Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:24:42 am



Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:24:42 am
- Tên sách: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
- Tác giả
- Nhà xuất bản: Hà Nội
- Năm xuất bản: 2001
- Người số hóa: giangtvx, vnmilitaryhistory
 

LỜI GIỚI THIỆU


20 giờ 03 phút ngày 19 tháng 12 này cách đây 55 năm, quân dân Thủ đô ta đã nhất tề theo mệnh lệnh chiến đấu của Bộ chỉ huy quân sự tối cao, nổ súng vào binh lực quân đội Viễn chinh Pháp đã ở trong thế trận sẵn sàng tấn công đánh úp cơ quan lãnh đạo đầu não của ta, tiêu diệt lực lượng quân đội và làm chủ Thủ đô ta sau 24 tiếng.


Hành động tập kích chiến lược phản chuẩn bị quân địch đã sẵn sàng tấn công đó của ta đã mở đầu cho cuộc chiến 60 ngày đêm: Hà Nội, tổ chức chiến trường thành 3 Liên khu nội thành và 5 Khu ngoại thành, thực hiện thế trận chiến tranh "trùng độc chiến" trong đánh ngoài vây, "trong đánh ra ngoài đánh vào" đã kiên quyết đánh bại quân địch tấn công bằng lực lượng quân sự ưu thế, ngăn chặn từng bước chúng tiến, tiêu hao tiêu diệt của chúng một bộ phận đáng kể sinh lực tinh nhuệ và phương tiện kỹ thuật chiến tranh hiện đại, giam chân được chúng tại địa bàn Thủ đô trong khoảng thời gian gấp đôi thời gian quy định trong kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi cho cả nước chuyển vào trạng thái chiến tranh rồi bảo toàn lực lượng rút lui, đi tiếp cuộc "toàn quốc kháng chiến chống Pháp" trường kỳ, 9 năm sau được kết thúc bằng thắng lợi "chấn động địa cầu" của ta ở Điện Biên Phủ, dẫn tới việc ký kết hiệp định quốc tế Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương và giải phóng Tổ quốc ta ở nửa phần phía Bắc.


Thành công trong cuộc chiến 60 ngày đêm của quân dân chiến trường chính Hà Nội mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, ngay từ bước đầu đã làm phá sản ý đồ chiến tranh xâm lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yêu của dân tộc, đánh giá cao là "Đại Thắng Lợi". Các Liên khu và Khu của Thành đều đã có phần đóng góp ít nhiều quan trọng của mình vào "Đại Thắng Lợi" chung đó và thắng lợi của Khu nào, Liên khu nào cũng đều là kết quả của sự hợp đồng tác chiến của các đơn vị trên chiến trường toàn Thành.


Liên Khu II Hà Nội đảm đương nhiệm vụ đánh địch ở phần đông nam rộng lớn, kiểm soát các con đường chiến lược dẫn về hướng nam của Thành phố, Liên khu có nhiều nỗ lực và đã góp phần thành công lớn.

Để ghi lại công tích đó, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp, 5 năm trước đây, Ban liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II đã kịp thời đưa ra mắt bạn đọc tập hồi ký "Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến" quyển I. Tập hồi ký đã có nhiều tác dụng tích cực nhưng do hoàn cảnh, còn có những tồn tại, khiếm khuyết.


Năm nay, kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến chống Pháp lần thứ 55, anh em cho ra đời tập Hồi ký quyển II, bổ sung thêm nhiều nội dung quyển I chưa đề cập hoặc đã đề cập nhưng vẫn còn chưa đầy đủ. Nhưng nói đủ thì vẫn có thể còn chưa đủ, nói bớt khiếm khuyết thì vẫn là chưa tránh khỏi còn khiếm khuyết. Nhưng đây là một cố gắng quý báu của anh em, rất đáng được trân trọng.


Nhân danh nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Khu đặc biệt Hà Nội, sau còn có tên là Chiến Khu XI, tôi xin giới thiệu quyển II tập Hồi ký "Liên khu II những ngày đầu thủ đô kháng chiến" với các bạn đọc. Mong các bạn xem rồi góp cho ý kiến. Còn chuyện hay đáng nói thì chúng ta còn viết để ghi lại, nội dung thiếu thì chúng ta còn bổ sung, còn cải tiến được thì chúng ta cải tiến. Việc đóng góp thật dồi dào tư liệu về cuộc kháng chiến đã lùi sau về quá khứ của các Liên khu và Khu vẫn rất cần thiết để chúng ta sẽ dựng lên được cuốn lịch sử tổng hợp, tổng kết đầy đủ, hoàn chỉnh hơn những tài liệu hiện có về thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân dân ta trên phạm vi toàn Thành.


NGUYỄN VĂN TRÂN
nguyên Bí thư Thành ủy,
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến thành phố Hà Nội


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:25:54 am
LỜI TỰA


Kỷ niệm 55 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946-19/2/2001), Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II Hà Nội xuất bản cuốn sách "Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến" tập II. Cuốn sách tập hợp hồi ký của các đồng chí đã từng sống và chiến đấu tại Liên khu II trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 12 năm 1946.


Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II đã xuất bản cuốn "Liên Khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến" tập I. Cuốn sách giúp cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên hiểu rõ hơn lịch sử oai hùng của vùng đất Hai Bà Trưng; nhận thức rõ hơn giá trị của cuộc sống tươi đẹp ngày hôm nay là nhờ một phần hy sinh to lớn của các chiến sĩ, nhân dân Liên khu II ngày đó.


Tiếp nối truyền thống cách mạng, tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của đồng bào chiến sĩ Thủ đô nói chung, của quận Hai Bà Trưng nói riêng trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; phát huy truyền thống anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, để xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Mỹ cứu nước mà Đảng và Nhà nước đã trao tặng cho lực lượng vũ trang và nhân dân quận Hai Bà Trưng, cán bộ, đảng viên, nhân dân vững bước tiến vào kỷ nguyên mới với thế đoàn kết ổn định và phát triển. Đảng bộ và nhân dân cùng với lực lượng vũ trang của Quận phát huy phẩm chất anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động, quyết tâm đem hết năng lực, trí tuệ xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ XXII, góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là trái tim của cả nước, đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.


Nhân dịp xuất bản cuốn sách này, Ban thường vụ Quận ủy mong được độc giả đóng góp những ý kiến xây dựng cho cuốn sách, cung cấp thêm tư liệu, tài liệu giúp công tác nghiên cứu, biên soạn cuốn lịch sử đấu tranh cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân quận Hai Bà Trưng trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến được phong phú, đầy đủ, toàn diện hơn. Xin chân thành cám ơn các đồng chí cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đã từng chiến đấu ở Liên khu II, chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc...


NGÔ VĂN NGỌC
Bí thư quận ủy
Chủ tịch HĐND quận Hai Bà Trưng


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:27:12 am
LỜI NÓI ĐẦU


Cuộc chiến 60 ngày đêm (19/12/1945 - 19/2/1947) của quân dân Hà Nội mở cầu cuộc Toàn quốc Kháng chiến chống Pháp giành đại thắng lợi đã được ghi dấu là một mốc son sáng chói trong lịch sử đương đại của Thủ đô và của cả nước.


Quân dân Liên khu II chúng ta đã bằng những nỗ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu vượt bậc, đầy hy sinh gian khổ nhưng cũng đầy tinh thần lạc quan cách mạng và lòng tin chắc thắng vào sự nghiệp chính nghĩa cao đẹp của mình đã đóng góp được phần quan trọng trong "Đại Thắng Lợi" chung đó của Thành phố.


Để ghi lại công tích đó, mùa đông năm 1996, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 cuộc kháng chiến, tập Hồi ký "Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến" đã ra mắt bạn đọc.

Cuốn sách giới thiệu với các độc giả về địa bàn Liên khu, sự chuẩn bị của nó để đi vào chiến tranh, diễn biến lịch sử và một số câu chuyện kể của những người trong cuộc.

Cuốn sách đã phát huy được tác dụng:

1. Đối với những người đã tham chiến, cuốn sách "kể về mình" đã gợi cho mỗi người nhớ lại, với lòng tự hào một thời trai trẻ oanh liệt, đầy gian nan thử thách, có nhiều ấu trĩ, nhưng họ đã thắng lợi vượt qua và tác động khuyến khích họ sốt sắng tham gia "Tổ chức hoạt động tình nghĩa đồng đội Kháng chiến Liên khu II" mới được thành lập.

2. Nó đóng góp phần tư liệu lịch sử kháng chiến của Liên khu II vào việc tổng kết "Cuộc chiến 60 ngày đêm" của thành phố và cùng với các nhân chứng sống, phục vụ ở mức độ nhất định cho việc viết lịch sử các quận, các phường, trong kháng chiến đã từng nằm trên địa bàn.

3. Độc giả đang là cư dân các phố, phường trong kháng chiến nằm trên địa bàn, dân cũ hay dân mới, đã luống tuổi hay còn ít tuổi... qua nội dung của quyển Hồi ký, biết được rõ thêm về lịch sử đáng tự hào của mảnh đất mình đang ở và tăng thêm tính gắn bó với nó, đồng thời nhận thức được rõ nét hơn về võ công, về sự hy sinh gian khổ và cả về những tấm gương sáng của những lớp người đi trước chiến đấu cho cuộc sống của mình bây giờ để có lòng kính trọng và biết ơn theo đúng đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.


Tuy nhiên, bên cạnh những "cái được", cuốn Hồi ký còn có một số điều "chưa được":

1. Cơ bản nhất là tính toàn dân toàn diện của cuộc chiến tranh chưa được phản ánh lên đầy đủ do sự thiếu vắng của một số nội dung quan trọng như vấn đề Đảng lãnh đạo, vấn đề chính quyền điều hành, vấn đề giải quyết các mặt về đời sống vật chất tinh thần cho dân và các lực lượng chiến đấu. Phần hoạt động quân sự được nói đến nhiều nhất nhưng cũng còn những mặt như việc: nắm địch, nắm ta, việc chống lại hoạt động biệt kích, gián điệp của địch và việc sinh hoạt nội bộ trước, sau trận đánh của các lực lượng, còn chưa được đề cập; hoạt động của các đoàn thể cứu quốc - phụ nữ, thanh niên... có được nói lên nhưng còn ít và chưa ngang tầm với thành tích các anh chị em đã đạt được.

2. Có những nội dung hoặc chi tiết trong các bài viêt phản ánh vấn đề chưa thật chính xác; cùng một việc nhưng được phản ánh khác nhau, có chỗ được hư cấu thêm, không đúng thực tế, gây tranh cãi, hoài nghi và thắc mắc. Vấn đề đã được giải quyết nhưng không phải là không còn những "tồn đọng" đáng tiếc.

3. Về in ấn còn khá nhiều sai sót phải cải chính.


Nguyên nhân của những "điều chưa được" nói trên là do:

1. Việc thu thập tư liệu cho nội dung cuốn Hồi ký - việc có tầm quan trọng hàng đầu - đã không đạt được yêu cầu đề ra về số lượng cũng như về chất lượng. Cuộc chiến đã đi vào dĩ vãng tới 50 năm. Nhiều cán bộ nắm vai trò chủ chốt đã qua đời, những nhân chứng hiện còn sống, tuổi đời đã khá cao, sức khỏe đã giảm sút, đầu óc không còn được minh mẫn như xưa, có người nhớ không ra phản ánh lại những sự kiện lịch sử bằng viết tay hay bằng nói, từ vị trí trước đây của mình, có nhiều khó khăn, không đầy đủ và có những phần phiến diện, sai lệch.

2. Ban Biên tập chưa lường hết được những khó khăn của việc lấy tư liệu từ các đồng đội của mình như trên viết và lại còn bị không chế, thúc ép bởi thời hạn đặt ra - chỉ có hai tháng - phải hoàn thành cuốn Hồi ký để kịp dùng làm quà tặng anh chị em nhân ngày kỷ niệm. Vì vậy, việc rà soát lại những bài anh chị em viết nộp, rồi so sánh, đối chiếu, phát hiện những chỗ sai, sửa lại những chỗ chưa đúng... đã không làm được đến nơi đến chốn như ý muốn. Vả lại, trong thực tế, không cùng trong cuộc với anh chị em, cũng khó phát hiện được hết những chỗ anh chị em viết sai, đành phải bằng lòng với phương châm "người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của mình", không thể nào làm khác.

3. Việc tổng kết cuộc chiến của Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô làm chậm, tập Hồi ký ra mắt bạn đọc rồi mới được hoàn thành, đó là một tình huống không mấy thuận lợi cho công việc biên tập: Việc xây dựng nội dung của tập Hồi ký đã không thừa hưởng được kết quả của một công việc nghiên cứu khoa học công phu và chính xác giúp tránh được những sai phạm về viết hay nói về lịch sử không đáng để xảy ra.

Năm nay - năm 2001 - năm đầu tiên của thế kỷ XXI là năm kỷ niệm lần thứ 55 ngày mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp.

Thể theo nguyện vọng của anh chị em đồng đội tham gia cuộc chiến 60 ngày đêm khi đó, đến năm nay lại đã già thêm 5 tuổi, và được sự đồng tình khuyến khích của trên - Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II Hà Nội tiếp tục trình ra mắt bạn đọc tập Hồi ký "Liên khu II những ngày đầu thủ đô kháng chiến" quyển II, bổ sung thêm những nội dung quyển I chưa đề cập, cụ thể là về các đơn vị tham chiến, về các trận đánh nổi bật đã được Bộ Tư lệnh Quân khu tổng kết, về chiến công của một số anh chị em đã khuất và cũng ở như quyển I, là những hồi ức của các đồng đội lần này mới tham gia viết bài.


Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II Hà Nội xin trân trọng giới thiệu cuốn Hồi ký thứ hai này với bạn đọc.

Được tăng thêm lực lượng và rút kinh nghiệm những việc đã làm, những người biên soạn đã có nhiều cố gắng để không mắc lại những khiếm khuyết như ở quyển 1. Tuy nhiên, công việc không đơn giản, cũng chưa dám khẳng định là sẽ không còn thiếu sót. Mong các bạn đọc cảm thông và góp cho ý kiến.


Cuối cùng Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II Hà Nội trân trọng cảm ơn Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, Văn phòng Liên hiệp đường sắt Việt Nam, Nhà xuất bản Hà Nội đã giúp đỡ và hỗ trợ chúng tôi hoàn thành cuốn sách này.


BAN LIÊN LẠC


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:28:06 am
LỜI KÊU GỌI CỦA CHỦ TỊCH Hồ CHÍ MINH


Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Viêt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu quốc!

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh tới giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

Việt Nam độc lâp và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Ngày 20-12-1946
Hồ Chí Minh


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Tư, 2022, 07:28:47 am
MỆNH LỆNH CHIẾN ĐẤU


GỬI CÁC ĐƠN VỊ VỆ QUỐC ĐOÀN, DÂN QUÂN,
TỰ VỆ TRUNG, NAM, BẮC


Tổ quốc lâm nguy.

Giờ chiến đấu đã đến!

Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi ra lệnh cho toàn thể bộ đội vệ quốc quân, dân quân, tự vệ Trung, Nam, Bắc phải nhất tề đứng dậy.

Phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.

Hy sinh đến giọt máu cuối cùng.

Luôn luôn khăng khít với đồng bào.

Cuộc kháng chiến sẽ trường kỳ và vô cùng gian khổ, nhưng chính nghĩa thuộc về ta, chúng ta nhất định thắng lợi.

Tiêu diệt thực dân Pháp!

Viêt Nam độc lâp và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Quyết chiến!


Ngày 19 tháng 12 năm 1946
Võ Nguyên Giáp


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:50:36 am
TIỂU ĐOÀN 77 TIẾP PHÒNG QUÂN CỦA CHÚNG TÔI
(Tiếp phòng quân: Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, ta đồng ý cho Pháp đưa quân vào thay thế quân Tưởng (làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật). Ta và Pháp thỏa thuận: mỗi bên cử một tổ đơn vị quân đội cùng tiếp nhận việc phòng vệ các cơ sở do quân Tưởng trước đây canh giữ. Số đơn vị này ta gọi là Tiếp phòng quân; phía Pháp gọi là Armée de relève (NXB))


Tổng khởi nghĩa thắng lợi...

Cách mạng Tháng Tám thành công!

Một đòi hỏi cấp bách được đặt ra đối với những người lãnh đạo: PHẢI KỊP THỜI CÓ NGAY MỘT LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỦ TIN CẬY ĐỂ BẢO VỆ THÀNH QUẢ CỦA CÁCH MẠNG!

Ở tại Hà Nội (thủ phủ của Bắc bộ khi ấy), Thành ủy (dưới danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh) quyết định: Cấp tốc trưng tập các thanh niên ưu tú trong hàng ngũ Công nhân cứu quốc, thành lập hai chi đội Giải phóng quân của Hà Nội. Một đơn vị đóng tại trại Bảo an binh, một đơn vị đóng tại Bắc bộ phủ. Đồng thơi trưng tập các phần tử ưu tú trong hàng ngũ Thanh niên cứu quốc trong toàn thành lại. Thành lập Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, làm nhiệm vụ tuần phòng canh gác những nơi cần thiết khác trong thành phố...


Theo chủ trương đó của Đảng, chỉ ba ngày sau đã hình thành hai tổ chức vũ trang kể trên của Hà Nội. Và những tổ chức vũ trang đầu tiên đó của Hà Nội chính là tiền thân của 5 tiểu đoàn chính quy mang danh hiệu Vệ quốc đoàn của Hà Nội (nửa năm sau); tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân là một trong số 5 tiểu đoàn kể trên...


Ngày 22/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 71/SL. Sắc lệnh quy định nhiều vấn đề cho quân đội, trong đó có điều khoản: Cho phép Chiến khu XI (mật danh quân sự dành cho Thành phố Hà Nội) được thành lập 5 tiểu đoàn quân chính quy. Mang số hiệu: 77, 101, 145, 212, 523...


Trên thực tế thì các tiểu đoàn kể trên đã được hình thành kể từ ngày ta ký với Pháp Hiệp định 6/3 (quân Pháp được phép vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng). Ta cần thiết phải có một số đơn vị quân đội (lấy tến là Tiếp phòng quân) để phối hợp cùng quân đội Pháp giữ gìn an ninh cho cả hai bên. Tiểu đoàn 77 là một trong số các đơn vị kể trên.


Để có được 5 tiểu đoàn quân chính quy theo sắc lệnh số 71/SL, Hà Nội dựa vào hai chi đội Giải phóng quân và đội Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu làm hạt nhân nòng cốt, và tuyển chọn trong hàng ngũ thanh niên ở các khu phố, ai có đủ tiêu chuẩn (sức khỏe và học lực) tình nguyện tòng quân thì tiếp nhận họ vào đội ngũ.


Trên cơ sở đó, chỉ trong một thời gian ngắn Hà Nội đã thành lập đủ 5 tiểu đoàn hoàn chỉnh về quân số. Tất cả đều có thể lực tốt và 100% biết chữ - trong đó quá nửa là học sinh bậc trung học. Đây là hiện tượng hiếm. Bởi vì dân Việt Nam ta khi ấy 95% là mù chữ.


Lịch sử ra đời của tiểu đoàn 77 (cùng bốn tiểu đoàn bạn) của Hà Nội nói gọn lại là như thế. Và tôi đã có vinh hạnh được là một đội viên của tiểu đoàn từ đấy...

Có một chi tiết tôi nghĩ lúc này cũng nên nhắc đến: Khi ấy chúng tôi (kể cả từ chỉ huy tới lính trơn) nhận bộ quân phục và khẩu súng, trong lòng chỉ rộn ràng một ý nghĩ: "Là dân Hà Nội, được cách mạng tin cậy cho cầm súng để bảo vệ Thủ đô. Đây là một vinh dự không gì sánh nổi" (mặc dù chúng tôi ai nấy đều biết rõ rằng tiếp nhận cuộc sống của một quân nhân cách mạng sẽ... cơm ăn không đủ no, áo quần không đủ thay, luyện tập và lao động thì nặng nhọc như... lính. Và không lương vô thời hạn. Trong khi ấy, đồng đội của tôi có rất nhiều cậu sinh trưởng trong các gia đình nổi tiếng giàu có hoặc quyền thế tại Hà Nội).


... Tình hình Hà Nội lúc bấy giờ rất căng thẳng, "trăm công nghìn việc" chồng chéo lên nhau, nhiều lúc tưởng chừng như bế tắc. Song tựu trung, hết thảy mọi việc diễn ra cần phải kịp thời giải quyết đều nằm trong ba điều chống do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt đề ra: CHỐNG GIẶC ĐÓI - CHỐNG GIẶC DỐT - CHốNG GIẶC NGOẠI XÂM...


Là lính Hà Nội (nơi trung tâm chính trị của cả nước) nhất cử nhất động của chúng tôi nhất thiết có quan hệ với ba điều chống đó. Tất nhiên đối với việc đi dạy Bình dân học vụ và tiết kiệm trong sự ăn, mặc v.v... thì chúng tôi chỉ phải "đóng vai phụ", riêng đối với việc chống ngoại xâm thì chúng tôi có mặt không kể ngày đêm.


Danh nghĩa là tiểu đoàn 77 Tiếp Phòng Quân, đối tượng "chống" của chúng tôi khi ấy rất rõ ràng, cụ thể: Quân lính xâm lược Pháp! Chúng chính là những kẻ hàng ngày "cộng tác" với chúng tôi. Hơn ai hết tôi được chứng kiến không còn thiếu một hành vi bỉ ổi nào mà lũ quân viễn chinh nước Đại Pháp "biểu diễn" nhằm khiêu khích chúng tôi (kể cả việc chúng đứng đối diện trước vọng gác của chúng tôi chừng năm bước, vạch quần ra đái...). Nói cách khác: Ngoài tinh thần yêu nước và lòng căm thù quân xâm lược của mỗi người lính nói chung đối với bọn lính thực dân Pháp, thì những người lính Tiếp phòng quân (trong đó có tiểu đoàn 77) chúng tôi có cái "may mắn đặc biệt" là được thực sự tai nghe mắt thấy chính bản thân bọn nhà binh Pháp "trình diễn" hàng ngày trước mắt mình, hết sức chân thực và sinh động. Chính chúng đã... "làm tranh phần việc" của đồng chí chính trị viên đại đội: liên tục củng cố và "tưới dầu" vào những trái tim đang ngày đêm sôi bỏng, đòi "bốc lửa" của chúng tôi. Khiến cho mỗi chúng tôi từng ngày một, lòng yêu nước và chí căm thù giặc càng được khàng định rõ ràng, cụ thể và vững chắc trong ý thức của mình.


Từ ngày thành lập cho tới trước ngày toàn quốc kháng chiến (22/5 đến 19/12/1946) với "tầm nhìn" ở mức một đội viên như tôi khi ấy, thì tiểu đoàn 77 của chúng tôi thường trực đảm nhiệm hai việc chính: Canh gác, phòng tuần (kể cả độc lập lẫn phối hợp với quân Pháp); học tập chính trị, luyện tập quân sự (cho mình và hướng dẫn lại giúp anh em Tự vệ Thành). Ngoài ra những ngày bước vào "tích cực chuẩn bị kháng chiến" thì chúng tôi dốc sức vào công việc đào đắp hầm hố và xây dựng công sự cho đơn vị mình, đồng thời tham gia cùng các đội Tự vệ Thành, lập chiến lũy ở các khu vực trọng điểm (trong địa giới hoạt động của tiểu đoàn) khi có chiến sự xảy ra. Càng gần đến ngày nổ ra chiến tranh, công việc chuẩn bị của chúng tôi càng khẩn trương, cấp bách, vất vả.


Như đã giới thiệu ở trên chúng tôi hết thảy là "dân Hà Nội" (có nghĩa khả năng lao động xốc vác hơi... yếu), đã thế lại còn tới quá nửa là học trò thuộc giới "dài lưng tốn vải, ăn no lại nam" công việc giấy tờ bút mực thì còn khả dĩ, chứ cái món lao động chân tay thì không chỉ "hơi yếu" mà là... rất yếu. Vậy mà quyền lợi và nghĩa vụ quân nhân được xác định trong quyển Quân quy do đại tá Phan Tử Lăng biên soạn, lại không có một khoản nào "chiếu cố dành cho "họ". Như vậy, có nghĩa "họ" cũng "ngang bằng" như mọi anh em khác trong tất tần tật mọi công việc: tập luyện, chiến đấu, công tác và sinh hoạt... (điều đó là một thử thách quá lớn đõi với họ).


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:51:35 am
Với bản chất học trò, chúng tôi bắt tay vào đào một hầm ngầm từ trong trại Vệ quốc đoàn trung ương, xuyên qua đường Hàng Bài sang rạp Majestic, để đặt quả bom nặng hai tạ. Chờ khi xảy ra cuộc chiến sẽ giật cho nó nổ, tiêu diệt bọn Pháp đang chiếm giữ tại đấy. Rồi tham gia cùng các đội tự vệ khu Chợ Hôm đào đắp một chiếc ụ chiến đấu cực to tạ ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc. Những việc đó quả thật "rất không hợp" với các
cậu học trò đang tập sự làm lính. Song, mặc dù sầy vai, tóe máu tay, trẹo khớp chân... vẫn không anh nào bỏ cuộc. Chỉ riêng điều đó đã khiến chúng tôi yên tâm, tin tưởng vào nhau, sẵn sàng nhập trận ...


Nhưng trong những ngày chuẩn bị hết sức khẩn trương ấy, cũng có những việc rất hấp dẫn, ví như việc đi hướng dẫn cánh Tự vệ Thành học quân sự. Anh em đa số là học sinh, ai nấy thông minh, sôi nổi và tự giác rất cao. Bởi vậy công việc của một huấn luyện viên trở nên dễ dàng, thoải mái vô cùng. Chương trình bố trí học 5 ngày, mỗi ngày hai buổi. Thực tế chỉ cần một nửa thời gian đã đủ. Có sự ấy là do: trình độ của huấn luyện viên thì có hạn mà nhận thức của người học lại quá nhạy. Kết quả ngày nào cũng vẫn như ngày nào: "huấn luyện viên" với "quân lính" rất sẵn thì giờ giải lao, xoàng cũng là hát và ngâm thơ có nhạc đệm, có những buổi tối "bốc" lên mang bóng đá ra đá với nhau "một gôn" rất say sưa... (chính tôi cũng không ngờ rằng trong thời gian tham gia công việc huấn luyện quân sự cho Tự vệ Thành ấy đã thu được những kết quả vượt ra ngoài yêu cầu rất xa. Cụ thể: Khi nổ ra tác chiến, tiểu đoàn 77 của chúng tôi đã đánh địch đúng ngay trong khu vực có các đội tự vệ mà chúng tôi huấn luyện. Nói cách khác, giữa chúng tôi với anh em đã có sẵn một tình bạn đặc biệt, cũng là dân Hà Nội, cũng là học trò, cũng kề vai đánh Pháp). Có lẽ, từ cái nền rất đặc biệt như thế, đã nảy sinh một hiện tượng rất thú vị: Trong suốt thời gian tiểu đoàn 77 chúng tôi đánh Tây tại Hà Nội (lớn nhỏ kể có hàng chục trận), không một trận nào vắng anh em tự vệ khu Chợ Hôm cùng đánh. Cuối cùng, kết quả mỗi 24 trận đánh cũng thật khó khẳng định rằng đó là công của ai. Bởi vì về trang bị thì chúng tôi có "tươm" hơn anh em chút đỉnh, về tinh thần hăng hái thì ngang nhau, riêng về cái món "lợi dụng địa hình địa vật" thì anh em ăn đứt chúng tôi (mặc dù chúng tôi cũng là dân Hà Nội, nhưng anh em mới chính là thổ công). Cũng may thời bấy giờ chưa có tổ chức khen thưởng, nếu có chắc là phải chia đều theo tỉ lệ đầu người!


Bước vào chiến đấu.

Tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân chúng tôi là một tiểu đoàn hoàn chỉnh. Gồm một ban chỉ huy tiểu đoàn với tiểu đoàn bộ, 3 ban chỉ huy đại đội, mỗi đại đội có đại đội bộ, và 3 trung đội, mỗi trung đội có ban chỉ huy (thời bấy giờ do điều kiện tác chiến phân tán nên trung đội có liên lạc và cấp dưỡng riêng), với 3 tiểu đội...

Ban chỉ huy tiểu đoàn:

Tiểu đoàn trưởng là đ/c Hoàng Kiện.

Chính trị viên tiểu đoàn là đ/c Hồng Kỳ.

Ban chỉ huy các đại đội:

Đại đội 1: Đại đội trưởng là đ/c Nguyễn Văn Ngọc. Chính trị viên là đ/c Trung Thành.

Đại đội 2: Đại đội trưởng là đ/c Quang Biền. Chính trị viên là đ/c Việt Sơn.

Đại đội 3: Đại đội trưởng là đ/c Bảo Cường. Chính trị viên là đ/c Nguyễn Ngọc Tấn.

(Tôi có dò hỏi nhưng không nhớ được hết tên các ban chỉ huy trung đội và các tiểu đội trưởng. Vì vậy tôi xin người đọc miễn lỗi cho).


Trước giờ nổ súng, tiểu đoàn chúng tôi đặt ban chỉ huy ở khu vực Chợ Hôm. Lực lượng tác chiến phân bố như
sau:

Đại đội 1: Bố trí tại khu vực ga Hàng Cỏ - Nhà Hỏa Lò - Sở Hỏa xa Việt Điền...

Đại đội 2: Đại bộ phận bố trí ở khu vực Đồn Thủy (2 trung đội), còn 1 trung đội bố trí tại Bộ Quốc phòng (trường Trưng Vương bây giờ).

Đại đội 3: 2 trung đội bố trí tại trại Vệ quốc đoàn trung ương, còn 1 trung đội ở phố Bà Triệu (thành viên đội Liên kiểm Việt Pháp).


... Bắt đầu nổ súng. Tiểu đoàn nhất loạt tấn công quân Pháp trên toàn tuyến. Ta chủ động nổ súng mãnh liệt vào mọi mục tiêu đã chuẩn bị trước. Quân địch bị động ngay từ phút đầu. Một số vội vã rút chạy (nhà đại tá La-mi), đa số cố thủ chống lại (Đồn Thủy, rạp Majestic, ga Hàng Cỏ, Bà Triệu, khu Bác Cổ...) ta kiên quyết tấn công tiêu diệt gọn một số (ở viện Rađium, rạp Majestic, các ổ đề kháng gần khu Bác Cổ, trong đó trận đánh rạp Majestic diễn ra ác liệt nhất, ta đánh hơn 14 giờ liên tục mới diệt xong).


Sáng ngày hôm sau (20/12/1946), quân Pháp từ những vị trí đóng quân bắt đầu nống ra, phản công lại quân ta rất dữ dội. Quân ta anh dũng chăn đánh từng bước tiến của bọn chúng, trên khắp mọi nơi. Ở khu vực đại đội 1, quân Pháp từ trong thành tiến ra chia quân làm 2 mũi (mỗi mũi chừng 200 quân với 2 xe tăng) đi theo 2 đường: Một, theo đường Cửa Nam qua Tràng Thi, Quán Sứ... các đơn vị bạn (Tự vệ chiến đấu và Tự vệ Thành) liên tiếp đánh chặn suốt dọc đường nhưng vì lực mỏng không đủ sức cố thủ. Nên sau hơn 3 giờ chiến đấu quyết liệt, các đơn vị bạn đành phải rút lui. Đến 8 giờ thì quân Pháp tiến được vào khu vực đại đội 1. Lợi dụng cấu trúc kiên cố của nhà Hỏa Lò, đại đội 1 đã chặn đứng mọi đợt tấn công của địch. Mũi thứ hai theo đường Hàng Lọng (phố Lê Duẩn bây giờ), 1 trung đội của đại đội 1 cùng với các đơn vị bạn ngoan cường chặn đánh rất dũng mãnh. Quân Pháp cầu cứu pháo tầm xa bắn dữ dội vào nhà ga rồi cho xe tăng xông lên húc đổ tường. Quân ta không đủ sức đề kháng, bị bật sang phía Khâm Thiên (Liên khu III).


Tại khu vực đại đội 2: Quân Pháp từ Đồn Thủy cũng chia quân làm hai cánh. Một cánh tấn công trực tiếp vào nơi đại đội cùng các đơn vị bạn đang trấn giữ là STAI- QUAI. Chúng có 2 xe tăng và 2 xe bọc thép cùng 200 quân. Sau 3-4 giờ chống cự quyết liệt không lại, quân ta phải rút về vùng Thanh Lương - Đống Mác (với STAI- QUAI ta với địch còn tiếp tục giành đi giật lại nhiều lần...). Cánh quân thứ hai của chúng có 1 xe tăng và 2 xe bọc thép cùng 200 quân, từ Đồn Thủy ra đường Trần Hưng Đạo qua đường Hàn Thuyên đến ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu, chọc thẳng vào nhà thờ Hàm Long đón bọn Pháp kiều và tay sai (người Việt). Rồi quay lên tấn công trại Vệ quốc đoàn trung ương và rạp Majestic.


Tại khu vực đại đội 3: Quân Pháp cậy có xe tăng và thiết giáp ào ạt xông lên tấn công đồng loạt cả 3 nơi một lúc (trại Vệ quốc đoàn trung ương, rạp Majestic, Bộ Quốc phòng) chúng tôi cùng các đơn vị bạn chống trả quyết liệt hơn ba tiếng đồng hồ mới chịu rút. Đêm hôm ấy, còn lại bao nhiêu ổ đề kháng của bọn Pháp nằm ở Liên khu II Hà Nội (các phố Lò Đúc, Lê Văn Hưu, Hàng Bài, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thượng Hiền, Bà Triệu, Nguyễn Du...) chúng tôi cùng các đơn vị bạn quét dọn bằng hết.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:52:15 am
Hình thái chiến đấu từ hôm ấy cho đến hết ngày 24/12/1946 chuyển thành giằng co, tranh chấp giữa ta với Pháp trong khu vực bờ sông qua Phố Huế đến Bà Triệu (mặt nam từ phố Nguyễn Công Trứ sang phố Tô Hiến Thành, mặt bắc từ phố Nguyễn Du qua Phố Huế, Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên...).


Rất nhiều trận đánh lớn, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên diễn ra ở khu vực này. Tiêu biểu là các trận: Bệnh viện Pasteur; Nhà máy rượu; Ngã 5 Lê Văn Hưu - Lò Đúc; Ba Hàng; Thanh Lương; số nhà 16 Nguyễn Du (trụ sở Bộ Tổng tham mưu); dọc phố chợ Hôm... Quân ta với quân Pháp suốt bốn ngày bốn đêm giằng đi giật lại với nhau trong khu vực ấy.


Với một cự ly không quá 500 mét, nằm giữa 5 đường trục rộng rãi, thẳng băng (đường Lò Đúc, Ngô Thì Nhậm, Phố Huế, Mai Hắc Đế, Bà Triệu...) mà quân Pháp lại chiếm ưu thế tuyệt đối về sức mạnh của chiến xa, cơ giới, không quân và pháo binh... Trong khi quân ta, ngoài hai tiểu đoàn bộ đội Hà Nội là tiểu đoàn 77 và 212 còn có chừng 200 Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu cùng khoảng hơn 500 Tự vệ Thành... khi bắt đầu nổ súng. Đến lúc này đã được bổ sung thêm một tiểu đoàn bộ đội từ Hà Đông ra chi viện (tiểu đoàn 56). Về quân số như vậy là ta nhiều hơn địch. Còn về trang bị thì quân Pháp mạnh hơn quân ta gấp bội (đây là nói trong khoảng thời gian trước ngày 15/12/1946, sau ngày đó, Liên khu II Hà Nội còn được tăng cường thêm một tiểu đoàn bộ đội nữa từ Sơn Tây về mang số hiệu 64).


Trong bài viết này, chủ ý của tôi chỉ muốn kể về tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân "của mình". Song thực tế tình hình chiến đấu khi ấy không cho phép tôi thực hiện ý muốn đó được, bởi vì: với đặc điểm của địa hình Hà Nội, cộng với đặc điểm của "con người Hà Nội"- cụ thể là các thanh niên Hà Nội mà anh em trong tiểu đoàn 77 chúng tôi cũng nằm trong số đó. Nói thực lòng "tính tổ chức" của anh em thời bấy giờ chưa lấy gì làm ... "cao" cho lắm cho nên khi quân Pháp tiến đánh bất cứ chỗ nào, thì trừ những đơn vị đang phải trực tiếp phòng ngự ở nơi ấy ra, các đơn vị (hoặc cá nhân) khác - đặc biệt là anh em Tự vệ Thành - hễ nghe thấy súng nổ là sẵn sàng kéo đến "đánh hôi" bất kể ngày đêm. Với các đơn vị bạn không biết thế nào, chứ đối với tiểu đoàn 77 chúng tôi thì, giữa chúng tôi với anh em tự vệ khu vực Chợ Hôm (dù ít dù nhiều) đã sẵn có tình "thầy trò, bè bạn" từ trước, nay lại kề vai sát cánh giữa trận tiền, ai nấy đều bộc lộ hết mình, đánh Tây chí tử! Anh em tự vệ không muốn tỏ ra lép vế trước chúng tôi (những "đồng hương" của họ đang mặc quân phục chính quy), nên cực kỳ xông xáo, dũng cảm. Đặc biệt: Anh em là những thổ công tại đấy nên rất thông thạo từ đường ngang lối tắt, đến các "xó xỉnh" kín đáo trong từng đường phố. Bởi vậy họ di chuyển hết sức mau lẹ và chính xác. Tôi còn nhớ một trường hợp: Khi quân Pháp hùng hổ tiến cong vào Phố Huế tiểu đội của chúng tôi có nhiệm vụ cùng các đơn vị bạn trấn giữ ngã tư Phố Huế - Hòa Mã. Thấy súng nổ dữ dội ở cả hai đầu phố chúng tôi chưa hiểu nếp tẻ ra sao thì đồng chí tiểu đội trưởng tự vệ đã rủ: "Ngồi đây chờ sung rụng hay sao? Các cậu theo tớ...". Anh ta nói xong lập tức vùng dậy đi ngay. Các chiến sĩ tự vệ bám theo. Tiểu đội trưởng của tôi vốn là học sinh trường Lu-i "Bạt" (Trường Louis Pasteur, một trường trung học tư thục do người Pháp mờ - ở chỗ trụ sở Bộ Tài chính ngày nay), anh đứng phắt lên tặc lưỡi quát: "Đi thôi các cậu". Chúng tôi theo gót anh em tự vệ một hồi thì đến một căn gác rất rộng rãi, có ban công hướng mặt ra đường (sau này tôi mới biết đó là ngôi nhà số 132 Bùi Duy Dần). Hai tiểu đội trưởng thống nhất kế hoạch: cắt ba người mang các chai xăng crếp và lựu đạn ra nằm bẹp ở ban công, chờ nếu có cơ giới xuất hiện thì đả. Số còn lại, những ai có súng, đứng sau cửa ra vào và hai bên cửa sổ đánh bộ binh địch (cả hai tiểu đội chúng tôi gộp lại chỉ có 8 khẩu súng trường các kiểu, còn thì gươm, mã tấu, thậm chí cả dao găm... Chỉ 3-4 phút sau đã nghe tiếng xe cơ giới rõ dần, rồi thì một chiếc xe bọc thép ầm ầm lao tới. Ba đồng chí của ta vội tương những chai xăng crếp xuống, chưa kịp bồi lựu đạn thì chiếc xe đã vọt qua mất. Tiểu đội trưởng của tôi buột miệng văng ra một câu: "Đánh chác như cái con..." (hình như biết đã lỡ lời, anh lập tức im bặt). Đồng chí tiểu đội trưởng tự vệ rủ: "Tôi với ông ra phân công ba "đứa" chúng nó ném xăng, hai "thằng" mình "chơi" lựu đạn. Chờ nó quay ra, đi đâu mà vội?" Có vẻ lọt tai, tiểu đội trưởng của tôi ra ngay. Không ngờ lại còn một chiếc nữa đang tiến đến.


Cùng một lúc cả xăng crếp lẫn lựu đạn phóng xuống. Tên lái xe hoảng hốt thế nào mà quặt tay lái đột ngột khiến chiếc xe vượt lên vỉa hè, húc vào một cây cơm nguội, khựng lại ngay. Bọn bộ binh trong xe vội nhảy xuống định chạy tháo thân nhưng không kịp, các tay súng của ta đã nhanh tay hơn. Chỉ trong phút chốc cả chiếc thiết giáp lẫn một tiểu đội quân Pháp đã bị ta "hóa kiếp". Trận đánh diễn ra hết sức nhẹ nhàng, đơn giản. Cứ ngỡ như đùa...


Kể từ những trận đánh "nhỏ lẻ" như thê cho tới những trận đánh lớn, mỗi bên có tới hàng mấy trăm quân, bắn nhau suốt ngày, có thể nói không ngoa rằng hầu như không một trận nào thiếu sự hiệp đồng tác chiến đầy hiệu lực giữa anh em tự vệ với bộ đội. Chính vì thế, sẽ là không đúng nếu có ai kết luận rằng: "Trong cuộc chiến 60 ngày đêm chống Pháp ở Liên khu II Hà Nội thì trận X hay Y hoặc Z là chiến công riêng của đơn vị A hay B hoặc C..." (ngoại trừ các trận diệt một số ổ đề kháng tại gia đình Pháp kiều trong đêm 19/12/1946) tất nhiên tôi chỉ dám lấy tư cách cá nhân để nói lên ý nghĩ này.


Sang đến ngày 25/12/1946 (sau 6 ngày Liên khu II Hà Nội kháng chiến) quân Pháp rút được kinh nghiệm, chúng không ham quần thảo với quân ta trong các phố, mà tập trung sức mạnh cơ giới và binh hỏa lực vào 3 mũi nhọn, dọc theo 3 con đường chính: Lò Đúc, Phô Huế, Bà Triệu... Đánh thông xuống tận cây đa Nhà Bò; Ô Cầu Dền; và đường Đại Cồ Việt... (chúng không còn dám mơ "quây Việt Minh" vào gọn trong lòng từng chiếc vó, rồi "nhẹ nhàng" nhấc vò lên, bắt sống không bỏ sót một... con tép mại!...).


Ngoài những đơn vị chặn địch trên ba trục đường kể trên, toàn bộ lực lượng của ta vẫn giữ được nguyên vẹn, rút về phía sau, lập thành mặt trận Ô Cầu Dền...

Dựa vào lợi thế địa hình (con sông Tô Lịch chạy gần như nằm ngang phía Nam Hà Nội, suốt từ Ô Đống Mác qua Ô Cầu Dền đến Ô Đồng Lầm (ngã tư Kim Liên - Đại Cồ Việt). Và, tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân của chúng tôi vẫn là một trong số các đơn vị được đứng ở vị trí tiền duyên của mặt trận: Đại đội 2 vẫn trấn giữ phía Đông (khu vực Đống Mác - Ba Hàng), đại đội 1 vẫn trấn giữ phía Tây (khu vực Tây Bắc Việt Nam học xá - Đại Cồ Việt (tiếp giáp Kim Liên - Hồ Bảy Mẫu), đại đội 3, (sau 6 ngày đêm chiến đấu quân số hao hụt nghiêm trọng, đã được hợp nhất với 1 đại đội của tiểu đoàn Hà Đông (D 56) vẫn trấn giữ trục đường trung tâm: Phố Bạch Mai...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:52:46 am
Một giai đoạn chiến đấu mới bắt đầu. Trong giai đoạn này, bên quân ta, trên toàn tuyến vẫn giữ vững chủ trương tác chiến do trên đã vạch ra "cố gắng chặn bước tiến của địch càng lâu càng tốt"!

Với lợi thế địa hình có sẵn (con sông Tô Lịch), tuyến chiến đấu mới này của Liên khu II Hà Nội được mọi người gọi bằng cái tên đầy kiêu hãnh: mặt trận Ô Cầu Dền!...

Lúc này nhớ lại, quả thật mặt trận Ô Cầu Dền là một niềm kiêu hãnh lớn của Liên khu II Hà Nội. Bởi vì, nhìn lại lịch sử 60 ngày đêm chống Pháp bảo vệ Thủ đô của quân dân Hà Nội ngày ấy, đã có nơi nào (trong cả 3 Liên khu) lập một trận tuyến trên một địa hình trống trải, nhà cửa thưa thớt... chống cự với địch, cầm chân chúng suốt từ 25/12/1946 cho đến 17/1/1947 (23 ngày đêm liên tục). Làm được "sự tích" đó, ngoài tài năng tổ chức và lãnh đạo của cấp trên và tinh thần gan góc quyết chiến của quân sĩ thì con sông Tô Lịch là một lợi thế cực kỳ quan trọng, góp phần rất lớn làm nên thành tích rực rỡ ở mặt trận Ô Cầu Dền. Đến đây tôi xin phép được mở một dấu ngoặc để diễn giải đôi điều suy nghĩ của cá nhân tôi về mặt trận Ô Cầu Dền: Nếu đem so với "sự tích" ở khu phố cổ thuộc Liên khu I thì rất là... thiếu khiêm tốn; tôi không muốn. Song, công bằng mà nói thì hầu hết các khu vực khác của Liên khu I (nằm ngoài khu phố cổ) đều đã phải rời bỏ rất sớm để lui về tổ chức phòng ngự trong lòng khu phố cổ. Điều đó tự nó nói lên một thực tế: Địa hình những nơi phải rút bỏ là nhà cửa có phần thưa thớt, đường phố lại rộng rãi (rất tiện cho chiến xa và xe cơ giới vận động), tương tự như địa hình của các Liên khu II và III. Riêng trong khu phố cổ, đường hẹp không tiện cho chiến xa và xe cơ giới hoạt động; nhà cửa dày đặc, đông đúc, sức công phá của bom và đại bác không mấy hiệu quả. Chỉ còn hy vọng vào bộ binh; và địch đã thử: Trận Đồng Xuân, trận chợ Gạo, trận rạp Tố Như và v.v... đã cho chúng thấy rằng chúng đã bị lạc vào một "mê hồn trận", chơi trò "bịt mắt bắt dê" với đối phương!... Rốt cuộc chúng đành áp dụng kế sách: Bao vây chặt, hòng chờ Việt Minh chết đói... không cần đánh cũng xong! Vả lại có giải tỏa được thế bị bao vây tấn công ở Liên khu II và Liên khu III thì mới có thể rảnh tay tập trung binh hỏa lực giải quyết dứt điểm Liên khu I. Trong khi ấy (tình hình ở Liên khu III thế nào, tôi không rõ), còn ở Liên khu II chúng ta, sau 6 ngày cầm chân địch trong nội thành, chúng ta lui về lợi dụng cái thế hiểm trở (đối với chiến xa và xe cơ giới) của con sông Tô Lịch - tuy không thể bì được với lợi thế của khu phố cổ, nhưng trong ba yếu tố làm thành sức mạnh của quân đội Pháp: Bộ binh, pháo binh, chiến xa, thì con sông Tô Lịch đã giúp quân ta tạm thời loại bỏ được một, đó là chiến xa và xe cơ giới.


Cái khác nhau và giống nhau giữa Liên khu I với Liên khu II chúng ta, tôi nghĩ là ở điểm ấy chứ không phải yếu tố con người như một vài bài báo từng lý giải. Bởi Con Người giữa các Liên khu là một.

Trở lại với mặt trận Ô Cầu Dền: Liền trong 4 ngày (25, 26, 27 và 28) quân Pháp hung hăng dốc sức tấn công liên tục vào hai trọng điểm của phòng tuyến, là khu vực Ô Cầu Dền - Ba Hàng - Thanh Lương và Thanh Lương - Ô Đống Mác. Ở nơi nào quân Pháp cũng dùng máy bay dội bom, đại bác bắn phá dọn đường chán chê rồi mới cho xe tăng hùng hổ xống lên và bộ binh lũ lượt bám theo. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân đang cùng các đơn vị bạn trấn giữ tại Ô Cầu Dền; Ba Hàng; Ô Đống Mác; Thanh Lương... đều đã kiên cường chặn đứng hết thảy mọi đợt tấn cống của địch, giữ vững trận địa. Kết quả: ở cả hai nơi, ta đều diệt được xe tăng và xe bọc thép của quân Pháp (ở Ô Cầu Dền bằng ba-dô-ca, ở Ba Hàng bằng ét-xăng crếp và lựu đạn).


Ngoài những trận đánh "có bài có bản", hầu như ngày nào quân Pháp cũng nã đại bác, ném bom và cho quân tới "quấy rối" trên bất kỳ điểm nào mà chúng muốn, suốt dọc phòng tuyến của ta. Về phần quân ta:
hầu như đêm nào các đơn vị trong tiểu đoàn 77 cũng cùng các đơn vị bạn cho quân của mình luồn sâu vào trong nội thành, bắn phá đến gần sáng mới rút ra...


... Cho đến ngày 15/1/1947, quân Pháp từ các nơi về tập trung lại thành một lực lượng cực mạnh, ào ạt tấn công vào khu vực Ba Hàng, chọc thẳng xuống Vĩnh Tuy, rồi quặt vào vượt qua Mai Động, đánh chiếm ngã tư Trung Hiến, Ngã Tư Vọng... bao vây "chặt" quân ta vào trong một "gọng kìm thép" (theo như lời chúng) để tiêu diệt gọn!... Nằm trong gọng kìm của quân Pháp, quân ta đã giữ vững khu vực Việt Nam học xá trong ba ngày (16,17,18/1/1947) tổ chức đưa hàng nghìn đồng bào cùng toàn bộ lực lượng quân ta ra ngoài an toàn, cùng với đầy đủ trang bị.


Cuối cùng, một trung đội của tiểu đoàn 77 do trung đội trưởng Thực chỉ huy được giao nhiệm vụ "đứng chân" tại làng Hoàng Mai hỗ trợ cho một số anh chị em còn ở lại đó giữ các kho thuốc men, lương thực và các thứ chiến lợi phẩm khác chưa kịp chuyển đi. Thì ngày 1/2/1947 quân Pháp tập trung tới 2 tiểu đoàn, do 1 tên quan ba chỉ huy, tiến vào càn quét làng Hoàng Mai. Trung đội đồng chí Thực đã sát cánh cùng dân quân làng Hoàng Mai chiến đấu với quân Pháp suốt từ 5 giờ sáng đẽn 16 giờ chiều, cùng họ tiêu diệt gần 60 tên địch (trong đội có 28 người thì hi sinh 17). Và trung đội này chính là đơn vị cuối cùng của Liên khu II rút khỏi Hà Nội.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:53:11 am
THAY LỜI KẾT

Mãi sau này, qua chuyện trò với những anh em có trình độ am hiểu sâu sắc về chiến tranh, tôi mới biết rằng: Thế trận mà Bộ chỉ huy đã định trước cho Liên khu II Hà Nội khi ấy hình thành 3 tuyến phòng ngự từ trong ra ngoài: tuyến thứ nhất từ ga Hàng Cỏ theo đường Trần Hưng Đạo đến Đồn Thủy. Tuyến thứ hai, từ phố Nguyễn Du qua phố Lê Văn Hưu đến ngã năm Lò Đúc. Tuyến thứ ba, từ ngã tư Kim Liên qua ngã tư Đại Cồ Việt, đê Bành Lao đến Ô Đống Mác...


Trên cơ sở nhận thức đó, nay nhìn lại thì thấy: quả nhiên tiểu đoàn 77 Tiếp Phòng Quân của chúng tôi cùng các đơn vị bạn đã lần lượt thực hiện ý đồ chiến thuật đó của Bộ Chỉ huy mặt trận một cách chính xác và rất có hiệu quả. Và, trong lòng tôi cũng ngầm nảy sinh một chút hãnh diện:


Thì ra tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân "của mình" cũng đáng mặt là một trong 5 đứa "con đẻ" của Hà Nội đấy chứ nhỉ: vào trận, ngay lập tức toàn tiểu đoàn có vinh dự được cùng các đơn vị bạn nổ những phát súng đầu tiên của cuộc kháng chiến toàn quốc; trong quá trình diễn biến chiến đấu trong Liên khu II Hà Nội, toàn tiểu đoàn luôn có mặt cùng các đơn vị bạn đứng ở vị trí tiền duyên trực tiếp đối mặt với quân thù; khi rút quân cũng lại có vinh dự được nổ phát súng cuối cùng của các lực lượng bộ đội Liên khu II Hà Nội đánh Pháp (trung đội đồng chí Thực cùng dân làng Hoàng Mai đánh Pháp trong ngày 1/2/1947 - trước ngày Liên khu II giải thể).


Có may mắn được là một đội viên của tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân còn sống đến tận hôm nay, tôi tiếc là không biết viết hồi ký và cũng không có khả năng viết sử ký. Nhưng tiểu đoàn 77 là vinh dự của đời tôi, tôi không thể không viết về tiểu đoàn 77 "của mình": nơi đã cho tôi cơ hội để thể hiện phẩm giá của một Thanh Niên Hà Nội bằng chính sinh mệnh của bản thân...


Hà Nội, ngày 6 tháng 9 năm 2001
NGUYỄN QUANG THỎA
(Nguyên đội viên đại đội 3, tiểu đoàn 77- Tiếp phòng quân)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:54:27 am
THEO DẤU CHÂN TIỂU ĐOÀN 212 HÀ NỘI


Năm lần đi làm nhiệm vụ quốc tế.

Tham gia mở đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Hà Nội năm 1946 và kết thúc cuộc giải phóng dân tộc tại Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Ngay sau ngày 19/8/1945 tại Hà Nội, tiểu đoàn 212 từng bước được hình thành. Nòng cốt của tiểu đoàn là những phân đội Quân giải phóng từ Việt Bắc về, những đoàn viên Thanh niên cứu quốc và Tự vệ thành Hoàng Diệu tham gia Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội. Nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên có tinh thần hăng hái cách mạng và binh sĩ của chẽ độ cũ giác ngộ cách mạng được Mặt trận Việt Minh giới thiệu vào tiểu đoàn. Các chỉ huy trung đội, đại đội của tiểu đoàn phần đông là các thanh niên của các Hội cứu quốc được cử đi học một lớp quân chính ngắn hạn, nhìn chung còn rất trẻ.


Ban đầu tiểu đoàn còn chưa có số hiệu nên lấy tến người chỉ huy để gọi, là tiểu đoàn Anh Đệ - Tuấn Sơn. Vinh dự đầu tiên của tiểu đoàn là được làm nhiệm vụ đội quân danh dự trong Lễ độc lập 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình. Ngay sau đó tiểu đoàn được lệnh cấp tốc sang chiến đấu ở Sầm Nưa. Có thể nói đây là một cuộc hành quân sang nước bạn đầy hiểm nghèo, gian khổ, kinh nghiệm chiến đấu chưa có, ngôn ngữ bất đồng, vật chất thiếu thốn, có lúc đi gần ngày đường không thấy bóng người, nhưng được sự đùm bọc của nhân dân Lào, tháng 10/1945, tiểu đoàn đã thắng trận đầu ở Mường Láp, đánh một đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp. Sau nửa năm phối hợp chiến đấu và giúp bạn xây dựng lực lượng, xây dựng chính quyền cách mạng, tháng 5/1946 tiểu đoàn được lệnh trở về Hà Nội với phiên hiệu tiểu đoàn 2, rồi tiểu đoàn 212. Lúc bấy giờ, tiểu đoàn bộ đóng ở sân bay Bạch Mai.


Lúc này, tiểu đoàn 212 có 3 đại đội: đại đội 14 đóng tại đài phát thanh Vọng, đại đội 15 đóng ở sân bay Bạch Mai, đại đội 16 đóng tại trại Hàn Lân. Anh Quang Tuần làm tiểu đoàn trưởng kiêm chỉ huy trưởng Liên khu II (quận Hai Bà Trưng ngày nay), anh Bùi Cúc là tiểu đoàn phó và anh Văn Tân là chính trị viên tiểu đoàn. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không sớm thì muộn sẽ phải xảy ra, nhiều cán bộ của tiểu đoàn đã được cử đi học lớp bổ túc quân sự ở Tông (Sơn Tây) do Quân ủy trung ương mở.


Ngày 19/12/1946, sau khi họp với Bộ Tư lệnh Mặt trận Hà Nội nắm vững chủ trương mở đầu kháng cniến toàn quốc, tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lệnh cho các đơn vị cấp tốc hành quân vào nội đô và triển khai đội hình chuẩn bị triển khai tấn công.


Đại đội 16 của đồng chí Nguyễn Như Trang trấn giữ trụ sở cũ của Bộ Tư lệnh Hà Nội tại Lò Lợn (lúc này Bộ Tư lệnh đã rút vào Hà Đông), đại đội 15 của Triệu Minh, Đặng Quý lên đóng tại Nhà thương Chó (nay là Tổng cục Lâm nghiệp), đại đội 14 của Lê Tỵ, Lê Ngọc Chữ đóng tại khu vực dãy nhà 24 gian phố Duy Tân. Lúc 8 giờ 03 phút đèn điện tắt và tiếng nổ lớn ở Nhà máy điện báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Hai trung đội của đại đội 16 tấn công vào cảng Phà Đen, 1 trung đội còn lại tấn công vào nhà 3 sĩ quan cao cấp Pháp trên đường Trần Khánh Dư. Đại đội 14 chia nhỏ các tiểu đội đi phối hợp với các tự vệ tiêu diệt các ổ đề kháng của địch tại phố Lê Văn Hưu, Nguyễn Du, Bà Triệu, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Thi Sách...


Tại cảng Phà Đen địch có 1 đại đội cơ động bộ binh trên sông và một số thuyền chiến đấu, LCT và canô. Đêm 19/12 quân địch đóng tại đây chỉ có một trung đội nên khi 2 trung đội của đại đội 16 tiến đánh thì bọn chúng hốt hoảng bỏ chạy về nhà thương Đồn Thủy ngay từ những loạt lựu đạn đầu tiên, quân ta truy kích tiêu diệt một số và chiếm lĩnh cảng.


Đơn vị tấn công vào ba nhà sĩ quan cao cấp của Pháp, không tiến vào được vì bọn lính bảo vệ dựa vào công sự kiên cố bắn chặn quyết liệt.

Phía đại đội 15, đại đội phó Đặng Quý dẫn một trung đội tấn công viện Pasteur. Sau nhiều lần xung phong không vào được, đơn vị đã lợi dụng đường cống ngầm chui vào trong viện, bất ngờ tập kích tiêu diệt hai ổ súng máy ở cổng để quân ta xung phong vào chiếm lĩnh trận địa một cách thắng lợi. Một trung đội khác đóng tại trường Đại học Y đường Lê Thánh Tông đã chặn đánh một đoàn xe cơ giới của địch từ Đồn Thủy kéo ra chi viện cho quân của chúng đóng tại khu vực Nha khí tượng và khách sạn Métropole cạnh Nhà hát lớn. Bên đại đội 14 từ 21h ngày 19/12 đến 06h ngày 20/12 các tổ chiến đấu của đại đội cùng với tự vệ chiến đấu khu Lò Đúc, khu Chợ Hôm, khu Bảy Mẫu, tiêu diệt 18 ổ đề kháng.


Ngày 20/12 địch tấn công vào cảng Phà Đen và Viện Pasteur với lực lượng lớn có xe tăng, thiết giáp yểm trợ. Để bảo toàn lực lượng, quân ta đã rút về phía sau. Tại nhà thờ Hàm Long, địch cho xe bọc thép xuống đón một số kiều dân Pháp và một số tay sai người Việt Nam chạy trốn vào nhà thờ đêm 19/12 đã vấp phải hai trung đội của đại đội 15 đóng tại trường Hàm Long và đường Trần Hưng Đạo. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, mặc dầu có lợi thế về vũ khí địch vẫn không thể nào tiến vào trong trường, bị thương và chết khá nhiều trước mũi súng của quân ta cố thủ trong các lớp học. Đến 12h trưa địch buộc phải rút, bỏ lại một số xác chết không mang đi được.


Đêm 20/12, một trung đội của đại đội 14 phối hợp với một đơn vị của tiểu đoàn 77 tiêu diệt nốt ổ đề kháng cuối cùng của địch tại rạp Majestic.

Ngày 21/12 địch huy động lực lượng tấn công từ nhiều phía trong phạm vi trận địa của tiểu đoàn 212, có các trận ngã năm Lò Đúc, ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ và một trận lớn tại nhà Rượu.

Tại ngã năm Lò Đúc, mặc dầu địch dùng pháo 75 ly bắn phá vào ụ chiến đấu, nhưng bộ binh của chúng không làm sao tiến lên được vì bị lực lượng tự vệ Chợ Hôm đánh chặn rất quyết liệt. Tại ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ địch cũng vấp phải sự kháng cự rất mạnh của quân ta, đặc biệt là bị các chiến sĩ của đại đội 15 đánh ngang sườn từ trong Nhà thương Chó. Địch phải vòng qua Phạm Đình Hổ vào Hòa Mã phá đổ tường vào trong nhà Rượu. Tại đây quân địch lại vấp phải lực lượng chiến đấu của đại đội một tiểu đoàn 56 và 1 trung đội của đại đội 14 cùng với một tiểu đội tự vệ của tiểu khu Chùa Vua. Cuộc chiến đấu trong nhà máy Rượu diễn ra hết sức ác liệt suốt từ 10 giờ sáng đến 18 giờ chiều, địch không sao chiếm được nhà máy Rượu, đành phải rút lui.


Đêm 21/12 quân ta tấn công chiếm lại cảng Phà Đen và Viện Pasteur và giữ vững đến đêm 24/12 thì được lệnh rút về phía sau.

Ngày 22/12 địch tiếp tục tấn công vào ụ chiến đấu ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ.

Tại ụ chiến đấu địch dùng súng phóng lựu đạn bắn vào sau lưng các chiến sĩ của ta và sau đó dùng súng phun lửa quét vào cây lớn, bàn ghẽ xếp trên ụ, nên các chiến sĩ của ta phải rút vào trong nhà Rượu và khu Chùa Vua. Sau khi phá vỡ chướng ngại vật địch cho một mũi tiến công xuống Ô Đống Mác và một mũi tiến vào nhà Rượu. Tại đây đại đội 1, tiểu đoàn 56 đã được lệnh rút về giữ chốt Ô Cầu Dền, chỉ còn lại một trung đội của đại đội 14 và hai tiểu đội tự vệ khu Chợ Hôm nên sức chiến đấu giảm hơn trước rất nhiều. Quân ta cần cự được hơn 3 tiếng rồi phải rút về khu Chợ Hôm.


Ngày 23/12/1946 địch cho tăng và thiết giáp tiến về Ô Đống Mác và cho 150 lính bộ binh tiến theo đê Trần Khát Chân xuống dốc Vĩnh Tuy.

Tại đây ta có một trung đội thuộc đại đội Quang Biền của tiểu đoàn 17 và hai trung đội của đại đội Triệu Minh của tiểu đoàn 212. Trước hỏa lực dày đặc của địch, ba trung đội này dạt vào hai phía Lương Yên và Thanh Nhàn. Địch tiến đến đầu dốc Vĩnh Tuy, gặp ụ chiến đấu lớn của ta và bị hỏa lực của đại đội 16 bắn chặn, chúng phải rút về trú quân tại đình Lương Yên (một bộ phận về đóng ở Ô Đống Mác). Tại đình Lương Yên chúng mổ bò và tổ chức ăn uống, bất ngờ các đơn vị của ta áp sát và tấn công: hàng chục quả lựu đạn được tung vào giữa đám quân của địch đang sửa soạn ăn uống. Hàng chục tên bị trúng lựu đạn ngay từ loạt đạn đầu, bọn còn lại hốt hoảng la hét tháo chạy về phía Ô Đống Mác. Có tên còn không kịp xách theo vũ khí, bộ đội ta hò reo đuổi theo, có cả lực lượng của đại đội 14 ở Thanh Nhàn tham gia.


Quân Pháp ở Ô Đống Mác thấy đồng bọn hốt hoảng chạy về cũng vội vàng tháo chạy, quân ta truy kích địch đến gần Nhà thương Chó mới thôi. Trận đánh lớn này ta tiêu diệt gần 40 tên địch.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:55:32 am
Đồng thời với trận đánh này, tại khu vực Chợ Hôm địch vây ta trong một khu vực gồm các phố Duy Tân, Lê Văn Hưu, Ngô Thì Nhậm và nhà Rượu, Nguyễn Công Trứ. Chúng bố trí xe tăng ở các ngã tư cho quân phá cửa các nhà dồn lực lượng chiến đấu của chúng ta từ nhà nọ sang nhà kia để tiêu diệt.


Tại khu vực Trần Xuân Soạn, Hòa Mã, kế hoạch này chúng không thực hiện được vì các nhà ở đây thông nhau, lực lượng chiến đấu của đại đội 3, tiểu đoàn 77 và tự vệ khu Chợ Hôm chẹn cửa rất an toàn, nơi nào địch vào được đều bị chặn lại. Riêng tại khu vực ngõ Huế, Duy Tân, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, phía sau là nghĩa địa Sài Gòn và vườn rau trống trải (nay là khu vực Công ty xe khách 14), trung đội Việt Tử của đại đội 15 đóng tại đây bị địch bao vây bốn phía đã chiến đấu anh dũng suốt cả ngày và hy sinh tới người cuối cùng.


Tin trung đội Việt Tử hy sinh đã khơi dậy lòng căm thù của tất cả các chiến sĩ trong tiểu đoàn 212, nên đêm 23/12 khi ban chỉ huy Liên khu II ra lệnh tất cả đơn vị tiến công vào các mục tiêu của địch thì các chiến sĩ tiểu đoàn nhất tề xuất kích. Đại đội 16 tấn công khu vực Đồn Thủy và trụ sở công binh của địch, đại đội 15 tấn công trường Đại học và Nha khí tượng, đại đội 14 tấn công vào số cơ sở của địch bên hồ Thiền Quang gây cho địch nhiều thiệt hại. Đặc biệt đại đội 15 đã tiêu diệt hai tiểu đội Pháp và giải thoát cho hơn 20 đồng bào bị giam cầm tại đây.


Ngày 24/12 địch tổ chức càn quét khu vực Vân Hồ và khu vực Chùa Vua, cũng vấp phải sự kháng cự của đại đội 15 và đại đội 14, đến 16 giờ chiều cả hai đại đội được lệnh rút sang phía kia đê Bành Lao và đê Đại Cồ Việt.


Từ ngày 25/12 kết thúc giai đoạn 1 của cuộc chiến đấu tại Liên khu II Hà Nội, giai đoạn chiến đấu trên đường phố, và bắt đầu giai đoạn 2 là giai đoạn phòng ngự trên các chốt Ô Đống Mác, Ô Cầu Dền, ngã tư Kim Liên chống địch tấn công ra ngoại thành.


Đại đội 14 được bố trí từ Ô Cầu Dền vào làng Quỳnh Lôi ngăn địch tấn công qua đê Bành Lao. Đại đội 15 bố trí trong làng Thanh Nhàn và chiếm cứ Ô Đống Mác, đại đội 16 đóng trong khu vực Lương Yên và Vĩnh Tuy chốt giữ đầu dốc Vĩnh Tuy và ngã ba Vĩnh Tuy - Minh Khai.


Ngày 27/12 tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lên làm tham mưu đốc chiến tại ban chỉ huy mặt trận Liên khu II Hà Nội, đồng chí Tuấn Sơn về làm tiểu đoàn trưởng.

Từ ngày 26/12/1946 đến ngày 14/1/1947, ngày nào địch cũng cho quân đánh vào tuyến phòng ngự của ta nhưng đều vấp phải sự đánh trả quyết liệt nên không sao tiến qua được.

Đặc biệt có trận đánh ngày 13/1/1947, địch huy động hai tuyến quân đồng thời tiến đánh Ô Đống Mác theo đường Lò Đúc và chốt Ba Hàng đầu dốc Vĩnh Tuy theo đường đê từ Lương Yên xuống.

Mũi tấn công Ô Đống Mác bị đại đội 15 chặn đánh quyết liệt nên địch không thể qua được. Mũi đánh Ba Hàng địch cho xe tăng, xe thiết giáp, pháo 37 ly và trọng liên 12 ly 7 bắn xối xả vào chốt.

Tại khu vực đại đội 16 có lần tư lệnh trưởng Mặt trận Hà Nội là đồng chí Vương Thừa Vũ đến thăm. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí tư lệnh, đại đội trưởng Như Trang cho ém quân dưới các bãi ngô dọc theo chân đê và dùng súng cối 60 và 81 ly bắn vào xe của địch. Lần đầu tiên bị đánh bất ngờ bằng súng cối, tăng thiết giáp của địch rút chạy bỏ mặc bộ binh trơ vơ trên đê, bộ đội ta nhất tề xung phong, quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Quân ta truy kích tới gần Lò Lợn mới thôi.


Ngày 18/1/1947 địch tổ chức tiến công dọc theo bờ đê xuống Thúy Lĩnh và Nam Dư nhưng bị lực lượng của tiểu đoàn chặn đánh dữ dội.

Tại Nam Dư đại đội 16 được chi viện của trung pháo 75 ly (bí mật đưa từ Thủ Khối - Gia Lâm sang) chặn đánh bắn hỏng hai xe tăng và tiêu diệt một số sĩ quan binh lính địch. Ngày 1/2/1947 địch tổ chức càn quét khu vực Hoàng Mai, Mai Động và các khu Giáp Nhị, Giáp Tứ, Giáp Lục cũng bị đại đội 14 và dân quân du kích Hoàng Mai chặn đánh khiến cho cuộc càn quét của chúng thất bại. Địch phải rút về nội thành.


Ngày 7/2/1947 toàn bộ tiểu đoàn được lệnh rút khỏi Hà Nội để đi làm nhiệm vụ khác. Trong 50 ngày đêm chiến đấu tại Mặt trận Hà Nội, tiểu đoàn đã tiêu diệt khoảng 180 tên địch, phá hỏng 4 xe tăng và thiết giáp, thu 50 vũ khí bộ binh các loại, về mặt quân số, 56 cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn đã hi sinh, nhưng đồng thời hai trung đội tự vệ của khu Lò Đúc và Thanh Nhàn đã được bổ sung vào biên chế của tiểu đoàn.


Vào khoảng 20/2/1947, sau tết Nguyên đán Đinh Hợi, tiểu đoàn được lệnh chuyển quân lên Xuân Mai (Hà Tây) để chấn chỉnh đội ngũ và chuẩn bị lên đường đi Sơn La, Lai Châu với mục tiêu là đánh phá địch phía Thượng Lào, giữ sườn phía tây của quân ta và phối hợp với quân cách mạng của nước Lào. Đến thời điểm này tiểu đoàn 212 được đổi tên thành tiểu đoàn 150 do anh Tuấn Sơn làm tiểu đoàn trưởng, anh Bình Kim làm tiểu đoàn phó, anh Lê Tư làm chính trị viên.


Sau khi ổn định tổ chức, tiểu đoàn hành quân về hướng Tây, theo đường số 6 qua Lương Sơn, Phương Lâm, Chợ Bò, Suối Rút rồi tiếp theo ngược dòng sông Mã đánh chiếm Mường Lát, sau đó tiến đánh Sốp Hào, Sốp Bao (Lào). Đây là lần thứ hai tiểu đoàn hành quân đường dài lên miền Tây và trở lại Sầm Nưa. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh nhanh, đánh mạnh làm cho địch tháo chạy tán loạn, giải phóng một vùng dọc hữu ngạn sông Mã tới Sầm Tố, giúp bạn Lào xây dựng căn cứ kháng chiến.


Một giai đoạn mới của cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt những hết sức vẻ vang của tiểu đoàn đã bắt đầu từ đó.

Năm 1948, tiểu đoàn trong đội hình trung đoàn 52 trở lại Hòa Bình với nhiệm vụ là tiểu đoàn tập trung, hỗ trợ cho các đại đội độc lập hoạt động vũ trang diệt địch và xây dựng căn cứ kháng chiến trên điạ bàn tỉnh Hòa Bình và hai huyện Nho Quan, Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ lực cơ động bảo vệ vùng giải phóng.


Năm 1949, tiểu đoàn được điều động tăng cường cho trung đoàn 66 là đơn vị chủ lực cơ động của Liên khu III với phiên hiệu mới: Tiểu đoàn 776, mang bí danh tên người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Thi đua lập công cùng với các đơn vị bạn, tiểu đoàn đã góp phần tạo nên sức chiến đấu cao của trung đoàn, được Bộ Tổng tư lệnh tin cậy, đồng bào mến mộ và làm cho quân thù khiếp sợ.


Như có duyên với nước bạn, đầu thập kỷ 50, trong đội hình của trung đoàn 66, tiểu đoàn đã hành quân làm nghĩa vụ quốc tế lần thứ ba ở Thượng Lào vùng Xiêng Khoảng và lần thứ tư ở Trung Lào. Ở hai địa bàn này, tiểu đoàn đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Thời ấy tiểu đoàn mang mật danh Xã Quảng, được phép thừa thắng vận động xuống Hạ Lào chiến đấu. Nơi đây bên cạnh các chiến công, tiểu đoàn còn ghi thêm một dấu ấn nghĩa tình "vừa là đồng chí, vừa là anh em", đào một con mương qua núi đá giúp dân lấy nước canh tác, được bà con Lào đặt tên là "mương Xã Quảng".


Trải qua nhiều năm tháng chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn đã anh dũng hy sinh, nhiều cán bộ chỉ huy của tiểu đoàn được điều động đi các đơn vị khác và nhiều cán bộ đã được bổ sung. Nhưng truyền thống tốt đẹp của tiểu đoàn như bản lĩnh chiến đấu, tinh thần khắc phục khó khăn, tình đoàn kết quân dân luôn được giữ vững và phát huy.


Đến thời kỳ chống Mỹ xâm lược, tiểu đoàn được đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 9, vẫn là một đơn vị hợp thành của trung đoàn 66, trong đội hình sư đoàn Vinh Quang lừng danh thiện chiến. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh bại các sắc lính sừng sỏ và tàn ác của Mỹ ngụy, từ sông Bến Hải tới Sài Gòn và ngày 30/4/1975 tham gia đánh chiếm dinh Độc Lập, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Trước khi trở ra Bắc, tiểu đoàn đã tham gia giúp nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt.

Trải qua hai cuộc kháng chiến với năm lần làm nghĩa vụ quốc tế, từ tiểu đoàn Vệ quốc quân 212 của Hà Nội, đến tiểu đoàn 150 Tây Tiến, tiểu đoàn 776 Nguyễn Huệ rồi tiểu đoàn 9, tiểu đoàn đã may mắn có được một vinh dự quý hiếm: là vừa là tác giả, vừa là nhân chứng của những mốc son trong lịch sử. Đó là: có nhiều thành viên tham gia khởi nghĩa tháng 8/1945 tại Hà Nội, lực lượng đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế và đánh thắng trận đầu ở Miền Tây, một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho chiến thắng Điện Biên Phủ, một bộ phận trong lực lượng mũi nhọn chiếm dinh Độc Lập giải phóng Sài Gòn.


Hành trình của tiểu đoàn 212 Hà Nội trải qua suối chiều dài của đất nước và hai nước bạn thật đáng tự hào.

THANH TÙNG - NGUYỄN HlỂN


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:57:12 am
TIỂU ĐOÀN 64
KIÊN CƯỜNG CHIẾN ĐẤU TRONG VÒNG VÂY CỦA ĐỊCH


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng còn non trẻ. Để đối phó với thù trong giặc ngoài, một yêu cầu cấp bách là phải nhanh chóng xây dựng củng cố chính quyền các địa phương và xây dựng lực lượng vũ trang ở các khu.


Tiểu đoàn 64 là một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây. Tiểu đoàn 64 được thành lập ngày 15/1/1946 ở trong thành Sơn Tây, do một đại đội quân tình nguyện được huấn luyện hai tháng rưỡi ở Ba Đình (Thanh Oai) lên tập kết tại trại lính Kim Đái, cùng với một đơn vị của tỉnh Sơn Tây.


Đây là một trong những đơn vị vũ trang đầu tiên của Chiến khu II. Cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn lúc đầu là những thanh niên ở Hà Đông và Sơn Tây, sau này được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ là người Hà Nội.

Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có:

Tiểu đoàn trưởng: Quốc Linh

Chính trị viên: Nguyễn Văn Dụ

Tiểu đoàn phó: Mạnh Quân

Nhiệm vụ lúc đầu của tiểu đoàn, là luyện tập quân sự, bảo vệ chính quyền tỉnh và xây dựng lực lượng dân quân.


Tháng 4/1946, theo lệnh của trên, tiểu đoàn hành quân về đóng tại huyện Phúc Thọ, đề phòng bọn Quốc dân đảng từ Vĩnh Yên tràn sang.

Lúc này tiểu đoàn gồm có hai đại đội:

- Đại đội 55 đóng quân từ Kiều Trung, Ký Ức về đến cầu Phùng.

Ban chỉ huy đại đội gồm có:

Đại đội trưởng: Nguyễn Trọng Quỳnh

Chính trị viên: Nguyễn Đức Phương

- Đại đội 68 đóng tại ven đê sông Hồng về đến Hát Môn.

Ban chỉ huy đại đội gồm có:

Đại đội trưởng: Lê Bính

Đại đội phó: Chu Hữu Cẩn

Chính trị viên: Mạnh Luân

- Ngoài ra, còn có một số bộ phận chuyển làm công tác huấn luyện tân binh, do các đồng chí Hồng Quân và Quốc Cường (nguyên là hai cán bộ tác chiến của tiểu đoàn) phụ trách.


Sau Tạm ước 14/9/1946, quân đội thực dân Pháp ngày càng tỏ ra hung hãn. Chúng lấn chiếm ở Hải Phòng, ra sức khiêu khích gây hấn ở Hà Nội. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Tiểu đoàn được lệnh chuyển dịch về gần Hà Nội, đóng dọc theo đường Sơn Tây - Hà Nội. Nhiệm vụ của tiểu đoàn lúc này rất khẩn trương: tuyển mộ thêm tân binh, huấn luyện gấp rút về quân sự, mặt khác phối hợp với quân dân dẫn đường, đào công sự hình chữ Z trên chặng đường dài 20 km suốt từ Phùng về tới Sơn Tây, đề phòng địch từ Hà Nội đánh lên.


Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tiểu đoàn được lệnh về chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Ngay đêm 19/12/1946, đại đội 55 nhận lệnh phá sập cầu Phùng. 20 giờ ngày 19/12/1946, toàn tiểu đoàn hành quân về Hà Nội, mờ sáng ngày 21/12/1946 tập kết ở khu Dịch Vọng - Cầu Giấy - Kim Lũ. Sáng ngày 22/12/1946, tiểu đoàn bộ và đại đội 68 vào nhận bàn giao vị trí tại Nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai) và sân bay Bạch Mai. Đại đội 55 nhận vị trí tại Việt Nam học xá. Trên đường hành quân về Hà Nội, thể theo nguyện vọng của bộ đội địa phương huyện Đan Phượng, tiểu đoàn đã thu nhận một trung đội (do trung đội trưởng Nguyễn Duy Ứng chỉ huy) và biên chế ngay vào đại đội 68.


Cùng thời điểm này, có đại đội 157 của tiểu đoàn 56 Hà Đông chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực từ Ô Chợ Dừa qua phố Khâm Thiên đến Nhà dầu Shell (ngã tư Khâm Thiên). Ban chỉ huy đại đội 157 gồm có:

Đại đội trưởng: Lê Công Tâm

Đại đội phó: Hoàng Quang Thanh Huệ

Chính trị viên: Lê Hữu Lập

Từ ngày 24/12/1946, sau khi quân Pháp chiếm được ga Hàng Cỏ, Nhà dầu Shell, và một bộ phận Liên khu II Hà Nội, thế trận giữa ta và địch là thế cài răng lược.

Địch tìm cách nống ra, ta kiên quyết chặn lại bằng cách tập kích vào vị trí của địch, phục kích bắn tỉa, đánh bom ba càng trên đường số 1 (bom ba càng là loại vũ khí mới nhất hồi đó, các chiến sĩ cảm tử quân sử dụng để phá tan xe tăng địch tại chỗ).


Trung đội cảm tử của tiểu đoàn do đồng chí Mai Hiền và đồng chí Mạnh Trung (người Nhật) phụ trách. Đêm ngày 25/12/1946, trung đội được lệnh diệt xe tăng địch đang giữ chốt tại khu vực Cây Si (ngã ba Kim Liên đường số 1). Cảm tử quân Lý Đàm Nguyên đã diệt tại chỗ một xe tăng.


Để thống nhất việc chỉ huy các lực lượng tham gia chiến đấu trên địa bàn Hà Nội, các đơn vị tự vệ của các khu phố được chuyển thành đơn vị Vệ quốc quân. Tiểu đoàn 64 tiếp nhận ba đội tự vệ của Liên khu II Hà Nội, hợp thành một đại đội Vệ quốc quân mang số hiệu là đại đội 4. Ban chỉ huy đại đội 4 lúc này gồm có:

Đại đội trưởng: Hồng Quân (tên thật là Đỗ Viết Hưởng)

Chính trị viên: Mạnh Lân

Ngoài ra, tiểu đoàn còn có một số trung đội hậu cần gồm hơn hai chục nữ tự vệ và một số em thiêu niên xung phong làm nhiệm vụ tiếp tế cứu thương liên lạc ...

Ngày 9/1/1947, đại đội 4 và trung đội hậu cần bắt đầu hành quân về đóng trong khu vực Nhà thương Vọng.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ngày càng gay go quyết liệt. Quân địch ngày càng tăng cường lực lượng, chúng âm mưu chiếm đương chiến lược số 1 mà chốt quan trọng là Nhà thương Vọng, để chiếm giữ Thủ đô và tiêu diệt lực lượng kháng chiến non trẻ của ta.


Để kiềm chế địch, các chốt của tiểu đoàn 64 thường xuyên tổ chức các trận tấn công quấy rối địch, làm cho chúng mất ăn mất ngủ, như trận quấy rối Nhà dầu Shell của đại đội 157, trận tập kích ngã tư Kim Liên của đại đội 68, các trận chiến đấu quấy rối ở khu vực Kim Liên - Trung Tự của đại đội 4.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:58:20 am
Ngày 15/1/1947, một trận chiến đấu ác liệt giũa tiểu đoàn 64 và quân Pháp diễn ra ở phía tây nam Hà Nội, mà trọng điểm là Nhà thương Vọng.

5 giờ sáng ngày 15/1/1947, súng nổ dữ dội ở phía đông bắc. Đạn pháo và hỏa lực (đại, trọng liên 12 ly 7) bắn mạnh về phía Nhà thương Vọng.

6 giờ, một đoàn cơ giới của địch từ Nhà ga, Nhà dầu Shell theo đường số 1 tiến xuống, dẫn đầu là hai xe tăng, theo sau là xe bọc thép và cơ giới bộ binh. Hai khẩu đại liên của ta (Hốt - kít và Mắc - xim) nhả đạn xối xả vào đội hình địch làm cho xe cơ giới phải dừng lại. Đạn pháo các cỡ của địch lại dồn dập rót vào trận địa của tiểu đoàn.


Khoảng 9 giờ sáng, địch cho một cánh quân gồm bộ binh và cơ giới có xe tăng yểm hộ, từ Phà Đen, Vĩnh Tuy tiến qua ngã tư Trung Hiền vào đường Đại La. Tổ bom ba càng của trung đội cảm tử đã phá được 1 xe tăng. Cùng lúc này, máy bay của địch quần đảo trên khu vực Nhà thương Vọng, thả lựu đạn và bom 25 kg xuống trận địa của ta.


Từ hướng bắc, quân địch vẫn tiến xuống, nhưng tiến rất chậm, vừa đi vừa dò mìn. Khoảng 10 giờ sáng, khẩu đại liên của ta ở phía bắc trúng đạn pháo, bị cong nòng gẫy chân, khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đa bị thương, phải rút về phía sau. Lợi dụng lúc này xe tăng địch áp sát, húc đổ tường góc phía bắc, nhưng bị trúng lựu đạn và đứt xích, nằm chắn luôn lối vào. Quân địch còn mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị đánh bật ra, bị thương vong, bỏ lại nhiều xe bị bắn hỏng.


Bên ta cũng đã có nhiều thương vong. Tổ tiền tiêu phía bắc (ở lò gạch) bị trúng đạn pháo của địch, toàn tổ hy sinh, trong đó có chính trị viên trung đội Hoàng Tường Chi.

Vào khoảng 13 giờ, địch lại mở đợt tấn công mới từ cả hai hướng bắc và đông. Cánh quân địch từ ngã tư Trung Hiền tiến vào đường Đại La từ buổi sáng đã chiếm được ga Vọng vào hồi 15 giờ và khống chế đường Tàu Bay. Cánh quân địch ở phía đường số 1 có 3 xe tăng cùng lính bộ binh Âu Phi và bọn Việt gian thổ phỉ mặc toàn đồ đen. Một xe tăng húc đổ cổng chính, một xe tăng khác húc đổ tường nhưng bị quân ta từ trong nhà bắn ra và bị lựu đạn từ trên gác cao thả xuống. Địch cố tiến vào, ta cố đánh bật chúng ra. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Dụ bị thương. Chính trị viên đại đội Mạnh Lân, hai trung đội trưởng Vũ Bạch Liên và Nguyễn Duy úng cùng một số chiến sỹ hy sinh.


Đến 16 giờ, địch đã hình thành thế bao vây cả ba mặt, chỉ còn mặt tây nam là trống. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng Quốc Linh ra lệnh cho bộ đội rút về tuyến sau. Quân ta trong tầng hầm và trên tầng cao tòa nhà chính được lệnh đồng loạt tiến công địch. Bị bất ngờ, lính địch hoảng loạn nấp vào hào giao thông và sau xe bọc thép. Quân ta tranh thủ rút ra ngoài theo hướng đã định. Một số người còn bị kẹt trong tầng hầm của bệnh viện, mãi đến đêm mới rút ra được. Nơi tập kết của tiểu đoàn là làng Huỳnh Cung (huyện Thanh Trì). Trong lúc này, đại đội 55 đóng ở Việt Nam học xá vẫn bị bao vây.


Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, ngày hôm sau địch bắt đầu tấn công vào khu vực Việt Nam học xá từ hai phía: Từ đê La Thành xuống và từ Chợ Mơ sang. Nhưng lính địch chỉ vào được đến cách nhà A và nhà D chừng 100m thì phải dừng lại vì khoảng cách này là bãi trống, hỏa lực của ta bắn mạnh. Đại đội 55 được trang bị hai đại liên Nhật, hai trung liên, một cối 60 ly và một số tạc đạn 56 ly. Ba khẩu súng máy của ta đặt ở tầng hầm sát với bãi trống bắn liên tục làm cho lính địch không dám tiến lên. Xe tăng địch tiến vào thì bị tạc đạn 56 ly từ trên nóc nhà ném xuống. Địch tấn công ta trong hai ngày đều bị ta đánh trả mãnh liệt. Không tiến vào được, địch dùng pháo bắn vào các nhà có quân ta đóng, làm sập các cầu thang. Đến bốn giờ chiều ngày thứ hai thì địch rút.


Trong mấy ngày trước đó, dân quân du kích và một số bà con dân phố chưa đi tản cư từ phía Phố Huế và khu Bạch Mai dồn vào khu Việt Nam học xá, tổng cộng hơn 1000 người. Đại đội 55 phải sử dụng số gạo dự trữ của đại đội để nấu cơm cho mọi người ăn trong hai ngày và tổ chức cho họ rút ra khỏi khu vực Việt Nam học xá. Sau đó, đại đội 55 cũng nhận được lệnh cho rút ra ngoài theo hướng đầm Sét. Thế là sau bốn ngày trụ lại ở Việt Nam học xá, có 4 đồng chí hi sinh và 3 người bị thương, đại đội 55 về tập kết tại làng Đại Từ.


Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, địch cho quân sang đánh chiếm sân bay và trận địa của đại đội 157 ở Ngã Tư Sở. Đại đội 157 được lệnh rút về Huỳnh Cung và bắt đầu chính thức thuộc biên chế của tiểu đoàn 64.

Toàn tiểu đoàn đóng quân ở Huỳnh Cung để nghỉ ngơi, chấn chỉnh đội ngũ, bổ sung quân số và đón tết âm lịch. Chiều mồng 2 tết (23/1/1947), toàn tiểu đoàn hành quân lên phía tây bắc Hà Nội, đóng quân ở vùng Thạch Thất (Sơn Tây).


Ngày 25/1/1947 đã có một cuộc phiên chế lại các đơn vị. Ban chỉ huy lúc này gồm có: Tiểu đoàn trưởng Quốc Linh, tiểu đoàn phó Nguyễn Huy Thọ. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn gồm có:

- Đại đội 68 (gồm đại đội 4 và đại đội 68 cũ nhập làm một):

Đại đội trưởng: Lê Bính

Đại đội phó: Chu Hữu Cần

Chính trị viên đại đội: Hồng Quân (Đỗ Viết Hưởng)

- Đại đội 55:

Đại đội trưởng: Nguyễn Trọng Quỳnh

Chính trị viên đại đội: Nguyễn Đức Phương

- Đại đội 157:

Đại đội trưởng: Lê Công Tâm

Đại đội phó: Hoàng Quang Thanh Huệ

Chính trị viên đại đội: Lê Hữu Lập

- Và một trung đội hậu cần (sau đổi thành đội úy lạo).

Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng và Ngã Tư Sở, địch đánh chiếm thị xã Hà Đông rồi tiến lên Mai Lĩnh để bảo vệ cho thị xã Hà Đông. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn 64 đã quấy rối tiêu hao quân địch. Đại đội 157 ở vùng tây nam ngoại thành Hà Nội, đại đội 68 ở vùng Sấu Giá, Đại Đồng, đại đội 55 đột kích vào làng Cổ Nhuế, có tiếng vang tốt. Mờ sáng ngày 20/3/1947, tiểu đoàn 64 tham gia trận tấn công thị xã Hà Đông (cùng các đơn vị khác trong trung đoàn).


Sau ngày 20/3/1947, trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây và trung đoàn 35 của tỉnh Hòa Bình được sáp nhập thành một trung đoàn mới gọi là trung đoàn 37, sau đổi là trung đoàn 66, là trung đoàn chủ lực của Chiến khu II. Tiểu đoàn 64 là một tiểu đoàn mạnh nằm trong đội hình trung đoàn 66.


Tiểu đoàn 64 làm nhiệm vụ bảo vệ Tả ngạn sông Đà, đã đánh địch nhảy dù ở Ba Vành (gần thị xã Hòa Bình). Giữa năm 1947, tiểu đoàn 64 được đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 171 và chiến đấu ở dốc Lễ, Trung Hà, Lễ Khê (Sơn Tây).


Sang năm 1948, tiểu đoàn 171 đã tham gia chiến đấu ở Lao Phong (Hòa Bình), ở Bằng Sở, Chùa Thông (phía nam Hà Nội).

Giữa năm 1948, tiểu đoàn 171 lại đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 626 và tham gia đánh quân nhảy dù ở Vân Đình (9/1948), đánh địch ở Gò Cáo (11/1948), phá càn của địch ở Mỹ Đức, Hà Đông (12/1948).

Đầu năm 1949, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập mang phiên hiệu đại đoàn 308, còn gọi là đại đoàn Quân tiên phong. Theo mệnh lệnh số 42-CTM-PL ngày 19/2/1949 của Bộ Tổng chỉ huy, tiểu đoàn 626 là một đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu ở đồng bằng được tách khỏi trung đoàn 66 để tham gia thành lập đại đoàn 308.


Thế là tiểu đoàn 64, sau hai lần đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 171 rồi thành tiểu đoàn 626, từ nay sẽ xa trung đoàn 66 và xa vùng đồng bằng Liên khu III để hòa vào đội hình của đại đoàn 308 và gắn với địa bàn Việt Bắc.


NGUYỄN HỢP - ĐẶNG TRẦN CƯ
NGUYỄN NGỌC NINH


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tư, 2022, 06:59:42 am
TIỂU ĐOÀN 56
MỘT CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ HÀO HÙNG


Tiểu đoàn 56 (còn được gọi là tiểu đoàn Hà Đông), là đơn vị quân đội cách mạng chính quy đầu tiên của tỉnh Hà Đông. Tiểu đoàn được thành lập vào ngày 23/8/1945 (ngày khởi nghĩa tại tỉnh lỵ Hà Đông). Lực lượng nòng cốt của tiểu đoàn lấy từ các đội Tự vệ cứu quốc đã từng có thành tích trong phong trào chống Nhật cứu nước, và tổng khởi nghĩa cướp chính quyền... từ xã, huyện đến tỉnh. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Trọng Tấn ủy viên quân sự trong ủy ban cách mạng lâm thời của tỉnh. Đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy Hà Đông. Thời gian đầu mang tên Giải phóng quân Hà Đông, sau đó đổi thành Vệ quốc đoàn.


Trải qua hơn một năm rèn luyện quân sự, học tập chính trị và thường trực bảo vệ chính quyền cách mạng trong tỉnh, tiểu đoàn 56 đã dần dần lớn mạnh, phát triển lên (cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến) thành 6 đại đội, mang số hiệu 1, 2, 3, 4, 5, và 134 (trong đó có đại đội có lính hải ngoại, "khố đỏ" từ Pháp mới được hồi hương, tình nguyện xin gia nhập quân đội cách mạng). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc này gồm có: Đồng chí Nguyễn Anh Đệ tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Thanh chính trị viên. Ban chỉ huy các đại đội: Đại đội 1 do Thế Môn làm đội trưởng, Tế Độ làm chính trị viên, Trần Dương Oai làm đại đội phó. Đại đội 2 do Vũ Công Định làm đội trưởng, Lê Chí Thực làm chính trị viên. Đại đội 3 do Lê Công Tâm làm đội trưởng, Lê Lập làm chính trị viên, Hoàng Quang Thanh Huệ làm đại đội phó. Đại đội 4 do Lâm Văn làm đại đội trưởng, Trần Quang Lập làm chính viên. Đại đội 5 do Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng, Thế Sinh làm chính trị viên. Đại đội 134 do Nguyễn Hảo Đăng làm đại đội trưởng, Văn Dung làm chính trị viên.


Được lệnh sẵn sàng xuất quân chi viện cho Hà Nội, tiểu đoàn 56 triển khai đội hình như sau: Đại đội 1 trú quân tại Cổ Nhuế; đại đội 2 trú quân tại Quang Tó; đại đội 3 trú quân tại Đại Mỗ; đại đội 4 tại trại Vệ quốc đoàn thị xã Hà Đông; đại đội 5 trú tại Phùng Khoang; đại đội 134 trú tại Ngọc Trục...


Ngày 19 /12/1946, tiểu đoàn xuất phát tiến vào Hà Nội.

- Đại đội 1 chiếm lĩnh khu vực Ngọc Hà, Đội Cấn (phối thuộc tiểu đoàn 145 khu 1 tại Hà Nội)

- Đại đội 3 chiếm lĩnh khu vực Khâm Thiên (phối thuộc tiểu đoàn 523 Liên khu III Hà Nội)

- Đại đội 5 chiếm lĩnh Ô Cầu Dền (phối thuộc tiểu đoàn 77 Liên khu II Hà Nội).

Tối 21/12/1946, tiểu đoàn trưởng Anh Đệ cùng chính trị viên Lê Thanh chỉ huy đại đội 2 và đại đội 4 theo hướng Hà Đông, Văn Điển tiến vào Hà Nội, tăng cường cho hai khu vực Ô Cầu Dền và Ô Đống Mác.

(Đại đội 134 ở lại Hà Đông làm lực lượng dự bị đồng bảo vệ Hà Đông).

Như vậy là: Riêng tại Mặt trận Liên khu II Hà Nội, tiểu đoàn 56 có tới ba đại đội tham chiến. Cụ thể: đại đội 5 tác chiến ở khu vực Ô Cầu Dền (là chính); đại đội 4 tác chiến ở khu vực Hai Bà Trưng, Nhà rượu Ô Cầu Dền (là chính); đại đội 2 tác chiến tại khu vực Đống Mác, Thanh Lương (là chính).


Sở dĩ nói "là chính" bởi vì thời bấy giờ trận đánh diễn ra với qui mô thường là không lớn, và lại tác chiẽn trong thành phố (rất thích hợp với đơn vị nhỏ - cỡ trung, tiểu đội), một đại đội có khi phải chia xẻ ra làm hai hoặc làm ba điểm đánh địch ví dụ như đại đội 2 chiếm lĩnh trận địa và tác chiến ở khu vực Ô Đống Mác, nhưng đã cử một trung đội do đội trưởng Nguyễn Viết Nhâm chỉ huy, thọc tận vào phó) Săng-xôm (nay là phố Triệu Việt Vương) chiến đấu liền 3 ngày đêm (từ ngày 21 đến 24 /12/1946) diệt gần 10 tên địch và rút về an toàn.


Tại Liên khu II Hà Nội, ba đại đội của tiểu đoàn 56 đã đánh liên tục, bắt đầu từ ngày 24/12/1946 (khi địch nống ra) được tiểu đoàn bố trí chiến đấu ở Đồng Nhân (đền Hai Bà, Nhà Rượu), Ô Đống Mác, Thanh Lương, Ô Cầu Dền cho đến ngày 31/12/1946 thì hai đại đội 2 và 4 của tiểu đoàn chuyển sang mặt trận Liên khu III bố trí tại Ô Chợ Dừa và Giảng Võ. Đại đội 5 tiếp tục ở lại Ô Cầu Dền chiến đấu ở cửa ô.


Đơn vị nào cũng được đánh địch hàng chục trận. Có những trận rất tiêu biểu như:

1/ Trận phòng ngự Ô Cầu Dền ngày 28/12/1946, đại đội 5 cùng tự vệ Bạch Mai đã đội bom và đại bác của địch kiên cường chống trả xe tăng, thiết giáp cùng với bộ binh địch liên tục xung phong toan đánh chiếm ụ Ô Cầu Dền. Ta trụ vững tới cùng. Bắn cháy một xe tăng, bắn đổ một xe thiết giáp và dũng cảm vượt ụ Ô Cầu Dền xung phong lên đuổi địch tới tận nhà nước mắm Phan Thiết (sâu trong khu vực chiếm đóng của địch chừng 300m) tiêu diệt hơn 80 tên phá hủy 2 ô tô vận tải một xe jeep và một trận địa súng cối...


2/ Trận Đồng Nhân, Nhà Rượu ngày 24/12/1946 đại đội 4 cùng một số anh em tự vệ Lò Đúc và Phố Huế đã chặn đánh mũi tiến công của địch từ hai hướng: Đồn Thủy qua Viện Pasteur tiến vào, và từ Chợ Hôm phố Jắc - canh chọc xuống. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt từ sáng tới chiều, quân địch bị ta chặn đứng lại không sao tiến lên được. Chúng thương vong rất nặng nề nhưng ta không nắm được số liệu cụ thể là bao nhiêu, chỉ biết khi rút lui chúng phải dùng tới 3 xe ô tô tải chở đầy xác chết và lính bị thương đi theo...


3/ Trận Ba Hàng, Thanh Lương ngày 28/12/1946, đại đội 2 cùng anh chị em dân quân của hai làng Thanh lương, Ba Hàng với đội tự vệ Lò Đúc... đã chiếm lĩnh trận địa từ trước, và quần nhau với Pháp vài ba keo rồi, đang sẵn sàng chờ chúng mò đến. Bọn chúng mở đầu cuộc tiến công theo hai hướng: Một mũi tên theo đê sông Hồng (đường Trần Khánh Dư bây giờ), chọc xuống; một mũi theo dốc Thọ Lão qua Ô Đống Mác đánh sang. Nhưng lần này ở phía bờ sông Hồng chúng có thêm xe tăng hỗ trợ. Và cách thức tấn công của chúng vẫn y nguyên theo bài bản cũ: Máy bay dội bom, đại bác nã đạn chán chê rồi mới tới xe tăng bộ binh vừa bắn vừa hùng hổ tiến đến.

Tại khu vực Ba Hàng, hỏa lực đại liên và lựu đạn kèm ét - xăng - crếp của ta đã chặn đứng từng đợt xung phong của quân Pháp, không cho chúng xông vào trận địa của chúng ta.


Tại khu vực Thanh Lương, ta bố trí lại đội hình; cho quân rút khỏi tuyến chiến đấu ở cổng làng, chỉ để lại vài tổ đánh nhử cho địch vào sâu trong làng, rồi dùng hỏa lực bắn mạnh từ hai bên sườn và đánh thốc vào một cách dữ dội. Bị bất ngờ, quân Pháp hốt hoảng quay đầu tháo chạy thục mạng, bỏ lại hàng chục xác chết. Quân ta phấn khởi hăng hái hò reo rượt đuổi tới tận dốc Thọ Lão diệt thêm được gần mười tên địch nữa mới chịu dừng ...


Trước Tết Đinh Hợi tiểu đoàn 56 theo lệnh của ban chỉ huy mặt trận, trở về tổ chức tuyến phòng ngự tại thị xã Hà Đông. Lúc này lực lượng của tiểu đoàn chỉ giữ lại đủ 3 đại đội.


Đại đội 134 vẫn giữ nguyên vẹn như cũ (kể cả quần áo số lẫn ban chỉ huy và phiên hiệu đơn vị), có nhiệm vụ phối hợp cùng lực lượng quân dân tại chỗ. Lập tuyến phòng ngự Tây Mỗ, Đại Mỗ, Ngọc Trục bảo vệ cánh trái thị xã.


Đại đội 4 (nay đổi thành phiên hiệu 262 do Lâm Văn Do làm đại đội trưởng, Trọng Khang làm chính trị viên) phối hợp với dân quân tại chỗ lập tuyến phòng ngự tại Đa Sĩ, Mậu Lương, Tó, tổ chức bảo vệ cánh phải của thị xã.

- Đại đội 1 (nay đổi thành phiên hiệu 225) do Trần Quang Liên làm đội trưởng, Nguyễn Tính làm chính trị viên, phối hợp với quân dân tại chỗ lập tuyến phòng ngự Mỗ Lao, Phùng Khoang, Triều Khúc, chặn địch từ Cầu Mới theo quốc lộ 6 tiến vào.

Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có: tiểu đoàn trưởng Anh Đệ, chính trị viên tiểu đoàn Trần Quân Lập, tiểu đoàn phó Đỗ Hẹ... tiểu đoàn bộ đóng tại Cầu Đơ.


Từ Mặt trận Hà Nội rút về, tiểu đoàn 56 đã sẵn sàng chờ giặc, để đi tiếp cuộc trường chinh đối với đất nước với tư thế của những người chiến sĩ nguyện một lòng trung dũng theo Bác Hồ tiến hành cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi.

TRẦN QUÂN LẬP
(Bài viết lấy từ tư liệu ban liên lạc CCB d56
và tập K2 những ngày đầu Thủ đố K.C)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:46:49 am
ĐỘI TỰ VỆ
CHIẾN ĐẤU CỨU QUỐC HOÀNG DIỆU


Sau ngày 19/8/1945, cả Hà Nội tiếp tục sục sôi khí thế cách mạng. Cuộc đấu tranh giành chính quyền coi như đã kết thúc, nhưng cuộc đấu tranh xây dựng và giữ chính quyền chỉ mới bắt đầu.

Cũng như cả nước, Hà Nội bước vào cuộc chiến cam go và mới mẻ này trong bối cảnh bên cạnh những thuận lợi cơ bản do Cách mạng thắng lợi đem lại, đang còn phải đối mặt với nhiều khó khăn to lớn.

Ở miền Bắc, quân Tầu Tưởngg, nhân danh đồng minh được phân công làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thất trận sắp tràn vào, kéo theo bọn Việt cách, Việt quốc khét tiếng phản động. Ở miền Nam, theo gót quân Anh vào giải giáp quân đội Nhật, quân Pháp cũng đang lăm le trở lại.


Việc xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng để đối phó thù trong giặc ngoài là một đòi hỏi hết sức cấp thiết. Trên địa bàn thành phố, riêng về mặt lực lượng vũ trang, bên bộ đội chủ lực, công an, lực lượng tự vệ nằm dưới các khu phố, làng xã, Thành ủy Hà Nội thấy cần thiết xây dựng thêm một lực lượng tự vệ chiến đấu tập trung thường trực.


Ngày 25/8/1945, được sự chỉ đạo của Trung ương, trực tiếp là đồng chí Trần Quốc Hoàn, hội nghị toàn ban Thành ủy Hà Nội đã quyết nghị thành lập Đội tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, trụ sở đầu tiên đặt ở 107 đường Trần Hưng Đạo. Đồng chí Lê Trung Toản, thành ủy viên phụ trách quân sự địa phương được phân công trực tiếp làm đội trưởng của đội.


Đội được trao hai nhiệm vụ chủ yếu: "Đội Cận vệ" và "Đội Xung kích". Quân số của đội lúc cao nhất là 400 người, sau chia bớt lực lượng sang xây dựng công an, đi làm kinh tế, đi sản xuất vũ khí... còn khoảng 300 người.


Về nhiệm vụ "Đội Cận vệ", đội đã hoàn thành nhiệm vụ canh gác bảo vệ một số nơi cần thiẽt như trụ sở của Hội công nhân cứu quốc và báo Lao động ở 51 Hàng Bồ, trụ sở Bộ Thanh niên trên đường Trần Nhân Tông, Đài phát thanh Ngã Tư Vọng... Tháng 10/1945, Đội được vinh dự cử hai người đi làm vệ sĩ cho Hồ Chủ tịch và một tổ bốn người đi bảo vệ nơi Bác làm việc và ngủ đêm ở ngoại thành.


Về nhiệm vụ "Đội Xung kích", đội cũng lập được nhiều thành tích to lớn. Đứng hàng đầu trong công việc này là việc mở rộng diện thâm nhập vào các tầng lớp đồng bào, động viên họ tham gia các cuộc vận động của thành phố, tổ chức họ vào các tổ chức quần chúng. Việc thứ hai là phát triển mạnh mẽ lực lượng tự vệ đường phố tự vệ các xí nghiệp... góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ an ninh, trật tự công cộng, bảo vệ đời sống nhân dân.


Thành tích công tác to lớn và sự tiến bộ của đội đã Bác Hồ đánh giá thật tốt đẹp trong bài Người viết với bút danh Q.T. đăng trên báo Cứu quốc ngày 14/6/1946: "Anh em tự vệ chiến đấu thành Hoàng Diệu thật xứng đáng làm gương cho không những tự vệ các địa phương mà cho cả các hạng thanh niên nữa".


Đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp.

Sau sự kiện Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Nội rõ ràng đã trở thành mục tiêu đánh chiếm tiếp theo của chúng.

Đội tự vệ chiến đấu được giao nhiệm vụ phối hợp với quân đội quốc gia và làm nòng cốt cho tự vệ Thành "quyết chiến bảo vệ Thủ đố đến cùng".

Đội nhận lệnh khẩn trương phân bố lực lượng về các Liên khu để cùng các lực lượng tự vệ thành, công an và các đoàn thể khác đẩy mạnh hơn nữa các mặt chuẩn bị chống giặc.

Lãnh đạo đội thực tế lúc này chỉ còn mình đồng chí Nguyễn Anh Bảo, từ tháng 7 đã làm đội trưởng thay đồng chí Lê Trung Toản, đội trưởng Đội đầu tiên, đã được điều đi làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng, xong nhiệm vụ đã trở về nhưng được giao nhiệm vụ Phó Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Liên khu I. Đồng chí Đỗ Đức Kiên từ tháng 8 đã chuyển từ chức trưởng ban tuyên truyền Thành lên làm Bí thư Mặt trận Việt Minh Thành, đồng chí Hoàng Phương vừa phụ trách Mặt trận Việt Minh Liên khu I vừa làm Phó Chủ tịch Ban chấp hành Đoàn thanh niên Tự vệ thống nhất Thành, đồng chí Đỗ Trình học xong lớp chính trị Nguyễn Ái Quốc được cử về Liên khu III làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Liên khu II. Đồng chí Trần Vỹ chỉ huy trung đội Trần Quốc Toản (thay đồng chí Vũ Văn Đôn được điều làm kinh tế) và phụ trách Mặt trận Việt Minh Liên khu II, được cử làm Phó bí thư Liên khu ủy Liên Khu II kiêm Phó chủ tịch, phụ trách quân sự Ủy ban bảo vệ Liên khu II (do đồng chí Nguyễn Văn Đào làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch). Đồng chí Vũ Yên phái viên quân sự của Đội trực tiếp làm phụ tá cho đội trưởng Nguyễn Anh Bảo, đồng chí Phùng Văn Phúc phó của đồng chí Vũ Yên được cử về Liên khu III giúp đồng chí Đỗ Trình.


Các trung đội lúc này trừ Phó Đức Chính vẫn chốt giữ ở Đài phát thanh Ngã Tư Vọng và Ký Con vẫn còn phải rải quân bảo vệ các mục tiêu đội phải bảo vệ, còn đã tập trung về doanh trại Đấu Xảo để huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.


Một ban chỉ huy đại đội gồm 3 người: Vị Hải đại đội trưởng, Nguyễn Văn Cừ chính trị viên, Phạm Văn Tường đại đội phó được lập ra để điều hành các công việc cụ thể thường ngày giúp đội trưởng chỉ huy các trung đội.


Chấp hành lệnh, đội đã quyết định:

1/ Trung đội Trần Quốc Toản, bố trí dọc trục Tràng Thi, Nhà hát lớn: một tiểu đội tách hẳn ra tăng cường cho trung đội Vệ quốc đoàn (thuộc tiểu đoàn 101 Liên khu I) chốt ở Nhà hát lớn, lực lượng còn lại ban đầu tập trung chốt tại nhà số 3 Cửa Nam, nhà đồng chí Thoa, vợ đồng chí Trình, sẵn sàng đánh địch ở ngã năm trước chợ Cửa Nam, sau dàn quân ra bố trí tại nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín để phối hợp với binh lực của Tõ Hiệu bố trí tại nhà bác sĩ Trần Duy Hưng bên phố Thợ Nhuộm, tấn công nhà tên sĩ quan pháo binh Lơ Mét ở góc đường Thợ Nhuộm - Phan Bội Châu và nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn, đánh địch đi lại đoạn đầu phố Tràng Thi, xong nhiệm vụ ở Cửa Nam sẽ về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu II.


2/ Trung đội Tô Hiệu cần tăng cường bộ phận chốt tại nhà bác sĩ Trần Duy Hưng phố Thợ Nhuộm thành mũi chủ công đánh nhà Lơ Mét, có sự phối hợp bằng hỏa lực của quân Trần Quốc Toản bố trí bên nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín, lực lượng còn lại đưa ra chốt tại nhà sơn Rê-dít-tăng-cô đầu đường Cột Cờ, chặn địch từ Thành ra theo đường Cột Cờ tiến xuống. Xong nhiệm vụ Tô Hiệu chuyển về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu I.


3/ Trung đội Hà Huy Tập phân về cho Liên khu III chủ yếu cũng chỉ tập trung bố trí dọc đường Khâm Thiên, cụ thể ở đâu do Ủy ban bảo vệ của Liên khu quyết định.


4/ Trung đội Phó Đức Chính bố trí ở Đài phát thanh Vọng, cử thêm năm người về giúp đồng chí Nguyễn Văn Sâm, cán bộ đội được cử về làm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ khu Bạch Mai, đẩy mạnh việc xây dựng khu thành căn cứ địa của Liên khu II.

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ - chính trị viên đại đội cùng anh em về Liên khu II được giao nhiệm vụ đặc biệt, cùng các cán bộ công đoàn của Đài phát thanh tổ chức sơ tán Đài đến căn cứ và phá hủy triệt để những máy lớn không đưa đi được, "không được để địch chiếm Đài phát thanh của ta như ở Sài Gòn".


5/ Trung đội Ký Con là lực lượng trực tiếp bảo vệ Đấu Xảo và các mục tiêu đội đang còn phải bảo vệ.

Đồng chí Vị Hải là đội trưởng và đồng chí Phạm Văn Tường đại đội phó được bố trí ở lại lo các phần việc còn lại của đại đội trong đó có việc giữ Đấu Xảo, chỉ đạo tác chiến khu Cửa Nam và tiếp tục bảo vệ các mục tiêu - quân của đội Ký Con đảm nhiệm - ở 51 Hàng Bồ, 47 Hàng Trống, nhà Khai Trí Tiến Đức, nhà số 7 Ôn Như Hầu và 107 Trần Hưng Đạo, ở đây các đồng chí Nguyễn Anh Bảo và Đỗ Đức Kiên vẫn tiếp tục ăn ở và làm việc.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:47:39 am
Nội dung công việc chuẩn bị kháng chiến phải xúc tiến ở tất cả các đơn vị là: bố trí tại nơi mình chốt giữ, các hỏa điểm bí mật, có công sự bảo vệ, vững chắc được chừng nào hay chừng ấy, nơi nào có điều kiện thì mở thông đường liên lạc và cơ động ra phía sau.


Các trung đội còn phải cử người đi bàn kế hoạch đánh địch với anh em tự vệ Thành tại các khu phố được giao liên hệ, và trên cơ sơ đó đôn đốc việc khẩn trương chuẩn bị, vận động nhân dân cho đục thông tường nhà nọ sang nhà kia. Ở những nhà lẻ, khi bố trí lực lượng chiến đấu cũng xây dựng ngầm phía trong các ụ súng, có công sự, kiên cố được càng tốt. Tại những phố xa địch như Nguyễn Trường Tộ ở Liên khu I, Lò Đúc, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác ở Liên khu II, Khâm Thiên ở Liên khu III thì cùng tự vệ Thành và huy động cả lực lượng nhân dân tham dự lập nên các ụ chướng ngại ít nhiều kiên cố nhằm chặn bớt việc quân lính Pháp xâm nhập bừa vào nhà dân cướp bóc; khi xảy ra tác chiến, các ụ đó phải được kịp thời đắp bổ sung vào cho thêm phần vững chắc bằng những vật chướng ngại đã được chuẩn bị. Việc khoan sẵn các lỗ để nhét mìn hạ cây nhằm ngăn cản địch cơ động đi lại trên một số đoạn đường, anh em cũng phải tích cực tiẽn hành. Việc điều tra phát hiện và nắm chắc các ổ chiến đấu bí mật mà địch đã chuẩn bị để kịp thời tiêu diệt khi súng bắt đầu nổ, cũng phải thật khẩn trương xúc tiến.


Đội cử hai đồng chí Lê Giới và Nguyễn Quýnh tham gia vào Ban phá hoại của Thành do đồng chí Trần Cừ thành ủy viên đặc trách.

Đầu tháng 12 không khí chiến tranh như đã bao trùm Hà Nội. Pháp bí mật đưa thêm quân lính và vũ khí từ Hải Phòng lên Hà Nội, dùng bọn tay sai đặt các nhà thầu mua vét gạo và trâu bò đưa vào Thành dự trữ, dùng bọn thổ phỉ tay sai đi dò la tình hình chuẩn bị đối phó của ta. Chúng khiêu khích dồn dập: ngày mồng 2 và 3 tháng 12 đốt nhà thông tin của ta ở Bờ Hồ, 7/12 chiếm nhà Ngân hàng Pháp Hoa, sau đó là rạp chiếu bóng Majestic đối diện với trại Trung ương Vệ quốc đoàn và cho 200 quân lên đóng ngay ở tầng cao khách sạn Mê-tơ-rô-pôn, trông sang Bắc Bộ phủ.


Các công tác chuẩn bị cho kháng chiến được tiến hành càng thêm ráo riết. Hai đồng chí Vũ Yên, Vị Hải xuống Hải Phòng nghiên cứu thực tế về đã phổ biến nhiều kinh nghiệm đánh và tránh địch được anh em hết sức chú ý. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Khu XI, anh em được Ban chỉ huy đội chỉ thị đào đường hầm từ nhà đồng chí Trần Duy Hưng (quân của đội Tô Hiệu bố trí) và từ nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín, (quân của đội Trần Quốc Toản đóng) sang nhà Lơ Mét để tấn công, và cả đường hầm từ nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn ra giữa đường Tràng Thi đã đặt bom để cản trở việc cơ động của địch. Tại doanh trại Đấu Xảo, dưới sự chỉ huy và đôn đốc của đồng chí Vũ Yên và đồng chí Vị Hải, anh em đào giao thông hào dọc hai bên các nhà ngang từ ngoài cổng vào nhà bảo tàng, đào dọc chân tường và chìm qua tường thông ra ngoài tới các ụ súng phía trước, còn để chặn lối vào cổng thì đã bố trí một hàng rào cự mã, chôn một quả lựu đạn, xen lẫn những hàng hố úp bát, nồi để nghi binh, sát trước cổng gỗ được chôn chéo các thanh sắt đường ray hướng ra phía ngoài đường. Tại các nơi đóng quân canh gác khác anh em cũng ra sức khẩn trương củng cố các vị trí chiến đấu: tiểu đội Trần Quốc Toản tăng cường cho trung đội Vệ quốc đoàn ở Nhà hát lớn đã thống nhất với Vệ quốc đoàn về kế hoạch bố phòng; nửa tiểu đội Ký Con chốt tại tòa báo Cứu quốc đắp ụ bằng bao cát khá vững chắc ở bên mép trái cổng sắt ra vào, súng ống, ngoài súng trường, tiểu liên, lựu đạn anh em còn được tăng cường một trung liên "càng cua" quà tặng của đồng chí Xuân Thủy, chị quản lý tòa báo còn cho anh em tới 10 cân cốm để làm lương khô... Đâu đâu anh em cũng hòa cùng với các anh em tự vệ Thành, tự vệ các nhà máy tiến hành mọi công việc được giao một cách tích cực. Tất cả anh em cũng như đồng bào đều hết sức căm thù quân giặc nhưng cố giữ nén lòng, nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của cấp trên "không để kẻ thù khiêu khích".


Các mặt công tác đảm bảo tác chiến như thông tin tuyên truyền, tiếp tế, cứu thương, tản cư dân chúng, các cán bộ của đội được phân công về phụ trách hoặc công tác tại các liên khu đều hết sức quan tâm. Do cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn nên các mặt công tác trên đường gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có cách làm việc đúng đắn, biết tôn trọng và liên kết các ngành, đoàn kết cùng nhau bàn bạc, cuối cùng khó khăn cũng được giải quyết.


Đến trung tuần tháng 12 mọi mặt chuẩn bị kháng chiến đã cơ bản hoàn thành. Người già nua ốm yếu và trẻ nhỏ đã tản cư gần vãn về các khu an toàn. Gia đình nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín cũng đã đi khỏi thành phố, một tổ năm người của trung đội Trần Quốc Toản kịp thời ra triển khai và bắt tay ngay vào việc đào hào ngầm sang nhà Lơ Mét qua phố Phan Bội Châu.


Ngày 17-12 quân địch đã có một hành động khiêu khích quy mô. Mới từ sớm máy bay đã quần đảo trên không, ở Liên khu II, chúng cho quân tới phá ụ chướng ngại của tự vệ Lò Đúc và bắn súng bừa bãi vào dân, ở Liên khu I chúng bao vây trụ sở Công an ở phố Hàng Đậu, đốt nhà dân ở khu Trúc Bạch, bắn tự vệ và thanh niên đào đường và làm ụ ở ngã ba Yên Ninh - Nguyễn Trường Tộ, bị anh em bắn trả, chúng đã huy động cả một tiểu đoàn lính Lê - Dương có pháo binh và xe tăng yểm hộ tấn công, gây ra vụ thảm sát, giết trên 40 đồng bào ta, trong đó có 5 tự vệ, còn lại là dân thường, có cả phụ nữ, cụ già, con trẻ, bắt đi 15 người.


Bộ chỉ huy mặt trận nhận định: "Địch sắp đánh ta thật sự" và hạ lệnh: "Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an toàn thành từ giờ phút này phải chuẩn bị gấp để chờ lệnh. Bất kỳ giờ phút nào hễ có lệnh là phải triệt để tấn công vào các vị trí của địch theo nhiệm vụ đơn vị đã được quy định".


Kế hoạch tác chiến của Bộ Chỉ huy quân sự đã quy định rõ: "Các lực lượng tự vệ bố trí xen kẽ với lực lượng Vệ quốc đoàn phối hợp chiến đấu theo kế hoạch đã định, nơi nào không có Vệ quốc đoàn thì tự vệ độc lập tác chiến".

Khu vực Cửa Nam không bố trí lực lượng Vệ quốc đoàn. Phát hiện muộn mằn về thực tế này, đội trưởng Nguyễn Anh Bảo khẩn trương hội ý với Bộ Chỉ huy mặt trận rồi lập tức bớt quân ở Đấu Xảo tổ chức cùng một lúc hai tổ cảm tử dùng bom đánh tăng, một tổ do Châu làm tổ trưởng đưa ra bố trí ở nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn, đánh địch trên đường phố Tràng Thi, một tổ do Toàn phụ trách ra bố trí bên trái tổ Trần Quốc Toản ở nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín. Đồng chí Ninh Hữu Cẩn, một tiểu đội trưởng của Tô Hiệu, cũng được phái xuống tăng cường cho chỉ huy trưởng tự vệ Cửa Nam. Một số anh em còn lại của trung đội Tô Hiệu, trong đó có Tô An, Hà Giáp không bố trí phía trước được biên chế hòa vào lực lượng chốt giữ Đấu Xảo gồm có quân của trung đội Ký Con, quân Đội bộ và của cả các trung đội khác.


Các lực lượng mới được điều động đều hoàn thành việc chiếm lĩnh vị trí chiến đấu của mình ngay trong đêm 17.

Đấu Xảo như vậy đã không còn là vị trí quan trọng hàng đầu như trong thời gian trước. Đồng chí Vũ Yên và đồng chí Vị Hải đều được điều về tăng cường cho Liên khu I, đồng chí Vũ Yên cùng đồng chí Hoàng Phương giúp thêm cho đồng chí Lê Trung Toản, đồng chí Vị Hải về làm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ khu Trúc Bạch rồi của Liên khu Trúc Lãng, ở khu Trúc Bạch và cả ở hai khu vực ngoài bãi còn cả chục đội viên cũ của trung đội Tô Hiệu nằm lại, nhiệm vụ của Vị Hải là cùng số anh em đó đôn đốc các mặt công tác chuẩn bị tác chiến và tác chiến ở phần phía bắc thành phố và bảo đảm đường liên lạc thông suốt của Liên khu I với Bộ Chỉ huy mặt trận Khu XI đóng ở ngoại thành. Ban chỉ huy đại đội như vậy là chỉ còn mình đồng chí Phạm Văn Tường ở lại, trực tiếp đôn đốc chỉ huy tác chiến khu vực Cửa Nam, khu vực Đấu Xảo và trụ sở 107 Trần Hưng Đạo trụ sở của Mặt trận Việt Minh Thành và của đội. Ở Đấu Xảo tất cả còn khoảng hai tiểu đội giao cho hai đồng chí Tô An - trưởng và Hà Giáp - phó phụ trách, ở 107 Trần Hưng Đạo, lúc đầu bố trí hai tổ sau đồng chí Trường đã điều đi một tổ và ba người ra bố trí ở nhà số 30 Thợ Nhuộm giám sát và sẵn sàng tiêu diệt địch trong một nhà Pháp kiều ở số nhà đối diện.


Toàn đội, bắt đầu từ sáng 18, đã ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu, tất cả từ chiến sĩ đến cán bộ đều đã được nhắc nhở thêm là phải phát huy vai trò tích cực nhất của mình trong hoạt động tác chiến phối hợp với các lực lượng bạn, nhất là với tự vệ Thành, đồng thời vẫn phải chú ý việc giữ gìn lực lượng, về mặt chỉ huy, do lực lượng đội đã được phân bổ về các Liên khu nên anh em sẽ chịu sự chỉ huy của các Ủy ban Liên khu là chính, tuy nhiên các đồng chí lãnh đạo của Đội đều đã được Khu XI bố trí về tham gia bộ máy chỉ đạo kháng chiến của Liên khu, kể cả đồng chí Anh Bảo và đồng chí Đỗ Đức Kiên cũng đã được phân công về Ủy ban Liên khu II cùng đồng chí Trần Vỹ, nên anh em hoạt động ở đâu thực ra cũng đều có sự chỉ huy của cán bộ cấp trên của mình ở đó và đó là điều kiện thuận lợi.


Như vậy là lực lượng của Đội tự vệ chiến đấu được phân công về Liên khu II ngoài ba cán bộ lãnh đạo tham gia Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu, thì đơn vị chiến đấu chính thức chỉ có hai trung đội Trần Quốc Toản và Phó Đức Chính cùng lực lượng hỗn hợp của Tô An, Hà Giáp bố trí ở Đấu Xảo. Trung đội Tô Hiệu chỉ hoạt động trên phần đất của Liên khu II trong lúc đầu, xong nhiệm vụ được giao sẽ về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu I.


Tới ngày 19/12/1946 tất cả các lực lượng đầu đã vào vị trí chiến đấu sẵn sàng đợi lệnh.

Đồng chí Nguyễn Anh Bảo và đồng chí Đỗ Đức Kiên từ chiều cũng đã về nhận nhiệm vụ tham gia Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu II.

Từ đó cho đến 22/12 các đơn vị tự vệ chiến đấu Cứu quốc Hoàng Diệu về Liên khu II đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh được giao.

Trận tấn công địch ở nhà tên Lơ Mét, các trận chặn đánh địch ở nhà Đấu Xảo, ở khu vực Cửa Nam, ở trụ sở đội 107 đường Trần Hưng Đạo, việc phối hợp với công nhân xung phong quyết tử thuộc công đoàn điện tín phá hủy Đài phát thanh Bạch Mai... mãi mãi là niềm tự hào của các chiến sĩ.

ĐỖ ĐỨC KIÊN


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:48:36 am
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÔNG AN THỦ ĐÔ
NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN


... Cuối năm 1946 thực dân Pháp phản bội những điều đã cam kết trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, ráo riết chuẩn bị lực lượng thực hiện một cuộc "chiến tranh chớp nhoáng" nhằm tiêu diệt chủ lực của ta tại Hà Nội, bắt gọn các cơ quan trung ương đầu não, mưu toan trở lại thống trị dân tộc ta một lần nữa. Sau khi đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn chúng tăng cường khiêu khích ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, giặc Pháp tàn sát nhân dân ta ở phố Hàng Bún (ngõ Yên Ninh) giết chết 43 người có cả cụ già, trẻ nhỏ và phụ nữ, nã pháo vào một số khu phố nội thành. Ngày 18/12/1946 chúng bao vây trụ sở Công an Hàng Đậu. Lực lượng cảnh sát vũ trang ở đây đã hết sức kiềm chế, tránh gây xung đột khi chưa có lệnh. Cùng ngày, bọn lính mũ đỏ đến chiếm Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính và gửi một tối hậu thư yêu cầu ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, đòi tước vũ khí các lực lượng vũ trang.


Với tinh thần "thà hi sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh", quân và dân Thủ đô thề chiến đấu đến cùng, bảo vệ phố phường đất nước.

Các lực lượng Vệ quốc đoàn, Công an xung phong, Cảnh sát xung phong, Tự vệ chiến đấu chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của Ban Chỉ huy Mặt trận Thủ đô ngay trong trận đầu tiên (19/12/1946) đã đồng loạt tiến công các vị trí địch; đồng thời ở các vị trí được phân công chốt giữ đã đánh trả quyết liệt nhiều đợt tiến công đánh chiếm của các đội quân Lê dương Pháp.


Tại Liên khu II, các lực lượng phối hợp Vệ quốc đoàn, Công an xung phong và Cảnh sát ở quận Hàng Trống được phân công làm hai tổ: một tổ vừa chốt giữ trụ sở vừa nhanh chóng đánh chiếm nhà 71 phố Hàng Trống, nơi ở của tên tướng Moóc-li-e, tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp ở miền Bắc Đông Dương, Tướng Moóc-li-e bị thương, quân Pháp đồn trú ở đây phải gọi quân cứu viện từ trong thành ra. Một tổ được phân chốt giữ đầu đường Tràng Thi chặn đánh mũi tiến công của bọn lính mũ đỏ từ phía nam thành tiến lên theo đường Tràng Thi. Tổ lực lượng phối hợp ở đây đã chặn đánh quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch vào trụ sở Quận Công an Hàng Trống, diệt 19 tên, đốt cháy 2 xe bọc thép, thu 4 súng tiểu liên, giữ vững vị trí chiến đấu từ đêm 19/12/1946 đến rạng sáng ngày 20/12/1946, bên ta có chiến sĩ Tập bắn súng máy và chiến sĩ Tích ném bom xăng hi sinh.


Sáng ngày 20/12/1946, địch đánh rất mạnh. Dựa vào tường nhà và công sự dã chiến, ta chống trả quyết liệt gây cho địch thêm một số thương vong, sau đó ta rút sang trụ sở Tổng bộ Việt Minh và tòa báo Cứu quốc (nay là trụ sở báo Hà Nội mới).


Địch không vào chiếm đóng trụ sở Quận Công an Hàng Trống mà chia quân tiến theo phố Hàng Khay, phố Tràng Tiền định chiếm Nhà hát lớn và Bắc Bộ phủ, đồng thời ngăn chặn quân ta từ Quận Công an Hàng Trống đánh lên. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở khu vực diễn ra rất quyết liệt từ sáng đến 16 giờ chiều. Sau đó để bảo toàn lực lượng quân ta một bộ phận rút về khu 36 phố phường, một bộ phận rút theo đường phố Hàng Bài.


Cùng thời gian này ở khu vực Hàng Đậu, chợ Đồng Xuân, đầu cầu Long Biên các lực lượng vũ trang phối hợp cùng với nhân dân khu phố đã anh dũng chiến đấu chặn đứng cánh quân Pháp từ Cửa Bắc tiến lên đánh cầu Long Biên, định bắt liên lạc với cánh quân Pháp từ Gia Lâm tiến sang, gây cho chúng nhiều thiệt hại: 70 tên giặc đền tội, 2 xe tăng bị phá hủy buộc bọn chúng phải rút về trong thành. Các đơn vị vũ trang ở đây cùng tiến công đơn vị quân Pháp đóng tại nhà tắm đầu đường Cổ Ngư tiêu diệt 5 tên giặc và đốt cháy 1 xe Jeep.


Trong khi đó một cánh quân khác của địch cũng từ phía nam thành tiến ra qua đường Cột Cờ (tức là đường Điện Biên Phủ hiện nay) rồi theo đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn) tiến đánh ga Hàng Cỏ đồng thời cứu viện cho nhóm quân Pháp đang bị nguy khốn ở khu vực nhà dầu Shell ngã tư Khâm Thiên. Bọn chúng bị chặn đứng ở ngã ba Hàng Lọng nên phải chuyển hướng quay sang đường Trường Thi, rẽ sang phố Quán Sứ, chiếm viện Radium (tức viện K hiện nay), khu vực Hỏa Lò, Tòa án, bao vây Sở Hỏa xa Việt Điền (nay là trụ sở Tổng Liên đoàn), sau đó tiến đánh Nha Công an Bắc bộ (tức sở Công an Hà Nội hiện nay). Một bộ phận quân địch được tách ra đi giải vây cho khu vực ga Hàng Cỏ và nhà dầu Shell, đồng thời đánh chiếm trụ sở cũ của Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu ở 107 phố Gambetta (tức đường Trần Hưng Đạo hiện nay) nhưng đánh mãi không chiếm được chúng đành phải rút. Bên ta hai chiến sĩ hy sinh.


Từ nhà 107 địch quay về chiếm đánh trụ sở Nha Công an Bắc bộ, ở 87 Gambetta (đường Trần Hưng Đạo hiện nay). Hai nhân viên công an được giao trách nhiệm ở lại đánh bom phá sập ngôi nhà chính nhưng bom không nổ, các ổ tác chiến bí mật của địch ở các phố Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu đã bị các lực lượng vũ trang phối hợp và các lực lượng tự vệ chiến đấu tiêu diệt, thu 2 súng cácbin và nhiều đạn.


Lúc này trên các đường Nguyễn Du, Yết Kiêu, Trần Quốc Toản, Ôn Như Hầu, Phan Bội Châu... nhân dân tản cư, chạy giặc dồn về phía hồ Thiền Quang, nhà Đấu Xảo. Ở đây các lực lượng vũ trang phối hợp cùng với các lực lượng tự vệ chiến đấu tổ chức một ổ đề kháng chống địch lấn chiếm đánh trả quyết liệt bảo vệ và hướng dẫn cho hơn 1000 đồng bào rút ra theo đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng xuống hồ Bảy Mẫu, ra đường Đại Cồ Việt. Đồng chí Vương Quốc Trung tức Ba Hương, đại đội trưởng Công an xung phong đã chỉ huy các lực lượng vũ trang ở đây đánh bật nhiều đợt tiến công của giặc, giữ vững vị trí chiến đấu. Ngày 24/12/1946 được lệnh của Ủy ban kháng chiến Khu 9, các đơn vị đã phá vây rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Một tiểu đội công an xung phong đã hy sinh anh dũng. Các đơn vị còn lại được lệnh tiến xuống chốt giữ Ô Cầu Dền và được Ban chỉ huy quân sự Khu giao cho sử dụng thí điểm khẩu Badôca (Bazooka) duy nhất của chiến trường Hà Nội hồi ấy. Một hàng binh người Nhật đã hướng dẫn các lực lượng vũ trang phối hợp sử dụng khẩu súng đó, diệt 2 xe tăng địch, đánh lui đợt tiến công của quân Pháp định tiến xuống Bạch Mai. Ngày 29/12/1946 các đơn vị ở đây lại lập thành tích lớn diệt vị trí quân Pháp ở 94 phố Wiélé (nay là trụ sở Công an quận Hai Bà Trưng 94 Tô Hiến Thành) thu nhiều súng đạn và đài vô tuyến. Trong các lực lượng chiến đấu ở nhà Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô) có đại đội Công an xung phong được Bộ Chỉ huy Khu 9 (lúc này về mặt quân sự Khu 9 đã sát nhập vào Liên khu II ngày 24/12/1946) Ủy ban kháng chiến Khu 9, Nha Công an Việt Nam tặng bằng khen và một khẩu súng ngắn Colt.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:49:11 am
Ở khu vực trụ sở Bộ Quốc phòng và Trại Vệ quốc đoàn trung ương ta đã chủ động tiến đánh quân Pháp đóng ngay tại rạp Majestic. Ta đã đào một đường ngầm sang rạp chiếu bóng nhằm đặt bom cho nổ nhưng không đào thông được vì gặp cống ngầm. Sau đó chờ cho nhân dân đã xem phim về hết ta mới cho quân xuất kích vào lúc 20 giờ 30. Lực lượng gồm hai tiểu đội: một tiểu đội thuộc đại đội 3 tiểu đoàn 77 và hai tiểu đội thuộc lực lượng tự vệ chiến đấu tiểu khu Hàm Long. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt suốt đêm 19/12 đến đêm 20/12/1946 địch ở Majestic mới đầu hàng: 14 tên bị diệt, 4 tên bị bắt làm tù binh, ta thu 18 tiểu liên và súng trường tự động, rất nhiều lựu đạn.


Ngày 21/12/1946 địch phản công đưa bộ binh có xe tăng, xe thiết giáp hỗ trợ đến bao vây khu vực. Với công sự vững chắc, trung đội cảnh vệ chốt ở đây đã chiến đấu rất quyết liệt. Sau khi được tăng cường hai tiểu đội tự vệ khu Đại La, ta bố trí lại trận địa đón đánh địch trên phía đường Hàng Bài (tức mặt trước trường Đồng Khánh được dùng làm trụ sở Bộ Quốc phòng) và trên đường Lý Thường Kiệt (lối vào trại Trung ương Vệ quốc đoàn). Trước sự chống trả rất quyết liệt của ta, địch phải cho máy bay sang ném bom gây cho ta nhiều thương vong (trong đó có cả chỉ huy đơn vị). Đến đêm 21/12/1946 ta rút quân về Bạch Mai.


Tại Liên khu III, Công an xung phong cùng với tự vệ chiến đấu và một đơn vị Vệ quốc đoàn tiến công địch ở Nhà máy bia Hommel (tức là nhà máy bia Hà Nội hiện nay) và Nhà máy thuộc da của tên tư bản Pháp Délévaux phố Hàng Bột. Một đơn vị Công an xung phong đã bám theo các lực lượng trinh sát chính trị và bộ đội đột kích cơ quan tình báo địch ở phố ông ích Khiêm bắt sổng một trung úy tình báo Pháp thu nhiều tài liệu. Hoạt động chiến đấu của các lực lượng Công an xung phong, Cảnh sát trật tự đã hỗ trợ cho lực lượng trinh sát chính trị được điều xuống hoạt động ở các khu phố bám dân, bám các địa bàn trọng điểm, vừa tổ chức công tác nắm tình hình địch làm nhiệm vụ quân báo, vừa truy lùng bắt những tên Việt gian còn ẩn núp ở lại làm tay sai cho giặc, phát hiện được nhiều tình hình địch có giá trị, bắt giữ được nhiều Việt gian tay sai của Phòng nhì Pháp và thổ phỉ đưa ra xét xử tại Tòa án quân sự thiết lập ở trong Liên khu I. Hầu hết các ổ vũ trang bí mật mà địch đã bố trí tại các phố lớn và trên các trục đường chính bị tiêu diệt. Nhiều toán thổ phỉ bắn lén, cướp bóc đồng bào bị diệt tại chỗ như toán thổ phỉ ở Ngõ Quỳnh (Bạch Mai).


Sau những trận chiến đấu đầu tiên tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, các lực lượng vũ trang phối hợp ở Liên khu I vừa chiến đấu, vừa rút dần về phòng ngự ở khu vực 36 phố phường, biến nơi đây thành chốt thép thu hút sinh lực địch; còn các lực lượng đang chiến đấu ở Liên khu II và III cùng các lực lượng tự vệ chiến đấu lui ra bám chắc lấy các cửa ô, dựa vào vùng ngoại thành tạo một vành đai vây hãm địch, thực hiện chủ trương của Ban Chỉ huy mặt trận: đánh phối hợp trong ngoài, kiềm chế không để giặc Pháp có điều kiện tập trung lực lượng nhanh chóng chiếm đóng nội thành và uy hiếp các khu ven nội.


Cuộc chiến đấu giữa quân, dân Thủ đô và giặc Pháp diễn ra ngày càng ác liệt. Sau những ngày đầu bị động, quân Pháp đã lấy lại sức, dồn lực lượng tập kích mãnh liệt vào các vị trí phòng thủ của ta, chiếm được nhiều cứ điểm quan trọng ở nội thành: Khu vực Cửa Nam, khu vực hồ Hoàn Kiếm - Bắc Bộ phủ, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, cầu Long Biên v.v... rồi tiến đánh các cửa ô mở rộng phạm vi chiếm đóng, phía bắc đẽn Nhật Tân, phía nam đến Ngã Tư Vọng, ngã tư Trung Hiền, phía tây đến Ô Chợ Dừa. Cuộc chiến đấu ở khu vực ngã tư Ô Chợ Dừa, Khâm Thiên, Hàng Bột diễn ra ác liệt. Trung đội Công an xung phong cùng với các lực lượng cảnh sát và trinh sát ở Liên khu III đã cùng với bộ đội, tự vệ chiến đấu anh dũng, nên mãi chiều ngày 30/12/1946 địch mới chiếm được Ô Chợ Dừa sau khi chiếm đóng được trụ sở Công an Khâm Thiên. Các Liên khu phố II, III rơi hoàn toàn vào tay giặc Pháp. Lực lượng Công an ở Liên khu I sáp nhập với hai khu Hồng Hà và Lãng Bạc, ở Liên khu II sáp nhập với các khu Mê Linh và Đề Thám, ở Liên khu III sáp nhập với các khu Đại La và Đống Đa để tiếp tục chiến đấu.

VĂN ÁNH
(Theo tài liệu của đại tá Nguyễn Bảo Hùng.
nguyên Chánh văn phòng Sở Công an Hà Nội)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:50:21 am
ĐỘI TỰ VỆ KHU LÒ ĐÚC


Khu Lò Đúc, mang danh số 12 thuộc Liên khu II Hà Nội, là một khu vực địa dư bao gồm: phía bắc từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu chạy dọc phố Hàn Thuyên ra bờ sông Hồng; phía nam từ đê Bành Lao qua Ô Đống Mác - Lãng Yên ra cảng Phà Đen; phía đông từ dốc Vạn Kiếp xuôi theo ven đê sông Hồng xuống đến cảng Phà Đen; phía tây từ ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc chạy suốt dọc phố Lò Đúc qua dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác...


Hình thái địa dư khu này có đặc điểm gần giống với khu Chợ Hôm. Bởi cũng có một con đường huyết mạch từ trong nội đô chạy thẳng qua một cửa ô, trực tiếp thông xuống phía nam (phố Lò Đúc qua cửa Ô Đống Mác, theo đê sông Hồng đổ xuôi...).


Đội tự vệ khu Lò Đúc được hợp thành bởi toàn thể các lực lượng tự vệ của các tiểu khu hành chính, nằm trong giới hạn địa dư kể trên. Ngoài những đơn vị chỉ có mươi mười lăm anh em (cỡ chừng non già một tiểu đội), khu Lò Đúc trước ngày nổ súng kháng chiến toàn quốc có ba đơn vị tự vệ mạnh. Đó là: Trung đội tự vệ Lò Đúc 1 do hai đồng chí Trình và Quang Thọ chỉ huy (trung đội này hầu hết là học sinh, ở đoạn đầu phố Lò Đúc - từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu đến ngã tư Nhà thương Chó. Trung đội tự vệ Lò Đúc 2, còn gọi là trung đội Cẩm Hội, do hai đồng chí Xuân và Thu chỉ huy (trung đội này gồm có học sinh với các viên chức nhỏ và thợ thuyền... ở khúc đường từ ngã tư Nhà thương Chó tới dốc Thọ Lão - chủ yêu là xóm Cẩm Hội). Đơn vị tự vệ thứ ba là đại đội 12, gồm người ở từ dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác, hầu hết là anh em lao động tự do (phu khuân vác, xích lô ba gác, đồ tể ba toa...) đại đội này không bầu được người chỉ huy, vì anh em ai cũng chỉ muốn đánh Tây chứ không ai muốn nhận trách nhiệm là người chỉ huy...


Trong khi ấy, tôi vẫn đang là thợ ở xưởng STAI Quai, và là ủy viên quân sự phụ trách đội tự vệ xí nghiệp. Đồng thời, đối với địa phương, tôi được trên chỉ định là khu phố Khu 12 của Liên khu II Hà Nội và trong cuộc bầu cử chính quyền khu, tôi được bà con bầu là phó chủ tịch UBHC khu Lò Đúc (là Khu 12 thuộc Liên khu II Hà Nội).


Đại đội tự vệ tổ chức ra không bầu được người chỉ huy, họ đến "vận động" tôi làm đại đội trưởng cho họ. Là dân bản địa (gia đình tôi ở Ô Đống Mác) tôi rất hiểu anh em, và tôi đã nhận lời làm đại đội trưởng đại đội tự vệ này. Ban chỉ huy đại đội 12 chính thức gồm có: đại đội trưởng Phạm Đình An, chính trị viên Thảo, anh này hiện còn sống, là đại tá công an đã nghỉ hưu, đại đội phó là các anh Ban và Thìn, đều đã mất. Cán bộ trung đội gồm có: trung đội Thọ Lão do 2 anh Hổ và Sinh chỉ huy (anh Sinh đã từng đi lính Nhật), trung đội Đống Mác do 2 anh Hương và Thiện Ngôn chỉ huy, trung đội Ba Hàng do anh Tứ chỉ huy...


Theo cái đà ấy, các tổ chức khác như Thanh niên, Thiếu nhi... đều yêu cầu tôi phụ trách họ, và thế là tôi thành Khu trưởng thanh niên và Khu trưởng thiếu nhi.

Trên thực tế, tôi dành thời gian nhiều hơn vào công việc của một đại đội trưởng tự vệ (công việc của khu phố tôi dựa vào ông Phạm Trọng Thế, khu trưởng. Công việc phó chủ tịch Ủy ban, tôi dựa vào ông Nghiêm Xuân Quán, chủ tịch... là chính. Còn công việc về thanh niên và thiếu nhi, thì tôi chỉ đóng vai trò "có ý kiến chỉ đạo" mà thôi).


Bắt tay vào công việc chuẩn bị kháng chiến, ngoài những cuộc họp bàn trong ủy ban hành chính và Ban Chỉ huy quân sự khu, về tình hình và nhiệm vụ tôi tập trung khả năng vào công tác của một đại đội trưởng: tổ chức và chỉ huy đại đội tập tành, sinh hoạt và tổ chức cho anh em diễn tập (trong đó có một cuộc diễn tập chung với cả các đội tự vệ của khu vực Lò Lợn và Đồng Nhân). Đại đội còn tổ chức cho anh em mỗi tháng ra một tờ báo tường treo ỏ trụ sở để mọi người cùng viết và cùng đọc; làm một sân bóng chuyền và xà đơn xà kép cho anh em thường xuyên luyện tập; và tổ chức diễn kịch phục vụ các cuộc liên hoan trong những ngày lễ tết, tạo nên một không khí cách mạng rất sôi nổi trong toàn Khu 12. Tiếp đến tháng 11/1946, tình hình đã trở nên căng thẳng khi cái tin quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng bay về Hà Nội. Khắp thành phố đâu đâu cũng xôn xao phẫn nộ. Chiến tranh đã đến rất gần...


Khu Lò Đúc cũng như 16 khu khác trong thành phố (Hà Nội khi ấy chia thành 17 khu) thực sự bắt tay vào việc: chúng tôi tổ chức quán triệt tình hình và nhiệm vụ xuống từng cơ sở. Các công việc cụ thể được triển khai rất nhanh. Tiểu khu nào cũng thành lập các tổ chức phá hoại, tiếp tế, tản cư, cứu thương, v.v... mỗi tổ phải đảm nhiệm một chức trách cụ thể để chuẩn bị kháng chiến. Ai nấy hăng hái dốc sức người sức của cho công việc, cả thành phố như sôi lên. Là một khu có đông nhân dân lao động, hàng ngày bà con vẫn phải tranh thủ đi kiếm ăn, thời gian còn lại hầu như ai nấy đều dành cả cho công việc chuẩn bị kháng chiến. Anh chị em trong các đội tự vệ là những người hăng hái nhất và cũng vất vả nhất. Ngoài việc học tập quân sự và canh gác, anh chị em còn là lực lượng chủ yếu trong các đội phá hoại và đào công sự, đắp chiến lũy (ngoài việc tham gia cùng Liên khu II đào đắp các ụ lớn ở ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc, anh chị em còn cùng với nhân dân trong khu mình đắp ba ụ chiến đấu, rải từ ngã tư Nhà thương Chó xuống đến Ô Đống Mác. Riêng cái ụ chỗ đầu Ô Đống Mác là một công trình rất kiên cố (khi ấy ở Ô Đống Mác có ông Mai Tiếp là chủ xưởng gỗ, trước đề nghị của anh em tự vệ, ông Mai Tiếp vui vẻ tình nguyện tặng cho anh em tất cả kho gỗ của ông để dùng vào việc chống Pháp. Anh em đã dùng gỗ lim nguyên cả cây chôn đứng 3 hàng dọc chạy ngang qua mặt đường, rồi chèn lấp cao hơn ba mét, xe tăng và cơ giới không tài nào vượt qua được - chiếc ụ này đã trụ lại đến cùng ở tại đấy, cho đến ngày quân ta rút khỏi Hà Nội). Và, dọc hai bên lề đường suốt từ Lò Đúc đến Ô Đống Mác đều có công sự cá nhân được anh em cùng bà con dân phố đào sẵn để đợi ngày đánh địch.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:50:59 am
Ngày 19/12/1946, đến tận 17 giờ 30, tôi đi làm về đến trụ sở Ủy ban mới nhận được lệnh chuẩn bị nổ súng. Tính ra chỉ còn có già hai tiếng đồng hồ, tôi cuống quá vội chạy đi tìm anh Phạm Trọng Thế khu trưởng để bàn công việc nhưng không sao tìm thấy (và rồi trong suốt thời gian chống Pháp, tôi cũng không một lần nào được gặp anh ấy). Thế là tôi phải tự mình xử lý mọi việc. Thời giờ cấp bách quá, không có cách nào gặp được hai trung đội tự vệ 1 và 2 của khu Lò Đúc, mà tôi là khu phố, để truyền đạt mệnh lệnh tác chiến, tôi đành về thẳng trụ sở của đại đội 12 - mà tôi là đại đội trưởng, triệu tập các trung đội trưởng đến phổ biến mệnh lệnh của cấp trên và quy định từng trung đội căn cứ vào kế hoạch tác chiến đã định, trước 20 giờ phải có mặt tại dõc Thọ Lão, đợi hiệu lệnh để nhất tề xuất phát tiến công giặc Pháp.


Tôi về nhà hối thúc gia đình tản cư và ăn vội lưng cơm xong là đi ngay. Đến dốc Thọ Lão được chừng dăm phút thì thấy các anh em lục tục kéo tới - khi ấy thì tôi chỉ nghĩ đến đánh Tây chứ có nghĩ được điều gì khác. Bây giờ nhớ lại mới thấy... sợ: cả một đại đội quân tới hơn trăm người mà vũ khí "hiện đại" chỉ có 2 khẩu Sten (tiểu liên do Pháp sản xuất từ thời mốc thếch nào chẳng biết) cùng hơn 10 trái lựu đạn đủ kiểu "bòn nhặt được" trong đó có một trái do một me Tây (gái điếm chuyên phục vụ bọn Pháp) tặng cho anh em tự vệ. Còn lại là vũ khí "tự túc", đủ thứ: dao phay, dao bổ củi, dao bầu hàng thịt, dao găm... cho đến xà beng, búa đinh, búa tạ hoặc côn, tay thước, đòn gánh... bất kể là thứ gì có thể giúp anh em "chơi nhau" với bọn Pháp... đều được coi là vũ khí.


Anh em tề tựu mỗi lúc một đông thậm chí có nhiều người không có trong danh sách tự vệ cũng đến dự. Từng trung đội kiểm điểm quân số, không một ai vắng mặt. Ai nấy náo nức chờ đợi. Chừng mươi phút thì đèn thành phố tắt phụt và đại bác đồng thời nổ vang rền. Không chờ tôi ra lệnh, tất cả ba trung đội ào ào vọt đi ngay. Súng khắp nơi thi nhau nổ. Bà con trong phố đổ ra gọi nhau í ới. Một lát sau, không biết họ nghĩ sao, rất đông người (đa số là các ông bà trung niên) kéo đến chỗ tôi, cùng trèo lên ụ nghển cổ trông vào những nơi có nhiều tiếng nổ và ánh lửa bốc lên, ồn ào bàn tán. Có người thích chí lấy phèng la, chậu thau ra gõ váng lên. Thế là mọi người đua nhau làm theo, hò hét náo loạn cả một vùng...


Sau chừng một tiếng đồng hồ, liên lạc của đại đội đồng chí Như Trang (đại đội trưởng tiểu đoàn 212 Tiếp phòng quân, đóng quân ở khu vực Lò Lợn) đến tìm tôi thông báo: đại đội bộ của đại đội đồng chí Như Trang đã chuyển vào ở tại trụ sở của đại đội tự vệ Lò Đúc chúng tôi. Tôi rất muốn về gặp anh Như Trang, nhưng không dám rời vị trí, vì sợ liên lạc của các trung đội về báo cáo không gặp.


Tôi xin phép được diễn giải một chút về điểm này: giữa đại đội tự vệ chúng tôi với đại đội anh Như Trang và đại đội anh Quý thuộc tiểu đoàn 212 Tiếp phòng quân vốn là chỗ thân tình từ trước. Tiểu đoàn 212 có ba đại đội bố trí rải suốt từ đầu đê Bành Lao (gần chỗ cửa Ô Cầu Dền) đến cuối đê, chạy qua Ô Đống Mác sang tới bờ sông Hồng. Đại đội đóng ở khúc đầu Ô Cầu Dền thì chúng tôi không quen, còn đại đội anh Như Trang đóng ở khu Lò Lợn và đại đội anh Quý đóng ở mé dưới cảng Phà Đen, thì đối với chúng tôi, các anh đều là "hàng xóm" thân tình. Trước ngày nổ súng kháng chiến chúng tôi đã có hẹn ước sẽ dựa hẳn vào nhau để đánh Tây. Khi chiến tranh nổ ra, các anh sẽ lấy "chỉ huy sở" của đại đội tôi làm "đại bản doanh" của chung cho tất cả lực lượng quân sự khu vực Lò Đúc - Đống Mác - Ba Hàng!... Bởi vậy, việc đại đội bộ của đại đội anh Như Trang vào "chiếm chỗ" của chúng tôi là điều không có gì đáng ngạc nhiên...


Gần sáng, tin thắng lợi dồn dập báo về: ba trong bốn ổ đề kháng của bọn kiều dân Pháp đã bị ta xóa sổ; quân ta đã dùng thang tre trèo lên, từ tầng hai đánh xuống chiếm được Viện Pasteur (quân Pháp tháo chạy ra hướng bờ sông). Chiến lợi phẩm đủ loại anh em ùn ùn khuân về nộp cho Ban chỉ huy. Trừ súng, đạn và lựu đạn... tôi cấp phát ngay cho anh em, còn mọi thứ khác (rất nhiều thuốc men, bông băng, vải vóc...) tôi bảo dân công chuyển ngay xuống Nam Dư, giao cho ông Dương Ngà chủ tịch ở đó.


Lúc này tôi mới được tin đồng chí Ban (đại đội phó) bị thương vào chân, và đồng chí Sinh (trung đội trưởng Thọ Lão) bị nổ lựu đạn cụt một bên tay. Cả hai đồng chí đều đã được đưa về hậu tuyến cấp cứu. Tôi dời dốc Thọ Lão quay về chỉ huy sở của đại đội (đóng ở một ngôi nhà hai tầng mé trên đê Bành Lao, đầu Ô Đống Mác, cách đường cái vào làng Thanh Nhàn chừng 30m).


Gặp anh Như Trang, hai anh em đang bàn tính công việc về tổ chức hậu cần, thì một quả moc-chi-ê rót trúng nóc nhà. Tôi lập tức đưa anh Như Trang cùng anh em vào nhà ông Tư Lung ở gần gốc đa làng Thanh Nhàn (mé dưới chân đê). Và, đây là địa điểm chỉ huy của cả mấy đại đội chúng tôi trong suốt thời gian đánh Tây tại Hà Nội. Trong tình hình thực tế lúc bấy giờ, có sự khó khăn trong mối quan hệ giữa công việc hậu cần và tác chiến, anh Như Trang đề nghị hợp nhất hai lực lượng bộ đội và tự vệ làm một. Các chỉ huy tự vệ ở bậc nào sẽ trở thành phó bậc ấy ở đơn vị mới sau khi sáp nhập. Như vậy có các cấp phó là người bản địa thì giải quyết công việc hậu cần sẽ dễ dàng hơn. Tôi nghe thấy phải, liền đồng ý. Thế là lập tức ba trung đội tự vệ của đại đội 12 chúng tôi trở thành bộ đội chính quy kể từ hôm ấy (20/12/1946).


Cũng từ hôm ấy tình hình chiến sự diễn ra có sự giằng co hết sức căng thẳng giữa hai bên ta và Pháp. Các nơi ban đêm ta đánh chiếm được thì sáng ra quân chúng lại tấn công chiếm lại. Tiêu biểu là những nơi: Xí nghiệp STAI mất đi chiếm lại sáu lần, viện Pas-xtơ ba lần, nhà Nguyễn Lễ (chủ Nhà máy Rượu, Nghị viện Dân biểu) bốn lần, v.v... Ngoài nhũng cuộc giằng co như thế, quân Pháp lợi dụng ưu thế của máy bay, đại bác và xe tăng, liên tục tấn công quân ta trên hai trục đường Lò Đúc và Bờ sông, hy vọng mở đường máu tiến ra ngoại thành. Trong Khu 12 (Lò Đúc) lúc bấy giờ, trên tuyến đường Lò Đúc - Đống Mác lực lượng tự vệ khu Lò Đúc gồm có trung đội Quang Thọ, trung đội Trịnh Xuân với đại đội 12 (đã sáp nhập vào đại đội 16 thuộc tiểu đoàn 212 của bộ đội - đại đội Như Trang) và một đại đội Vệ quốc đoàn (là đại đội Như Trang) trên tuyến đường bờ sông Hồng từ Đồn Thủy đến Ba Hàng, lực lượng tự vệ gồm có đại đội tự vệ Lò Lợn, trung đội tự vệ Ba Hàng với hai đại đội Vệ quốc đoàn là đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 77 (Quang Biền), và đại đội 15 thuộc tiểu đoàn 212 (Quý), đại đội anh Quý bố trí phía dưới đại đội anh Quang Biền một chút...


Trên cả hai tuyến đường cần nống ra ấy (trong Khu 12 Lò Đúc) quân Pháp đều áp dụng một cách đánh như nhau: thoạt tiên dùng máy bay thả bom, hoặc đại bác tầm xa bắn dọn đường. Sau đó cho xe tăng và xe bọc thép xông lên bắn đại bác 20 ly và trọng liên 12 ly 7 như vãi đạn ra trước mặt và hai bên. Theo sau xe tăng, thiết giáp là lúc nhúc những tên lính tây trắng, tây đen và "mũ đỏ"... trang bị đến tận răng, hò hét loạn xị thúc nhau tiến lên...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:51:38 am
Trên đường Lò Đúc - Đống Mác hầu như ngày nào bọn Pháp cũng hùng hổ nống ra ít nhất là một lần (có ngày chúng tấn công ta đến bốn lần) bài bản không có gì thay đổi. Bên ta, lực lượng tự vệ khu Lò Đúc cùng đại 94 đội Như Trang dựa vào chiếc ụ chiến đấu kiên cố ở Ô Đống Mác (xe tăng địch không tài nào công phá được) đã đẩy lùi hoàn toàn mọi đợt tiến công của quân Pháp.


Trên đường Đồn Thủy - Ba Hàng: Lực lượng tự vệ Ba Hàng, Lò Lợn cùng với hai đại đội Vệ quốc đoàn (của tiểu đoàn 77 và 212) đã hết sức ngoan cường, chống cự quyết liệt. Mặc dù không có ụ chiến đấu và bom ba càng, anh em đã dùng ét-xăng-crếp và lựu đạn đốt cháy một xe tăng địch và tiêu diệt gần năm chục tên trong một trận đánh khiến chúng khiếp vía, không dám liều lĩnh tiếp tục xông lên...


Ban ngày thì như vậy. Đêm đến, quân ta luân phiên liên tục mò vào sâu trong lòng địch bắn tỉa lính gác và tung lựu đạn, tiêu hao lực lượng của chúng...

Có một chuyện thật mà lại như đùa: trong một trận đi "quấy đảo" trở về, có hai đồng chí trung đội trưởng gặp nhau (Quốc Đảm trung đội trưởng Vệ quốc đoàn thuộc tiểu đoàn 77 và Huyền Tĩnh trung đội trưởng tự vệ Lò Đúc - mỗi người có chừng 10 quân sĩ đi theo) bất ngờ bị địch phục kích. Cả hai nhanh chóng vượt đê Bành Lao, dạt vào rặng ổi tạm lánh. Sáng ra đôi bên nhìn nhau cười ha hả, và tìm đường về đơn vị. Đường nào cũng thấy có quân Pháp, hai anh bèn vượt tường nhảy vào chùa Hậu Quốc - với ý định tránh giáp mặt với địch, đồng thời tìm thức ăn. Bất ngờ trong sân đang có chừng một tiểu đội quân Pháp đang gác súng làm chạc, đặt cành cây lên trên, treo từng tảng thịt bò tươi, đốt lửa nướng!... Lũ lính Pháp đang mải nướng thịt, đột nhiên thấy người nhảy qua tường vào, chúng ngoái lại và... đứa nào đứa nấy vô cùng kinh hoảng. Một đứa la lên: "Japonais" !... (người Nhật)! Thế là cả toán vứt súng ào ào tháo chạy ra mé sau. Quốc Đảm và Huyền Tĩnh thoáng một giây sững sờ nhưng rồi vụt nhận ra, các anh gào thét đuổi theo. Không ngờ, ở sân sau cũng có một toán quân Pháp đang nấu súp trong hai chiếc nồi đồng rất to của nhà chùa, thấy đồng đội la hét chạy qua, còn chưa hiểu ra sao thì đã thấy Huyền Tĩnh và Quốc Đảm xông tới. Chúng đồng thanh gào lên: "Japonais... Japonais" !... và cũng nhất tề rùng rùng tháo chạy. Huyền Tĩnh xông tới vung gươm lia ngang, phạt dọc và Quốc Đảm cắp Sten ngang nách sổ gọn cả số đạn còn lại trong băng. Bọn Pháp chuồn quá nhanh, để lại gần mười tên vừa chết vừa bị thương với gần hai chục khẩu súng, cùng năm con bò còn sống...


Anh em bộ đội và tự vệ chứng kiến cảnh ấy ai cũng phải ôm bụng cười. Thì ra cái vẻ người như một hảo hán Lương Sơn Bạc của trung đội trưởng Quốc Đảm và cái cách trang phục "y như Nhật" (mũ vải có tua, quần áo thùng thình, kiếm dài lê thê...) của trung đội trưởng Huyền Tĩnh... đột ngột "từ trên trời rơi xuống" đã khiến bọn Pháp mất vía ôm đầu tháo chạy chí mạng! Anh em không một ai "làm khách", tất cả vui vẻ ăn thịt bò nướng và súp bò; xong đâu đấy thu dọn súng đạn của bẹn Pháp bỏ lại, và dắt năm con bò... rút lui an toàn!


Sau đấy, trong trận tấn công vào nhà Nguyễn Lễ (chủ Nhà máy Rượu) Huyền Tĩnh ba lần xông lên thì cả ba lần đều trúng đạn. Băng bó xong anh lại kiên quyết tiếp tục tiến công, và hy sinh. Anh em ai cũng thương xót, nguyện noi theo tấm gương quả cảm đánh Pháp bảo vệ Thủ đô của anh....


Cuộc chiến giữa ta với Pháp ở khu Lò Đúc diễn ra cứ giằng co như thế kéo dài suốt từ đêm 19/12/1946 cho đến sáng ngày 15/1/1947 thì đột nhiên 5 giờ sáng (trời còn tối, chưa nhìn rõ mặt người) quân Pháp đồng loạt tiến công quân ta trên toàn trận tuyến (từ ngã tư Ô Đồng Lầm qua đường Đại Cồ Việt, Ô Cầu Dền, đê Bành Lao, Ô Đống Mác... ra tới Ba Hàng) các cỡ súng và bộ binh của chúng vừa bắn vừa ào ạt xông lên. Các đơn vị bộ đội và tự vệ của ta đang chốt chặn trên toàn tuyến nhanh chóng nổ súng chống trả, thì bất ngờ, từ sau lưng đại đội 15 thuộc tiểu đoàn 212 (đại đội anh Quý đang trấn giữ ở mé dưới Ba Hàng) đột nhiên tiếng súng của quân Pháp rộ lên rất gắt...


Thì ra bọn Pháp đã bí mật xuôi theo dòng sông Hồng, ém quân dưới mép nước chờ sẵn đằng sau đại đội anh Quý mà không ai hay biết tý gì.

Bị tập hậu bất ngờ, đại đội anh Quy vừa chống trả vừa rút trở ngược lên, về rặng ổi làng Thanh Nhàn. Bọn Pháp không bám theo, mà nhằm thẳng lên Ba Hàng tấn công vào sau lưng đại đội 2 của tiểu đoàn 77 (đại đội anh Quang Biền) và hai đơn vị tự vệ Ba Hàng, Lò Lợn. Cánh quân Pháp từ Đồn Thủy mò xuống phục sẵn, lúc ấy mới đồng loạt nổ súng phối hợp với cánh quân ở phía dưới. Bị tấn công đồng thời cả hai phía, quân ta bị động ngay từ phút đầu, chống cự không lại. Địch mở được đường máu, lập tức cho xe tăng nhanh chóng vượt qua cửa ngõ Ba Hàng, xông thẳng xuống Vĩnh Tuy. Một chiếc đi lọt, lập tức hàng chục chiếc xe tăng và thiết giáp khác cấp tốc bám theo (chúng sợ chiếc đi đầu bị nạn sẽ cản đường tiến của tất cả những chiếc sau). Trận đánh ở một trong bốn điểm chốt quan trọng trên cả mặt trận phía nam Hà Nội của quân ta (bốn điểm chốt đó là Ô Đồng Lầm, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác, Ba Hàng... rải từ tây sang đống, cắt ngang Liên khu II Hà Nội, chặn quân Pháp từ trong nội thành nống ra vùng ngoại ô), đã bị chúng chọc thủng. Hơn một chục xe tăng, thiết giáp cùng với ba tiểu đoàn quân tinh nhuệ của quân Pháp, nhanh chóng vượt qua Ba Hàng xuống Vĩnh Tuy, quặt vào Mai Động, chọc vào ngã tư Trung Hiền và Ngã Tư Vọng...


Thời bấy giờ ta chưa có đủ điện thoại trang bị cho bộ đội, nên các đơn vị đứng chặn ở đâu chỉ biết giữ vị trí của mình, không hề biết gì về tình hình các đơn vị bạn. Bởi vậy không thể chi viện ứng cứu cho nhau được.

Mặt trận Ô Cầu Dền (khi đó mọi người gọi trận tuyến phòng ngự của Liên khu II Hà Nội chúng tôi bằng cái tên như vậy) bị vỡ bắt đầu từ điểm chốt trên tuyến bờ đê sông Hồng, thuộc địa giới phòng ngự của Khu 12 (Lò Đúc) chúng tôi...


Đại đội chúng tôi (gồm đại đội 16 tiểu đoàn 212 cùng toàn thể anh chị em tự vệ khu Lò Đúc kể cả đại đội 12 lẫn hai trung đội Lò Đúc 1 và 2) rút ra Thanh Oai. Tất cả chúng tôi trở thành quân của đại đội 16 thuộc tiểu đoàn 212. Sau đấy chúng tôi đã được vinh dự mang danh hiệu ĐOÀN QUÂN TÂY TIẾN... và đi suốt cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước cho đến ngày thắng lợi.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2001
TRẦN HỒNG BẮC
(Theo tài liệu của đồng chí Phạm Đình An,
nguyên khu phố Khu 12 kiêm đại đội trưởng
đại đội 12 tự vệ Lò Đúc)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:53:40 am
ĐỘI TỰ VỆ KHU CHỢ HÔM


Khu Chợ Hôm nằm vào vị trí trung tâm của Liên khu II Hà Nội và luôn luôn là một khu vực sầm uất của Hà Nội thời bấy giờ. Bởi nó có Chợ Hôm nằm ở khúc giữa phố Huế, mà Phố Huế là con đường nối tiếp với phố Bạch Mai, nơi có Ô Cầu Dền: Cửa ngõ của kinh thành Thăng Long "vào Nam ra Bắc"...


Hà Nội trong thời gian ấy chia làm ba liên khu, gọi theo số thứ tự I, II, III (trong cả ba Liên khu lại chia thành 17 khu). Riêng Liên khu II đã gồm tới 7 khu, đó là: Khu Hàng Cỏ, khu Đại học, khu Chợ Hôm, khu Bảy Mẫu, khu Lò Đúc, khu Thanh Nhàn, khu Bạch Mai! Mỗi khu giới hạn trong một địa bàn cụ thể (ví dụ như khu Chợ Hôm khi ấy bao gồm các làng Hòa Mã, Đồng Nhân, Thịnh Yên và một nửa Phố Huế, bên phía nhà số lẻ).


Khu Chợ Hôm khi ấy đã có chi bộ Đảng do đồng chí Lê Đức Vân làm bí thư. Và chủ tịch Ủy ban hành chính của khu Chợ Hôm là đồng chí Vũ Văn Sắc...

Khu Chợ Hôm lại chia thành 7 tiểu khu chính, là:

- Tiểu khu 1: Từ ngã tư Phố Huế - Hàm Long xuống tới ngã tư Phố Huế - Trần Nhân Tông, và một phần phố Lê Văn Hưu với một phần phố Trần Xuân Soạn bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Ngọc; đội trưởng tự vệ là đồng chí Lê Quang Tôn1 (Có nhân chứng nói đồng chí Tôn họ Trần: Trần Văn Tôn, ở ngõ 63 phố Huế).

- Tiểu khu 2: Gồm một phần phố Lê Văn Hưu, một phần phố Ngô Thì Nhậm và phố Thi Sách bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Quang; đội trưởng tự vệ là đồng chí Trần Thịnh.

- Tiểu khu 3: Từ ngã tư Phố Huế - Trần Nhân Tông xuống đến ngã tư phố Huế - Hòa Mã và Phùng Khắc Khoan cùng với một phần phố Ngô Thì Nhậm bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Đặng Văn Thái; đội trưởng tự vệ là đồng chí Vũ Văn Tôn.

- Tiểu khu 4: Gồm phố Trần Xuân Soạn, phố Hoà Mã, một phần phố Thi Sách bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Nguyễn Kim Hoàng; đội trưởng tự vệ là đồng chí Phạm Văn Lục.

- Tiểu khu 5: Từ ngã tư Phế Huế - Hòa Mã xuống đến ngã tư Phố Huế - Nguyễn Công Trứ và phố Nguyễn Công Trứ bây giờ. Tiểu khu trưởng không nhớ là ai; đội trưởng tự vệ là đồng chí Nguyễn Khắc Hào.

- Tiểu khu 7: Gồm hai làng Thịnh Yên và Đồng Nhân. Tiểu khu trưởng là đồng chí Đỗ Đình Bích; đội trưởng tự vệ là đồng chí Nguyễn Viết.


Sang - đầu tháng 11/1946, Hồ Chủ tịch nói: "Quân Pháp cố ý gây chiến. Nhiệm vụ cấp bách của chúng ta lúc này là phải hết sức khẩn trương chuẩn bị kháng chiến".

Trước tình hình như vậy, đồng bào khu Chợ Hôm ai nấy hăng hái bắt tay vào công việc. Trong đó, các nam nữ thanh niên luôn luôn giữ vai trò tiền phong. Dưới sự hướng dẫn của Liên khu II, khu Chợ Hôm nhanh chóng tuyển chọn trong số các thanh niên cứu quốc, lấy 10 anh em trung kiên tích cực nhất, do đồng chí Lê Tuấn (đảng viên chi bộ khu Chợ Hôm) trực tiếp phụ trách, làm nhiệm vụ điều tra các nhà ở của Pháp kiều, xác minh hành vi của họ, đặc biệt chú ý mối quan hệ của từng nhà đối với bọn nhà binh Pháp. Mặt khác, khu hàng ngày có liên hệ mật thiết với tiểu đoàn 77 (Tiếp phòng quân) và Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, mời họ đến mở các lớp huấn luyện cấp tốc cho tự vệ và thanh niên các khu phố. Đồng thời, bố trí các đội tự vệ có vũ trang, tổ chức canh gác những ngã tư đường trọng yếu, ngăn chặn mọi hành vi khiêu khích của quân Pháp.


Trung tuần tháng 11/1946 giặc Pháp gây chiến ở Hải Phòng, rồi tiếp đến Lạng Sơn. Hà Nội sôi lên vì căm giận. Trong khu Chợ Hôm, thanh thiếu niên đa số là học sinh, nô nức kéo nhau đến trụ sở xin ghi tên gia nhập tự vệ. Con trai tự động trang bị giáo mác, gậy gộc đi tập quân sự, con gái đua nhau đi dự những lớp học cứu thương ngắn hạn...


Sang đầu tháng 12/1946 tình hình càng trở nên sôi động, các ngã tư quan trọng và các cửa ô, đồng bào nô nức đào hào đắp ụ. Quân Pháp kéo đến phá bỏ. Chờ đến đêm đồng bào ta ra làm lại, càng kiên cố, vững chắc hơn. Về phần tổ chức, từng tiểu khu thành lập ban bảo vệ của tiểu khu mình. Trong mỗi ban bảo vệ gồm có năm tiểu ban: Chiến đấu, phá hoại, tiếp tế, liên lạc, cứu thương (tiểu ban chiến đấu gồm toàn bộ lực lượng tự vệ của tiểu khu). Từng tiểu ban căn cứ vào chức danh, chủ động bắt tay vào việc một cách khẩn trương. Ban chiến đấu lo việc tập luyện và tuần phòng, canh gác; ban phá hoại lo vận động đồng bào cưa cây, đục tường, đào hầm, đắp ụ; ban tiếp tế lo chuẩn bị lương thực, thực phẩm, nấu cơm và đưa cơm ra trận địa; ban liên lạc lo các dụng cụ, phương tiện và cách thức bảo đảm thông tin khi có tác chiến; ban cứu thương lo thuốc men cùng các dụng cụ cấp cứu thương binh và chôn cất tử sĩ...


Ngày 17/12/1946 quân Pháp nổ súng tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh, tiến công chiếm đóng trụ sở Bộ Tài chính, đưa xe tăng, xe ủi và xe tải xuống phá ụ chiến đấu và các vật chướng ngại ở phố Lò Đúc và phố Lê Văn Hưu... đồng thời gửi liên tiếp tới ba tối hậu thư cho chính phủ ta, yêu cầu lực lượng tự vệ phải hạ vũ khí đầu hàng, và quân đội của chúng phải được nắm quyền giữ trật tự trong thành phố v.v... Thời hạn cuối cùng chúng quy định cho ta là ngày 20/12/1946.


Chiều ngày 18/12/1946 tất cả lực lượng vũ trang tại Hà Nội nhận được lệnh của Bộ Chỉ huy quân sự Thủ đô: "Sẵn sàng chuẩn bị bất cứ giờ nào có lệnh là phải triệt để tiến công các mục tiêu đã được phân công...".

Chiều ngày 19/12/1946 tất cả các cấp chỉ huy tiểu đoàn cùng Ban bảo vệ các Liên khu được Ban Chỉ huy mặt trận Hà Nội triệu tập về nhận mệnh lệnh tác chiến, tín hiệu và thời gian nổ súng...

Ngay đêm đầu tiên nổ ra cuộc chiến, các đội tự vệ của khu Chợ Hôm nhất loạt xung trận. Ngoài 11 ổ đề kháng của bọn Pháp nằm rải rác ở các phố (quân Pháp lợi dụng các gia đình Pháp kiều có nhà ở xen kẽ với đồng bào ta, trang bị vũ khí cho họ, lập thành nhũng ổ tác chiến tương đối mạnh, bám trụ tại chỗ, cầm chân lực lượng vũ trang của ta và làm nội ứng khi quân đội của chúng tràn tới). Ban bảo vệ khu đã phân công cho từng đội có nhiệm vụ phải tiêu diệt từng mục tiêu, ngoài ra từng nhóm còn tự ý, chủ động đi tìm địch để đánh...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:54:30 am
Trong vài ngày đêm đầu, quân đội Pháp chưa bén mảng được tới khu Chợ Hôm, bảy đội tự vệ của bảy tiểu khu thi nhau đánh chiếm các ổ đề kháng trong khu. Ngay đêm 19/12 đã diệt gọn 10 trong số 11 ổ đề kháng của bọn chúng ở trong khu. Ổ đề kháng duy nhất còn trụ được là ở số nhà 74 Ngô Thì Nhậm (ở đây ngoài bốn tên Pháp kiều còn có thêm hai tên hạ sĩ quan Lê Dương). Có bàn tay "nhà nghề", chúng chống trả rất dữ dội. Đội tự vệ tiểu khu 1 do Lê Quang Tôn chỉ huy, được khu phân công tiêu diệt ổ đề kháng này. Là một trong hai đội tự vệ mạnh của khu Chợ Hôm, Lê Quang Tôn dẫn trung đội của mình xung trận với một tinh thần quyết liệt song đối phương có ưu thế hỏa lực và kinh nghiệm tác chiến hơn hẳn ta. Loay hoay gần hết đêm, xung phong đến lần thứ ba thì đội trưởng Lê Quang Tôn bị hy sinh. Được tin, tiểu khu 6 lập tức cử tiểu đội trưởng Phạm Đường Bệ đưa tiểu đội tới tăng viện, tiếp tục tấn công số nhà 74 Ngô Thì Nhậm. Đến trưa thì các anh vào lọt trong nhà nhưng kẻ địch từ trên gác thả lựu đạn xuống, chặn đứng quân ta lại không sao lên được.


Cuối cùng đành phải rút ra. Đêm hôm đó (20/12/1946) đích thân đội trưởng đội tự vệ tiểu khu 6 Hoàng Tường Tri dẫn theo 2 chiến sỹ là Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Văn Khôi bí mật trèo tường, leo theo ống máng, lên nóc nhà, dỡ ngói tụt xuống, mở nắp trần rồi bất ngờ tương lựu đạn xuống. Quân địch hoảng loạn, tức khắc xin hàng.


Trong khi ấy, các đội tự vệ khác trong khu, sau khi đã tiêu diệt gọn các ổ đề kháng, không đội nào chịu ôm súng chờ địch đến, mà tất cả đều tự động kéo nhau tới những nơi đang có tác chiến, tìm địch để đánh. Có một chuyện vui: Ngay đêm 19/12 có một tiểu đội thuộc tiểu khu 7 do Lê Mạc Lân chỉ huy không có ổ đề kháng nào để đánh, đã tự động kéo nhau lên phố Trần Hưng Đạo, bắt gặp trung đội Vệ quốc đoàn do Nguyễn Hữu Quý chỉ huy đang tấn công vào nhà đại tá Lamy (nay là nhà sứ quán Phap) bèn tham gia ngay. Đánh thắng, thế là Mạc Lân cùng với tiểu đội của mình nhập luôn vào trung đội của Nguyễn Hữu Quý, trở thành quân của tiểu đoàn 77 Tiếp phòng quân từ đấy.


Liên tiếp trong ba, bốn ngày sau, tất cả các đội tự vệ của khu Chợ Hôm bám theo từng bước của quân Pháp, kề vai sát cánh cùng các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu... đánh Pháp gần khắp mọi chỗ trong Liên khu II. Đơn cử một số trường hợp sau:

- Đêm 19 và cả ngày 20/12/1946, khi lực lượng Vệ quốc đoàn đánh quân Pháp tại rạp Majestic, thì tiểu khu trưởng tiểu khu 1 Chợ Hôm là đồng chí Nguyễn Văn Ngọc đã đích thân dẫn một tiểu đội tự vệ đến tham chiến. Anh em đã cùng bộ đội dũng cảm xông vào phá được cánh cửa sắt, phóng hỏa đốt cầu thang và buồng chiếu phim, khiến quân địch phải đầu hàng. Nhưng anh Ngọc cùng hai chiến sĩ tự vệ trong tiểu đội đã hy sinh... (mặc dù đồng chí Ngọc là chủ tịch không phải là tự vệ).


- Ngày 21/12/1946 quân Pháp tiến công vào Nhà máy Rượu. Khu Chợ Hôm có ba đội tự vệ sát cánh cùng các đơn vị Vệ quốc đoàn đánh địch suốt từ 8 giờ sáng đến tận 6 giờ tối ngày hôm đó. Đội tự vệ tiểu khu 7 chặn đánh địch trên đường Nguyễn Công Trứ; hai đội tự vệ của tiểu khu 4 và 6 chặn đánh địch trên đường Hòa Mã, Ngô Thì Nhậm. Kết quả sau 10 giờ chiến đấu quyết liệt, quân Pháp không sao chiếm được nhà máy Rượu, đành phải rút lui mang theo ba xe tải đầy xác chết và vẫn còn bỏ lại hàng chục xác chết khác cùng vũ khí. Trong trận ấy chiến sĩ Hoàng Ngọc Văn, đội viên đội tự vệ tiểu khu 7 đã nêu cao gương quả cảm đánh xe tăng địch và hy sinh.


- Ngày 22/12/1946 quân địch cùng một lúc tổ chức tấn công trên ba hướng với tham vọng xóa bỏ cả ba ụ chiến đấu của ta ở ba nơi: Ngã tư Phố Huế - Trần Hưng Đạo; ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc và ngã tư Nguyễn Công Trứ - Lò Đúc.


Chúng huy động lực lượng cơ giới, súng phóng lựu và súng phun lửa ào ạt xông lên, tưởng chừng sẽ xóa bỏ sự phòng ngự của quân ta trong phút chốc. Toàn bộ lực lượng tự vệ khu Chợ Hôm có mặt, phối hợp với các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu... kiên quyết chống trả hết sức mãnh liệt. Kết quả, suốt một ngày tấn công vô hiệu, quân Pháp đành phải rút lui.


- Ngày 23/12/1946 quân địch tập trung cao độ bộ binh và hỏa lực tấn công chỉ vào một điểm. Kết quả, chúng phá được ụ chiến đấu ở ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc và nhanh chóng chia quân theo hai hướng tiến đánh trụ sở Bộ Tổng tham mưu, đồng thời vây chặt quân ta trong một ô vuông: Lê Văn Hưu, phố Huế, Nguyễn Công Trứ, Ngô Thì Nhậm... với ý đồ tiêu diệt gọn mọi lực lượng của ta trong đó. Chúng huy động xe tăng tới húc đổ tường nhà để bộ binh của chúng dễ dàng xông vào càn quét tiêu diệt. Nhưng quân ta đã kịp thời dùng ét xăng-crếp và lựu đạn chặn đứng xe tăng địch và đã phá tan ý đồ tiến công của chúng.


- Đêm 23/12/1946 quân ta nhận được lệnh lợi dụng đêm tối nhất loạt xuất kích tiến công những nơi quân Pháp chiếm đóng. Trong các đội tự vệ khu Chợ Hôm đã nảy sinh một trường hợp khá đặc biệt: Đội trưởng tự vệ tiểu khu 6 Hoàng Tường Tri dẫn hai tiểu đội của đội mình (do tiểu đội trướng Phạm Văn Lục, Phạm Đường Bệ chỉ huy) phối hợp với trung đội do Nguyễn Văn Trung chỉ huy... luồn lách lên tận phố Nhà thờ và phố Báo Khánh tiến công trực tiếp vào ngôi nhà của tướng Morlière bằng lựu đạn và súng trường (nơi đó nay là tòa soạn báo Nhân dân). Đến tận 3 giờ sáng anh em mới vượt qua Hồ Gươm rút về an toàn.


Ngày 25/12/1946, tất cả lực lượng tự vệ thuộc khu Chợ Hôm tập trung về khu vực Bạch Mai để củng cố và phiên chế lại, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phùng Thế Tài, chỉ huy trưởng bộ đội toàn mặt trận Liên khu II Hà Nội. Anh em do không muốn xa rời nhau nên xôn xao thắc mắc và lấy lý do: "Là thanh niên Hà Nội, chỉ muốn sống chết với Hà Nội, không muốn vào bộ đội...". Được tin ấy, đồng chí Phùng Thế Tài phải đích thân đến tận nơi, tập trung anh em lại giải thích cặn kẽ mọi điều lợi hại, cuối cùng anh em đã tuân theo.


Đội tự vệ mới phiên chế lại được hợp thành bởi gần như đủ mặt số chiến sĩ tự vệ còn sống của cả bảy tiểu khu. Ngoài ra còn có cả anh em tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu và Công an xung phong... lạc đơn vị nhập vào. Và lấy tự vệ khu Chợ Hôm là nòng cốt, bởi vậy đặt tên là Đội tự vệ Duy Tân (sau tổng khởi nghĩa ta đặt tên lại cho các phố ở Hà Nội. Phố Duy Tân chạy dài từ ngã tư Tràng Tiền tới cửa Ô Cầu Dền - có nghĩa gộp Hàng Bài, Phố Huế lại làm một).


Đội gồm có 6 tiêu đội:

- Tiểu đội 1: Do Phạm Đường Bệ làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Xính làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 2: Do Vũ Văn Tân làm tiểu đội trưởng, Hoàng Thái làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 3: Do Đặng Văn Thái làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Lượng làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 4: Do Quách Đình Hạnh làm tiểu đội trưởng, Phạm Quốc Bảo làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 5: Do Phạm Văn Lục làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Ngọc Sửu làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 6: Do Nguyễn Văn Tửu làm tiểu đội trưởng, không có tiểu đội phó - tiểu đội này gồm số anh em tự vệ khu Bảy Mẫu, sau bảy ngày đêm chiến đấu trong nội thành, trừ thương vong số còn lại gọn một tiểu đội.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:55:14 am
Ban chỉ huy đội tự vệ Duy Tân gồm có: Hoàng Giáp làm đội trưởng, Phạm Văn Đặng làm đội phó, Hoàng Tường Tri là chính trị viên. Quân số (cầm súng) của đội là 96 người. Ngoài ra còn có bốn em liên lạc ở lứa tuổi 13, 14. Và đội còn phải phụ trách tới 35 chị em cấp dưỡng, cứu thương... (tổng cộng 135 - hơn quân số một đại đội).


Trang bị của đội gồm có: 23 khẩu súng trường, 4 khẩu súng săn và 1 khẩu tiểu liên Stell, còn lại là gươm, mã tấu và lựu đạn.

Mọi việc của đội sau khi tổ chức lại vẫn diễn ra bình thường suôn sẻ. Anh em cảm thấy yên tâm. Vấn đề "trở thành bộ đội" hóa ra cũng không có thay đổi gì đáng kể: vẫn là anh em "cánh học trò Hà Nội" sống với nhau, "thằng" chỉ huy, "thằng" lính... buông súng ra là khoác vai nhau "cá mè một lứa" tranh luận thoải mái; kể cả khi vào trận cũng chỉ cần một cái phẩy tay ra hiệu... là xong.


Chừng 10 ngày sau.

Đội tự vệ Duy Tân nhận được lệnh chuyển sang Ngã Tư Vọng, nhập vào quân số của đại đội 4, tiểu đoàn 64, Đội tự vệ Duy Tân từ nay mang số hiệu đơn vị là trung đội 1 thuộc đại đội 4 và vẫn được giữ nguyên sáu tiểu đội cùng với 96 tay súng như cũ...


Và rồi, một sự may mắn không ngờ: Đại đội 4 của tiểu đoàn 64 là đại đội mới thành lập cũng bao gồm toàn bộ những gương mặt tự vệ thành Hà Nội (trung đội 2 là tự vệ khu Bảy Mẫu; trung đội 3 là tự vệ của hai khu Quán Sứ và Hàng Cỏ), có nghĩa toàn đại đội đều là dân Hà Nội. Đến cả đại đội trưởng Hồng Quân (một thanh niên mới 20 tuổi) cũng là học sinh Hà Nội nốt.


Đại đội 4 "của chúng tôi" chiến đấu trong đội hình của tiểu đoàn, nhưng được đặc trách một mình một hướng: Chặn địch từ mặt chính bắc (từ bệnh viện Bạch Mai chiếu thẳng lên ngã tư Kim Liên - Đại Cồ Việt). Riêng trận địa của trung đội 1 được đặt tại khu vực kề cận với sân bóng đá và một bãi tha ma, giữa hai cái lò gạch bỏ hoang cùng rất nhiều thùng đấu rất sâu. Nhiệm vụ của trung đội là phải chặn đứng mũi tấn công của quân Pháp từ Đại Cồ Việt - Kim Liên xuống Vọng.


Cho đến đêm 14/1/1947, toàn đội tự vệ Duy Tân xuất kích đánh thẳng vào khu nhà Thông tin Kim Liên và bốt gác Vân Hồ. Hai bên loạn đả đến 3 giờ sáng chúng tôi mới chịu rút về. Một lúc sau thì đại bác tầm xa của chúng câu về đúng khu vực trận địa của chúng tôi. Tiểu đoàn truyền lệnh: Tất cả ra vị trí chiến đấu. Vậy là không ai kịp ngủ nghê gì, chúng tôi xách súng băng qua khu lò gạch căng mắt dưới màn sương đêm dày đặc chăm chú trông lên hướng ngã tư Kim Liên - Đại Cồ Việt, chờ địch...


Trong lúc đó súng cối và đại bác của quân Pháp vẫn rót không ngừng vào khu vực trận địa của ta. Trời dần dần rạng, vừa hay bên cánh trái của đại đội (trung đội 3 do đồng chí Ninh Hữu Cẩn chỉ huy) phát hiện thấy địch xuất hiện. Chúng có chừng hơn 30 tên, đều là lũ Việt gian vong quốc đánh thuê cho Pháp, đang từ mé Khương Thượng, men theo bờ con mương lớn, tiến sang, chỉ còn cách cánh trái của đại đội chừng 30m. Trung đội trường Ninh Hữu Cẩn lập tức ra lệnh cho trung đội nổ súng. Hai bên bắn nhau dữ dội. Mặc dù bọn chúng được trang bị rất đầy đủ có hỏa lực mạnh hơn hẳn chúng tôi, nhưng với tinh thần quyết chiến rất cao, trung đội của đồng chí Cẩn đã chặn đứng mũi tiến công có tính chất thăm dò đó của đối phương. Trong khi ấy, từ hướng chính diện, quân Pháp đã từ Vân Hồ, Đại Cồ Việt tập trung về ngã tư Kim Liên. Chúng dùng hỏa lực của súng cối và đại bác để mở đường y như thường lệ rồi cho lính xua đồng bào ta lên trước, bắt dọn sạch các vật chướng ngại mà ta rải trên đường để cho xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh của chúng bám theo.


Trời đã sáng rõ. Quân Pháp chỉ còn cách ta chừng hơn 100m. Các nòng đại liên của ba đại đội bạn đặt trên nóc cổng và tầng hai của bệnh viện Bạch Mai (ngay sau lưng chúng tôi) nhất tề nhả đạn bắn dọa. Đồng bào do quân Pháp bắt đi dọn đường ù té chạy tán loạn sang hai bên đường. Các nòng đại liên của ta tức thì nhằm thẳng vào đội hình quân Pháp nhả đạn tơi bời. Địch chững lại gọi pháo binh tầm xa chi viện, nã tới tấp vào khu vực trận địa của quân ta. Một đơn vị bạn ở bên cánh phải bị pháo địch chế áp mạnh quá, đành phải tránh tạt ngang sang phía khu Việt Nam học xá. Đội tự vệ Duy Tân lợi dụng được địa hình có nhiều góc khuất bởi các mô đất và thùng đấu của một khu lò gạch nên vẫn đứng vững. Hai tiểu đội do Quách Đình Hạnh và Phạm Văn Lục chỉ huy đã kịp thời phát hiện một toán địch bí mật lội ruộng men theo mé bên kia rìa đường quốc lộ, tiến về phía cổng bệnh viện. Anh em lập tức nổ súng chặn chúng lại. Nghe tiếng súng của hai tiểu đội Hạnh và Lục, các đơn vị bạn ở cánh bên đó và trên gác bệnh viện nhanh chóng tham gia, nổ súng mãnh liệt. Kết quả, không thấy một tên địch nào ngóc được đầu lên và cũng không thấy một tên nào rút chạy...


Đến khoảng 12 giờ trưa, các cỡ súng bỗng rộ lên ngay sau lưng trung đội. Một lúc có tin: Quân Pháp đã chọc thủng phòng tuyến ở khu vực Ba Hàng - Vĩnh Tuy, vượt qua Mai Động - ngã tư Trung Hiền tiến sang Ngã Tư Vọng. Và đang tấn công vào bệnh viện Bạch Mai.


Vậy là thế trận bỗng đột nhiên thay đổi: đại đội 4 do đại đội trưởng Hồng Quân chỉ huy đang từ vị trí "tuyến tiền duyên" đã trở thành "tuyến sau" của tiểu đoàn. Cả một khu vực rộng lớn ở góc đông nam thành phố Hà Nội ngập chìm trong tiếng nổ và khói bụi của đạn bom. Trận đánh nổ ra ngay từ phút đầu đã hết sức khẩn trương và quyết liệt. Đến lúc này, các đơn vị bạn đều đã bị quân địch tấn công trực diện, bằng cả xung lực và hỏa lực áp đảo (xe tăng, thiết giáp, đại bác 20 ly và trung liên 13 ly 2 với ước chừng gần hai tiểu đoàn quân Âu Phi thiện chiến). Đại đội 4 của chúng tôi thế là đành phải tự mình độc lực chặn đứng mũi tiến công của địch từ hướng bắc tràn xuống.


Sau chừng 20 phút nã đại bác, súng cối và dội bom xuống khu vực trận địa của toàn tiểu đoàn, quân Pháp nhất loạt tấn công trên cả hai hướng, ở hướng Ngã Tư Vọng chúng đánh thọc vào bệnh viện Bạch Mai (nơi ba đại đội mạnh của tiểu đoàn đang chốt giữ) tình hình xem chừng rất quyết liệt và căng thẳng - có tiếng bom ba càng nổ và lửa xăng cháy bừng bừng, tiếp đến tiếng súng nổ loạn xạ ngay trong khu các nhà cao tầng của bệnh viện.


Trên hướng đại đội 4 chúng tôi chặn giữ: Quân Pháp cũng tập trung cao độ binh hỏa lực mở đợt tấn công mới vào thẳng đội hình chiến đấu của đại đội. Ngay từ trận bom và đại bác đầu tiên, trên khu vực trận địa của trung đội 1 cả hai cái lò gạch đã bị sập, và có gần một chục chiến sỹ hy sinh. Dứt loạt bom và đại bác, xe tăng và thiết giáp của chúng hùng hổ tiến lên, áp sát khu vực trận địa của chúng tôi và xả súng dữ dội. Tất cả mọi cỡ súng của đại đội 4 nhất loạt chống trả rất quyết liệt. Xe tăng và thiết giáp địch không dám tiến vào sâu hơn trong khu vực trận địa của đại đội (chỉ vì chúng thấy rất nhiều nồi đất các cỡ úp trên đường tiến - chúng nghi là có mìn). Cuộc chiến giằng co hơn ba tiếng đồng hồ. Số thương vong của cả hai bên mỗi lúc một nhiều hơn. Bọn Pháp hết sức cay cú, không thể tìm được cách nào để có thể vượt qua được tinh thần và ý chí đề kháng của gần 200 chiến sĩ tự vệ của Liên khu II Hà Nội, mới được nhận quân tịch vừa chẵn hai tuần lễ...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Tư, 2022, 06:55:49 am
Đúng thời điểm đó, đồng chí Hoàng Tường Tri chính trị viên trung đội Duy Tân cùng tiểu đội trưởng Phạm Văn Lục trúng đạn hy sinh. Vừa lúc đó, tiểu đoàn trưởng Quốc Linh cùng với Đỗ Hồng (thư ký tác chiến) dìu chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Dụ tới (anh Dụ bị thương vào ngực). Tiểu đoàn trưởng thông báo vắn tắt tình hình diễn biến của trận đánh cho Hoàng Giáp (trung đội trưởng trung đội 1, đang có mặt tại đấy): "Lực lượng hai bên ta và địch đểu đã tổn thất nghiêm trọng.


Ta phá được của chúng 1 xe tăng, 1 xe bọc thép và tiêu diệt được chừng non 200 tên. Song ta cũng bị thương vong chừng trên dưới 100, trong đó có ba chính trị viên là Mạnh Lân, Hoàng Tường Tri và Nguyễn Văn Dụ. Để bảo toàn lực lượng, tôi quyết định cho tiểu đoàn rút ra ngoài. Cử trung đội ông ở lại, trụ vững tại đây, bảo vệ đường rút của tiểu đoàn!.. "


Nói xong, tiểu đoàn trưởng cùng với bộ phận tiểu đoàn bộ đưa Chính trị viên Dụ theo đường lòng con mương ở phía tây, rút ra.

Nhận thức được mức độ nghiêm trọng của nhiệm vụ vừa được trao, đội trưởng Hoàng Giáp cùng với đội phó Phạm Văn Đặng lập tức bố trí lại đội hình, tập trung ưu tiên sức mạnh binh hỏa lực của đội về mé đường quốc lộ. Thông báo vắn tắt nhiệm vụ và động viên tinh thần của toàn đội quyết tâm giữ vững trận địa...


Quân Pháp phát hiện thấy bên ta rút, chúng rượt theo, đồng thời cánh quân phía bắc cũng lập tức rời chỗ ẩn nấp, nhấp nhổm tiến lên bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Chúng lộ rõ ý đồ muốn khống chế cầm chân chúng tôi lại để tiêu diệt. Đội trưởng Giáp và đội phó Đặng nhanh chóng chia quân chặn địch: Hai tiểu đội Đặng Thái và Hoàng Thái với một trung liên do Nguyễn Văn Hùng làm xạ thủ, cản bọn địch trong khu bệnh viện, bảo đảm cho tiểu đoàn rút ra ngoài - mặt này do đội phó Đặng chỉ huy. Bốn tiểu đội còn lại do đội trưởng Giáp chỉ huy chặn bọn địch từ mé quốc lộ 1 tiến vào. Toàn đội bước vào trận đánh có 96 anh em, lúc này chỉ còn lại chưa đến 50 người. Tất cả anh em đều bình tĩnh, kiên định chọi nhau với địch hết sức quyết liệt. Bên phía đội phó Đặng, khẩu trung liên trong tay xạ thủ Hùng cùng hơn 10 khẩu súng trường của hai tiểu đội Đặng Thái và Hoàng Thái phát huy cao độ uy lực, khiến cho không một tên Pháp nào còn dám liều mạng bám đuổi anh em ta rút ra ngoài. Nhưng vẫn có một số đồng chí khi vượt qua bãi rộng chừng 20m để xuống lòng mương, đã bị những loạt đạn của bọn Pháp từ trên gác cao bắn xuống, gây thương vong. Bên phía đội trưởng Giáp, bọn Pháp không có sự che chắn của xe tăng và thiết giáp, chúng tiến lên hết sức chật vật, càng tới gần quân ta chúng càng dính đạn nhiều hơn. Khi chỉ còn cách ta chừng 30 m thì chúng dừng hẳn lại, thả sức vãi đạn về phía quân ta. Anh em ta hành động ngược lại: Chúng nằm bẹp lại, ta cũng chỉ bắn cầm chừng. Cố chờ khi có tên nào ló ra ta mới chịu nổ súng.


Hơn một giờ đồng hồ đã trôi qua. Bỗng xạ thủ Hùng kêu hết đạn. Đội phó Đặng trườn tới hội ý với đội trưởng Giáp. Nhìn đồng hồ tay kim chỉ đúng 17 giờ, và ráng trời đang tiết trọng đông có vẻ như sắp tối. Hoàng Giáp hỏi kỹ lại đội phó Phạm Văn Đặng, yên tâm rằng các đơn vị bạn đã rút hết, anh truyền lệnh cho từng tiểu đội rút về Khương Thượng (điểm hẹn của tiểu đoàn). Sáu tiểu đội tuần tự thay nhau khống chế địch yểm hộ cho nhau rút ra (riêng tiểu đội 1 của Phạm Đường Bệ vì phải vượt qua một bãi trống nên có hai chiến sỹ thương vong). Đến 17 giờ 30 cả sáu tiểu đội đã rút hết. Trận địa chỉ còn lại một tổ chiến đấu cuối cùng, gồm: Đội trưởng Hoàng Giáp, đội phó Phạm Văn Đặng, tiểu đội trưởng Hoàng Văn Thái, tiểu đội trướng Quách Đình Hạnh, xạ thủ Nguyễn Văn Hùng và cô cứu thương Hoàng Thị Dung. Tổng cộng 6 người... tiếp tục đánh địch.


Đến đúng 18 giờ, bóng tối đã bao phủ đầy trời, giữa ta và địch chỉ còn nhìn thấy hình thù lờ mờ không còn phân biệt được mầu sắc. Đội trưởng nhắc Hùng bảo vệ cứu thương Dung rút trước. Hùng giục Dung chạy để Hùng bám theo. Dung vọt lên khỏi công sự mới chạy được chừng 10 bước thì bất ngờ một tràng đại liên từ phía quân Pháp bắn sang trúng vào cô. Thấy Dung gục xuống, Hùng vội lao tới đỡ nhưng không kịp. Cũng chính băng đạn ấy của quân Pháp đã xuyên thủng bụng anh. Anh lảo đảo ôm bụng thét lên: "Các anh ơi! Cứu lấy Dung"...


Bọn địch chỉ cách ta chừng hơn hai chục mét. Hình như chúng nghe thấy tiếng thét của Hùng. Trong bóng tối nhập nhoạng, bọn địch lồm cồm tiến lên. Bốn tay súng còn lại của ta nhất tề nhả đạn. Quân Pháp rống lên như bò bị chọc tiết, chững lại và rồi một khẩu lệnh của chúng rất dõng dạc cất lên: "Cessez le jeu!"1 ("Chấm dứt cuộc chơi". Ý bọn Pháp ví cuộc chiến đấu như một trò chơi săn người).


Bốn anh em không ai bảo ai cùng cất tiếng thở phào. Đội trưởng Giáp lập tức lao tới chỗ Dung và Hùng đang nằm. Dung còn sống và Hùng đã hy sinh. Đặng, Hạnh, Thái thay nhau vác Dung đi. Đội trưởng Giáp phục xuống ôm xác Hùng định vác lên nhưng không nổi. Anh lặng lẽ vuốt mắt Hùng rồi đứng dậy lầm lũi bước đi. Đến làng Khương Thượng, Giáp gặp Đặng với Thái đang ngồi nghỉ bên cạnh Dung. Họ đã xin đồng bào được một tấm cánh cửa đặt Dung lên để khiêng đi. Đặng cho biết tiểu đoàn đã rút về trú quân tại làng Huỳnh Cung. Mấy anh em dò dẫm hỏi thăm đường, mãi tới 12 giờ đêm mới về tới Huỳnh Cung. Đích thân tiểu đoàn trưởng Quốc Linh chạy ra đón. Anh nói một câu rất thật lòng: " Tôi xin thay mặt tiểu đoàn cảm ơn các anh học trò Hà Nội! Các đồng chí đánh rất cừ".

Hà Nội, tháng 8 - 2001
VĂN QUANG
(Tự vệ tiểu khu 7)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:51:59 am
NHỮNG NGÀY THÁNG KHÔNG THỂ NÀO QUÊN


Đó là "60 ngày đêm quân và dân Liên khu II Hà Nội cùng cả nước đứng lên kháng chiến, chống bọn thực dân xâm lược Pháp, bảo vệ Thủ đô" mà giới phụ nữ chúng tôi đã thực sự được đóng góp phần tài sức và xương máu của mình. Khi đó chúng tôi tuyệt đại đa số còn đang ở vào tuổi đời trên dưới 20 một chút (cũng không hiếm những chị chỉ mới bước vào tuổi 15, 17) bao gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội...   .


Tôi nguyên là một "cô học trò" (Ban thành chung) ở Nam Định, sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945 được tổ chức điều động về Hà Nội làm công tác tài chính tại Tổng bộ Việt Minh. Khi đã thực sự không còn khả năng tránh khỏi chiến tranh tháng 11/1946 tôi được cấp trên cử về Liên khu II Hà Nội thay chị Thọ làm bí thư Phụ nữ khu vực Bạch Mai.


Lúc này không khí trong thành phố đã trở lên hết sức căng thẳng, bởi những hành vi khiêu khích của bọn nhà binh Pháp mỗi ngày một thêm trắng trợn hơn. Cùng với bộ đội và các đơn vị tự vệ, Hội phụ nữ chúng tôi khẩn trương bắt tay vào nhiệm vụ. Mặc dù tuổi đời còn quá trẻ (khi đó tôi vừa đủ 19 tuổi) và còn rất non nớt về chính trị, song tôi cũng đã ý thức được sâu sắc lời kêu gọi của Cụ Hồ (khi đó chúng tôi chưa có thói quen gọi Cụ là Bác): "... Thà hi sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ!.."


Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh Vũ Quý (chủ tịch Ủy ban hành chính - kháng chiến khu vực Bạch Mai khi ấy), tôi nhận thức được tình hình và nhiệm vụ cụ thể, nói gọn lại là: Dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của bọn thực dân Pháp đã công khai bộc lộ rõ ràng, chiến tranh chỉ còn ngày một ngày hai, chắc chắn sẽ xảy ra. Đối với Liên khu II của chúng ta, Ô Cầu Dền sẽ trở thành một trận tuyến trọng yếu vì nó là cửa ngõ chính ngăn chặn quân giặc tiến xuống phía nam! Hội phụ nữ cứu quốc khu vực Bạch Mai có nhiệm vụ phụ trách công việc cứu thương của mặt trận khi nổ ra chiến tranh. Bí thư phụ nữ trực tiếp làm trưởng ban. Phải nhanh chóng thành lập các trạm y tế tiền phương và các đội tải thương, để kịp thời cấp cứu các thương binh và chôn cất các liệt sĩ. Đồng thời Hội phụ nữ phải phối hợp chặt chẽ với ban tiếp tế của Liên khu (do anh Văn Thịnh phụ trách) đảm nhiệm công việc thu gom lương thực, thực phẩm tại chỗ của các gia đình đồng bào đã tản cư để lại và lập kho tiếp nhận lương thực, thực phẩm từ hậu phương vận chuyển tới cung cấp cho mặt trận. Tổ chức công việc nấu ăn, đảm bảo cho tất cả những ai ở lại tham gia kháng chiến đều có cơm ăn... (trong thời gian "60 ngày đêm" đó ở khu vực Bạch Mai, ngoài số người có nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu ra còn có chừng hơn 300 đồng bào từ trong nội thành tản cư ra đến đấy nấn ná ở lại chờ chiến tranh kết thúc. Bởi vậy, việc cung ứng lương thực, thực phẩm cho mặt trận càng khó khăn hơn).


Trong không khí vô cùng bận rộn như thế, thật bất ngờ tôi được chi bộ Đảng (khi ấy còn mang tên Đảng Cộng sán Đông Dương và vẫn còn hoạt động bí mật) ở khu vực Bạch Mai, tổ chức kết nạp tôi, hôm đó là ngày 1/12/1946.


Chúng tôi, những hội viên trung kiên đã được chọn lọc làm nòng cốt ở lại cùng với những chị em chưa có điều kiện gia nhập hội, đều chấp hành sự phân công của cấp trên với một tinh thần tự nguyện, tự giác và hăng hái khác thường. Ai nấy đều sẵn sàng quên ăn quên ngủ trước công việc và cũng không một ai có nhu cầu được động viên khen thương, dù dưới hình thức nào. Chính vì được đặt vào trong một "môi trường" của cả một thế hệ chị em cùng trong sáng và vô tư như thế, cho nên, mặc dù còn rất ấu trĩ, tôi vẫn được chị em tin cậy, quý mến và sẵn lòng cộng tác hết mình, không mảy may suy nghĩ thiệt hơn!... Cho tới tận hôm nay, sau hơn 50 năm, trong trí nhớ của tôi vẫn ngời sáng những gương mặt vô cùng thân thiết, không hề bị thời gian xóa nhòa, những chị Thục Trinh, chị Hồi, chị Lan, chị Phi, chị Minh, chị Bích, chị Thương... cùng với bao nhiêu gương mặt khác, biết kế sao cho hết được.


... Chúng tôi mỗi đứa mỗi vẻ, mỗi tính, mỗi hoàn cảnh xuất thân nhưng lại có chung một ước vọng khát khao: sẵn sàng sống chết với Thủ đô, sẵn sàng nhận bất cứ một nhiệm vụ gì miễn là kháng chiến cần. Với một tinh thần: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", "Quyết tử cho Tố quốc quyết sinh" đúng lời Cụ Hồ nhắn nhủ mặc dù chúng tôi không ai được vác bom ba càng lao vào xe tăng địch (quân thù đã cử những tên chỉ điểm len lỏi vào hàng ngũ kháng chiến, nên chúng phát hiện được vị trí chiến đấu của chúng tôi, và chúng tôi đã trở thành mục tiêu cần tiêu diệt đối với quân xâm lược, một số đội cứu thương đã bị máy bay giặc liên tiếp tới dội bom bắn phá. Tổ công tác của chị Minh, chị Bản, chị Biền... đã bị bom ném trúng. Và chúng tôi đã phải chôn cất, làm lễ truy điệu chị Minh ngay tại hỏa tuyến ...)


Bắt tay vào việc, chúng tôi tổ chức năm trạm y tế tiền phương, tuần tự hỗ trợ nhau. Trạm thứ nhất được đặc biệt mang cái tên là "Trạm cứu thương xung phong", đặt gần kể với ụ chiến đấu cửa Ô Cầu Dền, do chị Phi phụ trách. Trạm thứ hai đặt tại trường Công Ích (trong ngõ chùa Liên Phái) do chị y sĩ Bính phụ trách. Nhiệm vụ của trạm này là bổ trợ cho trạm trên, sơ cứu thương binh trước khi chuyến về tuyến sau. Trạm thứ ba đặt tại nhà ông Tượng, trong làng Quỳnh Lôi do chị Phương phụ trách. Trạm này nằm ở một địa thế rất tốt, có hồ nước trong và vườn rộng, rất tiện cho việc chăm sóc thương binh, có thể là nơi điều trị cho những thương binh nhẹ. Trạm thứ tư đặt tại một ngôi nhà rất to, đối diện với Chợ Mơ, do chị y sĩ Thưởng phụ trách. Trạm này ngoài việc cứu chữa thương binh tại chỗ, còn được gọi là lực lượng cơ động, sẵn sàng ứng cứu cho các trạm tuyến ở trên. Trạm thứ năm được đặt ở "bốt Bốn chó đá" (mé dưới ngã tư Trung Hiền chừng 150 mét, đối diện với lối vào Hoàng Mai), trạm này là nơi dừng thương binh lại để đáp ứng nhu cầu ăn uống hoặc băng bó lại vết thương, trước khi về Chùa Sét, đồng thời thay đổi lại tải thương ...


Người phụ trách và nhân viên năm trạm hầu hết là phụ nữ (riêng trạm đối diện với Chợ Mơ thì có một số nam giới, là sinh viên y khoa và văn khoa... tình nguyện tham gia). Số chị em là y tá y sĩ đều là người của Bệnh viện Bạch Mai cử tới. Số chị em làm cứu thương hầu hết là nữ sinh của các trường nữ học trong nội thành, được đào tạo qua các lớp trường cấp tốc, có đủ tinh thần hăng hái nhưng chưa hề có kinh nghiệm cứu chữa người bị thương. Còn các chị em làm hộ lý và tải thương thì phần lớn là các chị buôn gánh bán bưng ở Chợ Mơ, chợ Ô Cầu Dền và các chợ khác chung quanh vùng. Các chị làm việc rất khỏe, chỉ trừ thương binh là các chị không khiêng bằng cáng vì sợ các anh đau đớn. Nếu là tử sĩ các chị mỗi chị vác một anh lên vai đi vài ba kilômét không cần đổi vai. Đặc biệt còn có một số chị là "cô đầu" xin được ở lại tham gia kháng chiến. Chúng tôi vui vẻ tiếp nhận, và bố trí công việc cho các chị theo nguyện vọng (các chị đều xin được làm hộ lý hoặc giúp việc nấu ăn) lòng yêu nước đều đã xóa bỏ mọi thành kiến giữa chúng tôi với các chị, chúng tôi thực bụng sống với nhau chan hòa, thân ái không mảy may xích mích.


Đến nhiệm vụ giúp anh Thịnh tổ chức tiếp tế cho mặt trận, chị em phụ nữ cũng gánh vác hầu hết mọi công việc. Lập bếp nấu ăn tại các xóm "ông Lý Vịt" làng Quỳnh Lôi (phía trong trạm y tế thứ ba một quãng). Số chị em ngươi làng Thịnh Yên có nghề làm bánh bèo, bánh chưng, dường như nhà nào cũng có chảo đại để luộc bánh chưng và hấp bánh bèo. Các chị tự động về làng khênh hàng chục cái chảo lớn, nổi lửa suốt đêm ngày nấu cơm và thức ăn phục vụ mặt trận. Trong những ngày ấy không khí làm việc của các chị em trong "xóm ông Lý Vịt" lúc nào cũng náo nhiệt như mở hội, chỗ này xúc cơm chỗ kia chia thức ăn, toán này mổ trâu, thui chó, toán kia bổ củi, thái rau... Người vào nhận phần cơm của đơn vị, kẻ gánh cơm ra trận địa phát cho các anh em đang chiến đấu, ai cũng vội vàng hối hả nhưng tất cả đều cười đùa vui vẻ.


Chúng tôi phải lập thêm một nơi nấu ăn nữa ở khu vực Việt Nam học xá, để đáp ứng nhu cầu của một số đơn vị bộ đội di chuyển qua đây, tạm dừng lại và một số đồng bào tản cư còn đang cố gắng chờ đợi với hy vọng sẽ mau chóng được quay trở lại lại ngôi nhà riêng của gia đình mình.


Kho hậu cần chính của mặt trận đặt tại làng Hoàng Mai, ở đây ngoài thóc gạo và thực phẩm từ các nơi chuyển về, chúng tôi còn có kho thu nhận chiến lợi phẩm (tất cả các thứ quân ta tước đoạt được của địch mà mặt trận chưa cần tới). Có cả trại tạm giam các tù binh là người Pháp. Ở đây, dân làng chưa tản cư, đồng bào sẵn sàng giúp chúng tôi tất cả mọi việc, trước hết là việc xay thóc giã gạo, mổ trâu, bò, lợn... rồi chuyển lên Bạch Mai. Được sự giúp đỡ của dân làng, chúng tôi chỉ phải bố trí mỗi kho, trạm một hoặc hai người làm công việc ghi chép, xuất nhập...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:52:49 am
Khi cuộc chiến tranh thực sự nổ ra, chúng tôi không ai phải đợi địch đánh tới, hoặc chờ lệnh của cấp trên, mà ai nấy đều tự động hăm hở làm công việc đã được giao. Ngay lập tức các trạm y tế đã sẵn sàng người và dụng cụ cứu chữa thương binh. Chỉ hai, ba tiềng đồng hồ sau những người thương binh đầu tiên đã được đưa về! Và tất cả các bép đều nổi lửa. Suốt đêm các chị luôn tay thối nấu, nắm gói, xếp vào thúng, vào bị, rồi kẻ vác trên vai, người đội lên đầu hoặc gánh trong quang... lũ lượt ra đi tìm anh em bộ đội và tự vệ của mình.


Guồng máy cứu thương và tiếp tế của Liên khu II Hà Nội mà hội phụ nữ Bạch Mai được vinh dự là lực lượng nòng cốt, đã khởi động ngay từ giây phút đầu tiên, và cứ thế quay hết tốc lực, không hề ngừng nghỉ trong suốt thời gian "60 ngày đêm". Trong thực tế thì phải trải qua sáu hôm, cụ thể là ngày 25/12/1946 giặc Pháp mới vượt qua được quãng đường hơn 1000 mét từ Bờ Hồ xuống Phố Huế (khi đó còn có tên là Duy Tân), để tiếp cận trận tuyến Ô Cầu Dền... Chỉ có thể kể từ hôm ấy, chúng tôi mới thực sự hiểu chiến tranh và thế nào là người lính trận.


Ngày 25-12-1946 quân Pháp tiến tới ụ Ô Cầu Dền. Sáng sớm hôm sau (26-12-1946) đại bác, liên thanh, súng trường, lựu đạn và cả máy bay, xe tăng... chúng ồ ạt nổ bom và vãi đạn vào Ô Cầu Dền và phố Bạch Mai. Đồng thời xe tăng ra sức nã đại bác, vừa húc vừa phá ụ. Các bếp ăn và trạm cứu thương của chúng tôi từ Việt Nam học xá trở lên qua Chùa Liên Phái và Quỳnh Lôi đều nằm trong vòng bom đạn. Nói cụ thể hơn kể từ hôm ấy mỗi bước đi của chúng tôi đều hệt như một người lính trận, các kiểu súng và các cỡ đạn của giặc Pháp có thể "xóa sổ" mỗi đứa chúng tôi bất cứ lúc nào.


Cuộc tiến công của giặc Pháp vào mặt trận Ô Cầu Dền hôm ấy mà ụ chiến đấu ở cửa ô là trọng điểm, kéo dài suốt ngày. Các đơn vị bộ đội và tự vệ của ta đã chống trả quyết liệt, chúng đành phải rút lui. Đúng sáng ngày hôm ấy, sau khi gặp anh Vũ Quý ở Ủy ban khu cho biết tình hình địch sẽ đánh ác liệt khu vực và dặn dò phải đi kiểm tra các trạm để chuẩn bị đối phó, tôi và em Đồng (nữ liên lạc của Ban cứu thương) đi về trạm chị Thưởng ở đối diện Chợ Mơ. Gần tới đầu ngã tư, nghe tiếng máy bay rít trên đầu, chúng tôi chỉ kịp nằm xuống bên hè nhà, đã nghe tiếng bom nổ rung đất. Ngớt tiếng máy bay, chúng tôi nhỏm dậy phủi quần áo bám đất cho nhau và chị em thở phào nhìn thấy trước mắt mình một cây đa to bị trúng bom bật rễ đổ ngang đường gần trạm thương binh của chị Thưởng, chỉ cách chỗ chúng tôi nằm 100m. Thật may mắn là chúng tôi đi chậm và trạm chị Thưởng ở gần cây đa cũng không bị thiệt hại gì.


Cứ sẩm tối, không kịp vào các làng tìm người, tôi huy động chị em tại chỗ kể cả các chị em đi tản cư còn đọng lại, được hơn ba chục người. Các chị em ra sức đào đất từ trong xóm, gánh ra đắp thêm cho cái ụ được cao hơn, rộng hơn, vững chắc hơn. Công việc không chỉ một đêm là xong, bởi địch ngày nào cũng bắn phá. Vì vậy hầu như đêm nào chị em cũng thu xếp thay phiên nhau tham gia củng cố ụ Ô Cầu Dền.


Cuộc chiến đấu giữa ta với giặc giằng co nhau hàng chục ngày ròng rã mà quân Pháp không sao vượt qua được cái ụ chiến đấu ở cửa Ô Cầu Dền để tiến xuống phía nam thành phố.

Trong thời gian đó, chị em chúng tôi qua thực tế sinh hoạt và chiến đấu đã hiểu sâu sắc ý nghĩa của chiến tranh nó là như thế nào đối với con người. Nhất là con người cụ thể đó lại là những cô gái vừa rời gia đình và ghế nhà trường, như một số chị em chúng tôi khi ấy.


Kể làm sao cho hết những tấm gương quên mình của những chị tải thương, không quản ngày đêm, xông pha dưới đạn bom vác tử sĩ hoặc khiêng thương binh, luồn lách qua các lỗ đục giao thông trong lòng từng căn nhà, mặt mũi chân tay ai nấy đều ứa máu vì va chạm, cọ xát với cạnh sắc của gạch vỡ. Hoặc những cô y tá cứu thương tuổi đời còn măng sữa, không quản "chân yếu tay mềm" thức thâu đêm suốt sáng, ngồi ôm cho thương binh bớt đau đớn, giãy giụa. Hoặc nữa những cô, những chị trúng đạn đại bác của quân thù chết không được toàn thây, bên cạnh chảo cơm chưa kịp chín, cùng với những chị những cô thương anh em bộ đội và tự vệ đã lâu không được ăn rau, đã lẳng lặng rủ nhau đi mót rau ở những mảnh vườn đồng bào khi đi chưa kịp thu hoạch hết, và đã vĩnh viễn nằm xuống trên đường về, bên bao tải rau, su hào...


Tất cả những chị em ấy đã cống hiến trọn vẹn cả hiện tại lẫn tương lai của cuộc đòi họ cho "60 ngày đêm Liên khu II Hà Nội kháng chiến bảo vệ Thủ đô". Họ đã hi sinh với tư thế của người chiến sĩ!

Liên tiếp mấy ngày sau đó (27, 28/12/1946), quân Pháp hung hăng dốc toàn lực đánh phá trận địa của chúng ta, điểm trọng yếu phải tiếp nhận nhiều bom đạn của chúng nhất vẫn là ụ Ô Cầu Dền.

Trận chiến đấu ngày 28-12-1946 được coi là trận đánh lớn nhất đối với cả hai bên (ta, địch) trong thời gian đó. Từ sáng sớm chúng tôi đã nghe thấy tiếng xe tăng gầm rú, rồi tiếp đó là tiếng máy bay rít trên đầu, tiếng bom đạn nổ rung chuyển một vùng. Rồi thương binh tử sĩ bắt đầu được chuyển về. Một chị tải thương hổn hển bảo tôi: "Phải có thêm người chị ạ! Anh em ta bị thương nhiều lắm"!... Tôi vội vàng chui tường lên tận nơi để quan sát. Quả nhiên trận chiến diễn ra rất ác liệt, số anh em thương vong tiếp tục tăng. Tôi quay lại "vét" ở khu Việt Nam học xá, không kể là dân tản cư hay là nhân viên tiếp tế, miễn là họ vui lòng đi cáng thương binh hoặc phụ giúp các trạm cứu thương.


Không ít những chị những anh đang ăn dở nắm cơm, vội vàng gói ngay suất cơm lại, hối hả bắt tay vào việc. Người thì nhập vào các trạm, người thì lên cửa ô góp sức cùng các chị tải thương chuyển thương binh. Công việc dồn dập từ sáng cho tới tận khuya mới vãn. Tất cả đều mệt rũ nhưng ai nấy đều bằng lòng với chính mình.


Những ngày sau đó tình hình chiến sự bỗng chững hẳn xuống. Chỉ thấy máy bay địch đến thả bom và đại bác của chúng từ xa bắn về trận địa của ta. Đồng thời liên thanh cùng các loại súng bắn thẳng cũng chốc chốc lại rộ lên, vãi đạn xuống phố Bạch Mai và các làng lân cận. Tất cả bộ binh, xe tăng và thiết giáp của chúng đều không thấy xuất hiện.


Tuy thế, bên ta ngày nào cũng có thương vong, ít nhất cũng dăm bảy người. Bởi vì ngoài số do bom, đại bác hoặc súng bắn thẳng của chúng sát thương ta tại chỗ, còn một số do bên ta chủ động tổ chức các đội du kích, đêm đêm vượt qua đê Bành Lao tiến sâu vào trong các phố nội thành, tập kích các đồn bốt địch. Anh em đã bị thương vong khi giao chiến.


Tình hình cứ nhùng nhằng như thế ở khu vực Ô Cầu Dền cho tới ngày 15-1-1947. Đối với các anh em bộ đội và tự vệ, dù ít, dù nhiều, đó cũng là thời gian "nghỉ ngơi". Riêng đối với "những người lính trận không cầm súng" như chúng tôi, thì cường độ "đánh giặc" không hề giảm bớt, tất nhiên không kể số chị em làm công việc tải thương và chôn cất tử sĩ. Đại bộ phận chị em khác (cứu thương và tiếp tế) vẫn "tác chiến và thương vong" như thường.


Sau ngày 15-1-1947, mặt trận Ô Cầu Dền bị vỡ. Cùng với các đơn vị bộ đội và tự vệ, chúng tôi đã chuyển hết các thương binh và các vật dụng công tác chuyên môn ra ngoài vòng chiến an toàn trước những làn đạn của bọn Tây mũ đỏ lố nhố ở trên đê bắn theo.


Cuộc chiến đấu của chúng tôi, cùng quân dân Liên khu II Hà Nội trong dịp 60 ngày đêm chống thực dân xâm lược Pháp bảo vệ Thủ đô, đã được khép lại kể từ hôm ấy. Và tất cả chị em chúng tôi mỗi người phụ thuộc vào nhu cầu của tình hình kháng chiến khi đó, đã tỏa đi mọi nơi theo sự điểu động của trên.


Về phần mình, kể từ đấy cho tới hôm nay, đã năm mươi tư năm trôi qua, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ nối tiếp, biết bao nhiêu sự kiện lớn nhỏ đã xảy ra đối với đất nước và cuộc đời tôi. Rất nhiều điều không sao có thể nhớ lại được, trước sự phôi pha của thời gian. Ngược lại có những điều mà được thời gian dài mài giũa lại càng vững bền và sáng chói lên như ngọc. Đó là cái tình thần yêu đã tạo lập được giữa tôi với những người bạn cùng thời ngày ấy...


Những năm gần đây, cứ vào dịp cả nước làm kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1246) và ngày thành lập quân đội (22-12-1946) Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Liên khu II Hà Nội lại tổ chức cho chúng tôi họp mặt tại Nhà văn hóa quận Hai Bà Trưng ở giữa phố Bạch Mai. Ngôi nhà thật to, thật đẹp và anh chị em chúng tôi tất cả đều đã tóc bạc da mồi tấp nập kéo nhau về tay bắt mặt mừng, ai nấy rưng rưng nhớ các đồng đội cũ, nhớ mặt trận Ô Cầu Dền với phố Bạch Mai của hơn năm mươi năm về trước ...

Hà Nội ngày 15 - 3 - 2000
TRẦN THỊ LAN ANH


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:54:01 am
NHỚ LẠI VỀ BAN TUYÊN TRUYỀN LIÊN KHU II


Một buổi trưa đầu tháng 12/1946, Tài đến nhà tôi ở 12 Hà Văn Ký (nay là Vũ Lợi) gọi tôi đi công tác. Tôi lôi cặp dốc hết sách vở, bỏ vào đấy vài cái quần áo, theo Tài đi luôn. Ra đến đường tôi mới hỏi đi đâu, Tài đáp: "Ban tuyên truyền của UBKC LKII. Anh Quỳnh hiện ở đấy".


Cơ quan Ban tuyên truyền LKII đặt tại căn gác chừng hai chục mét vuông chon von trên sân chượng một nhà ba tầng cuối phố Minh Khai (nay là Bùi Thị Xuân). Chủ nhà là anh Ninh, gia đình anh đã sớm tản cư. Căn gác bề bộn những giấy tờ, báo chí, tài liệu, có một máy chữ và một máy thu thanh đặt trên hai bàn con kèm hai cái ghế, ngoài ra trống trơn, cả chục anh em làm việc, hội họp, và trải chiếu ngủ luôn ở đấy.


Anh trưởng ban Lê Hồng Phục trước cũng học ở Hà Nội, sau về quê Thanh Hóa hoạt động bí mật và tham gia Tổng khởi nghĩa. Trở ra Hà Nội, anh đã công tác ở Thành đoàn Thanh niên cứu quốc, văn phòng Thành ủy, rồi Ban tuyên huấn Thành ủy. Khi Hà Nội thành lập các Liên khu, anh được phân về làm trưởng ban tuyên130 truyền của UBKC LKII.


Anh Đặng Trần Quỳnh, phó trưởng ban, thì rất thân thuộc đối với chúng tôi. Trước kia anh cũng là học sinh ban tú tài trường Bưởi. Sau Cách mạng Tháng Tám anh công tác ở thành đoàn Thanh niên cứu quốc, phụ trách khối học sinh, do đó anh là người đã thường xuyên liên hệ và chỉ đạo chúng tôi hoạt động đoàn thể ở trường.


Nhân viên trong ban lúc ấy có: anh Bính sinh viên Cao đẳng mỹ thuật, anh Bùi Mộng Lục cũng là học sinh trường Bưởi học trên lớp chúng tôi, anh Quy đánh máy, và nhỏ nhất là nhóm chúng tôi, năm học sinh lớp đệ tam và đệ tứ trường Bưởi - Chu Văn An, Nguyễn Xuân Thướng, Bùi Lương Tài, Đinh Ngọc Bính, Đinh Trọng Cảng, và tôi, Nguyễn Chương.


Ban chúng tôi rất trẻ, tuổi từ 16 đến 24, đều là thanh niên học sinh sinh ra hoặc lớn lên trên đất Hà Nội. Có hai đảng viên là anh Phục và anh Quỳnh, trước đây đã là cán bộ Thành đoàn, tất cả số còn lại đều là đoàn viên.

Anh Phục, anh Quỳnh tất bật cả ngày cả đêm, thoắt về thoắt đi, ngoài hai bữa ăn và giấc ngủ, hai anh thường chỉ đảo qua cơ quan khi giao việc hoặc phổ biến điều gì đó. Cánh nhân viên chúng tôi thì chỉ Quy và Bính - họa sĩ có nhiệm vụ chuyên môn rạch ròi. Quy múa tay rào rào không nghỉ trên bàn máy chữ, Bính vẽ áp phích, trang trí các ấn phẩm. Một số áp phích do Bính - họa sĩ của chúng tôi vẽ đã được đem lên treo trên phố Tràng Tiến. Còn mấy đứa học sinh chúng tôi thì làm bất cứ việc gì được giao.


Một phần quan trọng trong nhiệm vụ Ban TT LKII là công việc về nhà in. Được cấp trên và các đơn vị khác giúp đỡ, các anh phụ trách ban chúng tôi tổ chức vận chuyển máy móc, giấy mực, tập hợp công nhân, thu xếp địa điểm, bố trí được hai xưởng in, xưởng nhỏ đặt trong làng Sét, xưởng lớn ở làng Khúc Thủy, giáp Cự Đà, bên bờ sông Nhuệ. Xưởng in lớn ở Khúc Thủy chủ yếu phục vụ cho Thành, in báo Cứu quốc Thủ đô, đồng thời cũng in một số tài liệu cho LKII. Máy móc, phương tiện ở đây lấy từ nhà in báo Sự thật của Đảng ở đầu đường Phùng Hưng (nhà in này thời xưa đã từng in báo Tri Tân, Đông Pháp, Trung Bắc chủ nhật...) và một phần từ nhà in Lê Văn Tân phố Hàng Bông, Tài ở chỗ chúng tôi tham gia cuộc vận chuyển này. Còn Thướng thì được phân công phụ giúp công việc ấn loát. Nhà in ở làng Sét phần lớn in tài liệu của LKII, lấy máy móc phương tiện từ một số nhà in nhỏ, chủ yếu là nhà in Giang Tả phố Charron (nay là phố Mai Hắc Đế). Tôi đến cơ quan Ban TT LKII được một hôm, anh Quỳnh cử tôi và một bạn nữa sang chuyển nốt một số hộp chữ của nhà in Giang Tả về làng Sét. Chủ Giang Tả là anh Thụ, anh ủng hộ tất cả nhà in này cho kháng chiến. Chúng tôi khiêng các hộp chữ lên chiếc xe ba gác do một anh công nhân nhà in đưa từ Sét lên, đẩy xe xuống đến đầu làng thì chuyển sang một chiếc thuyền nhỏ đưa vào xưởng in. Trong dãy nhà ngang của một ngôi nhà gạch nền cao, xây bậc thẳng xuống mép sông, có ba bốn cỗ máy in nhỏ hiệu Minerve chạy điện, nhưng cũng có thể quay tay. Ban ngày mà đèn điện đều bật sáng, vì nhà rất tối. Máy chạy rậm rịch, thợ cười nói oang oang - dân thợ in bao giờ cũng ăn to nói lớn, bởi nhà in rất ồn ào. Sau này, tôi và Tài, Lục còn nhiều lần thay nhau xuống nhà in này để đưa bản thảo, giúp sửa bản in thử, lấy ấn phẩm đem đi. Ngoài ra, ban chúng tôi còn một máy in nhỏ nữa đặt ở xóm Mơ Táo, Mai Động. Đinh Ngọc Bính được phân công chuyên làm việc với cơ sở in này. Đây là chiếc máy in do anh Phan, ủy viên tuyên truyền của UBKC tiểu khu Bạch Mai ủng hộ. Anh Phan là công chức vô tuyến điện, đồng thời là chủ một nhà in nhỏ xíu ở giữa phố Bạch Mai.


Những ngày này, công tác tuyên truyền ở các tiểu khu tiến hành rất ráo riết, số người tham gia khá đông, hình thức không rầm rộ nhưng đi sâu vào từng giới, từng nhà, từng người (hồi ấy chưa có tổ dân phố như sau này). Các đội Tuyên truyền xung phong, các đoàn thể đều tập trung giải thích, vận động để nhân dân một mặt bình tĩnh không mắc mưu khiêu khích của giặc Pháp, mặt khác tích cực chuẩn bị kháng chiến. Ai không có sức khỏe, người già, trẻ em thì đi tản cư, "tản cư cũng là kháng chiến". Người có sức khỏe thì tham gia chuẩn bị chiến đấu: vào tự vệ, góp công đắp lũy đào hào, chuẩn bị đục tường thông các nhà, chuẩn bị lập chướng ngại vật trên đường và phá hoại chặn cơ giới địch một khi chiến sự nổ ra, tham gia các đội tiếp tế, cứu thương, vận tải... Tất cả những công việc đó đều làm đảo lộn cuộc sống bình thường của mỗi người, mỗi nhà, và cần có sự hy sinh công sức, tài sản và chấp nhận hiểm nguy của toàn dân, nhưng nhân dân LKII cũng như nhân dân toàn thành vững lòng tin vào Bác Hồ, đã nhất tề hưởng ứng và thực hiện. Ở đây có phần đóng góp đáng quý của hàng ngàn tuyên truyền viên ở cơ sở, đó là những đội viên tự vệ, dân quân, tổ viên các tổ tiếp tế, cứu thương, vận tải, đoàn viên và hội viên các đoàn thể quần chúng cơ sở, đã tự nguyện tuyên truyền vận động ngay trong gia đình, xóm phố, và trước hết họ nêu gương ngay bằng hành động tích cực của mình.


Phục vụ công tác tuyên truyền cơ sở, Ban tuyên truyền Liên khu thường xuyên phân phối tài liệu cấp trên đưa xuống, ngoài ra còn phát hành hàng ngày một bản tin đánh máy đến mỗi ủy viên tuyên truyền tiểu khu. Để biên tập bản tin này, chúng tôi ghi tin tức của Đài tiếng nói Việt Nam qua chiêc máy thu thanh, đồng thời trích chọn từ các bản tin của Việt Nam Thông tấn xã. Hàng ngày chúng tôi cắt người đi lấy bản tin phổ biến và tin tham khảo ở trụ sở Nha Thông tin, ngày ấy là ngôi nhà góc phố Phan Bội Châu - Lý Thường Kiệt (chỗ đại sứ quán Ai Cập bây giờ). Theo yêu cầu của cấp trên, chúng tôi can lại bản đồ đường phố của Liên khu cung cấp cho các đơn vị và cơ sở cần đến.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:54:46 am
Anh Phục trước đây là ủy viên Ban địch vận Thành, anh rất chú trọng công tác này. Ngoài việc hướng dẫn các tiểu khu làm công tác địch vận, anh còn trực tiếp làm và huy động chúng tôi ở cơ quan tham gia. Tài liệu chính để tung vào binh lính Pháp là tờ báo "Le Peuple" (Nhân dân) do cơ quan địch vận của ta xuất bản. Bên cạnh đó còn phát những "tờ rơi", loại truyền đơn nhỏ, đánh máy, hình thức có vẻ "dân dã" và tự phát, lính Pháp nhặt được có thể xem nhanh, dễ cất giấu. Có một lần Tài và tôi lên Bờ Hồ rải truyền đơn địch vận. Chúng tôi đặt vào các khách sạn, hiệu cơm Tây và chủ yếu là thả vào xe của binh lính Pháp. Trời sẩm tối, trong túi vẫn còn một ít truyền đơn, chúng tôi vào rải nốt trong rạp Majestic.


Chúng tôi sống gần hai tuần trong một bầu không khí rất đặc biệt. Vừa có sự hăm hở khẩn trương của người lính sắp vào trận, vừa có sự chặt chẽ kín đáo giống một cơ quan hồi hoạt động bí mật, mà vẫn có cái nhộn nhạo, trẻ trung, vô tư trong một nhà trọ sinh viên học sinh. Tất cả đều lao vào công việc, mà việc - có tên và không tên - lại quá nhiều. Ít bữa cơm nào đủ mặt. Ai làm việc gì biết việc ấy, không tò mò hỏi han kể lể tùy tiện. Thường buổi tối mới gần đủ người ở nhà, quây quần bên máy thu thanh, chơi cờ ca-rô, luận bàn chính sự hoặc chuyện gẫu. Tối ngủ, trải chiếu trên sàn đá hoa, chăn đắp đứa có đứa không, anh Quỳnh lôi về một tấm mền chăn bông không có vỏ, mấy đứa chúng tôi chung nhau, nằm xoay tròn chụm chân vào giữa, chỉ vài hôm là tấm chăn bị đạp thủng tứ tung. Vậy mà chẳng ai mất ngủ cả.


Ngày 19/12/1946, như mấy hôm trước cũng là một ngày gió bấc nhè nhẹ, mây xám kín trời. Tình hình đã căng đến cực điểm. Buổi sáng, chúng tôi làm việc bình thường. Anh Phục, anh Quỳnh đi từ sớm. Quá trưa, anh Quỳnh về bảo: "Tối nay sẽ có chuyện đấy. Cậu nào cần về nhà lấy thêm quần áo chăn màn gì thì về lấy đi".


Tài và tôi rủ nhau cùng đi. Trước tiên đến nhà Tài, tức là nhà ông chú ruột của Tài là cụ Bùi Bằng Đoàn, ở 10 Phan Chu Trinh. Thời gian đi học ở Hà Nội, Tài ở đây. Cuối tháng 11 năm ấy, chiến tranh sắp bùng nổ, nhiều trường cho học sinh nghỉ học đi tản cư, Tài về quê ở Vân Đình thăm bố mẹ rồi lại trở ra Hà Nội, nói là để tiếp tục đi học. Hôm Tài đi, ông bố cho ít tiền tiêu vặt và đưa ra cửa (không ngờ đây là buổi Tài được nhìn thấy ông lần cuối). Tài cuốc bộ 40 km từ Vân Đình ra Hà Nội, không về nhà chú, mà đến ở với bạn bè rồi đi công tác luôn. Hôm nay, Tài mới về nhà chú, rồi xuống nhà ăn, tìm được lọ kẹo mạch nha và một lọ ngâm dấm. Hai đứa mở lọ kẹo mạch nha, nhưng người thì vội mà mạch nha là thứ không thể ăn nhanh, nên chỉ ăn qua loa rồi đi ngay. Tài đem theo lọ ngâm dấm, về cơ quan trước. Tôi về ở nhà Hà Văn Ký, lấy thêm đôi tất và cái chăn chiên Nam Định. Lúc ấy độ hơn ba giờ chiều, trời lại hơi có nắng, tôi dạo qua ga Hàng Cỏ xem sao. Tường nhà ga chi chít những khẩu hiệu rực lửa: "Thanh niên sống chết với Thủ đô", "Thà chết không làm nô lệ". Ga đông nghịt, đồng bào líu ríu tay bồng tay mang chờ đáp tầu về quê. Đây sẽ là những chuyến tầu cuối cùng.


Tối hôm ấy chúng tôi đủ mặt ở cơ quan, ngồi quanh máy thu thanh. "Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa"... Cả đèn lẫn đài bỗng tắt phụt, anh Phục nói: "Bắt đầu rồi". Liền đó tiếng pháo đại bác từ xa đều đều vọng lại: Đại bác ta bắn đấy! Chúng tôi mừng như phát điên, tất cả ùa ra sân thượng. Đường đạn đỏ lừ rạch ngang nền trời phía tây bắc, rồi tiếng súng các cỡ dội lại cũng mỗi lúc một nhiều hơn. Nhưng các anh phụ trách đã kéo chúng tôi trở lại công việc. Tất cả xuống dưới sân, mỗi nhóm một nhiệm vụ. Một số chuẩn bị đi dán bản thông báo của UBKC LKII. Thông báo này do anh Phục thảo, anh Đỗ Đức Kiên duyệt, in tại nhà in cửa chúng tôi ở Khúc Thủy, đem về đã mấy hôm nay, đã in sẵn "tháng 12 năm 1946" nhưng ngày còn để trống, chúng tôi phải lấy bút mực điền vào. Tất cả đồng tình cứ đề đúng hôm nay: ngày 19. Một ai đó còn trịnh trọng nói: "Cho thật đúng lịch sử!" (nhưng ngay hôm sau, Ban chúng tôi bị phê bình, vì đề ngày như vậy địch sẽ vin cớ, đổ cho ta gây hấn, dẫu rằng về thực chất cuộc chiến tranh này do chính chúng cố tình gây nên, còn phía ta đã cố cứu vãn hòa bình đến cuốỉ cùng. Dù sao thì hôm sau chúng tôi cũng phải chia nhau đi bóc, tất nhiên không bóc được hết).


Tôi được phân công vào nhóm đi phối hợp với tiểu ban tuyên truyền tiểu khu sở tại vào các nhà dân vận động số đồng bào còn ở lại cấp tốc đi tản cư nốt. Rồi tôi nhập vào toán thanh niên khuân vác bàn ghế, giường phản ở các nhà ra xếp thành chướng ngại vật trên phố, trong số này, có một số anh chị em tự tay khiêng đồ đạc nhà mình ra chất đống trên đường. Tôi sang phố Lê Lợi (đoạn cuối đường Bà Triệu bây giờ), nhiều cây to đã được khoan lỗ để đặt mìn, nhưng mìn không nổ, anh em phải dùng cưa tay, thế mà đến quá nửa đêm đã có một số cây đổ xuống, cành lá xùm xòa chắn kín mặt đường. Tiếp đó, tôi lại gia nhập đoàn người vào phá nhà máy Diêm: vật liệu, kho tàng thì khuân đi được, nhưng phá nhà máy thì không có thuốc nổ, anh em công nhân hướng dẫn mọi người tháo một số bộ phận của máy to, còn máy nhỏ thì hò nhau lật nó lăn kềnh mà thôi. Ai nấy đều mệt, nhưng vui, tiếng súng liên hồi vọng lại càng thôi thúc mọi người thêm hối hả. Trời hửng, tôi trở về cơ quan, vừa gặp anh em tự vệ giải một toán tù binh đi qua, có lẽ là bọn trong một ổ tác chiến của địch ở phía Chợ Hôm: mấy thằng lính Tây cải trang, có một thằng đi khập khễnh, theo sau cùng là một mụ đầm, chắc là gia chủ, cứ luôn mồm lải nhải: "Tôi già rồi, đừng giết tôi, đừng giết tôi...". Tôi đến bên, nói với mụ: "Im đi! Người ta không giết bà đâu."


Mấy ngày tiếp theo, tiếng súng mỗi lúc một gần. Các trận kịch chiến diễn ra ở nhiều điểm khắp LKII. Công tác tuyên truyền lúc này chủ yếu là tiếp tục vận động và giúp đỡ đồng bào tản cư triệt để, động viên những người còn lại ở lại tham gia phục vụ chiến đấu. Chỗ chúng tôi trở thành trạm nghỉ chân của một số đơn vị lên đánh phía trên hoặc rút quân về phía dưới. Từ Đấu Xảo, Trại Vệ quốc đoàn, Bộ Quốc phòng... các anh sơ sơ kể chuyện chiến đấu. Ngay trên đầu phố chúng tôi, diễn ra trận đánh quyết liệt hơn một ngày ở Bộ Tổng tham mưu (Tổng cục Bưu điện 18 Nguyễn Du ngày nay), đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về bom ba càng diệt xe tăng địch. Hôm anh em rút qua chỗ chúng tôi, một anh vệ quốc giơ cho tôi xem báng súng mút-cơ-tông của anh có một vết xước sâu: "Không vướng cái này, đạn nó xuyên thủng bụng tớ rồi đây". Rồi anh cười khì khì. Chiến sĩ các đơn vị phải rút lui thường mệt mỏi, có khi đem theo cả thương binh, nhưng tư thế vẫn hiên ngang và tinh thần quyết chiến vẫn sôi sục, vậy nên khi nghe các anh cho biết địch đã đến đây, đến đó, chúng đã chiếm được chỗ nọ, chỗ kia, chúng tôi không buồn, không sợ, mà chỉ càng phấn chấn hơn lên.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:55:24 am
Chúng tôi được lệnh chuyển cơ quan xuống Bạch Mai. Ở tạm một ngày trong căn nhà nhỏ của anh Phan, gần Trại Găng, rồi xuống hẳn dãy FACIDEO xế Chợ Mơ (Fabrication de Cigares d'. Extrême-orient - Xí nghiệp xì gà Viễn Đông!). Đây là một dãy nhà hai tầng bốn năm gian rộng liền nhau, Ban tuyên truyền ở hai gian đầu, còn lại là mấy đơn vị khác.


Hôm sau, Quy và tôi được phái lên địa điểm cũ phố Minh Khai xem còn đồ đạc giấy má gì thì đem về nốt. Sau khi chúng tôi thu gom mọi thứ trên gác đem xuống, mở chạn bếp thấy còn nhiều cơm nguội và mỡ, Quy nhóm bếp, bắc chảo lên bảo tôi rang cơm, còn anh thì chui lỗ tường sang bên cạnh. Lát sau anh đem về một chai còn gần nửa mật ong. Quy nói: "Tao không thổ phỉ của đồng bào đâu nhá. Đây là tao tước của Tây. Chốc nữa xuống đây chúng nó vơ hết, phí đi!". Chúng tôi ăn cơm rang, uống mỗi đứa nửa bát mật ong. Uống xong bụng nôn nao, đầu óc quay cuồng, đứng lên lảo đảo chỉ muốn đổ nhào, trong lúc tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lại đã rất gần, tưởng như ngay ở đầu ngã tư nhà Rượu. Sau độ nửa giờ say mật ong, chúng tôi gượng dậy được, ôm đồ đạc lần theo các lỗ đục tường và men tường rào nhà máy Diêm về đến gần Ô Cầu Dền. Địch đang nã pháo và súng cối vào đây, một chiếc bà già vè vè trên không chỉ điểm, nhà lá bên xóm Tô Hoàng cháy phần phật. Chúng tôi nhảy xuống giao thông hào chữ chi dọc bờ sông Tô Lịch. Hai đoạn hào đầy người. Một anh tự vệ văng câu chửi tục rồi giương súng trường nhằm máy bay bà già bắn liền hai phát. Một anh khác quát: "Không được bắn, lộ mục tiêu!". Pháo địch ngớt, một anh có vẻ là chỉ huy đứng lên bờ hào nói to: "Bộ binh nó sắp đến đấy. Các đồng chí đồng bào, ai không có nhiệm vụ phải đi xuống dưới kia, để anh em chúng tôi còn sửa soạn chiến đấu". Mọi người tản đi. Hai đứa chúng tôi tách ra. Quy theo vệ sông ngược lên, qua chiếc cầu gỗ (lúc ấy hãy còn) vòng Việt Nam học xá về cơ quan. Còn tôi trèo qua ụ, xuôi thẳng phố Bạch Mai.


Tôi vừa qua khỏi ụ Ô Cầu Dền thì địch lại bắn dữ dội. Lần đầu nếm mùi đạn pháo, tôi cuống, cứ quáng quàng chạy trên vỉa hè nhảy cóc từ hố cá nhân này đến hố cá nhân khác, tai ù không còn nghe thấy tiếng nổ, chỉ loang loáng nhìn thấy từng đám bụi bay lên và những vầng sáng lòe bùng lên trước mặt. Mãi đến lúc có một ai đó ghé tận tai tôi hét to: "Tạt ngang ra! Cứ chạy dọc phố, ngu thế!" chỗ ấy là Trại Găng. Tôi tạt theo hàng cây găng, được một quãng xa thì ngồi thụp bên một mô đất, thở hồng hộc. Quả nhiên ngồi đây thì yên. Còn pháo địch cứ tiếp tục ùng oàng từ đầu Ô xuống cuối phố rồi ngược trở lại.


Pháo dứt, tôi về cơ quan, lần này thì bình tĩnh và cẩn thận, đi qua các lỗ đục tường, về đến nơi đã thấy Quy ung dung đánh máy chữ, thoáng thấy tôi, anh chỉ hất hàm như không có gì xảy ra. Một lúc lâu sau, Cảng cũng về, thì ra Cảng cũng được thưởng thức trận pháo địch dập xuống đầu ô vừa rồi. Cảng đi công tác, về đến cuối Mai Hắc Đế, vào một cơ quan của Liên khu thì một loạt pháo vừa bắn vào đây. Đạn trúng nhà, trong gian phòng đầy bụi và gạch vỡ, một anh tự vệ trúng mảnh đạn hy sinh, nằm ngay cạnh lò sưởi. Mấy người trong gia đình chủ nhà, có hai phụ nữ, lộ vẻ sợ hãi, Cảng giật lấy một tấm chăn, phủ lên thi thể anh tự vệ. Lúc trở ra đường, gặp một đơn vị Vệ quốc quân đang đến nhận thêm vũ khí để lên ngay trận địa, Cảng cũng xà vào khiêng giúp mấy quả đầu bom ba càng.


Một tuần đã qua. Sau khi chặn đánh và tiêu hao địch trong khu vực trung tâm thành phố, lực lượng ta ở LKII bố trí lại thành một tuyến từ Thanh Lương - Ô Đống Mác qua Ô Cầu Dền sang Kim Liên. Phố Bạch Mai trở thành xương sống của cả chiến tuyến. Đầu ô là chiến lũy Ô Cầu Dền, địch tập trung đánh phá nhưng trận địa ta rất kiên cố. Súng nổ suốt 24 giờ. Ngày địch đánh ta giữ. Đêm địch co cụm, ta luồn lên tấn công lại, có khi thọc sâu lên tận Chợ Hôm, Hàng Bài. Giữa và cuối phố, cả một vùng quanh ngã tư Trung Hiền và Việt Nam học xá tập trung các cơ sở hậu cần, y tế và các cơ quan của Liên khu, trong đó có Ban tuyên truyền chúng tôi. Pháo địch nổ rải rác cả ngày, chúng còn ném bom Chợ Mơ. Mọi người đi qua đều luồn theo lỗ đục tường. Cần qua đường thì men theo các sợi dây chăng ngang qua phố, trên vắt chăn vải để che mắt địch. Đi lại ban đêm phải nhớ mật khẩu mới qua được các trạm gác.


Dân đã tản cư hết. Các tiểu khu cũng không còn nguyên vẹn. Địa bàn công tác của chúng tôi lúc này thực tế là mặt trận phía nam Thủ đô, gồm phần đất còn lại của LKII gắn với ngoại thành Thanh Trì. Công việc chính của Ban tuyên truyền là xuất bản tờ báo mặt trận: tờ "Tin tức", cơ quan của UBKC LKII. "Tin tức" ra một tuần hai hoặc ba kỳ, bốn trang khổ nhỏ nửa tờ báo hàng ngày. Nội dung có tin tức kháng chiến trong và ngoài liên khu, có khi có cả chuyện vui, nụ cười mặt trận. Xã luận thường do anh Phục viết, dưới bút danh Trường Kỳ. Anh Phục trực tiếp phụ trách phần công việc về biên tập bài vở, anh Quỳnh chuyên lo tổ chức cơ quan, in ấn, phát hành. Báo in thời kỳ đầu ở Mơ Táo và làng Sét, cuối cùng thì ở Khúc Thủy, mỗi kỳ chỉ hơn trăm bản. Bính - họa sĩ - chịu trách nhiệm trình bày, tuy nhiên không có phương tiện in tranh, ảnh. Bọn "trẻ" chúng tôi thì có người nằm hẳn tại xương in, có người giúp công tác biên soạn, lấy tin, vận chuyển và phát báo.


Anh Phan không còn bận công tác của tiểu khu Bạch Mai nữa, anh vào hẳn cơ quan chúng tôi, trợ giúp anh Quỳnh trong mọi việc về các nhà in. Một người nữa mới đến, là anh Phấn, từ tự vệ chiến đấu chuyển sang, tuổi chỉ trên dưới 20 nhưng rất đạo mạo, ít nói và càng ít cười, lúc nào cũng đội chiếc mũ hướng đạo sinh trên đầu, anh phụ tá anh Phục về mặt biên tập. Anh Phấn là người duy nhất trong "tòa soạn" được các anh phụ trách cho phép đi theo các tổ chiến đấu luồn lên trên phõ đánh địch, bởi anh được huấn luyện quân sự hẳn hoi và đã từng chiến đấu trực tiếp. Trong các tin, bài anh Phấn viết, có một bài tả lại rất sinh động một cuộc xuất kích của các chiến sĩ ta đánh vào sau lưng địch, được anh Trần Vỹ, ủy viên quân sự, và các anh trên Liên khu rất khen ngợi. Báo "Tin tức" còn một bài nữa gây tiếng vang trong độc giả ở Liên khu, tôi không nhớ do ai viết, tả lại trận lần đầu tiên ta bắn cháy xe tăng địch bằng súng ba-dô-ka ở Ô Cầu Dền.


Cơ quan nhỏ bé của chúng tôi vẫn giữ được cái duyên hiếu khách. Các toán chiến đấu "lên ngược về xuôi" thường ghé vào nghỉ chân và cung cấp tin tức sốt dẻo. Anh chị em dân công đêm đêm lên sửa chiến lũy cũng hay tạt vào. Một số nhà văn, nhà báo đi thực tế mặt trận đều qua chỗ chúng tôi. Các anh Đồ Phồn, Hồng "kính" (Thép Mới) có lần ngủ đêm lại, chúng tôi tranh thủ mời các anh viết cho "Tin tức". Một lần anh Tô Hoài đến, anh Phục tự dẫn anh lên thăm chiến lũy Ô Cầu Dền.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:56:08 am
Tại mặt trận cơm nóng, cháo nóng dành cho thương binh, còn chúng tôi ở cơ quan thì ngày hai bữa được phát cho hai nắm cơm kèm chút cá khô, thịt kho, muối vừng. Riêng Tết dương lịch 1/1/1947 chúng tôi được một bữa "tiệc" cơm nắm với thịt chó nấu... súp lơ. Cũng có khi mỗi bữa chỉ một nắm cơm không, chúng tôi tự kiếm muối, đường, nước mắm mà chấm (giữa phố Bạch Mai có một cửa hàng nước mắm, chui tường qua đấy mùi nước mắm vẫn lừng). Có lần Bùi Mộng Lục vớ đâu được lọ cà cuống, chúng tôi quệt cà cuống vào cơm nắm ăn ngon lành, có anh rẩy quá tay, rồi kêu đắng quá, nhưng vẫn hết băng băng. Nhân đây tôi xin ghi nhận một điều mà thời ấy chúng tôi cho là bình thường, là lẽ tự nhiên, nhưng về sau càng nghĩ lại càng thấy nó rất đặc biệt, thậm chí là một sự thật khó tin. Đó là: Suốt hơn 50 ngày đêm ở mặt trận khói lửa chúng tôi chưa hề một lần bị đứt bữa ăn, kể cả về sau này, khi trận tuyến phía Nam bị vỡ, một số cơ sở tiếp tế bị địch xông vào bắn phá, hoặc cả khi Liên khu II không còn nữa, các đơn vị, cơ quan của Liên khu chỉ là những bộ phận còn lại tạm ghép với nhau, thì hàng nghìn chiến sĩ, cán bộ, nhân viên vẫn được cung cấp đầy đủ ngày hai bữa.


Liên khu phát giấy chứng minh. Mỗi người một tấm thẻ nhỉnh hơn bàn tay, bằng bìa mỏng màu vàng nhạt ghi tên, tuổi, đơn vị, có chữ ký của anh chủ tịch Nguyễn Văn Đào và đóng dấu Ủy ban kháng chiến Liên khu II thành phố Hà Nội. Cán bộ thì góc dưới bên trái thẻ có ký hiệu chữ CB, nhân viên và liên lạc chữ ZT. Đi lại trong khu vực mặt trận phải mang theo thẻ này để dễ kiểm soát.


Chúng tôi cũng được phát vũ khí. Phần tôi là một quả lựu đạn Phan Đình Phùng (tên xưởng quân giới của ta), loại "lọ mực" làm theo kiểu Nhật. Loại này sử dụng hơi lích kích và kém an toàn, phải quài tay ra sau đập vào gót giầy đinh hoặc vật gì cứng kêu "bép" một cái rồi mới ném đi. Một lần, trong toán chiến sĩ lên phố đánh đêm ghé vào chỗ chúng tôi, có một anh đứng tuổi, trông thấy tôi đeo lựu đạn, anh bảo: "Đưa "lọ mực" đây, đêm nay lên phố tao cho Tây xực luôn. Cho mày cái này, lịch sự hơn". Anh đổi cho tôi một quả lựu đạn mỏ chìa của Pháp.


Sống cảnh trận mạc, nhưng chúng tôi vẫn cứ vui nhộn, có điều kiện thì cũng bày trò chơi. Không hiểu ai kiếm đâu được một quả bóng bàn. Chúng tôi lấy phấn vạch lên đá hoa làm bàn, dựng hộp xì gà làm lưới, lấy nắp hộp làm vợt, đánh bóng với nhau. Một hôm, giữa lúc địch bắn pháo xuống, Cảng và tôi vẫn mê mải đấu bóng, bỗng đâu nghe một tiếng "bịch" rất nặng ngay ngoài cửa sổ sát chỗ chúng tôi chơi. Chạy ra xem, thì đó là một đầu đạn 105, nó rơi ngang nên không nổ và cũng không chui sâu xuống đất, sờ còn nóng rẫy. Nghe tiếng hò reo, anh Phấn chạy ra. Anh hí hửng như bắt được của, cởi luôn áo ngoài bọc quả đạn bê ra sau bếp, hét inh ỏi: "Tất cả chạy ra xa! Tao tháo thử xem sao!" Rồi anh lấy dao, kìm, đặt quả đạn lên đùi, định tháo thật. Nhưng các anh phụ trách kiên quyết không cho tháo, anh Phấn đành ôm đầu đạn ra phía sau, thả xuống một hố nước sâu.


Chắc chắn thanh niên Liên khu II chúng tôi nằm trong số những người đầu tiên đã hát vang bài "Người Hà Nội" của Nguyễn Đình Thi.

Ở tuổi "nhất quỷ nhì ma" của bọn tôi, khi hát vẫn thoáng một nét tinh nghịch. Cứ đến đến câu "bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào" là tất cả lại gật đầu làm hiệu hoặc chỉ tay vào Tài, làm anh chàng đỏ bừng mặt. Bởi Tài là người duy nhất trong bọn đã có được một "đôi mắt nào" để mà "bồi hồi".


Tin tức trong Liên khu nhà đã có nhiều nguồn cung cấp để đăng báo, anh Phục cho chúng tôi tìm cách sang lấy tin mặt trận các Liên khu bạn. Thoạt tiên, Cảng và tôi mò sang Liên khu III. Chúng tôi qua Vọng, vòng các vị trí quân ta ở nhà thương Bạch Mai và Kim Liên rồi men bờ ruộng và đường làng Trung Phụng, lên ngõ chợ Khâm Thiên, định mò ra tận chiến lũy, nhưng lúc ấy địch từ nhà chè Phú Xuân và quán cơm Hỏa xa đang bắn xuống rất rát, anh chỉ huy ở đây không cho đi.


Tiếp đấy, chúng tôi vào Liên khu I. Trong khoảng hơn chục ngày, tôi vào Liên khu I bốn lần. Lần thứ nhất và lần thứ tư đi một mình. Lần thứ hai đi cùng với Cảng. Lần thứ ba đi cùng với Bính - họa sĩ. Cả bốn lần theo một lộ trình không thay đổi, vì trong những ngày ấy thế trận của ta và địch giằng co, đánh nhau quyết liệt nhưng trận tuyến đại để vẫn như cũ. Từ ngã tư Trung Hiền, chúng tôi sang Vọng (mặt trận còn ở trên Kim Liên) sang Ngã Tư Sở (mặt trận còn ở mãi trên Khâm Thiên), Ô Cầu Giấy (địch còn ở tận Nhà tiền Kim Mã), Bưởi (ta đang chặn địch ở dốc Tam Đa), Tứ Tổng, Nhật Tân, đến đây phải xuống bãi, ra tận mép bờ sông, đi ngược lên đến bãi Phúc Xá. Dưới bãi thuộc về ta. Trên đê, địch kiểm soát suốt từ Đầu cầu đến Yên Phụ. Ở Nhật Tân, tôi hỏi thăm Quảng Bá và Nghi Tàm (quê tôi) do ta hay địch kiểm soát, thì không ai trả lời chắc cả. Chờ ở Phúc Xá cho tới khi trời thật tối mới chui qua cầu Long Biên, sang bãi bên kia, trổ lên đê đúng chỗ Cột đồng hồ, đó là cái cổng duy nhất để ra vào Liên khu I. "Lên đê trúng Cột đồng hồ" là vấn đề sinh tử, vì quãng đê còn trong tay quân ta chỉ hai ba trăm mét là cùng - từ Nhà máy nước đá trở xuống qua Bác Cổ, Đồn Thủy... lại là trận địa của quân địch rồi. Từ Cột đồng hồ qua ngõ Phất Lộc vào Hàng Bạc, Ban tuyên truyền Liên khu I đóng trong một căn gác giữa phố này. Chúng tôi chỉ ở lại một vài tiếng đồng hồ để trao đổi tài liệu, chuyện trò, ghi chép, xong phải ra ngay trong đêm vì rạng sáng không chui qua cầu được nữa (địch đóng chốt cả hai đầu cầu và có quân gác trên cầu).


Gặp các anh Ban tuyên truyền Liên khu I, chúng tôi rất mừng, các anh cũng rất mừng và có phần ngạc nhiên. Chúng tôi đưa các anh những số báo "Tin tức" mới nhất và truyền đơn, tài liệu do chúng tôi in. Các anh cho chúng tôi một số bản tin của Liên khu I. Kể cho nhau nghe chuyện đánh giặc và tình hình sinh hoạt. Chúng tôi thích thú và thấy lạ chuyện các anh kể về phố Hàng Buồm: đêm vẫn sáng đèn dầu và nến, các nhà Hoa kiều một số vẫn bán hàng. "Vui ra phết, các cậu vào vài hôm mà xem". Cơ ngơi và quang cảnh Ban tuyên truyền Liên khu I khá giống chỗ chúng tôi: Giấy má bề bộn, chăn chiếu ngổn ngang các góc nhà, ai nấy vui nhưng tất bật và luôn luôn buồn ngủ. Về "của nổi" thì các anh giầu sang hơn chúng tôi: nhiều máy chữ, rất nhiều đồ dùng văn phòng, nhưng "của chìm" thì Liên khu II chúng tôi hơn hẳn, chúng tôi có mấy xưởng in, và gắn với cả một hậu phương rộng lớn. Các anh tặng Ban tuyên truyền Liên khu II bút, giấy đánh máy, giấy than... Các anh bảo: "Tha hồ, muốn lấy bao nhiêu thì lấy", nhưng chúng tôi chỉ gói một số đủ sức mang, vì đường xa. Về cơ quan, tôi báo cáo các anh Liên khu I nói ở nhà in Lê Văn Tân còn nhiều chữ lắm, anh Quỳnh bảo tôi xin lấy một ít. Lần sau vào, tôi hỏi xin, các anh Liên khu I đồng ý và hứa sẽ lấy cho; nhưng rồi sau đó chiến sự biến đổi các anh không vào đấy được nữa.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:56:55 am
Tôi đinh ninh sẽ lại vào Liên khu I một lần nữa, lần này nằm hẳn vài ngày để viết bài. Các anh trong ấy còn hẹn tôi vào ăn tết nữa kia. Nhưng rồi mặt trận Liên khu II có diễn biến đột ngột.

Một tối trung tuần tháng 1/1947, tôi nhớ đó là ngày ông Táo lên trời, tôi về Sét có công tác nhà in, rồi ngủ lại đây. Tinh mơ hôm sau, bỗng nghe tiếng súng nổ dồn dập ở phía trên, mỗi lúc một nhiều hơn và gần hơn. Từng đoàn người vội vã kéo về qua. Tôi không tin rằng địch có thể vượt qua được chiến lũy Ô Cầu Dền của chúng ta. Quả thật chúng đã không vượt qua được, nhưng chúng đánh gọng kìm vào phía sau. Địch đổ bộ Vĩnh Tuy, đồng thời tấn công Nhà thương Bạch Mai, từ hai phía tiến về ngã tư Trung Hiền. Trời sáng rõ thì anh em Ban tuyên truyền chúng tôi đã phải vượt dưới làn đạn để về Sét, vì địch ở hướng Vĩnh Tuy đã đến sát ngã tư. Anh Phục về đến nơi, lưng và vai bê bết máu, anh em hoảng lên, tưởng anh bị thương nhưng không phải: Qua ụ ngã tư, gặp một anh tự vệ bị thương, anh Phục cõng người ấy đến trạm xá. Một số đơn vị tự vệ và vệ quốc hành quân lên, nhân viên các cơ quan lần lượt rút xuõng.


Chiều hôm ấy, chúng tôi được lệnh chuyển hết xưởng in ở Sét và chiếc máy in ở Mơ Táo về Khúc Thủy. Thật ra thì số lớn máy móc giấy mực và công nhân ở Sét đã chuyển trước về Khúc Thủy rồi, Tài tham gia cuộc vận chuyển này: chở bằng thuyền từ Sét ra đường số 1, khiêng bộ qua làng Đại Từ sang sông Tô Lịch, lại chở tiếp bằng thuyền đến trên làng Tó thì đi vào sông Nhuệ và xuôi xuống Khúc Thủy - Cự Đà. Lần chuyển nôt này, chúng tôi cũng đi đường ấy, nhưng phải khiêng bộ suôt quãng Đại Từ tới làng Tó. Dân tuyên truyền đều thuộc loại vai học trò, nhưng tất cả chúng tôi đều tận lực. Có toán đi sau, đến Đại Từ thì tối, anh em ngủ luôn trong ngôi miếu giữa cánh đồng. Nhìn về hướng Thủ đô, ngay gần chúng tôi, bầu trời LKII rừng rực khói lửa suốt từ Vĩnh Tuy, Mai Động, qua Chợ Mơ tới Ngã Tư Vọng. Chúng tôi lại nghĩ tới bài hát: "Người Hà Nội":

   Bùng cháy, các phố ta ơi!
   Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
   Trời Hà Nội đỏ máu...


Quy là "người hùng" của chúng tôi trong cuộc vận chuyển cấp tốc này. Các bộ phận máy in đều nặng, chúng tôi hai đứa mới khiêng nổi một cái bàn đạp, thế mà một mình Quy nhận lấy cái bánh xe tay quay, nặng hơn rất nhiều. Anh cứ đánh cái bánh xe lăn chồm chồm trên các con đường làng mấp mô, vừa chạy vừa hô "ếp ếp" vượt trước chúng tôi rất xa. Chúng tôi ới gọi bảo anh chạy chậm lại, anh gắt: "Chậm thế đếch nào được? Chậm thì kềnh bố nó ra chứ!". Sau, cái "xe tăng" của anh cứ chạy trước một quãng tựa vào gốc cây chờ anh em.


Cầu làng Quang bắc qua sông Tô Lịch lúc này chỉ còn hai thanh tre bắc ngang, chúng tôi rất vất vả mới đưa được các bộ phận máy in qua mà không ai bị rơi xuống nước. Đường Quang về Tó dễ đi hơn, dọc hai bên vương vãi nhiều bông băng thấm máu, chắc có một trạm quân y nào cũng vừa chuyển qua đây.


Chiến tuyến ở Bạch Mai đã vỡ, nhưng Liên khu II vẫn tiếp tục chiến đấu, và ở nhà in Khúc Thủy, Ban tuyên truyền của Liên khu vẫn gấp rút hoàn thành số báo Tết Đinh Hợi. Đây là số báo đặc biệt in trên bốn trang khổ to, giấy mầu hồng. Các anh phụ trách động viên chúng tôi viết bài "phông" cho số tết. Bài của Thướng được giải nhất và được đăng. Bài này mang cái tít độc đáo, mỗi một từ: Anh! Ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của chiến sĩ bảo vệ Thủ đô. Số báo ấy in nhiều hơn thường lệ, sau khi phân phát đi các đơn vị, còn dành ra một phần phát hành cho dân chúng, dạo ấy người Hà Nội tản cư còn tập trung khá đông ở vùng Cự Đà, nơi ấy vẫn thoang thoáng cái vẻ dập dìu của các "tài tử giai nhân" thời chiến. Anh Quỳnh cho chúng tôi biết: hồi ấy phần lớn đội thiếu nhi Hàng Bè theo gia đình tản cư ra Cự Đà, đã thường xuyên giúp việc phát hành báo "Cứu quốc thủ đô" và báo "Tin tức".


Số "Tin tức" Tết Đinh Hợi là số báo cuối cùng của chúng tôi.

Tôi 30 Tết anh Quỳnh triệu tập tất cả, ngồi gọn trên hai tấm chiếu. Đêm yên tĩnh. Nhìn về hướng Hà Nội, trời vẫn sáng lên vài đám hồng hồng. Anh Quỳnh nói sơ về tình chiến sự và nhấn mạnh kháng chiến còn lâu dài gian khổ. Anh động viên chúng tôi tiếp tục tham gia kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Anh nói: "Con đường của tất cả chúng mình là "cờ - bờ - chờ ngờ " - cán bộ chuyên nghiệp. Các cậu đừng tưởng đã sớm quay về đi học được đâu".


Đó là buổi họp mặt đông đủ cuối cùng của Ban tuyên truyền Liên khu II và cuộc nói chuyện ngắn của anh Quỳnh là lời nhắn nhủ chuẩn bị chia tay. Dần dần anh Phục, anh Quỳnh và anh em lần lượt chuyển đi công tác khác, nhà in bây giờ hoàn toàn là nhà in của báo "Cứu quốc thủ đô" và cũng rục rịch di chuyển.

Ban tuyên truyền Liên khu II chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.

NGUYỄN CHƯƠNG


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:58:10 am
CHẶN ĐÁNH GIẶC Ở TRƯỜNG HÀM LONG


Ngay trong đêm 19/12/1946 khi lực lượng Vệ quốc quân còn phải đảm nhiệm việc đánh chiếm các vị trí tập trung của địch như ở bưu điện Bờ Hồ, Bắc Bộ phủ, nhà Sainteny và rạp chiếu bóng Majestic thì tự vệ chiến đấu của Liên khu II cũng phải giải quyết nhanh các ổ tác chiến của địch ở số nhà 74 phố Jacquin (Ngô Thì Nhậm) và đầu ngõ Bernard de Beau (Nguyễn Chế Nghĩa). Hai ổ tác chiến của địch đều nằm trong địa bàn của tiểu khu Chợ Hôm. Và chỉ trong ngày 20/12/1946, tự vệ chiến đấu đã buộc hai tác chiến của địch phải rút chạy.


Ngày 21/12/1946 địch nổ súng tấn công từ ngã tư Hàng Bài - Phố Huế. Các tổ Vệ quốc cùng tự vệ đã phối hợp với nhau canh chừng và đánh địch khi chúng kéo bộ binh xuống. Nhưng độ nửa giờ sau thì địch im tiếng súng và cả ngày hôm ấy chiến sự ở Liên khu II tương đối im lặng.


Trụ sở của tự vệ tiểu khu Chợ Hôm đóng ở số nhà 108 Phố Huế. Nơi đây có cổng thông sang phố Charron (Mai Hắc Đế). Chúng tôi nhận định cuộc tấn công của địch ngày 21/12 là để thăm dò cách phòng ngự của ta và để chúng chuẩn bị cuộc tấn công sắp tới. Tôi phụ trách lực lượng tự vệ của tiểu khu Chợ Hôm đã phối hợp với Vệ quốc quân của đại đội 3 do Bảo Cường làm đại đội trưởng và Lê Ngọc Tấn làm chính trị viên thuộc tiểu đoàn Hoàng Kiện (Lê Ngọc Tấn nay là đại tá Cục chính trị Tổng cục hậu cần, đã về hưu). Tấn và tôi bàn cách bố trí lực lượng chặn đánh địch, cùng nhận thấy ngã tư Hàng Bài - Phố Huế và trường Hàm Long là hai nơi mà địch sẽ tấn công xuống. Chúng tôi đã bố trí 5-6 tự vệ với một tổ Vệ quốc quân để giúp nhau về vũ khí chiến đấu...


Tảng sáng ngày 22/12/1946, chúng tôi vừa bố trí xong lực lượng thì thấy anh Lê Ninh trong đội hỏa thực (tiếp tế) đã đem cơm nắm, thịt kho khiêng lên phân phát cho tất cả mọi người, không phân biệt tự vệ hay vệ quốc (sau này anh Lê Ninh lấy tên là Lê Khởi Nghĩa, là thư ký riêng cho thủ tướng Phạm Văn Đồng suốt chín năm kháng chiến chống Pháp). Nhìn anh cao lêu nghêu, gầy gò, hai tay ôm thúng cơm nặng, lưng giắt quả lựu đạn, quần áo lấm lem vôi gạch... anh em vệ quốc và tự vệ thương anh lắm, vì có được số cơm nắm nhiều như thế này thì các anh, chị Ban tiếp tế phải thức suốt đêm qua mới làm xong.


Mọi người vừa ăn cơm, vừa chỉ cho nhau nơi nấp chặn đánh địch và hướng tấn công của chúng. Một lúc sau thì súng địch nổ dữ dội. Có anh vội vứt bỏ nắm cơm đang ăn dở, có anh cẩn thận gói lại cất vào túi rồi cầm lấy vũ khí của mình chạy lên nằm sát chân tường có hàng rào song sắt sát với hè đường. Địch từ ngõ Nguyễn Chế Nghĩa nổ súng rất mạnh vào vị trí trường Hàm Long. Chúng định chiếm lấy trường này làm vị trí thọc sâu xuống Phố Huẽ và đường Jacquin, Lò Đúc... lực lượng của ta cũng chặn đánh địch quyết liệt bằng lựu đạn và súng trường nổ từng phát một nhằm vào những tên liều lĩnh định vượt qua tường sang trường Hàm Long. Hai bên cầm cự nhau suốt gần một giờ. Mặc dù địch có nhiều súng đạn, bắn không tiếc, nhưng anh em tự vệ và vệ quốc vẫn bám chặt lấy vị trí. Chúng kéo đến một xe Halftrack (xe bọc thép) bố trí ở ngay đầu ngõ Nguyễn Chế Nghĩa, bắn súng trọng liên 13,2 ly vào trường. Bộ binh chúng đã chiếm được mấy căn nhà gác bắn xuống sân trường. Quân ta ở vị trí thấp nên bất lợi, tuy vậy anh em vẫn nằm sát chân bờ tường chờ kẻ địch nào liều lĩnh vọt qua đường là nổ súng hạ ngay. Anh em vệ quốc thấy khẩu súng 13,2 ly của địch rất lợi hại bắn ghìm đầu nên một anh được lệnh cảm tử đứng thẳng người mặc luồng đạn của địch bao quanh người, lao quả đạn Bảo toàn (là viên đạn đại bác 75 ly có buộc kèm một đoạn tre dài do ông Trần Đại Nghĩa sáng kiến chế ra thay cho bom ba càng nguy hiểm vì phải hi sinh cả người cầm bom lao vào xe địch) ra giữa đường. Đạn nổ làm chiếc xe Halftrack bốc cháy... Địch im tiếng súng và rút quân... Trận đánh đầu tiên làm cho anh em vệ quốc và tự vệ thêm được kinh nghiệm chiến đấu. Cả ngày hôm ấy, tôi và anh Tấn lên thăm lại các vị trí và sắp xếp lại lực lượng đón chờ trận chiến ngày hôm sau. Tối hôm ấy anh Hồng Hà và anh Tích (Trần Vỹ) phó bí thư LKII đã họp với chúng tôi để nhận định kế hoạch tác chiến mới. Một lực lượng tự vệ được điểu lên phối hợp chặn đánh địch ở trường Hàm Long là một vị trí quan trọng mà địch cố chiếm bằng được.


Anh em đang chỉ cho nhau cách ẩn nấp đánh địch thì bất ngờ súng địch nổ ráo riẽt và lúc này cả mặt trận LKII ầm ầm tiếng súng. Tôi không nắm được tình hình chiến sự mặt Phố Huế mà chỉ biết có chiến sự ở trường Hàm Long. Ta nổ súng chặn địch rất bình tĩnh, đĩnh đạc. Khi có tên địch liều vượt qua đường bị hạ gục, em Lương là liên lạc theo sát tôi chỉ lăm le xông ra cướp súng địch. Tôi phải kìm em lại và quát không cho em mạo hiểm như vậy. Tiếng súng của hai bên vẫn nổ chát chúa. Vì ta ở vị trí thấp nên sau một lúc chặn đánh địch, anh em vệ quốc và tự vệ phải rút lui vào hàng hiên của trường bắn trả. Hai bên cầm cự nhau chỉ cách có khoảng đường nhỏ hẹp. Kẻ địch muốn nhảy vào sân trường nhưng có tên nào nhô lên khỏi hàng rào song sắt là bị trúng đạn gục xuống ngay nên sau một hồi ráo riết xung phong, địch không vào được sân trường lại bị thiệt hại nặng nên chúng rút về bên kia đường. Chợt một chùm lựu đạn của địch tung sang ở sân trường nổ làm bốc lên làn khói đỏ như bụi gạch. Anh em hít phải hơi đó thấy cay sè mắt mũi và đắng họng, phổi như bị hun lửa. Lúc này anh em còn chưa hiểu địch dùng loại vũ khí gì, nên ai cũng ôm ngực ho rồi ào ào rút lui qua các lỗ tường đục ở các nhà về phía sau. Tôi cũng hít phải hơi khói ấy, nước mắt, nước mũi ràn rụa, biết là địch ném lựu đạn hơi cay, chúng tôi bảo nhau dùng khăn tay hoặc xé vạt áo bịt chặt mũi miệng lại, rồi trèo lên gác cao để tránh làn khói độc và để nổ súng đánh địch nếu chúng tràn sang trường...


"Không ai được rút lui! Không ai được rút lui!". Tôi gào lên như vậy, nhưng chắc không ai nghe tiếng tôi được vì tôi đã bịt chặt mũi và miệng, nên anh em vẫn ào ào chui qua tường rút lui. Tôi phải nắm từng người lại rồi chỉ cho anh em lên gác cao tránh luồng khói cay. Gió bắc thổi mạnh xua tan ngay làn khói đỏ như bụi gạch. Mọi người lại ở vị trí chiến đấu trên cao, nhằm sang sân trường nổ súng chặn địch. Đồng chí tiểu đội trưởng vệ quốc đi thu thập từng người, dẫn về vị trí cũ án ngữ cuộc tấn công mới của địch. Qua cơn hoảng sợ anh em tự vệ lại cười nói chuyện tếu, cũng trở lại bố trí trong các lớp học của trường. Lúc này tôi đã đỡ tức ngực, nằm dài xuống sàn nhà để thở thì Tấn đưa thêm tiểu đội vệ quốc lên bổ sung. Thấy chị cứu thương đang làm hồi sức cho tôi, anh Tấn hỏi ngay: "Tuấn bị thương à?".

- Mình bị tức ngực thôi vì hít phải nhiều khói độc... Lúc nãy anh em còn chưa hiểu địch dùng thứ vũ khí gì nên có hoang mang, nay lại về vị trí cũ rồi... Địch cũng không dám chiếm đóng trường Hàm Long.

- Mình nghe tiếng súng ở mạn này bất chợt im lặng, sợ phòng tuyến bị thủng nên đưa thêm một tiểu đội lên hỗ trợ... Tuấn về phía sau nghỉ, mình sẽ ở lại đây với anh em. Cậu chú ý mặt phố Jacquin và bên kia phố Charron nhé... đề phòng địch thọc xuống bao vây quân mình phía trên nóc.

Tôi và em Lương khó nhọc chui qua các lỗ đục tường xuống phía dưới gặp anh Oánh (đại tá Lê Thanh Quang, phó tư lệnh tỉnh Hà Sơn Bình cũ), anh cho biết tin về tình hình địch:

Bọn Pháp cho hai cánh quân đánh dọc phố Jacquin, đã chiếm đoạn phố Laveran (Lê Văn Hưu) và ngã tư Lò Đúc (Armand Rousseau), bên kia đường chúng đã tung quân theo đường Gia Long (Bà Triệu bây giờ) đánh quặt sang phố Riquier (Nguyễn Du), tiến xuống cuối phố Charron... Mình chặn đánh địch mặt Phố Huẽ bên này, còn phía Charron chưa có ai chỉ huy. Tuấn sang bên ấy cản địch lại, đừng để cho chúng cắt đuôi chúng mình...


Tôi kéo em Lương theo đường giao thông hào qua mặt đường Phố Huế đoạn phố Trần Xuân Soạn (Harmand), sang được bên kia đường, chúng tôi lần theo lỗ đục tường thấy cuối đường Charron có một tổ tự vệ bốn người đang canh chừng địch có chiếc xe án ngữ ngã tư Miribel (Trần Nhân Tông) và Charron (Mai Hắc Đế). Một anh hỏi tôi: "Chúng mình bị cắt đuôi rồi hở anh?".

- Mặc kệ, nó chỉ dám chặn đường bằng xe tăng thôi còn bộ binh không dám liều lĩnh chui vào các nhà đâu, chúng mình sẽ tìm cách bật chiếc xe này là xong... Anh nào có lựu đạn đi với tôi xuống gần chỗ xe tăng nào.

Một anh đeo lựu đạn và mấy chai ét-xăng crếp hăng hái đi ngay. Tôi kéo em Lương và anh tự vệ xuống cuối Phố Huế đến đầu ngã tư Miribel, trèo lên gác, nhìn qua khe cửa sổ thấy rõ mồn một chiếc xe tăng ngay dưới đường. Mấy tến lính Pháp nghênh ngang tựa vào thành xe hút thuốc lá phì phèo.


Tôi bàn với anh tự vệ là bất thần mở cửa sổ trên gác ném lựu đạn và chai xăng vào xe địch, trong khi tôi nổ súng bắn vào lũ bộ binh của chúng... Bất chợt, chúng tôi đẩy cánh cửa sổ, anh tự vệ ném quả lựu đạn cùng với hai chai xăng-crếp. Tôi nổ cả băng đạn vào tụi bộ binh. Em Lương có quả lựu đạn mỏ vịt cũng "làm ăn" theo. Địch bị tấn công bất ngờ, tưởng lực lượng của ta đã đến chặn đánh chúng nên rối loạn chạy vào ẩn nấp sau xe tăng. Khi thấy nòng súng đại bác trên tháp xe quay về phía trạm gác chúng tôi đang nấp, tôi liền kéo em Lương và giục anh tự vệ trượt nhanh xuống cầu thang, luồn qua lỗ đục tường lên mấy nhà phía trên. Vừa chui qua được mấy nhà thì tiếng đại bác nổ chói tai. Em Lương lè lưỡi nhìn tôi cười nói: "Chậm một tí thì anh em mình bay cả lên trời rồi".


Sau phát đại bác của địch phá nát căn gác, tôi nghe thấy tiếng xe địch gầm rú chạy ra xa về phía ngã tư phố Lê Lợi (Bà Triệu dưới).

Tiếng súng toàn mặt trận LKII đột nhiên im ắng... Chúng tôi về trụ sở của ban chỉ huy tiểu khu Chợ Hôm lúc này đã lui xuống đóng ở nhà Bùi Duy Dần (hiệu thuốc quận Hai Bà Trưng bây giờ).

Ban đêm anh em tự vệ và vệ quốc lại trở về các khu phố của LKII, đánh địch trong các vị trí đóng quân của chúng làm cho địch không yên thân để mở các cuộc tấn công mới.

Năm mươi năm, một nửa đời người... Năm mươi năm kể từ ngày đất nước đã đứng lên kháng chiến chống quân ngoại xâm, kiên quyết lấy tính mạng của mình để bảo vệ nền độc lập non trẻ của nước nhà và sống chết với lời thề "bảo vệ Thủ đô"... Năm mươi năm ấy vẫn là những kỷ niệm bồi hồi của những chàng trai, cô gái trẻ năm xưa, con em của Hà Nội thân thương đã đổ máu xương của mình giữ gìn Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...

LÊ TUẤN


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:59:01 am
TRẬN ĐÁNH BẢO VỆ TRỤ SỞ ĐẦU TIÊN
CỦA BỘ TỔNG THAM MƯU


Số nhà 18 Nguyễn Du, thời thuộc Pháp là trường mồ côi, đến thời Nhật trở thành trại lính, sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tự vệ khu phố dùng làm nới hội họp. Với diện tích gần 1000m2, có sân rộng tường cao, một nhà lớn hai tầng 30m dài, 8m rộng, xa nơi đóng quân của lính Tưởng và các đơn vị quân Nhật vẫn còn trong thành phố. Ngày 9/9/45 đại tướng Hoàng Văn Thái, người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội, đã chọn nơi này làm trụ sở của Bộ Tổng tham mưu.


Tại đây, trong thời gian một năm ba tháng mười ngày, tức là cho tới ngày 19/12/1946, ngày mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp, cơ quan được sự chăm sóc ân cần của Hồ Chủ tịch, sự đi sát giúp đỡ thiết thực của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sự động viên ủng hộ của toàn quân đã từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, vừa học vừa làm, vừa làm vừa tiến bộ... nhanh chóng định hình về mặt tổ chức với bốn bộ phận: tác chiến đồ bản, tình báo, thông tin liên lạc và văn phòng. Và khẩn trương đi vào thực thi những nhiệm vụ trọng đại đã được giao: nắm địch, nắm ta, nắm các khu vực chiến trường, chi viện người và của cho cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào miền Nam; đối phó thắng lợi với âm mưu, thủ đoạn lật đổ của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt cách, Việt quốc của chúng ở miền Bắc; xây dựng bộ đội và dân quân; tổ chức chiến trường; cùng các cơ quan có liên quan tổ chức ra các mặt trận bảo đảm... đến khi có Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 Chính phủ ta ký với Pháp thì kịp thời xây dựng và tổ chức việc thi hành Hiệp định, nhận Pháp vào, thúc Tưởng rút, đấu tranh chống những hành động vi phạm của Pháp và chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng quật lại nếu Pháp bội ước gây chiến... Tất cả những cố gắng đó đã góp phần không nhỏ vào thành công to lớn của cuộc đấu tranh bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng của nhân dân ta theo đường lối, chủ trương chiến lược, sách lược của Đảng và Hồ Chủ tịch, bảo đảm cho đất nước đi vào chiến tranh một cách chủ động, ngay trong cuộc đụng độ đầu tiên đã có thể khẳng định "Ta nhất định thắng".


Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang, mặc dù còn phải lo trăm công ngàn việc, vẫn dành cho thủ trưởng và cơ quan Bộ Tổng tham mưu một sự quan tâm và ưu ái to lớn.


Ngày 7/9, tại nơi làm việc ở phủ Bắc bộ, Người đã trao nhiệm vụ cho Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái một cách đầy đủ, rõ ràng kèm theo là lời động viên khuyên khích rất mực thân tình.

Ngày 20/12/1945, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân 22/12/1944 - 22/12/1945, Người đã đến thăm cơ quan, kiểm tra nơi ăn chốn ở và công việc đang được tiến hành, khen ngợi anh chị em phấn đấu tiến bộ, căn dặn anh chị em về những công việc trọng tâm trước mắt phải dồn sức vào làm, đặc biệt là vấn đề chi viện cho đồng bào, đồng chí miền Nam đánh giặc, rồi chúc anh chị em sức khỏe dồi dào, hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Đêm giao thừa và ngày mồng 1 Tết Bính Tuất, Người còn gọi điện thoại xuống cơ quan chúc mừng năm mới, cơ quan sơ xuất, lúc giao thừa không có thường trực, ngày mồng 1, Người gọi lại, gặp được Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Người chúc mừng năm mới rồi nhẹ nhàng phê bình và nhắc nhở thủ trưởng tham mưu phải làm gương cho toàn quân noi theo về tinh thần cảnh giác và chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ quy định.


Đồng chí Võ Nguyên Giáp, người anh cả của các lực lượng vũ trang cũng năm lần đến với cơ quan, nói chuyện thời sự, phổ biến chủ trương, kiểm tra công việc, khuyến khích, biểu dương và chỉ dẫn bổ sung những điều cần thiết. Mỗi lần đồng chí đến là một lần cơ quan được tiếp thêm nguồn sinh lực để vươn tới.


Quân viễn chinh Pháp vào theo những điều khoản của Hiệp định Sơ bộ và những quy định cùng ta ký kết trong an toàn và trật tự. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ý đồ xấu xa phá hoại Hiệp định và dã tâm xâm lược của chúng đã bộc lộ ra bằng những hành động khiêu khích và lấn chiếm ngày một quy mô và trắng trợn ở nhiều nơi trên đất nước ta và ngay cả ở Thủ đô Hà Nội.


Bộ Tổng tham mưu là một trong những mục tiêu hàng đầu trong kế hoạch của quân đội viễn chinh Pháp nhằm đánh chiếm Hà Nội. Trong tháng 9/1946, hai lần chúng đã cho xe tăng thiết giáp đến chạy vòng quanh trụ sở cơ quan gây khiêu khích và là để tập dượt. Chúng còn móc ngoặc với một gia đình người Hoa luôn trưng cò Trung Hoa dân quốc, nhà ở số 63 dốc Hàng Kèn, ngay bên sườn phải của trụ sở cơ quan, chúng bố trí ở đó một ổ tác chiến bí mật, đêm 19/12 bọn này nổ súng cản trở việc di chuyển của bộ đội và cả đồng bào ta tản cư, ta mới phát hiện.


Đến ngày 19 cơ quan đã hoàn thành việc di chuyển ra ngoại thành để phục vụ việc chỉ huy tác chiến và chuẩn bị để sau đó hành quân tiếp lên An toàn khu tại căn cứ địa Việt Bắc. Trụ sở cơ quan được tổ chức lại thành chốt đề kháng, hạt nhân của một tổ chức phòng ngự, triển khai trên một khu vực tương đối rộng bao gồm cả các đoạn đường phố liên quan trên hai hướng đông và tây, phán đoán địch sẽ sử dụng liên tiếp quân tiếp cận, ngày đầu do lực lượng đội cảnh vệ cơ quan canh giữ, sau được trung đội Trần Thành thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 77 vệ quốc đoàn Liên khu II Hà Nội về thay thế. Một trung đội khác của đại đội I phối hợp với một tiểu đội tự vệ phố Bà Triệu do đại đội trưởng đại đội I trực tiếp chỉ huy, ngay trong ngày 21 đã tiêu diệt gọn ổ tác chiến của địch ở số nhà 63 dốc Hàng Kèn (phố Bà Triệu ngày nay) gạt bỏ được mối nguy hiểm bên sườn trụ sở.


Trung đội Trần Thành về chiếm lĩnh trụ sở, tranh thủ thời gian khẩn trương củng cố vững chắc thêm vị trí chiến đấu đã được đơn vị cảnh vệ ở đó trước chuẩn bị, đưa tiền duyên phòng ngự ra hẳn đường phố, đào hầm cản xe cơ giới và làm trận địa công sự bố trí tổ chống tăng cách cổng trụ sở 50m trên hướng từ ngã năm vào, đoán sẽ là đường tiến quân tiếp cận chính của địch. Cuối ngày 21, anh em đã vào ở trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Tư, 2022, 06:59:33 am
Lúc này, các vị trí của ta ở phía trước như trụ sở Đội tự vệ chiến đấu củu quốc Hoàng Diệu ở Đấu Xảo, trụ sở công ty Hỏa xa Vân Nam, trụ sở Sở Công an thành phố, trụ sở Bộ Quốc phòng và cả trại Trung ương Vệ quốc đoàn đều đã lọt vào tay địch; ta không chủ trương phòng ngự cố thủ giữ đất mà là tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt được thật nhiều sinh lực địch, ngăn chặn được địch, kéo dài được chừng nào hay chừng nấy rồi rút lui để bảo toàn lực lượng đánh tiếp và kháng chiẽn lâu dài. Trận địa nơi trung đội Thành bố trí, ngày đầu là ở trong sâu, nay đã trở thành một mũi đột xuất ra ở ngay phía trước. Nhiệm vụ trung đội Trần Thành được giao quả thực là nặng nề và quan trọng, không chỉ vì lý do mục tiêu bảo vệ là trụ sở vừa đây của Bộ Tổng tham mưu, bộ phận quan trọng hàng đầu của tổng hành dinh, mà còn vì nơi đây hiện đang là chỗ sơ cứu những chiến sĩ và cả đồng bào bị thương từ các trận tuyến trước tập trung về chưa kịp đưa hết về tuyến sau, có đến 30 người vẫn còn tồn đọng. Dứt khoát mục tiêu bảo vệ phải giữ cho kỳ được. Trần Thành, Mát Chư - chiến sĩ quốc tế người Nhật - phó của Trần Thành và tất cả các anh em trong đơn vị đều xác định quyết tâm như vậy. Khó khăn to lớn là toàn trung đội có ba tiểu đội, mỗi tiểu đội chỉ có năm, sáu khẩu súng trường còn là mác búp đa, mã tấu, mỗi người có ba, bốn quả lựu đạn, phần lớn là loại lọ mực Phan Đình Phùng, cả trung đội có một trung liên với 200 viên đạn và một quả bom ba càng, vũ khí chống tăng lợi hại duy nhất.


Ngày 22/12, địch dùng một lực lượng nhỏ từ hai hướng đông tây tiến đánh mang tính chất thăm dò. Ở đây ta có: tự vệ khu Bảy Mẫu bố trí dọc đường Bà Triệu, đại đội tự vệ khu Chợ Hôm bố trí dọc đường Lê Văn Hưu và phố Duy Tân, phối hợp còn có nửa tiểu đội tự vệ sinh viên khu học xá (có khẩu đại liên là loại trang bị mạnh và hiếm đối với ta khi đó) chốt ở góc Nguyễn Du - Duy Tân hướng về phố Lê Văn Hưu. Quân ta kịp thời nổ súng chặn đánh, buộc địch phải rút.


Cuộc tấn công quy mô lớn của quân địch nhằm đánh chiếm trụ sở Bộ Tổng tham mưu ta ngày hôm sau, 23/12 diễn ra quyết liệt từ 8 giờ sáng. Sau đợt pháo bắn chuẩn bị, bộ binh địch có xe tăng và xe bọc thép đi cùng đã triển khai lực lượng tiến quân từ hai hướng. Hướng thứ yếu, một đại đội có một xe tăng từ đường Nguyễn Công Trứ và Lê Văn Hưu sang, sớm bị bộ đội ta và tự vệ dựa vào hệ thông vật chướng ngại dựng kẽ tiếp nhau trên lòng đường, ngăn chặn thắng lợi. Hướng chính có một đại đội Lê dương mũ đỏ có bốn xe tăng và xe bọc thép theo đường Bà Triệu xuống, sau khi chiếm lại nhà 63 dốc Hàng Kèn, chúng tạo lại mối uy hiếp trận địa ta từ bên sườn và triển khai lực lượng tại ngã năm rồi từ đó tiến vào đường Nguyễn Du tiếp cận trận địa ta bố trí. Ta dựa vào công sự thiết lập phía sau tường bao, cơ động dùng trung liên, súng trường và lựu đạn bắn và ném chính xác vào quân địch, gây cho chúng thiệt hại về sinh lực. Phát hiện ta chỉ có hỏa lực của trung liên, súng trường cùng lựu đạn, một xe tăng địch xông lên dẫn bộ binh xung phong. Xe tăng là lực lượng đột kích vô cùng lợi hại của quân địch, chống nó ta chỉ có một quả bom ba càng, trận địa chống tăng của ta cách cổng trụ sở có 50m. Trần Thành quyết định: đúng lúc xe tăng địch phải dừng lại trước hố ta đào, anh xông lên phía sườn xe tăng và đâm bom ba càng. Một tiếng nổ long trời, xe tăng địch đứt xích nằm chềnh ềnh ra trên đường phố. Địch bắn Trần Thành bị thương vào tay, nén đau, anh xoay lại, bò về phía cổng trụ sở. Khoảng 20 tên lính mũ đỏ xông lên định bắt sống, Trần Thành liền quay phắt trở lại và liền một lúc cho nổ luôn hai quả lựu đạn về phía bọn địch đang xô tới. Anh hy sinh anh dũng, lúc đó là 10 giờ 30 phút. Xác cả chục tên địch ngổn ngang cách anh không xa. Không ngờ bị đánh một đòn choáng váng, cả khối quân địch đang tấn công ùn lại không tiến tiếp. Một tên đại úy ngồi xe gíp từ phía sau xông lên (có thể đó là tên chỉ huy) để xử lý tình huống. Mát Chư, phó của Trần Thành đã kịp thời dùng trung liên bắn diệt, bốn tên lính lên lấy xác tên đại úy cũng bị anh em ta bắn chết.


Nhưng rồi cuộc tấn công của địch lại tiếp tục, khoảng 11 giờ một bộ phận nhỏ quân địch đã lọt được vào ngôi nhà gỗ nhỏ góc phía tây sân trước, từ đó chúng định phát triển đánh tiếp đến ngôi nhà lớn hai tầng. Quân ta, dưới sự chỉ huy của Mát Chư dồn lực lượng về đối phó. 15 giờ Mát Chư trúng đạn hy sinh, anh em vẫn kiên cường tiếp tục đánh chặn giết thêm được nhiều địch, không cho chúng tiến được tới khu nhà lớn.


Rồi trời tối dần, địch không tiến lên được, chúng bắt đầu rút quân. Ta củng cố lại vị trí chiến đấu, tổ chức chuyển tất cả những người bị thương về phía sau an toàn. Và đến 21 giờ, tất cả rút khỏi trụ sở về tập kết tại vị trí mới theo kế hoạch đã dự kiến.


Trận này ta giết và bắn bị thương khoảng 45 tên địch, có một đại úy bị giết, phá được một xe tăng của địch bằng bom ba càng. Ta có 18 vệ quốc quân và 12 tự vệ bị chết và bị thương. Trong số hy sinh có Trần Thành và Mát Chư, trung đội trưởng và trung đội phó.


Chiến công của trung đội Trần Thành cùng tấm gương hy sinh anh dũng, vô cùng lẫm liệt của anh, giữ được trụ sở cơ quan quan trọng hàng đầu của tổng hành dinh là Bộ Tổng tham mưu và bảo vệ được một số lượng đáng kể thương binh chưa kịp chuyển đi, làm thất bại cuộc tấn công quy mô bằng một binh lực có ưu thế áp đảo của quân địch, là phần đóng góp sáng giá vào thắng lợi chung to lớn của cuộc chiến chiến lược 60 ngày đêm của quân và dân Thủ đô, mở đầu thành công cuộc kháng chiến toàn dân chống Pháp.

ĐỖ ĐỨC KIÊN
(Theo tài liệu Tổng kết chiến thuật về
trận đánh ở BTTM của phòng Khoa học
công nghệ thuộc BTLQK Thủ đô)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:28:08 am
TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ Ô CẦU DỀN
(Từ 26 đến 28 tháng 12 năm 1946)


Ô Cầu Dền là ngã tư phố Duy Tân - Nam Bộ và Đại Cổ Việt - đê Bành Lao (nay là Phố Huế, Bạch Mai, Đại Cồ Việt và Trần Khát Chân). Đây là một trong các cửa ngõ ra vào nội thành lúc bấy giờ. Đầu phố Duy Tân - Nam Bộ trong phạm vi gần cửa ô là nhà gạch, có một số nhà hai tầng, như trường học Duy Tân, nhà Vạn Vân, nhà sữa Minh Ngọc, v.v... Đường Nam Bộ (Bạch Mai) là đường độc đạo xuống ngã tư Trung Hiền. Một mương thoát nước chạy dọc phía nam sát ngang đường Đại Cồ Việt và đê Bành Lao đến tận hồ Thanh Nhàn. Mương rộng chừng 15m nước, sâu hơn 1m, về mùa khô cây cầu xi măng bắc qua mương dài khoảng 20m là điểm nối của hai phố Duy Tân và phố Nam Bộ. Hai bên đường Đại Cồ Việt - Bành Lao là bãi và ruộng trồng rau, xen kẽ hồ ao. Địa hình ấy tạo thuận lợi cho ta tổ chức một chốt phòng ngự chặn địch nống ra phía nam Hà Nội. Đối với Liên khu II thì chốt cửa ô này chặn địch tiến vào khu Bạch Mai, căn cứ của Liên khu, trong đó có sở chỉ huy của các đơn vị, trạm y tế, kho thuốc, kho lương thực, v.v...


Sau khi đánh chiếm được trụ sở Bộ Tổng tham mưu (16 và 18 Nguyễn Du), Chợ Hôm - Đức Viên, ngày 23/12/1946, địch đã khống chế được khu vực phía bắc đường Đại Cồ Việt, phố Duy Tân. Chúng đã chiếm trường học Duy Tân, nhà nước mắm Vạn Vân, nhà sữa Minh Ngọc (khu vực quanh ngã ba phố Thịnh Yên - Huế bây giờ). Địch và ta chỉ cách nhau chừng 50-60m. Gần đó địch đóng ở nghĩa địa Tây, nhà Rượu, nhà Diêm, một số nhà cao ở phố Duy Tân, phố Lê Bình, v.v...


Như vậy Ô Cầu Dền là điểm ta và địch trực tiếp tiếp xúc, ranh giới là đường Đại Cồ Việt, đê Bành Lao.

Lực lượng phòng ngự tại đây là đại đội 3, tiểu đoàn 77 do đồng chí Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng (đại đội này nguyên của tiểu đoàn 56 bổ sung sang tiểu đoàn 77). Lực lượng bố trí chủ yếu ở Ô Cầu Dền gồm có một trung đội phía đường Đại Cồ Việt, một trung đội tự vệ Duy Tân. Hai tiểu đội phía đê Bành Lao ngăn địch phía Đống Mác vào.


Lực lượng đơn vị bạn phía Ô Đống Mác, Thanh Nhàn có một đại đội của tiểu đoàn 212. Vũ khí có một đại liên bố trí cạnh chiến lũy, một trung liên ở đình Tô Hoàng chặn địch phía đường Đại Cồ Việt, một trung liên phía đê Bành Lao. Đơn vị mới được tăng cường hai quả bom ba càng. Ngày 28/12 đơn vị được trên giao cho khẩu badôca Mỹ, với năm viên đạn. Đây là khẩu badôca duy nhất của Hà Nội.


Ngay từ giữa tháng 12 ta đã đắp một ụ chắn phía nam con mương chặn suốt chiều ngang đường Nam Bộ. Khi chiến sự chưa xảy ra, ta bớt một đoạn phía đường tàu điện để nhân dân đi lại. Từ chiều 19/12 trở đi ta đắp nốt, rất kiên cố. Hàng trăm cọc sắt, tà vẹt, cọc tre đóng chặt xuống đường rồi xếp bao cát, đào đất ở mương lên đắp cao tới 4m, chân rộng 8m, mặt từ 4-5m. Tiếp đó rất nhiều bàn ghế, tủ giường, đồ vật cồng kềnh được xếp quanh ụ. Phía đường Duy Tân ta úp nồi niêu rổ rá, trải rơm, xếp bàn ghế tủ giường khắp mặt đường kéo dài hàng trăm mét để nghi binh lừa địch. Phía đê Bành Lao ta lợi dụng mương nước đào hào chặn xe tăng địch, đồng thời làm hào giao thông để cơ động lực lượng về phía sau.


Ngày 26/12 địch tiến đánh Ô Cầu Dền để mở thông đường La Thành và chuẩn bị tiên xuống ngã tư Trung Hiền.

Sáng sớm máy bay địch loại Morane đến ném bom dọc phố Duy Tân và Nam Bộ trọng điểm là chiến lũy Cầu Dền, nhiều nhà cửa đổ sập. Một xe tăng, một xe bọc thép dẫn hơn 100 lính tiến từ phố Duy Tân xuống, vừa đi vừa bắn vào hai bên dãy phố và bắn 20 phát 37 ly vào chiến lũy. Bọn địch ở nhà Vạn Vân, trường Duy Tân, nhà sữa Minh Ngọc dùng đại liên bắn dữ dội về phía ta. Ta kiên quyết đánh trả, địch không phá được ụ và không tiến lên được. Chúng cho xe tăng vòng qua chiếm ngã ba Đại Cồ Việt - Lê Bình dùng pháo trên xe và súng 12 ly 7 bắn vào bên sườn chiến lũy và đình Tô Hoàng, nơi có khẩu trung liên của ta. Ta vẫn kiên trì chặn địch. 17 giờ địch không đột phá được chiến lũy phải ngừng tiến công, rút về phía sau. Đợt này địch chết 10 tên. Đêm đó ta củng cố lại chiến lũy, xếp thêm bao cát lên ụ thành những ụ chiến đấu.


Sớm hôm sau 27/12 địch tiến công lần thứ hai. Ta rút kinh nghiệm đã bố trí lực lượng kiềm chế các ổ đại liên của địch trên các nhà cao, một nhóm địch đã chiếm ụ và đặt trung liên trên ụ bắn về phía ta, song đã bị ta đánh trả, chúng phải rút1 (Có người kể chiến sĩ tự vệ tên là Đức đã xông lên cướp khẩu trung liên này). Cuộc tiến công lần này của địch cũng không có kết quả.


Ngày 28/12 địch mở đợt tiến công lần thứ ba vẫn theo đội hình cũ. Xe tăng, xe bọc thép đi đầu bắn phá, bộ binh đi sau, tới gần cửa ô xe địch đi chậm lại để bộ binh đến kiểm tra phá bỏ các nồi niêu rổ rác úp trên đường vì sợ có mìn thật. Từ sau chiến lũy, từ các nhà cao ta nổ súng, ném lựu đạn diệt bọn đi phá mìn. Xe tăng địch yểm trợ bắn dữ dội vào chiến lũy. Xạ thủ badôca của ta là một người Nhật tên Việt là Tâm2 (Có nhân chứng nói tên thật là A-ka-sư-đa) bắn ba phát đạn, cháy một xe tăng, hỏng một xe thiết giáp, địch khiếp sợ tháo chạy. Chiến sĩ người Nhật này sau bị trúng đạn đã hy sinh anh dũng. Ta thừa thắng xuất kích đánh chiếm nhà lơ Vũ Tạo, nhà sữa Minh Ngọc, diệt ổ súng đại liên ở ngã ba Đại Cồ Việt - Lê Bình, đánh vào trường học Duy Tân đốt cháy hai xe tải. Tổng cộng địch chết khoảng 20 tên, số bị thương không rõ, một xe tăng, một xe bọc thép bị phá hỏng. Số thương vong phía ta trong toàn bộ cuộc chiến đấu giữ Ô Cầu Dền của đại đội 3, tiểu đoàn 77 và tự vệ trong cả ba ngày lên tới trên dưới 100 người. Trong đó có một cán bộ đại đội, ba cán bộ trung đội, nhiều cán bộ tiểu đội. Chưa rõ số thương vong của dân, vì hiện nay không có tài liệu nào ghi chép được.


Sau đợt tiến công thất bại ngày 28/12 địch không tổ chức tiến công lớn vào Ô Cầu Dền nữa. Đến 15/01/1947 chúng từ Vĩnh Tuy và từ Vọng đánh sang ngã tư Trung Hiền buộc lực lượng giữ Ô Cầu Dền của ta phải vượt vây rút theo đường Ngõ Bò, Ngõ Quỳnh qua khu Đề Thám, Mê Linh về Nam Dư.

VIỆT HỒNG
(Theo tài liệu tổng kết chiến thuật
của Quân khu Thủ đô)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:29:30 am
TRUNG ĐỘI HOÀNG HOA THÁM VÀ TRẬN ĐÁNH
TRÊN CÁNH ĐỒNG LÀNG QUỲNH


Cũng như mọi năm, vào một chiều thu chớm lạnh năm 1996, tôi cùng đồng chí Nguyễn Như Trương, hai ông già đã ở tuổi "cổ lai hi" đạp chiếc xe đạp mi ni đi thăm lại chiến trường xưa, nơi đã diễn ra trận đánh quyết tử của trung đội Hoàng Hoa Thám tại cánh đồng làng Quỳnh Lôi thuộc Liên khu II (mặt trận Hà Nội) trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.


Và một lần nữa, tuy chẳng còn hy vọng có được một tin tức gì, chúng tôi vẫn đến ngôi nhà ngay cổng trường đại học Bách Khoa là nơi ở cách đây 50 năm của ba anh em ruột Hoàng Đình Mạc, Hoàng Đình Nghiên, Hoàng Đình Bút, đã hy sinh trong trận chiến đấu ấy. Người đi cùng với tôi là đồng chí Trương cũng có hoàn cảnh tương tự. Bốn anh em ruột đồng chí Trương cũng có mặt trong trận đấu này, thì ba người em là Nguyễn Như Nam, Nguyễn Như Giao, Nguyễn Như Tính, đã ngã xuống chiến hào. Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, anh chị Trương đã bốn lần tiễn con đi đánh Mỹ để rồi "hai lần lại khóc thầm lặng lẽ". Các cháu Vĩnh và Hùng ra đi không trở về, đến nay vẫn chưa tìm được phần mộ. Bà mẹ đồng chí Trương có ba con và hai cháu nội là liệt sĩ. đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng".


Còn ba anh em Mạc, Nghiên, Bút, gia đình các anh suốt 50 năm nay bặt tin tức. Chúng tôi đã cố công tìm kiếm, nhưng vẫn không rõ gia đình ở đâu, ai còn, ai mất, đã được thực hiện chính sách đối với những người có công với Cách Mạng hay chưa. Điều đó làm cho những người còn sống trong chúng tôi day dứt nhiều1 (Rất may mắn, cuối cùng cũng đã tìm được người thân còn lại của các đồng chí Mạc, Nghiên, Bút. Ông bà thân sinh đều đã đã mất, nhưng còn một chị và một em gái của ba đồng chí. Năm 1999 hai chị đã được làm thù tục nhận ba tấm bằng "Tổ quốc ghi công" các liệt sĩ Hoàng Đình Mạc, Hoàng Đình Nghiên, Hoàng Đình Bút).


Là trung đội trưởng của trung đội Hoàng Hoa Thám lúc bấy giờ, tôi còn nhớ rõ quá trình xây dựng và chiến đấu của trung đội.

Trong khí thế sục sôi của phong trào cách mạng, ngày 17/8/1945, tổ Thanh niên cứu quốc phía nam khu phố Bạch Mai đã vận động hơn hai chục thanh niên cùng nhân dân tham gia biểu dương lực lượng tại cuộc mít tinh ở Nhà hát thành phố, và ngày 19/8 lại tham gia cướp chính quyền ở trại Bảo an binh Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám thành công, chúng tôi thường xuyên tập trung làm công tác tuyên truyền cách mạng, vận động giữ gìn trật tự an ninh và gây phong trào ca hát, bơi lội thể dục thể thao v.v... Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết, tại cuộc mít tinh ở quảng trường Nhà hát thành phố, anh em vô cùng xúc động khi nghe câu nói của Bác: "Hồ Chí Minh thà chết chứ không bao giờ bán nước". Sau cuộc mít tinh trở về, sôi sục căm thù giặc Pháp đang lăm le quay lại định chiếm nước ta một lần nữa, anh em quyết định xin cấp trên cho tổ chức một đơn vị Tự vệ chiến đấu. Lúc đầu định thành lập một đại đội, vì đã có gần 50 người và dự tính sẽ có một số anh em nữa tham gia, nhưng sau xét đến nguồn trang bị có hạn, vả lại không phải tất cả các anh em đều đủ sức khỏe và điều kiện để có thể tập luyện liên tục nên chỉ tổ chức ra một trung đội, lấy tên trung đội là Hoàng Hoa Thám. Cán bộ do anh em bầu, đồng chí Trung là trung đội trưởng, đồng chí Nam là trung đội phó, hai đồng chí được cử đi học lớp quân sự ngắn ngày, sau đó lần lượt tất cả anh em đều được luyện tập quân sự ở Việt Nam học xá (Trường đại học Bách Khoa bây giờ) về các động tác bắn súng, lăn lê, bò toài, cá nhân chiến đấu...


Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả Hà Nội vùng lên chiến đấu. Một ngày cuối tháng 12/1946, tôi gặp anh Vũ Văn Quý lúc bấy giờ là chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu 17, anh nói tình hình khu vực chúng tôi sắp căng thẳng hơn lên, trung đội tự vệ chiến đấu phải củng cố mọi mặt, sẵn sàng tác chiến, Ủy ban sẽ cử một cán bộ quân sự xuống làm chính trị viên để tăng cường tổ chức và chỉ huy. Anh Đức xuống tham gia ban chỉ huy, thực tế đã làm cho sinh hoạt và mọi mặt hoạt động của đơn vị chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Đầu tháng 1/1947 Ủy ban kháng chiến Liên khu II thông báo chính thức thành lập trung đội Hoàng Hoa Thám và quyết định sáp nhập trung đội chúng tôi vào Vệ quốc đoàn, thuộc tiểu đoàn đồng chí Quang Tuần.


Ngày 14/1/1947, tôi còn nhớ đó là 23 tháng chạp ta, ông Táo lên chầu trời, anh em trung đội đang liên hoan tại nhà đồng chí Trương ở ngõ Mai Hương thì nhận được lệnh bố trí ở cánh đồng Quỳnh Lôi, sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ giao cho trung đội là: Nếu địch tiến vào làng rồi thọc ra phố để đánh vào phía sau chiến lũy ở Ô Cầu Dền thì chúng tôi phải kiên quyết đánh chặn, không cho chúng vào làng và phố.


Bốn giờ sáng 15/1/1947, cả trung đội sẵn sàng ở vị trí chiến đấu. Trung đội bố trí thành đội hình hàng ngang hướng về sông Kim Ngưu, cách sông hơn 300m. Tiểu đội 1 có chính trị viên Đức và trung đội phó Nam đi cùng, bố trí nhô ra phía trước, lợi dụng khu gò có một số mả xây, các tiểu đội 2 và 3 bố trí ngay phía sau, cách gần 400m. Khoảng 6 giờ sáng, anh em phát hiện nhiều bóng, người đang kéo đi dọc sông xuống phía Mai Động, Hoàng Mai, một toán tới cánh đồng Quỳnh Lôi thì tiến thẳng về phía làng. Trời tháng chạp sương mù, cách vài trăm thước không nhìn rõ mặt người. Địch hay ta chưa xác định được, cả trung đội giữ bí mật trận địa, sẵn sàng nổ súng. Đến khi toán người vào cánh đồng làng Quỳnh chưa đầy 200m thì rõ đó là Tây. Để địch tiến thêm chục bước nữa, cả trung dội đồng loạt nổ súng. Bị bắn bất ngờ, lại giữa địa hình trống trải, địch chết hàng chục tên. Chúng dừng lại, bắn trả quyết liệt bằng mọi loại súng: súng trường, trung liên, đại liên. Rồi cối 60, 81 tới tấp bắn vào các tiểu đội của chúng tôi. Đợt chiến đấu này, trung đội bị thương vong sáu, bảy đồng chí, trong đó có cả chính trị viên Đức và trung đội phó Nam đã hy sinh vì một quả đạn cối nổ trúng vị trí nơi các đồng chí đang chỉ huy chiến đấu.


Địch bị thiệt hại nặng, chúng dừng lại để củng cố thế trận, kéo những tên chết và bị thương về phía sau, đưa thêm quân lên. Có thể chúng đoán biết phía trước chỉ là một đơn vị nhỏ của ta, nên khi chấn chỉnh xong, chúng lại hùng hổ kéo đến, vừa tiến bắn dữ dội, vừa la hét ầm ĩ. Lợi dụng địa hình tốt có chuẩn bị sẵn, cả trung đội đánh trả quyết liệt. Khoảng cách giữa hai bên rút ngắn dần. Tiểu đội 1 phía trước đánh giáp lá cà với địch. Súng bắn, lựu đạn nổ xen lẫn tiếng hô "xung phong" "quyết tử"... Từ phía tiểu đội 2 và 3, súng và lựu đạn cũng liên tiếp nổ vào địch. Đợt này rõ ràng lại hàng chục tên địch nữa bị bắn đổ, nhưng phía ta cũng thương vong hơn một chục đồng chí. Tiểu đội 1 hầu như không còn ai, cả trung đội chỉ còn khoảng một phần ba quân số, đạn dược còn lại ít, lựu đạn chỉ còn vài quả.


Chiếm được khu mả xây, địch dừng lại một chút rồi lại tiến vào, vừa đánh chính diện vừa bọc hai bên sườn định diệt gọn chúng tôi. Lực lượng quá chênh lệnh, trung đội vừa đánh vừa lợi dụng địa hình quen thuộc rút thec con mương về sát làng Quỳnh, dựa vào công sự và một số nhà cao tiếp tục chiến đấu. Đến đây địch không dám vào làng. Chúng dừng lại bắn, bắn tới tấp nhiều đợt về phía làng, rồi rút ra cụm lại giữa cánh đồng, bảo đảm bên sườn cho cánh quân đang kéo xuống phía nam. Cả hôm đó, số anh em còn lại của trung đội vẫn trụ lại ở một số nhà cao trong làng, đến chiều nhận được lệnh rút về ngõ Mai Hương rồi về Việt Nam học xá. Đêm hôm ấy, trong cuộc vượt vòng vây của địch, trung đội Hoàng Hoa Thám làm nhiệm vụ bảo vệ số đồng bào còn kẹt lại men theo đường mương cầu Đổ, rút về Thanh Trì.


Trong trận quyết tử ngày 15/1/1947 trên cánh đồng làng Quỳnh, trung đội có 34 người thì 19 đồng chí hy sinh, 2 bị thương. Trong số hy sinh có hai bộ ba anh em ruột ngã xuống trên cùng trận địa: Nam - Giao - Tính và Mạc - Nghiên - Bút.


Hơn một nửa thế kỷ trôi qua. Trung đội Hoàng Hoa Thám năm xưa nay chỉ còn lại dăm người. Nhưng thời gian có dài bao nhiêu cũng không thể xóa được trong tâm trí những người bạn của một thời trai trẻ và là những đồng đội thân thiết đã hy sinh trên mảnh đất quê hương vào một ngày mùa Đông năm ấy.

Đại tá THÀNH XUÂN CHUNG
Nguyên trung đội trưởng trung đội Hoàng Hoa Thám
Nguyên phó viện trưởng Viện Bảo tàng quân đội


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:31:11 am
TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ
NHÀ THƯƠNG VỌNG (BỆNH VIỆN BẠCH MAI)
(15/01/1947)


Ngày 15/01/1947, địch từ Kim Liên tiến xuống đánh Nhà thương Vọng. Ta có đại đội 68 thuộc tiểu đoàn 64 cùng ba trung đội tự vệ và khoảng 100 cứu thương cấp dưỡng dồn từ phía trước về, tất cả khoảng 500 người có nhiệm vụ gấp rút tổ chức phòng ngự để chặn địch.


Nhà thương Vọng là một khu vực gần như vuông vức khá rộng, mỗi chiều khoảng 300m, có tường bao quanh. Phía bắc là một bãi bóng và một bãi trống có một số hố đấu và lò gạch nhỏ, phía đông là con đường sắt, đường xe điện và đường số 1 hình thành một bãi bằng khá rộng; phía nam là đường Tàu Bay (nay là đường Trường Chinh) nối liền với đường Đại La - Ngã Tư Vọng. Mặt tiền của bệnh viện trông ra đường số 1 có cổng vào. Trên cổng có một cái chòi.


Trong bệnh viện, có nhiều nhà ba tầng làm việc và nhà bệnh nhân nội trú. Góc phía tây bắc là nhà xác và có một tháp nước.

Khi được tin địch từ Kim Liên đánh xuống, ta cấp tốc triển khai lực lượng phòng ngự: ba trung đội tự vệ bố trí ở bãi trống phía bắc. Đại đội Vệ quốc đoàn bố trí ở trong bệnh viện, có một trung đội dọc theo tường rào phía bắc, một trung đội ở phía đông, một khẩu đại liên bố trí ở chòi cao cổng ra vào. Còn một khẩu ở mặt đất, đục lỗ tường bắn ra dọc đường số 1.


5 giờ sáng địch bắt đầu chuẩn bị hỏa lực mạnh, có pháo 75 ly cối 81 và máy bay tham gia.

Một đoàn tám xe tăng và thiết giáp, cùng mười xe vận tải chở khoảng 300 lính Xê-nê-ga-le ăn mặc giả thường dân kéo đến, cách bệnh viện 300m thì chúng triển khai lực lượng bắt thường dân ta đi đầu đội hình để tiến công.


Quân ta dùng súng trường bắn chỉ thiên cho dân chạy tản ra. Địch dùng súng máy bắn vào dân.

Địch tiếp tục tiến, ta chờ chúng đến gần, bất ngờ dùng khẩu đại liên ở chòi cổng bệnh viện bắn mạnh vào địch, nhiều tên tháo chạy. Địch tổ chức lại đội hình, lại xung phong và bị ta bắn chặn. Cho đến 10 giờ ta đánh lui sáu đợt xung phong của địch bằng súng đại liên, súng trường, lựu đạn của tự vệ và Vệ quốc đoàn, diệt và làm bị thương nhiều địch.


Địch dùng pháo trên xe tăng bắn mãnh liệt. 10 giờ chúng bắn sập hai lò gạch nhỏ ở phía bắc. Khoảng hơn một tiểu đội tự vệ của ta bị thương vong nhưng anh chị em vẫn ngoan cường bám trụ công sự để chặn địch. Một bộ phận thám báo địch tiến theo hướng tây bắc bệnh viện cũng bị ta chặn lại.


11 giờ địch bắn sập chòi đặt đại liên của ta ở cổng. Một chiến sĩ quốc tế người Nhật đã nhanh chóng xếp gạch bố trí lại khẩu đại liên để ngăn chặn địch.

Trước tình hình chiến đấu rất quyết liệt, Ban chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho bộ phận nữ cứu thương cấp dưỡng theo lạch nước rút về hướng sân bay Bạch Mai. Ở hướng bắc, địch vẫn bị chặn lại.

Một cánh quân địch gồm 8 tăng thiết giáp, 15 xe vận tải chở 500 quân, sau khi đánh chiếm Vĩnh Tuy từ sớm và ngã tư Trung Hiền vào trưa, tiến theo đường Đại La và vào khoảng 14 giờ tiến đến Vọng đánh vào phía sau quân ta. Như vậy địch từ hai mặt giáp công; cánh bắc yếu hơn đã bị chặn đánh nhiều lần và cánh Ngã Tư Vọng phía nam mạnh hơn. Ở phía nam ta chưa tổ chức phòng ngự.


Địch dùng pháo trên tăng diệt ổ đại liên của ta ở cổng bệnh viện rồi cho xe tăng húc đổ tường, đột phá vào hướng đông nam của bệnh viện. Tổ bom ba càng đâm phá được một xe tăng. Chiếc tăng khác xông lên. Ta trụ bám từng nhà để chặn địch. Khoảng 18 giờ ta rút quân về hướng Khương Trung, sân bay Bạch Mai. Khoảng một trung đội rút xuống hầm ngầm của bệnh viện, khoảng nửa đêm lên khỏi hầm đánh địch mà rút.


Trận Nhà thương Vọng là một trận đánh oanh liệt, quân ta phải chống trả lại hai tiểu đoàn địch tiến công từ hai hướng, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch diệt khoảng 200 tên, trụ bám suốt một ngày. Trận này ta bị thương vong khoảng 50 vệ quốc quân và khoảng 100 tự vệ trong đó có một chính trị viên đại đội và một trung đội trưởng.

(Tài liệu tổng kết chiến thuật
của Quân khu Thủ đô)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:33:42 am
TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ
TẠI KHU VIỆT NAM HỌC XÁ

(16, 17, 18 tháng 1 năm 1947)


Trận chiến đấu diễn ra trong tình huống Hà Nội đã tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp được 27 ngày. Liên khu I vẫn đứng vững, Liên khu III địch tạm thời hoạt động cầm chừng để dành lực lượng tập trung đánh chiếm Liên khu I và II...


Tuyến phòng ngự vững chắc của Liên khu II Hà Nội là Mặt trận Ô Cầu Dền. Đó là một phòng tuyến kéo dài suốt từ Ô Đống Mác qua Ô Cầu Dền sang tới tận ngã tư Kim Liên. Lợi dụng hình thế tự nhiên của khúc sông Tô Lịch rộng trên dưới 10 mét và sâu chừng 1,5 mét tới 2,5 mét, chảy ngăn cách giữa hai khu nội - ngoại thành. Các loại xe cơ giới không dễ dàng vượt qua. Ta đã tổ chức thành một tuyến phòng ngự vững chắc tại đây. Và, đã cầm chân địch được tới ngày 15/1/1947...


Khu Việt Nam học xá là tên gọi sau ngày Cách mạng Tháng Tám ta đặt cho khu Đông Dương học xá, nguyên là ký túc xá dành cho sinh viên của cả khối Đông Dương, gồm cả 3 nước Việt - Miên - Lào đến học tại trường đại học (duy nhất của Đông Dương) đặt tại Hà Nội.


Khu học xá gồm bốn ngôi nhà bốn tầng bê tông cốt thép (một tầng hầm nửa chìm nửa nổi với ba tầng lầu) dành cho sinh viên ở. Và hai ngôi nhà hai tầng dành cho giám thị và các nhân viên hành chính ở và làm việc.

Khu nhà được xây dựng trên một khu đất cao ráo và rất rộng, nằm giữa một vùng đồng ruộng, ao, chuôm. Và bao bọc bởi bốn con đường lớn giao nhau:

Phía bắc, cách chừng 1.000 mét là con đường Đại Cồ Việt, rộng chừng 6 mét, chạy từ Ô Cầu Dền tới ngã tư Kim Liên. Trên con đường này (khi ấy) là nơi nối tiếp với ba con đường từ nội thành đi ra: là phố Duy Tân (sau đổi trở lại là Phố Huế), phố Mai Hắc Đế, phố Bà Triệu. Và, ở phần mé bắc con đường chỉ có trường Trần Văn Khánh và bốt Ô Cầu Dền nằm gần kề ở ngay đầu đường; còn cuối đường là hồ Bảy Mẫu (ngoài ra là đất hoang và bãi rác của thành phố), ở phần mé dưới con đường (từ Ô Cầu Dền đến nghĩa địa Cô La-oa) có chừng năm ngôi nhà toóc-si bán học phẩm cho học sinh trường Trần Văn Khánh. Ngoài ra là các túp nhà lá ở dưới đê sông Tô Lịch, nằm rải rác từ dấy đến nghĩa địa Cô La- oa (ở đây có một con đường chạy ngang sông Tô Lịch vào nghĩa địa, ô tô đi được, nối tiếp với nó là đường "ruột mèo" có thể vào được khu học xá).


Phía nam: cách khu học xá chừng 600 mét là đương Đại La chạy từ ngã tư Trung Hiền đến Ngã Tư Vọng. Kế hai bên đường là dãy nhà gạch (đa số là một tầng, lác đác dăm bảy ngôi nhà hai tầng kiểu cũ, nhỏ và hẹp). Mé bắc con đường, đằng sau dãy nhà gạch là rất nhiều ngôi nhà lá, có chỗ tụ thành xóm, có chỗ rải rác, riêng lẻ, của thợ thuyền và những người trồng rau. Họ ở và trồng trọt sâu mãi vào bên trong (chỉ còn cách khu Học xá chừng 300 mét).


Phía đông là phố Bạch Mai, cách Học xá chừng 300 mét. Nhà gạch san sát liền tường, trải dài suốt từ Ô Cầu Dền xuống tận ngã tư Trung Hiền, phần lớn là nhà một tầng, xen kẽ có khoảng vài chục ngôi nhà hai tầng, và chỉ có hai ngôi nhà ba tầng (là nhà lơ Vũ Tạo ở đầu Ô Cầu Dền với nhà bà Ba Hoàn ở kề rạp hát Lạc Thành Đài, đối diện con đường cái đi vào khu Học xá). Bên từng dãy nhà đều có rất nhiều ngõ hẻm, chạy sâu vào phía trong. Có những ngõ khá rộng, như ngõ Tô Hoàng, ngõ Chùa Liên, ngõ Văn Chỉ, ngõ Giếng Mứt, ngõ Mai Hương, Ngõ Quỳnh, Ngõ Bò...


Phía tây là con đường quốc lộ 1 (nay là đường Giải Phóng) khúc từ Ngã Tư Vọng đến ngã tư Kim Liên; cách khu Học xá chừng 700 mét. Ở đây không có nhà, chỉ thuần ao chuôm và ruộng nước từ đường cái trải sâu vào phía trong, chỉ còn cách khu Học xá chừng 300 mét. Trên đoạn đường này có hai ba con đường ruột mèo chạy ngoằn ngoèo qua các rìa ao, bờ ruộng do dân trồng, cấy tạo nên (còn có một con đường đất đang mở dở dang, chạy từ đầu Ô Cầu Dền chéo qua giáp Tô Hoàng và rìa khu Học xá xuống còn cách Ngã Tư Vọng chừng 300 mét thì bỏ dở...). Con đường khi ấy có tên là đường Lý Bôn.


Đã có một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra ngay tại khu Học xá: vào khoảng trung tuần tháng 2 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã đến dự cuộc mít tinh lớn của sinh viên và nhân dân quanh vùng chào mừng sự ra mắt của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử dựng nước, do Cụ Hồ lãnh đạo. Cuộc mít tinh được tổ chức tại sân vận động nằm giữa bốn ngôi nhà lớn của khu Học xá. Nhân dân trong vùng cùng với cán bộ chính quyền và đông đảo sinh viên hết sức vui mừng được đón chào Cụ Hồ và nghe Cụ nói chuyện...1 (Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bốn lần đến khu Việt Nam học xá: - Ngày 05/01/1946 Hồ Chủ tịch nói chuyện với đồng bào Liên khu II và khu Bạch Mai về ý nghĩa cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946. - Trung tuần tháng Hai năm 1946 ta có tổ chức mít tinh lớn toàn thành tại sân vận động khu Việt Nam học xá chào mừng Chính phủ liên hiệp. Hồ Chủ tịch và các thành viên Chính phủ đã đến dự. - Đầu tháng 4/1946, bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức xuyên tạc Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ta tổ chức một hội nghị gồm các nhà trí thức, các nhà doanh nghiệp đại biểu nhân dân 17 khu của nội thành Hà Nội tại Việt Nam học xá. Hồ Chủ tịch đã nói chuyện, giải thích ý nghĩa và tầm quan trọng của Hiệp định Sơ bộ. - Thượng tuần tháng 8 năm 1946, nhân Hội nghị Fontainebleau, Chính phủ nước Cộng hòa Pháp mời Hồ Chủ tịch sang thăm. Nhiều tầng lớp nhân dân cả nước đã gửi kiến nghị xin Hồ Chủ tịch dừng nhận lời. Hồ Chú lịch đã đến Việt Nam học xá nói chuyện với giới trí thức, giới doanh nghiệp và đại biểu nhân dân về sự cần thiết phải nhận lời mời của Chính phủ Pháp. Tham dự cuộc nói chuyện này có tướng Salan, đại diện Bộ Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương. Tướng Salan đã lên nói lời cam kết của Chính phủ Pháp bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Hồ Chủ tịch).


Trước ngày nổ ra trận đánh, tại khu Học xá đã có sẵn đội tự vệ do anh em sinh viên tự tổ chức. Tổng hội sinh viên quyên góp, mua cho đội tự vệ được 1 khẩu đại liên (Hốt-kít) với hơn mười khẩu súng trường, cùng một số phương tiện và vũ khí khác (gươm, dao, lựu đạn, mìn v.v...). Đội có chừng gần ba chục anh em, phần lớn là người tỉnh xa về Hà Nội học. Trước tình hình đất nước phải đối mặt với nạn ngoại xâm, anh em tình nguyện ở lại cầm súng chiến đấu bảo vệ Hà Nội...


Cùng với đội tự vệ sinh viên, còn có đội tự vệ của phố Bạch Mai chừng 40 người, cũng tự trang bị được đại liên và súng trường tương tự đội tự vệ sinh viên...

(Trong những ngày quân Pháp chưa tràn tới Ô Cầu Dền, hai đội tự vệ này thường xuyên tự động dẫn nhau vào nội thành, tham gia tác chiến cùng các đơn vị bạn trong đó).

Ngày 22/12/1946, đại đội 55 thuộc trung đoàn 64 từ Sơn Tây được lệnh kéo về cùng tham gia giữ khu Việt Nam học xá. Đại đội 55 là một đại đội mạnh cả về quân số lẫn trang bị: đại đội gồm 3 trung đội khinh binh, hai tổ hỏa lực (đại liên và súng cối), với một cơ quan đại đội bộ... tổng cộng chừng 150 người. Trang bị một đại liên, ba trung liên, một súng cối 60 ly, với rất nhiều lựu đạn và đầu đạn 37 ly, 56 ly. Già nửa quân số có súng trường...


Sau ngày 22/12/1946 có thêm hai trung đội của tiểu đoàn 77, gồm một trung đội của đại đội I (thuộc quyền chỉ huy của đại đội trướng Ngọc); một trung đội của đại đội 3 (thuộc quyền chỉ huy của đại đội trưởng Mẫn), đến cùng bảo vệ khu Học xá.


Ngoài ra, ở đây còn có chừng 1000 người không thuộc quân số của đơn vị. Họ phần lớn là dân thường, vì nhiều lý do, cố nấn ná chờ chiến tranh kết thúc để trở về nhà, không muốn tản cư. Phần còn lại, là những nhân viên công tác ở các trạm y tế hoặc kho tàng... chưa kịp rút ra ngoài. Và, có khoảng vài chục anh em là bộ đội và tự vệ lạc đơn vị, hợp nhau lại tự chiến đấu...


Diễn biến chiến đấu: Đúng ngày đại đội 55 về đến Việt Nam học xá thì đội tự vệ sinh viên nhận được lệnh của Bộ Tổng tham mưu điều động đi nhận nhiệm vụ khác. Anh em cố tình nấn ná ở lại chiến đấu thêm đến cuối tháng 12/1946 mới chịu bàn giao vũ khí cho đại đội 55 để đi nhận nhiệm vụ mới; sau đội tự vệ sinh viên này đã tham gia đánh địch liên tục trong nội thành, tại các khu Đồn Thủy, Cửa Nam, nhà tên đại tá Lamy, nhà số 2 phố Ha-le (nay là phố Nguyễn Du). Và, đánh chặn các cuộc tiến công của địch trên đường phố Chợ Hôm.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:35:01 am
... Ngày 15/1/1947, từ 5 giờ sáng quân Pháp đã tập trung đại bác và bom, đánh phá rất dữ dội vào trận địa khu vực Ô Cầu Dền của ta. Mặt khác, chúng bí mật tập trung một lực lượng rất mạnh gồm gần ba tiểu đoàn quân tinh nhuệ cùng với rất nhiều chiến xa và xe cơ giỏi, theo đường bờ đê sông Hồng chọc xuống Vĩnh Tuy, rồi nhanh chóng vượt qua cầu Mai Động, đánh chiếm ngã tư Trung Hiền và Ngã Tư vọng. Tiến ngược quốc lộ 1, đánh thẳng vào bệnh viện Bạch Mai.


Tại bệnh viện Bạch Mai, ta có hai đại đội đang chốt giữ, là đại đội 4 và đại đội 68 thuộc tiểu đoàn 64. Trước xung lực áp đảo của đối phương, đặc biệt là sức công phá của xe tăng và đại bác địch, sau một ngày ròng rã chống trả quyết liệt, cả hai đại đội đều bị thương vong nặng nề mà quân địch vẫn không sao vào được bệnh viện. Đến tối, khi quân địch đã rút hết, quân ta cũng đành phải rút ra ngoài...


Sang ngày 16/1/1947, từ 6 giờ sáng địch đã tập trung đại bác, súng cối từ nghĩa địa Tây và sân trường Trần Văn Khánh cùng với máy bay... bắn và ném bom dữ dội vào khu Học xá. Mặt khác, chúng nhanh chóng thiết lập một số điểm chốt chặn tại sở Vô tuyến điện (Vọng); cầu Đại La; ngã tư Trung Hiền; cầu Mai Động tạo thành một vành đai, hình thành thế bao vây chặt toàn bộ lực lượng kháng chiến của ta ở Liên khu II Hà Nội.


Đến khoảng 8 giờ sáng, địch bắt đầu từ ngã tư Trung Hiền tiến công ngược lên, vào phố Bạch Mai. Các đơn vị của tiểu đoàn 77 cùng đội tự vệ Bạch Mai dựa vào ụ chiến đấu giữa Chợ Mơ với ngõ Giếng Mứt... chống cự quyết liệt. Sau hai giờ chiến đấu, chiếc ụ không đứng vững, quân ta phải rút vào ngõ Mai Hương; một trung đội của d77 rút vào xóm Giếng Mứt.


Quân Pháp tổ chức lại lực lượng, nhanh chóng cho xe tăng và bộ binh theo đường cái tiến vào khu Học xá.

Trận đánh của đại đội 55 cùng các đơn vị bạn bảo vệ khu Học xá bắt đầu. Lúc ấy vào khoảng 10 giờ ngày 16/1/1947...

Mặc dù yếu hơn đối phương cả về quân số lẫn trang bị, nhưng quân ta lại chiếm được ưu thế phòng ngự ngay từ phút đầu (giành điểm cao, có sự che chắn vững chắc...). Ban chỉ huy đại đội 55 bố trí binh hỏa lực rất hợp lý. Chia anh em ra làm hai loại, sử dụng hai cách đánh khác hẳn nhau. Một số anh em được trang bị lựu đạn và chai xăng, chuyên đánh xe tăng và cơ giới; số anh em còn lại sử dụng các loại liên thanh và súng trường, chuyên đánh bọn bộ binh địch. Với cách bố trí lực lượng tác chiến như vậy, lại ở thế cao hơn địch hàng chục mét, khi chúng tiến vào, sự che chắn của xe tăng đối với bộ binh của chúng trở thành vô ích. Quân ta có thể dễ dàng cùng một lúc đánh cả xe tăng lẫn bộ binh địch...


Khi quân Pháp nghênh ngang kéo nhau tiến vào khu Học xá, xe tăng của chúng gầm rú vừa xông lên vừa nhả đạn điên cuồng để thị uy, thì quân ta vẫn bình tĩnh chờ đợi. Còn cách 60 mét, 50 mét, 40 mét!... Đại đội trưởng Quỳnh phát lệnh, toàn thể các chiến sĩ ta nhất tề tung lựu đạn, chai xăng và nổ súng. Bị đánh bất ngờ, bộ binh địch hoảng sợ dìu nhau tháo chạy. Xe tăng thiết giáp có bộ binh đi kèm, cũng đành phải rút lui.


Từ lúc ấy đến chiều chúng tổ chức tấn công thêm ba lần nữa, đều thất bại. Trước khi rút lui chúng cho lính nổi lửa đốt hết cả xóm Giếng Mứt cùng những ngôi nhà lá quanh đó (ngẫu nhiên đã giúp cho anh em trong khu Học xá có tầm quan sát rộng và xa hơn, phát hiện hành động của chúng sớm hơn).


Ngày hôm sau (17/1/1947), rút kinh nghiệm trận đánh thất bại hôm trước, địch chia quân làm nhiều mũi: mũi trọng điểm vẫn là từ phố Bạch Mai, tập trung xe tăng và đại bộ phận quân lính tiến vào khu Học xá. Thêm hai mũi khác, một mũi từ Ngã Tư Vọng có chừng 30 tẽn trang bị nhẹ, len lỏi qua các dệ ao và bờ ruộng, tiến vào khu Học xá; mũi thứ hai từ cuối phố Bà Triệu thọc xuống lôi vào nghĩa địa Cô La-oa (mũi này cũng có chừng 30 tên)...


Cả mũi chính (phía Bạch Mai) cùng hai mũi phụ (phía Vọng và phố Bà Triệu) cùng nhất tề tấn công một lúc. Chúng chắc mẩm, nếu chẳng may tình hình xấu như hôm trước, thì bộ binh của hai mũi sẽ kịp thời có mặt để phối hợp với xe tăng và bộ binh của chúng đánh đại đội 55. Trên mặt chính từ phố Bạch Mai vào, thì ở hồ đấu (cuối đường Lý Bôn) trung đội thuộc đại đội I của d77 đã phục sẵn, chặn đứng ngay toán địch từ Vọng tiến vào. Còn ở phía đường Bà Triệu đã có trung đội thuộc đại đội 3 của d77 phục sẵn ở sau "bệ thiêu xác "tây đen" tiêu diệt hơn 100 tên ngay từ phút đầu khiến chúng không dám tiến vào.


Và thế là suốt cả ngày 17/1/1947 cánh quân từ phố Bạch Mai tiến đánh đại đội 55 vẫn bị cô lập, không có cách nào tiếp cận quân ta được...

Lần thứ hai chúng đành chịu thất bại, mang theo rất nhiều tên thương vong, rút lui (trước khi rút lui, thiết giáp và xe tăng của chúng điên cuồng xông vào chạy quanh khu Học xá nhiều vòng, xả súng bắn nát cả cầu thang ngôi nhà...).


Đêm hôm ấy, hai trung đội còn lại của d77 cùng với dân chúng rút ra hết. Khu Học xá từ lúc ấy chỉ còn lại duy nhất đại đội 55. Anh em binh sĩ có người thắc mắc, ban chỉ huy đại đội giải thích: "Trên lệnh cho đại đội ta vào bảo vệ khu Việt Nam học xá, chưa có lệnh mới, cứ tiếp tục chiến đấu...".


Ngày 18 địch ngừng đánh khu Học xá, chúng nghi quân ta rút về phía Nam Dư nên tập trung lực lượng đuổi theo về hướng ấy. Không thu được kẽt quả gì, ngược lại còn bị diệt một xe tăng cùng với hơn một chục binh sĩ (trong đó có một quan ba). Trở về, chúng cho thiết giáp và xe tăng bắn rất dữ vào khu Học xá, nhưng không dám tấn công...


Ngày 19/1/1947 chúng lai tiếp tục tiến đánh khu Học xá. Có lẽ bọn địch không nắm được tình hình bên ta, chúng không biết rằng hai trung đội thuộc đại đội 2 và đại đội 3 của tiểu đoàn 77 đã rút ra ngoài, nên chúng không dám tổ chức cho bộ binh của chúng đánh lẻn phía sau lưng ta (theo đường hẻm từ Ngã Tư Vọng và nghĩa địa Cô La-oa vào như hôm trước), chúng đành diễn lại cách đánh thẳng vào chính diện phòng ngự của đại đội 55. Kết quả: sau trọn một ngày với sáu lần xung phong đều thất bại, chúng đành phải vác xác nhau lầm lũi rút lui.


Ngay đêm hôm đó (19/1/1947) liên lạc từ ngoài vào truyền lệnh của trung đoàn, cho đại đội rút ra. Đại đội 55 đã tổ chức rút lui an toàn với đầy đủ quân số, vũ khí cùng các trang bị khác (kể cả sáu chiến sĩ bị thương)...

HOÀNG GIÁP
(Theo biên bản cuộc hội thảo ngày 6/4/2001
tại Trường Đại học Bách Khoa)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:36:37 am
TRẬN QUYẾT TỬ CỦA LÀNG HOÀNG MAI


Gần một tháng trời đánh vỗ mặt chiến tuyến Ô Cầu Dền để nống xuống phía nam Hà Nội, không những không xong mà còn bị tiêu hao không ít lực lượng, giặc Pháp giở thủ đoạn xảo quyệt mới.

Tinh mơ 15/1/1947 tức ngày 24 tháng chạp Bính Tuất giặc tập trung, xe tăng, thiết giáp cùng tiểu đoàn bộ binh chọc thủng phòng tuyến Ô Đống Mác và tỏa ra nhiều mũi, một từ Lò Lợn xuống Vĩnh Tuy chọc qua Mai Động vào ngã tư Trung Hiền, một nữa chọc từ Vọng qua Đại La vào ngã tư Trung Hiền, rồi cùng tiến thẳng vào khu vực Việt Nam học xá nhằm đánh tập hậu chiến tuyến Ô Cầu Dền. Súng giặc, súng ta nổ ran ran...


Trên trục đường "bao vây, đánh bọc" này, giặc còn cho các mũi hộ công đánh thọc sâu vào các xã ở trục đường cái lớn như Vĩnh Tuy, Mai Động, Giáp Bát, Lò Sũ, Hoàng Mai cũng nằm trên ven trục đường cái lớn ấy.

Và ngày 15 /1/1947 ấy, lực lượng tự vệ Đông Đoài xã Hoàng Mai lần đầu tiên đối mặt với giặc Pháp. Chúng chớm vào đến "lăng ông Hai Tôn" (Gốc Đề) ta đã nổ súng. Chúng ào ạt tiến chiếm "lăng". Ta rút. Chúng tiến vào chùa Hưng Ký. Ta đánh tiếp. Các bin, tôm-xơn của chúng áp đảo lại. Và như có chủ định sẵn, chúng xông vào bao vây nhà cụ Ký Nghiễm - nơi có trạm hậu cần của tiểu đoàn Quang Tuần (Liên khu II). Giặc chẹn chặt các lối ra vào, xả súng bắn chết tất cả 7 người trong đó có cụ Ký Nghiễm bà và chị Bùi Thị Giần, người làng Thịnh Yên (Chùa Vua) cán bộ phụ trách trưởng trạm. Xong việc dã man ấy chúng kéo từ trong nhà ra một thi thể, đầu gần như lìa khỏi cổ của một chiến sĩ Liên khu đem quăng ra ngoài sân để uy hiếp tinh thần quân ta, rồi chúng mới rút. Ra tới "lăng ông Hai Tôn" chúng bị liền một lúc mấy trái lựu đạn phải bỏ mạng tại trận ba tên. Nhưng bên ta có thêm một tự vệ hy sinh, đó là anh Thành, con trai thứ ba của cụ Lươn, thôn Đông.


Hôm sau 16/1 Hoàng Mai được tăng cường sức chiến đấu. Một trung đội Vệ quốc quân của tiểu đoàn Quang Tuần Liên khu II, một trung đội hỗn hợp gồm các chiến sĩ tự vệ Phương Liệt, nhà dầu Shell Kim Liên và Việt Nam học xá.


Ngày 17, giặc từ nghè Mai Động men theo gò đống, mồ mả khu đồng màu phía trái Gốc Đề, lại sục vào "lăng ông Hai Tôn", lại bị diệt vài ba tên. Ta có anh Sơn, thôn Đoài hi sinh.

Ngày 18, giặc từ đình Mai Động, theo lối mòn vườn ông Hộ và hướng đình ông - có đường nối ra Gốc Đề. Đã có kinh nghiệm chiến đấu, bố trí hầm hào tốt, ta đợi giặc đến thật gần mới đánh tập trung. Và trận này thắng khá to. Giặc bị diệt tới 21 tên, máu me đọng lại thành vũng dưới gốc rặng duôi, rặng dứa gai. Mà ta lại không một ai bị thương vong.


Và các ngày tiếp theo.

Trên tuyến vành đai phía đông, phía tây, phía bắc, khi thôn Đoài, lúc thôn Đông, buổi đầu xóm Bến của Hoàng Mai ngày nào cũng có đụng độ giữa ta và giặc.

Thấy không thể nống sâu được xuống phía nam Hà Nội nếu còn một số "quả đấm" bên sườn của Việt Minh, giặc Pháp thay đôi cách đánh:

Sau những trận đánh dấp dứ, nhỏ lẻ, đẽn ngày 1/2/1947 (11 tháng giêng Đinh Hợi)...

Trời chưa sáng rõ đã nghe thấy tiếng ầm ĩ của đủ loại xe tăng, xe cơ giới của giặc các ngả đường cái lớn bao quanh Hoàng Mai dội về.

Tại sở chỉ huy tự vệ chiến đấu, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Tuất và chính trị viên Nguyễn Kỷ ra lệnh triển khai lực lượng, sẵn sàng diệt giặc.

Chừng 6 giờ 30 đã thấy lính Pháp ngồi hàng dãy dài theo dọc con đường đất trước trại cụ Hai Thử - xóm Bến.

Tiếp nữa, từng toán, từng toán từ Mai Động - chợ Việt đi tắt sang cánh đồng Dàu - Đền Lừ đi lên... một cánh từ phía chùa Hưng Ký vào "lăng ông Hai Tôn" (Gốc Đề), một cánh từ đình Mai Động thọc sang vườn ông Hộ (thôn Đông) phía thôn Đoài, một cánh từ cổng chính vào giếng Cầu. Phía Tương Mai, hai cánh, một từ trường bắn sang quán Hảo (xóm Bến), một sang chiếm mả Cả (trước đình làng).


... Và thôn Đông đã nổ súng. Rồi cả Hoàng Mai nổ súng! Tất cả lực lượng tự vệ Hoàng Mai, Vệ quốc đoàn Liên khu II, tự vệ Phương Liệt - Việt Nam học xá, dầu Shell cùng nổ súng. Tiếng súng trường Nga, súng khai hậu, súng Mút - cơ - tông... của ta bắn dè xẻn đan xen vào tiếng tiểu liên các - bin, tôm - xơn, trung liên, đại liên... từng loạt dài bắn như đổ đạn của giặc.


Nhưng trước một lực lượng trên 400 tên lính Lê dương với trang bị tối tân, lại có phi pháo yểm trợ, so với ta thật không cân sức, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Tuất viết lệnh cho các chốt tiền tiêu: "Rút về đại đội bộ để tập trung lực lượng quyết tử".


Lệnh chưa tới được các chốt đình Ông và nhà cụ Tú Lâm, giặc đã tràn qua trận địa vào tới nhà cụ Sang. Một số anh em phải nhảy xuống ao hoặc lấy rơm phủ lên người để tránh bị tiêu diệt. Tại chốt quán Thiện, khói vàng đạn AT của giặc trùm lên chiến lũy của ta được dựng lên bằng chục chiếc cối xay và cần giã gạo trước cửa nhà bà cai Húc. Tiểu đội trưởng là chiến sĩ tự vệ Phương Liệt, sau khi đọc lệnh, bảo liên lạc viên Lan: "Chú về báo cáo, anh không thể chấp hành lệnh lúc này được vì địch đang tấn công ác liệt". Phía trước anh, địch đang từ ngã ba giếng Cầu đánh sang chốt xóm Tây, trung đội trưởng Nguyễn Hữu Tảo và ba chiến sĩ của Việt Nam học xá cùng Nguyễn Hữu Trung thư ký đại đội bộ rút về giữ ngã ba đường thôn Đông xuống xóm Bến.


Cùng lúc này giặc cho hai chiếc máy bay khu trục sà thấp xuống quần đảo nhiều vòng để uy hiếp ta và ném bom xuống phía Giáp Tứ, Giáp Lục ngăn chặn không cho lực lượng nào của ta lên chi viện cho Hoàng Mai.

Tiếng súng giặc rộ rạt khắp nơi. Cánh quân của chúng từ đền Hoa Lư tràn qua cánh đồng lên khu lò gạch cụ Tài Uẩn, chiếm quán Bô Phe Thượng, cách đại đội bộ 300m. Cánh quân địch phục trước trại cụ Hai Thử tiến sâu vào xóm Bến, ở đó là cơ sở hậu cần của ta - nhà ông Nguyễn Công Tái đã có lần máy bay "bà già" chỉ điểm cho mooc - chi - ê giặc bắn phá, bữa nay các ông trưởng, phó ban tiếp tế Vũ Đình Đức và Đỗ Phú Thuyết đã kịp thời cất giấu lương thực ra bờ tre, gốc dứa, nồi niêu xoong chảo dìm hết cả xuống ao, lạch, người luồn ra cánh đồng.


Căn nhà gác của cụ Vũ Thu - xóm Trung, thôn Đông là điểm chốt của lực lượng quyết tử, gồm 10 cán bộ chiến sĩ: Nguyễn Hữu Tuất (đại đội trưởng), Nguyễn Kỷ (chính trị viên), Trần Ngọc Vân, Nguyễn Đào (trung đội trưởng), Nguyễn Từ Lan (tiểu đội trưởng), Lê Quỹ, Trịnh Tam, Vũ Thị Cẩm (chiến sĩ), và Nguyễn Duy Lan, Nguyễn Hữu Mạc (liên lạc). Cũng trong 10 chiến sĩ này có trọn vẹn một tổ đảng duy nhất của Hoàng Mai là bốn đồng chí Nguyễn Hữu Tuất, Nguyễn Kỷ, Nguyễn Đào và Nguyễn Từ Lan. Vũ khí: Súng trường 6, súng ngắn 3, một thúng lựu đạn 30 quả. Bố trí chủ yếu từ tầng cao đánh xuống nên chỉ để đồng chí Nguyễn Kỷ và chiến sĩ Vũ Thị Cẩm phòng chốt tầng dưới. Còn tất cả lên gác hai chia nhau từng khuôn cửa sổ và cửa cầu thang làm điểm chiến đấu.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Năm, 2022, 06:37:21 am
Đại đội trưởng Tuất sau khi giúp anh em bố trí xong, anh ra ngoài để qua các chốt khác. Nhưng anh vừa ra khỏi cửa, bỗng thấy bọn tây kêu lơ lớ. "Việt Minh! Việt Minh!", liền đó nổi lên hàng loạt các tiếng súng các bin, tôm - xơn và cũng đột ngột nổ ra ba phát súng trường đanh, gắt. Anh Tuất ngã ngay trước cửa ra vào nhà cụ Thu.


Bên trong, anh chị em sững người nhìn nhau. Chú Mạc, em ruột của đại đội trưởng Tuất mắt bỗng đỏ hoe, thốt lên: "Anh Tuất em!..." nhưng chú chưa kịp nói hết câu và cũng chưa ai kịp trấn an chú lời nào, giặc bên ngoài đã bắn tới ầm ầm. Anh chị em gấp rút chèn, chặn cửa, kéo nhau leo lên tầng trên, vào vị trí chiến đấu.


Tiểu đội trưởng Nguyễn Từ Lan, qua một ngách cửa sổ trên gác nổ phát súng trường đầu tiên, trúng ngay tên sĩ quan Lê dương đang vung súng lục thúc quân. Nó đổ gục. Lũ đang phá cửa lao ra. Lập tức từ trên cao, lựu đạn bay xuống. Khói xanh, khói xám trùm lên cả một góc vườn. Giặc xông vào kéo xác nhau ra.


Thấy rõ chốt quyết tử của ta, đại liên, trung liên giặc từ quán Bô, đống ông Voi bắn lên tỉa vào tường, vào cửa sổ nhà gác. Từ xa đạn cối bổ xuống nóc, vỡ ngói, sụt trần - đạn AT xuyên tường, vặn cong trấn song...

Dứt đợt cấp tập ấy, bọn giặc lại ào lên phá cửa. Lại bị lựu đạn từ trên gác dội xuống. Lại một đợt mới giặc kéo xác nhau ra.

Cuộc chiến đấu cứ lặp đi lặp lại như thế cho tới lần thứ tư thì giặc đổi cách đánh, chúng quyết định diệt tầng dưới - thiêu sống tầng trên. Có đống rơm nhà cụ Sang kề bên chốt, chúng hè nhau phá chấn song cửa sổ, tống rơm vào, đổ mấy can xăng đốt. Giường, sập, tủ, cánh cửa, cầu thang... tất cả đều bốc cháy. Chính trị viên Kỷ và chiến sĩCcẩm định xông ra chiến đấu nhưng đều bị hy sinh tại chỗ. Tầng dưới, lực lượng phòng chốt của ta coi như không còn một ai. Giặc hùng hổ gạt lửa than xông vào chân cầu thang, cầu thang bị cháy đứt lắt lẻo, chúng ùn lại tìm cách trèo lên. Cả lũ đang xì xà, xì xồ, hai anh Vân, Đào choảng xuống hai trái lựu đạn tập trung. Cả một tiểu đội giặc, thằng chết, thằng bị thương kêu la ầm ĩ dưới chân các anh tử thủ tầng trên.


Bị đòn quá đau, giặc càng hung dữ. Còn lại một tầng, chúng tập trung bắn phá. Có thằng Tây lai cất tiếng gọi: "Việt Minh hãy đầu hàng! Các anh hết đường chạy rồi, hãy đầu hàng đi!". Lựu đạn hết, trung đội trưởng Đào cho hắn một phát súng trường, hắn câm bặt. Nhưng lần tiếp, Nguyễn Đào vừa nhô lên quan sát, chưa kịp xác định mục tiêu thì một loạt đạn đại liên xả tới trúng ngực anh, cánh tay phải lìa khỏi vai, anh ngã vật xuống, lăn lộn một lúc, rồi hy sinh.


Lại hai máy bay khu trục sà thấp, réo rít quanh trận địa. Lúc này chúng không dám ném bom, bắn phá, vì quân ta, quân chúng quá gần nhau.

Dùng xung lực không xong, giở trò "gọi hàng" không nổi, giặc quyết tấn công bằng hỏa lực tới cùng.

Lại đạn lớn, đạn nhỏ, tầm gần, tầm xa bổ xỉa tới. Trên ngói sụt, tường bung, dưới lửa hun, khói bốc. Trung đội trưởng Ngọc Vân bị đạn cối phá võ quai hàm, bung ruột gan. Tiểu đội trưởng Từ Lan hi sinh ở tư thế ngồi bắn. Còn lại bốn chiến sĩ Cam, Quý, San, Mạc, cả bốn đều bị thương phải xé áo, tự băng bó. Chú San bị nặng hơn cả: ngói rơi vỡ đầu, mảnh đạn moóc - chi - ê té vào chân, tay, mặt mũi...

Chiến trận dần dần im ắng.

Ta trên tầng hai, đói, mệt, đau nhức, bị lửa hun đốt. Địch sục sạo các nhà xung quanh, vào nhà ông Nguyễn Tiến Đồng bắt được ba chị Chố,  Bùn, Phấn (cứu thương). Bên nhà cụ Cả Sang, bác Hai Quyến, cụ trưởng Tham, ông giáo Đuyến có nhiều anh em tự vệ ẩn tránh, giặc vào lùng sục nhưng chúng không bắt được ai.


Địch mở rộng vòng vây, tản ra ăn uống. Khoảng 3, 4 giờ chiều, một toán Lê dương bắc thang tre vượt ban công vào tầng hai, chúng bắt đi ba chiến sĩ Quý, Mạc, Cam. Còn San, chúng coi như đã chết rồi nên bỏ lại.

Đến 8 giờ tối, mưa phùn nặng hạt làm cho chú liên lạc Nguyễn Duy San tỉnh lại, nghe đúng tiếng anh Huy Thi - tiểu đội trưởng tự vệ thôn Đoài hắng giọng hỏi thăm dò: "Có còn ai không?...". Sau một lúc, thấy thật "người bên mình" San lên tiếng đáp, rồi moi lấy khẩu côn lúc chiều trước khi bị bắt chú Mạc đã nhanh tay giúi lại. San buộc súng vào cổ tay bò ra phía cầu thang lim đang cháy dở. Anh Huy Thi cùng mấy chiến sĩ đã khôn khéo dùng ba tấm giại cửa nhà thờ nhà cụ Thu vứt lên đống lửa rồi dăng một tấm khác hứng người San từ tầng trên rơi xuống. San được chị Lan (còn có tên là chị Quậy) ở xóm Bến và cô Thảo ở thôn Đoài thay nhau cõng đi qua Giáp Tứ, Quỳnh Đô, Ích Vịnh... để tìm trạm y tế của ta. Chốc chốc lại ngoái đầu nhìn lại quê hương Hoàng Mai đang ngất trời lửa bốc...


... Để đến hôm nay, sau 53 năm đã trôi qua, số đồng đội cũ của các chiến sĩ dân quân quyết tử của làng Hoàng Mai thời ấy hiện đang còn sống, trong đó đặc biệt có hai trong số mười người quyết tử quân thủa ấy là đồng chí San và đồng chí Mạc (đồng chí Mạc sau đó đã trốn thoát lao tù của giặc Pháp trở về), đã tập hợp nhau lại và dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xã, cuốn "Lịch sử cách mạng và kháng chiến của làng Hoàng Mai" đã được khởi thảo. Còn có một tư liệu vô giá khác bất ngờ đã xuất hiện qua chính miệng kẻ thù: Một ngày tháng 4 năm 1947, trong một cuộc "viếng thăm" làng Hoàng Mai, tên quan ba Lơ - bốt đã cho lính dồn dân làng tới tập trung tại sân nhà ông giáo Cẩn (gần chỗ giếng Tây), hằn học cảnh cáo:   Các người nhớ lấy, cái trận đánh ngày 1/2/1947 đáng nguyền rủa ấy, chính tại cái làng Hoàng Mai nhỏ xíu này, quân đội hùng mạnh của nước đại Pháp đã bị thiệt hại tới 59 lính, một quản, một quan ba!... Món nợ to lớn ấy ta nhắc cho các người nhớ lấy. Rõ cả chưa?"


Nhân dân làng Hoàng Mai có mặt hôm ấy ai cũng nghe rõ cả và ai nấy đều vẫn nhớ, bởi vì ai nấy đều hiểu rõ rằng: Những lời buộc tội "đanh thép" từ mồm tên quan ba Lơ - bốt tuôn ra ấy lại chính là sự tích vẻ vang của người dân làng Hoàng Mai trong công cuộc kháng chiến cứu nước vô cùng oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống lại kẻ thù xâm lược là bọn thực dân hiếu chiến Pháp. Và còn vì trong trận đánh giặc ngày 1/2/1947 đáng ghi nhớ ấy, bên những chiến Vệ quốc quân và dân làng đã anh dũng hy sinh trên mảnh đất Hoàng Mai, còn có đủ mặt cả bốn chiến sĩ đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (gọn cả một tổ Đảng duy nhất) của làng Hoàng Mai ở vào thời điểm ấy!

Điều đó đã nói lên tất cả!!!

Tháng 4 năm 1999
VŨ SẮC
(Trích Lịch sử cách mạng và
kháng chiến của làng Hoàng Mai)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:43:52 am
Ô CẦU DỀN NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


Phường Cầu Dền ngày nay nằm trong địa phận làng Bạch Mai trước đây. Trước Cách mạng Tháng Tám, Bạch Mai vừa là làng, vừa là phố thuộc huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông. Ô Cầu Dền thời ấy là cửa ô đứng vào hàng sầm uất nhất trong các cửa ô của Hà Nội. Là nơi tập trung khá đông dân, gồm tiểu công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân buôn thúng bán mẹt, kéo xe tay, thợ cạo rong, công nhân nhà Diêm, nhà Rượu, nhà Đèn... Lác đác có vài ấp trại, dinh cơ của quan lại, công chức cao cấp, tư sản. Cuối phố có hai dãy nhà hát cô đầu (xóm Vạn Thái và xóm Hưng Ký). Trong các ngõ xóm và ngay ở ngoài phố có một số tiệm hút thuốc phiện, nhà chứa (săm Mai Viên), sòng bạc, nơi lui tới của bọn anh chị, trộm cắp, thanh niên ăn chơi trụy lạc.


Cấu tạo dân cư tuy phức tạp như vậy nhưng Bạch Mai nói chung, Ô Cầu Dền nói riêng là nơi cư ngụ của các tầng lớp nhân dân lao động lớp dưới bị thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nên nơi đây là miếng đất tốt cho cách mạng ăn sâu bám rễ rất sớm. Năm 1930, lá cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện trên ngọn cây của đình Đại (cạnh chùa Hương Tuyết) là cơ quan liên lạc của Công hội Đỏ Bắc kỳ năm 1923. Chính ở đây đồng chí Ngô Gia Tự đã chỉ đạo cuộc bãi công của công nhân nhà máy sửa chữa ô tô Avia (tức nhà máy 1/5 hiện nay). Các đồng chí Nguyễn Phong Sắc và Nguyễn Hoàng Tôn cũng sinh ra và lớn lên ở Bạch Mai.


Tổ thanh niên cứu quốc Bạch Mai ra đời sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) ở trại Đỗ Thuận trong ngõ Tô Hoàng, do đồng chí Vũ Oanh tổ chức, gồm một số anh chị em thanh niên được giác ngộ và trưởng thành trong phong trào truyền bá quốc ngữ - một tố chức hợp pháp hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đảng ta lúc đó. Chính tổ thanh niên cứu quốc này đã tuyên truyền vận động nhân dân theo Việt Minh trước Cách mạng Tháng Tám và lãnh đạo nhân dân Bạch Mai tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 20/8/1945. Ngay sau khi thiết lập được chính quyền cách mạng, một số đoàn viên giác ngộ nhất của tổ này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, hình thành chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bạch Mai. Đó là các đồng chí Tạ Hoàng Cơ (được kết nạp lại) sau này là tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nay đã về hưu, Vũ Văn Quý sau là Tổng cục phó Tổng cục bưu điện, Đoàn Hưng Nông tức Lê Uy Vệ, đại tá thuộc Bộ Nội vụ nay đã về hưu, Lê Văn Diễn đảng ủy viên trường Đại học Kinh tế - Kế hoạch. Đồng chí Nguyễn Lam, lúc đó là thành ủy viên Hà Nội phụ trách thanh niên là người thay mặt Đảng tuyên bố kết nạp. Từ đây chi bộ đã thực sự là người lãnh đạo, và là linh hồn của công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ của Bạch Mai, góp phần tích cực cho các mặt công tác của Liên khu II sau này. Khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chi bộ Bạch Mai đã có tới 20 đảng viên. Đó là các đồng chí: Vũ Văn Quý, Nguyễn Văn Sâm, Lê Văn Diễn, Hoàng Chí Thân, Nguyễn Văn Cừ, Đào Quang Đức, Phạm Dương Phan tức là Hoàng, Vũ Hiền, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thị Thọ, chị Nguyễn Ngọc Thưởng, chị Phi, chị Lan Anh... đấy là không kể những đồng chí được kết nạp ở chi bộ Bạch Mai nhưng lúc này đã được điều động đi công tác khác như đồng chí Lê Uy Vệ, Nguyễn Văn Vỵ, Lê Đức Minh, đồng chí Tín...


Đến tháng 11/1946, tình hình Hà Nội rất căng thẳng. Ngày 7/11/1946, chi bộ tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng để tuyên truyền cho Cách mạng Tháng Mười Nga và chuẩn bị tinh thần quyết tâm kháng chiến bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Hôm đó người nói chuyện là đồng chí Vũ Văn Quý - với danh nghĩa đại diện cho hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ủy ban hành chính và uỷ ban bảo vệ khu 17 (tức khu Bạch Mai bao gồm cả Hoàng Mai), các mặt công tác chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến được tiến hành rất khẩn trương.


Đẩy mạnh âm mưu gây chiến ở Hà Nội, thực dân Pháp tung lực lượng xuống Bạch Mai thăm dò lực lượng ta và khiêu khích: tính đến ngày xảy ra vụ Yên Ninh (17/12/1946), giặc Pháp đã ba lần cho quân xuống Bạch Mai.


Lần thứ nhất, chúng cho xe Jeep, và háp-trắc xuống đầu ô rồi quay lên, không có hành động khiêu khích (chủ yếu là thăm dò lực lượng và thái độ của ta).

Lần thứ hai chúng tổ chức cho quân lính đi tập bắn ở trường bắn Tương Mai. Chúng đi qua suốt dọc phố Bạch Mai, không có hành động gì. Ta đã chuẩn bị sẵn sàng nhưng tránh để kẻ địch lợi dụng vu cáo, lấy cớ làm to chuyện, ta để chúng đi qua.


Lần thứ ba vào một buổi tối, chi bộ đang họp thì được tin xe cơ giới của giặc Pháp đã xuống đẽn ngã tư Trung Hiền và đang quay lên. Biết là chúng đang khiêu khích, anh em tự vệ ở Chợ Mơ cũ lăn ra nhiều cây gỗ to và dài ra giữa đường cái. Anh em tự vệ ở khu vực rạp hát Lạc Thành Đài, đối diện đường vào Việt Nam học xá (nay là hiệu bán đồ điện, bán quà vặt ở trước cổng trường Đại học Bách Khoa) lấy hết ghế trong rạp hát ném ngổn ngang trên mặt đường làm chướng ngại vật. Một tự vệ của tiểu khu này nấp trên cổng gạch ngõ Mai Hương ném một quả lựu đạn vào xe của tên chỉ huy, chiếc xe này bị hỏng nặng, bọn Pháp ở trong xe lồm cồm bò ra và bắn lung tung qua các phía. Một em bé bị trúng đạn chết. Đoàn xe của bọn Pháp rút về phía trên. Lúc này đồng chí Sâm, chủ tịch ủy ban nhân dân khu Bạch Mai, từ chỗ họp chi bộ đã có mặt kịp thời ra lệnh dẹp nhanh các chướng ngại vật để bọn Pháp không kiếm cớ gây chuyện lôi thôi. Một lúc sau, ô tô của ban Liên kiểm Việt -   Pháp xuống lập biên bản. Ta trả lời vì đoàn xe của quân đội Pháp đi vào buổi tối đã không báo trước, lại không có đại diện của Liên kiểm đi cùng nên anh em phải đề phòng. Không làm gì được hơn, chúng đành phải kéo nhau về.


Tình hình Bạch Mai bắt đầu căng thẳng từ đấy.

Theo hướng dẫn của Ủy ban bảo vệ Liên khu II, ban tản cư bắt đầu hoạt động mạnh. Các đoàn đại biểu thanh niên, phụ nữ tới từng nhà vận động người già, trẻ em tản cư về các làng quê. Những ai tình nguyện ở lại thì ghi tên vào danh sách để khi nổ ra tác chiến Ủy ban bảo vệ sẽ giao công tác tuỳ khả năng mỗi người. Đến giữa tháng 12/1946 người đi tản cư đã nhiều. Phần đông mỗi gia đình chỉ để lại một hai người ở lại để trông nhà hoặc vì lý do sinh sống chưa rời khỏi Hà Nội được. Vận động khá ráo riết thế mà khi nổ súng rồi, người ở lại vẫn còn đông.


Dựa trên cở sơ tổ chức tự vệ của các xóm (lúc này đã đổi tên thành các tiểu khu), lực lượng tự vệ của Bạch Mai phát triển khá nhanh, đi vào tập luyện khá khẩn trương. Mỗi chiến sĩ tự vệ đều được lệnh là lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn sàng 2 kg gạo, 5 nút dây thừng, một dao găm, một bộ quần áo dự trữ để khi có lệnh là có thể tới nơi tập trung ngay. Lệnh này được thi hành rất nghiêm chỉnh. Sân đình Đại, Trại Đỗ Thuận trong ngõ Tô Hoàng, sân trường Duy Tân (sau này là kho bách hóa ở cuối Phố Huế, giáp đầu Ô) suốt ngày rộn ràng tiếng hô khẩu lệnh, tiếng xung phong của chiến sĩ tự vệ .


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:44:30 am
Thi hành chủ trương của ủy ban thành, rút kinh nghiệm chiến đấu ở Hải Phòng khi chiến sự nổ ra, nếu dân chúng chạy ra đường thì có thể bị hy sinh nhiều nên ủy ban bảo vệ đã tổ chức cho nhân dân tự đục tường nhà mình thông sang tường nhà khác để khi cần có thể rút ra ngoài đi về phía nam thành phố an toàn và tiện cho việc liên lạc khi tổ chức chiến đấu. Anh chị em tự vệ đã tập luyện để thông thuộc đường lối, nên có thể di chuyển rất nhanh từ cuối phố đến đầu phố mà không bị lộ, tuy các lỗ đục tường không theo một đường thẳng kế tiếp nhà nọ với nhà kia mà rất ngoắt nghoéo. Để di chuyển từ dãy phố này sang dãy phố bên kia, ta cũng đào hào qua đường và qua cả móng tường để vào nhà. Khi chưa có chiến sự thì lót ván trên đường để người và xe cộ vẫn có thể đi bình thường được.


Do đặc điểm địa dư vị trí của Ô Cầu Dền và đường phố Bạch Mai đối với Liên khu II nói riêng và Hà Nội nói chung, là tuyến phòng ngự chính của Liên khu II và là con đường rút chủ yếu của quân dân trong thành phố về phía Văn Điển, Thường Tín. Bạch Mai tổ chức đắp một ụ lớn ở Ô Cầu Dền và một ụ nữa ở đoạn đi qua ngõ Mỹ Ký, gần Chợ Mơ (mới). Cái ụ chiến đấu ở Ô Cầu Dền nổi tiếng đã được ghi vào lịch sử chiến đấu anh dũng chống xâm lược Pháp của thành phố Hà Nội. Dựa vào ụ này, các lực lượng vũ trang của ta (gồm tự vệ của Bạch Mai, sau này có một số tự vệ của phố trên rút về gia nhập lực lượng chiến đấu ở Bạch Mai, một trung đội tự vệ chiến đấu của thành phố, một đội vệ quốc đoàn) được hỗ trợ của nhân dân, anh em đã chiến đấu rất dũng cảm cản phá được nhiều đợt tấn công của địch định tràn xuống phía nam qua đường Bạch Mai. Trong suốt cả những ngày Liên khu II Hà Nội kháng chiến, giặc Pháp chưa một lần vượt qua được ụ chiến đấu ở Ô Cầu Dền. Nhân dân Bạch Mai mà nòng cốt là tự vệ nam nữ đã đào một cái hố rất rộng ở đầu phố Bạch Mai kề với công cửa Ô, rộng một mét, sâu tới 1m 50, vừa để cắt đường không cho xe cơ giới của địch đi qua vừa để lấy đất đắp 204 ụ. Ụ nằm trên mặt đường, đoạn ngang nhà Vũ Tạo (nhà số 6 ở đầu phố hiện nay). Người ta đào những cái hố tròn sâu 1m, lấy chỗ cắm ngược những khúc gỗ tròn dài tới 5 - 6m rồi lấy đất đào ở cái hố to phía trước và đoạn đường chỗ quầy rau hiện nay trước đây là đường Lý Bôn, đi thẳng được tới cổng bệnh viện Bạch Mai, đắp thành cái ụ chiến đấu rộng 8m cao hơn 4m. Tất cả các công việc này được tiến hành chỉ bằng xẻng cuốc. Cho đến ngày 19/12/1946 ụ này được chắn gần hết lòng đường và hai bên hố (lúc này chưa lát như hiện nay) để chừa một phần lòng đường về phía đường xe điện (lúc này đường ray chưa đặt nổi ở trên đường), đủ để xe cơ giới đi qua được vì đã có lệnh, khi nào thấy một ô tô ở phía trên tiến xuống, ở cạnh cửa ô tô có người giơ một ngọn đèn dầu hỏa làm hiệu thì phải tìm mọi cách để cho xe có thể rút qua thật nhanh. Đến tối 19/12/1946, khi súng đại bác của ta ở pháo đài Láng đã lên tiếng, đèn hiệu trong thành phố đã tắt hết, sau 30 phút không có xe nào đi qua, ban chỉ huy mới ra lệnh ngăn hẳn đường. Một lực lượng được bố trí sẵn sàng nhanh chóng đào đường tàu điện lấy đường ray và tà vẹt gia cố thêm cho ụ, bịt hẳn lối xuống phía nam thành phố.


Phố Bạch Mai là phố có nhiều cửa hàng đóng đồ gỗ và áo quan nên sẵn nhiều gỗ. Các cây gỗ này được lăn ra giữa đường để làm chướng ngại vật hoặc để sẵn ở vị trí thuận lợi, để khi cần thiết thì lao vào xe địch.

Dọc hai bên đường phố cách một đoạn ngắn lại đào một hố cá nhân dùng cho cá nhân đứng chiến đấu.

Các ô chiến đấu đã được bố trí sẵn sàng ở tất cả các vị trí then chốt xung quanh địa phận của Bạch Mai.

Một lực lượng khá mạnh đã bố trí ở đường Đại Cồ Việt và đê Thanh Nhàn, nhất là ở cầu xi măng, trên đường đi vào nghĩa địa Bạch Mai, nay là chỗ đặt xưởng mộc ở sau trường Đại học Bách Khoa, nơi tận cùng của đường Bà Triệu ngày nay, cầu này đã được bảo vệ rất nghiêm ngặt, chỉ tới khi nổ súng rồi mới phá đi để chặn đường tiến của giặc.


Tiểu khu 1 (xóm An Nhân, Đại Cồ Việt, Ô Cầu Dền) có một đại đội tự vệ. Từ trong đại đội này, ban chỉ huy chọn ra 20 đồng chí là những hội viên thanh niên cứu quốc (Việt Minh) từ trước tháng 8/1945, đã có thành tích trong đấu tranh cách mạng, để thành lập đội Quyết tử quân. Ngày 15/12/1946 lễ tuyên thệ được tổ chức tại trường Trần Văn Khánh (góc thước thợ phố Mai Hắc Đế gối vào đường Đại Cồ Việt hiện nay). Đại đội trưởng Vũ Văn Hiền đọc lời thề quyết tử, trước sự chứng kiến của đồng chí Đào Quang Đức ủy viên quân sự, thay mặt ủy ban bảo vệ khu Bạch Mai, công nhận. Ngoài ra, còn có mặt cả đồng chí Hùng, là chính trị viên của đại đội, và đồng chí Nguyễn Đức Thành đại đội phó kiêm đội trưởng đội quyết tử (đ/c Hiền về sau là phó giám đốc Trung tâm phát hành báo chí thuộc Tổng cục Bưu Điện, đ/c Thành hy sinh tại Đường 9 Nam Lào; đ/c Hùng cũng đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, không rõ ở đâu).


Vũ khí của đội quyết tử quân hôm ấy chỉ có một khẩu trung liên, sáu khẩu mút - cơ - tông, ba khẩu súng: hai nòng, 40 quả lựu đạn Phan Đình Phùng và một số chai xăng pha cơ - rếp!

Các ban cứu thương, tiếp tế, quản lý do chị Trần Thị Lan (Lan Anh) phụ trách đã được thành lập và đã huy động các tầng lớp nhân dân tham gia, từ các chị giáo viên, tiểu thương, ở đầu Ô đến các chị buôn thúng bán mẹt ở Chợ Mơ, từ chị em nữ sinh ở đường phố đến các chị đi ở cho tư gia, các chị cô đầu, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, các chị sát cánh bên nhau cùng lo việc phục vụ chiến đấu, sau đó có một số chị đã hy sinh rất anh dũng. Nhiều cơ sở như các nhà hộ sinh, trường Công ích đã được tổ chức thành những trạm cứu thương do các chị Tài, chị Phi, chị Thưởng, chị Bính phụ trách, phối hợp các y sĩ, bác sĩ, y tá ở bệnh viện Bạch Mai, nhà hộ sinh chuẩn bị sẵn sàng phục vụ.


Lúc này các lớp bình dân học vụ phải ngừng hoạt động, hầu hết anh chị em giáo viên học sinh chuyển sang tăng cường cho lực lượng thông tin, tuyên truyền. Xóm ngõ nào cũng có chòi phát thanh, tuy chỉ bằng phương tiện thô sơ là loa cầm tay bằng sắt tây. Các chủ trương của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các lời kêu gọi kháng chiến của Hồ Chủ tịch và của Tổng bộ Việt Minh đã được truyền đạt kịp thời đến từng ngõ xóm, đến tận người dân, khơi dậy lòng yêu tha thiết tổ quốc, lòng căm thù cao độ bọn cướp nước, nhưng luôn bình tĩnh vững vàng, đợi lệnh của Chính phủ, không mắc mưu khiêu khích của giặc. Chỉ huy bộ phận thông tin tuyên truyền là anh Hoàng Chí Thân (nay là chánh văn phòng Tạp chí Cộng sản).


Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, thông qua ủy ban hành chính và ủy ban bảo vệ khu, với lực lượng nòng cốt là đội tự vệ, khu Bạch Mai đã được chuẩn bị sẵn sàng để bước vào cuộc chiến đấu sinh tử, góp phần bảo vệ nền độc lập của Tõ quốc.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:45:10 am
Ngoài nhiệm vụ tổ chức bảo vệ Bạch Mai, chi bộ còn được giao nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ cho Liên khu II. Một đài thu thanh và phát do anh Nguyễn Văn Tân (là cục phó Cục điện chính Tổng cục Bưu điện nay đã về hưu) và anh An (nay là đại tá Bộ Tư lệnh thông tin đã về hưu) lúc đó làm ở vô tuyến điện Bạch Mai, lắp và đặt ở một ngôi nhà ở trong ngõ 273 (cạnh hàng bán rượu, bên dãy số lẻ gần Chợ Mơ cũ). Một kho hậu cần đã được chuẩn bị trong làng Hoàng Mai. Một cơ sở cứu thương được đặt ở trại ông giáo Hiên trong ngõ Quỳnh, gần hồ bơi, do chị Hải, chị Nghiêm phụ trách. Nhiều đồng chí vừa chỉ đạo trực tiếp Bạch Mai vừa tham gia lãnh đạo trong phạm vi Liên khu II như đồng chí Vũ Văn Quý vừa là chủ tịch ủy ban bảo vệ Bạch Mai, kiêm bí thư chi bộ Bạch Mai, vừa là ủy viên phụ trách quản lý (như hậu cần ngày nay) của Liên khu II.


Tối 18/12/1946 Liên kiểm Pháp báo cho Liên kiểm Việt Nam: vì công an Việt Nam không làm tròn nhiệm vụ ở Hà Nội nên bắt đầu từ 20/12/1946 quân đội Pháp sẽ đảm nhiệm vị trí đó. Trao quyền trị an cho chúng tức là trao Thủ đô Hà Nội cho chúng. Nhân nhượng nữa là mất độc lập. Buộc lòng ta đã phải chọn con đường kháng chiến, chứ không chịu mất nước không chịu làm nô lệ.


Quán triệt phương châm tác chiến do Bộ Tổng tư lệnh và Ban chỉ huy mặt trận Hà Nội "vừa chiến đấu vừa tổ chức lực lượng", "bền bỉ hoạt động nhỏ tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch" ban lãnh đạo của Bạch Mai đã kịp thời tổ chức chiến đấu bảo vệ Bạch Mai và phục vụ cho mặt trận Liên khu II và đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ đó.


Từ ngày 19/12/1946 Ủy ban bảo vệ Bạch Mai đổi thành Ủy ban kháng chiến Bạch Mai.

Ngay từ những ngày Cách mạng Tháng Tám quần chúng đã từng bước được giáo dục và tập hợp trong các đoàn thể và đã được tập luyện, nên khi cuộc kháng chiến nổ ra, Bạch Mai đã có sẵn lực lượng triển khai các mặt trận công tác không bị lúng túng, ở khắp phố nhân dân cùng anh chị em tự vệ nhộn nhịp khuân bàn ghế, tủ chè, sập gụ, quầy hàng, thậm chí cả hương án, bàn thờ chất ra đường làm chướng ngại vật. Anh em công nhân nhà máy điện nô nức cắt dây điện ở đường phố và chặt cây, ngả cột điện chắn ngang đường. Hai cái ụ được đắp cao thêm, sừng sững như hai ngọn đồi.


Tinh thần cảnh giác của tự vệ và nhân dân ta rất cao. Việc tiễu phỉ trừ gian được tiến hành rất kiên quyết. Anh em tự vệ và một em thiếu niên tiền phong làm liên lạc đã bắt được một thằng tây đen và hai thằng tây trắng ăn mặc thường dân đi dò đường cho địch chuẩn bị kế hoạch chọc thủng tuyến Vĩnh Tuy - ngã tư Trung Hiền. Trên đường bị giải về nơi tập trung, thằng tây đen còn xin mang theo một cái nồi đất để nấu cơm. Anh em tự vệ ở Ô Cầu Dền bắt được ba tên Pháp lai (một nam, hai nữ) thằng đàn ông mặc com - lê, hai con đàn bà mặc áo dài tân thời, quần trắng ở ngay cổng Ngõ Bò, giải chúng xuống đình Đại để xét hỏi. Do không canh giữ cẩn thận nên sau đó chúng thoát được. Trong số Hoa kiều trú ngụ ở phố, cũng có một số làm tay chân cho Pháp chống chúng ta. Một hôm được mật báo, đồng chí Sâm phó chủ tịch ủy ban bảo vệ phụ trách tiễu trừ gian cùng anh em tự vệ đột nhập vào khám ngôi nhà của nhóm Hoa kiều làm nghề thuộc da (quãng nhà số 215, tức ngõ Tầu hiện nay), thấy nhà vắng người nhưng trên mặt bàn có một mâm cơm và một con ngỗng luộc còn nguyên. Đồng chí cho lục soát thì phát hiện được một cái hầm. Mở nắp hầm ra thì lúc nhúc hơn chục Hoa kiều lạ mặt kéo nhau lên. Khám lại hầm ta còn bắt được một khẩu súng liên thanh. Bọn này lập tức bị giải xuống Đại Từ. Chủ hiệu Thiên Thành một hiệu buôn lớn ở phố Bạch Mai bị bắt vì ta khám nhà bắt được cờ tam tài, cờ thanh thiên bạch nhật. Sau đó ta sơ ý nên nó trốn thoát được. (Sau này nó là một tên chỉ điểm rất lợi hại, dẫn Pháp đi bắt và giết nhũng cán bộ của ta vào hoạt động địch hậu). Nhưng cũng có khi vì quá cảnh giác nên bắt nhầm cả người của ta. Đồng chí Hán chồng bà giáo Đoàn Tâm Đan, trước đây vì hoạt động cách mạng nên bị đưa đi đầy ở Côn Đảo. Được tha về đồng chí làm ở Nhà máy Rượu Hà Nội, đã lãnh đạo anh em công nhân ở đây cướp chính quyền. Một hôm trên đường đi hoạt động, đồng chí bị giữ lại, bị nghi là Việt gian vì có mang trong người một bao diêm ba màu xanh, trắng, đỏ. Đồng chí Sâm phải cấp tốc tới nơi can thiệp thì mới được thả.


Việc tuyên truyền kháng chiến và địch vận được đẩy mạnh. Khẩu hiệu bằng tiếng Việt và tiếng Pháp được kẻ rất nhiều bằng sơn hoặc bằng vôi trắng trên tường hay cánh cửa. Đồng chí Nguyễn Văn Vi (được phong là Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 18/6/1969) lúc đó là thợ sửa chữa xe đạp, thường đi viết khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, chẳng hạn như câu: "Nhiều bạn của anh đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh này. Anh còn đợi gì?"


Ban tiếp tế hoạt động rất mạnh, lo đủ cơm nước cho cán bộ và anh em tự vệ của Bạch Mai cũng như anh em tự vệ của các khu trên rút về tham gia chiến đấu ở Bạch Mai. Khi chiến sự đã nổ ra, ban quản lý đã phân công người vào các nhà thu góp lương thực và thực phẩm của dân đã đi tản cư, có lập danh sách và thống kê hẳn hoi để sau này bồi thường cho dân, nhưng việc này về sau không thể thực hiện được.


Triệt để thực hiện khẩu hiệu "vườn không, nhà trống" ủy ban phái người đi tập trung bằng hết các lương thực, thực phẩm trong khu vực Bạch Mai và cho bộ phận cấp dưỡng của mặt trận kịp thời nấu cơm phát cho mọi người, không kể là bộ đội, tự vệ hay đồng bào tản cư còn đọng lại. Thoạt đầu cũng có phần lúng túng, sau vài ngày chị em rút kinh nghiệm, có tổ chức và phân công rành mạch công việc cho từng nhóm: nhóm nấu cơm và nắm cơm, nhóm đi kiếm hoặc mua thực phẩm (rau, thịt, muối...); nhóm làm và chia thức ăn; nhóm chuyển thức ăn và cơm ra trận địa. Chị em lên sát tận ụ Ô Cầu Dền, bờ đê làng Thanh Nhàn giữa lúc đôi bên đang bắn nhau quyết liệt, để kịp đưa bằng được suất cơm vào tận tay từng chiến sĩ. Dù anh em chiến đấu ở bất kỳ một nơi xung yếu nào, chị em cũng tìm mọi cách, đưa bằng được cơm ăn, nước uống tối tận nơi...


Một số chị em đã hy sinh ngay tại trận như người chiến sĩ.

Đôi khi kho lương thực của mặt trận đặt tại làng Hoàng Mai không kịp xay giã đưa lên, chị em sẵn sàng bỏ ngủ, kéo nhau xuống làm giúp rồi gánh về để kịp có lương thực, thực phẩm cho mặt trận.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:46:21 am
Trong suốt cả dãy phố dài, thì đoạn từ Ô Cầu Dền đến ngõ Tô Hoàng là nơi ác liệt hơn cả. Có hôm tiếng súng tiếng đạn nổ ra suốt ngày đêm, hai bên đường phố khói bốc mù mịt. Từ Trại Găng muốn đi lên phía trên phải đi xuyên qua các lỗ đục ở tường thông từ nhà nọ sang nhà kia nhưng từ Trại Găng trở xuống thì tình hình đỡ căng thẳng hơn. Trên một bức tường ngã tư Trung Hiền, Ban tuyên truyền của Liên khu II dán một tờ báo tường khá to lấy tên là "Xung phong" thu hút được nhiều người xem vì đây là một hình thức tuyên truyền mới lạ lúc này. Tôl ngày 24/12/1946 chi bộ đã họp ở chùa Mứt để kết nạp một đảng viên mới, có mặt đồng chí Quỹ, Lan Anh, Thọ, Trinh, Hiền. Người được 1 kết nạp là một đồng chí nữ mới xấp xỉ tuổi 18, làm liên lạc và trinh sát cho ủy ban bảo vệ khu. Đồng chí Đồng được kết nạp vì đồng chí đã biểu thị được tinh thần dũng cảm, hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao (lên mặt trận trinh sát hoạt động của địch, khiêng xác chết vì đạn của địch). Hiện nay đồng chí là cửa phó cửa hàng bách hóa Ô Chợ Dừa.


Tại trại Vĩnh Hồ (góc ngã tư Trung Hiền, về phía bên phải chỗ hiệu chữa và sơn xe đạp của Mậu dịch quốc doanh hiện nay) là trụ sở của Ủy ban kháng chiến Bạch Mai, chi bộ đã tổ chức lễ hứa hôn cho đồng chí Nguyễn Anh Bảo (ủy viên kháng chiến của thành phố) phụ trách Liên khu II, sau này là tư lệnh binh chủng Thông tin, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965) và đồng chí Trần Thị Lan (Lan Anh) - (sau là tổng biên tập báo Phụ nữ Việt Nam). Hai đồng chí đã đặt tên con gái đầu lòng là Bạch Mai để kỷ niệm cuộc hứa hôn giữa những ngày cùng chiến đấu trên mảnh đất Bạch Mai.


Một lực lượng tham gia phục vụ chiến đấu rất đắc lực nữa, là các em thiếu niên tiền phong, các em thường làm trinh sát hoặc liên lạc cho bộ đội (em thiếu niên tham gia bắt mấy tên lính Pháp giả dạng là ngoại kiều mò vào khu vực của ta để dò xét như đã kể ở trên là em Nguyễn Lan Khán, sau là giáo viên trường cấp 3 Bạch Mai).


Lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ Bạch Mai và phòng tuyến phía nam Hà Nội lúc này gồm bốn bộ phận. Lực lượng tự vệ của Bạch Mai gồm những người sống ở đất Bạch Mai, lực lượng tự vệ trong sinh viên đang ở Việt Nam học xá (nay là khu vực trường Đại học Bách Khoa), lực lượng tự vệ chiến đấu của thành đưa về tăng cường và lực lượng Vệ quốc đoàn. Lực lượng tự vệ của Bạch Mai sau đó bổ sung thêm lực lượng ở các phố trên rút về nhập vào, có được trang bị súng nhưng phần nhiều là vũ khí thô sơ. Trung đội tự vệ của sinh viên, ngoài vũ khí thô sơ còn có một khẩu đại liên, và do đồng chí Sinh chỉ huy. Sau ngày chiến đấu ở Cửa Nam, một bộ phận tự vệ chiến đấu của thành do đồng chí Vinh tức Hoàng Dương (nay là trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam) chỉ huy được lệnh chuyển về tăng cường cho Bạch Mai để bảo vệ tuyến phía nam là đường Đại Cồ Việt và đê Thanh Nhàn. Lực lượng Vệ quốc đoàn đóng ở Bạch Mai là tiểu đoàn 77. Sở chỉ huy đóng ở nhà bác sĩ Chung. Một đại đội của tiểu đoàn này do đồng chí Bảo Cường sau này là Nguyễn Mẫn chỉ huy đóng chốt ở Ô Cầu Dền.


Ngoài việc hợp đồng chiến đấu ngăn chặn địch, Ủy ban kháng chiến Bạch Mai còn phối hợp với lực lượng tự vệ của sở Vô tuyến điện Bạch Mai bảo vệ công nhân tháo gỡ và di chuyển những máy móc vật liệu có thể di chuyển được và phá hủy những thứ không có điều kiện mang đi để sau này địch không sử dụng được.


Sau hai ngày khẩn trương tháo gỡ và chuyển máy, đồng chí Tân được chuyển về phụ trách đài vô tuyến điện của Liên khu II. Đồng chí An và những công nhân còn lại đi theo máy móc vật liệu rút ra ngoài thành phố, đài phát thanh đã được chuyển ra địa điểm dự bị từ trước ngày toàn quốc kháng chiến.


Khi cuộc chiến đã nổ ra, mấy ngày đầu Ô Cầu Dền chưa có địch nhưng sáng ngày 24/12, từ chiếc máy bay khu trục bay lượn, lồng lộn khắp bầu trời ngoại thành kể cả Bạch Mai xả từng tràng súng liên thanh, trút hàng loạt bom xuống các làng mạc. Tiếng súng nổi tung trời, khói lửa mù mịt, giặc Pháp ra sức phát hiện kho tàng và căn cứ của ta để bắn phá và uy hiếp tinh thần của quân dân ta. Đại bác, súng cối của chúng bắn rải rác suốt Bạch Mai. Sớm ngày 25/12, chúng tổ chức cho tăng thiết giáp và hàng trăm Lê dương tiến xuống đánh phá ụ Ô Cầu Dền. Bộ đội và tự vệ của ta đã chống trả quyết liệt, địch không sao tiến được qua cửa Ô.


Ngày 26, 27/12/1946, chúng tiếp tục tấn công xuống Ô Cầu Dền. Xe tăng của địch vừa tiến vừa bắn phá, cố phá hủy ụ chiến đấu ở đầu Ô của ta, và làm đổ các bờ tường có quân ta bố trí. Tiến tới đầu Ô thấy la liệt nồi đất úp trên mặt đường chúng liền chĩa súng bắn bừa bãi vào đám nồi đất để phá mìn (tưởng rằng trong đó có mìn). Bắn mãi chẳng thấy gì, chúng liền thúc Việt gian và thổ phỉ tiến lên trước. Lúc đó, các chiến sĩ của ta nấp ở trên gác nhà lơ Vũ Tạo, ở hai bên đường phố và trên ụ đất mới nổ súng bắn tỉa từng tên. Một số tên chết ngay tại chỗ. Bọn chúng vẫn không tiến thêm được bước nào vào phố Bạch Mai.


Ngày 28/12/1946, giặc Pháp mở màn bằng một cuộc bắn phá quy mô lớn. Thoạt đầu là máy bay ào tới ném bom và đại bác từ xa dội tới. Ô Cầu Dền mù mịt khói đạn. Tiếp đó, xe tăng, thiết giáp và bộ binh của chúng hùng hổ xông lên quyết "san phang" ụ Ô Cầu Dền của ta. Thật bất ngờ, một loại vũ khí mới đã xuất hiện trên trận tuyến Ô Cầu Dền: với ba phát đạn badôka ta bắn cháy một xe tăng và một xe bọc thép của chúng. Giặc hoảng hốt rút chạy về phía Chùa Vua, để lại hàng chục xác chết. Đây la những phát badôca đầu tiên ở mặt trận Hà Nội.


Ô Cầu Dền trở thành con đường máu đối với giặc Pháp.

Ngày 31/12/1946, vào khoảng 4 giờ chiều, mé dưới Ô Cầu Dền bỗng bị một trận mưa đạn đủ các cỡ. Tưởng rằng với ưu thế về hỏa lực như vậy, có thể dập tắt ngay các ổ chiến đấu của ta, bọn chỉ huy địch thúc Lê dương và thổ phỉ đông tới 200 tên tiến xuống phá ụ bất ngờ. Từ các hầm hố, ngõ ngách, quân ta hô "xung phong" dậy trời và nhất tề xông lên. Địch hoảng hốt bỏ chạy. Quân ta anh dũng rượt theo bắn ngã được 20 tên Pháp và 30 tên thổ phỉ.


Trạm cứu thương xung phong do chị Phi phụ trách đặt ở một nhà sát Ô Cầu Dền đã kịp thời cứu chữa cho anh em thương binh chiến đấu ngăn địch phá ụ chiến đấu Ô Cầu Dền.

Xen kẽ với những trận tấn công của địch xuống Ô Cầu Dền là những trận pháo kích dọc phố: Ngày 9/1/1947 địch cho bốn máy bay phóng pháo bay lượn trên không phận Bạch Mai nhiều đợt rồi ném bom xuống Chợ Mơ. Có hôm chúng cho phi công ngồi trên máy bay bà già dùng súng bắn tỉa vào các nhà để xua quân ta ra.


Ta còn phải đối phó với bọn thổ phỉ đi bắn lén. Nữ đồng chí Hoàng Thị Minh cứu thương, đã hy sinh ngay ở ngõ Chùa Liên do bị trúng một phát đạn tắc - bọp. Lúc chết đồng chí còn đeo ở tay một chiếc băng thêu: Hồng thập tự Việt Nam. Đồng chí Minh được truy nhận là liệt sĩ.


Lực lượng tự vệ của Bạch Mai đã có nhiều bộ phận được điều lên phía trên quấy rối các vị trí của địch ở trại Bảo an binh, rạp chiếu bóng Majestic (tức rạp Tháng Tám), Nhà máy Rượu ... Theo yêu cầu của ban chỉ huy tiểu khu Lò Đúc, đồng chí Đào Quang Đức đảng viên, ủy viên UBKC tiểu khu Bạch Mai đưa một lực lượng tự vệ lên hỗ trợ để cản cuộc tấn công của Pháp từ Lò Lợn xuống Ô Đồng Mác, đồng chí Đức đã hy sinh anh dũng trên đê Bành Lao (đường Trần Khát Chân).


Ta đào một cái hố sâu ngập đầu thông từ ngõ Đình Đông sang ngõ Tô Hoàng, và bố trí ở giữa một khẩu đại liên nên đã khống chế được địch từ rất xa có kết quả. Lực lượng của ta lại còn bố trí ở trong cửa sổ các căn nhà có gác để kiểm soát mặt đường phía trên ụ và bắn tỉa vào các tên thổ phỉ, lính Pháp và Việt gian định mò xuống phá ụ. Một đồng chí tự vệ của tiểu khu 1 trước làm nghề thợ cạo rong, nấp ở trong một hố cá nhân ở đầu Ô với một phát súng trường, anh đã bắn chết một thằng tây đen đang lén lên định phá ụ. Vui mừng trước thắng lợi, anh nhảy vọt lên miệng hố reo mừng và định trèo lên ụ tước súng của thằng tây đen thì chẳng may anh bị trúng một viên đạn của địch và hy sinh tại chỗ.


Giữa tháng 1/1947 địch huy động lại tiếp tục đánh vào Ô Cầu Dền, đồng thời chúng tung một lực lượng gồm hàng ngàn quân và hàng trăm xe cơ giới tấn công về phía nam nhằm thực hiện âm mưu bao vây tiêu diệt lực lượng ta ở khu vực Ô Cầu Dền, Bạch Mai. Suốt một ngày trời, địch huy động cả bộ binh, cơ giới, pháo binh, máy bay đã tạo được hai gọng kìm, một từ Vĩnh Tuy qua Mai Động tiến vào ngã tư Trung Hiền; một nửa từ Ngã Tư Vọng đánh tạt về phía tây vào sau lưng quân ta. Ba mặt hợp vây, địch hy vọng cất vó được toàn bộ lực lượng của ta. Nhưng trên từng bước tiến, chúng đều phải đối phó với sức chiến đấu vô cùng ngoan cường của lực lượng Vệ quốc đoàn và tự vệ.


Sau khi mặt trận bị phá vỡ, ta phải rút khỏi Bạch Mai, thành ủy Hà Nội quyết định sáp nhập Liên khu II với khu Mê Linh và khu Đề Thám (huyện Thanh Trì) thành quận 6. Một số cán bộ của Bạch Mai ở lại công tác ở quận 6 (đồng chí Vũ Văn Quý là phó bí thư quận 6. Đồng chí Thân phụ trách tuyên truyền thống tin của quận, một số tham gia công tác tình báo của thành, chuẩn bị vào hoạt động hậu địch, số đông anh em tự vệ có vũ khí chuyển sang Vệ quốc đoàn...). Tuyệt đại bộ phận cán bộ của Bạch Mai từ đó đến nay ở các cương vị công tác khác nhau trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, quân đội và các đoàn thể vẫn tiếp tục phát huy được truyền thống chiến đấu chặn địch ở Ô Cầu Dền, xứng đáng là con em của Bạch Mai.


DIỆP - XUÂN - BÍNH
Ghi chép theo lời kê của các đồng chí đã từng
lãnh đạo và chiến đấu tại mặt trận Ô Cầu Dền
trong thời gian 60 ngày đêm Liên khu II
Hà Nội kháng chiến chống Pháp xâm lược


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:48:19 am
TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI


Đội tự vệ ở phố Cửa Nam có hơn hai chục người. Họ là những người làm ăn sinh sống ở đó, gồm thợ thủ công, con cái tiểu chủ và tiểu chủ đã lập nghiệp lúc còn ít tuổi.

Gần tới ngày toàn quốc kháng chiến 19/12, những thanh niên này được tổ chức thành ba tổ chiến đấu để bảo vệ gia đình và phố của mình. Mỗi tổ tạm gọi là một tiểu đội và cử ra một tiểu đội trưởng; tiểu đội trưởng Hồng, tiểu đội trưởng Châm, tiểu đội trưởng Đài. Ba tổ chiến đấu đặt dưới sự chỉ huy của tiểu khu trưởng Điền Long.


Để giúp Điền Long về mặt quân sự, ban chỉ huy tự vệ chiến đấu cử tôi đến hợp tác. Mới được ít ngày, tôi vừa làm quen được với các tiểu đội trưởng, chưa kịp thuộc tên đồng đội, cuộc chiến đấu đã bùng nổ.

Đã thỏa thuận với nhau từ trước; khi có chiến đấu, Long giữ liên lạc với trên, tôi trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Phương án tác chiến lúc đó quá đơn giản: một tổ bố trí ở góc phố, một tổ bố trí ở mặt đường, một ở sát với chỉ huy. Nhiệm vụ cụ thể cho hai tổ chiến đấu là: ẩn nấp phục kích sẵn sàng chờ địch đến sát mới đánh. Còn tổ ở cạnh chỉ huy làm nhiệm vụ cứu thương, liên lạc, bổ sung cho các tổ chiến đấu lúc cần thiết.


Như thế tưởng là chu đáo. Nhưng lâm vào cuộc chiến rồi mới rối tinh rối mù lên. Địch xuất hiện nhưng không phải là bộ binh đi dưới lòng đường để mình tiêu diệt. Tình huống lúc đó lại là xe tăng có đại liên yểm trợ ở xa. Không biết đánh bằng cách nào, người nọ hỏi người kia ơi ới! Thấy động, địch bắn xối xả vào đó, gây ra những tiếng đổ vỡ rùng người.


Buổi chiều đang còn là thường dân, tuổi đời mới độ tuổi 20, 18. Lẽ ra lúc đó đang ngủ ấm trong chăn lại phải phơi mình ngoài gió rét hứng thêm lửa đạn, tránh sao khỏi hoang mang. Để tự trấn an, người nọ phải tìm người kia để hỏi han.


Trong tình thế đó, tiểu đội trưởng Hồng đã dẫn tôi đến từng vị trí chiến đấu. Anh chỉ cho người này người khác phạm vi cảnh giới, cự ly có thể bắn, có thể dùng lựu đạn. Trước khi rời sang vị trí khác Hồng thường nói với anh em:

- Cứ bình tĩnh! Cứ bình tĩnh! Lúc nào địch tới gần tớ sẽ đến với cậu. Bây giờ ẩn nấp cho kín, nhưng phải nhớ quan sát địch.

Tôi cảm nhận được câu nói ôn tồn, thân mật như dỗ dành, như nhắc nhở lúc đó quả là có tác dụng. Đấy cũng là bài học thực tế đối với tôi.

Đêm chiến đấu đầu tiên, với số vũ khí ít ỏi trong tay: năm khẩu súng trường cũ kỹ, vài ba chục viên đạn, mươi quả lựu đạn, đội tự vệ Cửa Nam không đủ sức ngăn chặn bước tiến của địch. Nhưng cũng làm chúng chậm lại một vài giờ.


Ngày hôm sau chúng tôi bị bao vây tại chỗ. Ngoài đội tự vệ còn thêm chục người dân chưa kịp tản cư. Tình thế cấp bách lại không thấy Điền Long quay về. Xác định rõ nhiệm vụ của mình, tôi dựa vào các tiểu đội trưởng để tiếp tục chỉ huy chiến đấu.


Vừa bàn xong với nhau: cần phân tán ẩn nấp chờ lệnh trên, địch đã đạp cửa vào lùng sục. Song chúng chỉ dám ở ngoài cửa bắn vu vơ, lơ láo nhìn vào trong không thấy thì bỏ đi. Còn chúng tôi vẫn ẩn nấp kín ở phía sau cửa hàng, cửa hiệu. Từng người được hướng dẫn; chỉ khi nào địch giáp mặt không thể rút được mới đánh, tránh bị sát thương vô ích.


Tiểu đội trưởng Hồng đã tìm ra một địa điểm vừa sâu vừa kín làm chỉ huy sở. Gọi thế cho oai thực ra đó chỉ là một gian bếp, ở đó có tôi, hai cứu thương, mấy người dân tình nguyện làm bất cứ việc gì. Suốt đêm không được ngủ cũng như ăn uống, tâm trạng rối bời, đứng ngồi chờ đợi không yên. Những mấy cô gái vẫn nói chuyện rì rầm rúc rích cười với nhau.


Khoảng gần trưa, Hồng rời vị trí tìm tôi, câu đầu tiên anh hỏi:

- Có được lệnh gì mới không anh?

- Cậu Đài đi bắt liên lạc nhưng chẳng gặp được ai. Đơn vị bạn đóng trong chợ đã rút. Địch canh gác ở ngã tư, không ai sang được phía thằng Lạng.

- Ta vẫn ở lại hay rút? Nếu phải rút theo anh nên rút đường nào?

Tôi hơi bí, song đã thẳng thắn trả lời: tôi chưa nghĩ tới việc này, cũng chưa có dụ kiến rút đường nào!

Hồng nhiệt tình đề xuất: "Ta nên tìm trước một đường rút, nếu anh đồng ý tôi sẵn sàng xung phong đi tìm đường".

- Giữa ban ngày thế này đi ra ngoài đường rất dễ bị lộ, nguy hiểm lắm.

- Tôi thuộc đường khu vực này, tôi sẽ vừa ẩn nấp vừa len lỏi trong các ngõ ngách.

Tôi mới gật đầu tỏ vẻ đồng ý chưa kịp nói gì, Hồng đã cướp lời:

- Anh cử người thay tôi chỉ huy tiểu đội. Báo cáo, tôi đi! Nói vừa dứt lời Hồng chui qua tường biến mất hút.

Quay vào trong bếp, để giết thời gian tôi cùng mọi người tán chuyện một lúc rồi đi thăm các tiểu đội. Lúc quay trở lại vẫn chưa thấy Hồng về. Rất tin tưởng Hồng không bỏ rơi đồng đội, phải có trắc trở gì mới lâu như thế. Các tiểu đội trưởng lần lượt có mặt ở trong bếp để hỏi xem tối nay và ngày mai sẽ làm gì? Anh em đặt niềm tin vào tôi chừng nào, tôi lo lắng chừng đó. Người nóng ran lên mặc dầu trời rất rét. Tôi nói rõ ý định của mình: Đợi Hồng đi tìm đường trở về nắm chắc tình hình, nếu không có lệnh gì khác, đêm nay sẽ vượt vòng vây ra ngoài.


Hồng đã về! Tôi reo lên một cách vô ý thức không giấu được tình cảm vui mừng. Mọi người vây quanh Hồng nghe báo cáo. Nghe xong đi tới quyết định chung: Các tiểu đội trưởng về đơn vị ra lệnh cho mọi người thu dọn hết hành trang, lần này ra đi chưa biẽt bao giờ mới quay lại. Phải mang gọn nhẹ để có thể lẩn tránh được. Đợi tối nhọ mặt người (không có đồng hồ) sẽ rút.


Đêm đó tôi và Hồng đi trước, người nọ nối đuôi người kia mà đi. Nếu thấy địch phải nằm sát xuống đất không được chạy. Chúng tôi men theo con tàu rất dài đậu ở đường sắt, đi sâu vào phía sau ga Hàng Cỏ. Từ sau ga, rẽ tay phải vào làng Giám ở trước Văn Miếu.


Sáng hôm sau kiểm mặt, không thiếu người nào. Cả tự vệ và nhân dân đều xác nhận Hồng có công lớn trong việc ra khỏi vòng vây. Với tấm lòng của mình mọi người tặng Hồng cái đấm thân mật, những cái tát yêu, lại còn xoa bù cả đầu.

Ngay hôm đó, đội tự vệ Cửa Nam được biên chế thành một trung đội gồm bốn đơn vị:

Tiểu đội 1 do Hồng làm tiểu đội trưởng.

Tiểu đội 2 do Đài làm tiểu đội trưởng.

Tiểu đội 3 đo Châm làm tiểu đội trưởng .

Cứu thương, liên lạc, người tình nguyện do Bích Oanh phụ trách, gọi là trung đội bộ.

Cái tên Trung đội tự vệ Cửa Nam được gọi từ hôm ấy. Chúng tôi có niềm tự hào lúc đánh giặc, lúc rút lui vẫn giữ nguyên được đội hình và củng cố được tổ chức có phiên hiệu.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:49:25 am
Đóng quân ở Giám, nhiệm vụ các tiểu đội phải canh phòng chỗ ở và tuần tra canh gác chung quanh nơi đóng quân. Khi làm nhiệm vụ tuần tra, Hồng bắt liên lạc với đơn vị Vệ quốc đoàn bố trí ngăn chặn địch ở Hàng Bột. Từ mối quan hệ đó, Hồng đã đưa tôi đến gặp đại đội trưởng Lưu Vân.


Thực lòng mà nói, ngay từ những phút gặp đầu tiên, Lưu Vân đã nói như ra lệnh:

- Các anh là tự vệ, phải có nhiệm vụ giúp đỡ bộ đội đánh giặc dưới sự chỉ huy của tôi.

Không do dự tôi trả lời: Chúng tôi đang làm nhiệm vụ của mình là đánh giặc. Nếu phối hợp với bộ đội, chúng tôi phải làm gì? Xin cho biết cụ thể.

- Tôi nhắc lại, không phải là phối hợp mà dưới sự chỉ huy của tôi. Việc đến đâu giao đến đó. Việc trước mắt, lợi dụng ban đêm lẻn vào nội thành quấy rối địch, tìm ra địa điểm đóng quân của địch để giúp bộ đội lập kế hoạch tác chiến.

- Việc đó chúng tôi làm được, chỉ yêu cầu trang bị vũ khí đạn dược cho chúng tôi. Mấy hôm nay chúng tôi nhịn đói đánh giặc, ai kiếm được gì trong nhà dân tạm thời ăn thức nấy. Yêu cầu bộ đội cung cấp thức ăn cho chúng tôi.

- Vũ khí hiện nay chưa có, khi nào có sẽ giải quyết sau. Việc ăn uống, anh đi gặp quản trị trưởng, báo cáo rõ quân số và nói rằng tôi đồng ý cung cấp suất ăn như bộ đội.

Lúc đó có mấy người thập thò trước lều bạt, Lưu Vân vẫy tay báo hiệu bảo: "Các anh về đi! Cứ thế mà làm, tôi bận họp".

Chui qua khỏi lều bạt, vừa miễn cưỡng vừa ấm ức, tôi không muốn gặp quản trị trưởng mà cử Hồng đi thay rồi về chỗ đóng quân. Từng luồng gió lạnh làm tỉnh người ra. Tôi tự nhủ phải học tác phong quân sự cứng rắn, rành mạch, dứt khoát của Lưu Vân.


Hồng đi làm việc có kết quả. Hôm sau mọi người trong trung đội được phát một nắm cơm với muốỉ vừng, mấy ngày liền ban ngày trung đội nghỉ ngơi, ban đêm lẻn vào nội thành quấy rối. Một lần Hồng dẫn đầu tiểu đội, vừa nhô lên khỏi ụ đất đã chạm trán địch. Rất nhanh trí Hồng hô xung phong rất hùng dũng. Địch hoảng hốt vừa bắn vừa chạy, còn ta kịp thời ẩn nấp sau đó rút lui bình an vô sự.


Lưu Vân cho liên lạc tới hạ lệnh: "Tối nay, bộ đội tấn công vào cứ điểm đóng quân của địch nhà thương Xanh Pôn, lệnh cho trung đội tự vệ Cửa Nam chiếm lĩnh Văn Miếu chờ lệnh".

Chiếm lĩnh xong Văn Miếu, cả trung đội nằm rét ngoài trời, không ai đến hạ lệnh mới. Gần sáng địch mới phát hiện, từ tầng cao chúng bắn như vãi đạn vào đội hình của ta. Đã đến lúc phải tự động rút lui, chẳng may gặp tường quá cao tầm với. Hồng không ngần ngại quỳ gối làm bậc cho đồng đội trèo lên vượt qua tường. Người nọ bắt chước người kia, khoảng năm, mười phút toàn trung đội đã thoát khỏi tầm bắn của địch.


Sau trận đánh đó, tôi bắt liên lạc được với ban chỉ huy tự vệ chiến đấu. Đồng thời nhận thấy cách làm việc với Vệ quốc đoàn không dễ dàng và thân mật như với chỉ huy cũ của mình, tôi đưa ra ý kiến: ta là tự vệ nên trở về với tự vệ, như vậy vừa dễ giao dịch vừa dễ thông cảm với nhau trong lúc làm việc.


Chúng tôi lên đường, đây là cuộc hành quân vỡ lòng trong đời binh nghiệp của chúng tôi. Nếu chỉ vài ba người len lỏi đi từ Giám tới Việt Nam học xá thì không mấy khó khăn, nhưng đi cả trung đội khó khăn bội phần.

Lúc đó, không có bản đồ, không có la bàn chỉ hướng, không có người dẫn đường, không biết rõ địch đóng chỗ nào, ta đóng chỗ nào. Dân đã tản cư hết không có ai để hỏi thăm đường. Đã thế lại còn phải lần bước trong đêm tối.


Một lần nữa Hồng lại được cử đi trinh sát, tìm đường hành quân. Tôi ra lệnh đại khái cho Hồng: men theo đường tầu điện Hà Nội - Hà Đông, đến Ô Chợ Dừa rẽ tay trái, hướng về bốn cột truyền thanh mà đi. Cũng may nhà cửa lúc đó còn thưa thớt lại thấp, lệnh như vậy còn có lý. Hồng dẫn nửa tiểu đội đi trinh sát địch và tìm đường, nửa tiểu đội còn lại liên lạc với toán sau. Tôi và Đài dẫn đầu toán sau, Châm đi sau cùng và thu quân bị lạc.


Vừa đi, vừa đứng, vừa ngồi chờ, khi nghe thấy tiếng gà gáy lạc lõng trong sương đêm, tôi vội vọt lên phía trước. Một lùm cây lớn ở trước mặt, tôi thấy Hồng đang đứng chờ ở trước cổng chùa Kim Liên. Chúng tôi ôm lấy nhau lặng đi, nghe rõ tiếng con tim đập hòa với tiếng giun dế kêu rên rỉ. Hồng lên tiếng trước:

- Ta tạm trú quân ở đây anh ạ! Xem ra ở đây chưa có địch, thỉnh thoảng nghe súng còn rất xa. Vào làng lúc này, cũng chưa biết trong đó ra sao.

Tôi đồng ý với Hồng, cả hai đứng chờ rất lâu mới thấy Châm tới. Cuộc hành quân đã thành công. Không có người đào ngũ, không có người nằm lại, kể cả đàn bà con gái.

Được lệnh trú quân, chẳng ai bảo ai anh em cứ lăn bừa ra đất mà thiếp đi. Tôi bừng tỉnh, ánh sáng bình minh rất đẹp, có cả tiếng chim ríu rít ban mai. Nhưng cảnh tượng trong sân chùa không vui mắt chút nào. Nhìn các khuôn mặt hốc hác của đồng đội trong giấc ngủ chập chờn, tôi thấy mủi lòng. Xen vào đó nỗi lo nếu như có địch. Nhưng không, ai kia đang đứng gác bảo vệ cho đồng đội. Lại chính là Hồng.

Hồng thay tôi chỉ huy trung đội.

Được lệnh của ban chỉ huy tự vệ, chúng tôi về đóng ở chùa Vân Hồ. Địch tấn công từ phía hồ Ha-le dọc theo đường Bà Triệu ngày nay. Các tổ chiến đấu bố trí xong ở cuối phố thì có lệnh báo động, xe tăng và xe bọc thép của địch đến cách Nhà máy Diêm khoảng 200m, ngừng lại ở ngã tư bắn móc-chi-ê và trung, đại liên để thăm dò mục tiêu. Người của ta tuy đông nhưng không có vũ khí tầm xa, đành nằm yên chờ chúng đến gần, ném nốt năm quả lựu đạn và những chai ét - xăng ngâm nhựa rồi rút lui.


Mấy hôm trước tôi đã đau mắt, hôm đó hai mắt sưng mọng. Trong lúc di chuyển mắt lèm nhèm nên húc cả vào tường khi chui qua lỗ hổng. Vừa đau vừa mệt tôi choáng nằm lăn ra mặt đất. Hồng chạy đến dựng tôi dậy, khuyên tôi quay về phía sau tạm nghỉ. Sợ tôi không yên tâm Hồng nói:

- Việc khác tôi không chắc chắn, nhưng chỉ bố trí phòng ngự, sử dụng hết vũ khí rồi rút như mọi lần, thì tôi có thể thay anh làm được.

Tôi hỏi lại: "Nếu bị thương vong thì làm thế nào?"

- Tùy cơ ứng biến, dùng người khỏe cõng người yếu về phía sau, mọi việc nhờ phía sau giải quyết.

Không còn cách nào khác, tôi để cứu thương dìu về nằm ở một căn buồng nhỏ trong nhà dân. Mắt nhắm, đầu đau, tôi muốn ngủ một lúc nhưng không sao ngủ được. Chung quanh không có ai, tôi cảm thấy trơ trọi. Nếu địch tràn tới, thôi thế là hết!


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:51:03 am
Tiếng súng đã ngừng, hai mắt tôi nhắm nghiền, không phân biệt được thời gian. Đợi mãi, đợi mãi cho tới lúc nghe tiếng chân người, qua giọng nói tôi đoán có Hồng, có Oanh, có Thiện... Ngồi xuống mép giường, Hồng cho tôi biết địch đã rút, trước khi rút chúng bắn đạn cầu vồng vào chùa Vân Hồ. Mọi người rút vào các nhà xây ở phía dưới để ẩn nấp. Anh em đã nghỉ ngơi yên chỗ.


Oanh hỏi thăm tới tấp, nào mắt ra sao, đầu có chảy máu không, đã ngủ được tí nào chưa... Người nghe chưa kịp trả lời đã phải nghe tiếp: Nếu thấy đau và mệt cứ yên tâm nghỉ. Hôm nay, Hồng chỉ huy rất có tư thế, ngày mai cũng sẽ làm tốt, anh khỏi cần phải suy nghĩ...


Thấy tôi mệt mỏi không chú ý lắng nghe, Hồng kéo Oanh ra ngoài, Thiện tiến vào khẽ nói:

- Tôi vừa tìm kiếm trong nhà dân được lọ thuốc đau mắt. Nằm im để tôi tra thuốc.

Tra thuốc xong, Thiện nói tiếp: "Anh cố ngủ một giấc mới khỏi đau mắt, mai mắt sáng làm việc mới được. Chiều nay chắc anh chưa được ăn gì, anh em cũng thế cả". Nói xong Thiện đặt một chiếc kẹo bóc sẵn vào môi tôi. Một giọng nói khó quên: "Ơn anh nhiều về việc anh giúp tôi vượt qua tường, còn sống tôi không quên anh đâu" rồi chỉ nghe được tiếng bước chân chạy vội. Vị ngọt của đường quyện với vị ngọt của tấm lòng ngấm từ miệng tới lục phủ ngũ tạng, lan ra toàn thân ru tôi vào một giấc mơ dài.


Sáng hôm sau, Hồng tới gặp tôi sớm, đề xuất dự kiến của mình: Hôm qua địch đánh thăm dò, chắc hôm nay chúng sẽ đánh lớn. Hôm qua nhiều người không có vũ khí, chưa có việc làm, không nên để anh chị em ngồi chờ việc trong tầm sát thương của địch.

- Tôi cũng thấy như vậy! Theo tôi hôm nay chỉ để ba tổ chiến đấu có vũ khí phòng ngự ở các điểm cũ. Những người còn lại nên rút ra xa ngoài tầm bắn của địch.

Tôi còn đang phân vân: ai chỉ huy phía trước, ai chỉ huy phía sau. Như đã chuẩn bị sẵn, Hồng nói: "Tôi xin ở phía trước. Anh Đài thạo việc liên lạc với cấp trên, chị Oanh chỉ huy trung đội bộ ở lại giúp anh ở phía dưới. Anh Châm lúc cần ở phía nào bổ sung cho phía ấy, giữ vững liên lạc phía trên với phía dưới".

- Anh đã chọn sẵn vị trí cho tôi rồi sao? Tôi nói chung chung như thế.

Sợ tôi mất lòng, Hồng vội nói: "Hò hét chiến đấu tôi làm đã quen, củng cố tổ chức, giữ vững tinh thần anh em tôi còn yếu lắm. Anh ở phía sau vững vàng hơn tôi, chỗ nào cần anh nên ở đó".

Tôi đồng ý với Hồng, bụng thầm nghĩ mình có làm sao đã có người thay thế. Một niềm vui dâng lên, chúng tôi chia tay nhau. Hôm ấy địch đánh lớn, mặt trận cuối Phố Huế tuy chống trả quyết liệt nhưng cũng bị tan vỡ. Phía nhà Diêm, chúng tôi vừa chiến đấu vừa rút lui dần từng bước. Đêm đến chúng tôi đều tụ cả lại ở Việt Nam học xá.

Hồng nhận một phần thưởng quý giá.

Hôm làm lễ truy điệu anh Cao Thanh Chi, mọi người thương cảm vô cùng. Tôi báo cáo thành tích của Hồng.

Ngày hôm trước anh Chi dẫn chúng tôi đi quan sát tình hình địch ở phía đê La Thành. Công việc đã xong, chúng tôi được lệnh quay về. Khi đi chúng tôi qua một bãi trồng rau và khoai không có chuyện gì xảy ra, nào ngờ lúc chúng tôi về thì pháo đạn địch từ phía xa trên điểm cao bắn đuổi theo. Mọi người vừa nằm, vừa chạy đến chỗ che khuất ẩn nấp. Đợi rất lâu không thấy anh Chi về, anh em đoán anh bị thương nằm lại ở luống khoai. Trong lúc nguy nan đó Hồng đã tự nguyện quay lại cứu anh Chi. Lúc đi cũng như lúc về, Hồng vừa phải bò vừa phải trườn để địch khó phát hiện. Lúc về vất vả nhiều hơn vì phải mang theo xác anh Chi.


Vừa thương xót anh Chi, vừa mến phục lòng dũng cảm của Hồng, mọi người đều ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Tôi đề nghị khen thưởng bằng khẩu súng ngắn của anh Chi. Mọi người nhất trí tán thành, anh Đỗ Đức Kiên đại diện cho lãnh đạo trao phần thưởng quý giá đó cho Hồng giữa tiếng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.


Từ lúc được nhận phần thưởng, Hồng càng thêm gan dạ. Với khẩu súng ngắn lăm lăm trong tay, Hồng luôn dẫn đầu anh em trong các trận đánh vào Nhà máy Rượu, vào bốt Kim Liên.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:51:47 am
Trận chiến đấu ngày 15 tháng giêng ở nhà thương Bạch Mai.

Sang đầu tháng giêng năm 1947. Nhiều đơn vị tự vệ khu phố về đóng ở Việt Nam học xá và ở phía Bạch Mai. Chúng tôi được trên phổ biến cần củng cố lại tổ chức. Chỉ giữ lại những người có khả năng chiến đấu bổ sung cho Vệ quốc đoàn, số còn lại đưa về hậu phương công tác.


Trung đội tự vệ Cửa Nam được giữ nguyên quân số đưa sang sáp nhập vào tiểu đoàn 64 đóng ở nhà thương Bạch Mai. Tôi ngày 9/1/1947 khi đưa trung đội tới nơi tôi đã thấy một số đơn vị khác có mặt ở đó. Sau này mới biết đó là trung đội tự vệ do anh Hoàng Giáp phụ trách.


Trung đội của chúng tôi được giao nhiệm vụ canh giữ, phòng thủ phía đông bắc nhà thương Bạch Mai. Hàng ngày lúc địch chưa đánh, bộ đội làm công sự, ban đêm chủ động đánh địch ở Kim Liên. Ở điểm này ban ngày địch chiếm, ban đêm địch rút. Các trung đội phải luân phiên nhau đi đánh mấy lần.


Tới ngày 15/1/1947, một trận đánh lớn đã xảy ra ở nhà thương Bạch Mai. Lần này địch huy động cả phi cơ, xe tăng, trọng pháo, bộ binh tấn công nhiều mũi. Hầu hết các điểm đóng quân ở phía nam Thủ đô chạm trán với địch. Riêng đơn vị tôi đã giáp chiến ở phía đông bắc nhà thương Bạch Mai với bộ binh địch từ lúc trận đánh bắt đầu.

Tờ mờ sáng lúc còn sương đêm, Hồng từ điểm tiền tiêu chạy về báo cáo gấp:

- Phía trước có nhiều địch tới, đề nghị ra lệnh báo động chiến đấu.

- Đợi chúng đến gần, tập trung hỏa lực bắn từng loạt chặn đứng chúng lại. "Rõ!" Nhận lệnh xong Hồng chạy biến vào trong sương sớm. Trung đội ra triển khai vị trí bố phòng, liên lạc đi báo cáo gấp với đại đội.

Tiếng súng ngoài tiền tiêu nổ, hiệu lệnh báo động toàn tiểu đoàn đã phát, tiếng tiểu liên của địch nổ ran, hàng trăm tia lửa đạn xèo qua trước mặt. Lá rụng rào rào, cành cây gẫy răng rắc. Cứ như thế chừng năm phút thì ngưng tiếng súng, lắng đi một chút, lại nghe thấy tiếng súng trường nổ, tiếp theo đó lại hàng loạt tiếng tiểu liên như lần trước rồi lại ngừng. Lần thứ ba ngoài tiếng súng trường, kèm theo tiếng lựu đạn nổ đinh tai. Quan sát tia đạn lửa có thể đoán ra địch nằm bắn, nhưng lúc tia lửa đạn thấp xuống đúng là lúc chúng tiến lên. Tiếng súng trường và lựu đạn lại nổ, hẳn là những đơn vị tiền tiêu đang chặn đánh địch. Mọi người say mê trong lửa đạn chỉ nhận biết được có thế, và đã có thêm nhiều tiếng súng trường ở phía sau bắn về phía có địch.


Đến lúc tiếng tiểu liên đã ngớt và xa dần ngoài cánh đồng, lúc đó tiếng súng trung liên và đại liên địch ở phía Kim Liên xả tới từng loạt từng tràng. Ta ẩn nấp tránh đạn địch để khỏi bị thương vong vô ích, thời gian đã khá lâu. Xa xa có tiếng máy bay kèm theo có tiếng súng đạn lớn. Máy bay tới đâu súng lớn bắn tới đó.


Khi máy bay lượn trên đầu chúng tôi (kể cả đơn vị bạn) là lúc nhà thương Bạch Mai phải hứng chịu tiếng nổ đanh tai xé óc của đạn cầu vồng. Máy bay "bà già" rất lợi hại, chúng chỉ điểm cho đạn cầu vồng bắn rất chính xác. Trận địa của ta có phần rối loạn, anh em buộc phải chạy đi chạy lại tìm chỗ ẩn nấp khi làn đạn cầu vồng của địch di chuyển.


Đã có nhiều người bị thương, tình hình rất cấp bách, đã thế lại thêm tiếng xe tăng, xe cơ giới gầm rú. Với trình độ ấu trĩ, kinh nghiệm chiến trường còn chưa có, tôi không sao đoán nổi tình hình lúc đó. Thực ra, cũng chẳng còn tâm trí nào mà ngồi phán đoán. Việc cấp cứu đưa thương binh về phía sau chiếm hết thời gian và tâm trí. Có những việc quá với khả năng, lúng túng không biết xử lý ra sao? Có những đồng chí hy sinh trong tư thế chiến đấu mặt hướng về phía trước, nhưng lại bị mảnh đạn cầu vồng sát thương từ phía sau. Cảnh tượng thật đau lòng, hạ lệnh rút lui không được, gom xác trong lúc còn đang chiến đấu cũng không xong. Loay hoay không biết làm như thế nào, đành nuốt nước mắt bỏ qua để cứu người còn sống.


Tiếng súng đã nổ ba bề bốn bên. Trước mắt, sau lưng, bên phải, bên trái chỗ nào cũng là trận địa. Đánh không được, rút không được, tôi tự cảm thấy mình vừa bất tài vừa lúng túng vừa hoang mang thụ động. Một tiếng nổ đanh ròn, tôi thoáng nghĩ: thôi thế là hết!


Lúc tỉnh lại thấy có người ngồi bên cạnh, đồng chí cứu thương hôm nào cho tôi viên kẹo ngọt, mắt còn ngấn lệ.

- Hãy còn sống! Thiện thét lên.

- Tôi có sao đâu mà cuống lên thế.

- Mồm đầy máu, thôi về trạm xá, nhân danh cứu thương, tôi ra lệnh.

Tôi định chống lại lệnh, nhưng chân tay rã rời. Với thân hình gầy còm lại kiệt sức lâu ngày, nay bị ép thổ huyết tôi không đủ sức tự đứng dậy. Một chiến sĩ và một cứu thương dìu tôi về trạm y tế tiểu đoàn. Ở đây, tôi được cụ Cư, người y tá già tiêm cho một mũi dầu long não.


Tôi đang định xin phép đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ, bỗng thấy một cáng thương đi vào, theo sau là Bích Oanh. Chị là một vệ quốc quân ở Hải Phòng bị kẹt lại Hà Nội tạm thời xin gia nhập đội tự vệ cửa Nam. Với tác phong quân nhân, chị chào xong mới báo cáo:

- Tổ tiền tiêu đã bị đạn địch bắn sập hầm. Ba đồng chí hy sinh, hai bị thương nặng. Anh Hồng khi quay về xin chỉ thị bị thương nặng hiện nay chưa biết sống chết ra sao?

Tôi ứa nước mắt thầm nghĩ: tổ tiền tiêu của Hồng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nếu cuộc chiẽn ác liệt như đã xảy ra chưa mở màn mà bộ binh của địch đã lọt được vào phía sau lưng của tiểu đoàn thì tình hình sẽ còn bi đát hơn nhiều.

Bích Oanh đưa cho tôi khẩu súng ngắn của Hồng. Tôi không nhận.

- Oanh hãy tạm giữ lại, khi nào Hồng tỉnh lại Oanh trả lại Hồng.

Vừa dứt, xe tăng của địch đã tiến đến bắn phá dữ dội. Tiếng kính vỡ, tiếng tường lở rộn người, bụi bay dày đặc. Kẻ chạy đi, người chạy lại chật cả hành lang của bệnh viện. Trạm y tế được lệnh rút về Hà Đông.

Người ta cáng Hồng đi, tôi giục Oanh đi theo, ở lại cũng vô ích, đã đến lúc phải rút lui để bảo toàn lực lượng.

Những năm chiến đấu tiếp theo tôi còn gặp lại: Châm, Đài, Oanh, Thiện, Bình, Thìn, Thuật riêng Hồng tôi không gặp lại lần nào nhưng hình ảnh Hồng cứ lặp đi, lặp lại trong trí nhớ của tôi.

Phiên hiệu của đội tự vệ Cửa Nam không còn nữa nhưng tinh thần chiến đấu của nó sống mãi với sự nghiệp chiến đấu sáu mươi ngày đêm bảo vệ Thủ đô.

NINH HỮU CẨN
Nghĩ lại và viết nhân ngày
Thương binh liệt sĩ 27 - 7


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:53:09 am
TRẦN THÀNH - NGƯỜI ANH HÙNG ĐẦU TIÊN CỦA TIỂU ĐOÀN 77


Anh tên thật là Nguyễn Văn Thiềng. Anh chiến đấu cuối phố Nguyễn Du, tôi ở đầu phố cách nhau chưa đến 400m. Tôi nhận được tin anh hy sinh rất sớm, rất mến phục sự dũng cảm của anh và các bạn chiến đấu của anh.


Tháng 11 năm 1946, âm mưu của Pháp phá hoại các Hiệp định hòa bình đã ký kết với ta ngày càng lộ rõ. Lính mũ đỏ đã hai lần cho xe tăng chạy vòng quanh trụ sở Bộ Tổng tham mưu vừa khiêu khích, vừa như thể tập dượt cho một cuộc đánh chiếm. Số nhà 18 phố Nguyễn Du, trụ sở Bộ Tổng tham mưu của ta là một trong những mục tiêu tấn công của quân đội viễn chinh Pháp khi tiếng súng kháng chiến bắt đầu.


Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Bộ Tổng tham mưu được lệnh chuyển ra ngoại thành. Một trung đội của tiểu đoàn 77 được điều đến thay đơn vị cảnh vệ đóng giữ nơi này. Trần Thành là người chỉ huy đơn vị ấy. Anh vừa tốt nghiệp khóa I của trường Quân chính Bắc Sơn, vốn là nơi đào tạo các cán bộ quân sự chính trị sơ cấp cho quân đội. Là một đoàn viên thanh niên cứu quốc trước ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô, sau đó là đội viên Đội tự vệ chiến đấu cứu quốc thành Hoàng Diệu, học xong Trần Thành được phân công làm trung đội trưởng, lúc này vừa tròn 19 tuổi.


Nhận nhiệm vụ đóng giữ trụ sở của Bộ Tổng tham mưu, Trần Thành bắt tay ngay vào củng cố phát triển thêm công sự phòng ngự. Khu nhà số 18 phố Nguyễn Du, dài khoảng 50 thước, rộng 8 thước với những hàng hiên trước cùng khu sân rất rộng, ngoài ra một ngôi nhà gỗ với nhiều phòng ngủ của đội cảnh vệ. Từ khi tình hình giữa ta và Pháp trở nên căng thẳng, đơn vị cảnh vệ của Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu trên đường phố, đã đục tường thông từ góc phố Nguyễn Du sang ngã năm phố Hàng Kèn, và từ Nguyễn Du đến phố Duy Tân (Phố Huế hiện nay). Các tường nhà đều được đục lỗ châu mai, và những hàng chiến hào kéo dài theo những dãy tường bao quanh khu vực. Cùng với các chiến sĩ, Trần Thành vừa bố trí cho anh em củng cố thêm công sự, vừa bàn với đồng chí trung đội phó Mát Chư: đưa tiền duyên phòng ngự khu vực ra hẳn đường phố, để khi chiến đấu có điều kiện đánh trả xe cơ giới của địch. Theo anh, địch sẽ lợi dụng địa hình từ ngã năm dốc Hàng Kèn đánh thẳng vào cổng trụ sở nơi ta đóng quân. Mát Chư là một sĩ quan quân đội Nhật, tự nguyện ở lại xin gia nhập quân đội ta chống thực dân xâm lược Pháp. Mát Chư là cán bộ trường Quân chính Bắc Sơn, Trần Thành là học viên. Hai người là bạn thân cùng làm phiên dịch, cùng lao động với các học viên, biến khu chuồng nuôi ngựa của bọn Pháp thành một nhà trường có nhiều lớp học bao gồm phòng ngủ, nhà ăn khang trang. Trần Thành vừa tốt nghiệp năm thứ nhất tú tài tại trường Bưởi và Mát Chư vốn là một tiến sĩ văn học, đã không ngần ngại với cuốc, xẻng, lao động như những người nông dân. Những ngày làm việc ấy, giờ đây, giúp Trần Thành cùng anh em miệt mài củng cố trận địa bằng những hầm hào vững chắc, để có thể đương đầu với lực lượng địch mạnh hơn. Nhiệm vụ của trung đội là một nhiệm vụ nặng nề. Nơi đây vốn là trụ sở đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu đã từng được đồng chí Hoàng Văn Thái đem hết tâm huyết và sức lực, tần tảo xây dựng nên các phòng ban, đặt ra kế hoạch tác chiến cho chiến trường Nam bộ, tổ chức huấn luyện quân đội cùng với việc xúc tiến tiêu diệt bọn phản cách mạng Việt Nam Quốc dân đảng. Chính tại nơi này, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và chúc sức khỏe các chiến sĩ, căn dặn mọi người làm việc với tinh thần cách mạng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.


Đồng chí Võ Nguyên Giáp nguyên là Bí thư Quân ủy Hội, người anh cả của các lực lượng vũ trang cũng năm lần đến với cơ quan, nói chuyện thời sự, phổ biến chủ trương, kiểm tra công việc, khuyên khích biểu dương và chỉ dẫn bổ sung những điều cần thiết.


Đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946, từ ngoại thành, tiếng đại bác đầu tiên nã đạn vào thành cổ Cửa Bắc, nơi đóng quân của Pháp, báo hiệu cho cuộc kháng chiến toàn quốc bắc đầu. Trong tiếng nổ của các loại súng lớn nhỏ, Trần Thành cùng người chỉ huy phó đến từng nơi bố trí kiếm tra lại công sự một lần cuối. Trời dần sáng, súng vẫn không ngừng nổ. Trần Thành khoan khoái khi thấy mọi người ai nấy đều đã sẵn sàng nổ súng. Nhưng rồi một ý nghĩ chợt lóe lên với câu hỏi: "Tại sao ta không đưa tiền duyên của tuyến phòng ngự ra hẳn ngoài đường và đào hầm ngay trên mặt đường cản xe cơ giới địch?". Trao đổi với trung đội phó, cán bộ tiểu đội, rồi bắt tay vào việc luôn. Khi trung đội về chiếm lĩnh trụ sở, tranh thủ thời gian, khẩn trương củng cố vững chắc thêm vị trí chiến đấu đã được đơn vị cảnh vệ ở đó trước chuẩn bị. Nay anh đưa tiền duyên phòng ngự ra hẳn đường phố, đào hầm cản xe cơ giới và làm trận địa công sự, bố trí tổ chống tăng cách cổng trụ sở 50 mét trên hướng từ ngã năm phán đoán sẽ là đường tiến quân tiếp cận chính của địch. Công tác chuẩn bị khẩn trương như ý đã bàn.


Để Mát Chư chỉ huy hai tiểu đội, đề phòng địch từ hướng Lê Văn Hưu đánh tới, Trần Thành dẫn một tiểu đội theo công sự ngang đường Nguyễn Du, bố trí tổ chống tăng cách trụ sở 50 thước. Gió lạnh hun hút trên đường phố nhưng mồ hôi ướt đẫm áo mọi người. Khi những thương binh từ phía trên được đưa về trạm y tế của tiểu đoàn 77, đóng trong khu nhà do Trần Thành bảo vệ, cũng là lúc mọi người hoàn thành đoạn công sự cuối cùng. Anh em đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trần Thành nghĩ đến thương binh bèn tìm gặp y tá trưởng Nguyễn Đức Hạnh, hỏi thăm tình trạng của các đồng chí thương binh. Những người bị thương không chỉ là các chiến sĩ của tiểu đoàn 77 mà còn là các chiến sĩ của đơn vị khác, gồm cả anh em tự vệ, công an xung phong. Cần phải chờ cho đẽn khi trời tối hẳn mới có thể chuyển thương binh về phía sau, vì không tiện đưa thương binh qua những lỗ đục tường xuyên từ phố này sang phố khác. Y tá Hạnh báo cho Trần Thành nhiều tin chiến sự biết được từ các thương binh. Từ Bộ Quốc phòng và Trại Vệ quốc đoàn Trung ương, rạp chiếu bóng Majestic, ta và địch đang chiến đấu ác liệt, có nơi hai bên đã giáp lá cà. Khi y tá Hạnh đã chuyển được thương binh về phía sau, Trần Thành liền đi thăm toàn khu nhà, anh sẽ chỉ huy trung đội chống giữ nếu như địch tấn công từ hai phía Hàng Kèn và Lê Văn Hưu, ập tới chiếm cổng chính và lọt vào các hào chiến đấu. Tòa nhà hai tầng với nhiều căn buồng này, hoàn toàn có thể là nơi kịch chiến. Chắc chắn địch sẽ không dám chấp nhận trận chiến ở nơi này khi đêm đến. Ý nghĩ ấy khiến Trần Thành phấn chấn: mình sẽ cùng đơn vị giam chân địch tại đây càng lâu càng tốt. Các đơn vị đóng từ Chợ Hôm đến tận Ô Cầu Dền gồm tự vệ, công an và cả trung đội Vệ quốc đoàn của C3 d77 bố trí chặn địch. Họ sẽ có thời gian vừa củng cố công sự, vừa tìm diệt các ổ tác chiến của địch. Tuy nhiên, Trần Thành vẫn lo lo, đơn vị anh thiếu nhiều vũ khí. Mỗi tiểu đội chỉ có 5, 6 khẩu súng trường. Hỏa lực chính của trung đội trông cậy vào khẩu trung liên với 200 viên đạn. Nếu đánh giáp lá cà, số lựu đạn do công binh của ta sản xuất có tên là lựu đạn Phan Đình Phùng hiển nhiên là một vũ khí lợi hại. Và quả bom ba càng kia sẽ đánh trả đòn đột kích của xe tăng địch.


Một ngày qua đi, thương binh từ các nơi vẫn tiếp tục được đưa về trụ sở của Bộ Tổng tham mưu cũ. Y tá Hạnh bận bịu luôn tay. Nhìn những lần bông băng trên người thương binh ứa máu, Trần Thành khẽ nói với y tá Hạnh: "Thiếu người quá, sao đồng chí không báo cho bọn mình? Dù sao bọn mình cũng có thể rút đôi ba người phụ giúp đồng chí". Y tá Hạnh lắc đầu: "Tôi lo được, để anh em canh chừng bọn Pháp. Đồng chí đã biết tình hình số nhà 63 phố Hàng Kèn chưa?". Trần Thành gật đầu. Ở ngôi nhà 63 phố Hàng Kèn nằm bên sườn trụ sở Bộ Tổng tham mưu, địch đã bí mật đưa quân đến đây lập ổ tác chiến phục sẵn từ những ngày trước khi nổ súng. Chúng treo cờ Trung Hoa dân quốc trước cửa để ta không nghi ngờ. Từ sáng ngày 20, chúng dùng tiểu liên bắn vào các đơn vị của ta di chuyển trên đường Bà Triệu - Hàng Kèn.


Trần Thành thực sự vui mừng như chính mình đã tiêu diệt ổ tác chiến ấy, khi được tin đại đội trưởng Nguyễn Văn Ngọc dẫn một trung đội thanh toán xong cái tổ quỷ này. Trần Thành yên tâm. Cái gai nhọn bên sườn anh đã được nhổ. Thương binh đưa về ngày một nhiều. Sau những suy nghĩ anh quyết định phổ biến với toàn trung đội: "Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ trấn giữ nơi này, không cho địch dễ dàng tiến xuống các khu dưới mà còn phải chiến đấu đến cùng, để bảo vệ các đồng chí của chúng ta bị thương nặng đang nằm tại đây". Quyết định của Trần Thành được toàn thể trung đội hứa thực hiện bằng được.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 11 Tháng Năm, 2022, 06:53:51 am
Ngày 22 xe tăng địch từ phía Lê Văn Hưu tiến vào đầu phố Nguyễn Du, và từ phía ngã năm Hàng Kèn (Bà Triệu - Nguyễn Du) chúng thập thò đưa từng toán nhỏ bắn thăm dò nơi trung đội chốt giữ. Cả hai phía, chúng đều bị đánh lui. Nhưng Trần Thành hiểu, đó chưa phải là đòn quyết định của địch. Khi chưa rảnh tay tại Bộ Quốc phòng, Trại Vệ quốc đoàn Trung ương, rạp chiếu bóng Majestic, trường Hàm Long, nhà Lamy, chúng chưa thể ồ ạt tấn công vào nơi này. Ý nghĩ ấy khiến Trần Thành càng thấy nhiệm vụ mình thêm nặng nề. Anh cần phải chống giữ nơi này bằng toàn bộ tinh thần và sức lực của mình, để xứng đáng với những đồng chí đang chống giữ ở các vị trí phía trên. Đêm đến, anh cử một số đội viên giúp y tá Hạnh cùng các chị cứu thương đưa thương binh về ngõ Quỳnh, Chùa Sét.


Sáng ngày 23, số thương binh còn đọng lại gần ba chục người. Nếu không có gì trắc trở, đêm nay mới có thể đưa hết số anh em thương binh về phía sau. Sự chờ đợi dường như làm dài thêm những lo âu. Trời mờ sáng Trần Thành giục anh em ăn hết những nắm cơm các chị phụ nữ Liên khu II đem từ Bạch Mai lên tiếp tế để lấy sức chiến đấu ngay, khi cần. Linh tính báo cho Trần Thành biết, sau trận đánh thăm dò hôm qua, hôm nay địch có thể không còn đùa giỡn với anh. Linh tính của Trần Thành không nhầm: 8 giờ 30 phút súng nổ từ phía Lê Văn Hưu rền lên. Như cùng một lúc, xe tăng địch tiến vào ngã năm Hàng Kèn. Được biết ngã tư phố Lê Văn Hưu - Duy Tân đã có một đơn vị tự vệ cùng sinh viên cứu quốc, vũ trang bằng một khẩu đại liên đang bắn cản địch, Trần Thành tập trung chú ý vào phía sau đường Bà Triệu. Theo anh, địch dễ dàng xông tới từ phía ấy, cách cổng trụ sở không xa. Quả nhiên, địch dùng súng cối bắn vào tuyến phòng ngự của trung đội Trần Thành, mở đường cho một chiếc xe tăng dẫn bọn lính mũ đỏ xông tới. Như vậy là bọn chúng đã chiếm lại ngôi nhà số 63 dốc Hàng Kèn (phố Bà Triệu ngày nay), uy hiếp một bên sườn của trận địa ta. Dựa vào các công sự phía sau các tường bao, Trần Thành chỉ huy anh em dùng trung liên, súng trường chặn địch. Bọn lính mũ đỏ lùi lại. Chúng đã phát hiện hỏa lực của ta không nhiều, nên lại hò nhau theo chiếc xe tăng xông tới. Xe tăng địch như một chiếc lô cốt biết đi, lừng lững tiến tới cách trụ sở 50 thước, bất chấp lựu đạn của ta tới tấp ném ra. Chúng đã quyết định đánh một đòn với tất cả sức mạnh vốn có. Chỉ 50 thước nữa chiếc xe tăng sẽ húc đổ cổng trụ sở. Chúng có thể tiến sâu vào sân, Trần Thành có thể lệnh cho đơn vị rút lên ngôi nhà hai tầng chống trả, nhưng còn anh em thương bình, sao đây? Không thể để chúng tung hoành. Phải đánh đổ ngay chiếc xe tăng kia. Một đội viên đã được học cách đâm bom ba càng, đang nhìn Trần Thành chờ lệnh. Thời gian không cho phép tính toán nhiều hơn. Tình thế đòi Trần Thành một quyết định. Lập tức anh ra hiệu cho người đội viên: "Đánh!". Như chiếc lò xo, người đội viên bật khỏi giao thông hào xông ra, nhưng anh không kịp thực hành những bài học của mình về đâm bom ba càng, một loạt tiểu liên đã đốn ngã anh. Không chờ lệnh trung đội, một đội viên khác thay người bạn vừa hy sinh xông ra. Anh vừa cúi mặt nhặt chiếc bom ba càng, chưa kịp vươn người tiếp cận chiếc xe tăng thì đã gục xuống. Trong một loáng, chứng kiến sự hy sinh của hai chiến sĩ1 (Trong tổng kết chiến thuật của Quân khu Thủ đô về trận đánh, không thấy nhắc đến sự hy sinh của hai chiến sĩ này), chứng kiến chiếc xe tăng đang lăn xích tiến tới, Trần Thành không chần chừ, lao tiếp ra đường. Anh né người, chụp lấy chiếc cán bom ba càng. Bằng một động tác mạnh mẽ và chính xác, anh đâm bom vào đúng khối thép tưởng như không gì cản trở đường tiến của nó. Một tiếng nổ, khói bom trùm lên chiếc xe tăng. Cái lô cốt bằng thép di động ấy chững lại bất động, xích chiếc xe tăng bung ra. Nhưng Trần Thành không kịp quay về công sự. Bọn lính mũ đỏ xối đạn về phía anh. Cánh tay trái của anh đã bị thương nặng. Bọn lính mũ đỏ hò nhau xông tới. Trần Thành rút lựu đạn bên lưng. Với cánh tay phải còn nguyên vẹn, anh chồm dậy, quay ngoắt lại, vung quả lựu đạn về phía những tên địch đang sấn đến. Lại một tiếng nổ, những tên mũ đỏ gục xuống, Trần Thành cũng cùng gục xuống đè lên xác những tên Lê dương tàn ác. Cảnh tượng ấy diễn ra gần như trong chớp mắt. Đứng trong giao thông hào, Mát Chư nhìn thấy từng động tác của Trần Thành. Không phải một mà là hai quả lựu đạn đã được Trần Thành ném liền một lúc. Không phải một toán nhỏ mà có gần 20 tên mũ đỏ gục xuống vì hai quả lựu đạn cuối cùng của người trung đội trưởng thân yêu đã từng cùng ở trường Bắc Sơn với Mát Chư 6 tháng tại một đồn điền của Pháp, tỉnh Bắc Ninh. Sự đau xót mất một người đồng chí, xen lẫn lòng căm thù của cán bộ chiến sĩ dâng lên. Bỗng tên đại úy địch đứng sau chiếc xe bọc thép khác hô bọn lính tiến lên cướp xác bọn đã gục ngã. Mát Chư liền nhanh chóng chớp lấy cơ hội trả thù cho người trung đội trưởng thân yêu của mình. Anh hạ lệnh cho khẩu trung liên nhả đạn. Tên đại úy bị trọng thương giơ hai tay lên trời như than thân trách phận trước khi đổ sập xuống mặt đường. Bốn tên mũ đỏ khác liều chết chạy tới toan cõng người chỉ huy của chúng quay về, cũng bị khẩu trung liên cho chịu chung số phận với những tên đã ngã, khi đã tiến sát cổng Bộ Tổng tham mưu cũ. Lúc đó là 10 giờ 30 phút. Bị giáng một đòn nặng nề địch vẫn cố tấn công, không phải để chiếm lĩnh trận địa mà là để dùng một chiếc xe bọc thép khác kéo chiếc xe bị đánh đứt xích quay lui.


Tuy nhiên, khoảng 12 giờ, một bộ phận quân địch cũng lọt được vào ngôi nhà gỗ góc phía tây. Mát Chư đã dồn lực lượng đón đánh, không cho chúng tiến đến ngôi nhà có anh em thương binh đang nằm. Cuộc chiến đấu không cân sức vẫn đủ ngăn được địch tiến tới mục tiêu chúng định đánh chiếm. Những quả lựu đạn lọ mực Phan Đình Phùng hất địch không cho chúng hò hét giục nhau xông tới. Một số anh em thương binh, trước tình hình ấy đã đề nghị y tá Hạnh băng bó vết thương để họ xông ra. Biết Trần Thành đã hy sinh nhưng y tá Hạnh vẫn tin ở sức chiến đấu của đơn vị, nên không đồng ý với đề nghị thiết tha ấy. Đến 3 giờ chiều, địch dồn dập câu súng cối vào vị trí của trung đội. Một mảnh đạn đã văng cắm vào ngực Mát Chư. Anh quỵ xuống như người trung đội trưởng của mình, anh không đứng dậy được nữa. Lúc này, các tiểu đội trưởng, không ai bảo ai, chỉ huy những đội viên còn lại tiếp tục ném lựu đạn cho đến khi trời tối dần. Địch không còn cách nào khác, lặng lẽ rút lui. Y tá Hạnh lần lượt chuyển thương binh về phía sau. Sau khi nhẩm tính, trung đội Trần Thành đã bắn và giết được 45 tên địch, trong đó có một tên đại úy và đánh hỏng một chiếc xe tăng. Mười tám chiến sĩ trong trung đội cùng với mười hai tự vệ đã hy sinh trong gần một ngày chiến đấu. Trung đội đã mất đi hai người chỉ huy: Trần Thành và Mát Chư.


Chiến công của trung đội Trần Thành, cùng tấm gương hy sinh anh dũng vô cùng lẫm liệt của anh, giữ được trụ sở cơ quan quan trọng hàng đầu của Tống hành dinh là Bộ Tổng tham mưu và bảo vệ được một số lượng đáng kể thương binh chưa kịp chuyển đi, làm thất bại cuộc tấn công quy mô bằng một binh lực có ưu thế áp đảo của địch là phần đóng góp sáng giá vào thắng lợi chung to lớn của cuộc chiến 60 ngày đêm của quân và dân Thủ đô, mở đầu thành công của cuộc kháng chiến toàn dân chống Pháp. Trần Thành, người anh hùng đầu tiên của tiểu đoàn 77 đã đặt viên gạch đầu cho truyền thống của tiểu đoàn sau này.


Ngay đêm ấy, tại một làng ngoại ô, người anh của Trần Thành được tin em trai mình hy sinh. Anh không khóc. Anh đã ngất lịm. Khi tỉnh dậy anh nhìn ánh đèn dầu nơi căn buồng nhớ lại đứa em kém anh bốn tuổi với khuôn mặt trắng trẻo, yêu thích thể thao như ham mê đọc sách. Từ năm lớp nhất, đứa em đã dám đánh Tây khi bọn chúng bắt nạt bạn bè của nó.


Một năm sau, tháng 2 năm 1947, trên núi rừng Việt Bắc, một lớp học chính trị Trung ương mở cho các cán bộ trung cấp được lấy tến là lớp học Trần Thành.

Trường Quân chính Bắc Sơn lấy gương hy sinh của Trần Thành để phát động phong trào thi đua luyện quân lập công thành nề nếp trong các khóa huấn luyện của nhà trường.

Tiểu đoàn 77, từ viên gạch truyền thống đã phát huy truyền thống anh hùng cách mạng khi đứng vào đội hình của trung đoàn 48 (trung đoàn Thăng Long); và khi nằm trong đội hình đại đoàn Đồng Bằng với danh hiệu Đống Đa kiên cường.

Đại tá LÊ NGỌC TẤN
(Nguyên chính trị viên đại đội 3 tiểu đoàn 77)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:43:43 am
TUỔI TRẺ CHÚNG TÔI NGÀY ẤY


Tính chi li ra, lúc kháng chiến bùng nổ tôi mới 17 tuổi. Nếu có ai hỏi tại sao tôi xung phong vào Đội cứu thương mặt trận Liên khu II Hà Nội, tôi cũng chỉ biết trả lời: đó là do tinh thần hăng hái của tuổi trẻ bắt nguồn từ lòng căm thù quân Pháp xâm lược đất nước mình.


Là con của một gia đình công giáo toàn tòng ở thị xã Hà Đông, khi tiếng súng kháng chiến nổ ở Hà Nội đêm ngày 19/12, tôi ở lại Thủ đô phục vụ chiến đấu, không kịp về nói một lời với bố mẹ và chia tay với bốn đứa em nhỏ. Tôi cũng chẳng biết gia đình đi tản cư hướng nào. Hơn tám năm sau, hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tôi mới gặp lại gia đình và cũng đến khi đó tôi mới biết bom đạn của giặc Pháp đã cướp đi của tôi hai đứa em trai.


Mọi việc bắt đầu từ những việc tai nghe mắt thấy trong những ngày trọ học ở Hà Nội.

Một thời gian sau khi tham gia giành chính quyền ở thị xã Hà Đông, nghe lời khuyên của chị Phúc (tức chị Tạ Thị Thọ, vợ đồng chí Nguyễn Khang sau này), tôi trở lại cuộc đời học sinh trung học ở trường Đồng Khánh Hà Nội. Đối với tôi, chị Thọ là một người bạn lớn, chị đã giới thiệu tôi vào đoàn thể phụ nữ cứu quốc Hà Đông từ mùa hè năm 1944 và dìu dắt tôi trong từng bước hoạt động. Sau Tổng khởi nghĩa, chị bảo tôi nên tiếp tục đi học. Chị nói: Nước nhà độc lập rồi, rất cần cán bộ có trình độ học vấn đề xây dựng đất nước. Em còn rất trẻ... Tôi đã nghe lời chị.


Tháng 9/1946, năm học mới của trường Đồng Khánh khai giảng cũng là lúc không khí Hà Nội đã băt đầu căng thẳng. Theo Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), quân Pháp đã vào Thủ đô ta được nửa năm và hành động khiêu khích ngang ngược của chúng trên đường phố ngày càng tăng. Chiều tối, chị em chúng tôi trọ học ở dưới Phương Liệt ngại không dám lên trung tâm thành phố. Xe Jeep của bọn tây mũ đỏ phóng như điên trên khắp ngả đường Thủ đô.


Một ngày chủ nhật cuối tháng 10, về Hà Đông tình cờ gặp chị Thọ, tôi ngỏ ý không muốn tiếp tục đi học ở Đồng Khánh nữa, mà có ý định cùng mấy đứa bạn đến bệnh viện Bạch Mai học lớp cứu thương. Tôi nói: Không khí ở ngoài đó như sắp đánh nhau đến nơi rồi, chúng em ngồi học cũng không yên, tâm trí cứ để đâu đâu học không vào... Chị Thọ suy nghĩ một lát rồi nói: Đúng đấy Hồi ạ, Cụ Hồ đã sang tận Pháp để đàm phán, mình muốn hòa bình nhưng nó ép mình nhiều quá, tức nước ắt vỡ bờ, em quyết định như thế là đúng, chị không phản đối, để chị liệu lời nói với ông bà.


Thế là từ tháng 11/1946, tôi xin vào học ở một lớp cứu thương ngắn ngày do bệnh viện Bạch Mai tổ chức.

Đây là quyết định đánh dấu một bước ngoặt của cả cuộc đời tôi. Bạn bè mới, công việc mới và tâm tư tình cảm cũng dần dần có những thay đổi, khác hẳn với những ngày ngồi trên ghế trường trung học. Lớp khá đông, nhưng một nhóm mấy chị em chúng tôi vẫn ở với nhau dưới Phương Liệt, gần Ngã Tư Vọng. Trong nhóm có Đỗ Thị Tài, cô bạn mới quen nhưng chóng thân. Sau này, trong kháng chiến cũng như khi đã cùng nhau leo đến bậc thang "cổ lai hy", mỗi lần gặp nhau là một dịp cùng ôn lại "mọi thứ chuyện ngày xửa ngày xưa".


Học chuyên môn không khó lắm vì mới ở trình độ cứu thương, chưa phải y tá nhưng những ngày đầu thật không đơn giản. Làm hô hấp nhân tạo thế nào, băng bó thế nào (nhất là nẹp chân)... vừa phải khẩn trương, đúng động tác, vừa phải tránh cho thương binh không thêm phần đau đớn. Ngại nhất là học tiêm. Những ngày đầu cầm ống tiêm, cảm giác thật khó tả, nhất là chuẩn bị tiêm "veine". Tối về mấy đứa chúng tôi lại trở lại với cuộc sống của cái tập thể nhỏ bé của mình ở Phương Liệt, cuộc sống của những cô gái mới lớn, lại mới xa nhà. Năm ấy trời rét sớm. Thủ sẵn mấy quả ô mai, mấy cái ngô nướng chúng tôi chui vào chăn thủ thỉ với nhau những chuyện của cái tuổi bé không còn là bé mà lớn cũng chưa ra lớn! Tài nó biết tôi đã có bạn trai, đang làm việc tại cơ quan ở phố Nguyễn Du, nó cứ giục tôi lên thăm. Hồi lớp cứu thương mới bắt đầu, thỉnh thoảng tôi còn từ Phương Liệt lên, cùng anh đi dạo quanh hồ Hale, gần nơi anh ở. Nhưng rồi từ khoảng giữa tháng 12, tình hình căng thẳng, cơ quan anh chuyển ra ngoại thành. Chúng tôi bặt tin nhau từ đấy, cho mãi đến hè năm 1948...


Sau vụ quân Pháp đốt phá trạm thông tin ở phố Tràng Tiển và gây ra vụ xung đột ở ga Hàng Cỏ, đặc biệt là sau vụ Yên Ninh - Hàng Bún và Lò Đúc, tình hình Thủ đô căng thẳng đến mức ai cũng cảm thấy cuộc xung đột toàn cục có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Lớp cứu thương chưa học hết chương trình nhưng chúng tôi được lệnh dừng lại, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến.


Tất cả chị em chúng tôi được phân công về bốn trạm cứu thương ở mặt trận Ô Cầu Dền, Liên khu II Hà Nội. Tôi về nhận nhiệm vụ ở trạm số 4, đặt ở một ngôi nhà rất to đối diện với Chợ Mơ. Phụ trách trạm là chị Thưởng, y sĩ bệnh viện Bạch Mai, tuổi đời lớn hơn lại có chuyên môn, đối với chúng tôi chị là trạm trưởng đồng thời cũng như người chị cả. Ít ngày sau có thêm mấy anh sinh viên được bổ sung về trạm. Anh Tiên, anh Phan học y, anh Hưng học thú y, anh Tiềm học Luật, nhưng tất cả đều xung phong về trạm cứu thương phục vụ chiến đấu. Ngay từ buổi đầu mấy đứa đã chú ý đến anh Phan, một sinh viên trắng trẻo, đẹp trai, có vóc dáng người Âu. Chúng tôi gọi luôn anh là Phan lai. Anh chỉ cười không phản đối. Sự có mặt của các anh không chỉ làm cho không khí của trại thêm đầm ấm mà còn làm cho chúng tôi thêm tự tin. Trên thực tế mấy anh sinh viên y khoa đã góp phần giải quyết kịp thời nhiều ca thương binh nặng.


Sau mấy vụ xảy ra ngày 17 tháng 12, mặc dù đã được báo trước, thế mà tiếng súng toàn thành phố đêm 19 vẫn khiến chúng tôi bất ngờ. Khoảng 8 giờ tối hôm đó, đèn đột nhiên tắt rồi tiếng đại bác, tiếng súng lớn nhỏ vang lên, nhất là trên phía trung tâm thành phố. Với nhiều chị em chúng tôi, đây là lần đầu tiên nghe tiếng súng.


Chỉ chừng một tuần sau, địch đã theo đường Hàng Bài, Phố Huế thọc xuống Ô Cầu Dền. Đối với Liên khu II , trận địa ngã tư Ô Cầu Dền có tầm quan trọng đặc biệt vì nó chặn bước tiến của địch khi chúng đánh xuống căn cứ của Liên khu ở nam thành phố. Suốt ba ngày (26 đến 28/12) địch dốc sức phá ụ chướng ngại trên ngã tư nhưng đều bị đánh lui, khống vượt qua được. Ngày chúng dùng pháo và chất nổ phá ụ, đêm ta đắp lại. Trận địa của ta đứng vững mãi đến trung tuần tháng 1. Ngay từ những ngày đầu địch đánh xuống trạm cứu thương của chị Phi ở sát ngay mặt trận, đã phải đối mặt với quân địch sớm hơn chúng tôi. Công việc cấp cứu của các trạm từ cầu Dền đến Liên Phái hết sức khẩn trương. Chúng tôi ở các trạm Chợ Mơ và Quỳnh Lôi thường được phân công lên hỗ trợ cho các trạm trên, đồng thời cũng để thực tập cho quen với công việc. Thú thật là lần đầu tiên len lỏi chui qua những bức tường đục sẵn chạy thông dọc hai bên dãy phố để tiếp cận mặt trận giữa tiếng bom đạn chát chúa và cũng là lần đầu tiên tiếp xúc với vết thương, với máu... tôi cũng hoảng. Nhưng rồi, tình thương yêu và lòng cảm phục tinh thần hy sinh chịu đựng của anh em thương binh cộng với tinh thần trách nhiệm của người cứu thương, hộ lý, đã giúp tôi nhanh chóng vượt qua mọi nỗi đắn đo sợ hãi. Hơn nữa, gương làm việc hết mình vì thương binh của các anh chị em khác đã động viên khuyên khích làm cho tôi tự tin hơn và quen dần với công việc. Những thử thách đầu tiên qua đi.


Chỉ qua ít ngày sống trong thực tế chiến đấu đã giúp cho tôi sáng ra nhiều điều, những điều trước đây ngoài tầm hiểu biết của tôi về đất nước, về tinh thần và ý chí của những con người bình thường trước họa ngoại xâm. Trong trạm cứu thương, ngoài các chị phụ trách và số đông anh chị em học sinh chúng tôi, còn hai đối tượng khiến tôi suy nghĩ và rút ra những kết luận bổ ích cho tuổi trẻ còn rất thiếu kinh nghiệm sống của mình.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:44:25 am
Đối tượng thứ nhất là một số chị em mà hồi đó thường được gọi là ả đào, cô đầu, một thành phần xã hội bị coi là thấp hèn. Thời Pháp, dù ở Bạch Mai, Khâm Thiên hay Ngã Tư sở, thiếu gì những phụ nữ sống bằng nghề buôn phấn bán hoa. Cách mạng mới thành công, vì nhiều lý do khác nhau, nhiều chị chưa kịp hoàn lương thì kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ. Các chị không chịu tản cư mà ở lại kháng chiến, coi đây là một thời cơ thuận lợi để làm lại cuộc đời. Số đông các chị tham gia đội quân hỏa thực (sau này trong kháng chiến ta gọi là chị nuôi), chăm lo bữa ăn không chỉ cho thương binh mà cho cả chúng tôi trong trạm cứu thương. Ngoài việc lo tìm kiếm lương thực thực phẩm cho các bữa ăn hàng ngày, các chị còn tự nguyện trực tiếp phục vụ chiến đấu. Giữa cảnh bom đạn, trong khoảng cách gang tấc giữa cái sống và cái chết, các chị vẫn bình tĩnh xông lên, vực thương binh dậy, khiêng cáng anh em về phía sau. Tâm sự với các chị, mới biết môi trường chính trị - xã hội Thủ đô lúc đó đã giúp các chị suy nghĩ và tự xác định hướng đi một cách hết sức tự nguyện. Cùng chung sống, cùng phục vụ các anh em thương binh, bọn trẻ chúng tôi bảo nhau sớm tạo lên bầu không khí chan hòa với các chị. Không một chút thành kiến hay phân biệt đối xử, trái lại vừa thấy thương yêu, vừa cảm phục các chị trong bước ngoặt đổi đời. Những năm sau này, đôi lần gặp lại, thật vui mừng được biết rất nhiều chị đã trải qua tôi luyện trong kháng chiến và trở thành những cán bộ gắn bó với cách mạng, có chị đã phải vượt qua những thử thách quyết liệt, những hoàn cảnh hết sức éo le để đứng vững.


Một đối tượng thứ hai mà bọn trẻ chúng tôi khó quên là anh em sinh viên. Ai cũng biết, dưới chế độ cũ và cả trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, đại học đâu đã là phổ cập. Sinh viên đại học, dù học y, dược hay học luật phần lớn là các cậu ấm cô chiêu, con ông cháu cha. Vậy mà kháng chiến bùng nổ, các anh tự nguyện xung phong vào các trạm cứu thướng để rồi cùng ăn uống kham khổ thiếu thốn như mọi anh chị em khác, cũng thức đêm trực trạm và cũng khiêng cáng, chăm sóc thương binh từ miếng cơm thìa cháo, cũng giặt giũ quần áo cho anh em. Hơn nữa, với mọi thành viên trong trạm, các "ông cử, ông đốc tương lai" ấy sống rất chan hòa và đặc biệt là không hề nao núng lùi bước trước bom đạn địch.


Tôi nhớ mãi câu chuyện vui giữa anh Phan lai với tôi. Mặc dù đã biết chắc là anh hơn tôi mấy tuổi (anh đã học đại học), vậy mà tôi cứ cố tình làm ra vẻ đành hanh đòi làm chị, còn anh Phan cứ quyết đòi làm anh. Tranh luận chẳng ai chịu ai, cuối cùng anh Phan hòa giải: "Thôi thế này: lúc chị biết bò thì tôi biết lẫy vậy". Thế là mọi người lăn ra cười và thống nhất kết luận: Chị Hồi là chị, anh Phan là em, vì kém chị Hồi bốn tháng tuổi, các cụ xưa có câu: Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò. Anh Phan thấy mình bị "hố" đành chịu. Sau này anh trở thành một nhà khoa học có tên tuổi, giáo sư đầu một ngành của giới y học. Vậy mà (trước khi anh mất năm 1997) mỗi lần có dịp gặp nhau trong những hội nghị chuyên môn anh lại đùa, chắp tay ra vẻ cung kính "Xin chào bà chị!"


Tết Đinh Hợi năm ấy (1947) đối với chúng tôi là một cái tết rất đặc biệt, không những lần đầu tiên ăn tết xa nhà mà lại cái tết trong khói lửa, giữa lúc mặt trận Ô Cầu Dền - Bạch Mai đang gặp khó khăn.

Trước tết chừng một tuần, địch mở đợt tiến công mới, nhưng chúng không tiến theo hướng cũ mà đi vòng đánh chiếm ngã tư Trung Hiền hòng vây gọn lực lượng ta từ Chợ Mơ lên phía bắc. Nhưng do trên đã dự kiến trước tình hình, nên từ khoảng đầu trung tuần tháng 1/1947 được sự yểm trợ của anh em tự vệ, các trạm cứu thương của chúng tôi đã chủ động chuyển dần xuống Giáp Bát - chùa Sét, hướng về phía Thanh Trì trước khi ta lui quân khỏi chiến tuyến Ô Cầu Dền. Tất cả thương binh được bảo vệ an toàn trước khi chuyển tiếp về tuyến sau.


Còn khá đông đồng bào ở lại vùng phía nam làng Tám - Tương Mai - Tân Mai. Một số bà con đã tản cư về Văn Điển - Hà Đông nay thấy chiến sự chưa lan tới phía nam sông Sét, sông Lừ, nên trở lại xem nom nhà cửa và thờ cúng tổ tiên hoặc đi nhà thờ nhân dịp tết. Bà con, nhất là các mẹ, thương chúng tôi lắm, lo cho thương binh đủ mọi thứ để ăn tết kể cả mứt, bánh chưng... Không biết chị Thưởng kiếm được ở đâu một cành đào rất xinh, làm cho trạm của chúng tôi mang không khí tết thực sự, dù là tết thời chiến, giữa tiếng bom đạn luôn từ xa vọng về. Đêm 30, còn mấy anh thương binh nhẹ ở trạm, chúng tôi phân công nhau đi tìm quần áo mới thay đồng loạt cho các anh. Các chị nuôi chuẩn bị chiêu đãi thêm các anh một bát miến gà lúc giao thừa. Chị Thưởng tự đảm nhiệm thức đêm 30 để trực trạm. Sau khi đã thu xếp cho thương binh đi ngủ, chúng tôi trở về căn nhà bà con dành cho nữ nhân viên trạm. Ánh nến leo lét làm cho mấy gian nhà đã rộng lại càng rộng thêm. Không ai nói một lời và chúng tôi đều hiểu rằng lúc này một nỗi buồn da diết vì nhớ nhà đang bị dồn nén trong lòng từng đứa trong bọn con gái chúng tôi. Như thông cảm lòng nhau, không cần giấu giếm có đứa quay mặt vào tường khóc thút thít. Mắt tôi cũng ứa lệ. Nhớ mẹ quá. Không biết mấy đứa em bây giờ ăn tết ở đâu?


Chị Thưởng bỗng mở cửa vào. Thoáng nhìn, chị đã hiểu tất cả. Chị gọi mấy đứa lên ngồi trực với chị cho vui. Mấy đứa khác đi ra phía chùa Sét xem lễ. Có đứa rủ tôi đến nhà thờ làng Tám, tôi không đi. Trời tối và rất rét. Chỉ bực một nỗi không buồn ngủ. Trời sắp sáng. Đêm giao thừa qua đi. Sáng mồng một, chúng tôi chọn những bộ cánh diện nhất đến nhà bà con quanh vùng chúc tết. Những tiếng cười trong trẻo hồn nhiên lại vang lên. Tuổi trẻ thật lạ, vui đấy buồn đấy. Con gái thật mau nước mắt, dễ khóc lại cũng dễ cười.


Chỉ mấy ngày sau tết chúng tôi đã được đọc thư của Bác Hồ gửi vào chúc tết chiến sĩ Thủ đô, do cơ quan chính trị mặt trận Hà Nội chuyển đến. ông cụ gọi bộ đội, công an, tự vệ là các em, động viên các em "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Nghe thật cảm động. Lòng Người thương yêu chiến sĩ thật bao la. Những lời thư của Bác đến với chúng tôi đúng vào những ngày tết đầu tiên của Hà Nội kháng chiến, có sức cổ vũ kỳ lạ. Lãnh tụ cùng bộ thống soái tối cao theo dõi và chỉ dẫn từng bước đi của chiến sĩ bảo vệ Thủ đô. Thoáng một cái, thế mà đã 5 tuần.


Cùng với thư Bác, chúng tôi còn nhận được tờ báo của mặt trận Hà Nội. Gọi là báo, nhưng đúng ra chỉ là một bản tin, được in đơn sơ mộc mạc, có điều là sao mà lúc này nó lại đáng quý đến thế! Đọc nó, chúng tôi được biết các trận đánh của anh em ta trong hơn một tháng qua như thế nào, nhất là trận ở Bắc Bộ phủ, đêm đầu tiên. Tin tức trên tờ báo cũng như những mẩu chuyện anh em thương binh kể về những trận đấu trí, đấu lực với địch trong từng căn nhà, trên từng góc phố... Đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho chúng tôi rất nhiều.


Những ngày sau tết, thương binh chuyển về trạm ít hơn trước, khiến chúng tôi đỡ lo về nạn thiếu thuốc và bông băng. Nhớ lại tháng trước, khi còn ở tuyến trên, nỗi day dứt khôn nguôi đối với chúng tôi là quá thiếu phương tiện cứu chữa, từ thuốc gây mê, gây tế, thuốc sát trùng đến bông băng. Băng còn có thể giặt, luộc, phơi khô để dùng lại còn các thứ khác đành chịu. Mỗi lần có đợt bổ sung về nhất là thuốc và bông băng chiến lợi phẩm, chị Thưởng lại phân phổi ngay cho các tổ. Trong tay chị chẳng bao giờ có một lượng dự trữ đáng kể.


Khoảng trung tuần tháng 2, chị em cứu thương của mặt trận Liên khu II Hà Nội được điều đi các đơn vị khác. Buổi chia tay thật lưu luyến, bịn rịn. Nhắc đến mấy chị đã ngã xuống trên đường phố Bạch Mai, chúng tôi không cầm được nước mắt. Các chị ra đi giữa tuổi thanh xuân, không kịp một lời từ biệt gia đình và người thân.


Tôi về nhận công tác ở khu bộ Chiến khu XI (Hà Nội), chỗ anh Tạ Hoàng Cơ. Vừa làm công tác, tôi vừa được giao nhiệm vụ chăm sóc thuốc thang cho chị Phi, trạm trưởng trạm cứu thương Ô Cầu Dền. Bệnh nặng, thuốc men thiếu, chị qua đời giữa lúc chiến sự đã lan rộng ra ngoại thành Hà Nội.


Đến nay hơn nửa thế kỷ đã trôi qua. Bọn con gái chúng tôi ngày ấy, sau khi đã cùng toàn dân trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nay hầu hết đã nghỉ hưu, ngày ngày vui bên đàn cháu nhỏ. Cuộc sống riêng tư của mỗi người chuyển biến theo nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng chúng tôi đều tự hào đã sống xứng đáng với Thủ đô những ngày đầu kháng chiến, đã cùng nhau trải qua những thử thách quyết liệt đầu tiên của cuộc đòi - thử thách giữa cái sống và cái chết. Mỗi lần có dịp gặp lại nhau biết bạn bè kẻ còn người mất, cùng ôn lại những kỷ niệm của 60 ngày đêm Hà Nội khói lửa, chúng tôi càng khẳng định một điều trước sau vẫn tâm đắc: con đường đã chọn khi bước vào đời là con đường hoàn toàn đúng đắn.

LÊ MINH (tức ĐÀO THỊ HỒI)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:46:40 am
CHỊ GIẦN


Kính viếng hương hồn liệt sĩ Bùi Thị Giần,
hy sinh ngày 1 tháng 2 năm 1947
tại trại Hàn Lăn, làng Hoàng Mai - Hà Nội


Làng Thịnh Yên (còn có tên gọi là Chùa Vua) đứng vào ngôi vị thứ tám trong số các "đơn vị làng" của nội thành Thăng Long từ trước thời giặc Pháp sang xâm lược. Thời đó làng được gọi với cái tên đầy đủ (thường dùng trong các đơn từ hoặc văn sớ tế lễ) là: "Hà Thành đệ bát hộ, Thịnh Yên thôn", làng năm ở trong cái góc thước thợ của hai con đường gối nhau, là cuối Phố Huế với đầu đường Trần Khát Chân bây giờ.


Trước Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945), tuy làng ở cách Phố Huế chỉ có "một bước chân" mà vẫn giữ nguyên vẹn mọi tập tục sinh hoạt rất cổ sơ của một làng xóm Việt Nam, đặc biệt là đối với việc ma chay, cưới xin, giỗ chạp và đình đám tế lễ thần thánh. Với đầy đủ mọi quy tắc nghiêm ngặt của mỗi "đơn vị làng" ở nước Việt Nam ta thời bấy giờ.


Phố 339 bây giờ chính là đường cái làng ngày ấy, còn phố Thịnh Yên bây giờ thì khi ấy chỉ là một dãy ao, chuôm... kè bờ, trải dài suốt từ Phố Huế vào đến "Trại Ngựa" (nơi đang là trường PTTH Đoàn Kết hiện nay).

Dân làng, đàn ông không có nghề gia truyền, ai hợp với việc gì thì tự ý đi làm việc ấy. Còn đàn bà thì nối nghiệp theo hai nghề: bánh bèo bánh chưng và bún chả.

(Bánh chưng, bún chả thì ở Hà Nội bây giờ vẫn còn nhưng không còn là "đặc sản" của riêng làng Thịnh Yên như xưa nữa. Duy có bánh bèo là vắng bóng hoàn toàn, có chăng nó chỉ còn lại trong nỗi nhớ tiếc âm thầm của không nhiều các "cây cao bóng cả" của đất Hà Nội cổ, nay vẫn đang còn sống...).

Chị Giần là một trong những cô gái chưa chồng ở làng Thịnh Yên thời ấy.

Nói đến chị Giần, người cùng làng thời ấy nhớ ngay đến cái tên gọi âu yếm và kính trọng mà bà con dành cho chị: "cô Tú Giần". Mới chỉ cách có hơn 50 năm mà "thời ấy" với "thời nay" đã khác nhau xa lắm, đặc biệt là ở sự học hành ở giới các bà các chị. Thời bấy giờ "gái làng" mà biết đọc, biết viết (chữ quốc ngữ) đếm chưa hết mười đầu ngón tay. Số người có bằng "sép phi" chỉ được hai, ba. Bằng "đip lôm" không có ai. Đến trình độ "tú tài" thì chỉ có một người duy nhất, đó là chị Giần.


Gia đình chị ở ngay bên lề đường cái làng (con đường ấy sau đổi tên là phố 339), phía số lẻ, gồm mười ba nóc nhà. Nhà chị mang số 9. Đó là một ngôi nhà tường bua quét vôi trắng, mái lợp lá gồi, có cửa vào ở chính giữa, chia nhà thành hai bên, mỗi bên một gian. Gia đình tôi ở bên này lề đường. Nhà số 4.


Như vậy, ngẫu nhiên mà hàng chục năm ròng, chỉ trừ nhũng ngày nghỉ học, còn thì ngày nào chị cũng phải đi qua nhà tôi đúng hai lần. Tôi nói "đúng" là vì tôi thấy hầu như chưa lần nào tôi nhìn thấy chị ra đứng hoặc bước qua cái bậu cửa ngôi nhà số 9 ấy, nếu không phải đi học và đi học về.


Hình như người làng tôi thời ấy rất quý trọng chữ, nên trong làng có hai người rất được tôn trọng, vì nể, là chị Tú Giần và thầy giáo Phú. Cũng phải nói thêm rằng ở làng tôi khi ấy, đàn ông và con trai cũng có hàng chục người là tham, phán, ký, thông và học sinh bậc tú tài..., song bà con vẫn cứ dành thiện cảm của mình cho thầy giáo Phú và cô Tú Giần, mỗi khi cần viết một lá đơn, một tờ thư hay là giải thích về nghĩa lý về một câu "tiếng Tây" nào đấy có liên quan tới họ. Và có lẽ, xuất phát từ mối quan hệ cùng với sự nể trọng của dân làng, mà một ông già tóc bạc, và một cô gái trẻ măng lại trở nên rất tương đồng trong phong cách ăn mặc và ứng xử. Cùng đoan trang, mực thước, cùng ôn tồn nhã nhặn. Con người lúc nào cũng lành lặn, sạch sẽ, ngay ngắn, đàng hoàng...


Ấn tượng của tôi về chị Giần thật sâu sắc. Đã trải qua hơn 50 năm trời, mà mỗi khi nhớ đến chị, tôi vẫn hình dung được rất rõ một cô gái mảnh mai có gương mặt sáng sủa, thanh thoát. Có mái tóc dài mà luôn luôn kẹp gọn, buông sau gáy xuống lưng. Quần áo mùa hè bao giờ cũng là vải phin màu trắng, còn về mùa đông thì chỉ có chiếc áo dài trắng được thay bằng chiếc áo màu xanh rêu. Còn đôi guốc dưới chân thì bốn mùa vẫn cứ mang nước sơn màu sữa, cùng đôi quai da láng đen, như thế. Với chiếc cặp da dầu màu nâu sẫm đã sờn góc, ôm trước ngực, chị đi. Bước chân thư thái đều như đếm, vẻ mặt bình thản, mắt luôn luôn nhìn thẳng... Kể có đến hàng ngàn, hàng vạn lần chị đã đi qua cửa nhà tôi, vậy mà chưa một lần nào tôi được trông thấy chị nhìn vào nhà mình.


Cứ như vậy, hai nhà ở hơi chếch nhau một chút, phía đối diện, chỉ cách có khoảng mươi thước đường chim bay, mà tôi không khi nào dám làm quen với chị. Đối với tôi khi ấy, chị là một "thần tượng" thật gần gũi mà cũng thật xa vời. Tôi thực sự cảm thấy rất "run" mỗi khi, vì lẽ gì đó không tránh khỏi phải đi ngược chiều qua chị trên con đường làng không lấy gì làm rộng rãi ở ngay trước cửa nhà chúng tôi khi ấy. Đó là những năm trước Cách mạng Tháng Tám.


Sau Cách mạng Tháng Tám một thời gian, thì giặc Pháp gây hấn ở Hải Phòng, cả Hà Nội sục sôi căm giận, ra sức chuẩn bị kháng chiến. Giới học sinh thời nào cũng vẫn là những con người mẫn cảm nhất đối với thời cuộc. Lúc ấy tôi đã vào bộ đội, nhưng thình thoảng vẫn được tạt qua nhà. Một lần bất ngờ "chạm trán" chị mà không kịp tránh. Chị cười với tôi và hỏi:

- Cậu vẫn khỏe đấy chứ?

Lần đầu tiên được nhìn thấy chị cười và nghe chị hỏi, tôi luống cuống vội trả lời như một cái máy:

- Dạ thưa chị em vẫn khỏe ạ!

Lúc này tôi mới dám nhìn và cảm thấy yên tâm, trên gương mặt nhẹ nhõm thanh thoát của chị vẫn còn ánh lên nét cười thân ái. Chị lại hỏi:

- Mũ của cậu không thấy gắn sao. Cậu là chiến sĩ (thời gian ấy cái từ "chiến sĩ" chưa hề có ý phân biệt là chỉ huy hay lính trơn), sao tròn hay sao vuông?

Nghe chị hỏi, thật giản dị và thân mật, tôi cảm thấy mạnh dạn ra, nên cũng cười đáp:

- Em đeo sao... bầu dục chị ạ!

Chị mở to cặp mắt xinh đẹp ra nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:

- Thật à, là bộ đội gì thế cậu?

Nhìn thái độ ngạc nhiên và nghe giọng nói chân thật của chị, tôi bỗng hối hận, vội vã trả lời chị với ngụ ý nhận lỗi:

- Em nói láo thế mà chị cũng tin. Em là quân tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu chị ạ!

- Nghĩa là...

- Là... Tự vệ chiến đấu í mà!

Chị lại cười:

- Cậu chuyện trò đến hay, cứ như đánh bùn sang ao ấy. Thế hôm nay trốn trại về thăm u được lâu không?

- Em đứng gác một hơi bốn giờ liền, nên chạy nhông một tý cho đỡ cuồng cẳng, rồi lại về gác tiếp ngay đây chị ạ.

- Sao mà gác tham thế. Em định tranh hết phần mọi người à?

- Đâu có, nhóm em có ba mống thì một tên bị "bạn gái" đến bắt cóc từ sáng sớm, đến bây giờ vẫn chưa thả. Chỉ còn em với Nguyễn Đôn, đành chia nhau ra mà cõng.

- Cậu nói Nguyễn Đôn nào thế. Có phải Đôn "nhạc sĩ " không?

- Đúng nó đấy. Thế ra chị cũng quen biết rộng rãi nhỉ?

Tôi thoáng thấy hai gò má chị ửng lên. Chị lắc đầu, nghiêm mặt bảo tôi:

- Cậu Đôn là em của Loan. Loan là bạn học ngồi cùng bàn với chị, cậu ạ!

Tôi ngượng quá vội vàng thanh minh:

- Chị hiểu lầm ý em, em chỉ muốn nói...

Chị nhẹ nhàng đặt một tay lên vai tôi, ngăn lại:

- Không cần phải giải thích, chị có trách cậu đâu. Chỉ có điều, chị muốn chị em chúng mình là những người được gia đình cho ăn học hẳn hoi, nên cố tránh nói năng tùy tiện, em ạ! Kẻo người đời có cớ chê cười cha mẹ chúng ta.

- Em hiểu, em xin lỗi chị!


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:47:38 am
Sau lần gặp ấy tôi lại trở về với vị trí của mình. Cho mãi tới khi trận chiến lùi về tới Ô Cầu Dền, thì bất ngờ tôi lại được gặp chị trong một tình huống khá đặc biệt: Vừa đổi gác xong, tôi đang ngồi sau một khóm chuối, ăn nốt suất cơm nắm còn lại, chợt nghe có tiếng động, vội ngẩng lên nhìn thấy một cô gái đang gắng sức nâng vai một liệt sĩ lên khỏi mặt đất, chập chuội lết đi từng bước rất khó khăn. Thấy vậy, tôi vội vàng tọng nốt cục cơm cuối cùng vào đầy cả mồm rồi chạy tới giúp. Thì ra người con gái ấy là chị Giần.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Trời ơi, sao chị lại ở đây?

Gặp tôi chị tỏ ra mừng rỡ, đứng thẳng người lên vừa cười vừa thở hổn hển, nói:

- Chị đi kiếm ít rau, được đầy một bao tải su hào, chưa già lắm đâu, đang định vác về thì phát hiện ra anh này nằm trong một cái rãnh sâu giữa hai luống su hào. Chị phải bỏ cả bao tải rau lại đấy, hì hục mãi mới tha được anh ấy tới đây.

- Em hỏi tại sao chị lại ở đây cơ mà?

- Ồ... tại sao ư? Cậu bảo chị không ở đây thì ở đâu bây giờ?

Chợt nhận ra sự vô lý của mình, tôi vội vàng nói:

- Em xin lỗi chị. Nhưng... em nghĩ, giá như chị tản cư thì hợp lý hơn.

- Có nghĩa rằng các cậu có thể đánh trận mà không cần đến sự giúp đỡ của ai hết. Phải thế không?

- Không phải như vậy, ý em chỉ muốn nói: Chị được sinh ra là để làm nhũng việc khác cơ, chứ không phải những việc như thế này!

Chị cười, ánh mắt lấp lánh vẻ trẻ trung, tinh nghịch:

- Cũng như cậu sinh ra chỉ để đánh Tây thôi phải không?

Tôi tức mà không biết cãi thế nào, đành cúi xuống ôm lấy xác người đồng đội không quen, vác lên vai rồi bảo chị:

- Thôi em không đủ lý sự để đôi co với chị. Để em đưa cậu này về tuyến sau cho, chị quay trở lại mà mang rau về.

Từ hôm ấy ngày nào hai chị em cũng gặp nhau. Đã biết khu vực tiểu đội tôi trấn giữ, chị giữ lại phần cơm của chúng tôi rồi tự mình mang đến phát cho từng đứa.

Chỉ mới qua hai ba lần nhận phần cơm do chị phát, cậu Minh "mù" đã tranh thủ lúc nghỉ kéo tôi ra một góc vắng tra khảo:

- "Nàng" là thế nào với cậu khai thật đi?

- Hỏi vớ vẩn, bà ấy là chị, thế thôi.

- Thì ai chẳng biết là chị cậu, nhưng mà chị như thế nào chứ?

- Là chị gái, con ông bác, được chưa?

- Bịa, tớ cóc tin!

Tôi nghe cậu ta nói thế bèn nổi máu tự ái, đáp:

- Thì việc ấy có liên quan gì đến hòa bình thê giới đâu, ai khiến cậu phải hỏi?

Câu chuyện đã dừng lại ở đấy, nhưng tôi hiểu rằng nó chưa thể kết thúc...

Quả nhiên, dù không muốn để tâm theo dõi mà chẳng hiểu vì sao cứ mỗi lần chị Giần xuất hiện là y như rằng tôi hết sức quan tâm đến từng cử chỉ, dáng bộ cùng lời ăn, tiếng nói của Minh đối với chị. Và tôi luôn luôn phát hiện ra những điều rất không vừa ý. Chẳng hạn: Mỗi khi nhận nắm cơm từ tay chị Giần trao cho, bao giờ cậu ta cũng làm điệu bộ trịnh trọng, lịch sự khác đời, bằng cách đưa cả hai bàn tay thư sinh rất nhẵn nhụi và luôn luôn được chăm chút cẩn thận ra đỡ nắm cơm, rồi sẽ cúi đầu một cái rất điệu, miệng nói: "Xin vô cùng cảm ơn đồng chí. Đồng chí tốt quá"! Hoặc: "Trời ơi, hôm nay lại có cả su hào luộc nữa cơ ạ? Các đồng chí giỏi quá"! v.v... để rồi, khi mà chị Giần chào mọi người về, thì Minh đã tìm sẵn được một việc cần thiết mà lại hết sức đơn giản nào đó để có thể đàng hoàng nói chuyện tay đôi với chị để chị phải biết tới cậu ta. Tỉ như: "Xin lỗi, tôi muốn phiền đồng chí một chút được không ạ"? Thế là chị dừng bước vui vẻ trả lời "Vâng đồng chí cứ cho biết, tôi sẽ giúp"!


Cứ như thế, khi thì cậu ta nhờ chị kiếm cho chiếc bút chì, nếu không có cái nguyên thì chỉ cần một mẩu thôi cũng được. Khi thì vài tờ giấy trắng "to hay nhỏ đều rất quí". Khi lại là một chiếc manh-xơ-lam hoặc chiếc nhíp nhổ râu v.v...


Không nghĩ được cách nào tốt hơn, tôi hùng hổ đi tìm chị. Hai chị em gặp nhau, tôi chưa kịp mở miệng nói được câu gì về nỗi tức đang chứa đầy ứ trong lòng thì chị đã cười bảo:

- Quần áo của cậu tả tơi cả rồi, mà cũng bẩn như ma ấy. Trốn vào trong kia đi ngủ một giấc, vứt quần áo ra để chị mang đi giặt, hơ lên bếp chỉ nửa giờ là khô rồi vá lại cho.

- Thôi, không cần, chị cứ kệ, mặc em.

Chị lại cười bảo:

- Kệ cậu thì dễ thôi, nhưng người ta cười vào mặt chị, biết chưa?

- Đứa nào dám cười chị, lại thằng... (tôi kịp thụt ngay lưỡi lại không dám nói hết)!

Chị ngẩn người ra, đăm đăm nhìn tôi rất lâu, rồi nhẹ nhàng bảo:

- Cậu có còn là trẻ con nữa đâu. Hãy sống bằng lý trí minh mẫn của mình em ạ. Đừng có nghĩ ngợi lung tung. Thôi, đi vào trong kia, vứt quần áo ra đây, ngủ đi một giấc. Chị bảo mà...

Tôi bị cứng họng đành hậm hực "thi hành mệnh lệnh" mà lòng thì vẫn chưa yên.

Từ sau hôm mặt trận Ô Cầu Dền bị vỡ chúng tôi lui về "bám trụ" ở làng Hoàng Mai. Kể từ hôm ấy, chị Giần cùng với một cô gái rất trẻ nữa có tên là Toàn, đã nhập hẳn vào quân số của đơn vị chúng tôi, chuyên trách việc tìm kiếm lương thực, thực phẩm và nấu ăn cho cả trung đội. Công việc tuy được thu hẹp rất nhiều nhưng thực ra thì lại vất vả hơn. Vì trước đấy chị làm đội trưởng đội thu gom lương thực, thực phẩm cho cả mặt trận Ô Cầu Dền, phải quản lý công việc của hơn hai chục chị em. Hàng ngày họ phải đi thu nhặt tất cả những thứ đồng bào khi tản cư còn bỏ lại mà anh em chiến đấu đang cần đến, mang về giao cho chị. Chị có nhiệm vụ thu nhận rồi ghi chép tỉ mỉ, chính xác mọi thứ của từng nhà. Với ý thức: Khi cuộc chiến tranh kết thúc sẽ nộp trình sổ sách lên để Nhà nước căn cứ vào đấy mà thanh toán trả cho mọi người...


Thấy chị quyết định như vậy, tôi biết chỉ vì có tôi đang chiến đấu ở đây chị chưa thể yên tâm rút theo mọi người được. Tôi bàn với chị:

- Tất cả các bà, các chị khác đã ra khỏi vòng chiến đấu hết rồi. Chị ở lại nguy hiểm lắm!

- Thế cậu cùng các anh em trong trung đội thì sao?

- Chúng em khác chứ chị!

Chị khẽ phác một nét cười rất ý nhị, nói:

- Khác vì các cậu là đàn ông phải không? Nếu chỉ vì lý do ấy thì cậu nên tản cư một thời gian, tìm lại sách học của bọn trẻ lớp 3, đọc kỹ lại lịch sử nước nhà thời quân Hán, Tống sang xâm lược. Chị thấy điểu ấy là cần đấy!


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:48:37 am
Bị chị mắng khéo, tôi cảm thấy rất oan mà không thể nào minh giải được. Đã có lúc tôi rất muốn "làm ra vẻ giận dỗi" với chị, nhưng rồi không dám. Chỉ vì: Cũng kể từ hôm chị chính thức trở thành người của trung đội thì cậu Minh "mù" không còn phải kiêng dè gì nữa. Cậu ta cứ đàng hoàng quẩn quanh chỗ chị đang làm việc, với tư thế "hữu nghị, trong sáng" tuyệt vời, là giúp đỡ đồng đội trong những công viêc nặng, không thích hợp với đàn bà con gái! Tỉ như bổ mấy khúc củi nhiều mẩu, hoặc xách giúp mươi thùng nước sạch "để các cô ấy có nước nấu cơm..." v.v... thử hỏi tôi mà giận dỗi chị thì có khác nào bảo ngầm cậu ta "dũng cảm tiến lên"! Không thể được... Tôi quyết định dứt khoát là phải chặn đứng ngay âm mưu của cậu Minh lại.


Tôi rất lo cho chị mà không tìm ra cách nào cởi bỏ được nỗi lo lắng của mình. Trong khi ấy thì tình hình chiến sự đang diễn ra rất khẩn trương, bọn Pháp vây ép chúng tôi từ nhiều phía. Đêm 31/1/1947 xe tăng của chúng nổ máy ầm ì không ngớt, cả ở phía Vọng lẫn phía nghĩa địa Hợp Thiện. Gần sáng gác xong lạnh quá, tôi không muốn về ngủ lại, mà đi thẳng sang chỗ chị với ý định sẽ mạnh dạn hỏi thẳng chị một vài điều. Chị đã dậy và đang chuẩn bị nấu ăn. Thấy tôi đến chị ngạc nhiên hỏi:

- Cậu đến sớm thế, chắc là có việc gì quan trọng, phải không?

Vốn là một gã con trai vụng về, tôi lúng túng công nhận:

- Vâng em cần... hỏi chị một việc. Cô Toàn đâu ạ?

- Cậu muốn gặp Toàn ư? Con bé đang ngủ, chờ lát nữa được không?

- Không em chẳng có việc gì liên quan đến cô ấy mà phải gặp. Em muốn nói chuyện tay đôi chỉ có hai chị em mình với nhau.

Chị ngẩn mặt nhìn tôi, rồi hỏi, giọng lo ngại:

- Có việc gì mà nghiêm trọng thế? Cậu làm cho chị sợ quá! Chờ một chút, để chị nhóm xong cái bếp đặt chảo nước, rồi chị em ta sẽ nói chuyện, được không?

- Vâng để em giúp chị.

Tôi nói và nhanh nhẹn quàng súng qua vai, đang ngơ ngác tìm cái đòn gánh và đôi thùng để đi ra giếng, thì ánh pháo hiệu xanh, đỏ từ bốn phía vút lên, rồi tiếp tục đến các loạt súng thi nhau nổ. Tôi hất súng ra khỏi vai, nắm chắc trong tay hét:

- Tây tấn công! Em ra vị trí đây. Chị với cô Toàn nếu thấy súng nổ gần thì cứ nhằm hướng chùa Sét mà rút lui!

Tôi chạy thẳng đến vị trí chiến đấu của mình, vừa kịp nghe thấy tiếng tiểu đội trưởng quát:

- Nguyễn Hồng đã có mặt chưa?

- Có.

Đến tận sáng bạch thì mới thấy bóng dáng bọn chúng xuất hiện. Trận chiến đấu ngay từ phút đầu đã tỏ ra không cân sức. Lực lượng địch quá đông, mà lại được xe tăng, thiết giáp hộ tống. Lực lượng của ta trong trận này rải ra trên toàn tuyến là bao nhiêu thì tôi không biết. Riêng ở khu vực trại Hàn Lân chỉ thấy có trung đội của chúng tôi, vừa được bổ sung đủ người và súng đạn: Kể cả ban chỉ huy cùng với các tiểu đội viên là 34 tay súng. Tất cả đều đã qua thử thách, chí ít cũng là dăm trận. Đồng đội đứng kề bên tối là Minh "mù" và Thủy "lùn"...


Nghe tiếng súng, chúng tôi nhận biết quân địch đã từ ba hướng: Ngã Tư Vọng - Bạch Mai - Vĩnh Tuy dồn đến tấn công chúng tôi. Dập dờn ở ngã tư Trung Hiền một lúc, xe tăng của chúng bắt đầu rú lên xông tới nhả đạn điên cuồng. Nguyễn Ngọc Long và Phạm Cảnh (hai anh đều là thợ mổ lò lợn) đã được trung đội cử ra chờ sẵn, nhất loạt lao ra... hai tiếng nổ rùng rợn vang lên, lệnh tấn công của trung đội chúng tôi được phát ra từ sự bốc cháy của một thiết giáp và một xe tăng địch. Tôi nhìn thấy Minh "mù" đứng phắt lên nổ súng tới tấp vào lũ bộ binh của địch đang nhốn nháo náo loạn đằng sau chiếc xe tăng bốc cháy. Phát hiện được chính xác vị trí của chúng tôi, quân địch tập chung hỏa lực dội vào, đồng thời nhanh chóng cho quân sĩ xông lên áp sát chúng tôi. Sau chừng nửa giờ xung xát, địch bị ta diệt khoảng 20 tên, còn bên ta cũng có bảy anh em vừa hy sinh vừa bị thương. Đợt chiến đấu tạm ngừng, ta tranh thủ chuyển anh em bị thương và hy sinh về phía sau, đồng thời củng cố lại trận địa và bổ sung đạn dược. Phía địch câm lặng khá lâu. Chị Giần cùng cô Toàn đeo cơm bò ra phát cho từng đứa chúng tôi. Nhận nắm cơm ai cũng ngạc nhiên và cảm động. Không hiểu hai chị làm cách nào để có thể nấu, rồi nắm được cơm trong vòng lửa đạn tơi bời như thế?


Khoảng độ hai giờ chiều địch mở đợt tấn công mới, hình như chúng biết được rằng bên ta đã hết bom ba càng, nên chúng đã nhất tề tấn công tổng lực: Xe tăng và thiết giáp hung hổ lao thẳng vào trận tuyến của ta, nhanh chóng vượt qua trận "mưa" lựu đạn và ét xăng crếp, rồi khựng lại giữa đường, quay vòng khẩu 13ly2 trở lại nhằm thẳng vào chúng tôi, phối hợp với khẩu 13ly2 ở ngã tư Trung Hiền cùng nhả đạn điên cuồng!


Bị bất ngờ, chúng tôi tổn thất khá nặng; chỉ mới chừng nửa giờ chiến đấu mà đã có thêm hơn chục cậu thương vong. Trung đội trưởng gào lên át cả tiếng trọng liên nổ:

- Tất cả chú ý... bộ binh địch!

Chúng tôi hiểu ra ngay, lập tức bỏ qua sức ép của hai chiếc xe tăng đang nã súng từ hai phía, mà hướng súng về phía lính địch đang nhấp nhô tiến đến. Năm mươi thước, bốn mươi rồi ba mươi thước... sau tiếng hô gay gắt của trung đội trưởng: Bắn!... chúng tôi nhất loạt bóp cò. Ngay từ loạt đạn đầu, tôi nhìn thấy đã có năm, sáu tên đổ kềnh xuống giãy giụa. Anh em hét lên say sưa tiếp tục bắn khiến bọn chúng luống cuống nổ súng loạn xạ, và lại thêm ba tên nữa ngã gục, bọn địch vội vã chạy giật lùi, không dám vác theo những tên trúng đạn. Bị những tên chỉ huy ngăn lại, lũ lính địch chững lại cách quân ta khoảng chừng 50 mét. Ta bắn cầm chừng kìm địch lại, không cho chúng nhích lên. Hai bên giằng co cho đến lúc trời đã xế chiều, thì giặc Pháp thay đổi cách đánh: chúng dùng hỏa lực súng cối, dội vào trận địa của ta khiến số thương vong tăng lên đột ngột rất bất ngờ. Biết không còn đủ khả năng tiếp tục chiến đấu, trung đội trưởng sai liên lạc về truyền lệnh và dẫn đường cho tổ nuôi quân rút trước, rồi hạ lệnh cho các tiểu đội thay nhau kìm chặn địch, luân phiên vừa đánh vừa rút về hướng chùa Sét. Đến được chùa Sét thì trời đã gần tối, điểm lại lực lượng: trung đội chỉ còn mười anh em còn chiến đấu được. Cho đến 7 giờ tối mà vẫn chưa thấy chị Giần cùng cô Toàn về. Không nén được nỗi lo lắng, tôi biết rằng nếu có xin phép chưa chắc đã được, nên cứ tự ý lẳng lặng một mình quay trở lại Hoàng Mai. Địch đã thu quân về trụ lại ở trại Hàn Lân. Trên dọc đường tôi không hề gặp một trở ngại gì. Luồn lách mãi mới vào được ngôi nhà của tổ cấp dưỡng ở. Không gian vắng lặng, không một tiếng động nhỏ, tôi dừng lại một phút cố lắng tai nghe ngóng rồi dè dặt tiến vào sân, thì trời ơi, tôi nhìn thấy hình khối hai người ôm nhau ngồi im lặng trên bậc hiên giữa cửa chính của ngôi nhà. Tôi lập tức móc ngón trỏ vào lẫy cò, khẽ quát:

- Ai, ngồi im!

Một trong hai bóng người từ từ ngẩng đầu lên. Tôi dễ dàng nhận ra cặp kính cận thị ánh lên trong đêm trên gương mặt Minh "mù". Điều phát hiện quá bất ngờ khiến tôi sững người ngạc nhiên, vội kêu lên:

- Minh "mù"! Sao cậu lại có mặt ở đây?

Minh không đáp, cậu ta chỉ nhìn tôi thoáng một cái đã lại cúi xuống, gục đầu lên vai một người, dáng phụ nữ, đang ngồi trong lòng cậu ta, chân dang sang hai bên, mặt ấp lên một bên vai của Minh. Dưới chân hai người, trên mặt sân còn một người nữa đang nằm. Tôi ngượng quá, hồi hộp hỏi:

- Chị Giần với cô Toàn đâu?

Đến lúc này, Minh như người bị dao đâm trúng ngực, cậu ta đột ngột hực lên một tiếng rợn người, rồi bật khóc một tiếng tức tưởi như xé ruột. Tôi lập tức hiểu ra ngay mọi sự, vội buông khẩu súng, nhào tới vồ lấy cô gái trong lòng Minh mà tôi tin chắc đó là chị Giần. Không ngờ Minh kháng cự quyết liệt, cậu ta nghiẽn răng kèn kẹt, ghì chặt chị Giần trong lòng, khiến tôi không sao dằng ra được. Cả hai đứa đều gắng sức thở hồng hộc. Thế rồi đột nhiên, không biết là do từ giác quan nào bị tác động mà chỉ thoáng cái, tôi đã tỉnh ngộ rằng mình đã hành động không đúng. Tôi lập tức buông rời hai tay, rồi khuỵu xuống bên cạnh Minh, quờ tay sang lặng lẽ nắm tay lấy một bàn tay đã lạnh cứng của chị Giần đang thõng xuống, nâng lên phủ vào ngực mình và cắn chặt vành môi cố ngăn không cho tiếng khóc bật ra...


... Mãi quá nửa đêm, hai chúng tôi: Cậu Minh khư khư ôm chị Giần trước ngực, còn tôi thì vác cô Toàn trên vai, cùng lầm lũi lần mò bước trong đêm, dưới màn mưa đông gió buốt, trên quãng đường ổ gà ngập ngụa bùn, từ sau trại Hàn Lân (Hoàng Mai) về hướng chùa Sét.


Chị Giần cùng cô bé Toàn của chúng ta đã vĩnh viễn ra đi, mang theo trên thân thể hàng chục hố sâu do mảnh đạn găm vào, mà trong đêm tối chúng tôi không phân biệt được đó là mảnh lựu đạn hay là mảnh súng cối của bọn thực dân xâm lược Pháp, bên cạnh chảo cơm lớn chưa kịp chín!

Đó là đêm 1/2/1947.

Hà Nội, ngày 1/12/1998
NGUYỄN VĂN HÓNG


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:50:02 am
NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN Ở THỦ ĐÔ
(Hồi ức của một thanh niên học sinh Hà Nội)


Từ đầu tháng 10/1946 ở Hà Nội, những vụ khiêu khích của lính Pháp xảy ra ngày càng nhiều: Chiếc xe Jeep đang đi bỗng chồm lên vỉa hè đâm vào khách bộ hành, tên lính say rượu đập phá cửa hàng, những phát súng bắn vào nhà dân thường, quân đội Pháp đòi chiếm đóng sở Tài chính... Tình hình căng thẳng. Người dân Hà Nội, nhất là những thanh niên tự vệ, thấy căm hờn sôi sục trước những hành vi ngang ngược của bọn lính đê hèn đã quỳ gối đầu hàng và dâng Đông Dương cho phát xít Nhật năm 1940, đã nấp sau lưng quân đội Đồng minh để nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Nhưng theo lời kêu gọi của Chính phủ, mọi người cố nén lòng, và âm thầm chuẩn bị kháng chiến.


Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính khu Chợ Hôm (thuộc LKII Hà Nội), ủy ban bảo vệ của phố Lê Văn Hưu được thành lập. Đội tự vệ của chúng tôi, sau một thời gian tạm ngừng sinh hoạt, bắt đầu hoạt động trở lại và nằm trong ủy ban bảo vệ. Chúng tôi có chừng hai mươi người, gồm các anh em học sinh, công nhân, viên chức, đa số chưa quá hai mươi tuổi, do anh Trần Thịnh chỉ huy. Chúng tôi góp tiền mua sắm vũ khí: mỗi người một quả lựu đạn Nhật kiểu lọ mực, ngoài ra tự túc thêm một con dao găm; toàn đội chỉ có một khẩu tiêu liên Sten và một súng trường mút-cơ-tông. Ban ngày, chúng tôi đi làm hoặc đi học, tối về lại họp toàn đội nghe giải thích tình hình trong nước và quốc tế, rồi phân công nhau bí mật canh gác đường phố. Bộ đội chính quy thì đội mũ có ngôi sao vàng trên nền đỏ tròn, còn anh em tự vệ chúng tôi thì có ngôi sao vàng trên nền đỏ hình quả trám. Vì vậy chúng tôi được bà con dân phố đặt tên cho là "chiến sĩ sao vuông", còn bọn Pháp gọi chúng tôi là "Việt Minh ca-rê".


Chiều ngày 30/11/1946, tôi đi làm về sớm hơn mọi ngày và nhận được lệnh chuẩn bị. Cùng một lúc, tiếng búa đục tường vang lên từ khắp các sân nhà, những lỗ giao thông nối liền sân nhà này với sân nhà khác được mở ra nhanh chóng. Khi cần làm nhiệm vụ tác chiến, chúng tôi có thể đi từ đầu phố đến cuối phố mà không phải ló mặt ra đường.


Tám rưỡi tối rồi mà chưa có lệnh mới. Tôi mò cửa nhìn ra ngoài, phố xá vắng tanh, ướt át dưới mưa phùn. Các nhà hai bên đường đều đóng cửa. Hai dãy cây long não chạy dài theo hè phố, như những thân người khổng lồ đứng im lặng dưới ánh sáng của những ngọn đèn điện.


Cách nhà tôi chừng hai mươi mét, hai bóng người đang lúi húi dưới chân chiếc cột đèn xi măng cốt sắt. Tôi lại gần hơn: Ngọ và An, hai đội viên trong "tổ phá hoại", đang đào lỗ để chuẩn bị chôn mìn. Sáu mắt nhìn nhau, ba nụ cười thông cảm. Tôi rẽ vào trụ sở ủy ban bảo vệ, anh trưởng ban đi họp chưa về, mấy anh em thiếu niên liên lạc đang khẽ ôn lại một bài hát mới. Tôi đến vọng gác đặt tại căn nhà hai tầng ở đầu phố. Trên tầng gác, Huy và Vạn nai nịt gọn gàng, đang cắm cúi sao chép những truyền đơn bướm viết bằng tiếng Pháp. Mở cửa sang buồng bên tôi nhận ra Luyện đang đứng gác, mắt luôn nhìn về phía con đường từ Nhà hát lớn chạy về đây.


Quay về nhà, tôi mặc nguyên cả quần áo tranh thủ nằm một lúc. Khi em liên lạc đẽn gọi tôi thì đã gần 12 giờ đêm. Cầm lựu đạn trong tay, tôi đi sang trụ sở bằng con đường giao thông mới mở lúc chiều. Tôi cố nén sự hồi hộp, chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Nhưng không, mới chỉ có lệnh ngủ tập trung tại trụ sở để sẵn sàng đối phó với những bất trắc có thể xảy ra đêm nay mà thôi.


Tình hình căng thẳng vẫn kéo dài. Anh em tự vệ các phố ra sức đào hố, xẻ đường, chôn cọc, đắp ụ, để chặn đường giao thông của địch khi tác chiến. Lính Pháp vẫn tăng cường khiêu khích, khủng bố. Những nơi anh em tự vệ làm công trình phòng ngự giữa ban ngày, chúng đem xe đến cướp xẻng, cuốc, bắt cóc tự vệ.


Ngày 9/12/1946, mặc dù bị chính phủ ta phản đối, bọn Pháp cứ cho xe cam-nhông chở lính xuống Tương Mai với lý do đi tập bắn, rồi khi quay về đến phố Bạch Mai lại khiêu khích bắn liên thanh vào rạp hát Lạc Thành Đài. Anh em tự vệ phố Duy Tân đã bố trí trên ban công các nhà hai bên đường, khi xe chở lính Pháp về gần đến Chợ Hôm, anh em đã cho bọn chúng nếm mùi súng trường, lựu đạn của tự vệ.


Chúng tôi rất phấn khỏi trước thành tích của đội bạn nhưng vẫn phải thi hành lệnh của cãp trên là cố tránh những cuộc va chạm với lính Pháp. Vì vậy, chúng tôi quyết định làm công sự vào ban đêm.

Đêm 11/12/1946, chúng tôi bắt đầu đào hố để chôn hai hàng cọc gỗ lớn ngang đường. 8 giờ 30 tối, đường phố vắng tanh. Chúng tôi yên lặng rời trụ sở, nhanh nhẹn tiến về địa điểm đã định. Ngọ leo lên cột đèn tháo cầu chì. Ngọn đèn điện chiếu sáng chỗ chúng tôi định đào vụt tắt. Khoác khẩu Sten và cầm hai băng đạn, Ngọ lên tầng gác một nhà ở bên đường, cùng với An làm nhiệm vụ bảo vệ. Từ mặt đường, bắt đầu vang lên tiếng cuốc, thuổng. Trong bóng tối, nhũng tia lửa lóe lên, những mảnh đá và nhựa đường bắn lên mặt chúng tôi, chui vào tóc, vào cổ, vào túi áo. Chúng tôi cặm cụi đào, thỉnh thoảng lại có một câu pha trò và những tiếng cười khúc khích.

- Xe! Tiếng gọi của một anh tự vệ gác ở đầu phố. Biết hiệu, chúng tôi mang theo xẻng, cuốc rút vào mấy nhà lân cận đã mở cửa sẵn. Tiếng máy ô tô đến gần, ánh đèn pha rọi sáng mặt đường. Một chiếc xe Jeep tiến đến, đi qua chỗ chúng tôi đang đào dở rồi quặt sang phố khác. Khi tiếng máy ô tô im hẳn thì tiếng gọi "Lạc!" từ trạm gác cuối phố vọng về. Chúng tôi lại kéọ nhau ra mặt đường, tiếp tục công việc.

Cứ như thế, chúng tôi chơi "ú tin" với những xe Jeep và cam-nhông của Pháp. Có lần chúng đỗ xe và đi tìm. Nhưng phố xá vẫn vắng tanh, nhà nào cũng như nhà nào, cửa đóng im ỉm. Còn chúng tôi, sau khi rút vào nhà, đã chui qua lỗ giao thông chuồn sang nhà khác rồi còn đâu!


Đêm đã khuya, hai dãy hố đã đào xong, chúng tôi chia tay nhau về nghỉ, vui sướng vì đã làm tròn nhiệm vụ một cách thú vị.

Sau những ngày phải nén bực tức để tránh va chạm với lính Pháp, chúng tôi được lệnh: cho kháng cự khi cần thiết. Công trình phòng ngự của phố tôi được làm tiếp giũa ban ngày.

Hai giờ chiều ngày chủ nhật 15/12/1946, toàn bộ lực lượng tự vệ phố tôi được huy động ra mặt đường. Chúng tôi đã mượn thêm dụng cụ và vũ khí của các phố lân cận. Việc bảo vệ giao thông giao cho bốn anh em khỏe mạnh biết sử dụng tương đối thạo những vũ khí hiện có, gồm hai khẩu Sten và hai khẩu mút-cơ-tông. Mọi người phấn khởi bắt tay vào nhiệm vụ. Tiếng cưa cây soàn soạt, tiếng cuốc thuổng bổ xuống đá chan chát. Phố xá mọi khi im lìm, chiều nay nhộn nhịp hẳn lên.


Từ phía Nhà hát lớn thành phố, một chiếc xe Jeep lao tới nhưng buộc phải dừng lại trước những cành lá rậm rạp của hai cây to ở đầu phố vừa bị ngả xuống chắn ngang đường. Tên lính Pháp trên xe bước xuống, nhìn chúng tôi một lúc, rồi chiếc xe lại nổ máy quay đi hướng khác.


Một lát sau, một tên sĩ quan Pháp, súng lục đeo bên hông, từ từ đi trên hè phố, tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi vẫn tiếp tục công việc của mình, nhưng tiếng cười nói im dần. Hai bên đường, từ bốn gốc cây, bốn chiếc mũ sắt từ từ chuyển động, bốn nòng súng đen ngòm chĩa về phía tên Pháp. Hắn dừng lại một lúc xem chúng tôi đào, đưa mắt nhìn quanh một lượt, rồi lại từ từ bước đi. Bốn nòng súng lặng lẽ tiễn đưa hắn. Tiếng cười nói của chúng tôi lại nổi lên để chào mừng thắng lợi đầu tiên, và cũng để báo cho hắn biết rằng: những người hôm qua còn tạm phải làm ngơ trước hành vi ngang ngược của bọn hắn, hôm nay đã sẵn sàng "tiếp đón" bọn hắn một cách đích đáng.


Ngọn lửa chiến đấu vẫn âm ỉ cháy trong lòng người dân Hà Nội, thỉnh thoảng lại bùng lên với những tiếng súng của anh em tự vệ trả lời những hành động láo xược của bọn lính Pháp đi khiêu khích hoặc phá những công trình phòng ngự của ta. Cuộc xung đột giữa lính Pháp và anh em tự vệ phố Hàng Than ngày 17/12/1946 nhắc chúng tôi phải tăng cường cảnh giác và sẵn sàng hơn nữa.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:50:45 am
Chiều ngày 19/12/1946, sau khi đi làm về, tôi dự cuộc họp thường lệ của anh em tự vệ trong phố. Tan họp về nhà, tôi nói lại với cha tôi lệnh chuẩn bị của ủy ban bảo vệ, rồi bắt đầu thu xếp.

Tôi lặng lẽ giở bọc giấy tờ và quần áo đã soạn từ hôm trước ra xem lại. Tôi ngẩn ngơ, tiêng tiếc, vì phải bỏ lại nhiều thứ quá: này quyển "kỷ niệm đời học sinh" ghi những lời tạm biệt của các bạn thân trước lúc chia tay cuối năm học, này những quyển truyện và những tập thơ văn mà tôi gìn giữ mãi. Mang đi thì sợ nặng, mà để lại thì không biết lúc trở về có còn hay không? Bất giác tôi đưa mắt nhìn quanh nhà: căn nhà nhỏ mọi khi luôn luôn ồn ào tiếng cười nói, hôm nay lặng lẽ quá. Trước tình hình ngày càng căng thẳng, gia đình tôi đã phải tản cư về quê từ ba hôm nay rồi, chỉ còn cha tôi và tôi cùng hai em ở lại, giường tủ bàn ghế và nhiều thứ khác còn bỏ lại cả.


Tôi mặc quần áo, đi giầy, rồi khoác thêm chiếc bờ-lu-dông da, chụp cái mũ cát - két lên đầu, thắt con dao găm vào dây lưng. Tôi mở ngăn kéo lấy quả lựu đạn nhặt để lên mặt tủ cho khỏi quên, rồi lấy một chiếc chăn dạ mỏng bọc những giấy tờ vào quần áo định mang theo cùng với số lương khô mới lĩnh, buộc dây đeo lên lưng.


Bên chiếc bàn con, cha tôi vẫn ngồi im lặng, tay phải chống cằm. Từ lúc đi làm về, nghe tôi nói lại lệnh chuẩn bị của ủy ban bảo vệ, ông cụ cứ mặc nguyên cả quần áo dài nhưng vẫn chưa chuẩn bị gì thêm cả. Có lẽ cụ còn lưu luyến, chưa muốn rời bỏ căn nhà này, khu phố này và cả cái thành phố này nữa. Từ bao năm rồi, gia đình tôi đã sống tại đây. Cuộc sống đoàn tụ, những kỷ niệm êm đềm... Thế mà mấy ngày nay, gia đình đã phải ly tán, đến nay lại sắp phải rời bỏ nơi này. Có lẽ tình cảm đối với những người thân, đối với căn nhà quen thuộc đang day dứt tâm hồn cụ. Thỉnh thoảng cha tôi lại tựa lưng vào thành ghế, vẻ mặt trầm ngâm.


Đèn điện vụt tắt. Tiếng đại bác nổ vang trời. Một cảm giác vừa sôi nổi vừa bâng khuâng tràn ngập lòng tôi: Thế là đã đến giờ đi chiến đấu, làm nhiệm vụ mong đợi từ lâu, nhưng cũng là lúc phải lưu luyến chia tay với những người thân.


Một phút im lặng thoáng qua, tôi lại gần từ biệt cha tôi. Biết nói gì đây? Mẹ tôi và các anh chị tôi giờ này đã ở nơi xa, hai em trai tôi đang ở ngoài vọng gác, chỉ còn người cha thân yêu đang đứng bên tôi.

- Con đi, thầy nhé!

Tôi cố giữ giọng nói cho bình thường, để khỏi làm cho cụ xúc động. Tôi nhìn mặt cha tôi lần cuốỉ cùng, rồi nhìn lại cảnh nhà một lượt. Hai kim dạ quang trên chiếc đồng hồ Jaz chỉ 8 giờ 05 phút. Tay cầm lựu đạn, lưng đeo bọc quần áo, tôi vội vàng chui qua lỗ đục tường sang trụ sở.


Ba giờ sáng. Sau khi hoàn thành trận tấn công đầu tiên vào một ổ chiến đấu của bọn Pháp ở giữa phố, chúng tôi được lệnh canh gác bảo vệ cho đồng bào trong phố tản cư nốt. Từ hai bên phố, những người còn lại lần lượt tập trung về trụ sở tự vệ để đi theo người hướng dẫn ra khỏi thành phố.


Đứng ở cửa sau của căn nhà cuối phố, tôi làm nhiệm vụ chỉ đường cho những đồng bào đi chậm còn tụt lại sau, để khỏi đứt liên lạc. Trời sáng sao mờ mờ. Gió hơi lạnh. Tiếng súng xa xa vọng lại, khi thưa thót, khi dồn dập. Là người cuối cùng tiễn chân những người ra đi đêm nay, tôi thấy lòng nao nao lưu luyến. Dòng người đang đi kia là cha, mẹ, anh, em của chúng tôi, bây giờ ra đi biết ngày nào gặp lại? Người xách bị, người khoác tay nải, ai nấy đi trong yên lặng, như ngậm ngùi vì phải bỏ lại tất cả gia tài cơ nghiệp.


Bỗng tôi nhận ra bóng dáng cha tôi, vai khoác chiếc tay nải đựng quần áo. Vẫn cái áo the thâm, cái quần trắng, chiếc khăn xếp và đôi giầy Gia Định, y như chiều hôm qua, lúc cha tôi đi làm về. Nhận ra tôi, cha tôi dừng lại, se sẽ dặn dò, khuyên tôi yên tâm "làm việc nước", rồi cho tôi biết địa chỉ nơi tản cư và hẹn sẽ nhắn tin cho tôi luôn. Nhìn cha tôi rảo bước khuất dần cùng đoàn người tản cư, lòng tôi se lại và ước mong ngày đoàn tụ.


Người cuối cùng đã đi khuất, tôi quay về trụ sở thì gặp Luyện đang đứng bên người yêu. Là nữ học sinh, Tuyết cũng sục sôi ý chí đấu tranh của tuổi thanh niên, nhưng gia đình còn mẹ già em dại, Tuyết không thể ở lại cùng Luyện và các anh chị em tự vệ. Mẹ và em đã đi xa rồi mà Tuyết vẫn dùng dằng chưa nỡ chia tay. Tôi yên lặng nhẹ nhàng đi vào trong nhà, để đôi bạn trẻ được tự do tâm sự thêm vài phút nữa.


Từ đêm 19/12/1946, anh em tự vệ chúng tôi bắt đầu thoát ly gia đình, sống tập trung thành một đơn vị, có người chỉ huy, có người lo việc cứu thương và cấp dưỡng. Cũng như các đội bạn, chúng tôi lưu động chiến đấu trong phạm vi khu phố mình, khi quân Pháp từ phía Bờ Hồ tấn công xuống thì chúng tôi vừa đánh vưa lui dần xuống phía Bạch Mai, rồi sau lại luồn trở lại đánh du kích phía sau lưng địch.


Sau mười ngày chiến đấu chặn địch không cho chúng tiến xuống phía nam Hà Nội, ngày 30/12/1946 chúng tôi được lệnh tập trung về chỉ huy sở của tự vệ LKII ở Việt Nam học xá (nay là trường Đại học Bách Khoa Hà Nội) để phiên chế lại các đơn vị. Chúng tôi cùng một số anh em khác được tập hợp lại thành đội tự vệ Duy Tân do anh Hoàng Giáp làm đội trưởng.


Ngày 19/1/1947, đội tự vệ Duy Tân và hai đội tự vệ khác (cùng thuộc LKII) được phiên chế thành một đại đội Vệ quốc quân mang số hiệu đại đội 4 thuộc tiểu đoàn 64 trung đoàn 37 (sau này đổi là trung đoàn 66 chủ lực của Liên khu III). Chúng tôi được lệnh hành quân về đóng tại Nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai). Từ đó, ngày 19/1 trở thành một ngày kỷ niệm không phai mò trong tâm trí chúng tôi.


Kháng chiến chống Pháp thành công, tôi được phép về thăm Hà Nội. Phố cũ vẫn còn nguyên, nhưng bà con dân phố năm xưa ra đi, nay hầu hết đã làm ăn sinh sống ở nới khác. Tôi ngồi nói chuyện với ông Yến là hàng xóm cũ. Ông kể cho tôi nghe những đổi thay của bà con dân phố cũ, ông nhắc đến cha tôi đã từ trần trước đấy ba năm. Tôi cũng kể lại với ông những kỷ niệm về cái đêm tôi chia tay cha tôi và bà con dân phố khi Thủ đô bắt đầu anh dũng kháng chiến.


Hình ảnh những ngày kháng chiến đầu tiên ở Hà Nội sẽ còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Chỉ là một trong muôn ngàn người dân Hà Nội thủa ấy nhưng tôi luôn thấy lòng tha thiết nhớ nhung mảnh đất thân yêu, ở đó tôi đã lớn lên và cùng các bạn trẻ bước vào đời theo con đường tươi sáng mà cuộc Cách mạng Tháng Tám đã chỉ ra.

NGUYỄN HỌP
Nguyên chiến sĩ đội tự vệ
Phố Lê Văn Hưu - Liên khu II Hà Nội


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:51:25 am
LẬP CÔNG TRƯỚC MŨI ĐỊCH


Anh là Nguyễn Văn Thảo, sinh năm 1929. Từ tháng 3/1946 anh vào bộ đội, ở đội tuyên truyền Vệ quốc đoàn Hà Nội.

Khi kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946 bùng nổ, với tên gọi mới Nguyễn Phương, anh trở thành lính trinh sát của đại đội 16 thuộc tiểu đoàn 212, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của đại đội phó Đặng Quý.


Trong các ngày từ 22 đến 28/12/1946 các đại đội 14 và 16 của tiểu đoàn 212 đã chặn đánh địch quyết liệt ở Lò Lợn đến Ô Đống Mác, Thanh Lương xuống Vĩnh Tuy. Bước vào năm 1947 cuộc chiến đấu chặn địch nống ra ngoại thành về phía nam càng khẩn trương và ác liệt. Trong một trận đánh vào ngày 12/1/1947 (tức ngày 23 tháng chạp Bính Tuất), địch có xe tăng và pháo binh yểm trợ đã ào ạt tấn công chọc thủng phòng tuyến của ta ở Vĩnh Tuy. Anh Phương bấy giờ còn đang ở dưới một trung đội, bị địch ập tới bắt, chúng đấm đá dùng báng súng tra khảo xem ở đơn vị nào, làm gì. Anh khai là học sinh theo gia đình tản cư ra ngoại thành. Thấy anh người nhỏ nhắn, mặc thường phục, lại ít tuổi nên chúng đưa anh về giam ở Việt Nam học xá. Hai hôm sau, thấy anh biết chút tiếng Pháp, chúng cho anh lên làm vệ sinh, nấu nước uống, rửa ấm chén ở phòng tên quan ba chỉ huy người Pháp. Chúng nói chỉ ít ngày nữa là quét sạch Việt Minh. Chúng dọa anh nếu không trung thành với quan Pháp sẽ bắn vỡ sọ, còn nếu phục vụ tốt sau này sẽ cho đi học tiếp.


Từ ngày bị bắt, không lúc nào anh Phương không day dứt nghĩ tới do sơ hở mà bị giặc bắt. Anh nung nấu quyết tâm thoát khỏi tay địch. Điều may mắn là gia đình anh vốn ở ngõ Quỳnh nên khu vực Việt Nam học xá cũng khá quen thuộc với anh. Việc địch mất cảnh giác càng làm cho anh thêm hy vọng sớm trở về với kháng chiến. Phải làm thế nào để địch không nghi ngờ. Anh giả vờ tỏ ra an tâm với công việc được giao, thu dọn căn phòng tên quan ba lúc nào cũng ngăn nắp, sạch sẽ, gặp bọn lính gác là lễ phép chào hỏi.


Tên quan ba chỉ huy ngoài khẩu súng ngắn còn có một khẩu các-bin được treo trên tường, đầu giường ngủ. Phương rất chú ý tới khẩu súng này. Nếu có trốn cũng phải tìm mọi cách lấy khẩu các-bin đó, một là có cái để lập công, hai là để tự vệ trường hợp bị bủa vây sẽ một sống một chết với địch. Thế là tối nào anh cũng xách ấm đi lấy nước về nấu để phục vụ tên quan ba, vừa để thăm dò đường đi lối lại, vừa để mấy tên lính gác quen mặt.


Và rồi thời cơ đã đến. Tối mùng 5 tết Đinh Hợi, trời tối đen và mưa lâm râm, mấy tến sĩ quan Pháp nhậu nhẹt xong xoay ra đánh bài. Phương đi ra, đi vào pha cà phê cho bọn chúng. Lợi dụng lúc chúng đang chúi mũi vào canh bạc, anh lẻn vào phòng tên quan ba. Một việc làm thật nguy hiểm. Chỉ một sơ xuất là chết ngay tức khắc. Trong ngực anh tim đập thình thịch. Không còn con đường nào khác. Thà chết còn hơn sống nhục nhã trong tay giặc. Anh nhấc khẩu các bin, vơ hai băng đạn. Anh đeo ngược khẩu súng để báng ngang vai, khoác chiếc áo mưa phủ kín, tay trái cầm đèn bấm, tay phải xách ấm coi như đi lấy nước. Qua vọng gác, anh lặng lẽ ra khỏi khu vực đóng quân của địch, mò mẫm ra phố Bạch Mai rồi nhanh chân về phía Giáp Bát.


Sáng hôm sau, anh tìm đến một đơn vị tự vệ, báo cáo tình tiết việc chạy trốn và giao nộp khẩu các bin. Anh lập tức được dẫn đến sở chỉ huy của đồng chí Phùng Thế Tài. Sau mấy ngày điều tra cặn kẽ, đồng chí Phùng Thế Tài biểu dương thành tích của anh và cho về công tác ở bộ phận trinh sát, sau này trở thành đại đội trinh sát của trung đoàn 66. Anh đã được tham dự nhiều chiến dịch, ở Nga Sơn (Thanh Hóa), Vụ Bản (Nam Hà), đường 18... trận nào cũng tỏ ra dũng cảm. Một vinh dự đến với anh là anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 4/11/1949 (chính thức ngày 19/5/1950).


Do thời gian bị bắt, địch tra tấn dã man, sức khỏe anh giảm sút nhiều. Cuối tháng 5/1951 anh được giải ngũ về công tác tại văn phòng huyện ủy Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang.

Anh Nguyễn Phương nay không còn nữa nhưng các đồng đội như Lê Nguyễn, Lê Công Dụ, Nguyễn Văn Dũng... vẫn còn lưu lại kỷ niệm về anh, một anh bộ đội Cụ Hồ gan dạ, mưu trí, bao giờ cũng dành hết thuận lợi cho bạn bè.


Nhân kỷ niệm 55 năm ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi ghi lại mấy dòng để tưởng nhớ anh và để gia đình cùng người thân của anh mãi mãi tự hào về anh.

NGUYỄN HIỂN


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:52:38 am
TÂM SỰ ĐÊM NÔ-EN Ở VIỆT NAM HỌC XÁ


Từ ngày kháng chiến ở Thủ đô, mở màn cho toàn quốc kháng chiến đã trải qua sáu ngày đêm, sáu ngày đêm khói lửa đã tôi luyện cho nhân dân Thủ đô càng vững vàng đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Đối với nhóm 29 sinh viên cuốỉ cùng của chúng tôi ở Việt Nam học xá, chiến tranh đã coi như chuyện bình thường, cái gì phải đến đã đến. Anh em từng chứng kiến từ tháng 11/1946 bao cảnh đàn áp tàn bạo của bọn com-măng-đô mũi nồi đỏ của Pháp ngay trên đường phố Hà Nội, cảnh xe tăng, xe bọc thép của chúng đêm nào cũng hoành hành bắn phá ở Bạch Mai. Dân chúng hẽt sức uất ức, tự kiềm chế, tuyệt đối không manh động.


Đêm nay Nô-en, trời không mưa nhưng rét đậm.

Ngoài số sinh viên đi chiến đấu ở các phố, ở các ba-ri-cát Ô Cầu Dền, ngã tư Phố Huế - Nguyễn Du, Lê Văn Hưu hoặc thường trực cấp cứu ở nhà A hay đi tải thương đến Thanh Trì, Thường Tín, thì số được nghỉ ngơi cụm lại tại nhà D cùng nhau tâm sự. Đó là các anh Lê Khánh Cận, Phan Văn Diên, Đỗ Đức Dục, Trần Văn Giỏi, Lê Văn Nho, Nguyễn Đức Thừa, Bùi Minh Tiêu, Bửu Triều.


Đến giờ phút này khu Việt Nam học xá vẫn do sinh viên tự quản. Ngoài trời đạn bay vèo vèo, thỉnh thoảng có tiếng tắc bọp... quen thuộc của bọn Pháp. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu le lói, sắc mặt của từng người có vẻ rắn rỏi, vẫn tươi tỉnh nhưng có phần nghiêm nghị. Một đồng đội đã vắng mặt: Trần Vĩnh Uy bị thương nặng ở rạp Majestic (nay là rạp Tháng Tám) phải chuyển về hậu phương.


Trong không khí thân mật, anh Bùi Minh Tiêu bạn rất thân với tôi từ hồi học tú tài phần thứ nhất ở Huế lên tiếng:

- Mới có sáu ngày thiếu rau xanh mà người khó chịu quá, tôi đề nghị hãy ra ruộng rau trước mặt nhổ vài cây cải mà luộc ăn cho đã.

Đúng là giữa bốn dãy nhà A, B, C, D1 (Thời gian đó sân vận động của Việt Nam học xá nằm ở phía ngoài khu ký túc xá sinh viên bấy giờ. Còn giữa bốn nhà A, B, C, D là vườn rau lớn (BLL)) là ruộng rau xanh rất đẹp nhưng của dân, hàng ngày dân vẫn vào chăm bón, chỉ mấy hôm nay đánh nhau họ không đến thôi. Lời ra tiếng vào nhưng cuối cùng thống nhất là "không nhổ trộm rau vì không phải của mình, phải có lòng tự trọng".

Anh Lê Văn Nho, với giọng Nam bộ chính cống, có ý kiến:

- Điều đáng mừng là từ khi Cách mạng thành công đến nay, trong bọn mình chỉ có Đỗ Đức Dục và mình đã tham gia chiến đấu, thế mà tất cả ra mặt trận kỳ này không anh nào biết sợ cả, đi đánh giặc như rủ nhau đi đá bóng, hết sức bình thản. Nay thì mọi người là cựu binh rồi... Mình thắc mắc là không thấy Tổng hội sinh viên đâu. Chúng mình tự động tổ chức chiến đấu, vậy mà xuôi cả."

Anh Lê Khánh Cận, người Nghệ An, cao, gầy dõng dạc như một chính trị viên:

- Vũ khí của chính mình trong đó có khẩu đại liên Hotchkiss và lương thực dự trữ ở Việt Nam học xá cho đến hôm nay là do Tổng hội lo lắng và quyên tiền mua từ trước cho chúng ta. Có lẽ nay các anh trong Ban chấp hành có nhiều việc phải hoàn thành mà ta không biết. Điều tôi chưa rõ là không thấy có người nào là Việt Minh trong số chúng ta...

Đến lượt anh Phan Văn Diên, cây lý luận, người Hà Tĩnh xen vào:

- Chúng mình là Việt Minh cả. Kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Việt Minh. Còn ai được kết nạp vào đoàn thể thì người ta giữ bí mật chứ, ai lại tự vỗ ngực cho mọi người biết. Các ngày qua mình cũng không biết người chỉ huy chúng mình là ai cả. Tập trung trong nhà D, còn các khu A, B, c anh em đã giao lại cho một đại đội Vệ quốc đoàn từ Sơn Tây kéo về làm nơi trú quân và bố trí chiến đấu.

Anh Trần Ba Kỳ lặng lẽ nhìn ra ngoài trời đêm đầu tháng trời tôi đen gió lạnh rít lên ào ào. Anh chậm rãi lên tiếng:

- Các anh có biết không, tôi và anh Vũ Tam Hoán thay nhau trực ở trạm xá chùa Sét. Ngoài các y tá đã được đào tạo từ trước còn hơn 20 cô gái trẻ, người nhiều nhất không quá 30 tuổi. Trừ một vài cô buôn bán ở Chợ Mơ còn phần lớn là cô đầu ở phố Vạn Thái. Nhìn họ làm việc mình thấy lạ mà rất xúc động, có chị vừa lau rửa vết thương cho các chiến sĩ mà nước mắt chảy ròng ròng ướt hẽt cả vai áo. Nhìn chị đi tải thương từ Sét xuống Văn Điển một đêm năm, sáu lần. Có một chiến sĩ bị thương vào chân phải cưa và phải truyền máu cấp cứu, năm sáu chị xung phong xin thử máu để lấy máu truyền. Lúc đó ngồi nói chuyện mới biết các chị được một chị sen là Hải, người của đoàn thể ở khu Chợ Hôm xuống vận động và tổ chức huấn luyện. Tôi nghĩ đến những chị em "cô đầu" cũng tham gia kháng chiến tức là đã đứng lên theo lời kêu gọi của Cụ Hồ Chí Minh. Bọn Pháp làm sao mà thắng nổi được.

Anh Bửu Triều nói tiếp:

- Ngay trong hàng ngũ trí thức chúng ta ở đây cũng có nhiều thay đổi. Tôi rất phục cậu Vũ Tam Hoán sinh viên năm thứ ba khoa y, mới học xong phần đại cương, và một vài bệnh nội khoa, chưa có một chút tri thức nào về sản thế mà đêm 20 cậu ấy đỡ đẻ thành công cho chị phụ nữ. Cứ nhìn ngày thường lúc nào cậu ấy cũng bảnh bao như một tài tử điện ảnh, từ nhà A sang nhà D cũng đi xe đạp thế mà đêm ấy dám băng qua vườn rau ao hồ sang tìm thầy Đặng Văn Chung ở nhà thương Vọng để hỏi cách đỡ đẻ. Thầy Chung chỉ dẫn những khái niệm cơ bản trong vòng 20 phút, thế là cậu ấy quay về hoàn thành ca đẻ ấy, các anh thấy có đáng phục không ?

Anh Lê Văn Nho nhẹ nhàng tiếp lời:

- Đúng thế các anh ạ, cuộc kháng chiến này đã làm chúng mình thay đổi rất nhiều. Mấy hôm vừa rồi tôi với anh Dục, anh Bửu Triều, anh Tiêu lên phố chiến đấu gặp rất nhiều khuôn mặt khác nhau. Ngoài các anh vệ quốc quân ra còn phần lớn là anh em tự vệ thành, tuổi đều từ 20 trở xuống, hiếm mà tìm thấy cậu nào 23, 24 tuổi. Đại bộ phận là học sinh mới qua lớp quân sự một, hai ngày thế mà cậu nào cậu nấy bừng bừng khí thế, chỗ nào có đánh nhau là họ kéo đến không hề thấy ai tỏ ra sợ hãi. Lại còn một loạt các cô tiểu thư khuê các bấy giờ cũng cắt tóc dài, mặc áo cánh, đeo túi cứu thương bám theo chiến đấu trong các công sự, thật là một anh hùng ca.

Anh Lê Khánh Cận mắt rưng lệ nói:

- Chiều hôm qua bọn Pháp vây khu vực Chợ Hôm bị đánh bật ra; chúng xông được vào chùa ngõ Hòa Mã, ba em gái liên lạc 16 tuổi đã tự nổ lựu đạn giết một số tên và hy sinh. Nghe tin không ai cầm được nước mắt. Trong lịch sử chiến đấu của nhiều nước trên thế giới cũng rất hiếm gương hy sinh dũng cảm như thế.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Năm, 2022, 06:53:17 am
Mọi người lặng đi, ngoài trời phía bờ hồ, phía nhà ga rộ lên tiếng súng. Anh Bùi Minh Tiêu nói:

- Các tổ quấy rối của ta đã tiến công rồi. Chiều hôm nay nghe thấy bên anh em tự vệ Bạch Mai nói là có lệnh đêm nay phải tấn công vào tất cả các vị trí địch ở nội thành, bọn mình không được gọi đi thật là đáng tiếc! Hôm qua bọn địch tấn công vào trụ sở Bộ Tổng tham mưu ở số nhà 18 Nguyễn Du, tôi với anh Triều, anh Dục, anh Nho tham gia ngăn chặn được mũi tấn công của địch từ Lê Văn Hưu sang, buổi trưa chúng tôi được tin anh đội trưởng tên là Thành đã dùng bom ba càng đánh hỏng một xe tăng ngay gần ngã năm Nguyễn Du - Bà Triệu. Bị thương nặng, anh còn đập hai quả lựu đạn tiêu diệt mười mấy tến địch xông lên định bắt sống anh. Một sự hy sinh thật là anh dũng, thật xứng đáng là người của đoàn thể.

Anh Phan Văn Diên, một cây lý luận người Hà Tĩnh xen vào:

- Người của đoàn thể có nghĩa là đảng viên ĐCSĐD. Họ dám hy sinh cả cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Không hiểu các cậu nghĩ thế nào chứ mình thì khó lòng làm được như họ. Một anh Thành đâm bom ba càng, một anh Định tự nổ bom ở Bắc Bộ phủ. Lý tưởng của họ phải thật là cao đẹp nên họ mới có dũng khí như vậy.

Mọi người lặng lẽ suy nghĩ câu nói của anh Diên, một lúc lâu sau anh Bửu Triều hỏi anh Tiêu:

- Cậu đã học trường Tông ở Tây Sơn, trường đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan của Pháp. Mặc dầu chưa ra trường nhưng chắc cậu đã học qua những bài về tác chiến trong thành phố?

- Đúng như cậu phán đoán, tớ có học nhưng không thực hành bao giờ. Qua mấy ngày lăn lộn với các cậu trên các đường phố thuộc Liên khu II Hà Nội, nhất là ở các dãy nhà Phố Huế, tớ mới vỡ lẽ thế nào là tác chiến trong thành phố. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh của đất nước mình, chưa khi nào có tác chiến trong thành phố như hiện nay. Sau này nếu có điều kiện áp dụng chắc anh em chúng ta không còn bỡ ngỡ nữa.

Câu chuyện cứ thế tiếp tục mãi đến khuya chỉ với mấy chén nước trắng làm cho chúng tôi thông cảm nhau hơn, thương yêu nhau hơn để cùng đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Giờ này, những nơi không đánh nhau, đồng bào theo đạo Thiên chúa chắc đang cầu nguyện cho đất nước chóng được yên bình, bọn thực dân xâm lược đã gây tội ác phải đền tội.

Một tuần sau phần lớn anh em họp mặt đêm đó được điều động về Bắc Ninh huấn luyện quân du kích.

Cuối tháng 2/1947 chúng tôi được dự một đám tang của một chiến sĩ đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tại Từ Sơn. Khi nghe đọc điếu văn, chúng tôi vô cùng khâm phục đồng chí ấy. Không ai bảo ai chúng tôi cùng nhớ lại câu nói của Diên đêm nào: Chúng tôi có thể hy sinh như thế để trở thành người đảng viên cộng sản hay không?


Trong quá trình huấn luyện từ xã này đến xã khác ở Từ Sơn, chúng tôi không ngừng đúc kết rút kinh nghiệm. Khi đến lượt xã Đình Bảng, xét thấy địa hình và cấu trúc nhà ở tương tự như một thành phố nhỏ, chúng tôi nảy ra ý nghĩ là sau khi huấn luyện theo chương trình cho xã xong, hãy để một thời gian xây dựng Đình Bảng thành xã chiến đấu theo khuôn mẫu khu Chợ Hôm Liên khu II, chủ yếu về mặt quân sự. Một thời gian ngắn sau đó, với tinh thần chiến đấu vô cùng xuất sắc, Đình Bảng đã trở thành làng chiến đấu kiểu mẫu đầu tiên của Đồng bằng Bắc bộ, đã chống trả kiên cường nhiều đợt tấn công của giặc Pháp trong suốt bảy năm trời, gây cho chúng tổn thất nặng nề. Mãi đến 1953 bọn lính Pháp mới vào được làng sau khi dùng máy bay, đại bác và lực lượng bộ binh khá lớn, mặc dù làng chỉ cách Hà Nội vẻn vẹn 14km. Ước vọng của anh Bùi Minh Tiêu trong đêm Nô-en đã thành hiện thực.


Khói lửa đã rèn luyện chúng tôi, những con người trước đây chỉ biết đến sách vở. Thời gian chiến đấu ít ỏi ở Liên khu II để lại dấu ấn vô cùng tốt đẹp trong giới sinh viên trí thức, chúng tôi đi vào cuộc kháng chiến  thần thánh của dân tộc một cách hết sức tự nguyện, không ai bỏ dở, không ai đầu hàng. Ai ai cũng trường thành, có người đã là liệt sĩ, thương binh.

Trong số 29 anh em hồi đó, thì các đồng chí:

- Võ Như Tỷ là liệt sĩ.

- Lê Khánh Cận là liệt sĩ.

- Trần Vĩnh Uy là thương binh.

- Đỗ Đức Dục là thương binh.

- Lê Văn Nho là thương binh.

Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhiều anh em đã gặp lại gia đình ớ bên kia giới tuyến mới hay bố là tổng thống, họ hàng có người là thủ tướng, là tướng lĩnh, là nhân vật cấp cao của chế độ Sài Gòn cũ, anh em càng vô cùng tự hào về những gì mình đã làm được.


Đúng nửa thế kỷ sau, tôi đến thăm anh Phan Văn Diên, trước khi về hưu là chuyên viên của Viện Triết học. Vốn bộc trực, anh cùng tôi thú thật với nhau rằng tình cảm cách đây 50 năm của anh em đối với các đảng viên cộng sản là đúng sự thật.


Bây giờ chúng tôi đều có 50 năm tuổi Đảng, nhớ lại chuyện xưa, nêu gương cao đẹp của những con người chân chính trong những ngày đầu cách mạng vô cùng khó khăn gian khổ của đất nước mà rưng rưng nước mắt.

ĐỖ ĐỨC DỤC
Nguyên trưởng ban tác chiến
khu Việt Nam học xá
Nguyên Phó tư lệnh Quân khu II


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:47:21 am
EM LIÊN LẠC DŨNG CẢM VÀ KIÊN CƯỜNG


Ngày 16/12/1946. Tôi đi huấn luyện ở Nhà máy Rượu về lúc 5 giờ chiều thì thấy anh Trần Kim Xuyến đang ngồi đợi tôi ở nhà. Anh Xuyến thời gian đó là Tổng giám đốc Nha Thông tin (sau này là Thông tấn xã Việt Nam).

Gặp tôi anh nắm tay và nói:

- Mình bận quá mà phải đến Giáp vì có việc nhờ Giáp giúp. Tình hình khẩn trương lắm, không thể tránh được cuộc chiến tranh với Pháp đâu. Chính phủ đã có lệnh cho đồng bào Thủ đô tản cư rồi. Nhưng thằng Luyện em mình nó dứt khoát không chịu đi. Cả lớp nó viết quyết tâm thư xin ở lại Hà Nội phục vụ chiến đấu. Mới học Đệ nhị ban Thành Chung 14, 15 tuổi thì không biết nó làm gì. Bảo thế nào cũng không được. Mình muốn nhờ Giáp cho nó vào tự vệ chiến đấu và trông nom giúp. Cơ quan mình không được cho gia đình đi theo. Mong Giáp giúp cho mình.


Với tôi, anh Xuyên là người bạn rất thân mà còn là huynh trưởng của tôi trong đoàn hướng đạo nên tôi vui vẻ nhận lời.

Tối hôm đó khoảng gần 8 giờ. Em Trần Kim Luyện cầm thư của anh Xuyến đến gặp tôi. Đó là một em thiêu niên khoảng 14, 15 tuổi. Da ngăm đen nhưng có đôi mắt rất sáng.

Em cao khoảng 1m50 người nở nang cân đối. Tôi đưa em sang trụ sở tự vệ ở 160 Phố Huế, còn gọi là quán trung độ của hội Hợp Thiện (là nơi nghỉ chân của các đám tang từ trụ sở hội Hợp Thiện xuống nghĩa trang Hợp Thiện).


Tôi giới thiệu em vào tiểu đội Phạm Đường Bệ của tiểu khu 6, khu Chợ Hôm. Anh Bệ phát cho em một ngôi sao trên nền vuông bằng vải. Em rất thích và lấy ngay chiếc mũ trong ba lô ra gắn vào đội lên đầu và cười to:

- A ha! Mình cũng trở thành Việt Minh carê rồi.

Bắt đầu từ ngày hôm đó em Trần Kim Luyện trở thành tự vệ tiểu khu 6 khu Chợ Hôm. Ban ngày em tham gia đục tường làm chướng ngại vật. Buổi tối em được các anh lớn hướng dẫn cách sử dụng lựu đạn, tháo lắp súng v.v...


Những ngày 17, 18 tình hình Hà Nội sôi sục, địch càn quét khu Yên Ninh Hàng Bún, bắn giết đồng bào ta, mổ bụng tự vệ. Chúng phóng xe như điên trên đường phố, xả súng vào chợ Đồng Xuân và các anh em đang đắp chiến lũy trên các đường.


Đêm 19/2. Cuộc kháng chiến nổ súng lúc 20 giờ 3 phút. Hai tiểu đội của tiểu khu 6 được phân công vào kiểm tra các hầm mộ tại nghĩa địa Tây. Em Luyện là một trong nhũng người hăng hái nhất trong việc sục sạo này.

Đêm 19/12 trung đội tự vệ của tiểu khu 1 được lệnh tấn công ổ tác chiến của địch ở phố Ngô Thì Nhậm. Sáng 20 thì vào được trong nhà, ở tầng một, nhưng trung đội trưởng Lê Quang Tôn bị hy sinh. Đội tự vệ tiểu khu 6 được lệnh lên phối hợp với bộ đội đánh tiếp.


Vào trong tầng một, các chiẽn sĩ định đánh lên tầng hai nhưng bị bọn địch ở trên bắn khống chế rất dữ nên không lên được, có một vài đồng chí đã bị thương, Luyện phải gọi cứu thương đến khiêng các đồng chí đi.

Mỗi lần đi về em gặp tôi và nói:

- Anh Giáp ạ, đánh thế này không được, em thấy ở chỗ Ban chỉ huy các anh ấy nói: Bên khu Bảy Mẫu và khu Lò Đúc các anh ấy cho phóng hoả đốt là bọn chúng phải ra đầu hàng, nhưng ở đây ta đốt sẽ bị cháy lan sang bên thì làm gì còn chỗ mà bố trí đánh. Em đi bên ngoài thấy nhà này có một tầng mái bằng nối tiếp lên mái ngói mà ống máng lại bằng xi măng, có thể lên được anh ạ.

Tôi và anh Việt Tử trung đội trưởng của tiểu đoàn 212 nghe em nói thế liền sang nhà bên quan sát thì quả đúng như vậy. Đêm hôm đó đơn vị cho Phạm Quốc Bảo và một chiến sĩ bộ đội theo ống máng lên tầng thượng dỡ mái xuống trần và dùng lựu đạn đánh vào bọn đang cố thủ đồng thời tổ chức cho anh em lên cầu thang.


Bọn địch buông súng đầu hàng.

Ta bắt được sáu tên trong đó có hai tên bị thương và thu một số vũ khí. Tự vệ được chia khẩu Sten, 1 khẩu súng trường và 40 quả lựu đạn.

Em Luyện xí ngay phần khẩu Sten và nói:

- Khẩu này nhẹ, các anh để cho em.

Mọi người đều cười. Đội trưởng Việt Tử bảo: "Đúng, phải thưởng cho chú Luyện vì chính chú ấy nghĩ ra cách đánh hiệu quả này".

Ngày 21/12 địch tấn công Nhà máy Rượu. Thời gian đó khu vực Nhà máy Rượu rất rộng bao gồm một khu vực hình chữ nhật giới hạn bởi đường Lò Đúc, Hòa Mã, Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Công Trứ, có tường cao 4m và có nhiều lỗ đục tường thông ra các phố. Trong Nhà máy Rượu khi đó có hai trung đội của tiểu đoàn 212 mà hơn một nửa là nhũng người trước đây đã từng là lính của quân đội Pháp tham chiến tại chiến trường Pháp - Đức - Bỉ và sau ngày Việt Nam độc lập đã được trở về nước rồi gia nhập Vệ quốc đoàn, nên các anh thường được gọi với tên trìu mến là hải ngoại quân.


Các đơn vị tự vệ thì đóng vòng ngoài trên các phố: Tiểu đội Hoàng Ngọc Vân tiểu khu 7 bố trí trong đường Nguyễn Công Trứ, tiểu đội Phạm Văn Lục tiểu khu 4 bố trí trên đường Hòa Mã; tiểu đội của Phạm Văn Đăng và Phạm Đường Bệ tiểu khu 6 bố trí trên đường trông sang cổng Nhà máy Rượu.


Cuộc chiến đấu diễn ra suốt cả ngày. Với bản lĩnh thiện xạ của các cựu binh, các chiến sĩ hải ngoại quân đã gây cho Pháp rất nhiều thương vong. Đến 14 giờ chiều chúng cho ném bom vào nhà máy và cho xe tăng húc đổ tường xông vào. Các chiến sĩ ta phải rút về Chùa Vua. Đến 15 giờ 30 một tên Lê dương mũ đỏ ló ra khỏi lỗ thông của Nhà máy Rượu sang phố Ngô Thì Nhậm. Hai phát đạn của tiểu đội Bệ và Đặng quật nó ngã sấp, chân vẫn ở trong nhà máy nhưng người thì nằm bên hè đường Ngô Thì Nhậm, khẩu carbin văng ra cách 1m.


Chưa ai kịp nói gì thì thấy Luyện đặt khẩu Sten xuống lao ra đường chạy như bay sang chỗ thằng Tây mũ đỏ.

Một tràng đạn liên thanh từ trên đầu phố Ngô Thì Nhậm phía Hàm Long quét xuống, mọi người thấy Luyện chạy thêm ba bước và ngã xuống cạnh xác thằng tây. Anh Chi kêu lên: "Luyện bị rồi!" Trong lỗ thông đầu tây mũ đỏ ló ra, một loạt đạn bắn sang chúng thụt đầu vào, thằng nấp hai bên nắm chân thằng bị nạn lôi vào trong nhà máy. Mọi người chợt thấy Luyện vùng dậy một tay cầm khẩu carbin một tay kéo lê chiếc thắt lưng da trên có tám túi đựng băng đạn chạy như bay về. Thì ra em ngã không phải vì trúng đạn mà nằm xuống cạnh xác thằng tây để cởi thắt lưng đạn của nó.


Chiều hôm ấy em mang súng, đạn về báo cáo Ban chỉ huy mặt trận. Khi về em cười hóm hỉnh: "Anh Quang Tuần khen anh em mình ghê lắm. Khẩu carbin anh ấy giữ cho đội cảnh vệ và đổi lại cho đơn vị mình hai khẩu mút-cơ-tông với 100 viên đạn. Em vẫn giữ khẩu Sten đấy nhé..."


Ngày 23-12 địch phá ụ ngã năm Lò Đúc, tiến đánh trụ sở 18 Nguyễn Du, (trụ sở Bộ Tổng tham mưu) đồng thời mở cuộc càn lớn vào khu Chợ Hôm, Lê Văn Hưu, Nguyễn Công Trứ.

Chúng bố trí xe tăng và xe bọc thép đứng ở các ngã tư quét dọc các phố, cho bộ binh phá cửa xông vào các nhà tiêu diệt quân ta.

Trong khu vực này về phía ta có hai trung đội của đại đội Bảo Cường tiểu đoàn 77 và hai trung đội của tiểu đoàn Lê Tỵ, tiểu đoàn 212 cùng năm đội tự vệ của khu Chợ Hôm.

Trấn giữ mặt đường Phố Huế bên dãy phố lẻ từ Trần Xuân Soạn đến Hòa Mã là tiểu đội Phạm Văn Đăng và tiểu đội Phạm Đường Bệ tiểu khu 6, cùng hai tiểu đội Vệ quốc đoàn dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng Lê Chung (tiểu đoàn 77) và anh Hoàng Tường Chi (tiểu khu Chợ Hôm).


Các anh thống nhất cách đánh là dùng tất cả các đồ gỗ trong các nhà chặn chặt cửa ra vào không cho địch phá, bố trí các chiến sĩ ta trên gác dùng chai xăng và lựu đạn đánh xe cơ giới, cho người gác các lỗ thông tường nhà.


Tiểu đội Phạm Văn Đăng được cử đến góc phố Hòa Mã - Phố Huế, tiểu đội Phạm Đường Bệ được bố trí chặn ở góc Phố Huê - Trần Xuân Soạn.

Em Luyện đi theo tiểu đội Phạm Đường Bệ đến nhà góc phố số 77 chặn địch cả hai mặt Phố Huế và Trần Xuân Soạn. Em Luyện phát hiện thấy nơi bố trí này không an toàn nên đã nói với tiểu đội trưởng Bệ:

- Anh Bệ ạ em thấy ở đây không an toàn, địch có thể đánh sau lưng mình và đánh thông sang chỗ ban chỉ huy.

Anh Bệ hỏi:

- Sao em lại nói thế?

Luyện đáp: "Anh có thấy không, lúc nãy khi qua nhà 81 em thấy ngoài lỗ thông qua nhà 79 ra còn một lỗ thông nữa trông sang phía Trần Xuân Soạn. Nếu bọn tây nó vào được Trần Xuân Soạn thì coi như ta bị bao
vây và chúng có thể đánh suốt dọc Phố Huế.


Tiểu đội trưởng Bệ và tiểu đội trưởng Tâm vệ quốc đoàn quay lại nhà 81 xem thì thấy đúng như lời Luyện nói: Ngoài lỗ thông sang nhà 79, ở sân giữa còn một lỗ thông nữa ở lối đi nhà vệ sinh thông sang Trần Xuân Soạn. Hai tiểu đội trưởng tự vệ và vệ quốc đoàn liền rút quân về nhà 81 bố trí trên gác, cử hai tổ ba người cảnh giới hai lỗ thông, chiều hôm đó lúc 3 giờ địch phá được một nhà ở phố Phùng Khắc Khoan đánh thông suốt dọc phố Trần Xuân Soạn; tiểu đội Vũ Đình Tuân (con cụ Vũ Đình Tụng) của tiểu khu 3 bị hy sinh bốn người, số còn lại rút được về số nhà 81 và bố trí chiến đấu cùng với Tâm và Bệ. Địch lần đuổi theo nhưng bị quân ta bắn chặn lại, chúng ném lựu đạn, và đưa súng phóng hỏa bắn nhưng bị quân ta bắn trả lại quyêt liệt. Trong những tiếng nổ phát một của súng trường thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng nổ của khẩu tiểu liên của Luyện.


Cho đến 16 giờ chiều bọn địch không làm sao vào được trong nhà 81, trong khi đó xe cơ giới của chúng cũng không húc được cửa mà còn bị lựu đạn và chai xăng của ta ném cháy ba chiêc trên đường Phố Huế.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:48:05 am
Những ngày sau đó các đội tự vệ của khu Chợ Hôm được rút về dưới phố Bạch Mai và Việt Nam học xá tập hợp lại thành đội tự vệ Duy Tân, Luyện trở thành liên lạc viên của Ban chỉ huy trung đội. Trong những ngày này khi thì em đi cùng anh Phạm Quốc Bảo lùng bắt bọn thám báo, khi thì đi cùng với Hoàng Thị Dung, Lưu Thị Hạnh mang cơm tiếp tế cho đơn vị, khi thì chốt trên đình Tô Hoàng tham gia giữ trận địa ở Ô Cầu Dền.


Sau ngày 19-01-1947 đội tự vệ Duy Tân sáp nhập vào tiểu đoàn 64 trở thành trung đội 2 thuộc đại đội 4. Trong trận đánh lớn ngày 15-01-1974, trong thế bị bao vây ba mặt Ban chỉ huy tiểu đoàn đã ra lệnh cho bộ phận y tế cấp dưỡng rút khỏi trận địa từ 12 giờ trưa. Tôi cũng cho mấy em liên lạc 14, 15 tuổi trong đó có Luyện rút theo bộ phận này. Nhưng không ngờ đến 15 giờ, tôi đến hầm chiến đấu của tiểu đội Bệ vẫn thấy Luyện và các chiến sĩ khác đang nhằm bắn bọn tây nhấp nhô trên đường số 1.


Đến 5 giờ chiều khi đơn vị rút thì Luyện cũng là những người rút sau cùng. Chỉ huy trung đội lúc đó chỉ còn tôi với Phạm Đăng Trung, đội phó (tất cả đều bị thương).

Về đến Huỳnh Cung nơi đóng quân của tiểu đoàn lúc 11 giờ đêm, Luyện chạy ra đón tôi và nói:

- Lúc anh Chi và anh Lục mất ở Lò gạch, sau em có đến và lục được trong túi các anh nhũng di vật này em trao lại cho anh. Và em đưa cho tôi hai cái ví.

... Ngày 20-3-1947 tiểu đoàn 64 tiến đánh Hà Đông theo dọc sông Nhuệ, trung đội tôi được bố trí thành một tuyến dài gần 700 m. Từ đầu cầu xuống Mỗ Lao, các tiểu đội cách nhau 200m. Trong ngày hôm đó em Luyện và em Lê là hai liên lạc viên phải chạy hàng chục lần từ tiểu đội này sang tiểu đội kia dưới làn đạn của địch. Đến 6 giờ chiều đơn vị được lệnh rút và hành quân hơn 30 km về làng Hữu Bằng ở Thạch Thất Sơn Tây. Bố trí chỗ ăn nghỉ cho các đơn vị xong đã gần 8 giờ sáng. Chúng tôi vừa trở về nhà đóng quân của Ban chỉ huy trung đội thì liên lạc viên từ trung đoàn xuống đưa cho tôi một công văn.


Mở công văn ra xem tôi bàng hoàng cả ngưòi: Đây là công văn của Văn phòng Chính phủ gửi trung đoàn 37 để nghị báo tin cho Trần Kim Luyện chiến sĩ của tiểu đoàn 64 biết đồng chí Trần Kim Xuyến, giám đốc Nha Thông tin đã bị địch sát hại trong khi đi công tác ngày 2/3/1947. Chúng tôi nhìn nhau lòng nghẹn ngào vì mặc dầu đã chứng kiến sự hy sinh của nhiều đồng đội nhưng không biết em Luyện có thể chịu đựng nôi nỗi đau đớn, mất mát này không. Tôi và Đặng Thái chính trị viên trung đội (thay anh Hoàng Tường Chi đã hy sinh) xuống nơi tiểu đội của Luyện đóng quân thấy em nằm ngủ rất ngon, miệng hơi hé cười. Chúng tôi bùi ngùi không muốn đánh thức em dậy vì biết rằng sau một ngày chiến đấu gian khô và sau một cuộc hành quân dài vất vả hãy để cho em ngủ một giấc thoải mái phục hồi sức khỏe trước khi phải đón nhận nỗi đau đớn không thể cứu vớt này. Tối hôm đó lúc 8 giờ Luyện chạy vào chỗ chúng tôi hớt hải nói:

- Các anh ơi, có phải anh Xuyến em mất rồi không?

Tôi và Thái nhìn nhau, Thái lặng lẽ đưa tờ công văn cho Luyện. Luyện cầm đọc nét mặt ngây đi. Hai dòng nước mắt từ từ lăn trên gò má xạm nâu, em đứng lặng chân. Tôi và Thái định lên tiếng thì Luyện nói:

- Anh Xuyến hy sinh rồi không biết mẹ em có chịu nổi mất mát này không. Em xin thề sẽ trả thù cho anh. Anh Giáp anh Thái đừng lo, em không sao đâu. Mất mát này em chịu được. Em sẽ quyết tâm rèn luyện để trả thù cho anh Xuyến.

Nói xong em từ từ quay đi bước ra khỏi văn phòng trung đội...

Trong năm 1947, 1948 theo điều động của trung đoàn Trần Kim Luyện được cử đi học lớp mật mã và trở thành điện đài viên của trung đoàn bộ. Những năm ấy tôi và Đặng Thái được điều động đi mỗi người một công tác khác nhau, không ở gần Luyện nữa.


Cuối năm 1950 tôi được tin Luyện được cử đi học trường Lục quân khóa 6. Đến năm 1954 sau hòa bình lập lại tôi mới được biết sau khi học ở Lục quân Luyện được điều về đại đoàn 312 và tham gia nhiều chiến dịch như Tây Bắc năm 1952, Thượng Lào 1953, Điện Biên Phủ 1954. Em đã hy sinh tại mặt trận Điện Biên trong trận chiến đấu ở đồi E1 với cương vị đại đội trưởng.


... Năm 1995 tôi đã dự lễ kỷ nệm 50 năm ngày thành lập Thông tấn xã Việt Nam và lễ đón nhận Huân chương Sao vàng của đơn vị trong báo cáo tổng kết có nói đến công lao của anh Trần Kim Xuyến.

Tôi gặp anh Đỗ Phượng giám đốc TTX và hỏi về tình hình gia đình anh Xuyến. Anh Đỗ Phượng cho biết bà cụ cũng đã mất, toàn bộ gia đình chỉ còn một cô con gái của anh Xuyến hiện đang sống tại Đức.

Viết những dòng này để ghi lại hình của một em liên lạc kiên cường dũng cảm và thông minh như hàng trăm thiếu niên học sinh khác của Hà Nội, đã chiến đấu suốt 60 ngày đêm trên địa bàn Liên khu II và LKIII của Hà Nội, tôi vẫn còn một băn khoăn:


Không hiểu gia đình anh Xuyến cũng như nhiều gia đình khác đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng chưa?

Tháng 6-2000
HOÀNG GIÁP


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:49:00 am
NHỮNG KỶ NIỆM KHÔNG BAO GIỜ PHAI


1. Tổ cứu thương Quỳnh Lôi

Tôi mồ côi mẹ từ năm tôi 15 tuổi, đó là năm 1941. Từ đấy tôi sống với bà nội và cha. Cha tôi là bác sĩ, còn bà tôi thì đã già, chỉ ngồi trông nom công việc trong nhà.

Hai năm sau (1943) tôi gia nhập Việt Minh. Mối quan hệ với xã hội bắt đầu mở rộng. Có lần anh Quốc Uy đến thăm tôi với tính chất kiểm tra tổ chức cơ sở. Bởi nghĩ rằng cháu mình đã đến tuổi "trai gái" yêu đương (tôi đã bước sang tuổi 17), bà tôi thấy có thanh niên lạ đến tìm tôi thì tỏ ra lo ngại. Cụ vác ghế ngồi kề đó để canh chừng cháu. Khi cha tôi về nhà, bà nội tôi kể lại việc đó. Cha tôi gạn hỏi, không quen nói dối, tôi quanh co một lúc rồi đành khai thật tất cả. Cha tôi bảo "Bố cũng yêu nước. Nhưng con hoạt động thật sơ xuất quá, mật thám nó rình, không chừng có tên con trong sổ đen của nó rồi đấy. Con mà bị bắt thì lấy ai trông nom các em cho bố đi làm?". Sau đó cha tôi giao tôi cho cô chú quản lý. Không ngờ chú tôi đã giác ngộ cách mạng, đang hoạt động trong phong trào truyền bá quốc ngữ, mà tôi không biết.


Năm 1945, trong không khí sôi nổi của thanh niên Hà Nội lên đường Nam tiến đánh Pháp xâm lược, tôi hăng hái xách va li đến trụ sở ghi tên xin đi. Anh Phú Hương (là người phụ trách ở đó) hỏi tôi: "Cô đã xin phép gia đình chưa"? Tôi đáp: "Thưa anh chưa ạ"! Anh nghiêm nghị bảo tôi: "Vậy thì không được. Thôi cô về đi để dịp khác"! Tôi đành hậm hực quay về nhà.


Năm 1946, tôi được kết nạp vào "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác" (thời bấy giờ đó là tên gọi công khai của tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương ở Hà Nội). Mỗi hội viên được phát hai tấm thẻ CH và CB, để tiện liên lạc với tổ chức kháng chiến khi có chiến sự xảy ra. Và phải chuẩn bị hành trang gọn nhẹ, sẵn sàng nếu cần có thể giã biệt gia đình, lên chiến khu bất cứ lúc nào. Ôi "chiến khu" !... Với tôi lúc đó, hai từ ấy sao mà có sức quyến rũ lạ thường đến thế? Nó hàm chứa một niềm háo hức, mê say cùng với một chút lo âu, sợ hãi! ... Nhưng điều đó không đến, mà hành vi gây chiến tranh của bọn Pháp ở Thủ đô mỗi ngày càng trắng trợn hơn, Hà Nội sôi sục trong không khí chuẩn bị kháng chiến. Bà nội và các em tôi đi tản cư, ở lại chỉ có cha tôi, tôi và cậu Nghĩa (con nuôi của cha tôi, đồng thời là trợ thủ của người), lúc bấy giờ cha tôi là bác sĩ của Sờ Y tế Hà Nội. Trước đêm chiến tranh nổ ra, cha tôi (có cậu Nghĩa đi theo) lên xe của Sở Y tế ra khỏi thành phố, tôi không được tiễn.


20 giờ ngày 19/12/1946, đèn thành phố thình lình vụt tắt, đồng thời tiếng đại bác nổ rung chuyển cả bầu trời Hà Nội. Tôi hối hả đi thu dọn "khăn gói" để ra đi. Chẳng hề có một tý kinh nghiệm gì, tôi chỉ vác lên vai
một chiếc ba lô nhỏ xíu, trong đựng hai bộ quần áo và một cái khăn tay cùng gương lược, vẫn không quên lọ nước hoa "Soir de Capri" bé tý tẹo, có mùi hương thơm dịu mát mà tôi võn quen dùng! Toàn bộ "tài sản riêng", kể cả hai thứ đồ dùng mà tôi yêu quý nhất, đó là chiếc xe đạp và cây đàn pi-a-nô, với tôi như tay chân và tâm hồn của bản thân mình đều bỏ lại.


Tôi đi như chạy đến khu Bảy Mẫu để trình diện và xin công tác. Được chỉ định đến nhận công việc tại một tổ cứu thương tiền phương của khu 17 (Bạch Mai và Hoàng Mai) đặt tại Quỳnh Lôi. Đang ngơ ngác trên đường phố Bạch Mai để tìm lối vào làng Quỳnh, thì đột nhiên nghe thấy một tiếng quát rất to:

- Ai mà quần trắng áo dài thướt tha thế kia? Đạn Tây nó giết tươi bây giờ!

Tuy không nhìn thấy người quát hỏi, nhưng tôi lập tức nhận ra ngay người bị quát chính là mình. Tôi vội vàng quờ tay túm gọn hai vạt áo lên ngực, một tay vén cao hai ống quần, lom khom chạy nhanh vào một cái ngõ gần ngay đấy. May sao lại đúng lối vào trạm cứu thương Quỳnh Lôi, thế là thoát!


Là học trò gái ở Hà Nội thời bấy giờ hàng ngày đi học ai cũng mặc áo dài (kiểu "tân thời"do họa sĩ Cát Tường chế tạo ra) với quần lụa trắng. Đa số là đi xe đạp, chỉ một số ít gia đình giầu có mới sắm xe nhà và thuê "anh xe" để đưa đón con đi học.


Trước khi tản cư, bà nội tôi đã sắm cho tôi một cái quần lụa đen và một cái áo cánh vải màu nâu tây, tôi vẫn cất kỹ trong ba-lô lúc súng nổ vội vã quên chưa kịp thay.

Tổ cứu thương tiền phương của chúng tôi ở Quỳnh Lôi có sẵn ba chị là chị Hải Phương (ủy ban chấp hành hội phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu) làm tổ trưởng; chị Uyên (đội trưởng đội chiến đấu Hoàng Diệu) và chị Bảo là tổ viên. Nay thêm tôi nữa là bốn đứa con gái với một anh con trai tên là Tỷ (sinh viên Y khoa) là năm người. Vài hôm sau lại có thêm một chị nữa (là cô của chị Duyên) tên là Nguyện đến tham gia. Tổng cộng năm gái, một trai! Chúng tôi quen nhau rất nhanh, đặc biệt là năm đứa con gái, cứ ríu rít suốt ngày. Thời gian này công việc chưa gấp lắm, chúng tôi còn có thì giờ đi sinh hoạt Đảng ở chi bộ Phố Huế (tổ Đảng của chúng tôi có ba chị em, là chị Phương, chị Duyên và tôi do chị Phương làm tổ trưởng), chị Hải Phương vẫn bố trí được thời gian đi kiểm tra hoạt động của các tổ chức phụ nữ thuộc phạm vi chị phụ trách.


Trong mấy ngày mới quen nhau ấy, có một chuyện vui đã xảy ra khiến chúng tôi ai nấy đều rất muốn nhắc lại để cười với nhau: Chiều hôm ấy chị Phương rủ Duyên đi kiểm tra hoạt động của chị em khu vực Thanh Lương, Đống Mác. Mỗi người một chiếc xe đạp (bà con tản cư không vác qua ụ được, vứt lại ở cửa ô rất nhiều), khi đi trời còn sáng và đường phố vẫn nguyên vẹn, khi đi về thì trời đã tối đen và đường thì dân quân, tự vệ đã đào hầm chống xe tăng. Hai chị em không biết cứ thế lao đi. Hẫng một cái chưa kịp hiểu ra làm sao thì cả hai chị cùng với xe đạp nằm chồng lên nhau dưới lòng hố! Sau một lúc định thần lại, sờ nắn chân tay thấy không giập, gẫy chỗ nào mới hoàn hồn. Chị Phương cáu sườn gắt bâng quơ "chả nhìn thấy cái ma toi gì cả" Hai chị em lại rúc rích cười rồi giúp nhau kéo xe lên. Tiện thể cùng kéo nhau về nhà riêng, "vơ vét" mỗi người một bọc quần áo, kèm theo cả một chiếc khăn bông to đùng. Chất hết lên xe nhà gọng đồng, cả hai cùng leo lên ngồi nghễu nghện, nhờ anh xe kéo đi, "tản cư" về ... xóm Quỳnh Lôi !.. Khiến "cả nhà" được một phen được cười quặn cả ruột.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:49:37 am
Năm chị em trong tổ, có hai chị "nổi bật" (hơn hẳn mọi người). Chị Bảo có dáng người đậm đà với nước da trắng trẻo, gương mặt tròn trịa, cặp mắt u ẩn, và miệng luôn phẳng phất một nét cười lặng lẽ, hơi buồn. Tuy mới học làm cứu thương, nhưng chị rất khéo tay và cần mẫn. Ngoài nhiệm vụ chăm sóc thương binh, thì chị sẵn sàng bỏ hàng giờ nghỉ ngơi đi giặt một đống quần áo bê bêt những máu đọng của thương binh phơi khô rồi vá víu bằng hết mọi vết rách, đính lại từng chiếc cúc áo đứt! Chị Nguyệt thì lại rất chất phác, lành hiền. Chị là con vợ lẽ, lại mồ côi mẹ và đã 24 tuổi, tất cả chúng tôi đều tôn chị làm chị cả. Và chị hết sức xứng đáng với "ngôi vị" ấy. Không những chị chăm sóc rất chu đáo cho từng anh thương binh, mà còn chăm lo cho cả mỗi đứa chúng tôi nữa, không phân biệt đứa nào hơn hay kém. Cứ y như một người chị lớn đảm đang trong gia đình. Chị có được đi học nhưng sức học rất thấp bởi phải nghỉ học sớm để lo nội trợ cho gia đình. Chúng tôi ai cũng rất yêu quý chị.


Thời gian này chúng tôi không phải lo gì về bữa ăn. Ngày nào cấp dưỡng của mặt trận cũng mang đến tận nơi, phát cơm với muối vừng và thịt trâu kho muối (mỗi suất một miếng to bằng nửa nắm tay, dai như chão) lại có khi được phát xôi với cả thịt chó nữa! Là học trò gái ở Hà Nội, chúng tôi chưa ai được ăn thịt chó bao giờ, nên thoạt tiên thì sợ, sau cảm thấy ngon hơn cả thịt bò.


Thế rồi, chiến sự ngày một gay gắt hơn. Anh em ta bị thương chuyển về nhiều. Chúng tôi tối tăm mặt mũi làm không hết việc, không còn biết giờ giấc là gì!.. Biết bao trường hợp hết sức thương tâm phơi bầy ra trước mắt chúng tôi, khiến cho chúng tôi ai nấy cũng run cả tay, không phải vì kinh sợ, mà không sao kìm nén nôi lòng thương cảm trước những nỗi đau đớn khủng khiếp của các thương binh.


Cho tới tận ngày hôm nay, đã hơn 53 năm trôi qua, mà tôi vẫn không sao quên được người thương binh ấy, tuy tôi không biết tên anh. Anh còn trẻ lắm, chỉ chừng 15, 16 tuổi (còn kém cả tuổi em trai tôi), quần áo tơi tả và bê bết bùn đất, mặt nhợt nhạt vì hết máu, hai giẻ xương quai hàm đóng chặt cứng lại, cặp mắt to tròn giương lên hết cỡ, và toàn thân thì cứ rung lên từng nhịp cố gắng kìm nén cơn đau, hai bàn tay mảnh dẻ cứ khư khư bịt lên mảng bụng rách rát, mà ruột vẫn còn lòi ra. Đang ăn dở bữa cơm chúng tôi vội quăng bát đũa đứng lên bắt tay ngay vào công việc cấp cứu cho anh.


Tôi đã được học hai khóa cứu thương, và thực tế đã cấp cứu cho hàng chục trường hợp bị thương, trong những ngày vừa qua. Vậy mà hai tay tôi cứ run bắn lên khi cầm cái bát ô tô úp lên bụng anh, rồi luồn tay qua sau lưng anh để buộc băng cấp cứu (như đã từng học và thực tập ở bệnh viện nơi cha tôi công tác). Làm xong tôi cảm thấy mình nghẹn thở. Chị Hải Phương kiểm tra rồi lập tức cho chuyển ngay về tuyến sau.


Từ ấy tôi hằng nghĩ một mình: không biết anh thương binh ấy còn sống không?

Lắm khi, vì phải tiết kiệm nước sạch, chúng tôi chỉ có thể lau qua hai bàn tay dính máu thương binh, rồi tiếp tục cầm cơm nắm ăn với nhau, trong nỗi ngậm ngùi thương cảm vẫn còn vương vấn trên gương mặt mỗi người.


Một kỷ niệm nữa mà tôi cũng rất nhớ. Đó là: Thời bấy giờ, không hiểu vì đâu mà chúng tôi lại "ngây ngô" đến thế. Có một anh thương binh không kịp chuyển về tuyến sau, đã hy sinh, vào phiên tôi trực. Một mình tôi với một "xác chết" trong một căn nhà gianh trống trải, giữa đêm tối quạnh vắng đến rợn người. Tôi lần mò ra sau nhà chặt được một khúc thân cây chuối nhỏ, mang vào đặt ở trên cạnh đầu người tử sĩ. Rất may trong xó nhà có một cái đèn hoa kỳ vẫn còn dầu. Tôi đốt lên đặt cạnh chỗ anh nằm rồi ra bậu cửa ngồi canh. Không ai quy định cho chúng tôi phải làm điều ấy, nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn tôi cứ mơ hồ cảm thấy mình sẽ rất đáng trách, nếu như để anh ấy nằm một mình ở đấy!... Thế là, mặc dù rất sợ, trống ngực đập liên hồi, tôi vẫn cứ nắm chặt hai bàn tay lại thành quả đấm, tự đập lên đùi. Còn mồm thì lẩm bẩm như cầu kinh "Cóc sợ! Cóc sợ! Ông cóc sợ".


Còn một điều tưởng như rất "tầm thường" nhưng lại là nỗi khổ tâm "vô cùng dai dẳng" đối với mỗi chúng tôi, ở vào thời gian ấy. Chỉ vì chúng tôi là phận gái(!) là cái phận mà tạo hóa bắt "có tội" theo định kỳ! ... Đa số chúng tôi khi ấy là học trò gái hầu hết "con nhà có đủ bát ăn" tuổi đời còn quá trẻ, chưa quen tự chăm lo cho bản thân mình.


Nhưng rồi chúng tôi đều vẫn "dũng cảm" vượt qua. Xin nói nhỏ: kể cũng đáng hãnh diện về một điểm hơn hắn các "đồng chí nam nhi" sinh cùng thời với chúng tôi đấy chứ?

Chuyện đã năm mươi ba năm rồi, năm chị em chúng tôi ngày ấy đã nguyện ước cùng nhau "năm đứa thành lập một gia đình trong kháng chiến. Sẽ suốt đời gắn bó với nhau"! Điều nguyện ước ấy may sao khi Liên khu II chuẩn bị giải tán, chúng tôi gặp được anh Khoát, anh đã vui lòng chụp cho chúng tôi một tấm ảnh để lưu lại lâu dài.


Năm đứa chúng tôi trong ảnh, sau chiến tranh chống Pnáp chỉ còn lại bốn, chị Nguyệt đã hy sinh trong trại giam của giặc Pháp. Còn bốn chị em đều đã "lên bà" và có tổ ấm riêng yên vui, hạnh phúc. Gần đây chị Bảo, chị Duyên cũng đã lần lượt vĩnh biệt cõi trần ai, để trở về nơi hư vô cực lạc.


Chỉ còn lại chị Hải Phương và tôi, hai trong số năm chị em ở tổ chức thương binh ở làng Quỳnh Lôi thời ấy!


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:50:16 am
2. Kể chuyện chị Lê Thị Nguyệt từ Ô Cầu Dền đi vào cõi bất tử

Sau 19/12/1946 vài ngày, chị Nguyệt đến nhập vào tổ cứu thương Quỳnh Lôi với chúng tôi. Chị là cô của Duyên (một tổ viên trong tổ) nên chúng tôi "thành chị thành em" của nhau rất nhanh.

Chị Nguyệt được học chữ ít hơn chúng tôi, vì chị được sinh ra trong một gia đình chỉ có hai chị em gái (không có con trai) do hai bà mẹ khác nhau sinh ra, mà chị lại là con của vợ lẽ và mồ côi mẹ rất sớm, phải tự mình đảm đương mọi công việc nội trợ của gia đình. Có lẽ vì thế mà chị rất thạo việc cơm áo cho mọi người. Tôi còn nhớ, thời gian sống cùng nhau, lúc đầu ở Ô Cầu Dền có tổ chức hậu cần của mặt trận phụ trách việc ăn uống cho tất cả mọi người, chúng tôi không lo lắng gì. Nhưng khi rút ra khỏi Ô Cầu Dền, không có tổ chức nào chịu trách nhiệm nuôi chúng tôi nữa. Mà chúng tôi lúc ấy lại có thêm ba bác sĩ và mười một sinh viên, trở thành hai mươi miệng ăn!.. Tôi hoàn toàn không hiểu chị Nguyệt đã chạy vạy cách nào mà vẫn đảm bảo cho chúng tôi có ăn (không được cơm thì cũng có cháo).


Chị có dáng người thon thả, mảnh mai. Tính nết nền nã và rất hay cười. Đối với công việc, chị không nề hà bất cứ việc gì. Khi cần cứu thương, chị sẵn sàng làm cứu thương. Dù rằng chị chỉ là cứu thương "vừa làm vừa học", không hề qua một lớp chuyên môn nào. Kẽ từ công việc băng bó, nâng giấc thương binh, tắm rửa giặt giũ cho anh em, hoặc "bưng bê, đổ chậu", xúc cơm, bón cháo, hay làm việc tải thương khiêng cáng... chị đều làm với thái độ rất cần mẫn, hết lòng hết sức. Khi cần người nấu ăn chị cũng vui vẻ làm.


Cho đến khi Liên khu II giải thể, chị được trên điều động về cơ quan công an quận 6 cùng với chị Hải Phương và chị Duyên. Sau đó lại được cử vào nội thành hoạt động hợp pháp. Chị trở về nhà làm nội trợ cho người chị gái cùng cha khác mẹ để hoạt động.


Một thời gian ngắn, đứa em họ của chị (cũng là công an quận 6 được cử vào) tên là Hùng, phản bội, chỉ điểm cho Pháp bắt chị!

Chị bị chúng giam ở Nhà Tiền (xí nghiệp in Tiến Bộ bây giờ). Chúng tra khảo chị rất dã man mà không khai thác được gì. Cuối cùng chúng dùng chính tóc chị để treo chị lên xà nhà, rồi tiếp tục tra tấn (chị có mái tóc mềm và dài quá gối, những ngày được sống chung, chúng tôi ai cũng thèm được có mái tóc như chị). Bị đánh, chị quằn quại mãi cuối cùng từng mảng da đầu của chị tuột ra khỏi sọ. Chị rơi xuống đất ngất xỉu rồi hy sinh!


Hôm đó, trong lao, anh em tù chỉ nghe được tiếng của một người bạn tù nào đó hét rất to: "Anh chị em ơi! Chúng nó tra tấn đến chết chị Nguyệt rồi"!

Không ai được biết kẻ thù đã vứt xác chị Nguyệt ở đâu.

Chị Nguyệt bình sinh ít nói, và chị cũng lặng lẽ đi vào cõi bất tử, dâng hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân trong trắng và tươi đẹp cho đất nước. Chúng em xin vĩnh biệt chị thân yêu!

NGUYỄN THỊ NGHIÊM
(Viết theo lời kể của chị Toàn,
bạn tù cùng chị Nguyệt ở Nhà Tiên khi ấy)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:51:27 am
MỘT LẦN BỊ THƯƠNG


Cách đây ít ngày tôi có một cuộc trao đổi qua điện thoại thật bất ngờ:

- Từ Thức phải không?

- Vâng ai đấy?

- Nhân đây!

Tôi ngẩn ngơ (vì tên khai sinh của tôi cũng là Nhân) hỏi lại:

- Nhân nào? Nhân ở trong Nam à? (vì tôi cũng có người bạn học cũ tên là Nhân hiện đang ở thành phố Hồ Chí Minh)

- Không phải, mà là người khênh cáng đưa cậu máu me đầy người từ Ô Cầu Dền về trạm mổ Văn Điển đây!

- Làm gì có chuyện ấy, tôi đã đi bộ từ Ô Cầu Dền về Văn Điển cơ mà! Này (tôi chợt nghĩ ra), cái tay Nhân ấy chính là cậu phải không?

- Đúng!

- Thế thì đến tôi đi, xem mặt mũi tay Nhân ấy như thế nào!

Ngày hôm sau, một ông đẹp lão người cao lớn gõ cửa bước vào nhà tôi. Tôi vẫn còn ngơ ngác.

Rồi câu chuyện bắt đầu, dần dà tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra cái ông Nhân (thường gọi là Hồng Nhân) này trước đây là người của quân đội đặc phái sang công tác ở Ủy ban kháng chiến Liên khu II, chịu trách nhiệm công tác thương binh.

Sự việc diễn biến trước đây 50 năm như sau:

Trước ngày toàn quốc kháng chiến, tôi chỉ thỉnh thoảng viết bài đăng báo phê phán chủ nghĩa thực dân Pháp, rồi tham gia mặt trận Việt Minh, làm công tác tuyên truyền ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, chống Quốc dân đảng, Đại Việt v.v...


Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ tôi được đoàn thể chỉ định tham gia một tổ tuyên truyền kháng chiến, có nhiệm vụ viết bài để phát thanh. Chiều ngày 19/12 năm ấy, tôi lặng lẽ rời bỏ căn phòng nơi tôi ở gần Cửa Nam, cùng với tổ tuyên truyền đi về Phố Huế. Ở đây dưới vòm trời lửa đạn, dòng người ngược xuôi bộn bề trăm công nghìn việc, sục sôi chiến đấu, tôi thấy ra việc mình đương làm lúc này là thừa, tôi quyết định cầm súng.


Đi xuống chùa Sét, phía dưới khu Trương Định, tôi gặp Quốc Đảm vừa mới ra khỏi bệnh viện và nhiều thanh niên tự vệ chiến đấu lạc đơn vị.

Đồng chí Hoàng Kiện, tiểu đoàn trưởng 77 cũng ở đây, đương tập họp lực lượng, tôi đến bên mấy anh em tự vệ chiến đấu đương nằm lả trên tấm phản trong chùa, thản nhiên mượn anh em hai khẩu Sten và một vốc đạn (vì một khẩu súng không có băng đạn). Tất nhiên, tôi trao cho Quốc Đảm một khẩu Sten và một vốc đạn rồi đến gặp đồng chí Hoàng Kiện nhận nhiệm vụ chiến đấu. Đồng chí Hoàng Kiện giao nhiệm vụ cho chúng tôi tập hợp những tay cầm súng còn lại ở chùa Sét, sẽ từ cuối ngõ Khâm Thiên, phối hợp với một đơn vị tại chỗ (một trung đội độc lập), tiến đánh Nhà Dầu Khâm Thiên. Trận đánh không thành vì quân ta thiếu hỏa lực.


Sáng hôm sau, chúng tôi lại lôi kéo được một nhóm anh em tự vệ khác đến gặp đồng chí Đào, chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu II ở Phố Huế, xin được điều động tăng cường cho đơn vị bộ đội phía trên.

Ở nhà đại tá Lamy (nay là đại sứ quán Pháp), tôi gặp đồng chí Quý trung đội trưởng của C14, D212. Được tăng viện, đơn vị đồng chí Quý chuyển trở lại trại Bảo an binh phía bên kia đường và cho áp giải về hậu phương may phụ nữ người Pháp. Sau khi bàn bạc với tôi về việc bố trí đội hình chiến đấu, đồng chí Quý cho chuyển quân trở lại nhà đại tá Lamy hướng mũi phục kích về phía bắc, lấy phía nam làm điểm tựa. Khi vượt qua đường Trần Hưng Đạo, đồng chí Quý bị thương do một phát đạn xuyên chéo của một ổ phục kích nào đấy của địch quanh đó.


Đồng chí Quý được các chiến sỹ đặt lên cáng khiêng về phía sau. Lúc ấy tôi nghe thấy tiếng đồng chí Quý vẳng lại: Anh nhà báo thay tôi chỉ huy (đồng chí Quý vẫn gọi tôi là anh nhà báo).

Đồng chí Quốc Đảm gặp lại đơn vị cũ. Rồi các chiến sỹ đơn vị đồng chí Quý cũng chuyển đi theo đội ngũ của họ. Hôm sau tôi trơ lại Ô Cầu Dền, quanh quẩn tìm cho mình một vị trí chiến đấu và tôi đã gặp Mạc Lân, Quang Thỏa là hai thanh niên gốc gác chùa Vua. Chúng tôi đến nhập vào một đơn vị bộ đội đã nằm phục kích địch bên kia ụ Ô Cầu Dền. Phía bên này ụ là một dãy nhà hai tầng, ngôi nhà thứ nhất đã bị cháy đen nham nhở, trước cửa ngôi nhà ấy là một chiếc xe tăng địch với khẩu 12 ly 7. Chẳng hiểu mô tê gì về kế hoạch tác chiến của quân ta, tôi hô mấy đồng chí tự vệ chiến đấu cùng với tôi, Mạc Lân, Quang Thỏa vượt qua ụ chui vào ngôi nhà cháy bò lên cầu thang gác, lần ra ngoài ban công. Tôi hô: Xăng crếp, rồi: lựu đạn! Trời ơi, các ông nội quên không rút chốt lựu đạn, kết quả còn lại chỉ là những tiếng chai vỡ, cục gang tròn lăn lông lốc dưới đường. Có lẽ địch cũng chẳng hiểu mô tê gì nên không động tĩnh. Chúng tôi lại lặng lẽ rút ngược xuống cầu thang cháy dở, lao trở lại phía bên kia ụ, bình yên vô sự.


Tôi không nhớ chính xác ngày nào sau đó, tôi đi xuống phía Giáp Bát và gặp được đồng chí Phùng Thế Tài đương huy động lực lượng lên tiếp viện cho đơn vị bộ đội chốt ở Ô Cầu Dền. Tất nhiên tôi lại ngược trở lại Ô Cầu Dền với khẩu Sten trong tay, cùng một vài tự vệ chiến đấu đi theo, còn có một sĩ quan Nhật với thanh kiếm dài lê thê bên người cùng đi. Cũng vẫn ở vị trí cũ trước ngôi nhà cháy dở, xe tăng địch hướng khẩu 12 lv 7 về phía chúng tôi nhả đạn, tôi bò đến sau một gốc cây không có gì là lớn lắm lấy nó làm lá chắn, người nằm sát đất hướng mũi khẩu Sten của tôi về phía trước. Cứ như vậy đến vài chục phút, những phát đạn 12 ly 7 vây quanh người tôi. Hắn địch đã chắc chắn là không còn có thể có sự sống nào tồn tại nơi khẩu 12 ly 7 hướng vào và chiêc xe tăng từ từ lùi lại, quay mũi. Lúc ấy tôi thấy nóng bên vai phải nhưng không thấy đau đớn, tôi biết là tôi đã bị thương vào phần mềm. Tôi đứng dậy chuyền khẩu Sten sang tay trái (khẩu Sten bị thương như tôi, đúng ở cò súng, đầu ngón tay trỏ của tôi...). Tôi đứng lên, thấy không còn ai bên tôi, tôi một mình đi ngược về phía Văn Điển tìm một trạm cứu thương nào đó. Chính ở đây đồng chí Nhân đã đón tôi, đưa tôi vào gặp bác sĩ Đặng Văn Chung để cắt, mổ và khâu vết thương, không có thuốc tê, chỉ có éther đốt cháy thịt da, thực hiện ca mổ với bệnh nhân ngồi trên bàn, một điếu thuôc lá trên môi và bác sĩ ngồi dưới ghế với dao, kéo trên tay. Sau ca mổ tôi xin bác sĩ một lọ éther để chuẩn bị cho những lần thay băng tiếp sau và tìm đến một nhà dân, cạnh trạm mổ xin ngủ nhờ. Sáng hôm sau tôi trở lại mặt trận với khẩu Sten không còn sử dụng được.


Tôi lại đến gặp đồng chí Phùng Thế Tài xin nhận nhiệm vụ. Đồng chí Tài sau một phút ngần ngừ đã giao nhiệm vụ cho tôi chỉ huy một trung đội đặc biệt, có thể gọi là trung đội cảnh vệ, án ngữ Ô Cầu Dền (sau khi đơn vị đồng chí Lê Trang chuyển đi theo hướng tây bắc).


Địch nống ra hướng về phía nam. Quân ta rút khỏi khu vực Ô Cầu Dền lùi về phía Hà Đông. Đồng chí Phùng Thế Tài giới thiệu tôi về d77 do đồng chí Hoàng Kiện chỉ huy. Tôi và Mạc Lân, Quang Thỏa đến trình diện với đồng chí Hoàng Kiện và được điều xuống đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của tôi lúc ấy mới thực sự bắt đầu trong tiểu đoàn chủ lực của Khu đặc biệt Hà Nội, cũng là chiến khu XI cũ do đồng chí Vương Thừa Vũ làm khu trưởng, đồng chí Trần Độ, sau đó là đồng chí Đức Kiên chính ủy chỉ huy.


Ở cương vị mới trong C2, trung đội chúng tôi đã thu được một chiến công bất ngờ: Khi đóng quân ở Nam Dư Hạ, Yên Duyên sát đê sông Hồng vào một buổi sáng tinh mơ, Quang Thỏa chạy vào gặp tôi bên giường báo là có địch, tôi ra ngoài nhìn lên đê thấy dày đặc trong sương mù một khối dài xám xịt mang hình thù những xe cơ giới và lính. Trận địa đã được bố trí sẵn, tôi bình tĩnh xem xét theo dõi hành động của địch. Trời sáng dần ra, chúng tôi thấy chúng chuyển quân xuống đám ruộng dưới đê và bố trí hỏa lực nã vào Yên Duyên, có nghĩa là chúng quay lưng về phía chúng tôi. Chúng đã không ngờ sự có mặt của bộ đội ta ở phía sau chúng. Chúng tôi chỉ có một khẩu trung liên do một tổ chiến đấu phụ trách bên cạnh trung đội bộ. Tôi cho gác khẩu trung liên lên một cây ổi, hạ lệnh quét thẳng vào lưng đám lính Tây trước mặt. Lính chúng tôi hò reo: "Trúng rồi! Trúng rồi!". Thế rồi bọn địch láo nháo rút đi, cáng theo một hình thù gì đó. Khi trời sáng bạch thì trên đê cũng trống vắng như mọi buổi sáng trước đó. Chúng tôi đi ra phía ruộng nơi bọn lính Tây rút đi và lượm được một khẩu Parabellum mới tinh, một chiếc ba toong nhãn Đà Lạt của sĩ quan chỉ huy và một bao thuốc lá Philip chưa bóc tem. Hóa ra chúng tôi đã gặp may, với một vài loạt đạn trung liên kết thúc đời một tên sĩ quan chí huy Pháp... và buộc chúng rút lui không kèn không trống. Sau đó tôi nộp khẩu Parabellum và chiếc gậy chỉ huy lên cấp trên, còn bao thuốc lá tất nhiên chúng tôi chia nhau để thả khói ăn mừng thắng lợi!


Trong những năm tháng sau này, trên cương vị chỉ huy một đại đội độc lập, tôi đã trải qua những trận đánh ở Thạch Bích và dọc theo đường quốc lộ số 1, đê sông Hồng, ở Sơn Tây, đường 5, đường 21, Hạ Bằng... sau đó tôi được lệnh lên Việt Bắc dự lớp trung cao cấp chuẩn bị tổng phản công (cuôi 1949) rồi được điều về trường sĩ quan lục quân làm cán bộ nhà trường, ở bên kia biên giới. Lần bị thương ấy cũng là lần duy nhất trong cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi, đã cho tôi có dịp được góp một phần nhỏ máu thịt vì đất nước thân thương.


Hà Nội, ngày 4 tháng 11 năm 1996
TỪ THỨC


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:52:34 am
ANH ĐỨC


Tưởng niệm hương hồn người chiến sĩ vô danh đã chiến đấu và hy sinh anh dũng tại chiến lũy Ô Cầu Dền trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.


1. Người không có họ

Mặc dù đã quen biết anh từ thủa tôi còn là một học sinh lớp "đồng ấu" của trường Công Ích (trường lớn nhất ở Bạch Mai khi ấy); vậy mà, cho tới mãi khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra và tôi đã trở thành một thanh niên chững chạc, đủ tư thế, đàng hoàng "đứng chung một chiến hào" cùng anh trên trận tuyến Ô Cầu Dền này để đánh trả kẻ thù xâm lược Pháp, thì tôi vẫn chưa biết được rằng anh mang họ gì? Lê, Trần hay Nguyễn, Phạm? Anh là người gốc gác ở Hà Nội này hay từ nơi nào phiêu bạt tới? Cũng như mọi người cư dân sống trong vùng Ô Cầu Dền, tôi chỉ biết tên anh là Đức! Anh kiếm sống bằng công việc mổ lợn thuê. Anh không có nhà; không có cha mẹ, anh em, vợ con! Và cũng chẳng thấy anh "bắt bạn" với một người nào ở đất Bạch Mai này.


Có lẽ do đặc điểm nghề nghiệp, mà cũng có lẽ là để cho dễ phân biệt giữa anh với những người khác cũng có tên là Đức ở chung khu vực, nên đã có ai đó khởi xướng ra cái sự khép vào với cái tên cúng cơm của anh hai chữ "đồ tể"!... Mọi người tiện miệng đua nhau gọi mãi thành quen. Anh không ngỏ ý tán thành mà cũng chẳng tỏ ra phản đối, cứ lặng thinh làm như chẳng có chuyện gì xảy ra. Vậy là, từ con trẻ tới các cụ già, mỗi khi ai có việc gì cần phải thuê mướn, sai bảo anh, đều gọi "Anh Đức đồ tể ơi! Lát nữa tới hộ nhà em tí việc nhé!"... hoặc "này Đức đồ tể, lại đây tao bảo!" v.v...


Tương tự như ở lớp vỡ lòng của ta bây giờ.

Anh là người rất tiết kiệm lời. Đến mức đã có một cô gái ưa xoi mói dám thách đố bạn "... Ta dám cược với cô mình năm hào nếu nghe được trong một ngày mà tay Đức "đồ tể" chịu mở miệng nói tới câu thứ ba, ngoài hai câu "biết rồi" và "tao một suất". Với điều kiện cấm không được "trêu ghẹo" hắn!".


Còn về cái tài nghệ hơn người của anh ta trong việc mổ lợn thuê, mà ở đây người ta thường kháo nhau: Nom hắn, với con dao bầu trứ danh trong tay, một mình "xử" gọn một con lợn tạ mới ngon mắt làm sao! Đến xiếc cũng đành phải cúi đầu xin.... xách dép!" và v.v... thì thôi xin được lược bỏ, bởi điều đó ít dính líu đến chuyện tôi muốn kể về anh.


Về anh: ngoài công việc mổ lợn thuê, được coi là nghề nghiệp chính, anh còn được nổi tiếng là một con người "bách nghệ", nghĩa là hầu hết tất cả các công việc thợ mộc giản đơn anh đều biết làm và làm được, tuy không ở đẳng cấp cao! Cộng vào đây, anh lại mang trong máu một tính cách khác đời! Ấy là luôn sẵn sàng "phục vụ", kể cả không công cho bất kỳ hạng người nào, khi đã có lòng yêu mến gọi tới anh, để sai bảo hoặc nhờ cậy. Kể từ móc cái cống bị tắc, đào cái "tăng sê" tránh bom Nhật, chữa cái chạn bát hay cái ghế hỏng, hoặc cái khóa hóc; thậm chí cả đến những chiếc giầy "há mõm" và v.v... anh thản nhiên gật đầu nói "biết rồi"! Thế là anh lắng lặng bắt tay vào việc, làm cho tới kỳ xong mới nghỉ! Lạ một điều, là khi nói đến cái sự công sá, thì anh lại tỏ ra hết sức vô tâm. Mỗi khi làm xong công việc, nếu chủ nhà nhớ ra, vui vẻ dúi vào tay anh lưng bát rượu trắng với chiếc bánh đa hoặc bìa đậu phụ nướng, nếu không tiện có rượu trắng, bánh đa thì một chút tiền "tùy tâm", anh chẳng hề từ chối. Ngược lại, nếu gia chủ có vì cớ gì mà cố nhãng ý, quên đi thì anh cứ việc lẳng lặng đi ra cửa, không bao giờ chịu mở miệng thốt ra một lời hỏi, chào hoặc cám ơn! Kẻ cả khi có công hay không công!


Đến bữa, anh lững thững tới quán cơm bà Ba Nhỡ, cẩn thận kéo đầu một chiếc ghế gỗ "cóc gặm" cho nhích rộng ra, rồi ngồi xuống lặng lẽ chờ. Khi cái Tèo (đứa con nuôi của bà Ba), ngơi tay, chạy tới tủm tỉm cười và nháy mắt với anh, thì anh mới khẽ khàng nói: "Tao một suất"!... Một suất của anh đã thành định lệ, nó gồm năm xu rượu trắng, hai xu lòng trâu xào lá tỏi, nếu hết thì có thể thay bằng bánh đa hay đậu phụ nướng, ba xu cơm, một xu rau, hoặc dưa cà! Ăn uống xong, nếu không phải làm việc tiếp, lập tức anh tìm chỗ ngủ. Về cái "đức" ngủ của anh xem ra cũng đáng kể: nó thoái mái vô cùng. Nếu là ban ngày, anh rất thích được ngồi nga ngả, tựa lưng vào cái gốc cây si già khú đế ở sân tam quan chùa Liên Phái. Cái kiểu ngủ dở ngồi dở nằm này xem ra rất hợp với tạng anh. Bởi anh nghiệm thấy, ban ngày mà ngủ nằm chỉ tổ hay mộng mị vớ vẩn, khiến khi ngủ dậy người nhọc như sắp ốm, không chơi được! Còn ban đêm, lại thật tiện; sẵn có hàng tá các phản bán thịt "công cộng", đã được các "bà nàng" cọ rửa tinh tươm từ sớm, ráo hoảnh cả rồi! Chỉ cần manh chiếu rách lót lưng, ngã vào cái nào chẳng được. Muốn ngủ say mấy cũng chẳng can cớ gì, khắc đã có người tới tận "giường" mời dậy đi làm, chẳng phải tốn một nửa bước chân để đi từ nhà đến "sở" như bọn ký lục, thông phán người nhà nước!


Anh cứ sống như thế, ung dung tự tại, như một cỗ máy tự động vô hồn, kể đã có hàng chục năm ròng.

Ngày Cách mạng Tháng Tám, toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa, cả nước sôi lên, đường xá phố phường, người và cờ đỏ sao vàng cứ cuồn cuộn chảy y như nước lũ sông Nhị Hà tháng Bảy. Tiếng hô khẩu hiệu "Việt Nam độc lập muôn năm" vang dậy trời đất! Vậy mà, anh cứ lặng lẽ sống và lặng lẽ làm mọi việc, theo cách sống và cách làm của riêng mình! Có người hỏi, gọi, lại cắm cúi làm! Cho mãi tới tận cái ngày (tôi không còn nhớ được thật chính xác là vào ngày nào) của tháng giêng năm 1947. Nghĩa là đã sau cái đêm tiếng đại bác của pháo đài Láng nổ rung chuyển cả đất trời Hà Nội, báo hiệu cuộc kháng chiến, toàn quốc chống thực dân xâm lược Pháp của cả dân tộc Việt Nam đã bắt đầu, được hàng chục ngày rồi... Chúng tôi bỗng thấy anh xuất hiện, trong một bộ trang phục rất không bình thường. Tuy vẫn là cái bộ "com-lê muôn thủa" ấy của anh, quần lửng áo màu cháo lòng cạp lá tọa, áo cánh nâu cộc vải vuông, chéo vạt, cổ cao kiểu nhà chùa. Và vì tiết trời còn đang lạnh, nên có thêm chiếc áo vệ sinh "tô đỉa" khoác ngoài... cái khác thường là ở chiếc thắt lưng bao bằng lụa màu đỏ tươi, rất "bà đồng" chẳng hiểu anh kiếm được ở đền miếu nào, đã mang thắt nó lên ngang bụng để xòe hai chiếc vạt áo trước sau phẳng phiu, nghiêm chỉnh, lại còn tỉ mẩn kết hoa, bỏ múi bên sườn và buông đủ hai cái tua lệch phơ phất xuống ngang phía đùi bên trái, còn con dao bầu trứ danh, cái "cần câu cơm" của anh, lúc này cũng được bọc trong mảnh khăn rửa mặt, kẹp ngang nách!


Với kiểu cách trang phục ấy, anh nhẩn nha dạo bước ngang qua mặt chúng tôi. Đã khiến cho đồng chí Cát, một vị "nạ dòng" ngang tầm tuổi Đức làm nghề khuân vác, xởi lởi cười hỏi.

- Chà chà chú đi đâu mà nom "hách xì đằng" thế, Đức "đồ tể"?

Đang đi, Đức dừng chân ngoắt người lại, từ từ nắm bàn tay to sụ chống lên ngang hông, mặt hơi vênh vênh đáp:

- Còn phải hỏi. Đi chơi nhau với bọn lõ, chứ còn đi đâu nữa!

Cát cười ré lên, kêu to:

- Ối làng nước ơi, chúa thằn lằn! Thì ra "xừ" Đức "đồ tể" mà cũng muốn xung phong giết giặc cơ đấy! Vậy thì xin mời, vào đây. Nào, vào đây!

Vẫn với nắm tay chống nạnh, vẫn với vẻ mặt hơi vênh vênh, Đức tiến lại gần Cát, khóe miệng anh chợt khẽ nhếch lên phác ra một nét cười rất mực... kẻ cả, và, bằng một cái giọng tưng tửng, khê khê, anh tuôn ra một tràng dài hết sức bất ngờ:

- Hì! Vào theo đuôi các "cậu ông giời" để mà cứ nhấp nhổm thập thò như lũ cóc trong hang í à? Đã gọi là kẻ trượng phu, mang thân ra xông pha nơi trận mạc để mà diệt thù cứu nước, mà lai chơi cái trò ấy, thì nói khí vô phép, có mà đánh... vợ!

Dứt lời, anh lững thững bước đi không thèm ngoái lại.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:53:29 am
2. Nhập cuộc!

Tôi không nhớ rõ hai bên "cầm cự" nhau như vậy đã được mấy ngày, thì xảy ra việc anh Đức "đồ tể" tổ chức một trận đánh "tự mình chỉ huy", tay vo xông lên cướp trắng khẩu trung liên trong tay quân thù, giữa ban ngày ban mặt.


Điều đó diễn ra vào một buổi sáng mưa bụi dày trời. Có lẽ bọn địch muốn lợi dụng màn mưa, mò xuống tìm hiểu quân ta, nên đã cử một tên Xê-nê-ga-le vác khau trung liên lẻn xuống, leo lên, nằm trên mặt ụ. Đáng tiêc, tổ vọng tiêu của chúng tôi ở trên nóc nhà lơ Vũ Tạo đã không phát hiện kịp thời. Tên lính da đen đặt khẩu súng lên nóc ụ và đàng hoàng nằm xả từng loạt đạn dài xuống suốt chiều dọc của dãy phố Bạch Mai.


Nghe thấy tiếng trung liên nổ xé tai ở ngay ngoài cửa, chúng tôi ai nấy bật dậy nhào vội đến vị trí chiến đấu của mình.

Tiếng tiểu đội trưởng Viết hét:

- Tất cả... lên đạn, mã tấu cầm tay... chờ lệnh!

Tôi hé rộng khe cửa, vươn đầu qua bao cát nhòm lên nóc ụ nơi có tiếng trung liên đang réo lên liên hồi dưới màn mưa mù mịt. Ánh lửa đầu nòng của khẩu trung liên cứ leo léo nom thật tức mắt. Còn chưa biết nếp tẻ ra sao thì đã có tiếng đồng chí nào đó thì thào: "Chỉ có hỏa lực của mỗi khẩu trung liên thôi, sợ cóc khô gì!", tôi định góp lời thì đã thấy tiểu đội trưởng xua tay suỵt một tiếng ra hiệu cho mọi người im lặng, hình như anh đã phát hiện thấy điều gì lạ. Và rồi, rất nhanh anh nhoài sang gạt chốt cửa ra vào, quát:

- Ai, đứng lại!

Chúng tôi giật mình nhìn ra! Trời đất ơi, anh Đức "đồ tể"! Chẳng biết anh chui ra từ lỗ nào, đang nhẹ nhàng lướt qua ngoài cửa. Không hề tỏ ra kinh hãi gì tiếng quát của tiểu đội trưởng Viết, Đức chỉ đưa bàn tay trái ra sau lưng khẽ vẫy vẫy, ra ý nhắc chúng tôi đừng làm ồn, còn chân vẫn cứ rảo bước tiến thắng vào chân ụ, chẳng hề quan tâm tiếng nổ đầu nòng và luồng đạn của khẩu trung liên đang rít gió trên đầu!


Trong tình huống bất ngờ đó, chúng tôi bỗng quên mất rằng nơi đây là trận địa và quân thù đang nổ súng ngay trước mặt chúng tôi, với khoảng cách chưa đầy 20 thước. Cậu Cát lên tiếng trước giọng cay cú:

- Cái thằng "tứ cô vô thân" ấy nó định giờ trò gì ấy nhỉ?

Tiểu đội phó Mão thì nói với vẻ hoài nghi đầy thán phục:

- Kiểu kia, không biết chừng "ông ấy" muốn xơi tái thằng tây đen trên nóc ụ ấy chứ lỵ!

Trong khi đó thì Đức vẫn hệt như một người mất trí. Anh cứ đàng hoàng thẳng đầu rảo bước, không hề có ý tránh né cái luồng đạn quái ác kia!... Đột nhiên tôi chợt nhận ra: ụ súng quá cao mà khẩu trung liên lại có hai càng phải được chống xuống chỗ bằng phẳng. Chính do đặc điểm cấu tạo của khẩu súng đã bắt buộc tên lính phải nằm hơi sâu vào phía trong bờ ụ. Vì vậy mà "góc khuất" chân ụ phía bên ta đã "bị" kéo dài thêm ra, khiến cho ngẫu nhiên Đức được "ăn may!"


Đến chân ụ, Đức víu tay bám sườn bò lên lưng chừng ụ. Nhưng mỗi lần buông tay víu, định đứng lên với chiếc nòng khẩu trung liên đang tóe lửa thì đều bị trượt chân tụt trở lại chân ụ! Anh đứng lặng suy nghĩ, rồi đột nhiên bằng một cử chỉ quả quyết, anh vung cánh tay mạnh mẽ của mình cắm phập con dao bầu vào thành ụ, rồi nhanh nhẹn bò tới, dẫm một chân lên cán dao, thu mình ngồi chồm hỗm, rút chiếc khăn mặt bọc dao gài thắt lưng ra quấn vào bàn tay phải. Xong xuôi, anh vươn tay trái bám lấy thành ụ, ngước mắt lên chờ! Thái độ của anh lúc này khác hẳn lúc nãy, có vẻ ung dung bình tĩnh hoàn toàn không có sự hấp tấp vội vàng. Đúng lúc ấy, ánh lửa miệng nòng của khẩu trung liên ngừng nhấp nháy! Tôi thấy Đức đứng vụt dậy vươn tay phải tóm chặt lấy nó cùng với một tiếng thét dữ dội! Và... chưa kịp chớp mắt đã thấy Đức cùng khẩu trung liên văng xuống mặt đường. Dường như không biết đau, anh vùng ngay dậy xách súng vào sâu trong vỉa hè bên số lẻ, co chân chạy thục mạng, chốc chốc lại nhảy dựng lên huơ cao khẩu súng thét vang trời.

- Ông hè được súng của mày rồi, Tây ơi!...

Người chỉ huy trưởng mặt trận Ô Cầu Dền khi ấy là tiểu đoàn trưởng Quang Tuần. Đón nhận khẩu "ép em" (F.M) nước mạ còn xanh bóng từ tay Đức mang nộp, ông thực sự xúc động nói:

- Đồng chí thật giỏi, dũng cảm vô cùng! Đồng chí ở đơn vị nào?

- Báo cáo thượng cấp, em ở đơn vị... một mình ạ!

- Sao? Tức là tự vệ khu phố hả?

- Báo cáo thượng cấp, không ạ!

Tiểu đoàn trưởng hơi sửng sốt, lặng thinh giây lát rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai Đức, ân cần nói:

- Vậy thì thế này: Từ hôm nay tôi cử đồng chí chỉ huy 10 anh em đánh thực dân xâm lược Pháp. Nghĩa là làm tiểu đội trưởng. Đồng chí có thích không?

- Báo cáo thượng cấp, em... không ạ!

Không giấu được nỗi ngạc nhiên, tiểu đoàn trưởng "a" lên một tiếng hỏi lại:

- Vậy thì đồng chí thích gì nào?

- Báo cáo thượng cấp, em thích... kiếm đâu được chục quả lựu đạn nổ thật ác, hễ tương quả nào vào bọn lõ là cấm xịt. Vậy thôi ạ!...

Tiểu đoàn trưởng Quang Tuần khẽ gật đầu, anh quay lại bàn làm việc, nói với người lính trẻ quân phục rất chỉnh tề, vai khoác khẩu Xì-ten:

- Đồng chí sang bảo quân khí mở hòm lựu đạn Mỹ mà ta vừa thu được tối qua, mang ngay cho tôi ba quả!... À mà này bốn quả cũng được! Rõ chưa?


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Năm, 2022, 06:54:26 am
3. Trận đánh không rõ tên

Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi đã thấy Đức thò đầu vào lỗ tường "giao thông" hỏi bâng quơ.

- Có "tên tiểu yêu" nào ngứa ngáy chân tay không hở?

Chúng tôi không ai trả lời câu hỏi, mà chỉ rối rít gọi anh vào, bắt anh phải kể lại cho nghe về cuộc "giao nộp vũ khí" hồi sáng. Anh lắc đầu gạt đi: "Chuyện mọn, bàn tán làm gì!". Tôi lập tức tranh thủ hỏi anh cái điều tôi đang thắc mắc:

- Thế còn cái việc hồi sáng ở lưng chừng ụ, sao mà anh cứ ngồi như phỗng mãi mà không chịu hạ thủ ngay là vì cớ gì?

Anh cau mặt gắt:

- Thì cũng phải chờ chứ.

- Chờ ai hở anh?

- Lại còn thế nữa!.... Đã là vệ quốc chính hiệu "bà lang trọc" mà còn không biết cái sự bắn súng à?... Tức là khi nổ súng thì tức là lúc thằng bắn phải ghì tay thật chắc vào cái báng súng! Mà bọn lõ thì đứa nào cũng như trâu đực cả. Phải chờ lúc nó ngơi tay thì mới chơi được chứ, hiểu không? Thế nào? Có tiểu yêu nào ngứa ngáy chân tay không, hở?

Tiểu đội trưởng Viết ôn tồn giải thích cho anh rõ vì sao chúng tôi không được phép tùy tiện hành động. Anh phẩy tay cười nhạt:

- Tức là không "xừ" nào dám chơi chứ gì? Được thôi, "đơn thương, độc mã" chơi nhau với bọn lõ, thằng này đâu có ngán!

Dứt lời, anh ngoắt người chui qua lỗ hổng. Nhưng rồi bỗng thấy anh rụt chân quay đầu lại, hất hàm:

- Tên nào dư dật cho vay dăm tạc đạn - "ga lăng tì" không thèm quỵt!

Viết thay mặt chúng tôi, tạ trỏ tay vào thắt lưng của mình:

- "Lọ mực" hả?

Đức ưỡn bụng phơi rõ bốn quả lựu đạn mỏ vịt hình trái na sơn hình lá cây, cài rất chững trên chiếc thắt lung lụa đỏ, nói:

- Không có "hãng" này à?

- Của ấy thì ông phải sang bên kia vay chúng nó.

Đức bĩu môi:

- Chả phải thách! Tao chấp cả lò bọn lõ đấy!

Khác với hồi sáng, lúc này mưa đã tạnh. Trời quang quẻ, hai phía trận tuyến nhìn sang nhau rõ mồn một. Chúng tôi thấy Đức đứng chờn vờn ở cửa, đầu hơi nghiêng nghiêng như đang chăm chú lắng nghe cái âm thanh nào đó! Thế rồi, bất thình lình, chỉ bằng ba bước chân anh đã vọt qua vỉa hè lẫn đường tầu điện, rồi lao như bay sang phía hè bên số lẻ, tựa áp ngay lưng vào cửa hàng tạp hóa của nhà bà Cả Chẩn, nheo mắt hướng về phía chúng tôi, đưa ngón tay cái lên mũi, bốn ngón còn lại khẽ vẫy vẫy và toét miệng ra cười! - (Chao ơi, quen biết anh kể đã hàng chục năm ròng, vậy mà, cho đến hôm nay tôi mới được nhìn thấy anh cười, cái cười lại nó ra cùng một lúc với năm ngón tay làm hiệu trêu chọc chúng tôi, sao mà nó tình đến thế?... Sao mà nó xa lạ với cái anh Đức "đồ tể" của quá khứ đến thế? Thì ra khi con người ta không còn phải lo kiếm miếng cơm hàng ngày đổ vào mồm và được sống trong không khí bình đẳng và thân ái, thì người ta ai cũng có thể cười được lắm chứ!).


Đức mang theo cả nét cười cùng năm ngón tay giễu cợt ấy lẩn nhanh vào bên trong cánh cửa. Và chỉ dăm phút sau, tổ vọng tiêu của chúng tôi đã phát hiện ra anh đang ào ào lội qua khúc sông Tô Lịch ở ngay đoạn đầu của con đê Bành Lao (đầu đường Trần Khát Chân hiện nay). Bọn lính gác trên nóc bốt cảnh sát ở góc đường Huế - Đại Cồ Việt cũng như bọn ở trên gác nhà sữa Minh Ngọc đều không phát hiện ra Đức. Chúng vẫn nổ súng vu vơ! Có lẽ bọn chúng đã quá chủ quan, không thể ngờ được rằng ngay giữa ban ngày ban mặt mà lại có "Việt Minh" mò đến tận đây để đùa giỡn với tử thần!


Dù có vì nguyên nhân nào thì Đức cũng đã hiển nhiên đang có mặt cách nơi đặt khẩu trọng liên 12 ly 7 của chúng không quá 20 mét, giữa ban ngày mà lại ở ngay chính diện. Từ chân đê Bành Lao, Đúc toài nhanh lên sát mặt đê, ngước mắt ngó sang bờ tường nhà sữa Minh Ngọc. Anh nhớ không sai: cả hai mép góc tường đều có hàng ống máng sứ chạy dọc từ sân thượng xuống tận rãnh nước. Mỗi khúc ống đều được đánh đai sắt ghim vào tường rất chắc. Đức sờ quanh bụng, bốn quả lựu đạn vẫn còn đủ. Anh yên tâm nhổm người lấy đà rồi phóng vút qua mặt đê, bám nhanh cả hai tay vào hàng ống máng phía sau, thoăn thoắt leo lên. Đến đỉnh ống máng, không chần chừ một giây, anh nhún người phóng qua sân thượng rồi áp vội lưng vào bờ tường vọng gác gần kề ngay cái lỗ hổng có nòng khẩu 12 ly 7 chõ ra đang khạc ra từng nhịp nổ chói tai! Trong nhóm xạ thủ trọng liên, có đứa đã phát hiện ra Đức, nó gào toáng lên. Cả bọn rối rít quát tháo nhau và lên đạn súng tiểu liên roàn roạt. Kệ tất cả, Đức rút vội một quả lựu đạn, bóp mỏ vịt rồi đưa vòng an toàn lên răng cắn và giật mạnh! Buông mỏ vịt thấy khói xanh xì ra, Đức yên tâm luồn tay bỏ tọt quả lựu đạn đang xì khói vào trong cái lỗ hổng của bức tường! Bọn xạ thủ rú lên những tiếng rú kinh hoàng rùng rợn bằng cái thứ tiếng rất lạ tai! Đức say máu, anh không thèm áp lưng vào tường nữa, mà quay hắn người, tựa vai sát vào cái nòng nóng bỏng của khẩu 12 ly 7, dùng cả hai bàn tay - tay phải cầm lựu đạn, tay trái rút vòng an toàn - tương thêm ba quả nữa vào góc nhà. Thứ tự nghe đủ 4 tiếng nổ chát chúa, Đức sung sướng nhảy cẫng lên tóm chặt lấy cái nòng trọng liên rồi gò lưng xuống, ra sức kéo. Anh hoàn toàn không biết rằng ngay sau tiếng nổ của quả lựu đạn thứ nhất vừa phát ra, thì khắp cả khu vực trận địa của bọn Pháp đã nháo cả lên! Tiếng kèn đồng, tiếng còi, tiếng hò hét, tiếng giầy đinh rầm rập chạy! Tiếp đó là tiếng nổ của đủ mọi loại súng và cỡ đạn mà chúng có trong tay!


Và rồi, cái điều xót xa ghê gớm mà không một ai trong tiểu đội chúng tôi đang ở bên này ụ Ô Cầu Dền, căng mắt dõi sang muốn phải chứng kiến, thì nó đã xảy ra!

... Tên lính Pháp với khẩu trung liên nằm gác trên nóc bốt cảnh sát bên kia đường đã phát hiện ra anh.

Lập tức hắn lấy đường ngắm nhằm thắng vào anh và bóp cò... Cả một băng đạn trung liên đã vút tới! Anh chợt sững người rồi chới với ngã nghiêng, một bàn tay vẫn còn nắm chặt nòng khẩu trọng liên 12 ly 7 của quân thù...

Hà Nội, ngày 1/12/1996
NGUYỄN VĂN HỒNG


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:41:40 pm
MỘT SỐ GƯƠNG CHIẾN ĐẤU VÀ
PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU CỦA TIỂU ĐOÀN 56


1. Bệnh xá trưởng của tiểu đoàn ta như thế đấy!

Cách ngày 19/12/1946 mấy ngày, tôi từ một đại đội đóng ở Chi Nê được điều về làm cứu thương ở đại đội 4 (tiểu đoàn 56) đang trấn giữ ở Ô Cầu Dền. Tôi rất thích nghiên cứu về y học, vớ được bốn quyển sách dầy cộm bằng tiếng Pháp dạy băng bó, tiêm chủng và chữa nhiều bệnh, coi như cẩm nang, đi đâu nặng đến mấy cũng cố mang theo.


Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, thương binh cũng ít, có người nào thì băng bó và cáng ngay về Bạch Mai, sau này đưa về trạm quân y ở Văn Điển.

Một buổi tối, trên đưa về một lúc năm cô: Nhữ, Thanh, Tâm, Duyên, Quyết và bốn cậu Đắc, Tuyến, Kim, Di và bác Cúc (trạc 40 tuổi), giao cho tôi quản lý. Gay quá! Đông thế này thì lấy gì mà nuôi nhau. Lại còn thương binh nữa. Qua mấy ngày đầu, các cô cậu ấy đều làm việc rất nhiệt tình, lại biết băng bó, biết cả tiêm nữa, chứng tỏ họ đã được huấn luyện trước khi về đây. Tôi thấy nhẹ cả người. Nhà, cửa cơm nước cũng toàn dựa vào dân.


Tiểu đoàn 56 được lệnh rời mặt trận Hà Nội, trở về thị xã Hà Đông. Trạm quân y của tôi cũng chuyển theo về đình La Khê. Thương binh, bệnh binh ùn ùn đưa tới đông tới 30 người. Tôi bỗng nhận được một cái dấu tròn đề chữ Bệnh xá. Thuốc men, bông băng thì ra lĩnh ở Vân Đình, Ba Thá. Nhưng lấy gì nuôi gần 50 người (kể cả nhân viên quân y)? Nhìn con dấu tròn trong tay, tôi nảy ra sáng kiến lên danh sách thương binh, bệnh binh từng đại đội rồi đóng dấu đỏ ký tên bệnh xá trưởng đưa anh Quỳnh, liên lạc viên, đưa đến từng đơn vị đòi sinh hoạt phí.


Các đơn vị có người nằm ở bệnh xá rất sòng phẳng thanh toán nên sức khỏe của toàn bệnh xá được đảm bảo tốt. Chỉ phiền hà dân về chỗ ở và nhân công khi chuyển bệnh xá đi nơi khác mà thôi. Ở đây cũng cần phải ghi công anh Hợi, một mình lo cơm nước đúng giờ, ngon lành cho thương bệnh binh.


Về chuyên môn, tôi không có bằng cấp y tá lại càng không có bằng cấp y sĩ, bác sĩ mà lại phụ trách cả một bệnh xá. Trên đã tín nhiệm giao cho thì phải cố gắng khắc phục khó khăn cùng anh chị em nhân viên hoàn thành tốt. Các anh Phùng Thế Tài và Trần Quân Lập cũng đã hai lần đến thăm hỏi, động viên.


Một hôm, anh Luyến vốn là hải ngoại quân bị một viên đạn tiểu liên của địch bắn cắm sâu vào bụng chân. Người cao to, tính nóng. Tôi định đưa anh lên tuyến trên để mổ lấy đạn cho an toàn nhưng anh không nghe, đòi tôi phải lấy viên đạn ở ngay bệnh xá. Tự xét trình độ chuyên môn thấp, không phải nhiệm vụ phải làm, nhưng trước ông Trương Phi nóng như lửa này, tôi đành nhượng bộ. Có hai ống ête tôi đem phun vào vết thương để gây tê rồi lấy dao rạch sâu lấy ra viên đạn và băng bó. Anh Luyến gói ngay viên đạn nhét vào túi giữ làm kỷ niệm và nói:

- Nợ này phải trả!

Tôi cũng chứng kiến một cảnh đau lòng: Nằm la liệt trước mặt tôi là sáu cán bộ, chiến sĩ bị sốt rét ác tính, tóc rụng, mặt vàng khè chờ chết. Thuốc chữa lại không có.

Tôi tìm sách chữa bệnh của Pháp ra xem. May mắn tôi còn lưu trữ được một số viên ki-na-crin ngoại và một số giấy lọc ngoại. Tôi lấy nước mưa đun lên rồi lọc đi lọc lại tới bốn lần, đổ vào chai, mượn nồi cất rượu để hấp cho sát trùng. Đây là một cách làm thủ công, phản khoa học. Nhưng tình thế quá nguy cấp buộc phải làm, còn nước còn tát. Sau khi tiêm thuốc vào mạch máu, đã cứu sống được 5 người, trong đó có anh Nguyễn Trí Anh nay là thiếu tướng. Chết mất một anh cứu thương vì bệnh quá nặng. Anh còn rất trẻ, đẹp trai. Các cô nhân viên của bệnh xá vô cùng thương tiếc đã khóc suốt buổi.


Năm 1948, bệnh xá chuyển lên Phú Thọ rồi sáp nhập vào Khu 10. Còn tôi rời ngành y nhận công tác khác ở trung đoàn Sông Lô.


NGUYỄN NHƯ NGUYÊN (76 tuổi)
Nguyên bệnh xá trưởng tiểu đoàn 56


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:42:21 pm
2. Ký ức về người anh hùng 19 tuổi

Mọi người vẫn quen thuộc với tấm ảnh tư liệu quý, ghi được hình ảnh cách đây nửa thế kỷ: Chiến sĩ ôm bom ba càng trên đường phố chiến lũy Thủ đô. Bên Hồ Gươm thì đã xây dựng nhóm tượng đài "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", anh vệ quốc quân đầu đội mũ ca lô gắn ngôi sao vàng, mặc áo trấn thủ, với trái bom ba càng trong tay hướng về phía quân thù.


Đấy là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; có bao chiến sĩ ngày ấy đã vô danh!

Đầu xuân 1997 này, Nhà nước nêu danh một số chiến sĩ Vệ quốc đoàn. Trích tin trên báo: "Ngày 18/12 Thành ủy, UBND thành phố và Quân khu Thủ đô đã tổ chức trọng thể lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và huân chương Chiến công hạng nhất cho các liệt sĩ có thành tích xuất sắc trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến... Cách đây 50 năm, ngày 6/1/1947, với tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", tiểu đội trưởng Nguyễn Phúc Lai ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng địch và anh "dũng hy sinh".


Bác Nguyễn Phúc Nghiệp năm nay 74 tuổi, hiện ở khu tập thể quân đội K95, Phúc Xá (Ba Đình, Hà Nội). Một thời bác công tác tại tòa soạn báo Quân đội nhân dân, ngày ngày vẫn đạp xe qua ngôi nhà cũ. Nhớ lại ngày đầu tháng 4/1946, bác cùng hai anh em Thái và Lai, từ đây đã nhảy tàu điện vào Hà Đông đầu quân, thuộc tiểu đoàn 56. Rồi mỗi người một đại đội và chiến đấu ở mặt trận khác nhau, vẫn còn đây cột đèn ở ngã ba giữa phố Hàng Đậu và phố Nguyễn Thiệp, nơi đã bao lần bác cùng Nguyễn Phúc Lai ra đó ngồi học bài vì đèn trong nhà tối quá. Chú út Nguyễn Phúc Lai dáng thanh nhỏ, trắng trẻo hiền lành, rất siêng học, siêng làm. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, dẫu biết chú ấy đã hy sinh nhưng bác không biết là hy sinh ở đâu, trong trường hợp nào?


Bác Nguyễn Viết Nhâm, năm nay 70 tuổi, nguyên đại tá, phó tổng biên tập Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Năm 1991 bác về hưu, bị một bệnh hiểm nghèo phải nằm liệt giường, ăn cháo loãng triền miên và đôi mắt cứ mờ dần. Trong những ngày bệnh tật dày vò đau đón, ký ức bác vẫn tươi rói, luôn hiện về hình ảnh những người đồng đội thân yêu của tiểu đoàn 56 Hà Đông. Trận chiến đấu không cân sức ngày ấy, quân Pháp với sự yểm trợ của máy bay, xe tăng, đại bác, đã ồ ạt tiến công trận địa ta ở Ô Chợ Dừa - Giảng Võ. Lúc đó bác là trung đội trưởng trung đội 1 (đại đội 2). Đơn vị đã ngoan cường bẻ gãy mấy đợt tấn công của địch. Nhiều chiến sĩ trong trung đội đã thương vong. Tiểu đội trưởng Nguyễn Phúc Lai với cây súng mút-cơ-tông đã hạ gục nhiều tên Pháp lấp ló. Bỗng một chiếc xe tăng hiện ra, sắp trườn ra chiến lũy. Tình thế trở nên cực kỳ nguy ngập. Nguyễn Phúc Lai bỏ cây súng trường, cầm trái bom ba càng của một chiến sĩ bị thương bên cạnh, lao lên. Một tiếng súng nổ dữ dội, xe tăng khựng lại, bốc cháy...


Bác Nhâm nghe đài, biết nhiều trường hợp Nhà nước đã truy phong danh hiệu anh hùng cho các chiến sĩ thời chống Pháp và chống Mỹ. Một lần bác Trần Quân Lập, nguyên chính trị viên tiểu đoàn 56, từ khi về hưu được bầu làm trưởng ban liên lạc cựu chiến binh tiểu đoàn 56, đến thăm. Bác Nhâm bảo: "Anh Lập ạ, trường hợp hy sinh của anh Nguyễn Phúc Lai rất oanh liệt. Chúng ta phải xác nhận cho anh ấy. Có như vậy, sau này chúng ta xuống suối vàng gặp anh ấy mới không hổ thẹn". Thế là hai bác, với một số cựu chiến binh khác và bác Nguyễn Phúc Nghiệp đã khẩn trương làm các thủ tục đề nghị lên cấp trên.


Ngày ấy, người chiến sĩ quyết tử ôm bom ba càng quyết tử mới 19 tuổi...

PHẠM QUANG ĐẦU
(Đăng trên báo Quân đội nhân dân cuối
tuần số 65-342 ra ngày 30/3/1997, trang 8)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:43:25 pm
3- Tiếng súng quân ta vẫn nổ vang trong lòng địch. Luồn sâu cắm chốt

Đêm 20/12/1946, trung đội tôi (thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 56, Chiến khu II) đang ở Thanh Liệt (Hà Đông) được điều ra Hà Nội, đóng quân tại Việt Nam học xá.

Đêm 22/12, chúng tôi tập kích địch đóng ở khu vực hồ Thiền Quang nhằm quấy rối và trấn áp tinh thần lính địch.

Ngày 24/12, đại đội trưởng Vũ Công Định gặp tôi giao nhiệm vụ: "Theo lệnh cấp trên, đại đội ta cử một trung đội ngay đêm nay thọc sâu vào nội thành cắm chốt ở phố Chanceaulme (nay là phố Triệu Việt Vương), trụ được càng lâu càng tốt. Nếu trong phố còn có dân và có điều kiện thì đơn vị thọc sâu hơn nữa, vừa gây thanh thế cho ta, vừa gieo hoang mang trong hàng ngũ địch. Đại đội quyết định chọn trung đội cậu làm nhiệm vụ quan trọng này. Cậu hãy về đơn vị chuẩn bị gấp".


Trung đội được trang bị một khẩu trung liên, mỗi người ba quả lựu đạn, một súng trường (tạp nham đủ loại súng Tầu, súng Nhật, súng tây) và có hai nắm cơm kèm theo với thịt kho do nhân dân địa phương cung cấp, sau đó đơn vị tự túc lương thực.


Khoảng 9 giờ đêm ngày 24/12, chúng tôi hành quân do ba anh tự vệ dẫn đường. Phố xá vắng lặng, nhà cửa đóng im ỉm, không một ánh đèn, không một bóng người, cây cối, cột điện vẫn còn nằm ngổn ngang làm chướng ngại vật trên các đường giao thông. Chúng tôi nối đuôi nhau đi qua nghĩa địa Tây (giáp phố Nguyễn Công Trứ ngày nay) qua Phố Huế, rẽ vào phố Triệu Việt Vương.


Tôi bố trí hai tiểu đội đóng ở hai đầu phố, còn tôi cùng tiểu đội 3 ở giữa phố với khẩu trung liên, nhà dân đã đục tường sẵn từ nhà nọ thông sang nhà kia, quân ta dễ dàng cơ động ở trong nhà từ đầu phố đến cuối phố, biến cả dãy phố thành một pháo đài.


Có vào tới đây mới thấy nhân dân Hà Nội theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã thực hiện tản cư triệt để, bất hợp tác với giặc, sẵn sàng hy sinh nhà cửa, của cải, biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn cao độ.

Chiều ngày 25/12, đội tuần tra của địch đi xe "jeep" tiến vào phố Triệu Việt Vương. Chúng bắn súng thị uy để thăm dò. Ta vẫn im lặng. Chúng lại bắn tiếp. Lúc này ta mới lên tiếng, thỉnh thoảng lại bắn tỉa một phát. Hai bên chơi trò "ú tim" như vậy khá lâu rồi chúng rút. Chúng tôi vẫn trụ lại, củng cố công sự, chuẩn bị trận đánh tiếp theo. Như vậy là ngay ngày đầu tiên cắm chốt đã có tiếng súng quân ta đánh địch bắt đầu nổ ra giữa ban ngày trong lòng địch ở địa bàn Liên khu II (nay là quận Hai Bà Trưng).


Gần trưa ngày 26/12, địch lại kéo đến. Ta ở trên gác bắn chặn không cho chúng xông vào phá cửa nhà dưới. Giằng co khá lâu, cuối cùng địch đưa xe ô tô bọc thép và đại liên đến, chỉ bắn phá mà không xung phong vào trong nhà, rồi rút về căn cứ.


Một lần nữa, tiếng súng quân ta lại nổ vang giữa ban ngày trong lòng địch.

Chiều ngày 27/12 mới diễn ra trận giao chiến thực sự quyết liệt giữa ta và địch. Giặc đến đông hơn hôm trước có cả xe tăng, súng cối, đại liên ủng hộ. Còn ta chỉ có trung liên, súng trường, lựu đạn. Hai bên đấu súng với nhau một chặp. Để dứt điểm, địch tập trung vũ khí bắn phá dữ dội vào tiểu đội 3 nơi có khẩu trung liên đang nhả đạn vào chúng.


Địch đã xông được vào nhà dưới, leo thang để lên gác. Tôi và anh em tiểu đội 3 lúc thì bắn trung liên, khi thì bắn tỉa, ném lựu đạn để ngăn chặn. Địch bị thương vong gần mười tên. Không lên được gác, giặc bèn phun xăng đốt nhà định thiêu sống quân ta ở trên gác, khói lửa bốc mù mịt, lan tỏa khắp khu phố.


Nhá nhem tối, địch phải rút, bên ta không có ai thương vong.

Đêm đến, trung đội tôi cũng rút về Thanh Nhàn để nhận nhiệm vụ mới.

Tuy đơn vị mới luồn sâu cắm chốt được ba ngày trong lòng địch nhưng tiếng súng của quân ta đã nổ vang ở phố Triệu Việt Vương mấy ngày liền góp phần vào hoạt động của các đơn vị bạn, chứng minh lực lượng kháng chiến vẫn còn tồn tại trên địa bàn Liên khu II ở phía nam thành phố Hà Nội song song với sự tồn tại của Liên khu I oai hùng ở phía bắc Thủ đô.


Một phóng viên hãng thông tấn xã Pháp AFP đã viết về cuộc chiến ở Hà Nội như sau: "Tiếng súng nổ cả ban ngày không phải chỉ ở những nơi có giới tuyến rõ rệt, mà cả những khu quân Pháp cho là đã quét sạch. Những nơi mà tôi vừa đi qua một giờ sau người ta đã thấy xác lính Pháp chết gục ở đây rồi".


Đại tá NGUYỄN VIẾT NHÂM
Nguyên trung đội trưởng trung đội 1
(Nguyễn Phúc Nghiệp ghi 26/4/1999)


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:44:59 pm
Ở MỘT TỔ GIAO LIÊN 50 NĂM VỀ TRƯỚC


Hướng về những người con trung hiếu, những thiếu niên Liên khu II Hà Nội đã ra đi chiến đấu không trở về, tôi xin nghiêng mình tưởng nhớ các anh và ngược dòng thời gian tìm lại những dấu vết xưa.

Sáng ngày 1/12/1946, bốn chúng tôi nguyên là đoàn viên, học sinh cứu quốc trong trường Bưởi cũ, được tin báo đến trụ sở Thanh niên cứu quốc Thành (góc Bà Triệu, Tô Hiến Thành, trụ sở Hải quan bây giờ). Cuộc họp không đông, không kéo dài. Theo yêu cầu mới, chúng tôi đến tập trung gần trụ sở và đựợc giao việc căn vẽ bản đồ Hà Nội và viết truyền đơn, bươm bướm.


Mỗi một tờ truyền đơn mang một lời kêu gọi bằng tiếng Pháp, nguyên văn như sau:

- A bas le colonialisme français!
(Đả đảo chủ nghĩa thực dân Pháp!)

- A bas la guerre agressive contre le peuple Vietnamien!
(Đả đảo chiến tranh xâm lược chống Việt Nam)

- Soldats! Exigez d'urgence le rapatriement!
(Hỡi binh sĩ! Đòi hồi hương ngay tức khắc)

- Joignez nos rangs au nom de la liberté et de la démocratie!
(Nhân danh tự do và dân chủ hãy gia nhập hàng ngũ chúng tôi).


Chúng tôi viết không đẹp, tùy hứng nhưng đảm bảo đúng chính tả. Anh Kỳ phụ trách yêu cầu chúng tôi không rời khỏi "cơ quan" nếu chưa được phép. Lúc rảnh việc, chúng tôi chỉ còn giải trí bằng sách báo.

Chúng tôi miệt mài viết cho đủ số truyền đơn để chuyển đến Ban địch vận Thành... Đang tuổi hiếu động, cứ ngồi một chỗ vẽ vẽ viết viết hàng ngày, bọn chúng tôi tù cẳng quá nhưng chưa dám nói ra cái câu "lẽ nào mình chỉ cầm bút mà ngồi đánh giặc?"... Như thấu hiểu ẩn ý đó, sau khi kết thúc việc vẽ viết, các anh đã điều mỗi người chúng tôi đi nhận một nhiệm vụ mới.


Chia tay nhóm ấn loát, tôi đến ban giao thông liên lạc, thuộc ủy ban bảo vệ Liên khu II (sau là Ủy ban kháng chiến Liên khu II). Tổ giao liên chúng tôi mới đầu có bốn đội viên sau tăng dần đến bảy, tám đội viên (Lộc, Lục, Chiêu, Hồng, Bảy, Khuông, Thư...) - Các anh Duy Tám, Lê Vân - phụ trách ban - đã giao cho chúng tôi nhiệm vụ giữ liên lạc thường xuyên giữa các ban và ủy ban, đột xuất với Thành và các Liên khu bạn. Các ban trong ủy ban gồm có: tác chiến, phá hoại, giao liên, tiếp tế, cứu thương, tản cư, thông tin tuyên truyền...


Giờ huấn luyện, ngồi quây tròn dưới sàn nhà anh An - cán bộ quốc phòng - tại phố Bà Triệu, các anh giảng cho chúng tôi về tổ chức đường dây và trạm giao liên, về nhiệm vụ của giao thông viên (ZTV). Bài học truyền khẩu, dễ hiểu, dễ nhớ, nhiều mục mới lạ và hấp dẫn: ký hiệu, ám hiệu, nghi trang, xử trí khi gặp địch...


Ngày 15/12/1946, tổ tôi dự "tổng diễn tập" đạt yêu cầu nhanh, đúng, bí mật... ZTV đều gần sàn tuổi 15, chưa quen biết nhau bao giờ, nhưng khi đã vào tổ cùng ăn gạo lứt, ngủ trên sàn chúng tôi nhanh chóng vào nền nếp quân sự hóa, luôn vui nhộn, ca hát mà hồn nhiên chờ đợi cuộc chiến đấu chưa hề hình dung nổi.


Xẩm tối 19/12/1946, anh Duy Tám báo cho tổ tôi biết lệnh chuyển cơ quan, "áp sát trung tâm trong tầm cầu vồng". Chúng tôi vừa tới chân dốc Hàng Gà thì đèn điện vụt tắt, bóng tối bao phủ. Một tiếng nổ rung chuyển phố xá, tiếp theo hàng loạt đạn pháo nô rền trên phía thành Cửa Bắc, Cột Cờ, khu Bách Thảo...


Giây phút ngỡ ngàng nhanh chóng qua đi, tôi thấy náo nức lạ thường: đánh nhau thực sự rồi!

Nỗi căm giặc dồn nén đã lâu nay có dịp bung ra như nước vỡ bờ. Trong pháo nổ vọng mãi, vọng mãi như có tiếng người hô: "Báo thù!...ù!...ù!". Nhiều thanh niên ra đường ngóng về phía pháo nổ, vỗ tay, reo hò theo nhịp bắn: "Hoan hô! Pháo của ta"...


Nhìn lửa cháy, giặc đốt nhà dân (ở bãi sông Hồng), ai cũng muốn nhập cùng các anh Vệ quốc đoàn xông lên tuyến trước, nhưng nhiệm vụ buộc chúng tôi phải có mặt ở trạm, hơn nữa, lúc này chúng tôi chưa được trang bị vũ khí. Chúng tôi thức trắng đêm, chạy báo cáo, truyền lệnh khẩn, đi lấy tin từ các mũi xung kích, dẫn đường cho cứu thương, tải thương. Tin chiến sự dồn dập về Ủy ban kháng chiến. Vừa về trạm, có hỏa tốc là anh em lại lao vút đi ngay, quên cả ăn cả ngủ, ai nấy vẫn tỉnh như sáo.


Nửa đêm về sáng, tiếng súng tạm lắng, lửa cháy lụi dần. Trăng hạ tuần từ từ ló ra tỏa sáng khắp phố phường. "Chà, trăng đẹp quá!" tiếng một chị cứu thương thốt lên... "Vẫn còn mơ mộng thế em ơi". Một anh tự vệ trêu chị. Các anh tự vệ chiến đấu tiếp tục ngả cây, dựng chướng ngại vật bằng đủ thứ đồ đạc, khuân từ các nhà ven đường ra. Tại các góc phố, các anh Vệ quốc đoàn đào công sự, đặt súng, cảnh giới, sẵn sàng đánh địch phản kích. Mọi việc phải hoàn thành trước khi trời sáng, đó cũng là lệnh từ ban tác chiến truyền xuống.


Sáng 20/12/1946, anh Tích - chủ tịch UBKC - đến chỗ tổ tôi thường trực. Anh giao cho tôi một cuốn sách mỏng, khổ hẹp, bìa ngoài có hàng chữ "Quốc hội là gì?" tôi chưa rõ sách để làm gì lúc này, thì anh đã giảng cho tôi về những "khóa" để lập mật mã và giải mã. Anh dặn tôi giữ cẩn thận cuốn sách, tôi hiểu đây là "cốt" VTĐ, những ngày ở Liên khu quyển "cốt" chỉ sử dụng vài lần nhưng với tôi, nó là vũ khí bất li thân.


Sau này, qua ngàn đêm kháng chiến, dù ở bất cứ nơi đâu, suối, rừng, trăng, gió lại gợi nhớ cho tôi về đêm mở màn kháng chiến trường kỳ 19/12. Một đêm có súng nổ và lửa cháy, có trăng sáng cùng lời nói chị cứu thương, và cuốn sách nho nhỏ bí ẩn, những kỷ vật đó hiếm hoi mà sâu sắc trong đời chiến sĩ của tôi.


Từ sau ngày 21/12, địch đánh ra LKII, mục tiêu công kích nhằm khu Đấu Xảo, khu Đồn Thủy, khu VQĐ... Các khu khác nằm trong phạm vi phong tỏa của phi pháo địch. Chúng cho nhiều mũi đánh thốc xuống khu phố dưới xe half-track đi đầu ủi và đốt các chướng ngại vật, lính Lê dương theo sau đột nhập nhà dân bắn phá, khủng bố, vơ vét, rồi lại rút về...


Sáng 23/12, ta và địch giao chiến ở Lò Lợn, viện Pasteur, nhà Rượu. Máy bay "đầm già" lượn trên Ô Cầu Dền thám thính trận địa ta. Lúc đó tổ tôi có mặt cùng một phân đội VQĐ bố trí dọc phố Lê Bình, Huyền Trân (cuối Mai Hắc Đế). Anh em đi lại lố nhố, bị địch phát hiện. "Đầm già" lượn một vòng, nghiêng cánh, thả một quả đạn khói xuống đầu đường Đại Cồ Việt. Tức thì dàn cối 81 của địch tới tấp bay đến, nổ không sót quả nào. Cửa kính vỡ loảng xoảng, cát bụi mù mịt. Đơn vị bạn đã có anh bị thương! Qua vố này, chúng tôi mới thấy rõ lợi hại của con "đầm già".


Địch đã rút chạy. Bữa chiều, chúng tôi đang ăn vui vẻ bỗng bạn Lộc hắt ngay ra một mảnh cối lẫn trong cơm. Anh em nói đùa: đúng món sườn rang không xắp muối của mụ "đầm già".

Sau mấy trận, tại địa điểm mới số 500 đường Nam Bộ (đường Trương Định bây giờ). Anh Duy Tám cho họp tổ ZTV, động viên tinh thần dũng cảm công tác và rút kinh nghiệm. Anh nhắc nhở: không được coi nhẹ việc làm hầm tránh phi pháo. Phải giữ bí mật vị trí trú quân. Phải thay nhau cảnh giới khi địch đã có dấu hiệu tiến đánh ra. Phải quan sát, phán đoán địch tình trước khi hành tiến dưới hỏa lực địch... Đó chỉ là những điều thường thức quân sự nhưng ngày ấy có qua thử lửa ở Liên khu II, chúng tôi mới nhận ra được.


Tan họp, chúng tôi xoay vào làm hầm ngay, gọi là kê hầm thì đúng hơn, vì dùng toàn cánh phản, cánh cửa, bàn ghế kê chồng lên nhau. Anh em gọi đùa nó là hầm kiểu "gầm giường".


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:46:03 pm
Một đêm đông lành lạnh, trên đường qua Liên khu III sang Liên khu I, ba chúng tôi (Chiêu, Hồng, Khuông) tới quãng đê làng Võng Thị (ven Hồ Tây) thì pháo của ta từ Xuân Tảo nã vào địch ở hướng Bách Thảo. Lợi dụng bóng đêm, chúng tôi ung dung bước đi dưới tầm đạn của ta. Tới quãng đê trống trải, bên phải là mặt hồ mênh mông, bên trái là đồng ruộng, bỗng từ mặt hồ phản chiếu những chùm tia lửa vun vút lao đến phía chúng tôi, tiếng đạn réo qua đầu: pháo địch. Chúng tôi đã lọt vào tọa độ pháo kích của chúng.


Đạn réo, nổ đinh tai, mảnh vung vãi, cành cây gẫy, khói bụi khét lẹt chúng tôi bò toài trên mặt đê, thỉnh thoảng lại hỏi nhau: "Có ai làm sao không?" Địch dồn mấy khẩu đội, nhả đạn hết đợt này tới đợt khác, tưởng chừng có thể đánh tan trận dịa pháo ta. Nhưng không, từ trận địa hai, pháo ta lại quật vào. Lúc này có cái hầm kiểu "gầm giường" để che thân cũng tốt.


Qua ánh lửa đạn, Hồng thấy lỗ châu mai của một ụ súng thấp sát mặt đê. Người gầy mình nhỏ, Hồng chui lọt vào trong rồi cất tiếng gọi to: "Bên trái có hầm, tất cả lùi lại đây" Cậu Chiêu vướng phải bộ mông to quá, lách mãi mới lọt. Tôi để văng mất túi đeo giấy tờ, còn đang quờ quạng. Nghe Hồng gọi: "Tụt xuống sườn đê, theo giao thông hào mà vào hầm!". Tôi vào hầm nốt, mọi người an toàn cả, tôi vui mừng. Đây chính là công sự của các anh tự vệ chiến đấu cảnh giới mặt hồ, chặn địch đổ bộ bằng ca - nô sang trận địa pháo ta.


Dứt đợt pháo, biết chúng tôi là ZTV đi công tác qua, các anh tìm giúp túi dết cho tôi; một anh ôn tồn bảo: "Bị pháo ta đánh là bọn chúng "trả lời" ngay, gọi là địch phản pháo. Đi lại trên đê trong lúc đấu pháo như bọn các em vừa rồi là rất liều lĩnh. Từ nay rút kinh nghiệm nhé!"


Thêm một bài học cho chúng tôi. Đến đất lạ, chưa rõ địa hình, địch tìm, chỉ xem bản đồ rồi đi văng mạng, có ngày nguy to! Tiếp tục chuyến đi, anh em lại buồn cười cho cái kiểu vào hầm bằng lỗ châu mai, và đùa bạn Chiêu:

- Tí nữa thì bộ mông nó phản cậu!

- Đừng hòng! Nó bắn kiểu ấy chỉ tổ tốn đạn, làm quái gì nhau!

- Này, chúng mình còn i tờ quân sự lắm! cần phải học các anh Tự vệ, các anh Vệ quốc thì mới đánh nhau được.

Điểm lại các trận đánh địch tại Liên khu II, không thể quên trận kịch chiến Ô Cầu Dền.

Ô Cầu Dền là cửa ngõ của phía nam của Liên khu II, có lũy cao thành dày, quân địch chưa bao giờ tới gần được. Đêm đêm, quân ta thường xuất kích từ đây, tiến vào đột kích và tiêu diệt sinh lực địch.

Sau nhiều lần thăm dò thám thính, một ngày cuối tháng 12/1946, địch dùng hai xe half-track mở đường, xông thắng tới chân ụ đất chắn ngang đầu đường Bạch Mai. Một tia lửa xanh lóe lên, một tiếng nổ đanh và gọn: xe half-track đi đầu bốc cháy, xe sau quay đuôi chạy biến ... Từ đó, địch "kiêng nể" Ô Cầu Dền, nhưng lại trả đũa bằng ném bom ngã tư Trung Hiền, cho phi pháo bắn phá Chợ Mơ, khu Việt Nam học xá, thôn Quỳnh Lôi...


Lúc đầu ta giữ bí mật việc bắn thử badôka. Sau này, báo của ta đã. đăng tin đầy đủ. Tổ chúng tôi cũng hay kháo chuyện "vũ khí mới". Bạn Cảng, ZTV của ban tuyên truyền có vẻ thành thạo:

- Đây là vũ khí mới, quân Mỹ dùng để đánh Nhật ở quần đảo Luy-xông, diệt thiết giáp dày 20 ly, nhưng chỉ bắn ở tầm gần 30m.

- Theo tớ thì lựu đạn cũng diệt được Half-track! Lộc nói vẻ rất tự tin... Hôm ấy mà sẵn lựu đạn thì tớ cũng diệt ngay một xe ở góc phố Gia Long rồi!

- Hôm nào? Hôm nào? Cậu nói mê đấy à?

Bị anh em xét hỏi, Lộc biết đã lỡ lời, đành phải xưng hết:

- Hôm ấy tớ mò về phố trên, đang len lỏi thì bắt gặp tụi nó đi tuần! Tớ chuồn lên tầng hai, nom trông rất rõ khẩu 12,7 ly, và thằng chỉ huy râu dê đứng trên xe, nó chạy lại dưới ban công! Thoát chết cho nó vì tớ không có lựu đạn!...

- Hết chối nhé! Cậu đã vượt tuyến, lên phố trên?

- Thảo nào hôm đó, đi công văn gần mà cậu ta về muộn thế?

- Lại còn có đường và cà phê cho tổ uống, kêu là: "Của nhà hàng bánh kẹo ủng hộ, các anh tự vệ chia cho..."

Anh em cười sảng khoái, còn Lộc thì lẩm bẩm thanh minh: - ...Nhớ phố cũ quá, lẻn về một lát rồi lại đi ngay thôi!

Vui chiến đấu, thèm vũ khí, nhưng chỉ mới xa phố cũ vài tuần là nỗi khát khao được theo xung kích đột nhập phố cũ để được bước đi trên lề hè nhìn lại nó thôi cũng thành một ước mơ sâu lắng của những thiếu niên đã có mặt ở Liên khu II ngày đó.


Dù chiến sự diễn biến, công tác lưu động, chúng tôi vẫn nhận được báo Cứu quốc với lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch; rồi cả bản nhạc "Bài hát Người Hà Nội" do tác giả "Diệt phát xít" sáng tác kịp thời ngày nổ súng.


Chiều chiều, trong căn nhà 500 đường Nam Bộ, không đèn đóm chúng tôi quây quần, đọc đến thuộc lòng những câu "Không! Thà hy sinh tất cả, chúng ta nhất định không thể để mất nước, dân ta nhất định không chịu làm nô lệ một lần nữa..." - Rồi lại đồng ca "Đây... lắng hồn....núi sông ngàn năm...." Cho đến lúc buồn ngủ kéo đến, chúng tôi đã cất tiếng ngáy đều đều trong những chiếc chăn, chiếc chiếu, tất cả ngủ lăn lóc trên sàn nhà, càng chen chúc càng ấm, ngủ càng say. Đó là những đêm đông kháng chiến đầu tiên mà tiếng súng còn vẳng trong giấc mơ; và khi ngon giấc đã phải lay nhau dậy, vì lúc lờ mờ sương, địch hay xuất kích rất sớm.


Đáng nhớ nữa là thư của UBKC Thành do chú Vương Thừa Vũ gửi khen các giao thông viên. Có bạn nói:

- Công văn này vừa được bóc xem, vừa không phải chuyển vì của chú VTV gửi các ZTV!

Dịp tết đến, tôi nhận được của Chương - tổ ấn loát cũ một số báo Tin tức (của Liên khu II) in trên tờ pơ luya hồng, đáng chú ý có một bài tường thuật do Chương viết. Tôi rất mừng vì bạn đã trở thành "phóng viên mặt trận".


Dù địch tiến đánh hay không, chúng tôi luôn được tiếp tế đầy đủ, ăn no, nhưng vẫn thiếu rau. Những ruộng rau ở gần khu học xá không ai thu hoạch, địch hay câu cối vào khu này. Ngay sau ngôi nhà tổ đang trú quân, cũng không có một vườn rau tới lứa, chúng tôi thường ra hái su hào, cà rốt về ăn sống! Dân làng triệt để tản cư, cửa nhà đồ đạc bỏ lại, rau quả bỏ phí, trông rất tiếc cho "người trồng cây tới ngày hái quả". Nhân dân thực hiện "vườn không nhà trống", hưởng ứng lời của Hồ Chủ tịch "Thà hy sinh tất cả", tất cả những hình ảnh không ồn ào này đã nhen lên trong lòng bọn trẻ chúng tôi một đức hy sinh tận tụy và một niềm tin "có chiến thắng lại sẽ có tất cả".


Giữa tháng 1/1947, một buổi sáng nhiều sương mù, địch xuất kích tấn công LKII. Mũi thứ nhất xuôi sông Hồng bằng ca nô, cập bến Phà Đen, qua đê Vĩnh Tuy đánh vào các thôn ven đường Đại La, tuyến sau của LKII. Mũi thứ hai có thiết giáp yểm trợ, tiến đánh theo đường số 1, tới nhà thờ làng Tám, bỏ qua đê La Thành và Ô Cầu Dền, hình thành thế vây hãm LKII. Từ hai mũi chính, địch cho nhiều mũi đánh tạt ngang vào sườn của LKII. Chúng cho các tên trinh sát cải trang, đội nón, khoác áo tơi lá tiến trước, nổ súng "tắc, bọp!" làm hiệu cho xung kích Lê dương tràn theo. Các "kỵ sĩ tung hoành" này tha hồ cướp phá, bắn giết dã man những đồng bào ta vô tội chậm chân, chúng được lệnh "24 giờ ngoài vòng pháp luật". Quanh khu vực đặt "bốt", chúng đốt trụi tất cả những gì mà chúng cho là có thể làm nơi ẩn nấp cho quân du kích, chúng đặt đại liên trên gác chuông nhà thờ làng Tám... Tiến đến đâu chúng cũng gặp cầu gãy, đường xẻ hố dọc ngang, vào làng xóm thì vườn không nhà trống, lọt vào ổ phục kích thì bỏ mạng.


Hình thái chiến đấu ở LKII không còn là phòng ngự theo chiến tuyến đường phố như những ngày đầu. Trước một kẻ địch "nhà nghề" đông về quân số, hơn về hỏa lực và cơ động, ta phải tìm ra cách vừa đánh địch, vừa xây dựng lực lượng, vừa bảo vệ nhân dân và chính quyền...


Như những dòng nước nhỏ theo sông dồn về biển lớn, các chiến sĩ thiếu niên LKII đã được biên chế lại và phân công vào các đơn vị, các cơ quan kháng chiến của Thủ đô và các địa phương lân cận.

Năm 1996.

Giờ đây, 50 năm đã trôi qua.

Cuộc chiến tranh "bẩn thỉu" mà chính thực dân Pháp cũng lên án đã kết thúc thảm hại cho những kẻ hiếu chiến.

Con đường hận thù đầy máu và nước mắt đã khép lại. Cánh cửa hữu nghị đang mở ra. Trên đường phố LKII ngày nay, người Hà Nội hãnh diện bước đi, trong số bạn bè và khách quý đến Hà Nội, có thể có cả những con cháu của những kẻ hôm xưa còn đe dọa "dội thép và lửa lên đầu" chúng ta, tất cả đều hồ hởi như có một niềm vui đang vẫy gọi, thiện chí đang đón chào.


Còn chúng tôi, giữa trăm ngàn khuôn mặt thân thương, vẫn đau đáu một niềm thiếu vắng số bạn chiến đấu thời học niên, và trong huyết quản lại rộn ràng một dòng máu nóng hổi như khi nghe tiếng pháo bắn báo hiệu đã điểm giờ nổ súng.

Hà Nội, ngày 19/10/1996
NGUYỄN QUÝ KHUÔNG
Nguyên giao thông viên Liên khu II


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:46:53 pm
NHỚ VỀ LIÊN KHU II HÀ NỘI


Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945) nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) với Tuyên ngôn độc lập lịch sử, với Chủ tịch nước vĩ đại: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hà Nội trở thành Thủ đô, trung tâm chính trị, quân sự văn hóa... của cả nước.

Hà Nội nổ súng đầu tiên, báo hiệu mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (19/12/1946).

Hà Nội là quê hương tôi với Lãng Yên quê cha, Thanh Nhàn quê mẹ thuộc Liên khu II, nay là quận Hai Bà Trưng. Tại đây tôi được cha mẹ sinh ra và trưởng thành. Cha tôi là cụ Nguyễn Văn Tích, học trường Bách nghệ, làm công nhân Xưởng Bưu điện Hà Nội, mẹ tôi là cụ Trịnh Thị Chông thuộc gia đình lao động nông nghiệp, mất sớm khi tôi còn nhỏ dại.


Hà Nội là địa phương tôi tham gia hoạt động cách mạng, được Đảng đào tạo từ những ngày đầu của cuộc đòi theo Đảng, sớm trở thành một cán bộ được giao nhiều nhiệm vụ khác nhau qua nhiều giai đoạn lịch sử: kháng chiến, bảo vệ và xây dựng đất nước.


Hơn nửa thế kỷ qua, hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám, Toàn quốc kháng chiến, tôi nhớ lại những năm tháng công tác tại Liên khu II Hà Nội với nhiều ký ức, nhiều kỷ niệm nhất là vào năm 1946.

Theo nhiệm vụ được giao, tôi vẫn làm điện thoại viên tại Bưu điện Hà Nội, đồng thời làm Bí thư phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu, tôi được đến báo cáo trực tiếp với anh Phạm Văn Đồng lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính, đề nghị xin giữ nguyên lương cho chị em nữ điện thoại viên Bưu điện Hà Nội. Làm việc xong anh bảo tôi ở lại ăn cơm. Chỉ có hai anh em. Một bữa cơm thật thanh bạch. Anh giải thích cho tôi hiểu tình hình chung, tình hình khó khăn mọi mặt mà Đảng và chính phủ phải hoạch định kế hoạch đối phó. Anh nói phải chuẩn bị kháng chiến, chuẩn bị chiến khu. Tôi chăm chú nghe không sao hiểu hết được những trù tính và chủ trương sáng suốt của Đảng, chỉ biết tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ. Trong tâm trí tôi cũng đã ý thức được những đòi hỏi về nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Nếu kháng chiến nổ ra, phải rời Hà Nội lên chiến khu, phải xa bố và các em, tình cảm và trách nhiệm đan xen. Những băn khoăn đó sớm thoảng qua. Lòng hăng say cách mạng đã làm tôi có quyết tâm khắc phục được mọi lo lắng riêng tư. Và trong quá trình công tác sau này, tôi càng ý thức được rõ trong sứ mệnh lãnh đạo, Đảng đã quan tâm xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng chiến đấu (bộ đội chính quy, Tự vệ chiến đấu, Tự vệ Thành...) xây dựng lực lượng cách mạng trong Mặt trận Việt Minh, trong các đoàn thể cứu quốc (Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Công nhân cứu quốc) để bảo vệ thành quả cách mạng sẵn sàng bằng kháng chiến toàn dân toàn diện, quyết tâm giữ vững độc lập tự do chống âm mưu xâm lược của đẽ quốc Pháp.


Lần theo ký ức, tôi nhớ đầu năm 1946, theo hệ thống của Đảng, nội thành Hà Nội chia làm ba Liên khu: Liên khu I, Liên khu II, Liên khu III. Hà Nội có Thành ủy, Liên khu có Liên khu ủy, ngay từ khi mới thành lập đểu do thường vụ Xứ Uỷ chỉ định, điều động về. Đồng chí Trần Diệp - tù chính trị Côn Đảo trở về - là thành ủy viên kiêm bí thư Liên khu ủy II đồng thời phụ trách Thanh niên cứu quốc Liên khu. Đồng chí Trần Vỹ trong ban chỉ huy Tự vệ chiến đấu Thành là phó bí thư. Khi đồng chí Trần Diệp được thường vụ Xứ ủy điểu động về Nam Định, đồng chí Trần Vỹ được chỉ định làm bí thư, đồng chí Vũ Quang - chấp hành Thành đoàn Thanh niên cứu quốc về tham gia Liên khu ủy phụ trách thanh niên Liên khu. Đồng chí Hà Giang tham gia Liên khu ủy II một thời gian ngắn, phụ trách khối chị em phụ nữ làm "cô đầu" ở Bạch Mai và Khâm Thiên. Sau chị về sinh hoạt theo ngành dọc chấp hành Thành hội Phụ nữ cứu quốc. Đồng chí Bích Thuận - bí thư Phụ nữ cứu quốc Liên khu. Đồng chí Hoàng Thị Nhàn - chấp hành Thành hội Phụ nữ cứu quốc chịu trách nhiệm theo hệ dọc đối với Phụ nữ cứu quốc Liên khu II.


Đảng coi trọng công tác phát triển Đảng. Nhiều đồng chí trong Liên khu II đều được kết nạp vào Đảng sau Cách mạng Tháng Tám hoặc trong quá trình chuẩn bị chiến đấu (vào tháng 11 năm 1945 vì sách lược, Đảng rút lui (vào hoạt động bí mật). Việc đào tạo bồi dưỡng lý luận cách mạng, phương pháp tuyên truyền tổ chức vận động quần chúng... cho đội ngũ đảng viên trẻ, cán bộ cốt cán trong các đoàn thể cứu quốc đều được quan tâm. Các lớp học chính trị ngắn ngày đều được các cấp ủy tổ chức. Có lớp đặc biệt do Bác Hồ, anh Nhân (Trường Chinh), anh Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ, Liên khu ủy II, có các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang, Bích Thuận được theo học. Đồng chí Đỗ Đức Kiên và một số đồng chí trong ban chỉ huy tự vệ chiến đấu cũng học lớp này. Có lớp của Thường vụ Xứ ủy, của Thành ủy Hà Nội tại trụ sở của Thành ủy (107 Trần Hưng Đạo), giảng viên là anh Trần Quốc Hoàn - thường vụ Xứ ủy, anh Trần Quang Huy (Nguyễn Huy Khôi) - Bí thư Thành uỷ Hà Nội. Tổng bộ Việt Minh cũng mở lớp, anh Xuân Thủy làm giảng viên. Trong số cán bộ của Liên khu II, nhiều anh chị em được dự học.


Tình hình Hà Nội ngày càng căng thẳng, anh Nhân (Trường Chinh), anh Võ Nguyên Giáp rất bận với nhiệm vụ quan trọng khẩn trương nhưng vẫn dành thời gian vào một số buổi tối đến nói chuyện thời sự với cán bộ tại Tòa thị chính (nay là ƯBND Thành phố).


Thực tế tại Liên khu II những đảng viên cán bộ nằm trong quy hoạch đào tạo đã trở thành những cán bộ lãnh đạo của Đảng, của lực lượng vũ trang, của các đoàn thể quần chúng đã lãnh đạo Liên khu II chiến đấu lập nhiều chiến công oanh liệt, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy trì sức chiến đấu giữa Thành phố. Hệ thống tổ chức của Mặt trận Việt Minh cũng dần dần được ổn định. Liên khu bộ Việt Minh Liên khu II được tổ chức. Đồng chí Tạ Hoàng Cơ chịu trách nhiệm chung và phụ trách đoàn thể Việt Nam cứu quốc. Đồng chí Nông (Vệ) chịu trách nhiệm về Thanh niên cứu quốc, đồng chí Bích Thuận chịu trách nhiệm về Phụ nữ Liên khu II (còn một hai đồng chí nữa tôi không nhớ rõ)... Đồng chí Tạ Hoàng Cơ nhiều tuổi tính điềm đạm, phát biểu chậm rãi, thường bị tôi ngồi cạnh thúc giục: "Anh phát biểu nhanh lên nhé". Anh rất mát tính không tự ái, không giận tôi. Sau này gặp nhau ngoài kháng chiến, anh vẫn nhớ và nhắc nhở lại. Còn đồng chí Nông hay nói lắp cứ bị tôi trêu. Mỗi lần đồng chí phát biểu không thể không nói lắp. Nhưng khi đó nếu tôi nhìn đồng chí thẳng vào mặt là đồng chí lại càng nói lắp, mặt đỏ lên. Vui vậy thôi chứ chúng tôi rất tôn trọng nhau. Sau này đồng chí và tôi gặp nhau trong Bộ Nội vụ chúng tôi vẫn nhớ đến nhà 159 phố Bà Triệu là cơ quan của Liên khu ủy II - nay là cơ quan của Cục Hải quan Hà Nội. Chính tại các cuộc họp về Đảng về Việt Minh này, đảng viên và cán bộ Việt Minh được phổ biến về tình hình chung, về hoạt động khiêu khích của quân viễn chinh Pháp, về nội dung cần tuyên truyền, về tránh mọi âm mưu khiêu khích của kẻ địch, về nội dung chuẩn bị khi kháng chiến nổ ra ...


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:47:54 pm
Đồng thời Đảng ch 1 trương tập hợp lực lượng đảng viên sống tại khu phố. Theo sự giới thiệu của trên, tôi về bắt liên lạc với hai đồng chí đảng viên mới là sinh viên phố Lò Đúc. Đó là đồng chí Nguyễn Thương sau này là cán bộ của Bộ Ngoại giao và đồng chí Trà sau này là chủ nhiệm khoa, khoa mắt bệnh viên Quân đội 108.


Về đoàn thể PNCQ Liên Khu chị em một phần đã được tập hợp từ sau Cách mạng Tháng Tám, phát triển và ổn định tổ chức theo hệ thống tổ chức của thành hội PNCQ Hoàng Diệu. Tới khi chuẩn bị kháng chiến, Liên khu II đã có năm tổ Phụ nữ Cứu quốc.

Tổ PNCQ Quán Sứ gồm các chị ở ngõ Tân Hưng nay là ngõ Tức Mạc (Linh - Tâm - Dung...)

Tổ PNCQ Chợ Hôm gồm các chị ở Phố Huế (Thanh - Trinh - Nhã - Thục....)

Tổ PNCQ Bạch Mai gồm các chị ở phố Bạch Mai (Thọ - Phi - Thanh - Mỵ...)

Tổ PNCQ Bà Triệu gồm các chị ở phố Bà Triệu, Phố Triệu Việt Vương, phố Bùi Thị Xuân (Dung - Trinh - Mão - Lạc...)

Tổ PNCQ Lò Đúc gồm các chị ở phố Lò Đúc - từ cây đa Nhà Bò đến chợ Ô Đống Mác (An - Hiền - Tín - Hồng ...)


Các chị phần lớn là học sinh chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào Việt Minh thành Hoàng Diệu nên hoạt động tự giác, tích cực, sinh hoạt đều đặn theo chương trình hoạt động của thành hội PNCQ và sự chỉ đạo ngang của Liên khu ủy và Liên khu bộ Việt Minh. Riêng phụ nữ Liên khu II tổ chức được một phòng đọc sách cho chị em. Số sách báo, truyện đều do các chị em mang đến và tự tìm đọc trước và sau những buổi họp tập trung hoặc những giờ nhàn rỗi đối với chị em ở gần trụ sở 159 bà Triệu.


Khi tình hình căng thẳng, việc chuẩn bị tác chiến khẩn trương, theo chủ trương của Thành hội các chị em đều học cứu thương, biết băng bó những vết thương thông thường ở tay, chân, đầu... Người học trước phổ biến cho người học sau. Mỗi tổ được phát bông băng không được nhiều mà phải mua thêm hoặc đi quyên. Trong sinh hoạt tổ chị em đều được nghe tình hình có liên quan đến kháng chiến, yêu cầu nâng cao tinh thần cách mạng yêu nước sẵn sàng chiến đấu và phục vụ cho chiến đấu, sự cần thiết phải đưa ông, bà già, trẻ con ra ngoài thành trước. Những biện pháp làm ụ kháng chiến cũng được đưa ra bàn bạc với lời khuyên không nên tiếc của. Trước mắt là tìm cách cản bước tiến của quân xâm lược. Chính chị em về làm công tác tư tưởng cho gia đình mình và gia đình xung quanh. Việc tuyên truyền theo vết dầu loang. Chưa sử dụng đến biện pháp tuyên truyền công khai trên loa phóng thanh. Chị em thể hiện rõ lòng yêu nước, căm thù giặc, vững vàng tin tưởng ở Chính phủ ở Đảng. Vì vậy mà khi tác chiến chị em sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, cứu thương, tiếp tế, nuôi quân ... Những nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ấy cũng vô cùng quan trọng để duy trì và bảo vệ sức chiến đấu.


Tại Liên khu II ngoài lực lượng Phụ nữ cứu quốc, còn lực lượng nữ Công nhân cứu quốc ở các nhà máy (Nhà máy Rượu, Nhà máy Diêm...) Chị Lê Minh được Ban Công vận Xứ giao nhiệm vụ trực tiếp liên lạc với các nhà máy tổ chức, tuyên truyền tinh thần giác ngộ cách mạng, ý thức và trách nhiệm của người công nhân dưới chẽ độ của nhà nước ta. Nhìn chung nhiệm vụ của công nhân là bảo vệ nhà máy, chống âm mưu phá hoại của Việt quốc, Việt cách và chiến đấu, phục vụ chiến đấu như cứu thương, tiếp tế, sẵn sàng tham gia chiến đấu với lực lượng vũ trang của khu phố khi nổ ra kháng chiến.


Tinh thần chiến đấu của chị em rất anh dũng. Đã có hai người hy sinh và được công nhận là liệt sĩ. Đó là đồng chí Vân (Vinh) bí thư chi bộ của Khu 12 (khu Lò Đúc) và chị Minh PNCQ Khu Bạch Mai.

Càng vào cuối năm 1946, tình hình chuẩn bị chiến đấu càng khẩn trương. Theo sự chỉ đạo của Thường vụ Xứ ủy, Thành ủy Hà Nội củng cố đội ngũ cán bộ ở lại bố trí lực lượng chiến đấu, điều động cán bộ đảm nhiệm những nhiệm vụ cần thiết. Tôi được điều động về cơ quan của Thường vụ Xứ ủy do anh Trần Quốc Hoàn đặc phái viên của Trung ương bên cạnh Mặt trận Hà Nội phụ trách. Đồng chí Đỗ Thị Ngọc (Đặng Minh Thuần) về khu Lò Đúc thay tôi, đồng chí Hoàng Thị Nhàn về Khu Đại học (Việt Nam học xá), đồng chí Trần Thị Lan Anh về làm bí thư PNCQ Bạch Mai. về Liên khu ủy II, đồng chí Nguyễn Văn Đào làm bí thư Liên khu ủy, đồng chí Trần Vĩ làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu.


Ngày này, nhớ về Liên khu II kháng chiến, về Hà Nội, tôi không thể quên nhiệm vụ được anh Trần Quốc Hoàn giao làm công tác mật mã. Tôi đã mã hóa bức điện lịch sử của Bác Hồ điện vào Mặt trận Hà Nội cho cán bộ chiến sĩ Liên khu I theo điện đài mật của Trung ương. Lời Bác Hồ điện là "các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Đồng thời tôi đã mở khóa dịch bức điện cho anh Lê Trung Toản thay mặt Trung đoàn Thủ đô điện ra xin thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.


Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh là lời hịch của Bác Hồ, lời thề thiêng liêng của Trung đoàn Thủ đô và nhân dân Thủ đô trong kháng chiến chống Pháp. Tôi không thể nào quên được.


31 - 7 - 2001
NGUYỄN THỊ BÍCH THUẬN
Nguyên ủy viên Liên khu ủy II


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:48:50 pm
ĐÊM ẤY...


Sau hơn nửa thế kỷ, ngày và tháng của những trận đánh tôi từng tham dự đã phai mờ trong ký ức, nhưng khi nhân câu chuyện nào đó nhắc đến Thu - Đông năm 1947 - 1948, đêm tập kích vào Hà Nội liền hiển hiện trong trí nhớ.

Nhận lệnh của ban chỉ huy tiểu đoàn tôi trở về ngay đại đội. Để giữ bí mật tôi chỉ triệu tập các cán bộ trung đội và tiểu đội truyền đạt nhiệm vụ trong trận đánh sắp tới. Tôi nhấn mạnh những chi tiết theo tôi từ cán bộ đến đội viên phải tuân thủ với mức nghiêm ngặt nhất. Các cán bộ trung đội tiểu đội hình như ai nấy cũng đều sửng sốt khi nghe nhiệm vụ tập kích vào một mục tiêu trong Hà Nội. Tôi sung sướng giải thích với anh em, như hồi nãy sung sướng nghe tiểu đoàn trưởng giảng giải cặn kẽ kế hoạch của trận đánh. Đường hành quân từ đây đến mục tiêu không thể đi liền trong một đêm. Tối nay, đại đội sẽ xuất phát, để gần sớm mai dừng chân trú quân tại một xóm nhỏ cách Hà Nội hơn 10 km. Và từ đấy, tiến lên Ô Cầu Dền đánh vào vị trí của địch đóng tại nhà nước mắm cá bạc Vạn Vân. Ban chỉ huy quân sự quận Liên Nam phái một tổ cán bộ do đồng chí đại đội trưởng Bích chỉ huy, đưa đường chúng tôi vượt qua những vùng kiểm soát của địch. Tô cán bộ này vốn là những người đã từng hoạt động ở vùng Thanh Trì và Thường Tín nên nắm được các quy luật tuần tiễu, canh gác của địch. Tôi yêu cầu các cán bộ phải kiểm tra thật chặt chẽ vũ khí của đội viên để khi hành quân không có chuyện va chạm phát ra tiếng động. Trời mưa bụi, đường sẽ trơn. Dù khó đi, tuyệt đối không được chống gậy, tránh để lại dấu vết trên đường hành quân. Sau cuộc họp ra về, phải lo cho anh em mỗi người một miếng vải trắng buộc trên cánh tay trái, để nhận ra nhau trong đêm tối. Nhắc anh em người nào hay ho cần tìm khăn quấn cổ. Để chia xẻ niềm vui với đồng chí, tôi nói với họ những cảm nghĩ của mình, những cảm nghĩ khi nhận lệnh của cấp trên. Đêm nay, chúng ta trở về nổ súng báo hiệu cho đồng bào đang phải sống trong Hà Nội bị tạm chiếm rằng: chúng ta luôn có mặt quanh Hà Nội, chúng ta không hề bị dồn lên rừng như địch đã rêu rao. Chúng ta tự hào sau những ngày kìm chân địch tại Hà Nội, đêm nay chúng ta - một đơn vị của tiểu đoàn 77, sẽ mở một mũi tấn công vào đồn bốt địch. Đòn đánh ấy cảnh cáo bọn Việt gian trong Hội đồng An dân do Pháp lập nên phải liệu hồn. Có lẽ tôi đã bốc trong nỗi mừng khi nhận và khi truyền đạt mệnh lệnh, nên các cán bộ cũng mừng, cũng bốc như tôi. Có người đã vỗ tay.


Trước giờ hành quân tôi kiểm tra một lần nữa vũ khí và trang phục của các chiến sĩ, phổ biến mật khẩu. Sau khi cùng đồng chí Bích duyệt lại kế hoạch hành quân từ Triều Đông đến điểm dừng chân, chúng tôi cùng một ý: Không có gì đáng ngại. Mọi việc như vậy đã được tính toán cặn kẽ.


Chúng tôi lên đường khi mưa bụi thấm lạnh da mặt. Đường chúng tôi đi là những con đường xa làng mạc, tứ phía là bóng tối, không tiếng chó sủa, không khí đượm vẻ thê lương. Bầu trời thì xám lạnh, đôi vì sao co ro như những con đom đóm mệt mỏi hụt hơi không tỏa được ánh sáng lân tinh trong đêm gió lộng. Tôi không cảm thấy lạnh và tôi chợt nhớ lời nhạc trong bài "Đoàn quân đi" của nhạc sĩ Việt Lang: "Mưa trơn, đường xấu". Nhưng chúng tôi đâu phải là toán quân xa vời. Đơn vị đang trở về Hà Nội, dù chỉ trong một trận tập kích. Đồng chí Bích dẫn đại đội tới chỗ trú quân, lúc sương mù đã trải đầy cánh đồng. Tôi biết đây là xóm Trại Chuối, một xóm trại ngoài làng Nam Dư. Trong xóm trại này có một số đồng bào bị bệnh phong sinh sống. Đồng chí Bích nhắc tôi dặn dò anh em tránh mọi hành động, lời ăn tiếng nói vô ý làm những người mắc bệnh buồn tủi. Tôi nhắc đi nhắc lại: bệnh hủi không lây qua đường ăn uống.


Sau phút ban đầu ngỡ ngàng, đồng bào đón chúng tôi với niềm vui trong những nụ cười trên những khóe mắt. Đồng bào tưởng chúng tôi sẽ đóng ở đây lâu và tất nhiên không để địch đến làm xáo trộn cuộc sống, như mới đây chúng dã phá phách những chuỗi ngày yên ấm của mọi người.


Trú quân trong xóm Trại, thời gian như ngưng lại. Các cán bộ bồn chồn không ngủ, nhưng nhiều anh em sau đêm dài hành quân đã ngủ vùi. Đồng chí Bích đoán chắc rằng bọn tề điệp không dám bén mảng đến nơi này. Nếu chúng lò dò tới đây, thì đó là điều bất hạnh đối với chúng. Trong tích tắc, chúng sẽ bị trói gô, nhét giẻ vào mồm. Nghe đồng chí Bích nói, tôi cười, tin tưởng. Không khí nơi trú quân gần kề sát địch bớt căng thẳng, dễ chịu hơn. Tôi tin vào sự phán đoán tình hình của ban chỉ huy quân sự quận Liên Nam nhưng không vì thế có thể chợp mắt dù chỉ trong một tiếng đồng hồ. Tôi thở những hơi thở sâu khoan khoái khi trời dần dần tối. Bóng đêm là một đồng minh tin cậy, và yếu tố bất ngờ, đây là lực lượng, giúp chúng tôi ra đòn đánh địch. Chúng sẽ hốt hoảng, đó là điều chắc chắn. Đồng chí Bích và tôi dẫn đại đội tiếp tục hành quân vòng qua những đồn bốt địch, qua làng Quỳnh Lôi, tiến dọc theo hàng hiên phố Bạch Mai. Tại nơi này, chúng tôi đã đánh địch ở Việt Nam học xá, tiêu diệt bọn biệt kích ở xóm Đình Đại. Tại chiến lũy Ô Cầu Dền, chúng tôi đã giam chân địch trong nhiều ngày. Khác với đi ngoài cánh đồng, khi hướng đến mục tiêu chúng tôi hồi hộp, thận trọng nghe ngóng và cùng trút súng khỏi vai. Một cánh tay từ trong cửa hé mở, vươn ra đặt lên vai, tôi giật mình, chưa kịp phản ứng, bàn tay đã nắm chặt tay tôi. Một tiếng nói thì thầm khẽ vọng vào tai: "Các anh. Các anh. Các anh đã về!". Sau trận đánh, tôi được biết đã có nhiều cánh tay như thế vươn ra nắm vai, nắm tay các chiến sĩ Và không chỉ nắm, những bàn tay ấy còn đặt những gói quà nho nhỏ vào tay các đồng đội tôi. Cử chỉ ấy dù là chỉ một thoáng cũng đủ làm chúng tôi cảm động. Nhưng để giữ bí mật đến cùng, chúng tôi không ai kịp thốt lời cảm ơn. Lòng biết ơn nhân dân chỉ kịp thể hiện bằng cách xiết chặt hơn nhưng bàn tay vừa chạm vào mình.


Đơn vị chia thành ba mũi như kế hoạch đã định. Vượt qua cầu Tô Hoàng, một chiếc cầu nhỏ trên sông Tô Lịch. Vượt qua ngã tư Ô Cầu Dền, một trung đội tiếp cận mục tiêu, trung đội khác án ngữ đường Lê Đại Hành.


Địch đóng trong ngôi nhà hai tầng vốn là cửa hiệu bán nước mắm cá bạc Vạn Vân. Vị trí này án ngữ ngã ba phố Huế và phố Chùa Vua. Được báo các đơn vị đã chiếm lĩnh xong vị trí, tôi lệnh cho nổ một tràng trung liên và ném ba quả lựu đạn phát lệnh tấn công. Im lặng vỡ tan trong tiếng súng. Bóng đêm cũng bị rách tung vì những làn đạn đỏ lừ lao vào vị trí địch. Cùng lúc ấy, tôi nghe dậy lên tiếng nổ từ phía trên vọng tối. Các đội biệt động của ta đã đánh phá các trạm biến thế điện của địch. Một tổ, rồi hai tổ theo lệnh bò sát vị trí địch, dùng lựu đạn công phá. Đại liên địch từng loạt, từng loạt xối xả băm nát các vỉa hè. Nghe tiếng súng của ta, hẳn địch đoán được lực lượng đối phương không đông nên vội vàng phản kích. Tôi và đồng chí Bích hội ý quyết định lui về phía Bạch Mai để bảo toàn lực lượng. Mục đích của trận đánh không phải là tiêu diệt địch nên lúc này đã có thể rời trận địa. Xe tăng địch đang tiến xuống cửa Ô Cầu Dền, súng cối của chúng từ các vị trí phía trên bắt đầu câu tới tấp. Đá trên đường bị đạn cối văng tới chỗ chúng tôi ẩn nấp. Nguy hiểm đã xuất hiện khi chiếc xe tăng cứ thẳng đường lao xuống. Một tràng trung liên bỗng rít lên. Hứa Văn Du vừa tiểu đội trưởng, vừa là xạ thủ trung liên đã nhanh trí xiết cò. Tôi nghe tiếng xe tăng không gầm rú nữa. Nó dừng lại nghe ngóng không dám dấn thân. Đại liên trên tháp xe tăng bắn như đổ đạn. Hứa Văn Du vẫn điềm tĩnh đối phó bằng những loạt trung liên rắn đanh, để đồng đội lần lượt lui về phía sau. Cuộc đấu súng không cân sức, nhưng chiếc xe tăng đã không còn hùng hổ xông tới. Hứa Văn Du không thể mải miết bắn cản vì phải tiết kiệm đạn. Thằng địch ngồi trong xe tăng, còn Hứa Văn Du nằm dưới mái hiên nhà không công sự. Tình thế hoàn toàn bất lợi, dù sao tôi cũng không thể hạ lệnh cho Du rút ngay. Không có khẩu súng trung liên này cản đường, chiếc xe tăng sẽ ung dung xông tới cắt đứt đường lui quân của đơn vị. Hơn ai hết, Hứa Văn Du hiểu điều ấy nên khi tôi chờ cho Du bắn xong hai loạt đạn nữa, hạ lệnh cho Du rút lui, thì Du từ chối một cách hiền lành nhưng quả quyết: "Nếu ngừng bắn lúc này nó sẽ xộc tới, anh cho đơn vị rút xa thêm, lát nữa tôi sẽ rút sau".


Tôi không thể chùng chình hơn nữa, đường từ đây về nơi tập kết qua vùng địch kiểm soát khá dày, nếu trời sáng đơn vị lập tức rơi vào thế bị bao vây. Tôi hạ lệnh cho tổ súng máy của Du bắn cản xe tăng địch thêm lát nữa và rút theo đại đội.


Người tiểu đội trưởng kiêm xạ thụ trung liên chấp hành mệnh lệnh bằng một lời hứa: "Anh yên tâm".

Tôi nghe trung liên của Du nổ rền phía sau lưng. Bọn địch trên xe tăng không dám liều mạng đuổi theo chúng tôi. Về đến địa điểm tập kết, tôi mới biết Hứa Văn Du đã dùng quyền tiểu đội trưởng của mình buộc hai chiến sĩ phải rút theo đại đội. Du vừa bắn, vừa giục hai đồng chí của mình: "Trời gần sáng rồi. Các cậu rút đi, tớ sẽ rút sau". Nhưng Hứa Văn Du không rút. Tiếng trung liên của anh thưa dần và tắt hẳn. Súng địch vẫn xối xả. Một tiếng lựu đạn vang lên. Hai đội viên hiểu ngay đồng chí tiểu đội trưởng của mình đã tung quả lựu đạn duy nhất về phía địch.


Đơn vị tập kết an toàn, tôi được thông báo: nhiều trạm biến thế của địch bị ta phá hủy. Các đồn bốt từ ngã tư Trung Hiền tới Giáp Bát đều án binh bất động liền trong mấy ngày không dám xua quân đi lùng sục. Nhiệm vụ tập kích của đơn vị đã hoàn thành.


Riêng Hứa Văn Du là người độc nhất hy sinh trong trận tập kích này. Quê anh ở làng Thụy Khuê. Anh tham gia bộ đội ngay sau ngày khởi nghĩa. Đồng đội vẫn nhớ đến anh khi nhắc đến trận tập kích vào Hà Nội Thu -   Đông năm ấy. Câu nói cuối cùng của anh vang vọng trong tâm khảm chúng tôi: "Đi đi! Chỉ cần mình tớ là đủ". Người tiểu đội trưởng hiền lành, trắng trẻo với dáng vóc cao cao, để bảo vệ cho đồng đội đã tự nguyện nằm lại trên hè phố Thủ đô. Năm ấy Hứa Văn Du hai mươi bốn tuổi.


NGUYỄN VĂN GIÁP
Nguyên đại đội trưởng, tiểu đoàn 77
Thời kỳ cuối 1947 - 1949


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:50:08 pm
BÀI HỌC KINH NGHIỆM PHỤC VỤ
KHÁNG CHIẼN Ở LIÊN KHU II HÀ NỘI


Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến tháng 12/1946, cùng với quân và dân Thủ đô Hà Nội, nhân dân Liên khu II dưới sự lãnh đạo của Liên khu ủy, và UBKC Liên khu đã góp phần tích cực ngăn chặn một bước âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân xâm lược Pháp.


Tổ chức tản cư, sơ tán di chuyển các cơ sở kinh tế kỹ thuật trong Liên khu như đài VTĐ Bạch Mai, nhà máy, xí nghiệp trong Liên khu, đặc biệt là tổ chức chiến đấu trên đường phố đã được thực hiện tốt.


I. Tuyên truyền động viên kháng chiến:

Thuận lợi cơ bản lúc đó là nhân dân Bạch Mai (cũng như nhân dân toàn quốc) tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức nhà nước (Ủy ban kháng chiến, ủy ban hành chính các cấp), qua các tổ chức đoàn thể quần chúng (Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, công đoàn, mặt trận Việt minh, Liên Việt...).


Những người già yếu, trẻ em bình tĩnh sơ tán, thanh niên nam nữ trẻ khỏe hăng hái ở lại chiến đấu làm tốt những nhiệm vụ được giao là do được tuyên truyền, bồi dưỡng cụ thể, được giúp đỡ thực hiện tốt.

Nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi là lòng tin. Quân cũng như Dân tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ mà người đứng đầu là Hồ Chủ tịch, đã hoàn thành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và tiếp tục lãnh đạo nhân dân kháng chiến quyết tâm đánh bại đế quốc Pháp xâm lược.


Các Ủy ban kháng chiến Liên khu, khu phố đã tổ chức lực lượng tuyên truyền xung phong làm tỉ mỉ công tác chính trị tư tưởng, làm cho mọi người yên tâm làm nhiệm vụ.

Khu 17 (Bạch Mai, Hoàng Mai) cùng với Ban tuyên truyền ở các khu và các tổ tuyên truyền ở từng xóm đã vận động mọi người nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của UBKC liên khu, UBKC khu phố. Người sơ tán ngoài các thứ có thể mang theo đã tự nguyện giao lại cho UBKC khu phố (Ban quản lý) lương thực thực phẩm còn lại không có khả năng mang theo được.


Thanh niên nam nữ tự nguyện nhận nhiệm vụ: chiến đấu, cứu thương, tuyên truyền, tiếp tế.

Những người làm công tác tuyên truyền hầu hết là giáo viên bình dân học vụ sẵn có quan hệ tốt với nhân dân được dân mến nên nói được dân nghe và tự nguyện thực hiện.

Tổ chức tuyên truyền động viên được sâu rộng thông qua các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chiến đấu ở từng đường phố, từng xóm. Tổ chức tuyên truyền, động viên rất có kết quả. Một phần quan trọng nữa là do kết hợp chặt chẽ với sự giúp đỡ từng gia đình từng người thực hiện những chủ trương của Đảng và nhà nước.


Việc khen thướng, động viên được thực hiện kịp thời bằng cách nêu những gương chiến đấu tốt, kể cả việc kết nạp đảng viên mới trong những ngày đầu khói lửa.

Có thể nói làm công tác tuyên truyền động viên kháng chiến đạt được kết quả tốt, trước hết là do dân tin chính phủ cách mạng, tin cán bộ trong các tổ chức của UBKC.
   

II. Tổ chức xây dựng cơ sở lực lượng kháng chiến

Ngoài nhiệm vụ tổ chức các lực lượng sẵn sàng chiến đấu như các khu phõ khác, khu 17 còn được Liên khu giao cho nhiệm vụ tổ chức các cơ sở hậu cần, các địa điểm cho UB kháng chiến Liên khu rút về để chỉ huy chiến đấu và khi bắt đầu chiến đấu, lại phải dành những địa điểm cần thiết cho lực lượng chiến đấu của các khu phố khác tập hợp đế chiến đấu ngăn chặn địch từng bước.


UBKC khu 17 phối hợp với ủy ban bảo vệ đã điều tra nghiên cứu, nắm tình hình và lựa chọn những địa điểm an toàn cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của liên khu, tổ chức điện đài được sẵn sàng đảm bảo liên lạc với cấp trên, tổ chức các trạm cứu thương để làm nhiệm vụ cấp cứu và tổ chức chuyển những người bị thương về tuyến sau an toàn hơn. Đặc biệt là tổ chức tiếp tế cho cơ quan lãnh đạo liên khu, cho các lực lượng chiến đấu của liên khu đã được chuẩn bị chu đáo với việc tổ chức các kho lương thực, thực phẩm cho những bếp nấu ăn hàng ngày và những cơ sở chế biến thực phẩm. Hoàn cảnh thuận lợi của khu 17 có phố buôn bán đông đúc, có nhiều cửa hàng bán lương thực, thực phẩm, có bò, lợn, có vườn rau đã được tận dụng để tập trung và tổ chức phân phối kịp thời ngay từ ngày đầu kháng chiến toàn quốc bùng nổ.


Lực lượng phụ nữ cứu quốc đã tích cực tham gia nấu nướng, chế biến thức ăn và đi tiếp tế cho lực lượng chiến đấu bố trí rải rác ở nhiều trọng điểm trong liên khu.

Lương thực thực phẩm dân để lại do UBKC khu phố được ghi chép lại để sau này thanh toán cho nhân dân. Rất tiếc là những tài liệu này bị thất lạc khi ban quản lý rút về tuyến sau.

Sau khi địch mở rộng mặt trận, UBKC Liên khu rút xuống phía nam và nhập với Mê Linh - Đề Thám thành UBKC quận 6, ban quản lý của Liên khu II mà nòng cốt là tổ chức quản lý của Khu 17 trở thành nòng cốt của ban quản lý quận 6.


Khu 17 đã làm tròn nhiệm vụ Liên khu giao là do chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ, có điều tra, nghiên cứu khả năng vật chất sẵn có của nhân dân, lực lượng thanh niên nam nữ có điều kiện ở lại chiến đấu và phân công cụ thể, tận dụng khả năng của mỗi người. Để chuẩn bị tiếp tế cho Liên khu, ban quản lý đã điều tra khả năng của các làng xung quanh, và sau này Liên khu II sáp nhập vào quận 6, thì ban quản lý cũng kịp thời tổ chức lực lượng bảo vệ và thu nhặt rau tại các xã ven nội để tiếp tế cho lực lượng chiến đấu của quận. Có những lúc lực lượng tiếp tế phải chiến đấu bắn tỉa để ngăn chặn địch cướp rau mà chúng cũng rất cần. Ta đêm đêm lại tổ chức bảo vệ chu đáo việc thu nhặt rau chuyển về quận.


Lực lượng chiến đấu của Khu 17 bao gồm đông đảo thanh niên mà nòng cốt là đảng viên cộng sản và thanh niên cứu quốc đã được tập luyện và chuẩn bị chu đáo.

Việc đào hầm hố chiến đấu, đục tường để thông giữa các nhà hai bên đường phố, việc bố trí ụ súng ở các nhà gác ở góc đường đầu phố, nhất là việc đắp ụ ngăn đường ở Ô Cầu Dền đã tạo điều kiện cho lực lượng chiến đấu của Khu 17 phối hợp với một phần lực lượng của một số khu phố khác trong Liên khu, đã ngăn chặn được địch không chọc thẳng được xuống phía nam qua phố Bạch Mai, bảo vệ an toàn cho cơ quan chỉ huy của Liên khu. Ban quân sự Liên khu đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội được điều về chiến đấu ở mặt trận này, và sau khi mặt trận mở rộng, UBKC Liên khu II nhập vào UBKC quận 6 thì một số khá đông tự vệ có vũ khí gia nhập bộ đội, một số gia nhập vào lực lượng an ninh làm công tác tình báo.


Tiêu đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 02 Tháng Sáu, 2022, 07:50:48 pm
III. Công tác lãnh đạo

Nguyên nhân quan trọng nhất đem lại thành tích chiến đấu trong những ngay khói lửa mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc là sự lãnh đạo sáng suốt vững vàng của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Hồ Chủ Tịch.

Đối với Khu 17, chi bộ Bạch Mai của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xứng với vai trò lãnh đạo ở địa phương. Bạch Mai với vị trí đặc biệt của nó là nơi tập trung nhiều nhân dân lao động, cũng là nơi có phong trào truyền bá quốc ngữ mạnh mẽ. Nhiều thanh niên tích cực đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ, đã được rèn luyện trong công tác thực tế nên đã có tư tưởng tiến bộ, có kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền, cổ động và trong công tác tổ chức, giảng dạy. Thời gian làm công tác truyền bá quốc ngữ ngoài giờ làm việc chính thức của mỗi người để sinh sống, đã tạo cho người giáo viên truyền bá quốc ngữ có nếp sống giản dị, lành mạnh, gương mẫu, hòa được vào đông đảo nhân dân lao động và được nhân dân tín nhiệm. Đó là cơ sở tốt để tổ chức thanh niên cứu quốc trước Cách mạng Tháng Tám và tổ chức chính quyền cách mạng sau ngày 19/8/1945.


Sau Cách mạng Tháng Tám, một số thanh niên cứu quốc đã từng hoạt động bí mật tham gia vào lực lượng tự vệ chiến đấu của thành, được điều đi công tác ở một số nơi cần thiết để góp phần xây dựng phong trào. Một số ở lại tổ chức chính quyền cách mạng ở khu phố và phát triển các tổ chức quần chúng.


Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Bạch Mai được thành lập trên cơ sở kết nạp những đảng viên mới lựa chọn trong đoàn thanh niên cứu quốc Bạch Mai. Chi bộ đã lãnh đạo chính quyền khu phố, để tổ chức các đoàn thể quần chúng, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân lao động ở các xóm nghèo, đã tổ chức đấu thầu ruộng công để lấy tiền mắc điện, đặt máy nước, mở lớp bình dân học vụ, tổ chức tự vệ ở các xóm, ở các tiểu khu phố, đã tập hợp được đông đảo thanh niên tập luyện quân sự, tổ chức canh gác, đảm bảo trật tự trị an đấu tranh chống những mặt tiêu cực trong xã hội như cò bạc, thuốc phiện, ngăn chặn thanh niên ăn chơi trụy lạc.


Đặc biệt là khi có lệnh chuẩn bị kháng chiến, chi bộ đã lãnh đạo ủy ban bảo vệ, ủy ban nhân dân khu phố tích cực xây dựng cơ sở chuẩn bị kháng chiến.

Chi bộ mới thành lập, đảng viên hầu hết là thanh niên có nhiệt tình cách mạng, nhưng chưa có kinh nghiệm lãnh đạo làm sao mà vươn lên làm tốt nhiệm vụ phát triển đoàn kết quần chúng, xây dựng chính quyền, chuẩn bị kháng chiến được như thế? Trước tiên phải nói công tác thực tế đã rèn luyện cho đảng viên mới. Mỗi đảng viên phải đảm đương nhiều việc, đã qua nhiều thử thách, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên đã tiến bộ trong công tác thực tế. Có lúc anh em đã có những hành động cực tả như bắt con bạc đeo biển đi bêu ở phố, đập bàn đèn thuốc phiện... có thể nói tối nào các đảng viên cũng gặp nhau trao đổi công tác. Thấy cái gì tốt thì phát huy các gì sai thì sửa. Nhờ tập thể bàn bạc giúp đỡ nhau nên sự lãnh đạo của chi bộ qua các đảng viên mang lại nhiều kết quả.


Thành phần chi bộ tuyệt đại đa số là thanh niên nhưng cũng có đồng chí lớn tuổi hoạt động cách mạng lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, nên sức mạnh kết hợp của đảng viên trẻ với kinh nghiệm của đảng viên lớn tuổi được tăng lên rất nhiều. Tình hình đó rất phù hợp với chủ trương của Đảng ta hiện nay là phát huy trí tuệ tài năng của cán bộ trẻ đồng thời tận dụng kinh nghiệm của cán bộ già, còn có điều kiện làm việc.


Chi bộ hết sức quan tâm đến việc học tập chính trị, đã mở nhiều lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho đảng viên và thanh niên cảm tình Đảng về tình hình nhiệm vụ, về lý luận và công tác cách mạng. Tiếp đó một số đảng viên được cử đi học lớp chính trị ngắn hạn của Liên khu, của Thành và của Trung ương. Những đồng chí đi học về lại có thêm kiến thức tổ chức bồi dưỡng cho các đồng chí khác.


Có thể nói đảng viên hoàn thành nhiệm vụ tốt là do tích cực học tập, công tác, rút kinh nghiệm và tập thể bàn bạc giúp đỡ nhau.

Một kinh nghiệm đáng chú ý là đảng viên người địa phương rất say mê với công việc địa phương, hiểu biết sâu sắc tình hình địa phương và được nhân dân uịa phương tin yêu, coi công tác địa phương là quan trọng. Kể cả một số đảng viên là công nhân viên chức, sau khi làm tròn nhiệm vụ ở cơ quan, xí nghiệp đã tập trung hết khả năng vào công tác ở địa phương, lấy sinh hoạt ở chi bộ khu phố là chính, vì ở cơ quan xí nghiệp anh em chỉ là công nhân viên thường, không có trách nhiệm lãnh đạo.


Là người phụ trách hậu cần của Liên khu II kiêm chủ tịch UBKC Khu 17 (Bạch Mai, Hoàng Mai) tôi trình bày một số nhận thức của tôi mong rút ra được một số kinh nghiệm những việc làm đã qua để góp phần vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và tổ chức quần chúng để động viên và tổ chức nhân dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu đánh bại kẻ thù xâm lược với bất kỳ qui mô nào, bảo vệ Thủ đô Hà Nội anh hùng của nhân dân ta.


VŨ VĂN QUÝ
Nguyên chủ tịch UBKC Khu 17
(Bạch Mai, Hoàng Mai) kiêm trưởng
ban hậu cần Liên khu II Hà Nội