Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:18:20 am



Tiêu đề: Dòng sông thơ ấu
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:18:20 am
DÒNG SÔNG THƠ ẤU
(TIỂU THUYẾT)

Tác giả: NGUYỄN QUANG SÁNG

NHÀ XUẤT BẢN KIM ĐỒNG, 2002

Số hoá: hoi_ls




(https://i.imgur.com/vmLP8mkm.jpg)



Chiếc xe đò từ Sài Gòn về làng, cuốn theo bụi cát của con đường dài hàng trăm cây số, dừng lại trước cửa nhà cha tôi. Xe dừng nhưng máy vẫn nổ, anh lái xe vừa bóp kèn, vừa vỗ cả cửa xe, ló cái đầu ra cửa, kêu lớn:

- Chú Hai ơi! Thằng Năm con của chú còn sống, về tới Sài Gòn rồi.

Không đợi cha tôi bước ra, anh cứ hét vọng vào nhà. Khi cha tôi, một ông già hơn bảy mươi, ốm yếu, từ trong nhà bước ra, chưa thấy mặt anh thì xe đã chuyển bánh rồi.

- Nó nói cái gì vậy bây? Chạy ra bến xe hỏi lại nó coi!

Chị tôi đang ngồi sàng gạo, chị nghe rõ hơn:

- Thằng Năm về!

Chị tôi vừa nói, vừa vụt chạy ra đường với hai bàn chân đất. Cả mấy đứa nhỏ trong nhà (những đứa mà ngày tôi đi, chúng chưa có mặt ở trên đời) và lũ nhỏ hàng xóm ùa ra đường, chạy ra bến xe ngoài chợ.

Chị tôi chạy trước, khi rõ được tin rồi, chị quay lại bảo với mấy đứa con:

- Về nói với ông ngoại, cậu Năm bây còn sống, về tới Sài Gòn rồi.

Từ chợ, chị ghé từng nhà trong bà con dòng họ, vừa đi, vừa chạy, đến lúc trở về, chị mới hay, cái đầu tóc xổ ra lúc nào, cứ xấp xải, và tay vẫn cầm cái sàng gạo.

Chị cười nói với mọi người:

- Tôi như con điên.

Hôm sau, cái mái tóc xấp xải của chị không còn nữa. Chị cạo đầu, chiều qua lúc trời vừa xẩm tối, sau khi đốt ba nén hương vái lạy ông bà.

- Tôi có vái, nếu đất nước được giải phóng, thằng em tôi còn sống thì tôi xin xuống tóc 1, xin ăn chay một tháng. Hồi nó đi tôi chưa lấy chồng, bây giờ tôi đã có tám mặt con rồi, còn gì!

Gia đình tôi có tám chị em, mất hai còn sáu. Chị lớn, chị Hai, mất từ bé, những đứa em sau không ai biết mặt chị. Người anh kế, anh Ba, thay chị là anh lớn. Chị thứ tư, tôi thứ năm, kế là em gái thứ sáu, thằng em trai thứ bảy cũng mất lúc còn ẵm ngửa, còn thằng thứ tám, và thằng út. Có người khen má tôi giỏi, sanh con thật đều, cứ ba năm một đứa, đến thằng út, không sanh nữa thì mất. Má tôi mất lúc tôi mới mười ba, chị tôi mười bảy, còn thằng út mới lên hai. Chị tôi phải thay má tôi, chăm sóc cả một đàn em. Còn anh lớn tôi, anh Ba, chỉ thấy mặt trong bữa cơm. Chị coi tôi như người bạn, việc gì cũng thổ lộ.

Một đêm hát đình, chị cùng bạn gái đi xem hát. Chị mặc áo dài trắng, cổ đeo cây kiềng vàng, tai đeo đôi bông hột đá, và tóc còn để ngang. Lần đầu tiên tôi thấy chị đẹp. Cái đình! Cái đình của làng tôi nằm ở giữa làng, bên con đường đá. Trước mặt đình, qua con đường đá là bến sông, bên kia sông là rặng cây của cù lao. Nhìn ngang là chợ Phủ Thờ có một hàng sao, nhìn xéo lên là tháp chuông của nhà thờ cù lao Giêng. Cái nhà thờ được dựng lên từ ngày Tây mới chiếm nước ta, nên còn gọi là nhà thờ gốc. Cái tháp chuông vượt hẳn lên khỏi rặng cây, ở phía bên này sông, đứng đâu cũng nhìn thấy, như cái lâu đài với màu xanh đang ngả xám. Cái chuông ấy bao lớn, không ai nhìn thấy; buổi chiều và sáng sớm, tiếng chuông ở tận bên kia, lan qua mặt sông, vang đến tận từng nhà bên này sông. Dù không theo đạo, cũng phải nghe tiếng chuông của Chúa! Cái đình của làng tôi thờ ai, chẳng mấy ai biết. Theo lời bà nội tôi kể, đình làng thờ ông Chưởng Cơ, tức là Thoại Ngọc Hầu. Sau khi đào xong con kinh Vĩnh Tế, vạch đường biên giới giữa nước ta với Campuchia, số người già yếu được Ngài cho giải binh. Số binh sĩ ấy mới trụ lại đất An Giang này, người bên Hậu, kẻ vượt sông, sang Tiền, xây cơ lập nghiệp. Nghe đâu, ông sở hay ông sơ 2 của tôi cũng là lính của Ngài. Hằng năm, hễ đến rằm tháng sáu, trăng tròn, thì có lễ cúng đình, làm heo, làm bò, vật cả trâu, những ai là người vai vế trong làng, áo dài với khăn bóng, đều tụ về, mâm trên mâm dưới, ăn ăn uống uống đến mấy ngày liền. Lại kêu gánh hát từ Sài Gòn về, hát suốt ba đêm. Ba ngày lễ ấy, từ trưa cho đến chiều, một chiếc xe ngựa, dựng hình đào kép với cảnh tuồng tích. Hai bên hông xe mỗi bên một tấm, sau xe một tấm, tấm nào cũng lớn bằng cái bảng đen ở trường, đủ màu xanh đỏ vàng trắng. Mặt các cô đào, các anh kép, mặt Quan Công cùng Lã Bố... Xe để trần không mui, trên xe có đào thật, kép thật, son phấn mũ mão với lông công, cùng với một cái trống. Chiếc xe ngựa chạy trên con đường đá, dọc theo làng với những tiếng trống thùng thà thùng thình tở mở. Ngựa chạy đến đâu, con nít hai bên đường ùa ra đến đó. Trên xe, họ ném giấy quảng cáo cho trẻ em giành giựt. Giấy quảng cáo tung ra trắng như cánh chim. Làm sao không nôn nao cho được! Nhà thổi cơm sớm, ai cũng chập chờn bước ra khỏi cửa. Sao đêm ấy, tôi không đi với chị tôi? A! Tôi nhớ ra rồi. Chị tôi dỗ các em:

- Người ta đông như kiến, đi lúp xúp dưới chân người ta, người ta đạp chết.

Chị hứa mai chị sẽ xay bột làm bánh tầm, bánh xếp, làm cả bánh con đuông, và có cả nước cốt dừa. Bọn em tôi vui ra mặt.

Sau này nghĩ lại, tôi đâu có ngờ, cái đêm hát đình năm ấy, chính là đêm quyết định số phận của chị tôi. Cái đình thờ thân của làng, chính là nơi trai gái gặp nhau, từ đó mà sau này họ nên vợ nên chồng.

Dưới bến, xuồng ghe từ các nơi đổ về, san sát bên nhau, như những chiếc bè. Trên đường, có một cái bãi trống dành cho xe ngựa từ xa tới. Ngựa rung đầu, tiếng nhạc kêu leng keng.

Trai gái từ dưới bến bước lên, từ trên xe bước xuống, từ các ngả đường bộ đổ về, mỗi người mỗi kiểu, mỗi cách, nhưng ai cũng muốn khoe sắc, khoe tài, khoe của. Họ mặc những bộ đồ đẹp nhất (ai không có thì đi mượn); con trai, đầu chải sáp thơm, láng mượt; con gái, thì nào bông tai, đủ kiểu: bông cẩm thạch, bông hột đá, cổ đeo dây chuyền vàng, cổ tay đeo vòng cẩm thạch, đeo dây neo, họ khoe cả chiếc răng vàng khi nhoẻn miệng cười (ấy là cái đẹp bấy giò, ở làng quê). Tóc của các cô gái thì chải bằng dầu dừa, mướt mượt (ai mà chẳng muốn vuốt ve).

Cái rạp hát ở trong sân đình, chứa không quá vài trăm, mà người thì chật cả sân, tràn ra đến tận con đường đá. Thấy mặt nhau là vui rồi, cần gì phải xem hát.

Khuya lắm, chị tôi mới về. Chị gọi tôi dậy. Nghe hơi thở của chị, tôi tưởng là chị vừa thoát khỏi một chuyện gì ghê gớm.

Lúc chị tới đình thì có một anh chàng cứ lẵng nhẵng theo sau. Chị vào đình xem hát, hắn cũng chui theo. Chị đi quanh co qua chỗ đông người, tưởng hắn không theo kịp, đến khi chị ra về, nghe có tiếng chân ai ở phía sau, quay lại, hóa ra là hắn. Hắn không chào, không hỏi, không trêu cũng không chọc, chị tôi đi nhanh, hắn cũng đi nhanh, chị tôi đi chậm, hắn cũng đi chậm.

- Còn đứng ở trước cửa nhà mình kìa! - Chị tôi không biết gọi anh ta bằng gì, nên nói trống không.

Từ con đường đá vào nhà tôi, phải đi qua cây cầu khỉ bắc ngang con kinh nhỏ, nên anh ta vẫn đứng ở bên đường.

- Để em lấy đá em liệng, cho thằng chả đi.

Tôi chưa cầm đá mà chị đã chụp lấy tay tôi:

- Đừng em, người ta đâu có làm gì.

Vài hôm sau, chị tôi nhận được thư của anh ta, thư tình. Nếu má tôi còn, chắc là chị thủ thỉ với má. Bây giờ chị biết nói với ai. Cha tôi? Lạ, ở làng, chỉ có nhà tôi gọi cha tôi là cha, còn người khác, họ gọi là ba. Ba hay cha cũng vậy, nhưng cái tiếng ba nghe nó gần gũi, thân mật hơn. Còn tiếng cha nghe như xa hơn và nghiêm khắc hơn. Cha tôi đúng là người nghiêm khắc, chẳng những con cái mà bà con dòng họ cũng như người quen biết ai cũng nể, cũng sợ. Má tôi cũng sợ cha tôi lắm. Mà cha tôi có làm gì ai đâu, cũng chẳng có chức quyền gì, một người dân, cũng chẳng phải là người giàu có, chỉ là anh thợ bạc, suốt ngày ngồi gò lưng, làm công lấy tiền. Vậy thì còn ai để chị nói? Chị chỉ nói với tôi, cho tôi xem cả thư tình. Thư anh ta viết, đọc nghe mùi như bài ca, bài hát trong tuồng cải lương.

- Chữ viết đẹp chớ, hả em?

Chị tôi khen. Hai ba ngày lại có một lá thư. Những lá thư ấy, chị tôi xếp cẩn thận, để trong áo gối, trên đầu nằm, chị bảo, để rơi rớt, sợ người ta bắt được! Cái anh chàng ấy khôn thật! Anh lân la thăm hỏi tất cả bà con bên ngoại, bên nội tôi. Đến lúc thấy mọi người đã yêu đã quý mình, anh mới nhờ người đến dạm hỏi. Tức khắc bà con nội ngoại tôi như đứng lên hùa theo.

- Mấy đứa em tôi còn nhỏ, tôi chưa đi được! - Chị nói vậy, rồi ôm thằng em út của tôi vào lòng, hôn lên mái tóc của nó: - Chị chưa đi đâu em!

Thằng em út tôi biết gì mà nói? Đúng như vậy thật. Sau này tôi được nghe kể lại: sau khi tôi đi bộ đội rồi, chị bồng thằng em tôi lên Sài Gòn, đi ở cho những người bà con giàu, nuôi em. Có người tưởng là con chị. Anh chàng trai kia vẫn cứ đeo đuổi mãi... Chị tôi đi đâu, anh đi đến đó, có điều không phải đi lẵng nhẵng theo sau. Nhà tôi bỏ làng, tản cư vào Tháp Mười, anh cũng đi theo, cất một cái nhà gần đó. Chị tôi lên Sài Gòn, anh cũng lên Sài Gòn, ở nhà bà con, để ngày ngày được thấy mặt. Có phải chăng là mối tình đầu của hai người? Bốn năm sau, khi thằng út bắt đầu cắp sách đến trường, chị mới cho cưới.

Khi đứa con trai đầu lòng của chị lên mười bảy, chị đưa vào chiến khu, cho đi Quân giải phóng, chị bảo nó làm sao cũng phải tìm cho được cậu Năm. Hai cậu cháu chỉ nhận được thư, chứ chưa gặp được nhau. Hai cậu cháu ở hai chiến trường khác nhau, quá xa cách. Chị tôi nói:
- Tôi nhớ nó nhưng không nhớ được cái gương mặt của nó. Tôi nhìn cha tôi, nhìn mấy đứa em, nhìn mấy đứa con để hình dung cái khuôn mặt của nó. Ba mươi năm rồi còn gì!

Đêm ấy, đêm mồng mười tháng năm, năm bảy lăm. Cha tôi không có thói quen ghi nhật ký, nhưng nếu trong đời có điều gì quan trọng, thì cha tôi gỡ tấm lịch trong ngày để vào cuốn sổ. Chỉ như vậy, không cần phải ghi chép thêm lời nào, ngày tháng của tấm lịch đủ gợi cho cha tôi nhớ tất cả.

Chỉ mới nghe tin thôi mà bà con hàng xóm đã lần lượt kéo đến thăm cha tôi, đông đến nỗi không đủ ghế ngồi cho khách, nhiều nhất là những người cũng có con đi xa như cha tôi. Khách ngồi cả trên giường, ngồi bệt xuống ngay bậc cửa.

Một người nói:

- Bây giờ tôi mới nhớ là anh còn có một đứa con thứ năm nữa. Lâu nay tôi quên bẵng nó đi.

- Không phải anh mà cả tôi nữa, là cha của nó mà cũng có lúc tôi tưởng trong đàn con của tôi, không có nó. Nó cứ đi biền biệt...

Rồi cha tôi dừng lại, nhìn xa xôi ra con sông:

- Như con sông chảy qua làng, có lúc mình quên mình ở bên con sông. Giây phút nào đó, dù bị lãng quên, con sông vẫn trôi qua, vẫn con nước ròng, con nước lớn, và rồi không ai có thể quên khi nó nổi sóng theo cơn gió.

Nỗi nhớ của con người, có lúc nó nằm yên, rồi khi chợt gặp một dáng đi, giọng nói của ai đó, hoặc một bài hát mà nó hay hát, nỗi nhớ lại dậy lên cuồn cuộn như sóng. Và kỷ niệm như những con thuyền, trăn trở không yên.

Nỗi nhớ như con sông vẫn chảy mãi trong đời người.

Sau khi quân Pháp neo chiếc tàu chiến ở đuôi cù lao Giêng, bắn đại bác vô làng, rồi cho bọn lính lê dương đổ lên, chiếm lại chợ thì mấy ngày sau nó đi. Nó đi theo chú Ba Giáo, ở cơ quan tuyên truyền của quận. Mấy tháng sau, lại nghe nó đi bộ đội...

Cha tôi tiếp:

- Sau khi Hòa Hảo dậy, tôi cho tất cả con cái xuống ghe, tản qua bên kia sông, vùng giải phóng. Một buổi chiều nước lớn, bộ đội đang hành quân. Xuồng nối theo xuồng dài dằng dặc trên kinh đổ vào Đồng Tháp. Bộ đội đi bằng xuồng chớ không phải bằng tàu mà con kinh vẫn nổi sóng. Súng lớn, súng nhỏ, có đủ. Người ta chạy xuống bến xem bộ đội, còn tôi và mấy đứa nhỏ thì ngồi sau lái ghe. Tôi nhìn theo từng chiếc xuồng bơi qua, cũng có ý tìm nó. Tôi chưa thấy nó thì nghe một tiếng kêu:

- Cha!...

Suốt từ đó cho đến nay, lâu lâu tôi lại chợt nhớ tiếng kêu của nó, và tôi thấy rởn óc.

Tôi quay lại, thấy một chiếc xuồng đang tách ra, bơi lại phía ghe của tôi. Nó ngồi mũi, rạp mình xuống mà bơi. Nó đã nhận ra tôi từ phía sau lưng. Xuồng vừa cập lại, nó đã nhảy tót lên ghe. Nó vẫn như vậy, nhưng so lúc ở nhà, nó rắn rỏi hơn. Nó mặc quần cụt đen, áo bà ba trắng đã cũ, áo bà ba mà để vô quần, thắt một sợi dây nịt, lủng lắng bên hông một trái lựu đạn. Trong bộ đội không phải chỉ có một mình nó, mà có nhiều đứa nhỏ như vậy, cũng như nó, làm liên lạc.

- Con đi đâu vậy? - Tôi hỏi một câu chẳng có nghĩa gì.

- Con đi hành quân.

Trong lúc đó, thằng em út của nó đã nhào tới, thằng nhỏ mới ba tuổi. Nó ôm thằng em vào lòng, nó hôn.

- Em ở lại mạnh, ngoan nhé!

- Anh đi bộ đội, về, mua kẹo cho em, nghen anh.

Trong lúc đó, chị nó nhìn thấy cái lỗ rách trên vai áo nó, chị nó bảo:

- Cởi áo ra, chị vá cho, sao mà rách rưới như vậy.

- Đâu có kịp, em phải đi. Để lần sau.

Nó nói vậy nhưng chẳng có lần sau nào nữa, cho đến bây giờ. Rôi nó nhảy xuống xuồng, rạp mình, bơi cho kịp anh em. Cái mái dầm trong tay nó quạt đến dậy sóng. Con xuồng lao đi như con thoi. Đi được một quãng, nó quay mặt lại, đưa cái dầm lên, chào!

Tôi tưởng đơn vị của nó cũng hành quân đâu đó trong vùng, như những lần trước, rồi cũng có ngày quay lại. Ngày rồi tháng, tháng lại đến năm, không thấy đơn vị của nó quay lại. Hỏi thăm mới biết là đơn vị của nó đã nhập vào một đơn vị khác, thành một liên chi gọi là liên chi 2K, tức là bộ đội của hai khu nhập lại thành một, từ đó vượt qua sông Tiền, vượt qua sông Hậu, xuống đến rừng U Minh luyện tập, rồi đánh vòng qua bên Bảy Núi. Có lúc tôi thầm trách nó, sao nó không nói với tôi. Nhưng tôi lại nghĩ, chuyện bí mật quân sự làm sao lộ được, vả lại, nó đứa liên lạc, nó biết gì.

Từ đó, gia đình tôi với chiếc ghe, đi từ Phong Mỹ, tản vào Mỹ An, Đồng Tháp, rồi từ Đồng Tháp dắt díu nhau về Sài Gòn làm ăn.
Không mấy chốc mà kháng chiến đã đến chín năm. Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Cũng là một dịp cho người thân đi tìm lại nhau. Tôi đang loay hoay chưa biết tìm cách nào đi thăm nó thì thằng thứ ba tù U Minh về Sài Gòn. Nó đi có việc của cơ quan giao cho. Vợ con của thằng Ba tôi cũng ở Sài Gòn, nên nó tìm tôi thật dễ dàng. Nó bảo nó có gặp thằng em nó hai lần ở U Minh. Theo sự chỉ dẫn của nó, tôi đi thẳng xuống Chắc Băng. Tôi mua nào bánh, nào kẹo. Có một người cũng đi thăm con, hỏi tôi, nó được bao nhiêu tuổi. Tính ra nó đã hăm hai rồi. Người bạn đường cười: “Nó đã lớn, kẹo bánh làm gì, phải mua đồ nhậu”. Đến lúc đó tôi mới sực nhớ. Bắt chước ông bạn đường, tôi mua thêm hai kí lạp xường, một kí tôm khô với hai chai rượu.

Đi xe rồi đi tàu. Tôi đến Chắc Băng, là bến tập kết của bộ đội miền Tây, chuẩn bị xuống tàu đi ra Bắc.

Bộ đội đóng dài theo con kinh Chắc Băng, hàng chục cây số. Cha mẹ đi tìm con, vợ đi tìm chồng, từ các nơi đổ về, xuồng ghe tấp nập. Người ta đóng lều dưới bụi tre, dưới tàn cây, dài dài theo bến. Một cái lều là một cái bếp, cơm sáng, cơm trưa, cơm chiều, cơm tối, khói lên nghi ngút.

Tôi mướn một chiếc xuồng, bơi dài theo kinh, chỗ nào có bộ đội thì tôi tấp vô bến, đưa cái tấm hình hồi nhỏ của nó, hỏi anh em. Từ sáng cho đến tôi, ghé không biết bao nhiêu bến, nhưng không ai biết nó, đông quá mà! Tôi mừng hụt đến bốn lần, vì có bốn anh bộ đội trùng tên với nó. Đến tối, có một anh chỉ huy bảo tôi, cứ ra ngay cái bến tàu, đóng trại tại đó, rồi thế nào cũng gặp.

Đến bến tàu, tôi mới biết, không phải một mình tôi, mà cũng có nhiều người như tôi, cũng chờ con như vậy.

Tôi mua một chiếc chiếu, trải ngay dưới lùm tre, nhìn mặt từng anh bộ đội từ bến bước xuống tàu. Tôi chờ đến ba chuyến, cũng không thấy nó.

Một hôm, trong một đoàn quân, chiến sĩ nối nhau đi xuống bến, có một người tre trẻ, tôi thấy quen quen. Người chiến sĩ ấy cứ nhìn tôi, qua mặt tôi rôi, vẫn quay mặt nhìn lại. Tôi muốn hỏi mà chưa biết hỏi cách nào thì người chiến sĩ ấy đi thẳng lại trước mặt tôi:

- Bác có phải bác Hai không? (Chú còn nói đúng cả tên tôi nữa).

- Phải! Cháu là ai mà bác thấy quen quen.

- Cháu là Sườn, con của Tám “lò heo”.

- Vậy!

- Bác đi tìm thằng Năm phải không?

- Phải!

- Năm xuống tàu đi rồi bác Hai à.

Tôi bủn rủn cả tay chân.

Thằng cháu, tội nghiệp, chỉ kịp nói vậy thì phải quay đi cho kịp anh em. May mà tôi kịp trấn tĩnh, tôi gọi nó, trao cho nó cả cái túi kẹo bánh, rượu và lạp xường:

- Cháu đem xuống tàu, nhậu với anh em. Ra ngoài ấy gặp nó, nói là bác có đi tìm. Mà quên, cháu đã gặp ba cháu chưa?

- Dạ! Cháu đóng ở đây ba ngày rồi, chờ hoài mà không gặp. Bác Hai về, nói giùm với ba cháu, cháu còn sống, cháu đi, rồi cháu về.

Thời giờ chỉ có thể nói với nhau như vậy thôi. Lưng đeo ba lô, vai đeo súng, tay phải xách theo cái giỏ đồ nhậu, nó chạy theo anh em xuống tàu há mồm của tụi Pháp.

Khi tàu tách bến, xuồng ghe dưới bến cũng túa ra, kẻ bơi, người chèo đuổi theo tàu. Còn người trên bờ thì cũng ùa chạy theo trên con đường cập theo kinh. Tôi cũng chạy theo. Người dưới tàu giơ tay ra chào, đưa hai ngón tay. Người trên bến trên xuồng ghe cũng đưa hai ngón tay, hẹn rằng hai năm sau sẽ trở về.

Người cha tìm con không gặp con. Đứa con tìm cha, không gặp cha. Cuối cùng người cha không gặp con lại gặp đứa con không gặp được cha! Trớ trêu như vậy! Ở cái bến tập kết ấy, không phải chỉ có một mình tôi, mà cũng có nhiều người lâm vào tình cảnh như tôi. Những người không may ấy, giây phút, đối với nhau như tình ruột thịt.

Tôi chưa muốn kể, tôi đã gặp những chiếc xuồng của bậc cha mẹ đi thăm con, vừa bơi dài theo bến, vừa gọi tên con mình:

- Bảy ơi, Bảy! Má đây con!

Nghe thắt cả ruột gan...

Thằng Ba ở lại Sài Gòn hoạt động nội thành, lại bị bắt. Nó ở tù, nhung vẫn được tin. Còn nó, nó ở ngoài kia, bặt vô âm tín. Rồi một buổi trưa năm 1964, tôi đang ngồi, bỗng thấy từ xa một người đàn bà, dáng quen quen, tay còn cầm cây dầm, đi xấp xải.

Tôi nhận ra đó là con Tầm. Con Tầm nó gọi tôi bằng dượng. Hồi trước, tôi có nhờ con Tầm bồng bế thằng Năm lúc lên bốn lên năm. Vừa bước vô nhà, nó vừa kêu:

- Dượng Bảy ơi! Dượng Bảy!

Con Tầm đang ở trong vùng du kích của Đồng Tháp, không dễ gì qua tới cái làng bị chiếm này. Nghe cái giọng của nó tôi biết là có chuyện gì không bình thường. Tôi buông giũa xuống, hỏi:

- Chuyện gì vậy Tầm? Ngồi xuống, bình tĩnh rồi nói.

Nó ngồi xuống ghế, tay chống cây dầm. Chèo chống đường xa, mặt nó tái mét, lấm tấm mồ hôi, nhưng nhìn con mắt của nó, tôi thấy đỡ lo. Nó ngước nhìn tôi với cặp mắt sáng:

- Cháu qua đây để báo cho dượng một tin mừng.

- Tin gì mà mừng?

- Tin của thằng Năm.

- Nó về hả?

- Dạ không.

- Vậy chuyện gì mà mừng?

- Dượng bình tĩnh để cháu kể đầu đuôi - Bây giờ nó lại khuyên tôi bình tĩnh - Hôm rồi chú Ba Giáo ghé qua nhà, nói là thằng Năm con của dượng ở ngoài Hà Nội đã thành nhà văn, nhà báo rồi.

- Ba Giáo gặp nó?

- Dạ không! Nó ở Hà Nội, chú ở trong nầy, làm sao gặp mặt được!

- Không gặp mà sao biết?

- Dạ. Chú nói là chú đọc báo, chú thấy tên của nó.

Tôi thở dài:

- Chỉ đọc báo thôi thì lấy gì làm chắc. Với lại trong thiên hạ, đâu phải mình nó có cái tên đó.

- Lúc đầu cháu cũng nghĩ như dượng vậy. Nhưng chú Ba Giáo bảo chú thấy tên và cả hình của nó trên báo nữa.

- Mà cháu có thấy tờ báo đó không?

- Nếu thấy thì cháu đã lấy cái tờ báo đó đem qua cho dượng rồi. Đi đường cháu mới nghĩ ra. Chớ lúc đó, cháu mừng quá, quên hỏi, chỉ nghĩ cách qua cho dượng hay để dượng mừng.

Tôi nghĩ thương con Tầm quá. Tôi mong sao ở ngoài ấy, thằng Năm biết được chuyện này. Vì một tin vui của nó mà người chị bà con cô cậu của nó đã vượt qua đồn bót của giặc, vượt qua bom đạn, một chiếc xuồng với một cây dầm, vượt qua sông lớn.

Khi tôi đưa con Tầm xuống bến, tôi bảo:

- Nay mai có nghe tin gì thì nhắn qua, chớ đừng đi như vậy nữa.

- Có gì đâu dượng Bảy. Nhớ cái lúc nó đi lẫm đẫm, bây giờ nó nên người, cháu mừng quá!

Nếu con Tầm cho tôi biết nó đã lên tá hay lên tướng, tôi còn dễ tin hơn, vì nó là bộ đội, từ một người lính mà lên tá, lên tướng nghe nó phải cái lỗ tai hơn. Đằng này, lại thành nhà báo, nhà văn, nghe nó tréo ngoe. Với lại, cái nghề báo, nghề văn là nghề của chú Ba Giáo, nghề của người có ăn học, còn nó, nó học được bao nhiêu. Con Tầm nói vậy thì tôi hay vậy, để đó, chờ gặp lại nó, xem sao. Cho đến bây giờ tôi cũng chưa chắc.

Một người bạn của cha tôi nói:

- Chuyện đời thay đổi biết đâu! Cũng không lâu, cách đây độ hai ba năm. Chuyến vô khu thăm thằng con của tôi, tôi cùng đi với một cô đi thăm chồng, cổ nói với tôi, lần đầu tiên gặp lại chồng từ miền Bắc vượt Trường Sơn trở về, cô hỏi chồng, bây giờ anh làm gì, anh chồng bảo đang làm bác sĩ. Bác sĩ! “Cháu nghe như nổ cái lỗ tai. Hồi ảnh đi, chữ không đầy lá mít, mà làm bác sĩ! Chắc là ảnh nói cho vui với vợ con! Cháu không tin. Về, cháu hỏi người ta, muốn làm tới bác sĩ thì phải học tới lớp mấy. Nghe nói, cháu lại càng ngờ. Học hết cơm hết gạo mới thành được. Ba cháu mới bảo, muốn chắc nó làm được bác sĩ hay không thì đi mượn một bài toán của mấy người đi học bác sĩ, đem vô cho nó làm thử, nó làm được thì đúng nó là bác sĩ, còn làm không được thì coi như nói dóc. Lần sau cháu vô thăm ảnh, cháu đem theo hai tờ giấy, một tờ là đầu đề của bài toán, một tờ là bài toán đã làm rồi. Gặp ảnh, cháu mới đưa cái đầu đề bài toán cho ảnh làm, đọc xong, ảnh nhìn cháu, cười cười hoài: “Bộ muốn thử tôi phải không, tưởng gì, dễ ợt”, “Dễ thì làm thử coi”. Ảnh vừa ngồi xếp bằng trên võng, vừa làm vừa cười. Ảnh làm bài toán mà cháu thì phập phồng. Khi ảnh đưa bài toán trả lại cho cháu, cháu mới móc cái giấy thứ hai ra cháu so. Mấy con số nó giống y như nhau chú à!”

Thấy cô mang nào lạp xường, nào khô, nào rượu, nào thuốc, tôi mới hỏi:

- Chuyến này mang vô thưởng đó phải không?

Con nhỏ cười ngoản ngoẻn thật dễ thương.

Người bạn cha tôi nói tiếp:

- Cái chuyện thằng con của anh nó thành cái gì đó, cũng được thôi anh Hai. Đã nói là Cách mạng thì cái gì mà làm không nổi, phải không bà con?

Chuyện này, chuyện nọ xọ qua chuyện kia, đêm ấy kéo dài cho đến khuya.

Con sông về khuya, từ nơi xa khơi lại đưa sóng vỗ vào bồ. Tiếng sóng êm ái như bàn tay của người mẹ vỗ nhẹ nhẹ lên vai con. Chiến tranh đã đi qua, dân làng hãy ngủ yên.



-------------------------------------------------------------------
[1] Cắt tóc

[2] Tổ bốn, năm đời


Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 09:03:56 am
*
*   *


Tôi tưởng, nhà sẽ chuẩn bị đón tôi về, nhưng cha tôi, chị tôi đều nhắn ngược lên Sài Gòn, bảo tôi đừng về. Cha và chị sẽ sắp xếp nhà cửa, lên thăm. Bởi vì, làng đã được giải phóng rồi, nhưng còn lộn xộn lắm. Không biết trong toàn quốc thế nào, chớ trong tỉnh An Giang, làng tôi là làng sau cùng được giải phóng. Cái đồn bảo an của lính Hòa Hảo, có thằng đại đội trưởng ngoan cố, dù chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng, chính quyền ở tỉnh, ở huyện và cả các làng xung quanh đã buông súng đầu hàng, cái thằng đại đội trưởng đó vẫn cố thủ. Đêm cuối cùng, nó nhắn tin xin người chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng đến thương lượng để xin nộp súng và xin được tha mạng sống. Nó có biệt danh là Tư “chày vồ”. Nó đánh người bằng chày vồ bằng sắt, một đầu sơn xanh, một đầu sơn đỏ, gọi là đầu sinh, đầu tử. Đánh bằng đầu đỏ là đánh cho đến chết, đánh bằng đầu xanh là còn để chừa cho cái mạng sống... Nó vừa là đồn trưởng đồn bảo an, vừa là tên đầu sỏ trong đảng cướp “Cua vàng”, dưới sự chỉ huy của tên thiếu tá ở tận cái gốc của làng Hòa Hảo.

Cái đảng cướp sao gọi là đảng “Cua vàng”, chẳng ai biết. Cái đảng “Cua vàng” của nó ăn cướp bằng nhiều cách, cần cướp của nhà ai, ban đêm nó gõ cửa, gọi chủ nhà dậy, đặt lên bàn trước mặt chủ nhà ba cây đinh dài một tấc hai. Chủ nhà hoặc nộp vàng, nộp tiền, hoặc sẽ bị đóng ba cây đinh vào đầu. Cách thứ hai, cần cướp nhà ai, thì tự nó đến nhà, để một lá thư lên bàn thông thiên 1 nhà ấy. Chủ nhà nếu không để ý thì đến giờ cúng lạy cũng phải thấy lá thư. Lá thư yêu cầu chủ nhà đóng quỹ cho đạo, biết thân thì mang đến tận đồn. Cách thứ ba, đến ngày sinh ngày giỗ, ngày cưới trong gia đình nó, nó phát thư mời cả làng. Tiền phải để vào cái phong thư nó gởi tới, để nó xem ai nhiều ai ít. Tiền cướp được nó dành để cất nhà lầu cho những vợ hai vợ ba, vợ tư... Người ta nói, qua các cù lao ở giữa dòng sông Tiền, sông Hậu, nếu thấy nhà nền đúc dựng lên sừng sững trong một khu vườn giữa những xóm lá thì đó là nhà của bọn vợ nhỏ trong đảng cướp “Cua vàng”. Ở những nơi xa xôi là mảnh đất tung hoành của những kẻ man rợ. Có người nói đầu của Tư “chày vồ” có bao nhiêu sợi tóc thì nó có bấy nhiêu tội ác. Người làng nghĩ rằng, vì tội lỗi quá nhiều, nên nó không dám tin đến lượng khoan hồng của Cách mạng, vì vậy mà trù trừ chưa chịu buông súng.

Người chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng mà nó yêu cầu là anh xã đội trưởng. Buổi chiêu, trời xâm xẩm tối. Buổi chiều yên lặng đến kỳ lạ, cả làng như nín thở để đón tin, chỉ còn nghe tiếng sóng cồn lên của con sông, xô nhau vỗ đập vào bờ.

Cái đồn nằm một mình bên bờ sông, công sự bằng đất, bằng bao cát chất cao lên đến tận mái, xa trông như một cái mả lớn. Người làng gọi nó là cái mả sống. Những ngôi nhà ở cạnh bên đồn trước đây đã phải dỡ đi. Trước khi dọn cái bãi trống ấy, Tư “chày vồ” chọn một tên lính khỏe nhất, đứng từ cửa đồn, dang hết sức, ném bung ra một quả lựu đạn.

Tư “chày vồ” lấy cái điểm rơi của quả lựu đạn ấy, nhích ra thêm hai tầm đất, ra lệnh cho tất cả nhà cửa quanh đấy phải dọn đi, trụi lủi cả một vùng.

Chiều hôm đó, dân xóm đổ dồn lại những ngôi nhà cuối cùng ở bên đồn, người nấp bên gốc cây, người nấp trong nhà, vạch vách theo dõi từng bước của anh xã đội trưởng. Anh là người con trai xóm Đình, sống nghề ruộng, tuổi sắp ba mươi. Từ trong vườn cây, anh bước lên con đường đá, hai bàn tay không, bộ đồ bà ba đen, khăn rằn quấn cổ. Anh đi... anh đi... hai bàn chân đất từng bước đặt trên con đường đá. Tim người như đập mạnh lên theo từng bước của anh. Ở cái đồn bảo an kia không một bóng người, không một tiếng động, im như cái mả.

Và anh đã đến tận nơi, trước cửa đồn mà vẫn không thấy một tên nào như đã hẹn. Anh bước thẳng vào trong như bước vào hang hùm. Rồi anh lại bước ra. Lột chiếc khăn rằn quấn cổ, anh phất lên, vừa phất vừa reo to. Thế là du kích và dân làng hai bên xóm tràn lên.

Bọn chúng đã dùng kế hoãn binh để không nộp súng và đã lẩn trốn đâu rồi. Chúng có thể kéo nhau qua cù lao Ông Chưởng, băng sông, về Bảy Núi, hoặc còn lẩn quất đâu đây để phá rối? Vậy là làng tôi, dù đã giải phóng rồi, nhưng chưa được yên.

Tôi vẫn thường mơ ước, sau ngày giải phóng, anh chị em dù có ly tán tận đâu, cũng quay về, sum họp dưới mái nhà xưa. Niềm mơ ước được nâng niu suốt ba mươi năm đi xa, cái ngày ấy đã đến, nhưng cái niềm hạnh phúc bình thường và giản dị vẫn không đến với tôi.

Nhà tôi, ngôi nhà sàn, vách tre, mái lá ba gian. Làng tôi, hầu hết là nhà sàn, nhà dài dọc theo bến sông, dọc theo hai bên con đường đá, dọc theo hai bên kinh rạch chảy vô đồng. Nhà nhà đều nằm dưới bóng mát cây vườn. Nhà, dù lớn, dù nhỏ, cũng phải là nhà sàn. Vì mỗi năm, năm nào cũng vậy, đến tháng sáu âm lịch, thì dòng sông Cửu Long chảy qua làng chỉ chảy có một chiều, không lên không xuống, không nước ròng cũng không nước lớn, mà từ trên nguồn đổ xuống, trôi ra biển. Người làng gọi là con nước quay. Trước ngày con nước quay, trên dòng sông, nước trong, gọi là nước bạc. Khi con nước quay, con nước đập vỗ hai bên bờ tận từ đâu ở đầu nguồn, mang theo phù sa, ngầu đỏ. Nếu ta đưa tay, vốc lên một ngụm nước, với con mắt thường, ta cũng thấy những hạt phù sa đỏ li ti. Mùa nước bạc, dưới bến nước mỗi nhà đều có một cái gáo dừa úp lên cây cột cầu. Người ta có thể dùng cái gáo dừa múc nước sông mà uống. Người đi xuồng trên sông, khi muốn uống nước, họ lột cái nón lá đội trên đầu, múc nước, rồi úp mặt xuống, uống ừng ực. Đối với người lam lũ, dòng nước của con sông quê hương thật ngọt ngào. (Ba mươi năm đi xa, nhiều lúc tôi thèm được uống nước theo cái kiểu như vậy, vừa uống vừa áp mặt mình vào nước sông cho mát mẻ). Đến mùa nước phù sa, người làng phải gánh nước, đổ vào lu, rồi đánh phèn, phù sa lắng xuống, nước lại trong. Mùa này, người làng tôi gọi là mùa nước ngập, không gọi nước lũ, vì nước lên một cách hiền hòa chớ không dữ dội như những nơi khác. Nước mỗi ngày mỗi dâng lên, dòng nước đổ một chiều, cuồn cuộn, đầy bờ. Cũng là những ngày mưa., mưa dầm dề. Lại có một cơn mưa dai dẳng, mù mịt, mưa sướt mướt ngày này qua ngày khác gọi là những ngày “ông tha mà bà không tha”. Mưa xói đất, giây bùn lầy trên các mặt đường, đi phải bấm hai ngón chân xuống đất. Cái mùa của ếch nhái rộ lên, lúc về đêm. Rồi đến rằm tháng bảy. “Rằm tháng bảy nước nhảy lên bờ”. Dòng sông Cửu Long đã no đầy, lại tràn qua bờ, chảy qua các sàn nhà, tràn qua cả mặt con đường đá. Nước trong ao hồ, nước trong đồng ruộng của mùa mưa hòa lẫn với nước của dòng sông Cửu Long. Đồng ruộng, vườn tược và cây cỏ như biết giữ lại hạt phù sa ở quanh mình, nước lại trong dần. Ngồi trên nhà, ta thấy cả những đàn cá ròng ròng, từng đàn, từng đàn theo cá mẹ xuôi theo nước, vào tận đồng sâu.

Không phải ai cũng làm nổi nhà sàn. Có những nhà nghèo không đủ gỗ, phải đào mương, đào ao lấy đất đắp nền, nền phải cao, thật cao cho nước đừng tràn về. Nhưng cũng có nhà không đủ đất đắp một cái nền nhà quá mặt nước. Nước lên, nước tràn qua nền nhà. Lúc nước còn thấp, người ta lấy gạch đặt lên nhà, bước lên đó khỏi bị dơ, bị ướt chân. Ngủ một đêm, sáng dậy, nước lại ngập lên khỏi những viên gạch ấy rồi, ngồi trên giường, thấy cả những con cá lòng tong, con cá he vàng đang nhởn nhơ trong nhà. Lại phải lấy ván, lấy tre làm cầu từ cửa trước vào đến tận bếp. Vui quá! Có cả một cây cầu lắt lẻo ngay dưới mái nhà!

Làng không rừng, lấy gỗ đâu mà làm nhà? Làng tôi dùng gỗ từ rừng của nước ngoài, tận đất Campuchia. Năm nào cũng vậy, hễ đến mùa nước đổ, thì gỗ từ vùng Campuchia kết thành bè, theo con nước đổ về. Trên bè có cả cái mái nhà. Ban đêm họ đốt đèn măng sông sáng rực, chẳng khác gì cái chợ đêm từ xa đang trôi tới. Có bè trôi qua làng, về đến những nơi xa, có những cái bè tấp lại làng tôi, rã gỗ đưa lên xóm mộc. Đủ thứ gỗ. Cẩm lai để làm bàn, làm tủ. Bên nu để làm bàn thờ. Căm xe để đóng xuồng, ghe và cất nhà. Con sao thì để dựng đình chùa và miếu thờ. Cái xóm mộc làng tôi với cái xóm mộc làng bên liền nhau, dài đến năm sáu cây số, cặp dài theo con đường đá về chợ quận. Chen vào cái xóm mộc là những nhà nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa.

Phải nói đến cái chợ làng của tôi mới được. Chợ làng tôi, làng Mỹ Luông, là nơi qua lại các con đường. Chợ có phố lầu. Nằm giữa hai dãy phố mặt tiền, nhìn ra mặt sông là cái bến tàu. Phố ngang, phố dọc, có nhà lồng, có bến xe ngựa, xe hơi. Có tiệm thợ bạc, tiệm chụp hình, có tiệm rượu, tiệm hút, có nhà máy nước đá, có cả hai cái nhà máy xay gạo, máy chạy rầm rì suốt ngày đêm. Có cả nhà chứa cho gái làm tiền. Những làng ở kế bên và cả những làng ở bên kia sông muốn mua, muốn bán gì cũng phải qua chợ làng tôi. Muốn đi lên Nam Vang 2 làm ăn hay trốn nợ thì cũng phải ghé qua đây. Tàu Sài Gòn - Nam Vang sẽ cập bến. Muốn qua Long Xuyên về Chợ Mới hay đi Cái Tàu thì hãy đến đây, hàng chục chiếc xe ngựa đang chờ khách. Cái bến xe ngựa, ngựa chờ khách đang chồn chân, gõ móng, rung đầu, tiếng kêu leng keng. Ai muốn đi Sài Gòn thì đến bến xe hơi, xe của hai ba hãng đang nổ máy, kèn bóp inh ỏi với những tay lơ, tay anh chị đang chực chờ giành khách. Khác hơn tất cả các làng ở trong quận, làng tôi có cả một thằng cò Tây. Cái bót cò nằm cách biệt với phố với nhà, là một cái đồn dưới bến sông; cái đồn như ngăn đôi giữa phố chợ tường vôi mái ngói với dãy nhà sàn mái lá. Thằng cò Tây mũi lõ mắt xanh, râu ria, lông ngực, với một con đầm già da trắng, tóc quăn, mập thù lù như cái thùng rượu.

Ngôi nhà tôi nằm cùng một dãy nhà sàn bao vòng lấy phố chợ. Sân nhà có cây trứng cá, một cây xoài. Qua một con kinh nhỏ, bước lên con đường đá, qua bãi cỏ ống để cho những con ngựa kéo xe sau những chuyến đi được chủ cho vào nghỉ ngơi, nhai cỏ, thì đến cái bót cò Tây, trước cửa bót là con đường nhựa, qua hai dãy phố lầu, dẫn vào chợ.

Sau hè của xóm nhà tôi là sân banh. Nhờ vậy mà con nít xóm tôi đi coi đá banh, coi đua ngựa khỏi phải tốn tiền.

Ngôi nhà, tôi lớn lên, và từ đó tôi ra đi. Tôi đi, như mang theo cả cái nhà với bao nhiêu kỷ niệm, suốt hơn ba mươi năm.

Tôi nhớ, năm tôi mới vừa cắp sách đến trường làng, đêm đêm bà nội thường hay kể chuyện đời xưa cho tôi nghe, ông nội tôi mất từ lúc nào tôi không nhớ mặt, chỉ biết mặt ông qua tấm hình trên bàn thờ, mặc áo dài, đầu chít khăn đóng, có một bộ ria đậm đen, hai cái mép ria quớt lên như củ ấu. Nghe nói, hồi ông còn sống, nhiều người nể sợ lắm. Ông tôi không phải gốc ở làng, cùng một tỉnh, nhưng ở tận bên kia sông Hậu, trong rạch Cái Sao. Bị cường quyền giựt vườn giựt đất, nên lớn lên đã nghèo. Lại nhằm lúc cha mẹ già lâm bệnh, ông nội phải đi lính mướn cho một nhà địa chủ. Đi lính làm đến chức cai. Nghe nói ông tôi là người nóng nảy, uống rượu bằng tô, chẳng biết sợ ai. Có một chuyện của ông, cả làng đều rúng động. Một buổi chiều, sau khi uống vài tô rượu, ông cầm con dao xắt thuốc đi ra. Đi giữa đường lộ đá, đến thẳng nhà tên hương quản. Ông đứng trước cửa gọi nó ra, rồi chém vào bả vai nó ba nhát. Chém rồi mới hài tội đã ức hiếp ai trong làng: “Đất đai như vậy chưa đủ sao? Còn muốn giựt nồi cơm của người khác!”    Người khác đây là ông Chín, em ruột của bà nội tôi, ông Chín Hết. Ông tôi tên Hết là vì khi bà cố tôi đẻ ra người thứ tám, tưởng là thôi, nên gọi là Út. Sau, bà cố tôi lại đẻ ra một người nữa, thứ chín. Như người ta thì người ta đặt Út Một, Út Hai hoặc Út Tám, Út Chín. Trong làng đã có Út Mười Một, Út Mười Hai. Bà cố tôi bảo “đến thằng này nữa là hết” nên đặt tên cho ông tôi là Hết.

Khi ông Chín Hết tôi cưới vợ, ra riêng, bà tôi không còn đất để chia cho nữa. Ông tôi phải vào tận trong đồng sâu để phát hoang. Mới khai được một lõm đã thấy cây cột đá ló đầu trong đám đế. Ông tôi phát cỏ đụng nó, tưởng là hòn đá thường. Khi ông tôi đào lên, thấy cột đá đã cắm ranh đất, ông tôi mới biết là mình đã làm công không cho người khác. Sau đó, tên hương quản cho người xuống bảo đất đó ông ta đã đóng thuế cho nhà nước rồi. Ông nội tôi nghe chuyện, bảo ông Chín tôi: “Trồng gì thì trồng đi, chuyện đó để tao xử.” Lạ là không ai dám bắt ông tôi, mặc dù ông đã giải lính. Người làng nói, ông chém cái người chuyên đi bắt người thì còn ai mà bắt ổng nữa. Bà tôi nói, nhờ cái chuyện chém hương quản của ông mà từ đó, đất đai của bà con dòng họ được nằm yên, không chạy qua chạy lại nhà người khác nữa.
Trong làng có cò Tây, có lính, có hội tề, nhưng những người cùng đinh khi gặp điều oan ức, lại đến thưa với ông tôi. Lần sau khi nghe một người kể xong, ông tôi hỏi:

- Cái gì trong bị đó?

- Dạ con gà, đem biếu ông Hai.

- Cho tao? Gà sống à? Nè, đem về, cắt cổ, nhúng nó vô nước sôi, nhổ lông, làm lòng rồi đem đi luộc.

- Luộc xong rồi cháu mang đến cho ông?

- Đem qua nhà tao làm gì?

- Để cho ông Hai uống rượu.

Ông nội tôi nạt:

- Bày đặt! Luộc cho mấy đứa nhỏ trong nhà nó ăn. Rồi đi nói với thằng đó, chuyện đã động đến lỗ tai của tao rồi. Nghe chưa?

- Dạ.

- Thôi về đi,

Vậy là yên.

Bà nội tôi nói, trong đàn cháu, tôi là người giống ông tôi nhất. Cho nên, mỗi năm, đến giỗ ông, tôi phải đội sổ, quỳ trước bàn thờ. Có lần, bà tôi lấy một củ ấu, đặt lên môi trên tôi, đưa ngón tay trỏ giữ nó đứng lại, rồi kêu cả nhà xúm quanh tôi:

- Bây coi, nó giống ông nội bây không?

Cả nhà cười, bà cũng cười nhưng rơm rớm nước mắt.

Cha tôi thứ hai, cha tôi thờ ông và nuôi bà lúc bà về già. Bà tôi thương tôi hơn những đứa cháu khác.

Đêm đêm, tôi với bà nằm trên bộ ngựa gõ dưới bàn thờ ông, cái bộ ngựa đen mượt, nằm mát lưng làm sao. Tôi được bà gãi lưng và nghe bà kể chuyện. Mỗi đêm một chuyện đời xưa, cả chuyện thật từ đời ông sơ, ông cố, đến ông nội tôi. Nhờ vậy mà tôi hơn những đứa cháu khác của bà, tôi biết cả những chuyện ở cái thời tôi chưa đẻ. Kể xong, bà tôi dỗ tôi ngủ bằng cách rất là lạ, không hát, không ru, cũng không xoa đầu, mà gãi vào gan bàn chân của tôi... Nhột lắm, mỗi lần tôi rụt chân lại, bà lại gãi nhẹ hơn, dần dần tôi thấy thích, hai con mắt mơ màng.

- Bồng nó vô mùng! - Bà tôi bảo.

Đêm nào tôi cũng được cha tôi bồng, tôi có ngủ say đâu, tôi biết, nhưng tôi vẫn chưa híp mắt, để được nằm trong tay của cha tôi...

Một đêm, bà tôi kể:

- Hồi đó, có một anh nhà nghèo, nhưng có tài đá banh. Anh chạy nhanh như ngựa, banh đá xẹt đi như tên bắn. Anh được lòng một cô thợ dệt. Cô thợ dệt mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng là người đẹp nhứt làng. Cô ở với một người cậu. Cậu làm thợ mộc, nên cái nhà sàn của cô ở cũng là cái nhà sàn đẹp nhứt. Sàn cao đứng với tay không tới. Cột căm xe hồng hồng màu măng cụt, vách, sàn đều bằng cây thao lao. Cô sống nhờ cậu với cái khung cửi của mình. Cô ngồi dệt bên cửa sổ. Người đi đường ai mà không nhìn thấy mặt cô. Mỗi chiều, khi cô từ trên nhà bước xuống từng bực thang, tóc bới đuôi gà, người ta bảo cô đẹp như một nàng công chúa.

Anh nhà nghèo đó lại biết đàn, cây đàn hai dây. Tối tối, anh thường đến chơi nhà của cô. Những người đàn ca xướng hát ấy ngồi chơi dưới sàn. Cô là gái, cô không được xuống, cô ở trên nhà, nhưng vẫn nghe tiếng đàn của anh chàng nghèo, tiếng đàn như nức nở vì ngăn cách. Hai người đã phải lòng nhau nhưng không nói.

Trong lúc đó thì có một anh con nhà giàu, học cao, đang làm thông ngôn cho cò Tây ở chợ cho người đến hỏi cô. Cô bảo cô chưa nghĩ tới chuyện chồng con.

Một sáng, ông thợ bạc già ở chợ gặp anh chàng nghèo đi qua, ông gọi vào, nhờ anh cán cho một miếng vàng. Cô thợ dệt đi chợ về, ngang qua phố, chợt thấy anh đứng bên bàn cán trong lò thợ bạc, cô hỏi:

- Anh Hai học nghề thợ bạc hả?

Anh chàng nghèo bối rối, gật đầu:

- Dà! Sáng nay cô đi chợ?

- Dà! Làm cho em một đôi bông tai đi anh Hai!

- Dà!

Cô thợ dệt nói chơi vậy thôi, nhưng anh chàng nghèo lại chíp bụng. Từ đó, ngày ngày, anh đến với ông thợ bạc già, xin học làm bông tai. Suốt ngày anh gò lưng bên cái tủ thợ, tẩn mẩn, tỉ mỉ, cầm cây giũa giũa từng nhánh bông, có ngày quên cả ăn. Ông thợ bạc khen anh là người sáng dạ. Chẳng bao lâu, anh làm xong đôi bông tai. Bông có năm cánh như cánh hoa hồng. Bông nhận kim cương. Nhưng anh nghèo, anh làm gì có kim cương với hột xoàn? Anh nhận bằng hột đá. Làm xong anh để đôi bông vào cái hộp nỉ đỏ với một lá thư gởi cho cô:

“Cô Bảy!

Tôi vừa làm được đôi bông. Xin cô đừng chê của nghèo. Xin cô đeo bông này, mặc chiếc áo dài đen đi xem hát đình đêm nay...”

Cô thợ dệt làm đúng theo lời dặn trong thư. Cô đeo đôi bông hột đá, mặc chiếc áo dài màu đen. Dù là bông hột đá nhưng vẫn lấp lánh, cái áo dài đen của cô không lộn với những cô gái áo quần sặc sỡ khác. Hai người gặp nhau trong đêm hát đình. Tiếng trống đình như mừng cho hai người.

Họ thương thầm, gia đình hai bên chẳng ai hay biết. Ông cậu của cô gái ép cô phải lấy thầy thông ngôn của Tây. Cô vẫn một mực không ưng. Ép hoài không được, ông cậu của cô đuổi cô ra khỏi nhà. Đuổi dọa để cô ưng anh thông ngôn. Không ngờ, cô xuống tóc, lên chùa ăn chay. Đến lúc đó, ông cậu mới vỡ lẽ là cháu đã phải lòng anh chàng nghèo, ông hỏi:

- Mầy bỏ bùa, bỏ ngải gì con Bảy nhà tao, Hai?

- Dạ cháu có bùa ngải gì đâu, cháu chỉ thương cô Bảy thôi!

- Thương sao không đi hỏi đi nói mà thầm thầm lén lén?

- Dạ cháu thấy có thầy thông ngôn đi hỏi rồi, người ta giàu, còn cháu thì nghèo.

- Mày có thương nó thiệt bụng không?

- Dạ, thương thiệt.

- Thiệt bụng thì lên chùa, kêu nó về, tao gả không.

Vậy là hai người thành vợ thành chồng. Ai ai cũng khen hai vợ chồng là người chung tình, xứng đôi, hạnh phúc. Vì cái đôi bông tai mà anh chồng làm luôn nghề thợ bạc. Anh không giàu nên không mở lò làm chủ, anh cũng không làm công cho ai. Nhà anh là nhà sàn xa chợ. Nhà ngoài gọi là thảo bạt, sàn nhà bằng ván thao lao rất đẹp, để tiếp khách, không sang nhưng lịch sự. Anh đặt cái tủ thợ ngay trong một góc thảo bạt, dưới tủ anh lót một tấm đệm để mạt vàng không rơi xuống sàn nhà.

Anh khéo tay, và cái tấm gương chung tình của hai vợ chồng anh mà cả làng và mấy làng chung quanh, làng ở bên kia sông, ai muốn làm đồ cưới cũng đem đến anh, nào bông tai, cà rá 3 với dây chuyền. Anh làm lấy công, nhờ nhiều hàng, nên đủ nuôi vợ, nuôi con. Hết chuyện!

Kể xong, bà tôi bảo:

- Cháu biết hai vợ chồng anh thợ bạc đó là ai không?

- Không!

- Là thằng cha với con mẹ của mầy đó.

Hèn chi lúc bà tả cái nhà sàn của anh thợ bạc, tôi nghe sao giống nhà mình. Bà tôi có lối kể chuyện như vậy, chuyện thật mà giống với chuyện đời xưa cứ lẫn vào nhau, khiến tôi cứ mải mê.

Vậy là ngày xưa má tôi đẹp lắm?

Tôi làm sao biết được má tôi ra sao hồi thời con gái. Dù ở gần cái chợ có tiệm chụp hình, má tôi vẫn giữ phận một cô gái quê, lại là một cô gái mồ côi, ở nhờ nhà cậu, chẳng biết đua đòi với ai, nên chẳng có một tấm hình thời con gái. Má tôi đẹp, bà tôi nói vậy tôi cũng tin vậy, chớ má tôi bây giờ là một người đàn bà nhỏ nhắn lại gầy gò, suốt ngày thui thủi với bếp núc. Má tôi có một tính lạ. Năm nào má cũng nuôi một con heo. Con heo, mỗi ngày má tôi dẫn xuống kinh tắm một lần thật sạch sẽ, nó cứ loanh quanh theo chân má tôi. Đến ngày bán heo, má tôi khóc. Má tôi càng ngày càng nhỏ lại vì bịnh. Thầy thuốc ở trong làng đều chạy, không biết bịnh gì. Má tôi ít khi ra nhà trước, thường nằm trên chiếc võng ở nhà trong. Dù bịnh, dù nằm một chỗ, má vẫn không rời mắt khỏi các con, vẫn lo cho từng đứa.

- Tội nghiệp thằng út, chưa được một bộ đồ mới.

Thằng em út tôi phải mặc đồ cũ của anh. Vì phải lo thuốc thang cho má nên nhà tôi suy sụp, và năm đó, năm củi quế gạo châu, vải sồ quá đắt.

Tôi học hết lớp ba trường làng, sắp thi lên trường quận, tôi phải ôn thi. Nghe nói học vào lúc gần sáng, đầu óc tỉnh táo, mau thuộc bài, nên ngày nào tôi cũng dậy từ lúc bốn giờ. Tôi tưởng cả nhà tôi đều ngon giấc, chỉ có mình tôi với đèn sách.

Tôi ôn bài tập đọc sách tiếng Pháp, đang đọc ngon lành, thì từ trong mùng, má tôi hỏi vọng ra:

- Cái gì? Cái gì mà lơ nước mắm?

Tôi giựt mình, dạ. Má tôi lại hỏi:

- Đang học tiếng Tây tiếng U rồi sao lại lơ nước mắm? Bộ buồn ngủ hả?

- Dạ, trong bài có lơ nước mắm.

- Vậy thì cứ lơ cha, lơ má, lơ nhà, lơ cửa, cần gì phải đi học?

Tôi phải nói cho má nghe, theo lời thầy dạy thì Tây không có nước mắm, nó không có chữ, nên phải mượn tiếng nước mình.

- Tây nó không có nước mắm? Sao nó ngu vậy? Nó ăn lạt à?

- Dạ! - Tôi cứ dạ bừa cho qua.

- Ăn lạt, ăn lẽo, hèn chi cái da của nó cứ trắng toát, nó ác với dân mình.

Hóa ra là hằng đêm, má tôi cũng thức lo cho tôi học. Tôi thi đậu. Khi tôi lên học trường quận thì bịnh của má càng nhiều. Má tôi bị lao, ho hắng suốt đêm. Mỗi chủ nhật về thăm, má tôi mỗi khác, gầy sút đi. Bà tôi cũng bịnh, bịnh già. Thật lao đao. Trong bà con có người nói, nhà tôi suy là vì dưới nền nhà, hồi trước, có mấy cái mả. Mình giành chỗ của họ, nên họ phá, phải rước thầy về cúng. Nhưng cha tôi không tin. Có hôm, cha tôi phải mượn tiền để đi chợ.

- Suy sụp đến nước nầy là cùng! - Cha tôi than. Cha tôi trỏ nên ít cười, ít nói, bỏ hết thú vui trong đời.

Khi bà tôi mất vì bịnh già thì cũng trong bà con có người nói, rồi má tôi sẽ đỡ, vì trong nhà, một năm không thể có hai cái tang. Không có gì làm tin, nhưng cũng là lời an ủi. Bịnh tình má tôi không thấy đỡ chút nào, càng ngày lại càng nặng.

Cũng một ngày chủ nhật, từ trường quận trở về, tôi thấy má tôi khác hẳn đi. Má tôi cạo đầu. Má tôi vái, nếu trời phật phù hộ, má tôi sẽ lên chùa.

- Hồi còn con gái má đã lên chùa, cũng xuống tóc như vầy, nhưng vì cha con nên má trở về. Cái số của má là phải lên chùa thôi! Chiều chiều má sẽ về thăm mấy con, rồi mấy con lên chùa thăm má. Chùa có hàng sao, có cây đa, mát lắm!

Vái rồi, cúng rồi mà bịnh tình của má tôi cũng không thuyên giảm. Cũng trong bà con, có người khuyên, hãy lên làng Hòa Hảo để gặp Đức Thầy. Đức Thầy là người giáng thế cứu chúng sinh.



--------------------------------------------------------------------
(1) Bàn thờ

(2) Tên gọi theo âm Việt để chỉ Phnôm Pênh trước đây

(3) Nhẫn đeo tay.


Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 09:10:58 am
*

*          *

 

Chiếc xe ngựa đưa tôi từ chợ quận trở về. Cũng con ngựa Cu của anh Hoàng. Anh là con của chú Tư Khởi, người cùng xóm, nhà ở đầu cầu sắt. Nhà anh có hai con ngựa, con Ô với con Cu. Con Ô cao lớn, chạy buổi sáng, chở được nhiều khách. Và khi cần vượt qua xe khác để đón khách, anh chỉ ra roi đánh gió một cái tróc là nó chồm lên, cất cao bốn vó, sải dài, và khi tiếng kèn anh bóp tò te tò te, thì nó qua mặt chiếc trước rồi. Còn con Cu, nhỏ hơn, vừa thấp lại vừa ngắn, lông vàng như lửa. Nó chạy buổi chiều, ít khách, nó sải thua con Ô, nhưng chạy nước kiệu rất bền. Cái tiếng vó của nó gõ xuống mặt đường lóc cóc, đều đều thiệt dễ thương. Tôi thích nó hơn con Ô, vì tôi có thể trèo lên lưng nó mà nó không đá. Mỗi lần tôi về thăm nhà, tôi thường đi xe của anh. Anh cho tôi đi nhờ, không lấy tiền; thỉnh thoảng, đến những đoạn đường vắng, anh trao cả dây cương cho tôi... Cầm được dây cương, giựt giựt cho nó chồm lên, thú lắm. Cũng có lúc, anh nhờ tôi dẫn con Cu quần chân, cho ăn cỏ trước khi bịt mắt(1), thắng vào càng xe. Anh Hoàng lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi, người xấu xí nhưng tốt bụng. Chú Tư Khởi mập mạp, mặt hồng hào, ngực loắn xoắn đầy lông. Chắc là anh giống má anh. Người anh cao, gầy đét, rỗ ba mè, mắt lé lại đi hai hàng. Anh thường hay mặc áo xá xẩu, đầu đội cái nón không vành, thủng một lỗ ngang đầu, để ló ra một chòm tóc...

- Đ... mẹ! Mấy bữa nay, chiều nào cũng ế. Xách xe không chạy hoài!

Rồi không thể giận ai, anh giơ roi, đứng lên, nẹt một cái trót, khiến con Cu giựt mình, chồm sải tới. Anh quay roi, hê hê hê... độp, độp... vó ngựa sải đều.

- Đ... mẹ. Buồn quá! - Anh ngồi phịch xuống, ném hai sợi dây cương qua tay tôi. - Ê, Nhỏ! Bộ trốn học sao mà bữa nay về?

- Không. Nhật nó mượn trường rồi.

- Mượn cái con c..., nó lấy chớ mượn cái gì. Mượn! Nó mượn luôn cái nước của mình cho mầy coi. Thôi học tiếng Nhật đi... - Rôi anh nói luôn một loạt tiếng Nhật: - Dô tô, dô tô nay, dô tô ca, dô tô c...

Rồi anh cất tiếng hát, hát bài hát của Nhật. Trước khi quân Nhật đến thì bài hát của nó đã đến rồi, rất thịnh hành, trai gái hát nghêu ngao.

Anh hát toàn tiếng tục:

- Đi đù đi, đù đi, đu đu...

Anh buồn hay vui, không hiểu nổi. Còn tôi thì buồn quá! Tôi đâu có ngờ, chuyến xe đưa tôi về chiều hôm ấy đã đưa tôi ra khỏi cuộc đời học trò, đến một cuộc đời khác, quá sớm đối với cái tuổi mười hai, mười ba. Không còn nghĩ gì đến sách vở nữa, phải lo đến cảnh nhà, phải nghĩ đến miếng ăn, phải nghĩ đến chuyện theo ai, đạo nào.

Con đường từ chợ quận về làng tôi dài mười hai cây số. Con đường đá trắng chạy qua làng Long Điền. Cũng như làng tôi, nhà sàn hai bên đường, cũng dưới bóng cây, vườn xoài, vườn mận. Hai bên đường, hai hàng gòn, so đũa, hai hàng me nước hoặc trâm bầu. Có đoạn, xe như chạy vào giữa một khu vườn rợp bóng cây, bỗng hiện trước mắt mình con sông mênh mông trắng xóa sóng bạc đầu. Mỗi tuần, tôi đi về hai lần, chiều thứ bảy, trưa chủ nhật, suốt trong ba năm. Con đường quen thuộc biết bao! Con đường không ngớt tiếng vó ngựa xe. Con đường cho tôi qua những trại cưa, qua xóm mộc với bàn tủ dựng hai bên đường, với màu gỗ mới, với mùi thơm của nước sơn. Qua xóm dệt với những nong kén vòng trước sân nhà, qua khung cửa sổ của những cô thợ dệt, qua những lò nhuộm với những anh chàng lực lưỡng, hai tay hai cái chày thi nhau nện đều.

Chuyến xe chiều hôm ấy cũng qua những trại cưa, nhưng không nghe tiếng rột rạt của tiếng cưa, cũng không thấy những bụi hồng rơi từ lưỡi cưa xuống nữa. Cũng xóm mộc, nhưng không còn nghe tiếng đục đẽo, cũng không thấy từng cuộn dăm bào trào ra trên bàn bào trong những ngôi nhà quen thuộc nữa. Và xóm dệt đã thành một xóm vắng. Con đường bỗng trở nên dài, heo hút. Tiếng vó của con ngựa Cu vẫn lọc cọc gõ đều trên mặt đường đá.

- Ê, Nhỏ! Mầy định theo ai? Tây, Nhật, Cao Đài, Hòa Hảo hay Cộng sản?

Anh hỏi mà không cần nghe tôi trả lời. Hay là anh tự hỏi mình và vừa hỏi anh vừa ra roi đánh gió, thúc con Cu sải tới. Hình như anh đang trút sự bực bội lên mình con Cu trong buổi chiều vắng khách này.

Con Cu đang sải, anh bỗng gò dây cương lại giựt cái đầu nó quẹo về phía bên trái.

- Tới cột dây thép rồi, nghỉ chút.

Cột dây thép là cây cột cao nhất bằng sắt, nằm bên mé sông. Cái bệ của nó hình vuông, càng lên cao càng nhỏ, và cái đỉnh của nó vượt lên cao hơn tất cả cây cối trong làng, cao hơn những hàng sao ở đình nữa. Bên này một cột, bên kia sông, cù lao Giêng cũng một cột như vậy. Hai cây cột nối với nhau bằng những sợi dây căng ngang qua mặt sông. Vào mùa nước lớn, tàu Nam Vang - Sài Gòn, dù cao đến mấy, kể cả những tàu lớn của Tây chạy tới nhà thờ vào ngày lễ Nôen, cũng không vướng được dây. Có những con chim đậu theo dây thấy nhỏ xíu. Ở ngay cái bên của cột dây thép này, những khu vườn nối liền nhau, dài theo hai bên đường như dừng lại ở đây, mở ra, để người đi đường được nhìn thấy cảnh mênh mông của con sông, để được nhìn thấy bên kia cù lao và cái tháp chuông của nhà thờ lớn.

Nếu không có cái cù lao nổi lên giữa dòng thì con sông chảy qua làng tôi ở khúc này bùng ra bao la biết bao, chắc không nhìn thấy được rặng cây bên kia bờ.

Cái cù lao nổi lên giữa dòng giống nhu trái xoài, vườn tược xanh um, có đến bốn, năm làng.

Anh Hoàng để xe đậu lại dưới thân cây cột dây thép.

- Xuống mé ngồi chơi. Nhỏ! - Lúc nào anh cũng gọi tôi là Nhỏ, không bao giờ gọi tên, hết sức thân yêu.

Tôi theo anh, ngồi bên mé nước, cả hai anh em đều đi chân đất. Anh lột cái nón nỉ không vành, kê đít, còn tôi thì ngồi bẹp xuống đất. Gió chiều trên sông mang theo hơi nước, thổi mát đến chân tóc. Anh duỗi chân cho sóng liếm lên bàn chân.

- E, Nhỏ! Mầy biết cái cột dây thép này không? Hồi đó, chắc là mầy chưa đẻ, còn tao thì mới bảy, tám tuổi nhưng tao còn nhỏ. Hồi Cộng sản dậy, năm ba mươi, Cộng sản treo lá cờ đỏ búa liềm trên dây thép, ở giữa sông kia kìa. Lá cờ bự bằng hai ba tấm đệm -Giọng anh trở nên sôi nổi: - Trời ơi, lá cờ nó bay, coi thật là đã con mắt. Thằng cò Tây ở chợ mình sợ quá, nó đánh dây thép lên quận, thằng quận đánh điện lên chủ tỉnh. Tàu Tây từ tỉnh chạy qua, chạy tới đuôi cồn, thấy cái cờ đỏ búa liềm bay ở trên giữa sông, hồn xiêu phách lạc, nó bắn đùng đùng, rồi quay mũi tàu, chạy tuốt về tỉnh. Mấy bữa sau nó mới cho lính tới, bắt tụi lính trèo lên cột, chặt đứt hết trơn mấy sợi dây thép, mới hạ được cờ. Mầy biết ai treo lá cờ đó không, mầy Nhỏ?

- Hồi đó tôi chưa đẻ, tôi làm sao biết.

- Ừ, phải. - Anh vừa nói vừa nhướn hai con mắt, vẻ tự hào.

Chuyện treo cờ đỏ búa liềm ở cột dây thép, tôi cũng đã nghe cha tôi nói rồi. Ba mươi năm sau, tôi trở về, cha tôi cho biết, người treo lá cờ Cách mạng đầu tiên ở làng là ông Chín Đỏ. Cha tôi nói thêm: “Cha mẹ ông, lúc mói sanh ông ra, sao không chọn cho ông một cái tên khác, mà chọn cho ông cái tên Đỏ, để sau này, khi lớn lên, lãnh một sứ mạng quang vinh của làng, đã leo lên cột dây thép giữa một đêm khuya để treo lá cờ đỏ, làm sáng cả lòng người. Tên của con người có mang theo ý nghĩa gì về cuộc đời của mình”.

Anh Hoàng tiếp:

- Còn chuyện này thì chắc mầy còn nhớ.

- Chuyện gì?

- Cũng cái chuyện treo cờ ở cột dây thép nầy. Nhỏ, mày nhớ không? Cũng treo cờ, nhưng lần này, thì cờ khác, cờ cũng màu đỏ, nhưng ở giữa là ngôi sao vàng.

Anh kể và tôi nhớ. Năm ấy, tôi lên tám, còn đi học ở trường làng, cả lớp tôi đều chạy ra mé sông, nhìn lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới giữa lưng trời, trên dòng sông. Những ngày sau đó, lính từ trên tỉnh đổ xuống, bọn lính áo vàng súng có lưỡi lê, đi với thằng cò Tây, thằng hương quản, lùng sục khắp xóm. Xóm Cột dây thép bị lính đổ dầu đốt. Ngọn lửa của những ngôi nhà cháy cuốn theo cả bàn, ghế, giường, tủ, cả gỗ, cả mạt cưa, cả dăm bào của xóm mộc. Ngọn lửa thè cái lưỡi lên khỏi ngọn cây. Lửa vừa cháy, vừa nổ, khói lên cuồn cuộn, gió thổi tràn lên đến tận chợ, mịt mờ, khét lẹt.

Người làng bị bắt đông đến nỗi không có đủ còng để còng tay từng người nữa. Người bị bắt bị trói thúc ké bằng dây luộc, kéo thành xâu. Từng xâu người, giữa hai hàng súng cắm lưỡi lê, bị thúc, bị đẩy, lê đi trong khói nhà cháy.

- Con chạy ra xem coi có ông Tư của con không?

Ông Tư là em ruột của bà nội tôi. Nhà ông Tư tôi ở xóm Đình. Bà cố tôi ở với ông. Bà cố tôi là người già nhất trong làng. Người bà nhỏ, lưng còng, tóc trắng như bông. Suốt ngày bà chỉ lần chuỗi hột, môi mấp máy (chắc là đếm), không nói với ai một lời. Ai đến nhà, dù bà không nói, khách vẫn thấy bà chào hỏi qua vẻ mặt hiền từ của bà. Năm nào cũng vậy, hễ đến ngày nghỉ hè là tôi tót xuống nhà ông Tư tôi. Nhà ông có vườn, có xoài, có mận, có xabôchê(2), có cả nhãn nữa.

Buổi trưa hè, tôi thích nằm trên cái bộ ngựa gõ của ông. Nhà sàn, nhưng bộ ngựa thì để dưới đất, dưới mái hiên gần gốc cây vú sữa. Cái hàng rào sân nhà là hàng cây bông bụt(3). Qua khỏi sân, đến con đường đá, qua mặt đường thì đến con đường đất nhỏ giữa hai hàng trâm bầu, đến bến sông... Bến sông, nước ròng là một bãi cát dài. Tôi cùng với lũ nhỏ xóm vườn lấy lá chuối bó thành trái banh, lấy bãi cát làm sân, cứ trần truồng, chơi cho đến lúc nước ngập khỏi đầu. Còn lại theo mấy chị đi mò ốc gạo nữa. Nói là mò, nhưng đâu có phải mò từng con, mà lấy cái rổ lặn xuống, xúc lên một rổ cát, rồi cứ bưng cái rô cát trước ngực, đãi cho cát trôi đi, rồi lượm lấy ốc. Có con to bằng ngón chân cái. Chiều, tôi lại bưng một rổ ốc gạo về cho bà, cho má, cho chị, cho em. Ốc gạo đem đi luộc, ăn với nước mắm gừng. Nghe lời dạy của mấy chị ở vườn, tôi bẻ cả gai quýt, gai chanh đem về để làm kim mà lể ốc.

- Ăn ốc bằng gai quýt gai chanh, ăn nó thơm, chớ không phải như dân ở chợ, ăn bằng cây kim đâu.

Ông tôi thương tôi lắm. Ông ít khi gọi tôi bằng tên.

- Con thằng Hai về, bây đâu?

- Dạ.

- Leo lên lựa cho nó một trái dừa.

Mấy người dượng, chồng của cô tôi, thoắt cái đã leo tới ngọn dừa. Nếu “bây đâu” mà không nghe ai dạ, thì chính ông, ông đi trèo dừa. Dừa nhà ông cây nào cũng cao, nhìn trật ót. Ông là người khỏe mạnh, cái ngực của ông tôi đầy đến nỗi người ta bảo là cái ngực đi trước. Ông để ria mà không để râu. Tôi ít khi thấy ông tôi mặc áo, suốt ngày chỉ mặc một cái quần cụt, quần vận, cụt nhưng dài đến gối, vận thành một cục tròn như củ hành dưới rốn.

- Trong họ hàng nhà mình chỉ có con thằng Hai là đứa có chí học hành. - Ông thường nói với cô dượng tôi như vậy. - Có gì cho nó ăn!

Còn bà Tư tôi, lần đầu tôi từ trường quận trở về, bà hỏi:

- Con đi học vậy, nhà nước trả lương cho con mỗi tháng bao nhiêu tiền?

- Dạ, hai đồng bảy cắc rưỡi.

- Đủ không?

- Đủ đóng tiền cơm với ăn xôi sáng.

- Vậy!

Tưởng bà hỏi để cho biết, không dè, hễ mỗi lần có khách là bà gọi tôi, hỏi cốt để cho khách nghe. Nhiều lần như vậy, sau nầy hễ thấy khách tới chơi là tôi chạy trốn. Bà gọi mấy tôi cũng làm thinh.

- Toàn cái tỉnh nầy chỉ có năm đứa đi học được nhà nước trả lương. Quận nầy chỉ có mình nó...

Nghe bà nội bảo, tôi xuống cầu thang, chạy qua cây cầu khỉ, đứng bên vệ đường.

Xâu người bị bắt từ xóm Đình, bị lính giải qua cửa nhà tôi. Tôi nhìn từng mặt người, tôi không biết tên, nhưng đều thấy là người quen ở xóm vườn, là những người ở ruộng, mặt sưng tứa máu, ngực bị bầm tím. Họ nhìn tôi, thằng nhỏ ở bên đường, những đôi mắt muốn nói thay lời, cứ nhoi nhói trong trí nhớ tôi.

- Bà ơi, không có ông Tư.

- Con coi, còn có tốp nào nữa không con?

Vừa lúc đó thì cô Hai Thảo, con đầu của ông Tư tôi, từ nhà lên tới. Cô nói với nội, với cha tôi: ông tôi thoát khỏi rồi, đang ẩn trong đám đế ngoài đồng. Cô kể, bọn lính tới vây nhà, nhà không còn ai, chỉ còn bà cố tôi đang cầu Phật. Nó hỏi gì, bà tôi cũng cứ bấm từng hột chuỗi, không nói một lời. Nó ra lệnh đốt nhà thì hương quản trong làng nói với cò Tây, nhắc đến tên ông nội tôi. Nói là nhà của ông Cai ngày trước. Vậy là nó rút đi.

Báo tin mừng ấy xong, cô tôi bước vào nhà trong đốt ba nén nhang, vái trước bàn thờ ông nội tôi:

- Dượng Hai ơi! Dượng mất rồi nhưng uy danh của dượng vẫn còn lo cho dòng họ. Hồn có thiêng, xin dượng hãy về bao bọc cho dòng họ trong cơn nguy biến này. Nam mô a di đà Phật.

Sau những ngày ẩn náu trong lùm, trong đế, ông không chỉ để ria trên mép, mà để thêm râu cằm nữa, vài sợi lơ thơ. Một điều lạ hơn nữa, ông không ở trần nữa, lúc nào cũng mặc áo, gài đến nút cổ.

- Sao ông không ở trần nữa ông?

- Từ bữa đó, anh em bạn bè bị bắt hết, ngày ngày ông thấy lạnh lưng con à!

Tôi nghe người ta gọi ông là ông Tư Ghe, cái tên sao mà xấu vậy. Tôi hỏi cha, cha tôi cười:

- Bà cố đâu có đặt cho ông con cái tên như vậy. Đó là biệt danh của ông.

Cha tôi kể, hồi tôi chưa đẻ, ở làng Long Điền giáp ranh với làng tôi có một thầy giáo từ xa đổi về: thầy Châu Văn Liêm, nhà hoạt động Cách mạng. Là thầy giáo trường Tây, nhưng thầy về đây để lập đảng, đánh đuổi Tây, giành lại đất nước. Khác hơn những ông thầy giáo khác, thầy Liêm sống giản dị lắm, quần áo của thầy toàn may bằng vải nội, sợi tuy có thô nhưng lúc nào cũng thẳng thớm, đàng hoàng. Thầy thường hay đến chơi xóm mộc, xóm dệt với xóm vườn. Thầy lập ra nhiều hội ái hữu, khuyên bà con hàng xóm phải biết thương nhau:

 
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.


 
Lúc đầu, thầy lập ra hội “Cạo gió”. Nếu nhà ai có người bị trúng gió, bị cảm, dù nửa đêm, nửa hôm người trong hội cũng phải tới, cạo gió, thuốc men cho người bịnh. Rồi sau thầy lập hội thợ mộc, hội thợ dệt, hội nông dân. Ở chợ thì lập nghiệp đoàn. Ông Tư tôi trong hội nông dân. Cha tôi trong nghiệp đoàn thợ bạc. Chú tôi trong nghiệp đoàn thợ mộc.

Hồi đó, có cái hội sôi nổi nhất là hội đá banh. Hội đá banh ở làng tôi do thằng cò Tây làm chủ hội. Khắp nơi, làng nào cũng có hội banh, sân banh. Cái sân banh sau hè nhà tôi, tuần nào cũng có một trận, chiều chủ nhật. Cái đội banh với khẩu hiệu “Vì màu áo” mà đá sống đá chết. Những người ủng hộ đội nhà, không đi xe hơi thì đi xe ngựa, không xe ngựa thì đi xuồng, thật tấp nập. Các đội banh như kéo theo sau lưng mình cả một làng, từ người già cho đến lũ con nít. Đội nào cũng mang theo cả lân, cả trống, có đội mang theo cả một đội kèn tây. Trống đánh, lân múa, kèn thổi khi đội nhà thắng trận. Tưởng là vui lắm, hóa ra là nỗi đau của dân làng. Trong sân, cầu thủ đá banh, ngoài sân thì người xem đá nhau bằng chân, đánh nhau bằng tay. Trận nào cũng có những chiếc xe bị con nít đâm lủng cả vỏ ruột, xẹp lép. Trận nào cũng có những kẻ sứt đầu, mẻ trán, cầu thủ thì bị gãy chân, ngã quỵ trên sân. Vì đội banh mà làng này ghét làng khác, chỉ mới nghe tên làng của đội banh khác đã hậm hực, lừ nhau. Giữa lúc đó thì thầy Châu Văn Liêm với bộ đồ vải thô xuất hiện trước cửa nhà tôi.

- Thực dân Pháp, nó dùng thể thao để chia rẽ dân mình đó, anh Hai!

Như một lũ trẻ trong một nhà, đang đánh nhau túi bụi, không biết gì phải quấy thì bỗng có tiếng đằng hắng của người cha, tất cả đều xuôi tay, mặt mày lấm lét, lảng ra, rồi tỉnh dần. (Cha tôi nói như vậy). Làng tôi với làng Long Điên, hai làng liền nhau, nếu không phân ranh thì chẳng biết đâu là ranh làng, vì hai cái đội banh mà hai làng thù ghét nhau. Sau đó, nhờ thầy Liêm, hai đội lấy cớ với nhà cầm quyền, vì thiếu cầu thủ, nên hai đội nhập lại làm một, cùng một màu áo, lấy tên chung là đội Mỹ Long. Thế là hai làng lại hòa lẫn vào nhau, như một dòng nước của con sông chảy qua làng, cùng một con nước ròng, con nước lớn.

Ngoài ra, thầy Châu Văn Liêm còn mở lớp ban đêm dạy cho người mù chữ. Ông Tư tôi hồi nhỏ, nhà nghèo không được học, phải đi chăn trâu. “Ngồi trên lưng trâu êm đít hơn ngồi cái ghế cây ở trường” - ông nói với bạn cùng tuổi được đi học như vậy, để tự an ủi. Chữ A ông cũng không thèm biết tới. Năm ấy, nghe lời thầy Liêm, tối nào ông cũng đi học. Sách vở ông để trong cái mo cau, như đựng tiền, đựng bạc vậy. “Mình lớn, mình ôm cặp, con nít nó cười”.

Một hôm thầy Liêm đọc chánh tả:

            Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
            Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo...


Đến lúc chấm bài, thầy Liêm hỏi ông:

- Tôi đọc “Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo” mà sao anh Tư lại viết “Một chiếc ghe câu bé tẻo teo”?

Như học trò ông Tư tôi cũng đứng lên:

- Thưa thầy, nghe nói thuyền với ghe là một thứ. Nhưng “thuyền” khó viết quá, cái gì mà u... iê... nghe nó líu lưỡi, tôi nghĩ ghe nó cũng là thuyền, thôi thì viết ghe phứt cho rồi!

Cả lớp cười rộ lên. Từ đó, ông được gọi là Tư Ghe. Học hành như vậy, nhưng ông là người hăng hái. Những lần biểu tình chống thuế thân, ông đi tách qua một bên, để dòm ngó, giữ gìn trật tự. Có một lần, cò Tây ra lịnh cho lính bắn chỉ thiên, đoàn biểu tình khựng lại, rã ra, có người quay đầu, thối lui, thì ông vượt lên đưa tay vào ngực:

- Cái ngực đồng của tao đây nè, bắn đi!

Rồi ông kéo cả đoàn vượt qua họng sung của bót cò, kéo lên đến chợ quận, vẫn cái quần đùi, lưng vận củ hành, với cái lông ngực trần, không áo.

Bây giờ, ông không chỉ để thêm râu, mặc áo, mà còn để tóc nữa. Ông theo đạo Hòa Hảo rồi, đã mấy năm nay...

Bàn tay của anh Hoàng vỗ mạnh lên vai tôi:

- Có gì mà buồn vậy, Nhỏ? Thôi, lên xe, về.

Anh giao dây cương cho tôi. Con Cu lại buông vó, lọc cọc, gõ đều trên mặt đường.

- Nè, Nhỏ, theo ai thì theo, nhớ đừng theo Tây, theo Nhật, nghe mậy.

- Vậy thì theo ai, anh?

- Tùy mầy tao không biết, cái nào theo được thì theo. Hay... a...

Anh hét con Cu, giật dây cương trong tay tôi, tróc lưỡi cho con ngựa sải nhanh. Gần đến chợ làng, sắp qua cây cầu sắt đông người qua lại, anh trở đầu roi, đút cái đầu cán rơi xuống căm xe, cho nó kêu lách cách.

Thường thì anh cho tôi xuống ở bến xe cùng với khách, hoặc trước cửa nhà anh. Lần này anh cho xe chạy đến tận cửa nhà tôi. Chắc là anh thấy cái rương đựng quần áo của tôi, cái rương bằng cây, quá nặng.

- Chú Hai ơi, Nhỏ về.

Chị tôi từ trên sàn bay xuống, chạy qua cây cầu khỉ. Con nước chiều đã lên đây, mấp mé dưới cây cầu. Chị tiếp tôi, mỗi người một đầu, nắm lấy cái quai rương. Lúc chị đi lui, đầu cúi xuống, chị khóc. Nước mắt của chị, từng giọt rớt xuống nước. Có con cá quẫy lên, lộn xuống với cái đuôi vàng.

Nước mắt của chị tao, chớ phải là mồi đâu mà quẫy lên hở cá?



-------------------------------------------------------------------------
(1) Che lá đề để ngựa chỉ nhìn thẳng phía trước

(2) hồng xiêm

(3) Nam Bộ gọi là: bông bụp




Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 09:14:57 am
*

*          *


Má tôi nằm trên võng, ở buồng trong, sợ gió, sợ cả ánh sáng. Chiếc võng bố đã thay biết bao nhiêu lần, nhưng cái giá võng vẫn nằm đó và cũng trên chiếc võng, má tôi đã ru cho cả một đàn con. Tôi thuộc lòng những lời ru của má. (Sau này, những năm đi xa, giọng ru của má gợi lên trong tôi cảnh sông nước của quê nhà).


Tàu Nam Vang chạy qua cồn cát
Xuồng câu tôm hớt sát mé nga
Anh thấy em có một mẹ già
Muốn vô hoạn dưỡng biết mà đặng không?

... Ngó lên Nam Vang thấy cây nằm nước
Ngó xuống Thường Phước sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?

 

Và một câu gợi cho tôi cảnh nhà:

 
Tàu xúp lê(1) một còn mong còn đợi
Tàu xúp lê hai còn đợi còn chờ
Tàu xúp lê ba tàu ra biển Bắc
Bớ chú tài công, cho em mượn cái khăn bàn lông cho em chặm mặt ờ...


 Cha tôi trốn lên Nam Vang làm ăn, ở tiệm vàng “Trái tim đỏ” năm tôi mới lên năm, lên sáu, là năm vừa mới biết và còn nhớ. Tôi bị bịnh nặng, phải về dưõng trị ở vườn, nhà ông Tư, ở với bà nội, bà cố. Nhà phải đánh dây thép lên cho cha tôi hay. Mỗi lần nghe tiếng “tun tun” của con tàu Nam Vang trở về, rúc còi xin bến, là cả nhà ông tôi chạy lên chợ, xuống bến tàu đón cha tôi. Rồi tàu lại xúp lê một, xúp lê hai, xúp lê ba, con tàu Vạn An sơn vàng, một viền chỉ đỏ, tách bến. Con tàu vừa chạy, vừa nhả khói lan ra cả mặt sông. Cha tôi vẫn chưa về. Một hôm tôi đang ngủ, bỗng nghe có gì âm ấm phả lên mặt, tôi giật mình mở mắt. Cha! Cha tôi về. Và cha đã cúi hôn tôi lúc tôi đang trong cơn mê...

Khi tôi ở trường về, má tôi vẫn nằm võng:

- Con mới về? - Má nắm tay tôi, bàn tay của má chỉ còn là những cọng xương khô trong lớp da nhăn nhúm và lạnh ngắt. - Con về để đi với má. Nhà không còn gì bán để thuốc thang cho má, cha con phải chạy gạo hằng ngày chỉ còn có nước nghe lời cô Hai con, đi gặp Đức Thầy. Cha con cho rồi.

Thều thào và từng tiếng trong cơn ho, má tôi cắt nghĩa vì sao tôi còn nhỏ mà phải đi. Cha tôi không thể vắng nhà. Chị Tư tôi phải lo cho ba đứa em. Còn anh tôi thì biệt tăm. Với cái tuổi mười tám của anh, cái chợ làng này không đủ cho anh vùng vẫy. Anh phải lên Sài Gòn mới phỉ chí. Có lần, anh viết thư về nói rằng anh là một đứa con bị ruồng rẫy, anh đang sống một cuộc đời lưu lạc và xin cha mẹ hãy tha lỗi. Thư anh viết theo văn tiểu thuyết, ai cũng mủi lòng, má tôi khóc, rồi chị tôi, đến tôi và cả mấy đứa em chưa biết gì cũng khóc, nghĩ thương cái cảnh đời mưa gió như trong thư của anh. Còn cha tôi thì gầm lên:

- Đừng khóc! Nhà này ai ruồng rẫy nó. Đọc ba cái thứ tiểu thuyết lảm nhảm rồi tự mình gán cho mình cái thân phận chẳng ra gì. Nó mà về, tao ngắt đầu nó. Biết, hồi đó cho nó chăn trâu, có khi vậy mà nên.

Rồi cha tôi như giận cả cái chợ làng.

- Tụm năm, tụm ba, tụm bảy rủ nhau lưu lạc, thư gửi về, giọng đứa nào cũng y như vậy, nào mưa, nào gió...

Anh tôi đi nhằm cái lúc hai hãng xe đò đua nhau hạ giá để tranh khách. Hãng Ứng Ký muốn giết hãng của Lê Hồng là loại xe nhỏ, mới ra đường Mỹ Luông - Sài Gòn. Hãng Ứng Ký hạ nửa giá, rồi hạ đến một phần mười kèm theo một ổ bánh mì thịt cho khách, còn hơn cho không. Được vậy, dại gì không lên Sài Gòn chơi cho biết. Hầu như cả làng đều lên xe. Có người đi rồi về, có người quen mùi Sài Gòn, không về nữa. Trong số đó có anh tôi. Có người quay về, lạ hẳn đi, gầy tong teo, chơi bời quá độ, lại mắc bịnh, xanh như tàu lá. Có chị bước luôn vào cái kiếp giang hồ. Anh tôi vẫn còn lưu lạc ở trên đó, đã nửa năm, biết gì đến việc nhà. Tôi dù nhỏ, phải kê vai gánh vác.

- Con xuống ông Chín, nói ông Chín cho chú con đi tiếp.

Cha tôi dặn thêm:

- Có đi, nhớ không được ghé qua nhà ông Tư. Muốn thăm bà cố thì lân la đâu đó, lựa lúc ông đi vắng hẵng vào. Thăm cố một chút rồi về.

- Sao vậy cha?

- Vì mới xảy ra một trận xung đột giữa hai cậu cháu.

Buổi trưa, cha tôi xuống thăm cố, cũng để mượn một ít lúa. Nhà tôi ở chợ, mua ăn hằng ngày, nghĩ đến lúa làm gì. Người ở chợ có ai vay lúa giã gạo bao giờ. Năm ấy người làng gọi là năm kinh tế, là năm của “cuộc thế đang xoay”. Cái gì cũng khan, cũng hiếm. Đêm không có dầu để thắp. Đèn măng sông ở chợ, đèn ống khói của mỗi nhà đều phải dẹp vào một xó. Nhà nhà đều phải thắp bằng mỡ heo, đựng trong đĩa với sợi tim; không mỡ heo thì dầu dừa; nghèo hơn, không mỡ heo, không dầu dừa thì thắp bằng hột mù u. Cây mù u ở vườn, xưa nay ít ai biết nó để làm gì. Nhưng vì trời đất sanh ra trong loài cây cỏ có cây mù u thì trồng nó vậy, ăn không được, bán cũng chẳng ai mua. Trong vườn cây ăn quả, người ta trồng chêm vào một vài cây, chỗ đất thừa, đất thẹo. Cây không cao, da xù xì, lá dày lại rậm, chắc là được nhiều bóng mát. Trái mù u, mấy người bán hàng ăn, chỉ lấy cái vỏ, gọt làm gáo múc nước mắm. Bấy giờ người ta lấy hột mù u, xắt nhỏ như đồng xu đem phơi khô, xỏ lại thành xâu, đêm đem đốt, thay cho ngọn đèn. Cái màu lửa đùng đục, tỏa một làn khói đen, khen khét mùi nhựa. Ngọn đèn của mỗi nhà nhỏ như hột đậu đỏ, lù mù. Bóng đêm bỗng dày đặc hơn trùm phủ cả tâm trí con người.

Nghề nào cũng thất nghiệp. Xóm mộc, gỗ từ Nam Vang không đổ về. Xuồng ghe từ các nơi về mua bàn tủ cũng không tấp lại bến. Ngày ngày, xe từ Sài Gòn đổ xuống không biết bao nhiêu người đi lánh nạn. Tin từ báo chí, tin từ miệng của người Sài Gòn đi chạy giặc: thế giới, Đồng minh với phát xít Hít-le đang đánh nhau. Nhật sắp đảo chánh Tây. Sự có mặt của họ làm giá cả ngoài chợ càng mắc mỏ. Tin đói của miền Bắc cũng tràn về. Cảnh đói rồi sẽ đến nơi, tận cái làng này. Chỉ còn biết trông cậy vào cây lúa ngoài đồng. Nhưng những người nông dân theo đạo Hòa Hảo nghe theo kinh sấm, rằng sắp đổi đời, họ bỏ ruộng hoang. Cha tôi, thợ bạc, người thất nghiệp sớm nhất. Thời thế vậy, ai còn lo tới chuyện bông tai với dây chuyền.

Ông Tư tôi ngồi trên bộ ngựa gõ. Cha tôi ngồi ghế, giữa là cái bàn có khảm xà cừ. Bà cố tôi đứng một bên, trong bóng cây vú sữa, miệng lẩm nhẩm, tay lần hột chuỗi.

- Mầy định lo cho con vợ mầy sao, Hai?

- Thầy thuốc ở vùng nầy chạy hết rồi. Cháu định hốt bụi, hốt một số tiền, đưa vợ cháu lên nhà thương Sài Gòn. Nghe thầy thuốc nói, vợ cháu bị lao thời kỳ thứ ba rồi, nặng lắm.

- Đi làm gì cho mất công, lại tốn tiền. Tao nhắn lên mấy lần mà sao mầy nghe chưa thấu. Đưa con Hai lên Hòa Hảo cho nó được gặp Thầy, thỉnh kinh của Thầy về cho tà ma nó biết đây là người của Thầy, nó không quấy phá, rồi hết bịnh.

- Bịnh là do vi trùng chớ phải tà ma gì đâu cậu.

- Vi trùng gì? - Ông bắt đầu nổi giận, hai con mắt lừ đừ - Vi trùng đâu, chỗ nào, bao lớn, mầy chỉ nó cho tao, tao hốt tao nhai nó cho mầy coi.

- Cậu nói nghe kỳ quá, vi trùng nó ở chỗ dơ, chỗ bẩn chớ ở đâu.

Ông Tư tôi không nói, lại đưa mắt lừ đừ nhìn ra con sông. Dòng sông của buổi trưa trời đứng gió, mang theo từng dề lục bình xanh mát trôi xuôi, êm đềm. Dòng sông như làm dịu cơn nóng trong lồng ngực của ông. Cha tôi muốn hỏi mượn một vài chục giạ lúa phòng cho đàn con khỏi lâm vào cảnh đói, nhưng chưa lựa được lời thì ông tiếp:

- Cha mầy biết, Thầy là người nói đâu trúng đó. Cái thời buổi. “Bạc không cánh đổi thay chẳng biết. Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn. Mới mấy năm sao quá hao mòn. Mùa màng thất, đói đau không thuốc”. Thầy nói vậy, có đúng cái cảnh nhà của mầy không?

- Cậu Tư à! Đức Thầy năm nay tuổi đáng bằng con, bằng cháu của cậu, cậu nghe lời làm gì cái thằng con nít đó.

- Hả? - Ông vừa hét vừa chồm tới, và con dao mà ông định xách theo mỗi khi ra vườn ông chém phập xuống cạnh bàn. Con dao cũng như ông đang ghìm cơn giận run lẩy bẩy.

Bà cố tôi đứng đó, giật mình, buông chuỗi hột, sững sờ. Nhờ cái nhìn của bà mà hai người ngồi bất động.

- Lúa không mượn được, lại thêm chuyện mất lòng - cha tôi nói - kể thì lúc đó cha cũng nóng. Ở đời, cha biết, người ta đâu có đợi tuổi tác. Đúng ra, cha phải giải cho ông biết, nhưng lúc đó cha cũng nổi nóng rồi. Nói đến Đức Phật Thầy mà gọi là thằng con nít, ông nổi điên cũng phải. Cái sức giận của ông Tư con, cha biết, nếu không có bà cố ở đó thì cha chắc không về tới nhà...

Và để cho ông nguôi cơn giận, cha tôi bằng lòng cho má tôi đi gặp Đức Phật Thầy, coi như âm thầm nghe lời răn dạy của ông, và cũng để cho má tôi được vui lòng.

 

-------------------------------------------------------------------------------
(1) Kéo còi (nói chệch âm tiếng Pháp)



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 09:17:32 am
*

*          *

 
Sáng hôm sau, tôi lên xe ngựa, xuống nhà ông Chín. Tôi ít đến nhà ông Chín hơn nhà ông Tư, không phải vì tôi thương ông ít, mà vì nhà ông ở quá xa. Từ chợ đến nhà ông Tư, chỉ có hai cây số, không đi xe thì đi bộ. Còn nhà ông Chín Hết, ông ở cuối làng, cách chợ đến bảy, tám cây số, nhà cũng không phải ở mặt đường, xe chạy không tới. Nhà ông ở trong kinh, xuống xe phải đi bộ, trong xóm ngọn. Ông cùng một tuổi với cha tôi, tuổi bốn mươi. Cha tôi mỗi ngày mỗi cạo râu, ông Tư tôi (lúc chưa theo đạo) thì để ria mép, còn ông thì để ria, để cả râu, râu ria đều đỏ hoe như râu bắp. Râu non mà!

- Ông để râu chi vậy ông?

- Cái lũ của tụi bây đứa nào cũng gọi tao bằng ông, ông mà không có râu coi sao được!

Nghe cũng phải.

- Sao ông không làm ruộng, làm vườn mà làm rẫy cho cực vậy, ông?

- Cái thằng chó nầy, cái gì cũng hỏi.

Ông nói ông không đủ đất để làm ruộng, lại càng không đủ đất để lập vườn. Đất nhà ông chó nằm ló đuôi, có một khoảnh, làm ruộng, rơm cũng không đủ nhai, nói gì đến cơm ăn... Xứ này làm ruộng sạ khỏe hơn ruộng cấy ở xứ khác. Mỗi năm gặt hái xong, lúa đổ vào bồ. Mỗi nhà có một cây rơm, trước sân hoặc sau hè, những cây rơm cao như núi, dành cho trâu cho ngựa trong năm. Những cây rơm tỏa mùi thơm, quyến rũ đám trẻ con chơi trò chơi cút bắt. Đuổi chạy vòng vòng theo cây rơm phủ đầy người kín mít. Mùi rơm chứa cả mùi nắng, hít thở rồi, nghe thơm đến tận da.

Sau ba ngày Tết, cúng lạy ông bà, ăn và chơi, người ta châm lửa đốt đồng. Những cây rạ vàng khô bốc thành lửa, lửa lan ra khắp cả cánh đồng, khói của thân cây lúa lan ra đến tận nhà. Thân cây lúa trở lại làm phân cho mùa lúa tới. Rồi từ trời hãy còn sương, ngoài đồng đã vang tiếng “ví, tha” của người nông dân đi cày. Chiếc nón, áo bà ba, quần cụt, tay cày, tay roi, với một đôi trâu, lô nhô khắp cả cánh đồng lúc trời vừa hửng nắng. Cánh đồng phủ đầy một lớp tro đổi màu. Lưỡi cày lật lên từng luống đất, màu đất lại đỏ như miếng thịt non. Cày xong, lại bừa cho đất tơi ra. Khi trời sa mưa, trên cánh đồng, từng hàng người, mỗi người, mỗi người bưng một thúng giống, vừa đi vừa bốc vãi. Lúa từ trong nắm tay của người nông dân bung ra, từng hạt vàng lấm tấm rải đều ra trên khắp cả cánh đồng. Vậy là xong, hạt giống ấy cứ phú cho đất trời... Trời đổ mưa cho hạt giống nảy mầm, cho mạ lên xanh. Rồi đến mùa mưa, mùa nước ngập, nước lên, lúa cũng lên. Nước không vùi, không dập được cây lúa. Nước lên rồi nước xuống, nước trôi về biển. Khi con chim tu hú kêu vang vọng đâu đó trên bầu trời thì lúa đã đến thời ngậm sữa. Chim lá rụng nghe thơm mùi lúa chín, từ xa kéo nhau, từng bầy, từng bầy như những đám mây đen. Nhưng khi nó xếp cánh buông xuống thì vội túa bay lên vì tiếng la hét, tiếng khua lon, tiếng đánh thùng thiếc của các chòi canh, và những anh chàng bằng rơm, như những anh lính đứng lô nhô trên khắp cánh đồng. Rồi lại đến mùa gặt.

Cây rơm năm ngoái tàn, cây rơm mới lại dựng lên.

Làm ruộng sạ, xứ này, người nông dân được thảnh thơi. Cái giống lúa sạ này đều lấy cái họ nàng: nàng tây, nàng rừng, nàng keo... Gạo không trắng mà đỏ, nhưng lại ngọt cơm. Nhưng lúa sạ họ nàng cho lúa chẳng được bao nhiêu. Mỗi công trúng lắm chỉ được từ tám đến mười giạ, còn thường thường mỗi mùa chỉ được từ năm đến bảy giạ, rồi lại thuế, lấy gì ăn?

- Làm rẫy, mỗi sáng, mỗi chiều phải gánh nước, tưới phân. Đất của ông bằng bụm tay, cực vậy mới đủ ăn, con hiểu chưa?

Rồi ông lại kể, chính vì ít đất, nên khi ông đẻ chú Hai, ông đặt tên là Nguyễn Đa Điền, để sau chú được nhiều điền, nhiều đất. Chẳng biết sau này chú có được nhiêu đất không, chớ bây giờ thì chú hiền lắm, hiền như cục đất và cũng đen như cục đất vậy.

Ông Chín Hết của tôi cũng không chỉ làm rẫy, ông làm cả nghề cá. Ông bắt cá chốt lạ lắm... Mùa nước xuống là mùa cá chốt lên. Cá chốt nhỏ bằng ngón chân, ngón tay cái, loài cá trắng, không vảy, có hai cái ngạnh, cái ngạnh đâm vô tay, nhức đến phát khóc. Vậy mà ông bắt bằng hai ngón tay. Tôi đã theo ông, ngồi trước mũi xuồng. Ông lấy vải quấn năm đầu ngón tay. Tay nắm bộ đồ lòng của con chuột đồng, ông quậy xuống nước. Nghe mùi mỡ chuột, cá chốt kéo tới từng bầy, đưa đầu lên khỏi mặt nước, loi nhoi với hai sợi râu. Vậy là ông cứ nắm râu nó mà ném thẳng vô xuồng. Không còn con nào loi ngoi đưa đầu đưa râu lên, ông thọc dầm, bơi đi. Chẳng mấy chốc mà cá đầy khoang. Đến mùa đìa, ông đi tát đìa... Có lần tôi tới chơi nhà ông nhằm đêm mùa cá linh. Nghe ông kể cuộc đời con cá linh, tôi với lũ con nít trong ngọn kinh cứ ngồi há mồm ra mà nghe. Cứ hàng năm, ở Biển Hồ, trứng nở nó ra thành một con cá, nhỏ như cái đầu gai bưởi nhỏ li ti. Nó kéo đàn kéo lũ, theo con nước đục phù sa, thả theo dòng. Nó vừa đi, vừa ăn vừa ngủ, vừa nhởn nhơ chơi, đến cái làng mình thì nó lớn bằng cái đầu đũa ăn. Có con cứ theo con nước mà trôi đi nữa, cũng có con giạt vô bờ rồi, theo con nước chảy, nó lên mương vườn rồi lội ra đồng, quấn quanh theo cây lúa sạ của đồng mình. Đến khi con nước xuống, nó lại nương theo con nước, dẫn nhau ra mương, ra kinh, ra rạch, ra ngòi, cặp theo dòng sông Cửu Long. Nó đã lớn bằng ngón tay ngón chân rồi, nó định ngược dòng để vê quê cha đất tổ. Nó chen nhau, nó lội, nó bơi, nên gọi là cá linh đua, hiểu chưa?

Nghe lời ông dạy, bọn nhỏ chúng tôi chạy ra bờ kinh, lượm đất liệng xuống mé. Nó giật mình, nhảy lên soi sỏi. Cá lên xanh cả mặt nước hai bên bờ kinh.

Nói là xuống ngủ chơi nhà ông - nhà ông được cái nhiều gió đông - nhưng nào có ngủ được. Ấy là đêm thượng tuần tháng mười âm lịch. Trời không trăng, cả xóm đều đốt đuốc, kéo bò bắt cá, hò hét dậy ran. Cái bò đan bằng tre, chất chà, đã đặt sẵn dưới bến. Con cá linh nó dẫn bầy, dẫn đàn, chui vào đó, lội nhởn nhơ.

- Hè! Kéo!

Trục kéo bò nghiến ken két, cái bò ló dần lên mé nước. Tiếng cá linh rộ lên, vùng vẫy, tưởng có thể nứt cả bò. Cái bò lại được thả xuống. Rồi đốt lửa, ai làm cá cứ làm, ai nướng cá ăn cứ ăn.

Ước chừng khi cá đã vào đầy bò, người ta lại hò hụi cho đến sáng.

Chuyện gì ông làm, tôi cũng có dịp xem, dịp thấy, duy có cái thú gác cu của ông là tôi chưa bao giờ được ra đồng với ông. Tôi chỉ thấy được con chim cu mồi trong lồng, treo trước hiên nhà.

Ở đời có bốn cái ngu
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.


Ông chịu cái tam ngu vậy. Một ngày mà không nghe tiếng con cu nó chiêu, ông buồn lắm - ông nói vậy, và ông dạy cho tôi biết trong đời có mấy giống cu. Cu nước, cu bông, cu lửa và tiếng kêu của mỗi con, nghe mà mê.

Ít xuống chơi với ông, nhưng mỗi lần xuống, tôi không muốn về. Ông còn một tính lạ nữa. Trong xóm, trong làng, nghe nhà ai có người chết, dù có bận trăm công ngàn việc, ông cũng xỏ áo, đầu bịt khăn khất, tất tả đến tận nơi.

- Kìa, anh Chín tới.

Nhà có tang, thấy mặt ông, họ đỡ bối rối. Hình như người ta chờ đến ông; không có ông, người ta không biết làm gì.

- Sắp nhỏ đâu, nấu cho nồi nước.

Ông vừa bảo, vừa lấy gạch kê ba ông táo ngay bên một góc sân, hai tay quơ nào lá, nào củi, nhen thành ngọn lửa.

- Vải tang có chưa?

- Nhang đèn, vàng bạc có chưa?

Ông hỏi người nhà từng món, từng thứ. Thiếu món gì, ông bảo phải chạy ngay. Ông giúp người nhà tắm rửa, khâm liệm cho người chết. Và ông đưa người chết đến khi cái mộ đất đã vun đầy, ông mới trở về.

- Lần nào, ở đám ma nào, mới bước vô nhà, ông cũng bảo nấu một nồi nước vậy, ông Chín?

- Đám nào mà không làm gà, làm vịt, làm heo, làm gì cũng phải có nước sôi. Khách tới chẳng lẽ để người ta ngồi không, ít nhất cũng phải có một chén trà, hiểu chưa?

- Sao đám ma nào ông cũng đi hết như vậy ông? Người ta mướn ông hả?

- Mẹ cha con của thằng Hai thợ bạc, cái gì nó cũng hỏi. Người ta mướn ông bạc triệu, ông cũng không đi. Nếu đi mà lấy tiền thì chẳng khác gì mong cho người ta chết! Ông đi là vì tại ông muốn đi. Chết là hết, hiểu chưa? Khi người ta khóc, người ta kể, trước sau gì cũng có tiếng “Hết rồi, hết rồi”. Mà ông thì tên Hết, chẳng khác nào người ta gọi tới ông, ông không đi, coi sao được?

Ý của ông không phải vậy, tôi biết ông nói đùa. Ông tiếp:

- Con thấy đám cưới, đám giỗ của người ta, ông đâu có tới. Nhà nào có đám ma mà không bê bối. Vui cũng bê bối, nhưng bê bối mà vui. Đám cưới, đám giỗ, ông chỉ tới dự khi ông được mời, dù nghèo, khăn áo cũng sạch sẽ đường hoàng. Hễ tới, ông chỉ ngồi ông nhậu chớ chẳng làm gì. Còn đám ma, nhà có người chết, người ta buồn, người ta đau, người ta khóc, người ta không còn trí để mà nhớ đến việc gì nữa... Mình đến lúc người ta đau, người ta khổ, người ta bối rối, vậy mới đúng đạo làm người, con hiểu không? Cái gì con cũng hỏi, bây giờ ông hỏi lại con.

Tôi ngước nhìn những sợi râu loe hoe của ông.

- Đố con, con người ta sống lâu hay chết lâu?

Tôi lại nhìn những sợi râu của ông, ngơ ngác. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái chết. Ông cười đắc ý:

- Bí phải không? Để ông giảng cho nghe. Con người ta sống rồi sẽ chết, còn chết thì chết hoài hoài, không có ai chết mà sống lại được. Cho nên, lúc mình sống, mình phải ăn ở sao cho người ta thương. Muốn vậy, mình phải thương người ta trước. “Thương người như thể thương thân”. Như ông nội của con hay vác dao chém người ta, nhưng không phải là người hung dữ đâu. Ông con vì thương người mà dữ. Ông chém người đáng chém, chém cái tụi ỷ quyền, ỷ tiền, ỷ thế hà hiếp dân nghèo.

- Tụi nó có nhiều không ông?

- Ít xịt thôi. Ít, nhưng nó ngồi trên đầu mình. Còn dân nghèo thì hằng hà sa số như kiến.

Chú Ba tôi - chú ba “cửa tủ” - cũng như ông, hay đố, hỏi những điều mà tôi không sao hiểu nổi. Có lần chú đi đâu về, dẫn tôi đi chơi chợ chiều, chú hỏi:

- Cháu là con của ai?

- Con của cha, của má...

- Con của ai?

- Của ông nội, bà nội.

- Của ai nữa?

- Của ông ngoại, bà ngoại.

- Của ai nữa?

- Của ông cố, bà cố.

- Của ai nữa.

- Ư... ư...

- Là con của xã hội nữa, hiểu chưa?

Đó là những câu hỏi nhớ đời!



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 11:40:54 am
*

*          *

 

Chiếc xe đưa tôi qua khỏi nhà ông Tư, qua đình qua xóm vườn... Xe nép qua một bên lề, đậu lại phía bên này đầu cầu kinh Cựu Hội, thả tôi xuống. Tôi đi bộ theo con đường đất trên bờ kinh trong nắng sớm. Đi đến rớm mồ hôi thì tới nhà ông. Ông tôi kia, đầu bịt khăn khất, lưng trần, quần vận, đang gánh hai cái gàu nước từ bến, đi lên rẫy.

- Ông Chín.

Ông quay lại, chòm râu loe hoe, ông cười:

- Đi đâu mà sớm vậy? Vô nhà ngồi, đợi ông chút.

Xóm ngọn này của ông, không ai cất nổi nhà sàn. Nhà nền đất, lưa thưa, xa xa một cái, xa nhưng vẫn thấy nhau không như ở xóm hai bên con đường đá nhìn qua hai bên chỉ thấy cây vườn.

Nhà ông tôi chỉ bằng cái chái, cái bếp của nhà người khác, nền đất, mái lá, vách cũng kẹp bằng lá. Mỗi năm sau mùa nước, chân vách bị nước cuốn đi, từ ngoài xa đã thấy cả những cái chân của người đi trong nhà. Từ ngoài, tôi đã thấy chân giường, chân tủ thờ trong nhà ông. Con cu mồi trong lồng treo trước hiên nhà, nó đang hót “Hoạch... cu... cu cu... hoạch”, ông ngồi bên mép giường, lột chiếc khăn khất, lau mồ hôi.

- Định chừng nào đưa má con đi?

- Dạ, cha con bảo xuống thưa với ông chừng nào chú Hai rảnh thì đi.

- Về thưa lại với cha con, ông Chín nói rảnh hay không rảnh cũng phải đi. Đi cho biết mặt Thầy, cho ông Tư con vừa lòng. Nè! Cái gan của cha con không biết được bao lớn, mà dám gọi Đức Phật Thầy của người ta là con nít!

- Ông cũng theo đạo Hòa Hảo rồi hả ông?

- Hôm rồi, sau cái chuyện đó, ông Tư con có xuống đây, kể lại cho ông nghe, rồi khuyên bảo ông theo đạo Phật giáo Hòa Hảo. Ông nói: “Tôi tu lâu rồi chớ mới đây sao; tôi để râu, để ria tự hồi nào tới giờ, ai mà không thấy”. Biết ý ông chưa muốn, ông Tư mới lừ hai con mắt: “Nhưng mà mầy chưa để tóc”. Ông Tư còn nói là đạo sẽ đánh Tây, lấy lại nước, lấy đất chia cho dân cày. Nói y như Cộng sản năm bốn mươi, “Ừ, thì như Cộng sản, nhưng không phải là Cộng sản làm mà Đức Phật Thầy ra tay”.

- Sao theo đạo thì phải để râu, để tóc vậy ông?

- Hòa Hảo họ nói, hồi xưa, tổ tiên ông bà mình sanh sao thì để vậy. Sau nầy cạo râu hớt tóc là do tụi Tây nó bày ra, bây giờ mình chống nó thì phải theo ông bà.

- Bà cố theo đạo Phật, ông theo đạo Phật, đạo Hòa Hảo cũng đạo Phật, mà sao ông Tư lại bắt ông theo đạo Hòa Hảo?

- Đạo Phật của bà cố, của ông, cái đạo nó lớn như con sông Cửu Long ở ngoài vàm kia, còn đạo Hòa Hảo, cũng đạo Phật, nhưng là đạo nhánh, đạo nhóc, nó nhỏ như con rạch, con kinh nầy đây nè. Kinh rạch, cây lá um tùm, tối tăm lắm.

Tôi muốn hỏi thêm thì ông “nọ” một tiếng dài:

- N... ọ... Cái tật không bỏ, cứ đụng đâu hỏi đó hoài. Trưa trật rồi, về thưa lại với cha con là tối nay chú Hai Điền sẽ lên. Khuya đi. Đã mướn được ghe cộ gì chưa?

- Dạ rồi.

- Mấy chèo?

- Dạ, ba chèo.

- Ai chèo trước?

- Dạ. Con sẽ tập.

- Tội nghiệp chưa!

Bàn tay to lớn của ông xòe ra, để nhẹ lên mái tóc tôi. Tự dưng, tôi mủi lòng muốn khóc.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 11:46:06 am
*

*          *

 

Đất Phật đây rồi, làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (1). Tưởng là xa xôi lắm. Hóa ra nếu đi bằng xe ngựa của anh Hoàng, chỉ một buổi chiều là cùng. Nhưng vì phải đi ghe, nên mất gần một ngày. Xô ghe rời bến từ lúc vừa nhóm chợ, xế chiều thì tới. Tưởng là nơi có núi non, có mây vờn như rồng bay phượng múa, hoặc một cảnh nào khác lạ của người đời. Hóa ra, làng Hòa Hảo cũng như cái làng của tôi thôi. Cũng là hai dãy nhà hai bên con đường đá. Cũng có một vài điều lạ. Ghe xuồng của người mộ đạo từ xa tới đậu trước bến của Đức Thây đến hai ba lớp.

Chú Hai Điền của tôi phải bỏ lái, ngồi chồm hỗm trước mũi, đưa tay lần qua xuồng ghe khác, cái mũi ghe của tôi mới lách dần tới bến. Nhà nào trước sân cũng dựng bàn thông thiên, lư hương còn đầy chân nhang. Đàn bà bới tóc, đàn ông cũng bới tóc, có người tóc chưa đủ để bới thì xõa xuống đến tận vai. Quần áo, ai ai cũng một màu, màu dà (2) gương mặt thành kính với đôi mắt nhìn tận đâu đâu, xa xôi buồn rầu. Bàn thờ trên nhà đốt nhang, bàn thờ trong ghe cũng đốt nhang. Khói nhang lởn vởn, mùi nhang phảng phất theo tùng hơi thở.

Lạ nữa, người ta phơi lá gòn đầy cả sân, phơi tràn ra cả mặt đường. Họ dùng lá gòn để làm nhang. Nơi đốt nhang cũng là nơi làm nhang, bán nhang. Ai đến cũng mua về một hai bó. Mua nhưng gọi là thỉnh, thỉnh nhang từ đất Phật.

Tôi thấy mọi người nhìn tôi với con mắt xa lạ, tôi hơi sợ và không hiểu tại sao. Sau mới biết, tôi không mặc quần áo màu dà, mà mặc quần áo trắng của học trò, không cùng một màu với thiên hạ.

- Thằng nhỏ đó ở đâu tới vậy?

Tôi nghe người ta hỏi sau lưng tôi.

- Con chịu khó ở trần, mặc quần cụt, như con nít ở xóm đi con. - Má tôi bảo.

Không có cái áo màu dà thì cái lưng ngăm đen của mình chắc sẽ hợp màu. Tôi cũng không hòa được với mấy đứa nhỏ ở xóm, cũng có đứa ở trần, cũng đen, nhưng tóc của nó đã xõa dài, phủ cả tai, còn tôi, cái đầu của tôi, tóc hớt gọn quá. Muốn cho tóc phủ đến ót, đến vai, phải để ít nhất vài ba tháng; một ngày, một buổi tóc sao dài được. Lúc nào tôi cũng thấy mình lạc lõng, lẻ loi.

Còn chú Hai Điền tôi, chú cũng không có áo màu dà, nhưng cái áo của chú vá đùm vá đụp, những cái chỗ trắng đã ngả màu cháo lòng, nó cũng tối tối như màu dà, chẳng ai để ý... Với lại chú chèo chống mỏi mê, chú nằm ở sau lái, lấy cái nón lá úp lên mặt, ngủ khì, không ai để ý.

Đã lên đến nơi rồi mà má tôi vẫn chưa gặp được mặt Đức Thầy. Hỏi thăm mới biết Đức Thầy đã đi vắng, người nói Đức Thầy đang giảng đạo ở Bến Tre, kẻ nói đang ở Bạc Liêu, có người lại bảo Thầy lên Sài Gòn. Ai cũng nghĩ là mình nghe đúng, nói đúng,  tưởng như Thầy ở khắp mọi nơi cùng một lúc.

Thầy đi vắng nhưng còn đệ tử của Thầy, gọi là ông Mười, ông thay mặt Thầy.

Phải chờ đến hai ngày, má tôi mới gặp được đệ tử của Thầy. Tôi với chú Hai Điền phải kê vai cho má tôi bước lên từng bực cầu thang, lên nhà ông Mười. Kẻ đứng người ngồi chật ních.

Giữa nhà là bàn thờ, bàn thờ cũng không có hình ảnh của ai, chỉ có một miếng vải màu dà gọi là trần điều. Mỗi người - những con bịnh - đều đốt ba cây nhang cắm lên lư hương, bộ lư đầy chân nhang, khói nhang tỏa đầy nhà như một cái đống hun muỗi, khói nhang thơm đến muốn ngạt thở.

Ông Mười, đệ tử của Thầy, là một người đàn ông to lớn, trên dưới độ bốn mươi tuổi, quần áo màu dà, đầu bới tóc, cặp chân mày đậm như mực tàu, bộ ria dày cũng đậm đen như mực, hai cái đuôi ria quớt lên như cái mũi của chiếc xuồng cui. Ông ngồi xếp bằng trên bộ ngựa gõ. Má tôi quỳ dưới sàn nhà, một bên là chú Hai Điền, một bên là tôi. Ông Mười cầm một nhánh sầu đâu đưa lên trước mặt má tôi, mắt ông trợn tròn, cặp mắt sắc như dao. Ông nhìn với cặp mắt giận dữ. Ông không gọi má tôi bằng cô hay bằng chị mà gọi là “tín nữ”.

- Bịnh của tín nữ đây là bịnh tiền kiếp. Kiếp trước đã làm nhiều điều tội lỗi, nhân nào thì quả nấy, nên kiếp này phải bị trầm luân.

Hai cái vai gầy gò của má tôi rung lên, nước mắt chảy đầm đìa. Cái kiếp mà má tôi đang sống đây, má tôi là một người hiền từ, còn kiếp trước mình là ai và đã làm gì, ai biết được?

Nói vậy rồi ông bốc cho má tôi một nhúm lá xoài, một nhúm lá ổi, một nhúm bông vạn thọ héo khô.

- Tín nữ vừa uống vừa đọc kinh của Thầy. Đi theo đây, có ai biết viết, biết đọc không?

- Dạ, có con tôi.

Ông đưa cho má tôi một quyển kinh bằng tập giấy học trò:

- Bảo con nó chép.

- Cầm, lạy đi con.

Khám bịnh vậy là xong, nhưng má tôi còn phải ở lại chờ tôi chép cho xong quyển kinh. Vừa lạ, vừa buồn, vừa sợ, tôi muốn về sớm nên tôi ngồi chép không nghỉ. Ngồi trong nhà ngợp khói nhang, tôi ra ngoài ngồi chép kinh dưới gốc xoài. Chú Hai Điền giúp tôi mượn một miếng ván, lấy gạch kê lên làm bàn, tôi quỳ dưới cỏ mà chép, không nghỉ tay.

- Ra ngoài cây xoài mà coi, có một chú nhỏ đang quỳ chép kinh của Thầy cần mẫn hết sức.

Có một vài người bước ra xem tôi chép.

- Chuối đây, độ cho no rồi chép tiếp, cháu!

Tôi không còn là người xa lạ nữa. Tôi chép xong “Sấm giảng khuyên đời tu niệm” lại chép tiếp “Kệ dân của người khùng”. Kinh sấm của Thầy nghe nói còn nhiều, nhưng hai quyển vậy là được. Tôi chép mất một ngày rưỡi. Trưa hôm sau, khi chú Hai Điền mở sợi dây đỏi (3) quấn dưới gốc cây me nước dưới bến, có người nói:

- Phải chi cháu nhỏ còn ở lại, tôi nhờ nó chép giùm, để nó được phước.

Nghe có người nắm níu, má tôi với chú Hai Điền muốn nấn ná ở lại vài ngày, may ra được “diện kiến” Đức Thầy, nhưng gạo trong hũ chỉ còn được vài lon, tiền cũng không còn được mấy đồng, dù ở đất Phật, túi cũng phải có tiền, nên đành phải lui ghe.

Cũng như bận đi, ghe phải chèo nép một bên bờ, chú Hai Điền chèo lái, tôi chèo mũi. Mũi ghe cỡi sóng, nhích lên, qua từng cái bến nước. Chèo đến rã cả tay, ngoái nhìn lại, vẫn thấy cái doi với rặng cây xanh, trước sau vẫn là dòng sông mênh mông và sóng bủa dăng dăng. Bên kia sông một rặng cây mờ, trước mắt vẫn là hàng cây của đuôi cù lao nổi lên giữa dòng. Chèo, vẫn chèo, ghe lướt qua một cây cầu, dưới bến nước, trước mũi ghe cũng bến nước với cây cầu. Chèo cho đến khi trời bảng lảng, mặt sông không còn chói ánh nắng, chú Hai Điền mới cho ghe tấp vào nơi khuất gió, nằm trong vịnh, đậu lại dưới tàn cây sộp bên mé nước, nổi lửa nấu cơm chiều. Chú lo coi lửa nấu cơm, còn tôi thì giở quyển kinh chép tay ra đọc cho má tôi và chú được nghe.

- Đọc từ chữ đầu, đọc chầm chậm nghe mầy! - Chú Hai Điền bảo tôi, giọng rất trang trọng.

Dù khuất trong doi, sóng vẫn vỗ vào bờ. Ngồi bập bềnh trên lái ghe, giọng của tôi hòa trong tiếng sóng:

Ngồi khùng trí đoái nhìn cuộc thế
Thấy dân mang sưu thuế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô vương
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.


- Nam mô a di đà Phật.

Tôi phải ngừng đọc vì tiếng niệm Phật của chú Hai Điền. Nhìn lại, tôi thấy chú ngồi xếp bằng, hai tay buông thõng, gương mặt của chú như khác đi, thẫn thờ và mắt ngước nhìn tận đâu, buổi trời chiều.

Tôi lại đọc, đọc được bốn năm câu chú lại đệm vào “a di đà Phật”. (Sau này gẫm lại, lời lẽ trong những câu kinh ấy như bay lên khi thành tiếng, ngấm vào người. Nếu tâm hồn của con người mà thấy được, thì chắc tôi thấy tâm hồn chú Hai Điền bị tím dần theo từng lời của kinh sấm. Tôi thấy tôi với chú đã xa nhau rồi).

Trước mặt tôi, bên kia sông, có một đường cây xanh ven theo bờ uốn cong lại dòng sông là doi, cái doi nằm ngay con nước đạp, đất đang lở. Từng mảng đất từ trên bờ đổ ùm xuống, bọt nước tung trắng xóa. Bờ sông hõm vô với màu đất đỏ. Và dòng sông như giận ai, từ nơi xa khơi, ở giữa dòng, nổi lên từng đợt sóng bạc đầu, gầm thét đuôi xô nhau đập vào bờ. Và xa kia, ở làng tôi, mây khói đen như kéo cả bầu trời hạ xuống, trên đầu của con sông.

Ôi!  của tôi chiều hôm ấy sao mà buồn thế!



------------------------------------------------------------------------
(1) Thời Pháp thuộc, Châu Đốc là tỉnh

(2) Màu nâu

(3) Dây xích sắt to




Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 11:47:28 am
*

 
Nghe tôi chép kinh của Đức Thầy từ đất Phật trở về, ông Tư tôi hả hê lắm. Cha tôi nói:

- Ông Tư đi khoe với người ta, mầy như thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh về. Cha nghe cha mắc cỡ quá - Rồi cha tôi cười, nụ cười thật mỉa mai: - Ông cho cô Hai lên gọi mầy xuống chơi, thăm bà cố. Ông hỏi gì, nhớ lựa lời mà nói, xong chuyện nhớ về liền, nghe chưa?

- Dạ.

Chiếc xe ngựa vừa đậu lại, tôi đã nghe tiếng ông từ trong nhà vọng ra:

- Ai như nó xuống đó bây?

- Nó chứ ai nữa - tiếng của cô Hai Thảo. Cô ngoài ba mươi, người gầy gò, môi mỏng, miệng lúc nào cũng nhai trầu, môi lúc nào cũng đỏ. Gần đây, nhắc đến cô, cha tôi nói: “Con nhỏ đó mà nói tới đạo thì cái miệng của nó cứ xoen xoét”.

Từ trong nhà, cô chạy ra tận xe, nắm tay tôi dẫn vào. Miệng cô lại xoen xoét:

- Con thật có phước quá. Người như cô mà chưa được lên tới đất Phật đó nghen.

Ông tôi ngồi sẵn trên bộ ngựa. Bà cố tôi lúc nào cũng lẩn thẩn trong sân, tay lần chuỗi hột... Cũng như bao nhiêu lần khác, tôi khoanh tay thưa bà, bà chỉ nhìn và tay vẫn lần hột chuỗi.

- Con ngồi xuống đây!

Ông chỉ cái ghế bên cái bàn. Nhìn cái nhát dao bên mép bàn, tôi sợ, dù ông nhìn tôi với đôi mắt âu yếm.

Ông hỏi và tôi kể lại tỉ mỉ những điều tai nghe mắt thấy ở làng Hòa Hảo. Cô Hai Thảo ngồi cạnh bên như để chứng kiến cuộc nói chuyện giữa hai ông cháu, có điều gì thấm ý cô lại tắc lưỡi.

- Chú Hai Điền con về, có ghé qua đây. Nó nói, lần nầy, nó xin quy y theo đạo... Nó nói kinh sấm của Thầy nói đâu trúng đó. Kể cũng nhờ con.

Cô Hai Thảo chêm thêm:

- Cũng không phải tới bây giờ nó mới muốn đâu, tía. Nó muốn vô lâu rồi, nhưng nó sợ chú Chín.

- Bây giờ, nó lên được đất Phật rồi, cha nó cản nó cũng không được. Để tao coi cha con nó làm sao. Còn con, con đã chép được kinh sấm của Đức Thầy rồi, từ bữa đó tới nay, con thấy trong người ra sao?

- Dạ! - Tôi chỉ thấy buồn, nhưng không dám nói, chỉ dạ cho qua.

- Không được giống thằng cha mầy. Từ nay về sau không được hớt tóc nữa, nghe chưa con? - Khi thì ông gọi tôi bằng mầy, lúc gọi bằng con. Trong một câu nói, ông tỏ ra vừa giận vừa thương, vừa dọa, vừa vỗ về.

- Thảo, gọi thằng Cảnh ra cho nó thấy.

Cô Hai Thảo sốt sắng, vụt đứng dậy, bước ra sau vườn. Một lát sau, cô dẫn thằng Cảnh vào. Cảnh, con trai đầu lòng của cô, gọi ông bằng ngoại, tôi với nó là anh em cô cậu, một đầu ông cố. Nó kia, một thằng nhỏ mới lên sáu, trần truồng, tròn như hột mít, da rám nắng. Nó để tóc từ lúc nào, đã bới được. Theo lời dạy của má, nó khoanh tay cúi đầu thưa tôi. Tôi nhìn cái đầu tóc nhỏ như củ tỏi treo tòn ten sau ót và “con chim” của nó, tôi thấy nó quái gở quá.

- Con thấy chưa! Mới bao lớn mà ông đã cho nó để tóc rồi, thấy nó mà liệu lấy.

- Dạ, thưa ông, thưa cô, con về.

Tôi không dám ngồi lâu, sợ tóc của mình bỗng dưng lại dài xuống và sau ót lại tòn ten cái củ tỏi, xấu xí bực bội biết chừng nào. Tôi vội vàng ra về khi nghe có tiếng kèn xe ngựa “bí bo, bí bo” sắp chạy qua cửa.

Về tới nhà, cha tôi hỏi:

- Ông Tư bảo gì?

- Bảo con để tóc như thằng Cảnh.

Cha tôi cười, nụ cười mỉa mai và khinh bỉ.

- Con muốn để thì cứ để, nhưng phải kêu thợ thiến heo nó thiến đi, làm đàn bà luôn cho nó tiện.

Nếu trong đầu tôi có ý nghĩ muốn để tóc theo đạo, thì cái ý nghĩ mới nhen nhúm ấy đã bị nụ cười và giọng nói của cha tôi đánh tan.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 11:57:03 am
*

*          *

 
Cái thảo bạt của nhà tôi trở thành nơi qua lại của bà con, của bạn bè, từ sáng cho đến tối, không lúc nào ngớt. Không dám nói cả làng, nhưng có thể tất cả bạn bè của cha tôi đều nghỉ việc, suốt ngày đi tìm nhau, kéo đến bàn chuyện thời cuộc. Có người truyền đạo, có người chống đạo.

Tôi đã đến lúc phải giúp gia đình kiếm miếng ăn. Cái tuổi mười ba của tôi, tôi làm gì ra tiền?

Năm 1945 ấy, năm “kinh tế”, cái gì cũng khan hiếm. Thuốc lá cũng hiếm. Thuốc Bastos, Mélia, Cotab... mà người ở chợ hay hút không còn nữa. Thế là ở chợ mọc ra không biết bao nhà làm thuốc lá. Người ta lấy thuốc rê, thuốc Cao Lãnh, tẩm đường, tẩm mật, tẩm cam thảo với rượu hoặc cà phê quấn thành điếu, đặt đủ thứ tên.

Như trẻ con nghèo ở chợ, tôi ôm cái thùng thuốc lá đi bán. Tôi bán được vài hôm thì nghỉ. Tôi không biết mời, cũng không biết tranh khách. Nhưng cũng không phải vì lẽ đó, mà vì gặp một cô bạn học. Khi tôi thấy cô bạn gái ấy từ xa, ngoài chợ lẫn trong đám đông, tôi đã vụt chạy. Nhưng không kịp, cô đã gọi tên tôi, và đi vòng một ngả khác, cô đứng trước mặt tôi.

Nhà cô ở trong kinh, đường qua Long Xuyên. Trong  lớp chỉ có tôi và cô là người cùng làng. Cô là cô gái đẹp nhất lớp. Tôi với cô lại ăn cơm tháng cùng một nhà, suốt ba năm. Có lẽ vì là người cùng làng, nên hai đứa lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. Cùng đến trường và cùng một con đường trở về, cùng một mâm cơm, cùng một mái nhà. Hai đứa không thể vắng nhau. Ngày nghỉ hè, ngày nghỉ Tết, hai đứa cùng tìm đến thăm nhau. Tình yêu? Không! Tình bạn! Đúng, nhưng cũng không, có cái gì khác hơn tình bạn... Không phải là con sông, nhưng nước trong con kinh trước cửa nhà tôi là nước của con sông đổ về. Chiều nước lên đầy, và giữa khuya, khi con nước ròng, nước lại trở về sông. Cái hôm tôi gặp cô ở chợ, lúc tôi đang ôm cái thùng thuốc lá lần gặp cuối cùng. (Sau ngày tôi đi, tôi luôn nhớ đến người con gái ấy. Những đêm hai đứa ngồi bên nhau cùng một ngọn đèn. Mấy mươi năm sau, mỗi lần nhớ lại, kỷ niệm này còn dậy lên trong lòng tôi mùi thơm trên mái tóc của cô... Tôi nghĩ là, tôi sẽ gặp lại cô, cái ý nghĩ bâng quơ và mơ màng như một làn khói mỏng, nhưng không bao giờ tan vì ngọn gió của thời gian. Có lúc tôi nghe, trong xóm kinh, có một người con gái tên Trầm, theo đạo Hòa Hảo, hung dữ lắm. Tôi không tin. Tôi không tin).

Ba mươi năm sau, mấy lần trở về làng, tôi đều hỏi đến cô, nhưng không ai biết, cũng không ai nhớ. Một hôm gặp lại thằng bạn học cũ nó khoe trong làng bây giờ, chỉ có nó với một vài người còn ở nhà bè. Bắt cá bè lên nhậu, còn gì ngon bằng. Nó nắm một nắm hột gòn ném xuống bè, cá he trong bè hàng trăm, hàng ngàn con cùng một lúc rộ, lộn cái đuôi vàng rực.

- Mầy còn nhớ ai không?

- Ai là ai?

- Cô bạn học hồi nhỏ của mầy.

- Trầm?

- Mầy còn nhớ, khá!

- Còn sống à?

- Mầy chưa chết mà sao người ta không còn sống.

- Bây giờ Trầm ở đâu?

- Chỗ cũ, đường qua Long Xuyên, nhà bên nầy cây cầu đá. Tội nghiệp, nó còn nhớ mầy, nó hỏi thăm mầy hoài. Về mấy lần rồi mà chưa qua thăm cổ, mầy tệ quá.

Bạn tôi đâu có biết là mỗi lần về là mỗi lần tôi tìm hỏi thăm cô.

- Mai tôi đi.

- Đáng lẽ phải đi ngay từ bây giờ, nhưng thôi, nhậu đã. Cùng một lớp chắc là cùng một tuổi của mình chớ gì.

- Chắc cũng xê xích một hai tuổi gì đó thôi.

- Cỡ đó, hơn bốn mươi rồi, như mình, vậy mà chưa có chồng con.

Tôi ngồi sững đi một lúc lâu.

- Sao vậy? - Tôi hỏi.

- Mầy hỏi, tao làm sao biết được. Cái xứ của mình, có những người, cho đến chết mình cũng không sao hiểu nổi. Nếu cái lúc mầy đi, mầy với nó được mười bảy, mười tám, thì có thể nói là nó chờ mầy. Đằng này, năm bốn mươi lăm, tụi mình mới mười ba, mười bốn, tắm còn ở truồng chổng ngổng, biết gì.

Bạn cầm ly rượu đụng ly tôi:

- Thôi, uống đi. Mai gặp rồi biết. Nhớ hỏi cô giáo Chi. Tên Trầm, không ai biết đâu!

Sáng hôm sau, tôi đến nhà Trầm, cô bạn học ngày xưa. Ngày xưa, hơn ba mươi năm trước, những ngày hè, ngày Tết vắng nhau, Trầm ra chợ tìm tôi, chớ tôi chưa đến nhà của Trầm. Nhà của Trầm, cũng như bao nhiêu nhà sàn khác ở làng, tất nhiên không có nhà nào giống nhà nào.

Nghe có khách, từ trong buồng bước ra, thấy tôi, Trầm gọi đúng tên tôi:

- Trầm! - Tôi gọi tên người bạn xưa.

- Đã hơn ba mươi năm, tôi mới nghe lại tên Trầm.

Trầm kéo ghế, ngồi đối mặt với tôi:

- Đến xóm nầy hỏi tên Trầm mà người ta biết à?

Tôi kể cho Trầm biết, nhờ một người bạn học cũ mới biết tên mới của Trầm, cô giáo Chi.

Hơn ba mươi năm! Khác hơn những người con gái tôi gặp lại hơn ba mươi năm đi xa, Trầm thay đổi chẳng bao nhiêu. Những cô gái nhỏ ấy đã là mẹ của một đàn con, có cô đã có suôi gia, có cô đã có cháu ngoại, cháu nội, đã thành đàn bà hoặc một bà già. Họ thay đổi vì vắt sữa nuôi con. Còn Trầm, vẫn là một cô gái ngày xưa, một cô gái trở về già, vẫn vậy, nhưng héo đi. Cái mái tóc dợn song vẫn còn đó, trên vầng trán của cô. Trầm vẫn gọi tôi bằng tên như hồi xưa, hồi học trò.

- Tên thật của mình là Chi. Nhưng hồi đó vì quá tuổi, không được đi học, nên ba má mượn khai sinh của một cô người hàng xóm. Cô ấy tên Trầm, nhỏ hơn mình hai tuổi.

Chi lại kể tiếp:

- Sau nầy, cô Trầm theo đạo Hòa Hảo, mang lông công, đi ngựa, xông ra chiến trận, dữ lắm, đã chết rồi. Vì cái tên Trầm và cùng xóm nầy, nên có người tưởng là mình.

Tôi không gọi bạn gái nhỏ ngày xưa là Trầm nữa mà gọi đúng tên của cô.

- Bao nhiêu năm nay, Chi vẫn sống ở đây?

- Không! Có đi kháng chiến, có về Đồng Tháp Mười. Sau hiệp định Giơne, Chi trở về làng làm cô giáo, cũng là nơi đi, về cho anh em mình. Bây giờ, Chi vẫn là cô giáo.

Bây giờ tôi mới biết Chi lớn hơn tôi hai tuổi. Hèn gì hồi đó, trong tình bạn, Chi có nhiều cử chỉ tỏ ra là người chị của tôi. Áo tôi rách, Chi mang kim ra vá. Lúc tôi đi chơi, quần áo quấn nùi lại đó thì Chi đem đi giặt, thỉnh thoảng lại rầy la nữa.

- Mới đây mà đã hơn ba mươi năm. Ước gì mình được trở lại như ngày xưa!

Vẫn cái đôi mắt mở tròn ấy, nhìn tôi và nói, giọng xa xôi!

Kể lại cho chị tôi nghe chuyến đi thăm cô bạn học ngày nhỏ, chị tôi mới sực nhớ:

- Hèn gì, lúc nào qua đây, nó cũng hỏi thăm em. Chị có nói với em mấy lần, tại em không để ý.

- Vì chị nói là cô giáo Chi nên em không để ý.

- Gặp lại nhau vui không?

- Nghe nói cô giáo Chi từ đó đến giờ không có chồng?

- Ừ, không nghe nói gì chuyện chồng con.

- Sao vậy chị?

- Ôi! Chuyện đời con người ta, làm sao hiểu được. Nghe nói hồi kháng chiến, Chi có hứa hôn với một anh bộ đội nào đó, tập kết ra Bắc, sao đến nay vẫn chưa thấy về. Hy sinh hay là lấy vợ khác rồi, chẳng biết.

Vậy là cuộc đời của cô bạn học ngày xưa của tôi, cô giáo Chi, như bao nhiêu người con gái Việt Nam, chẳng khác gì cho lắm.

Tôi đã được gặp nhiều chị, hứa hôn với người đi tập kết ra Bắc, sống vậy, chờ đợi suốt hai mươi năm. Người chồng chưa cưới của mình hoặc vì hy sinh, hoặc vì không sao chờ đến hai mươi năm, đã rẽ bước, nên cả đời bị dở dang.

Chi! Như thế bạn gái nhỏ xưa của tôi là vậy.

Chuyện không bao giờ xảy ra, biết vậy, nhưng cũng có đôi lúc, tôi mơ tưởng, nếu ngày tôi xa Chi, tôi được mười tám hoặc đôi mươi tuổi thì cuộc đời của Chi đâu có lỡ dở.

Sống không thể thiếu ăn thì cũng không thể thiếu mơ tưởng...

Sau cái lần gặp Chi ở chợ, trở về, tôi bỏ hẳn nghề bán thuốc lá. Chị tôi khuyên:

- Mình nghèo thì đi buôn, đi bán chớ có ăn trộm ăn cắp của ai mà em mắc cỡ.

Tôi không dám nói thật với chị:

- Em đi lãnh thuốc về, quấn mướn cho người ta, cũng được tiền mà lại được ở nhà giúp chị.

- Em muốn vậy cũng được.

Tôi đặt cái bàn thuốc quấn ngoài thảo bạt, trên cái tấm đệm, dưới cái tủ thợ của cha tôi. Tôi ngồi từ sáng cho tới chiều, nhờ đó mà tôi nghe hết câu chuyện của khách đến chơi nhà.

Từ ngày cha tôi cho má tôi lên làng Hòa Hảo, cô Hai Thảo như được nước, ngày nào cũng lên chơi. Cô ngồi một chân để lên ghế, ăn trầu, xỉa thuốc, miệng nói xoen xoét. Chẳng biết cô đọc kinh sấm lúc nào mà thuộc làu làu, nói vài câu lại dẫn ra một câu sấm, câu giảng.

- Thầy tự xưng mình là thầy tu tức là thù Tây đó nghen.

- Sao không nói thẳng ra mà nói lái chi vậy cô Hai?

- Tụi mày nhỏ, chưa biết. Thời buổi nầy, Tây đang cai trị mình, nói thẳng ra sao được.

Cô nói những điều khác nhau giữa đạo Phật giáo Hòa Hảo của cô với tất cả các đạo khác.

Tu mà không mê tín dị đoan, không cần lên chùa, chỉ tu trong lòng mình, tu mà không cúng xôi, cúng gà, chẳng cho thầy chùa, thầy pháp ăn. Chỉ có nước lạnh, bông hoa với nhang thôi. Thờ thì không phải thờ tượng Phật. Chỉ thờ một tấm vải màu dà. Màu dà là màu thoát tục, tụi con hiểu chưa? Cũng gọi là “trần điều” nữa. Điều là đỏ, đỏ là màu Cách mạng của anh em mình đó. Đạo tu bốn cái nghĩa ân: ân Tổ tiên cha mẹ, ân Đất nước, ân Tam bảo, ân Đồng bào và Nhân loại.

Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen


Cô nói đạo với đời lẫn lộn, nghe rối beng. Những người đến chơi, trẻ già đều có, ngồi bệt dưới sàn gỗ, nhìn cái miệng “xoen xoét” của cô, miệng người nào cũng há hốc.

Có hôm như người lên đồng, vì say trầu hay vì quá hào hứng mà cái gò má của cô bừng đỏ như đánh phấn hồng, hai con mắt trợn tròn lên lung linh, cô thả chân bước xuống:

- Coi tao đây nè!

Rồi cô ra cả điệu bộ đốt nhang cho đến cách lạy Phật. Cô xá rồi cô quỳ...

Má tôi từ trên chiếc võng buồng trong cũng lọ mọ ra, ngồi xem. Và lần nào, trước khi về, cô cũng kết luận bằng hai câu:

Tu hành đâu có tốn xu (không tốn mà!)
Mà sau thoát khỏi lao tù thế gian! (Nghe chưa?)

Mỗi lần thấy cô đến nhà là cha tôi kiếm cớ đi vắng. Cha tôi không chịu nổi cái miệng “xoen xoét” của cô, nhưng không muốn mất lòng giũa bà con, với lại, nhà đang mượn lúa của cô.

- Cô Hai bây nó về rồi hả? - Bước lên nhà cha tôi hỏi. - Không uống rượu mà như con say, nó sắp điên hay sao á!

Trong làng không chỉ có một người như cô Hai Thảo của tôi, mà nhiều lắm. Ngày nào tôi cũng thấy họ từ miệt vườn kéo lên chợ, vào nhà của bà con. Đi đâu cũng gặp. Cô Hai Thảo vừa truyền đạo vừa nài nỉ, còn ông Tư tôi thì vừa truyền vừa hăm dọa.

Một hôm ông Chín Hết lên nhà, than với cha tôi:

- Thằng Điền của tao nó theo đạo Hòa Hảo rồi mầy Hai. Thấy nó dựng bàn thông thiên, dựng trang thờ, quần áo đem đi nhuộm màu dà, tao hỏi, tao rầy, tao nói với nó: “Mầy tưởng tao không biết tu sao. Bà tu, tao cũng tu, muốn tu thì tu như tao đây nè, tu làm gì cái đạo nhánh, đạo nhóc đó. Còn Đức Thầy, tao đã thấy hình rồi, đàn ông không ra đàn ông, đàn bà không ra đàn bà, nước da xanh lớt, cái mặt chết yểu, mầy theo làm gì?” Tao nói vậy, mầy biết sao không? Tao nghe nó hét lên một tiếng, tưởng như sét nổ bên tai, nó giận run lên như con thằn lằn bị đứt đuôi; nó nhìn tao, hai con mắt của nó, nếu mầy thấy, sợ lắm! Nó bắt đầu để tóc lởm chởm như cái đống chà. Cũng may, tao đẻ nó ra, chớ ngược lại, nó mà đẻ ra tao thì tao bị ăn một cái bợp tai rồi. Tu mà sao dữ vậy, tao không hiểu được. Mợ chú mầy thấy vậy, buồn lòng lắm, khuyên tao: “Thôi, ở xóm này, trang lứa như nó cũng theo đạo hết rồi, nó đứng ngoài một mình buồn chết, kệ nó”. Bữa sau, tao nghe cậu Tư mầy nhắn tao lên, nghe nhắn, tao biết chuyện gì rồi. Gặp nhau chỉ sanh chuyện. Tao mà nói mặt của Đức Phật Thầy là mặt chết yểu thì không phải ăn bợp tai mà bị ăn dao, tao mới nhắn ngược lại, dạo nầy, rẫy bọ sầu nhiều quá, không bỏ đi được. Vậy là trong dòng họ mình, chỉ còn có nhà mầy là đứng vững. Ráng mà giữ gìn mấy đứa nhỏ. Thời thế thật nhiễu nhương!

Một người nữa hay đến chơi nhà tôi là chú Ba Giáo. Bà ngoại của cha tôi với bà ngoại của chú là chị em ruột, bà ngoại của chú, tôi cũng gọi cố, cố Út. Chú nhỏ hơn cha tôi vài tuổi, và cũng vai em. Chú là niềm vinh hạnh cho dòng họ tôi và cho cả làng. Trong làng chỉ có chú học tới tú tài, được người làng gọi là tú tài Giáo. Đồn rằng chú nói tiếng Tây, cò Tây ở làng còn phải sợ. Người ta khen chú nói tiếng Tây như lặt rau. Người chú lịch sự lắm. Người cao ráo, mặt xương xương với vầng trán thông minh, áo quần luôn thẳng nếp, đẹp nhất là cái mái tóc, không dài cũng không ngắn, cái mái tóc bập bồng.

Chú sống ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về làng, lần nào về, chú cũng đến chơi với cha tôi, hai người tâm đầu ý hợp lắm. Dạo ấy, sợ quân đông minh ném bom, cùng với một số người từ Sài Gòn về quê, chú trở về làng, và ngày nào cũng đến với cha tôi. Nghe nói, thỉnh thoảng chú có viết báo. Nghe chú viết được báo tôi đã phục rồi, mặc dù chưa đọc của chú bài nào. Nhờ chú mà tôi biết được đôi chút chuyện trên thế giới. Biết phát xít Đức, Ý với Nhật là phe Trục, biết chúng đang đánh ai, đã đến đâu và thua hay thắng. Biết chúng muốn gì.

- Tham vọng muốn làm bá chủ hoàn cầu. Tưởng đụng tới ai, đụng tới Liên Xô thì đời của nó coi như tàn. Lịch sử đã chứng minh, Napôlêông đó, bách chiến bách thắng, cuối cùng, đến cái đất băng tuyết của xứ Nga, đành phải tháo chạy.

Chú ngồi tréo một chân trên ghế sa lông gần vách đằng kia, cha tôi cũng ngồi tréo trên ghế sa lông gần vách đằng này, cách xa, nói với nhau. Có lúc chú rời khỏi ghế, đứng thẳng người, vừa nói vừa bước tới đến giữa thảo bạt, và vừa nói vừa ra điệu bộ, khiến tôi mê mẩn. Những câu chuyện của chú về đạo Phật giáo Hòa Hảo đều ngược lại những điều của cô Hai Thảo, như tranh gãi, nhưng hai người không bao giờ đối mặt nói với nhau. Có cô Hai Thảo thì không có chú, có chú thì không có cô Hai Thảo.

- Sau ngày khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 của anh em mình bị thất bại, thì đạo Hòa Hảo mới lan tràn. Lịch sử như qua một khúc quanh.

Chú ngồi tréo một chân trên ghế mà hai tay lại chống nạnh, đường bệ, tự tin. Rồi chú lại đứng dậy, bước tới, đưa tay chỉ vào ngực mình:

- Tôi là nhà báo, tôi thấy mình có bổn phận phải ghi nhận những gì đang xảy ra của lịch sử. Tôi đã tìm hiểu người sáng lập ra đạo Hòa Hảo rồi.

Chú rút trong túi ra một cuốn sổ tay, lật qua mấy trang:

- Tôi đã ghi như vầy. Người sáng lập ra đạo Phật giáo Hòa Hảo tên là Huỳnh Phú Sổ, sanh năm 1919, tức năm Kỷ Mùi, tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, là con thứ tư của ông Huỳnh Công Bộ, nên cũng gọi là thầy Tư Hòa Hảo. Ông Bộ là hương cả trong làng, cũng gọi là cả Bộ, nhà điền chủ.

Vẫn cầm cuốn sổ tay, nhưng chú không đọc nữa, nói thuộc lòng:

- Hồi nhỏ, học ở trường làng, thầy giáo là ông Phan Văn Khoái, người Sa Đéc, có vợ ở làng Hòa Hảo. Hết trường làng lên học ở Tân Châu, ăn cơm tháng tại nhà ông Huỳnh Văn Sánh. Bịnh, phải bỏ học trở về. Thuốc men không hết, cuối cùng mới đi tu, ở chùa Tây An trên núi Sam. Sau lại lên núi Cấm.

Rồi chú cười:

- Mấy người tín đồ Hòa Hảo ở làng mình, cũng trong vòng bà con chớ chẳng đâu xa, không bước ra khỏi nhà một bước, mà dám nói đến chùa Tây An. Nghe họ nói, mình tưởng là chùa nằm trên đỉnh núi thiêng nào, mờ mờ ảo ảo trong các tầng mây. Thầy tu luyện từ đó mà hạ san! Có phải đâu anh. Tôi đã lên đến tận nơi, tận chốn rồi.

Rồi chú kể lại với cha tôi chuyến “du hí” đến viếng chùa Tây An của chú. Chùa Tây An có xa xôi gì đâu dưới chân núi Sam, cách chợ Châu Đốc chừng năm cây số, con đường từ Châu Đốc dẫn vào núi Sam là con đường đá qua những cánh đồng... Núi Sam giống hình con sam khổng lồ phủ rêu xanh. Giữa cánh đồng, sau mùa gặt, rạ vàng tươi, núi Sam như nằm trên một tấm đệm. Núi Sam thuộc làng Vĩnh Tế, một cái làng của chùa miếu và đền thờ, có miếu Bà Chúa Xứ, có cả lăng của Thoại Ngọc Hâu - người đã đào con kinh Vĩnh Tế.

            Chùa Tây An đứng xéo đầu bờ trên triền núi, trước chùa là cổng, cạnh chùa là tháp, sau chùa là vườn cây, tĩnh mịch âm u. Chùa có từ thời Thiệu Trị (1847), lợp bằng tranh, đã trăm năm. Bây giờ thì tường vôi, mái ngói. Trong chùa, hàng trăm cốt Phật được đặt trên các bàn thờ. Ở hậu đường, đặt ngay căn giữa, một bàn thờ lớn thờ một tượng cốt, mắt mang kính, cằm mọc râu thưa, khoác áo nâu sồng, mặt hiền từ... Đó là tượng của Phật thầy Tây An, Phật thầy Tây An là ai vậy? Tên thật của ông là Đoàn Minh Huyên, người ở làng Thọ Sơn, tỉnh Sa Đéc. Theo sử xưa ta thì Thọ Sơn là một thắng cảnh, bốn mặt làng đều có sông nước, làng như một cánh bèo đang phiêu bạt, trong làng cá lội, cò bay...

Cũng gần trăm năm trước, Pháp vừa mới cai trị nước ta, ông Đoàn Minh Huyên đến vùng Trà Bư, Xẻo Môn, Long Kiến nhằm lúc có bịnh tả. Người chết không sao kể xiết. Tiếng đồn, ông về đó, vừa truyền đạo, vừa trừ bịnh dịch cho dân. Dân chúng ngưỡng mộ ông, từ các nơi kéo đến. Nhà cầm quyên Pháp sợ ông “khua dân dấy loạn” nên bắt giữ ông ở chùa Tây An. Từ đó ông lập ra tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông chủ trương giản dị mọi hình thức tu hành để trở về nguồn với bản lai thanh lịch của Đức Phật. Không thờ Phật cốt, không gõ mõ tụng kinh, không cần phải cạo đâu trọc, áo vuông, không cần phải đi chùa, tu đâu cũng được, và phải nhớ bốn cái ơn lớn: ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào, nhân loại. Cái mả của ông chôn trước chùa, cái mả bằng như mặt đất, khác người. Ý của ông: người chết không nên giành đất của người sống. Cứ chôn bằng phẳng để người sống có đủ đất cày bừa trồng trọt.

Cha tôi gật đầu:

- Cái ý đó nghe được.

- Thời trẻ Thầy Tư đã lên trị bệnh và tu ở chùa nầy. Đến ngày trở về lập ra đạo Phật giáo Hòa Hảo, đã bắt chước như vậy.

Chú kết luận rồi trở lại ghế, ngồi tréo chân.

- Bắt chước có sửa đổi và có thêm, rất lợi hại - cha tôi nói. - Y gãi đúng cái chỗ ngứa của người cùng thời. Tự xưng là thầy tu tức là thù Tây. Con Thảo, cậu Tư mê cái tiếng nói lái đó lắm, đi đâu cái miệng cũng cứ “thầy tu, thù Tây”.

Cha tôi vốn ít nói thường chỉ lắng nghe, thỉnh thoảng đế vào một đôi câu. Có lẽ vì đã sống ở Nam Vang, nên lúc ở nhà, cha tôi thường vận chiếc xà rông tơ sọc vuông màu xanh đỏ và mặc áo thun ba lỗ. Ra đường, cha tôi mới mặc quần áo đàng hoàng. Chiều hôm ấy, chắc vì gặp lại chú Ba Giáo, người tâm đầu ý hợp cha tôi cũng trở nên sôi nổi. Khác hơn chú Ba Giáo, cha tôi vẫn ngồi yên trên ghế, chớ không bước tới, bước lui như chú. Cha tôi nói:

- Ông ta, con người chỉ có như vậy mà thiên hạ thêu dệt không biết bao nhiêu điều huyễn hoặc. Mới đây thôi, cũng không ai lạ, con Thảo, con của cậu Tư, lên đây, tại cái nhà nầy, nói rằng Nhật đã mời Thầy của nó tới, Nhật nó thụ bằng cách cho Thầy uống át sít. Thầy bưng cái chén át xít lên. Thầy biết, nhưng Thầy vẫn uống, uống như uống nước trà. Uống xong, Thầy vẫn ngồi đàm đạo với bọn chúng. Quân Nhật sợ quá, mới lấy kiếng hiển vi rọi lên ngực Thầy xem ruột gan Thầy có suy suyển gì không, thì chúng thấy trong ngực Thầy có ba ông Phật. Họ đặt ra như vậy mà vẫn có người tin được, chú Ba mầy thấy có lạ không? Nói thiệt với chú Ba mầy, tao không muốn gây xích mích với bà con làm gì, nhưng cái bữa đó, tao nghe, tức mình quá, tao mới bảo: “Nè Hai, nếu đúng là như vậy, thì em mời thầy đến đây - cha tôi vừa nói vừa đưa tay chỉ cái tủ thợ - át xít để thử vàng của anh kia, anh cho thầy em uống ba giọt thôi; chớ không cần uống tới một chén, xem miệng lưỡi với ruột gan của thầy em có cháy không cho biết”.

Nghe tao nói vậy, nó mới bảo: “Anh Hai sao cũng chứng nào tật ấy hoài, không biết chừng nào anh mới bỏ”.

Nếu tao mà không nói như vậy thì không biết chừng nào nó mới chịu xách nón ra về.

Chú Ba Giáo cười, cha tôi cũng cười, cả hai đều không cười ra tiếng, chỉ nhếch môi. Chú Ba Giáo lại hăng lên:

- Chuyện đồn đại vậy mà có ý nghĩa lắm đó anh Hai. Hoặc là họ muốn dựa vào Nhật để gây thêm thanh thế, hoặc là Nhật muốn dựa vào họ để nắm lấy tín đồ.

- Cả hai đều muốn dựa nhau.

- Đúng vậy! Họ đã bước vào con đường chính trị rồi đó, anh Hai! Theo tôi được biết thì bây giờ, đạo Phật giáo Hòa Hảo là cái túi đựng các phe phái chính trị người của Pháp, người của Nhật, bọn đệ tử cũng nhảy vô. Có một số đảng viên Cộng sản vì phải trốn tránh cái lưới mật thám của Pháp, Nhật, hoặc vì thất chí, hoặc vì muốn giành lại quần chúng, cũng đã vào đạo. Không hiểu cái cơ sự của đạo này rồi sẽ ra sao, anh Hai?

Câu chuyện bỗng dừng lại qua giọng nói buồn rầu của chú Ba Giáo.

Tôi lại cúi xuống cái bàn quấn thuốc, cái cây lăn trong tay tôi lăn đều, từng ba điếu thuốc rơi xuống manh đệm.

Chú Ba Giáo bỗng kêu lớn, giọng hốt hoảng:

- Chuyện gì mà người ta chạy rần rần vậy kia?

Tôi cũng chồm lên, nhìn ra. Ngoài đường, trước cửa nhà tôi và trên đường bên kia bãi cỏ, già có, trẻ có, đàn ông, đàn bà, từ trong các ngôi nhà túa ra đường, cắm đầu cắm cổ đổ ra chợ, vừa chạy vừa la. Tôi cũng định phóng xuống sân, thì cha tôi gọi giật lại.

- Chuyện gì lạ vậy, anh Hai?

Chú Ba Giáo hỏi với giọng lo lắng. Giọng của cha tôi bình tĩnh hơn:

- Cũng một tin đồn gì đó vậy thôi. Làng nầy bây giờ lâu lâu lại có một tin đồn, làm nhốn nháo cả làng. Cũng như hôm rồi, tàu chở lính Nhật ghé lại bến, có vài thằng lính Nhật đeo gươm lệt bệt đi lên chợ. Chỉ có vậy mà cả làng chạy lên xem, đồn là lính Nhật rút gươm ra, đòi lấy đầu thằng cò, trả thù cho dân An Nam.

Thấy người vẫn còn chạy trên đường, chú Ba vẫn chưa hết lo, hai tay nắm lấy hai thanh cửa, chân nhấp nhổm.

Tôi cũng không thể nào trở lại cái bàn quấn thuốc. Một chân vẫn để trên bậc cầu thang, tôi nhìn ra con sông qua khoảng trống. Người trong làng đang nhốn nháo, nhưng dòng sông vẫn yên tĩnh, những dề lục bình vẫn theo con nước trôi xuôi.

Một lâu sau, người ta lại lác đác trở về, và người trong nhà tôi vẫn chưa biết chuyện gì.

Trong số người trở về có chú Tư Khởi, ba của anh Hoàng đánh xe ngựa. Là người hàng xóm, nhưng chú ít sang chơi nhà tôi. Có lẽ cái nghề của chú với nghề của cha tôi khác nhau. Tôi để ý thấy chú chỉ đến khi có chú tôi ở nhà. Chú với chú Ba “cửa tủ” của tôi có vẻ tâm đầu ý hợp. Nhưng dạo này, dù chú tôi đi vắng, thỉnh thoảng chú cũng sang chơi. Chú cũng không vào đạo, nên gần gũi với cha tôi hơn.

Trong cái số người lác đác trở về, chú rẽ xuống đường, bước lên cây cầu khỉ bắc qua nhà tôi.

- Ai như anh Tư Khởi “xe ngựa” vậy, anh Hai?

- Nó chớ ai... Có nó thì thế nào cũng biết tin - Cha tôi đứa tay ngoắc - Vô mau Tư Khởi.

Chú Tư Khởi có cái tài bắn chim, cả làng ai cũng biết tiếng. Chú không bắn bằng sung mà bắn bằng giàng thun. Cái giàng thun của chú, đứa con nít nào thấy mà không mê. Cái nạng bằng căm xe, vừa đỏ màu gỗ, vừa bóng vì mồ hôi tay của chú. Hai sợi dây thun, không phải thứ dây thun ruột xe đạp của trẻ con đâu, dây thun bằng ruột xe hơi, dày và bề ngang bằng hai ngón tay của tôi. Tôi cũng đã từng cầm thử, tôi lấy hết sức cũng không thể nào giương nổi. Còn đạn của chú, chú vo bằng đất sét, viên nào viên nấy to bằng ngón cẳng cái. Chim sâu, chim sẻ, chim trao trảo, loại đó chú tha hết. Trên đường đi săn, nếu ai đem chim tới, đổi một con lấy một viên đạn của chú, chú cũng không thèm. Đạn của chú chỉ để dành bắn chim lớn, bắn con nào ra con nấy. Chú chỉ bắn chàng bè, gà đãi với hồng hoàng cao cát. Chú lặn lội trong đồng sâu, bắn những con chim đậu trên cây sao cao ngất. Chú chỉ nhắm ngay cái óc o của nó mà bắn, bắn như để. Mỗi lần chú đi bắn về là trẻ con hàng xóm rủ đến nhà chú; không chỉ có con nít chúng tôi, mà cả người lớn cũng đến xem chim. Chàng bè mỏ dài thượt, hai cái cánh của nó, nếu kéo banh ra, dài bằng sải tay của bọn con nít chúng tôi. Chú kể chú bắn những con chàng bè ấy lúc nó thả buồm trên mặt nước.

- Chàng bè thả buồm là sao chú Tư?

Chú kể:

- Chàng bè khi gặp một cái đầm nước, nó thả xuống, lật một cánh đưa lên trên, trông như cánh buồm vậy. Nó dùng cái cánh đó, bốc gió trôi đi...

Con cò thì không phải con cò nào chú cũng bắn. Chú chỉ bắn cò hương thôi.

Cò, thịt chẳng được bao nhiêu, toàn xương xóc, nhưng nó quý ở bộ lông ngực. Nếu ai bị đứt tay, đứt chân, chảy máu thì lấy cái lông của nó rịt vào vết thương, máu sẽ cầm ngay.

Hỏi về nghề săn chim của chú, chú nói, muốn bắn được chim lớn, phải lặn lội trong đồng sâu. Không để cho nó thấy mình. Gần tới nó, phải nhẹ chân, đầu phải đội cỏ, lúc trầm mình xuống nước thì phải đội lục bình, đội lá sen. Cốt yếu là không cho con vật thấy được con mắt mình. Với loài chim loài thú, mắt của con người sáng lắm, sáng như ngọn đèn xe hơi vậy. Thấy mắt người là nó rộ lên, bay hoảng đi.

Hèn gì, mỗi lần chú đi săn về, lần nào cũng thấy chú đội cái cát két có lưỡi trai thò ra khỏi trán thật dài, chẳng giống ai. Chắc là để che con mắt với loài chim?

Chú Tư Khởi, tóc loăn quăn đo đỏ như lông con ngựa Cu, lún phún một hàm râu quai nón, cái áo bà ba để hở bộ ngực đỏ au như ức chim và loắn xoắn một chùm lông.

Chú bước lên nhà tôi, chào chú Ba Giáo theo cái kiểu của chú, không bắt tay mà đưa tay nắm cái vai của chú Ba Giáo, cười há há. Với tôi thì chú xoa đầu, với cha tôi thì chú cười và lắc đầu:

- Thời buổi lộn xộn quá, anh Hai. Nghe tin gì thằng Ba “cửa tủ” không anh Hai?

- Nó vẫn ở bên Đốc Vàng.

- Nghe nói ảnh sắp về.

- Sao chú biết?

- Thời buổi này, trước sau gì ảnh cũng phải về. Tôi nghe nói như vậy.

- Chuyện gì hồi nãy vậy anh Tư?

Chú Ba Giáo vẫn sốt ruột. Chú Tư Khởi ngồi vào ghế, nhìn ra mặt đường và con sông.

- Có chuyện gì đâu. Đang ngồi trong nhà, thấy người ta chạy ùn ùn, tôi cũng chạy theo. Mọi người chạy ra chợ, người này hỏi người kia, không ai biết chuyện gì với chuyện gì, ai cũng bảo, thấy người ta chạy, mình cũng chạy theo.

- Tôi nói có đúng không? - Cha tôi chen vào.

- Hỏi riết rồi cũng có người nói.

- Nói sao?

- Nói ông đạo Cậy vừa mới tới.

- Đạo Cậy nào anh Tư? - Chú Ba Giáo vẫn sốt ruột.

- Anh Ba mới về, chắc anh chưa biết. Lâu nay trong đạo Hòa Hảo người ta đồn, đã sắp đến ngày đổi đời, ngày đổi đời thì tối trời, tối đất ba ngày ba đêm. Trong ba ngày ba đêm tối trời đó, hùm beo từ trên rừng sẽ xuống, sấu từ dưới nước sẽ lên. Hùm beo với sấu sẽ tha, sẽ bắt những người nào không vô đạo Hòa Hảo. Tới ngày đó ông đạo Cậy sẽ biến thành sấu. Người ta đồn là bây giờ, cái ót của ông đạo Cậy đã có vảy rồi. Vì vậy mà người ta chạy người ta xem. Rần rần chạy ra chợ, thì nghe là ông đã ra bến xe, lại rần rần ra bến xe. Ra bến xe thì có người nói là ông ta vừa lên xe ngựa đi rồi... Nếu người nào cũng có ngựa thì ngựa sẽ chạy lở hết mặt đường. Chuyện nghe lãng nhách, tức quá tôi mói nói: tôi mà gặp được ông đạo Cậy, tôi sẽ đè cái ót của ông xuống tôi giật vài cái vẩy chơi cho biết. Mấy người theo đạo Hòa Hảo họ nhìn tôi, lừ lừ như muốn nuốt sống tôi. Cái thời thế này, hết biết.

Cha tôi nối lời:

- Từ trước tới nay, nói tới ma là để nhát con nít, bây giờ người ta đem ma, đem quỷ ra nhát cả người lớn.

Rồi cha tôi kể với chú Ba Giáo về các tin đồn. Người trong đạo họ xầm xì với nhau: trong ba ngày ba đêm tối trời, tối đất ấy, bọn quỷ dương (1) sẽ nghễu nghện đầy đường. Chúng đi qua từng nhà, gọi tên từng người. Nếu ai lên tiếng thì bị chúng hốt hồn. Đức Thầy có dạy, nếu nghe nó gọi thì một người, người ấy phải là đàn bà, cầm một nắm giẻ rách mở cửa ra nói “Người của nhà tôi đã đi rồi, cho tôi gởi theo bó quần áo” rồi đưa nắm giẻ rách ấy cho quỷ, vậy là thoát.

Chú Tư Khởi nghĩ gì, ngửa mặt cười tiếp:

- Còn nữa. Mấy ngày đó, nhà không được nổi lửa nấu cơm. Cho nên người trong đạo họ xầm xì với nhau: Thầy dạy phải làm bánh tô, phải phơi cơm khô để ăn. Vậy là cả làng ai cũng xay gạo phơi cơm. Vợ tôi thấy vậy, cũng bày đặt phơi cơm, ngâm gạo để làm bánh tô. Tôi hét cho một trận, bả mói nói: “Mình không tin nhưng lỡ có thì cũng có cái để ông với mấy đứa nhỏ nó ăn. Nếu không có thì cũng còn đó, mất đi đâu?” Có người không tin nhưng vẫn sợ đó, chú Ba. Họ cũng lại xầm xì, lại rỉ tai: sau ba ngày đó thì núi Cấm sẽ nổ ra thành lâu đài của nhà vua. Thầy của họ sẽ trị vì thiên hạ. Người nào theo sẽ được Thầy rước về xem hội Long Hoa, có rồng bay phượng múa, nghe mà mê. Còn người nào không theo đạo thì hùm tha, sấu bắt, nghe mà lạnh đến xương khu.

Bây giờ, ngủ giựt mình thức dậy, họ mở miệng ra là Thầy, Đức Phật Thầy. Cái đám bà con của tôi ở ruộng ra chơi, lúc nào cũng thầy, thầy, tôi phát nổi nóng, tôi nói: “Nêu bây thấy thầy của bây đi ỉa mà thơm thì hẵng tin là Phật sống, còn như thầy bây mà cũng như tụi bây thì đừng có tin”.

Nói xong, chú bật cười, cười khậc khậc, cười rung cả lông ngực, bắt mọi người phải cười theo...

Đêm hôm ấy, dù trời đang giông mưa, dù cho nhà cửa ở trong làng với ngọn đèn nhỏ nhoi như hột đậu và le lói bị chìm ngập dưới bóng tối âm u của mây khói đen, dù cho dòng sông đang ầm ào nổi sóng, dù cho cây, cho lá trong vườn ngả nghiêng rơi rụng trong cơn giông, qua câu chuyện của chú Ba Giáo, chú Tư Khởi và cha tôi, tôi không còn sợ bóng đêm nữa. Tôi không còn sợ những con quỷ hình thù kỳ dị, thân người mặt ngựa với đầu trâu, rách rưới lang thang, với cái giọng kêu tên người đến rởn óc, cũng không còn sợ những con hùm, con beo rằn rện từ trên rừng tuôn xuống với những con sấu từ dưới đáy nước trôi lên, bươn bả leo lên bờ vây lấy quanh tôi.

Một mình tôi, tôi dám mở cửa, đứng trước bậc thang để chờ xem một trái xoài rụng, và dám nhìn thẳng ra con sông, dám ngửa mặt nhìn lên trời, xem những đám mây khói đen từ đâu kéo đến để đoán cơn mưa, và biết tìm những vì sao qua những khoảng trống của đám mây. Trên xa kia, vẫn nhấp nháy những vì sao.

Và mây đen, qua một cơn mưa, mây sẽ tan. Còn những vì sao kia, trên trời cao, thì mãi mãi đời đời...



--------------------------------
(1) Quỷ vương, nói chệch âm


Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:06:34 pm
*

*          *

 

Chú Ba tôi về. Bà nội tôi chỉ có hai người con trai, cha tôi với chú tôi. Có lần chị tôi hỏi:

- Sao bà không đẻ thêm con gái cho tụi cháu gọi bằng cô?

Bà cười:

- Sao không nói trước? Mà thôi. Con gái ăn cơm nguội, ngủ nhà ngoài, đẻ làm gì cho cực cái thân của cô con.

Cha tôi tên Thành, chú tôi tên Công. Nhưng ít khi nghe ai gọi cha tôi với chú tôi bằng tên. Cha tôi được gọi là Hai thợ bạc, chú tôi là Ba “cửa tủ”. Chú tôi làm thợ mộc, bàn tủ giường ghế, cái nào chú cũng đóng được, nhưng cái món nghề giỏi nhất là nghề làm cửa tủ. Cánh cửa tủ do chú tôi làm khéo hơn tất cả những tay thợ ở trong làng. Cánh cửa tủ do tay chú tôi làm, mở ra đóng vô nghe vừa êm, vừa khít, không thể nào nhìn thấy được khe hở, cái đường khe nhỏ như sợi tóc, tưởng như miếng ván liền nhau. Khi cái cánh cửa tủ đóng lại, người ta nghe được cái tiếng gió dội ra, rất êm tai. Góc và cạnh của cửa tủ, chú tôi không bào bằng cây bào thường của các tay thợ thường dùng, mà chú tôi mài nó bằng mảnh chén kiểu, và chú tôi vuốt lại bằng tay, rất công phu. Vì thế mà chú tôi nổi tiếng là Ba “cửa tủ”. Tay nghề đang giỏi đang đắt hàng, bỗng dưng chú bỏ nghề. Chú chuyển một nghề khác, cũng nghề mộc nhưng rất tầm thường. Chú sắm một bộ đồ nghề, đựng trong một cái túi, khi mang trên vai, khi buộc trên yên xe đạp, đi chỗ này chỗ nọ, sửa bàn, sửa ghế. Có người hỏi chú, chú bảo chú không thích ngồi một chỗ, chú thích đi đây đi đó, cho biết. Nhỏ hơn cha tôi ba tuổi, nhưng trông chú có vẻ già hơn và khắc khổ hơn cha tôi. Lúc chú đi chẳng biết chú ở đâu, ở nhà ai, khi chú về làng thì chú ở nhà tôi, ngủ trên chiếc ghế bố, ngoài thảo bạt. Tôi thấy cha tôi vừa thương yêu, vừa nể trọng chú. Chú ít nói, thường ngồi một mình, trầm ngâm nghĩ ngợi đâu đâu, thỉnh thoảng mới nói với cha tôi một vài điều.

Chú đi biệt tăm từ năm làng bị lính Tây đốt và bắt người đày đi Côn Đảo. Nghe nói chú đã qua ở bên kia sông và đã cưới vợ rồi, tận trong ngọn. Vậy là gần bốn mươi chú mới lấy vợ, rất muộn. Bà nội mất (cuối năm 1944) chú cũng không về. (Sau này tôi được biết chú đi hoạt động cách mạng, chú cũng đã học thêm chữ của thầy Châu Văn Liêm).

Chú gõ cửa sau vào lúc nửa đêm. Hình như cha tôi vẫn thức để chờ chú. Vừa có tiếng gõ cửa, cha tôi đã choàng dậy. Nhà không thắp đèn. Tôi thấy hai cái bóng, cái bóng cao cao là cha tôi, cái bóng thấp hơn là chú.

- Nghe tin má mất mà em không về được.

- Thím khỏe không?

- Cũng như em, lặn lội đó đây. Bịnh tình của chị Hai có đỡ được chút nào không, anh Hai?

- Càng ngày càng trầm trọng, nan giải lắm.

- Cho em thắp ba cây nhang em lạy má. Mặt trận Việt Minh ra đời rồi. Cũng sắp rồi, anh Hai! Huỳnh Phú Sổ sắp về đây diễn thuyết. Trên phái em về luôn.

- Gặp Tư Khởi chưa?

- Tư Khởi qua sông đi bắn chim, đón em về.

Ba đốm lửa của ba cây nhang đưa lên đưa xuống trước bàn thờ ông nội, bà nội tôi...

Hai ngày sau, đúng như lời chú tôi nói, Huỳnh Phú Sổ về làng. Người trong đạo dựng một khán đài cao bằng cây sao giữa sân banh, sau nhà tôi.

Sáng sớm, chưa mở mắt dậy, tôi đã nghe tiếng người qua lại trên đường bên kia cây cầu khỉ nhà tôi, và tiếng vó ngựa chạy ngược chạy xuôi với tiếng kèn bí bo. Dưới bến, nào xuồng cui của người vượt sông, nào xuồng ba lá của xóm đồng, nào ghe có vẽ hai con mắt cá, đậu hai ba lớp.

Xe ngựa từ Long Xuyên qua, từ Chợ Mới xuống, từ Cái Tàu, Sa Đéc chạy lên, xe nào cũng xếp mui, đầy người. Xe đậu chật bến, đậu dài theo các con đường ra chợ. Người là người, không ai giống ai, nhưng lại giống nhau, đầu bới tóc và quần áo màu dà. Người đi chật đường, đi tràn lên cả lề đường, đi dọc theo các bãi cỏ. Chỉ có một màu, màu cánh con gián. Người với màu con gián nhấp nhô, cuồn cuộn đổ ra sân banh chờ chực đón Đức Phật Thầy. Cái thảo bạt nhà tôi tưởng có thể sập vì người. Bà con dòng họ tôi, những người theo đạo, ông bà cô chú, cả những đứa thuộc vai em, kẻ ngồi người đứng, áo quần cũng một màu cánh gián, người nói, người niệm Phật. Ông Tư tôi ngồi đó, giữa nhà, trên ghế, bệ vệ, đầu chải láng. Cái đầu tóc sau ót đã lớn bằng cái kèn bi bo của chiếc xe ngựa, bệ vệ oai phong với bộ ria mép vểnh ngược lên. Và hai con mắt. Hai con mắt mở tròn, như có một ngọn lửa đang cháy.

- Nghe tao dặn. Không phải chỗ nào, làng nào Thầy cũng tới, cũng không phải tín đồ nào cũng gặp được mặt Thầy, có người lên đến tận nơi mà cũng không được gặp mặt Thầy. Thầy đã xem xét, đã lựa chọn. Làng này có phước lớn. Nghe tao dặn, cho nên khi Thầy tới thì dù đứng đâu cũng phải quỳ xuống, lạy Thầy. Khi Thầy nói thì phải vểnh hai cái lỗ tai lên mà ghi nhớ lời của Thầy, nghe chưa?

- Dạ... ạ... dạ...

Cô Hai Thảo ngồi để một chân trên ghế, đưa tay xỉa cục thuốc để qua một bên, khiến cho cái mép môi trên như sưng lên, đế thêm:

- Ông Tư dặn bây nghe chưa?

- Dạ... nghe...

Ông Tư mặt vênh vênh nhìn lên tự đắc, còn cô Hai, cô nhìn xuống đàn con cháu, vẻ hài lòng lắm.

Theo lịnh của cha, chị em nhà tôi nhường nguyên cái thảo bạt cho bà con có đạo, chị em tôi rúc vào trong. Chỉ có tôi tò mò, thỉnh thoảng lại ló đầu ra cửa, khi tôi thấy ông tôi quay lại thì tôi thụt vào, nhìn ông qua kẽ vách. Tín đồ từ những nơi xa, nào chèo nào chống, đến làng tôi từ lúc gà mới gáy, mà đến xế chiều Đức Phật Thầy mới đến. Người ta vào sân banh, chiếm chỗ ngồi chờ, mở mo cơm ra ngồi ăn tại chỗ, dưới bãi cỏ.

Quả thật là tôi không thể biết Đức Phật Thầy đến làng tôi bằng đường nào, từ Sa Đéc lên, từ Long Xuyên qua, từ Chợ Mới xuống hay là từ trên trời rơi xuống. Tôi chỉ biết, bà con tôi bỗng từ trên thảo bạt tuôn xuống cầu thang, chạy ra sau hè nhà tôi, và những người ở chợ ùn ùn kéo vào sân banh. Tôi cũng phóng xuống cửa sau, chạy ra hàng chuối sau hè nhà. Sân banh đã đầy người, không phải chỉ đứng, chỉ ngồi bọc vòng theo sân như khi coi đá banh mà đứng chật cả bãi cỏ, từ dưới chân khán đài tràn ra vô đến tận lùm cây bụi chuối sau hè của cả xóm nhà dọc theo sân banh.

Người chật như nêm, tôi không thể nào len vô nổi. Tôi nhìn lên khán đài từ xa, cách hơn hai trăm thước. Tôi thấy người mà tín đồ Phật giáo Hòa Hảo gọi là Đức Phật Thầy, ông Huỳnh Phú Sổ, bước lên khán đài. Ông mặc quần áo trắng, áo vạt hồ màu cánh gián, tóc chấm ngang vai chẳng khác gì một cô gái. Khi ông bước lên từng bậc thang lên khán đài, người trong sân banh bỗng dậy lên, mỗi người mỗi giọng, không thể nghe rõ được người ta nói gì, rào lên như một cơn mưa.

Khi ông xòe một bàn tay đưa lên ngực thì bỗng lặng như tờ. Khi ông cúi chào thì tất cả những con người lô nhô với quần áo màu cánh gián ấy đều quỳ xuống, mạnh ai nấy lạy. Và tiếng niệm Phật như một cơn mưa đổ xuống mái nhà.

Trong số những người ở chợ đứng lấp ló sau hè nhà tôi, có một người bỗng kêu to:

- Coi kìa! Đĩ nó cũng lạy thầy! - Người ấy đưa tay chỉ mấy cô gái mặc áo trắng đang quỳ ở xa xa cái vòng người áo quần màu cánh gián.

- Hỡi thiện nam, tín nữ! - Tiếng của ông vọng tới và tôi chỉ nghe được có như vậy. Ông nói gì nữa, tôi và người ở quanh tôi không còn nghe gì được vì những tiếng lào xào của hàng ngàn tín đồ đang vây quanh ông.

Không lâu lắm, ông xòe một tay đưa lên ngực, cúi đầu chào bốn phương. Cái khối người quần áo màu cánh gián lại rào lên, chuyển động như một dòng nước xoáy.

Tôi liền chạy theo những người đứng bên tôi túa trở ra. Họ lại tràn lên cái thảo bạt nhà tôi, nhìn ra đường. Một lát sau, ông Huỳnh Phú Sổ ngồi trên một chiếc xe ngựa, một con ngựa bạch, không biết là xe của ai, xe sau là chiếc xe chở đầy đoàn tùy tùng của ông, chạy trên con đường qua cửa nhà tôi. Chiếc xe của ông như chạy giữa dòng người của tín đồ... Có một tốp người chạy trước, không phải ngồi trên xe mà chạy bằng hai chân, người chạy dọc theo hai bên lề, và sau là mật đoàn người cắm đâu cắm cổ chạy theo xe của ông.

Người người từ trong sân banh lại đổ ra bến sông, ra bến xe. Không mấy chốc mà sân chợ và các con đường ra chợ vắng hoe.

Lúc vắng vẻ này, người ta mới thấy lại con sông. Con sông mang theo những dề lục bình trôi qua, êm đềm.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:08:11 pm
*

*          *

 
Buổi sáng, cái thảo bạt nhà tôi chật người mộ đạo. Chiều lại, cái thảo bạt nhà tôi lại chật người chống đạo. Trong số ấy có cha tôi, chú tôi, chú Ba Giáo, chú Tư Khởi và một người ở xa mới về... Người ấy không phải là người trong dòng họ của tôi, nhưng gốc gác là người làng, mở tiệm chụp hình ở Tân Châu đã lâu. Vốn là bạn cũ của cha tôi và cũng lớn hơn cha tôi vài tuổi, nên tôi gọi bằng bác, bác Tám Bỉnh. Người bác thâm thấp, lại mập mạp, người bác cứ tròn tròn. Mặt tròn, mũi tròn, vai tròn, tay cũng tròn. Mắt lúc nào cũng mang kiếng, hai cái mặt kiếng (tất nhiên) cũng tròn. Tôi không lạ gì bác. Vì mỗi năm bác và cả gia đình đều về thăm mả ông bà, và lần nào cũng đến chơi với cha tôi.

Tôi vừa quấn thuốc, vừa nghe chuyện.

Tôi thấy bác hay đưa mắt nhìn xuống cái bàn quấn thuốc của tôi. Bác nói:

- Tôi từ Tân Châu về đây là có ý để nghe ông Huỳnh Phú Sổ nói gì, nhưng không làm sao xáp lại gần, tôi chỉ nghe có câu đầu “Hỡi thiện nam tín nữ”, với câu cuối cùng “Chào thiện nam tín nữ”, còn khúc giữa, cái gì, không nghe được.

- Tôi không nghe sót một lời - chú Tư Khỏi nói - tôi đứng ngay dưới chân khán đài chớ đâu. Ông ta kêu tín đồ đừng bỏ ruộng hoang, phải lo làm ruộng; tôi nói thầm trong bụng: muốn thành Phật cũng phải ăn, không thì thành Phật đói.

- Theo ý của anh Ba, anh thấy sao? - Chú Ba Giáo hỏi chú Ba tôi.

Chú tôi ngồi trên ghế sát vách, cũng ít nói như mọi khi. Tất cả đều quay nhìn chú, chờ chú nói:

- Theo tôi, chuyến đi này của Thầy Tư là kêu gọi tín đồ làm ruộng, chẳng qua là một cái cớ để che đậy cái ý đồ bên trong của ông ta thôi. Ông ta đi để tổ chức lại lực lượng.

- Đúng! Thằng Ba mầy nói đúng. - Bác Tám Bỉnh nói. - Tao cũng nghĩ vậy. Nhiều đêm tao tức, tụi mình chừng nầy tuổi mà thua một chàng trai trẻ. Mới có mấy năm mà trong tay có tới một triệu tín đồ, từ Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ lan dần ra khắp lục tỉnh. Nói trắng ra là chàng muốn làm vua. Tuổi nhỏ nhưng mưu lớn.

Tôi để ý thấy bác Tám Bỉnh luôn gọi Thầy Tư với giọng vừa coi thường vừa ghen, vừa tức. Bác nói tiếp:

- Có nhiều cái “tích tắc” lạ lắm, không biết ai dạy cho chàng hay là tự chàng nghĩ ra, chẳng biết. Ví dụ như vầy: lúc ở Sài Gòn, có một tín đồ kề cận, gốc là tên tướng cướp của Bình Xuyên, ngựa theo đường cũ, anh ta lại ăn cướp. Thầy gọi anh ta về, nói với tín đồ xung quanh là sẽ nghiêm trị. Thầy bảo sẽ giam tên tín đồ tội lỗi đó. Nhưng nhà giam đâu mà giam? Còng đâu mà còng? Thầy giam như vầy: Thầy lấy một sợi chỉ may quần áo của mình đây nè, rồi tự tay thắt thành một cái vòng, vòng vào cổ chân của tội nhân, còn đầu kia thì buộc vô cái cột giường. Chỉ có vậy mà tín đồ họ đồn một tên cướp võ nghệ đầy mình mà không bứt nổi sợi chỉ của Thầy. Họ còn thêm thắt, tên tướng cướp càng giãy giụa thì sợi chỉ càng siết chặt vào chân. Lại thêm một chuyện khác nữa. Sài Gòn bây giờ, người ta bỏ xe lôi rồi, lác đác mới có một vài chiếc. Vậy mà Thầy lục đâu ra một chiếc xe lôi. Đi đâu cũng đi xe lôi. Thằng kéo xe lôi của Thầy là một tín đồ vốn là một tay võ sĩ. Chỉ cái chuyện đi đường của Thầy cũng làm cho người ta để ý. Đúng là một tay mưu sĩ.

- Mưu sĩ như anh mà anh cũng sợ thua sao anh Tám? - Cha tôi hỏi.

Mọi người đều cười, bác đỏ mặt rồi cũng cười theo.

- Tao phải học Thầy. “Tích tắc. Tích tắc”. Làm gì cũng phải tích tắc.

Rồi mỗi người mỗi câu bàn về chuyến đi của Thầy Tư Huỳnh Phú Sổ. Chú Ba tôi nói câu cuối cùng, như câu kết luận buổi chuyện trò.

- Thầy là người lập đạo, nhưng bây giờ đã thành con cờ của các phe phái chính trị. Con người một khi đã trở thành một con cờ thì chỉ còn có việc phải đi dưới ngón tay của người khác, ông ta sẽ đi dưới ngón tay của Nhật, của Pháp hay là của ta? Không phải chỉ riêng ông ta, mà sau lưng ông ta, có cả một triệu người sẵn sàng tử vì đạo.

Chú Ba Giáo ngồi gật gù, nghĩ ngợi. Chú Tư Khởi ngồi lắc đầu than “thời thế thật nhiễu nhương”. Cha tôi ngồi lặng lẽ. Còn bác Tám Bỉnh thì như sốt ruột, bác đứng dậy nói như nói với mình:

- Tích tắc! Tích tắc!

Khi mọi người xuống cầu thang ra về, bác Tám Bỉnh còn ngồi lại bên cái bàn quấn thuốc của tôi, bác cầm cây thuốc ba điếu đưa lên vừa bóp vừa xem.

- Thằng nhỏ quấn khéo quá. Một ngày quấn được bao nhiêu điếu?

- Dạ hơn hai trăm điếu.

- Vậy là, một ngày cháu quấn hơn mười bao.

Rồi bác lẩm nhẩm gì đó, tôi không rõ. Bác quay qua với cha tôi:

- Thời buổi kinh tế nầy, tiệm chụp hình của tao cũng như cái tiệm thợ bạc của mầy, ế lắm. Tao mới xoay qua làm thuốc điếu, vừa cho mấy đứa nhỏ đi bán vừa đếm cho người ta. Thuốc tao chế không thua gì Cotab. Thuốc của người ta chế, hễ thơm thì đốt không cháy, hễ cháy thì không thơm, của tao vừa thơm, vừa cháy, bán chạy lắm.

- Anh chế bằng gì mà được vậy?

- Cũng không qua cái tích tắc. Hay là mầy cho thằng con mầy lên tao, tao trả công như người khác, cơm thì tao nuôi, sau này tao truyền nghề cho, về đây mà làm một hãng thuốc, không thì tao cho nó một phần hùn.

Bác quay qua tôi:

- Vậy được không con? Lên ở với bác cho biết chợ Tân Châu. Chợ Tân Châu là chợ quận, không như cái chợ làng này đâu, lớn lắm.

Tôi không dám trả lời, chỉ nhìn cha tôi. Bác lại quay sang cha tôi:

- Hai, mầy nhắm coi, nếu được, cho mai xuống tàu, đi luôn với tao.

- Anh để tôi tính lại.

- Ừ, tính lại đi.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:09:31 pm
*

*          *

 
Nếu ông Huỳnh Phú Sổ không về làng tôi diễn thuyết thì tôi không đến nỗi phải xa nhà giữa lúc má tôi đang đau ốm.

Như chú Ba tôi nói, sau khi ông lên khán đài diễn thuyết kêu gọi tín đồ không nên bỏ ruộng hoang, thì sau ngày ông đi chẳng thấy ra ruộng, đất vẫn cứ bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, chuột đồng mỗi ngày một nhiều, cắn phá cả ruộng không để đất hoang.

Đêm đêm, những tín đồ họp lại từng nhóm, từng nhóm, họ lấy sân đình, sân phơi lúa làm nơi tập võ. Trẻ già, trai gái, ai là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đều ra sân tập. Người nào cũng hăm hở. Đầu xóm, giữa xóm, cuối xóm, chỗ nào cũng sân võ, họ tập huỳnh huỵch từ đầu hôm cho tới khuya. Họ tập dưới trăng, không có trăng thì tập dưới ánh đuốc, thật rầm rộ.

Trong lúc đó thì ở chợ, Thanh niên tiền phong xếp thành hàng, tập đi một hai, cũng rầm rộ trên các mặt đường. Và lại có một số người khác, không tập võ, không tập đi một hai, cũng nhóm thành từng nhóm, cũng rậm rịch nhưng âm thầm.

Ông Tư lại nhắn tôi xuống để vừa học võ (như người ta) vừa biên chép giấy tờ giúp ông. Nghe đâu ông đã làm tới chức phó ban trị sự của đạo.

Cha tôi tìm cách từ chối, còn tôi thì trốn. Trốn đâu, cũng chỉ trốn lẩn quẩn trong nhà, và tôi bị ông bắt tại chỗ, lúc tôi đang ngồi quấn thuốc. Ông lên nhà tôi vào buổi trưa, không ai để ý. Người nào muốn vào nhà tôi cũng đều đi từ trên đường và phải qua cây cầu khỉ. Mấy lần ông hoặc cô Hai Thảo tới, vừa bước chân lên cây cầu thì trong nhà tôi đã có người thấy rồi, vậy là tôi ra cửa sau, ra hè, vòng qua nhà khác, tuốt luôn ra chợ. Lần này, ông đi từ sau hè nhà, từ cửa sau ra cửa trước.

- Ông Tư!

Vừa nghe chị tôi kêu thì ông đã đứng trước mặt tôi rồi. Ông nhìn tôi, hai con mắt lừ lừ, cái ria mép vểnh ngược lên, hai cái đuôi ria nhọn liễu.

- Nói với thằng cha mầy, mai xuống đội lúa về ăn. Còn con, mấy lần ông cho cô Hai tìm con, con đi đâu?

- Dạ, con đi giao thuốc cho chủ, ở ngoài chợ.

- Nói thằng cha mầy, - ông Tư nói, - từ nay về sau con không vấn thuốc mướn nữa, nghe chưa! Xuống ông, ông nuôi. Chiều nay phải xuống, coi người ta học võ.

Nếu không vì mấy giạ lúa chắc cha tôi không cho tôi đi và cũng không muốn đi xem người ta đánh võ. Đứa con nít nào mà không thích xem đánh võ với học võ? Nhưng học võ rồi phải để tóc theo đạo thì tôi không muốn một chút nào.

- Con ráng đi một lần cho ông Tư khỏi giận, con! - Má tôi bảo tôi. - Con mà không đi thì mấy em con nó đói.

Cơm chiều xong, tôi leo lên chiếc xe ngựa xuống nhà ông. Cái sân của nhà ông, chỗ mà bà cố tôi vừa thơ thẩn vừa lần hột chuỗi, đã trở thành sân dạy võ. Tôi gặp nhiều người, nhiều chị, nhiều bạn xóm vườn mà mỗi ngày nghỉ hè tôi được họ rủ đi chơi, đá banh lá chuối, đào hang bắt dế, hớt loăng quăng nuôi cá lia thia, đi tắm sông, mò ốc gạo, trèo cây bẻ trái. Những người chị gái mà tên mới nghe một lần cũng đủ nhớ suốt đời. Chị Thơm, chị Tho, với chị Thảnh, chị Thơi. Chị Thơm, chị Tho, chị nào mà mái tóc không thơm mùi bông bưởi. Chị Thảnh, chị Thơi, hai chị vác hai cái lồng ra vườn hái mận, hái ổi cho tôi, hai chị đi dài dài theo bò con mương vườn, trong bóng mát, chị nào cũng đủng đỉnh thảnh thơi lắm.

- Thằng Năm nó xuống kia! Vô đây em.

Chị nào gặp tôi cũng mừng. Có chú Nguyễn Đa Điền của tôi ở đây nữa. Đã lâu, tù ngày theo đạo, chú về ở nhà ông Tư tôi nhiều hơn. Chú vốn ít nói, trông lù khù, nhưng khi chú bước ra sân võ thì chú như thành một người khác. Khi tất cả các ngọn đuốc dựng lên rừng rực, chú bước ra, không một chút rụt rè, vai ngang, ngực nở, từng bước chú bước giữa vòng người, chú cúi chào rồi chú bái tổ. Bàn tay, chú uốn, chú lượn, cánh tay dịu dàng như hai con rắn đang vờn lên ánh đuốc, rồi chú quỳ, chú đứng, chú đá, vừa nhanh, vừa gọn, vừa mạnh, đá trước, đá sau, ạch đụi, liền tay liền chân và cái mặt của chú như giận ai, thù ai, trông dữ quá.

Hết con trai rồi đến con gái ra sân võ. Hai chị em chị Thơm, chị Tho tập đánh đao. Lại một cặp hai chị em chị Thảnh, chị Thơi tập đánh kiếm. Rồi bốn người chia thành hai cặp, đao kiếm đánh nhau. Bên chém, bên đỡ, rồi bên đâm, bên gạt, đao kiếm đánh vào nhau rổn rảng, vờn trước mặt nhau loang loáng.

Đánh võ xong, họ xếp thành hàng, rồi vừa đi vừa hát. Họ hát bài “Hòn vọng phu”.

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường...


Tôi cũng ra đường trở về. Về đến gần chợ thì tôi gặp từng tốp Thanh niên tiền phong xếp hàng đi “một hai”, cũng rầm rập trên đường. Tôi biết đạo Hòa Hảo với Thanh niên tiền phong không thích nhau. Nếu đánh nhau thì một bên đánh bằng võ, còn một bên thì đánh bằng đi “một hai”. Bên biết võ mạnh hơn nhưng tiếng hát của họ sao mà ảo não, nghe buồn đến đứt ruột, đứt gan. Còn bên đi “một hai” là dân chợ, họ yếu hơn nhưng tiếng hát của họ lại mạnh hơn: “Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi!” họ hát nghe như sóng dậy.

Tôi về đến nhà thì chị em tôi không còn ai thức. Chỉ còn cha tôi ngồi bên ngọn đèn thắp bằng mỡ heo, và má tôi đang ho.

- Dưới nhà ông Tư người ta đang làm gì?

- Dạ, người ta đánh võ.

- Võ?

- Dạ! Ông Tư bảo nói với cha má xuống lấy lúa.

- Cha không mượn lúa nhà ông Tư nữa.

- Cha mượn đâu?

- Chuyện đó để cha lo. Nếu chiều cha có ở nhà, cha không để con đi. Nãy giờ cha bàn với má con rồi. Cha cho con lên Tân Châu với bác Tám cho khuất mắt ông Tư con. Con ở nhà mà cha không cho xuống với ổng, mích lòng lắm. Cha dặn con một điều. Bác Tám Bỉnh là một con người mưu sĩ. Hồi bác lên Tần Châu lập nghiệp, Tân Châu đã có sẵn một tiệm chụp hình rồi, lớn lắm. Tiệm của bác mới mở, không bằng người ta. Để hại người ta, để làm cho người ta sạt nghiệp, bác mới mướn một thằng du côn, không phải mướn chém ông chủ kia, mà mướn người ta chém mình. Vậy là sáng hôm đó, bác ra ngồi uống cà phê ngoài tiệm nước, lúc đông người. Theo kế của bác xếp đặt trước, tên du côn đó bước vô, vừa giơ con dao ra kêu đỡ, thì bác cầm cái ghế đưa lên, đánh rơi luôn con dao của tên du côn, rồi bác nhào tới chụp con dao, hô hoán lên. Tên du côn bị bắt. Vô tù, tên du côn khai là ông chủ tiệm chụp hình kia mướn nó chém bác. Bác vừa trả công cho tên du côn vừa lo tiền cho tên du côn ra tù. Còn ông chủ kia, biết ất giáp gì đâu, phải chạy, phải lo, cuối cùng thì bị sạt nghiệp. Cho nên, lên ở với bác, con chỉ có một việc quấn thuốc mướn ăn công thôi, cái gì bác nói thì phải để ngoài tai. Bác bảo làm cái gì khác thì phải nhắn về hỏi cha, cha cho mới được làm. Cha dặn hờ vậy, chớ với cha, với gia đình mình, bác vẫn còn nể nang. Cha đã lật mặt bác một lần, chắc là bác còn nhớ đời. Có một lần gặp cha, bác hỏi: “Hai! Tao gởi cho mầy mấy lá thư, mầy được chưa, Hai?”. Cha biết, bác chỉ chờ cha trả lời là chưa thì tức khắc bác sẽ chưởi mấy người đi thơ, tại họ mà thơ bị lạc. Cha biết là bác không có viết, bác nói để lấy lòng cho vui vậy thôi, cha mới trả lời: “Anh viết cái nào tôi được cái nấy”. Biết bị lật tẩy, ngượng quá, bác chỉ biết cười, vừa cười vừa xin lỗi: “Nói xạo với mầy chơi vậy thôi, chớ tao với mầy thơ từ làm gì?”. Với ai thì cha không biết, với cha bác hãy còn nể, một là một, hai là hai. Cha dặn hờ con vậy, yên tâm đi.

- Dạ thưa cha, chừng nào thì con đi?

- Có tàu thì đi, càng sớm càng tốt. Sao con khóc?

- Dạ...

Ngọn đèn cháy hết tim, tắt ngấm. Cha tôi vẫn ngồi, còn tôi thì đứng, lặng trang. Lúc nãy tôi chưa khóc mà cha tôi lại hỏi sao tôi khóc. Bây giờ thì tôi khóc rồi. Rất may, cha tôi không nhìn thấy được nước mắt của tôi.

Tôi không đi tàu Sài Gòn - Nam Vang, vì chuyến ấy còn lâu. Với lại cha tôi sợ khi tàu cập bến Tân Châu, tôi có thể ngủ quên, hoặc vì ngớ ngẩn chưa biết, tôi có thể đi thẳng lên xứ lạ. Tôi phải đi trên chiếc ca nô Cao Lãnh - Tân Châu, hễ tàu cập lại bến chợ thì đó là Tân Châu rồi.

Trước đây, những lần tôi đi học, người đưa tôi ra bến xe là má hoặc chị và các em tôi. Lúc má tôi chưa bịnh, thỉnh thoảng má tôi lên thăm tôi, sau này người thăm tôi là chú Ba tôi, chú đi sửa bàn, sửa ghế đâu đó, tạt qua. Vì công ăn việc làm, cha tôi không có thời giờ đưa đón. Và tính của cha tôi vốn không thích cảnh chia ly. Nhưng lần này thì cha tôi đưa tôi ra tận bến lúc chợ vừa mới nhóm, chỉ nghe tiếng lao xao mà không thấy rõ mặt người. Ca nô chạy sớm để chiều kịp đến chợ Tân Châu. Chiếc ca nô nhỏ và dài như con cá liềm kiềm, cũng chạy bằng máy nhưng không có còi để xúp lê một, xúp lê hai mà thổi bằng tù và. Tù và tiếng của nó nghe “bun bun” buồn lắm.

Cha tôi dặn tôi lần chót: “Đi làm công thì chỉ biết làm công, bác bảo làm điều gì khác thì phải hỏi cha. Chuyện nhà yên ổn, cha sẽ nhắn con về. Đi đó đi đây cho biết. Thôi! Tù và thổi hiệp hai rồi, con xuống ca nô đi”.

Chiếc ca nô tách bến, tôi nhìn lại còn thấy bóng của cha tôi.

Chiếc ca nô chạy ngược lên dòng sông Cửu Long, cũng chạy cặp theo mé trong sương mờ, không dám chạy ra giữa dòng. Chiếc ca nô xình xịch rẽ sóng, qua từng cái bến nước, thỉnh thoảng lại rúc tù và gọi khách. Khi chiếc ca nô cập lại Doi Lửa cho khách xuống, tôi nhớ đến bà nội tôi, có lần bà cắt nghĩa cho tôi cái tên Doi Lửa. “Cái doi đó, hồi xưa, đêm đêm ông bà mình hay đốt lửa để canh phòng quân giặc”. Nếu bà tôi còn sống, không biết bà có theo đạo Hòa Hảo không? Chắc không! Và bà lại là chị của ông Tư, bà có đủ sức giữ tôi trong vòng tay, bà sẽ không cho tôi đi một mình trên chiếc ca nô giữa những người xa lạ này.

Mãi đến trưa, ca nô mới đến Vàm Nao. Người trong ca nô lạnh vì gió và chiếc ca nô nhồi lên hụp xuống vì sóng. Tôi chưa bao giờ thấy biển, Vàm Nao với tôi đã là biển rồi. Tôi cảm thấy ngợp vì cảnh mênh mông trắng xóa sóng bạc đầu và tiếng gầm thét của con sông. Rặng cây bên kia bờ chỉ là một vệt xanh mờ đường chân trời. Những chiếc ghe, chiếc xuồng ở phía bên kia nhỏ như những chiếc lá tre bập bềnh trên sóng. Bà tôi có kể, Vàm Nao ngày xưa là vùng nước cạn có nhiều cá mập. Ngày xưa, những năm chiến tranh, có những tàn quân tháo chạy qua đây, đã làm mồi cho cá dữ.

Khi chiếc ca nô quay mũi băng qua bên kia bờ, thì chuyện của xung quanh bỗng im bặt, chỉ còn tiếng máy, tiếng sóng xô vào và đâu đó râm ran tiếng niệm Phật. Một ông già ngồi bên tôi, nghĩ gì, nói với người bạn đường của ông:

- Thời buổi bây giờ, mình như chiếc xuồng giữa dòng nước xoáy, không vững tay lái, đời sẽ chìm mất.

- Mình muốn yên thân, người ta cũng không để mình yên, phải theo một bên mà không biết bên nào.

Nghe họ nói, tôi nghĩ, cha tôi cho tôi đi chuyến này như thể kéo tôi ra khỏi vùng nước xoáy.

Chiếc ca nô dài nhỏ vẫn nổ máy, đâm thẳng ngay đâu sóng, vượt Vàm Nao.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:12:49 pm
*

*          *

 
Chợ Tân Châu cũng như chợ làng tôi, cũng bên bờ sông Tiền, cũng có con đường qua chợ tỉnh. Cũng phố lầu, cũng có bến xe ngựa, xe hơi và bến tàu nhưng lớn hơn chợ tôi nhờ nhiều phố, dinh quận và một cái nhà cao của ông Bang người Tàu. Nhưng tôi không thể vui vì xa nhà, vì đã trở thành người làm công cho bác Tám Bỉnh. Thằng Cường, con của bác, cùng tuổi với tôi. Mỗi năm theo ba má về thăm làng, đến chơi nhà tôi, tôi với nó là bạn, tôi với nó ăn cùng mâm, và tôi thường rủ nó đi tắm sông, dẫn nó xuống vườn trèo cây, hái trái... Nó với tôi vẫn vậy, nhưng bây giò nó là con chủ, tôi là người làm công. Nó vẫn cắp sách đến trường. Đến bữa ăn, nó ăn với ba má, còn tôi, tôi ngồi ăn với những đứa quấn thuốc... Người quấn thuốc trong nhà bác chỉ lớn hơn tôi một vài tuổi, là những đứa cháu, cháu gần bên nội, ngoại của bác. Đúng như bác nói, cái tiệm chụp hình của bác vẫn còn để bảng hiệu, vẫn còn hình mẫu của những chàng trai đầu chải láng và những cô gái đẹp treo đầu tường, nhưng đã dẹp tiệm rồi, không thấy ai đến chụp. Cái chỗ chụp hình ở lầu trên thành chỗ quấn thuốc, năm cái bàn quấn bằng gỗ cho năm đứa nhỏ.

Còn chỗ pha thuốc, chế thuốc là chỗ khác, trong buồng, không đứa nào được tới. Tôi quấn được nhiều hơn mấy đứa khác, không phải vì tôi giỏi, mà vì tôi ngồi bên bàn quấn luôn cả buổi trưa. Mấy đứa kia, hoặc đi ngủ hoặc đi chơi. Tôi cố làm để dành tiền gởi cho má, cho em.

Một hôm, bác Tám Bỉnh gọi tôi tới cái bàn giấy của bác đặt bên cửa sổ, bác đưa cho tôi một lá thư đã viết sẵn.

- Ở Nam Vang có một người đang thiếu nợ bác. Cháu lên Nam Vang, đưa cái thư này, rồi mang tiền về. Những ngày cháu đi vắng, bác vẫn trả tiền công cho cháu; đòi được tiền, bác sẽ trả thêm. Trưa mai có tàu cập bến.

- Dạ, để cháu hỏi lại cha cháu.

- Bác như cha cháu rồi, còn hỏi cha cháu làm gì nữa.

- Dạ, cha cháu có dặn, không được đi đâu, muốn làm gì khác phải hỏi.

- Thằng cha mầy nhát quá, bị vậy mà nghèo. Lấy được tiền, bác sẽ mở cái hãng thuốc lớn hơn, bác sẽ cho cháu một phần hùn. Được không?

- Dạ, Nam Vang là xứ khác, lạ, cháu không đi.

- Xứ khác nhưng cũng có người mình. Cha cháu hồi trước cũng lên làm thợ ở trển, bây giờ cháu cũng lên ngay ở chỗ đó, tiệm vàng “Trái tim đỏ”. Thợ thầy ở đó, ai mà không biết cha cháu. Cháu chỉ nói cháu là con của Hai Thành thợ bạc, thì người ta sẽ coi cháu như con, như cháu. Được chưa?

- Dạ, để cháu hỏi lại cha cháu.

- Đã bước ra đời kiếm miếng ăn rồi thì phải biết tự lập con à. Chuyện gì cũng nhắn về hỏi cha hỏi mẹ thì còn gì cơ hội nữa. Sao?

- Dạ, khi nào cha cháu cho rồi, cháu đi.

- Thôi được, cháu không dám đi thì để bác sai thằng Cường đi.

Tôi biết bác giận nhưng tôi không thể cãi lại lời dặn của cha tôi.

Bác nói vậy chớ bác nào có sai thằng Cường.

May cho tôi biết bao, nếu đi chuyến đó thì tôi sẽ lưu lạc tới tận đâu, ở xứ người. Vì cái chuyến tàu Nam Vang - Sài Gòn ngày hôm sau là chuyến cuối cùng. Giữa hai nước không được quyền qua lại thông thương nữa. Có biết bao người bị kẹt ở trên đó, bơ vơ không nhà, không cửa.

Tôi tự biết thân, nên ít khi cho bác gặp mặt, dù ở cùng một nhà. Mỗi lần thấy bác là tôi cúi gằm mặt xuống cái bàn quấn thuốc.

Nhà bác còn một chuyện lạ nữa. Tôi tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa. Bác cũng đang lập đạo. Đêm nào cũng cầu cơ. Mấy đứa nhỏ khác, đêm nó về nhà, có lẽ vì tôi ở lại nhà, nên đêm nào tôi với thằng Cường cũng phải ngồi lạy. Cái bàn cầu cơ hình chữ nhật, ngang bốn tấc, dài năm tấc. Miếng ván bàn cầu cơ theo bác nói là miếng ván hòm của con bác, đã chết từ lâu, phải đào mả lấy lên. Con gái đầu lòng của bác chết lúc còn trinh, hồn rất thiêng, chị tên Huyền, khi hiện về tự xưng là Huệ Huyền Cô đã đắc đạo, hiện về bảo bác nên lập đạo. Trên miếng ván của bàn cầu cơ là miếng giấy, một bên là chữ không, một bên là chữ có, dưới là vần a, b, c đủ hai mươi bốn chữ cái, chữ in, mực tím, chữ to bằng con ốc bươu. Trên nữa là một miếng kiếng đặt ở giữa. Mỗi khi cầu cơ, vái lạy xong, thì hai ngón tay của hai người đặt lên trái tim. Khi hồn về, trái tim sẽ chạy, sẽ đưa cái mũi nhọn của trái tim chỉ từng chữ; đủ một tiếng nói, trái tim lại lùi xuống, rồi lại chạy tới từng chữ cái khác. Cứ theo đó ráp lại thì đó là lời của hồn về. Hai ngón tay của hai người đặt lên trái tim, một là ngón tay của bác, hai là ngón tay của một người cùng lứa tuổi với bác, mặt thon, đầu lúc nào cũng chải mướt, làm nghề buôn bán vàng, thằng Cường gọi bằng chú Chín. Bác cũng có một số tín đồ, dân buôn bán ở chợ. Những tín đồ của bác đến cầu cơ đều xin được gặp người thân đã mất. Người nào cũng đem những thức ăn mà người chết lúc còn sống hay ăn, thích ăn.

Bác Tám với chú Chín (đã tắm rửa xong) ngồi xếp bằng trước bàn cầu cơ, hai người đặt ngón tay trỏ lên trái tim; người nào xin cơ thì thắp nhang, niệm Phật, rồi tất cả, người nào có mặt cũng quỳ lạy. Tôi chẳng cầu ai, cũng phải lạy. Lạy xong, ngồi im chờ.

Một lát, cái trái tim bắt đầu nhúc nhích, vậy là hồn đã về. Rồi trái tim quay tròn như hồn đang vui mừng đến cuống quýt được trở về. Sau lúc mừng rỡ, mũi trái tim bắt đầu chỉ từng chữ cái, xưng tên mình là ai, cả họ lẫn tên. Người xin cơ nghe được tên của người thân xúc động đến ứa nước mắt, có người khóc òa lên rồi vừa nức nở, vừa hỏi. Mũi trái tim lại chạy đến từng chữ cái, trả lời. Cuối cùng, trước khi thả hồn ra đi thì thân chủ đưa ra nào là trái cây, nào là hủ tiếu, nào nước đá hoặc cà phê. Hồn ăn rất lạ, mũi trái tim chỉ vào chỗ thức ăn, ăn xong một món lại rút ra, rôi chĩa lại món khác.

Những cái món ăn đó, sau cùng, tôi với thằng Cường chia nhau hưởng, no nê.

Cũng có đêm, sau khi xin gặp hồn người chết trở về, bác Tám Bỉnh lại cầu được gặp Huệ Huyền Cô để hỏi quốc sự. Huệ Huyền Cô về cho biết một vài tin tức như tin tức trong nhựt trình.

Tôi hỏi thằng Cường:

- Chị mầy hiện về thiệt hả Cường?

- Chừng nào tao chết, tao mới biết.

- Mầy không tin đạo của ba mầy sao?

- Tao theo má tao.

- Bác gái không tin sao?

- Mầy không thấy sao, đêm nào cầu cơ, má tao đâu có ra.

- Sao bác gái không tin?

- Nếu chị tao hiện về, thì chị tao phải bênh má tao chớ. Ba tao có vợ nhỏ, mầy nghe chưa. Một cô đào nhỏ lắm, ở xóm trong, bữa nào tao dẫn mầy đi coi. Thôi mầy đừng hỏi nữa. Tối nào tao với mầy cũng có hủ tiếu, bánh bao với nước đá, mầy không chịu sao?

Có nói chuyện với thằng Cường, tôi mới biết nó có nhiều ý nghĩ lạ và nó khôn hơn tôi nhiều.

- Đạo của ba mày, ai theo?

- Người nào không biết thì theo.

- Biết thì thôi?

- Chớ sao. Như má tao với tao, theo làm gì! Đạo nào rồi cũng chết, tu rồi cũng chết, tu làm mẹ gì cho mắc công.

- Vậy mầy thích theo đạo nào?

Con của một người đang lập đạo mà nói vậy, tôi nghe lạ quá.

- Bác Tám bằng Thầy Tư Huỳnh Phú Sổ không?

- Ba tao chịu thua. Tao nghe ba tao với chú Chín cầu cơ nói với nhau là đạo của Thầy Tư là đạo hạng nhứt thì đạo của mình phải đứng hạng nhì. Thầy Tư có một triệu tín đồ, ít nhất mình cũng phải có vài vạn. Cần thì sau này mình nhập vô, mình làm phó.

- Tín đồ bác tới mấy vạn lận?

- Chưa, mới loe loe có mấy người ở chợ thôi.

- Chừng nào mới lên tới mấy vạn?

- Ai biết được. Thôi tao về, tao ngủ.

Tôi bắt đầu cảm thấy biết được hai tiếng “tích tắc” mà bác đã nói ở nhà tôi và cũng bắt đầu hiểu câu nói của cha tôi đối với bác: “người mưu sĩ”...

Từ buổi nói chuyện với thằng Cường, tôi có thêm một nỗi lo. Nếu bác bảo tôi vào đạo của bác, tôi sẽ nói sao? Được rồi, tôi sẽ hỏi lại cha tôi. Cũng may, đêm nào tôi với thằng Cường cũng được hưởng phần cúng, nhưng chưa bao giờ bác bảo tôi vào đạo. Dù vậy, tôi vẫn cứ lo và cứ muốn về.

Một hôm bác gọi tôi tới, cũng đứng bên bàn giấy của bác. Bác tính, tôi đã ở được một tháng hai mươi ngày mỗi ngày quấn được bao nhiêu điếu, bác đều ghi rõ; tính xong, bác đưa cho tôi năm mươi đồng chẵn.

- Tiền của cháu đây. Cha cháu nhắn cháu về gấp.

- Dạ.

Được trở về và trong tay có được một số tiền mà từ nhỏ tới lớn tôi chưa bao giờ được cầm số tiền lớn như vậy. Tiền công đầu tiên của tôi.

Trước khi xuống tàu, tôi mua ngay một ốp trầu. Trầu Tân Châu ngon nổi tiếng. Dù không biết ăn trầu, thấy trầu Tân Châu cũng biết là trầu ngon. Lá trầu lớn bằng bàn tay xòe, thấy rõ những đường gân, đặc biệt là cái màu của trầu, vàng như nắng.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:19:56 pm
*

*          *


Tàu cập bến chợ lúc trời vừa chiều. Trong nhà không có ai ra đón. Một tay xách cái rương giấy đựng quần áo, tay cầm ốp trầu vàng, tôi về nhà. Qua khỏi dãy phố cuối cùng sau chợ, tôi đã thấy được nhà. Nhà tôi sao đông người quá? Khói hương nghi ngút và dội lên tiếng kèn, tiếng trống nghe thảm thiết.

Tôi thấy ông Chín Hết của tôi, từ trong sân chạy qua cây cầu khỉ, bước lên đường, chạy ra đón tôi:

- Tội nghiệp con, má con đã liệm rồi, tối qua. Còn để đợi con đêm nay nữa.

Má tôi mất mà tôi không được thấy mặt.

Người anh thứ ba của tôi lưu lạc ở Sài Gòn mấy năm, đã về kịp lúc má tôi đang hấp hối. Đầu chít khăn tang, theo ông Chín, anh chạy qua cầu đón tôi. Đám tang má tôi, có người khóc nhiều có người khóc ít, có người buồn nhưng không khóc. Qua một đêm và một ngày, anh chị em tôi và bà con trong dòng họ như đã cạn hết nước mắt rồi.

- Con mua trầu vàng chi vậy? - Khi ông Chín đưa tôi đi đến quan tài, gặp lại cha, anh, chị, và các em, ông chợt hỏi tôi.

- Con tưởng má con còn sống, con mua trầu vàng về cho má ăn.

- Trời tội nghiệp!

Tôi không nhớ ai đã kêu lên, nức nở, và cũng không biết ai là người khóc trước, tiếng khóc xung quanh tôi lại dậy lên.

Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy hai dòng nước mắt trên gương mặt hốc hác của cha tôi.

Chiếc quan tài của má tôi để ở nhà trong. Những ngọn đèn cầy không sáng được ngôi nhà mà thêm vẻ âm u. Những lá trầu của tôi mang về, ông Chín để lại trên chiếc quan tài màu đỏ của má tôi. Những lá trầu như những đốm nắng từ trên cao rơi xuống, cho ấm cái quan tài lạnh lẽo.

Má tôi không phải chôn ở nghĩa trang trong đồng mà được chôn trong đất nhà của ông cậu tôi, trong vườn cây trâm bầu bên con đường: má tôi nằm về hướng đông, cái hướng theo con đường mòn qua cụm xoài xuống bến. Từ chỗ má tôi nằm, lúc nào cũng được nghe sóng của con sông.

Nỗi đau của đứa con mồ côi mẹ không đến với anh chị em tôi cùng một lúc mà theo từng bước của cuộc đời chúng tôi.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:23:20 pm
*

*          *

 
Tôi trở lại cái bàn quấn thuốc ngoài thảo bạt và lại được nghe đủ thứ chuyện của người lớn. Tôi coi em thay chị để chị đi bán bánh tầm. Buổi trưa, tôi lên võng, đưa thằng em út, dỗ nó ngủ bằng nhũng câu hát của má:

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...


Không phải một mình tôi, cũng không riêng gia đình tôi đi trên cái “cầu tre lắt lẻo” mà cả làng đang trên cái cầu “gập ghềnh khó đi”. Những người tới chơi nhà vẫn chuyện thời thế, và chuyện sôi nổi nhất là chuyện Hai Quang đi lính Nhật, trở về làng đánh cò Tây. Anh là dân đứng bến xe hơi, thuộc dân anh chị nổi tiếng từ bến xe Sài Gòn dài theo các bến về làng tôi. Anh là người ở Chợ Mới, con của một nhà làm rẫy, bỏ nhà, theo xe đi hoang từ tuổi mười ba, mười bốn... Quang hay Hoang, người làng tôi đều nói như nhau. Cho nên với người làng, tên của anh cũng đồng nghĩa với cuộc đời đi hoang của anh. Anh ít khi ở Chợ Mới, thường ở làng tôi nhiều hơn, vì làng tôi có bến xe, và cái hãng xe mướn anh đứng bến là hãng xe chạy từ Sài Gòn, Sa Đéc và dừng lại ở làng tôi. Trong làng, tôi không thấy ai khỏe mạnh bằng anh. Người cao nhất trong làng cũng chỉ đứng đến ngang tai anh, ai cũng thấp hơn anh một cái đầu. Anh cao nhưng không thấy anh lêu nghêu, người anh to, vai tròn, ngực nở, bụng nhỏ và cặp đùi (khỏi chê) như đùi ếch, vạm vỡ và liền lạc. Anh độ ba mươi tuổi, đầu lúc nào cũng đội kết có lưỡi trai, vì đầu hớt trọc, hớt theo kiểu mấy ông cha cố, phía trước có để vành móng ngựa. Như người ta nói, vì lúc nào anh cũng có thể đánh lộn hoặc đâm chém, để tóc dài sẽ bị người ta nắm tóc, hoặc nếu có lỡ bị ai chém vào đầu thì khỏi phải cạo đầu lúc băng bó. Một con người luôn luôn sẵn sàng nghinh chiến với bất cứ ai. Cái trán anh thấp, mắt ti hí như mắt lươn dưới cặp chân mày rậm như hai cái mái nhà đưa ra để che cặp mắt lì lợm của anh. Cái miệng của anh, khi anh cười, vừa thật lại vừa hiền. Con người như anh tất nhiên là phải xâm mình. Ngực xâm mặt cọp đang nhe răng. Bắp tay phải xâm đầu rắn, bắp tay trái xâm một mũi tên xỏ ngang qua trái tim.

Là dân anh chị nhưng lại được dân ở làng yêu mến lắm. Anh chửi thề văng tục ở đâu chẳng ai nghe; ở chợ, anh là một người lễ phép, biết trên, biết dưới, ai đáng anh thì gọi anh, ai đáng chú thì gọi chú, gọi bác, một dạ hai thưa, đáng em thì gọi em, xưng qua, cũng chẳng thấy anh đánh ai, chém ai ở cái bến xe của chợ làng. Đồn rằng anh là người võ nghệ cao cường, nhứt là cái cú đá của anh - đá gãy cả cây chuối hột - và hai ngón tay của anh, anh xỉa ngập cả thân cây chuối. Chuyện của anh, người ta kể nhiều lắm, nhưng tôi thích có hai chuyện. Chuyện anh đánh con chủ hãng xe. Con của chủ hãng xe - thằng Pôn - hôm đó lên xe đi Sài Gòn, xe đông người, anh xếp nó ngồi ở băng sau cùng.

- Ê! Đ. mẹ, mầy không biết tao là ai sao, thằng đứng bến?

Tài xế cũng như lơ xe tưởng Hai Quang nổi điên, không ngờ Hai Quang lại cúi đầu khúm núm:

- Dạ, không biết con chủ thì biết con ai.

- Biết, sao để tao ngồi băng sau với con mẹ bán cá?

- Dạ, người ta bán cá nhưng người ta mua vé, còn thầy, thầy đi không.

- Ê, muốn giỡn mặt tao sao Hai Hoang?

- Dạ, đâu dám, nếu thầy muốn, tôi sẽ đuổi khách xuống hết, cho thầy đi một mình một xe cũng được.

Anh tài xế chạy lại can:

- Thôi, mời thầy lên ngồi trên.

Xe chạy, Hai Quang vẫn không nói gì thêm. Anh lên mui xe, ngồi một mình với những giỏ trái cây chở lên Sài Gòn.

Xe chạy qua bắc(1) Mỹ Thuận. Khi bắc vừa tách bến, thằng Pôn đang dựa lưng vào thành bắc ngắm sông, Hai Quang đi thẳng tới, không nói không rằng, đưa tay thộp áo ngực thằng Pôn.

- Pôn, hồi ở bến, nếu tao đánh mầy thì chỉ đánh một hai cái, rồi mầy chạy, lùm xùm không tiện. Bây giờ thì tao đánh mầy, một là đứng để tao đánh, hai là nhảy xuống sông mà tự tử.

Ọc! Ọc! Anh móc mạng sườn nó, bên phải rồi bên trái, đánh nó không kịp đỡ, đánh cho đến lúc nó la làng, hộc máu.

- Đánh cho mầy nhớ thằng Hai Quang nầy.

Sau đó thằng Pôn lập kế trả thù. Trước nhất, anh bị đuổi ra khỏi hãng. Điều đó có lo gì. Hãng xe khác lại rước anh về. Thằng Pôn thuê đám anh chị khác chém anh. Và đã xảy ra một trận đánh lớn tại bến xe. Bọn nó ba đứa, ba con dao, còn anh một mình với một cây đòn gánh, chụp được của một cô bán chè. Bọn chúng ba thằng ba con dao không chém được anh, thằng nào cũng bị cây đòn gánh của anh đập sưng đầu, lỗ trán. Bọn lính lại ăn tiền của thằng Pôn bắt anh, giải anh về quê quán, tỉnh Long Xuyên cho anh vào tù.

Ở tù, lúc đi làm “cỏ vê”, đi ngang qua bến xe, anh thấy bọn kia vẫn đi xe và hay ngồi trên mui xe khi xe dừng lại bến. Anh xin cai tù cho anh đi bắt chó hoang. Cai tù nhìn cái thân hình lực lưỡng của anh, nó gật đầu.

Anh làm một cây vòng, nhưng lại không bắt chó bằng cây vòng mà bắt bằng tay. Anh chỉ cần chụp hai cái chân sau của con chó, rồi cứ vậy mà quay, quay cho con chó la đến tàn hơi kiệt sức. Cái vòng bắt chó, anh dùng vào việc khác. Anh ra bến xe, đợi đến lúc bọn kia leo lên mui sắp xếp đồ đạc cho hành khách, anh bước tới đưa cái vòng lên tròng vào cổ nó, giựt từ trên xe rớt xuống.

Tù chưa mãn lại bị chồng án ở thêm.

Người đời ở cái chợ làng có một cái tật rất lạ.

Ai đã nổi tiếng rồi thì người ta lại thêm thắt không biết bao nhiêu chuyện, chuyện nào nghe cũng lạ. Như những chuyện của ông Huỳnh Phú Sổ chẳng hạn. Với Hai Quang, người ta đồn lúc anh đi hoang anh đã tìm học với một ông thầy người Miên ở trên núi. (Hình như phải học qua người nước ngoài và phải ở trên núi thì mới giỏi hay sao ấy). Lệ của thầy, người nào muốn học, trước hết phải nhảy qua một cái hầm dài sáu, bảy thước; dưới hầm, chông cắm lên tua tủa như dao mác. Nhảy qua thì học, nhảy không qua được thì đổ ruột chết. Không dám nhảy, thầy không nhận, phải ôm gói trở về. Hai Quang cùng đi với mấy người bạn. Mấy người bạn của anh cúi mặt xuống cái hầm, tối tăm mặt mày, không dám nhảy.

Còn Hai Quang, anh khoanh tay thưa:

- Thưa thầy, con xin nhảy.

Rồi anh đứng từ xa, chạy lấy đà, chân đạp lên mé hầm nhảy qua. Anh mới qua được nửa hầm thì ông thầy đứng bên hầm đưa chân đá vào đít anh, đẩy anh bay qua. Hú hồn, hú vía!

- Sức con nhảy không qua mà sao con dám nhảy?

Anh khoanh tay lại, cúi đầu:

- Con đã đến đây, một là chết, hai là được học, chớ không trở về.

Chỉ một mình anh được nhận làm đệ tử.

Hằng ngày, ngoài việc học võ, anh nghe lời thầy, mỗi lần tắm đều tắm nước nóng, nước mỗi ngày mỗi nóng thêm, tập cho đến lúc tắm bằng nước sôi. Cho nên bây giờ anh là người mình đồng da sắt, dao chém không đứt, gươm đâm cũng không lủng. Anh học năm năm mới xuống núi, làm nghề du côn ở bến xe.

Toàn nghe đồn, nghe nói, tôi chỉ thấy được một chuyện. Buổi trưa, chiếc xe đò từ Sài Gòn về. Trên mui xe có một lính Nhật. Nghe tiếng kèn xe, thằng cò Tây từ trong bót chạy ra, dang tay bắt chiếc xe đò dừng lại. Từ trong nhà nhìn ra, tôi thấy tên lính Nhật từ trên mui xe nhảy xuống. Chiếc xe đò chạy vào bến. Thằng cò Tây, tên lính Nhật đứng giữa con đường trước cửa bót, nói gì với nhau, rồi hai thằng nhào tới đánh nhau. Khi hai thằng vừa đánh nhau thì người ta từ trong nhà tuôn ra, chạy đi xem. Tôi cũng phóng xuống, qua cây cầu khỉ, lên mặt đường đá, chạy tắt qua bãi cỏ. Người ở chợ đứng vây quanh, tôi tiến lên phía trước. Tên lính Nhật ngồi trên mui xe chính là anh Hai Quang. Người đứng coi, ai cũng kêu tên anh. Anh mặc đồ lính Nhật, đội mũ Nhật, xắn tay áo. Còn thằng cò Tây, nó cao lớn chẳng thua gì anh, thật cân sức, và nó lớn hơn anh một cái bụng. Nó đánh quyền Anh, còn anh thì đánh võ. Nó đấm, anh thoi, anh đá. Dang ra, vờn nhau, lại xáp vô, đánh đấm túi bụi. Lại dang ra, lại vờn. Bỗng anh quay mình, hét lên một tiếng. Đúng cái cú đá như tiếng đồn, cò Tây bị một cú đá, lảo đảo. Cũng vừa lúc đó thì có một phát súng nổ. Con đầm vợ nó đưa cây súng lục bắn chỉ thiên, rồi họng súng trong tay nó chĩa vào anh Hai Quang, họng súng hãy còn khói, và lại thêm ba họng súng dài của ba tên lính chĩa vô ngực anh. Anh Hai Quang đành bó tay cho tên cò Tây còng lại, đưa anh vào đồn.

Chuyện anh đánh thằng cò Tây, cuối cùng cũng phải thua, nhưng mọi người hả hê thán phục anh.

Sau đó, tôi nghe người lớn nói, cũng nói trong cái thảo bạt nhà tôi và tôi cũng nghe lúc ngồi bên cái bàn quấn thuốc: Cò Tây được lịnh truy nã bắt anh về tội trốn lính. Nó giải ngược anh về Sài Gòn.

Chẳng bao lâu, anh lại mặc đồ lính Nhật trở về. Anh đi thăm nhiều người ở chợ, và đến thăm cha tôi.

Anh đến nhà tôi vào buổi xế chiều, lúc nhà có nhiều người đến chơi. Bộ đồ lính Nhật màu cứt ngựa, hông đeo gươm dài, vì cao lớn nên cây gươm của anh không lệt bệt dưới đất như những tên Nhật mà tôi đã thấy, oai nữa là trước bụng có cả cây súng lục trong cái vỏ da được đánh bóng, mới tinh. Khi anh bước lên cầu thang nhà tôi, tôi có cảm tưởng từng bực thang có thể gãy vì cái thân hình lực lưỡng của anh. Anh chào từng người, chào người lớn trước, người nhỏ sau. Anh không chào theo kiểu nhà binh Nhật, cũng không bắt tay. Hai bàn tay nắm lại thành một nắm đấm để trước ngực, anh vừa lắc, vừa cúi đầu:

- Thưa anh Hai!

Anh chào cha tôi trước, kế chú Ba tôi đến chú Tư Khởi, chú Ba Giáo, cuối cùng anh vẫn không quên tôi:

- Nhỏ!

Khi anh ngồi vào ghế bắt đầu câu chuyện, chú Ba tôi hỏi:

- Theo Nhật thiệt sao Hai Quang?

Anh cười:

- Nếu tôi không vô lính Nhật, thì bây giờ, tôi ở bên Tây, đánh nhau với tụi Đức rồi. Mấy anh nghĩ coi, sau khi ra tù thì tới kỳ bắt thăm đi lính. Rủi cho tôi, tôi bắt ngay số một. Tôi nghĩ, thằng Tây nó qua đây đè đầu cỡi cổ mình, chớ có phải ông nội cha mình đâu mà mình đưa ngực ra đỡ đạn cho nó. Tôi nói vậy mấy anh nghe phải không? Nó đánh nước mình, bây giờ tới phiên nó bị đánh, sao lại bắt người ta đi đánh giùm. Bộ cha sao?! Tôi trốn. Nhưng Hai Quang trốn sao được. Mấy cái thằng lính kín chó đẻ ngày nào cũng mang kiếng đen lởn vởn ngoài bến xe, kiếm tôi. Phải sống nhờ em út, nhục quá! Tao đi lính Nhật cho mầy biết!

Thắng được bộ đồ lính Nhật rồi, tôi ra bến xe, đi thẳng lại mấy thằng lính kín: “Ê, bắt Hai Quang hả mầy? Dô tô nay, dô tô na dô tô cà”. Tôi vừa nói vừa rút gươm. Tụi nó giạt đi như đá ném xuống cái ao bèo. Bèo tan rồi hợp, đá vẫn nằm nguyên.

- Tụi Nhật nó giao cho chú việc gì chú Hai? - Chú Tư Khởi hỏi.

- Nó giao tôi về đây coi tình hình dân chúng, ai theo ai. Nó bảo nhớ ghi chép ai theo Việt Minh cộng sản.

- Chú ghi được nhiều chưa?

- Tôi mượn tiền nó tôi về chơi. Tụi nó quên là chữ A tôi cũng không thèm học, tôi biết gì mà ghi mấy anh!

Nói vậy rồi, anh đưa tay mở nắp cái bao súng. Tưởng anh móc súng ra để khoe hay làm gì, hóa ra đó là cái bao đựng thuốc. Khi anh rút ra một cục thuốc với một tờ giấy nhựt trình thì tất cả đều ngửa mặt cười. Anh điềm tĩnh quấn thuốc, lè lưỡi liếm rồi nhìn lại mọi người:

- Nó có tin tôi đâu mà giao súng; cây gươm này tôi mua ở Chợ Lớn, rung cây nhát khỉ thôi.

Rồi anh cười. Nụ cười thật thà và hiền lành. Nhưng con mắt của anh, hai con mắt ti hí, vừa liếc vừa híp lại, thật điếm.



--------------------------------------------------------------------------
(1) Phà



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:32:45 pm
*

*          *


Thằng Sườn lớn hơn tôi mới một hai tuổi thôi - mười bốn mười lăm - mà đã thành người lớn rồi. Người nó cũng có vẻ khác thường: nó có một thân hình nói là xấu cũng được, nói kỳ kỳ thì đúng hơn. Cái đầu của nó không tròn, tóc của nó lại hớt vừa cụt vừa bằng bằng, cho nên cái đầu của nó thành hình vuông. Cổ rụt như cổ rùa và cái ngực của nó cũng bè bè theo hình vuông, cái áo bành tô bằng vải ka ki cũ lúc nào cũng phanh ngực với cái quần đùi đen dài đến tận gối. Người như nó không thể trắng trẻo được, mặt đen sì sì như màu đất. Nhà cha mẹ nó trong ngọn kinh, nhưng suốt ngày nó ở bến xe, ở chợ, đêm cũng ngủ trong chợ, trên thớt thịt. Nó tập tành đứng bến xe, nguyện làm đệ tử cho Hai Quang, cũng giành khách và thỉnh thoảng được leo lên xe đi Sài Gòn. Cái tôi thấy nó thành người lớn là nó biết hút thuốc, thở khói ra lỗ mũi hẳn hoi.

Ngày đầu ôm cái thùng thuốc lá ra chợ, tôi đang lớ ngớ thì chính nó là người mua mở hàng.

- Ê, con chú Hai hả?

Tôi gật đầu.

- Thuốc gì ngon cho vài điếu.

- Anh hút thuốc nào?

- Anh cái con mẹ gì. Thằng Sườn.

Thằng Sườn nghèo nhưng lại coi tiền như rác. Tiền nó cuộn trong lưng quần, lấy thuốc xong, nó cầm nắm tiền thả xuống cái bàn thuốc của tôi không cần đếm. Tôi gọi nó lại, trả lại tiền dư, cái đầu vuông của nó lắc quầy quậy trên cái cổ rùa:

- Để đó, còn hút nữa.

Nó quay lưng, nghĩ gì nó quay lại:

- Thằng nào ăn hiếp cho tao biết nghen. Không hiểu sao nó lại thương tôi vậy!       Một buổi chiều, nó qua cây cầu khỉ, vào tận nhà tìm tôi, lúc tôi đang ở trước sân:

- Mấy hôm nay đâu không ra chợ?

Nghe nó hỏi, tôi mới chợt nhớ, tôi không ra chợ cũng hơi lâu, từ ngày cha tôi xoay được một việc làm kiếm ra tiền.

Có một ngôi nhà vốn là lò thợ bạc lâu đời, từ đời ông nội đến đời con... Đến đời cháu thì không làm thợ bạc nữa. Người chủ cuối cùng của ngôi nhà theo đạo Hòa Hảo, nghĩ thế nào lại dỡ nhà về đất Láng Linh (đất Láng Linh đã trở thành đất Phật của Phật giáo Hòa Hảo).

Cha tôi không mua nhà mà mua cái nền nhà.

Vậy là anh chị em tôi, mỗi người một tay, đào lấy đất nền cứng, đưa về cho cha tôi đãi vàng.

Nhà tôi toàn đất. Cha tôi dùng một cái chảo đụng, buộc hai sợi dây ở hai quai, treo lên cái sườn nhà sau bếp. Tôi xúc đất đổ vô chảo, anh tôi xách nước từ dưới kinh lên, đổ vào, còn cha tôi ngồi đãi. Đãi mãi, đãi mãi, đãi mãi cho đến lúc dưới đít chảo còn một nắm cát với những hạt bụi anh ánh. Cái nắm cát ấy đưa vào lò nấu. Rồi những hạt bụi anh ánh ấy tụ lại thành một cái hạt như hạt đậu. Chưa phải là hạt vàng nhưng trong cái hạt ấy có vàng. Ban ngày thì đãi, ban đêm thì nấu. Cha tôi ngồi coi, còn anh tôi với tôi thì thay nhau quay lò.

Có một lần, chú tôi về vào lúc nửa đêm, thấy ba cha con tôi vẫn ngồi bên lò lửa, chú tôi thở dài:

- Đãi cát tìm vàng, cực quá hả anh Hai?

- Đã nói là đãi cát tìm vàng thì làm sao không cực! Nhưng đâu có cực bằng anh em. Đãi người, để người quy về một mối mới là khó. Người lúc đầu tưởng là vàng lại hóa ra là cát.

Cha tôi mỉm cười lắc đầu và thở dài. Cha tôi không nói gì thêm nhưng tôi lại hiểu là cha tôi muốn nói đến ông Tư tôi.

Vì lo giúp việc nhà mà tôi bỏ cả nghề quấn thuốc và cũng quên ra chợ là vậy. Thằng Sườn rủ:

- Tối nay đi chơi với tao.

- Không được.

- Một lát thôi!

- Đi đâu?

- Nghe giảng đạo.

Lại đạo. Đạo gì nữa đây? Tôi nhìn lại nó. Nó biết ý lắc đầu:

- Không phải Hòa Hảo đâu.

- Cao Đài?

- Không.

- Đạo gì?

- Không phải Thiên chúa mà cũng như Thiên chúa vậy - đạo Tin lành.

- Thôi, tao không đi.

- Đi mầy, tối nay vui lắm. Trước khi giảng nó có đờn, có hát. Người ta tới nghe, nó cho ăn kẹo, ngon lắm. Kẹo đen, đăng đắng ngọt ngọt, thơm thơm, kẹo... kẹo... sôcula.

- Nó bỏ bùa bỏ ngải cho mình mê làm sao?

- Mê cái c..., tao ăn mấy bữa rồi.

- Ừ. Mầy đi trước đi...

Thằng Sườn chờ tôi ở ngoài cửa. Hóa ra cái chỗ giảng đạo là cái căn nhà chơi bóng bàn, ở cuối phố, thỉnh thoảng tôi cũng tới lui. Cái bàn bị xếp lại một bên tường, thay vào đó là ghế ngồi. Người đến nghe giảng đạo, tôi thấy toàn lũ trẻ ở chợ, có gần hai mươi đứa, người lớn chỉ có đôi ba người. Người đến nghe có vậy mà sao họ làm rình rang quá. Thời buổi không có dầu để thắp, phải thắp bằng mỡ hoặc dầu mù u, họ lại thắp đèn măng sông cháy khè khè, sáng ra tới tận ngoài đường. Lại có tiếng đàn ắc coóc.

Thằng Sườn nắm tay tôi, đưa tôi lên ngồi ghế hàng đầu, phía sau là lũ nhỏ lao nhao.

Rồi một ông cha đầu hớt theo kiểu vành móng ngựa, cũng áo dài đen chẳng khác gì mấy ông cha của đạo Thiên chúa. Ông phát cho mỗi đứa một quyển kinh nhỏ bằng bàn tay để bỏ túi, và đúng như thằng Sườn nói, kèm theo một thỏi sôcula. Sau khi mọi đứa đều có sách có quà, ông trở lên bục, mặt trang nghiêm, mở to mắt nhìn xuống đầu lũ nhỏ, ông nói giọng vừa vang vừa ấm:

- Trước khi giảng, các em ôn lại bài hát. Nhớ chưa? “Ai mến yêu Giê-su vô cùng. Càng yêu tha thiết ngày thêm...”

Lập tức, tiếng đàn ắc coóc kéo lên. Ông bắt giọng:

- Mến yêu... Một, hai, ba.

Cái lũ nhỏ trong phòng cất tiếng hát, rên lên. Mới hát được một câu “Mến yêu Giê-su vô cùng” thì thằng Sườn bật đứng dậy, cất cao tiếng với câu vọng cổ:

- Boong boong văng vẳng tiếng chuông... ở chùa.

Một tiếng hét giật nảy người, ông cha vừa hét vừa nhào xuống. Thằng Sườn quá nhanh, thót một cái, nó tuôn ra cửa. Bàn ghế xô đổ lốp bốp.

- Bắt nó! Bắt nó!

Tôi có cảm tưởng là thằng Sườn đã nhảy qua đầu mọi đứa để thoát thân. Còn bọn chúng tôi chen nhau đạp nhau hốt hoảng, tán loạn, nhưng khi gặp lại nhau ở chợ thì đứa nào cũng vui cười. Thằng Sườn họp tất cả lại, đãi mỗi đứa một tô hủ tiếu giữa nhà lồng chợ. Số tiền đó nó nhận được của một người đạo Phật giáo Hòa Hảo và một người đạo Cao Đài, nó bảo là tiền “phá đám”. Trả tiền hủ tiếu xong cho cả gần hai mươi đứa, phần còn lại đủ riêng cho nó một gói thuốc. Chỉ có vậy mà sáng hôm sau, ông cha đạo Tin lành phải dọn đồ xuống ghe, nhổ sào như một cái gánh hát Sơn Đông.

Đêm ấy, tôi trở về, hãy còn sớm, chị và các em tôi hãy còn thức, tôi chia cho mỗi người một viên sôcula.

Xuống bếp, cha tôi với chú tôi bắc ghế ngồi bên cái lò, anh tôi thì ngồi quay lò. Cái bếp lò đỏ rực, cái lưỡi của lửa thì xanh lè. Tôi dúi vào tay anh một miếng sôcula, như để đền ơn anh ngồi thay cho tôi.

- Hồi chiều, thằng Sườn rủ con đi đâu?

Tôi kể cái lúc thằng Sườn bỗng đứng bật dậy, cất giọng “Boong boong văng vẳng...” thì cha tôi với chú tôi ôm bụng cười ngả nghiêng. Anh tôi thì trách:

- Sao mầy không rủ tao? Cái kẹo sôcula này bây giờ hiếm lắm. Còn hết?

- Hết!

- Mai mầy ở nhà quay lò, tao đi...

Cười xong, cha tôi châm thuốc, vừa bập vừa hỏi:

- Ba, mầy thấy chưa? Cái đám nầy nó như chuyến tàu vét, nó không muốn để cho ai đứng ngoài, vét từ đứa con nít. Tụi nó là tụi nào vậy, Ba?

Chú tôi lại trầm ngâm nhìn vào ngọn lửa, một hồi lâu:

- Em chưa biết rõ lắm. Đạo Tin lành thường thường là của tụi Anh với Mỹ, Mỹ bây giờ là đồng minh, nhưng cũng là tụi nó.

- Như chuyến tàu vét, vét tụi con nít.

- Nguy hiểm lắm đó, anh Hai, nó nghĩ đến đường dài.

Sau khi nhai hết viên kẹo sôcula, anh tôi nhóc mỏ nghe chú tôi nói, rồi người anh như bị ngứa ngáy, không yên, cứ loay hoay, anh nhặt từng cục than ném thêm vào lửa nhìn cha tôi, lại nhìn qua chú tôi:

- Cha à! Con vô Thanh niên cứu quốc nghe cha!

Hóa ra anh tôi lại biết nhiều hơn tôi, biết cái điều mà tôi chưa nghe tới bao giờ. Thanh niên cứu quốc! Cứu quốc! Nghe thiêng liêng làm sao! Tôi vừa nghĩ vừa quay lò mạnh hơn, và ngọn lửa cũng bốc cao hơn.

- Mầy hả?

Cha tôi chỉ nói có vậy mà anh tôi hiểu ý, anh xị mặt:

- Cái gì của con, cha cũng chê! Đi hoang cha chê, đi Thanh niên cứu quốc cha cũng chê.

Cha tôi nhìn anh tôi với đôi mắt nghiêm khắc:

- Được vậy cha mừng. Nhưng phải nghĩ cho kỹ. Đã đi thì đi đến cùng, chớ bỏ nửa chừng. Cha nghiệm thấy trong đời, không ai tệ bằng những kẻ bỏ cuộc, ông Tư của tụi con cũng là người bỏ cuộc đó.

Anh tôi ngồi im, nhìn đăm đắm vào ngọn lửa. Cái lưỡi lửa không nói nhưng tỏa sáng mặt người.

Đêm đó, sau khi dọn dẹp, anh tôi không ngủ nhà, chú tôi cũng không ngủ trên chiếc ghế bố ngoài thảo bạt nữa. Hai chú cháu dẫn nhau đi đâu mất, tôi đoán là hai người đi qua cầu, lên xóm Cột dây thép.

Vậy là người làng tôi, không còn ai giấu ai nữa, ra mặt hết rồi. Gặp một người nào đó ngoài đường, không cần quen biết, cũng không cần hỏi, thấy mặt là biết ngay họ là ai, theo đạo nào. Người theo đạo Hòa Hảo: quần áo màu dà, để râu, để tóc, vừa nghênh ngang, vừa to nhỏ xì xầm chuyện cơ mật của thời thế. Người theo đạo Cao Đài cũng để râu tóc, quần áo thì toàn trắng: áo trắng, quần trắng, khăn trắng, nón mũ đội trên đầu cũng trắng. Từ tòa thánh ở Tây Ninh đến làng tôi quá xa xôi, như bị đuối sức, lác đác chẳng có mấy người nhưng lại nổi bật với đồ trắng giữa những đám đồ màu dà. Tuy ít, nhưng dựa vào thế của Nhật, cũng vẫn nghênh ngang.

Còn đạo Thiên chúa? Cái nhà thờ lớn với cái lầu chuông vẫn còn đó, sừng sững ở bên kia sông. Tây tuy thất thế, nhưng buổi sáng, buổi chiều, chuông vẫn đổ rền.

Thanh niên tiền phong thì mặc quân phục, vừa đi đều vừa hát.

Còn những người cùng với chú tôi, cha tôi, anh tôi thì không hề ra mặt. Và cũng vì không ra mặt mà trong con mắt của họ tôi cũng đã ra mặt rồi. Những người ấy, những người mà tôi mới biết tên, những người Cứu quốc, họ âm thầm nhưng dữ dội, như sóng ngầm của con sông Cửu Long chảy qua làng. Còn những người kia Hòa Hảo, Cao Đài hay Thanh niên tiền phong, họ là những ngọn sóng trên mặt sông đang trào lên ầm ĩ.

Đêm ấy, biết anh tôi với chú tôi không ngủ nhà, tôi không sao ngủ được. Tôi cứ trăn trở với một câu hỏi. Tôi thấy đạo Thiên chúa, đạo Hòa Hảo hay đạo Cao Đài, cha mẹ theo đạo nào thì con cái cũng phải theo đạo ấy. Còn “anh em mình” thì cha mẹ sao không buộc con cái phải theo? Sao cha tôi, chú tôi và mới đây, cả anh tôi, sao không bắt tôi phải theo “anh em mình”?

Lâu nay, mọi người như đi trên con sông, tôi thấy bạn bè và thiên hạ, ai ai cũng có một chỗ trên chiếc thuyền của mình, còn tôi, không tìm đâu thấy chiếc thuyền của mình, cứ phải lặn hụp, ngoi ngóp trên mặt sông.

Đêm ấy, tôi như thấy được bóng dáng chiếc thuyền của mình, tôi sẽ bơi tới.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:34:04 pm
*

*          *

 
Chẳng biết chuyện gì mà cả làng như đổ hết ra mặt đường, tràn lên sân chợ. Cha tôi cấm không cho đứa nào được bước qua khỏi cây cầu khỉ. Còn anh tôi, lần đầu tiên anh tỏ ra là một người lớn, anh bảo:

- Nè, hễ nghe súng nổ thì nằm sát xuống đất.

Và anh không cho đứa nào được ở trên nhà, bắt phải xuống sàn hoặc ra sân. Chị tôi hỏi, anh hét:

- Con gái biết gì mà hỏi. Nấu cơm sớm cho tụi nó ăn.

Tôi cũng hỏi:

- Gì vậy anh Ba?

Anh cũng thét:

- Con nít hỉ mũi chưa sạch, biết gì!

Tôi không nói gì, còn chị tôi vừa ngoảnh mặt vừa lẩm bẩm:

- Chưa chi mà làm tàng.

Anh tôi lườm, giận lắm, nhưng không dám nói gì thêm. Vì chắc biết, nếu anh làm già, ra vẻ hoặc quát nạt thì chị tôi thế yếu sẽ chống lại bằng cách kể tội anh, nào không giúp việc nhà, nào bỏ đi hoang và đã ăn cắp của chị sợi dây chuyền vàng...

Chỉ mới đây thôi, không được mấy ngày, từ cái đêm anh theo chú để vào Thanh niên cứu quốc, anh đã khác đi nhiều. Điêu tôi thấy rõ nhất là anh trở lại cái vai trò của người anh lớn trong gia đình. Không như trước, sau những ngày đi hoang trở về, nhìn ai trong nhà anh cũng lấm lét, lúc nào cũng thấy mình có lỗi. Cùng ở một nhà nhưng luôn tránh mặt cha. Cha tôi ở trên nhà thì anh lủi xuống bếp, cha tôi xuống bếp thì anh ra sân. Từ hôm đó, anh không tránh mặt cha, và cha tôi không còn nhìn anh với con mắt nghiêm khắc nữa. Và bây giờ, anh dám bàn chuyện với cha tôi, khi cha tôi từ trên nhà bước xuống, đến chỗ túm tụm của anh em tôi:

- Họ định cướp tay trên mình hay sao vậy cha?

- Chú Ba mày đâu?

- Còn ở trển.

Tôi biết anh muốn nói chú tôi còn ở trên xóm Cột dây thép.

Cha tôi nhìn ra đường trong vẻ lo âu. Ngoài đường, bên bờ kinh trước cửa nhà tôi người từ xóm dưới cứ đổ dồn lên, quần áo màu dà với gươm, giáo, từng tốp, từng tốp nối theo nhau, rầm rập kéo nhau đi. Tốp thổi còi “tít te... e... tít”, tốp (chắc) không có còi thì đếm “một hai một”. Tôi thấy họ đi đều không ăn rập bằng học trò chúng tôi, không rầm rập mà rầm rộ...

Đoàn biểu tình của đạo Phật giáo Hòa Hảo cứ nối theo nhau dài dằng dặc, họ không đi thẳng trên con đường nhựa ngang qua bót cò, mà đánh vòng qua đường đá qua cửa xóm nhà tôi. Cái bót cò ấy không còn Tây nữa, lá cờ trắng với mặt trời đã thay lá cờ tam sắc. Vợ chồng cò Tây rút bỏ qua nhà thờ cù lao Giêng trước khi quân Nhật đến chiếm. Thay vào thằng cò Tây là ba thằng lính Nhật. Nghe đâu, thằng cò Tây cùng với ông cha bà phước đang xây thành đắp lũy ở bên ấy, ngay trong nhà thờ chúa.

Khi cha vào nhà trong, anh tôi bước ra sân, chị tôi khều nhẹ lên vai tôi:

- Em chạy vòng ra sau hè, ra chợ coi chuyện gì vậy. Chị ở nhà chị nấu cơm.

Tôi liền biến ra cửa sau, nghe chị nói theo:

- Mau mau về.

Tôi đi dọc theo hè, rồi qua cây cầu khỉ nhà hàng xóm, chạy băng ra chợ. Những người đi nhóm chợ đều giạt qua hai bên hè phố với thúng mủng và đủ thứ hàng: tôm, cá, rau cải, chè chén, nhường nguyên cả cái sân chợ cho đoàn biểu tình. Ai cũng giành đứng ra phía trước để xem. Tôi vừa nhỏ vừa thấp, lại là đứa đi sau, tôi lủi qua lủi lại mãi mà không sao lủi được ra phía trước. May sao gặp thằng Sườn đang ngồi trong tiệm hủ tiếu.

- Muốn coi hả? Đi theo tao.

Bước ra tiệm, nó không cần lủi như tôi. Nó hét, tôi cũng giật mình.

- Nước sô... o... i

Người ta giật mình né qua, thế là tôi theo sau lưng nó, len qua. Nhiều người chưởi theo nó, nó cười trừ.

- Chuyện gì vậy Sườn?

- Biểu tình.

- Biết rồi. Mà biểu tình để làm gì?

- Để đi một hai.

- Mầy!

Nó kề miệng sát vai tôi:

- Nói chơi với mầy vậy. Nghe nói là đổi đời. Họ tập...

Đoàn biểu tình từ xóm dưới lên đi vòng qua con đường trước xóm nhà tôi, đến phía bên này đầu cầu sắt thì họ đổ xuống sân chợ. Còn đoàn ở xóm trong dọc theo đường từ cù lao Ông Chưởng đi qua thì từ bên kia đầu cầu, họ qua cầu, rồi cùng đổ xuống sân chợ. Dù người đã đứng đầy sân chợ, tôi vẫn nhận ra ông Tư tôi, đầu tóc, râu ria với bộ ngực to lớn đang đứng đầu một tốp. Chú Nguyễn Đa Điền, màu da tiệp với quần áo màu dà của chú, chú mặc áo bà ba, khăn choàng tấm buộc thắt ngang lưng, hông đeo kiếm. Có cả các chị ở xóm nhà ông Tư tôi nữa, nào chị Thảnh với chị Thơi... Ngộ làm sao! Chị nào cũng môi son má phấn như đào hát.

Tôi thấy vậy và cũng chỉ biết có vậy, rồi lộn trở về cho chị tôi biết.

- Nghe nói sắp đổi đời, họ tập, thằng Sườn nói.

- Tưởng nghe ai. Nghe thằng Sườn. - Chị tôi vừa giận, vừa lo.

Khi đoàn biểu tình từ sân chợ tháo trở về, thì cô Hai Thảo bước trên cây cầu khỉ, tay cầm một cái giỏ.

- Cha bây đâu? - Cô hỏi.

- Dạ, cha cháu mới đi xóm.

Cô đưa cái giỏ cho chị tôi:

- Cất cái này đi.

- Gì vậy cô?

- Bánh tổ. Cô biết nhà bây không ai làm. Tới rồi đó, đói thì lấy mà ăn. Cha bây có đói thì lấy cho cha bây ăn chớ đừng cho cha bây thấy, nghe chưa?

- Dạ! Sắp có gì vậy, cô Hai?

- Chưa hay chuyện gì sao?

- Dạ chưa.

- Nhật đầu hàng rồi.

- Cờ Nhật sao còn treo đó cô?

- Mấy thằng Nhật chưa biết. Tin chưa tới nó, chớ đạo thì đã biết rồi. Lúc nó chưa đảo chánh Tây, Thầy có nói trước, nó mạnh vậy chớ nó ăn không hết con gà tức là nó không qua được năm Dậu này, hiểu chưa? Cô đã nói, không theo đạo thì u u mê mê là vậy.

- Cha con chắc biết.

- Cha bây có biết cũng là nhờ người trong đạo nói ra. Biết mà sao không lo, một cái bánh tổ cho con cái mà không có. Cô hỏi tụi bây, Nhật đầu hàng, nước Nam nầy ai cai trị? Binh tướng nhà Phật với bọn quỷ dương sẽ tranh hùng. Sẽ tối trời tối đất, cô dặn bao nhiêu lần rồi, nhớ không? Nhà có giẻ rách chưa? Nhớ, có ai kêu tên thì đừng có lên tiếng.

Đã lâu tôi không còn tin chuyện tối trời tối đất nữa, tôi nghĩ là cái chuyện đó đã qua rồi, giờ cô lại nhắc tới. Cô nhắc lại qua hình ảnh một đoàn biểu tình với quần áo màu dà rầm rộ như một dòng nước đục tràn lên sân chợ, với đôi mắt lo âu của cha tôi, với vẻ sợ sệt của chị, với cái bánh tổ cô mang tới, với đôi mắt bí ẩn của cô nhìn chúng tôi, và với lòng yêu thương qua giọng nói tha thiết của cô, hình ảnh rùng rợn của cái đêm tối trời tối đất lại hiện lên trong tưởng tượng của tôi.

Cái đêm ấy, chị em tôi nằm rúc lại sát nhau; cái bánh tổ với nắm giẻ rách, chị tôi để ở đầu giường.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:36:03 pm
*

*          *

 
- Dậy! Dậy...

Chị tôi vừa gọi vừa giật cái mền lôi tôi lên. Sau một đêm dài nơm nớp lo sợ, tôi thiếp đi lúc gần sáng, ngủ mê man. Đêm khủng khiếp đã trôi qua (hay là chưa đến), tôi mở mắt: nắng đã tràn vào tận sân nhà.

- Ra coi, mau lên!

Chị vừa bảo vừa nắm tay tôi, kéo tôi chạy ra cửa. Chị đưa thẳng cánh tay qua cái bót cò:

- Thấy gì chưa?

Tôi thấy rồi. Cờ! Cờ đỏ sao vàng trên cột cờ trước bót cò bay phấp phới. Tôi không reo lên mà lặng đi trước cái màu đỏ rực rỡ với ngôi sao năm cánh, với bầu trời xanh mênh mông của buổi sáng, với con sông tháng tám nước ngầu hạt phù sa đang hối hả trôi qua, hai bên bờ cây cỏ xanh um, và tôi như ngỡ ngàng trước cảnh vắng lặng của con đường làng.

Mọi ngày, vào giờ này, người ta nườm nượp trên đường, ra sân chợ. Sáng nay chỉ lác đác một vài người, không thấy ai mặc quần áo dài màu dà, người trên đường ăn mặc bình thường, quần đen áo trắng hoặc áo xanh, khác hơn ngày thường, tay có đeo băng đỏ, tay cầm gươm, cầm giáo.

Có lẽ dân làng ai cũng xúc động đến lặng đi hoặc ngỡ ngàng nên chưa có ai đổ ra mặt đường.

- Đổi đời rồi đó!

Tôi quay lại, cha tôi cũng đang đứng nhìn cờ. Tôi muốn hỏi cha, nhưng chưa kịp nghĩ phải hỏi cha điều gì thì cha tôi bảo:

- Tờ lịch hôm nay, mấy con không đứa nào được xé, để nguyên đó cho cha. Lịch ngày 20 tháng 8 năm 1945, năm Dậu.

Bỗng có tiếng vó ngựa từ trên cầu sắt đổ xuống cùng với tiếng hét quen thuộc của người đánh xe. Xe của anh Hoàng, con ngựa Ô. Và một lá cờ đỏ sao vàng được dựng trước đầu xe, chỗ cây kèn bí bo. Anh Hoàng thì đứng thẳng lưng, tay lỏng dây cương, tay cầm roi quay tròn qua đầu. Anh kéo thẳng dây cương, đầu ngựa cất lên, xe dừng lại trước cửa nhà tôi, anh hét:

- Chú Hai ơi! Mình cướp chánh quyền rồi.

Không nói không rằng, không cần phải bước theo từng bậc thang, từ trên sàn, tôi phóng xuống sân, chạy băng qua cây cầu khỉ, tự mình đu người, nhảy phóc lên xe. Anh ném dây cương qua tay tôi, con ngựa chồm tới. Bắt chước anh, cũng không còn biết sợ nữa, tôi cũng đứng thẳng lưng, cầm dây cương. Và tôi đứng bên lá cờ đang bay. Lá cờ phất qua mặt, qua vai, gây cho tôi một cảm giác kỳ lạ, như có một luồng điện ran lên trong người, không thể quên.

- Cho chạy luôn xuống kinh Cựu Hội. - Anh bảo tôi.

Rộp-rộp-rộp... Tiếng vó ngựa gõ đều trên mặt đường đá.

Anh Hoàng cầm cái loa bằng giấy, đưa lên miệng nhìn vào tờ giấy để trong lòng bàn tay:

- A lô! A lô! Hỡi đồng bào! Cách mạng đã thành công. Việt Minh đã cướp chánh quyền trên tay phát xít Nhật, chấm dứt một trăm năm nô lệ. A lô! A lô!...

Người trong xóm vườn đổ ra hai bên đường nghe loa. Xe chạy tới đầu cầu kinh Cựu Hội rồi quay lại. Trên đường trở về chợ, thấy người hai bên đường đông hơn, đứng chờ nghe tiếng loa, tôi sướng lắm, tưởng mình cũng có góp công.

Vì xe đang chạy, người hai bên đường nghe tiếng được tiếng mất. Nhiều người đổ ra mặt đường, dang tay bắt xe phải dừng lại, và phía sau có hàng chục người đuổi theo, bám vào xe, kéo ghịt lại. Tôi gò thẳng dây cương. Chiếc xe bị vây chặt giữa vòng người trên mặt đường.

- Cái gì, nói lại cho nghe.

Anh Hoàng lại đưa cái loa lên miệng, a lô, a lô. Giọng của anh khàn đặc, nói không ra tiếng nữa. Bất thình lình có một anh thanh niên cũng trạc tuổi anh - anh Trung -nhưng lực lưỡng hơn anh, quần đùi, lưng trần, từ dưới nhảy phóc lên xe, giật cái loa trên tay anh, đưa cái loa hướng lên trời, a lô, a lô...

Rồi người ta reo, người ta la, người ta hét, có người cứ nhảy dựng lên. Khi tôi giật dây cương cho con ngựa chồm tới thì bị nhiều người kéo rị lại, leo lên, có cả trẻ con, đầy nhóc một xe. Con Ô như cũng vui lây, nó cất vó, hí vang.

Tiếng vó ngựa cùng với tiếng loa vang dài theo con đường đá chạy qua làng, cặp theo con sông. Và con sông cũng vui hay sao mà vẫy sóng “lách tách” vỗ vào bờ.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:41:10 pm
*

*          *


Như mùa hoa đến ngày nở rộ, cờ đỏ sao vàng mọc dần lên trước cửa mỗi ngôi nhà, từ những ngọn cây xanh lá cũng mọc lên cờ đỏ sao vàng. Rồi mỗi người trên tay một lá cờ, lần lượt đổ ra sân chợ. Và trên dòng sông mênh mông ngấp nghé hai bên bờ, trước mũi xuồng một lá cờ bay trên mặt sóng, từ xuôi, từ ngược, từ bên kia sông, những chiếc xuồng, với lá cờ mỗi lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ. Xuồng cập theo bến, xuồng cặp nối nhau, san sát, kết thành một chiếc bè mọc đầy cờ, bập bềnh trên mặt sóng.

Trước đây, trên sông có những cái bè chuối tống quái mùa dịch tả, trên bè nào gà, nào heo và hoa quả với khói hương ảm đạm vật vờ theo con nước. Bây giờ, người cũng thả bè, nhưng là bè với ngọn cờ đỏ sao vàng bập bềnh trên mặt sóng, trôi theo sông.

Chiều hôm ấy, người từ các nơi đổ về đứng chật cả sân chợ, và không chỉ có những người mặc quần áo màu dà với râu tóc, mà như có tất cả, không thiếu một ai. Lạ, người đông đặc mà chẳng ai chen lấn ai.

Đó là buổi mít tinh đầu tiên của toàn dân trong làng, mừng ngày Cách mạng tháng Tám thành công.

Tiếng nói từ trên khán đài vang lên:

- Cách mạng tháng Tám thành công!

- Chấm dứt một trăm năm nô lệ!

- Việt Nam Độc lập, Tự do, Hạnh phúc muôn năm!

Mọi người như dậy lên. Và ai cũng muốn cất tiếng hát, nhưng không biết bài hát gì. Bây giờ, không có một bài hát nào đủ cho con người được hả hê để mừng ngày chấm dứt đời nô lệ. Không có bài hát nào đủ sức hả hê bằng tiếng gào, tiếng hét. Nên mạnh ai nấy gào, nấy hét, vừa gào vừa hét, vừa thẳng tay vẫy cờ. Ấy cũng là tiếng hát nhưng chẳng ai bị chối tai, và người nào cũng cất tiếng hòa theo. Một bài hát không được soạn trước, một bài hát không lời, và âm thanh thì phát ra từ sức mạnh trong lồng ngực của mỗi người. Một bài hát không thể hát lại lần thứ hai. Trong đời chỉ được hát một lần mà vang mãi với đời người.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:44:11 pm
*

*          *

 

Tôi ngồi với anh Hoàng bên con ngựa Ô đang nhai cỏ, sau buổi mít tinh khi mọi người đã ra về. Quần đùi với cái áo thun lá, anh nằm trên bãi cỏ, dang chân và dang cả hai tay như muốn hít lấy cả không khí của trời chiều.

- Ê Nhỏ! Ngồi xích lại đây, tao kể cho nghe.

Rồi anh bật dậy. Từ ngày thôi học, tôi ít gặp anh, dù cùng trong một xóm, cách nhau không đến mấy nhà. Bây giờ, gặp lại anh, đôi mắt anh như tỏa sáng cho gương mặt sạm nắng của anh. Vì phải “a lô” và la hét, giọng anh khàn đi nhưng vẫn sôi nổi:

- Ê Nhỏ! Mầy biết không? Chắc là mầy không biết đâu. Sáng hôm qua, Hòa Hảo kéo đi biểu tình là để thị uy, định cướp chính quyền nhưng họ thấy mấy thằng Nhật còn mang “mi trây đết”(1) láng nháng trong bót, họ không dám. Họ tưởng kéo biểu tình thì tụi Nhật mời họ vô, xin nộp súng đầu hàng. Còn “đằng mình” thì âm thầm - Anh đưa hai bàn tay ra như lúc bọn nhỏ rình chụp một con dế - Binh hùng tướng mạnh đâu đó sẵn sàng, từ trong vườn trên xóm Cột dây thép, vừa đi vừa bò vừa ngậm tăm, mầy hiểu chưa, áp sát vô bót. Khi mình nhào lên, ba bên bốn mặt, xông vô bót, như lịnh trên đã truyền, thằng nào đầu hàng, tước súng, bắt quỳ, thằng nào chống cự - tay anh phạt ngang - chém cho đầu rơi máu chảy. Khi anh em mình tràn vô, Nhỏ, mầy biết không? Cái bót trống không, như cái nhà hoang, không còn một thằng. Anh em chạy xuống bến, thấy có một chiếc xuồng bơi ở giữa sông. Cũng như thằng cò Tây, trước khi Nhật đảo chánh, nó bỏ bót, nửa đêm chạy ca nô qua nhà thờ cù lao Giêng. Bây giờ thằng Nhật nó cũng vậy, cũng băng qua nhà thờ. Nhật mà cũng biết bơi xuồng, tức thiệt.

- Tối hôm qua anh có đi không?

Anh đưa tay chỉ lá cờ trước cửa bót:

- Cờ tao treo chớ ai. Mầy biết ai chỉ huy không?

Tôi lắc đầu.

- Ba tao với chú Ba mầy - Anh tát vào vai tôi: - Thằng không biết gì hết!

- Hồi hôm, anh Ba tôi có đi với anh không?

- Đi cặp với tao chớ ai! Anh Ba mầy lanh lợi lắm. Con Hai bán cháo cá mà biết nó mê anh mầy dữ lắm, à nghe.

Lần đầu tiên tôi thấy hãnh diện mình là em của anh.

Vẫn có giọng khàn mà sôi nổi với vẻ bí mật khi anh cúi mặt để liếc ngược lên nhìn tôi:

- Tao đố mày sao tao đi đánh xe ngựa?

- Kiếm tiền.

- Ai mà không kiếm tiền, mầy Nhỏ, nhưng tại sao tao đi đánh xe ngựa?

Tôi cũng lại lắc đầu.

- Đố mày chơi vậy thôi, chớ mầy làm sao biết được. Tao nói cho mầy nghe. Chiếc xe của nhà tao là xe của mấy ổng. Tao đánh xe lên xuống là để đi thơ cho mấy ổng. Nhà tao, má tao bán bánh bèo, ba tao đi bắn chim, tiền đâu mà mua xe với ngựa. Ba tao đi bắn chim cũng là đi vô với mấy ổng, chớ có bắn gì bao nhiêu. Đi năm bảy ngày mới được một con. Nè mầy nhớ, độc lập rồi nhưng mà chưa yên đâu, Nhỏ!

- Sao chưa yên?

Anh đưa tay chỉ thẳng qua bên kia sông, hướng nhà thờ:

- Vợ chồng thằng cò Tây với mấy thằng lính Nhật còn ở bên đó. Tao nghe nói mình sẽ đem quân qua bắt nó phải nộp súng đầu hàng, không mình sẽ đánh. Mình bây giờ mầy biết kêu bằng gì không?

Tôi cũng lại làm thinh.

- Việt Minh. Việt Nam độc lập đồng minh hội, dài quá, nhiều người không nhớ, nên gọi tắt là Việt Minh. - Anh đưa quả đấm đấm vào không khí ngay trước trán tôi, vừa như để khẳng định vừa như muốn đóng lên trán tôi hai tiếng Việt Minh.

Buổi nói chuyện giữa anh với tôi chiều hôm đó, tôi như được vỡ lòng về chánh trị.

- Bây giờ mầy làm gì?

- Người ta chê tôi nhỏ.

- Thì mầy nhỏ chớ mầy lớn hồi nào. Nhưng nhỏ làm theo nhỏ. Mầy phải kêu phải rủ mấy đứa con nít lại, họp thành hội thành đoàn, tập ca, tập hát, rồi chờ mấy ông sai cái gì thì làm cái nấy. Không được kêu là con nít nữa, mà phải kêu là thiếu nhi. Tao với anh Ba mầy là thanh niên cứu quốc, còn tụi bây là thiếu nhi cứu quốc.

Sau đó, tôi dẫn con ngựa Ô lại cho anh, chạy tung về nhà. Tôi hỏi chị lúc chị đang lui cui dưới bếp:

- Chị biết chị là gì không chị Tư?

- Là gì?

Tôi hét lên từng tiếng:

- Là, phụ, nữ, cứu quốc!

- Ai nói với em?

- Anh Hoàng con chú Tư Khởi.

- Thiệt hôn?

Chị hỏi ảnh coi.

- Em coi nồi cơm cho chị.

Chị bước ra cửa sau, biến mất. Vậy là tôi với chị tôi, trong cuộc đời này, đã có chỗ rồi, không phải bơ vơ nữa.

Cũng chiều hôm ấy, cái thảo bạt nhà tôi kẻ lên người xuống cứ nườm nượp. Trong những người quen cũ, có thêm một người ít khi đến. Đó là chú Tư Chía làm trại xuồng, cùng xóm với ông Tư tôi. Trong làng hầu như ai cũng biết chú không chỉ vì là chủ trại xuồng, mà vì chiếc xe đạp của chú. Bấy giờ trong làng tôi, người có xe đạp là người khá, người sang. Người có xe nhiều nhất là người ở chợ.

Ở xóm vườn, chú có một chiếc xe đã trội hơn người khác rồi, chiếc xe của chú lại là chiếc xe đẹp nhất, không có chiếc nào sánh bằng. Xe màu vàng, hai cái vành láng bóng, khi chú ngừng đạp, chiếc xe cứ ro ro thật êm tai. Đến đâu, sau khi dừng xe, chú rút cái giẻ nhét dưới đít yên, lau, phủi sạch sẽ rồi mới bước vào nhà, vào tiệm. Chú có một bộ răng hô như cái bàn nạo xấu xí, nhưng xe của chú lúc nào cũng đẹp. Ngay giữa tay cầm, chú gắn hai con bướm bằng thiếc với hai cánh vàng lấm tấm đỏ. Có khi chú cắm cả một cành hoa. Cái tiếng chuông của chiếc xe “kinh coong” nghe rất trong. Chú gọi chiếc xe của chú là con ngựa sắt.

- Coi thì coi, đừng đụng con ngựa sắt của tao nghe bây.

Chú dặn sắp nhỏ đứng vây quanh chiếc xe của chú.

- Ngựa chú biết hí không chú?

Chú đưa tay bóp cái chuông kinh coong.

- Nghe con ngựa tao hí chưa.

- Nó đá được không chú?

Chú đưa chân đá ngược ra sau.

- Nó đá đó.

Đám con nít cười rộ, chú thì hãnh diện với chiếc xe của mình.

Chiều nay, thay vì cắm một cành hoa ở giữa tay cầm, chú cắm lá cờ đỏ sao vàng. Chú chạy từ nhà lên chợ, rồi chiếc xe ro qua một vòng chợ, không phải để khoe chiếc xe mà để cho mọi người được thấy lá cờ trước đầu xe của chú đang bay. Rồi chú đánh vòng xe qua đường, dừng lại trước cửa nhà tôi. Chú vác chiếc xe lên vai, qua cây cầu khỉ. Đi cầu khỉ lại vác xe, không thể đi guốc, chú lột đôi guốc vông để vào cái giỏ bàng, treo ngay cái khuỷu tay. Chú đi giữa cầu thì cha tôi đứng trên thảo bạt nói ra:

- Sao không để xe ở ngoài, tôi cho thằng nhỏ nó coi.

- Đâu được, xe có cắm cờ mà anh Hai.

Dựng chiếc xe vào gốc xoài, lần này chú không rút giẻ lau, mà rút cái cán cờ, bước lên cầu thang.

Tay cầm cờ, tay cầm giỏ bàng, chú nhìn khắp qua cái thảo bạt nhà tôi.

- Anh em đông vui quá. - Chú nói với cha tôi - Mấy lần muốn ghé anh, nhưng cực cái là phải vác xe qua cầu.

- Anh hú tôi một tiếng, tôi cho thằng nhỏ nó ra coi.

- Làm vậy cực quá, nắng nôi.

Chú ngồi vào ghế, thọc cái cán cờ ra sau ót, lá cờ dựng lên phía sau trên đầu chú, như kép hát. Người nào cũng cười, vui lây. Chú lấy từ trong giỏ ra một chai rượu với một cái chung mắt trâu. Chú gọi cha tôi bằng anh, mặc dù trông chú có vẻ già hơn, có lẽ chú già vì gương mặt xương, da rám nắng với hàm răng hô. Cha tôi cũng gọi chú bằng anh. Đặt chai rượu lên bàn xong, nhìn cha tôi, chú nói:

- Hôm nay là ngày chấm dứt đời dân nô lệ. Nước nhà được Độc lập, tôi muốn mời anh em mỗi người một chung rượu. - Chú vừa nói vừa rót, rồi cầm chung rượu hướng về cha tôi:

- Trước nhứt, xin mời anh Hai, người vai vế trong làng.

Cha tôi nhìn chung rượu, lắc đầu và rùng mình:

- Tha tôi đi anh Tư.

Chú nhìn cha tôi rồi nhìn chung quanh:

- Hồi bác Hai còn sống, bác Hai uống rượu bằng tô, còn anh sao anh không uống, không giống lông thì cũng giống cánh chớ, anh Hai.

- Ông già tôi, ổng uống hết phần rượu của con cái rồi, cho nên hai anh em tôi, có đứa nào uống rượu được đâu.

- Ây! Biết vậy, nhưng hôm nay là ngày chấm dứt đời nô lệ, là ngày Độc lập. - Chú dụm mấy đầu ngón tay nâng chung rượu, vẻ trân trọng: - Trong đời chỉ có một lần, cạn đi rồi tôi anh em khác.

Cha tôi rùng mình và xua cả hai tay:

- Cho tôi xin lỗi đi anh Tư!

Chú nghiêng mặt nhìn lại cha tôi:

- Anh có công chớ có lỗi đâu mà xin. Công anh lớn lắm, anh biết không? Tôi nhớ cái hồi năm... hương quản cho lính lục xét nhà anh, lấy được một bó truyền đơn của cộng sản. Không ai nói nhưng tụi tôi biết, truyền đơn đó của anh Ba “cửa tủ” nhưng anh nhận là của anh rồi bán hết vàng hết bạc anh đút cho tụi nó, rồi anh vọt lên Nam Vang, bỏ vợ bỏ con mấy năm trời. Chính vì có công, nên tôi mới dâng rượu cho anh đó.

Nhờ câu chuyện của chú mà tôi hiểu thêm một phần cuộc đời của cha tôi.

- Nhắm mắt ực một cái đi anh Hai.

Chú Ba Giáo đốc vô. Rượu chưa uống mà mọi người đã phấn chấn lên rồi:

- Vô đi anh Hai.

Nhắm không thể chối từ, cha tôi đành cầm chung rượu, ngửa mặt, nhắm mắt, ực một cái, như ực một chung thuốc độc. Ực xong, cha tôi trao cái chung lại cho chú Tư Chía, bước ra cửa, vừa phun vừa nhổ, rồi trở vào, ngồi phịch xuống ghế, mặt đỏ phừng. Lúc ấy tôi mới chợt hiểu là cha tôi không biết gì đến rượu chè. Còn anh tôi, mới mười tám mười chín đã rượu chè be bét rồi.

Sau đó, chú Tư Chía dâng cho mỗi người mỗi chung cho đến cạn cả chai.

Rượu xong, chuyện nổi lên râm ran. Chú Tư Chía ngồi không yên, cái lá cờ phía sau trên đầu chú phật qua phật lại theo câu chuyện của chú.

Chú Ba Giáo cười nửa miệng:

- Nghĩ cho cùng, cũng vì cái dốt mà ra hết. Chữ nghĩa Việt Nam mình có mấy tiếng trài trại giống nhau như: hủy là hủy bỏ, quỷ là ma quỷ, là ngân quỹ, rồi ủy, tức là ủy ban này ủy ban nọ, là một tổ chức để làm việc. Còn chữ dương thì có chữ vương là vua, còn dương thì dương trần, dương thế, hoặc âm với dương, mà dương cũng là dê nữa. Bà con theo đạo Phật giáo Hòa Hảo ở làng mình, có người thì dốt, có người chỉ mới biết đọc biết viết, giỏi lắm thì cũng chỉ tới lớp ba trường làng. Có người không hề đọc được một câu kinh, câu sấm, nghe người khác đọc rồi thuộc lòng. Chữ nghĩa không hiểu, lại nói cũng không rành rẽ, hủy, quỷ, ủy cũng nói là quỷ, vương hay dương cũng nói là dương. Cũng vì vậy mà ai nói xuôi nói ngược gì cũng nghe cũng tin. Cũng có người theo đạo Hòa Hảo có chút chữ nghĩa đã giảng cho tôi như vầy: Cộng sản tức là bọn hủy vương, hủy vương đây có nghĩa là bỏ vua, tức là bọn dân chủ.

Chú Tư Chía bật đứng dậy, đưa tay chém tới:

- Nói vậy tôi nghe được. Mình là dân chủ là bỏ vua, chớ không phải là ma là quỷ. Thôi chú Ba nói tiếp đi, tôi nghe lọt lỗ tai rồi đó.

- Họ nói Cộng sản, tức là Việt Minh bây giờ, yêu nước nhưng theo chế độ dân chủ, còn họ, đạo Phật giáo Hòa Hảo, cũng yêu nước nhưng theo chế độ quân chủ, nước nhà độc lập nhưng phải có vua. Vua là Đức Huỳnh giáo chủ.

Chú Tư Chía lại nói chen vào ngay:

- Đúng vậy.

- Thằng cha Hòa Hảo đó nói vậy còn nghe được.

- Thằng đó có phải đạo điếc gì đâu, tôi quen biết nó lúc còn ở Sài Gòn, là thằng mật thám, chui vô đạo.

- Hèn chi. Cho đến bây giờ họ vẫn còn xầm xì với nhau là khi nào có ba tiếng nổ long trời thì núi Cấm sẽ nứt ra, thành cung điện của nhà vua, và Đức Huỳnh giáo chủ sẽ lên ngai, trị vì thiên hạ.

- Trước đây, họ nói ngày đổi đời thì có quỷ dương đánh với binh tướng nhà Phật, theo cái nghĩa bây giờ tức là mình vái họ sẽ đánh nhau, phải không mấy anh? - Chú Tư Chía hỏi.

Không ai trả lời được một câu hỏi của chú, người này nhìn người nọ, người nọ lại nhìn người kia.

- Biết đâu chừng... - Chú Ba nói lững lờ.

Tự nãy giờ, vì một chung rượu, cha tôi cứ ngồi im, rồi như choàng dậy sau một giấc ngủ, thở dài.

Đâu có ngờ, vì cách phát âm không đúng với chữ nghĩa cũng là mầm mống gây ra không biết bao nhiêu điều tai hại sau này.



------------------------------------------------------------------------------
(1) Súng tiểu liên


Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:46:48 pm
*

*          *

 

Cũng những ngày tháng ấy năm 1945, ở nơi khác, đang vào mùa thu, ở làng tôi thì mùa nước. Đã qua con nước ròng rằm tháng tám (âm lịch). Nước trên con sông Cửu Long đã tràn qua mặt đường, ngập cả sân chợ. Xe hơi từ Sài Gòn không về, xe ngựa từ tỉnh, từ quận, từ các làng cũng không qua lại nữa. Cũng vì đó mà tin tức từ các nơi về mỗi ngày mỗi chậm mỗi thưa.

Buổi sáng, người ta chống xuồng trên con đường đá, ra chợ. Con đường đá của xe chạy đã trở thành con kinh.

Chợ hãy còn nhóm, nhưng tôi không ra chợ. Lội lõm bõm, dơ quần dơ áo mà chẳng được cái gì. Nước đã ngập lên sân nhà, cây cầu khỉ trước cửa chỉ còn cây vịn, một cây sào treo theo cột, con cầu thì cũng đã ngập rồi.

Tôi ngồi trên thảo bạt trên cầu thang, móc mồi, buông cần, câu những con cá đang nhởn nhơ, dưới bóng mát cây xoài. Tôi không câu được con nào lớn cũng không câu được con đáng tiền, tôi chỉ câu được cá lòng tong, cá chốt, may lắm mới câu được he vàng bằng ba ngón tay. Nhưng cái thú vui ngồi câu thu hết tâm trí tôi. Con cá nào đang rỉa mồi đây, sợi nhợ đang căng và cái cần đang gây cho bàn tay một cảm giác như điện giật. Tôi vừa nương tay theo nó thì cha tôi gọi giật tôi:

- Minh!

- Dạ!

- Bỏ đó, chạy ra chợ coi ai bị bắt.

Ngước nhìn lên, tôi thấy có một đoàn người quần áo màu dà bị giải qua cửa bót cò cũ.

Tôi nhảy xuống, nước ngập đến gối, tôi đi theo cây cầu ngầm, qua con đường đá. Con đường trước nhà tôi mới đắp, và cũng là đoạn qua cầu sắt, cao như một cái dốc, nước mới lé đé hai bên lề. Mọi năm, cái dốc đường này cũng sẽ ngập khi nước chan đồng. Và khi cái dốc này bị ngập cũng là nước sắp rút trở về sông.

Tôi chạy ra đến đầu phố. Chợ đang nhóm bằng xuồng trên sân chợ. Ở chợ có cái gì lạ, người trong phố cũng đổ ra, dòm ngó, bàn tán.

Hơn hai mươi người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tay bị trói bằng dây luộc, người này chuyền qua người kia thành hai hàng, đi giữa là một chiếc xuồng toàn đao kiếm. Họ lội nước trên sân chợ, nước ngập đến gối, đến bụng, trước bao nhiêu cặp mắt dòm ngó tò mò và những tiếng xì xào khiến họ cúi gằm mặt, sợ sệt, xấu hổ và căm giận. Ông Tư tôi đi đầu, bên mũi xuồng, chú Nguyễn Đa Điền đi sau cùng bên lái xuồng. Họ bị bắt cùng với vũ khí, bị giải vào trụ sở ủy ban, trước là nhà việc của làng. Tôi biết trong nhà việc có một trại giam. Ai bị đưa vào đó sẽ bị đóng trăn (1).

Khi tôi chạy trở về báo cho cha tôi thì cha tôi nhìn tôi như chính tôi là thủ phạm khiến tôi vừa lui vừa cúi mặt.

- Có thấy thằng cha hương quản không?

- Dạ không.

Bất thình lình, ông hét vào mặt tôi:

- Dòm kỹ không.

- Dạ... dạ, kỹ.

Cha tôi quay vào, kêu to.

- Trí đâu?

- Dạ.

- Chạy kêu chú Ba mầy về, tao hỏi.

Biết là việc quan trọng, và mỗi khi cha tôi đã nổi nóng thì trong nhà không ai dám cãi, anh tôi từ trong nhà vọt ra, chỉ mặc một cái quần cụt, anh không dám trở vào nhà mặc áo, cứ để lưng trần, từ trên thảo bạt nhảy ùm xuống cái sân nước, qua cầu lên con đường đá, chạy đi. Chú tôi vẫn ở trên xóm Cột dây thép, nếu không gặp xuồng quá giang, anh phải lội nước trên một cây số.

Vì sự đi lại khó khăn, và ai cũng có việc, nên bạn bè của cha tôi ít đến chơi. Cái thảo bạt nhà tôi, sáng nay, chỉ có cha tôi. Nước đang chảy qua dưới sàn nhà mà chân cha tôi như đạp lửa. Cha tôi đứng ngồi không yên, chốc chốc lại đưa tay cuộn cái xà rông kéo lên bụng, như sợ nó tụt xuống vậy. Đôi mắt của cha tôi vốn đã sâu, lúc ấy tôi thấy như sâu hơn với đôi chân mày đang nhíu lại. Tôi biết cha tôi đang bực bội, và ông có thể nổi nóng với con cái trong nhà. Đứng xớ rớ một lúc rồi tôi xách cái cần câu ra sau hè. Chị tôi đang lúi húi dưới bếp, hỏi:

- Chuyện gì mà cha la hét vậy?

- Ông Tư với chú Điền bị bắt.

- Sao vậy?

Tôi lắc đầu và lại ngồi câu cá. Tôi câu chưa được con nào thì cha tôi gọi:

- Con đứng đó cha nói cho nghe.

Cha tôi ngồi dựa lưng trên ghế, điếu thuốc cầm tay, chỉ cái chỗ đứng cho tôi, trước mặt ông.

- Theo ý cha, mình không nên bắt người ta. Làm vậy, chỉ gây thù gây oán, sau này gỡ không nổi. Con hiểu chưa?

Tôi không có một nhận định gì trong đầu, tôi vẫn dạ.

- Dẫu sao, trước là bà con trong dòng họ, sau là đồng bào. Với nghĩ cho cùng, ông Tư với chú Điền của con đâu có phải là người xấu, chẳng qua là vì dốt, vì nhẹ dạ mà tin lời đường mật của kẻ khác. Cha giận ông Tư con, giận thì giận vậy, nằm đêm gẫm lại, cha thương ông Tư con lắm. Hồi cha bỏ nhà, trốn lên Nam Vang, nếu không có ông Tư con thì mấy con, nhứt là con lấy đâu mà nương tựa. Chú Điền con cũng vậy, lúc má con đau ốm, ai đã chèo chống đưa má con đi. Bữa nay cha nói với con vì cha thấy con không còn nhỏ nhít gì nữa, không nên hùa theo người khác, con nghe chưa?

- Dạ.

Có lẽ vì không còn ai, nên ông trút nỗi bất bình lên đầu tôi, biết vậy, tôi đứng im. Tôi nhớ, sau Cách mạng tháng Tám được mấy ngày, ông chủ tịch quận đi chiếc xe hơi màu đen đậu lại bên đường, trước cửa nhà tôi. Ông chủ tịch quận ấy, tôi gọi bằng bác, bác Sáu Thẩm, người thợ mộc ở xóm Cột dây thép. Nghe cha tôi nói, bác đã hoạt động từ thời còn thầy Châu Văn Liêm. Suốt một cuộc đời vào tù ra khám, bác đã từ nhà tù Bà Rá trở về, là người trong ban lãnh đạo ngày cướp chánh quyền của quận nhà. Bác hơn cha tôi vài tuổi, tóc hoa râm, vừa thấp vừa mập, người bác tròn trịa, gọn gàng. Ông nội tôi, qua tấm ảnh trên trang thờ, với bộ ria củ ấu của ông, trông ông dữ quá. Còn bác Sáu Thẩm, bác cũng để ria nhưng ria dấu ớ (^), trông bác vừa hiền vừa dí dỏm, bộ ria của bác làm cho tôi vui mắt. Tôi có cảm tưởng rất kỳ lạ, nếu bác không để ria thì bác sẽ trở thành một người khác, và không thể làm ông chủ tịch quận. Bác mặc bộ đồ tây màu xám tro, đi giày đen. Dù đi giày - hai bàn chân cứng ngắc - bác qua cầu khỉ nhà tôi vẫn thoăn thoắt, không cần phải đưa tay vịn.

Cha tôi đón bác từ đầu cầu thang. Hai người chơi thân đến cỡ nào, tôi không được biết, nhưng thấy hai người vừa bắt tay vừa vỗ vai với nụ cười rạng rỡ, tôi bỗng cảm động lây.

- Năm ở Bà Rá tao nhớ mầy quá, Hai.

- Tôi lo cho anh quá, không ngờ anh còn khỏe được như vầy.

- Nhờ có cái vỏ, còn bên trong thì cũng rệu lắm rồi, Hai.

Quay qua thấy tôi, bác hỏi:

- Thằng thứ mấy đây, Hai?

- Thứ năm.

- Học lớp mấy rồi, cháu?

Tôi khoanh tay thưa:

- Dạ, học hết trường quận.

Bác nhìn tôi, nhếch cái bộ ria lên cười:

- Đi theo bác, bác sẽ cho đi học ở Liên Xô, chịu không?

Dù nói đùa hay nói thật, lời của bác cũng đã để lại trong tôi một niềm mơ ước. Tôi vừa cúi đầu vừa cười đáp lại bác.

Bác kéo ghế, ngả lưng vào ghế, thở phào một hơi dài:

- Nhớ hồi còn thầy Châu Văn Liêm, hai anh em dẫn đội banh đi hoạt động khắp nơi, cái thời trai trẻ, vui quá, mới đây mà đã mười lăm năm, bây giờ gặp lại, đứa nào tóc cũng hoa râm.

- Anh Sáu đi đâu ghé qua đây, hay là đến thăm tôi để có việc gì, anh Sáu?

Bác Sáu lại nhếch cái bộ ria vừa cười vừa ngả người ra sau:

- Mầy hỏi vậy là đoán đúng ý tao đó. Hai, tao ghé thăm mầy là có việc.

- Tôi biết công việc của anh lúc nầy bận rộn lắm mà.

- Lúc mình hoạt động, mình mơ tưởng sẽ giành lại đất nước, bây giờ giành được chánh quyền rồi, anh em phân công mình làm chủ quận, mình thấy sao lu bu quá. Có xe có cộ mà không sao đi thăm được bạn bè. Thôi, mầy đã hỏi thì tao nói. Anh em mình ở quận cũng như ở xã đã bàn với nhau, cử tao đi thăm mầy, và mời mầy ra làm chủ tịch xã nhà.

Tôi ngồi tựa cửa, phía sau lưng cha tôi, nghe nói vậy, tôi mừng quá. Vậy là cha tôi sẽ ra làm chủ tịch. Nhưng cha tôi vẫn làm thinh không nói.

- Sao, mầy thấy sao?

Cha tôi vẫn làm thinh. Tiếc rằng tôi không thấy được gương mặt của cha tôi lúc ấy, tôi chỉ thấy cái gáy và lưng tôm của người thợ bạc lâu năm.

- Sao? - Bác Sáu Thẩm lại hỏi.

Cha tôi khẽ lắc đầu, và giọng của cha tôi nghe khác hơn giọng nói thường ngày, không to, không nhỏ, vừa đủ nghe và chậm rãi từng lời:

- Việc này nên để cho anh em khác, anh Sáu. Nên để cho người anh em có công trạng, đúng hơn tôi.

Cái bộ ria của bác Sáu Thẩm lại nhếch lên, bác cười:

- Mầy đâu phải là người không có công?

- So với anh em vào tù ra khám thì nhằm gì.

- Mỗi người mỗi việc, Hai à. Số anh em đó, như thằng Ba “cửa tủ” em mầy, xứng đáng, nhưng làm ở bên trong, phải chỗ hơn. Còn cái ghế chủ tịch thì phải là người có tiếng ở trong làng, được nhiều người thương. Được chưa?

Nghe bác nói vậy, tôi tưởng là cha tôi xiêu lòng, không ngờ cha tôi lại cương quyết hơn:

- Không được đâu anh Sáu. Tôi biết sức tôi mà. Làm chánh trị khó lắm. Nhờ anh nói lại với anh em cho tôi được như từ trước đến nay. Tôi nhớ, hồi đó, tôi có thể đứng đầu một đội banh của anh em, chớ không thể đứng đầu một cái làng. Trong sân banh, tôi vừa là thủ quân, vừa là cầu thủ, nhưng trên sân khấu chánh trị thì tôi không đủ sức làm việc nầy. Tôi không làm một cầu thủ nhưng vẫn coi đội banh là đội nhà, tôi đứng ngoài, tôi lượm bóng, tôi cổ võ. Đội banh được nhiều người cổ võ, đội banh cũng thêm mạnh chớ anh Sáu. Không lẽ tất cả đều ùa vô sân. Người cổ võ cũng buồn vui khi thắng bại, có khi lại cay cú hơn người trong sân nữa là đằng khác, phải không anh?

- Hai, mầy nói vậy, tao chẳng biết nói sao.

Bác Sáu Thẩm, ông chủ tịch quận, nheo mắt nhìn cha tôi, bộ ria nhếch lên, để lộ một bên răng, nhưng không phải cười, và cái ngón tay trỏ của bác gõ xuống bàn từng tiếng đều đều như tiếng tích tắc của cái đồng hồ.

Như sực nhớ điều gì, cha tôi quay lại, thấy tôi ngồi nhóng mỏ nghe, ông hất mặt:

- Con vào nhà chơi!

Đó là lần đầu, ông không muốn cho tôi nghe chuyện giữa ông với khách. Tôi lẳng lặng vào trong, đi xuống bếp.

Chị tôi đang khom người thổi bếp lửa, chị quay lại:

- Cha không làm đâu.

Nói vậy rồi chị quay vào bếp, thản nhiên.

- Sao chị biết?

- Tánh của cha.

Hóa ra chị tôi biết tánh của cha sâu hơn tôi.

Câu chuyện giữa hai người trên thảo bạt tôi không được nghe tiếp, chỉ biết vài hôm sau, một thầy giáo dạy trường tư ở xóm kinh bên kia cầu sắt ra làm chủ tịch, ông cũng trạc tuổi cha tôi, người dong dỏng cao, hay đeo kính mát màu lá non.

Nhớ lại chuyện ấy, tôi bật hỏi lại cha tôi:

- Sao cha không làm chủ tịch?

- Ý con muốn nói, nếu cha làm chủ tịch thì cha không bắt ông Tư với chú Điền của con chớ gì?

- ...

- Nếu cha làm chủ tịch thì cha cũng phải bắt thôi. Vì bắt mấy người theo đạo Hòa Hảo không phải tự ý của một người. Bắt là phải có lịnh trên, không của tỉnh thì của quận. Dầu không muốn cũng phải thi hành lịnh trên. Khó vậy nên cha biết cha không làm được. Tánh của cha, cái gì cha thích cha mới làm, tánh của cha dở vậy. Với lại, con cũng thấy, nhà mình đó, thằng út mới hai ba tuổi, thằng Tám mới năm sáu tuổi, con Sáu mười, mười một, con mười ba mười bốn, chị Tư con mười sáu mười bảy, anh Ba con mười chín hai mươi, có đứa nào lo được miếng ăn. Nêu cha ra làm việc, cha bỏ mấy con ở nhà cho ai?

Nhìn đôi mắt vốn nghiêm khắc đang đượm một nỗi buồn của cha tôi, tôi bỗng thấy mủi lòng, rơm rớm nước mắt.

Cha tôi lại ngước mắt nhìn ra đường, càu nhàu, sốt ruột:

- Cái thằng, sai đi một chút, rồi đi biệt.

Không thể ngồi chờ, cha tôi quay vào nhà, thay chiếc xà rông, mặc quần tây dài, nhưng lại xắn đến gối, lội qua cây cầu khỉ. Lên tới đường ông xả quần, rồi tất tả đi. Trong nhà cha tôi thường mặc xà rông, ra đường thì áo quần lúc nào cũng chỉnh tề, không xuềnh xoàng như những người thợ bạc khác.

Tôi lại ngồi câu cá. Cha tôi bỏ cơm trưa, mãi đến xế chiều mới về.

Ông lại thay quần, mặc xà rông, áo thun lá, ngồi dựa ghế hút thuốc, ngóng ra đường.

- Từ sớm tới giờ có ai hỏi cha không?

- Dạ không. Cha không gặp ai sao?

- Nghe chú Ba mầy bận họp, cha mới đi rải qua mấy xóm. Trở về chỗ trụ sở ủy ban, nước lên tới gối mà người ta cứ đứng vây quanh, không nghe gì, không thấy gì, mà hết người nầy đến người khác cứ lố nhố dòm vô, kỳ quá.

- Chú Ba về! - Tôi reo lên, vui lây với nỗi chờ đợi của cha.

Một chiếc xuồng có cắm cờ, anh tôi bơi lái, trong xuồng có chú tôi và cả chú Ba Giáo.

Chiếc xuồng cặp sát bên cầu thang. Hai người vừa bước lên thảo bạt, chưa kịp vào đến ghế, cha tôi đã hỏi:

- Có chuyện gì mà bắt người ta vậy Ba?

- Chắc cũng phải có chuyện gì chớ anh Hai. - Chú Ba Giáo mau miệng trả lời thay cho chú tôi.

Chú tôi trông hốc hác và già đi nhiều, mái tóc của chú lại nhiều sợi bạc hơn tóc của cha tôi. Chú ngồi vào ghế, hai tay đan vào nhau, với đôi mắt hốc hác và buồn rầu, nhìn ra mặt nước trước nhà, giọng của chú chậm rãi, lạnh lùng:

- Mình ở xa, lại nhằm mùa nước, tin tức với báo chí về hơi chậm. Chưa yên! Thực dân Pháp dựa thế Đông minh, đang lăm le đánh chiếm đất nước thì họ muốn giành lấy chánh quyền. Ở Cần Thơ vừa xảy ra một cuộc xung đột đổ máu giữa nhóm Hòa Hảo của Năm Lửa với anh em đằng mình.

Cha tôi như giật mình, quay mặt nhìn lại chú tôi:

- Có đổ máu?

- Đổ máu rồi, anh Hai. - Chú Ba Giáo lại nhanh miệng trả lời thay cho chú tôi. Chú tôi vẫn buồn rầu với giọng nói lạnh lùng chậm rãi:

- Các nơi họ đang rục rịch, định nổi dậy, đành phải giữ họ lại. Anh thử nghĩ có cách nào hơn?

Tôi tưởng, khi gặp lại chú tôi, cha tôi sẽ nổi nóng. Bây giờ, qua mấy lời của chú, cha tôi chỉ lắc đầu, thở dài và tắc lưỡi:

- Rối quá! Bậy quá! Độc lập rồi, đất nước đã có Cụ Hồ, chưa muốn, còn muốn gì nữa?

Chú Ba Giáo đang làm trưởng ban tuyên truyền của xã, công việc này thật hợp với cái tài ăn nói của chú. Gương mặt của chú càng ngày càng sáng với cái mũi thanh tú của chú. Có khác hơn ngày thường, chú ăn mặc giản dị hơn, người cao ráo với bộ bà ba đen, chiếc khăn rằn quấn qua cổ. Vẫn nhẹ nhàng, vui vẻ, chú nói:

- Đối với Huỳnh Phú Sổ, mình vẫn chủ trương đoàn kết, đã mời ông ta vào ủy ban hành chánh Nam Bộ, từng ấy tuổi với chức vụ như vậy, đâu phải nhỏ. Nhưng vì cái mộng làm vua nên mới ra nông nỗi nầy, đã gây ra biết bao tai họa cho tín đồ, vì cuồng tín, họ đâu có biết. Cái đạo của ông ta bây giờ chia làm bốn khối: Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ, cả bốn tên đều là dân bất hảo, là dân đứng bến xe, dân trộm, dân bán thịt heo và lính mã tà. Không có một người nào coi được. Nếu vừa rồi, anh ra ngồi ghế chủ tịch, anh cũng ký giữ họ lại thôi anh Hai.

Chú tôi với chú Ba Giáo đang cố gắng nói sao cho cha tôi thấy việc bắt giữ ông tôi, chú tôi và những người theo đạo Hòa Hảo là phải. Chẳng biết cha tôi có xuôi theo hay không mà vẫn ngồi im. Rồi cả ba vẫn cứ ngồi im hút thuốc, mỗi người đeo đuổi theo ý nghĩ riêng của mình. Không khí im lặng nặng nề quá, tôi cứ phải ngồi im, không dám làm gì gây ra tiếng động.

May sao, có người đến: chú Tư Chía. Chú đi xuồng, chú bơi lái, trên xuồng vẫn chở theo chiếc xe. Chú Ba Giáo nhanh miệng:

- Đi xuồng mà chở xe theo làm gì vậy anh Tư?

Chú vừa rà mái dầm cặp xuồng vừa đáp:

- Có chỗ nào khô thì mình lên xe, vật bất ly thân mà. Có thằng Ba “cửa tủ” ở đây, may quá.

Chú bước lên thảo bạt nhà tôi, giọng vang vang đắc thắng:

- Chú Ba mầy thấy, xóm của tao làm như vậy có gọn không?

- Thằng hương quản, người đáng bắt sao không bắt? - Cha tôi hỏi.

- Bắt được nó thì còn nói gì nữa, anh Hai, nó trốn rôi.

- Người đáng bắt thì không bắt được - cha tôi lại tắc lưỡi.

Chú Tư Chía cũng lại tắc lưỡi tiếc rẻ:

- Trời ơi, sao mà họ ngu quá, tôi không hiểu. Một thằng hương quản chuyên bắt Cộng sản nộp cho Tây, mà bây giờ, họ chịu để cho làm Trưởng ban trị sự đạo, lại nghe lại tin nó. Tôi đã tính sẵn trong bụng, bắt được nó, tôi sẽ kêu bà con đạo Hòa Hảo tụ họp lại, tôi sẽ đưa tay, tôi gỡ cái đầu tóc giả của nó cho bà con thấy. Người ta tu, người ta để râu để tóc, còn nó thì nó bới đầu bằng tóc mượn. Giả, giả chịu không được.

Chú Ba Giáo ngửa mặt cười đắc ý:

- Đúng là đội lốt theo cái nghĩa bóng cũng như nghĩa đen.

- Nó trốn đâu? - Cha tôi hỏi, sốt ruột và bực dọc.

- Biết nó trốn đâu thì còn nói làm gì. Trời nước mênh mông vầy, nó có trốn đằng trời cũng không thoát. Rồi tôi sẽ cho dậm như dậm cù, trước sau gì cũng lòi ra. Chuyện của nó đâu còn có đó. Tôi lên đây là để hỏi chú Ba, mình sẽ giải họ đi hay là sao nữa?

- Trên tỉnh trên quận, chỗ nào cũng đầy hết, giải đi đâu, cứ giữ họ lại, chờ lịnh trên.

- Còn một việc nữa. Tôi đã “loa” đi khắp xóm, lịnh cho họ phải nộp vũ khí, người nào không nộp coi như có ý đồ đen tối. Tôi cũng lịnh, từ nay không được treo cờ dà nữa. Tổ quốc Việt Nam ta chỉ có một lá cờ đỏ sao vàng mà thôi. Tôi lịnh vậy, mấy anh thấy sao?

Tôi thấy chú Tư Chía có vẻ thích cái tiếng “lịnh” lắm, tiếng “lịnh” nào chú cũng nhấn mạnh với cái đầu gật xuống, như là hễ nghe đến lịnh thì phải cúi đầu vậy.

- Cứ làm theo lịnh ủy ban, anh Tư - chú tôi nói.

- Có được một ông chủ tịch ấp như anh trong lúc nầy thật xứng đáng - cha tôi nói thật hay nói mỉa, tôi không hiểu, chỉ thấy mặt chú ửng lên, sượng sùng.

Hai chiếc xuồng xô ra, bơi đi rồi, cha tôi vẫn ngồi yên, không vui.

Ông Chín Hết lại bơi xuồng tới, bộ râu nón đỏ loe hoe.

Ông vừa buộc xuồng vừa hỏi cha tôi.

- Nghe gì chưa Hai?

- Cậu lên đây, chắc là chuyện cậu Tư với thằng Điền? Tôi có nghe.

Ông không lên ghế mà ngồi bệt xuống ván, hai tay khoanh lấy gối, trông thật buồn bã. Cha tôi cũng phải xuống ghế, ngồi cạnh bên.

- Cậu định đi tìm thằng Ba, nói với nó, đối với cậu Tư, dù sao cũng là bà con dòng họ, làm gì cũng nên nương tay. Còn thằng Điền, trẻ người non dạ, lại là con ngựa non háu đá, ai sai gì làm nấy, nó có biết cái gì. Còn vụ này nữa Hai, ngặt quá. Tao theo đạo Hòa Hảo hồi nào đâu, nhưng vì tao cũng để râu để tóc, lại là cha thằng Điền, mấy ông cũng coi tao là Hòa Hảo, bắt tao phải nộp vũ khí. Đao kiếm của thằng Điền họ tịch thu hết, tao có gì mà đem nộp. Tao nói vậy mà không nghe, cứ nói là tao còn mưu đồ đen tối. Túng quá, tao phải đem con dao ra nộp, mấy ông nói, con dao làm cá chớ không phải vũ khí, tao biết làm cách nào. Cũng có người, họ là Hòa Hảo thiệt, nhưng họ không có vũ khí mà cũng bắt họ phải nộp, tao nghe có người định đi mướn thợ rèn, rèn một cái đế đem nộp đó, Hai!

- Có chuyện vậy nữa!

- Ừ... ừm. Không ai được yên. Cậu lên đây để nhờ thằng Ba với mầy, nói với mấy ổng cho cậu một tiếng.

- Như vầy, cậu coi có được không. Sáng mai, cậu lên đây, tôi với cậu lên quận. Tôi muốn gặp anh Sáu Thẩm.

- Cần gì phải về rồi lại quay lên. Đêm nay tao ngủ đây, sáng hai cậu cháu mình đi sớm, tiện hơn không.

- Tôi sợ mợ Chín ở nhà trông cậu.

- Cậu đi cậu nói, chừng nào xong chuyện cậu mới về.

Cha tôi quay vào bảo tôi:

- Vô hỏi chị Tư mầy, nhà còn gì ăn, nấu cơm cho ông Chín.

Ông tôi khoát tay:

- Thôi! Mắm muối gì ăn cũng được. Nè con, trong nhà có cái mùng cũ, mùng rách gì không, đem ra đây, mấy ông cháu mình bắt cá.

- Dạ, có - nghe bắt cá là tôi muốn nhảy cẫng lên rồi. Cái mùng ông tôi căng ra, để dưới mặt nước, rồi rải lên một nắm cám. Nghe mùi cám, một bầy lòng tong kéo tới, bu đầy, vừa đớp, vừa giãy.

- Nè, dỡ!

Ông một đầu, tôi một đầu, dỡ cái mùng tung lên mặt nước. Ôi! Cá không biết bao nhiêu con, nó nhảy, nó nhảy đến văng cả những cái vảy bạc, sáng lấp lánh trên tấm vải mùng.

Câu chuyện của người lớn, dù không hiểu được bao nhiêu, tôi vẫn thấy nặng nề. Bấy giờ, được trầm mình dưới dòng nước mát lạnh, vừa chơi vừa bắt cá với ông, tôi bỗng thấy nhẹ nhàng. Và buổi cơm chiều, có cá lòng tong kho tộ, bữa cơm sẽ ngon lành.



--------------------------------------------------------------------------------
(1) Cùm


Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:49:43 pm
*

*          *

 
Ông Chín đưa cha tôi lên quận bằng chiếc xuồng theo con nước trên lòng đường lúc gà gáy. Tôi không thể biết cuộc gặp gõ giữa cha tôi với ông chủ tịch có bộ ria dấu ớ ra sao; chỉ biết, buổi chiều khi cha tôi trở về, tôi thấy ông không lầm lì, đăm chiêu nữa. Ông Chín thì xoa đầu và hôn tóc mấy đứa em tôi và hôn cả tôi nữa. Thấy ông vui, tôi lại lấy cái mùng ra, rủ ông bắt cá, ông cười. Nụ cười của ông thật ngộ, như một cái hoa nở ra trong cái đám cỏ râu ria của ông.

- Bữa khác. Ông về liền, bà Chín bây mong. - Rồi ông xô xuồng bơi đi, không chịu ăn cơm chiều.

Sau đó mấy hôm, ông Tư và chú Điền tôi cùng với những người bị giam giữ trong trụ sở Ủy ban được trở về. Rồi cũng vài hôm sau, lúc sáng sớm, cô Hai Thảo bơi một chiếc xuồng chở nào dừa, nào gạo, mắm muối với vịt gà cặp lại nhà tôi.

- Đi chợ về hay ra chợ bán đó Hai? - Cha tôi hỏi.

Cô Hai đưa tay quẹt cục thuốc để qua bên mép:

- Không đi chợ mà cũng không đi bán. Mấy đứa nhỏ đâu, bảo nó đưa lên nhà.

- Có chuyện gì vậy Hai?

- Thì cứ bảo mấy đứa nhỏ đưa lên rồi em nói.

Cha tôi đưa chân giữ cái mũi xuồng.

- Chuyện gì thì nói đi chớ. - Giọng cha tôi hơi gắt.

- Có chuyện gì đâu anh. Bà con người ta nói nhờ anh lên quận mà chồng con mới được thả về. Mỗi người một ít, gom lại, nhờ em mang lên, để cám ơn anh.

- Bậy! Ai nói? Nói lại với người ta là tao với cậu Chín có lên quận, nhưng không phải nhờ tao, tao lên đến nơi thì quận đã xét kỹ, đã cho lịnh thả rồi.

- Anh nói... chuyện đó làm sao biết, bà con người ta nhờ em thì em chở lên cho anh.

- Đem về đi. Nói với bà con, nếu muốn cám ơn, thì đem lên ủy ban, cho mấy anh em làm việc, người ta cực khổ.

Mặt cô Hai tôi tiu nghỉu:

- Anh sao khó quá.

- Thôi, đừng nói thêm, bơi về đi.

Sẵn chân để trên xuồng, cha tôi đẩy cái mũi xuồng bung ra, rồi quay vào, vẻ bực bội.

Tôi biết, khi cha tôi không vừa ý hoặc nổi giận thì trong bà con dòng họ kể cả bạn bè, không ai dám trái ý. Chiếc xuồng bơi đã xa và khuất mất. Một lát sau, khi cha tôi ra chợ uống cà phê sáng, thì cô Hai cho xuồng cặp lại sau hè, dưới bếp. Cô gọi hai chị em tôi:

- Cha bây đi chợ rồi phải không?

- Dạ!

- Nè, hai đứa mang lên cho cô về.

Chị tôi lắc đầu:

- Không được đâu cô Hai, cha cháu thấy, cha cháu đánh chết.

Cô nhíu mày khó nghĩ:

- Cha bây rượu không biết uống mà giống y như ông nội bây. Người ta cho gì cũng không lấy. - Rồi cô trợn mắt nhìn hai chị em tôi, lấy quyền của người cô, bảo chúng tôi: - Tao nói phải nghe lời, biết chưa?

Giọng cô lại dịu xuống, nài nỉ:

- Người ta biếu mà không nhận, tội lắm, nghe mấy con. Cô tính như vầy: dừa với gà vịt cô mang về, mấy thứ nầy, nước lênh láng, không có chỗ giấu, còn gạo, nếp với mắm, mấy con cất dưới bếp. Gạo nào cũng gạo, mắm nào cũng mắm; cha bây là thánh hay sao mà cái gì cũng biết.

Cô vừa nói vừa ném bịch gạo, bịch nếp và mắm lên sàn bếp nhà tôi.

- Cha bây, kêu vô đạo không vô, đã đành, đến lúc người ta mời ra ngồi ghế chủ tịch, cũng không ngồi. Người đâu có người kỳ cục. Thôi đem cất đi, cô về.

Trên xuồng còn lại mấy quầy dừa với gà vịt, cô bơi đi. Lần đầu, cô đến nhà tôi mà không nói chuyện đạo. Nhìn theo cái luồng nước của chiếc xuồng cô bơi đi, tôi thấy thương cô. Cô không còn là người say đạo với đôi mắt long lên và miệng “xoen xoét” những câu chuyện rùng rợn, vừa sợ vừa buồn cười nữa. Và cũng tội nghiệp cho chị tôi, bữa cơm sáng hôm đó, sợ cha tôi biết, chị tôi xúc gạo nhà với gạo người ta cho nấu chung.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:52:40 pm
*

*       *

 
Nước rút. Lạ quá. Mặt đất, sân nhà, con đường và cánh đồng vẫn nguyên như vậy mà sao nước cứ chảy ngược ra như có ai đưa tay nghiêng cái mặt đất của làng cho nước trở ra sông, trôi về biển. Mặt đất của sân nhà với cây cầu khỉ bắc qua kinh mỗi ngày mỗi hiện dần lên, khi tôi nhìn thấy được cây cầu thì cái sân nhà tôi vừa được tráng qua một lớp hạt phù sa màu đất hồng lên như miếng thịt tươi non, nhìn thấy cái màu đất ấy, tự dưng ta muốn trồng xuống một cái gì.

Khi con nước trở lại mặt sông, cái con đường lầy lội lại khô dần với ngọn gió từ xa thổi về. Ngọn gió lao xao qua các vườn cây, la đà vuốt qua đầu ngọn cỏ, ngọn gió rì rào suốt đêm ngày, như tiếng của một dòng suối đang dội về. Làng tôi gọi mùa gió này là mùa gió chướng. Với con gió chướng, các cánh buồm trên sông đều căng lên, ngược xuôi cả hai chiều. Buồm căng nghiêng qua một bên be, chạy giác theo con gió. Buồm xanh, buồm đỏ lô nhô trên sông như một bầy bướm.

Mùa này, dù không xuống chơi, tôi vẫn biết ông bà Chín tôi đang soạn đất trồng dưa hấu để đến Tết bán cho dân làng, đem chưng trên bàn thờ cúng ông bà.

Xe đò từ Sài Gòn lại trở về trên con đường đá vừa ráo nước. Trẻ con đổ ra đường ngửi lại mùi xăng, người lớn chạy ra bến lấy báo, đón tin. Chiếc xe Ưng Ký với nước sơn màu vàng cũ kỹ, mang theo bùn đất của con đường dài, chạy trên con đường đá lởm chởm, nặng nề với một tin dữ: quân xâm lược Pháp đang đánh chiếm Sài Gòn. Tiếng súng kháng chiến đã nổ rồi.

Mùa thu rồi! Ngày hăm ba. Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...

Tiếng hát vang lên từ trong lồng ngực của mỗi người.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:53:44 pm
*

*          *


Ông ủy viên quân sự đầu tiên của chánh quyền Cách mạng ở làng tôi có một bộ vó - như người ta nói - đúng là con nhà tướng. Ông vốn là chủ tiệm cầm đồ, ở phố có lầu, và cũng là người đứng đầu của Thanh niên tiền phong, được gọi là ông thủ lĩnh. Trước ngày làm thủ lĩnh, ông thường mặc quần “sọc”, áo thun lá, bên hông lúc nào cũng có một chùm chìa khóa rổn rảng. Khi ông làm thủ lĩnh Thanh niên tiền phong, ông mặc đồ Thanh niên tiền phong, đầu đội nón bàng, dẫn đầu đi “một hai”. Khi ông làm ủy viên quân sự, ông tự may cho mình một bộ quân phục riêng, đặc biệt, không ai có. Quần tây dài bằng vải ka ki có hai viền chỉ đỏ chạy hai bên. Áo sơ mi, vai có hai con đỉa. Đầu đội ca lô vàng và cũng viền vải đỏ. Sợi dây nịt da, bao súng không đeo bên hông mà đeo ngay giữa bụng. Bên hông vẫn cái chùm chìa khóa của các thứ tủ trong tiệm cầm đồ. Hằng ngày ông làm việc trong bót cò cũ, được đổi lại là cơ quan quân sự.

Từ đó, ông ra lịnh cho toàn dân:

- Một, không nhà nào được giữ cờ tam sắc. (Tất nhiên là vậy).

- Hai, không được giữ bất cứ thứ gì có đủ ba màu: xanh, trắng, đỏ.

- Ba, không được nói tiếng Tây.

Có một bà bưng một rổ ớt ra chợ bán, trong rổ có ớt đỏ, ớt xanh và ớt không hẳn là vàng cũng không hẳn là trắng, ông cũng truy là cờ tam sắc, bắt phải để riêng ra và chỉ được bán cho mỗi người một màu. Ông nổi tiếng vừa oai vừa nghiêm khắc.

Mỗi chiều, từ trong nhà cơ quan quân sự, ông bước qua con đường tráng nhựa, đến bãi tập. Bãi tập vốn là bãi cỏ dành cho ngựa, trước cửa nhà tôi.

Ông tập cho thanh niên bồng súng, chào súng, tập đi một hai. Tiếng ông hô vang tận đến bên nhà tôi. Anh tôi cũng đẽo một cây súng giả, chạy qua cây cầu khỉ.

Anh đứng lớ ngớ, và không hiểu ông ủy viên quân sự nói gì mà anh vác súng trở về qua cây cầu khỉ, mặt tiu nghỉu. Cha tôi đứng trên thảo bạt, hỏi vọng ra:

- Sao về?

Anh tôi bước vào sân, ném cây súng gỗ xuống đất, nói như khóc:

- Thằng chả không cho tập.

- Sao?

- Bắt phải may đồng bộ.

Cha tôi không nói gì, chỉ cười một bên miệng.

Anh tôi vừa bước lên cầu thang vừa càu nhàu:

- Chẳng có công gì mà làm tàng. - Rồi anh ngồi phịch xuống ghế, nói với cha tôi: - Cha biết không, cái đêm cướp chánh quyền, chú Khởi chỉ huy, còn con thì làm lính, thằng chả thì ngủ khò.

Tôi biết, anh tôi không chỉ giận ông ta không cho tập, mà còn giận một chuyện khác nữa. Trước đây, những lúc cần tiền ăn xài, anh tôi đã lấy cắp đồ trong nhà, nào vàng, nào quần nào áo đem ra cầm, bị ông ta bắt bí với một cái giá rẻ mạt:

- Mầy không chịu, tao mét ông già mầy!

Anh tôi làm gì ra tiền để chuộc, quá ngày, coi như mất. “Biết vậy, bán quách cho xong” - anh tôi lầm bầm.

Cha tôi vẫn bình tĩnh:

- Chuyện đó cha biết hơn con.

Tôi nghĩ nếu không có những ngày này, chắc cha tôi không gọi anh tôi bằng “con” với giọng ngọt ngào như vậy. Cha tôi tiếp:

- Nay mai, anh em còn xếp cho ông Tư của tụi con làm cái gì nữa kia. Mặc sức cho ông lên mặt. Không như vậy không yên. Nhà mình làm nghề thợ bạc, con cũng biết, muốn biết vàng thau thì phải thử lửa. Đã là vàng giả thì nó bóng nhoáng là như vậy.

Rồi chợt nhìn ra con sông, cha tôi nói thêm:

- Mình ở bên con sông, mình cũng phải biết. Buồm muốn giương lên thì phải có gió. Gió ngược thì buồm phải xếp lại. Dù có gió ngược hay nước ngược, có tay chèo thì chỗ nào rồi cũng tới. Chú Ba tụi con với anh em mình là tay chèo, hiểu chưa?

Cha tôi nói với anh tôi, chớ không phải nói với tôi, nhưng tôi cảm thấy hiểu. Còn anh tôi, chẳng biết anh có hiểu hay không mà vẫn ấm ức.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 03:58:20 pm
*

*          *

 
Nghĩ lại, đúng như cha tôi nói. Nếu không có trận đụng độ với ba thằng lính Nhật thì không biết ông chủ tiệm cầm đồ sẽ phơi phới đến cỡ nào. Ba thằng lính Nhật trốn bên nhà thờ cù lao Giêng với vợ chồng thằng cò Tây vẫn chưa chịu buông súng đầu hàng. Nó lại còn băng xuồng qua chợ, mua đủ thứ thức ăn.

Và trong nhà thờ, nơi nó ở, vẫn treo cờ Nhật. Ai cũng ấm ức. Theo kế hoạch, lần sau, nếu nó còn qua chợ, ông ủy viên quân sự sẽ mời nó vào trụ sở, kêu gọi nó nộp súng đầu hàng. Nếu không, anh em chiến sĩ sẽ ra tay. Mấy ngày sau, ba tên lính Nhật lại băng xuồng qua chợ và nó được mời vào trụ sở. Sau khi ông ủy viên nói xong, một thằng lắc đầu:

- Không! Chừng nào chúng tôi chết, súng nầy mới thuộc về mấy ông.

Anh em chiến sĩ đâu đó sẵn sàng, chờ ông ra lịnh. Nhưng ông không ra lịnh, mặt cứ tái đi. Bọn Nhật đoán biết, chúng bỏ ghế, bật dậy, bước ra về. Đã vậy, ông còn đưa chúng ra cửa, nói theo:

- Các ông nên suy nghĩ thêm.

Ba tên Nhật vừa đi vừa chạy ra bến. Đến khi chiếc xuồng ra giữa dòng, nó đưa súng lên trời bắn một loạt.

Hồi ấy, dân làng chưa quen tiếng súng. Tưởng như một loạt tiểu liên ấy có thể giết hết cả làng, và ai cũng tưởng là đạn sẽ bay thẳng lại mình. Cho nên cả chợ kẻ đứng người ngồi, kẻ mua người bán, ai cũng cúi rạp xuống. Người trong phố, trong nhà cũng rạp xuống. Ai cũng tưởng đạn sẽ bắn ngang đầu, vớ được cái gì che cái nấy, có người che bằng thúng, bằng nồi, không vớ được gì thì che bằng tay. Như người ta thấy và nói lại, chỉ có một người vẫn đứng xỏng lưng, đó là anh Hai Quang. Chỉ có bao nhiêu đó thôi cũng đủ cho bao nhiêu người khâm phục rồi.

Anh Hai Quang từ Sài Gòn trở về sau Cách mạng thành công một ngày, với bộ quần áo thường, xin tình nguyện làm lính Cách mạng. Anh được chọn làm lính cận vệ cho ông ủy viên quân sự. Và anh là một trong năm người biết võ nghệ được giao nhiệm vụ phải hạ mấy tên lính Nhật khi được lịnh. Để cho bọn Nhật chạy thoát, anh tiếc đến không kìm được:

- Ba thằng đó, một mình tôi cũng đủ, thằng một đá, thằng một đấm, thằng một cùi chỏ - anh vừa nói vừa đá vừa thoi - Tôi đứng hầu kế bên ổng, chờ hoài mà không thấy ra lịnh. Tụi tôi chỉ chờ ổng liệng cái điếu thuốc xuống bàn thì tụi tôi ra tay, cái điếu thuốc ổng cứ phì phà hoài, lại còn đưa mắt nhướn nhướn bảo tụi tôi lui quân. Nghe nó bắn tẹt tẹt, tưởng như bị ỉa vô mặt.

Ai nghe cũng bất bình.

Gió ngược, buồm phải cuốn lại, đúng vậy. Khi quân dân tiến đánh bọn lính Nhật với vợ chồng thằng cò Tây ẩn náu trong nhà thờ cù lao Giêng thì ông ủy viên quân sự quay lại cái tiệm cầm đồ với một xâu chìa khóa ở bên hông. Con thuyền đã đến lúc phải có tay chèo. Chú Tư Khởi lên làm ủy viên quân sự. Chú vẫn như trước, vẫn bộ đồ bà ba, có khác là bên hông không đeo theo nạng giàng thun, và áo không hở ngực, gài đủ năm nút. Chú không biết tập lính như ông chủ tiệm cầm đồ; việc tập tành cho thanh niên, chú giao cho Hai Quang. Chú cũng không cần Hai Quang làm lính bảo vệ nữa. Người thích nhất mà tôi thấy ngay trong nhà, là anh tôi. Anh tôi được vác cây súng ra bãi tập mà không cần phải quần áo gì sang trọng; quần đùi với cái áo thun, được rồi, ở trần cũng không sao.

Vì vậy mà bãi tập đông vui hơn. Và lũ nhỏ chúng tôi, gọi là thiếu nhi, cũng được ra bãi, hoặc hò hát, hoặc xếp thành hàng, tập đi một hai, tùy thích.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:01:22 pm
*

*          *


Dòng sông căng lên với màu phù sa ngầu đỏ, vừa hăm hở vừa giục giã vừa cuồn cuộn như muốn cuốn theo cây cỏ hai bên bờ đổ ra biển. Những ngày ấy, một trận đánh đầu tiên nổ ở làng tôi, sau ngày Cách mạng tháng Tám. Xuồng cui mũi quớt từ trên các bến dài theo làng, chở người ra trận. Họ rạp mình, dồn cả sức lực vào đôi tay đấy mạnh mái dâm, tua tủa đâm qua nhà thờ cù lao Giêng. Bụi sóng bay mờ như khói tỏa. Dù chưa quen với tiếng súng, và cũng chưa có ai hiểu được sức mạnh của các loại súng, trong con mắt của tôi ngày ấy, trận đánh đã cuốn hết cả dân làng.

Những con xuồng ở phía xa, như những mũi tên đang lướt trên mặt sông bay qua vùng khói lửa mờ mịt cả rặng cây. Người ra trận ào ạt trên mặt sông, và tưng bừng tiếng hát “Một ra đi là không trỏ về”.

Làng tôi, có mấy ai biết được trong khu nhà thờ ấy có cái gì ngoài cái lầu chuông vượt lên khỏi rặng cây. Một cái nhà thờ được dựng lên từ ngày đầu khi quân xâm lược Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Kỳ - năm ấy đã gần tám mươi năm. Cũng được gọi là nhà thờ gốc. Chắc họ muốn đặt cái gốc đạo ở đầu nguồn sông Tiền Giang để theo con nước mà lan dài ra dân bản xứ dọc theo hai bò sông Cửu Long.

Khu nhà thờ được bao bọc bằng một bờ tường cao quá đầu người, cách biệt với dân làng. Trong bờ tường, nhà cửa đường sá không thua gì một cái chợ. Nhà của ông cha bà phước, nhà cho hàng ngàn con chiên vốn là những đứa con hoang và những trẻ tật nguyền. Nhà bảo sanh, nhà khám bịnh, nhà cho thuốc, nhà thờ, nhà giảng đạo, có cả xưởng dệt và xưởng làm xà bông. Tất cả đều tường vôi, mái ngói. Như một xã hội riêng biệt không dính gì với ngoài đời. Người được ra ngoài vòng bờ tường chỉ có ông cha với bà phước, thỉnh thoảng qua chợ làng tôi mua sắm vài món lặt vặt. Chuyện gì ở trong ấy, không ai biết được. Như vậy cũng chưa đủ hay sao mà phía bên này sông, làng tôi cũng có một nhà thờ, nhưng nhỏ hơn, cách nhà tôi một ki lô mét, cũng là xóm làm thợ mộc, trại cưa, trại xuồng, nhưng vì để phân biệt với xóm mộc ở Cột dây thép, xóm này gọi là xóm nhà thờ.

Bên kia sông, nhà thờ cù lao Giêng là nhà thờ lớn, nên hằng năm, đến ngày lễ Nôen, có một chiếc tàu trắng - có người nói từ Nam Vang, có người nói từ Sài Gòn về - từ trên đầu cù lao đổ xuống, đậu giữa dòng sông và giữa hai cái nhà thờ để làm lễ. Trên tàu toàn bọn Tây. Đến giờ làm lễ, sau một hồi chuông dài lan ra trên mặt sông, từ trên chiếc tàu trắng ấy, nổ đùng đùng, pháo hoa xẹt lên nổ chùm chùm, sáng rực cả một vùng trời. Rồi sau đó, (nghe nói) ông cha và bà phước của nhà thờ cù lao Giêng và cả ông cha ở nhà thờ làng tôi đâm xuồng ra, leo lên tàu, cùng với bọn Tây ăn ngỗng quay, uống rượu nho và nhảy nhót cho đến sáng. Có một năm, cũng đến ngày lễ Nôen, vào một buổi trưa, bỗng có một chiếc máy bay giống như con chuồn chuồn bay tè tè theo con sông rồi cất lên, đỗ xuống trong khu nhà thờ cù lao Giêng. Chợ làng tôi, vì chưa bao giờ được thấy máy bay có những người tò mò đã lao xuống dòng sông bơi qua nhà thờ, có người suýt chết đuối. Những người đó, có ai thấy được chiếc máy bay ấy đâu, nó đậu trong vòng bờ tường rồi, ai vào được. Chẳng biết trong khu nhà ấy bao lớn mà có chỗ cho cả một chiếc máy bay?

Anh chị em nhà tôi và cũng rất đông những đứa nhỏ ở làng đều sanh ra từ nhà bảo sanh của nhà thờ. Vì ở bên đó có nhiều bà mụ học Tây, giỏi hơn mụ vườn. Năm lên sáu lên bảy, tôi bị bịnh ghẻ, má tôi có đưa tôi sang nhà thờ, xin thuốc đỏ. Nhờ đó mà tôi biết và còn nhớ mang máng. Trong ấy, nhà ngang, nhà dọc, nhà lầu, có vườn hoa, có bãi cỏ, các con đường đều tráng nhựa, có những chậu kiểng đặt ở bên lề ngã ba ngã tư và tượng Chúa. Tôi nhớ những đứa con hoang, con mồ côi và tật nguyền, mặc quần áo giống nhau, hàng ngàn đứa đứng xếp hàng bên bãi cỏ, điểm tên vào mỗi buổi sáng. Những đứa nhỏ không cha không mẹ ấy, bị tách ra khỏi cuộc đời, ngày ngày phải quỳ dưới tượng Chúa, lớn lên, không ai được lấy vợ lấy chồng, lẩn quẩn trong vòng tường cao quá đầu người với kinh thánh với tượng Chúa cho đến hết cả đời người. Và cho đến chết cũng không ra khỏi vòng tường, cái nghĩa địa cũng ở trong ấy, cạnh bên, chẳng đâu xa.

Ở làng tôi, cha mẹ muốn dọa con thường hay dọa là sẽ đem cho bà phước, tức là sẽ đưa vào đó, đứa nào nghe cũng sợ, sợ hơn bị nhát ma.

Bây giờ ba thằng lính Nhật với vợ chồng thằng cò Tây, nghe nói có cả ông cha và bà phước, núp trong những ngôi nhà ấy bắn ra.

Trận đánh lôi cuốn cả những làng ở xung quanh. Người từ các nơi đến, không biết bao nhiêu mà kể, bao hết cả vòng tường. Trên bộ, trên sông, người cứ lũ lượt, không thấy ai có súng, chỉ có gậy gộc với gươm dao, hoặc đao kiếm. Và người ta đi, cũng không cần phải theo hàng ngũ, đi khắp trên các ngả đường đổ xuống bến sông. Có người sang qua bên đó, đứng xớ rớ hoặc chạy tới chạy lui, hò hét ở ngoài bờ tường một đêm, một ngày, hoặc một lát rồi trở về, coi như mình đã ra trận rồi. Người khác lại đi thay, không thấy ngớt.

Anh tôi, anh Hoàng và cả thằng Sườn cũng ra trận kiểu như vậy sau một đêm. Từ trên mặt trận nhà thờ cù lao Giêng trở về, anh lôi kéo cả anh Hoàng và thằng Sườn qua cây cầu khỉ, vào nhà, lên thảo bạt lúc trời vừa hửng nắng. Người nào hai con mắt cũng thâm quầng, thụt sâu, nhưng người nào cũng tạo ra một dáng đi kiểu lính, hai tay khuỳnh ra như con gà trông phùng cánh.

- Mình tiến vô tới đâu rồi? - Cha tôi hỏi.

- Còn bao vây, chú Hai - anh Hoàng đáp

- Tụi nó chưa chịu đầu hàng.

Thằng Sườn hăng hái:

- Tường nhà thờ cao quá. Tụi nó nhát quá, cứ núp trong nhà, không dám ra mặt xáp lá cà, bác Hai.

- Mình không phá được tường nó sao? -Cha tôi lại hỏi.

- Súng lớn của mình chưa chở tới, chú Hai.

- Vậy mấy hôm nay mình đánh bằng súng gì?

- Mình chỉ có mấy cây “mút” bắn không lủng.

- Sao tao nghe tiếng súng gì nổ đùng đùng mấy bữa rày, súng nổ lớn vậy mà không phải đại bác sao?

Anh Hoàng như sợ bọn Tây Nhật ở bên kia sông nghe được hay sao, anh bước gần lại cha tôi, nói thầm thì:

- Đâu phải đại bác chú Hai. Mình đốt pháo tre cho nó sợ. Còn khói mà bên này mình thấy nó cuồn cuộn bên đó, không phải là khói súng, mà mình đốt rơm với xăng để ung nó. Tụi cháu bữa nay về là để xin thêm rơm, chú Hai.

- Chẳng lẽ mình cứ đứng ngoài, bao vây nó hoài sao?

- Không đâu chú Hai. Cháu nghe ba cháu nói, nếu ngày mai, nó mà không chịu đầu hàng, thì anh Hai Quang sẽ làm cảm tử quân ảnh sẽ phi qua tường xông thẳng vô bọn nó.

- Vậy.

- Dà. Thang, lựu đạn với một cây mi trây đết đã giao cho anh Hai Quang rồi, lịnh xuống là ảnh xông lên liền.

Cha tôi lại nhìn về đám khói bên kia nhà thờ cù lao Giêng, lặng lẽ và kêu lại hai tiếng: Hai Quang!



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:05:17 pm
*

*          *


Tôi được cùng anh Hoàng, thằng Sườn với anh tôi lên xe, chạy xuống xóm vườn để xin rơm. Bao giờ anh Hoàng cũng trao dây cương cho tôi, và tôi gặp lại con ngựa Cu, còn con Ô thì đã đưa qua mặt trận cho chú Tư Khởi.

Lâu lắm, từ ngày má tôi mất, tôi mới xuống nhà ông Tư tôi. Vì muốn xin rơm thì không thể không ghé nhà của ông. Tôi nhớ trước sân và sau hè nhà ông còn hai cây rơm rất to, vàng chóe. Cũng may, cái bến sông trước nhà ông Tư tôi đã thành cái bến đưa đón người ra trận, xuồng ghe tấp nập, và người ở hai đầu làng như đổ dồn về.

- Đi đâu đó, đồ chó đẻ?

Ông chửi hai anh em tôi, trợn mắt làm ra giận, nhưng tôi biết ông đang cười.

- Dạ, xin rơm cho mặt trận.

- Khoanh tay thưa bà cố, rồi muốn gì thì muốn.

Bà cố vẫn thơ thẩn trước bàn thông thiên, tay cầm chuỗi hột, lầm thầm khấn vái. Tôi với anh tôi khoanh tay thưa bà; anh Hoàng, thằng Sườn cũng bắt chước, thưa theo.

Ông Tư có vẻ vừa ý:

- Đó, rút bao nhiêu thì rút, đừng có dỡ nhà tao là được!

Vậy là bốn anh em nhào tới cây rơm, rút từng ôm mang ra, chất lên xe, rồi dẫn xe xuống bến, chuyển lên xuồng.

Ở đây tôi gặp lại rất nhiều người quen cũ xóm vườn. Những thằng bạn cũ thường rủ nhau đi tắm sông ngày hè, có cả chị Thảnh, chị Thơi, chị Thơm, chị Tho, những chị dạy tôi mò ốc gạo. Có cả ông Chín Hết và chú Nguyễn Đa Điền của tôi nữa. Ông Chín, với bộ râu hoe hoe đỏ lấm tấm mô hôi đang cầm tay lái; thấy chúng tôi, ông đưa cây dầm lên chào, khen chúng tôi:

- Giỏi á!

Chú Nguyễn Đa Điền, người tín đồ Hòa Hảo nổi tiếng giỏi võ ở làng, đeo bên hông một ngọn đao, đang đứng dưới bến, nước lên đến gối, thúc giục anh em tín đồ xuống xuồng. Xuồng nào vừa đủ người thì chú đưa hai tay bợ lấy cái lái xô ra, cái mũi của chiếc xuồng cui ào ra, hai bên rẽ hai đường sóng như cặp dây cương.

Nổi bật nhất là chú Tư Chía và con của chú, anh Trung. Lá cờ đỏ sao vàng vẫn cắm trong lưng áo, như một ông tướng trên sân khấu, chú tới lui, chỉ huy cả cái bến. Anh Trung cầm cái loa thiếc, sát cánh với chú, chú nói gì thì anh Trung lặp lại qua ống loa:

            - A lô! A lô! Xuồng đó xô ra bến đi.

- A lô! A lô! Xuồng đó cho thêm một người nữa.

Không ai bầu chú làm chỉ huy, nhưng tất cả đều nghe theo, vì chú đưa hết cái trại xuồng xuống bến cho mặt trận, có hơn mười chiếc, vẫn còn thơm mùi gỗ, với mùi chai.

Mỗi người mỗi việc, lăng xăng, tới lui, hò hét, cười đùa, như từ trước đến nay không hề xảy ra điều gì xích mích, cũng không thấy ai phân biệt người nào thuộc đạo nào, mọi người đã cùng một lòng, chẳng khác gì dòng sông chỉ có một màu phù sa ngầu đỏ, mỗi lúc mỗi dâng đầy.

Rút hết cây rơm bên hông nhà ông Tư, đưa xuống bến, thì anh Hoàng, thằng Sườn với anh tôi xuống xuồng, qua mặt trận.

- Mầy qua làm gì, người ta đạp chết.

Anh tôi bảo tôi, còn anh Hoàng thì dỗ tôi:

- Nhỏ! Mầy đi nữa thì ai coi chiếc xe với con Cu. Bữa khác! Mầy cho con Cu nó về.

Anh Hoàng ngồi lái, anh tôi ngồi mũi, còn thằng Sườn thì ngồi ngất nghểu trên đống rơm. Xuồng xô ra bến, nó quay lại, đưa tay chào chọc tôi, bành cái miệng ra để cười, rồi cất tiếng “Một ra đi là không trở về”. Vừa hát nó vừa nhún trên đống rơm, chiếc xuồng cũng nhún theo, lướt tới trên mặt sóng.

Tôi dẫn con Cu ra mặt đường. Tôi với nó buồn như nhau. Con Ô đang bên kia, trên lưng là chú Tư Khởi, đang vươn mình sải dài trên mặt trận. Còn tôi với nó thì trở về. Nghe cái tiếng vó của con Cu gõ lóc cóc trên mặt đường, tôi tự hỏi mà không trả lời được, sao lúc này mình không phải là người lớn?



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:08:34 pm
*

*          *


Tin vui từ mặt trận về: lính Nhật với cò Tây đã đầu hàng, cùng với một tin đau: anh Hai Quang, cảm tử quân, bị thương nặng.

Đúng như lời của anh Hoàng đã nói với cha tôi.

Rạng sáng, nhưng khói rơm vẫn mờ mịt như sương, anh Hai Quang phi thân qua bờ tường. Súng đeo vai, hông đeo lựu đạn chập chả và một lá cờ cắm sau lưng áo, anh vác chiếc thang xông thẳng đến một ngôi nhà lầu. Anh đặt thang vào tường, trèo lên, đút họng súng vào khe cửa sổ, bắn một loạt dài. Khi anh mở tung cửa lao vào thì anh bị chúng bắn trả lại. Dù bị thương, anh vẫn áp người vào khung cửa, rút lá cờ, vẫy gọi anh em.

Khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng đang phất phới trên khung cửa sổ của nhà lầu cùng tiếng gọi của anh thì như con sông ở làng đã đến lúc tràn bờ, người đứng bên ngoài bỗng dậy lên, người leo thang, người đưa lưng, kê vai cho người khác leo lên. Hàng ngàn con người, cùng một lúc, tràn lên, với giáo, với mác, gậy gộc, đao, kiếm, và gầm thét, đổ dồn về phía ngọn cờ trên tay anh Hai Quang.

Súng đạn mà chúng có, không thể giết hết được những con người đang tràn lên như sóng bủa. Một lá cờ trắng từ trong lầu thọc ra cửa sổ xin hàng.

Mấy tên lính Nhật, vợ chồng thằng cò Tây bị giải về tỉnh.

Còn anh Hai Quang, anh bị viên đạn xuyên qua bụng, lúc anh em chưa kịp đến, anh đã tự mình lấy chiếc khăn choàng tắm buộc thắt lại.

Anh được đưa về trên chiếc ca nô và được đưa vào ngôi nhà bên kia cầu sắt, trong khu vườn yên tĩnh râm bóng cây. Người lại chật đường, chật cầu, chật cả sân nhà, đến thăm anh.

Tôi không thể nào len vào nổi, chỉ đứng lóng ngóng bên ngoài, dưới gốc cây. Tôi nghe kể lại, vết thương nặng, không thể nào cứu chữa được, cơn đau dù dữ dội, anh vẫn không có một tiếng rên, gương mặt cũng không hề nhăn nhó, vẫn bình thản, và anh đã đưa tay nắm lấy bàn tay của người mẹ, và miệng nở một nụ cười hiền lành vốn có trên gương mặt lầm lì của anh trước hơi thở cuối cùng.

Và người mẹ như hài lòng trước sự hy sinh của anh, bà không khóc, bà đưa tay vuốt mặt con và cúi hôn vầng trán của con.

Thấy nhiều người quay trở ra lấy khăn chấm mắt, lặng lẽ bước xuống cầu thang thì tôi biết rồi.

Ghiếc quan tài của anh được phủ cờ đỏ sao vàng, đi trên chiếc xe ngựa với con ngựa bạch, từng bước đi trên con đường đá, có cả hàng ngàn con người lặng lẽ đưa tiễn anh.

Chú Ba Giáo đọc diễn văn, nói về cuộc đời của anh: “Anh Hai Quang sanh ra trong một gia đình nghèo. Lớn lên, anh bất mãn trước một xã hội nô lệ và bất công. Để trả thù đời, anh bước vào làng anh chị với một tấm lòng hào hiệp. Con người có tấm lòng như anh, khi gặp Cách mạng thì anh lại trở thành một chiến sĩ kiên cường. Anh đã vì Tổ quốc, vì “chết vinh hơn sống nhục” và xem cái chết tựa như lông hồng...”

Cái chết của anh đã trả lại cho anh tất cả cái phẩm giá cao quý của người.

Làng tôi, những người đang sống, từ bé cho đến lớn, người ta chỉ biết đến cái chết của tuổi già, của bịnh tật, chưa ai được chứng kiến cái chết của một người chiến sĩ ngoài mặt trận, vì Tổ quốc mà hy sinh.

Anh Hai Quang, anh là người đi đầu. Cái chết của anh gây xúc động đến từng lòng người.

Một buổi chiều tháng chín, sau những cơn mưa, cây cỏ hai bên đường mơn mởn, đậm đà với màu xanh muôn thuở của làng, rì rào cùng với lời khấn vái của người đi giữa lòng đường, với khói nhang nghi ngút.

Đưa anh Hai Quang đi rồi, trở về, cha tôi ngồi tựa lưng vào ghế trên thảo bạt, nhìn ra con sông, nói với những người bạn cũng đang lặng lẽ như cha tôi:

- Từ nhỏ đến giờ, ở làng mình, tôi chưa thấy một đám tang nào lớn như đám tang chiều nay. Lúc Hai Quang còn sống, ai biết được Hai Quang sẽ ra sao. Hơn bốn mươi tuổi đầu, tôi nghiệm thấy, cứ nhìn cái đám tang, mình có thể biết người ấy ra sao, phải không, mấy anh? Chiều nay, làng mình không phải chôn một xác chết mà đang gieo xuống một mầm sống. Kìa! Mấy người ở xa lại tới nữa kia...

Ngoài đường có thêm những tốp người, khăn đóng, áo dài, tay cầm nhang, vội vã đi về phía của anh.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:13:01 pm
*

*          *

 
Bọn lính Nhật, vợ chồng thằng cò Tây đầu hàng, anh Hai Quang hy sinh, nhưng trận đánh bên kia nhà thờ cù lao Giêng vẫn tiếp diễn.

Những người từ các nơi kéo đến tham gia trận, đánh, lâu nay vẫn đứng bên ngoài bờ tường, bấy giờ mới bắt đầu, để trả thù cuộc đời tám mươi năm nô lệ, trả thù cuộc đời một ách hai tròng, không ai chỉ huy ai, mạnh ai nấy đập, nấy phá, tùy thích, tùy sức. Và để trả thù cuộc đời cơ cực “gạo châu củi quế”, họ gặp gì lấy nấy; và cũng tùy thích, tùy sức. Nào gạo nào vải, nào mùng mền, kẹo sữa với rượu tây, và cả những thứ lạ chẳng ai biết từ trong các kho, mạnh ai nấy lấy, chở bằng ghe, bằng xuồng, và đội bằng đầu. Những ai ở xa cũng đến hôi của. Họ kéo nhau đi từ đêm này đến đêm khác từ khắp các ngả đường.

Tôi thấy có người đội vải lút cả đầu, có người đầu đội, vai vác, đi ngang qua cửa nhà tôi.

- Cách mạng mà làm vậy coi không được, cha cấm tụi con không được qua bến, nghe chưa?

Cha tôi nói đi rồi cũng nói lại: “Kể cũng công bằng”

Dù có người không muốn, nhưng không thể nào ngăn cản nổi. Đó là sự trả thù của cuộc đời. Như giông, như bão, như lũ lụt, như sóng thần, được tích tụ từ lâu, những gì cản trở nó, sẽ bị nó cuốn trôi.

Làng tôi không có bão, nhưng năm nào cũng có những cơn giông. Không ai muốn, nhưng có ai cản nổi đâu. Nhà cửa xiêu vẹo, cây cối ngả nghiêng, và xoài già, cả xoài non rụng dài theo mặt đường.

Cái nhà thờ lâu đời gần một trăm năm vì đã làm đồn lũy cho kẻ thù, nên chả mấy chốc mà tan hoang.

Người làng xung quanh nhà thờ bỗng trở nên giàu có. Người ta mặc quần áo mới và mở quán dài theo hai bên đường. Những cái quán đơn sơ, một cái bàn, vài ba cái ghế, dưới mái lá hoặc dưới một tàn cây, nhưng có đủ thứ kẹo bánh, xà bông, treo lòng thòng theo nhánh cây, tùng chùm xanh, đỏ. Nào cà phê, nào đường, nào rượu, rượu chát đỏ, chát trắng với Mácten..., những chai rượu để dưới hầm hãy còn lành lạnh, mát tay. Ai lấy được gì bán nấy. Người đã từng uống, có dịp uống thêm; người chưa từng uống, cũng uống một ly cho biết: “Ái chà chà! Sao mà ngon, mà ngọt mà cay, mà thơm, mà nóng, mà lạnh như vậy cà? Biết vậy, tôi cũng làm cha. Cho tôi thêm một ly nữa coi!” Sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng có người tụ năm tụ ba dài theo các quán bên đường.

Hàng ngàn con chiên trong nhà tu kín được dịp ra khỏi vòng tường, về ở với dân. Mỗi nhà nhận một người hoặc hai ba tùy lòng. Nếu không có những ngày ấy thì những con chiên không sao biết được cuộc đời. Đã là nhà tu mà còn kín nữa, thử hỏi họ thấy được gì. Có biết bao nhiêu đứa bé sống bên bờ sông mà có bao giờ thấy được con sông cái vòng tường vôi trắng bao quanh nhà thờ là nơi cuối cùng của đôi mắt và cuộc đời chúng.

Có những người mẹ vì một hoàn cảnh nào đó, đã đưa con cho bà phước, bấy giờ, từ nhiều nơi, lại về, tìm con. Khi cho con, đứa con mới lọt lòng, còn đỏ hỏn, hai mươi năm sau, bà mẹ vẫn nhận ra được dấu riêng của con. Bà mẹ òa lên khóc, còn đứa con thì ngơ ngơ ngác ngác chẳng hiểu gì, như kẻ không hồn. Biết bao nhiêu chuyện ngớ ngẩn của họ được dân làng kể lại, làm trò cười. Có một chuyện tôi nhớ mãi. Một cô gái trong nhà tu kín về ở với nhà dân. Một hôm, bà mẹ bảo cô:

- Má có rộng ba con cá trong lu, con vô coi, sống hay chết.

Cô gái vào rồi, trở ra thưa:

- Thưa mẹ, trong ba con có một con đã qua đời còn hai con kia sức khỏe vẫn bình an như thường.

Người ta kể cho nhau và người ta cười. Ngay cả tiếng nói, họ cũng nói theo văn chương của kinh thánh, không biết gì đến tiếng nói của đời sống. Làm sao mà không ngơ ngác?

Lại một chuyện nữa. Một bà đang ngồi ăn cháo lòng ở chợ, nghe có người hỏi:

- Con gái bên nhà thờ của bà, bữa nay nó làm sao?

- Tôi không biết nó làm sao nữa. Nó là đứa con gái hai mươi tuổi, sạch sẽ, mặt mày sáng sủa, coi được lắm. Vì vậy mà mấy thằng con trai ở xóm cứ lượn qua lượn lại hoài. Sợ không yên, tôi mới nói với tụi nó: “Trong mấy đứa bây, đứa nào thiệt lòng thương nó thì nói với cha mẹ lại đây, tao gả”. Có một đứa đưa cha mẹ đến hỏi. Tôi nói với nó: “Bữa nay có người đi hỏi con”. “Hỏi cái gì mẹ?” - “Hỏi cưới con về làm vợ” - “Con làm vợ?” - “Ừ” - “Chi vậy mẹ?” - “Gái lớn lên thì phải có chồng, trai lớn lên thì phải có vợ, chớ sao?” - “Chừng nào hở mẹ?” - “Nếu con ưng thì người ta sẽ đi hỏi, đám hỏi xong rồi thì người ta xin làm đám cưới”. - “Sao lâu quá vậy mẹ? Cưới tối nay được không?”. Nghe nói vậy, tôi cười ra nước mắt, không hiểu nó có biết vợ chồng là gì hay không nữa. Tội nghiệp quá!

Còn một số chưa được ai nhận, thì ủy ban cho họ ở với xóm nhà thờ trong làng, trong trường học và dưới mái nhà sàn của ông cha chờ người đến xin, đến lãnh, hàng trăm đứa.

Tò mò, anh Hoàng đánh xe chở tôi với thằng Sườn xuống xem.

Khi chiếc xe ngựa của chúng tôi dừng lại trước cửa nhà thờ, có hàng chục đứa từ trong các sân nhà đổ ra đường, vây lấy chiếc xe của chúng tôi, reo mừng với đôi mắt ngơ ngác.

- Ô! Xe Lui... - có một đứa kêu lên. Sau đó tôi mới hiểu, trong sách của chúng học, bên Pháp, thời vua Lui người ta cũng đi bằng xe ngựa.

Tôi nhớ những đứa trẻ ấy cùng với cây đàn pianô từ bên kia nhà thờ cù lao Giêng, chẳng biết ai đã mang sang, rồi vất bỏ ở đây, bên đường. Cây đàn pianô một bên trên lề, một bên trên bãi cỏ, ngả nghiêng. Cây pianô mở nắp, những cái phím nhỏ đen mun nêm trong hàng phím màu ngà. Những người đi qua đường, thuận tay gõ xuống một tiếng, tiếng đàn ngân lên, rồi tắt. Người khác đi qua, lại gõ xuống một tiếng. Thằng Sườn thích quá, liền nhảy xuống xe, khum hai bàn tay, đập rổn rảng, lung tung, nó vừa đập vừa quay mặt lại hỏi: “Hay không? Bài ca loạn lạc!” Nó đập, nó gõ đến sưng cả đầu ngón tay.

Cây đàn lại im lặng, nằm đó, bên đường, mở sẵn nắp.

Sau này, mỗi lần nghe tiếng đàn pianô dù ở đâu, lúc nào, tôi cũng chợt nhớ đến cây đàn pianô ấy, bên vệ đường, trước cửa nhà thờ, há mồm với mưa nắng, với sương đêm. Những ngày đầu Cách mạng ở làng, biết bao chuyện ngổn ngang.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:14:19 pm
*

*          *


Tàu chiến của Pháp neo lại giữa sông trên đầu cù lao, nã đại bác vào làng tôi lúc chợ vừa mới nhóm. Như ong vỡ tổ, người ở chợ dắt díu nhau chạy túa ra khắp các ngả đường.

Cha tôi, anh tôi ở lại giữ nhà với ngọn tầm vông. Chị tôi cõng thằng em út, tôi nắm hai tay hai đứa em, chạy xuống xóm vườn.

Chúng tôi không định ghé nhà ông Tư, vì chúng tôi hãy còn sợ ông và nhà ông gần chợ quá. Chúng tôi chạy xuống nhà ông Chín Hết, xa tầm súng hơn, và ông bà cũng thương chúng tôi hơn.

Chúng tôi đang cắm đầu cắm cổ chạy trong nỗi hoảng sợ, bỗng nghe tiếng hét:

- Chạy đâu?

Ông Tư tôi đang đứng bên lề đường, mắt ông trợn trừng:

- Vô nhà!

Thế là chị em chúng tôi phải tạt vào nhà.

Lạ lùng! Có một người không hề biết gì đến sợ hãi, như người ở một cõi khác, tiếng súng như không thể nào vang tới, ấy là bà cố của chúng tôi. Bà vẫn thơ thẩn trước sân, tay lần hạt chuỗi, môi mấp máy, lầm thầm. Và bà vẫn nhìn chúng tôi với đôi mắt hiền từ, và nụ cười như trải rộng trên gương mặt nhăn nheo của bà.

Sau một lúc bình tĩnh và ngồi thở, chúng tôi lại khoanh tay thưa bà. Mấy đứa em tôi lại chơi búng lỗ trong bóng cây vú sữa, quanh quẩn theo chân bà. Bà như đưa chị em tôi theo bà mỗi lúc mỗi xa, đến một nơi yên tĩnh trong cõi riêng của bà.

Trong ngày hôm ấy, sau những loạt đại bác nổ rùng cả mặt đất, chúng cho tàu nhỏ đổ quân lên chợ, chiếm lại nhà việc, chiếm lại bốt cò. Cho quân đổ lên nhà thờ cù lao Giêng, thu chiếm những tài sản còn lại. Sau này tôi nghe người lớn kể lại, chúng đã cho quân đập bể tất cả các chậu kiểng trong nhà thờ, lấy ra không biết bao nhiêu vàng, đưa xuống tàu. Và chúng đi lùng, đi gom những đứa con trong nhà thờ đang sống rải rác trong dân. Chúng bắt đi những đứa khỏe mạnh, bỏ lại những đứa trẻ tàn tật.

Qua ngày hôm sau, yên tiếng súng, chị em tôi kéo nhau trở về.

Cái bót cò cũng lại thằng cò Tây với lá cờ ba sắc. Cái nhà việc cũng lại những tên gọi hương cả, hương chủ...

Người vẫn đông, chợ vẫn nhóm nhưng tôi vẫn thấy thưa thớt, và trong tôi, vắng ngắt. Nhà tôi vắng đi hai người: chú tôi với anh. Người ra đi chẳng bao nhiêu nhưng toàn là những người tôi biết, tôi thân: chú Ba Giáo, chú Tư Khởi, anh Hoàng, cả thằng Sườn cũng đi. Cha tôi kể lại, khi quân Pháp cho tàu nhỏ chở quân từ đầu cù lao chạy vào chợ, chú Tư Khởi kéo quân lên cột dây thép đánh chặn đầu, quân của chú dàn ra theo mương vườn ngoài đầu doi. Quân của chú thì đông, nhưng súng chỉ có một cây, cây mút Nhật, dài nhằng. Còn tất cả thì tầm vông, giáo mác với phi tiêu.

Khi nghe tiếng súng của chú nổ, nó nổ lại hàng tràng và chạy tạt về phía bên kia bờ. Viên đạn của chú bay không tới. Đạn của chú cứ nhễu theo đít tàu. Ức quá, mỗi lần bóp cò là mỗi lần chú đẩy cây súng thẳng ra như muốn tiếp sức cho viên đạn xa hơn, nhưng viên đạn nhễu xuống mặt nước mỗi lúc mỗi đuối. Đạn hết, tàu chạy mất, chú đứng nhìn theo nó, đưa tay nắm chùm lông ngực, xoắn lại, như muốn xé cái lồng ngực của mình.

Tối hôm đó, chú cùng với anh em họp lại, xuống xuồng băng qua sông. Trong số đó có chú tôi, anh tôi, chú Ba Giáo, anh Hoàng, cả thằng Sườn cũng đi...

Nghe vậy, tôi chạy thẳng đến nhà chú, để xem con Ô với con Cu còn đó không. Tôi gặp thím Tư, má anh Hoàng, đang đổ bánh bèo ngọt dưới mái hiên trước nhà. Một người đàn bà gầy guộc, sắt lại như sợi mây đã phơi khô.

- Đi đâu đó Nhỏ? - Như không có chuyện gì xảy ra, thím vẫn bình thản như chú Tư và anh Hoàng vẫn còn ở đâu đó, trong nhà.

- Con Ô với con Cu đâu thím Tư?

Nhìn cái tàu lá trống hốc đã được dọn sạch và chiếc xe chỏng gọng, tôi đã đoán biết nhưng vẫn cứ hỏi.

- Con Ô với con Cu nó đi rồi, con ngồi xuống ăn bánh.

Con Ô với con Cu, nó cũng lại đi rồi. Tôi tưởng nó đang phi trong khói đạn trên cánh đồng cỏ xanh ngắt mênh mông của chiến trường. Nó sướng quá! Tôi buồn đến xốn xang. Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên bếp lửa. Thím xếp bánh cho tôi, bỗng ngước mắt nhìn tôi, chợt hỏi:

- Khói hay sao mà chảy nước mắt vậy con?

Không đợi tôi trả lời, thím cúi xuống, thổi phù phù. Ngọn lửa bung tròn lên theo khuôn bánh.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 04:20:29 pm
*

*          *

 
Những người thường tới lui với cha tôi đã đi hết, cái thảo bạt nhà tôi vắng teo. Chỉ còn có một mình cha tôi ngồi đó trên chiếc ghế, ngó mông ra cửa, và ông nghĩ gì tôi không sao hiểu nổi.

- Không muốn thấy mà phải thấy. - Ông nói một mình.

- Cái gì cha?

Ông hất hàm về phía bót cò, cái lá cờ ba sắc:

- Đ. mẹ (ít khi tôi nghe cha tôi chửi thề). Không lẽ mình ngồi xoay mặt vô vách.

Còn tôi, không còn ai nói chuyện để hóng nghe, đã bỏ cái nghề quấn thuốc, cũng không nghĩ gì đến chuyện học hành, chẳng có ai chơi, tôi long nhong từ trước ra sau, rồi từ sau ra trước, chán lại qua cây câu khỉ, ra phố, la cà ở chỗ đông người, ngóng nghe tin tức, chờ bữa cơm.

Nhưng rồi nhà tôi cũng có người đến nhưng lại đến vào lúc nửa đêm. Nghe tiếng gõ cửa biết là chuyện không lành, không phải gõ mà đập, đập một lần cả hai nắm tay dồn dập khẩn khoản, như báo động, cả nhà tôi choàng dậy, cả thằng út cũng giật mình ôm chặt lấy chị tôi.

Tôi đốt đèn, cha tôi mở cửa. Một người đàn bà mặc bà ba đen bỗng quỳ thụp xuống, ôm lấy chân cha tôi, khóc rống lên.

- Chuyện gì, chị Tư?

- Nhà tôi bị nó bắt rồi, anh Hai ơi.

- Ai bắt? Tây hả?

- Tây thì nói gì, Hòa Hảo, anh ơi! Lúc nó bắt, nó hỏi nhà tôi chiếc xe của mầy đâu thì nhà tôi nói: nếu nói tao có tội thì cứ bắt tao, chiếc xe tao tội tình gì mà hỏi nó. Nhà tôi nói vậy rồi nó xúm lại nó trói, nó dẫn đi.

- Chị nhận ra mặt ai không?

- Thì cũng người hàng xóm mình chớ ai, anh Hai. Có thằng Điền con chú Chín Hết nữa. Anh làm ơn anh xuống nói với cậu Tư giùm tôi, anh Hai. Họ muốn gì cũng được, anh Hai, nhà cửa với trại xuồng, tôi giao hết.

- Chị về trước đi. Tôi sẽ xuống.

- Đi ngay bây giờ nghe, anh Hai.

Người đàn bà ấy là vợ của chú Tư Chía, má anh Trung.

Bên ngoài trời tối đen. Tưởng như sờ đụng được bóng đêm. Cái bóng đêm như đặc hơn cái bóng đêm những đêm trước.

Cha tôi mặc quần áo xong, sửa soạn đi thì bất ngờ, như dưới đất hiện lên, ông Tư tôi sừng sững trước cửa nhà. Bộ đồ dà, hai con mắt trợn tròn, và bộ râu như dựng ngược lên, từ lồng ngực căng đầy của ông như ọe ra từng tiếng gay gắt:

- Đi đâu? Hử? Tao thấy nó chạy lên đây, tao biết mầy sẽ xuống tao. Xuống tao làm gì? Tội của Tư Chía chỉ có Đức Phật Thầy mới cứu được. Còn mầy, mầy đã có công lên quận xin thả anh em, anh em còn nhớ ơn mầy. Nhưng bây giờ, mầy mà đi loạng quạng ngoài đường, anh em người ta không tha mầy đâu. Mầy phải nghĩ tới bầy con của mầy... - ông lấy hơi, hét lên: - Ở nhà!

Không để cho cha tôi nói một lời nào, ông quay ra và tan mất trong bóng đen.

Cha tôi cứ đứng sững ra, nhìn bóng tối...

Ba hôm sau, trên dòng sông có nhiều thây ma nổi lên, sình chương trôi lên trôi xuống theo con nước ròng, con nước lớn.

Thím Tư, anh Trung và người làng nhận ra cái thây của chú Tư Chía nhờ cặp răng hô của chú.

Ông Chín Hết tôi lại có mặt tại nhà chú Tư Chía và cũng câu đầu bước vào nhà:

- Bây đâu, bắc nồi nước!

Còn những cái thây khác, từ cù lao ông Chưởng theo con nước trôi ra, từ miệt trên trôi xuống, chẳng biết ai. Con sông không thấy xuồng, không thấy ghe, không thấy buồm, chỉ có những cái thây lình bình, trôi lên lại trôi xuống, với những bầy quạ đen quần theo, đáp xuống bay lên, quang quác trên mặt sông. Những cái bến nước dài theo con sông, những cây cầu có cái gáo dừa để người ta tắm, người ta gánh nước để trẻ con lặn hụp, đùa giỡn, để cho các cô, các chị, các bà ngồi giặt quần áo, bây giờ chẳng thấy ai. Những cái bến nước với cây cầu trơ ra, thấy thêm buồn. Thỉnh thoảng mới có một người ra bến nước, họ không làm cho sông nước vui lên, mà thấy thêm lẻ loi.

Và quạ, chẳng biết từ đâu kéo tới, cứ từng bầy như những đám tàn sau một trận cháy, bay đen trên mặt sông, kêu quang quác...

Sau khi chôn cất chú Tư Chía xong, má con anh Trung bỏ nhà đi, chẳng biết đi đâu, có người bảo trốn vào chiến khu, có người bảo trốn lên Sài Gòn ẩn náu.

- Cha ơi! Sao nhà mình không trốn đi cha?

Chị tôi hỏi sau khi được tin vợ chú Tư Khởi đã bỏ nhà đi, trong xóm không còn ai bán bánh bèo. Và những người có dính líu với Việt Minh trong làng ngoài chợ - người lên Sài Gòn người qua Đồng Tháp, người ngược nước lên Nam Vang.

- Lúc nào cần đi, cha sẽ đi. Chẳng lẽ bỏ đi hết. Cha nhớ hồi nhỏ, ông nội bà nội với cha với chú Ba con đi xuồng qua sông lớn. Tới giữa sông thì gặp sóng to gió lớn. Sóng ba bên bốn phía bủa tới, chiếc xuồng nhào lên hụp xuống, tưởng chìm đến nơi, nhưng ông nội con giỏi lắm, cứ cho mũi xuồng cỡi lên lưng con sóng. Cha nhớ, khi xuồng cặp lại bến rồi, ông nội con vô quán kêu một ly rượu, trong lúc cha với chú Ba đứng nhìn sóng bủa trắng cả con sông, vẫn còn sợ thì ông nội con hỏi “Hai con có thấy vui không? Biết lèo lái rồi sẽ qua”.

Cha tôi ngồi trên ghế xoay mặt vào nhà với chị em tôi nên ông không thấy một người lính mặc ka ki vàng, vai đeo cây tiểu liên đang,bước lên cây cầu khỉ nhà tôi. Tôi chồm dậy, hốt hoảng:

- Cha ơi, lính!

Tôi thoáng nghĩ là cha tôi sẽ bị bắt. Cha tôi quay ra, tên lính Việt gian ấy đã qua nửa cây cầu. Cha tôi bước ra đầu cầu thang, nheo mắt. Tên lính Việt gian bỗng dừng lại, cầm cây tiểu liên đưa lên trời, reo lên:

- Ô! Anh Hai.

Cha tôi đưa tay ngoắc:

- Vô, vô đây.

Người lính ấy như chạy trên cây cầu khỉ. Ông ta bước một lần hai bậc cầu thang, mang súng vào vai, đưa hai tay nắm lấy hai tay cha tôi.

- Trời! Trời! Lâu quá anh Hai. Có nghe chị Hai mất mà không sao về thăm được, có lỗi quá. - Nhìn thấy tôi đang lẩn quẩn bên cha tôi, ông hất hàm: - Thằng đi học có lương đây hả?

- Nó đó.

Ông ta vồ đến tôi. Khi ông ta đưa hai tay ôm lấy đầu tôi, thì tôi rúc cổ, muốn tuột đi, nhưng ông ta đã kéo tôi vào lòng. Áp mặt vào cái bộ đồ lính của ông ta, tôi nghe có mùi khét.

- Đây là chú Sáu Mạnh, bên Cái Sao, một xóm với ông nội con. Hồi ông nội con chết, chú Sáu đã khiêng quan tài của ông nội con. Lúc đó con còn nhỏ, con chưa biết.

Sau này tôi được biết, chú sanh cùng năm cùng tháng với cha tôi, cũng tuổi Thìn, chỉ nhỏ hơn có vài ngày. Bà nội tôi với má của chú đều bị thiếu sữa, nên cả hai cùng bú thép với một người mẹ hàng xóm. Vậy là cha tôi với chú chỉ là người cùng xóm, nhưng lớn lên cùng một bầu sữa.

Tôi cúi đầu thưa và ngước nhìn lại chú. Chú tên Mạnh cũng phải. Người chú to lớn, gồ ghề với nước da đậm như màu đồng điếu. Từ cái trán, cái gò má cho đến cái quai hàm đều có góc có cạnh rõ ràng, cả cái chân râu của chú cũng có một màu riêng, như một bãi cỏ được cắt đến tận gốc, vẫn còn giữ lại một màu xanh, từ mép cho đến cằm.

Mỗi lần có khách, chị tôi biết mình là phận gái, thường lui vào trong với ba đứa em, hoặc xuống bếp. Còn tôi thì tìm đủ cách, la cà nghe chuyện.

- Thím với mấy đứa nhỏ khỏe chớ? - Cha tôi hỏi khi hai người ngồi vào ghế.

- Cũng khỏe, anh Hai. Nhưng cũng kẹt lắm!

- Sao mà kẹt?

Chú Sáu Mạnh thở dài, ngao ngán:

- Hồi trước mình cũng đi lính. Mình về làng, người ta không trọng thì người ta cũng sợ; nếu khinh, người ta cũng để bụng. Còn bây giờ, cũng chẳng lâu la gì mà khác quá. Bà con xóm giềng, ai cũng dè bỉu vợ con mình là vợ con của thằng Việt gian, bị xóm giềng nhìn mình bằng nửa con mắt. Còn cô Bảy, người mà tụi mình bú thép hồi nhỏ, cô nói: “Nếu tôi biết bây giờ nó làm Việt gian, hồi nhỏ, tôi cho nó bú làm gì. Nghĩ mà tiếc cái dòng sữa của mình”. Anh nghe có đau không? - Chú vừa nói vừa đưa nắm đấm vỗ vào ngực. - Tôi định đưa vợ con tôi sang đây, cho khuất mắt bà con dòng họ, nhưng nghĩ lại, cái thân làm lính, mà vợ con lằng nhằng sau lưng, cũng kẹt quá, anh Hai. Nghe được đổi về đây, tôi mừng muốn hết lớn, ít ra cũng còn có anh, với anh em. Tôi về đây hồi chiều hôm qua, không kịp qua thăm ai cũng không kịp hỏi thăm ai. Tôi sợ nhứt là anh bị Hòa Hảo bắt, hai là sợ anh cũng đã bỏ đi. Tối hôm qua, nhìn thấy ngọn đèn của nhà anh, tôi mừng lắm. Thôi, có gì thì cũng nhờ anh với anh em che chở cho.

Lúc đầu, tôi tưởng chú là người lính được lịnh mang súng đến bắt cha tôi, bây giờ lại nghe chú nhờ cha tôi che chở. Cha tôi mảnh khảnh, ốm yếu vậy, làm sao có thể che chở được một con người mạnh khỏe, gồ ghề với súng ống như chú? Tôi ngạc nhiên nhưng rồi cũng cảm thấy hiểu.

Một con người có bộ mặt hung dữ mà xịu xuống buồn rầu, trông thảm não làm sao!

- Tin tức mấy bữa nay ra sao? - Cha tôi hỏi.

- Coi như nó đã chiếm hết lục tỉnh Nam Kỳ rồi anh Hai. Anh em đang kéo nhau về rừng, lập chiến khu, chờ thời.

- Thằng cò nầy, thằng thế nào?

- Thế nào rồi cũng là Tây thôi anh. Là thằng “pôtilích” (1) chớ không phải “milite” (2).

- Chú đổi về đây làm gì?

- Tôi “xú” (3) quyền nó.

- Theo chú thì sắp tới nó định làm gì cái làng này?

- Tôi mới đổi về chiều qua, chưa biết hết. Nhưng tôi qua, ngồi nói chuyện với nó, nó cho tôi biết, trước hết là phải ổn định lòng dân. Có người đã xui nó lùng bắt những người trước đây đã đi hôi của bên nhà thờ cù lao Giêng. Nó cười, bảo: trên thế giới này, ở đâu cũng vậy, khi nông dân mà nổi dậy thì họ cướp phá là chuyện thường. Nếu bắt thì phải bắt hết cả cái làng này. Cho qua! Để dân chúng thấy chánh phủ Pháp là người đại lượng. Còn chuyện trả thù, trả oán, bắt bớ và chém giết, cứ để cho họ. Nó nói với tôi vậy, và anh cũng thấy đó. Hòa Hảo bắt Việt Minh, giết thả trôi sông, nó làm ngơ. Nó cũng ra lịnh cho tôi, đêm đi “ba trui” chỉ đi từ chợ đến xóm nhà thờ, và từ chợ đến cột dây thép, trong vườn, trong ngọn thì giao cho Hòa Hảo.

- Có cái chuyện đó nữa sao? - Cha tôi hỏi lại và hai con mắt của cha tôi cứ sững lại, mặt thừ ra như người không hồn. Ông nắm chặt quả đấm nhưng không đấm xuống bàn mà từ từ đặt xuống và ấn xuống, ông ấn mạnh đến nỗi cái lưng cứ rướn thẳng lên.

- Mình cũng có nghĩ tới, nhưng không ngờ cơ sự lại đến nỗi như vầy, rõ quá rồi.

Cha tôi lắc đầu, ngả người ra ghế, vẻ chán chường. Chợt nhớ điều gì, ông quay lại, thấy tôi đang ngồi bó gối trong góc, ngước mặt hóng chuyện, ông bảo:

- Con vào trong chơi!

Có thể nói, đó là lần thứ hai, cha tôi không muốn cho tôi nghe chuyện của người lớn. Chuyện của hai người mãi về sau tôi mới biết được.

Tôi nhận được thông báo của nhà trường gởi đến tận nhà. Thông báo nói chánh phủ Pháp đã chiếm lại Nam Kỳ, tình hình đã được ổn định, và gọi học sinh trở lại trường.

Trường làng tôi lại thùng thùng tiếng trống, học trò lại cắp sách đến trường. Trên đường xe hơi từ Sài Gòn lại chạy về làng, và xe ngựa lại gõ vó trên các mặt đường. Chợ vẫn nhóm như xưa, dưới bến xuồng ghe lại tấp nập. Các cửa tiệm trong phố lại mở rộng cửa đón khách. Xem chừng đâu lại vào đó như xưa, nhưng lòng tôi lại chưa ổn định, không được như xưa, - cái xưa ấy không quá một năm, nên tôi chưa muốn trở lại trường. Dù không muốn học tiếp, tôi vẫn bồi hồi nhớ lại cuộc đời học trò. Cuộc đời học trò của tôi, có hai thầy tôi yêu quý. Thầy Hưng, một ông thầy tính điềm đạm và hiền từ. Thầy không đánh đứa nào và cũng không hề nặng lời với ai. Không hiểu thầy buồn cái nỗi gì mà đêm nào cũng gõ mõ tụng kinh. Cũng mang giày, nhưng mỗi lần vào lớp, chân thầy bước nhẹ nhàng, không một tiếng động.

Có những lời thầy dạy, ngoài bài vở, nhưng lại là những lời khai hóa cho sự hiểu biết của chúng tôi. Thầy nói:

- Nước Pháp là mẫu quốc, nói vậy thôi, chớ họ có đẻ ra mình được đâu? Người Cộng sản là người yêu nước chống lại Pháp để giành lại đất nước.

Thầy nói vậy rồi nhìn cả lớp học với đôi mắt buồn rầu, không nói gì thêm và cũng không bao giờ nhắc lại.

Thế là, từ đó, tôi hiểu. Sự hiểu biết ban đầu, như một hạt giống gieo xuống, nảy mầm, thành gốc, thành rễ sâu xa trong trí não. Tôi cám ơn thầy biết bao.

Người thầy thứ hai, thầy giáo Ngọc. Hai thầy tính nết trái hẳn nhau. Thầy Ngọc chừng ba mươi tuổi, vừa cao lại vừa gầy, hai tay dài lõng thõng, đeo kính cận, lúc nào cũng vui nhộn. Chuyện gì của thầy cũng cười được. Cái nụ cười của thầy rất lạ, khi thầy cười, mọi người muốn cười theo. Gặp mặt thầy, chưa cần thầy nói gì cũng đã thấy vui rồi. Mỗi chiều sau giờ học, cùng với cây đàn băng giô, thầy ngồi tréo chân lên bàn, vừa đàn vừa dạy chúng tôi hát.

Trường chúng tôi nằm bên con đường nhựa, đối diện với trường dạy nghề dệt. Một con đường râm mát dưới hai hàng cây dái ngựa, gần dinh quận; là con đường dẫn ra chợ nhưng bị cấm tất cả các loại xe cộ. Xe hơi hay xe ngựa, kể cả xe đạp, từ bên kia đầu cầu, muốn ra chợ, phải chạy theo con đường đá lỗ chỗ ổ gà vòng ra xóm nghèo. Nghe nói ông chủ quận này vốn đau thần kinh, mất ngủ và hay giật mình. Nghe kể, có một lần, nửa đêm, ông ta giật mình vì tiếng chó sủa xa; không dỗ được giấc ngủ, ông ta điên tiết lên, ra lịnh cho lính đi tìm đến tận nơi, bắt phạt chủ nhà và giết cả con chó. Cả tiếng gà gáy năm canh, ông ta cũng không ưa. Ngay tiếng vó ngựa gõ đều đều trên mặt đường qua cửa dinh ông ta, ông ta cũng không chịu nổi. Cho nên cái quãng đường nhựa ấy, chỉ có một chiếc xe được qua lại, đó là chiếc xe hơi màu sữa của ông. Vì vậy mà con đường trước cửa trường chúng tôi yên tĩnh đến buồn tẻ như đường lên chùa.

Tiếng đồng ca trong trẻo của đám học trò cùng với tiếng đàn băng giô của thầy đã khuấy động phần nào không khí trầm lặng của cái thị trấn hẻo lánh này. Và những bài hát mà thầy đã dạy cho chúng tôi như: Tiếng gọi thanh niên, Lên đàng, Xếp bút nghiên, Kinh cầu nguyện... đã khuấy động lên trong tâm hồn chúng tôi tình non nước.

Tôi nghe nói, trong những ngày trường bị đóng cửa, thầy đã trở về làng, cũng chẳng đâu xa, bên kia cù lao Giêng, thuộc làng Mỹ Hiệp, phía bên kia. Thầy đã lập một gánh hát, hát lấy tiền giúp Việt Minh. Không biết thầy còn trở lại dạy nữa không, hay cũng đã theo anh em. Nếu tôi lại đi học mà không có thầy thì chẳng khác nào phải trở lại chùa. Và anh Hoàng cũng đi rồi, biết đi nhờ xe ai vào ngày nghỉ.

Dù không muốn trở lại trường, tôi vẫn phải nói với cha tôi. Đọc cái giấy của nhà trường gởi về, cha tôi cười mỉm.

- Ổn định à? Cha không cần nói chắc con cũng thấy. Thời cuộc này, sao nói là ổn định. - Cha tôi lại ngước mặt ra sông - Con sông đang lặng sóng, nhưng thử lặn xuống đáy mà coi, sóng ngầm dữ lắm, không biết sóng sẽ nổi lên lúc nào. Thời cuộc bây giờ là vậy. Nếu con đi học, con sẽ đi thi, thi đậu con sẽ học ở Cần Thơ. Thời cuộc bây giờ, với cái tuổi của con, cha chưa muốn cho con đi xa. Thôi. Con ở nhà tiếp với cha, anh Ba con đi rồi, nhà chẳng còn ai.

- Tiếp cha chuyện gì cha?

- Cách đây mấy hôm, Bảy Hà, tiệm thuốc Tây ngoài chợ, rủ cha mở tiệm thợ bạc. ông ta có tiệm có vốn, còn cha thì hùn cái tên với cái nghề của cha. Anh em thợ nghe vậy cũng mừng, họ sẽ có chỗ làm, cũng nhân dịp, học thêm cái nghề của cha. Cha nghĩ rồi, làm vậy, tụi con sẽ có cơm qua ngày.

Cha tôi nói với giọng buồn rầu, chắc cha tôi nghĩ tôi sẽ buồn vì không được học, nên muốn an ủi tôi. Cha tôi đâu có dè tôi hết sức vui mừng. Cái mộng học cao để sau này làm thầy thông thầy ký, trong tôi tan vỡ lâu rồi.



-------------------------------------------------------------------------------
(1) Chính trị

(2) Quân sự

(3) Dưới


 



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 05:00:32 pm
*

*        *

 

- Ê! Con ông chủ thợ bạc.

Buổi sáng sớm, tôi đang đứng lau cái tủ kính đựng đồ trang sức trước cửa tiệm, bỗng nghe có người gọi nhỏ phía sau lưng, tôi quay lại. Trời! Thằng Sườn! Nó như từ trên trời rơi xuống. Từ ngày nghe tin nó, đến nay đã gần nửa năm. Nó vừa gầy vừa đen, nhưng rắn rỏi hơn. Cũng điếu thuốc trên môi, nằm méo một bên.

- Về hồi nào?

- Hồi hôm, chuyến xe chiều, ngủ thớt thịt - nó vừa nói vừa nheo một con mắt. - Nhớ ai không mậy? - Nó hỏi.

- Ai?

- Anh Hoàng.

- Anh đâu?

Nó nhướn mắt cười, bí mật.

- Thư của bác Hai - nó đút vào túi trên tôi một tờ giấy mỏng. - Chiều nay mầy xuống đình chơi, tao chờ. Coi hát.

- Gánh hát về hồi nào, sao không nghe quảng cáo?

- Gánh hát Việt Minh, quảng cáo cho Tây nó bắn sao mậy?

Tôi nhìn nó kinh ngạc.

- Thiệt! Nhớ đưa thơ cho bác Hai. Chiều xuống tao chờ. Tao phải đi. - Nói vậy rồi nó quay đi.

Dân chợ có người nhận ra mặt nó, kêu hỏi:

- Ê Sườn, ở đâu về đó?

- Sài Gòn.

- Sài Gòn mầy ở đâu?

- Đường “Lơ pheo”.

- Làm ăn khá không?

- Khá! - Nó đáp mà không quay mặt lại với bất cứ ai, nó lẩn mất trong đám đông.

Tôi vội chạy về nhà, chốc chốc lại đưa tay sờ lên túi áo ngực, sợ mất lá thư.

Tôi trao thư cho cha tôi. Chẳng biết thư ai gởi và viết gì, mà chỉ thấy gương mặt của cha tôi như hồng lên theo từng dòng chữ, và khi cha tôi ngước lên, gương mặt cha tôi sáng rực rỡ.

- Ai đưa thơ cho con?

- Thằng Sườn!

Và tôi kể lại đầu đuôi lúc nó gặp tôi.

- Thơ ai vậy cha?

- Chú Ba mầy, anh em về rồi. Thằng Sườn coi vậy mà nên người.

- Chiều cha cho con xuống đình.

- Chi?

- Thằng Sườn hẹn.

- Chiều cơm nước xong, con đi sớm, ghé thăm bà cố.

- Dạ.

Thằng Sườn đứng đợi tôi ở sân đình. Trông nó vừa lạ vừa oai. Nó mặc áo sơ mi đen có quai, quần ka ki, thắt ngang lưng một sợi dây nịt lớn có khoen, và đeo lủng lẳng bên hông một trái lựu đạn tròn như trái mãng cầu.

- Hồi sáng, tao không nói được, phải nói dóc ở Sài Gòn về.

- Tao biết.

- Biết thì biết, nhưng đố mầy tao ở đâu về? Cho mầy hay, sau khi làng mình thất thủ, tao với anh mầy mới kéo về U Minh, lập chiến khu.

Thằng Sườn! Nó tả cái cảnh của chiến khu, tôi nghe như truyện thần thoại. Một cánh rừng mênh mông bạt ngàn với bao nhiêu thú dữ, nào cọp, nào rắn, nào muỗi. Cái dòng nước U Minh theo nó kể, nghe cũng lạ.

- Nước đỏ như máu, nhưng ngọt, ngọt hơn nước của sông mình, ngọt lịm như nước mưa. Tụi tao ngày đêm luyện tập. Đến lúc Cụ Hồ ký hiệp định 6/3 thì tụi tao được lịnh kéo quân trở về. Tụi tao vừa đi vừa đánh, “đụng đâu đánh đó”, hơn một tháng trời mới về tới đây. Nhờ Cụ Hồ kêu gọi đoàn kết mà mình với Hòa Hảo huề rồi, cùng nhau đoàn kết đánh Tây, cho nên bây giờ, tụi Tây nó chỉ chiếm mấy cái chợ, chợ tỉnh, chợ quận, chợ làng, còn trong đồng, trong ruộng, trong vườn thì mình hết. Mấy anh nói, đồn bốt của tụi nó như cái cồn ở giữa sông vậy thôi. Mầy biết tao về đây làm gì không?

Tôi lắc đầu.

- Tao đi trinh sát. Tao phải xem cái đồn ở chợ mình bây giờ ra sao, bao nhiêu lính, bao nhiêu súng, bao nhiêu lỗ châu mai, lỗ châu mai xoay về hướng nào. Mấy cái đó tao làm được hết. Nhưng tao không vẽ ra giấy được. Bây giờ tao nhờ tới mầy, mầy có học, mầy biết vẽ bản đồ, mầy vẽ giùm tao, được không?

- Được. - Tôi sốt sắng.

- Ê, làm gì mà dòm cái miệng của tao hoài vậy mầy. Lạ lắm à?

Tôi dòm cái miệng của nó, vì nó mới đi có mấy tháng mà cái miệng nó nói nhiều điều lạ quá, cái miệng của nó làm cho tôi vừa mê vừa phục vừa muốn được như nó. Và trước đây, lần nào gặp nó là cũng thấy điếu thuốc nằm méo một bên trên miệng nó, như sáng nay cũng vậy. Thế mà bây giờ, suốt cả câu chuyện của nó, tôi không thấy nó hút thuốc.

- Sao mầy không hút thuốc?

- Mầy dòm cái miệng tao là vậy hả? Sáng nay tao hút là để cho người ta đừng để ý, tao bỏ thuốc lâu rồi. Hồi ở chiến khu, thấy tao hút thuốc, mấy anh nói: “Cụ Hồ thấy thiếu niên mà hút thuốc như mầy, Cụ Hồ buồn lắm”. Nghe Cụ Hồ buồn, tao bỏ luôn.

- Mầy gặp Cụ Hồ chưa?

- Rồi.

- Ở đâu?

- Trong hình!

- Xạo!

Nó ngửa mặt cười ngất.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 05:01:58 pm
*

*          *

 
Đúng như thằng Sườn nói, đêm có hát đình. Nhưng không phải gánh Bầu Bòn hát tuồng Chung Vô Diệm như mọi năm, mà gánh mới với tuồng mới. Gánh “Cứu quốc kịch đoàn” với tuồng “Nợ Mê Linh”. Đêm hát không cần có xe chạy đi quảng cáo, mà người vẫn cứ đông. Trong đêm hát, tôi gặp lại rất nhiều người quen. Ở hàng ghế danh dự, tôi thấy có ông Tư tôi. (Ông được ngồi ghế danh dự là vì ông đang giữ chức Phó chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã). Để tả cái vẻ tự đắc của ông trong bộ ria vểnh với biệt danh Tư Ghe, có người xầm xì bên tai tôi: “Coi kìa, cái bộ ria của ông y như ông gác hai cái chèo chĩa lên trước mũi ghe”. Hàng ghế sau lưng ông là bà con tín đồ Hòa Hảo của xóm vườn. Chú Điền con ông Chín Hết của tôi thì mang gươm đi tuần, đi gác cho đêm hát.

Dưới ánh đèn “măng sông” với cái tiếng khè khè của ngọn lửa, khi tấm màn nhung đỏ kéo lên, người bước ra sân khấu đầu tiên, tưởng ai, hóa ra là chú Ba Giáo. Chú mặc áo bà ba đen, chiếc khăn rằn quấn qua cổ, chú cúi chào đồng bào rồi dõng dạc đọc lời kêu gọi đoàn kết kháng chiến của Cụ Hồ.

Người thứ hai bước ra giáo đầu tuồng lại chính là thầy Ngọc của tôi. Vừa bước ra sân khấu, cao lêu nghêu, cặp kiếng cận, với bộ râu giả nhếch lên nhếch xuống, thầy chưa nói gì cũng đã làm cho khán giả rộn lên, cười ngả nghiêng.

Người thứ ba, được giới thiệu là nam ca sĩ Hoài Phương Bắc, người mở đầu đêm kịch, tưởng là ca sĩ nào ở đâu tới, té ra anh On, người ở chợ, cả làng ai cũng biết mặt, biết  tên, một anh con trai con nhà khá giả, cả dòng họ đều làm thầy thông, thầy ký, một anh chàng có gương mặt của một cô gái với nước da trắng hồng, nhưng lại có một bộ râu quai nón rất đàn ông, con người đào hoa có tiếng. Anh là đứa con trai đầu, số một, tên anh được đặt tên On theo tiếng Tây. Sau này nghe anh nói, anh đổi tên vì muốn từ bỏ cái tên Tây, và để tỏ lòng nhớ đến cội nguồn của tổ tiên, anh lấy cái tên có nghĩa nhớ về phương Bắc.

Anh cầm cây băng giô, vừa đàn, vừa hát, giọng của anh trầm ấm, quyến rũ, anh hát bài “Buồn tàn thu” theo lời mới do chú Ba Giáo soạn ra...

...Ta chiến tranh vì công lý
Sa trường hăng hái đi không về...


Khi anh xuống mùi với tiếng đàn của anh, khán giả chồm dậy, vỗ tay, reo hét ầm ĩ.

Vãn hát, khi mọi người ra về, tôi còn nán lại chờ thằng Sườn đưa đến thăm thầy, thăm chú Ba Giáo.

Sau khi biểu diễn, đoàn được bà con xóm Đình đãi ăn. Ăn uống xong, đoàn lại đàn, lại hát. Khuya quá, không về được, tôi đành phải ngủ lại với thằng Sườn, cùng một chiếc nóp sau lái ghe, dưới bến sông. Đó cũng là lần đầu tiên tôi đi chơi đến suốt sáng. Và cũng chỉ có một đêm đi vắng, khi tôi trở về, cái chợ làng tôi đã khác rồi. Truyền đơn bươm bướm với lời kêu gọi của Cụ Hồ rải dài theo mặt đường, rải trắng cả sân chợ, như phân phát cho mỗi người mỗi tờ, ai cũng cúi xuống nhặt lên cầm tay, chuyền cho nhau. Cờ đỏ sao vàng được dán khắp trên mặt tường trên đường phố. Trên đầu nhà dài chợ cũng mọc lên lá cờ đỏ sao vàng. Người ở chợ nếu không kề tai thì thầm thì trong ánh mắt cũng nói với nhau: “Cách mạng đã về rồi”.

Thằng cò Tây với bọn lính chạy cuống cuồng, còi báo động thổi “quen quét”...

Một hôm, tôi ngớ ngẩn thế nào mà cha tôi hỏi tôi:

- Con nói láp ráp cái gì như người mất hồn vậy?

Tôi có nói láp ráp cái gì đâu, tôi đang hát. Tôi lẩm nhẩm lại lời hát của anh On:

Ta chiến tranh vì công lý
Sa trường hăng hái đi không về...


Lời hát như men đang dậy lên trong tâm hồn tôi. Tôi luôn thấy tôi như thằng Sườn đang đi trong khói lửa của chiến trường.

- Con muốn đi phải không?

Tôi ngồi im, thú nhận, không dám nói.

- Nếu con muốn đi thì cha gởi con cho chú Ba Giáo. Đi, con phải nhớ, đi làm Cách mạng thì phải chịu cực, chịu khổ, phải hy sinh. Đã đi thì đi cho đến cùng không được bỏ giữa chừng, con nhớ là nhà mình không làm gì cho bà con khi dể. Con hiểu chưa?

-Dạ.

- Cha dặn thêm một điều nữa. Nay mai không thấy con, chắc có người hỏi, cha sẽ nói là con đi học. Ai hỏi con, con cũng nói vậy. Cha với chị em con còn ở đây. Con hiểu chưa?

- Dạ.

Vậy là tôi đi. Tôi đi sau buổi cơm chiều. Cha tôi, chị tôi và cả ba đứa em đều qua cây câu khỉ, đứng bên vệ đường, đón chiếc xe chiều đưa tôi xuống đình.

Tôi hăng hái đến nỗi, vui mừng đến nỗi không cần chiếc xe phải dừng lại. Người đánh xe vừa gò cương thì tôi đã nhảy lên, ngồi gọn trong lòng xe, và con ngựa lại bỏ vó sải dài. Tôi không biết gì đến nỗi lưu luyến của buổi chia tay, tôi không vẫy tay chào, cũng không quay đầu nhìn lại. Nào cha, nào chị, nào em đang nghĩ, làm gì bên vệ đường. Khi chiếc xe đưa tôi đi, tôi cũng không ngoái nhìn lại cây cầu, con kinh và cây xoài với ngôi nhà. Sau này nhớ lại, buổi chiều tôi đi là buổi chiều của mùa xoài đang đơm trái.

Ôi! Tôi đâu có ngờ, suốt cả đời tôi, mãi mãi, tôi không bao giờ còn nhìn lại được cây cầu khỉ bắc qua con kinh, cái sân nhà dưới bóng xoài và ngôi nhà sàn của tôi nữa.

Anh Hoàng trở về trên lưng ngựa giữa lúc tôi và các anh chị trong Đoàn thanh niên và phụ nữ xã đang ca hát và chơi trăng trước cửa đình.

- Ủy ban có ai đây không?

Anh vừa hỏi vừa tuột xuống lưng ngựa bên hàng dương. Hàng dương cũng đang ngả đầu vi vu reo hát theo từng cơn gió, và sóng trên con sông cũng từng đợt nối nhau tràn bờ, vỗ nhịp hòa theo.

Đình làng đã trở thành trụ sở ủy ban kháng chiến hành chánh xã, nhưng giờ này chẳng có ai.

- Chi vậy anh Hoàng? - Chị Nhẹ hỏi, chị là phụ nữ xã, một cô gái mười chín hai mươi, như cái tên của chị, một cô gái mảnh khảnh, đi đứng nhẹ nhàng và giọng nói cũng nhè nhẹ, ai cũng thích nghe.

- Bộ đội về.

- Ủy ban không có đây, để chị em phụ nữ tụi em lo, được không anh?

- Càng ngon!

Để hai người bàn việc xong, và khi chị Nhẹ cùng các chị trong nhóm ca hát chia nhau đi mượn nhà và lo cơm nước cho bộ đội, tôi mới bước tới anh. Tôi mừng anh, nhưng miệng lại gọi tên con ngựa của anh.

- Ô!

- Nhỏ hả? - Anh giật mình quay lại - Nghe gọi con Ô, tao biết là mầy.

Anh nghiêng mặt nhìn tôi, anh vẫn vậy, dù là ban đêm, trên đầu vẫn đội cái nón nỉ không vành.

- Nghe người ta nói tao đi tìm mầy không? Tao vừa đến thì mầy vừa đi, tìm đỏ con mắt không thấy đâu. Bữa nay không tìm mầy thì gặp mầy. Làm thơ ký hả, ngon há!

- Ngon sao bằng anh.

- Muốn ngon như tao thì lên đây, cho con Ô  nó mừng - anh vừa nói vừa đỡ tôi lên lưng ngựa.

Tôi nghe lại cái mùi ngai ngái của con Ô, tôi đưa tay vỗ lên cái lưng đầm đìa mồ hôi của nó, và nó quay đầu lại, ngước cái mỏ, hí hí với tôi.

- Nghe thím Tư nói nó với con Cu theo anh về rừng hả anh?

- Má tao nói dóc với mầy đó. Làm sao dẫn nó theo được. Đêm tao đi, biết thế nào tụi Tây cũng vô bắt, ba tao mới đem gởi nó cho một người quen ở giữa đồng. Cái đêm tao với ba tao về, trời tối như mực, cái mũi của nó hơn mũi chó, mũi nó khịt khịt mấy cái, rồi nó cất hai cái chân trước lên, hí vang trời.

- Còn con Cu đâu?

- Con Cu nhỏ con, nhưng nó già hơn con Ô, ba tao để lại, cho nó nghỉ.

Tôi ngồi trên lưng con Ô, còn anh thì cầm dây cương, dẫn nó đi lọc cọc trên con đường đá.

- Anh lên đi - tôi vừa nói vừa ngả mình tuột xuống.

- Tao đi bộ, cho nó nghỉ. Mầy ngồi đó, tập cỡi một mình cho quen. Thằng nào có chữ như mầy cũng nhát, thằng nào cũng thích làm thơ ký, ngồi bàn giấy.

Tôi chột dạ:

- Tôi xin đi bộ đội mà mấy ổng không cho.

- Dóc.

- Thiệt.

- Từ ngày mầy đi tới giờ, mầy làm gì, kể tao nghe.

- Ngày tôi đi, theo ý của cha tôi, tôi sẽ theo chú Ba Giáo, trong Ban tuyên truyền quận. Nhưng xã không cho tôi đi, bắt tôi ở lại làm thơ ký.

- Đó, mầy thấy chưa. Cũng tại có chữ mới bị giữ lại. Còn như tao với thằng Sườn thì ai giữ. Ở xã, mầy làm thơ ký cho ai?

- Ai cũng được, ủy ban rồi Thanh niên với Phụ nữ, chỗ nào cần tôi ghi chép thì tôi làm. Ai cũng nói tôi viết chữ đẹp, cho đi uổng.

- Sao mầy không làm bộ dốt để người ta thả mầy đi?

- Làm sao biết được.

- Kể tiếp tao nghe.

- Tôi làm được một tháng thì chú Ba Giáo ở quận về. Chú nói sao đó, xã mới chịu cho tôi đi.

- Cũng làm thơ ký?

- Không làm thơ ký thì làm gì?

- Rồi sao, kể tiếp.

- Quanh quẩn trong văn phòng hoài, tôi chán, tôi xin đi bộ đội. Lúc đó, cơ quan tuyên truyền quận đóng gần Ban quân sự tỉnh đội, chỉ cách một cây cầu. Mấy chú trong Ban quân sự chê tôi nhỏ...

- Sao mầy không thêm tuổi?

- Sao không! Tôi kê lên hai tuổi là mười sáu, nhưng mấy chú không chê tuổi mà chê nhỏ con.

Anh không nói gì, vẫn đi bên lưng ngựa ngẫm nghĩ.

- Ừm! Mầy nhỏ con thiệt! Bây giờ mầy về đây làm gì?

- Mấy chú chê nhưng lại nói, nếu có giấy của cha mẹ đồng ý cho đi thì mấy chú nhận, nhưng cũng nhận ở văn phòng, làm thơ ký. Đâu cũng là thơ ký thôi, thà ở quận sướng hơn. Bữa nay tôi ở đây là vì cơ quan tuyên truyền về đây, làm mít tinh, diễn thuyết.

- Chú Ba Giáo đâu?

- Chú đi vô xóm, vận động bà con mai đi mít tinh.

- Mầy muốn đi vô bộ đội thiệt không?'

- Thiệt.

- Sợ chết không?

- Không.

- Vậy, mầy cứ theo tao.

- Chắc không?

- Sao không chắc mầy, Nhỏ? Tao nói cho mầy nghe. Đại đội của tỉnh mình có ba trung đội. Trung đội của ba tao có thằng Sườn đi liên lạc. Trung đội anh Oánh có thằng Ngọt. Còn bộ đội của tao, bộ đội anh Dũng, mầy biết chưa, không có thằng nhỏ nào, nên tao phải làm liên lạc. Mầy về mầy thế tao, để tao cầm súng, tao giao con Ô cho mầy. Ngon chưa?

- Ngon.

- Nhưng mầy phải nhớ, chút nữa bộ đội về, tao sẽ đưa mầy lên gặp anh Dũng, nếu anh Dũng hỏi mầy học tới đâu, mầy phải nói là mầy không biết chữ. Nếu mầy nói mầy biết chữ thì ổng sẽ đưa mầy tuốt lên văn phòng đại đội, làm thơ ký. Nghe chưa? Vậy là mai tao sẽ cầm súng, a ha...

Nói vậy rồi anh nhảy phóc lên con Ô, cúi rạp lên mình nó, vừa vỗ vừa vuốt ve con Ô.

- Ô ơi, mai tao cầm súng.

Con Ô lại quay đâu, ngước mỏ, hi hí với anh.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 05:04:11 pm
*

*          *

 
Tôi đứng trước mặt anh Dũng, người chỉ huy đơn vị, trước một sân nhà, bên bờ sông, dưới ánh trăng. Tôi ngạc nhiên vì người chỉ huy đơn vị không phải là một người vạm vỡ, đen đúa, tuổi không quá hăm lăm, và như một thư sinh. Người cao ráo trong bộ quân phục đen, vẻ thanh tú, nước da trắng hồng với mái tóc mềm mịn như tơ.

- Cậu học lớp mấy? - Anh nói giọng Bắc.

Nhớ lời anh Hoàng dặn, tôi nói dối:

- Dạ, chưa đi học.

Anh tròn hai mắt nhìn tôi:

- Bao nhiêu tuổi mà chưa đi học?

Tôi kê thêm một tuổi:

- Dạ, mười lăm.

- Mười lăm mà chưa biết chữ? Thế thì hỏng rồi, cậu ạ!

Tôi đưa mắt nhìn anh Hoàng, anh bối rối nhìn xuống đất.

- Đi liên lạc cho bộ đội mà không biết chữ, sao được? Tôi thí dụ cho cậu nghe. Tôi giao cho cậu một lá thư quan trọng. Đi giữa đường, cậu gặp Tây xét hỏi. Nếu cậu biết chữ, cậu mở ra đọc, rồi xé bỏ hoặc nhai nuốt, không còn lá thư trong tay, nhưng cậu vẫn nhớ, vẫn có thể truyền đạt tin tức hoặc mệnh lệnh của chỉ huy. Cậu không biết chữ, nếu cậu giữ lá thư, cậu sẽ bị bắt, địch sẽ nắm được bí mật của quân ta, nếu cậu thủ tiêu lá thư, thoát khỏi tay địch, thì tin tức hoặc mệnh lệnh không được truyền đạt đến nơi đến chốn. Nếu lá thư đó là thư hợp đồng chiến đấu thì cậu nghĩ xem, tai họa biết bao?

Tôi lại liếc nhìn anh Hoàng. Anh nhìn tôi, nheo mắt nói với anh Dũng:

- Thằng Sườn cũng không biết chữ.

- Thằng Sườn ở đơn vị khác. Nếu thằng Sườn ở đơn vị của anh, anh sẽ bắt nó đi học. Ơ kìa, nó! Vừa mới nhắc tới nó, nó lại tới.

Từ ngoài đường, thằng Sườn bước vào sân, nó rập chân đứng nghiêm, hai tay cầm lá thư, đưa cho anh Dũng:

- Thưa anh, thơ khẩn.

- Cho cậu nghỉ, chờ tôi.

Anh Dũng rút cây đèn pin, rọi lên lá thư. Đọc xong, anh ngẩng lên:

- Chúng ta chuẩn bị hành quân - Anh hướng vê tôi: - Chuyện của cậu, tôi sẽ giải quyết. Cậu ở lại, đi học.

May quá, thằng Sườn chẳng biết đầu đuôi ra sao, nghe đến chuyện đi học, nó buột miệng:

- Thằng này học giỏi lắm anh.

Anh Dũng vừa muốn quay vào nhà, nghe nói, anh khựng lại, tròn hai con mắt:

- Cậu nói gì? Ai học giỏi?

Thằng Sườn đưa một tay chỉ thẳng vô ngực tôi:

- Thằng nầy.

- Sao cậu biết?

- Bạn tôi mà. Anh nhớ cái bản đồ vẽ cái đồn ở chợ này không?

- Đánh giặc mà sao không nhớ?

- Nó vẽ đó.

- Thế à?

- Nó nhỏ vậy nhưng học cao lắm. Nó nói tiếng Tây như lặt rau. Hồi nó đi học, Tây phải trả lương cho nó đó anh.

- Thật chứ? - Anh Dũng hỏi tôi.

- Dạ.

Thằng Sườn như được nước, nói thêm:

- Minh, mầy nói một câu tiếng Tây cho ảnh nghe đi, Minh.

Tôi vừa sung sướng được nó cứu thoát, lại vừa mắc cỡ khi nghe bảo phải nói một câu tiếng Tây, tôi chỉ biết cười. Nó lại giục:

- Nói đi.

- Nói gì?

- Cứ nói tôi tên gì bằng tiếng Tây cho ảnh nghe.

- Thôi! - Anh Dũng đưa bàn tay phủi xuống. - Cậu nói thật cho tôi nghe cậu học đến lớp mấy.

Tôi thú thật việc học hành của tôi.

- Thế là cậu học hơn mình ba lớp. Hồi bé mình ham học lắm. Vì bố mẹ nghèo, phải đi phu cao su. Mình mơ ước, sau khi đánh thằng Tây, giành lại độc lập, dù lớn tuổi mình vẫn đi học. Nhưng mà này, sao cậu nói dối là cậu không biết chữ?

Tôi ấp úng. Anh Hoàng đỡ lời cho tôi:

- Dạ, tôi dặn nó.

- Sao thế?

Tôi sợ anh đưa nó lên văn phòng làm thơ ký.

Anh vỗ vai tôi, ngửa mặt lên trăng cười ngất.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 05:29:56 pm
*

*          *

 

Ngay trong đêm đó, tôi theo đơn vị của anh Dũng hành quân về xóm Cột dây thép. Nếu đi theo con đường đá chạy qua làng, chỉ đi bốn cây số, nhưng vì cái đồn Tây ở chợ, nên phải đi vòng qua cánh đồng. Đơn vị của chúng tôi là trung đội 12, thuộc đại đội 66 của tỉnh Long Châu Tiền, nhưng không ai nhớ đến con số của đơn vị; ngoài những công văn và giấy tờ, theo thói quen, mọi người đều gọi các đơn vị bằng cái tên của người chỉ huy: bộ đội anh Dũng, anh Tư Khởi...

Bộ đội của anh Dũng gồm có bốn tiểu đội, mỗi tiểu đội có mười hai chiến sĩ, có hai cây trung liên đầu bạc, ba cây tiểu liên, còn tất cả các chiến sĩ đều mang súng trường.

Tôi được ngồi trên lưng con Ô với anh Hoàng. Còn tất cả các chiến sĩ, kể cả anh Dũng, súng trên vai, nóp trên lưng, hành quân với hai bàn chân đất. Từng chiến sĩ nối theo nhau đi trên bờ ruộng ngoằn ngoèo, trên cánh đồng, dưới ánh trăng.

Lần đầu tiên trong đời, tôi có trong tay một vũ khí diệt thù. Đó là trái lựu đạn tròn như trái mãng cầu ta, trên đầu có cái chập chã do anh Hoàng chia cho.

Trái lựu đạn tôi cũng đeo ở bên hông như anh. Lạ! Khi bên hông tôi có một trái lựu đạn, tôi thấy tôi trở thành một người khác. Trái lựu đạn cho tôi sức mạnh hay là cái vũ khí diệt thù này đã chuyển dậy sức mạnh trong tôi?

Ngồi trên lưng con Ô sau anh Hoàng, người lắc lư, tay tôi sờ trên lựu đạn, người cứ thấy nôn nao. Tôi ngửa mặt nhìn trời, trời mênh mông ánh trăng, tôi nghe gió đồng thổi mát từng chân tóc, và ngực căng đầy hương lúa.

Tôi, mười bốn tuổi, nhưng tôi không còn là đứa trẻ mười bốn nữa. Với trái lựu đạn trong tay, tôi đã trở thành một người lính.

Và sau một đêm hành quân, qua một ngày hôm sau của đời lính, tôi đã xông vào trận đánh.

Chú Tư Khởi, ba anh Hoàng, cũng chỉ huy một trung đội như anh Dũng, trung đội chú đã về đến Cột dây thép từ đầu hôm. Trên đường hành quân, tôi hỏi anh Hoàng:

- Sao anh không ở bộ đội của chú Tư?

- Lúc đầu tao theo ổng chớ ai. Nhưng cha mà chỉ huy con, khó lắm, nên tao mới xin qua bộ đội anh Dũng. Với lại, chẳng lẽ bộ đội của ổng có tới hai thằng liên lạc, tao với thằng Sườn, còn bộ đội của anh Dũng thì chẳng có một thằng nào.

- Bây giờ có tôi nữa là hai, anh đi đâu?

- Tao đã nói với mày rồi, tao cầm súng. Thấy cây súng thèm thấy mẹ!

Đơn vị chúng tôi về Cột dây thép thì trời vừa đâm mây ngang. Thức trắng đêm nhưng không ai được ngủ. Tôi cũng một cái cuốc như ai, sát cánh với anh Hoàng, hì hục đào công sự. Công sự của trận địa nằm bên bờ mương, trong vườn cây dài theo bến sông.

Chú Tư Khởi gặp lại tôi khi chú đến bên công sự của anh Dũng bàn việc. Chú đưa hai tay ôm trọn lấy người tôi:

- Vậy là hai cha con chú mày cùng đánh trận.

Nghe nói, tôi tưởng cha tôi đang ở bộ đội của chú, cũng đâu đây.

- Cha cháu đâu chú?

- Cha mày ở chợ chớ ở đâu.

Tôi ngớ ra. Chú vỗ vai tôi:

- Sau nầy, cháu sẽ biết...

Hai người chỉ huy hai đơn vị đứng bên nhau trên bờ mương, dưới vòm cây, nhìn ra con sông. Một người già, một người trẻ, như hai cha con.

- Đồng chí Dũng! Làng này là làng của tôi. - Và chú kể lại lịch sử xóm Cột dây thép với đồng chí miền Bắc...

- Cái ngày bọn nó chạy tàu vô chiếm lại cái làng này, cũng ở đây, tôi chặn đầu nó, trong tay chỉ có một cái “mút”. Đạn của tôi cứ rơi sau cái đít tàu của nó, nghĩ lại vẫn còn tiếc.

- Thế thì, hôm nay, tôi với anh, liên quân của chúng ta sẽ đánh bọn chúng bằng sức mạnh lịch sử của quê hương, anh Tư nhé! Bọn chúng sẽ đền tội, sẽ chôn vùi dưới dòng sông này - anh Dũng, người chỉ huy trung đội tôi, vừa nói văn hoa và hùng hồn, vừa đưa quả đấm, đấm ra dòng sông đang chảy xiết.

Trận đánh đầu tiên trong đời lính Vệ quốc đoàn của tôi đã chiến thắng giòn giã.

Khi mặt trời lên khỏi rặng cây bên kia cù lao Giêng, mặt sông đầy ánh nắng, thì tất cả các họng súng cùng trút đạn vào con tàu chở hơn chục thằng lính lê dương từ chợ làng ngược nước về Chợ Mới.

Buồng máy bị bốc cháy ngay từ loạt đạn đầu, chúng không kịp cho tàu giạt qua bên kia bờ, cũng không kịp trở tay. Một số tránh được loạt đạn đầu, đã vùng nhảy ra, lao xuống con sông.

Và như anh Dũng, người chỉ huy của tôi - đã nói, chúng bị chôn vùi dưới dòng sông.

Một trận đánh mà sau nầy, mỗi lần nhắc lại, dân xóm Cột dây thép hãy còn hả hê.



Tiêu đề: Re: Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết - Nguyễn Quang Sáng)
Gửi bởi: hoi_ls trong 05 Tháng Ba, 2022, 05:32:17 pm
*

*          *

 
Ba mươi năm sau, sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, tôi có dịp trở về xóm Cột dây thép vào ngày giỗ hội. Tôi được ngồi xếp bằng trên sàn gỗ của ngôi nhà trong vườn, bên sông, cùng với dân xóm. Một ông già có chòm râu cước, không nhận ra tôi, ông đã kể với tôi như kể cho một người khách lạ:

- ... Tàu nháng lên, bốc cháy. Khi tụi nó nào quần, nào áo, nào mũ, nào súng, lao ra sông thì chiếc xuồng của tao từ trong bờ cũng đâm ra. Nó vừa ngoi đầu lên thì tao cũng vừa trở cái cán chèo, tao cốp xuống đầu nó. Nó vừa ục ục nổi lên, cái cán chèo của tao lại cốp. Bây giờ nhớ lại, tao còn thấy đã hai cái bàn tay. Nhưng không phải một mình tao đâu, nói vậy bà con hàng xóm người ta cười. Xóm này, hàng chục, hàng trăm chiếc xuồng đâm ra, dầm chèo đưa lên tua tủa. Không một thằng sống sót. Nè chú em, chú nên biết, lúc đó, bộ đội mình là bộ đội đánh du kích. Đánh xong rồi thì phải rút. Bọn nó hèn nhát. Chờ cho bộ đội rút hết, nó mới đem quân tới. Nó đi trên hai chiếc tàu sắt, từ Tân Châu đổ xuống, toàn là bọn lính lê dương. Nó đổ quân lên xóm nầy, nó càn, nó đốt, nó giết. Cháu ơi! Xóm nầy là xóm mộc, nó vừa bắn vừa đốt, ai dập nổi? Lửa cháy ngất trời. Chỉ có một buổi chiều thôi, mà nó giết cái xóm Cột dây thép hơn hai trăm con người... Cho nên ngày nầy, xóm Cột dây thép, nhà nào cũng làm đám giỗ, gọi là ngày giỗ hội đó cháu. Cháu đi dài theo xóm mà xem, nhà nào cũng khói hương nghi ngút.

Đơn vị chúng tôi, trên dưới năm mươi chiến sĩ, gương mặt khác nhau, tính nết khác nhau, mỗi người một cuộc đời riêng khác nhau, nhưng gắn bó trong tình đồng chí, đồng đội và êm ấm như một đàn con trong gia đình. Chúng tôi chia nhau từng miếng ăn, điếu thuốc, chia nhau từng niềm vui và nỗi buồn! Có anh, ngày đầu xin nhập ngũ, trên người anh chỉ có một cái quần đùi, đầu trần, lưng cũng trần. Liền sau đó, anh được đồng đội, người chia cho chiếc áo, người chia cho cái quần.

Đơn vị chúng tôi, một khối người gắn bó, súng trên vai, nóp trên lưng, và với hai bàn chân đất, cùng nhau hành quân đi tìm giặc khắp cả các làng hai bên bờ sông Tiền, khắp cả các làng dài dọc theo kinh rạch và khắp cả các cù lao trên giữa dòng sông. Chúng tôi đi ngày đi đêm, đi mưa đi nắng, đi trên các đường đất qua làng, đi trên bờ ruộng lầy lội, đi băng đồng trên những mảnh đất cày, đi xuống trên các rạch, con kinh, vượt qua sông lớn.

Chiếc nóp trên lưng thay cho giường chiếu và mùng mền. Với chiếc nóp, có khi ngủ cả trên sàn gỗ của những ngôi nhà sàn, có khi ngủ trước sân nhà, có khi ngủ dài theo bờ ruộng, và có khi ngủ cả trên xuồng giữa đồng nước dưới ánh trăng.

Dù ở đâu, chúng tôi cũng như những đứa con được trở về với xóm làng. Bậc cha, mẹ, anh, chị và các em đứng dài theo vệ đường, chào đón hoặc tiễn đưa. Các mẹ, các chị lo cho chúng tôi từng bữa cơm ngon. Các bà mẹ chiến sĩ và các chị hỏi chúng tôi:

- Bữa nay các con muốn ăn gì? Canh chua, cá kho hay là heo, là gà?

- Dạ, mấy má mấy chị cho gì ăn nấy.

- Nói vậy thì má hỏi mấy đứa con làm chi. Nghe nói mấy con ăn cá, ăn heo nhiều rồi. Bữa nay mấy con thắng trận trở về, mấy má làm cho các con một con bò.

Có người ở xa không kịp mang quà mừng chiến thắng cho đơn vị đã tìm cách chạy băng đồng, chặn đường hành quân của đơn vị, đứng dài theo bến sông, ném xuống từng chiếc xuồng chúng tôi nào thuốc, nào bánh.

Chúng tôi sống giữa lòng dân, êm ấm. Chúng tôi chỉ có mỗi một mơ ước: diệt thù và hy sinh cho Tổ quốc.

Cuộc đời Vệ quốc đoàn của tôi thật ngắn ngủi nhưng biết bao kỷ niệm, đủ cho tôi hiểu biết tình người, và cũng đủ cho tôi hiểu biết lòng nham hiểm và ác độc của kẻ thù. Từ đó, từng bước, với cuộc đời, tôi lớn lên với thời gian.

 





Hết