rầm suốt đêm, đủ cả súng to, súng nhỏ. Chuyến này thì quân Pháp biết tay!"


Tôi nghe tin này cũng mừng, nhưng sau đó nghĩ lại ngay: Cũng có thể đây là mẹo của anh Vương Thừa Vũ làm nghi binh, như khi tôi còn đóng quân ở Ngã Ba Thá, anh cũng cho chúng tôi hành quân qua lại vùng Miếu Môn, Xuân Mai... trước khi hành quân sang Lào chiến đấu, chỉ để nghi binh gây thanh thế. Nhưng dù sao tin này cũng khích lệ anh chị em tự vệ hăng hái hơn để chờ lệnh chiến đấu.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:34:36 pm
Ở tiểu khu 6 có anh Sắc là chủ tịch Ban Bảo vệ tiểu khu2 (Ban bảo vệ thay cho Ủy ban kháng chiến sau này) và anh Phụng là phó ban. Anh Sắc người nhỏ nhắn, nét mặt xương xẩu, đôi mắt nhỏ, khi nói chuyện với ai hay nhìn đi nơi khác, không tỏ vẻ thực thà, pha chút gian giảo, làm việc gì cũng ngần ngừ một lúc mới quyết định được. Theo tôi nhận xét thái độ ấy của anh sắc không phải là vì thận trọng mà là thái độ của người ngại ngùng với công việc, nhất là việc tác chiến. Quả đúng như thế thật. Chỉ sau hai ngày, chúng tôi tìm đâu cũng không thấy anh Sắc để bàn các công việc chiến đấu. Nhưng may có anh Phụng là phó ban. Trông anh ngược hẳn với anh Sắc, cũng tuổi thanh niên như chúng tôi. Anh người trắng trẻo, là học sinh trung học, làn tóc hơi xoăn tự nhiên, hai má bầu bầu trông như đứa trẻ đang hờn dỗi, hàng ria con kiến đen nhánh, bên dưới chỗ cằm có một đám râu đen mới chỉ là cái chấm. Miệng lúc nào cũng tròn lại trước khi nói cái gì. Sau này khi anh đã theo chúng tôi vào làm việc trong ngành công an, chúng tôi cứ đùa gọi anh là "Cậu ộ". Phụng chỉ cười, chấp nhận biệt danh ấy. Anh Phụng luôn đi sát chúng tôi để giải quyết mọi công việc theo thẩm quyền của Ban Bảo vệ tiểu khu. Nhìn anh người ta nhận ra ngay cái nết cần cù làm việc. Lúc nào anh Phụng cũng chỉ cười hề hề, chẳng bao giờ thấy vội vã và tức giận điều gì. Khi lực lượng kháng chiến ở Liên khu II đã rút hết ra ngoài, anh Phụng gia nhập Công an Hà Nội và đổi tên là Kim Tấn. Anh hoạt động cho đến ngày về tiếp quản Thủ đô rồi lên Bộ Công an công tác. Sau này anh mất do tai nạn giao thông vào năm 1970.


Còn về anh Sắc, lúc đầu chúng tôi được anh Tích báo cho biết là: "Sắc đã hy sinh rồi!". Tôi không tin vì tiểu khu 6 mới chiến đấu có hai hôm mà anh chị em tự vệ chỉ đánh giặc ở hai ổ tác chiến của Pháp: một tại số nhà 74-76 phố Jacquin (nay là Ngô Thì Nhậm); còn ổ tác chiến kia ở phố Bernard de Beau (nay là Nguyễn Chế Nghĩa) thì chỉ duy nhất có anh Bảo, tự vệ hy sinh mà thôi. Vậy thì anh Sắc mất trong trường hợp nào?


Mãi đến năm 1976, tôi được anh Oánh cho biết là Sắc vẫn còn sống, hiện mở cửa hàng buôn bán ở phố Gốt, thị trấn Xuân Mai. Thì ra điều tôi nghi ngờ về Sắc là đúng. Anh ta nhát gan sợ chết nên đã giả chết để bỏ trốn ra vùng hậu phương ngay sau ngày toàn quốc kháng chiến.


Trong cuộc họp chi bộ của tiểu khu 6, anh Quỳ là bí thư chi bộ, tôi, anh Hùng, chị Trính1 (Chị Tránh sau này là phu nhân đồng chí Nguyễn Lương Bằng), chị Hải2 (Chị Hải sau này là vợ ông Bùi Lâm, nguyên viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao), anh Âm, tôi cứ dè dặt lúc đầu với chị Hải vì thấy chị là đầm lai, nhưng sau thấy chị cởi mở, hoà nhã với mọi người và nhất là tinh thần hăng hái của chị đã xoá bỏ khoảng cách của tôi với chị. Chị Hải là cán bộ của Công an Hà Nội suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, rồi chị mới chuyển sang ngành y, công tác ở bệnh viện Việt - Xô.


Trong chi bộ có phân công cho từng đảng viên: Anh Quỳ phụ trách chung, tổ chức các lực lượng phối hợp chiến đấu. Chị Trinh, cán bộ công đoàn Nhà máy rượu, phụ trách tiếp tế và "Hoả đầu quân" (nhà bếp), chị Hải phụ trách đội cứu thương, tôi và đồng chí Hùng phụ trách đội tự vệ khu phố chiến đấu.


Một lần tôi đang luồn theo lỗ đục tường thông các nhà để thăm dò đường đi lối lại và xem có nơi nào còn chưa đục thông suốt để sau này khi xảy ra tác chiến không lúng túng, thì thấy hai đồng chí Vệ quốc đoàn đem giấy giới thiệu đến gặp tôi, do anh Quỳ viết gửi đến cho tôi. Một trong hai đồng chí ấy là Lê Ngọc Tấn1 (Lê Ngọc Tấn, đại lá, cán bộ Cục Chính trị Tổng cục Hậu cần, đã nghỉ hưu ở phố Tăng Bạt Hổ). Đồng chí Tấn gặp tôi lần đầu đã thân thiết ngay vì biết tôi cũng vừa ở đơn vị quân giải phóng chiến đấu ở Lào, và cũng có thể vì tác phong dứt khoát và quyết đoán công việc của tôi. Từ hôm ấy, tôi và đồng chí Tấn luôn đi cùng nhau, bàn bạc cách chiến đấu khi chiến sự xảy ra trong gần hai tháng trời cho đến khi Vệ quốc đoàn và tự vệ rút ra khỏi Liên khu II vào đầu tháng 2-1947.


Một hôm hai chúng tôi đi điều tra vị trí đóng quân của Pháp ở nhà dầu Shell2 (Nhà dầu Shell nay là trụ sở Ủy ban Khoa học kỹ thuật), tuy không thuộc phạm vi tác chiến của tiểu khu 6, nhưng đồng chí Tấn muốn tôi đi cùng để trực tiếp nắm rõ tình hình địch, lên phương án tác chiến, vì chính ở những vị trí đóng quân này, lính Pháp sẽ tiến hành các cuộc càn quét xuống các khu phố thuộc Liên khu II. Hai chúng tôi ăn mặc bình thường, nhưng giắt súng ngắn trong áo, đi bên này đường nhìn sang, quan sát để tìm hiểu lực lượng Pháp đóng ở đây. Tên lính gác nghi ngờ vì thấy hai chúng tôi cứ quanh quẩn bên kia đường, nên nó trao đổi gì với một tên lính khác, rồi cả hai đứa chia nhau hai ngả, tay cầm ngang khẩu súng, lùi lũi sang đường. Đồng chí Tấn bấm vào tay tôi ra hiệu. Tôi cũng nhận ra ý định của chúng muốn bao vây hai chúng tôi, nên kéo tay đồng chí Tấn đi vượt nhanh ra khỏi khu vực trước khi chúng sang được hè đường bên này. Chúng tôi đi lên phố Gambetta (Trần Hưng Đạo) rồi rẽ sang phố khác về Armand Rousseau (Lò Đúc). Đồng chí Tấn kéo tôi vào căn nhà gác ở ngay góc phố nhìn ra ngã năm, ở đây có một tiểu đội Vệ quốc quân đóng bí mật. Anh cho tôi biết là các anh đã đào đường hầm thông ra giữa ngã năm Lò Đúc, đặt quả bom sẵn sàng cho nổ khi Pháp dùng xe thiết giáp tấn công xuống đây. Anh cũng còn cho tôi biết là cả dưới nền rạp chiếp bóng Majestic (Tháng Tám) và cả ở ngã sáu Cửa Nam cũng đều có đặt bom ngầm trong đường hầm rồi.


Sáng hôm 16-12-1946 tôi đến Sở Công an Bắc Bộ thấy các phòng vắng tanh, tưởng là mình đến sớm, định lấy báo ra xem thì anh Quỳ ló đầu vào cửa, vẫy gọi tôi đi họp. Trong phòng đông đủ mọi người, ai cũng im lặng không cười đùa như mọi khi làm cho không khí nghiêm trang hẳn lên. Anh Lê Hữu Qua là ủy viên trong Ban Bảo vệ thành phố đang phổ biến tình hình địch gây hấn, cách chuẩn bị chiến đấu của công an và phân công cho các lực lượng. Trong trường hợp phải rút lui thì địa điểm tập kết là chùa Vân Hồ, nơi anh Lê Hữu Qua đặt trụ sở chỉ huy tác chiến của Công an Hà Nội. Trong làng Vân Hồ còn um tùm bụi tre với những hồ, ao rau muống và bèo tây. Tôi chưa bao giờ vào đấy, nhưng thấy nơi đó là vùng nông thôn nên nghĩ chẳng bao giờ mình phải rút lui về tận đấy, mà chỉ bám chắc vào các đường phố để chiến đấu, cũng có thể chống nhau được với bọn Pháp. Và thực tế, khi chiến đấu, ai cũng bám theo mặt trận, lui đến đâu, giữ đến đó mà không ai về tập kết ở địa điểm này.


Tôi là bộ đội giải phóng quân cũ nên được anh Hoàng Mỹ giao cho khẩu súng trường của kỵ binh Nhật, ngắn, nhẹ hơn nhưng khi bắn giật mạnh hơn súng mousqueton. Khi nhận đạn, tôi chọn toàn loại đạn xuyên thép có màu đen ở đầu đạn và đạn cháy có vẽ vòng đỏ ở đầu. Khi lắp đạn vào sác-giơ tôi cứ lắp viên đạn cháy kèm theo viên đạn xuyên để đánh xe Jeep và xe Half-track. Tôi còn được anh Hoàng Mỹ giao cho quản lý chiếc máy đánh chữ kiểu Baby nhỏ, gọn.


Nhưng ngay từ ngày đầu nổ súng, tôi cũng không rõ mình đã quẳng ở đâu chiếc máy chữ đó.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:35:50 pm
Trong khi cuộc họp đang bàn tán thì chợt nghe có nhiều tiếng súng nổ ở mạn phố trên đầu cầu. Chúng tôi nghĩ là đã đến lúc tác chiến nên giải tán ngay, ai về làm nhiệm vụ của người ấy. Anh Qua cử trinh sát đi thăm dò tình hình. Tôi xách súng và máy chữ chạy bộ về nhà ở phố Amiral Sénès (Hoà Mã). Dọc đường tôi nghe lõm bõm tin của người đi đường là quân Pháp đang nổ súng khiêu khích, đánh vào phố Yên Ninh và Hàng Bún, giết hại hơn 40 người dân và tự vệ. Sau đó chúng còn bắn pháo cối từ trong thành ra làm đổ một số nhà cửa và giết hại thêm nhiều người nữa.


Có khẩu súng trường, tôi đi đến các nhà anh chị em tự vệ khu phố, chỉ bảo cho anh chị em cách ngắm bắn súng, cách chạy nấp và lợi dụng các địa hình trong đường phố như hàng cây, mái hiên, để đánh địch. Tôi đi suốt ngày, không kịp về nhà ăn uống và tiện bữa ở nhà nào thì ăn ở đấy, đến chiều, tôi gặp anh Tuấn Em đưa cho tôi một gói nặng, bảo ở trên thành phố phát cho. Tôi mở gói giấy thấy toàn là mìn thỏi dẻo của Nhật, và kíp mìn cùng dây cháy chậm.

- Các anh ấy bảo chúng mình đục thân cây phía trong mặt nhà, ở ngoài hè, nhét thỏi mìn vào rồi cho kíp nổ đánh gục các cây cối đổ chắn ngang ra mặt đường làm thành chướng ngại vật.

Về khoản này tôi đã biết cách sử dụng và theo lời các đồng chí giải phóng quân người Thổ trong đơn vị của tôi ở Lào thì loại mìn dẻo này ngọt lắm, ai đau bụng uống một tí là khỏi ngay. Tôi nhấm một tí vào đầu lưỡi thấy ngọt thật, nhưng không dám phổ biến cho mọi người cách chữa bệnh đau bụng theo kiểu đó.


Ngay tối hôm xảy ra sự kiện căng thẳng ở phố Hàng Bún và ngõ Yên Ninh, nhiều nhà dân đã đi tản cư, chỉ khép cửa để cho chúng tôi ra vào tự do.

Tại nhà anh Hùng ở số 108 phố Huế, nguyên là hiệu bán sách Anh Phương, chúng tôi lập ban chỉ huy tự vệ khu phố để anh chị em đến ghi tên nhận nhiệm vụ. Ai có vũ khí dù là dao, kiếm, gậy gộc, súng thì vào lực lượng chiến đấu. Ai không có vũ khí thì vào đội Hoả thực (Nấu bếp). Các chị phần lớn đều gia nhập đơn vị cứu thương họp ở nhà khác do chị Hải phụ trách. Đội quân nhà bếp do chị Trinh phụ trách cũng họp riêng.


Không khí chiến đấu đã sục sôi và khẩn trương. Chúng tôi phân công nhau đưa từng tốp tự vệ đi đục các thân cây thành một lỗ nhỏ, nhét vừa thỏi mìn dẻo. Anh Oánh đi điều tra lại hai ổ tác chiến của địch ở phố Jacquin và ở phổ Bernard de Beau. Mỗi ổ tác chiến chỉ có ba, bốn tên Pháp lập thành vị trí kiên cố để quấy rối hậu phương, của ta và để bảo vệ cho bọn lính Pháp đóng ở nhà dầu Shell.


Gần sáng, chúng tôi về tập trung ở nhà anh Hùng, ai nấy đều mệt mỏi vì thức suốt đêm, thì đã thấy bà mẹ anh Hùng đem ra một rá cà cuống luộc và một ôm bánh mỳ vàng rộm mới lấy ở hiệu bánh mì Boulangerie Moderne bên kia đường (nay là rạp Đại Nam), bảo chúng tôi:

- Anh em ăn đi cho đỡ mệt!

Chúng tôi vừa ăn bánh mì, vừa nhằn cà cuống thịt, nói chuyện râm ran. Anh Phong là anh ruột anh Hùng vứt ra bàn tút thuốc Cotab, nhưng chúng tôi chỉ cầm lên xem vì không ai biết hút thuốc lá. Đang ăn thì anh Quỳ đến, chiếc kính cận cứ tụt xuống mũi làm thi thoảng anh phải lấy ngón tay đẩy lên. Anh Quỳ triệu tập họp chi bộ khẩn cấp. Chúng tôi kéo nhau lên gác nghe anh Quỳ phổ biến tình hình riêng của Đảng, sau đó phát cho mỗi người một tấm thẻ Đảng, in trên bìa học sinh màu tím nhạt, to bằng ba bốn chiếc bao diêm, có đánh số thẻ do anh Lê Quang Đạo bí thư Thành ủy ký. Anh Quỳ cho biết: trong trường hợp tác chiến thất tán nhau mỗi người một nơi, ai đi đến đâu nếu gặp đảng viên thì tự động họp nhau lại để tổ chức chỉ đạo kháng chiến ở đó. Chúng tôi cẩn thận cất thẻ Đảng vào túi áo trên ngực, vì anh em chúng tôi đều là học sinh mới tham gia công tác nên chẳng ai có giấy tờ gì cần phải có ví để cất giữ. Trước đây chí có mấy ông công chức đi làm mới có ví đựng tiền. Còn như học sinh chúng tôi ra đường, chỉ có mấy hào đút trong túi quần là xong.


Ngày hôm ấy, các đội viên tự vệ đều đến sống tập trung theo từng đơn vị được phân công nhiệm vụ. Tôi và anh Oánh chỉ huy tự vệ đánh ổ tác chiến của địch ở phố Jacquin. Anh Hùng và Tuấn Em chỉ huy đánh ổ tác chiến ở Bernard de Beau. Anh Quỳ tổ chức các đội tự vệ tiếp viện và bổ sung. Chị Trinh đã rút về phố sau để huy động anh chị em đi thu hồi thực phẩm nấu cơm, giết thịt để tiếp tế cho tự vệ khu phố chiến đấu. Chị Hải họp các chị cứu thương thành lập từng tổ nhỏ gài vào các khu phố để chăm sóc anh em tự vệ bị thương.


Chúng tôi lại chia nhau tản ra các nhà trong khu phố vận động bà con đi tản cư cho hết. Trong khi đi từng nhà xem xét, tôi đã gặp rất nhiều chuyện cảm động, các chủ nhà cứ cầm tay tôi dặn dò nơi để củi lửa, gạo nước và còn giao cả chìa khoá nhà cho tôi giữ. Đến một nhà gần ngã tư phố Huế và phố Sergent Larrivé (Nguyễn Công Trứ) tôi vào nhà thấy mọi người đã khăn gói gọn gàng để lên đường đi tản cư, nhưng bà mẹ còn nấn ná sụt sùi vì tìm đâu cũng không thấy cậu con trai còn nhỏ tuổi. Hoá ra cậu nhỏ trốn dưới gầm tủ, không chịu đi tản cư mà nhất quyết đòi ở lại để "sống chết với Thủ đô".


Cuộc giằng co giữa hai mẹ con vừa xúc động, vừa buồn cười. Bà mẹ một tay túm lấy cậu bé, một tay cứ phát mãi vào mông mà mắng. Cậu bé gào lên: "Con không đi tản cư đâu! Con ở lại với các anh tự vệ cơ. Con trai phải ở lại đánh Pháp. Đi tản cư xấu lắm!"


Tôi nhìn cậu bé chỉ độ 11, 12 tuổi, mặc áo len dài tav màu xanh rêu, quần dạ tím than dài, đi giày ba ta, đội mũ bê rê cũng bằng dạ màu tím, đứng chỉ cao hơn thắt lưng tôi một chút. Nét mặt em bầu bĩnh còn búng ra sữa, cái miệng, cái mũi đều xinh, nhỏ, riêng đôi mất to, lòng đen như than, còn lòng trắng lại có màu xanh da trời trong veo. Tôi yêu đôi mắt cậu bé và khi nhìn đến cô chị cũng thấy có đôi mắt to đen dài như của cậu em trai. Chỉ khác khuôn mặt cậu bé thì tròn, còn khuôn mặt cô chị trắng mịn lại hình trái xoan, hai má hồng tươi như cánh đào phai. Cô chị mặc áo dài nhung màu huyết dụ quần lụa trắng, đi dép săng-đan da nâu, tay vẫn cầm chiếc va li, nhìn cậu em cứ nắm lấy tay tôi nhì nhèo: "Anh cho em làm liên lạc nhé. Em không sợ giặc Pháp đâu. Tên em là Lương!"


Cô chị lập tức vùng vằng đến phát cho cậu em một cái, mắng: "Mày bảo ai là xấu. Mày biết ở lại đánh Pháp thì tao cũng ở lại có sợ gì đâu!"

Cô chị nói xong đến cầm tay tôi nói tự nhiên: "Tên em là Lan, anh cho em vào đội cứu thương vì khi học ở trường Đồng Khánh (Trưng Vương bây giờ) em cũng đã được học qua cách cứu thương rồi!"

Nói xong, cô không chờ tôi có ý kiến đã đưa ngay chiếc va li đang cầm trong tay cho mẹ và dặn: "Bố mẹ cứ về quê trước đi. Chúng con ở lại đánh nhau xong cũng sẽ về với bố mẹ!"

Bà mẹ chỉ biết khóc và kêu khổ. Ông bố lúng túng, thở dài: "Thôi! Tôi cũng đành gửi hai em để các anh bảo ban giúp!"

Rồi ông quay lại dặn hai con: "Các con đánh giặc cho giỏi, rồi về nhà ngay nhé! Bố mẹ ở quê mong các con đấy!"

Bà mẹ tay xách va li, lau nước mắt, giúi vào tay cô chị ít tiền, rồi quay lại bảo tôi: "Gạo nước, củi lửa trong nhà còn đủ cả. Các anh chị cứ lấy mà dùng, đừng ngại gì... Chỉ mong hết giặc chúng tôi lại được về nhà là phúc lắm rồi".


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:36:32 pm
Tôi nghĩ thầm: "Chuyện đánh giặc mà nhân dân mình chỉ coi như một cuộc đi vắng nhà trong thời gian ngắn rồi lại về, thật nhẹ nhàng, đơn giản như vậy".

Từ hôm ấy em Lương, cứ bám sát theo tôi không rời nửa bước. Còn Lan vào đội cứu thương của chị Hải.

Có nhà khi thấy chúng tôi đến, bà chủ nhà đặt cả thùng gạo và các loại thực phẩm lên bàn, giao cho chúng tôi rồi mới ra đi. Bà chủ nhà còn cẩn thận gỡ chùm chìa khoá đeo ở thắt lưng đưa cho tôi, dặn:

- Anh giữ lấy chìa khoá cửa này để ra vào cho tiện. Đồ đạc chẳng cần gì phải giữ. Người làm ra của chứ của chẳng làm ra được con người. Chỉ mong các anh đánh chết hết chúng đi cho nhanh để bà con hàng phố chúng tôi lại được về sống yên lành.

Có ai biết đâu! Ngay cả chúng tôi cũng chưa nghĩ được là mình sẽ đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài đúng 8 năm, kém hai tháng, 9 ngày mới lại trở về thủ đô. Trong những ngày đầu kháng chiến ấy có biết bao nhiêu con gái, con trai của Hà Nội đã vĩnh viễn nằm lại trên đường phố thân yêu của mình.


Ngày 17-12-1946, giặc Pháp tăng cường gây hấn. Chúng đổ quân bao vây trụ sở Công an Hàng Đậu, bắn phá khiêu khích dọc phố Hàng Khoai và chợ Đồng Xuân, cho xe ủi đất đến phá các ụ chiến đấu của Vệ quốc đoàn ở phố Lò Đúc, nổ súng bắn bừa bãi vào hai bên phố Soeur Autoine (Hàng Bột).


Tình hình càng trở nên căng thẳng, chúng tôi luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các đội tự vệ, cứu thương, hỏa thực đã sống tập trung theo từng địa điểm, với các vũ khí, dụng cụ của mình. Tự vệ chiến đấu thì có súng, dao kiếm, chai xăng pha crếp, lựu đạn, giáo mác. Các chị cứu thương đeo túi vải đựng bông băng, ít thuốc cảm sốt và chủ yếu là thuốc đỏ. Các anh chị 6 đội hỏa thực mang quang gánh kè kè bên mình. Nhìn anh chị em nào cũng thấy nét mặt trang nghiêm, nhưng tỏ ra bình tĩnh. Riêng các em liên lạc cũng làm cho mọi người thấy xúc động khi các em mũ ca lô đội lệch trên đầu, vai đeo khăn gói quần áo và chiếc chăn len hay chăn dạ cuộn tròn, buộc chéo qua vai, nét mặt tỏ ra nghiêm chỉnh một cách ngây thơ đáng yêu. Các chị tự vệ hay cứu thương vẫn quần trắng, áo dài màu tha thướt, nhưng không son phấn, vai đeo túi thuốc, tay cầm kiếm sẵn sàng xong ra trận. Những đội viên nam nhà nghèo thì mặc áo dài lương, áo kép bông, đi guốc, cầm gậy hay giáo mác. Đội viên nhà giàu có một chút thì áo lông, mũ bê-rê dạ tím, đeo lựu đạn, chai xăng pha crếp, có anh cũng mang khẩu súng ngắn bé xíu tự trang bị, buộc quanh thắt lưng.


Đội tiếp tế của chị Trinh đã đi gom tất cả lương thực ở các nhà trong phố, chuyển xuống cất ở mấy nhà kiên cố gần ngoại ô để dự trữ nuôi quân. Các anh chị ở đội này còn thu gom tất cả đỉnh đồng đưa về làng Vạn Phúc, Hà Đông để đúc đạn.


Lúc này, những nhà giàu có cũng không còn dám nấn ná ở lại. Họ ra đi nhưng khoá cửa, cài then thật cẩn thận, mang theo các túi to, túi nhỏ chất đầy các tài sản quý giá, chăn màn. Phố xá tự nhiên trông như rộng hẳn ra, không còn xe cộ và người đi lại trên đường, thi thoảng lắm mới có chiếc xe đạp của anh tự vệ nào đấy hối hả đạp nhanh. Gió rét thổi ù ù, mấy chiếc lá bàng cuối cùng đỏ úa như máu đã rụng xuống hết mặt đường hoang vắng. Bầu trời xám xịt, in bật những cành khẳng khiu thành những nét đen đậm trên bầu trời. Loa thông tin đã công khai báo những tin tức về những vụ quân Pháp gây hấn và truyền đi những mệnh lệnh của Ban Bảo vệ thành phố, để các lực lượng chiến đấu ở Hà Nội theo dõi sát tình hình địch.


Ngày 18-12-1946, đội viên tuyên-cổ (tuyên truyền, cổ động) vác loa "a lô" báo tin quân Pháp đã chiếm đóng Nhà Tài chính (Bộ Ngoại giao bây giờ), chiếm Bộ Giao thông công chính, đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ đòi giải tán các đội tự vệ chiến đấu, Công an xung phong, Vệ quốc đoàn, giao nộp vũ khí cho chúng, nếu không đến ngày 20 tháng 12 chúng sẽ hành động.


Cũng tối hôm 18-12, chúng tôi chuyền tay nhau mệnh lệnh chuẩn bị kháng chiến gửi cho Vệ quốc đoàn, Công an xung phong và dân quân, tự về thành phố, khu phố, do anh Nguyễn Văn Trân, chủ tịch Ủy ban Bảo vệ thành phố ký.


Riêng trong nội bộ Đảng được phổ biến bí mật là vào khoảng 8 giờ tối ngày 19-12-1946, Chính phủ đã quyết định hành động trước thời hạn trong tối hậu thư của quân Pháp. Có nghĩa là chiến tranh chắc chắn sẽ nổ ra vào tối ngày 19-12. Chúng tôi thấy nôn nao khó tả, chờ giây phút bùng nổ tưởng dài như vô tận. Thời gian chỉ còn đêm nay và ngày mai nữa, chúng tôi còn phải làm gấp một số công việc chưa xong, như kiểm tra lại các nhà giàu chưa cho đục tường thông nhà nọ sang nhà kia, phố này sang phố khác giáp lưng nhau, đào những đường hào ngang đường để lập chướng ngại vật cản địch. Những nhát cuốc chim bổ vào tường, xuống đường nhựa, chạm vào đá tảng, bật lên những tia lửa nhấp nhoáng, vang vọng trầm trầm suốt dọc các dãy phố. Ánh đèn điện vẫn toả rộng một vùng sáng trên đường vắng lặng. Các nhà hai bên hàng phố đều mở toang cửa, nhưng không có người ở bên trong mà chỉ có anh chị em tự vệ ra vào, chạy đi, chạy lại, hối hả làm việc trong gió rét đến cắt da, cắt thịt. Các thân cây bàng đều đã được nhồi mìn thỏi và kíp mìn cùng dây cháy chậm. Chợt mọi người đang đào đường dừng tay cuốc vì tiếng chuông tàu điện leng keng đến gần. Đến chỗ đang đào đường, tàu điện chạy chậm lại. Trên toa chỉ có vài gia đình đi tàu tản cư muộn.

- Ô! Tàu điện vẫn chạy nhỉ!

- Ta vẫn sinh hoạt bình thường như mọi ngày, việc gì phải sợ chúng.

Một giọng nam cao vút lên: "Bao chiến sĩ anh hùng...", anh chị em tự vệ hoà giọng hát theo: "lạnh lùng vung gươm ra sa trường".

Tàu điện chạy ra ngoại ô. Những người ngồi trên toa cũng vỗ vào thành tàu gõ nhịp, ló đầu ra vẫy gọi:

- Ở lại chiến đấu nhé! Chúng tôi chờ tin thắng trận của các anh chị.

- Bà con đi mạnh khoẻ. Chúng tôi quyết sống chết với Thủ đô.

Tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray kin kít, xa dần, quầng sáng ánh đèn đi mãi về phía ngã tư Trung Hiền. Anh em tự vệ lại tiếp tục công việc. Thế là đã qua một đêm rồi. Còn ngày hôm nay nữa, sao mà dài đến thế!


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:37:50 pm
Ngày 19-12, trời vừa hửng sáng, phố xá còn chìm ngập trong màn sương trắng đục, đồng chí Tấn đã đến tìm gặp tôi, kéo ra một chỗ, hỏi:

- Cậu biết tin gì chưa?

- Rồi! Trong Đảng cũng đã phổ biến từ tối hôm qua. Bọn mình đang chuẩn bị chờ đêm nay là nổ súng.

- Mình cũng đã điều quân lên các vị trí sát nhà của phái đoàn Sainteny rồi! Nhớ phối hợp chặt chẽ với bọn mình nhé.

- Bọn mình lo giải quyết xong hai ổ tác chiến sẽ tham gia với anh em vệ quốc đánh địch. Chỉ tiếc là bọn mình ít vũ khí quá, không biết đánh đấm được bao lâu?

- Mình sẽ cung cấp cho các cậu ít lựu đạn.

- Mỗi người được một quả cũng là tốt rồi.

- Vệ quốc có mục tiêu khác. Đánh xong bọn mình cũng rút về đây để bảo vệ từng đường phố. Chắc chắn địch sẽ tập trung quân đánh vào Liên khu I. Chúng mình ở vòng ngoài sẽ tấn công mạnh để đỡ đòn cho các đồng chí ấy theo kiểu "nội công, ngoại kích". Trụ sở của các cậu đóng ở đâu?

- Bây giờ tạm thời là nhà 108 phố Huế, còn sau này tuỳ tình hình chiến sự sẽ chuyển đến nơi khác. Nhưng nói chung bọn mình luôn bám sát đường phố để chỉ huy chiến đấu. Cậu cần tìm mình cứ lên tuyến đầu giáp ranh với địch, anh chị em tự vệ sẽ chỉ cho cậu đến chỗ mình. Còn bây giờ có thể trụ sở của Quỳ sẽ chuyển về nhà ông Bùi Duy Dần (hiệu thuốc tân dược quận Hai Bà Trưng).

Trước khi chia tay với đồng chí Tấn, em Lương kéo tôi cúi xuống nói thì thầm vào tai tôi:

- Chú bé liên lạc của cậu nói chuyện gì thế? - Tấn hỏi.

- Em Lương nói với anh Tấn đi.

- Em chịu thôi... anh nói hộ em.

- Chú bé muốn gì nào? Anh giúp được anh sẽ sẵn sàng ngay.

- Em Lương thấy cậu có quả lưu đạn mỏ vịt của Mỹ thích quá, nhưng không dám nói mà cứ giục mình nói hộ.

Đồng chí Tấn cười chân thật, vuốt má em Lương bảo: "Anh tặng chú bé Ga-vơ-rốt của Hà Nội để đánh giặc Pháp nhé. Em biết cách sử dụng lựu đạn chưa?"

- Em cảm ơn anh lắm. Em sẽ nhờ anh Tuấn bảo giúp cho em.

Được quả lựu đạn đẹp, em Lương hí hửng cài ngay vào thắt lưng da rồi nhìn tôi có vẻ hãnh diện tưởng chừng như em đã lớn hơn được mấy tuổi.

Khi đồng chí Tấn đi rồi, chúng tôi lại tiếp tục công việc.

Cả ngày hôm ấy không thấy một bóng lính Pháp nào nghênh ngang trên đường như mấy hôm trước. Chúng có lệnh "cấm trại" rồi đấy!

Anh em tự vệ đàng hoàng làm việc ban ngày nên các đường hào chạy ngang đường phố được hình thành nhanh chóng, kết hợp như một khu liên hoàn chiến đấu. Chúng tôi nóng lòng chờ mong đến giờ phút lịch sử vào buổi tối hôm nay.


Chiều hôm ấy ăn cơm xong, đội quân của chị Trinh còn phát cho chúng tôi mỗi người một nắm cơm to, một miếng thịt kho mặn. Nhưng trong nội bộ Đảng thì chúng tôi rõ là cả đêm hôm nay chắc chắn không có ai còn ngủ được. Đến ngày mai thì chưa biết thay đổi ra sao.


Trong ngôi nhà tập trung anh chị em tự vệ và cứu thương chỉ nghe thấy tiếng đàn măng-đô-lin, tiếng hát những bài ca cách mạng và tiếng cười sảng khoái. Tôi ghé qua thăm các anh chị, đứng ngắm từng khuôn mặt trẻ trung, yêu đời, nét mặt của những người con trai, con gái Hà Nội với ánh hào hùng của khí thiêng ngàn năm truyền lại. Tôi nghĩ thầm: Trước lúc bước vào trận quyết chiến mà anh chị em vui vẻ như thế này thì không lo về mặt tinh thần nữa. Vả lại, những người nhút nhát hay vì lý do nào đấy không ở lại chiến đấu với đường phố đã đi tản cư rồi. Những anh chị còn ở lại đến bây giờ đều là những chiến sĩ đáng tin cậy.


Tôi nhớ lại trong một buổi sinh hoạt chi bộ, anh Quỳ vẫn nhắc chúng tôi là chú ý phát triển đảng viên trong anh chị em tự vệ. Anh hỏi tôi về tính cách của anh Oánh và Tuấn Em.

Anh Oánh thì tôi tin tưởng hơn vì chính tôi đã tuyên truyền tổ chức anh vào đoàn thể thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh từ năm 1943. Trong thời gian hoạt động cách mạng anh luôn tỏ ra gan dạ, bình tĩnh. Anh cũng đã cùng tôi tham gia trong đoàn quân vào chiếm trại Bảo anh binh ngày tổng khởi nghĩa 19-8-1945. Hiện nay ngoài nhiệm vụ chiến đấu, anh còn phụ trách đội liên lạc, trong đó có em Quý, Quyến, em Tăng và một số các em khác như em Trường (Tám)"1 (Quyến sau này là đại tá công an Trần Văn, Tăng là đại lá công an, Tho, và Trường (Tám) ở Sở Công an Hà Nội và đều đã về hưu) v.v...


Tuấn Em thì còn xốc nổi, cần có thời gian để thử thách thêm.

Nghĩ như vậy, tôi liền đi tìm anh Quỳ trao đổi ý kiến và sau đó tìm gặp anh Oánh để tâm sự và nói thêm về đảng Cộng sản. Anh Oánh chăm chú nghe tôi nói rồi mới thủ thỉ: "Mình biết Tuấn là đảng viên, mình vẫn mong có lúc sẽ được như vậy!"


Thế là rõ! Anh Oánh đang có nguyện vọng tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong dịp chiến đấu này, chỉ cần anh tỏ rõ phẩm chất cách mạng kiên cường là tôi sẽ cùng với anh Hùng, đề nghị anh Quỳ kết nạp anh vào Đảng được.


Trời vừa tối, đèn thành phố đã bật sáng. Chúng tôi biết là sắp đến giờ nổ súng nên tất cả chúng tôi, anh Hùng, anh Oánh, Tuấn Em cùng đổ ra đường với các anh em tự vệ khu phố. Chợt tôi thấy người mình rét run, tay cầm cái gì cũng lóng ngóng. Có lẽ tôi cảm động không giữ được bình tĩnh!


Nhưng đây có phải là trận đầu tôi giáp mặt với quân địch đâu! Lần đầu tiên khi vào trận đánh giặc ở Sầm Nưa bên Lào, tôi cũng có run tay, nhưng giờ đây qua những trận nam chinh, bắc chiến, dày dạn ở chiến trường rừng núi vùng Thượng Lào thì tôi chắc mình không còn run tay được nữa, mà đây là "cơn nhớ rừng" của tôi lại nổi lên hành hạ. Tôi quay lại nhà anh Hùng kiếm cái áo vét-tông mặc thêm vào cho ấm, nhưng người vẫn run lập cập. Anh Quỳ nhìn tôi ái ngại: "Cậu Tuấn lại lên cơn sốt rét rồi phải không?"

- Mình chỉ rét một lúc thôi, sau đó sốt nóng thì không cần lắm, lại sẽ khỏi ngay thôi mà.

Anh Quỳ bảo chị cứu thương lấy mấy viên thuốc Quinine đưa cho tôi. Tôi đỡ lấy thuốc trong tay chị, run lập cập, cho vào miệng nuốt ngay, rồi mới kịp để ý đến chị cứu thương đang đứng trước mặt nhìn tôi:

- Anh bị sốt rét bao giờ thế?

- Chị Tuyết Lan đấy à!

- Anh đi nằm một lát đi... Em Lương đâu rồi, sao không thấy em đi với anh?

Vừa lúc ấy em Lương chạy xộc vào, vừa thở hổn hển, vừa nói líu tíu:

- Anh Tuấn ơi! Anh sang phố Jacquin (Ngô Thời Nhiệm) ngay, các anh ấy đang chờ anh đấy.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:39:15 pm
Rồi không kịp để tôi nói gì, em Lương kéo tay tôi lôi đi ra cửa. Tôi còn kịp nghe tiếng anh Quỳ nói: "Anh ấy mới ở chiến trường đánh Pháp bên Lào về!"

Từ nhà anh Hùng sang phố Jacquin có một đoạn, nhưng tôi và em Lương mới chạy đến phố Harmand (Trần Xuân Soạn) thì một tiếng nổ ầm vang từ phố trên vọng lại. Đèn điện thành phố vụt tắt. Tôi vừa chạy vừa bảo em Lương: "Đánh nhau rồi đấy! Em cứ bình tĩnh đi với anh nhé!"

- Em không sợ đâu! Bây giờ em phải làm gì hở anh?

- Em chạy về tìm anh Oánh, nói với anh ấy cho anh em tự vệ nổ mìn đánh đổ các cây ra chắn đường và ở những chỗ đã đào đường hào cần phải vứt hết đồ đạc trong các nhà ra lập chiến luỹ, chướng ngại vật, rồi em quay lại đây với anh nhé! Anh đánh bọn Pháp ở ổ tác chiến phố Jacquin. Các anh chị khác đã phân công mỗi người một nhiệm vụ cả rồi.

Lúc ấy tôi nói mà như phải hét lên với em Lương để em nghe rõ vì quanh chúng tôi trời đất tối om. Những tiếng mìn nổ vang, tiếng súng lo, nhỏ, tiếng tự vệ reo hò, tiếng đồ đạc ở trong nhà được vứt ra đường. Bất kể cái gì từ chậu hoa cây kiểng, giường tủ, bàn ghế, chăn màn, đồ dùng lớn nhỏ trong nhà đều được đưa ra làm chướng ngại vật. Anh em còn lấy dây điện đứt chăng ngang đường, vất chăn, chiếu lên dây để che mắt quân địch. Những tiếng động ấy vang lên như lay động cả trời đất đã đỏ rực vì những đám cháy, sắp đổ ập xuống. Cảnh tượng như trời long, đất lở. Tiếng loa của các anh chị tuyên truyền, đủ cả giọng kim, giọng trầm, giọng the thé, vang khắp các đường phố: "A lô! Thưa toàn thể đồng bào. Giặc Pháp đã nổ súng tấn công ta. Giờ cứu nước đã đến, toàn thể đồng bào hãy đứng lên tiêu diệt hết quân thù!"


Tôi chưa biết động đất như thế nào, chỉ thấy người cứ lâng châng, chao đảo, chập choạng như dơi ban ngày, chạy vài hước lại ngã, người vẫn còn rét run. Đến phố Jacquin, thấy anh em tự vệ đang reo hò, vây quanh ngôi nhà là ổ tác chiến của địch, nhưng chưa ai nổ súng vì cũng chưa biết cách tấn công vào vị trí là nhà gác. Trong cái ồn ào hỗn độn ấy, tôi bảo anh em không hò hét huyên náo làm lộ mình. Tôi cử một tổ ba người lặng lẽ men theo tường các nhà bên cạnh đến chỗ hàng rào sắt để phá cổng, tiếp cận ngôi nhà.


Bọn địch bên trong chắc phải là những tên đã quen giữ vị trí cố thủ nên chúng im lặng, thi thoảng thấy động ở chỗ nào mới nổ súng về phía đó. Bên ngoài nhìn vào trong nhà không được, nhưng địch ở trong nhà nhìn ra đường có ánh lửa chập chờn nên thấy bóng người là bọn chúng chủ động nổ súng. Tôi cầm khẩu súng trường, chăm chú nhìn tia lửa ở súng địch bắn ra chỗ nào liền nổ súng ngay vào chỗ đó.


Một lúc sau, tôi nghe có tiếng lựu đạn nổ, rồi ba anh tự vệ chạy lại chỗ tôi:

- Tí nữa thì chết anh ạ! Chúng tôi đang gỡ dây xích, định phá khoá nên làm động loảng xoảng, địch liền tung lựu đạn ở trên gác xuống, chúng tôi vội nhảy giạt cả sang bên đường tránh kịp.

Các anh vừa nói vừa cười khúc khích như mình vừa nghịch một trò chơi bị bại lộ.

Tôi quan sát hoạt động của địch thấy chúng không có nhiều tên, chắc chỉ là một tổ, có một tên ở trên gác canh phòng tình hình chung, còn ở dưới nhà chắc cũng có vài ba tên.

Tôi đưa khẩu súng trường cho một anh tự vệ đứng tuổi, dặn: "Anh giữ khẩu súng này, nhằm vào chỗ cửa sổ, khi nó hé mở để tung lựu đạn xuống thì bắn ngay vào chỗ đó, yểm hộ cho tôi sang phá khoá cổng".

Tôi dùng khẩu Chiêu Hoà của mình, bí mật tiếp cận cổng sắt, sờ tay lần chỗ ổ khoá, đưa nòng súng sát vào đấy, nổ một phát làm chiếc khoá gẫy tung. Tôi vội đạp toang cánh cổng sắt rồi chạy sang một bên tránh luồng đạn của địch ở trong nhà đang bắn ra. Cùng lúc ấy có bốn, năm anh tự vệ chạy vào trong sân. Tôi chỉ kịp hét to: "Nép sát vào tường, chú ý địch thả lựu đạn xuống sân!", thì đã nghe tiếng lựu đạn nổ vang, mảnh gang đập vào song sắt rào rào, rồi lại bắn đập vào lường làm vôi vữa bắn tung cả vào người tôi. Dứt tiếng nổ ấy, mấy bóng anh tự vệ chạy ra, khiêng theo một người.

- Anh Bảo chết rồi!

Tôi chạy đến chỗ anh em hỏi ra mới biết do anh Bảo hăng hái quá, vừa vào đến sân thấy địch ở trên gác bắn xuống, liền ném lựu đạn lên chỗ cửa sổ, nhưng lựu đạn đập vào tường rồi rơi xuống sân, sát hại chính người sử dụng nó. Tôi nhớ anh Bảo, người cao lớn, đẹp trai, là con chủ hiệu bánh mì Boulangerie Moderne, anh là chiến sĩ tự vệ hy sinh đầu tiên ngay trong đêm nổ súng kháng chiến toàn quốc.


Cả đêm hôm ấy, mấy lần chúng tôi dùng chai xăng crếp để đốt cánh cửa, xông vào nhà. Phải hai ba lần mới đốt được cánh cửa, chúng tôi liền xông được vào tầng dưới. Địch đã rút cả lên gác, đóng cầu thang, thả lựu đạn xuống làm chúng tôi phải nhảy vội ra ngoài. Loay hoay mãi vẫn chưa tiêu diệt được ổ tác chiến này, thì trời đã gần sáng. Tôi cắt một nhóm anh em tự vệ độ 6, 7 người đứng ở ngôi nhà phía bên kia đường canh chừng, bao vây nếu thấy địch ló ra là diệt ngay.


Tôi quay lại phố Huế thấy quang cảnh khác lạ hẳn. Chỉ qua một đêm mà đường phố ngổn ngang, cây đổ, cột điện gãy, hai toa tàu điện nằm nghiêng trên đường, mấy chướng ngại vật ngang đường sừng sững che chắn cả tầm mắt, dây điện loằng ngoằng, đứt ngang, đứt dọc, muốn đặt một bước chân đi thoải mái cũng khó. Tôi hình dung ra cảnh gần 100 anh em tự vệ và chỉ trong một đêm đã tạo ra cảnh thật hết sức phi thường. Các nhà hai bên hè phố gần như trống trơn, toang hoác vì đến cánh cửa cũng bị tháo rồi vứt ra đường lập chiến luỹ. Một lúc sau, anh Hùng và Tuấn Em về đến trụ sở cho biết: ổ tác chiến của địch ở Bernard de Beau cũng chưa diệt xong mà chỉ chiếm được tầng dưới, địch cố thủ ở tầng trên, lại được súng của bọn Pháp đóng tại nhà dầu Shell chi viện nên đánh chúng cũng vất vả. Chúng tôi bàn nhau cho anh em tự vệ đi thu gom các vật dụng dễ cháy, kiếm xăng, dầu hoả, chuẩn bị để đến tối là nổi lửa thiêu hủy ngôi nhà. Tôi đứng ở nhà gác trên đường Logerot (Phùng Khắc Khoan) nhìn qua khe cửa sổ, trông thẳng sang gác của địch, nghĩ thầm: "Lúc này có khẩu Tromblon VB (súng bắn lựu đạn) thì hay quá, dễ dàng phá được cánh cửa sổ, ném lựu đạn và chai xăng crếp sẽ tiêu diệt được chúng ngay".


Đang lúc ấy tôi nghe tiếng xe Half-track và tiếng súng đại liên của địch nổ rào rào, nghĩ là địch lại tấn công xuống, thì em Lương đã hét to: "Địch tấn công. Anh Tuấn ơi!"

Tôi kéo em Lương xuống nhà, luồn qua lỗ đục tường sang ngay phố Jacquin. Tổ tự vệ chốt bên kia đường đã nổ súng vào chiếc xe của địch, nhưng súng trường bắn vào xe Half-track khác nào như gãi vào da voi nên xe của chúng cứ tiến thẳng đến trước cửa ngôi nhà là ổ tác chiến của chúng. Tôi nghĩ chúng sẽ viện trợ người, súng đạn và thực phẩm để bọn này cố thủ. Nhưng cũng có thể là chúng đón bọn này rút chạy, liền bảo em Lương xuống cuối phố, luồn sang bên kia hè đường báo cho anh em tự vệ đừng bắn vào xe không kết quả, mà cần nhắm vào những tên trong nhà chạy ra hay ở trên xe xuống.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:40:12 pm
Em Lương thoắt chạy đi ngay. Còn mình tôi tay cầm lựu đạn đã rút chốt sẵn, tay cầm súng ngắn nhằm bắn vào bọn địch trong nhà chạy ra, hay trên xe đổ xuống. Nhìn chiếc xe đỗ lù lù ngay ở sát hè cách chỗ tôi đứng không xa, trông thật là ngon. Tôi muốn quẳng cho chúng quả lựu đạn, nhưng không có chai xăng crếp nào kèm theo thì không thể phá được xe tăng của chúng. Nếu diệt được phương tiện này thì chúng tôi có thể cầm chân được mấy tên còn ở lại ổ tác chiến, để chờ đến đêm nay sẽ thiêu hủy chúng cùng với ngôi nhà. Tôi đành chờ xem bọn địch ra khỏi xe hay bọn trong nhà chạy ra sẽ ném lựu đạn diệt chúng.


Tiếng súng của tổ tự vệ bên kia hè đường im bặt, một tên địch trong xe nhô ra khỏi cửa, tôi liền nhằm bắn ngay. Hắn kêu rống lên, ngã thụt vào trong xe. Cùng lúc ấy địch quay khẩu đại liên bắt rát vào chỗ cửa sổ nơi tôi đứng nấp, làm gỗ cánh cửa vỡ ra từng mảnh tơi tả. Tôi vội trèo lên gác để tìm thế trên cao đánh xuống, thì em Lương đã chạy về rối rít gọi:

- Anh Tuấn ơi! Anh Oánh đến đây rồi.

- Tuấn đừng trèo lên gác nữa. Chúng mình cứ nấp vào sau cửa sổ này cho gần, chờ lúc nó im tiếng lại đánh tiếp.

- Địch rút chạy rồi các anh ơi!

Tôi và anh Oánh cùng một lúc tung lựu đạn ra chỗ trước cổng sắt của ổ tác chiến địch. Anh Oánh ném theo chai ét-xăng crếp trúng vào sườn xe. Cùng lúc ấy bên kia đường có mấy bóng tự vệ lao ra ném lựu đạn sang. Tiếng nổ ầm ầm. Bọn địch trong nhà có ba tên dìu nhau chạy ra đến cổng thì có một tên gục xuống. Bọn ở trên xe nhảy xuống kéo tên kia lên xe rồi chúng nổ máy cho xe chạy. Súng đại liên của chúng quét hai bên đường, đạn hay ràn rạt. Tôi chỉ kịp nhìn thấy lửa xăng bám cháy ở thành xe thì chúng đã thoát ra đến ngã tư và chạy mất.


Tất cả chúng tôi nhảy ào vào trong nhà, chỉ thấy từng đống đạn và vỏ đạn, đồ đạc bừa bãi. Trên gác, thức ăn đồ hộp, bánh mì của chúng bỏ lại còn lăn lóc, ở góc phòng có bông băng đẫm máu. Ở dưới đường ngay trước hè nhà, chúng tôi cũng thấy vết máu loang lổ, nhưng không rõ số phận của chúng ra sao. Dù không tiêu diệt được ổ tác chiến, nhưng chúng tôi cũng buộc chúng phải rút chạy sớm không trụ lại lâu dài để quấy rối hậu phương của ta.


Về đến trụ sở, em Lương đưa cho tôi một vốc đạn 9 ly, tôi mừng lắm vì số đạn này cũng dùng được cho khẩu Chiêu Hoà của tôi đã gần hết đạn. Lúc này tôi thấy có mặt cả anh Phụng. Anh hỏi chúng tôi về kết quả cuộc đánh ổ tác chiến, tôi cho anh biết tình hình thì anh nói ngay:

- Các cậu cho mình ở lại đây với nhé!

- Thế thì càng tốt. Anh ở đây với chúng tôi có lợi thêm, vì anh vẫn là phó Ban Bảo vệ tiểu khu. Thế còn anh Sắc đâu?

- Ngay lúc nổ súng, bọn mình tìm cậu ấy nhưng không thấy đâu cả, nên không biết làm gì. Mình phải đến đây tìm các cậu xin gia nhập chiến đấu.

Cũng từ hôm đó, anh Phụng luôn đi cùng với anh Quỳ, đã giúp việc tổ chức, điều động lực lượng tự vệ bổ sung cho chúng tôi đánh địch. Đến lúc ăn cơm, ai nấy nhận phần cơm nắm của mình, vừa ăn vừa kể râm ran việc mình đã làm: Ai nói người ấy nghe vì tiếng ồn ào xen lẫn với tiếng cười nói của tự vệ, các chị cứu thương và tiếp tế hỏi thăm tình hình chiến sự. Tôi chạy sang nhà ông Vũ Đình Tụng ở gần sát chợ Đức Viên, gặp anh Lê Ninh1 (Anh Lê Ninh sau đổi là Lê Khởi Nghĩa, làm thư ký cho ông Phạm Văn Đồng trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp), một học sinh đã tốt nghiệp tú tài phần thứ nhất, hiền lành, củ mỉ, cao lêu đêu gần 1m80, một trí thức đã là cậu Tú, nhưng lại xung phong vào đội hoả thực của chị Trinh. Anh đang giữ khư khư khẩu súng trường, đứng gác kho thực phẩm và vật dụng quý để trong gara ô tô của ông Vũ Đình Tụng mà đội của chị Trinh đã thu thập được cõng về cất ở đây.

- Anh Ninh, còn cơm nắm không?

Nghe tiếng tôi hỏi, chị Trinh ở trong nhà chạy ra. Tôi trông chị gọn gàng trong bộ cánh áo bông trần, cười để lộ hai hàm răng đen nhưng nhức, đều đặn.

- Anh em có ai việc gì không hở Tuấn! Em cần cơm nắm làm gì?

- Chỉ có anh Bảo hy sinh. Hôm nay cũng có một anh tự vệ bị dính mảnh lựu đạn, được các chị cứu thương cáng đi rồi. Chị còn cơm nắm không? Anh em còn bố trí ở nhiều nhà trên mạn đầu phố.

- Còn nhiều người không?

- Em cũng chẳng nắm được số lượng đâu. Nhưng qua nhà nào, anh chị em cứ gọi to lên vì có khi anh em bố trí trên sân thượng nên không biết được có tiếp tế mà xuống lấy phần. Tuấn Em và anh Hùng cũng đang bố trí ở đầu phố Bernard de Beau.

- Tôi xin đi!

Anh Ninh vừa nói, vừa quàng khẩu súng trường qua vai, xếp cơm nắm và thịt kho vào rá. Một số anh chị em hoả thực cũng làm theo anh. Trông dáng anh cao lêu đêu, đi đâu cũng xăng xái làm chị Trinh cứ nhìn theo anh rồi cười và bảo loi "Anh ấy chịu khó lắm. Chỉ phải cái tội người cao quá khổ đi luồn qua các lỗ đục tường cũng khá vất vả!"


Ăn cơm xong, tôi và anh Oánh sắp xếp lại đội tự vệ, đưa anh em lên bố trí dọc hai bên hè đầu phố Huế mà tôi đoán đây sẽ là mặt trận chính. Lúc này địch chưa tấn xuống đây, nên chúng tôi vẫn ung dung đi lại trên hè mà không cần phải nấp tránh.


Đến gần chiều, anh Tấn tìm gặp tôi: "Có chiến lợi phẩm tặng cậu đấy!" Anh rút trong túi quần ra một vốc đồng hồ đeo tay nữ, chừng 6,7 chiếc và lấy chiếc ống nhòm nhỏ thường để dùng trong các nhà xem hát kịch, đưa cho tôi và nói: "Khi có lệnh chiến đấu, bộ đội mình giật bom ở dưới rạp chiếu bóng Majestic, nhưng không nổ. Có đồng chí xung phong chui vào hầm định dùng búa đập kíp bom. Mình thấy làm như vậy hy sinh người vô ích, nên lệnh cho bộ đội xung phong ngay sang rạp chiếu bóng. Bọn tây, đầm chủ quan vẫn đi xem đông, bị bọn mình tiêu diệt và bắt sống hết. Khốn nạn nhất là bọn đầm, chúng hết cả vé kênh kiệu mọi ngày, khinh bỉ người An Nam chúng mình, vội chui rúc vào các phòng vệ sinh, lột truồng cả ra để... chống đỡ với anh em vệ quốc. Có đồng chí đã định thọc lưỡi lê vào những cái bụng trắng lốp của chúng nhưng mình đã kịp ngăn sự bùng nổ tức giận của anh em để khỏi sát hại tràn lan. Còn khi đánh sang nhà tên Sainteny, thì tên trùm thực dân này đã biến mất từ sáng hôm 19-12, chỉ còn lại một tiểu đội lính Pháp canh giữ toà lãnh sự, đã bị chúng mình diệt gọn. Mình vào phòng của tên trùm thực dân để thu giữ các tài liệu, thấy một hộp ở trên bàn ngủ ngay đầu giường có đựng số đồng hồ này, mình chỉ kịp vơ lấy một nắm để làm tặng phẩm cho cậu."


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:41:18 pm
Tôi quàng chiếc ống nhóm có khảm xà cừ vào cổ, nhận số đồng hồ rồi cảm ơn đồng chí Tấn.

- Mình đã cho bộ đội rút về đây, phối hợp với anh em tự vệ của cậu để chặn đánh địch càn xuống.

- Anh chị em đang bố trí ở các nhà gác kiên cố trên đầu phố Huế, từ ngã tư Doudart de Lagrée (Hàm Long) trở xuống đến đây. Cậu cho bố trí anh em vệ quốc xen kẽ với tự vệ để hỗ trợ vì chúng mình thiếu vũ khí lắm. Em Lương sẽ đưa cậu đi quan sát các nơi tự vệ chốt giữ.

Tôi quay lại bảo em Lương: "Anh thưởng trước cho em chiếc đồng hồ là chiến lợi phẩm của bộ đội anh Tấn!"

Em Lương thích thú, đeo đồng hồ vào cổ tay, nhưng còn chần chừ như muốn nói điều gì đó.

- Em đề nghị anh... Nhưng thôi!

Em Lương định chạy đi, tôi đã giữ em lại:

- Đề nghị gì thì nói ngay đi. Thế mới là tác phong quân sự.

- Em... Em định cho chị Lan em...

- À! Thế đấy. Anh biết ý của em rồi. Về trụ sở anh sẽ đưa cho chị Lan của em một chiếc khác.

- Không! Nếu anh cho thì để em tự tay đưa cho chị ấy cơ!

- Đồng ý. Nhưng em phải nói là chiến lợi phẩm của em đấy nhé.

Em Lương cười tủm tỉm, cất cẩn thận chiếc đồng hồ vào túi áo, rồi kéo tay anh Tấn đi luôn.

Quay về trụ sở, tôi thấy anh Quỳ đang bàn với chị Trinh việc thu dọn gấp các loại thực phẩm còn lại trong các nhà.

- Ngày mai chắc sẽ đến lượt lự vệ chiến đấu giáp mặt với địch đấy, chị ạ! Chắc chắn địch sẽ đánh xuống phố Huế trước tiên.

- Mình cũng dự đoán như vậy vì đây là đường phố chính nên đề nghị Qùy cử cho một số tự vệ giúp bọn mình chuyển hết mọi thứ xuống xa hơn cho an toàn, để rồi từ đó chuyển dần ra hậu phương. Chủ yếu là thu gom hết số gạo, các đồ đồng và đồng hồ.

- Anh Phụng sẽ giải quyết việc này và cũng tiến hành công việc ấy với anh chị em.

Cả ngày và đêm hôm ấy, phố Huế và mấy phố lân cận nhộn nhịp người đi lại mang vác những bọc to, bọc nhỏ, nặng nề đi xuống mạn cửa ô Cầu Dền. Gần sáng tôi vẫn ngồi ngủ ở tràng kỷ nhà anh Hùng, thì anh Oánh xông vào gọi tôi: "Tuấn ơi! Dậy lên chỗ cậu Tấn để bố trí lực lượng chuẩn bị chiến đấu cho ngày mai!"

Tôi choàng dậy, cố mở mắt nhưng hai mí cứ dính chặt vào nhau vì có đầy dử: "Mình đau mắt rồi. Để mình cậy xong dử mới nhìn thấy được!"

Mọi người cười ầm cả lên trêu chọc tôi. Anh Hùng là người hay đùa nhất liền lấy giọng ỏn ẻn: "Đằng ấy hãy khoan một tí, chờ tớ cậy dử mắt xong hãy đánh nhau!"

Chị Lan nhanh tay đã lấy chiếc khăn ướt đắp lên hai mắt cho tôi, rồi chị lấy thuốc nhỏ luôn làm tôi xót đến cứng người. Tôi vội vàng đứng dậy, thắt lưng súng vào ngang sườn, đeo tui dết bước ra cửa. Em Lương cũng đã gọn gàng với chiếc chan dạ cuộn tròn, quàng chéo qua vai, quả lựu đạn mỏ vịt lủng lẳng ở thắt lưng. Thấy tôi ra cửa, em chạy theo giúi vào tay tôi chiếc bánh mỳ còn nóng mà không biết em lấy ở đâu ra. Tôi bỏ một nửa đưa cho em, rồi cùng em chạy lên đầu phố Huế. Chúng tôi bố trí lực lượng chiến đấu, mỗi tổ có hai tự vệ lại có một Vệ quốc đoàn với đầy đủ vũ khí đạn dược, dặn dò cách nổ súng chi viện cho nhau, vì chính anh em Vệ quốc đoàn phần lớn là người ở các tỉnh và vùng nông thôn nên không biết rõ về các đường phố.


Ngoài ra chúng tôi còn bố trí hai cánh có vũ khí mạnh hơn và cả bom ba càng, đạn bảo toàn, ở mấy nhà dọc phố Hàm Long và mấy căn nhà gác nhìn sang hiệu thuốc Tây Bon Secours ở cuối phố Hàng Bài, giáp ngã tư phố Huế và Hàm Long.


Các anh Hùng, anh Oánh, Tuấn Em đều đã có mặt ở các tổ mũi nhọn.

Việc bố trí lực lượng chiến đấu đã xong, anh em tự vệ có người vừa nhấm nháp cơm nắm, có người lấy kèn Harmonica ra thổi để chờ địch. Đến gần 10 giờ thì hai cánh bố trí ở phố ngang Hàm Long đã thấy súng nổ vang. Ai nấy đều chạy ra nấp bên cửa sổ hay hàng hiên vì bọn lính mũ đỏ đang từ hai bên phố Hàng Bài nổ súng rào rào. Chúng nấp sau các cây cối, vọt tiến từng đoạn, rải đạn ra khắp nơi trong phố Huế. Anh em tự vệ và Vệ quốc đoàn chỉ nổ từng phát súng, nhằm vào những tên lính lê dương ngổ ngáo nhất đang tiến xuống. Địch bị phản công đã chững lại, không dám tiến xuống sâu hơn. Sau một giờ chiến đấu, địch đã rút lui lên phố trên. Vị trí đầu phố Huế vẫn giữ vững. Tôi và đồng chí Tấn ở trong ngôi nhà góc phố của ông bác sĩ (nay là trụ sở Công an phường phố Huế) quan sát cách đánh của địch thấy trận này chúng tấn công như chỉ để thăm dò lực lượng của ta, chứ đấnh đấm theo kiểu này thì ăn thua gì nhau. Ngày mai hay ngày kia mới là cuộc chạm trán nảy lửa. Và địch chỉ dám tấn công vào ban ngày còn ban đêm chúng lại co về giữ vị trí vì chúng sợ lực lượng của ta bố trí ở mọi ngóc ngách trong khu phố mà chúng không thể nào phát hiện ra được. Lần sau chúng sẽ tấn công cả bốn tuyến phố Ba Triệu, phố Huế, Jacquin, Lò Đúc. Cho nên đêm ấy chúng tối chỉ cắt vài tổ luân phiên gác còn đa số vệ quốc và anh chị em tự vệ được ngủ. Nếu có báo động thì ai ở vị trí nào cứ theo kế hoạch chiến đấu mà về nơi đó.


Rạng sáng ngày 22-12-1946, tôi ngủ dậy, chuẩn bị đi các nơi có tự vệ bố trí thì thấy đạn súng cối nổ ầm ầm. Mọi người tưởng địch đã tấn công nên chỉ một loáng sau đã ở vị trí sẵn sàng đánh địch. Địch vẫn bắn súng cối vung vãi xuống tận chợ Hôm - Đức Viên. Chúng tôi căng mắt chờ đợi chỉ thấy mấy bóng người ung dung đi trên hè phố, đang tiến lại nơi chúng tôi bố trí trận địa. Mọi người chăm chú theo dõi, nhận ngày ra anh em tự vệ nhà mình vì dáng điệu đàng hoàng, vừa đi vừa nói cười với nhau. Tôi luồn qua các lỗ đục tường đến gần, nhận ra anh Tuấn Em và mấy anh nữa, ai nấy mặt mũi đen nhẻm. Thấy tôi, các anh chỉ cười nhe hai hàm răng trắng lóa.

- Làm sao các cậu bẩn như thế này?

- Đêm hôm qua, chúng tôi lên trinh sát tình hình địch ở nhà dầu Shell, lần mò từng nhà ở phố Bernard de Beau (Nguyễn Chế Nghĩa). Vào một căn biệt thự, anh em phát hiện có tên lính đứng gác dưới gốc cây, phì phèo hút thuốc lá. Anh em tiếp cận nó bí mật và xơi gọn nó rất êm thấm. Tôi vào trong nhà, đến chỗ cầu thang gác, sờ thấy một đống đạn và chiếc mũ sắt liền lấy mũ, vơ tất cả số đạn vào trong, nhưng không chú ý để đạn rơi vào trong mũ sắt loảng xoảng, đánh động bọn địch ở trên gác. Chúng thả lựu đạn xuống, anh em vội rút ra ngoài. Đến đường dẫn chỗ tràn than cám ở đầu phố Laveran thì bị quả súng cối của nó bắn trúng vào đấy nên anh nào cũng bị than phủ đầy người.

Tuấn Em, đưa cho tôi chiếc mũ sắt đựng đầy đạn súng các-bin và súng ngắn kiểu Smith Watson. Một anh tự vệ gỡ khẩu các-bin trên vai xuống đưa cho tôi.

- Các anh lấy được súng của địch thì giữ mà dùng. Tôi có súng ngắn rồi, chỉ xin các anh số đạn cỡ 9 ly thôi.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2022, 05:42:15 pm
Tôi trả lại súng cho anh tự vệ và chiếc mũ sắt cho anh Tuấn Em. Tin tổ tự vệ của anh Tuấn Em đã lấy được súng của địch gây không khí lạc quan, phân khởi trong chiến đấu.

Khi địch ngừng bắn súng cối, tôi và anh Tấn lại luồn qua các nhà đến từng tổ chiến đấu để kiểm tra thì thấy bên kia đường, chỗ cửa hiệu bán thuốc lào Xương Hoà, đầu đường phố Reinach (Trần Quốc Toản và phố Huế) có khẩu súng đại liên 12 ly 7 nổ từng nhịp ba phát một. Tôi nghĩ là súng của bộ độ-, nhưng Tấn cho biết là đơn vị đại đội 3 của đồng chí chưa được trang bị loại súng ấy. Hai chúng tôi kéo thêm vài ba anh tự vệ bí mật băng qua đường hào rồi xông vào nhà Xương Hoà: "Ngồi im! Giơ hai tay lên!"


Đồng chí Tấn vừa quát lớn thì mấy họng súng của chúng tôi đã lăm lăm chĩa vào 4, 5 người đang túm tụm ngồi trên giường tập hút thuốc lào bằng chiếc điếu bát, và trêu chọc nhau.

Bọn họ hoảng sợ, vội nhảy cả xuống đất, giơ thẳng hai tay lên trời như kiêu lập thể dục. Nhìn thấy hai chúng tôi mặc quần áo bộ đội và mấy anh tự vệ đội ca lô có gắn sao vuông, họ tươi tỉnh ngay nét mặt. Chúng tôi thấy trong số họ cũng có anh còn đội mũ ca lô đeo sao vuông nên hạ mũi súng xuống.

- Các anh là tự vệ ở khu phố nào lên đây?

Một anh dáng chừng là chỉ huy, đứng nghiêm nói dõng dạc như học trò được gọi lên bảng: "Thưa các anh! Chúng tôi là sinh viên Đông Dương học xá, muốn được lên mặt trận thử đánh địch. Tôi là Hồng Quân tiểu đội trưởng, phụ trách khẩu súng máy này!"

- Quân Pháp chưa tấn công xuống đây đâu. Hôm qua nó mới đánh thăm dò, nay mai sẽ diễn ra những trận chiến đấu quyết liệt hơn. Sao các anh không bắt liên lạc với chúng tôi mà lại đặt súng ở góc phố này để nã vào sau lưng chúng tôi à? Chúng tôi còn đang bố trí vệ quốc và tự vệ ở trên đầu phố. Các anh lấy súng này ở đâu?

- Thưa các anh! Anh em sinh viên chúng tôi nhịn ăn dành dụm tiền chung nhau mua khẩu súng này của bọn Tàu Tưởng. Anh Hồng Quân có sáng kiến cài một thanh cật tre vào chỗ cò súng 12, 7 ly để nó cứ tự động nổ vài phát lại dừng.

- Các anh muốn đánh giặc thì chúng tôi sẽ bố trí tổ của các anh vào các tổ tự vệ ở đầu phố nhé!

- Thưa các anh! Chúng tôi chỉ được đem súng lên đây thử, còn phải đem súng về bảo vệ khu học xá Đông Dương.

- Nhưng nếu các anh muốn đánh địch trước thì hãy ở lại đây với chúng tôi.

Anh Tấn muốn gạ mấy anh có khẩu đại liên này để có vũ khí mạnh tăng cường hoả lực cho chúng tôi. Nhưng mấy sinh viên thì thầm trao đổi với nhau, rồi anh Hồng Quân lại dõng dạc nói:

- Thưa các anh! Chúng tôi phải đem súng về báo cáo với ban chỉ huy tự vệ của nhà trường mới dám quyết định có được ở lại với các anh không. Tự vệ Đông Dương học xá chúng tôi cũng có nhiệm vụ phòng thủ mạn đường số 1, chặn địch đánh xuống theo đường nhà thương Cống Vọng (Bệnh viện Bạch Mai bây giờ).

Biết là không kéo họ ở lại được với chúng tôi, anh Tấn đành để cho họ rút quân, còn dặn lại: "Lần sau các anh có lên đánh giặc, nhớ liên hệ với chúng tôi nhé, kẻo lại đấm lưng nhau đấy!"

Họ nháy nhau ra khiêng súng rồi rút về trường. Tổ tự vệ sinh viên rút được một lúc lâu thì địch bắt đầu tấn công. Tôi nghe thấy nhiều tiếng "tắc-bọp" cứ râm ran khắp khu phố.

- Chúng bắn loại súng gì thế nhỉ?

- Đạn Đum-đum đấy. Tiếng nổ đầu nòng súng là khi viên đạn bay đi, chạm vào đâu lại nổ một lần nữa để gáy sát thương cao. Cậu ở lại mặt phố chính này, mình lên phía trường Hàm Long đây. Chỗ ấy chắc kẻ địch ở nhà dầu Shell sẽ nống ra với lực lượng mạnh đấy.

Chúng tôi chia tay nhau đi chỉ huy vệ quốc và tự vệ. Súng địch xen lẫn súng của ta nổ vang, nhưng dễ phân biệt vì súng địch nổ kéo hàng tràng dài, còn súng của ta chỉ nổ từng phát một. Những tiếng súng vang rền lại dội vào hai dãy nhà trong phố nên càng thêm ầm ầm như tiếng sét nổ. Mấy lần địch tấn công xuống phố Huế bị ta chặn đánh mạnh, buộc chúng phải rút về vị trí cũ. Nhưng ở mạn trường Hàm Long, súng vẫn nổ rào rào, rồi một tiếng nổ lớn ầm vang như kết thúc trận đánh.


Các mặt trận lại im bặt tiếng súng, chỉ còn khói đen cuồn cuộn theo gió bắc thổi tạt xuống nơi chúng tôi đang bố trí. Kẻ địch ngừng bắn. Lát sau anh Tấn đến gặp tôi, mặt xạm khói súng, để lộ hai hàm răng hơi vẩu:

- Bọn mình bắn cháy một xe Half-track ở ngay đầu phố Bernard de Beau. Mặt trận vẫn giữ vững.

Cả ngày hôm ấy đến tối, địch cũng không tấn công nữa, nhưng thi thoảng khi chúng tôi qua đường, không đi dưới hào lại thấy súng nổ "tắc-bọp".

- Địch đã cài được quân trong phố để bắn tỉa chúng mình đấy.

- Vừa qua khi tấn công bọn lính Pháp, mình cũng thấy bọn lính khố đỏ người Việt Nam và bọn Việt gian, thổ phỉ ăn mặc thường phục đi theo bọn lính Pháp. Bọn này mới gây phiền phức cho ta vì chúng nó cũng dễ lẫn với anh em tự vệ.

- Ta cứ phân biệt tiếng súng là được. Hơn nữa, bọn chúng tên nào cũng mang súng trường hay các-bin, còn anh em vệ quốc và tự vệ mang súng thô sơ. Và nhất là thái độ của anh em mình đàng hoàng, không lén lút như bọn chúng nên cũng dễ nhận ra ngay là ta hay địch.

- Cậu chú ý phổ biến cho anh em tự vệ đề phòng bọn bắn lén.

Tôi về gặp anh Quỳ báo cáo cho anh rõ tình hình địch đã trà trộn vào các nhà trong khu phố này rồi, mới biết trụ sở đã chuyển xuống nhà ông Bùi Duy Dần.

Ở đây tôi lại gặp tất cả các anh Hùng, anh Oánh, Tuấn Em và anh Phụng nhưng không thấy có mặt anh Sắc.

Mọi người cũng đều thấy hiện tượng trong các nhà gác ở đầu phố có bóng người đi lại, thì thoảng lại có tiếng súng nổ "tắc-bọp" nhằm vào những anh chị em tự vệ đi qua đường.

Tin này được báo cho tất cả mọi người. Từ nay không ai được đi trên hè đường mà phải theo đường đục tường mà đi. Nếu qua đường phải theo con hào sau chiến luỹ để tránh thương vong vô ích.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 28 Tháng Sáu, 2022, 06:37:39 am
Buổi chiều, anh Quỳ gọi tôi, anh Hùng và anh Oánh vào trong nhà bếp, anh Quỳ hỏi thăm qua gia cảnh anh Oánh, rồi đi ngay vào vấn đề: "Được đồng chí Tuấn và đồng chí Hùng giới thiệu, đảm bảo phẩm chất cách mạng của đồng chí, chúng tôi cũng đã tìm hiểu lý lịch của đồng chí và sự hoạt động cách mạng từ năm 1943, nay chúng tôi càng thấy rõ hơn tinh thần cách mạng của đồng chí đã được tôi luyện trong các cuộc chiến đấu vừa qua, đồng chí đã đem hết sức mình cống hiến cho đất nước và cho sự nghiệp của Đảng Cộng Sản Đông Dương... Thay mặt Chi bộ đảng tiểu khu 6, tôi tuyên bố chính thức kết nạp đồng chí làm đảng viên dự bị của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong thời kỳ dự bị, đồng chí Tuấn sẽ giúp đồng chí hiểu them cương lĩnh của Đảng. Chúc đồng chí mau chóng trở thành người đảng viên chính thức..."


Đồng chí Oánh im lặng một lúc như để cố kìm nén sự xúc động, rồi mới nói: "Được đồng chí Tuấn tuyên truyền cách mạng từ nãm 1943, tôi đã nguyện đem hết sức mình phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân với mục đích chân chính của Đảng trong cuộc kháng chiến toàn dàn này. Tôi xin thề luôn luôn trung thành với Đảng và sẵn sàng đứng ở tuyến đầu trong đội ngũ tiên phong!"


Tôi cũng nói thêm vài ý kiến để khẳng định lại tinh thần và ý chí cách mạng của đồng chí Oánh và đảm bảo tư cách của đồng chí Oánh xứng đáng được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Đêm ấy, chúng tôi ngủ lại ở trụ sở. Nhà ông Bùi Duy Dần có ba tầng gác, ở trên gác này hầu như vẫn còn nguyên vẹn các đồ đạc. Tôi và em Lương kiếm được cái chăn bông, rồi hai anh em ra chỗ hàng hiên rộng rãi, trải chiếc chăn dạ của tôi làm đệm, đắp chăn bông ấm, hai anh em ôm nhau ngủ. Tôi đang mơ màng trong giấc ngủ, chỉ thấy những cảnh chiến đấu lúc ban ngày thì có người tung chăn ra làm tôi lạnh quá, cố kéo chăn đắp lại.

- Dậy! Dậy! Cậu Tuấn! Anh em vệ quốc lên đông, đề nghị phối hợp với tự vệ bố trí đánh địch ngày mai.

Mắt nhắm, mắt mở, nhìn ngọn đèn dầu le lói cũng thấy chói, tôi ngơ ngác một lúc mới tỉnh hẳn, thấy anh Quỳ tay cầm đèn đang đứng nhìn tôi cười, cặp kính cận lấp lánh như cũng cười theo. Anh Tích1 (Sau là Trần Vỹ, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội) đứng bên cạnh, hai mắt đỏ gay: "Tuấn tỉnh ngủ chưa? Dậy đưa bộ đội lên vị trí đi. Mình đã điều thêm cho cậu lực lượng tự vệ ở mấy khu phố dưới!"


Thấy đồng chí phó bí thư Liên khu II nói như vậy, tôi liền kéo em Lương đang cố rúc trong chăn ấm với người nào đấy đã chui vào nằm chung từ lúc nào. Phải gọi mãi, em Lương mới tỉnh ngủ. Tôi nghĩ càng thương các em nhỏ, đang tuổi ăn chơi còn làm nũng bố mẹ, mà nay theo tiếng gọi cứu nước, đã xông pha lửa đạn, chịu đựng gian khổ, nguy hiểm như người lớn.


Đang ở trong chăn ấm tôi thấy người rét run, nhưng cũng cài khuy áo chặt lại, thắt lưng súng và lựu đạn ra ngoài áo. Còn đôi giày của tôi thì hình như hơn một tuần nay chưa cởi ra bao giờ, ngay cả khi tôi nằm ngủ, rúc vào chăn ấm, để luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.


Cùng em Lương xuống đến đường, tôi thấy lố nhố đến một trung đội tự vệ có súng trường, lựu đạn, chai xăng crếp. Nhưng đa số là đao kiếm.

- Các anh ở phố nào đấy?

- Chúng tôi ở mấy phố quanh đây thôi, cũng thuộc tiểu khu 6 cả.

- Ngày mai chắc chắn địch sẽ tấn công xuống tiểu khu của ta mạnh đấy. Hôm qua nó mới đánh thăm dò thôi.

- Tất cả đã sẵn sàng rồi. Anh cứ bố trí chúng tôi ở mặt nào cũng được.

Buổi sáng hôm qua tôi thấy mặt phố Hàm Long bị đánh mạnh hơn cả nên tôi đã bố trí các anh có súng trường, lựu đạn tăng cường cho mạn ấy. Số còn lại, tôi giao cho anh Oánh đưa anh em sang bố trí bên dãy nhà số chẵn của phố Huế.


Tảng sáng, vừa bố trí xong lực lượng, anh Ninh cao đã lên phân phát cơm nắm cho chúng tôi và cả anh em Vệ quốc đoàn. Nhìn người anh cao lêu đêu, thắt lưng da cài hai quả lựu đạn lủng lẳng, hai tay ôm rá cơm đầy, quần áo lấm lem vôi vữa, gạch, càng thấy tinh thần các anh chị trong đội hoả thực cũng gan dạ, chịu thương, chịu khó. Anh em tự vệ vừa ăn cơm vừa chỉ bảo cho những người bạn mới bổ sung biết rõ các vị trí địch và hướng tấn công của chúng. Đúng lúc ấy súng địch bắt đầu nổ dữ dội. Có anh cẩn thận cất cơm đang ăn dở vào túi, có anh vứt bỏ, cầm vội lấy vũ khí của mình, chạy lên vị trí nấp sát chân bức tường có hàng rào sắt của trường Hàm Long.


Qua hàng song sắt bờ rào, tôi thấy bọn lính mũ đỏ hô lớn: "En avant, à l'assaut!" (Tiến lên! Xung phong!), rồi địch tràn qua đường sang chiếm lấy trường Hàm Long. Anh em tự vệ tung ra hàng loạt lựu đạn, xen lẫn với tiếng nổ ầm ầm của đạn Bảo Toàn1 (Đạn Bảo Toàn do công binh xưởng của ta chế tạo bằng cách lấy đạn đại bác, buộc vào đầu gậy tre độ hơn một mét, khi đánh địch, chỉ cần ở chỗ nấp lao ra, không sợ nguy hiểm chết người như bom Ba càng) do vệ quốc lao ra đường. Bị đánh vỗ mặt khá mạnh, bọn địch ngã gục nhiều tên nên khựng lại rồi rút về vị trí cũ bên kia đường.


Lúc này toàn mặt trận ở Liên khu II đều ầm ầm trong tiếng súng. Tôi không còn nắm được tình hình ở mạn phố Huế mà chỉ biết trước mắt là chiến đấu ở trường Hàm Long. Em Lương vẫn theo sát tôi, lăm le chỉ muốn xông ra đường để nhặt súng của địch chết bỏ lại. Tôi phải níu em lại, quát mắng không cho em liều lĩnh như vậy. Em Lương phụng phịu với tôi, rồi cứ quay mặt đi hờn dỗi. Tiếng súng của hai bên vẫn nổ chát chúa. Chúng tôi ở vào địa thế thấp trong hàng hiên của nhà trường, còn địch đã chiếm các nhà gác cao bên kia đường bắn xuống. Tôi thấy bất lợi nên chiến đấu được một lúc, anh em tự vệ và vệ quốc phải rút vào trong các lớp học bắn trả. Địch được lợi thế nên lại tràn qua đường, sát chân tường có hàng rào sắt. Chúng ném lựu đạn vào trong sân trường làm khói và đất bốc lên mù mịt. Chúng tôi ném lựu đạn ra chặn đứng những tên vừa nhô lên khỏi hàng rào định nhảy vào sân trường. Súng trường nổ từng phát một, hạ gục ngay những tên ngổ ngáo nhất định vượt qua hàng rào sắt, hất xác nó ra ngoài. Sau một hồi cố gắng xung phong chiếm nhà trường, địch vẫn không có tên nào lọt được vào trong sân nên chúng lại rút sang bên kia đường. Súng 12 ly 7 trên xe Half-track đỗ ở góc phố Bernard de Beau xả từng tràng đạn dài bắn nát các cánh cửa sổ của các lớp học, nhưng chúng cũng không dám xung phong bừa bãi như trước. Chợt một chùm lựu đạn của địch ném sát vào các lớp học, tiếng nổ không đanh, nhưng có làn khói đỏ bốc lên mù mịt như bụi gạch. Anh em hít phải khói ấy thấy cổ họng cay xè, mũi và phổi nóng như bị hun lửa, nước mắt, nước mũi chảy ra ràn rụa. Tôi cũng hít phải làn khói này, biết địch ném lựu đạn cay, nên vội lấy khăn mùi xoa buộc bịt chặt lấy mồm và mũi. Các anh vệ quốc và tự vệ không biết nó là loại lựu đạn gì, không ai còn nổ súng được mà chỉ ôm ngực ho rũ rượi rồi tháo lui. Tôi vội chạy nhanh qua lỗ đục tường, nắm lấy từng người chỉ lên gác cao, bảo mọi người hãy trèo lên đấy tránh làn khói.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 28 Tháng Sáu, 2022, 06:38:38 am
Nhưng có lẽ vì tôi bịt mồm mũi, nên nói không ai nghe rõ, mà anh em cứ thúc mũi súng vào ngực, gạt tôi ra sang bên để tháo lui. Tôi đành phải cởi bỏ khăn mùi xoa hét to: "Địch ném lựu đạn cay đấy! Anh em không ai được rút lui, trèo lên gác cao tránh luồng khói là được, không rút lui! Không rút lui!"


Có số anh em bình tĩnh đã nghe tôi làm như vậy. Tôi liền đứng chặn ngay chỗ lỗ đục tường đề phòng địch tấn công sang. Tôi vừa ho sặc sụa vừa bắt hai anh có lựu đạn, súng trường gác ở chỗ này, chắn không để địch chui sang được, rồi ôm lấy ngực, ngồi dựa vào chân tường để thở.


Em Lương một tay ôm chặt lấy miệng, mũi, cứ nắm lấy áo tôi, tôi bảo em: "Chạy xuống gọi cứu thương lên ngay!" Rồi tôi đẩy em qua lỗ đục tường, không còn chịu được nữa nên nằm phục xuống đất. Khói lựu đạn cay tan dần vì gió bấc thổi mạnh, nhanh chóng xua tan làn khói độc. Em Lương và hai chị cứu thương đã đến kịp săn sóc cho những anh bị ho nặng. Nhìn thấy tôi nằm dưới đất, em Lương cuống quít nói như khóc: "Anh Tuấn! Anh Tuấn làm sao thế này? Các chị ơi cứu anh Tuấn với!" Một chị cứu thương chạy vội đến hỏi tôi: "Anh bị thương vào đâu?"

- Tôi chỉ bị tức ngực vì hít phải nhiều khói cay.

Các chị cứu thương lấy khăn ướt nhúng nước đưa cho anh em chúng tôi lau mặt, mũi, rồi bảo chúng tôi lên gác nằm thở đều đặn thật mạnh để đẩy hết khí độc ra ngoài phổi. Một lúc sau, mọi người đã tỉnh lại dần, tinh thần lại ổn định, chui qua lỗ đục tường sang bên trường, bố trí trong các phòng học. Địch cũng không dám liều xông sang nữa vì không rõ chúng tôi còn trụ lại ở đâu, nếu chúng liều vượt qua hàng rào sợ lại trúng đạn nên thi thoảng ném vu vơ vài quả lựu đạn sang sân trường.


Đồng chí tiểu đội trưởng vệ quốc đi thăm từng người, lại dẫn anh em lên bố trí chỗ cũ. Tiếng súng ở mặt này tạm yên, nhưng ở mấy phố xung quanh vẫn thấy súng nổ ran, xen kẽ với những tiếng "tắc-bọp" rất khó chịu và nguy hiểm. Lúc này tôi đã đỡ tức ngực, thấy đồng chí Tấn đưa thêm lực lượng vệ quốc đoàn lên tiếp viện. Nhìn thấy tôi vẫn nằm dài ờ sàn nhà, bên cạnh có chị cứu thương đang dấp khăn mặt ướt lên mặt tôi, anh chạy vội lại: "Tuấn bị thương à? Mình thấy mặt trận này im tiếng súng, sợ bị vỡ nên điều thêm quân lên tiếp viện!"

- Mình chỉ bị tức ngực thôi, nhưng không sao. Lúc nãy anh em chưa biết là loại khói gì nên có hoang mang, bây giờ lại về vị trí cũ rồi. Địch chưa chiếm được trường Hàm Long, nhưng chúng mình cũng phải rút xuống mấy nhà để chặn địch.

- Cậu về dưới nghỉ đi một lát. Mình sẽ ở lại đấy với anh em. Ở mạn dưới các cậu cần chú ý đến phố Charron (Mai Hắc Đế) và phố Jacquin, đề phòng nó đánh thọc sang định chia cắt bọn mình ở trên này đấy. Còn mặt phố Huế cũng chưa gay lắm.


Tôi và em Lương khó nhọc mới lần được qua mấy nhà xuống đến phố Laveran (Lê Văn Hưu). Tôi nghỉ lại trong ngôi nhà ở sát đường, bảo em Lương theo đường hào xuống mạn phố dưới xem tình hình chiến sự ra sao, về báo cho tôi biết. Khi em Lương vừa ló ra khỏi bức tường thì tiếng súng "tắc-bọp" ở ngoài phố Huế đã nổ tới tấp.


Tôi bảo em Lương thận trọng theo các lỗ đục tường mà đi và nghĩ thầm: "Bọn địch đã cho thổ phỉ lấn sâu xuống mạn dưới này rồi. Phải lùng quét sạch bọn này nếu không sẽ phiền với chúng." Tôi nghĩ như vậy liền lấy ống nhòm quan sát các nhà gác cao, nhưng chỉ thấy nhà nào cũng đóng cửa sổ kín mít. Bọn thổ phỉ cũng biết ẩn mình kín lắm. Tôi đang ngồi nghe tiếng súng nổ ở các nơi để đoán tình hình chiến sự, thì em Lương đã quay lại.

- Anh Oánh và các anh tự vệ đang bố trí ở dưới chợ Hôm. Anh cho biết là quân Pháp ở đường Gia Long (Bà Triệu bây giờ) đánh quặt sang phố Riquier (Nguyễn Du) tiến xuống dưới phố Charron (Mai Hắc Đế) rồi. Còn ở phố Jacquin chúng cũng tung quân ở nhà dầu Shell đánh thẳng xuống, đã chiếm được một đoạn đầu phố Laveran, tới ngã năm Lò Đúc. Tuấn Em đang đưa lực lượng đánh chặn ở phía ấy. Anh Oánh nhận nhiệm vụ đánh địch dọc phố Huế, nhưng còn bến phố Charron là chưa có lực lượng chặn địch.

- Anh em mình phải sang bên đó thôi!

Tôi bảo em Lương như vậy, rồi hai anh em lần theo đường hào sau chiến luỹ để sang đường bên kia hè phố. Gặp anh Oánh, anh cho tôi biết:

- Tuấn sang bên phố Charron chỉ huy anh em đánh chặn không cho địch dùng chiến thuật cắt đuôi bọn mình. Thủ đoạn của chúng định khoá lực lượng chúng ta ở trên này rồi tung quân tiêu diệt. Mình ở mặt phố chính   này rồi. Tuấn Em cũng đang đánh ác liệt ở đường Jacquin, không   cho chúng quặt sang bao vây chúng mình.

Tôi thống nhất vài điểm với anh Oánh, rồi cùng em Lương theo lỗ tường đục xuống đến chợ Hôm. Khi đi qua giữa chợ Hôm thì bị địch phát hiện, chúng nấp ở đầu phố Huế bắn sang. Hai anh em nấp sau hàng cột tròn. Một viên đạn bắn trúng cột nơi tôi nấp. Viên đạn trượt vào cạnh tường, còn xoay tít như con quay trên mặt đất. Em Lương tò mò cúi xuống định nhặt lên chơi, tôi vội kéo tay em lại nhưng không kịp. Em Lương nhặt đầu viên đạn lên rồi lại vội buông ra ngay, xuýt xoa kêu bỏng.

- Em dại lắm. Đầu đạn bắn ra còn rất nóng. Địch bắn chúng ta mà còn nghịch làm gì.

Chờ lúc ngớt tiếng súng nổ, hai anh em chúng tôi băng qua con hào chạy ngang phố Harmand (Trần Xuân Soạn), chui ngay vào ngôi nhà, luồn tường xuống phía dưới đến chỗ có chiến luỹ ngang đường phố Huế mới ung dung sang bên dãy nhà số chẵn của phố Huế. Vào được trong nhà, tôi đi tìm tổ tự vệ có bốn người đang đứng canh giữ mặt đường.

- Địch đánh chúng ta ở phía sau, chúng đã đưa xe tăng án ngữ ở ngã tư Miribel (Trần Nhân Tông) rồi.

- Chúng ta bị địch cắt phía dưới rồi hả anh?

- Nó chặn xe mặc nó, còn muốn sục vào các ngôi nhà thì chưa dám đâu. Tôi ở bên này với các anh sẽ tìm cách đánh bật xe tăng chúng đi, phiền là bọn mình có thể sẽ phải nhịn ăn đến tối đấy.

- Khoản ấy anh không lo. Chúng tôi mới thu được gần chục hộp sữa con chim, anh và em dùng tạm cho đỡ đói.

Chúng tôi nhận mỗi người một hộp sữa do anh tự vệ đưa cho, anh còn dùng dao găm chọc thủng một lỗ để chúng tôi hút từng ít một.

- Anh nào có lựu đạn đi với chúng tỏi xuống chỗ xe tăng địch án ngữ không?

Một anh đeo hai quả lựu đạn và mấy chai xăng crếp đứng lên xin đi cùng tôi và em Lương.

- Bọn mình như vậy có ba người. Các anh cũng có ba người cố giữ mặt phố bên này đường nhé. Bên kia có anh Oánh và các anh khác bố trí rồi. Chú ý cắt người canh gác chỗ lỗ đục tường nhé. Chúng có thể luồn xuống dưới này. Vừa qua chúng đã bắn tôi và em Lương ở trong chợ Hôm rồi đấy.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 28 Tháng Sáu, 2022, 06:39:28 am
Nói xong, tôi đưa em Lương và anh tự vệ luồn qua các ngôi nhà xuống dưới phố Huế chỗ thông với ngã tư Charron. Ba chúng tôi nhẹ nhàng trèo lên căn gác gỗ đã ọp ẹp của ngôi nhà cũ kỹ, có vườn cây với mấy cây dâu to. Tôi rón rén đến bên cửa sổ, nhìn qua khe cửa chớp thấy rõ chiếc xe tăng đỗ lù lù ngay dưới chân mình. Mấy tên lính Pháp nghênh ngang đi lại quanh chiếc xe mà không cần nấp vào đâu. Có tên còn đứng tựa vào thành xe hút thuốc lá phì phèo. Tôi nghĩ ngay: "Chúng mày tưởng đánh Việt Minh chỉ dễ như cuộc đi dạo chơi thì hãy chờ đấy!" Tôi bàn với anh tự vệ sẽ bất ngờ mở cửa sổ, tôi bắn súng ngắn, còn anh ném lựu đạn và chai xăng crếp vào chiếc xe, xong rồi phải rút ngay xuống thang gác, không để cho địch kịp quay nòng súng đại bác nã vào chúng tôi.


Em Lương có quả lựu đạn của Mỹ vẫn giữ khư khư bên mình lúc này cũng lăm le xin được ném vì em thấy cũng ngon ăn lắm.

Tôi nhẹ nhàng đẩy then cửa không gây ra tiếng động, ra hiệu cho anh tự vệ chuẩn bị... Bất thần tôi đẩy tung hai cánh cửa sổ, nã hết cả băng đạn súng ngắn vào bọn địch đang túm tụm quanh chiếc xe. Anh tự vệ cũng kịp vừa ném lựu đạn, vừa tung chai xăng crếp vào chỗ xe tăng. Em Lương cũng len người ném quả lựu đạn duy nhất của em xuống đường. Tiếng mấy quả lựu đạn nổ vang ầm cả góc phố. Tôi nhìn kỹ thấy có ba tên đã gục xuống đường, còn chai xăng crếp cháy bám vào chỗ xích sắt. Khi thấy nòng súng đại bác quay từ từ về phía chúng tôi đang ẩn nấp tôi kéo vội em Lương tụt xuống cầu thang như tụt cầu trượt mà không kịp đi từng bậc, rồi cùng anh tự vệ luồn sâu xuống phía dưới cách mấy nhà. Vừa qua được một quãng thì tiếng đại bác nổ chói tai. Em Lương co vai nhìn tôi lè lưỡi cười nói: "Tí nữa thì anh em mình bay lên trời rồi đấy anh nhỉ!"


Sau phát đại bác bắn nát căn nhà cũ ấy, tôi nghe tiếng xe tăng gầm rú rồi chạy ra xa.

Mới có ba quả lựu đạn, chai xăng crếp và băng đạn súng ngắn cũng đã làm cho địch phải bỏ chạy, vì chúng tưởng là chúng tôi có đông người sẽ mở cuộc tấn công vào chúng nên chúng rút xe về ngã tư Lê Lợi (Bà Triệu bây giờ).


Tiếng súng ở mạn này đột nhiên im hẳn. Chúng tôi trở về tổ tự vệ ở phố Huế. Anh tự vệ phấn khởi, cười rạng rỡ, kể lại cho ba anh trong tổ nghe về "chiến công" của anh: "Xe nó chỉ cháy bên ngoài thôi chẳng "nước mẹ" gì, nhưng cũng có vài thằng bộ binh nằm lăn ra đất rồi! Thế là mình hết vốn. Đánh nhau bằng gì bây giờ?"

- Em cũng như anh, có mỗi quả lựu đạn đã tiêu hết. Nhưng em vẫn làm liên lạc cho anh Tuấn.

- Anh cũng đành quanh quẩn với mấy anh bạn này. May ra cướp được khẩu súng nào của địch thì đời tươi quá. Tiếc thật. Đành tìm cách đánh giặc khác vậy.

Chúng tôi vừa nói chuyện vừa uống sữa. Đang ăn thì có tin anh Oánh báo sang là Tuấn Em và tổ tự vệ đang bị địch bao vây trong ngôi nhà đầu phố Pescador (Phù Đổng Thiên Vương). Anh Quỳ và anh Phụng đã đi điều thêm 10 anh tự vệ lên giúp sức.


Tôi nhìn bốn anh tự vệ ngần ngừ chưa định ra sao và cũng như muốn hỏi ý kiến các anh ấy vì tôi không muốn bỏ anh em ở lại bên này với lực lượng quá mỏng. Mấy anh đã giục tôi: "Anh cứ đi sang bên đó, đánh giải vây cho các anh em. Bên này cũng tạm yên rồi. Chúng tôi sẽ bám chặt đường phố."


Tôi lại kéo em Lương chạy sang hiệu bánh mì Boulangerie Moderne, thấy một tiểu đội có 4, 5 tay súng, còn đều là đao với kiếm. Một chị cứu thương, tóc uốn, áo dài mầu be sẫm, cũng đứng nghiêm trong hàng ngũ.

- Ta đi đánh giải vây cho anh em chứ?

- Chúng tôi sẵn sàng.

- Bây giờ tôi chia đôi người và số súng đạn, một nửa luồn sang phố Logerot đánh vòng lên. Một nửa theo tôi luồn lên mạn phố trên đánh xuống. Giải vây được cho anh em lại về tập hợp ở đây.

Chúng tôi nhanh chóng chia người đi ngay. Chị cứu thương theo nhóm tự vệ sang phố Logerot. Chúng tôi chạy sang chợ Hôm vào nhà gác cụ Vũ Đình Tụng lấy địa thế cao để bắn địch ở phố Harmand. Chỉ một lát sau, súng ở hai cánh chúng tôi đã nổ, kéo làn súng địch về phía chúng tôi. Trong căn nhà nơi đầu phố, chỗ của tổ anh Tuấn Em bị bao vây, cũng thấy có lựu đạn tung ra rồi mấy bóng người cúi chạy sang phố Logerot. Tôi nhìn thấy bóng chiếc mũ sắt biết là Tuấn Em đã thoát vây, liền ngừng nổ súng, tìm lối về địa điểm cũ. Đến nơi tôi thấy anh em cũng đã về đông đủ cùng ba người trong tổ của anh Tuấn Em nhưng tôi thấy anh cứ lom khom ôm bụng, liền hỏi:

- Cậu bị thương rồi phải không?

- Mảnh lựu đạn còn nằm trong ổ bụng, may mà nó chưa chui vào trong ruột.

Chị cứu thương băng bó tạm cho anh. Các anh tự vệ tìm ván cánh cửa định đưa anh về hậu phương để bác sĩ gắp mảnh lựu đạn nhưng anh đã gạt đi:

- Mình còn đi được. Cứ lom khom thế này luồn tường càng dễ dàng.

Tuấn Em vừa nói vừa cười để lộ hai hàm răng trắng, nhỏ sít vào nhau. Chị cứu thương đi theo anh về tuyến sau. Mấy anh tự vệ xin được ở lại trên này chiến đấu. Đi được vài bước, Tuấn Em quay lại, lật chiếc mũ sắt trên đầu đưa cho tôi: "Anh giữ lấy mà dùng, cứ đội cái mũ bê rê cà tàng ấy mãi!"


Tôi cầm lấy chiếc mũ sắt chụp vào đầu em Lương:

- Phải bảo vệ cái đầu xinh xinh này trước.

Em Lương đội cái mũ sắt sụp gần đến mắt, nhưng thích lắm cứ cười tít mắt: "Em mất lựu đạn lại có mũ sắt. Thế nào em cũng cướp được khẩu súng của địch, giá là khẩu các-bin thì thích quá!"

- Em cứ theo anh thế nào cũng có dịp lấy được súng của giặc.

- Em đợi khi nào gặp chị Lan, em lại cho chị ấy cái mũ này. Của Tây chính cống đấy anh nhỉ!

- Đúng rồi. Ta chưa làm được mũ sắt. Vài anh tự vệ có mũ sắt là của Nhật cứ tròn ung ủng như cái nồi đồng úp chụp xuống cả mắt. Chú lại muốn lặng bà chị chiến lợi phẩm này à?

- Em có mũ bê rê rồi, để cho chị Lan là con gái xông pha trên mặt trận tốt hơn. Anh em mình là con trai chẳng cần anh nhỉ!

- Tuỳ em.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 28 Tháng Sáu, 2022, 06:40:35 am
Cả ngày hôm ấy súng địch im ắng. Chỉ thi thoảng có vài tiếng súng "tắc-bọp" của bọn Việt gian, thổ phỉ vang lên ở mấy phố nghe rất khó chịu, mà chúng tôi chưa tìm diệt được tên nào. Tìm một người ẩn náu kỹ trong các nhà ở phố đông đúc như phố Huế không phải là dễ. Có khi chúng ở ngay trên trần nhà nơi anh em tự vệ bố trí mà không ai biết. Khi anh em tự vệ rút lui là chúng lại bắn lén.


Chiều hôm ấy, tôi và em Lương lần theo lỗ tường đục về phố Amiral Sénès (Hoà Mã) là nơi nhà tôi ở. Tôi phá khoá vào trong nhà thấy vắng lặng buồn tênh, đồ đạc được thu xếp gọn gàng, nhưng phủ đầy bụi. Tôi lục chiếc hòm bọc da sơn đen lấy mấy bộ quần áo để thay, thay đôi giày đã rách của tôi bằng đôi giày của anh tôi bỏ lại. Giày cũng đã cũ nhưng còn tươm tất hơn đôi giày cũ của tôi. Ra đến nhà ngoài, tôi thấy trong tủ kính còn lọ đường đầy, liền lấy giấy báo đổ tất cả đường vào, gói kỹ lại, cho vào túi dết. Nhìn lại lần cuối ngôi nhà với những đồ đạc thân quen, chiếc bàn học, chồng sách vở, bút, lọ mực vẫn y nguyên chỗ cũ, chiếc mắc áo mà mỗi lần tôi đi học về lại cởi áo treo vào đó, chiếc mâm cơm còn sót lại vài bát bỏ không..., tôi bùi ngùi, đứng tần ngần nghĩ thầm: Không biết bố mẹ, các anh chị tôi bây giờ đã chuyển đi đâu. Nhà tôi ở ngay làng Láng, cũng thuộc địa bàn mà địch có thể tấn công đến để chiếm lấy khẩu pháo ở pháo đài ngay sát sau nhà tôi, thì chắc gia đình cũng không dám ở đấy, mà quê hương ở nơi xa thì không có, nên không biết chạy đi đâu? Tôi đứng im một lúc, chợt giật mình vì em Lương kéo tay áo tôi hỏi:

- Ba mẹ anh cũng đi tản cư hết cả rồi à?

- Đi lâu rồi. Bây giờ anh cũng không biết ba mẹ anh ở đâu!

Nhà tôi ở phố vắng chỉ có mấy dãy nhà bên số chẵn, còn bên kia là bức tường dài của nhà máy Rượu nên các anh em tự vệ không cần lấy đồ đạc để lập chiến luỹ, vì thế nhà nào cũng còn nguyên vẹn, không suy suyển gì.

Vừa ra đến đầu phố, chỗ trụ sở Cao Đài phổ độ, tôi gặp anh Phước, là trinh sát của chỗ anh Qua. Tôi hỏi thăm tình hình các anh ở Sở Công an Bắc Bộ, anh cho tôi biết: Anh Qua đã về đóng ở trại nhà ông Hoàng Xuân Hãn (xế ngang chợ Mơ, trên đường Minh Khai bây giờ). Anh Qua cử anh Phước lên trinh sát tình hình chiến sự trên này. Anh Quỳ, anh Hùng cũng đã về tập trung ờ đấy rồi.


Tôi cũng kể cho anh nghe tình hình chiến sự trên này và cho anh biết chúng tôi vẫn bám giữ đường phố đánh địch.

- Khi nào các anh phải rút thì về chỗ anh Qua nhé.

- Được rồi. Nhưng chúng mình còn bám lấy đường phố để chiến đấu đến cùng. Sống chết thế nào chưa thể biết được, vì địch đang có chiều hướng sẽ đánh lớn trong nay mai.

Chúng tôi đang đi ra phố Huế thì nghe tiếng súng "tắc-bọp" nổ ngay trên tường trước mặt chúng tôi.

- Bọn mình phiền nhất về lũ thổ phỉ này. Nó bắn tồi đấy, nếu không anh em thế nào cũng có người dính đạn nó rồi.

Tôi liền kéo anh Phước lên sân thượng một nhà gác, đưa ống nhòm quan sát các nhà quanh đấy. Chợt tôi thoáng thấy có bóng người trên gác một ngôi nhà ở phố Hérel de Brisis (Thi Sách), liền kín đáo chỉ cho anh Phước thấy:

- Căn nhà có sân thượng kia kìa, vừa thoáng có bóng người, mình không rõ là tự vệ hay thổ phỉ. Nếu là tự vệ thì anh em bao giờ cũng ở chung hai ba người mà không ở riêng lẻ đâu. Cậu chú ý nhé!

- Anh cứ về trụ sở đi! Tôi sẽ giải quyết bọn này cho anh.

Nói xong, anh Phước bí mật lần đi ngay. Tôi và em Lương về nghỉ ở ngôi nhà đầu phố chỗ ngã tư Hoà Mã - phố Huế thì gặp anh Oánh và một số anh em tự vệ đang ăn cơm.

- Ăn chưa hở Tuấn?

- Từ sáng đến giờ chưa có hạt cơm nào vào bụng.

Đội hoả thực và anh Ninh đang luồn tường lên phố trên để phát cơm cho anh em. Số tự vệ cũng chỉ còn hơn 30 người, phần lớn hết cả vũ khí rồi, nhưng anh em vẫn không chịu rời trận địa, hy vọng sẽ lấy được súng địch để đánh địch. Anh Oánh bảo: "Mình đã thu gom lực lượng, bố trí ở mấy nhà dọc phố Huế trên đấy một quãng. Phố Hàm Long ra sao rồi?"

- Bộ đội của cậu Tấn không đủ người để rải quân nên cũng rút về bố trí quanh đây. Ban đêm anh em vệ quốc lại lên phố trên quấy rối các vị trí địch chiếm đóng. Anh em tự vệ cũng muốn đi theo lắm để kiếm súng đạn.

Anh Oánh bẻ nửa nắm cơm cho tôi và em Lương. Đang ăn thì tổ hoả thực của anh Ninh về, trong rá còn lại mấy nắm cơm và suất thịt kho, anh lấy đưa cả cho chúng tôi và cho tôi biết là đội hoả thực của chị Trinh đã rút về đóng ở chùa Đồng Nhân. Anh bùi ngùi nhìn chúng tôi nói khẽ: "Lực lượng tự vệ còn ít quá, hy sinh nhiều thế à. Mình đi phát cơm mà thấy rá vẫn còn lại càng thêm buồn."

- Không phải hy sinh nhiều đến thế đâu. Anh em chiến đấu dũng cảm đến hết cả vũ khí nên đành phải ra hậu phương nhận công tác kháng chiến khác. Cũng có số ít anh em hy sinh và bị thương trong đó có anh Bảo, anh Vũ Đình Tuân, vài ba anh nữa và Tuấn Em cũng bị thương chuyển về tuyến sau rồi. Anh nói với chị Trinh lưu ý vì địch đã chiếm được đầu phố Lò Đúc rồi. Có thể bất ngờ chúng thọc sâu xuống mạn dưới rồi đánh quặt lên đây, bao vây anh em tự vệ và vệ quốc để tiêu diệt. Hiện nay tự vệ còn 31 người và ba chị cứu thương vẫn quyết bám lấy đường phố để sống chết với Thủ đô đấy.

Đến xẩm tối, tôi thấy anh Phước tìm về chỗ tôi ở, cười tủm tỉm, tay xách một bọc vải nặng, tay cầm khẩu các-bin còn mới. Một chị cứu thương tìm chiếc đèn hoa kỳ, châm lửa đốt sáng, đưa cho anh suất cơm.

- Cậu có tìm được tên thổ phỉ ấy không?

- Được. Tôi đã lôi nó về đây rồi.

- Đâu! Đâu! Cậu cho bọn mình xem mặt mũi nó một tí.

Mấy anh em tự vệ nhao nhao đứng lên định chạy ra cửa, nhưng anh Phước đã ngăn lại: "Thong thả. Đâu sẽ có đó!"

Anh vừa nói vừa đặt bọc vải lên bàn và cả khẩu súng các-bin với thắt lưng da có hai bao đạn đầy ắp, đưa cho tôi:

- Ủng hộ anh tặng phẩm này để anh chiến đấu.

Em Lương láu táu đỡ ngay lấy khẩu súng, vuốt ve nòng thép còn xanh.

- Nhẹ quá anh nhỉ. Thế này thì em cũng dùng được. Còn bọc vải anh đựng cái gì thế?


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 28 Tháng Sáu, 2022, 06:41:57 am
Em nói xong, không chờ cho anh Phước trả lời, tiện lay cởi ngay nút buộc ra. Mấy chị cứu thương kêu thét lên, hai tay úp lấy mặt. Em Lương cứ ú ớ, nép sát vào sau lưng tôi. Thì ra trong bọc là chiếc đầu người, tóc rối bù, râu mọc ra tua tủa. Anh Phước kể:

- Mình bí mật tiếp cận mấy căn nhà gác để quan sát địch cho dễ. Khi mình đang ở trên gác của ngôi nhà ở phố Hérel de Brisis thì thấy ở nhà bên có tiếng động lịch kịch. Mình cứ đứng im, nghe động tĩnh cho rõ, một lúc sau mình thấy bóng người ló ra chỗ cửa nhìn xuống đường. Mình định nhảy sang, nhưng làm như vậy lại lộ mình ra trước nên kiên nhẫn phục ở nhà bên này. Được một lúc lâu, bóng người ấy đã trèo qua ban công nhà bên kia để sang nhà chỗ mình đang nấp. Hắn ngơ ngác nhìn quanh, hé cửa bước vào trong nhà. Một tay nó mang bọc đồ nặng, tay kia xách khẩu các-bin. Vào đến nhà nó đã nhìn ngay thấy mình, há mồm ra chưa kịp kêu lên tiếng nào thì đã xơi gọn hai phát đạn vào giữa ngực. Nó ngã vật ra nền nhà, mình tước lấy khẩu súng và cởi thắt lưng đạn của nó, thắt vào người mình, xem lại đạn trong sác-giơ vẫn thấy còn đầy, nên xuống bếp tìm con dao phay sắc, chặt đầu nó đưa về đổ các anh coi!

Mấy chị cứu thương cứ nhắm mắt lại, hét lên: "Vứt đi! Vứt đi! Khiếp quá!" Anh Phước cười, túm bọc vải lại, nói với tôi: "Anh có nhắn gì với anh Qua không?"

- Anh về nói với anh Qua cho đội trinh sát các anh lên đây giúp chúng tôi giải quyết nạn thổ phỉ bắn lén.

- Đồng ý!

Anh nói xong, gật đầu chào chúng tôi rồi ra cửa. Mấy anh tự vệ từ nãy đến giờ chỉ im lặng tỏ vẻ thán phục cái gan lì tướng quân của anh Phước, hỏi lại tôi:

- Anh ấy ở đâu thế hả anh? Trông người trắng trẻo thư sinh mà gan cóc tía.

- Anh ấy là trinh sát của Công an Bắc Bộ. Sở Công an có đội trinh sát gồm toàn những anh em gan dạ và còn giỏi võ nữa.

Tôi nhìn em Lương vẫn ngơ ngác đứng nép bên cạnh tôi. Còn hai chị cứu thương cứ ôm lấy nhau kêu khe khẽ: "Khiếp quá! Khiếp quá! Thế mà anh ấy xách như bọc hành lý không ghê tay."

- Em Lương giữ lấy khẩu súng này mà dùng. Đúng mong ước của em đấy nhé. Toàn là đạn đum-đum.

- Đạn đum-đum là gì hở anh?

- Là đạn "tắc-bọp" đấy. Khi bắn ra đạn nổ ở đầu nòng súng, viên đạn chạm vào đích rắn một chút lại nổ một lần nữa để sát thương người. Em ra ngoài bắn thử mà xem. Nhưng cẩn thận kẻo mảnh đạn lại bắn vào người đấy!

Tôi và anh Oánh, theo các lỗ đục tường, bố trí lại các tổ ở từng nhà, cắt người canh gác để anh em thay nhau ngủ. Xong đâu đấy, anh Oánh ở lại trên này và bảo tôi: "Tuấn sang nhà bên kia đường nghỉ và để chia lực lượng hỗ trợ cho nhau. Tuấn canh chừng mặt phố Lò Đúc nhé. Đấy chắc sẽ là hướng tiến công của địch đánh sang phố Huế."


Hai chị cứu thương và mấy anh tự vệ cùng em Lương theo tôi sang bên kia đường. Tôi bảo hai chị lên gác tìm chỗ ngủ. Chúng tôi ở dưới nhà cắt nhau canh gác ban đêm. Tôi kéo em Lương xuống dưới mấy nhà để xem địa thế. Đến đền Đông Hạ, ngay đầu ngõ Sergent Giác (ngõ Duy Tân bây giờ) tôi lại gặp anh Tấn và một số đội viên vệ quốc.

- Bọn mình giữ ngã tư này. Có thể ngày mai địch sẽ đánh xuống nhà máy Rượu và bên kia là nhà máy Diêm (cơ khí Trần Hưng Đạo bây giờ). Ở cả hai nơi mình đã bố trí đơn vị vệ quốc án ngữ rồi. Chiến thuật của địch đã rõ. Chúng cứ thọc sâu hai cánh, cho xe tăng án ngữ để cắt đường rút lui của chúng mình, sau đó sẽ tung quân ra tiêu diệt lực lượng mình trong vòng vây của chúng.

Chúng tôi trao đổi với nhau cách phối hợp chiến đấu và trong trường hợp phải lui quân thì trụ lại ở điểm nào. Lúc tôi và em Lương quay về nhà cũ vẫn thấy hai chị cứu thương ngồi bó gối, chăn dạ quàng trên vai. Mấy anh tự vệ đã cắt nhau canh gác và cũng đã tìm chỗ ngủ cả rồi.

- Các chị ngủ đi chứ. Ngày mai sẽ ác liệt đấy. Tôi định để các chị về chùa Đồng Nhân trước cho đỡ nguy hiểm.

- Các anh còn ở lại, chúng em cũng ở lại, không thể bỏ các anh được. Lỡ ra có anh nào bị thương thì lấy ai băng bó. Chúng em không xuống dưới đó đâu.

- Thế thì các chị phải đi ngủ cho khoẻ người.

- Tại nhà vắng quá. Chúng em thấy sợ. Ở đây gần nghĩa địa Sài Gòn (Nay là Công ty xe khách).

- Đã có các anh tự vệ ngủ dưới nhà rồi!

Hai chị không nói gì, nhưng vẫn tỏ ra ngần ngại. Em Lương cười khanh khách: "Ê! Chị Vân lại sợ ma rồi. Em cóc sợ nó đâu nhé. Tây em còn chẳng sợ nữa là. Thật là con gái!"

Em Lương vừa nói, hai tay đút túi quần đi lại ra vẻ oai lắm. Tôi bật cười nhưng cũng phải mắng em không được hỗn với các chị. Chị Vân nói ngay: "Em là bạn cùng lớp với Lan đấy. Mỗi lần em đến nhà nó chơi là thằng nhóc này lại trêu chọc hai chị em chúng em, tức đến phát khóc lên. Hai chị em nó cứ chủng chẳng với nhau suốt ngày, nhưng Lan nó chiều thằng bé hơn cục vàng. Mỗi khi thằng bé bị mẹ đánh là Lan nó lại lên gác khóc thầm đấy anh ạ!"

- Ở nhà này còn có mấy anh tự vệ ở bên dưới, quanh đây cũng có nhiều tự vệ và vệ quốc, các chị còn sợ gì!

- Ở đây vắng vẻ quá, hơn nữa chúng em cứ nhớ đến cái đầu lâu của anh gì đem đến mà rùng mình...

- Bây giờ có tôi và em Lương nữa. Hai chúng tôi sẽ ngủ ngay dưới chân cầu thang này, hai chị cứ lên gác mà ngủ, anh em chúng tôi canh gác cho.

Hai chị cười e thẹn rồi vác chăn lên gác. Tôi và em Lương lấy chiếu trải ra sàn gạch, vừa nằm ấm chỗ đã ngủ say rồi.

Sáng hôm 25-12, tôi dậy sớm gọi em Lương và mấy anh tự vệ vẫn còn trùm kín chăn nằm trên giường ngay cửa ra  vào. Tôi cuộn chăn cho em Lương, buộc chéo qua vai em, xem lại súng đạn của mình, rồi cùng em đi xuống chỗ đền Đông Hạ gặp anh Tấn.

- Như kế hoạch đấy nhé! Quyết liệt đấy!

- Anh em tự vệ sẵn sàng cả rồi. Cho mình thêm vài quả lựu đạn.

Vừa đúng lúc ấy tôi nghe tiếng động cơ xe thiết giáp ầm ì từ phố Lò Đúc vẳng lại.

- Đến lúc rồi đấy. Mình về với anh em tự vệ đây!

Tới ngôi nhà, tôi thấy anh em tự vệ cũng đã dậy đang chuẩn bị vũ khí, hai chị cứu thương chăn cuộn quàng chéo qua vai, túi cứu thương đeo bên mình, đang chải đầu trước gương. Tôi đưa nắm cơm cho hai chị và cả gói đường lấy từ nhà mang đi.

- Chúng em không ăn được đâu!

- Hai chị phải cố mà ăn, kẻo ngày hôm nay có khi phải nhịn đói đấy.

Các anh tự vệ, tôi và em Lương đều có suất ăn cả rồi.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:51:49 am
Chúng tôi vừa ăn vừa kể chuyện gia đình cho nhau nghe. Ăn cơm xong không có nước uống, lại ra bể khoả váng bụi súc miệng tạm. Tôi bảo em Lương sang bên kia đường nhắc anh Oánh biết ý định của địch về cuộc tấn công hôm nay. Một lát sau em Lương quay lại cho tôi biết các anh trên đó cũng đã nghe tiếng xe địch chạy rồi. Ở ngôi nhà gác này, vừa có cửa sổ nhìn ra phố Hoà Mã, lại có ban công nhìn ra phố Huế, nên tôi và em Lương nhận vị trí nhìn ra phố Hoà Mã, còn mấy anh em tự vệ gác bên mặt phố Huế.


Được một lúc thì súng nổ ran ở cuối phố Sergent Larrivé (Nguyễn Công Trứ). Tôi nói với mấy anh tự vệ: "Bộ đội nổ súng rồi đấy! Anh em mình cũng chuẩn bị thôi!"

Liền lúc đó có tiếng trung liên quét từng tràng dài dọc phố Huế. Tự vệ chỗ anh Oánh bình tĩnh bắn trả. Tôi thấy mặt phố Hoà Mã chưa nguy hiểm nên cùng em Lương ra mặt phố Huế nhìn lên quãng đầu phố thấy thấp thoáng bóng lính Pháp kéo xuống. Tôi dặn mấy anh tự vệ không vội nổ súng mà chỉ canh chừng thôi, vì phía trên đã có lực lượng của anh Oánh chặn đánh chúng rồi.


Tôi đứng quan sát thấy súng tự vệ nổ cũng ác liệt, chai xăng crếp và lựu đạn tung ra đánh rạt quân địch phải lui về phố trên. Chúng cũng chiếm mấy nhà gác cao bắn trả lại chúng tôi, nhưng như vậy thì cũng không gay cấn lắm.


Lúc này ở tất cả các tuyến phố đều thấy súng nổ ran không ngớt. Khói súng mù mịt theo làn gió bấc thổi có lúc như cuộn lại, có lúc bốc lên cao xoay tít rồi mới tản rộng ra khắp đường phố. Mặt phố Huế có nhiều chướng ngại vật nên xe tăng địch không tiến xuống được, còn bộ binh của chúng chỉ đánh cầm cự với ta mà không lấn xuống được đoạn nào. Nhưng cả hai cánh ở hai tuyến phố dọc phố Huế thì có tiếng xe địch chạy ầm ầm. Tôi nóng lòng vì ở quá sâu nên dặn mấy anh tự vệ cứ án ngữ ở chỗ này, còn tôi kéo em Lương chạy sang bên kia đường. Hai chị cứu thương cũng chạy theo: "Anh cho chúng em theo với!"


Ở đoạn phố Huế trên lúc này súng của tự vệ yếu dần, nên bọn Pháp lấn xuống được một quãng xa. Tôi đi tìm lực lượng tự vệ của anh Oánh, nhưng thấy vắng lặng, đã nghĩ là anh em tự vệ rút cả rồi, nhưng nghĩ còn anh Oánh thì chưa chắc đã rút nhanh đến thế! Tôi và em Lương cứ luồn tường tiến lên đến chỗ hiệu bánh mì, lại gặp các anh đang động viên nhau nhằm bọn lính Pháp bên kia đường mà bắn. Tôi gặp anh Oánh ở ngay nhà đầu cùng.

- Dãy phố bên kia lực lượng tự vệ của ta yếu lắm nên bọn Pháp đã lấn xuống được nửa phố rồi. Mình ở bên này có thể giữ được.

Tôi trao đổi với anh Oánh là địch đánh ở mạn này chỉ cốt để cầm chân chúng ta, còn hai cánh bên mới là chủ yếu. Chúng muốn bọc anh em mình ở trên này rồi tung quân ra tiêu diệt đấy. Chúng ta cứ để cho anh em tự vệ tiến dần lên đánh bật chúng ở mặt này. Hai chúng tôi và em Lương liền chạy qua đường vào chợ Hôm để quan sát tình hình địch rõ hơn. Đang đi len lỏi trong các quầy hàng ở trong chợ thì em Lương kéo tay tôi nói khẽ: "Hình như địch đang phá tường bên cạnh chợ Hôm, anh ạ!"

Tôi lắng nghe thấy đúng là tiếng đục tường, liền hỏi anh Oánh:

- Mạn trên chúng ta còn tự vệ bố trí không?

- Tất cả tự vệ đều tập trung ở cả dưới này rồi, vì bọn mình cũng chẳng còn được bao nhiêu, dàn trải ra thì mỏng quá.

- Chúng mình đánh bật bọn này rồi chia nhau sang viện trợ cho anh em ở phố bên kia.

Chúng tôi lặng lẽ đến sát bờ tường, nghe tiếng đục càng rõ hơn. Lúc này đạn nổ líu ríu vào trong chợ, chúng tôi cứ thận trọng nấp vào sau những hàng cột, tiến sát đến chỗ ngõ vào xóm Đức Viên. Tôi nghe tiếng đục tường càng gấp lắm, nhưng vẫn nghi ngờ sợ còn có tổ tự vệ nào chưa rút kịp xuống đây nên bảo anh Oánh đi kiểm tra lại cho rõ. Anh Oánh ở trong xóm Đức Viên nên thông thạo các lối đi lại, anh lẩn ngay vào phía sau chợ và biến mất. Được một lúc lâu, chỗ đục tường đã rạn nứt, tôi ra hiệu cho anh tự vệ đi cùng với chúng tôi và em Lương nấp kín sau một quầy gạch, cùng chĩa nòng súng vào chỗ đó. Chợt anh Oánh đứng sau tôi nói nhỏ: "Địch đấy! Để mình cho nó xơi quả lựu đạn!"


Anh tự vệ cũng lấy quả lựu đạn kiểu "Lọ mực", nhìn anh Oánh vừa rút chốt quả lựu đạn ra thì anh cũng đập kíp lựu đạn vào tường, rồi cả hai anh tung nhẹ lựu đạn sang bên kia tường. Hai tiếng nổ ầm vang bèn kia tường rồi tất cả im lặng. Lúc này súng cối địch nổ làm các mái nhà đổ xuống rầm rầm. Chúng tôi rút xuống chỗ hiệu bánh mì thấy có hai anh tự vệ bị thương nặng, trong đó có anh Vũ Đình Tuân là con trai ông Vũ Đình Tụng. Các chị cứu thương đang băng bó cho hai anh và tìm cách đưa về hậu phương"1 (Hồ Chủ tịch có viết thư chia buồn với gia đình ông Vũ Đình Tụng, có đoạn: "Mỗi một thanh niên Việt Nam mất đi tôi như đứt một khúc ruột").


Lúc này còn độ 6-7 anh tự vệ, vũ khí chỉ còn đao và kiếm, riêng tôi có khẩu súng ngắn, em Lương có khẩu súng các-bin, anh Oánh còn hai quả lựu đạn, nên tôi bảo mấy anh tự vệ cùng đi theo các chị cứu thương xuống mạn ô Chợ Dừa, vì ở đó có đơn vị vệ quốc và tự vệ vẫn chốt giữ. Mấy anh tự vệ có lựa đạn và chai xăng crếp thì ở lại với chúng tôi giữ mặt phố Huế.


Súng cối địch nổ không ngớt dọc theo hai bên phố xuống phía dưới. Tôi bảo anh Oánh: "Địch đang truy chúng ta đấy!" Lúc này có anh tự vệ xôn xao muốn xin rút lui, tôi thấy không nên ngăn anh em nữa mà bảo anh Oánh đưa mấy anh xuống chỗ đình Đông Hạ phối hợp với đơn vị của anh Tấn chốt chặn ở đó.


Được lệnh rút, các anh định luồn lỗ tường đục dọc phố Huế, nhưng tôi đã ngăn lại bảo mấy anh sang bên phố Logerot mà đi vì địch vẫn bắn súng cối dọc theo phố Huế rất nguy hiểm. Hai chị cứu thương tái mặt nhìn tôi và anh Oánh, tôi bảo: "Các chị đừng lo! Cứ tản ra nấp vào chân cầu thang, vì địch chỉ bắn súng cối mà không có bộ binh tiến xuống theo. Anh Oánh sẽ tìm cách đục tường sang phố sau. Tôi và em Lương sẽ gác ở mật phố Huế, không để địch tràn xuống đây."


Vừa nói, tôi vừa kéo em Lương ra đứng nép sát bên cửa nhìn ra đường.

- Hai anh em mình có hai súng thì sợ gì giặc nhỉ!

Tôi nói vậy, nhưng trong lòng lại nghĩ: "Mình phải thật bình tĩnh, lúc này mà cũng tỏ ra lúng túng thì dễ làm cho anh em mất tinh thần! Mọi người tự động rút lui thì hỏng hết!"


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:53:52 am
Tôi thản nhiên đứng nép sát bên cửa như người ngắm phố, miệng nhấm nháp từng miếng cơm nắm, nhưng trong lòng sốt ruột không biết anh Oánh đục tường sang phố sau có nhanh không! Cùng lúc ấy anh Oánh đã tìm được chiếc búa lớn, xắn tay áo đập vỡ lần vữa ngoài tường, rồi tiếp tục đập thủng một viên gạch. Mấy anh tự vệ kiếm khúc củi lao mạnh vào tường vài nhát đã thủng một lỗ to. Các anh tiếp tục làm cho đến khi chỗ tường thủng đã vừa lọt người chui qua. Một anh định chui sang ngay, tôi kịp ngăn lại, vì mình cũng vừa đánh địch theo kiểu này ở trong chợ Hôm nên vào nhà kiếm chiếc áo, cuộn tròn lại, nén sang chỗ tường thủng, thấy yên tĩnh mới bảo anh em lần lượt chui sang mà rút xuống phía dưới. Ngoài mặt phố Huế súng cối địch vẫn nổ vang rền. Khắp xung quanh mấy phố bên đều có tiếng súng làm không khí cứ sôi lên sùng sục. Tôi bảo mấy anh tự vệ: "Địch nó căn đường đạn rồi, đi theo dọc phố Huế dễ dính phải mảnh súng cối. Chúng ta đi bên này phố Logerot là đi song song với đường đạn địch".

- Nó bắn pháo tiễn anh em mình à?

- Đừng chủ quan! Cứ đi dọc bên ngoài phố Huế mà xem, lại không có anh bị dính với nó à! Lúc nãy đã có hai anh tự vệ bị thương nặng rồi đấy. Mình đi bên này vướng tường nhà nên yên tâm, không thì cũng gay go với súng địch đấy!

Qua đường Hoà Mã an toàn, chúng tôi kéo xuống cả đền Đông Hạ gặp anh Tấn. Anh Tấn bàn với tôi chia quân số bố trí ở ngõ Sergent Giác, để yếm hộ cho vệ quốc chặn địch ở mặt phố nhà máy Rượu đánh sang. Lúc này xung quanh chúng tôi đều có tiếng súng nổ. Tiếng xe tăng địch lăn xích trên đường phố Wélé (Thái Phiên) bắn vào nhà máy Diêm. Ở mạn đó các anh vệ quốc quân đánh trả quyết liệt. Còn ở mạn nhà máy Rượu, tiếng súng địch từ Lò Đúc đánh sang cũng nổ như ngô rang. Tôi chia cho anh Oánh 8 người trụ lại ở đầu ngõ Sergent Giác, còn tôi cũng đem 8 người, trong đó có hai chị cứu thương, sang nghĩa địa Sài Gòn đổ phối hợp với số anh em vệ quốc bảo vệ nhà máy Rượu. Chúng tôi tản ra nấp sau những ngôi mộ xây, nhìn sang phía nhà máy Rượu chờ đợi. Một lúc sau, có mấy anh vệ quốc băng bó đẫm máu đang rút qua đường Jacquin sang nghĩa địa.

- Địch chiếm được nhà máy Rượu rồi. Chúng sẽ tràn qua đường đánh sang đây.

Tôi bàn với anh em vệ quốc để cho mấy anh bị thương lui về đền Đông Hạ, số ở lại sẽ cùng chúng tôi bố trí sái bức tường nghĩa địa canh chừng mặt đường phố Jacquin. Lúc nãy địch chiếm được nhà máy Rượu liền dựng ngược súng cối nhả đạn sang chỗ nghĩa địa. Tiếng đạn nổ đinh tai nhức óc. Đúng lúc ấy thì thấy anh Oánh dẫn mấy anh tự vệ chạy sang. Tôi nghĩ là mặt trận ngoài phố Huế đã vỡ nên lo lắng hỏi ngay:

- Bên ấy sao rồi? Các cậu sang đây làm gì?

- Thấy súng nổ nhiều quá mình tưởng mặt này bị uy hiếp, nên sang đây chi viện cho các cậu.

- Tập trung nhiều ở đây bất lợi lắm. Cậu quay về giữ mặt phố Huế ngay.

Anh Oánh nhìn tôi một lúc rồi lẳng lặng kéo anh em về vị trí cũ. Đúng là chúng tôi đang ở trong cái túi chỉ rộng độ gần 10.000 mét vuông và đang bị pháo cối nện xuống như giã gạo. Gạch, đất, đá, áo quần và cả xương người bị súng cày lên bay rải khắp mặt đất. Anh em đã có một số bị thương. Hai chị cứu thương đã hết cả bông, băng phải xé cả vạt áo làm băng. Tiếng người rên la xen lẫn với tiếng nổ không ngớt. Tôi gào lên với các anh chị em là đứng nép sát vào bờ tường bao xung quanh, không nên ẩn nấp bên những ngôi mộ xây trong nghĩa địa. Một tiếng nổ lớn bắn sạt bức tường của nghĩa địa về phía phố Sergent Larrive. Đám khói đen kịt cuồn cuộn bốc lên cao. Tôi lo sợ để anh chị em bị thương dần ở trong chỗ này nên ló đầu ra chỗ bức tường bị bắn đổ để quan sát tình hình, đã vội thụt ngay lại vì chiếc xe tăng địch đã lù lù án ngữ ngay giữa đường phố Sergent Larrive gần ngã tư phố Huế. Chính chiếc xe này đã bắn viên đại bác phá vỡ một mảng tường của nghĩa địa. Tôi quay lại bàn với mấy anh tự vệ: "Địch cho xe án ngữ chặn đường rút của ta sang bên kia nghĩa địa Tây rồi (nay là khu tập thể Nguyễn Công Trứ). Chúng ta chỉ còn cách từng tổ nhỏ bất ngờ vọt qua đường sang bên kia rồi rút về chùa Đồng Nhân, nhưng phải có người bắn vào chỗ xe địch để thu hút hỏa lực của chúng. Chúng ta chỉ còn cách đó để khỏi bị tiêu diệt ở đây! Anh nào có súng, sang bên kia đường trước, nấp vào tường bắn cản cho mọi người sang sau!"


Mấy anh còn ngần ngừ vì sợ súng đại liên trên xe tăng bắn chặn. Tình thế không thể chần chừ được nữa, tôi liền bảo mọi người nấp sát vào ven tường để tránh đạn súng cối sát thương, tôi sẽ sang trước, nếu được an toàn, sẽ bắn yểm trợ các anh chị từng người rút qua đường, sau đó về tuyến sau xin thêm lực lượng lên đánh giải vây, nhất định không bỏ rơi các anh chị ở lại đây. Có chị nào theo tôi và em Lương sang trước không?

- Chúng em chạy chậm lắm. Anh sang trước đi, rồi đưa tự vệ lên đánh cứu chúng em.

Tôi buộc túi dết chặt vào người, quàng chiếc chăn của em Lương che bên ngực trái phía tim, cầm đỡ cho em khẩu các-bin để em được gọn nhẹ chạy cho nhanh. Tôi hy vọng hành động bất ngờ này sẽ không để cho địch kịp phản ứng, đưa mắt nhìn em Lương rồi bảo: "Em theo sát anh nhé!"

- Em sẽ chạy theo kịp anh.

Tôi ló đầu ra ngoài đường thấy nòng đại liên trên xe tăng vẫn chĩa ra giữa phố, liền vẫy em Lương, chui nhanh ra khỏi chỗ tường đổ và chạy băng qua đường. Một tràng liên thanh bắn đuổi theo hai chúng tôi. Tôi nhoài người vào chân bức tường hàng rào của nghĩa địa Tây, lăn mấy vòng, thoáng nhìn thấy em Lương chạy sau tôi loạng choạng mấy bước rồi ngã lăn ra sát mép đường. Nhìn thấy bụng em đã loang đỏ máu, tôi xông ra vội kéo em vào chân tường. Nhìn sang bên kia thấy mấy anh đang thập thò định chạy sang, tôi xua tay ra hiệu cho các anh biết là địch đã chú ý đề phòng bắn chặn rồi. Chờ lúc tiếng súng liên thanh trên xe yên, tôi bế em Lương vào sau bức tường thấy bụng em đã phòi đoạn ruột. Tôi vội ấn vào bụng em, lấy vạt áo xé ra buộc chặt lại cho em rồi bế em theo con đường ruộng rau muống và bãi tha ma, qua đầm lầy về phía chùa Đồng Nhân. Tôi cứ loạng choạng đi vài bước lại thụt ngã vì bế em ở trước mặt nên không nhìn được đường đi. Súng địch vẫn nổ ngang dọc trên đầu, đường đạn đi cao xé không khí vun vút. Tôi đặt em Lương xuống bãi cỏ, rồi cõng em lên lưng đi cho dễ dàng hơn. Em Lương thở khò khè nói khẽ:

- Em chết mất anh Tuấn ạ! Anh đừng nói cho cậu mợ em biết nhé... cả chị Lan nữa!

- Em yên tâm. Đến chùa Đồng Nhân có các chị cứu thương chăm sóc cho em, chỉ ít lâu là em lại khoẻ để đi với anh.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:55:25 am
Lúc này tiếng súng đã thưa dần, tôi vừa đi vừa chảy nước mắt thương em nhỏ. Trong lúc hoang mang, tôi đã định rút thẳng, không quay về trận địa nữa. Cõng em đến chùa Đồng Nhân, tôi thấy có mấy anh chị cứu thương chạy ra đỡ em Lương ở trên lưng xuống cho tôi. Nhìn trong sân chùa, thấy có một số anh em bị thương nằm la liệt đang được cứu thương chăm sóc. Em Lương được đặt nằm trên hàng hiên chùa. Tôi thấy yên tâm vì đã có cứu thương chăm sóc cho em, nên ra gốc cây ngoài sân chùa ngồi đợi. Một lúc sau, tôi quay lại thấy em Lương đã được băng bó cẩn thận. Một chị cứu thương cho tôi biết:

- Ruột của em đã lòi ra rồi. Em bị mất nhiều máu quá.

Em Lương nhìn tôi khẽ gật đầu như muốn nói câu gì. Tôi ghé tai sát vào mặt em nghe em thì thầm đứt quãng.

- Em không sống được nữa đâu... Anh cởi chiếc đồng hồ ở tay em đưa cho chị Lan hộ em... để biếu mợ em. Nhưng anh đừng nói gì cho mợ em biết nhé... Chiếc mũ sắt và súng anh lấy mà dùng...

Tôi làm theo lời em, khuyên em: "Em đừng nghĩ đến chết. Nhất định em sẽ sống để rồi anh em mình lại đi với nhau đánh giặc nữa chứ!"

Thấy em Lương cứ lịm dần, tôi vội gọi các chị cứu thương đến xem em ra sao. Một chị cứu thương nhẹ tay bắt mạch của em một lúc rồi chị lắc đầu. Tôi hoảng hốt, cúi xuống ngực em để nghe tiếng tim còn đập nữa không. Tôi nấc lên một tiếng, rồi gục đầu xuống ngực em. Có ai đó đỡ tôi đứng dậy. Tôi ra gốc chùa, hai tay ôm lấy đầu ngồi khóc thầm. Chợt tôi thấy anh Ninh cao đến bên tôi hỏi: "Có thể đưa cơm lên cho các anh chị được không?"

- Anh chị em đang bị vây trong nghĩa địa Sài Gòn. Nguy hiểm lắm!

- Nguy hiểm cũng phải đi. Không thể bỏ anh chị em đói được.

Lời nói chí tình của anh Ninh làm tôi bừng tỉnh! Đói còn không bỏ rơi các anh chị huống hồ là bỏ các anh chị ấy chết sao được. Lời nói của chị cứu thương lại văng vẳng bên tai tôi: "Anh sang trước rồi đưa tự vệ lên đánh cứu chúng em!"


"Lên cứu chúng em!" Đấy là lời kêu gọi khẩn thiết của hơn 10 mạng người. Tôi vùng ngay dậy, đội mũ sắt vào đầu, khoác các-bin lên vai, đi đến chỗ em Lương nằm thấy mấy chị cáng thương đã đem em đi rồi. Một chị mắt còn đỏ hoe, thổn thức: "Em liên lạc của anh hy sinh rồi! Trước khi chết em còn gọi tên ba mẹ, chị của em và nhắc đến cả tên anh nữa!"


Tôi lặng người suýt nữa oà lên khóc, cố kìm lại, nhưng nước mũi cứ chảy ra ràn rụa, tôi quay mặt đi bảo anh Ninh:

- Anh đưa tổ hoả thực lên chờ ở nghĩa địa Tây đến tối hãy qua đường vào nghĩa địa Sài Gòn.

Nói xong, tôi cắm đầu chạy như trốn khỏi hình ảnh đau thương của em Lương. Quay trở lại chỗ nghĩa địa Tây, tôi thấy xe tăng địch đã rút ra ngoài ngã tư phố Huế, đang nổ súng bắn vào khu 28 gian dọc phố Huế xuống mạn ô Cầu Dền... Ở đấy có lực lượng tự vệ đang nổ súng bắn vào bọn bộ binh đi theo xe. Tôi dùng khẩu các-bin tiến ra chỗ cửa sổ nổ súng tiếp tay với các anh tự vệ này. Đang mải bắn địch, tôi chợt thấy bóng người ở phía bên cạnh liền quay lại. Một anh tự vệ tiến đến hỏi tôi: "Anh ở đâu đấy?"

- Tự vệ khu chợ Hôm.

- Các anh đâu cả rồi?

- Anh chị em đang bị vây trong nghĩa địa Sài Gòn.

- Yên chí! Chúng tôi sẽ đánh giải vây cho các anh. Trung đội tự vệ thành của tôi chịu trách nhiệm chặn địch ở ngã tư này, mới được điều lên đây.

Vừa nói chuyện, chúng tôi vừa nhằm vào bọn bộ binh mà nổ súng.

Đến gần chiều, tiếng súng chợt im hẳn. Tôi chạy vội sang nghĩa địa Sài Gòn kêu lớn gọi các anh chị còn đang nấp ở trong đó. Mọi người vui mừng chạy lại chỗ tôi, quần áo anh chị nào cũng lấm lem bùn đất tơi tả.

- Các anh chị còn đủ không?

- Anh em vệ quốc mất một. Bên mình chết ba.

- Anh Oánh đâu rồi?

- Lúc anh đi rồi, chúng em cũng cử người sang khu vực ngoài mặt phố Huế để bắt liên lạc với các anh bên ấy mà rút, nhưng khi anh tự vệ sang thấy đền Đông Hạ đang bốc cháy, không có ai ở đấy và tiếng súng cũng im bặt. Chúng em nghĩ là mặt trận bên ấy bị tiêu rồi, nên không dám rút về phía đó nữa.

Tôi nghĩ thương anh Oánh vì anh trấn giữ mặt ngõ Sergent Giác, nơi địch đã tấn công mạnh vào đấy, không rõ anh có bị hy sinh không mà lúc này tôi không thấy anh đâu. Anh vừa được kết nạp vào Đảng mấy hôm nay, mà bây giờ...

Chúng tôi vẫn cẩn thận chia thành từng tốp nhỏ chạy băng qua đường sang tập trung bên nghĩa địa Tây. Tổ hoả thực của anh Ninh vẫn kiên nhẫn chờ. Khi thấy chúng tôi sang đến nơi an toàn, anh liền phân phát cơm cho mọi ngưừi. Anh chị em tuy đói mệt, nhưng chưa ai muốn ăn vội mà chỉ dành nhau nước để uống cho thật đã vì cái khát còn mạnh hơn cái đói.

- Em Lương đâu rồi hở anh?

Chị Vân cứu thương hỏi câu ấy, rồi tưởng tôi bị thương vì quần áo tôi đều vấy máu. Chị cứ bắt tôi cởi áo ra để xem vết thương. Nhưng tôi không trả lời chị, quay mặt đi khẽ nấc lên.

- Khổ con Lan rồi! Em nó chết thì nó sống sao đưực

Rồi chị Vân cũng oà lên khóc nức nở như trẻ em bị đòn. Các anh, các chị ăn cơm và hỏi tôi: "Bây giờ đi đâu hở anh?"

- Các anh ở đơn vị phố nào cứ về phố ấy. Còn ai muốn theo tôi cũng được. Chúng ta phải rút, nhưng không phải là chạy trốn mà sẽ lại bám chặt đường phố để tiếp tục chiến đấu. Tôi sẽ đưa anh chị xuống đầu phố Bạch Mai, lợi dụng con đê Bình Lao và con mương để chặn đánh địch. Tôi chắc ở trại Hàn Lân vẫn còn người của chúng ta.

- Chúng tôi là tự vệ xóm Trại Găng, xóm Tô Hoàng, chúng tôi sẽ theo anh.

Tôi quay lại hỏi chị cứu thương: "Các chị có sợ lắm không?"

- Lúc anh đi rồi, chúng em cũng sợ, như rắn mất đầu ấy. Có anh thì cũng yên tâm hơn. Thấy anh lâu lên, có người bảo là anh đã chạy xa rồi. Em không tin vì anh có một mình, còn phải đi xin tự vệ mới lên đánh tiếp được chứ. Nhưng may mà địch chỉ bắn súng cối thêm một lúc, rồi chắc chúng không thấy bên này còn có tiếng súng nữa, cho rằng đã tiêu diệt hết chúng em trong nghĩa địa rồi, nên chúng ngừng bắn súng cối. Mãi sau chúng em nghe có tiếng súng nổ mạn ngoài phố, tin là anh đã lên đánh giải vây cho chúng em.

- Thế mà lúc em Lương mất, tôi hoang mang cũng có ý định bỏ các anh chị đấy.

- Nhưng thực tế là anh vẫn lên đánh cứu chúng em.

Chị vừa nói vừa bẽn lẽn xoắn vạt áo dài như muốn giấu tôi vì nó đã rách tươm1 (Trước đây phụ nữ ra khỏi nhà là phải mặc áo dài. Ngay các chị buôn thúng bán mẹt cũng mặc áo dài nâu Đồng Lầm tứ thân).

- Chị chẳng việc gì mà xấu hổ về chiếc áo dài này. Tôi thấy càng vinh dự đấy. Nếu sau này hoà bình, tiểu khu mình có triển lãm hiện vật kháng chiến thì chắc chắn chiếc áo dài của chị phải được đặt trong tủ kính ở nơi trang trọng nhất đấy.

Chị cứu thương chỉ cười, mặt đỏ tía lên vì ngượng.

Ăn cơm xong, chúng tôi theo đường phía sau nghĩa địa để xuống mạn dưới. Qua bức tường chỗ Nhà Quàn, tôi lại gặp mấy anh tự vệ lúc nãy.

- Bọn tôi xuống đầu phố Bạch Mai đây. Các anh ở lại hay đi cùng?

- Chúng tôi ở lại giữ ngã tư này, nếu rút cũng phải trụ lại ở đầu phố Bạch Mai thôi. Địch đã rút quân, nhưng chắc ngày mai chiến sự vẫn gay go đấy.

Chúng tôi chia tay nhau, tôi dẫn anh chị em tự vệ xuống trại Hàn Lân. Đến nơi thì trại đã vắng tanh. Thế là tôi không còn liên lạc được với anh Quỳ nữa. Còn anh Hùng, anh Oánh thì sao? Lực lượng tự vệ chính của tiểu khu 6 chẳng còn lại mấy người. Đa số các anh đều ở các tiểu khu khác ghép lại. Tôi đẩy cửa bảo anh chị em vào trong nhà mà nghỉ để sáng mai tôi đi tìm liên lạc với vệ quốc. Tối hôm ấy tôi không thể nào ngủ được, phần vì thương em Lương, phần nghĩ đến chiến sự ngày mai, phần lo cho anh Oánh, anh Hùng và anh Phụng giờ này còn chưa gặp được nhau. Và cũng vì tôi rét quá, không có chăn đắp. Chiếc chăn dạ em Lương mang theo đã dùng để gói em rồi.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:56:15 am
Ngày 26-12, vừa tảng sáng, tôi đã đưa số anh em tự vệ ra bố trí tuyến phòng thủ bên cạnh con mương để chặn đánh địch ở đường Đại Cồ Việt. Tôi bảo hai chị cứu thương về Đông Dương học xá tìm đội cứu thương của chị Hải nhận nhiệm vụ tiếp, vì hai chị cũng không còn thuốc men hay bông băng gì nữa. Nếu các chị ở lại cũng không giải quyết được gì mà làm chúng tôi lo thêm cho hai chị.


Tôi đang loay hoay ở ngôi nhà đầu phố thì lại gặp anh Tấn. Hai chúng tôi nhìn nhau cười vì thấy ai cũng được yên ổn.

- Các cậu bị vây ở nghĩa địa Sài Gòn phải không? Bọn mình cũng bị chúng vây ở đền Đông Hạ, chúng phun cả xăng để đốt đền. Anh em có hy sinh, nhưng bọn mình vẫn đánh bật chúng được, không để chúng sáp lại gần. Đến tối bọn mình thoát ra rút về đây, bố trí dọc con mương này.

- Mình hết cả quân rồi, còn vài ba anh em thôi, cũng đang bố trí ven bờ mương bên đường. Đêm tối quá nên mình không tìm được cậu.

- Tuấn ở luôn với bọn mình nhé!

- Còn Oánh đâu?

- Cậu ấy cũng thoát ra khỏi vòng vây với bọn mình, đã đi xuống mạn dưới tìm cậu đấy.

- Rồi cũng lại gặp nhau thôi. Tự vệ của mình ghép luôn vào đơn vị của cậu nhé.

- Càng tốt. Quân số của bọn mình cũng hao hụt mà chưa được bổ sung.

Cũng từ hôm đó, tôi đi liền với anh Tấn để đánh giặc. Để ngăn không cho xe địch tiến xuống, anh em vệ quốc và tự vệ kiếm rơm rải khắp mặt đường, tìm ống bơ, nồi đất úp la liệt, nhưng thi thoảng cũng gài một quả lựu đạn dưới đó để lừa địch. Lúc này tiểu đoàn 77 của anh Hoàng Kiện làm tiểu đoàn trưởng đã đưa bộ đội lên vành đai nội thành để chi viện. Tôi gặp anh đang chỉ huy bộ đội, dùng dây dài buộc vào khẩu súng Ba-dô-ka1 (Súng bắn bằng đạn lõm phá xe tăng do ông Trần Đại Nghĩa sáng chế). Dây dài đến gần một trăm mét kéo về phía sau. Hai anh vệ quốc được cử lên tuyến đầu bắn Ba-dô-ka, còn cả tổ nằm ở phía sau để nếu hai anh có hy sinh thì phải kéo súng về vì thời kỳ đó, súng đạn còn quan trọng hơn cả tính mạng con người. Hai anh vệ quốc đem 5 quả đạn trông như cái hoa chuối có cán dài. Tôi đứng xem vệ quốc chuẩn bị, thấy tin tưởng trận này sẽ hạ được xe địch, không để chúng làm mưa, làm gió, coi thường các chai xăng crếp của tự vệ chúng tôi.


Buổi sáng vẫn yên tĩnh. Nhưng đến 10 giờ địch kéo quân từ nhà máy Rượu đánh xuống phố Lê Bình (sau chợ Trời), và từ phía Vân Hồ đánh bọc lại đường Đại Cồ Việt, định quét sạch lực lượng kháng chiến ở đoạn phố trên và trong nhà máy Diêm. Khói đạn mù mịt. Chúng tôi nằm ở ven con mương, sát với đường Đại Cồ Việt, cũng đánh trả địch không chịu kém. Địch không thực hiện được chiến thuật bao vây, truy quét chúng tôi, nhất là phía trên đoạn cuối phố Huế, chúng thấy la liệt rơm rạ, nồi đất, ống bơ nên xe tăng và xe Half-track của chúng phải đừng lại vì sợ trúng phải mìn. Tổ bắn ba-dô-ka lần đường sát đến chỗ xe tăng đỗ, nơi tàu điện tránh nhau trước đây; chiếc dây buộc súng vẫn lòng thòng ở phía sau. Chợt hai tiếng nổ tiếp nhau vang trời kéo theo hai làn khói xám dày đặc. Tiếng đạn trong xe của địch nổ như ngô rang. Anh em phía sau khoái quá reo hò hoan hô tổ súng ba-dô-ka khi hai anh vác súng trở về an toàn và vẫn còn lại ba viên đạn không phải dùng đến. Ta mới bắn hai phát đã hạ được một xe tăng và một xe Half-track. Địch bị mất liền một lúc hai xe nên hoảng sợ, thấy vệ quốc đã có súng chống tăng nên chúng rút lui ngay, chỉ bắn súng cối xuống dọc hai bên phố Bạch Mai và trong làng Tô Hoàng, ngõ Quỳnh.


Sau trận đánh ngày 26-12, quân Pháp ngừng mở những cuộc tấn công ít hôm. Vệ quốc và tự vệ được nghỉ ngơi, có thời gian điều chuyển lực lượng trên phòng tuyến chống địch.

Có lần, tôi và đồng chí Tấn đang đi trong ngõ Tô Hoàng, chợt nghe tiếng đạn súng cối lạch xạch trên đầu, chúng tôi vội nhảy nấp vào trong nhà, nghe tiếng "bịch" lớn, nhìn ra sân gạch thấy quả đạn không nổ, cắm sâu xuống đất khoét thành một hố còn vương vất làn khói nhẹ. Tôi ra sân, thò tay xuống hố đất thấy còn ấm. Cùng lúc đó lại có tiếng lợn hộc lên, lợn phá chuồng chạy ra, chúng tôi định bắn chết con lợn làm thịt, nhưng không kịp vì chú ỉn chạy thục mạng qua giậu găng trốn mất.


Hàng ngày, sáng dậy, chúng tôi ra bờ mương chạy ngang qua bãi tha ma bên này đường Đại Cồ Việt, nhìn sang bên kia đường có vài nhà gạch một tầng ở đầu phố cửa ô, còn đều là đầm lầy, luỹ tre làng Vân Hồ, rồi đến hồ Bảy Mẫu trải rộng mênh mông tới ngã tư Kim Liên. Địch cho một xe Half-track đỗ ngay chỗ bến xe Kim Liên, thi thoảng bắn tràng đại liên 13,2 ly xuống chỗ chúng tôi bố trí, để uy hiếp tinh thần nhưng không dám tấn công xuống bằng bộ binh.


Có lần tôi và đồng chí Tấn xuống Đông Dương học xá thấy đông nhân dân tấp nập đi lại, trẻ em nô đùa rầm ri trong nhà. Đôi ba chỗ có nơi đã thấy nổi lửa đun bốp nấu ăn. Đây là những gia đình ở Trại Găng và Tô Hoàng tản cư về để tránh pháo địch. Khói bếp um tùm trong nhà, tiếng người nói râm ran. Anh em vệ quốc và tự vệ thay nhau ra vị trí gác, còn đa số ở lại trên gác nghỉ ngơi. Tôi lên gác của một ngôi nhà, thấy đông người đang túm tụm đứng xem khẩu súng 12,7 ly của ta hếch nòng súng dài nhìn về phía chỗ xe thiết giáp địch đỗ ở chỗ đầu Kim Liên. Tôi lại gần xem thì ra dăy là khẩu 12,7 ly của anh em tự vệ Đông Dương học xá đã sáp nhập vào tiểu đoàn 212 do anh Hồng Kỳ làm tiểu đoàn trưởng. Tôi bàn với anh Tấn đề nghị trên cho nhân dân di tản, không tập trung đông người ở đây vì mặt trận có thể lan tới ngày một ngày hai, rất nguy hiểm cho nhân dân và vướng víu cho lực lượng chiến đấu.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:57:47 am
Thời gian yên tĩnh khá lâu, không có cuộc đụng độ nào đáng kể. Ban ngày chúng tôi lên sát bờ mương, dùng ống nhòm phát hiện thấy bóng địch thấp thoáng trong mấy ngôi nhà gạch là nổ súng bắn tỉa. Nhưng sau khi bắn phải di chuyển ngay vì sẽ bị địch bắn trả hàng tràng liên thanh. Một hôm tôi gặp anh Nguyễn Vũ1 (Sau là cán bộ tình báo khu Hà Nội) cũng ờ phòng Chính trị Sở Công an Bắc Bộ ở ngay tuyến đầu. Chúng tôi đang nói chuyện thì súng nổ chiu chíu ngay sát đầu chúng tôi, cắm vào bờ đất. Tôi kéo anh Vũ ngồi thụp xuống và lần ra chỗ khác nói chuyện tiếp.

- Cũng khá nguy hiểm đấy nhỉ!

- Hai bên cách nhau chưa đầy 100 mét thôi mà, nhìn nhau rõ lắm.

- Cậu còn chỉ huy tự vệ không?

- Còn rất ít, mình đã để anh em sáp nhập vào đơn vị vệ quốc rồi.

- Đánh trận này xong, Tuấn về tìm anh Qua ở trại Hồng Bích, nhà ông Hoàng Xuân Hãn nhé. Cả Quỳ và Hùng đều ở đó rồi.

- Thế còn cậu Tài đâu?

- Đi cùng với anh Hoàng Mỹ ngay từ ngày đầu nổ súng. Mình cũng ở đấy, đang đóng ở làng Đại Mỗ.

- Mình sẽ tìm về đấy sau.

Tôi ở lại trên mặt trận mấy hôm nữa nhưng không thấy địch tấn công xuống, nên tìm về chỗ anh Qua. Trong trại Hồng Bích có anh Qua, anh Quỳ, Hùng, Cao Phi, chị cứu thương và mấy em liên lạc, vẫn sống bình thản. Thấy tôi về các anh săn sóc hỏi thăm:

- Tuấn đấy à? Bọn mình không biết tin về cậu, tưởng đã hy sinh rồi. Tuấn Em lại bị thương lần nữa đã ra Vân Đình và được báo sĩ Hoàng Đình Cầu mổ gắp đạn ra. Cậu ấy đang an dưỡng rồi cũng về nhận công tác thôi.
Thấy quần áo tôi rách và bẩn thỉu dây máu, anh Hùng kiếm cho tôi mấy bộ quần áo, cái dài, cái ngắn, nhưng cũng tạm dùng được. Trong trại của ông Hoàng Xuân Hãn có ao nước trong xanh ngay trước thềm nhà, có bậc gạch xây xuống ao, bên kia là luỹ tre nhìn ra cánh đồng làng Mai Động, xa nữa là trường bắn của Pháp cũ. Tôi sống êm ả ở đây được vài ba hôm, hai bữa ăn đầy đủ, ngủ có chăn ấm, gối đệm và màn nên chóng hồi sức. Nhà ông Hãn có chiếc đàn dương cầm và một thùng ton-nô rượu vang, thi thoảng ra vào tôi lại nghịch bấm lên vài phím đàn, còn rượu thì không ai biết uống nên không đụng đến thùng ton-nô ấy. Thấy thời gian im ắng, tôi liền đề nghị với anh Qua lên lại mặt trận xem tình hình ra sao. Tôi gặp anh Tấn ở trại Hàn Lân đúng lúc địch lại tấn công xuống. Chúng kéo một cánh từ bãi rác Lò Đúc đánh xuống ngõ Quỳnh, một cánh khác từ đường Đại Cồ Việt đánh vào Đông Dương học xá. Tôi và anh Tấn lại bước vào chiến trận suốt cả ngày hôm đó rồi rút về trụ lại ngôi nhà gác to rộng (nay là xí nghiệp Điện Thông). Địch đánh xuống dọc phố Bạch Mai, nhưng bị ta chặn lại nên chúng rút lui ngay lên phố.

Buổi tối, tôi về báo cáo lại tình hình chiến sự để anh Qua biết vì thấy địch đã rục rịch hoạt động. Anh Qua dặn chúng tôi phải lưu ý cả hai mặt đường phố Minh Khai và Đại La.

Sáng 15-1-1947, chúng tôi vừa ăn cơm xong, tiếng súng ở mạn Vĩnh Tuy, Mai Động đã nổ rát. Dọc đường phố Bạch Mai, vệ quốc cũng nổ súng chặn địch đang kéo xuống. Em liên lạc chạy vào báo tin: "Các anh ơi, Tây tấn công xuống đây rồi!"


Nghe đến đấy, tôi thắt vội súng vào lưng, nhào ra cửa, chạy ra ngay chỗ ngã tư Trung Hiền, nấp sau chiến luỹ cao to, đồ sộ làm bằng những thanh sắt đường tàu, với đất đá, gạch, ngay bên cạnh cây đa chỗ ngã tư, chắn ngang đường xuống làng Hoàng Mai. Tôi nhìn thấy thấp thoáng trên hè đường phố có những bóng lính địch đang men theo hàng hiên tiến xuống. Nổ được mấy băng đạn, có anh công an xung phong chạy đến bảo tôi: "Anh Tuấn! Chúng mình ra chặn địch ở phía nhà thương Cống Vọng, chúng đang cho xe tăng quặt sang đây!"


Chúng tôi luồn qua mấy ngôi nhà lá đến trại lơ của ông Vũ Tạo thì trụ lại vì trên đường ra ngã tư Vọng có chiếc cầu sắt nhỏ đã tháo hết dầm ván, còn trơ hai thanh sắt đường tàu bắc ngang để người qua lại, còn hai bên đầu cầu là hồ ao mênh mông, không thể lội qua được.

- Chúng mình bố trí ở đấy tốt lắm. Bộ binh địch không thể kéo qua đoạn đường nhỏ hẹp bằng hai thanh sắt được.

Đứng trong nhà ông Vũ Tạo, tôi đưa ống nhòm nhìn qua lũy tre về phía ngã tư Vọng thấy địch chỉ nấp trong nhà bắn ra. Xe tăng của địch đến gần cầu sắt phải dừng lại, chúng nã mấy phát súng vào con đường Route Cirouleirc - Đại La ngày nay. Hai chúng tôi giữ ở mặt này được một lúc thấy địch không có được thế tấn công nên quay về chỗ ngã tư Trung Hiền. Đứng nấp trong một ngôi nhà, tôi nhìn sang bên kia đường thấy một anh vệ quốc hy sinh trong tư thế ngồi, khẩu súng vẫn cầm trong tay. Tôi định chạy sang giúp anh, kéo xác vào trong nhà và thu lại khẩu súng thì nghe thấy tiếng hát "Bao chiến sĩ anh hùng..." và mấy bóng công an xung phong mặc áo xanh lá cây. Tôi tưởng lực lượng này mới lên tiếp viện nên còn khí thế lắm, liền đứng ra hè nói to: "Các anh ra kéo xác anh vệ quốc vào nhà và thu lại khẩu súng đi!" Bọn người này đừng lại vì thấy tôi hét to quá, nhưng họ không làm như tôi nói mà lại chạy nấp vào sau tường nhà bắn sang. Tôi chỉ kịp kêu lên "ô" một tiếng rồi cũng phải nhảy nấp vào sau thân cây đa. Thì ra đây là bọn Việt gian, giả làm công an xung phong đánh từ trong làng Hoàng Mai ngược lên ngã tư Trung Hiển để bọc sau lưng lực lượng chiến đấu của ta.


Tôi cũng nhằm vào chúng bắn trả. Một lúc thấy chúng chạy ùa ra chỗ ngã tư, tôi liền tung theo quả lựu đạn. Tiếng nổ vang ngay giữa mặt đường. Mảnh gang bay rào rào, chém gẫy mấy cành đa làm tôi phải cúi đầu xuống để tránh. Khi ngẩng đầu lên tôi không còn thấy bóng tên nào nữa. Tôi chờ vài phút mới sang bên kia đường, nhặt lấy khẩu súng trường của anh vệ quốc hy sinh trên hè, rồi rút lui xuống mạn dưới đi vòng vào trong làng Hoàng Mai. Trong làng lác đác có vài ngôi nhà lá bị địch đốt cháy, tàn gianh và khói phủ kín ngõ xóm. Tôi cứ theo đường làng đi mãi xuống phía dưới. Đến chỗ làng Sét gặp mấy anh vệ quốc bố trí ở đây, nhưng không phải là đơn vị của anh Tấn nên chỉ đưa cho anh em khẩu súng, rồi đi tiếp ra cuối làng mới gặp đơn vị anh Tấn. Cả đêm hôm ấy, tôi lại cùng đơn vị của anh Tấn bố trí ngoài bãi tha ma bên rìa làng.


Trời rét buốt, sương giăng mù mịt, chúng tôi nằm trên cỏ ướt thấy người run cầm cập, chờ địch đánh xuống sớm, thoảng có mùi hương thơm, nghĩ ngay có thể đến gần ngày Tết rồi, nhưng lúc này thì không ai còn nghĩ đến Tết nữa mà chỉ chờ nổ súng đánh địch. Mấy ngày hôm sau, tình hình địch tạm lắng yên, đơn vị của anh Tấn rút về đóng ở Pháp Vân, Đuôi Cá. Ngày ngày, tôi và anh Tấn lên đường tàu, nhìn về phía làng Tám im lìm, xa xa là Hà Nội chỉ còn vật vờ vài đám khói, lòng thấy nôn nao khó tả. Lời thề "Quyết sống chết với Thủ đỏ" làm tôi day dứt vì giờ này trong tay tôi không còn lực lượng tự vệ nào và tôi đã phải rút ra tận nơi đây, đằng sau tôi là cánh đồng mênh mông và Đầm Mực mờ trong sương.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Bảy, 2022, 06:59:49 am
Đóng mấy ngày ở Pháp Vân trong ngôi nhà gạch độc nhất còn sót lại ngay ven đường số 1, tôi được tin anh Qua đã về làng Đại Từ, đóng trụ sở ở nhà anh Mão. Nhà anh Mão nghèo xơ xác ở tận mé cuối làng, qua rặng tre là nhìn về sân bay Bạch Mai, cũng đã bị địch chiếm đóng rồi. Ở trong nền nhà anh Mão có đào con đường hầm qua tường đất ra bụi tre sau làng. Ở đây tỏi lại gặp đội hoả thực của chị Trinh đóng trong ngôi nhà gạch to lớn. Thấy tôi đến bất ngờ, chị Trinh vội chạy ra ôm lấy tôi, xúc động nói: "Tuấn đấy à! Chị cứ tưởng em hy sinh rồi vì không có tin gì về em: Qùy và Hùng cũng về qua đây, chị hỏi tin em nhưng không ai biết gì. Em gầy nhiều quá! Em ở lại đây vài ngày để nghỉ ngơi cho lại sức!"


Tôi còn lưỡng lự, chị Trinh cứ kéo tôi vào nhà hối hả giục mấy chị giết gà nấu cháo cho tỏi ăn và đun nước cho tôi tắm.

Đến tối hai chị em ngồi nói chuyện với nhau bên ngọn đèn dầu. Các anh chị trong đội hỏa thực ngồi nghe tôi nói chuyện mới hiểu rõ chiến sự trên đường phố. Cuối cùng tôi hỏi chị Trinh:

- Anh Ninh cao đâu rồi? Em gặp anh ấy lần cuối khi cùng tổ hoả thực đem cơm lên cho anh chị em tự vệ vừa thoát vòng vây ở nghĩa địa Sài Gòn.

- Anh Ninh đã được kết nạp vào Đảng, chuyển sang công tác tuyên huấn bên Thành ủy rồi. À! Chị có món quà này cho em.

Chị Trinh nói xong vào buồng, lúc quay ra tay cầm gói giấy nhỏ.

- Chị tưởng em đã hy sinh. Nhớ đến đồng chí trong chi bộ mới sinh hoạt với nhau được vài buổi nên chị thêu chiếc khăn này để giữ làm kỷ niệm về em. Nhưng bây giờ em còn sống và gặp em ở đây, chị trao cho em đấy.

Tôi mở gói giấy thấy chiếc khăn quàng đỏ bằng lụa, góc khăn có thêu hàng chữ "Nhớ về em... Cảm tử quân Lê Tuấn".

- Ôi chị phong cho em danh hiệu này à? Ngoài em ra còn biết bao anh chị em tự vệ, cứu thương, liên lạc cũng gan dạ dũng cảm đánh giặc chứ có phải mình em đâu!

- Thì tất cả các anh chị em tự vệ đều là những chiến sĩ cảm tử, nhưng chị chỉ biết em vì qua nhiều anh chị em tự vệ về qua đây, cả mấy chị cứu thương cũng đều kể chuyện về em. Em xứng đáng với điều đó.

Chị Trinh vừa nói, vừa quàng chiếc khăn vào cổ cho tôi. Tôi cũng thấy sung sướng, nhưng lại bùi ngùi nhớ đến anh Bảo, anh Tuân, em Lương và một số các anh tự vệ khác đã hy sinh, đổ máu trên đường phố, giữ trọn lời thề "Sống chết với Thủ đô".


Hai hôm ở với chị Trinh được chị chiều chuộng, săn sóc. Tôi giữ chiếc khăn quàng của chị cho mãi đến ngày tôi đóng cơ quan ở làng Bồ Nâu, Thanh Oai, bị địch nhảy dù bao vây, chỉ ra thoát người, còn đành bỏ lại mọi tư trang, trong đó có chiếc khăn của chị Trinh và chiếc ống nhòm của anh Tấn tặng từ ngày đầu kháng chiến.


Ít lâu sau tôi được anh Qua nhắn tìm về chỗ anh Hoàng Mỹ đang ở làng Đại Mỗ, bên kia thị xã Hà Đông. Tôi lên Pháp Vân để từ biệt anh Tấn về nhận nhiệm vụ mới của công an. Chúng tôi chia tay nhau hẹn sau này sẽ còn gặp lại nhau. Trên đường về làng Đại Mỗ, tôi được tin bộ phận cứu thương của chị Hải đang đóng ở làng Cự Đà, tôi qua đó để may ra gặp được chị Lan, thực hiện lời nhắn gửi cuối cùng của em Lương. Tôi đến làng Cự Đà cũng được chị Hải cưng chiều như chị Trinh, ở đây tôi còn gặp các chị cứu thương như chị Nghiêm (sau này là vợ anh Tài), chị Duyên (sau này là vợ anh Xuân Oanh), chị Lan và một số chị khác. Tôi cứ ngại ngùng không biết lựa lời nói thế nào cho tiện với chị Lan. Báo tin vui thì dễ, nhưng báo tin buồn như thế này sao mà khó nói quá.


Ở Cự Đà, tôi được các chị chăm sóc từ cái tóc, đến ăn mặc, nhưng vẫn không thấy lòng thanh thản như khi ở chỗ chị Trinh. Tôi cứ ngập ngừng, nhất là khi chị Lan muốn gặp tôi, nhưng thấy các chị đang tíu tít nói chuyện thì chị lại lảng ra chỗ khác.


Mãi đến tối khi ngồi nói chuyện với chị Hải, chị Lan mới đến sau tôi hỏi khẽ: "Em Lương không đi với anh nữa à?"

Tôi tái mặt, lặng im không nói, tay cứ thọc vào túi quần định lấy gói đồng hồ mấy lần lại thôi. Chị Lan như đoán được ra điều gì không hay đã xảy ra với cậu em trai của chị, nắm vội lấy cánh tay tôi, hỏi dồn dập, nước mắt đã lưng tròng:

- Anh Tuấn! Anh nói đi. Em Lương của em ra sao rồi?

Tôi quay mặt đi thầm chùi nước mắt, lấy chiếc gói đồng hồ trong túi đưa cho chị Lan, nói ngập ngừng: "Em Lương hy sinh rồi! Em có gửi lại kỷ vật này cho chị để chị chuyển biếu cho mợ em!"

Chị Lan đỡ lấy chiếc đồng hồ, nhìn chằm chằm vào đấy, người như đã hoá thành đá. Một lúc lâu chị bật oà lên khóc nức nở: "Em Lương ơi! Sao em bỏ cậu mợ và chị đi nhanh đến thế!"

Buổi tối hôm ấy ở chỗ chị Hải, không khí u buồn nặng nề. Ai cũng im lặng để chia sẻ với nỗi đau của chị Lan. Tôi cũng không biết nói gì hơn, chỉ lặng im nhìn chị, trong lòng nôn nao thương nhớ em Lương, nhớ đến hình ảnh từ ngày đầu em đến với tôi và hai anh em luôn đi với nhau cùng chiến đấu trên đường phố.


Sáng hôm sau, tôi vội vã từ biệt các chị để đến Đại Mỗ gặp anh Hoàng Mỹ. Tôi gặp chị Lan sau cùng, khi chị đưa chân tôi ra đầu ngõ xóm, chân bước đi mà lòng càng thấy đau thương, cố nén tiếng khóc để chào tôi: "Anh Tuấn đi cho mạnh khoẻ nhé!"


Nhìn chị hai mắt đỏ hoe sưng húp, tôi biết đêm qua chị đã khóc nhiều và không ngủ được. Trước khi quay đi, tôi mạnh dạn nắm lấy tay chị nói nhanh: "Chị giữ gìn sức khoẻ nhé! Tôi đi đây!"

Cuộc chia tay bên bờ sông Nhuệ đầu năm 1947 với chị Lan, ai ngờ mãi đến năm 1956, đúng mười năm sau, tôi đang công tác ở Sở Công an Hà Nội bị gai sụn ở mũi phải vào bệnh viện Bạch Mai để bác sĩ Lợi mổ, tôi lại gặp chị Lan đang làm y sĩ ở đây. Chúng tôi hàn huyên câu chuyện và tôi biết được tin chị đã lập gia đình và có cậu con trai lên 6 tuổi. Tôi mừng thầm cho chị, và không nhắc lại chuyện cũ mà chỉ hỏi thăm sức khoẻ ông bà và gia đình chị với cháu nhỏ.


Mấy năm sau, tôi được tin chị đã thi đỗ bác sĩ và sau năm 1975, chị đã cùng gia đình chuyển cả vào miền Nam công tác. Tôi nghĩ mọi đau thương rồi cũng qua đi, người ta sống để nhìn về phía trước, gạt mọi khó khăn của cuộc đời để hướng về tương lai. Cũng như tôi, đến năm 1953 được tin em trai tôi là Tuấn Em đã hy sinh ngay ở cửa ngõ Thủ đô Hà Nội, cũng cố nén đau thương để hoà nhập với cuộc sống cứ ào ào lôi cuốn mọi người theo dòng đời chìm nổi đó đi lên.


Tôi gặp lại anh Hoàng Mỹ ở làng Đại Mỗ, anh thấy tôi ở mặt trận về mà trông gọn gàng, sạch sẽ, cười bảo:

- Tuấn đánh giặc thế đủ rồi! Bây giờ trở về với nhiệm vụ cũ.

Tôi ở Đại Mỗ được chị Tâm "lồi" chăm sóc, luôn bắt tôi trước khi ăn cơm phải uống thuốc bổ máu. Và cũng lạ thật! Hơn hai tháng lăn lộn ở mặt trận, những cơn sốt rét như bỏ rơi tôi, không hành hạ lần nào. Có thể vì chiến sự liên miên và tôi chỉ lo chiến đấu nên quên cả những cơn "nhớ rừng", ở Đại Mỗ, anh Hoàng Mỹ đã thưởng cho tôi khẩu Colt 12, nhãn "Ngựa bay" với đầy đủ bao da đựng súng, thắt lưng và hai sạc-giơ đầy đạn, nước thép còn xanh biếc. Anh bảo tôi:

- Mình tặng Tuấn khẩu súng do bọn tình báo Mỹ-Anh trang bị cho bọn 5 người chúng mình được chúng thả dù xuống miền Bắc để hoạt động tình báo cho chúng. Nhưng thực ra là chúng đã "thả hổ về rừng". Mình đã nhảy dù xuống vùng Miếu Môn cùng với khẩu súng này và đôi guốc mộc để hoá trang ngay khi xuống mặt đất.

Tôi cũng đưa biếu lại anh khẩu Chiêu Hoà đã cùng với tôi chiến đấu ròng rã 1 năm trời ở Lào và trong 2 tháng ở Liên khu II. Tôi cũng kể lại chuyện tôi đã lấy trộm dược khẩu Chiêu Hoà của tên sĩ quan Nhật say rượu.

Anh Hoàng Mỹ chi cười và nói: "Khẩu súng của Tuấn cũng có giá trị đấy chứ!"

Ngày 3-3-1947, Pháp chiếm thị xã Hà Đông, anh Hoàng Mỹ và chúng tôi phải chuyển lên Thanh Quang, rồi So, Sở, Dương Cốc, Bương Cấn... Cuối cùng anh bảo tôi và anh Tài: "Mình lên Việt Bắc thành lập Cục Tình báo. Các cậu lùi mãi không được mà phải trở về bám lấy Hà Nội để hoạt động, không thể chạy xa hơn dược nữa..."


Rồi anh chia người: Nguyễn Vũ, Tuấn Em lên Việt Bắc với anh để thành lập Cục Tình báo. Anh Tài, tôi, anh Quỳ, anh Hùng ở lại Hà Nội cùng với anh Lê Hữu Qua để lập Ty Công an Hà Nội. Anh Hoàng Mỹ bảo tôi: "Tuấn về làm quận trưởng Công an quận 5. Công an quận 6 do Quỳ làm quận trưởng đã nhận nhiệm vụ từ tháng 2-1947 rồi. Anh Qua tạm thời phụ trách quận 5 để chờ bàn giao cho Tuấn rồi anh lên thành lập Ty Công an Hà Nội do anh làm trưởng ty và Nguyễn Tài làm phó ty."

- Em đánh giặc thì được, còn làm quận trưởng công an thì chưa biết ra sao?

- Cứ làm đi, rồi sẽ hiểu rõ nhiệm vụ. Trong chúng mình có ai được học hành nghiệp vụ này đâu, cũng như Tuấn ngay từ đầu chưa hiểu gì về chiến trận mà cũng đã chỉ huy đơn vị đánh quân Pháp ròng rã một năm trời khắp vùng Thượng Lào đấy thôi. Cứ vừa làm nhiệm vụ vừa học hỏi là làm được tốt công việc.

Cuối tháng 3-1947, tôi về làng Bối Khê thuộc huyện Thanh Oai, Hà Đông gặp anh Lê Hữu Qua để nhận nhiệm vụ mới. Và cũng từ ngày đó, với cương vị là quận trưởng Công an quận 5, tôi bắt tay vào công việc mới mẻ này.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Tám, 2022, 07:13:39 pm
4. Làm quận trưởng Công an Hà Nội

Tôi về làng Bối Khê tìm đến nhà ông Hồng Khê, chuyên bán thuốc chữa bệnh lậu ở bờ hồ Hoàn Kiếm, là nơi anh Qua đóng trụ sở. Vừa bước chân vào đến sân, anh Qua ngồi trong nhà thấy tôi liền chạy ra hiên cười, nói: "Mải mê chiến trận thế! Mình chờ Tuấn hơn một tháng nay để bàn giao công việc quận 5 cho cậu."


Rồi anh quay lại bảo anh Mão1 (Anh Mão sau này là đại tá Trần Kiên, Cục trưởng Cục chống gián điệp Mỹ): "Anh gửi giấy triệu tập các trạm trưởng về họp để giới thiệu anh Tuấn là quận trưởng mới của Công an quận 5".


Chúng tôi đang nói chuyện thì thấy anh cấp dưỡng lên gọi xuống nhà ngang ăn cơm. Vừa thoáng thấy người tôi đã gọi toáng lên: "Bác Đại! Bác cũng ở đây à?"

- Tuấn cũng quen anh Đại đấy à?

- Tôi còn nợ bác ấy mấy hào phở đấy!

- Sao?

Hồi trước cách mạng tháng Tám, nhà tôi ở phố Hòa Mã (Amiral Sénès) sáng nào đi học đến trường Thăng Long cũng phải đi qua phố Thi Sách (Hérel de Brisis) tạt vào hàng bán phở gánh của bác Đại. Hồi ấy phố Thi Sách chỉ có dãy nhà bên số chẵn, còn bên số lẻ, chỗ đoạn đầu phố rẽ sang phố Hoà Mã thì còn là bãi cỏ hoang, bụi tre um tùm, ruộng rau muống và ao bèo... kéo dài ra tận phố Luro (Lê Ngọc Hân).


Tôi vẫn ăn phở 2 xu một bát của gánh phở bác Đại và còn nợ bác mấy hào thì cách mạng tháng Tám thành công, tôi vào Giải phóng quân sang chiến đấu chống Pháp, Tây tiến sang Lào cuối tháng 8-1945, vì vậy vẫn chưa trả nợ cho bác Đại.


Bác Đại lớn tuổi hơn tôi nhiều, có vợ và có con, hôm nay tình cờ gặp lại tôi bác chỉ cười hềnh hệch làm cho khuôn mặt phúc hậu nhăn nheo của bác thêm nét già nua: "Bây giờ anh đã là quận trưởng, cấp trên của tôi, anh cứ gọi tôi là anh cho tiện!"


Trong bữa ăn còn có mấy em giao thông cả trai và gái sàn sàn cùng độ tuổi 14-15 như nhau, như em Quý, em Đoan, em Đa, em Tăng1 (Tăng sau này là đại tá Thọ). Các em quen biết tôi từ ngày tôi còn huấn luyện các em về quân sự ở Chùa Tổng, anh Nguyễn Tài huấn luyện các em về chính trị và tinh thần kháng chiến cứu nước.


Ăn cơm xong, các em nhận công tác đi ngay lên các trạm tình báo ở xa, thường là sát với vùng địch tạm chiếm.

Sáng hôm sau, tôi vừa ăn sáng xong đã thấy ngoài sân có tiếng người nói lao xao, có lẽ các anh phải đi từ đêm mới về kịp đến đây sớm đến thế.

- Anh Qua! Có quận trưởng mới rồi đấy à?

- Ừ! Mình triệu tập các cậu về để giới thiệu anh Tuấn là quận trưởng mới của Công an quận 5 - Hà Nội. Anh Tuấn cũng là cán bộ cũ của Sở Công an Bắc Bộ, anh làm ở Phòng Chính trị cùng với anh Tài, anh Vũ, do cụ Bùi Đức Minh làm chủ sự phòng.

Chúng tôi chào hỏi nhau xong là vào họp ngay. Anh Lê Hữu Qua giới thiệu qua vài nét về hoạt động cách mạng của tôi hồi bí mật, và chuyện chiến đấu của tôi ở Lào, rồi ở Liên khu II.

- Các anh đây cũng là cán bộ cứa Sở Công an Bắc Bộ như: anh Đình1 (Anh Đình sau là trung tá, chuyên viên ở Lào, đã mất) trạm trưởng tình báo, phụ trách khu vực từ Ba La - Bỏng Đỏ xuống đến Cự Đà; Anh Trường2 (Anh Trường sau chuyển công tác sang Sở Giao thông) phụ trách trạm từ khu vực ven sông Đáy đến huyện Thanh Oai xuống đến Kim Lâm - Kim Bài; Anh Bá3 (Anh Bá, sau là đại tá, phó cục trưởng cục Lao cải) phụ trách khu vực từ Ngã tư Sở đến Cầu Giấy gồm các làng Mọc, làng Láng, làng Cót và Mễ Trì; Anh Dân4 (Anh Dân sau là phó cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh) phụ trách từ Khương Đình đến làng Lủ; Anh Thuyên phụ trách trạm giao thông ra vào nội thành; Chị Xuân phụ trách trạm giao thông vùng tự do và đường lên Ty Công an Hà Nội; Còn anh Ngọc5 (Các anh chị Thuyên, Xuân, Ngọc không có tin tức gì) phụ trách đội hành động, gọi tắt là Đội 8. Đội này có hơn 10 anh em, được vũ trang đầy đủ để làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở và đường dây vào nội thành, chống phục kích của bọn Pháp.


Quân số của mỗi trạm có độ 10-12 người. Còn bộ phận văn thư chỉ có anh Hồng Mạc1 (Anh Hồng Mạc là Bùi Đức Lập, chủ nhiệm Ủy ban ngoại kiều, con cụ Bùi Đức Minh) và mấy em giao thông, anh Đại là cấp dưỡng. Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc, tôi hỏi nơi các anh ở cụ thể thì các anh cho tôi biết là thường ở lưu động các làng thuộc khu vực chịu trách nhiệm mà không ở nơi nào lâu. Nếu tôi có muốn lên thăm các anh thì cứ đi theo giao thông vì các em luôn được báo nơi ở mới của các trạm trưởng.


Buổi họp mặt giới thiệu nhau diễn ra đơn giản, nhanh chóng, sau đó mọi người lại giải tán ngay để các trạm trưởng còn về sớm cho kịp trước trời tối. Hôm sau, anh Qua thu xếp vài vật dụng riêng, nói chuyện thêm với tôi về nhiệm vụ của quận trưởng, để sáng hôm sau anh lên đường về Ty.


Vài ngày sau, anh Tài gửi cho tôi cuốn sách "Service de renseignements"1 (Cơ quan thu thập tin tức) của Phòng Nhì Pháp, để tôi nghiên cứu cách tổ chức và hoạt động của nó, áp dụng vào hoàn cảnh của mình.


Tôi xem cuốn sách xong liền sang bên quận 6, trao đổi với anh Lê Quang Hoà, là quận trưởng Công an quận 6 để cùng bàn cách xây dựng tổ chức điệp báo cho minh. Nhiệm vụ của chúng tôi ở thời kỳ đầu cũng đơn giản, chủ yếu là thu thập tin tức về địch ở trong nội thành. Lúc tôi về làm quận trưởng Công an quận 5 thì anh Nguyễn Thi là chủ tịch Ủy ban hành chính, kháng chiến quận 53 (Anh Thi sau chuyển sang Cục Lưu trữ quốc gia, đã mất). Sau khi anh Thi chuyển đi thì anh Hà Đăng Ấn1 (Anh Ấn sau chuyển sang làm cục trưởng Cục Xe lửa, đã mất) thay làm chủ tịch rồi chuyển sang làm bí thư Đảng quận 5, và anh Phạm Dụ làm chủ tịch Ủy ban2 (Anh Dụ sau chuyển sang làm giám đốc Phòng Nhà cửa Hà Nội, vẫn còn sống). Hồi đó rất ít khi có những cuộc họp chung, vì trụ sở của Đảng ủy quận và của Ủy ban hành chính, kháng chiến đóng ở dưới hậu phương xa, mà trụ sở Công an quận lại thường đóng sát ở ven vùng địch chiếm đóng, để chỉ đạo công việc của các trạm điệp báo cho kịp thời. Vì vậy khi có chủ trương mới thường các anh lên gặp tôi ở nơi đóng trụ sở để bàn bạc công việc.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Tám, 2022, 07:14:31 pm
Thời gian này, địa bàn trong nội thành Hà Nội gần như bỏ trống. Công an cũng chỉ mới nắm được tình hình địch ở vùng ven nội thành, chưa đi sâu được vào trong các phố. Khi giặc càn quét đến làng Bối Khê tôi chuyển sang làng Hống, gần cầu Chiếc, lúc này đã là cuối tháng 5-1947. Qua mấy tháng nắm tình hình tổ chức và hoạt động của Công an quận 5 tôi đã thấu rõ nhiệm vụ công tác của công an hoạt động trong lòng địch, nên bắt đầu đưa người đủ các thành phần vào gây cơ sở trong nội thành, nhất là nhân dân Hà Nội sau những tháng tản cư đã lác đác trở về Hà Nội. Tôi đã giao nhiệm vụ cho các trạm tình báo cần lợi dụng các gia đình hồi cư, xem xét nguồn gốc của họ, tạo điều kiện cho họ trở về nội thành và nếu thấy hoàn cảnh thuận lợi thì cài thêm cán bộ của mình vào với những gia đình ấy để hoạt động. Khi cơ quan Công an quận 5 đóng ở làng Hống, tôi đã gặp một bà già gồng gánh, dắt díu 4 em nhỏ, ngồi khóc bên đường. Tôi hỏi thăm biết già là người vú nuôi, bố mẹ các em còn mắc lại trong nội thành, có anh trai đi theo kháng chiến nhưng bà không biết ở đâu. Lúc này các em bị đói, khóc mếu trông thật tội nghiệp, tôi liền đưa các em và bà già về nuôi ở trụ sở và hỏi thăm tên người anh trai của các em. Sau đó tôi được biết anh của các em là Trần Phi Hiển1 (Anh Hiển sau này là bác sĩ gây mê ở bệnh viện Việt Nam - Cu Ba, đã về hưu, nhà ở phường Bách Khoa), lúc đó đang hoạt động ở đội tuyên truyền xung phong của quận. Tôi báo cho anh Hiển đến gặp các em, thấy các em gái nhỏ được chăm sóc nuôi nấng chu dáo, anh Hiển cảm động nhận tôi như người anh của gia đình. Tôi được anh cho biết bố mẹ anh vẫn ở số nhà 48 phố Henri d'Orhéans (Phùng Hưng). Tôi cũng không thể nuôi các em theo cơ quan mãi được nên khi anh Hiển ngỏ ý xin giúp cho các em gái của anh trở về với bố mẹ, tôi thấy đây là dịp tốt để đưa người vào nội thành, nên đồng ý ngay. Tôi đã cử chị Chén, nhận nhiệm vụ đi theo các em về Hà Nội2 (Chị Chén hoạt động trong nội thành, sau về công tác ở Bộ Công an, nhà ở Hào Nam. Chị về nghỉ hưu, sống đến gần 90 tuổi mới mất). Khi các em của anh Hiển được đưa vào nội thành thì em gái lớn của anh cũng chỉ độ 14-15 tuổi, nhất định xin ở lại ngoài kháng chiến làm giao thông liên lạc cho tôi. Em tên là Diệu Tần, thấy tôi cũng có mấy em gái nhỏ như em Quý, em Đoan làm liên lạc, nên cũng muốn ở lại ngoài kháng chiến mà không muốn về vùng địch chiếm. Anh Hiển cũng đề nghị tôi chấp nhận cho em được theo nguyện vọng. Em Diệu Tần líu ríu mừng rỡ và sau đó tôi đi công tác đến nơi nào, em cũng đi theo. Mãi sau này khi tôi lên Việt Bắc vào gần cuối năm 1949, tôi đã chuyển các em giao thông gái sang chỗ chị Hải (Kha) để chị phụ trách chung các em giao thông nữ khi quận 5 và 6 giải tán trở thành quận Trấn Nam.


Với chủ trương đưa người của công an vào nội thành theo đường nhân dân hồi cư, tôi đã nắm được nhiều tình hình địch trong nội thành. Hồi đầu năm 1947, sau khi bộ đội các liên khu đã rút hết ra vùng tự do, Pháp đã bắt đàn ông, thanh niên còn ở lại trong nội thành, đi thu nhặt hết các xác chết nằm ở trong những nhà thuộc khu phố có chiến sự, đem chôn tập trung vào một hố lớn dài, bên cạnh toà án (sau này là chợ 19-12, mà nhân dân quen gọi là chợ Âm Phủ). Nhân dân hồi cư về Hà Nội cũng chỉ tập trung ở phía bắc Hồ Gươm và tuỳ tiện tìm nhà để buôn bán sinh sống1 (Lúc đầu trở về Hà Nội, nhiều gia đình thấy tiện nhà nào còn vắng chủ là cứ chuyển đến ở để làm ăn buôn bán, nên sau này khi hoà bình lập lại đã nẩy sinh nhiều chuyện rắc rối về đòi nhà cửa, nhưng phần lớn những gia đình bị mất nhà đã không còn lưu lại được giấy tờ sở hữu nhà cửa và đất đai). Còn ở phía Nam thì phố xá vẫn còn thưa vắng. Nhân dân chỉ ở lác đác trong những nhà thuộc khu phố Huế, là đường trục chính, vì ở khu phố mạn dưới này vẫn chưa có điện, nước. Những anh, chị em và giao thông vào hoạt động trong nội thành, ban ngày lên các khu phố trên để thu thập tình hình hay kiếm việc làm ăn, ban tối lại về ở tạm trong những nhà còn vắng chủ... Công an quận 4 và quận 6 cũng đã đưa được nhiều người vào hoạt động trong nội thành. Và như vậy bước đầu đã hình thành một mạng lưới tình báo hoạt động trong nội thành của Công an Hà Nội.


Lúc đầu vì chưa biết cách làm căn cước giả nên những cán bộ được đưa vào hoạt động trong nội thành phải đút lót tiền cho trưởng phố để mua thẻ căn cước (Titre d'iđentité) để hợp pháp hoá và hoạt động công khai.

Mùa hè năm 1947, Pháp càn quét xuống vùng cầu Chiếc, tôi phải chuyển cơ quan xuống làng Văn Quán. Trong trận giặc càn vào làng Hống, có đi qua làng Sái, và sau khi chúng rút lui, công an đã bắt giữ một chủ gia đình treo cờ trắng khi quân Pháp vào làng. Khi tôi gặp người bị bắt được ông cho biết tên là Tạ Duy Hiển, chủ rạp xiếc. Nghe đến tên này tôi mới biết đây là ông chủ rạp xiếc nổi tiếng, và thấy ông chỉ sợ chúng phá nhà cửa nên mới phải làm như vậy, nên tôi đã trả tự do cho ông.


Một sáng khi tôi ở làng Văn Quán nhìn về phía Hà Nội, chỗ Ngã tư Sở, Phương Liệt không còn thấy cột vô tuyến. Ngày hôm sau cơ sở nội thành báo cáo ra là quân Pháp sợ để cột vô tuyến cao dễ làm chuẩn cho ta pháo kích nên đã cho lính công binh dùng mìn đánh đổ. Sau đó chúng đã xây ở ngã tư này một lô cốt kiên cố để kiểm soát người ra vào nội thành.


Ở đây tôi xin nói qua về khái niệm địa dư hoạt động của công an quận 5 và quận 6. Vùng hoạt động của chúng tôi hồi đó rất rộng, gồm một số vùng của các huyện thuộc Hà Đông như Thanh Oai, Thanh Trì. Còn trong nội thành thì cả ba quận 4-5-6 đều có người hoạt động chung theo hoàn cảnh khi cài được người vào, mà không phân biệt ranh giới khu phố. Nhưng cũng do địa lý của người dân khi hồi cư về nội thành, vô hình chung đã gần như phân chia ranh giới, quận 4 hoạt động mạn Bắc thành phố, còn phía Đông-Nam-Tây Hà Nội do người của quận 5 và quận 6 hoạt động chung. Từ cơ sở đó về sau vào cuối năm 1949, ba quận 4-5-6 đều giải tán để thành lập hai quận mới gọi là Trấn Tây và Trấn Nam. Và có thay đổi tổ chức, anh Lê Quang Hoà được cử sang Trung Hoa học lý luận, còn tôi thì chuyển sang làm trưởng ban Điệp báo miền Nam Hà Nội, Anh Xuân Vũ1 (Sau là chánh văn phòng Bộ Công an, đã mất) về làm quận trưởng Trấn Nam. Địa bàn của quận Trấn Nam gồm cả khu vực quận 5 và 6 cũ nên rất rộng kể từ ô Đông Mác dọc theo bờ sông Hồng xuống đến bên dưới Khuyến Lương; từ ngã tư Phương Liệt xuống đến Huỳnh Cung, Văn Điển, rẽ theo sông Nhuệ, chảy qua Đa Sĩ, Mậu Lương... về làng Rùa, làng Trừ - xuống đến Đồng Quan rẽ ra Tía, phía bắc Hà Đông thì Ba La - Bông Đỏ, Xốm, Thạch Bích, theo bờ sông Đáy xuống đến Chuông, Miêng, Ngã tư Vác, rồi rẽ về Đồng Quan...


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Tám, 2022, 07:15:18 pm
Các trạm tình báo của công an ngày càng tiến sâu về nội thành, nhưng các cơ quan hành chính của quận thì càng lùi xa mãi về tận Vân Đình.

Khi đóng cơ quan ở làng Văn Quán tôi thấy địa thế chơ vơ giữa cánh đồng chiêm, nên rất bất lợi khi địch càn xuống, khó có đường lui. Vì vậy tôi đã chuyển cơ quan về làng Bồ Nâu. Làng to, dân đông, có chợ họp theo phiên và liền sát với làng Úc Lý, dễ cơ động di chuyển cơ quan. Thời kỳ đóng trụ sở ở làng này, tôi đã cử một số cán bộ, nhân viên vào hoạt động trong nội thành, như anh Viên tức Bảo Hùng, nay là đại tá công an Hà Nội đã về hưu, như cô Quý, cô Đoan, chị Xuân, cô Vân đã hoạt động tích cực trong nội thành. Đến nay có người đã mất như chị Xuân, cô Đoan... Nhưng cũng có người đã phản bội, đầu hàng địch như Nghĩa "Mu-tê", vì là người lai nên anh en gọi đùa là Moutet, tên một thực dân cũ. Hay như tên Tốn đã đem cả súng về đầu hàng địch và được chúng cho làm ở Sở Mật thám. Khi hoà bình lập lại, ta còn phải dùng một số nhân viên lưu dung. Tôi gặp tên Tốn hỏi về sự đầu hàng của hắn. Tốn rất sợ bị tôi hành hạ, nhưng thực ra ta có chủ trương sử dụng lưu dung và ít lâu sau thì cho họ nghỉ dần, mà không dùng họ nữa. Tên Tốn đã chết mấy năm sau vì bị ho lao.


Đêm 26-6-1947, tôi vừa đi kiểm tra tình hình các trạm tình báo ở vùng địch về đến nơi ở, gặp trời mưa rào nên người ướt như chuột lội. Về đến nhà, tôi thay quần áo vứt ra chỗ giọt nước mái tranh để cho sạch hết bùn đất rồi mới giặt sau. Tôi vào nhà được anh Mão lấy cho bộ quần áo khô để thay, rồi đi nằm ngay vì thấy người lên cơn sốt. Anh Mão lấy mấy viên thuốc Dagenan cho tôi uống, rồi mới đi ngủ. Thời kỳ đó ai ốm đau dù là bệnh gì cũng chỉ có thuốc Dagenan để uống, kể cả sốt rét. Thuốc này coi như chữa bách bệnh, nên về sau những anh em nào nhận nhiều nhiệm vụ cùng một lúc thì anh em gọi đùa là "Cán bộ Dagenan".


Tôi đang mơ màng ngủ, người sốt nóng hầm hập, chợt nghe tiếng em giao thông gọi to: "Anh Tuấn ơi, Pháp thả võng (dù) quanh làng rồi." Tôi choàng ngay dậy, lắng nghe rõ tiếng máy bay ầm ầm trên đầu, liền chạy ra sân nhìn lên trời thấy địch đã thả quân dù trắng, đỏ trên trời, quanh làng. Tôi vội thắt lưng khẩu súng ngắn, gọi anh Mão giấu máy chữ xuống hồ nước mưa, và bảo các anh em tản ra tự đi lẫn vào với nhân dân tìm cách thoát ra khỏi làng, mà không nên đi tập trung dễ bị địch bắt cả. Còn tài liệu thì giấu vào đống rơm hay chỗ bụi rậm nào đấy, phủ kín rơm, rạ hay rác lên đế che giấu. Tôi đem theo ba em, hai trai, một gái đi sau cùng, khi đã thấy anh em trong cơ quan trà trộn vào đám đông nhân dân đang chạy túa ra cánh đồng. Lúc này địch vừa nhảy dù xuống đất, chúng còn đang lúng túng thu dọn lại dù và lóp ngóp từ các cánh ruộng chiêm để tìm đường lên bờ, vào làng... Tôi chọn phía sau làng là cánh đồng chiêm trũng khá sâu, lúa tốt um tùm, để thoát ra. Nhìn qua bụi tre gai kín mít, tôi thấy bọn lính địch đã có nhiều tên xuống đến đất, đang bì bõm lội ruộng chiêm lên bờ. Tôi biết chúng đã sơ hở bỏ qua vùng chiêm trũng phía sau làng nên lách mình qua bụi tre gai, mặc cho gai nhọn cào xước cả da thịt, vạch cành lá cho các em giao thông chui ra thoát, rồi lẩn ngay vào ruộng lúa cao, cứ thế lách nghiêng người ra khỏi khu vực làng. Tôi dặn các em thong thả lách mình không để cây lúa đổ rạp dễ làm cho địch sinh nghi nổ súng làm bị thương vong.


Trườn ra hết ruộng lúa đến vùng đồng nước trắng mênh mông, có chỗ lội sâu đến cổ. Ra đến đây là có thể an toàn rồi, tôi nhìn lên phía làng Văn Quán thấy lố nhố bọn Tây trắng, Tây đen đang vừa đi vừa nổ súng bắn bừa bãi về phía làng Bồ Nâu. Khu vực đồng trũng này chỉ toàn cỏ lác. Xung quanh tôi cũng đã có nhiều người dân chạy được ra đến đây. Tôi bảo các em giao thông không đi lẫn vào đám đông dễ bị địch bắt. Mấy anh em chúng tôi cứ lội bì bõm dưới nước. Đến chỗ nào sâu quá tôi lại phải để các em ngồi lên vai, còn mình thì lội ngập đến cổ, một tay giữ lấy chân em giao thông, một tay khoả các con đỉa trâu cứ nhâu nhâu xông đến bám lấy chúng tôi để hút máu. Đưa từng em một qua chỗ nước sâu, tôi đã thấm mệt, và lúc này không còn thấy bóng địch, có lẽ chúng đã vào được làng Bồ Nâu cả rồi, tôi tìm một chỗ gò đất ngồi nghỉ lại. Nói là gò đất nhưng nước cũng đến gần ngang bụng hay quá đầu gối. Tôi ngồi xuống để cho hai em giao thông ngồi lên hai đùi gối của mình, hai tay em nào cũng rối rít xua đàn đỉa trâu dai đẳng bám theo. Trên người tôi đã có nhiều chỗ chảy máu loang ra cả bên ngoài áo. Được một lúc, có mấy người dân cũng tìm đến chỗ này để cho trẻ em nghỉ. Có người nhận ra tôi là quận trưởng công an nên lấy trong bị cói đội trên đầu một nắm khoai lang luộc phơi khô, đưa cho tôi để cho các em giao thông ăn khỏi đói. Tôi nhìn về phía làng Bồ Nâu thấy đã có vài đám khói lửa bốc lên cao và tiếng súng nổ ran trong các ngõ xóm. Ngồi nghỉ một lúc tôi tìm đường ra khỏi cánh đồng nước, băng qua đường nhựa đến làng Chuông, rồi qua sông đến trạm giao thông của quận 5 đóng ở làng Quảng Bị, trên đường lên Ty Công an Hà Nội.


Tôi nghỉ lại ở trạm giao thông này, mượn các em quần áo để thay, mặc cũn cỡn, nhưng không sao. Tôi lấy giấy viết báo cáo tình hình địch nhảy dù và hiện trạng chúng tôi đã chạy thoát ra khỏi làng, nhưng chưa nắm được tin tức có anh em nào sa vào tay giặc không. Báo cáo được chuyển lên Ty và một công văn chuyển sang quận 6 cho anh Quang Hoà biết tình hình.


Đến gần tối, tôi quyết định trở lại làng Bồ Nâu. Tôi chỉ đem theo em Quý vì em trông lớn và khỏe mạnh hơn các em kia. Hai chúng tôi vượt qua đường cái vào lúc trời đã tối, lao mình vào cánh đồng nước, nhẹ nhàng trườn đi. Do đã quan sát trước hướng đi nên hai chúng tôi đi nhanh được. Đêm hôm đó, trăng thượng tuần chỉ mỏng như lưỡi liềm, toả ánh sáng mờ ảo, tôi và em Quý đã lên được khu đồng ruộng cầy ải... Trời đêm đầy sao, ếch, nhái, ễnh ương kêu râm ran khắp nơi... Hai anh em cứ bò dần đến sát bìa làng mới dừng lại. Em Quý thì thào: "Để em lách bụi tre vào làng, anh chờ em ngoài này. Anh đừng vào làng... Em lo cho anh lắm..."

- Em cứ bình tĩnh theo sát bên anh, không sợ gì đâu!

Đến chỗ ruộng xâm xấp nước, tôi thấy bãi tha ma và trên gò cao hiện lên nền trời bóng tên lính địch đứng gác. Nó đứng tren cao nhìn xuống đồng nước tối đen khó phát hiện ra chúng tôi khi chúng tôi ở dưới nhìn lên. Tôi kéo em Quý bò chệch sang hướng khác, men theo bụi tre sau làng dẫn đến sát chân bãi tha ma. Trong làng vẫn im lặng, chỉ thấy một quầng sáng ánh lửa phía trước đình... Tôi nghĩ thầm: "Hạ tên lính gác này dễ quá!" và đưa mũi súng Colt 12 về phía nó... Nhưng đúng lúc ấy em Quý kéo tay tôi lại, hất đầu ra hiệu cho tôi thấy hai tên khác đang ngồi gác. Tôi nghĩ ngay: Nếu mình nổ súng có thể giết chết tên lính địch đứng trên gò, nhưng vệt lửa ở đầu nòng súng cũng đủ chỉ cho địch thấy nơi hai anh em tôi đang nấp. Tôi khẽ kéo em Quý lùi lại, nói thầm: "Anh em mình rút thôi! Tình hình trong làng thấy yên tĩnh lắm..."


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Tám, 2022, 07:16:11 pm
Lúc rút lui, tôi và em Quý cứ men theo bóng tối luỹ tre về phía đồng nước. Hai anh em bì bõm đến sáng thì về tới Quảng Bị. Ngày hôm sau, nóng ruột về tình hình các anh em khác không thấy về tập trung ở đây tôi bàn cách bảo em Hưng nhỏ tuổi nhất, mới lên 10, cởi trần truồng, cho đỉa cắn chảy máu vài chỗ rồi cứ thế tiến thẳng vào làng Bồ Nâu... Em Hưng theo cách tôi dặn, cởi trần truồng vừa đi, vừa khóc gọi "Mẹ ơi!" và tiến vào làng, đi khắp các ngõ rồi ra đình cũng không thấy có anh em nào bị địch bắt. Lúc em vào làng, có vài tên lính Pháp còn chế diễu nhại lại em: "Mẹ ơi! Hu... Hu...!"


Đến hôm thứ ba, tôi sang sông ra khỏi làng Chuông nhìn về Bồ Nâu thấy quân địch đang rút. Nhưng tôi chưa về cơ quan vội vì sợ vẫn còn quân Pháp đóng trong làng. Mãi đến chiều, nhìn trên mọi ngả đường và trên cánh đồng nhân dân gồng gánh, dắt díu nhau về làng, tôi yên tâm là địch đã rút hết rồi nên cùng ba em giao thông về Bồ Nâu. Tối hôm ấy, chúng tôi đã gặp lại nhau đầy đủ. Mọi người đều thoát ra an toàn. Duy chỉ có anh Thực1 (Sau này là đại tá Tâm, trước khi nghỉ hưu công tác ở Cục Hải quan Hà Nội) không kịp rút ra khỏi làng nên liều trốn vào trong bếp một nhà dân, sát bên chuồng lợn. Anh lấy dây khoai lang đắp kín lên người, ngồi thu lu trong góc bếp. Anh Thực kể: "Bọn lính Pháp và da đen sục vào bắt lợn, chúng bắn chết con lợn trong chuồng, hí hửng vác lợn ra đình làm thịt. Tôi nấp trong đống dây khoai lang, nhìn thấy chúng rõ mồn một và gần ngay cái chết nên lo lắng... Tối hôm ấy tôi theo chân một số bà con thoát ra khỏi làng mà địch cũng không kiểm soát gì cả! Đến ngã tư Vác, tôi vào nghỉ tại một làng và chờ địch rút hết quân mới về đây..."

Anh Mão nhìn tôi cười: "Cơ quan mình tưởng bị sập hết vào tay địch thế mà không ai việc gì... May quá!"

Anh ra hố nước vớt chiếc máy chữ lên, lấy giẻ khô lau chùi cẩn thận và ngay đêm hôm ấy, dưới ngọn đèn hoa kỳ leo lét, anh lại thản nhiên gõ máy đánh báo cáo, coi như chưa hề có chuyện địch nháy dù và chúng tôi vừa thoát ra khỏi cái chết ngay trên đầu...


Trong bản báo cáo tôi đã viết rõ mấy điểm về tình hình dịch nhảy dù xuống làng Bồ Nâu:

1. Địch có ý định nhảy dù để bắt sống các cơ quan công an và quân đội quận 5 đóng ở hai làng Bồ Nâu và Úc Lý sát cạnh nhau. Có thể là do cơ quan đóng còn chưa giữ được bí mật.

2. Địch nhảy dù xuống bao vây làng Bồ Nâu không có bộ binh địch đi kèm theo sau, như kiểu chúng thực tập một chiến thuật nhảy dù đột ngột để bắt sống cán bộ đầu não kháng chiến ở một địa phương.

3. Trong đợt tấn công bằng lính dù lần này, ở làng Bồ Nâu chỉ có một người điên vẫn lang thang sống bên cạnh chợ, hôm ấy anh thấy địch nhảy dù xuống liền vừa cười, vừa hô "Xung phong!" nên bị địch bắn chết... Tài sản như lợn, gà, chó trong làng bị thiệt hại nhiều. Có hai ngôi nhà nhỏ bị chúng đốt cháy...


Sau đấy, anh Tài, anh Hồng Hà và chị Hải đã đến nơi cơ quan của tôi họp rút kinh nghiệm vụ này. Gặp nhau chúng tôi cười vui vẻ. Anh Tài nói ngay: "Báo chí của địch trong Hà Nội đăng tin quân Pháp nhảy dù xuống làng Bồ Nâu thuộc huyện Thanh Oai, Hà Đông đã bắt sống được quận trưởng công an Lê Tuấn đấy!"


Chị Hải nói: "Hôm ấy bọn mình ở làng Rùa nhìn thấy dù của địch nở bung trắng, đỏ trên trời quanh làng Bồ Nâu đã yên trí là sẽ phải mặc niệm cậu Tuấn, vì cậu liều lắm, thấy địch là đánh, không chịu để sa vào tay chúng đâu!"


Anh Hồng Hà cười: "Thích nhé! Cậu Tuấn được xem quán Pháp biểu diễn nhảy dù ngay trên đầu..."

Trong cuộc họp, chúng tôi đã thống nhất nhận định về âm mưu của địch trong dịp nhảy dù xuống làng Bồ Nâu như cách để thực tập cho đợt tấn công ở địa phương nào đấy mà chúng tôi cho rằng, sẽ nhằm vào các địa điểm trên chiến khu Việt Bắc...


Lợi dựng tin báo chí địch đưa: Lê Tuấn đã bị bắt sống, anh Tài nói ngay: "Chúng muốn thế thì cho Lê Tuấn "chết luôn" để giữ bí mật công tác." Mấy hôm sau, báo Cứu quốc ở Liên khu III cũng đăng tin: "Trong đợt quân Pháp nhảy dù xuống làng Bồ Nâu, quận trưởng Công an quận 5 Lê Tuấn đã bị mất tích..." Và từ đó, tôi bỏ tên Lê Tuấn lấy bí danh khác là Phạm Hồng Việt để tiếp tục phụ trách công tác điệp báo ở phía nam Hà Nội... Tin trong báo lên đến Việt Bắc làm anh ruột tôi là Lê Khởi Nghĩa thư ký riêng của ihủ tướng Phạm Văn Đồng, cứ buồn rầu thở dài. Ông Đồng (anh Tô) biết tin cũng chia buồn với anh tôi về "cái chết" của cậu em trai...


Đúng bốn tháng sau, ngày 7-10-1947, như chúng tôi dự đoán, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn định bắt sống cơ quan đầu não kháng chiến. Chúng cũng đưa tin là đã bắt sống được Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tên Valluy, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương dã tức tốc bay ngay ra Hà Nội. Nhưng khi xuống sân bay Gia Lâm, hắn được báo cáo lại là tin đó nhầm. Valluy tức tối không ở lại dự tiệc mà lên máy bay trở về Sài Gòn ngay... Có một điểm mà tôi thấy cần chú thích thêm là trong vụ quân Pháp nhảy dù xuống làng Bồ Nâu, bộ đội ta không kịp chuẩn bị chiến đấu tập kích vì chúng chỉ đóng quân có ba hôm là rút ngay. Chúng cũng không mở các cuộc hành quân càn quét ra mấy làng xung quanh.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:42:18 am
5. Những câu chuyện kháng chiến

Một tháng sau trận càn Bồ Nâu, tôi chuyển trụ sở về làng Ước Lễ, chuyên làm bánh giày, giò... thuộc Thanh Oai, Hà Đông. Và cũng do các cơ quan của Hà Nội đều phải đóng nhờ trên đất Hà Đông nên trên có chủ trương sáp nhập một phần đất của Hà Đông vào Hà Nội, đổi tên thành Lưỡng Hà (Hà Nội và Hà Đông). Tôi ở Ước Lễ đóng cơ quan tại ngôi nhà sát bờ trc phía sau làng để tiện việc rút lui khi địch đến. Địa phận Hà Đông chỉ còn phần đất từ Ngã tư Vác xuống đến Vân Đình. Đặng Trần Mẫn làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Hà Đông. Sau Mẫn bỏ trốn vào nội thành thì Nguyễn Văn Lễ thay làm chủ tịch.


Trở lại thời kỳ đầu năm 1947, khi tôi vào vùng ven nội để kiểm tra tình hình các trạm tình báo và tinh hình hoạt động của địch ở các vùng Kim Lũ và Bằng Liệt cùng với em Quý liên lạc. Trời rất rét, buổi tối tôi về ngủ, chui vào trong ổ rơm của một gia đình cơ sở, naủ ngon lành vì yên tâm không sợ địch càn quét. Sáng sớm tờ mờ đất, hai anh em trở về căn cứ, khi đi qua làng Khúc Thuỷ, tôi gặp Tổ Hành động của Công an quận 5 đang đi lên để đón tôi. Khi đi khỏi làng Khúc Thủy một lúc, tôi nghe có tiếng súng nổ nhiều bên làng Cự Đà, đoán địch đã càn xuống đây liền để Tổ Hành động ở lại bên này sông chặn đánh địch và giao cho anh Đặng là cán bộ văn phòng phụ trách (anh Đặng sau này là quận trưởng quận Trấn Tây, rồi vào nội thành hoạt động, bị lộ nên địch đã bắn chết anh ở ngay đầu phố Hàng Đào. Anh có đặc điểm dễ nhận là cận thị và méo mồm).


Cả ngày hôm ấy nghe tiếng súng địch nổ dữ dội ở Cự Đà và Khúc Thủy, tôi về đến Ước Lễ thấp thỏm chờ tin của anh Đặng. Mãi đến tối anh Đặng mới về cho biết địch đánh bên Cự Đà rất mạnh. Chúng định cho quân từ Khúc Thủy vượt sông sang đánh úp quân ta ở Cự Đà, nhưng đã bị Tổ Hành động Công an quận 5 chặn đánh quyết liệt nên không thực hiện được mũi vu hồi. Trong trận này, Công an quận 5 cũng có cán bộ nằm bên Cự Đà nắm tình hình địch báo cáo rằng: "Pháp cho cả trẻ con Tây cầm súng đi đầu bắn vung mạng và miệng hò hét chửi: "Cochon Việt Minh, Merle Việt Minh. En Avant!" à L'assaut..."


Trong trận Cự Đà, Vũ Văn Sự chỉ huy bộ đội đánh mạnh nên địch không tràn xuống được và phải rút lui. Vũ Văn Sự được báo tôn gọi là "Con hùm xám Cự Đà!"

Về đến Ước Lễ tôi lại được tin Pháp bắt dân ngoại thành phải chụp ảnh để lấy Titre d'identité, tôi báo cáo lên lên Ty và được chỉ thị phải tích cực ngăn chặn âm mưu này của Pháp vì sẽ gây khó khăn cho ta sau này khi hoạt động vùng sâu, nhưng nếu phá không xong thì công an cũng phải dựa vào lý trưởng làng tề để nhờ họ giúp cho nhân viên công an mình cũng được chụp ảnh lấy titre để hoạt động hợp pháp. Mấy ngày hôm sau, anh em đã bắt về một thợ chụp ảnh cùng một va li cuộn phim và ba máy ảnh, trong đó có chiếc Einsige của Anh rất tốt. Khi gặp người chụp ảnh tôi nhận ra anh Mai, người anh họ của chị Liên1 (Chị Liên, tổ viên Việt Minh hồi bí mật do tôi phụ trách, sau này lấy bí danh Hà Hoa, Hoàng Lê Vân, công tác ở báo Nhân dân) và chính anh Mai từng giới thiệu tôi sang Bắc Ninh gặp ông Đỗ Dũng để nhận khẩu súng Saint Etienne mà ông ủng hộ cho Việt Minh... Tôi đã giải thích cho anh không nên tiếp tay cho địch chống phá kháng chiến và trả tự do cho anh.


Sau này anh Mai về nội thành mở xưởng dệt bít tất Chiến thắng. Khi ta về tiếp quản Thủ đô, cơ sở sản xuất của anh chuyển thành công tư hợp doanh và anh làm giám đốc xưởng dệt ấy, nay anh đã nghỉ hưu ở số 11 ngõ Phát Lộc.


Công an bắt anh Mai thì địch dùng người khác về chụp ảnh cho dân vùng tề. Công an quận 5 đã khống chế các lý trưởng làng tề ở vùng tự do vào vùng địch chiếm đóng để chụp ảnh làm thẻ. Công an phải tuyển thêm người làm nhiệm vụ "bao vây kinh tế địch" ngăn chặn không cho nhân dân mang lương thực, thực phẩm vào nội thành và bắt giữ những người buôn hàng địch trong nội thành ra, nhưng chủ yếu là phát hiện địch dùng người buôn hàng lậu để tung gián điệp ra vùng tự do... Tuy công an đã thành lập ra nhiều trạm bao vây kinh tế địch, nhưng đường ra vào nội thành thì muôn ngả, chặn lối này họ đi lối khác, không làm sao ngăn cản xuể. Hơn nữa cũng do việc địch và dân ào ạt đi lại vùng tự do và vùng chiếm đóng để buôn bán, nên có một số cơ quan và cá nhân đã lợi dụng tình trạng này để buôn bán hàng lậu tham ô cho cá nhân... Nhưng chính vì việc giao lưu buôn bán như vậy cũng có điều tốt cho ta là có thêm nhiều thuốc chữa bệnh. Công an quận 6 đã đặt làm một hàm răng giả để gửi biếu Hồ Chủ tịch. Công an quận 5 đặt cơ sở nội thành cung cấp các thứ thuốc cần thiết cho vùng tự do. Riêng chuyện bao vây kinh tế địch cũng có nhiều ấu trĩ, tuy cũng phần nào ngăn chặn được khối lượng lớn lương thực bị chuyển vào nội thành. Như Công an quận 5 phát hiện một đám tang từ Cống Thần đi lên vùng địch mà không thấy rẽ vào làng nào để chôn cất. Người khiêng quan tài đi vội vàng như chạy, từ Đồng Quan qua làng Từ Châu, Công an nghi ngờ khám xét thì thấy trong quan tài đựng toàn trứng gà, vịt... Hay như có chiếc thuyền chở nặng đi đêm từ vùng Đồng Quan lên đến làng Rùa thì bị giữ lại khám xét, ta đã tịch thu một số lớn gạo và thuyền gỗ chuyển về cho Ủy ban quận 5 giải quyết... Còn hàng lậu ở nội thành ra hầu hết là vải, thuốc lá Cotab, Philipp Moris, thuốc đánh răng Gibb, tân dược và bách hoá... Trong việc tịch thu hàng lậu Công an quận 5 và 6 đã giữ nhiều hàng hoá, nhưng không ai biết hút thuốc và cũng giữ đúng lệnh nghiêm cấm lợi dụng hàng tịch thu để sử dụng cho công an, vì vậy thuốc lá để mốc hàng đống, còn vải vóc chuyển hết về Ủy ban... Được Ủy ban cho lại vải tôi chia cho các cán bộ phụ trách các trạm và văn thư quận mỗi người vài mét để may túi hai ngăn có dải đeo. Túi này để khi làm việc xong anh nào cũng cất tài liệu vào đó, khi cần là đứng lên đi ngay được.


Công an quận 6 chủ trương bắt người buôn lậu phải đeo cái mẹt trước ngực có ghi hàng chữ: "Tôi buôn lậu", rồi có công an viên dẫn đi quanh các làng xóm, cốt làm cho họ xấu hổ. Cách xử lý ấu trĩ như vậy đến bây giờ nghĩ lại cũng thấy buồn cười. Có chuyện vui tếu là với những người bắt đeo mẹt mãi mà không có chuyển biến, Công an quận 6 lại chủ trương bắt đánh ba roi rồi mới tha về. Số người đi buôn lậu đa số là phụ nữ, bị bắt giam đầy cả mấy gian chùa để chờ chịu đòn. Một sớm, khi anh công an trông coi nhà giam còn đang ngủ thì các chị buôn lậu đã nheo nhéo giục: "Anh ơi! Anh giải quyết để chúng em dược về." Anh công an tỉnh dậy liền nói: "Tất cả nằm ra!" Mấy chị mếu máo van xin: "Anh ơi! Lần đầu em mới phải thế này, anh làm khe khẽ thôi, em sợ đau lắm...!" Anh công an phì cười và đành phải tha tất cả. Kết quả là việc bao vây kinh tế địch không thu được thắng lợi nên sau đó chủ trương này đành phải bỏ.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:43:14 am
Đấy là những chuyện vụn vặt. Còn có chuyện Công an quận 5 tịch thu gạo và thuyền giao nộp cho Ủy ban kháng chiến, nhưng vì không có người trông nom chiếc thuyền gỗ to lớn, đành cứ để trên dòng sông Đáy. Một sớm khi Công an nhìn đến thì thuyền gỗ đã biết mất, do các người lái chờ đến đêm lẻn ra chèo chống cho thuyền chạy trốn...


Tuy vậy cũng qua việc bao vây kinh tế địch mà Công an quận 5 đã phát hiện ra mấy sự việc đáng lưu ý:

1) Vụ con trai Trần Văn Chi, ủy viên kinh tài của ủy ban tỉnh Hà Đông vào nội thành lợi dụng hình thức buôn bán để liên lạc với Pháp. Tình báo của ta trong nội thành nắm được tài liệu rõ ràng về hoạt động của con trai Trần Văn Chi nên khi hắn trở ra vùng tự do thì Công an quận 5 bắt ngay. Trần Văn Chi giàu có nổi tiếng ở Hà Nội trước đây, được Nguyễn Văn Lễ, Chủ tịch tỉnh Hà Đông dùng làm cán bộ kinh tài để buôn bán gây quỹ cho Ủy ban tỉnh.

Thấy con trai bị bắt Trần Văn Chi tưởng dựa vào thế lực của Lễ đang nổi lên ở Hà Đông, đưa hắn lên tận cơ quan của tôi đang đóng ở làng Hoàng Trung để xin tha cho con... Trước tài liệu cụ thể kèm theo ảnh cậu con trai Chi ngồi xe jeep với lính Pháp đi trên phố, đành biện bạch đấy là họ đang đến nhà băng Đông Dương xem lại số tiền gia đình còn gửi ở đấy.


2. Chúng tôi còn bắt Bạch Thị Liên cũng là nhân viên kinh tài của Lễ hay ra vào nội thành để buôn hàng lậu. Khi Lễ đến chỗ tôi để xin tha cho chị Liên, tôi đã gặp chị ở nhà giam đóng tại chùa Ước Lễ. Chị Liên gặp tôi, định lợi dụng ông quận trưởng còn trẻ, khi đứng trước bàn hỏi cung cứ luôn tay vén áo gãi bụng trắng nhễ nhại lộ cái rốn sâu, có khi còn vờ thắt lại giải rút quần để khiêu khích tôi. Tôi đập bàn quát: "Chị không biết xấu hổ à! Sao dám làm cái trò ấy trước mặt tôi. Đáng ra tôi tha cho chị, nhưng vì tội này nên bắt chị phải giam lại ba ngày nữa..."


Tôi đã hiểu rõ việc làm của một số người ở tỉnh Hà Đỏng lấy danh nghĩa là gây quỹ cho Ủy ban kháng chiến, nhưng thực chất chỉ là để buôn lậu làm giàu cho cá nhân mà thôi. Tôi đã báo cáo lên Ty Công an Hà Nội để có công văn sang Tỉnh ủy Hà Đông có biện pháp giáo dục cán bộ của họ.


Kết quả việc lơi lỏng quản lý ở tỉnh Hà Đông đã được một bài học lớn. Trần Văn Chi giả vờ tổ chức đám cưới lấy cô vợ bé người nông thôn ở Vân Đình. Ngay tối hôm tổ chức cưới ăn uống linh đình, Chi bỏ trốn vào nội thành, mang theo tất cả tiền nong của Ban Kinh tài Hà Đông.


Câu chuyện về Trần Văn Chi đã gây dư luận xôn xao trong nhân dân suốt vùng Vân Đình, Cống Thần và Đồng Quan.

Sau này Trần Văn Chi vào nội thành đã mua lại cửa hiệu to lớn của hãng Descours Cabaud ở góc đường Bà Triệu - Tràng Thi - Hàng Khay. Hắn mở cửa hàng đại lý chuyên bán xe đạp Super Globe cho Pháp. Ít lâu sau Trần Văn Chi định gả con gái cho Bảo Long, con trai Bảo Đại, rồi cả gia đình bỏ sang Pháp sinh sống, nhưng Bảo Long chối từ không lấy vợ.


Còn một vụ khác bắt cán bộ Ty Công an Hà Nam buôn lậu. Hùng là trưởng văn phòng của Ty Công an Hà Nam đã lên vùng địch buôn hàng lậu. Công an quân 5 đã bắt hắn, tịch thu hàng hoá, giam ở chùa Sổ một tháng trời. Sau này chính tên Dương là trưởng ty Công an Hà Nam vì tham ô lớn, mắc nhiều tội khác như xử lý oan nhiều người, sử dụng bọn tai tiếng và còn thủ tiêu một số người dân lành nên đã bị toà án Liên khu III xử tử.


Chúng tôi cũng nắm hoạt động của một số nhân viên Biệt động đội do Tạ Đình Đề phụ trách. Bọn này phần lớn là lưu manh, trộm cướp được Đề dung dưỡng nên mặc sức hoành hành ngang ngược. Chúng thường xuyên đi lại vùng tề với danh nghĩa đánh địch, nhưng chúng cũng phục kích bắn giết cả người buôn lậu để cướp hàng hoá của họ, chia nhau ăn tiêu sa đoạ ở các thị trấn Vân Đình, Cống Thần và Đồng Quan, Chợ Đại.


Những người dân buôn bán bị chết ở vùng giáp ranh thì ai biết được bị Pháp hay Biệt động đội bắn giết... Nhưng công an thì biết rõ vì đêm nào địch phục kích ở nơi đâu, công an đều nắm được. Nên khi báo cáo có người chết ở cánh đồng này nọ thì công an biết ngay họ bị ai sát hại.


Chuyện về nhân viên của Tạ Đình Đề buôn lậu, giết người còn nhiều lắm, và cũng đã có lần tôi phải giáp mặt ngay với Tạ Đình Đề để giải quyết những chuyện buôn hàng lậu như vậy... Cách quản lý nhân viên chiến sĩ của Biệt động đội còn gây tác hại rất lớn sau này (sẽ nói về việc tên Chi Nam phản bội chạy vào vùng giặc đầu hàng địch).


Trong năm 1948, để tiếp tục tung người vào hoạt động nội thành, tôi đã nghiên cứu thấy nguỵ quyền địch rất mê tín. Ngay cả tên Nghiêm Xuân Thiện, kẻ thay tên Trương Đình Chi bị đội Thanh Việt của Công an quận 6 trừng trị, cùng vợ luôn chăm đi lễ chùa... Và cũng để lũng đoạn bọn sĩ quan và quân lính Pháp trác táng nên công an đã nghĩ rằng cần tổ chức một đội quân nhà thổ (gái điếm) cũ vẫn hoạt động ở nội thành trong các nhà đỏ "Maison rouge" - trước cửa có treo ngọn đèn điện màu đỏ để bọn Pháp biết lui tới. Những người này hầu hết đều mắc bệnh tình, nếu để họ hoạt động ở vùng tự do thì tác hại thêm cho nhân dân và có thể cả cán bộ của ta, nên công an quận 5 và 6 bàn nhau tập trung họ lại nuôi nấng, giáo dục và do chị Phương (Hải) phụ trách. Cán bộ của ta có người biết nhảy đầm được cử đến dạy cho họ cách khiêu vũ những bài Valse, Tango, Foxtrot... rồi tung họ vào nội thành với mục đích lũng đoạn bọn lính Pháp là chính, mà không cần họ làm tai mắt cho ta... Tuy vậy cũng có một vài chị em đã tích cực giúp công an thu thập tình hình của lính Pháp...


Riêng Công an quận 5 đã chú ý tuyển một số nhà sư có tâm huyết yêu nước. Ít lâu sau tôi được anh em báo cáo có nhà sư tu tại ngôi chùa lớn gần đường ra Tía muốn xin được gặp trực tiếp tôi là quận trưởng để được chính thức tổ chức.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:43:53 am
Ngược lại cũng có chuyện vui là chú tiểu tại ngôi chùa tôi đóng cơ quan. Chú còn nhỏ tuổi, hợp tính tình với các em giao thông nên suốt ngày đùa bỡn, vật nhau vui lắm. Khi cơ quan tôi chuyển địa điểm thì chú tiểu này cũng trốn khỏi chùa để xin theo tôi làm giao thông.


Cũng nhân việc tuyển người vào nội thành, tôi đã gặp chị Lý Lệ Hà tình nhân của Bảo Đại (Trong cuốn hồi ký của ông Đổng lý Văn phòng Bảo Đại Phạm Khắc Hoè "Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc" cũng kể chuyện về Lý Lệ Hà).


Tôi đã cho mời chị Lý Lệ Hà đến địa điểm riêng để tiếp. Chị ta người cao, phốp pháp, trắng trẻo, vấn tóc trần, son phấn, đến gặp tôi để xin được nhận công tác trong nội thành. Khi gặp chị ta tôi nghĩ thầm: "Của này thì kháng chiến gì, có thể biết tin Bảo Đại từ Pháp trở về để lên ngôi vua thì chị ấy muốn tìm gặp Bảo Đại mà thôi." Thực ra chị chỉ là "một nhà thổ cao cấp". Tôi cũng đồng ý để chị ta vào nội thành vì có ngăn cản cũng không được nên để cho giao thông đưa chị lên vùng địch, cốt lưu lại một ý niệm về sự rộng lượng của kháng chiến đối với chị mà thôi. Lý Lệ Hà trở về nội thành là mất hút. Tôi cũng không quan tâm đến chuyện này.


Năm 1948, Công an quận 5 đã phối hợp với trinh sát của Ty Công an Hà Nội điều tra vụ án tên Việt Mỹ, quận đội trưởng quận 6 đã bí mật hoạt động cho địch nên các trận đánh của quân đội ta, nhất là trận đánh bốt Hoành Bồ, ta bị địch diệt gần hết mà quân Pháp không thiệt hại gì. Trong ban chỉ huy cùng với Việt Mỹ còn có tên Bảo giữ mật mã của quân đội, chuyển thông tin của ta cho địch biết. Cùng trong vụ án này ta đã bắt tên Kôsàng, người Nhật theo ta sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Tên Kôsàng đã bị xử tử. Tên Việt Mỹ thì tôi không rõ số phận của hắn ra sao. Riêng tên Bảo sau này làm ở nhà máy Trần Hưng Đạo. Năm 1962, tên Bảo làm đơn kêu oan đến ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ Công an. Anh Hoàn không nắm được sự việc này nên hỏi tôi, tôi đã cung cấp cho anh biết toàn bộ sự việc về vụ án Việt Mỹ, có dính líu đến tên Bảo. Hắn nghĩ rằng gần 20 năm trời sự việc của hắn ít người còn biết đến, nhưng tôi lại nhớ rất chi tiết việc này nên không để cho kẻ phản bội khiếu oan được...


Cũng trong năm 1948, tên Chi Nam là chỉ huy phó của Tạ Đinh Đề đã bí mật làm việc với địch. Hắn tổ chức thị Hợp là gái điếm ở Cống Thần làm liên lạc giữa vùng địch và vùng tự do. Tôi đã xin lệnh của Ty Công an Hà Nội để bắt tên Chi Nam, nhưng không rõ bị lộ ở đầu mối nào mà hắn biết nên đã trốn vào nội thành trước lúc bị bắt một ngày.


Bài học về tên Chi Nam chính là do cách dùng người của Biệt động đội: không quản lý cán bộ, chiến sĩ, buông lỏng cho họ tự do hoành hành...

Lãnh đạo Biệt động đội chỉ thiên về "anh hùng dởm", phè phỡn ăn chơi ở hậu phương và nhiều tên sau này đầu hàng địch, chống phá ta rất mạnh, làm cho công an phải mất nhiều công sức bố trí trừng trị chúng, để khỏi ảnh hưởng đến công tác hoạt động địch hậu nói chung.


Vào mùa thu, tiết trời đã hơi lạnh, vào khoảng tháng 3-10- 1947, tại làng Viên Nội ven sông Đáy, Ty Công an triệu tập họp các quận để bàn cách đối phó với tình hình bọn phản bội đầu hàng địch, trừng trị bọn Việt gian bán nước nguy hiểm.


Trong cuộc họp này Công an Hà Nội đã nhất trí phải thành lập một đội hành động gan dạ để hoạt động trong nội thành, lấy tên là đội Thanh Việt (Thanh niên Việt Nam hay Trừng trị Việt gian).

Đội thanh niên được thành lập do Kim Tấn làm đội trưởng, tôi là đội phó. Mỗi quận lại tổ chức riêng đội Thanh Việt của quận mình... Công an quận 4 đã xử tên Việt gian ở Hàng Đậu, Công an quận 6 xử tên Trương Đình Chi, thị trưởng đầu tiên của nguỵ quyền địch, Công an quận 5 xử tên trưởng phố Hàm Long gian ác khét tiếng... Sau đó còn tổ chức nhiều lần ném lựu đạn vào nhà máy nước đá, phá các bốt điện v.v...


Nói chung hoạt động của đội Thanh Việt có tác dụng lớn làm nhụt ý chí chống phá cách mạng của bọn Việt gian...

Cũng vào khoảng tháng 8, tháng 9 năm 1947 cơ quan quận 5 đóng ở Ước Lễ. Một sáng, tôi đang làm việc thì có tiếng máy bay bà già lượn vè vè ngay trên đầu, liền nhanh chóng thu gọn tài liệu đúng lúc viên đạn trái phá đầu tiên của địch rơi xuống làng. Mọi người cùng với nhân dân nhanh chóng tản ra ngoài cánh đồng, pháo địch nổ tới tấp gây ra vài đám cháy cho các ngôi nhà gianh. Máy bay bà già chỉ điểm cho pháo địch từ xa bắn tới. Tôi nấp trong một ngõ xóm cùng với mấy chiến sĩ trong đội hành động thấy có tên lái máy bay bà già lượn sà thấp xuống gần bụi tre làng. Tôi động viên anh em cùng tập trung súng để bắn nhưng mấy người dân đến van xin đừng bắn vì sợ địch pháo kích làng phá hoại nhà cửa. Tôi đành phải theo ý của dân, rút ra ngoài cánh đồng tránh pháo địch... Ngay sau khi địch bắn phá xong, tôi đã cho chuyển cơ quan sang làng Hoàng Trung cách đấy vài cây số... Cũng bắt đầu từ vụ pháo kích này của địch, tôi hay viết ký sự kháng chiến. Anh Tài đã khuyến khích tôi tiếp tục viết và biết đâu lại trở thành Erenbourg của Việt Nam!


Thời gian này anh em đã quen với nếp sinh hoạt quân sự, phân công người nào mang tài liệu gì đã thành nếp, nên khi có động chỉ năm phút sau mọi người đã sẵn sàng di chuyển đến địa điểm khác.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:44:25 am
Giữa năm 1949, tôi không làm quận trưởng công an nữa mà làm nhiệm vụ trưởng ban điệp báo, chuyên trách công tác nội thành. Cuộc kháng chiến ngày càng gian nan, các cơ quan phải lùi xa mãi, vì địch đánh lan rộng ra. Cơ quan tôi phải chuyển về Dót-Dét, Tốt Động và cũng do hoàn cảnh nên Lưỡng Hà cũng giải tán, trả vùng đất cũ lại cho Hà Đông. Hà Nội chỉ quản lý vùng ven đô và nội thành. Quận 4-5-6 giải tán để thành lập hai quận Trấn Tây và Trấn Nam. Hồng Hà được cử sang Trung Quốc học chính trị, tôi vẫn công tác điệp báo, luôn qua lại vùng địch, cũng đã nhiều lần bị địch phục kích nhưng đánh trả thoát được. Có lần tôi vào vùng Yên Sở, một làng ngoài đê sông Hổng, nơi thằng Tây lùn chuyên phục kích bắn giết nhiều cán bộ của ta. Anh Bùi Đức Việt đã có lần dùng đòn gánh đánh trọng thương một tên Pháp mật thám làm nó ngã xuống ao. Anh Việt nhảy xuống theo, vật lộn với nó dưới ao và dùng dao găm giết chết nó. Máu giặc loang lổ đỏ cả mặt ao. Nhưng sau đấy Pháp cho quân và xe lội nước về càn quét Yên Sở bắn chết người và súc vật. Trong đêm tối, nhân dân xúm nhau lại dưới ánh đuốc để làm thịt hai con trâu bị địch bắn chết, và vẫn cắt người rào lại làng kháng chiến, canh gác cho tôi được an toàn. Đêm ấy tôi ngủ lại một nhà cơ sở ngay đầu làng. Đến nửa đêm thì anh Việt đánh thức tôi dậy xuống hầm bí mật vì sợ địch càn sớm. Nằm trong lòng đất sâu ấm áp tình người dân kháng chiến bao bọc tôi không sao ngủ được. Gần sáng tôi xem đồng hồ mới chỉ 4 giờ, nhưng thấy nhiều tiếng động thình thịch trên mặt đất vang vào vách hầm, tôi nghĩ là địch đang soi hầm để tìm bắt cán bộ nên chuẩn bị súng để đối phó. Chờ mãi không thấy gì và một lát sau tiếng động thình thịch hầu như vang lên khắp làng. Tôi hoang mang chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng anh Việt gọi tôi qua lỗ thông hơi. Tôi trèo lên khỏi hầm, anh Việt đưa tôi vào nhà để ăn cơm. Tôi đem chuyện này ra hỏi anh thì anh cười giải thích: Dân làng Yên Sở chỉ ăn ngô quanh năm nên sáng ra nhà nào cũng phải giã ngô như vậy. Nhưng nhìn đến mâm cơm thấy gạo trắng tinh, tôi ngần ngừ hỏi bà mẹ già vì sao như vậy. Bà móm mém ngồi giã trầu trong cối đồng, cười nói: "Thương ông quận gian khổ vì dân lặn lội lên đây không quản ngại nguy hiểm nên dân có ít gạo trắng thổi cơm cho ông quận ăn... Còn dân làng chỉ quen ăn ngô thôi..."


Tôi cảm động vì tấm lòng tốt của bà mẹ đã thương cán bộ, che chở cho tôi lại còn dành hạt gạo trắng cho tôi ăn. Ăn xong, tôi theo anh Việt ra đầu làng nhìn lên con đê về chỗ Trại hủi cũ để quan sát tình hình địch và để nhớ về Hà Nội1 (Bùi Đức Việt sau công tác ở giới tuyến Hiền Lương, đã hy sinh khi vượt qua phòng tuyến điện tử MacNamara).


Một ngày cuối thu 1949, cơn mưa cuối mùa đã đem theo cái lạnh của đất trời... Tôi nằm một mình trong năm gian nhà trống trải của một gia đình ở làng Tử Dương ven sông Đáy, co ro vì trời lạnh, cho đến sáng tôi từ giã anh Tài và các anh chị em Ty Công an Hà Nội để lên đường đi Việt Bắc báo cáo tình hình địch trong nội thành với Trung ương. Tôi đến cơ quan tình báo do anh Trần Hiệu làm cục trưởng, ở lại chỗ anh một tháng trời sau đó mới về Nha Công an chỗ anh Lê Giản làm tổng giám đốc. Cơ quan anh Hiệu đóng ở La Bằng, chân dãy núi Tam Đảo. Cơ quan anh Lê Giản đóng ven suối Lê trong căn cứ của các cơ quan chính phủ. Có chuyện vui là khi tôi lên Việt Bắc, có gọi dây nói sang chỗ anh trai tôi đang làm thư ký riêng cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Anh Nghĩa rất ngạc nhiên nghe tin tôi và hẹn tôi sang ngay.


Tôi sang cơ quan anh Tô (Phạm Văn Đồng) và buổi chiều hôm ấy cùng ăn cơm với anh Tô dưới tán lá cây rừng rậm rạp. Anh Tô bắt tôi kể lại mọi chuyện hoạt động trong nội thành và gian khổ trên đường từ Khu III lên Việt Bắc. Khi nghe tôi kể lại trận càn của giặc Pháp vào làng Cự Đà, chúng cho trẻ con Tây đi trước bắn súng bừa bãi, anh hỏi lại tôi: "Trẻ con Tây là loại thế nào?"


Tôi báo cáo với anh: Chúng là con của những tên Tây bị ta giết trong ngày đầu kháng chiến... Anh Tô bảo tôi về Nha Công an phải viết báo cáo tỉ mỉ về chuyện này để trình lên Trung ương, về đến chỗ anh Lê Giản, tôi kể lại chuvện này thì anh mắng tôi: "Sao cậu không báo cáo ở Nha lại sang báo cáo với anh Tô?"

- Em nghĩ là chuvện vui nên không chú ý báo cáo cho anh rõ...

Tôi đã ở lại Việt Bắc tham dự khoá học chính trị lớp Tổng phản công và sau đó trở về Hà Nội. Đường đi lên Việt Bắc và về Khu III gian khổ không kể sao cho xiết. Thế mà tôi đã đi lên Việt Bắc rồi lại về Hà Nội tới bốn lần. Lần nào cũng phải đi đêm vượt qua đường số 6 đầy nguy hiểm... Mỗi khi vượt qua đường, lội trên đồng ruộng đầy cỏ lác và xác người chết còn chưa rữa hết thịt, hôi thối nồng nặc, nhưng tôi vẫn đi về không quản ngại và cũng không lần nào lọt vào phục kích của giặc. Đến năm 1951, tình hình kháng chiến đã thay đổi nhiêu, cơ quan công an phải chuyển sâu vào vùng Kim Bôi - Hoà Bình, về Đồng Chờ rồi lại ra ven đường 21, Chi Nê, Đầm Đa... chuyển dần ra vùng Sêu, Trinh Tiết ven sông Đáy để tiến dần về Hà Nội... cho đến ngày về tiếp quản Thủ đô. Đến nay đã hơn 50 năm, dòng đời bao đổi thay, nhất là qua những năm chống Mỹ, đánh nguỵ quyền miền Nam, cho đến năm 1983, tôi mới về hưu và bị cuốn hút vào cơn xoáy gần như xuống vực sâu của xã hội... Tôi cũng bị phụ thuộc vào cơn xoáy của vòng đời, thăng trầm trong cơn lốc của mọi sự kiện nên tôi nghĩ rất lộn xộn có thể nhầm về thời gian, nhưng các sự kiện thì không thể nào sai được, vì đấy là cuộc đời hoạt động của tôi, là những kỷ niệm vừa êm đẹp vừa dữ dội, đầy gian khổ qua các chặng đường công tác...


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:46:35 am
6. Ngôi sao băng

Ngồi trước mặt tôi là một thanh niên gầy quắt, đen đủi, cứ khúm núm một cách vụng về, nét mặt tỏ vẻ lo âu, ngập ngừng nửa như muốn nói, nửa như sợ sệt. Có lẽ đây là lần đầu anh bước chân đến đây, nơi trước kia là sào huyệt của bọn mật thám Pháp chuyên đàn áp, bắt bớ, tra tấn tù đầy người dân An Nam.


Anh đã là người trưởng thành với khuôn mặt xương xẩu, đen sạm, dầy dạn phong sương, lộ rõ vẻ ngang tàng, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên sự thơ ngây. Anh cứ ngồi không yên, luôn cựa quậy, hai bàn tay đặt trên đùi, những ngón tay cứ xoắn vào nhau lúng túng đến tội nghiệp.


Tôi nhìn anh một lúc, luôn mỉm cười để anh yên tâm, rồi đứng dậy, ra bàn rót chén nước đặt trước mặt anh, nói: "Mời anh xơi nước. Anh đến gặp chúng tôi có việc gì thế?"

Thấy tôi còn trẻ, nét mặt búng ra sữa như của một học sinh hơn là của người cán bộ cách mạng, lại làm việc ở Sở Mật thám cũ như thế này, và còn rót nước mời anh uống, nên anh bớt lo ngại. Anh nở nụ cười ngượng nghịu. Tôi nhẹ nhàng hỏi:

- Anh tên là gì để chúng ta nói chuyện, gọi nhau cho tiện?

Anh cúi mặt nhìn xuống hai bàn chân đi đất đen sạm, gân guốc đang di di trên nền gạch men hoa, khẽ nói:

- Em là Sơn Đen!

- A! Sơn có thể chính là tên của anh, còn "Đen" chắc là do người ta đặt thêm cho phải không?

- Em cũng không rõ nữa. Nhưng từ nhỏ đến nay em thấy ai cũng gọi em bằng cái tên ấy nên quen rồi.

- Anh ở phố nào?

- Ở Cổng Chéo, Hàng Lược.

- Số nhà bao nhiêu?

Anh Sơn ngước mắt lên nhìn tôi có vẻ lạ lẫm không rõ tại sao tôi lại hỏi vậy. Từ xưa đến nay có người nào thắc mắc về chỗ ở của anh đâu, mà họ cũng chẳng cần biết đến chỗ ở của anh nữa.

- Em làm gì có nhà. Từ trước đến giờ, nhà nào có mái hiên rộng thì đấy là nơi ở của em. Mùa đông, tránh gió bấc, em thường ngủ ở dẫy nhà bên số lẻ. Còn mùa hè, em lại tìm sang hiên nhà bên số chẵn nằm ngủ cho mát.

- Còn quê quán, gia đình bố mẹ, anh chị em?

- Em làm sao biết được. Lúc lên bốn, lên năm tuổi, em đã coi cổng Chéo hàng Lược là quê huưng của em rồi.

Nghe anh nói chân thực về cuộc đời lầm than của mình, tôi đã thấy hai mắt cay cay, vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh của những trẻ sống lang thang trên đường phố như anh thời Pháp cai trị.

- Anh có làm nghề gì không?

- Có chứ! Em là phu đòn đám ma của ông Louis Chức ở đầu phố Hàng Cót1 (Trước đây thành phố Hà Nội có vài ba nhà chuyên làm công việc phục vụ tang lễ từ lúc phát tang cho đến lúc chôn cất mổ yên, mả đẹp, nhưng họ chỉ có đòn tang, áo quan, cờ phướn... còn người thì do những tên trùm thu thập các dân tứ xứ thành lập ra một tổ chức gọi là Phu đòn đám ma. Làm công, ăn lương theo từng vụ nên các phu đòn thường phải cạnh tranh nhau, giành giật đám tang, gây ra nhiều chuyện đâm chém dữ dội. Thường thì các phu đòn này làm những công việc khiêng kiệu, cầm cờ phướn, âm nhạc, đào huyệt chôn cất. Đôi khi cũng có những đám tang cần đến những người đàn bà làm con cháu, khóc thương thảm thiết, gọi là nghề "khóc mướn", họ cũng đi theo từng tốp phu đòn để kiếm sống).

- Anh đến gặp chúng tôi có yêu cầu gì không?

- Trước kia, bọn em bị mật thám Tây và ta đàn áp, ức hiếp dữ lắm, khó làm ăn yên ổn được với chúng. Đến nay ta được độc lập rồi, quân Pháp đã phải cuốn gói ra đi, em muốn được làm "mật thám" để trị lại bọn chúng.

- Bây giờ ta không gọi là "mật thám" nữa mà là trinh sát của công an nhân dân cách mạng. Anh có khả năng về nghề trinh sát không?

- Em không biết thế nào là khả năng, nhưng các anh cần dò tìm cái gì thì em làm ngon ơ, vì nghề của em như thế mà.

Tôi mỉm cười vì cách nói thành thật của anh:

- Tôi làm việc ở Phòng Chính trị, thấy anh thập thò ngoài cổng nên tiếp anh thôi. Còn anh muốn làm trinh sát thì để tôi báo cáo lại với anh Doãn là người phụ trách Phòng Trinh sát.

Anh Sơn thở dài đánh thượt một cái: "Anh làm ơn nói hộ em với nhé!"

Tôi để anh ngồi lại một mình, chạy sang phòng của anh Doãn báo cáo tình hình này, có nói thêm vài nhận xét của tôi về anh Sơn, rồi mời anh sang gặp anh Sơn.

Anh Doãn tên thực là Nguyễn Văn Tạo, quê ở Nghệ An, hoạt động cách mạng từ năm 1930 trong phong trào của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã bị Pháp bắt tù đày, rồi vượt ngục tiếp tục hoạt động. Lần thứ ba bị Pháp bắt anh lấy cớ ốm đau để chúng chuyển ra nhà thương Phủ Doãn chữa chạy. Ở nhà thương, anh lại tìm cơ hội vượt ngục lần thứ ba và hoạt động cho đến ngày cách mạng tháng Tám thành công, anh lấy bí danh là Nguyễn Phủ Doãn để kỷ niệm vụ vượt ngục cuối cùng này.


Anh Doãn hơi rỗ mặt. Khi anh cười, nét mặt nhăn nhúm nhưng trông thật phúc hậu vì tấm lòng chân thực của anh luôn thể hiện trong mọi cử chỉ. Vừa vào đến phòng, anh đã cười hề hề, ngồi xuống ghế trước mặt anh Sơn và nói ngay:

- Tôi được anh Tuấn nói qua về anh và ý nguyện của anh muốn được phục vụ cách mạng. Anh hiểu gì về việc đất nước la đã giành độc lập?

Thấy anh Doãn đứng tuổi và đã được tôi cho biết trước là chủ sự Phòng Trinh sát, nên Sơn thay đổi cách xưng hô:

- Thưa ông! Cháu...

Anh Doãn giơ tay ra hiệu ngăn anh Sơn nói:

- Anh đừng thưa ông với xưng cháu! Anh cứ coi tôi như người anh lớn tuổi và xưng hô anh, em là được.

Sơn không còn ấp úng, dè dặt như lúc mới đến đây, lòng cởi mở nên nói ngay:

- Thưa... anh... Em biết chứ. Trước kia thằng Pháp rồi đến thằng Nhật đàn áp dân mình làm cả hàng vạn người chết đói đầy đường. Bọn em cũng chỉ còn sống lay lắt, lê la hết phố này sang phố khác, ngắc ngoải mà thôi. Nay thì cả Pháp và Nhật đều phải rút khỏi Việt Nam và Việt Nam mình đã trở thành "Việt Nam to thế, Việt Nam mẹ sề!"


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:47:33 am
Nghe Sơn nói như vậy tất cả anh em có mặt trong phòng đều phá lên cười rũ rượi, cho rằng Sơn pha trò. Nhưng nét mặt Sơn vẫn nghiêm túc, ngơ ngác nhìn mọi người, không hiểu vì sao họ lại cười vui đến thế!

- Ai bảo anh câu nói ấy?

- Em thấy các anh Việt Minh căng khẩu hiệu đầy đường. Em đánh vần mãi mới biết được câu ấy, đoán là các anh viết để ca tụng đất nước mình đã được độc lập tự do.

- Không phải nghĩa như thế đâu! Đây là khẩu hiệu viết bằng tiếng nước Anh, nghĩa là "Việt Nam của người Việt Nam" (Vietnam to the Vietnamese).

- Em có biết tiếng Tây, tiếng Tàu là gì đâu. Anh em trong phu đòn chỉ bảo cho em mới biết đánh vần võ vẽ vài ba chữ, còn chưa bao giờ em được cắp sách đến trường học.

Anh Doãn lấy khăn tay thấm mấy giọt nước mắt vì cười vui và cũng vì anh cảm thông sâu sắc ngay được cuộc đời vật vờ, đói rét, bần hàn của Sơn, nên anh nhẹ nhàng nói:

- Tôi nghe anh Tuấn nói qua về ý nguyện của anh xin được làm trinh sát cho công an cách mạng. Làm trinh sát khó lắm, vừa phải mưu trí, dũng cảm, khôn khéo, có sức khoẻ tốt, nhanh nhẹn và nhất là phải tuyệt đối tin tưởng và trung thành với cách mạng, không sợ gian khổ, nguy hiểm đến tính mạng, cố hoàn thành được nhiệm vụ với ý thức trách nhiệm cao nhất. Anh có làm được như thế không?

Sơn không chần chừ, mà trả lời anh:

- Em sẽ cố gắng làm được như thế. Vì đấy cũng chính là nghề của em (ý Sơn muốn nói là nguyện vọng của anh).

- Sao anh bảo nghề của anh là phu đòn đám ma?

- Đây cũng là nghề của em để kiếm cơm mà sống cho đến ngày nay. Còn nghề trinh sát là nghề em ước vọng. Anh cứ giao việc gì cho em, dù khó đến đâu em cũng cố gắng làm cho được, em không từ chối việc gì dù có nguy hiểm. Ngay từ những ngày còn nhỏ tuổi, em đã trải qua nhiều đau khổ, đói rét, đòn thù, mà em vẫn chịu đựng được cho đến bây giờ.

Thấy Sơn nói giọng thật thà, quả quyết, anh Doãn im lặng một lúc để suy nghĩ, rồi cười nói:

- Tôi giao thử cho anh việc này nhé. Sở Công an Bắc Bộ có chiếc xe ô tô con để trong nhà xe. Anh có cách nào lấy được chiếc xe ấy không?

- Em tưởng chuyện gì khó khăn, chứ chuyện ấy thì em làm được.

Sơn nói rắn rỏi như vậy, nhưng trong đầu óc anh đã phác qua rất nhanh một kế hoạch trong vụ làm ăn "ra mắt" này với công an cách mạng. Sơn có phẩm chất lanh lợi, quyết đoán chính xác từng sự việc cũng do từ nhỏ anh đã phải đấu tranh với mọi sự bất trắc xảy ra hàng ngày trong cuộc sống của anh và các anh em trong phu đòn để còn sống được ở trên đời này.

- Anh cho là không có gì khó khăn à? Anh cứ thử làm xem. Nếu anh làm được chuyện này, tôi sẽ nhận anh vào làm trinh sát ngay.

- Anh gia hạn cho em mấy hôm phải làm xong việc này?

- Mấy hôm cũng được! Làm xong anh đến gặp tôi ngay.

Nghe anh Doãn nói như vậy, Sơn như đã tin chắc ở mưu trí của mình nên nét mặt tươi roi rói vì đã được thoả mãn phần nào ý nguyện của anh.

Sơn nhanh nhẹn đứng dậy, đàng hoàng chào mọi người, chân bước nhẹ nhõm ra cửa với nét mặt vui mừng lắm. Anh Doãn nhìn theo Sơn bước xuống bậc thềm, đi ra cổng, nói: "Nhân dân mình yêu nước nồng nàn như thế đấy. Chúng ta phải có nhiệm vụ dìu dắt anh ấy cho thật tiến bộ. Chắc sau này anh sẽ trở thành một trinh sát giỏi nghiệp vụ. Nếu anh ấy làm được việc này êm thấm thì thật giỏi!"


Mấy hôm qua đi, Phòng Chính trị nơi tôi làm việc và Phòng Trinh sát đều bận rộn suốt ngày với công việc mới của cách mạng, lo đối phó với âm mưu phá hoại của bọn cách mạng rởm lưu vong, theo chân quân Tàu Tưởng về nước để lập ra đảng phái phản động Đại Việt quốc dân đảng, do bọn Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam cầm đầu, đang cay cú với Việt Minh đã giành được chính quyền. Mặt khác phòng nào cũng đang cố tuyển những thanh niên học thức, theo cách mạng vào làm các công việc thay số nhân viên lưu dung của Sở Mật thám cũ vẫn phải dùng tạm trong vài ba chức vụ.


Tôi cũng quên câu chuyện của anh Sơn, vì thực tế không phải là phần việc của Phòng Chính trị.

Đến ngày thứ năm, khi tôi đến Sở làm việc đã thấy anh Sơn đang đứng nói chuyện với đồng chí gác ở cổng.

Vừa thoạt thấy tôi, anh đã chạy đến, cầm tay tôi nói ngay: "Xong rồi! Công việc của các anh giao cho em đã làm xong rồi!"

Tôi hơi ngơ ngác một chút, nhưng rồi nhớ ra ngay, liền nói với đồng chí gác để cho anh Sơn vào gặp anh Doãn. Tôi dẫn anh Sơn đến phòng của anh Doãn, vừa mở cửa thấy anh đang nghe dây nói, miệng cười vui vẻ, rồi trả lời ngay: "Chuyện ấy à? Không sao đâu! Người của tôi thử làm nghiệp vụ đấy mà!"

Chợt anh quay lại thấy Sơn đứng ở cửa liền vui vẻ hỏi ngay: "Anh để xe ở đâu? Còn đồng chí gác nữa?"

- Em để xe ở ngoài bờ hồ Ha-le. Đồng chí gác đang ngủ trong xe ấy. Anh cho người ra giúp em đẩy ô tô về trả lại ga-ra.

Anh Doãn bảo Sơn kể lại câu chuyện này. Sơn cười tỏn ten như chú bé vừa làm việc gì có lỗi bị người lớn bắt quả tang: "Sở dĩ đến hôm nay em mới làm để các anh không đề phòng đến chuyện này nữa. Em phải nhờ đến hai đàn em của em cũng ở trong phu đòn đám ma giúp sức lọt vào trong Sở Công an, em đã chọn vào ca đổi gác lúc gần sáng để không sợ có người thay ca và vào giờ ấy thì người ta cũng dễ an tâm cho rằng sắp sáng rồi, không phải lo chuyện gì nữa. Chúng em lọt vào trong sân cũng không có gì là khó khăn và làm cho anh gác cổng phải thiếp đi một lúc đủ thời gian cho chúng em hành động mà không làm cho anh ấy mê man quá. Còn chuyện mở khóa nhà ga-ra thì không khó khăn gì, chúng em chỉ làm một loáng là xong. Ba chung em đẩy chiếc xe ra khỏi cổng, khóa cổng lại đàng hoàng, rồi cứ thế đẩy ra đến tận hồ Ha-le, em chờ sáng hẳn, quay lại đây báo cáo để các anh biết. Có thế thôi!

- Giỏi!

Anh Doãn chỉ thốt lên được có thế, rồi anh nói:

- Anh sẽ được nhận làm trinh sát của tôi ngay bây giờ. Tôi sẽ bố trí cho anh về một đội. Anh phải nhớ là có kỷ luật, tuân theo lệnh của người đội trưởng, không được tự ý làm liều và phải cố gắng làm xong nhiệm vụ của mình được giao.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:48:35 am
Thế là qua cuộc sát hạch nghề nghiệp đầy kịch tính, anh Sơn đã gia nhập đội ngũ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ. Trong thời gian ấy, anh đã góp sức cùng đồng đội thu được nhiều thành tích trong việc trấn áp bọn Đại Việt Quốc dân đảng ở Ngũ Xã, trường Đỗ Hữu Vị ở Quán Thanh (Phan Đình Phùng bây giờ) và đặc biệt tham gia vào vụ phát hiện ổ giết người do tên Phan Kích Nam cầm đầu, ở số 7 phố Ôn Như Hầu (Nguyễn Gia Thiều).


Sơn lăn lộn ở mọi nơi, mọi chốn với "cái nghề của em", cho đến gần ngày kháng chiến toàn quốc, Sơn được dự cuộc họp bàn về kế hoạch đối phó với âm mưu gây chiến của bọn Pháp và chuẩn bị kế hoạch tác chiến của Công an Bắc Bộ, anh đã được nghe anh Doãn than phiền: "Chúng mình ít súng quá! Nếu có được độ 10 khẩu súng trường thêm cho lực lượng chiến đấu, cũng tốt lắm rồi!"


Sơn nghe câu nói ấy, mắt anh sáng lén một cách tinh nghịch vui vẻ. Khi cuộc họp đã xong, Sơn cố nán lại để gặp anh Doãn, nói ngay:

- Các anh thiếu súng lắm! Em có thể lấy giúp các anh được vài khẩu!

- Anh lấy ở đâu?

- Lấy của bọn Pháp.

- Đừng làm liều. Chính phủ đã ra lệnh cho chúng ta phải cố nén sự tức giận không làm gì sai trái để chúng lấy cớ đó khiêu khích nổ súng gây hấn, trong khi ta còn đang cố trì hoãn thời gian để củng cố thêm lực lượng kháng chiến. Anh định lấy súng của bọn Pháp thì khác nào châm ngòi lửa chiến tranh cho nổ sớm.

- Em hiểu rồi. Nhưng em lấy bí mật ngay trong kho của chúng.

- Đừng dại thế. Lúc này ta cần người hơn cần súng. Một cán bộ trinh sát như anh quý gấp ngàn lần khẩu súng.

- Em đảm bảo không xảy ra chuyện gì lôi thôi đâu. Em cũng biết giữ lấy cái mạng của mình mà không dại gì chui đầu vào cái chết sớm.

Thấy Sơn nói như vậy, anh Doãn cũng đã tin phần nào, anh liền hỏi:

- Kế hoạch của anh như thế nào?

- Trước đây, chúng em cũng đã đôi ba lần chui vào kho của chúng để lấy trộm thức ăn vì đói quá. Có lần em đã chui vào để tìm thức ăn nhưng lại vào nhầm kho chỉ có toàn súng, mà súng thì không ăn được. Mãi lần thứ ba hay thứ bốn, chúng em mới tìm ra được đúng kho chất đầy đồ hộp. Từ đó thi thoảng chúng em lại vào đấy lấy đồ hộp để ăn thay bữa. Có lần ăn nhiều quá bị tháo lỏng đấy anh ạ. Bọn Pháp ngốc lắm không khôn như dân mình đâu. Chúng tưởng là có lính tuần tra rồi thì không sợ kẻ gian cậy cửa kho vào lấy trộm. Nhưng chúng em có cần cậy cửa đâu mà chúng, em từ trên mái xuống. Kho của Pháp chạy dài suốt quãng đường dọc theo đường tàu, chúng em cứ từ trên đường tàu tụt xuống mái tôn và chỉ cần một lúc là đã có thể leo dây tụt xuống kho của chúng được. Chúng em nắm rõ kho nào cất súng, kho nào cất đồ hộp. Em nghĩ là hiện nay, bọn Pháp đang chủ quan coi thường dân mình vẫn sợ hãi chúng như ngày xưa nên lơ là... Em không đi một mình mà phải nhờ đến một người bạn cùng trong phu đòn cũ để giúp làm việc này. Em đảm bảo với anh là nhất định không để xảy ra chuyện xấu gì đâu. Tối nay độ 10 giờ đêm, anh đi xe ô tô con đỗ ở đầu phố Hàng Đồng chờ chúng em đem súng ra... Kế hoạch như thế thôi anh ạ!


Anh Doãn đã tin ở khả năng của Sơn mà theo như Sơn nói thì "đấy cũng là nghề của anh ấy", nên anh tin là Sơn sẽ làm trót lọt vụ này.

Tối hôm ấy vào đầu tháng 12-1946, theo đúng kế hoạch, anh Doãn đi xe ô tô đến chỗ phố Hàng Đồng giáp phố Phùng Hưng thì dừng lại. Anh Doãn bảo tôi đi cùng với anh đến đấy.

Trên đường phố Hà Nội, từ ngày ta giành chính quyền, Sở Điện lực được lệnh tháo bỏ bớt các chụp đèn từ thời Nhật phòng thủ máy bay Mỹ đánh phá đã cho chụp hết các chảo đèn trên đường phố, chỉ để lọt vầng ánh sáng tròn lên mặt đường nhựa. Trời hôm ấy vừa rét, vừa có nhiều sương mù, chợt tôi nghe có tiếng nổ nhỏ, rồi ánh đèn phòng thủ tắt ngấm. Ngồi trong xe, chúng tôi căng mắt nhìn vào bóng tối chỗ đường xe lửa chạy trên cầu cao. Chợt thoáng có bóng đen lờ mờ leo thoăn thoắn lên đường sắt.


Im lặng! Bóng tối như che giấu mọi việc làm của Sơn và bạn của anh. Không một tiếng động. Không một bóng người qua lại trên đường vì thời gian này, nhân dân đã được lệnh đi sơ tán, nên nhà nào cũng đóng cửa im im. Thi thoảng mới có chiếc xe Jeep của bọn Pháp bật đèn pha sáng chói nổ máy ầm ầm, lao vút trên đường.


Thời gian trôi qua nặng nề. Trong xe không ai nói câu nào, nhưng anh Doãn luôn cựa mình, tôi biết là anh sốt ruột lắm vì anh lo cho tính mạng của Sơn và người bạn của anh ấy.

Chợt chúng tôi giật mình, vì có bóng người nhô lên chỗ cửa xe và tiếng nói thoảng trong gió: "Em làm xong rồi anh ạ!"

- Sơn đấy à! Kết quả tốt chứ!

- Chúng em mới lấy được tám khẩu súng trường và một hòm đạn nặng quá. Chúng em định vào làm chuyến nữa. Có cả súng máy hai càng, anh có lấy không?

- Thôi đủ rồi! Ăn non thôi. Ăn tham dễ nghẹn.

Anh Doãn sợ nguy hiểm cho Sơn và người bạn của anh ấy. Anh bảo cả Sơn và bạn anh cùng lên xe về ngay Sở Công an Bắc Bộ.

- Nào! Kể lại cho mình nghe các cậu làm ăn ra sao?

- Cũng không có gì ghê gớm lắm. Bọn em chỉ mang theo sợi dây thừng dài và chắc, cái kìm, là đủ dụng cụ làm ăn rồi. Chúng em dùng súng cao su bắn vỡ bóng đèn để đoạn đường này tối hơn. Bọn em trèo lên đường tàu, tụt xuống mái tôn và lại có dịp dùng đến cái nghề cũ của bọn em. Chỉ một loáng, em đã cậy được tấm tôn, thòng dây tụt xuống bên trong. Bạn em nằm áp mình trên mái tôn chờ đợi và canh gác động tĩnh. Em mò mẫn tìm được các hòm dài biết là súng trường, phá khoá lấy ra từng khẩu súng, buộc vào dây để bạn em kéo lên. Lúc em đã lấy được mấy khẩu súng, bạn em ra hiệu như tiếng mèo kêu, báo động là có bọn lính tuần tiễu. Em giả làm tiếng chuột rúc, đuổi nhau. Chúng chỉ dừng lại trước cửa thấy khoá vẫn y nguyên nên lại tiếp tục đi tuần tiễu. Em lấy được 8 khẩu, chợt nhớ là có súng mà không có đạn thì súng chỉ như que sắt, nên lấy thêm hòm đạn vuông nhỏ, cũng khá nặng. Sau đó, em leo lên mái tôn, lợp lại cẩn thận như cũ, vặn chặt đinh ốc, rồi chuyển súng dần lên đường tàu, tụt xuống dây là xong.

- Sơn giỏi quá. Chuyện tày đình mà cứ như đùa chơi.

Anh Doãn nói xong, bỏ sang phòng bên một lúc, khi quay lại trong tay anh đã cầm một tập giấy bạc Đông Dương cũ, đưa cho người bạn của Sơn và nói: "Bồi dưỡng cho anh đấy. Tôi không dám nói trả công cho anh đâu!"

- Em giúp cho Sơn thôi. Em có công cán gì đâu!

Sơn gạt tay anh Doãn nói ngay: "Anh không cần phải làm thế. Bạn em không bao giờ nhân tiền đâu. Chúng em làm việc này vì đất nước mà thôi."

- Dứt khoát là em không nhận tiền của các anh. Chúng em chỉ làm một chốc thôi mà.

Nói xong, người bạn của Sơn đứng dậy, chào mọi người rồi ra về ngay. Anh Doãn cứ nhìn theo bạn của Sơn ra cửa, bần thần ngồi yên một lúc không nói gì, nhưng trong lòng anh trào lên sự xúc động sâu sắc.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Tám, 2022, 06:49:08 am
Trước ngày 19-12-1946, Sở Công an Bắc Bộ đã ngừng làm công việc mọi ngày mà chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Tôi và vài anh ở Phòng Chính trị được phân về tiểu khu 6 thuộc Liên khu II để lãnh đạo tự vệ khu phố chiến đấu.


Sau gần hai tháng trời chiến đấu trên đường phố cùng lực lượng tự vệ và Vệ quốc đoàn, chúng tôi phải rút ra khỏi Liên khu II về Pháp Vân và Đuôi Cá. Sau đó tôi được anh Hoàng Mỹ phân công làm quận trưởng Công an quận 5 của Hà Nội.


Khi về đến làng Bối Khê để nhận nhiệm vụ mới, tôi lại gặp anh Sơn cũng đã được phân công về quận 5, cùng với số anh em trinh sát khác. Thấy tôi, anh Sơn vồ vập: "Anh cũng về công tác ở quận này à?"

- Mình được điều về đây làm quận trưởng Công an quận 5.

- A! Thế thì em lại được là quân của anh rồi đấy!

- Mình vẫn bố trí Sơn vào làm công tác tình báo, trinh sát nhé!

- Ra ngoài này, em đề nghị anh cho em ở đơn vị được cầm súng trực tiếp đánh giặc.

- Thế thì mình để Sơn về Đội Hành động. Đội này có nhiệm vụ hoạt động vũ trang, chống lại địch, bảo vệ cán bộ và đường dây liên lạc ra vào nội thành. Và khi đội đóng quân ở làng nào có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, chặn đánh địch khi chúng càn quét vào làng.

- Em xin làm trọn nhiệm vụ của anh giao cho em.

Sơn ở Đội Hành động của Công an quận 5, đã nhiều lần chạm súng với giặc khi chúng đưa quân đi phục kích, chặn bắt cán bộ và liên lạc của ta vào nội thành. Anh là chiến sĩ gan dạ, luôn tiến lên trước và rút lui sau cùng để yểm hộ cho anh em được an toàn.


Ngày 19-5-1947, quân Pháp ở Hà Đông tràn về làng Đa Sĩ, nơi Đội Hành động đóng quân. Theo đúng kế hoạch đã phân công từ trước Đội đã triển khai lực lượng đánh chặn quân địch để nhân dân có thời gian rút khỏi làng ra cánh đồng. Trong trận này, Sơn bị thương vào bụng, ngã vật xuống. Giặc tràn vào làng và bắt được Sơn.


Tên sĩ quan chỉ huy cuộc càn quét cay cú vì chúng bị giết một số tên nên ra lệnh xử bắn Sơn ngay ở đầu làng mà không chịu đưa anh về để chữa chạy vết thương.

Anh Sơn đã hy sinh anh dũng và quả cảm, nhưng anh vẫn mãi mãi sống trong tâm tưởng của toàn thể anh chị em Công an quận 5. Khi hòa bình lập lại, tôi có làm giấy xác nhận trường hợp hy sinh của anh để xin được công nhận là liệt sĩ. Nhưng chỉ vì thủ tục quy định: Liệt sĩ được hưởng tiền tuất, mà thân nhân của anh Sơn thì không còn có ai, thậm chí đến quê hương của anh ở đâu, chúng tôi cũng không ai được biết.


Tuy vậy, trong ý nghĩ của anh em cán bộ chiến sĩ Công an quận 5 trước đây, không ai là không nhớ đến anh Sơn với những chiến công thầm lặng của anh.

Tôi viết lại những kỷ niệm về anh như là một bài điếu để ghi lại những thành tích âm thầm anh đã dâng hiến cho Tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiến lâu dài của Việt Nam đã có hàng vạn những chiến sĩ "vô danh" ngã xuống để làm nên một đất nước Việt Nam hoà bình và độc lập.

Các anh sống ngắn ngủi, lấp lánh sáng ngời, như ngôi sao băng bay qua bầu trời đêm, rồi vụt tắt chỉ để lại một vệt sáng lung linh, huyền ảo. Cuộc đời của anh Sơn cũng là một đốm sao băng, vụt loé sáng rồi sớm tắt lịm như vậy, nhưng trong màn trời đêm ấy vẫn còn thấy lung linh, huyền ảo như câu chuyện huyền thoại.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:32:44 am
7. Sư Trang, một chiến sĩ điệp báo

Sau trận quân Pháp nhảy dù bao vây làng Bồ Nâu định hốt trọn cơ quan Công an quận 5, tôi đã chuyển nơi làm việc đến làng Ước Lễ.

Một hôm anh Thuyên, trạm trưởng một trạm tình báo đến gặp tôi cho biết là có một nhà sư muốn được trực tiếp gặp tôi để xin nhận công tác hoạt động điệp báo trong nội thành. Tôi hỏi anh:

- Nhà sư tu ở chùa nào? Sư ông hay sư bà?

- Sư bà, tu ở chùa trên đường Đồng Quan ra Tía. Ngôi chùa ấy ở ngay sát đường cái, anh tìm cũng dễ.

Thời gian này tôi đã tổ chức đưa được một số người vào hoạt động điệp báo trong nội thành, nay có thêm nhà sư hoạt động điệp báo thì càng tốt vì đa dạng thành phần. Tôi hẹn với anh Thuyên cứ trả lời cho nhà sư ấy là có ngày tôi sẽ đến gặp.

Một ngày vào đầu tháng 8-1947. Tôi chuẩn bị đi công tác và dặn anh Mão, thư ký đánh máy là tôi đi đến chiều mới có thể về được.

Trời nắng chang chang, mãi đến gần trưa tôi mới tìm được ngôi chùa bên cạnh đường cái từ Đồng Quan ra Tía theo như lời anh Thuyên dặn. Vừa bước qua cổng tam quan của ngôi chùa, tôi hơi ngỡ ngàng vì cái bề thế rộng rãi ở nơi đây. Chiếc sân lát gạch vuông Bát Tràng đỏ au, rộng thênh thang dưới mấy bóng cây ngọc lan xanh thẫm, lấm tấm những nụ búp màu trắng ngà, e ấp dưới tán lá, toả hương thơm nhè nhẹ, càng làm cho cảnh chùa thêm thanh nhã, u tịch, trang nghiêm. Tôi rụt rè bước đến "trai phòng"1 (Trai phòng là nơi tiếp khách thập phương của nhà chùa), thấy một bác nông dân từ sân sau chạy ra đón:

- Thưa ông... ông là...

- Vâng! Tôi là trưởng Công an quận 5, Hà Nội đến gặp vị sư trụ trì ở chùa này.

- Thưa ông! Sư bà chúng tôi cũng đã dặn chúng tôi hôm nay nhà chùa có khách quý. Đang nắng nôi thế này, ông không để mát trời hãy đi?

- Cơ quan tôi ở xa lắm. Đi từ sáng sớm mới tới đây đấy, mong được gặp nhà chùa bàn công việc xong rồi còn về cho kịp trước trời tối.

- Sư bà chúng tôi đang tụng kinh. Xin mời ông vào nghỉ ở "trai phòng" để tôi lên báo cho sư bà biết.

- Ông cứ để sư bà tụng kinh.

Trai phòng rộng rãi, thoáng đãng, nối liền sân trước với sân sau, qua một sân gạch nhỏ là đến dãy nhà bếp, chuồng trâu, chuồng lợn, rồi ao thả cá và vườn rau. Tôi ngồi xuống chiếc tràng kỷ bằng gỗ cũ đã lên nước đen bóng, thấy bàn ghế, nền nhà sạch như li, như lau không chút bụi, cảm thấy thoải mái với không khí thanh bình, nhẹ lâng lâng ở vùng hậu phương yên tĩnh. Gió mát thổi lộng làm cho tôi quên hết nỗi nhọc mệt đường xa. Ngồi một lúc, bác Mộc1 (Tên gọi chung những ông già phục vụ ở nhà chùa) đã đem siêu nước mới đun sôi, từ dưới nhà bếp lên vừa đi, vừa rót nước xuống sân gạch kêu lộp bộp để thử nước đun sôi. Bác pha ấm chè xanh, đặt trong chiếc khay cũng bằng gỗ gụ, chân quỳ. Trong khay có chiếc đĩa hình thất hiền, trên đặt chiếc chén cổ nhỏ màu xanh ngọc bích, vẽ mấy ông lão đang ngồi dưới gốc cây uống trà. Nước chè sóng sánh màu vàng tươi, bốc mùi thơm ngai ngái. Tôi nhấp ngụm nước thấy chát nhưng chỉ một lúc sau lại thấy đầu lưỡi có vị ngọt làm dịu ngay cơn khát.

Chợt nghe có tiếng chào: "A di đà phật!"

Tôi quay lại, chưa kịp đáp lại lời chào thì bác Mộc đã đỡ lời:

- Thưa ông! Sư bà trụ trì chùa chúng tôi.

Trước mắt tôi là sư bà? Không phải! Đây chỉ là nét mặt một chị thôn nữ xinh xắn, núp dưới chiếc khăn nâu quấn trên đầu và mặc bộ quần áo dài cũng màu nâu chân chất của đồng quê. Thì ra "sư bà" là gọi theo chức vụ của người tu hành đã lên cấp, mà không do tuổi tác. Vị sư bà này chỉ độ 26-27 tuổi, hơn tôi vài ba tuổi nên tôi không biết xưng hô thế nào mà chỉ gọi chung chung.

- Thưa nhà chùa, tôi là Lê Tuấn, được anh Thuyên cho biết ý định của nhà chùa muốn gặp trực tiếp tôi để hiểu rõ về công việc.

- Thưa ông "quận", tuy tôi đã rũ bỏ cuộc đời trần tục, nhưng nước nhà đang gặp nạn chiến tranh, tôi suy nghĩ nhiều thấy mình không thể cứ núp bóng cửa Phật, sáng chiều kinh kệ, mà mong muốn được góp chút công sức nhỏ mọn của mình vào công việc cứu nước. Cụ Hồ đã dạy "nước nhà còn chưa được độc lập thì cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, khổ cực." Tôi đã nhập thiền xuống tóc, khoác áo nâu sống, cũng mong cứu khổ cho nhân dân bằng kinh kệ... Nhưng thời thế này, muốn giúp dân khỏi khổ chỉ còn cách hoạt động thực tế, tham gia kháng chiến cứu nước... Tôi mong được gặp ông "quận" để biết rõ hoàn cảnh dốt nát của tôi ngoài sớm chiều cầu kinh, tụng niệm với tiếng mõ, tiếng chuông, còn có thể làm được công việc gì khác nữa để cứu nước, cứu dân.

- Thưa nhà chùa! Lòng yêu nước của nhà chùa thật đáng quý. Người ta ở hoàn cảnh nào cũng có thể góp sức mình cho công cuộc kháng chiến của toàn dân. Ở chỗ chúng tôi cũng có chú tiểu và một sư ông đã bỏ chùa theo chúng tôi làm công tác. Nhà chùa đã cho tôi biết ý định của mình, nhưng tôi cũng xin nói rõ, công việc công an chúng tôi hoạt động trong lòng địch có nhiều khó khăn, nguy hiểm chưa thể lường hết được, và chỉ sơ ý một chút cũng có thể sa vào tay chúng.

- Thưa ông "quận", tôi đã núp dưới bóng Phật từ ngày còn trẻ và nay cũng đã suy nghĩ kỹ vể lời anh Thuyên gợi ý, tôi cảm thấy tuy mình đã thoát tục, là đã coi nhẹ cuộc đời vật chất, thì một khi đã quyết đóng góp sức mình vào công việc cứu nước sẽ không ngần ngại gì trước mọi hiểm nguy, dù có phải hy sinh thân mình cũng cam lòng. Xin ông "quận" cứ cho tôi biết, ở hoàn cảnh của tôi có thể đóng góp được gì có ích cho kháng chiến?

- Nhà chùa có thể tục huyền, tham gia vào đoàn thể phụ nữ cứu quốc hoạt động ở địa phương cũng là kháng chiến, mà không phải dấn thân vào nơi hang hùm, nọc rắn làm chi.

Sư bà cười lộ hai hàm răng đen nhưng nhức, đều đặn như hạt na, định cởi bỏ chiếc áo nâu sồng, nhất định phải đặt mình vào nơi đầu sóng, ngọn gió mới bõ công quay về cuộc đời trần tục.

- Công việc của công an chúng tôi là hoạt động điệp báo ngay trong lòng địch. Có khi còn phải chui vào trong nội bộ của chúng để thu thập, điều tra tin tức. Hoạt động rất đa dạng, có đủ thành phần để đi sâu vào trong lòng địch. Ngay như hoàn cảnh của nhà chùa cũng thích hợp với nhiệm vụ này, một khi nhà chùa đã có quyết tâm như vậy... Nhưng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa để nhà chùa cân nhắc, suy nghĩ, nhất là nhà chùa là một phụ nữ, nếu sa vào tay địch thì có thể gặp nhiều đau khổ về tinh thần hơn là sự tra tấn về thể xác.

- Xin ông "quận" cứ cho tôi biết rõ nhiệm vụ, để tôi suy nghĩ thêm cho chín chắn trước khi trả lời chính thức.

- Nhà chùa có quen biết vị sư cụ chùa Chân Tiên, nay nhà chùa đến xin trụ trì ở chùa ấy có được không?

- Sao! Có nghĩa là tôi vẫn phải đi tu?


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:33:55 am
Sư bà nói xong, khẽ mỉm cười, cau mày suy nghĩ. Tôi nhấp ngụm nước chè xanh chát, chờ đợi và đưa mắt lướt nhìn toàn quang cảnh ngôi chùa, thấy rõ tấm lòng của sư bà quyết tâm dời bỏ ngôi chùa lớn, khách thập phương đến dâng hương cầu cúng đông đúc, cũng có nghĩa là nhà chùa không màng chi đến lợi lộc và cuộc sống an nhàn nơi đây.

- Ông "quận" có nói một chú tiểu đã đi làm giao thông và một sư ông đã đi nhận công tác của ngành công an? Tôi đã vứt bỏ chiếc áo nâu này là quyết tâm xin nhận công việc cứu nước thì dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình cũng chịu được. Tỏi biết ý của ông "quận" cho chúng tôi là thân phận đàn bà nếu rơi vào tay giặc thì còn phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực khác nữa... Tôi nghĩ nhiều rồi, nếu ở chùa thì ngay ở nơi này tôi cũng có thể tham gia vào công việc. Nhưng tôi cũng đã nói với ông "quận" là một khi tôi đã rời bỏ cảnh chùa thì phải nhận nhiệm vụ ở nơi gian nguy nhất. Tôi đã quyết tâm như vậy, xin ông "quận" hiểu cho lòng thành thực của tôi...

Tôi không còn lý do gì để từ chối, nên nói: "Xin nhà chùa cứ suy nghĩ thêm và thu xếp mọi công việc ở chùa, sau đây độ vài ba hôm, xin đến gặp tôi ở làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai. Nhà chùa cứ đến ngôi chùa của làng, gặp các em giao thông của cơ quan chúng tôi đóng ở đấy nói là tôi đã hẹn nhà chùa."

Nói xong, tôi đứng dậy, thắt lưng súng vào người, uống cạn chén nước chè xanh rồi xin phép nhà chùa ra về, thì bác Mộc đã rối rít:

- Đang trưa nắng thế này, ông đừng về vội. Sư bà chúng cháu mời ông ở lại xơi tạm bữa cơm thanh tịnh của nhà chùa.

Sư bà cũng cười nói: "Xin mời ông "quận" ở lại ăn bữa cơm rau dưa... Trời nắng quá! Tôi đã bảo bác Mộc làm cơm xong rồi và thu xếp chỗ để ông "quận" nghỉ lại qua trưa hãy về."

Mấy bà vãi thấy nhà chùa có khách cũng đã đến từ lúc nãy, vẫn ngồi xệp xuống nền gạch nghe chuyện của sư bà và tôi, đều đứng lên, chào mời tôi ở lại, rồi vội vã xuống bếp. Chỉ một loáng, bác Mộc đã bưng chiếc mâm gỗ sơn son còn mới, có lẽ chỉ để dùng trong dịp lễ hội và ngày Tết, nay có khách quý là tôi, nên chiếc mâm son ấy cũng được đem ra dùng. Trong mâm chỉ có bát rau muống, bát dưa, chén cà dầm tương và đĩa đậu phụ. Tôi lúng túng nhìn mâm cơm chỉ có một bát, một đôi đũa tre, rồi đưa mắt nhìn lên bác Mộc. Như hiểu ý tôi, bác Mộc nói ngay:

- Sư bà và chúng tôi đã ăn cơm từ sớm, trưa có nồi khoai lang luộc, đến chiều tối mới lại ăn cơm. Xin mời ông xơi bữa cơm rau của nhà chùa. Chúng tôi xin vô phép.

Tôi đành phải ngồi ăn cơm một mình. Khi ăn xong, nước nôi còn có nải chuối tiêu để tráng miệng. Sau đó mấy bà vãi dẫn tôi đến một gian buồng có che mành ở ngoài cửa để nghỉ trưa. Gian buồng có lẽ của sư bà nên sạch sẽ, gọn gàng, chiếc chiếu hoa mới còn thơm mùi cói và chiếc gối bông vải trắng. Không khí mát dịu và yên tĩnh đã ru tôi vào giấc ngủ trưa.


Mấy hôm sau, lúc tôi đang làm việc thì em giao thông vào báo là có một chị thôn quê muốn gặp tôi, đang ở tại chùa Ước Lễ, nơi trạm giao thông đóng. Tôi nghỉ làm việc, theo em giao thông đến ngôi chùa ở đầu làng đã nhận ngay ra sư bà với chiếc khăn nâu chít mỏ quạ, trông rõ là một phụ nữ nông thôn xinh đẹp.

- Xin lỗi nhà chùa! Bây giờ tôi phải gọi là gì?

- Tên em là Trang, anh cứ gọi em như vậy.

Chị "sư bà" nói nhỏ nhẹ, ngượng ngùng với dáng điệu bẽn lui của cô gái đồng quê và của một nhà sư mới học lại tiếng nói của đời trần tục.

- Chị Trang ạ! Chị ở lại đây vài hôm để học qua những điều cơ bản về nguyên tắc hoạt động tình báo trong lòng địch. Nhưng tôi đề nghị, tóc chị còn chưa dài, ăn mặc thế này vào địch hậu dễ bị bọn chúng sinh nghi. Chị cứ ăn mặc theo kiểu nhà sư vào đến nội thành có nơi ăn, chốn ở yên ổn tại nhà cơ sở, dần dần khi tóc dài chị sẽ cải trang lại cho hợp với người thành thị.


Chị Trang thấy tôi nói có lý nên ưng thuận ngay. Sau đấy chị được cài vào một gia đình buôn bán lớn ở hàng Bồ. Chị đã thường xuyên ngày rằm, mồng một đi lễ chùa Quán Sứ, chùa Trấn Quốc, chùa Chân Tiên tìm cách làm quen với bà vợ Nghiêm Xuân Thiện đang làm thị trưởng thành phố.


Bà này hay đi lễ chùa, chị Trang lại hiểu nhiều về kinh kệ, đạo Phật nên đã trở thành bạn thân của bà vợ Nghiêm Xuân Thiện. Và qua bà này, chị Trang còn làm quen được với nhiều hà vợ các viên chức cao cấp của nguỵ quyền để khai thác tin tức ở những bà vợ lắm mồm, lắm miệng. Từ đó, chị Trang đã khai thác được nhiều thông tin bí mật về chủ trương của nguỵ quyền và cả những bí mật quân sự mà những bà vợ có chồng là sĩ quan ngụy đã mau mồm mau miệng tâm sự với chị. Suốt năm tháng hoạt động trong lòng địch, chị Trang đã cung cấp cho chúng tôi nhiều tin tức có giá trị cả về chủ trương hành chính và những âm mưu quân sự của địch. Có một lần chị ra vùng tự do để gặp tôi xin chỉ thị, tôi thấy chị tươi tỉnh và hoạt bát trong bộ áo người phụ nữ tỉnh thành, tôi thấy mừng cho chị. Khi xong cong việc, tôi mới nói đùa, gợi ý với chị:

- Chị Trang cũng nên nghĩ dần đến việc lập gia đình khi đã tục huyền chứ? Tôi sẽ giới thiệu cho chị một cán bộ thật tốt.

- Em đã là một người phụ nữ. Khi tục huyền cũng có trái tim với nhịp đập yêu thương, nhưng người mà em gửi gắm thầm lặng chỉ có thể trong ước mong mà không thể xây dựng lứa đôi được, cũng như lúc em đã gửi cả thể xác và tâm hồn vào cửa Phật. Anh cứ để cho em được suy nghĩ về cuộc đời riêng tư của em.

Tôi cũng không dám gợi sâu thêm về một ký ức xa xưa của chị, chắc phải la đau buồn nên chị mới sớm gửi thân vào cửa Phật. Một cuộc tình duyên ép uổng nào chăng? Tuy chị không phải là sắc nước, hương trời, nhưng cũng là bông hoa đồng nội tươi thắm.


Thế rồi chị lại trở vào nội thành để hoạt động điệp báo cho đến ngày hòa bình lập lại. Khi mọi công việc tiếp quản đã hoàn thành, một hôm chị Trang lại tìm đến gặp tôi và anh Thuyên với nét mặt không vui mà đượm buồn. Chị đến chào từ biệt tôi và anh Thuyên để lại quay về với cảnh thiền ở làng quê, xa lánh mọi thứ phù hoa ở nội thành thị. Tôi và anh Thuyên khuyên như chị thế nào cũng không được. Mãi sau chị mới lau nước mắt nói như thì thầm: "Em quen biết các anh càng thấy yêu quý cuộc đời tận tụy vì cách mạng và kháng chiến của các anh. Phải xa các anh, em cũng rất buồn, nhưng em cũng đã suy nghĩ chín chắn, thấu đáo khi quyết định, cũng như khi em đã quyết bỏ quần áo nâu sồng để lao vào công việc hiểm nguy như các anh... Bây giờ em thấy có thể lại thanh thản trở về với cuộc đời thoát tục như trước đây."


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:36:38 am
Tôi cũng nghĩ đến ý nguyện của chị khi cương quyết bỏ cửa Phật để theo kháng chiến đến nay quyết định trở về cuộc sống cũ thì chắc chị cũng đã có suy nghĩ chín chắn lắm rồi. Chị là người có lý trí độc lập, có tư tưởng dũng cảm để quyết định những bước đi trong cuộc đời. Tôi hỏi chị có trở về chùa cũ nữa hay không, để có dịp chúng tôi lại về chùa thăm chị. Chị Trang nói với giọng buồn buồn: "Em sẽ về thăm lại ngôi chùa cũ, cảnh cũ, người cũ và lễ Phật để xin trở về làm con của Người. Nhưng chắc chắn chùa ấy cũng đã có vị sư khác trụ trì rồi, nên em chưa biết sẽ đến ở chùa nào. Và dù có ở chùa nào thì cũng là cửa Phật như nhau và em chắc nơi nào cũng mở rộng cho em lại trở về cảnh cũ..."


Hơn 40 năm sau, vào dịp xuân, tiết trời ấm áp, tôi đến thăm anh Thuyên và hai chúng tôi cùng nhắc lại chuyện chị Trang. Anh Thuyên nói ngay: "Anh Tuấn có muốn đi thăm chị Trang không?"

- Tôi nhớ chứ, nhưng biết tìm chị ở nơi đâu?

- Tôi biết nơi chị ở rồi. Chị lại đi tu và nay ở chùa Ngãi Cầu.

- Chùa Ngãi Cầu thì tôi biết rồi. Một ngôi chùa nhỏ sát ngay cánh đồng mà lúc bắt đầu kháng chiến rút ra khỏi Hà Nội, tôi và anh Tài đã huấn luyện gần 10 em giao thông cả trai và gái sàn sàn độ 14-15 tuổi ở đó. Dạo ấy anh Hoàng Mỹ có giao tôi nhiệm vụ huấn luyện các em về quân sự, còn anh Tài phụ trách huấn luyện về chính trị và tinh thần kháng chiến chống Pháp. Chùa ấy nghèo lắm, chỉ có một điện thờ Phật và ba gian nhà trống trơn không có bệ thờ tượng La Hán như mọi chùa khác. Năm đầu kháng chiến ấy rét lắm, mà chúng tôi và các em đều không có đầy đủ quần áo. Cứ tối đến khi đi ngủ là tôi và anh Tài mỗi người nằm hai bên đầu ngoài cùng, còn số các em nằm giữa. Có hôm anh Tài, có hôm là tôi đi nằm sau cùng để rải rơm phủ đã phơi nắng, kín lên người các em thay chăn ấm. Chị Trang tu ở chùa ấy không nguy nga như hồi chị tu ở chùa gần Tía.

- Anh biết chùa ấy thì chủ nhật này tôi và anh đi thăm chị Trang nhé!

Sáng chủ nhật, tôi và anh Thuyên đạp xe thong thả vào Hà Đông rồi sang đường đi Tây Mỗ, Đại Mỗ, lên đến Ngãi Cầu. Tôi và anh Thuyên hỏi thăm một bà vãi về sư Trang, nhưng bà không biết gì. Chúng tôi còn đang lúng túng chưa biết hỏi thăm thế nào thì chợt nghe có tiếng nói nhè nhẹ ngay phía sau: "Ôi! Anh Tuấn, anh Thuyên!" Chúng tôi quay mặt lại, bồi hồi xúc động: "Sư cụ Trang đây rồi! Đã hơn nửa đời người, trông chị có già đi nhưng nét mặt và hình dáng thì không thay đổi mấy."


Chị Trang như chúng tôi vẫn quen gọi thì nay cũng đã ngoài 70 tuổi rồi. Chị tíu tít mời chúng tôi vào chính điện, pha trà, lấy cam, chuối bày cả lên bàn mời mọc ân cẩn như thuở xưa.

- Xin lỗi sư cụ nhé. Chị Trang à, chị cho phép chúng tôi được quen gọi chị như ngày xưa nhé. Đã hơn 40 năm, tôi vẫn nhớ ngôi chùa ở gần Tía, chén nước chè xanh dân dã, bữa cơm rau dưa thanh đạm và trưa hè man mác những kỷ niệm đẹp đẽ...

- Anh nhớ lâu đấy! Tôi cũng không quên ngày từ bỏ cảnh Phật trở về cuộc đời trần tục và lần gặp anh ở chùa làng Ước Lễ. Nhanh nhỉ! Mới ngày nào đến nay chúng ta đã qua nửa đời người rồi. Tôi vẫn nhớ như in ngày từ bỏ cảnh chùa đi công tác với các anh. Đến nay tôi cũng đã qua mấy chùa rồi mới đến ăn mày cửa Phật ở chùa này.

Chị Trang vừa nói vừa dơm dớm nước mắt tỏ ra rất xúc động. Chị hỏi thăm từng anh chị em mà chị quen biết khi giao dịch công việc. Tôi nói cho chị rõ hoàn cảnh từng người và cũng đã có vài anh chị hy sinh. Anh Thuyên thì đã có chắt gọi cụ, còn tôi cũng đã có 6 cháu nội, ngoại. Chúng tôi đều đã về hưu, sống an nhàn với cuộc đời liêm khiết của người cán bộ kháng chiến năm xưa và đều có gia cảnh no đủ.

- A di đà phật!

Những tiếng niệm phật của mấy bà vãi trong làng ra lễ chùa. Trông bà nào cũng tươi tỉnh, miệng nhai trầu bỏm bẻm, mặc áo dài nâu, áo bông, quần đen lành lặn, đi dép, tỏ rõ sự sung túc của một làng quê. Chị Trang xin phép đứng lên đi thắp hương và thỉnh chuông để các bà làm lễ Phật. Nhìn dáng điệu chị còn nhanh nhẹn, tôi khẽ nói với anh Thuyên: "44 mùa xuân qua đã là quá nửa đời người, nhưng tôi thấy ở chị Trang vẫn là mùa xuân vĩnh cửu. Chị đã gắn bó đời mình trong suốt 8 năm trời kháng chiến..."


Hai chúng tôi từ giã chị rồi ra về, hẹn nhau mùa xuân sang năm lại về chùa Ngãi Cầu thăm sư cụ Trang. Nhưng cũng đúng mùa xuân năm sau, tôi và anh Thuyên về chùa Ngãi Cầu thì được một sư cụ khác chậm chạp trả lời cho chúng tôi biết: "Sư cụ Trang đã lại tu ở chùa khác thuộc vùng Ninh Bình. Cụ chúng tôi cứ thấy chùa nào tiêu điều thì lại xin đến trụ trì ở chùa ấy để gây dựng lại nhà chùa cho khang trang. Chùa Ngãi Cầu này trước kia cũng tàn tạ, đổ nát, nhờ có cụ chúng tôi nên đến nay ngôi chùa mới được như thế này!"


Chúng tôi hỏi thăm sư cụ Trang tu ở chùa nào nhưng nhà sư này cũng không biết ở đâu.

Trên đường ra về, anh Thuyên cứ ca cẩm làm sao hỏi thăm được nơi trụ trì mới của sư Trang ở Ninh Bình. Tôi chỉ im lặng đạp xe đi và nghĩ thầm: "Thế là cánh chim Hạc lại bay về với non nước thiên nhiên... Chúng tôi người trần tục biết tìm chị ở nơi nào?" Chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Trung Quốc nói về một người sư nữ đi tu:

   "Trầm tâm vi tận, tục duyên đoạn
   Thiên lý hạ san không nguyệt minh..."

Tôi tạm dịch
        "Lòng trần chưa dứt, duyên trần đút
   Ngàn dặm trăng soi, dáng núi buồn..."


Kỷ niệm về sư Trang luôn êm dịu trong ý nghĩ của tôi và vẫn tươi mới như ngày đầu gặp chị.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:38:57 am
8. Nhớ về cái tết đầu tiên trong vùng địch

Đầu năm 1948, tôi thấy cần phải hiểu rõ cụ thể công việc, nên đi thăm các cơ sở để động viên họ tích cực ủng hộ, giúp đỡ kháng chiến. Tôi báo cho anh Trần Hoàng Bá trạm trưởng một trạm tình báo, phụ trách địa bàn từ Ngã tư Sở đến Cầu Giấy, chuẩn bị đi cùng với tôi lên thăm một vài cơ sở ở ngoại thành.


Hai chúng tôi và một em giao thông ra đi lúc trời về chiều, cứ băng qua các cánh ruộng đã gặt hái xong chỉ còn trơ gốc rạ. Gió bấc thổi mạnh, chúng tôi chỉ mặc áo trấn thủ bằng bông, bên ngoài mặc áo cánh náu để nguỵ trang... hăm hở ra đi nên quên cả cái giá lạnh.


Trời tối mịt, chúng tôi đã vượt qua nhiều cánh đồng và những làng tề, hướng về phía nội thành nơi ánh điện toả sáng lên bầu trời đỏ úa. Đang đi, chợt anh Bá kéo tay tôi, khẽ thì thào: "Chúng ta phải vượt qua làng tề ác này, anh đứng đây chờ tôi lên xem động tĩnh ra sao!"


Tôi và em giao thông ngồi thụp xuống, nép vào bờ ruộng ao, nhìn về phía thành phố đã thấy nhấp nháy những ánh ngọn đòn điện. Lúc này ngồi nghỉ lại, tôi và em giao thông mới thấy lạnh làm người run lập cập. Tôi cầm khẩu súng ngắn colt 12 đến tê dại cả các ngón tay. Em giao thông khẽ hỏi tôi: "Sắp đến rồi hở anh?"

- Ừ! Em có sợ không?

- Cũng sợ mà cũng không... vì đi với các anh nên em yên tâm lắm... Đúng lúc ấy, Anh Bá quay lại nói: "An toàn rồi! Chúng ta vượt qua làng tề ác này sang bên kia là yên ổn..."

Ba chúng tôi như cái bóng mờ ảo, vượt qua con đường đất nhanh như chớp.

- Tôi đưa anh vào làng Phương Liệt, vì đây là bàn đạp của ta tung người vào nội thành, có nhiều cơ sở trung kiên lắm... Ý anh định thế nào?

- Ta cứ bí mật đi thăm hết các cơ sở để động viên họ, đừng bỏ sót nơi nào và cũng đừng để cho họ biết rõ về nhau...

- Lý trưởng làng này cũng là cơ sở tốt của ta đấy. Ông ấy là người hai mang... Sáng là người của địch, tối lại là người của ta...

- Đến thăm ông ấy sau cùng rồi ta rút về cũng kịp!

Chúng tôi lặng lẽ đi trên đường gạch nhỏ quanh co các ngõ, thấy nhà nào cũng đóng kín cổng và thoang thoảng có mùi hương thơm... Đi thăm hết năm nhà cơ sở ở rải rác trong làng, chúng tôi mới đến nhà ông Lý trưởng. Anh Bá nhặt hòn gạch nhỏ, ném qua tường vào trong sân. Tiếng chó sủa và có tiếng người khẽ quát chó, rồi lúc sau có tiếng nói bên trong cánh cong: "Ai đó?"

- Bá đây!

Cánh cổng hé mở, anh Bá vào trước rồi đến tôi và em giao thông. Cánh cổng lại được cài then chắc chắn. Đang từ chỗ tối, vào đến nơi có ánh sáng chan hoà, tôi hoa mắt thì thấy có người từ trên hè chạy xuống sân, ôm chầm lấy tôi nói: "Được gặp anh ở đây, thật mừng quá!"

- A! Anh Hiệp! Sao anh cũng có mặt ở đây lúc này?

- Thì đây là quê tôi mà... Được tin anh Bá nhắn lên cho biết có cán bộ lên thăm cơ sở vùng ngoại thành, nên tôi từ trong đó ra đây để đón cán bộ phụ trách... Không ngờ lại là anh!

Anh Hiệp là cán bộ tình báo của ta, đang hoạt động trong nội thành. Trước cách mạng, hai chúng tôi ở nhà gần nhau, chơi với nhau rất thân thiết như anh em... Bây giờ gặp lại nhau trong hoàn cảnh này nên hai chúng tôi cũng rất mừng vui.


Đang lúc chúng tôi chuyện trò cởi mở, thì ông chủ nhà cũng chạy ra nói ngay: "Mời hai anh vào trong nhà. Gia đình tôi chờ đón cán bộ lãnh đạo lên thăm từ tối đến giờ..."

Tôi khẽ nói với anh Bá: "Đáng ra anh không nên báo trước việc tôi vào vùng địch, lỡ xảy ra chuyện gì thì sao?"

Anh Hiệp như đoán được ý của tôi nên nói ngay: "Về nguyên tắc như vậy là không đúng! Nhưng về tình cảm nhân dân đối với cán bộ thì chân tình lắm. Anh đến các nhà dân có thấy tiếng chó sủa nào đâu. Các gia đình đã nhốt chó để nó khỏi cắn gây động cho địch nghi ngờ, vì ở đây gần phi trường Bạch Mai lắm... Anh yên tâm! Chúng tôi xin bảo đảm an toàn cho các anh..."

Ông chủ nhà cũng nhanh nhảu nói ngay: "Thưa anh! Tôi tuy làm lý trưởng tề, nhưng thực ra là làm việc cho ta. Tôi xin chịu trách nhiệm việc bảo vệ cho cán bộ... Nhân hôm nay là ngày cúng ông Táo lên chầu trời. Xin mời cán bộ ở lại vui với gia đình tôi..."


Nói xong, ông giục vợ con sửa soạn bữa ăn. Tôi nhìn lên bàn thờ nhà ông thấy hương hoa, cỗ bàn đầy ắp, chợt nhớ ra hôm nay đúng là sắp đến Tết âm lịch. Tết năm 1946, tôi còn nằm phục ở ngoài bãi tha ma làng Hoàng Mai cùng với Vệ quốc đoàn và tự vệ để chặn đánh dịch, nên không nghĩ gì đến Tết. Năm nay còn lo đến việc làm sao đưa được người vào hoạt động trong nội thành nên cũng chẳng biết thời gian qua đi...


Cỗ bàn đã dọn ra nhanh chóng, ông chủ nhà xăng xái mời tôi. Ông rót ly rượu mùi mời tôi. Tôi không uống được rượu nên nhấp một ngụm thấy cổ họng cay xè, ho sặc sụa, anh Bá vui vẻ nói: "Ông thứ cho anh Tuấn, quận trưởng của chúng tôi không biết uống rượu đâu!"


Ông chủ nhà vỗ đùi cười to: "Tôi đang được đón tiếp ông quận trưởng Lê Tuấn đúng vào ngày Tết vui thế này. Thế mà cách đây mấy tháng, báo chí của địch cứ tuyên truyền om sòm là trong vụ quân Pháp nhảy dù ngày 27-6-1947 xuống làng Bồ Nâu đã bắt được quận trưởng công an Lê Tuấn... Thì ra chúng chỉ nói láo! Hôm nay ông Lê Tuấn lại có mặt ở ngay sát địch, thật là hân hạnh và vui sướng cho gia đình tôi lắm..."


Anh Hiệp cũng cho tôi rõ: "Ông lý trưởng ra làm với địch để che mắt và bảo vệ cho dân mà thôi, ông cũng có hai con trai tham gia kháng chiến. Anh Tám làm việc ở Bộ Ngoại giao và anh Chín làm tình báo như tôi..."

Nghe thế tôi hoàn toàn yên tâm vì ông làm lý trưởng chỉ là hình thức, còn gia đình ông cũng là gia đình kháng chiến.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:40:12 am
Thực tình trong bữa ăn ấy, tôi thấy ngon miệng vì đói lại vui. Bữa ăn đã gần tàn thì có tiếng gõ cổng. Ông chủ nhà ngừng ăn, nghe ngóng rồi nói khẽ: "Thường bọn sĩ quan Pháp ở phi trường hay mò ra nhà tôi kiếm rượu. Hôm nay chúng biết là ngày cúng ông Táo nên chắc lại ra ăn mảnh..."


Tôi trao đổi nhanh với anh Bá: "Anh thông thuộc địa bàn trên này, anh thoát ra trước đã, nếu tôi có làm sao, anh về báo cáo lại với anh Tài biết sự việc. Tôi có súng, nếu xảy ra chuyện xấu, tôi sẽ có cách đối phó với chúng. Còn em giao thông cứ hoà mình với gia đình như con cái trong nhà... Anh Hiệp đi với tôi lên gác..."


Tiếng gõ cửa càng dồn dập, ông chủ nhà tái mặt, chưa biết xử lý ra sao, tôi nói với ông: "Ông cùng với gia đình và em giao thông ngồi ăn đàng hoàng... cho người ra mở cổng. Nếu là quân đội lùng sục, tôi sẽ có cách đối phó. Còn nếu là bọn sĩ quan ăn mảnh, ông đừng hoảng hốt, cứ mời chúng ở lại và chuốc rượu cho chúng thật say... Ông không lo vì chúng tôi có mặt ở đây!"


Ông chủ nhà nghe lời tôi lấy lại vẻ mặt bình tĩnh, cho người ra mở cổng thì chỉ có hai tên sĩ quan Pháp đi vào. Tôi nhìn qua khe ván sàn gác thấy chúng còn trẻ, bước vào nhà cười hề hề...

- Chào ông lý trưởng! Chào cả nhà! Tối nay nhà ông vui quá...

Ông lý trưởng tụt xuống sập, ra cửa đón, cười nói:

- Ngày Tết mà! Tiện mời hai ông ở lại uống rượu với gia đình.

- Tốt! Tốt! Tết Việt Nam vui lắm!

Mục đích của chúng chỉ kiếm rượu nên chúng không khách sáo gì, cởi giày, cởi thắt lưng súng ngắn để bên cạnh, ngồi khoanh chân trên sập thành thạo lắm. Ông chủ nhà rót rượu mùi ra hai chiếc cốc, nhưng một tên đã giơ tay ngăn lại nói lơ lớ: "Liqueur khong tốt! Alcool tốt hơn! (Rượu mùi không tốt, rượu trắng tốt hơn!).


Lúc này ông lý trưởng đã yên tâm, thấy hai tên sĩ quan Pháp đòi rượu lậu nên bảo người nhà lấy ra chai rượu trắng, có nút đậy bằng lá chuối khô. Ông rót đầy hai cốc lớn và mời chúng chạm cốc. Hai tên sĩ quan Pháp không làm khách, ăn uống nhổm nhoàm. Một lúc sau chai rượu trắng đã cạn, ông lý trưởng sai lấy tiếp chai khác...


Ở trên gác, tôi và anh Hiệp nhìn qua khe ván sàn thấy hai tên đã uống gần cạn chai thứ hai, tôi nói khẽ: "Lúc này mình xuống thu hai khẩu súng, bắt sống hai tên này đưa ra vùng tự do thì dễ quá!"

- Nhưng lộ cho cơ sở.

- Chính vì nghĩ vậy nên mình đành nhìn chúng mà chịu...

Mãi đến khuya tiệc rượu mới tàn, hai tên sĩ quan Pháp chuệnh choạng ra về. Ông chủ nhà tiễn chân chúng ra cổng rồi cài then chặt lại, quay vào nhà thì tôi và anh Hiệp đã xuống nhà. Chúng tôi nhìn nhau cùng cười.

- Bọn này hay mò ra nhà tôi kiếm ăn mảnh. Hôm nay chúng được bữa say tuý luý.

- Tiếc quá, để bảo vệ cho ông mà tôi đành để sổng hai tên sĩ quan Pháp đấy!

Cũng lúc ấy, anh Bá vào nhà, cười nói: "Chúng mình lên đúng vào ngày giáp Tết nên trong làng cũng có vài nhà được bọn lính Pháp mò vào kiếm rượu. Việc anh lên đây không có điều gì để lộ ra được!"

Chúng tôi ngồi nói chuyện với anh Hiệp và ông lý trưởng một lúc rồi xin phép rút lui, anh Hiệp biết là chúng tôi còn phải vượt qua chặng đường dài và cả những làng tề ác nên không giữ chúng tôi lại. Ông chủ nhà ra cổng một lúc rồi lại quay trở vào nói nhỏ câu gì đó với anh Bá, rồi ông chắp hai tay chào tôi: "Chúc ông quận trưởng sang năm mới luôn mạnh khoẻ và thu được nhiều thắng lợi... Chúng tôi mong lại gặp ông!"


Anh Hiệp chỉ ôm chặt lấy tôi nói với giọng xúc động: "Các anh đi an toàn nhé!"

Anh Bá đưa tôi ra cổng, không đi theo đường ruộng, mà lại đi trên đường nhựa.

- Sao lại đi trên đường số 1 !

- Anh yên tâm! Ông lý trưởng đã bố trí dân vệ canh phòng cho chúng ta trên đường đi rồi.

Chúng tôi lặng lẽ rảo bước. Cách từng đoạn đường tôi lại gặp một người mặc quần áo trắng đứng ở bên đường. Tôi hỏi anh Bá:

- Họ mặc quần áo trắng không sợ lộ à?

- Địch bắt dân vệ đi tuần phải mặc quần áo trắng để chúng dễ kiểm soát.

Đến Pháp Vân, chúng tôi rẽ vào làng Huỳnh Cung. Tôi bắt gặp anh dân vệ cuối cùng, liền nắm lấy tay anh nói nhỏ: "Cám ơn các anh lắm. Chúng ta nhất định thắng lợi!" Rồi chúng tôi biến vào màn đêm đen như mực!

Tiếc rằng, ít lâu sau ông lý trưởng Phương Liệt một lòng theo cách mạng, có hai con trai, một làm công tác tình báo, một làm ở cơ quan ngoại giao của ta, đã bị đội hành động của Công an quận 6, do tên Đảm chỉ huy xử oan. Sau này tên Đảm trốn vào đầu hàng địch cũng đã chết. Anh Tám vẫn theo kháng chiến cho đến ngày tiếp quản. Còn anh Chín đã tức giận bỏ công tác nên sau này tôi không rõ tin tức về anh. Đến năm 1964, Bộ Ngoại giao định kết nạp anh Tám vào Đảng có cử cán bộ đến gặp tôi để hỏi về nguyên nhân cái chết của bố anh. Tôi đã xác nhận về trường hợp bố anh bị xử oan và làm thủ tục để anh Tám được kết nạp vào Đảng. Đây cũng là công việc trả ơn người đã chết oan uổng trong thời gian kháng chiến... Mà chắc chắn còn nhiều người khác cũng đã phải chết oan như vậy. Họ là những người có công với nước và xứng đáng là những chiến sĩ vô danh, trong công cuộc cứu nước và giữ nước.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:41:01 am
9. Những chuyện lạ kháng chiến ở rừng của Công an Hà Nội

Sau mấy năm rút khỏi Hà Nội, Cơ quan của Ty Công an Hà Nội đóng quanh quẩn ở mấy làng thuộc Chương Mỹ như Tốt Động, Dót, Dét... Sau đó vùng này cũng bị quân Pháp đánh chiếm. Đầu năm 1949, Ty Công an Hà Nội lúc này đã chuyển thành Sở Công an Hà Nội do anh Nguyễn Phủ Doãn, nguyên trưởng Ty Điệp báo trung ương của Nha Công an, về làm giám đốc. Anh Doãn đã cho chuyển cơ quan về làng Mát, thuộc tỉnh Hoà Bình. Bản Mát chỉ có độ 20 ngôi nhà sàn, hầu hết là nhỏ, nằm lọt thỏm trong một thung lũng hẹp, bao quanh là núi cao, rừng rậm.


Về bản Mát, anh chị em cán bộ công an Hà Nội đã được anh Doãn cho cải thiện chế độ ăn uống, mỗi bữa đã được ăn ba bát cơm, nên anh chị em đùa gọi là "chế độ ba bo". Trước đó mỗi người chỉ được ăn mỗi bữa một bát cơm, không phải vì hà tiện mà vì thực phẩm khó khăn. Anh chị em cấp dưỡng chỉ được phát loại tiền có in hình cụ Hồ nhỏ, không mua được thực phẩm vì nhân dân chỉ đòi loại tiền cũ có hình cụ Hồ to để còn đem treo ở trong nhà. Do đó có chuyện người khoẻ ăn cháo còn người ốm mới được ăn một bát cơm. Dù gian khổ như vậy, nhưng tuyệt đối không có anh chị cán bộ và em nhỏ giao thông nào kêu ca, phàn nàn, họ hăng hái làm nhiệm vụ.


Muốn vào bản Mát phải đi qua một con đường mòn, qua một đèo núi cao. Ở bản Mát có một đặc điểm là rất nhiều hổ. Đêm nào, nhân dân cũng phải đốt đuốc, gõ mõ để xua đuổi hổ rình ở dưới sàn nhà. Sáng ra, anh chị em công an Hà Nội, phải chờ cho rõ mặt người mới dám xuống cầu thang ra suối rửa mặt. Và ai cũng thấy quanh các nhà sàn những dấu chân hổ to như cái bát. Hổ về bản Mát nhiều quá đến nỗi vừa chập tối là không ai còn dám đi ra ngoài bản. Ai ở nhà nào cứ ở nguyên nhà ấy mà ít dám xuống đất. Thậm chí đến nỗi ban đêm không cứ gì nam giới mà kể cả các chị muốn đi tiểu cũng phải rón rén đến chỗ sàn tre, sát cây cột rồi nhẹ nhàng đi tiểu cho nước chảy theo cây cột xuống gầm sàn.


Có một đêm hổ ngồi rình dưới một nhà sàn và bắt mất con dê. Chủ nhà nghe tiếng dê kêu cũng chỉ ở trên nhà sàn đập nứa, đốt lửa, gõ mõ để đuổi hổ đi mà không ai dám xuống đất. Sáng hôm sau mọi người thấy rõ những cây cối đổ nát. Anh Doãn tức lắm, muốn triệt trừ lũ hổ nên bàn cách lấy thuốc độc cho vào ống tiêm, cử người lần theo đường hổ tha mồi, tìm đến chỗ nó bỏ con mồi lại để dành bữa rồi tiêm thuốc độc vào con mồi. Nhưng ai đi làm chuyện mạo hiểm này? Cuối cùng tôi và Chapuis, một hàng binh người Pháp, do anh Doãn thu phục được khi anh còn làm trưởng Ty Điệp báo trung ương nhận nhiệm vụ nguy hiểm ấy. Tôi có khẩu súng ngắn Colt 12. Anh Doãn trao cho Chapuis khẩu các-bin và hai quả lựu đạn1 (Chapuis và Bossu là hai hàng binh do anh Doãn thu phục được. Chapuis là người Pháp, còn Bossu là lính lê dương Đức, sang đánh Pháp bị bắt làm tù binh rồi xin làm lính lê dương cho Pháp. Hai anh này cùng làm việc với nhau ở bộ phận điện đài cùa Công an Hà Nội, nhưng rất ghét nhau. Sau này Bossu chết vì bệnh sốt rét ác tính. Còn Chapuis khi ở Đồng Chờ được anh chị em gán ghép lấy chị cấp dưỡng tên là Xuân. Đám cưới Chapuis và chị Xuân được tổ chức tại căn cứ Đồng Chờ. Khi hoà bình lập lại, Chapuis lấy tên là Nguyễn Văn Sỹ công tác ở Đài tiếng nói Việt Nam được mấy năm rồi cả hai vợ chồng cùng về Pháp. Cách đây độ 20 năm Chapuis và chị Xuân có trở về Việt Nam thăm gia đình và có đến thăm hỏi số anh em cán bộ Công an Hà Nội cũ. Đến nay không có tin gì về Chapuis và chị Xuân, chắc vì cũng già lắm rồi nên không về Việt Nam được nữa).


Chờ cho đến lúc sáng bạch, tôi và Chapuis, tay cầm súng đã lên đạn sẵn sàng, lần theo vết cây cỏ bị đổ rạp khi hổ kéo lê con mồi lên được chỗ đỉnh núi tương đối bằng phẳng và thấy ngay xác con dê chỉ còn lại một nửa được con hổ bỏ lại dưới gổc cây lớn. Chúng tôi phân công nhau: Tôi cầm khẩu Colt 12 đứng gác, quan sát xung quanh để Chapuis dùng dao găm rạch thịt dê rồi đổ thuốc độc vào chỗ đó. Cuối cùng cài hai quả lựu đạn, bẻ thẳng chốt hãm, buộc dây vào chỗ móc chốt hãm và đầu kia buộc vào chân con dê còn lại. Trong khi Chapuis đang lúi húi làm việc, tôi thấy cách chỗ chúng tôi một quãng xa có liếng động lạt sạt ở bụi rậm, xoay tròn quanh chỗ chúng tôi đứng. Tôi hét to: "Attention! Chapuis (Cẩn thận đấy! Chapuis); Chính Chapuis cũng nghe thấy tiếng động cây lạt sạt nên nói ngay: "Rút thôi! Anh Tuấn!" Hai chúng tôi không dám quay đầu chạy mà chỉ cầm súng ở tay sẵn sàng nổ và đi giật lùi thật nhanh. Đến chỗ dốc hai chúng tôi chỉ còn biết ngồi bệt xuống để tụt cho nhanh. Một lúc lâu sau hai chúng tôi cũng về được đến bản Mát, báo cáo lại sự việc để anh Doãn rõ. Cả ngày hôm ấy và đêm xuống, mọi người chỉ mong nghe có tiếng lựu đạn nổ để biết là con thú đã mắc bẫy.


Nhưng ngày hôm sau nữa cũng không thấy động tĩnh gì. Và đêm xuống, hổ lại quanh quẩn rình ở dưới nhà sàn. Đêm nào anh chị em cũng giật mình vì tiếng người la to, tiếng mõ và lửa đốt sáng rực.

Anh Doãn tức lắm, không làm sao đuổi được lũ hổ đói này. Anh liền nghĩ ra một sáng kiến, cho người chặt những dóng cây tre dài độ hơn 2 mét, nghiên cứu đường đi của hổ từ trong rừng ra để đặt bẫy. Tôi và Chapuis lại được giao nhiệm vụ này. Chúng tôi dùng những dóng thân cây tre, đóng sâu chắc chắn xuống đất thành một hàng rào hình tròn, không cao lắm để con hổ có thể nhảy qua vào trong vòng bẫy có buộc con chó con. Trên chỗ rào vòng tròn, chúng tôi chỉ đặt ba đoạn tre bắc ngang, mỗi đoạn tre có treo một quả đạn súng cối để khi hổ nhảy vào trong vòng hàng rào bắt chó, động phải dóng tre bắc ngang sẽ làm quả đạn súng cối nổ để sát thương nó. Hình như lũ hổ cũng có linh tính, biết được sự nguy hiểm rình rập, nên mấy ngày trôi qua mặc dù con chó cứ sủa ăng ẳng suốt đêm để nhử hổ đến mà vẫn không thấy con nào nhảy vào bẫy để bắt chó. Hàng ngày hai chúng tôi vẫn đem cơm cho chó và hết sức nhẹ nhàng tránh làm cho mấy quả đạn súng cối rơi xuống đất.


Cuối cùng chiếc bẫy này cũng phải tháo bỏ và đêm xuống hổ lại rình ở dưới các nhà sàn.

Bản Mát là nơi căn cứ của Sở Công an Hà Nội. Sâu vào trong rừng độ mấy trăm thước là nơi đặt điện đài và hai chiếc máy phát điện Ragono, chiến lợi phẩm thu được trong chuyên án A.13. Một tối, ăn cơm xong, tôi chưa được phổ biến có cuộc họp, liền đeo thắt lưng súng Colt 12, lững thững đi vào rừng đến chỗ Chapuis để nghe tin tức qua đài. Đang mải nghe tin của đài nước ngoài do Chapuis dò tìm được làn sóng, tôi chợt giật mình vì thấy trời tối đã lâu, ra về dễ gặp hổ, nên vội đốt cây đuốc cháy to, tay cầm súng ngắn, chạy nhanh về bản Mát. Còn cách bản độ 50, 60 thước tôi thấy có nhiều người cầm đuốc sáng rực cả bản. Thấy tôi mọi người kêu lên: "A! Anh Tuấn đây rồi". Tôi bỡ ngỡ chưa hiểu chuyện gì thì anh chị em cho biết khi bắt đầu cuộc họp anh Doãn không thấy lôi, cho người sang nhà sàn nơi tôi ở để tìm thì chủ nhà nói là tôi đã đi vào rừng từ chập tối chưa về. Thế là anh Doãn hủy cuộc họp, huy động tất cả anh chị em đốt đuốc đi tìm quanh bản xem có vết chân hổ không, mọi người được một phen hú vía. Tôi rất hối hận về sự chủ quan này chỉ vì muốn nghe đài tại chỗ ở của Chapuis và Bossu nên làm anh Doãn và anh chị em phải lo sợ... Tôi nhận lỗi với anh Doãn và cũng được anh bỏ qua.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:41:29 am
Lại một lần nữa, mọi người vừa ăn cơm xong, trời mới chập tối, anh Lê Dân và một anh nữa đi bộ ra chỗ hội trường cách bản độ 30, 40 thước để chuẩn bị đèn đóm cho cuộc họp. Đường ra hội trường phải qua một quãng ngắn cây cối rậm rạp. Anh chị em vừa bước lên nhà sàn nơi mình ở thì nghe thấy tiếng hổ gầm vang động cả thung lũng. Mọi người cầm súng, đốt đuốc chạy đến hội trường nơi phát ra tiếng hổ gầm. Anh em soi đuốc rồi cười ồ lên vì thấy anh Lê Dân và một anh nữa đang ngồi tít trên cột nhà run cầm cập. Thấy đông người và ánh đuốc sáng cả một khu rừng, hai anh mới dám tụt xuống đất. Anh Lê Dân cho biết: Khi ăn cơm xong, hai anh định ra chỗ hội trường chuẩn bị đèn đuốc, lúc qua chỗ rừng cây được vài bước, hai anh thấy bóng con hổ nhảy vọt qua đường và gầm lên tiếng dữ dội. Thế là hai anh cuống quýt vứt cả đèn bão, chạy vào hội trường leo nhanh lên cột nhà để trốn.


Thấy bản Mát quá nhiều hổ và sẽ có lúc nguy hiểm đến tính mạng anh em, nên anh Doãn lệnh rời căn cứ này chuyển sang bản Đồng Chờ, bên kia sông Bôi Rộng.

Ở bản Đồng Chờ, Sở Công an Hà Nội có sáp nhập thêm đơn vị tình báo do anh Nguyễn Vũ phụ trách. Anh chị em ở bản này tuy có đông người, nhưng hầu hết ở nhà sàn rộng lớn, khang trang và phía sau bản, giáp dãy núi đá vôi có cái hang rộng, thuận tiện dùng làm hội trường để họp hành và diễn kịch vui chơi. Anh Doãn còn tuyển mộ thêm hai nhà văn là Nguyễn Quỳnh và Nguyễn Đình Lạp. Sau này Nguyễn Quỳnh phản bội, chạy vào nội thành đầu hàng địch. Còn ông Nguyễn Đình Lạp vẫn trung thành với kháng chiến, sau ông bị mất vì bệnh sốt rét ác tính.


Năm 1950, ở bản Đồng Chờ tôi được phân công làm tờ báo đầu tiên của Công an Hà Nội, lấy tên là Hồ Gươm. Tờ báo in typo hẳn hoi, rất đẹp, chững chạc. Ban biên tập của tờ báo (gọi thế cho oai) chỉ có mình tôi là người lựa chọn bài, viết hài, sắp xếp ma-két, vẽ tranh minh hoạ và khi đưa in lại sửa bản morasse (bản bông). Một chú em là Huân đi thu thập các bài báo "liếp" đem về cho tôi lựa chọn. Sau này chú Huân là đại tá quân đội, nhà văn, đã viết hơn 40 cuốn sách, lấy bút danh là Triệu Huấn, một tác giả quen thuộc của Nhà xuất bản Công an nhân dân và Nhà xuất bản Quân đội. Anh Hoành (sau là thiếu tá công tác ở Công an Hà Nội đã về hưu) chuyên khắc các bản tranh do tôi vẽ. Lúc đầu, tờ báo phải sang in nhờ ở xưởng in của báo Nhân dân cũng đóng cơ quan ở trong vùng Kim Bôi. Sau báo ra nửa tháng một kỳ nên phải in nhờ xưởng in của anh Hoàng Đạo ở tận vùng núi Nưa - Thanh Hoá. Rồi sau lại đưa đi in thuê ở xưởng tư nhân Minh Châu tại thị trấn Nhồi cạnh Rừng Thông - Thanh Hoá. Mỗi lần đưa báo đi in lại phải có một anh giao thông khoẻ mạnh gánh hai thúng báo dầy, xuống thuyền Hàm Rồng, đi về Đầm Đa, lại đi bộ đường 21 rồi vào Đồng Chờ.


Mùa đông năm 1950, trời rét căm căm. Sáng dậy, anh chị em ra sông Bôi rửa mặt, tay buốt như bị dao cắt cứng đờ không còn cầm được vật gì. Đêm ngủ rét quá nên anh em phải lấy báo cũ lồng vào trong áo để giữ ấm cho ngực và lưng. Các chị đã có sáng kiến vào rừng lấy lá chuối khô trải lót xuống dưới chiếu để ngăn hơi lạnh dưới đất xông lên nhà sàn. về sau rét quá thấy anh chị em không thể ngủ được nên anh Doãn cho phép mọi người lấy đêm làm ngày, và lấy ngày làm đêm. Ban đêm anh chị em đốt lửa ở bếp ngồi quay lưng vào bếp, kê gỗ, thắp đèn để làm việc. Ban ngày trời ấm hơn một chút nên được ngủ.


Từ Đồng Chờ ra đường 21 cũng phải mất già nửa ngày và phải qua con dốc Ba Bị là nơi hổ thường hay xuất hiện vì là núi cỏ gianh. Có lần tôi và một anh giao thông đi công tác, khi đến dốc Ba Bị nhìn xuống thung lũng thấy con hổ vàng rực đang lững thững đi qua đường. Chúng tôi phải dừng lại, chờ cho nó đi khuất lâu vào rừng mới dám đi tiếp. Theo lời giải thích của nhân dân thì tên dốc như vậy có nghĩa là đã ba lần người đi qua đây bị hổ vồ.


Chuyện kháng chiến ở rừng của cơ quan Công an Hà Nội còn nhiều điều vui và lạ lùng, tôi xin dành lại để xin kể tiếp sau này.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:42:58 am
10. Một vài kỷ niệm khi công tác ở Nha Công an

Cuối hạ năm 1949, tiết trời đã se lạnh, tôi từ làng Tử Dương - Chương Mỹ - Hà Đông lên đường đi Việt Bắc.

Hành trang mang theo chỉ là chiếc túi để đựng hai bộ quần áo, mấy quyển sổ tay. Chiếc chăn trấn thủ cuộn tròn vắt chéo qua vai, khẩu súng Colt 12 đeo ngang lưng, tôi theo đường giao thông lên Nha Công an. Với lòng hăng hái của tuổi trẻ, tôi không nghĩ gì đến mọi sự gian lao, nguy hiểm trên đlường. Dọc đường, tôi chỉ mải ngắm những dáng núi đá vôi kỳ vĩ vùng Hoà Bình nên quên cả mệt nhọc. Nhưng khi qua dốc Đất là quả núi cao ngất, đổ xuống sườn bên kia là sắp ra đường số 6, con đường nguy hiểm nhất trên chặng đường lên Việt Bắc. Trèo lên dốc, mặt như gần sát mặt đất phía trước, dốc ngược gần dựng đứng, tôi cứ phải lần từng bước, tay đưa ra phía trước, túm lấy các gốc cây con lúp xúp để kéo mình lên. Khi đổ đốc lại càng mệt hơn vì hai chân cứ phải trụ lại cho khỏi bị lao mình xuống núi... Xuống đến chân núi, tôi thấy đã có đông người đứng, ngồi rải rác trong rừng. Nhìn quanh chỉ thấy độ gần 20 người là cán bộ, bộ đội đi công tác, còn đều là những người buôn muối từ Khu III lên Việt Bắc. Chúng tôi phải dừng lại ở đây chờ đến tối mới có thể vượt qua đường số 6. Khi vừa thấy bóng anh du kích của châu Lương Sơn, mọi người rùng rùng quang gánh chạy ra cửa rừng. Tôi nắm tay em liên lạc để khỏi bị lạc nhau trong đêm tối. Khi nghe hiệu lệnh của anh du kích: "Chạy!", mọi người ào lên, giẫm bừa lên những bãi đất lầy lội, cỏ cao ngập đến thắt lưng, mùi xông lên rất hôi thối. Khi qua đường, ai cũng mải miết bám theo nhau không nói gì. Trời đã khuya mới tới một bản bỏ hoang, nhà sàn trống toang hoác, có lẽ là bản của người Mường sợ địch vào quấy phá nên đã bỏ đi lập bản ở nơi khác xa hơn vào trong núi. Mọi người leo lên đấy để nghỉ qua đêm. Vài ba nhà đã thấy ánh lửa sáng lên. Tôi và em liên lạc nằm lăn ra sàn đầy bụi bậm để nghỉ, không cần để ý đến quần áo ướt, lấm bùn bê bết... Sáng hôm sau, tôi lại lên đường đi tiếp và được nghe mọi người kháo chuyện nhau về quãng ruộng lầy hôm qua hôi thối là do có người bị địch bắn chết lúc vượt qua đường, không được chôn cất vì gần bốt địch... Tôi khẽ rùng mình thầm nghĩ: "Biết ai đã nằm xuống đấy. Và có ai hiểu được những cay đắng của gia đình khi không có tin gì về người thân, và cũng không biết đã chết trên đường ở nơi đâu!"


Quá trưa thì đến phố Vàng bên này bờ sông Hồng, bên kia là chân dãy núi Ba Vì. Ăn xong, hai chúng tôi lại tiếp tục đi độ gần mười cây số thì dừng lại để sang sông. Trời đã xế chiều, bên này sông chỉ là rừng rậm, núi cao, tôi ra đứng sát bờ nhìn dòng nước mênh mông biết là không thể bơi qua được. Đứng chờ một lát, tôi thấy thấp thoáng có bóng người trong lũy tre xanh của một làng bên kia bờ. Tôi đưa hai bàn tay khum lại làm loa gọi đò. Một lát sau lại thấy bốn năm người chạy ra nấp ở các mô đất ven sông. Tôi biết là tiếng gọi không thể vượt qua được mặt sông rộng, nên giơ tay vẫy làm hiệu gọi đò... Nhưng chỉ thấy những bóng người chạy đi, chạy lại mà không thấy có đò sang. Mặt trời lặng lẽ chìm dần sau đỉnh núi. Tôi cố làm hiệu, chỉ tay lên phía mặt trời lặn, vẫy vẫy tay... Phải mất đến nửa giờ tôi mới thấy có người xuống bờ sông, lôi chiếc thuyền nan lên khỏi mặt nước, lắc lắc cho nước ra hết lòng thuyền, rồi nhảy xuống thuyền bơi ngược dòng ven bờ một quãng, rồi cho thuyền ra sông, theo dòng nước chảy vùn vụt sang bờ bên này. Độ 20 phút sau, thuyền cặp vào bờ, tôi cười với người lái để làm quen và nói: "Trời sắp tối rồi mà đường còn phải đi xa, sao anh không cho thuyền sang ngay. Ở bờ bên này không có hàng quán nào để nghỉ!..."

- Chúng tôi thấy anh cao lớn, mặc quần tây, áo sơ mi lại tưởng là quân Pháp, vì sáng nay chúng vừa càn qua đây, có canô, tàu chiến và bộ binh đi ven hai bờ đốt phá những nơi nào chúng đi qua! Chỉ có mình tôi chở đò, còn anh chị em du kích phải bố trí đề phòng chặn đánh địch...

Con thuyền qua sông cũng nhanh như lúc sang bên này, khi thuyền cặp vào bờ, tôi nhảy lên đất liền, thấy đến một tiểu đội du kích, tay mã tấu, tay mác, và chỉ có hai khẩu súng trường, ùa ra...

Tôi cười nói với mọi người là phải đi công tác lên Việt Bắc.

- Sáng nay nó hành quân bên bờ ấy, cũng vừa rút về tỉnh được một lúc thì anh đến, nên chúng tôi cứ tưởng là Tây. Anh đi có một mình thôi à? Mà sao anh trắng thế... Hơn con gái chúng em!

- Tôi đi cùng với em giao thông nữa chứ...

Em giao thông chẳng nói chẳng rằng, cứ giục tôi đi nhanh...

Tôi không còn nhớ được đã qua bao chặng đường, ngang dọc trong rừng sâu và trên núi cao... Nhưng lại nhớ đến quãng đường "sống trâu". Chỗ này là sườn núi, có những tảng đá lớn chồng chất lên nhau... Đường đi không có nên cứ nhảy qua hết tảng đá này sang tảng đá khác gồ lên như lưng con trâu... Đây đã thuộc về đất Phú Thọ!


Hơn một tuần sau, từ làng Tử Dương, tôi đã có mặt ở phố Đại Từ, và từ đây là đi một mình vì em giao thông phải về trạm chuyển tiếp. Phố Đại Từ có độ mươi nhà tranh, vách nứa, bán giải khát ven con đường lổn nhổn đá củ đậu và cỏ lau lan tỏa cả ra mặt đường. Sau các quán hàng là con suối rộng, nước chảy tung tóe qua các tảng đá. Tôi đến trạm liên lạc, gọi dây nói cho em trai tôi là Lê Duy Thường, chánh văn phòng Cục Tình báo, do anh Trần Hiệu là cục trưởng. Anh Hiệu và tôi đã quen nhau từ hồi ở Sở Công an Bắc Bộ. Và khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, tôi đã chiến đấu ròng rã hai tháng trời đến khi cùng bộ đội rút về Pháp Vân, Đuôi Cá thì anh Hiệu đã cho anh Nguyễn Vũ lên mặt trận gọi tôi về nhận công tác khác. Lúc này anh Trần Hiệu đang đóng ở nhà Nghiêm Xuân Thiện, tại làng Đại Mỗ, ven đường cái. Tôi ở đây với anh Hiệu, cùng với anh Tài, anh Nguyễn Vũ và chị Tâm "lồi" (sau này chị Tâm chuyển sang hoạt động điện ảnh). Anh Hiệu đã thưởng cho tôi khẩu súng Colt 12 đầy đủ bao da, túi đạn và thắt lưng đều là của Mỹ, còn nguyên ánh thép xanh...


Bây giờ tôi tìm đến chỗ anh, và cũng tiện thăm em trai tôi, rồi mới sang Nha Công an chỗ anh Lê Giản.

Sáng sớm hôm sau, em tôi cưỡi ngựa ra đón và có dắt theo con ngựa khác đầy đủ yên cương để tôi cưỡi. Hai chúng tôi đến gần chân đèo Khế, rẽ vào bản La Bằng, một bản người Tày ở chân núi Tam Đảo. Thấy tôi, anh Hiệu vui lắm, hỏi ngay: "Tuấn lên đây có việc gì?"

- Em lên Nha Công an, qua thăm anh và em trai của em!


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:43:40 am
Tôi ở lại La Bằng độ nửa tháng, cùng ở nhà với anh Hiệu, bữa cơm dọn lên tôi ăn với anh, vì có khách nên có thêm món trứng tráng mặn. Anh Hiệu bảo tôi: "Có khách Hà Nội nên mới được cải thiện như thế đấy! Còn ngày thường thì chỉ rau luộc, bí đỏ xào, cứ diễn đi, diễn lại một thực đơn như vậy... Nhưng các cậu ở Khu III sướng lắm thì phải. Cậu gửi cho mình từng tút thuốc lá Philipp Moris và Cotab định để "hối lộ" mình đấy à?"


Tôi cười: "Anh tưởng chúng em no lắm à? Cũng đói vàng cả mắt đấy. Hôm nào tài vụ phát cho cấp dưỡng tiền Cụ Hồ to thì còn mua được thức ăn, nếu là tiền Cụ Hổ nhỏ thì chỉ việc cơm với muối rang. Năm đầu chúng em còn được ăn tương đối đủ. Nhưng sang đến hai năm nay thì khó khăn lắm rồi. Có chuyện ngược đời là những anh chị nào ốm mới được ăn cơm tẩm bổ, còn người khoẻ thì húp cháo... Còn thuốc lá gửi cho anh là do Công an bao vây kinh tế, thu được thứ hàng nào nộp cho Ủy ban tất cả. Ủy ban cho để lại vài thứ như vải, thuốc Gibb đánh răng và vài ba tút thuốc lá. Chúng em không ai biết hút nên gửi lên cho anh đấy!"


- Cậu gửi cho mình thuốc lá toàn loại sang nên mình cũng chia cho các anh em hưởng chút quà của Hà Nội... Nhưng vừa rồi cậu nói gì đến Cụ Hồ to, Cụ Hồ nhỏ?

- Tiền Bộ Tài chính in có hai loại màu vàng, khổ to và khổ nhỏ. Khổ to thì hình Cụ Hồ to, còn khổ nhỏ thì hình Cụ Hồ tất nhiên phải nhỏ...

- Tại sao vậy?

- Nhân dân nhìn thấy tiền khổ nhỏ, chỉ lắc đầu không chịu bán hàng. Cấp dưỡng cũng đành về không. Mãi sau chúng em hỏi người dân ở nơi đóng trụ sở mới được biết là: Tiền khổ to có ảnh Hồ Chủ tịch to nhân dân còn làm khung treo được. Vì thế không ai thích tiền có ảnh Cụ Hồ nhỏ...

Anh Hiệu nghe tôi nói thế, chỉ trầm ngâm một lúc rồi mới nói: "À! Ra thế!"

Tôi ở chỗ anh Trần Hiệu chơi được mấy hôm, đúng vào dịp có đoàn công tác từ Nam Bộ ra. Họ phải trèo đèo lội suối, vượt qua vùng địch chiếm đóng hàng ba bốn tháng trời mới ra được tận Việt Bắc. Tôi ở đã lâu nên xin phép anh sang Nha Công an.

- Tuấn về chỗ anh Lê Giản. Nha Công an sắp mở khoá huấn luyện trung cấp Tổng phản công đấy!

Tôi hơi ngạc nhiên vì tên gọi lớp học. Ta mới đánh Pháp có bốn năm còn đang gặp khó khăn. Các cơ quan kháng chiến cứ phải lui dần vào rừng, bỏ xa thành thị, thì làm sao lại sắp tổng phản công được!

Tôi leo qua đèo Khế, đến châu Sơn Dương, cũng có phố con con gồm mấy quán hàng bán giải khát, tranh nứa, ven ngay bờ con suối rộng.

Theo đường rừng quang đãng, tương đối bằng phẳng, tôi đã đến bản Lũng Cò, qua một cánh ruộng nhỏ, lội qua con suối Lê là đến cơ quan Nha Công an. Tôi gặp anh Lê, mặt đỏ hồng hào, đôi lông mày đen rậm, trông như ông thần Tài, còn anh Ngọc, người gầy, thấp nhỏ, mặt xương xẩu, đen xạm, đôi môi mỏng thâm vì thuốc lá luôn mím chặt lại giống như pho lượng La Hán khổ ngã, mà không thấy có ai cùng tuổi thanh niên như tôi!


Mấy ngày đầu ở Nha Công an, tôi cứ bần thần vì nơi đây vắng vẻ, hoang vu quá, không như ở bên anh Trần Hiệu. Không trách anh em cứ đồn thổi: "Đây là U tì quốc."

Tôi đến Nha Công an chỉ thấy mấy người như anh Khoa, anh Hân, nguyên là tri huyện Tư Pháp cũ, anh Dương Văn Nội, phụ trách hậu cần, anh Thi sau là giám đốc Xí nghiệp dệt thảm len Đống Đa, nhà ở phố Hàng Than, đã mất, anh Cao Phòng, phụ trách đội bảo vệ căn cứ, anh Tiếp cán bộ chụp ảnh của Nha, chị Châu phục vụ anh Lê Giản... Mãi sau này mới có thêm người như anh Nông, nguyên cục trưởng Cục Lao cải, anh Kinh trưởng ty Công an Sơn Tay, anh Cúc, trưởng ty Câng an Phúc Yên, rồi anh Lê Văn Lăng, anh Nguyễn Văn Uẩn có đem theo cả con là anh Thường sau này là giám đốc trường đại học Kinh tế quốc dân. Anh Uẩn là tác giả ba tập "Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX", và vài anh nữa như anh Hạnh, sau chuyển sang tình báo v.v...


Ở đây tôi còn nhớ rõ từng ngôi nhà trên quả đồi thấp ít cây to mà chỉ là rừng nứa... Qua con suối là nhà ăn, bốn bề trống trơn, chỏng chơ vài chiếc bàn, gọi là bàn nhưng chỉ là thân cây bương đập giập ghép lại cho thành mặt phẳng làm bàn. Ghế ngồi ăn cũng chỉ là những ống bương dài ghép lại đặt trên mấy hàng cọc bằng gốc cây rừng... Qua độ hơn mười bậc đất là lên đỉnh đồi phẳng, nhưng vẫn lồi lõm chỗ cao, chỗ thấp. Nha Công an lúc đó chỉ có một ngôi nhà tre nứa dài, vừa làm nơi làm việc, vừa là nơi ngủ của chúng tôi. Sàn ngủ suốt chiều dài ngôi nhà, dưới chân là ghế ngồi cũng bằng hai đoạn ống bương ghép lại, kê trên cọc. Đến buổi làm việc, chúng tôi lấy sàn ngủ làm nơi viết. Đầu nhà chúng tôi là căn nhà trẻ nứa, nhỏ, xinh xắn, có hàng hiên chạy xung quanh. Đây là "bản doanh" của anh Dương Văn Nội lo chuyện hậu cần. Tôi nói vui là "bản doanh" vì chỗ anh Nội có đủ thứ rượu Tây, bánh kẹo, nhung chỉ có cánh hẩu với anh như anh Hân, anh Khoa, mới thường hay qua lại, còn chúng tôi thì "xin nghỉ"! Tận cuối mé đồi bên kia là ngôi nhà của anh Lê Giản... Sau này Nha Công an đông dần nên sát chỗ nhà ăn là bãi bóng chuyền, rồi đến vườn tăng gia các loại rau, chủ yếu là rau muống và cà chua... Bên bờ suối phía xa hơn một chút, cạnh bãi thả dù là Iilià của gần mười chị em được tuyển về đây làm nhiệm vụ xay xát gạo cho cơ quan. Cơ sở này cũng do anh Nội phụ trách.


Năm 1949, ở Nha Công an còn vắng vẻ đìu hiu, ngoài mấy cán bộ ra nói hết chuyện rồi cũng chán, giờ làm việc thì ai công việc của người ấy, cứ lặng im, chỉ nghe tiếng gió xào xạc ngoài rừng. Bữa ăn sáng xong, tôi không quen ngủ trưa nên cứ lang thang xuống bờ suối nhìn đàn cá bơi tung tăng, đùa nghịch với con khỉ do anh Cao Phòng kiếm ở đâu về, buộc ngay trên cành cây chỗ nhà ăn... Nói lại chuyện cũ thì ngày nay ít ai tin. Nhưng lúc ấy ở Nha Công an sự thèm nhất của chúng tôi là chất đường. Chẳng thế mà từ căn cứ suối Lê ra đến phố Sơn Dương cũng phải gần 10 cây số, nhưng chiều thứ bảy, cơm nước xong là tôi chuẩn bị hai bó cây nứa khô đập dập để làm đuốc. Ra Sơn Dương chỉ để nhấm nháp cốc cà phê, cốc trứng đánh đường, vài cái bánh kẹo, rồi chỉ còn đốt đuốc chạy bộ về Nha, dọc đường chỉ lo tránh lũ rắn theo đóm ăn tàn... Có hôm rỗi rãi thì sang Bộ Nội vụ, chỗ anh Trần Duy Hưng làm bộ trưởng. Bên này có đông anh chị em thanh niên nên dễ tán chuyện linh tinh. Thời kỳ đó chưa có tiền lương mà chỉ có tiền trợ cấp tiêu vặt. Cán bộ đến cơ quan nào chỉ báo cấp dưỡng thêm một suất ăn là đủ. Muốn ở lại bao nhiêu ngày ăn cũng không phải trả tiền vì đâu cũng là cơ quan kháng chiến cả. Ở Bộ Nội vụ tôi quen chị Trinh, có thể vì cùng là người Hà Nội nên dễ thân nhau hơn. Sau này chị Trinh lấy anh Phan Mỹ, chánh văn phòng phủ Thủ tướng. Cũng có lần tôi sang thăm anh trai tôi là Lê Khởi Nghĩa, ở lại chơi một ngày được ăn cơm khách với anh Tô và tất nhiên cũng có chất tươi hơn.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 08 Tháng Tám, 2022, 06:44:34 am
Tôi biết anh Cúc vì khi anh lên Nha Công an đã bị điên do vợ anh bị chó dại cắn chết, anh Cúc đang là trưởng ty Công an Phúc Yên nên được Nha điều lên đây để tĩnh dưỡng, anh Lê Giản giao cho tôi phải giúp anh Cúc ổn định lại tư tưởng.

- Cậu là thanh niên Hà Nội biết tâm lý nên giúp cho Cúc yên tâm bình tĩnh lại! - Anh bảo.

Nào tôi biết tâm lý là gì bao giờ. Hơn nữa lại cũng chưa có vợ thì làm sao hiểu được tình cảm của người chồng có vợ chết... Nhưng tôi nghĩ chỉ cần làm cho anh Cúc vui, thoải mái, dần dần quên cái đau đớn, như vậy sẽ khỏi. Thế rồi anh Cúc cũng khỏi thật. Nay không rõ anh còn hay mất. Nhưng cách đây gần 10 năm tôi có gặp lại anh khi đi trên bờ hồ Gươm. Chúng tôi không nhắc lại chuyện cũ chỉ hỏi thăm sức khoẻ của nhau, biết tin nhau là mừng rồi...


Cuối năm 1949 tôi đang công tác thì anh Ngọc gọi đến bảo: "Cán bộ trại giam ở làng Me của Ty Công an Vĩnh Yên đang giữ một tôn tù binh Pháp, nghi nó là gián điệp do Phòng Nhì tung ra vùng kháng chiến. Anh em ở đấy biết ít tiếng Pháp, nên không đủ trình độ hỏi cung nó. Tuấn đã qua tổng hợp nắm được tình hình địch, xuống đấy hỏi cung tên tù binh Pháp để phát hiện rõ âm mưu của nó!"


Qua việc theo dõi nắm tình hình địch do các ty công an báo cáo về tôi đã thấy nổi lên việc địch đang dò xét nơi giam giữ tù binh để có thể tổ chức trốn trại, hay cho quân nhảy dù đến giải thoát bọn này...

Tôi đã xuống hỏi cung tên tù binh Pháp. Ngay hôm xuống đến nơi, tôi đã trao đổi với đồng chí phụ trách trại giam. Anh nói ngay:

- Có anh ở Nha xuống, chúng tôi đỡ lúng túng... vì không đủ vốn tiếng Pháp để hỏi cung nó.

Hôm sau tên Pháp được dẫn đến chỗ tôi. Đồng chí phụ trách nhà giam đã giới thiệu tôi là đặc phái viên của trên cử xuống để xem xét tình hình của nó. Tên Pháp tỏ ra lẽ phép quá đáng, gần như khúm núm một cách hèn hạ. Tôi bắt đầu hỏi cung. Nó khai chỉ là nhà buôn đi tìm mua bò về cung cấp thực phẩm cho Intendant (hậu cần) quân đội Pháp.

- Anh đi có một mình thôi à?

- Vâng! Tôi đi thăm mối trước, sau sẽ về lấy tiền và đưa người đi dắt bò về.

- Quanh tỉnh lỵ thiếu gì làng xã vẫn còn trâu bò. Quân đội các anh đi đến đâu cũng bắn chết lợn, gà, bắt trâu bò... thì lo gì thiếu thực phẩm mà anh phải đi xa ra tận vùng kháng chiến...?

Sau một ngày hỏi cung liên tục, hắn lúng túng trước câu hỏi lắt léo của tôi, không biết trả lời ra sao nên xin giấy bút để khai... Tôi đưa cho nó giấy bút, nó viết rất nhanh như thể đã sắp sẵn ý tưởng này rồi mà không cần phải cân nhắc, chỉ một loáng đã viết dày đặc bốn trang giấy rồi lễ phép đưa cho tôi... Tôi đọc bản khai của nó không thấy nói gì đến việc ra vùng tự do của ta mà chỉ kể lể dài dòng từng là du kích Pháp chống Đức cũng chiến đấu cho độc lập của tổ quốc nó... v.v... Tôi xem xong cười bảo:

- Tôi có bảo anh viết thành tích của anh đâu mà anh cần trả lời đúng những câu tôi đã hỏi anh...

Nó xin về để suy nghĩ lại. Sáng hôm sau tôi lại cho gọi nó lên để hỏi cung tiếp:

- Anh có thú nhận việc anh lang thang ra vùng kháng chiến để cố tình bị bắt không?

Hắn làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi lại tôi:

- Sao tôi lại dại dột để các ông bắt như thế?

- Không dại dội đâu... Tôi nói để anh biết, tôi đã nắm chắc hành động của anh rồi... Phòng Nhì tung anh ra đây để được sa vào tay Việt Minh. Đấy là ý đồ của chúng mà không phải là dại dột như anh nói đâu! Anh chẳng đi mua bò, mà chỉ làm sao để chúng tôi bắt được anh đưa anh đến giam chung ở trại giam tù binh. Anh sẽ liên lạc với số tù binh tổ chức cuộc trốn trại tập thể... hay có thể báo về được cho quân đội Pháp mở đợt hành quân nhảy dù xuống giải thoát cho số tù binh ấy... Đấy là mục đích có chủ định của Phòng Nhì và nhiệm vụ của anh là như thế... Anh không khai báo thành thật thì anh sẽ không bị đưa về giam ở trại tù binh đâu mà tôi sẽ cho xử bắn anh ngay ờ đây vì nơi này là mặt trận tiền tiêu rồi...


Thấy tôi nói đến xử bắn, hắn luống cuống chắp tay vái và xin giấy để khai lại... Lần này thì hắn đã phải khai rõ ý định của Phòng Nhì và hành động của hắn... Tôi trao đổi lại với các đồng chí cán bộ trại giam, rồi xin đem bản khai cung của nó về Nha.


Tối hôm ấy ngủ lại ở nhà này, tôi thấy buồng bên luôn có ánh lửa cháy sáng, tôi ghé mắt nhìn sang thì thấy bà chủ nhà đang đun nồi bánh chưng. Bên cạnh có chú bé độ 5-6 tuổi nghịch lửa.

À ! Thì ra sắp Tết rồi. Hai ba năm nay tôi không còn biết đến ngày Tết. Chỉ có năm 1947, tôi vào vùng địch thăm cơ sở, vô tình lại đúng vào ngày ông Táo lên chầu trời nên được cơ sở mời ở lại ăn bữa cỗ Tết sớm...

Tôi đem bản khai cung của lên tù binh về Nha báo cáo với anh Ngọc, nói rõ thêm ý nghĩ của tôi để anh trao đổi với bên tình báo quốc phòng và cơ quan phụ trách tù binh cần chú ý đề phòng âm mưu của địch như vậy...


Năm 1950, Nha Công an có bổ sung thêm một số cán bộ ở địa phương để củng cố tổ chức lúc này đã mở rộng. Bộ phận công tác đội lại phải làm thêm căn nhà nữa ở giữa sân. Nhà rộng, vách nứa lưng chừng nên thoáng đãng. Nhưng cũng vì thế mà sương gió lùa vào nhiều hơn. Có lần mưa to gió lớn, có tiếng hổ gầm ngay dưới chân đồi. Ai nấy giật mình tỉnh dậy. Tôi cầm khẩu súng Colt 12 để phòng xa... Sáng hôm sau thì mọi người phát hiện mất con ngựa và có nhiều dấu chân hổ bên bờ suối. Anh Cao Phòng đưa hai người đi truy lùng theo vết chân hổ, mãi đến quá trưa mới trở về cho biết: Con hổ đã tha ngựa lên tít đỉnh núi cao trước mặt ăn mồi và chỉ còn sót lại cái đầu ngựa. Ai cũng thán phục sức khoẻ của nó, vượt qua dòng nước lũ đổ vẻ ào ạt, bắt con ngựa cũng nặng bằng nó, vượt qua suối, tha lên đỉnh núi cao mới ăn thịt. Nó xứng đáng là chúa sơn lâm!


Một lần anh em đang làm việc thì xôn xao tiếng người phân công nhau xuống giúp anh nuôi. Anh Cao Phòng lại bắt được con kỳ đà bên bờ suối... Kỳ đà lột da trông thịt trắng như thịt gà, nhưng khi ăn thì nhạt và nát...

Tôi nhớ hai sự kiện lớn trong năm 1950. Khi Nha Công an mở lớp huấn luyện trung cấp Tổng phản công, tôi vì bận công tác nên thi thoảng mới được đến dự bài giảng hay cuộc nói chuyện của cán bộ cao cấp. Một lần Bác Hồ đến thăm trường. Khi thấy anh Lê Giản, anh Ngọc, cán bộ chụp ảnh và anh em chúng tôi sang trường, các học viên đã đoán ngay lý do đó, nên mọi người rối rít chạy ra ven bờ suối giật đứt các dây phơi quần áo la liệt khắp nơi đem vào phơi trong nhà hay dưới bóng cây vì sợ Bác phê bình không biết giữ bí mật địa điểm. Một lúc sau khi các học viên đã quần áo chỉnh tề đứng ở sân hướng nhìn ra phía cổng chờ đợi... thì bất ngờ Bác đi con la từ mé sau rừng tiến vào. Bác xuống la, đi thẳng ra ven suối xem vườn rau, thăm nhà bếp, nơi ở của học viên. Trong khi đó anh em đã tập trung cả trên hội trường. Khi Bác vừa bước chân vào thì tiếng hô: "Hồ Chủ tịch muôn năm" vang động cả khu rừng. Bác giơ tay làm hiệu ngăn lại và khi trật tự đã ổn định, Bác nói: "Các chú là công an mà không biết giữ bí mật! Bác đã phải đi từ mé rừng ra cũng vì lý do ấy!" Sau đó Bác hỏi thành phần các học viên và được biết là cán bộ hầu hết của các ty công an tỉnh và của Sở Công an Bắc, Trung, Nam đều có mặt. Bác hỏi: "Lớp học này có cháu gái nào không?"


Anh Lê trình bày vì đường xá xa xôi lại rất nguy hiểm nên không có học viên nữ.

- Thế là trọng nam, khinh nữ đấy. Cán bộ kháng chiến nữ không thiếu người dũng cảm, gan dạ đâu!...

Lần khác tôi sang lớp học nghe anh Nguyễn Sơn đến nói chuyện. Trông anh như ông lái buôn tơ, mặc áo cánh bông, đeo tay nải, da đen xạm, môi thâm vì khói thuốc lá. Anh Sơn nói về giai cấp cách mạng và có nói đến tầng lớp tiểu tư sản, mà hồi đó chúng tôi cứ đùa gọi là "dân tạch tạch sè". Nhưng qua bài nói chuyện của anh phân tích về tầng lớp tiểu tư sản làm cách mạng hay dao động, dễ phản bội... tôi cứ nghĩ thầm: Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội dẫn đầu đều là những học sinh, thanh niên thuộc lớp tiểu tư sản. Họ đã hoạt động cách mạng, đối mặt với kẻ thù tập trung mọi sự đàn áp mạnh nhất ở Thủ đô, cũng bị tù đầy đi Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo mà không nhụt chí. Những đợt chiếm Bắc Bộ phủ, Trại Bảo an binh và Sở Liêm phóng hầu hết là các thanh niên học sinh Hà Nội thuộc tầng lớp tiểu tư sản! Thế thì nói sao về lớp người ấy... Nhưng lúc đó trình độ chính trị của tôi còn non nớt lắm nên chỉ biết nghĩ như vậy mà không tự giải đáp được.


Tháng 5-1950 lại có sự kiện lớn là đám cưới ông Cả Nhã (Nha Công an) lấy cô Tí béo (Tình báo). Tiệc cưới diễn ra vui vẻ tấp nập. Chúng tôi là nhà trai nên phải phục vụ xong đâu đấy mới được ăn sau ở nhà ăn ven suối. Đến tối có buổi liên hoan đóng kịch do các cán bộ tự biên, tự diễn... có cả nhân dân bản Lũng Cò cùng sang dự. Bộ phận tình báo đóng ở mấy ngôi nhà dài bên kia đồi phía sau Nha Công an.


Tất cả những cánh rừng ám u, suối róc rách, đường mòn len lỏi trong rừng cứ in đậm trong tôi..., cho đến hơn 50 năm sau có dịp về thăm lại Tuyên Quang, cây đa Tân Trào, đình Hồng Thái... Nhưng ô tô đi vùn vụt trên đường nhựa qua nhiều nơi mà tôi không còn nhận ra bóng dáng cũ nữa... Đường nhựa quang đãng, rừng như thưa thớt, suối như hẹp lại chỉ còn là một dòng chảy và núi đồi cũng trở nên thấp không cao ngất, âm u hiểm trở như xưa. Mọi cảnh vật đều đổi thay qua những năm dài đằng đẵng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ rồi lại chống quân phương Bắc tiếp theo... Nhưng dẫu sao những cảnh cũ, những kỷ niệm cũ ở căn cứ Nha Công an cứ thắm sâu vào cuộc đời tôi và chắc chắn cho đến lúc tôi ra đi mãi mãi.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:37:29 am
11. Đảng Phục Việt

Chuyên án: "Mặt trận quốc gia"

Từ Nha Công an trên Việt Bắc trở về căn cứ của Sở Công an Hà Nội đóng ở bản Đồng Chờ thuộc Kim Bôi, Hoà Bình tôi được phân công làm công tác tuyên huấn, trực tiếp phụ trách tờ báo Hồ Gươm in bằng typo. Làm công tác này, nhưng tôi vẫn phải liên hệ với các phòng để lấy tin tức, nhất là Phòng Phản gián do anh Lại Tuệ phụ trách. Do đó tôi cũng có dịp được tham gia vào vụ án này.


Câu chuyện bắt đầu từ một tin tình báo nhỏ, ban lãnh đạo của Sở đã hình thành một chuyên án lớn mà kết quả của nó đã làm rung chuyển hàng ngũ nguỵ quyền và làm thất bại ảo tưởng của Phòng Nhì Pháp.


Năm 1949 điệp báo viên của ta, anh Bùi Đức Việt1 (Xem trang 169) hoạt động trong nội thành đã báo cáo về hoạt động của nhóm Đại Việt Quốc dân đảng. Theo đó, đảng này đang muốn tim kiếm liên lạc với các đảng viên cũ của chúng ở ngoài vùng kháng chiến.


Được tin này anh Nguyễn Phủ Doãn giám đốc Sở Công an Hà Nội liền nảy ra một sáng kiến sẽ tổ chức một "Mặt trận quốc gia" do Đại Việt Quốc dân đảng chỉ huy trong hàng ngũ cán bộ kháng chiến. Chuyên án bắt đầu được hình thành.


Trong một lần tiếp xúc với Đinh Xuân Cầu, một ủy viên trung ương của Đại Việt Quốc dân đảng, nhà ở phố Hàng Bông, cán bộ điệp báo của ta làm như vô tình nói đến nguyện vọng của số đảng viên của Đại Việt đang tham gia kháng chiến ở vùng tự do, nhưng không làm sao bắt liên lạc được với lực lượng Đại Việt trong nội thành để phối hợp hành động.


Đinh Xuân Cầu là Tây lai, con rể của ông Trần Đình Long chuyên xuất bản loại tiểu thuyết kiếm hiệp như: Hoàng Giang hiệp nữ, Ngọc Cầm kiếm thu, Hoả thiêu Hồng Liên tự v.v..., mỗi tuần ra một kỳ, bán ba xu một số. Được tin này Đinh Xuân Cầu mừng như mở cờ trong bụng, nhưng hắn vẫn làm như vô tư không quan tâm tới tin đó của anh Bùi Đức Việt mà chỉ hỏi bâng quơ một câu:

- Thế các anh ở ngoài đó hoạt động do ai lãnh đạo?

Điệp viên của ta cũng làm ra bộ ngạc nhiên về câu hỏi đó của Đinh Xuân Cầu, trả lời làm như không chú ý đến sự thờ ơ của hắn:

- Tất nhiên là do đảng trưởng Trương Tử Anh lãnh đạo rồi!

Lúc này Đinh Xuân Cầu đã bỏ thái độ hờ hững, vồ vập hỏi thăm:

- Anh nói sao! Đảng trưởng Trương Tử Anh còn sống à? Và đảng trưởng hiện nay đang hoạt động ở vùng nào?

Câu chuyện chỉ vào màn đầu có như vậy. Ta hãy trở lại vai trò của Trương Tử Anh!

... Trong những năm 1936-1938 Trương Tử Anh rất tin phục Trịnh Văn Yên là người có lý luận sâu sắc về thuyết "Chủng tộc sinh tồn", sau đấy Trương Tử Anh cũng dựa vào cuốn sách đó viết ra cuốn "Dân tộc sinh tồn". Năm 1939 Trương Tử Anh bị Pháp bắt giam cho đến năm 1940 mới tha.


Năm 1941, hội nghị Hoàng gia Nhật Bản họp bàn về kế hoạch có nên tham chiến với Đức, tiến lên phía Bắc đánh Liên Xô, hay xuống phía Nam chiếm lấy Đông Dương! Đến ngày 24-7-1941, quân Nhật đã quyết định đổ bộ lên Cam Ranh, chiếm lấy Đông Dương. Ngay lập tức tổng thống Roosevelt tuyên bố bao vây kinh tế Nhật vào ngày 26-7-1941. Sau cuộc chiến tranh về kinh tế một thời gian, là cuộc chiến tranh về quân sự đánh Nhật trên bán đảo Đông Dương.


Trước đấy Trương Tử Anh vẫn phục quân Nhật là hùng mạnh, nên khi chúng đổ quân vào Đông Dương, Trương Tử Anh liền lập ngay một đảng đi theo Nhật, gọi là Đại Việt Quốc dân đảng. Sau ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính Pháp, nhưng vẫn dùng bộ máy đàn áp của Pháp để trấn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta mà quân Nhật chưa nắm được tình hình gì. Pháp đã trả thù, đàn áp mạnh phong trào của các đảng phái nên một số người như Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Quốc theo Nguyễn Hải Thần. Trong khi đó Trương Tử Anh vẫn an toàn ở lại trong nước để hoạt động ngấm ngầm cho Đảng Đại Việt.


Năm 1945, Nhật đầu hàng quân Đồng Minh. Quân Tàu Tưởng thương thuyết với Đồng Minh xin được làm đại diện cho Đồng Minh sang Việt Nam nhận việc tước vũ khí của quân Nhật đã đầu hàng.

Gần cuối năm 1945, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, quân Tưởng mới tuyên bố "Hoa quân nhập Việt" với âm mưu đưa bọn Nguyễn Hải Thần về nước, lập chính phủ tay sai để nắm lấy toàn bộ Đông Dương.


Theo chân quân Tưởng, Vũ Hồng Khanh tái lập lại Việt Nam Quốc dân đảng, dùng hoạt động chính trị chống phá chính quyền cách mạng. Trương Tử Anh cho rằng Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh chỉ hoạt động lưu vong ở nước ngoài nên không có ảnh hưởng đến phong trào ở trong nước, không chịu hợp tác với Vũ Hồng Khanh.


Trước tình hình hai đảng Quốc dân giữ vai trò chủ chốt trong việc chống phá cách mạng lại mâu thuẫn, đối lập nhau, nên Tàu Tưởng bắt ép hai bọn này phải nhập thành một đảng. Đảng của Trương Tử Anh bỏ hai chữ đầu là Đại Việt. Đảng của Vũ Hồng Khanh bỏ hai chữ cuối là Việt Nam mà chỉ gọi chung là Quốc dân đảng, lấy cờ của Đại Việt Quốc dân đảng nền đỏ, vòng tròn xanh, ở giữa có ngôi sao trắng nhiều cạnh, làm cờ chung cho hai đảng. Trương Tử Anh giữ chức chủ tịch và Vũ Hồng Khanh giữ chức phó chủ tịch đảng.


Bọn phản cách mạng dựa vào thế lực quân Tàu Tưởng đòi yêu sách giữ 72 ghế trong Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hoà và tham gia chính quyền, đòi Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch nước, Vũ Hồng Khanh làm phó chủ tịch Quân sự ủy viên hội, Nguyễn Tường Tam làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Chu Bá Phượng làm bộ trưởng Bộ Kinh tế v.v...


Việc sáp nhập hai đảng chống phá cách mạng chỉ là hình thức bề ngoài, nhưng bên trong chúng vẫn ngấm ngầm chia rẽ nhau. Trương Tử Anh vẫn hoạt động bí mật riêng cho đảng của hắn. Còn Vũ Hồng Khanh cũng tính mưu kế để loại trừ Trương Tử Anh.


Cũng trong thời gian này Pháp và Tàu Tưởng đã không cần chú ý đến chủ quyền của Việt Nam, tự động thương lượng: Pháp sẽ trả lại cho Tàu Tưởng đất đai vùng tô giới trước đây Trung Quốc đã phải nhượng cho Pháp và nhượng lại Công ty Hoả xa Vân Nam, để đổi lấy việc Tàu để cho quân Pháp thay chân Đồng Minh quay trở lại Việt Nam.


Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy nếu Việt Nam phải chịu hai sức ép, nhất là quân Tàu lại ở ngay sát nách Việt Nam thì rất nguy hiểm, nên cần phải loại bỏ một kẻ thù, để tập trung sức chống lại một tên thực dân Pháp đã suy tàn. Khi quân Tàu Tưởng rút hết quân về nước, bọn Nguyễn Hải Thần và bè lũ cũng phải bỏ trốn theo để tránh quân Pháp thay chân quân Tưởng vào Việt Nam đàn áp. Trước tình hình đó, Trương Tử Anh và Vũ Hồng Khanh buộc lòng phải hợp tác thực sự với nhau để có lực lượng chống phá cách mạng. Trương Tử Anh vẫn ngấm ngầm hoạt động cho đến cuối năm 1946, hắn đã bị công an ta bắt khi giả danh là thợ mộc đi qua cầu Long Biên để vào Khâm Thiên bắt mối tìm nơi trú ẩn.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:38:17 am
Đến trước ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, những tên phản động đã bị bắt đều phải trừng phạt. Trương Tử Anh, tên phản cách mạng nguy hiểm cũng đã bị xử lý. Nhưng bọn Đại Việt Quốc dân đảng trong nội thành lại nuôi dưỡng mộng tưởng là đảng trưởng của chúng vẫn còn sống, có thể đã thoát ngục hay bị Việt Minh giam giữ ở đâu đó. Nhất là sau khi có số đảng viên Đại Việt như Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Văn Kiểu bỏ hàng ngũ kháng chiến về hợp tác với Bảo Đại.


Khi điệp báo viên của ta cho biết bọn Đại Việt trong nội thành đã "mắc mồi câu", anh Doãn đã chỉ thị cho các cán bộ sưu tầm lại hồ sơ, giấy tờ của Trương Tử Anh, nghiên cứu kỹ lời văn của hắn vẫn dùng trong các văn bản của chúng và chữ ký, con dấu để ta có cách làm giả. Sau đó công việc này được giao cho anh Hoành làm nghề khắc dấu và bắt chước chữ ký. Thế là ra đời một chỉ thị của đảng trưởng Trương Tử Anh gửi cho các đảng viên ở khắp các địa phương cần mở rộng tổ chức, kết nạp thêm đảng viên mới và tìm cách bắt liên lạc với Đảng Đại Việt trong nội thành để làm chỗ dựa về kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của đảng ở ngoài này.


Điệp viên của ta lại có dịp gặp Đinh Xuân Cầu, nhưng trong câu chuyện trao đổi, điệp viên vẫn tảng lờ không nhắc đến chuyện Trương Tử Anh nữa, Đinh Xuân Cầu quá sốt ruột phải nêu vấn đề này ra trước.

- Anh có thể cho tôi biết hiện nay đảng trưởng đang ở vùng nào và hoạt động ra sao?

- Tôi may mắn được tiếp xúc vài ba lần với đảng trưởng cũng như tôi đang ngồi nói chuyện với anh như thế này. Khi đảng trưởng bị Việt Minh bắt rồi kháng chiến toàn quốc xảy ra, họ đưa đảng trưởng ra vùng tự do trước, đảng trưởng đã khôn khéo tìm cách trốn thoát và tiếp tục gây dựng lại phong trào. Qua mấy năm nay, lực lượng đảng viên của đảng ta đã hùng hậu lắm, hầu hết đều có tham gia kháng chiến ở nhiều địa phương và trong các cơ quan của Việt Minh, mà có nơi hầu như đảng viên của ta nắm toàn bộ quyền lãnh đạo.

- Anh vẫn thường xuyên liên lạc với đảng trưởng chứ?

- Có đấy! Gần đây, tôi nhận được chỉ thị của đảng trưởng và may mắn tôi có mang theo để anh xem.

Điệp viên của ta đưa cho Đinh Xuân Cầu bản chỉ thị của đảng trưởng, Cầu cầm vội lấy và xin phép vào nhà trong một lát. Khi hắn ra, Bùi Đức Việt thấy hắn thay đổi nét mặt tỏ ra vui vẻ, anh biết là hắn đã đối chiếu, so sánh nét chữ, lời văn, con dấu và chữ ký của Trương Tử Anh.

- Anh có thể cho tôi mượn bản chỉ thị này được không?

- Anh cứ giữ lấy để báo cáo lại với ban thường vụ trung ương đảng cho cụ thể.

- Xin cảm ơn anh. Hiện nay đảng trưởng sống như thế nào?

- Đảng trưởng vẫn quen nếp hoạt động bí mật nên thay đổi luôn chỗ ở. Nhưng tôi cũng biết được đảng trưởng chỉ ở quanh mấy vùng núi giáp ranh giữa Ninh Bình và Thanh Hoá, còn cụ thể nơi nào thì tôi không thể biết được. Nhưng khi có việc cần tôi vẫn có thể liên lạc qua đầu mối với đảng trưởng để báo cáo tình hình. Còn cuộc sống về vật chất thì nói chung ai cũng phải chịu thiếu thốn trong mọi sinh hoạt hàng ngày.

Câu chuyện dừng lại ở đây. Thời gian trôi qua vài ba tháng, Bùi Đức Việt cũng không đả động gì tới việc này nữa để cho bọn chúng phải nóng lòng chờ đợi. Thực sự hoạt động của chúng trong nội thành đều phải chịu sự giám sát của bọn Pháp, cụ thể là Phòng Nhì do tên Duprat chỉ huy. Khi Duprat được Đinh Xuân Cầu báo cáo là Đảng Đại Việt vẫn hoạt động mạnh ở ngoài vùng kháng chiến và có nơi, có lúc người của đảng đã nắm trọn quyền lãnh đạo ở một vài địa phương và cơ quan nào đấy, hắn rất mừng, thúc đẩy bọn Đinh Xuân Cầu bằng mọi cách phải bắt liên lạc được với Đảng Đại Việt ở vùng tự do. Tên Duprat cho rằng: nếu tin đó là thực thì hắn có thể lũng đạo được sự lãnh đạo của kháng chiến và đây sẽ là một "lực lượng thứ năm có sức mạnh đáng kể, làm công cụ tay sai cho chúng (Cinquième colonne - Đội quân thứ Năm làm nội ứng). Duprat vẫn huyênh hoang, chê bai bọn quân sự phải tốn nhiều nhân mạng và tiền của súng đạn, nhưng thắng lợi thu được rất hạn chế. Còn hắn sẽ đánh gục Việt Minh cộng sản bằng chính người Việt Nam mà không phải hy sinh người chính quốc.


Chủ trương của lãnh đạo Công an Hà Nội để chúng phải chờ đợi lâu, chính là để cho chúng càng "say mồi", dễ mắc câu hơn nữa.

Sau một thời gian vắng tin của điệp viên ta, Đinh Xuân Cầu càng nôn nóng chờ đợi, nhất là khi hắn đã đưa cho ban chấp hành đảng xem xét kỹ lại bản chỉ thị của đảng trưởng cùng lời văn, chữ ký và con dấu thấy đúng 100 phần trăm. Chủ tịch Đảng Đại Việt, Đặng Vũ Lạc là bác sĩ có nhà thương tư "Clinique Đặng Vũ Lạc" (hiện nay là bệnh viện Việt Nam - Cuba) ở phố Trần Hưng Đạo, luôn hối thúc Đinh Xuân Cầu cố bắt liên lạc lại với anh Việt và nếu có điều kiện thì người của đảng trong nội thành sẽ cử đại diện ra trực tiếp gặp đảng trưởng Trương Tử Anh.


Chính chúng cũng thủ đoạn muốn kiểm chứng lại xem có đúng là tên Trương Tử Anh còn sống thật không?

Vừa thoáng thấy Bùi Đức Việt, Đinh Xuân Cầu vồn vã, tươi cười đón tiếp và đi ngay vào câu chuyện:

- Theo anh cho biết, lực lượng của đảng ta ở ngoài đó đã làm chủ ở vài địa phương và cơ quan của Việt Minh cộng sản, thế thì các anh ở ngoài đó có thể bố trí cách sao cho người đại diện của đảng ở trong này ra tiếp xúc với đảng trưởng ngoài đó được an toàn tuyệt đối không?

- Vấn đề này vượt quyền của tôi rồi. Để tôi ra xin ý kiến cấp trên rồi mới có thể trả lời cho anh được.

- Anh sớm cho tôi biết tin ngay nhé.

- Nhưng...

- Có gì trở ngại nữa?

- Vấn đề về đảng thì không có gì trở ngại, nhưng tôi ra vào luôn nội thành rất dễ bị mật thám Phòng Nhì bắt, vì thế nên có thể anh phải chờ lâu đấy.

- Ô! Chuyện ấy không ngại gì. Tôi đảm bảo anh ra vào tự do, không ai động được đến anh. Và nếu anh có bị mật thám giữ thì cứ nói anh có quan hệ với tôi trong công việc mật thiết về đảng. Thế là đủ. Anh đã biết tôi là ủy viên trung ương đảng thì tôi cũng phải có chút quyền lực với Pháp chứ!

- Được như vậy thì tôi yên tâm rồi.

Bùi Đức Việt lại trở ra vùng tự do báo cáo mọi diễn biến tình hình để ban lãnh đạo Sở Công an Hà Nội nắm. Một kế hoạch đón tiếp người của đảng trong nội thành ra vùng tự do kháng chiến được giao cho anh Lại Tuệ, trưởng Phòng Phản gián thực hiện.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:40:03 am
Cuộc phiêu lưu lần thứ nhất của Đinh Xuân Cầu

Được tin của Bùi Đức Việt: Đảng Đại Việt ngoài đó đã sẵn sàng bố trí địa điểm để đón tiếp người của trung ương đảng trong này cử ra, Đinh Xuân Cầu hớn hở, nói ngay: "Anh có thể ở lại nhà tôi một hai ngày để chờ tôi trao đổi với thường vụ trung ương đảng về chuyện này, nên cử ai đi ra ngoài đó. Tôi sẽ báo lại tin cho anh biết ngay!"


Bùi Đức Việt cũng đã có cơ sở kín đáo để ở, nhưng không muốn để cho Phòng Nhì Pháp theo dõi biết thêm những cơ sở đó, nên anh đồng ý ở lại nhà Đinh Xuân Cầu.

Bùi Đức Việt không phải chờ đợi lâu mà ngay ngày hôm sau, Đinh Xuân Cầu đã cho anh biết là thường vụ đảng nhất trí cử hắn là ủy viên thường trực ra tiếp xúc với đại diện của Đại Việt ngoài đó.

Bùi Đức Việt đã biết hắn là ủy viên trung ương Đảng Đại Việt, nhưng hắn là người lai nên được Duprat tín nhiệm, sử dụng riêng, hắn đồng ý để Cầu ra vùng tự do nhằm thu thập thêm tin tức cần thiết, cung cấp cho Phòng Nhì.

- Tôi ra ngoài đó có phải chuẩn bị gì không?

- Anh muốn nói chuẩn bị gì? về công việc thì chắc anh đã được thường vụ trung ương trao đổi cho rồi. Việc đảm bảo an toàn cho anh thì chúng tôi xin tuyệt đối giữ gìn anh trong mọi trường hợp khi đi đường, nơi ăn, ở, nơi tiếp xúc với đại diện đảng ngoài đó. Nhưng...

- Tôi có phải mang theo súng để phòng thân không?

- Trước hết anh không phải đụng độ với Việt Minh nên mang theo súng thêm nặng. Tuy thế cũng phải đề phòng đôi chút là anh cần phải hoá trang để che mắt trinh sát Việt Minh. Tôi sẽ để cho anh mặc bộ quần áo nâu, đi dép cao su, hoá trang như mọi cán bộ kháng chiến là đủ. Còn khi đã đến nơi ở thì đó là cơ sở tin cậy của chúng tôi, anh không lo ngại gì. Duy có chuyện anh phải đi đêm và đi bộ theo đường giao liên nên khá vất vả đấy!

- Ồ! Tôi tưởng là chuyện gì to tát, còn nếu chỉ phải đi đêm thì tôi cũng như anh có sức lực thì ngại gì chuyện đó. Huống chi anh luôn ra vào trong này mà trông anh có mệt nhọc gì đâu. Tôi chịu được sự thử thách ấy. Anh cứ cho biết giờ lên đường trước vài ba tiếng là tói đi ngay được.

Ngay đêm hôm ấy, Đinh Xuân Cầu cùng Bùi Đức Việt ra vùng tự do. Khi được tin là chập tối sẽ lên đường, Đinh Xuân Cầu cứ bồn chồn, đứng ngồi không yên, tâm trạng hồi hộp, vui mừng khó tả. Hắn sắp được tiếp xúc với đại diện của đảng ở ngoài đó, vừa được tận mắt quan sát mọi tình hình của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta ở vùng tự do. Còn chuyện phải đi đêm, leo núi, luồn rừng chỉ càng thôi thúc tính tò mò của Cầu.


Ngày giờ mà điệp viên báo cho Cầu ra vùng tự do, đã được ban ãnh đạo Sở Công an Hà Nội ấn định theo đúng kế hoạch rồi.

Đêm hôm ấy, Cầu cứ lẳng lặng đi theo bước chân của Việt. Cầu thấy Việt đi nhanh thoăn thoắt như có hai con mắt ở dưới bàn chân, anh bước trên những con đường gập ghềnh, quanh co, men theo bờ ruộng, qua các cánh bãi, tha ma, đầm lầy mà cứ thản nhiên. Trong khi đó Cầu cố căng mắt nhìn vào màn đêm chỉ thấy một màu đen kịt, bước chân vấp lên, vấp xuống không biết bao nhiêu lần. Nhưng Cầu vẫn cố gắng bám theo Việt để không tụt lại sau. Một đêm qua đi với mọi gian khổ mà Cầu thấy thời gian sao dài đến thế.


Ngày hôm sau, Việt để Cầu đi ban ngày, qua hết cánh đồng này sang cánh đồng khác, đi tránh vào các làng. Trên đường đi anh thấy Cầu cứ tập tễnh và thở dốc, Việt mỉm cười ranh mãnh muốn kéo dài thêm sự thử thách chịu đựng gian khổ của ông trung ương đảng quen sống trong cảnh nhà lầu, xe hơi. Nhưng đến đêm thứ ba phải vượt qua con sông Đáy vùng Tế Tiêu để đi vào Cầu Dậm - Quan Sơn, thuộc dãy núi đất Hoà Bình.


Nhìn thấy bóng núi đen thẫm in lên trên nền trời đêm đẩy sao, Cầu thấy lòng hồi hộp. Và khi nghe thấy Việt nói là đã vào vùng chiến khu của Việt Minh thì Cầu càng thấy rờn rợn nỗi lo sợ. Nhưng hắn thấy Việt vẫn thản nhiên cười nói chuyện nên cũng yên lòng phần nào.


Bóng núi chập chùng đen thẫm. Con đường 21 đá trắng hiện ra mờ mờ chạy dài mất hút vào màn đêm. Đinh Xuân Cầu vẫn đi chập chờn, bước thấp bước cao. Chợt một tiếng quát hỏi, tiếng súng lên đạn lách cách làm Cầu giật bắn mình, trốna ngực đập dồn dập, người run lập cập.


Việt tiến lên trước thì thầm nói với người gác, rồi hai người lại tiếp bước vào con đường núi dốc hẹp, cỏ lau rậm rạp. Hết lên đèo lại xuống dốc, lội suối, băng rừng làm cho Đinh Xuân Cầu thấy đường vào chiến khu sao gian nan vất vả. Trong khi đó, Việt cứ ung dung bước đi như người dạo chơi ở đường quen thuộc. Thấp thoáng có ánh lửa le lói trên căn nhà sàn. Cầu nghe Việt dừng chân lại để anh một mình tiến lên trước. Trong đêm đen mịt mùng, Cầu chỉ nghe thoảng có tiếng nói rì rầm trao đổi giữa hai người, một lúc sau mới thấy Việt quay lại:

- Gần đến nơi rồi! Đây là trạm gác cuối cùng. Anh có mệt lắm không?

- Mệt! Nhưng tôi thấy phấn khởi và cố sức theo kịp anh.

Hai người lặng lẽ đi qua bản, rồi lại luồn rừng, leo dốc và lội suối đến gần một giờ nữa mới dừng lại.

- Đến nơi rồi! Tôi sẽ bố trí để anh ở lại một nhà dân. Anh cứ ở trên nhà, đừng đi đâu xa. Cơm nước sẽ có người đem đến tận nơi cho anh. Tôi còn đi tiếp vào chỗ căn cứ để báo cáo với đảng cho người ra tiếp anh.

Hai người leo cầu thang lên ngôi nhà sàn khá rộng, Cầu cứ rón rén vì bước chân trên sạp nứa cứ rung lên làm hắn sợ thụt chân ngã.

Chủ nhà đã dậy đun nước pha chè mời khách. Đinh Xuân Cầu thấy hai bắp chân nhức nhối mỏi dừ không buồn cử động nên uống nước xong là hắn xin phép Việt đi nằm ngay, ngủ thiếp đến sáng bạch mới tỉnh dậy. Sáng hôm sau, Cầu ra sân sau nhà sàn, nhìn lên dãy núi đá vôi chập chùng kỳ bí. Tiếng vượn hú lanh lảnh vang động cả khu rừng. Hắn đưa mắt nhìn mấy ngôi nhà sàn chênh vênh bên sườn núi, cảm giác như người lạc vào thế giới hồng hoang. Nhưng hắn không ngờ rằng bản này vẫn là "trạm gác cuối cùng" mà hắn đã đi qua lần đầu, chỉ cách đường 21 có gần một cây số, nhưng hắn cứ phải đi quanh co đến gần một giờ nữa để rồi quay về chỗ bản cũ. Một câu chuyện đèn cù được ban lãnh đạo chuyên án dựng lên để đánh lạc hướng Đinh Xuân Cầu.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:40:47 am
Ông chủ nhà trông gân guốc, nhưng hiền khô, nói chuyện với Đinh Xuân Cầu mà thưa gửi với "đồng chí" vừa thân tình vừa lễ phép, kính nể, càng làm cho Cầu thấy được sức mạnh của cán bộ lãnh đạo đảng ngoài vùng kháng chiến, có uy tín với nhân dân. Cầu tin chắc là ông chủ nhà đã được Việt rỉ tai cho biết vai trò quan trọng của Cầu.


Hắn thấy vui lòng, ngồi uống nước chè, nói chuyện với chủ nhà và cũng không quên tỏ rõ vai vế của hắn. Cầu vừa nói chuyện vừa đưa mắt bỡ ngõ nhìn khắp gian nhà sàn, bếp lửa cũng ngay trên sàn nứa, giữa ngôi nhà và mọi vật dụng đều thấy vẻ hoang sơ, xa lạ với hắn. Theo lời dặn của Việt, cả ngày hôm ấy Cầu chỉ nằm dài trên nhà sàn, trừ lúc xuống suối rửa mặt và làm vệ sinh cá nhân. Mỗi bữa ăn lại có người mang đến cũng đủ thịt, cá, trứng. Cho đến gần tối Cầu mới thấy Việt quay lại cho hắn rõ là sáng mai sẽ có đại diện của đảng ra tiếp Cầu.


Đinh Xuân Cầu hồi hộp chờ đợi phút lịch sử trong cuộc đời hoạt động của hắn.

Trong khi ấy ở một bản cách xa chừng độ hơn 10 cây số, anh Doãn, anh Lại Tuệ và một số cán bộ khác của Sở Công an Hà Nội đang họp bàn với anh Nguyễn Đình Lạp, nhà văn đã đứng tuổi, người tầm thước, trắng trẻo, đặc biệt có cái mũi đỏ cà chua, trầm tĩnh, ít nói, đang công tác ở Công an Hà Nội. Anh Lạp sẽ đóng vai "thiếu tá" đại diện của đảng trưởng Trương Tử Anh ra tiếp chuyện Đinh Xuân Cầu. Mục đích cuộc trao đổi này có mấy vấn đề chính: Phải thể hiện được rõ sự lớn mạnh của phong trào "Mặt trận quốc gia" do Đảng Đại Việt lãnh đạo, giữ vai trò trọng yếu của cuộc kháng chiến ở vài địa phương. Nêu ra vài khó khăn về hoạt động của đảng như thiếu phương tiện thông tin liên lạc, thiếu tài chính mua sắm vật dụng hoạt động. Đảng hoạt động lẻ loi mà chưa liên kết được với các bộ phận của đảng ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam.


Anh Lạp cứ nắm vững mấy vấn đề chủ yếu ấy mà xoay quanh câu chuyện với Đinh Xuân Cầu. Nhưng anh Lạp cũng đặt ra câu hỏi: "Nếu hắn yêu cầu người đại diện của đảng ngoài này vào trong đó để gặp trực tiếp thường vụ trung ương của chúng thì sao?"

- Anh chưa nhận lời vội và nói là đảng trưởng muốn được thấy tổ chức trong đó thể hiện vài hành động liên kết cụ thể, sau đó mới cử đại diện vào nội thành, làm việc với ban thường vụ trung ương đảng trong đó.


Cuộc gặp giữa "thiếu tá" Nguyễn Đình Lạp với Đinh Xuân Cầu diễn ra theo đúng thủ tục gọi là "ra mắt" và trao đổi chính thức về tình hình hoạt động của hai đại diện đảng Đại Việt ở ngoại thành và nội thành đề nghị với thường vụ trong đó giúp đỡ đảng ngoài này về kinh tế và vật chất. Thiếu tá Lạp cũng ngỏ ý mời Đinh Xuân Cầu ở lại thăm chiến khu vài ba ngày, nhưng Cầu đạt được mục đích rồi và y thấy cuộc sống ngoài này còn quá thiếu thốn, nhất là về thuốc men chữa bệnh, nên hắn xin cáo từ được ra về sớm, lý do để báo cáo tin vui cho ban thường vụ của đảng trong ấy biết. Trước khi chia tay với anh Lạp, Đinh Xuân Cầu có đưa ra một đề nghị nhỏ là xin được giữ lại bộ quần áo nâu và đôi dép cao su để làm kỷ niệm.


Nhận thấy điều này cũng dễ dàng, không có gì vi phạm công tác nên anh Lạp đồng ý ngay.

Một kế hoạch tiễn đưa Đinh Xuân Cầu trở về nội thành được vạch ra tỉ mỉ. Anh Nguyễn Thông1 (Sau này là Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng của Bộ Công an, đã mất) chịu trách nhiệm đưa Cầu vào vùng giáp ranh nội thành. Nhưng để gây thêm ấn tượng cho Đinh Xuân Cầu, anh Doãn đã cho bố trí một cuộc đụng độ nhỏ để Cầu nhớ đời.


Trời mới chạng vạng tối, anh Thông đưa Đinh Xuân Cầu ra bờ sông, chuẩn bị sang bên kia bờ thì đột nhiên trên mặt đê lố nhố mấy bóng người. Anh Thông vừa kịp kéo Đinh Xuân Cầu nấp kín vào vệ đê thì có tiếng quát hỏi. Anh Thông không trả lời, kéo Cầu nấp kín vào vệ đê ở đoạn khác. Lập tức một tràng đạn nổ đi sát ngay trên đầu hai người, quạt gió mát lạnh, làm anh Thông phải cố ấn đầu tên Cầu xuống thấp hơn nữa và nghĩ thầm: "Nguy hiểm quá! Nhưng cậu nào có tay súng lợi hại thật!"


Tiếng súng im bặt, anh Thông liền đưa Cầu xuống sát mép nước đi xuôi dòng đến chỗ giấu thuyền, chở Cầu sang sông ngay. Lại mất ba ngày rong ruổi trên các bờ ruộng, đường mòn, cánh bãi ngô, khoai, vượt sông lần nữa quãng Cự Đà, Khúc Thủy mới về đến Hà Đông, anh để cho Cầu đi một mình vào nội thành, về đến nhà yên ổn, Cầu thấy việc cần làm trước tiên là lăn ra ngủ. Ngủ dậy, ăn rồi lại ngủ cho bù những hôm vất vả gian nan sống trong vùng kháng chiến.


Hai hôm sau Đinh Xuân Cầu mới gọi dây nói báo cho thường vụ biết là cuộc phiêu lưu của hắn ra vùng Việt Minh đã hoàn thành mỹ mãn.

Tất nhiên trong câu chuyện kể lại, Đinh Xuân Cầu cũng đã tô thêm mọi gian nan, nguy hiểm mà hắn đã vượt qua và cũng nói phóng đại về sức mạnh của đảng trưởng Trương Tử Anh đã lãnh đạo phong trào "Mặt trận quốc gia" thu được nhiều thắng lợi đáng kể và có sức thuyết phục rõ ràng qua việc đi lại và nơi ở của Cầu tại nhà cơ sở của Đảng tại vùng núi chiến khu ở Hoà Bình. Sau đó Cầu cũng báo cáo lại cho ban thường vụ biết những khó khăn về tài chính và vật chất của các đảng viên ngoài đó, nên sau đó ít lâu, trung ương Đại Việt đã thống nhất với thủ hiến Nguyễn Hữu Trí, cũng là người của Đảng Đại Việt cử ra làm việc với Pháp, để gửi số hàng viện trợ đầu tiên ra ngoài đó.


Đảng của Trương Tử Anh, mà đại diện là Công an Hà Nội đã nhận số đồ viện trợ như tiền Cụ Hồ đến hàng chục triệu, nhưng đều là tiền giả nên phải thiêu hủy ngay, nhiều vật phẩm văn phòng, thuốc men và đáng kể nhất là chiếc máy phát điện quay tay nhãn hiệu Ragono.


Và cũng từ sau cuộc phiêu lưu ra vùng kháng chiến ấy, mỗi lần nghe có chuông gọi báo khách đến chơi là Đinh Xuân Cầu lại vội vàng thay bộ pijama đắt tiền bằng bộ quần áo nâu, đi đôi dép lốp cao su để xuống nhà tiếp khách. Chỉ cách ăn mặc như vậy cũng đủ nói cho bạn bè của Cầu chiến tích của hắn đã được ra vùng kháng chiến của Việt Minh cộng sản.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:42:04 am
Những trục trặc trong khi tiến hành chuyên án

Trong khi chuyên án của "Mặt trận quốc gia" đang tiến triển thuận lợi do ý định của anh Doãn "thả mồi" câu, bắt trúng tâm lý của địch, kể cả Phòng Nhì Pháp. Và để cho con cá sộp say mồi hơn nữa, ban lãnh đạo chuyên án lên kế hoạch những bước tiếp theo, nhưng đột nhiên Công an Hà Nội nhận được tin Hoàng Đạo, trưởng ty Công an Thanh Hoá đã tự tiện bỏ vào Hà Nội. Tiếp sau đó lại có Đặng Trần Mẫn chủ tịch Ủy ban hành chính, kháng chiến tỉnh Hà Đông cũng bỏ trốn ra Hà Nội. Việc Hoàng Đạo vào nội thành là rất nguy hiểm vì là người trong ngành công an nên có thể nắm rõ hoạt động của ta và như vậy chuyên án này có thể bị phá vỡ. Chính vì thế mà lúc này tôi được giao nhiệm vụ là phó ban Hành động chuyên việc trừ gian, phụ trách đội Thanh Việt lên kế hoạch trừng trị kẻ phản bội.


Tôi đã giao việc này cho anh Hoàng Nam, tổ trưởng của một đội Thanh Việt làm nhiệm vụ trừng trị Hoàng Đạo.

Khi kế hoạch được triển khai thì anh Doãn đã nghĩ kỹ, bảo tôi hoãn thi hành việc hành động để anh viết thư kêu gọi Hoàng Đạo làm theo kế hoạch của anh để tiếp tục chuyên án "Mặt trận quốc gia", vì địch thừa biết Hoàng Đạo là trưởng ty Công an Thanh Hoá rồi, nên Hoàng Đạo cứ công khai nhận điều đó, để lái sang câu chuyện "Mặt trận quốc gia" cũng phù hợp với kế hoạch mà Công an Hà Nội đang tiến hành.


Việc chuyển thư của anh Doãn cho Hoàng Đạo được giao cho Kim Sơn từ một chuyên án khác, được thực hiện từ khi anh Doãn còn là trưởng ty Điệp báo trung ương, nhằm cài Kim Sơn vào trong hàng ngũ của địch. Kim Sơn đóng giả là đại đội trưởng một đại đội Vệ quốc đoàn đầu hàng địch. Địch bắt Kim Sơn phải đưa cả đại đội về hàng chúng. Trước tình hình đó, anh Doãn đã bố trí kế hoạch cho "bắt" Kim Sơn giam ở một ngôi chùa gần Đồng Quan. Đột nhiên Phòng Nhì mất liên lạc với Kim Sơn, chúng vội vã ra chỉ thị cho những cơ sở tai mắt của chúng ở ngoài vùng kháng chiến điều tra xem Kim Sơn bị giam ở đâu để chúng lên kế hoạch giải cứu. Tôi đã được anh Doãn cho xem chỉ thị của Phòng Nhì tả rõ chân dung của Kim Sơn người tầm thước, mặt tròn, da tái xanh, nói tiếng Nam Bộ...


Ít lâu sau Kim Sơn vượt nhà giam theo đúng kế hoạch, trốn vào nội thành và được Phòng Nhì phong chức là Capitaine, vì chúng biết rõ Kim Sơn là con một đại điền chủ ở miền Nam. Phòng Nhì liền giao cho Kim Sơn làm phiên dịch cho Hoàng Đạo mỗi khi giao dịch với chúng. Từ sự việc đó, ban lãnh đạo Công an Hà Nội đã hình thành một tổ điệp báo và sau đó Hoàng Đạo chuyển thành điệp viên mang bí số A13 và Kim Sơn mang bí số A14.


Như vậy các chuyên án do hoàn cảnh đã kết nối với nhau thành một đầu mối cho vụ án khác, nhưng chuyên án "Mặt trận quốc gia" vẫn có những nét đặc thù riêng.

Cùng lúc này nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả cuốn truyện "Thằng Kình, cu So" có thời gian cùng với nhà văn Nguyễn Đình Lạp công tác ở Công an Hà Nội, nhưng Quỳnh không chịu được gian khổ của kháng chiến và cũng có đầu óc chống đối với cộng sản Việt Minh, nên đã bỏ trốn vào nội thành. Tiếp sau đó thi sĩ Lan Sơn cũng "dinh tê" về nội thành1 (Dinh tê, theo phiên ảm tiếng Pháp là Rentrer, có nghĩa vào thành). Một loạt các sự kiện xảy ra đã làm cho ban lãnh đạo Công an Hà Nội đau đầu, phải thận trọng nghe ngóng sự phán ứng của bọn Đại Việt và của Phòng Nhì Pháp. Nhưng cũng do ngay từ đầu chuyên án, ta đã giữ được bí mật, ngay cả số cán bộ trong ngành không có nhiệm vụ liên quan cũng không được biết về vụ án này.    


Thời gian đó, trong nội thành Đảng Đại Việt cũng có biến động, bác sĩ Đặng Vũ Lạc bị chết nên ông Nguyễn Đình Luyện lên thay làm chủ tịch đảng. Ông Luyện thận trọng hơn nên cũng cần cân nhắc lại mọi việc.


Sau một thời gian gửi thư vào nội thành cho Hoàng Đạo, anh Doãn được Kim Sơn báo cáo cho biết: Hoàng Đạo xin được thực hiện kế hoạch của anh về chuyên án "Mặt trận quốc gia". Hoàng Đạo được Phòng Nhì giới thiệu đứng ra lập tổ chức lôi kéo các phần tử trí thức còn chưa chịu ra làm việc với Pháp1 (Số người này gọi là "Trí thức trùm chăn'').


Vô hình chung Hoàng Đạo cũng đã làm một việc có lợi cho Phòng Nhì vì tên Duprat cũng không dại gì buông lỏng cho Hoàng Đạo được tự do hoạt động. Hắn điều Hoàng Đạo đi khắp mọi nơi từ Bắc vào Nam, gặp gỡ những tên tuổi như Bảo Đại, giáo chủ Phạm Công Tắc của phái Cao Đài, Hoà Hảo v.v... để tập hợp số người này ra hoạt động cho Pháp, mà nhất thiết không để cho Hoàng Đạo ở lại đâu lâu để có thể hoạt động điệp báo cho ta. Đấy cũng là thủ đoạn cáo già của thực dân Pháp mà ta không thể bỏ qua. Nhưng ta hãy quay lại chuyên án "Mặt trận quốc gia".


Tiếp sau đợt viện trợ lần thứ nhất của Đại Việt, ta chủ trương moi thêm vật chất cùng tin tức hoạt động của địch.

Lúc này cuộc chiến đã mở rộng trên toàn cõi Đông Dương, nên ở cả ba miền đều có ba đảng Đại Việt hoạt động riêng rẽ. Miền Bắc Đặng Vũ Lạc chết thì có Luyện lên thay, chủ trương để người của đảng tham dự chính quyền bù nhìn nên đã giới thiệu Nguyễn Hữu Trí ra làm thủ hiến Bắc Việt, ở miền Trung có Hà Thúc Ký và Bửu Hiệp lãnh đạo Đảng Đại Việt nhưng không tham gia chính quyền. Miền Nam có Nguyễn Tôn Hoàn lãnh đạo, cũng cử người tham dự nguỵ quyền.


Năm 1950, Bảo Đại được Pháp đưa về nước để thành lập chính quyền thống nhất cả ba miền, theo chế độ quân chủ lập hiến. Cũng vì thế ba đảng Đại Việt ở ba miền có điều kiện hợp nhất thành một đảng Đại Việt quốc dân duy nhất trong cả nước.


Năm 1952, Ngô Đình Nhu ở Pháp về được giao chức Phó giám đốc Thư viện Trung ương tại Hà Nội. Nhu về nước với mục đích hoạt động dọn đường cho Ngô Đình Diệm được Hồng y giáo chủ Spellman giới thiệu và được Mỹ ủng hộ, sẽ về lập chính quyền thân Mỹ. Ngô Đình Nhu đã bí mật câu kết với Lê Hữu Từ, giám mục ở nhà thờ Phát Diệm - Kim Sơn - Ninh Bình, được Từ ủng hộ. Chính Lê Hữu Từ cũng đã cho Nhu biết là Từ đã vào Huế gặp linh mục Drapier tại toà khâm sai ở Phủ Cam, cách cây cầu nhỏ bắc qua sông An Cựu. Drapier cho Từ biết là: Bảo Đại chẳng có tư cách gì khác ngoài việc thích đi săn và tán gái, kể cả vợ các quan chức người Pháp. Ngô Đình Nhu được Từ giúp đỡ đã liên kết được với Đảng Đại Việt với âm mưu thao túng bọn này để ủng hộ Diệm khi về nước. Chính vì thế trong suốt hàng chục năm trời hết đời tổng thống này đến tổng thống khác, bọn Đại Việt vẫn giữ được vai trò quan trọng của chúng trong các chế độ nguỵ quyền.


Cũng trong thời gian 1950-1952 hoạt động quân sự của ta đã thu được nhiều thắng lợi quan trọng làm Pháp phải căng quân ra để đối phó ở các mặt trận và như vậy Pháp không còn ưu thế tập trung quân với sức mạnh của vũ khí để lấn át ta. Ngược lại, càng rải mỏng quân thì Pháp càng bị quân dân ta bao vây tiêu diệt. Cũng vì tình thế đó mà Duprat nôn nóng muốn nắm được "Đội quân thứ Năm" làm nội ứng để lật đổ chính quyền cách mạng kháng chiến.


Duprat đang có tham vọng leo cao hơn nữa nên càng say với tổ chức "Mặt trận quốc gia". Hắn thúc Trí, Luyện, Cầu tích cực giúp cho Đảng Đại Việt ngoài kháng chiến có điều kiện để hoạt động mạnh hơn.


Nắm được điểm yếu của Duprat và sự khờ dại của bọn Đại Việt trong nội thành, lãnh đạo Công an Hà Nội đã tích cực tung nhiều cán bộ vào hoạt động nội thành. Các ngành, các giới khác cũng đưa người của mình vào xây dựng cơ sở trong nội thành, cài người đi sâu vào các cơ quan hành chính của nguỵ quyền. Phong trào kháng chiến ở nội thành chuyển sang giai đoạn hoạt động tích cực, cũng đã thu được nhiều thắng lợi to lớn về mọi mặt.


Nhưng dù Đại Việt có khờ khạo, thì tên Duprat vẫn có những thủ đoạn ma quái. Hắn thúc Đinh Xuân Cầu gặp cán bộ của ta để đòi được ra vùng tự do lần nữa, trực tiếp tham gia cuộc họp với các lãnh đạo chủ chốt của Đại Việt Quốc dân đảng và của "Mặt trận quốc gia", qua đó hắn có thể đánh giá được đúng tình hình.


Trước tình hình ấy, anh Doãn đã phải dùng đến sự giao du thân thiết của anh với một số trí thức nổi tiếng đang sinh sống ở quanh vùng núi Nưa, Thanh Hoá như: nhà văn Đặng Thai Mai, bác sĩ Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh v.v... để nhờ những người này giúp đỡ trong chuyên án đánh địch này. Anh Doãn hiểu rằng: dù sao ban lãnh đạo Đại Việt Quốc dân đảng trong nội thành cũng là những trí thức có tên tuổi như: bác sĩ Lạc, Luyện, Trí, Cầu v.v... nên không thể sắp xếp số cán bộ của ta đóng giả làm người lãnh đạo phong trào "Mặt trận quốc gia" vì số cán bộ Công an Hà Nội đều còn rất trẻ. Hơn nữa địch cũng nắm rõ được tiểu sử những người trí thức trên. Và thế là đích thân anh Doãn phải vào Nưa để gặp trực tiếp số trí thức ấy.


Do có uy tín nên anh Doãn được các trí thức trên nhiệt tình giúp đỡ và theo sự đạo diễn của anh. Anh Doãn cũng đã trình bày với số người này là anh đã báo cáo chính thức với Tỉnh ủy Thanh Hoá về việc nhờ họ "đóng kịch" trong thời gian ngắn để sau này không có sự hiểu lầm nào khác về chính trị. Ta đã ghi hình ảnh cuộc họp của "Mặt trận quốc gia" tại một hang đá hẹp trong dãy núi đá Nưa. Những người dự họp chỉ nhìn thấy sau lưng và trong hang tối lờ mờ lố nhố nhiều bóng người khác, nhưng bàn thờ "Tổ quốc" thì vẫn thấy được lá cờ có vòng tròn xanh và ngôi sao trắng nhiều cạnh.


Tấm ảnh được điệp viên của ta chuyển vào cho Đinh Xuân Cầu với lời giải thích: "Do hoàn cảnh kháng chiến, máy ảnh không có đèn Flash để chụp cho rõ mặt người. Người chụp ảnh chỉ được chụp phía sau để giữ bí mật cho số nhân vật cao cấp của đảng." Anh nại lý do đại hội "Đảng" phải tổ chức họp sớm vì tình hình chiến sự ở mặt trận Hà Nội và Liên khu III đang diễn ra quyết liệt. Nhưng đảng vẫn sẵn sàng bố trí để số đại biểu của đảng trong nội thành ra gặp những người lãnh đạo của mặt trận.


Và thế là Đinh Xuân Cầu lại được làm cuộc phiêu lưu ra vùng kháng chiến lần thứ hai, với lý do Cầu còn trẻ, đã chịu thử thách gian khổ lần trước rồi. Nhưng lần này Cầu phải đi xa hơn vào tận Thanh Hoá mà không phải là căn cứ ở Hoà Bình.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:43:10 am
Cuộc phiêu lưu lần thứ hai của Đinh Xuân Cầu

Bùi Đức Việt lại là người dẫn đường cho Cầu ra đến địa phận Hoà Bình, rồi giao nhiệm vụ đưa người cho đội trinh sát theo dõi làm tiếp. Anh Doãn lại vào Thanh Hoá gặp Tỉnh ủy xin phép được đạo diễn vài hình ảnh thể hiện sự hoạt động của "Mặt trận quốc gia" như rải một số truyền đơn và để Cầu được gặp một số trí thức của ta.


Lúc đầu Tỉnh ủy Thanh Hoá chỉ đồng ý để anh Doãn thực hiện việc thứ hai, còn việc rải truyền đơn thì Tỉnh ủy không bằng lòng, vì địa bàn Thanh Hoá đang là hậu phương vững chắc, cung cấp người và của cho kháng chiến. Nếu Thanh Hóa có những hoạt động phản cách mạng như thế, dù là giả tạo, thì vô hình chung Thanh Hoá không còn là hậu phương tin cậy của các mặt trận quân sự trên toàn miền Bắc. Anh Doãn cố thuyết phục Tỉnh uỷ, cam đoan không để xảy ra một tình huống xấu nào ảnh hưởng đến an ninh của Thanh Hoá.

- Nhưng việc rải truyền đơn thì sao? Nếu có người dân nào tình cờ nhặt được tờ truyền đơn phản động xem, rồi một truyền mười, truyền trăm và nhân dân sẽ đánh giá thế nào về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy?

- Chúng tôi xin đảm bảo là chỉ rải một số rất ít truyền đơn làm hình thức che mắt bọn địch, rải vào lúc đêm và sau đó sẽ có người đi thu nhặt lại toàn bộ số truyền đơn đã rải, không để sót lại tờ nào, rồi báo cáo lại để Tỉnh ủy rõ. Nếu có gì xảy ra sai sót tôi xin chịu kỷ luật của Đảng, vì chính tôi cũng hiểu an ninh chính trị của Thanh Hoá rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến cuộc kháng chiến của miền Bắc.


Trước yêu cầu khẩn khoản và cũng phải nói đến uy tín của anh, nên cuối cùng Tỉnh ủy cũng chấp nhận đề nghị và còn nhắc lần cuối là anh Doãn phải đảm bảo hết sức an toàn và chịu trách nhiệm việc này với Tỉnh uỷ.


Kế hoạch đưa Đinh Xuân Cầu vào Thanh Hoá lần này rất thận trọng. Đinh Xuân Cầu được đưa ra Vân Đình, xuống thuyền theo sông Đáy về Hồng Phú là một thị trấn của Phủ Lý tản cư về đây, rồi tiếp tục xuôi đò về Đò Lèn, Hàm Rồng.


Trên suốt chặng đường sông, khi đi ca nô khách, anh Nguyễn Thông luôn ngồi kèm sát bên Đinh Xuân Cầu, rất tính táo, không được ngủ gà ngủ gật. Đến Đò Lèn, ca nô khách dừng lại vì cầu đã bị ta phá sập, lại chuyển sang đi thuyền về Hàm Rồng vào lúc gần một giờ sáng. Trên chặng đường đi bộ về dãy núi Nưa, khi đi qua Cầu Bố, nhiều trinh sát được rải ra phục ở hai bên đường, rải từng quãng ngắn truyền đơn lúc thấy Cầu đi qua. Anh Thông nhặt một tờ đưa cho Đinh Xuân Cầu, rồi tiếp tục đi. Ngay sau đó, các trinh sát lại đi thu nhặt hết số truyền đơn đã rải, không bỏ sót một tờ nào. Đinh Xuân Cầu được đưa đến vùng núi Nưa nổi lên đột ngột giữa vùng đồng bằng; Cầu vẫn phải đi theo liên lạc của "Mặt trận", quanh co, leo dốc, vượt đèo theo triền dốc núi đá cheo leo, hiểm trở. Ban đêm lạ thung, lạ thổ nên Cầu thấy chiến khu này còn kỳ bí, âm u hơn cả chiến khu ngoài Hoà Bình.


Vòng đi, vòng lại một thời gian lâu đủ để cho Cầu thấy bủn rủn cả chân tay, sau đó Cầu mới được đưa vào một hang đá khá rộng. Vừa thấy nói được nghỉ lại, Cầu đã ngồi phệt xuống đất, rồi lăn ra nền đá nằm thở, chân đau nhức, toàn thân tê dại, không còn cảm giác được gì nữa. Khi đã hồi sức, Cầu thở dài nói với anh Thông: "Vất vả, nguy hiểm quá thể mà các anh sống mãi ở đây, bình thản, ung dung như người ở trong nhà đàng hoàng!"

- Lúc đầu chúng tôi cũng phải chịu vất vả không kém gì ông đâu, nhưng mọi việc lâu dần rồi cũng quen nên không còn thấy vất vả nữa. Vả đây là cuộc sống chúng tôi đã trải qua mấy năm rồi mới được dày dạn đến như thế.

- Các anh sống thiếu thốn quá. Chuyến này về Hà Nội tôi sẽ đề nghị với ban thường vụ chuyển cho các anh số hàng thuốc men chữa bệnh và thuốc bổ. Nhưng mà thời gian tôi ở lại trong này có phải lâu không?

Câu hỏi đó với giọng ngập ngừng vì Cầu thấy ở đây khác xa với chiến khu Hoà Bình, ở đó Cầu còn được ở nhà dân, bữa cơm còn có thịt, cá, trứng. Nơi đây chỉ là hang đá lạnh lẽo, đơn sơ, hoang dại. Giường là mấy tấm ván kê trên những hòn đá tảng.

- Đảng trưởng rất thông cảm với đại biểu ở trong đó ra đây chưa quen chịu đựng kham khổ của cuộc kháng chiến nên đã giải quyết mọi công việc thật khẩn trương, nhanh chóng để ông có thể trở về nội thành được sớm. Ngày mai ông sẽ tiếp xúc với mấy cán bộ cao cấp của "Mặt trận", mà chắc ông cũng biết hay đã nghe tên đến.

Đúng sáng hôm sau, khi Cầu vừa trở dậy ra khe hứng nước rửa mặt, vào ăn mấy củ khoai lang luộc xong thì đã thấy ngoài cửa hang mấy bóng người bước vào. Anh Thông giới thiệu Đinh Xuân Cầu với mọi người và cũng chỉ vào từng nhân vật Đặng Thai Mai, Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ v.v... nói với Cầu.


Thoạt nghe tên mấy nhân vật ấy, Cầu đã tỏ ra lễ độ, nhã nhặn, lịch sự.

Cuộc tiếp xúc diễn ra nhẹ nhàng, hai bên đã hiểu nhau nhiều hơn và tin cậy sự trợ giúp lẫn nhau sẽ có kết quả. Và ngay tối hôm ấy Đinh Xuân Cầu lại được giao thông dẫn đi vòng vo theo con đường cũ, ra khỏi vùng núi đá "hiểm hóc", rồi đưa Cầu xuống thuyền ra Vân Đình, đi ô tô hàng về nội thành.


Cầu thấy chuyến đi lần này là hết sức gian nan, nhưng đã thu được kết quả to lớn. Cầu đã báo cáo mọi tình hình lai nghe, mắt thấy về sự lớn mạnh của "Mặt trận quốc gia" như thế nào, nên sau đó trung ương Đảng Đại Việt ở nội thành đã liên tục chuyển viện trợ cho đảng ở ngoài kháng chiến. Để moi thêm máy phát điện quay tay Ragono, ta cho Cầu biết chiếc máy gửi ra lần trước vì đi theo đường biển nên bị ngấm nước mặn đã hoen rỉ, hỏng hóc, không thể chữa được nữa nên đề nghị viện trợ máy khác.


Cũng trong thời gian này, chuyên án về Hoàng Đạo đã bước sang giai đoạn mới, cần có sự chỉ đạo kịp thời sâu sát của ban lãnh đạo Sở Công an Hà Nội và chuyên án "Mặt trận quốc gia" cũng không nên kéo dài, sau khi ta đã thu thập được nhiều tình hình về các đảng phái trong nội thành Hà Nội. Và nhất là ta đã đưa được số lớn cán bộ vào hoạt động ở Hà Nội.


Nhưng trước khi kết thúc chuyên án này cũng cán tạo ra cái hậu có kết quả đáng kể. Lần này Đảng Đại Việt ngoài vùng kháng chiến đã chủ động mời số đại biểu của đáng trong nội thành ra chiến khu họp đại hội.


Một cuộc họp bàn sôi nổi trong nội bộ Đảng Đại Việt ở nội thành để cử người ra ngoài đó. Lúc đầu Đỗ Đình Đạo muốn thử liều mình một lần vì thấy qua hai lần Đinh Xuân Cầu ra, vào vùng kháng chiến vẫn trót lọt, an toàn. Nhưng Đạo vẫn còn lo sợ tội trạng cũ đã đưa lực lượng cướp chính quyền ở Vĩnh Yên ròng rã hơn một tháng trời sau đó ta mới đánh chiếm lại được. Đỗ Đình Đạo còn e dè nếu có người nhận mặt hắn thì nguy hiểm, nên sau cuộc trao đổi bàn bạc, thường vụ ban chấp hành trung ương Đảng Đại Việt chỉ cử ba người là Đinh Xuân Cầu, ủy viên trung ương đảng, đại diện cho miền Bắc, Nguyễn Văn Hướng, bộ trưởng tuyên truyền của nguỵ quyền miền Nam, đại diện cho Nam Bộ và tên Nguyễn Văn Thành tức Minh người của Alexandrie, chuyên về kỹ thuật máy Ragono, đem máy khác cho Đại Việt kháng chiến và chủ yếu nhiệm vụ của tên này là quan sát tình hình quân sự của ta để về báo cáo cho Alexandrie rõ.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:43:51 am
Cuộc phiêu lưu lần cuối cùng của Đinh Xuân Cầu

Với danh nghĩa là đại biểu cao cấp ra dự đại hội đảng theo lời mời của Đại Việt Quốc dân đảng kháng chiến, Đinh Xuân Cầu chuẩn bị tư tưởng, giữ đúng vai trò quan trọng của hắn, chủ động đòi hỏi mọi điều kiện mà không thụ động như lần trước. Anh Nguyễn Thông lại phải đóng vai trò cận vệ và dẫn đường. Một số lớn trinh sát được rải dọc đường đi của bọn Cầu để đề phòng nếu kế hoạch bị lộ, bọn chúng có thể bỏ trốn hay nhảy xuống sông tự tử.


Số cán bộ Công an Hà Nội được cử đi các nơi giao dịch công tác, phối hợp hành động. Một cán bộ được cử đến trại giam của cụ Lý Bá Sơ1 (Cụ Đạo tên chính là Nguyễn Văn Sơ, làm lý trưởng, rồi bá hộ thời Pháp thuộc, cụ tham gia cách mạng từ sớm và khi cách mạng thành công. Tỉnh ủy hỏi cụ muốn nhận công tác gì cho thích hợp, cụ Sơ một mực xin được nhận làm công tác quản lý trại giam để trấn áp lại bọn phản cách mạng trước kia đã đàn áp phong trào cách mạng và những người yêu nước Nguyện vọng của cụ được chấp thuận) đề nghị cụ giúp đỡ trong việc bố trí màn chót của vụ án.


Cụ Sơ vuốt chòm râu thưa, cười khà khà, vui vẻ nhận đóng vai trò này để kết thúc vụ án.

Chuyến đi của bọn Đại Việt từ nội thành ra Thanh Hoá suôn sẻ. Nhưng khi bắt đầu vào vùng đồi núi của huyện Yên Định, miền thượng du Thanh Hoá, Đinh Xuân Cầu đã giở giọng hách dịch khiển trách anh Thông: "Sao các anh bắt đại biểu phải đi bộ vất vả như thế này mà không bố trí ngựa cưỡi đỡ mỏi chân?"


Anh Thông lễ phép thưa:

- Thưa các đại biểu! Dù sao đảng của chúng tôi vẫn phải hoạt động bí mật trong vùng kháng chiến của Việt Minh. Nếu chúng tôi bố trí ngựa để các vị cưỡi thì rất dễ bị lộ với tai mắt của Việt Minh cộng sản thường qua lại khắp nơi. Xin các đại biểu thông cảm với khó khăn của chúng tôi và thứ lỗi cho. Địa điểm đón tiếp các vị cũng không còn xa nữa!

Đúng vậy. Chỉ gần một giờ sau bọn chúng đã đến trụ sở của cụ Sơ. Một dãy nhà gianh, vách nứa, khang trang rộng rãi, mát mẻ nằm rải rác trên mấy quả đồi đã san phẳng, có nhiều cây ăn quả che bóng mát.


Cụ Sơ lễ phép, quát bọn người nhà (do số phạm nhân tự giác đóng vai) pha chè, tiếp khách.

Đinh Xuân Cầu ăn nói kiểu cách, hạch sách điều này; điều nọ về sự đón tiếp sơ sài đối với đoàn đại biểu cao cấp của đảng trong nội thành. Cụ Sơ vẫn lễ phép ôn tồn trình bày những khó khăn về sự hoạt động chưa được công khai. Nhưng Đinh Xuân Cầu muốn làm ra vẻ quan trọng đối với tên Hướng và tên Thành, nên hắn ngồi ghế tựa, duỗi thẳng hai chân kêu nhức mỏi và yêu cầu có người xoa bóp chân cho đỡ.


Thấy thái độ của Cầu quá hống hách nên cụ Sơ không còn chịu đựng nhún nhường nữa, cụ bỏ bộ mặt lễ phép cung kính, đỏ mặt quát to: "Chúng mày đã bị Việt Minh bắt rồi còn u mê mãi!"

Rồi cụ gọi anh em phạm nhân bảo: "Ra trói và gọt đầu chúng cho tao!"

Dăm bảy người tù xông ra làm theo lệnh của cụ Sơ, trong lúc bọn Đinh Xuân Cầu quá hoảng sợ, nét mặt ngây ra, ú ớ không thành tiếng vì chúng thấy hoàn cảnh thay đổi quá đột ngột như vậy.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 11 Tháng Tám, 2022, 06:44:50 am
Đoạn kết của chuyên án "Mặt trận quốc gia"

Lặn lội mấy ngày đường từ một bản nằm sâu trong vùng Kim Bôi - Hoà Bình, anh Doãn, tôi và anh Lê Dân, xắn cao ống quần đến quá đầu gối, bì bõm lội trong bùn lầy dưới trời mưa tầm tã từ dốc Giang vào đến Kim Tân, Phủ Quảng - Thanh Hoá. Tương truyền con đường này do vua Quang Trung sai quân lính khai phá, dẫn đoàn quân đi tắt qua rừng núi từ trong Nghệ - Thanh ra Nho Quan, lên Phủ Lý, tiến đánh đồn Ngọc Hồi và Tốt Động. Đường đất đỏ lội quánh như bột nát. Đến Kim Tân phố xá còn ngập trong bùn do cơn nước lũ vừa đi qua. Ba chúng tôi nghỉ lại ở Kim Tân ăn bữa cơm trưa rồi mới vào trại giam, trong đó có giam bọn Cầu, Hướng và Thành. Phụ trách trại giam này là anh Kim Giang, cán bộ cũ của Công an quận 5 khi tôi còn làm quận trưởng1 (Anh Kim Giang sau này làm đại tá, trưởng phòng Chấp pháp Sở Công an Hà Nội, nay đã nghỉ hưu, nhà ở số 77 Trần Hưng Đạo). Gặp lại tôi, anh cười, đi thu xếp chỗ nghỉ cho chúng tôi. Nhưng ngay chiều hôm đó, nước lũ trên thượng nguồn lại tràn về. Tôi nhìn làn nước cuồn cuộn nhấn chìm dần các ruộng nương, đồi bãi. Trại giam nhanh chóng chuyển lên mặt đê cao. Đêm hôm ấy anh Kim Giang thức và cắt người canh gác đốt đèn bão đi tuần tra cả đêm cho đến sáng. Trước làn nước lũ từ Hồi Xuân, La Hán đổ về mênh mông, cuồn cuộn sóng, bọn tù nhân cũng không dám liều lĩnh bỏ trốn vì sợ bị dòng nước lũ cuốn trôi.


Nước lũ kéo về nhanh, nhưng chỉ hai ba hôm đã rút hết. Anh Doãn, anh Lê Dân lại trở về căn cứ ngoài Hoà Bình sau khi đã làm việc với anh Kim Giang. Anh Doãn cử tôi ở lại hỏi cung bọn Đinh Xuân Cầu, anh dặn: "Anh Tuấn ở lại hỏi cung bọn này, chủ yếu khai thác mọi sự hoạt động của các đảng phái phản động từ Bắc vào Nam, sự câu kết của chúng với bọn Phòng Nhì và tình hình dư luận của bọn nguỵ quyền, nguỵ quân về cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang thu được nhiều thắng lợi trên khắp chiến trường."


Trở lại trại giam cũ, sau khi đã làm vệ sinh nhà cửa, ổn định nơi ăn, chốn ở, tôi bắt đầu vào công việc hỏi cung.

Trước hết tôi gọi tên Cầu lên hỏi cung trước. Mặt mày hắn luôn ủ rũ. Hình như hắn hối hận về sự nhẹ dạ, ngây thơ trong cuộc đấu tranh mưu trí với Việt Minh cộng sản, nên khi tôi hỏi điều gì, tên Cầu liền khai vanh vách, đôi khi còn vượt quá yêu cầu lời thẩm vấn của tôi đối với hắn. Anh Kim Giang ngồi dự cứ tủm tỉm cười vì thấy Cầu ngoan ngoãn khai. Thực ra hắn đã quen sống trong xa hoa nên không thể nào có được những suy nghĩ chín chắn để đối phó với mọi sự việc xảy ra. Khi tên Thành được gọi lên, nét mặt hắn vẫn còn ngơ ngác như người mất trí, hắn không thể ngờ đến số phận của hắn lại kết thúc nhanh chóng và bi thảm như thế này, và hắn vẫn không hiểu được vì sao!


Duy có tên Nguyễn Văn Hướng đã lớn tuổi, dáng người đẫy đà, bệ vệ, thấy tôi còn rất trẻ so với hắn, liền tỏ ra vẻ mặt lạnh lùng không chịu trả lời những câu hỏi của tôi. Tôi kiên nhẫn hỏi hắn, nhưng hắn chỉ im lặng làm ngơ. Tôi tức giận, đứng lên tát cho hắn một cái và nói to bảo anh Kim Giang: "Anh cho người đem giải quyết nó đi!"


Anh Kim Giang hiểu ý tôi nên gọi hai đồng chí gác trại giam mang theo súng, kéo tên Hướng ra cửa. Đòn tâm lý này có tác dụng ngay. Tên Hướng tưởng hắn bị đem đi xử bắn nên vội vàng lắp bắp nói:

- Xin tha cho tôi! Tôi xin khai sự thực.

Sau một tuần lễ lấy lời cung và bắt bọn chúng phải tự ghi ra giấy đầy đủ những lời chúng đã khai, tôi lại gặp cả ba tên này, khuyên chúng yên tâm cải tạo cho tốt, đừng làm điều gì chống phá thì nhất định sẽ được chính phủ Cụ Hồ khoan hồng. Sau đó tôi lại trở ra Hoà Bình báo cáo lại mọi việc cho anh Doãn và ban lãnh đạo Sở Công an Hà Nội. Anh Doãn cho tôi rõ là trên Trung ương đã quyết định cho giải cả ba tên này lên Việt Bắc. Khi tôi chuẩn bị quay vào Kim Tân để truyền đạt lại ý kiến này của anh Doãn cho anh Kim Giang, thì anh Doãn đã gặp riêng tôi giao cho một nhiệm vụ mới khác là chuyển mấy chai rượu vang Vin de Messe1 (Loại ruợu vang nhẹ dùng cho các buổi lễ Cầu linh ở nhà thờ Đạo) để biếu mấy ông như ông Đặng Thai Mai, ông Hồ Đắc Di, hình như có cả ông Đặng Văn Ngữ và ông Nguyễn Đức Quỳnh, nhà văn cũ và để cảm ơn các ông đã giúp cho Công an Hà Nội thực hiện kế hoạch trót lọt trong vụ điều mấy tên của Quốc dân đảng ở nội thành ra vùng tự do để bắt sống chúng.


Tôi lại lặn lội đường ngập bùn vào Kim Tân, trại giam của anh Kim Giang. Trước khi chúng được bố trí đưa chúng lên Việt Bắc, tôi căn dặn chúng: "Trên đưrờng đi, các anh đừng có ảo tưởng tìm cách trốn, vì cả toàn dân ngoài vùng kháng chiến như thiên la địa võng giăng kín khắp nơi và làm tai mắt cho cán bộ kháng chiến. Các anh đã thấy rõ việc chúng tôi bắt các anh dễ dàng như thế nào rồi đấy. Các anh lên Việt Bắc sẽ được Trung ương xem xét thái độ thành khẩn của các anh để có quyết định khoan hồng."


Cả ba tên cúi đầu chào tôi rất lễ phép. Riêng tên Cầu sau đó còn ngập ngừng như muốn làm điều gì, tôi không muốn để cho hắn có hành động quá dân chủ, nhưng cũng cần để lưu lại cho chúng một chút ấn tượng, nên khi quay đi tôi đã nói với chúng một câu tiếng Pháp (vì chúng đều là những trí thức có học): "Bonne Chance et bonne route!" (chúc may mắn và an toàn lên đường).


Sau đó số phận của ba tên này ra sao, tôi không được biết mà chỉ phong thanh được tin là chúng đã được Chính phủ khoan hồng.

Từ trại giam ở Kim Tân, tôi lại lên đường vào vùng Nưa ở gần cuối tỉnh Thanh Hoá. Tôi lại vào dãy núi đá trơ vơ giữa khoảng đồng, gặp lại các vị trí thức nói trên để biếu các vị mấy chai rượu vang chiến lợi phẩm của vụ án. Tôi được các vị này mở tiệc chiêu đãi. Nói là tiệc cho sang, thực ra chỉ có thêm chút thức ăn tươi và đặc biệt là trong bữa ăn các vị đã chuốc rượu cho tôi trong khi nghe tôi báo cáo lại tình hình diễn biến và kết thúc vụ án. Các vị định chuốc cho tôi say nên mời uống rượu chỉ bằng bát và còn pha mật ong vào rượu trắng. Tôi đã uống được mà không say, vẫn tỉnh táo kể lại đầu đuôi câu chuyện về vụ án "Mặt trận quốc gia" và Đảng Phục Việt.


Sau khi từ biệt các vị này, tôi đã theo ý kiến của anh Doãn là mời nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh ra căn cứ của Sở Công an Hà Nội lúc ấy đang đóng ở bản Đồng Chờ, thuộc huyện Kim Bôi, Hoà Bình.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:49:11 am
12. Giới tuyến Hiền Lương, những năm dài chia cắt Bắc - Nam

Thế là tôi đơn thương, độc mã lên đường vào giới tuyến khu phi quân sự. Sau hai ngày rong ruổi trên xe ô tô, tồi đã đặt chân xuống Hồ Xá, nơi cuối cùng của mọi hành khách đi xe. Còn từ Hồ Xá đến cầu Hiền Lương dài 5 km là khu phi quân sự...


Tối hôm ấy, sau khi cơm nước xong, tôi ngồi nói chuyện với đồng chí trưởng ty Công an Vĩnh Linh ở ngoài sân. Tuy mới là cuối xuân, ngoài Bắc vẫn còn mặc áo len cộc tay, nhưng ở đây trời nắng nóng và lác đác có nơi đã gặt lúa xuân chín vàng.

- Đồng chí là người đầu tiên của Bộ vào giới tuyến đấy, đồng chí có yêu cầu gì không?

- Tôi đề nghị được đi dọc giới tuyến theo con sông Hiền Lương, nhưng không biết có được ở lại thời gian dài không!

- Yêu cầu của đồng chí không có gì khó để giải quyết, nhưng còn tuỳ thuộc vào sức khoẻ và sự chịu đựng của đồng chí...

- Tôi được ủy nhiệm công tác vào giới tuyến chính là để thấy rõ được những thử thách lớn lao mà các đồng chí công an vũ trang phải chịu đựng khi giáp mặt hàng ngày với quân thù...

- Thế thì tốt! Tôi sẽ điện xuống đồn ở đầu cầu Hiền Lương để đón tiếp đồng chí... Đón tiếp không phải là bày vẽ chuyện ăn uống đâu vì anh em cũng sống kham khổ lắm mà là vì cần có sự bảo vệ chu đáo cho đồng chí đi đến các đồn Công an vũ trang dọc giới tuyến, vì đi ra khỏi đồn cần có hai người, đề phòng địch sát hại hay bắt cóc...

- Tôi rõ rồi và cũng chuẩn bị tư tưởng trước lúc lên đường vào đây... Còn một việc nữa là sắp đến ngày bầu cử Hội đồng nhân dân, tôi muốn được làm nhiệm vụ công dân thì đi bỏ phiếu ở đâu?

- Cách đồn Cửa Tùng vài cây số là nơi bỏ phiếu cho cả vùng giới tuyến phía hạ lưu sông Hiền Lương. Đồng chí thu xếp thời gian đi thăm đồn công an vũ trang ở Cửa Tùng vào giáp ngày bỏ phiếu là tiện nhất...


Sáng hôm sau, chiếc xe mô tô ba bánh đưa tôi vào khu phi quân sự. Tôi thấy ở thùng xe là một đống vải cờ chất đầy, cao...

- Sao đem nhiều cờ thế?

- Có đâu! Đây là một lá cờ thôi đấy, rộng gần 100 mét vuông và chỉ trong vòng dăm bảy ngày lại phải đem cờ đi vá vì nơi đây gió thổi suốt ngày như cơn bão nhỏ, nên chẳng có thứ vải nào chịu đựng được quá tuần lễ...


Xe đi trên đường nhựa phẳng, thấp ngang với mặt ruộng. Tôi thấy khu phi quân sự vắng lặng, mặc dầu đồng lúa vẫn xanh bát ngát, nhưng chỉ thấy sự cô đơn im lìm vì không có bóng người nào đi trên đường và đồng ruộng... Một sự hoang vắng đến lạnh lùng!


Xe đến đồn công an vũ trang đầu cầu Hiền Lương chi mất vài phút. Một ngôi nhà gạch đơn sơ như kiểu một trạm bưu điện ở một huyện nhỏ. Xung quanh đồn là vườn rau, chuối, đu đủ... um tùm. Đồn nằm ở bên trái con đường, bên phải là cột cờ xây trên bệ xi măng cao mấy lớp. Đầu cầu là chiếc cổng chào bằng gạch, trên nóc có hình quốc huy của Việt Nam dân chủ cộng hòa và mấy lá cờ xanh đỏ trang trí...


Tôi vào đồn gặp đồng chí đồn trưởng tươi cười đón tiếp tôi. Qua những câu chuyện tỏi được biết các đồng chí công an vũ trang đóng dọc giới tuyến đều là bộ đội đã chiến thắng giặc Pháp ở các chiến trường chuyển sang làm công an vũ trang. Theo yêu cầu của nhiệm vụ mới cần coi trọng phẩm chất chính trị và tinh thần kiên trì, vững vàng đấu tranh với địch, nên các đồng chí đều tự nguyện (trên hình thức) hạ cấp bậc của mình xuống như: đại uý tiểu đoàn trưởng lại đeo quân hàm thiếu uý hay thượng sĩ làm đại đội trưởng hay trung đội trưởng. Đa số các đồng chí ở đây là người ở Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình hay Quảng Trị. Trông đồng chí nào cũng có nước da đen xạm, khuôn mặt xương xẩu, góc cạnh, thái độ trầm tĩnh... tỏ rõ sự gan góc, bền bỉ...


Theo hiệp định Genève thì trong khu phi quân sự hai bên chỉ được đặt đồn công an (bờ Bắc) và cảnh sát (bờ Nam) cách nhau từng quãng độ hơn 1 km. Bên này có đồn công an như cái điếm canh đê, thì bên kia cũng có đồn của cảnh sát nguỵ. Lực lượng hai bên bờ không được trang bị súng máy, ngoài súng trường để làm nhiệm vụ bình thường... Đấy là trên giấy tờ, còn thực tế thì bên nào cũng giấu súng liên thanh hay trọng liên. Đồn công an và cảnh sát ở hai bờ không được đắp công sự chiến đấu... Nhưng sau này trên đường đi từ đồn này sang đồn khác, tôi vẫn thấy những con hào chạy ngoằn nghèo trên các cánh ruộng với cái cớ: dân đào mương dẫn nước tưới ruộng..., nên ủy ban quốc tế không nói vào đâu được. Dưới lòng sông, nước vỗ ì oạp vào bờ, chiếc canô của ủy ban quốc tế sơn màu trắng nổ máy đi chầm chậm làm nhiệm vụ giám sát cả hai bên, trông thanh bình như chiếc canô du lịch.


Cơm nước buổi trưa xong, gọi là cơm chứ chỉ là gạo lốc đỏ trồng ở nương cạn, muối vừng và rau vườn nhà là chủ yếu, tôi theo một chiến sĩ bước lên cầu mà lòng cứ nao nao một tâm trạng khó tả...

Cây cầu gỗ dài gần 100 mét, hai bên thành cầu cũng là lan can bằng gỗ. Sàn cầu bắc ván gỗ, đóng đinh, ghép vào nhau... Một chiếc cầu đơn sơ như ở một vùng quê thanh bình ngoài Bắc, nhưng bao trùm lên khu vực này là sự nguy hiểm của chết chóc. Đồng chí đồn trưởng dặn tôi cẩn thận: "Đồng chí cùng với chiến sĩ gác đầu cầu có thể đi suốt chiều dài cây cầu, nhưng không được đặt chân xuống đất liền bên bờ Nam, địch sẽ nổ súng bắn ngay... Trên cầu, đồng chí sẽ gặp bọn cảnh sát nguỵ, có thể chuyện trò với nó nhưng luôn nhớ là mọi câu chuyện đều phải cảnh giác với âm mưu khiêu khích của chúng và luôn nắm vững tư tưởng đấu tranh bằng chính trị với chúng theo cách ôn hoà. Bọn cảnh sát ở bờ Nam đều là những lính dù, lính thủy đánh bộ và các sắc lính khác, khoác áo cảnh sát. Chúng đều là những dân công giáo toàn tòng ở Bùi Chu, Phát Diệm, di cư vào Nam năm 1954, khét tiếng về chống cộng đến cùng..."

- Tôi có phải cải trang như các đồng chí công an vũ trang không?

- Không cần! Chúng nó sẽ nhận ra ngay là đồng chí mới vào đây, suốt mấy năm giáp mặt với nhau hai bên đã thuộc làu hình dáng từng người của nhau rồi...

Tôi đi cùng với một chiến sĩ gác và được biết đồng chí ấy đã là đại đội phó của một đơn vị sư 354. Hai chúng tôi không mang súng ung dung bước lên cầu. Ở phía đầu cầu bên kia, ngay lập tức cũng có một tên cảnh sát nguỵ hấp tấp đến đón gặp chúng tôi. Hai bên chào nhau bình thường. Tôi chưa kịp nói gì thì tên cảnh sát nguỵ đã hỏi ngay: "Anh mới ở Hà Nội vào đây?"

- Phải... Tôi muốn được xem cây cầu của đất nước, nhưng lại là ranh giới chia cắt hai miền Bắc - Nam.

Tên cảnh sát nguỵ cười nhạt:

- Điều ấy các anh biết rõ hơn tôi vì đấy là thái độ của miền Bắc.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:49:50 am
Đồng chí công an vũ trang khẽ bấm vào tay tôi nên tôi không đáp lại câu nói đó của tên cảnh sát nguỵ, mà chỉ thong thả đếm bước đi trên từng tấm ván của cây cầu. Tên cảnh sát nguỵ đi sau nói nhỏ gì với đồng chí công an vũ trang. Khi đến chỗ ranh giới cây cầu và đất liền, tôi dừng lại, đứng ngắm sang bờ Nam. Đồn cảnh sát nguỵ lại đóng ở phía bên phải con đường nhựa, bên trái là chiếc lô cốt cũ của Pháp để lại, trên nóc dựng cột cờ có treo cờ vàng ba màu sọc đỏ. Đồn công an và cột cờ của ta và của nguỵ xếp ngược vị trí của nhau. Tôi nhìn xuống sân đồn cảnh sát thấy hai cô gái phốp pháp, mặc quần áo hở hang lằn từng ngấn mỡ, đeo kính đen, ngồi trên ghế tựa, kê dưới gốc cây dừa, cứ lặng im nhìn sang bờ Bắc...

- Hai cô gái kia là người thế nào và cứ ngồi ở đấy làm gì?

- Người nhà, em gái của anh em trong đồn ở Quảng Trị ra chơi, mai mốt lại về. Bên chúng tôi, anh em được đưa vợ con và gia đình ra thăm thoải mái... để giải quyết tình cảm đỡ khô khan...

Hắn ngừng nói và cười mỉm như muốn nói tiếp câu: "Không như cộng sản có trái tim bằng đá đến lạnh lùng..." mà tôi nghe bọn nguỵ quyền miền Nam thường rêu rao...

- Anh ở Hà Nội vào chắc biết hồ Hoàn Kiếm sâu đến không thấy được đáy...

Tôi cười, ý nhị đáp lại:

- Hồ ở Hà Nội cũng như mọi hồ trên đất nước Việt Nam, không có hồ nào là không có đáy... Ngay đến đại dương cũng còn có đáy sâu... duy chỉ có lòng người là không có đáy mà thôi!

Cả ba cùng cười về càu nói của tôi... Tôi liền chủ động chào hắn rồi quay về.

Vào trong nhà đồng chí đồn trưởng nói ngay: "Đồng chí tận mắt chứng kiến cây cầu lịch sử rồi đấy, nhưng mới thấy được hiện trạng bây giờ. Còn mấy năm về trước, ngoài việc đấu tranh ngầm với nhau về cột cờ thì quanh cây cầu cũng xảy ra nhiều chuyện phức tạp. Lúc đầu khi mới đóng vị trí, bọn chúng còn sơn cây cầu màu vàng tượng trưng cho nền lá cờ của chúng, nhưng chỉ sơn một nửa cầu theo phần quản lý của chúng. Ta không muốn để cho bản thân cây cầu phải chia cắt nên cũng xin trên cung cấp sơn màu vàng sơn nốt phần còn lại bên bờ Bắc để tỏ ra cây cầu vẫn là thống nhất... Được ít lâu địch lại sơn nửa phần cầu của chúng thành màu đỏ. Ta lại cũng thay đổi sơn màu đỏ ở phần cầu bên bờ Bắc. Tiếp sau, địch lại sơn màu xanh lá cây, ta cũng lại sơn màu như vậy... Lâu dần nước sơn không chịu được nắng gió vùng giới tuyến nên bạc và bong dần. Địch thôi không sơn lại cầu, ta cũng ngừng đấu tranh theo cách đó... Và bây giờ, cây cầu không có người đi lại và không được tu sửa nên lan can thành cầu đã nứt nẻ, ván đã long đinh... Ta cũng có sửa nhưng việc được cấp vật liệu kéo dài thời gian nên các ván cầu chỉ được đóng đinh tạm... nên đồng chí thấy ván cầu thưa thớt nhìn rõ cả dòng nước chảy...


Đấy là chuyện cây cầu, còn chuyện cột cờ cũng đã diễn ra sự ganh đua quyết liệt như vậy.

Tôi ở lại đồn công an đầu cầu hai ngày để ghi tài liệu về mọi vấn đề cần thiết, rồi lại đi tiếp xuôi dòng sông về đồn Cửa Tùng.

Đồn Cửa Tùng là nơi duy nhất hai bên trao đổi người sang bờ Bắc và Nam cùng nhau làm nhiệm vụ kiểm soát thuyền bè ra biển...

Đồn Công an vũ trang đóng ở ngôi biệt thự trước đây là nơi nghi mát của Bảo Đại. Đồn nằm bên bờ Bắc cao hơn đồn bên bờ Nam đóng trong bãi cát trắng dưới rặng phi lao của làng Cát Sen. Từ sân đồn có đường mòn xuống sâu độ hơn 10 mét là bãi cát trắng xoá, rồi đến dòng sông xanh cuồn cuộn sóng chảy ra biển khơi. Ven sông có vài chiếc thuyền buồm neo đậu ở bờ Bắc để công an vũ trang và cảnh sát nguỵ xuống kiểm tra giấy tờ, các chất nổ, vũ khí... Dòng sông Hiền Lương đổ ra biển chỗ này có hai nhánh, ở giữa nổi lên một cồn cát trắng hẹp. Đồn có hai lớp nhà ngói một tầng gồm nhiều phòng rộng và dãy nhà ăn, nhà vệ sinh. Một phòng lớn được dành cho tiểu đội cảnh sát nguỵ sang bờ Bắc làm nhiệm vụ, kê những chiếc giường cá nhân, có màn, chiếu, bàn để sách báo, bàn nước... Bên cạnh là phòng rộng có ba gian làm phòng ăn và kê bàn bóng cho cảnh sát nguỵ giải trí... Tôi đi qua phòng, ghé mắt nhìn vào thấy chúng cởi trần đang nằm nghêu ngao ca vọng cổ, không trò chuyện gì với chúng. Đồng chí đồn trưởng Cửa Tùng cho tôi biết:

"Mình đối xử với chúng không hẹp hòi gì, bố trí cho chúng nơi ăn nghỉ thoải mái, nơi vui chơi đàng hoàng cũng như các chiến sĩ của mình. Nhưng lúc đầu ta sang làm nhiệm vụ bên bờ Nam Cát Sơn, chúng đê tiện cất ngôi nhà nhỏ thấp lè tè ngay giữa trảng cát nóng như thiêu, như đốt, cửa ra vào, cửa sổ trống toang hoác, không có cánh cửa che. Ban ngày hơi nóng phả vào như rang người, trên mái cái nóng đổ xuống như một lò nung, làm anh em rất mệt. Đêm ngủ sợ cửa trống nên chỉ dám thay phiên nhau ngủ 1/3 quân số, còn 2/3 phải thức gác từ xa ở mọi ngả đề phòng địch manh động. Ta kiên trì đấu tranh với chúng, đưa ra đủ lý lẽ và sự thực điều kiện mà bọn chúng được hưởng ở đồn Công an vũ trang bên bờ Bắc... Mãi sau chúng phải lắp cánh cửa, nhưng vẫn không chịu rời vị trí vào dưới rặng phi lao nơi đồn của chúng được xây dựng khang trang, mát mẻ... Qua đấu tranh hàng năm trời nay chúng đã phải rời nơi ở của anh em mình vào dưới rặng phi lao, nhưng lại khoanh vùng không cho nhân dân bên bờ Nam được gần gũi chúng ta..."


Ngày hôm sau, đúng phiên tiểu đội công an vũ trang của ta sang làm nhiệm vụ bên bờ Nam, tôi đề nghị đồng chí đồn trưởng bố trí cho tôi cũng mặc quân phục như anh em, bổ sung vào quân số sang bên bờ Nam làm nhiệm vụ. Đồn trưởng ngần ngừ, tôi thấy là không tiện vì lỡ ra có thể gây thêm những chuyện phiền phức khác nên đã rút lời đề nghị của mình. Khi anh em chống thuyền sang bờ Nam, tôi mượn ống nhòm ngồi nấp sau bụi cây quan sát mới thấy sáng sớm, mặt trời ngoài biển Đông vừa ló, quét ánh sáng vàng rực lên dòng sông, mặt biển, bên bờ Nam đã có toán đông nhân dân ăn mặc đủ kiểu, nam thì âu phục hay áo quần dài, khăn xếp, nử mặc áo dài hay váv thướt tha... nhưng họ đều ăn mặc đẹp như người đi du lịch. Họ đang đứng tụ tập gần sát mép sông nhìn sang bờ Bắc. Đồng chí đồn trưởng bảo tôi: "Ngày nào cũng như vậy. Ngày chủ nhật thì đông hơn có tới trăm người. Đấy là nhân dân muốn ngắm nhìn các chiến sĩ bên bờ Bắc sang làm nhiệm vụ và cũng để hướng về miền Bắc với ẩn sâu một ý nghĩ mong chờ đất nước thống nhất. Nhưng trong số đó cũng có bọn mật thám nguỵ trà trộn, tuyên truyền nói xấu chế độ cộng sản bên bờ Bắc và gán cho các chiến sĩ của ta đủ mọi tính tàn ác xấu xa...


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:50:40 am
Qua ống nhòm tôi thấy khi tiểu đội chiến sĩ của ta cắm thuyền lên bờ thì toán người cứ lui dần vào sâu, lúc nào cũng giữ một khoảng cách xa với tiểu đội Công an vũ trang, cho đến khi mọi người khuất vào rặng phi lao ở Cát Sơn... Tôi ở Đồn Cửa Tùng hai hôm, cũng để chờ ngày đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân. Đến gần 10 giờ, có chị dân quân mặc quần áo đểu là màu đen, thắt lưng bao đạn, mang khẩu AK, chân đất trần trụi, vào đồn tươi cười chào hỏi các chiến sĩ. Tôi hỏi ra mới biết chị dân quân được ban tổ chức bầu cử cử đến đồn để đón tôi về địa điểm bỏ phiếu. Đường đi ở đồi thoai thoải, cao hơn mặt biển, dưới chân là bãi cát trắng đến loá mắt, mặt biển xanh màu ngọc bích, cuộn những đợt sóng bạc đầu ầm ầm xô vào bờ cát, rồi lại nhẹ nhàng tan ra êm dịu... Con đường đất đỏ lắm bụi, nắng chang chang, không một bóng cây, hai bên là những mảnh ruộng nương, xung quanh là những bụi dứa dại cao tới 2-3 mét và những bụi cây xấu hổ um tùm gai góc tua tủa... Cảnh vật lặng lẽ, im lìm dưới sức nóng của mặt trời đang đổ lửa xuống vùng cát. Tôi hỏi chuyện chị dân quân:

- Đường đồi vắng vẻ như thế này, bụi cây lại rậm rạp, có sợ bọn biệt kích nguỵ lần sang không?

- Ban ngày chúng không thể mò sang đây được vì có những con mắt cảnh giác của mọi người dân và cả ngư dân đang đánh cá trên biển... Nhưng ban đêm thì chúng em đi tuần tra liên tục. Nếu có tên biệt kích nào lọt được vào đất liền mà cứ nấp lủi ở bờ bụi thì làm được việc gì... Còn nếu chúng lộ mặt ra hay có âm mưu phá hoại khó lọt qua được con mắt cảnh giác của nhân dân. Họ lặng lẽ làm việc trên những cánh bãi, nhưng nếu anh thử một mình đi vào đường ngang, lối tắt thì thế nào cũng có người chặn anh lại để xét hỏi... Chính vì thế nên em được giao nhiệm vụ đi đón anh về địa điểm bỏ phiếu đấy...

Trên chặng đường dài vài cây số, nói chuyện với chị dân quân tôi càng hiểu thêm sức chịu đựng về tinh thần, lòng kiên nhẫn bám đất, bám biển, tinh thần cảnh giác của nhân dân trong khu phi quân sự là thế nào!


Đến nơi bỏ phiếu xong, tôi trò chuyện với nhân dân một lúc rồi lại cùng chị dân quân quay trở lại Đồn Cửa Tùng. Chị dân quân đưa tôi về tới đơn vị mới quay trở lại.

Hôm sau tôi được một chiến sĩ công an vũ trang đưa đi theo dọc sông trở về đồn đầu cầu. Lúc qua làng Cát Quế nằm ngay sát bờ sông, đồng chí đưa tôi vào một nhà dân bên rìa dòng sông, nước vỗ oàm oạp vào bụi cây ô rô và dừa nước. Có lúc nước bắn tung toé cả vào trong sân gạch.


Tôi hỏi ông chủ nhà: Như thế này có sợ ngập lụt không? Ông cho biết: "Ở đây gần biển nên nếu có lũ đổ về cũng rót vào biển vô tận nên nước chỉ mấp mé bên sân mà thôi." Qua hàng cây ô rô tôi lại nhìn thấy chiếc ca nô sơn màu trắng đang lướt trên sông như kiểu đi du lịch, tiếp sau là mấy cánh buồm cưỡi sóng ào ào lướt qua trước cửa nhà.

- Thuyền của ngư dân miền Bắc ra khơi đấy! Họ chỉ được phép đi sát mé sông bên bờ Bắc. Nếu vô ý láng qua bên kia là bị tụi cảnh sát nổ súng bắn liền...

- Chúng nó thường xuyên nổ súng sang bên này không?

- Mấy năm trước thì thường xuyên... Nhưng đến nay cũng đỡ rồi. Tuy thế chúng tôi vẫn luôn canh phòng dè chừng...

Đồng chí công an vũ trang cũng cho tôi biết: "Mấy hôm đồng chí ở Đồn Cửa Tùng, bọn cảnh sát nguỵ đã kháo nhau là có cán bộ công an ngoài Bắc vào dò xét khu giới tuyến... Chắc chắn chúng đã loan báo cho các đồn của chúng dọc bờ Nam theo dõi đồng chí đấy! Chúng ta cần cảnh giác..."

- Chúng ta cứ bất ngờ ra đi thì chúng cũng khó theo dõi...

Đồn Công an vũ trang đóng ngay ở đầu làng Cát Quế bên mấy gốc đa cổ thụ. Khi hai chúng tôi vừa ra khỏi đồn độ hơn 100 mét, tôi bỗng giật mình vì có tràng súng máy nổ, luồng đạn bay vút trên đầu. Đồng chí công an vội kéo tôi nhảy xuống con hào bên đường. Chúng tôi nghé mắt nhìn sang đồn bên bờ Nam thấy mấy tên cảnh sát nguỵ nằm phục sau khẩu súng liên thanh đặt ở giữa sân đồn, đang thay băng đạn...


Cùng lúc đó bên này sông rộ lên tiếng súng trọng liên 12,7 ly bắn vào bờ tường, cánh cửa bên đồn nguỵ làm vôi vữa bay tứ tung. Mấy tên cảnh sát nguỵ lồm cồm bò vào trong nhà. Khi bên ta im tiếng súng, chúng cho một đứa trẻ chạy ra sân, buộc dây vào càng súng để chúng kéo vào nhà. Đứa trẻ lại nhớn nhác chạy ra nhặt lấy băng đạn còn rơi ở ngoài sân. Bên ta cũng chỉ bắn cảnh cáo chúng mà thôi. Tiếng súng của hai bên nổ vang động cả khúc sông hẹp yên tĩnh... Tôi cứ nghĩ là sẽ có canô của Ủy ban quốc tế đến ngay bây giờ... Nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy gì... Khi vừa nghe tiếng nổ, canô đã vội tăng tốc lỉnh mất vì họ cũng chẳng dại gì lao đầu vào họng súng của hai bên. Còn chuyện kiểm soát súng máy thì ai hơi đâu làm việc đó, nên thực chất sự có mặt của nhân viên quốc tế ở trên dòng sông giới tuyến chỉ là hình thức, còn hành động của hai bên là tuỳ thuộc vào tình hình...


Về đến đồn đầu cầu, đồng chí đồn trưởng đã được tin này, ra đón tôi, cười hỏi: "Chúng nổ súng tiễn anh đấy. Bên ta cũng phải đáp lễ lại cho sòng phẳng..." Thấy cách nói đùa vui của đồng chí tỏi hiểu ngay được những sự việc địch khiêu khích như vậy là chẳng đáng kể gì, cũng không làm cho các đồng chí phải quan tâm.

- Bây giờ đồng chí định đi đến đồn nào nữa?

- Thời gian còn sớm, đề nghị đồng chí cho tôi đến một đồn phía trên thượng nguồn dòng Hiền Lương...

- Đồng chí sẽ đến đồn ngay cạnh đây cách độ vài cây số.

Và thế là một đồng chí công an lại mang theo súng đưa tôi đến đồn mới. Đồn này nằm ở ngôi làng trù phú, cây cối xum xuê ngay trên đường sát mép sông. Đoạn sông này đã hẹp dần, đứng bên bờ này hét to có thể bcn kia nghe thấy được. Đồn cảnh sát nguỵ cũng đóng trên vùng đất rộng, nhà cửa san sát ngay ở giữa làng. Trước kia chắc chắn dân làng hai bên sông thường qua lại thăm hỏi nhau, buôn bán, trao đổi tâm tình ngõ xóm, tình làng... Nhưng bây giờ dân làng hai bên đành phải tạm gác những tình cảm lâu đời và làm mặt giả ngơ với mọi diễn biến của bên kia. Làng bên bờ Bắc đã quay hướng mặt trông vào đất Hồ Xá, lưng quay lại bờ sông...


Thoạt vừa đến, tôi choáng tai vì tiếng loa quá cỡ bên kia sông cứ oang oang, lải nhải nói đủ thứ chuyện bà rằn trên đời... Ngay sát mé nước ba bốn chiếc loa đặt dưới đất, miệng loa to như cái nia, đang gào lên những câu vọng cổ rẻ tiền và những lời xuyên tạc chế độ miền Bắc.


Đồng chí công an đưa ngay tôi vào trong nhà, có lẽ để tránh những con mắt cú vọ luôn rình mò bên đồn cảnh sát nguỵ, rồi anh dặn tôi:

- Ở đồn này nguy hiểm hơn các đồn phía hạ lưu sông Hiền Lương, vì dòng sông hẹp, chỉ rộng độ 30-40, mét hai bên đều quan sát được mọi động tĩnh của nhau, vì thế đồng chí không nên ló mặt ra ngoài. Nếu muốn quan sát, cứ đứng sau cánh cửa nhìn sang rõ mồn một.


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:51:31 am
Suốt ngày hôm ấy hai tai tôi cứ lùng bùng âm vang một thứ tiếng động quái gở. Loa bên chúng công suất lớn, dòng sông hẹp, hai bờ thẳng đứng cùng cộng hưởng làm tiếng loa ầm ầm như cuộc náo loạn của đất trời thời hỗn mang. Lúc đầu tôi còn nghe được chúng đang nói dự báo thời tiết theo kiểu tự sáng chế: "Hôm nay trời nắng nóng. Buổi tối có thể có mưa vì chuồn chuồn bay thấp... Nhiệt độ lên tới 37-38 độ..." Tin thời sự cũng kiểu phóng tác nói về mặt trận này, nọ quân của Chính phủ Cộng hoà đã tiêu diệt hết Cộng quân và thu nhiều súng đạn... Nếu cứ theo tin của chúng thì quân giải phóng miền Nam đã không còn đủ sức chống lại được chúng mà như chúng nói "bây giờ Cộng quân chỉ như đám giặc cỏ lẩn trốn sự trừng phạt..."


Đến quá trưa, khi cơm nước xong thì hai tai tôi đã ù đặc, chỉ còn lùng bùng những tiếng rú, tiếng la hét như kẻ động kinh, rồi tiếp đến là những bài ca vọng cổ của mấy đứa con gái trong tổ chức Phượng Hoàng, đứng õng ẹo, cầm micro, mặc áo ba mảnh, thân hình béo mũm mĩm, hát và làm những điệu bộ khêu gợi hướng sang bờ Bắc...


Hình như đến gần chiều thì chính chúng nó cũng thấy mệt nên ngừng nói vào loa và đến lúc đó tôi mới có thể chuyện trò được với các đồng chí trong đồn...

- Ngày nào chúng cũng nói như thế này hay sao?

- Ngày nào cũng thế! Có hôm từ sáng sớm cho đến tối mịt. Lúc đầu chúng tôi cũng nhức đầu không chịu đựng được tiếng ồn và những lời chúng nói láo về chế độ miền Bắc, có khi còn xúc phạm cả những lãnh tụ của ta... Nhưng mãi rồi cũng quen dần. Tuy thế lúc chúng mở loa to thì chúng tôi bàn công việc gì đều phải viết ra giấy để trao đổi với nhau. Anh ở đây chỉ vài ngày có thể sụt ba bốn cân đấy vì mất ngủ, thần kinh bị căng thẳng với chúng...

Đến gần 5 giờ chiều tiếng loa của chúng lại ậm oẹ một, hai, ba, rồi "xin đồng bào bờ Bắc lắng nghe tin thời sự mà chúng tôi vừa nhận được từ Sài Gòn điện ra..."

Lúc xẩm tối là chương trình ca nhạc... xen trong tiếng loa ầm ầm của chúng thoảng theo chiều gió tôi nghe loáng thoáng tiếng nói nhẹ nhàng của cô gái vùng Quảng Trị, lúc rõ, lúc không nói trên đài truyền thanh đặt ở Hồ Xá...

- Loa của ta đặt ở đâu thế?

- Nếu đặt ở bờ sông thì không sao nghe được câu gì, vì thế ta phải đặt loa trên cột cao, lui sâu vào trong đất liền. Mỗi cột treo độ 12-15 chiếc để tiếng nói của miền Bắc vọng vào bờ Nam sâu hơn. Nhân dân bên kia sông muốn nghe được cũng chờ lúc có chiều gió và phải lắng nghe trong im lặng mới thấy được tiếng nói thân thương của cô phát thanh viên nói giọng Quảng Trị.


Đêm hôm ấy quá mệt nhưng đến gần sáng tôi mới chợp mắt được, một lúc lại giật mình choàng dậy khi nghe tiếng bài hát: "Câu hò trên bến Hiền Lương" tha thiết của một nữ ca sĩ như ru hồn người vào sự bình yên, êm dịu... làm tôi thấy lòng nao nao và tỉnh hẳn giấc ngủ. Tiếng hát cứ thánh thót rót vào lòng người một cảm giác buồn man mác giữa hai làng bên bờ sông, với tình cảm nồng nàn về Tổ quốc, làng quê và những con người chân chất làm ăn, tối lửa tắt đèn có nhau cùng chia sẻ ngọt bùi của cuộc đời...


Lúc này tiếng loa của địch lại oang oang với bài tập tho dục buổi sáng. Cũng một hai và hết động tác tay lại đến chân... Cả ngày hôm ấy tôi vào thăm các nhà dân thấy mấy nhà ở mép sông đã bịt lối ra sông, mở cổng lối đi ra phía đồng ruộng. Người nào cũng cởi mở thân tình thấy khách đến nhà là đem ra bày lên bàn cây trái theo mùa để đãi khách ăn đến no thì thôi.

- Chúng tôi sống ở đây đã quen rồi, bỏ mặc ngoài tai những lời xuyên tạc của chúng, chẳng ai thèm để ý đến nữa...

Ngày hôm sau tôi được đồng chí công an vũ trang mang theo súng dẫn tôi lên một đồn khác phía thượng nguồn. Trên đường đi đã là dốc đổi thoai thoải với lau lách xào xạc, với tiếng chim rừng líu lo, bỏ xa đần tiếng loa eo éo phía sau... Hết đồi là đến núi rừng và đây là bàn chân của dãy núi Trường Sơn rồi. Cảnh vật lặng im đến rợn người. Dòng sông ngày càng hẹp, có chỗ chỉ rộng hơn một cây nứa và có thể lội qua được. Đồn công an vũ trang và đồn cảnh sát nguỵ vẫn đối mặt với nhau trong cái im lặng đến lạnh lùng... Ở vùng trên này đi đến đâu, tôi cũng thấy toát lên sự cảnh giác cao độ và lòng hận thù sâu sắc với bọn nguỵ quvén miền Nam của mọi người dân bên bờ Bắc...


Kết thúc cuộc hành trình gần một tháng trời dọc theo giới tuyến bên bờ Bắc, chia sẻ với mọi thử thách, gian khổ cùng các đồng chí công an vũ trang, tôi trở về Hồ Xá, được đồng chí trưởng ty chờ đón trong niềm vui khi thấy tôi khoẻ mạnh trở về.

- Sao anh đen quá vậy và gầy đi đến khiếp như thế? Lúc mới vào đây anh trắng trẻo trông thư sinh lắm, còn bây giờ về nhà không biết chị và các cháu có nhận ra anh được không?

Sau khi nghe báo cáo lại mọi sự thu nhận của tôi dọc theo bờ sông Hiền Lương, đồng chí trưởng ty vui vẻ nói đùa:

- Anh là Burchette1 (Nhà báo người Úc đầu tiên được phép vào đầu cầu Hiền Lương) của Việt Nam rồi đấy... Thế còn chuyện địch nổ súng khiêu khích ra sao?

Thì ra đồng chí trưởng ty cũng nắm được hết mọi diễn biến tình hình trên đường đi của tôi rồi...

- Anh nghỉ lại đây vài hôm cho khoẻ người rồi hãy về.

- Xin anh cho tôi rõ thêm một điều... Tôi thấy nhà cửa của đồng bào thưa thớt quá. Mỗi nhà xây cất trên một khoảng đồi riêng... thế thì lúc địch dồn dân bờ Nam sang bờ Bắc, ta bố trí người vào ở các nhà dân, nếu địch trà trộn bọn gián điệp thì ta kiểm soát chúng ra sao?

- Điểm chính là chỗ đó. Chúng tôi bố trí đồng bào ở với các nhà dân là để nhờ nhân dân kiểm tra phát hiện rõ kẻ địch trá hình. Vì người dân rất cảm thông với những người nông dân lương thiện, sống chân chất như họ. Nếu có tên gián điệp trà trộn trong số người bị địch dồn ra Bắc thì rất dễ bị nhân dân phát hiện ra ngay qua sự nhạy cảm của dân đối với mọi cách sinh hoạt, cư xử, thái độ của chúng.


Ở đây người dân nào cũng đều là công an cả. Ngay như hôm anh mới ở giới tuyến về có đến đài truyền thanh để góp ý về tiếng loa quá kém, thế mà họ đã điện ngay cho chúng tôi để hỏi về anh đấy! Điều anh nhận xét là đúng, vì kỹ thuật sản xuất loa của ta còn kém nên ta đành đấu tranh với địch theo kiểu con nhà nghèo chống với công nghệ khoa học hiện đại của địch được Mỹ viện trợ...


Hiền Lương giới tuyến! Câu chuyện về dòng sông lịch sử, thanh bình cũng như cái tên của nó đã ghi đậm sự kiện chia cắt hai miền Bắc - Nam trong suốt 21 năm trời từ tháng 8-1954 đến tháng 4-1975.


Hiền Lương, cái tên tha thiết khắc ghi trong lòng tôi những kỷ niệm đẹp về cảnh vật và con người vùng giới tuyến...


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:52:48 am
13. Câu chuyện "điếc không sợ súng"

Mùa hè năm 1959, Bộ Công an xôn xao tin Công an Hải Phòng đã phá được vụ án gián điệp lớn, thu được nhiều loại mìn có sức công phá mạnh. Tôi mới chuyển sang làm công tác biên tập báo Công an nhân dân được hơn một năm, nhận nhiệm vụ của đồng chí Đinh Châu, vụ trưởng Vụ Tổ chức cùng với đồng chí chụp ảnh, xuống Hải Phòng để lấy tin tức và chụp ảnh làm tài liệu.


Hai chúng tôi đến Công an Hải Phòng được các đồng chí lãnh đạo Sở nhiệt tình giúp đỡ điều hẳn một xe commăngca và cử một cán bộ của Phòng Chính trị đưa chúng tôi đến các cơ sở tay chân của bọn gián điệp, đến những nơi chúng giấu mìn ở dưới tầng hầm của một ngôi nhà bỏ hoang và xếp lẫn một số mìn và trong đống than của nhà ga Hải Phòng với âm mưu phá hoại nghiêm trọng. Chúng tôi đã chụp ảnh hết các nơi có liên quan đến vụ án và sau đó vào trại giam để chụp ảnh tên đầu sỏ gián điệp là Trần Minh Châu tức Cập. Tôi bắt nó mặc quần áo nguỵ quân, đội mũ dạ có vành to, hất ngược một bên, chân đứng gác lên chiếc ghế đẩu để chụp ảnh.


Tên Châu mặt trắng trẻo, xương hàm bạnh ra, đôi mắt sắc sảo, gò má hơi cao. Hắn nhìn trừng trừng vào đồng chí chụp ảnh, không nói gì, đôi mắt lộ rõ vẻ căm giận. Tôi thấy thái độ của nó như vậy đã giúp cho tấm ảnh chụp về nó thể hiện rõ tính cách phản động, chống đối chính quyền của ta rất quyết liệt.


Tôi được các cán bộ Phòng Chính trị Sở Công an Hải Phòng cung cấp đầy đủ tài liệu từ khi vụ án mới hình thành cho đến lúc ta phá án.

Nhiệm vụ của tôi như vậy đã hoàn thành, lấy đủ tài liệu để viết bài về vụ án gián điệp lớn từ sau ngày hoà bình lập lại.

Trước đó cũng có vụ án gián điệp Nguyễn Quang Hải, câu kết với tên cha cố De Bonfils ở nhà thờ Soeur Antoine, Hàng Bột, đã bị Công an Hà Nội bắt gọn và Chính phủ cũng đã ra lệnh trục xuất tên De Bonfils ra khỏi Việt Nam. Nhưng vụ gián điệp tên Nguyễn Quang Hải mới nhen nhóm và chỉ riêng mình nó có khẩu súng ngắn, mà chưa có đầy đủ các thứ vũ khí phá hoại như vụ án tên Trần Minh Châu.


Mấy tháng sau, vào một ngày đầu thu, đồng chí Đinh Châu lại gọi tôi sang phòng và cho tôi biết: "Bộ có chủ trương mở cuộc triển lãm về vụ án gián điệp Trần Minh Châu, đồng chí đã theo dõi nắm được toàn bộ tài liệu vụ án này, nên Bộ cử đồng chí đem số mìn đã thu được nhờ công binh xưởng của quân đội phá bỏ các kíp và thuốc mìn để trưng bày hiện vật cho được an toàn. Đồng chí chuẩn bị đi công tác cùng với đồng chí sĩ quan công binh bên quân đội về địa điểm công binh xưởng trong Thanh Hóa".


Tôi nghĩ đơn giản như mọi lần đi công tác nên sẵn sàng ngay.

Sáng hôm sau, tôi xuống nhà (vì tôi ở tập thể ngay trong Bộ Công an) đã thấy đồng chí đại uý công binh đang thận trọng xếp từng loại mìn vào trong hòm gỗ, có chèn nhiều rơm và giấy vụn. Tôi thấy nét mặt đồng chí căng thẳng, không nói gì, còn tôi lại vui thích vì được trở về nơi vợ tôi ở tản cư hồi chống Pháp, để thăm lại cảnh cũ!


Chiếc xe Com-măng-ca lên đường, tôi ngồi ở ghế trước nói chuyện với đồng chí lái xe. Còn đồng chí sĩ quan công binh ngồi ở ghế sau với đồng chí chụp ảnh, dang rộng hai tay ôm chặt lấy mấy hòm mìn, cũng được đặt lên trên ghế đệm mà không để xuống sàn xe.


Dọc đường tôi trao đổi vài nét chính về vụ án gián điệp này với đồng chí đại úy công binh, nhưng thấy đồng chí ấy ít nóị, không mặn mà gì với chuyến đi này, tôi lại cho rằng vì hai chúng tôi ở hai ngành khác nhau, còn lạ nên chưa hợp trong chuyện trò. Còn đối với đồng chí lái xe và đồng chí chụp ảnh thì chúng tôi hay đi công tác cùng với nhau nên chuyện trò vui trên đường dài.


Đường trường, xe qua lại ít nên đồng chí lái xe cho đi với tốc độ 70-80 cây số/giờ. Chuyện vãn rồi cũng hết. Xe lắc lư nhẹ như ru ngủ, tôi nhắm hai mắt lại chập chờn ngủ, quên cả chặng đường xa.

Xe qua thị xã Thanh Hoá, rồi đến Rừng Thông, rồi Hậu Hiền, đường đi đã không còn tốt và xóc hơn. Tôi đưa mắt nhìn đồng chí đại uý thấy vẫn tỉnh táo nhưng im lặng, hai cánh tay vẫn giang rộng giữ chặt lấy mấy hòm mìn, nét mặt vẫn căng thẳng như khi mới lên xe. Tôi cho rằng đồng chí này ít nói, nên cũng không gợi chuyện để trao đổi nữa.


Chợt xe rẽ vào con đường đá lổn nhổn to như củ đậu, làm xe xóc tưng tưng. Lúc này đồng chí đại uý mới lên tiếng: "Đồng chí lái xe! Đi từ từ thôi!"

Qua Hậu Hiền rồi đến bến đò Kiểu, đồng chí lái xe dừng lại, quay hỏi đồng chí công binh xem đường đi như thế nào.

- Qua sông Chu, rồi đến thành Nhà Hồ, đi độ vài ba cây số nữa thì đến bờ sông nhỏ, không có phà nên xe phải dừng lại ở trong làng.

Xe xuống phà, tôi đứng ở đầu phà ngắm nhìn dòng sông đã cạn nhiều. Hai bên bờ là dải cát rộng thoai thoải xuống đến dòng nước trong xanh. Tôi hồi tưởng lại trong thời gian kháng chiến cũng hay qua lại nơi này, để sống lại với những kỷ niệm cũ.


Xe qua cổng giữa của thành Nhà Hồ, hay còn gọi là thành Tây Giai, chúng tôi đi bộ thong thả để ngắm cảnh hoang tàn trong khu nội thành. Đó đây chỉ còn sót lại những vạt đất cao mà xưa kia chắc là nền của những lâu đài, đình tạ. Vài bậc thềm đá và hình rồng cuốn đã vỡ, sứt nhiều trông tang thương lắm. Tôi chợt nhớ đến bài thơ của bà Huyện Thanh Quan:

Lối xưa, xe ngựa, hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài, bống tịch dương...


Nơi đây xưa kia chắc dập dìu xe ngựa, các cung nữ xiêm y tha thướt và những quan chức phẩm phục lụng thụng, sặc sỡ rồng, phượng..., bây giờ chỉ còn là bãi cỏ đìu hiu lay lắt trong gió chiều thu.

Xe qua khỏi thành Nhà Hồ một quãng đường độ vài ba cây số thì đến bờ con sông nhỏ. Hai bên bờ cao, dòng sông đục lờ ở dưới sâu, chảy lặng lờ. Đồng chí đại uý công binh cho biết là đến nơi rồi. Chúng tôi vào làng thuê mấy người dân gánh bốn hòm mìn sang sông. Đồng chí lái xe ở lại bên này, nghỉ ở trong làng để trông xe.


Lúc này, tôi mới thấy đồng chí sĩ quan công binh nói nhỏ, như trút được gánh nặng vẫn đè trên hai vai:

- Chúng ta phải đi bộ đến dãy núi đá trong kia mới tới được công binh xưởng, đóng ở vùng Đan Nê, Thọ Vực, Phủ Quảng, xa bản làng, nằm giữa vùng núi đá thấp, nhỏ với đủ hình thù kỳ lạ!


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:54:13 am
Chúng tôi đến trụ sở của công binh xưởng là ba dãy nhà dài lợp lá gianh, tường phên nứa đan, hình thành chữ U. Hai dãy nhà bên cạnh là nơi ở của anh chị em công nhân quốc phòng, dãy nhà ở giữa là văn phòng, nơi ở tiếp khách và phòng họp, ở giữa những dãy nhà là sân rộng. Chúng tôi vào gặp đồng chí phụ trách xưởng công binh, đưa giấy giới thiệu. Sau khi uống nước nói vài câu chuyện, đồng chí phụ trách công binh xưởng Nguyễn Công Cậy cùng chúng tôi ra xem lại các hòm đựng mìn. Thoạt nhìn, đồng chí Cậy đã hỏi ngay:

- Các đồng chí chuyên chở số hòm này bằng phương tiện gì?

- Chúng tôi đi xe com-măng-ca tới bên kia sông, thuê người gánh hòm đựng mìn sang đây.

Đồng chí Cậy nghe nói thế, tròn đôi mắt nhìn chúng tôi một lúc rồi chỉ nói một câu: "Liều thật!"

Đồng chí đại uý trả lời: "Vâng! Chúng tôi cũng biết là liều và nguy hiểm lắm, nhưng..."

- Thôi được! Đã đến nơi đây an toàn là mừng rồi. Các đồng chí để chúng tôi xem xét từng loại mìn, nghiên cứu cách phá kíp và lấy thuốc ra.

Tôi là người "ngoại đạo" dốt đặc về nghề công binh nên để cho đồng chí đại uý làm việc với đồng chí Cậy và cách xử lý, tháo từng loại mìn.

Nơi đây xa nhà dân vừa để giữ bí mật, vừa để đề phòng tai nạn cho dân nếu xảy ra việc gì bất trắc về mìn. Tôi không có việc gì làm nên cả ngày ngoài hai bữa ăn, đi lang thang xem phong cảnh núi non.


Tình cờ tôi đến một quả núi đá nhỏ nằm chơ vơ giữa bãi cỏ rộng bát ngát, bằng phẳng, thấy sườn núi đá mấp mô, nhiều hang hốc, nên đi vòng quanh quả núi để xem phong cảnh. Thì ra đây là nơi làm việc của anh chị em công nhân quốc phòng. Mỗi người làm việc riêng biệt trong một hốc đá, người nọ cách người kia độ 40-50 mét. Thấy tôi đi qua, các anh chị chào, cười nhưng nhã nhặn mời tôi đi nơi khác vì anh chị em đang tháo các kíp mìn, đề phòng tai nạn cho tôi.


Tôi phải chờ trong gần một tuần lễ mới được biết là các loại mìn lõm để công phá xe bọc thép, mìn hộp, mìn đĩa... để phá hoại công trình xây dựng. Riêng loại mìn than, vì trông nó thoạt đầu chỉ thấy đấy là viên than mà đường sắt vẫn thường dùng để đốt lò súp-de của đầu tàu, to bằng 6 viên gạch xếp chồng lên nhau hai hàng, là chưa tháo xong thuốc và kíp mìn.


Đồng chí Cậy cho tôi biết: "Các loại mìn thông thường thì dễ tháo kíp và thuốc vì anh em đã rõ cấu trúc của nó. Duy có loại mìn than thì chưa rõ địch đã nhồi bao nhiêu kíp mìn vào trong và các kíp đó nằm ở vị trí nào, vì thế việc tháo thuốc và kíp loại mìn này phải làm ở trong núi đá xa hơn nữa!"


Tôi chỉ biết thế, và lại ăn chực nằm chờ để xong công việc.

Mấy hôm sau, đồng chí đại uý công binh gặp tôi cho biết là mọi việc đã xong xuôi, an toàn và cho tôi biết qua cách tháo thuốc và kíp loại mìn than này.

Quả mìn được chôn thật khít vào chiếc hố nhỏ đúng kích thước của nó. Từ chỗ quả mìn, đào tiếp một đường rãnh dài đến một hố cá nhân để người công nhân phá mìn, ngồi lọt thỏm trong đó, nhưng phải có tư thế thoải mái vì công việc tháo kíp mất lâu thời gian. Trên đường rãnh đó đặt một cây nứa dài, được đục thủng các mấu để đặt một mũi khoan được nối dài, luồn vào trong cây nứa đó. Đầu mũi khoan được đặt đúng vào tâm quả mìn. Người công nhân từ từ xoay mũi khoan để khoét thuốc. Việc làm này phải hết sức thận trọng, không sốt ruột, người công nhân phải thật kiên nhẫn, xoay nhẹ từng vòng mũi khoan. Nếu xoáy mạnh, mũi khoan ma sát vào thuốc mìn, gây nóng và kích thích kíp mìn nổ ngay. Hơn nữa mũi khoan cũng có thể chạm vào kíp mìn mà chưa rõ nó nằm ở vị trí nào trong lõi quả mìn. Người công nhân phải thấy được sự đụng chạm vào kíp mìn qua mũi khoan được nối kéo dài, như chính bàn tay của mình đã sờ thấy nó.


Mỗi ngày chỉ tháo được hai quả mìn "than" nên mất thời gian lâu. Khi xong mọi công việc, đồng chí Cậy đã cho chúng tôi đi đến nơi thử quả mìn than để xem công dụng và sức mạnh của nó như thế nào.


Tôi đứng ở đầu một tảng đá cao gần 1,70 mét, dài hơn 3 mét, đầu kia là đồng chí bộ đội gác công binh xưởng đứng, để ước lượng được khối đá này nặng bao nhiêu tấn. Một đồng chí công nhân đặt quả mìn than dưới tảng đá, lồng dây cháy chậm rồi chạy ra xa. Chúng tôi chạy theo đồng chí ấy đến gần 100 mét mới dừng lại, nhìn đồng chí bật lửa châm vào đầu dây cháy chậm. Tôi hồi hộp nhìn theo làn khói xanh nhẹ lem lém dần trên đoạn dây dài cho đến khi thấy nó chỉ còn là chấm khói nhỏ thì chợt thấy bùng lên tiếng nổ cực lớn, làm tất cả chúng tôi giật bắn người. Chỗ tảng đá chỉ thấy là đám khói bụi bốc lên cao vài chục mét. Một cơn mưa đá vụn bay rào rào, có mảnh rơi ngay trước mặt chúng tôi. Khi cơn mưa đá đã tạnh, đồng chí Cậy kéo chúng tôi chạy đến chỗ tảng đá để xem kết quả.


Tôi ngạc nhiên không nhìn thấy tảng đá to lớn nữa mà nơi đây chỉ còn là đống đá vụn.

- Đồng chí thấy rõ sức công phá của loại mìn này rồi chứ. Nếu bọn gián điệp để những quả mìn này lẫn lộn trong đống than dùng để đốt nồi súp-de đầu xe lửa thì chỉ cần một quả mìn thôi cũng đủ phá nát chiếc đầu tàu nặng hàng chục tấn.

Đồng chí đại uý công binh lúc này mới nói cho tôi rõ:

- Chính vì thế, lúc đầu tôi đến Bộ Công an, thấy các đồng chí cho chuyển số mìn này bằng xe con trên chặng đường dài thật là nguy hiểm. Đường xa gặp một ổ chướng ngại, xe xóc mạnh kích thích một quả mìn nổ, dắt dây chuyền làm các quả mìn khác cùng nổ, nhất là trong đó có đến mười quả mìn than, thì chiếc xe chỉ là cái vỏ trứng mong manh nát tan như cám, kể cả những người ngồi trong xe.

Tôi chỉ biết há miệng tỏ nỗi lo sợ vì trước kia đúng là tôi đã "điếc không sợ súng" nên không còn biết nói gì hơn.

- Lúc tôi đến Bộ Công an thấy rõ được sự nguy hiểm như vậy, nhưng không dám nói ra vì sợ các đồng chí lại cho tôi là sợ hãi, không muốn đi làm công việc này, nên đành liều. Cũng may mà chúng ta được an toàn, đi đến nơi về đến chốn.

Về đến Bộ Công an, đồng chí Đinh Châu đã mời các vụ, cục trưởng đến họp, nghe tôi trinh bày lại tác dụng của từng loại mìn, có ảnh kèm theo sức công phá của quả mìn than, để mọi người thấy rõ âm mưu thâm độc của bọn thực dân Pháp, tuy phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam, nhưng chúng vẫn cài tay chân ở lại để phá hoại công cuộc xây dựng đất nước sau những năm dài kháng chiến bị tàn phá nặng nề.

Chuyện tôi đi phá mìn, thật như là một giấc mơ của người "điếc không sợ súng!"


Tiêu đề: Từ Sở Công an Bắc Bộ ra đi
Gửi bởi: saoden trong 16 Tháng Tám, 2022, 06:55:23 am
14. Ta lại bắt ta

Để kết thúc cuốn hồi ký này, tôi xin kể lại câu chuyện vui, để những ai muốn tìm hiểu về các sự kiện của những ngày đầu khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám ở Sở Công an Bắc Bộ, biết thêm một chi tiết.

Cuộc khởi nghĩa tháng Tám đã thành công ở Hà Nội, chúng tôi, những thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, đã tham gia vào bộ máy chính quyền của cách mạng. Những người vào chiếm trại Bảo an binh đều gia nhập giải phóng quân, chia nhau đi canh gác cơ quan của chính quyền mới. Những người vào chiếm Sở Liêm phóng cũ đã nhanh chóng đem nhiệt tình của tuổi trẻ điều hành có kết quả cơ quan chuyên đàn áp của kẻ địch.


Ngay ngày hôm sau, tới được cử phụ trách một tiểu đội giải phóng quân bảo vệ trụ sở của Ủy ban nhân dân cách mạng đóng ở toà thị chính cũ. Một sáng, tôi đang đôn đốc anh em canh gác trước cổng, chợt thấy một đoàn người cưỡi ngựa, mặc đồng phục, có vũ trang, đi diễu trên đường qua trước cổng trụ sở. Nhìn cách ăn mặc, và nhất là kiểu đi ngựa diễu phố như thế, tôi đoán không phải là lực lượng cách mạng mà có thể là lực lượng vũ trang của Chính phủ Trần Trọng Kim còn sót lại. Tôi cầm khẩu súng ngắn, gọi một đồng chí giải phóng quân đi cùng, chạy ra chặn đường một thanh niên cưỡi ngựa đi đầu, người nhỏ nhắn, trắng trẻo, dáng chừng là người chỉ huy đoàn quân cưỡi ngựa. Tôi liền hỏi:

- Các anh là ai?

- Chúng tôi là công an xung phong của Chính phủ Trần Trọng Kim!

- Chính phủ bù nhìn ấy đã bị giải tán rồi. Các anh phải xuống ngựa đầu hàng.

Người chỉ huy ấy nói: "Nhưng lực lượng công an xung phong của tôi vẫn còn!"

- Xuống ngựa. Nộp vũ khí. Nếu không tôi bắn. Các anh không chống lại được lực lượng cách mạng đâu!

Đoàn người cưỡi ngựa đi phía sau, thấy thái độ của tôi cương quyết và nhất là tôi lại mặc bộ quần áo nâu, nên họ nghĩ tôi là giải phóng quân mới ở Việt Bắc về, nên vài người đã nhấp nhỏm muốn xuống ngựa. Còn số đông kìm cương, yên lặng chờ người chỉ huy của họ ra lệnh.


Thấy tình hình như vậy, tôi giơ tay ra hiệu cho anh em trong tiểu đội tản ra, nấp sau các gốc cây sẵn sàng yểm hộ cho hai chúng tôi.

Vẫn cái giọng ngang nhiên, viên chỉ huy không chịu xuống ngựa, còn nói: "Chính quyền cách mạng cũng phải cần có chúng tôi!"

- Nhưng các anh phải tuân lệnh tổ chức Sở Liêm phóng chỉ huy. Xuống ngựa ngay!

Tôi lên đạn khẩu súng ngắn Chiêu Hoà, chĩa vào người thanh niên ấy.

Anh ta vẫn cứng cỏi nói: "Các anh không có quyền bắt chúng tôi!" Rồi thúc gót vào mình ngựa cho nó tiến lên.

Thấy thái độ của anh này chưa phải là muốn chống cự, nhưng vẫn không chịu nghe lệnh tôi xuống ngựa, giao nộp vũ khí, tôi suy nghĩ rất nhanh: "Hãy bắn cảnh cáo!"

Tôi mới nghĩ như vậy đã thấy tiếng súng nổ ngay bên cạnh, thì ra anh đội viên đi cùng với tôi thấy anh thanh niên không chịu xuống ngựa nên đã nổ súng ngay vào mình con ngựa làm nó ngã quỵ xuống, hất người cưỡi ngựa ngã lăn ra đất. Anh ta lồm cồm bò dậy, đã thấy mũi súng của tôi chĩa thẳng vào ngực. Biết không thể chống lại được lực lượng cách mạng và sợ tôi dễ nổi nóng thì tính mạng của anh cũng chẳng còn, nên anh ta vội giơ cả hai tay tỏ ý đầu hàng quy phục.


Thế là cả đoàn người xuống ngựa, đều giơ tay lên hàng. Anh em tiểu đội giải phóng quân xông ra bắt họ cởi trần ngồi gom vào dưới gốc cây, đứng canh gác. Tôi vội gọi dây nói về Sở Liêm phóng để hỏi về đội công an xung phong này. Sở Liêm phóng đã cử người, mang xe đưa cả đoàn người này về giam ở xà lim và violon1 (Violon là buồng giam rộng giam được nhiều người) của Sở.


Mấy hôm sau, tôi được rỗi rãi đến thăm anh em Việt Minh do tôi phụ trách, đang công tác ở Sở Liêm phóng, trong đó có anh Quỳ và anh Bảo Toàn, để hỏi về số phận những người ấy. Anh Quỳ đưa tôi xuống thăm buồng giam rộng, tôi nhìn vào thấy lố nhố đám người cởi trần, nằm, ngồi trên sạp gỗ dài. Anh nào cũng to cao trên 1m70, nhưng ủ rũ như gà toi. Thấy tôi vào, họ nhỏm cả dậy chào vì tưởng tôi là người có thẩm quyền ở đây:

- Thưa ông! Chúng tôi không hiểu gì về chuyện này và cũng không dám chống lại cách mạng, mà chỉ nghe lệnh anh chỉ huy bảo sao, theo vậy.

- Các anh cứ yên tâm. Nếu các anh không có ý chống lại cách mạng thì các anh sẽ được xét tha ngay.

Sau đó tôi đến xà lim ở phía sau ngôi nhà lớn, gặp anh thanh niên, được biết anh tên là Lê Văn Lăng, sinh viên trường Luật. Anh bị giam riêng một mình, thấy tôi vào, anh nhận ngay ra tôi qua ô cửa con con và trình bày lý lẽ của anh là muốn biểu dương lực lượng của mình để làm thanh thế cho cách mạng.

- Sao anh không đưa đội công an xung phong của anh đến trình diện tại Sở Liêm phóng và xin nhận công việc mới? Anh đã là sinh viên trường Luật phải hiểu rõ điều đó.

- Thưa ông! Luật ấy là của Pháp, còn bây giờ... Anh nhún vai nói một câu tiếng Pháp: "Có thế mới nên chuyện. Chúng tôi không hiểu!"

Tôi mỉm cười nghĩ thầm: Anh này có máu yêng hùng, bốc đồng mà không phải là người chống phá cách mạng, nên bảo anh cứ yên tâm, nếu sau này chính quyền cách mạng xét thấy đúng như lời anh nói thì sẽ trả lại tự do cho anh.


Đến đầu tháng 9-1945, tôi được lệnh phụ trách một đơn vị giải phóng quân sang Lào giúp nước bạn làm cuộc khởi nghĩa dành chính quyền cho nhân dân vùng Thượng Lào, lại đến thăm số anh em tổ viên Việt Minh cũ thì được biết: Anh Lê Trọng Nghĩa, một trong ba xứ ủy viên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã sang nhận anh Lê Văn Lăng là người của Việt Minh cử vào Đảng Dân chủ để hoạt động bí mật. Anh Lăng đã xin được làm đội trưởng công an xung phong của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nhưng đáng ra anh phải đến Sở Liêm phóng trình diện và nói rõ nhiệm vụ của anh trong phong trào cách mạng. Sau đó anh Lê Văn Lãng và tất cả số đội viên công an xung phong của anh đều được trả lại tự do.


Hơn một năm sau, khi tôi trở về nước, theo đúng hiệp định Tạm ước ngày 14-9, tôi được điều về làm quận trưởng Công an quận 5 Hà Nội, lại gặp anh Lê Văn Lăng ở làng Dét, thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Đông. Anh Lăng thấy tôi liền giơ cả hai tay lên trời, vẫn dùng tiếng Pháp nói với anh Tài và tôi: "Quả đất tròn thật! Chúng ta lại gặp nhau. Xin cảm ơn các anh và rất khâm phục mọi kế hoạch đưa tôi ra vùng tự do an toàn như thế này. Trông các anh còn quá trẻ, nhưng đầu óc suy nghĩ và hành động của các anh thì lại thật già dặn, tuyệt vời".


Sau đấy anh Lê Văn Lăng lên Việt Bắc, tham dự lớp học Tổng phản công rồi về phụ trách Đội Hành động của Ty Điệp báo Trung ương do anh Doãn làm trưởng ty, lấy tên là Đội Hành động Lạc Long.

Anh Lăng đã góp công trong việc thu phục hai hàng binh Âu là Chapuis và Bossu. Chapuis là người Pháp, còn Bossu là lính lê dương của Đức quốc xã. Hoà bình lập lại Chapuis lấy tên là Nguyễn Văn Sĩ, công tác ở đài Tiếng nói Việt Nam và đã lấy chị Xuân là cấp dưỡng của Sở Công an Hà Nội từ ngày còn ở bản Đồng Chờ, Hoà Bình.


Nhân ngày cách mạng tháng Tám, tôi cứ nghĩ lại biết bao nhiêu số phận con người được cách mạng giáo dục đã trở thành những người có lý trí biết suy xét để phục vụ Tổ quốc và nhân dân cho đến cùng.

Câu chuyện "Ta lại bắt ta" cũng là một kỷ niệm vui giữa tôi và anh Lê Văn Lăng!