Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu nước ngoài => Tác giả chủ đề:: nhinrathegioi trong 26 Tháng Mười Hai, 2021, 10:45:03 pm



Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Mười Hai, 2021, 10:45:03 pm
- Tên sách: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
- Tác giả: Lý Thận Minh - Trần Chi Hoa
- Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
- Năm xuất bản: 2017
- Số hóa: nhinrathegioi


LỜI NHÀ XUẤT BẢN


Đã 100 năm trôi qua kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917), đánh dấu sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, cho đến nay, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã trải qua một quá trình đầy thăng trầm. Hiện nay, Đảng Cộng sản vẫn đang phát huy vai trò lãnh đạo, dẫn đường ở những nước xã hội chủ nghĩa và cũng hoạt động mạnh mẽ, tuy không nắm quyền lãnh đạo đất nước ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Các đảng cộng sản trên thế giới vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác, tìm tòi con đường phát triển phù hợp với tình hình của mỗi nước nói riêng và xu thế phát triển của toàn thế giới nói chung.


Đến nay, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết - nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã giải thể hơn 26 năm. Cùng với đó, Đảng Cộng sản Liên Xô, một chính đảng lớn với hơn 20 triệu đảng viên, không chỉ mất đi quyền lãnh đạo đất nước, mà còn bị "giải tán" trong chớp nhoáng. Tuy sự kiện đã xảy ra hơn 1/4 thế kỷ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự kiện này với những cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của nó, nhưng vẫn chưa có một đáp án thống nhất; những tranh cãi xung quanh chủ đề này vẫn chưa kết thúc.


Cuốn sách Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng là kết quả của đề tài "Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc và sau đó đã được đưa vào dự án thuộc Quỹ khoa học xã hội nhà nước của Trung Quốc. Đứng từ góc độ của nhà nghiên cứu đồng thời là đảng viên ở một nước do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo, trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, cuốn sách đi sâu phân tích một cách khoa học, lôgích những nhóm nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu trong lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu bài học mất Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn đối với các đảng cộng sản đang nắm quyền nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng trong quá trình lãnh đạo đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Với cách trình bày khoa học, lập luận rõ ràng, cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích đối với bạn đọc, nhất là các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, cán bộ lãnh đạo trung và cao cấp, những người làm công tác đảng, học giả, giảng viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử, xây dựng Đảng. Tuy nhiên, do xuất phát từ quan điểm, lập trường của mình và dựa vào nguồn tư liệu khai thác được khi phân tích về một số vấn đề trong quan hệ quốc tế về một số sự kiện, nhân vật, nên những luận giải, đánh giá của các tác giả đang có những ý kiến khác nhau, cần tiếp tục được nghiên cứu, trao đổi. Tôn trọng chính kiến của các tác giả và để người đọc thuận tiện nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi cố gắng giữ nguyên luận chứng của tác giả; các luận chứng đó là quan điểm riêng, không phản ánh quan điểm của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.


Tháng 9 năm 2017
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:19:04 am
LỜI TỰA

SỰ THA HÓA, BIẾN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
LÀ NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN CỦA VIỆC LIÊN XÔ GIẢI THỂ


Ngày 24 tháng 8 năm 1991, đây vốn dĩ là một ngày hết sức bình thường. Nhưng chính vào ngày này, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev đã vượt chức trách, quyền hạn cá nhân, trong một thông báo ngắn ngủi tuyên bố hai tin gây chấn động thế giới: Một là "Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô không thể không có quyết định khó khăn nhưng lại là quyết định hợp lý duy nhất là tự giải tán"; hai là "Tôi không cho rằng bản thân tôi sau này còn có thể hoàn thành chức trách của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô nữa, tôi sẽ thôi tất cả các chức quyền của mình"1 ([Nga] Roy Medvedev: Năm cuối cùng của Liên Xô, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2009, tr.105. Các chú thích, tài liệu tham khảo trong sách đều được dịch theo sách gốc (ND.)).


Bảy giờ tối ngày 25 tháng 12 năm 1991, Gorbachev trước tiên ký lệnh từ chức Tổng thống Liên Xô, sau đó tại văn phòng của mình, ông phát biểu từ chức trước ống kính quay trực tiếp của mấy đài truyền hình của Liên Xô. Chính vào lúc Gorbachev phát biểu trên truyền hình, quốc kỳ có hình búa liềm màu đỏ của Liên Xô trên nóc tròn dinh Tổng thống - Điện Kremlin lặng lẽ được hạ xuống, đánh dấu việc Liên Xô từ đây biến mất trên bản đồ chính trị thế giới.


Năm 1991 là năm cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng là năm cuối cùng của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết.

Trong nháy mắt, năm 2011 là tròn 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Liên Xô giải thể. Nhân dịp này, chúng tôi xin gửi cuốn sách này tới các quý vị độc giả, kính mong mọi người phê bình, đóng góp ý kiến.


I. VỀ BỘ KHUNG TỔNG THỂ CỦA CUỐN SÁCH

Năm 2000, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đã xác lập đề tài lớn là "Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng"; năm 2001, đề tài này lại được đưa vào dự án thuộc Quỹ khoa học xã hội nhà nước. Cuốn sách gửi tới các độc giả đây chính là thành quả cuối cùng trong mấy năm nghiên cứu của nhóm đề tài chúng tôi.


Điều cần nói rõ là, sáu tháng đầu năm 2005, Phan Gia Hoa, Tổ trưởng kiểm tra kỷ luật của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương đóng tại Tổng Công ty thuốc lá Trung Quốc và nhà làm phim chính luận Lưu Kỳ Quang biết được tác phẩm của chúng tôi đã có đề cương chi tiết, liền mời chúng tôi cùng làm trước một bộ phim chính luận truyền hình liên quan, thế là 8 tập phim tham khảo giáo dục "Tính trước nguy cơ - Bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" được sản xuất và hoàn thành vào sáu tháng đầu năm 20061 (Chấp bút chung: Lý Thận Minh (bút danh: Tiêu Lê). Chấp bút: Lý Tiểu Ninh, Cát Ấu Lực, Khâu Kiến, Hách Nhất Tinh. Cố vấn bộ phim: Trần Khuê Nguyên, Trương Toàn Cảnh, Lưu Phong Nham, Trịnh Khoa Dương, Lý Thận Minh, Toàn Triết Chu, Đỗ Học Phương, Lý Thành Nhân, Mã Tuấn Thanh, Tưởng Chấn Vân, Lý Ý Trân. Tổng Giám sát sản xuất: Lý Bản Cương, Tiêu Kiến Quốc, Chu Điện Phú, Vương Kinh Sinh, Trần Chi Hoa. Phụ trách kế hoạch: Phan Gia Hoa, Chu Cẩm Xương, Hình Thế Kiệt, Hồ Trì, Thiệu Trung Hòa, Trần Quân, Lưu Kỳ Quang. Cung cấp lý luận: Lý Thận Minh, Trần Chi Hoa, Ngô Ân Viễn, Hình Quảng Trình, Lý Chính Nhạc, Vương Chính Tuyền, Trương Thụ Hoa, Vu Hồng Quân, Quách Xuân Sinh. Tổng đạo diễn: Lý Thuyên, Lưu Thụ Nhân. Bộ phim do Hội nghiên cứu xây dựng Đảng toàn quốc, nhóm chuyên đề "Nghiên cứu bài học lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương, Nhà xuất bản Phương Chính, Trung Quốc, Tập đoàn xuất bản Cát Lâm liên hợp quay, Trung tâm Nghệ thuật truyền hình Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng sản xuất, ra đời vào tháng 6 năm 2006). Bộ phim chính luận này tổng cộng dài hơn 5 tiếng đồng hồ, sau khi phát hành nội bộ, đã nhận được sự phản hồi tương đối mạnh, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương và Ủy ban Chính pháp Trung ương ra hẳn một thông tri yêu cầu các đơn vị trực thuộc xem. Tổ học tập trung tâm Tỉnh ủy các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Nam còn dùng cả một ngày chuyên để xem, tọa đàm thảo luận và gửi công văn yêu cầu các đơn vị trực thuộc trong toàn tỉnh tổ chức xem. Một số đơn vị nói: Trong khi chiếu, mọi người nín thở im lặng, rất ít đi lại; vốn dự định chia thành hai buổi để xem hết, nhưng vừa mới chiếu mấy tập đầu, các đồng chí xem nhất trí yêu cầu buổi trưa vừa ăn cơm hộp vừa xem, xem một mạch đến hết; trong hơn 5 tiếng đồng hồ, một số người nghiện thuốc lá cũng không để ý tới việc ra ngoài "thư giãn"; một số người còn tự động tổ chức tọa đàm, nói về những thể nghiệm sau khi xem. Sau đó, trong xã hội, thậm chí ở nước ngoài, bộ phim cũng có tiếng vang mạnh mẽ. Tổng Giám đốc Hiệu sách Khoa học xã hội Bắc Kinh Hoàng Đức Chí còn nói với tác giả, một số độc giả đặc biệt từ bên ngoài đáp máy bay tới Bắc Kinh để tìm phim và mua lời thuyết minh của phim. Tháng 10 năm 2007, Đoàn đại biểu Viện Khoa học xã hội Trung Quốc do tác giả dẫn đầu thăm Nga. Ngày 9 tháng 10, Phó Viện trưởng Viện Hàn lâm khoa học Nga, Viện sĩ N. Belov, thay mặt Đoàn Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Nga phát biểu tại lễ khai mạc "Diễn đàn Khoa học xã hội Trung - Nga lần thứ hai". Ông đặc biệt chỉ ra: "Nhóm đề tài 'Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng', với thái độ khọa học nghiêm túc, đã phân tích các nguyên nhân và bài học lịch sử của việc Liên Xô giải thể và Đảng Cộng sản Liên Xô diệt vong, rút ra được không ít kết luận có dũng khí và có tính cảnh báo".


Chúng tôi cảm ơn các học giả trong và ngoài nước, đông đảo khán giả và độc giả đã có sự cổ vũ và yêu mến đối với những thành quả bước đầu nói trên của chúng tôi; chúng tôi cũng biết rõ rằng, "Tính trước nguy cơ - Bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" vẫn còn có không ít chỗ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:21:02 am
Phần đầu của lời thuyết minh bộ phim "Tính trước nguy cơ - Bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" có một lời tựa ngắn gọn. Lời tựa chưa tới một ngàn chữ này về thực chất cũng có thể làm lời dẫn cho tác phẩm này của chúng tôi, cho thấy chủ đề và mục tiêu cũng như đề cương chi tiết của tác phẩm này của chúng tôi, xin đặc biệt trích dẫn như sau:

Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trong lịch sử loài người đã xảy ra một sự kiện trọng đại gây chấn động thế giới: Liên Xô, một nước lớn, một cường quốc có cương vực khổng lồ trải rộng hai châu lục Âu - Á với hơn 22,4 triệu km2, bỗng chốc sụp đổ tan tành mà không hề có kẻ thù ngoại xâm và cũng không hề có biến cố tự nhiên đặc biệt nào.


Ngoài nỗi kinh hoàng ấy, cho đến nay biết bao quốc gia và chính đảng, các tổ chức quốc tế liên quan, các đoàn thể học thuật cho đến không ít các cá nhân học giả trên thế giới đều tiếp tục suy ngẫm những điều bí ẩn lớn lao chưa từng có này, nhằm soi mình trong cái di sản lịch sử hiếm thấy đó.


Nhà sử học nổi tiếng người Anh Toynbee từng nói: "Tri thức học được từ trong đau khổ do văn minh suy tàn gây ra có thể là công cụ có hiệu quả nhất của tiến bộ"1 (Kho báu tư tưởng phương Tây, Nxb. Nhân dân Cát Lâm, 1988, tr.1166).


Tập thể lãnh đạo thế hệ thứ ba do đồng chí Giang Trạch Dân làm hạt nhân và Trung ương Đảng khóa mới do đồng chí Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư coi trọng cao độ việc nghiên cứu nguyên nhân "Liên Xô giải thể". Rõ ràng là, nghiên cứu nghiêm túc, nhận thức đúng đắn vấn đề trọng đại này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tăng cường hơn nữa việc xây dựng tính tiên tiến của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không ngừng thúc đẩy sự nghiệp vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.


Có nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau nhằm giải đáp cho người đời về nguyên nhân "Liên Xô giải thể": "Thuyết không làm tốt kinh tế", "Thuyết mô hình Xtalin bị cứng nhắc", "Thuyết mâu thuẫn dân tộc quyết định", "Thuyết chạy đua vũ trang kéo đổ", "Thuyết tên phản bội Gorbachev tàn phá", "Thuyết nhân tố bên ngoài quyết định", v.v... Chúng ta thấy những người khác nhau rút ra kết luận khác nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau. Nhưng trong đó nguyên nhân căn bản nhất là gì? Đồng chí Mao Trạch Đông mách bảo chúng ta: "Bất cứ quá trình nào, nếu có nhiều mâu thuẫn cùng tồn tại, trong đó nhất định phải có một mâu thuẫn chủ yếu, đóng vai trò lãnh đạo, quyết định"1 (Mao Trạch Đông tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1991, t.1, tr.322).


Trong bài nói chuyện nổi tiếng khi thị sát miền Nam năm 1992, đồng chí Đặng Tiểu Bình nêu rõ: "Nếu nảy sinh ra vấn đề thì vẫn là nảy ra từ nội bộ Đảng Cộng sản"2 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Nxb. Nhân dân, 1993, t.3, tr.380). Bộ phim này sẽ tiến hành mổ xẻ đối với việc nảy sinh, phát triển và biến đổi của vấn đề nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô từ tám mặt dưới đây:

1. Con đường lịch sử thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô.

2. Lý luận cơ bản và phương châm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô.

3. Công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô.

4. Tác phong Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô.

5. Tầng lớp đặc quyền của Đảng- Cộng sản Liên Xô.

6. Đường lối tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô.

7. Tập đoàn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô.

8. Đảng Cộng sản Liên Xô đối phó với chiến lược Tây hóa, phân hóa của thế giới phương Tây.


Tác phẩm này của chúng tôi cũng giống như bộ phim tham khảo giáo dục 8 tập "Tính trước nguy cơ - Bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mâĩt Đảng", cũng chia thành 8 chương, thậm chí ngay cả tiêu đề cũng giống nhau. Chúng tôi suy nghĩ lôgích kết cấu của nó thế này: Việc Liên Xô giải thể có nhiều nguyên nhân, nhưng sự thoái hóa, biến chất của Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân căn bản. Tác phẩm này của chúng tôi và 8 tập phim tham khảo giáo dục đều triển khai xoay quanh vấn đề căn bản này.


Chương I "Con đường lịch sử thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô", nhằm thông qua việc nhìn lại quá trình lịch sử thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô, đưa ra một vấn đề lớn và nghiêm túc là "rốt cuộc vấn đề là ở chỗ nào", bước đầu đã phân tích, mổ xẻ mối quan hệ lôgích nội tại giữa mất Đảng và mất nước, từ đó rút ra được kết luận "Vấn đề chính là ở chỗ nội bộ Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô". Nếu như nói chương I là tổng luận, vậy thì các chương khác phía sau chính là được triển khai xoay quanh kết luận này.


Chương II "Lý luận cơ bản và phương châm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô" trình bày vấn đề không có lý luận cách mạng thì không có hành động và phong trào cách mạng; và lý luận sai lầm thì tất yếu dẫn đến hành động sai lầm và phong trào sai lầm. Đây chính là vai trò quan trọng của lý luận. Xét từ một ý nghĩa nhất định, tất cả những thành tựu mà Đảng Cộng sản Liên Xô giành được đều là kết quả của lý luận đúng đắn; Đảng Cộng sản Liên Xô sở dĩ mất Đảng là kết quả của việc bắt đầu từ tập đoàn lãnh đạo Khrushchev đến tập đoàn lãnh đạo Gorbachev dần dần đã xa rời, thậm chí, cuối cùng phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận cơ bản của Đảng chỉ có chuyển hóa thành cương lĩnh hành động và các phương châm công tác cụ thể thì mới có ý nghĩa thực tế; phương châm chỉ đạo công tác của bất kỳ một chính đảng nào cũng tất yếu thể hiện yêu cầu bản chất của lý luận cơ bản của nó. Chính vì vậy, song song với việc hết sức cố gắng trình bày rõ lý luận cơ bản của Đảng Cộng sản Liên Xô, chúng tôi cũng liên hệ thích đáng với phương châm chỉ đạo công tác dưới sự chỉ đạo của lý luận này và hiệu quả thực tế mà nó đem lại.


Chương III "Công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô" trình bày lý luận của Đảng là thông qua công tác ý thức hệ cụ thể để quán triệt tới toàn Đảng, toàn xã hội. Công tác ý thức hệ là con thuyền và nhịp cầu nối giữa lý luận cơ bản của Đảng và các công tác khác của Đảng, lẽ đương nhiên được toàn Đảng, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhất là lãnh đạo chủ chốt nhất coi trọng cao độ. Chương này cố gắng thông qua những bài học kinh nghiệm ở mặt này của Đảng Cộng sản Liên Xô để trình bày: Quyền lãnh đạo các cấp của công tác ý thức hệ cần phải được nắm trong tay những nhà mácxít trung thành; cần phải bồi dưỡng và phát triển lớn mạnh một đội ngũ những người làm công tác ý thức hệ trung thành với chủ nghĩa Mác; cần phải xây dựng một loạt các cơ quan nghiên cứu lý luận học thuật trung thành với chủ nghĩa Mác và trận địa dư luận như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng internet; cần phải có một bộ phương pháp đúng đắn triển khai công tác ý thức hệ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:22:09 am
Chương IV "Tác phong Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô". Tác phong Đảng nói ở đây chủ yếu là chỉ tác phong Đảng lớn lấy tính chất của Đảng và tôn chỉ của Đảng làm hạt nhân, tất nhiên, cũng bao gồm tác phong công tác nói chung của Đảng. Nếu như chương II "Lý luận cơ bản và phương châm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô" và chương III "Công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô" là nói về tư tưởng chỉ đạo của Đảng, thì chương IV đặt trọng điểm vào việc nêu rõ sự cần thiết phải kiên trì tính chất và tôn chỉ của Đảng. Nếu như Đảng nào duy trì được tính chất giai cấp công nhân rõ rệt, kiên trì tôn chỉ toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, Đảng đó sẽ là vị anh hùng Antaeus với sức mạnh vô biên đứng sừng sững trong nhân dân - "người mẹ trái đất", nếu không thì khó thoát khỏi số phận thất bại.


Chương V "Tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô". Theo định nghĩa của chủ nghĩa Mác, giai cấp và tầng lớp chủ yếu là chỉ khái niệm trong lĩnh vực kinh tế chứ không phải trong lĩnh vực chính trị. Giai cấp và tầng lớp của bất kỳ xã hội nào vào bất cứ lúc nào cũng đều là sản phẩm của quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, cũng chính là sản phẩm của quan hệ kinh tế  của thời đại mình. Giai cấp và tầng lớp một khi hình thành, thì tất yếu sẽ có tác dụng ngược trở lại đối với quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi của một thời đại nhất định. Bất kỳ giai cấp thống trị nào và tầng lớp của nó một khi hình thành thì tất yếu có mưu đồ thiết lập, thậm chí, mưu đồ "kết thúc" và "cố định" quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi nhất định có lợi cho mình một cách tối đa. Xét theo một ý nghĩa nhất định, tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng vật chất của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng và Liên Xô giải thể, thậm chí có thế nói là động lực ban đầu của sự việc này. Chính vì vậy, năm 2001, trong bài phát biểu tại Đại hội kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng, đồng chí Giang Trạch Dân chỉ rõ: "Tất cả cán bộ, đảng viên cần phải thực sự đại diện cho nhân dân nắm quyền cho tốt, dùng quyền cho tốt, chứ tuyệt đối không cho phép dùng quyền để mưu lợi riêng, tuyệt đối không cho phép hình thành tập đoàn lợi ích vốn có"1 (Tuyển tập văn kiện quan trọng kể từ Đại hội XV đến nay, Nxb. Nhân dân, 2003, quyển hạ, tr.1910).


Chương VI "Đường lối tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô". Đường lối về tư tưởng, về chính trị đúng đắn hay không quyết định tất cả; sau khi xác định đường lối tư tưởng, chính trị rồi, nguyên tắc tổ chức và đường lối cán bộ của Đảng chính là nhân tố quyết định. Nếu như chương II, chương III nói về đường lối tư tưởng của Đảng; chương IV, chương V nói về đường lối chính trị của Đảng cũng tức là đường lối giai cấp; vậy thì, chương VI chính là nói về đường lối tổ chức, trong đó bao gồm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và đường lối cán bộ của Đảng, cũng như cơ chế giám sát của Đảng. Đường lối tổ chức là sự bảo đảm cho việc chấp hành đường lối tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng.


Chương VII "Tập đoàn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô". Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhấn mạnh quần chúng nhân dân là người sáng tạo lịch sử, nhưng cũng thừa nhận vai trò độc đáo mà cá nhân có thể phát huy trong tiến trình lịch sử. Anh hùng luôn là thuận theo trào lưu thời đại, phản ánh ý chí của nhân dân, dẫn dắt bước đi tiến lên của thời đại, dẫn dắt quần chúng thúc đẩy xã hội phát triển về phía trước. Còn những nhân vật tiêu biểu của những thế lực lạc hậu và mục ruỗng kia cũng có thể thể hiện vai trò chủ quan của mình trong phạm vi không gian lịch sử nhất định nào đó, động viên, tập hợp các thế lực phản động trong xã hội, nhất thời gây trở ngại, bóp méo bước tiến của lịch sử, thậm chí dẫn tới sự thụt lùi mang tính lịch sử. Đây là hiện tượng thể hiện tính đa dạng của phát triển lịch sử xã hội mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã trình bày rõ. Sự thực, lịch sử xã hội loài người xưa nay không phải là một đường thẳng tắp. Trong sự so sánh, đọ sức và cạnh tranh giữa các thế lực, nó không ngừng tiến lên trong sự vận động biện chứng giữa tiến bộ và lạc hậu. Một bộ lịch sử Liên Xô lớn, tràn đầy những sắc thái vui buồn đã thể hiện sự phức tạp và khó khăn của việc xã hội thực hiện sự tiến bộ, và vai trò lịch sử độc đáo của tập đoàn lãnh đạo Đảng các thời kỳ khác nhau của Liên Xô không thể không khiến cho mọi người phải suy nghĩ sâu sắc hơn về vai trò then chốt của tập đoàn này trong việc bảo đảm phương hướng tiến lên của Đảng và nhà nước. Nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N. I. Ryzhkov khi tổng kết nguyên nhân của việc Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Liên Xô giải thể, từng hết sức đau lòng nói: "Là các nhà lãnh đạo của Đảng, chính họ đã phản bội lại Đảng, bán rẻ đất nước và nhân dân"1 ([Nga] N. I. Ryzhkov: Bi kịch nước lớn, Nxb. Tân Hoa, 2008, tr.166).


Chương VIII "Đảng Cộng sản Liên Xô đối phó với chiến lược Tây hóa, phân hóa của thế giới phương Tây". Nếu như từ chương II đến chương VII nói về nguyên nhân bên trong của sự thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô, thì chương VIII chủ yếu là nói về nguyên nhân bên ngoài của sự thịnh suy này.


Tất nhiên, nguyên nhân bên trong là căn cứ của sự phát triển thay đổi của sự vật, nguyên nhân bên ngoài là điều kiện của sự phát triển thay đổi của sự vật, nguyên nhân bên ngoài phát huy tác dụng thông qua nguyên nhân bên trong. Ngoại trưởng Mỹ Baker, khi đề cập Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể từng nói: "Chúng tôi không phải là lãnh tụ của cuộc cách mạng này, nhưng cũng không phải là kẻ bàng quan"1 (Đàm Tác: Cải cách của Gorbachev và sự hủy diệt của Liên Xô, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2006, tr.449). Điều này trong chừng mực nhất định đã cho thấy một cách tương đối sinh động, sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân bên trong và bên ngoài của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể.


Trên đây chính là nội dung chủ yếu của tác phẩm này, thể hiện cách nhìn của chúng tôi đối với nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:23:54 am
II. ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ MẤT ĐẢNG, LIÊN XÔ GIẢI THỂ LÀ MỘT TAI NẠN LỊCH SỬ TO LỚN

Làm thế nào để định tính cho sự kiện lớn trong lịch sử loài người - Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể - này? Là một tai nạn lớn hay là một bước tiến lớn? Mấy năm trước, bất luận là ở Nga hay là ở các quốc gia khác đều đã triển khai những cuộc tranh luận gay gắt đối với vấn đề lớn này. Xét từ một ý nghĩa nhất định, "rất tốt" và "rất tồi tệ" đều không nhường nhau.


Năm 1913, đêm trước của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, những quốc gia tự xưng là "văn minh" của châu Âu đang tiến hành chạy đua vũ trang, còn hàng ngàn loại báo chí, hàng ngàn diễn đàn dùng hàng ngàn luận điệu lấy chiêu bài "chủ nghĩa yêu nước", "bảo vệ văn hóa" để tìm lý do cho mở rộng vũ trang. Đối với hiện tượng này, Lênin thẳng thắn chỉ ra: "Nếu như trong giây lát không thấy được những tập đoàn chính trị hoặc tập đoàn xã hội, thế lực và nhân vật nào đang bảo vệ những đề xuất, giải pháp nào, vậy thì cần luôn đưa ra câu hỏi là 'có lợi cho ai'! Đừng tin vào những lời nói suông, tốt nhất hãy xem có lợi cho ai!"1 (Lênin: Toàn tập, tiếng Trung, lần xuất bản thứ 2, q.23, tr.61-62).


Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể có lợi cho ai, là tai nạn đối với ai?

Một là, sự kiện này đem lại tai ương cực kỳ lớn cho nhân dân Nga.

Kể từ cải cách mở cửa đến nay, khỏi cần nói những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải của Trung Quốc, ngay cả những thôn trấn xa xôi đều đẩy mạnh việc xây dựng, đâu đâu cũng thấy máy ủi, cần cẩu. Tháng 6 năm 2002, người viết đến thăm Nga, trước tiên đến Mátxcava. Trên bầu trời thành phố lớn này thỉnh thoảng lại thấy cần cẩu chuyển động. Chủ tịch Hội hữu nghị Nga - Trung, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga, Viện trưởng Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga Titarenko nói với người viết rằng, "Bây giờ còn tốt hơn nhiều so với 10 năm suy bại trước đây. Mặc dù vậy, vẫn có tới 70% tiền vốn trong và ngoài nước quanh quẩn ở Mátxcơva. Các bạn tới gần như tất cả các nơi ngoài Mátxcơva thì có thể hiểu hơn nữa việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể đem lại tai ương nghiêm trọng cho đất nước, dân tộc và nhân dân chúng tôi như thế nào". Tiếp đến chúng tôi tới thăm Volgagrát (vốn gọi là Xtalingrát), khi máy bay chuẩn bị hạ cánh lập tức thấy 9 chiếc trụ cầu mọc sừng sững trên dòng sông Volga rộng lớn, chiếc cầu này được xây xong sẽ rất giúp ích cho phát triển kinh tế của Nga.


Nhưng do chính phủ liên bang không cấp tiền, năm 1990 đành phải dừng thi công. Người viết hỏi tiếp, trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Xtalingrát có 6 khu công nghiệp lớn ở hai bên bờ sông Volga kéo dài hơn 80 km. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, 6 khu công nghiệp này bị biến thành bãi phế thải. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ mất khoảng 3 năm lại có một thành phố Xtalingrát mới kéo dài hơn 80 km mọc lên ở đây. Những kiến trúc chủ yếu hiện nay đều được xây dựng trong 3 năm đó. Lúc đó có tiền vốn không? Ông ta nói, không có. Người viết lại hỏi, thời gian khoảng 3 năm có thể xây dựng một thành phố mới, mà thời gian khoảng 12 năm lại không xây xong một cây cầu mới. Đây là vì sao? Ông ta trầm mặc một lát rồi nói: "Chủ yếu là tinh thần của con người đã khác. Khi đó, mọi người có niềm tin, có sự hăng hái, đói cũng làm. Nay rất mịt mờ: Quá khứ của chúng tôi sai rồi, tương lai sẽ đi về đâu? Chúng tôi không biết gì cả!". Sau đó, đoàn đại biểu chúng tôi lại tới vài nơi ở vùng Viễn Đông của Nga, ở đó, có thể thấy rõ, sự suy bại càng ghê gớm hơn.


Để hoàn thành tốt hơn đề tài '"Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" này, người viết nhiều lần đích thân tìm hiểu, khảo sát nước Nga sau khi Liên Xô giải thể. Tháng 10 năm 2003, người viết lại một lần nữa thăm Nga. Trong thời gian thăm Nga, người viết đã có cuộc nói chuyện dài với Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga, Chủ nhiệm Khoa xã hội học trường Đại học Mátxcơva Dobrinkov. Ông ta nói: "Tổn thất tinh thần và vật chất mà nước Nga gặp phải mấy năm qua không thể nào tính hết được. Trên thực tế, cái gọi là cải tổ khiến cho nước Nga thụt lùi 20 - 30 năm, một số tổn thất tinh thần không thể nào đo đếm được". Trong lần thăm đó, chúng tôi có được không ít tư liệu cụ thể liên quan đến sự thụt lùi của xã hội Nga trong khoảng thời gian 10 năm từ khi Liên Xô giải thể đến cuối thế kỷ XX, xin khái quát lại như sau:

(1) Lĩnh vực kinh tế: Tổng giá trị sản phẩm trong nước giảm đi nhanh chóng, từ một nước lớn, công nghiệp hiện đại biến thành một nước phụ thuộc vào nguyên vật liệu. Từ khi Liên Xô giải thể năm 1991 đến cuối thế kỷ XX, tổng giá trị sản phẩm trong nước của Nga giảm xuống 52% so với năm 1990, còn thời kỳ Chiến tranh vệ quốc (1941 - 1945) chỉ giảm xuống 22%; sản xuất công nghiệp cùng thời kỳ giảm xuống 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm xuống 60,4%, đồng Rup mất giá, vật giá tăng vọt hơn 5.000 lần. Một số doanh nghiệp hàng không vũ trụ hiện đại chuyển sang sản xuất hàng tiêu dùng hằng ngày đơn giản. Trong giai đoạn 1990 - 2001, số người làm việc trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật từ 2,5 triệu người giảm xuống còn 800.000 người, rất nhiều nhân tài trình độ cao đi sang Mỹ, các nước Tây Âu, thậm chí các quốc gia đang phát triển để làm việc hoặc kiếm sống. Xét từ ý nghĩa nhất định, nước Nga đã biến thành nước phụ thuộc vào nguyên vật liệu của các nước phát triển Âu - Mỹ phương Tây, thậm chí cả các quốc gia công nghiệp mới nổi.


(2) Lĩnh vực xã hội: Phân hóa hỗn loạn, dân số giảm nhanh. Sự phân hóa nghiêm trọng hai cực giàu nghèo ở nước Nga ngày nay đã trở thành hiện thực. Năm 1989, tỷ lệ giữa thu nhập của 10% dân số nghèo nhất với thu nhập của 10% dân số giàu nhất là 1:4,7; còn năm 1999, tỷ lệ này là gần 1:80. Ngoài ra, các vấn đề xã hội như nát rượu, bệnh tâm thần, vô gia cư, trẻ em lang thang, mại dâm, bệnh AIDS và bệnh lây nhiễm qua đường tình dục chất thành đống. Mỗi năm ước tính có khoảng 500 ngàn phụ nữ lưu lạc sang nước ngoài bán dâm. Liên Xô giải thể khiến cho nó không chỉ mất đi rất nhiều đất đai, mà còn khiến dân số của nó giảm nhanh hơn 100 triệu người. Ngay cả dân số của Nga cũng đang giảm dần từng năm. Theo kết quả tổng điều tra dân số tháng 10 năm 2002, tổng số dân toàn quốc của Nga chỉ là 145 triệu người, giảm 2 triệu người so với năm 1989. Theo Số liệu do Ủy ban Thống kê nhà nước Nga cung cấp năm 2005, tuổi thọ bình quân của nam giới Nga là 58,6 tuổi, còn thấp hơn 4,8 tuổi so với tuổi thọ bình quân nam giới là 63,4 tuổi khi Liên Xô giải thể vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, điều này khiến cho Nga trở thành quốc gia có tuổi thọ bình quân nam giới thấp nhất trong toàn châu Âu1 (Tôn Lực Chu: "Tư hữu hóa quy mô lớn của Nga dẫn tới thất nghiệp, khiến cho tỷ lệ tử vong ở đàn ông trưởng thành, tăng lên", Tin tức Sohu, ngày 20 tháng 1 năm 2009, http://news.sohu.com/20090120/n261860206.shtml, trích từ Tham khảo thanh niên).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:25:14 am
(3) Lĩnh vực trị an xã hội: Hoạt động phạm tội hoành hành, tội phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Các loại tội phạm trong thời gian 10 năm sau sự biến, nhất là các vụ án lớn tăng mạnh. Số vụ án giết người của Nga năm 1990 là 14.300 vụ, năm 1998 là 23.000 vụ, năm 2001 là 29.800 vụ, năm 2002 đã vượt trên 32.000 vụ. Mỗi năm số người mất tích do phạm tội gây ra vượt trên 100.000 người2 ([Nga] Dobrinkov: Toàn cầu hóa và nước Nga: Phân tích xã hội học, Mátxcơva, 2006, tr.339). Trên thực tế mỗi năm có 200.000 người bị hại. Số vụ phạm tội tăng lên nhanh chóng, cứ trong 4 người đàn ông trưởng thành thì có một người có tiền án tiền sự. Nước Nga bình quân cứ 5 phút thì có một người bị giết. Bình quân cứ 100.000 dân thì có 1.000 người phạm tội - đây là tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Hiện tượng phạm tội nhằm vào dân thường tăng cao, thậm chí phạm tội có tổ chức còn lan tới cả một số cơ quan quyền lực tối cao, trên thực tế xã hội hiện nay ở vào tình trạng khủng bố toàn diện. Thế nhưng, trong tình hình đó, phe tự do của Nga lại vẫn yêu cầu dùng thị trường làm cương yếu để giải quyết tất cả các vấn đề kinh tế - xã hội, họ vẫn ra sức cổ xúy cho chính phủ quy mô nhỏ, tiếp tục làm suy yếu, cắt giảm các mặt chức năng của nhà nước. "Bảo vệ nhân quyền" mà phe tự do nói trên thực tế là bảo vệ tội phạm.


(4) Lĩnh vực chức năng nhà nước: Thụt lùi nghiêm trọng. Việc sao chép chế độ đa đảng của phương Tây gây rối loạn, phá hoại nghiêm trọng chế độ chính trị, tình trạng làm khống, làm giả thịnh hành, tham ô, tham nhũng thành phong trào. Mỗi năm số tiền dùng vào hối lộ lên tới hàng chục tỷ đôla Mỹ, giữa chính quyền và người dân thiếu sự tín nhiệm và sự tương tác hữu hiệu. Trong nước đâu đâu cũng đều là môi giới chính trị và khoe khoang chính trị. Một số cơ quan truyền thông báo chí tư nhân coi nhân dân là vật có thể thao túng, lừa gạt. Trong nhiều vấn đề lớn của đời sống xã hội, ý kiến của người dân bị coi thường, bị gạt đi. Nhà nước thiếu ý tưởng phát triển được luận chứng khoa học, thiếu tư duy chiến lược giải quyết các vấn đề nội chính, ngoại giao. Sự thất vọng của mọi người đối với chính trị đang gia tăng, sự thất vọng đối với lãnh tụ chính trị đang gia tăng, sự thất vọng đối với "chế độ dân chủ" cũng đang gia tăng.


(5) Lĩnh vực đạo đức tinh thần: Xã hội thịnh hành "luật rừng". Lý tưởng, niềm tin, quan niệm luân lý hỗn loạn, quan niệm thiện - ác truyền thông và năng lực phân biệt đúng - sai biến mất, nền tảng đạo đức xã hội xấu đi, bộ mặt tinh thần thụt lùi toàn diện. Một số phương tiện thông tin đại chúng truyền bá giá trị quan phương Tây cho dân chúng xã hội, những giá trị quan đó chỉ là để khéo léo vơ vét và theo đuổi lợi ích cá nhân, từ đó dẫn đến mất đi luân lý lao động và phẩm chất yêu lao động vốn có; dẫn đến đúng - sai, thiện - ác lẫn lộn, nề nếp xã hội ngày một xuống cấp, đồng tiền là trên hết. Nhiều thanh niên không muốn lao động, đa phần là mong qua một đêm biến thành ngân hàng, chuyên gia quan hệ công chúng thậm chí có xu hướng phạm tội, trở thành tội phạm cướp bóc hoặc kẻ lừa gạt. Một số phương tiện thông tin đại chúng, như một số chương trình truyền hình và phim truyền hình còn công khai cổ vũ phạm tội và băng nhóm maphia. Kinh tế xã hội và đạo đức, tinh thần khủng hoảng nghiêm trọng, cuộc sống bi thảm không có lối thoát dẫn tới bi kịch xã hội như hiện tượng tự sát tăng lên nhanh chóng. Năm 1990 số người tự sát ở Nga là 26.400 người, năm 1998 là 35.400 người, còn năm 2001 đã lên tới 39.700 người.


(6) Về mặt địa vị quốc tế: Từ một siêu cường rớt xuống thành quốc gia hạng hai. Trong một thời kỳ tương đối dài sau sự biến, chính quyền Nga đón lấy nhu cầu của thế giới phương Tây đứng đầu là Mỹ, từng bước chủ động từ bỏ các bạn bè đồng minh của mình ở rất nhiều nơi trên thế giới, thậm chí rút khỏi hoàn toàn, dần dần mất đi địa vị siêu cường. Địa vị của Nga trong Cộng động các quốc gia độc lập cũng đang suy yếu, khiến cho các nước khác nhanh chóng lấp đầy chỗ trống. Địa chính trị của Nga cũng có sự chuyển ngược lớn: khái niệm Tổ quốc trước kia, nay đã bị tan vỡ, trôi theo dòng nước. Từ sau khi ba nước vùng Bantích, các nước cộng hòa Trung Á và Cápcadơ độc lập, bản đồ của nước Nga giảm nhanh về quy mô thời Peter Đệ nhất hồi đầu thế kỷ XVII, và mất đi đường ra biển dọc bờ biển Bantích và các cảng tốt tự nhiên ở Hắc Hải, đúng như cái gọi là "Vô hạn giang sơn, biệt thời dung dị kiến thời nan, lưu thủy lạc hoa xuân khứ dã, thiên thượng nhân gian"1 (Lý Dực: Lãng đào sa, tạm dịch thơ: Bát ngát giang san, chia tay thì dễ, gặp lại khó khăn, nước trôi xuân qua, trời đất cách biệt (ND.)).


Mấy năm gần đây, người viết lần lượt 3 lần thăm Nga, bất luận là Titarenko, Dobrinkov hay là những nhân vật có hiểu biết khác, khi nói đến tai ương lớn Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng không ai không tiếc nuối muôn phần, thậm chí nước mắt lã chã rơi. Năm 1994, nhà văn nổi tiếng, nguyên là người bất đồng chính kiến Maksimov, trước khi qua đời, nằm trên giường bệnh nói với phóng viên báo Sự thật: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại cảm thấy đau lòng đến vậy trước tất cả những gì xảy ra hiện nay", Tổ quốc của mình bị giẫm đạp thành như vậy, cứ như "giương mắt mà nhìn mẹ mình bị cưỡng hiếp vậy. Không còn có gì khó chịu hơn thế"1 (Báo Sự thật, ngày 29 tháng 3 năm 1994).


Nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N. I. Ryzhkov trong tác phẩm mới của mình là Bi kịch nước lớn cũng nói, Liên Xô giải thể "gây ra tổn thất to lớn cho Nga, có thể nói một cách không phóng đại rằng, tình trạng đó liên quan tới các mặt của đời sống - từ uy tín và vai trò của nước ta trong cộng đồng quốc tế, đến kinh tế, năng lực quốc phòng, phát triển khoa học, sản xuất và văn hóa, mức sống của người dân, v.v."2 ([Nga] N. I. Ryzhkov: Bi kịch nước lớn, Sđd, tr.372). Để làm rõ điểm này, từ vô số các thực tế chính xác, ông ta chỉ lấy vài ví dụ trong tài liệu của Ủy ban chuyên môn của Duma Quốc gia chất vấn Tổng thống Nga Yeltsin năm 1999, nhưng mấy ví dụ đó lại phải mất đến chẵn 9 trang giấy. Trong 9 trang giấy đó, Ryzhkov viết: "Sau khi Liên Xô giải thể, sự phá hoại đối với không gian kinh tế thống nhất, kinh tế quốc dân và khoa học của Liên Xô đã làm nảy sinh một đội quân thất nghiệp hàng chục triệu người", hơn nữa "số người thất nghiệp năm 1998 vượt trên 25 triệu người"; "Trong 20% cư dân tương đối may mắn đó, tập trung trên một nửa tổng thu nhập quốc dân, mà phần chủ yếu của thu nhập là do 200 - 300 gia tộc chiếm làm sở hữu riêng, họ đã lấy đi tuyệt đại bộ phận của cải quốc gia, đồng thời cũng lấy đi quyền lực của nhà nước"3 ([Nga] N. I. Ryzhkov: Bi kịch nước lớn, Sđd, tr.374).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:27:47 am
Hai là, gây ra tai ương và thoái trào cực kỳ lớn cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước Đông Âu đã thoát ra khỏi hệ thống tư bản chủ nghĩa, lần lượt bước lên con đường xã hội chủ nghĩa. Kể từ năm 1950, các nước Đông Âu bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.


Chúng ta hãy xem so sánh giữa tăng trưởng thu nhập quốc dân, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Liên Xô và các nước Đông Âu chủ chốt trước sự biến với các nước Au - Mỹ chủ chốt. Thời kỳ những năm 1950 - 1984, thu nhập quốc dân và tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Liên Xô lần lượt tăng 9,9 lần và 14 lần, Bungari là 14 lần và 29 lần, Hunggari là 5,1 lần và 9,2 lần, Cộng hòa Dân chủ Đức là 7,6 lần và 11 lần, Ba Lan là 5,9 lần và 14 lần, Rumani là 17 lần và 38 lần, Tiệp Khắc1 (Nay là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Xlôvakia (BT.)) là 5,3 lần và 9,4 lần. Còn trong thời kỳ những năm 1950 - 1982, thu nhập quốc dân và tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Mỹ lần lượt tăng 1,8 lần và 2,1 lần, Anh là 1 lần và 0,9 lần, Pháp là 2,9 lần và 2,9 lần, Cộng hòa Liên bang Đức là 3,4 lần và 3,9 lần, Italia là 3,1 lần và 5,3 lần2 (Tống Tắc Hành, Phàn Khang: Lịch sử kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học kinh tế  1997, quyển hạ, tr.100-111).


Nhưng cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau sự biến Liên Xô - Đông Âu, các nước xã hội chủ nghĩa trước kia hoặc thay đổi tính chất, hoặc không còn tồn tại, ba quốc gia có chế độ liên bang đa dân tộc là Liên Xô, Nam Tư3 (Nay là các nước: Bôxnia và Hécxêgôvina, Crôatia, Maxêđônia, Môntênêgrô, Xécbia, Xlôvenia (BT.)), Tiệp Khắc lần lượt giải thể, tổng số người của các đảng cộng sản ở các nước khác trên thế giới từ hơn 44 triệu người giảm mạnh còn hơn 10 triệu người, hơn nữa đa số mất đi địa vị cầm quyền. Phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới rơi vào thoái trào chưa từng có.


Chỉ vẻn vẹn trong hơn một năm ngắn ngủi (1989-1990), tại sáu nước Ba Lan, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari, Rumani, chính quyền ào ào đổi sang tay người khác, Đảng Cộng sản cầm quyền hơn 40 năm hoặc bị hạ bệ trở thành đảng đối lập, hoặc thay đổi tính chất. Tiếp ngay sau đó, Đảng Lao động Anbani bị hạ bệ sau thất bại trong cuộc tổng tuyển cử tháng 3 năm 1992; ở Nam Tư, trước tiên là Liên minh cộng sản Nam Tư không còn tồn tại, các bang trong Liên bang Nam Tư cũ đều xảy ra sự biến, sau đó, sau khi trải qua gần một năm nội chiến, cuối cùng chia tách thành 6 quốc gia độc lập. Cùng với việc Đảng Cộng sản mất đi địa vị cầm quyền, chế độ xã hội của các nước Đông Âu cũng có sự thay đổi căn bản: về chính trị, thực hiện dân chủ nghị viện lấy chế độ đa đảng làm nền tảng; về kinh tế, phủ định chế độ công hữu chiếm địa vị chủ đạo, ra sức thực hiện tư hữu hóa. Sản xuất tụt dốc mạnh, lạm phát phi mã liên tục, ngân sách thâm hụt nghiêm trọng, tình trạng nhập siêu lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao mà không giảm, mức sống thực tế của nhân dân giảm mạnh, khiến cho niềm hy vọng của mọi người trong một thời gian tương đối ngắn sẽ thực hiện được phồn vinh và giàu có rơi vào khoảng không, những cái giá nặng nề phải trả cho nó lại vượt xa sự tưởng tượng ban đầu.


Theo số liệu mà tạp chí Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế của Nga cung cấp, trong những năm 1990 - 1993, mức sụt giảm tổng giá trị sản phẩm quốc gia của SNG là rất lớn, trong đó mức sụt giảm của Ácmênia trên 50%, Adécbaigian, Cadắcxtan, Cưrơgưxtan, Mônđôva, Tátgikixtan giảm khoảng 40%, Ucraina giảm hơn 30%, Udơbêkixtan và Bêlarút tương đối ổn định, chỉ giảm khoảng 17% và 24%1 (Lucilinia: "Tình hình phát triển kinh tế của các nước SNG thập kỷ 90 (trích yếu)", Tạp chí Học tập Hắc Hà, số 2-3 năm 1995, tr.89, đăng trên Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế [Nga], số 5 năm 1994).


Mức sụt giảm tổng giá trị sản phẩm quốc gia của các nước Đông Âu cũng rất lớn, từ năm 1990 đến năm 1993, Rumani giảm 20,8%, Bungari giảm 26,6%, Tiệp Khắc giảm 22%, Xlôvakia giảm 25,8%, Ba Lan giảm 5,8%, Hunggari giảm 17,1%1 (Tham khảo Tiểu Lâm, Trần Hoằng: "Một số con số về tình hình kinh tế những năm gần đây của các nước Đông Âu", Nghiên cứu Nga, số 5 năm 1995, tr.57).


Trong gần 20 năm qua kể từ sự biến đến nay, Bungari tổ chức 6 cuộc bầu cử nghị viện, lần lượt thành lập 11 khóa chính phủ, không có chính phủ hoặc nhà lãnh đạo khóa nào được hai nhiệm kỳ liên tục. Hiện nay, ngoài số ít các ngành như thuốc lá, đường sắt, cảng, nhà máy điện hạt nhân còn nằm trong tay nhà nước, trên 70% doanh nghiệp quốc hữu đều bị tư hữu hóa, hơn nữa đa phần là bán cho người nước ngoài, 97% ngân hàng đã là ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Trong quá trình tư hữu hóa, tài sản quốc hữu bị thất thoát rất nhiều. Tình trạng sức khỏe của người dân xấu đi, dân số từ gần 9 triệu người trước đây giảm xuống còn 7,8 triệu người hiện nay, có 1 triệu người (đa số là thanh niên và trí thức có sở trường nào đó) chạy ra nước ngoài. Phân hóa hai cực xã hội nghiêm trọng. Số ít người giàu lên nhanh chóng, đại đa số là người nghèo khó. Do kinh tế ở vào trạng thái đình trệ, cơ sở hạ tầng cũ kỹ, đường sắt, đường bộ, đường phố, nhà cửa đều được xây dựng vào trước sự biến, thậm chí là 50 năm trước, tường nhà bị bong tróc, mặt đường không được tu bổ, đâu đâu cũng là cảnh tượng tan hoang2 (Lý Thục Xuân, Lữ Vi Châu, Mã Tế Phổ: "Bungari kể từ khi sự biến Liên Xô - Đông Âu đến nay - Kỷ yếu tọa đàm với các học giả Bungari", Động thái lý luận nước ngoài, số 9 năm 2007, tr.35; số 10, tr.34).


Chúng ta lại xem tai ương của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể gây ra cho Cuba. Những năm 70 của thế kỷ XX, sau khi trải qua tìm tòi chiến lược phát triển kinh tế và chính sách kinh tế ở thời kỳ trước đó, Cuba bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế dựa vào "phe xã hội chủ nghĩa" để thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Cuba và Liên Xô thực hiện nhất thể hóa kinh tế và gia nhập khối SEV vào năm 1972, phát huy lợi thế so sánh sản xuất mía đường, dùng mía đường đổi lấy các sản phẩm công nghiệp của các nước Liên Xô - Đông Âu, đáp ứng hàng tiêu dùng cần thiết của nhân dân và tư liệu sản xuất cần thiết cho nhà nước thực hiện công nghiệp hóa. Thương mại của Cuba với các nước khổi SEV chiếm 85% tổng kim ngạch ngoại thương của Cuba, mỗi năm nhập khẩu 13 triệu tấn dầu từ Liên Xô, chiếm 90% nhu cầu dầu mỏ của đất nước. Nhất thể hóa kinh tế với Liên Xô đã bảo đảm cho mạch sống kinh tế của Cuba, đã thúc đẩy kinh tế quốc dân phát triển. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của kinh tế Cuba những năm 1970 là 7%, nửa đầu những năm 1980 là 8%1 (Desarrollos Macroeconómicos de Cuba en las Décadas de los Anos 80 y 90 (http://www.redem.buap.mx/t2font.html)). Đồng thời, sự nghiệp xây dựng xã hội Cuba cũng được phát triển nhanh chóng. Cuối những năm 1980, giáo dục, y tế an sinh xã hội đều đạt trình độ tiên tiến quốc tế. Cuba nhất thể hóa kinh tế với Liên Xô đồng thời cũng đặt ẩn họa nghiêm trọng cho Cuba. Cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, sự biến Liên Xô - Đông Âu gần như đã phá hủy toàn bộ nền ngoại thương của Cuba, Mỹ thừa cơ tăng cường bao vây kinh tế. Cuba chịu sự tác động chí mạng của "hai vòng bao vây", bị buộc phải bước vào "giai đoạn đặc thù của thời kỳ hòa bình". Thời kỳ 1989 - 1993, kinh tế Cuba thu hẹp 35%2 ("Informe Económico 1994", Banco Nacional de Cuba, C. Habana, agosto de 1995, anexo 1), tổng giá trị sản phẩm trong nước bình quân đầu người năm 1993 chỉ bằng 66,1% của năm 19893 (Raúl Hernández Castellón: "SIGLO XX: BREVE HISTORIA SOCIOECONOMICA Y POLITICA DE CUBA", http://sociales.reduaz.mx/ art_ant/historia_de_cua.pdf). Mãi cho đến nay4 (Thời điểm thực hiện đề tài (2008 - 2010) (BT.)), Cuba vẫn chưa hoàn toàn khôi phục lại qua "hai vòng bao vây", bước ra khỏi "giai đoạn đặc thù của thời kỳ hòa bình" (lời của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba Raúl Castro). Mãi cho tới đầu năm 2008, Fidel Castro còn đăng bài trên báo Thanh niên khởi nghĩa bày tỏ thêm, đối với Cuba mà nói, Liên Xô giải thể là "một đòn đánh có tính hủy diệt"1 (Hãng thông tấn EFE Havana, điện ngày 27 tháng 1 năm 2008).


Cuối cùng hãy xem tai ương của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể đem lại cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Kể từ khi thành lập nước năm 1948 đến nay, Triều Tiên đã giành được thành tựu tương đối lớn trong xây dựng kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1948 - 1984 là 17,3%. Tổng giá trị sản phẩm công nghiệp năm 1984 tương đương với 431 lần so với năm 1946, sản lượng lương thực bằng 5,6 lần so với năm 1946, thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng 65 lần, thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1986 đạt tới 2.400 đôla Mỹ. Những năm 70 của thế kỷ XX, Triều Tiên đã thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp và điện khí hóa, hóa học hóa, nhưng vào những năm 80 của thế kỷ XX, Triều Tiên cũng đã hình thành hệ thống nông nghiệp cơ giới hóa cao độ dựa vào dầu mỏ của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Sau sự biến Liên Xô - Đông Âu, Triều Tiên thiếu dầu mỏ nghiêm trọng, đại bộ phận máy móc nông nghiệp bị bỏ không, khiến cho kali, phân lân trước đây gần như dựa hoàn toàn vào nhập khẩu nay bị thiếu nghiêm trọng (công nghiệp hóa học của Triều Tiên chỉ sản xuất phân đạm), dẫn tới khủng hoảng nông nghiệp, kéo theo vấn đề lương thực nghiêm trọng. Mặc dù Triều Tiên không phải là thành viên khối SEV, nhưng vốn dĩ 70% ngoại thương của Triều Tiên cũng là được tiến hành với các nước Liên Xô - Đông Âu. Sau sự biến Liên Xô - Đông Âu, kinh tế Triều Tiên liên tục 9 năm xuất hiện tăng trưởng âm, bình quân mỗi năm -2%, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế âm năm 1995 xuống tới -4,6%. Sự biến Liên Xô - Đông Âu khiến cho kim ngạch ngoại thương của Triều Tiên từ hơn 10 tỷ đôla Mỹ vào những năm 1980 giảm xuống còn chưa đầy 1 tỷ đôla Mỹ vào năm 1997. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người từ 1.064 đôla Mỹ vào năm 1990 giảm xuống còn 741 đôla Mỹ vào năm 19971 (Mạnh Khánh Nghĩa, Lưu Lôi: "Tình hình kinh tế thực của Triều Tiên", website Wuyouzhixiang, ngày 6 tháng 11 năm 2007 (http://www.wyzxsx.com/ Article/class20/200711/26836.html)). Hiện tại kinh tế Triều Tiên khó khăn, chắc chắn có nhiều loại nguyên nhân ở các mặt khác, thế nhưng, Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ và khối SEV không còn tồn tại, lẽ nào không phải là một trong những nguyên nhân quan trọng trong số đó?


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Hai, 2022, 07:29:16 am
Ba là, gây ra tai ương lớn cho nhân dân của đông đảo các nước đang phát triển và phát triển.

Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của các nước giàu có nhất trên thế giới cao gấp hơn 330 lần so với thu nhập bình quân đầu người của các nước nghèo nhất; tổng số nợ nước ngoài mà các nước thuộc nhóm đang phát triển và chậm phát triển nợ các nước thuộc nhóm phát triển trên thế giới đã từ 794 tỷ đôla Mỹ vào năm 1991 tăng mạnh lên đến hơn 3.000 tỷ đôla Mỹ, chỉ trong vòng hơn 10 năm, đã tăng lên hơn 4 lần. Theo tài liệu "Báo cáo phát triển con người năm 2005" của Liên hợp quốc, tổng thu nhập của 500 người giàu nhất trên thế giới hiện nay lớn hơn tổng thu nhập của 416 triệu người nghèo nhất. Do hệ thống tham chiếu phúc lợi xã hội toàn diện mà Liên Xô - Đông Âu thực hiện bị sụp đổ, ở các nước phát triển phương Tây như Mỹ, Thụy Điển, Pháp, Đức, không những chế độ sở hữu, phân phối, thể chế chính trị, ý thức hệ chuyển sang cánh hữu, ngay cả hệ thống phúc lợi đã được xây dựng xong cũng chuyển sang cánh hữu.


Tổng thu nhập trong báo cáo của người Mỹ năm 2005 đã tăng gần 9%, nhưng thu nhập bình quân của 90% người ở tầng đáy xã hội thì lại giảm 172 đôla Mỹ so với một năm trước đó, tức 0/6%1 ("Báo cáo phát triển con người năm 2005", Thời báo New York, Mỹ, ngày 29 tháng 3 năm 2007). Năm 2000, số người nghèo ở Mỹ là 31,6 triệu người, năm 2001 tăng thêm 1,3 triệu người, năm 2002 lại tăng thêm 1,7 triệu người, lên tới 34,6 triệu người. Và đến năm 2007 thì tăng lên đến 36,2 triệu người, trong đó có 29,5 triệu người sống nhờ vào lĩnh phiếu thực phẩm2 (Hãng thông tấn Reuter tại Washington: "Dân số nghèo của Mỹ không ngừng gia tăng", điện ngày 17 tháng 11 năm 2008). Năm 1980, số người dân không đạt tới 40% mức thu nhập bình quân toàn quốc của Anh là 1 triệu người, còn đến năm 1999 tăng lên tới 8 triệu người3 (Lưu Chí Quân: "Toàn cầu hóa làm suy yếu an ninh nhân loại", Thời báo Hoàn cầu, ngày 2 tháng 5 năm 2006). Hiện nay, nước Pháp có 25 tỷ phú, nhưng lại có hơn 7 triệu người nghèo, gần 700.000 người mắc nợ4 (Sơn Nam: "Pháp lâm vào 'nghèo khó có tính tập thể'", Thời báo Tài chính quốc tế, ngày 5 tháng 12 năm 2008), về mặt nào đó, sự chao đảo lớn của kinh tế toàn cầu đem lại tai ương lớn cho nhân dân các nước trên thế giới do vụ Công ty Lehman Brothers sụp đổ ngày 15 tháng 9 năm 2008 gây ra, cũng có thể truy ngược lại tới việc Liên Xô giải thể và Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ. Chiến tranh lạnh kết thúc, siêu cường duy nhất là Mỹ mới dám và cũng mới có thể rảnh tay thổi phổng nền kinh tế bong bóng của mình.


Lịch sử loài người thế kỷ XX đã trải qua ba sự kiện lịch sử lớn có liên quan trực tiếp với chủ nghĩa xã hội: một là, Cách mạng Tháng Mười Nga; hai là, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập; ba là, Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể. Trong đó, hai sự kiện đầu là khúc ca khải hoàn tiến lên, đem lại cho những người cộng sản chúng ta niềm vui bất tận; đối với những người Cộng sản chúng ta mà nói, sự kiện thứ ba lại khiến người ta kinh hoàng, u buồn, đau lòng nhất. Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể có tính chất khác nhau căn bản so với thất bại của Công xã Pari năm 1871. Đó là vì: "Công nhân Pari và công xã Pari sẽ vĩnh viễn được người ta ca ngợi vì sự đi đầu vẻ vang của xã hội mới. Các bậc anh hùng của nó đã vĩnh viễn ghi vào trong tâm khảm vĩ đại của giai cấp công nhân. Những tên đao phủ đã giết hại nó kia đã bị lịch sử vĩnh viễn đóng đinh trên cây cột nhục nhã, bất luận các giáo sĩ của chúng có cầu nguyện thế nào cũng không thể giải thoát cho chúng đuợc"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1995, q.3, tr.81). Còn việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể là bước ngoặt ngược chiều lớn trong phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, là thất bại lớn, sự xoay chuyển lớn đi ngược lại quá trình phát triển trong lịch sử loài người; những kẻ phản bội chôn vùi Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô cũng đã bị lịch sử vĩnh viễn đóng đinh lên các cây cột nhục nhã như vậy, bất luận các giáo sĩ của chúng có cầu nguyện thế nào cũng không thể giải thoát cho chúng được.


Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh tác dụng đặc biệt của giáo dục phản diện. Xét từ ý nghĩa nhất định, không có thất bại của đợt chống "vây diệt" lần thứ 5 và máu tươi của hơn 50 ngàn người trong chiến dịch Tương Giang, thì không có Hội nghị Tuân Nghĩa sau này và sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trưng Hoa. Không có tai ương lớn của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cũng như của lịch sử loài người là Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể này, thì chúng ta không biết được sự khó khăn và oanh liệt của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, do đó cũng làm nổi bật lên sự hùng vĩ và đẹp đẽ của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp cộng sản chủ nghĩa. Tất nhiên, thất bại của cuộc chống "vây diệt" lần thứ 5 và sự hy sinh của hơn 50 ngàn người trong chiến dịch Tương Giang so với việc Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, tuy xét từ góc độ gây ra tổn thất lớn cho cách mạng, thì không tồn tại vấn đề cái nào tốt hơn cái nào, cực "tả" tốt hơn cực "hữu", nhưng rốt cuộc là thuộc hai loại bi kịch có tính chất khác nhau. Thất bại của đợt chống "vây diệt" lần thứ 5 và sự hy sinh của hơn 50 ngàn người trong chiến dịch Tương Giang tựu trung là vấn đề vẫn cần cách mạng, còn Liên Xô giải thế, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ lại là vấn đề phản bội đối với cách mạng, về điểm này, hai cái chắc chắn có sự khác biệt về nguyên tắc. Trên con đường dài của phong trào xã hội chủ nghĩa sau này, chúng ta chắc chắn cần tiếp tục cảnh giác trước việc phạm sai lầm "tả" trước kia, đồng thời, chúng ta cũng cần chú ý, song song với uốn nắn một khuynh hướng nào đó, cần cảnh giác với việc ra đời của một khuynh hướng khác bị che đậy - chú ý tới sự ra đời của trào lưu tư tưởng sai lầm hữu khuynh. Đồng chí Đặng Tiểu Bình từng nói: "Sự kiện của Liên Xô, Đông Âu đã giáo dục chúng ta từ mặt trái, việc xấu biến thành việc tốt. Vấn đề là chúng ta cần biết biến việc xấu thành việc tốt, lại biến việc tốt như vậy thành truyền thống, vĩnh viễn không thể để mất tổ tông, tổ tông đó chính là chủ nghĩa Mác"1 (Niên phố Đặng Tiểu Bình, Nxb. Văn hiến Trung ương, 2004, quyển hạ, tr.1332). Vì vậy, tiến hành đi sâu phân tích, mổ xẻ đối với hiện tượng lịch sử lớn Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng này, tiếp thu bài học sâu sắc có ý nghĩa hết sức lớn đối với việc tăng cường xây dựng tính tiên tiến của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí đối với cả sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 03:58:03 pm
III. NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN CỦA SỰ BIẾN LIÊN XÔ KHÔNG PHẢI Ở CHỖ "MÔ HÌNH XTALIN" TỨC MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LIÊN XÔ, MÀ Ở CHỖ TỪ TẬP ĐOÀN KHRUSHCHEV ĐẾN TẬP ĐOÀN GORBACHEV DẦN DẦN XA RỜI, ĐI NGƯỢC LẠI, THẬM CHÍ CUỐI CÙNG PHẢN BỘI CHỦ NGHĨA MÁC, CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ LỢI ÍCH CĂN BẢN CỦA ĐÔNG ĐẢO NHẤT QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ như một hòn núi lớn. Nguyên nhân căn bản của nó là ở chỗ nào? Đúng như trên đã trình bày, các loại quan điểm hỗn tạp lẫn lộn với nhau. Cùng với việc giới học thuật trong và ngoài nước không ngừng đi sâu nghiên cứu sự biến Liên Xô, các đáp án khác về nguyên nhân căn bản của sự biến Liên Xô, như "thuyết Utopia", "thuyết đẻ non", "kinh tế làm không tốt", "thuyết chạy đua vũ trang", "thuyết mâu thuẫn dân tộc"... dần dần ít xuất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc, nhưng quan điểm cho rằng nguyên nhân căn bản của nó là ở chỗ "mô hình Xtalin" tức "thuyết mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô" thì vẫn có ảnh hưởng tương đối.


Mấy năm nay, qua tích cực phân tích, nghiên cứu, trao đổi, nhóm đề tài "Nghiên cứu bài học lịch sử của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng" đã dần dần đi tới nhận thức chung: Nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể không phải ở chỗ "mô hình Xtalin", tức mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, mà là ở chỗ từ tập đoàn Khrushchev đến tập đoàn Gorbachev đã dần dần xa rời, đi ngược lại, thậm chí cuối cùng phản bội lại chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội và lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân.


"Tinh túy của chủ nghĩa Mác, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là: phân tích cụ thể đối với tình hình cụ thể"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.213). Đây là câu danh ngôn của Lênin vĩ đại. Trước tiên chúng ta hãy phân tích cụ thể đôi chút đối với "mô hình Xtalin" tức mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô và những vấn đề liên quan của nó.


Thứ nhất, phân tích đối với "mô hình Xtalin", tức mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Chúng tôi cho rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô chia thành chế độ kinh tế, chính trị cơ bản và cơ chế thể chế quản lý cụ thể, không thể gọi chung chung một cách không phân tích chế độ kinh tế, chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa Liên Xô và cơ chế thể chế quản lý cụ thể là chủ nghĩa xã hội Liên Xô hoặc mô hình chủ nghĩa xã hội Xtalin để khẳng định hoặc phủ định toàn bộ. Tất nhiên, chế độ kinh tế chính trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội và cơ chế thể chế quản lý cụ thể có mối liên hệ không thể tách rời nhau, trong đó bao gồm sự tác động qua lại giữa chúng với nhau. Thế nhưng, giữa chúng lại có ranh giới mang tính căn bản, thuộc về phạm trù khái niệm khác nhau. Chế độ kinh tế chính trị cơ bản là về mặt phương hướng, định tính, là giải quyết vấn đề "vì ai, dựa vào ai", đây là quốc thể của một quốc gia; còn cơ chế thể chế quản lý cụ thể là biện pháp cụ thể thực hiện phương hướng đó sau khi đã xác định phương hướng rồi, là giải quyết vấn đề "làm như thế nào, làm ra sao", đây là chính thể của một quốc gia. Hai cái không thể lẫn lộn làm một để bàn luận. Lênin vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, kết hợp với tình hình thực tế của nước Nga, tiến hành thành công Cách mạng Tháng Mười Nga, nói cho cùng, mục tiêu căn bản của việc kiên trì và không ngừng hoàn thiện những chế độ kinh tế chính trị cơ bản này chính là để bảo đảm nhân dân làm chủ, và trong một thời kỳ tương đối dài, dần dần thực hiện sự dứt khoát triệt để nhất với quan hệ sở hữu truyền thống và quan niệm truyền thống, cuối cùng thực hiện sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người. Những người cộng sản Liên Xô thực thụ cần kiên trì, củng cố và không ngừng hoàn thiện, phát triển đối với chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa mà Lênin sáng lập. Đồng thời, cần kịp thời tiến hành điều chỉnh, cải cách căn cứ vào sự thay đổi không ngừng của tình hình đất nước và tình hình mới không ngừng xuất hiện đối với hình thức cụ thể, tức thể chế mà chế độ kinh tế chính trị cơ bản này thể hiện. Thời kỳ Lênin và Xtalin, chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa Liên Xô cũng như cơ chế thể chế quản lý cụ thể thể hiện những chế độ kinh tế chính trị này và không ngừng thay đổi, về cơ bản là phù hợp với tình hình đất nước của Liên Xô, đây là nguyên nhân căn bản khiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô giành được những thành tựu to lớn. Nhưng chúng ta cần thấy được rằng, do Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, tiến hành xây dựng như thế nào vẫn chưa có kinh nghiệm, cộng thêm các loại nguyên nhân như một số quan điểm lý luận và tác phong cá nhân của Xtalin, thể chế cụ thể, cơ chế vận hành của chính quyền Xôviết cũng tồn tại một số vấn đề. Ví dụ, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và nhiệm vụ khôi phục, tái thiết sau chiến tranh hoàn thành, đã không kịp thời tiến hành cải cách đối với thể chế quản lý tập trung cao độ quyền lực được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ XX, không phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, pháp chế không kiện toàn, thậm chí xuất hiện hiện tượng sùng bái cá nhân. Xét từ ý nghĩa nhất định, điều này có mối liên hệ lịch sử nhất định với việc Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, nhưng đây tuyệt đối không phải là nguyên nhân căn bản và kết quả tất yếu của nó, càng không phải là nguyên nhân trực tiếp. Chúng ta quyết không thể từ nhu cầu chạy theo sự phát triển, thay đổi của tình hình để rút ra kết luận phủ định hoàn toàn đối với chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa mà Lênin sáng lập qua cải cách đối với cơ chế thể chế quản lý cụ thể của Liên Xô; càng không thể quy kết một cách thiếu phân tích những vấn đề tồn tại trong cơ chế, thể chế quản lý cụ thể là vấn đề của chế độ cơ bản, phủ định chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, từ đó rút ra nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể là ở chỗ chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể như một số đồng chí nói là "mô hình Xtalin", tức mô hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô, kỳ thực là gán cả nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể cho chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Thực chất của cách nói này không có sự khác biệt bản chất nào với "thuyết Utopia", "thuyết đẻ non".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 03:58:46 pm
Thứ hai, phân tích đối với cơ chế thể chế quản lý của mô hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Mao Trạch Đông từng nói: "Bất cứ một dân tộc nào, không thể không phạm sai lầm, huống hồ Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, lại trải qua lâu như thế không xảy ra sai lầm là điều không thể. Sai lầm xảy ra của Liên Xô, như sai lầm của Xtalin, vị trí của nó là gì? Là tính chất bộ phận, tính chất tạm thời. Tuy nói có một số thứ đã 20 năm rồi, nhưng vẫn là tạm thời, bộ phận, có thể uốn nắn được. Dòng chính của Liên Xô kia, mặt chủ yếu kia, đại đa số kia là đúng đắn. Nước Nga đã sản sinh ra chủ nghĩa Lênin, trải qua Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở thành nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Nó đã xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh bại phát xít, biến thành một nước công nghiệp lớn mạnh. Nó có nhiều thứ mà chúng ta có thể học tập. Tất nhiên, cần phải học tập những kinh nghiệm tiến bộ, chứ không phải là học tập kinh nghiệm lạc hậu... Vì vậy, cần phải tiến hành phân tích. Chúng ta từng nói, đối với Xtalin cần phân biệt ba phần sai lầm, bảy phần thành tích. Những thứ chủ yếu, số nhiều của họ là tốt, là hữu dụng; những thứ bộ phận là sai lầm"1 (Mao Trạch Đông văn tập, Nxb. Nhân dân, 1999, q.7, tr.91). Vận dụng phương pháp luận phân tích Xtalin này của Mao Trạch Đông để phân tích thể chế quản lý và cơ chế vận hành cụ thể mà Liên Xô đã xác lập, chắc chắn cũng là thích hợp. Đối với "thể chế Liên Xô", Đặng Tiểu Bình cũng có thái độ phân tích cụ thể, biện chứng. Tháng 4 năm 1957, Đặng Tiểu Bình chỉ ra: "Mấy năm nay chúng ta thực hiện tương đối nhanh, một trong những nguyên nhân chính là có kinh nghiệm của Liên Xô", "Chúng ta cần tiếp tục học tập Liên Xô, còn cần phải biết học nữa. Học tập những thứ tốt của Liên Xô sẽ rất có ích cho chúng ta, tham khảo những thứ sai lầm của Liên Xô cũng có ích rất lớn đối với chúng ta"2 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Nxb. Nhân dân, 1989, q.1, tr.263). Chúng tôi cho rằng, kinh nghiệm và sai lầm của Liên Xô mà Đặng Tiểu Bình nói ở đây bao gồm cả cơ chế, thể chế quản lý của Liên Xô. Điều này đã thể hiện đầy đủ thái độ khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cơ chế thể chế quản lý tập trung cao độ quyền lực mà Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Xtalin xây dựng lên tuy có một số khiếm khuyết, nhưng về tổng thể là phù hợp với tình hình thế giới và tình hình đất nước Liên Xô vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, thích ứng với yêu cầu của tình thế bị các cường quốc đế quốc xâm lược, bao vây và phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến lúc bấy giờ, đã thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản đối với đất nước và nhân dân, khiến cho Liên Xô giành được các thắng lợi vĩ đại trong công nghiệp hóa, Chiến tranh vệ quốc và tái thiết, củng cố và phát triển hơn nữa chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Cơ chế, thể chế quản lý cụ thể của chủ nghĩa xã hội thời kỳ Xtalin quả thực tồn tại một số khiếm khuyết, nhưng xét về tổng thể, nó thích ứng với yêu cầu khách quan của xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, có lợi cho việc thể hiện tính ưu việt của chế độ kinh tế, chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa, thành tích là chủ yếu, khiếm khuyết là thứ yếu. Chúng ta quyết không thể vì cơ chế thể chế quản lý cụ thể của thời kỳ Xtalin tồn tại một số khiếm khuyết mà phủ định toàn bộ đối với cơ chế thể chế quản lý đó.


Thứ ba, phân tích việc không tiến hành cải cách kịp thời đối với cơ chế thể chế quản lý tập trung cao độ quyền lực mà Đảng Cộng sản Liên Xô xây dựng lên thời kỳ Xtalin. Thể chế xã hội chủ nghĩa Liên Xô đã trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau như Xtalin, Khrushchev, Brezhnev, Gorbachev..., sự thay đổi và khác biệt thể chế của các giai đoạn cũng cực kỳ lớn. Quy nguyên nhân căn bản của việc Liên Xô giải thể vào quan điểm của chủ nghĩa xã hội Liên Xô hoặc thể chế Xtalin cũng là điều đáng phải bàn thêm. Như trên đã nói, thể chế cơ chế tập trung cao độ quyền lực mà Đảng Cộng sản Liên Xô thiết lập thời kỳ Xtalin về tổng thể là phù hợp với tình hình thế giới và tình hình đất nước Liên Xô vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, đặc biệt là thích ứng với nhu cầu thời chiến và nhu cầu của nhiệm vụ khôi phục và tái thiết sau chiến tranh của Liên Xô. Nhưng cùng với thắng lợi của Chiến tranh thế giới thứ hai và hoàn thành nhiệm vụ khôi phục và tái thiết sau chiến tranh, thể chế này về tổng thể đã không thể thích ứng hơn nữa với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những năm 50 của thế kỷ XX, những khiếm khuyết của nó cũng ngày càng hiện rõ, điều này đòi hỏi phải kịp thời tiến hành điều chỉnh hoặc cải cách đối với nó. Những người cộng sản Trung Quốc với Mao Trạch Đông làm đại diện đã có thái độ phân tích khoa học trong quá trình học tập tham khảo thể chế chính trị, kinh tế  của Liên Xô, đồng thời bắt đầu tiến hành tìm tòi đối với con đường xã hội chủ nghĩa kiểu Trung Quốc, trong đó bao gồm cả thể chế kinh tế, chính trị. Song song với kiên trì chế độ kinh tế, chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa, Đặng Tiểu Bình tiếp tục tiến hành cải cách đối với thể chế này, làm cho sự nghiệp cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc giành được những thành tựu khiến cả thế giới công nhận. Còn ở Liên Xô, sau khi nhiệm vụ tái thiết sau chiến tranh cơ bản hoàn thành, thì lại không kịp thời tiến hành cải cách đối với thể chế, cơ chế quản lý tập trung cao độ quyền lực của mình, cá nhân người viết cho rằng, bản thân Xtalin có trách nhiệm thiếu sự nhận thức, đồng thời cũng có nguyên nhân quan trọng là những năm cuối đời nhiều bệnh, sức khỏe không kham nổi. Sau khi tập đoàn lãnh đạo Khrushchev lên nắm quyền, đã thử tiến hành cải cách đối với nó, không thể phủ nhận rằng, họ cũng từng đưa ra một số thử nghiệm hữu ích. Vấn đề là ở chỗ, cùng với sự thay đổi của điều kiện, tập đoàn lãnh đạo Khrushchev không lãnh đạo cải cách một cách kịp thời và đúng đắn, ngược lại dần dần đưa phương hướng cơ bản của cải cách của mình diễn biến thành phủ định đối với chế độ kinh tế, chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa Liên Xô, điều này đã bổ nhát cuốc đầu tiên, cũng có thể được gọi là nhát cuốc có tính then chốt cho việc Liên Xô giải thể sau này, Đảng Cộng sản bị hạ bệ, giống như sự sụp đổ của một ngọn núi lớn. Trong thời kỳ Gorbachev, tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã lấy chiêu bài cải tổ, về bản chất đã thay đổi ngọn cờ, phản bội toàn diện chủ nghĩa Mác, về thực chất đã bước lên con đường một đi không trở lại là chủ nghĩa tư bản, cuối cùng chôn vùi chủ nghĩa xã hội. Nếu như không thấy được những sai lầm của tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô từ Khrushchev, đặc biệt là Gorbachev, mà coi nguyên nhân căn bản của sự biến Liên Xô quy về thể chế kinh tế, chính trị xã hội chủ nghĩa được thiết lập ở thời kỳ Xtalin, thì không phù hợp với thực tế cũng hoàn toàn không đứng vững được về lịch sử.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 03:59:54 pm
Thứ tư, tác động lẫn nhau giữa con người và thể chế, cơ chế cũng như phân tích mối quan hệ của nó. Tháng 8 năm 1980, tại Hội nghị mở rộng Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã có bài phát biểu quan trọng "Cải cách chế độ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước". Trong bài phát biểu, Đặng Tiểu Bình chỉ rõ: "Các sai lầm xảy ra trước đây của chúng ta cố nhiên là có liên quan tới tư tưởng, tác phong của một số nhà lãnh đạo nào đó, nhưng vấn đề ở các mặt chế độ tổ chức, chế độ làm việc càng quan trọng hơn. Chế độ ở các mặt này tốt có thể khiến cho người xấu không thể tuỳ ý hoành hành, chế độ không tốt có thế khiến cho người tốt không thể nào làm việc tốt một cách đầy đủ, thậm chí có thể đi tới mặt trái"; "Vấn đề chế độ lãnh đạo, chế độ tổ chức càng phải có tính căn bản, tính toàn cục, tính ổn định và tính lâu dài. Vấn đề chế độ này liên quan tới Đảng và Nhà nước có thay đổi màu sắc hay không, cần phải được toàn Đảng coi trọng cao độ"1 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.2, tr.333). Những người chủ trương nguyên nhân chủ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ, Liên Xô giải thể là ở chỗ mô hình xã hội chủ nghĩa cứng nhắc của Liên Xô hoặc mô hình Xtalin, thường dẫn lại hai đoạn này để chứng minh cho quan điểm của mình. Thế nhưng, họ thường coi nhẹ những trình bày liên quan khác vào những năm cuối đời của Đặng Tiểu Bình. Ngày 5 tháng 10 năm 1991, khi tiếp Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch nước Kim Nhật Thành, Đặng Tiểu Bình chỉ ra: "Thật sự xảy ra vấn đề là vấn đề nội bộ chúng ta, người khác không làm được gì với chúng ta cả, Mỹ cũng không có cách nào"2 (Niên phố Đặng Tiểu Bình, Sđđ, quyển hạ, tr.1332). Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 2 năm 1992, trong bài nói chuyện tại miền Nam nổi tiếng của mình, Đặng Tiểu Bình nói: "Đường lối chính trị đúng đắn cần dựa vào đường lối tổ chức đúng đắn làm bảo đảm. Có làm tốt được hay không công việc của Trung Quốc, có kiên trì được hay không chủ nghĩa xã hội và cải cách mở cửa, kinh tế có phát triển nhanh hơn một chút hay không, đất nước có yên ổn lâu dài hay không, xét từ ý nghĩa nhất định, mấu chốt là ở con người." Ông còn nói: "Trung Quốc nếu xảy ra vấn đề, thì vẫn là xảy ra từ nội bộ Đảng Cộng sản. Cần tỉnh táo đối với vấn đề này, cần chú ý bồi dưỡng con người, cần tuyển chọn, đề bạt những người có cả đức lẫn tài vào ban lãnh đạo theo tiêu chuẩn "cách mạng hóa, trẻ hóa, trí thức hóa, chuyên nghiệp hóa". Chúng ta nói đường lối cơ bản của Đảng cần phải kiên trì 100 năm, muốn yên ổn lâu dài, thì cần phải dựa vào điểm này. Cái thực sự liên quan đến đại cục chính là việc này"1 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.3, tr.380). Ông còn nói: "Chỉ cần có một Bộ Chính trị tốt, đặc biệt là một Ban Thường vụ tốt... thì cái loạn nào xuất hiện cũng ngăn chặn được"2 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.3, tr.310).


Ngày 21 tháng 7 năm 1977, tại Hội nghị toàn thể Trung ương 3 khóa X Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã có bài phát biểu "Lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông một cách hoàn chỉnh, chuẩn xác". Câu đầu tiên mở màn là "Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng chỉ đạo của Đảng chúng ta"3 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.2, tr.42). Ông nói: "Những lời nói của đồng chí Mao Trạch Đông tại một thời điểm này, trong điều kiện này, đối với một vấn đề nào đó là đúng đắn, thì những câu nói tại một thời điểm khác, trong điều kiện khác, đối với vấn đề tương tự cũng là đúng đắn; nhưng những câu nói trong thời điểm, điều kiện khác nhau đối với cùng một vấn đề, có lúc mức độ khác nhau, điểm nhấn khác nhau, thậm chí một số cách đề cập cũng khác nhau. Vì vậy chúng ta không thể chỉ lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông qua những câu chữ cá biệt, mà cần phải có được sự lý giải chính xác từ hệ thống chỉnh thể của tư tưởng Mao Trạch Đông"1 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.2, tr.42-43). Điều này đã cung cấp cho chúng ta sự chỉ đạo về ý nghĩa phương pháp luận để lý giải chính xác một cách biện chứng thống nhất những trình bày khác nhau ở những thời kỳ khác nhau của Đặng Tiểu Bình. Điều này cũng chính là nói, chúng ta cũng cần lý giải luận điểm Đặng Tiểu Bình một cách hoàn chỉnh, chuẩn xác, chứ không thể mỗi người lấy thứ mình cần, chỉ nắm lấy một, hai câu trong đó, không chú ý tới thời gian, địa điểm mà đi lý giải và trình bày một cách phiến diện.


Chúng ta hãy nhìn lại quan hệ biện chứng giữa con người với thể chế cơ chế từ bình diện nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác luôn luôn cho rằng, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, sự tổng hòa của các mặt quan hệ sản xuất thì cấu thành nền tảng kinh tế của xã hội, cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc. Những người tham gia sản xuất là nhân tố cách mạng nhất, năng động nhất trong lực lượng sản xuất, tất nhiên, nhân tố cách mạng nhất, năng động nhất này của con người không những thể hiện trực tiếp ở phạm trù lực lượng sản xuất, mà còn thể hiện một cách tương ứng ở tất cả các mặt của các phạm trù như quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế  thượng tầng kiến trúc và ý thức xã hội tương ứng với thượng tầng kiến trúc. Còn thể chế cơ chế là bộ phận cấu thành hữu cơ của thượng tầng kiến trúc xã hội. Thể chế cơ chế do con người xác lập và hoàn thiện, cũng cần do con người tuân thủ hoặc thay đổi. Vì vậy xét về căn bản, con người quyết định cơ chế thể chế. Đây chính là cái mà Đặng Tiểu Bình nói khi cuối đời "mấu chốt là ở con người". Tất nhiên, quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc nhất định sẽ tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất và cơ sở kinh tế nhất định. Quan hệ tác động ngược trở lại thể hiện ở mối quan hệ giữa con người với thể chế, cơ chế, tức là trong điều kiện nhất định, thể chế, cơ chế sẽ tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất, trong đó bao gồm cả con người. Kiểu tác động ngược này, trong điều kiện nhất định, có thể có tác dụng quyết định. Đây cũng là tầm quan trọng của "chế độ tổ chức, chế độ làm việc" mà Đặng Tiểu Bình nói. Người viết cho rằng, kết luận quan trọng của chủ nghĩa Mác: "Trung Quốc nếu xảy ra vấn đề, thì vẫn là xảy ra từ nội bộ Đảng Cộng sản" mà Đặng Tiểu Bình nói trong bài phát biểu tại miền Nam năm 1992, thực chất là được đưa ra trên cơ sở tổng kết đúng đắn những sự kiện lịch sử lớn trong phong trào cộng sản quốc tế, kể cả việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể năm 1991, kết luận này cũng hoàn toàn phù hợp với nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể. Vấn đề trong nội bộ Đảng cũng có nhiều loại, thể chế, cơ chế chỉ là một trong số đó, hơn nữa chỉ là phương thức vận hành cụ thể và hình thức biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng - chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa và chế độ tập trung dân chủ - vào trong nội bộ Đảng và trong đời sống chính trị, kinh tế đất nước. Một thể chế nhất định sau khi hình thành tất nhiên sẽ ảnh hưởng và ràng buộc hoạt động của con người, nhưng suy cho cùng vấn đề căn bản cần là ở chỗ xác lập và quán triệt thể chế cơ chế nhất định cần dựa vào lý luận nhất định để chỉ đạo: Không có lý luận cách mạng thì không có hành động cách mạng. Biết tiến hành tư duy trừu tượng có lý trí và lý luận là sự khác biệt căn bản giữa con người với các vật chủng khác trong đó có động vật của giới tự nhiên, là biểu hiện đặc thù của tính năng động chủ quan của con người. Xét từ điểm này, chúng ta lại tìm được hình thức biểu hiện cụ thể của việc con người quyết định thể chế cơ chế Vì vậy, chúng tôi cho rằng, sự sụp đổ cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô, nguyên nhân căn bản của nó không phải ở chỗ thể chế cơ chế mà là ở chỗ Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu từ tập đoàn lãnh đạo Khrushchev, đặc biệt là những người trong đó có Gorbachev dần dần xa rời, đi ngược lại, cuối cùng đã phản bội lại chủ nghĩa Mác và lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Trong quá trình Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, các nhân vật tiêu biểu của tập đoàn lãnh đạo - Khrushchev, Brezhnev, đặc biệt là Gorbachev khó tránh khỏi có liên quan. Đến nay chúng tôi vẫn kiên trì quan điểm này. Giang Trạch Dân chỉ ra, "Sự biến Đông Âu, Liên Xô giải thể, bài học sâu sắc nhất là: Đã từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chuyên chính vô sản, từ bỏ địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, kết quả khiến cho mâu thuẫn kinh tế, chính trị, xã hội, dân tộc vốn đã tương đối nghiêm trọng càng gay gắt hơn, cuối cùng dẫn đến bi kịch lịch sử biến động lớn về chế độ, nhà nước giải thể"1 (Văn tuyển Giang Trạch Dân, Nxb. Nhân dân, 2006, q.3, tr.230). Câu nói này rất đúng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 04:00:52 pm
Ngày 1 tháng 2 năm 2008, nhân dịp Tổng thống Nga Putin chuẩn bị kết thúc 8 năm nắm quyền, phóng viên tờ Nước Nga đã phỏng vấn Viện trưởng Viện nghiên cứu xã hội học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, Viện sĩ thông tấn Gorshkov. Phóng viên đã đề nghị ông ta nói về vấn đề "Sự phát triển của Nga trong những năm tới cần những nhà lãnh đạo kiểu nào". Vị viện trưởng này nói: "Xem ra, cần phải nhắc lại thuật ngữ 'quản lý khoa học đối với xã hội'. Do chúng ta quá ý thức hệ hóa nó nên đã luôn tránh nói đến trong thời gian dài. Hiện nay, chúng ta không thể không đồng ý với quan điểm của Xtalin về 'cán bộ quyết định hết thảy'"2 ("Putin cầm quyền 8 năm, không có lật đổ mà là đã cải tạo nước Nga", Báo Nước Nga, ngày 1 tháng 2 năm 2008). Cán bộ quyết định hết thảy, trên thực tế đã trả lời mệnh đề con người quyết định thể chế cơ chế. Cần phải nói rằng, về thực chất đây cũng là nhận thức mới của các học giả Nga đối với nguyên nhân căn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể.   


Thứ năm, tiến hành phân tích đối với "mô hình Xtalin" mà phương Tây đưa ra và phủ định. Chế độ xã hội chủ nghĩa được Liên Xô xây dựng vào thời kỳ Lênin và Xtalin cũng như những thể chế cơ chế quản lý cụ thể không ngừng tiến cùng thời đại bao gồm trong đó là thực tiễn của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác ở Liên Xô. Thực tiễn chứng minh, chế độ này là phù hợp với thực tế của Liên Xô, và đã giành được thành công to lớn. Nhưng một số học giả và chính trị gia phương Tây lại đặt tên cho chế độ đó là mô hình xã hội chủ nghĩa Xtalin. Khi phân tích nguyên nhân căn bản của việc Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, họ không nói một lời nào tới những sai lầm nghiêm trọng từ tập đoàn lãnh đạo Khrushchev cho đến tập đoàn lãnh đạo Gorbachev đã xa rời, đi ngược lại, thậm chí cuối cùng phản bội lại chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội và lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân, dẫn đến đất nước hỗn loạn, dân tộc ly khai, mà ngược lại, họ đem những tội lỗi đó gán ghép cho Lênin và Xtalin. Năm 1998, khi tổng kết nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể, Gorbachev đã quy kết rộ ràng "là do 'mô hình' đã lựa chọn kia... Đây là sai lầm chủ yếu nhất mà Bônsêvích ngay từ trước Xtalin đã phạm phải"1 ([Nga] Gorbachev: Suy nghĩ của Gorbachev đối với quá khứ và tương lai, Nxb. Tân Hoa, 2002, tr.20). Điều cần chú ý nữa là, Gorbachev không những sử dụng rõ ràng cách đề cập "mô hình" này, hơn nữa cũng chĩa mũi nhọn một cách rõ ràng vào "trước Xtalin" tức chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô của thời kỳ Lênin. Điều này đã cung cấp cho chúng ta một bằng chứng đanh thép để nhận định mô hình Xtalin mà họ nói đó về thực chất quyết không chỉ phủ định cá nhân Xtalin, mà muốn phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa về căn bản.


Điều cần chỉ ra là, trước Gorbachev, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa từng sử dụng cách đề cập mô hình Xtalin này. Học giả Anh Hugh Seton - Watson sử dụng cụm từ "mô hình Xtalin" tương đối sớm vào năm 1953, sử dụng từ "mô hình" để nói rõ chủ nghĩa xã hội là từ ngữ quen dùng của phương Tây. Liên Xô bắt đầu xuất hiện cách đề cập "mô hình xã hội chủ nghĩa" vào năm 1987 của thời kỳ Gorbachev. Có thể nói, "mô hình Xtalin" ngay từ khi được đưa ra đã bị gán cho tội danh "cực quyền, chính trị bạo lực", thậm chí bị đánh đồng với "chế độ phátxít", về thực chất đã bị khéo léo đưa vào trong toàn bộ chiến lược của phương Tây hòng xóa bỏ chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng tôi không tán thành cách đề cập "mô hình Xtalin" này, bởi vì điều này chỉ cần không cẩn thận một chút sẽ cực kỳ dễ rơi vào cái bẫy của hệ thống phát ngôn phương Tây. Trong cuốn sách này, đôi khi cũng xuất hiện cách đề cập này, nhưng đây chỉ là để giản tiện trong hành văn, chứ không có nghĩa là chúng tôi tán thành quan điểm của phương Tây.


Những đồng chí cho rằng nguyên nhân căn bản của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể là ở chỗ mô hình Xtalin, chủ trương truy cứu trách nhiệm của cái gọi là thể chế cơ chế xã hội chủ nghĩa cứng nhắc (thực chất là chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa), nhưng lại không chủ trương truy cứu trách nhiệm cá nhân từ Khrushchev cho đến Gorbachev; mặt khác, đồng thời với truy cứu trách nhiệm chế độ kinh tế chính trị cơ bản xã hội chủ nghĩa, lại thường đòi truy cứu trách nhiệm cá nhân của Xtalin. Khi truy cứu trách nhiệm cá nhân của Xtalin, họ lại thường tập trung vào hai việc lớn xảy ra vào những năm 30 của thế kỷ XX: một là, Xtalin dừng chính sách kinh tế mới của Lênin, thực hiện tập thể hóa nông nghiệp; hai là, mở rộng tiêu diệt phản cách mạng. Có bài viết nói: "Tập thể hóa toàn diện đã phá hoại cực lớn sự phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp của Liên Xô; cuộc trấn áp lớn vào những năm 1930 đã làm lay chuyển nền tảng cầm quyền của Liên Xô. Xtalin cần phải chịu trách nhiệm chính về việc này. Bởi vì hai phong trào lớn này đều là do Xtalin đưa ra mệnh lệnh có tính phương châm mà chưa được Bộ Chính trị thảo luận". Chúng tôi cho rằng, hai quan điểm này rất đáng phải bàn.


Theo ý tưởng của Lênin, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, nhà nước Xô viết vốn muốn dùng phương pháp thích hợp nhất với tình hình nước Nga lúc bây giờ, cố gắng từng bước quá độ sang quan hệ kinh tế xã hội mới, nhưng giai cấp tư sản Nga không đồng ý đưa ra bất kỳ sự nhượng bộ nào, không chấp nhận nhà nước điều tiết sản xuất và giám sát sản xuất, và nhanh chóng phát động cuộc chiến tranh trong nước tàn khốc uy hiếp sự tồn tại của chính quyền Xôviết. Những kẻ can thiệp bên ngoài cũng liên kết với giai cấp tư sản Nga hòng bóp chết chính quyền Xô viết non trẻ. Lênin nói, giai cấp tư sản chỉ cần "còn một tia hy vọng dùng thủ đoạn hữu hiệu nhất - chiến tranh để giải quyết vấn đề căn bản này, thì chúng sẽ không thể và cũng không cần phải chấp nhận việc chính quyền Xôviết đưa ra sự nhượng bộ có tính cục bộ đối với mình nhằm dùng biện pháp tương đối tiệm tiến để quá độ sang chế độ mới"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.224). Vì vậy, "Chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh quyết tử, vô tình, do đó sự phá hoại quan hệ cũ triệt để hơn nhiều so với ý tưởng ban đầu"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.223). Vì vậy, nhà nước Xô viết không thể không thực hiện "chính sách cộng sản thời chiến" đặc thù trong thời kỳ can thiệp vũ trang của nước ngoài và chiến tranh trong nước. Những chính sách này hoàn toàn phù hợp với thực tế đấu tranh với những kẻ can thiệp bên ngoài và quân Bạch vệ lúc đó, đã bảo vệ mạnh mẽ chính quyền Xôviết. Trong khi phản kháng và rút lui, những kẻ can thiệp bên ngoài và quân Bạch vệ đã cố ý phá hoại nhà máy, hầm mỏ, vận tải đường sắt, nông cụ và kiến trúc nông nghiệp, còn xua đuổi gia súc, chở lương thực đi... Đến mùa xuân năm 1921, tình hình kinh tế và chính trị trong nước của Nga càng khó khăn hơn. Nông dân hết sức bất mãn với chế độ tập trung lương thực thừa, trong quân đội cũng xảy ra cuộc phản loạn Kronstadt. Trong tình hình đó, Lênin đã suy nghĩ và mày mò tìm hiểu hàng loạt vấn đề lớn như chủ nghĩa xã hội là gì và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, trên cơ sở tổng kết sâu sắc những bài học kinh nghiệm của việc thực thi "chính sách cộng sản thời chiến", ông đã đưa ra Chính sách kinh tế mới. Chính sách kinh tế mới mà Lênin đưa ra là một lần thực tiễn và tìm tòi cách mạng vĩ đại, cũng là một lần sáng tạo lý luận vĩ đại. Điều này đã phát huy tác dụng quan trọng đối với việc phát triển lực lượng sản xuất, củng cố liên minh công nông, củng cố chuyên chính vô sản, có ý nghĩa tham khảo phổ biến đối với xây dựng chủ nghĩa xã hội ở đất nước lạc hậu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 04:02:39 pm
Lênin cho rằng, tư bản nhà nước là một đầu vào để tiến vào chủ nghĩa xã hội, quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần thông qua "con đường vu hồi" của tư bản nhà nước. Chính sách kinh tế mới về thực chất chính là xuất phát từ việc tiểu nông chiếm ưu thế ở Nga, dưới tiền đề giai cấp vô sản nắm giữ chính quyền nhà nước và nắm giữ công nghiệp lớn, quá độ vu hồi lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm thông qua lợi dụng tư bản nhà nước để thực hiện kiểu quá độ này, mục đích của nó là củng cố liên minh công nông, củng cố chuyên chính vô sản, thúc đẩy xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Lênin chỉ ra, để chuẩn bị tốt cho quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, cần phải trải qua các giai đoạn quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội, thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông nhấn mạnh, thực hiện chính sách kinh tế mới, giai cấp vô sản cần nắm vững chính quyền, không những cần, mà còn nhất định có khả năng phòng ngừa và khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực của chủ nghĩa tư bản, lợi dụng chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nhà nước để thúc đẩy chủ nghĩa xã hội.


Vì vậy, muốn nhận thức rõ thực chất của chính sách kinh tế mới, cần phải nắm bắt tốt mấy điểm sau đây: Thứ nhất, năm 1921, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang bắt đầu từ bỏ "chính sách cộng sản thời chiến", thực hiện thuế hiện vật thay cho chế độ tập trung lương thực thừa, cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, khôi phục mậu dịch tự do, thực hiện chính sách kinh tế mới lấy chế độ tô nhượng, chế độ thuê mướn làm những nội dung chủ yếu. Đây là sự tìm tòi thành công mà Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang xuất phát từ thực tế đặt ra đối với xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga lúc bây giờ, điều này phải nói là có ý nghĩa chỉ đạo phổ biến đối với việc Đảng Cộng sản ở một đất nước lạc hậu xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi giành được chính quyền. Thứ hai, chính sách kinh tế mới là sự lùi bước để tiến công. Lênin chỉ rõ: "Bây giờ chúng ta lùi bước, dường như là lùi về phía sau, nhưng chúng ta làm như vậy là để lùi vài bước trước, sau đó lại bắt đầu chạy, nhảy về phía trước một cách mạnh mẽ hơn"1 (Lênin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1995, q.4, tr.732). Vì thế, thực hiện chính sách kinh tế mới tuyệt đối không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cũng không phải là chủ trương lùi bước không giới hạn. Thứ ba, chính sách kinh tế mới là chính sách lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển chủ nghĩa xã hội, không phải là chính sách lợi dụng chủ nghĩa tư bản để đánh đổ chủ nghĩa xã hội, nó là chính sách giai cấp mà giai cấp vô sản kiên định, chứ tuyệt đối không phải là chính sách thực hiện hòa giải giai cấp, thủ tiêu giai cấp và đấu tranh giai cấp. Lênin chỉ ra, "là một trong những yếu tố của chính sách kinh tế mới, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một kiểu chủ nghĩa tư bản do giai cấp công nhân cho phép và tiến hành hạn chế trong điều kiện chính quyền Xôviết"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.290). Thứ tư, thực hiện chính sách kinh tế mới, cần phải biết làm cho nhà nước mà mình nắm giữ hành động theo ý chí của nhân dân, cũng tức là cần phải nắm chắc phương hướng, chỉ có đi đúng đường mới có thể đi tới bờ bên kia của thắng lợi. Đối sách mà ông đưa ra là: "Lùi bước cần có trật tự, cần quy định chuẩn xác giới hạn của lùi bước, không được hoang mang bối rối, đây là việc chủ yếu nhất"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.88). "Tình hình do chính sách kinh tế mới tạo thành, như sự phát triển của doanh nghiệp thương nghiệp cỡ nhỏ, việc cho thuê doanh nghiệp quốc doanh..., đều có nghĩa là sự phát triển của quan hệ tư bản chủ nghĩa, không thấy được điểm này thì hoàn toàn đã mất đi đầu óc tỉnh táo. Khỏi cần nói cũng hiểu, việc tăng cường quan hệ tư bản chủ nghĩa bản thân nó chính là tăng cường mối nguy hiểm"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.231)... "Điều này đòi hỏi chúng ta tập trung tinh thần, dốc toàn lực, nó cũng đã đặt ra hết sức rõ ràng về tính cần thiết phải học cách vận dụng phương pháp chính xác để khắc phục mối nguy hiểm đó"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.231).


Quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới là quá trình Lênin không ngừng tiến hành tìm tòi và nhận thức lại đối với chủ nghĩa xã hội. Dựa vào thực tiễn mới, ông không ngừng kiểm nghiệm, uốn nắn lý luận đã có, đưa ra một loạt quan điểm lý luận mới, có sự lý giải hoàn toàn mới đối với chủ nghĩa xã hội. Những tìm tòi mới này đã phát triển nhận thức của Mác - Ăngghen đối với đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, hình thành bộ khung chỉnh thể của ý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga của Lênin, từ đó mở ra con đường tự mình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu khác, cung cấp sự tìm tòi đi trước và gợi mở bổ ích. Đặng Tiểu Bình đã có sự khẳng định đầy đủ đối với những tìm tòi xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ Lênin. Ông chỉ ra: "Chủ nghĩa xã hội rốt cuộc là như thế nào, Liên Xô đã xây dựng rất nhiều năm, cũng chưa hoàn toàn làm rõ. Có thể tư duy của Lênin tương đối tốt, đã thực hiện chính sách kinh tế mới"1 (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.3, tr.139). Vì vậy, hoàn toàn có thể nói, chính sách kinh tế mới mà Lênin đưa ra có thể là chính sách mang tính phổ biến mà đông đảo các nước đang phát triển với nền kinh tế tương đối lạc hậu nên áp dụng sau khi đã loại bỏ được sự đe dọa vũ lực trực tiếp của kẻ địch lớn mạnh bên ngoài. Người viết cho rằng, "có thể tư duy của Lênin tương đối tốt, đã thực hiện chính sách kinh tế mới" mà Đặng Tiểu Bình nói chính là xét từ không gian và tầm nhìn rộng lớn hơn này.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 04:03:54 pm
Liên Xô là nhà nước xã hội chủ nghĩa duy nhất trên thế giới lúc bấy giờ. Tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là nguy cơ bị các cường quốc đế quốc xâm lược, đòi hỏi Liên Xô phải nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tập thể hóa nông nghiệp, tăng cường thực lực kinh tế và quốc phòng. Nhưng chính vào lúc này, thứ nhất, sản xuất công, nông nghiệp của Liên Xô tương đối mất cân bằng. Đến cuối năm 1927, tổng giá trị sản phẩm công, nông nghiệp của Liên Xô đã vượt qua mức trước chiến tranh. Trong đó do thúc đẩy công nghiệp hóa đất nước, đến cuối năm 1927, giá trị sản xuất đại công nghiệp quốc hữu tăng 18%, chiếm 86% giá trị sản xuất toàn bộ ngành công nghiệp. Tuy tổng giá trị sản phẩm của toàn ngành nông nghiệp đã vượt trên mức trước chiến tranh, nhưng xét về tổng thể, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng chậm, năm đó chỉ tăng 4,1%1 (Xtalin: Toàn tập, Nxb. Nhân dân, 1955, q.4, tr.260-262). Sản xuất lương thực của các ngành chủ yếu trong nông nghiệp có tổng giá trị sản phẩm trong các năm 1926 - 1927 chỉ bằng 95% của năm 1913. Thứ hai, kinh tế tiểu nông từng nhà từng hộ khiến cho tỷ lệ hàng hóa nông nghiệp rất thấp. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, kinh tế  đại địa chủ Liên Xô bị tiêu diệt, kinh tế phú nông bị thu nhỏ, các hộ trung nông nhỏ và hộ bần nông từ 17 triệu hộ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất tăng nhanh lên đến 24 triệu hộ vào năm 1927. Lương thực do những hộ nông dân này sản xuất từ 2,5 triệu pud2 (Pud: đơn vị đo lường thời Nga hoàng. Một pud tương đương 16,38 kg (ND.)) trước chiến tranh tăng lên tới 4 triệu pud, đời sống có sự cải thiện rõ rệt. Nhưng lương thực hàng hóa mà họ chuyển ra khỏi nông thôn thì lại chỉ có 11,1%. Lương thực hàng hóa mà nông thôn trên toàn quốc cung cấp trước Chiến tranh thế giới thứ nhất chiếm 26% tổng sản lượng lương thực, còn trong những năm 1926 - 1927 chỉ chiếm 13,3%3 ([Liên Xô] B.N.Ponomariov (chủ biên): Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1960, tr.438). Thứ ba, sự phá hoại của phú nông đối với thu mua lương thực. Trong vài năm thực hiện chính sách kinh tế mới thực hiện khôi phục kinh tế phú nông đã lớn mạnh về kinh tế, trong tay tích trữ rất nhiều lương thực thừa, nhưng họ từ chối bán theo giá cố định của nhà nước, từ đó tiến hành "bãi công lương thực", muốn lấy đó để gây ra khủng hoảng kinh tế quốc dân của Liên Xô. Thứ tư, trong quá trình công nghiệp hóa, dân số thành thị và công nhân của Liên Xô tăng lên cũng bức thiết đòi hỏi gia tăng cung ứng lương thực hàng hóa. Tình hình này bức thiết đòi hỏi nền nông nghiệp Liên Xô thực hiện tập thể hóa giải pháp lập tức uốn nắn những hành vi quá nóng và các sai lầm khác trong quá trình tập thể hóa. Báo Sự thật ngày 2 tháng 3 năm 1930 đăng bài viết quan trọng "Thắng lợi làm mê muội đầu óc" do Xtalin viết. Bài viết này vừa khẳng định "Xôviết đã giành được thắng lợi lớn về mặt phong trào nông trang tập thể", lại phê bình hết sức gay gắt cách làm "ngu xuẩn và phản động" từ bỏ "nguyên tắc tự nguyện" và "nguyên tắc các khu vực khác nhau và các loại điều kiện khác nhau" trong quá trình tập thể hóa, dùng các biện pháp "cưỡng ép", thậm chí "đã có người thử dùng biện pháp uy hiếp vũ lực, đe dọa không cung cấp nước dùng cho tưới tiêu và sản phẩm công nghiệp đối với những nông dân tạm thời không muốn tham gia vào nông trang tập thể" để thành lập nông trang tập thể, nhắc nhở "một số đồng chí" không nên "bị thắng lợi làm mê muội đầu óc"1 (Xtalin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1979, quyển hạ, tr.238-241). Sau đó, Xtalin lại phê bình gay gắt các hiện tượng nói trên trong các trường hợp khác nhau, khiến cho một số sai lầm trong tập thể hóa nông nghiệp được phần nào uốn nắn. Cần nói rằng, trong "phong trào nông trang tập thể" quả thực có sai lầm, nhưng đấy là do nhiều nguyên nhân phức tạp gây ra. Là người lãnh đạo đứng đầu Đảng, Xtalin tất nhiên có trách nhiệm, nhưng phủ định toàn bộ những thành tựu của tập thể hóa nông nghiệp của Liên Xô, quy kết những sai lầm xuất hiện trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp Liên Xô vào một mình Xtalin, và nói tất cả các quyết định liên quan của Trung ương trong tập thể hóa nông nghiệp là "mệnh lệnh" của cá nhân Xtalin thì rất không công bằng.


Có người nói, "tập thể hóa toàn diện đã phá hoại cực kỳ mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp Liên Xô". Cách nói này cũng đáng để bàn. Tất nhiên, chúng ta cũng nên thấy được hai điểm. Một là, đây là do tình hình lúc đó bức bách. Điều này đúng như Giáo sư Shubin, Chủ nhiệm phòng nghiên cứu Viện Nghiên cứu lịch sử thế giới, Viện Hàn lâm khoa học Nga, đã nói: "Giai đoạn có tính quyết định của tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của Nga là vào thời kỳ Xtalin cầm quyền những năm 1930. Thể chế Xtalin quả thực có tính tàn khốc, mức độ tàn khốc của nó thậm chí cũng không hề thua kém gì so với giai đoạn tích luỹ nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chỉ có như vậy mới có thể nắm tập trung những nguồn lực cần thiết cho xây dựng nền tảng công nghiệp, và đã đặt cơ sở cho thể chế công nghiệp Liên Xô phát triển hơn nữa"1 (A. Shubin: Cách nói hết sức hoang đường về lịch sử Liên Xô, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2007, tr.348-349). Ở đây, khi nói tới ''tàn khốc", Giáo sư Shubin không phân biệt cụ thể sự khác nhau giữa đối tượng "tàn khốc" khi tích luỹ nguyên thủy tư bản chủ nghĩa và khi tập thể hóa nông nghiệp Liên Xô, không phân biệt cụ thể giữa sự cần thiết và sai lầm trong sự "tàn khốc". Nhưng ông khẳng định đầy đủ tính cần thiết của kiểu "tàn khốc" này. Trong 12 năm từ năm 1925 đến năm 1937, ở một đất nước cơ sở kinh tế lạc hậu, Liên Xô đã nhanh chóng xây dựng một hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, đầy đủ các chuyên ngành, đã đi được một quãng đường cồng nghiệp hóa mà các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến phải mất hơn 100 năm mới đi qua. Trình độ công nghiệp của Liên Xô năm 1937 từ đứng thứ 4 châu Âu, đứng thứ 5 thế giới vào năm 1913 đã vươn lên đứng đầu châu Âu, đứng thứ 2 thế giới. Năm 1941 khi phátxít Đức tần công bất ngờ Liên Xô, sản lượng thép của Liên Xô là 18,3 triệu tấn, bằng 5,5 lần so với năm 1913, xăng là 31 triệu tấn, bằng 4,5 lần so với năm 1913, ngay cả ngũ cốc hàng hóa cũng tăng hơn 17 triệu tấn so với năm 1913. Đến giữa và sau chiến tranh, quân đội Liên Xô không những chiếm ưu thế tuyệt đối về sĩ khí mà cả về số lượng trang bị vũ khí. Hỏa pháo các loại nhiều gấp 3,2 lần so với quân Đức, xe tăng nhiều gấp 2,8 lần, máy bay chiến đấu nhiều gấp 7,8 lần, từ đó đã giành được thắng lợi vĩ đại trong chiến tranh vệ quốc1 (Đàm Tác: Cải cách của Gorbachev và sự hủy diệt của Liên Xô, sđd, tr.609). Hai là, cũng cần thấy được rằng, cho dù trong tiến trình cần phải tăng tốc thực hiện công nghiệp hóa đất nước và trong trạng thái chiến tranh tàn khốc, nông nghiệp của Liên Xô cũng đã giành được những thành tích đáng mừng. Sản lượng ngũ cốc năm 1913 của nước Nga Sa hoàng là 4,8 triệu pud, còn Liên Xô năm 1937 đã tăng lên tới 6,8 triệu pud2 (Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Nxb. Nhân dân, 1975, tr.369). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp của Liên Xô có một thời gian phát triển chậm chạp, sản xuất ngũ cốc đình trệ không tiến lên được, vừa có nguyên nhân của việc Liên Xô thực hiện phương châm phát triển kinh tế coi trọng công nghiệp coi nhẹ nông nghiệp; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, nông nghiệp cung cấp tiền vốn cho công nghiệp và chính sách nông nghiệp như trưng thu cao, chênh, lệch lớn và chế độ kế hoạch nông nghiệp quá tập trung, thắt chặt quá mức, đồng thời cũng có nguyên nhân hết sức quan trọng là nông thôn Liên Xô bị tàn phá nghiêm trọng trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, quân xâm lược đã đốt cháy hơn 70.000 làng mạc, phá hoại và cướp bóc 98.000 nông trang tập thể, 1.876 nông trường quốc doanh cũng như 2.890 trạm máy móc nông nghiệp, giết, cướp đi và đuổi sang nước Đức 7 triệu con ngựa, 17 triệu con bò, vài chục triệu con lợn, cừu, dê và hơn 100 triệu gia cầm. "Trong nông nghiệp cũng thiếu người làm. Năm 1946, số người có khả năng lao động trong nông trang tập thể giảm 29% so với trước chiến tranh". Các loại máy móc nông nghiệp bị phá hoại phần lớn, còn năng lực sản xuất máy kéo thì ở vào trình độ của năm 1930. Tương tự, công nghiệp của Liên Xô cũng bị phá hoại cực kỳ lớn. Năm 1945, sản xuất hàng tiêu dùng chỉ bằng 59% mức của trước chiến tranh. Khó có thể tin được sự khó khăn và phức tạp của nhiệm vụ khôi phục lại nền kinh tế  đã bị chiến tranh tàn phá, trong đó có nông nghiệp1 (Tham khảo Jim (chủ biên): Lịch sử Liên Xô thời kỳ xã hội chủ nghĩa (1917- 1957), Sđd, tr.750-752). Năm 1946, các khu vực sản xuất lương thực chủ yếu của Liên Xô đều bị hạn hán nghiêm trọng nhất trong vòng 50 năm khiến cho nền nông nghiệp Liên Xô đã khó khăn càng thêm khó khăn. Điều này ở bất kỳ nước tư bản chủ nghĩa nào muốn hoàn toàn dựa vào sức mình đơn độc khôi phục và tái thiết công nông nghiệp cũng phải mất vài chục năm, nhưng khi hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 4 vào năm 1950, cũng tức là nói, chỉ mất thời gian khoảng 5 năm, tổng giá trị sản phẩm của toàn bộ ngành công nghiệp của Liên Xô đã tăng 73% so với trước chiến tranh, ngoài một số chỉ tiêu cá biệt, các chỉ tiêu công nghiệp đều đạt và vượt mức trước chiến tranh2 ([Liên Xô ] B.N. Ponomariov (chủ biên): Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.652). Mặc dù chính sách nông nghiệp xuất hiện sự lặp đi lặp lại và quanh co, nhưng trình độ tập thể hóa nông nghiệp, trình độ trang bị kỹ thuật nông nghiệp đều được nâng cao rất nhiều so với trước chiến tranh, điện khí hóa nông nghiệp được tăng cường rõ rệt, tổng sản lượng lương thực năm 1958 là 8,5 triệu pud3 ([Liên Xô ] B.N. Ponomariov (chủ biên): Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.744), không những cao hơn nhiều so với 4,8 triệu pud năm 1913 của nước Nga Sa hoàng, mà còn vượt cả mức 6,8 triệu pud của năm 1937 trước chiến tranh. Vì vậy, đánh đồng một cách giản đơn giữa phong trào tập thể hóa nông nghiệp của Liên Xô với "phá hoại cực kỳ mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp của Liên Xô" cũng là không phù hợp với thực tế và không có sức thuyết phục. Tất nhiên, tập thể hóa nông nghiệp của Liên Xô cũng có những bài học hết sức sâu sắc cần tổng kết, ví dụ, khi thay đổi và hoàn thiện quan hệ sản xuất, quyết không thể coi nhẹ việc lấy trình độ nhất định của lực lượng sản xuất làm điều kiện, coi nhẹ việc tuân theo quy luật kinh tế khách quan; không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đi ngược lại nguyên tắc cải tạo nông dân cần kiên trì tự nguyện của nông dân; không thể coi nhẹ tình hình phát triển của các khu vực khác nhau, hình thức cụ thể của nó cần đa dạng, phong phú, không thể quá đơn nhất...


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Hai, 2022, 04:07:14 pm
Quyết sách trấn áp các phần tử thù địch phá hoại chế độ Liên Xô vào những năm 1930 cũng là quyết định tập thể của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, không thể nói là "mệnh lệnh" của cá nhân Xtalin. Mặc dù có sai lầm nghiêm trọng, nhưng bản thân việc thanh trừ bọn phản động là cần thiết. Molotov, chiến hữu của Lênin và Xtalin, trong bài nói chuyện vào tháng 2 năm 1971 vẫn kiên trì: "Công tác làm trong sạch của Đảng hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ"1 ([Liên Xô] F. Truev: 140 lần nói chuyện với Molotov, Sđd, tr.467, 469-470). "Tôi chịu trách nhiệm về chính sách này... Từng phạm phải sai lầm nghiêm trọng, cũng từng có hành vi quá nóng, thế nhưng, toàn bộ chính sách là đúng đắn. Toàn thể các thành viên Bộ Chính trị, trong đó cũng bao gồm cả tôi, đều có trách nhiệm đối với sai lầm"2 ([Liên Xô] F. Truev: 140 lần nói chuyện với Molotov, Sđd, tr.467, 469-470).


Đối với vấn đề mở rộng việc thanh trừ phản động mà nói, đây là một bi kịch khiến người ta đau lòng. Nhưng bản thân việc thanh trừ bọn phản động là cần thiết. Điều cần cảnh giác là, phương Tây và một số người có dụng tâm khác của Liên Xô cũ luôn muốn phóng đại số lượng những người bị bức hại đến chết trong thời kỳ Xtalin, như 20 triệu, 25 triệu, thậm chí 45 -50 triệu người. Nhưng theo báo cáo gửi cho Khrushchev do Bộ Nội vụ Liên Xô khởi thảo năm 1954, trong thời gian từ năm 1921 - 1941, có hơn 640.000 người bị tuyên án tử hình do tội phản cách mạng1 (Tham khảo Ngô Ân Viễn: Bàn về lịch sử Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2007, tr.120). Theo số liệu mà Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô công bố năm 1990, trong thời gian từ năm 1930 - 1950, có hơn 3,77 triệu người bị tuyên án vì nguyên nhân chính trị, trong đó có hơn 780.000 người bị xử tử2 (Tham khảo Ngô Ân Viễn: Bàn về lịch sử Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2007, tr.121). Theo "Dự án luật sửa sai cho những người bị hại do trấn áp chính trị'' mà về sau Yeltsin ký, trong thời gian cuộc đại thanh trừng, số người bị trấn áp chí ít có tới vài chục vạn người không được sửa sai3 (Tham khảo Ngô Ân Viễn: "Triệu chứng và ý nghĩa của cuộc tranh luận vấn đề 'đại thanh trừng' của Liên Xô", Nghiên cứu lịch sử, số 6 năm 2006, tr.176).


Những người có chút tôn trọng lịch sử đều sẽ thừa nhận những thành tựu to lớn của thời kỳ Xtalin. Đối với những vấn đề xảy ra trong thời kỳ Xtalin cũng cần nhìn nhận một cách lịch sử. Đối với công nghiệp hóa, tập thể hóa của Liên Xô mà nói, nó được khởi động dưới sự bao vây của các đế quốc lớn mạnh, trong điều kiện không có bất kỳ sự viện trợ nào từ bên ngoài. Tài liệu thống kê cho thấy, giá trị sản xuất công nghiệp năm 1937 đã tương đương với 3,2 lần so với năm 1933, tương đương với 6,9 lần so với năm 1913. Thông qua thực hiện hai kế hoạch 5 năm, Liên Xô đã vươn lên trở thành nước công nghiệp hóa lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Chắc chắn rằng, trong quá trình công nghiệp hóa cũng xuất hiện các vấn đề làm tổn hại nghiêm trọng tới lợi ích của họ như bóc lột quá mức nông dân, từng áp dụng chính sách quá nóng đối với phú nông... Những sự trả giá đó đổi lại là những thành tựu to lớn như Liên Xô đã đánh bại phátxít, chính quyền xã hội chủ nghĩa được củng cố. Tất nhiên, tính cấp bách của công nghiệp hóa tốc độ nhanh đã đem lại tính cưỡng chế của một số chính sách lúc đó.


Trên thế giới không có người nào hoàn mỹ không khiếm khuyết, Xtalin cũng như vậy. Xtalin đã từng phạm phải, đặc biệt là thời kỳ cuối, một số sai lầm nghiêm trọng như phương pháp làm việc độc đoán cá nhân, trong chừng mực nhất định đã gây tổn hại tới nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Đảng và trong chế độ nhà nước của Liên Xô, phá hoại pháp chế xã hội chủ nghĩa; trong công tác thanh trừ phần tử phản động, một mặt đã trừng trị nhiều phần tử phản cách mạng cần phải trừng trị, nhưng mặt khác cũng gây oan uổng cho không ít những người cộng sản trung thành và những công dân lương thiện, gây ra tổn thất nghiêm trọng. Chúng ta cũng cần thấy được rằng, sai lầm của Xtalin tuy gây ra tổn thất không đáng có cho Liên Xô, nhưng điều chủ yếu hơn là ông 'đã lãnh đạo Liên Xô thực hiện công nghiệp hóa, đánh bại phátxít Đức, giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc chiến tranh vệ quốc, và đã có cống hiến lớn trong việc giành thắng lợi trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều này không chỉ cho thấy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà cũng cho thấy ông rốt cuộc là một nhà cộng sản kiên định. So sánh giữa sai lầm với thành tích của ông, thì sai lầm chỉ đứng ở vị trí thứ hai. Tóm lại, cần đặt vấn đề của thời kỳ đó vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó để khảo sát. Nhìn nhận và phân tích một cách biện chứng những thành tựu và vấn đề tồn tại của thời kỳ Xtalin và thể chế Xtalin, không thể coi nhẹ việc tồn tại vấn đề, càng không thể phủ định sạch trơn. Vì tồn tại một số vấn đề cụ thể mà phủ định sạch trơn thực tiễn vĩ đại của thời kỳ đó, điều này về khách quan tất sẽ tạo cớ cho các thế lực thù địch chống chủ nghĩa cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội, là việc khiến cho kẻ thù vui, người thân đau khổ.


Những năm gần đây, người viết đã ba lần thăm Nga, từng có vài cuộc nói chuyện sâu sắc với Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga Titarenko. Có một lần, ông từng nói một cách quan tâm với tôi rằng: "Đưa Liên Xô vào nhà xác không phải ai khác, mà là bản thân người Liên Xô chúng tôi. Người Nga chúng tôi coi tai ương của chính mình là sự trả giá đau đón, trở thành Jesus, bước lên đàn tế, tuyên cáo với người đời và lịch sử rằng, "dân chủ hóa", "tư hữu hóa" của Liên Xô hoàn toàn là tuyệt lộ, con đường chết. Một số nước lớn phương Tây chắc chắn vẫn chưa yên tâm, các dân tộc quốc gia khác tuyệt đối không nên đi theo vết xe đổ của chúng tôi. Tôi là đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, nay vẫn còn giữ thẻ đảng. Nhưng khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, tôi cũng có thái độ chào đón. Những tai ương to lớn gây ra cho đất nước, dân tộc hơn mười năm qua khiến tôi thường có cảm giác áy náy, nợ nần, chịu tội đối với đất nước và dân tộc chúng tôi".


Năm 2002, khi người viết thăm Nga và trao đối với nhân vật thuộc các giới của Nga, đã đưa ra một chủ đề thế này: "Lấy cống hiến cho quốc gia hoặc dân tộc làm tiêu chuẩn căn bản, nếu như thang điểm tối đa là 10, thì bạn lần lượt cho Lênin, Xtalin, Khrushchev, Gorbachev, Yeltsin và Putin bao nhiêu điểm?" Người viết hỏi tổng cộng 29 nhân vật, trong đó có thị trưởng, hiệu trưởng đại học, bác sĩ, công nhân điện và kế toán nhà máy, bảo vệ khách sạn..., qua kết quả thăm dò thì thấy, tuyệt đại bộ phận có đánh giá cực kỳ cao đối với Lênin và Xtalin, còn đánh giá tương đối thấp, thậm chí cực kỳ thấp đối với Gorbachev, Yeltsin, có người còn nói "cần xử cực hình".


Tháng 12 năm 2009, khi các giới của Nga kỷ niệm 130 năm ngày sinh Xtalin, tuần san Times của Mỹ đưa tin "Tỷ lệ ủng hộ cao Xtalin sống lại ở Nga". Điều tra của Trung tâm nghiên cứu dư luận công cộng Nga cho thấy, 54% số người Nga đánh giá cao tố chất lãnh tụ của Xtalin, còn tỷ lệ số người cho rằng những đánh giá của mình đối với Xtalin trước đây là "sai lầm" thì lên tới 35%1 ("Tại sao người Nga hoài niệm Xtalin", Nhân vật cuối tuần Phương Nam, ngày 1 tháng 3 năm 2010, http://xian.qq.eom/a/20100228/000053.htm).


Trước khi qua đời không lâu, Xtalin từng nói: "Tôi biết, sau khi tôi chết, sẽ có người chất một đống rác to lên mộ tôi. Nhưng ngọn gió của lịch sử nhất định sẽ cuốn những thứ rác rưởi đó đi một cách không thương tiếc"1 ([Liên Xô] F. Truev: Molotov - nhà cầm quyền nắm một nửa quyền lực, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2000, tr.396). Liệu có thể nói thế này không, hiện naỵ, làn gió lịch sử này đã bắt đầu dấy lên, một vài năm sau tất sẽ thổi mạnh hơn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 03:56:44 pm
IV. CẦN PHẢI DÙNG QUAN ĐlỂM, LẬP TRƯỜNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ DUY VẬT LỊCH SỬ ĐỂ PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC CỦA SỰ BIẾN LIÊN XÔ

Lịch sử là gì? Lịch sử do thời gian và không gian cấu thành, là sự tồn tại của thời gian và không gian thời quá khứ so với hiện tại. Xét về nghĩa khắt khe, sách vở hoặc sách gọi là "lịch sử" mà chúng ta đọc chỉ là ký ức, ghi chép hoặc nhận thức của nhân vật nhất định trong lịch sử. Những ký ức, ghi chép hoặc nhận thức đó có phải là bộ mặt vô vi có của lịch sử hay không, cái vạch ra có phải là bản chất và quy luật của lịch sử hay không, cần phải phân tích và phân biệt một cách tỉ mỉ. Ngay vào những năm 80 của thế kỷ XIX, Ăngghen đã chỉ ra: "Giai cấp tư sản biến tất cả thành hàng hóa, đối với môn lịch sử cũng vậy. Bản tính của giai cấp tư sản, điều kiện sinh tồn của nó chính là muốn ngụy tạo mọi hàng hóa, do đó cũng muốn ngụy tạo lịch sử. Tác phẩm lịch sử ngụy tạo phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản, thì thù lao nhận được cũng nhiều nhất"2 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.16, tr.573). Tháng 10 năm 1889, Ăngghen lại chỉ ra trong một bức thư: "Cần biết rằng về mặt lý luận còn có rất nhiều việc phải làm... Chỉ có phân tích, lý luận rõ ràng mới có thể chỉ rõ con đường đúng đắn trong thực tế đan xen phức tạp"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.283). Vì vậy, muốn có được nhận thức bản chất đối với các hiện tượng mông lung, thì cần phải vận dụng quan điểm, lập trường và phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tiến hành phân tích cụ thể.


Một là, nhất định cần phải đứng trên lập trường lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân để nghiên cứu. Xét về bản chất, do tình hình cuộc sống và điều kiện sống của mỗi một người trong các mặt của xã hội khác nhau, họ sẽ có những kết luận khác nhau đối với cùng một sự kiện lịch sử lớn. Trong xã hội tồn tại các nhóm người có lợi ích căn bản hoàn toàn khác nhau, đối với vấn đề xã hội mang tính cơ bản nhất, dễ thấy nhất, họ thường có cách nhìn hoàn toàn khác nhau. Những sự kiện mà đông đảo quần chúng nhân dân hoàn toàn coi là nổi dậy và biến động lớn cũng sẽ bị một số người khác gọi là "cách mạng" hoặc "giành tự do". Lênin từng trích dẫn một câu cách ngôn thế này: "Bất kỳ công lý nào nếu như đụng chạm đến lợi ích của mọi người, thì cũng nhất định sẽ bị phản bác"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.1). Vì vậy, trước khi loài người thực hiện đại đồng, do nhận thức của mọi người khác nhau, đặc biệt là lợi ích căn bản mà họ đại diện khác nhau, kết luận đối với nguyên nhân và bài học việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể sẽ luôn có sự trình bày khác nhau, thậm chí tranh luận gay gắt và sẽ không hoàn toàn thống nhất. Thế nhưng, liệu có phải là không có kết luận thống nhất hoàn toàn, thì sẽ không tồn tại một kết luận chính xác, lý trí? Không, kiểu thuyết tương đối và chủ nghĩa chiết trung cái này cũng đúng, cái kia cũng phải đó không thể đứng vững trong dòng chảy dài của lịch sử. Toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân là tính chất và tôn chỉ của tất cả các đảng cộng sản chân chính trên thế giới, cũng là giá trị quan mãi mãi không thay đổi của tất cả những người cộng sản chân chính trên thế giới, bao gồm cả học giả và đảng viên. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể đứng trên lập trường lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân để nghiên cứu nguyên nhân và bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thế, chứ không thể đứng trên các lập trường khác, nhất là lập trường đối lập với đông đảo nhất quần chúng nhân dân, để nghiên cứu. Nếu như đứng trên các lập trường khác, đặc biệt là lập trường đối lập với lập trường của đông đảo nhất quần chúng nhân dân để nghiên cứu, thì sẽ không thể có được một kết luận thống nhất với lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Đối với các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân căn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể, về bản chất đều phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp lập trường nghiên cứu khác nhau của các nhà nghiên cứu khác nhau.


Hai là, nhất định cần phải dùng thực tiễn xã hội làm tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý để nhận định. Chúng ta thường nói thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý, phía sau của thực tiễn nói ở đây đã lược bỏ bớt hai chữ "xã hội". Điều này cũng tức là nói, thực tiễn mà chúng ta nói tuyệt đối không phải là thực tiễn trong một thời gian ngắn của cá biệt người, cá biệt tập đoàn chính trị hay tập đoàn xã hội. Thực tiễn nói ở đây, chủ thể của nó là chỉ hàng trăm triệu người, thời gian của nó là chỉ độ vượt thời gian nhất định. Đây là giá trị quan mãi mãi không thay đổi của những người cộng sản. Có người luôn nói rằng, nguyên nhân căn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể là do thể chế của Liên Xô. Chúng ta hãy xem những sự thực trong thực tiễn, thì sẽ không khó để có được kết luận chính xác. Mọi người đều biết, thể chế kinh tế kế hoạch của Liên Xô bắt đầu vào thời kỳ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, trong quãng thời gian khoảng 50 năm kể từ đó đến năm 1975, tốc độ phát triển kinh tế của Liên Xô là rất nhanh. Bất kể chúng ta dùng số liệu thống kê chính thức của Liên Xô, hay là số liệu của phương Tây, đều có thể chứng minh được tốc độ phát triển kinh tế Liên Xô thời kỳ này vượt trên tất cả các nước tư bản chủ nghĩa trừ Nhật Bản. Mà tiền đề của phát triển kinh tế Liên Xô là "thực hiện công bằng xã hội lớn nhất". Về điểm này, các nước tư bản chủ nghĩa càng không làm được. Do đã thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa, đã xây dựng thể chế kinh tế  xã hội chủ nghĩa ngay từ trước và sau năm 1940, nên Liên Xô đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu biến thành một nước công nghiệp hóa tiên tiến. Theo một thống kê của phương Tây, tỷ lệ nhập khẩu máy cái công nghiệp của Liên Xô những năm 1930 lên tới 85% - 90%. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, toàn bộ những sản phẩm này đều do Liên Xô tự sản xuất. Điều này đã phản ánh sự tiến bộ của công nghiệp và kỹ thuật của Liên Xô. Tất nhiên, điều này cũng không có nghĩa là nói, thể chế kinh tế  kế hoạch mà Liên Xô xây dựng không tồn tại khuyết điểm và vấn đề. Thực tiễn đang tiếp diễn, nhận thức cũng đang tiếp diễn, lại trải qua thực tiễn của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới trong nhiều năm, nên chúng ta có đủ tự tin hơn, sẽ nhìn càng rõ hơn nguyên nhân và bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể.


Từ 9 giờ sáng đến hơn 2 giờ chiều 20 tháng 9 năm 2003, tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Mátxcơva, người viết đã có cuộc nói chuyện với nhà sử học người Nga Medvedev, kéo dài chẵn 5 tiếng đồng hồ. Ông ta nói: "Ngày 11 tháng 9 năm 2001 tròn 30 năm ngày Khrushchev qua đời. Để tìm hiểu tình cảm và đánh giá của mọi người đối với Khrushchev, ngay từ sáng sớm, tôi đã vội tới mộ của Khrushchev ở nghĩa trang Novodevichy. Tôi thấy từ sáng đến tối, tổng cộng có 46 người đến viếng, nhưng toàn là họ hàng của Khrushchev, không có một người ngoài nào khác. Điều này có thể phản ánh sự đánh giá của người dân Nga hiện nay đối với Khrushchev. Còn Lênin, Xtalin, Brezhnev và Andropov đều có người tưởng nhớ họ". Người viết nghĩ, nhân dân là công bằng, thực tiễn xã hội là công bằng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 03:58:00 pm
Ba là, nhất định cần nhìn nhận bản chất qua hiện tượng. Chủ nghĩa Mác cho rằng, hiện tượng là biểu hiện bên ngoài của bản chất, bản chất là mối liên hệ bên trong của hiện tượng. Có lúc, hiện tượng phản ánh hoàn toàn bản chất; có lúc, hiện tượng phản ánh một phần bản chất; có lúc, hiện tượng che giấu hoàn toàn bản chất. Vì vậy, chúng ta cần nhận rõ tính chất của sự vật, chỉ dựa vào trực giác và nhận thức cảm tính thì không ổn, cần phải thông qua hiện tượng, nâng lên thành tư duy lý trí, như thế mới có thể nắm được bản chất và quy luật của sự vật. Khi trình bày đấu tranh giai cấp ở Pháp năm 1848 - 1850, Mác nói: "mỗi một chương tiết tương đối quan trọng trong biên niên sử cách mạng 1848 - 1850, đều chụp một tiêu đề: Cách mạng thất bại! Những cái diệt vong trong những thất bại này không phải là cách mạng, mà là tàn dư truyền thống trước cách mạng"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.376). Tương tự, chúng ta có thể rút ra một kết luận thế này: Cái thất bại trong sự biến Liên Xô - Đông Âu trước và sau năm 1991 không phải là chủ nghĩa Mác, mà là một thứ chủ nghĩa giáo điều khác một mực theo phương Tây bắt đầu từ Khrushchev dần dần xa rời, đi ngược lại, cho đến Gorbachev cuối cùng đã phản bội chủ nghĩa Mác; cái thất bại không phải là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa xã hội "mô hình Xtalin", mà là chủ nghĩa tư bản với hình thức khác bắt đầu từ Khrushchev dần dần xa rời, đi ngược lại cho đến Gorbachev cuối cùng phản bội lại chủ nghĩa xã hội; cái thất bại không phải là đội tiên phong của giai cấp vô sản chân chính và theo nghĩa vốn có - Đảng Cộng sản Liên Xô, mà là chính đảng của giai cấp tư sản bắt đầu từ Khrushchev dần dần xa rời, đi ngược lại cho đến Gorbachev cuối cùng phản bội lại chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội và quần chúng nhân dân, về bản chất đã hoàn toàn thoái hóa, biến chất. Đối với Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Xtalin mà nói, sai lầm về lý luận của nó chủ yếu là cứng nhắc, giáo điều. Nhưng đối với Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ bắt đầu từ Khrushchev cho đến Gorbachev, xét về hình thức và biểu hiện bên ngoài, tuy cũng có không ít thứ cứng nhắc và giáo điều, nhưng bản chất của nó đã bắt đầu dần dần biến chất cho đến cuối cùng hoàn toàn thay đổi.


Tất nhiên, Gorbachev cũng từng rêu rao mình là người theo chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có thể nhìn lại lịch sử, trong thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản, các nước trên thế giới có hàng chục nhóm và phe phái đều tự xưng là "chủ nghĩa xã hội", thế nhưng chỉ trong vòng 10, 20 năm ngắn ngủi, thậm chí trong thời gian ngắn hơn, lịch sử đã nhanh chóng vạch rõ nguyên hình của chúng. Việc vạch rõ nguyên hình của Gorbachev thì chỉ trong thời gian ngắn hơn, 3-5 năm. Nhận định bản chất của bất kỳ người nào, bất kỳ chính đảng nào, không phải là xem bộ quần áo đẹp đẽ mà bản thân anh ta mặc, không phải là xem bản thân anh ta đặt cho mình cái tên đẹp, mà là xem hành vi của anh ta ra sao, xem về bản chất cái mà anh ta tuyên truyền là gì. Chủ nghĩa Mác cứng nhắc, giáo điều không phải là chủ nghĩa Mác. Vì vậy có thể nói, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể không phải là sự thất bại của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa xã hội thời kỳ Xtalin vẫn là tính chất xã hội chủ nghĩa, vì vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể không phải là sự thất bại của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó có cả chủ nghĩa xã hội thời kỳ Xtalin. Từ sau khi tập đoàn lãnh đạo Khrushchev lên nắm quyền, nguyên nhân và kết quả, trước hết biểu hiện thành tính độc lập, tính bài xích của chúng. Ví dụ, trong đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Liên Xô có vấn đề, do nguyên nhân này dẫn đến kinh tế của Liên Xô không phát triển tốt, mâu thuẫn xung đột dân tộc, tranh bá với Mỹ..., chứ quyết không thể đảo lộn quả thành nhân hay nhân thành quả, cho rằng do kinh tế không phát triển tốt nên trong Đảng có vấn đề. Tiếp đến, nguyên nhân và kết quả lại biểu hiện thành tính thống nhất của chúng. Chúng tồn tại với nhau, và trong điều kiện nhất định chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ, sự vật đã có đủ nguyên nhân và điều kiện tiền đề nhất định, thì tất yếu nảy sinh kết quả nhất định. Sự biến "cơn bão'' mà Liên Xô thu được trước và sau năm 1991 chính là kết quả của làn gió phủ định sạch trơn Xtalin do Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô gieo rắc và không ngừng phát triển. Sự xuất hiện của tầng lớp đặc quyền trong Đảng của Liên Xô vừa là kết quả của việc tập đoàn Khrushchev bắt đầu xa rời, phản bội lại chủ nghĩa Mác, quần chúng nhân dân tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, vừa xuất phát từ nguyên nhân của việc quần chúng nhân dân mất lòng tin hơn nữa đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng như nguyên nhân của việc cuối cùng đã hình thành một loạt đường lối và chính sách sai lầm về tư tưởng, về chính trị.


Sáu là, nhất định cần phải nâng nhận thức đối với sự vật cuối cùng lên thành lý luận, thành nhận thức đối với tính quy luật của sự vật. Sự thực lớn về sự biến Liên Xô - Đông Âu buộc chúng ta phải có một đợt nghiên cứu mới đối với lịch sử của nó. Điều này đòi hỏi phải làm nhiều công tác về mặt lý luận. Bởi vì chỉ có phân tích lý luận rõ ràng mới có thể tìm được câu trả lời chính xác trong mớ sự thực rối rắm, phức tạp. Tổng kết bài học của việc Liên Xô giải thể, xét về ý nghĩa nhất định, có thể thấy được một cái mạch rõ ràng thế này: Nguyên nhân chủ yếu của việc Liên Xô giải thể là từ bên trong Đảng Cộng sản Liên Xô, trong các vấn đề tồn tại trong Đảng, vấn đề về lý luận là khởi nguồn. Một nguyên nhân hết sức quan trọng của việc xuất hiện vấn đề về lý luận là ở trình độ lý luận của lãnh đạo chủ chốt của Đảng, trình độ lý luận thấp thì tất yếu dẫn đến sự dao động của người đó đối với niềm tin lý tưởng cộng sản. Nhìn lại lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Lênin là nhà mácxít kiên định, tỉnh táo và vĩ đại; lý luận của Đảng thời kỳ Xtalin từng có vấn đề, nhưng vấn đề xảy ra vẫn là sai lầm mà nhà mácxít vĩ đại phạm phải. Đến thời kỳ Khrushchev, lý luận của Đảng bắt đầu có sự thay đổi về chất; từ Khrushchev đến Brezhnev rồi đến Gorbachev, từng bước hoàn thành việc xa rời, đi ngược lại, phản bội lại chủ nghĩa Mác về lý luận, vì vậy cuối cùng dẫn đến Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 03:58:51 pm
Một số năm trước, khi trao đối với nhà kinh tế học người Mỹ Lester Thurow, người viết có hỏi ông ta về nguyên nhân của Liên Xô giải thể. Ông ta nói: "Trước và sau khi Liên Xô giải thể, tôi đang ở Mátxcơva. Nguyên nhân căn bản của việc Liên Xô giải thể là Gorbachev đã mất đi niềm tin đối với chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản". Người viết không hiểu. Ông ta lại giải thích: "Thử nghĩ, Giáo hoàng Paul Đệ nhị hôm nay tuyên bố không có Thượng đế, thì thế giới Cơ đốc giáo ngày mai sẽ như thế nào?!". Phải nói rằng, ông ta rất có lý.


Nói khởi nguồn của diễn biến Liên Xô là từ lý luận trong nội bộ đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô, vậy thì, liệu có thể nói thế này không: Nguyên nhân cuối cùng của mọi biến động lịch sử nên chăng phải tìm kiếm trong tư tưởng luôn biến động của mọi người? Không phải. Chủ nghĩa Mác chỉ rõ cho chúng ta rằng: Cần luôn luôn đứng trên nền tảng của lịch sử hiện thực, không phải là xuất phát từ quan niệm để giải thích thực tiễn, mà là xuất phát từ thực tiễn vật chất để giải thích các quan niệm. Ở đây có ba điểm hết sức đáng chú ý. Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội Liên Xô không phải là vô cớ sinh ra, nó được ấp ủ, đột biến trên cơ sở nước Nga cũ. Nước Nga cũ di truyền cho nước Nga Xôviết lực lượng sản xuất, tiền vốn và môi trường xã hội nhất định, từ đó quy định sự phát triển nhất định của nó và có tính chất đặc thù của nó. Ví dụ, nền sản xuất hàng hóa, trao đổi tiền tệ không thể bỏ qua, cũng như tiền lương cao cần phải trả để mua lấy sở trường của một số người... Thứ hai, tác động và ảnh hưởng của phương thức sản xuất, hệ thống sản xuất lớn mạnh của phương Tây đứng đầu là Mỹ. Trong những năm tháng chiến tranh, mọi người dựa vào niềm tin kiên định, kiên trì sự phấn đấu ngoan cường. Trong thời kỳ hòa bình, trong quá trình giao lưu chủ động và bị động với thế giới phương Tây đứng đầu là Mỹ, mặc dù về sức mạnh tổng hợp quốc gia, Liên Xô có thể sánh ngang với Mỹ, nhưng do chế độ sở hữu, phương thức phân phối cũng như lối sống khác nhau, khiến cho một bộ phận của cái gọi là giới tinh anh xã hội Liên Xô nảy sinh tình cảm "mến mộ" sâu sắc đối với việc một số ít người trong thế giới phương Tây chiếm hữu tuyệt đại bộ phận của cải. Thứ ba, tác động của của cải vật chất, tức tiền bạc, lớn mạnh nằm trong tay của phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Mác nói: "Mũi dao nhọn đâm phải vấn đề 'kinh tế' sắc bén sẽ trở nên mềm như bấc đèn"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.5, tr.543). Ăngghen đưa ra nhận định rõ ràng thế này: "Toàn bộ sức mạnh của giai cấp tư sản được quyết định bởi tiền bạc"2 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.2, tr.647). Ngay từ tháng 12 năm 1918, trong "Bài phát biểu tại Đại hội đại biểu lần thứ 3 Hợp tác xã công nhân", Lênin chỉ ra, cơn sốt Wilson của Mỹ "đôla rất nhiều, có thể mua được toàn bộ nước Nga, toàn bộ Ấn Độ, thậm chí toàn bộ thế giới"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.35, tr.346). Lênin còn chỉ ra, "mua về" chính là mấu chốt của toàn bộ vấn đề.


Năm 1920, Lênin lại chỉ ra: "Chủ nghĩa tư bản hiện nay đã phân chia thành một số cực ít nước đặc biệt giàu mạnh (dân số của chúng không đến 1/10 dân số thế giới, cho dù tính toán 'rộng tay' nhất và phóng đại nhất, cũng chưa tới 1/5), họ chuyên dựa vào 'cắt séc' để cướp đoạt toàn bộ thế giới"; "kiểu lợi nhuận siêu ngạch số lượng lớn này (bởi vì nó có được ngoài lợi nhuận mà nhà tư bản "vắt" được từ người công nhân đất nước 'mình') có thể dùng để mua lãnh tụ công nhân và tầng lớp trên của quý tộc công nhân"; "Tầng lớp công nhân đã tư sản hóa này tức là tầng lớp 'công nhân quý tộc'... "giờ đây chính là trụ cột xã hội chủ yếu của giai cấp tư sản (không phải là trụ cột quân sự)'', "bởi vì giai cấp tư sản này là người đại diện chân chính trong phong trào công nhân". "Nếu như không hiểu được cội nguồn kinh tế của hiện tượng này, nếu như không nhận thức đầy đủ ý nghĩa chính trị và ý nghĩa xã hội của hiện tượng này, vậy thì sẽ không thể tiến được một bước nào trong việc giải quyết nhiệm vụ thực tiễn của phong trào cộng sản và cách mạng xã hội sắp tới"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.581-582). Những trình bày này của Mác - Ăngghen và Lênin khiến người ta phải suy nghĩ sâu sắc. Các cường quốc phương Tây không những dùng đôla để mua lấy tầng lớp trên là lãnh tụ công nhân và quý tộc công nhân của nước mình, hơn nữa lại càng chú trọng tới việc mua lấy những '"nhân vật mấu chốt" của các quốc gia khác. Phương thức mua cũng nhiều kiểu nhiều loại. Theo trợ lý của Gorbachev nhớ lại nói, Gorbachev lên nắm quyền không lâu, thì nhận được nhiều tiền thưởng, tặng thưởng, nhuận bút từ phương Tây, trong tài khoản cá nhân của ông ta rất nhanh đã có hơn một triệu đôla Mỹ2 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Nxb. Biên dịch Trung ương, 1996, tr.4). Ngày 20 tháng 9 năm 2003, khi người viết nói chuyện với nhà sử học, nhà chính luận Medvedev tại Mátxcơva, ông ta nói: "Chắc chắn rằng, cá nhân Gorbachev và Yeltsin đã cầm không ít tiền của phương Tây. Một cuốn sách dày của tôi xuất bản ở Anh được 2.000 bảng Anh tiền nhuận bút; xuất bản ở Mỹ, được 10.000 đôla Mỹ. Theo như tôi biết, một cuốn sách nhỏ rất mỏng của vợ Gorbachev là Raisa, xuất bản ở Mỹ, nhưng lại được 3 triệu đôla tiền nhuận bút. Cuốn sách đầu tiên của Yeltsin xuất bản ở Cộng hòa liên bang Đức thì được 400.000 mác Đức; xuất bản ở Anh, được 100.000 bảng Anh". Chúng tôi hoàn toàn có thể nói thế này, đồng đôla Mỹ đã đóng vai trò tương đối quan trọng trong hối lộ tầng lớp đặc quyền Liên Xô trong việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể; sự cổ xuý và mua chuộc của phương Tây là một trong những động lực ban đầu để Gorbachev và Yeltsin hoàn toàn phản bội lại sự nghiệp xã hội chủ nghĩa Liên Xô; "những người như Gorbachev và Yeltsin" xuất hiện trong Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng là kết quả của việc toàn bộ thế giới phương Tây đứng đầu là Mỹ mua chuộc. Lênin chỉ ra: "Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế, xã hội nhất định"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.11).


Xét từ ý nghĩa này, "những người như Gorbachev và Yeltsin" dựa vào phương thức bán rẻ lợi ích căn bản của đất nước, dân tộc và nhân dân, và chiếm hữu không chính đáng lao động của đất nước, dân tộc và nhân dân. Ba điểm nói trên có thể nói là nguồn gốc kinh tế của việc nảy sinh ý thức hệ giai cấp tư sản xã hội xã hội chủ nghĩa Liên Xô, nhất là bên trong Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền. Qua phân tích lý luận, chúng ta có thể thấy rõ rằng, một bộ sử Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể, cũng là một bộ sử đấu tranh giai cấp, hơn nữa là một bộ sử đấu tranh giai cấp dưới hình thức đặc thù.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 03:59:52 pm
V. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHÚNG TA CẦN TIẾP THU TỪ SỰ KIỆN LIÊN XÔ GIẢI THỂ, ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ SỤP ĐỔ

Liên Xô giải thể, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ là sự kiện nổi bật nhất trong phong trào cộng sản quốc tế thế kỷ XX. Tổng kết và phân tích lớn nhất này, chúng ta tối thiểu cần rút ra những bài học kinh nghiệm dưới đây.

Thứ nhất, cần phải kiên trì coi trọng cao độ công tác lý luận tư tưởng của Đảng, chống lại một cách chính xác và kịp thời các loại chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm. Lý luận hết sức quan trọng. Lý luận đúng đắn thì Đảng sẽ kiên cường, chính sách sẽ đúng đắn, tư tưởng sẽ thống nhất, kinh tế sẽ phát triển, xã hội sẽ ổn định. Nếu ngược lại thì Đảng sẽ tan tác, chính sách sẽ sai lầm, tư tưởng sẽ hỗn loạn, kinh tế sẽ đình trệ thậm chí thụt lùi, xã hội sẽ chao đảo. Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Xét từ một góc độ khác, lý luận sai lầm tất yếu nảy sinh hành động sai lầm. Lý luận đúng đắn là sự dẫn đường của cách mạng, lý luận sai lầm là sự dẫn đường của sụp đổ diệt vong. Sự thể hiện căn bản của việc coi trọng lý luận chính là ở chỗ dám biết kết hợp giữa nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tế nước mình và sự phát triển của thời đại, luôn luôn nắm bắt phương hướng đúng đắn trong tình hình không ngừng xuất hiện tình thế mới, tình hình mới, vấn đề mới. Điều này cần phải chống lại một cách kịp thời, chính xác các loại chủ nghĩa giáo điều. Chỉ học thuộc những câu chữ liên quan của chủ nghĩa Mác, bất kể tình hình và điều kiện cụ thể thay đổi thế nào vẫn cứ bê nguyên xi, chúng ta có thể gọi đó là "giáo điều Đông"; lấy cớ tình hình và điều kiện thay đổi, phủ định và vứt bỏ nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, nhưng lại coi các loại lý luận của phương Tây là sáng suốt như thần, tiến hành "tư duy" và "sáng tạo" theo lý luận của phương Tây, chúng ta có thể gọi đó là "giáo điều Tây"; cho rằng lý luận chủ nghĩa Mác và lý luận phương Tây đều không phù hợp với thực tế của Trung Quốc, chủ trương tìm lối thoát từ văn hóa truyền thống như đạo Nho của Trung Quốc và lấy đó làm chỉ đạo, chúng ta có thể gọi đó là "giáo điều cổ". Bất luận là "giáo điều Đông", "giáo điều Tây" hay "giáo điều cổ", đều là những thứ mà chúng ta kiên quyết phản đối. Trong bất cứ lúc nào, bất cứ tình hình nào, chúng ta đều cần phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm, đều quyết không thể coi nhẹ lý luận. Nếu như cho rằng lý luận đúng đắn là những thứ trống rỗng, không có tác dụng thực tế chỉ có những kinh nghiệm thực tế mà mình tích luỹ được mới đáng tin cậy, thì sớm hoặc muộn tất yếu sẽ phải nếm trái đắng của việc coi nhẹ lý luận. Ba loại chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm nói trên, trong các thời điểm khác nhau, tình hình khác nhau sẽ có các loại biểu hiện khác nhau, nhưng trong thời điểm nhất định, tình hình nhất định, thường sẽ lấy khuynh hướng sai lầm làm chính. Chúng ta cần căn cứ vào sự thay đổi không ngừng của tình hình, kịp thời điều chỉnh các chính sách liên quan. Nếu không, trong quá trình chống các loại chủ nghĩa giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm, chúng ta sẽ bị rơi vào cái ổ của một loại chủ nghĩa giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm khác.


Thứ hai, cần phải kiên trì, luôn luôn đặt quyền lãnh đạo tối cao vào tay những người trung thành với chủ nghĩa Mác, chính đảng của giai cấp vô sản, quốc gia và dân tộc, và luôn luôn coi trọng cao độ việc bồi dưỡng từng lớp, từng lớp người kế cận sự nghiệp cách mạng vô sản với cơ cấu độ tuổi hợp lý. Xét từ chủ nghĩa duy vật lịch sử, bất kỳ sự kiện lớn nào và hậu quả của nó đều không phải là ý chí của bất kỳ một cá nhân nào có thể chuyển dịch được. Điều này là vì, nguyên nhân cuối cùng của diễn tiến lịch sử loài người là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, và môi trường lịch sử mà lực lượng sản xuất của các nước khác nhau dựa vào để tiến hành cũng có tác động đối với nó, từ đó khiến cho phát triển lịch sử của các nước khác nhau có các đặc điểm khác nhau. Ngoài ra, mỗi một thời đại xã hội nhất định đều cần có nhân vật tiêu biểu nhất định của mình, nếu như không có những nhân vật đó, nó cũng sẽ tạo ra những nhân vật như vậy. Lênin và Xtalin là những đại diện nổi bật của lợi ích căn bản của giai cấp vô sản và đông đảo quần chúng nhân dân, còn nhân vật nhất định như Gorbachev xuất hiện ở Liên Xô vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, xét từ ý nghĩa nhất định, đây thuần túy là một hiện tượng ngẫu nhiên. Thế nhưng, tất yếu thường ngẫu nhiên vạch ra lối đi. Điều này là vì, "chủ nghĩa cơ hội không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, không phải là tội ác, sai lầm và phản bội của nhân vật cá biệt, mà là sản phẩm xã hội của cả thời đại lịch sử"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.26, tr.264-265). Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô và điều kiện xã hội sau đó đã quyết định lúc này không xuất hiện một Gorbachev, thì cũng tất yếu sẽ xuất hiện những người thay thế khác. Lịch sử đã sớm chứng minh rằng, cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại sẽ tạo ra nhân vật vĩ đại; còn lội ngược dòng lịch sử, thì sẽ đưa ra những nhân vật phản nghịch. Những người như Gorbachev và Yeltsin là những đại diện của lực lượng xã hội trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội mấy chục năm hòng cuối cùng xác lập chế độ tư hữu tư liệu sản xuất ở Liên Xô, là đại diện của giai cấp tư sản lũng đoạn phương Tây đứng đầu là Mỹ trong lực lượng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Động cơ mà những người như Gorbachev và Yeltsin cuối cùng muốn tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô tuyệt đối không phải là ước muốn cá nhân vụn vặt của họ, mà là do trào lưu lịch sử mà họ ở trong đó quyết định. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đường đi quanh co, nhưng tiền đồ sáng sủa. Nhưng quanh co sẽ không tự mất đi, sáng sủa sẽ không tự động đến. Hai đội quân đối mặt nhau, tướng ngồi trấn, xét về ý nghĩa nhất định, cuộc đọ sức giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là cuộc đọ sức giữa những lãnh tụ đại diện của lực lượng chính trị mỗi bên. Giai cấp tư sản hết sức coi trọng đào tạo và tuyển chọn những nhân vật đại diện của mình, giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân chúng ta càng cần phải chú trọng đào tạo và tuyển chọn những nhân vật đại diện, nhất là nhân vật lãnh tụ cho sự nghiệp của mình. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể thúc đẩy lịch sử không ngừng tiến lên trong sự quanh co, vượt qua nhiều cuộc đấu tranh khó khăn gian khổ, cuối cùng chôn vùi lối sống đi ngược lại trào lưu lịch sử.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:01:39 pm
Cuối tháng 4 năm 2010, người viết lại một lần nữa dẫn đầu đoàn đại biểu thăm Nga và tiến hành tọa đàm với đại biểu Đảng Cộng sản Nga tại Đuma quốc gia Nga. Tham gia tọa đàm có Lukyanov, nguyên ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô, hiện là Chủ tịch ủy ban cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Nga. Khi nói tới trách nhiệm của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân tố phương Tây trong quá trình Liên Xô giải thể, ông ta trích dẫn từng câu, từng chữ trong bài diễn giảng công khai mà nguyên Thủ tướng Anh Thatcher phát biểu với một loạt các chuyên gia luyện dầu và hóa dầu Liên Xô tại Houston khi đang ở thăm Houston. Thatcher lúc đó mới thôi giữ chức được hơn một năm, bà ta từng học chuyên ngành hóa ở trường đại học. Thatcher nói: "Liên Xô là một quốc gia tạo nên sự uy hiếp nghiêm trọng đối với phương Tây. Tôi nói ở đây không phải là uy hiếp quân sự. Xét về bản chất, uy hiếp về mặt quân sự không tồn tại. Các quốc gia chúng ta đây có trang thiết bị tinh vi, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Cái tôi nói đến là uy hiếp về mặt kinh tế. Nhờ vào chính sách kế hoạch, cộng thêm kết hợp giữa các biện pháp kích thích về tinh thần và vật chất độc đáo, chỉ tiêu phát triển kinh tế của Liên Xô rất cao. Tỷ lệ tăng trưởng tổng giá trị sản phẩm quốc dân của họ trước đây cao gấp đôi chúng ta. Nếu như lại tính đến cả nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của Liên Xô, nếu như vận hành kinh doanh hợp lý, thì Liên Xô hoàn toàn có thể đánh bật chúng ta ra khỏi thị trường thế giới. Vì vậy, chúng ta luôn áp dụng hành động nhằm làm suy yếu kinh tế Liên Xô, tạo ra vấn đề nội bộ của họ". "Biện pháp chủ yếu là kéo họ vào chạy đua vũ trang". "Một mặt khác trong chính sách của chúng ta là lợi dụng những lỗ hổng trong Hiến pháp Liên Xô. Về hình thức, Hiến pháp Liên Xô cho phép bất kỳ một nước cộng hòa nào đã gia nhập liên bang (chỉ cần dựa vào đa số đơn giản của Xôviết tối cao nước cộng hòa) chỉ cần có ý muốn thì lập tức có thể nhanh chóng tách khỏi Liên Xô. Tất nhiên, do tác dụng tập hợp của Đảng Cộng sản và các cơ quan quyền lực, trong một thời gian dài quyền lợi này trên thực tế rất khó thực hiện. Nhưng lỗ hổng trong Hiến pháp này vẫn để lại khả năng tương lai cho việc thực hiện chính sách của chúng ta". "Điều đáng tiếc là, bất luận chúng ta cố gắng thế nào, tình hình chính trị của Liên Xô vẫn giữ được hết sức ổn định trong một thời gian dài". "Từ đó chúng ta rơi vào cảnh khó khăn. Thế nhưng, rất nhanh lại nhận được tin tình báo nói rằng sau khi lãnh tụ Liên Xô từ trần, người mà chúng ta giúp đỡ có thể sẽ kế nhiệm, nhờ ông ta chúng ta có thể thực hiện được ý tưởng của mình. Đây là ý kiến đánh giá của chuyên gia cố vấn của tôi (xung quanh tôi luôn có một đội ngũ cố vấn rất chuyên nghiệp về các vần đề của Liên Xô, tôi cũng căn cứ nhu cầu mà thúc đẩy và thu hút những người có tác dụng đối với chúng ta ra nước ngoài định cư). Người đó chính là Gorbachev. Các cố vấn của tôi đánh giá người này là: Thiếu cẩn thận, dễ bị xỏ mũi, cực kỳ thích hư vinh. Ông ta có quan hệ tốt với đại đa số các nhân vật nổi tiếng trong chính giới Liên Xô, vì vậy, thông qua sự giúp đỡ của chúng ta, ông ta có thể nắm được đại quyền". "Giữa các chuyên gia cố vấn đã tranh luận gay gắt, bất đồng ý kiến lớn về vấn đề sau đây: Liệu có tiến cử Yeltsin làm lãnh tụ của "Mặt trận nhân dân" hay không, từ đó chọn ông ta vào Xôviết tối cao Liên bang Nga, tiếp đến trở thành nhà lãnh đạo Nga (nhằm đối kháng với nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev). Ý kiến của đa số người trong ban cố vấn là phản đối việc giới thiệu Yeltsin, tính đến quá trình từng trải trước đây và đặc điểm cá tính của ông ta". "Thế nhưng, qua nhiều lần tiếp xúc và ước hẹn, về sau vẫn quyết định "đưa ra" Yeltsin". "Trong thời gian sự kiện ngày 19 tháng 8 năm 1991, chúng ta cũng cho Yeltsin sự ủng hộ cực kỳ lớn". "Như thế, trên thực tế nay Liên Xô đã giải thể, thế nhưng về pháp luật Liên Xô vẫn tồn tại. Tôi có trách nhiệm nói với các bạn rằng, chỉ cần chưa đầy một tháng nữa các bạn sẽ nghe được tin Liên Xô giải thể về mặt pháp luật"1 (Người ghi: Pavlov, http://www.contrtv.ru/print/2025A http://derzava. com/art-đesc.php? aid = 425). Quả nhiên, ngày 8 tháng 12 năm 1991, Tổng thống Nga Yeltsin, Tổng thống Ucraina Kravchuk cùng Chủ tịch Xôviết tối cao Bêlarút Shushkevich đã ký Thỏa thuận về việc thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập tại khu rừng Belovezh, việc này trên thực tế đánh dấu việc một trong những quốc gia lớn mạnh nhất trên thế giới - Liên Xô - đã giải thể, việc này chỉ cách bài diễn giảng của Thatcher có 20 ngày. Ngày 25 tháng 12 năm 1991, Liên Xô chính thức giải thể, việc này cũng chỉ cách bài diễn giảng của Thatcher một tháng lẻ bảy ngày. Điều này lại một lần nữa cho thấy, giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản không những đặc biệt chú ý tới việc đào tạo người kế cận của mình, hơn nữa đặc biệt chú ý đào tạo người đại diện của mình trong giai cấp vô sản và nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng lại một lần nữa cho thấy  tầm nhìn xa và sự đúng đắn của đồng chí Mao Trạch Đông khi nhấn mạnh: "bồi dưỡng và đào tạo hàng chục triệu lớp người kế cận sự nghiệp cách mạng vô sản"1 ("Về chủ nghĩa cộng sản giả của Khrushchev và bài học của nó trong lịch sử thế giới", Nhân dân nhật báo, ngày 14 tháng 7 năm 1964); cho thấy tầm nhìn xa và sự đúng đắn của đồng chí Đặng Tiểu Bình khi nhấn mạnh: "Công việc của Trung Quốc có dễ làm hay không... xét về ý nghĩa nhất định, mấu chốt là ở con người"2 (Văn tuyển Đặng Tiêu. Bình, Sđd, q.3, tr.380); cho thấy đạo lý sâu sắc của mối quan hệ giữa thể chế và con người xét về ý nghĩa nhất định "mấu chốt là ở con người".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:02:22 pm
Thứ ba, cần phải kiên trì chế độ tập trung dân chủ, phát huy đầy đủ dân chủ, tăng cường giám sát trong Đảng. Chế độ tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng và nhà nước. Tháng 7 năm 1945, ngay trước ngày kháng chiến thắng lợi, cuộc nói chuyện nổi tiếng giữa Chủ tịch Mao Trạch Đông với Hoàng Viêm Bồi tại Diên An rất đáng để chúng ta mãi ghi nhớ. Hoàng Viêm Bồi nói, một bộ lịch sử, "vua lười nhác, thần lộng hành" cũng có, "người chết, chính quyền cũng chết" cũng có, "cầu vinh rước nhục" cũng có, tóm lại không thể thoát ra khỏi vòng chu kỳ "lên cũng nhanh", "chết cũng nhanh". Mao Trạch Đông nói: "Chúng ta đã tìm được con đường mới, chúng ta có thể thoát ra khỏi vòng chu kỳ đó. Con đường mới đó chính là dân chủ. Chỉ có để nhân dân giám sát chính phủ, chính phủ mới không dám lơ là. Chỉ có người người cùng có trách nhiệm, thì mới không có cảnh người chết, chính quyền cũng chết"3 (Phòng nghiên cứu văn hiến Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (biên soạn): Truyện Mao Trạch Đông (1893-1949), Nxb. Văn hiến Trung ương, 1996, tr.719-720). Tư tưởng ai nấy đều có trách nhiệm của Mao Trạch Đông là sự phát triển đối với tư tưởng chính trị dân chủ nhân dân của chủ nghĩa Mác. Hạt nhân và mục đích căn bản của chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân làm chủ, còn ai nấy đều có trách nhiệm là con đường căn bản để đạt tới mục đích căn bản đó, ngoài cái đó ra không có sự lựa chọn nào khác. Xét từ ý nghĩa nhất định, một khó khăn duy nhất của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, chính là khó khăn trong việc làm thế nào để thực sự khiến ai cũng đều có trách nhiệm. Toàn thể đảng viên, bất luận chức vụ cao hay thấp, đều bình đẳng như nhau, đều có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại biểu gián tiếp xử lý mọi công việc trong Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng, trong đó bao gồm cả việc xác định đường lối, phương châm, chính sách của Đảng. Tổng Bí thư Hổ Cẩm Đào nhiều lần nhấn mạnh, cần nói lời chân thật, lời thực, lời từ đáy lòng. Đây chính là cần bảo đảm đảng viên có thể phát biểu đầy đủ ý kiến khác nhau theo trình tự tổ chức bình thường. Thảo luận bất kỳ vấn đề gì trong Đảng, cần bình đẳng, tự do. Chỉ cần xuất phát từ lợi ích và công tác của Đảng, thì cần cho phép phát biểu đầy đủ ý kiến, đạt tới chỗ biết thì nói ra, nói thì phải nói hết, từ đó thực sự hình thành trong Đảng bầu không khí chính trị tốt đẹp dám nói lời thật, nói thoải mái. Chỉ có như thế mới có thể thực sự thực hiện đoàn kết trong Đảng, có lợi cho thống nhất hành động cao độ. Cách làm trấn áp các ý kiến khác, một người quyết định là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với truyền thống và tác phong tốt đẹp của Đảng chúng ta.


Thứ tư, cần phải kiên trì đường lối quần chúng của Đảng, tất cả vì quần chúng, lúc nào cũng dựa vào quần chúng. "'Toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân", "đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhất quần chúng nhân dân" là giá trị quan mãi mãi không thay đổi của chúng ta; "thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý", thực tiễn xã hội của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân là quan điểm chân lý mãi mãi không thay đổi của chúng ta; "nhân dân, chỉ có nhân dân mới là động lực thực sự của sáng tạo lịch sử" là quan điểm động lực mãi mãi không thay đổi của chúng ta. Chúng ta là những người theo thuyết thống nhất hữu cơ giữa lập trường, quan điểm và phương pháp, là những người theo thuyết thống nhất hữu cơ giữa giá trị quan, quan điểm chân lý và quan điểm động lực, thống nhất hữu cơ từ toàn bộ đến chủ thể là quần chúng nhân dân. Chúng ta hiểu sâu sắc rằng, xa rời quần chúng, bất cứ ai, bất cứ tập đoàn và chính đảng nào, tất sẽ không thành công được gì cả. Cá thể trong quần chúng là một giọt nước, một giọt nước rất dễ khô cạn, nhưng nhiều giọt nước tập hợp lại với nhau thì sẽ thành suối, thành sông, thành biển. Đối với các loại tác phong sai lệch và trào lưu sai lầm gây tổn hại tới lợi ích của quần chúng nhân dân, trong điều kiện nhất định, trong thời gian nhất định quần chúng có thể không đủ sức lay chuyển, có vẻ sóng yên biển lặng, nhưng trong điều kiện đặc biệt, thì có thể dấy lên sóng lớn, sông biển cuồn cuộn. Đó chính là cái gọi là nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền. Mãi mãi đứng trên mảnh đất nhân dân, chúng ta mới có thể mãi mãi trở thành vị anh hùng Antaeus sức mạnh vô song.


Thứ năm, cần phải kiên trì cải cách mở cửa và luôn luôn kiên trì phương hướng đúng đắn của cải cách mở cửa. Chủ nghĩa Mác đã vạch ra bản chất và quy luật của phát triển xã hội loài người, chúng ta cần phải kiên trì và tuân thủ những nguyên lý căn bản về phát triển lịch sử loài người mà nó trình bày và phát triển, và việc vận dụng thực tế những nguyên lý này, "trong bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu cũng đều cần lấy điều kiện lịch sử lúc đó mà chuyển dịch"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.248). Vật chất là vận động, tình hình cũng thường có sự thay đổi. Chúng ta cần phải không ngừng giải phóng tư tưởng, tiến hành cải cách kịp thời, có những hành động mới nhằm không ngừng thích ứng với tình hình mới đang phát triển, thay đổi. Các quốc gia và dân tộc trên thế giới đều có truyền thống văn hóa ưu tú của mình, đều có khoa học kỹ thuật tiên tiến và các loại tài nguyên đặc biệt của mình, điều này đòi hỏi chúng ta phải có tấm lòng và dũng khí "biển dung nạp trăm sông", tiến hành học tập, tham khảo và thu hút; đồng thời, truyền thống văn hóa ưu tú của dân tộc Trung Hoa cũng hết sức cần được giới thiệu tới các nơi trên thế giới, dùng những tài nguyên của chúng ta để trao đổi, bổ sung lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi với các quốc gia và dân tộc khác. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải kiên trì lâu dài chính sách mở cửa. Nhất là ngày nay, khi toàn cầu hóa kinh tế đi sâu phát triển, bất kỳ quốc gia nào đóng cửa lại để xây dựng cũng sẽ không thể thành công được. Chính vì vậỵ, kiên trì cải cách mở cửa là chiến lược làm lớn mạnh đất nước mà chúng ta kiên trì lâu dài không thay đổi. Thế nhưng, chúng ta cũng cần phải thấy rằng, cải cách mở cửa đúng là có một tiền đề căn bản, đó chính là vấn đề đường hướng. Cải cách mở cửa của chúng ta cần phải có lợi cho việc không ngừng củng cố và tự hoàn thiện của chế độ xã hội chủ nghĩa, cần phải có lợi cho xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, cần phải có lợi cho nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Vì vậy, trong quá trình cải cách mở cửa, chúng ta cần phải kiên trì phương hướng đúng đắn của cải cách mở cửa, kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, kiên trì độc lập tự chủ, trân trọng cao độ và bảo vệ một cách kiên trì không thay đổi quyền lợi độc lập tự chủ của đất nước mà nhân dân Trung Quốc đã có được qua phấn đấu lâu dài. Nếu không, thì sẽ giống như Đặng Tiểu Bình nói, chúng ta quả thật là đi sai đường mất rồi.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:03:04 pm
Thứ sáu, cần phải kiên trì cảnh giác cao độ trước âm mưu Tây hóa, phân hóa của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

Xét từ ý nghĩa nhất định, sự nghiệp giải phóng của toàn nhân loại chính là cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chiến tranh và hòa bình. Điều đáng nói ở đây không chỉ là mối quan hệ giữa chiến tranh và hòa bình, mà điều quan trọng hơn là chỉ mối quan hệ lẫn nhau bên trong bản thân của chiến tranh và hòa bình khi ở hình thái độc lập. Cách mạng Công xã Pari đã mở ra một chương mới trong sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại. Nhưng do sự nhân từ và ngây thơ của bản thân giai cấp vô sản, không xử lý tốt vấn đề chiến tranh, kết quả đã thất bại thảm hại. Giai cấp vô sản rút ra bài học sâu sắc này, sau đó, Liên Xô xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc Chiến tranh vệ quốc; Trung Quốc và Triều Tiên, Việt Nam xã hội chủ nghĩa lại lần lượt giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam. Điều này trong chừng mực nhất định cho thấy, khi giai cấp vô sản xử lý vấn đề chiến tranh, do sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân và chính nghĩa, thường tương đối thuận lợi. Nhưng khi xử lý vấn đề hòa bình, tức khi đối phó với vấn đề diễn biến hòa bình của giai cấp tư sản, thì lại thường thiếu kinh nghiệm, kết quả dẫn tới xuất hiện bi kịch lớn là Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể. Ngay từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, Tổng thống Mỹ Wilson đã tuyên bố: "Dân chủ" là một nguyên tắc chỉ đạo quan trọng, bởi vì nó tiêu biểu cho một trật tự trong nước hoàn toàn mới, từ đó tất nhiên cũng có thể phổ cập ra trật tự quốc tế; "dân chủ tự do mới" sẽ là "một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng" của Mỹ; cần bảo đảm dân chủ được thông suốt không gặp trở ngại trên toàn thế giới. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ George Kènnan và Ngoại trưởng Allen Dulles lần lượt đưa ra lý luận "diễn biến hòa bình". Năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp sửa kết thúc, Dulles lập tức vạch kế hoạch nói: "Chiến tranh sắp sửa kết thúc, mọi việc đều có cách làm ổn thỏa, đều sẽ bố trí xong. Chúng ta sẽ dốc hết tất cả, đưa ra tất cả tiền vàng, toàn bộ sức mạnh vật chất, đào tạo mọi người thành thứ mà chúng ta cần, để cho họ nghe theo chúng ta"; "đầu óc của con người, ý thức của con người đều có thể thay đổi. Chỉ cần làm rối loạn đầu óc thì chúng ta có thể làm thay đổi giá trị quan của mọi người một cách không hay biết"; "Chúng ta nhất định cần tìm được ở bên trong nước Nga người có ý thức tư tưởng của chúng ta, tìm được quân đồng minh của chúng ta"; "Chúng ta sẽ từng bước xóa đi sự tồn tại của họ trong văn học và nghệ thuật"; "Chúng ta sẽ âm thầm, nhưng tích cực và thường xuyên không ngừng thúc đẩy thái độ tự tiện, liều lĩnh của các quan chức, để cho họ tham lam vô độ, mất đi nguyên tắc. Chủ nghĩa quan liêu và bê trễ sẽ được coi là tốt đẹp, còn thành tín và chính phái sẽ bị người ta chế nhạo, biến thành những thứ mà chẳng ai coi ra gì và không hợp thời. Vô lại và vô liêm sỉ, lừa gạt và dối trá, nát rượu và nghiện hút, người đề phòng người còn hơn cả sợ thú dữ, mất đi, bán đi cảm xúc xấu hổ, sỉ nhục, chủ nghĩa dân tộc và thù hận dân tộc, trước tiên là thù hận đối với nhân dân Nga - Chúng ta sẽ dùng biện pháp cao tay, âm thầm thần thánh hóa tất cả những cái đó, để nó nở ra thành những bông hoa đẹp đẽ"; "Chỉ có số ít người, cực kỳ ít người mới có thể cảm thấy được hoặc ý thức được rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Nhưng chúng ta sẽ khiến cho những người đó ở vào cảnh bị cô lập không ai giúp đỡ, biến họ thành đối tượng cười chê của đám đông; chúng ta sẽ tìm được phương pháp bôi nhọ phỉ báng họ, tuyên bố họ là cặn bã xã hội"1 ([Nga] N.I. Ryzhkov: Bi kịch nước lớn, Sđd, tr.1-2). Nhưng nhà cầm quyền Mỹ vẫn chưa thực sự coi trọng điều này. Sau khi trải qua thất bại trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam chủ yếu sử dụng "sức mạnh cứng", Mỹ mới hiểu thêm về tầm quan trọng của các "sức mạnh mềm" như "dân chủ, tự do, nhân quyền". Bước ngoặt này diễn ra vào thời kỳ chính quyền Nixon. Cuối năm 1968, Nixon trúng cử Tổng thống thứ 37 của nước Mỹ. Nước Mỹ lúc đó có 1 triệu quân có mặt tại 30 quốc gia trên thế giới, cung cấp viện trợ quân sự hoặc kinh tế  cho gần 100 quốc gia trên toàn thế giới, đặc biệt cộng thêm đã bị sa lầy vào cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 6 năm, tình hình tài chính, kinh tế dần dần suy yếu, thu chi quốc tế khủng hoảng, từ đó không kham nổi gánh nặng. Ngày 20 tháng 1 năm 1969, trong bài diễn văn nhậm chức của mình, Nixon nói: "Trải qua một thời kỳ đối kháng, chúng ta đang bước vào một thời đại đàm phán", "Vinh dự lớn nhất mà lịch sử có thể ban cho chúng ta không có gì hơn danh hiệu người kiến tạo hòa bình này", "Chúng ta mời những người có thể là đối thủ của chúng ta tiến hành một cuộc chạy đua hòa bình"1 ("Diễn văn nhậm chức lần đầu tiên của Richard Nixon (bản dịch)", Blog Đông Phương, ngày 25 tháng 3 năm 2006 (http://chouky.blog2.cnool.net/ Artìcle/2006/03/25/197380.html)). Chính quyền các khóa của Mỹ sau đó ngày càng coi trọng việc vận dụng "sức mạnh mềm" của mình. Nhờ vậy mới có việc Liên Xô to lớn giải thể và Đảng Cộng sản Liên Xô khổng lồ sụp đổ. Từ đó, chính quyền các khóa của Mỹ trong quan hệ với các nước khác, nhất là các nước lớn, các cường quốc, lại càng coi trọng việc sử dụng "sức mạnh mềm" hơn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:03:40 pm
Từ khi Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể năm 1991 đến nay (năm 2010) đã gần 20 năm. Số các luận văn, tác phẩm cũng như hồi ký của cộng đồng quốc tế nghiên cứu về Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể có rất nhiều, trong đó không ít học giả nhấn mạnh "đóng góp" của phương Tâỵ, đặc biệt là Cục Tình báo Trung ương Mỹ đối với việc Liên Xô giải thể. Cuốn sách Chiếc mũ gai góc của Nga: Lịch sử Hội Tam điểm 1731-1995 của nhà văn, người theo chủ nghĩa dân tộc, nhà chính luận và nhà hoạt động xã hội Nga O. A. Platonov xuất bản năm 1995 chính là một trong số đó. Khác với các nhà nghiên cứu khác, tác giả cuốn sách này xuất phát từ hoạt động khôi phục trong nước Liên Xô của tổ chức bí mật Hội Tam điểm thế giới, nghiên cứu tiến trình Mỹ thực thi "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô. Qua rất nhiều sự thực, cuốn sách này đã trình bày tình hình chi tiết việc tổ chức bí mật Hội Tam điểm thế giới và Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ đã bỏ ra khoản tiền khổng lồ để tìm kiếm và đào tạo những người đại diện lợi ích của Liên Xô, cũng như vai trò của những người đại diện lợi ích Mỹ trong việc Liên Xô giải thể. Tài liệu liên quan trong cuốn sách này cho thấy, từ năm 1945 đến năm 1994, có hơn 440 người của Liên Xô cũ và Nga tham gia tổ chức Hội Tam điểm hoặc các tổ chức khác được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu của Hội Tam điểm (như Ủy ban Ba bên, Ủy ban Đại châu Âu, Câu lạc bộ Nga quốc tế...), Gorbachev, Yakovlev, Shevardnadze, Yeltsin... đều có tên trong danh sách. Không ít người trong số họ không những là người đại diện lợi ích Mỹ trung thực và lực lượng cốt cán hủy diệt Liên Xô, mà còn trở thành lực lượng trung kiên của chính quyền Yeltsin sau khi Liên Xô giải thể. Một bộ tác phẩm quan trọng khác chính là Câu lạc bộ Bilderberg - Tập đoàn bóng ma thao túng thế giới do Nhà xuất bản Tân Tinh Trung Quốc dịch, xuất bản tháng 8 năm 2009. Tác giả cuốn sách Daniel Estulin là học giả người Canada gốc Nga, từng có hơn 10 năm liên tục theo dõi, nghiên cứu Câu lạc bộ Bilderberg, câu lạc bộ được thành lập năm 1954 sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đã hoạt động hơn nửa thế kỷ. Cuốn sách tiết lộ các hoạt động tìm đủ mọi cách hòng thao túng công việc thế giới, phục vụ cho chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền của Câu lạc bộ này. Theo đó, Thống đốc bang Arkansas của Mỹ Bill Clinton đã tham dự Hội nghị Câu lạc bộ Bilderberg họp tại Baden Đức, từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 6 năm 1991. Năm thứ hai, ông ta lập tức được bầu làm Tổng thống Mỹ. Nhưng khi hội nghị này vừa kết thúc, ông ta lập tức tới Mátxcơva bí mật gặp Vadim Bakatin, thành viên nội các quan trọng của Tổng thống Gorbachev, khi đó làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô. Mặc dù Gorbachev thất bại trong bầu cử, nhưng Bakatin lại đảm nhiệm chức vụ Giám đốc tối cao KGB trong nội các của Yeltsin. Clinton cũng hứa hẹn với Yeltsin rằng, nếu như ông ta thắng cử, chiến hạm của Nga sẽ có được quyền tiếp dầu và các quyền ưu tiên khác tại tất cả các căn cứ hải quân của Mỹ. Sau khi Clinton tuyên thệ nhậm chức, quả nhiên đã thực hiện lời hứa1 (Daniel Estrulin: Câu lạc bộ Bilderberg - Tập đoàn bóng ma thao túng thế giới, Nxb. Tân Tinh, 2009, tr.58-59).


Chúng ta cần tỉnh táo nhận thức rằng, cục diện phương Tây mạnh - ta yếu có thể sẽ tồn tại trong một thời gian dài. Hai loại chế độ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sẽ cùng tồn tại trong một thời gian dài, có hợp tác, có cạnh tranh, đồng thời có sự đọ sức khốc liệt. Mục tiêu chiến lược căn bản của hai loại chế độ này không thể cùng thắng. Vì vậy, song song với việc cảnh, giác cao độ trước việc phương Tây sử dụng "sức mạnh cứng" đối với ta, càng cần cảnh giác hết sức trước việc họ sử dụng "sức mạnh mềm", "sức mạnh thông minh" Tây hóa, phân hóa đối với ta. Chúng ta còn cần đặc biệt chú ý tới vai trò mới của các loại vũ khí mới như "thao túng tài chính tiền tệ", "thao túng ý thức", "tổ chức phi chính phủ thâm nhập"... trong tình hình mới.


Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, dân tộc Nga là dân tộc vĩ đại, nhân dân Nga là nhân dân vĩ đại. Chủ nghĩa Lênin và quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga tuyệt đối sẽ không im lặng lâu dài. Tai nạn lịch sử lớn Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô giải thể này tất sẽ được bù đắp bằng sự tiến bộ lịch sử to lớn mới của dân tộc Nga, thậm chí của toàn nhân loại. Cùng với việc toàn cầu hóa đi sâu phát triển, mâu thuẫn cơ bản trên phạm vi toàn cầu giữa toàn cầu hóa sản xuất và chiếm hữu tư bản lũng đoạn quốc tế tư liệu sản xuất ngày càng sâu sắc hơn (cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế bắt đầu từ Mỹ tháng 9 năm 2008 và đến nay vẫn chưa chạm đáy chính là một bằng chứng mạnh mẽ nữa), và có bộ giáo trình phản diện hiếm có là Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể này, thì sự tiến lên của bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát từng đống phế thải của đế quốc, lịch sử loài người tất sẽ từng bước đón chào mùa xuân vô cùng tươi đẹp và huy hoàng vô song trong khó khăn trắc trở.

Tháng 12 năm 2010


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:04:49 pm
Chương I
CON ĐƯỜNG LỊCH SỬ THỊNH SUY
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Đảng Cộng sản Liên Xô từng là chính đảng cộng sản có sức ảnh hưởng lớn nhất, thời gian tồn tại lâu nhất, thời gian cầm quyền dài nhất trên thế giới. Kể từ khi thành lập năm 1898 đến khi tự động giải thể năm 1991, Đảng này đã trải qua một quá trình lịch sử gần một thế kỷ, trong đó thời gian cầm quyền kéo dài 74 năm. Đảng Cộng sản Liên Xô khi thành lập lấy tên là Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga. Tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng năm 1903 đã hình thành hai phái là Bônsêvích và Mensêvích.


Bônsêvích do Lênin đứng đầu là phái chủ lưu, đại diện cho đường lối cách mạng mácxít. Năm 1912, về tổ chức, Bônsêvích trở thành một chính đảng độc lập sau khi Mensêvích tách ra, lấy tên là Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích). Từ tháng 3 năm 1918 đổi tên thành Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga. Sau khi Liên Xô thành lập năm 1922, tại Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tháng 12 năm 1925, tên của Đảng đổi thành Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang. Đại hội Đại biểu lần thứ XIX của Đảng tổ chức năm 1952 đã thông qua Nghị quyết, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong quá trình phát triển và cầm quyền lâu dài của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô đã từng giành được những thành tựu huy hoàng khiến cả thế giới phải kinh ngạc. Song, cùng với thời gian, những yếu tố tiêu cực trong Đảng không ngừng tăng lên và ăn sâu bám rễ, cuối cùng Đảng không những mất đi quyền cầm quyền mà còn tự hủy diệt bản thân. Ngày nay, gần hai mươi năm sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô biến mất trên vũ đài lịch sử, hồi tưởng lại con đường lịch sử thịnh suy của Đảng, đặc biệt là tổng kết những bài học kinh nghiệm cầm quyền của Đảng sẽ giúp chúng ta lấy lịch sử làm bài học, tính trước nguy cơ, tiến lên tốt hơn.


I. MỘT CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG KlỂU MỚI

Đảng Cộng sản Liên Xô là một chính đảng vô sản có truyền thống lịch sử vẻ vang. Đảng Cộng sản Liên Xô ra đời trong thời kỳ chuyển đổi quan trọng của lịch sử thế giới. Thời kỳ đó, các nước tư bản chủ nghĩa chính của Âu - Mỹ trong đó có cả nước Nga đều đã bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đồng thời, đặc trưng thời đại cũng có những thay đổi: thời đại thế giới tư bản chủ nghĩa từ chỗ phát triển tương đối hòa bình chuyển sang thời đại chiến tranh đế quốc và cách mạng vô sản. Lúc đó, trào lưu xét lại trong nội bộ các chính đảng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản lan rộng. Các đảng đó chủ trương cải cách một cách hòa bình và đi theo con đường đấu tranh nghị viện. Những chính đảng như vậy hoàn toàn không phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Thời đại yêu cầu phải có chính đảng cách mạng kiểu mới. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Đảng Bônsêvích đã ra đời, ứng với thời cơ. Sự xuất hiện của Đảng Bônsêvích đã làm thay đổi căn bản diện mạo của phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, mở ra một bổi cảnh mới mẻ và hy vọng cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Sau khi Đảng Bônsêvích thành lập, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ vĩ đại của Đảng, Lenin, một nhà mácxít xuất sắc, nhà cách mạng vô sản kiên cường, đã sáng tạo một cách khoa học lý luận chủ nghĩa Mác về cách mạng vô sản, cuối cùng đã lật đổ sự thống trị của địa chủ, tư sản ở nước Nga, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, từ đó khai thiên lập địa trở thành chính đảng giai cấp vô sản đầu tiên cầm quyền ở một quốc gia (nếu không tính Công xã Pari chỉ tồn tại 72 ngày).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Hai, 2022, 04:05:57 pm
1. Mâu thuẫn và đấu tranh trong nội bộ phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỷ XIX: cải lương hay cách mạng

Từ những năm 70 của thế kỷ XIX, các chính đảng vô sản mang tính quần chúng đã được thành lập ở các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu của Âu - Mỹ. Chính đảng vô sản thành lập sớm nhất là Đảng Công nhân Dân chủ xã hội Đức1 (Năm 1875, Đảng Công nhân Dân chủ xã hội Đức hợp nhất cùng Liên hiệp Hội công nhân toàn nước Đức do Lassalle đứng đầu, lập thành Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Đức. Năm 1890, Đảng đổi tên thành Đảng Dân chủ xã hội Đức). Đây là chính đảng vô sản độc lập đầu tiên trên thế giới được thành lập trong phạm vi một quốc gia, cũng là chính đảng lớn nhất và có tính đại diện nhất trong phong trào công nhân quốc tế thời kỳ đó. Sau nước Đức, ở các nước như Áo (năm 1874), Bồ Đào Nha (năm 1875), Đan Mạch (năm 1876), Tây Ban Nha (năm 1879), Pháp (năm 1879), Hà Lan (năm 1881), Italia (năm 1882), Anh (năm 1884), Bỉ (năm 1885), Mỹ (năm 1897) cũng lần lượt thành lập các chính đảng hoặc đoàn thể giai cấp vô sản. Đến cuối thập kỷ 1880, ở Âu - Mỹ đã có 16 quốc gia thành lập chính đảng xã hội chủ nghĩa2 (Tham khảo Bách khoa toàn thư Trung Quốc - Lịch sử nước ngoài, quyển thượng, tr.239). Một đặc điểm chung của các chính đảng này là hoạt động trong điều kiện hòa bình, chủ yếu tuyên truyền lý luận chủ nghĩa Mác và tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích vật chất của quần chúng vô sản bằng các hình thức như đấu tranh nghị viện, tuyên truyền báo chí, tổ chức cho công nhân bãi công và biểu tình thị uy. Trên cơ sở các chính đảng giai cấp vô sản thành lập, tích cực triển khai hoạt động và liên hệ quốc tế ngày càng tăng cường, dưới sự lãnh đạo và thúc đẩy trực tiếp của Ăngghen, tháng 7 năm 1889 tại Pari Đại hội Đại biểu công nhân quốc tế và những người theo chủ nghĩa xã hội được tổ chức với sự tham gia của 393 đại biểu đến từ 22 quốc gia. Đại hội chủ yếu thảo luận những vấn đề như việc lập pháp của công nhân lao động quốc tế và nhiệm vụ đấu tranh chính trị, kinh tế của giai cấp công nhân, đồng thời thông qua nghị quyết về hoạt động kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1 tháng 5 hằng năm. Đại hội này đánh dấu sự ra đời của tổ chức liên hợp quốc tế mới của các chính đảng vô sản các nước - Quốc tế II1 (Quốc tế I, tức Hiệp hội công nhân quốc tế tồn tại những năm 1864-1876).


Thời kỳ đầu, trong nội bộ Quốc tế II tồn tại ba phái là chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa vô chính phủ. Chủ nghĩa Mác đấu tranh trước hết với chủ nghĩa vô chính phủ. Chủ nghĩa vô chính phủ xuất hiện dưới bộ mặt cực tả, không chỉ phản đối cải lương xã hội và đấu tranh hợp pháp dưới mọi hình thức, mà sùng bái hoạt động khủng bố cá nhân. Với sự vạch trần và phê phán của chủ ngĩa Mác, chủ nghĩa vô chính phủ cuối cùng bị Quốc tế II và đại bộ phận người theo chủ nghĩa xã hội trong các đảng ở các nước và đông đảo quần chúng công nhân phỉ nhổ. Giai đoạn sau của Quốc tế II trào lưu cải lương chủ nghĩa trong các đảng ở các nước phát triển thêm một bước. Từ góc độ các nhà cải lương chủ nghĩa, giai cấp vô sản chỉ cần dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản không ngừng cải thiện đãi ngộ vật chất là có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội một cách hòa bình; nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là tiến hành đấu tranh nghị viện, triển khai hoạt động tuyên truyền và tổ chức trong phạm vi hợp pháp. Các nhà cải lương chủ nghĩa không những ra sức phản đối đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản về thực tiễn, mà về lý luận còn thay đổi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Đây là việc làm lấy danh nghĩa "xét lại" chủ nghĩa Mác, trên thực tế là trào lưu chủ nghĩa cơ hội, để xuyên tạc và thay đổi chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác, do đó bị gọi là "chủ nghĩa xét lại"1 ("Chủ nghĩa xét lại" là danh từ do Bernstein tự khoe, sau này được những người theo chủ nghĩa Mác sử dụng với nghĩa rộng).


Chủ nghĩa xét lại là biểu hiện về tư tưởng của giai cấp tư sản trong phong trào công nhân quốc tế. Đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa xét lại trong Đảng Dân chủ xã hội Đức và Quốc tế II là Eduard Bernstein. Trong thời gian những năm 1896-1898, ông ta đã có một loạt bài viết với chủ đề "Vấn đề chủ nghĩa xã hội", năm 1899 lại xuất bản cuốn sách Tiền đề của chủ nghĩa xã hội và nhiệm vụ của Đảng Dân chủ xã hội. Trong những tác phẩm này, ông ta đã tiến hành "xét lại" một cách toàn diện chủ nghĩa Mác từ lý luận triết học, chính trị học và chủ nghĩa khoa học xã hội. Trong triết học, ông ta phủ định chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, ca tụng chủ nghĩa Kant; về kinh tế chính trị, ông ta phủ định học thuyết giá trị thặng dư, cho rằng tổ chức độc quyền có thể xóa bỏ khủng hoảng tư bản chủ nghĩa; về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, Bernstein phủ định đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản, ca tụng hợp tác giai cấp và chủ nghĩa tư bản tự thân phát triển một cách hòa bình thành chủ nghĩa xã hội, chủ trương biến đảng dân chủ xã hội thành đảng cải lương chủ nghĩa. Câu nói nổi tiếng của ông "Mục đích cuối cùng không đáng kể, phong trào là tất cả"2 (Đây là cách diễn đạt khái quát. Tham khảo cách diễn đạt hoàn chỉnh trong Eduard Bernstein: Lịch sử và lý luận của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Đông Phương, 1989, tr.195) là tổng kết đầy đủ nhất quan điểm lý luận và phương pháp tư tưởng của chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại là một hiện tượng quốc tế. Khi ở nước Đức xuất hiện chủ nghĩa xét lại của Bernstein, ở một số quốc gia khác như Pháp, Anh, Áo, trong đảng cũng xuất hiện trào lưu và trường phái chủ nghĩa xét lại. Sự xuất hiện và lan tràn của chủ nghĩa xét lại đã làm tê liệt ý chí cách mạng của một bộ phận quần chúng công nhân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Tư tưởng của Bernstein nhận được sự hưởng ứng và ủng hộ của Quốc tế II và những người theo chủ nghĩa cơ hội cánh hữu trong Đảng.


Đồng thời, trong nội bộ đảng của Quốc tế II và một số quốc gia cũng xuất hiện phái tả kiên trì chủ nghĩa Mác và nguyên tắc cách mạng vô sản. Họ đấu tranh trực diện với chủ nghĩa xét lại. Đi đầu trong cuộc đấu tranh này là lãnh đạo phe cánh tả của Đảng Dân chủ xã hội Đức Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht. Trong cuốn sách Cải lương xã hội hay cách mạng xã hội viết năm 1899, Luxemburg nói, sự thay đổi trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả sự phát triển nhanh chóng trong các lĩnh vực như tín dụng, các tổ chức độc quyền, thông tin, giao thông, không những không loại bỏ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, ngược lại làm cho khủng hoảng sâu sắc thêm, do đó, ý đồ đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua giành đa số ghế trong nghị viện là không thể. Dân chủ là có tính giai cấp, nghị viện của giai cấp tư sản là công cụ để giai cấp tư sản thống trị nhân dân lao động. Giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện chủ nghĩa xã hội bằng cách thực hiện cách mạng giành chính quyền. Ngoài Rosa Luxemburg còn có một số người theo chủ nghĩa Mác, như August Bebel của Đức, Paul Lafargue của Pháp và Georgi Plekhanov của Nga, v.v. cũng phê phán chủ nghĩa xét lại của Bernstein.


Sự phát triển của chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩạ xét lại trong nội bộ phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế có liên hệ mật thiết với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa đế quốc. Những người theo chủ nghĩa cải lương và những người theo chủ nghĩa xét lại không có nhận thức đúng đắn về sự phát triển mới của chủ nghĩa tư bản và những thay đổi của đặc trưng thời đại trong giai đoạn giao thời giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Họ bị mê hoặc bởi hiện tượng mới của xã hội tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả các tổ chức độc quyền, đánh giá sai lầm rằng mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản đã biến mất, bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đổi. Do đó, họ khẳng định chủ nghĩa Mác đã "lỗi thời", giai cấp vô sản có thể "quá độ hòa bình" lên chủ nghĩa xã hội không thông qua phương thức đấu tranh giai cấp và cách mạng. Họ không nhận thấy rằng, do tiến vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và từ đó nảy sinh tính mất cân đối trong phát triển của chính trị, kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa và cùng với yêu cầu phân chia lại thuộc địa, các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản sẽ càng tăng lên. Dù là mâu thuẫn và đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong nội bộ các nước tư bản chủ nghĩa, hay mâu thuẫn và đấu tranh giữa các nước tư bản chủ nghĩa và nhân dân các nước thuộc địa, cũng như mâu thuẫn và đấu tranh giữa các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đẩy lên mức độ nghiêm trọng chưa từng thấy. Hiện tượng các loại mâu thuẫn bị đẩy lên đồng thời cũng cho thấy phân tích của chủ nghĩa Mác về xã hội tư bản chủ nghĩa không hề lỗi thời, lý luận chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản là đúng. Tiêu điểm của cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xét lại ở giai đoạn giao thời giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX là ở chỗ: nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác liệu đã "lỗi thời"? Sách lược đấu tranh của các chính đảng vô sản trong tình hình mới là cách mạng hay cải lương? Thời kỳ đó, các chính đảng xã hội chủ nghĩa ở các nước và tất cả những người theo chủ nghĩa xã hội đều đứng trước sự lựa chọn lịch sử này.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:01:49 am
2. Đảng Bônsêvích ra đời trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường

Dù sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chậm hơn nhiều so với một số quốc gia chủ chốt ở Âu - Mỹ, song đến giai đoạn giao thời giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX, nước Nga cũng bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, tức giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Trong thời kỳ này, nội bộ phong trào công nhân nước Nga cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu chủ nghĩa xét lại, tồn tại cuộc đấu tranh giữa hai tuyến là cách mạng và cải lương. Điều khác biệt là, do phong trào công nhân khởi đầu muộn, nước Nga vẫn ở thời kỳ xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân.


Tổ chức đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác ở Nga là nhóm "Giải phóng lao động", thành lập năm 1883, lãnh đạo là người theo chủ nghĩa Mác kiệt xuất Georgi Valentinovich Plekhanov.

Thời kỳ đó, trở ngại chính trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác và sáng lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Nga là chủ nghĩa dân túy. Do đó, đồng thời với nhiệm vụ chủ yếu là truyền bá chủ nghĩa Mác, nhóm "Giải phóng lao động" còn phải vạch trần và phê phán chủ nghĩa dân túy. Chủ nghĩa dân túy là một trào lưu xã hội của giai cấp tiểu tư sản nước Nga vào nửa cuối thế kỷ XIX. Chủ nghĩa dân túy tôn sùng nông dân, tin rằng nông dân có "thiên tính" của chủ nghĩa cộng sản, cho rằng chỉ cần phát triển chế độ "thôn xã" ở nông thôn, nước Nga có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những người theo chủ nghĩa dân túy nhấn mạnh con đường phát triển độc đáo của nước Nga. Họ phủ định tính tất yếu của việc nước Nga phát triển chủ nghĩa tư bản, phủ định giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng tiên tiến nhất và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng và tiến hành xã hội chủ nghĩa. Những người theo chủ nghĩa dân túy nói là tôn sùng nông dân, song lại coi thường nông dân và quần chúng lao động khác, gọi họ là "đám dân đen", cho rằng "nhân vật anh hùng" xuất thân từ phần tử trí thức mới là người sáng tạo lịch sử.


Plekhanov và các thành viên nhóm "Giải phóng lao động" đã dịch rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của Mác - Ăngghen như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Lao động làm thuê và Tư bản, Sự nghèo nàn của triết học, Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ludwig Feuerbach - Sự cáo chung của triết học cổ điển Đức sang tiếng Nga, xuất bản ở nước ngoài sau đó được bí mật lan truyền ở khắp mọi miền nước Nga. Plekhanov còn viết một loạt các tác phẩm học thuật, trình bày và tuyên truyền nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, đồng thời phê bình lý luận sai lầm của chủ nghĩa dân túy. Trong đó, nổi tiếng nhất là Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chính trị (năm 1883), Sự bất đồng trong ý kiến của chúng ta (năm 1885), Bàn về sự phát triển quan điểm nhất nguyên về lịch sử... Những tác phẩm xuất sắc này đã bồi dưỡng một thế hệ những người theo chủ nghĩa Mác. Đóng góp của nhóm "Giải phóng lao động" còn ở chỗ: năm 1883 và 1885 lần lượt đưa ra hai dự thảo Cương lĩnh Đảng Dân chủ Xã hội nước Nga. Mặc dù họ cũng có một số quan điểm sai lầm của chủ nghĩa dân túy, song tư tưởng chỉ đạo cơ bản là đúng đắn. Đặc biệt là cương lĩnh thứ hai, nhận được sự khen ngợi của Lênin, đặt nền móng cho cương lĩnh chính thức của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga. Tóm lại, từ năm 1883 đến giữa những năm 1890, mặc dù chủ nghĩa Mác đã được truyền bá tương đối rộng rãi, nhưng tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân vẫn chưa kết hợp với nhau. Phong trào chủ nghĩa dân chủ xã hội Nga "sau này phát triển thành một chính đảng khi đó vẫn đang trong quá trình sinh trưởng trong bào thai"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.171).


Ở nước Nga, tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân liên quan tới hoạt động cách mạng của Vladimir Ilyich Lênin. Năm nhóm "Giải phóng lao động" thành lập, Lenin vừa tròn 13 tuổi. Năm 1887, trong thời gian học ở đại học Kazan, Lênin đã bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Ngoài học tập và nghiên cứu các tác phẩm của Mác - Ăngghen, Người còn học được rất nhiều từ những tác phẩm về chủ nghĩa Mác của Plekhanov. Năm 1889, Lênin tổ chức tổ mácxít đầu tiên ở Samara, năm 1893 dời đến Peterburg, bắt đầu lãnh đạo phong trào dân chủ xã hội ở thủ đô. Năm 1894, Lênin cho ra đời tác phẩm Những 'người bạn dân' là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao. Trong tác phẩm này, Lênin phê phán lý luận kinh tế cương lĩnh chính trị và thế giới quan của chủ nghĩa dân túy, lần đầu tiên nêu ra tư tưởng quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cách mạng dân chủ và vấn đề liên minh công nông. Lênin còn chứng minh tính quan trọng của việc đưa tư tưởng chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và thành lập chính đảng của giai cấp công nhân, cho rằng chỉ dưới sự lãnh đạo của chính đảng mảcxít thống nhất, giai cấp vô sản mới có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Nặm 1895, Lênin sáp nhập Tổ mácxít Peterburg thành một tổ chức thống nhất - "Hiệp hội đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân". Dưới sự lãnh đạo của Lênin, "Hiệp hội đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân" đã tổ chức phong trào bãi công của công nhân Peterburg, đồng thời tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, kết hợp yêu cầu xây dựng kinh tế của giai cấp công nhân với phản đối sự thống trị của Sa hoàng và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Do đó, "Hiệp hội đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân" được Lênin coi như manh nha của chính đảng cách mạng vô sản nước Nga.


Trên cơ sở thành quả ban đầu của việc kết hợp tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân, tháng 3 năm 1898, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga được triệu tập bí mật ở Minsk. Tham dự Đại hội có 9 đại biểu đến từ 6 tổ chức địa phương1 (Gồm "Hiệp hội đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân" của Peterburg, Mátxcơva, Kiev và Ekaterinoslav; báo Công nhân Kiev và Liên minh công nhân Do thái Lítva, Ba Lan và Nga (tức Bund). Theo một số tư liệu có được, ngoài 6 tổ chức nói trên, còn có đại diện của tổ chức Dân chủ xã hội Tbilisi). Đại hội tuyên bố thành lập Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, đồng thời thông qua một loạt nguyên tắc xây dựng Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương với ba ủy viên. Đại hội thông qua một bản "Tuyên ngôn", tuyên bố tôn chỉ của Đảng là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, vì thế trước hết phải lật đổ sự thống trị của chế độ chuyên chế Sa hoàng, giành lấy dân chủ và tự do chính trị, đồng thời tuyên bố cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Nga là một bộ phận không thể tách rời của phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ quốc tế. "Tuyên ngôn" nhấn mạnh, giai cấp vô sản Nga là "giai cấp giải phóng" duy nhất, giai cấp vô sản sẽ lãnh đạo nhân dân cả nước "phá bỏ xiềng xích của chế độ chuyên chế bằng nghị lực lớn hơn nữa để tiếp tục đấu tranh với chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, đấu tranh cho đến khi chủ nghĩa xã hội giành thắng lợi hoàn toàn"2 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1964, t.1, tr.6).


Sự thành lập Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga đã cổ vũ cho những nhà cách mạng vô sản. Từ đó, các tổ chức dân chủ xã hội ở khắp nơi đều bắt đầu đổi tên là Ban Chấp hành Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga. Lênin thời kỳ đó đang bị đi đày ở Siberia, khi biết tin này đã vui mừng nói với các chiến hữu của mình, từ nay Người đã là đảng viên Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga1 (Tham khảo Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân Thượng Hải, 1983, q.1, tr.342). Sự ra đời của Đảng cũng được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, do Đại hội lần thứ I của Đảng chưa thông qua được cương lĩnh và chương trình công tác, hơn nữa hai trong số ba Ủy viên Trung ương cùng với nhiều đại biểu tham dự Đại hội bị bắt, tổ chức Đảng ở các nơi cơ bản vẫn ở trong trạng thái phân tán. Do đó, trên thực tế Đảng vẫn chưa được thành lập. Mặc dù vậy, Đại hội lần thứ nhất của Đảng vẫn có ý nghĩa lịch sử, là một bước đi quan trọng của giai cấp vô sản Nga trên con đường chính đảng cách mạng của mình. Từ lâu nay, một số tác phẩm trong và ngoài nước viết rất sơ sài về Đại hội lần thứ I của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, thậm chí không để cập, mà coi Đại hội lần thứ II là sự mở đầu của Đảng, như vậy là không thỏa đáng. Cần thực sự cầu thị nêu lên vai trò lịch sử của Đại hội Đảng lần thứ I.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:02:53 am
Từ thế kỷ XX, mâu thuẫn về kinh tế - chính trị trong nước Nga gay gắt hơn. Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1900 - 1903 đặc biệt nghiêm trọng ở nước Nga. Làn sóng phong trào công nhân bùng phát mạnh mẽ. Những thành phố chủ yếu trong cả nước đều thành lập Ban Chấp hành và Tổ đảng Đảng Cộng nhân dân chủ xã hội. Thời kỳ đó, trong phong trào chủ nghĩa dân chủ xã hội đã xuất hiện một phái theo chủ nghĩa cơ hội - "phái kinh tế". Phái này cho rằng, công nhân chỉ cần đấu tranh vì lợi ích kinh tế của mình, như tăng lương, cải thiện điều kiện lao động..., còn đấu tranh chinh trị, ngoài lập pháp về lao động, còn lại tất cả là nhiệm vụ của giai cấp tư sản. "Phải kinh tế" tôn thờ tính tự phát của phong trào công nhân, cho rằng tự phong trào công nhân có thể sản sinh ý thức về chủ nghĩa xã hội, không cần tác động từ bên ngoài. Căn cứ hai điểm nêu trên, "phái kinh tế" cho rằng giai cấp vô sản không cần thiết phải thành lập chính đảng cách mạng độc lập. "Chủ nghĩa kinh tế" là biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội quốc tế ở nước Nga, là biến thể của chủ nghĩa xét lại Bernstein. Trong một loạt bài viết, đặc biệt trong cuốn sách Làm gì?, Lênin phê phán sâu sắc "phái kinh tế". Lênin chỉ ra rằng, mục đích của đấu tranh giai cấp công nhân không phải là để cải thiện điều kiện bán sức lao động, mà là phải căn bản loại bỏ chế độ bóc lột, ép bản thân phải bán sức lao động, do đó, giai cấp công nhân phải liên kết lại, làm cách mạng lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng, sau đó mở ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin còn cho rằng, bất kỳ sự sùng bái nào đối với tính tự phát của phong trào công nhân, chỉ có thể tăng cường ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp tư sản đối với công nhân. Do đó, phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác đối với công nhân. Người nói: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng", "chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.23-24).


Để quán triệt đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, chuẩn bị cho Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng, năm 1900, một số người trong đó có Lênin và Plekhanov cùng sáng lập ra báo Tia lửa ở nước ngoài. Lênin là biên tập viên chủ chốt của Ban Biên tập. Bài xã luận "Nhiệm vụ cấp bách của chúng ta trong phong trào" của Lênin đăng trong số báo ra mắt đầu tiên đã chỉ ra một cách rõ ràng: Nhiệm vụ chủ yếu của tờ báo là thành lập một chính đảng mácxít ở nước Nga. Trong thời gian từ năm 1900 đến năm 1903, báo Tia lửa đã đăng tải một số lượng lớn những bài viết tuyên truyền chủ nghĩa Mác (riêng Lênin có hơn 50 bài), đồng thời nỗ lực liên kết các tổ chức chủ nghĩa dân chủ xã hội ở các nơi. Báo Tia lửa còn soạn thảo một dự thảo cương lĩnh cho Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga.


Tháng 7 đến tháng 8 năm 1903, Đại hội lần thứ II Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga lần lượt tiến hành ở Brussels và London, nghị trình chủ yếu là thông qua cương lĩnh, điều lệ và bầu ra cơ cấu lãnh đạo của Đảng. Tại hội nghị, "Liên minh công nhân Do thái Lítva, Ba Lan và Nga" (tức phái "Bund") giống như ở Đại hội lần thứ I, nêu yêu cầu công nhận họ là một tổ chức tự trị trong Đảng. Đây thực chất là phải tiến hành chế độ liên bang trong Đảng. Lênin và những người ủng hộ Lênin kiên quyết phản đối yêu cầu này, cho rằng phải xây dựng Đảng trên nguyên tắc chế độ tập trung. Lênin cho rằng, điều này liên quan đến vấn đề nguyên tắc thành lập chính đảng cách mạng ở quốc gia đa dân tộc, là vấn đề kiên trì chủ nghĩa quốc tế vô sản hay chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản, điều này không thể thỏa hiệp. Lênin chỉ ra rằng, chính đảng giai cấp vô sản là tổ chức đấu tranh để giải phóng các dân tộc bị áp bức, nếu trong Đảng nhấn mạnh đặc trưng dân tộc, tất sẽ làm yếu đi sức mạnh của Đảng. Cuối cùng, phái "Bund" bị phủ quyết với 46 phiếu phản đối, 5 phiếu tán thành. Đại hội lần lượt thảo luận từng điều khoản, thông qua dự thảo Cương lĩnh do báo Tia lửa dự thảo với một phiếu trắng (chỉ sửa đổi một số ít từ ngữ). Trong quá trình thảo luận, vấn đề được tranh luận gay gắt nhất là vấn đề chuyên chính vô sản. Một số đại biểu phản đối đề cập điểm này trong Cương lĩnh của Đảng với căn cứ là trong Cương lĩnh của các đảng xã hội ở Tây Âu đều không đề cập vấn đề này. Ngoài ra, Đại hội còn thảo luận vấn đề dân tộc và vấn đề nông dân. Một số đại biểu phản đối đưa quyền tự trị dân tộc vào Cương lĩnh của Đảng; một số đại biểu khác bề ngoài không phản đối tự quyết dân tộc, nhưng đồng thời lại nêu cái gọi là "tự trị văn hóa dân tộc", với mục đích lấy "tự trị văn hóa dân tộc" để thay thế cho tự quyết dân tộc. Còn có một số đại biểu không đồng ý đưa vấn đề nông dân vào Cương lĩnh của Đảng. Họ phủ định tính cách mạng của nông dân, phản đối liên minh công nông. Cương lĩnh mà Đại hội thông qua là một cương lĩnh mácxít, là một văn kiện lịch sử quan trọng của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga. Cương lĩnh chỉ rõ, cương lĩnh cao nhất của Đảng là thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chuyên chính vô sản để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; cương lĩnh thấp nhất, tức là nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng, xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thực hiện chế độ làm việc 8 giờ, thực hiện các dân tộc hoàn toàn bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc, xóa bỏ triệt để tàn dư của chế độ nông nô ở nông thôn.


Trong quá trình thảo luận và thông qua Cương lĩnh, giữa các đại biểu báo Tia lửa đã có những khác biệt. Điều 1 mà Lênin nêu là, tất cả những người thừa nhận Cương lĩnh của Đảng, giúp đỡ Đảng về mặt vật chất và tham gia một tổ chức đảng đều có thể trở thành đảng viên; còn điều khoản mà Martov nêu tuy cho rằng điều kiện bắt buộc của đảng viên là thừa nhận Cương lĩnh của Đảng, giúp đỡ Đảng về vật chất, nhưng không cho rằng phải tham gia một tổ chức đảng. Đây là một sự khác biệt về mặt nguyên tắc. Lênin cho rằng, nếu đảng viên không tham gia một tổ chức đảng, thì đảng không thể trở thành đội tiên phong có tổ chức, có kỷ luật, có thể chiến đấu của giai cấp công nhân, mà chỉ có thế là đảng nghị viện rời rạc giống như Quốc tế II. Điều khoản của Martov về cơ bản là lấy từ Điều lệ Đảng Dân chủ xã hội Đức. Do sự ủng hộ của một số phần tử không kiên định của báo Tia lửa, Đại hội đã thông qua điều khoản của Martov. Tuy nhiên, đây chỉ là thắng lợi tạm thời mà những phần tử theo chủ nghĩa cơ hội tạm thời giành được. Khi thảo luận những phần khác của Điều lệ Đảng, những nguyên tắc mà Lênin nêu ra đều được thông qua.


Khi bầu cơ cấu lãnh đạo của Đảng, do bảy người theo chủ nghĩa cơ hội1 (Năm phẩn từ phái "Bund" và hai phần tử "phái kinh tế" (ND.)) rời khỏi đại hội, Lênin và những người ủng hộ Người đã giành được đa số phiếu. Ba ủy viên Trung ương được bầu ra đều là những người ủng hộ Lênin. Những người được bầu vào Ban Biên tập của báo Tia lửa - cơ quan ngôn luận của Đảng là Lênin, Plekhanov và Martov, song Martov từ chối chức vụ này. Vậy là, những người ủng hộ Lênin liền được gọi là "phái đa số" (tiếng Nga là "Bônsêvích"), những người phản đối Lênin do Martov đứng đầu được gọi là "phái thiểu số" (tiếng Nga là "Mensêvích")2 (Không lâu sau Đại hội lần thứ II, Plekhanov trở thành Mensêvích). Như vậy, Sau Đại hội lần thứ II, Đảng đã chia thành hai phái là "Bônsêvích" và "Mensêvích"3 ("Bônsêvích" và "Mensêvích" khi đó là cách gọi được đưa vào trong ngoặc kép, sau này biến thành từ ngữ thường dùng trong Đảng. Martov và những người ủng hộ ông ta cũng chấp nhận cách nói này).


Đại hội lần thứ II đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ thể hiện đường lối cách mạng chủ nghĩa Mác, đặc biệt là đưa yêu cầu xây dựng chuyên chính vô sản vào Cương lĩnh, bầu ra cơ cấu lãnh đạo Trung ương để thực hiện đường lối cách mạng do Lênin đứng đầu, từ đó mở ra một trang mới trong lịch sử phong trào cách mạng giai cấp vô sản nước Nga. Đảng Cộng sản Nga đánh dấu một chính đảng cách mạng kiểu mới khác hẳn so với đại đa số các đảng theo chủ nghĩa xét lại của Quốc tế II: Đảng Bônsêvích. Lênin là người sáng lập chính của chính đảng kiểu mới này. Sau này Lênin nói: "Chủ nghĩa Bônsêvích là một trào lưu chính trị, tồn tại như một chính đảng bắt đầu từ năm 1903"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.39, tr.4).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:04:58 am
3. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga: sáng tạo vĩ đại về lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa của Lênin và Đảng Bônsêvích

Sau khi Đảng Bônsêvích thành lập không lâu đã phát động và lãnh đạo cách mạng Nga năm 1905 - 1907. Đây là cuộc cách mạng dân chủ vô sản đầu tiên trong lịch sử nước Nga. Đảng Bônsêvích kịp thời tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ III vào tháng 4 năm 1905, thông qua đường lối sách lược cách mạng dân chủ đúng đắn. Điểm chủ yếu là: cách mạng phải kiên trì sự lãnh đạo của giai cấp vô sản; nông dân là quân đồng minh đáng tin cậy của giai cấp vô sản; sau khi cách mạng dân chủ thành công phải lập tức quá độ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa1 (Đại hội đại biểu lần này là do Đảng Bônsêvích tự triệu tập. Đại hội đã sửa đổi Điều lệ Đảng, thông qua điều khoản liên quan đến điều kiện trở thành đảng viên trong Điều lệ Đảng được Lênin nêu ra tại Đại hội lần thứ II. Đại hội còn cải tổ cơ cấu lãnh đạo của Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ưang do Lênin đứng đầu). Sau này, Lênin đã trình bày toàn diện đường lối sách lược này trong tác phẩm nổi tiếng Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ. Cách mạng tuy thất bại, song Đảng và giai cấp vô sản được thử thách và rèn luyện trong cách mạng. Đại biểu công nhân - Xôviết - được quần chúng công nhân sáng tạo trong quá trình cách mạng không chỉ là cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, mà còn là manh nha của chuyên chính dân chủ công nông, là hình mẫu của chính quyền Xôviết. Lênin gọi cuộc cách mạng năm 1905 - 1907 là một lần tổng diễn tập của cách mạng năm 1917. Người nói: "Không có cuộc 'tổng diễn tập' năm 1905, cách mạng tư sản tháng Hai năm 1917 và cách mạng giai cấp vô sản tháng Mười không thể thực hiện được"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.294).


Tháng 2 năm 1917, nhân dân Nga giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai, lật đổ sự thống trị của chuyên chính Sa hoàng, thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn đầu tiên trong mục tiêu chiến lược của Đảng Bônsêvích. Tuy nhiên, thành quả của cách mạng lại rơi vào tay chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản1 (Sau Cách mạng Tháng Hai, nước Nga xuất hiện cục diện hiếm gặp trong lịch sử là "hai chính phủ cùng tồn tại", một là Xôviết đại diện cho công nhân, một là chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản, trong khi đó những người Mensêvích và người của Đảng Cách mạng Xã hội chiếm đa số trong Xôviết lại ủng hộ chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản). Chính phủ này kiên trì đòi đánh tiếp cuộc chiến tranh đế quốc - Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng thời từ chối giải quyết vấn đề ruộng đất. Lênin và Đảng Bônsêvích đã nêu rõ, phải giải quyết triệt để nhiệm vụ cách mạng dân chủ tư sản, đồng thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Tháng 4 năm 1917, Lênin đề ra Luận cương tháng Tư nổi tiếng. Văn kiện có ý nghĩa lịch sử này đã nêu ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng Bônsêvích là từ cách mạng dân chủ tư sản quá độ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đưa ra phương châm, chính sách của cương lĩnh kinh tế chính trị cho giai đoạn lịch sử cách mạng này. Luận cương tháng Tư còn nói, hình thức tốt nhất của tổ chức chính quyền vô sản Nga không phải là nước cộng hòa với chế độ nghị viện, mà là "nước cộng hòa Xôviết đại diện cho công nhân, cố nông, nông dân trong cả nước từ dưới lên trên"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.29, tr.115). Đây là mô hình nhà nước do Lênin sáng tạo dựa theo Công xã Pari, là kết luận có được nhờ tổng kết hai cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga, là bước phát triển mới của học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác. Sau khi văn kiện này ra đời đã gặp phải sự chỉ trích của các chính đảng khác, trong nội bộ Đảng Bônsêvích cũng có ý kiến phản đối. Ủy viên Trung ương kiêm Ủy viên Ban Biên tập báo Sự thật thời kỳ đó Kamenev cho rằng nhiệm vụ của cách mạng tư sản Nga vẫn chưa hoàn thành, điều kiện tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa chín muồi. Ông phủ định chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi ở nước Nga. Do đó, ông phản đối việc đoạn tuyệt với chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản, ủng hộ những kiến nghị của Mensêvích nhằm giám sát chính phủ lâm thời. Một lãnh đạo Đảng quan trọng khác là Rykov cũng phản đối Luận cương tháng Tư, cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa nên được thực hiện ở những nước phát triển. Trải qua một quá trình làm việc tỉ mỉ, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 7 Đảng Bônsêvích tổ chức vào tháng 4, Luận cương tháng Tư cuối cùng đã nhận được sự tán đổng trong toàn Đảng.


Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1917, chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản do kiên trì chủ nghĩa đế quốc trong đối  ngoại và tiếp tục trấn áp quần chúng cách mạng trong đối nội mà ba lần bị rơi vào khủng hoảng. Ba cuộc khủng hoảng này, đặc biệt là cuộc khủng hoảng lần thứ ba xảy ra vào tháng 7 cho thấy, tuyệt đại đa số quần chúng công nông vì hoàn toàn thất vọng với chính phủ lâm thời mà đã đứng về phía Bônsêvích, điều kiện cách mạng đã chín muồi. Bằng hình thức này, Đảng Bônsêvích đã quyết đoán phát động khởi nghĩa vũ trang tháng Mười ở Peterburg, giành được thắng lợi vĩ đại.


Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là thành quả vĩ đại nhờ Đảng Bônsêvích và lãnh tụ Lênin dũng cảm sáng tạo lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác. Mác - Ăngghen trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do đã đưa ra quy luật chủ nghĩa tư bản tất sẽ diệt vong và chủ nghĩa xã hội tất sẽ thắng lợi. Họ đồng thời cũng cho rằng có đủ điều kiện để chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Mác đã chỉ rõ trong "Lời nói đầu" của tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị rằng: "Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình, thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân của xã hội cũ"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.33). Thực chất của luận điểm này là chỉ quy luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất"; "nếu tính chất quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất thì đó là điều kiện cơ bản của cách mạng xã hội nhằm thay đổi quan hệ sản xuất"2 (Chu Tân Thành: Nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Nxb. Đại học Công nghiệp). Theo Mác - Ăng ghen, trong một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển đương thời, quan hệ sản xuất đã trở thành vật cản sự phát triển của lực lượng sản xuất, điều kiện khách quan để chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản đã có. Ở những nước đó, không những sản xuất đại công nghiệp hiện đại hóa chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, số người thuộc giai cấp vô sản chiếm đại đa số trong dân số cả nước, mà sức sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ, đạt tới trình độ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể "tạo địa bàn đầy đủ". Do đó, Mác - Ăngghen cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xảy ra ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đồng thời, Ăngghen chỉ ra tại Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản: nhờ thị trường thế giới do chủ nghĩa tư bản xây dựng nên "kết nối chặt chẽ nhân dân các nước trên toàn cẩu, đặc biệt là nhân dân các nước tiến bộ, để nhân dân mỗi nước đều nhận được ảnh hưởng từ những vấn đề phát sinh tại nước khác"3 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.l, tr.241), do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đồng thời nổ ra ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển mới có thể giành được thắng lợi. Ăngghen cho đến trước khi từ trần vẫn kiên trì quan điểm này. Trong phần lời dẫn bản tiếng Anh của cuốn Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, xuất bản năm 1892, ông nói: "Sự thắng lợi của giai cấp công nhân châu Âu không chỉ quyết định bởi nước Anh. Ít nhất cần sự nỗ lực của cả ba nước Anh, Pháp, Đức mới có thể bảo đảm được thắng lợi"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.718).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:05:44 am
Lênin đã đột phá lý luận của Mác - Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới của thời kỳ đầu thế kỷ XX. Người chỉ rõ, trong thời đại chủ nghĩa tư bản tự do phát triển thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, tức là chủ nghĩa đế quốc, do quy luật bất cân bằng của sự phát triển về kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản, và cục diện quốc tế do Chiến tranh thế giới thứ nhất tạo thành, chủ nghĩa xã hội có thể giành được thắng lợi trước tiên ở một mắt xích mỏng yếu trong thế giới tư bản chủ nghĩa, trong số ít, thậm chí trong duy nhất một quốc gia tư bản chủ nghĩa. Lênin còn chỉ rõ thêm, về cơ bản do lý do tương tự, chủ nghĩa xã hội không thể giành thắng lợi đồng thời ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa. Trong bài "Bàn về khẩu hiệu liên bang châu Âu" viết năm 1915, Lênin chỉ rõ, "kinh tế và chính trị phát triển không đồng đều là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó có thể rút ra kết luận: Chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi trước tiên ở một số ít, thậm chí chỉ ở một nước tư bản chủ nghĩa"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.26, tr.446). Một năm sau đó, trong bài "Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản", Người nói, "sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở các quốc gia rất không đồng đều. Hơn nữa, trong sản xuất hàng hóa cũng chỉ có thể như vậy. Từ đó rút ra một kết luận tất yếu: Chủ nghĩa xã hội không thể cùng lúc giành thắng lợi ở mọi quốc gia"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.30, tr.173). Đây là một lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa mới mẻ. Điều này chứng minh rõ ràng rằng, lý luận chủ nghĩa Mác là một lý luận phát triển không ngừng cùng với sự phát triển của thời đại.


Từ những lý luận trên, Lênin phân tích cụ thể tình hình nước Nga. Người cho rằng, tuy thời kỳ đó nước Nga chỉ là một quốc gia tư bản chủ nghĩa trung bình, sản xuất công nghiệp chỉ chiếm khoảng 40% nền kinh tế quốc dân, tổng số công nhân (căn cứ theo tư liệu gần đây các học giả Nga cung cấp) chỉ khoảng 13 triệu người (trong đó 2,8 triệu người là công nhân sinh ra trong gia đình có truyền thống công nhân, số còn lại là công nhân thế hệ đầu tiên vừa rời bỏ nông thôn), chiếm 7% dân số cả nước. Tuy số lượng người thuộc giai cấp vô sản ở Nga ít, song phân bố tương đối tập trung (khoảng 50% công nhân tập trung ở những xí nghiệp lớn có quy mô trên 1.000 người). Giai cấp vô sản Nga bị bóc lột nhiều hơn giai cấp vô sản ở các nước châu Âu khác. Công nhân Nga chịu sự bóc lột và áp bức song trùng của nhà tư bản và địa chủ phong kiến. Theo pháp luật thời kỳ đó, người công nhân đến tuổi mỗi ngày lao động 11,5 giờ. Lương tháng của công nhân, lấy nhà máy Putilov ở Peterburg năm 1904 làm ví dụ: Công nhân bình thường là 48,46 rúp, đốc công là 59,47 rúp, công nhân làm công việc chân tay chỉ có 18,59 rúp, trong khi chi phí sinh hoạt thấp nhất của công nhân nam mỗi tháng là 21 rúp, công nhân nữ là 17 rúp, gia đình công nhân là từ 32-38 rúp2 (Tham khảo Danilov, Kosolina: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2002, tr.24-26). Có thể thấy tình hình kinh tế của công nhân rất ảm đạm. Theo Lênin, điều kiện tiền đề của cách mạng xã hội chủ nghĩa có chín muồi hay không không chỉ tính đến điều kiện kinh tế, mà còn phải tính đến điều kiện chính trị. Tuy số lượng người thuộc giai cấp vô sản Nga ít, song phân bố tương đối tập trung, tính tổ chức và tính cách mạng tương đối mạnh, liên hệ mật thiết với đông đảo nông dân, quan trọng hơn là có sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng trưởng thành - Đảng Bônsêvích. Những điểm này đều là ưu thế riêng của giai cấp công nhân Nga. Lênin còn nhận thấy, tình hình quốc tế và trong nước rất có lợi cho cách mạng. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã diễn ra 3 năm, gây ra nhiều thảm họa nghiêm trọng cho nước Nga. Tuy nhiên, cho dù Sa hoàng hay chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản sau này đều quyết tâm tiến hành cuộc chiến tranh đế quốc này đến cùng; mà đương thời mọi chính đảng của giai cấp tiểu tư sản đều ủng hộ giai cấp tư sản. Chỉ có giai cấp vô sản và chính đảng của giai cấp vô sản kiên quyết phản đối cuộc chiến tranh này, do đó nhận được sự ủng hộ của quần chúng cách mạng trong cả nước. Từ góc độ quốc tế, hai tập đoàn quốc gia đế quốc chủ nghĩa đấu tranh với nhau trong cuộc chiến tranh này đã bị suy yếu về lực lượng, khiến cho giai cấp vô sản nước Nga có khả năng giành được thắng lợi cách mạng trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã bị suy yếu này. Trong một bài viết vào tháng 8 năm 1917, Lênin nói: "Chiến tranh 3 năm qua đã đẩy chúng ta tiến lên 30 năm"; "chiến tranh dường như đã đẩy nhanh sự phát triển của tình hình, làm sâu sắc thêm khủng hoảng tư bản chủ nghĩa khiến cho người ta khó tin được"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.32, tr.108-109). Thời kỳ đó, một số người theo chủ nghĩa giáo điều trong đội ngũ những người theo chủ nghĩa xã hội thể hiện sự hoài nghi và phản đối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính quyền mà giai cấp vô sản giành được ở nước Nga. Họ cho rằng Lênin là "người theo chủ nghĩa dân túy", công kích phương châm cách mạng xã hội chủ nghĩa của Lênin và Đảng Bônsêvích là "không tưởng của chủ nghĩa mạo hiểm". Tuy nhiên, Lênin kiên định và quyết đoán cho rằng, không thể khư khư giữ lấy những giáo điều của chủ nghĩa Mác, mà phải nắm bắt tình hình có lợi, phát động giai cấp vô sản giành chính quyền vào thời điểm thích hợp.


Đối với tư tưởng chiến lược trọng đại và lựa chọn lịch sử vĩ đại này, về sau Lênin đã trình bày rất rõ ràng trong bài "Bàn về cách mạng nước ta". Trong bài viết, Người thừa nhận, cách mạng xã hội chủ nghĩa cần có cơ sở kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định; song Người cho rằng, xuất phát từ tình hình thực tế của nước Nga có thể thay đổi trình tự phát triển lịch sử thông thường: Trước tiên giành chính quyền, sau đó xây dựng văn minh vật chất. Người viết: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần một trình độ văn hóa nhất định, tại sao chúng ta không thể bằng biện pháp cách mạng để đạt được trình độ nhất định này trước, sau đó trên cơ sở chính quyền công nông và chế độ Xôviết đuổi kịp nhân dân các nước khác?"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.271-372). Người còn tổng kết: "Quy luật thông thường của lịch sử phát triển của thế giới không những không loại trừ tính đặc thù của những giai đoạn phát triển cá biệt biểu hiện trong hình thức hoặc trình tự phát triển, mà còn lấy đó làm tiền đề"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.370). Lênin cho rằng, lý luận này chứng minh: "Sự phát triển và hoàn thiện của chủ nghĩa xã hội khoa học luôn đi cùng với sự phê phán chủ nghĩa giáo điều". "Sự kiên trì theo đuổi và vận dụng trong thực tiễn đối với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học phải kết hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, tình hình đất nước cụ thể và thực tiễn cụ thể. Chỉ như vậy mới có thể thực sự phát huy vai trò chỉ đạo của lý luận khoa học, chủ nghĩa xã hội khoa học mới có sức sống"3 (Lý Thận Minh: "Nắm vững toàn diện nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học", Nhân dân nhật báo, ngày 21-1-2005). Có thể thấy rằng, nếu không có sự sáng tạo của Lênin và Đảng Bônsêvích về lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Cách mạng Tháng Mười Nga không thể giành thắng lợi.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:07:16 am
II. THÀNH TÍCH HUY HOÀNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ THỜI KỲ ĐẦU CẦM QUYỀN

1. Những tìm tòi thành công của Đảng về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở quốc gia lạc hậu

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bônsêvích trở thành đảng cầm quyền, về vấn đề làm thế nào bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, Đảng không có kinh nghiệm thực tiễn, biện pháp duy nhất là tìm tòi dựa vào lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác, kết hợp với thực tế của nước Nga.


Trong giai đoạn đầu xây dựng chính quyền Xôviết, Đảng Bônsêvích không phải là thống trị bằng một đảng, mà liên kết với Đảng Cách mạng xã hội cánh tả của chính đảng cách mạng tiểu tư sản. Chính đảng này đại diện cho lợi ích của nông dân Nga, nhận được sự ủng hộ của nông dân Nga. Trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Đảng Bônsêvích đã hợp tác thành công với những người thuộc Đảng Cách mạng xã hội cánh tả phân hóa từ Đảng Cách mạng xã hội. Sau Cách mạng Tháng Hai, họ phản đối liên kết với giai cấp tư sản, phản đối tham gia chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản, chủ trương tất cả chính quyền thuộc về Xô viết. Họ đã tham gia bộ máy lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa vũ trang Tháng Mười Pêtrôgrát - Đại hội Đại biểu lần thứ II của Ủy ban Cách mạng quân sự và Xôviết toàn Nga. Tháng 12 năm 1917, họ chính thức thành lập chính đảng độc lập - Đảng Cách mạng xã hội cánh tả, có 7 đảng viên được bổ nhiệm chức vụ bộ trưởng trong chính quyền Trung ương - Ủy ban nhân dân, còn rất nhiều người đảm nhiệm chức vụ thứ trưởng và lãnh đạo các địa phương, thậm chí trong "Cheka"1 (Gọi tắt của tiếng Nga "ЧК" (Всероссийская чрезвычайная комиссия): Ủy ban công tác đặc biệt thanh trừ phần tử phản cách mạng toàn Nga (ND.)) có một người thuộc Đảng Cách mạng xã hội cánh tả đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch. Họ không chỉ hữu danh vô thực, mà có chức có quyền. Tháng 3 năm 1918, do phản đối việc ký kết "Hòa ước Brest", họ đã rời khỏi Chính phủ để bày tỏ kháng nghị. Tuy nhiên, những người thuộc Đảng Cách mạng xã hội cánh tả vẫn làm việc ở một số bộ ngành trong Chính phủ (bao gồm cả "Cheka") cũng như ở Trung ương và Xôviết các cấp ở địa phương. Đến tháng 7 năm 1918, do Đảng Cách mạng xã hội cánh tả phản đối chính sách nông thôn của Đảng Bônsêvích bằng phương thức khủng bố, giết chết đại sứ Đức tại Nga, tiếp đến phát động những cuộc phản loạn có vũ trang phản đối Chính phủ ở Mátxcơva, từ đó làm rạn nứt hoàn toàn quan hệ của hai đảng. Tuy thời gian hợp tác giữa Đảng Bônsêvích và Đảng Cách mạng xã hội cánh tả không dài, song lại là một trang quan trọng trong quá trình tìm tòi xây dựng chính quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Bônsêvích.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bônsêvích lập tức chuyển trọng tâm công tác sang xây dựng kinh tế. Đảng Bônsêvích nhận thấy rõ rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia có nền kinh tế  kém phát triển như nước Nga, thì phải trải qua một thời kỳ quá độ, áp dụng một loạt các biện pháp quá độ. Được sự phân công của Trung ương Đảng, Lênin viết "Đề cương về những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết". Ngày 26 tháng 4 năm 1918, Hội nghị Trung ương của Đảng đã thảo luận và thông qua Đề cương này, đồng thời quyết định công khai ban hành Đề cương này với danh nghĩa Lênin soạn thảo, khi ban hành, lấy tiêu đề là Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xôviết. Đây là một văn kiện cương lĩnh quan trọng của Đảng Bônsêvích, phản ánh những tìm tòi đầu tiên của Đảng đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Lênin nói rõ trong văn kiện này: Nhiệm vụ trung tâm chủ yếu trước mắt của giai cấp vô sản Nga đã chuyển từ "giành lấy nước Nga" sang "quản lý nước Nga"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.155, 274-275, 281-282). Lênin nói, nước Nga quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Chính sách của Đảng phải xuất phát từ đặc điểm này. Những thành phần kinh tế này gồm có: "(1) Kiểu gia tộc, tức là kinh tế nông dân, đa số phụ thuộc vào thiên nhiên; (2) Sản xuất tiểu thương phẩm (ở đây bao gồm đại đa số nông dân bán lương thực); (3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; (4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước; (5) Chủ nghĩa xã hội"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.155, 274-275, 281-282). Trong đó, chiém ưu thế là sản xuất tiểu thương phẩm, còn "thế lực tự phát của giai cấp tiểu tư sản là kẻ thù chủ yếu của chủ nghĩa xã hội nước ta"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.155, 274-275, 281-282). Do đó, Lênin cho rằng, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của chính quyền Xô viết trong phương diện xây dựng kinh tế là "tiếp tục dùng Hồng quân để tấn công tư bản", không phải là tiếp tục tiến hành quốc hữu hóa, mà là ra sức phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là "sự chuẩn bị về vật chất đầy đủ nhất của chủ nghĩa xã hội, là bước đầu tiên của chủ nghĩa xã hội", "không thông qua 'bước đầu tiên' mà chúng ta chưa đạt tới này thì không thể bước qua cánh cửa của chủ nghĩa xã hội"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.155, 274-275, 281-282). Đồng thời, còn phải giám sát việc thống kê toàn dân về sản xuất và phân phối sản phẩm. Chỉ có thể thông qua biện pháp này để thực hiện sự lãnh đạo của kinh, tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tiểu thương phẩm, thực hiện quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng giúp cho giai cấp công nhân học được bản lĩnh quản lý. Lênin còn đặc biệt nhấn mạnh, muốn xây dựng kinh tế  xã hội chủ nghĩa, phải đặt việc nâng cao năng suất lao động lên vị trí hàng đầu. Đây là điều kiện căn bản nhất để kinh tế xã hội chủ nghĩa chiến thắng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Biện pháp cụ thể để nâng cao năng suất lao động là tổ chức các cuộc thi lao động, thực hiện trả lương theo sản phẩm, tăng cường kỷ luật lao động, phản đối chủ nghĩa bình quân, ngoài ra đồng thời với việc bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật của mình, còn phải tận dụng triệt để chuyên gia kỹ thuật của giai cấp tư sản và học tập kinh nghiệm quản lý xí nghiệp hiện đại của họ. Lênin nói: "Nếu không lợi dụng kỹ thuật và văn hóa mà chủ nghĩa tư bản có được thì không thể thực hiện chủ nghĩa xã hội"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.289). Người còn nói: "Có thể thực hiện chủ nghĩa xã hội hay không phụ thuộc vào việc chúng ta kết hợp có tốt hay không giữa chính quyền Xôviết và tổ chức quản lý Xôviết với những cái tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.170-171).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:07:56 am
Kế hoạch trên tuy còn chưa hoàn chỉnh, song đã phản ánh những tìm tòi bước đầu về quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Bônsêvích xuất phát từ tình hình trong nước ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Tuy nhiên, trọng điểm công tác chuyển dịch sang xây dựng kinh tế không thể chỉ dựa vào mong muốn tốt đẹp là có thể thực hiện được. Kế hoạch nêu trên của Đảng Bônsêvích đang được tiến hành thì xảy ra nội chiến. Các thế lực phản động trong nước phát động tiến công vũ trang đối với chính quyền Xô viết vừa ra đời, với mục đích giết chết chính quyền từ trong trứng nước. Trước tình thế nghiêm trọng này, để bảo vệ thành quả của thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bônsêvích đã áp dụng một loạt những chính sách kinh tế - xã hội nghiêm ngặt mà sau này được gọi là "Cộng sản thời chiến". Nội dung hạt nhân của chính sách này là thực hiện "chế độ trưng thu lương thực dư thừa", yêu cầu nông dân giao nộp toàn bộ lương thực thừa. "Tất cả những ai có lương thực dư thừa mà không giao nộp cho trạm lương thực thì bị tuyên bố là kẻ thù của nhân dân, bị phạt tù giam 10 năm trở lên, tịch thu toàn bộ tài sản, vĩnh viễn bị trục xuất khỏi thôn xóm"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđđ, q.4, tr.295). Để trưng thu lương thực, Đội trưng thu lương thực có vũ trang và Ủy ban bần nông được thành lập. Đồng thời với việc thực hiện "chế độ trưng thu lương thực dư thừa", đẩy nhanh tiến trình quốc hữu hóa xí nghiệp, không chỉ bao gồm xí nghiệp lớn, còn bao gồm cả xí nghiệp cỡ vừa và cỡ nhỏ. Tất cả các xí nghiệp này đều giao cho lãnh đạo Ủy ban Kinh tế quốc dân tối cao và các cục quản lý trực thuộc. Chính sách "Cộng sản thời chiến" còn bao gồm cả tiêu diệt thương mại tư nhân trong toàn quốc; tiến hành phân phối thống nhất đối với tất cả hàng tiêu dùng thiết yêu; thực hiện chế độ trả lương bằng vật chất, v.v...


Chính sách "Cộng sản thời chiến" đã phát huy vai trò tích cực không thể xem nhẹ để giành thắng lợi trong cuộc nội chiến, do đó được Lênin gọi là "một loại công lao"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđđ, q.4, tr.502). Nhưng nếu coi đó là một con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì hoàn toàn sai lầm. Thời kỳ đó có một số người trong Đảng Bônsêvích, bao gồm cả một số lãnh đạo, trong quá trình thực hiện chính sách "Cộng sản thời chiến" đã bị hoang tưởng, cho rằng chính sách mạnh mẽ này không những có thể bảo vệ chính quyền Xôviết mới ra đời, mà còn có thể trực tiếp xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Họ vận dụng một cách giáo điều một số tưởng tượng của Mác - Ăngghen về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai, coi "Cộng sản thời chiến" là một hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó xuất hiện tình trạng như sau: ban đầu là chính sách "Cộng sản thời chiến" để ứng phó với nội chiến, nhưng đến cuối năm 1920 khi chiến tranh sắp kết thúc lại bước vào thời kỳ cao trào triển khai. Điều này vừa phản ánh việc một số người trong Đảng thiếu nhận thức khoa học về chủ nghĩa cộng sản, đồng thời cũng phản ánh việc lãnh đạo Đảng Bônsêvích do Lênin đứng đầu thiếu nhận thức đầy đủ và biện pháp cụ thể về việc làm thế nào chuyển từ phương thức làm việc áp đặt ở thời chiến sang phương thức làm việc thông qua quản lý ở thời bình, do đó cần phải tìm tòi thêm nữa. Chính sách "Cộng sản thời chiến" không quan tâm đến điều kiện khách quan, tiếp tục quan tâm đến kết quả thực hiện, dẫn đến sự bất bình trong đông đảo nông dân và công nhân, thậm chí gây ra binh biến trong quân đội.


Trước nguy cơ nghiêm trọng về kinh tế, chính trị này, Đảng Bônsêvích đã triệu tập Đại hội Đại biểu lần thứ X vào tháng 3 năm 1921. Trong Báo cáo chính trị, Lênin đã tổng kết những sai lầm và bài học của Đảng trong việc lãnh đạo đất nước thời kỳ quá độ từ thời chiến sang thời bình, nêu quan điểm phải ngay lập tức xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực dư thừa, thay vào đó là thuế lương thực. Dựa trên Báo cáo của Lênin, Đại hội Đại biểu đã thông qua Nghị quyết tương ứng. Đây là một chính sách kinh tế mới, là một chính sách kinh tế "rõ ràng có thể trở thành chính sách kinh tế dễ được nông dân chấp nhận"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.41, tr.68) mà Đảng Bônsêvích tìm ra.


Thuế lương thực là nội dung hạt nhân của chính sách kinh tế mới. Nông dân không những giảm nhẹ được gánh nặng mà còn có thể tự do phân phối lương thực dư thừa. Ngoài ra, chính sách kinh tế mới còn bao gồm việc đưa ra chính sách cho phép tư nhân sở hữu xí nghiệp vừa và nhỏ; cho phép nông dân cho thuê đất và thuê nhân công; khôi phục lại thương mại tự do và xây dựng quan hệ tiền tệ thương phẩm hóa; thực hiện chế độ chuyển nhượng và chế độ cho thuê, v.v... Thực chất của chính sách kinh tế mới là: (1) Dựa vào lực đẩy là lợi ích vật chất để kích thích đông đảo người lao động, trước tiên là tính tích cực trong sản xuất của nông dân; (2) Lợi dụng quan hệ thương mại, thị trường và hàng hóa để xây dựng mối liên hệ về kinh tế giữa thành thị và nông thôn; (3) Thừa nhận nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát huy vai trò tích cực của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với kinh tế hàng hóa và các thành phần kinh tế; (4) Cải thiện phương thức quản lý kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh, bảo đảm nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện chính sách kinh tế mới đã nâng cao tính tích cực trong sản xuất của nông dân và đông đảo nhân dân lao động, thúc đẩy có hiệu quả việc khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân.


Chính sách kinh tế mới là thử nghiệm thành công của Lênin và Đảng Bônsêvích trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, cũng là sự phát triển quan trọng của lý luận chủ nghĩa Mác. Chính sách kinh tế mới đã chứng minh sự trưởng thành thêm một bước của Đảng Bônsêvích.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:09:00 am
2. Sự hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội Xtalin - một cuộc đổi mới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lãnh đạo

Cuối thập kỷ 20 đầu thập kỷ 30 thế kỷ XX, xã hội Liên Xô nảy sinh những thay đổi to lớn. Từ năm 1928, trong vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lần lượt áp dụng những phương châm và chính sách mới. Chính sách kinh tế mới tạm dừng, đồng thời từng bước thiết lập nên một mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới. Do mô hình chủ nghĩa xã hội được thiết lập dưới sự lãnh đạo của Xtalin, nên mọi người gọi đơn giản là "mô hình Xtalin". Đặc điểm chủ yếu của mô hình này là tập trung cao độ về kinh tế, nhà nước thực hiện chế độ công hữu đối với tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất; thực hiện kinh tế  kế hoạch, thực hiện thể chế quản lý tập trung, quản lý kinh tế bằng biện pháp hành chính; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, về chính trị, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Đảng trực tiếp tham gia quản lý công việc của đất nước; thực hiện lập pháp, hành chính, tư pháp tam quyền hợp nhất; thực hiện chế độ bổ nhiệm đối với cán bộ các cấp; lãnh đạo cao nhất trong Đảng, chính quyền, quân đội tập trung vào một người; thiếu dân chủ thực sự và chế độ giám sát trong và ngoài Đảng, về tư tưởng, kiên trì địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, quyết không đa nguyên hóa ý thức hệ. Ba lĩnh vực nói trên liên quan mật thiết với nhau, bổ trợ lẫn nhau. Mô hình chủ nghĩa xã hội với đặc trưng chủ yếu là tập trưng cao độ ở giai đoạn mới hình thành còn chưa hoàn chỉnh, sau này trong quá trình thực hiện và vận hành không ngừng phát triển, hoàn thiện, cuối cùng trở thành một hệ thống tương đối hoàn chỉnh.


Sự hình thành của mô hình Xtalin là sự sáng tạo về chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang. Chính sách kinh tế mới thực hiện từ năm 1921 không nghi ngờ gì nữa chính là thử nghiệm thành công của Lênin và Đảng Bônsêvích trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đúng như Đặng Tiểu Bình đã nói: "Có thể tư duy của Lênin tương đối tốt, thực hiện một chính sách kinh tế mới, nhưng sau này mô hình Liên Xô đã trở nên cứng nhắc"1 (Tuyển tập Đặng Tiểu Bình, Sđd, q.3, tr.139). Song cũng phải thừa nhận rằng, do Lênin qua đời quá sớm, chưa kịp suy nghĩ về rất nhiều vấn đề. Trước tiên, về vấn đề thời hạn mà Chính sách kinh tế mới phải thực hiện, Lênin từng nói như sau trong Báo cáo tại Đại hội lần thứ X năm 1921 của Đảng: "Đồng chí Osinski đã nói đến vấn đề thời hạn (Chính sách kinh tế mới), về điểm này tôi xin bảo lưu. Cái gọi là "nghiêm túc và lâu dài" chính là 25 năm. Tôi không bi quan như vậy. Tôi không muốn dự báo phải mất bao nhiêu năm, nhưng tôi cho rằng những điều đồng chí ấy nói ít nhiều có sự bi quan. Chúng ta có thể dự báo 5-10 năm đã giỏi lắm, thông thường ngay cả tình hình trong 5 tuần chúng ta cũng đã dự báo không chính xác"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.41, tr.139). Ngoài ra, từ quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới có thể thấy, đây không phải là một mô hình chế độ hoàn chỉnh, hay nói cách khác đây chưa phải là sơ để xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh và lâu dài của Liên Xô. Chính sách kinh tế mới tồn tại rất nhiều hạn chế và tương đối yếu. Thứ nhất, chính sách kinh tế mới chủ yếu là một loạt chính sách kinh tế hay nói cách khác chủ yếu là một loại thể chế kinh tế, nội dung chủ yếu là: thay thế chế độ trưng thu lương thực dư thừa bằng thuế lương thực, giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân, kích thích tính tích cực trong sản xuất của nông dân; mở cửa thị trường, thực hiện thương mại tự do; hủy bỏ quốc hữu hóa xí nghiệp cỡ lớn và vừa, thực hiện nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại. Thời kỳ đó Đảng vẫn chưa kịp đưa ra thể chế chính trị và thể chế văn hóa tư tưởng tương ứng, mà trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới luôn tồn tại mâu thuẫn giữa kinh doanh phân tán và điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Thứ hai, việc thực hiện chính sách kinh tế mới thiếu tính nhất quán, tồn tại hiện tượng dao động, lúc lỏng lúc chặt. Ví dụ, năm 1924 nêu ra phải xóa bỏ cửa hàng bán buôn tư nhân, thiết lập mối liên hệ giữa cửa hàng bán buôn quốc doanh và bán lẻ của tư nhân, từ đó thu hẹp phạm vi thực hiện của chính sách kinh tế mới; chính sách năm 1925 có sự điều chỉnh, không những khuyến khích sự phát triển của công thương nghiệp tư nhân, mà còn nới lỏng quan hệ phát canh thu tô ở nông thôn; năm 1926 lại thu hẹp chính sách, bắt đầu kêu gọi đấu tranh với "Nepman"1 (Trong tiếng Nga, "Нэпман" nghĩa là "những người làm nên chính sách kinh tế mới", chỉ những người làm công thương nghiệp trong thời kỳ chính sách kinh tế mới, chủ yếu là thương nhân). Thứ ba, trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, đặc biệt là giai đoạn sau, do phân hóa giai cấp giữa thành thị và nông thôn và xã hội hỗn loạn, quần chúng công nông, đặc biệt là nông dân bắt đầu có biểu hiện bất mãn đối với chính sách kinh tế mới. Những năm gần đầy, các nhà lịch sử Nga bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội đã tiến hành nghiên cứu rộng rãi về tình cảm xã hội, văn hóa xã hội và tâm lý xã hội thời kỳ chính sách kinh tế mới. Từ rất nhiều tài liệu họ phát hiện ra rằng, đại bộ phận nông dân do lưu luyến với chế độ "thôn xã" truyền thông và tư tưởng bình quân chủ nghĩa, có tâm lý chống lại chính sách kinh tế mới2 (Tham khảo Nakirdina: "Chính sách kinh tế mới của Nga trong xã hội học" (tiếng Nga), trích từ Tạp chí Lịch sử Tổ quốc, kỳ 4 năm 2007). Do đó, ở giai đoạn cuối khi thực hiện chính sách kinh tế mới, khi những mâu thuẫn liên quan đến những thiếu sót và tính yếu kém của bản thân chính sách kinh tế mới và những ý kiến trái chiều trong Đảng trở nên quyết liệt, khi tình hình quốc tế đối mặt với nguy cơ chiến tranh, yêu cầu một nước xã hội chủ nghĩa phải đẩy mạnh sản xuất và quốc phòng, chính sách này rất dễ bị mô hình mới khác thay thế. Mô hình Xtalin ra đời trong bối cảnh như vậy. Về mặt khách quan, đây là yêu cầu tất yếu để chế độ xã hội chủ nghĩa tiến hành đổi mới. Đương nhiên, mô hình Xtalin cũng có quan hệ với ý tưởng chủ quan của các nhà lãnh đạo thời kỳ đó.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:09:45 am
Như mọi người đều biết, không ngừng tiến hành đổi mới chế độ là yêu cầu bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đúng như Ăngghen từng nói: "Tôi cho rằng, cái gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa" không phải là thứ nhất thành bất biến, mà nên giống như mọi chế độ xã hội khác, nhìn nhận xã hội xã hội chủ nghĩa như một xã hội luôn luôn thay đổi và cải cách"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.443). Do đó, trong điều kiện lịch sử thời kỳ đó, mô hình Xtalin thay thế chính sách kinh tế mới là hoàn toàn bình thường.


Điều cần chỉ rõ là, sự hình, thành của mô hình Xtalin vừa là đòi hỏi tất yếu không ngừng đổi mới của chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng liên quan mật thiết đến truyền thống văn hóa lịch sử nước Nga và tình hình quốc tế mà nước Nga phải đối mặt thời kỳ đó.


Thứ nhất, trước cách mạng, nước Nga không phát triển về kinh tế chính trị cũng lạc hậu. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng "thôn xã" đã tồn tại từ lâu, nông dân ít có khái niệm về tư hữu ruộng đất. Do giai cấp vô sản tương đối yếu, trong lịch sử nước Nga chưa từng có những hội nghị giống như các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, chế độ dân chủ tư bản chủ nghĩa chưa được phát triển đầy đủ. Trình độ giáo dục của người dân không cao, khiến cho họ không thể hiểu và quen với việc thực hiện các quyền dân chủ, mà suốt một thời gian dài chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy khiến họ dễ tiếp nhận quan điểm duy tâm lịch sử - anh hùng sáng tạo nên lịch sử. Tất cả những yếu tố này về mặt khách quan đều có lợi cho việc tiếp nhận mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ.


Thứ hai, Liên Xô ở trong tình trạng bị bao vây bởi các nước tư bản chủ nghĩa và trong điều kiện xung quanh có chiến tranh, phải tự mình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương thời, xuất phát từ tình hình trong nước hay tình hình quốc tế thì Đảng cũng phải nghiêm túc đối mặt với vấn đề "ai thắng ai". Điều đó yêu cầu Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang trong một thời gian ngắn phải thúc đẩy sản xuất và quốc phòng phát triển. Nếu không, quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên sẽ bị chủ nghĩa đế quốc nuốt chửng. Xtalin cảnh báo không chỉ một lần: Lạc hậu sẽ phải ăn đòn. Chính vì cảm giác cấp bách này khiến cho lãnh đạo Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang cảm thấy phải bằng biện pháp hành chính tập quyền cao độ để động viên nhân lực, vật lực trong cả nước, phát triển nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất bằng bất cứ giá nào, đặc biệt phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời coi đó là cơ sở xây dựng đất nước công nghiệp hóa và nông nghiệp tập thể hóa.


Cuối cùng, do hạn chế thời đại và thực tiễn, nhận thức của nhân dân về lý luận chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt được trình độ sau này, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô cũng không ngoại lệ.

Tóm lại, có thể thấy rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ của Liên Xô là sản phẩm của thời đại nhất định và hoàn cảnh nhất định. Sự hình thành của mô hình này trước tiên là một hiện tượng lịch sử. Đương nhiên, lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội của cá nhân Xtalin, bao gồm quan điểm về chủ nghĩa xã hội của ông và một số sai lầm trong sách lược đấu tranh của ông, cũng như phẩm chất và tác phong của ông cũng góp thêm một số yếu tố tiêu cực cho mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Nhưng đây là thứ yếu. Tóm lại, mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới mà Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang xây dựng nên trong thời kỳ Xtalin cầm quyền mặc dù có những điểm tệ hại nghiêm trọng (về điểm này chúng tôi bàn thêm ở phần sau), song đã có những tác dụng tích cực rất lớn trong lịch sử. Sự ra đời của mô hình này cơ bản phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội Liên Xô và tình hình tư tưởng văn hóa của nhân dân Liên Xô lúc đó. Mô hình này phản ánh chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô đương thời. Đây là mặt căn bản của mô hình này. Có thể nói rằng, sự ra đời của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử của Đảng Bônsêvích sau chính sách kinh tế mới. Trong điều kiện lịch sử thời kỳ đó, mô hình này không phải là bước lùi mà là sự sáng tạo. Không thể cho rằng sau khi mô hình này thay thế chính sách kinh tế mới, đã bị "cứng nhắc", cứng nhắc là về sau này, nếu không thì Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang không thể đạt được những thành tựu mang tính lịch sử trong những năm 1930-1940, bao gồm cả thắng lợi trong cuộc Chiến tranh vệ quốc chống phátxít.


Khi khảo sát vai trò lịch sử của mô hình Xtalin, có một vấn đề đáng để tìm hiểu: sau thắng lợi của cuộc Chiến tranh vệ quốc, phải chăng tính tích cực của mô hình này đã mất hết? Câu trả lời của chúng tôi cơ bản là phủ định. Thời kỳ đầu chiến tranh, điều kiện để Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tiếp tục đổi mới chế độ xã hội chủ nghĩa chưa chín muồi. Trước hết, xã hội Liên Xô cần được điều trị, hàn gắn vết thương chiến tranh, mà mô hình Xtalin có thể trong một thời gian ngắn điều động nhân lực, vật lực trong cả nước, nhanh chóng khôi phục nền kinh tế  trong nước; thứ hai, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc không lâu đã xảy ra Chiến tranh lạnh, phe đế quốc chủ nghĩa dần lộ diện. Liên Xô lại một lần nữa đối mặt với vấn đề "ai thắng ai", nếu không nhanh chóng khôi phục nền kinh tế quốc dân, làm cho đất nước trở nên lớn mạnh, Liên Xô sẽ vẫn bị "nuốt chửng"1 (Tham khảo Trần Chi Hoa, Thẩm Tông Vũ: "Đổi mới chế độ và Liên Xô - sự hình thành, phát triển và biến đổi của mô hình chủ nghĩa xã hội Xtalin", tạp chí Nghiên cứu Nga, Trung Á, Đông Âu, kỳ 4 năm 2003, tr.9).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:10:56 am
3. Thành tựu to lớn mà Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang giành được những năm 1930 - 1940

Trong thời kỳ cầm quyền, đặc biệt là thập kỷ 30 - 40 thế kỷ XX, Đảng Bônsêvích đã giành được những thành tựu to lớn mang tính lịch sử. Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh kịch liệt trong nội bộ vào nửa cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, mặc dù tồn tại những vấn đề khác nhau, về tổng thể vẫn là một chính đảng lãnh đạo có hiệu quả, ý chí thống nhất, mục tiêu kiên định, tràn đầy niềm tin. Nhà nước Xôviết thời kỳ đó mặc dù còn tồn tại những thiếu sót khác nhau, song về tổng thể là một nhà nước xã hội chủ nghĩa đa dân tộc gian khổ đấu tranh, đoàn kết ổn định, khí thế hừng hực, phồn vinh thịnh vượng. Nếu nói trong quá trình lịch sử 74 năm sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền có những thời kỳ phát triển thì phải kể đến thập kỷ 1930 - 1940. Những thành tựu mà Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang và Nhà nước Xôviết giành được trong thời kỳ này được cả thế giới công nhận, ngay cả những người phản đối Đảng Bônsêvích cũng không dám phủ nhận điều này. Những thành tựu đó có thể quy nạp thành những điểm sau đây:


Thứ nhất, đã thiết lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Liên Xô rộng lớn.

Trải qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928-1932), kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933-1937), cùng với việc thực hiện công nghiệp hóa và nông nghiệp tập thể hóa, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (bao gồm chế độ sở hữu nhà nước và nông trang tập thể, chế độ sở hữu hợp tác xã) đã chiếm vị trí chi phối tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Năm 1937, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 99,8% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc, chiếm 98,5% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, chiếm 100% giá trị bán lẻ hàng hóa, chiếm 99,1% thu nhập quốc dân1 (Tham khảo Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Trung ương Đàng Cộng sản Liên Xô: Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1970, q.4, t.2, tr.470). Sự thay đổi trong quan hệ sở hữu đã dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội. Giai cấp bóc lột ở thành thị và nông thôn đã bị tiêu diệt, toàn xã hội chủ yếu do giai cấp công nhân, nông dân tập thể và phần tử trí thức lao động tạo thành. Năm 1913, phần tử giai cấp bóc lột chiếm 16,3% tổng dân số nước Nga Sa hoàng, năm 1928, tỷ lệ phần tử giai cấp bóc lột so với tổng dân số cả nước giảm xuống còn 4,6%, đến khi kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ hai, phần tử giai cấp bóc lột ở thành thị và nông thôn đã không còn tồn tại. Năm 1937, giai cấp công nhân và phần tử trí thức chiếm 45,7% tổng dân số cả nước, nông dân tập thể và người làm trong lĩnh vực thủ công nghiệp hợp tác hóa chiếm 48,8%, còn lại 5,5% là nông dân cá thể và người làm trong lĩnh vực thủ công nghiệp cá thể2 (Tham khảo Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Trung ương Đàng Cộng sản Liên Xô: Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1970, q.4, t.2, tr.491). Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm vị trí chủ đạo và sự tiêu vong của giai cấp bóc lột đã tạo tiền đề cho nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Những tình hình nêu trên cho thấy, chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa đã cơ bản được xác lập ở Liên Xô.


Để thích ứng với chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, trước và sau khi kết thúc kế hoạch "5 năm lần thứ hai", chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa cuối cùng cũng được xác lập. Đặc trưng chủ yếu của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa có những điểm sau đây. Một là, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang là lực lượng lãnh đạo duy nhất trong cả nước. Tuy trong Hiến pháp Liên Xô công bố năm 1936 không quy định điều này, song nguyên tắc này được cả nước công nhận. Xtalin nói: "Người lãnh đạo của hệ thống chuyên chính vô sản là một đảng, là đảng của giai cấp vô sản, tức Đảng Cộng sản. Đảng này quyết không thể phân chia quyền lãnh đạo với chính đảng khác"1 (Xtalin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1979, quyển thượng, tr.407). Hai là, chế độ Xô viết là chế độ căn bản của đất nước. Đó là hình thức tổ chức cụ thể của chuyên chính vô sản. Chế độ này khác hoàn toàn chế độ tam quyền phân lập của nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa, giúp cho toàn thế người lao động và đại diện của họ thực hiện quyền quản lý đất nước, giải quyết những công việc của đất nước có hiệu quả. Ba là, ý thức hệ chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò chỉ đạo.


Chế độ chính trị căn bản của chủ nghĩa xã hội với ba đặc trưng chủ yếu nêu trên đã hình thành ở thời kỳ Lênin, nhưng chỉ đến thời kỳ Xtalin mới định hình.

Năm 1936, Liên Xô thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp quy định rõ Liên Xô là nhà nước xã hội chủ nghĩa công nông, cơ sở kinh tế của nhà nước là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuẵt, thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động; cơ sở chính trị của nhà nước là Xôviết đại diện cho nhân dân lao động các cấp. Việc ban hành Hiến pháp mới chúng tỏ chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội đã được xác lập ở Liên Xô, đồng thời thiết lập nên một điển hình nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.


Thứ hai, đã phát triển lực lượng sản xuất lớn, thực hiện công nghiệp hóa đất nước lấy công nghiệp nặng làm trung tâm, tăng cường quốc lực tổng hợp.

Thời kỳ đó Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất trên thế giới, bị bao vây bởi các nước tư bản chủ nghĩa. Họ luôn tìm cách tiêu diệt chính quyền giai cấp vô sản mới ra đời này. Đến giữa thập kỷ 1920, nền kinh tế  quốc dân của Liên Xô tuy đã cơ bản khôi phục, nhưng trình độ tổng thể vẫn rất thấp. Sản lượng công nghiệp toàn quốc lạc hậu hơn 50 đến 100 năm so với các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu. Xuất phát từ tình hình trong nước thời kỳ đó, Liên Xô có một phương châm quan trọng của công nghiệp hóa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Xtalin chỉ ra rằng: "Không phải phát triển bất cứ loại công nghiệp nào cũng đều là công nghiệp hóa. Trung tâm của công nghiệp hóa, cơ sở của công nghiệp hóa chính là phát triển công nghiệp nặng (nhiên liệu, kim loại, v.v...), xét đến cùng, chính là phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, phát triển ngành chế tạo của đất nước"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.8, tr.112-113). Điều này lấy lý luận cho rằng trong khi mở rộng tái sản xuất ưu tiên tăng trưởng tư liệu sản xuất của chủ nghĩa Mác làm căn cứ, căn bản phù hợp với tình hình nước Nga thời kỳ đó. Công nghiệp Liên Xô lạc hậu, nhung lại có nguồn tài nguyên phong phú, chỉ cần có lượng tư liệu sản xuất lớn là có thể phát triển tương đối nhanh, từ đó thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển, nâng cao quốc lực tổng hợp. Điều này rất có lợi cho việc chuẩn bị chiến tranh trong bối cảnh quốc tế thời kỳ đó.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:15:21 am
Một phương châm khác liên quan đến phương châm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là nhấn mạnh tốc độ cao. Xtalin không chỉ nói một lần: để tiến hành xây dựng nền kinh tế  xã hội chủ nghĩa "phải hợp lực và ra sức đẩy nhanh tốc độ", "kéo dài tốc độ là lạc hậu. Mà người lạc hậu sẽ phải ăn đòn"2 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.37). Trong thời kỳ thực hiện hai kế hoạch 5 năm, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp Liên Xô, đặc biệt là công nghiệp nặng, đạt mức cao trước nay chưa từng có. Tuy một số chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất không thực hiện được, nhưng thời kỳ đó, tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp vẫn đạt 19,2%, trong đó công nghiệp nặng là 28,5%, công nghiệp nhẹ là 11,4%; thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, tốc độ tăng trưởng bình quân của sản xuất công nghiệp đạt 11,7%, trong đó công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ lần lượt đạt 19% và 14/8%1 (Tham khảo Trần Chi Hoa (chủ biên): Đề cương lịch sử Liên Xô (1917- 1937), Nxb. Nhân dân, 1991, quyển hạ, tr.606, 619). Trong hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, sản xuất công nghiệp tăng gấp 3,5 lần, đặc biệt 80% sản phẩm công nghiệp là do những nhà máy mới thành lập hoặc cải tạo lại sản xuất ra2 (Tham khảo Danilov, Kosolina: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, Sđd, tr.165). Năm 1929-1937, thành lập mới 6.000 nhà máy sản xuất công nghiệp cỡ lớn. Đến năm 1937, sản phẩm công nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài chỉ chiếm khoảng 1%, về kỹ thuật hoàn toàn không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa3 (Tham khảo Sechinov: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, (bản tiếng Nga), Mátxcơva, tr.152). Từ Đại hội lần thứ XIV Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang quyết định coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và nhân dân toàn quốc, đến năm 1937 khi hoàn thành kế "hoạch 5 năm lần thứ hai, chỉ mất 12 năm đã cơ bản thực hiện công nghiệp hóa ở Liên Xô.


"Kỳ tích công nghiệp hóa" mà nhân dân Liên Xô sáng tạo nên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã căn bản làm thay đổi địa vị kinh tế của Liên Xô trên bản đồ kinh tế  thế giới, thu hẹp sự khác biệt về kinh tế giữa Liên Xô với các nước tư bản chủ nghĩa. Năm 1937, trình độ sản xuất công nghiệp của Liên Xô từ vị trí thứ năm thế giới và thứ tư châu Âu của năm 1913 đã lên vị trí thứ hai thế giới và thứ nhất châu Âu. Tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm công nghiệp của Liên Xô từ chỗ chiếm 4% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp toàn thế giới nâng lên 10% vào năm 19374 (Tham khảo Lục Nam Tuyền (dịch): 60 năm nền kinh tế quốc dân Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1979, tr.28). Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của Liên Xô đã chứng minh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng tạo ra sức hấp dẫn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa. Theo ghi chép của tác gia người Mỹ William Manchester trong cuốn Vinh quang và mơ ước, ở thời kỳ khủng hoảng kinh tế Mỹ đầu những năm 30, các công ty thương mại của Liên Xô tại Mỹ bình quân mỗi ngày nhận được 350 lá đơn của công nhân Mỹ xin di cư sang sống ở Liên Xô1 (Tham khảo Hoàng Vĩ Đinh: 10 năm mất Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Đại học Giang Tây, 2002, tr.58). Như mọi người đều biết, "Chính sách mới" mà Tổng thong Roosevelt thực hiện nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng chính là tiếp thu thế mạnh của thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tháng 7 năm 1934, nhà văn người Anh Herbert George Wells nói với Xtalin sau 14 năm thăm lại Liên Xô: "Bây giờ các nhà tư bản nên học tập các ông để lĩnh hội tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Tôi cho rằng, đối với nước Mỹ, vấn đề nằm ở chỗ tiến hành cải tạo sâu sắc, ở chỗ xây dựng nền kinh tế kế hoạch, tức là kinh tế xã hội chủ nghĩa"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.351).


Thứ ba, đời sống vật chất và trình độ văn hóa của nhân dân lao động được nâng lên rõ rệt.

Phát triển sức sản xuất xã hội là nhiệm vụ chủ yếu của xã hội xã hội chủ nghĩa, mục tiêu chủ yếu là cải thiện đời sống của nhân dân lao động, nâng cao đời sống vật chất và trình độ văn hóa của họ. Theo tư liệu của học giả người Nga Sinkin, năm 1930, Liên Xô đã đóng cửa thị trường lao động cuối cùng3 (Tham khảo Danilov, Kosolina: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, Sđđ, tr.164). Khi kết thúc "Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất" vào năm 1932, cả nước đã cơ bản xóa bỏ hiện tượng thất nghiệp. Tiền lương thực tế của công nhân cả nước năm 1940 tăng 5 lần so với năm 1913; thu nhập thực tế của người dân ở nông trang cũng tăng hơn gấp đôi trong khoảng thời gian từ năm 1934 đến năm 1937. Liên Xô từ Tết năm mới năm 1934 đã xóa bỏ chế độ cung ứng bánh mỳ và mỳ theo định lượng, từ ngày 10 tháng 10 lại xóa bỏ chế độ cung ứng thực phẩm theo định lượng; từ Tết năm mới năm 1936, xóa bỏ mọi chế độ cung ứng hàng hóa theo định lượng. Một loạt nhà ở, bệnh viện, viện dưỡng lão và nhà trẻ được xây dựng mới. Trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ hai có 67,3 triệu m2 nhà ở được đưa vào sử dụng. Thời kỳ này, đầu tư cho xây dựng nhà ở và các công trình công cộng tương đương với đầu tư cho công nghiệp nặng.


Cùng với những cải thiện trong đời sống vật chất, trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân cũng nâng lên rõ rệt. Trong khoảng thời gian những năm 1920-1940, Liên Xô đã xóa mù chữ cho 50 triệu người trong cả nước. Theo số liệu điều tra dân số năm 1939, trong tổng số dân từ 9 tuổi trở lên, số người biết chữ chiếm 81,2%, tăng 30% so với năm 1926. Năm 1939, có 90 vạn sinh viên cao đẳng, đại học; năm 1940 có 90 vạn học sinh tốt nghiệp hệ phổ thông 10 năm1 (Tham khảo A.K. Sokurov: Lịch sử nước Nga (bản tiếng Nga), Mátxcơva, 1995, tr.262-263). Trong thời gian hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, có một lượng lớn công trình văn hóa quần chúng mới được xây dựng đưa vào sử dụng, bao gồm câu lạc bộ ở thành thị và nông thôn, thư viện các cấp, rạp chiếu phim...


Tình hình trên đã phản ánh đầy đủ cảnh tượng ổn định và phồn vinh của xã hội Liên Xô đương thời, cũng cho thấy Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang xứng đáng là chính đảng đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Hai, 2022, 08:16:28 am
Thứ tư, giành được thắng lợi huy hoàng trong cuộc chiến tranh chống phátxít xâm lược, sau đó đã nhanh chóng khôi phục nền kinh tế quốc dân trong những năm sau chiến tranh.

Tháng 6 năm 1941, phátxít Đức phát động cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô. Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang khi đó đang dựa vào thể chế kinh tế - chính trị tập trung cao độ, rất nhanh chóng đưa đất nước vào quỹ đạo chiến tranh, công tác của Đảng cũng được cải tổ theo yêu cầu của thời kỳ chiến tranh, động viên được lực lượng chống phátxít tự thân một cách hiệu quả. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, đã điều động được hơn 500 bí thư cao cấp, trong đó có Bí thư Trung ương của nước cộng hòa, ra tiền tuyến làm thành viên của Ủy ban Quân sự; điều động hơn 270 người phụ trách trong các Ban của Trung ương Đảng giữ các chức vụ lãnh đạo trong Hồng quân và Hồng hải quân. Ngoài ra còn thành lập tổ chức Đảng ở hơn 1.100 xí nghiệp lớn, và từ tháng 11 năm 1941, thành lập Ban Chính trị ở các nông trường quốc doanh và các trạm máy kéo nông nghiệp (cho đến tháng 5 năm 1943). Trong nửa năm đầu chiến tranh, có hơn 1 triệu đảng viên cộng sản tình nguyện ra tiền tuyêh. Con số này bằng 1/3 số chiến sĩ trong toàn quân đội Liên Xô. Ở thời kỳ sau của chiến tranh, trong quân đội Liên Xô có 2,7 triệu đảng viên cộng sản1 (Tham khảo A.s. Parsenkov: Lịch sử nước Nga giai đoạn 1938-2002, (bản tiếng Nga), Mátxcơva, 2003, tr.49). Dưới sự tổ chức trực tiếp của Đảng Cộng sản, trong vòng 4 tháng, từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1941, hơn 1.500 xí nghiệp và hơn 10 triệu nhân viên đã được chuyên từ khu vực miền Tây tiếp giáp tiền tuyến đến những khu vực như Ural, Xêbêri và Kazakh, quy mô to lớn và hiệu quả cạo của những nhà máy này khó có thể tìm thấy trong lịch sử chiến tranh thế giới2 (Tham khảo Danilov, Kosolina: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, Sđd, tr.218).


Cần phải thừa nhận rằng do Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang do Xtalin lãnh đạo thiếu sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng đối với cuộc chiến tranh quy mô lớn đột ngột xảy ra nên quân đội Liên Xô bị tổn thất to lớn trong thời kỳ đầu cuộc chiến tranh. Quân đội Đức dựa vào sự bất ngờ và binh lực lớn mạnh, rất nhanh chóng chiếm lĩnh được một loạt thành phố quan trọng ở miền Tây Liên Xô và khoảng 1,5 triệu km2 lãnh thổ, tiến sâu vào trong Liên Xô 800 - 1.200 km. Nhưng tập thể lãnh đạo Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang do Xtalin đứng đầu đã nhanh chóng điều chỉnh chiến lược, quân đội Liên Xô nhanh chóng xoay chuyển được cục diện bị động, trải qua mấy tháng chiến đấu ngoan cường, đầu năm 1942 đã giành thắng lợi lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Mátxcơva, phá vỡ thần thoại "bất khả chiến bại" của quân đội Đức. Tiếp đó quân đội Liên Xô lại tiến hành chiến đấu kịch liệt trong nửa tháng, giành được chiến thắng trong chiến dịch Xtalingrad làm cả thế giới phải kinh ngạc. Đầu năm 1944, quân đội Liên Xô tiến hành phản công toàn diện. Nhờ sự phối hợp của quân đội Đồng minh, Liên Xô không những giành lại được toàn bộ lãnh thổ, mà còn giải phóng cho các quốc gia Đông, Nam Âu bị phátxít thống trị và nô dịch, đồng thời đến tháng 4 năm 1945 tấn công vào lãnh thổ nước Đức, ngày 2 tháng 5 tấn công Béclin, giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến tranh chống phátxít và chiến tranh vệ qưôc.


Trong thời kỳ Chiến tranh vệ quốc, ngành công nghiệp quân sự của Liên Xô có bước phát triển lớn, bảo đảm về vật chất cho tiền tuyến. Có được điều này chủ yếu là do trước chiến tranh đã thực hiện công nghiệp hóa lấy phát triển công nghiệp nặng làm trọng tâm. Nếu không có cơ sở này thì không thể có chiến thắng của quân đội Liên Xô. Trong 3 năm cuối của cuộc chiến tranh, mỗi năm Liên Xô sản xuất ra 30 ngàn xe tăng, 40 ngàn máy bay, 120 ngàn quả pháo và 190 triệu đầu đạn1 (Tham khảo Samsonov (chủ biên): Sơ lược lịch sử Liên Xô, (bản tiếng Nga), Mátxcơva, quyển 2, tr.388). Trong khi đó năm 1944, số lượng xe tăng mà ba nước Mỹ, Anh, Đức sản xuất lần lượt là 17.500, 5.000 và 17.800 chiếc; số lượng máy bay lần lượt là 96.000, 26.000 và 39.000 chiếc. Điều nhân dân Liên Xô tự hào là họ hoàn toàn dùng vũ khí trong nước sản xuất để chiến thắng nước Đức xâm lược. Chiến thắng của cuộc Chiến tranh vệ quốc còn nhờ vào sự đoàn kết, quyết tâm chiến đấu của toàn quân, toàn dân cả nước, chủ nghĩa yêu nước không sợ hy sinh và tinh thần anh hùng cách mạng. Họ không xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nước đơn thuần mà từ niềm tin vô bờ vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa cộng sản để lao vào chiến đấu.


Trong thời kỳ chiến tranh, nền kinh tế quốc dân của Liên Xô bị phá hoại nghiêm trọng. Thiệt hại về vật chất do chiến tranh là 2.500 tỷ rúp, trong đó thiệt hại trực tiếp do kẻ địch gây ra là 679 tỷ rúp. Con số này chiếm 30% tổng số tài sản quốc gia và 45% tổng sản phẩm quốc dân thời kỳ trước chiến tranh. 27 triệu quân dân chết trong chiến tranh (trong đó quân nhân chiếm 10 triệu), hơn 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy, 25 triệu người vô gia cư. Diện tích canh tác ở nông thôn giảm 1/4, thu hoạch giảm 1/31 (Tham khảo A. Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2008, tr.12). Trong thời kỳ chiến tranh, quân đội Đức đã phá hủy hơn 1.700 ngôi làng và hơn 7 vạn thôn trang, phá hủy 32.000 nhà máy, 16.000 km đường sắt, 1.135 mỏ khoáng sản, 427 bảo tàng, 43.000 thư viện2 (Tham khảo Sechinov: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, (bản tiếng Nga), Mátxcơva, tr.208).


Sau khi giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh vệ quốc, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lập tức lãnh đạo nhân dân Liên Xô khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân. Năm 1946, Liên Xô đã thông qua kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân - kế hoạch 5 năm lần thứ tư. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân cả nước, kế hoạch 5 năm lần thứ tư đã hoàn thành trước thời hạn vào năm 1950 trong khoảng thời gian 4 năm 3 tháng. Tổng thu nhập quốc dân năm 1950 đạt 153 tỷ USD, chiếm khoảng 53,3% so với Mỹ (Mỹ là 286,8 tỷ USD), vượt xa các nước Anh, Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Canađa và Italia (lần lượt là 32,2 tỷ USD, 26,8 tỷ USD, 21,4 tỷ USD, 17,2 tỷ USD và 13,8 tỷ USD)1 (Tham khảo Lục Nam Tuyền (chủ biên): 70 năm phát triển nền kinh tế quốc dân Liên Xô, Nxb. Công nghiệp cơ khí, 1988, tr.41). "Năm 1948, sản xuất công nghiệp đã đạt mức trước chiến tranh, khôi phục thành công các nhà máy điện, nhà máy luyện kim, nhà máy chế tạo cơ khí và nhà máy khai thác khoảng sản... Trình độ sản xuất năm 1950 vượt 73% so với trình độ thời kỳ trước chiến tranh". Khoa học kỹ thuật quốc phòng cũng có bước phát triển mới. "Ngày 29 tháng 8 năm 1950 đã thử nghiệm thành công một quả bom nguyên tử tại Trung tâm phóng vệ tinh gần Semipalatinsk, ngày 10 tháng 10 năm 1948, Liên Xô đã phóng tên lửa đạn đạo đầu tiên P-1"2 (Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Sđd, tr.244). Những tình hình này cho thấy đến năm 1950, công nghiệp Liên Xô đã khôi phục và vượt trình độ trước chiến tranh. Nhưng nông nghiệp khôi phục tương đối chậm. Khi chiến tranh vừa kết thúc, trình độ sản xuất nông nghiệp chỉ bằng khoảng 60% so với trước chiến tranh3 (Danilov, Kosolina: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, Sđd, tr.244), nạn đói năm 1946 càng khiến cho tình hình nông nghiệp trở nên nghiêm trọng. Đến năm 1950, trình độ sản xuất nông nghiệp chỉ bằng 99% so với trước chiến tranh, chỉ đến năm 1952 mới khôi phục lại được trình độ như trước chiến tranh4 (Tham khảo Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Sđd, tr.12).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:01:57 am
4. Mầm mống của nhân tố tiêu cực trong Đảng thời kỳ đầu cầm quyền

Như trên đã trình bày, Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Xtalin cầm quyền đã giành được thành tựu có tính lịch sử trọng đại. Đây là một thời kỳ vươn lên phơi phới trong tiến trình lịch sử của Đảng và Nhà nước Xôviết. Nó chứng tỏ trước toàn thế giới tính ưu việt vô song và sức sống mãnh liệt của chế độ xã hội chủ nghĩa, một thể chế mới ra đời này. Nhưng, điều đó không có nghĩa là hoạt động của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang thời kỳ này là hoàn toàn tốt đẹp, không có khiếm khuyết. Ngược lại, thời kỳ này đã từng có rất nhiều vấn đề và sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Những điều đó đã phản ánh nỗi gian khổ tìm tòi phát triển mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới, đồng thời cũng phản ánh khiếm khuyết và điểm yếu tồn tại của mô hình này. Đó là nguồn gốc của những nhân tố tiêu cực trong Đảng bắt đầu nảy sinh. Những nhân tố tiêu cực này lúc bây giờ tuy còn ở trạng thái chớm nở, nhưng có ảnh hưởng không thể đánh giá thấp đối với từng bước diễn biến của Đảng Cộng sản Liên Xô về sau. Những nhân tố tiêu cực này chủ yếu biểu hiện ở những mặt dưới đây.


Thứ nhất, về vấn đề phương châm và chiến lược phát triển của công nghiệp hóa. Con đường công nghiệp hóa của Liên Xô bao gồm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và chiến lược nhảy vọt tốc độ cao, về cơ bản là thành công. Nhưng lúc đó đã xuất hiện tình hình mất cân đối giữa tỷ lệ nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng. Phát triển công nghiệp nhẹ chưa tốt, không thể thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của quần chúng nhân dân. Vấn đề này đã xuất hiện sau khi kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Vì vậy chỉ tiêu phát triển của công nghiệp nhẹ khi vạch kế hoạch 5 năm lần thứ hai tương đối cao so với công nghiệp nặng. Nhưng kết quả thực hiện vẫn là sản xuất tư liệu sản xuất phát triển nhanh, tỷ lệ tăng bình quân hằng năm là 19,1%, còn tỷ lệ tăng bình quân hằng năm sản xuất hàng tiêu dùng chỉ là 14/8%1 (Lục Nam Tuyển (chủ biên): 70 năm phát triển nền kinh tế quốc dân Liên Xô, Sđd, tr.126) - Từ năm 1924 đến năm 1952, tổng sản lượng tư liệu sản xuất toàn quốc tăng lên 55 lần, còn tổng sản lượng hàng tiêu dùng chỉ tăng 12 lần; từ năm 1928 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đến năm 1952, nhà nước đầu tư cho công nghiệp nặng đạt 638 tỷ rúp, còn đối với công nghiệp nhẹ chỉ 72 tỷ rúp1 (Xem Phát biểu của Malenkov tại Hội nghị lần thứ 5 Xôviết tối cao Liên Xô ngày 8-8-1953, đăng trên Tân Hoa nguyệt báo, số 9 năm 1953). Phát triển công nghiệp phải trả giá bằng hy sinh nông nghiệp ở mức độ rất lớn, vì vậy phát triển nông nghiệp vẫn trì trệ rõ rệt. Mặc dù Đảng và Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp phát triển nông nghiệp, nhưng dù trước hay sau chiến tranh, nông nghiệp vẫn luôn luôn là một ngành lạc hậu trong nền kinh tế quốc dân.


Thứ hai, một số hiện tượng xa rời thực tế và cưỡng bức mệnh lệnh trong vấn đề tập thể hóa nông nghiệp. Sản xuất nòng nghiệp lạc hậu không hoàn toàn do phương châm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng gây ra. Trong điều kiện tiềm lực của nền kinh tế tiểu nông chưa phát huy toàn bộ, đa số nông dân chưa có nguyện vọng tha thiết thay đổi quan hệ sản xuất nông thôn và chế độ canh tác, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã triển khai phong trào tập thể hóa quá sớm, quá nhanh, nhất là phong trào tập thể hóa toàn bộ, đồng thời áp dụng một số biện pháp cưỡng bức mệnh lệnh trong phong trào, từ đó đánh mạnh vào tính tích cực sản xuất của nông dân. Nhưng không thể phủ nhận phong trào tập thể hóa nông dân về tổng thể bởi vì không có tập thể hóa thì không thể nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa và giành được thắng lợi của Chiến tranh vệ quốc như thế. Tất nhiên, không thể đánh giá thấp di hại của những sai sót khiếm khuyết trong phong trào tập thể hóa đối với phát triển nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân sau này.


Thứ ba, bỏ qua hiện tại, tuyên bố Liên Xô đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong báo cáo "Về dự thảo Hiến pháp Liên Xô" năm 1936, Xtalin nói: "Xã hội Liên Xô chúng ta đã làm được việc thực hiện chủ nghĩa xã hội về cơ bản"1 (Xtalin văn tuyển (1934-1952), Nxb. Nhân dân, 1962, tr.90). Đại hội XVIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lại tuyên bố "Liên Xô đã bước vào giai đoạn từ chủ nghĩa xã hội từng bước quá độ sang chủ nghĩa cộng sản"2 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.5, tr.10-11). Cách nêu giai đoạn phát triển xã hội nhảy vọt này chứng tỏ lý luận của Xtalin và Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang về phát triển lực lượng sản xuất có mâu thuẫn. Mặc dầu họ rất nhấn mạnh tẩm quan trọng của phát triển lực lượng sản xuất, nhưng điều quan trọng hơn vẫn là quan hệ sản xuất, nhất là "nhất đại nhì công"3 ("Nhất đại nhì công": Một là quy mô lớn, hai là công hữu hóa. Đây là cách hiểu đơn giản về chủ nghĩa xã hội những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (ND.)) về mặt chế độ sở hữu. Họ coi sự thay đổi quan hệ sản xuất là tiêu chí duy nhất thể hiện xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Quan điểm này về sau phát triển trở thành một giáo điều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cải cách và phát triển của xã hội Liên Xô.


Thứ tư, về phong trào "đại thanh trừng". Thực tiễn chứng tỏ, trong nước Liên Xô quả thực có không ít phần tử thù địch và phần tử thoái hóa, biến chất, trong Đảng không thuần khiết là một sự thật. Ngay từ năm 1928, Xtalin đã cho rằng: "Theo đà tiến triển của chúng ta, sự chống đối của phần tử tư bản chủ nghĩa sẽ gia tăng, đấu tranh giai cấp càng gay gắt hơn"4 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr,149-150), về sau, ông tiếp tục phát huy tư tưởng này, coi đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt là quy luật của đấu tranh giai cấp xã hội xã hội chủ nghĩa. Tháng 3 năm 1937, Xtalin lại nói: "Cần phải đập tan và vứt bỏ lý luận thối nát cho rằng, theo mỗi bước tiến của chúng ta, đấu tranh giai cấp của chúng ta ở đây hầu như sẽ ngày càng chùng lại, theo mỗi thắng lợi của chúng ta, kẻ thù giai cấp hầu như sẽ ngày càng thuần phục... Ngược lại, tiến triển của chúng ta càng lớn, thắng lợi càng nhiều, tàn dư của giai cấp bóc lột bị đánh bại cũng sẽ ngày càng hung ác hơn, bọn chúng càng phải dùng các hình thức đấu tranh gay gắt hơn, bọn chúng càng phải làm tổn hại đến nhà nước Xô viết, bọn chúng càng phải nắm lấy thủ đoạn đấu tranh giai cấp tuyệt vọng nhất để vùng vẫy cuối cùng"1 (Xtalin văn tuyển (1934-1952), Sđd, tr.128-129). Thời kỳ cuối những năm 1930, nhất là những năm 1937- 1938, phong trào "đại thanh trừng" tiến hành trong phạm vi toàn quốc diễn ra dưới sự chỉ đạo của lý luận này. Trong phong trào này, rất nhiều nhà lãnh đạo ưu tú và phần tử trí thức nổi tiếng của Đảng, chính quyền, quân đội cũng bị "đại thanh trừng", về số người bị hại trong phong trào "đại thanh trừng", hiện nay có cách nói khác nhau. Tương đối quyền uy và tin cậy là con số của Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô công bố ngày 13 tháng 2 năm 1990: "Những năm 1930-1953, có hơn 3.778.000 người bị xét xử tội 'phản cách mạng', trong đó có 786.000 người bị xử tử"2 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1990, tr.247). Ngoài ra, trước và sau Chiến tranh vệ quốc, có hơn mười dân tộc thiểu số bị lưu đày tập thể vì người lãnh đạo của họ bị tình nghi "cấu kết với địch", đó cũng được coi là một bộ phận của phong trào "đại thanh trừng".


Thứ năm, sủng bái cá nhân thịnh hành, dân chủ trong và ngoài Đảng không được phát huy xứng đáng. Thời kỳ cuối những năm 1920, việc sùng bái cá nhân Xtalin đã bắt đầu xuất hiện, về sau dần dần phát triển. Đến 1936, khi thông qua Hiến pháp mới của Nhà nước và tuyên bố đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc sùng bái cá nhân này được đẩy lên khá cao. Thắng lợi của Chiến tranh vệ quốc năm 1945 làm cho sùng bái cá nhân một lần nữa leo thang. Sùng bái cá nhân kèm theo sự phá hoại nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán chuyên quyền cá nhân thay thế dân chủ và pháp chế. Phong trào "đại thanh trừng" là biểu hiện nổi bật của việc vi phạm dân chủ và pháp chế. Liên quan đến tệ sùng bái cá nhân là nhiều cuộc đấu tranh quan trọng xảy ra trong nội bộ Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đều không phải thông qua phương thức dân chủ, mà là thông qua thủ đoạn không bình thường, đấu tranh tàn khốc, đả kích phũ phàng để giải quyết.


Những vấn đề trên đây đã gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đối với sự phát triển của lịch sử Đảng và Nhà nước sau này, nhưng lúc bây giờ vẫn không phải là xu hướng chủ yếu trong tiến trình lịch sử của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:03:36 am
III. SỰ MỞ ĐẦU VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ THOÁI HÓA, BIẾN CHẤT


1. Đại hội XX của Đảng khởi đầu cho Đảng Cộng sản Liên Xô thoái hóa, biến chất

Mặc dù thời kỳ Xtalin cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất hiện mầm mống của những nhân tố tiêu cực nói trên, nhưng đó không phải là xu hướng chủ yếu lúc bấy giờ. Đảng Cộng sản Liên Xô thoái hóa, biến chất bắt đầu từ thời kỳ Khrushchev cầm quyền. Tiêu chí chủ yếu của nó là Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Học giả Nga Kosolapov cho rằng: "Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua một quá trình thoái hóa, biến chất từ từ. Quá trình này bắt đầu từ năm 1956 khi Khrushchev đọc "Báo cáo bí mật" tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô". "Khrushchev hướng tất cả lực lượng của Đảng vào việc vạch trần sùng bái cá nhân Xtalin, hơn nữa, sự vạch trần đó không khách quan ở nhiều mặt, thậm chí còn phỉ báng con đường mà Đảng và Nhà nước đã đi từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay, điều đó không chỉ phá hoại và làm tan rã phong trào cộng sản quốc tế, mà còn làm cho tất cả phần tử chống Liên Xô vui mừng trước tai họa. Vì vậy, phê phán của Khrushchev đối với Xtalin đã giáng một đòn vào toàn Đảng, động chạm đến mọi mặt, đến Lênin, lý luận và và thực tiễn chủ nghĩa cộng sản khoa học. Từ đó về sau, cụm từ "chủ nghĩa Xtalin" đã trở thành vũ khí của phái chống đối và phản cách mạng công kích chủ nghĩa xã hội Liên Xô"1 ([Nga] Kosolapov: "Con đường bùn lầy do tan băng - Sau 40 năm nhìn lại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô", Đối thoại, số 4 năm 1996. Xem thêm Lý Hưng Canh: Vết xe đi trước - Tổng hợp các quan điểm của Nga về vấn đề đại biến của Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2003, tr.98-99).


Vấn đề chủ yếu nhất ở Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô là vạch trần và phê phán Xtalin. Ngày cuối cùng của Đại hội, Khrushchev đã đọc "Báo cáo bí mật" dài 4 tiếng đồng hồ với nhan đề "Về sùng bái cá nhân và hậu quả của nó" trước các đại biểu. Báo cáo này không được đưa vào chương trình chính thức của Đại hội. Trước khi triệu tập Đại hội XX, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có ý kiến khác nhau đối với một báo cáo như thế ở Đại hội. Có một số lãnh đạo bày tỏ phản đối, trong khi một số lãnh đạo khác do Khrushchev làm đại diện thì cho rằng cần phải làm như thế. Thậm chí, Khrushchev nêu ra, nếu Trung ương không đồng ý thì ông lấy danh nghĩa cá nhân để đọc báo cáo này. Có thể thấy, Khrushchev đã có âm mưu kiếm chác vốn liếng chính trị cho cá nhân mình từ lâu. Cuối cùng, Trung ương Đảng đi đến thỏa hiệp: không đọc báo cáo này ở hội nghị chính thức mà là ở phiên hội nghị phi chính thức. Đại biểu các Đảng nước ngoài tham dự Đại hội (ngoài lãnh đạo Đảng Ba Lan là Bierut và lãnh đạo đảng Hunggari là Rákosi) đều không được mời dự phiên hội nghị nội bộ này.


Trong báo cáo bí mật, Khrushchev với chiêu trò khuếch đại, xúc xiểm, thậm chí nói bóng nói gió đã tiến hành vạch trần toàn diện và phê phán gay gắt các sai lầm mà Xtalin phạm phải trong thời kỳ cầm quyền. Trong đó nói đến cuộc đàn áp đại quy mô trong phong trào "đại thanh trừng", vấn đề lơ là, khinh địch và chỉ huy sơ suất trong thời kỳ chiến tranh chống phátxít, và cả việc buộc di dời mười mấy dân tộc thiểu số; ngoài ra còn vạch ra rất nhiều sai lầm của Xtalin trên các mặt xây dựng kinh tế và chính sách đối ngoại. Báo cáo đặc biệt lên án Xtalin vi phạm pháp chế độc đoán chuyên quyền cá nhân và ca tụng mình quá đáng. Báo cáo này khi được công bố công khai đã rất nhanh gây chấn động dữ dội ở trong, ngoài Đảng và trong, ngoài nước.


Báo cáo bí mật đã giáng một đòn mạnh mẽ vào Xtalin, nhưng không và cũng không thể đưa ra đánh giá toàn diện và công bằng đối với Xtalin, không nêu ra một cách đúng đắn địa vị của Xtalin trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế, cũng không phân tích lịch sử, công minh chính trực đối với những sai lầm của Xtalin. Có người nói, nhiệm vụ của báo cáo chủ yếu là vạch trần và phê phán. Cách nói như thế chỉ có thể nói là một lối thoát cho Khrushchev. Bởi vì người bị báo cáo vạch trần và phê phán là Xtalin, một nhân vật quan trọng như thế hơn nữa lại ở Đại hội Đảng trang nghiêm. Trong tình hình đó, nếu không đồng thời đánh giá toàn diện công bằng đối với Xtalin, thì chí ít là vô cùng sơ suất và vô trách nhiệm, hậu quả của nó nghiêm trọng.


Rất nhiều tình hình nêu trong báo cáo là không phù hợp thực tế hoặc bị khuếch đại, thổi phổng. Chẳng hạn như báo cáo bóng gió ám chỉ vụ Sergey M. Kirov bị giết năm 1934 là được vạch kế hoạch đằng sau tấm màn Xtalin, về sau qua chính thức điều tra, đã chúng minh là vô căn cứ. Chẳng hạn như thất bại của chiến dịch Kharkov năm 1942 cũng không phải như trong báo cáo nói do chỉ huy sai lầm của Xtalin gây ra. Gần đây còn có một số tác phẩm tương đối công minh, chính trực, khách quan nói đến việc bắt buộc di dời một số dân tộc thiểu số nào đó trong chiến tranh vệ quốc lúc bây giờ là thực sự cần thiết1 (Tham khảo [Nga] Pekhanov: Tại sao Xtalin lưu đày một số dân tộc - Người Tatar ở Crưm, người Chechnya và Ingushetiya?, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1999; Sukhodeyev: Thống soái Xtalin, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2002; [Nga] Karpov: Đại nguyên soái Xtalin, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2005). Còn có rất nhiều dẫn chứng như vậy. Báo cáo phê phán Xtalin không nắm lấy điểm chủ chốt, không liên hệ sai lầm của Xtalin với các nhân tố thể chế chính trị, kinh tế tập trung cao độ và sinh hoạt trong Đảng không kiện toàn, cũng không phân tích được rằng cơ sở kinh tế - xã hội và nguồn gốc nhận thức của sùng bái cá nhân là một hiện tượng xã hộ, mà chỉ quy kết sai lầm là tính cách và phẩm chất cá nhân của Xtalin.


Ngoài ra, cách công bố báo cáo này cũng có vấn đề. Báo cáo chủ yếu phản ánh ý đồ của cá nhân Khrushchev. Nó không được chuẩn bị đầy đủ trong Đảng, cũng không được tập thể lãnh đạo Đảng thảo luận. Nó là một đòn bất ngờ đối với toàn thể đại biểu tham dự đại hội. Đến nay nước Nga vẫn có người đặt nghi vấn đối với tính hợp pháp của báo cáo, cũng có nghĩa là nó có phải đại diện ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ hay không2 (Hồ sơ lưu trữ (Nga), ngày 17-4-2003).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:07:05 am
Sau khi báo cáo bí mật được công bố, các nước đế quốc tỏ ra vui mừng hớn hở, coi đó là một quả bom nguyên tử chính trị, nhân tố dấy lên một làn sóng chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội có tính thế giới. Tập đoàn thống trị nước Mỹ coi việc Đảng Cộng sản Liên Xô chống lại Xtalin là hành động "phù hợp với mục đích chưa từng có của chúng ta"1 (Phát biểu trên đài phát thanh ngày 11-6-1956 của giám đốc Sở tuyên truyền quốc tế Mỹ), tuyên bố phải lợi dụng báo cáo bí mật của Khrushchev "làm vũ khí để triệt tiêu uy tín và ảnh hưởng của phong trào cộng sản chủ nghĩa"2 ("Khủng hoảng của đảng cộng sản", xã luận của New York Times, ngày 23-6-1956). Giai cấp tư sản phương Tây lợi dụng các loại báo chí truyền thông phát động tuyên truyền chống Liên Xô, chống cộng sản mạnh mẽ, miêu tả Xtalin là "kẻ cuồng điên giết người", nói Liên Xô xã hội chủ nghĩa là một "trại tập trung khổng lồ", thậm chí đánh dấu ngang bằng giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phátxít. Việc tuyên truyền đó tuy tỏ ra rất vụng về, nhưng rõ ràng là có ảnh hưởng đến một số quần chúng phổ thông không hiểu lịch sử và tình hình thực tế. Báo cáo bí mật đã gây hỗn loạn tư tưởng rất lớn trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế. Nó là đòn đánh bất ngờ đối với các đảng anh em nước ngoài, làm cho công tác của các đảng anh em rơi vào bị động rất lớn. Đó cũng là một phản ánh của tư tưởng chủ nghĩa đảng lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô. Một số đảng anh em, chủ yếu là một số đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trong tình hình thiếu chuẩn bị tư tưởng, không làm tốt công tác trước, bỗng chốc bật nắp, các loại mâu thuẫn trong ngoài đảng đều bộc lộ ra trong thời gian ngắn. Sự kiện Ba Lan và sự kiện Hunggari làm cho thế giới kinh hoàng xảy ra trong bối cảnh này. Không nên nghi ngờ, bật nắp về mặt khách quan có mặt tích cực của nó, nhưng hậu quả tiêu cực từ đó gây nên là cực kỳ nghiêm trọng. Trước tiên, nó biểu hiện ở phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự chia rẽ, nhất là nó dẫn đến cuộc luận chiến giữa hai đảng Trung Quốc và Liên Xô. Sau đó xuất hiện khủng hoảng niềm tin và khủng hoảng tín nhiệm đối với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và đối với đảng cộng sản trong phạm vi thế giới. Đảng viên của một số đảng cộng sản các nước phương Tây tới tâp xin ra khỏi Đảng, chỉ riêng trong Đảng Cộng sản Italia có 200 nghìn người xin ra khỏi Đảng. Điều đó làm suy yếu rất nhiều lực lượng của chủ nghĩa xã hội thế giới, từ đó làm cho phong trào cộng sản quốc tế rơi vào thoái trào.


Mao Trạch Đông từng nói, việc Khrushchev vạch trần và phê phán sùng bái cá nhân "đã bật nắp, lại còn gây họa"1 (Ngô Lãnh Tây: Hồi ức về Mao Chủ tịch, Nxb. Tân Hoa, 1995, tr.4), nghĩa là vừa có mặt tích cực, lại vừa có mặt tiêu cực. Quả thật, bật nắp sùng bái cá nhân giúp ích cho giải phóng tư tưởng, điều chỉnh chính sách, đúc rút kinh nghiệm, cải tiến công tác. Như bài viết của Ban biên tập Nhân dân nhật báo năm đó viết: "Tự phê bình dũng cảm đó của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với những sai lầm đã trải qua của mình thể hiện tính nguyên tắc cao độ trong sinh hoạt đảng và sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin". "Sau phê phán gay gắt này ở Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô, mọi nhân tố tích cực bị chính sách nào đó trước đây chèn ép nghiêm trọng nhất định sẽ được khuấy động rộng rãi"2 ("Kinh nghiệm lịch sử về chuyên chính vô sản", Nhân dân nhật báo, ngày 5-6-1956). Mao Trạch Đông đã phân tích sâu sắc việc vạch trần và phê phán của Khrushchev đối với sùng bái cá nhân Xtalin, đặc biệt nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm quan trọng. Thứ nhất, bài trừ mê tín cho rằng Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô và Xtalin tất cả đều đúng, có lợi cho chống chủ nghĩa giáo điều, không nên rập khuôn tất cả của Liên Xô nữa, nên suy nghĩ bằng đầu óc của mình, nên kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tế cụ thể của cách mạng và xây dựng Trung Quốc, tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Thứ hai, thời kỳ cuối đời của Xtalin rơi vào sùng bái cá nhân, vi phạm chế độ tập trung dân chủ, vi phạm chế độ lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách kết hợp với nhau trong đời sống chính trị của Đảng và Nhà nước. Trung Quốc cũng cần phải đề phòng xảy ra tình trạng đề cao cá nhân và sùng bái cá nhân, cần phải xây dựng chế độ nhất định để bảo đảm quán triệt thực thi đường lối quần chúng và lãnh đạo tập thể1 (Phòng Nghiên cứu văn hiến Trung ương Trung Quốc (biên soạn): Truyện Mao Trạch Đông (1949-1976), Nxb. Văn hiến Trung ương, 2003, tr.498-504). Cho đến nay, mặt tích cực đó vẫn có ý nghĩa hiện thực quan trọng đối với xây dựng hiện đại hóa đất nước, xây dựng Đảng và nâng cao năng lực cầm quyền. Nhưng phải nói rằng, báo cáo bí mật của Khrushchev và phê phán của ông đối với Xtalin lúc bấy giờ gây tác dụng tiêu cực là chủ yếu, hơn nữa là nghiêm trọng, bất kể đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, đối với Liên Xô hay đối với phong trào cộng sản quốc tế.


Khi đề cập vấn đề Xtalin sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, Mao Trạch Đông nêu rõ công tội của Xtalin nên là "ba - bảy", công bẩy phần, tội ba phần. Ông nói: "Trong đấu tranh nhằm thực hiện phương châm của Lênin, có công lao lãnh đạo mạnh mẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, trong đó có công lao không thể xóa nhòa của Xtalin", "Sau khi Lênin qua đời, Xtalin là nhân vật lãnh đạo chủ yếu của Đảng vầ Nhà nước đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin"2 (Phòng Nghiên cứu văn hiến Trung ương Trung Quốc (biên soạn): Truyện Mao Trạch Đông (1949-1976), Sđd, tr.501). Ông còn nói: "Xtalin mắc phải sai lầm nghiêm trọng, nhưng đồng chí cũng có thành tích vĩ đại. Đồng chí đã vi phạm nguyên tắc mácxít về mặt nào đó, nhưng đồng chí vẫn là nhà mácxít vĩ đại"3 (Phòng Nghiên cứu văn hiến Trung ương Trung Quốc (biên soạn): Truyện Mao Trạch Đông (1949-1976), Sđd, tr.498). Sự đánh giá có tính nguyên tắc của Mao Trạch Đông đối với Xtalin đã phản ánh thái độ khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử của những người cộng sản Trung Quốc.


Ở trong Liên Xô, ảnh hưởng tiêu cực của Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô gây ra càng to lớn hơn. Để quán triệt tinh thần của Đại hội, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phát động phong trào phê phán Xtalin trong phạm vi cả nước, đồng thời lơ là việc khống chế đối với công tác chính trị tư tưởng và lĩnh vực ý thức hệ, hơn nữa, giữ thái độ ủng hộ trên thực tế đối với cái gọi là trào lưu tư tưởng "tan băng" đã xuất đầu lộ diện trước Đại hội XX. Phải thừa nhận rằng, trào lưu tư tưởng "tan băng" này xuất hiện trước tiên ở lĩnh vực văn nghệ, có tác dụng thúc đẩỵ, làm phong phú sáng tác văn nghệ và làm sôi động nghiên cứu khoa học xã hội, phản ánh yêu cầu chính đáng của một bộ phận trí thức đối với cải cách thể chế và chính sách văn hóa. Nhưng do thiếu sự chỉ đạo đúng đắn, trong một khoảng thời gian các loại tác phẩm tốt xấu lẫn lộn tới tấp xuất hiện, có thể nói là vàng thau lẫn lộn. Một số tác phẩm có khuynh hướng mang màu sắc chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội rõ rệt và vi phạm nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:07:53 am
Ảnh hưởng tiêu cực mà Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô gây ra trong và ngoài nước và ý kiến bất đồng xuất hiện trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô nằm ngoài dự đoán của Khrushchev. Trong tình hình đó, Khrushchev không thể không áp dụng phương châm "thu hồi", hạ giọng phê phán Xtalin, thậm chí bắt đầu ca tụng Xtalin, hòng làm dịu mâu thuẫn mọi mặt. Trong một số phát biểu công khai, Khrushchev nhấn mạnh rằng không thể vì sai lầm của Xtalin mà phủ định chủ nghĩa Mác - Lenin, cho rằng nếu làm như vậy, thì dù cho ông không phải là "nhà phỉ báng nổi tiếng bất hảo" cũng là "người lặn trong vũng bùn xét lại"1 ("Phát biểu của Khrushchev tại lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười Nga", xem Ngôn luận của Khrushchev, Nxb. Tri thức thế giới, 1965, t.7, tr.208). Nhưng ảnh hưởng tiêu cực do Đại hội XX Đảng Cộng sản Liện Xô phê phán Xtalin gây ra đã không thể nào cứu vãn.


Vì nhu cầu của đấu tranh trong Đảng, cũng vì nhu cầu xây dựng thói sùng bái cá nhân cho mình, Khrushchev lại một lần nữa dấy lên cao trào phê phán Xtalin ở Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1961, giọng điệu cơ bản vẫn là quy kết vấn đề vào phẩm chất cá nhân, có khác là ngôn luận phê phán tại Đại hội lần này đều công khai phát biểu trên báo chí. Đại hội còn quyết định di dời thi hài của Xtalin ra khỏi lăng. Sau đại hội, khắp nơi trên đất nước Liên Xô đâu đâu cũng xuất hiện tình trạng đập phá bia kỷ niệm và tượng đài kỷ niệm của Xtalin. Trào lưu tư tưởng tự do hóa tư sản một lần nữa lan tràn.


Về cơ bản mà nói, hậu quả nghiêm trọng của việc Khrushchev chống Xtalin mang lại chủ yếu ở chỗ: đi đối với phê phán sai lầm của Xtalin, đã phủ định toàn bộ lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Xtalin, vứt bỏ niềm tin kiên định và lòng trung thành vô hạn của Xtalin đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là vứt bỏ tinh thần cách mạng của Xtalin quyết không thỏa hiệp với kẻ thù giai cấp trong và ngoài nước. Đúng như Mao Trạch Đông nói: "từ đó Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi con dao Xtalin". Đồng thời, một loạt thanh niên không am hiểu truyền thống cách mạng của Đảng và một số lập trường cách mạng không kiên định bắt đầu trưởng thành dưới ảnh hưởng của tinh thần Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô và tư tưởng Khrushchev, về sau họ được gọi là "con đẻ của Đại hội XX". Chính lớp người này trở thành lực lượng nòng cốt sau thời kỳ giữa những năm 1980 thúc đẩy Liên Xô diễn biến và chôn vùi chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô.


Điều đáng chú ý là sau khi Liên Xô giải thể, nhất là những năm gần đây, đánh giá của xã hội Nga và giới học thuật đối với Xtalin đã có những thay đổi rõ rệt, ngày càng có nhiều người bắt đầu khẳng định cống hiến của Xtalin đối với lịch sử Liên Xô. Trước hết phải nhắc đến Tổng thống Putin. Ông khác với những người tiền nhiệm, trong rất nhiều trường hợp ông khẳng định và ca ngợi công lao thành tích lịch sử của Xtalin. Như trong phát biểu năm 2002, ông nói: "Xtalin là một người độc tài, điều đó không nên nghi ngờ. Nhưng vấn đề ở chỗ, chính dưới sự lãnh đạo của ông, Liên Xô mới giành được thắng lợi trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, thắng lợi này gắn liền với tên tuổi của ông ở mức độ rất lớn. Coi thường hiện thực này là ngu xuẩn"1 (Putin trả lời phỏng vấn trước chuyến thăm Ba Lan tháng 1-2002). Học giả Nga luận bàn về mặt này càng làm cho người ta chú ý. Giáo sư triết học Zinoviev, nguyên là "nhà bất đồng chính kiến" từng bị Xtalin bức hại, trong cuốn sách Bi kịch của chủ nghĩa cộng sản Nga của mình đã viết: "Nhân tố chủ yếu của thắng lợi (chiến tranh vệ quốc) theo tôi thấy là vì có sự lãnh đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa Xôviết và Xtalin. Chính vì có nhân tố trên, tố chất của con người mới có thể trở thành nhân tố quan trọng nhất giành được thắng lợi chiến tranh. Sự lãnh đạo của Xtalin đối với nhà nước và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mà nói là đáng được tin cậy"2 (A.A. Zinoviev: Bi kịch của chủ nghĩa cộng sản Nga, Nxb. Tân Hoa, 2004, tr.181-182). Một "nhà bất đồng chính kiến" khác, nhà văn nổi tiếng Karpov năm 1941 vì phản đối Xtalin mà bị xử phạt lao dịch 5 năm, cũng nói trong cuốn sách Đại nguyên soái Xtalin của ông: "Xtalin không phải là thiên thần, nhưng rõ ràng ông là một nhà chiến lược vĩ đại"; "không phải Xtalin tạo dựng chế độ khủng bố, đó là đặt điều nói xấu"3 (Xem Lý Thận Minh (chủ biên): Theo dõi nghiên cứu chủ nghĩa xã hội thế giới, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2006, tr.55). Gần đây một tác phẩm mang màu sắc chính thống nhất định, xuất bản ở Nga là Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006) nêu rõ, theo kết quả thăm dò dân ý của Quỹ dư luận xã hội Nga năm 2006, có 47% người Nga có đánh giá mặt tích cực đối với Xtalin1 (Người đánh giá mặt trái chiếm 29%, 24% người còn lại tỏ ra khó trả lời). Họ cho rằng Xtalin là "nhà lãnh đạo thành công nhất Liên Xô. Chính thời kỳ ông lãnh đạo đã giành được thắng lợi của Chiến tranh vệ quốc vĩ đại - chiến tranh lớn nhất trong lịch sử loài người; đã thực hiện công nghiệp hóa kinh tế và cách mạng văn hóa, kết quả đó làm cho không chỉ tỷ lệ dân số được giáo dục cấp cao nâng cao nhanh chóng, mà còn xây dựng thể chế giáo dục tốt nhất trên thế giới; Liên Xô bước vào hàng ngũ các nước tiên tiến trên lĩnh vực phát triển khoa học; đã xóa bỏ hiện tượng thất nghiệp trên thực tế"2 (Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Sđd, tr.76). Xu thế thay đổi đánh giá đối với Xtalin nói trên có liên quan đến bối cảnh nước Nga đang nỗ lực tranh thủ khôi phục địa vị cường quốc, đồng thời cũng là kết quả suy ngẫm lại đối với chủ nghĩa hư vô lịch sử thời kỳ Gorbachev và thời kỳ Yeltsin.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:09:45 am
2. Sự phát triển của Đảng và Nhà nước từ ổn định từng bước chuyển sang trì trệ

Sau khi Khrushchev bị hạ bệ, Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu thời kỳ Brezhnev là người lãnh đạo tối cao suốt 18 năm. Đây là thời kỳ sức mạnh tổng hợp quốc gia Liên Xô cường thịnh nhất. Trên phạm vi quốc tế là thời kỳ đặc trưng thời đại có sự chuyển biến trọng đại. Nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô đã không lợi dụng thời cơ này, đuổi kịp bước tiến của thời đại, kiên quyết cải cách, tiến cùng thời đại. Mặc dù cũng tiến hành một số cải cách, đề xuất một số suy nghĩ mới, nhưng chủ nghĩa giáo điều về tư tưởng và dẫm chân tại chỗ trong thực tiễn thường xuyên chiếm ưu thế, do đó làm cho Đảng mất đi tính tiên tiến của mình, trở nên uế oải, rất ít sức sống. Đến thời kỳ đầu những năm 1980, bất kể Đảng Cộng sản Liên Xô hay Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng đều đã đi đến bờ vực của khủng hoảng.


Phải thấy rằng, thời kỳ đầu Brezhnev cầm quyền, bộ mặt tinh thần của Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn khá tốt. Đảng Cộng sản Liên Xô đã điều chỉnh chính sách, uốn nắn kiểu cải cách cẩu thả thời kỳ Khrushchev. Tháng 11 năm 1964, Brezhnev vừa lên cầm quyền một tháng, đã triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, quyết định bãi bỏ cái gọi là "Đảng công nghiệp" và "Đảng nông nghiệp", "các Khu vực và Khu biên cương vốn bị chia làm tổ chức đảng công nghiệp và tổ chức đảng nông nghiệp được phục hồi tổ chức đảng Khu vực, Khu biên cương thống nhất", "cải tổ Đảng ủy Cục quản lý sản xuất nông trang tập thể và nông trường quốc doanh thành Đảng ủy khu"1 (Tổng tập văn kiện Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Brezhnev (11-1964 - 2-1976), Thương vụ ân thư quán, 1978, tr.12). Tại Hội nghị toàn thể Trung ương tháng 9 năm 1965 lại quyết định khôi phục "tổ chức quản lý công nghiệp theo nguyên tắc ban, ngành". Căn cứ vào đó, Ủy ban Kinh tế quốc dân tối cao Liên Xô và Ủy ban Kinh tế quốc dân của các nước cộng hòa và khu kinh tế bị xóa bỏ, xây dựng lại hệ thống lãnh đạo ban ngành Trung ương. Tiếp theo, tại Đại hội XXIII của Đảng năm 1966, lại thông qua sửa đổi Điều lệ Đảng bãi bỏ quy định cứng của Khrushchev năm 1961 là phải thay đổi số người nhất định trong bầu cử nhiệm kỳ Đảng ủy các cấp2 (Điều lệ Đảng được Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua quy định, mỗi lần bầu cử định kỳ Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Đoàn Chủ tịch thay đổi ít nhất 1/4; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và Khu vực các nước cộng hòa Liên bang thay đổi ít nhất 1/3; Ủy viên của Thành ủy, Khu ủy và Đảng ủy tổ chức cơ sở các cấp thay đổi ít nhất: 1/2). Lúc bấy giờ, xuất phát điểm của quy định cứng nhắc này có thể là tích cực, nhưng trong thực tiễn xuất hiện tình hình có hàng loạt bí thư trong mỗi lần bầu cử cơ sở, bất kể có xứng đáng hay không đều phải rút lui, tỷ lệ thay đổi hơn 60%. Điều đó không có lợi cho sự ổn định của tổ chức cơ sở. Trong một số trường hợp, Brezhnev còn uốn nắn cách làm của Khrushchev phủ định toàn bộ Xtalin; cố gắng giữ thái độ tương đối công minh, khách quan đối với đánh giá Xtalin, đồng thời, nhằm vào sai lầm của Xtalin, nhấn mạnh lãnh đạo tập thể trong Đảng và tăng cường pháp chế dân chủ. Việc điều chỉnh chính sách thời kỳ đầu Brezhnev lên cầm quyền, và sự phát triển kinh tế mức độ nhất định xuất hiện nhờ thúc đẩy một loạt biện pháp cải cách kinh tế đã làm cho trong và ngoài Đảng xuất hiện không khí lạc quan, đoàn kết ổn định.


Nhưng những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô cũng vì vậy mà trở nên tự mãn. Họ coi ổn định là mục đích, coi duy trì hiện trạng là biện pháp thực hành ổn định. Tình hình đó rất nổi bật sau thời kỳ giữa những năm 1970. Điều đó làm cho thể chế chính trị, kinh tế  tập trung cao độ đó không được cải cách mà từng bước phát triển thành cứng nhắc, làm cho sự phát triển của Đảng và Nhà nước từ ổn định từng bước chuyển sang trì trệ. Điều đó chủ yếu biểu hiện ở mấy mặt dưới đây:


Thứ nhất, Đảng Cộng sản Liên Xô đình chỉ cải cách "thể chế kinh tế mới" bắt đầu chưa được bao lâu.

Cải cách "thể chế kinh tế mới" từ năm 1965 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kosygin chủ trì, tuy chưa thể đụng chạm đến thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ, nhưng do áp dụng phương châm "thúc đẩy từng bước" (lời của Brezhnev) và đã thực hành một loạt biện pháp cải cách phù hợp với thực tế nên đạt được hiệu quả rất tốt. Như Ryzhkov, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô trước khi Liên Xô giải thể, đã nói: "Cải cách kinh tế năm 1965 đã thúc đẩy rõ rệt nền kinh tế quốc dân nhàn rỗi. Chỉ trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ tám, sản xuất công nghiệp tăng 50%, năng suất lao động nâng cao 1/3, tốc độ tăng trưởng hàng tiêu dùng cuối cùng cũng đuổi kịp tốc độ tăng trưởng tư liệu sản xuất, trong khi tốc độ tăng trưởng tư liệu sản xuất vẫn luôn ở vào địa vị phát triển ưu tiên"1 (Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Nxb. Biên dịch Trung ương, 1998, tr.41). Nhưng đến đầu những năm 1970, lãnh đạo Liên Xô cuối cùng chấm dứt cải cách.


Thứ hai, quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô tập trung hơn và đội ngũ cán bộ lão hóa nghiêm trọng.

Mục đích ban đầu của Brezhnev khi khôi phục thể chế ban, ngành là nhằm ngăn chặn chủ nghĩa địa phương và tình trạng vô trật tự về quản lý, phát huy tính tích cực và quyền tự chủ của địa phương và doanh nghiệp. Nhưng sau một thời gian, xuất hiện tình hình tập quyền Trung ương mạnh hơn. Bộ máy nhà nước Trung ương không ngừng tăng thêm, số nhân viên không ngừng phình ra. Số bộ toàn liên bang và bộ liên bang kiêm nước cộng hòa từ 29 bộ (năm 1965) tăng lên 55 bộ (năm 1967), rồi tăng lên 64 bộ vào năm 1982, còn có hơn 20 Ủy ban nhà nước và cơ quan trực thuộc cấp bộ. Chỉ riêng cán bộ lãnh đạo cấp bộ trưởng, thứ trưởng đã hơn 800 người2 (Giang Lưu, Trần Chi Hoa (chủ biên): Suy ngẫm lịch sử diễn biến của Liên Xô, Sđđ, tr.51). Một biểu hiện quan trọng của tập trung quyền lực là Đảng và chính quyền là một, và Đảng làm thay chính quyền. Đây là vấn đề tồn tại lâu dài của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:10:29 am
Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mặc dù ngoài miệng thường xuyên nêu rõ phải thay đổi tình trạng này, nhưng vấn đề vẫn không được giải quyết. Hiện tượng bộ máy của Đảng và chính quyền trùng lắp ngày càng nghiêm trọng. Thời kỳ sau khi Brezhnev lên cầm quyền, đơn vị cấp ban của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tăng lên đến 20 đơn vị, tăng gấp đôi so với năm 1948 thời kỳ Xtalin. Tên gọi của rất nhiều ban của Trung ương Đảng cũng cơ bản giống với Chính phủ. Tập trung quyền lực tất nhiên dẫn đến chuyên quyền, độc đoán cá nhân, mà tăng cường chuyên quyền, độc đoán cá nhân lại thúc đẩy tập trung thêm quyền lực. Thời kỳ đầu cầm quyền, Brezhnev tương đối coi trọng lãnh đạo tập thể, trong Bộ Chính trị hình thành cái gọi là "cỗ xe tam mã" gồm Brezhnev, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kosygin và Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô Podgorny (tháng 12-1965 đảm nhiệm chức vụ này). Thời kỳ này, lãnh đạo tập thể của Bộ Chính trị Trung ương vẫn vận hành khá tốt. Hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều tổ chức định kỳ, thảo luận tập thể các vấn đề quan trọng trong chính sách đối nội, đối  ngoại của Đảng và nhà nước. Giới truyền thông khi nói đến Đảng, bao giờ cũng nói "Ủy ban Trung ương Đảng", "Bộ Chính trị Trung ương" hay "Ban Bí thư Trung ương", rất ít nêu bật cá nhân. Khoảng từ giữa những năm 1970 trở đi, Brezhnev dần dần bồi dưỡng và đề bạt một loạt những người thân tín và không ngừng mở rộng quyền lực của mình. "Cỗ xe tam mã" bắt đầu tan rã, lãnh đạo tập thể trở nên hữu danh vô thực. Năm 1977, Brezhnev thay thế Podgorny và kiêm nhiệm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô, thực quyền của Kosygin cũng không ngừng bị suy yếu. Như vậy Brezhnev thâu tóm cả đại quyền Đảng, chính quyền, quân đội toàn quốc. Chuyên quyền, độc đoán cá nhân đã bóp chết quyết sách dân chủ hóa, thúc đẩy thể chế chính trị cứng nhắc hơn.


Việc Brezhnev bãi bỏ quy định cứng về thay thế cán bộ thời kỳ Khrushchev, nhấn mạnh phương châm đội ngũ cán bộ ổn định, đã phát huy vai trò tích cực trong thời kỳ đầu ông cầm quyền. Lức bây giờ, đội ngũ cán bộ ổn định có lợi cho sự ổn định của toàn Đảng và toàn quốc. Nhưng Brezhnev nhấn mạnh thái quá sự ổn định, coi thường việc điều động bình thường và thay thế cũ - mới của đội ngũ cán bộ, nhất là việc thường xuyên thu hút cán bộ ưu tú trẻ, khỏe, bổ sung vào Ban lãnh đạo. Vì vậy, cuối thời kỳ Brezhnev cầm quyền, cán bộ liên tiếp giữ chức vụ lâu dài, tuổi tác già đi nghiêm trọng, dẫn đến hiện tượng chế độ suốt đời trên thực tế. Tình hình này thể hiện rất rõ ở tầng lãnh đạo cao nhất của Đảng, kể cả tầng lãnh đạo của Đảng cấp nước cộng hòa liên bang. Từ Đại hội XXIII đến Đại hội XXVI, tỷ lệ liên tục giữ chức vụ của người lãnh đạo cao cấp Trung ương Đảng từng khóa nâng cao. Tỷ lệ liên tục giữ chức vụ Ủy viên Trung ương được Đại hội XXV Đảng Cộng sản Liên Xô bầu ra năm 1976 chiếm 83,4%, nếu không tính Ủy viên Trung ương qua đời thì tỷ lệ liên tục giữ chức vụ đạt 90%. Thành viên Bộ Chính trị Trung ương và Ban Bí thư Trung ương được Đại hội XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1981 bầu ra là những nhân vật của Đại hội XXV. Từ năm 1965 đến năm 1984, nhiệm kỳ của phần lớn Ủy viên Bộ Chính trị là trên 15 năm, Ủy viên Trung ương trên 12 năm. Nhiệm kỳ Ủy viên Trung ương dài nhất đến 25 năm1 (V. P. Dimitrenko (chủ biên): Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1996, tr.581). Con số dưới đây có thể cho thấy hiện tượng già đi nghiêm trọng của cán bộ lãnh đạo: Năm 1964 khi Brezhnev giữ chức Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, tuổi bình quân của Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Ủy viên dự khuyết, Bí thư Ban Bí thư và thành viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô lần lượt là 61 tuổi, 52,8 tuổi, 54,1 tuổi và 55,1 tuổi. Sau khi bước vào những năm 1980, tuổi bình quân của các chức danh này tăng lên lần lượt là 70,1 tuổi, 62,5 tuổi, 64 tuổi và 68,1 tuổi2 (Hồng Quân: Tấm bia lớn và lời cảnh báo - chủ nghĩa xã hội thế kỷ XX, Nxb. Thế giới đương đại, 2002, tr.309). Sự lão hóa của cán bộ lãnh đạo, nhất là sự lão hóa của cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng đã gây ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đối với cơ chế quyết sách tầng cao của Đảng. Nó làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô từng bước mất đi khí thế, sức sống và tinh thần tìm tòi sáng tạo không ngừng.


Thứ ba, hiện tượng tham nhũng trong cán bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không ngừng phát triển.

Hiện tượng tham nhũng trong cán bộ lãnh đạo đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 đã đến mức khá nghiêm trọng. Xuất hiện tình trạng này trước hết là do trong và ngoài Đảng thiếu cơ chế giám sát thực sự chứ không phải là hình thức và biện pháp chống tham nhũng thiết thực, đồng thời còn do cán bộ thoái hóa, biến chất về tư tưởng. Công tác ổn định lâu dài đội ngũ cán bộ và giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng đi vào hình thức, làm cho khá đông cán bộ lãnh đạo trong công tác không những ngày càng hài lòng với hiện trạng, không chịu suy nghĩ cải cách, mà còn có tư tưởng không ngừng nảy sinh dục vọng tham nhũng, an nhàn, theo đuổi hưởng thụ. Quan niệm chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa ngày càng mờ nhạt trong đầu óc của họ. Họ không thỏa mãn với các loại đãi ngộ đặc thù theo Chính phủ quy định, còn muốn lợi dụng chức quyền trong tay, thông qua các thủ đoạn tham ô, hối lộ, giở trò bịp bợm, kinh doanh phi pháp, thậm chí ngang nhiên ăn cắp để đục khoét tài sản của Nhà nước và tập thể.


Cuối thời kỳ Brezhnev cầm quyền, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô cuối cùng đã hình thành một "tầng lớp đặc quyền". Thành viên của nó chủ yếu là bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội các cấp, đoàn thể quần chúng và doanh nghiệp, cán bộ lãnh đạo nông trang, trước tiên là cán bộ lãnh đạo cao cấp và một bộ phận phần tử trí thức cao cấp đương quyền. Đặc trung chủ yếu của các thành viên "tầng lớp đặc quyền" này là: Thứ nhất, họ nắm giữ quyền lãnh đạo tuyệt đối của bộ máy lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân đội Trung ương và địa phương cũng như doanh nghiệp, nông trang. Thứ hai, đa số họ được giáo dục cao cấp, trình độ văn hóa tương đối cao, có chức danh kỹ thuật chuyên nghiệp cao cấp, và có cơ hội đi thăm các nước phương Tây. Thứ ba, đa số họ là những người giáo điều theo lối bảo thủ, không muốn tiến thủ về tư tưởng; về công tác là những người quan liêu xa rời thực tế, xa rời quần chúng. Thứ tư, họ bề ngoài ủng hộ chủ nghĩa xã hội, hầu như cũng làm việc vì chủ nghĩa xã hội, nhưng trong lòng họ lại hướng về lối sống tư bản chủ nghĩa. Bất kể về tác phong tư tưởng và tác phong công tác, hay tác phong sinh hoạt, "tầng lớp đặc quyền" đều xa rời đông đảo quần chúng nghiêm trọng, làm cho uy tín của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội bị hạ thấp nghiêm trọng. Họ không còn là đại diện cho lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân nữa.


Cần nêu ra rằng, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo thời kỳ này cũng không thiếu những người tôn trọng kỷ cương, pháp luật, công minh chính trực, liêm khiết và tận tụy công tác. Họ tuy cũng được hưởng một số đãi ngộ đặc thù mà Chính phủ quy định, nhưng không nên liệt vào "tầng lớp đặc quyền". Ngoài ra, cán bộ bình thường và người lãnh đạo doanh nghiệp nông trang bình thường không có bao nhiêu đặc quyền, cũng không nên đưa vào tầng lớp này.


"Tầng lớp đặc quyền" không phải hoàn toàn nhất trí về mặt quan điểm chính trị. Trong đó có một bộ phận người không chỉ theo đuổi lối sống phương Tây, mà còn hướng về chế độ tư bản chủ nghĩa. Họ không thỏa mãn với quản lý tư liệu sản xuất, còn mong muốn có thể có tư liệu sản xuất, công khai tích lũy của cái cá nhân kếch xù, đồng thời đem những của cải đó và cả địa vị của mình trực tiếp chuyển cho đời sau. Bộ phận người này chỉ cần gặp được "khí hậu" thích hợp thì sẽ rất nhanh lựa chọn chủ nghĩa tư bản. Họ là bộ phận hợp thành quan trọng của nền tảng xã hội của Liên Xô diễn biến về sau. Một bộ phận người khác trong "tầng lớp đặc quyền" về chủ quan không muốn đi con đường tư bản chủ nghĩa, chỉ muốn duy trì hiện trạng, giữ gìn lợi ích có được của mình, sống thoải mái dưới thể chế hiện tại. Vì vậy họ phản đối bất cứ cải cách nào làm lung lay thể chế này. Chính sự nỗ lực duy trì hiện trạng này làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, cuối cùng dẫn đến sự "sụp đổ" của Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:11:16 am
3. Căn nguyên tư tưởng của trì trệ - chủ nghĩa giáo điều không ngừng nảy nở

Giữa những năm 60-70 thế kỷ XX, cùng với sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới và sự phát triển và tương đối ổn định của kinh tế chính trị các nước tư bản phát triển, cũng như sự tan rã của hệ thống thực dân tư bản chủ nghĩa và sự nổi lên của thế giới thứ ba, chủ đề thời đại với đặc trung cách mạng và chiến tranh dần dần được thay thế bởi chủ đề thời đại với đặc trưng hòa bình và phát triển.


Trong nước Liên Xô, do kinh tế quốc dân và sự nghiệp văn hóa giáo dục phát triển, cơ cấu giai cấp và cơ cấu xã hội cũng có thay đổi. Sự thay đổi này đòi hỏi một cơ chế mới thích ứng với nó, gồm cải cách thể chế quản lý, thay đổi chế độ phân phối về cơ bản có tính chất bình quân chủ nghĩa, điều chỉnh hơn nữa quan hệ dân tộc, nhất là mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và quan tâm đến yêu cầu hợp lý của phần tử trí thức về mặt vật chất và tinh thần nào đó mà họ nệu ra để thể hiện giá trị của mình... Tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô do Brezhnev đứng đầu đã không nhìn thấy sự thay đổi mới diễn ra trong các nước tư bản chủ nghĩa, cũng không nhìn thấy những thay đổi mới diễn ra trong nước. Họ càng không nhìn thấy trong tình hình mới nói trên, thể chế chính trị, kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống của Liên Xô ở mức độ rất lớn đã mất đi sức sống của thời kỳ nó hình thành. Ngược lại, họ vẫn khư khư ôm chặt quan điểm xã hội chủ nghĩa những năm 20-30 thế kỷ XX, coi toàn bộ đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội hình thành trong thời kỳ này là đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội và là giáo điều thiêng liêng không thể xâm phạm. Chính dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa giáo điều này, họ không những xóa bỏ các biện pháp cải cách của thời kỳ đầu cầm quyền, mà về sau cũng dứt khoát không dùng từ "cải cách", thay vào đó bằng từ "hoàn thiện". Không những thế, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô còn tổ chức phê phán "kinh tế thị trường xã hội" trong phạm vi cả nước, đến nỗi nhà kinh tế học nổi tiếng, giáo sư Evsei Liberman không thể không công khai tự phê bình vì "thổi phổng không thích đáng tác dụng của lợi nhuận", ngoài ra một số học giả chủ trương lợi dụng cơ chế thị trường cũng bị điều xuống cơ sở, hoặc biến mất khỏi giới lý luận1 (Tham khảo Trần Chi Hoa (chủ biên): Liên Xô thời kỳ Brezhnev, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998, tr.69). Chính những điều này đã làm cho thể chế kế hoạch tập trung cao độ càng được tăng cường, đông cứng thêm và tuyệt đối hóa.


Chủ nghĩa giáo điều của Đảng Cộng sản Liên Xô được phản ánh trên cái gọi là lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển". Năm 1967, tại đại lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Brezhnev lần đầu tiên nêu ra lý luận này. Năm 1977, Đảng Cộng sản Liên Xô lại đưa lý luận này vào Hiến pháp mới của Liên Xô. Hầu như tất cả báo chí Liên Xô đều ra sức tuyên truyền lý luận này. Lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển" so với tư tưởng "20 năm xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản" do Khrushchev đề ra, tuy là một bước tiến nho nhỏ, nhưng về thực chất, nó vẫn là một thứ lý luận bỏ qua giai đoạn, không có khác biệt bản chất với quan điểm liên quan của Khrushchev, thậm chí cả của Xtalin. Brezhnev thường xuyên cất cao giọng hát "quá độ sang chủ nghĩa cộng sản" trong mọi trường hợp. Cái tử huyệt của lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển" không chỉ nằm ở chỗ nó là sự không tưởng của việc bỏ qua giai đoạn phát triển lịch sử, mà còn ở chỗ nó là một thứ triết học suy diễn của chủ nghĩa giáo điều. Các trình bày và luận chứng đối với "chủ nghĩa xã hội phát triển" lúc bấy giờ đều xuất phát từ lý luận thuần trừu tượng, xa rời thực tế một cách nghiêm trọng, lẩn tránh các loại mâu thuẫn và vấn đề xuất hiện trong đời sống hiện thực. Vì vậy, lý luận này chỉ có thể làm đông cứng thể chế truyền thống.


Liên Xô mở rộng chiến lược đối với thế giới thứ ba trong thời kỳ Brezhnev, một mặt dĩ nhiên là xuất phát từ tư tưởng bá quyền của họ đã có từ lâu, nhưng mặt khác cũng phản ánh tư tưởng giáo điều của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không nhìn thấy được do sự chuyển đổi của chủ đề thời đại nên hình thức đấu tranh "chiến tranh dẫn đến cách mạng, cách mạng ngăn chặn chiến tranh" trước kia đã được chủ nghĩa xã hội thay thế bằng hình thức đấu tranh lấy phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mình để lôi kéo nhân dân các nước đi con đường xã hội chủ nghĩa. Tập đoàn lãnh đạo Brezhnev vẫn cố thủ quan niệm và giáo điều vốn có, cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô cần phải "ra sức ủng hộ nhân dân các nước đang đấu tranh cho giải phóng của mình, tranh thủ không chút chần chừ làm cho tất cả các nước và nhân dân thuộc địa giành được độc lập", giúp họ "tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới"1 (Gromyko: Lịch sử chính sách đối ngoại của Liên Xô, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1989, tr.451), v.v... Chính lý luận giáo điều này đã thúc đẩy lãnh đạo Liên Xô phất ngọn cờ "chi viện cách mạng thế giới" và "chủ nghĩa quốc tế", mở rộng bừa bãi ở khắp thế giới thứ ba, từ đó không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của nước mình, mà còn làm xấu đi hình ảnh của các nước xã hội chủ nghĩa.


Thời kỳ Brezhnev cầm quyền, một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để thích ứng với sự phát triển mới của tình hình trong và ngoài nước, kết hợp tình hình của nước mình đã tiến hành cải cách ở mức độ khác nhau, trong đó có nước đã đạt được thành tích rõ rệt. Như cải cách của Hunggari tiến hành dưới sự lãnh đạo của Kadar vào thời kỳ cuối những năm 1960 đến cuối những năm 1970 đạt được thành quả nổi bật. Nhưng theo các nhà lãnh đạo Liên Xô, cải cách như thế là "xa rời kinh điển, đi ngược đạo lý". Họ không những không nghiên cứu nghiêm chỉnh kinh nghiệm của các đảng anh em, từ đó rút ra những gợi ý nào đó, mà còn chèn ép đối với cải cách của một số nước Đông Âu. Điều đó thể hiện nổi bật ở cuộc trấn áp vũ trang "mùa xuân Praha" Tiệp Khắc. Hành động này không chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa nước lớn và chủ nghĩa đảng lớn của Brezhnev và Ban lãnh đạo của ông, mà cũng là phản ánh của chủ nghĩa giáo điều về tư tưởng của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, thậm chí có thể nói là sự phản bội đối với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa quốc tế vô sản.


Chủ nghĩa giáo điều của Đảng Cộng sản Liên Xô biểu hiện nổi bật và nghiêm trọng nhất ở thời kỳ cầm quyền của Brezhnev. Chính, tư tưởng giáo điều này đã đẩy Đảng và Nhà nước Liên Xô đến bờ vực của khủng hoảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:12:53 am
IV. KHỦNG HOẢNG VÀ THẤT BẠI DIỆT VONG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Brezhnev lâm bệnh, qua đời tháng 11 năm 1982. Hai vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô sau đó là Andropov và Chernenko sau khi cầm quyền tổng cộng không đến 3 năm cũng kế tiếp qua đời. Họ không thể xoay chuyển được tình thế đang xuống dốc của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 3 năm 1985, Mikhail Gorbachev chỉ 54 tuổi, có kinh nghiệm công tác cơ sở và công tác Trung ương Đảng thời gian dài được bầu làm Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Rõ ràng là Gorbachev tiếp nhận một di sản lịch sử nặng nề. Đảng Cộng sản Liên Xô đang thai nghén khủng hoảng sâu sắc và đứng trước thử thách sống chết mất còn. Mặc dù vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ vẫn kiên trì phương hướng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, và còn có thực lực tương đối. Trong tình hình đó, nếu Đảng Cộng sản Liên Xô do Gorbachev đứng đầu vạch ra và thực hiện được một đường lối chính trị tư tưởng kiên trì chủ nghĩa xã hội, tiến hành cải cách triệt để đối với Đảng thì Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn có thể chấn hưng. Nhưng lịch sử hơn 6 năm cầm quyền chứng tỏ Gorbachev không hoàn thành trọng trách lịch sử đó. Ông không chỉ xuyên tạc tính chất, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu phấn đấu và nguyên tắc tổ chức của Đảng, mà còn tự động từ bỏ địa vị lãnh đạo của Đảng, cuối cùng đưa Đảng đến diệt vong.


1. Khuynh hướng sai lầm thời kỳ đẩu cải tổ

Không phải từ khi Gorbachev cầm quyền Liên Xô bắt đầu rời khỏi con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Liên Xô thoái hóa, biến chất và thất bại diệt vong dưới sự lãnh đạo của Gorbachev là cả một quá trình. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev cho rằng, cải tổ thời kỳ Gorbachev có thể chia làm hai giai đoạn: Những năm 1985-1988 là giai đoạn thứ nhất, lúc bấy giờ Đảng đứng trước vấn đề con đường xã hội chủ nghĩa đi như thế nào. Những năm 1989-1991 là giai đoạn thứ hai, lúc này Đảng đi chệch phương hướng xã hội chủ nghĩa, rơi vào khủng hoảng1 (Phát biểu của Ligachev tại cuộc họp báo ngày 27-5-1992). Quan điểm này về cơ bản phù hợp với tình hình lịch sử. Tiêu chí cụ thể của hai giai đoạn này là Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập tháng 6 năm 1988. Song, trước Hội nghị đại biểu lần này, khuynh hướng sai lầm của Đảng đã xuất hiện và bắt đầu phát triển. Những khuynh hướng sai lầm này làm cho trong Đảng, trước hết là trong tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Đảng, xuất hiện bất đồng ý kiến quan trọng, điều đó cũng gây nên tình trạng hỗn loạn tư tưởng trong Đảng.


"Chiến lược tăng tốc phát triển kinh tế xã hội đất nước" (tức cái gọi là "chiến lược tăng tốc") được đề ra tại Hội nghị toàn thể của Đảng tháng 4 năm 1985 và được Đại hội XXVII của Đảng tháng 2 năm 1986 chính thức thông qua tuy bị thất bại, nhưng nó vẫn là cải tổ tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng và trong phạm vi xã hội chủ nghĩa, mục tiêu là "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội". Vấn đề ở chỗ, Gorbachev không nhận thức đúng đắn nguyên nhân thất bại của "chiến lược tăng tốc", mà kết tội thất bại toàn bộ là do trở lực của "bộ máy quan liêu" các cấp. Ông sai lầm khi coi mấy triệu cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng đều là "lực lượng cản trở" cải tổ. Vì vậy, ông thay đổi chức vụ của hàng loạt cán bộ có kinh nghiệm, được thử thách, đồng thời đề bạt một loạt cán bộ thê đội 2, thê đội 3 lên cương vị lãnh đạo. Cần nêu lên rằng, trong đội ngũ cán bộ của Đảng lúc bây giờ, quả thực có một loạt người bảo thủ, hài lòng với hiện trạng, nhưng không phải là tất cả, vả lại, tình hình của mỗi người cũng không giống nhau. Nếu không phân biệt rõ mà nhất loạt thay đổi thì không những làm cho công tác của Đảng mất đi tính kế thừa cần có, mà còn làm tổn thương một số cán bộ có năng lực công tác khá, giỏi, chỉ nêu lên một số quan điểm bất đồng đối với cải tổ. Ngoài ra, một số cán bộ mới đề bạt, do thiếu kinh nghiệm chính trị thường tỏ ra mềm yếu và bị động trong đấu tranh với khuynh hướng sai lầm trong và ngoài Đảng.


Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ XXVII. Đây là Đại hội đại biểu đầu tiên sau khi Gorbachev lên cầm quyền. Trong tâm trí của Gorbachev, nó có quan hệ thừa kế nào đó với Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong hồi ký, ông viết một cách thâm thúy: "Ngày giờ khai mạc Đại hội đại biểu (ngày 25 tháng 2) không cố ý lựa chọn, nhưng (có ý vị tượng trưng) nó rất trùng hợp với ngày kỷ niệm 30 năm Đại hội XX"1 (Gorbachev: Hồi ký (bản dịch), Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2003, tr.343). Có điều nói chung, phương châm của Đại hội vẫn giữ phương hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề ở chỗ, Đại hội XXVII chính thức nêu lên khẩu hiệu "dân chủ hóa", "công khai"', "đa nguyên hóa dư luận" và coi chúng là đột phá khẩu gạt bỏ "cơ chế cản trở" cải tổ. Đại hội cho rằng, "tăng cường dân chủ hóa" và "mở rộng tính công khai" hơn nữa là biện pháp quan trọng cải tiến sự lãnh đạo của Đảng và hoàn thiện thể chế chính trị.


Để thể hiện hành động thực tế "dân chủ hóa" và "công khai", tháng 2 năm 1986 Gorbachev ra lệnh thả tội phạm chính trị Anatoli Sharansky. Tháng 12 cùng năm lại cho phép "người bất đồng chính kiến" nổi tiếng Andrei Sakharov đang bị lưu đày ở thành phố Gorki trở về Mátxcơva. Phải nói rằng, lúc bấy giờ đưa ra "dân chủ hóa" và "công khai" vẫn còn có giới hạn chính trị. Tiền đề của nó là "hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa", tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô là hình thức cao nhất của tổ chức chính trị và hạt nhân của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Nhưng chẳng bao lâu, nhất là sau Hội nghị toàn thể của Đảng vào tháng Giêng năm 1987, giới hạn này dần dần trở nên lu mờ. Tại Hội nghị toàn thể lần này, Gorbachev đề xướng thực hành "tính công khai mức độ lớn nhất", nhấn mạnh "xã hội Liên Xô không nên có vùng cấm không được phê bình, điều này cũng hoàn toàn áp dụng đối với phương tiện dư luận"1 (Gorbachev: Những bài phát biểu về cải tổ (6-1986 - 6-1987), Nxb. Nhân dân, 1987, tr.151, 153). Sau đó, hầu như ở mỗi lần hội nghị, ông đều lớn tiếng nói đến "dân chủ hóa", "công khai" và "đa nguyên hóa dư luận". Trong phát biểu "Cải tổ và tư duy mới" vào tháng 11 năm 1987, ông nói rất tập trung về những điều đó, yêu cầu rõ ràng "làm cho tính công khai mở cửa sáng choang"2 (Gorbachev: Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Nxb. Tân Hoa, 1987, tr.88). Tháng 1 năm 1988, khi tiếp những người lãnh đạo khối công tác ý thức hệ của Đảng, ông thậm chí nói: "Chúng ta chủ trương tính công khai không hề bảo lưu và không chút hạn chế"3 (Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm "cải tổ" của Liên Xô cũ, Nxb. Hồng Kỳ, 1992, tr.72).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:13:45 am
Hậu quả tiêu cực của việc tiến hành "dân chủ hóa", "công khai" và "đa nguyên hóa dư luận" có mấy điểm dưới đây:

Thứ nhất, Đảng từng bước mất đi sự kiếm soát đối với giới trí thức, giới lý luận và giới báo chí. Theo Ligachev thổ lộ trong hồi ký của ông, Alexander Yakovlev sau khi đảm nhiệm vị trí lãnh đạo lĩnh vực ý thức hệ của Đảng, đã biến những chủ bút của báo chí truyền thông chủ yếu thành những nhân vật tiêu biểu của phái tự do, "còn Gorbachev thì một mắt nhắm một mắt mở đối với những việc đó"4 (Tham khảo [Mỹ] David Kotz/ Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Nxb. Đại học nhân dân Trung Quốc, 2002, tr.88). Vì thế xuất hiện rất nhiều bài viết chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa xã hội trên báo chí trong cả nước. Gorbachev khuyến khích điều đó, nói: "Hãy để cho ngôn luận của chúng ta đa dạng hóa hơn! Để cho toàn xã hội đều tham gia"1 (Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm "cải tổ" của Liên Xô củ, Sđd, tr.56). Thực ra, cái gọi là đa nguyên hóa dư luận chẳng qua là đa nguyên hóa dư luận chống chủ nghĩa xã hội mà thôi. Sau khi đăng bài viết nổi tiếng của Nina Andreeva "Chúng ta không thể từ bỏ nguyên tắc", việc Gorbachev lập tức chỉ thị cho báo Sự thật đăng bài của Ban biên tập công kích bài này là một chứng minh.


Thứ hai, các "tổ chức phi chính thức" như măng mọc mùa xuân, tới tấp xuất hiện. Trong thành viên của các tổ chức đó có không ít đảng viên cộng sản. Theo một bài xã luận của báo Sự thật ước tính, đến hết tháng 12 năm 1987, có hơn 3 vạn các loại tổ chức như thế trong cả nước2 (Tham khảo Vương Chính Tuyển (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.54). Họ có cương lĩnh, có tổ chức, có quần chúng, còn có sách xuất bản. Không ít tổ chức nêu ra khẩu hiệu chống Liên Xô, chống chủ nghĩa xã hội.


Thứ ba, làn sóng phủ định cả gói lịch sử Đảng và Nhà nước Xôviết lan rộng thêm. Tiếp theo sau phê phán lý luận cứng nhắc và xã hội "trì trệ" của thời kỳ Brezhnev, tiến tới phê phán gay gắt Xtalin, điều đó trên thực tế là sự phủ định toàn bộ chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Quy mô phê phán lớn, diện liên quan rộng, làm cho phê phán Xtalin thời kỳ Khrushchev thua kém xa. Đầu tháng 6 năm 1988, báo Tin tức công khai đăng bài nói giáo trình lịch sử Liên Xô là ''điều dối trá lưu truyền đời đời". Trong tình hình đó, không thể nào giảng dạy lịch sử ở trường tiểu học, trung học Liên Xô, đến nỗi ngành giáo dục phải bỏ thi theo giáo trình này. Không chỉ có thế, có những bài viết thậm chí trực tiếp phỉ báng Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga. Mùa hè năm 1988, tạp chí Thế giới mới đăng bài viết của nhà kinh tế học Vasily Selyunin chỉ trích Gorbachev đã sai lầm khi cho rằng sự bóp méo chủ nghĩa xã hội Liên Xô bắt đầu từ Xtalin. Tác giả nêu ra: "Áp bức của Xtalin sớm có tiếng chuông báo trước của phương pháp luận đó, mà phương pháp luận thô thiển đó, người đầu têu chính là Lênin". Thế là trong giới báo chí truyền thống của phái tự do nổi lên một trào lưu mới, tuyên bố nước Nga trước cách mạng đã phát triển theo dân chủ tư bản chủ nghĩa kiểu phương Tây, sau đó bị Bônsêvích nắm quyền cản trở, thực nghiệm xã hội chủ nghĩa rồi dẫn dắt nó vào con đường sai lầm. Điều đó chẳng khác gì nói, nếu có thể lật đổ ách thống trị của Đảng Cộng sản Liên Xô thì nước Nga sẽ trở lại với cái gọi là "văn minh trạng thái bình thường" trước cuộc cách mạng của nó1 (Tham khảo [Mỹ] David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.91).


Hậu quả tiêu cực của việc thi hành "dân chủ hóa", "công khai" chỉ bắt đầu lộ ra ở thời kỳ đầu cải tổ, trong mấy năm sau đó, theo đà Gorbachev không ngừng nhượng bộ phái dân chủ, ngày càng phát triển và nghiêm trọng hơn, cuối cùng trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ.


Nhà sử học nổi tiếng Roy Medvedev khi nói đến bài học thi hành "dân chủ hóa", "công khai" có nói, "dân chủ hóa", "công khai" đã mở đường cho các loại ngôn luận xuất hiện, nhưng tất cả những ngôn luận mới xuất hiện đều nhằm vào Đảng Cộng sản, nhằm vào lịch sử Liên Xô và bản thân Gorbachev. Đảng Cộng sản Liên Xô dùng trận địa dư luận của mình cung cấp diễn đàn cho các thế lực chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mặc dù Gorbachev nhiều lần tuyên bố mình kiên trì lựa chọn chủ nghĩa xã hội, nhưng cải tổ của ông không mang lại sức sống mới cho chủ nghĩa xã hội, không có bất kỳ cống hiến nào cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa tiến lên phía trước. Đồng thời, ông còn từng bước thụt lùi về mặt chính sách trong đối nội, đối ngoại1 (Một cuộc nói chuyện ngày 31-1-2002 của Roy Medvedev). Sự phân tích này có thể nói là đi đúng vào vấn đề.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:15:42 am
2. Một đường lối cải tổ xa rời chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo

Xét cải tổ kinh tế chưa thấy hiệu quả, Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định tiến hành cải tổ lĩnh vực chính trị. Tháng 6 năm 1988, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị đại biểu lần thứ 19. Hội nghị này là thời điểm bắt đầu bước ngoặt phương hướng cải tổ của Gorbachev, cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu tự suy yếu tiến tới tự động từ bỏ quyền lãnh đạo. Trước đó, Gorbachev về cơ bản tiến hành cải tổ trong phạm vi xã hội chủ nghĩa, và còn nhấn mạnh Đảng Cộng sản Liên Xô phải trở thành lực lượng lãnh đạo của cải tổ; sau đó, cải tổ dần dần chuyển hướng, cho đến cuối cùng đã từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng và phương hướng xã hội chủ nghĩa.


Nội dung chủ yếu của Hội nghị đại biểu lần này là thảo luận vấn đề cải tổ thể chế chính trị. Trong báo cáo tại Hội nghị, Gorbachev nhấn mạnh: "Hiện nay chúng ta đang đứng trước rất nhiều vấn đề phức tạp. Nhưng vấn đề nào là then chốt? Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng, then chốt là thể chế chính trị của chúng ta". "Cải tổ thể chế chính trị là sự bảo đảm cực kỳ quan trọng cho cải tổ không thể đảo ngược". Vì vậy toàn Đảng phải đặt nhiệm vụ này vào "vị trí hàng đầu của mọi công tác". Õng cho rằng, phương châm chủ yếu của cải tổ thể chế chính trị đã không chỉ là vấn đề đề xướng "dân chủ hóa", "công khai" và "đa nguyên hóa dư luận", mà là phải vứt bỏ tư tưởng Đảng Cộng sản Liên Xô là hạt nhân của thể chế chính trị Liên Xô, chuyển trung tâm quyền lực của Nhà nước từ Đảng sang Xôviết. Ông nói: "Bất cứ vấn đề quốc gia, vấn đề kinh tế hoặc vấn đề xã hội nào không có Xô viết tham gia thì không thể được giải quyết". Chỉ có như vậy mới có thể "làm cho chế độ nhà nước của chúng ta hoàn toàn phù hợp với khái niệm nhà nước toàn dân này", "để thực hiện kết luận nước ta từng bước chuyển biến thành nhà nước toàn dân được đưa ra từ thời kỳ đầu những năm 1960"1 (Gorbachev: Báo cáo tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Mátxcơva, 1989, tr.3, 43, 55, 56). Về thực chất của cải tổ này, Gorbachev viết trong hồi ký của ông: "Nếu muốn nói một cách khái quát ý nghĩa của cải tổ chính trị, nó cấu tứ như thế nào, thực thi như thế nào, thì có thể nói đó chính là giao quyền lực từ trong tay Đảng Cộng sản độc quyền, thao túng sang tay Xôviết, (cơ quan) theo Hiến pháp vốn đại diện cho nhân dân, được chọn ra thông qua bầu cử tự do"2 (Gorbachev: Hồi ký (bản dịch), Sđd, tr.506). Hội nghị đề ra khẩu hiệu "tất cả chính quyền thuộc về Xôviết". Đó vốn là khẩu hiệu của Đảng Bônsêvích thời kỳ Cách mạng Tháng Mười Nga, bởi vì Xô viết lúc bấy giờ đã ở dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện khẩu hiệu này có nghĩa là đoạt quyền từ trong tay chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản. Tình hình hiện tại hoàn toàn khác với lúc bầy giờ, phỏng theo khẩu hiệu trước đây là làm lẫn lộn giữa việc phân chia đúng đắn chức năng Đảng, chính quyền và thay đổi tình trạng Đảng ôm đồm tất cả với kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng. Mặc dù xét văn kiện của Hội nghị lần này, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn chưa chuẩn bị thực hành ngay thể chế đa đảng, nhưng đã đi bước đầu tiên. Một nội dung quan trọng khác của Hội nghị đại biểu lần thứ 19 là khái quát mới đối với mục tiêu cải tổ của Đảng, lần đầu tiên chính thức đề ra khẩu hiệu "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Trước đó, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn coi "hoàn thiện có kế hoạch chủ nghĩa xã hội" được Đại hội XXVII năm 1986 đặt ra là phương châm cơ bản của cải tổ. Cách nêu bây giờ đã làm thay đổi có tính căn bản. Mặc dù tư tưởng này vẫn chưa kịp trình bày có hệ thống ở Hội nghị đại biểu, nhưng đầu mối của bước ngoặt đã có thể nhìn thấy rõ. Dư luận phương Tây khi bình luận Hội nghị lần này, nêu ra một cách nhạy cảm, mục tiêu cải tổ Hội nghị đề ra là muốn "xây dựng lại một cách căn bản" "lâu đài cộng sản chủ nghĩa Liên Xô"1 (Báo The Courier (Ôxtrâylia), ngày 3-7-1988).


Sau Hội nghị đại biểu lần thứ 19, Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu thoái hóa, biến chất thêm một bước theo đường lối "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Tháng 11 năm 1989, Gorbachev cho đăng bài viết nhan đề "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và biến đổi mang tính cách mạng". Bài viết này phản ánh sự thay đổi quan trọng của tư tưởng cải tổ của tác giả, có thể nói là tiêu chí rõ nét trong quá trình thoái hóa, biến chất tư tưởng của Gorbachev. Bài viết nêu lên rõ ràng "phải căn bản cải tạo toàn bộ lâu đài xã hội chủ nghĩa: từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng", lần đầu tiên chính diện khẳng định học thuyết "tam quyền phân lập" của giai cấp tư sản, yêu cầu đưa vào chế độ dân chủ nghị viện của các nước tư bản. Bài viết còn cho rằng "tính chất chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã thay đổi quan trọng", "chủ nghĩa xã hội là người thể hiện và người bảo vệ dân chủ nói chung và lý tưởng toàn nhân loại cùng giá trị quan của nó", và bày tỏ phải nghiên cứu đầy đủ và vận dụng "kinh nghiệm phong phú và nhiều mặt" của Đảng Dân chủ xã hội. Ông nêu rõ, Liên Xô phải xây dựng "không chỉ là chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà còn là chủ nghĩa xã hội dân chủ"2 (Gorbachev: "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và thay đổi mang tính cách mạng", báo Sự thật (Liên Xô), ngày 26-11-1989). Nguyên đại sứ Mỹ tại Mátxcơva Matlock tận mắt thấy Đảng Cộng sản Liên Xô mất đảng và Liên Xô giải thể đã viết trong hồi ký của ông: "Tôi đã đọc bài viết này, hai năm qua, từ diễn văn kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1987 và quyển sách Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, tư tưởng của Gorbachev thay đổi lớn làm tôi xúc động sâu sắc. Bài viết một mặt bày tỏ kiên trì "chủ nghĩa xã hội", nhưng mặt khác, Gorbachev xác định ranh giới mới cho nội hàm của từ này, nội dung và lời nói đó thuộc về 'chủ nghĩa xã hội' của Lênin và Xtalin, thì thà nói đến gần dân chủ xã hội phương Tây hơn"1 ([Mỹ] Little Jack, F. Matlock: Ghi chép trải nghiệm bản thăn vềsự giải thể của Liên Xô, Nxb. Tri thức thế giới, 1996, tr.335).


Sự thay đổi tư tưởng này của Gorbachev cũng liên quan đến đại biến động của Đông Âu. Đông Âu đại biến động cũng làm cho ông ta cảm thẩy khích lệ, được gợi mở, làm cho ông nhận thức sâu hơn tính tất yếu của thực hành "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Sau Hội nghị đại biểu lần thứ 19, Đảng Cộng sản Liên Xô nhanh chóng áp dụng một loạt cái gọi là hành động thực tế "tất cả chính quyền thuộc về Xôviết". Tại Hội nghị toàn thể tháng 7 và Hội nghị toàn thể tháng 8 của Trung ương Đảng tiến hành cải tổ lớn đối với bộ máy của Đảng ở Trung ương và địa phương. Hơn 20 cơ quan cấp ban của Trung ương Đảng vốn có cắt giảm xuống còn 9. Đương nhiên vấn đề không phải ở chỗ cắt giảm bộ máy, thực chất của nó là ở chỗ xóa bỏ quan hệ lãnh đạo tổ chức của Đảng đối với cơ quan nhà nước. Trước sức ép của phái dân chủ trong Đảng, Đảng từng bước, từng bước nhượng bộ trên vấn đề thực hành chế độ đa đảng. Theo cựu Đại sứ Matlock tiết lộ, năm 1989 Gorbachev cùng đồng lõa Yakovlev và Shevardnadze "kết thúc vấn đề độc tài chuyên chính hợp pháp của Đảng Cộng sản, hòng giành được sự ủng hộ của Bộ Chính trị, nhưng không thành"2 ([Mỹ] Little Jack, F. Matlock: Ghi chép trải nghiệm bản thăn vềsự giải thể của Liên Xô, Nxb. Tri thức thế giới, 1996, tr. 364).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Hai, 2022, 08:16:39 am
Ngày 13 tháng 1 năm 1990, trong phát biểu tại Đại hội phần tử tích cực của Đảng Cộng sản Lítva, Gorbachev nói: "Nếu chế độ đa đảng ra đời và phù hợp với lợi ích xã hội, tôi thấy không phải là bi kịch"1 (Đường Tu Triết, Tôn Nhuận Ngọc: Ghi chép điện Kremlin đổi chủ, Nxb. Tân Hoa, 1990, tr.87).


Hội nghị toàn thể tháng 2 năm 1990 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô là một Hội nghị quan trọng trong quá trình thực hành chế độ đa đảng. Đại biểu phái dân chủ tích cực chủ trương thực hành chế độ đa đảng. Yeltsin phát biểu rằng cần phải "từ kiên trì đảng theo chế độ một đảng quá độ chuyển sang đảng cho phép chế độ đa đảng và sẵn sàng cùng hành động với chính đảng khác trên cơ sở luật chính đảng và tổ chức xã hội"2 (Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 đến ngày 7- 2-1990), Nxb. Tri thức thế giới, 1990, tr.87). Gorbachev giữ thái độ đồng ý chiều theo tiếng gọi đó của phái dân chủ. Ông nói trong báo cáo Hội nghị, địa vị của Đảng "không nên thông qua Hiến pháp để cưỡng ép hợp pháp hóa. Không nói cũng rõ, Đảng Cộng sản Liên Xô sẵn sàng đấu tranh giành địa vị của đảng cầm quyền, nhưng điều đó sẽ tiến hành chặt chẽ trong phạm vi tiến trình dân chủ, loại bỏ bất cứ quyền ưu tiên nào về luật pháp và chính trị''3 (Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 đến ngày 7-2-1990), Nxb. Tri thức thế giới, 1990, tr.4), từ đó bày tỏ rõ ràng phải sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, bãi bỏ quy định trọng Điều 6 về địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong dự thảo cương lĩnh hành động "Đi lên chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được Hội nghị toàn thể thông qua trình lên Đại hội XXVIII nêu rõ: "Đảng cho rằng cần phải thông qua trình tự kiến nghị lập pháp, đệ trình những kiến nghị liên quan đến Điều 6 Luật cơ bản của Nhà nước lên Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô".


Hội nghị toàn thể lần này còn thảo luận vấn đề cải tổ bản thân Đảng, trong đó chủ yếu là vấn đề chế độ tập trung dân chủ. Tại hội nghị, Yeltsin phát biểu, ra sức hô hào "từ bỏ nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ, thay vào đó là nguyên tắc dân chủ rộng rãi". Ligachev bày tỏ một cách mâu thuẫn gay gắt, "phản đối biến Đảng ta thành một tổ chức rời rạc, biến thành câu lạc bộ chính trị"1 (Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 đến ngày 7-2-1990), Sđd, tr.42, 87, 160, 4). Gorbachev tuy không rõ ràng đồng ý bãi bỏ chế độ tập trung dân chủ, nhưng từ phát biểu của ông có thể thấy khuynh hướng của ông. Ông nói, "việc đổi mới của Đảng cần tiến hành dân chủ hóa sâu sắc, toàn diện, nhận thức lại nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ, và đặt trọng điểm vào dân chủ hóa và quyền lợi của đảng viên quần chúng"2 (Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 đến ngày 7-2-1990), Sđd, tr.42, 87, 160, 4).


Theo tinh thần của Hội nghị toàn thể tháng 2, Hội nghị toàn thể tháng 3 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua "Kiến nghị sửa đổi và bổ sung Hiến pháp Liên Xô (Điều 6 và Điều 7) về vấn đề thể chế chính trị" và quyết định trình lên Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ ba xét duyệt. Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ ba được tổ chức cùng tháng căn cứ kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đã thông qua "Về thiết lập chức vị Tổng thống và Luật sửa đổi bổ sung Hiên pháp Liên Xô (Luật cơ bản)", quyết định "thiết lập chức vị Tổng thống Liên bang nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết", đồng thời còn quyết định xóa đi trong "Lời nói đầu" dòng chữ "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của toàn thể nhân dân đã tăng cường", trong Điều 6 sửa lại câu "Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và là hạt nhân của chế độ chính trị, nhà nước và xã hội Liên Xô" thành câu "Đảng Cộng sản Liên Xô, các chính đảng khác và công đoàn, đoàn thanh niên, đoàn thế xã hội và phong trào quần chúng khác thông qua đại biểu của mình bầu vào Xôviết đại biểu nhân dân và các hình thức khác tham gia vạch ra chính sách của nhà nước Xôviết, công việc quản lý nhà nước và xã hội"1 (Tư liệu về vấn đề Liên Xô, Nxb. Phương Đông, 1990, tr.493-494), từ đó thủ tiêu địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với nhà nước và xã hội về mặt luật pháp. Quyết định này gây chấn động rất lớn ở trong và ngoài nước. Như một học giả Tây Đức nêu ra, "đây là sự phản bội có tính quyết định đối với nguyên tắc quan trọng nhất của chủ nghĩa Lênin". Tại đại hội, Gorbachev được bầu làm Tổng thống Liên Xô đầu tiên với đa số phiêu 59,2%.


Tháng 7 năm 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII. Đây là Đại hội đại biểu cuối cùng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Đại hội trải qua tranh luận quyết liệt của lực lượng các phái, đã thông qua tuyên bố có tính cương lĩnh "Tiến tới chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" và một số nghị quyết khác. Từ đó, đường lối chính trị "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" cuối cùng được xác lập trong Đảng Cộng sản Liên Xô; chế độ đa đảng và thể chế dân chủ nghị viện tư sản và cả ý thức hệ đa nguyên hóa cũng chính thức trở thành phương châm chỉ đạo hành động của Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:22:12 am
3. Sự chia rẽ và rệu rã của tổ chức Đảng

Trước Đại hội XVIII, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đã hình thành ba phái lớn chủ yếu: "phái cương lĩnh mácxít" do Ligachev đứng đầu, tức gọi là "phái truyền thống"; "phái cương lĩnh dân chủ" do Yeltsin đứng đầu, tức gọi là "phái dân chủ"; phái chủ lưu do Tổng Bí thư Gorbachev đứng đầu, bề ngoài là phái trung gian! Hai phái trước đối lập rõ ràng, phái chủ lưu thì có lúc dao động giữa hai phái trước. Nhưng do phái dân chủ và phái chủ lưu cơ bản nhất trí về mục tiêu của "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", do đó phái chủ lưu không ngừng nghiêng về phái dân chủ trong tiến trình cải tổ. Phái chủ lưu đôi lúc cũng tỏ ra tư thế cứng rắn chút ít đối với phái dân chủ, nhưng đó chỉ là nhu cầu về sách lược nhất thời, nói tóm lại là lùi từng bước đối với phái dân chủ cho đến cuối cùng hoàn toàn đầu hàng phái dân chủ.


Theo đà phát triển của cải tổ, cuộc đấu tranh giữa ba phái ngày càng diễn ra quyết liệt. Trước hết là đấu tranh giữa phái dân chủ và phái truyền thống. Sau Hội nghị đại biểu lần thứ 19, mâu thuẫn giữa Ligachev và Yakovlev trong Bộ Chính trị công khai hóa, gần như xuất hiện cái gọi là "cục diện hai trung ương cùng tồn tại": một bên là Ligachev, Gromyko và Solornensev; bên kia là những người như Yakovlev,... Tại Hội nghị toàn thể tháng 9 năm 1988, Trung ương đã bãi miễn chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị của Gromyko và Solomensev, còn Ligachev bắt đầu được phân công quản lý nông nghiệp, không còn giữ chức vụ người thứ hai của Đảng; Yakovlev được phân công quản lý công việc quốc tế, ngoài ra bầu thêm Vadim Medvedev có khuynh hướng tư tưởng phái dân chủ rõ nét làm Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách ý thức hệ. Đây là nhượng bộ rất lớn của Gorbachev đối với phái dân chủ. Rõ ràng là điều đó đã mở rộng ảnh hưởng của phái dân chủ trong Đảng, làm sâu sắc thêm sự chia rẽ của Đảng.


Trong thời gian chuẩn bị Đại hội XXVIII, ba phái trong Đảng đều đưa ra cương lĩnh của mình. Cục diện chia rẽ của Đảng ngày càng rõ rệt.

Tại Đại hội XXVIII của Đảng, ngoài thảo luận và thông qua tuyên bố có tính cương lĩnh "Chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", còn thảo luận lại vấn đề cải tổ bản thân Đảng. Trong thảo luận, các phái tiến hành đấu tranh quyết liệt. Để đánh vào phái truyền thống và giữ địa vị Tổng Bí thư của mình, Gorbachev ra sức nhượng bộ phái dân chủ: hết sức tiếp thu cách nêu quan điểm của phái dân chủ trong văn kiện, đồng thời cho phép đại biểu của họ phát biểu tại Đại hội. Trong phát biểu tại Đại hội, Yeltsin một lần nữa nhấn mạnh rằng, lối thoát căn bản của Đảng là "thực hành chế độ đa đảng" đồng thời vứt bỏ chế độ tập trung dân chủ. Vì vậy ông cho rằng nên cho phép tiến hành hoạt động phe phái trong Đảng, "cần phải cố định lại các phái cương lĩnh hiện có trong Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt tổ chức, để cho mỗi đảng viên cộng sản có thời gian tự mình đưa ra quyết định chính trị"; đồng thời cần phải "đổi tên Đảng", nên gọi là "Đảng xã hội chủ nghĩa dân chủ"; "đảng viên từ bỏ mọi chức năng nhà nước, nên xóa bỏ tổ chức đảng cơ sở trong quân đội, hệ thống an ninh quốc gia và cơ quan nhà nước; ở đơn vị sản xuất vận mệnh của tổ chức đảng cơ sở nên do tập thể lao động và đảng viên tự quyết định... Như vậy sẽ xuất hiện một chính đảng kiểu nghị viện"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1991, tr.459).


Trước khi Đại hội bỏ phiếu bầu Ủy viên Trung ương, Yeltsin đọc tuyên bố trước mọi người xin ra khỏi Đảng. Ông nói: "Xét thấy tôi đã được bầu làm Chủ tịch Xôviết tối cao Liên bang Nga, chịu trách nhiệm to lớn đối với nhân dân và nước Nga, nghĩ đến xã hội sẽ quá độ sang chế độ đa đảng, tôi không thể chỉ thực hiện nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô... Vì vậy, tôi, theo lời hứa trong thời gian tranh cử, tuyên bố rút lui khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô"2 (Bản thảo tốc ký Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô từ ngày 2 đến ngày 13-7-1990 (bản tiếng Nga), trích dẫn tờ 1.500 ngày đối kháng chính trị Gorbachev - Yeltsin, Nxb. Tân Hoa, 1993, tr.184-185). Với sự đi đầu của Yeltsin, một loạt phần tử phái dân chủ nổi tiếng, kể cả Popov và Sobchak đều tuyên bố xin ra khỏi Đảng. Họ ở ngoài Đảng phất lá cờ chống Đảng, ngang vai phải lứa với Đảng Cộng sản Liên Xô, hòng lấy đó để chia rẽ và làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô.


Phái dân chủ không những tiến hành hoạt động bè phái có tổ chức trong Đảng, mà còn cùng một giuộc với các nhân vật tai mắt của phái cấp tiến ngoài Đảng chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, công khai phản đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong các loại "đoàn thể phi chính thức" đều có đông đảo đảng viên cộng sản tham gia. Như khi "Mặt trận nhân dân" Extônia thành lập tháng 10 năm 1988, trong thành viên của nó có 22% là đảng viên cộng sản; phái dân chủ ở hai thành phố Mátxcơva và Lêningrát cùng với phái cấp tiến ngoài Đảng tổ chức "Liên minh dân chủ", công khai tuyên bố mình là "đảng chính trị đối lập". Phái dân chủ còn lợi dụng Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô làm trận địa đấu tranh với Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 7 năm 1989, khoảng 300 đại biểu nhân dân Liên Xô thành lập cái gọi là "Đoàn đại biểu xuyên khu vực", Yeltsin và "người bất đồng chính kiến" nổi tiếng Sakharov được bầu làm Chủ tịch. Như vậy trong cơ quan lập pháp của Liên Xô lần đầu tiên xuất hiện một tổ chức (phái) đối lập chính thức. Tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ hai tháng 12, họ ra tuyên bố phản đối Đảng Cộng sản là "lũng đoạn chính quyền" và "can thiệp trực tiếp vào kinh tế", phản đối "các nước cộng hòa dân tộc phục tùng Trung ương". Trước thềm Đại hội, năm thành viên "Đoàn đại biểu xuyên khu vực", trong đó có Yeltsin, công khai kêu gọi tiến hành bãi công cảnh cáo trong toàn quốc, kịch liệt yêu cầu đưa vấn đề sửa đổi Hiên pháp vào chương trình Đại hội. Tháng 5 năm 1990, Yeltsin được bầu làm Chủ tịch Xôviết tối cao Liên bang Nga, nắm giữ quyền lãnh đạo của nước cộng hòa lớn nhất Liên Xô. Trước đó không lâu, trong cuộc bầu cử Xôviết ở thành phố Lêningrát và Mátxcơva, phái cấp tiến tiếp tục giành được thắng lợi, nhân vật quan trọng của phái dân chủ Sobchak và Popov lần lượt đảm nhận chức vụ thị trưởng của hai thành phố. Quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô ở một nước cộng hòa liên bang lớn nhất và hai thành phố lớn nhất rơi vào tay người khác, không những làm suy yếu sự thống trị của Đảng Cộng sản Liên Xô, mà còn làm trầm trọng hơn khủng hoảng chia rẽ trong Đảng.


Sự chia rẽ của Đảng không chỉ biểu hiện ở sự bất đồng về đường lối, phương châm, mà còn biểu hiện ở sự phân biệt dân tộc. Được khuyến khích bởi phương châm "dân chủ hóa", "công khai"' và "chế độ đa đảng" của Gorbachev, tinh thần dân tộc chủ nghĩa của các nước cộng hòa trong Liên Xô không ngừng lên cao, khuynh hướng ly khai dân tộc ngày càng nghiêm trọng. Phái dân chủ trong Đảng lợi dụng tình thế này, cùng với những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ly khai, tiến hành hoạt động chia rẽ Đảng. Về mặt này, vấn đề nổi bật nhất là mấy nước cộng hòa ven biển Bantích. Tháng 12 năm 1989, Đại hội XX Đảng Cộng sản Lítva thông qua quyết định tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô. Ba tháng sau, Đảng Cộng sản Extônia theo gót Đảng Cộng sản Lítva cũng tuyên bố tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô và tách ra làm hai chính đảng. Lại một tháng sau, Đảng Cộng sản Látvia cũng xảy ra chia rẽ. Tiếp theo sau đảng các nước ven biển Bantích, đảng của một số nước cộng hòa khác cũng xuất hiện tình hình tương tự. Đảng Cộng sản Liên Xô đứng trước mối đe dọa bị liên bang hóa. Gorbachev tuy cũng từng tỏ thái độ cứng rắn về vấn đề đối xử với chủ nghĩa dân tộc, nhưng phương châm chung là nhượng bộ và thỏa hiệp. Biểu hiện rõ nhất của nhượng bộ là Bộ Chính trị Trung ương được Đại hội XXVIII bầu ra đã thu hút tất cả 15 Bí thư thứ nhất của Đảng các nước cộng hòa liên bang. Trong một lần nói chuyện, Ligachev cho rằng: "Quyết định của Đại hội XXVIII cho phép người lãnh đạo tất cả các nước cộng hòa liên bang đều trở thành Ủy viên Bộ Chính trị là sai lầm, đáng lẽ giám sát họ, kết quả lại để cho họ vào Bộ Chính trị, điều đó làm suy yếu nghiêm trọng vai trò giám sát của Đảng". Thực ra, vấn đề ở chỗ không chỉ làm suy yếu vai trò giám sát của Đảng, mà còn chứng tỏ Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là một đảng thống nhất nữa.


Sau Đại hội XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô xuất hiện một cao trào xin ra khỏi Đảng. Không chỉ những nhân vật tiêu biểu của phái dân chủ, mà cả khá đông đảng viên bình thường tuyên bố ra khỏi Đảng. Chỉ trong 2 năm, từ tháng 1 năm 1989 đến tháng 1 năm 1991, số đảng viên từ 19,48 triệu giảm xuống còn 16,51 triệu người1 (Trần Chi Hoa (chủ biên): Cương yếu lịch sử thịnh suy của Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2004, tr.764, 765). Ở Mátxcơva, từ Đại hội XXVIII đến tháng 7 năm 1997, từ 1,135 triệu đảng viên chỉ còn lại 800 nghìn đảng viên, 300 nghìn đảng viên ra khỏi Đảng (trong đó gần 50% là công nhân, 23% là trí thức, 17% là người về hưu)2 (Ngụy Trạch Hoán: Nhìn thấu thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân Quảng Đông, 1998, tr.283-284). Tổ chức cơ sở đảng cũng xuất hiện hiện tượng tê liệt. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến năm 1990, cả nước có 1/5 tổ chức đảng phân xưởng và 12 tổ đảng giải tán hoặc cơ bản ngừng hoạt động3 (Trần Chi Hoa (chủ biên): Cương yếu lịch sử thịnh suy của Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2004, tr.764, 765). Tình hình này chứng tỏ lực lượng và uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô xuống thấp vô cùng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:27:45 am
4. Kết cục cuối cùng: Mất Đảng

Bắt đầu từ đầu năm 1991, tư tưởng của Gorbachev chuyển nhanh sang tả. Thế lực của phái dân chủ trong Đảng theo đó phình ra rất nhanh. Tiến trình thoái hóa, biến chất của Đảng được đẩy nhanh hơn. Ngày 23 tháng 4, Gorbachev bỏ qua Trưng ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Xôviết tối cao Liên Xô, trực tiếp gặp gỡ lãnh đạo 9 nước cộng hòa liên bang gồm Liên bang Nga, Ucraina, Bêlarút, Adécbaigian và 5 nước Trung Ả..., ra tuyên bố "về ổn định tình hình trong nước" (tức cái gọi là Tuyên bố "9+1") đề ra phải nhanh chóng ký Hiệp ước liên minh mới và thông qua Hiến pháp mới trong nửa năm sau khi ký Hiệp ước, bầu cử lại nghị viện mới và thành lập chính phủ trung ương mới. Liên minh mới thành lập sẽ đổi tên là "Liên minh các nước cộng hòa chủ quyền Xôviết", từ bỏ chủ nghĩa xã hội phản ánh tính chất nhà nước liên minh, làm nổi bật "chủ quyền" của nước cộng hòa. Tuyên bố còn bày tỏ, 6 nước cộng hòa khác chưa tham gia cuộc gặp "có quyền độc lập giải quyết vấn đề gia nhập Hiệp ước liên minh". Điều đó có nghĩa là thừa nhận địa vị độc lập của các nước đó. Tuyên bố "9+1" là sự phản bội công khai của Gorbachev đối với Nhà nước Liên bang Xôviết và chủ nghĩa xã hội, là sự chà đạp thô bạo lên quyết định chung toàn dân tiến hành hơn một tháng trước đó1 (Ngày 17-3-1991 đã diễn ra cuộc trưng cầu dân ý trên toàn Liên bang Nga. Trong 185,6 triệu công dân có quyền bỏ phiếu, có 85% số người tham gia bỏ phiếu, trong đó 76,4% số phiếu tán thành giữ Liên bang xã hội chủ nghĩa Xôviết, 21,7% phản đối, gần 2% số phiếu trắng. Sáu nước cộng hòa là Grudia, Lítva, Mônđavia, Látvia, Ácmênia và Extônia từ chối tiến hành bỏ phiếu. Tham khảo A.s. Barsenkov (Nga) và A.I. Vidovin (Nga): Lịch sử nước Nga giai đoạn 1938-2002, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2003, tr.373).


Ngày hôm sau sau khi ra Tuyên bố "9+1", Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể tháng 4 năm 1991. Tại Hội nghị diễn ra tranh luận gay gắt về vấn đề Hiệp ước liên minh mới. Một số ủy viên phái truyền thống nghiêm khắc phê bình Gorbachev bó tay bất lực về vấn đề khắc phục khủng hoảng trước mắt của Đảng, đồng thời nhượng bộ quá nhiều phái đối lập, yêu cầu ông ta từ chức Tổng Bí thư. Kết quả, được sự ủng hộ của phái dân chủ, Gorbachev vẫn giữ được chức vụ của mình.


Sau Hội nghị toàn thể tháng 4, Gorbachev tăng cường hợp tác hơn nữa với Yeltsin, sự chia rẽ của Đảng và khủng hoảng trong - ngoài sâu sắc hơn. Ngày 12 tháng 6, Liên bang Nga tổ chức bầu cử Tổng thống lần đầu tiên. Đảng Cộng sản Nga đưa ra ứng cử viên Ryzhkov đọ sức với Yeltsin. Nhưng Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Gorbachev đứng đầu chưa tích cực ủng hộ Ryzhkov tranh cử, mà lại đưa ra ứng cử viên Pakatin ít tiếng tăm tham gia bầu cử. Giới truyền thông cộng sản Nga ra sức ủng hộ Ryzhkov, nhưng báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô thì án binh bất động, giữ "đường lối trung gian", do đó phân tán phiếu bầu của Đảng Cộng sản, làm cho Yeltsin thắng cử. Dư luận rộng rãi cho rằng, Yeltsin trúng cử Tổng thống, chức vụ quan trọng có tính quyết định này là nhờ có sự ủng hộ của Gorbachev và Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 7, sau nhiều năm theo đuôi Gorbachev, Shevardnadze tuyên bố ra khỏi Đảng, cùng Yakovlev công khai đứng về phía đối lập với Đảng Cộng sản Liên Xô. Đồng thời, Phó Tổng thống Liên bang Nga Rutskoy lại lôi kéo một nhóm người trong Đảng tổ chức "phái dân chủ của những người cộng sản Nga" độc lập.


Biện pháp đầu tiên sau khi Yeltsin được bầu làm Tổng thống Liên bang Nga là ngày 20 tháng 7 ban bố cái gọi là mệnh lệnh "phi đảng hóa", tuyên bố đình chỉ hoạt động của các chính đảng trong cơ quan nhà nước các cấp, đoàn thể quần chúng và doanh nghiệp cơ sở, mục đích của nó đã được phơi bày, lộ rõ. Là Tổng thống Liên Xô, Gorbachev hoàn toàn có quyền xóa bỏ mệnh lệnh chống cộng đó của Yeltsin. Nhưng ngoài Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung ương Đảng Cộng sản Nga ra tuyên bố lên án mệnh lệnh đó ra, bản thân Gorbachev không ban bố lệnh Tổng thống tuyên bố mệnh lệnh của Yeltsin vô hiệu, cũng không công khai bày tỏ phản đối. Chỉ có người phát ngôn báo chí của ông là Ignatenko nói mấy câu trong cuộc họp báo ngày 23 tháng 7: "Khi đất nước ta đi đến nhất trí, ban bố mệnh lệnh này dẫn đến bất ổn, nó sẽ gây nên căng thẳng và đối kháng...". Ngày 4 tháng 8, Gorbachev lên đường đi Crưm nghỉ mát. Trước lúc lên đường, ban bố mệnh lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng, nhưng vẫn không nói đến một chữ đối với mệnh lệnh "phi đảng hóa" của Yeltsin1 (Trên đây tham khảo Đường Tu Triết, Tôn Nhuận Ngọc: Ghi chép điện Kremlin đổi chủ, Sđd, tr.308-309).


Ngày 19 tháng 8, một loạt lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân đội do Phó Tổng thống Liên Xô Yanayev đứng đầu nhân cơ hội Gorbachev đi nghỉ ở ngoài, tuyên bố thành lập "Ủy ban tình trạng khẩn cấp" nhằm bảo lưu Liên Xô, đồng thời ngăn cản phái dân chủ lên cầm quyền, kết quả bị thất bại. Đó là sự kiện "19 tháng 8" làm chấn động kinh hoàng trong và ngoài Liên Xô. Về bối cảnh và diễn biến của biến cố, đã có không ít tường thuật (mặc dù có những chi tiết đến nay vẫn chưa sáng tỏ), nhưng đánh giá biến cố này, nhất là quan điểm về vai trò của Gorbachev trong biến cố vẫn chưa thật thống nhất. Dù thế nào chăng nữa, đối với động cơ người tổ chức biến cố và những hy sinh của họ nhằm bảo toàn Liên Xô xã hội chủ nghĩa, rõ ràng là nên khẳng định. Nguyên nhân biến cố thất bại tương đối phức tạp. Qua một số cuộc trao đối nội bộ của những người tổ chức sự kiện và tư liệu liên quan khác, có thể thấy mấy nguyên nhân chủ yếu dưới đây.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:28:51 am
Thứ nhất, Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev áp dụng lập trường trước là lừng chừng, sau là phản bội. Rất nhiều tài liệu cho thấy, trước khi sự việc xảy ra, Gorbachev biết được kế hoạch biến cố. Thậm chí trước mấy tháng ông gợi ý cho người tổ chức chuẩn bị hành động. Nhưng khi người tổ chức quyết định trước khi ra tay hành động cử người đến nơi nghỉ dưỡng Crưm gặp Gorbachev, thái độ của ông ta là "các anh muốn làm gì thì làm", đã không tỏ ra đồng ý, cũng không tỏ ra phản đối. Hiển nhiên, Gorbachev tính toán, bất kể người khởi sự giành được thắng lợi hay bị thất bại, ông đều có thể ở địa vị của "người thắng lợi", vả lại cũng không đắc tội với phái dân chủ. Sự việc trái với mong muốn, là sau khi biến cố thất bại, Yeltsin quyết không chịu thua ông ta, mà là cực lực lên án và dấy binh hỏi tội ông ta. Lúc này, bộ mặt thật của Gorbachev hoàn toàn phơi bày. Trong phát biểu trên truyền hình ngày 22 tháng 8, ông chửi bới kẻ gây sự, đồng thời bội phần ca ngợi Yeltsin. Ông nói: "Tôi hiện giờ khi đang nói chuyện trước mặt các bạn, đã có đầy đủ căn cứ nói rằng, chính biến đã phá sản. Các nhà âm mưu đã tính nhầm..., các nhà mạo hiểm đã bị bắt và sẽ bị trừng phạt... Có người không chỉ gánh lấy rủi ro mất địa vị và tự do bản thân, mà còn thường xuyên đứng trước nguy hiểm tính mạng, nhưng họ vẫn đứng trong hàng ngũ bảo vệ Hiên pháp, luật pháp và nhân quyền, tôi phải cảm ơn họ. Trước tiên tôi phải nêu ra vai trò kiệt xuất của Tổng thống Nga Yeltsin, ông là hạt nhân ngăn chặn âm mưu và chuyên chính"1 ("Tuyên bố của Gorbachev trên truyền hình Trung ương Liên Xô ngày 22-8-1991", trích dẫn từ 1.500 ngày đối kháng chính trị Gorbachev - Yeltsin, Sđd, tr.319-320). Phản bội công khai của Gorbachev chứng tỏ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã từ bỏ chống đối phái dân chủ. Trong tình hình đó, đòi hỏi đông đảo đảng viên bình thường và tổ chức đảng cơ sở ra tay hành động là không hiện thực, càng không nên chỉ trích họ quá nhiều. Bởi vì trong tình hình người lãnh đạo Đảng đã hoàn toàn xa rời quần chúng, quần chúng căn bản không thể ảnh hưởng đến quyết sách của Đảng.


Thứ hai, người tổ chức sự kiện do dự, dao động và ý kiến nội bộ không thống nhất. Điều đó, ở mức độ nhất định, có liên quan đến nguyên nhân nói trên. Họ sai lầm khi cho rằng Gorbachev sẽ đứng lên ủng hộ hành động của họ. Về sau, trong một cuộc trò chuyện, Kryuchkov có nói, lúc đó chúng ta "có ảo tưởng đối với Gorbachev, hy vọng ông ta có thể cải tà quy chính". Yanayev cũng nói, "sai lầm của chúng ta ở chỗ, một mặt muốn cứu vãn nhà nước, ngăn cản ký Hiệp ước liên minh mới, đồng thời lại muốn giữ Tổng thống". Tất nhiên, hành động của bản thân người tổ chức không kiên quyết và nội bộ không nhất trí cũng là một nguyên nhân. Học giả Nga, người từng "bất đồng chính kiến" trước đây A. A. Zinoviev, trong tác phẩm gần đây của ông nêu rõ: "Phần tử phiến loạn không phải trẻ con 3 tuổi, họ nên hiểu họ đang làm gì. Giả sử ý đồ của họ là thật sự nghiêm chỉnh, thì việc đầu tiên họ nên làm là bắt tất cả phần tử tích cực của "phái dân chủ" - trước tiên là Yeltsin. Họ nên hiểu rằng, trong nước đang tiến hành một cuộc chiến tranh hủy diệt toàn bộ Liên Xô, nên dùng phương thức phù hợp với hiện thực này để hành động; nhưng họ sợ làm như thế thậm chí họ không dám thừa nhận sự thật phũ phàng này"1 (A. A. Zinoviev: Bi kịch của chủ nghĩa cộng sản Nga, Sđd, tr.73).


Thứ ba, trong toàn bộ quá trình biến cố này, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn ở trạng thái tiêu cực, không trực tiếp hoặc gián tiếp bày tỏ ủng hộ hay đồng tình đối với biến cố. Trong ba ngày, từ khi bắt đầu cuộc biến cố đến khi thất bại, người ta không nghe thấy tiếng nói của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Đến ngày 21 tháng 8 khi biến cố thất bại đã rõ kết cục, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lại vội vã lên án người tổ chức biến cố. Họ nêu ra trong tuyên bố: "Không cho phép lợi dụng quyền lực phi thường lâm thời để xác lập chế độ độc đoán, thành lập chính quyền vi phạm Hiên pháp và có ý đồ lợi dụng cách làm vũ lực", và yêu cầu triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương có Gorbachev tham gia. Thậm chí ngay cả Yakovlev, phần tử không ăn cánh của Đảng này cũng cho rằng, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô chưa thể kịp thời đứng lên ủng hộ Ủy ban tình trạng khẩn cấp chứng tỏ họ "nhát gan".


Thứ tư, người tổ chức biến cố không hoàn toàn kiểm soát giới báo chí truyền thông. Mặc dù Ủy ban tình trạng khẩn cấp ra lệnh hạn chế hoạt động truyền thông, chỉ cho phép số ít báo chí trung ương xuất bản, nhưng công tác kiểm soát dư luận không làm triệt để. Trên thực tế trong thời gian biến cố, các tổ chức truyền thông như hãng Thông tấn Nga TASS, Điện tín quốc tế v.v... vẫn không ngừng hoạt động. Yeltsin vẫn đặt điện đài trong tòa nhà chính phủ Nga. Họ ra sức phát tán tin tức và dư luận có lợi cho "phái dân chủ", gây ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng.


Thứ năm, hoàn toàn ngược với tâm trạng của người tổ chức biến cố, phần tử chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội do Yeltsin đúng đầu lại kiên định quyết đoán, đoàn kết nhất trí tiến hành đánh trả. Khi phân tích nguyên nhân của Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, vạch trần và phê phán hành vi phản bội của Gorbachev tất nhiên là chủ yếu hàng đầu, nhưng cũng không thể không chú ý vai trò phá hoại của Yeltsin. Là một người biến chất và phần tử không ăn cánh giai cấp trong tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, Yeltsin đã đóng vai trò mà người khác khó làm nổi trong toàn bộ quá trình Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ.


Thứ sáu, khi xảy ra sự kiện "19 tháng 8", ảnh hưởng và uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô trong ngoài Đảng đã xuống thấp chưa từng có. Mặc dù nó vẫn giữ được sức mạnh cứng nhất định, nếu muốn nói, còn có thể đọ sức một phen với phái dân chủ nhưng sức mạnh mềm của nó đã giảm sút đáng kể. Theo các cuộc điều tra dân ý, trước năm 1988, tỷ lệ tín nhiệm của quần chúng đối với Đảng Cộng sản Liên Xô khoảng 70%, đến năm 1990 giảm xuống còn khoảng 20%, đến đầu năm 1991 tiếp tục giảm xuống còn mười mấy phần trăm"1 (Tân Hoa Xã: Đại sự thế kỷ: Liên Xô giải thể, tr.62). Tất nhiên, nguyên nhân sự kiện "19 tháng 8" thất bại còn có một số mặt khác, ở đây không trình bày thêm chi tiết.


Sau sự kiện "19 tháng 8" thất bại, phần tử chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội do Yeltsin đứng đầu dấy lên làn sóng chống cộng quy mô lớn. Ngày 23 tháng 8, khi Gorbachev gặp gỡ các nghị sĩ Liên bang Nga, Yeltsin công kích và chỉ trích kịch liệt đối với Gorbachev và Đảng Cộng sản Liên Xô, và tuyên bố trước mặt mọi người, nói: "Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga đã tham gia "đảo chính", cho nên bây giờ tôi ký sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga tạm ngừng hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga trên lãnh thổ Liên bang Nga". Gorbachev đứng bên cạnh định ngăn cản, ấp a ấp úng nói với Yeltsin: "Chờ một chút, chờ một chút Boris Nikolayevich Yeltsin! Ông nên làm phái dân chủ triệt để, như thế tất cả phái dân chủ và những người có tư tưởng lành mạnh mới đi theo ông". Nhưng Yeltsin hùng hổ ký mệnh lệnh này tại chỗ1 (Đường Tu Triết, Tôn Nhuận Ngọc: Ghi chép điện Kremlin đổi chủ, Sđd, tr.337-338). A. Chemyaev, trợ lý thân tín của Gorbachev viết rất đồng tình trong hồi ký của ông: "Dưới sự xúi giục của con người Yeltsin, Gorbachev bị lăng nhục rất thậm tệ ở Nghị viện Nga, điều đó trở thành một trang sỉ nhục trong lịch sử Nghị viện Nga"2 (Chernyaev: Sáu năm bên cạnh Gorbachev, Nxb. Tri thức thế giới, 2001, tr.584). Thực ra, điều đó sao lại không phải là một trang sỉ nhục trong cuộc đời của Gorbachev được? Chiều hôm đó, theo mệnh lệnh của Gorbachev, Yeltsin và Popov Thị trưởng thành phố Mátxcơva ký, tòa nhà văn phòng của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô bị niêm phong. Lá cờ trên đỉnh tòa nhà rơi xuống trong tiếng hô vang cuống nhiệt của đám phần tử chống cộng, mặt trước tòa nhà treo lên lá cờ ba màu đỏ trắng xanh của thời Sa hoàng3 (Vĩ Chính Cương (chủ biên): Phóng sự Liên Xô giải thể, Ban Biên tập thời sự tham khảo Tân Hoa Xã, 1992, tr.326). Ngày 24 tháng 8, để vạch rõ ranh giới với Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev công khai ra tuyên bố chủ động từ chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời tuyên bố, do Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô không kiên quyết phản đối đảo chính, yêu cầu Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải tán, Đảng Cộng sản của các nước cộng hòa và tổ chức đảng địa phương tự quyết định tiền đồ của mình. Ngày hôm sau, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ra tuyên bố tiếp nhận quỵết định tự giải tán Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Đồng thời, tất cả cơ quan của Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán, toàn bộ tài sản, hồ sơ, v.v... của Đảng được chuyển cho các ban, ngành hữu quan Liên bang Nga quản lý, các vật kỷ niệm lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô bị hủy hoại và gỡ bỏ. Trước lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, tức ngày 5 tháng 11, Yeltsin một lần nữa ra lệnh, hoàn toàn đình chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga trong lãnh thổ Liên bang Nga. Đến đây, Đảng Cộng sản Liên Xô trải qua chặng đường 93 năm khúc khuỷu, từng có 20 triệu đảng viên, cuối cùng sụp đổ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:29:58 am
Chương II
LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Lý luận vô cùng quan trọng đối với một chính đảng. Lênin đã từng nói, không có lý luận, Đảng sẽ mất đi quyền sinh tồn, hơn nữa sớm muộn sẽ không thể tránh khỏi sự phá sản về chính trị. Người còn nói: "Không có lý luận cách mạng thì sẽ không có phong trào cách mạng". "Không có lý luận cách mạng, sẽ không có chính đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh". "Đảng chỉ có lấy lý luận tiên tiến làm kim chỉ nam thì mới có thể thực hiện được vai trò chiến sĩ tiên tiến"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.23-24). Chúng ta đã biết, Mác - Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên làm rõ được bản chất của đời sống xã hội, quá trình khách quan và quy luật thông thường của phát triển xã hội, làm cho nghiên cứu về lịch sử xã hội của loài người được xây dựng trên một nền tảng khoa học chân chính, cung cấp quan điểm lịch sử khoa học cho giai cấp vô sản, trở thành nền tảng lý luận cho giai cấp vô sản cũng như toàn bộ hoạt động của chính đảng. Đảng Cộng sản Liên Xô khi mới thành lập đã lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử làm kim chỉ nam đế xây dựng đường lối, phương châm và chính sách của Đảng. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô khi quán triệt thực hiện các nguyên lý chủ nghĩa duy vật lịch sử để xây dựng các lý luận cơ bản đã đem thành công gắn với vấn đề, kinh nghiệm gắn với bài học, vừa có những mặt đúng đắn, lại vừa có những sai lầm nghiêm trọng, đã trải qua một quá trình diễn biến.


Những sai lầm trong lý luận cơ bản của Đảng Cộng sản Liên Xô giai đoạn trước khi mất Đảng chủ yếu là: không kiên trì thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử, không vận dụng các quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, tồn tại xã hội và ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như nguyên lý quần chúng nhân dân là động lực thúc đẩy lịch sử để nhận thức, làm rõ và nắm bắt các quy luật phát triển của xã hội, dựa vào các quy luật này để thúc đẩy xã hội phát triển và biến đổi. Chẳng hạn như, về tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản, địa vị và tính chất của Đảng Cộng sản, giai đoạn phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, về xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng như lý luận về thời đại, đặc trưng thời đại và quan hệ đối ngoại, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc phải sai lầm "tả" khuynh và "hữu" khuynh của chủ nghĩa duy tâm lịch sử xa rời thực tế. Sai lầm "tả" khuynh chủ yếu biểu hiện ở chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ cứng nhắc, dẫm chân tại chỗ, không thể tiến cùng thời đại; sai lầm "hữu" khuynh chủ yếu biểu hiện ở chỗ chiều theo đòi hỏi của giai cấp tư sản, khuất phục trước áp lực của chủ nghĩa đế quốc, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin. Phải chỉ ra rằng, những sai lầm "tả" khuynh và "hữu" khuynh mà Đảng Cộng sản Liên Xô mắc phải có tính chất căn bản khác nhau, mức độ cũng khác nhau, do đó hậu quả và ảnh hưởng của nó cũng khác nhau. Sai lầm "hữu" khuynh của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ yếu bắt đầu từ khi Khrushchev lên cầm quyền, đến thời Gorbachev thì lên tới đỉnh điểm, dẫn tới vứt bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và phương hướng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến Đảng Cộng sản Liên Xô bị mất Đảng và Liên Xô tan rã, bài học vô cùng sâu sắc.


I. VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Bất kỳ một chính đảng nào cũng đều hoạt động dưới sự chỉ đạo và chi phối của lý luận tư tưởng nhất định. Nội dung của tư tưởng chỉ đạo quyết định tính chất và tôn chỉ của chính đảng đó. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản là chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác làm sáng tỏ quy luật thông thường nhất của phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy, phản ánh tính phổ biến và tính chung nhất của cách mạng và xây dựng của các nước, nguyên lý cơ bản của nó là chân lý được đúc kết từ thực tế khách quan và được kiểm nghiệm nhiều lần, là lý luận khoa học để những người cộng sản nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Đồng thời, chủ nghĩa Mác là khoa học phát triển, nó không khép lại chân lý, cũng không cố định bất biến. Chủ nghĩa Mác phải tiến cùng thời đại. Bởi vì xã hội loài người không ngừng thay đổi, phát triển, cách mạng và công cuộc xây dựng của các nước do có tính đặc thù và tính cá biệt nên không giống nhau, phải căn cứ vào những kinh nghiệm thực tiễn và những thay đổi, phát triển của đặc trưng thời đại mà làm cho nguyên lý của chủ nghĩa Mác phong phú và phát triển hơn nữa, không ngừng sáng tạo lý luận mới có thể giữ vững được sức sống dồi dào và trở thành vũ khí tư tưởng mạnh mẽ thực sự. Ăngghen nhấn mạnh rằng: "Lý luận của chúng ta là lý luận đang phát triển, chứ không phải là những giáo điều học thuộc lòng và lặp đi lặp lại một cách máy móc"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.681). Do đó, Đảng Cộng sản phải kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác, phải phát triển trong sự kiên trì và kiên trì trong sự phát triển, như vậy mới có thể luôn đại diện được cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân, mới có thể bảo đảm được tính tiên tiến của Đảng Cộng sản, mãi mãi đứng trên thế chiến thắng, vấn đề tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trải qua quá trình từ vận dụng và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác, sản sinh ra chủ nghĩa Lênin, cho đến cơ bản kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, rồi đến xa rời và vứt bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:31:27 am
1. Từ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác cho đến sai lầm giáo điều chủ nghĩa nghiêm trọng

Lênin luôn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo. Lênin chỉ ra rằng: "Chỉ có lý luận mácxít cách mạng mới có thể trở thành ngọn cờ của phong trào giai cấp công nhân''1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.155). "Chỉ có những Đảng lấy lý luận tiên tiến làm kim chỉ nam thì mới có thể thực hiện được vai trò người chiến sĩ tiên tiến"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.24). "Thế giới quan giai cấp vô sản nghiêm túc chỉ có một, đó chính là chủ nghĩa Mác"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.10, tr.271). Đồng thời, Lênin cũng rất chú trọng kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với đặc trưng thời đại và tình hình nước mình, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thực tiễn. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga là thành quả vĩ đại của sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác mà Lênin đã xuất phát từ thực tế của nước Nga trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.


Từ sau khi Lênin mất đến năm 1927, Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã tiến hành ba lần đấu tranh quyết liệt với phái đối lập Trotsky, phái đối lập "mới" và phái đối lập "liên hợp". Trong những cuộc đấu tranh trên, Xtalin giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Lênin, đăng tác phẩm Bàn về nền tảng của chủ nghĩa Lênin, trình bày hệ thống nguyên lý cơ bản lêninnít. Từ đó Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tự xưng là Đảng lêninnít và tư tưởng chỉ đạo của Đảng là chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, gọi tắt là chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1934, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XVII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin nhấn mạnh: Đảng của chúng ta "là Đảng mácxít, là Đảng lêninnít. Bởi vì trong công việc của mình, Đảng tuân theo học thuyết của Mác, Ăngghen, Lênin"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.332). Năm 1939, trong báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội XVIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Zhdanov nói: "Cương lĩnh, sách lược, nguyên tắc tổ chức của Đảng chúng ta được xây dựng trên nền tảng vững chắc như đá hoa cương của chủ nghĩa Mác - Lênin". Trong thời gian gần 30 năm lãnh đạo Đảng và nhà nước, Xtalin cơ bản kiên trì và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là đã làm phong phú và phát triển lý luận: chủ nghĩa xã hội có thể giành được thắng lợi trước ở một nước và một số nguyên lý cơ bản về chủ nghĩa xã hội của Lênin, bảo đảm chắc chắn Liên Xô dưới sự bao vây của chủ nghĩa tư bản đã xây dựng lên chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa, và trong cuộc chiến tranh vệ quốc đã giành được thắng lợi trước phátxít Đức, thúc đẩy sự nghiệp tiến bộ của thế giới phát triển. Trong phần kết luận cuốn Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin đã từng viết: "Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam hành động", chủ nghĩa Mác "đã là một môn khoa học thì sẽ không và không thể dẫm chân tại chỗ, mà sẽ không ngừng phát triển và không ngừng hoàn thiện". Ông còn nói: "Nhất định không thể xem lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin như là một tổng tập giáo điều, một cẩm nang giáo lý, tôn giáo"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.615-616). Nhưng trên thực tế Xtalin và Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang không hoàn toàn làm được như vậy. Tình hình này bắt đầu xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX, đến thời kỳ cuối của Xtalin thì dần trở nên nghiêm trọng.


Tất cả mọi người đều biết, sùng bái cá nhân đối với Xtalin đạt đến đỉnh điểm từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Lúc đó, Xtalin không những một mình nắm giữ quyền hành trong Đảng, mà còn nắm độc quyền giải thích đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Những lời nói của Xtalin trở thành một tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt chân lý và sai lầm, tất cả các kết luận của Xtalin đều được coi là giáo điều thiêng liêng không thể xâm phạm, người khác chỉ có thể học tập và lĩnh hội hoặc luận chứng các kết luận của Xtalin. Một số luận điểm không khoa học của Xtalin như lý luận chủ nghĩa xã hội đã "xây dựng thành công" và quá độ sang chủ nghĩa cộng sản, lý luận cùng với thắng lợi của xây dựng chủ nghĩa xã hội, "đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt", lý luận quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất "hoàn toàn phù hợp" và lý luận "tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản" không ngừng sâu sắc, đã trói buộc giới lý luận. Trong thời gian đó có một số quan điểm lý luận có ý nghĩa sáng tạo lại gặp phải sự phê phán không đáng có. Ví dụ vào giữa những năm 1940, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước Liên Xô Andreyevich đề ra quan điểm: sự lãnh đạo quá tập trung đối với kinh tế quốc dân tất yếu nảy sinh chủ nghĩa quan liêu và lãng phí về kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa nên coi trọng vai trò điều tiết của quy luật giá trị. Nhưng quan điểm của ông gặp phải sự phê phán nghiêm khắc, sau này ông cũng bị hành hình trong "Vụ án Lêningrát". Năm 1948, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính trị thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, nhà kinh tế học Varga đưa ra quan điểm chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh có sự phát triển nhất định, cũng bị phê phán nghiêm khắc, nói ông đã né tránh vấn đề căn bản là tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản sâu sắc thêm một bước. Kết quả là tạp chí do Varga chủ biên đã bị đình bản, viện nghiên cứu của ông cũng bị giải tán. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đề xướng tổ chức buổi thảo luận và phê phán các vấn đề về triết học, sinh vật học, sinh lý học, ngôn ngữ học, chính trị kinh tế học. Trong các lĩnh vực đã xuất hiện hiện tượng dùng mệnh lệnh hành chính thay thế thảo luận chuyên môn, áp đặt các ý kiến khác nhau. Lúc đỏ, một quyển sách giáo khoa, một bộ phim, một vở kịch, một bộ tiểu thuyết, cũng đều do Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang trực tiếp nhúng tay, can dự vào hoặc thẩm định, thậm chí đưa ra nghị quyết riêng. Kết quả là cả giới lý luận đều bị bao phủ bởi chủ nghĩa giáo điều nghiêm trọng, mất đi ý thức và tinh thần sáng tạo.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:32:14 am
2. Từ xa rời chủ nghĩa Mác cho đến vứt bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác

Năm 1953 sau khi Xtalin qua đời, Khrushchev nhậm chức Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Xô viết vào tháng 9 năm đó. Mặc dù ông ta luôn miệng tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm tư tưởng chỉ đạo, ví dụ như trong Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng năm 1952, ông nói: "Các hoạt động của Đảng chúng ta lấy lý luận cách mạng mácxít, lêninnít làm kim chỉ nam". Trong "Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô" năm 1961 nhấn mạnh: "Tất cả hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô đều tuân theo học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin". Nhưng trên thực tế không hề như vậy. Tư tưởng chỉ đạo của Khrushchev đã bắt đầu xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một mặt, ông kéo dài sai lầm chủ nghĩa giáo điều thời kỳ Xtalin, cố giữ những giáo điều theo mô hình của chủ nghĩa xã hội trước đây. Ví dụ, tháng 8 năm 1953, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Malenkov căn cứ theo tình hình thực tế Liên Xô, đề ra chủ trương "tăng tốc phát triển công nghiệp nhẹ", trong khi đó, Khrushchev lại khư khư giáo điều ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, không những phủ định mà còn tăng cường phê phán, khiển trách rằng đây là một "kiên giải sai lầm cực đoan, phản lại chủ nghĩa Mác - Lênin", là "sự sống lại của hữu khuynh". Tháng 2 năm 1955, thành viên Đoàn chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Molotov đã đưa ra ý kiến tương đối thực tế về các giai đoạn phát triển xã hội của Liên Xô, cho rằng Liên Xô sau chiến tranh chỉ là "đã xây dựng được nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa", nhưng Khrushchev và những người khác vẫn kiên trì thuyết chủ nghĩa xã hội "đã xầy dựng thành công", phê phán nghiêm khắc Molotov, nhấn mạnh "Liên Xô đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và đang dần dần quá độ lên chủ nghĩa cộng sản", đây là "vấn đề Đảng đã giải quyết xong từ lâu", ý kiến của Molotov "có thể làm cho đảng viên và toàn thể nhân dân Liên Xô lạc mất phương hướng", buộc Molotov phải công khai nhận lỗi. Mặt khác, dưới ngọn cờ phản đối sùng bái cá nhân, ông làm rầm rộ việc "phi Xtalin hóa". Ông không dùng quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, khách quan, công bằng, toàn diện để đánh giá Xtalin, không khẳng định vị trí lịch sử xứng đáng của Xtalin, mà dùng chủ nghĩa duy tâm lịch sử nói Xtalin chẳng chỗ nào đúng cả, thậm chí nguyền rủa, bôi nhọ một cách cay độc, trên thực tế phủ định hoàn toàn Xtalin. Đồng thời lấy quan điểm duy tâm của chủ nghĩa nhân đạo siêu giai cấp thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin làm tư tưởng chỉ đạo trong Đảng, lấy "tất cả vì con người, tất cả vì hạnh phúc của con người" làm mục tiêu mang tính cương lĩnh trong Đảng, đề ra quan điểm lý luận sai lầm, nào là "thế giới ba không" (không có vũ khí, không có quân đội, không có chiến tranh), "Đảng toàn dân", "Nhà nước toàn dân", từ đó dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng về đường lối, phương châm, chính sách của Đảng.


Sau khi Brezhnev lên làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, tuy ông liên tục tuyên bố "Đảng chúng ta mãi mãi giương cao ngọn cờ bách chiến bách thắng của lý luận cách mạng mácxít, lêninnít"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1978, tr.109-110), "Đảng chúng ta là Đảng của chủ nghĩa cộng sản khoa học, trước sau như một tuân theo khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin - là khoa học tiên tiến nhất, cách mạng nhất thời nay, và phải dốc hết sức để làm cho Đảng phát triển hơn nữa"2 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội Đại biểu lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1976, tr. 135-136), nhưng trên thực tế vẫn tiếp tục vấp phải sai lầm giáo điều chủ nghĩa. Ví dụ tương đối điển hình là việc phê phán cái gọi là "lý luận chủ nghĩa xã hội thị trường", cho rằng "chủ nghĩa xã hội thị trường" là đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa xã hội, là "thủ đoạn mà tư bản độc quyền và chủ nghĩa xét lại của nó toan tính cản trở sự phát triển và củng cố hơn nữa chủ nghĩa xã hội", mục đích của nó là "xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ đặc trưng cơ bản và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội", đồng thời nhấn mạnh, "quy hoạch mang tính mệnh lệnh đóng vai trò chủ đạo trong công tác lãnh đạo kinh tế nhà nước", "cạnh tranh là hình thức phát triển kinh tế không dung hòa với chủ nghĩa xã hội". Những phê phán như vậy trên thực tế là bảo vệ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ, bài trừ mọi khả năng lợi dụng quan hệ tiền - hàng và điều tiết thị trường. Chủ nghĩa giáo điều trong tư tưởng chỉ đạo làm cho Liên Xô rơi vào tình trạng trì trệ, không phát triển trong giai đoạn cuối thời kỳ Brezhnev cầm quyền.


Tháng 3 năm 1985, không lâu sau khi Gorbachev lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô có sự biến đổi về chất. Gorbachev đề ra "tư duy mới về cải tổ" trên lĩnh vực chính trị, thể hiện rõ rệt thành hai phương diện có liên hệ với nhau.


Một là, cổ xúỵ "đa nguyên luận", phủ định vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev đưa "dân chủ hóa", "công khai" và "đa nguyên luận" vào "ba đề xướng mang tính cách mạng", gọi "đa nguyên luận" là nơi quy tụ cuối cùng của lôgích phát triển "dân chủ hóa" và "công khai". Cũng chính vì cổ xúy "đa nguyên luận" nên không thể tránh khỏi dẫn đến phủ định vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trong lĩnh vực ý thức hệ thực hiện tự do hóa tư sản. Hàng loạt lời nói và hành động dưới đây của Gorbachev có thể chứng minh điều đó.


Thuyết "đa nguyên luận" này thể hiện đầu tiên ở chỗ cổ xúy gạt bỏ "hạn chế ý thức hệ", phản đối "độc quyền tinh thần". Tháng 2 năm 1990, trong "Dự thảo Cương lĩnh hành động" do toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra trước Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng, nhấn mạnh: "Kiên quyết gạt bỏ những hạn chế ý thức hệ đối với các quan điểm và tư tưởng khác". Cũng có nghĩa là, Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương vứt bỏ vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, gạt bỏ những hạn chế và đấu tranh đối với các trào lưu phi chủ nghĩa mácxít và phản lại chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, "đa nguyên luận" thể hiện ở chỗ để các công cụ dư luận hoàn toàn độc lập, gạt bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong lĩnh vực ý thức hệ. Ngày 11 tháng 1 năm 1990, phát biểu tại Cộng hòa Lítva, Gorbachev nói: "Tôi kiên quyết phản đối sự chiếm đoạt dưới bất cứ hình thức nào đối với công cụ dư luận, kiên quyết phản đối sự độc quyền dưới bất kỳ hình thức nào đối với công cụ dư luận". Cuối cùng, "đa nguyên luận" còn biểu hiện ở chỗ trực tiếp đả kích và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 2 tháng 7 năm 1990, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev khi nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh, phải cân nhắc tới "tính hạn chế của tất cả các lý luận", có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có "tính hạn chế". Nói toạc ra, ông ta không chỉ phủ định vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn phủ định cả bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin.


Hai là, cùng với việc phủ định vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề ra cái gọi là "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" dựa trên hạt nhân là tư tưởng chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa dân chủ xã hội trừu tượng, lấy đó làm tư tưởng chỉ đạo trong Đảng. Cái gọi là "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" là lý luận sai lầm, đối lập với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nó kế thừa lý luận của chủ nghĩa cơ hội của Quốc tếu, trên thực tế là phiên bản hiện đại của chủ nghĩa xã hội dân chủ của Quốc tế II, cũng là một biến tướng của chủ nghĩa xã hội dân chủ đương đại ở Liên Xô. Nó không những có hệ thống lý luận thống nhất, mà còn có cương lĩnh hành động toàn diện. Điều này hoàn toàn không ăn khớp với chủ nghĩa Mác - Lênin. Gorbachev dùng cái trước thay thế cái sau để làm tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Kết quả, một là, phá vỡ nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô giải trừ vũ trang, mất đi tính tiên tiến nên có; hai là, phá vỡ sự bảo đảm ý thức hệ của quốc gia liên minh đa dân tộc, dẫn đến chủ nghĩa chia rẽ dân tộc ngày càng phình to. Đây chính là nguyên nhân căn bản dẫn đến Đảng Cộng sản Liên Xô bại vong và Liên Xô tan rã.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:33:46 am
II. VỀ VẤN ĐỀ VAI TRÒ VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo vững chắc của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa chỉ là nói suông. Cùng với việc kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cũng cần phải không ngừng hoàn thiện và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng.


Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Lênin nhiều lần nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với chính quyền nhà nước, cho rằng Đảng là lực lượng lãnh đạo trong "thể chế chuyên chính vô sản". Lênin nói: "Tất cả mọi công tác kinh tế, chính trị của chính quyền nhà nước đều do Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.370), "Đảng quản lý và lãnh đạo cả đất nước", Đảng "phải lãnh đạo bộ máy chính quyền to lớn"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.306). Những tư tưởng trên của Lênin sau này luôn được Đảng Cộng sản Liên Xô kế thừa và kiên trì. Tháng 1 năm 1926, trong cuôn Bàn luận một vài vấn đề về chủ nghĩa Lênin, Xtalin nhấn mạnh "Đảng là lực lượng lãnh đạo chủ yếu của thể chế chuyên chính vô sản", "Sự lãnh đạo của Đảng là điều chủ yếu trong chuyên chính vô sản"3 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.8, tr.35, 46). Hiến pháp Liên Xô năm 1936 càng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong lập pháp, quy định rõ ràng Đảng Cộng sản Liên Xô là "hạt nhân lãnh đạo của tất cả các đoàn thể xã hội quần chúng lao động và cơ quan nhà nước". Sau khi Khrushchev lên cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong phần "Lời tựa" của Điều lệ Đảng đã được Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua năm 1961 chỉ ra, "Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và lực lượng chỉ đạo của xã hội Xôviết"4 (Tổng tập Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb, Cầu thực, 1982, tr.201). Hiên pháp Liên Xô năm 1977 chỉ ra: "Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và lực lượng chỉ đạo của xã hội Liên Xô, là hạt nhân của thể chế chính trị xã hội cũng như tất cả cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội Liên Xô". Vài chục năm nay, Đảng Cộng sản Liên Xô tuy kiên trì và nhấn mạnh vị trí lãnh đạo và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhưng trong thực tiễn lại nhấn mạnh "một Đảng duy nhất tồn tại", xuất hiện thiên hướng "lấy Đảng thay cho chính quyền", không coi trọng hoàn thiện và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng. Bắt đầu từ Khrushchev, Đảng Cộng sản Liên Xô lại có ý định thay đổi tính chất của Đảng Cộng sản, đề ra lý luận "Đảng toàn dân". Đến thời kỳ Gorbachev, Đảng Cộng sản Liên Xô càng đi theo con đường sai lầm, cổ xúy chế độ đa đảng, gạt bỏ vị trí lãnh đạo của Đảng, biến Đảng trở thành "Đảng nghị viện", từ đó làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô nhanh chóng bại vong.


1. Từ chủ trương "hợp tác đa đảng" đến nhấn mạnh "Đảng Cộng sản Nga là chính đảng hợp pháp duy nhất trong nước"

Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, rốt cuộc nên xây dựng một chế độ chính đảng như thế nào? Theo chế độ đa đảng hay chế độ một đảng? Về vấn đề này, Mác và Ăngghen năm đó không nói cụ thể. Đối với điều này, Đảng Cộng sản Liên Xô cũng có một quá trình, tìm tòi cả trong nhận thức và thực tiễn. Trong quá trình này xuất hiện trắc trở và thất bại là điều không hề lạ lẫm. Chỉ cần không xa rời tôn chỉ của Đảng, nhất định sẽ đi từ không hoàn thiện đến hoàn thiện, từ không thành thục đến thành thục. Lúc đầu, Lênin có tư tưởng hợp tác đa đảng. Tháng 4 năm 1917, Lênin đề ra: "Tiếp cận và liên kết với tập đoàn và phe phái thực sự đứng trên lập trường của chủ nghĩa quốc tế là điều cần thiết"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.29, tr.421). Tháng 9 năm đó, Lênin lại nói: phải "thực hiện liên minh với những đảng viên cách mạng xã hội cánh tả, chỉ có liên minh này mới có thể làm cho chúng ta xây dựng và củng cố chính quyền nước Nga"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.32, tr.260). Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Lênin nói trong một hội nghị: "Chúng ta đã từng mời mọi người đều tham gia chính quyền", "chúng ta sẵn sàng xây dựng chính quyền liên hợp Xôviết"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.33, tr.31). Dĩ nhiên, điều kiện để làm việc này là các chính đảng khác phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Lênin nói, chúng ta "đồng ý cùng với phái thiểu số của Xôviết cùng nắm chính quyền, nhưng phái thiểu số này phải thành tâm thành ý phục tùng đa số, đồng thời thực thi cương lĩnh đi lên chủ nghĩa xã hội"1 (Lênin: Toàn tập, Sđdr q.33, tr.71).


Dựa vào chủ trương của Lênin, Đảng Bônsêvích lúc đầu đã từng thực hiện cùng nắm chính quyền với Đảng Cách mạng xã hội cánh tả. Nhưng thời gian này không lâu, chỉ duy trì được hơnm nửa năm một chút. Sở dĩ như vậy, chủ yếu có hai nguyên nhân. Một là, đấu tranh giai cấp gay gắt và phức tạp, dẫn đến sự rạn nứt trong hợp tác hai đảng. Hai là, nhận thức chủ quan có thay đổi. Cùng với sự phát triển của tình hình, chủ trương của Lênin lúc đầu là "cùng nhau nắm chính quyền" chuyển sang "một đảng nắm chính quyền". Tháng 7 năm 1919, khi có người trách Đảng Bônsêvích là "một đảng chuyên chính", Lênin nói: "Đúng vậy, là một đảng chuyên chính! Chúng ta kiên trì một đảng chuyên chính, hơn nữa chúng ta quyết không rời xa cơ sở này"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr. 125-126). Tháng 3 năm 1922, Nghị quyết Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga là chính đảng hợp pháp duy nhất trong nước"3 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.2, tr.173).


Thực ra, Đảng Cách mạng xã hội cánh tả lúc đó đã xuất hiện chia rẽ. Tháng 9 năm 1918, ở nước Nga xuâì: hiện hai chính đảng mới: một là, "Đảng Những người cộng sản cách mạng" có 2.800 thành viên; hai là, "Đảng Những người cộng sản phái dân túy" có 3.000 thành viên. Cả hai đảng đều tuyên bố bảo vệ chính quyền Xôviết, sẵn sàng tiếp tục hợp tác với Đảng Bônsêvích lúc đó cho rằng, đã là mục tiêu giống nhau thì không cần lập đảng riêng. Tháng 7 năm 1920, Đại hội đại biểu lần thứ II Quốc tế Cộng sản đã quy định: "Mỗi một quốc gia chi cần có một Đảng Cộng sản thống nhất". Tháng 7 năm 1926, Nghị quyết Hội nghị liên tịch Ban Chấp hành Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang chỉ rõ rằng, trong điều kiện chuyên chính vô sản "không thể cho phép hai hoặc một vài chính đảng cùng tồn tại"1 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.3, tr.170). Kết quả là vài chính đảng bảo vệ chính quyền Xôviết cũng gia nhập vào Đảng Bônsêvích. Thế là cuối cùng hình thành nên cục diện chính trị Đảng Cộng sản là chính đảng hợp pháp duy nhất ở trong nước.


Mặc dù vậy, Lênin chưa bao giờ nói chế độ một đảng là quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội, chưa bao giờ nói xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể có "một đảng duy nhất tồn tại". Sau đó, người đưa ra luận chứng lý luận là Xtalin. Trong báo cáo về bản dự thảo Hiến pháp năm 1936, Xtalin nói: "Mấy đảng, cũng có thể nói là tự do chính đảng, trong xã hội đối kháng giai cấp mà lợi ích không thể điều hòa được mới có thể tồn tại"; "ở Liên Xô đã không còn các nhà tư bản, địa chủ, phú nông nữa rồi", do đó, "ở Liên Xô chỉ có một đảng có thể tồn tại, đây chính là Đảng Cộng sản dũng cảm và triệt để bảo vệ lợi ích của công nông"2 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđđ, tr.100). Như vậy nghĩa là, Xtalin cho rằng, trong điều kiện xã hội chủ nghĩa chỉ có thể có "một đảng duy nhất tồn tại". Thế nhưng, Liên Xô làm như vậy là có vấn đề. Một đảng cầm quyền hoặc "một đảng duy nhất tồn tại" trong thời gian dài, không có bất cứ một chính đảng nào khác (đại diện cho lợi ích và ý kiến của các tầng lớp lao động khác nhau) tham chính và giám sát, trên thực tế là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tập trung quyền lực cao độ và thiếu dân chủ trong chính trị ở Liên Xô. Andropov trong một báo cáo năm 1982 nói "xã hội xã hội chủ nghĩa không có mảnh đất để hình thành nên chính đảng xã hội chủ nghĩa đối địch", nhưng có thể có vài chính đảng cùng tồn tại; "trong một nước xã hội chủ nghĩa có nhiều chính đảng cùng tồn tại, mỗi một đảng đều có nền tảng xã hội và lợi ích đặc thù của mình, nhưng một điểm vô cùng quan trọng, đó là tất cả các đảng đều phải lấy chủ nghĩa xã hội làm điểm tựa"1 (Tuyển tập các phát biểu của Andropov, Nxb. Tân Hoa, 1984, tr.367-368). Nhận thức này hiển nhiên đã có tiến bộ rất lớn so với trước kia.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:35:04 am
2. Từ nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng cho đến chức năng của Đảng và chính quyền không tách rời

Trong tình hình "một đảng duy nhất tồn tại" - Đảng Cộng sản Liên Xô, cùng với việc nhấn mạnh và kiên trì địa vị lãnh đạo và vai trò lãnh đạo của Đảng, làm thế nào xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng với các cơ quan chính quyền là vấn đề từ trước đến nay chưa từng gặp phải. Lênin và Đảng Bônsêvích đã trình bày rất nhiều tư tưởng hay và đưa ra nghị quyết đúng đắn về việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, cho rằng sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền chủ yếu là quyết định phương hướng, xây dựng phương châm, đưa ra nhiệm vụ, lựa chọn cán bộ và giám sát, kiểm tra công việc để bảo đảm thực hiện quán triệt đường lối, phương châm của Đảng. Lênin đã từng nhấn mạnh: "Cần phải vạch rất rõ ràng chức trách của Đảng (và Trung ương Đảng) với chính quyền Xôviết", nhiệm vụ của Đảng "là lãnh đạo tổng thể đối với công việc của tất cả các cơ quan nhà nước, không phải là làm quá nhiều, quá không bình thường như hiện nay, thường là can dự vụn vặt"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.64). Nhưng những quy định và bài phát biểu của người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuất hiện tình trạng tự mâu thuẫn. Ví dụ, Lênin, một mặt, đề ra phải phân biệt rạch ròi chức trách của Đảng và chính quyền nhà nước, nâng cao tinh thần trách nhiệm và tính chủ động của cơ quan Xôviết; mặt khác, lại nhấn mạnh "bất kỳ một cơ quan nhà nước nào nếu không có chỉ thị của Trung ương Đảng, đều không được quyết định bất kỳ một vấn đề chính trị hay vấn đề tổ chức quan trọng nào"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.157). Xtalin một mặt chủ trương thực hiện lãnh đạo chính trị tổng thể đối với cơ quan Xôviết và các tổ chức quần chúng như công đoàn, chỉ thị của Đảng nên được quán triệt thực hiện thông qua các đảng viên của cơ quan nhà nước và các tổ chức quần chúng; mặt khác, lại cho rằng cơ quan chính quyền và cơ quan quản lý "thông qua bất cứ một nghị quyết quan trọng nào đều bắt buộc phải có sự chỉ thị hữu quan của Đảng"2 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.10, tr.93). Bởi vì lý luận về quan hệ giữa Đảng và chính quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô rất không hoàn thiện, trong thực tiễn, chức năng của Đảng và cơ quan nhà nước ngày càng lẫn lộn, địa vị thực tế của cơ quan nhà nước không ngừng suy giảm, chức năng không ngừng suy yếu, các chức năng và nhiệm vụ thuộc về cơ quan nhà nước bị tập trung phần lớn vào cơ quan lãnh đạo của Đảng một cách không thỏa đáng. Cơ quan lãnh đạo của Đảng trên tất cả các cấp bậc đều là chủ thể của quyền lực, là người lãnh đạo trực tiếp của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Còn các cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp chỉ là trên hình thức hoặc trở thành bộ máy thi hành của cơ quan lãnh đạo của Đảng. Kết quả là, vấn đề tách biệt chức năng của Đảng và chính quyền không giải quyết được trong thời gian dài. Từ đó không những ảnh hưởng đến việc Đảng phát huy vai trò lãnh đạo chính trị trên các vấn đề trọng đại của quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến tính tích cực của các ban, ngành chính phủ.


3. Từ không tách rời chức năng của Đảng và chính quyền cho đến vứt bỏ địa vị lãnh đạo của Đảng

Năm 1985, giai đoạn đầu khi Gorbachev cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn nói rằng, kiên trì nguyền tắc lãnh đạo của Đảng. Trong "Bản sửa đổi Cương lĩnh Đảng Cộng sản Liên Xô" được Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua năm 1986 chỉ rõ, Đảng Cộng sản "là lực lượng lãnh đạo và lực lượng chỉ đạo của xã hội chúng ta", "là hạt nhân của thể chế chính trị xã hội Liên Xô"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biêỉi lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1987, tr.365, 396). Nhưng sau năm 1987, Gorbachev chĩa mũi nhọn cải tổ vào Đảng Cộng sản Liên Xô, từng bước phủ định vị trí lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô. Bởi thế Gorbachev lần lượt áp dụng các bước đi trên các phương diện sau.


Một là, cải tổ bộ máy lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu Ban Bí thư và Bộ Chính trị. Tháng 9 năm 1988, Đại hội toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra quyết định thành lập 6 ủy ban phân quản các mặt xây dựng Đảng, ý thức hệ, kinh tế, quốc tế, pháp luật, nông nghiệp để thay thế công việc của Ban Bí thư, đồng thời vô hiệu hóa Bộ Chính trị. Sáu ủy ban này trên thực tế chỉ có tác dụng là cơ quan tư vấn. Nguyên Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev khi bình luận về điều này, nói rằng Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô "tự động chôn Ban Bí thư"; sau đó, "Hội nghị Ban Bí thư đành tự động dừng lại, Đảng đã mất đi bộ tư lệnh lãnh đạo chiến lược"2 (Ya. Ligachev: Bí mật của Gorbachev, Nxb. Nhân dân Cát Lâm, 1992, tr.117). Trợ lý của nguyên Tổng thống Gorbachev, Boldin nói: "Bắt đầu từ năm 1989, Ban Bí thư từ một bộ máy có sức ảnh hưởng đã trở thành một trụ sở diễn đàn"; "vai trò của Bộ Chính trị bắt đầu suy yếu, hội nghị ngày càng ít đi... có lúc đến vài tháng cũng không triệu tập một hội nghị nào... Điều này trên thực tế là đang chôn bộ máy cường quyền độc nhất vô nhị ở trong nước, chính quyền ngày càng tê liệt"1 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.198, 228). Có thể thấy, cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ sau năm 1989 đã chỉ còn là trên hình thức, không những không còn là trung tâm quyết sách lớn của quốc gia, mà còn mất đi sức ảnh hưởng đối với đại sự quốc gia.


Hai là, thực hiện "cải tổ thể chế chính trị", từng bước vứt bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1988, Gorbachev đề ra, cần phải "cải tổ căn bản" thể chế chính trị hiện có, thực hiện "nghị viện dân chủ", làm cho "tất cả mọi quyền lực thuộc về Xôviết". Sau đó, tại Hội nghị toàn thế Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1990, Gorbachev đề ra phải thực hiện chế độ tổng thống, trên thực tế là muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đoạt lấy quyền quyết sách đối với những việc trọng đại quốc gia của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong "Bản thảo cương ỉĩnh Đảng Cộng sản Liên Xô" ngày 20 tháng 7 năm 1991 có viết, trước kia "Đảng lũng đoạn chính quyền", bây giờ "phải làm cho Đảng 'phi quốc gia hóa', làm cho Đảng trở thành một tổ chức chính trị độc lập". Thực hiện chế độ tổng thống, trên thực tế là một hành động "cướp quyền" của Gorbachev đối với Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Có tài liệu chứng minh, trước đêm diễn ra Đại hội toàn thể Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1990, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, Yakovlev, đã từng khẩn cấp nói với Gorbachev: "Trở ngại chủ yếu đối với cải tổ cũng như toàn bộ chính sách của chúng ta là Bộ Chính trị, tiếp đó là Hội nghị toàn thể Trung ương, nếu đồng chí vẫn tiếp tục lần lữa mãi, không đoạt quyền, vậy thì tất cả sẽ chấm dứt". Vì thế, ông ta kiến nghị cần phải lập tức xây dựng chế độ Tổng thống, "như vậy đồng chí có thể tập trung quyền lực vào trong tay mình, từ đó không những làm cho Bộ Chính trị mà còn làm cho Xôviết tối cao mất đi quyền bính thực sự"1 (Chemyaev: Sáu năm bên cạnh Gorbachev, Sđd, tr.393). Gorbachev đã làm như vậy thật.


Ba là, sửa đổi Hiến pháp, xóa bỏ địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô do Hiến pháp quy định. Tháng 2 năm 1990, trong Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev đã đề xuất bỏ Điều 6 trong Hiên pháp Liên Xô quy định Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo của xã hội và hạt nhân thể chế chính trị. Sau đó, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô thông qua nghị quyết, sửa đổi Hiến pháp tương ứng. Sau đó, Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi địa vị lãnh đạo được pháp luật quy định. Từ ngày 26 tháng 4 năm 1991, Gorbachev đã thản nhiên công bố trong bài phát biểu bế mạc Đại hội toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô "đã vứt bỏ một cách có ý thức sự độc quyền đối với chính quyền mấy chục năm qua".


Phải chỉ ra rằng, trước kia, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện "lấy Đảng thay thế chính quyền" là vấn đề thuộc về phương pháp, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng Gorbachev vứt bỏ sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô được pháp luật quy định lại là phạm sai lầm căn bản nhất, cốt lõi nhất. Thực tế chứng minh, vứt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tức là vứt bỏ sự nghiệp cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tức là xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Hai, 2022, 07:35:56 am
4. Từ hình thức tối cao của tổ chức giai cấp công nhân cho đến "Đảng Nghị viện"

Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, nhưng lại không giống với giai cấp công nhân, cũng không giống với các tổ chức khác của giai cấp công nhân. Lênin nhấn mạnh: "Đảng là tầng lớp giác ngộ tiên tiến của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.24, tr.38). Xtalin cũng nhiều lần chỉ ra, Đảng là đội quân tiên tiến của giai cấp công nhân, Đảng là đội quân có tổ chức của giai cấp công nhân, Đảng là hình thức cao nhất của tổ chức giai cấp của giai cấp vô sản, Đảng phải duy trì tính giai cấp của mình, thể hiện đầy đủ tính tiên tiến của mình. Những suy luận khoa học của họ được Cương lĩnh và Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô công nhận trong một thời gian dài.


Đảng Cộng sản Liên Xô trong một thời gian dài đã thể hiện thiết thực tính giai cấp và tính tiên tiến của Đảng. Chủ trương, cương lĩnh và sách lược chiến lược của Đảng Bônsêvích trước và sau Cách mạng Tháng Mười Nga đã tuân theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau đó, Đảng Cộng sản Liên Xô đã lãnh đạo nhân dân Liên Xô thực hiện công nghiệp hóa đất nước, tập thể hóa nông nghiệp, xây dựng chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội, từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu nhanh chóng xây dựng thành một nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô trở thành chủ lực chiến thắng sự xâm lược của phátxít Hitler, cứu vãn văn minh của châu Âu và nhân loại, đồng thời thúc đẩy phong trào chủ nghĩa xã hội của thế giới phát triển mạnh mẽ. Thực tế chứng minh, Đảng Cộng sản Liên Xô thực sự đại diện cho phương hướng tiến lên của phát triển xã hội, đại diện cho yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân dân, xứng đáng là hình thức tối cao của tổ chức giai cấp công nhân, vì vậy nhận được sự ủng hộ và bảo vệ của đa số quần chúng.


Nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng trong việc làm thế nào để duy trì được tính giai cấp và tính tiên tiến của Đảng. Trong thời kỳ Xtalin, do mắc sai lầm lý luận cứng nhắc và chủ nghĩa giáo điều, dẫn đến Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi tính tiên tiến trong tư tưởng và hành động, những hạn chế và cực đoan trong cơ chế vận hành của Đảng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức sống của Đảng. Đảng Cộng sản Liên Xô không những nhận thức không rõ ràng về vấn đề này, mà còn chưa tập trung xóa bỏ nó đi, cứ để mặc nó phát triển trong môi trường cầm quyền. Chế độ tổ chức cơ bản của Đảng do Điều lệ Đảng quy định chỉ là hình thức, thậm chí nhiều năm không triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đã phá vỡ nền tảng của cơ chế dân chủ trong Đảng; về chế độ tập trung dân chủ, đã quá nhấn mạnh tập trung, kiềm chế dân chủ; về phương diện thể chế lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa hình thức ngày càng nghiêm trọng, những người lãnh đạo tổ chức Đảng các cấp đều thực hiện chuyên quyền cá nhân với mức độ khác nhau; cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, chế độ tuyển cử cán bộ lãnh đạo đã biến thành chế độ bổ nhiệm từ trên xuống dưới, và trên thực tế hình thành chế độ chức vụ cán bộ lãnh đạo suốt đời; không coi trọng công tác giám sát trong Đảng, hiện tượng tham nhũng nghiêm trọng.


Đặc biệt, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn chưa tỉnh táo nhận thấy rằng xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội giai cấp, vẫn tồn tại đấu tranh giai cấp, và tuyên bố tính chất của Đảng đã thay đổi rồi, đã trở thành "tổ chức chính trị toàn dân", trở thành cái gọi là "Đảng toàn dân". Đảng Cộng sản Liên Xô chưa nhìn trước được Đảng Cộng sản có nguy cơ thoái hóa, biến chất. Phương Tây lại thực hiện "diễn biến hòa bình", nhằm dùng tư tưởng và giá trị quan của giai cấp tư sản ảnh hưởng đến các nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả những điều này đều sẽ phản ánh vào trong Đảng Cộng sản, khiến trong Đảng xuất hiện những trào lưu và phe phái khác nhau, xuất hiện những phần tử thoái hóa, biến chất, xuất hiện tầng lớp đặc quyền xa rời quần chúng nhân dân. Một khi những người này trở thành "người kế nhiệm", nắm được quyền lãnh đạo, Đảng Cộng sản có khả năng biến chất, biến thành chính đảng của giai cấp tư sản. Đảng Cộng sản Liên Xô tuy trước đây đã từng có nhiều cuộc đấu tranh gay gắt trong Đảng, thanh trừng một số phần tử không cùng cánh, nhưng vẫn chưa đánh giá đầy đủ về tính nguy hiểm của khả năng biến chất trong Đảng. Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt lý luận vẫn chưa đưa ra được quan điểm tư tưởng về khả năng biến chất trong Đảng Cộng sản, trong thực tiễn cũng vẫn chưa áp dụng được bất kỳ biện pháp hữu hiệu nào nhằm phòng ngừa biến chất trong Đảng, đặc biệt là thiếu quy định nghiêm khắc và trình tự dân chủ cần thiết trong việc bồi dưỡng và lựa chọn "người kế nhiệm". Tất cả những điều này đã để lại những hiểm họa của sự biến chất sau này của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Sau khi Gorbachev lên cầm quyền, kế thừa tư tưởng lý luận "Đảng toàn dân" của Khrushchev, cơ bản không nhắc tới tính giai cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lúc đầu, Gorbachev nhấn mạnh Đảng Cộng sản Liên Xô là một "tổ chức tự trị". Tháng 2 năm 1986, trong Báo cáo tại Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev nói: Đảng Cộng sản Liên Xô là "hình thức tối cao của tổ chức tự trị chính trị xã hội"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.74). Tháng 2 năm 1990, trong "Dự thảo Cương lĩnh hành động" do Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra trước Đại hội lần thứ XXVIII lại nói: Đảng Cộng sản Liên Xô "là hình thức tối cao của tổ chức tự trị chính trị của xã hội tự trị". Đồng thời tuyên bố Đảng Cộng sản Liên Xô không còn một mình nắm giữ quyền lãnh đạo đất nước, không mưu cầu địa vị đặc biệt trong đời sống chính trị của đất nước; Liên Xô sẽ phát triển theo hướng đa nguyên hóa chính trị, chuẩn bị thi hành chế độ đa đảng. Dưới sự thúc đẩy không tiếc sức của Gorbachev, Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 7 năm 1990 đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ và một loạt các văn kiện khác, đánh dấu sự chuyển đổi trọng đại của Đảng Cộng sản Liên Xô, tính chất của Đảng Cộng sản Liên Xô thay đổi. Tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay đổi, không nêu lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm chỉ đạo nữa, mà nêu phải phấn đấu vì "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo"; tính chất giai cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay đổi, không nêu Đảng Cộng sản Liên Xô "vẫn là chính đảng của giai cấp công nhân", chỉ nêu Đảng Cộng sản Liên Xô là "tổ chức chính trị" "liên kết công dân Liên Xô theo nguyên tắc tự nguyện"; địa vị của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay đổi, không nêu địa vị lãnh đạo và vai trò tiên phong của Đảng, mà nhấn mạnh vứt bỏ "độc quyền chính trị", "Đảng Cộng sản Liên Xô phát huy vai trò Đảng Nghị viện", Đảng Cộng sản Liên Xô cùng các chính đảng khác, các đoàn thể chính trị xã hội có mối quan hệ đối tác hợp tác cạnh tranh bình đẳng. Đồng thời nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng thay đổi, mặc dù bình thường vẫn nhắc tới "chế độ tập trung dân chủ", nhưng không coi đó là nguyên tắc tổ chức của Đảng, hơn nữa nhấn mạnh trong Đảng cho phép tổ chức các hoạt động theo chiều ngang, cho phép đảng viên có thể liên kết lại "theo sở thích và vấn đề"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.148-154). Tóm lại, trải qua bước chuyển ngoặt Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, tính chất của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay đổi triệt để, Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng không còn đại diện cho lợi ích của đông đảo nhân dân, mà trở thành "Đảng xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo", "Đảng Nghị viện". Đây là kết quả của việc Gorbachev tiến hành cái gọi là "cải tổ triệt để" trong Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:27:20 am
III. VẤN ĐỀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là nhận thức đúng về tính lâu dài của xã hội xã hội chủ nghĩa và đánh giá đúng xã hội xã hội chủ nghĩa hiện đang phát triển ở giai đoạn nào là tiền đề của việc xây dựng đúng đắn mục tiêu, phương châm, chính sách trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như điều chỉnh, cải cách thể chế hiện có. Đảng Cộng sản Liên Xô mặc dù kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa trong thời gian dài, đồng thời lấy chủ nghĩa cộng sản làm mục tiêu phấn đấu, nhưng vì thiếu nhận thức tỉnh táo về tình hình trong nước nên quan điểm về vấn đề giai đoạn phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa đã trải qua quá trình quanh co.


1. Từ xã hội xã hội chủ nghĩa là một giai đoạn quá độ "rất dài" cho đến giai đoạn quá độ "ngắn ngủi"

Giai đoạn đầu sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Lênin chỉ ra rằng, xã hội nước Nga Xôviết ở vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, thời kỳ này sẽ rất dài, phức tạp, phải trải qua rất nhiều giai đoạn. Sau đó, dựa vào kinh nghiệm thực tiễn xã hội chủ nghĩa của nước Nga, cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ là một quá trình từ thấp đến cao, từ không hoàn thiện đến tương đối hoàn thiện, từ không phát triển đến tương đối phát triển. Thế nhưng thời kỳ quá độ này rốt cuộc là bao lâu, vì mất sớm nên Lênin chưa kịp kết hợp lý luận với thực tiễn để giải đáp vấn đề này. Xtalin lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô giành được nhiều thành tựu vĩ đại, đã có cống hiến quan trọng cho lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội, nhưng Xtalin đã coi nhẹ tính lâu dài và tính giai đoạn trong phát triển chủ nghĩa xã hội, đưa ra quá sớm khẩu hiệu quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Tháng 1 năm 1933, Xtalin đã tuyên bố trong "Tổng kết kế hoạch 5 năm lần thứ nhất": Liện Xô đã "từ một nước nông nghiệp chuyển thành một nước công nghiệp", "cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã xây dựng xong"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.164,192, 288-289). Tháng 1 năm 1934, Xtalin trong Báo cáo tổng kết tại Đại hội lần thứ XVII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã tuyên bố "Liên Xô đã xây dựng xong nền tảng xã hội xã hội chủ nghĩa, việc còn lại chỉ là xây dựng kiến trúc thượng tầng của nó, việc này chắc chắn sẽ dễ hơn nhiều so với xây dựng thành công nền tảng xã hội xã hội chủ nghĩa"2 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.164,192, 288-289). Tháng 11 năm 1936, Xtalin đã tuyên bố chính thức trong báo cáo "Về Dự thảo Hiên pháp Liên Xô": "Xã hội Liên Xô về cơ bản đã thực hiện được chủ nghĩa xã hội, đã thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, tức là đã thực hiện được chế độ mà các nhà mácxít gọi là giai đoạn đầu hoặc giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản. Điều này có nghĩa là chúng ta về cơ bản đã thực hiện được giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, tức chủ nghĩa xã hội"3 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.90). Hiển nhiên, tuyên bố chủ nghĩa xã hội cơ bản xây dựng xong, có nghĩa là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội đã kết thúc, về mặt lý luận coi chủ nghĩa xã hội như là một thời kỳ quá độ ngắn ngủi. Đây là tư tưởng vượt lên trên giai đoạn phát triển của xã hội. Xtalin sở dĩ tuyên bố chủ nghĩa xã hội về cơ bản đã xây dựng xong bởi vì ông nhìn vấn đề chủ yếu từ góc độ quan hệ sản xuất: ông chỉ nhìn thấy năm 1936 đã đạt được mục tiêu trong nền kinh tế quốc dân chỉ có chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu nông trang tập thể, nên cho rằng về cơ bản đã thực hiện được chủ nghĩa xã hội, mà đã coi nhẹ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Lấy đó làm căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế  - văn hóa - xã hội thì sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, mà ngược lại sẽ cản trở kinh tế quốc dân tăng trưởng, đặc biệt là ảnh hưởng đến mức sinh hoạt của người dân.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:29:13 am
2. Từ "xây dựng xong chủ nghĩa xã hội" cho đến "triển khai toàn diện xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa"

Năm 1936 Xtalin tuyên bố xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, lúc đó bất luận nhìn từ góc độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hay nhìn từ trình độ phát triển cơ sở kinh tế và chế độ chính trị, chủ nghĩa xã hội của Liên Xô vẫn là một chủ nghĩa xã hội chỉ vừa mới cất bước, trình độ rất thấp, chưa trưởng thành, còn cách quá xa so với chủ nghĩa xã hội mà Mác và Lênin tưởng tượng. Lênin năm đó nhấn mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa phải đạt được năng suất lao động cao, nhưng năng suất lao động của Liên Xô năm đó vẫn lạc hậu hơn rat nhiều so với các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển phương Tây. Theo thống kê của Ủy ban thống kê nhà nước Liên Xô, trong giai đoạn cuối của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, năng suất lao động xã hội của Liên Xô chỉ bằng 40% của Mỹ, lượng khai thác than của một công nhân Liên Xô năm 1936 chỉ tương đương với 42,8% lượng khai thác than của một công nhân Mỹ năm 1929, những ngành nghề khác lại càng thấp hơn, ví dụ như sản xuất thép 37%, sản xuất máy móc 41,4%, dệt bông 37,3%1 (Marcus: "Đấu tranh vì hiệu quả sản xuất lao động xã hội chủ nghĩa", [Liên Xô] Bônsêvích, kỳ 3, năm 1939). Trong tình hình này, không những không thể nói đã "xây dựng xong" chủ nghĩa xã hội, càng không thể đưa ra nhiệm vụ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng Xtalin cho rằng, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô lúc đó, quan hệ sản xuất hoàn toàn thích hợp với tính chất của lực lượng sản xuất, "do đó ở Liên Xô không có khủng hoảng kinh tế cũng không có tình hình lực lượng sản xuất bị phá vỡ"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.445). Tháng 3 năm 1939, Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lại để ra: "giai đoạn phát triển mới của Liên Xô trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba, tức là giai đoạn hoàn thành xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vô giai cấp và từ chủ nghĩa xã hội dần dần quá độ lên chủ nghĩa cộng sản"3 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.5, tr. 10-11).


Nhưng Xtalin vẫn còn khá thận trọng trong vấn đề quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, ông chưa bao giờ đưa ra một thời gian biểu cụ thể cho việc quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin nói: "Chỉ có vượt được các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu về kinh tế mới có thể hy vọng nước chúng ta có hàng tiêu dùng dồi dào, sản phẩm phong phú, chúng ta mới có thể từ giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản quá độ lên giai đoạn 2 của chủ nghĩa cộng sản"4 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.225). Tháng 5 năm 1952, trong cuốn Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Xtalin đã nhấn mạnh, để quá độ lên chủ nghĩa cộng sản cần phải có 3 điều kiện cơ bản1 (Ba điều kiện cơ bản: không ngừng tăng trưởng trong sản xuất toàn xã hội, từ chế độ sở hữu nông trang tập thể nâng cao thành chế độ sở hữu toàn dân, đồng thời chế độ trao đổi hàng hóa thay thế lưu thông hàng hóa, phát triển văn hóa - xã hội thành phát triển toàn diện đáp ứng toàn bộ các thành viên trong xã hội), cần phải quá độ từ từ, đồng thời phải nghĩ rằng việc này không hề đơn giản, "xã hội cần phải trải qua một loạt cải tổ về kinh tế và cải tổ về văn hóa", là "việc đa dạng, phức tạp, cần phải thay đổi rất lớn về kinh tế"2 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.624-627). Mặc dù vậy, Điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô được thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 10 năm 1952 vẫn đề ra: "Hiện tại, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô là từ chủ nghĩa xã hội dần dần quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, cuối cùng xây dựng nên xã hội cộng sản chủ nghĩa"3 (Tổng tập Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.155).


Sau khi Khrushchev lên cầm quyền, không những không sửa đổi tư tưởng "vượt lên giai đoạn" của Xtalin, mà ngược lại phát triển tư tưởng này hơn nữa. Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1956 nhấn mạnh, Liên Xô đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Tháng 1 năm 1959, trong Báo cáo tại Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev một lần nữa nêu ra rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã giành được "thắng lợi hoàn toàn và triệt để", Liên Xô đã bước vào "thời kỳ mới, quan trọng - thời kỳ triển khai toàn diện xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa"; "xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ thực tế trực tiếp của Đảng và nhân dân"4 (Tài liệu Đại hội đại biểu bất thường lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, Bắc Kinh, 1960, tr.22, 120, 131).


Tháng 10 năm 1961, trong Báo cáo tổng kết tại Đại hội lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev lại nêu rằng, Liên Xô phải "trong vòng 20 năm xây dựng cơ bản xong xã hội cộng sản chủ nghĩa". Thời gian cụ thể là: trong vòng 10 năm đầu, tức là từ năm 1961 đến năm 1970, sản lượng sản phẩm tính theo bình quân đầu người của Liên Xô phải vượt qua Mỹ; trong 10 năm tiếp theo, tức là từ năm 1971 đến hết năm 1980, Liên Xô sẽ xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản, bảo đảm toàn thể nhân dân có được tài sản văn hóa, vật chất dồi dào, từ phân phối theo lao động quá độ lên phân phối theo nhu cầu. Khrushchev tuyên bố: "Thế hệ người Liên Xô này của chúng ta sẽ sống dưới chế độ cộng sản chủ nghĩa"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.406).


Khẩu hiệu "20 năm xây dựng cơ bản xong chủ nghĩa cộng sản" của Khrushchev hoàn toàn chỉ là không tưởng, là sản phẩm của chủ nghĩa chủ quan, đưa tư tưởng vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội phát triển lên đến đỉnh điểm.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:30:27 am
3. Từ "chủ nghĩa xã hội phát triển" đến vứt bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội

Sau khi lên cầm quyền, Brezhnev đã từng điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung quan điểm cực đoan vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội của Khrushchev và đưa ra lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển". Phải nói rằng, lý luận này có ý nghĩa tích cực nhất định lúc đó. Nó thừa nhận tính lâu dài của chủ nghĩa xã hội, từ đó phủ định quan điểm truyền thống trước kia cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là một "giai đoạn ngắn ngủi", cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa phải trải qua mấy giai đoạn phát triển; từ đó phủ nhận quan điểm truyền thống trước kia cho rằng thời kỳ xã hội chủ nghĩa không cần phải chia thành các giai đoạn; quan điểm đó cho rằng Liên Xô năm 1936 chỉ là đã xây dựng xong cơ sở của chủ nghĩa xã hội, vẫn chưa thể bắt đầu quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, từ đó phủ định quan điểm của Xtalin năm đó đề ra quá độ lên chủ nghĩa cộng sản quá sớm; cho rằng hoàn thiện, phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ lâu dài, từ đó phủ định khẩu hiệu sai lầm "20 năm xây dựng cơ bản xong chủ nghĩa cộng sản" của Khrushchev.


Nhưng lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển" vẫn có tính khuếch trương và không sát với thực tế. Nó khẳng định Liên Xô đã xây dựng xong "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển", tuyên bố xã hội có "lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao độ", có "cơ sở vật chất - kỹ thuật vững mạnh", có "quan hệ xã hội chín muồi", "thể hiện dân chủ sâu sắc nhất"... Đảng Cộng sản Liên Xô miêu tả "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển" hoàn thiện, hoàn mỹ như vậy, hiển nhiên đã tách rời với hiện thực của Liên Xô, đã đánh giá quá cao trình độ phát triển của xã hội Liên Xô, từ đó che lấp mọi mâu thuẫn và nguy cơ tồn tại thực tế lúc đó. Đặc biệt là lý luận này nhấn mạnh Liên Xô đang "xây dựng chủ nghĩa cộng sản", quá độ sang chủ nghĩa cộng sản, bởi vì "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội phát triển đồng thời cũng là quá độ sang chủ nghĩa cộng sản". Cách nói này hiển nhiên vẫn chưa thoát khỏi quan điểm sai lầm vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội.


Tháng 11 năm 1982, Andropov kế nhiệm chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Tuy chỉ cầm quyền có một năm ba tháng, nhưng ông đã hướng vào thuyết "xây dựng thành công" chủ nghĩa xã hội phát triển của Brezhnev và đề ra thuyết "khởi điểm" chủ nghĩa xã hội phát triển. Nếu theo cách nhìn của Brezhnev, Liên Xô trong giai đoạn cuối của thập niên 1960 đã xây dựng xong "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển" tương đối hoàn thiện và trưởng thành, nhưng Andropov 15 năm sau lại nhấn mạnh, Liên Xô vẫn ở vào "mốc khởi điểm của giai đoạn lịch sử lâu dài" của chủ nghĩa xã hội phát triển. Đây là sự điều chỉnh và sửa đổi lớn đối với lý luận cơ bản của Brezhnev, không những chứng minh nhận thức của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô về giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội đã tiến lên một bước, mà còn nói rõ sự đánh giá của họ về hiện thực xã hội Liên Xô đã lùi xuống một bước. Mặc dù vậy, thuyết "khởi điểm" của Andropov vẫn chưa thoát khỏi sai lầm nói bừa về vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội, bởi vì nó vẫn cho rằng Liên Xô đã là "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển", đồng thời nhấn mạnh phải "từng bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản"1 (Tuyển tập các phát biểu của Andropov, Sđd, tr.439).


Từ khi Xtalin lên cầm quyền cho đến nay, các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong mấy chục năm lãnh đạo nhân dân Liên Xô tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, về lý luận luôn tồn tại tư tưởng vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội. Điều này ảnh hưởng lớn đến thể chế chính trị và thể chế kinh tế của Liên Xô, gây ra sự tổn hại nghiêm trọng cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.


Một là, thúc đẩy sự hình thành và củng cố đối với thể chế chính trị tập trung cao độ, trong tình hình điều kiện về các mặt vẫn chưa đầy đủ, tuyên bố chủ nghĩa xã hội đã "xây dựng xong", đồng thời đề ra phải "quá độ" lên chủ nghĩa cộng sản, điều này tất nhiên làm cho nhiều quy luật kinh tế khó phát huy tác dụng. Do đó Đảng Cộng sản Liên Xô phải nhờ đến mệnh lệnh hành chính, và thông qua tăng cường lãnh đạo tập trung để thúc đẩy "quá độ". Thể chế chính trị tập trung cao độ của Đảng Cộng sản Liên Xô chính là dần được hình thành trong bối cảnh này. Sự phát triển đồng bộ của hai thứ này hiển nhiên không phải là một sự trùng hợp mà có mối liên hệ nội tại. Sau này, những bất cập trong thể chế chính trị tập trung cao độ của Liên Xô ngày càng bộc lộ, hơn nữa biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, nhưng từ đầu đến cuối không được điều chỉnh và sửa đổi hiệu quả, ngược lại ngày càng khư khư bảo thủ, ngày càng trở nên xơ cứng. Tình hình này có mối quan hệ nhất định với việc Đảng Cộng sản Liên Xô từ đầu đến cuối chưa thể sửa đổi được tư tưởng vượt lên giai đoạn và quá độ nóng vội.


Hai là, bài xích quan hệ tiền hàng và điều tiết thị trường. Ai ai cũng biết, chủ nghĩa cộng sản là thực hiện xã hội lý tưởng "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", lúc đó không tồn tại hàng hóa và tiền tệ, cũng không có điều tiết thị trường. Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt lý luận đã luôn nhấn mạnh phải "quá độ lên chủ nghĩa cộng sản", vậy thì trong cuộc sống thực tế tất nhiên cũng phải hạn chế và bài xích quan hệ tiền hàng và điều tiết thị trường. Năm 1952, Xtalin nhấn mạnh, phải "dùng biện pháp quá độ dần dần làm cho chế độ trao đổi sản phẩm thay thế lưu thông hàng hóa"; ai chủ trương mở rộng lưu thông hàng hóa, tức là cản trở Liên Xô "tiến lên chủ nghĩa cộng sản", "lưu thông hàng hóa không dung hòa với tiền đồ của chủ nghĩa xã hội quá độ lên chủ nghĩa cộng sản". Xtalin còn nói, thu hẹp "phạm vi hoạt động của lưu thông hàng hóa, tức là làm cho chủ nghĩa xã hội dễ dàng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản"1 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.624, 646, 648). Tất cả những điều này đều ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển hơn nữa của kinh tế Liên Xô.


Thứ ba, thúc đẩy phát triển khuynh hướng "nhất đại nhì công"2 (Nhất đại nhì công: Một là, quy mô lớn; hai là, công hữu hóa (ND.)) của chế độ sở hữu. Xtalin đã đưa ra ba "điều kiện tiên quyết" cho chủ nghĩa xã hội "quá độ lên chủ nghĩa cộng sản", một trong số đó là "nâng cao trình độ sở hữu nông trang tập thể lên thành trình độ sở hữu toàn dân". Vì vậy, để thúc đẩy quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô thường xuyên áp dụng các biện pháp hành chính, chuyển chế độ sở hữu tập thể thành chế độ sở hữu toàn dân, đồng thời phủ định quá sớm vai trò tích cực của lao động cá thể, hạn chế ngành nghề phụ cá nhân phát triển. Khrushchev năm đó đã làm như vậy. Cùng với việc Khrushchev đưa ra khẩu hiệu "20 năm cơ bản xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản", Liên Xô đã áp dụng biện pháp hợp nhất quy mô lớn đối với các nông trang tập thể, đồng thời chuyển một loạt nông trang tập thể thành nông trường quốc doanh, kết quả đã làm tổn hại nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc dân.


Thứ tư, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Khi Đảng Cộng sản Liên Xô nhân rộng mô hình Liên Xô ra các nước xã hội chủ nghĩa khác, trên thực tế cũng bao gồm cả lý luận và thực tiễn của vượt lên giai đoạn và quá độ nóng vội. Ví dụ, năm đó Khrushchev nhấn mạnh, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa "sẽ cơ bản cùng quá độ lên xã hội cộng sản chủ nghĩa". Dưới ảnh hưởng của Liên Xô, một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào những năm 1970 cũng lần lượt tuyên bố theo Liên Xô, họ cũng đang xây dựng "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển", hơn nữa tiền đề "dần quá độ lên chủ nghĩa cộng sản" đang được hình thành, kết cục rơi vào con đường lầm lạc, mất đi phương hướng đúng đắn.


Tóm lại, quan điểm lý luận vượt lên giai đoạn, quá độ nóng vội kéo dài mấy chục năm đã thống trị xã hội Liên Xô, đã trở thành một loại giáo điều. Ảnh hưởng của quan điểm lý luận này là nghiêm trọng, nguy hại cũng rất lớn. Nó tràn đầy ảo tưởng, xa rời thực tế, nói quá hiện thực, che đậy mâu thuẫn, trở thành vật cản nghiêm trọng của cải cách và sáng tạo, cản trở sự phát triển của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Người ta tự nhiên rút ra được kết luận như thế này: Xã hội Liên Xô đã rất phát triển và thành thục, vậy thì còn phải cải cách làm gì nữa? Liên Xô đã quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, vậy thì làm sao còn có thể ra sức phát triển kinh tế hàng hóa và quan hệ thị trường?


Giai đoạn đầu Gorbachev lên cầm quyền, về cơ bản vẫn tiếp tục quan điểm về chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra. Tháng 3 năm 1986, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev nói: "Phát triển và củng cố chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội một cách có kế hoạch và toàn diện, làm cho xã hội Liên Xô tiếp tục tiến lên chủ nghĩa cộng sản, vẫn là nhiệm vụ cơ bản của Đảng"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđđ, tr.123). Nhưng không lâu, dưới ngọn cờ "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội", Gorbachev phát động một cuộc "cải tổ căn bản" toàn diện, đã thay đổi căn bản nhận thức về chủ nghĩa xã hội. Tháng 1 năm 1987, trong Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ông đã đề ra, phải nhận thức lại từ đầu về các vấn đề chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình nhận thức lại từ đầu chủ nghĩa xã hội, ông đã sửa đổi quan niệm về chủ nghĩa xã hội, làm nổi bật lên chủ nghĩa nhân đạo và cái gọi là "dân chủ" siêu giai cấp, đưa nó trở thành tiêu chí đánh giá chủ nghĩa xã hội, từ đó phủ định hoàn toàn đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tháng 6 năm 1988, trong Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev đã nói rõ ràng rằng nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng Cộng sản Liên Xô là thực hiện "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Điều này cho thấy ông muốn thay đổi ngọn cờ, về căn bản vứt bỏ chủ nghĩa xã hội khoa học, dẫn đến sự hạ bệ của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự hủy diệt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:33:28 am
IV. VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN

Vấn đề căn bản trong cách mạng vô sản là vấn đề chính quyền nhà nước, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Chỉ có xây dựng và kiên trì chuyên chính vô sản mới có thể quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Thủ tiêu hoặc lật đổ chuyên chính vô sản, tất nhiên sẽ từ chủ nghĩa xã hội lùi về chủ nghĩa tư bản. Đảng Cộng sản cầm quyền phải nhìn nhận đúng đắn về đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp trọng điều kiện chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện chuyên chính vô sản, phát huy đầy đủ tính dân chủ trong đông đảo quần chúng lao động. Chỉ có như vậy, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mới có thể không ngừng tiến lên. Mấy chục năm trở lại đấy, tư tưởng lý luận về mặt này của Đảng Cộng sản Liên Xô trải qua những thay đổi quanh co, từ kiên trì đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác và lý luận chuyên chính vô sản cho đến nhấn mạnh đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, tiếp theo đó lại đề ra "thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp", "thuyết nhà nước toàn dân", cuối cùng lại cổ xúy "dân chủ không bị hạn chế", "dân chủ vô điều kiện", vứt bỏ triệt để chuyên chính vô sản, từ đó dẫn đến sự biến chất căn bản của chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa.


1. Từ "đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt" đến "thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp"

Trong khi lãnh đạo Đảng Bônsêvích và đấu tranh cách mạng ở nước Nga, Lênin rất coi trọng vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Người nhấn mạnh chỉ rõ: "Chủ nghĩa Mác cung cấp cho chúng ta một sợi dây mang tính chỉ đạo, làm cho chúng ta có thể phát hiện ra quy luật trong một trạng thái không phân biệt được, một mớ hỗn độn. Sợi dây này chính là lý luận đấu tranh giai cấp"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.26, tr.60). Người còn nhấn mạnh: "Chỉ có những người thừa nhận đấu tranh giai cấp, đồng thời thừa nhận chuyên chính vô sản, mới là những nhà mácxít". Đây là hòn đá thử vàng để đo xem có phải thực sự hiểu và thừa nhận chủ nghĩa Mác hay không2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q,31, tr.32-33, 84).


Chính quyền Xôviết thành lập sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới. Trước và sau đó, Lênin đã tổng kết những kinh nghiệm trong cách mạng Nga và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trình bày được tính tất yếu, thực chất, nhiệm vụ và quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính trong chuyên chính vô sản, làm phong phú và phát triển học thuyết nhà nước của chủ nghĩa Mác. Lênin nói: "Tiến lên phía trước, tức là tiến lên chủ nghĩa cộng sản, phải trải qua chuyên chính vô sản, không thể đi con đường khác được". Tất nhiên, "từ chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa cộng sản đương nhiên không thể không nảy sinh những hình thức chính trị phong phú và đa dạng, nhung bản chất phải là như nhau, là chuyên chính vô sản"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q,31, tr.32-33, 84). Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản có hai nhiệm vụ lớn: một là, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột, phòng ngừa sự xâm lược từ bên ngoài; hai là, bảo đảm hoàn thành thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ thứ hai này còn quan trọng hom, khó khăn hơn nhiệm vụ thứ nhất, "bởi vì xét cho cùng, cội nguồn sâu xa nhất cần thiết để chiến thắng giai cấp tư sản, sự bảo đảm duy nhất không gì có thể phá vỡ nổi cho sự chiến thắng này chỉ có thể là phương thức sản xuất xã hội mới cao hơn, chỉ có thể dùng đại sản xuất của chủ nghĩa xã hội thay thế cho sản xuất của chủ nghĩa tư bản và tiểu tư sản"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.15). Chính theo ý nghĩa này, Lênin nhiều lần chỉ ra: "Thực chất của chuyên chính vô sản không chỉ ở bạo lực, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.375).


Điều đáng tiếc là, sau khi Lênin mất, Đảng Cộng sản Liên Xô đã không thể lĩnh hội, quán triệt lý luận của Lênin về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản một cách sâu sắc toàn diện, đầu tiên là nhấn mạnh cùng với thắng lợi của xây dựng chủ nghĩa xã hội, "đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt", tạo nên sai lầm đấu tranh giai cấp ngày một lan rộng, sau đó lại tuyên bố đấu tranh giai cấp đã bị dập tắt, cổ xúy thuyết "nhà nước toàn dân", vứt bỏ vũ khí sắc bén chuyên chính, vô sản.


Trong quá trình lãnh đạo Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội, Xtalin kế thừa tư tưởng đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của Lênin và còn phát huy thêm. Nhưng cùng với việc kiên trì chuyên chính vô sản, lại đưa ra luận điểm sai lầm "đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt", nhấn mạnh phải thông qua "đấu tranh giai cấp tàn khốc để tiêu diệt giai cấp", phải thông qua "tăng cường chính quyền nhà nước với mức độ cao nhất" để tiêu diệt nhà nước3 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.12, tr.31), tạo nên sự chênh lệch nghiêm trọng trong thực tiễn. Tháng 7 năm 1928, Xtalin nói trong Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang: "Cùng với tiến triển của chúng ta, sự phản kháng của các phần tử tư bản chủ nghĩa sẽ mạnh mẽ hơn, đấu tranh giai cấp sẽ gay gắt hơn", "tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể không dẫn đến sự phản kháng của các phần tử bóc lột, mà sự phản kháng của các phần tử bóc lột không thể không dẫn đến sự gay gắt trong đấu tranh giai cấp"4 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr.149-150). Năm 1933, một mặt ông nói giai cấp giãy chết chỉ còn lại "tàn dư cuối cùng", một mặt lại nói "chỉ có tăng cường cao nhất chính quyền nhà nước mới có thể thủ tiêu triệt để tàn dư của giai cấp giãy chết"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.190). Tháng 3 năm 1937, tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin lại nhấn mạnh: tiến triển của chúng ta càng lớn, thắng lợi càng nhiều, tàn dư của giai cấp bóc lột bị đánh tan càng thêm hung ác, bọn chúng sẽ càng phải áp dụng các hình thức đấu tranh sắc bén hơn, bọn chúng càng làm tổn hại nhà nước Xôviết, bọn chúng càng phải nắm chắc các thủ đoạn đấu tranh tuyệt vọng nhất để làm điểm tựa cuối cùng2 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.129).


Quan điểm đấu tranh giai cấp sai lầm tất nhiên sẽ dẫn đến tính toán sai lầm về hình thức đấu tranh giai cấp. Trong phong trào "đại thanh trừng", cùng với việc trấn áp các phần tử phản cách mạng, những mâu thuẫn trong nội bộ đông đảo nhân dân và khác biệt tư tưởng trong nội bộ Đảng cũng bị coi là đấu tranh địch ta, từ đó làm cho một loạt cán bộ Đảng, chính quyền và quần chúng vô tội bị bắt nhầm, giết nhầm. Như vậy, không những tạo thành vấn đề xã hội cực kỳ nghiêm trọng, mà còn tổn hại tới thanh danh của chuyên chính vô sản và chủ nghĩa xã hội, trở thành "cái gậy" quan trọng cho các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng Cộng sản Liên Xô.


Sau khi Khrushchev lên nắm chính quyền đã phê phán quan điểm sai lầm của Xtalin về "đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt", đồng thời triển khai công tác "sửa sai" và "khôi phục danh dự". Nhưng Khrushchev lại đi một con đường cực đoan khác, về mặt lý luận tuyến bố "thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp", phủ định nguy cơ chủ nghĩa tư bản sống lại. Ngày 6 tháng 11 năm 1957, trong báo cáo tại lễ míttinh Kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Khrushchev nói, hiện nay, Liên Xô đã trở thành xã hội "đoàn kết về tinh thần và chính trị", chức năng trấn áp ban đầu của nhà nước Xô viết "dần dần biến mất"1 (Các câu nói của Khrushchev, Nxb. Tri thức thế giới, 1965, t.7, tr.222-223,247). Ngày 14 tháng 11 năm đó, khi gặp mặt phóng viên Shapiro của hãng UPI, Khrushchev lại nói: "Liên Xô không có giai cấp và tầng lớp đối địch nhau. Xã hội chúng tôi là xã hội xã hội chủ nghĩa đoàn kết nhất trí"2 (Các câu nói của Khrushchev, Nxb. Tri thức thế giới, 1965, t.7, tr.222-223,247). Tháng 1 năm 1959, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev một lần nữa nhấn mạnh: "Nguy cơ chủ nghĩa tư bản sống lại tại Liên Xô đã không còn nữa. Điều này có nghĩa là, chủ nghĩa xã hội không những giành được thắng lợi hoàn toàn, mà còn giành được thắng lợi triệt để"3 (Tài liệu Đại hội đại biểu bất thường lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô, tr.120).


Năm 1961, trên nền tảng "thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp", Khrushchev lại đưa ra lý luận "nhà nước toàn dân", cho rằng "chuyên chính vô sản đã không còn cần thiết ở Liên Xô nữa. Là một nhà nước được sinh ra từ nhà nước chuyên chính vô sản, trong giai đoạn mới, tức giai đoạn hiện nay, Liên Xô đã trở thành nhà nước toàn dân"4 (Văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.245). Lý luận "nhà nước toàn dân" là cơ bản sai lầm, nó không những đi ngược lại lý luận cơ bản và phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn không phù hợp với tình hình thực tế của Liên Xô lúc đó. Liên Xô lúc đó, giai cấp bóc lột tuy đã bị tiêu diệt, nhưng vẫn tồn tại những phần tử chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội và các phần tử bóc lột mới, tham ô, trộm cắp; đấu tranh với bọn chúng trên thực tế cũng là đấu tranh giai cấp, là một loại đấu tranh giai cấp hình thức đặc biệt. Đồng thời, các quốc gia phương Tây thúc đẩy chiến lược "diễn biến hòa bình", hoặc phái các gián điệp, hoặc mua chuộc nội tuyến, mưu đồ lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo, đây càng là một loại đấu tranh giai cấp. Hai tình huống này đều phải vận dụng biện pháp chuyên chính để đối phó. Đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục tồn tại, nguy cơ chủ nghĩa tư bản sống lại ở Liên Xô cũng vẫn tồn tại, trong tình hình này, làm sao có thể nói đến "nhà nước toàn dân" được?


Sau khi Brezhnev lên cầm quyền đã có một số điều chỉnh và sửa đổi đối với quan điểm sai lầm của Khrushchev, có ý định thống nhất "nhà nước toàn dân" và chuyên chính vô sản với nhau. Ngày 1 tháng 11 năm 1964, Khrushchev vừa bị hạ bệ, Ban biên tập báo Sự thật đăng bài viết, nói: "Nhà nước toàn dân và chuyên chính vô sản không mâu thuẫn với nhau, cũng không đối lập với nhau, đó là sự tiếp nối của lịch sử tự nhiên". Sau này, Đảng Cộng sản Liên Xô lại nhấn mạnh, "nhà nước toàn dân" vẫn có tính giai cấp, nó "tiếp tục sự nghiệp của chuyên chính vô sản"1 (Tổng tập văn kiện Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Brezhnev, Nhà in sách Thương mại, 1978, tr.183). Mặc dù như vậy, hậu quả tiêu cực của lý luận "nhà nước toàn dân" vẫn khó mà triệt tiêu đi được. Bởi vì "nhà nước toàn dân" lưu hành trong thời gian dài, dẫn đến đông đảo cán bộ và quần chúng nhân dân không có bất cứ quan niệm nào về đấu tranh giai cấp, cũng mất đi sự cảnh giác về việc chủ nghĩa tư bản có thể sống lại. Cuối cùng, khi các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội phát động tấn công kịch liệt Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô không những không vận dụng được vũ khí sắc bén chuyên chính vô sản để tiến hành phản công, mà ngược lại dần dần lùi bước, đem chính quyền nhà nước dâng cho thế lực thù địch.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:35:58 am
2. Từ "dân chủ vô điều kiện" đến thủ tiêu chuyên chính vô sản

Gorbachev hoàn toàn kế thừa thuyết "nhà nước toàn dân" của Khrushchev, hơn nữa còn đi xa hơn cả Khrushchev, cổ xúy "loại trừ bất cứ chuyên chính của giai cấp nào". Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6 năm 1988, ông không những khẳng định đầy đủ thuyết "nhà nước toàn dân" của Khrushchev, mà còn nhấn mạnh, "cần thiết phải làm cho chế độ nhà nước của chúng ta đạt được tính toàn dân hoàn toàn"1 (Báo Sự thật, ngày 29 tháng 6 năm 1988). Ngày 26 tháng 11 năm 1989, trong bài viết "Cải tổ tư tưởng và tính cách mạng của chủ nghĩa xã hội", Gorbachev lại nói, năm đó tuyên bố Liên Xô là "nhà nước của toàn dân", điều này "phải trở thành tiêu chí" trong phát triển dân chủ, nhưng "điều đáng tiếc là, tuy đã tiến hành sáng tạo lý luận mấy chục năm nay, nhưng lại không tiến hành một cải cách nào về cơ chế chính trị". Cũng có nghĩa là, ông cho rằng lý luận "nhà nước toàn dân" của Khrushchev vẫn chưa được thể hiện rõ nét trong thực tiễn, quán triệt vẫn chưa đầy đủ. Tháng 2 năm 1990, trong "Dự thảo Cương lĩnh hành động" do Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra trước Đại hội Đảng lần thứ XXVIII đã dựa vào ý đồ của Gorbachev, đưa ra khái niệm "nhà nước pháp chế toàn dân", khẳng định rằng, "nhà nước pháp chế toàn dân loại trừ bất cứ chuyên chính của giai cấp nào". Thực ra, ở đây ám chỉ phải "bài trừ" chuyên chính vô sản. Có thể thấy rằng, lý luận "nhà nước toàn dân" đang phát triển lên đến đỉnh điểm, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phủ định triệt để chuyên chính vô sản. Thế nhưng bài trừ chuyên chính vô sản không tương đương với "loại trừ bất cứ chuyên chính của giai cấp nào", chính quyền nhà nước được xây dựng sau đó trên thực tế chính là mang tính chất giai cấp tư sản.


Cùng với việc cổ xúy "loại trừ bất cứ chuyên chính của giai cấp nào", ông còn ra sức thúc đẩy "dân chủ hóa", tuyên truyền rộng rãi "dân chủ vô điều kiện". Khi Gorbachev mới nhậm chức đã không tiếc sức cổ xúy cho cái gọi là "dân chủ hóa", nhằm vào những tệ nạn thiếu dân chủ trong đời sống chính trị trước kia, đề ra nhiệm vụ truyền bá dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều này vốn dĩ khỏi phải bàn, nhưng cái "dân chủ hóa" mà Gorbachev cổ xúy là chung chung và trừu tượng, hơn nữa ngày càng phiến diện, ngày càng cực đoan. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức vào tháng 6 năm 1988, Gorbachev thậm chí còn nêu ra phải thực hiện "dân chủ vô điều kiện". Ông nhấn mạnh, Liên Xô phải "có nền dân chủ với nội dung đầy đủ, vô điều kiện, có nền pháp chế không có ngoại lệ"1 (Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội, Nxb. Bắc Kinh, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1998, quyển hạ, tr.851). Ai ai cũng biết, dân chủ là có tính giai cấp rõ ràng, dân chủ là cụ thể, là có điều kiện, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải lấy kiên trì nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội làm tiền đề, quyết không cho phép lợi dụng khẩu hiệu "dân chủ hóa" để chống lại Đáng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát huy dân chủ không thể không tập trung, không thể không nói đến pháp chế và kỷ luật, dân chủ tuyệt đối không thể là "vô điều kiện", nêu không thì sẽ là chủ nghĩa vô chính phủ và dân chủ tuyệt đối. Liên Xô lúc đó đang trong trào lưu "dân chủ hóa", các cuộc tụ tập và biểu tình mang tính chất quần chúng liên tiếp diễn ra, xung đột dân tộc nổ ra với quy mô lớn. Phe đối lập giương ngọn cờ "dân chủ hóa", thực hiện rầm rộ các hoạt động phá hoại chống Đảng Cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội. Thực hiện kết hợp "dân chủ vô điều kiện" và "loại trừ bất cứ chuyên chính của giai cấp nào", không thể tránh khỏi dẫn đến chủ nghĩa vô chính phủ tràn lan, dân chủ và pháp chế bị phá hoại, chuyên chính vô sản bị thủ tiêu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:37:49 am
3. Từ chế độ Xôviết đến "tam quyền phân lập" và chế độ tổng thống

Xôviết là hình thức quyền lực do nhân dân lao động nước Nga sáng lập ra trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản 1905 - 1907. Xôviết thành lập sau Cách mạng Tháng Mười Nga là ca quan quyền lực tối cao của Liên Xô. Điều 1 trong Hiến pháp Xôviết đầu tiên năm 1918 đã quy định: "Toàn bộ chính quyền Trung ương và địa phương đều do Xôviết nắm giữ". Chế độ Xôviết nghị viện và hành chính hợp nhất là hình thức mà Liên Xô thực hiện chuyên chính vô sản. Trong bản Luận cương tháng Tư nổi tiếng, khi nói đến hình thức chính quyền giai cấp vô sản sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, Lênin đã chỉ ra rằng: "Không cần nước cộng hòa theo chế độ nghị viện (từ Xôviết đại diện cho công nhân quay về nước cộng hòa theo chế độ nghị viện là lùi một bước), mà phải là nước cộng hòa Xôviết đại diện cho công nhân, cố nông và nông dân khắp cả nước"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.29, tr.115). Sau này, Liên Xô lại đề ra, "từ chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, tất nhiên sẽ xảy ra những hình thức chính trị rất phong phú và đa dạng, nhưng tất yếu bản chất là như nhau: đều là chuyên chính vô sản"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.31, tr.33). Nói về giai cấp vô sản nước Nga, Xô viết do nhân dân sáng lập ra là loại hình nhà nước tốt nhất, "loại hình dân chủ tối cao mới"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.35, tr.61). Lênin còn chỉ ra, Xôviết là cơ quan đồng thời phụ trách cả lập pháp và hành chính. Chế độ nghị viện tư sản phân chia riêng rẽ hai cơ quan này. Các nghị sĩ trong nghị viện bàn bạc sôi nổi, đặt ra các loại nghị quyết và pháp lệnh, nhưng không phụ trách thi hành. Thực chất của nghị viện là một "viện tán dóc". Còn Xôviết là cơ quan đại diện cho tầng lớp công nông, không giống với cơ quan đại diện của giai cấp tư sản, đại diện cho tầng lớp công nông ở Xôviết "phải đích thân làm việc, đích thân thi hành pháp luật do mình thông qua, đích thân kiểm tra kết quả thực tế, đích thân phụ trách trực tiếp cử tri của mình"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.152), do đó, chế độ Xôviết "là một bước tiến bộ lớn có ý nghĩa lịch sử trên toàn thế giới trong quá trình phát triển dân chủ"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.32, tr.297). Nhưng Lênin không hề cho rằng, chế độ Xôviết đã toàn diện, ngược lại cần không ngừng hoàn thiện và cải cách. Người nói: "Chương mới của lịch sử thế giới - thời đại chuyên chính vô sản đã bắt đầu. Nhưng các hình thức của chế độ Xôviết và chuyên chính vô sản vẫn cần phải dựa vào nhiều nước để cải tiến và hoàn thiện, về mặt này chúng ta vẫn còn rất nhiều rất nhiều việc chưa hoàn thành". "Từ nay về sau, trong phát triển lực lượng sản xuất và văn hóa, mỗi lần chúng ta tiến một bước và nâng cao một bậc đều phải đồng thời cải thiện và cải tạo chế độ Xôviết của chúng ta"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.247).


Sau khi Lênin mất, thể chế Xôviết đạt được một số cải cách và phát triển, là một bộ máy đại diện cho nhân dân, Xôviết đã phát huy vai trò tích cực rõ nét. Như Hiến pháp năm 1936 đã quy định chế độ bầu cử mới phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và không ghi tên, đã phản ánh dân chủ Xôviết được mở rộng và chế độ Xôviết có tiến bộ. Sau đó, bộ máy quyền lực của Xôviết không ngừng hoàn thiện, như quyền hạn của Xôviết tối cao được mở rộng, quyền lực của Xôviết địa phương được nâng cao, quyền lợi của nhân dân được bảo đảm hơn về pháp luật. Thế nhưng, do cực đoan lấy Đảng thay chính quyền, Xôviết là một tổ chức nhà nước, là một cơ quan quyền lực, vẫn chưa phát huy được vai trò cần có của mình. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn ôm quá nhiều chức năng của Xôviết, chưa tôn trọng quyền lập pháp của Xôviết tối cao, trong thực tiễn, cơ quan thi hành hạn chế một cách nghiêm trọng quyền hạn của Xôviết khiến công việc của Xô viết chỉ là hình thức.


Khi Gorbachev lên cầm quyền, nhiều lần yêu cầu phải tiến hành cải cách chế độ của Xôviết, phải phát huy hơn nữa vai trò của Xôviết. Năm 1987, trong cuốn Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, ông nhấn mạnh phải "thực hiện cải cách sáng tạo" đối với Xô viết. Năm 1988, tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, cùng với việc đưa ra nhiệm vụ cải cách căn bản thể chế chính trị, ông nhấn mạnh tới việc phải cải cách chế độ Xôviết, thậm chí đưa ra khẩu hiệu "tất cả chính quyền thuộc về Xôviết", thực hiện trung tâm quyền lực nhà nước chuyển dịch từ hệ thống Đảng sang hệ thống Xôviết. Hội nghị quyết định thành lập cơ quan quyền lực tối cao nhà nước mới - Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô, thay thế Xôviết tối cao cũ. Thực chất, ý đồ của Gorbachev chủ yếu không phải để cải tổ chế độ Xôviết và tăng cường vai trò của Xôviết. Mục đích chính của ông ta là lấy đó để làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với nhà nước và lấy Xôviết làm công cụ để thực hiện "dân chủ hóa" và "công khai". Theo Nghị quyết Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev đã áp dụng một loạt các biện pháp cụ thể nhằm làm suy yếu vai trò quyết sách trọng đại của Đảng đối với các lĩnh vực của nhà nước. Vai trò của bộ máy của Đảng và bộ máy của chính quyền bị suy yếu nghiêm trọng. Trong trào lưu "dân chủ hóa", các thế lực chống Đảng Cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội lần lượt đoạt lấy quyền lực của Xôviết, hệ thống quản lý nhà nước của Liên Xô rơi vào tình trạng hỗn loạn, nền kinh tế mất kiểm soát và bị phá hoại nghiêm trọng. Trong cục diện này, Gorbachev bèn chính thức đề ra thực hiện chế độ nghị viện "tam quyền phân lập" và xây dựng chế độ Tổng thống của các quốc gia tư sản phương Tây mà từ lâu ông đã nghĩ đến. Ngày 26 tháng 11 năm 1989, trong bài "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cải tổ mang tính cách mạng", Gorbachev nói, cải cách chính trị phải thực hiện nhân dân tự trị "kết hợp một cách biện chứng với cơ chế dân chủ nghị viện chế độ đại diện". Ông tán thưởng rằng, dân chủ nghị viện có thể "bảo đảm quyền thi hành và quyền lập pháp phân chia rõ ràng, đồng thời bảo đảm tính độc lập của tư pháp". Hội nghị toàn thể tháng 2 của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1990 đã đưa ra vấn đề xây dựng chế độ Tổng thống, và trong bản tuyên bố cương lĩnh đã được thông qua, nhấn mạnh: "Tam quyền - quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp phân lập, có ý nghĩa then chốt đối với hiệu quả quản lý". Đại hội đại biểu nhân dân bất thường lần thứ III của Liên Xô vào tháng 3 năm đó đã thông qua nghị quyết xóa bỏ điều lệ về địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong Hiên pháp Liên Xô và thành lập chức vụ Tổng thống của Liên Xô. Gorbachev làm như vậy trước là để thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với Xôviết, sau là thực hiện phi Xôviết hóa", cuối cùng xây dựng chế độ "tam quyền phân lập" của giai cấp tư sản phương Tây. Do đó, chế độ Xôviết theo tư tưởng "lập pháp và hành pháp hợp nhất" của Lênin mấy chục năm đã bị vứt bỏ, chuyên chính vô sản từ nội dung cho đến hình thức bị phủ định hoàn toàn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:40:01 am
V. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Lực lượng sản xuất là lực lượng quyết định cuối cùng để xã hội loài người tồn tại và phát triển. Nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản cầm quyền, nhiệm vụ cơ bản của nó là phải phát triển mạnh lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế  quốc dân phát triển bền vững, không ngừng nâng cao trình độ đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân; đồng thời thích ứng với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, không ngừng điều chỉnh quan hệ sản xuất để tạo ra năng suất lao động mới cao hơn. Tại các quốc gia có kinh tế  văn hóa tương đối lạc hậu, càng cần phải coi trọng hơn đến phát triển lực lượng sản xuất, lợi dụng triệt để điểm mạnh của kinh tế thị trường, dốc sức phát triển kinh tế hàng hóa, đồng thời thực hiện cải cách mở cửa, tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến và thành tựu văn minh của các nước phát triển, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển nhanh chóng.


Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, kể từ thời Lênin, Xtalin, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng kinh tế thể hiện được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng từ lâu, do giáo điều, cứng nhắc, không sát thực tế đã quy kết sai lầm chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thành chế độ công hữu đơn nhất, đồng thời quy kết việc thực hiện chế độ công hữu tư liệu sản xuất thành chế độ sở hữu nhà nước và chế độ sở hữu nông trang tập thể, phủ nhận một cách căn bản tính đa dạng của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất do trình độ của lực lượng sản xuất quyết định và tính đa dạng trong hình thức thực hiện chế độ công hữu tư liệu sản xuất của chủ nghĩa xã hội trong một giai đoạn nhất định; đơn thuần coi kinh tế kế hoạch là phương thức sử dụng tài nguyên duy nhất của chủ nghĩa xã hội, phủ định hoàn toàn vai trò của cơ chế thị trường. Điều này đã dẫn đến sự méo mó nghiêm trọng trong kết cấu kinh tế, kiềm chế sản xuất phát triển. Cuối cùng, do quá trình cải cách kinh tế đã đi vào vòng sai lầm "tư hữu hóa" nên chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã thay thế chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa.


1. Kết cấu chế độ sở hữu và thuyết quan hệ sản xuất "hoàn toàn phù hợp" với lực lượng sản xuất

Chủ nghĩa Mác cho rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản của xã hội, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất; chế độ sở hữu tư liệu sản xuất là nền tảng của toàn bộ quan hệ sản xuất, là tiêu chí cơ bản nhất, quan trọng nhất để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Mác - Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói: "Những người cộng sản có thể dùng một câu nói để thể hiện lý luận của mình, thủ tiêu chế độ tư hữu"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.480). Hai ông nhấn mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa phải "thực hiện công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất" và phải "tổ chức sản xuất"2 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.443) trên nền tảng này. Những điều mà hai ông nói hiển nhiên là chỉ xã hội xã hội chủ nghĩa đã nhuần nhuyễn. Trong giai đoạn đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa, kết cấu chế độ sở hữu tư liệu sản xuất có nên chăng là kết cấu chế độ công hữu đơn nhất và chế độ công hữu rốt cuộc nên làm như thế nào, hai ông vẫn chưa nói rõ ràng. Lênin năm đó cũng chưa trình bày rõ về kết cấu chế độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa. Người chỉ chỉ ra rằng, nước Nga Xôviết trong giai đoạn đầu thực hiện chính sách kinh tế mới, tức là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, tồn tại rất nhiều loại chế độ sở hữu. Lênin cho rằng, chế độ sở hữu nhà nước và chế độ sở hữu hợp tác xã là chế độ sở hữu mang tính chất xã hội chủ nghĩa, nhưng Người không hề nói chế độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể có hai hình thức, cũng không nói rõ trong điều kiện chế độ công hữu giữ vai trò chủ đạo trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì có cho phép các thành phần sở hữu khác cùng tồn tại hay không.


Như đã nói ở trên, từ năm 1918 đến năm 1929, Liên Xô bắt đầu phong trào công nghiệp hóa đất nước và tập thể hóa nông nghiệp, hầu như đã loại bỏ hết các thành phần kinh tế phi công hữu. Đến năm 1936, theo quy định của Hiến pháp Liên Xô, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa áp dụng hai hình thức, tức chế độ sở hữu toàn dân quốc doanh và chế độ sở hữu tập thể của nông trang tập thể, cho phép công dân có tài sản cá nhân, chỉ giới hạn ở "thu nhập và tiết kiệm do công dân lao động mà có, nhà ở, nghề phụ gia đình, đồ dùng thường ngày của gia đình, các vật dụng cá nhân sử dụng và hưởng thụ cũng như quyền thừa kế tài sản cá nhân của công dân"1 (Tham khảo Điều 10, Hiến pháp Liên Xô năm 1936). Kinh tế phi công hữu khác đều không có vị trí về mặt pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là Liên Xô hình thành chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất: do hai hình thức công hữu cấu thành. Sau này, Xtalin trong bài "Vấn đề kinh tế trong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô" đã cố định về mặt lý luận đối với haí hình thức công hữu xã hội chủ nghĩa. Ông nói: "Hiện tại ở nước ta đang tồn tại hai hình thức cơ bản của sản xuất xã hội chủ nghĩa: một loại là của nhà nước, tức hình thức toàn dân, một loại là hình thức nông trang tập thể, không thế gọi là hình thức toàn dân được"2 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.582). Trên thực tế, Xtalin coi chế độ sở hữu toàn dân là hình thức cao cấp của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Sau này, chính lý luận và thực tiễn này đã mô hình hóa và tuyệt đối hóa các vấn đề của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, thậm chí còn làm sâu sắc thêm. Ví dụ, cùng với việc năm 1959 Khrushchev tuyên bố Liên Xô bước vào "giai đoạn triển khai toàn diện xây dựng chủ nghĩa cộng sản", "tàn dư kinh tế cá thể" của Liên Xô cũng dần dần bị mai một đi. Khrushchev còn nhiều lần áp dụng biện pháp sáp nhập nông trang tập thể, cải tổ nông trang tập thể kinh tế yếu kém thành các nông trường quốc doanh, biến chế độ sở hữu tập thể thành chế độ sở hữu nhà nước. Kết quả là số lượng nông trang tập thể từ 93.300 nông trang năm 1953 giảm xuống còn 38.300 nông trang năm 1964, tức là giảm xuống hơn một nửa. Còn nông trường quốc doanh từ 4.857 nông trường năm 1953 tăng lên 10.100 nông trường năm 1964, tức là tăng hơn hai lần1 (Lưu Khắc Minh, Kim Huy (chủ biên): 70 năm thể chế kinh tế - chính trị Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1990, tr.512). Vậy là về hình thức, đặc điểm "nhất đại nhì công" của chế độ sở hữu thời kỳ Khrushchev lãnh đạo càng thể hiện rõ rệt. Sau khi Brezhnev đưa ra lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển", tư tưởng về chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất lại phát triển thêm một bước. Hiên pháp Liên Xô năm 1977 ngoài quy định chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa bao gồm hai hình thức "chế độ sở hữu nhà nước (toàn dân) và chế độ sở hữu hợp tác xã nông trang tập thể" ra, còn đặc biệt nhấn mạnh, chế độ sở hữu nhà nước "là hình thức cơ bản của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa". Giới nghiên cứu lý luận lúc đó đều phổ biến cho rằng, "đặc điểm của chủ nghĩa xã hội nhuần nhuyễn là xóa bỏ hoàn toàn những tàn dư của thành phần phi xã hội chủ nghĩa trong kinh tế"2 ([Liên Xô] "Vấn đề triết học", kỳ 6, năm 1979). Thế nhưng thực tế chứng minh, kết cấu chế độ sở hữu đơn nhất này không phù hợp với yêu cầu thực tế của xã hội Liên Xô, nó phủ định khả năng nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, hạn chế vai trò của kinh tế hàng hóa và quan hệ thị trường, ràng buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Liên Xô.


Do quy luật khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội quyết định nên không thể tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với tính chất khác nhau, sự phát triển không cân đối của các vùng miền, các ngành nghề với thể chế chế độ sở hữu tư liệu sản xuất đồng loạt giống nhau. Nếu không giải quyết kịp thời mâu thuẫn này, quan hệ sở hữu sẽ cản trở lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn này. Sau khi Hiến pháp Liên Xô năm 1936 khẳng định kết cấu chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất, thì Đảng Cộng sản Liên Xô lại tuyên bố quan hệ sản xuất của Liên Xô "hoàn toàn phù hợp" với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Năm 1938, Xtalin đã nói trong phần II, chương IV, Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang do chính ông biên soạn rằng, ở Liên Xô "chế độ công hữu tư liệu sản xuất là nền tảng của quan hệ sản xuất", "ở đây quan hệ sản xuất hoàn toàn thích hợp với tình hình của lực lượng sản xuất"1 (Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Sđd, tr.140). Cách nói như vậy hiển nhiên dẫn đến vấn đề như thế này: Nêu quan hệ sản xuất đã "hoàn toàn thích hợp" với sự phát triển của lực lượng sản xuất, vậy thì còn cần điều chỉnh và cải cách gì nữa trong lĩnh vực kinh tế? Mãi đến năm 1952, Xtalin trong bài "Vấn đề kinh tế  trong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô" mới tiến hành một số sửa đổi đối với vấn đề trên, một mặt ông vẫn kiên trì nói quan hệ sản xuất của Liên Xô "hoàn toàn thích hợp với sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất", mặt khác cũng thừa nhận giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Liên Xô vẫn có mâu thuẫn, nhưng nhấn mạnh, hai bên sẽ không "nảy sinh xung đột"1 (Xtalin Tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.611). Nhưng sửa đổi này vẫn chưa giải quyết được vấn đề căn bản. Những luận điểm trên của Xtalin đã trói buộc tư tưởng của mọi người trong thời gian dài, kiềm chế sự cải cách kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng tới sự phát triển của xã hội Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:41:52 am
2. Kinh tế kế hoạch với quan hệ tiền - hàng và sự điều tiết thị trường

Mác - Ăngghen đã từng giả thuyết rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa không tồn tại sản xuất hàng hóa, sản xuất và phân phối sản phẩm sẽ do nhà nước tổ chức căn cứ theo kế hoạch thống nhất. Trong cuốn Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng tới khoa học, Ăngghen đã nói: "Một khi xã hội chiếm hữu tư liệu sản xuất, thì sản xuất hàng hóa sẽ bị xóa bỏ, và sự thống trị của sản phẩm đối với người sản xuất cũng theo đó mà bị xóa bỏ"2 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.757). Đồng thời, hai ông cho rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa phải thực hiện kinh tế kế hoạch. Giả thuyết của hai ông hiển nhiên là chỉ xã hội xã hội chủ nghĩa nhuần nhuyễn trên nền tảng chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao. Lênin cũng đã từng đưa ra tư tưởng nhà nước trực tiếp tổ chức sản xuất và phân phối của cải xã hội cũng như xây dựng kinh tế kế hoạch. Tháng 3 năm 1919, trong "Dự thảo cương lĩnh Đảng Cộng sản Nga (Bônsêvích)" do Lênin soạn thảo đã nói: "Nhiệm vụ hiện tại của chính quyền Xôviết là kiên định tiếp tục lấy phân phối sản phẩm có kế hoạch, có tổ chức thay thế thương mại trong phạm vi cả nước", "Đảng Cộng sản Nga sẽ dốc hết sức, nhanh chóng thực hiện các biện pháp cấp tiến nhất, làm tốt công tác chuẩn bị để xóa bỏ tiền tệ"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.110-111). Lênin còn nói: "Trong điều kiện sản xuất và phân phối sản phẩm, nếu không có một tổ chức nhà nước với tiêu chuẩn thống nhất, có kế hoạch khiến hàng ngàn, hàng vạn người tuân thủ nghiêm khắc, thì chủ nghĩa xã hội không thể tiếp tục được nữa"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.41, tr.199). Nhưng Lênin đã phát hiện ra ngay, không thể làm như vậy được. Khi Người thực hiện chính sách kinh tế mới đã chủ trương lợi dụng quan hệ tiền hàng và điều tiết thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng thời gian thực hiện chinh sách kinh tế mới không lâu, các loại biện pháp cũng không đồng bộ, trên thực tế vẫn chưa hình thành được thể chế kinh tế hoàn chỉnh. Nửa cuối những năm 1920 cho đến đầu những năm 1930, Xtalin và hầu hết giới lý luận của Liên Xô đã lý giải một cách tuyệt đối hóa và phiến diện hóa tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin về nguyên tắc kế hoạch thực hiện kinh tế xã hội chủ nghĩa, cơ bản phủ định quan hệ tiền hàng, bài xích điều tiết thị trường, nóng vội xây dựng kinh tế kế hoạch toàn diện sau khi kết thúc thời kỳ quá độ. Xtalin rất nhấn mạnh quản lý kế hoạch, cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa phải thực hiện kế hoạch mang tính mệnh lệnh. Tháng 12 năm 1926, ông nói: "Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thống nhất nhất, tập trung nhất, kinh tế xã hội chủ nghĩa được tiến hành theo kế hoạch"3 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.9, tr.122). Tháng 12 năm 1927 ông lại nói: "Kế hoạch của chúng ta không phải là kế hoạch chủ quan, không phải là kế hoạch theo ý nghĩ, mà là kế hoạch mang tính mệnh lệnh, các cơ quan lãnh đạo phải thi hành kế hoạch này"4 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.10, tr.280). Dựa vào tư tưởng chỉ đạo này, từ những năm 30 của thế kỷ XX, Liên Xô bắt đầu hình thành kinh tế kế hoạch tập trung cao độ và thể chế bộ ngành quản lý, đặc điểm chủ yếu của nó là: kế hoạch có hiệu lực pháp luật; kế hoạch có tính rộng rãi, bao gồm mọi thứ; kế hoạch có tính thống nhất quá tập trung; kế hoạch hoàn toàn bài xích điều tiết thị trường. Nói một cách khách quan, thể chế này phát huy vai trò tích cực trong điều kiện lịch sử lúc đó. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa với trình độ phát triển kinh tế tương đối thấp, quy mô kinh tế nhỏ và quan hệ giản đơn, trình độ khoa học kỹ thuật không cao, thiếu nhân tài giỏi về quản lý kinh doanh, trong bối cảnh đối mặt với chiến tranh và áp lực về thời gian, thể chế này có thể dựa vào quyền uy của nhà nước và năng lực chỉ huy hành chính của hệ thống chính quyền, nhanh chóng thực hiện "tích lũy nguyên thủy", tập trung có hiệu quả các nguồn nhân lực, vật lực, tài sản để phát triển các khu vực đặc biệt, các bộ ngành đặc biệt và lĩnh vực kỹ thuật đặc biệt, tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế, giải quyết nhiệm vụ kinh tế cấp bách. Lúc đó, tiềm lực kinh tế và quốc phòng Liên Xô sở dĩ có thể tăng trưởng nhanh chóng ít nhiều có liên quan tới năng lực điều tiết vĩ mô tốt của thể chế này, có thể tập trung lực lượng làm việc lớn, bảo đảm tính ưu việt của phát triển trọng điểm. Nhưng thể chế này cũng tồn tại bất cập, trong điều kiện môi trường đã thay đổi, rất khó để thể hiện sức sống và tính hiệu quả của mình, dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế giảm sút.


Trong vấn đề sản xuất hàng hóa và tiển tệ, Xtalin cho rằng, sản xuất hàng hóa và tiền tệ của xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ vẫn tồn tại lâu dài, nhưng phải nghiêm ngặt hạn chế. Ông đem sản xuất hàng hóa và tiền tệ liên hệ với chủ nghĩa tư bản, cho rằng sản xuất hàng hóa là "gốc rễ của chủ nghĩa tư bản", là "điều kiện có khả năng làm cho chủ nghĩa tư bản phục hồi (sống lại)"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr.195-196); rằng tiền tệ là công cụ của kinh tế  giai cấp tư sản, chỉ là "chính quyền Xôviết đã nắm công cụ này trong tay của mình, và làm cho nó thích ứng với lợi ích của chủ nghĩa xã hội"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.304). Ông nhấn mạnh, sản xuất hàng hóa trong xã hội xã hội chủ nghĩa là "sản xuất hàng hóa đặc chủng", "phạm vi hoạt động của nó chỉ giới hạn ở hàng tiêu dùng cá nhân"2 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.583, 648). Bởi vì Xtalin cho rằng tư liệu sản xuất không phải là hàng hóa, do vậy bài trừ đa số sản phẩm của xã hội ra khỏi phạm vi sản xuất hàng hóa. Sau này, Xtalin còn nhấn mạnh, "phải bài trừ các sản phẩm dư thừa trong sản xuất nông trang tập thể ra khỏi hệ thống lưu thông hàng hóa, đưa chúng vào hệ thống trao đổi sản phẩm giữa công nghiệp nhà nước và nông trang tập thể"; phải "từng bước thu nhỏ phạm vi hoạt động của lưu thông hàng hóa, ngược lại phải mở rộng phạm vi hoạt động của trao đổi sản phẩm"3 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.583, 648). Những quan điểm trên của Xtalin trong một thời gian dài được coi là những giáo điều thiêng liêng bất khả xâm phạm, xây dựng một vùng cấm về lý luận trong cải cách xã hội chủ nghĩa. Sau này, Khrushchev từng đề ra phải "lợi dụng hơn nữa quan hệ tiền hàng", nhưng cải cách của ông từ đầu đến cuối chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế kế hoạch, chỉ là chuyển từ quản lý kế hoạch Trung ương sang quản lý kế hoạch địa phương đối với rất nhiều doanh nghiệp. Thời kỳ Brezhnev cũng như vậy, lúc đó tuy nêu ra "quan hệ tiền hàng ở nước ta có nội dung mới, mang đặc thù xã hội chủ nghĩa", nhưng lại nhấn mạnh, "phải bác bỏ mọi quan điểm sai lầm chủ trương dùng vai trò điều tiết thị trường để thay thế vai trò chủ đạo của kế hoạch tập trung nhà nước". Tất cả các cải cách lúc đó chỉ là một số thí điểm nhằm giảm bớt chỉ tiêu kế hoạch mang tính mệnh lệnh và mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp, đồng thời phê bình nghiêm khắc cái gọi là "thị trường xã hội chủ nghĩa". Tất cả những điều này đều cản trở sự điều chỉnh và cải cách đối với thể chế kinh tế kế hoạch, làm cho cải cách kinh tế của Liên Xô từ đầu đến cuối đều né tránh kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường. Thực ra, kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường cũng là một loại biện pháp phát triển kinh tế, chủ nghĩa tư bản có thể sử dụng, chủ nghĩa xã hội cũng có thể sử dụng. Thực tế chứng minh, Đảng Cộng sản Liên Xô đem kế hoạch và thị trường đối lập với nhau, giải pháp bài xích kinh tế hàng hóa và điều tiết thị trường là không hợp lý.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:42:54 am
3. Sai lầm lý luận về cải cách kinh tế

Mấy chục năm trở lại đây, về cải cách kinh tế  Đảng Cộng sản Liên Xô có ít nhất bốn sai lầm về lý luận, cũng tức là có bốn mối quan hệ chưa làm rõ.

Một là, quan hệ giữa hoàn thiện và cải cách. Ăngghen chỉ ra rằng: "Gọi là 'xã hội xã hội chủ nghĩa' không phải là một thứ nhất thành bất biến, mà giống như bất kỳ các chế độ xã hội khác, xem nó như là một xã hội thường xuyên thay đổi và cải cách"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđdr q.37, tr.443). Lênin cũng nhiều lần bày tỏ quan điểm tương tự như vậy. Lênin quyết đoán chuyển từ "chủ nghĩa cộng sản thời chiến" sang "chính sách kinh tế mới", đã thể hiện đầy đủ được tư tưởng cải cách. Nhưng sau đó Đảng Cộng sản Liên Xô thiếu nhận thức đối với việc phải tiến hành cải cách trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, một mực khẳng định phải "hoàn thiện" thể chế kinh tế vốn có, rất ít khi nói phải "cải cách". Khrushchev trên thực tế đã tiến hành cải cách, nhưng rất nhiều nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó lại dùng những từ ngữ "phát triển hơn nữa" và "hoàn thiện hơn nữa". Brezhnev lại càng chỉ nói "hoàn thiện", không dám nói "cải cách". Thực ra, sau khi xây dựng chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa, quyết không được giữ khư khư nếp cũ, mà còn phải không ngừng cải cách thể chế kinh tế, xóa bỏ những tệ nạn ràng buộc lực lượng sản xuất phát triển và không phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất hiện đại, làm cho nó mãi giữ được sức sống. Cách mạng là giải phóng lực lượng sản xuất, cải cách cũng là giải phóng lực lượng sản xuất, nêu theo nghĩa trên, cải cách là cách mạng lần hai. Chỉ nói phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, không nói còn phải thông qua cải cách để giải phóng lực lượng sản xuất, điều này là không toàn diện. Trên thực tế, cải cách là con đường tất yếu để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, là động lực để xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển, chỉ có thông qua cải cách, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mơi được phát huy đầy đủ hơn nữa. Cải cách là vấn đề lớn quyết định vận mệnh của chủ nghĩa xã hội, do đó Đảng Cộng sản cầm quyền phải đặt nó ở vị trí hàng đầu. Đồng thời "cải cách" và "hoàn thiện" không hề mâu thuẫn, mà hoàn toàn thống nhất với nhau. "Cải cách" trong điều kiện xã hội chủ nghĩa chính là quá trình tự mình hoàn thiện của chế độ xã hội chủ nghĩa, nó có lợi cho củng cố và phát triển chủ nghĩa xã hội. Những lý lẽ trên, Đảng Cộng sản Liên Xô ngay từ đầu đã không làm rõ hoàn toàn, do đó không thể tiến hành cải cách hiệu quả, thậm chí nhiều lần đánh mất cơ hội tốt cho cải cách.


Hai là, quan hệ giữa kế hoạch và thị trường. Đã từ lâu, Đảng Cộng sản Liên Xô coi kế hoạch và thị trường đối lập với nhau, luôn coi nhẹ phát triển kinh tế hàng hóa, bài xích điều tiết thị trường, gắn chặt nó với chủ nghĩa tư bản, đồng thời coi nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ là đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực ra, kế hoạch và thị trường đều là biện pháp kinh tế, đều là phương pháp phát triển kinh tế, chỉ cần tốt cho phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa tư bản có thể sử dụng, chủ nghĩa xã hội cũng có thể sử dụng, chúng đều không thuộc về phạm trù chế độ cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường là một loại cơ chế vận hành, bản thân nó không có phân biệt gì về tính chất chế độ xã hội. Quyết không được đem kinh tế thị trường đánh đồng với chủ nghĩa tư bản, và đem kinh tế kế hoạch đánh đồng với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường. Kinh tế thị trường trong điều kiện xã hội chủ nghĩa không những không giống với kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản, mà còn không giống với kinh tế kế hoạch của chủ nghĩa xã hội. Những lý lẽ trên, Đảng Cộng sản Liên Xô ngay từ đầu không làm rõ, do đó, mấy lần thực hiện cải cách đều né tránh phát triển kinh tế hàng hóa và lợi dụng cơ chế thị trường, dẫn đến cải cách thất bại.


Ba là, quan hệ giữa chế độ công hữu làm nền tảng và nhiều loại kinh tế cùng tồn tại. Đã từ lâu, Đảng Cộng sản Liên Xô luôn nhấn mạnh chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất, theo đuổi phiến diện "nhất đại nhì công" của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, phủ định tính tất yếu của nền kinh tế với nhiều chế độ sở hữu, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế Liên Xô. Tất nhiên, xã hội xã hội chủ nghĩa phải lấy chế độ công hữu làm nền tảng, chế độ sở hữu nhà nước phải trở thành lực lượng chủ đạo của kinh tế xã hội chủ nghĩa và giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm phương hướng xã hội chủ nghĩa và ổn định phát triển kinh tế. Nhưng đồng thời cũng nên căn cứ vào điều kiện lịch sử là lực lượng sản xuất phát triển chưa đủ, cho phép các thành phần kinh tế với chế độ sở hữu khác cùng tồn tại và phát triển, ví dụ cho phép kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh, xí nghiệp góp vốn và xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng tồn tại và phát triển. Sự tồn tại và phát triển của chúng là sự bổ sung tất yếu cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sẽ không ảnh hưởng đến điểm cơ bản là lấy kinh tế  công hữu làm chủ thể. Trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, hoạt động của chúng chịu sự ràng buộc của toàn bộ môi trường chính trị và kinh tế của nước xã hội chủ nghĩa, sự tồn tại và phát triển của chúng suy cho cùng có lợi cho phát triển lực lượng sản xuất, có lợi cho phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, cũng có lợi cho tăng cường kinh tế công hữu. Trong điều kiện nhất định, chỉ có cho phép nền kinh tế với nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại, đồng thời bố trí hợp lý hơn nữa, thì mới có thể thúc đẩy sản xuất, phồn vinh kinh tế, khuấy động thị trường cũng như tạo thuận lợi cho cuộc sống người dân. Do vậy, trong một khoảng thời gian tương đối dài, các nước xã hội chủ nghĩa cùng với việc kiên trì lấy chế độ công hữu làm chủ thể và không thực hiện tư hữu hóa, nên cho phép và cổ vũ nền kinh tế với chế độ sở hữu khác cùng tồn tại và phát triển, không nên thực hiện kinh tế chế độ công hữu đơn nhất. Về mặt này, do Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc phải sai lầm lý luận, nên trên thực tế không hề làm như vậy.


Bốn là, quan hệ giữa xây dựng trong nước và mở cửa đối ngoại. Nước Nga Xô viết trong thời kỳ thực hiện "chính sách kinh tế mới", đã từng đưa kỹ thuật và vốn từ nước ngoài vào. Trong giai đoạn từ khi bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (năm 1928), Liên Xô cũng lợi dụng khủng hoảng kinh tế nổ ra ở thế giới tư bản chủ nghĩa, đã đưa hàng loạt kỹ thuật và thiết bị tiên tiến và một phần vốn thông qua vay tín dụng thương mại vào trong nước, thậm chí mời các chuyên gia nước ngoài đến Liên Xô chỉ đạo kỹ thuật, bao gồm giúp đỡ sửa chữa đường sắt Mátxcơva với quy mô lớn. Nhưng nhìn chung, số lượng những việc đó vẫn ít, phạm vi mở cửa đối ngoại không lớn, nguyên nhân của nó ngoài nhận thức chủ quan ra, còn do các nước đế quốc đã phong tỏa về kinh tế đối với Liên Xô. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với sự hình thành lý luận "Chiến tranh lạnh" của phương Tây và sự đối kháng giữa hai phe, điều kiện mở cửa đối ngoại của Liên Xô càng bị hạn chế Đảng Cộng sản Liên Xô một mực kiên trì lý luận "tổng khủng hoảng" tư bản chủ nghĩa và lý luận "cách mạng thế giới", không thực hiện mở cửa đối ngoại, mà đóng cửa lại để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Xtalin lại đưa ra luận điểm phiến diện "hai thị trường thế giới song song", làm cho hợp tác quốc tế và giao lưu đối ngoại của Liên Xô bó hẹp trong khu vực Đông Âu. Dĩ nhiên, điều này có liên quan rất lớn với tình hình quốc tế lúc đó, bởi vì hai phe chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc đối đầu gay gắt, các quốc gia phương Tây thực hiện bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng Liên Xô sau này vẫn khư khư nếp cũ, do đó làm lỡ mất cơ hội lợi dụng các thành quả mới nhất của cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới. Thực ra, cùng với sự biến đổi phát triển của tình hình quốc tế, thế giới ngày càng trở thành thế giới mở. Sự phát triển của toàn cầu hóa kinh tế làm cho kinh tế của các nước hình thành cục diện cùng liên kết với nhau, cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa về cơ bản không thể tách rời thế giới, do đó nên coi mở cửa đối ngoại là một quốc sách quan trọng, làm cho kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế cùng liên kết, cùng bổ sung cho nhau. Chủ nghĩa tư bản trải qua mấy trăm năm phát triển, tích lũy được kinh nghiệm phong phú, giành được nhiều thành tựu văn minh. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mới được xây dựng sau, phải nỗ lực học tập, tiếp thu những thành tựu văn minh tiên tiến của xã hội loài người, trong đó có xã hội tư bản chủ nghĩa và kết hợp với thực tiễn của nước mình để tiến hành sáng tạo mới, mới có thể phát triển nhanh được. Các nước xã hội chủ nghĩa nếu tự cô lập, bế quan tỏa cảng, không tăng cường giao lưu quốc tế không đưa các kinh nghiệm quản lý tiên tiến và vốn từ các nước phát triển vào, thì chỉ có thể ngày càng lạc hậu. Thế nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô trong thời gian dài chỉ nhìn thấy vế đối lập và đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, không nhìn thấy vế chủ nghĩa xã hội còn phải học tập, tham khảo và tiến hành hợp tác với chủ nghĩa tư bản; chỉ nhấn mạnh phải phê phán chủ nghĩa tư bản mà quên mất còn có thể lợi dựng chủ nghĩa tư bản.


Nhìn chung, Đảng Cộng sản Liên Xô mấy chục năm trở lại đây rơi vào vòng lý luận sai lầm, luôn luôn xem những thứ không thuộc về chủ nghĩa xã hội là đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội để kiên trì đi theo, nhưng lại coi những thứ nảy sinh trong đời sống hiện thực liên quan đến bản chất của chủ nghĩa xã hội là phi chủ nghĩa xã hội để phản đối và phê phán. Đây là một bài học rất lớn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Hai, 2022, 07:44:23 am
4. Cải cách kinh tế và tư hữu hóa

Liên Xô trong một thời gian dài do thực hiện thể chế kinh tế  kế hoạch tập trung cao độ và mô hình tăng trưởng quảng canh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế. Cho đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, phát triển kinh tế của Liên Xô xuất hiện hiện tượng đình trệ, khoa học kỹ thuật ngày càng lạc hậu so với phương Tây, kinh tế lãng phí nghiêm trọng, địa vị nước lớn của Liên Xô hết sức nguy cấp. Tháng 3 năm 1985, sau khi Gorbachev lên cầm quyền, đã đề ra "chiến lược gia tăng tốc độ phát triển kinh tế xã hội" (gọi tắt là "chiến lược gia tốc") và nhiệm vụ cải cách căn bản thể chế kinh tế. Tháng 2 năm 1986, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Đại hội Đảng lần thứ XXVII, đã xác định phương châm "chiến lược gia tốc" của Gorbachev, xác định, nguyên tắc của cải cách kinh tế và nhiệm vụ của cải cách căn bản thể chế kinh tế hiện hành. Cái gọi là ''chiến lược gia tăng tốc độ phát triển kinh tế xã hội", trên thực tế bao gồm hai tầng ý nghĩa: gia tăng tốc độ phát triển kinh tế và gia tăng cải cách thể chế kinh tế. Nhưng "chiến lược gia tốc" đã xa rời khả năng thực tế của Liên Xô, là chủ nghĩa chủ quan. Trên thực tế, thể chế vận hành và kết cấu kinh tế của Liên Xô lúc đó đã là bệnh nặng khó chữa rồi, trên cơ sở này vẫn yêu cầu phát triển tốc độ cao, kết quả là, không những không thể thực hiện được phát triển tốc độ cao, mà còn làm lỡ việc điều chỉnh kết cấu kinh tế không những không giảm, mà ngược lại, tăng thêm khó khăn cho kinh tế đất nước. Cho đến Đại hội XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 7 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ryzhkov khi đánh giá về chiến lược này nói: "Hiện giờ, rất rõ ràng là, chúng ta tuyên bố chiến lược gia tốc trong tình hình bảo lưu kết cấu sản xuất xã hội cũ đã hình thành mấy chục năm rồi, không tính đến tiềm lực của kết cấu sản xuất này đã chết khô, kết cấu này đã trở thành trở ngại", do đó ông tuyên bố "từ bỏ chiến lược gia tốc"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.196).


Cải cách thể chế kinh tế là bộ phận câu thành quan trọng của "chiến lược gia tốc", sau khi Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra ý tưởng tổng thể cho cải cách thể chế kinh tế, tháng 6 năm 1987, Đại hội toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành thảo luận toàn diện và thông qua "Nguyên tắc cơ bản cải cách căn bản thể chế quản lý kinh tế". Trong báo cáo tại Đại hội, Gorbachev nói, phải "nắm và quản lý thị trường một cách có kế hoạch, theo quy luật thị trường", phải "lợi dụng quan hệ tiền hàng trong thể chế quản lý và làm cho nó thống nhất với tính ưu việt của công tác kế hoạch kinh tế quốc dân"2 (Govbachev: Những phát biểu của về cải tổ (6-1986 - 6-1987), Sđd, tr.370). Đại hội đã đề ra phương án cải cách "ba tự một toàn", tức là trong các xí nghiệp quốc doánh thực hiện "tự bù lỗ", "tự tìm vốn", "tự quản lý" và "hạch toán kinh tế toàn diện", thực chất của nó là để các xí nghiệp quốc doanh tự chủ kinh doanh, lời ăn lỗ chịu. Tháng 7 năm đó, Đảng Cộng sản Liên Xô lại xây dựng và thông qua 11 nghị quyết về cải cách thể chế liên quan đến kế hoạch, giá cả, vay vốn, cung ứng vật tư kỹ thuật, hình thành một phương án cải cách kinh tế.


Phương án này vẫn bảo lưu hai nguyên tắc cơ bản: một là, kiên trì chế độ sở hữu nhà nước, trao quyền kinh doanh cho cấp dưới, làm cho các xí nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh tế hoàn toàn; hai là, kiên trì nguyên tắc quản lý kế hoạch tập trung, chỉ là phải thay đổi phương pháp quản lý kế hoạch, vận dụng nhiều hơn đòn bẩy kinh tế để quản lý kinh tế. Do đó, mô hình mục tiêu của lần cải cách này có thể gọi là ''hoàn thiện kinh tế kế hoạch". Thế nhưng, phương án cải cách của Gorbachev không hề nhận thức được tính khó khăn, tính lâu dài, tính phức tạp của cải cách thể chế truyền thống, ông chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, nóng vội thành công, hơi một tý là nói đến "cải cách toàn diện", "cải cách căn bản", nhưng trên thực tế vẫn chưa nhìn thấy hiệu quả rõ rệt. Sau này, Gorbachev chuyển trọng điểm cải cách sang lĩnh vực chính trị, làm cho cải cách kinh tế đứng ở vị trí thứ yếu. Tháng 2 năm 1990, trong Dự thảo Cương lĩnh hành động báo cáo lên Đại hội XXVIII của Đảng được Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua, đã đề ra "tranh thủ xác lập nền kinh tế kế hoạch - thị trường hiệu quả". Nội dung cơ bản của nó là: phát triển nhiều hình thức sở hữu, cho phép chúng cạnh tranh bình đẳng; kết hợp giữa kế hoạch và thị trường để điều tiết kinh tế; thực hiện chế độ giá linh hoạt, kiện toàn cơ chế thị trường... Tháng 3, sau khi Gorbachev trúng cử Tổng thống, Hội đồng Tổng thống và Hội đồng Liên bang quyết định đẩy nhanh tiến trình quá độ lên kinh tế thị trường, và quyết định sửa cách nói "kinh tế kế hoạch - thị trường" thành "kinh tế thị trường có thể điều tiết". Tháng 7 năm đó, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Đại hội XXVIII, xác định phương châm quá độ lên kinh tế thị trường. Sau đó, tháng 8 năm 1990, Gorbachev và Yeltsin cùng quyết định ủy thác cho chuyên gia kinh tế, Viện sĩ Shatalin tổ chức xây dựng kế hoạch cụ thể quá độ lên kinh tế thị trường. Nhóm Shatalin trong không đầy một tháng đã hoàn thành công tác khởi thảo, đưa ra phương án "Quá độ lên kinh tế thị trường - ý tưởng và cương lĩnh" (còn gọi là "Phương án Shatalin" hoặc "Kế hoạch 500 ngày"). Phương án chủ trương thực hiện tư hữu hóa (trong Phương án gọi là "phi quốc hữu hóa"), nhào nặn nên chủ thể thị trường, cho rằng thực hiện tư hữu hóa không những đặt nền móng cho việc vận dụng cơ chế thị trường mà còn bảo đảm cho các hoạt động phát triển doanh nghiệp, và trên nền tảng này cải thiện tình hình kinh tế của đất nước, đồng thời quy định trong vòng khoảng 500 ngày hoàn thành quá độ lên kinh tế thị trường. "Phương án Shatalin" trên thực tế là căn bản xóa bỏ cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, thay đổi tính chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi phương án này được công bố đã bị rất nhiều người phê bình, Chính phủ Liên Xô cũng bày tỏ không thể chấp nhận. Mâu thuẫn tranh luận giữa hai bên nghiêm trọng, khó mà hòa giải được. Cuối cùng, Gorbachev tiếp thu chủ trương cơ bản của "Phương án Shatalin", bày tỏ "chúng ta phải thực hiện tư hữu hóa chế độ sở hữu", đồng thời lấy danh nghĩa Tổng thống đề xuất với Xô viết tối cao "Phương châm cơ bản ổn định kinh tế quốc dân và quá độ lên kinh tế thị trường" (gọi là "Phương án Tổng thống"). Ngày 18 tháng 10 năm 1990, Xôviết tối cao thông qua Phương châm cơ bản. Trong Phương châm nói, để hình thành kinh tế thị trường "cần phải giải phóng nhanh nhất phần lớn các xí nghiệp thoát khỏi chế độ nhà nước bao cấp, thực hiện tư hữu hóa"1 (Gorbachev: "Phương châm cơ bản ổn định kinh tế quốc dân và quá độ lên kinh tế thị trường", báo Sự thật, ngày 18 tháng 10 năm 1990). Cũng có thể nói rằng, cần phải xây dựng kinh tế thị trường trên nền tảng chế độ tư hữu. Như vậy phương châm Liên Xô quá độ lên kinh tế thị trường từ lúc đề ra đến xác lập cuối cùng, mất không đến một năm, trong thời gian đó trải qua quá trình từ "kinh tế kế hoạch - thị trường", "kinh tế  thị trường có thể điều tiết" cho đến "kinh tế thị trường". Trong đó, những điều phản ánh không chỉ là sự thay đổi về cách đề cập và tên gọi, quan trọng hơn là tính chất của cải cách có thay đổi, thay đổi từ cải cách kinh tế xã hội chủ nghĩa thành xóa bỏ chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa, về mặt cải cách chế độ sở hữu, xây dựng phương án "kinh tế kế hoạch - thị trường" và "kinh tế thị trường có thể điều tiết", chỉ đề ra phải phát triển nhiều hình thức sở hữu, chủ trương các hình thức sở hữu bình đẳng lẫn nhau; nhưng lại xây dựng "Phương án kinh tế thị trường" (tức "Phương án Shatalin" và "Phương án Tổng thống"), đề xuất rõ ràng thực hiện tư hữu hóa. Hiển nhiên, xây dựng kinh tế thị trường trên nền tảng tư hữu hóa, điều đó có nghĩa là, Liên Xô quá độ lên kinh tế thị trường về thiên hướng chế độ xã hội là mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Tư hữu hóa mà Gorbachev chấp nhận, không những đặt nền móng về kinh tế cho chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa của Liên Xô, mà còn đặt nền móng về kinh tế cho những biến đổi mạnh mẽ có tính tai nạn của Liên Xô sau này.


Ngày 1 tháng 7 năm 1991, Xôviết tối cao thông qua "Luật tư hữu hóa". Căn cứ vào sự suy đoán của chính phủ lúc đó: đến cuối năm 1992, những xí nghiệp thuộc liên minh sẽ có 40% - 50% thoát li khỏi sự khống chế của nhà nước, đến năm 1995, con số này sẽ đạt 60% - 70%. Pháp luật quy định, xí nghiệp quốc doanh có thể trở thành xí nghiệp cho thuê hoặc xí nghiệp tập thể, công ty cổ phần, có thể bán đấu thầu hoặc đấu giá1 (Tham khảo Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm 'cải tổ' của Liên Xô cũ, Sđd, tr.552). Tháng 7 năm 1991, Gorbachev viết thư cho lãnh đạo bảy nước phương Tây nói, trong hai năm đầu sẽ bán 80% xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ cho tư nhân, sau đó, sẽ thực hiện kinh doanh tư nhân các xí nghiệp quy mô lớn1 (Tham khảo Giang Lưu, Trần Chi Hoa: Suy nghĩ về lịch sử diễn biến của Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1994, tr.106). Có thể thấy rằng, nêu Liên Xô không sụp đổ, tiến trình "phi quốc hữu hóa" và "tư hữu hóa" do Gorbachev thực hiện cũng sẽ tiếp tục, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa sẽ nhanh chóng thay thế chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản sống lại là xu thế tất yếu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:35:47 am
VI. VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI, ĐẶC TRƯNG THỜI ĐẠI VÀ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI

Vấn đề thời đại liên quan đến chính đảng giai cấp vô sản có thể nắm vững được phương hướng phát triển của thế giới và điều kiện môi trường trong và ngoài nước mà mình đang gặp phải hay không, liên quan đến có chế định được chiến lược và sách lược phát triển cách mạng và xây dựng, cũng như chính sách trong và ngoài nước hay không. Lênin nói, chỉ có "trước hết nên cân nhắc đến những đặc trưng cơ bản khác nhau của những thời đại khác nhau (chứ không phải những sự kiện lịch sử cá biệt ở những quốc gia cá biệt), chúng ta mới có thể xây dựng đúng đắn sách lược của mình; chỉ có hiểu được đặc trưng cơ bản của một thời đại nào đó, thì mới có thể trên cơ sở đó tính đến những đặc điểm cụ thể hơn của quốc gia này hay quốc gia kia"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.26, tr.143). Thời đại là một quá trình lịch sử, không phải là bất biến, mà là một quá trình vô cùng phức tạp và không ngừng biến đổi, phát triển. Trong quá trình lịch sử, có thế xuất hiện nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, trong mỗi một giai đoạn, một số mâu thuẫn cơ bản quyết định tính chất và đặc trưng cơ bản của thời đại vẫn tồn tại, nhưng hình thức biểu hiện của một số mâu thuẫn này, quan hệ lẫn nhau giữa chúng và mâu thuẫn chủ yếu giữ vai trò chủ đạo đều có thể thay đổi, do đó nội hàm của thời đại có thể phát triển, chủ đề của thời đại có thể thay đổi. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bởi vì xuất hiện và phát triển sự độc quyền, thế giới từ thời đại chủ nghĩa tư bản tự do bước vào thời đại chủ nghĩa đế quốc. Sau đó, nửa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản ở vào giai đoạn biến động lớn, trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh dẫn đến cách mạng, chiến tranh và cách mạng đan xen nhau tạo nên chủ đề của thời đại. Nửa cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới có biến đổi mới, triển khai cách mạng khoa học kỹ thuật mới, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; kết cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa có nhiều biến đổi lớn, năng lực tự điều tiết được tăng cường; thực lực kinh tế và thực lực tổng hợp trở thành điều kiện quan trọng nhất giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang và đe dọa chiến tranh trở thành nhân tố ràng buộc lớn nhất cho phát triển của thế giới, đặc biệt là phát triển kinh tế tranh thủ và gìn giữ hòa bình trở thành yêu cầu chung của đông đảo các quốc gia và các tầng lớp trong xã hội, đã cho thấy rõ nhân tố chiến tranh và cách mạng dần dần suy yếu, hòa bình và phát triển dần nâng lên thành chủ đề của thời đại. Trong tình hình này, bất kỳ một quốc gia và dân tộc nào cũng đều phải dốc hết sức để thích ứng và thỏa mãn với các cơ hội và thách thức do thay đổi này mang đến, nếu không thì sẽ không theo kịp bước tiến của thời đại, lạc hậu với trào lưu phát triển của lịch sử.


Đảng Cộng sản Liên Xô cũng trải qua một quá trình quanh co trong vấn đề thời đại, đặc trưng thời đại và quan hệ đối ngoại. Đảng Bônsêvích với Lênin là đại diện đã nghiên cứu và phân tích sâu sắc về thời đại đế quốc chủ nghĩa, rút ra một loạt các kết luận quan trọng, cung cấp một cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng phương châm chiến lược đối nội và đối ngoại đúng đắn, mặc dù trong khi thực hiện có xuất hiện khác biệt nhưng đã kịp thời sửa chữa. Trong một thời gian dài, Đảng Cộng sản Liên Xô kiên trì lý luận "tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa", từ đầu đến cuối coi chiến tranh và cách mạng là trào lưu chủ yếu của thế giới, vẫn chưa kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại phù hợp với thay đổi của đặc trưng thời đại và sự chuyển biến của chủ đề thời đại. Gorbachev đề ra "tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại, nhưng lại đi theo một cực đoan khác. Ông bán đứng chiến lược đối ngoại xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, thuận theo yêu cầu "diễn biến hòa bình" của thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở phương Tây, điều này trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng cuối cùng dẫn đến Liên Xô mất Đảng, mất nước.


1. Thời đại đế quốc chủ nghĩa và thuyết "cách mạng thế giới"

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914, phong trào cách mạng vô sản phải cấp thiết trả lời một loạt các vấn đề mới của thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là các vấn đề chiến tranh, hòa bình và cách mạng. Lênin đã nghiên cứu hệ thống và trình bày toàn diện về vấn đề này. Lấy tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản của Lênin xuất bản năm 1916 làm tiêu chí, hình thành nên lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa đế quốc và thời đại đế quốc chủ nghĩa. Lênin phân tích kỹ lưỡng đặc trưng cơ bản của thời đại đế quốc chủ nghĩa, đồng thời chỉ ra rằng, thời đại đế quốc chủ nghĩa là thời đại lớn trong lịch sử, cả quá trình phát triển của thời đại đế quốc chủ nghĩa không phải một đường thẳng, mà là phát triển theo hình sóng, có tính phức tạp và tính quanh co. Lênin nói: "Ở đây là nói đến thời đại lịch sử lớn. Mỗi một thời đại đều có, mà nhìn chung sẽ có, những sự vận động cá biệt, cục bộ, có lúc tiến, có lúc lùi; đều có, mà nhìn chung sẽ có, tình trạng vận động lệch hướng với hình thức thông thường và tốc độ thông thường"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.26, tr.143). Trong cuốn sách này và các tác phẩm khác của ông, Lênin đã trả lời một loạt câu hỏi về thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng thế giới, hơn nữa chỉ đạo Đảng Bônsêvích giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga và củng cố chính quyền Xôviết.


Lênin cho rằng, chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền, ký sinh hoặc hủ bại, giãy chết. Nhìn từ góc độ thay đổi hình thái xã hội, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, là giai đoạn lịch sử mà chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ nghĩa xã hội. Dưới sự ảnh hưởng bởi áp lực trong và ngoài nước, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội, do đó, điều kiện vật chất cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đế quốc chủ nghĩa đã chín muồi. Lênin cho rằng, sau khi bước vào thời đại đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản từ giai cấp đi lên, tiên tiến trở thành giai cấp đi xuống, suy đồi, chết từ bên trong, phản động, như vậy tất nhiên làm cho mâu thuẫn của nước đó đạt đến mức độ gay gắt. Ngoài ra, đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa đế quốc là nguồn vốn xuất ra nhiều, đồng thời dẫn đến các cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn hoàn tất phân chia thế giới, do đó, sự tranh giành giữa các đế quốc nhằm cướp đoạt và phân chia thuộc địa, tranh giành bá quyền thế giới là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến mâu thuẫn bên ngoài trở nên gay gắt, chiến tranh không thể tránh khỏi, chiến tranh sẽ dẫn đến cách mạng. Do đó, điều kiện cách mạng giai cấp vô sản thế giới trong thời đại đế quốc chủ nghĩa đã chín muồi, "chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.582).


Đồng thời, Lênin căn cứ vào tình hình thực tế của các cường quốc tư bản chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đã khái quát tư tưởng của Mác - Ăngghen về sự phát triển chính trị, kinh tế không cân bằng của chủ nghĩa tư bản thành quy luật không cân bằng và rút ra kết luận: cách mạng vô sản thời đại đế quốc chủ nghĩa không thể đồng thời nổ ra và giành được thắng lợi ở tất cả các nước, cho rằng nó trước tiên sẽ giành được thắng lợi ở một nước hoặc một vài nước. Chính dưới sự chí đạo của "thuyết thắng lợi ở một nước", Đảng Bônsêvích đã lãnh đạo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga giành thắng lợi.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:36:43 am
Trong mối quan hệ giữa cách mạng một nước và cách mạng thế giới, đặc biệt là với cách mạng châu Âu, Lênin trước tiên kiên trì tư tưởng cách mạng Nga là một bộ phận của cách mạng thế giới và cách mạng châu Âu, đồng thời cho rằng, cách mạng Nga tất yếu sẽ thúc đẩy cách mạng thế giới phát triển. Người nói, cách mạng thế giới đã do "người Nga bắt đầu, người Đức, người Pháp, người Anh sẽ hoàn thành, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thắng lợi"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.33, tr.279). Người tin tưởng rằng, không lâu sau Cách mạng Tháng Mười Nga, châu Âu lập tức sẽ xuất hiện cao trào cách mạng. Người xác định coi việc xây dựng "nước cộng hòa Xôviết thế giới", ít nhất là "nước cộng hòa Xôviết châu Âu" là mục tiêu của cách mạng thế giới. Người cho rằng, trong tình hình lúc đó, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng các nước là xây dựng Đảng Cộng sản của các nước, phản đối phe hữu và phe trung của xã hội dân chủ, phát động cách mạng, tranh thủ xây dựng chuyên chính vô sản. Để lãnh đạo cách mạng thế giới, thúc đẩy xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản của các nước, tháng 3 năm 1919, Người sáng lập ra Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất Quốc tế Cộng sản, Người nói: "Thắng lợi của giai cấp vô sản toàn thế giới là có bảo đảm, sự thành lập nước Cộng hòa Xôviết quốc tế là không xa"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.35, tr.503). Tháng 5 năm 1919, Người lại chỉ ra: "Cách mạng vô sản thế giới ngày càng gần"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.378). Tháng 11 Người lại nói: "Cách mạng xã hội hiện giờ ở châu Âu không phải là trưởng thành từng ngày nữa mà là trưởng thành từng giờ, tình hình ở nước Mỹ và nước Anh cũng vậy"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.318). Hiển nhiên, theo Lênin, thắng lợi của cách mạng thế giới đã ở ngay trước mắt, "thắng lợi trên toàn thế giới của chủ nghĩa cộng sản đã không còn xa nữa"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.177). Những phán đoán suy luận trên của Lênin không hề ngẫu nhiên. Chiến tranh thế giới thứ nhất từ năm 1914 đến năm 1918 đã bộc lộ đầy đủ mâu thuẫn nội tại và nguy cơ nghiêm trọng của chủ nghĩa tư bản thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp vô sản các nước đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản. Lúc đó, chiến tranh và cách mạng là trào lưu chính của thế giới, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, phong trào độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lên xuống không ngừng. Cách mạng Tháng Mười Nga trước tiên phá vỡ mắt xích mỏng yếu trong dây chuyền chủ nghĩa đế quốc, giành được thắng lợi vĩ đại. Tiếp theo đó còn có cách mạng Phần Lan và cách mạng Đức năm 1918, cách mạng Hunggari năm 1919 và khởi nghĩa tháng 9 của Bungari, khởi nghĩa tháng 10 ở Hamburg, Đức và khởi nghĩa tháng 11 ở Ba Lan năm 1923. Mặc dù hàng loạt các cuộc cách mạng sau này đều chưa thành công, nhưng tình hình "cách mạng thế giới" không hề hư cấu. Chiến lược "cách mạng thế giới" theo chủ trương của Lênin chủ yếu là "kêu gọi cách mạng" chứ không phải "xuất khẩu cách mạng" vũ lực.


Từ sau khi trình bày đúng đắn về xu thế phát triển của thời đại đế quốc chủ nghĩa, rồi lãnh đạo thành công thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã đánh giá quá lạc quan về tình hình cách mạng thế giới, đánh giá không đầy đủ về năng lực tự điều tiết, năng lực phục hồi kinh tế của chủ nghĩa tư bản sau này. Xuất hiện tình hình như vậy trong bối cảnh lịch sử lúc đó là có thể hiểu được. Bất luận do hạn chế về điều kiện lịch sử hay là người lãnh đạo cách mạng đứng trước tình thế cách mạng chưa từng có, nhìn từ góc độ trách nhiệm lịch sử, kêu gọi cách mạng các nước, giành được thắng lợi cách mạng tất cả, thì sự xuất hiện của những vấn đề trên đây là khó tránh khỏi.


Nhưng Lênin vẫn là một nhà lý luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vĩ đại, Người đã điều chỉnh thích hợp chiến lược, sách lược của nước Nga Xô viết. Tháng 3 năm 1918, Nga cùng với nước Đức ký "Hòa ước Brest", trong điều kiện hy sinh phần lãnh thổ rộng lớn để giành được thời cơ hòa bình đáng quý. Không lâu sau đó, lại giành được thắng lợi trong chống lại sự can thiệp vũ trang từ bên ngoài. Sau đó, Nga lại kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại, chủ động liên lạc với các nước phương Tây, bắt đầu thực thi chính sách ngoại giao hòa bình và đặt trọng điểm chiến lược vào xây dựng trong nước và khôi phục kinh tế. Do đó, nước Nga Xôviết đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng loạt nước tư bản chủ nghĩa, đồng thời tăng cường liên hệ kinh tế với nhau, bắt đầu bước vào thời kỳ mới "chung sống hòa bình" với các nước tư bản chủ nghĩa. Lịch sử chứng minh, sự chuyển biến chiến lược này của nước Nga Xô viết là đúng đắn.


Trên cơ sở quan điểm "thời đại đế quốc chủ nghĩa" của Lênin, Xtalin đã nêu ra quan điểm "thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản", ông cho rằng, Cách mạng Tháng Mười Nga là mở đầu cho thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, "chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác của thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản". Sau khi Xtalin lên cầm quyền, đã kế thừa chiến lược đối nội và đối ngoại của Lênin. Lúc đó, Liên Xô tập trung lực lượng tiến hành cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước, thực hiện chiến lược "vượt lên", phát triển kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Về mặt quan hệ đối ngoại, Liên Xô cũng lựa chọn thái độ thiết thực, tranh thủ cải thiện quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường. Đến năm 1925, ngoài nước Mỹ, các nước tư bản chủ nghĩa lớn trên thế giới đều công nhận Liên Xô. Năm 1933, nước Mỹ cũng thay đổi chính sách kiềm chế, thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Liên Xô bước trên con đường "chung sống hòa bình" với các nước tư bản chủ nghĩa.


Đồng thời, Xtalin vẫn kiên trì mục tiêu chiến lược "cách mạng thế giới". Tháng 4 năm 1924, Xtalin nhấn mạnh phải "giành được thắng lợi hoàn toàn tức thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội", "chỉ dựa vào lực lượng của một quốc gia" là không được, "ít nhất phải có thắng lợi cách mạng trong vài nước"; do đó, "cách mạng giành được thắng lợi ở một nước không nên xem mình là độc lập tự tại, mà nên xem là trợ lực và công cụ để tăng tốc thắng lợi của giai cấp vô sản các nước khác"; nhiệm vụ trọng đại của Liên Xô là phải "phát triển và viện trợ cách mạng nước khác"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.95). Nên thừa nhận rằng, Xtalin đã có cống hiến to lớn trong việc thúc đẩy và chi viện cho cách mạng các nước.


Nhưng trong khi thực hiện chiến lược "cách mạng thế giới"', Xtalin cũng đã mắc phải sai lầm, chủ yếu là sai lầm chủ nghĩa đảng lớn và chủ nghĩa sôvanh nước lớn. Bởi vì lúc đó Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất trên thế giới, rất dễ coi kinh nghiệm của một nước là quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Xtalin giải thích máy móc về kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Nga và Đảng Cộng sản Liên Xô, nâng một số nguyên tắc mà nước Nga giành được thắng lợi cách mạng trong điều kiện lịch sử đặc biệt thành quy luật phổ biến, cho rằng con đường mà Liên Xô đi qua cũng đương nhiên là con đường mà các nước khác phải đi. Liên Xô trở thành từ đồng nghĩa của chủ nghĩa xã hội, sách lược lý luận của Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành chân lý đúng với tất cả các nước. Cùng với sự mở rộng nhận thức này, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành hóa thân của chân lý, từ đó trở thành đảng anh cả, bất kỳ đảng nào khác đều phải nghe theo. Ví dụ, Đảng Cộng sản Liên Xô lợi dụng vai trò đặc biệt của mình trong Quốc tế Cộng sản, thông qua Quốc tế Cộng sản để kiểm soát các đảng khác, trên thực tế hình thành quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, chế độ tập trung dân chủ trên thực tế bị chế độ tập quyền cao độ thay thế, quan hệ đảng thông thường và nguyên tắc quốc tế chủ nghĩa bị phá hoại trói buộc sức sống của các đảng các nước. Sau này, Xtalin cũng có nhận thức về vấn đề này, do đó đồng ý và thúc đẩy giải tán Quốc tế Cộng sản. Đêm ngày 20 tháng 4 năm 1941, khi hội kiến với lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân đội Liên Xô như Molotov, Kalinin, Voroshilov, Mikoyan và Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản Dimitrov, Xtalin nói: "Quốc tế Cộng sản không cần thiết phải tiếp tục tồn tại"; "Đảng Cộng sản các nước phải trở thành Đảng hoàn toàn độc lập, chứ không phải chi bộ dưới Quốc tế Cộng sản". Ngày 21 tháng 5 năm 1943, trong Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin lại nói: Kinh nghiệm cho thấy, bất luận trong thời đại Mác, Lênin hay là hiện tại, từ một trung tâm quốc tế lãnh đạo phong trào công nhân của các nước trên thế giới là không thể được"1 (Tham khảo Lý Đông Lãng: "Xtalin và sự giải tán của Quốc tế Cộng sản", Bách niên triều, kỳ 7 năm 2003). Đây là một nhận thức tỉnh táo và đáng quý. Thế nhưng, nhận thức được điều này và quán triệt điều này trên thực tế lại là hai việc khác nhau. Đêm trước của Chiến tranh thế giới thứ hai, để tăng cường quốc phòng, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, Liên Xô tăng cường thực hiện thay đổi biên giới bên ngoài, mở rộng diện tích lãnh thổ, từ năm 1939 đến năm 1940, liên tục chiếm lĩnh các vùng Tây Bêlarút, Tây Ucraina của Ba Lan, Bessarabia của Rumani và một bộ phận lãnh thổ của Phần Lan, đồng thời nhập ba nước Lítva, Látvia, Extônia vào bản đồ Liên Xô. Sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Liên Xô lại dựa vào "Cục Tình báo Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân" để kiểm soát các đảng anh em ở Trung và Đông Âu, mở rộng mô hình Liên Xô, nếu không nghe theo thì sẽ "bị nguyền rủa". Điều này trên thực tế là lặp lại khuynh hướng sai lầm thời kỳ "Quốc tế Cộng sản". Việc phát động phong trào phê phán Nam Tư, phê phán Tito, đồng thời khai trừ Đảng Cộng sản Nam Tư ra khỏi Cục Tình báo năm 1948, là một biểu hiện nổi bật. Tất cả những điều này đều đi ngược lại chân lý mà Xtalin nhận thức, đem lại nguy hại nghiêm trọng cho phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:38:33 am
2. "Thuyết tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa" và ảnh hưởng của nó

Xtalin đã phát huy thêm một bước "thuyết chủ nghĩa đế quốc" của Lênin, nêu ra "thuyết tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa", thể hiện rõ hơn thời đại đế quốc chủ nghĩa là thời đại cách mạng vô sản. Thuyết tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa nhằm vào "thuyết chủ nghĩa tư bản ổn định" được nêu ra vào thời kỳ giữa và cuối những năm 1920, khi các nước tư bản chủ nghĩa tương đối phồn vinh về kinh tế, tương đối ổn định về chính trị. Xtalin cho rằng: "Thành tựu của tư bản là không vững chắc, trong tiến trình chủ nghĩa tư bản "khôi phục sức khỏe" ẩn chứa tiền đề yếu kém, hủ bại và tan rã trong nội bộ"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.7, tr.47). Loại ổn định này của chủ nghĩa tư bản là "ổn định cục bộ hay ổn định tạm thời"2 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.7, tr.219). Trong ổn định này có ẩn chứa nguy cơ mới. Trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XV Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang năm 1927, ông đã chỉ ra rằng: "Chính trong tình hình này đã nảy sinh khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thế giới sâu sắc nhất, gay gắt nhất, khủng hoảng này thai nghén một cuộc chiến tranh mới và đe dọa sự tồn tại của ổn định"3 (Xtalin: Toàn tập, Sđđ, q.10, tr.234). Tiếp đó, tháng 12 năm 1928, Xtalin khẳng định rõ ràng kết luận của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản: "Thời kỳ này tất yếu sẽ trải qua sự phát triển hơn nữa mâu thuẫn trong bản thân ổn định của chủ nghĩa tư bản chuyển sang sự lung lay trong ổn định của chủ nghĩa tư bản và tới mức gay gắt của tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa"4 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr.255). Đây là lần đầu tiên ông nhắc đến khái niệm "tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa". Cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản những năm 1930, Xtalin tăng cường nhận thức: đối với tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa, tiến hành hệ thống hóa, lý luận hóa tư tưởng tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa. Thuyết tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa có ảnh hưởng lớn đối với chiến lược đối ngoại của Liên Xô.


Xtalin nhấn mạnh, tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa không phải chỉ là hiện tượng riêng ở một quốc gia tư bản chủ nghĩa cá biệt, cũng không phải khủng hoảng kinh tế hay khủng hoảng chính trị cụ thể nào đó của chủ nghĩa tư bản đang phát triển, mà là khủng hoảng toàn diện sâu sắc, không thể khắc phục được trong hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Nó bao gồm khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội và từ đó nảy sinh khủng hoảng cách mạng trong hệ thống thực dân đế quốc chủ nghĩa và nội bộ các quốc gia đế quốc chủ nghĩa. Tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa là tiến trình lịch sử do nền kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản phát triển không cân đối dẫn đến mâu thuẫn gay gắt trong thế giới tư bản chủ nghĩa, dẫn đến cách mạng thế giới và chiến tranh. Khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản là căn nguyên và cơ sở của tống khủng hoảng. Chiến tranh đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản là kết quả tất yếu của sự phát triển tổng khủng hoảng. Xtalin cho rằng, "tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa, có thể phân làm hai giai đoạn: bắt đầu từ Chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai là giai đoạn thứ nhất, kết quả của tổng khủng hoảng giai đoạn này là nước Nga tách ra khỏi hệ thống kinh tế - chính trị thế giới tư bản chủ nghĩa, xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, mở đầu một thời đại mới cách mạng vô sản thế giới; từ giai đoạn đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là từ sau khi các quốc gia dân chủ nhân dân ở các nước châu Á, châu Âu tách ra khỏi hệ thống tư bản chủ nghĩa, là bắt đầu giai đoạn hai của tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn hai này, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, châu Âu ra đời sau chiến tranh và Liên Xô liên kết thành phe xã hội chủ nghĩa đối lập với phe tư bản chủ nghĩa, "tình hình này quyết định tổng khủng hoảng của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới sâu sắc hơn"1 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.593, 616). Xtalin cho rằng, khủng hoảng của hai giai đoạn này không phải là khủng hoảng tồn tại biệt lập mà là hai giai đoạn phát triển tất yếu có tính liên tục. Thời kỳ tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa là thời kỳ lịch sử quan trọng trong phát triển chính trị quốc tế, là thời kỳ mà kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa phát triển không cân đối dẫn đến các loại mâu thuẫn ngày càng gay gắt, là thời kỳ mà tính ký sinh, tính hủ bại của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ ra ngoài, là thời kỳ lịch sử mà chế độ tư bản chủ nghĩa diệt vong nhanh chóng và hệ thống tư bản chủ nghĩa đối mặt với sự sụp đổ. Do đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải lấy Liên Xô làm trung tâm, liên hợp nhân dân các nước tạo thành phe chống lại chủ nghĩa đế quốc, đồng thời đối đầu, đối kháng với phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ làm trung tâm; đồng thời, Liên Xô và các nưởc xã hội chủ nghĩa khác phải ủng hộ mạnh mẽ cho đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, chờ đợi thời cơ lật đổ chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, Xtalin lại đưa ra luận điểm "hai thị trường thế giới song song". Ông nói: "Hậu quả kinh tế mà hai phe đối lập tồn tại gây ra là thị trường thế giới thống nhất đã giải tán, do đó hiện tại có hai thị trường thế giới đối lập với nhau tồn tại song song"1 (Xtalin tuyển tập (1934-1952), Sđd, tr.594). Xtalin gọi hợp tác kinh tế khu vực giữa các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó là "thị trường thế giới", đồng thời đem nó "đối lập" với thị trường thế giới của chủ nghĩa tư bản, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển hơn nữa của kinh tế Liên Xô.


Khrushchev đã vứt bỏ nguyên tắc chủ nghĩa xã hội khoa học mà Xtalin đã kiên trì theo đuối, nhưng lại kế thừa lý luận "tổng khủng hoảng" của Xtalin. Ông cho rằng, nửa cuối của những năm 1950, so sánh lực lượng có sự thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, "tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản" bước vào giai đoạn thứ ba. Đặc trưng chủ yếu của nó là khủng hoảng lần này không phải xảy ra trong tình hình chiến tranh thế giới, mà phát sinh trong điều kiện môi trường hòa bình và sự đối kháng lẫn nhau của hai hệ thống đối lập1 (A. Anikir: Lịch sử ngoại giao, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1983, q.5, tr.24; chuyển dẫn "Sự sụp đổ của siêu cường - phân tích nguyên nhân Liên Xô sụp đổ", Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2001, tr.175).


Brezhnev tiếp tục kiên trì lý luận "tổng khủng hoảng". Tại các đại hội đại biểu của Đảng ông đều nói "tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản". Năm 1966, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev nói, đặc điểm tình hình quốc tế lúc này là "tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản tiếp tục trầm trọng và sâu sắc"2 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1978, tr.11). Năm 1971, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô, ông nói: "Tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản đang tiếp tục sâu sắc"3 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1976, tr.30). Năm 1976, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô, ông nói: "Những năm gần đây, thế giới tư bản chủ nghĩa đã nổ ra khủng hoảng kinh tế... độ gay gắt và độ sâu của cuộc khủng hoảng này chỉ có thể so sánh được với cuộc khủng hoảng đầu những năm 1930"4 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1977, tr.42). Năm 1981, trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev còn nói: "Trong những năm gần đây, tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản càng nghiêm trọng hơn", "nó đang phải chịu đựng suy thoái kinh tế lần thứ ba trong 10 năm trở lại đây"5 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1982, tr.28).


Thuyết tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, từ những năm 1930 đến đầu những năm 1950, đóng vai trò tích cực trong việc củng cố Liên Xô, xây dựng và bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng thuyết tổng khủng hoảng của tư bản chủ nghĩa có tính phiến diện cực lớn và rõ ràng. Thứ nhất, nó coi nhẹ tính khúc khuỷu của sự phát triển của khủng hoảng chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất là mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này trong một điều kiện nhất định, tất yếu sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Nhưng khủng hoảng này không phát triển theo đường thẳng mà phát triển quanh co và theo hình sóng. Trong điều kiện nhất định, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản có thể được hóa giải, lực lượng sản xuất có thể phát triển. Thuyết tổng khùng hoảng một mực khẳng định khủng hoảng tư bản chủ nghĩa không ngừng sâu sắc và nghiêm trọng hơn, hiển nhiên không phù hợp với thực tế khách quan của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, nó chưa đánh giá đầy đủ về việc sự phát triển sâu sắc của cách mạng khoa học kỹ thuật sau chiến tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng và xu thế phát triển của toàn cầu hóa kinh tế. Thuyết tổng khủng hoảng chỉ nói đến mâu thuẫn và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thế giới, quên mất nó vẫn còn khả năng tự điều tiết và sức sống nhầt định. Thứ ba, thuyết tổng khủng hoảng đã coi nhẹ và sổ toẹt thời đại là một quá trình lịch sử vô cùng phức tạp không ngừng phát triển và thay đổi, không nhìn ra được sự thay đổi của đặc trung thời đại và tình hình quốc tế cũng như sự chuyển đổi của chủ đề thời đại, khư khư thuyết "không thể tránh khỏi chiến tranh", "hai thị trường thế giới song song", căn bản không xét tới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có quan hệ vừa đối lập vừa tương hỗ lẫn nhau, có quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau.


Thuyết tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa trong một thời gian dài là nền tảng lý luận trong chiến lược đối ngoại của Đảng Cộng sản Liên Xô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xây dựng phương châm chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng Cộng sản Liên Xô. Không những Quốc tế Cộng sản trong những năm 1930 dựa vào chỉ đạo của lý luận này, dẫn đến chiến lược, sách lược mang màu sắc "tả" khuynh, gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng cho phong trào cộng sản quốc tế; mà hơn nữa, lý luận này trở thành tư tưởng chỉ đạo trong chính sách đối ngoại của Liên Xô, ảnh hưởng trực tiếp đến sự đánh giá cơ bản đối với tình hình chiến lược quốc tế, đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đã đánh giá không đầy đủ về tình hình mới, xu thế mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, trên thực tế là loại bỏ Liên Xô ra khỏi dòng chảy toàn cầu hóa kinh tế  tạo nên cục diện bế quan tỏa cảng, tự mình cô lập với hệ thống kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế và nâng cao mức sống của người dân Liên Xô, và cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với các nước xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:40:28 am
3. "Thuyết thời đại mới" và mở rộng tranh bá

Khrushchev cho rằng, tiếp tục khái quát thời đại hiện nay thành thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản đã "không phù hợp với thực tế đương đại"1 (Tham khảo Ngô Lãnh Tây: 10 năm luận chiến, Nxb. Văn hiến Trung ương, 1999, tr.378), và đã đề ra "thuyết thời đại mới", cho rằng "thời đại của chúng ta với nội dung chủ yếu là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội kể từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập nhau, là thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ và hệ thống chủ nghĩa thực dân bị xóa bỏ, là thời đại mà ngày càng có nhiều người dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới", "trong thời đại ngày nay, nội dung chủ yếu và phương hướng chủ yếu quyết định sự phát triển của lịch sử xã hội loài người đã không còn là chủ nghĩa đế quốc, mà là hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới, là tất cả lực lượng tiến bộ chống chủ nghĩa đế quốc, tranh thủ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với xã hội", "vấn đề căn bản của thời đại ngày nay là tranh thủ giành lấy dân chủ, hòa bình và chủ nghĩa xã hội"1 (Tham khảo Luận bàn về đường lối phong trào cộng sản chủ nghĩa quốc tế, Nxb. Nhân dân, 1965, tr.537-541). Thực ra, "thuyết thời đại mới" này thực chất không hề xa rời luận điểm "chủ nghĩa đế quốc và thời đại cách mạng vô sản", chỉ có điều về mặt biểu đạt có phần hơi lủng củng. Nhưng Khrushchev đã lấy quan điểm thời đại này làm chỉ đạo, đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại thời Xtalin, đề ra lý luận "ba hòa", đó là "chung sống hòa bình", "cạnh tranh hòa bình", "quá độ hòa bình", cổ xúy cho việc trong thế giới ngày nay phải tranh thủ thực hiện thế giới "ba không" "không có vũ khí, không có quân đội, không có chiến tranh".


Việc đề ra lý luận "ba hòa", lúc đó tuy có một ý nghĩa tích cực nhất định, nhưng tồn tại những hạn chế và sai lầm nghiêm trọng, có tác dụng tiêu cực rất lớn: một là, mở rộng vô hạn phạm vi thích hợp của "chung sống hòa bình", trói buộc và hạn chế phong trào cách mạng các nước; hai là, đánh giá thấp mức độ gay gắt của mâu thuẫn và đối lập cơ bản của hai hệ thống lớn là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, có quá nhiều hoang tưởng không thực tế về các nước phương Tây; ba là, quá huênh hoang rằng chiến tranh là có thể tránh được, cho rằng chỉ cần thông qua cắt giảm quân sự toàn diện, triệt để là có thể ngăn chặn được chiến tranh, thực hiện thế giới "ba không".


Dưới sự che đậy của "ba hòa", "ba không", một mặt, Khrushchev cổ xúy hai nước Liên Xô và Mỹ đóng vai trò quyết định trong các công việc quốc tế, ý đồ thực hiện "Liên Xô, Mỹ hợp tác, chi phối thế giới"; mặt khác, lại có ý đồ mở rộng phạm vi thế lực của Liên Xô, tranh giành bá quyền thế giới với Mỹ. Cục diện Liên Xô và Mỹ tranh giành bá quyền bắt đầu từ thời Khrushchev lên cầm quyền. Khrushchev đã từng rêu rao rằng phải "chôn vùi chủ nghĩa tư bản", sau đó lại thừa nhận với nhà tư bản Mỹ "tôi không làm được điều này, chủ nghĩa tư bản quá lớn". Năm 1962, đầu tiên là bí mật vận chuyển tên lửa vào Cu Ba, sau đó, dưới áp lực của Mỹ đã lặng lẽ rút lui tên lửa, làm trò cười cho thế giới.


Nói tóm lại, lý luận "ba hòa" và "ba không" của Khruhchev đã có ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đối với lĩnh vực tư tưởng và chiến lược ngoại giao của Liên Xô, sau này trên thực tế trở thành nguồn gốc tư tưởng quan trọng của ngoại giao "tư duy mới" của Gorbachev.


Thời kỳ Brezhnev lên cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp tục cổ xúy "quan điểm thời đại mới", về mặt ngoại giao đưa ra một loạt các quan điểm sai lầm.

Một là, nhấn mạnh thuyết "tiến công" của chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thối nát, suy thoái, "thế giới tư bản chủ nghĩa đầy ắp nguy cơ, đã không còn sức lực để tranh đua chính diện với chủ nghĩa xã hội, sợi dây xích của chủ nghĩa đế quốc sắp bị tháo rời từng mắt xích một". Đồng thời, Đảng Cộng sản Liên Xô đánh giá quá cao sức mạnh của Liên Xô, cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã chiếm được ưu thế trên thế giới. Tháng 5 năm 1970, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô lúc đó, Grechko, phát biểu: "Trong 25 năm qua, thực lực kinh tế và thực lực chính trị của Liên Xô đã tăng lên gấp nhiều lần", "bây giờ không phải là chủ nghĩa đế quốc, mà là chủ nghĩa xã hội nắm quyền chủ động lịch sử, chủ nghĩa xã hội đang ở vào giai đoạn tiến công trong lịch sử"1 (Tham khảo Chủ nghĩa tư bản ở Liên Xô sống lại (1953-1973), Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1975, tr.479). Chính dưới sự chỉ đạo của các tư tưởng trên, Liên Xô bề ngoài nhấn mạnh "hòa hoãn", phải thực hiện "chung sống hòa bình" với phương Tây, trên thực tế là gia tăng mở rộng phạm vi thế lực, tranh giành bá quyền thế giới với Mỹ, đồng thời áp dụng tư thái tiến công áp sát từng bước.


Hai là, cổ xúy thuyết "tương quan lợi ích", nhúng tay sâu vào các công việc của thế giới thứ ba. Đảng Cộng sản Liên Xô tuyên bố tình hình ở bất cứ khu vực nào trên thế giới đều "chạm tới lợi ích của Liên Xô", không thể không quan tâm, bất cứ nơi nào trên thế giới, chỉ cần có liên quan tới lợi ích của Liên Xô thì Liên Xô sẽ nhúng tay vào. Trong báo cáo tại Đại hội lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô, Brezhnev tuyên bố: "Hiện nay, trong khi xây dựng chính sách đối ngoại của chúng ta, có lẽ không một tình hình nào ở một góc nào trên trái đất là không suy ngẫm bằng một phương thức nào đó"2 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.14). Chính dưới sự chỉ đạo tư tưởng này, Liên Xô tiến hành gia tăng thẩm thấu vào thế giới thứ ba, thông qua viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự, can dự và nhúng tay vào công việc của các khu vực trên. Những năm 70 của thế kỷ XX, Liên Xô phái những nhân viên quân sự vào nội chiến ở Ănggôla, chỉ huy Cuba vào Êtiôpia xung đột biên giới với Xômali, cuối cùng điều động 80.000 quân trực tiếp xâm nhập và chiếm Ápganixtan. Cho đến năm 1983, Liên Xô đã lập được 31 cơ sở hải quân, không quân ở khu vực thế giới thứ ba3 (Tham khảo Giang Lưu, Trần Chi Hoa: Suy ngẫm lịch sử diễn biến Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1994, tr.344; Trần Chi Hoa: Liên Xô thời kỳ Brezhnev, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998, tr.307). Tất cả những điều này đều là những điểm quan trọng để Liên Xô thực hiện chiến lược "mở rộng ra ngoài" của mình.


Ba là, đề ra thuyết "đại gia đình xã hội chủ nghĩa", nhằm khống chế các quốc gia Trung và Đông Âu. Liên Xô coi các quốc gia Trung và Đông Âu thuộc phạm vi thế lực của mình, đồng thời gia tăng khống chế, với mưu đồ lấy đây làm chỗ dựa, thực hiện chiến lược "mở rộng tranh bá", đưa ra "chủ nghĩa Brezhnev", trong đó vừa bao gồm thuyết "đại gia đình xã hội chủ nghĩa", vừa bao gồm thuyết "chủ quyền có hạn", thuyết "quy luật phổ biến", thuyết "chuyên chính quốc tế". Ví dụ báo Sự thật - tờ báo của Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó đăng bài nói: "Mỗi một Đảng Cộng sản không những chịu trách nhiệm về nhân dân của nước mình, mà còn phải chịu trách nhiệm với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, với toàn bộ phong trào cộng sản"; "chủ quyền của mỗi quốc gia xã hội chủ nghĩa không thể đối lập với lợi ích của thế giới xã hội chủ nghĩa, với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới"1 ("Chủ quyền của nước xã hội chủ nghĩa và nghĩa vụ của chủ nghĩa quốc tế", báo Sự thật, ngày 26 tháng 9 năm 1968). Điều này có nghĩa là, Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng "lợi ích của đại gia đình xã hội chủ nghĩa" là "chủ quyền tối cao", mà chủ quyền của một nước là có hạn. Lại ví dụ, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô lúc đó Mazurov nói, "sự phát triển của lịch sử" đề ra nhiệm vụ biến "chuyên chính của một nước" thành "chuyên chính quốc tế", "đấy là bản thân cuộc sống" đề ra "yêu cầu nhiệm vụ chung"2 (Báo cáo chúc mừng Cách mạng Tháng Mười Nga của Mazurov, ngày 6 tháng 11 năm 1968; tham khảo Hạ Ích Hiên: Lịch sử ngoại giao Trung Quốc - thời kỳ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nxb. Nhân dân Hà Nam, 1988, tr.363-364). Điều này có nghĩa là, ai đi ngược lại "quy luật phổ biến" mà Đảng Cộng sản Liên Xô đã xác định thì Liên Xô sẽ thực hiện "chuyên chính quốc tế" với người đó. Lại lấy ví dụ, tại Đại hội lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô, Brezhnev khi nhắc tới việc đưa quân sang Tiệp Khắc có nói: "Biên giới của đại gia đình xã hội chủ nghĩa là không thể phá hỏng và không thể bị lay chuyển"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.27-28). Điều này có nghĩa là, Liên Xô cho rằng các nước anh em thuộc vào bên trong biên giới của "đại gia đình xã hội chủ nghĩa", tự mình có quyền sử dụng vũ lực.


Trong thời kỳ Brezhnev, Đảng Cộng sản Liên Xô một mực thực hiện chiến lược mở rộng tranh bá, đến đâu cũng nhúng tay vào, mở rộng pham vi thế lực, gấp rút chạy đua vũ trang, tranh giành bá quyền thế giới với Mỹ. Những năm 1970, chi phí cho quân đội của Liên Xô liên tục gia tăng với biên độ lớn, năm 1971 là 74 tỷ USD, năm 1973 tăng đến 86 tỷ USD, năm 1975 lại tăng lên đến 102,3 tỷ USD. Thực lực kinh tế của Liên Xô kém xa Mỹ, nhưng tỷ trọng chi cho quân đội trong tổng sản phẩm quốc nội của Liên Xô lại rõ ràng cao hơn Mỹ, tỷ trọng này năm 1975 của Liên Xô là 9%, của Mỹ năm 1977 là 5,4%. Liên Xô ra sức tăng cường binh lực, từ 3.310.000 người năm 1965 tăng lên 4.270.000 người năm 1976, nhưng trong cùng thời kỳ đó, tổng binh lực của Mỹ từ 2.660.000 người giảm xuống còn 2.080.000 người, quân đội của Liên Xô nhiều hơn của Mỹ 2.000.000 người2 (Tham khảo Giang Lưu, Trần Chi Hoa: Suy ngẫm lịch sử diễn biến Liên Xô, Sđd, tr.342-343). Liên Xô làm như vậy đã lãng phí một lượng lớn tài nguyên, tổn thương nặng nề nguyên khí quốc gia, không những là gánh nặng về kinh tế, mà trên quốc tế còn rơi vào địa vị cô lập. Đồng thời, một loạt các cách làm sai lầm đã phá vỡ nghiêm trọng quan hệ bình thường giữa các đảng anh em và các nước anh em, giẫm đạp lên nguyên tắc chủ quyền quốc gia đã được quan hệ quốc tế công nhận, không những làm bại hoại danh dự của chủ nghĩa xã hội mà còn dẫn đến sự chia rẽ của phong trào cộng sản quốc tế và phe xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:44:08 am
4. "Tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại và Liên Xô "Tây hóa cả gói"

Do trong thời gian dài Liên Xô thực thi chiến lược đối ngoại tranh giành bá quyền với Mỹ, dưới ngọn cờ "xuất khẩu cách mạng" và "đánh trận quyết chiến với chủ nghĩa tư bản", tiến hành khuếch trương điên cuống ở khắp mọi nơi trên thế giới trong khi thực lực của nước mình lại không thế xoay xở trong thời gian dài/ tranh giành phạm vi thế lực, can thiệp vào nội chính nước khác, chạy đua vũ trang với Mỹ, đối lập đối kháng, gia tăng cục diện căng thẳng ở các nơi trên thế giới, dẫn đến sự bất mãn của đông đảo các nước thuộc thế giới thứ ba, làm cho Liên Xô ngày càng bị cô lập trên vũ đài quốc tế. Đồng thời, đối kháng và tranh bá trong một thời gian dài làm cho kinh tế Liên Xô rơi vào tình trạng chuẩn bị chiến tranh bán quân sự hóa, cơ cấu kinh tế biến dạng nghiêm trọng, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ mất cân đối, nông nghiệp đình trệ nghiêm trọng, sản xuất cung ứng hàng tiêu dùng không đủ, hạn chế việc nâng cao mức sống của người dân, kích thích sự bất mãn của đông đảo quần chúng. Trong tình thế trong ngoài chồng chất khó khăn, sau khi lên cầm quyền năm 1985, để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, Gorbachev đề ra phải "thực hiện tư duy chính trị mới". Tháng 11 năm 1987, Gorbachev cho ra đời cuốn sách Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, tập đầu cuốn sách chuyên nói về cải tổ trong nước, tập sau chuyên nói về tình hình quốc tế và tư duy mới trong quan hệ đối ngoại của Liên Xô. Sau này, trong rất nhiều bài viết của Gorbachev, trong các nghị quyết và các văn kiện được Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền Liên Xô thông qua, "tư duy mới" được miêu tả và phát huy thêm một bước, làm cho "tư duy mới" trở thành một lý luận có nội dung rộng rãi và hệ thống, cùng với lý luận "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" dung hòa làm một.


Sau khi Gorbachev lên cầm quyền, đề ra phải nhận thức lại từ đầu thời đại mà Liên Xô đang sống. Ngày 2 tháng 11 năm 1987, trong báo cáo tại Lễ kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Gorbachev nói: "Trái ngược với dự đoán ban đầu, đập tan 'mắt xích yếu nhất' của chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là 'cuộc chiến mang tính quyết định cuối cùng', mà là sự mở đầu của một quá trình lâu dài và phức tạp". Trước kia, nhận thức về tính chất thối nát, giãy chết của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản quá đơn giản, phải nhận ra rằng chủ nghĩa tư bản không "đình trệ tuyệt đối", "cuộc sống đã uốn nắn nhận thức của chúng ta về quy luật và tốc độ của quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thay đổi hiểu biết về vai trò của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới"1 (Tham khảo Gorbachev: "Cách mạng Tháng Mười Nga và cải cách: cách mạng đang tiếp tục", báo Sự thật, ngày 3-11-1987). Ông còn cho rằng, cách nói tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa không ngừng sâu sắc trước đây là không thỏa đáng, bởi vì "trong mỗi vòng xoáy lịch sử, thế lực của thế giới cũ đều có khả năng xóa bỏ mâu thuẫn nguy hiểm nhất lúc đó, kéo dài sự thống trị của mình"2 (Phát biểu của Gorbachev tại cuộc gặp gỡ các đại biểu của các Đảng và phong trào đến dự Lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, báo Sự thật, ngày 5-11-1987). Những quan điểm này có ý nghĩa tích cực nhất định đối với việc khắc phục tính phiến diện, tính hạn chế trong phương châm đối ngoại của Liên Xô và thay đổi chính sách mở rộng tranh bá. Nhưng lý luận "tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại của Gorbachev lại tổn tại nhiều sai lầm chết người.


Một là, Cổ xúy "thế giới đã bắt đầu bước vào đại hợp tác"1 (Gorbachev: "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội", [Liên Xô] Giai cấp công nhân và thế giới đương đại, kỳ 2 năm 1990), "nhân loại đã bước vào giai đoạn mọi người cùng dựa vào nhau"2 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.243, 177, 288). Trong mắt Gorbachev, đấu tranh giai cấp trong phạm vi quốc tế không còn nữa, mâu thuẫn giữa giành hòa bình và chủ nghĩa bá quyền không còn nữa, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không còn nữa, mâu thuẫn do các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cướp đoạt và áp bức thế giới thứ ba không còn nữa. Tóm lại, thái bình trong cộng đồng quốc tế, mọi mâu thuẫn và đấu tranh đều không còn nữa. Điều này hiển nhiên tự đưa mình vào sợi dây thòng lọng tự lừa gạt, hủy diệt mình.


Hai là, đề xướng "nhân đạo hóa" trong quan hệ quốc tế. Gorbachev nói: "Phải coi tiêu chuẩn luân lý đạo đức xã hội là nền tảng chính trị quốc tế làm cho quan hệ quốc tế nhân tính hóa, nhân đạo hóa". Ông lại nói: "Nguy cơ chiến tranh ngày càng nghiêm trọng. Lối thoát là ở chỗ nhân đạo hóa quan hệ quốc tế"3 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.243, 177, 288). Ông còn nói căn cứ của chính sách ngoại giao của Liên Xô là "phi ý thức hệ trong quan hệ giữa các quốc gia"4 (Gorbachev: Phát biểu ở Kiev, ngày 23 tháng 2 năm 1989; tham khảo Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm "cải tổ" của Liên Xô cũ, Sđd, tr.131). Thế nhưng, trong bối cảnh vũ đài quốc tế đầy ắp những mâu thuẫn, đấu tranh và xung đột thì quan hệ quốc tế có thể thực hiện "nhân đạo hóa" được sao? Trong bối cảnh các nước phương Tây ra sức thi hành chiến lược "diễn biến hòa bình" đẩy nhanh thẩm thấu ý thức hệ, quan hệ quốc tế còn có thể "phi ý thức hệ" được sao? Các nước xã hội chủ nghĩa làm như vậy, thì chỉ có thể lơ là cảnh giác, vứt bỏ vũ trang tư tưởng, vứt bỏ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, công nhận ý thức hệ của giai cấp tư sản phương Tây, thuận theo "diễn biến hòa bình" của phương Tây.


Ba là, tuyên bố rộng rãi thuyết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ngày càng có "cùng xu hướng". Gorbachev nói, phải "xóa bỏ tính đối kháng giữa hai hệ thống xã hội lớn hiện nay"; "trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa có tiến trình rất giống nhau về nội dung, bởi vì hai xã hội này cuối cùng phải phát triển lực lượng sản xuấy: hiện đại, phải có khoa học kỹ thuật tiến bộ"1 (Gorbachev: "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cải cách mang tính cách mạng", báo Sự thật, ngày 26 tháng 11 năm 1989; tham khảo Tập hợp các bài dịch về vấn đề Liên Xô, Đông Âu, kỳ 1 năm 1990, tr.25, 32). "Chủ nghĩa xã hội là một loại quá trình thế giới, nó không giới hạn trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều biểu hiện của nó trong các nước tư bản chủ nghĩa có nền công nghiệp phát triển. Những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội, ví dụ như chế độ công hữu, tính kế hoạch, an sinh xã hội, trong một mức độ và phạm vi nào đó trở thành bộ phận cấu thành quen thuộc trong đời sống xã hội phương Tây tiên tiến"2 (Gorbachev: "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội", Tlđd). Trong mắt Gorbachev, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ngày càng gần nhau, gần như đi cùng nhau, ngày mà chủ nghĩa tư bản tự nhiên biến thành chủ nghĩa xã hội không còn xa nữa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:45:31 am
Bốn là, cổ xúy "lợi ích toàn nhân loại cao hơn tất cả". Đây là cốt lõi của "tư duy mới". Không thể phủ nhận được rằng, có một số việc trên thế giới thuộc về phạm trù "lợi ích toàn nhân loại", ví dụ như ngăn chặn bùng nổ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường sinh thái, thậm chí là cấm hút thuốc phiện, phòng chống AIDS và chống khủng bố quốc tế cũng mang đặc điểm "lợi ích toàn nhân loại". Nhưng trong xã hội có giai cấp, rất nhiều sự việc mang dấu ấn giai cấp rõ ràng, mặc dù là "lợi ích toàn nhân loại", các giai cấp khác nhau có lập trường và thái độ khác nhau, thậm chí ranh giới rõ ràng, quyết không hòa đồng. Đồng thời, các quốc gia và dân tộc khác nhau còn có lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc khác nhau. Thế nhưng Gorbachev nhấn mạnh "lợi ích toàn nhân loại", mục đích chủ yếu là để đi ngược lại hoặc vứt bỏ học thuyết đấu tranh giai cấp và phương pháp cơ bản phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác. Ông chủ trương tất cả đều phải tuân theo "lợi ích toàn nhân loại", xóa bỏ hoàn toàn "lợi ích giai cấp" và "lợi ích quốc gia". Trong mắt ông, lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp không còn nữa, lợi ích của giai cấp vô sản bị xóa bỏ, phương hướng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa không cần nữa, lợi ích của quốc gia khác nhau cũng vứt bỏ.


Gorbachev đề ra "tư duy mới", về cơ bản thay đổi tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Liên Xô, mở đường cho Liên Xô lùi bước, thỏa hiệp với phương Tây. Ai cũng biết, các nước phương Tây luôn luôn kiên trì lợi ích giai cấp và lợi ích quốc gia của họ. Nguyên Tổng thống Mỹ Nixon nói: Cạnh tranh là cốt lõi trong quan hệ Mỹ - Xô; cái mà chúng ta ưu tiên bảo vệ nhất là lợi ích thiết thân của chúng ta; để bảo vệ lợi ích thiết thân của chúng ta, chúng ta phải không hề do dự điều động bộ binh hải quân1 (Tham khảo [Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Nxb. Thế giới tri thức, 1997, tr.105-106). Các nước phương Tây cũng quyết tâm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", mưu đồ lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Tổng thống Mỹ lúc đó là Reagan nhấn mạnh phải thông qua "truyền bá tư tưởng và thông tin" để ảnh hưởng tới nhân dân Liên Xô. Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tân Tổng thống Mỹ Bush phát biểu tại Texas, đề ra thêm chiến lược "vượt trên ngăn chặn" nhấn mạnh "phương Tây phải cổ vũ Liên Xô diễn tiến theo xã hội mở cửa", đồng thời yêu cầu Liên Xô "hợp tác với phương Tây"1 (Hứa Chinh Phàm: Kho tàng lý luận xã hội chủ nghĩa, Nxb. Bắc Kinh, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1998, quyển hạ, tr.958). Đứng trước tình hình này, để tránh chiến tranh hạt nhân, vì cái gọi là "lợi ích toàn nhân loại", vì mưu cầu hợp tác quốc tế Gorbachev bèn vứt bỏ đấu tranh và đối kháng, đi theo con đường hy sinh lợi ích của chủ nghĩa xã hội thế giới và lợi ích của nước Liên Xô để hòa hợp với Mỹ. Sau này, Gorbachev hoàn toàn nhượng bộ và khuất phục, đặc biệt là dẫn dắt Đông Âu thay đổi mạnh mẽ, đưa các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đi theo phương Tây, để mặc cho Tây Đức "nuốt chửng" Đông Đức, từ đó làm cho Liên Xô mất đi rất nhiều đồng minh, mất đi không gian chiến lược và vùng đệm rộng rãi. Tất cả những việc mà Gorbachev đã làm phù hợp với lợi ích của phương Tây, do đó nhận được sự khen ngợi rộng rãi của phương Tây. Bà Thatcher, Thủ tướng Anh lúc đó, nói ít nhiều cũng có lý là, Đông Âu có biến đổi mạnh mẽ thì phải "cảm ơn Gorbachev": "Vì thay đổi mang ý nghĩa lịch sử lan rộng cả châu Âu, Gorbachev đáng lẽ ra phải nhận được sự khen ngợi đặc biệt"2 (Hãng tin AFP: Điện từ Luân Đôn, ngày 1 tháng 1 năm 1990). Tổng thống Mỹ Bush khen ngợi Gorbachev: "Nếu nói về việc ông xử lý hoặc cổ vũ biến đổi hòa bình của Đông Âu như thế nào, chúng tôi đương nhiên là khen ngợi"; "tôi cho rằng, kết quả của các công việc mà ông đã làm là Đông Âu biến đổi hòa bình, sự biến đổi này bất kỳ ai trong chúng ta đều không thể dự đoán trước được"3 (Nhật báo Phố Wall (Mỹ), ngày 2 tháng 2 năm 1990). Không khó để nhận ra rằng, đánh giá của các chính trị gia phương Tây đối với người phản bội lại chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội Gorbachev là rất tỉnh táo.


Gorbachev đề ra "tư duy mới", xu hướng giá trị công nhận phương Tây, tự nhiên cũng sẽ dẫn đến cải cách trong nước, tạo cơ hội tốt cho phương Tây thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô. Do Gorbachev đưa "tư duy mới" từ quan hệ đối ngoại nhanh chóng chuyển hướng sang cải tổ trong nước, cải tổ của Liên Xô ngày càng lấy mô hình của phương Tây làm phương hướng. Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương rập khuôn phương Tây, về chính trị thực hiện "chính trị dân chủ" theo kiểu phương Tầy, về kinh tế  thực hiện "kinh tế  thị trường tự do" theo kiểu phương Tây, về ý thức hệ lại công nhận giá trị quan của phương Tây. Cũng có nghĩa là, phải thay đổi căn bản chế độ xã hội của Liên Xô, du nhập toàn diện mô hình phương Tây, tức là phải "Tây hóa cả gói" Liên Xô.


Nói tóm lại, quán triệt trên tất cả các lĩnh vực nội chính, ngoại giao theo "tư duy mới" của Gorbachev, Liên Xô đã mất đi năng lực phát triển chủ quyền quốc gia, đồng thời nhanh chóng đi đến sụp đổ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:47:42 am
Chương III
CÔNG TÁC Ý THỨC HỆ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Đảng Cộng sản lấy lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, mà lý luận cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cần thông qua công tác ý thức hệ của Đảng để quán triệt và thể hiện tới toàn Đảng và toàn xã hội. Công tác ý thức hệ là sợi dây cáp và nhịp cầu nối liền tư tưởng lý luận của Đảng Cộng sản với các công tác khác, thậm chí với đông đảo quần chúng, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự thành bại, được mất của sự nghiệp cách mạng, vì thế đó là một việc lớn được toàn Đảng coi trọng cao độ. Công tác ý thức hệ có nội dung rộng, thông thường liên quan tới nhiều lĩnh vực như nghiên cứu lý luận, văn hóa nghệ thuật, tuyên truyền cổ động, giáo dục tư tưởng và truyền thông đại chúng... Công tác ý thức hệ có tính giai cấp rõ rệt, vì vậy quyền lãnh đạo cần phải được nắm trong tay những nhà mácxít trung thành; đồng thời tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng một đội ngũ chuyên làm công tác ý thức hệ, kiên trì tính Đảng, ngọn cờ rõ ràng, dám đấu tranh trước những vấn đề đúng sai lớn; kiên trì bám chắc trận địa tư tưởng, chiếm lĩnh một loạt cơ quan nghiên cứu và công cụ truyền thông như báo chí, xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng internet..., lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, nắm chắc định hướng dư luận đúng đắn; đồng thời cố gắng hoàn thiện phương thức, phương pháp của công tác ý thức hệ, khiến cho công tác giáo dục tư tưởng đi sâu vào lòng người, bám sát đông đảo quần chúng, tạo ra sức tập hợp lớn mạnh.


Hơn 70 năm cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô vừa sáng tạo ra nhiều kinh nghiệm, vừa phạm phải không ít sai lầm về mặt công tác ý thức hệ. Đặc biệt là thời kỳ Gorbachev nắm quyền, lý luận cơ bản và công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm phải sai lầm về tính phương hướng, từ chủ nghĩa giáo điều diễn biến thành đa nguyên hóa, tự do hóa, "Tây hóa" ý thức hệ, đi ngược lại, thậm chí, phản bội lại nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, gây mất niềm tin trong và ngoài Đảng, tư tưởng chia rẽ, rơi vào hỗn loạn, cuối cùng dẫn tới chỗ Đảng Cộng sản Liên Xô bại vong và Liên Xô tan rã. Nghiên cứu và tổng kết những kinh nghiệm và bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt công tác ý thức hệ sẽ giúp chúng ta nhận rõ những nhân tố tư tưởng và tinh thần dẫn tới Đảng Cộng sản Liên Xô bại vong, là việc làm có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa hiện thực sâu sắc.


I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN

Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác - Ăngghen chỉ ra: "Trong mỗi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị đều là tư tưởng chiếm địa vị thống trị"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.3, tr.52). Là thế giới quan và hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác tất yếu trở thành tư tưởng chỉ đạo của toàn xã hội tại các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng Cộng sản cần phải kiên trì công tác ý thức hệ, nắm chắc quyền chủ đạo của công tác ý thức hệ, kiên trì địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực ý thức hệ, nắm bắt chính xác định hướng dư luận, tích cực dẫn dắt nhân dân toàn quốc tiếp nhận và tin theo chủ nghĩa Mác. Vấn đề tổ chức lãnh đạo và vấn đề định hướng dư luận là hai vấn đề lớn hết sức quan trọng trong công tác ý thức hệ.


1. Vấn đề tổ chức lãnh đạo

Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Lênin hết sức coi trọng vấn đề quyền lãnh đạo của chính đảng vô sản trong lĩnh vực ý thức hệ. Lúc đó, một nhiệm vụ quan trọng mà chính đảng vô sản Nga gặp phải chính là làm cho thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác từ trong Đảng mở rộng ra ngoài Đảng, từ giai cấp vô sản phát triển sang các giai cấp lao động khác, được toàn thể nhân dân nắm bắt. Ở một nước Nga kinh tế văn hóa lạc hậu, muốn làm cho mọi người ở các giai cấp khác nhau, tầng lớp khác nhau phổ biến tiếp nhận thế giới quan mácxít, rõ ràng là một nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Lênin hết sức nhấn mạnh tính Đảng và tính giai cấp của công tác ý thức hệ, ông cho rằng, ý đồ "... phải đứng lên trên cả hai 'cực' là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật này"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.27) là không thể đứng vững. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, chính quyền Xôviết đã triển khai cuộc đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn học nghệ thuật và văn hóa giáo dục, đặt cơ sở vững chắc cho việc xác lập địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực ý thức hệ, bảo đảm phương hướng xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp văn hóa. Trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Đảng Bônsêvích do Lênin lãnh đạo kiên quyết từ bỏ luận điểm sai lầm cho rằng nhà nước không thể can thiệp vào văn hóa, đã xây dựng toàn diện sự lãnh đạo đối với lĩnh vực văn hóa tư tưởng, đồng thời cũng tăng cường đầu tư cho sự nghiệp văn hóa giáo dục.


Sau khi Lênin qua đời, Xtalin hết sức coi trọng vũ trang lý luận và triển khai đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng. Đảng Cộng sản Liên Xô tích cực tận dụng nắm bắt những điều kiện thuận lợi của chính quyền nhà nước, thu thập rộng rãi ở trong và ngoài nước, chỉnh lý và xuất bản các tác phẩm của Mác - Ăngghen, Lênin. Đã lần lượt thành lập các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Ăngghen, Lênin và Học viện Giáo sư Đỏ, đã xuất bản, phát hành các tạp chí và sách truyền bá về chủ nghĩa Mác - Lênin, triển khai phong trào tuyên truyền giáo dục về chủ nghĩa xã hội. Công tác của thời kỳ này đã có tác dụng to lớn đối với việc truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng với việc thúc đẩy công tác chính trị tư tưởng, Xtalin từng bước đã xác lập địa vị quyền uy lý luận không thể hoài nghi của mình ở trong và ngoài Đảng. Đồng thời, nhà nước và xã hội cũng hình thành một thể chế công tác ý thức hệ với ngọn cờ rõ ràng, giàu sức sống. Các học giả Nga ngày nay bình luận rằng, xã hội Liên Xô khi đó, "về mặt lý luận tư tưởng, về lĩnh vực ý thức xã hội có thể dùng một từ để hình dung - 'một cục sắt'. Mọi người tin tưởng vào công bằng xã hội, tin tưởng vào tương lai của mình và tương lai của đất nước. Xét vào lúc đó, đừng nói là tiêu diệt một xã hội như vậy, thậm chí ngay cả lay chuyển nó cũng tuyệt đối không thể được"1 ([Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2003, tr.76).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:48:42 am
Kể từ những năm 30 của thế kỷ XX, trong tình hình trong nước và quốc tế nghiêm trọng, đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ và đấu tranh chính trị, quân sự trong và ngoài nước gắn chặt với nhau, vì vậy cũng đã xuất hiện tình trạng đấu tranh tư tưởng "mở rộng, chính trị hóa, hình thức hóa". Trong thời kỳ này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã có sự thay đổi rõ rệt về mặt tổ chức lãnh đạo công tác ý thức hệ, khuynh hướng nôn nóng thành công và mở rộng đấu tranh ngày một rõ rệt. Đến Đại hội XIX Đảng Cộng sản Liên Xô họp năm 1952 đã không còn nhắc tới đấu tranh trong Đảng nữa. Luận cứ khi đó là, đội ngũ cơ bản của Đảng đã đổi mới mạnh mẽ. Thế nhưng tình hình thực tế thì lại là, tuy đội ngũ tổ chức của Đảng khi đó có một số thay đổi nhưng đa số cán bộ thiếu sự rèn luyện về mặt chính trị tư tưởng. Cùng với việc các nhà cách mạng vô sản tiền bối lần lượt qua đời, Ban lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đa số đến từ các cơ quan kinh tế và tổ chức, nhận thức đối với chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức hạn chế tu dưỡng lý luận quả thực không cao1 (Năm 1948, Zhdanov phụ trách công tác ý thức hệ đột ngột qua đời, còn tình hình sức khỏe của Xtalin xấu đi nghiêm trọng. Cuộc đấu tranh tranh giành quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng gay gắt hơn. Lúc đó, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô có ba nhóm quan trọng: Một là, nhóm được cấu thành bởi các nhà kinh tế học và cán bộ quản lý với lãnh tụ tính thần là Zhdanov, các thành viên chủ yếu bao gồm Voznesensky đã từng lãnh đạo Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bí thư Trung ương Kuznetsov; hai là, nhóm được cấu thành bởi các quan chức trong Đảng, đứng đầu là Malenkov, Khrushchev; ba là, nhóm được cấu thành bởi các cán bộ trong ngành quốc phòng và an ninh, đứng đầu là Beria. Xtalin coi nhóm đầu tiên là người kế thừa của mình. Thế nhưng, Malenkov, Khrushchev lại thông qua tạo ra "vụ án Lêningrát", bắt và xử tử các thành viên chủ chốt của nhóm thứ nhất vào năm 1949. Sau năm 1951 lại dần dần thông qua các vụ việc như "vụ án sinh viên ngành y" để thay thế các cán bộ trong ngành an ninh. Tháng 6 năm 1953, Beria bị bắt với tội danh "gián điệp của Anh", và bị tử hình vào tháng 12. Tham khảo [Nga] V. A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.80, 86-98). Trước và sau những năm 60 của thế kỷ XX, tình trạng trình độ tổ chức lãnh đạo ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô giảm sút ngày một rõ rệt2 (Tham khảo Lý Hưng Canh (biên soạn): Bài học từ vết xe trước: Tổng thuật các loại quan điểm của nước Nga về vấn đề sự kiện Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2003, tr.97).


Sau khi Xtalin qua đời, trong Đảng Cộng sản Liên Xô từng có một thời gian hình thành truyền thống Bí thư thứ hai phụ trách công tác ý thức hệ. Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuyên nhấn mạnh, công tác ý thức hệ là sự nghiệp của toàn Đảng, tuy vấn đề kinh tế, vấn đề tổ chức cũng như những vấn đề khác hết sức quan trọng, nhưng công tác ý thức hệ cần được đặt lên vị trí hàng đầu1 (Tham khảo Tuyển tập văn kiện Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (ngày 14 - 15-6-1983), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1983). Thế nhưng, tình hình thực tế trong một thời gian dài của mặt trận tuyên truyền tư tưởng thì lại là: cán bộ lãnh đạo lời nói không đi đôi với việc làm; lý luận trừu tượng, né tránh những vấn đề hiện thực sinh động; tuyên truyền trống rỗng, vô vị khiến cho đông đảo quần chúng cảm thấy chán ngán; nghiên cứu của các nhà mácxít thực thụ bị hạn chế nghiêm trọng; ý thức hệ nhà nước ẩn chứa sự dọa dẫm hoặc cưỡng ép đã chèn ép một bộ phận trí thức thực sự lương thiện và biết suy nghĩ; xử lý đơn giản hóa kiểu mệnh lệnh hành chính trong công tác giáo dục tư tưởng khiến cho bề ngoài ai cũng nói một kiểu, thống nhất cao độ về chủ nghĩa Mác - Lênin, trên thực tế thì không giải quyết căn bản được vấn đề. Trong thời gian gần 40 năm, Ban lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô đánh mất truyền thống của thời kỳ Lênin, Xtalin, tư tưởng trì trệ không tiến lên được, làm việc thì bằng lòng với hiện trạng, không biết độc lập suy nghĩ và hoạch định chiến lược, thường thoả mãn với những lời sáo rỗng kiểu ru ngủ và những lời quan cách câu nào cũng giống câu nào do Ban cố vẵn, chuyên gia và các trợ thủ viết2 (Tham khảo Lý Hưng Canh (biên soạn): Bài học từ vết xe trước: Tổng thuật các loại quan điểm của nước Nga về vấn đề sự kiện Liên Xô, Sđd, tr.97-100). Năm 1983, sau khi đi khảo sát thăm mấy nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Nixon đã rút ra kết luận thế này: "Những người cộng sản đã mất niềm tin, một thế hệ các nhà lãnh đạo mới nổi lên không phải là những nhà tư tưởng mà là những người hoạt động thực tiễn"1 (Chuyển dẫn từ Lý Thận Minh: Chiến tranh, hòa bình và chủ nghĩa xã hội, Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2000, tr.289).


Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ sau này đã xuất hiện không ít sai lầm về cơ chế và phương thức, phương pháp tổ chức và lãnh đạo công tác ý thức hệ, nhưng sai lầm mấu chốt vẫn là ở Ban lãnh đạo: người lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô thiếu tu dưỡng lý luận nghiêm trọng, lý tưởng niềm tin chủ nghĩa cộng sản dao động, họ trước tiên đánh mất tư duy lý luận và năng lực sáng tạo, về sau lại đem quyền lãnh đạo công tác ý thức hệ hai tay dâng cho những kẻ phản bội lại Đảng Cộng sản Liên Xô.


Thời kỳ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô từ thái cực này chuyển sang thái cực khác. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, trong đó có Gorbachev, đã từ bỏ lý tưởng cộng sản, phản bội lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó gây ảnh hưởng rất lớn đối với phương hướng và nội dung của công tác ý thức hệ. Gorbachev từng phỉ báng "chủ nghĩa cộng sản" là "cấp tiến", "tư tưởng chuyên chế cách mạng, chủ nghĩa bình quân hoàn toàn tuyệt đối". Ông ta công kích chủ nghĩa Lênin là "tư tưởng đã chết đi vào những năm cuối đời của Mác", bị đưa vào Nga là một sai lầm. Ông ta điên cuồng phản đối lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội Liên Xô của Xtalin, nói: "Ngay từ thời học sinh, tôi đã phát hiện ra rằng, hiện thực và lý tưởng chủ nghĩa xã hội cách xa nhau một vạn tám ngàn dặm"; "bản chất tinh thần của phong trào cải tổ do ông ta phát động chính là lật đổ hoàn toàn chủ nghĩa Xtalin"2 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2005, tr.384, 116). Tháng 6 năm 1988, tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev nêu ra: "Chúng tôi khẳng định đa nguyên hóa dư luận, từ bỏ cách làm lũng đoạn tinh thần"1 (Gorbachev: "Bài phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô", Báo Sự thật, ngày 1 tháng 7 năm 1988). Ông ta còn nói, cần phải phế bỏ "chủ nghĩa chuyên chế ý thức hệ", "lũng đoạn tinh thần" trước đây, khiến cho các luồng tư tưởng và ý kiến ngoài chủ nghĩa Mác tự do tồn tại và truyền bá.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:49:52 am
Để thực hiện ý đồ của mình, Gorbachev đề bạt và trọng dụng Yakovlev - người có khuynh hướng phản bội rõ rệt, để ông ta thay thế Ligachev phụ trách công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Theo nguyên lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev nhớ lại: "Ngay từ tháng 7 năm 1985, Gorbachev đã từng đề nghị Yakovlev làm ứng cử viên chức Trưởng ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, mấy tháng sau Yakovlev được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và bắt đầu nghiên cứu vấn đề ý thức hệ. Tôi vốn là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách giám sát quản lý vấn đề ý thức hệ, nhưng rất nhanh đã xác định một kiểu phân công nội bộ: Tôi phụ trách vấn đề văn hóa, khoa học và giáo dục quốc dân, còn Yakovlev chủ yếu nắm công tác truyền thông đại chúng. Điểm đặc biệt chủ yếu của cách phân chia trách nhiệm này là ở chỗ: Để Yakovlev danh chính ngôn thuận lãnh đạo những hành động thay đổi chủ biên các báo chí. Còn nhớ, lúc đó khi bàn tới vấn đề tính cần thiết của việc đổi mới cán bộ biên tập, tôi từng đùa, nhắc tới câu nói của Lênin: Mọi người đều biết ông ấy từng nói, khởi nghĩa cách mạng được bắt đầu từ giành lấy Cục bưu điện và điện báo. Chà! Câu nói đùa của tôi về sau đã trở thành sự thật đau khổ: Tôi tin rằng bọn họ quả thực muốn giành lấy truyền thông đại chúng. Nguyên nhân là ở chỗ, Yakovlev luôn lãnh đạo Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (giữ chức quyền Trưởng ban này) từ năm 1967 đến 1972, rất hiểu tình hình cán bộ ý thức hệ. Trong mấy tháng đó, tôi làm sao có thể dự đoán được, để phát huy vai trò hết sức đặc biệt trong các sự kiện sắp tới, Yakovlev trên thực tế đang thành lập 'tổ chức cấp tiến' truyền thông đại chúng của mình cơ chứ?"1 (Tham khảo V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới lần thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.210).


Là tâm phúc của Gorbachev, bản thân Ủy viên Bộ Chính trị Yakovlev chính là người phản bội lại chủ nghĩa Mác, là người tiên phong cấp tiến, cực lực phản đối và tẩy chay chủ nghĩa Mác, thù hận Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Bônsêvích. Ngay từ tháng 12 năm 1985, Yakovlev đã khuyên Gorbachev rằng: "Với thực tiễn của nước ta, chủ nghĩa Mác không phải là cái gì khác, mà là một kiểu tôn giáo mới, nó khuất phục theo lợi ích của chính quyền chuyên chế và yêu cầu mang tính tùy tiện của nó". "Những trình bày giáo điều của chủ nghĩa Mác - Lênin nguy hiểm ở chỗ đã đủ khiến cho bất kỳ tư duy sáng tạo nào, thậm chí cả tư duy kinh điển, đều bị huỷ diệt hết thảy"2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Nxb. Tân Hoa, 1999, tr.28). Ngày 2 tháng 8 năm 1991, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên hãng TASS, Yakovlev công khai nói, "Bất hạnh của chúng tôi bắt nguồn từ sự giáo điều của chủ nghĩa Mác", "Tôi phản đối coi chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam hành động, chắc chắn rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại"3 (Hãng TASS, điện Mátxcơva ngày 2 tháng 8 năm 1991). Ngày 3 tháng 10 cùng năm, ông ta đã dỡ bỏ lớp ngụy trang, lộ ra bộ mặt thật của mình, ngang nhiên nói, "Chủ nghĩa Mác cuối cùng khiến chúng ta rơi vào diệt vong, lạc hậu và mất đi lương tâm"; chủ nghĩa cộng sản "trong gien của nó hàm chứa cả những tội ác nguyên thủy"1 (Hãng TASS, điện Mátxcơva ngày 3 tháng 10 năm 1991). Song song với việc công kích cay độc chủ nghĩa Mác, Yakovlev lại ca ngợi không ngớt lời, cúi gập người trước chủ nghĩa tư bản. Ông ta nói: "Chủ nghĩa tư bản đã đem lại luân lý của chủ nghĩa thực dụng. Trong khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của chủ nghĩa tư bản đã thể hiện chủ nghĩa lý tưởng cao cả..."2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.33, 39, 175-176).


Một phần tử biến thái như vậy của Đảng Cộng sản Liên Xô đã được trao trọng trách, nắm giữ đại quyền lãnh đạo ý thức hệ vào thời điểm then chốt Đảng Cộng sản Liên Xô thúc đẩy cải tổ. Một khi thời cơ tới, bộ mặt hung ác tất lộ, lập trường chính trị và tư tưởng của ông ta quay ngoắt 180°. Là lãnh đạo tối cao phụ trách công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta thừa thế quay lại giáng cho một đòn, từ nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, áp dụng chiến thuật vu hồi, đánh cho Đảng Cộng sản Liên Xô một đòn chí mạng. Yakovlev về sau thừa nhận rằng, ngay từ đầu ông ta đã không tin cách nói "hoàn thiện toàn diện chủ nghĩa xã hội" của Gorbachev, cho rằng đó là một kiểu "ảo tưởng", chỉ có thể hoàn toàn đánh tan, triệt để đánh sụp nền chuyên chính quan liêu. Mà muốn đánh đổ hoàn toàn chế độ Liên Xô, chỉ có thế dựa vào "chơi trò thủ đoạn chính trị mang tính đầu cơ", bởi vì cơ quan quyền lực của Liên Xô lấy bạo lực làm nền tảng, hết sức mạnh, hơn nữa thẩm thấu rộng rãi, muốn đánh đổ những cơ quan này từ chính diện là điều không tưởng. Biện pháp tấn công chỉ có thể áp dụng chiến thuật vu hồi, linh hoạt cơ trí và lợi dụng biện pháp đã qua được nhiều thử thách là "lời nói không đi đối với việc làm" từ ý nghĩa chính diện3 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.33, 39, 175-176).


Để làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô về tư tưởng, đạt tới mục đích đánh đổ Đảng Cộng sản Liên Xô, Yakovlev hoặc là đưa ra kế sách, hoặc thông qua các con đường như trình báo cáo, bài viết, diễn giảng..., lợi dụng mọi cơ hội để tuyên truyền chủ trương của mình. Ông ta đã lợi dụng thành công nhược điểm ý chí yếu ớt, lúc thế này lúc thế kia của Gorbachev, khống chế đầu óc của ông ta, lợi dụng cái miệng và quyền lực của ông ta, từ đó đạt tới mục đích chính trị của mình. Do công tác lâu năm trong cơ quan tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô, Yakovlev am hiểu sâu sắc những kỹ xảo đấu tranh tư tưởng và triển khai công trình làm tan rã nội bộ. Ông ta viết, trong điều kiện lúc bây giờ, để quét sạch hoàn toàn chủ nghĩa Bônsêvích, đánh tan các cơ quan của Liên Xô, không thể áp dụng phương thức tiến công trực diện... Muốn tránh thất bại, thì cần chú ý đến sách lược, im lặng không nói trước một số việc, một số vấn đề thì cần đi đường vòng, như thế mới có thể đạt được mục đích. Yakovlev một mặt lợi dụng thân phận "tâm phúc và thân tín" của Gorbachev, trực tiếp hiến kế hoặc áp dụng sách lược vu hồi thích hợp; mặt khác thì nhờ vào cơ hội phụ trách ý thức hệ và tuyên truyền trong thời gian dài, giăng lưới một loạt lãnh đạo báo chí và công cụ dư luận của Đảng Cộng sản Liên Xô đã biến chất, buông lỏng và định hướng dư luận một cách có ý thức. Trong thời gian từ năm 1986 đến 1988, một loạt cơ quan báo chí có ảnh hưởng của Liên Xô lần lượt bị "người mới" tiếp quản, như báo Tin tức, họa báo Ngọn lửa nhỏ, Tin tức Mátxcơva, báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, tuần báo Luận cứ và sự thực, báo Sự thật Mátxcơva, báo Đoàn viên thanh niên cộng sản Mátxcơva, tạp chí Thanh xuân, tạp chí Thế giới mới... Ban biên tập của các cơ quan báo chí như báo Sự thật, tạp chí Người cộng sản, báo Kinh tế cũng bị điều chỉnh lớn. Trong đó, Kosolapov - chủ biên của tạp chí Người cộng sản, ấn phẩm lý luận quan trọng nhất của cơ quan Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị tước bỏ chức vụ, điều tới giảng dạy tại Đại học Mátxcơva. Còn Frolov - người được Gorbachev đích thân lựa chọn, bạn thân cùng phòng của phu nhân ông ta, Raisa - thì lần lượt được bổ nhiệm làm chủ biên tạp chí Người cộng sản và báo Sự thật1 (Tham khảo [Nga] Gorbachev: Chân tướng và tự bạch - Hồi ký Gorbachev, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2002, tr.154-155). Với sự cho phép và ủng hộ của Yakovlev, từ năm 1987 đến trước khi Liên Xô giải thể năm 1991, chính những tờ báo có khả năng và châm ngòi cho báo chí chủ lưu có tính toàn Liên Xô đã trở thành tiên phong cấp tiến của phong trào "công khai", đúng là thổi gió châm lửa, chao đảo dư luận của những tờ báo, tạp chí chủ lun có tính toàn Liên Xô này, trở thành tiên phong cấp tiến của phong trào "công khai". Năm 2000, Yakovlev công khai thừa nhận trong cuốn Vòng xoáy ký ức rằng, ông ta chủ động gánh vác trách nhiệm bảo vệ một số tác giả bài viết sắc sảo, "đã bảo vệ một số người, dung túng một số người"2 (Tham khảo [Nga] A.N.Yakovlev: Vòng xoáy ký ức, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2000, tr.256). Như vậy, với sự ủng hộ của Gorbachev, Yakovlev muốn gì được nấy, làm rối loạn toàn Đảng về tư tưởng từ nội bộ. Đối với "công trạng" làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô từ bên trong của Yakovlev, ngay cả A. Chernyaev vốn luôn vì lấy lòng mà cãi nhau với ông trước mặt Gorbachev cũng không hề giấu giếm: "Mặc dù vậy, tôi vẫn không muốn phủ định vai trò tiến bộ to lớn của ông ta trong việc đập tan những lời dối trá và giáo điều của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Xtalin đã thống trị chúng tôi mấy chục năm qua"3 (Chernyaev: Sáu năm ở bên cạnh Gorbachev, Nxb. Tri thức thế giới, 2001, tr.226).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Hai, 2022, 07:50:29 am
Năm 1988, Gorbachev lại tiến hành một đợt "cải tổ chính trị", để Bí thư Trung ương "bảo thủ" Ligachev phụ trách nông nghiệp, để Bí thư Trung ương "cấp tiến" Yakovlev phụ trách vấn đề quốc tế, lại bổ nhiệm một Bí thư Trung ương "trung dung" khác là W.A.Medvedev phụ trách công tác ý thức hệ. Nhà lãnh đạo phụ trách công tác ý thức hệ cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô, Medvedev, trên thực tế tài năng bình thường, có sự kế thừa thống nhất với Gorbachev, Yakovlev về mặt tư tưởng chính trị1 (Lúc đó, những người trong đó có Gorbachev không thể nói không coi trọng công tác "ý thức hệ". Ngược lại, họ coi những trí thức làm việc trong lĩnh vực tin tức báo chí, sáng tác văn học, nghiên cứu khoa học xã hội là những tiên phong của phong trào "công khai". Không những Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuyên tổ chức các hội nghị của các nhà lãnh đạo giới báo chí và văn nghệ, Gorbachev, Yakovlev, Medvedev... còn thường xuyên tham gia các cuộc gặp gỡ báo chí, họp báo, cố gắng tiếp xúc với trí thức, thanh niên. Tham khảo A.S. Barsebkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2002, tr.72, 84, 85). Lúc đó, dưới sự khuấy động của "công khai", "dân chủ hóa" và "đổi mới tư duy", xã hội Liên Xô u ám, đầy mây đen và chướng khí, liên tục xuất hiện những phát ngôn và bài viết chửi rủa Đảng Cộng sản Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, phỉ báng lịch sử, phủ định chủ nghĩa xã hội, thậm chí đây đó xuất hiện tiếng nói công khai kêu gọi lật đổ chuyên chính của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Liên Xô về tư tưởng đã mất đi sức chiến đấu cần có, đã đánh mất trận địa dư luận tư tưởng, thế lớn đã qua, khó có thể ứng phó nổi. Bản thân Medvedev thừa nhận, lúc đó mặc cho ông ta hô hào thế nào, một số nhà xuất bản và tạp chí vẫn làm theo ý mình, công khai phát hành những "sách cấm" của các nhà văn, trong đó có cả Solzhenitsyn2 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1998, tr.275). Năm 1989, Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Medvedev lãnh đạo đã thành lập cái gọi là "Tiểu ban phản ứng nhanh" nhằm ứng phó với một số vấn đề bộc lộ trong dư luận, bao gồm cả việc bóp méo lịch sử, thế nhưng sự việc không được như mong muốn, không hề có hiệu quả. Medvedev nói, năm 1989, với tư cách là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta từng chỉ thị cho lãnh đạo của Viện Nghiên cứu Mác - Lênin tiến hành sàng lọc đối với một số sự thực trong cuốn sách Quần đảo Gulag của Solzhenitsyn sắp sửa phát hành, nhằm để cho độc giả phân biệt rõ đúng sai, nhưng mặc dù ông ta nhiều lần đốc thúc, cũng không nhận được sự hưởng ứng của các chuyên gia, kết quả là việc này cũng không đi đến đâu cả1 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, Sđd, tr. 304, 254).


Từ năm 1990 đến đầu năm 1991, dưới sự giáp công từ bên trong và bên ngoài của người lãnh đạo công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô và thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Liên Xô giống như "người khổng lồ chân đất" mất đi linh hồn, chỉ còn lại cái vỏ bề ngoài, bên trong đã trống rỗng không còn gì và bắt đầu tan rã, sụp đổ. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã xa rời tâm đức với đông đảo đảng viên; đội ngũ đảng viên khổng lồ không những bề ngang chia thành ba phái tả, trung, hữu, hơn nữa bề dọc cũng xuất hiện tách rời ba cấp: Ủy viên Trung ương, Đảng ủy địa phương các cấp và tổ chức cơ sở của Đảng2 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, Sđd, tr. 304, 254). Sự phân liệt về mặt cương lĩnh chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô - Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII là biểu hiện tập trung nhất. Tất cả những cái đó đều cho thấy công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị những con sâu mọt nằm trong Đảng ăn rỗng toàn bộ. Điều này có liên quan mật thiết với những sai lầm về tính phương hướng mà công tác lãnh đạo tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm phải.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:51:27 am
2. Vấn đề định hướng dư luận

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, định hướng dư luận đúng đắn hay không có tác dụng quan trọng đối với sự trưởng thành lớn mạnh của Đảng, đối với việc xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, đối với sự đoàn kết của nhân dân và phồn vinh giàu mạnh của đất nước. Định hướng dư luận đúng đắn là hạnh phúc của Đảng và nhân dân; định hướng dư luận sai lầm là cái họa của Đảng và nhân dân. Bài học về lãnh đạo công tác tuyên truyền báo chí và định hướng dư luận xã hội thời kỳ cuoỉ của Đảng Cộng sản Liên Xô là hết sức sâu sắc1 (Tham khảo: "Hiệu ứng trào lưu tư tưởng trong cải tổ của Nga", Tình hình khoa học xã hội nước ngoài, số 3 năm 1996; Dương Tiểu Yến: "Đánh giá vai trò của định hướng dư luận qua việc Liên Xô cũ giải thể", Lý luận và đương đại, số 6 năm 1997).


Sinh thời, Lênin hết sức coi trọng vấn đề định hướng dư luận của báo chí, đặc biệt là của báo Đảng. Lênin từng nhiều lần nhấn mạnh nguyên tắc tính Đảng của báo Đảng, coi trọng sự lãnh đạo và giám sát đối với báo Đảng và cố gắng thực hiện điều đó. Lúc đó, chính quyền Xôviết đã có cố gắng rất lớn nhằm truyền bá một cách toàn diện và sâu sắc chủ nghĩa Mác, khiến cho hệ thống tư tưởng giai cấp vô sản giành được vị trí chủ đạo ở nước Nga. Thế nhưng, hệ thống tư tưởng giai cấp tư sản không phải là tự động diệt vong, đại diện của nó ở trong nước vẫn tồn tại, thế lực thù địch bên ngoài vẫn trừng trừng như hổ đói. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, chính quyền Xôviết đã triển khai cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt trong các lĩnh vực văn hóa, khoa học, xuất bản và giáo dục, chủ động phát động cuộc tiến công trong lĩnh vực ý thức hệ.


Đồng thời, chính quyền Xôviết ra sức tăng cường giáo dục chủ nghĩa xã hội đối với quần chúng công nông và tích cực tìm tòi các kiểu hình thức giáo dục tư tưởng lâu dài và hiệu quả. Trong thành phố lần lượt xây dựng nhiều nhà hát, phòng hòa nhạc, bảo tàng và bảo tàng mỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của quần chúng. Theo đề xướng của Lênin, chính quyền Xôviết tích cực tận dụng những ngày lễ kỷ niệm và những nhân vật có tính kỷ niệm để tiến hành công tác giáo dục. Lần lượt có hàng chục bia kỷ niệm của các nhà tư tưởng, nhà cách mạng và nhà hoạt động văn hóa kiệt xuất được khánh thành, như bia kỷ niệm Mác và Ăngghen tại Mátxcơva, bia chóp vuông Hiến pháp Xôviết. Trước và sau đó, một loạt ngày lễ cách mạng có ý nghĩa kỷ niệm đã được xác lập, việc biểu diễn các chương trình kịch, văn nghệ cũng tích cực tuyên truyền lịch sử cách mạng và truyền thống tốt đẹp. Lênin còn nhiệt tình cổ vũ quần chúng tích cực tham gia vào các loại hoạt động văn hóa và giáo dục nghiệp dư. Tất cả những cái đó đều giúp khơi dậy tính tích cực và tính chủ động của xã hội.


Thời kỳ Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần hình thành trong lĩnh vực ý thức hệ một bầu không khí tích cực vươn lên, giàu tính chiến đấu. Một mặt, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa Liên Xô bừng bừng đi lên, uy tín của Xtalin nổi như cổn; mặt khác, sự tấn công của Liên Xô đối với các thế lực thù địch bên trong cũng không nể nang gì, việc vạch trần giai cáp tư sản và thế lực đế quốc bên ngoài trở thành dòng chính của dư luận tư tưởng. Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa quốc tế tinh thần hiên thân vì chủ nghĩa cộng sản là giai điệu chính của tuyên truyển báo chí và tác phẩm văn nghệ. Khi đó, Liên Xô hết sức coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, chú trọng việc tôn trọng tri thức và nhân tài, chú trọng vai trò của tâm gương xã hội. Ví dụ, năm 1927 Liên Xô lập danh hiệu Anh hùng lao động (năm 1938 đổi thành Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa), năm 1930 lập Bằng khen Lênin. Bắt đầu từ năm 1929, toàn Liên Xô triển khai hoạt động thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, sau đó lại lần lượt triển khai các phong trào như kiến nghị hợp lý hóa, phong trào đội xung kích, phong trào Stachanov... Như vậy, thông qua quy phạm hóa chế độ và tuyên truyền tư tưởng, xã hội Liên Xô dần dần hình thành một bầu không khí yêu chủ nghĩa xã hội, lao động là vinh quang; coi lười nhác, luồn lọt, đầu cơ là sỉ nhục. Tuyên truyền tư tưởng và sáng tác văn nghệ cũng hát vang giai điệu chính của giai cấp vô sản. Tóm lại, công tác giáo dục chính trị tư tưởng kết hợp chặt chẽ với công tác kinh tế, công tác quân sự, giáo dục, công đoàn, đoàn thanh niên và phụ nữ, triển khai tuyên truyền cổ động sôi nổi, đã khơi dậy mạnh mẽ sự nhiệt tình lao động quên mình và tinh thần cống hiến của đông đảo quần chúng.


Thời kỳ Khrushchev trở thành bước ngoặt của công tác giáo dục tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự phê phán đối với việc sùng bái cá nhân Xtalin sau khi Khrushchev lên nắm quyền trong một chừng mực nào đó có lợi cho việc làm dịu đi đời sống chính trị căng thẳng, làm dịu đi tinh thần của mọi người, nhưng động cơ chính trị không thể nói ra và phương thức hành sự của Khrushchev, đặc biệt là "báo cáo bí mật", thì lại gây ra sự hỗn loạn cực kỳ lớn cho bên trong và bên ngoài Liên Xô. Giới tư tưởng và tâm lý quần chúng Liên Xô bị tác động mạnh mẽ và bóp méo lớn, dẫn đến chủ nghĩa hư vô lịch sử lan tràn, xuất hiện khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng, và sinh ra một loạt phần tử tư tưởng kỷ luật khác biệt và "người bất đồng chính kiến" trong nội bộ. Một số người trong đó có Gorbachev, Yakovlev nói thẳng rằng, chính "báo cáo bí mật" của Khrushchev đã gây tác động tư tưởng và chấn động tâm hồn mạnh mẽ đối với họ. Lúc này, đời sống xã hội Liên Xô bắt đầu xuất hiện cái gọi là khuynh hướng "nhân đạo hóa". Xtalin qua đời không lâu, báo Văn học ngày 16 tháng 4 năm 1953 đăng một bài bình luận, phê phán rằng cái chủ yếu mà các tác phẩm thi ca của Liên Xô thiếu chính là không có "con người". Tháng 5 năm 1954, nhà văn nổi tiếng Ehrenburg đã đăng tiểu thuyết vừa có tựa đề Giải đông trên tạp chí Ngọn cờ, lấy "giải đông" sông băng để ví với sự kết thúc của thời đại Xtalin, và nói "thời tiết giải đông đã tới", "mùa xuân đang ở trước mắt". Từ đó, các tác phẩm với đặc trưng phản đối áp chế quan liêu, tuyên dương chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng nườm nượp ra đời. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, "chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa" đã trở thành khẩu hiệu quan trọng của giới văn nghệ Liên Xô. "Lớp người thập kỷ 60" về sau hoạt động sôi nổi trong giới chính trị và giới lý luận Liên Xô chính là trưởng thành lên trong bối cảnh và bầu không khí dư luận như vậy.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:52:45 am
Đến thời kỳ Brezhnev, hiệu quả của bộ máy tuyên truyền lớn mạnh của Đảng Cộng sản Liên Xô đã giảm dần, công tác tuyên truyền chính trị xa rời thực tế nghiêm trọng, trống rỗng vô vị, đơn giản hóa và toàn những lời sáo rỗng, không những không giúp tăng cường sự yêu mến của quần chúng nhân dân đối với chủ nghĩa xã hội, ngược lại dẫn đến tâm lý đối nghịch mạnh mẽ. Chủ nghĩa hình thức thịnh hành nói suông biểu hiện nổi bật trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Ví dụ, nhiều Đại hội đại biểu Đảng và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô đã ban hành các nghị quyết và văn kiện về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhưng trong công tác thực tế thì lại thu được hiệu quả hết sức nhỏ1 (Theo thống kê, thời kỳ Liên Xô, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lần lượt đưa ra 130 nghị quyết về vấn đề báo chí, hơn 70 nghị quyết về vấn đề xuất bản sách, 20 nghị quyết liên quan đến mặt phát thanh và truyền hình. Tham khảo [Nga] B.I. Valesky: Trang sách sột soạt, lá cờ phần phật - Báo chí Nga dưới ba loại chế độ chính trị, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2001, tr.88-89). Tuyển tập phát biểu của Brezhnev thường xuyên được tái bản và phát tán rộng rãi, các bài diễn giảng và bài viết của các "chuyên gia ý thức hệ" của Đảng Cộng sản Liên Xô được đăng đầy rẫy, nhưng những lời vô bổ, trống rỗng đó không thể chống chọi được tác động của các tiểu thuyết trinh thám đến từ phương Tây, tác phẩm của kiều dân Liên Xô đã di cư ra nước ngoài hoặc các tác phẩm hội họa của các nhà nghệ thuật theo trường phái trừu tượng. Phương thức, phương pháp công tác giáo dục chính trị tư tưởng của tổ chức các cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô đơn giản, khi gặp vấn đề không đưa ra phân tích cụ thể, không dám loại bỏ ảnh hưởng của các tư tưởng sai lầm trong quần chúng và giới dư luận, mà thường sử dụng quá nhiều mệnh lệnh hành chính thậm chí biện pháp của đặc vụ an ninh để giải quyết. Dưới sức ép của cuộc chiến tranh tâm lý của phương Tây, các "chuyên gia ý thức hệ" của Đảng Cộng sản Liên Xô thường dùng giọng điệu quan cách, hình thức, trăm bài như một để "bảo vệ" chế độ xã hội chủ nghĩa, nói năng hùng hồn, chắc nịch, không hề có nội dung thực tế khiến người ta nghe mà phát ngán1 (Tham khảo V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.229).


Thời kỳ giữa và cuối những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô trong đó có Gorbachev đã phản bội lại nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác, chủ động từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với truyền thông báo chí, xóa bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, phó mặc buông trôi trong mặt định hướng báo chí, mặc cho các loại phát biểu công kích, đồn đại và mê hoặc lòng người lan tràn tuỳ tiện, dẫn tới Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi khả năng kiểm soát đối với các phương tiện truyền thông chủ yếu, cuối cùng bị nhấn chìm dưới làn sóng âm thanh ào ạt của phe chống đối. Đúng như nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev từng nói, một bài học hết sức sâu sắc của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, cũng có thể là bài học quan trọng nhất, chính là đã từ bỏ sự kiểm soát đối với truyền thông báo chí, nhất là vào cuối những năm 1980. N.Ryzhkov, trước kia đã từng làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, cũng nói, thời kỳ cuối những năm 1980, truyền thông báo chí của Liên Xô đã bị khéo léo biến thành một "lực lượng quan trọng" chống đối Đảng Cộng sản Liên Xô. Tóm lại, chỉ trong vẻn vẹn vài năm, do sai lầm định hướng dư luận, Đảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần mất đi trận địa dư luận tư tưởng, còn trào lưu tư tưởng của các loại phe chống đối thì lại lớp sau cao hơn lớp trước.


Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó đã xuất hiện mấy sai lầm nghiêm trọng về tính phương hướng trong mặt tuyên truyền và định hướng dư luận sau đây.

Thứ nhất, đề xướng cái gọi là "công khai", kết quả chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cụm từ "công khai" đã từng sử dụng ở thời kỳ Lênin, mục đích ban đầu là nhằm tăng cường kênh liên hệ với quần chúng, tìm hiểu ý kiến của dư luận xã hội và nhân dân lao động. Nhưng "công khai" mà Gorbachev đề xướng thì lại có dụng ý khác. Năm 1986, Gorbachev phát biểu với báo chí rằng: "Nhiều hiện tượng bảo thủ, sai lầm và sai sót khiến cho tư tưởng và hành động của Đảng và Nhà nước giậm chân tại chỗ, là có liên quan tới việc thiếu phe đối lập, thiếu ý kiến khác"1 (Tham khảo [Nga] Nenashev: Con tin của thời đại, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1993, tr.351). Với việc đích thân Gorbachev phát động, phong trào "công khai" bùng phát lên và không thể kiểm soát nổi.


Sai lầm nghiêm trọng của Gorbachev chính là cho phép lợi dụng "công khai" để dấy lên làn sóng hỗn tạp chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội. "Công khai" mà ông thúc đẩy, trên thực tế chuyên dùng để vạch ra những mặt tối và hiện tượng tiêu cực trong công tác của Đảng trong lịch sử và đời sống hiện thực, từ đó phủ định hoàn toàn lịch sử cách mạng, bôi xấu Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ví dụ, bản thân ông ta đã lợi dụng ngọn cờ "công khai", thoạt đầu phê phán sự "trì trệ" và "cơ chế gây trở ngại" của thời kỳ Brezhnev, cho rằng thời kỳ này hoàn toàn sai; từ đó phê phán "tội ác" và "thể chế mệnh lệnh hành chính" của thời kỳ Xtalin, nói nó thành "'thể chế quan liêu ngang ngược", "chủ nghĩa cực quyền", "chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính", và tiến hành phủ định toàn diện.


Dưới sự ủng hộ của Gorbachev và Yakovlev, một số nhà văn, nhà báo, nhà biên tập chính luận nhiệt tình với việc lật lại những món nợ lịch sử, bới tìm vấn đề, sau đó bóp méo phóng đại, khiến cho "công khai" trở thành đột phá khẩu làm tan rã dư luận xã hội Liên Xô. Mũi nhọn "công khai" chĩa thẳng vào những tử huyệt và những chỗ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô, phê phán một cách thành kiến. Mở rộng "công khai" trên thực tế trở thành phong trào tư tưởng làm bộc lộ những mặt tiêu cực xã hội và tuyên dương tấm gương phương Tây. Đúng như một học giả Nga nhớ lại, một số trí thức đã tham lam hít lấy từng bầu không khí mới mẻ tự do, ngược lại tạm thời quên đi những giá hàng trống rỗng và cơn đói trong bụng1 ([Nga] V. Sogrin: Lịch sử chính trị Nga đương đại: Từ Gorbachev đến Yeltsin (1985-1994), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1994, tr.32-36). Yakovlev hết sức thỏa mãn về điều này, ông ta viết: ""Công khai" đã thức tỉnh xã hội, khiến cho nó biến thành chính trị hóa. Thoạt đầu, không những muốn dùng tính công khai vào tự do xuất bản, hơn nữa coi nó là chìa khóa mở ra giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội, chí ít tôi cho là như vậy. Cá nhân tôi trao cho nó ý nghĩa đặc thù. Thực hiện nhiệm vụ này thì có thể phá huỷ được hệ thống bảo mật của bộ máy quan liêu trụ cột quan trọng nhất của chế độ hiện hành"2 ([Nga] A.N. Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ ở Nga, Sđd, tr.184).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:53:38 am
"Công khai" mà Gorbachev đề xướng cũng được các chuyên gia Mỹ coi là cơ hội tuyệt hảo để đánh thắng trận chiến tư tưởng, về điểm này, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga G. Ziuganov có cảm nhận rất sâu sắc, ông ta viết: "Tiến hành gia công tinh xảo đối với dư luận dưới khẩu hiệu thâm hiểm xảo quyệt là 'tính công khai' này, tất cả những cái đó phát huy vai trò còn xa mới là thứ yếu trong việc đẩy nhanh quá trình tan rã của Liên Xô và đại gia đình xã hội chủ nghĩa quốc tế. Khéo léo chế tạo nhân dân và nhà nước Nga thành "hình tượng kẻ địch" ảo, cuối cùng dẫn tới sự tiêu vong của phe xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên Xô. Chi phí mà Mỹ dùng để ủng hộ 'cải tổ' và 'tính công khai' đã được đền đáp gấp hàng trăm lần: Một đối thủ địa chính trị đã bị đánh đổ"1 ([Nga] G. Ziuganov: Toàn cầu hóa và vận mệnh nhân loại, Nxb. Tân Hoa, 2004, tr.79).


Thứ hai, cổ xuý "thuyết đa nguyên", phủ định địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Gorbachev thoạt đầu đưa ra "thuyết đa nguyên lợi ích", về sau lại cổ xuý "thuyết đa nguyên ý kiến". Về cách nói này, cần phải tiến hành phân tích hơn nữa. Đưa ra "đa nguyên ý kiến" nhằm vào quan niệm truyền thống của nước Nga trước kia chỉ nhấn mạnh phiến diện "thống nhất về chính trị, về đạo nghĩa" của xã hội xã hội chủ nghĩa, cũng như cách làm thực tế trong và ngoài Đảng không cho phép tồn tại ý kiến bất đồng. Nếu như ý kiến bất đồng là để bảo vệ chân lý, thì điều này vốn dĩ không cần phải bàn cãi. Thế nhưng, cho phép "đa nguyên ý kiến" lại biến thành phủ định địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện đa nguyên hóa về tư tưởng chỉ đạo.
Sai lầm của Gorbachev là ở chỗ, nhấn mạnh phiến diện "đa nguyên ý kiến", không quan tâm tới lĩnh vực ý thức hệ cần phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm chỉ đạo, mà cho phép và cổ xuý các loại tư tưởng của giai cấp tư sản và quan điểm chống chủ nghĩa Mác tràn lan tự do. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta đặt "thuyết đa nguyên", "dân chủ hóa" và "công khai" ngang hàng với "ba đề xướng mang tính cách mạng" mà Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra. Ngày 26 tháng 12 năm 1989, Ủy ban giáo dục quốc dân quốc gia Liên Xô ban hành mệnh lệnh, xóa bỏ hoàn toàn môn học "chủ nghĩa Mác" mà học sinh các trường đại học và cao đẳng khác lúc đó vẫn phải học1 ([Nhật] Tin tức kinh tế ngành, đưa tin ngày 8 tháng 1 năm 1990). "Dự thảo Cương lĩnh hành động" được Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua tháng 2 năm 1990 nhấn mạnh, "Kiên quyết từ bỏ sự hạn chếý thức hệ, chủ nghĩa giáo điều và thái độ không chấp nhận đối với những quan điểm và tư tưởng khác". Những cách nói và cách làm này rõ ràng đều là nhằm vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Cái gọi là từ bỏ "lũng đoạn tinh thần" và "hạn chế ý thức hệ" thực ra chính là từ bỏ địa vị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trong lĩnh vực ý thức hệ.


Sau đó, Gorbachev đã dùng hình thức pháp luật để cố định phương châm đa nguyên hóa ý thức hệ. Ngày 12 tháng 6 năm 1990, Gorbachev lợi dụng quyền hạn Tổng thổng phê chuẩn Luật xuất bản báo chí, tuyên bố "tự do báo chí", "không cho phép lũng đoạn bất cứ một công cụ dư luận nào". Ngày 15 tháng 7 cùng năm, Gorbachev lại ban bố lệnh Tổng thống về dân chủ hóa truyền hình và phát thanh, quy định sự nghiệp truyền hình và phát thanh nhà nước "độc lập với các tổ chức chính trị và xã hội", không cho phép "bất kỳ chính đảng nào" tiến hành lũng đoạn. Những cách làm này rõ ràng đều là nhằm vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Cái gọi là "phản đối lũng đoạn công cụ dư luận", thực ra chính là phản đối Đảng Cộng sản Liên Xô dùng chủ nghĩa Mác - Lênin để thực hiện chỉ đạo đối với công cụ dư luận, thực hiện đa nguyên hóa ý thức hệ, gây rối loạn tư tưởng trong và ngoài Đảng, phó mặc cho tư tưởng tư sản lan tràn tự do. Và kết quả tất yếu của việc phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, một là, phá tan nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp cho các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội phát triển lớn mạnh; hai là, phá hoại sự bảo đảm ý thức hệ của nhà nước liên minh đa dân tộc, dẫn đến chủ nghĩa ly khai dân tộc bành trướng tồi tệ. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho Liên Xô chuyển hóa và giải thể.


Thứ ba, từ "cơn sốt giải cam" văn học phát triển sang "điên cuồng" tư tưởng. Năm 1987 là năm ý thức hệ và định hướng dư luận của Liên Xô có sự chuyển biến mạnh mẽ. Theo Gorbachev tự nói, '"tính công khai" không chỉ có nghĩa là phá vỡ những vùng cấm, cũng có nghĩa là chiếu lại những bộ phim bị cấm 'gác trên cao', công khai đăng những tác phẩm phê phán hiện thực gay gắt, ở trong nước tái bản gần như tất cả những tác phẩm của 'những người bất đồng chính kiến' và những nhà văn ở bên ngoài"1 ([Nga] Gorbachev: Chân tướng và tự bạch - Hồi ký Gorbachev, Sđd, tr.150). Tác phẩm văn học "giải câm" năm đó có Trái tim chó do nhà văn Bulgakov2 (Mikhail Bulgakov sinh năm 1891 tại Kiev, mất nằm 1940 tại Mátxcơva. Tác phẩm tiêu biểu có Trái tim chó, Bạch vệ quân, Đại sư và Magaret. Từ năm 1927 đến năm 1929, tác phẩm của ông không thể nào thông qua vòng kiểm duyệt do vấn đề tư tưởng. Năm 1930, ông ta đã viết thư cho Xtalin, bày tỏ Liên Xô không thể phát huy được tài năng văn học châm biếm của ông ta, đề nghị để ông ta di cư ra nước ngoài. Xtalin đích thân trả lời điện thoại cho ông ta, lần lượt bố trí ông ta công tác tại hai nhà hát ở Mátxcơva. Sau khi mất, nhà văn được phục hồi danh dự, văn đàn Liên Xô hai lần dấy lên "cơn sốt Bulgakov") sáng tác năm 1925, Hố móng sáng tác năm 1930 của Platonov, trường thi Đồng thoại về chân lý sáng tác những năm 40 của Isakovsky, Những đứa con của phố Arbat được hoàn thành trong giai đoạn 1966 - 1983 của Rybakov... Năm đó, Đại hội đại biểu Hội nhà văn Liên Xô còn quyết định sửa sai hoàn toàn đối với Pasternak, tác giả của cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, và xuất bản tác phẩm của ông ta1 (Bác sĩ Zhivago là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Liên Xô Pasternak, từng đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1958. Do chính quyền Liên Xô cấm cuốn sách này xuất bản bằng tiếng Nga ở trong nước, nhà văn bèn bí mật gửi bản thảo ra nước ngoài bằng máy bay. Theo tờ Thời báo chủ nhật của Anh ngày 14 tháng 1 năm 2007 đưa tin, tác giả của cuốn Nobel bị cướp bóc Tolstoy tiết lộ, lúc đó chính là dưới sự hỗ trợ trực tiếp của cơ quan tình báo Anh và Cục Tình báo Trung ương Mỹ, cuốn Bác sĩ Zhivago bản tiếng Nga được xuất bản tại Milan, Italy vào năm 1957. Như vậy, nhờ cuốn sách Bác sĩ Zhivago mà Pasternak được giải thưởng Nobel văn học năm 1958. Những điều đó ngay cả Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển cũng đều cảm thấy ngạc nhiên, bởi vì đề nghị giải thưởng Nobel văn học, trước tiên đòi hỏi tác phẩm cần có bản bằng ngôn ngữ của chính dân tộc tác giả mới có thể tham gia bình xét. Cơ quan tình báo Anh và Cục Tình báo Trung ương Mỹ giúp đỡ xuất bản cuốn tiểu thuyết bị Điện Kremlin cấm lúc đó là một phần của sự tiến công ý thức hệ và thẩm thấu tư tưởng của phương Tây đối với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh. Năm 1965, bộ phim cùng tên được cải biên từ cuốn tiểu thuyết này do đạo diễn Mỹ thực hiện đã từng giành được 5 giải Oscar. Năm 1989, Yevgeny Pasternak thay mặt cha nhận giải thưởng Nobel văn học, nói: "Cha tôi không tham gia vào hoạt động xuất bản cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Nga, ông cũng không biết Cục Tình báo Trung ương Mỹ hứng thú đối với chuyện này. Cha tôi chưa từng nghĩ tới việc mình có thể nhận được giải thưởng. Điều khiến người ta cảm thấy đau lòng là nó đã đem lại cho ông nhiều đau khổ và vất vả").


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:54:23 am
Ca kịch, điện ảnh cũng vậy, có tới vài chục bộ phim bị cấm đã được chiếu. Tháng 7 năm 1987, tại Lễ bế mạc Liên hoan điện ảnh Mátxcơva đã chiếu bộ phim Chính ủy vốn bị cấm chiếu trong một thời gian dài, trong đó có cảnh miêu tả quần chúng tâm trạng tức giận xung đột nghiêm trọng với Hồng quân. Sau đó, một số đài truyền hình đã chiếu bộ phim tư liệu miêu tả thương vong của quân đội Liên Xô trong cuộc chiến tranh Ápganixtan và sự cố nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, gây chấn động xã hội. Một số chuyên mục chính luận do Đài truyền hình quốc gia Liên Xô mở, như các chương trình "Bánh xe thứ 5", "Trước và sau 12 giờ đêm", "Điểm nhìn", không những dùng ngôn từ mạnh, mà còn có tư tưởng cấp tiến. Chương trình "Điểm nhìn" do vài người dẫn chương trình truyền hình trẻ tuổi mở, nội dung và lời nói của người dẫn chương trình tràn ngập sắc thái phản nghịch, giỏi kích động, mê hoặc lòng người, trong một thời gian có ảnh hưởng to lớn trong xã hội1 (Tham khảo [Nga] Sokurov: Sách giáo khoa lịch sử Liên Xô (1941-1991), bản tiếng Nga, Nxb. Đại học cao đẳng Mátxcơva, 1999, tr.348-349).


Thứ tư, từ "chống đặc quyền, chống quan liêu" phát triển tới lật đổ chế độ cơ bản của nhà nước. Cải tổ của Gorbachev tiến hành được hơn ba năm, nhưng cải cách kinh tế không hề thấy chút hiệu quả gì, công việc ngày một đi xuống. Thế là, ông ta đưa ra vấn đề "đặc quyền" và "bộ máy quan liêu", khiến cho nó trở thành cái đích công kích của mọi người. Kết quả, dư luận xã hội cho rằng, "tầng lớp đặc quyền" đối lập với quần chúng, chủ nghĩa quan liêu là "tội đồ" khiến Liên Xô lạc hậu, bộ máy quan liêu là tảng đá ngáng đường lớn nhất gây trở ngại cho cải tổ và tiến bộ2 (Tham khảo tuyển tập Kẻ thù xấu xa nhất từ bên trong, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1987; Báo Sự thật Mátxcơva [Liên Xô], ngày 7 tháng 5 năm 1987). Theo tư duy đó, Gorbachev nhận định, sở dĩ chính sách cải tổ khó thúc đây, là vì bộ máy quan liêu "ngáng trở từ bên trong". Ông ta cho rằng, cải tổ đụng chạm tới lợi ích thiết thân của quan chức các cấp, và các quan chức sợ mất đi quyền lực trong tay, vì vậy ngấm ngầm ra sức tẩy chay cải tổ; bộ máy quan liêu từ trên xuống dưới của xã hội Liên Xô đã hình thành hết tầng lưới này đến tầng lưới khác, hết lớp tường này đến lớp tường khác; con tàu cải tổ bị một thứ "cơ chế trở ngại" đặc biệt quấn chặt, di chuyển khó khăn. Thế nên, Gorbachev đưa ra, "nhiệm vụ cấp bách" của Đảng Cộng sản Liên Xô chính là cần phát động rộng rãi quần chúng, từ trên xuống dưới, gây sức ép với bộ máy quan liêu. Lúc đó, G.Popov, Giáo sư Khoa kinh tế trường Đại học Mátxcơva bỏ nhiều công sức nhất vào mặt này, và cũng nổi bật nhất. Ông ta cho rằng, cẩn phá bỏ hoàn toàn bộ máy quan liêu ở thượng tầng các bộ, ngành và địa phương, mở đường cho cải tổ.


Tháng 6 năm 1988, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19, mở ra toàn diện bức màn cải tổ chính trị. Từ đó, làn sóng chính trị trong xã hội Liên Xô càng dâng cao hơn, vấn đề kinh tế dường như bị bỏ quên một xó. Bầu cử cạnh tranh năm 1989, tranh luận tại Đại hội Xôviết đã dẫn tới "con sốt chính trị" chưa từng có trong xã hội Liên Xô. Việc truyền hình trực tiếp Hội nghị đại biểu Đảng đã khiến cho nó trở thành "ngày hội chính trị của toàn dân". Các tầng lớp ở Liên Xô cảm nhận được sự hưng phấn chính trị chưa từng có. Toàn xã hội dường như rơi vào trong dòng lũ cải tổ chính trị cuồn cuộn. Một mặt, tâm trạng xã hội từng bước nóng lên, "cơn sốt chính trị" cao không giảm; mặt khác, quyền uy của Trung ương mất sạch, các địa phương ào ào chống nộp thuế, hiện tượng cát cứ kinh tế  nghiêm trọng, mối nguy hiểm địa phương chia tách, dân tộc ly khai tiến gần từng bước, nguy cơ về sự tồn vong của Liên Xô đã cận kề.


Thứ năm, từ giành lấy "quyền tự chủ địa phương" phát triển tới phong trào ly khai dân tộc. Thời kỳ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, do cải tổ mãi vẫn chưa có hiệu quả, quyền uy của Trung ương ngày một đi xuống, Đảng Cộng sản Liên Xô và chính phủ Liên Xô trở thành "cái đích công kích của mọi người", khuynh hướng ly tâm và chủ nghĩa ly khai của các khu vực dân tộc ngày càng nghiêm trọng. Qua vài lần thăm dò, ba nước bờ biển Bantích đi đầu đưa ra ngọn cờ "chủ quyền và độc lập". Thoạt đầu là Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản của ba nước cộng hòa này gây khó dễ với Gorbachev, yêu cầu mở rộng dân chủ trong Đảng. Tiếp theo, một số tổ chức xã hội tên là "Mặt trận nhân dân" ào ào thành lập ở các nơi, thanh thế ngày một lớn, tuyên bố đòi "độc lập với Liên Xô". Nhiều quan chức dân tộc bắt đầu tô vẽ "sắc thái chủ nghĩa dân tộc", bỏ đi ý thức hệ chủ nghĩa Mác, lấy đó để thu hút sự ủng hộ của cử tri.


Liên bang Nga đứng đầu là Yeltsin đã phát huy vai trò đi đầu trong mặt này. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, lời kêu gọi "thoát ly" được phát ra từ các nước cộng hoà xa xôi của Liên Xô đã được "phe dân chủ" trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và các thế lực chống cộng trong xã hội tại thủ đô hưởng ứng tích cực. Họ lấy "Nga" làm hậu thuẫn, dựng lên ngọn cờ "độc lập", "tự do", phản đối Đảng Cộng sản Liên Xô, phản đối Trung ương liên minh, hình thành một mặt trận thống nhất. Phe tự do mà Gaidar làm đại diện đã công khai đề xuất, nước Nga cần "vứt bỏ những gánh nặng là các nước cộng hoà lạc hậu này", trước tiên "tự cứu", sau đó nhẹ nhàng lên đường, đến với vòng tay của các nước phát triển phương Tây. Lúc đó, dưới ngọn cờ "nước Nga dân chủ, độc lập", đã tập hợp được một lọat trí thức trong xã hội Nga. Trong con mắt của quần chúng phổ thông, "Liên bang xã hội chủ nghĩa Xôviết cùng với "Đảng Cộng sản Liên Xô", "xã hội chủ nghĩa" đã mất đi ánh hào quang xưa kia, chỉ có nước Nga mới thật sự là tượng trưng của dân tộc, quốc gia và truyền thống. Người Nga rất không muốn nghe thấy mình bị gọi là "người Liên Xô". Song song với mặc cảm về cách gọi "người Liên Xô", họ cảm thấy hân hoan phấn khởi, đầy tự hào về việc mình sẽ được gọi lại là "người Nga".


Và như vậy, Trung ương Liên bang cộng hoà Xôviết trước sau đều bị công kích, "độc lập dân tộc" và "dân chủ hóa" giống như hai mũi dao đâm thẳng tới. Dưới sức ép của tâm trạng xã hội mạnh mẽ, Gorbachev giống như "Don Quixote đánh nhau với cối xay gió", thoắt bên phải thoắt bên trái, liên tiếp bị đánh lui. Sự cải tổ mà ông ta đề xướng đã mất kiểm soát, cuối cùng đã "cải" đến đầu của mình.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:55:08 am
Tóm lại, không coi trọng nguyên tắc chính trị, không kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, không đế ý tới "dân chủ hóa" và "công khai" trong thực tế khách quan trong và ngoài nước phức tạp, dẫn tới dư luận xã hội Liên Xô mất kiểm soát nghiêm trọng và tâm trạng bất mãn xã hội tha hồ lan tỏa. Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô và thể chế Liên Xô bị hoài nghi, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô với Gorbachev làm đại diện đứng trước khủng hoảng niềm tin chưa từng có. Đa số người bắt đầu cho rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa Liên Xô đi vào ngõ cụt, mô hình chủ nghĩa xã hội với Đảng Cộng sản Liên Xô làm tiêu biểu đã thất bại. Trong bầu không khí đó, là nước cộng hòa trụ cột lớn nhất của Liên Xô, nước Nga công khai tuyên bố, chỉ có độc lập, vứt bỏ những gánh nặng lạc hậu là các nước cộng hòa khác, thực hiện chủ quyền, thì mới có thể làm tốt công việc của mình, cần phải lựa chọn đi một con đường cải tổ xã hội mạnh mẽ.


Thứ sáu, từ lựa chọn mô hình cải tổ phát triển tới từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Các nhà sử học Nga chỉ ra, vào thời kỳ cuối cầm quyền của Gorbachev, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã bỏ phí hết tâm cơ, dao động bất định giữa "con đường", "mô hình" và "lý luận". Về mặt lựa chọn tư tưởng lý luận, Đảng Cộng sản Liên Xô trước tiên là kiên trì "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội", saư đó lại đưa ra "chủ nghĩa xã hội nhân đạo, dân chủ", đề xướng tư tưởng "chủ nghĩa cộng sản Tây Âu", chủ trương tiếp thu các thành quả văn minh của toàn nhân loại, đề xướng "tư duy mới", về mặt lựa chọn mô hình cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô trước tiên là học tập kinh nghiệm của các nước Đông Âu, trong đó có Hunggari; về sau chuyển sang tìm kiếm mô hình Bắc Âu, nhất là rất sùng bái "mô hình xã hội phúc lợi" của Thụy Điển, để cho cán bộ cấp cao Đảng Cộng sản Liên Xô nườm nượp sang thăm và tìm hiểu kinh nghiệm.


Trong thời gian từ năm 1989 đến năm 1990, "chủ nghĩa xã hội" bắt đầu mất đi sức hâp dẫn trong giới trí thức Liên Xô, cho dù Gorbachev có cho thêm tiền tố "dân chủ", "nhân đạo" vào chủ nghĩa xã hội thì cũng đã vô hiệu. Một chuyên gia nghiên cứu Liên Xô của phương Tây từng miêu tả tâm trạng và sự kỳ vọng của giới trí thức Liên Xô lúc bây giờ thế này: chủ nghĩa xã hội "không phải là lấy chế độ công hữu làm nền tảng... sẽ không thay thế chủ nghĩa tư bản, càng không cung cấp một bối cảnh khác"1 (Tham khảo [Mỹ] David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng đến từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô", Sđd, tr.91). Lúc đó, phe cấp tiến ở trong nước Liên Xô được sự gợi mở của sự kiện Đông Âu, hết sức tán thưởng khẩu hiệu "nhìn ngang sang phương Tây", tâm trạng từ bỏ chủ nghĩa xã hội đã lên tới cao trào. Một kết quả điều tra dân ý có tính toàn quốc cho thấy, khi trả lời câu hỏi "Liên Xô lựa chọn con đường đi lên như thế nào?", 32% số người cho rằng cần bắt chước Mỹ, 17% số người lựa chọn Đức, 11% số người trông vào Thụy Điển, chỉ có 4% số người lựa chọn phương thức Trung Quốc2 ([Nga] "Biến động xã hội và kinh tế : Điều tra dư luận xã hội", "Thông báo điều tra dư luận xã hội toàn Nga" số 6 năm 1993, tr.14). Nhiều người quyết định đi theo con đường "cách mạng triệt để", rời xa "bờ bên này" của chủ nghĩa xã hội, một bước đi sang "bờ bên kia" của chủ nghĩa tư bản. Nhà lãnh đạo ý thức hệ của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó là Yakovlev viết: "Nếu như nói con đường phát triển xã hội chủ nghĩa là ngõ cụt, vậy thì muốn thoát ra từ ngõ cụt cần phải có một cách - lùi trở lại, lùi lại đến con đường lớn đã rời xa do bạo lực cách mạng kia"3 ([Nga] A.N. Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.274). Trong con mắt của phe cấp tiến, "chia tay chủ nghĩa xã hội", lựa chọn một con đường phát triển mới, kiểu phương Tây, thì nước Nga sẽ bước lên con đường văn minh, phục hưng trong vòng một, hai năm1 ("Bài phát biểu của Tổng thống Yeltsin", Báo Tin tức [Liên Xô], ngày 28 tháng 11 năm 1991).


Đầu mùa hè năm 1992, Yeltsin lần thứ hai thăm Mỹ. Khác với chuyến thăm Mỹ lần trước, ông ta đã không còn là phe đối lập của Đảng Cộng sản Liên Xô gặp nạn nữa, mà là nhà lãnh đạo tối cao của nước Nga mới. Yeltsin phát biểu diễn giảng tại Mỹ, nói rằng ông ta đại diện cho "quốc gia dân chủ" trẻ nhất trên thế giới, đến "thánh địa" có truyền thống dân chủ lâu đời; thí nghiệm chủ nghĩa cộng sản trên mảnh đất Nga đã "ra đi không trở lại", tất cả những gì mà thế giới văn minh có sẽ "đơm hoa kết trái" tại nước Nga.


Dưới sự thôi thúc của "tâm trạng thắng lợi", phe cấp tiến của Nga đã cổ xuý "thị trường hoàn toàn tự do" trong đời sống kinh tế dừng sự can thiệp của nhà nước đối với công tác kinh tế, đập tan chế độ sở hữu nhà nước, thực hiện tư hữu hóa toàn diện. Họ lấy xã hội phương Tây làm tấm gương, tạo ra một loạt câu chuyện "thần thọai" thị trường và tự do, và lấy đó để lừa gạt người dân Nga muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh khó khăn. Trong phát biểu của tiến sĩ kinh tế học A.Pyasheva thuộc phái tự do, cố vấn kinh tế  chính quyền thành phố Mátxcơva khi đó đã diễn đạt một cách chân thực trào lưu tư tưởng dư luận và trạng thái tâm lý xã hội của Nga. Bà ta viết: "Chủ nghĩa xã hội và thị trường, dân chủ giống như 'nước lửa không dung hòa'. Nga cần trong một thời gian ngắn nhất, dùng tốc độ cách mạng để thực hiện tự do hóa kinh tế. Xóa bỏ và cấm đoán ý thức hệ của chủ nghĩa cộng sản. Đưa những kẻ tội đồ của lịch sử lên 'bục xét xử'. Xã hội Nga cần 'sám hối', đưa thi thể của Lênin đi mai táng. Đem tất cả những vật tượng trưng của chủ nghĩa cộng sản chuyển vào bảo tàng. Khi ý thức kinh doanh tiềm ẩn trong người Nga được giải phóng toàn bộ, chính là ngày phục hưng của xã hội Nga"1 (A.Pyasheva: "Chữa khỏi dựa vào tự do", Tổ quốc [Nga], số 5 năm 1990, tr.8).


Tóm lại, sai lầm về định hướng dư luận của Đảng Cộng sản Liên Xô đã dẫn đến hỗn loạn tư tưởng trong xã hội Liên Xô, mọi người hoài nghi đối với niềm tin trước kia, mất đi sự tín nhiệm đối với Đảng Cộng sản Liên Xô và lòng tin đối với tương lai của xã hội Liên Xô. Một chính quyền tương đối có sức sống đã bị nhấn chìm như thế trong biển cả dư luận do "công khai", dẫn tới sự diệt vong của nó là tất yếu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:56:54 am
3. Vấn đề đánh giá lịch sử

Về mặt định hướng dư luận của công tác ý thức hệ, vấn đề đánh giá lịch sử chiếm vị trí cực kỳ nổi bật. Làm thế nào để nhìn nhận đúng đắn lịch sử của Đảng, làm thế nào để đánh giá các nhân vật lịch sử một cách công bằng, đặc biệt là vai trò và công tội của các nhân vật lãnh tụ là tiêu chí quan trọng để đánh giá một Đảng có trưởng thành về chính trị hay không. Là Đảng xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, trong quá trình hơn 70 năm cầm quyền của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô vừa giành được thành tích to lớn, nhưng cũng xuất hiện những trắc trở và sai lầm, trong đó vấn đề lịch sử ở một số giai đọan cần phải làm rõ. Thế nhưng, nhìn nhận những vấn đề lịch sử để lại, trước tiên cần xây dựng một tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, cần phải tôn trọng sự thực lịch sử và suy xét tới môi trường và điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhìn nhận lịch sử của Đảng, cần kiên trì nguyên tắc tính Đảng, với thái độ khoa học, thực sự cầu thị, trên cơ sở tích cực tổng kết bài học kinh nghiệm, từng bước giải quyết trong tiến trình "cải tổ". Vừa cần đánh giá công - tội, đúng - sai của nhân vật lãnh tụ, vừa cần tổng kết những kinh nghiệm và bài học trong đó. Nhìn lại lịch sử, tuyệt đối không thể lúc hăng hái hô một tiếng là lên, hoặc chỉ nhấn mạnh mặt tối, không nhìn vấn đề một cách toàn diện, lịch sử. Phủ định sạch trơn quá khứ, không chỉ trái với sự thật, mà còn có hại, lại càng đáng xấu hổ.


Về lịch sử Liên Xô, kể từ sau khi giới sử học Liên Xô triển khai phong trào giáo dục chính trị vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX đặc biệt là sau khi cuốn Giáo trình tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang xuất bản năm 1938, đã có một sự giải thích về cơ bản là ổn định. Sau khi Khrushchev mượn "Báo cáo bí mật" phê phán sự mê tín cá nhân Xtalin tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1956, mới dẫn tới sự hỗn loạn tư tưởng cực kỳ lớn trong mọi người. Thời kỳ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, sau khi Brezhnev lên nắm quyền đã đưa ra phê bình đối với Khrushchev và cách làm của ông ta.


Thế nhưng, sau khi Gorbachev - người được gọi là "con đẻ của Đại hội XX", lên nắm quyền, để đạt được mục đích chính trị của mình, đã cùng với một số người trong đó có Yakovlev dẫn dắt Đảng Cộng sản Liên Xô bước lên con đường phỉ báng toàn diện lịch sử Liên Xô, từ "xét lại lịch sử" phát triển tới phủ định sạch trơn lịch sử cách mạng. Họ bắt đầu từ phủ định toàn diện Xtalin, không những vươn tới tất cả các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trong đó bao gồm cả Lênin, mà còn phủ định toàn diện thể chế xã hội chủ nghĩa được hình thành trong thời kỳ Xtalin, tiến tới nghi ngờ lịch sử của toàn bộ 70 năm, phê phán con đường xã hội chủ nghĩa1 (Tham khảo [Nga] Sokurov: Giáo trình lịch sử Liên Xô (1941-1991), bản tiếng Nga, Nxb. Đại học cao đẳng Mátxcơva, năm 1999, tr.349).


Ngày 13 tháng 2 năm 1987, khi tiếp lãnh đạo giới dư luận và tuyên truyền, Gorbachev đưa ra một khẩu hiệu nổi tiếng: "Trong lịch sử và văn học đều không nên có cái tên và điểm trống nào bị bỏ quên". Đây rõ ràng là muốn định hướng mọi người thanh toán món nợ cũ của lịch sử. Thế là xã hội Liên Xô dấy lên một làn sóng "xét lại lịch sử". Trong làn sóng đó, Đảng Cộng sản Liên Xô bị gọi là "kẻ tội đồ lịch sử", chế độ Liên Xô đã trở thành "nguồn gốc của muôn vàn tội ác"1 (Tham khảo báo Văn hóa [Nga], ngày 19 tháng 1 năm 1994). Phe cấp tiến lợi dụng các loại "vấn đề lịch sử" để phóng đại lên tới mức "đỉnh cao". Họ điên cuồng vạch trần Xtalin, cho rằng "Cách mạng Tháng Mười là một cuộc cách mạng siêu khủng bố do một số ít người tạo ra"2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.48). Lênin cũng trở thành đối tượng bị phê phán. Phe cấp tiến cho rằng, Lênin và cách mạng Bônsêvích do ông lãnh đạo ngay từ đầu đã đưa nước Nga tới số phận bi thảm, nước Nga vốn dĩ đã phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa kiểu phương Tây, nhưng lại bị người nắm quyền Bônsêvích ngăn cản một cách cố ý, những thí nghiệm xã hội chủ nghĩa sau đó lại càng đưa nó tới con đường sai lầm. Ngụ ý ở đây là nói: Nếu như có thể lật đổ sự thống trị của Đảng Cộng sản Liên Xô, thì nước Nga sẽ quay trở lại với "văn minh bình thường", tức xã hội tư bản chủ nghĩa kiểu phương Tây.


Sau sự kiện "19 tháng 8", nhiều bức tượng Lênin vốn đứng sừng sững ở nhiều nơi như Mátxcơva chỉ trong một đêm đã bị giật đổ. Các biểu tượng lịch sử liên quan tới Đảng Cộng sản Liên Xô và chủ nghĩa xã hội khác cũng gặp số phận giống như vậy, nhiều đồ trưng bày trong bảo tàng bị dời đi một cách khó hiểu. Trong xã hội dấy lên một làn sóng "đổi tên", địa danh thành phố, tên phố, tạp chí ào ào thay đổi bộ mặt, cố gắng vứt bỏ đi những tên gọi hoặc biểu tượng liên quan tới Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô hoặc chủ nghĩa xã hội. Một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô vội vàng vứt đi thẻ Đảng, nhằm tỏ ra "tẩy tâm đổi mặt". Các tàn dư thế lực cũ của Nga nườm nượp về nước, vấn đề di hài của Sa hoàng cuối cùng được các phương tiện thông tin đại chúng theo sát, về sau do Yeltsin đích thân chủ trì tiến hành quốc tang. Đồng thời, phe cấp tiến lại ra sức hô hào "di dời thi hài của Lênin ra khỏi Quảng trường Đỏ". Lịch sử tang thương, vật đổi sao dời. Lý tưởng của nhân dân Liên Xô bị tan vỡ, "thần tượng" trong lòng mọi người sụp đổ, trào lưu tư tưởng xã hội cực kỳ dễ bị dao động. Phủ định lịch sử dẫn tới sự hỗn loạn của tư tưởng xã hội, xã hội giống như mất đi "biển chỉ đường", đã đẩy nhanh tiến trình tan vỡ của ý thức hệ Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:57:54 am
Khi đó, phong trào phủ định lịch sử dấy lên trong xã hội Liên Xô về nội dung và hình thức thể hiện mấy đặc điểm sau.

Thứ nhất, hoạt động "xét lại lịch sử" do người lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô đích thân tổ chức, tiến hành một cách có kế hoạch. Một số nhà sử học nói, thời kỳ đầu cải tổ, Gorbachev, Yakovlev kêu gọi bù lấp những "điểm trông", viết lại lịch sử, có tính chính trị và tính khuynh hướng tư tưởng rất mạnh, không phải là do có hứng thú đối với vấn đề lịch sử, mà chủ yếu là tạo dư luận nhằm thúc đẩy cải tổ của ông ta, thực hiện mục đích chính trị của mình1 (Tham khảo [Pháp] Maria - Phillipe: "Sự bấn loạn của ký ức: Nước Nga và chủ nghĩa Xtalin", website: www.polit.ru, ngày 20 tháng 11 năm 2002).


Tháng 11 năm 1986, tại Hội nghị chủ nhiệm phòng nghiên cứu giáo dục khoa học xã hội toàn Liên Xô, Gorbachev chỉ trích sách giáo khoa lịch sử của Liên Xô tồn tại các vấn đề "chủ nghĩa công thức, giáo điều và hình thức". Ông ta yêu cầu biên soạn lại sách giáo khoa. Sau Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 1 năm 1987, Gorbachev nhiều lần ra lệnh cho giới báo chí, nói rằng "trong vấn đề lịch sử không nên giấu giấu giếm giếm". Để bảo đảm "kênh tuyên truyền", Gorbachev và Yakovlev thường xuyên "so đồng hồ" với giới tinh hoa báo chí. Tháng 7 năm 1987, tại một cuộc tọa đàm với giới tinh hoa báo chí và sáng tác nghệ thuật, Gorbachev nhấn mạnh, những sự kiện trong giai đọan từ năm 1937 đến 1938 không thể, cũng không nên thông cảm và khoan thứ1 (Tham khảo [Liên Xô] Tuyển tập phát biểu của Gorbachev, Sđd, q.5, tr.217, chuyển dẫn từ A.S. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985- 1991), Sđd, tr.84). Tháng 11 năm 1987, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Đại hội kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Trước Đại hội, một số người, trong đó có Yakovlev, đã sắp xếp và khởi thảo kỹ càng báo cáo của Gorbachev tại Đại hội kỷ niệm2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.185-186). Với việc mượn danh nghĩa bảo vệ Lênin, báo cáo đã đưa ra phê bình gay gắt đối với Xtalin. Gorbachev về sau đắc ý nhớ lại, điểm sáng tạo của báo cáo này chính là "từ phê bình Xtalin chuyển sang phê phán thể chế Xtalin"3 (Tham khảo [Nga] Gorbachev, Slaven: Lịch sử chưa kết thúc: Ghi chép trao đổi của Gorbachev, Nxb. Biên dịch Trung ương, 2002, tr.25). Yakovlev cũng nói thẳng, mục đích của ông ta là muốn mượn Đại hội kỷ niệm 70 năm để đẩy "tư tưởng mới" tiến lên. Trong báo cáo có tựa để "Cách mạng Tháng Mười và cải tổ: Cách mạng đang tiếp tục", Gorbachev tuyên bố cần tiếp tục sự nghiệp chưa hoàn thành vào những năm 1960, khôi phục lại công bằng lịch sử4 (Tham khảo [Liên Xô] Tuyển tập phát biểu của Gorbachev, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1988, q.5, tr.386-436). Yakovlev nói với phóng viên tại cuộc họp báo Đại hội kỷ niệm rằng, không nên coi những phân tích đối với lịch sử tại Đại hội kỷ niệm lần này là kết luận cuối cùng, không nên giáo điều hóa, cố định hóa một số kết luận trong báo cáo. Tiếp đến, ông ta tiếp tục kích động, cốgắng cổ vũ, tiếp sức cho thế lực phủ định toàn diện lịch sử1 (Tham khảo [Nga] A.N.Yakovlev: Nhìn thấu nỗi khổ của hồng trân, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1991, tr.93).


Khi đó, trong Đảng và Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô có thái độ không thống nhất đối với "cơn sốt lịch sử" này. Ủy viên Bộ Chính trị Ligachev và Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia Liên Xô Chebrikov đều phản đối "đa nguyên hóa ý thức hệ" và bôi nhọ một cách phiến diện lịch sử của Liên Xô. Chebrikov cảnh cáo rằng, mật thám của chủ nghĩa đế quốc đang tài trợ cho một số nhà văn bôi nhọ lịch sử của Liên Xô2 (Tham khảo [Liên Xô] Báo Sự thật, ngày 11 tháng 9 năm 1987). Đối với việc lật lại món nợ cũ của lịch sử, không những giới sử học Liên Xô tỏ ra hết sức lo lắng mà tiếng nói phản đối bôi nhọ lịch sử của các đảng viên bình thường của Đảng Cộng sản Liên Xô và quần chúng cũng hết sức mạnh mẽ. Ngày 13 tháng 3 năm 1988, báo Nước Nga Xôviết đăng một bức thư của Nina Andreeva, nữ giáo viên Học viện kỹ thuật Lêningrát, với tựa đề "Tôi không thể từ bỏ nguyên tắc". Bức thư phê bình từng đợt "trào lưu xét lại lịch sử" đang trào dâng trong xã hội, cho rằng những bài viết chấn động nhất thời trên báo chí lúc đó chỉ có thể khiến người ta lạc mất phương hướng, bôi nhọ Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Bài viết chỉ ra nhiều hiện tượng không bình thường của dư luận lúc đó, như hoạt động của tổ chức phi chính thức, rêu rao cần thực hiện chế độ phân quyền nghị viện của phương Tây, phủ nhận địa vị lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, công kích ác độc lịch sử Liên Xô... Bài viết chỉ ra, "cải tổ" tiến hành được mấy năm không những không thấy hiệu quả, ngược lại dẫn tới mức sống đi xuống, cải tổ thiếu cương lĩnh và mục tiêu rõ ràng, ẩn chứa khuynh hướng của chủ nghĩa thế giới. Sau khi bài viết được đăng, báo chí của một số nước cộng hòa liên bang ào ào đăng lại, một số tổ chức Đảng bắt đầu thảo luận.


Bức thư của Nina Andreeva day lên một cơn sóng lớn ào ạt, "phe cải tổ tự do" coi đó là đòn phản công của "thế lực bảo thủ và thế lực cũ của Đảng Cộng sản Liên Xô". Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô họp hội nghị khẩn cấp liên tiếp hai ngày để thảo luận đổi sách. Cuối cùng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Yakovlev, báo Sự thật ngày 5 tháng 4 đăng bài viết phản kích "Nguyên tắc của cải tổ: Tính cách mạng của tư duy và hành động", tiến hành phản kích và trấn áp toàn diện đối với Andreeva. Báo Sự thật gọi bức thư của Andreeva là "Tuyên ngôn của phần tử phản cách mạng", gọi Andreeva là "kẻ thù của cải tổ, phần tử Xtalinnít, phe bảo thủ, quan liêu cơ quan, đại biểu quyền quý của Đảng" để tiến hành trấn áp. Bài viết của báo Sự thật cho rằng, Andreeva biện hộ cho Xtalin, âm mưu ngăn cản tiến trình cải tổ. Sau cuộc tranh luận đó, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không những tiếp tục phê bình Xtalin, mà còn phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin là không tưởng và giáo điều, đi xa hơn trên con đường phủ nhận toàn diện lịch sử1 (Tham khảo [Nga] Sokurov: Giáo trình lịch sử Liên Xô (1941-1991), Sđd, tr.349-350).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 07:59:19 am
Thứ hai, thông qua "xét lại lịch sử", sửa lại những án oan lịch sử, dấy lên trào lưu xã hội thanh thảo lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Thời kỳ Xtalin cầm quyền, do điều kiện lịch sử đặc thù và sai lầm mở rộng đấu tranh giai cấp, đã từng xuất hiện một số vụ án oan sai. Bắt đầu từ thời đại Khrushchev, một phần các vụ án oan sai lần lượt được sửa lại. Tôn trọng sự thực lịch sử, sửa lại các vụ án oan sai theo pháp luật là điều hoàn toàn nên làm. Vấn đề là ở chỗ, Gorbachev và thân tín của ông ta muốn nhân cái đó để dấy lên áp lực dư luận lớn mạnh, "chính trị hóa" các vụ án cũ trong lịch sử, nhắc lại quá khứ, mục đích là phủ định triệt để lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, làm dao động cái gốc lịch sử và cơ sở hợp pháp của Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ Liên Xô. Đầu năm 1988, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thành lập "Ủy ban minh oan gột rửa cho những người bị hại những năm 1930", sau do Yakovlev đích thân chỉ huy, tiến hành thẩm tra lại đối với một số sự kiện lịch sử. Đặc biệt là, ngày 4 tháng 7 năm 1988, theo kiến nghị của Gorbachev, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra quyết định, dựng "Bia kỷ niệm" cho những người bị bức hại đến chết trong thài kỳ Xtalin tại Mátxcơva.


Đồng thời, cái gọi là hoạt động "minh oan lịch sử" dân gian cũng bắt đầu được triển khai. Ngày 26 tháng 11 năm 1988, họa báo Ngọn lửa nhỏ đã tổ chức hoạt động "Tuần lương tâm" có tính quần chúng với quy mô lớn, long trọng kỷ niệm những người bị hại trong thời đại Xtalin. Hội Liên hiệp các nhà kiến trúc, Hội Liên hiệp các nhà điện ảnh Liên Xô, họa báo Ngọn lửa nhỏ và báo Văn học cùng nhau tổ chức ra hiệp hội giáo dục lịch sử có tên gọi là "Kỷ niệm", mục đích là thúc đẩy minh oan các vụ án lịch sử trên phạm vi toàn Liên Xô, trả lại bộ mặt thật lịch sử, dựng bia kỷ niệm cho những người bị hại trong lịch sử. Sau năm 1988, một số báo chí cấp tiến "xét lại lịch sử" như họa báo Ngọn lửa nhỏ và tờ Tin tức Mátxcơva dần dần bộc lộ bộ mặt thật của mình: mượn việc phủ định quá khứ, phủ định lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định chủ nghĩa xã hội, tiến tới thay đổi phương hướng của cải tổ, khiến cho cải tổ được tiến hành theo con đường mà họ thiết kế1 (Tham khảo [Nga] A.S. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.93-94).


Thứ ba, hoạt động "xét lại lịch sử" do các nhà văn và nhà bình luận chính trị làm "tiên phong cấp tiến", các nhà sử học thực thụ rất ít người tham gia. Đúng như Viện sĩ Viện Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô I. V. Vorobyev chỉ ra vào đầu năm 1989: "Khơi dậy sự hứng thú của mọi người đối với lịch sử, không phải là các nhà sử học chuyên nghiệp chúng tôi, mà là các nhà bình luận chính trị, nhà văn, nhà kinh tế học. Chính là họ đã biến lịch sử thành thứ lực lượng xã hội hiện nay của nó. Còn các nhà sử học chuyên nghiệp, trừ rất ít người tích cực cuốn vào công việc này, quả thực chỉ đếm trên đầu ngón tay"1 (Tài liệu "'Hội nghị bàn tròn' các nhà sử học Xô - Mỹ", [Liên Xô] Vấn đề lịch sử, số 4 năm 1989, tr. 100; chuyển dẫn từ Trần Khởi Năng ""Cơn sốt lịch sử" trước Liên Xô giải thể", Nghiên cứu lý luận sử học, số 4 năm 1998).


Thế nhưng, vẫn có một số ít các nhà sử học cấp tiến tham gia vào phong trào "viết lại lịch sử", như Y. Aphanasyev và Volkogonov. Chính vì vậy, Y. Aphanasyev một thời được đánh bóng là "đấu sĩ dân chủ", sau thời kỳ giữa những năm 90 của thế kỷ XX lại im hơi lặng tiếng; Volkogonov thì từ vị tướng phụ trách công tác tuyên truyền của Tổng cục Chính trị quân đội Liên Xô biến thành văn nhân chuyến phục vụ của Yeltsin, cực lực công kích Lênin và Xtalin, hiện đã không còn trên đời nữa. Trào lưu "xét lại lịch sử" này dấy lên đã khiến cho toàn bộ lịch sử Liên Xô đều cần phải viết lại. Tháng 6 năm 1988, các cơ quan hữu quan của Liên Xô đưa ra quyết định xóa bỏ thi môn lịch sử của học kỳ này ở bậc tiểu học và trung học, báo Tin tức chỉ trích chương trình giảng dạy lịch sử của Liên Xô "là một sự dối trá được lưu truyền từ đời này qua đời khác"2 (Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.71). Dưới sự khuyến khích của giới chức Liên Xô, "cơn sốt lịch sử" lấy vạch trần bộ mặt thật của lịch sử làm nội dung chủ yếu đã giống như một vòi rồng khổng lồ cuốn lấy toàn bộ xã hội, hơn nữa càng thổi càng hung dữ.


Ngày nay, các nhà sử học Nga nhớ lại và nói rằng, nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX (tức thời kỳ "cơn sốt lịch sử"), chủ yếu là các phóng viên báo chí và các nhà sử học không chuyên nghiệp xem xét lại những đánh giá lịch sử của Liên Xô trước đây, đều "có tính chất cực đoan lẻ tẻ, tầm nhìn hẹp hòi, tập trung hứng thú vào các sự việc và hiện tượng mặt trái, viết mạnh viết nhiều về số phận bi kịch của các nhà hoạt động khác nhau trong khi không suy xét tới toàn bộ quá trình phát triển và tính phức tạp cũng như tính mâu thuẫn của nó. Nhiều giải thích và đánh giá đưa ra đều được hình thành trên cơ sở trình độ cảm nhận có kèm theo sắc thái tình cảm của phóng viên báo chí lúc bấy giờ đối với sự kiện, thiếu kiến thức sâu sắc đối với tính phức tạp của tình hình, truyền thống lịch sử, quá trình phát triển kinh tế xã hội"1 (Alexâyva: "Lịch sử - Ý thức hệ - Chính trị (thập kỷ 20, 30)", trích từ "Khoa học lịch sử nước Nga thế kỷ XX", tr.84, chuyển dẫn từ Trần Khởi Năng "'Cơn sốt lịch sử' trước Liên Xô giải thể", Tlđd).


Đứng trước tình trạng hỗn lọan trong lĩnh vực sử học, ngày 3 tháng 10 năm 1989, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức cuộc tọa đàm giữa các nhà sử học, do Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô V. Medvedev chủ trì. Ông ta biện giải khi phát biểu chào mừng: "Bầu không khí chính trị xã hội lúc đó được quyết định bởi cách nhìn đối với lịch sử. Không nên bảo vệ những cái đáng bị vạch trần đó. Lương tâm không thể giao dịch. Việc thanh tóan đối với những sai lầm trước kia cần phải tiến hành đến cùng, không thể có bất kỳ sự hạn chế nào"2 ([Nga] A.S. Barsenkov: Dan luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđđ, tr.140). Những cây đại thụ của giới sử học Liên Xô tham dự hội nghị như Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô G. Smirnov, Y. Kukushkin, Kovalchenko sôi nổi phát biểu, bày tỏ lo lắng đối với trào lưu lịch sử của xã hội. Viện sĩ G. Smirnov nói rằng, ông không tán thành bôi nhọ toàn bộ lịch sử Liên Xô trong đó bao gồm Chiến tranh vệ quốc, khôi phục sau chiến tranh. Viện sĩ Y. Kukushkin cho rằng thiếu sự tôn trọng đối với chủ nghĩa Mác, cải tổ thiếu sự chuẩn bị lý luận thì rất khó có thể trông mong thu được hiệu quả; cải tổ không thể giương ngọn cờ chủ nghĩa hư vô lịch sử và phi ý thức hệ, truyền thông đại chúng và một số thế lực cực đoan không thể ép buộc phi ý thức hệ hóa khoa học lịch sử. Viện sĩ Y. Kukushkin và thư ký học thuật Ban Sử học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện sĩ Kovalchenko thì đưa ra yêu cầu, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cần có lập trường nguyên tắc của mình1 ([Nga] A.S. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđdr tr.141). Sau đó, cuộc tọa đàm của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lần đó đã không có kết quả gì.
   Thứ tư, "xét lại lịch sử" cuối cùng dẫn tới chủ nghĩa hư vô lịch sử, dẫn tới phủ định Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định hết thảy. Sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, xã hội Liên Xô luôn tiềm ẩn một trào lưu tư tưởng phủ định sạch trơn Xtalin. Dưới sự thúc đẩy của "dân chủ hóa", "công khai" của Gorbachev, trào lưu tư tưởng nàv như đám tro tàn bùng cháy trở lại, rất nhanh đã hình thành xu thế lan rộng. Một số báo chí đã công khai một cách có chủ đích và có tính lựa chọn một số đoạn hồ sơ văn kiện lịch sử của thời kỳ Xtalin, mượn một số cái gọi là "vụ án oan sai trong lịch sử" để chuẩn bị cho phủ định sạch trơn Xtalin. Tháng 6 năm 1987, họa báo Ngọn lửa nhỏ2 (Họa báo Ngọn lửa nhỏ là ấn phẩm chính trị nổi tiếng của Liên Xô, trong thời kỳ giữa và sau những năm 1980 do V. Korotich đảm nhiệm chức chủ biên. Vào những năm 1970, ông này từng đăng bài "Bộ mặt của sự thù hận" vạch trần chủ nghĩa đế quốc Mỹ với lời lẽ gay gắt và được khen ngợi. Sau khi đảm nhiệm chức chủ biên họa báo, ông ta biến Ngọn lửa nhỏ thành đại bản doanh phê phán Đảng Cộng sản Liên Xô, thù hận chế độ Liên Xô. Sau khi Liên Xô giải thể không lâu, Korotich liền sang Mỹ định cư) số 26 do các phần tử chống đối trong Đảng Cộng sản Liên Xô cầm trịch đã tiết lộ bức thư công khai do F.F. Raskolnhikov, chiến hữu của Lênin, gửi cho Xtalin ngày 17 tháng 8 năm 1939, trong bức thư đã chỉ trích gay gắt việc Xtalin bắt bớ và giết hại các nhân vật nổi tiếng vô tội trong giới quân đội và giới văn hóa. Không lâu sau, tờ Tin tức Mátxcơva đã đăng một bức thư chưa từng được đăng của Sholokov gửi cho đảng viên lão thành Levisia, phê bình tập thể hóa nông nghiệp quá mạnh, "áp chế nông phu, đè bẹp trung nông, bần nông cũng đang bị đói", dẫn đến "mọi người cuồng nộ, tâm trạng hết sức tồi tệ". Tạp chí Khoa học và Đời sống thì đăng bài có tựa để "Bài học lịch sử và chức trách của nhà văn" do nhà văn Simonov viết vào 20 năm trước, khiển trách Xtalin đã xử tử ba loạt cán bộ quân sự cao cấp vào thời điểm trước khi bắt đầu chiến tranh và thời kỳ đầu chiến tranh, gây tổn thất không thể đánh giá hết cho quân đội và gây ra mối nguy hại nghiêm trọng cho đất nước, v.v.. Mục đích của việc một số báo chí công khai những tài liệu lịch sử này là phủ định hoàn toàn Xtalin, từ đó chuẩn bị cho việc bôi nhọ lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô.
   Trào lưu tư tưởng thanh toán này bắt đầu từ cuối năm 1987, đến năm 1988 thì lên tới cao trào. Từ chỗ bù đắp những "điểm trống lịch sử" lúc ban đầu cho đến vạch rõ "mặt tối", rất nhanh phát triển thành chĩa mũi nhọn phê phán sang chế độ xã hội chủ nghĩa trong những năm 20 đến những năm 50 của thế kỷ XX, phủ định thể chế Liên Xô, cho rằng thể chế Liên Xô mà Xtalin làm tiêu biểu là thể chế "mệnh lệnh hành chính" điển hình, là "chủ nghĩa cực quyền", là cội nguồn của tội ác. Sau năm 1989, tài liệu phê phán Xtalin bắt đầu giảm đi, dần dần chuyển sang phê phán chủ nghĩa Bônsêvích, phủ định Cách mạng Tháng Mười Nga. Một số bài viết hoặc nêu rõ hoặc mập mờ nêu ra, Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Bônsêvích, Lênin và Xtalin trên thực tế là có mối liên hệ với nhau1 (Tham khảo tuần san Thủ đô do phe dân chủ Mátxcơva vừa mới thắng cử mùa xuân năm 1990 tổ chức, hoặc [Liên Xô] A. Chipokov: "Nguyên tắc của chúng ta có tốt không?", trích từ [Liên Xô] Thế giới mới, số 4 năm 1990).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Hai, 2022, 08:00:16 am
Một trong những sự kiện có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực ý thức hệ của Liên Xô những năm 1988-1989 chính là việc tiến sĩ triết học A. Chipokov đăng trên tạp chí Khoa học và Đời sống bài viết dài "Cội nguồn của chủ nghĩa Xtalin". Bài viết này bề ngoài lấy ngọn cờ của chủ nghĩa Mác, về thực chẩt phủ định Cách mạng Tháng Mười Nga, phủ định lịch sử của xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Bài viết cho rằng, Cách mạng Tháng Mười Nga là sản phẩm của chủ nghĩa cấp tiến Nga, đã làm gián đoạn tiến trình bình thường của lịch sử nước Nga. Bài viết đã đem tư tưởng Lênin "tốt" đối lập với hiện thực xã hội chủ nghĩa "xấu" của Xtalin. Tác giả còn cho rằng, tư tưởng và thực tiễn của chủ nghĩa cấp tiến Liên Xô giai đoạn 1917-1988 là trở ngại quan trọng của xã hội hiện nay1 ([Liên Xô] A. Chipokov: "Cội nguồn của chủ nghĩa Xtalin", [Liên Xô] Khoa học và đời sống, số 11,12 năm 1988). Kỳ thực, bài viết này lôgích lộn xộn, trình bày nhàm chán. Nhưng do A. Chipokov công tác trong cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, thân phận đặc biệt khiến cho bài viết này có ảnh hưởng to lớn trong giới tư tưởng lúc đó2 (Năm 2006, A. Chipokov là nghiên cứu viên cao cấp của Viện nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế (nguyên là Viện nghiên cứu hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa), Viện Hàn lâm khoa học Nga. Ông tốt nghiệp Khoa Triết học, Đại học Mátxcơva. Những năm 1986-1990, ông lần lượt công tác tại Báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, Ban Tuyên truyền Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô và Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau lần lượt thăm trường Đại học Hokkaido Nhật Bản và cơ quan học thuật Mỹ. Năm 1995-1996 từng giữ chức Chủ nhiệm Ban điều tra nghiên cứu Quỹ Gorbachev. Người này giỏi đưa ra những bài viết quái dị, tiên phong, thường bị một số học giả phản bác. Những năm gần đây, quan điểm của Chipokov dường như có sự thay đổi rất lớn. Tạp chí Thông báo phần tích [Nga] số 3 năm 2004 đã đăng bài luận văn dài của ông ta: "Suy nghĩ về nguyên nhân và bản chất của việc chủ nghĩa tự do hậu Liên Xô thất bại", phê phán tư tưởng và hành động cấp tiến của chủ nghĩa tự do Nga).


Cùng với việc "cơn sốt lịch sử" ngày càng sâu sắc hơn và các "vùng cấm" không ngừng bị phá vỡ, hình tượng của Lênin cũng bị bêu riếu và bôi nhọ, chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô và bản thân chủ nghĩa Mác đều bị nghi ngờ. Mọi người bắt đầu mất phương hướng, mất đi niềm tin, các loại trào lưu tư tưởng tràn lan khiến cho người ta không biết nên theo cái nào. Tư tưởng trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô bị rối loạn hoàn toàn. Việc mất đi nền tảng lịch sử và sự hỗn loạn tư tưởng trở thành nhân tố hàng đầu khiến tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã. Bắt đầu từ phê phán Xtalin, tiến tới phủ định Cách mạng Tháng Mười Nga, nghi ngờ chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô, cuối cùng dẫn tới tô hồng lịch sử nước Nga Sa hoàng, mù quáng tin vào con đường phương Tây. Khi đó, giới dư luận Nga rêu rao rằng, cải tổ chính là cần "thay đổi toàn diện mô hình văn minh và tập tục văn hóa xã hội dân tộc của Nga"1 ([Nga] "Vấn đề ý thức hệ nhà nước của nước Nga đương đại", trích từ Hiện đại hóa và xã hội dân sự ở Nga, Nxb. Tân Hoa, 2003, tr.268-269). Cứ giở bất kỳ một cuốn truyện cười nào lúc bấy giờ, thì có thể đọc được nội dung thế này: Một chiếc ôtô Mỹ đậu ở Mátxcơva, có mấy người Nga đang nằm trong bùn đất dưới gầm chọc thủng bánh xe. Hỏi: Các bạn đang làm gì vậy? Trả lời: Chúng tôi muốn hít thở một chút bầu không khí tự do đến từ nước Mỹ.


Tại một số cuộc thảo luận của giới học thuật lúc đó, thường có thể nghe thấy câu nói thế này: "Ở nước Nga có thể thảo luận kiểu kinh tế nào? Chỉ có thể là kinh tế của người hoang dã sống trong hang động nguyên thủy." Đôi lúc, thậm chí có thể nghe thấy những lời than vãn tiếc nuối: "Chà! Tại sao chúng ta không bị người Đức chiếm lấy nhỉ?" Vào thời kỳ đó, diễn giảng của một số nhân vật đình đám cải tổ, "kẻ lộng triều" "tự do dân chủ hóa", gần như đều bắt đầu từ nhiếc móc quá khứ của Xôviết, và kết thúc bằng tán dương phương Tây. "Nếu như hy vọng của mọi người tan vỡ, vậy thì đối với một dân tộc mang đặc trưng chủ nghĩa cực quyền bẩm sinh, chưa đạt tiêu chuẩn và chưa khai hóa ngay từ thời Sa hoàng Nga, có một lối thoát giản đơn và tự nhiên - đó chính là đưa đất nước hoàn toàn tới trạng thái thực dân trong các lĩnh vực kinh tế  xã hội và ý thức hệ". Một số bài viết trên báo chí còn chứng minh rằng, cần thiết phải đưa trọng tài Liên hợp quốc vào trong lãnh thổ Liên Xô, đưa "quân đội gìn giữ hòa bình" vào, thực thi "viện trợ nhân đạo", thiết lập thanh sát viên và quan sát viên Liên hợp quốc1 (Vào thời kỳ cuối Gorbachev, do hàng hóa xã hội và các mặt hàng tiêu dùng hằng ngày khác của Nga thiếu thốn cực độ, một số nước phương Tây đặc biệt là châu Âu đã gửi tới Liên Xô các vật tư "nhân đạo" như thực phẩm. Một số bao bì thực phẩm trực tiếp ghi chú bằng tiếng Nga "Viện trợ nhân đạo"). Một tờ báo có tên là Chuông tự kêu từng đăng một câu nói thế này: "Chúng tôi chân thành trông chờ vào một kết quả như vậy, hơn nữa, trạng thái thực dân có gì là không tốt?". Thế là, tiếp sau đó, bài viết đã thảo luận việc làm thế nào mới có thể trở thành thuộc địa, và kiến nghị cầu cứu các thương gia phương Tây cho điều này2 ([Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.264).


Tóm lại, dưới sự thúc đẩy của chính các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô như Gorbachev và Yakovlev, lấy danh nghĩa là đánh giá lại lịch sử, phủ định Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định lịch sử cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa, phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô, đã dẫn tới tư tưởng xã hội hỗn loạn, làm tan rã Liên Xô về tư tưởng, mở ra cánh cửa lịch sử, đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô lên bục xét xử của lịch sử. Theo điều tra chọn mẫu dân gian của các bên, tỷ lệ tín nhiệm đối với Đảng Cộng sản Liên Xô vào mấy năm trước năm 1988 đạt khoảng 70%, năm 1990 thì giảm xuồng còn 20%, đầu năm 1991 lại giảm tiếp xuống còn mười mấy phần trăm. Cái gọi là "xét lại lịch sử" của Gorbachev, bắt đầu từ bôi đen lịch sử, lừa gạt nhân dân, kết thúc bằng cầu cạnh quỳ gối, phản bội, vô liêm sỉ. Ngoài miệng ông ta nói công bằng, trên thực tế cái ông ta thiếu chính là sự công bằng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:24:51 am
II. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ VÀ TRẬN ĐỊA TƯ TƯỞNG

Ở một nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, xây dựng đội ngũ và trận địa tư tưởng của công tác ý thức hệ hết sức quan trọng. Lênin chỉ ra rằng: "Tuyên truyền và cổ động hằng ngày cần phải có tính chất cộng sản thực sự. Các loại báo chí cơ quan mà Đảng nắm đều cần phải do những người cộng sản đáng tin cậy đã được chứng minh là trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản chủ trì công tác biên tập"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.251). Nhưng trong thời kỳ Gorbachev, cùng với việc tầng lớp lãnh đạo cấp cao lãnh đạo công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô nảy sinh "biến chất", đã phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin, đội ngũ lý luận cơ bản của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị đánh sập, trận địa tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng từng bước thu hẹp, thậm chí mất sạch, bị phe cấp tiến chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội chiếm lĩnh. Điều này đã đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô nhanh chóng bước vào con đường bại vong.


1. Vấn đề xây dựng đội ngũ

Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, ngoài một số ít lãnh tụ ra, đội ngũ cơ bản của Đảng Bônsêvích có trình độ giáo dục không cao, thiếu cán bộ có thể gánh vác nhiệm vụ tuyên truyền và cổ động. Đứng trước thế tiến công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, làm thế nào để bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền và giáo dục chủ nghĩa Mác, làm thế nào để chuyển hóa tư tưởng của trí thức cũ, đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng mà chính quyền Xô viết gặp phải. Năm xưa Lênin hết sức coi trọng bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ trí thức vô sản. Nhưng trí thức của Nga là một tầng lớp xã hội với số người tương đối ít. Khi đó, đại bộ phận trí thức cũ có thái độ tiêu cực đối với chính quyền Xôviết mới ra đời, không hiểu, không chào đón thậm chí có ý thù nghịch với Cách mạng Tháng Mười Nga, vì vậy họ kéo nhau ra nước ngoài cư trú.


Thái độ của Lênin và Đảng Bônsêvích đối với trí thức cũ là tích cực. Cùng với việc chuyên dịch trọng tâm công tác chính quyền Xôviết, Lênin ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật và bồi dưỡng đội ngũ trí thức vô sản. Đoi với trí thức cũ, Đảng Bônsêvích một mặt phê phán thế giới quan duy tâm của họ, mặt khác lại tích cực thu hút họ tham gia vào xây dựng đời sống mới. Lênin từng chỉ ra, ủy viên chính trị công nhân và chi bộ Đảng Cộng sản cần phải dùng bầu không khí hợp tác đồng chí để bao vây lấy họ, khiến cho họ không thể nào thoát ra được, nhưng cần khiến cho họ có được điều kiện làm việc tốt hơn so với dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Nếu không như vậy, thì những trí thức do giai cấp tư sản đào tạo ra này sẽ không làm việc; muốn "dùng gậy" để ép buộc cả một tầng lớp làm việc là không thể được. Khi đó, trong giới triết học và giới lý luận, thông qua vài vòng tranh luận về tư tưởng và quan điểm, dần dần đã xác định rõ được hàm nghĩa triết học của chủ nghĩa Mác, xây dựng được địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Về mặt văn hóa nghệ thuật, Đảng Bônsêvích do Lênin lãnh đạo thông qua phê phán các loại chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hư vô, đã tăng cường sự thống nhất của đội ngũ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của văn học nghệ thuật.


Sau khi Lênin qua đời, song song với việc kiên trì xây dựng chính quyền và đấu tranh chính trị, Xtalin hết sức coi trọng phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục. Đền thời kỳ cuối những năm 30 của thế kỷ XX, Liên Xô về cơ bản đã xóa mù chữ, đã đào tạo được một loạt lớn trí thức mới. Lúc đó, lực lượng trí thức mới mẻ do chính quyền Xôviết đào tạo ra đã chiếm tới 80 - 90% trong tổng số tầng lớp trí thức1 ([Nga] Zezina: Lịch sử văn hóa Nga, Nxb. Văn dịch Thượng Hải, 1990, tr.335). Đặc biệt, Xtalin hết sức coi trọng đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ, coi trọng việc đào tạo đội ngũ lý luận tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thời kỳ Chiến tranh vệ quốc, để tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác ý thức hệ, mở rộng đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền và chính trị tư tưởng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã thành lập riêng một Ban Khoa học. Ngoài ra, phụ trách công tác tuyên truyền và tư tưởng văn hóa còn có Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Tổng cục Chính trị Hồng quân, Ban Ủy viên nhân dân giáo dục các nước cộng hòa gia nhập liên bang, Ủy ban sự nghiệp nghệ thuật trực thuộc Chính phủ Liên Xô, Ủy ban công tác các trường đại học và cao đẳng toàn Liên Xô và Ban Văn hóa Hội đồng Trung ương Công đoàn toàn Liên Xô... Lúc đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Zhdanov, Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Tổng cục Chính trị Hồng quân từng tổ chức hơn 1.000 nhà văn và nhà thơ ra tiền tuyến tác chiến như phóng viên chiến trường, ngoài ra có hơn 150 nhà nhiếp ảnh, nhà làm phim cũng lăn lộn chiến đấu nơi tuyến đầu trận địa. Arkadi Gaidar (ông nội của đại diện phe tự do Nga hiện nay Igor Gaidar) từng là phóng viên chiến trường của báo Sự thật Đoàn thanh niên, tình nguyện tham gia vào đội du kích, đã hy sinh trên chiến trưởng. Có thể nói, chiến tranh không những là thử thách gay gắt đối với thực lực kinh tế và quân sự Liên Xô, mà còn là thử thách gay gắt đối với sức mạnh tinh thần của nhân dân Liên Xô. Thắng lợi của cuộc Chiến tranh vệ quốc đã nâng cao uy tín của văn hóa Liên Xô, bồi dưỡng và rèn luyện một loạt cán bộ giáo dục tư tưởng. Một thời kỳ sau chiến tranh, họ đã trở thành cốt cán trong công tác ý thức hệ.


Sau thắng lợi của Chiến tranh vệ quốc, căn cứ vào chỉ thị của Xtalin, Chính phủ Liên Xô đã tăng mạnh đầu tư cho sự nghiệp khoa học, chỉ tính riêng tỷ trọng đầu tư cho sự nghiệp khoa học chiếm trong tổng giá trị sản phẩm quốc dân, thì Liên Xô lúc bấy giờ đã vươn lên đứng đầu thế giới. Thành phần của trí thức đã có sự thay đổi cơ bản. Một thời kỳ sau chiến tranh, Liên Xô đã đào tạo một loạt những người làm công tác tư tưởng lý luận, trong đó nhiều người có tư duy năng động, giàu tính sáng tạo, rất có tài năng bẩm sinh, đầy tinh thần học hỏi, hơn nữa tràn đầy sức sống. Nhưng đồng thời, trong giới lý luận Liên Xô tồn tại nghiêm trọng tình trạng giáo điều, bằng lòng với hiện trạng, coi nhẹ sáng tạo lý luận. Giới khoa học xã hội tuy người nhiều, nhưng hiệu quả sút kém, lãng phí nghiêm trọng nguồn nhân lực và chất xám. Không ít người thiếu tính sáng tạo từ đầu, cảm nhận đối với hiện thực, tính biện chứng tư duy trong nghiên cứu lý luận cụ thể, nghiên cứu lý luận chỉ nổi ở bề mặt. Nhiều nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà xã hội học, nhà sử học quen với việc tiến hành giải thích và cắt nghĩa đối với các nghị quyết của Đảng và Nhà nước, phát biểu của lãnh đạo, kiểu văn bia viết rập khuôn thịnh hành. Nhiều thành quả nghiên cứu phần lớn đều mở đầu bằng phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, kết thúc bắng nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng. Triết học Liên Xô từng phát huy vai trò quan trọng trong lĩnh vực ý thức hệ, trở thành hình ảnh thu nhỏ và hàn thử biểu của những thay đổi xã hội và chính trị của Liên Xô. Khoa học xã hội của Liên Xô trong một thời gian dài bị khốn đốn bởi chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa hình thức, thiếu sức sống và tính sáng tạo, vừa không thể giải thích tốt được xã hội Liên Xô, vừa không thể đề xướng được cải cách, làm thay đổi xã hội.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:27:16 am
Vẫn trong thời kỳ Xtalin, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất hiện một số người mạo nhận là "nhà tư tưởng và nhà lý luận" đội lốt "chủ nghĩa Mác - Lênin". Chính là những nhà mácxít, lêninnít giả mạo đó về sau dần dần chiếm cứ được Ban lãnh đạo trong lĩnh vực ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, làm mục ruỗng đội ngũ lý luận tư tưởng. Những "chuyên gia" ý thức hệ đó đã chiếm được một địa vị rất đặc biệt trong đời sống chính trị Liên Xô, trong đó một số người đã tiến sát đỉnh cao của kim tự tháp quyền lực, không ít người trong số họ không hề có nguyên tắc gì, không có học thuật gì, thiếu trách nhiệm, chỉ muốn nhanh chóng thăng quan phát tài. Điều này trên thực tế đã trở thành nhược điểm chí mạng trong xây dựng chính quyền nhà nước Liên Xô. Những người này thường lời nói không đi đối với việc làm, thường lợi dụng địa vị của minh, ra sức giành lấy những đãi ngộ phúc lợi, vật chất. Họ giỏi luồn lách, nhiều người lần lượt thông qua các con đường trở thành viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học. Ví dụ, Ilichiev - Bí thư Trung ương phụ trách công tác ý thức hệ những năm 1960 - cả đời ngay cả một cuốn sách nhỏ cũng không viết, thậm chí ngay cả bài viết đăng trên báo cũng đều do cấp dưới viết thay, nhưng lại được phong tiến sĩ, giáo sư cũng như những học hàm, học vị hiển hách suốt đời khác1 (Tham khảo [Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.77). Những "chuyên gia" công tác ý thức hệ đó trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô không chuyên tâm làm công tác lý luận tư tưởng cụ thể, mà là tạo ra và khơi dậy mâu thuẫn xã hội. Họ đem chủ nghĩa Mác - Lênin tách khỏi và đối lập với khoa học hiện đại, phá hoại uy tín của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Họ tuyệt đối hóa một số phát biểu của Mác và Lênin, cản trở việc phát triển hơn nữa của khoa học mácxít. Họ thậm chí chĩa mũi nhọn của đấu tranh ý thức hệ vào những người bạn của Liên Xô, gồm cả các học giả phương Tây nổi tiếng như Einstein, Dirac, Bernard..., khiển trách họ là "chủ nghĩa duy tâm", tạo hố ngăn cách giữa các học giả tiến bộ phương Tây với Liên Xô.


Đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với sự phản bội của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô như Gorbachev, một số phần tử bất đồng chính kiến trong lĩnh vực ý thức hệ Đảng Cộng sản Liên Xô cũng thừa thế phản lại một đòn, cùng với các thế lực chống cộng trong xã hội và thế lực chống Liên Xô của phương Tây hô hào hưởng ứng, phát động cuộc tiến công điên cuồng vào Đảng Cộng sản và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. "Các nhà lêninnít" này lập tức lắc mình hô biến một cái, trở thành các "đấu sĩ" chống lại cái gọi là "chủ nghĩa cực quyền".


Năm 1988, Liên Xô xuất bản một cuốn tuyển tập các bài viết thịnh hành một thời, cuốn sách có tên là Không có lựa chọn khác, khi đó được gọi là "Tuyên ngôn sức mạnh cải tổ". Các tác giả - đều là những người nổi tiếng trong giới trí thức Liên Xô lúc bấy giờ, các nhà triết học, nhà xã hội học, nhà kinh tế học coi phê phán thể chế xã hội chủ nghĩa thời kỳ Xtalin là trách nhiệm của mình. Ví dụ như nhà xã hội học, Viện sĩ Zalavkaya, nhà kinh tế  học Popov, nhà chính trị học Burlatsky, nhà triết học Vorrovev, nhà sử học Aphanasyev, nhà văn Granin...1 (Tham khảo [Nga] A.S. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.95-96).


Sau này, một số người mà Gorbachev trọng dụng cũng đều là cái gọi là "chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế học, lĩnh vực xã hội học, lĩnh vực luật học". Nay xem ra, những vị viện sĩ đầy bụng kinh luân này tuy đã nhìn ra vấn đề, nhưng lại kê sai đơn thuốc. Những đơn thuốc này có thể đúc rút sơ lược thành hai điểm: một là, thực hiện kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; hai là, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với đất nước, thực hiện "dân chủ hóa" chính trị. Ví dụ như giáo sư kinh tế học trường Đại học Mátcơva Popov, người từng được bầu làm Đại biểu nhân dân Liên Xô khóa đầu tiên, cùng với một số người như Yeltsin, Sakharov trở thành đầu đàn của "phe dân chủ". Popov còn từng được bầu làm Chủ tịch Xôviết thành phố Mátxcơva nhiệm kỳ đầu tiên, nhưng làm được chưa đầy hai năm thì tự cảm thấy không có tài năng gì, đành nhường lại chức vụ cho thị trưởng đương nhiệm Luzhkov. Mặc dù tư tưởng của Popov sau khi Liên Xô giải thể có mấy lần chuyển biến lớn1 (Popov, Yakovlev và Yeltsin cùng được gọi là "cha đẻ của dân chủ" của Nga. So với hai người sau, Popov về tư tưởng càng giỏi thay đổi hơn. Thời kỳ Liên Xô, ông ta giảng dạy chương trình "làm thế nào hoàn thiện cơ cấu quản lý kinh tế" tại Khoa Kinh tế trường Đại học Mátxcơva, sau khi cải tổ bắt đầu thì lại tiên phong pháo kích vào "bộ máy quan liêu Đảng Cộng sản Liên Xô". Sau khi Liên Xô giải thể, ông ta lại cho rằng Liên Xô đã bỏ lỡ một cơ hội giữ lại cơ quan quản lý nhằm thực thi cải tổ. Tương tự, "Toàn bộ chính quyền thuộc về tay các Xôviết" từng là khẩu hiệu được Lênin đưa ra vào thời kỳ Cách mạng Tháng Mười Nga, thời kỳ đầu và thời kỳ giữa cải tổ những năm 1980 từng được báo chí "phe dân chủ" lợi dụng rộng rãi, Gorbachev cũng hết sức tôn sùng, hơn nữa cùng với Popov lần lượt sử dụng trong bầu cử chính quyền hai cấp Liên Xô và thành phố Mátxcơva, giành được quyền lực một cách thành công. Chưa được bao lâu, Popov lên làm Chủ tịch Xô viết thành phố Mátxcơva bắt đầu kết luận: Chính quyền Xôviết ở bất cứ hình thức nào (quyền lực từ dưới lên trên) đều không cần thiết, cái cần thiết là quyền thực thi đủ mạnh, đặc biệt là một loạt quan chức có thể chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Đây là kết quả của vật đổi sao dời, hay là nói không thực lòng, hay là có dụng tâm gì khác? Theo quan điểm của Popov, xóa bỏ chính quyền Xôviết chẳng qua là sự quay trở lại với cuộc sống bình thường. Nếu như theo cách nói của Gorbachev, thì là sự quay trở lại với giá trị toàn nhân loại), nhưng trước khi Liên Xô giải thể, ông ta cùng với một số tinh hoa trong giới trí thức, đã phát huy vai trò rất lớn đối với việc lật đổ chế độ Liên Xô. Khi ấy Popov cho rằng, vấn đề căn bản của kinh tế Liên Xô chính là ở chỗ thể chế kế hoạch, vì vậy cần phải phá vỡ bộ máy quan liêu, Liên Xô cần chia thành 50 "tỉnh Nga cũ" hoặc "quận", sau đó lại tổ chức thành "liên bang". Ông ta từng đưa ra một cái gọi là lý luận "ba không", tức không quốc hữu hóa, không Xôviết hóa, không liên bang hóa1 ([Liên Xô] G. Popov: "Viễn cảnh và hiện thực", Ngọn lửa nhỏ, số 50, 51 năm 1990). Lại như Viện sĩ Sakharov, "nhà bất đồng chính kiến" nổi tiếng tuyên bố: "Lối đi duy nhất, khả năng duy nhất của con đường tiệm tiến - đó chính là làm cho cải tổ cấp tiến hóa"2 (V. Sogrin: Lịch sử chính trị Nga hiện đại, Sđd, tr.55), cần phải loại bỏ một số nguyên tắc của Liên Xô, chứ không phải chỉ là bổ sung, sửa đổi. Viện trưởng Học viện hồ sơ lịch sử Liên Xô Iu. Aphanasayev thì công khai hô hào: "Thể chế này không nên bổ sung sửa đổi! Nó có ba trụ cột lớn: Bản chất đế quốc của Liên Xô, nhà nước trung ương tập quyền, tự trị hóa không được thế hiện đầy đủ; chủ nghĩa xã hội quốc gia không phải là kinh tế  thị trường; sự lũng đoạn của Đảng. Cần phải loại bỏ ba trụ cột đó một cách từng bước, không đổ máu"3 (V. Sogrin: Lịch sử chính trị Nga hiện đại, Sđd, tr.55). Đồng thời, Gorbachev ra sức đề xướng "công khai", "dân chủ hóa", cổ xuý "tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại, tuyên dương "giá trị quan toàn nhân loại". Một số người trong đó có Yakovlev cũng làm ngược lại, phong tư tưởng của giai cấp tư sản thành chuẩn mực, ngang nhiên từ bỏ địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực ý thức hệ4 (Tham khảo: Ghi chép nói chuyện của A.N. Yakovlev: "Tại sao tôi từ bỏ chủ nghĩa Mác", [Liên Xô] báo Nước Nga Xôviết, ngày 3 tháng 8 năm 1991).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:28:06 am
Dưới sự dẫn dắt của Gorbachev và các nhà lãnh đạo phe dân chủ nói trên, lĩnh vực dư luận báo chí Liên Xô dấy lên từng đợt sóng lớn, phủ định chính mình, tô hồng nước Nga Sa hoàng, trào lưu tư tưởng sùng bái phương Tây dần dần trở thành dòng chính. Trí thức phe cấp tiến, đặc biệt là một số phóng viên, nhà biên tập và nhà văn, họ ào ào viết bài, vạch trần và chỉ trích một cách vô tình quá khứ của Đảng Cộng sản Liên Xô, bôi nhọ lịch sử Liên Xô và những nhân vật anh hùng của nó. Trào lưu cấp tiến trong đội ngũ trí thức Liên Xô lan nhanh. Tiếng nói "từ bỏ chủ nghĩa Mác" trong giới lý luận nổi lên mạnh mẽ, việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn liên quan như triết học mácxít, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa cộng sản khoa học... bị dừng lại hoặc thay đổi bộ mặt, biến thành các cơ quan giảng dạy hoặc nghiên cứu triết học phương Tây, lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do và chính trị học phương Tây. Một kiểu phương thức tư duy đơn giản hóa, lưỡng cực hóa hết sức thịnh hành: không phải là xã hội chủ nghĩa thì là tư bản chủ nghĩa, không phải cái này thì là cái kia, không phải là đỏ thì là trắng.


Đồng thời, địa vị của sự nghiệp văn hóa và khoa học xã hội của Liên Xô rớt xuống thê thảm, từ cung điện thiêng liêng bị ném xuống mặt đất, bị coi là "tàn dư của chế độ cực quyền cũ", nhanh chóng rơi vào cảnh tuyệt vọng. Chính trị chao đảo cộng với kinh tế khó khăn, ngay cả nhiều cơ quan văn hóa nổi tiếng, trong đó có Nhà hát lớn Mátxcơva cũng đều khó có thể tiếp tục, chảy máu nhân tài nghiêm trọng. Đội ngũ nghiên cứu văn hóa và khoa học ào ào chạy ra nước ngoài, chạy tới các nước Mỹ, Đức hoặc Ixraen, tiềm lực nghiên cứu khoa học của Liên Xô bị tổn thất gần một nửa. Các nhà quan sát phương Tây chỉ ra, trong thời gian những năm 1989 - 1990, niềm tin chủ nghĩa xã hội dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều nhanh chóng biến mất trong giới trí thức; tư tưởng của trí thức Liên Xô sôi động hơn, đa số các nhà xã hội học, nhà kinh tế học chuyển sang tin theo chủ nghĩa tư bản kiểu phương Tây1 (Tham khảo [Nga] A.s. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.95-96). Còn có một số trí thức thuộc bộ môn khoa học nhân văn, họ hết mực sùng bái mô hình phương Tây, trong lòng bất mãn đối với lịch sử và hiện trạng của nước mình. Một bộ sách giáo khoa có tên là Nước Nga thế kỷ XX, trong mục lục của nó đầy rẫy những tiêu đề như "Sự hình thành của chế độ chính trị cực quyền", "Trấn áp quy mô lớn", "Khó khăn trong nông nghiệp", "Mâu thuẫn dân tộc", "Làn sóng trấn áp mới"... Một thời gian, "thị trường, dân chủ, tự do, chế độ tư hữu, nhà nước văn minh phương Tây" đã trở thành những câu cửa miệng của giới trí thức phe cấp tiến. Họ cho rằng, năng suất lao động của chủ nghĩa xã hội cực kỳ thấp, sự thể hiện của bình đẳng ở Liên Xô chính là "nghèo như nhau". Họ mong muốn chỉ trong thời gian một cái búng tay là có thể vượt qua hố ngăn cách lớn thời đại và xã hội, từ thành luỹ của tính tất yếu chủ nghĩa xã hội trong nháy mắt rơi vào vòng tay của chủ nghĩa tự do phương Tây.


Đối với hiện tượng biến chất của giởi lãnh đạo lý luận tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngay cả các học giả phương Tây cũng cảm thấy khó hiểu. Tại sao khi Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ, Liên Xô giải thể, thì đa số người trong giới trí thức Liên Xô lại trở thành "kẻ bàng quan", còn số ít lãnh đạo trí thức thì lại trở thành "người cổ xuý" và "đội tiên phong" trong việc làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô? Tại sao hàng vạn lãnh đạo trí thức Đảng Cộng sản Liên Xô và đội ngũ lý luận mácxít lêninnít với con số còn nhiều hơn thế lại quay lưng lại với Đảng Cộng sản Liên Xô? Tại sao đội ngũ lý luận và lãnh đạo tư tưởng mà Đảng Cộng sản Liên Xô dày công đào tạo qua nhiều năm chỉ trong một đêm đã quay ngoắt họng súng, nhằm thẳng vào Đảng Cộng sản Liên Xô? Tại sao giới tinh anh trí thức cùng với một số quan chức Đảng, chính quyền, cán bộ quản lý kinh tế  giới tinh anh dân tộc, thế lực kinh tế ngầm cũng như thế lực đen phạm tội trở thành người đào mồ chôn Đảng Cộng sản Liên Xô? Về điểm này, David M.Kotz, giáo sư kinh tế học của phân hiệu Amherst trường đại học bang Massachusetts từng đưa ra phân tích sâu sắc. Trong cuốn sách Cuộc cách mạng đến từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô viết chung với phóng viên truyền thông của phương tiện thông tin đại chúng phương Tây thường trú tại Mátxcơva đã chỉ rõ, chính là thái độ của số ít giới tinh anh trong Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô đã dẫn tới sự tan rã của thể chế Liên Xô. "Đến những năm 1980, đối với đại đa số giới tinh anh Liên Xô mà nói, ý thức hệ đã không còn bất kỳ ý nghĩa thực tế nào trong một thời gian dài. Đối với các thành viên cao cấp, thực dụng trong tập đoàn này mà nói, đổi tuyên truyền ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa thành cổ xuý cho chế độ tư hữu và thị trường tự do đã không còn là việc gì khó cả. Khỏi cần từ bỏ niềm tin chính trị kiên định, bởi vì ngay từ đầu họ đã không có"1 ([Mỹ] David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.7).


Các học giả phương Tây, trong đó có David M.Kotz, cho rằng, ngoài nguyên nhân lãnh đạo ra, sự theo đuổi lợi ích vật chất và danh lợi là nguyên nhân quan trọng khiến giới tinh anh trí thức Liên Xô biến chất nhanh chóng. Vốn dĩ, trí thức Liên Xô có thể sống cuộc sống dễ chịu, hưởng thụ địa vị xã hội tương đối cao. Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học cũng như một số nhà văn và nhà nghệ thuật được ca ngợi, lĩnh lương cao, dùng ôtô và trợ lý, có thể ở trong biệt thự sang trọng. Nghiên cứu khoa học thuộc về sự nghiệp của quốc gia, được ngân sách nhà nước cấp tiền, không cần phải bỏ thời gian ra tìm kiếm sự "bố thí" của các quỹ. Các nhà khoa học xã hội nghiên cứu triết học chủ nghĩa Mác, kinh tế chính trị học cũng như chủ nghĩa cộng sản khoa học, không những dễ tìm được việc làm, mà còn dễ được đề bạt. Nhà văn của Liên Xô không cần phải chịu đủ đắng cay vất vả để đăng tác phẩm đầu tay của mình, các học giả cũng không cần phải tìm kiếm việc làm thêm trong bể khổ ngoài học thuật. Thế nhưng, mâu thuẫn chính là ở chỗ, nhiều trí thức hoàn toàn không cho rằng đây là điều kiện ưu việt mà chủ nghĩa xã hội tạo cho họ.


Họ cho rằng, những điều kiện đó là lẽ đương nhiên, hơn nữa so với những trí thức sống ở phương Tây tư bản chủ nghĩa thì còn tồi tệ gấp nhiều lần. Một số trí thức có cơ hội ra nước ngoài tới tham quan xã hội phương Tây, sau khi về nước đến đâu cũng rêu rao rằng, thị trường hóa và thương mại hóa tư bản chủ nghĩa không những có thể bảo đảm cho sự phồn vinh của sự nghiệp văn hóa, mà còn có thể đem lại cho trí thức cơ hội làm giàu. Họ cho rằng tài năng của mình không hề thua kém so với đồng nghiệp phương Tây, vì vậy cần đột phá thể chế hiện hành để thực hiện giấc mơ giàu có của mình1 (Thế nhưng, điều đầy ý nghĩa châm biếm là, về sau cùng với sự chuyển biến nhanh chóng của Nga sang thị trường tự do, người chịu tổn thất lớn nhất phải kể đến trí thức. Họ dường như qua một đêm rơi vào hố băng của thị trường tự do, bởi vì hệ thống nâng đỡ nhà nước trước kia của họ trong nháy mắt đã tan vỡ. Tham khảo David M.Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.92).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:30:03 am
2. Vấn đề trận địa tư tưởng

Lênin và Đảng Bônsêvích năm xưa hết sức coi trọng vai trò tích cực của các công cụ dư luận như báo chí, coi báo chí cách mạng là trận địa lý luận tư tưởng của Đảng. Trong cuộc đời lãnh đạo cách mạng vô sản lâu dài, nhiều hoạt động của Lênin gắn bó mật thiết với báo chí. Bản thân Lênin thừa nhận, ông đối với báo chí "giống như đối với đứa con cưng vậy", coi đây là "sự nghiệp đã đổ tâm huyết nhiều năm, một sự nghiệp liên quan mật thiết tới toàn bộ công tác hết sức quan trọng của chúng ta"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.303). Tháng 11 năm 1905, trong bài viết "Tổ chức của Đảng và ấn phẩm của Đảng", Lênin chỉ rõ: "Báo chí cần trở thành cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng"; "Nhà xuất bản và phòng phát hành, hiệu sách và phòng đọc, thư viện và các loại văn phòng kinh doanh sách báo đều cần trở thành cơ quan của Đảng"; "Sự nghiệp sáng tác cần trở thành một bộ phận của toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, trở thành một bộ 'bánh răng và ốc vít' của chủ nghĩa xã hội dân chủ khổng lồ do toàn thể đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân khởi động"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.1, tr.663-664). Tháng 7 năm 1920, trong bài viết "Điều kiện gia nhập Quốc tế cộng sản", Lênin lại nhấn mạnh: "Mọi báo chí định kỳ và không định kỳ, mọi cơ quan xuất bản đều cần hoàn toàn phục vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.253).


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chính quyền Xôviết đã tổ chức báo chí của mình, tích cực tuyên truyền đường lối cơ bản và phương châm chính sách của Đảng Bônsêvích, đã phát huy vai trò định hướng dư luận xã hội, khai thông mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng. Đồng thời lại tận dụng báo chí cách mạng để triển khai phê phán và tiến công đối với hệ tư tưởng giai cấp tư sản, còn điều tra và đóng cửa các tờ báo của giai cấp tư sản công kích chính quyền Xôviết. Sau khi chiến tranh trong nước kết thúc, đã thành lập một số cơ quan nghiên cứu khoa học và giảng dạy phổ biến và tuyên truyền tư tưởng cộng sản và đào tạo cán bộ ý thức hệ, như trường Đại học Cộng sản (năm 1919), Viện nghiên cứu Mác - Ăngghen (năm 1921), Hội nghiên cứu lịch sử Đảng (năm 1920), Học viện Giáo sư Đỏ (năm 1921), Viện nghiên cứu Lênin (năm 1923), Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông (năm 1921)... Kể từ năm 1919, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga bắt đầu biên soạn cuốn Lênin Toàn tập đầu tiên.


Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhiệm vụ chủ yếu mà Đảng Cộng sản Liên Xô gặp phải trong lĩnh vực ý thức hệ là tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phản kích lại cuộc "chiến tranh tâm lý" do phátxít Hítle tuyên truyền và các quốc gia phương Tây khác triển khai. Đứng trước thế tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, song song với tích tụ thực lực kinh tế, Liên Xô ra sức phát triển các sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và văn học nghệ thuật, thực hiện các chế độ giáo dục miễn phí, khám chữa bệnh miễn phí, nhà ở miễn phí, mức phúc lợi nhân dân được nâng lên mạnh mẽ. Trong lĩnh vực giáo dục tư tưởng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa tích cực vươn lên chiếm địa vị chủ đạo. Nhân dân Liên Xô tin tưởng vào công bằng xã hội, tràn đầy niềm tin đối với cuộc sống tương lai. Đứng trước cuộc chiến tranh tâm lý do phương Tây phát động, Liên Xô đã tổ chức phản kích hữu hiệu. Trong hệ thống quân đội, Mikhain coi công tác chính trị là "'vũ khí bổ sung", bên dưới Tổng cục Chính trị quân đội lập cơ quan ứng phó với chiến tranh tâm lý và Ủy ban tuyên truyền chính trị. Bộ An ninh tình báo do Lavrentiy Beria lãnh đạo cũng rất có thành tích trong mặt trinh sát đối ngoại và chống tuyên truyền. Zhdanov tổ chức mạnh mẽ công tác tuyên truyền, chỉnh đốn cơ quan tuyên truyền trong nước, thống nhất tư tưởng, cũng đặt cơ sở vững chắc cho công tác ý thức hệ sau này1 (Tham khảo [Nga] V.A. Lusìkin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.76-86).


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khói súng chưa tan thì Chiến tranh lạnh đã bắt đầu. Các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ, song song với việc gấp rút tiến hành chạy đua vũ trang, cũng tích cực chuẩn bị chiến tranh tâm lý. Cục Tình báo trung ương Mỹ đi đầu, tuyên bố sẽ "huy động mọi thủ đoạn, bao gồm cả thủ đoạn tinh thần, làm hủy diệt ý chí kẻ địch". Họ chiêu mộ rộng rãi các chuyên gia, học giả ở các bộ môn khoa học, lợi dụng các thủ đoạn tuyên truyền, thăm viếng lẫn nhau, trinh sát, gián điệp..., tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý quy mô lớn đối với Liên Xô; thông qua viện trợ, ủng hộ những "người bất đồng chính kiến"; lợi dụng mâu thuẫn dân tộc, kích động tâm lý bất mãn trong xã hội; tung tin đồn chính trị, bôi nhọ hình tượng của lãnh đạo, tạo ra sự thù hận đối với chế độ Liên Xô, sự mong muốn đối với phương Tây. Ngày 18 tháng 8 năm 1948, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ phê chuẩn lệnh số 20/1 - "Mục đích mà Mỹ cần đạt được đối với quan hệ với Nga". Lệnh này đã vén lên bức màn thực chất là một cuộc chiến tranh kiểu mới, thông tin đã trở thành vũ khí, mục đích là muốn thao túng và thay đổi ý thức xã hội của Liên Xô, khiến cho xã hội Liên Xô hình thành nhận thức giả tạo đối với thế giới bên ngoài, nhằm gây ảnh hưởng hơn nữa tới giới tinh hoa quản lý của Liên Xô.


Sau những năm 50 của thế kỷ XX, cuộc chiến tranh tâm lý của phương Tây đối với Liên Xô được tăng cường hơn nữa. Nhà đương cục Mỹ cho rằng, lĩnh vực ý thức hệ là chiến trường quan trọng để tiến hành chiến tranh với Liên Xô. Mỹ lần lượt thành lập một số viện nghiên cứu lấy Liên Xô và các nước Đông Âu làm đối tượng, một số trường đại học đã lập chương trình giảng dạy chuyên ngành lịch sử và chính trị Liên Xô, Đông Âu, các cố vấn chính sách ngoại giao của Mỹ cũng chuyển trọng điểm quan tâm sang Liên Xô và Hiệp ước Vácsava. Hoạt động nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu khoa học này đã hình thành nên một lĩnh vực đặc thù của khoa học xã hội Mỹ - "Liên Xô học". Điểm khác biệt rõ rệt so với các bộ môn khoa học khác là, "Liên Xô học" của Mỹ có "sắc thái ý thức hệ" rõ ràng, bất luận là nền tảng lý luận tư tưởng, hay là đối tượng và chức năng nghiên cứu, đều thể hiện khuynh hướng chính trị mạnh mẽ. Xét về tổng thể, "Liên Xô học" của Mỹ liên hệ chặt chẽ với chính trị, phát huy ba chức năng trong đấu tranh giữa hai loại chế độ và hai loại ý thức hệ: một là, cung cấp sự hỗ trợ lý luận tư tưởng cho đối kháng Mỹ - Xô và đấu tranh giữa hai loại chế độ xã hội; hai là, trực tiếp phục vụ cho chính sách ngoại giao của Mỹ đối với Liên Xô; ba là, phối hợp với cơ quan tình báo tiến hành chống Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:31:17 am
Các cố vấn của Mỹ và phương Tây cho rằng, chiến tranh tâm lý là vũ khí mạnh mẽ trong đấu tranh với Liên Xô, để giành thắng lợi cần phải "trong ứng ngoài hợp". Vì vậy, họ hết sức quan tâm đến các loại trào lưu tư tưởng và phe phái chính trị xuất hiện bên trong nước, cố gắng thiết lập kênh đối thoại với chúng. Họ hy vọng Liên Xô xuất hiện một thứ "lực lượng bên trong", nhằm thúc đẩy Liên Xô tiến hành "cải tổ" có lợi cho phương Tây. Brzezinski từng nhắc nhở cần quan tâm nhiều hơn tới vấn đề dân tộc của Liên Xô, cho rằng chủ nghĩa dân tộc là lực lượng chính trị lớn mạnh, nếu như Điện Kremli đưa ra nhượng bộ dưới áp lực của ý thức tự giác dân tộc ngày một tăng lên trong các dân tộc ngoài dân tộc Nga, vậy thì cánh cửa lớn đi tới diễn biến hòa bình đã được mở ra. Vì vậy, các chuyên gia phương Tây đề xuất, cần phải phá hoại hệ thống kiểm soát toàn diện của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, đề xướng cạnh tranh chính trị công khai, bảo đảm tự do bầu cử. Họ cho rằng, một khi ánh hào quang của chủ nghĩa cộng sản phai màu, thì sự diệt vong của nó cũng chỉ tính từng ngày.


Những hành động sau khi Gorbachev lên nắm quyền vừa vặn phù hợp với nguyện vọng của các nước phương Tây, thậm chí vượt ra ngoài sự tưởng tượng của phương Tây. Ngày 1 tháng 10 năm 1986, Liên Xô họp Hội nghị chủ nhiệm phòng nghiên cứu giảng dạy khoa học xã hội toàn Liên Xô, tại hội nghị, Gorbachev công khai phê phán trong giảng dạy khoa học xã hội của Liên Xô tồn tại "chủ nghĩa giáo điều và triết học kinh viện", nhấn mạnh cần "cải cách đại cương giảng dạy, viết lại lời giảng mới, đổi mới sách giáo khoa"1 (Gorbachev: Những bài phát biểu về cải tổ (6-1986 - 6-1987), Sđd, tr.99-100). Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 1 năm 1987, Gorbachev lại chỉ tên phê bình các loại khuyết điểm của khoa học xã hội Liên Xô, nói nghiên cứu khoa học xã hội không thích ứng được với yêu cầu của cải tổ và dân chủ hóa. Sau đó, Đảng Cộng sản Liên Xô chủ động mở "van", tự nguyện từ bỏ niềm tin tư tưởng, chắp tay nhường lại trận địa dư luận, phó mặc cho phe đối lập tranh giành. Nguyên lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev nói, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi kinh nghiệm đấu tranh chính trị, đã hơn 40 năm không tiến hành đấu tranh, đã mất đi tính cảnh giác cần có. Như vậy, với sự phó mặc cố ý của Gorbachev và sự phản bội của Yakovlev, Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần mất đi trận địa trong lĩnh vực ý thức hệ, để nhiều nhân vật phe tự do nắm giữ các công cụ dư luận chủ yếu như báo chí. Họ tập hợp và lôi kéo một loạt các cây bút, tuỳ tiện bóp méo lịch sử, công kích ác ý Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhiều người trong đó có Gorbachev và Yakovlev còn khuyến khích một số nhà văn hoặc báo chí mở ra "đột phá khẩu" của ý thức hệ Đảng Cộng sản Liên Xô. A.Rybakov, tác giả cưôn tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat, sau khi vịết thư cho Gorbachev lại gửi tới cả bản thảo sách. Gorbachev xem xong cho rằng, cuốn tiểu thuyết có lợi cho việc loại bỏ những hậu quả của chủ nghĩa cực quyền, vì vậy bất chấp sự phản đối trong Đảng, đích thân chỉ thị cho bên dưới, cho phép xuất bản công khai. Việc quay cảnh phim Sám hối ám chỉ đời sống chính trị thời kỳ Xtalin được tiến hành với sự o bế của Shevardnadze, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Grudia. Sau khi chiếu trong phạm vi hẹp, các nhà nghệ thuật và giới tư tưởng có các cách nhìn khác nhau, kiến nghị trình Bộ Chính trị thảo luận. Gorbachev bày tỏ phản đối rõ ràng, nói cần phải do những người làm công tác điện ảnh, hiệp hội sáng tác tự mình quyết định. Ông ta thậm chí còn hối hận là tại sao mình lại không đọc được tất cả những cái đó khi còn trong trường đại học!1 ([Nga] Gorbachev: Chân tướng và tự bạch - Hồi ký Gorbachev, Sđd, tr.150-151) Bắt đầu từ đầu tháng 12 năm 1986, 15 rạp chiếu phim tại Mátxcơva chiếu bộ phim Sám hối này trong liên tục ba tháng liền. Yakovlev nói, việc công chiếu Sám hối là "khởi đầu của sự tan rã ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa" của Liên Xô2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Vòng xoáy ký ức, Sđd, chú thích ảnh). Vị nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1990 trở thành Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô này từng đích thân tới lên lớp một bài cho Đoàn Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Ông ta nói năng gay gắt, phê phán khoa học xã hội của Liên Xô đầy rẫy những chủ nghĩa giáo điều, đến nay vẫn còn ôm khư khư không rời cách thức cũ rích từ những năm 1930 - 1940. Ông ta kêu gọi những người làm công tác nhân văn và khoa học xã hội của Liên Xô cần dám phê bình, mở rộng đổi tượng phê phán, cho đến khi có thể loại bỏ được tất cả rác rưởi và giải phóng tư duy học giả mới thôi3 (Tham khảo [Nga] A.N.Yakovlev: Vòng xoáy ký ức, Sđd, tr.488).


Năm 1988, Liên Xô xóa bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, Đảng Cộng sản Liên Xô từ bỏ quyền lãnh đạo đối với văn hóa nghệ thuật. Sau đó, danh sách các loại sách được bỏ lệnh cấm ngày càng dài hơn. Sau năm 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô hoàn toàn xóa bỏ lệnh cấm đối với báo chí. Kết quả của việc xóa bỏ lệnh cấm đối với báo chí, một mặt là mất kiểm soát dư luận, mất đi trận địa của Đảng Cộng sản Liên Xô; mặt khác cũng thúc đẩy sản sinh "bong bóng" của một số báo chí cấp tiến. Một số báo chí có lượng phát hành tăng vọt do dựa vào việc vạch rõ lịch sử, tiết lộ những tài liệu "giấu kín". Ví dụ như Tạp chí Tình hữu nghị nhân dân các dân tộc, lượng phát hành năm 1985 chưa tới 120.000 bản, năm 1989 do đăng tiếu thuyết Những đứa con của phố Arbat của Rybakov, lượng phát hành tăng mạnh, lên tới 800.000 bản, năm 1990 còn vượt trên 1 triệu bản. Tạp chí Thế giới mới, lượng phát hành năm 1985 chỉ có 420.000 bản, do đăng Quần đảo Gulag của Solzhenitsyn, lượng phát hành mùa hè năm 1985 tăng lên tới 2,5 triệu bản. Đây vẫn chỉ là những con số thống kê đăng ký, chưa bao gồm số lượng bán lẻ1 (Tham khảo [Pháp] Maria Phililippe: "Sự bấn loạn của ký ức: Nước Nga và chủ nghĩa Xtalin", trích từ website www.polit.ru, ngày 20 tháng 11 năm 2002). Các báo chí khác do "phe dân chủ" nắm giữ, lượng phát hành cũng hết sức đáng kinh ngạc: Tuần báo Con số và sự thực năm 1991 phát hành 24 triệu bản; họa báo Ngọn lửa nhỏ năm 1988 phát hành 1,8 triệu cuốn, năm 1989 phát hành 3,5 triệu cuốn2 (Tham khảo "Kết quả đặt báo chí Trung ương năm 1989", trích từ [Liên Xô] Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô số 1 năm 1989, tr.139), năm 1990 phát hành 7,6 triệu cuốn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:34:32 am
Sáu tháng đầu năm 1990, các loại ấn phẩm "không chính thức" trong lãnh thổ Liên Xô đã lên tới trên một nghìn loại. Ngày 12 tháng 6 năm 1990, Luật xuất bản báo chí Liên Xô chính thức ban hành, khiến cho phe đối lập và tư nhân làm báo được hợp pháp hóa. Văn kiện pháp luật quan trọng này ban hành rất gấp gáp, từ khi dự thảo cho đến ban hành chỉ khoảng một năm. Luật này quy định rõ, cấm tiến hành kiểm duyệt sách báo đối với các phương tiện thông tin đại chúng; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội tập thể lao động, cũng như bất cứ công dân Liên Xô tuổi đủ 18 nào cũng đều có thể có được tư cách đăng ký xuất bản. Dưới sự khuyến khích của Luật xuất bản báo chí, một số đơn vị báo chí tuyên bố "tự chủ làm báo", hoàn toàn thoát ra khỏi sự ràng buộc của Đảng Cộng sản Liên Xô và cơ quan chủ quản. Một số đơn vị báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô hoặc của nhà nước ào ào "độc lập", trở thành ấn phẩm xã hội hoặc do tập thể biên tập viên, phóng viên sở hữu. Ví dụ như tuần báo Con số và sự thực là tờ báo hết sức thịnh hành trong xã hội, lượng phát hành đứng vị trí hàng đầu, tháng 10 năm 1990 sau khi được đăng ký trở lại đã đăng tuyên bố trên trang đầu: Mời độc giả chú ý, Hiệp hội tri thức toàn Liên Xô (tương đương với Hội khoa học), tổ chức vốn được ghi trên đầu báo chúng tôi, nay đã đổi là: do tập thể phóng viên tự tổ chức. Ngoài ra, trước và sau năm 1990, để giành được "tài sản, độc lập và tự do báo chí", biên tập viên và phóng viên báo Tin tức đã hết sức căng thẳng với Xô viết Tối cao Liên Xô mà nó trực thuộc. Kết quả cuối cùng, cơ quan lập pháp tối cao nắm giữ quyền lực và chứng cứ bị thất bại thảm hại, mất đi tờ báo mà mình quản lý trong hơn 70 năm. Từ đó, báo Tin tức biến thành trận địa dư luận của phe cấp tiến, phe tự do, hơn nữa có một dạo bị nguồn vốn nước ngoài kiểm soát. Theo tin đưa, trong các tờ báo đã đăng ký thủ tục, Đảng Cộng sản Nga chỉ nắm 1,5%1 (Tham khảo: Thất bại và bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, 1994, tr.168, 171). Giới trí thức Liên Xô lúc bấy giờ tự trào nói: "Tuy trong bụng trống rỗng, nhưng lại hít lấy không khí 'tự do' đó một cách tham lam, như đói như khát". V. Korotich vốn được tán thưởng do phê phán Mỹ, sau khi trở thành chủ biên của họa báo Ngọn lửa nhỏ, rất nhanh đã biến ấn phẩm này thành trận địa nhục mạ quân đội Liên Xô, bôi nhọ lịch sử, phủ định Xtalin. Sau khi Liên Xô giải thể, ông ta di cư sang Mỹ, được tiếp đón và chào đón long trọng2 (Tham khảo [Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.211). Đồng thời, một số phần tử cấp tiến còn cực lực chen chân vào Đài truyền hình, yêu cầu truyền hình trực tiếp, nhằm tránh bị kiểm soát và biên tập cắt gọt. Trong một thời gian, có rất nhiều thông tin nhằm tung hô lấy lòng, tung tin làm mê hoặc đám đông.


Tình hình lúc đó là, các kiểu phát ngôn, bài viết công kích, lăng mạ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ào ào tung ra, trào lưu tư tưởng chống chủ nghĩa Mác mặc sức tràn lan. Nhiều báo chí, ấn phẩm học thuật và sách báo chụp chiếc mũ "chủ nghĩa cực quyền" cho toàn bộ thời kỳ Liên Xô, bôi nhọ hết thảy. Có người tuyên bố, Chiến tranh thế giới thứ hai là do quân đội Liên Xô dựa vào đội đốc chiến mới giành thắng lợi, bởi vì binh sĩ sợ những viên đạn đến từ phía sau lưng. Có người ngang nhiên nói như đinh đóng cột rằng, từng dùng thi thể để lấp đầy rãnh nước, để quân đội đạp lên đi qua1 (Tham khảo [Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.226). Sau khi lệnh hạn chế báo chí được dỡ bỏ, bị tiền bạc và lợi ích thương mại xui khiến, báo chí ca ngợi tình dục, bạo lực ào ào ra đời. Một số báo chí vốn cần phải nghiêm túc, bao gồm cả một số tờ báo bán chạy ở khu vực Mátxcơva như báo Đoàn viên thanh niên cộng sản Mátxcơva, cũng rớt xuống thành "báo lá cải đầu đường", thường xuyên đăng những nội dung tình dục, loạn luân nhằm thu hút độc giả. Tiếng nói trên phương tiện thông tin đại chúng và trong xã hội yêu cầu mở nhà chứa và hợp pháp hóa mại dâm xuất hiện đó đây, có người thậm chí công khai kiến nghị thành phố Mátxcơva dành riêng một tuyên phố gọi là "khu đèn đỏ". Dưới ảnh hưởng của thị trường và cám dỗ vật chất, báo chí, truyền hình, phát thanh cũng như nhà xuất bản đua nhau theo đuổi lợi nhuận, không những quên đi trách nhiệm chính trị, thậm chí mất đi cả lương tâm xã hội. Các tác phẩm học thuật nghiêm túc của thời kỳ Liên Xô gần như vắng bóng, chỉ có thế dựa vào in ấn nội bộ để trao đổi trong phạm vi hẹp.


Lúc đó, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô như Gorbachev một mặt hai tay dâng nhường trận địa dư luận tư tưởng, mặt khác lại biến một số báo chí có tính toàn quốc và nhà xuất bản cấp Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thành công cụ tuyên truyền tư tưởng phản bội của mình. Ví dụ, tờ Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được xuất bản nhằm phối hợp với phong trào "công khai" do Gorbachev đích thân giữ chức chủ biên. Một ấn phẩm quan trọng như vậy, nhưng lại có ý né tránh những vấn đề cuộc sống hiện thực, nhiệt thành với việc bới móc vấn đề Xtalin, những bài viết bôi nhọ và xét lại lịch sử Liên Xô có lúc chiếm tới 2/3 khổ báo. Thế là, trong Đảng Cộng sản Liên Xô từ trên xuống dưới nhân khi mở cửa dư luận, đã mở toang cánh cửa tư tưởng, và công cụ dư luận báo chí ở cấp Trung ương Liên Xô đã đóng vai trò tiên phong đi đầu trong đó.


Không những thế Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô và Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô về sau truyền hình trực tiếp toàn bộ quá trình cũng trở thành vũ đài quan trọng tuyên truyền tư tưởng của phe đối lập. Mùa xuân năm 1989, các địa phương trên toàn Liên Xô tiến hành bầu cử cạnh tranh đại biểu nhân dân. Đối với phe đối lập với Đảng Cộng sản Liên Xô mà nói, hoạt động tranh cử lúc này có thể nói là cơ hội trời cho, không những có được cơ hội chạm tới quyền lực, mà còn có thể phê phán Đảng Cộng sản Liên Xô một cách hợp pháp, tuyên truyền bản thân, sau này thậm chí còn có thể bước lên diễn đàn nghị viện tối cao, thông qua truyền hình trực tiếp đem tiếng nói của mình truyền đi toàn quốc. Hoạt động tranh cử đại biểu nhân dân trên thực tế là tạo dựng sân chơi cho phe đối lập mặc sức tuyên truyền công khai, trận địa dư luận của Đảng Cộng sản Liên Xô bị o ép hơn nữa. Trong khi đó, xung quanh phe cấp tiến tập hợp các nhóm tranh cử lớn mạnh, tiến hành thiết kế kỹ càng cho diễn thuyết tranh cử. Họ đón lấy tâm lý của dân chúng, lựa chọn những vấn đề mà dân chúng quan tâm nhất, bất mãn nhất đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, đề ra và trình bày chủ trương "cải tổ" của mình. Họ lợi dụng các kiểu diễn đàn, dùng những bài diễn thuyết giàu tính cổ động để đánh vào những sai lầm của Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời lại vẽ ra một bức tranh tốt đẹp mê hoặc lòng người cho cương lĩnh cải tổ cấp tiến. Họ hô to "chống đặc quyền Đảng Cộng sản Liên Xô", thực hiện "công bằng xã hội"; tiến hành cải cách kinh tế cấp tiến, nhanh chóng nâng cao mức sống; tấn công tham nhũng, xây dựng "nhà nước pháp quyền", v.v... Trong tình hình đó, ai phê phán nhà đương quyền càng nhiều, châm biếm chỉ trích càng gay gắt, thì sự bảo đảm bầu cử thành công sẽ càng lớn; tất cả những người chán ghét Đảng Cộng sản, bất luận là ai, đều chắc chắn là anh hùng, là nhân sĩ dân chủ. Một số phần tử bất đồng chính kiến của Đảng Cộng sản Liên Xô nhân cơ hội thay đổi thái độ, bước lên ngọn sóng "tự do hóa", phất tay hô một tiếng, giành được sự tín nhiệm và sùng bái gần như cuồng nhiệt của dân chúng mê muội.


Những kẻ phản nghịch của Đảng Cộng sản Liên Xô trước tiên là cố ý dâng nhường trận địa ý thức hệ, tạo cơ hội cho phe đối lập tuyên truyền và truyền bá quan điểm của mình, về sau thấy thế lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất, họ liền thừa cơ vứt bỏ đi thẻ Đảng của mình, quên đi lời tuyên thệ của mình, thay đổi lập trường, trở giáo đánh lại. Tháng 1 năm 1990, khi nói chuyện với Yakovlev, chủ biên tờ tuần báo Tin tức Mátxcơva, Yeltsin tuyên bố, vấn đề không phải ở chỗ chủ nghĩa gì, vấn đề là ở chỗ thực chất, ở chỗ nhân quyền, ở chỗ tự do bầu cử. Ông ta còn tuyên bố, "đối với tôi mà nói, chủ nghĩa cộng sản là một cái gì đó xa rời hiện thực"1 ([Nga] B. Yeltsin: Yeltsin tự truyện, Nxb. Phương Đông, 1991, tr.235). Trong quá trình tranh giành quyền lực với Gorbachev, Yeltsin hoàn toàn vứt bỏ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vứt bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Mùa hè năm 1991, Yeltsin, nhà lãnh đạo tối cao Liên bang Nga vừa mới đắc cử đã phát biểu diễn thuyết trước sinh viên Đại học New York: Nga đã đưa ra lựa chọn cuối cùng của mình. Nga sẽ không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, sẽ không đi theo con đường cộng sản chủ nghĩa, nó sẽ đi theo con đường văn minh mà Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và các quốc gia văn minh phương Tây khác đã từng đi.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:37:33 am
III. VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản cần phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm chỉ đạo, tiến hành đấu tranh kiên quyết với các loại tư tưởng của giai cấp tư sản, đồng thời lại cần phân tích cụ thể đối với tình hình cụ thể, phân biệt đối xử, phân chia rõ hai loại mâu thuẫn có tính chất khác nhau, không thể coi vấn đề nhận thức tư tưởng trong nội bộ nhân dân là mâu thuẫn địch - ta để xử lý; cũng không thể coi mâu thuẫn có tính chất địch - ta nghiêm túc là vấn đề nhận thức tư tưởng thông thường. Công tác ý thức hệ còn cần chú ý tới phương thức, phương pháp, cần bám sát quần chúng, tiến hành công tác giáo dục tư tưởng sâu sắc, tỉ mỉ, tuyệt đối tránh thuyết giáo sáo rỗng một cách giáo điều, hình thức và xa rời cuộc sống hiện thực. Sai lầm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong mặt này đáng để mọi người lấy đó làm bài học.


1. Nhìn nhận đúng đắn hai vấn đề mâu thuẫn có tính chất khác nhau

Chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài, thực tiễn xã hội chủ nghĩa của Liên Xô được tiến hành trong môi trường quốc tế và trong nước phức tạp, trong đó khó tránh khỏi xuất hiện một số ý kiến khác nhau hoặc lực lượng bất đồng chính kiến. Làm thế nào để phát hiện, phân biệt chuẩn xác và xử lý những ý kiến khác nhau hoặc tiếng nói đối địch này là một vấn đề quan trọng đặt ra lâu dài trong công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chỉ có phân biệt hai mâu thuẫn có tính chất khác nhau, tiến hành đấu tranh kiên quyết với các phần tử đối địch và lý luận tư tưởng chống chủ nghĩa Mác, còn đối với ý kiến khác nhau trong nội bộ nhân dân và các tác phẩm văn học nghệ thuật theo phong cách khác nhau thì cho phép tồn tại và đăng, đề xướng "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", đây mới là phương châm đúng đắn để Đảng Cộng sản xử lý vấn đề ý thức hệ.


Trong mấy chục năm, Đảng Cộng sản Liên Xô kiên trì giáo dục chủ nghĩa cộng sản trong lĩnh vực ý thức hệ, kiên quyết chống tự do hóa tư sản, ra sức tấn công các loại tuyên truyền chống Liên Xô, chống cộng sản trong và ngoài nước, thu được nhiều thành tích. Thế nhưng, công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng tồn tại vấn đề nghiêm trọng. Xuất phát từ lý luận đấu tranh giai cấp ngày một gay gắt, Đảng Cộng sản Liên Xô nhấn mạnh "sự thống nhất về chính trị về đạo nghĩa" của xã hội xã hội chủ nghĩa, không cho phép có bất kỳ cách nhìn và ý kiến khác nhau nào đối với chính sách cụ thể của Đảng, áp chế các ý kiến khác, thậm chí coi một số vấn đề tư tưởng là vấn đề chính trị để xử lý, dùng phương pháp đấu tranh với kẻ thù để xử lý mâu thuẫn nội bộ nhân dân, từ đó phạm phải sai lầm nghiêm trọng.


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản Liên Xô phát động một loạt phong trào "phê phán mạnh" ở trong nước. Năm 1946, bắt đầu từ phê phán hai tạp chí Ngôi sao và Lêningrát, tiến hành thảo luận lớn trong giới văn học, kịch và điện ảnh, triển khai phê phán mạnh đối với nhà văn Mikhail Zoshchenko, nhà thơ Anna Akhmatova. Năm 1947, tiến hành "thảo luận học thuật" xoay quanh cuốn sách Lịch sử triết học Tây Âu, triển khai phê phán mạnh đối với nhà triết học Alexandra. Năm 1948, triển khai phê phán mạnh đối với nhà soạn nhạc Shostakovich và cái gọi là "âm nhạc hình thức chủ nghĩa" của ông. Cùng năm, còn phát động phong trào phê phán mạnh chống "chủ nghĩa thế giới tư sản" có thanh thế lớn mạnh trong giới văn học. Sau đó, năm 1950 và năm 1951 lại liên tục triển khai thảo luận lớn và phê phán mạnh trong lĩnh vực ngôn ngữ học và kinh tế chính trị học. Một số bộ môn khoa học mới như chính trị học, xã hội học bị coi là những thứ của giai cấp tư sản, cũng đều bị phê phán và cấm đoán. Đảng Cộng sản Liên Xô thậm chí trực tiếp can thiệp vào một số bộ môn khoa học tự nhiên, như trong thảo luận về sinh vật học được tiến hành năm 1948, đã ra sức phê phán và phủ định phái di truyền học Morgan, tuyên bố trường phái học thuật Morgan là "khoa học phản động của chủ nghĩa duy tâm" và tiến hành bóp chết, quy định các bộ môn khoa học như giải phẫu học, vi sinh vật học, tâm lý học đều cần phải lấy học thuyết Michurin làm nền tảng, chỉ cho phép trường phái học thuật Michurin một mình tồn tại. Các loại "thảo luận học thuật" nói trên trên thực tế đều tồn tại vấn đề đúng sai nhất định, quả thực cần tiến hành phê phán, nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô đã nâng vấn đề học thuật, trường phái khác nhau và vấn đề phong cách khác nhau lên thành vấn đề chính trị, lẫn lộn ranh giới giữa vấn đề học thuật và vấn đề chính trị. Còn về phía bị phê phán thì hoàn toàn không có quyền tiến hành biện giải. Nhiều cán bộ và trí thức song song với việc bị phê phán nghiêm khắc, còn bị buộc phải chịu xử lý hành chính và xử lý tổ chức, thậm chí bị tuyên bố là "kẻ thù của nhân dân" và bị "gột rửa", từ đó làm tổn thương một loạt trí thức, đẩy một số trí thức có ý kiến và quan điểm khác sang phía đối lập chính trị.


Phương pháp công tác trong lĩnh vực văn hóa và khoa học của Đảng Cộng sản Liên Xô đơn giản, thô bạo, thường lấy cưỡng chế, mệnh lệnh hành chính để giải quyết các vần đề trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, không những không thể giải quyết vấn đề, ngược lại gây ra vấn đề và mâu thuẫn mới. Về mặt nàỵ, "ấn phẩm chui", "người bất đồng chính kiến" và các tổ chức không chính thức chính là ba ví dụ quan trọng.


Thứ nhất, "ấn phẩm chui". "Ấn phẩm chui" của Liên Xô là chỉ "ấn phẩm in ấn riêng tư", tiếng Nga gọi là "Samizdat", có nghĩa là "tự mình xuất bản". Lâu nay, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện chế độ kiểm duyệt sách báo nghiêm ngặt, khiến cho các thế lực thù địch rất khó đưa ra những tiếng nói của mình. Thế nên, một số người liền nghĩ ra cách tạo ra những "ấn phẩm chui". Cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, phóng viên báo Đoàn viên thanh niên cộng sản Mátxcơva A. Ginzburg đã thu thập và biên tập một số thơ ca của các nhà thơ hai vùng Mátxcơva và Lêningrát, và dùng máy chữ đánh in ra, bí mật đóng tập, tiến hành truyền bá. Nội dung của những bài thơ này chủ yếu phản ánh những vấn đề của thời kỳ Xtalin, như bức hại và trại tập trung..., cứ hai tháng xuất bản một số sau khi in ấn xong bí mật truyền bá.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:38:21 am
Cần chỉ ra rằng, các cơ quan hữu quan của Liên Xô đã tiến hành giám sát hiệu quả đối với "ấn phẩm chui". Đến năm 1965, theo báo cáo bí mật của Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô (tức KGB), có 35- 40 người làm in ấn các ấn phẩm chui, trong đó có nhân viên nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm khoa học, có nhân viên công tác của Viện bảo tàng, có kỹ sư, cũng có người làm công tác văn hóa. Năm 1967, KGB trình bản báo cáo tuyệt mật về tình hình ấn phẩm chui cho Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, nhưng Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô không đưa nó vào chương trình nghị sự, chỉ đề nghị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô phụ trách ý thức hệ lúc đó là Xuxlov và chủ tịch KGB Semichastry tham khảo và nghiên cứu. Tháng 2 năm 1969, trong bản ghi nhớ gửi Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô của Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia Liên Xô, Andropov đã miêu tả khuynh hướng tư tưởng của "ấn phẩm chui": "Trong những tài liệu này, khuyết điểm cá biệt của xây dựng chủ nghĩa cộng sản bị thể hiện như hiện tượng phổ biến, bóp méo lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xôviết, thể hiện những ý kiến khác với Đảng và chính quyền trong các mặt như: vấn đề dân tộc, giải pháp phát triển kinh tế và văn hóa, tuyên truyền các loại lý luận chủ nghĩa cơ hội 'cải lương' chủ nghĩa xã hội Liên Xô, đưa ra yêu cầu xóa bỏ kiểm duyệt sách báo, yêu cầu phục hồi danh dự cho những người bị xử là có tội vì tiến hành tuyên truyền chống Liên Xô, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp Liên Xô"1 ([Nga] Goryayev: Lịch sử kiểm duyệt sách báo mang tính chính trị của Liên Xô: Văn kiện và đánh giá, Mátxcơva, 1997, tr.191).


Đến những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với việc tình hình trong và ngoài nước dịu đi, đặc biệt là dưới sự ủng hộ của thế lực chống Liên Xô của phương Tây, số người trực tiếp làm "ấn phẩm chui" trong lãnh thổ Liên Xô đã lên tới 400 người. Nội dung của các ấn phẩm cũng từ truyền bá một số thơ ca và tác phẩm văn nghệ bị cấm, biến thành đăng những tài liệu có tính phê phán chính trị và xã hội. Lấy một số "ấn phẩm chui" bí mật ở Mátxcơva làm trung tâm, (họ) còn bắt đầu hình thành tổ chức "phong trào tự do dân chủ". "Ấn phẩm chui" lúc này cũng ảnh hưởng tới các nước Đông Âu, như: Tiệp Khắc, Ba Lan..., và thu hút sự chú ý rộng rãi của xã hội phương Tâỵ. Đồng thời, một số bản thảo hoặc sách báo được lén lút vận chuyển ra ngoài lãnh thổ Liên Xô, in ấn tại phương Tây, sau đó lưu truyền trong kiều dân Liên Xô, hoặc vận chuyển trở lại về Liên Xô để truyền bá. Những ấn phẩm đó tương tự như "Samizdat", dịch là "ấn phẩm xuất bản tại nước ngoài". Thời kỳ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, Đài châu Âu tự do bắt đầu thu thập và lợi dựng những "ấn phẩm chui" của Liên Xô làm chương trình phát thanh tiếng Nga chống Liên Xô.


Thứ hai, "người bất đồng chính kiến". Trong tiếng Nga có hai từ gần giống để diễn đạt ý "người bất đồng chính kiến". Một là "инакомыслие" hoặc "инакомыслящий", dịch thẳng là "tư tưởng bất đồng", "người có tư tưởng bất đồng"; hai là mượn từ "dissident" trong tiếng Anh dịch chuyển thành "лиссилент", dùng để diễn đạt "người bất đồng chính kiến". Trong cuốn sách này, tác giả thống nhất sử dụng cách đề cập "người bất đồng chính kiến". "Người bất đồng chính kiến" là một hiện tượng văn hóa, chính trị, xã hội độc đáo trong xã hội Liên Xô, hiện tượng này bắt đầu xuất hiện từ thời kỳ Khrushchev. Sau khi Khrushchev lên nắm quyền, đã "sửa sai" cho những người bị xử lý và bức hại trong thời kỳ Xtalin, khiến cho hàng ngàn, hàng vạn người được khôi phục danh dự, quay trở lại đời sống xã hội. Những người được sửa sai này đã nói lại cho mọi người về các kiểu đối xử bất công mà mình phải gánh chịu, từ đó ảnh hưởng tới niềm tin tư tưởng của nhiều người, phá hỏng quan niệm chủ nghĩa xã hội mãi mãi đúng đắn vốn có trong suy nghĩ của mọi người, làm xuất hiện sự hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Thế nên xuất hiện một số "người bất đồng chính kiến", nhưng khi đó số người này còn chưa nhiều, ảnh hưởng thực tế cũng không lớn. "Người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô phát triển lớn mạnh lên trong thời kỳ Brezhnev. Bắt đầu từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, hoạt động của những "người bất đồng chính kiến" của Liên Xô đã trải qua mấy giai đoạn như: nhóm bí mật, bước ra diễu hành, xuất bản ấn phẩm chui, lưu vong ra nước ngoài, tham gia phong trào nhân quyền...


Khuynh hướng chính trị và quan điểm tư tưởng của "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô hết sức phức tạp, phương thức hoạt động có nhiều loại hình, bên trong mỗi một loại hình lại có nhiều tình huống khác nhau. Một số "người bất đồng chính kiến" gắn với bảo vệ nhân quyền, phủ định mô hình Liên Xô, tuyên dương giá trị quan phương Tây; một số "người bất đồng chính kiến" chủ yếu tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc truyền thống của Nga; một số "người bất đồng chính kiến" khác lại tuyên truyền quan điểm tư tưởng chống chủ nghĩa Mác, chống chủ nghĩa xã hội. Cũng có số ít trí thức chỉ là do có sự khác biệt với lập trường chính quyền mà đưa ra phê phán đối với những vấn đề tồn tại trong các mặt thể chế, phương châm, chính sách của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô, vẫn chưa đáng để gọi là "bất đồng chính kiến". Còn có một số "người bất đồng chính kiến" lúc đó thậm chí đến nay vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác, ủng hộ chủ nghĩa xã hội1 (Tham khảo Trương Tiệp: Nhà văn Nga hôm qua và hôm nay, Nxb. Văn liên Trung Quốc, 2000; Lưu Quân: "Bài học đau đớn của hành vi kích động phiến diện", Nghiên cứu Siberia, số 5 năm 2003; Vương Thủ Tuyên, Ngô Ba: "Chúng ta đã mất gì, chúng ta đã được gì", Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, số 5 năm 2001). Những người này thuộc lực lượng lành mạnh đặc thù trong số "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô. Họ dám thẳng thắn phê phán những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô, do đó bị đối xử bất công. Như nhà bình luận chính trị, nhà sử học Roy Medvedev do có cách nhìn chính trị khác với chính quyền, xuất bản sách tại phương Tây, nên bị khai trừ khỏi Đảng, bị bức hại. Sau sự kiện "19 tháng 8" năm 1991, Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động, tâm lý chống cộng trong xã hội dâng cao, hàng loạt nguyên quan chức cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô ào ào quay ngoắt lại, thay đổi quan điểm, vạch rõ ranh giới với Đảng Cộng sản Liên Xô. Còn lúc này Medvedev lại triển khai đấu tranh nhằm giành quyền sinh tồn của Đảng Cộng sản, và tích cực tổ chức chính đảng cánh tả.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:40:01 am
Thế nhưng, chính quyền Brezhnev của Liên Xô lại không có sự phân biệt đối xử nghiêm khắc đối với "người bất đồng ý kiến" và "người bất đồng chính kiến", mà xóa bỏ và trấn áp đồng loạt, làm như vậy có thể giải quyết được vấn đề nhất thời, quét sạch những tiếng ồn và tạp âm nào đó, loại bỏ được một số nhân tố không yên tâm, nhưng thiếu sự đấu tranh lý luận sâu sắc, tỉ mỉ, ảnh hưởng mặt trái của nó cũng rất lớn. Ví dụ, A. Xinliavxki và Daniel Iu. M bị KGB bắt giữ do xuất bản tác phẩm có tính phê phán ở nước ngoài. Gần như đồng thời, Chủ biên báo Sự thật Rumiantsev A. M cũng bị cách chức, nguyên nhân là do ông ta đã cho đăng bài viết "Bàn về tính Đảng trong lao động sáng tạo của trí thức", đưa ra ý kiến cần xử lý tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với trí thức, nhấn mạnh cần chống "mệnh lệnh hành chính thô bạo" và "giám sát phiền phức" trong sáng tác nghệ thuật, chủ trương "để các loại trào lưu học thuật, phong cách, thể loại (khác nhau cùng) tồn tại, để họ tiến hành cạnh tranh"1 (Báo Sự thật, ngày 9 tháng 9 năm 1965). Giới trí thức Liên Xô có phản ứng mạnh mẽ trước việc Rumiantsev A. M bị cách chức và sự kiện A. Xinliavxki và Daniel Iu. M bị bắt. Gần 200 nhà văn viết đơn ký tên, kháng nghị việc bắt giữ và xét xử đối với A. Xinliavxki và Daniel Iu. M. Ngày 5 tháng 12 năm 1965, Ngày Hiến pháp Liên Xô, một số người tổ chức diễu hành, yêu cầu tiến hành xét xử công khai đối với hai người này. Sau đó, một số người, trong đó có Ginzburg A. và Iu. Galanxkov đã biên tập những tài liệu liên quan tới vụ án xét xử A. Xinliavxki và Daniel Iu. M. thành "sách trắng", tự in ấn và tiến hành tán phát. Kết quả, hai người này cũng như Beralashkova và A. A. Dobrovolxky lập tức bị bắt giữ vào năm 1967. Hành động này lại khơi dậy phong trào ký tên kháng nghị với quy mô càng lớn hơn của giới trí thức, số người ký tên lên tới 738 người2 (Tham khảo "Liên Xô có thể tồn tại đến năm 1984 không?", họa báo Ngọn lửa nhỏ, số 9 năm 1990, tr.19). Ngày 21 tháng 1 năm 1968, có hơn 100 người tiến hành míttinh tại Quảng trường Puskin, diễu hành trước nhà đương cục, trong đó có người từng bị bắt và bị xét xử. Mỗi lần họ bị bắt, bị xét xử là kéo theo một đợt hoạt động ký tên kháng nghị mới rộng lớn hơn, sự trấn áp nghiêm của chính quyền chỉ dẫn tới kháng nghị ở quy mô lớn hơn, rộng hơn, tiếp đến ngày càng có nhiều trí thức cuốn vào sự kiện này. Theo thống kê, trong vụ án "Ginzburg - Galanxkov", có tới 22% số người ký tên trên thư kháng nghị tập thể và cá nhân các loại là nghệ sĩ và nhà văn, 13% là kỹ sư và nhân viên kỹ thuật, 9% là nhà biên tập, giáo viên, bác sĩ và luật sư, 5% là sinh viên đại học, ngoài ra còn có một số nhà khoa học và cán bộ nghiên cứu khoa học.


Những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với sự thay đổi của tình hình trong và ngoài nước, hoạt động của những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô xuất hiện chiều hướng mới. Tháng 8 năm 1975, 35 nước trong đó có Mỹ, Liên Xô đã ký kết "Văn kiện cuối cùng Hội nghị An ninh châu Âu" tại Hội nghị An ninh và hợp tác châu Âu, còn gọi là "Hiệp định Henxinki". Văn kiện quy định "tất cả biên giới của châu Âu đều bất khả xâm phạm", Liên Xô nhờ đó mà có được sự thừa nhận chính thức của các quốc gia Âu Mỹ đối với biên giới Đông Âu sau chiến tranh. Thế nhưng, Hiệp định đã ghi rõ nội dung bảo vệ quyền lợi chính trị và quyền lợi công dân, quy định tất cả những nước ký kết đều có nghĩa vụ cho phép nhân dân, tư tưởng và thương mại giữa phương Đông và phương Tây giao lưu và qua lại một cách tự do hơn. Điều này đã mở ra cánh cửa thuận lợi cho các nước phương Tây can thiệp vào phong trào của những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô. Các học giả chỉ ra rằng, việc ký kết Hiệp định Henxinkỉ tháng 8 năm 1975 là "một sai lầm mang tính chiến lược" mà Ban lãnh đạo Liên Xô phạm phải trong cuộc đấu tranh với những "người bất đồng chính kiến", từ đó về sau, các nhà phê phán nhân quyền trong và ngoài Liên Xô đều có thể chỉ trích một cách nghiêm khắc việc Liên Xô phá hoại Hiệp ước quốc tế mà mình đã tự nguyện ký kết. Vì vậy có thể nói, việc ký kết Hiệp định này đã có tác dụng thúc đẩy đối với phong trào của những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Những "người bất đồng chính kiến" cũ và mới trong lãnh thổ Liên Xô bắt đầu quan tâm tới vấn đề nhân quyền, và thông qua các hình thức như thành lập tổ chức nhân quyền để có được liên hệ với nước ngoài, có được sự hưởng ứng và ủng hộ của phương Tây. Ngay từ năm 1970, Liên Xô đã thành lập Ủy ban nhân quyền có các nhân vật như Solzhenitsyn, Sakharov... tham gia. Năm 1973, Tổ chức ân xá quốc tế thành lập chi nhánh tại Liên Xô. Năm 1974, tiếp sau việc Solzhenitsyn được tặng giải thưởng Nobel văn học năm 1970, Sakharov được tặng giải thưởng Nobel hòa bình. Sau năm 1975, Liên Xô xuất hiện một số "nhóm Henxinki", các tổ chức nhân quyền trong lãnh thổ Liên Xô được trong ứng ngoài hợp với bên ngoài, một số "người bất đồng chính kiến" trở thành trung tâm chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây, và có được các danh hiệu thế giới. Xuất phát từ các loại mục đích, phương Tây bắt đầu tiến hành tài trợ cho những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô. Một số "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô và Đông Âu bắt đầu nhận được trợ cấp, và thường xuyên nhận được khen thưởng các loại, trong đó bao gồm cả tiền giải thưởng Nobel. Một số nhà văn hoặc trí thức Liên Xô như Pasternak, Brodsky, Solzhenitsyn, Sakharov... lần lượt được tặng giải thưởng Nobel. Chính quyền Liên Xô đã có những lúc dùng phương pháp đơn giản, thô bạo để xử lý vấn đề "người bất đồng chính kiến": thường là: trước tiên - giam giữ, sau - phóng thích, cuối cùng - trục xuất. Có khi việc bé xé là to, có khi mất công mà chẳng được việc gì, không những không giải quyết được vấn đề mà còn làm rối tung lên, kết quả là khiến cho một số "người bất đồng chính kiến" nổi danh khắp Liên Xô và thế giới1 (Tham khảo [Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.162-163).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:40:56 am
Cần chỉ ra rằng, sự ủng hộ của các thế lực bên ngoài, đặc biệt là sự thẩm thấu tư tưởng của các nước phương Tây, cũng là một nguyên nhân quan trọng của việc phong trào "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô liên tục không dứt. Các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ, chưa bao giờ từ bỏ thúc đẩy sách lược "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô, họ một mặt lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền tư tưởng của giai cấp tư sản tới công chúng Liên Xô, bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô; mặt khác, lại bằng trăm phương ngàn kế tìm kiếm những người bất đồng chính kiến với chính phủ ở bên trong Liên Xô, tiến hành ủng hộ nhiều mặt cho họ. Phương Tây thường lợi dụng cái gọi là vấn đề người Do Thái, vấn đề dân tộc thiểu số, vấn đề tôn giáo, vấn đề nhân quyền để công kích Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1953, Ngoại trưởng Mỹ Dulles đầu tiên đưa ra chiến lược này, chỉ ra: "Giải phóng không có nghĩa là chiến tranh giải phóng. Giải phóng có thể dùng các phương pháp khác ngoài chiến tranh để đạt được... Nó cần phải là, hơn nữa có khả năng là phương pháp hòa bình"1 (Chuyển dẫn từ Giang Lưu, Trần Chi Hoa (chủ biên): Suy nghĩ lịch sử về diễn biến của Liên Xô, Nxb. Trung Quốc, 1996, tr.322). Tổng thống Mỹ Kennedy lên nắm quyền vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX nêu rõ "chiến lược hòa bình", cần "bồi dưỡng những hạt giống tự do trên bất kỳ khe nứt nào xuất hiện trên bức màn sắt", và "thông qua viện trợ, thương mại, du lịch, sự nghiệp báo chí, giao lưu sinh viên và giáo viên, cũng như tiền vốn và kỹ thuật của chúng ta", để thực hiện mục tiêu "chiến lược hòa bình" của mình2 (Chuyển dẫn từ Cuộc cạnh tranh xuyên thế kỷ - 10 điều bàn về chống 'diễn biến hòa bình', Nxb. Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, 1992, tr.35). Các nước phương Tây rót các khoản tiền khổng lồ, tiến hành cuộc tiến công về tư tưởng đối với Liên Xô bằng nhiều thủ đoạn, thiết lập mối liên hệ với giới trí thức Liên Xô, tiến hành các loại giao lưu, bồi dưỡng các nhóm xã hội thân phương Tây, truyền bá giá trị quan phương Tây cho họ, ủng hộ họ đối lập với chính quyền, tài trợ cho họ xuất bản tác phẩm tại phương Tây, và cung cấp tị nạn chính trị cho họ. Phong trào "người bất đồng chính kiến" trong lãnh thổ Liên Xô được sự ủng hộ của dư luận Mỹ và các nhà "Liên Xô học". Đại sứ Liên Xô tại Mỹ Anatoly Dobrynin từng phàn nàn: "Vấn đề người bất đồng chính kiến không ngừng làm tổn hại quan hệ của chúng ta... Họ thỉnh thoảng lại tung ra chiêu bài này nhằm mục đích tuyên truyền. Xét xử những người bất đồng chính kiến ở Liên Xô gây ảnh hưởng mặt trái nghiêm trọng cho dư luận công chúng Mỹ và quan hệ Xô - Mỹ... Phương Tây xoay quanh phong trào của người bất đồng chính kiến là một cuộc đấu tranh ý thức hệ nhằm lật đổ Liên Xô"1 ([Nga] Anatoly Dobrynin: Đặc biệt tin cậy, Nxb. Tri thức thế giới, 1996, tr.566). Sau khi "Hiệp định Henxinki" ký kết năm 1975, các nước phương Tây lợi dụng các điều khoản quy định trong Hiệp định, tiến hành ủng hộ từ nhiều phía đối với người bất đồng chính kiến ở Liên Xô, sự ủng hộ này có cả vật chất và tiền bạc, cũng có cả "vinh dự" và có tính chất lên tiếng ủng hộ. Trong cuốn sách Thất bại lớn, Brzezinski chỉ ra, giao lưu văn hóa, khoa học kỹ thuật và kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa có thể thúc đẩy xã hội dân sự độc lập xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa, giúp đẩy nhanh tốc độ cải tổ dân chủ, khiến cho các nước xã hội chủ nghĩa hội nhập với xã hội tư bản chủ nghĩa nhanh hơn. Vì vậy, Mỹ luôn khuyến khích triển khai giao lưu văn hóa và khoa học với các nước xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức như Quỹ Tradition, Quỹ Ford, Quỹ Rockefeller, Quỹ Carnegie, "Xã hội mở" có vai trò đặc biệt nổi bật trong mặt này. Thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa và học thuật này khiến cho nhiều người trong xã hội Liên Xô, nhất là một số trí thức nổi tiếng có cảm giác thừa nhận mạnh mẽ đối với phương thức xã hội, phát triển kỹ thuật và văn hóa của phương Tây1 (Tham khảo David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.94). Nhưng xét về tổng thể, do biện pháp của chính quyền mạnh mẽ, đến thời kỳ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động của những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô dần dần suy yếu. Andropov nhiều năm phụ trách vấn đề an ninh quốc gia, từng nói: ảnh hưởng đến an ninh xã hội trước tiên là vấn đề dân tộc, còn vấn đề "người bất đồng chính kiến" đã nằm trong sự kiểm soát của chúng tôi.


Nhưng đến thời kỳ Gorbachev "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô lại sôi động lên, chính quyền Liên Xô không những đã khôi phục danh dự cho họ, mà còn khuyến khích và ủng hộ họ tham gia vào các hoạt động chính trị. Sakharov chính là một điển hình. Người này thường xuyên gặp phóng viên phương Tây vào thời kỳ sau Brezhnev cầm quyền, hơn nữa công khai phản đối quân đội Liên Xô đưa quân vào Ápganixtan, vì vậy đầu năm 1980 bị chính quyền Liên Xô cưỡng chế chuyển tới thành phố Gorki cư trú. Ngày 16 tháng 12 năm 1986, Gorbachev - mới lên nắm quyền không lâu - đã đột nhiên đích thân gọi điện thoại cho Sakharov, mời ông ta quay trở lại Mátxcơva cư trú, và bố trí cho ông ta hai ngôi nhà và biệt thự. Chính quyền Liên Xô còn đáp ứng yêu cầu của Sakharov, ân xá và phóng thích nhiều "người bất đồng chính kiến" khác. Gorbachev không những khuyến khích Sakharov tham gia vào các hoạt động chính trị, thậm chí còn có sự chiếu cố đặc biệt đối với ông ta. Khi bầu cử đại biểu nhân dân Liên Xô vào tháng 3 năm 1989, Sakharov bị nhiều người phản đối tại Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, do đó thất cử. Gorbachev ngay lập tức tăng thêm mấy suất cho Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, khiến cho Sakharov cuối cùng có thể được bầu. Về sau, Sakharov và Yeltsin đã liên minh với gần 300 nghị sĩ trong Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô, thành lập "Đoàn nghị sĩ xuyên khu vực", trở thành nhóm đảng đối lập mạnh chống Đảng Cộng sản Liên Xô. Như vậy, phong trào "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô đã được công khai hóa và hợp pháp hóa. Lúc này, tầng lớp đặc quyền quan liêu của Liên Xô đã không còn bài xích giới tinh hoa xã hội thân phương Tây nữa, mà đã hòa chung một dòng chảy với họ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 04 Tháng Ba, 2022, 09:41:46 am
Thứ ba, "tổ chức không chính thức". Sau khi Gorbachev lên nắm quyền, cùng với việc thúc đẩy phong trào "công khai" và "dân chủ hóa", Liên Xô lại xuất hiện vấn đề "tổ chức không chính thức". Những "tổ chức không chính thức" này chỉ qua thời gian 3-4 năm ngắn ngủi đã lan tràn khắp nơi như nấm sau mưa, trở nên không thể thu hồi lại được, cuối cùng gây ra họa lớn. Theo báo chí Liên Xô đưa tin, tháng 12 năm 1987 có 30.000 kiểu "tổ chức không chính thức" này, tháng 2 năm 1989 tăng lên tới 60.000 tổ chức, năm 1990 phát triển lên tới 90.000 tổ chức. Trong số này, có nhiều tổ chức chính trị chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, chúng có cương lĩnh, có tổ chức, có quần chúng, còn xuất bản cả sách, báo. Thoạt đầu chúng là sự manh nha của chính đảng, về sau thì phát triển thành chính đảng thực sự, triến khai đấu tranh tranh giành quyền lực với Đảng Cộng sản Liên Xô.


"Tổ chức không chính thức" ở Liên Xô bắt đầu xuất hiện từ năm 1986. So với các đoàn thể có tổ chức của chính quyền, những tổ chức quy mô nhỏ này có các đặc điểm như: bí mật, không chính thức, linh hoạt, nghiệp dư. Năm 1987, "tổ chức không chính thức" đã lan ra một số thành phố lớn và vừa của Liên Xô, xuất hiện với các hình thức như: hội nghị tranh luận, câu lạc bộ, tổ trí thức và thanh niên... Như tháng 2 năm 1987, tạp chí Kinh tế, tổ chức và quản lý do Phân viện Xibêri thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô xuất bản đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Lêningrát. Tại hội nghị này, một số trí thức trẻ tham gia hội nghị đã tổ chức câu lạc bộ "cải tổ" xuyên chuyên ngành. Trong những người tham gia câu lạc bộ này có Gaidar, Chubais, về sau trở thành các nhân vật tiêu biểu của phe tự do. Tháng 3 cùng năm, câu lạc bộ "cải tổ" này đã tổ chức một hội nghị thảo luận có ảnh hưởng nhất, chủ đề hội thảo là "Luật doanh nghiệp quốc hữu". Sau đó, trong năm 1987 lại lần lượt tổ chức một loạt hội thảo cải cách kinh tế, thu hút được nhiều nhà kinh tế học tham gia. Ví dụ, tại một cuộc hội thảo, giáo sư kinh tế học trường Đại học Mátxcơva G.Popov đã đưa ra khẩu hiệu bầu cử tự do, xóa bỏ kiểm duyệt sách báo, phát triển quan hệ thị trường...1 (Tham khảo [Nga] A.S. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.87).


Bắt đầu từ năm 1987, một số "tổ chức không chính thức" có sự phân hóa, trong đó tư tưởng và chủ trương của một số tổ chức bắt đầu cấp tiến hóa. Đặc biệt là một số tổ chức chống chủ nghĩa xã hội và chống Đảng Cộng sản Liên Xô càng tích cực hơn, như nhóm "chủ nghĩa dân chủ và nhân đạo". Hưởng ứng các "tổ chức không chính thức", trào lưu tư tưởng chủ nghĩa dân tộc và tâm trạng chia tách ở một số nước cộng hòa gia nhập liên minh cũng ngày càng nghiêm trọng hơn. Năm 1987, tại thành phố Yerevan, thủ đô Ácmênia lần đầu tiên xuất hiện một Hội liên hiệp tự quyết dân tộc Acmênia; tại ba nước cộng hòa gia nhập liên minh Bantích thì lần lượt xuất hiện một số cái gọi là "tổ chức bảo vệ môi trường". Từ tháng 6-7 năm 1988, một số nước cộng hòa gia nhập liên minh bắt đầu thành lập tổ chức mặt trận nhân dân mang sắc thái dân tộc chủ nghĩa rõ rệt. Điều đáng chú ý là, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô Yakovlev từng bày tỏ, ông ta ủng hộ thành lập mặt trận nhân dân1 (Tham khảo [Nga] A.s. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.108). Đồng thời, "tổ chức dân chủ" hoạt động ngày một sôi động trong lãnh thổ Nga, công khai tuyên bố "họ và tổ chức mặt trận nhân dân các nơi có chung kẻ thù". Khi đó, do cải tổ của Gorbachev luôn dao động, kinh tế không khởi sắc, đời sống nhân dân đi xuống, hoạt động bãi công và biểu tình của công nhân mỏ than bắt đầu sôi động. Mùa hè năm 1988, "liên minh dân chủ" của khu vực Mátxcơva công khai đưa ra khẩu hiệu "chống Đảng Cộng sản Liên Xô". Zharkov - một trong những người lãnh đạo của tổ chức này hô hào: "Hãy đợi đây, chúng tôi sẽ nhanh chóng chĩa mũi súng vào các người"2 ([Liên Xô] Tuần san Tin tức Mátxcơva, ngày 8-9-1988). Vào ngày 21 tháng 8 và ngày 5 tháng 9 họ hai lần tiến hành biểu tình tại quảng trường Puskin ở Mátxcơva, công khai kêu gọi lật đổ chế độ Liên Xô, dẫn tới phóng viên báo chí tranh nhau chụp ảnh. Thế nhưng, điều khiến người ta suy nghĩ là sau khi các cơ quan cảnh sát Liên Xô bắt giữ một số người, lại thả ra rất nhanh.


Cùng với việc thúc đẩy phong trào "công khai" và "dân chủ hóa" của Gorbachev, các loại ấn phẩm không chính thức nở rộ khắp nơi. Năm 1987, ấn phẩm không chính thức bắt đầu xuất hiện. Khác với "ấn phẩm chui" trước kia, những sách báo này về cơ bản là in ấn và phát tán chính thức. Tháng 7 năm 1987, một cuốn tạp chí có tên là Công khai được xuất bản, tôn chỉ của nó là liên kết các loại đoàn thể xã hội không chính thức, lên tiếng ủng hộ hoạt động bảo vệ nhân quyền. Tháng 8 năm 1987, lại xuất bản một tờ Tin nhanh nhằm liên hệ với các tổ chức không chính thức. Tin nhanh có liên hệ mật thiết với các đài phát thanh của châu Âu, chuyển tải hoặc giới thiệu nội dung của các ấn phẩm không chính thức khác trên lãnh thổ Liên Xô, lượng phát hành rất lớn. Mùa hè năm 1987/ xuất hiện một thông tấn xã của các tổ chức không chính thức, tên là Thông tấn xã Liên hợp tự do đa ngành nghề của nhân dân lao động. Đến tháng 10 năm 1987, trên lãnh thố Liên Xô đã có hớn 100 "ấn phẩm chui", trong đó chủ biên của 17 tờ ấn phẩm còn tụ tập tại thành phố Lêningrát, và mời phóng viên hoặc đại diện của báo Tin tức, Người kế nhiệm, báo Văn học cũng như Đoàn Thanh niên cộng sản thành phố Lêningrát. Tóm lại, cùng với việc thúc đẩy phong trào "công khai", những báo chí này không những không lụi bại, mà ngược lại thường xuyên nhận được sự ủng hộ của một số báo lớn.


Do sự dung túng của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô như Gorbachev, đến khi Liên Xô giải thể, loại ấn phẩm không chính thức này trở thành "tiên phong dư luận" tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội, chống lực lượng Đảng Cộng sản Liên Xô. Còn các loại "tổ chức không chính thức" nói trên, một số thì diễn biến thành chính đảng, như Đảng liên minh dân chủ; một số thành viên trở thành đầu đàn của cải cách tự do, như Gaidar và Chubais. Vì vậy, một số "tổ chức không chính thức" cũng xứng đáng là "trường Đảng sơ cấp" của chủ nghĩa tự do Liên Xô - Nga hoặc một số thế lực cực đoan nào đó.


Từ ba ví dụ nói trên có thể thấy: Khi làm công tác về mặt ý thức hệ, phân biệt nghiêm ngặt và phân biệt đối xử hai loại mâu thuẫn có tính chất khác nhau là vô cùng quan trọng. Nếu như làm tốt công tác nàỵ, một số mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân có thể hóa giải, thậm chí có thể chuyển hóa thành nhân tố tích cực; ngược lại, nếu như công tác này làm không tốt, hoặc không làm thì cho dù là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, cũng sẽ đi tới mặt trái, gây tác động tiêu cực nghiêm trọng. Đồng thời, đối với các vấn đề có tính chất địch - ta, nếu như nghe rồi để đấy, hoặc nhắm mắt làm ngơ, thậm chí đổ dầu vào lửa, thì nhất định sẽ thành vấn đề lớn. Đây là một trong những bài học quan trọng của công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:49:10 am
2. Vấn đề phương thức, phương pháp công tác

Liên Xô từng là một xã hội giỏi làm nổi bật ý nghĩa của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, công tác ý thức hệ vươn rộng, thẩm thấu tới các mặt của đời sống xã hội, thậm chí cả lĩnh vực tư nhân cũng không ngoại lệ. Năm xưa Lênin nhấn mạnh thống nhất tư tưởng của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng. Trong quá trình thực tiễn cách mạng lâu dài, Lênin luôn vừa kiên trì nguyên tắc, vừa tùy cơ ứng biến, phát hiện triệu chứng của vấn đề, tìm ra mấu chốt của vấn đề giải quyết. Lênin có thể nhìn nhận đúng đắn các loại ý kiến khác nhau trong Đảng, vừa nghiêm khắc phê phán khuynh hướng tư sản và các loại "căn bệnh ấu trĩ" của trí thức cũ, vừa chú ý đoàn kết và giáo dục đội ngũ trí thức. Đảng Cộng sản Liên Xô và các thế hệ lãnh đạo của nó cũng có sự coi trọng công tác ý thức hệ với mức độ khác nhau, công tác ý thức hệ được đặt vào vị trí quan trọng trong công tác của Đảng, giống như công tác kinh tế và tổ chức. Ngoài việc nhấn mạnh công tác ý thức hệ tại các kỳ đại hội đại biểu Đảng ra, còn thường xuyên họp các hội nghị toàn thế chuyên về công tác ý thức hệ. Thế nhưng, Đảng Cộng sản Liên Xô bề ngoài có vẻ lớn mạnh lại không thế chống chọi được tác động của sóng gió tư tưởng, dưới sự tấn công tư tưởng của những kẻ phản bội trong Đảng và kẻ địch bên ngoài, dường như một người khổng lồ chân đất sét bỗng chốc sụp đổ, tan rã. Không có tang lễ, chỉ nghe thấy tiếng khóc thương, chỉ có tiếng huyên náo của những lời dối trá của phe tự do và sự reo hò, nhảy múa của thế lực thù địch phương Tây, thậm chí gần 20 triệu đảng viên và đông đảo quần chúng cũng không hề bị chấn động trước sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô, tỏ ra lạnh lùng kiểu "khách thăm". Đây là sự bi thảm của một đảng lớn mang tầm cỡ thế giới có hơn 70 năm cầm quyền. Công tác chính trị tư tưởng bao nhiêu năm bỗng chốc tiêu tan, cho thấy sự thất bại về phương thức, phương pháp công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Dưới đây xin liệt kê mấy mặt chính.


Thứ nhất, quan điểm lý luận cứng nhắc, giáo điều nghiêm trọng. Bắt đầu từ thời kỳ Xtalin, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đường lối tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần xa rời thực tế, quan điểm lý luận ngày một cứng nhắc, giáo điều và "chủ nghĩa sách vở" ngày càng thịnh hành. Nghiên cứu lý luận lúc đó xa rời nghiêm trọng những vấn đề bức thiết trong đời sống hiện thực, tất cả các tác phẩm học thuật thường chỉ là trích dẫn phát biểu hoặc kết luận của người lãnh đạo để tiến hành luận chứng và diễn giải, hình thành một kiểu mô hình văn hóa và nghiên cứu khoa học cứng nhắc, khép kín, bảo thủ, dùng tính đơn nhất của văn hóa tư tưởng để thay cho tính đa dạng về phương thức, phương pháp, dùng sự lũng đoạn trào lưu phong cách cố định để thay cho cạnh tranh tự do giữa các loại phong cách. Các đoàn thể văn hóa và học thuật do Đảng Cộng sản Liên Xô thành lập đều đi trên con đường thống nhất, hành chính hóa và nhà nước hóa, do đó ảnh hưởng tới sự cạnh tranh và "trăm hoa đua nở" giữa các loại trào lưu văn hóa và phong cách nghệ thuật. Ví dụ, bắt đầu từ tháng 4 năm 1932, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua nghị quyết "Về cải tổ các đoàn thể văn học nghệ thuật", đến cuối những năm 1930, 95,5% đoàn thể khoa học xã hội, 92,9% hiệp hội sáng tác văn nghệ, 69,2% đoàn thể văn hóa giáo dục phổ thông, 48% hội khoa học tự nhiên và kỹ thuật đều đã ngừng hoạt động1 (Chuyển dẫn từ Mã Long Thiểm: Lịch sử diễn biến thế chế văn hóa Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1996, tr.180). Cả giới lý luận bị bao trùm bởi không khí nặng nề, thiếu cảm giác mới mẻ và tinh thần sáng tạo, tư tưởng của mọi người bị trói buộc nghiêm trọng. Lĩnh vực ý thức hệ hình thành trạng thái tất cả như nhau, không cho phép tham khảo tư tưởng và lý luận mới, chỉ cho phép sao chép giáo điều lý luận trước đây, không thể vượt quá dù chỉ một bước, bất kỳ tư tưởng mới, lý luận mới nào không qua phân tích đều bị cho là chủ nghĩa duy tâm; theo lối mòn cũ, ôm khư khư cách làm cũ, chứ không phải là căn cứ vào sự thay đổi của tình hình trong và ngoài nước để phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo; chìm đắm lâu ngày trong thành tích trước đây, dương dương tự đắc, ra sức né tránh mâu thuẫn và xung đột xã hội. Ví dụ, giới lý luận Liên Xô mấy chục năm luôn ôm khư khư 4 giáo điều lý luận lớn, và tiến hành tuyên truyền mạnh mẽ, đó chính là luận điểm lý luận đốt cháy giai đoạn phát triển xã hội, nôn nóng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản; luận điểm quan hệ sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa "hoàn toàn phù hợp" với lực lượng sản xuất; luận điểm đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt; luận điểm kinh tế sản phẩm xã hội chủ nghĩa.


Đến khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới phát triển mạnh mẽ vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô không kịp thời nhận thức được xu thế phát triển, đắm chìm vào dầu mỏ và đôla, đã bỏ lỡ làn sóng cách mạng khoa học kỹ thuật. Còn xã hội phương Tây thì lại kịp thời điều chỉnh sách lược của mình, vượt xa Liên Xô trong phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật. Vào thời điểm chuyển giao giữa thập niên 1970, 1980, tốc độ phát triển của kinh tế Liên Xô chậm lại nhanh chóng, mở rộng khoảng cách với các nước phát triển phương Tây. Còn Đảng Cộng sản Liên Xô thì vẫn theo lối mòn cũ, ôm khư khư những khiếm khuyết trong lĩnh vực tư tưởng, mặc sức tuyên truyền những lời sáo rỗng và những câu công thức trống rỗng vô hồn "chủ nghĩa xã hội phát triển" và "khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa đế quốc".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:50:02 am
Thứ hai, dùng mệnh lệnh hành chính để thay cho thảo luận học thuật. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đối với vấn đề tranh luận trong giới lý luận và lĩnh vực văn học nghệ thuật, Đảng Cộng sản Liên Xô thường áp dụng biện pháp mệnh lệnh hành chính để giải quyết. Những năm 40 của thế kỷ XX, Bí thư phụ trách ý thức hệ của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang Zhdanov từng nhiều lần phát biểu, can thiệp và quyết định đối với nhiều vấn đề cụ thể, Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang còn thông qua một loạt nghị quyết tương ứng. Ví dụ, năm 1946 thông qua nghị quyết "Về hai tạp chí 'Ngôi sao' và 'Lêningrát'", nghị quyết "Về nhà hát kịch biểu diễn tiết mục và biện pháp cải tiến", cũng như nghị quyết "Về bộ phim 'Cuộc sống xán lạn'"; năm 1948 lại thông qua nghị quyết "Về vở ca kịch 'Tình hữu nghị vĩ đại' của Muradeli". Ở Liên Xô lúc đó, lĩnh vực văn hóa thiếu tự do sáng tác và học thuật, kiểm soát hành chính quá nghiêm ngặt, nhiều vấn đề cụ thể thường đều do Trung ương Đảng hoặc nhà lãnh đạo đưa ra quyết định. Cách làm này vẫn tồn tại sau khi Xtalin qua đời, hơn nữa đã trở thành một kiểu truyền thống. Ví dụ, Khrushchev năm xưa cho dù không hiểu nhiều về văn hóa nghệ thuật, cũng không phải là trong nghề, nhưng thường xuyên, can thiệp vào những vấn đề cụ thể về mặt văn hóa nghệ thuật. Năm 1957, Khrushchev đích thân ra tay, phê phán Dudinsev và tác phẩm Không chỉ vì bánh mỳ của ông ta. Cùng năm, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ra nghị quyết "Về tạp chí Vấn đề lịch sử", chỉ trích tạp chí này đã phạm phải "sai lầm lý luận và sai lầm phương pháp luận"; còn đưa ra nghị quyết "Về khuyết điểm nghiêm trọng trong nội dung của họa báo Ngọn lửa nhỏ, chỉ trích họa báo này đăng tải quá nhiều "tuỳ bút và đặc tả du lịch nước ngoài", "phạm phải sai lầm nghiêm trọng". Năm 1958, Khrushchev đích thân đứng ra khen ngợi cuốn tiểu thuyết Số phận con người của Sholokhov và trường thi Núi ngoài núi, trời ngoài trời của Tvardovski. Năm 1962, Khrushchev lợi dụng dịp tham quan triển lãm mỹ thuật, tấn công tranh của phái trừu tượng, nói đây là "được vẽ bằng đuôi lừa". Cách làm kiểu này của Khrushchev không những đã kế thừa truyền thống của thời kỳ Xtalin, mà còn thể hiện càng lộ liễu hơn. Về điểm này, Khrushchev sau khi bị hạ bệ mới hiểu ra đôi chút, ông ta nói "Quan hệ với những người làm sáng tác, biện pháp hành chính luôn là có hại nhất và lạc hậu nhất"; "Cần làm cho độc giả có cơ hội đưa ra những đánh giá của bản thân họ, chứ không nên áp dụng giải pháp hành chính và biện pháp cảnh sát"1 (Khrushchev: Di ngôn cuối cùng - Hồi ký Khrushchev (tiếp), Nxb. Phương Đông, 1988, tr.134-135).


Lâu nay, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện mô hình quản lý tập trung cao độ đối với nghiên cứu văn hóa và khoa học, đội ngũ khổng lồ, hiệu quả thấp. Ví dụ, trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn và triết học, ngoài quan hệ trực thuộc hành chính Viện Nghiên cứu Mác - Lênin, Viện Hàn lâm khoa học, trường đại học, cao đẳng..., Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô còn thành lập các phòng ban chuyên môn để tiến hành điều tiết, kiểm soát đối với các bộ môn khoa học và học giả tương ứng, như nghiên cứu kinh tế học thì do các phòng, ban kinh tế học của Ban Khoa học Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô phụ trách quản lý. Về mặt thể chế tổ chức lãnh đạo đối với khoa học xã hội của Đảng cũng có những điểm cứng nhắc và không hợp lý cho lắm. Ví dụ, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện quản lý theo địa bàn đối với tổ chức Đảng của Viện Hàn lâm khoa học, kết quả khiến cho tổ chức đảng của các Viện nghiên cứu của Viện Hàn lâm khoa học với vài trăm ngàn người lần lượt thuộc về Đảng ủy cấp quận. Viện trưởng, viện sĩ thường phải bị các cán bộ tuyên truyền của Đảng ủy quận trẻ tuổi lên lớp giáo huân, dẫn tới sự phản cảm mạnh mẽ của trí thức. Do bị hạn chế, số lượng trí thức của các đơn vị nghiên cứu khoa học vào Đảng giảm đi nhanh chóng1 ([Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr. 172-173,188). Điều này cũng ảnh hưởng tới con đường làm quan, nghỉ dưỡng, xuất ngoại của họ, từ đó dẫn tới sự bất mãn của những trí thức này đối với thể chế2 ([Nga] A.s. Barsenkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), Sđd, tr.122).


Đồng thời, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện chế độ kiểm duyệt sách báo quá nghiêm ngặt, thực hiện chế độ trình duyệt và kiểm duyệt, truy duyệt nghiêm ngặt đối với các thành quả nghiên cứu khoa học xã hội. Ví dụ, trong các Viện nghiên cứu của hệ thống Viện Hàn lâm khoa học, muốn gửi một bài tới tạp chí nào đó, cần phải đồng thời gửi kèm rất nhiều tài liệu chứng minh (5-10 loại); tài liệu kèm theo như vậy còn phải có hơn 10 người ký tên, khi trình bày đề cương báo cáo với hội đồng học thuật cũng không thể thiếu. Quy định như vậy không những áp dụng với đăng bài trên báo chí hoặc phát biểu diễn giảng trên phát thanh truyển hình, mà có lúc phát biểu trên các loại hội nghị cũng cần phải như vậy. Những lệnh cấm quá ư phiền toái đó thường dẫn tới sự phản cảm và kháng nghị, mọi người nghĩ đủ mọi cách để né mà đi. Trong cuộc sống xã hội và lĩnh vực nghiên cứu, một số "chuyên gia ý thức hệ" của Đảng Cộng sản Liên Xô thường đề ra các loại quy chế cấm kỵ phiền phức, đặt ra nhiều vùng cấm lô bịch: cấm nghệ thuật trừu tượng, âm nhạc phái tiên phong, múa lắc, văn học trinh thám phương Tây, nhiều tác phẩm triết học và xã hội học của phương Tây cũng như một số tác phẩm triết học Nga. Nhưng kiểu "cấm đoán" này không những hiệu quả rất nhỏ, mà còn thường thu hút sự "hứng thú" càng mạnh mẽ hơn của độc giả3 ([Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr. 172-173,188).


Do đặt ra quá nhiều "vùng cấm nghiên cứu", từ đó ảnh hưởng tới sáng tạo lý luận, hạn chế việc giới khoa học xã hội phát huy vai trò xứng đáng trong giải quyết những vấn đề thực tế. Những thảo luận liên quan tới vấn đề quan hệ hàng hóa tiền tệ chính là minh chứng. Ngay từ thời kỳ cuối những năm 40 của thế kỷ XX, giới lý luận Liên Xô đã nêu ra sự cần thiết phải tận dụng quan hệ hàng hóa tiền tệ và quy luật giá trị, cải tiến công tác kế hoạch, khiến cho kinh tế quốc dân phát triển cân bằng, nâng cao vững chắc mức sống của nhân dân. Điều khiến người ta đau lòng là, những ý kiến đó không những không được tiếp thu, mà những cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra ý kiến còn vì thế mà phải mang tội. Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô lũng đoạn chân lý, cơ quan chính trị pháp luật kiểm soát nghiêm đối với xã hội, cơ quan tuyên truyền nhồi nhét một cách cứng nhắc, trong tình hình đó, toàn xã hội không nghe được, hoặc ít nghe được những tiếng nói khác, về mặt nghiên cứu và giải qụyết vấn đề dân tộc, Đảng Cộng sản Liên Xô cũng phạm phải sai lầm tương tự. Để "sớm xóa bỏ sự khác biệt giữa các dân tộc", nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô thường dùng hình thức kín đáo nhất để nhét "chủ nghĩa quốc tế nôm na" vào trong các chính sách dân tộc mà họ đề ra, nhằm che giấu mâu thuẫn dân tộc ngày một nghiêm trọng của Liên Xô. Từ Khrushchev đến Brezhnev đều như vậy, họ nói, vấn đề dân tộc đã được giải quyết triệt để ở Liên Xô. Năm 1981, chính quyền Liên Xô từng tiến hành một đợt thử nghiệm giải quyết mâu thuẫn dân tộc. Khi Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô chuẩn bị Báo cáo chính trị Đại hội XXVI, có người kiến nghị thành lập mới một Ban Chính sách dân tộc dưới Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thành lập một Ủy ban dân tộc dưới Hội đồng Bộ trưởng, nhưng kiến nghị này bị các thành viên Bộ Chính trị thống nhất phản đối. Mãi tới cuối những năm 80 của thế kỷ XX, kiến nghị này mới được chấp nhận.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:50:35 am
Những cách làm nói trên của Đảng Cộng sản Liên Xô không những bóp chết tự do sáng tác và học thuật trong giới lý luận và lĩnh vực văn hóa, mà còn làm tổn thương tới tính tích cực của một loạt trí thức, gây ra hậu quả tiêu cực xấu. Quản chế quá nhiều thường khiến những người làm công tác khoa học xã hội mất đi năng lực tư duy độc lập, biến thành "lệ thuộc chính trị".


Thứ ba, công tác giáo dục chính trị tư tưởng xa rời thực tế, có tính hình thức chủ nghĩa nghiêm trọng. Liên Xô có công cụ dư luận và tuyên truyền hết sức lớn mạnh. Thời kỳ cuối Brezhnev, báo chí Liên Xô xuất bản có tới hơn 8.000 loại, phát hành 173 triệu bản; có hơn 5.000 tạp chí, phát hành hơn 200 triệu bản; tổng thời lượng phát thanh một ngày đêm của đài Trung ương, địa phương và quốc tế vượt trên 1.300 giờ. Liên Xô còn có hệ thống tuyên truyền khổng lồ, các địa phương đều có các "trạm tuyên truyền" có tính thường xuyên, tọa đàm hiệp hội "Tri thức", các loại trường đại học dân gian, những đơn vị này định kỳ tổ chức để các nhân vật nổi tiếng, chuyên gia và cán bộ tuyên truyền cổ động các mặt tới báo cáo và giải thích vấn đề. Ngoài ra, còn có một hệ thống học tập tại trường Đảng hoàn thiện. Thế nhưng, hệ thống dư luận và tuyên truyền khổng lồ như vậy lại không phát huy được tác dụng hữu hiệu. Đó là bởi vì, toàn bộ công tác giáo dục tư tưởng và tuyên truyền bên ngoài thì làm rất rầm rộ, trên thực tế nội dung đơn điệu, trống rỗng vô vị, giống hệt nhau, hoàn toàn né tránh những vấn đề gai góc trong cuộc sống hiện thực và những vấn đề thực tế mà quần chúng quan tâm, trở thành hình thức. Hơn nữa, những thứ tuyên truyền thường có sự tương phản rõ rệt với cuộc sống thực tế. Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô thì thỏa mãn với những thành tích đã đạt được và sự thống nhất tư tưởng và đồng nhất dư luận bề ngoài, không thể nắm bắt chuẩn xác mạch đập của thời đại và sự thay đổi của xã hội, thiếu sự điều tra, nghiên cứu đối với động thái tâm lý xã hội, các loại chiều hướng tầng sâu trong lĩnh vực ý thức hệ, không tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng một cách kiên nhẫn, tỉ mỉ đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Những năm 70 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuyên đưa ra kêu gọi, đề ra cần thống nhất các hoạt động kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị và ý thức hệ, thống nhất giáo dục tư tưởng, chính trị, lao động và đạo đức1 (Tham khảo [Liên Xô] M. Jovchuck: "Vấn đề phát triển văn hóa tinh thần Xôviết và đấu tranh ý thức hệ hiện nay", trích từ [Liên Xô] Vấn đề triết học, số 3 năm 1976). Thế nhưng, những lời kêu gọi này thường đi vào hình thức, thiếu tính khả thi, ngay cả trí thức cũng không hề quan tâm, nghe mà không thấy, họ ra sức né tránh chính trị.


Trước tình hình trong và ngoài nước phức tạp, công tác tuyên truyền lý luận cần ngọn cờ rõ ràng, có mục tiêu cụ thể, phát huy chính khí, phê phán phản bác những trào lưu tư tưởng sai lầm, trấn giữ trận địa chính. Nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô lại coi nhẹ vấn đề ở hai mặt. Một là, song song với việc nhấn mạnh tính cách mạng, tính chiến đấu, không chú ý tới sáng tạo cách nói, không căn cứ vào sự phát triển thay đổi của tình hình để sáng tạo ra hệ thống viết và nói nhằm vào những nhóm người nghe khác nhau, đạt tới "thuyết phục bằng lý, tác động bằng lời, thu hút bằng câu chữ". Ngược lại, một số lý luận hoặc sản phẩm ngoại lai sai lầm tuy khó hiểu, nhưng biết dùng những khái niệm mới mẻ hoặc câu chữ thời thượng để mê hoặc công chúng. Hai là, song song với chú trọng lý luận và biện chứng tư duy, không chú ý sử dụng những ví dụ tươi mới. Đồng thời với việc khởi động cỗ máy tuyên truyền, Đảng Cộng sản Liên Xô rất ít tận dụng những sự thực sống động để trình bày, không biết tận dụng một số ví dụ mặt trái để làm giáo trình phản diện cảnh tỉnh quần chúng, do đó công tác tư tưởng tuyên truyền thiếu sức thuyết phục và sức chiến đấu, trở nên không có mục tiêu cụ thể và quá ư trống rỗng. Còn một số trào lưu tư tưởng chống cộng lại thường mượn những hiện tượng hoặc sự kiện cá biệt trong đời sống xã hội, tuỳ ý phóng đại, từ đó vươn tới tác động và phê phán đối với chế độ và phương châm cơ bản, do đó có thể thu hút được sự hưởng ứng của không ít người, thậm chí có hiệu ứng chấn động, đạt tới mục đích phân hóa, làm tan rã của mình. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô quen sử dụng những lời lẽ cũ rích từ nhiều năm, từ đó mất đi sức sống và sức hấp dẫn, tác dụng của nó là vô cùng nhỏ. Ngoài ra, hiệu suất của truyền hình và phát thanh cũng rất kém, tin tức không nhiều; các loại báo chí nội dung hệt như nhau, đa số báo chí địa phương đều sao chép đăng lại bài và tin của báo chí Trung ương, không có đặc sắc địa phương. Kết quả, trong xã hội đã xuất hiện cái gọi là hiện tượng "người ban đêm". Không ít cán bộ và đảng viên ban ngày chỗ nào cũng giữ sự nhất trí với chính quyền, hết lời ca ngợi, đến tối mới tiến hành tụ tập bí mật, đọc những ấn phẩm chui, cùng với người nhà và bạn bè trao đổi những chuyện tiếu lâm chính trị, bình luận thời sự chính trị, phê phán quyền quý, thể hiện sự bất mãn đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Việc xuất hiện hiện tượng "người ban đêm" trong chừng mực nào đó cho thấy sự thất bại của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Thứ tư, công tác giáo dục chính trị tư tưởng thiếu tinh thần trách nhiệm và tinh thần sứ mệnh. Xét về hình thức, Đảng Cộng sản Liên Xô tương đối coi trọng tiến hành giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin đối với đảng viên. Kể từ thời kỳ Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã từng bước thiết lập hệ thống giáo dục kiến thức chủ nghĩa Mác - Lênin tương đối có hệ thống, đã xuất bản không ít sách giáo khoa, mở chương trình giảng dạy tại trường Đảng chính quy và ngoài giờ một cách có hệ thống. Trong hệ thống giáo dục, học sinh các trường đại học và cao đẳng bắt buộc phải học ba môn cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, triết học Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và kinh tế chính trị học. Trong xã hội, đã thiết lập một hệ thống giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và chính trị của Đảng ngoài giờ cho đảng viên, đoàn viên, công nhân, mỗi năm số học viên lên tới hàng chục triệu người. Sau những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống trường Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô và các trường đại học, cao đẳng đều học tập "tác phẩm" của Tổng Bí thư và Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng các khóa, mà những bài nói chuyện của lãnh đạo và những văn kiện này thường đầy rẫy những câu sáo rỗng và trống rỗng, ý tứ mập mờ nước đôi, chủ đề lẫn lộn không rõ, thiếu tư tưởng mới mẻ. Những hoạt động giáo dục này về sau trở thành những câu chuyện tiêu lâm bị quần chúng châm chọc. Các "tác phẩm" trống rỗng vô vị của các nhà "lêninnít" vĩ đại tự mình tô vẽ như Brezhnev, Xuxlov, Podgorny và Chernenko được xuất bản và phát hành hàng triệu cuốn, và lệnh cho hệ thống giáo dục của Đảng và lĩnh vực khoa học xã hội tổ chức học tập và nghiền cứu. Những kiểu giáo dục chính trị này có nội dung khô khan, tẻ nhạt, hình thức khô cứng, lý luận và thực tế tách rời nghiêm trọng, hoàn toàn không đạt tới ngưỡng mưa dầm thâm lâu và vui vẻ học tập, hiệu quả không tốt, chạy theo hình thức.


Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô đã xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, tâm lý tiêu dùng và văn hóa dung tục của phương Tây có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Liên Xô, đặc biệt là thanh niên. Nhưng các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không đưa ra phân tích khách quan đối với tình hình nghiêm trọng gặp phải, chỉ ra con đường thoát khỏi khủng hoảng, tìm kiếm sự phục hưng của chủ nghĩa xã hội, mà ngược lại, né tránh hiện thực, tiếp tục tuyên truyền trong toàn Đảng thành tựu vĩ đại Liên Xô xây dựng thành công "chủ nghĩa xã hội phát triển", tuyên truyền theo nguyên tắc lý luận trừu tượng "tính ưu việt không thể nghi ngờ" của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản. Cách làm không dám liên hệ thực tế, không dám đụng chạm tới những vấn đề "nóng" mà nhân dân quan tâm này, không những tạo thị trường rộng lớn hơn cho các thế lực thù địch, mà còn tự gạt mình ra rìa. Kết quả, khi một trận cuồng phong cuộn đến, đa số đảng viên và quần chúng tỏ ra không biết nên làm gì, mất đi mục tiêu tiến lên.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:51:21 am
Thứ năm, ôm khư khư lề thói cũ, chủ nghĩa giấy tờ thịnh hành. Đảng Cộng sản Liên Xô thiếu tác phong thực sự cầu thị, lý luận liên hệ với thực tế. Thời kỳ Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô chuyên chú vào suy nghĩ về những vấn đề chiến lược lớn mang tầm thế giới, nhưng lại không coi trọng việc đi sâu điều tra nghiên cứu thực tế. Sau Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin chỉ đi thị sát cơ sở một lần. Molotov ngay cả một lần cũng không từng xuống cơ sở khảo sát. Một thời gian dài, tác phong không đi sâu điều tra nghiên cứu thịnh hành trong Đảng. Khrushchev thì thường xuyên đưa ra quyết sách quan trọng một cách khinh suất. Tiêu biểu nhất phải kể đến Brezhnev. Các nhà sử học từng đọc hồ sơ của Brezhnev nói, hồ sơ cá nhân mà Brezhnev để lại chủ yếu là cuốn sổ ghi chép hoặc rất nhiều mẩu giấy ghi lại trên các tờ lịch khi ông ta còn sống, mỗi tờ giấy ghi một, hai cho đến năm, sáu dòng chữ, nói chung đều không đánh dấu gì cả, hơn nữa một số tên người trong Đảng cũng thường viết sai. Trong những tài liệu với số lượng tương đối nhiều này không phát hiện thấy Brezhnev đưa ra sáng kiến gì đối với vấn đề nào đó, hoặc xuất hiện chút đốm sáng tư tưởng nào. Nhưng khi Brezhnev còn sống, Liên Xô lại xuất bản nhiều Tuyển tập Brezhnev, những văn kiện này đều do nhóm viết của ông ta viết thay cho ông ta. Mấy cuốn hồi ký mà Brezhnev cuối đời xuất bản và giành được "Giải thưởng văn học Lênin" cũng đều là do tổ chức riêng các nhà văn và phóng viên viết cho ông ta. Tất cả những bài phát biểu, báo cáo của ông ta, thậm chí cả lời chúc đơn giản, cũng đều phải do người khác dự thảo. Vào cuối đời, Brezhnev ngay cả có sẵn bài, cũng thường đọc sai, hoặc lẫn lộn trước sau.


Cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Brezhnev, về tư tưởng đầy rẫy sự "thủ cựu" và "tính lười biếng", về hành động thì đọc bài có sẵn, ứng phó đơn giản. Họ quen với việc đọc thuộc lòng những kiến thức sách vở của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt một cách máy móc chỉ thị của cấp trên, dần dần mất đi tinh thần sáng tạo chủ động nghiên cứu các vấn đề hiện thực. Chủ biên báo Sự thật Aphanasayev từng là một thành viên quan trọng của "nhóm khởi thảo" báo cáo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong cuốn sách Ghi chép thăng trầm của Tổng Biên tập báo 'Sự thật', ông ta nhớ lại: khởi thảo văn kiện cho Brezhnev, không đòi hỏi "tư tưởng mới" gì, càng khỏi phải nói đến "tư tưởng độc đáo" gì, chỉ cần anh biết đem những tư tưởng đã cũ rích từ lâu, không ai thấy hứng thú kia thay bằng hình thức mới, tìm được phương thức diễn đạt mới, thì đã là thể hiện "tính sáng tạo" hết sức nổi trội rồi. Họ cứ như vậy hết năm này sang năm khác, hết ngày này sang ngày khác viết lách, bào chế phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Ông ta rất thấm thía nhớ lại, viết thứ gì đó cho người khác, để tỏ ra cần "phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin", chỉ có thể miễn cưỡng vắt lấy một số từ ngữ, câu chữ và đoạn văn nào đó trong đầu của mình. Công việc này tuy hết sức vinh quang, nhưng cũng làm cho người ta cực kỳ đau đầu và mệt mỏi. Bởi vì khi bạn thấy được, cảm nhận được những lý tưởng tốt đẹp, từ ngữ cao thượng và những lời cam kết chân thành không phù hợp với sự thực, thì bạn sẽ cảm thấy đau khô vì những gì mình đã làm.


Thứ sáu, lời nói và hành động không thống nhất, tuyên truyền và thực tế tách rời nhau. Tác phong quan liêu vào thời kỳ cuối của Đảng Cộng sản Liên Xô rất nghiêm trọng, chế độ cấp bậc cán bộ nghiêm ngặt. Tầng lớp đặc quyền lớp trên của Đảng Cộng sản Liên Xô quen với việc xa rời quần chúng, hưởng thụ đặc quyền và các kiểu cung cấp đặc biệt, nhu cầu đặc biệt. Hành vi tác oai tác quái của giới quan chức Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần bộc lộ ra, đảng viên bình thường và quần chúng thấy được bằng mắt, hận để trong lòng. Sau những năm 60 của thế kỷ XX, quan chức cao cấp Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần mất đi tinh thần hiến thân cách mạng mà Đảng Bônsêvích để lại, từ bỏ niềm tin phấn đấu vì chủ nghĩa cộng sản, ngoài miệng hát vang chủ nghĩa Mác - Lênin, trên thực tế chỉ là ngụy trang để đối lấy sự leo cao. Đối với họ mà nói, lý tưởng cộng sản đã không còn thiêng liêng, điều quan trọng là học cách a dua nịnh nọt, leo lên cao, sớm vơ vét lợi ích thực tế. Sau những năm 1970, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bằng lòng với hiện trạng, không biết tiến thủ, từng bước mất đi tinh thần trách nhiệm đối với tương lai của đất nước và dân tộc. Trong tình hình đó, các giá trị quan xã hội chủ nghĩa như lý tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thể, công bằng và chính nghĩa mà cỗ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô ca ngợi đã dần dần mất đi sức cảm hóa và sức hấp dẫn trước kia trong lòng nhân dân. Những lý luận và thuyết giáo đó dần dần trở thành một thứ cứng nhắc, lạnh băng, không hề có sinh khí, thậm chí là tấm vải che mặt cho đỡ ngượng, bịt tai bịt mắt mọi người.


Với sự tuyên truyền giả tạo, phiến diện, chính quyền chỉ có thể nghe thấy những tiếng nói của mình, họ cũng biết rằng những gì nghe được chỉ là âm thanh của chính mình, nhưng lại vẫn tự lừa gạt mình, tưởng như cái nghe thấy là tiếng nói của nhân dân, hơn nữa yêu cầu nhân dân ủng hộ cho kiểu tự lừa gạt mình này. Còn bản thân quần chúng nhân dân, họ không phải rơi vào mê tín hoặc không tin gì cả về chính trị, thì là hoàn toàn tách khỏi đời sống đất nước, biến thành một đám người chỉ biết lo cho cuộc sống riêng. Sở dĩ quần chúng nhân dân thể hiện thái độ lạnh nhạt đối với chính trị, chính là vì Ban lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi ý chí, biến thành "những người chỉ biết lo cho cuộc sống riêng" trước. Trong quá trình Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Liên Xô giải thể, tuyệt đại đa số đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô tuy có bất mãn, nhưng im lặng tiếp nhận hết hiện thực này đến hiện thực khác, bản thân điều này đủ cho thấy uy tín của Ban lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Liên Xô trong lòng đảng viên và quần chúng phổ thông đã xuống thấp đến mức nào.


Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, giá dầu mỏ - thứ mà Liên Xô dựa vào để tồn tại - sụt giảm, hiện tượng cung không đủ cầu trên thị trường hàng tiêu dùng trong nước ngày một nghiêm trọng. Hoạt động kinh tế ngầm hoành hành, hiện tượng lãnh đạo tham nhũng và đặc quyền lan tràn, kỷ cương xã hội rệu rã, giáo dục tư tưởng chính trị và tâm lý quần chúng biến thành "hai tấm da", tâm lý xã hội và nề nếp xã hội bắt đầu xuống cấp. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Brezhnev nhìn mà không thấy việc này, cho rằng đó là bình thường, cuộc sống vốn dĩ chính là như vậy. Nhà lãnh đạo ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng nhân cơ hội lấp liếm cho xong chuyện, cái gì bỏ qua được thì bỏ qua. Thế nhưng, các thế lực thù địch phương Tây thì lại trống giong cờ mở, một mặt gấp rút ủng hộ và thôi thúc một số trí thức phe tự do tiến hành tấn công tâm lý dư luận; mặt khác lại tích cực tìm kiếm người đại diện phát ngôn trong Ban lãnh đạo cấp cao trong Đảng Cộng sản Liên Xô, kèm theo cam kết tiền bạc hoặc vật chất để mua chuộc1 (Tham khảo [Nga] S. Karamurza: Bàn về thao túng ý thức, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2004, tr.543, 575). Các cơ quan thông tin và tuyên truyền phương Tây đứng đầu là Mỹ khởi động cỗ máy tuyên truyền, mở hết tốc lực. Lúc đó, chương trình phát thanh nhằm vào Liên Xô của "Đài Tiếng nói Hoa Kỳ" mỗi tuần dài tới 500 giờ, phủ khắp toàn lãnh thổ Liên Xô, sử dụng ngôn ngữ của tất cả các nước cộng hòa gia nhập Liên bang và các dân tộc thiểu số khác để phát động chiến tranh tâm lý. Dưới một số vỏ đậy như văn hóa đại chúng và nghệ thuật thịnh hành, giá trị quan phương Tây dần dần thẩm thấu vào xã hội Liên Xô, đặc biệt là đầu óc của lớp thanh niên. Xã hội Liên Xô xuất hiện sự "thiếu thốn" ở hai mặt: hàng tiêu dùng và sản phẩm thông tin tư tưởng, văn hóa, mà Đảng Cộng sản Liên Xô lại không kịp thời cung ứng vật chất và thức ăn tinh thần, nhằm xóa bỏ hiện tượng "thiếu thốn về tư tưởng và kinh tế", điều này trở thành nhược điểm chí mạng của xã hội Liên Xô. Trong tình hình đó, các chuyên gia tâm lý chiến phương Tây lợi dụng sự "thiếu thốn" về vật chất của xã hội Liên Xô, thông qua các hình thức như giao lưu nhân văn, dư luận báo chí vá các tác phẩm văn nghệ khác để tuyên truyền sự giấu có vật chất của phương Tây. Lợi dụng sự "thiếu thốn" của giao lưu tin tức và văn hóa của xã hội Liên Xô, tích cực phổ biến văn hóa dung tục và phương thức tiêu dùng cùng lối sống đầy cám dỗ. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã coi nhẹ chiến lược "diễn biến hòa bình" mà phương Tây thúc đẩy trong một thời gian dài, thiếu nhận thức đối với "chiến tranh tâm lý" và "chiến tranh đánh vào lòng người" mà phương Tây triển khai nhằm vào Liên Xô, mất cảnh giác, cuối cùng thậm chí mở hết lòng mình ra hòng trong phút chốc nằm trong vòng tay của phương Tây, vọng tưởng hòa nhập với phương Tây. Kết quả, Đảng Cộng sản Liên Xô giống như một người khổng lồ chân đất bị hút mất "linh hồn", mất đi phương hướng, mất đi cái tôi, bỗng chốc đổ sụp dưới sự giáp công của các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:52:36 am
Chương IV
TÁC PHONG ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Vấn đề tác phong đảng liên quan đến hình tượng của đảng, liên quan đến thái độ ủng hộ hay phản đối của nhân dân, liên quan đến sinh mệnh của đảng. Tác phong đảng của đảng cầm quyền liên quan đến sự tồn vong của đảng và của quốc gia. Tác phong đảng nói đến ở đây là tính chất giai cấp và thế giới quan của chính đảng thể hiện trong công tác và hoạt động của đảng đó, nó không chỉ thể hiện tác phong công tác của đảng và tác phong trong cuộc sống của cá nhân đảng viên nói chung, mà còn bao gồm thái độ và hành động nhất quán thể hiện nguyên tắc tính đảng của tổ chức đảng các cấp và của đảng viên đảng đó, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, trên các phương diện chính trị, tư tưởng, tổ chức, là tác phong lớn của đảng với thuộc tính bản chất và phong cách biểu hiện thống nhất mà một chính đảng tuyên bố với thế giới.


Mác và Ăngghen đã nói trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Tất cả các phong trào trước đây đều là phong trào của số ít người hoặc vì lợi ích của số ít người. Phong trào của giai cấp vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số người dân, mưu cầu lợi ích cho tuyệt đại đa số người dân"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, t.1, tr.283). Đây chính là điểm khác biệt căn bản của chính đảng giai cấp vô sản so với các chính đảng khác. Tính chất của chính đảng giai cấp vô sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, tôn chỉ căn bản của đảng là toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, quyết không phải là công cụ phục vụ cho lợi ích đặc biệt của một nhóm người nào, một tập đoàn nhỏ nào, một giai cấp nào hay một tầng lớp nào. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử, cũng là nguồn lực làm nên sự hưng thịnh, phát triển của đảng. Điểm xuất phát và điểm quy tụ cho mọi công tác của đảng chính là vì lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân dân. Mà muốn làm được điều này, phải kiên trì và quán triệt quan điểm lịch sử về quần chúng và đường lối quần chúng của chủ nghĩa Mác: Tất cả vì quần chúng, tất cả dựa vào quần chúng, sinh ra từ quần chúng, hướng đến với quần chúng.


Do đó, vì quần chúng, tin tưởng và dựa vào quần chúng, trong bất cứ thời điểm nào, bất cứ hoàn cảnh nào đều duy trì mối quan hệ máu thịt với đông đảo nhân dân, điều này yêu cầu đảng phải luôn liên hệ chặt chẽ với quần chúng, luôn ghi nhớ lý luận gắn với thực tiễn, cố gắng thực sự cầu thị. Đây vừa là thể hiện căn bản của quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác về đường lối quần chúng và đường lối công tác, cũng là điểm then chốt để chính đảng mácxít mãi mãi tràn đầy sức sống tươi trẻ và sức sáng tạo. Tính chất và ý thức tôn chỉ của đảng, đường lối quần chúng của đảng, đường lối tổ chức và đường lối công tác của đảng, v.v... tất cả những mặt đó đã cấu thành tác phong lớn của chính đảng mácxít. Những tác phong đảng này đều cần được thể hiện trong các mặt như xây dựng tư tưởng lý luận của đảng, xây dựng tổ chức và tác phong của đảng cũng như xây dựng chính quyền, xây dựng chế độ và xây dựng pháp trị của nhà nước.


Trong xây dựng tác phong đảng, người lãnh đạo và các cấp lãnh đạo trong đảng đều phải làm gương đi đầu, luôn luôn đặt lợi ích của đảng và nhân dân lên vị trí hàng đầu. Phải khắc ghi rằng cán bộ của đảng luôn luôn là công bộc của dân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Phải đi theo đường lối quần chúng, cùng với quần chúng trở thành một khôi thống nhất.


Xây dựng tác phong đảng là bộ phận cấu thành quan trọng của xây dựng đảng. Đảng Cộng sản Liên Xô đã từng coi trọng xây dựng tác phong đảng. Đảng trong thời kỳ Lênin thực sự là chính đảng mang tính chất mácxít. Đảng trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản, làm theo tôn chi toàn tâm, toàn ý phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng và hạnh phúc của nhân dân, liên hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết tin và dựa vào quần chúng, đoàn kết và dẫn dắt đông đảo nhân dân giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, đồng thời mở ra bức màn vĩ đại xây dựng chủ nghĩa xã hội, lập nên công lao to lớn bất tử trong lịch sử. Trong thời kỳ Xtalin, tuy cũng tồn tại một số vấn đề như xa rời thực tế song Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó về tổng thể đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp của Đảng từ thời kỳ Lênin, bảo đảm được tính chất giai cấp vô sản trong sáng và tôn chỉ toàn tâm, toàn ý vì nhân dân phục vụ, và đã phát huy được những tác phong tốt đẹp của Đảng như lý luận gắn với thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần chúng, phê bình và tự phê bình, do đó trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng đã giành được thành tựu vĩ đại.


Tác phong tốt đẹp của Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu thoái hóa, biến chất từ thời kỳ Khrushchev cầm quyền, nghiêm trọng hơn là thời kỳ Brezhnev, biến chất căn bản là ở thời kỳ Gorbachev. Sau khi Khrushchev lên nắm quyền, việc xây dựng tác phong đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần suy yếu, tính chất đội tiên phong của Đảng Cộng sản dần dần thay đổi, những hiện tượng như xa rời quần chúng ngày càng nghiêm trọng. Đến thời kỳ Brezhnev, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa quan liêu trong đảng thịnh hành, thói giả dối, báo cáo sai, khuếch trương nghiêm trọng, vấn đề độc đoán chuyên quyền, yếu mềm rệu rã nổi lên, hiện tượng dựa vào quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân, tham lam hưởng lạc lan rộng. Cải cách dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Gorbachev phát động sau khi lên cầm quyền lại triệt để phủ định tính chất và tôn chỉ của Đảng, hoàn toàn xóa bỏ đường lối quần chúng và nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ của Đảng, số ít người có quyền chức và người có âm mưu ngang nhiên đi ngược lại, thậm chí phản bội sự nghiệp của Đảng và nhân dân, biến Đảng Cộng sản Liên Xô - đảng đại diện cho lợi ích của nhân dân thành đảng đối lập với lợi ích của nhân dân, phục vụ cho một số ít người và tập đoàn nhỏ. Tác phong đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô thoái hóa, biến chất, đây là một nguyên nhân quan trọng khiến Đảng Cộng sản Liên Xô mất đảng, Liên Xô tan rã.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:55:19 am
I. XÂY DỰNG TÁC PHONG ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ THỜI KỲ LÊNIN, XTALIN

1. Kiên trì vững chắc và bảo vệ tính chất giai cấp vô sản của Đảng

Chính đảng là công cụ để một giai cấp hoặc tầng lớp nhất định tiến hành đấu tranh giai cấp vì lợi ích của mình, đó là sản phẩm khi xã hội loài người phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản cận đại. Chính đảng đầu tiên của giai cấp tư sản dần được sinh ra và phát triển trong cuộc cách mạng chống chuyên chính phong kiến của chủ nghĩa tư bản, bảo vệ và đại diện cho lợi ích căn bản của giai cấp tư sản. Tính giai cấp của chính đảng là thuộc tính bản chất của chính đảng. Trước khi chính đảng mácxít ra đòi, vẫn chưa có một chính đảng nào có thể thực sự đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân lao động. Đo đó, sáng lập nên một chính đảng mới của giai cấp vô sản hoàn toàn khác với tất cả những chính đảng cũ (như chính đảng giai cấp tư sản), đại diện cho giai cấp vô sản và đông đảo nhân dân lao động đã trở thành nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh có tổ chức do giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân chống lại giai cấp tư sản. Do đó, Ăngghen đã chỉ rõ: "Muốn làm cho giai cấp vô sản trong thời khắc quyết định lớn mạnh đến mức có thể giành thắng lợi, giai cấp vô sản phải (Mác và tôi từ năm 1847 đến nay đã kiên trì lập trường này) tổ chức thành một chính đảng đặc biệt không giống với tất cả các đảng khác và đối lập với các đảng đó, một chính đảng giai cấp tự giác"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, t.37, tr.321).


Mác, Ăngghen thích ứng với tình hình mới, yêu cầu mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, tích cực thành lập chính đảng giai cấp vô sản và tổ chức quốc tế, đã lãnh đạo những phong trào cộng sản quốc tế như bão táp, đã hoàn thành rất tốt sứ mệnh lịch sử mà họ gánh vác trên vai. Trong Cương lĩnh đảng soạn thảo cho chính đảng giai cấp vô sản đầu tiên trên thế giới - Đồng minh những người cộng sản, tức trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nổi tiếng, Mác và Ăngghen kết hợp kinh nghiệm thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, bằng lý luận đã trình bày rõ một cách khoa học tính chất và đặc điểm của chính đảng giai cấp vô sản.


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu rõ, Đảng Cộng sản "không có lợi ích nào đối lập với lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản", là "bộ phận kiên quyết nhất, luôn giữ vai trò thúc đẩy", đồng thời "hiểu điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản"2 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.285). Nghĩa là, Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp vô sản, là đại diện tập trung cho lợi ích của giai cấp vô sản. Đồng thời, Đảng Cộng sản do phần tử tiên tiến trong đội ngũ giai cấp vô sản hợp thành, là tổ chức đội tiên phong của giai cấp vô sản, là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Về phương diện lý luận, điểm ưu việt của các thành viên của đảng so với quần chúng của giai cấp vô sản là ở chỗ họ được vũ trang tư tưởng khoa học. Phần tử tiên tiến của giai cấp vô sản có thể thông hiểu quy luật của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật phát triển của xã hội giai cấp, có thể dự báo một cách khoa học tiến trình khách quan của sự phát triển xã hội, đồng thời trên cơ sở đó định ra đường lối, phương châm và chính sách cách mạng. Đảng như vậy mới có thể lãnh đạo đúng đắn phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động và giành được thắng lợi. Đây chính là ranh giới giữa các chính đảng để phân định rõ chính đảng mácxít và vô số các chính đảng của giai cấp tư sản, chính đảng của giai cấp phi vô sản khác.


Sở dĩ nhấn mạnh Đảng Cộng sản là chính đảng mang tính chất giai cấp vô sản, là tổ chức đội tiên phong của giai cấp vô sản, đầu não của đảng phải được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác, là vì trong quá trình chủ nghĩa xã hội tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng tiên tiến nhất, là lực lượng lãnh đạo có thể thực hiện cuộc biến đổi xã hội như vậy. So với các giai cấp khác, giai cấp vô sản liên hệ mật thiết với đại công nghiệp hiện đại, có tính tổ chức, tính kỷ luật nghiêm khắc, có tính kiên định và tính triệt để cách mạng, có thể coi giải phóng toàn thể loài người là nhiệm vụ của mình, đại diện cho lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tiên tiến. Địa vị và vai trò này của giai cấp vô sản không một giai cấp nào có thể thay thế. Chỉ khi Đảng Cộng sản trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản mới có thể thực hiện yêu cầu của quy luật khách quan phát triển xã hội mà chủ nghĩa Mác đã nêu ra. Đồng thời, chủ nghĩa Mác là khoa học về giải phóng giai cấp vô sản và toàn thể loài người, sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản phải lấy chủ nghĩa Mác làm phương châm chỉ đạo mới có thể giành được thắng lợi. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản chỉ có thể là chủ nghĩa Mác chứ không thể là bất cứ chủ nghĩa nào khác. Lấy chủ nghĩa Mác làm phương châm chỉ đạo là cơ sở tư tưởng bảo đảm tính chất giai cấp vô sản của Đảng.


Trong quá trình lãnh đạo và sáng lập chính đảng mácxít của Nga, Lênin đã luôn chú ý kiên trì và bảo vệ tính chất giai cấp vô sản. Người nói: "Trên thế giới chỉ có giai cấp vô sản hằng ngày hằng giờ tiến hành cuộc đấu tranh chống tư bản, chính giai cấp vô sản là cơ sở quần chúng của chính đảng xã hội chủ nghĩa"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.22, tr.421).


Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ được công khai thiết lập nên cũng là thước đo trình độ lý luận và thực tiễn của Đảng. Lênin rất coi trọng công tác soạn thảo cương lĩnh của Đảng, Người yêu cầu cương lĩnh của đảng phải phản ánh đầy đủ tính chất giai cấp vô sản của Đảng.


Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga thành lập mùa xuân năm 1898, yêu cầu phải có một cương lĩnh dẫn dắt đông đảo đảng viên và giai cấp vô sản nước Nga cùng hành động.

Mùa xuân năm 1901, Ban Biên tập báo Tia lửa soạn thảo dự thảo cương lĩnh. Phần lý luận của Cương lĩnh do Plekhanov chấp bút. Lênin cho rằng dự thảo của Plekhanov không thể làm mọi người hài lòng. Dự thảo của Plekhanov tuy đã nêu ra vấn đề toàn thể người lao động tham gia cách mạng xã hội chủ nghĩa, song ông không tách biệt giai cấp công nhân ra khỏi toàn thể quần chúng nhân dân, từ đó làm giảm đi vai trò của giai cấp công nhân, làm mờ nhạt đi tính chất giai cấp vô sản của Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:56:13 am
Lênin đã chỉ ra, chính đảng của giai cấp công nhân trong cương lĩnh của mình phải phát đi lời hiệu triệu đối với quần chúng lao động phi vô sản, đoàn kết và dẫn dắt họ thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu chung, song quần chúng lao động phi vô sản lại không phải là giai cấp tiến tiến, do đó không thể phản  ánh tính chất của chính đảng giai cấp công nhân và trở thành cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản. Người nhiều lần vận dụng một câu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản để chứng minh điều này: "Trong tất cả các giai cấp đối lập với giai cấp tư sản chỉ có giai cấp vô sản thực sự là giai cấp cách mạng... Nhà công nghiệp nhỏ, tiểu thương, thợ thủ công nghiệp, nông dân, họ không phải là giai cấp cách mạng mà là giai cấp bảo thủ. Không những thế họ thậm chí là giai cấp phản động... Nói họ là giai cấp cách mạng bởi vì họ đang chuyển dần vào đội ngũ của giai cấp vô sản... Họ rời bỏ lập trường cũ của mình và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.282-283).


Do đó, Lênin cho rằng, cương lĩnh của đảng đương nhiên phải nói rõ giai cấp công nhân và chính đảng của giai cấp công nhân đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và những người bị áp bức, không thể đánh đổng cơ sở giai cấp của đảng với cơ sở quần chúng của đảng. Ông còn nói: "Muốn có quyền nói về phong trào giai cấp vô sản, đấu tranh giai cấp vô sản, thậm chí chuyên chính giai cấp, trước tiên phải tách giai cấp này ra, sau đó mới nói đến vai trò đại diện của họ", "sau đó mới nói giai cấp vô sản giải phóng tất cả mọi người, hiệu triệu tất cả mọi người, mời gọi tất cả mọi người"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.231, 238). Vì chỉ khi đã làm rõ đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản mới có thể bảo đảm quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh đại diện cho toàn thể giai cấp bị bóc lột tuyên chiến với chủ nghĩa tư bản, giành lấy chủ nghĩa xã hội, mới có thể phát huy vai trò là người chiến sĩ tiên phong của đảng. Lênin sau đó khi nói về điểm khác biệt với Plekhanov trong quá trình sửa đổi cương lĩnh của đảng đã chỉ rõ: "Tôi luôn kiên trì dùng từ 'giai cấp vô sản' thay cho từ 'quần chúng lao động bị bóc lột' khi nói về tính chất giai cấp của đảng chúng ta"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.338).


Luận điểm quan trọng của Lênin đã kế thừa tư tưởng Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp vô sản của Mác - Ăngghen, đồng thời lại phân biệt được cơ sở giai cấp với cơ sở quần chúng của chính đảng mácxít. Cơ sở giai cấp của chính đảng mácxít chỉ có một, đó là giai cấp vô sản, đây là điều không bao giờ được mơ hồ và dao động; các giai cấp khác tuỵ là đối tượng giai cấp vô sản đoàn kết, liên hợp, dựa vào, thậm chí có thể trở thành quân chủ lực cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, song tính chất giai cấp của bản thân họ đã quyết định họ chỉ có thể là cơ sở quần chúng của chính đảng vô sản. (Đương nhiên, điều này không phủ nhận trong số quần chúng phi vô sản một số ít phần tử tiên tiến phù hợp với điều kiện đảng viên cũng có thể kết nạp đảng, trở thành thành viên trong đội tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản, tiền đề là họ phải tiếp thu thế giới quan của giai cấp vô sản, phải chuyển biến lập trường giai cấp của bản thân, phấn đấu suốt đời vì lợi ích của giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản). Những giai cấp cách mạng khác chỉ phát huy vai trò tiến bộ lịch sử của giai cấp mình khi có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Do đó, kiên trì tính chất giai cấp vô sản của đảng là then chốt. Chỉ khi kiên trì tính chất giai cấp vô sản của đảng mới có thể phát huy tính tiên tiến và vai trò tiến bộ của giai cấp vô sản, mới có thể dẫn dắt và đại diện cho mọi quần chúng lao động bị bóc lột khác cùng tiến lên, mới có thể đứng ở tuyên đầu của lịch sử phát triển mạnh mẽ và biến đổi khôn lường mà không bị lịch sử làm lu mờ, từng bước thực hiện viễn cảnh tốt đẹp và tương lai tươi sáng mà loài người theo đuổi.


Những tư tưởng trên của Lênin cũng có ý nghĩa chỉ đạo trong điều kiện chủ nghĩa xã hội. Phải khẳng định đầy đủ vai trò và công lao của quần chúng lao động phi vô sản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải tiếp tục dẫn dắt và đoàn kết họ tiến lên vì sự nghiệp và mục tiêu chung; đồng thời cũng phải thấy được tính lạc hậu, tính bảo thủ cố hữu thậm chí tính phản động trong những điều kiện lịch sử nhất định của quần chúng lao động phi vô sản, quyết không thể vì họ có vai trò và công lao mà quên đi hoặc phủ định tính phi tiên tiến của những giai cấp hoặc tầng lớp này, coi họ là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản.


Xtalin đã kế thừa và bảo vệ học thuyết xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác, cũng luôn kiên trì và bảo vệ tính chất giai cấp vô sản của đảng trong công tác lãnh đạo quần chúng. Xtalin đã chỉ rõ, Đảng Cộng sản "chính là đảng của giai cấp vô sản, đội tiên phong của giai cấp vô sản. Sức mạnh của Đảng là do Đảng thu hút tất cả phần tử tiên tiến của giai cấp vô sản trong mọi tổ chức quần chúng vào đội ngũ của mình. Sứ mệnh lịch sử của Đảng là thống nhất mọi công tác của tất cả các tổ chức quần chúng của giai cấp vô sản, đồng thời hướng hành động của họ vào một mục tiêu, hướng vào mục tiêu giải phóng giai cấp vô sản. Thống nhất họ và hướng vào một mục tiêu là cần thiết, bởi không như vậy thì không thể thống nhất mọi cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, bởi không như vậy thì không thể lãnh đạo quần chúng giai cấp vô sản đấu tranh vì chính quyền, đấu tranh vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng chỉ có đội tiên phong của giai cấp vô sản, đảng của giai cấp vô sản mới có thể thống nhất và chỉ đạo công tác các tổ chức quần chúng của giai cấp vô sản. Chỉ có đảng của giai cấp vô sản, chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể phát huy vai trò lãnh đạo chủ yếu này trong hệ thống chuyên chính vô sản"1 (Xtalin: Tuyên tập, Sđd, quyển thượng, tr.413).


Khi nói về sự khác biệt giữa Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ xã hội của Quốc tế II, Xtalin đã kiên trì quan điểm của Lênin, ông nêu rõ: "Có thể nói chắc chắn thế này không, trong nội bộ Đảng Cộng sản của chúng ta cũng có lực lượng tương tự, trong nội bộ Đảng của chúng ta có nên thực hiện chính sách Bônsêvích như các đảng của Quốc tế II đã từng thực hiện ở thời kỳ trước chiến tranh không? Rõ ràng không thể. Sở dĩ không thể là bởi vì đó là do không hiểu sự khác biệt về nguyên tắc giữa Đảng Dân chủ xã hội là đảng liên minh bởi thành phần vô sản và thành phần tiểu tư sản với Đảng Cộng sản là đảng của một giai cấp - giai cấp vô sản cách mạng. Với những người dân chủ xã hội, cơ sở giai cấp của Đảng là một loại, với những người cộng sản, cơ sở giai cấp của Đảng là một loại hoàn toàn khác. Với những người dân chủ xã hội, phái trung lập là hiện tượng tự nhiên, vì đảng của các liên minh lợi ích khác nhau không thể không có phái trung lập, mà Bônsêvích cũng phải áp dụng đường lối phân liệt. Ở những người cộng sản thì không có cơ sở cho sự tồn tại của chủ nghĩa trung lập, không dung hợp với tính đảng của Lênin, vì Đảng Cộng sản là đảng của một giai cấp - giai cấp vô sản, chứ không phải đảng của liên minh các thành phần giai cấp khác nhau"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđđ, quyển hạ, tr.103).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 05 Tháng Ba, 2022, 07:56:54 am
Xtalin đã chỉ ra khác biệt về mặt nguyên tắc cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ xã hội của Quốc tế II. Người dân chủ xã hội tập trung vào mục tiêu điều hòa giai cấp, họ giương cao khẩu hiệu dân chủ và siêu giai cấp, biến đảng thành đại tạp hội vừa có thành phần giai cấp vô sản, vừa có thành phần giai cấp tiểu tư sản hoặc các thành phần giai cấp khác cùng tham gia, đồng thời dựa vào đó để tự thổi phổng mình là "đảng toàn dân" đại diện cho lợi ích của các tầng lớp khác nhau. Kỳ thực, trong điều kiện xã hội tồn tại giai cấp hoặc có giai cấp, đây là một ảo tưởng hão huyền. Thực tế đã chứng minh, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, thành phần giai cấp vô sản trong Đảng Dân chủ xã hội hoặc là bị cô lập, từ đó không có đất dụng võ thậm chí không có chỗ đứng, trở thành điểm nhấn để đảng viên Đảng Dân chủ xã hội tô điểm cho dân chủ; hoặc là bị nhà tư bản mua chuộc trở thành người phát ngôn của giai cấp tư sản. Đảng Dân chủ xã hội thực chất là chính đảng mang tính chất của giai cấp tư sản, chỉ có điều nhiều hơn một tầng ngụy trang so với các chính đảng của giai cấp tư sản khác.


Không giống với các chính đảng của giai cấp bóc lột âm mưu làm mờ nhạt hoặc che giấu mục đích phục vụ cho lợi ích của bản thân, Đảng Cộng sản công khai tuyên bố họ là chính đảng của giai cấp vô sản, nhấn mạnh chỉ có giai cấp vô sản mới là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản; đảng viên cộng sản ngoài sự nghiệp của Đảng, lợi ích của nhân dân, không có lợi ích đặc biệt nào khác. Điều này về căn bản duy trì được tính giai cấp, tính tiên tiến của Đảng, cũng bảo đảm được về căn bản tính trong sạch của Đảng trong khâu tổ chức. Không có cơ sở giai cấp thống nhất này, Đảng sẽ trở thành câu lạc bộ của những người phát ngôn cho các giai cấp khác nhau, sẽ trở thành đảng của liên minh các thành phần giai cấp khác nhau, sẽ biến màu, thậm chí giải thể.


Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, thậm chí là đội tiên phong của toàn thể nhân dân, không thể chỉ dừng lại ở mặt lý luận, ở câu chữ hay trên khẩu hiệu, mà phải thực hiện trong hành động cụ thể, phải được tạo nên từ thực tiễn cách mạng như vũ bão. Đảng viên cộng sản thời kỳ Lênin, Xtalin đã hy sinh mồ hôi, máu, thậm chí cả tính mạng của mình để chứng minh một cách sinh động rằng, đảng viên cộng sản là đội quân tiên tiến của giai cấp vô sản, do nguyên liệu đặc biệt tạo ra, thể hiện rõ "lực lượng của đội tiên phong này lớn gấp 10 lần, 100 lần, 400 thậm chí nhiều hơn số người của họ"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.24, tr.38), họ lấy hình tượng cao cả và tinh thần cách mạng vô tư để làm nên danh hiệu đảng viên cộng sản quang vinh này.


Tháng 9 năm 1919, do sự đột phá và căng thẳng của quân đội của Denikin ở mặt trận phía Nam, Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga quyết định điều động một đội ngũ đảng viên, đoàn viên lớn tiến ra tiền tuyến, tổng cộng động viên được 5 vạn người, trong đó có 3 vạn đảng viên cộng sản, 1 vạn đoàn viên thanh niên. Tháng 10 năm 1919, hơn một nửa số học viên là đảng viên cộng sản sắp tốt nghiệp của trường Đại học Sverdlov được điều ra tiền tuyến. Trước khi họ lên đường, Lênin đã có bài phát biểu cổ vũ vai trò gương mẫu đi đầu của đảng viên cộng sản. Năm 1920, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga căn cứ Báo cáo của Trotsky và Xtalin về tình hình mặt trận Ba Lan và mặt trận Wrangel, quyết định động viên đảng viên cộng sản tiến ra tiền tuyến, yêu cầu điều động toàn bộ những đảng viên đủ điều kiện ra tiền tuyến. Trong đó 55% đảng viên đến mặt trận Wrangel, số còn lại điều ra mặt trận phía Tây. Trên chiến trường, không chỉ đảng viên bình thường xung phong ra trận, cán bộ càng xung phong đi đầu, xông pha chiến trận. Nắm 1920, Sapozhkov, sĩ quan quân đội cũ trong Hồng quân phát động phản loạn, chiếm lĩnh Buzuluk và khu vực phụ cận, tình hình vô cùng nguy cấp. Theo chỉ thị của Lênin, Đảng bộ tỉnh Saratov đã phái một thành viên Đoàn chủ tịch Đảng ủy và 20 cán bộ phụ trách của cơ quan Xôviết đi dẹp loạn, rất nhanh đã khống chế được tình hình. Ngày 28 tháng 2 năm 1921, quân đội đồn trú căn cứ Constradt, căn cứ quan trọng của hải quân trân thủ ở Pêtrôgrát, phát động phản loạn dưới sự ủng hộ bọn tư sản Nga và nước ngoài, uy hiếp nghiêm trọng chính quyền Xôviết mới. Các đại biểu đang dự Đại hội Đại biểu lần thứ X Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga đã đích thân ra chiến trường. Họ vượt qua những mặt hồ đóng băng, xông ra chiến trường, cuối cùng đã dập tắt được cuộc phản loạn.


Theo thống kê, trong tổng số lục - hải quân cả nước khi đó, đảng viên cộng sản có 30 vạn người, con số này chiếm một nửa số đảng viên cả nước, cứ 5 chiến sĩ Hồng quân có một người là đảng viên cộng sản, có 5 vạn đảng viên cộng sản hy sinh trong nội chiến. Lênin từng đánh giá cao vai trò của tinh thần hiên thân và gương mẫu tiên phong của những người cộng sản đã ảnh hưởng đến quần chúng và thúc đẩy tiến trình cách mạng. Người nói, chỉ là vì lúc đó Đảng luôn cảnh giác, vì kỷ luật Đảng nghiêm minh, vì uy tín của Đảng đã thống nhất các cơ quan, các bộ ngành, làm cho mấy chục, mấy trăm, mấy nghìn thậm chí mấy triệu người đều đi theo khẩu hiệu Trung ương Đảng đưa ra, nhất trí hành động, chỉ là vì đã chịu đựng những hy sinh chưa từng có, mới làm nên những kỳ tích như vậy. Chỉ vì có tất cả những điều này, mới có thế giành được thắng lợi trong hai lần, ba lần, thậm chí bốn lần tấn công của bọn đế quốc trong khối Hiệp ước và bọn đế quốc toàn thế giới.


Trong thời kỳ Chiến tranh vệ quốc của Liên Xô, 5,3 triệu người trở thành đảng viên dự bị, 3,6 triệu người trở thành đảng viên chính thức. Trong số bộ đội ở tiền tuyến, 4 triệu người trở thành đảng viên dự bị, 2,6 triệu người trở thành đảng viên chính thức, con số này làm cho 45% chiến sĩ trong quân đội Liên Xô là đảng viên cộng sản hoặc đoàn viên thanh niên cộng sản1 (Viện nghiên cứu lịch sử quân sự quốc phòng Liên Xô: Lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb. Tác phẩm dịch thuật Thượng Hải, 1982, t.2, tr.537-538). Trong thời kỳ chiến tranh khó khăn, nguy hiểm nhất, đông đảo đảng viên cộng sản xung phong lên tuyến đầu. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Mátxcơva, các tổ chức đảng ở Mátxcơva đã cử 100 nghìn đảng viên cộng sản và 250 nghìn đoàn viên thanh niên cộng sản trực tiếp ra tiền tuyến. 70% đảng viên của tổ chức đảng Lêningrát, 90% đảng viên của tổ chức đảng Odessa và Sevastopol đã tiến ra tiền tuyến. Trong số những người vinh dự được nhận danh hiệu "'Anh hùng Liên Xô", 74% là đảng viên cộng sản, 11% là đoàn viên thanh niên cộng sản, có hơn 3 triệu đảng viên cộng sản Liên Xô hy sinh trong chiến đấu1 (Lịch sử Chiến tranh vệ quốc vĩ đại Liên Xô (bản tiếng Nga), Mátxcơva, 1984, tr.538-539).
   Đông đảo đảng viên cộng sản trên chiến trường không chỉ xung phong đi đầu, xung phong hy sinh, đem xương máu và tính mệnh để bảo vệ chính quyền Xôviết, bảo vệ sự tôn nghiêm và độc lập của quốc gia, mà trong công tác hằng ngày cũng không nghĩ đến được mất của cá nhân, lao động và cống hiến quên mình.
   Tháng 5 năm 1919, chính quyền Xôviết đối mặt với tình hình vô cùng nghiêm trọng là kẻ địch xâm lược và nội bộ nổi loạn, vận tải đường sắt căng thẳng. Các đảng viên cộng sản của Cục Đường sắt Kazan - Mátxcơva tự giác quyết định kéo dài thời gian làm việc một ngày thêm một giờ, tập trung vào ngày nghỉ thứ 7 tiến hành một lần lao động nghĩa vụ, "cho đến chiến thắng Kolchak". Khi công việc kết thúc, "hàng trăm đảng viên cộng sản dù cơ thể mệt mỏi nhưng trong mắt ánh lên niềm lạc quan, hát vang "Quốc tế ca" tôn nghiêm để chúc mừng công việc thắng lợi", miêu tả đầy cảm xúc này của tác giả báo Sự thật đã làm cả nước xúc động, hoạt động này cũng nhanh chóng được mở rộng ra trong các tổ chức cơ sở đảng, đồng thời thu hút được một lượng lớn quần chúng không phải là đảng viên tham gia. Lênin đã đánh giá cao hoạt động này, gọi hoạt động này là "lao động nghĩa vụ ngày thứ Bảy cộng sản", hình ảnh Lênin đích thân tham gia "lao động nghĩa vụ ngày thứ Bảy", cùng vác củi với binh sĩ đã từng làm khích lệ mấy thế hệ. Chính nhờ tinh thần hy sinh và đi đầu của đông đảo đảng viên Bônsêvích mới có thể chiến thắng được các cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước và nổi loạn trong nước.
   Từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1935, người thợ mỏ trẻ ở mỏ than Donbas là Stakhanov mỗi ngày khai thác được 102 tấn than, gấp 14 lần so với định mức1 (A. H. Sakharov (chủ biên): Lịch sử Tổ quốc thế kỷ XX, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2002, tr.167). Sau đó, Tyukalov thuộc một tổ chức đảng nhỏ lại phá kỷ lục của Stakhanov, cuộc thi lao động mang tên "phong trào Stakhanov" nhanh chóng lan rộng ra cả nước.
   Tuy mọi người có nhiều tranh luận xung quanh việc phát triển sản xuất bằng hình thức thông qua các cuộc thi đua hoặc phong trào, song "'phong trào Stakhanov" thực sự đã phát huy vai trò tích cực trong một thời gian ngắn, theo tư liệu gần đây nhất của giới học giả Nga, theo thống kê của các ngành sản xuất trong cả nước, định mức lao động đã hoàn thành vượt mức 13-47%2 (A. H. Sakharov (chủ biên): Lịch sử Tổ quốc thế kỷ XX, Sđd, tr.168, 167). Không những thế đây là biểu hiện sinh động của tinh thần hiến thân và tinh thần yều nước của đảng viên cộng sản. Kutov, nhân viên công tác năm đó hồi tưởng lại: "Khi đó tại sao có thể lao động quên mình như vậy? Vì muốn có được nhiều báo đáp sao? Cũng có yếu tố này, song không hoàn toàn như vậy. Chủ yếu là vì một tinh thần yêu nước"3 (A. H. Sakharov (chủ biên): Lịch sử Tổ quốc thế kỷ XX, Sđd, tr.168, 167). Cho đến hôm nay, người Nga vẫn hoài niệm về những thành tựu mà Liên Xô đã giành được những năm tháng đó trong lĩnh vực tư tưởng khi tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:49:21 am
2. Toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân là điểm xuất phát và là điểm đến trong mọi công tác của Đảng

Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, song điều này quyết không có nghĩa là sự nghiệp cao cả của giai cấp vô sản - giải phóng toàn xã hội, thậm chí giải phóng toàn nhân loại - chỉ là công việc của giai cấp vô sản hay của số ít phần tử tiên tiến trong giai cấp này. Ngược lại, sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản lấy việc giải phóng toàn thể xã hội, giải phóng triệt để toàn nhân loại làm tiền đề và cơ sở. Nếu không kịp thời làm cho toàn xã hội xóa bỏ phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản sẽ không thể giải phóng bản thân, không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử mà họ gánh vác. Từ ý nghĩa này, khác với phong trào của số ít người hoặc phong trào mang lại lợi ích cho một số ít người, "phong trào của giai cấp vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số người, vì lợi ích của tuyệt đại đa số người"1 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.283). Do đó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân là điểm xuất phát và là điểm đến của mọi công tác của chính đảng giai cấp vô sản, mà muốn làm được điều này, phải luôn tin tưởng và dựa vào quần chúng.


Trong cuộc đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản để giành thắng lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong thực tiễn vĩ đại sau khi giành chính quyền, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản không lúc nào thiếu vắng sự ủng hộ và tham gia của quần chúng nhân dân. Phong trào của giai cấp vô sản chính là phong trào của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, là sáng tạo vĩ đại của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân. Sự nghiệp cách mạng và xây dựng của giai cấp vô sản nếu xa rời đông đảo quần chúng nhân dân, giống như cây xa rời đất, sẽ khô héo, chết đi, mọi việc sẽ bất thành.


Sự nghiệp của Đảng là sự nghiệp của nhân dân. Chỉ khi chính đảng giai cấp vô sản tin vào quần chúng, dựa vào quần chúng, tất cả vì quần chúng, trung thực đại diện và bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân thì đông đảo quần chúng nhân dân mới coi sự nghiệp của Đảng là sự nghiệp của chính mình, mới tích cực tham gia vào những phong trào thực tế do Đảng Cộng sản lãnh đạo và tổ chức, mới có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người trong khi thúc đẩy sự nghiệp giải phóng giai cấp vĩ đại. Cũng như vậy, Đảng Cộng sản chỉ thể hiện giá trị của công việc và lực lượng của bản thân trong quá trình phục vụ quần chúng, làm giàu cho nhân dân. Coi lợi ích của nhân dân cao hơn tất cả, quan trọng hơn tất cả, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, đây chính là tôn chỉ căn bản của chính đảng mácxít, cũng là mấu chốt căn bản để phân biệt đảng này với mọi chính đảng khác. Từ ý nghĩa này, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp vô sản, vừa là đại diện tập trung cho lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, Đảng là sự kết hợp hữu cơ và sự thống nhất giữa tính giai cấp rõ ràng và tính nhân dân rộng rãi.


Ngày 4 tháng 7 năm 1920, trong "Đề cương về nhiệm vụ căn bản của Đại hội đại biểu lần thứ II Quốc tế Cộng sản", Lênin đã trình bày một cách khoa học mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản, giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ: "Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giữa người giữ vai trò lãnh đạo là Đảng Cộng sản, giai cấp của cách mạng là giai cấp vô sản và quần chúng tức là tất cả những người lao động bị bóc lột, phải thiết lập được mối quan hệ đúng đắn. Chỉ khi Đảng Cộng sản thực sự trở thành đội tiên phong của giai cấp cách mạng, thu hút được tất cả những đại biểu ưu tú của giai cấp này, tập trung được những người theo chủ nghĩa cộng sản từng được giáo dục và rèn luyện trong đấu tranh cách mạng kiên cường, hoàn toàn giác ngộ và trung thành, liên hệ mật thiết với toàn bộ cuộc sống của giai cấp căn bản của mình, rồi thông qua giai cấp này liên hệ mật thiết với toàn thể quần chúng bị bóc lột, giành được sự tin tưởng hoàn toàn của giai cấp này và những quần chúng này - chỉ một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cuốí cùng kiên quyết nhất chống lại mọi thế lực của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, chỉ dưới sự lãnh đạo của một đảng như vậy, giai cấp vô sản mới có thể phát huy toàn bộ uy lực xung kích cách mạng của mình, mới có thể làm mất hết tác dụng của thái độ lạnh lùng và sự phản kháng đôi lúc của số lượng không nhiều những người như quý tộc công nhân, cựu lãnh tụ Công đoàn và lãnh tụ hợp tác xã, v.v... bị chủ nghĩa tư bản làm mục ruỗng, mới có thể phát huy được toàn bộ sức mạnh của mình"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.237).


Trong thời kỳ cận đại, nước Nga là một quốc gia có nền kinh tế - văn hóa tương đối lạc hậu, về chính trị thực hiện thống trị chuyên chế của Sa hoàng. Đông đảo quần chúng nhân dân chịu sự áp bức song trùng của chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư bản, không chỉ không có quyền chính trị, mà cuộc sống cũng vô cùng khó khăn, nhân dân lầm than điêu đứng, mâu thuẫn xã hội nghiêm trọng chưa từng thấy. Làm thế nào để cứu đông đảo quần chúng nhân dân nước Nga thoát khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, lật đổ sự thống trị chuyên chế của Sa hoàng, thiết lập một xã hội không có áp bức và bóc lột, đã trở thành mục tiêu phấn đấu mà các nhà cách mạng nước Nga với đại diện là Lênin tìm tòi, theo đuổi.


Theo Lênin, trọng tâm của phong trào cách mạng nước Nga là vấn đề chính quyền, lối thoát căn bản của xã hội nước Nga là chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, đập tan bộ máy nhà nước cũ, phá hủy bộ máy này, chính là "lợi ích chân chính của đại đa số nhân dân, tức là công nhân và đại đa số nông dân"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.145). Mà muốn lật đổ chế độ chuyên chính phong kiến nước Nga, thiết lập nên chính quyền do nhân dận làm chủ, dẫn dắt đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa thì phải dựa vào giai cấp công nhân, dựa vào liên minh công nông, dựa vào sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân. Do đó, chính đảng của giai cấp công nhân nước Nga phải liên hệ chặt chẽ việc giải phóng giai cấp công nhân nước Nga vơi giải phóng quần chúng lao khổ khác, thiết thực bảo vệ lợi ích căn bản của họ. Lênin chỉ rõ: "Nhiệm vụ của Đảng chính là bảo vệ lợi ích của công nhân, đại diện cho lợi ích của toàn thế phong trào công nhân", đồng thời hoạt động của Đảng phải kết hợp với phong trào của nhân dân2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.85).


Trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, chính vì những người Bônsêvích đặt ra phương châm, cương lĩnh và chính sách để bảo vệ lợi ích của các giai cấp bị bóc lột trong xã hội như công nhân, nông dân, nên đã giành được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, mới giành được thắng lợi vĩ đại.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:50:29 am
Cách mạng Tháng Hai năm 1917 của giai cấp tư sản đã lật đổ chế độ chuyên chính của Sa hoàng. Tuy nhiên, người của Đảng Tháng Mười và người của Đảng Dân chủ lập hiến của Chính phủ lâm thời lãnh đạo giai cấp tư sản không hề quan tâm đến vấn đề "hòa bình, ruộng đất, bánh mì" mà quần chúng nhân dân khi đó quan tâm nhất, vẫn tiếp tục cuộc đại chiến thế giới phi chính nghĩa, đồng thời kéo dài việc giải quyết vấn đề ruộng đất, thậm chí tiếp tục hành động trấn áp nông dân để chiếm ruộng đất. Sự kỳ vọng của nhân dân rơi vào vô vọng, nạn đói lại hoành hành trên cả nước, nền kinh tế đất nước đổi mặt với nguy cơ sụp đổ.


Phái Bônsêvích mà đứng đầu là Lênin quyết định kết thúc cục diện hai chính quyền cùng tồn tại, kịp thời đề xướng Đảng phải giành lẩy chính quyền, biến cách mạng dân chủ thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải quyết căn bản nguyện vọng của nông dân cần ruộng đất, công nhân cần bánh mì, công nhân và nông dân đều cần hòa bình. Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 7 Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích) họp tháng 4 năm 1917 quyết định: Đảng phải tịch thu tất cả ruộng đất của địa chủ nước Nga, thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất, đồng thời thông qua chính quyền nhân dân đem ruộng đất trao trả lại cho nông dân sử dụng. Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích) diễn ra từ cuối tháng 7 đến tháng 8 năm 1917 tiếp tục thực hiện chính sách của Đảng đối với nông thôn, tiến thêm một bước nêu ra phải tịch thu tài sản của nhà tư bản, thực hiện quốc hữu hóa ngân hàng và ngành công nghiệp lớn.


Sau thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang Tháng Mười ở Pêtrôgrát, chính quyền Xô viết mới thành lập ngay lập tức thông qua "Pháp lệnh hòa bình", tuyên bố nước Nga rút lui khỏi cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc; thông qua "Pháp lệnh ruộng đất", xóa bỏ chế độ địa chủ tư hữu ruộng đất, căn cứ theo sức lao động hoặc dân số phân phối không hoàn lại đất canh tác cho người lao động sử dụng, tiếp đó tiến hành phong trào cải cách ruộng đất, thực hiện "Pháp lệnh ruộng đất" liên quan đến chính sách phân phối ruộng đất không hoàn lại; đồng thời Nhà nước tiếp tục tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng, ngành công nghiệp lớn, ngành vận tải và mậu dịch đối ngoại, nắm được toàn bộ mạch máu kinh tế của đất nước. Cải cách ruộng đất đã tiêu diệt chế độ tư hữu ruộng đất của nước Nga, đáp ứng yêu cầu về ruộng đất của nông dân, cải thiện điều kiện sống, điều kiện vật chất của họ, còn việc quốc hữu hóa ngành công thương nghiệp tư bản đã hoàn thành việc giành lại từ kẻ chiếm đoạt đông đảo công nhân trở thành chủ nhân của xí nghiệp, tạo ra cơ sở vật chất cho chính quyền xã hội chủ nghĩa. Tất cả những chính sách cách mạng này đều đại diện cho lợi ích của đại đa số nhân dân nước Nga, từ đó xác lập và củng cố chính quyền nhân dân mới ra đời.


Cùng với việc chính quyền Xôviết được thiết lập trên toàn quốc, cải cách ruộng đất cơ bản hoàn thành (cuối năm 1918), phong trào quốc hữu hóa thành thị cơ bản kết thúc (mùa xuân năm 1919), nước Nga Xôviết kịp thời hoàn thiện hệ thống pháp luật để củng cố thành quả cách mạng mà rất khó khăn mới giành được. Lênin luôn nhấn mạnh việc xây dựng pháp chế trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, Người nói, một trong những nhiệm vụ của cách mạng chính là "phải xóa bỏ luật pháp cũ, lật đổ những cơ quan áp bức nhân dân, sáng lập nên pháp chế mới"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.12, tr.317). Theo Lênin, Hiến pháp là bộ luật lớn căn bản của đất nước, không những quy định những phương diện căn bản cấu thành quốc gia như tính chất của nhà nước, chế độ căn bản của xã hội và phương thức tổ chức của chính quyền, mà còn bảo đảm được quyền làm chủ về kinh tế, chính trị của giai cấp vô sản và đông đảo quần chúng lao động về mặt pháp luật. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Đại hội đại biểu toàn nước Nga Xôviết lần thứ V diễn ra vào tháng 7 năm 1918 đã thông qua "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga". Đây là bộ Hiến pháp kiểu xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Hiến pháp đã thực sự phản ánh lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân.


Bộ Hiến pháp này khẳng định một cách đầy đủ thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuyên bố nước Nga là nước Cộng hòa Xôviết đại diện cho công nông binh, quy định mọi quyền lợi của nước Nga thuộc về Xôviết, bảo đảm quyền thống trị của nhân dân lao động đối với kẻ áp bức. Đồng thời, Hiến pháp còn bảo vệ tính chất giai cấp vô sản của quốc gia, xác lập nguyên tắc của giai cấp vô sản và chuyên chính bần nông, đưa ra mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không có bóc lột, không có áp bức. Hiến pháp còn liệt kê ra các quyền dân chủ mà người lao động được hưởng như quyền tín ngưỡng, quyền ngôn luận, quyền tụ họp, quyền biểu tình, quyền thị uy. Lênin cho rằng bộ Hiến pháp này "đã ghi lại kinh nghiệm đấu tranh và kinh nghiệm chống lại kẻ bóc lột trong nước và quốc tế của tổ chức quần chúng giai cấp vô sản"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.35, tr.145), chỉ rõ phương hướng phát triển của xã hội nước Nga.


Nước Nga sau khi chính quyền Xôviết thành lập phải đối mặt với cục diện trong nước và quốc tế vô cùng phức tạp. Khi chính sách "cộng sản thời chiến" hoàn thành sứ mệnh "tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì thắng lợi", đồng thời với việc chiến thắng kẻ thù trên mặt trận chính trị và quân sự, cũng xuất hiện những vấn đề như: làm tổn hại lợi ích của quần chúng nhân dân, đặc biệt là lợi ích của nông dân, Lênin ví rằng trên chiến trường kinh tế đã gặp phải một loạt thất bại. Người cho rằng, "thất bại này nghiêm trọng hơn nhiều, lớn hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều so với bất cứ thất bại nào mà chúng ta đã từng gặp phải bởi Kolchak, Denikin, Pilsudski"2 (Lênin: Tuyên tập, Sđđ, q.42, tr.184).


Trong Đảng nảy sinh tranh luận xung quanh vấn đề làm thế nào vượt qua khó khăn. Một bộ phận lãnh đạo đảng khi đó như Trotsky, Bukharin kiên trì thực hiện chính sách "cộng sản thời chiến", thậm chí còn "xiết bulông" hơn nữa. Lênin nhiều lần nhấn mạnh tranh luận giữa mình với Trostky, Bukharin thực chất là khác biệt trong vấn đề phương pháp đối xử với quần chúng, nắm bắt quần chúng, liên hệ với quần chúng. Chính sách "cộng sản thời chiến" không tập trung vào lợi ích của quần chúng và phản ứng của quần chúng, đã không còn phù hợp với sự thay đổi của tình hình mới. Đúng như Lênin đã chỉ ra, "thất bại lần này thể hiện ở chỗ: chính sách kinh tế mà trên đưa ra xa rời với dưới, chính sách đó không nâng cao năng lực sản xuất"1 (Lênin: Tuyên tập, Sđd, q.42, tr.184).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:51:33 am
Năm 1921, Nghị quyết được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga viết: "Bảy năm chiến tranh và kinh tế suy sụp khiến đất nước nghèo khó vô cùng, ba năm rưỡi vô cùng khó khăn khiến giai cấp công nhân nước ta kiệt sức... Do đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga yêu cầu toàn Đảng, yêu cầu các cơ quan của Đảng và cơ quan Xôviết đặc biệt chú ý vấn đề này, đồng thời lập tức áp dụng một loạt các biện pháp, ra sức cải thiện tình trạng sống của công nhân, giảm bớt khó khăn của họ"2 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.2, tr.108-109). Vì thế, Lênin và Đảng Bônsêvích đặc biệt nhấn mạnh phải liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe tiếng nói và yêu cầu của họ. Chính vì lắng nghe ý kiến rộng rãi của quần chúng, Lênin và Đảng Bônsêvích cuối cùng quyết định xóa bỏ thể chế "cộng sản thời chiến", quá độ sang chính sách kinh tế mới. Lịch sử nước Cộng hòa Xôviết lại lật sang một trang mới.


Xtalin đã kế thừa học thuyết xây dựng đảng mácxít - lêninnít. Ông nêu rõ: "Về phương diện chính trị, muốn thực hiện sự lãnh đạo của đội tiên phong giai cấp tức là Đảng, phải xây dựng mạng lưói cơ quan phi đảng phái mang tính quần chúng rộng lớn xung quanh Đảng, những cơ quan này là xúc tu của Đảng, dựa vào mạng lưới này, Đảng có thể truyền đạt ý chí của mình đến giai cấp công nhân, còn giai cấp công nhân cũng có thể từ quần chúng phân tán trở thành đội quân của Đảng"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.2, tr.162). Ông còn nói: "Đảng không những phải tiến lên phía trước, mà còn phải dẫn dắt hàng chục triệu quần chúng. Tiến lên phía trước mà không dẫn dắt quần chúng, trên thực tế là xa rời phong trào... Để đội tiên phong không xa rời quần chúng, để đội tiên phong thực sự có thể dẫn dắt hàng chục triệu quần chúng, phải có một điều kiện quyết định, chính là quần chúng tự dựa trên kinh nghiệm của bản thân, tuyệt đối tin tưởng vào sự đúng đắn của các chỉ thị, mệnh lệnh và khẩu hiệu của đội tiên phong"2 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.10, tr.27).


Ông cho rằng, lợi ích của Đảng, lợi ích của đất nước và lợi ích của nhân dân là căn bản thống nhất, lợi ích căn bản của quần chúng nông dân hoàn toàn thống nhất với lợi ích của giai cấp vô sản; cái mà chính quyền Xôviết dựa vào chính là liên minh công nông được xây dựng trên cơ sở thống nhất về lợi ích căn bản, chế độ xã hội chủ nghĩa của Xôviết phục vụ cho lợi ích căn bản của công nhân và nông dân; giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích cá nhân và chủ nghĩa xã hội không tồn tại sự đối lập căn bản không thể điều hòa, chủ nghĩa xã hội không thể tách rời lợi ích cá nhân, song chỉ có xã hội xã hội chủ nghĩa mới có thể đáp ứng đầy đủ nhất và mang lại bảo đảm đáng tin cậy duy nhất cho lợi ích cá nhân.


Việc Liên Xô xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội liên quan đến lợi ích căn bản của toàn thể nhân dân Liên Xô, liên quan đến tiền đồ và vận mệnh sự nghiệp của Đảng và sự nghiệp của nhân dân. Về vấn đề trọng đại là Liên Xô có đủ năng lực để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hay không, Xtalin không hề mơ hồ. Ông cho rằng, Liên Xô đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vậy thì trên thực tế phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cũng có nghĩa, giai cấp vô sản của Liên Xô, chuyên chính vô sản của Liên Xô có khả năng dùng lực lượng của chính mình để chiến thắng giai cấp tư sản của Liên Xô. Về vấn đề này, không thể có lựa chọn nào khác. Nếu không, Đảng sẽ không thể có lý do tiếp tục nắm chính quyền.


Từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Liên Xô đã bắt đầu tiến hành xây dựng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa quy mô lớn, trong vòng chưa đến 10 năm đã đạt được thành tựu vĩ đại, tạo nên kỳ tích công nghiệp hóa nổi tiếng thế giới.


Không thể phủ nhận, phong trào công nghiệp hóa quá nhấn mạnh phát triển công nghiệp nặng, nhấn mạnh tốc độ cao trong xây dựng, nhấn mạnh thực hiện tích lũy lớn, do đó tồn tại vấn đề phá vỡ sự phát triển hài hòa của nền kinh tế quốc dân, tổn hại đến lợi ích kinh tế ngành nông nghiệp và lợi ích của nông dân, ảnh hưởng đến nhiều vấn đề trong đó có nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân. Song công nghiệp hóa về căn bản đã tạo cơ sở kinh tế cần thiết cho việc củng cố và phát triển chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích căn bản của đại bộ phận nhân dân, vì vậy cũng phù hợp với mong muốn và yêu cầu của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân. Cũng chính vì vậy, hàng triệu công nhân viên chức mới có thể phát huy khí thế làm việc rạo rực, lập nghiệp không ngại gian khó, xuất hiện nhiều kỳ tích anh hùng đáng ca ngợi và làm xúc động lòng người.


Những xí nghiệp hàng đầu trên thế giới như Xí nghiệp gang thép Magnitogorsk và Xí nghiệp gang thép Kuznetsk ở Xibêri, Nhà máy cơ khí hạng nặng Malar đều được hình thành nên trong điều kiện vô cùng gian khổ. Để hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, những người từ bốn phương tám hướng đến với những công trường này chủ yếu là công nhân trẻ và những công nhân lớn tuổi đã từng tham gia nội chiến. Vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vĩ đại, họ đã từ các thành phố lớn như Mátxcơva, Lêningrát, Kiev đến với những công trường xây dựng hoang sơ này, ở trong  những lều trại, công cụ sử dụng chủ yếu là xẻng, cuốc và xe kéo, có những công trường đi lại mất vài cây số, mùa đông phải thi công trong công trường đây tuyết dưới nhiệt độ - 40°C đến -50°C. Song công nhân không hề lùi bước trước những khó khăn này, đồng tâm hiệp lực hăng hái lao động, trong đó đảng viên cộng sản, đoàn viên thanh niên cộng sản càng phát huy vai trò gương mẫu ở mọi nơi, dẫn đầu phát động các phong trào thi đua, đi đầu tham gia lao động nghĩa vụ ngày thứ bảy, chủ nhật, có những người trong một ngày hoàn thành mấy ca lao động. Do đó tiến độ công trình hoàn thiện rất nhanh. Trong điều kiện thi công khó khăn như vậy, Xí nghiệp gang thép Kuznetsk, một trong những xí nghiệp gang thép lớn nhất thế giới, chỉ mất 1.000 ngày đã hoàn thành đi vào sản xuất, xí nghiệp Magnitogorsk cũng chỉ mất 4-5 năm đã hoàn thành1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): 70 năm kinh tế chính trị Liên Xô, Sđd, tr.382-383).


Ở đâu cũng có các phong trào thi đua lao động rầm rộ. Công nhân thông qua các phong trào thi đua học tập lẫn nhau, không ngừng nâng cao năng suất lao động. Trong giai đoạn "kế hoạch 5 năm lần thứ nhất" năng suất lao động trong ngành công nghiệp của Liên Xô đã tăng 41%, trong giai đoạn "kế hoạch 5 năm lần thứ hai" lại tăng mạnh lên 82%, hai kế hoạch 5 năm đều hoàn thành trước kỳ hạn. Trong thời kỳ chiến tranh, công nhân các dân tộc Liên Xô càng phát huy tinh thần lao động anh dũng, năng suất lao động ngành công nghiệp trong điều kiện chiến tranh khó khăn nhất vẫn tăng trưởng. So với năm 1940, giá trị sản lượng của một người công nhân năm 1941 tăng 110%, năm 1942 tăng 130%, năm 1943 tăng 139%, năm 1944 tăng 142%, năm 1945 tăng 114%. Từ tháng 5 năm 1942 đến tháng 4 năm 1945, năng suất lao động ngành công nghiệp tăng trưởng 40%2 ([Liên Xô] Phòng Lịch sử, Viện khoa học Liên Xô (biên tập): Dân tộc Liên Xô - Lịch sử xây dựng đất nước, Xưởng in Thương vụ (Trung Quốc), 1997, tr.471).


Các tác giả Liên Xô đã nhiệt tình sáng tác nên những bài thơ hùng tráng viết về cuộc đấu tranh với thiên nhiên của con người những năm 1930. Tác giả Malishkin viết: "Cả nước rừng rực, khí thế ngút trời, đang xây dựng, đang sắp xếp lại". Metchenko viết: "Nếu như mở bất kỳ tờ báo nào, bất kỳ cuốn tiểu thuyết được yêu thích nào của những năm đó, bạn đều cảm nhận được khí thế và sự khích lệ từ chiến tranh, nhiệt tình lao động và cảm xúc sáng tạo. Một kiểu dấn thân cho đất nước - từ Nam chí Bắc - cảm xúc mạnh mẽ hòa mình vào hành động thay trời đổi đất vĩ đại, đã chiếm lĩnh tâm hồn của các nhà văn"1 (Tham khảo (Liên Xô) Metchenko (Thạch Điền, Bạch Đề dịch): Nối nghiệp tiền nhân - Bàn về một số vấn đề phát triển văn học Liên Xô, Nxb. Thương vụ, 1995, tr.229). Tác giả Sholokhov trên báo Sự thật Đoàn thanh niên đã viết: "Thập kỷ 1930 sẽ là những năm tháng vĩ đại trong lịch sử. Gọi là những năm tháng vĩ đại xuất phát từ quy mô của nhiệm vụ, từ tính mới mẻ và tính gian nan của nó, và xuất phát từ những thành tựu mà người Liên Xô đạt được".


Kể từ khi Liên Xô tan rã đến nay, một số người phủ định thành tựu của Liên Xô, cho rằng những con số về công nghiệp hóa thời kỳ đó đều là hư cấu. Điều này không đúng với thực tế. Ngày nay, các học giả Nga dựa trên số liệu thống kê mới nhất chỉ ra rằng: "Từ năm 1928 đến năm 1941, Liên Xô đã thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp theo đúng nghĩa: đã xây dựng được 9.000 nhà máy công nghiệp cỡ trung và cỡ lớn, sản lượng công nghiệp đã đứng vị trí thứ 2 toàn thế giới (năm 1913 đứng vị trí thứ 5 thế giới). Trong thập kỷ 30, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hằng năm của ngành công nghiệp đạt 11%, trở thành một trong số 3-4 quốc gia có thể sản xuất được bất cứ sản phẩm công nghiệp nào mà con người có thể sản xuất ra"2 (Sakharov: Lịch sử Tổ quốc thế kỷ XX, Sđd, tr.158).


Một số người miêu tả Liên Xô trong những năm 1930 của thế kỷ XX như một đám đen tối, như thế nhân dân Liên Xô thời kỳ đó sống trong sự ép buộc phải lao động, chứa đựng đầy hận thù với Đảng Cộng sản Liên Xô. Điều này cũng hoàn toàn sai thực tế.


Trên thực tế, trong sự nghiệp vô cùng gian khó và vĩ đại nhằm xây dựng một đất nước công nghiệp hóa, nông nghiệp tập thể hóa, xây dựng hiện đại hóa lớn mạnh, nếu như Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang không đại diện cho lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân Liên Xô, bảo đảm sự liên hệ máu thịt với nhân dân, thì hoàn thành sự nghiệp vĩ đại như vậy - từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành cường quốc chủ yếu trên thế giới - là việc không thể tưởng tượng được. Chính vì vậy, ngày 13 tháng 12 năm 1931, trong cuộc trò chuyện với nhà văn Emil Ludwig, Xtalin tự hào nói: "Nhưng nếu nói đến người dân lao động Liên Xô, nói đến số lượng công nhân và nông dân chiếm ít nhất 90% dân số của Liên Xô, thì họ ủng hộ chính quyền Xôviết, hơn nữa, tuyệt đại đa số họ tích cực ủng hộ chế độ Xôviết. Họ ủng hộ chế độ Xôviết vì chế độ này phục vụ cho lợi ích căn bản của công nhân và nông dân. Cơ sở để củng cố chính quyền Xô viết cũng chính là ở đây"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.303-304).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:55:14 am
3. Liên hệ mật thiết hơn với quần chúng

Tính giai cấp rõ ràng và tính nhân dân rộng rãi của Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ khi thông qua đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản liên hệ mật thiết với đông đảo quần chúng mới có thể thực hiện được. Lênin chỉ rõ, cái chúng ta cần là chính đảng mới, là đảng phục vụ đông đảo nhân dân lao động, liên hệ mật thiết với quần chúng và có khả năng lãnh đạo quần chúng. Chính đảng giai cấp vô sản muốn giành được thắng lợi cách mạng thì phải "dựa vào khả năng liên hệ với đông đảo quần chúng lao động, đầu tiên là cùng với quần chúng lao động vô sản của đảng đó, song cũng phải liên hệ với quần chúng lao động phi vô sản, tiếp cận, thậm chí có thể ở một mức độ nào đó kết thành một khối với họ"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.136, 163). "Bài học cách mạng của nước ta là: chính đảng dựa vào một giai cấp nhất định mới mạnh, mới có thể an nhiên tự tại trong thời kỳ tình hình nảy sinh vô số chuyển biến. Đấu tranh công khai của chính đảng buộc chính đảng phải liên hệ mật thiết hơn nữa với quần chúng, bởi lẽ nếu không có mối liên hệ này, đảng sẽ chẳng còn tác dụng gì"2 (Lênin: Tuỵển tập, Sđd, q.17, tr.325). "Nếu chúng ta không hiểu gì về tâm trạng quần chúng, không biết kết thành một khối với quần chúng, khơi dậy quần chúng công nhân, thì căn bản không thể nói đến chuyện phát huy vai trò đội tiên phong cách mạng của đảng xã hội dân chủ!"3 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.10, tr.334). Chỉ khi đảng liên hệ với quần chúng mới có thể phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, nếu như đảng "không tiếp cận quần chúng, sẽ hỏng hết mọi chuyện"4 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.47, tr.543) . Do đó, "ở đâu có quần chúng, thì nhất định phải tới đó công tác"5 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.136, 163).


Chính đảng giai cấp công nhân nước Nga thời kỳ Lênin là đảng dựa vào quần chúng, trong thời kỳ cách mạng lại càng liên hệ mật thiết với quần chúng. Không chỉ trong những năm tháng chiến tranh như vậy, sau khi cầm quyền cũng như vậy. Lênin cho rằng, nguy hiểm lớn nhất mà đảng phải đối mặt sau khi cầm quyền là xa rời quần chúng. Vì vậy, Lênin lãnh đạo đảng Bônsêvích nhấn mạnh tăng cường xây dựng đảng, rất coi trọng việc xây dựng tư tưởng, xây dựng tổ chức, xây dựng chế độ và xây dựng tác phong của cán bộ, đảng viên, ra sức phát huy dân chủ trong đảng và dân chủ nhân dân, áp dụng mọi biện pháp chống quan liêu, chống quan chức tham nhũng.


Tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị là khâu trung tâm trong xây dựng đảng. Chỉ khi đảng viên không ngừng nâng cao trình độ chính trị tư tưởng mới có thể xác lập được quan điểm quần chúng đúng đắn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Cộng sản Liên Xô vô cùng coi trọng học tập và tuyên truyền tư tưởng, lý luận chủ nghĩa Mác trong toàn đảng, toàn quốc, lần lượt xây dựng Viện Khoa học xã hội chủ nghĩa (năm 1918), Viện nghiên cứu Mác - Ăngghen (năm 1921), Viện Chủ nghĩa Lênin (năm 1923 thành lập, năm 1928 sáp nhập với Viện nghiên cứu Mác - Ăngghen) và Học viện Giáo Sư Đỏ trực thuộc Trung ương, mục đích là nghiên cứu những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; tiến hành nghiên cứu một cách khoa học khoa học xã hội, triết học và khoa học tự nhiên có liên quan đến khoa học xã hội, bồi dưỡng cán bộ lý luận nghiên cứu và tuyên truyền về chủ nghĩa Mác, xuất bản những trước tác kinh điển về chủ nghĩa Mác.


Nhấn mạnh học tập chủ nghĩa Mác kết hợp với thực tiễn là một yêu cầu đối với bồi dưỡng cán bộ khi đó, mục đích là xây dựng tác phong tốt đẹp - lý luận gắn với thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng. Trong chỉ thị "Về Viện khoa học xã hội chủ nghĩa", Lênin đã viết, "một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà cán bộ học tập là tổ chức một loạt điều tra xã hội"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.541), đồng thời yêu cầu coi đây là "nguyên tắc đào tạo" của Viện khoa học xã hội chủ nghĩa.


Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua việc mở trường đảng để tăng cường giáo dục tư tưởng đối với cán bộ. Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tập trung nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của việc tăng cường giáo dục kỷ luật và liên hệ mật thiết với quần chúng của đông đảo đảng viên, nhất là đảng viên trẻ. Vì vậy "phải ra sức tăng số lượng trường đảng", bổ sung giảng viên chuyên trách, cải thiện hạ tầng giáo dục và thư viện ở các trường đảng. Phải tổ chức tốt những ngày lễ kỷ niệm của Đảng, tổ chức các buổi báo cáo và tọa đàm trong các ngày lễ của Đảng, mục đích là để "mỗi đảng viên đều cảm thấy mình là một chiến sĩ phấn đấu để thực hiện tư tưởng vĩ đại"1 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội Đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.2, tr.186).


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, trong Đảng dần dần nảy sinh thói quan liêu và xa rời quần chúng. Lênin yêu cầu đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa quan liêu. Một khi gặp hiện tượng như vậy, Người liền phê bình thẳng thắn.


Cuối năm 1919, căn cứ đề xuất của Ủy viên Đoàn chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Công đoàn toàn nước Nga Melnichansky, Lênin yêu cầu cử 1 vạn công nhân luyện kim thành thạo tới các xí nghiệp vận tải đường sắt tham gia công tác sửa chữa phương tiện giao thông. Song lãnh đạo Hội đồng trị sự Trung ương Công đoàn toàn nước Nga và Hội đồng trị sự Công đoàn thành phố Mátxcơva đáp ứng chậm trễ. Vì thế Lênin phê bình họ "trong một công việc thực tế vô cùng quan trọng đã thể hiện sự lề mề, mệt mỏi, quan liêu, thiếu năng lực một cách đáng kinh ngạc". Lênin nói: "Tôi không bao giờ hoài nghi, trong Ủy ban nhân dân của chúng ta, chủ nghĩa quan liêu còn rất nghiêm trọng, bộ nào cũng như vậy. Song, chủ nghĩa quan liêu trong Công đoàn cũng không kém, điều này tôi không hề nghĩ tới. Đây là điều sỉ nhục rất lớn". Lênin yêu cầu lập tức "đưa ra những biện pháp thực tế để đấu tranh với chủ nghĩa quan liêu, tác phong lề mề, vô tích sự và thiếu năng lực"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.222).


Lênin luôn coi trọng vấn đề chất lượng đảng viên. Đối mặt với số lượng đảng viên tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, không thể tránh khỏi một số phần tử theo đuổi địa vị cá nhân trà trộn vào trong Đảng, làm nảy sinh hiện tượng đội ngũ của Đảng không trong sạch, chất lượng đảng viên không đồng đều, Lênin trịnh trọng nêu ra với Đảng: phải loại trừ những phần tử "trà trộn vào trong Đảng", "mang danh ủy viên", "những người quan liêu hóa", thanh trừ ra khỏi Đảng những đảng viên tham sống sợ chết, mưu cầu lợi ích cá nhân trong thời kỳ chiến tranh nguy cấp nhất. Trong Đảng, xây dựng phong trào xóa bỏ tham nhũng, tăng cường liên hệ mật thiết với nhân dân. Ngày 21 tháng 6 năm 1921, Trung ương Đảng đã thông qua "Nghị quyết về vấn đề thẩm tra, sát hạch đảng viên và làm trong sạch Đảng". Nghị quyết đặc biệt chỉ rõ, "đối với những người 'mang danh nghĩa ủy viên' và những người đảm nhiệm chức vụ được hưởng một đặc quyền nào đó cần phải tuân thủ nghiêm túc". Kết quả có 159.355 người bị khai trừ khỏi Đảng, chiếm đến 24,1% số đảng viên thời kỳ đó1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.865-866).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:56:53 am
Muốn đề phòng xuất hiện tình trạng quyền lực quá tập trung, cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, phải phát huy dân chủ nhân dân, mà muốn phát huy dân chủ không thể tách rời giám sát. Do đó, Lênin coi trọng tăng cường giám sát trong Đảng và quần chúng giám sát. Người nêu ra việc xây dựng và tăng cường các cơ quan giám sát như Viện Kiểm sát công nông, chính là nhằm thanh trừ những hiện tượng tham nhũng tiêu cực này thông qua quy chế, thông qua tổ chức.


Lênin cho rằng Viện Kiểm sát công nông phải do những người có tố chất cao tạo thành, phải "tập hợp những nhân tài thực sự có tố chất hiện đại, tức là những nhân tài không hề kém cỏi khi so sánh với những nhân tài ưu tú của Tây Âu, vào Viện Kiểm sát công nông"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.784), nhằm nâng cao chất lượng của cơ quan nhà nước - Viện Kiếm sát công nông. Mà yêu cầu đầu tiên về tư tưởng phẩm chất đối với những nhân tài này là "một lòng phấn đấu vì chủ nghĩa xã hội". Phải tăng cường quyền lực của những cơ quan giám sát như Viện Kiểm sát công nông. Thậm chí, Ủy viên Ủy ban Giám sát Trung ương dưới sự lãnh đạo của Đoàn chủ tịch có thể "thường xuyên kiểm tra mọi văn kiện của Bộ Chính trị", có thể tiến hành kiểm tra chế độ làm việc của cơ quan nhà nước nhỏ nhất đến cơ quan lớn nhất.


Để có thể dựa vào quần chúng trong công tác thực tế, Lênin chủ trương cho phép đại biểu đảng viên của quần chúng công nông có địa vị và quyền lợi như Ủy viên Trung ương, được tham dự những cuộc họp cao nhất của Đảng, đồng thời tham gia vào những quyết sách quan trọng của đất nước. Trước khi Lênin qua đời, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng rất ít. Từ Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga năm 1919 đến Đại hội lần thứ XI, Đại hội cuối cùng do Lênin trực tiếp lãnh đạo năm 1922, Ban Chấp hành Trung ương chỉ có 19 - 27 người. Tình trạng này không có lợi cho việc phát huy dân chủ trong Đảng, cũng không có lợi cho sự ổn định của Trung ương. Ngày 23 tháng 12 năm 1922, trong bức thư gửi Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng chuẩn bị khai mạc, Người kiến nghị tăng số người của Ban Chấp hành Trung ương lên 50 người, thậm chí 100 người, Người còn đặc biệt kiến nghị số ủy viên Trung ương mới tăng thêm phải được lựa chọn trong số đảng viên công nông.


Ủy viên Trung ương công nông mà Lênin nói tới là công nhân công tác ở những vị trí bình thường và đảng viên là nông dân lao động. Người nói: "Theo tôi, công nhân tham gia Ban Chấp hành Trung ương nên chủ yếu là những công nhân đã từng tham gia công tác Xôviết nhiều năm (công nhân mà tôi muốn nói đến ở phần này của bức thư bao gồm cả nông dân), vì trong số những công nhân này đã hình thành nên những truyền thống và thành kiến cần khắc phục", "Ủy viên Trung ương công nhân chủ yếu nên là những công nhân như vậy, địa vị của họ thấp hơn tầng lớp người mà 5 năm trở lại đây được chúng ta đề bạt làm công chức của Xôviết, họ gần gũi hơn với công nhân phổ thông và không trở thành nông dân bóc lột trực tiếp hoặc gián tiếp"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.747-748, 478). Những Ủy viên Trung ương mới được tăng thêm là những công nhân, nông dân phổ thông giống như các Ủy viên Trung ương khác, "tham dự tất cả các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, tham dự tất cả các hội nghị của Bộ Chính trị, đọc tất cả các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.747-748, 478).


Lênin cho rằng mục đích lựa chọn ủy viên Trung ương trong số các đảng viên công nông là để cho đại biểu là đảng viên công nông tham gia và giám sát các quyết sách của Đảng và Nhà nước về những vấn đề trọng đại, kiểm tra, cải thiện và cải tạo các cơ quan của Đảng và Chính phủ Xôviết tốt hơn, đồng thời thông qua việc họ thực sự hiểu được nguyện vọng và yêu cầu của quần chúng công nông, giúp Đảng đưa ra những đường lối, phương châm và chính sách đúng đắn, từ đó tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với đông đảo quần chúng. Đồng thời, bồi dưỡng những cốt cán trung thành ủng hộ chế độ Xô viết, bảo vệ sự ổn định của Ban Chấp hành Trung ương.


Thời kỳ Xtalin cũng rất coi trọng xây dựng tác phong đảng. Nếu nói công tác xây dựng tác phong đảng của Đảng Bônsêvích trong thập kỷ 1920 là vẫn ở thời kỳ đầu, thì từ thập kỷ 1920 đến thập kỷ 1950 đã từng bước xây dựng và hình thành nên thể chế lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng lớn mạnh trong nội bộ Đảng.


Thời kỳ Xtalin cũng áp dụng những biện pháp nghiêm khắc để chống lại chủ nghĩa quan liêu và hành vi tham nhũng của quan chức. Năm 1928, tại Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản lần thứ VIII, Xtalin tập trung nói đến vấn đề chống lại chủ nghĩa quan liêu, ông chỉ rõ: "Một trong những kẻ thù độc ác nhất cản bước chúng ta tiến lên chính là chủ nghĩa quan liêu. Nó sống trong mọi tổ chức của chúng ta, bất kể là tổ chức đảng, tổ chức đoàn thanh niên, tổ chức Công đoàn hay tổ chức kinh tế". "Phần tử quan liêu là đảng viên cộng sản là phần tử quan liêu nguy hiểm nhất. Tại sao? Vì họ mượn danh nghĩa đảng viên để thực hiện chủ nghĩa quan liêu. Rất tiếc là, phần tử quan liêu là đảng viên cộng sản như vậy chiếm không ít trong số chúng ta"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr.60).


Năm 1928, một Hội nghị toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã phân tích sâu sắc biểu hiện và căn nguyên nảy sinh chủ nghĩa quan liêu trong tác phong đảng. Nghị quyết của Hội nghị viết: "Phải thay đổi mạnh mẽ và cải tiến căn bản công tác Xôviết thành thị và nông thôn, đầu tiên phải kiên quyết và thiết thực triển khai cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu trong cơ quan nhà nước"2 (Tổng tập nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.3, tr.481). Nghị quyết chỉ rõ, những người theo chủ nghĩa quan liêu này không hề quan tâm đến yêu cầu của người lao động, lười biếng trong công tác, lối sống tha hóa, thậm chí buông thả, rượu chè, nịnh bợ lãnh đạo, làm tổn hại nghiêm trọng đến tác phong liên hệ mật thiết với quần chúng của Đảng, phá hoại quan hệ giữa Đảng với quần chúng.


Vậy mà, đến cuối đời, chính Xtalin cũng nhiễm phải thói sùng bái cá nhân, chủ nghĩa quan liêu và xa rời quần chúng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 07:58:06 am
Tác phong của Đảng chính là hình tượng mà Đảng xây dựng trước quần chúng. Lênin rất coi trọng vai trò gương mẫu đầu tàu của cán bộ, đảng viên về mặt bồi dưỡng và xây dựng tác phong tốt đẹp của Đảng, yêu cầu cán bộ lãnh đạo của Đảng lấy bản thân mình làm tấm gương, duy trì tính cách cách mạng và tác phong liêm khiết tốt đẹp, liên hệ mật thiết với quần chúng, dựa vào quần chúng, phục vụ quần chúng. Về mặt này, Lênin đã làm tấm gương sáng cho mọi người.


Lênin không chỉ lãnh đạo đưa ra những chiến lược phát triển quan trọng của Đảng và Nhà nước, mà trong điều kiện công tác bận rộn còn thường xuyên dành thời gian tiếp quần chúng nhân dân. Phóng viên Albert Williams của Mỹ gọi phòng làm việc của Lênin là "phòng tiếp dân lớn nhất thế giới". Theo thống kê của Phòng tiếp dân Ủy ban Nhân dân Liên Xô, trong vòng hai năm rưỡi, từ ngày 2 tháng 10 đến ngày 16 tháng 12 năm 1922, Lênin đã tiếp các tầng lớp nhân dân tổng cộng 125 lần, bình quân mỗi ngày tiếp 2 đến 3 người. Lênin yêu cầu cơ quan các cấp của Đảng Cộng sản thay đổi tác phong công tác, nghiêm túc đáp lại tiếng nói và nhu cầu của quần chúng.


Lênin còn quan tâm đến đời sống của quần chúng công nông phổ thông, phần tử trí thức mà Người có dịp được tiếp xúc, giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề gặp phải. Ngày 8 tháng 8 năm 1919, Ủy viên Giáo dục nhân dân Lunacharsky báo cáo, trong số các học viên của Trường Công tác Xôviết và công tác đảng vụ Trung ương có người sức khỏe vô cùng yếu, thiếu những thực phẩm thiết yếu để duy trì sức khỏe như dầu ăn, khoai tây, bột mỳ... Ngày hôm đó Lênin đã ra chỉ thị như sau: "Phải áp dụng biện pháp cấp bách. Hãy cho tôi biết chính xác (muộn nhất ngày mai) các anh trích ra được bao nhiêu cho họ?". Trong ngữ khí Lênin đã thế hiện rõ sự quan tâm đối với sức khỏe của đông đảo học viên1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.57).


Khi đó lương thực hết sức thiếu thốn, công nhân trong công trường thường xuyên ở trong tình trạng thiếu lương thực. Chỉ cần Lênin phát hiện ra nơi nào tình hình nghiêm trọng sẽ làm hết sức thể hiện sự quan tâm và giúp đỡ. Có một lần, khi Người được tin khoảng 12.000 người là công nhân viên chức của Ủy ban Quản lý công trường và Trạm đường sắt số 6 của tỉnh Kaluga lẽ ra được cung cấp lương thực theo tiêu chuẩn lương thực của Hồng quân, "nhưng họ không nhận được bất cứ thứ gì", Người lập tức gửi thư cho Svidersky, Ủy viên Ủy ban Lương thực nhân dân: "Tôi nhận được báo cáo về tình trạng vô cùng khó khăn của một số công trường, xin đồng chí nghĩ cách ra chỉ thị gấp cung cấp lương thực cho họ"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.332, 33, 207-208).


Ngày 19 tháng 7 năm 1919, Phòng hành chính sự vụ Ủy ban Thanh trừng phần tử phản cách mạng Mátxcơva mua cho Lênin "một đôi giày, một bộ quần áo, một đai quần, một dây lưng", tổng cộng Lênin phải trả 1.417 rúp 75 kopec. Sau khi nhận được hóa đơn, Lênin lập tức ghi trên hóa đơn: "Gửi thêm 2.000 rúp, đề nghị... sửa hóa đơn tính ít tiền này"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.332, 33, 207-208). Chủ nhiệm văn phòng Ủy ban nhân dân Bruyêvic một lần mua sách cho Lênin, Lênin lập tức bày tỏ: "Sách của tôi do tôi tự trả tiền". Lênin cũng liệt kê ra hai bộ sách trị giá tổng cộng 3.700 rúp, sau đó "gửi 4.000 rúp", trả lại cho Văn phòng3 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.332, 33, 207-208).


Trong những năm tháng việc cung cấp vật tư khó khăn nhất, có một lần Phòng Nông nghiệp, Cục Lương thực Xôviết Mátxcơva tặng Lênin một ít trái cây, đã bị Lênin kiên quyết từ chối. Lênin nói: "Tôi đã nhận được trái cây từ nông trường quốc doanh mà các anh gửi tới. Tôi khẩn thiết yêu cầu các anh về sau không làm như vậy nữa, những thứ như trái cây không cần gửi tặng nữa, nhưng phải nói cho tôi biết: những sản phẩm của nông trường quốc doanh như trái cây thường được phân phối như thế nào? Có phân phối cho bệnh viện, cơ sở y tế và cho trẻ em không?"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.49, tr.37). Ngày 7 tháng 5 năm 1920, chiến sĩ Binh đoàn 30 Công xã Đỏ của quân đội Turkestan tặng mỳ ống và bánh mỳ cho Lênin, Người liền tặng lại cho nhi đồng thành phố Mátxcơva.


Lãnh tụ thời kỳ đầu của Bônsêvích đều duy trì phẩm chất trong sạch như vậy. Học giả Nicolas Arthur của Nga đã viết: "Khi Xtalin qua đời, ông để lại gì cho bản thân? Nhân viên công tác tìm thấy tại nơi ở của ông mấy đôi tất ngắn đã vá lại, mấy đôi giày đã rời đế hai bộ quân phục: một bộ ông mặc hằng ngày, còn một bộ mặc trong những dịp lễ tết".


Lênin không những duy trì được tác phong liêm khiết đối với bản thân, mà còn thể hiện sự phẫn nộ cùng cực đối với những quan chức lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân. Có một lần, khi biết huyện Podolsk thành phố Mátxcơva có một người tên Terekhin đã mượn danh nghĩa Đoàn thanh niên Cộng sản chiếm Trường thêu đan, bắt giữ một cô giáo, đồng thời lấy đi một số đồ vật, Người lập tức viết thư gửi Ủy ban huyện đó, chỉ thị lập tức dọn khỏi trường học, trả lại hết những đồ vật đã lấy đi, bao gồm cả đổ vật của nhà trường và của cô giáo đó. Phải làm cho cô giáo yên tâm công tác, đồng thời mệnh lệnh điều tra hành vi ăn cướp phi pháp, giao kẻ đó cho tòa án xét xử.


Xtalin cũng như vậy. Ví dụ, ở khu vực Smolensk, một số cán bộ trong Đảng tham ô nhận hối lộ, thường xuyên rượu chè, vi phạm kỷ cương pháp luật, dùng người theo tình cảm, phê bình trù dập, phá hoại một cách thô bạo dân chủ trong Đảng. Sau khi việc này lộ rạ. Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã xử lý, quyết định khai trừ những đảng viên suy thoái về mặt chính trị, đạo đức đó ra khỏi Đảng, đồng thời giao những cán bộ đảng viên, nhân viên hành chính vi phạm pháp luật đó cho tòa án xét xử1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.37).


Những việc tương tự còn xảy ra ở khu Artemovsky, Ucraina, một số người thuộc cơ quan Đảng, chính quyền ở đó cũng vì xuất hiện những hành vi suy thoái về chính trị, lối sống, đã bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương xử lý nghiêm khắc.


Xtalin đã chỉ rõ, những sự kiện xảy ra ở Smolensk và Artemovsky "có phải là ngẫu nhiên không? Tại sao ở một khâu nào đó trong tổ chức đảng của chúng ta lại phát sinh những hiện tượng suy thoái, biến chất đáng xấu hổ như vậy? Là vì có một số người đẩy sự lũng đoạn của Đảng đến mức xằng bậy, chèn ép tiếng nói của tầng lớp dưới, xóa bỏ dân chủ trong Đảng, nuôi dưỡng chủ nghĩa quan liêu"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.37). Vì thế Xtalin chỉ rõ con đường để tiêu diệt tai họa do chủ nghĩa quan liêu gây ra là: phải phát huy giám sát từ dưới lên trên, đồng thời phát huy dân chủ trong Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 08:03:49 am
II. TÁC PHONG ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ THỜI KỲ KHRUSHCHEV VÀ BREZHNEV


1. Tính chất giai cấp vô sản của Đảng bắt đầu bị bóp méo

Sự thoái hóa về tính chất của Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu từ thời kỳ Khrushchev. Khrushchev mượn cớ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội không tồn tại đấu tranh giai cấp, nêu ra lý luận như "đảng toàn dân", làm lung lay cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác.


Như đã đề cập ở trên, khoa học mácxít - lêninnít đã nói rõ quan hệ giữa đảng với quần chúng: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản là cơ sở giai cấp của Đảng; hàng triệu quần chúng nhân dân là cơ sở quần chúng khi Đảng theo đuổi sự nghiệp cách mạng và xây dựng, là quân đồng minh và người xây dựng mà Đảng dựa vào. Đảng không chỉ phải lãnh đạo và dẫn dắt giai cấp vô sản, mà còn phải trải qua sự nghiệp chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội do giai cấp vô sản đoàn kết và dẫn dắt toàn thể nhân dân lao động thực hiện và phát triển. Đảng phải dám và có khả năng dẫn dắt và hướng dẫn quần chúng tiến lên. Ngay cả trong quá trình nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp chung, giai cấp vô sản và đông đảo quần chúng nhân dân đã xây dựng được môi liên hệ máu thịt, song cơ sở giai cấp của chính đảng giai cấp vô sản trước sau chỉ có một, đó là giai cấp công nhân, quyết không thế đánh đồng cơ sở giai cấp của Đảng với cơ sở quần chúng thông thường của Đảng.


Sai lầm căn bản của Khrushchev là đã lẫn lộn giới hạn của cơ sở giai cấp và cơ sở quần chúng, nâng cái vốn dĩ là cơ sở quần chúng của Đảng lên thành cơ sở giai cấp của Đảng. Ông mượn có trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, giai cấp bóc lột đã bị tiêu diệt, trong xã hội Liên Xô ngoài một số rất ít phần tử tội phạm, chỉ tồn tại toàn thể nhân dân trên cơ sở lợi ích căn bản thống nhất, tức là liên minh chính trị do giai cấp công nhân, nông dân lao động và phần từ trí thức tạo thành, do đó, Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là chính đảng của một giai cấp nào đó, mà đã biến thành "đảng toàn dân" đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành "tổ chức chính trị toàn dân".


Ngày 18 tháng 10 năm 1961, tại báo cáo "Về Cương lĩnh Đảng Cộng sản Liên Xô", Khrushchev đã chỉ ra: "Đảng của chúng ta, đảng mácxít - lêninnít ra đời là chính đảng của giai cấp công nhân đã trở thành Đảng của toàn thể nhân dân"1 (Đảng Cộng sản Liên Xô: Văn kiện chủ yếu của Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1961, tr.339). Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô cũng quy định: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Liên Xô đã tiêu diệt được giai cấp bóc lột, hình thành và củng cố sự nhất trí về đạo nghĩa và chính trị trong xã hội Xôviết. Chủ nghĩa xã hội đã giành thắng lợi hoàn toàn và cuối cùng. Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân, hiện nay đã trở thành Đảng của toàn thể nhân dân Liên Xô"1 (Đảng Cộng sản Liên Xô: Văn kiện chủ yếu của Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.449).


"Đảng toàn dân" của Khrushchev không thể đứng vững. Xét từ góc độ lý luận, không thể có "đảng toàn dân". Chính đảng là công cụ của đấu tranh giai cấp. Mọi chính đảng đều có tính giai cấp, đều đại diện cho lợi ích căn bản của giai cấp nhất định, chính đảng là đại biểu tập trung của giai cấp. Từ trước đến nay chưa có chính đảng phi giai cấp, siêu giai cấp. Hai tư '''toàn dân" và "chính đảng" không thể liên kết với nhau. Nếu có chính đảng, không thể nói là của toàn dân, bởi chính đảng chính là đại biểu tập trung của một giai cấp nào đó; nếu là đảng toàn dân, chính đảng phải tiêu vong. Do đó "đảng toàn dân" là một khái niệm giả tạo, là một mệnh đề ngụy biện.


Trong lịch sử phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, người đầu tiên đưa ra tư tưởng "đảng toàn dân" là Bernstein. Năm 1879 ông cùng với Höchberg và Schramm (tức nhóm ba người Zurich) viết một bài, chủ trương cải tạo Đảng Dân chủ xã hội Đức từ "đảng công nhân phiến diện" thành "đảng toàn diện" của "tất cả những người giàu tinh thần nhân ái". Để phê bình quan điểm sai lầm của "nhóm ba người Zurich", Mác - Ăngghen đã viết một bức "thông cáo". Họ đề xuất những người không tán thành tính chất giai cấp vô sản của Đảng "nên ra khỏi Đảng, ít nhất cũng nên từ bỏ chức vụ mà họ muốn", không như vậy, nghĩa là Đảng "tự bán mình"2 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.679-680).


Song một số người, trong đó có Bernstein, vẫn kiên trì quan điểm sai lầm của mình, sau khi Ăngghen qua đời, họ càng mạnh mẽ hơn trước, công khai tuyên bố "đảng đã trở thành đảng của nhân dân, nhiệm vụ của đảng không phải là hoàn thành sứ mệnh cách mạng xã hội và đánh đổ nhà nước hiện đại, mà là dùng chủ nghĩa xã hội "thâm nhập" vào nhà nước hiện đại". Song như Liebknecht đã bình luận: "Nếu như luận điểm của Bernstein là đúng, như vậy chúng ta có thể chôn cương lĩnh của chúng ta, chôn vùi toàn bộ quá khứ của chúng ta và Đảng Dân chủ xã hội của chúng ta, như vậy chúng ta không còn là một chính đảng của giai cấp công nhân nữa"1 ([Đức] Merlin: Lịch sử Đảng dân chủ xã hội Đức, Hiệu sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1961, q.4, tr.347). Sau đó đại bộ phận chính đảng trong Quốc tế II đã tiếp thu những chủ trương của Bernstein, lần lượt tuyên bố mình là "chính đảng toàn dân". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa xã hội thế giới xuất hiện sự xét lại đối với học thuyết xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác. Sự lan tràn của tư tưởng sai lầm như chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội mà đại diện là Bernstein và Cautsky đã hủy hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng và thành quả vĩ đại của giai cấp vô sản quốc tế do Mác, Ăngghen đích thân sáng lập. Cùng với sự tan vỡ của Quốc tế II, lý luận "chính đảng toàn dân" cũng hứng chịu sự thất bại toàn diện trong thực tiễn.


Lênin đã kiên quyết bảo vệ học thuyết xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác. Người triển khai cuộc đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, Người phê phán nghiêm khắc "chính đảng siêu giai cấp", "chính đảng phi giai cấp" dưới bất cứ hình thức nào. Lênin chỉ rõ: "Công nhân giác ngộ sẽ vĩnh viễn phản đối mọi tư tưởng về chính đảng siêu giai cấp, phản đối mọi hành động xóa bỏ ranh giới giữa công nhân làm thuê và tiểu chủ"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.21, tr.249, 278). "Thử thành lập một chính đảng 'siêu giai cấp', thử làm cho nông dân và công nhân liên kết thành một chính đảng, thử coi 'phần tử tri thức lao động' không hề tồn tại như một giai cấp đơn độc... ngoài việc làm cho con người bi quan thất vọng, suy yếu lực lượng, nhận thức mơ hồ, thì không thể đem đến bất cứ kết quả nào khác"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.21, tr.249, 278).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 08:05:30 am
Khrushchev nêu ra "đảng toàn dân" trong quốc gia xã hội chủ nghĩa, có quan hệ ở một mức độ nhất định với lý luận của những người thuộc chủ nghĩa xét lại của Quốc tế II. Thực chất của nó ở chỗ phủ nhận quan điểm giai cấp và học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác vẫn phù hợp với xã hội xã hội chủ nghĩa, phủ nhận nguyên lý cơ bản của quan điểm duy vật lịch sử này đối với nhận thức đúng đắn của những người cộng sản cầm quyền rằng hiện tượng đấu tranh phức tạp giữa chủ nghĩa xã hội với các thế lực thù địch vẫn còn ý nghĩa chỉ đạo.


Quan điểm giai cấp, học thuyết đấu tranh giai cấp và lý luận chuyên chính vô sản là nội dung cốt lõi của quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra nguyên lý cơ bản như sau: kể từ khi chế độ công hữu nguyên thủy giải thể cho đến nay, toàn bộ lịch sử của xã hội loài người đều là lịch sử đấu tranh giai cấp, tức là lịch sử đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột, giai cấp bị thống trị và giai cấp thống trị trong các giai đoạn phát triển của xã hội. Đấu tranh giai cấp là biểu hiện của mâu thuẫn xã hội cơ bản trong xã hội có giai cấp, là động lực trực tiếp của sự phát triển trong xã hội có các giai cấp đối lập.


Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản tất sẽ tạo nên chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, nhiệm vụ hàng đầu là dùng bạo lực giành chính quyền, tiến lên thành giai cấp thống trị, thực hiện chuyên chính vô sản, sau đó từng bước giành lấy toàn bộ tư bản của giai cấp tư sản, thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, ra sức phát triển lực lượng sản xuất xã hội, cuối cùng thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai cấp của Mác - Ăngghen được Lênin cho là chìa khóa để hiểu toàn bộ lịch sử và hiện tượng của xã hội có giai cấp và là một sợi dây cương mang tính chỉ đạo; có thể kiên trì chuyên chính vô sản hay không cũng được Lênin coi là "đá thử vàng" để đánh giá chủ nghĩa Mác thật giả.


Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản cầm quyền, quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác liệu có lỗi thời? Học thuyết đấu tranh giai cấp và lý luận chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác có còn là chân lý khoa học? Đối với vấn đề này, Lênin, Xtalin đã đưa ra câu trả lời chắc chắn.


Thời kỳ Lênin, nước Nga Xô viết trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội tồn tại cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp và gay gắt. Chính quyền Xôviết và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa vừa phái chịu sự uy hiếp của thế lực thù địch bên ngoài can thiệp, vừa có sự phá hoại của phần tử phản cách mạng nổi loạn trong nước. Do đó, tháng 12 năm 1917, trong bài viết "Những người bị sự phá hoại của cái cũ làm cho khiếp sợ và những người đấu tranh vì cái mới", Lênin đã chỉ rõ: "Chúng ta từ trước đến nay đều biết, và cũng nói đi nói lại nhiều lần, chủ nghĩa xã hội là không thể 'thực thi'; chủ nghĩa xã hội trưởng thành lên từ trong tiến trình đấu tranh giai cấp và nội chiêh kịch liệt nhất, gay gắt nhất, một mất một còn"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.33, tr.197).


Xtalin đã kế thừa tư tưởng của Lênin là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu tồn tại đấu tranh giai cấp quyết liệt. Tháng 1 năm 1934, trong "Báo cáo tổng kết về công tác của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tại Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng", Xtalin đã chỉ rõ, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa vô giai cấp, "là không thể dựa trên phương thức gọi là tự diễn ra. Điều đó buộc phải do toàn thể người lao động cùng nỗ lực, dùng các biện pháp như tăng cường cơ quan chuyên chính vô sản, triển khai đấu tranh giai cấp, tiêu diệt giai cấp, tiêu diệt tàn dư của giai cấp tư bản chủ nghĩa, giành được và xây dựng nên trong cuộc đấu tranh với kẻ thù trong ngoài nước"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđđ, quyển hạ, tr.332). Thời kỳ đó có quan điểm cho rằng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vô giai cấp có thể không cần phải cố gắng là có thể thực hiện được một cách tự giác, vì thế có thể làm suy yếu đấu tranh giai cấp, có thế làm suy yếu chuyên chính vô sản, hơn nữa có thể căn bản thủ tiêu nhà nước. Xtalin cho rằng đây là quan điểm hồ đồ. Ông nói: "quan niệm hồ đồ và những tâm lý này giống hệt như quan điểm của phần tử hữu khuynh mà chúng ta biết", "nếu như quan điểm hồ đồ và tâm lý phi Bônsêvích này nắm được Đảng của chúng ta và đại bộ phận đảng viên của chúng ta, thì Đảng của chúng ta sẽ bị phân tán mà giải trừ vũ trang"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđđ, quyển hạ, tr.332).


Cùng với việc xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, giai cấp bóc lột ở Liên Xô bị tiêu diệt, Xtalin tuyên bố Liên Xô tiến vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trước sự thay đổi của liên minh chính trị hữu nghị hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở lợi ích căn bản giống nhau của giai cấp công nhân, nông dân và phần tử trí thức, Xtalin vẫn kiên trì học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Ông chỉ rõ, tính chất của nhà nước Liên Xô vẫn là chuyên chính giai cấp công nhân lấy liên minh công nông làm cơ sở, do giai cấp công nhân lãnh đạo (thông qua đội tiên phong của mình). Đối với dư luận chỉ trích Dự thảo Hiến pháp mới của Liên Xô bỏ qua chuyên chính giai cấp công nhân, ông chỉ rõ, Dự thảo Hiến pháp mới "đã bảo lưu chế độ chuyên chính giai cấp công nhân, đồng thời cũng luôn bảo lưu địa vị lãnh đạo hiện tại của Đảng Cộng sản Liên Xô"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.408). Ông còn nói tiếp: "Nếu như nhà phê bình đáng kính cho rằng đây là khuyết điểm của Dự thảo Hiên pháp, thì chỉ có thể cảm thấy đáng tiếc vì điều này. Bônsêvích chúng ta lại cho rằng đây là ưu điểm của Dự thảo Hiến pháp"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.408).


Đương nhiên, cùng với việc kiên trì học thuyết đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác, trong điều kiện lịch sử phức tạp, do quá để ý đến tầm quan trọng của hình thức đấu tranh giai cấp, trong các cuộc vận động chính trị như "đại thanh trừng" đã phạm phải những sai lầm như khuếch đại hóa đấu tranh giai cấp. Song cũng không thể vì thế mà cho rằng đây là kết quả của việc Xtalin kiên trì nguyên tắc lý luận chủ nghĩa Mác, từ đó phủ định mặt đúng đắn của ông.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 06 Tháng Ba, 2022, 08:06:05 am
Sau Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô, Liên Xô bắt đầu sửa chữa những sai lầm trong thời kỳ Xtalin, bao gồm cả những sai lầm của thời kỳ "đại thanh trừng", còn có ý định tìm ra căn nguyên về mặt tư tưởng, lý luận của những sai lầm này. Thời kỳ đó tập trung phê phán quan điểm của Xtalin rằng "trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt". Phải nói rằng quan điểm này có mặt không đúng. Cùng với sự diệt vong của giai cấp bóc lột, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, tuy vẫn tồn tại cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau, song phần lớn là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân trên cơ sở lợi ích căn bản thống nhất, hơn nữa đấu tranh giai cấp cũng không phải trong bất cứ điều kiện, bất cứ tình hình nào cũng đều ngày càng quyết liệt. Do đó, không thể đơn giản hóa, tuyệt đối hóa học thuyết đấu tranh giai cấp trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, vừa không thể thu hẹp, vừa không thể mở rộng.


Khrushchev đã không nghiêm túc phê phán những sai lầm của Xtalin trong việc khuếch đại hóa đấu tranh giai cấp, mà mượn cớ phê phán sai lầm của Xtalin, phủ định xã hội Liên Xô vẫn tồn tại đấu tranh giai cấp. Ông tuyên dương Liên Xô đã tiêu diệt giai cấp đối đầu trong nước, do đó cũng không còn đấu tranh giai cấp, từ đó phủ định cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô và chức năng Nhà nước của chuyên chính vô sản.


Ngày 6 tháng 11 năm 1957, trong phát biểu nhân dịp chào mừng 40 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga, Khrushchev nói, hiện nay Liên Xô đã trở thành xã hội thống nhất về mặt chính trị và mặt tinh thần, đã không còn giai cấp bóc lột, do đó, giai cấp áp bức bóc lột của nhà nước Xôviết buổi ban đầu và các hoạt động đối đầu còn sót lại, chức năng trấn áp hoạt động khôi phục trật tự của chủ nghĩa tư bản của giai cấp thống trị bị lật đổ, sau khi giai cấp bóc lột trong nước bị tiêu diệt và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố, đã dần dần biến mất1 (Khrushchev: "Bốn mươi năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại", Báo cáo tại Lễ chào mừng của Xôviết tối cao Liên Xô, ngày 6 tháng 11 năm 1957, Nxb. Nhân dân, 1957, tr.40). Ngày 14 tháng 11 cùng năm đó, ông lại nói trong cuộc gặp các phóng viên báo chí, ở Liên Xô hiện nay không còn đấu tranh giai cấp và cơ sở xã hội cho các hoạt động thù địch.


Cơ sở giai cấp của Đảng trong bất cứ thời điểm nào, bao gồm cả trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, đều không thể thay đổi. Chỉ khi Đảng toàn tâm, toàn ý dựa vào giai cấp công nhân, mới có thể bảo đảm tính tiên tiến và tính cách mạng của mình, mới có thể giành được sự ủng hộ trung thành và sự giúp đỡ rộng rãi của đông đảo nhân dân, mới có thể dẫn dắt và đoàn kết đông đảo quần chúng thực hiện lý tưởng và mục tiêu chung. Ngược lại, nếu Đảng Cộng sản vứt bỏ cơ sở giai cấp của mình thì sẽ mất đi tính tiên tiến, không những giai cấp công nhân không thể bảo vệ được Đảng, ngay cả quần chúng mà Đảng có liên hệ cũng sẽ bỏ rơi Đảng. Mở rộng cơ sở giai cấp của Đảng thành tất cả các giai cấp trong xã hội trong đó có cả nông dân, xét về biểu hiện dường như có thể khiến cơ sở giai cấp của Đảng càng thêm vững chắc, song đã làm lệch lạc cơ sở xây dựng Đảng. Cơ sở không vững chắc sẽ gây ra biến động khôn lường. Đảng Cộng sản phải phát huy vai trò là đội tiên phong của toàn thể nhân dân, phải coi kiên trì tính giai cấp của Đảng làm tiền đề và cơ sở.


Thực tế, Liên Xô trong điều kiện chủ nghĩa xã hội không những tồn tại điều kiện xã hội phân hóa giai cấp, mà còn ở trong sự bao vây của thế giới tư bản chủ nghĩa. Các quốc gia phương Tây không ngừng đưa giá trị quan của phương Tây vào Liên Xô, thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", nhằm mục đích liên kết thế lực phản động trong nội bộ Liên Xô để Tây hóa, phân hóa Liên Xô, phá vỡ cơ sở quần chúng và ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Liên Xô. Do đó, trong lĩnh vực ý thức hệ của Liên Xô luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa Tây hóa và phản Tây hóa, phân hóa và phản phân hóa, mục tiêu của thế lực chống lại Đảng Cộng sản, chống lại chủ nghĩa xã hội chính là phải kết thúc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Liên Xô tuy không phải là đấu tranh giai cấp, song mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn đang tồn tại, khi mạnh mẽ, khi bình lặng. Cho rằng cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Liên Xô đã dập tắt là một sự hoang tưởng.


Khi Khrushchev trình bày trong Báo cáo Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô "hiện nay trên thế giới không có lực lượng nào có thể khôi phục chủ nghĩa tư bản và tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trên đất nước chúng ta. Nguy cơ chủ nghĩa tư bản ngóc đầu dậy ở Liên Xô đã không còn nữa", thì thế giới phương Tây không ngừng mở rộng "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô, tạo thành sự so sánh rõ rệt với sự lạc quan và tự tin mù quáng của Khrushchev. Tâm lý mất cảnh giác sai lầm đến thời kỳ Gorbachev đã diễn biến thành thế lực phản động phương Tây và thế lực phản động trong nước cùng một giuộc, trong ngoài cấu kết làm tan vỡ Đảng Cộng sản Liên Xô, làm sụp đổ Liên Xô. Sự sụp đổ của Liên Xô đã nói lên một thực tế rằng, quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai cấp luôn là chìa khóa để nhà nước xã hội chủ nghĩa quan sát cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và các thế lực thù địch, phủ định triệt để học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác sẽ gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:37:04 am
2. Quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng bắt đầu rạn nứt, thậm chí bị xé rách

Thời kỳ Khrushchev cầm quyền còn tồn tại hiện tượng nhìn nhận chủ nghĩa Mác một cách xa rời thực tế.

Sau khi Xtalin qua đời, Ban lãnh đạo mới do Malenkov đứng đầu thử nghiệm mở cuộc tấn công mới vào thể chế quản lý tập trung cao độ, mục đích là phát huy tác phong học tập thực sự cầu thị. Ví như đối với hiện tượng sùng bái cá nhân, ngày 10 tháng 3 năm 1953, Malenkov đã chủ trì Hội nghị Đoàn chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, lần đầu tiên sử dụng cụm từ "sùng bái cá nhân", chỉ rõ khi đất nước đối mặt với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, "chúng ta phải ngăn chặn chính sách sùng bái cá nhân"1 (Báo Sự thật, ngày 10 tháng 6 năm 1953); đồng thời đưa ra nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Về mặt lý luận kinh tế , đối với việc một thời kỳ dài nhấn mạnh một cách phiến diện "tư liệu sản xuất, tức là nguyên tắc ưu tiên tăng trưởng công nghiệp nặng", tạo nên cục diện nông nghiệp, công nghiệp nhẹ lạc hậu, Malenkov công khai thể hiện phải dùng "tốc độ như phát triển công nghiệp nặng để phát triển lương thực và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng"1 (Malenkov: "Phát biểu tại Hội nghị lần thứ V Xôviết tối cao Liên Xô", trích từ Đảng viên cộng sản, số 12, năm 1953). Thời gian đã chứng minh, những biện pháp này tương đối phù hợp với thực tế phát triển xã hội ở Liên Xô thời kỳ đỏ, đã sửa chữa được sai lầm lý luận xa rời thực tiễn thời kỳ trước đó.


Tuy nhiên, do cách làm xa rời thực tế của chủ nghĩa giáo điều, những việc làm này của Malenkov rất nhanh chóng đã bị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô do Khrushchev đứng đầu cho rằng "xa rời" chủ nghĩa Mác. Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 1 năm 1955, Khrushchev chỉ trích một số người trong đó có Malenkov "đã hồ đồ trong vấn đề phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ ở nước ta. Những nhà lý luận đáng thương này đã hiểu sai quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và giải thích một cách đơn giản về nó, họ định dùng những quy luật này để chứng minh, đến một giai đoạn nào đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển công nghiệp nặng dường như không còn là nhiệm vụ chủ yếu nữa, mà thay vào đó là công nghiệp nhẹ, thậm chí phải ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ so với các ngành công nghiệp khác"2 (Tuyển tập phát ngôn của Khrushchev, Nxb. Tri thức thế giới, 1965, q.4, tr.11). Dường như để bảo vệ tính thuần khiết của lý luận chủ nghĩa Mác, Khrushchev gọi quan điểm phát triển công nghiệp nhẹ nhanh hơn một chút của Malenkov "là một cách nhìn nhận cực kỳ sai lầm, đi ngược lại chủ nghĩa Mác"3 (Báo Sự thật, ngày 3-2-1955). Rất nhanh chóng, những người như Malenkov bị mất chức với tội danh "tập đoàn chống Đảng".


Khrushchev luôn luôn trích dẫn những phát ngôn của Mác, Lênin, Xtalin về ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời cho rằng phải kiên định thực hiện đường lối đúng đắn duy nhất là phát triển công nghiệp nặng, thậm chí "trong tương lai cũng vẫn phải kiên quyết thực hiện đường lối này"1 (Tuyển tập phát ngôn của Khrushchev, Nxb. Tri thức thế giới, 1965, q.4, tr.11).


Chiến lược kinh tế "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng" dường như được coi như một luật lệ vàng không thể thay đổi của chủ nghĩa Mác. Khrushchev căn bản không tính đến tình hình thực tế ở Liên Xô khi đó. Tác phong chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tế này đạt đến mức độ lố bịch buồn cười. Tuy nhiên, các thế hệ lãnh đạo của Liên Xô sau đó cũng không thay đổi nguyên lý này, từ đó khiến cho cơ cấu kinh tế quốc dân phát triển một cách dị dạng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nâng cao mức sống của nhân dân.


Theo Khrushchev, tuy xã hội Liên Xô đã tiêu diệt được giai cấp bóc lột, nhân dân Liên Xô đã trở thành một liên minh chính trị, Đảng Cộng sản Liên Xô là đảng của toàn thể nhân dân Liên Xô, chức năng của chuyên chính vô sản Liên Xô đã mất đi, do đó so với luận điểm nền "chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản" ở "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa" trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gotha của Mác2 (Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1995, q.3, tr.314), nêu ra một cách giáo điều, nếu như "chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn và cuối cùng giành thắng lợi ở Liên Xô", vậy thì trên cơ sở đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Liên Xô quá độ lên chủ nghĩa cộng sản đã trở thành tất yếu lịch sử.


Năm 1959, trong Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô Khrushchev cho rằng Liên Xô đã bước vào "thời kỳ triển khai toàn diện xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa". Năm 1961 tại Đại hội lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev cho rằng, cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Liên Xô là "cương lĩnh xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa", cương lĩnh "đã quy định nhiệm vụ chủ yếu và giai đoạn căn bản xây dựng chủ nghĩa cộng sản", nêu rõ "trong vòng 20 năm chúng ta sẽ cơ bản xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa"1 (Đảng Cộng sản Liên Xô: Tổng hợp tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.165, 304, 406). Cương lĩnh còn giải thích cặn kẽ quy hoạch cụ thể và thời gian biểu của việc xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa: Trong vòng 10 năm gần nhất (1961-1970), về sản phẩm lương thực tính theo bình quân dân số vượt qua nước Mỹ, kết thúc 10 năm tiếp theo (1971-1980), xây dựng cơ sở kỹ thuật vật chất của chủ nghĩa cộng sản, bảo đảm toàn thể nhân dân có tài sản vật chất và văn hóa phong phú, từ phân phối theo lao động quá độ sang phân phối theo nhu cầu, còn chuyên chính vô sản sẽ thông qua nhà nước toàn dân chuyển thành xã hội cộng sản chủ nghĩa tự trị, như vậy Liên Xô sẽ căn bản xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Khrushchev thậm chí còn tuyên bố: "Thế hệ người Liên Xô hiện nay sẽ sống trong xã hội cộng sản chủ nghĩa!"2 (Đảng Cộng sản Liên Xô: Tổng hợp tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.165, 304, 406).


Khrushchev đề xướng Liên Xô triển khai toàn diện xây dựng chủ nghĩa cộng sản, đây là biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan và luận điểm duy ý chí xa rời thực tế xã hội Liên Xô, đi ngược lại quy luật phát triển xã hội. Ông đánh giá quá cao trình độ phát triển của xã hội Liên Xô, từ đó khiến tư tưởng vượt giai đoạn, vội vàng quá độ phát triển thành những bước đi vội vã. Thực tế đã chứng minh, chủ nghĩa cộng sản mà Khrushchev nói đến chẳng qua là chủ nghĩa cộng sản giả kiểu khoai tây nấu thịt bò, căn bản không phải là tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác, hơn nữa hoàn toàn xa rời tình hình đất nước thời kỳ đó. Cho đến khi Khrushchev "mất chức", "chủ nghĩa cộng sản" của ông vẫn là "lầu son gác tía" hư vô.


Loại lý luận không tưởng phủ định nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác dẫn đến xa rời thực tế ấy, có kết quả tất yếu là khiến cho nhân dân Liên Xô cảm thấy mình bị lừa, khuynh hướng không đồng lòng, muốn rời bỏ Đảng Cộng sản của người dân Liên Xô ngày càng tăng lên, khoảng cách tình cảm giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân ngày càng lớn, ngày càng sâu. Ký ức về sự ảnh hưởng này vẫn còn kéo dài đến nước Nga ngày nay.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:38:21 am
Năm 2007, cuốn sách tham khảo lịch sử dành cho giáo viên Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006) mà Tổng thống Putin rất quan tâm đã viết, trong số các thế hệ lãnh đạo Liên Xô sau khi Lênin qua đời, Khrushchev là nhà không tưởng xuất sắc nhất. Chỉ cần hồi tưởng lại sự kiện này cũng đủ thấy: Trong Cương lĩnh Đảng Cộng sản Liên Xô được Đại hội lần thứ XXII của Đảng thông qua năm 1961 đã nêu ra khẩu hiệu "thế hệ người Liên Xô hiện nay sẽ sống trong xã hội cộng sản chủ nghĩa", điều này quyết định Cương lĩnh yêu cầu trong 20 năm, tức là đến trước năm 1980, "ở Liên Xô cơ bản xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa". "Bởi những tuyên bố không thể thực hiện, những lời hứa không có căn cứ, những luận điệu mê hoặc lòng người mà cả xã hội cảm thấy tinh thần mệt mỏi"1 (Tham khảo A. Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Sđđ, tr.151).


Đến cuối thời kỳ Brezhnev cầm quyền, đúng như nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev đã nói, tác phong giáo điều của lý luận xa rời thực tế gần như đã chi phối xu thế chủ yếu của sự phát triển xã hội và chính trị2 (Tham khảo Ligachev: Bí mật của Gorbachev, Sđd, tr.127).


Do không quán triệt kết hợp chủ nghĩa Mác với tình hình thực tế trong nước và tất cả xuất phát từ thực tế những lý luận cứng nhắc về các vấn đề lớn như giai đoạn phát triển xã hội, kinh tế  hàng hóa xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cách mạng thế giới, v.v... vẫn không thể có đột phá, điều này cản trở những tiến bộ lớn hơn của xã hội.


Những tác phong xấu trong Đảng như chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa giấy tờ ngày càng nghiêm trọng. Aphanasayev, nguyên Tổng biên tập báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đã từng nhiều lần tham gia vào công tác dự thảo các văn kiện quan trọng của Đảng thời kỳ Brezhnev. Ông nói, những báo cáo tổng kết mà Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô trình bày tại Đại hội Đại biểu của Đảng, phương thức, phương pháp và trật tự của dự thảo đã được định hình sẵn. Mở đầu: luôn luôn là "nguy cơ tổng thể của chủ nghĩa tư bản"...; Phần thứ hai: tình hình trong nước, bắt đầu là "thành tựu to lớn" và "khuyết điểm cá biệt"...; Phần thứ ba: tán dương sự đoàn kết "vững chắc như bàn thạch" giữa Đảng và nhân dân..., trong khi ai cũng biết, tình hình thực tế khác xa với những điều tốt đẹp này1 (Tham khảo Aphanasayev: Ghi chép của Tổng biên tập báo "Sự thật", Nxb. Đông Phương, 1993, tr.92).


Lý luận xa rời thực tế và tư tưởng cứng nhắc khiến lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không nhìn thấy tình hình phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới đang ngày càng phát triển. Trong những năm 1960 - 1970, thế giới tư bản chủ nghĩa đã bước vào thời kỳ mới công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học; phương thức phát triển theo chiều rộng dựa vào năng lực sản xuất và số lượng nhân viên đế đạt được mục tiêu tăng trưởng đã nhường chỗ cho phương thức phát triển theo chiều sâu khiến cho các chỉ tiêu như vật lực, nhân lực, năng lượng tiêu hao thấp nhất. Còn lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô xét về tư tưởng chỉ đạo vẫn thiếu sự hiểu biết, đánh giá chưa đúng mức đối với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới. Viện sĩ Arbatov, Viện trưởng Viện nghiên cứu Mỹ và Canada thuộc Viện Khoa học xã hội Liên Xô, từng đảm nhiệm vai trò cố vấn của Gorbachev, đã ngớ ngẩn cho rằng, giới học thuật Liên Xô đánh giá cao vai trò của máy tính điện tử trong lĩnh vực quản lý là "sai lầm nghiêm trọng". Tháng 5 năm 1975, trong cuốn Kinh tế kế hoạch ông viết: 'Việc đánh giá quá cao đối với máy tính điện tử trong lĩnh vực quản lý những năm qua đã tạo nên 'cơn sốt điện tử', đây cơ cấu tổ chức, phương pháp quyết sách, 'nhân tố con người'... trong quản lý xuống hàng thứ yếu". Đồng thời cho rằng, "kết quả phân tích từ kinh nghiệm trong nước và thế giới khiến tôi rút ra kết luận: hệ thống quản lý tự động hóa chỉ là một thành phần của cơ chế quản lý tổ chức hóa". Thời kỳ đó Liên Xô đã đầu tư mấy chục tỷ rúp cho phát triển hệ thống quản lý tự động hóa, song lại ngày càng xem nhẹ hệ thống quản lý tự động hóa, bởi nó đã bị tuyên bố là 'thành phần phụ' của cơ cấu quản lý, kết quả là đầu tư với số lượng lớn không đạt được hiệu quả! Trong khi Mỹ đã thực hiện tin học hóa rất nhanh, còn Liên Xô trở nên lạc hậu, lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước phát triển1 (Ligachev: Cảnh báo, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1998, tr.80).


Dưới sự chỉ đạo của lý luận "chủ nghĩa xã hội phát triển" của Brezhnev, giới lý luận của Liên Xô xuất hiện hiện tượng trì trệ. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev tiết lộ về tình hình này như sau: "Một số nhà khoa học xã hội nổi tiếng đương thời tập trụng toàn lực đi luận chứng cái gọi là lý luận 'chủ nghĩa xã hội phát triển', mà hoàn toàn xem nhẹ những vấn đề chủ yếu của 30 năm cuối cùng của thế kỷ XX - thời kỳ mới của cách mạng khoa học kỹ thuật"1 (Ligachev: Bí mật của Gorbachev, Sđd, tr.14). Kết quả là đất nước không thể chuyển sang thời kỳ mới, dừng lại trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới. Các nước phát triển trong những năm 1970 đã hoàn thành thời kỳ quá độ này, trong khi đó Liên Xô lại mất đi cơ hội. Đặc biệt ở cuối thời kỳ cầm quyền của Brezhnev, do tình trạng sức khỏe không tốt, ông đã không còn sức lực để tiến hành những đột phá và sáng tạo về lý luận. Brezhnev thường hay dẫn lời của Lênin nói rằng, có rất nhiều người thích cải cách toàn bộ, kết quả chuốc lấy đại họa mà trước đây chưa từng gặp, từ đó thể hiện quan điểm bảo thủ thực sự không muốn tiến hành cải cách đối với trật tự sẵn có.


Công tác xây dựng tác phong Đảng thời kỳ này xuất hiện tình trạng nhiệm vụ mà Đảng đảm nhiệm không phù hợp với kỳ vọng của quần chúng, làm tổn hại nghiêm trọng quan hệ giữa Đảng với quần chúng và quan hệ giữa cán bộ với quần chúng, trong xã hội đã nảy sinh lực li tâm và lực phá hoại nhất định.


Đồng thời với chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tế không ngừng phát triển, tác phong quan liêu trong Đảng càng tràn lan thêm. Điều này trước tiên thể hiện ở sự xuất hiện bộ máy quan liêu. Đầu năm 1954, cả nước có 6,516 triệu nhân viên quản lý hành chính, bình quân cứ 7 công nhân viên chức lại có 1 nhân viên quản lý hành chính2 (Tuyển tập nghị quyết về các vấn đề kinh tế của Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Liên Xô, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1983, tr.151). Tuy có một thời kỳ Khrushchev ra sức tinh giản bộ máy, chỉ 46 cơ quan chủ quản của Liên Xô, đã xóa bỏ 200 tổng cục quản lý, tinh giản 450 nghìn nhân viên quản lý, nhưng đến năm 1963, bộ máy quan liêu không những không được giảm thiểu như hy vọng, ngược lại còn phình ra gấp ba lần3 (Roy Medvedev: Những năm tháng cầm quyền của Khrushchev, Nxb. Nhân dân Cát Lâm, 1981, tr.104).


Nhiệm vụ tinh giản cơ cấu đến sau năm 1965 vẫn chưa hoàn thành. Đến đầu thập kỷ 1980, cơ cấu tổng thể vẫn chưa giảm, ngược lại còn tăng, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả giải quyết công việc: trách nhiệm giữa các bộ, ngành không rõ ràng, đùn đẩy lẫn nhau, đổ lỗi cho nhau.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:39:58 am
Sự thịnh hành của chủ nghĩa quan liêu và tác phong xấu của cán bộ như không muốn tiến bộ, ham hưởng thụ, lười lao động có quan hệ mật thiết với nhau. Rất nhiều người vào Đảng Cộng sản không phải để hiến thân vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mà vì muốn giành được chút chức quyền; giành nhiều lợi ích cho cá nhân và tập đoàn nhỏ trở thành mục tiêu theo đuổi lớn nhất. Hiện tượng ưu tiên người thân quen trong đề bạt cán bộ và lơ là công tác chính trị tư tưởng của Đảng dẫn đến một số người có phẩm chất đạo đức kém tham gia vào cơ quan nhà nước. Những người này lợi dụng địa vị của mình để mưu cầu lợi ích cá nhân, làm trò xấu xa để mưu lợi, tham lam bất chấp pháp luật, phá hoại nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cục trưởng Cục Cán bộ của Bộ Nội vụ Liên Xô Anikiyev thừa nhận, ngay cả trong nội bộ của những cơ quan như thế này, những năm gần đây đã có vài nghìn nhân viên công tác bị cách chức hoặc bị xử phạt hình sự vì tội vi phạm pháp luật, nhận hối lộ1 (Báo Lao động (Liên Xô), ngày 28 tháng 5 năm 1987).


Bên cạnh đó, tác phong xấu sùng bái cá nhân cũng tiếp tục phát triển. Tác phong đảng tốt đẹp phản đối sùng bái cá nhân thời kỳ Lênin dần dần mất đi. Khrushchev một mặt ra sức thực hiện sùng bái cá nhân đối với Xtalin, đồng thời lại thực hiện sùng bái cá nhân đối với bản thân ông ta. Trên khắp cả nước đâu đâu cũng có thể đọc được những thứ liên quan đến Khrushchev - "người theo chủ nghĩa Lênin vĩ đại" và "chiến sĩ hòa bình vĩ đại", "trang đầu tiên của sách giáo khoa dạy chữ và rất nhiều giáo trình trung, tiểu học khác đều có hình ảnh của ông... Ảnh và hình họa của lãnh tụ quốc gia gần như mỗi ngày đều xuất hiện trên báo chí. Trên màn ảnh thậm chí còn xuất hiện bộ phim như 'Nikita Sergeyevich thân yêu' (tên của Khrushchev - ND.)"1 (Tham khảo A. Filipov: Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006), Sđđ, tr.151). Tất cả những điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của quần chúng, phá hoại tác phong của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Đến thời kỳ Brezhnev, hiện tượng sùng bái cá nhân trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô lại lan rộng hơn, so với thời kỳ Xtalin còn nghiêm trọng hơn. Có một lần báo Sự thật trong 3 bài xã luận không nhắc đến tên Brezhnev, liền bị Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ trích. Sùng bái cá nhân đã làm bại hoại nghiêm trọng không khí dân chủ trong Đảng, cũng tất yếu làm ảnh hưởng đến tác phong công tác, quan hệ giữa Đảng với quần chúng, và thành quả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hay ở chỗ nguyên các Ủy viên Bộ Chính trị Shevardnadze, Aliyev, Yakovlev đều hết lời ca tụng Brezhnev. Shevardnadze từng phát biểu tại Đại hội lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô: "Đầy kinh nghiệm, tư tưởng khoáng đạt và coi trọng hiệu quả thực tế giàu nhân tính và tính giai cấp không dung hòa, coi trọng pháp luật và có tính nguyên tắc, có khả năng đánh thức tâm linh con người... Tất cả những phẩm chất này và nhiều phẩm chất khác chính là cái chúng ta nên học tập ở Brezhnev"2 (Aphanasayev: Ghi chép của Tổng biên tập báo "Sự thật", Sđd, tr.70-71). Sau này, ông lại xu nịnh gọi Brezhnev là "nhà lãnh đạo anh minh, nhà cách mạng kiểu Lênin vĩ đại".


Trong những năm tháng cầm quyền ngắn ngủi của mình, Andropov bắt đầu tiến hành "chỉnh đốn" nhằm điều chỉnh những tác phong không tốt trong Đảng. Ông phê phán gay gắt những tác phong thời kỳ Brezhnev như kỷ luật lao động lỏng lẻo, tác phong xã hội bại hoại, chủ nghĩa quan liêu trong Đảng, giả dối, tham lam, coi thường pháp luật, lời nói không đi đối với việc làm, ca tụng công đức, yêu cầu "cần phải chống kiên quyết hơn nữa bất kỳ hiện tượng vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Nhà nước và kỷ luật lao động nào"1 (Tuyển tập phát ngôn của Andropov, Nxb.Tân Hoa, 1984, tr.388), đã ban hành một loạt pháp lệnh và nghị quyết nhằm chỉnh đốn kỷ luật, tăng cường giám sát, đồng thời tập hợp thành quy chế buộc các cơ quan hữu quan thực hiện. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev cho rằng, Andropov chỉnh đốn kỷ luật xuất phát từ nhận thức đối với "chủ nghĩa xã hội cần tiến hành sự thay đổi sâu sắc và thực chất" để cải tạo thể chế chính trị2 (Ligachev: cảnh báo, Sđd, tr.60, 59).


Đồng thời Andropov cũng bắt đầu việc chỉnh đốn đội ngũ cán bộ đã bị gián đoạn trong nhiều năm ở thời kỳ Brezhnev, chỉnh đốn những cán bộ không xứng đáng, xử lý một loạt vụ án tham ô, nhận hối lộ gây ảnh hưởng lớn. Như trường hợp Bí thư thứ nhất Đảng ủy khu vực biên giới Krasnodar, Medunov và Bộ trưởng Bộ nội Vụ Chính phủ Liên Xô Schelokov do vi phạm kỷ luật, trước tiên bị cách chức, sau đó bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Rất nhiều cán bộ công tác trong lĩnh vực chính trị và kinh tế  của Đảng không xứng đáng đều bị cách chức. Chỉ đến cuối năm 1983, đã thay đổi gần 20% Bí thư thứ nhất tỉnh ủy, 22% thành viên Hội đồng bộ trưởng, và một phần lớn cán bộ lãnh đạo cao cấp của cơ quan Trung ương3 (Ligachev: cảnh báo, Sđd, tr.60, 59). Song ông cũng chỉ cầm quyền được một năm, không thể thay đổi căn bản tác phong Đảng đang ngày một suy thoái.


Ở thời kỳ Brezhnev, sự phát triển của lý luận xa rời thực tế cứng nhắc bảo thủ và sùng bái cá nhân không những làm cho quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị phá hoại nghiêm trọng, mà những xu hướng như chủ nghĩa quan liêu, tham nhũng, đặc quyền còn rất thịnh hành. Những vấn đề này khiến cho cầu nối quan hệ giữa Đảng và quần chúng ngày càng yếu, uy tín của Đảng ngày càng thấp. Mọi người đã không còn tin vào những gì được trình bày trên bục giảng. Không ít quần chúng đã mất niềm tin chính trị đối với bộ máy chính trị, quan chức trong Đảng của Liên Xô. Xu hướng tốt đẹp đồng tâm đồng đức giữa Đảng với quần chúng mà chủ nghĩa xã hội Liên Xô gây dựng trong nhiều năm đã mất hết.


Sự xuất hiện những hiện tưạng như "Người trong đêm", "Văn hóa nhà bếp" là một trong những biểu hiện nổi bật của việc mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng thời kỳ Brezhnev bị bóp méo. Nguyên nhân xuất hiện vấn đề này là ở nhiều phương diện, như công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng của Đảng chưa giải thích và hướng dẫn một cách kịp thời và có hiệu quả những vấn đề đảng viên và quần chúng quan tâm rộng rãi, những lời nói, hành động "vượt rào" mà cơ quan an ninh của Liên Xô nghiêm túc giám sát và trừng phạt. Nhưng những hiện tượng này cũng phản ánh sức ép về chính trị, sự áp đặt về tư tưởng, lại thêm sự tập quyền quá mức của toàn bộ thể chế quản lý xã hội, dẫn đến ý kiến của quần chúng về các vấn đề xã hội không tìm được kênh phản ánh, công tác của Đảng và chính phủ cũng không tìm thấy sự chỉ đạo từ ý kiến của nhân dân, do đó không nắm được lòng dân. Ý Đảng và lòng dân rất tự nhiên sẽ không thể kết nối được với nhau.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:40:31 am
Thái độ của thanh niên từ trước tới nay luôn là thước đo tinh thần của xã hội. Ngày 5 tháng 11 năm 1968, Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô đã trình lên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô báo cáo về tinh thần của học sinh, thanh niên, tuy có thành phần quá khích, song ở một mức độ tương đối lớn đã toát lên thái độ của thanh niên, thậm chí của quần chúng trong xã hội Liên Xô đối với Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong phần "Sinh viên và Đảng" của bản báo cáo này cho rằng, "số đông quần chúng học sinh tự đối lập với Đảng ở nhiều phương diện", có "tâm lý né tránh" đối với Đảng Cộng sản Liên Xô.


Báo cáo đã phác họa nên rất nhiều hình tượng của Đảng trong sinh viên đương thời: "Đảng không còn là hóa thân của những gì quang minh nhất, tiên tiến nhất", "rất hiếm thấy những đảng viên Cộng sản thực sự có nguyên tắc", "trong các cuộc nói chuyện, sinh viên không khách khí gọi Đảng là 'cái phao màu hồng'", "danh từ "Ban Chấp hành Trung ương lêninnít" nổi tiếng chỉ có thể tạo ra sự giễu cợt và phẫn nộ", "Đảng viên cộng sản vừa có thể là tên bợm rượu, vừa có thể là con quỷ dâm đãng, cũng có thể là kẻ vô nguyên tắc", "Đảng ở giai đoạn hiện nay là bàn đạp để tiện cho việc thăng quan tiến chức, chứ không hề là tổ chức gồm những phần tử ưu tú nhất được liên kết lại bởi quan điểm tư tưởng nào".


Ngược lại, thanh niên có một tình cảm tốt đẹp khác thường với Mỹ và mù quáng hướng theo Mỹ. Phần "Sinh viên với phương Tây" của Báo cáo đã chỉ rõ: "Nhân dân Mỹ là nhân dân thông minh, vì thế ở đó không có Đảng Cộng sản", "cuộc sống của những người thất nghiệp ở đó còn tốt đẹp hơn cuộc sống của kỹ sư ở ta"1 (Tham khảo Thẩm Chi Hoa (chủ biên): Tuyển tập các ví dụ thực tế về lịch sử Liên Xô, Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2002, q.31, tr.149, 150, 152, 157).


Sự xa rời trong quan hệ giữa Đảng với quần chúng dẫn đến sự suy yếu trong vai trò tiên phong và sức chiến đấu của Đảng, ý thức làm chủ của quần chúng ngày càng nhạt đi. So với "thập kỷ 1930 rực lửa" thời kỳ đông đảo quần chúng tích cực tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì nhiệt tình lao động và xây dựng của nhân dân Liên Xô đã bị suy thoái. Như báo Sự thật chỉ ra trong một bại viết: "Tình hình này dẫn đến hậu quả là, trên thực tế đã làm suy yếu yếu tố kích thích quần chúng lao động tích cực sản xuất, khiến cho họ ngày càng không quan tâm đến thành quả sản xuất của công xưởng"1 (Báo Sự thật, ngày 27 tháng 6 năm 1987). Tình trạng này còn biểu hiện ở hiện tượng bãi công, đình công ngày càng nghiêm trọng. Năm 1965, tình trạng này gây ra thiệt hại khoảng 3 tỷ rúp, năm 1972 khoảng 4 tỷ rúp. Công nhân trốn việc, trộm vật liệu còn khiến cho chất lượng sản phẩm giảm. Năm 1961, chỉ riêng ngành thương mại, tổng giá trị sản phẩm kém chất lượng đã lên đến 2,03 tỷ rúp, năm 1974 lên đến 4 tỷ rúp2 (Báo Sự thật, ngày 28 tháng 8 năm 1973).


Cần phải thấy rằng, tác phong tốt đẹp của Đảng Cộng sản Liên Xô do Lênin, Xtalin gây dựng tuy bị phá hoại nghiêm trọng ở thời kỳ Khrushchev, Brezhnev, song chủ yếu là vấn đề làm thế nào hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ, cải tiến công tác của Đảng và chính phủ, làm thế nào khôi phục và phát huy tác phong tốt đẹp của Đảng, làm mật thiết hơn nữa quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Tính chất, tôn chỉ của Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ đó vẫn chưa có sự thay đổi về bản chất, đông đảo quần chúng nhân dân và đảng viên cộng sản vẫn trung thành ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng chính vì vậy, mặc dù sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô tồn tại vấn đề này khác, song về tổng thể vẫn giành được những thành tựu to lớn. Đảng Cộng sản Liên Xô thực sự rơi vào thảm họa, rơi vào hố sâu là thời kỳ Gorbachev cầm quyền.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:42:17 am
III. TÁC PHONG ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ THỜI KỲ GORBACHEV
   

1. Đi ngược hoàn toàn với tính chất chính đảng mácxít - lêninnít

Đảng Cộng sản Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Gorbachev hoàn toàn đi ngược lại nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu như nói Khrushchev chưa kịp cải tạo triệt để Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị phe đối lập trong Đảng đánh đổ, thì Gorbachev không những đã hoàn thành việc chuyển biến thành "đảng toàn dân", mà còn trong những phương diện như tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu phấn đấu, nguyên tắc tổ chức, địa vị và vai trò của Đảng, đã hoàn toàn cải tạo Đảng thành Đảng Dân chủ xã hội Tây Âu. Mục tiêu cơ bản để hoàn thành quá trình này chính là Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 7 năm 1990. Tuyên bố mang tính cương lĩnh "đi lên chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" và Điều lệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, đánh dấu các phương diện như tính chất, địa vị và vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô đã có những thay đổi căn bản, Đảng Cộng sản Liên Xô hoàn toàn biến đổi thành đảng dân chủ xã hội.


Gorbachev đã áp dụng nhiều biện pháp để lật đổ Đảng Cộng sản Liên Xô, trong đó một vũ khí về tư tưởng lý luận là triệt để xóa bỏ quan điểm giai cấp và học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác, xóa bỏ nền tảng tư tưởng lý luận đã nâng đõ Đảng Cộng sản Liên Xô. Để đạt được mục đích đó, Gorbachev đã áp dụng sách lược từng bước một, phủ định dần dần.


Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô không nói xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại đấu tranh giai cấp, song lại đề cập "cuộc đấu tranh quyết liệt của hai loại thế giới quan trên vũ đài quốc tế", đồng thời coi "phản đối ý thức hệ tư sản" là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục tư tưởng, nêu ra phải bồi dưỡng người Liên Xô "xuất phát từ lập trường giai cấp rõ ràng để đánh giá hiện tượng xã hội". Tuy nhiên, cùng với việc đưa ra cái gọi là "tư duy mới" trong chính trị quốc tế "giá trị của toàn nhân loại cao hơn tất cả", tức là cao hơn tất cả giai cấp, tất cả dân tộc, tất cả quốc gia, quan hệ quốc tế được nhân đạo hóa, phi ý thức hệ hóa đã dần thay thế cho quan điểm giai cấp và lập trường nguyên tắc của chủ nghĩa Mác về quan hệ quốc tế", loại bỏ sự đối kháng giữa hai hệ thống xã hội lớn là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, thực hiện "nhất thể hóa" hai hệ thống xã hội lớn, trở thành cương lĩnh ngoại giao của chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo.


Đối với các vấn đề trong nước của Liên Xô, càng bỏ qua quan điểm giai cấp và học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác. Trước tình hình đấu tranh giai cấp nghiêm trọng ở trong nước với mục đích lật đổ chính quyền Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa, Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô không những không nói xã hội Liên Xô vẫn tồn tại đấu tranh giai cấp, hoàn toàn bỏ qua nhiệm vụ "phản đối cuộc đấu tranh với ý thức hệ của giai cấp tư sản" trong giáo dục tư tưởng, mà còn phủ định sự cần thiết tiến hành chuyên chính vô sản ở Liên Xô, vu cáo "các tập đoàn cao cấp của Đảng và Nhà nước lợi dụng danh nghĩa chuyên chính vô sản thực hiện chuyên chế", tuyên bố phải "loại bỏ chuyên chính độc tài của bất kỳ thể chế quản lý giai cấp, chính đảng, tập đoàn nào".


Gorbachev còn kế thừa tư tưởng của Khrushchev, tiếp tục phủ định cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô, cải tạo Đảng Cộng sản Liên Xô từ đội tiên phong của giai cấp vô sản thành "đảng toàn dân" đại diện cho toàn thể nhân dân. Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô quy định, Đảng Cộng sản Liên Xô là "tổ chức chính trị" "liên hợp công dân Liên Xô một cách có nguyên tắc", là một "tổ chức chính trị, chính đảng của toàn dân" "phản ánh lợi ích của toàn thể nhân dân"1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1991, tr.41, 44, 128-129,146). Coi Đảng Cộng sản Liên Xô là một "tổ chức chính trị xã hội tự trị", "liên minh tự nguyện của đảng viên cộng sản trí đồng đạo hợp", "tổ chức chính trị của toàn dân", không những làm mờ đi bản chất giai cấp của chính đảng của giai cấp vô sản của Đảng Cộng sản Liên Xô, mà còn giết chết tính tiên tiến của Đảng, đánh đồng Đảng Cộng sản Liên Xô với tổ chức quần chúng thông thường. Bởi lẽ Gorbachev biết rõ, chỉ cần giết chết tính giai cấp của Đảng Cộng sản, làm mờ đi cơ sở giai cấp và cơ sở quần chúng của Đảng Cộng sản là có thể đường đường chính chính cải tạo Đảng Cộng sản Liên Xô thành Đảng dân chu xã hội, tiến tới lấy chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo làm tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Về tư tưởng chỉ đạo của đảng, Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nêu rõ: "Đảng Cộng sản Liên Xô kiên quyết xóa bỏ sự lũng đoạn về chính trị và ý thức hệ, xóa bỏ cách làm của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý kinh tế"2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.146, 41), cũng tức là xóa bỏ địa vị lãnh đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng và Nhà nước, thay vào đó là "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo".


Về mục tiêu phấn đấu của Đảng, Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nêu rõ, Đảng Cộng sản Liên Xô phải "hiến thân vì toàn nhân loại và lý tưởng nhân đạo chủ nghĩa", Đảng Cộng sản Liên Xô "lẩy thiết lập chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo trong nước, bảo đảm điều kiện phát triển tự do toàn diện của con người làm mục tiêu của mình"3 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.146, 41).


Về nguyên tắc tổ chức, Gorbachev bỏ qua nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản, chủ trương cái gọi là "nhất trí dân chủ". Trong báo cáo tại Đại hội XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, ông cho rằng, "nguyên tắc này của Lênin trên thực tế bị chế độ tập trung quan liêu thay thế, nó đã hình thành nên "kỷ luật cấp bậc như trong doanh trại quân đội", hình thành nên cơ chế quan liêu, mệnh lệnh hành chính, là một loại cường quyền của chủ nghĩa quan liêu. Vì thế ông nêu rõ Đảng Cộng sản Liên Xô phải "kiên quyết xóa bỏ chế độ tập trung dân chủ một cách cứng nhắc được hình thành trong điều kiện thể chế mệnh lệnh hành chính", phải "kiên trì nguyên tắc dân chủ"1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđđ, tr.128, 31, 44).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:43:10 am
Như chúng ta đều biết, Lênin không chỉ coi trọng xây dựng Đảng trong lĩnh vực tư tưởng, mà còn rất coi trọng xây dựng Đảng trong lính vực tổ chức, yêu cầu mọi đảng viên phải tham gia vào một tổ chức cơ sở của Đảng và chịu sự lãnh đạo và giám sát của tổ chức cơ sở Đảng. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô lại nêu, phàm là "công dân Liên Xô tròn 18 tuổi thừa nhận cương lĩnh của Đảng và thực hiện điều lệ Đảng, công tác trong một tổ chức cơ sở của Đảng và ủng hộ Đảng về vật chất', đều "có thể trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô"2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđđ, tr.128, 31, 44). Nghĩa là, chỉ cần một người thể hiện mong muốn gia nhập Đảng với bất kỳ tổ chức cơ sở nào, mà đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng đó không phản đối nguyện vọng gia nhập Đảng của người đó, thì thân phận đảng viên đã được xác lập. Điều này biêh Đảng thành một tổ chức chính trị thông thường "chỉ cần có nguyện vọng, ai cũng có thể tham gia". Rõ ràng, Đảng như vậy không thể có sức chiến đấu, cũng không thể trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản. Trước sự tấn công của thế lực phản động, không thể triển khai cuộc đấu tranh quyết liệt. Việc Đảng Cộng sản Liên Xô tan vỡ đã chứng minh điều này.


Nguyên tắc cụ thể của chế độ tập trung dân chủ cũng bị phá hoại nghiêm trọng, về "thiểu số phục tùng đa số, tuy ở Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn giữ lại về mặt câu chữ, song Gorbachev lại nhấn mạnh "thiểu số có quyền kiên trì quan điểm của mình, bao gồm quyền kiên trì quan điểm của bản thân trên công cụ ngôn luận của Đảng"1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.129, 150-151, 45), nghĩa là yêu cầu "xóa bỏ sự thống trị của đa số". Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nói càng rõ: "Số" ít người có quyền bảo vệ lập trường của bản thân tại các hội nghị như hội nghị đảng viên, hội nghị đại biểu, đại hội đại biểu, hội nghị của cơ quan thực hiện và giám sát, đưa ra báo cáo bổ sung, nêu rõ ý kiến của mình trong bản ghi chép, yêu cầu tổ chức hoặc cơ quan cấp trên của mình thẩm tra lại các vấn đề tranh luận"2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.129, 150-151, 45). Không những thế số ít người hoàn toàn có quyền kiên trì lập trường của bản thân, trong đó bao gồm thông qua báo chí và cơ quan tuyên truyền của Đảng tìm sự ủng hộ của dư luận trong Đảng và chứng minh quan điểm của minh là đúng đắn. Như vậy, "thiểu số phục tùng đa số cũng đã biến thành một câu vô nghĩa.


Về "cá nhân phục tùng tổ chức", theo Gorbachev điều này là xâm phạm tự do của cá nhân. Vì thế, "nêu một số đảng viên có quan điểm không giống với lập trường của đa số đảng viên, họ có thể tự do thảo luận và tuyên truyền quan điểm của mình, thậm chí công khai những quan điểm đó tại Đại hội đại biểu của Đảng"3 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.129, 150-151, 45). Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nhấn mạnh, phải cho phép đảng viên tiến hành liên hệ ngành dọc dựa trên một cương lĩnh, lợi ích, chủ trương nào đó, tổ chức các loại câu lạc bộ, hội thảo lý luận, trung tâm biện luận, diễn đàn, hội đồng, triển khai hoạt động, quyết định lập trường của bản thân đối với những vấn đề này1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.152, 154-155). Điều này trên thực tế là cho phép sự tồn tại hợp pháp của các tổ chức phe phái trong Đảng.


Về "cấp dưới phục tùng cấp trên", Gorbachev cho rằng, đây là "cơ cấu quan liêu đẳng cấp" điển hình, phải ra sức xóa bỏ. Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô quy định, tổ chức Đảng các cấp "độc lập trong sinh hoạt chi bộ và hoạt động nội bộ". Khái quát lại, tính độc lập này biểu hiện ở hai phương diện: nghị quyết của tổ chức Đảng cấp dưới "chỉ cần không đi ngược lại mục tiêu mang tính cương lĩnh của Đảng, và trong phạm vi quyền hạn được Điều lệ Đảng cho phép, tổ chức cấp trên không được xóa bỏ"; những nghị quyết của tổ chức Đảng cấp trên liên quan đến tổ chức Đảng cấp dưới, phải được sự đồng ý của tổ chức cấp dưới mới được thông qua. Ví dụ Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô liên quan đến các nước cộng hòa trong Liên bang, nếu Trung ương các nước cộng hòa trong Liên bang không đồng ý, có quyền phản đối thực hiện2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.152, 154-155). Điều này có nghĩa tổ chức cấp trên đã cơ bản mất đi chức năng lãnh đạo đối với tổ chức cấp dưới.


Về "toàn Đảng phục tùng Trung ương" lại càng không được phép. Vì theo Gorbachev, đây là biểu hiện của chế độ đẳng cấp siêu tập trung, phấn dân chủ và khắt khe của Đảng kiểu Xtalin cực quyền mới, nó làm cho mỗi đảng viên không thể khôi phục tính tôn trọng và tính tự do trong Đảng của mình/ bài xích nguyên tắc sáng tạo và tính tích cực của cấp dưới, biến Đảng thành phần phụ của các cơ quan của Đảng, tạo thành cường quyền quan liêu và không khí cứng nhắc trong sinh hoạt nội bộ Đảng. Do đó, Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nhấn mạnh tính dân chủ, chủ động của tổ chức và quyền lợi của đảng viên bình thường. Hơn nữa, khi tổ chức cấp trên cơ bản mất đi chức năng lãnh đạo đối với tổ chức cấp dưới, thì không có chuyện toàn Đảng phục tùng Trung ương.


Gorbachev không những xóa bỏ toàn diện nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác, nghiêm trọng hơn, ông chủ trương xóa bỏ địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Vì theo ông, chuyên chính vô sản có nghĩa là chuyên chế của một giai cấp đối với toàn thể nhân dân, là đội tiên phong của giai cấp vô sản, Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền chính là sự lũng đoạn và độc tài đối với quyền lực quốc gia. Bởi vậy, phải thực hiện chính trị dân chủ hóa, Đảng Cộng sản Liên Xô phải chủ động chấm dứt chuyên chính của một đảng, thực hiện chế độ đa đảng và dân chủ nghị viện trong cạnh tranh đa đảng mưu cầu địa vị chính trị và xã hội của mình. Cũng có nghĩa phải biến Đảng Cộng sản Liên Xô thành đảng nghị viện đứng ra tổ chức nghị viện và bầu Tổng thống.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 11 Tháng Ba, 2022, 07:43:57 am
Hội nghị toàn thể của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1990 cho rằng: "Đảng Cộng sản Liên Xô sẽ thực hiện chính sách của mình trong phạm vi tiến trình dân chủ, đồng thời đấu tranh để bảo vệ địa vị cầm quyền của mình, giành được phiêu trong bầu cử để giành sự ủy thác của nhân dân, lập cơ quan lãnh đạo ở Trung ương, ở các nước cộng hòa và các địa phương"; "Đảng không giành lấy toàn quyền của chính quyền nhà nước", "Đảng không theo đuổi đặc quyền và địa vị đặc biệt của mình quy định trong Hiến pháp Liên Xô. Xuất phát từ điểm này, Đảng cho rằng phải thông qua lập pháp để kiến nghị quy trình, trình lên Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô kiến nghị liên quan đến điều 6 Luật cơ bản của nhà nước"1 (Trung tâm Biên tập tư liệu, Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (biên tập): Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 - 7-2-1990), Sđd, tr.41-42). Theo đề nghị của Hội nghị toàn thể tháng 2, ngày 14 tháng 3 năm 1990, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô đã thông qua "Về lập chức danh Tổng thống Liên Xô và Hiến pháp Liên Xô bổ sung, sửa đổi (Luật cơ bản)", đã xóa bỏ điều 6 về "địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô" trong Hiến pháp Liên Xô, cho rằng "công dân Liên Xô có quyền liên kết thành chính đảng", Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi địa vị cầm quyền trong pháp luật.


Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô căn cứ thực tế Đảng đã quyết định xóa bỏ địa vị cầm quyền, trực tiếp xóa bỏ các cách nói Đảng là "lực lượng lãnh đạo" hoặc "hạt nhân" lãnh đạo của xã hội Liên Xô, cho rằng "mấy chục năm nay, Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ phục vụ cho thể chế quan liêu độc đoán, Đảng Cộng sản Liên Xô "chuẩn bị tiến hành cạnh tranh và hợp tác công khai với các chính đảng và phong trào khác", "bất cứ đảng cộng sản nào cũng không được đứng trên các đảng khác, không thể đem ý chí của mình áp đặt cho đảng khác". Gorbachev tuyên bố rõ ràng: "Đảng ủng hộ việc sửa đổi điều 6 và điều 7 của Hiến pháp Liên Xô, quyết định không tiếp tục thay thế cơ quan nhà nước, không tiếp tục thực hiện chức năng quản lý hành chính". Đảng "cố gắng bảo vệ địa vị của đảng cầm quyền trong phạm vi bầu cử", Đảng Cộng sản Liên Xô "đóng vai trò là đảng nghị viện"2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.35, 37, 41).


Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô còn tiến hành diễn giải và quy định cụ thể về việc Đảng Cộng sản Liên Xô làm thế nào để chuyển thành đảng nghị viện. Tuyên bố mang tính cương lĩnh được thông qua tại Đại hội nêu rõ, Đảng "sẽ giải quyết vấn đề phát triển xã hội, bảo vệ quyền lãnh đạo chính trị trong cuộc cạnh tranh tự do với lực lượng chính trị xã hội khác bằng hành động thực tế và lập trường mang tính xây dựng của mình". Điều lệ Đảng được thông qua tại đại hội nêu rõ, "Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua bầu cử tự do Xôviết của đại biểu nhân dân và các hình thức khác thể hiện ý chí của công dân Liên Xô, giành địa vị lãnh đạo chính trị trong xã hội", "nhiệm vụ của Đảng chỉ là "tổ chức đưa ra và công bổ" cương lĩnh tranh cử của mình, giới thiệu đảng viên cộng sản vào danh sách bầu cử, giúp họ tổ chức hoạt động tranh cử"1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.128, 130).


Cương lĩnh hành động được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVIII còn tuyên bố rõ ràng: "Tính đến ý nghĩa của việc triển khai hoạt động tranh cử theo khu dân cư ngày càng lớn", bởi vậy chức năng chính trị của Đảng phải biểu hiện là "cố gắng giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ở cơ quan quyền lực các cấp, đồng thời trong trường hợp thắng lợi, thiết lập cơ quan thực hiện tương ứng, tiến hành hoạt động nghị viện, hoàn thành cương lĩnh tranh cử của mình"2 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.128, 130).


Về quan hệ giữa Đảng và đoàn thể quần chúng, Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là lãnh đạo, mà chỉ là một "người hợp tác" bình đẳng. Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô nêu rõ: "quan hệ giữa Đảng và Công đoàn đang thay đổi, họ đã từng phục tùng theo những chỉ thị của thủ trưởng hành chính của Đảng, trong nhiều xí nghiệp trở thành một vật phụ thuộc của hành chính, thời đại đó đã qua rồi", "quan hệ giữa Đảng với Công đoàn, với các tổ chức công nhân khác sẽ được xây dựng trên cơ sở đối tác và đồng chí, Đảng ủy không bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ của Công đoàn". Cũng có nghĩa, Công đoàn là một đoàn thể xã hội độc lập. Về quan hệ với tổ chức thanh niên, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng, Đoàn thanh niên Cộng sản không còn là trợ thủ của Đảng, mà là một "tổ chức chính trị xã hội độc lập", "Đoàn thanh niên Cộng sản của tổ chức Đảng phải biết xây dựng quan hệ liên minh chính trị của mình"1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tư liệu văn kiện chủ yếu của Đại hội Đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.39-40, 132). Điều này có nghĩa, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ và các đoàn thể quần chúng khác không còn chịu sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đó với Đảng chỉ là quan hệ đối tác. Nói cách khác, tán thành chủ trương của Đảng thì hợp tác với Đảng; không tán thành chủ trương của Đảng thì có thể xa rời, thậm chí chống lại Đảng.


Tóm lại, trong vòng mấy năm ngắn ngủi theo tư tưởng xây dựng Đảng dân chủ xã hội nhân đạo, Gorbachev từng bước cải tạo Đảng Cộng sản Liên Xô thành một đảng cải lương tư sản từ tính chất, mục tiêu đến cương lĩnh, hình thức tổ chức của Đảng. Thời kỳ đó tên của Đảng Cộng sản Liên Xô tuy không thay đổi, song tính chất, tôn chỉ và những nguyên tắc xây dựng Đảng quan trọng khác đã thay đổi căn bản. Việc Đảng đối mặt với sự tan rã chỉ còn là vấn đề thời gian.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 07:56:24 am
2. Lừa gạt, chia rẽ và phản bội nhân dân

Nếu nói vấn đề nổi cộm trong công cuộc xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Brezhnev là lãnh đạo dần dần xa rời, quay lưng lại với tập thể, đặc biệt là quần chúng nhân dân, thì đến thời kỳ Gorbachev, vấn đề này không những ngày càng trầm trọng mà còn tới mức về cơ bản phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô để phục vụ cho mưu cầu tư lợi của một số ít người hoặc một tập thể nhỏ, tạo ra một thế lực phản động dựa vào Gorbachev, Yeltsin theo đuổi mục tiêu chống phá hoạt động của Đảng, chống phá hoạt động của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, bọn họ tung ra các chiêu trò mà những phần tử lừa gạt thường sử dụng, lừa gạt và chia rẽ phần lớn đảng viên và quần chúng nhân dân, từng bước dẫn dắt Đảng Cộng sản Liên Xô vào con đường chia rẽ, vào ngõ cụt; và một khi tất cả đã đi vào quỹ đạo, họ sẽ không chút do dự mà xóa bỏ Đảng. Do vậy, khi nội bộ Đảng thịnh hành làn gió lừa gạt, chia rẽ, phản bội thì cơ thể Đảng từ trong ra ngoài tỏa ra một hơi thở của hủ bại và suy vong.


Thực sự cầu thị, trong ngoài như một, quang minh chính đại là phẩm chất nhất quán mà người cộng sản phải giữ gìn, là hình tượng bên ngoài để Đảng lấy được lòng tin ở nhân dân. Thế nhưng những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mà Gorbachev là đại diện chỉ nhằm đạt được mục đích cá nhân mà nghĩ một đằng nói một nẻo, trong ngoài bất nhất, lừa gạt dối trá, mị dân.


Gorbachev biết rõ rằng, những chủ trương của chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo và tính chất, tôn chỉ, mục tiêu của chính đảng giai cấp vô sản không ăn nhập với nguyên tắc xây dựng Đảng, như nước với lửa không thể dung hòa. Vậy nên để lấy được sự tín nhiệm trong và ngoài Đảng, ông ta đã lợi dụng thủ đoạn lừa gạt hai mặt. Ban đầu ông ta hứa sẽ tiến hành cải tổ "trong phạm vi chủ nghĩa xã hội", nói rằng cải tổ là để "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội một cách toàn diện và có kế hoạch", là để "phát triển và củng cố chủ nghĩa xã hội một cách mạnh mẽ"1 (Gorbachev: Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.45), với mục đích khai phá và phát huy tiềm lực của chế độ xã hội còn non trẻ. Sau này, ông nêu ra phải "nhận thức lại" chủ nghĩa xã hội, giải thích lại thế nào là chủ nghĩa xã hội. Trải qua hàng loạt quá trình chuẩn bị, đến tháng 6 năm 1988, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Hội nghị đại biểu lần thứ 19, cảm thấy thời cơ đã chín muồi, Gorbachev liền thay đổi lời hứa trước kia, công khai chuyển đổi toàn diện công cuộc cải tổ theo hướng "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", khiến cho tính chất và phương hướng cải tổ thay đổi hoàn toàn về mặt bản chất.


Tại sao cải tổ tiến hành hơn 3 năm sau mới tiết lộ sự thật, mới đưa ra lá bài chiến lược của bản thân? Gorbachev sau này mới nói rõ nguyên nhân. Ông ta nói trước đây "tất cả đều là những giai đoạn không thể thiếu, bởi vì giả sử vào tháng 4 năm 1985 cũng như tại Đại hội đại biểu (chỉ Đại hội đại biểu lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô diễn ra vào tháng 2 năm 1986 - chú thích của người dẫn), sau đó là trong Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương tháng 1, tháng 6 năm 1987, tháng 2 năm 1988, cho tới Hội nghị đại biểu Đảng lần này (chỉ Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô - chú thích của người dân) chúng tôi cũng nêu vấn đề như vậy, thì liệu có người ủng hộ chúng tôi không? Chúng tôi sẽ trở thành bia đõ đạn, rất dễ bị đẩy ra khỏi tầng lớp lãnh đạo"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Nxb. Khoa học xã hội - Văn hiến, 2003, quyển thượng, tr.476).


Nhằm xác lập và tiến hành "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", Gorbachev đã gồng hết khả năng của mình. Trong số những nhà lãnh đạo của Liên Xô, ông ta nổi tiếng là "nói năng lưu loát, giỏi hùng biện". Ông ta thích dùng những từ ngữ mơ hồ để phát biểu ý kiến, giỏi ngụy biện, chiết trung, biến sai thành đúng khi đưa ra những cái mới cái lạ, đạt được hiệu quả thật giả lẫn lộn, khiến cho người khác không phân biệt được đúng sai, để nhân lúc tư tưởng người ta đang rối bời mà làm đục nước bắt cá, đem những chủ trương của mình áp đặt cho Đảng, áp đặt cho cả xã hội Liên Xô. Nhưng khi không đạt được mục đích sẽ lộ nguyên hình, khống chế quyền phát ngôn, biến không thành có, thậm chí đổi trắng thay đen. Ông ta dùng thủ đoạn chèn ép những người trong và ngoài Đảng có ý kiến với chính sách cải tổ của ông ta.


Ông ta tuyên truyền "dân chủ hóa", "công khai", chủ trương không để lại cho lịch sử bất kỳ một "điểm trống" nào, bề ngoài dường như nhằm cải thiện bầu không khí chính trị của Liên Xô, tăng cường độ minh bạch của xã hội; thực tình ý đồ thực sự của ông ta là cổ vũ cho thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước phủ định lịch sử Liên Xô, phủ định lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, công kích chủ nghĩa xã hội, khơi gợi xung đột dân tộc và tư tưởng chống cộng, chống Xô. Chỉ có làm như vậy mới quét sạch được trở ngại trên con đường thúc đẩy "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" ở Liên Xô của ông ta.


Ông ta ngoài miệng chủ trương "thuyết cách mạng cải tổ", đề ra "cải tổ là một quá trình cách mạng", "cải tổ là một cuộc cách mạng", "là bước nhảy vọt trong quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, là bước nhảy vọt thực hiện đặc tính bản chất của nó"1 (Gorbachev: Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.57), phải tiến hành cải tạo một cách căn bản Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô, từ đó tạo ra một hình tượng lãnh tụ đầy khí phách mà người ta cần để thay đổi triệt để hiện trạng Liên Xô. Thế nhưng, "thuyết cách mạng cải tổ" của Gorbachev lại có mặt không nói ra ngoài. Ông ta chỉ nói về ý nghĩa cách mạng của cải tổ, mà không nói đến tính nguyên tắc của cải tổ. Ông ta khởi xướng tiến hành cuộc "cải tạo mang tính cách mạng" đối với toàn bộ tòa lâu đài xã hội, thực chất là muốn hủy hoại nền móng của Đảng và Nhà nước, phủ định một cách căn bản chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô.


Gorbachev còn đưa ra "thuyết đa nguyên", bề ngoài thấy như là thúc đẩy dân chủ hóa đời sống chính trị, kinh tế và xã hội Liên Xô, mang lại cơ hội và sức sống mới cho nước cho dân; tuy nhiên động cơ thực sự của phương châm "thuyết đa nguyên" chính là phủ định địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ định địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định địa vị chủ thể của doanh nghiệp công hữu, tiến tới đưa ý thức hệ của giai cấp tư sản lên chiếm vị trí thống trị, xóa bỏ những trở ngại chế độ đế thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội cướp quyền lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, để Liên Xô thực hiện chế độ tư hữu hóa cả gói.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 07:57:27 am
"Thuyết đa nguyên" đặt tư tưởng chỉ đạo thuyết nhất nguyên cùng tồn tại với tính đa dạng của các loại quan điểm, ý kiến khác, đặt sự cầm quyền của Đảng Cộng sản song song với việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm lẫn lộn khái niệm nền kinh tế lấy chế độ công hữu làm chủ thể với khái niệm nền kinh tế với các thành phần kinh tế khác nhau cùng bổ sung hỗ trợ, vì thế tạo nên sự mập mờ khó hiểu, trở thành vũ khí tư tưởng nhằm xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô, chôn vùi chủ nghĩa xã hội Liên Xô của Gorbachev.


Tóm lại, các loại khái niệm mới mẻ mà Gorbachev đưa ra bề ngoài có vẻ như là giương cao ngọn cờ "phát triển và sáng tạo" chủ nghĩa Mác, cho nên đã khiến cho rất nhiều người Liên Xô, trong đó có một số nhân vật cao cấp trong Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất thời không nhìn ra trong thời kỳ đầu cải tổ, khiến cho âm mưu của ông ta thành công, cứ thế dễ dàng dẫn dắt Đảng Cộng sản Liên Xô, thậm chí là cả Liên Xô đi theo định hướng của ông ta một cách thuận lợi. Đến khi mọi người tỉnh ngộ ra thì những hậu quả tiêu cực mà Gorbachev gây ra đã khó lòng cứu vãn. Trải qua một thời gian dài bị hủy hoại dưới thời Brezhnev và Khrushchev, xét về tổng thể, việc bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác cho đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô không cao cố nhiên là nguyên nhân chính, nhưng thủ đoạn lừa gạt hai mặt của Gorbachev vẫn đóng vai trò quan trọng.


Gorbachev về mặt lý luận không chỉ lòe bịp ngôn từ, lấy phiến diện nhìn toàn thể, lén lút tráo trở, láu cá lưu manh, mà còn có tác phong làm việc không nhất quán giữa lời nói và hành động, gió chiều nào xoay chiều đó, láu cá, mưu mô. Boldin từng nhó lại rằng: quan điểm của Gorbachev luôn thay đổi, thích vòng vo, "thường tiến hai bước, sang bên cạnh ba bước, lại lùi một bước", "đối mặt với phái kiên trì chủ nghĩa Mác, ông ta nói phải phấn đấu vì tương lai tươi sáng - chủ nghĩa cộng sản, không lúc nào được xa rời con đường này; với phải thị trường, ông ta lại nói, chỉ có con đường tạo quan hệ phát triển thị trường giống như Áo và Thụy Điển, dân chủ và tự do, mới có thể thành công". "Ông ta giỏi dùng thủ đoạn, bản lĩnh này qua nhiều năm đã đạt tới trình độ thuần thục"1 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.308). Ông ta lúc thì đột nhiên đánh giá cao thành tựu to lớn mà lịch sử Liên Xô đã tạo dựng nên, lúc lại công kích thể chế chính trị Liên Xô những năm 1970 là "thể chế quan liêu tập trung quyền lực", phải được thay thế bằng thể chế "tự do, dân chủ". Tác phong hai mặt của Gorbachev thường khiến cho cấp dưới không kịp thích ứng, "quan điểm 'đa nguyên hóa' của Tổng Bí thư khiến cho người ta không biết phải làm sao cho đúng, thái độ không rõ ràng về tương lai khiến cho nhân sĩ hai phái đều nghi ngờ thành ý của ông ta"2 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.308).


Về tác phong hai mặt điển hình của Gorbachev, Ryzhkov nói rằng: "Rất nhiều người, thậm chí người có chút hiểu biết nhất định về con người Gorbachev, vẫn thường khó mà nắm bắt được những lời nói và hành động của ông ấy, những thay đổi trong chớp mắt của ông ấy"3 (Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Sđd, tr.367). Trước khi đảm nhiệm cương vị Tổng thống Liên Xô, ông ta đã từng nhiều lần tuyên bố rằng: "Đảng là tất cả đối với tôi, tôi có thể từ bỏ chức vị Tổng thôhg Liên Xô vì trong trái tim tôi chỉ có Đảng Cộng sản Liên Xô là quan trọng nhất". Nhưng sau khi lên làm Tổng thống, hành vi của ông ta lại trái ngược hoàn toàn với những lời tuyên bố trước đó. Sau khi Liên Xô tan rã, trong cuộc đối thoại với nhà hoạt động xã hội người Nhật Daisaku Ikeda, ông ta nói ông ta cảm thấy vô cùng vinh hạnh là trong những năm cải tổ đã xóa bỏ được những hậu quả do ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản trong nhận thức của mọi người.


Trong nội bộ Đảng, bề ngoài Gorbachev thực hiện "dân chủ", nhưng thực tế là một người độc đoán không chấp nhận bất kì ý kiến hay lời kêu gọi nào bất đồng với ông ta. Quan điểm chính trị mà ông ta phát biểu thường không hài hòa với quan điểm của một số người trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Rất nhiều đề xướng và hứa hẹn của ông ta nhiều Ủy viên Bộ Chính trị đều chỉ được biết qua báo chí. Ngay cả trong cuộc họp, ông ta "không muốn, không thích và không chịu lắng nghe ý kiến của người khác, chỉ thích ba hoa khoác lác, chỉ một mình ông ta nói trên trời dưới biển, thao thao bất tuyệt, lòe bịp ngôn từ, những tư tưởng cứng nhắc trống rỗng được nói ra như rót mật vào tai"1 (Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Sđd, tr.369).


Gorbachev từng bảo đảm rằng sẽ không phạm phải những sai lầm của Brezhnev, tức là một người đảm nhiệm hai vị trí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ngày 2 tháng 7 năm 1985, ông ta đưa ra đề xuất Tổng bí thư nên tập trung tinh thần sức lực để nắm công việc của Đảng, và không nên giữ vị trí trong hàng ngũ lãnh đạo Nhà nước, thế nên ông ta thề sẽ không đảm nhiệm chức vụ cao nhất của nhà nước Xôviết là Chủ tịch nước, đề cử Gromyko đảm nhiệm chức vụ này. Nhưng tháng 6 năm 1988, trong Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, lại chính ông ta đưa ra ý kiến Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô kiêm nhiệm vị trí đầu não quốc gia, đưa ra ý kiến "phải đề xuất Bí thư thứ nhất của Đảng ủy đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Xôviết tương ứng"1 (Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Sđd, tr.510). Thực chất của vấn đề lại không nằm ở chỗ Bí thư Đảng ủy có thể kiêm nhiệm Chủ tịch Xôviết hay không, mà làm như vậy cũng không phải không có khả năng, thậm chí có lúc là cần thiết. Vấn đề ở đây là nó phản ánh tác phong thiếu nhất quán và tham vọng quyền lực vô cùng của Gorbachev.


Gorbachev ngoài miệng lớn tiếng rao giảng "dân chủ", trên thực tế thì việc đề bạt cán bộ hoàn toàn do ông ta quyết định. Trước đó, "nhóm Ucraina" của thời kỳ Khrushchev, "nhóm Dnepr" của Brezhnev, đều mang đặc điểm "kết bè kéo cánh" của thời kỳ Liên Xô. Gorbachev thường lấy mức tiêu chuẩn "trung thành" với ông ta để đánh giá và sử dụng cán bộ. Ai đó nếu là "cận thần" của Chernenko, đã từng phản đối ông ta, thì người ấy khó có thể được trọng dụng, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô cũ Dolgikh đã từng là một trong những người được lựa chọn kế nhiệm chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev vì muốn hạn chế ảnh hưởng của người này, bèn phát động một cuộc chiến ngầm để phản đối ông. Những người như Romanov, Grishin... cũng biến mất khỏi vũ đài chính trị sau khi thất bại trong cuộc tranh chức Tổng Bí thư với Gorbachev. Thậm chí như Ligachev, Shevardnadze, Yakovlev hoặc những người khác, nếu có một thời điểm nào đó xuất hiện nhiều trên báo chí hoặc truyền thông, liền bị Gorbachev nảy sinh lòng đố kị. Theo hồi ức của Boldin, người từng có một thời gian dài phục vụ Gorbachev: "Khi ông ấy biết được có người nào đó nhận được sự ủng hộ hơn mình, ông ấy trở nên mất kiểm soát. Theo kinh nghiệm của tôi, những người đó sẽ sớm gặp rắc rối, Tổng Bí thư - Tổng thống sẽ khiến họ biến mất trên chính trường"1 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.357). Ai cũng biết, những người như Shevardnadze, Aliyev, Yakovlev được trọng dụng đều do trung thành với Gorbachev. Kết quả tất yếu của việc "kéo bè kết phái" là tạo ra một loại "lãnh tụ" và vòng tròn xoay quanh ông ta với chế độ độc tài toàn quyền, chế độ này khiến cho số ít những người lãnh đạo cấp cao có thể lợi dụng quyền lực trong tay mình để mưu cầu lợi ích cá nhân. Nghiêm trọng nhất là sau sự kiện "19 tháng 8", ông ta tự mình đứng ra tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô mà không thông qua Đại hội đại biểu của Đảng, hay ít nhất là Ban Chấp hành Trung ương, đây đúng là một hành động tùy tiện xưa nay chưa từng thấy! Đây cũng là một sự mỉa mai tuyệt vời đối với nguyên tắc "dân chủ hóa", "công khai hóa" mà bản thân ông ta từng lớn tiếng hô hào, là sự trái ngược rõ ràng với tác phong ưu việt của Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ đầu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 07:58:34 am
Khi dân chủ trong Đảng bị phá hoại không chỉ làm nảy sinh những vấn đề nghiêm trọng như chủ nghĩa cá nhân độc đoán, chuyên quyền, mà còn khiến cho việc bầu cử dân chủ chỉ còn là hình thức. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đại diện trung thành cho lợi ích của số đông nhân dân; về mặt tổ chức phải bảo đảm đại diện của Đảng và của nhân dân phải do số đông đảng viên và nhân dân chọn lựa, đồng thời có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ đại diện cho lợi ích của nhân dân. Và để làm được điều này, một phần việc quan trọng là bảo đảm rằng số lượng đại biểu công nhân và nông dân chiếm tỉ lệ lớn trên tổng số đại biểu. Thời kỳ Lênin, Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã hết sức coi trọng vấn đề này, nhưng đến thời kỳ Gorbachev, đặc biệt sau khi ông này lên nắm quyền, đại diện của Đảng, của nhân dân trở thành những kẻ quan liêu tư lợi hoặc thành đặc quyền do người của ông ta điều khiển.


Tháng 2 năm 1986, khi Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXVII, có 1.705 đại biểu công nhân trên tổng số 5.000 đại biểu, mà tới lần Đại hội thứ XXVIII vào tháng 7 năm 1990, chỉ có 543 đại biểu công nhân trong tổng số 4.683 đại biểu tham dự, không bằng 1/3 số đại biểu công nhân của kỳ Đại hội trước, chỉ chiếm 11,6% tổng số đại biểu. Đại biểu nông dân cũng chỉ có 225 người. Khoảng 60% số đại biểu là đại biểu nhân dân toàn Liên Xô được lựa chọn trong thời kỳ "dân chủ hóa" của Gorbachev và đại biểu nhân dân do các nước cộng hòa trong Liên bang và nước cộng hòa tự trị lựa chọn ra1 (Tô Quần (biên dịch): Tuyển tập tài liệu văn kiện chính của Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.77-78).


Sau này, khi miêu tả về tình trạng và vấn đề của việc cơ cấu đại biểu trong Đảng trước khi khai mạc Đại hội Đảng lần thứ XXVIII, Gorbachev đã nói: "... trong số đại biểu thì số lượng công nhân ít tới mức đáng thương, số chỉ tiêu đều bị Bí thư của tổ chức Đảng các cấp chiếm hết. Các hội nghị đại biểu, tất nhiên cả đại hội đại biểu, biến thành đại hội cán bộ của Đảng, chủ yếu là đại hội cán bộ Đảng của hai cấp khu, thành phố. Đây cũng chính là kết quả của bầu cử. Trong quá trình bầu cử, cán bộ cơ quan Đảng gây ra áp lực lớn, cũng coi như là tự mình ứng cử rồi trúng cử làm đại biểu". Ngay cả những "đại diện công nhân may mắn trúng cử, tại Hội nghị đại biểu Nga, hay tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô đều trăn trở"2 (Thuật Thao (biên dịch): Hối ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.640). Ngược lại, "rất nhiều người không có chức vụ, thậm chí đã từng phạm tội ác, tội phạm giết người tù tội cũng xuất hiện trong danh sách ứng cử đại biểu nhân dân. Còn những người chỉ biết nói suông và những người có tâm địa độc ác mang cương lĩnh tranh cử chống Liên Xô, chống Đảng Cộng sản thì nhiều vô kể1 (Ligachev: Cảnh báo, Sđd, tr.89).


Rất nhiều nhân sĩ "anh tài" xuất hiện trong thời kỳ Gorbachev chiếm được những ghế đại biểu này một cách chắc chắn. Ngoài miệng họ nói là đại diện nhân dân, thực tế lại làm những việc tổn hại lợi ích của dân. Viện trưởng Viện nghiên cứu chính trị xã hội, Viện Hàn lâm khoa học Nga Osipov chỉ ra rằng, phái cương lĩnh dân chủ xuất hiện trong thời kỳ Gorbachev cầm quyền mà "đại biểu của phái đó là Popov nói rằng: 'chúng tôi không nghĩ đến nhân dân, chúng tôi cố ý tạo ra trạng thái thiếu sót toàn diện'"2 (Ghi chép tại buổi tọa đàm giữa Lý Thận Minh với nhân sĩ Viện nghiên cứu chính trị xã hội, Viện Hàn lâm khoa học Nga ngày 27 tháng 4 năm 2010).


Trong tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô còn có một nhóm người được Gorbachev cất nhắc lên vị trí lãnh đạo, họ có cùng một giọng điệu y hệt như Gorbachev, đều là dạng người hai mặt, trước mặt một kiểu, sau lưng một kiểu.


Trợ thủ đắc lực của Gorbachev là Yakovlev, năm 1972 khi nhận chức Thứ trưởng thứ nhất Bộ Tuyên truyền, đã từng đăng bài viết "Phản bác chủ nghĩa lịch sử" trên báo Văn học. Ông ta tầm chương trích cú, lên tiếng kịch liệt phê phán cái gọi là trào lưu tư tưởng chống chủ nghĩa Mác xuất hiện trong giới văn học nghệ thuật. Cho tới năm 1989 ông ta vẫn nói "Cho tới giờ tôi vẫn tin tưởng vào lối sống của chủ nghĩa xã hội". Vậy mà trong một trường hợp, cũng chính ông ta lại nói rằng: "Đã đến lúc này, phải nói rằng chủ nghĩa Mác từ lúc mới bắt đầu đã là không tưởng và sai lầm", "chủ nghĩa Mác chẳng có gì khác, mà chính là một loại tôn giáo mới với chiêu bài khoa học... Tôn giáo của chúng ta vốn dĩ là sai lầm, Jesus của chúng ta chỉ là giả tạo"1 (Yakovlev: Lời tựa, rút gọn, lời kết, (bản tiếng Nga), Mátxcơva, 1992, tr.127). Ông ta thậm chí ngang nhiên phủ định toàn bộ học thuyết chủ nghĩa Mác, nói rằng "thực chất, trong toàn bộ luận chứng kinh tế cụ thể mà Mác lấy làm cơ sở xây dựng nên bộ thế giới quan "chủ nghĩa xã hội khoa học" không có lấy một luận chứng nào được chứng thực trong thực tiễn"2 (Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.65), cho nên công khai tuyên bố đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác.


Một trợ thủ đắc lực khác của Gorbachev là Shevardnadze cũng đã từng nói về quá trình chuyển biến về mặt tư tưởng chính trị của mình. Năm 1991, khi trả lời câu hỏi của phóng viên Đài truyền hình Pháp ông ta nói rằng: "Chúng tôi đã một thời từng có lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, và cũng tiến hành đấu tranh để thực hiện lý tưởng này. Sau này tôi dần dần nhận thức rằng những điều chúng tôi tin tưởng không thể thực hiện được, buộc phải thay đổi. Một ngày đầu thập kỷ 1990, tôi nói với Gorbachev rằng chế độ của chúng ta đã mục nát rồi, phải phá hủy toàn bộ, đồng thời phải tiến hành cải tạo triệt đê từ trên xuống dưới". Chính vì những nhân vật hai mặt với tín ngưỡng chính trị không kiên định lại nắm công tác lãnh đạo ý thức hệ Đảng Cộng sản Liên Xô trong một thời gian dài này mà tác phong, tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô tất yếu phải nảy sinh thoái hóa.


Ngay cả với Yeltsin, Gorbachev thực chất cũng dùng thái độ hai mặt, không thể phủ định rằng giữa Gorbachev với ông ta có mâu thuẫn lớn. Tháng 11 năm 1987, khi Yeltsin bị tước bỏ những chức vụ như Bí thư thứ nhất Thành ủy Mátxcơva, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev cũng gật đầu (mặc dù đây không phải là chủ định của ông ta). Sau khi Liên Xô sụp đổ, Gorbachev càng chỉ trích Yeltsin bội tín, hối hận vì khi trước đã không phái ông ta đi nước ngoài làm đại sứ. Tuy nhiên, về mặt ý thức tư tưởng, họ là những người cùng chung quan điểm, thậm chí có thể nói là "tâm đầu ý hợp". Giữa họ thực chất không có sự khác biệt nào. Thế giới quan của hai người đồng nhất, cơ bản giống nhau ở mục đích thay đổi chế độ xã hội của Liên Xô, làm tan vỡ triệt để Đảng Cộng sản. Vì vậy, bọn họ có một kiểu hợp tác và phối hợp lúc công khai, khi bí mật. Sau khi xảy ra sự kiện "19 tháng 8", Gorbachev bắt tay với Yeltsin, cùng diễn cho thế giới xem một "màn kịch kép" "làm tan vỡ Đảng Cộng sản Liên Xô, giải thể Liên Xô".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 07:59:31 am
Trong cuốn Ghi chép của Tổng thống của mình, Yeltsin thẳng thắn nói về mối quan hệ với Gorbachev: "Gorbachev không hề đẩy tôi vào chỗ hoang vu, cũng không phái tôi tới những nơi xa xôi hẻo lánh như những vị tiền nhiệm của ông ấy từng làm. Ngược lại, ông ấy dường như có sự bao dung che chở cho tôi, lưu luyến tôi"; "Tôi từ trước tới nay chưa bao giờ đặt việc đấu tranh với ông ấy làm mục tiêu cho bản thân. Không những thế, ở nhiều phương diện, tôi theo sát ông ấy từng bước, gỡ bỏ từng viên gạch, từng mái ngói của tòa nhà chủ nghĩa cộng sản"1 (Boris Yeltsin: Ghi chép của Tổng thống (bản tiếng Nga), Nxb. Đông Phương, 1995, tr.19).


Ngoài những nhân vật cấp cao như Yakovlev, Shevardnadze, Yeltsin ra, còn có rất nhiều nhân vật "anh tài" xuất hiện ồ ạt trong trào lưu dân chủ hóa. Lĩnh vực chính trị có Sakharov, Popov, v.v..., ở lĩnh vực kinh tế có Gaidar, Yavlinsky, ngoài ra ở lĩnh vực tư tưởng còn có một số nhân vật nổi bật. Những anh tài về chính trị, kinh tế này cũng có người nổi tiếng trong lịch sử vì tư tưởng chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội như Sakharov; cũng có người nổi danh nhanh chóng xuất thân từ giới trí thức như Yavlinsky, ông này vốn là Phó tiến sĩ Viện nghiên cứu kinh tế, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, nhờ chấp bút "Kế hoạch 500 ngày" của thời kỳ Liên Xô quá độ sang kinh tế thị trường mà bỗng chốc nổi tiếng. Tháng 7 năm 1990, khi Yeltsin nhậm chức, ông ta trở thành Phó Thủ tướng 38 tuổi của Chính phủ Liên bang Nga. Vì "Kế hoạch 500 ngày" không thực tế, vấp phải sự phản đối kịch liệt mà Yavlinsky tức giận từ chức Phó Thủ tướng.


Những nhân vật "anh tài" này đều có chung thế giới quan, quan điểm về lịch sử với các nhân vật lãnh tụ như Gorbachev. Bọn họ đều chủ trương dân chủ tư bản chủ nghĩa, chủ trương tư hữu hóa và kinh tế thị trường tự do, phủ định thậm chí công kích chủ nghĩa Mác. Chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội trở thành nền tảng tư tưởng và mục tiêu để họ cùng gắn bó, cũng khiến họ trở thành bè lũ phối hợp với phương Tây để Tây hóa, phân hóa Liên Xô.


Gorbachev không chỉ dùng thủ đoạn lừa gạt hai mặt, mà còn hoàn toàn bỏ qua một bên nguyên tắc tập thể của Đảng, không nghe bất kỳ một ý kiến bất đồng nào với ông ta.

Những ý kiến phản đối cải tổ của ông ta trong nội bộ Đảng hoặc trong xã hội, bất kể đúng sai, nhẹ thì liền chụp mũ là kẻ theo chủ nghĩa giáo điều, "phái bảo thủ", "phái truyền thống" và "kẻ theo chủ nghĩa cơ yếu trong Đảng"; nặng thì bị bức hại về chính trị, cách chức, bãi nhiệm. Khi ông ta mới nhậm chức đã từng đánh giá rất cao Ligachev, nói rằng đây là con người "giàu kinh nghiệm, quả cảm kiên định, rất có nguyên tắc", đồng thời bố trí cho Ligachev làm công tác quản lý chính về tư tưởng, trở thành lãnh đạo số hai trong Đảng và chỉ đứng sau Gorbachev. Vậy mà khi Ligachev hoài nghi, thậm chí bất mãn vì luận điệu cải tổ xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa và những hành vi phá hoại nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô của Gorbachev thì lập tức ông ta thay đổi thái độ, công kích Ligachev là "kẻ theo chủ nghĩa Xtalin sống chết giữ khư khư quan niệm cũ", là "phe bảo thủ" chống đối lại cải tổ, thậm chí là "kẻ thù tiềm ẩn của cải tổ". Dưới sự chỉ đạo của Gorbachev, Ligachev rất nhanh chóng bị đình chỉ công tác lãnh đạo ý thức hệ của Trung ương sau khi xảy ra "Sự kiện Nina Andreeva", chức vụ này sau đó do người nghiêng hẳn theo phe Gorbachev là Yakovlev đảm nhận. Từ đó về sau, Ligachev mất hết chức vụ và quyền lực vốn có trong Đảng.


Dưới sự chèn ép của Gorbachev, những người như Ligachev, Ryzhkov là những người xuất phát từ lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng và nhân dân dám đứng lên tranh luận, gần như bị tước đoạt hết quyền tự do phát ngôn vốn có của đảng viên, cán bộ, càng không nói tới quyền phê bình, giám sát đối với lãnh đạo và cơ cấu lãnh đạo của Đảng, bầu không khí dân chủ trong Đảng Cộng sản Liên Xô vô cùng bất bình thường. Khi nội bộ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thảo luận về việc nên xóa bỏ hay chỉ sửa đổi Điều 6 Hiên pháp, Gorbachev kiên quyết phản đối những người chỉ đồng ý cho sửa đổi mang tính hình thức, không tán thành ý kiến làm lung lay vị trí căn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô như Ligachev. Ông cho rằng những cách nhìn khác này "chẳng qua chỉ là những phương án trị ngọn không trị gốc, không thể giải quyết được vấn đề. Bất kì sự sửa đổi nào trong Điều 6 cũng đều không thể bảo đảm về mặt Hiến pháp để thực hiện chế độ đa đảng, cũng không thể thay đổi được chế độ chính trị hiện hành"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.577-578). Theo ông ta, chỉ có cách triệt để phế trừ đi con hổ cản đường là Điều 6 Hiến pháp thì đó mới là kế sách trị gốc. Cuối cùng, bất chấp Ligachev kiên trì bảo vệ vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản Liên Xô, Kryuchkov kiên trì phản đối biến Đảng thành Đảng nghị viện, Điều 6 Hiên pháp Liên Xô vẫn bị xóa bỏ theo ý kiến của Gorbachev.


Khi trong nội bộ của Đảng không cho phép có những ý kiến bất đồng, thì chính đảng này cũng dần dần mất đi sự gắn kết, sức chiến đấu, khó tránh khỏi đi vào con đường phân hóa và chia rẽ. Sự kiện "19 tháng 8" xảy ra năm 1991, trên thực tế chính là một cuộc tổng bùng phát của các loại mâu thuẫn tích tụ bấy lâu trong và ngoài Đảng Cộng sản Liên Xô thiếu dân chủ, nó cũng tuyên cáo sự chia rẽ nghiêm trọng nhất, có sức hủy diệt nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Khi Đảng Cộng sản Liên Xô đã trở thành một chính đảng theo chủ nghĩa xét lại chống lại chủ nghĩa Mác, chỉ còn là công cụ để duy trì lợi ích của một số ít cá nhân, khi những người lãnh đạo Đảng không chấp nhận nổi bất kì một ý kiến bất đồng nào, thì việc xuất hiện chia rẽ và đi vào con đường kết thúc cũng là tất yếu của lịch sử.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 08:00:40 am
Vào đêm trước khi Gorbachev tuyên bố Đảng Cộng sản Liên Xô giải tán, ông ta có mô tả như sau về tình trạng nội bộ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô: Đảng Cộng sản Liên Xô phát triển tới một giai đoạn nhất định tất nhiên phải giải thể, "bởi vì nó bao gồm đủ loại đại diện các phe phái tư tưởng chính trị khác nhau. Tôi chủ trương thông qua con đường dân chủ để đạt được điều này - tháng 11 tổ chức Đại hội đại biểu của Đảng, tới lúc đó trong hội nghị sẽ làm rạch ròi, dễ nói dễ bàn. Mô hình cương lĩnh của Đảng mà tôi và những người cùng chí hướng đưa ra, dựa trên một số trưng cầu dân ý, tỉ lệ đảng viên ủng hộ chiếm khoảng 1/3. Còn lại thì mỗi người một kiểu: có người ủng hộ Nina Andreeva và Anpilov, có người ủng hộ Buzgalin và Kosolapov, Zyuganov, Medvedev và Denisov, Lipitski và Rutskoy... Xem ra một bộ phận không nhỏ đã gia nhập nước Nga dân chủ, lập thành đội ngũ với Đảng Dân chủ của Travkin, những người theo chủ nghĩa dân chủ đạo Kito. Sự việc này (chỉ việc ông ta tuyên bố giải thể Đảng Cộng sản Liên Xô - chú thích của người trích dẫn) rốt cuộc cũng đã xảy ra rồi"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển hạ, tr.1369). Gorbachev đẩy trách nhiệm gây chia rẽ Đảng Cộng sản Liên Xô và giải tán Đảng cho người khác, trong khi bản thân ông ta và những kẻ đi theo ông ta mới là chủ mưu. Theo như tiết lộ của Grachev - đã từng là cố vấn và người phát ngôn của Tổng thống Gorbachev, thì ngay từ năm 1985, Yakovlev đã kiến nghị Gorbachev chia Đảng Cộng sản Liên Xô thành hai đảng, Gorbachev không phản đối, ông ta chỉ cảm thấy thời điểm đó còn hơi sớm, cho rằng chỉ khi nào thời cơ chín muồi mới có thể hành động2 (Andrei Grachev (Thuật Thao dịch): Gorbachev - những câu đố, Nxb. Biên dịch Trung ương, 2005, tr.181). Do vậy, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô chia rẽ, đây chính là kết quả Gorbachev mong muốn được chứng kiên, và cũng là kết quả cho những nỗ lực của ông ta.


Gorbachev còn là một nhà lãnh đạo ham hư vinh, thích thể hiện. Ông ta rất có tài ăn nói, nhưng thường chỉ thích nói vo, văn bản chuẩn bị sẵn chỉ là cho có. Người ta thường cười nhạo phong cách lãnh đạo của ông ta là "bắt đầu bằng lời nói, kết thúc cũng bằng lời nói", làm cho hàng đống nghị quyết thời kỳ đầu cải tổ phải bỏ xó. Ông ta chỉ thao thao hùng biện, thiếu tác phong làm việc thực tế, khiến cho rất nhiều vấn đề của Đảng không được giải quyết, nhiều mâu thuẫn không được khắc phục, nhiều nhiệm vụ không thể hoàn thành.


Ông ta không chỉ quan tâm tới đánh giá của quần chúng và dư luận trong nước đối với bản thân, mà còn đắm chìm trong dư luận của phương Tây đánh giá hình tượng "Vua khai sáng" của ông ta thế nào. Boldin - người đã từng đảm nhiệm chức trợ lý của Gorbachev - đã viết trong cuốn hồi kí Lịch sử thăng trầm của Gorbachev là Gorbachev thường một mình ngồi trong phòng làm việc "đọc to những bình luận của báo chí nước ngoài về cải tổ vĩ đại trên thế giới của ông ta, có lúc ông ta còn đọc mấy tiếng liền những thứ này, cứ thế để thời gian trôi qua mà khối lượng lớn văn kiện giấy tờ đang chờ giải quyết ông ta lại không động đến"1 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.282).


Thế giới phương Tây nắm rõ được nhược điểm háo danh của Gorbachev nên tập trung vào đó để trục lợi, lợi dụng ông ta để thực hiện chiến lược Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Ngày 18 tháng 11 năm 1991, trong một lần nói chuyện công khai tại Houston (Mỹ) của nguyên Thủ tướng Anh Margaret Thatcher hơn một năm trước khi hết nhiệm kỳ, khi bàn về vai trò của chiến lược diễn biến hòa bình của phương Tây đối với quá trình tan rã Liên Xô, bà nhắc tới nguyên nhân quan trọng để phương Tây nhắm vào Gorbachev là vì con người này "không đủ cẩn thận, dễ dàng bị lôi kéo, cực kỳ ưa hư vinh. Ông ta có mối quan hệ tốt đẹp với các nhân vật nổi tiếng trong chính giới Liên Xô, vì vậy với sự giúp đỡ của chúng ta, ông ta có thể nắm được quyền lực lớn". Và một khi Gorbachev đã nắm quyền trong tay, "dưới sự giúp đỡ của ông ta, chúng ta có thể thực hiện được ý đồ của chúng ta"2 (http://www.ilTLSOurce.com/shotlist/ITN/1991/ll/22/T22119113). Thực tế đã chứng minh, những tính toán này của phương Tây là chính xác. Gorbachev không phát hiện ra ông ta thực sự đã từng bước trượt vào cái bẫy mà phương Tây đã dựng sẵn cho ông ta theo con đường của họ.


Gorbachev và bè phái của mình đã phá hoại nghiêm trọng tác phong làm việc ưu việt của Đảng Cộng sản Liên Xô, cắt đứt mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, không chỉ hủy hoại sự gắn kết của Đảng, mà còn thêm một bước phá vỡ nền móng giai cấp và nền móng quần chúng của Đảng, khiến cho mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân xấu tới đỉnh điểm, từ đó gây nên ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh tế trong nước, gây mâu thuẫn dân tộc sâu sắc, gây mất lòng tin của dân đối với Đảng. Ryzhkov đã từng đau đớn thốt lên tới năm 1990 là Đảng đã dần đi tới chỗ chết.


Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev đau đớn hồi tưởng lại, lúc đó trong Đảng, trong xã hội lan tràn một phong cách làm việc nói một đằng, làm một nẻo, đây chính là nguyên nhân quan trọng gây ra tâm lý xa rời trong nội bộ Đảng. Chủ nhiệm phòng biên tập của một đài truyền hình Mátxcơva - đã từng là một đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô - nói: tôi đã từng là một đảng viên quang vinh, luôn tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức Đảng. Thế nhưng những người như Gorbachev, lấy danh nghĩa cải tổ, thực chất là tranh quyền đoạt lợi, tranh chức Tổng thống, cơ bản không để ý tới nguyện vọng và nhu cầu của số đông đảng viên và quần chúng nhân dân. Bọn họ sớm trở thành tầng lớp quan liêu đặc biệt ở trên cao, những người lãnh đạo Đảng và tác phong Đảng xấu như vậy làm sao có thể khiến chúng tôi bước tiếp cùng họ.


Trong Đảng Cộng sản Liên Xô xuất hiện trào lưu xin ra khỏi Đảng. Năm 1987, số người ra khỏi Đảng là 16.634 người, năm 1988 là 21.217, năm 1990 tăng mạnh tới 1.809.424 người, năm 1991 chỉ trong quý 1, số người ra khỏi Đảng đã tới con số 587.000 người1 ([Liên Xô] Đời sống của Đảng, Kỳ 11, năm 1991). Từ tháng 1 năm 1989 đến tháng 1 năm 1991, chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, cả nước có tới hơn 2.900.000 đảng viên xin ra khỏi tổ chức Đảng.


Nhà máy sản xuất ô tô lớn nhất Liên Xô là Ural năm 1989 có hơn 9.000 đảng viên, đến tháng 1 năm 1991 chỉ còn lại 1.600 người, trong đó có hơn 300 người chưa nộp đảng phí2 ([Liên Xô] "Thông cáo Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô", Kỳ 6, năm 1991). Khu vực Bryansk năm 1986 có 6.000 đảng viên, đến năm 1989 chỉ còn 750 người, năm 1991 chỉ còn lại 4 người. Theo thống kê không đầy đủ năm 1990, toàn quốc có 1/5 tổ chức Đảng ở nhà máy, 1/2 số tổ đảng giải tán hoặc ngừng hoạt động, sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Liên Xô dường như suy yếu đến tận cùng1 ([Liên Xô] "Sổ tay cán bộ công tác của Đảng", Mátxcơva, 1989, tr.589). Nhà máy chế tạo nhôm Krasnoyarsk là nhà máy lớn có tiếng cả nước, nhưng từ sau khi Gorbachev đưa ra đường lối "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" tại Hội nghị đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 19, một số lượng lớn đảng viên xin ra khỏi Đảng, có 900 người giao nộp lại thẻ đảng viên.


Tháng 2 năm 1986 khi diễn ra Đại hội lần thứ XXVII, Đảng Cộng sản Liên Xô có hơn 18 triệu đảng viên, mà cho tới ngày 1 tháng 7 năm 1991, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ có 15 triệu người. Những đảng viên còn lại phần lớn đều mất lòng tin vào Đảng.


Cuối năm 1990, Đảng Cộng sản của các nước cộng hòa như Lítva, Látvia, Extônia, Grudia vì mất lòng tin của quần chúng nên đã trở thành đảng đối lập, chức thị trưởng các thành phố lớn như Mátxcơva, Lêningrát cũng rơi vào tay phe đối lập. Đảng Cộng sản Liên Xô rơi vào cuộc khủng hoảng chưa từng có.


Khi con tàu Đảng Cộng sản Liên Xô đang vất vả vật lộn trong giông bão, thì những kẻ tham gia vào quá trình tái cơ cấu, chèo lái con thuyền đi chệch hướng, gây nên những sai lầm nghiêm trọng này lại lần lượt tháo chạy. Tháng 7 năm 1990, tại Đại hội lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, những người như Yeltsin, Popov, Sobchak tuyên bố ra khỏi Đảng. Ngày 2 tháng 7 năm 1991, Shevardnadze tuyên bố ra khỏi Đảng. Ngày 6 tháng 8, Yakovlev cũng xin ra khỏi Đảng. Và người thuyền trưởng cầm lái con tàu là Gorbachev lúc đó đã là Tổng thống. Ngoài sự tưởng tượng của mọi người, ông ta lại coi chức Tổng bí thư là "một đại phiền toái".


Bản thân ông ta là Tổng Bí thư mà không tích cực thực hiện chức trách của mình, không định kỳ báo cáo công việc với Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Có người trong Bộ Chính trị chỉ trích ông, ông ta lại phát cáu, nổi nóng biện hộ rằng "tôi là Tổng thống, không có nghĩa vụ phải bàn bạc thống nhất với Bộ Chính trị tất cả công việc của mình"1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.1316, 1323). Còn khi có người đề cập vấn đề ông ta cùng lúc đảm nhiệm cả hai chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô và Tổng thống Liên Xô là không hợp lý, ông ta liền bắt đầu tính chuyện ra khỏi Đảng. Sự kiện "19 tháng 8" đẩy nhanh tốc độ tháo chạy của ông ta. Ông ta tuyên bố từ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Không lâu sau đó Đảng Cộng sản Liên Xô tự tan rã. Con tàu Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị nhấn chìm như vậy.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 08:02:15 am
3. Đảng rơi vào tình trạng bị một số ít người kiểm soát và trở thành công cụ để họ mưu cầu lợi ích riêng

Khi Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là chính đảng mang tính chất mácxít, không còn là đội tiên phong của giai cấp công nhân thì đối tượng mà Đảng phải phục vụ, tôn chỉ mà Đảng phải thực hiện cũng tất yếu có sự thay đổi căn bản. Dưới sự phá hoại của nhóm người trong đó có Gorbachev, Đảng Cộng sản Liên Xô từ chỗ là đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân Liên Xô dần dần biến thành công cụ do một số ít người và tập đoàn nhỏ kiểm soát và phục vụ cho lợi ích của họ. Khi Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi giá trị có thể lợi dụng, những người được lợi sẽ lạnh lùng xóa bỏ Đảng, kết thúc sinh mệnh của Đảng.


Nhìn lại toàn bộ quá trình Liên Xô tan rã, có ba thế lực được lợi từ "lễ tang" của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trước hết là phái cải tổ mà đại diện là Gorbachev. Lực lượng này trước sự kiện "19 tháng 8" năm 1991 lãnh đạo công cuộc cải tổ ở Liên Xô, còn sau sự kiện "19 tháng 8" lại kết hợp với lực lượng Tây hóa, phân hóa Liên Xô là Yeltsin, cùng lật đổ Đảng, làm tan rã Liên Xô. Cải tổ xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo mà Gorbachev thực hiện không những đã kết thúc địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Liên Xô, cải tạo Đảng Cộng sản Liên Xô thành đảng dân chủ xã hội, mà còn phá hủy chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, dẫn dắt Liên Xô đi theo chủ nghĩa tư bản một cách toàn diện.


Với Gorbachev, ông ta đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện lý tưởng chính trị và mục tiêu dân chủ của ông ta, vì thế ông ta cảm thấy yên tâm và mãn nguyện với kết quả của cải tổ. Ngày 25 tháng 12 năm 1991, trong "Bức thư thông báo tới công dân Liên Xô" tuyên bố từ chức Tổng thống và tuyên bố sự kết thúc của Liên Xô, Gorbachev nói ông ta "không hoài nghi về tính đúng đắn lịch sử của cuộc cải tổ dân chủ bắt đầu từ mùa xuân năm 1985"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.3). Sau khi Liên Xô tan rã, ông ta đánh giá cải tổ của mình là: "Mở đầu cho cải tổ dân chủ của nước ta, đây là thành công lớn nhất của tòi", "tiến lên theo mục tiêu cải tổ dân chủ tiệm tiến... Chúng ta cuối cùng sẽ thành công, về điểm này, tôi rất lấy làm hạnh phúc!"2 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Sđd, tr.104). Còn về sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, vị Tổng Bí thư này lại không hề xấu hổ hay trách móc bản thân. Một mặt ông ta ra sức đổ lỗi cho những người tạo nên sự kiện "19 tháng 8"; mặt khác còn cho rằng: "Đảng Cộng sản Liên Xô đến một giai đoạn nhất; định phải giải thể, điều này không thể tránh được", "tiếc nuối vì việc Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã chẳng có ý nghĩa gì. Nó đã làm hết vai trò lịch sử của nó, nên rời khỏi vũ đài lịch sử"3 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển hạ, tr.1369).


Phái dân chủ cấp tiến do Yeltsin dẫn đầu là lực lượng được lợi nhiều nhất từ sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chế độ tư bản chủ nghĩa mà họ ngày đêm mong mỏi không những trở thành hiện thực, mà họ còn được quyền lãnh đạo quốc gia độc lập mới sau khi Liên Xô bị chia tách, trở thành quý tộc chính trị mới trên đống tro tàn của Liên Xô. Theo kết quả một cuộc điều tra của Viện Hàn lâm khoa học Nga: Trong số anh tài của xã hội Nga đến từ tầng lớp quan liêu của Đảng cũ thì tầng lớp lãnh đạo cao nhất chiếm 75%, thủ lĩnh chính đảng chiếm 57,2%, lãnh đạo nghị viện chiếm 60,2%, bộ ngành Chính phủ chiếm 74,3%, lãnh đạo địa phương chiếm 82/3%1 (Tham khảo Trương Thụ Hoa: Diễn biến của "cách mạng" và anh tài chính trị Nga; Hoàng Bình (chủ biên): Cải cách và phát triển của chính trị Trung - Nga, Nxb. Tằn Hoa, 2006, tr.206).


Kẻ được lợi từ việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô tan rã còn có các nước lớn phương Tây. Từ khi trên thế giới xuất hiện chế độ xã hội chủ nghĩa đến nay, các nước tư bản phương Tây luôn coi việc lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược đối ngoại. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế giới phương Tây đứng đầu là Mỹ đưa ra các chiến lược Tây hóa, phân hóa đối với Liên Xô, nhưng cho đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX mới thành công. Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ lợi dụng cơ hội hiếm có ráo riết tạo dựng thế giới đơn cực do Mỹ đứng đầu, tích cực thúc đẩy chủ nghĩa đơn phương, chủ nghĩa bá quyền, khua chiêng gõ mõ mở đường cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản Mỹ.


Khi Gorbachev, Yeltsin liên kết với phương Tây nhằm Tây hóa, phân hóa Liên Xô, lợi ích, nguyện vọng và nhu cầu của đông đảo người dân Liên Xô bị gạt sang một bên, không ai để ý đến, lợi ích căn bản của nhân dân Liên Xô trở thành vật hy sinh lớn nhất của việc Liên Xô mất Đảng, mất nước.


Thực hiện chủ nghĩa xã hội và cuối cùng đi lên chủ nghĩa cộng sản là quy luật phát triển của xã hội loài người mà chủ nghĩa Mác đã nêu ra. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Liên Xô. Bao lâu nay, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo đã nhận được sự ủng hộ chân thành của nhân dân Liên Xô, họ tích cực dân thân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giành được thành tựu to lớn. Thế nhưng, thế lực chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội do Gorbachev đứng đầu đã xuyên tạc và bôi xấu một cách điên cuồng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo; thành quả của sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước mà nhân dân Liên Xô trường kỳ gian khổ phấn đấu, thậm chí hiến dâng cả máu và tính mạng của mình để đổi lấy đã bị phá hoại không còn gì. Đảng Cộng sản Liên Xô mà nhân dân Liên Xô suốt một thời gian dài tin cậy và lấy làm chỗ dựa, lãnh đạo Liên Xô giành được thành tựu huy hoàng đó bị miêu tả như một tổ chức tà ác, thậm chí phạm tội, những lãnh tụ của Đảng và Nhà nước như Lênin, Xtalin bị miêu tả thành "ác quỷ", thậm chí "vô lại". Đồng thời, xã hội phương Tây được họ tâng bốc lên, chủ nghĩa tư bản đã trở thành thiên đường trần gian. Dường như Liên Xô chỉ cần thay đổi ngọn cờ thì lập tức có thể bước trên con đường văn minh hạnh phúc. Yeltsin thể hiện rõ ràng: chỉ cần tách ra khỏi Liên Xô, thực hiện chủ nghĩa tư bản, "trong vòng 3 đến 4 năm nước Nga có thể tiến vào hàng ngũ những quốc gia giàu mạnh nhất trên thế giới"1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.628).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 08:03:08 am
Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết (Liên Xô) là do nhân dân các dân tộc trong lãnh thổ Liên Xô tự nguyện hợp thành. Mặc dù giữa một số dân tộc trong Liên bang do các nguyên nhân khác nhau tồn tại mâu thuẫn và vấn đề này khác trong một thời kỳ dài, song quan hệ giữa các dân tộc về tổng thể là hòa hảo; đông đảo nhân dân Liên Xô yêu Tổ quốc của mình, trung thành ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ trương bảo vệ, đoàn kết nhân dân các dân tộc Liên Xô và thống nhất đất nước. Ngay cả trong thời kỳ Liên Xô biến đổi, xã hội Liên Xô chao đảo, đời sống nhân dân gặp phải những khó khăn nghiêm trọng, tuyệt đại đa số nhân dân Liên Xô vẫn hy vọng bảo vệ sự toàn vẹn và thống nhất đất nước. Tuy nhiên thế lực chia cắt dân tộc, phần tử cực đoan và thế lực chống chủ nghĩa xã hội trưởng thành, lớn mạnh trong cuộc cải tổ của Gorbachev hoàn toàn không để ý đến nguyện vọng và yêu cầu của đông đảo nhân dân Liên Xô, ép buộc giải thể Liên Xô.


Nền kinh tế công hữu là cơ sở của chính quyền xã hội chủ nghĩa Liên Xô, cũng là tài sản chung do toàn thể nhân dân Liên Xô phấn đấu trong một thời gian dài mới có được. Tuy nhiên cải tổ tư hữu hóa của Gorbachev không những đã xóa bỏ cơ sở kinh tế của chính quyền xã hội chủ nghĩa, chôn vùi thành quả kinh tế của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn trở thành công cụ làm giàu của số ít người.


Tư hữu hóa nền kinh tế và kinh tế thị trường tự do đã gây ra hậu quả tai hại cho nền kinh tế Liên Xô. Theo thống kê chính thức của Liên Xô, từ năm 1989 đến năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Liên Xô là -9,6%, theo thống kê của phương Tây, tỷ lệ giảm 7,7% so với cùng kỳ, trong đó năm 1991 là -13%1 (Tham khảo [Mỹ] David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.102,118).


Cùng với tình hình kinh tế ngày càng xấu đi, Liên Xô đã xuất hiện khủng hoảng tiền tệ, thiếu hụt lương thực, vật giá tăng, nhu yếu phẩm cơ bản của người dân không được bảo đảm. Số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu điều tra khoa học nhu cầu thị trường toàn Liên Xô cho thấy, cuối năm 1989, trong số 989 mặt hàng tiêu dùng của nhân dân, số mặt hàng được công khai bày bán và không bị thiếu hụt chỉ chiếm 11%; trong cửa hàng không còn nhìn thấy ti vi, tủ lạnh, máy giặt, phần lớn mặt hàng hóa chất dùng hằng ngày, rất nhiều đồ dùng gia đình, bàn là, dao cạo râu, mỹ phẩm; một số mặt hàng luôn được bày bán như bột giặt, vở học sinh, bút chì, vải vóc... vào năm 1987 nay cũng đều trở nên thiếu hụt1 (Dân từ Yegor Gaidar: Sự tiêu vong của đế quốc - Bài học của nước Nga đương đại", (Vương Tôn Hiền dịch), Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2008, tr.184). Trong cửa hàng, hàng hóa khan hiếm, hàng vừa đưa lên quầy đã bị tranh nhau mua sạch, cảnh tượng xếp hàng dài mua thực phẩm đã trở nên quen thuộc. Trong bức "thư của một học sinh tiểu học Liên Xô đề ngày 14 tháng 12 năm 1991 viết: "Tuần trước cháu đã trải qua một lần xếp hàng mua thịt đáng sợ. Ngài có biết cháu đã đứng bao nhiêu lâu không? Cháu sợ phải nói với ngài, nhưng cháu đã đứng ở đó đúng 5 tiếng rưỡi đồng hồ. Trước kia chúng cháu cũng phải xếp hàng ở đây (điều này ngài đã biết), nhưng hàng hồi đó không dài như thế này, không phải mua cái gì chúng cháu cũng phải xếp hàng. Nhưng bây giờ chúng cháu mua cái gì cũng phải xếp hàng, từ mua thịt, mua giày cho đến mua diêm và muối. Chúng cháu xếp hàng mua gạo, mua bánh mì, mua dầu..., đó là một danh sách không thể kể hết được... Trước kia cháu chưa từng khóc bao giờ - tính cách của cháu kiền cường, nhưng bây giờ cháu thường xuyên phải khóc. Chúng cháu đã biến thành động vật rồi. Nếu như ngài nhìn thấy những con người thô lỗ, điên cuồng, đói khổ đứng trong những hàng ngũ hoang dại đáng sợ, ngài chắc chắn sẽ chết ngất. Các nước đều đang viện trợ cho chúng ta. Chúng ta đã công khai ăn xin và cam tâm nhận sự trợ giúp. Chúng ta đã quên mất một từ mỹ miều - lòng tự tôn. Cháu cảm thấy xấu hổ vì đất nước của chúng ta"1 (Dẫn từ Yegor Gaidar: Sự tiêu vong của đế quốc - Bài học của nước Nga đương đại'', Sđd, tr.253, 267).
   Chernyaev, trợ lý của Gorbachev miêu tả trong nhật ký cảnh tượng ông gặp ngày 31 tháng 3 năm 1991 khi đi mua bánh mì, ông "cùng với Mikhail Mikhailovich bắt xe đi khắp Mátxcơva, bắt đầu từ khu rừng Balina: cửa hàng bánh mì hoặc là khóa cửa, hoặc là tệ hại đến mức trống không. Cảnh tượng như vậy có lẽ chưa từng xuất hiện trong lịch sử Mátxcơva - ngay cả trong những thời kỳ đói kém nhất"2 (Dẫn từ Yegor Gaidar: Sự tiêu vong của đế quốc - Bài học của nước Nga đương đại'', Sđd, tr.253, 267).


Cùng với khó khăn ngày một tăng của xí nghiệp, người thất nghiệp không ngừng tăng lên, năm 1990 đạt đến 22 triệu người. Không ít công nhân và người làm công ở xí nghiệp nhiều địa phương không hài lòng với thực trạng, đua nhau ra đường bãi công biểu tình. Bắt đầu từ ngày 10 tháng 7 năm 1989, hơn 50 vạn người của các khu sản xuất than Kuzbass, Donbass và Karaganda của Liên Xô lần lượt tiến hành bãi công quy mô lớn, yêu cầu cải thiện điều kiện lao động và điều kiện sống, yêu cầu ổn định vật giá, cải thiện cung ứng thị trường, trao quyền tự chủ kinh tế cho ngành khai thác than, tăng giá than, tăng trợ cấp cho người làm ca đêm và trợ cấp dưỡng lão, kéo dài thời gian nghỉ lễ..., còn thiết lập Ủy ban bãi công. Bãi công diễn ra trong khoảng 2 tuần. Tháng 7 năm 1990, các khu khai thác than lớn còn liên kết tổ chức tập hợp và bãi công. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1989, cả nước có 1.500 xí nghiệp với 1,4 triệu người bãi công, gây thiệt hại 7-8 tỷ rúp.


Tụ tập trái phép và tội phạm hung hãn, xã hội hỗn loạn. Năm 1988 tổ chức quần chúng hội họp phi chính thức mỗi tháng 194 lần, năm 1989 mỗi tháng đến 400 lần. Năm 1988 có 1.000 tổ chức tội phạm, năm 1989 lên đến 1.600 tổ chức, những vụ án nghiêm trọng tăng vượt 75%.


Mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt, tranh chấp và xung đột dân tộc nổi lên. Từ tháng 12 năm 1986 bùng phát sự kiện bạo loạn dân tộc Almaty ở nước Cộng hòa Cadắcxtan, xung đột dân tộc và động loạn trong lãnh thổ Liên Xô đã xuất hiện phản ứng liên hoàn giống như bàn cờ đôminô, ngoài phong trào đòi độc lập của ba nước vùng biển Bantích, lần lượt xảy ra cuộc đấu tranh của người Tatar ở Crưm đòi quay trở lại quê hương, khôi phục nước cộng hòa tự trị, cuộc đấu tranh về vấn đề quy thuộc của khu tự trị Nagorno - Karabakh (Adécbaigian), mâu thuẫn dân tộc phức tạp ở Mônđavia, động loạn dân tộc ở Grudia, v.v... Theo thống kê không đầy đủ, chỉ trong năm 1988 trong hơn 170 thành phố và khu vực ở Liên Xô, có đến hơn 2.600 vụ biểu tình, diễu hành, bạo loạn và xung đột lớn nhỏ khác nhau, số người tham gia lên đến trên 16 triệu người.


Đối lập với tình trạng sống ngày càng xấu đi của nhân dân Liên Xô, Gorbachev lại muốn mưu cầu những điều tốt đẹp đối với bản thân và gia đình, một gia đình sống cuộc sống xa hoa và giàu có. Vừa nhậm chức Tổng Bí thư, Gorbachev liền chỉ thị cấp dưới xây dựng những cơ sở nghỉ mát là những biệt thự hào hoa bên bờ biển, còn tòa biệt thự 6 phòng của Gorbachev trên đồi Lênin càng khiến người khác phải chú ý, người đi đường từ xa đã có thể nhìn thấy, trở thành một điểm du lịch của Mátxcơva.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 12 Tháng Ba, 2022, 08:04:17 am
Theo hồi ức của Boldin, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ nhiệm Văn phòng Gorbachev, từ tháng 1 năm 1991, đã có rất nhiều người thảo luận về những khó khăn mà đất nước phải đối mặt. Đất nước đang ở trong thời kỳ khó khăn cả về chính trị lẫn kinh tế. Có người cảnh báo nền kinh tế  đất nước đang trượt dốc, bản thân Liên bang cũng rất có thể tan vỡ. Tuy nhiên, "Tổng thống đang nghĩ đến việc khác. Ông ta phát cuồng tìm đủ mọi cách nâng cao tỷ lệ ủng hộ vốn dĩ rất thấp của mình, chuẩn bị xuất bản sách mới của mình, giúp vợ của ông ta xuất bản tự truyện. Đã có người bảo đảm trả một khoản tiền lớn cho Raisa vì quyển sách này, công tác xuất bản những tác phẩm khác của họ cũng đang trong quá trình tiến hành. Sách của Raisa sẽ được xuất bản ở Liên Xô, bà thường gọi điện cho tôi hỏi nhà xuất bản nào thích hợp với tác phẩm đầu tay của bà". Tuy "cả gia đình Tổng thống cũng sắp đối mặt với thời kỳ khó khăn, song họ gửi vàng trong ngân hàng. Nhuận bút cho những tác phẩm của Gorbachev cộng thêm phí bản quyền do Cục bản quyền Liên bang trả cho ông ta đã sớm tăng thêm hơn 1 triệu đôla Mỹ trong tài khoản của ông ta. Ông đã từng nhận được rất nhiều quà tặng quý hiếm làm từ vàng, các loại giải thưởng bằng vàng, ngoài ra, ông còn có những tài sản khác. Tôi đã đề cao cảnh giác, rất muốn biết Tổng thống có quan tâm đến vận mệnh của đất nước hay không, có thể dành thời gian để xử lý công việc của đất nước và những khó khăn về kinh tế xã hội mà nhân dân phải đối mặt hay không"1 (V. Boldin: Mười năm chấn động thế giới - Liên Xô tan rã và Gorbachev (tiếng Nga), Nxb. Côn Luân, 1998, tr.4-5).


Tệ hơn thế nữa, nhà cầm quyền lợi dụng thời cơ cải cách tư hữu hóa làm tổn hại của công, làm giàu cho cá nhân, lấy của công làm của riêng, ra sức vơ vét tài sản công hữu, khiến cho thành quả mà mấy thế hệ nhân dân Liên Xô gian khổ phấn đấu tích lũy bỗng chốc biến thành tài sản trong túi của một số ít người. Sau khi Liên Xô tan rã, có trên 60% anh tài trong giới thương mại nước Nga là đến từ giới quan liêu của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong số chủ sở hữu của 100 xí nghiệp tư nhân lớn nhất nước Nga trong giai đoạn năm 1992-1993, anh tài trong chính giới, doanh nhân, giám đốc ngân hàng và gia tộc trước kia chiếm 62%2 ((Mỹ) David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sdd, tr.151).


Chernomyrdin từng đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng nước Nga, trong thập kỷ 80 thế kỷ XX từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp khí thiên nhiên Liên Xô, năm 1992 sau khi Công ty khí thiên nhiên tư hữu hóa, Chernomyrdin chuyển mình trở thành người có nhiều cổ phần nhất ở Công ty cổ phần khí thiên nhiên, ông nắm giữ trên 40% tài nguyên khí thiên nhiên trên thế giới, là một trong số vài người giàu nhất trên thế giới. Nguyên Bí thư Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Liên Xô Kolkovsky lợi dụng chức vụ của mình thành lập một ngân hàng lớn, biến tài sản vốn thuộc về nhân dân thành tài sản riêng của cá nhân mình.


Các nhà kinh tế nổi tiếng nước Mỹ, trong đó có David Kotz, đã phân tích sâu sắc hiện tượng đặc biệt này. Họ nói: "Một tín đồ Thiên Chúa giáo có thể biến thành người vô thần trong một chốc lát không?", "Tuy lợi ích vật chất của phần tử anh tài Liên Xô đã tăng lên rất nhiều, song, nếu đem so với anh tài của các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, thì những đặc quyền mà họ được hưởng về vật chất không thể bằng"; "dưới thể chế Liên Xô, sự chênh lệch thu nhập giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong xã hội nhỏ hơn rất nhiều sự chênh lệch dưới thể chế tư bản chủ nghĩa", "dưới thể chế Liên Xô, lương của lãnh đạo cao nhất cao gấp 8 lần công nhân bình thường", "thù lao của tổng giám đốc xí nghiệp lớn gấp 4 lần công nhân bình thường". Còn thu nhập của anh tài thượng tầng nước Mỹ gấp 150-400 lần công nhân bình thường. "Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô, tích lũy tài sản vật chất thông qua con đường hợp pháp dường như là không thể. Các lãnh đạo Liên Xô tích lũy tài sản vật chất luôn sợ hãi, lo sợ có một ngày bị người khác phát hiện hoặc bị tố cáo", vì vậy "sự sụp đổ của thể chế Liên Xô", "bắt nguồn từ sự theo đuổi lợi ích cá nhân của bản thân anh tài thống trị"1 ([Mỹ] David Kotz, Fred Weir: Cuộc cách mạng từ thượng tầng - Sự cáo chung của thể chế Liên Xô, Sđd, tr.148-149).


Giai cấp tư sản mới hình thành trong quá trình cải tổ là cơ sở giai cấp làm Liên Xô sụp đổ, làm Liên Xô tan vỡ. Sau này, khi phân tích nguyên nhân Liên Xô giải thể, Ligachev đã vô cùng cảm kích chỉ ra rằng, chúng tôi cho rằng không có nguyên nhân khách quan dẫn đến việc Liên Xô tan rã, cơ bản là nguyên nhân chủ quan. Đầu tiên là sự biến chất của lãnh đạo cấp cao. Họ chủ yếu làm giàu cho gia đình mình, muốn thống trị nhân dân không giới hạn, sau này họ đều trở thành triệu phú, chục triệu phú, thậm chí tỉ phú. Gorbachev, Yeltsin chính là đại diện cho số người này. Những tài sản đó có được là do cướp từ tài sản của nhân dân. Họ mong muốn mãnh liệt được sở hữu tài sản cá nhân, song Đảng và nhân dân thời kỳ đó không cho phép1 (Tham khảo ghi chép buổi trao đổi giữa Lý Thận Minh và Ligachev ngày 28-4-2010).


Zyuganov, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên bang Nga sau khi Liên Xô tan rã không lâu, cũng chỉ ra rằng, trong xã hội nước Nga đã hình thành "một giai cấp đại tư sản điên cuồng cướp đoạt tài sản của nhân dân và vận chuyển sang phương Tây". Giai cấp tư sản mại bản này "đã nắm giữ ngành công nghiệp cơ bản, lũng đoạn tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, báo chí, truyền hình, phát thanh..., đồng thời nắm chính quyền nhà nước, họ là mầm hại chính khiến nước Nga mất đi địa vị nước mạnh và khiến cho nhân dân nghèo khổ"2 (Tham khảo Ngô Ân Viễn: "Một số vấn đề lý luận trong báo cáo Đại hội lần thứ 7 Đảng Cộng sản Nga của Zyuganov", trích từ Động thái nghiên cứu chủ nghĩa xã hội thế giới, số 62, năm 2000).


Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến một loạt những hậu quả kể trên, chính là sự thoái hóa, biến chất của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng đã mất đi sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Gorbachev đã phá hoại hoàn toàn Đảng Cộng sản Liên Xô, khiến cho nhân dân Liên Xô mất đi chỗ dựa vững chắc xứng đáng để tin tưởng và dựa vào, khiến cho đất nước mất đi cơ sở chính quyền vững chắc, cũng khiến cho Đảng Cộng sản Liên Xô kiểu Gorbachev mat đi lòng dân.


Trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu, kết quả điều tra của các tổ chức liên quan cho thấy, có 85% người dân cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô chủ yếu đại diện cho lợi ích của quan chức, cán bộ, nhân viên công tác tại các cơ quan. Khi Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là đội tiên phong của giai cấp công nhân Liên Xô, không còn là đại diện cho lợi ích của nhân dân Liên Xô, hơn 40 vạn chi bộ cơ sở Đảng, hơn 80 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó đã không đứng ra để bảo vệ Đảng và Nhà nước, lạnh lùng nhìn Đảng đi đến diệt vong cũng là điều có thể hiểu được.


Hồi tưởng lại sau khi thôi chức, Gorbachev không thể không công nhận: "Mất đi sự ủng hộ của nhân dân tức là mất đi tài nguyên chủ yếu, sẽ xuất hiện nhà mạo hiểm chính trị và nhà đầu cơ. Đây là sai lầm tôi mắc phải, sai lầm chủ yếu". Không, đây không chỉ là "sai lầm", đây là phản bội nhân dân. Gorbachev cuối cùng đã phản bội quần chúng nhân dân. Ông ta lấy danh nghĩa nhân dân, lấy danh nghĩa nhân đạo và dân chủ, làm tổn hại lợi ích căn bản của nhân dân, cuối cùng đứng ở phía đối lập với nhân dân. Chính vì lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mà đứng đầu là Gorbachev phản bội triệt để nhân dân, cho nên đối với một đảng không đại diện cho lợi ích căn bản của họ, trong giờ phút sinh tử tồn vong của Đảng, nhân dân đã tỏ thái độ vô cảm thờ ơ. Xét ở một ý nghĩa nào đó, chính là sự "sụp đổ" trước tiên của mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng mới dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:23:04 am
Chương V
TẦNG LỚP ĐẶC QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Tầng lớp đặc quyền là tập thể những kẻ lợi dụng chức quyền để mưu cầu tư lợi được sinh ra vào thời kỳ cuối của Đảng Cộng sản Liên Xô, bởi vì họ nắm trong tay quyền lực trực tiếp, nên còn được gọi là tầng lớp đặc quyền quan liêu. Khởi đầu, kẻ đặc quyền chỉ là cá nhân cá biệt hoặc một số ít người. Đến thời kỳ Brezhnev, đội ngũ những kẻ đặc quyền ngày càng được mở rộng, đặc quyền được hưởng không ngừng tăng lên, đã hình thành một tầng lớp chính trị có ảnh hưởng chính trị rất lớn. Đến thời kỳ Gorbachev, tầng lớp đặc quyền dần dần diễn biến thành phái quyền thế đi con đường tư bản chủ nghĩa treo biển đỏ. Tầng lớp đặc quyền có ảnh hưởng hết sức tiêu cực đối với tiến trình phát triển của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô, cuối cùng trở thành một cơ sở xã hội quan trọng trong sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự giải thể của Liên Xô.


I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TẦNG LỚP ĐẶC QUYỀN
   
1. Bác bỏ một quan điểm sai lầm

Từ thập niên 30 của thế kỷ XX, chính Trotsky - người từng thất bại trong cuộc đấu tranh quyền lực với Xtalin đã chỉ ra ở Liên Xô đã xuất hiện một "tầng lớp quan liêu", nhưng kết luận này tối đa chỉ là do tức giận chính trị của ông, không có bất kỳ căn cứ khoa học nào. Thập niên 60-70 của thế kỷ XX, một vài người "bất đồng chính kiến" của Liên Xô và các nước Đông Âu cũng cho rằng, Liên Xô ngay từ khi bắt đầu đã tồn tại một tầng lớp đặc quyền. Họ nhìn nhận Liên Xô như một xã hội đối lập về giai cấp, nhìn nhận các cấp cán bộ của Liên Xô như một "giai cấp mới". Giữa thập niên 1970, cuốn sách Hệ thống chính quyền cộng sản do Ota Sik của Tiệp Khắc xuất bản cho rằng, chủ yếu do thể chế tập trung cao độ, ở Liên Xô đã hình thành một tầng lớp đặc quyền. Sau khi Liên Xô giải thể, một vài học giả Nga cũng khẳng định thời kỳ Liên Xô đã tồn tại tầng lớp đặc quyền. Họ đem tầng lớp đặc quyền đánh đồng với tất cả cán bộ của Đảng và Nhà nước, tức được gọi là "Nomenclatyra" (tiếng Nga là номенкдатура, nghĩa gốc là "bảng danh sách", chỉ những cán bộ được ghi danh vào bảng quan chức), đồng thời chú trọng mô tả các loại đặc quyền mà họ được hưởng. Kỳ thực, quan điểm này hoàn toàn không phải là điều gì mới mẻ, gần như là sao chép y nguyên từ các học giả tư sản phương Tây. Chính giới, học giả các nước phương Tây từ đầu đã đưa ra vấn đề gọi là "tầng lớp đặc quyền". Họ phần nhiều xuất phát từ yêu cầu của lập trường giai cấp và đấu tranh ý thức hệ chống Liên Xô, chống cộng sản, thổi phồng vô tội vạ, tuyên truyền ác ý về những mặt tiêu cực của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô, đồng thời kích động nhân dân bất mãn với chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thực tế lịch sử đã chứng minh, quan điểm cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô ngay từ khi mới cầm quyền đã tồn tại một tầng lớp đặc quyền và liệt tất cả cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô là tầng lớp đặc quyền hiển nhiên là sai lầm, thậm chí là có ý đồ khác. Họ không nhìn vào bản chất và đặc trưng của tầng lớp đặc quyền mà phóng đại phạm vi của tầng lớp này. Không phải tất cả cán bộ đều thuộc tầng lớp đặc quyền, tầng lớp đặc quyền chỉ là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, chỉ tập hợp những kẻ lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng tư, theo đuổi quyền lợi đặc biệt cho cá nhân, được hình thành trong thời kỳ lịch sử nhất định. Trong đội ngũ cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô, có một số lượng lớn cán bộ liêm khiết chính trực, một lòng vì việc công, đồng thời luôn dốc sức cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và cải cách chủ nghĩa xã hội. Liệt những người này vào phạm vi tầng lớp đặc quyền là không phù hợp với thực tế thậm chí là có ý đồ khác.


Điều kiện hình thành tầng lớp đặc quyền là đa lĩnh vực, đây là quá trình tích tụ lâu dài, là kết quả của sự biến đổi tổng hợp môi trường chính trị, kinh tế, xã hội.

Thời Lênin, chính quyền Xôviết vừa mới thành lập, đất nước rơi vào tình trạng trăm thứ đổ nát chưa được sửa sang, lại còn phải đấu tranh với phiến loạn trong nước và sự can thiệp vũ trang từ bên ngoài. Trong hoàn cảnh gian khổ như vậy, Đảng Bônsêvích do Lênin đứng đầu là một đội ngũ hừng hực nhuệ khí, tràn đầy nhiệt tình và lý tưởng cách mạng, những đảng viên này gian khó lập nghiệp, một lòng dốc sức cho thắng lợi triệt để của cách mạng và công cuộc khôi phục và xây dựng của đất nước. Vì thế, trong đội ngũ những người cách mạng và những người xây dựng này, không thể hình thành tầng lớp đặc quyền. Tất nhiên, do cơ chế giám sát và kiểm soát không kiện toàn, cũng có khả năng xuất hiện hiện tượng cán bộ, đảng viên cá biệt lợi dụng cơ hội dùng quyền lực có trong tay để mưu cầu tư lợi. Lênin kiên quyết chống hiện tượng này. Trong các tác phẩm của mình, Lênin kịch liệt phê phán tình trạng quan liêu, một trong những mục đích là đề phòng hiện tượng đặc quyền có khả năng sinh sôi, bởi vì đó là môi trường để hình thành tầng lớp đặc quyền. Hồi đó có một câu chuyện đầy tính huyền thoại: Ủy viên nhân dân phụ trách vấn đề lương thực A. Đ. Tsiurupa vì đói quá mà ngất xỉu tại cuộc họp Ủy ban nhân dân. Ủy viên nhân dân có quyền lớn về quản lý, điều phối lương thực lại không để lại cho mình lương thực đủ ăn no, chứng tỏ tinh thần chí công vô tư và cống hiến quên mình của cán bộ đảng viên thời kỳ Lênin lãnh đạo Đảng Bônsêvích. Sự việc này làm Lênin hết sức xúc động. Để bảo đảm sức khỏe cho công bộc của nhân dân, Lênin kiến nghị thành lập "nhà ăn điều dưỡng", nhằm giúp những cán bộ lãnh đạo này được ăn đủ dinh dưỡng. Tháng 1 năm 1924, Lênin bị bệnh rồi qua đời, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên bang (Bônsêvích) lập tức đã được tổ chức tại Mátxcơva. Tại Hội nghị, Voroshilov đã đọc "Báo cáo về việc bảo vệ sức khỏe lãnh đạo cấp cao của Đảng". Những người tham dự Hội nghị cho rằng, bảo vệ sức khỏe của lãnh đạo cấp cao là một việc cực kỳ quan trọng. Sau Hội nghị, một cơ quan chuyên trách quản lý vấn đề ăn, ở của các lãnh đạo Nhà nước đã được thành lập một cách nhanh chóng. Ăn tại "nhà ăn điều dưỡng", ở tại "biệt thự sức khỏe", đây tất nhiên không thế coi là tiêu chí của đặc quyền. Mặc dù lúc đó, người như thế nào mới được hưởng những đãi ngộ như vậy, có lúc trở thành một "thước đo" không có cách nào nắm bắt được. Nhưng bất luận thế nào, trong tình hình điều kiện vật chất vô cùng khó khăn lúc đó, để duy trì sức khỏe tối thiểu của lãnh đạo Đảng và Nhà nước mà áp dụng các biện pháp có hạn, đây chưa đủ tạo thành đặc quyền mà chỉ là yêu cầu của công tác và sinh hoạt.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:24:09 am
Trong thời kỳ Xtalin cầm quyền, đã xác lập thể chế kinh tế chính trị tập trung cao độ, trung tâm của quyền lực chính trị trong tay Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Xtalin đứng ở đỉnh của kim tự tháp quyền lực. Chỉ thị và mệnh lệnh của ông được truyền đạt đến cán bộ các cấp qua phương thức từ trên xuống dưới, mà các cấp cán bộ lại hoàn thành nhiệm vụ thông qua hình thức chịu trách nhiệm từ dưới lên trên. Thể chế này đã tạo ra địa vị quyết định của cấp trên trong xử lý các sự vụ lớn nhỏ, do đó, các cơ quan quyết sách và thực hiện từ trên xuống dưới có được quyền lực tuyệt đối, các cán bộ lớn nhỏ làm việc trong các cơ quan Đảng và Nhà nước có địa vị chi phối trong xã hội, trở thành người có quyền thế. Số rất ít cán bộ trong số họ cũng có khả năng trở thành kẻ đặc quyền. Nhưng phần lớn cán bộ thời kỳ Xtalin cầm quyền là những đảng viên cộng sản đã từng trải qua thử thách của cách mạng. Sự trung thành đối với sự nghiệp chủ nghĩa cộng sản và tác phong phấn đấu gian khổ của họ làm cho họ không thể hình thành một tầng lớp đặc quyền, cho dù trong tay họ có quyền lực rất lớn. Bản thân Xtalin chính là một đại diện tốt nhất. Xét từ tình hình trong nước, thời kỳ này, Liên Xô còn trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước, dưới sự cổ vũ nhiệt tình đối với công cuộc xây dựng to lớn, nhân dân cả nước tràn đầy lý tưởng, niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tập thể, tiến hành xây dựng đất nước với lòng tin tưởng hoàn toàn. Đồng thời, lúc đó, điều kiện các mặt của Liên Xô còn vô cùng gian khổ, còn chưa có môi trường vật chất để đặc quyền trỗi dậy. Xét từ phương diện khác, các cuộc đấu tranh chính trị trong nội bộ Đảng diễn ra liên tục không ngừng, những cán bộ công tác tại các cơ quan Đảng và Nhà nước thường trở thành đối tượng bị xung đột chính trị, vì thế, họ cẩn thận từng chút một khi thực thi quyền lực, rất sợ sai sót một chút là bị chê trách, ảnh hưởng đến an toàn của chính bản thân; hơn nữa, điều này cũng làm cho những người nắm quyền không thể hình thành tâm lý chính trị ổn định và thống nhất. Xét từ tình hình quốc tế lúc đó Liên Xô đang đối mặt với môi trường khắc nghiệt, đặc biệt là hoàn cảnh chiến tranh sinh tử tồn vong như Chiến tranh thế giới thứ hai, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là cán bộ lãnh đạo của Đảng, đế bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, không tiếc hy sinh tính mạng của cá nhân, hàng lớp người xông ra tiền tuyến. Trong bối cảnh như vậy thì không thể hình thành một tầng lớp cán bộ ổn định, càng không thể hình thành một tầng lớp đặc quyền.


Đến thời kỳ Khrushchev, số lượng cán bộ trong đội ngũ Đảng Cộng sản Liên Xô có tăng nhẹ. Khrushchev đã tiến hành cải cách chính sách cán bộ của Đảng, đưa ra một số biện pháp mới. Căn cứ vào quy định tại Điều 25 của Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, phải tiến hành thay đổi định kỳ mang tính bắt buộc đối với tầng lớp cán bộ, đảng ủy hoặc chi ủy của tổ chức cơ sở Đảng ít nhất 1/2 số lượng vào mỗi lần bầu cử nhiệm kỳ mới, Đảng ủy các nước cộng hòa và tỉnh phải thay đổi ít nhất 1/3 vào mỗi lần bầu cử nhiệm kỳ mới, Ban Chấp hành Trung ương và Đoàn Chủ tịch thay đổi ít nhất 1/4 vào mỗi lần bầu cử nhiệm kỳ mới1 (Tổng hợp Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Cầu thị, 1982, tr.209-210). Căn cứ vào quy định đó, khi tiến hành bầu cử tổ chức Đảng ở cơ sở, hằng năm có một loạt bí thư không trúng cử do đã đủ hai nhiệm kỳ, tỷ lệ thay đổi đạt tới 60%2 (Sử cương hưng vong của Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2004, tr.479), tổ chức Đảng ở cấp trung và cấp cao mặc dù tỷ lệ thay đổi tương đối thấp, nhưng biến đổi cũng tương đối thường xuyên. Kiểu cải cách chế độ nhiệm kỳ cán bộ này đã tạo ra những cú sốc đối với đội ngũ cán bộ Đảng. Ngoài ra, một vài cải cách mang ý chí chủ quan được đưa ra trong thời kỳ Khrushchev như trao quỵền cho cơ quan Trung ương, tách bạch Đảng ủy Công nghiệp với Đảng ủy Nông nghiệp, cũng khiến cho tầng lớp cán bộ rơi vào tình trạng thay đổi liên tục. Kiểu biến động chức vụ thường xuyên của đội ngũ cán bộ vừa ảnh hưởng đến sự hình thành đội ngũ cán bộ ổn định vừa khiến cho cán bộ rơi vào trạng thái tâm lý căng thẳng kéo dài, không dám ngang nhiên theo đuổi đặc quyền. Trong tình hình nàỵ, những cán bộ theo đuổi và hưởng thụ đặc quyền cũng không thể hình thành một giai cấp lớn mạnh, ổn định được. Biện pháp của Khrushchev mặc dù không thể xóa bỏ sự xuất hiện những người có đặc quyền trong Đảng, nhưng đặc quyền của họ vẫn chịu sự hạn chế nhất định.


Mặc dù như vậy, thời kỳ Khrushchev, trong Đảng Cộng sản Liên Xô đã bắt đầu xuất hiện một đội ngũ những người đặc quyền. Cùng với sự vạch trần và phê phán đối với Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã buông lỏng việc giáo dục tư tưởng đối với cán bộ, làm cho niềm tin chủ nghĩa cộng sản của họ ít nhiều yếu đi, thêm vào đó là vấn đề an toàn cá nhân của cán bộ đã có sự bảo đảm, họ đã dần dần mạnh dạn theo đuổi đặc quyền hơn. Hơn nữa, mặc dù Khrushchev đã tiến hành nhiều cải cách liên quan đến đặc quyền, nhưng ông đã không hề chạm đến thể chế kinh tế chính trị tập trung cao độ cũng như vị trí của Đảng Cộng sản Liên Xô trong thể chế này, ông cũng không hề xây dựng và tăng cường cơ chế giám sát và kiểm soát có hiệu quả trong và ngoài Đảng. Vì thế trong thời kỳ Khrushchev, đội ngũ những người đặc quyền trong Đảng có phần mở rộng, nhưng vẫn chưa thể nói là đã hình thành một tầng lớp đặc quyền.


Vào thập niên 60 thế kỷ XX, trong thời kỳ tranh luận giữa hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc từng dùng cụm từ "tầng lớp đặc quyền" để miêu tả một bộ phận người trong Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Khrushchev. Trên tờ Nhân dân nhật báo số ra ngày 10 tháng 7 năm 1964, đã đăng lại một bài viết của tờ Tiếng nói của nhân dân của Anbani, chỉ ra một trong những mục đích chính của Khrushchev là "tạo ra một tầng lớp đặc quyền, một lớp 'quý tộc' mới, họ xuất phát từ lợi ích hạn hẹp của mình, ủng hộ đường lối của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa dân tộc phản chủ nghĩa xã hội, phản cách mạng của Khrushchev và tập đoàn phản bội của ông. Chính sự hình thành một tầng lớp đặc quyền như thế này đã tạo thành nền tảng xã hội để chủ nghĩa xét lại tràn lan tại một vài nước xã hội chủ nghĩa"1 (Nhân dân nhật báo, ngày 10-7-1964). Ngày 14 tháng 7 năm 1964, Nhân dân nhật báo đăng bài viết với nhan đề "Về chủ nghĩa cộng sản giả của Khrushchev và bài học của nó trong lịch sử thế giới - Thư ngỏ trong 9 bài bình luận Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô", trong đó đã dùng cụm từ "tầng lớp đặc quyền" để phê bình một bộ phạn người tồn tại trong Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là trong các tầng lớp lãnh đạo. Bài viết chỉ rõ: "Trong xã hội Liên Xô đã xuất hiện một tầng lớp đặc quyền tư sản... Hiện nay, tầng lớp đặc quyền trong xã hội Liên Xô là do các phần tử thoái hóa, biến chất và phần tử trí thức tư sản trong cán bộ lãnh đạo tại các cơ quan Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp, nông trang tạo thành, đối lập với công nhân, nông dân, đông đảo trí thức và cán bộ Liên Xô"2 (Nhân dân nhật báo, ngày 14-7-1964). Ngày nay nhìn lại, kết luận này có thể có chỗ còn thiếu tính khoa học. Tuy nhiên, từ bối cảnh chính trị của những tranh luận về phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, đặc biệt là xét từ đường lối, chính sách trong và ngoài nước mà Khrushchev tiến hành cũng như hậu quả của nó, hàm ý chính trị phân tích ở trên là rõ ràng, hơn nữa đến nay vẫn khiến người ta thấu hiểu sâu sắc.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:25:35 am
2. Sự hình thành tầng lớp đặc quyền

Đến thời kỳ Brezhnev cầm quyền, cùng với những thay đổi phát triển của môi trường chính trị, kinh tế và tư tưởng văn hóa, số lượng những người đặc quyền trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô không ngừng phình ra, một tâm lý văn hóa, chính trị tương đối thống nhất cũng dần dần hình thành trong họ, cuối cùng đã hình thành một tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự xuất hiện của tầng lớp đặc quyền này liên quan trực tiếp đến đường lối, chính sách mà người lãnh đạo tối cao Đảng Cộng sản Liên Xô là Brezhnev thực hiện rộng rãi cũng như phong cách cầm quyền của cá nhân ông.


Thứ nhất, thời kỳ Brezhnev chỉ đơn thuần theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ. Chính sách cán bộ của Khrushchev làm đội ngũ cán bộ không ổn định, dẫn đến sự phản đối của số đông cán bộ đối với ông, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Khrushchev bị mất chức. Brezhnev đã rút ra được bài học này từ Khrushchev. Ông theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ, đồng thời từ đó tăng cường địa vị cầm quyền của mình. Đại hội lần thứ XXIII của Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành sửa đổi Điều lệ Đảng, đã xóa bỏ Điều 25 của Điều lệ, chỉ là tiến hành bổ sung Điều 24 của Điều lệ như sau: "Khi bầu cử tất cả các cơ quan Đảng (từ tổ chức cơ sở đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô), phải tuân thủ nguyên tắc các thành viên của cơ quan Đảng phải thường xuyên đổi mới, lãnh đạo Đảng phải đổi mới"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.329). Mặc dù coi việc "thường xuyên đổi mới" đội ngũ cán bộ là điều khoản được giữ lại, nhưng việc này vẫn chưa được nghiêm túc thực hiện trong thực tiễn. Trong thời kỳ Brezhnev cầm quyền, ông hết sức thận trọng khi xử lý vấn đề cán bộ, không dễ dàng thay đổi một cán bộ nào. Suslov, người phụ trách công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô lâu năm đã từng chỉ ra: "Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là bảo đảm của thành công". Brezhnev đã coi đó là công thức. Brezhnev thậm chí còn cho rằng trong thời kỳ ông lãnh đạo, tất cả cán bộ địa phương thông thường ngồi trên vị trí của mình không có bất cứ biến động nào là điều vinh dự. Brezhnev theo đuổi một cách phiến diện sự ổn định của đội ngũ cán bộ Đảng, còn việc cải cách cơ quan Đảng và Nhà nước theo hướng giảm bớt nhân viên dư thừa, nâng cao hiệu quả hành chính lại không bao giờ được đưa vào chương trình nghị sự. Hơn nữa, thời kỳ này đã hình thành chế độ trọn đời trên thực tế của cán bộ lãnh đạo, những cán bộ cao cấp như Brezhnev, Suslov đều cứ ngồi mãi trên ghế của mình. Vì thế sau khi Brezhnev cầm quyền, trong Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần hình thành một đội ngũ cán bộ ngày càng lão hóa. Theo chính sách cán bộ của Brezhnev, tầng lớp lãnh đạo của Liên Xô thay đổi ít nhất, tại Đại hội XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Ủy viên Trung ương trúng cử liên nhiệm, nhiều nhiệm kỳ chiếm đến 79,4%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 49,6% của Đại hội XXII; tại Đại hội XXV, trừ những Ủy viên Trung ương đã qua đời, tỷ lệ trúng cử liên nhiệm, nhiều nhiệm kỳ đạt đến 90%. Tất cả 11 Ủy viên Bộ Chính trị tại Đại hội XXIII đều tiếp tục tái cử, trong số 15 Ủy viên Bộ Chính trị tại Đại hội XXIV có đến 11 người tiếp tục cương vị của mình tại Đại hội XXV, còn trong 16 Ủy viên Bộ Chính trị tại Đại hội XXV cũng còn 11 người tiếp tục tái cử tại Đại hội XXVI. Trong thời kỳ diễn ra hai nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng cấp Khu 1978 - 1981, trong 156 Bí thư Khu ủy chỉ có 5 người bị thay đổi1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Từ Lênin đến Gorbachev - Diễn biến thể chế chính trị Liên Xô, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1989, tr.304-306). Có học giả còn tính toán ra được tỷ lệ tái cử của các ủy viên Trung ương tại Đại hội đại biểu Đảng, đồng thời so sánh với thời kỳ Xtalin và Khrushchev: Đại hội XXIII: 79,4%; Đại hội XXIV: 76,5%; Đại hội XXV: 83,4%; Đại hội XXVI: 89%. Còn thời kỳ Xtalin và Khrushchev là: Đại hội XVII: 22,5%; Đại hội XVIII: 46,5%; Đại hội XIX: 64%; Đại hội XX: 62,4%; Đại hội XXII: 49/6%1 (Hình Quảng Trình: 70 năm quyết sách tầng cao của Liên Xô, Nxb. Tri thức Thế giới, 1998, q.4, tr.335). Từ năm 1965 đến 1984, "việc thay đổi cán bộ tầng cao nhất của chính quyền giảm xuống đến giới hạn thấp nhất": Nhiệm kỳ của đa số Ủy viên Bộ Chính trị vượt qua 15 năm, nhiệm kỳ của ủy viên Ban Chấp hành Trung ương cũng phần lớn trên 12 năm, nhiệm kỳ của một vài Ủy viên Trung ương kéo dài tận 25 - 34 năm2 (A. N. Sakharov: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1996, tr.580-581). Đến mùa xuân năm 1978, tuổi đời bình quân của 58 Bộ trưởng và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được bổ nhiệm năm 1966 đã đạt 70 tuổi, trong thời gian đó chỉ có 12 người về hưu hoặc điều chuyển công tác. Đến năm 1979, trong 23 Bí thư Trung ương và lãnh đạo các Ban Trung ương được bổ nhiệm năm 1966 chỉ có 6 người chuyển đi. Như vậy, tất đã hình thành một đội ngũ cán bộ ổn định nhưng dần dần lão hóa. Đội ngũ cán bộ ổn định này là nhân tố chủ yếu nhất để tạo thành tầng lớp đặc quyền.


Chính sách đơn thuần chỉ theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ mà Brezhnev áp dụng có cả kết quả tích cực và hậu quả tiêu cực. Từ ý nghĩa tích cực mà nói, khi cán bộ các cấp đảm nhận một chức vụ ổn định trong một thời gian dài, họ có thể suy nghĩ đến các vấn đề lâu dài trong công tác tại địa phương hoặc các bộ ngành, đề ra kế hoạch công tác dài hạn, điều này tránh được một cách có hiệu quả việc cán bộ muốn nhanh chóng cầu lợi, chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà coi nhẹ các hành vi để lại hậu quả lâu dài trên cương vị công tác của mình. Đồng thời, cán bộ, đảng viên không cần bỏ ra nhiều tâm trí để bảo đảm chức vị của bản thân, cũng làm cho họ bỏ ra nhiều sức lực hơn vào trong công việc. Tuy nhiên, chủ yếu hơn vẫn là ảnh hưởng tiêu cực của chính sách này, chính chính sách này của Brezhnev phù hợp với tâm lý của các cán bộ. Lãnh đạo lớn nhỏ bắt đầu thích Brezhnev, ông không thích thay đổi, họ cũng không muốn thay đổi, đặc biệt là không muốn điều chuyển chức vụ của họ từ cao xuống thấp"1 (V. I. Sukhanov: Thế hệ Gennady Ziuganov và Liên Xô, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1999, tr.198). Nhiều cán bộ vì địa vị ổn định nên không có cảm giác cảnh giác, đồng thời cũng đã mất đi tinh thần trách nhiệm và cầu tiến mà một cán bộ Đảng Cộng sản cần có. Đối với họ, nếu đã không cần lo lắng về vấn đề chức vị của bản thân, thì cần gì phải hao tâm tổn lực theo đuổi những thành tựu trong công việc nữa? Đồng thời, khi họ đã không có áp lực, tất nhiên sẽ buông lỏng những ràng buộc đối với bản thân, bắt đầu xa rời quần chúng, theo đuổi đặc quyền không nên có. Đây chính là tâm lý cán bộ không lành mạnh do chính sách đội ngũ cán bộ đơn thuần ổn định gây nên. Sự xuất hiện đặc trưng tâm lý chính trị này trong đội ngũ cán bộ tất nhiên thúc đẩy sự hình thành tầng lớp đặc quyền.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:27:15 am
Thứ hai, Brezhnev không chỉ dốc sức ổn định đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước, mà còn không ngừng mở rộng đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước. Vốn dĩ, trong bối cảnh xã hội mà trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa không ngừng được nâng cao, kết cấu xã hội ngày càng phức tạp thì cần phải lập ra nhiều cơ quan quản lý hơn nữa và tăng thêm nhiều nhân viên quản lý hơn nữa, đây là xu thế bình thường của sự phát triển xã hội hiện đại. Nhưng đây không phải là nguyên nhân chủ yếu để đội ngũ cán bộ thời kỳ Brezhnev không ngừng được mở rộng. Nguyên nhân chính để mở rộng đội ngũ cán bộ thời kỳ này là ở chỗ, do thể chế kinh tế chính trị tập trung cao độ không thay đổi khiến cho xã hội được quốc gia hóa toàn diện, hơn nữa, hiện tượng không xác định rõ ranh giới giữa Đảng và chính quyền ngày càng nghiêm trọng. Đến cuối thập niên 1970, đã có hơn 20 cơ quan cấp Ban của Đảng Cộng sản Liên Xô, trong đó, phần lớn là trùng với cơ quan Chính phủ, thậm chí đến tên gọi của cơ quan cũng đều giống y như nhau. Ngoài ra, Đảng Cộng sản Liên Xô luôn ôm đồm mọi việc, vì muốn khống chế xã hội với kết cấu ngày càng phức tạp, thì bắt buộc phải không ngừng tăng thêm cơ quan quản lý xã hội của Đảng, đồng thời cũng không ngừng tăng thêm nhân viên quản lý của các cơ quan. Vấn đề then chốt nhất là tư tưởng của Brezhnev bảo thủ, cứng nhắc, hiện tượng cơ quan Đảng và Nhà nước ngày càng phình ra, nhân viên dư thừa ngày càng nhiều, nhìn mà như không thấy, chưa từng suy nghĩ đến việc phải tiến hành cải cách đối với vấn đề này. Lênin từ lâu đã từng đưa ra kiến nghị tinh giản hệ thống các cơ quan: "Phải xóa bỏ đến mức có thể các loại ủy ban hiện có (9/10 số ủy ban này là thừa, mà đặc trưng của nó là sau khi xóa bỏ xong, chẳng bao lâu lại thay hình đổi dạng để phục hồi), đồng thời ngăn chặn thành lập ủy ban mới"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.152). Nhưng những người như Brezhnev đã sớm quên mất lời dạy này của Lênin. Theo thống kê, tổng số các Bộ trưởng của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết từ 29 người vào năm 1965 tăng lên 160 người vào giữa thập niên 1980, tổng số nhân viên tại cơ quan hành chính là 18 triệu người2 (A. N. Sakharov: Lịch sử nước Nga thế kỷ XX, Sdd, tr.581), chỉ tính số cán bộ làm việc tại các cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã hơn 500.000 người; số cán bộ lãnh đạo cấp Bộ trưởng tại 64 bộ và hơn 20 ủy ban Nhà nước cũng như cơ quan trực thuộc có đến hơn 800 người, Bộ Công nghiệp luyện kim đen có 1 bộ trưởng, 3 thứ trưởng thứ nhất, 15 thứ trưởng1 (Giang Lưu, Trần Chi Hoa (chủ biên): Suy ngẫm về lịch sử diễn biến của Liên Xô, Sđd, tr.51). Từ năm 1971 đến năm 1975, nhân viên công tác tại các cơ quan đã tăng lên gần 22%; sau thời kỳ cầm quyền của Brezhnev, cơ quan hành chính Nhà nước hằng năm tăng bình quân từ 300.000 đến 500.000 người2 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Từ Lênin đến Gorbachev - Diễn biến thể chế chính trị Liên Xô, Sđd, tr.169).


Đương nhiên, việc mở rộng đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước không có mối liên hệ tất yếu với sự hình thành tầng lớp đặc quyền, nhưng mọi người đều biết, cán bộ Đảng và Nhà nước là nguồn gốc chủ yếu của tầng lớp đặc quyền, những người hưởng thụ và theo đuổi đặc quyền trong đội ngũ cán bộ không ngừng được mở rộng ấy cũng không ngừng tăng lên, những người đặc quyền cũng dần dần từ số ít mở rộng thành một tầng lớp xã hội. Vì thế sự mở rộng đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước của Liên Xô trên thực tế đã tạo điều kiện tiền đề quan trọng cho sự hình thành tầng lớp đặc quyền.


Thứ ba, trong thời kỳ Brezhnev, cơ chế kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đối với đảng viên và cán bộ Đảng không ngừng yếu đi, cho dù tồn tại một vài quy định, cũng chỉ là hình thức. Điều này đã tạo môi trường chính trị thích hợp để cán bộ Đảng dùng quyền lực mưu cầu tư lợi, sử dụng quyền lực của mình tùy tiện, thậm chí ngang ngược bất cần, từ đó biến thành những kẻ đặc quyền. Ngoài ra, trong thời kỳ Brezhnev cầm quyền, việc giáo dục tư tưởng trong Đảng cũng không ngừng bị suy yếu, thêm vào đó đảng viên thời kỳ này ở trong môi trường hòa bình, xa rời những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và cách mạng, vì thế niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa của nhiều đảng viên và cán bộ Đảng ngày càng phai nhạt, thậm chí mất đi, tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc tương đối thịnh hành trong Đảng, từ đó khiến cho hiện tượng theo đuổi đặc quyền trong đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước ngày càng nghiêm trọng. Trong tình hình này, một lượng lớn cán bộ đã trở thành những thành viên của tầng lớp đặc quyền mà chúng ta vừa nói.


Thứ tư, những hành vi như theo đuổi lạc thú, lạm dụng quyền lực, tham ô hối lộ của một số lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Brezhnev, đã thúc đẩy sự hình thành tầng lớp đặc quyền. Sau khi trở thành Tổng Bí thư, Brezhnev thở dài mà nói: "Cuối cùng đã đến được ngày hôm nay". Khi mẹ của ông từ quê lên thăm ông, ông tự hào dẫn mẹ mình đi ngắm những vật dụng gia đình tinh xảo đẹp mắt, biệt thự xa hoa của ông, dáng vẻ hết sức mãn nguyện. "Cách sống và ngôn ngữ, hành vi của Brezhnev đã ảnh hưởng đến những người xung quanh ông, đến tất cả tầng lớp trên của Đảng"1 (Tham khảo S. S. Akopov: Lịch sử nước Nga 1953-1996, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1997, tr.227). Brezhnev đã lợi dụng chức vụ và quyền lực của mình để thụ hưởng những đặc quyền mà không ai sánh được. Ông nổi tiếng là đam mê đi săn, sống ở biệt thự xa hoa và sưu tầm những xe hạng sang cao cấp. Brezhnev còn thích những quà tặng cao cấp, quà tặng mà ông nhận có thể nói là "không đếm xuể"2 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.34). Đây vốn không thuộc tài sản cá nhân, đáng lẽ phải nộp cho quốc gia, nhưng Brezhnev lại thu phần lớn tặng phẩm đó làm của riêng. Cháu gái Brezhnev trong hồi ức về ông nội mình đã từng nhắc đến những chiếc xe hơi cao cấp mà ông sưu tầm được, tổng số lên đến hơn trăm chiếc. Đây đa phần đều là tặng phẩm của lãnh đạo nước ngoài. Quà cưới mà ông tặng cho con gái mình Galina là một chiếc xe hơi hiệu Skoda. Đây chính là tặng phẩm của Tổng thống Tiệp Khắc. Những món đồ này cho đến sau khi Brezhnev qua đời mới bị Andropov tịch thu. Brezhnev cho rằng: "'Kinh tế bóng' và các hành vi cướp đoạt các thiết bị công cộng, hối lộ của cán bộ đều là bình thường"1 (S. S. Akopov: Lịch sử nước Nga 1953-1996, Sđd, tr.236). Không ai không biết việc Brezhnev dung túng và bao che cho các hành vi tham ô của những thân tín của mình như Selokhov, Madunov, Aliyev và Kunayev cũng như những người họ hàng của ông. Cuối thập niên 1970, Andropov chuẩn bị triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhưng lại vấp phải sự phản đối của Brezhnev. Ông không cho phép Andropov điều tra những hành vi tham nhũng nghiêm trọng trong Bộ Nội vụ của Selokhov. Khi Andropov đưa báo cáo phản ánh tình trạng tham nhũng trong nước cho ông, ông rất không vui, thay đổi ngay quan hệ thân thiết bấy lâu nay với Andropov, không gặp mặt Andropov trong 3 tháng, thậm chí từ chối nghe điện thoại của Andropov. Chỉ sau khi Andropov sửa nội dung báo cáo thành thông báo tin vui bình an không có chuyện gì, Brezhnev mới khôi phục quan hệ tốt đẹp với ông2 (Roy Medvedev (Nga): Andropov mà mọi người chưa biết đến, Nxb. Tân Hoa, 2001, tr.217-218). Brezhnev và những người thân tín một mặt không ngừng tăng thêm các loại đặc quyền, mặt khác chỉ ngăn chặn ở mức thấp nhất việc theo đuổi đặc quyền của các cấp cán bộ, có lúc thậm chí còn mặc kệ và khuyến khích, kết quả tất yếu là những quan chức của Đảng và Nhà nước thụ hưởng đặc quyền càng ngày càng nhiều, đặc quyền mà họ được hưởng cũng đủ loại, điều này càng khuyến khích sự hình thành tầng lớp đặc quyền. Raisa Gorbachev nhớ lại nói: "Năm 1978 sau khi vào Mátxcơva, tôi có nhiều phát hiện, một trong số đó chính là: một vài lãnh đạo nhà nước, bao gồm lãnh đạo Đảng, ngoài việc sở hữu biệt thự nhà nước được cung cấp, còn xây dựng biệt thự tư nhân, đồng thời xây dựng biệt thự tư nhân cho cả con cháu. Kiểu xa hoa và bạo gan này khiến cho tôi vô cùng kinh ngạc"1 (Raisa Gorbachev: Hy vọng của tôi - Hồi ký Raisa Gorbachev, Nxb. Công nhân Trung Quốc, 2000, tr.140). Mặc dù vợ chồng Gorbachev cũng thuộc tầng lớp đặc quyền, nhưng họ lúc đó mới công tác ở Trung ương, tất cả đặc quyền mà họ hưởng so với những người như Brezhnev vẫn còn dưới một bậc. Có thể nói, sự theo đuổi cuộc sống đặc quyền của người lãnh đạo tối cao mà đứng đầu là Brezhnev đã có vai trò "tâm gương" cho sự phát triển hiện tượng tham nhũng trong Đảng. Điều này có mối quan hệ trực tiếp với sự hình thành tầng lớp đặc quyền.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:28:19 am
Tóm lại, mảnh đất sinh trưởng thuận lợi nhất cho sự hình thành tầng lớp đặc quyền đã được tạo ra vào thời kỳ Brezhnev. Giống như nhà lịch sử nổi tiếng Roy Medvedev từng nói: "Thời kỳ Brezhnev khiến cho lý luận nomenklatura2 ("Nomenklatura": Chỉ tầng lớp cán bộ không có trình độ, sống lâu lên lão làng (tiếng Nga: номенкдатура) (ND)) như là một loại "giai cấp mới" trở nên có sức sống, nói cách khác, những kẻ bất tài, quan liêu, mờ nhạt vô nguyên tắc, không cá tính tại các cơ quan quản lý đã có thêm sức mạnh trong thời kỳ Brezhnev"3 (Roy Medvedev: Cá nhân và thời đại - Chân dung chính trị Brezhnev, bản tiếng Nga, Nxb. Tin tức Mátxcơva, 1991, tr.158-159). Học giả nổi tiếng Arbatov cũng cho rằng: "Vào những năm tháng trì trệ, chính điều này cuối cùng đã làm cho những cán bộ phụ trách và những người đảm nhận chức vụ cao cấp hình thành một giai cấp đặc biệt (cán bộ tại các nước Cộng hòa, các khu, các quận lại hình thành 'tầng lớp nhỏ' của mình)"1 (Arbatov: Nội tình chính trị của Liên Xô: Chứng kiến của người biết chuyện, Nxb. Tân Hoa, 1998, tr.309).


Xác định số lượng cụ thể của tầng lớp đặc quyền Đảng Cộng sản Liên Xô là một việc khó khăn. Theo tính toán của các học giả phương Tây, số lượng của tầng lớp đặc quyền Đảng Cộng sản Liên Xô khoảng 1.000.000 người, thêm cả người nhà của họ vào là khoảng 4.000.000 người. Căn cứ theo tính toán của học giả Nga sau khi Liên Xô giải thể, thời kỳ Brezhnev, số lượng người của tầng lớp đặc quyền khoảng 500.000 - 700.000 người, tính cả người nhà của họ là khoảng hơn 3.000.000 người, chiếm khoảng 1,5% dân số toàn quốc. Bất luận căn cứ của những tính toán này là gì thì tính khoa học của nó vẫn cần đi sâu phân tích, nghiên cứu hơn nữa. Nhưng có một điểm phải khẳng định, những kẻ theo đuổi và thụ hưởng đặc quyền, kể cả trong thời kỳ Brezhnev, cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ. Do đó, khi bàn về sự hình thành tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô, cần nhấn mạnh bốn điểm sau:


Một là, "tầng lớp đặc quyền" chỉ là cách gọi một bộ phận các phần tử thoái hóa, biến chất, lấy quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân trong đội ngũ cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ. Phương Tây gọi tất cả các cấp cán bộ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bây giờ là tầng lớp đặc quyền, hoàn toàn là cố ý, tuyên truyền xuyên tạc ác ý nhằm bôi xấu và lật đổ Đảng Cộng sản Liên Xô. Còn đông đảo cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó về tổng thể vẫn liêm khiết vì cái chung, dũng cảm cống hiến, kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.


Hai là, cần phân biệt một cách rõ ràng yêu cầu công tác của các cấp lãnh đạo và đãi ngộ sinh hoạt hợp lý với "đặc quyền".


Ba là, cần phân biệt một cách rõ ràng sự chênh lệch hợp lý trong lĩnh vực phân phối với "đặc quyền". Lúc bấy giờ, mặc dù trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô tồn tại tầng lớp đặc quyền và hiện tượng đặc quyền nghiêm trọng, nhưng chủ nghĩa bình quân "nồi cơm lớn" trong lĩnh vực phân phối của Liên Xô cũng song song tồn tại.


Bốn là, không thể chỉ chú ý đến hiện tượng "đặc quyền" tồn tại trong lĩnh vực phân phối, mà còn phải chú ý hơn đến biểu hiện của "đặc quyền" trong lĩnh vực khác, như trên các phương diện hoạch định chính sách, bổ nhiệm cán bộ, nhận hối lộ làm trái với luật pháp, mưu cầu lợi ích cá nhân cho bản thân và nhóm của mình, đồng thời trốn tránh sự giám sát của kỷ luật Đảng và quy định của pháp luật. Những điều này có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng, dẫn đến việc phá hoại quan hệ giữa Đảng và quần chúng, từ đó làm cho tôn chi và tính chất của Đảng thoái hóa, biến chất.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:29:53 am
3. Đặc trưng cơ bản của tầng lớp đặc quyền

Xét từ sự câu thành của tổ chức và thành viên, tầng lớp đặc quyền có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, tầng lớp đặc quyền chủ yếu xuất phát từ đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước, bởi vì chỉ có họ mới nắm giữ quyền lực, mới có khả năng lợi dụng quyền lực mưu cầu lợi ích cá nhân, mới có điều kiện hưởng thụ những quyền lợi không đáng được hưởng thụ. Đặc trưng bên ngoài này của tầng lớp đặc quyền đã thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa họ với đội ngũ cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng rất dễ làm cho quần chúng nhân dân đánh đồng tầng lớp đặc quyền với toàn bộ đội ngũ cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô làm một. Tuy nhiên, như trên đã nói, đây là một chỗ hiểu lầm rất lớn về nhận thức. Vì thế chúng ta cần phải nhấn mạnh lại rằng, tuyệt đại đa số cán bộ Đảng và Nhà nước Liên Xô không thuộc tầng lớp đặc quyền, đây chính là sự khác biệt cơ bản về quan điểm giữa chúng ta với rất nhiều học giả phương Tây.


Thứ hai, tầng lớp đặc quyền có tính kế thừa và tính ăn bám. Một bộ phận tương đối trong số này tự sinh sôi nảy nở trong chính tầng lớp đặc quyền. Một học giả Liên Xô đã chỉ ra: 'Trong những năm 1970-1980, những nhân vật tinh hoa cấp cao của Nhà nước trên thực tế đã dừng việc bổ sung nhân viên từ phía dưới, trở nên càng ngày càng khép kín, thực chất là thay đổi bên trong tầng lớp"1 (A. K. Sokurov: Giáo trình lịch sử Liên Xô (1941-1991), Sđd, tr.295). Nhìn từ bên ngoài, địa vị, thân phận của tầng lớp đặc quyền và những đặc quyền liên quan là không thể kế thừa, nhưng con cái của tầng lớp đặc quyền có thể dựa vào địa vị đặc quyền của bố mẹ mình để trở thành một thành viên của tầng lớp đặc quyền. Ví dụ, họ có thể tránh những quy trình bình thường để dễ dàng bước vào những trường đại học danh tiếng, sau khi tốt nghiệp lại tìm một công việc tốt, hoặc được Nhà nước cử đi nước ngoài "đào tạo nâng cao", từ đó đặt nấc thang để bước vào tầng lớp đặc quyền, v.v... Những ví dụ về việc này nhiều vô kể: Con trai của Brezhnev là Yuri làm Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, con rể Churbanov vốn không học hành gì cũng nhanh chóng trở thành Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ, đồng thời được trao tặng quân hàm Thượng tướng; con trai của Mikoyan cũng rất nhanh chóng trở thành Tổng Biên tập tạp chí Mỹ La tinh; con trai của Gromyko sau một thời gian công tác tại Viện Nghiên cứu Mỹ và Canada thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, được đề bạt làm Tham tán Công sứ Đại sứ quán Liên Xô tại Mỹ, sau đó lại được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Phi thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Sự thăng tiến của những con ông cháu cha này chủ yếu vì thân phận và quan hệ của họ, chứ không phải vì họ có tài năng gì nổi bật. Trong số họ có người còn là con em nhà quyền quý vô học, bất tài. Con trai của Brezhnev là một kẻ bợm rượu, thường xuyên tiến hành đàm phán những thương vụ quan trọng trong lúc nửa tỉnh nửa say, có lúc thậm chí không thể không đeo kính râm để che giấu đi trạng thái say của mình. Từ đó có thể thấy, sự cấu thành của tầng lớp này, trên một ý nghĩa nhất định, là "di truyền". Như một người biết rõ sự việc đã nói: "Họ sinh hoạt, chữa bệnh, nghỉ dưỡng một cách cô lập, trong tầng lớp này thường hình thành quan hệ gia tộc, thị tộc của mình - phải biết rằng con em của tầng lớp này cùng lớn lên, quen biết nhau, thường kết hôn với nhau. Không chỉ như vậy, trong thời kỳ trì trệ, đã bước được một bước đi lôgích dưới đây: Mưu đồ thiết lập chế độ giao quyền, hoặc gọi là chế độ kế thừa đặc quyền. Cũng chính là thông qua việc thiết lập quy chế giáo dục chuyên thu nạp những con ông cháu cha này, sau đó thông qua một bộ quy chế bổ nhiệm và đề bạt chức vụ để đạt được mục đích kế thừa quyền lực"1 (Arbatov: Nội tình chính trị của Liên Xô: Chứng kiến của người biết chuyện, Sđd, tr.309-310). Còn có một số người đơn thuần chỉ thông qua các quan hệ huyết thống của tầng lớp đặc quyền để làm cán bộ lãnh đạo. Như vậy đã dần dần hình thành một cơ chế sinh trưởng trong nội bộ tầng lớp đặc quyền. Tình hình này khiến cho những kẻ đặc quyền dễ dàng bảo vệ lẫn nhau, bao bọc cho nhau, xuất hiện hiện tượng quan bênh quan.


Có một ví dụ thực tế phản ánh rất rõ hiện tượng quan bênh quan trong nội bộ tầng lớp đặc quyền. Năm 1980, một nhân viên điều tra tình cờ mua được một lô những lon cá trích đóng hộp, sau khi mở ra mới phát hiện bên trong lại là sốt trứng cá rất đắt. Cá trích vì sao lại có thể biến thành sốt trứng cá? Sau khi tiến hành vất vả điều tra, cuối cùng đã làm rõ được vấn đề. Hóa ra, một loạt quan chức Bộ Ngư nghiệp Liên Xô và một công ty nào đó đã đạt được giao dịch bí mật, để sốt trứng cá có giá cả đắt đỏ được sản xuất tại hai nơi là Sochi và Astrakhan đựng vào những lon có dán mác cá trích rồi vận chuyển ra nước ngoài, được công ty phương Tây mua lại với giá mua cá trích, sau đó lại bán ra với giá sốt trứng cá. Những quan chức tham gia vào giao dịch này của phía Liên Xô chia nhau khoản gọi là "lợi nhuận" trong doanh thu to lớn của công ty phương Tây, rồi gửi vào Ngân hàng Thụy Sĩ. Hoạt động mua rẻ bán đắt này đã kéo dài 10 năm. Sau khi điều tra làm rõ, hoạt động này đã gây tổn thất hàng triệu đôla cho Liên Xô, liên quan đến các quan chức cao cấp như Thứ trưởng Bộ Ngư nghiệp, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tiêu thụ sản xuất cũng như Bộ Ngoại thương, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Hạm đội Thái Bình Dương, nhân viên quản lý các nhà hàng tại Mátxcơva và những thành phố khác, tất cả là hơn 300 người. Người phụ trách phân phối những đồ hộp này lại là Thị trưởng thành phố Sochi - ông Volokov, còn người trực tiếp quản lý thành phố này lại là Bí thư thứ nhất Khu ủy biên cương Krasnodar - ông Maidunov, Ủy viên Trưng ương Đảng Cộng sản Liên Xô, thân tín của Brezhnev. Ông không chỉ có mối liên hệ trực tiếp đến vụ án này, mà còn bằng mọi cách bênh vực cho Volokov. Sau khi báo Văn học đăng thông tin Volokov bị bắt, Maidunov hết sức căng thẳng, nhiều lần chạy đến Mátxcơva cầu cứu Brezhnev. Vì tình tiết quan trọng, Chủ tịch KGB Andropov đã đích thân báo cáo lại toàn bộ diễn biến của sự việc với Brezhnev. Sau khi Brezhnev nhìn thấy chứng cứ đã hết sức rõ ràng, chắc chắn, bèn hỏi: "Theo đồng chí thì xử lý thế nào?". Andropov trả lời: "Giao việc xét xử Maidunov cho Tòa án". Brezhnev nói: "Vậy không được, hiện nay ở Krasnodar, chúng ta không có người đáng tin cậy, hay là cứ điều ông ấy đến địa phương khác trước đã". Về sau, mặc dù bị bãi miễn hết tất cả các chức vụ, nhưng Maidunov lại được điều đến Mátxcơva, đảm nhiệm chức Thứ trưởng Bộ Lương thực, thực phẩm, đồng thời dọn đến ở một căn hộ sang trọng tại Mátxcơva. Câu chuyện này vì thế mà được đánh một dấu hỏi to tướng!


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:31:01 am
Thứ ba, tuyệt đại đa số thành viên của tầng lớp đặc quyền có các loại kiến thức chuyên môn. Họ "đa số có trình độ văn hóa tương đối cao, được giáo dục đẳng cấp cao, có chức danh kỹ thuật chuyên môn cao, thường xuyên đi thăm các nước phương Tây"1 (Trần Chi Hoa (chủ biên): Liên Xô thời Brezhnev, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998, tr.15). Đặc trưng này tất nhiên không chứng tỏ những người đặc quyền đều hết sức ham học, trình độ văn hóa đều rất cao. Ngược lại, cũng có nhiều người giành được "học vị" trong những hoàn cảnh không bình thường. Bằng cấp, học vị cao là điều kiện quan trọng để họ bước lên vị trí quyền lực, cũng là một minh chứng quan trọng để họ ổn định địa vị của bản thân, thể hiện năng lực cầm quyền của mình.


Xét từ ý thức tư tưởng chính trị, tầng lớp đặc quyền có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của cá nhân và nhóm, dần dần xa rời, quay lưng, thậm chí cuối cùng phản bội lại lợi ích cơ bản của đông đảo quần chúng nhân dân. Mới đầu, họ chủ trương duy trì hiện trạng, không nghĩ đến cải cách, còn cản trở cải cách. Họ quản lý và bảo vệ quyền lợi của bản thân mình một cách cảnh giác, không cho phép người khác được động đến. Muốn lợi ích của bản thân mình không bị tổn hại, cách tốt nhất chính là duy trì trật tự và tình trạng hiện có không thay đổi. Như vậy, tầng lớp đặc quyền rất tự nhiên đã trở thành đại diện của thế lực bảo thủ, suy nghĩ của họ là: "Các anh đừng động chạm đến chúng tôi, chúng tôi cũng không động chạm đến các anh", mục đích của họ là làm cho tất cả đều giống như ngày trước1 (T. A. Notikina (chủ biên): Sa lầy - Phân tích sự trì trệ, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1991, tr.654). Đặc trưng này trong thời kỳ Brezhnev là điển hình nhất, về sau, cùng, với sự "lớn mạnh" từng bước của tầng lớp này, họ đã không hài lòng với số tài sản ít ỏi mà mình cướp đoạt được, bèn xé toạc mặt nạ "trật tự xã hội chủ nghĩa hiện hữu", giương ngọn cờ "cải tổ", bằng mọi hình thức và thủ đoạn, tiến hành tư hữu hóa trọn gói, nuốt chửng tài sản nhà nước thành của riêng, triệt để đi lên con đường tư bản chủ nghĩa. Đặc trưng này nổi bật trong thời kỳ Gorbachev.


Thứ hai, sùng bái quyền lực, lạm dụng quyền lực, độc đoán chuyên quyền, coi thường dân chủ. Xét từ góc độ của họ mà nói, tất cả đặc quyền của họ đều do quyền lực đem lại, chỉ cần có địa vị quyền lực, họ có thể đạt được những thứ mà họ muốn đạt được. Đặc biệt cần chỉ ra rằng, họ có quyền sử dụng quyền lực mà họ không đáng có, từ đó dẫn đến sự biến dạng của quyền lực, biến chuyển chức quyền bình thường đang nắm giữ thành đặc quyền quan liêu, làm cho quyền lực trở thành công cụ để giành lấy các loại đặc quyền. Mọi người đều biết, chính Gorbachev đã sử dụng nhiều quyền lực không đáng thuộc về ông ta, bao gồm quyền độc đoán chuyên quyền bổ nhiệm cán bộ, quyền đưa ra nhiều biện pháp không sát thực tế mà không thông qua điều tra nghiên cứu và không thông qua sự đồng ý của tập thể lãnh đạo, v.v... Sau khi lên nắm quyền, lúc đầu, Gorbachev đã lấy danh nghĩa cải tổ dẹp bỏ một loạt cán bộ, bổ nhiệm một loạt những người ủng hộ mình. Chỉ trong thời gian ngắn từ khi lên nắm quyền vào tháng 3 năm 1985 đến khi Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô được tổ chức vào tháng 2 năm 1986, Gorbachev liên tiếp tiến hành những thay đổi nhân sự quan trọng, trong 12 Ủy viên Bộ Chính trị của Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, chỉ có 4 người là Ủy viên Bộ Chính trị của Đại hội XXVI, trong đó còn bao gồm chính ông và Gromyko - người tiến cử ông vào vị trí lãnh đạo cao nhất. Trong thời gian đó, cán bộ lãnh đạo cấp cao ở các địa phương, các ban, ngành cũng được tiến hành thay đổi với quy mô lớn. Gorbachev thay đổi cán bộ với tốc độ nhanh, phạm vi rộng là điều mà những người lãnh đạo trước ông là Khrushchev và Brezhnev đều mong muốn nhưng chưa đạt được. Tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ của ông không hề xét đến thành tích trước đây của họ như thế nào, mà chỉ xem xét thái độ của họ đối với ông ta, mục đích là mở rộng thế lực chính trị của bản thân, tăng cường quyền lực của ông ta. Ông ta coi việc bổ nhiệm cán bộ cao cấp là đặc quyền của mình, vứt bỏ quy trình dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ sang một bên. Vì thế tư tưởng "quan bản vị'' trong tầng lớp đặc quyền rất phổ biến. Mọi người vì mong muốn thăng chức mà làm mọi thủ đoạn, thậm chí hiện tượng mua quan bán chức cũng trở nên quen mắt.


Thứ ba, không coi trọng việc tu dưỡng tư tưởng, lý luận, ngày càng phai nhạt, thậm chí cuối cùng còn quay lưng lại niềm tin chủ nghĩa Mác và lý tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. "Những người này đã không còn là những nhà cách mạng của giai cấp vô sản năm nào, chủ nghĩa Mác đối với họ chỉ còn là những lời nói đầu môi, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội đã nhạt nhòa trong đầu óc của họ". Bề ngoài họ xuất hiện với diện mạo của người cách mạng và người lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, đóng vai những người bảo vệ lợi ích nhân dân và lợi ích quốc gia, nhưng trên thực tế họ đã không còn niềm tin vào chủ nghĩa Mác, vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chi chú ý đến việc bảo vệ đặc quyền của bản thân. Căn cứ vào thông tin liên quan cho thấy, thập niên 1970, trong các hoạt động của các nhà lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Liên Xô về cơ bản không có bất cứ thông tin ghi chép lại nào về việc học tập các kiệt tác của chủ nghĩa Mác. Những lãnh đạo cấp cao đã thế tình trạng học tập lý luận của đội ngũ cán bộ khác đủ biết là thế nào.


Xét từ tác phong công việc và sinh hoạt, có thể thấy, tầng lớp đặc quyền có những đặc trung cơ bản sau:

Thứ nhất, trong công việc cái gì cho qua được thì cho qua, đãi bôi xong chuyện, che đậy mâu thuẫn, giả tạo thái bình. Đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX, trên các mặt của xã hội Liên Xô đã xuất hiện một loạt các vấn đề rõ rệt dễ thấy, nhưng tầng lớp đặc quyền lại coi như không nhìn thấy. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 3 tháng 1 năm 1980 đã vẽ ra một cảnh tượng thiên hạ thái bình, không đề cập bất cứ vấn đề nào mà đất nước đang gặp phải. Trung ương đã như vậy, các cấp địa phương và các ban, ngành cũng như vậy mà làm, có thể nói là trên làm sao, dưới làm vậy.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:32:17 am
Thứ hai, trong cuộc sống thì tham lam vô độ, chạy theo lạc thú, thậm chí hối lộ và nhận hối lộ, sa đọa, biến chất. Họ lợi dụng quyền lực của bản thân, nỗ lực sắp xếp một môi trường sống xa xỉ cho cá nhân. Họ có thể giành được "tiền trợ cấp đặc biệt" dưới nhiều hình thức như vật chất, tiền bạc hoặc giấy tờ thay thế vật chất; mức "trợ cấp" này thường vượt quá thu nhập tiền lương bình thường của họ. Họ có "tiền nhuận bút" đặc biệt, trong đó bao gồm một vài nhuận bút mức cao nhờ phát biểu, nói chuyện. Họ còn lợi dụng các cơ hội xuất ngoại, lấy khoản trợ cấp lớn mà Nhà nước phát cho để mua những sản phẩm cao cấp không mua được ở trong nước, đồng thời đem chúng đến chợ đen ở Mátxcơva bán lại với giá cao. Trong các đoàn đại biểu đi công tác ra nước ngoài, từ Đại sứ đến văn thư cấp thấp nhất đều thường xuyên vận chuyển hàng hóa trị giá vài nghìn bảng Anh về nước1 (Tham khảo A. Shevchenko: Đoạn tuyệt với Mátxcơva, Nxb. Tri thức thế giới, 1986, tr.276). Họ chưa từng quý trọng tài sản quốc gia, thông qua giao dịch quyền - tiền để vơ đầy túi tham, hoàn toàn yên tâm mà hoang phí tài sản xã hội do nhân dân làm ra. Những thu nhập bí mật này đã kéo rộng khoảng cách thu nhập giữa tầng lớp đặc quyền với quần chúng lao động, cũng làm rộng ra vết nứt giữa họ với quần chúng lao động Liên Xô. Căn cứ vào số liệu đã có, trong thời kỳ Brezhnev, khoảng cách thu nhập giữa cán bộ Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân của Liên Xô lên tới 30 - 44 lần2 (Hề Quảng Khánh: "Cùng bàn về một nguyên nhân Liên Xô tan rã", Vấn đề chủ nghĩa xã hội thế giới đương đại, số 2-2001, tr.30). Shevchenko - nhà ngoại giao cấp cao của Liên Xô chạy trốn đến phương Tây - đã mô tả cuộc sống của tầng lớp đặc quyền như sau: "Họ (chỉ tầng lớp đặc quyền) muốn chiếm đoạt những thứ này, nhưng lại mưu đồ mô tả bản thân mình như đang đấu tranh với những thứ này. Họ phê phán cách sống của tầng lớp tư sản, nhưng bản thân lại một lòng một dạ chạy theo cách sống đó; họ chỉ trích chủ nghĩa tiêu thụ là sự phản ánh của tư tưởng dung tục, là kết quả độc hại của ảnh hưởng phương Tây, nhưng những người hưởng thụ đặc quyền lại hết sức coi trọng việc hưởng thụ các đồ tiêu dùng và vật chất của phương Tây"1 (Hề Quảng Khánh: "Cũng bàn về một nguyên nhân Liên Xô tan rã", Tlđđ, tr.19), về mặt này, Gorbachev cũng thể hiện rất nổi bật. Theo hồi ức của Boldin, Gorbachev thường xuyên nhận được những huy chương bằng vàng, bạc và bạch kim có trọng lượng kha khá, tiền xu sưu tập được chế tác bằng kim loại quý; trong tài khoản ngân hàng cá nhân có mấy triệu đôla Mỹ; dựa theo sở thích của cá nhân, xây dựng dinh thự Tổng Bí thư mới ở nhiều thắng cảnh, các địa điểm nghỉ dưỡng; trên đồi Lênin ở Mátxcơva chuyên xây dựng nhà ở sang trọng, chi phí xây dựng lên tới hàng trăm triệu rúp. Trong khi trước đó, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô chưa bao giờ xây nhà ở mới cho bản thân mình. Thậm chí ngay trước đêm Liên Xô giải thể, Gorbachev vẫn còn khẩn trương lên kế hoạch cải tạo một căn hộ khép kín bao gồm phòng bếp, nhà ăn, phòng khách, phòng nghỉ, hai phòng ngủ, văn phòng và các phòng khác, về sau vì xảy ra sự kiện "19 tháng 8" nên kế hoạch xây dựng đổ sộ này đành phải dừng lại2 (Mã Duy Tiên: "'Năm Andropov' với 'Thời đại Gorbachev': Cải tổ và chống tham nhũng", in trong Lý Thận Minh (chủ biên): Năm 2006: Báo cáo theo dõi nghiên cứu chủ nghĩa xã hội thế giới, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2007, tr.292). Boldin còn nói Gorbachev xây dựng nhà ở và biệt thự xa hoa cho mình và người nhà, sắm sửa đồ nội thất tinh xảo, thiết bị và đồ dùng cao cấp nhất, dùng nguyên liệu ngoại nhập để trang trí, thể hiện sở thích đặc biệt, liên tục sửa sang lại nhà ở cho bản thân, tới tận khi thôi chức3 (V. Boldin: 10 năm chấn động thế giới: Liên Xô tan rã và Gorbachev, Sđd, tr.198).


Thứ ba, về tác phong, là phái hai mặt điển hình. Yeltsin và Gorbachev đều là đại diện điển hình chơi trò "hai mặt". Để giành quyền lãnh đạo cao nhất nước Cộng hòa Liên bang Nga, khi Yeltsin làm Tổng thống Nga, ông đã giả vờ giương cao ngọn cờ "chống đặc quyền" để lừa bịp quần chúng. Ông ta còn cố làm ra vẻ, không ngồi xe riêng mà ngồi xe buýt đi làm. Tuy nhiên, kiểu giả vờ không hề thông minh này hoàn toàn không thể che đậy được hàng loạt đặc quyền mà ông ta hưởng thụ. Ngay khi bắt đầu "cải tổ", Gorbachev đã đưa ra khẩu hiệu "dân chủ hóa" và "công khai". Ông ta ngoài mặt kêu gọi phát huy dân chủ quan trọng thế nào, nhiều lần nhấn mạnh dân chủ hóa là "đặc trưng của thời đại", nói những thứ như "không có dân chủ thực sự thì về căn bản là không thể nào có chủ nghĩa xã hội", còn trong hành động thì cơ bản không màng gì đến dân chủ, không nghe nổi những ý kiến bất đồng, thường xuyên coi mình là chuẩn, độc đoán chuyên quyền, thiếu tác phong dân chủ tối thiểu. Boldin, người từng là trợ lý thân cận của ông ta nói: Gorbachev phát biểu ý kiến của mình ở mọi nơi, chế độ phát ngôn hài hòa trong Bộ Chính trị đã bị phá vỡ, rất nhiều đề xướng và cam kết của ông ta các Ủy viên Bộ Chính trị chỉ được biết qua báo chí, có lúc ép buộc các ủy viên bày tỏ thái độ, thậm chí yêu cầu họ tuyên thệ trung thành với Tổng Bí thư. Boldin còn cho biết, thái độ của Gorbachev với người khác rất thô lỗ, thiếu lịch sự, thường xuyên làm cho những người giao tiếp hay nói chuyện với ông ta cảm thấy khó chịu và cảm thấy bị tổn thương. Đến sau thời kỳ "cải tổ", nguyên tắc lãnh đạo tập càng thể bị phá hoại hơn, Bộ Chính trị không họp mấy tháng liền, việc gì cũng do một mình ông ta quyết định1 ([Liên Xô] V. Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.137, 206, 207, 229). Ryzhkov nói, ông ta "luôn thích nói một là một, hai là hai"2 (Ryzhkov: 10 năm đại loạn, Sđd, tr.305)... Medvedev cũng nói Gorbachev "vô cùng độc đoán", "các hội nghị ông chủ trì đều thiếu tác phong dân chủ", "mỗi khi nghe thấy ý kiến phản đối hoặc lời lẽ phê bình, ông ta thường thiếu kiềm chế"1 (Medvedev: Năm cuối cùng của Liên Xô, Sđd, tr.285). Đối với các vấn đề gọi là "công khai" cũng vậy. Đầu lưỡi ông ta nói nào là "công khai rộng rãi", "công khai triệt để" và "công khai ở mức độ cao nhất", nhưng hành động lại hoàn toàn ngược lại. Ryzhkov, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc đó, đã kể lại một sự việc: Lúc đó để công khai các sự việc chính trị, ông đã từng làm chương trình truyền hình "Tin tức Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô'', đưa các vấn đề thảo luận tại Hội đồng Bộ trưởng và các phát biểu của những người tham dự Hội nghị, mà Trung ương Đảng và Bộ Chính trị từ trước đến nay chưa từng đưa tin, cho quần chúng nhân dân biết. Ông nói: "Lúc đó tôi có ấn tượng như thế này, Gorbachev mặc dù đề xướng công khai nhưng bản thân lại sợ nhất công khai, sợ lộ bộ mặt thật, sợ không ngụy trang được. Kỳ lạ là sau khi chương trình được lên truyền hình lần đầu, ông ta đã nói với tôi một cách rất bất mãn rằng: "Ông cởi hết quần áo ra trước ống kính truyền hình như thế này sao?!""2 (Ryzhkov: 10 năm đại loạn, Sđd, tr.296-297).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:34:20 am
II. SỰ XÂM THỰC CỦA TẦNG LỚP ĐẶC QUYỀN ĐỐI VỚI ĐẢNG

1. Đã gây tổn hại nghiêm trọng đến thanh danh của Đảng Cộng sản Liên Xô

Sự xuất hiện của tầng lớp đặc quyền đã phá hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng Cộng sản Liên Xô.

Trước hết, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử thế giới do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trong Đảng Cộng sản Liên Xô - lực lượng lãnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa này - đã xuất hiện một tầng lớp đặc quyền, gây tổn hại nghiêm trọng cho thanh danh Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Nhìn từ góc độ tư tưởng, Đảng Cộng sản là chính đảng vô sản dưới sự chỉ đạo của tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, lý tưởng của nó là xóa bỏ giàu nghèo không đồng đều nghiêm trọng và chủ nghĩa cá nhân cực đoan trong xã hội tư bản chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa công bằng, chính nghĩa, cuối cùng thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Khi người ta nhìn thấy những cửa hàng bán những đồ xa xỉ, những chiếc xe hơi cao cấp vút lượn trên đường, những biệt thự sang trọng được bảo vệ nghiêm ngặt đến mức chỉ có thể đứng nhìn từ xa, liệu có ai không hoài nghi về sự bình đẳng của chủ nghĩa xã hội! Đối với quần chúng nhân dân, cho dù báo chí, tạp chí chính thống liên tục tuyên truyền về lý tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, tung hô hình tượng huy hoàng của những người cộng sản Liên Xô, nhưng vì những điều tai nghe mắt thấy về tầng lớp đặc quyền từ trong những người cộng sản, có ai còn tin vào những tuyên truyền này nữa!


Thứ hai, sự tồn tại của tầng lớp đặc quyền đã cung cấp những tư liệu tốt nhất cho những kẻ chống cộng, chống Liên Xô của phương Tây đê bôi nhọ Đảng Cộng sản Liên Xô, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Vào thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, các bài viết miêu tả về tầng lớp đặc quyền trên báo và tạp chí của các nước phương Tây liên tục xuất hiện, những tác phẩm nghiên cứu về tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đủ loại. Xuất phát từ nhu cầu đấu tranh ý thức hệ, một vài người trong chính giới, học giả không tiếc sức lực bẻ cong sự thật, phóng đại đặc quyền, ra sức tuyên truyền về tầng lớp đặc quyền trong xã hội Liên Xô, nhằm đạt được mục đích bôi xấu hình ảnh Đảng và Nhà nước Liên Xô. Chính do sự tồn tại khách quan của tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô và chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong lòng dân chúng phương Tây bị tổn hại nặng nề. Đồng thời những bài viết, những quyển sách này lưu truyền trong xã hội Liên Xô thông qua các kênh, đã làm gia tăng thái độ phản cảm của dân chúng đối với tầng lớp đặc quyền đương quyền và sự thiếu tin cậy của họ đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng khiến cho đảng viên mất đi niềm tin đối với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.


2. Đã tạo ra hố ngăn cách lớn giữa Đảng với quần chúng nhân dân

Các hành vi của tầng lớp đặc quyền xa rời quần chúng một cách nghiêm trọng, dân chúng bình thường nhìn họ với con mắt khác, coi họ là loại người khác biệt. Nhóm người trong tầng lớp đặc quyền thường được gọi là "chúng", từ đó đã làm quan hệ giữa Đảng với quần chúng càng ngày càng xa, hình thành hố ngăn cách lớn giữa Đảng với quần chúng. Lâu dần, trong con mắt của quần chúng nhân dân, tầng lớp đặc quyền bị đánh đồng với Đảng và Chính phủ Liên Xô, Đảng và Chính phủ Liên Xô không còn là đại biểu của nhân dân lao động, mà đã trở thành đại biểu của tầng lớp đặc quyền được hưởng lợi ích ở trên cao, hố ngăn cách giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ càng ngày càng sâu. Trong hoàn cảnh nhất định, nhiều quần chúng thậm chí trở thành người chống lại Đảng và Nhà nước. Tháng 11 năm 1991, Yeltsin tuyên bố cấm Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga hoạt động và giải tán các tổ chức trong phạm vi Liên bang Nga, phản ứng của quần chúng đối với việc này cũng bình thường. Điều này không những có liên quan tới một loạt các nhân tố hiện thực, mà còn liên quan tới tầng lớp đặc quyền trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô do lịch sử hình thành, đây là một biểu hiện tâm lý bất mãn đối với Đảng Cộng sản Liên Xô tích tụ lâu ngày trong quần chúng.


3. Đã làm tổn hại tác phong Đảng và không khí xã hội

Sự hình thành của tầng lớp đặc quyền làm cho tác phong của Đảng Cộng sản Liên Xô và không khí xã hội Liên Xô bị tổn hại nghiêm trọng. Từ lâu, việc xây dựng tác phong Đảng Cộng sản Liên Xô đã được làm không nghiêm, đặc biệt là ở thời kỳ Brezhnev. Sự sao nhãng trong việc xây dựng tác phong Đảng làm cho yêu cầu đối với chính bản thân mình của đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ thấp, điều này đồng thời cũng trở thành một nhân tố thúc đẩy sự hình thành tầng lớp đặc quyền trong Đảng. Sau khi tầng lớp đặc quyền hình thành, những hành vi như xa rời quần chứng, lấy của công làm của riêng, tham ô hủ bại của họ rất nhanh chóng đã hình thành, ảnh hưởng chí mạng đến tác phong trong Đảng, mặc dù Đảng Cộng sản Liên Xô có số lượng đảng viên rất lớn, nhưng trong số đó những người thực sự tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản, nguyện làm công bộc của nhân dân lại càng ngày càng ít. Thời kỳ Brezhnev công tác phát triển đảng được tiến hành một cách ồ ạt, nhưng rất nhiều người muốn vào Đảng với động cơ không trong sáng. Như vậy, dưới ảnh hương của tầng lớp đặc quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ này đã dần dần trở thành một chính đảng xa rời quần chúng.


Tác phong bất chính của tầng lớp đặc quyền trong Đảng không chỉ gây ô nhiễm toàn Đảng, mà còn gây ô nhiễm toàn xã hội, làm cho tham ô hủ bại, đút lót, nhận hối lộ trở thành trào lưu thịnh hành trong xã hội, một số quần chúng thất vọng cũng đành trôi theo dòng nước, tạo nên tình trạng trên làm sao, dưới làm vậy, không khí xã hội ngày càng sa sút. Một học giả người Nga không phải không có căn cứ khi đã chỉ ra rằng: "Cuối thập niên 1970, đặc biệt là đầu thập niên 1980, báo cáo chỉ tiêu láo, làm dối làm trá, ăn cắp của công, đút lót, hối lộ trên thực tế đã trở thành hiện tượng phổ biến chung".


Do sự băng hoại của nề nếp xã hội, tỷ lệ phạm tội của Liên Xô liên tục tăng, nhiều người coi việc giành được của cải, tài sản là mục đích duy nhất, mà không để ý đến tính hợp pháp và phi pháp của thủ đoạn. Dựa theo số liệu thống kê, trong 10 năm từ (1973-1983), tổng số vụ phạm tội xuất hiện hằng năm của Liên Xô tăng gần 2 lần, trong đó, phạm tội bạo lực quan trọng của cá nhân tăng 58%, cướp giật tăng 2 lần, còn các vụ án liên quan đến trộm cướp và hối lộ tăng 3 lần. Điều này chứng tỏ rằng, hiện tượng nhận hối lộ liên quan trực tiếp với tầng lớp đặc quyền ngày càng nghiêm trọng, hiện tượng dùng vũ lực để giành lấy tài sản, của cải cũng ngày càng nghiêm trọng. Đây đều là biểu hiện điển hình của sự băng hoại nề nếp xã hội.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 13 Tháng Ba, 2022, 07:35:27 am
4. Tầng lớp đặc quyền ngăn cản và lợi dụng cải cách

Thông thường, bản thân đặc quyền chính là một chất ăn mòn, nó khiến cho những kẻ có đặc quyền chỉ say sưa hưởng thụ, hài lòng với hiện trạng mà không suy tính đến tiến bộ và cải cách. Mà khi công cuộc cải cách được triển khai, tầng lớp đặc quyền lại lợi dụng cải cách, bóp méo cải cách, âm mưu lợi dụng cải cách chiếm đoạt tài sản quốc gia. Chính vì tầng lớp đặc quyền chỉ sợ mất đi đặc quyền của bản thân nên họ đã ra sức cản trở cải cách hoặc lợi dụng cải cách, làm cho việc hoàn thiện, cải cách chế độ xã hội chủ nghĩa trở thành triều đại đẩy mạnh tư hữu hóa thỏa mãn những dục vọng cá nhân, từ đó thay đổi và hủy diệt chế độ xã hội chủ nghĩa. Nếu phát triển theo lộ trình "thể chế kinh tế mới" của Kosygin, kết quả lôgích của nó sẽ là phương thức mệnh lệnh hành chính thoát khỏi đời sống kinh tế, điều này tất nhiên là điều mà tầng lớp đặc quyền quan liêu không muốn nhìn thấy. Vì thế, cơ quan quản lý kinh tế của Đảng Cộng sản Liên Xô "ngày càng phản đối tiến hành bất kỳ cải cách cơ cấu nào. Những cơ quan quan liêu này bề ngoài ủng hộ nhưng bên trong lại phản đối cải cách, quản lý có hạn của Brezhnev và Kosygin được thông qua năm 1965, không chịu quán triệt, suốt cả thập niên 1970 cho đến đầu thập niên 1980, họ luôn áp dụng sách lược đối đầu tiêu cực này"1 ([Mỹ] Stephen Cohen: Xem lại kinh nghiệm Liên Xô - Chính trị và lịch sử từ năm 1917 đến nay, Nxb. Đông Phương, 1987, tr.162). Mục đích của những kẻ đặc quyền này chính là giữ nguyên vẹn thể chế mệnh lệnh hành chính, từ đó bảo vệ đặc quyền và lợi ích vốn có của bản thân mình. "Lực lượng quan liêu bảo thủ không chịu từ bỏ phương thức lãnh đạo bằng mệnh lệnh hành chính, họ từng bước, từng bước cản trở thực hiện cải cách kinh tế"2 ([Nga] Zhuravlyov (chủ biên): Bài toán khó của lịch sử - Nghiên cứu, suy ngẫm và quan điểm mới đối với những sự kiện và sự thật quan trọng, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1991, tr.241). Dưới sự cản trở của tầng lớp đặc quyền quan liêu, cải cách "thể chế kinh tế mới" của Kosygin cuối cùng đã kết thúc trong thất bại. Kosygin mặc dù thất vọng, nhưng ông không vì thế mà từ bỏ nỗ lực tiếp tục cải cách. Đến cuối thập niên 1970, ông thực sự không thể chịu đựng được một loạt vấn đề nghiêm trọng tồn tại trong nền kinh tế Liên Xô, nên lại vạch kế hoạch cho cải cách. Năm 1979, ông và trợ lý của mình đã khởi thảo một bản báo cáo về cải cách kinh tế, đã phân tích những vấn đề nghiêm trọng tồn tại trong nền kinh tế Liên Xô, đã chỉ ra tính cần thiết của cải cách mang tính cơ cấu. Nhưng bản báo cáo này một lần nữa lại gây ra sự bất mãn và gặp phải sự cản trở của tầng lớp đặc quyền quan liêu và bản thân Brezhnev. Kết quả là, "người khởi thảo bản báo cáo Kirillin bị xóa bỏ hết chức vụ, còn bản báo cáo cũng bị niêm phong hơn 10 năm"3 ([Nga] R. G. Pikhoya: Lịch sử chính quyền Liên Xô (1945-1991), Nxb. Đông Phương, 2006, tr.409).


Con đường cải cách không bằng phẳng của Kosygin ít nhất đã chứng minh vấn đề trên hai phương diện: thứ nhất, để giữ lợi ích vẫn có của bản thân mình không bị xâm phạm, tầng lớp đặc quyền Đảng Cộng sản Liên Xô thường ra sức cản trở cải cách; thứ hai, không phải tất cả cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô đều trở thành tầng lớp đặc quyền, những cán bộ hết lòng hết sức vì lợi ích của Đảng và Nhà nước như Kosygin, Kirillin vẫn còn tồn tại, đáng tiếc là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, họ lại không chiếm ưu thế.


Xét từ góc độ tâm lý học, khi một người hài lòng với hoàn cảnh của mình, tâm lý trơ ì sẽ xuất hiện, lúc này anh ta sẽ dần dần mất đi tinh thần tiến thủ cơ bản, chứ đừng nói đến lý tưởng vĩ đại gì gì đó! Điều mà anh ta muốn chỉ là làm thế nào để củng cố tất cả mọi thứ mình hiện có, đồng thời hưởng được nhiều đặc quyền hơn nữa. Tầng lớp đặc quyền quan liêu thông thường đều ngồi yên hưởng lạc. Họ xa rời nỗi khổ của quần chúng nhân dân, đương nhiên cũng sẽ không ý thức được tính cần thiết của cải cách. Ngoài ra, do tầng lớp đặc quyền là những người được hưởng lợi vốn có trong xã hội, nên họ ra sức bảo vệ lợi ích mà bản thân đã có được, chứ không chịu tiến hành cải cách. Đồng thời, do tầng lớp đặc quyền đều là cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô nắm giữ quyền lực, ý chí của họ thường trở thành ý chí của Đảng và Nhà nước, từ đó dẫn đến việc hình thành phong cách bảo thủ trong thời kỳ Brezhnev. Trong suốt 18 năm Brezhnev cầm quyền, xã hội Liên Xô dần dần rơi vào trì trệ. Căn nguyên lớn nhất tạo ra cục diện trì trệ này chính là thể chế kinh tế chính trị tập trung cao độ. Nhưng tại sao lại không cải cách thể chế này? Bởi vì muốn tiến hành cải cách thể chế này, trước hết phải giảm bớt quyền lực, do đó tác động trực tiếp đến lợi ích của tầng lớp đặc quyền, mà đây lại là điều mà tầng lớp đặc quyền không thể cho phép. Xuất phát từ lợi ích của bản thân, tầng lớp đặc quyền quan liêu chỉ chú ý bảo vệ quyền lực và đặc quyền của bản thân, ngoài ra, họ chẳng hề quan tâm đến bất kỳ sự việc nào. Thế nên, thập niên 1970 mặc dù Đảng và Chính phủ Liên Xô thông qua rất nhiều quyết sách thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đồng thời xét về nội dung, những quyết sách này phần lớn là hợp thời, nhưng phần lớn lại không được quán triệt thực hiện thực sự, điều này có quan hệ trực tiếp với thái độ qua loa, tắc trách mà tầng lớp đặc quyền quan liêu áp dụng. Thập niên 1970, xã hội Liên Xô tương đối bình lặng, nhưng kiểu bình lặng này "là trì trệ bình lặng, lúc đó vấn đề chưa được giải quyết mà bị gác lại, rủi ro không ngừng tích tụ lại"1 (Roy Medvedev: Cá nhân và thời đại - Chân dung chính trị Brezhnev, Sđd, tr.13). Vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, khi cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba lan rộng trên toàn thế giới, địa vị bá quyền của Mỹ bị giảm sút, chính là thời kỳ rất tốt cho cải cách của Liên Xô. Có thể nói, chính vì sự bảo thủ của tầng lớp đặc quyền mà Brezhnev là đại diện đã khiến Liên Xô bỏ lỡ mất cơ hội tốt cho cải cách.


Tình hình về sau đã chứng minh, khi tầng lớp đặc quyền đối mặt với trào lưu cải cách thập niên 1980, họ lại ồ ạt đầu cơ cải cách, về chính trị, kinh tế, xã hội đều biểu hiện thành "phái cấp tiến" cực đoan. Họ lợi dụng cơ hội cải cách, ra sức thổi phồng tư hữu hóa, biến tài sản thuộc sở hữu nhà nước thành tài sản tự, xoay người một cái đã biến thành đại gia. Để giữ chắc khối tài sản kếch sù mà mình cướp đoạt được và giữ địa vị đặc quyền, họ thường trở thành tầng lớp tiên phong đạp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong mắt họ, "cải tổ" đã thành từ đồng nghĩa với việc thay đổi triều đại, nhanh chóng vơ vét của cải cho bản thân.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:32:21 am
III. TẦNG LỚP ĐẶC QUYỀN VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

1. Sự thay đổi về tư tưởng và lập trường của tầng lớp đặc quyền

Như trên đã phân tích, sau khi tầng lớp đặc quyền hình thành, tư tưởng và lập trường của họ cũng định hình theo. Đặc trưng lớn nhất của họ là duy trì hiện trạng. Để bảo vệ lợi ích đã có của bản thân, tầng lớp đặc quyền chỉ lo sợ quyền lực của họ bị đe dọa, vì thế ngăn trở bất kỳ cuộc cải cách nào có ý đồ thay đổi hiện trạng. Đặc trưng này của tầng lớp đặc quyền được biểu hiện hết sức rõ rệt vào thời kỳ của Brezhnev. Sau khi Brezhnev qua đời, đặc trưng này của họ tiếp tục được kéo dài. Sau khi Andropov lên cầm quyền, ông đã nhanh chóng thể hiện phong cách chính trị với ý chí cải cách đầy kiên quyết, đả kích tham nhũng hủ bại, tăng cường kỷ luật lao động, tiến hành khoán tập thể trong nông nghiệp và thử nghiệm tăng cường quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong công nghiệp. Các biện pháp cải cách này của Andropov đã đụng đến lợi ích của một bộ phận trong tầng lớp đặc quyền, vì thế dẫn đến sự phản đối của họ. Andropov lại ốm đau liên miên, cơ thể suy nhược, nên chưa kịp triển khai kế hoạch to lớn này đã qua đời vào tháng 2 năm 1984, thời gian cầm quyền chỉ vẻn vẹn 1 năm 4 tháng. Sự ra đi của Andropov là mất mát to lớn đối với sự nghiệp cải cách của Liên Xô, nhưng đối với tầng lớp đặc quyền lại là một chuyện đáng ăn mừng, bởi vì điều này có nghĩa là đời sống đặc quyền của họ lại có thể tiếp tục. Vị Tổng Bí thư lên nắm quyền sau Andropov lại là Chernenko - một người vừa không có tài cán, vừa tuổi cao nhiều bệnh, mục tiêu chính trị của ông là duy trì hiện trạng, điều này lại vô tình trùng khớp với ý nguyện của tầng lớp đặc quyền. Tuy vậy, Chernenko cũng chỉ nắm giữ chức vụ Tổng Bí thư trong 13 tháng, đến tháng 3 năm 1985 lâm bệnh rồi qua đời, kế nhiệm là Gorbachev trẻ tuổi. Đối với tầng lớp đặc quyền, thời kỳ Gorbachev là một thời kỳ thay đổi quan trọng.


Sau khi Gorbachev lên nắm quyền, đặc biệt là sau khi ông đưa ra con đường "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", tư tưởng và lập trường của tầng lớp đặc quyền dần dần thay đổi. Nếu nói trước đây họ sẽ tìm trăm phương nghìn kế để duy trì hiện trạng, phản đối cải cách để bảo vệ lợi ích đã có của mình, thì hiện tại ngày càng có nhiều kẻ đặc quyền bắt đầu nghĩ đến việc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi vì chỉ có chuyển quyền lực trong tay thành tư bản, họ mới có thể một lần vất vả mà chiếm hữu được nó mãi mãi. Không chỉ chiếm hữu, mà còn có thể gia tăng giá trị, hơn nữa chuyển được tài sản cho con cháu. Cái gọi là "cải tổ" mà Gorbachev tiến hành đã đưa đến khả năng cho tầng lớp đặc quyền, còn nguyện vọng này của tầng lớp đặc quyền ngược lại lại trở thành điều kiện để Gorbachev tiến hành con đường của mình. Nói cách khác, tầng lớp đặc quyền đã trở thành cơ sở vật chất và lực lượng xã hội để Gorbachev thực hiện con đường tư bản chủ nghĩa.


Tất nhiên, diễn biến của tư tưởng và lập trường của tầng lớp đặc quyền có cả một quá trình. Sau khi Gorbachev lên cầm quyền, rất nhanh chóng đã bày tỏ chí hướng tiến hành "cải tổ" thể chế kinh tế hiện hành. Cải tổ kinh tế của ông khi bắt đầu mặc dù không đưa ra khái niệm kinh tế thị trường hiện đại, nhưng dồn sức vào mở rộng quyền lực của doanh, nghiệp, làm giảm bớt quyền lực kinh tế của cơ quan quản lý hành chính các cấp, nhằm loại bỏ sự trói buộc của thể chế mệnh lệnh hành chính đối với sự vận hành của nền kinh tế. Nguyên tắc và biện pháp như vậy tất nhiên sẽ làm suy giảm sức kiếm soát của tầng lớp đặc quyền đối với doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc làm địa vị quyền lực của họ bị suy yếu. Nếu tiến hành cải cách thực sự, có nghĩa là thay đổi cơ quan quản lý vốn có và phân phối lại tài nguyên xã hội, điều này có thể làm lợi ích vốn có của tầng lớp đặc quyền bị đe dọa.


Vốn dĩ, Gorbachev dự định thông qua cải tổ trong lĩnh vực kinh tế để nhanh chóng bồi dưỡng lực lượng chính trị mới trung thành với mình, tức là bồi dưỡng một tầng lớp đặc quyền mới thay thế tầng lớp đặc quyền hiện có. Kết quả là, do sự phản kháng của tầng lớp đặc quyền vốn có nền tảng xã hội vững vàng, đặc biệt là bởi vì bản thân Gorbachev cũng là một phần tử của tầng lớp đặc quyền, nên ý đồ này chưa kịp thực hiện thì cải tổ kinh tế đã thất bại.


Thế là, bắt đầu từ năm 1988, tư tưởng và lập trường của những vị lãnh đạo chủ chốt; mà đại diện là Gorbachev, Yeltsin đã dần dần thay đổi. Họ bắt đầu nghiêng về khuynh hướng thay đổi triệt để "hiện trạng". Tuy nhiên, khuynh hướng mà họ nghiêng theo không phải là cải cách theo hướng xã hội chủ nghĩa nữa, mà là nghiêng theo "thay đổi phương hướng", cũng tức là thông qua thay đổi để đi lên con đường tư bản chủ nghĩa. Gorbachev ra sức thúc đẩy cải tổ chính trị, đặc biệt đã đưa ra cái gọi là "con đường xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo", đây chính là tiêu chí và biểu hiện của chuyển biến này.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:33:04 am
Trước tình hình này, tầng lớp đặc quyền trong Đảng bắt đầu suy nghĩ về lối thoát mới. Trước hết, họ biết, đặc quyền của họ đã không thể tồn tại với cái mặt nạ cũ, muốn tiếp tục duy trì những đặc quyền này, bắt buộc phải làm cho đặc quyền của bản thân thay hình đổi dạng. Những kẻ đặc quyền nhận ra, chế độ tư bản chủ nghĩa là chế độ thích hợp nhất để che đậy đặc quyền của họ, họ âm mưu lợi dụng trực tiếp một loạt nguyên tắc về quyền bảo hộ tư hữu của chủ nghĩa tư bản, nhằm làm cho lợi ích và đặc quyền vốn có của bản thân vẫn có thể tiếp tục, dùng sự thay đổi của chế độ xã hội để đổi lấy "tính hợp pháp" của đặc quyền cá nhân. Tiếp theo, trong khuôn khổ lòng tin, quan niệm và chế độ tương ứng của chủ nghĩa xã hội vốn có, số lượng tài sản kếch sù mà tầng lớp đặc quyền cướp đoạt được về nguyên tắc đều là của nhân dân, là tài sản công hữu, chứ không phải là của cá nhân họ; chế độ xã hội vốn có trói buộc hành vi của họ, làm sự cướp đoạt quyền lực và tài sản của họ cũng không thể không có giới hạn. Thập niên 80 là thời kỳ xã hội hỗn loạn và bất đồng quan điểm, họ vừa ra sức làm cho chiếm hữu của họ được tư hữu hóa một cách hợp pháp, đồng thời cũng để hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt tài sản nhà nước của họ. Thực hiện mục tiêu này chỉ có một con đường, đó chính là thúc đẩy thay đổi chế độ chính trị, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, tầng lớp đặc quyền không ngần ngại gỡ bỏ mặt nạ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội, chủ trương đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, cùng với tiến hành cải tổ chính trị, tầng lớp đặc quyền cũng nhận ra rằng, một loạt nguyên tắc và chính sách vốn có của chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô đã dần mất đi sức hấp dẫn trong lòng quần chúng nhân dân, đối với cá nhân họ mà nói, cái gọi là tin tưởng vốn luôn ở cửa miệng họ và vòng hào quang người cộng sản mang trên người họ đều đã mất đi giá trị lợi dụng, thế là họ đành vứt những thứ này sang một bên, đi tìm kiếm tư tưởng và chế độ mới có thể duy trì đặc quyền vốn có của họ và giành được những đặc quyền mới. Cuối cùng, diễn biến tư tưởng này của tầng lớp đặc quyền cũng là một quá trình. Cùng với những vấn đề càng ngày càng nghiêm trọng mà cải tổ của Gorbachev mang lại, địa vị của tầng lớp đặc quyền không ngừng thay đổi, những người chủ trương đi con đường tư bản chủ nghĩa trong số họ cũng ngày càng đông. Cùng với sự thay đổi không ngừng của tình hình, đặc biệt là sự hỗn loạn của tình hình kinh tế, các kênh để tầng lớp đặc quyền đang nắm giữ quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cũng càng ngày càng nhiều. Cùng với sự gia tăng không ngừng của tài sản cá nhân, nỗi lo lắng của tầng lớp đặc quyền đối với tài sản và địa vị của bản thân cũng ngày càng tăng. Họ rất sợ những lợi ích mà họ giành được trong tình cảnh hỗn loạn này có thể bị truy cứu theo kỷ luật của Đảng Cộng sản Liên Xô và nguyên tắc công bằng của chủ nghĩa xá hội Liên Xô. Đồng thời, bản tính tham lam của họ cũng khiến họ quyết định hoàn toàn không chịu dừng ở đó, thậm chí còn hy vọng làm cho địa vị quyền lực và tài sản vật chất của bản thân tiếp tục tăng lên. Thế là, tầng lớp đặc quyền tích cực tìm cách giữ vững những tài sản này. Họ đã chuyển hướng sang con đường tư bản chủ nghĩa. "Rất nhiều thành viên của tập đoàn đặc quyền hiển nhiên đã không còn tin vào ý thức hệ chính thống, xuất phát từ lợi ích cá nhân, khi xã hội này đối mặt với thời khắc then chốt nên đi về đâu, thì họ đã hướng về chủ nghĩa tư bản. Quá độ lên chủ nghĩa tư bản làm cho họ không chỉ có thể quản lý tư liệu sản xuất, mà còn có thể có được tư liệu sản xuất, hơn nữa có thể công khai tích lũy tài sản cá nhân kếch sù. Ngoài việc nâng cao đời sống vật chất tuyệt đối và tương đối của họ ra, họ còn có thể trực tiếp chuyển địa vị của bản thân cho con cháu, không cần phải dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân như trong chế độ cũ nữa"1 ([Mỹ] David Kotz: "Liên Xô: Quá độ từ chủ nghĩa xã hội cải tổ sang chủ nghĩa tư bản", Trào lưu tư tưởng đương đại số 2, 1994). Kết quả điều tra xã hội cũng đã chứng minh cho những thay đổi tư tưởng và lập trường chính trị của tầng lớp đặc quyền quan liêu. Một bản điều tra vào tháng 6 năm 1991 cho thấy, trong đội ngũ cán bộ cao cấp Đảng Cộng sản Liên Xô, 76,7% đã nhận thấy nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, chỉ có 12,3% ủng hộ cải cách dân chủ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, số người giữ thái độ khẳng định đối với mô hình chủ nghĩa xã hội trước cải tổ chỉ có 9,6%1 ([Mỹ] Tham khảo David Kotz: "Nguyên nhân tan rã của Liên Xô", Trào lưu tư tưởng đương đại, số 5, 2000). Theo quan sát của học giả người Mỹ David Kotz, "Trừ thị trưởng thành phố Saint Peterburg là Anatoly Sobchak ra, tất cả những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản trước đây đều là quan chức cao cấp trong tập đoàn đặc quyền chính trị kinh tế". Còn Yeltsin chính là "lãnh tụ của những người coi chủ nghĩa tư bản là lối thoát tốt nhất của bản thân trong tập đoàn đặc quyền cũ"2 (Trên đây đều tham khảo [Mỹ] David Kotz: "Liên Xô: Quá độ từ chủ nghĩa xã hội cải tổ sang chủ nghĩa tư bản", Trào lưu tư tưởng đương đại, số 2, 1994).


Thời kỳ Brezhnev có một bộ phận phần tử đặc quyền hướng đến chế độ tư bản chủ nghĩa về tư tưởng, nhưng họ rốt cuộc cũng chỉ là số rất ít người trong tầng lớp đặc quyền; đến thời kỳ Gorbachev cầm quyền, trong bối cảnh càng ngày càng hỗn loạn, trong tập thể có thế mạnh nắm giữ quyền lực của tầng lớp đặc quyền, ngày càng nhiều người chủ trương từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mô hình Liên Xô, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mô hình phương Tây. Nhưng một điều hết sức rõ ràng là, sự thay đổi tư tưởng và lập trường của tầng lớp đặc quyền hoàn toàn không phải là vì tiền đồ của đất nước và lợi ích của nhân dân, mà là để bảo vệ lợi ích vốn có của bản thân họ và tiếp tục giành lấy lợi ích lớn hơn nữa, vì thế kiểu thay đổi này của tầng lớp đặc quyền chỉ có thể gây nguy hại cho sự phát triển lành mạnh của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết.


Mấy chục năm trước, sau khi thất bại trong cuộc đấu tranh quyền lực với Xtalin, Trotsky đã từng đưa ra một vần đề nghiêm túc: trong thể chế lúc đó ở Liên Xô đã hình thành một tầng lớp quan liêu; họ không thể thỏa mãn đặc quyền về tiêu dùng, luôn ra sức trở thành người hữu sản tức là giai cấp tư sản; họ còn ra sức giữ đặc quyền của mình cho con cháu. Phân tích của Trotsky hiển nhiên nói quá sự thực, không thích hợp với Liên Xô thời kỳ Xtalin, nhưng nếu chúng ta xem đó là một lời tiên tri, thì thực sự thời kỳ Gorbachev lại không may đã ứng nghiệm với lời tiên tri này. Chính dưới sự dẫn dắt của tầng lớp đặc quyền Đảng Cộng sản Liên Xô, công cuộc cải tổ của Liên Xô đã đổi hướng, không thể không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:34:10 am
2. Tầng lớp đặc quyền gấp rút mưu cầu tư lợi

Sáu năm cầm quyền của Gorbachev là sáu năm tình hình xã hội của Liên Xô liên tục rối ren. Đặc biệt là sau khi bước vào cải tổ chính trị, ở Liên Xô đã xuất hiện sự hỗn loạn cả về kinh tế, chính trị và tư tưởng. Sự rối ren của tình hình xã hội đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân, nhưng lại hết sức có lợi đối với tầng lớp đặc quyền đang nắm giữ quyền lực, bởi vì tình hình hỗn loạn có lợi cho họ tiến hành đầu cơ mới, họ có thể nhân lúc hỗn loạn, lợi dụng lỗ hổng của thể chế vốn có và khiếm khuyết mới do cải tổ tạo nên mà không ngừng giành lấy lợi ích cá nhân mới, vơ đầy túi tham. Thời kỳ Gorbachev chính là thời kỳ quan trọng mở rộng bản tính xấu xa, vơ vét của cải điên cuồng và gấp rút giành giật quyền lực mới của tầng lớp đặc quyền.


Do những khiếm khuyết trong thể chế xã hội chủ nghĩa Liên Xô, trong tình hình hỗn loạn, tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô nắm giữ quyền lực cũng có thủ đoạn biến tài sản của nhà nước và xã hội thành của riêng mình. Bởi vì dưới chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa Liên Xô, tất cả tài sản về danh nghĩa đều thuộc sở hữu nhân dân, nhưng nhân dân lại không có quyền phân phối trực tiếp những tài sản này. Về danh nghĩa, cán bộ các cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô không có quyền sở hữu độc lập đối với những tài sản này, nhưng trong chế độ Liên Xô, là người lãnh đạo các cấp, trên thực tế lại có quyền phân phối số tài sản này. Như vậy, tầng lớp đặc quyền nắm giữ quyền lực đã ở vào một địa vị hết sức có lợi. Trong thời kỳ hỗn loạn, cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô cũng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, lúc này tầng lớp đặc quyền có thể dùng danh nghĩa cải tổ biến quyền phân phối của cá nhân thành quyền sở hữu cá nhân.


Cải tổ chính trị và kinh tế của Gorbachev đã đem đến cơ hội chưa từng có để tầng lớp đặc quyền biến quyền phân phối thành quyền sở hữu. Tranh thủ một loạt sự hỗn loạn do cải tổ không có bài bản của Gorbachev gây ra, tầng lớp đặc quyền ra sức vơ vét tư lợi cho cá nhân, đặc biệt là những người trực tiếp quản lý tài sản của doanh nghiệp, họ nhân lúc Nhà nước nới lỏng quyền lực kinh tế cho họ, lợi dụng quyền phân phối và quyền quản lý, ra sức chiếm hữu tài sản quốc gia, từ đó biến thành "giai cấp tư sản nhà nước". "Trong thời gian cải tổ, đặc biệt là năm 1988, tình hình bắt đầu có sự thay đổi. Việc thông qua 'Luật doanh nghiệp', 'Luật cho thuê', 'Luật hợp tác xã' đã bật đèn xanh cho sự quan liêu kinh tế hơn nữa tạo nền tảng để quyền chiếm hữu tài sản nhà nước tập trung vào trong tay các chủ doanh nghiệp, chủ xưởng... Điều muốn nói ở đây không phải là phong trào hợp tác xã thông thường do "tầng lớp" dân chúng đề xướng, mà do người làm, là hợp tác xã, nông trường gia đình, v.v... do những kẻ quan liêu dựng lên một cách phi pháp"1 ([Nga] Simoniya: "Về nước Nga và chủ nghĩa tư bản quan liêu thế giới thứ ba", trích dẫn và biên soạn từ "Học giả Nga bàn về chủ nghĩa tư bản quan liêu của nước Nga", Động thái lý luận nước ngoài, 1997, số 1G. tr.76). Theo trình tự thời gian cải tổ kinh tế của Gorbachev, những thủ đoạn giành giật tư lợi cũng không ngừng thay đổi: Trước hết, thời kỳ đầu cải tổ, nhân lúc thành lập doanh nghiệp chung vốn, một vài cán bộ nếm thấy vị ngọt ngào; sau đó trong cải tổ doanh nghiệp "tự bỏ vốn, tự hạch toán, tự chịu lỗ lãi", tầng lớp đặc quyền giữ lại quyền lực, tích cực dấn thân vào "kinh tế bong bóng", trở thành "nhà tư bản đỏ"; sau đó cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản ra tay, trong giao dịch chứng khoán và giao dịch có kỳ hạn đã kiếm được lợi lớn, một khoản tiền lớn lộ diện; cuối cùng trong tình hình hỗn loạn, ra sức giao dịch tiền và quyền, giành được ưu đãi và quota xuất khẩu, ra sức xuất khẩu nguyên vật liệu và vũ khí đạn dược; một vài người còn mở ngân hàng và đầu tư chứng khoán, biến tài sản nhà nước thành của mình2 (Tham khảo Trương Thụ Hoa: "Tư hữu hóa là họa hay là phúc?" - Nhìn xuyên cải cách hợp tác Nga, Nxb. Khoa học kinh tế , 1998, tr.61). Như vậy, tầng lớp đặc quyền thông qua nhiều thủ đoạn, biến quyền phân phối tài sản nhà nước trước đây thành quyền sở hữu thực tế, nhiều cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước lợi dụng các loại quyền lực mà họ nắm giữ trong tay "đánh cắp tài sản trên con tàu xã hội đang chìm, chuyển 'vốn quan chức' từ tài khoản của Đảng sang doanh nghiệp liên doanh với phương Tây, doanh nghiệp đáng nghi ngờ"3 (Đây là lời của Sobchak, trích dẫn từ Lục Nam Tuyền (chủ biên): Bàn về lịch sử hưng vong của Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2002, tr.790). Được biết, trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1991 trước khi Liên Xô giải thể, tại biệt thự của cháu gái Brezhnev đã tổ chức tiệc tối vào cuối mỗi tuần, tham gia bữa tiệc đều là những nhà doanh nghiệp kiểu mới. Điều đáng chú ý là những người này đều là những cán bộ cấp cao trước đây, bao gồm cháu trai của Suslov, cháu gái của Brezhnev, họ đều có xe hơi sang trọng và biệt thự riêng của mình.


Tóm lại, cải tổ hỗn loạn của Gorbachev đã đem đến cơ hội tốt nhất cho tầng lớp đặc quyền mưu cầu tư lợi. Họ chuyển tài sản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của tập thể vào trong tay mình, dựa vào quyền lực và quan hệ mở các loại công ty, trở nên đại phát tài. Một vị nguyên Bí thư Khu ủy Đảng Cộng sản Liên Xô nói, trước khi ông ta trở thành nhà doanh nghiệp, không có chút vốn nào, nhưng "quan hệ cũ trong cơ quan của Đảng còn quan trọng hơn cả số vấn 500.000 rúp"1 (Lưu Khắc Minh tuyển tập, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1999, tr.111). Năm 1991, chiếm đa số trong hàng trăm nghìn đại gia của Mátxcơva vốn đều là cán bộ Đảng và Nhà nước. Nikolai Baibakov, người được xếp ở vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng 50 nhà doanh nghiệp tư nhân có ảnh hưởng nhất nước Nga tháng 6 năm 1994, đã từng liên tục đảm nhiệm vị trí Chủ tịch ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Xô từ năm 1965 đến năm 1985. Mọi người đều biết, một số ông trùm tài chính tiền tệ nổi tiếng của Nga đều từng là quan chức cao cấp thời kỳ Liên Xô: Chủ tịch tập đoàn dầu khí Yukos, ông Khodorkovsky bị Tổng thống Nga Putin bắt giữ năm 2004, đã từng làm Bí thư Thành Đoàn thanh niên Mátxcơva thời kỳ Liên Xô vào thập niên 80 của thế kỷ XX; ông Potanin, Chủ tịch tập đoàn Onexim, trước khi Liên Xô giải thể từng làm việc ở Bộ Kinh tế  đối ngoại; ông Alekparov, Chủ tịch tập đoàn dầu mỏ Lukoil, đã từng làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp xăng dầu khí đốt Liên Xô năm 1990, năm 1991 lên làm Bộ trưởng. Ông Pyotr Aven, Chủ tịch tập đoàn Alfa, từng đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Kinh tế Thương mại đối ngoại của chính phủ Gaidar, trợ thủ của ông từng giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Xô. Ông trùm tài chính Berezovsky xuất thân là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, đã từng làm việc tại Xưởng chế tạo xe hơi Volga nổi tiếng của Liên Xô. Trong thời gian Gorbachev "cải tổ", ông ta cùng với Kadannikov, Giám đốc Xưởng chế tạo và hãng Logosystem của Italia góp chung vốn, lập ra Công ty Logovas, rồi vào năm 1989 chuyển đổi thành AvtoVAZ JSC do Kadannikov làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Berezovsky làm Tổng Giám đốc1 (Tham khảo Hoàng Lập Phát: Nghiên cứu các tầng lớp xã hội Liên Xô và đột biến của Liên Xô, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2006, tr.417 - 419). Dựa theo tài liệu do tổ đề tài gồm một học giả người Mỹ và một số học giả Đông Âu cung cấp, trong số các ngôi sao kinh tế Nga sau khi Liên Xô giải thể, có 52,6% là "quan chức quyền quý" của Liên Xô vào năm 1988, 33,4% là "các quan chức khác" của Liên Xô vào năm 1988. Những tài liệu này đã chứng minh đầy đủ rằng, sự cướp đoạt tài sản quốc gia của tầng lớp đặc quyền Liên Xô là rất rõ ràng và trắng trợn. Chính tầng lớp đặc quyền này đã ra sức thúc đẩy sự chuyển biến của đất nước sang chủ nghĩa tư bản, nhằm chuyển đổi tài sản mà họ đã nắm trong tay trở thành hợp pháp.


Nhân lúc cục diện của Liên Xô hỗn loạn, tầng lớp đặc quyền không chỉ mưu cầu giành lợi ích kinh tế to lớn, mà còn mưu cầu giành lợi ích chính trị lớn lao. Nhìn bề ngoài, biến cố Liên Xô là "cách" cái "mạng" (lấy mạng - ND) của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô bị cấm và giải tán. Trong tình huống này, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây phải là đối tượng của cuộc cách mạng này. Nhưng trên thực tế, chính là tầng lớp đặc quyền trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đã đạo diễn cuộc "cách mạng" này, chính là những "người cộng sản" này trước tiên đã "cách" đi cái "mạng" của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, cuối cùng cũng "cách" luôn cả "mạng" của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong quá trình diễn ra biến cố Liên Xô và sau biến cố, họ không chỉ trở thành cổ đông của các ngân hàng, các công ty lớn, chủ tịch hội đồng quản trị của các doanh nghiệp lớn, mà còn có địa vị cao, tiếp tục kiểm soát chính quyền nhà nước. Xem xét một cách tỉ mỉ, nước Nga sau biến cố của Liên Xô, ngoại trừ việc nhân vật ở trên đỉnh của kim tự tháp quyền lực có thay đổi, cán bộ ở các cấp khác đa phần đểu là những gương mặt cũ. Nếu nhìn vào các cơ quan quyền lực ở những nước Cộng hòa Xô viết cũ, gương mặt ở đỉnh tháp quyền lực thậm chí còn không có gì thay đổi, chỉ là về mặt danh xưng thì tên gọi "Bí thư" trước đây, nay được đổi thành "Tổng thống". Tất nhiên, Tổng thống lúc này đã trở thành người lãnh đạo tối cao của những quốc gia mới độc lập này.
   Nước Nga thời đại Yeltsin, đa số cán bộ trong các cơ quan nhà nước vẫn là tầng lớp đặc quyền thời kỳ Liên Xô. Họ thay tên đổi họ, từ "công bộc" trong chủ nghĩa xã hội trước đây trở thành "người cầm lái" trong chủ nghĩa tư bản. Theo thống kê, tỷ lệ tầng lớp quyền quý cũ trong tầng lớp tinh hoa của xã hội mới lần lượt là: tầng lớp lãnh đạo tối cao 75%; đứng đầu các chính đảng 57,2%; lãnh đạo Nghị viện 60,2%; cơ quan Chính phủ 74,3%; lãnh đạo địa phương 82,3%; doanh nghiệp tiêu biểu 41%. Tầng lớp quyền quý cũ này chắc chắn là tầng lớp đặc quyền trước đây. Đến thời kỳ Yeltsin, tầng lớp đặc quyền này không chỉ vẫn nắm giữ chính quyền, đồng thời lúc này, họ đã hợp pháp hóa khối lượng tài sản lớn mà họ chiếm được một cách phỉ pháp và giành được quyền công khai có tài sản. Có thể nói, họ đã thật sự có được cả quyền lẫn tiền. Đối với vấn đề về tính hợp pháp của nguồn gốc tài sản của những người này, thời kỳ Yeltsin hoàn toàn không tiến hành bất kỳ sự truy xét nào. Không chỉ về chính trị mà cả về kinh tế Yeltsin đều xem những người này là lực lượng quan trọng đối với bản thân. Từ đó cho thấy, tầng lớp đặc quyền đã có ý thức, có mục đích để thúc đẩy biến cố Liên Xô. Nhìn từ góc độ này, cách nói của ông Forde, một người Mỹ phụ trách tổ chuyên nghiên cứu các vấn đề của Nga, có tính hợp lý nhất định. Ông nói: "Đảng Cộng sản Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình"1 (Trích dẫn của Quý Chính Cự: "Tầng lớp quyền quý với tham nhũng của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự sụp đổ của nó", tạp chí Vấn đề chủ nghĩa xã hội thế giới đương đại, 2001, số 4, tr.67).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:35:04 am
3. Sự công khai phản bội Đảng và Nhà nước của tầng lớp đặc quyền

Như đã nói ở trên, tầng lớp đặc quyền trên thực tế hoàn toàn không có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, họ đặt lợi ích của bản thân cao hơn tất cả mọi thứ. Khi họ phát hiện ra rằng, niềm tin trước đây dù chỉ là lời nói đầu lưỡi cũng trở thành trở ngại với mưu cầu lợi ích cá nhân của họ, thì họ liền không ngần ngại bỏ hết sang một bên, theo đuổi lợi ích cá nhân một cách trần trụi.


Với sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân, đến cuối thời Gorbachev cầm quyền, tầng lớp đặc quyền dần dần đã công khai phản bội lại Đảng và Nhà nước Liên Xô, những hành vi phản bội này của họ đã trực tiếp thúc đẩy biến cố Liên Xô.


Biến cố Liên Xô có thể chia ra làm 3 tiến trình. Một là, diễn biến từ chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô sang chế độ tư bản chủ nghĩa; hai là, Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi địa vị cầm quyền; ba là, các nước Cộng hòa Xôviết giải thể. Sự phản bội lại Đảng và Nhà nước Liên Xô của tầng lớp đặc quyền đều được thể hiện hết sức rõ rệt trong cả ba tiến trình này.


Trước hết, nhìn lại quá trình diễn biến từ chủ nghĩa xã hội Liên Xô sang chủ nghĩa tư bản. Tầng lớp đặc quyền đã phát huy vai trò then chốt trong quá trình diễn biến này, đồng thời chiếm trọn lợi ích trong quá trình này. Với sự thúc đẩy "con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" của Gorbachev, những người có khuynh hướng đi con đường tư bản chủ nghĩa trong tầng lớp đặc quyền ngày càng nhiều, đồng thời dần dần chiếm ưu thế. Tầng lớp này chủ trương từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô một cách toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa kiểu phương Tây. Vì thế, họ thúc đẩy Liên Xô về kinh tế thực hiện tư hữu hóa cả gói, về chính trị thực hiện chế độ đa đảng. Dưới sự dốc sức thúc đẩy của tầng lớp đặc quyền, mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô cuối cùng đã sụp đổ toàn diện. "Nguyên nhân thật sự của việc Liên Xô giải thể là từ nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, tôi nói ở đây là "tập đoàn tinh hoa", giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, khoảng 100.000 người. Chính tập đoàn này muốn thực hiện chủ nghĩa tư bản, để họ hưởng được quyền lực lớn hơn nữa, có được tài sản nhiều hơn nữa"1 ([Mỹ] David Kotz: "Nguyên nhân tan rã của Liên Xô", Trào lưu tư tưởng đương đại, số 5, 2000). Rất rõ ràng rằng, tầng lớp đặc quyền đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy Liên Xô đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.


Thứ hai, nhìn lại những biểu hiện của tầng lớp đặc quyền trong quá trình Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi địa vị cầm quyền. Có thể nói, chính những hành vi của họ đã khiến cho thanh danh của Đảng Cộng sản Liên Xô bị hủy hoại ở mức nghiêm trọng nhất, cuối cùng họ, lại vứt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô, làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ. Vốn dĩ, trước khi Gorbachev cầm quyền, chính sự xuất hiện của tầng lớp đặc quyền đã làm cho thanh danh của Đảng Cộng sản Liên Xô bị hủy hoại nghiêm trọng. Chẳng qua lúc đó, những hành vi dùng quyền lực để tư lợi của tầng lớp đặc quyền vẫn chỉ diễn ra ngấm ngầm, bộ máy tuyên truyền chính thống của Liên Xô đa phần đều che giấu, né tránh, chỉ đưa tin tốt không đưa tin xấu, nên mặc dù Đảng Cộng sản Liên Xô bị tầng lớp đặc quyền làm cho ô nhiễm, nhưng trong lòng quần chúng nhân dân vẫn giữ được hình tượng tốt đẹp. Nhưng sau khi Gorbachev đưa ra "con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", tầng lớp đặc quyền đã gấp rút dùng quyền lực để tư lợi, công khai chiếm đoạt tài sản công, làm cho quần chúng nhân dân căm giận. Do Đảng Cộng sản Liên Xô không thể tiến hành xử lý và trừng phạt tầng lớp đặc quyền này trong nội bộ của mình, nên quần chúng nhân dân rất tự nhiên trút sự căm giận này lên Đảng Cộng sản Liên Xô, từ đó làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi uy tín trong lòng quần chúng nhân dân. Đến cuối thời Gorbachev cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô về cơ bản đã mất đi thanh danh trong lòng quần chúng nhân dân, hoàn toàn trở thành một đảng đại diện cho tầng lớp đặc quyền. Cũng chính vì vậy, đến năm 1991 khi Đảng Cộng sản Liên Xô bị cấm và giải tán, phản ứng của dân chúng Liên Xô vô cùng bình thản. Đông đảo quần chúng thấy rằng, sự giải tán một đảng như thế là hoàn toàn tự nhiên. Đa số đảng viên bình thường đều bỏ Đảng ra đi. Trào lưu ra khỏi Đảng xuất hiện thời kỳ đó cũng đã chứng minh vấn đề này. Vậy tầng lớp đặc quyền của Đảng lúc này thì sao? Trong lòng họ từ lâu đã không có vị trí của Đảng Cộng sản Liên Xô, họ vốn dĩ chỉ đem danh nghĩa đảng viên của bản thân làm cái mác và cái mũ, lúc này, họ cũng dứt khoát vứt cái mác, cái mũ đó sang một bên, ồ ạt tuyên bố ra khỏi Đảng. Nếu đảng viên bình thường tuyên bố ra khỏi Đảng là thể hiện sự thất vọng của họ đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, thì việc tầng lớp đặc quyền tuyên bố ra khỏi Đảng đã thể hiện bộ mặt thật của họ. Họ vốn dĩ chẳng có cái gọi là niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản gì cả, họ đứng lâu trong Đảng chỉ là vì động cơ chính trị và mưu cầu lợi ích cá nhân. Lúc này, họ nhận ra danh nghĩa đảng viên đã không còn chút tác dụng nào để họ mưu cầu tư lợi nữa, thậm chí có một bộ phận những kẻ đặc quyền còn nhận thức rằng, danh nghĩa đảng viên trong tương lai có thể còn trở thành trở ngại cho họ trong việc tiếp tục mưu cầu tư lợi hơn nữa, vì vậy, lúc đó, họ ồ ạt lựa chọn con đường ra khỏi Đảng. Tóm lại, đến cuối thời Gorbachev cầm quyền, đảng viên bình thường thì vì thất vọng về Đảng mà ra khỏi Đảng, tầng lớp đặc quyền thì vì danh nghĩa đảng viên không còn giá trị lợi dụng mà ra khỏi Đảng. Trong tình hình đó, Đảng Cộng sản Liên Xô đã không thể nào tiếp tục duy trì địa vị cầm quyền được nữa.


Một bộ phận của tầng lớp đặc quyền ra khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô, điều này tất nhiên là nhân tố quan trọng làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ; đồng thời, còn có một bộ phận tầng lớp đặc quyền ở lại trong Đảng lại tích cực hô hào và thúc đẩy thực hiện chế độ đa đảng, cuối cùng làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi địa vị cầm quyền, rồi tới chỗ bị cấm hoạt động và giải tán. Tại Hội nghị toàn thể tháng 2 năm 1990 của Đảng Cộng sản Liên Xô, sau khi tranh luận gay gắt, cuối cùng đã thông qua quyết định sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, xóa bỏ điều khoản liên quan đến địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau này, những người cộng sản Liên Xô trước đây, như Yeltsin, Gorbachev, đã đích thân đứng ra cấm và giải tán Đảng Cộng sản.


Cuối cùng, nhìn lại quá trình giải thể của Liên Xô, nếu chúng ta coi việc Liên Xô giải thể là một quá trình dân tộc, vậy thì cái gọi là "tinh hoa dân tộc" ở đây đã đóng vai trò then chốt. Trong đội ngũ tinh hoa dân tộc của Liên Xô, có một bộ phận tương đối là thành phần tầng lớp đặc quyền có địa vị cao. Cũng chính là bộ phận này đã đảm nhiệm vai trò là người trực tiếp đào mồ sau cùng của Liên Xô, nhà nước xã hội chủ nghĩa đa dân tộc này. Đương nhiên, sự giải thể của Liên Xô có liên quan đến những vấn đề tồn tại lâu dài trong chính sách dân tộc của Liên Xô. Sau khi lên nắm quyền, Gorbachev cực kỳ coi thường vấn đề dân tộc, thêm vào nữa là cục diện hỗn loạn do cải tổ của ông ta gây nên, đã tạo thời cơ rất tốt cho tầng lớp quan liêu đặc quyền trong tinh hoa dân tộc. Theo họ, việc thoát khỏi sự kiểm soát của Liên Xô giúp họ có quyền lực độc lập hơn, càng có lợi hơn cho họ mưu cầu tư lợi. Vì vậy, mặc dù Gorbachev từng bước nhượng bộ, đã làm cho các nước cộng hòa trong Liên bang có được quyền lực lớn hơn, nhưng những người này vẫn không thỏa mãn. "Hiệp ước Belovezh" ngày 8 tháng 12 năm 1991 trên thực tế là tuyên bố sự tiêu vong của Liên Xô. Việc ký kết "Tuyên ngôn Alma Ata" ngày 21 tháng 12 trên thực tế là những tinh anh dân tộc này hoàn thành tiến trình làm Liên Xô tan rã. Từ đó về sau, họ có quốc gia độc lập do tự họ lãnh đạo, tầng lớp đặc quyền quan liêu trong tinh hoa dân tộc càng có thể làm việc theo ý chí cá nhân, thực hiện lợi ích tối đa của bản thân.


Tóm lại, đến cuối thời Gorbachev lên nắm quyền, tầng lớp đặc quyền xuất phát từ lợi ích cá nhân đã phản bội toàn diện Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết, chính họ là những người đào mồ chôn Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết và Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:38:14 am
Chương VI
ĐƯỜNG LỐI TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Đường lối tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô là tư tưởng chỉ đạo và nguyên tắc cơ bản của Đảng Cộng sản Liên Xô trong việc tổ chức đội ngũ nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Đường lối tổ chức là sự bảo đảm thực hiện đường lối chính trị, tuân theo và phục vụ cho đường lối chính trị. Sau khi được quyết định, đường lối chính trị sẽ được thực hiện bởi một số người nhất định. Đường lối chính trị có được thực hiện hay không, kết quả thực hiện ra sao quyết định bởi việc tổ chức những con người này như thế nào, liệu có thể làm cho họ phát huy đầy đủ sức mạnh và hình thành nên một sức mạnh tập thể hay không. Nghệ thuật tổ chức con người chính là đường lối tổ chức.


Lênin từng có câu nói nổi tiếng: "Cho chúng tôi một tổ chức các nhà cách mạng, chúng tôi có thể làm thay đổi hoàn toàn nước Nga"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.6, tr.121). Tổ chức tạo nên sức mạnh. Sau khi xây dựng được một tổ chức như vậy, Lênin lại đưa ra một loạt chế độ và nguyên tắc cho tổ chức đó, trong đó căn bản nhất là chế độ tập trung dân chủ.


I. CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG DÂN CHỦ

Chế độ tập trung dân chủ là một cống hiến lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với lý luận xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân quốc tế. Nguyên gốc tiếng Nga là "демократический центрадизм", có nghĩa là "chế độ tập trung dân chủ". Từ trung tâm là "chế độ tập trung", nhưng "chế độ tập trung" này bắt buộc phải "dân chủ".


1. Nguyên tắc cơ bản của chế độ tập trung dân chủ

Ngay từ thời kỳ đầu xây dựng đảng, trong cuộc đấu tranh tư tưởng với Martov và một số người khác về việc xây dựng đảng, Lênin đã nhiều lần trình bày nội dung tư tưởng liên quan đến chế độ tập trung dân chủ, tuy nhiên vẫn chưa nêu rõ khái niệm "chế độ tập trung dân chủ". Nghị quyết về "cải tổ Đảng" được thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Lao động dân chủ xã hội Nga tổ chức ở Tampere, Phần Lan vào tháng 12 năm 1905 chi rõ: "Đại hội xác định nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ là vấn đề gây tranh cãi, cho rằng cần phải thực hiện chế độ bầu cử rộng rãi, trao cho các cơ quan Trung ương nhất định toàn quyền định hướng tư tưởng và chỉ đạo công tác thực tế đồng thời, các cơ quan Trung ưang có thể bãi miễn, hoạt động của các cơ quan này phải được công bố rộng rãi và cần nghiêm chỉnh tuân thủ chế độ báo cáo công tác"1 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.1, tr.119, 165). Tháng 4 năm 1906, tại Đại hội đại biểu (thống nhất) Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga lần thứ IV diễn ra tại Stockholm, Thụy Điển, Điều 2 "Điều lệ tổ chức" được thông qua theo đề nghị của Bônsêvích quy định: "Mọi tổ chức của Đảng đều được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ"2 (Tổng tập Nghị quyết Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, t.1, tr.119, 165). Đây là lần đầu tiên điều khoản về "chế độ tập trung dân chủ" xuất hiện trong Điều lệ Đảng. Sau này, trong các văn kiện của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang và Đảng Cộng sản Liên Xô đều bảo toàn quy định này. Tháng 7 năm 1920, "'Điều lệ gia nhập Quốc tế Cộng sản" do Lênin khởi thảo có quy định: "Đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản phải được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.254). Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản các nước trên thế giới.


Lênin chỉ rõ: "Chế độ tập trung dân chủ chỉ nói rằng đại biểu các khu vực cùng họp và bầu ra cơ quan phụ trách để tiến hành quản lý". "Chế độ tập trung dân chủ chính là: Đại hội đại biểu kiểm tra công tác của Trung ương, miễn trừ chức vụ của Trung ương và bổ nhiệm Trung ương mới"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.38, tr.290). Mấy chục năm qua, đảng viên các đảng cộng sản đã làm phong phú hơn nội dung của chế độ tập trung dân chủ trong thực tiễn xây dựng đảng, nhưng tư tưởng chỉ đạo của chế độ này vẫn là quy định mà Lênin đề ra năm đó. Tư tưởng chỉ đạo đó chính là: cấp ủy Đảng được lựa chọn thông qua bầu cử, người được chọn có quyền giám sát công việc của cấp ủy và bãi miễn lãnh đạo do cấp ủy bầu; cấp ủy Đảng và thành viên của cấp ủy có nghĩa vụ phải báo cáo công tác trước Đại hội đảng viên hoặc Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu của Đảng, tự giác chấp nhận sự giám sát của đảng viên và tổ chức đảng. Trong nội bộ cấp ủy cần thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo kết hợp với phân công phụ trách.


Nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ của Đảng là giữ gìn sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng, làm cho Đảng ngày càng vững manh. Những nguyên tắc này bao gồm nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan cấp dưới phục tùng cơ quan cấp trên. Việc xác định đường lối chính trị của Đảng đã thể hiện sự thống nhất trong Đảng về tư tưởng chính trị, nhưng sự thống nhất về mặt tư tưởng này cần được củng cố dựa trên sự thống nhất về mặt tổ chức. Chỉ khi uy tín về tư tưởng biến thành uy tín về quyền lực thì nó mới có thể chuyển hóa thành sức mạnh, vật chất. Do đó, nếu không thực hiện những nguyên tắc nói trên, thì không thể tập hợp được sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân tộc thông qua toàn thể đảng viên nhằm thực hiện đường lối chính trị của Đảng.


Nguyên tắc chủ yếu của chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở dân chủ, tức là thiểu số phục tùng đa số trên cơ sở tiếp thu sâu rộng ý kiến của đa số đảng viên. Những nguyên tắc khác của chế độ tập trung dân chủ như tổ chức cấp dưới phục tùng tổ chức cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, cục bộ phục tùng tập thể, v.v. đều được sinh ra từ nguyên tắc này, đều có thể dùng nguyên tắc này để giải thích. Kiên trì nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số chính là căn bản thực hiện chế độ tập trung dân chủ; ngược lại, không tuân theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số chính là căn bản phá bỏ chế độ tập trung dân chủ. Tuân theo ý kiến thiểu số hoặc một cá nhân chuyên quyền độc đoán là không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ. Gọi là "thiểu số phục tùng đa số" có hai ý nghĩa. Một là, chỉ người đảng viên là "thiểu số" trong quần chúng nhân dân cả nước, họ cần phải phục tùng "đa số", chính là quần chúng nhân dân; người đảng viên cần đặt lợi ích cao nhất của nhân dân lên hàng đầu, lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích của nhân dân. Hai là, trong nội bộ một tổ chức, trong một hội nghị ý kiến của thiếu số phải phục tùng ý kiến của đa số, quyết định đưa ra phải dựa trên ý kiến của đa số.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:39:15 am
Nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số không đơn thuần chỉ là một khái niệm về mặt "số lượng". Có thể thực hiện được nguyên tắc này hay không thể hiện ở tính đảng của một đảng viên cộng sản và lập trường của một nhà cách mạng. Lênin nói: "Đối với chúng ta, phải luôn luôn chấp hành ý chí của đại đa số, đi ngược lại ý chí này cũng chính là phản bội cách mạng"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.35, tr.174). Lênin nói thêm: "Không chấp hành ý chí của đa số thì không thể nói đến chuyện tính đảng, thậm chí là căn bản không thể nói đến chuyện hành động chính trị có tổ chức"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.25, tr.421). Kiên trì nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số chính là phủ nhận đặc quyền. Trong hội nghị của Đảng, mỗi một đảng viên cộng sản không phân chức vụ cao thấp đều chỉ có một phiếu biểu quyết. Gọi là "tập trung" chính là tập trung ý kiến của đa số. Chỉ khi tập trung được ý kiến của đa số mới có thể khiến cho nghị quyết đưa ra phù hợp với thực tế mới có thể biến nghị quyết đó thành hành động thống nhất. Nghị quyết đưa ra khi tập trung ý kiến của đa số cũng có thể mắc phải sai lầm nhưng sai lầm này ít hơn, mức độ nhẹ hơn và cũng dễ dàng sửa đối.


Kiên trì nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số đồng thời không phủ nhận quyền được bảo lưu ý kiến của thiểu số. Lênin chỉ ra: "Chế độ tập trung dân chủ và nguyên tắc tự trị của cơ quan địa phương cho thấy sự tự do phê bình phổ biến rộng khắp, chỉ cần không vì điều này mà phá vỡ sự nhất trí về hành động đã được xác định - nó cũng thể hiện rằng không cho phép có bất cứ phê bình nào phá hoại hoặc phương hại đến hành động đã đề ra"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.13, tr.129). Khi tổng kết kinh nghiệm về việc đấu tranh với những người thiểu số Lênin nói: "Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, kinh nghiệm này nhắc nhở chúng ta phải bảo vệ mọi quyền lợi của phái thiểu số, làm cho những bất mãn, oán trách, đấu tranh thường xuyên phát sinh và không cách nào loại trừ được kia không thể biến thành những ồn ào vô lý hay những tranh cãi vô vị diễn ra một cách thô lỗ thường xuyên, mà phải tạo ra một hình thức đấu tranh mới mẻ, chính đáng và hợp lý để bảo vệ niềm tin của mình"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.9, tr.8). Thái độ trong cách đối xử với thiểu số mà Lênin chỉ ra cho đến nay vẫn mang ý nghĩa thực tiễn.


Tôn trọng quyền được bảo lưu ý kiến của thiểu số không phải là bảo vệ hoạt động bè phái. Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức năm 1921 đã thông qua Nghị quyết "Về sự thống nhất của Đảng" do Lênin khởi thảo. Nghị quyết khẳng định "bất cứ hoạt động bè phái nào đều có hại, đều không được phép", bởi vì hoạt động bè phái "tất yếu sẽ làm suy yếu các công việc cần sự đồng tâm hiệp lực, làm cho kẻ địch đã xâm nhập vào nội bộ Đảng cầm quyền không ngừng tăng cường các hoạt động gây chia rẽ Đảng và lợi dụng sự chia rẽ đó để thực hiện những mục đích phản cách mạng", "tuyệt đối không cho phép phát biểu bất cứ điều gì mang tính bè phái". Đại hội đại biểu tuyên bố, không có ngoại lệ nào trong việc giải thể tất cả các bè phái hình thành từ cương lĩnh này hay cương lĩnh kia (ví dụ như Phái đối lập Công nhân, Phái Tập trung dân chủ, v.v.) và mệnh lệnh phải được thi hành ngay lập tức. Hễ ai không chấp hành nghị quyết này của Đại hội đại biểu sẽ ngay lập tức bị khai trừ khỏi Đảng một cách vô điều kiện"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.41, tr.78, 82, 83). Chế độ tập trung dân chủ là một chỉnh thể hữu cơ, dân chủ và tập trung không thế tách rời. Gọi là dân chủ phải là dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung; gọi là tập trung phải là tập trung trên cơ sở dân chủ. Tập trung không dân chủ là tập trung của chủ nghĩa quan liêu, dân chủ không tập trung là dân chủ của chủ nghĩa vô chính phủ và tự do hóa tư sản. Dân chủ và tập trung không phải là một sự kết hợp cứng nhắc với hai nửa riêng biệt. Trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, trong hoàn cảnh khác nhau, tỷ trọng giữa dân chủ và tập trung không giống nhau, phương thức kết hợp cũng khác nhau. Đảng Bônsêvích trong thời kỳ hoạt động bí mật, khi Đảng cần tập trung toàn lực để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh, thì tập trung và kỷ luật chính là những vấn đề được ưu tiên hàng đầu. Ngược lại, trong thời kỳ xây dựng hòa bình, khi Đảng thực hiện nhiệm vụ đòi hỏi kế hoạch chặt chẽ, dân chủ sẽ chiếm vị trí quan trọng hơn.


Lênin không chỉ là người khởi xướng chế độ tập trung dân chủ, mà còn là gương điển hình về thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Chính vì vậy, uy tín của Lênin trong Đảng không ai có thể sánh được. Tuy nhiên, uy tín của Lênin không phải được xác lập dựa trên quyền lực, mà dựa vào chân lý mà Người có và việc Người làm gương chấp hành nghị quyết và kỷ luật của  Đảng. Chức vụ của Người trong Đảng, ngoài vị trí "Ủy viên Trung ương" và "Ủy viên Bộ Chính trị", thì không có chức vụ nào khác làm cho Người có quyền lực đặc biệt. Trong các hội nghị của Đảng, Người cũng giống như các thành viên khác, chỉ có một phiếu bầu. Trong Đảng, Người thường thuộc về phía đa số, nhưng cũng thuộc bên thiểu số không dưới một lần. Dù là thuộc về đa số hay thiểu số, Người đều tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Khi Người thuộc về bên đa số, song song với việc chấp hành nghị quyết đã được thông qua bởi đa số, Người luôn tôn trọng đầy đủ quyền lợi dân chủ của bên thiểu số, cho phép họ được trình bày cụ thể lý do của mình; khi Người thuộc về bên thiểu số, cùng với việc thực hiện nghị quyết đã được thông qua bởi đa số Người cũng cố gắng làm rõ quan điểm của mình, kiên nhẫn thuyết phục những đồng chí có quan điểm khác, cuối cùng giành được sự ủng hộ của đa số. Dưới đây là hai ví dụ minh họa.


Ví dụ thứ nhất liên quan đến vấn đề ký kết "Hòa ước Brest - Litovsk". Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, chính quyền Xôviết phải đối diện với một nước Nga bị chiến tranh tàn phá. Để có được thời kỳ "nghỉ ngơi" nhằm phục hồi kinh tế, cần phải thoát khỏi chiến tranh. Vì vậy, cần nhượng bộ với chủ nghĩa đế quốc, tranh thủ ký kết hòa ước với Đức. Ngày 8 tháng 1 năm 1918, tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng và khi tham dự Hội nghị đại biểu Bônsêvích lần thứ 3 củạ Đại hội đại biểu Xôviết, Lênin đã đưa ra đề cương về việc nhanh chóng ký kết Hòa ước cắt các vùng lãnh thổ đơn độc. Lúc đó, chủ trương của Người không nhận được sự ủng hộ của đa số. Một số cấp ủy địa phương đề nghị cắt đàm phán với Đức. Trong nội bộ Ban Chấp hành Trung ương, Trotsky và Bukharin cũng như những người ủng hộ họ kiên quyết phản đối chủ trương của Lênin. Lênin vừa bác bỏ những ý kiến trái chiều của họ, vừa kiên nhẫn vận động đảng viên, cuối cùng đã nhận được sự ủng hộ của đa số tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ngày 23 tháng 2 năm 1918. Tại Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng diễn ra vào tháng 3 năm đó, dự thảo nghị quyết của Lênin được thông qua. Bukharin vẫn kiên trì lập trường của mình nhưng Lênin không hề áp dụng hình thức kỷ luật của tổ chức. Lênin nói: "Có đồng chí bất đồng sâu sắc với ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc ký kết Hòa ước, trách mắng Trung ương, nhận định chia rẽ là khó tránh, điều này hoàn toàn tự nhiên. Đây đều là quyền lợi vô cùng chính đáng của đảng viên, là điều hoàn toàn có thể hiểu được"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.33, tr.416).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:39:54 am
Ví dụ thứ hai là tại Đại hội đại biểu (thống nhất) lần thứ IV của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga. Nhiều nghị quyết được Hội nghị thông qua đều phù hợp với mong muốn của phái Mensêvích. Trong hội nghị, Lênin đã đấu tranh gay gắt. Sau hội nghị, Lênin với tư cách là đại biểu đã phát hành "Thư gửi toàn Đảng", công khai thể hiện thái độ của phái Bônsêvích: "Chúng tôi cho rằng những nghị quyết của Đại hội là sai, chúng tôi cần và thậm chí là nhất định phải đấu tranh với những nghị quyết này về mặt tư tưởng. Đồng thời, chúng tôi tuyên bố trước toàn Đảng rằng chúng tôi phản đối mọi hành vi chia rẽ, chúng tôi chủ trương tuân theo mọi Nghị quyết của Đại hội. Chúng tôi phản đối việc chống lại Ban Chấp hành Trung ương, và mặt khác, trân trọng sự hợp tác; chúng tôi đồng ý cử những người có cùng tư tưởng với chúng tôi tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương, dù cho họ chỉ chiếm thiểu số trong Ban Chấp hành Trung ương"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.12, tr.362). (Khi ấy, Ban Chấp hành Trung ương có tổng cộng 10 người, phái Bônsêvích chỉ có 3 người).


Khi Lênin còn sống, trong Đảng không có lãnh tụ theo quy định. Hạt nhân lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ưang Đảng. Khi đó, nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương ít, việc tổ chức họp cũng dễ dàng. Trong nội bộ Ban Chấp hành Trung ương thực hiện tập thể lãnh đạo, khi quyết định vấn đề, mỗi một ủy viên đều có quyền phát biểu ý kiến, sau đó bỏ phiếu biểu quyết, rồi thông qua khi đạt đa số phiếu. Mỗi một ủy viên đều chỉ có một phiếu bầu.


Cùng với việc nhấn mạnh tính dân chủ trong Đảng, bao gồm việc bảo vệ quyền lợi của nhóm thiểu số trong Đảng, Lênin cũng nhấn mạnh sự tập trung của Đảng, đặc biệt nhấn mạnh thiểu số phục tùng đa số, một nhóm phục tùng tập thể, không để xảy ra hoạt động bè phái và khuynh hướng vô chính phủ trong Đảng. Lênin đã từng chỉ ra rằng: "Hành động nhất trí, thảo luận và phê bình tự do" là "kỷ luật mà chính đảng dân chủ của giai cấp tiên tiến cần có"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.14, tr.121-122). Đặc biệt là từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, sự can thiệp vũ trang của nươc ngoài và tình hình nội chiến ngày càng xấu đi, các thế lực thù địch trong và ngoài nước dùng mọi thủ đoạn phá hoại sự đoàn kết của Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức..., các tư tưởng giai cấp phi vô sản tràn lan trong Đảng, Lênin đặc biệt nhâh mạnh sự tập trung, đoàn kết và kỷ luật của Đảng. Người nói: "Giai cấp vô sản thực hiện tập trung vô điều kiện và kỷ luật cực nghiêm khắc là một trong những điều kiện cơ bản để chiến thắng giai cấp tư sản". "Ai làm suy yếu đi kỷ luật thép của chính đảng giai cấp vô sản (đặc biệt là trong thời kỳ chuyên chính vô sản) thì người đó thực tế là đang giúp giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.135, 155).


Tháng 3 năm 1919, dưới sự lãnh đạo của Lênin, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VIII. Đại hội đã quyết định thành lập Bộ Chính trị, Ban Tổ chức và Ban Bí thư. Bộ Chính trị gồm 5 ủy viên Trung ương, đưa ra quyết định đối với những vấn đề cấp bách, đồng thời 2 tuần một lần báo cáo toàn bộ công tác của mình cho Ban Chấp hành Trung ương. Ban Tổ chức gồm 5 đồng chí ủy viên Trung ương, chỉ đạo công tác tổ chức của Đảng, mỗi tuần tổ chức ít nhất 2 cuộc họp, hai tuần một lần báo cáo công tác cho Ban Chấp hành Trung ương. Mỗi một ủy viên trong Ban Tổ chức lãnh đạo một ban ngành tương ứng. Ban Bí thư Trung ương bao gồm 1 bí thư thường trực, 1 ủy viên của Ban Tổ chức và 5 bí thư xử lý các vấn đề hằng ngày, báo cáo công tác trước Hội nghị Trung ương hai tuần một lần. Bộ Chính trị, Ban Tổ chức và Ban Bí thư đểu là cơ quan làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, có quyền xử lý các vấn đề cần giải quyết gấp và công việc hằng ngày, đồng thời chịu sự giám sát chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương. Ngoài ra, tất cả vấn đề chính trị và vấn đề tổ chức quan trọng nhất mà không cần giải quyết gấp đều được thảo luận và quyết định tại Hội nghị Trung ương được tổ chức 2 tuần một lần. Trong điều kiện nội chiến xảy ra khi đó, có rất nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết, Đại hội VIII đưa ra quyết định này là hoàn toàn đúng đắn.


Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là sau khi Lênin qua đời, nguyên tắc tập trung dân chủ ngày càng suy yếu và bị phá hoại. Đầu tiên là quyền lực quá tập trung dẫn đến nhiều tổn thất nghiêm trọng; tiếp đến lại xuất hiện hình thức "dân chủ hóa" cực đoan và tự do hóa tư sản, hoạt động bè phái trong Đảng nở rộ, từng bước xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời thực hiện chế độ đa đảng, dẫn đến sự sụp đổ của Đảng sau nhiều năm cầm quyền.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:41:53 am
2. Nguy hại nghiêm trọng của tập trung quá mức đối với nguyên tắc tập trung dân chủ

Sau khi Lênin qua đời, Xtalin trở thành lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang. Tháng 4 năm 1922, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga khóa XI đã tổ chức Hội nghị toàn thể, quyết định xác lập chức vụ Tổng Bí thư. Tại Hội nghị Trung ương 1 khóa XI, Xtalin được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên. Khi đó, Xtalin là người duy nhất nắm giữ cùng lúc 3 chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Tổ chức và Bí thư Ban Bí thư trong Đảng, cũng là người duy nhất kiêm nhiệm 2 chức vụ ủy viên nhân dân trong Chính phủ. Khi bệnh tình của Lênin trở nên nghiêm trọng, bác sĩ khuyên Người nên dừng các công việc để nghỉ ngoi, điều trị, người mà Ban Chấp hành Trung ương cử sang theo dõi việc chữa bệnh cho Lênin lại chính là Xtalin. Trong hoàn cảnh đó lại có sự sắp xếp như vậy, nếu không phải là đề xuất của Lênin, ít nhất cũng có sự đồng ý của Lênin. Việc Xtalin nắm giữ được "quyền lực vô hạn" là kết quả tổng hợp của nguyên nhân khách quan và chủ quan, tính tất yếu và tính ngẫu nhiên, chứ không phải là Xtalin "âm mưu soán quyền". Vị trí của Xtalin trong Đảng ngày càng rõ ràng, đó là sự chuẩn bị về điều kiện tổ chức để sau này ông thể hiện tài năng của mình, cũng là để sau này ông mắc phải sai lầm.


Trong thời kỳ đầu cầm quyền, Xtalin còn tương đối thận trọng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được quán triệt tương đối tốt. Một là, Hội nghị của Trung ương được họp thường kỳ. Trong thời gian 10 năm từ Đại hội đại biểu lần thứ XIII được tổ chức vào tháng 1 năm 1924 đến Đại hội đại biểu lần thứ XVII được tổ chức vào tháng 1 năm 1934 đã tổ chức 4 lần Đại hội đại biểu và 3 lần Hội nghị đại biểu. Năm 1925, khi diễn ra Đại hội đại biểu trù bị lần thứ XIV và thẩm định Điều lệ (sửa đổi) của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Xtalin còn nhấn mạnh: "Đại hội đại biểu định kỳ mỗi năm tổ chức một lần, Ban Chấp hành Trung ương tổ chức Hội nghị Trung ương ít nhất 2 tháng một lần"1 (Woerkege Knopf: Xtalin, Nxb. Tri thức thế giới, 2001/ tr.452). Hai là, kiên trì nguyên tắc tập thể lãnh đạo, tất cả các vấn đề quan trọng đều phải được thảo luận quyết định tại Hội nghị. Cán bộ tham dự cuộc họp được phát biểu tự do, được tranh luận với Xtalin, thậm chí phê bình đích danh Xtalin trên các tập san của Đảng. Tháng 12 năm 1931, trong lúc nói chuyện với tác giả người Đức Emil Ludwig, Xtalin đã nói: "Quyết định của cá nhân luôn luôn hoặc gần như là phiến diện... Từ kinh nghiệm của 3 cuộc cách mạng, chúng ta biết rằng, trong 100 quyết định cá nhân chưa qua sự xem xét và sửa đổi của tập thể, có khoảng 90 quyết định là phiến diện"1 (Xtalin: Tuyến tập, Sđd, quyển hạ, tr.300, 300-301). Ông còn nói, trong Ban Chấp hành Trung ương, "mỗi một người đều có thể sửa đổi ý kiến và kiến nghị cá nhân. Mỗi một người đều có thể nêu kinh nghiệm của mình. Nếu không như vậy, nếu để cho một cá nhân đưa ra quyết định, chúng ta sẽ phạm phải những sai lầm nghiêm trọng trong công tác. Bởi vì mỗi người đều có thể sửa đổi những sai lầm của người khác, bởi vì chúng ta coi trọng những sửa đổi này, cho nên những quyết định mà chúng ta đưa ra là tương đối chính xác"2 (Xtalin: Tuyến tập, Sđd, quyển hạ, tr.300, 300-301). Ai cũng biết, thời gian 10 năm này là thời kỳ đấu tranh quyết liệt nhất trong nội bộ Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, các phe đối lập thường xuyên đưa ra ý kiến của mình tại các hội nghị của Đảng hoặc trên các tạp chí của Đảng. Cách giải quyết của Xtalin đối với phe đối lập là phù hợp với Điều lệ Đảng.


Thế nhưng, cùng với những tiến triển thuận lợi của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với việc lần lượt đánh bại các thế lực của phe đối lập trong Đảng, uy tín của Xtalin ngày càng được tăng cao. Năm 1929, đã bắt đầu xuất hiện những bài nói, bài viết ngợi ca quá mức những công lao của Xtalin nhân dịp lễ mừng thọ 50 tuổi của Xtalin.


Sau Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng năm 1934, vị trí của Xtalin trong Đảng đã không còn bị lung lay, tiếng tăm của Xtalin không ai có thể so sánh. Vì vậy, Xtalin không tiếp tục khiêm tốn, thận trọng nữa, các nhược điểm trong tính cách của ông bắt đầu bộc lộ: thô bạo, bảo thủ, chuyên quyền, độc đoán. Trước tiên, các hội nghị của Đảng không được tổ chức định kỳ. Trong vòng gần 20 năm từ Đại hội Đảng lần thứ XVII (tháng 1 năm 1934) đến khi Xtalin qua đời (tháng 3 năm 1953) chỉ tổ chức hai lần Đại hội đại biểu và một lần Hội nghị đại biểu. Từ Đại hội XVIII đến Đại hội XIX cách nhau 13 năm. Tất nhiên, phải nhắc tới ảnh hưởng từ cuộc Chiến tranh vệ quốc thời gian này. Từ khi cuộc Chiến tranh vệ quốc kết thúc năm 1945 đến Đại hội XIX tổ chức năm 1952 cũng đã cách nhau 7 năm. Tiếp theo là nguyên tắc tập thể lãnh đạo bị phá bỏ. Sau khi những người thuộc phe đối lập như Trotsky, Zinoviev, Bukharin... lần lượt bị đánh bại, Xtalin đã trở thành hóa thân của chủ nghĩa Lênin. Trong Hội nghị của Đảng không còn nghe thấy những ý kiến bất đồng, chỉ thị của Xtalin cũng chính là quyết định của Đảng. Trong bối cảnh đó, xung quanh Xtalin đã hình thành một nhóm người nịnh hót cầu danh, trục lợi, hủy hoại nghiêm trọng tác phong của Đảng Cộng sản. Những người này không nói lên sự thật, mà chỉ biết hưởng ứng hùa theo hoặc suy đoán ý đồ của Xtalin, nói những lời mà Xtalin thích nghe. Có một lần, trước đêm diễn ra Đại hội Đảng lần thứ XVIII, bè phái vây cánh, của Xtalin khen ngợi hết lời bản báo cáo mà Xtalin sẽ đọc trước Đại hội lần này. Xtalin đã nói: "Bản báo cáo mà tôi đưa cho các anh xem, tôi đã bỏ đi, các anh còn ở đó mà tán dương..., tôi đã chỉnh sửa lại toàn bộ bản báo cáo rồi!", điều này làm cho mọi người có mặt ở đó vô cùng xấu hổ. Lúc đó, Berlia không biết ngượng, lại còn nói rằng: "Nhưng bản báo cáo này đã thể hiện đầy đủ khả năng của đồng chí. Nếu đồng chí viết lại bản báo cáo này, có thể tưởng tượng rằng, bài báo cáo sẽ rất tuyệt vời!"1 (Woerkege Knopf: xtalin, Sđd, tr.456).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:42:40 am
Chế độ tập trung quyền lực quá mức đã đi ngược lại nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số trong chế độ tập trung dân chủ. Trên thực tế, yêu cầu đa số phục tùng thiếu số thậm chí phục tùng cá nhân; dùng trí tuệ của cá nhân hoặc nhóm thiểu số thay thế cho trí tuệ của đa số dùng quyền lực thay thế cho chân lý tất yếu dẫn đến sai lầm trong quyết sách. Sai lầm quan trọng chủ yếu trong thời kỳ Xtalin ai ai cũng biết, ảnh hưởng của sai lầm này vô cùng sâu rộng.


Một là, làm lẫn lộn hai loại mâu thuẫn không cùng tính chất, thổi phồng tình hình địch trong Đảng, coi bạn là thù, trấn áp rất nhiều cán bộ của Đảng và Nhà nước. Sự trấn áp này không chỉ tước đi quyền dân chủ của các đảng viên cộng sản mà còn tước đi quyền sống của họ. Những cuộc trấn áp diễn ra trên quy mô lớn đã dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng về cán bộ trên các mặt trận Nhà nước, đặc biệt là sự thiếu hụt cán bộ lãnh đạo quân đội đã gây ra thiệt hại to lớn cho cuộc Chiến tranh vệ quốc.


Hai là, sự tự phụ của Xtalin đã khiến Liên Xô đánh giá không đầy đủ tính chất của cuộc chiến tranh xâm lược của quân phátxít trong thời kỳ đầu của cuộc Chiến tranh vệ quốc, làm cho Hồng quân Liên Xô cũng như khối Đồng minh chịu nhiều tổn thất. Nói chung, Liên Xô đã có sự chuẩn bị trước cuộc tiến công của Hitler, nhưng đối với một cuộc tiến công thần tốc đến như vậy thì sự chuẩn bị đó là chưa đủ, từ đó khiến Liên Xô phải chịu nhiều tổn thất trong mấy tháng đầu của Chiến tranh vệ quốc.


Sau khi Khrushchev đảm nhiệm chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước Liên Xô, ông đã từng nhấn mạnh rằng cần khôi phục nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Nhưng đây chỉ là một thứ thuyết giáo giả dối, một khi ông ổn định được vị trí số một trong Đảng, ông cũng từng bước đi theo con đường tập quyền cá nhân, chấp nhận sự sùng bái cá nhân. Tác phong làm theo ý muốn, chuyên quyền độc đoán của Khrushchev được cả thế giới biết đến. Sự duy ý chí của ông đã gây ra nguy hại cho Liên Xô, có thể minh chứng bằng hai ví dụ sau đây.


Một là, vấn đề "Đảng Công nghiệp", "Đảng Nông nghiệp". Từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 11 năm 1962, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Bí thư thứ nhất Khrushchev đã có bài báo cáo trước Hội nghị với nhan để "Sự phát triển kinh tế của Liên Xô và lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế quốc dân", cho rằng cần phải cải tổ bộ máy lãnh đạo Trung ương và địa phương của Đảng theo nguyên tắc sản xuất: trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Ban Chấp hành Trưng ương các nước cộng hòa..., thiết lập Cục Trung ương chỉ đạo sản xuất công nghiệp và Cục Trung ương chỉ đạo sản xuất nông nghiệp; trong tổ chức đảng cấp khu và bang biên giới, cũng lần lượt thành lập cấp ủy chỉ đạo sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng xóa bỏ các cấp ủy ở khu và bang biên giới vốn có. Hội nghị căn cứ vào đề nghị của Khrushchev thông qua nghị quyết tương ứng. Theo đó phân chia kết quả của Đảng công nghiệp, Đảng nông nghiệp từ trên xu ông dưới, sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bị phá vỡ, cơ cấu chồng chéo, hiệu quả làm việc thấp càng khuyến khích chủ nghĩa quan liêu. Quyết định sai lầm này đã nhanh chóng vấp phải sự phản đối từ trên xuống dưới trong toàn Đảng, là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của Khrushchev.


Hai là, khủng hoảng Caribê. Tháng 5 năm 1962, Khrushchev nảy ra ý tưởng xây dựng cơ sở quân sự tại Cuba. Tháng 6, Liên Xô và Cuba thỏa thuận xây dựng cơ sở quân sự tại Cuba. Tháng 7, Liên Xô cho vận chuyển đến Cuba một số lượng lớn tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom phản lực IL-28. Dễ thấy rằng quyết định khinh suất này chưa tính toán đến hậu quả có thể xảy ra, chưa xem xét đến phản ứng đáp trả của Mỹ. Sau khi Mỹ biết được thông tin này, ngay lập tức có biện pháp đáp trả, tăng cường phong tỏa trên biển đối với Cuba, chặn các tàu của Liên Xô. Trước tình trạng bên bờ vực chiến tranh, Khrushchev buộc phải thu hồi các tên lửa đạn đạo. Việc làm này đầu tiên là chủ nghĩa mạo hiểm, sau đó là chủ nghĩa đầu hàng, đã gây tổn hại nghiêm trọng đến uy danh quốc tế của Liên Xô.


Trong thời gian đầu khi Brezhnev đảm nhiệm chức vụ Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, do địa vị của ông chưa được củng cố, nên Liên Xô đã từng xuất hiện cục diện phân quyền "một cổ ba tròng". Theo thời gian, ông đã dần dần nằm giữ toàn bộ quyền lực của Đảng, Nhà nước và quân đội, tiếp nhận và cổ vũ sự sùng bái cá nhân dành cho mình. Với vai trò là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, ông đã lần lượt nhận được giải Hòa bình Lênin, giải Văn học Lênin, 5 Huân chương Lênin và 2 Huy chương vàng Anh hùng Liên Xô. Đây không chỉ là hư danh nực cười, mà còn là chuyện có một không hai trong số các lãnh đạo chủ chốt của Liên Xô. Ông còn được phong là nguyên soái của Liên Xô. Điều này chưa từng có tiền lệ trong thời kỳ xây dựng hòa bình. Trong lễ mừng thọ 70 tuổi của Brezhnev, báo Sự thật đã dành một chuyên mục ca ngợi công lao của ông. Ông không có tài năng tái thế như Xtalin, nhưng trong việc hô hào sự sùng bái cá nhân thì Xtalin không thể theo kịp.


Sau khi Brezhnev nắm giữ toàn bộ quyền lực của Đảng, Nhà nước và quân đội, ông không thèm lắng nghe ý kiến của các ủy viên khác trong Bộ Chính trị, xử lý các vấn đề đối nội, đối ngoại một cách chuyên quyền, độc đoán. Quyết định đưa quân đến Apganixtan là ví dụ điển hình nhất. Năm 1979, cuộc đấu tranh chính trị nội bộ tại Ápganixtan ngày càng trở nên căng thẳng. Lãnh đạo Ápganixtan đề nghị Liên Xô đưa quân đến viện trợ. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã họp bàn rất nhiều lần về vấn đề này, quyết định viện trợ kỹ thuật quân sự cho Ápganixtan nhưng không điều động quân. Tại cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 18 tháng 3 năm 1979, tất cả đều nhận định "không có bất cứ lý do nào để điều động quân". Vậy rốt cuộc, nguyên nhân nào khiến cho các Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thay đổi quan điểm của mình trong vấn đề đưa quân đến Ápganixtan? Tướng Liên Xô Lyakhovsky - người đã từng tham gia việc tổ chức cho quân Liên Xô rút khỏi Ápganixtan, cho rằng: "Đây là vì Brezhnev thay đổi thái độ. Trong một đất nước mà người lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, ngang ngược, người dân mù quáng phục tùng, thì tất cả mọi việc đều được quyết định bởi người đứng đầu đó. Những người khác hoặc là vì sự tồn tại hoặc là bảo vệ vị trí của mình không thể không im lặng mà nghe theo"1 ([Nga] Alexander Antonovich Lyakhovsky: Bi kịch cuộc chiến Ápgnixtan, Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2004, tr.67, 71).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 18 Tháng Ba, 2022, 07:45:52 am
3. Dân chủ hóa cực đoan đã phá vỡ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ

Tại Hội nghị toàn thể tháng 1 năm 1987 của Trung ương Đảng chủ yếu thảo luận các vấn đề cán bộ, Gorbachev mới lên nắm quyền không lâu đã đề ra khẩu hiệu "dân chủ hóa", cho rằng dân chủ là "thực chất của cải tổ", yêu cầu "đưa dân chủ hóa xã hội lên vị trí hàng đầu"2 (Trích từ Lý Cảnh Trị, Vương Chính Tuyền: Quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Nhân dân Liêu Ninh, 2001, tr.447). Cũng cần phải chỉ ra rằng, "dân chủ hóa" mà Gorbachev khởi xướng khi bắt đầu vẫn là dân chủ có điều kiện. Nhưng cùng với những bước đi sai lầm của Gorbachev, giới hạn "dân chủ hóa" của ông ngày càng trở nên mơ hồ. Tại Hội nghị đại biểu Đảng lần thứ 19 tổ chức năm 1988, ông nói rằng: điều chúng ta cần là "dân chủ hóa vô điều kiện". Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1990, Gorbachev đề xuất: '"Nhận thức lại nguyên tắc tập trung dân chủ, và đặt trọng điểm vào dân chủ hóa và quyền lợi của quần chúng đảng viên"1 (Văn kiện Hội nghị toàn thể tháng 2 Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (từ ngày 5 đến 7-2-1990), Sđd, tr.4). Trong quan hệ cấp trên cấp dưới, đẩy mạnh "nguyên tắc tự trị" tổ chức đảng, trong quan hệ giữa Trung ương và địa phương, nêu Trung ương Đảng của các nước cộng hòa trong Liên bang không đồng ý với nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thì có thể không chấp hành. Điều này có nghĩa là Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là một tổ chức chiến đấu với ý chí thống nhất và hành động thống nhất, tức là chỉ cần "dân chủ", không cần tập trung, cũng không cần pháp luật và kỷ luật. Nói cách khác, điều ông muốn thực hiện chính là "dân chủ" cực đoan theo chủ nghĩa vô chính phủ. Hình thức "dân chủ hóa" cực đoan này tất yếu dẫn đến sự lan tràn làn sóng tự do hóa tư sản.


Dưới sự cổ vũ của tư tưởng "dân chủ" cực đoan của Gorbachev, tiếng nói yêu cầu hủy bỏ chế độ tập trung dân chủ trong Đảng ngày càng mạnh mẽ. Họ cho rằng chế độ tập trung dân chủ và dân chủ là đối lập với nhau, coi chế độ tập trung dân chủ là nguồn gốc của mọi tiêu cực. Trên thực tế theo chủ trương của Gorbachev, các cơ quan của Đảng đã mặc nhiên đồng ý với sự phê phán này. Nghị quyết "Về sự thống nhất của Đảng" không còn có hiệu lực ràng buộc. Trong Đảng dần hình thành nhiều phe phái chính trị với cương lĩnh riêng của chính mình, phe "Cương lĩnh Dân chủ" do Yeltsin đứng đầu là một trong những phe phái hình thành lúc đó có tác động lớn nhất đến sự sụp đổ của Đảng. Báo cáo của Gorbachev tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVIII, tổ chức vào tháng 7 năm 1990, đã công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, cho rằng ''hiện tại tình trạng đòi xóa bỏ nguyên tắc này khỏi Điều lệ Đảng đang diễn ra Tất mạnh mẽ, bởi vì tất cả thực tiễn thời gian qua đã khiến cho nguyên tắc này mất đi tính chất tốt đẹp của nó"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.44,152). Điều lệ mà Đại hội này thông qua đã chính thức xóa bỏ cách nói "Nguyên tắc chỉ đạo trong co câu tổ chức của Đảng, trong toàn bộ các mặt đời sống và hoạt động là nguyên tắc tập trung dân chủ", đồng thời thêm vào quy định "Đảng Cộng sản Liên Xô không cho phép thành lập các phe phái với những hình thức kỷ luật riêng trong nội bộ Đảng, nhưng cũng không hạn chế các đảng viên trong việc thực hiện quyền liên kết khi bàn luận"2 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.44,152). Như thế sự tồn tại của các phe phái được hợp pháp hóa. Nguyên tắc tập trung dân chủ được coi là quy chuẩn trong đời sống nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô cùng với sự giám sát của Đảng đến đây chấm dứt hoàn toàn.


Cùng lúc đó, yêu cầu về việc thực hiện chế độ liên bang vốn đã im hơi lặng tiếng lại một lần nữa nổi lên. Khẩu hiệu này chủ yếu là do một số người vốn giữ quan điểm dân chủ chủ nghĩa trong Đảng đề ra. Trong thời kỳ đầu sau khi Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga thành lập, tức là tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng này, các thành viên của Liên minh Công nhân Do thái Lítva, Ba Lan và Nga đề xuất yêu cầu phân chia giai cấp theo các đặc trưng về văn hóa dân tộc, thực hiện chế độ liên bang trong Đảng, tức là yêu cầu các dân tộc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân một cách độc lập, phản đối việc thành lập một chính đảng thống nhất của giai cấp công nhân trên toàn nước Nga, các đảng của các dân tộc duy trì mối liên hệ với nhau, nhưng không chịu sự lãnh đạo của Trung ương Đảng. Nhờ sự kiên quyết phản đối của Lênin và các đại biểu khác, ý kiến này đã không được sự ủng hộ của đa số. Giờ đây, ý kiến này lại được đưa ra, đồng thời được Đại hội XXVIII chấp nhận. "Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô" do Đại hội lần này thông qua đã đặc biệt dành riêng một chương về "Đảng Cộng sản của các nước cộng hòa trong Liên bang", trong đó quy định "Đảng Cộng sản của các nước cộng hòa trong Liên bang là độc lập... Những nghị quyết mang tính nguyên tắc về vấn đề Đảng Cộng sản các nước cộng hòa trong Liên bang do Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra phải được thảo luận với sự tham gia của đại biểu toàn quyền của các Đảng Cộng sản các nước cộng hòa trong Liên bang. Nếu không đồng ý với nghị quyết đưa ra, Đảng Cộng sản các nước cộng hòa có quyền không chấp hành, đồng thời yêu cầu triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô hoặc Hội nghị liên tịch giữa Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô để thảo luận những vấn đề còn tranh cãi". Cùng với quy định này, Đại hội XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô cũng điều chỉnh về mặt tổ chức, quy định "Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản các nước cộng hòa trong Liên bang là thành viên của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.154, 157).


Việc xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và sự gia tăng mạnh mẽ của các phe phái tất yếu sẽ đưa đến yêu cầu về chế độ đa đảng. Quá trình Yeltsin từ khi bắt đầu phản đối chế độ tập trung dân chủ cho đến khi đề xuất chế độ đa đảng đã minh chứng rõ ràng cho kết luận này. Phát biểu của ông tại Đại hội XXVIII là một ví dụ tiêu biểu. Ông nói: "Con đường tất yếu của các nước dân chủ là thực hiện chế độ đa đảng. Nước ta đang dần dần hình thành nên nhiều đảng phái khác nhau. Đồng thời, Đảng Cộng sản Liên Xô cũng buộc phải tiến hành những cải cách mang tính căn bản... Bắt buộc phải cố định các phe phái với cương lĩnh khác nhau hiện có trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, để cho mỗi một đảng viên cộng sản có thời gian tự mình đưa ra quyết định chính trị. Tôi tin chắc rằng, đại đa số các đảng viên bình thường sẽ đem tiền đồ của Đảng gửi gắm cho phe dân chủ"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.459).


Cho đến thời điểm trước cuối năm 1989, Gorbachev vẫn là một người phản đối chế độ đa đảng. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô, ông nói: "Gần đây chúng ta nhiều lần gặp phải tình trạng lợi dụng quyền dân chủ để đạt được các mục đích phản dân chủ. Có người cho rằng như vậy sẽ có thể giải quyết được mọi vấn đề - từ việc thay đổi biên giới cho đến thành lập các đảng đối lập. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng hành vi lạm dụng dân chủ hóa là mâu thuẫn căn bản với bất kỳ nhiệm vụ nào của công cuộc cải tổ, đi ngược với lợi ích của nhân dân". Tháng 1 năm 1990, tại Lítva, Gorbachev nói: "Tôi cho rằng thực hiện chế độ đa đảng không hẳn là bi kịch, nêu chế độ đa đảng là kết quả của tiến trình lịch sử chính đảng và phù hợp với yêu cầu xã hội"2 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (Chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.232). Đây là lần đầu tiên Gorbachev thể hiện thái độ cởi mở đối với chế độ đa đảng. Tháng 3 năm 1990, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô căn cứ kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành sửa đổi Hiến pháp, xóa bỏ Điều 6 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, bổ sung quy định "Đảng Cộng sản Liên Xô, các chính đảng khác cùng với Công đoàn, Đoàn Thanh niên và các tổ chức đoàn thể, phong trào quần chúng khác thông qua các đại biểu Xôviết đại diện nhân dân do chính mình lựa chọn cũng như các hình thức khác để tham gia vào việc hoạch định chính sách của nhà nước Xôviết, quản lý các công việc của nhà nước và xã hội"1 ("Về việc thiết lập chức vị Tổng thống và Luật Bổ sung sửa đổi Hiến pháp", Báo Sự thật, ngày 16 tháng 3 năm 1990). Từ đây, chế độ đa đảng có được địa vị hợp pháp tại Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành Đảng nghị viện.


Xóa bỏ chế độ tập trung dân chủ, thực hiện chế độ liên bang trong Đảng và chế độ đa đảng trong nước là ba tròng siết trên cổ Đảng Cộng sản Liên Xô, đưa Đảng này đến chỗ chết.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:50:18 am
II. ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Đường lối cán bộ là bộ phận câu thành quan trọng của đường lối tổ chức. Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô là tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng vằ phân bổ cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng cầm quyền thể hiện trên hai phương diện sau: một là, hoạch định cương lĩnh chính trị và đường lối chính trị; hai là, tổ chức thực hiện cương lĩnh và đường lối đã được hoạch định đó. Hoạch định cương lĩnh và đường lối cần nhân lực, tổ chức thực hiện cương lĩnh và đường lối cũng cần nhân lực. Vì vậy, vấn đề cán bộ là vấn đề hạt nhân trong việc điều hành và xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Liên Xô.


1. Đường lối cán bộ của Lênin

Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô đều luôn coi trọng vấn đề cán bộ, đặc biệt là từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành đảng cầm quyền, vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng đối với Đảng Cộng sản Liên Xô. Các kỳ đại hội đại biểu đều thảo luận vấn đề cán bộ, mỗi một thế hệ lãnh đạo Đảng đều có nhiều phân tích, trình bày về vấn đề này.


Tư tưởng và nguyên tắc cơ bản trong đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô là do Lênin vạch ra. Tuy rằng, cùng với sự tiến bộ của thời đại, nội dung của công tác cán bộ có thêm nhiều phát triển phong phú, nhưng tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo của nó luôn nhất quán, không thay đổi.


Không lâu sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Lênin đã chỉ rõ và nhấn mạnh: "Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia đến từ các ngành khoa học, kỹ thuật và các lĩnh vực công tác thực tế, thì việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là không thể, bởi vì chủ nghĩa xã hội yêu cầu quảng đại quần chúng tự giác tiên đến năng suất lao động ở mức cao hơn chủ nghĩa tư bản trên nền tảng mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Chủ nghĩa xã hội nên dựa theo phương thức của chính mình, dùng biện pháp của mình - hay nói cụ thể là dùng phương pháp Xôviết - để thực hiện sự tiến lên này"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.160-161).


Nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười là một quốc gia có nền kinh tế chính trị, văn hóa đều tương đối lạc hậu. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Đảng Bônsêvích vô cùng rối ren và nan giải, cán bộ có kiến thức, có chuyên môn, có kinh nghiệm quản lý đều rất hạn chế. Tại Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga, Lênin đã nghiêm túc chỉ ra: "Nếu cho rằng chúng ta chỉ bằng đôi bàn tay trắng của những người cộng sản, không cần sự giúp đỡ của các chuyên gia tư sản mà có thể xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, thì đó là một cách nghĩ ấu trĩ"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.128-129).


Lênin hết sức quan tâm đến vấn đề tầng lớp lãnh đạo ở Trung ương. Ông viết: "Toàn Đảng bắt buộc phải bồi dưỡng những người có đủ khả năng, trình độ cho Đảng một cách hệ thống, dần dần, kiên trì và nhẫn nại, cần phải nắm rõ như lòng bàn tay những người được lựa chọn để đảm nhiệm các chức vụ cấp cao, thậm chí phải nắm được những đặc trưng riêng của họ, ưu và nhược điểm của họ, thành công và thất bại của họ"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.8, tr.88). Trong thời gian lâm bệnh, Lênin vẫn canh cánh không yên về vấn đề tầng lớp lãnh đạo Trung ương. Ông yêu cầu các bác sĩ mỗi ngày dành cho ông 5 phút, với nghị lực phi thường vượt lên trên cả tính mạng, ông đã nói để các bác sĩ ghi lại "Thư gửi Đại hội đại biểu"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.337-340, 110). Nội dung của bức thư này ai cũng biết. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những đề xuất Lênin nói trong bức thư không được thực hiện hết. Nhưng sự coi trọng của Lênin đối với vấn đề cán bộ lãnh đạo của Đảng thể hiện trong bức thư lại rất đáng để thế hệ sau suy nghĩ và học tập.


Đường lối cán bộ của Lênin bao gồm một tập hợp các nguyên tắc về việc tuyển chọn cán bộ, sử dụng cán bộ và bồi dưỡng cán bộ. Lênin nói: "Mấu chốt của toàn bộ công việc là tuyển chọn nhân tài và kiểm tra tình hình thực hiện"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.337-340, 110). Lênin nhấn mạnh cần phải xuất phát từ thực tiễn, khảo sát và lựa chọn cán bộ trên 3 phương diện là tố chất chính trị, năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Trong Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết, Lênin viết: "Chúng ta đi con đường của chúng ta, cố gắng trân trọng và nhẫn nại để kiểm tra và phân biệt những nhà tổ chức chân chính, tức là những người có đầu óc tỉnh táo và năng lực thực tế, họ vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội vừa giỏi lặng lẽ (mà có thể loại bỏ sự xì xào đồn đại) khiến cho nhiều người kiên trì, đồng tâm hiệp lực công tác trong phạm vi tổ chức Xôviết. Chỉ có những người như vậy, trải qua nhiều thử thách, để họ đảm nhận từ chức vụ đơn giản nhất đến chức vụ khó khăn nhất, sau đó mới nên đề bạt vào cương vị phụ trách trong việc lãnh đạo lao động quốc dân và công tác lãnh đạo quản lý"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.236-237).


Lênin đặc biệt coi trọng việc phát hiện nhân tài trong dân chúng. Người cho rằng, "trong dân chúng, tức là trong những công nhân và trong những nông dân không bóc lột lao động của người khác, có rất nhiều người có tài năng tổ chức", chúng ta nên phát hiện, động viên, hỗ trợ, đề bạt họ.


Lênin vô cùng coi trọng việc sử dụng cán bộ hợp lý. Trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, một vài thương nhân lợi dụng phi pháp thời cơ làm những việc gây tổn hại đến lợi ích của quần chúng nhân dân, khiến người dân cảm thấy bất mãn. Lênin chỉ rõ: "vấn đề then chốt là sắp xếp nhân lực không thỏa đáng, những đảng viên cộng sản đã từng làm cách mạng rất xuất sắc thì bị chuyển sang lĩnh vực công thương nghiệp mà họ không biết một tí gì, họ che đậy để người khác không nhìn ra chân tướng sự việc, bởi vì những người buôn bán không có đạo đức và những kẻ lừa đảo đều ẩn nấp một cách thông minh sau lưng họ"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.109).


Lênin cho rằng, một cơ quan tốt thì phải có sự phân bổ hợp lý cán bộ thuộc nhiều loại hình khác nhau. Khi nói về những ứng cử viên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Lênin nói: "Tốt nhất là làm cho cơ chế này phong phú, đa dạng về thành viên, trong cơ chế này chúng ta nên tìm cách kết hợp các tố chất và các ưu điểm khác nhau lại với nhau"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.384, 287).


Lênin vô cùng coi trọng công tác bồi dưỡng và giáo dục cán bộ. Ngay từ năm 1911, Lênin đã cho thành lập tại vùng gần Pari một trường cán bộ Bônsêvích, và đích thân đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy chính ở đó. Ngôi trường này đã bồi dưỡng rất nhiều cán bộ ưu tú cho cách mạng, trong số đó có Ordzhonikidze.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhiệm vụ "giành lại nước Nga" cơ bản hoàn thành, nhiệm vụ "quản lý nước Nga", "xây dựng nước Nga" được đưa vào chương trình nghị sự, nhiệm vụ sau nan giải và phức tạp hơn nhiệm vụ trước. Lúc này, vấn đề mấu chốt nhất, khó khăn lớn nhất chính là sự thiếu hụt cán bộ có kiến thức, chuyên môn và kinh nghiệm. Chính quyền Xôviết, ngoài việc giữ lại hàng trăm nghìn quan lại, viên chức cũ của chính phủ Sa hoàng và xã hội giai cấp tư sản, còn tích cực thi hành các biện pháp để bồi dưỡng cán bộ của mình. Lúc đó, nhiều trường học, lớp bồi dưỡng Xôviết, các trường trung học công nông cấp tốc được xây dựng, thu hút được mấy trăm nghìn thanh niên theo học. Tác phẩm nổi tiếng "Bàn về nhà nước" của Lênin chính là bài giảng tại trường Đại học Cộng sản mang tên Xvéđlốp (Sverdlov). Người còn kêu gọi toàn Đảng học tập, "chúng ta cần lợi dụng mọi giai đoạn không đánh nhau, không chiến tranh để học tập, không những vậy mà còn phải học từ đầu"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.384, 287).


Công tác giám sát và kiểm tra cán bộ là mấu chốt quan trọng trong công tác cán bộ, là biện pháp quan trọng để lựa chọn cán bộ. Về vấn đề này, Lếnin đã có nhiều chỉ thị. Người nói: "Thông qua biện pháp triệu tập và thanh tra triệt để các cơ quan tại Mátxcơva cũng như tại các tỉnh, để đích thân tìm hiểu một số lượng nhất định viên chức Xôviết, không chỉ cần hiểu rõ những viên chức cấp cao mà còn phải hiểu rõ những viên chức cấp trung và cấp thấp để khảo sát và lựa chọn nhân tài, đồng thời thực sự cải thiện các cơ quan Xôviết"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.148).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:51:57 am
2. Những vấn đề trong công tác cán bộ

Tuy Lênin đã vạch ra đường lối đúng đắn cho Đảng Cộng sản Liên Xô, trong lịch sử các lần Đại hội đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô đã đề cập vấn đề cán bộ cũng như đưa ra nhiều nghị quyết rất hay, nhưng xoay quanh những nghị quyết này tồn tại không ít vấn đề trong việc thực thi và trong thực tiễn, chủ yếu là chủ nghĩa hình thức trong công tác giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, tư tưởng chủ quan trong công tác tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ cũng như chủ nghĩa thực dụng trong công tác sát hạch và đánh giá cán bộ.


Thứ nhất, chủ nghĩa hình thức trong công tác giáo dục và bồi dưỡng cán bộ

Khách quan mà nói, các đời lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đều rất coi trọng công tác giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, và hơn nữa còn đạt được nhiều thành tích nổi bật. Có rất nhiều kênh giáo dục và bồi dưỡng cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngoài giáo dục trong trường phổ thông ra, từ Trung ương đến địa phương đều có các trường đảng cũng như các trường bồi dưỡng cán bộ hoặc các lớp huấn luyện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho đến đêm trước cải tổ của Gorbachev, các ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bí thư Trung ương các nước cộng hòa tự trị, Bí thư Khu ủy biên cương, Bí thư Tỉnh ủy đều đã trải qua hai loại hình giáo dục bậc cao, tức giáo dục bậc cao phổ thông và giáo dục trường đảng, trong đó, trên 70% trải qua giáo dục chuyên ngành kỹ thuật công trình, giáo dục chuyên ngành nông nghiệp hoặc giáo dục chuyên ngành kinh tế; trong các bí thư thành ủy và khu ủy, trên 90% đã trải qua giáo dục bậc cao, trên 60% trải qua giáo dục chuyên ngành kỹ thuật công trình, giáo dục nông nghiệp hoặc giáo dục chuyên ngành kinh tế, đại đa số đều học tập tại các trường đảng ở các nước cộng hòa tự trị, các khu vực biên cương vả các tỉnh. Chế độ luân phiên huấn luyện cán bộ trình độ cơ bản đã được thiết lập, về cơ bản thực hiện được việc huân luyện luân phiên 5 năm một lần đối với mỗi cán bộ.


Thế nhưng, trong công tác giáo dục và bồi dưỡng cán bộ vẫn tồn tại chủ nghĩa hình thức nặng nề. Từ phía người dạy, tồn tại chủ nghĩa giáo điều nghiêm trọng và phương pháp dạy học "nhồi vịt". Các trường giáo dục bậc cao của Liên Xô thường xây dựng chương trình học chủ nghĩa Mác - Lênin, các trường đảng ở mọi cấp bậc cũng coi việc truyền thụ chủ nghĩa Mác - Lênin là nhiệm vụ chủ yếu. Tuy nhiên, những kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin này chỉ nằm trên sách vở, không liên hệ với thực tiễn xã hội Liên Xô; nếu có liên hệ thực tế thì cũng là nhắc lại những nguyên tắc truyền bá đã thống nhất của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, không có bất cứ sự giải thích kỹ càng nào. Như thế chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành bùa hộ thân cho các nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, những giảng đường dạy về chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành những trận địa tuyên truyền nghị quyết của Đảng. Trước tình hình đó, người ta không cần phải xem nghị quyết của Trung ương Đảng có phù hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin hay không, chỉ cần tin tưởng vào sự đúng đắn của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thì nghị quyết của Trung ương chính là sự vận dụng cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ phía người học, những người tự giác học tập không phải là không có, nhưng rất nhiều người đến trường học là bởi vì buộc phải chấp hành quy định hoặc là vì muốn khoe mẽ, muốn tăng cường đầu tư chính trị cho sự thăng tiến về sau. Tuy họ hoàn thành việc học, có được bằng cấp này nọ nhưng năng lực lãnh đạo không hề được nâng cao. Vì vậy, khi các lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô từng bước đưa Đảng tới con đường diệt vong, đại đa số cán bộ không có khả năng nhạy cảm chính trị, cũng không có năng lực dự phòng và kháng cự, có những cán bộ đã trở thành những người đi đầu trong việc hủy diệt Đảng Cộng sản Liên Xô. Yakovlev, người từng đóng vai trò quan trọng trong việc làm sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô, là một ví dụ tiêu biểu. Yakovlev tốt nghiệp Viện Khoa học xã hội Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1960, từng đảm nhiệm chức Phó Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương, Ủy viên Ban biên tập Tạp chí Người Cộng sản - ấn phẩm về lý luận của Trung ương, phụ trách công tác ý thức hệ trong thời kỳ Gorbachev nắm quyền, là Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Trung ương Đảng. Yeltsin cũng trải qua quá trình giáo dục của Đảng giống như vậy. Trong tự truyện của mình, ông có nói đã từng "đọc hết quyển này đến quyển khác các tác phẩm kinh điển của Lênin, Mác và Ăngghen"1 (Yeltsin tự truyện, Nxb. Đông Phương, 1991, tr.47). Sự thay đổi của những người như Yakovlev và Yeltsin cho thấy sự thất bại của chế độ giáo dục và bồi dưỡng cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Xem ra, việc giáo dục bồi dưỡng không tính đến hiệu quả thực chất, không nói ra sự thật, thiếu đi nhiệt tình lý tưởng, không chỉ vô nghĩa mà còn gây tổn hại thêm đến tác phong Đảng, tác phong học tập, gây ra sự dao động mạnh mẽ trong niềm tin và lý tưởng của đông đảo cán bộ.


Thứ hai, chủ nghĩa chủ quan trong công tác tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ.

Tất cả các Điều lệ Đảng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô đều quy định rõ ràng tổ chức các cấp của Đảng được hình thành thông qua bầu cử, những người lãnh đạo của Đảng bắt buộc phải báo cáo công tác định kỳ lên Đại hội Đảng viên, Hội nghị đại biểu đảng viên hoặc Đại hội đại biểu đảng viên đã bầu ra họ và chịu sự giám sát của các tổ chức này. Trên thực tế, ứng cử viên của Đảng ủy các cấp đều được quyết định trước bởi cấp trên, bầu cử chỉ là thực thi một số quy trình theo luật định. Còn khi lãnh đạo cấp trên quyết định ứng cử viên của Đảng ủy cấp dưới, thường thường không phải là căn cứ vào ý kiến của quần chúng và của đông đảo đảng viên, mà là căn cứ theo ấn tượng và sự yêu ghét chủ quan của họ; một vài người thậm chí còn có ý nâng đỡ chỗ thân tín, lôi bè kết phái. Vì vậy, người phụ trách chủ chốt của tổ chức đảng các cấp cũng như ban, ngành chủ quản công tác tổ chức có vai trò quyết định đối với việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ. Khrushchev đã viết trong hồi ký của mình: "Ban đầu tôi nghĩ sự thăng tiến trong Đảng của tôi tại Mátxcơva là nhờ có Kaganovich, nhưng rất nhanh tôi phát hiện ra rằng, sự thăng tiến đó là nhờ vào vai trò của bản thân Xtalin nhiều hơn là Kaganovich. Hiển nhiên Xtalin đã chú ý đến tôi thông qua người vợ Nadezhda Sergayevna Alliluyeva của ông. Bà ta ca ngợi tôi trước mặt Xtalin, thế là Xtalin liền bảo Kaganovich giúp đỡ tôi"1 (Hồi ký Khrushchev, Nxb. Đông Phương, 1988, tr.73).


Trong hồi ký của mình, Gorbachev cũng có nói về "nhân tố Andropov" trong sự nghiệp chính trị của mình: "Tôi nghĩ Andropov đã có nhúng tay vào sự thăng tiến của tôi, nhưng ông ta chưa bao giờ thể hiện bất cứ dấu hiệu gì với tôi". Gorbachev cũng nhắc đến lý do Brezhnev đề bạt ông giữ chức Bí thư Trung ương Đảng mà trước đó Chernenko nói cho ông biết: "Xuất phát điểm của Leonid Ilyich Brezhnev là anh đứng về phía ông ta, trung thành với ông ta. Ông ta rất coi trọng điều nay"2 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.5,13).


Bất luận là trình độ tư tưởng và năng lực công tác như thế nào thì phẩm chất cá nhân của Khrushchev và Gorbachev so với những người cùng thời đều không phải là xuất chúng. Họ có thể leo lên đỉnh cao quyền lực không phải là nhờ vào năng lực cá nhân mà là nhờ vào những thủ đoạn đầu cơ thăng tiến. Những lãnh đạo cao nhất vào lúc đó đã sai lầm khi coi họ là "người của mình". Trong thời gian Khrushchev theo học tại Viện Công nghiệp Mátxcơva, nội bộ Đảng đang diễn ra đấu tranh kịch liệt, ông đã kiên định đứng về phe Xtalin, tuyên bố rõ ràng phản đối phe cánh hữu. Những sự việc này đã đến tai Xtalin thông qua vợ ông và Kaganovich, khiến Xtalin có những đánh giá sai lầm. Gorbachev lại tận dụng ưu thế có nhiều cơ hội tiếp xúc với các lãnh đạo ở Trung ương, nhiệt tình săn đón họ, từ đó được họ yêu mến. Bài học kinh nghiệm về việc chọn người, dùng người của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng là một tài sản quý báu của những người cộng sản cầm quyền.


Thứ ba, chủ nghĩa thực dụng trong sát hạch và đánh giá cán bộ.

Sát hạch và đánh giá cán bộ là một phần quan trọng trong công tác quản lý cán bộ, là công việc mang tính nền tảng trong tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ. Trong thực tiễn mấy mươi năm của công tác quản lý cán bộ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, từng bước hình thành nên một chế độ sát hạch và đánh giá cán bộ chặt chẽ, trong đó bao gồm nội dung, phương pháp và quy trình sát hạch, đánh giá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, nhiều người thường xuyên áp dụng chủ nghĩa thực dụng. Phương pháp và quy trình đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của người lãnh đạo. Đối với cán bộ mà lãnh đạo vừa ý, những nhược điểm của anh ta có thể được bỏ qua, coi như không thấy, hoặc to biến thành nhỏ, thậm chí nhược điểm có thể biến thành ưu điểm; đối với cán bộ và lãnh đạo không vừa ý, nhược điểm của họ sẽ bị khuếch đại lên, còn ưu điểm của họ thường bị lờ đi, thậm chí ưu điểm và nhược điểm đổi chỗ cho nhau. Không dừng lại tại đó, một vài cán bộ rõ ràng phạm phải sai lầm hoặc phạm tội nghiêm trọng, nhưng vì lãnh đạo tin yêu nên sẽ được bỏ qua. Ví dụ: báo chí Liên Xô từng tiết lộ một câu chuyện xảy ra tại tỉnh Arkhangelsk vào những năm 1970 như sau: Có một giám đốc nhà máy tên là Romanov cùng với vợ của ông ta - một chủ tiệm buôn và nhà hàng - đã ép công nhân nộp một phần lương tháng cho giám đốc và cấp dưới của ông để đổi lấy hàng hóa đắt, ép những người sống trong khu nhà trọ phải lao động nghĩa vụ tại vườn hoa và vườn cây ăn quả của bọn họ, nhưng hàng hóa mà bọn họ bán tính ra chỉ đáng hơn nửa giá một chút. Năm 1974, một người công nhân đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương, Tỉnh ủy và nhiều tờ báo phản ánh sự vi phạm của đôi vợ chồng này. Những thứ này đều được chuyển tới Khu ủy. Kết quả là đôi vợ chồng bạo ngược này không bị xử tội, còn người viết thư lại bị khép "tội phỉ báng". Những cán bộ cũng vi phạm như thế lại được đề bạt, trọng dụng, được coi là ví dụ "điển hình", "mô phạm" xuất hiện đầy rẫy trên báo chí Liên Xô.


Giáo dục và bồi dưỡng, tuyển dụng và đề bạt, sát hạch và đánh giá cán bộ là những khâu quan trọng trong toàn bộ công tác cán bộ, chúng vừa liên kết với nhau lại vừa ảnh hưởng lẫn nhau. Chủ nghĩa hình thức trong công tác giáo dục, bồi dưỡng, chủ nghĩa chủ quan trong tuyển dụng, đề bạt cùng với chủ nghĩa thực dụng trong sát hạch, đánh giá đều xuất phát từ chế độ tập trung, quan liêu, là kết quả của việc phá bỏ chế độ tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Tầm nguy hại của vấn đề không chỉ nằm ở bản thân công tác cán bộ, mà quan trọng hơn là gây tổn hại đối với uy tín của Đảng, gây nên sự không tin tưởng của đông đảo đảng viên và quần chúng nhân dân đối với Đảng, dẫn đến sự lạnh nhạt đối với các nghị quyết và chỉ thị của Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:52:59 am
3. Phân tích về đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô

Vấn đề trong đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô không phải là vấn đề về mặt lý luận và tư tưởng chỉ đạo, cũng không phải là vấn đề về quy định của pháp luật và điều lệ, mà là vấn đề trong thực tiễn, vấn đề trong công tác. Nói một đằng, làm một nẻo là đặc trưng của những vấn đề này. Chúng có gốc rễ văn hóa xã hội và gốc rễ chế độ sâu xa.


Nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười là một nước trải qua thời kỳ dài của sự thống trị chuyên chế dưới chế độ phong kiến, kinh tế tư bản chủ nghĩa không phát triển, lực lượng giai cấp tư sản vô cùng non yếu. Trong tầng lớp dân cư, nông dân chiếm đa số. Ở nông thôn thực thi chế độ công hữu đất đai lâu đời, nông dân đã quen với việc đề cao chủ nghĩa tập thể, quen với việc chịu sự quản lý của một thủ lĩnh, không có ý thức dân chủ. Đại đa số dân cư mù chữ, thiếu hiểu biết đối với thế giới bên ngoài, không quan tâm tới chính trị. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Lênin đã từng vạch ra một chế độ dân chủ rất tốt, nhưng vì những hạn chế của điều kiện lịch sử nên chưa thể thực hiện được. Trong tác phẩm Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết, Lênin viết: "Mục đích của chúng ta là cần phải thu hút toàn bộ dân nghèo tham gia vào quản lý một cách thực tế tất cả những bước đi để thực hiện nhiệm vụ này - càng đa dạng hóa càng tốt - nên được lưu lại một cách kỹ càng, tiếp tục nghiền cứu thêm, hệ thống hóa nó, dùng kinh nghiệm nhiều mặt để kiểm chứng, đồng thời biến nó thành quy định pháp luật"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.184). Thế nhưng không lâu sau, Lênin phát hiện ra do trình độ văn hóa thấp, nhiệm vụ thu hút toàn bộ dân nghèo tham gia vào quản lý một cách thực tế là không thể thực hiện được. "Tuy rằng theo quy định trong cương lĩnh Đảng, Xôviết là cơ quan thực hiện quản lý thông qua người lao động, nhưng trên thực tế là cơ quan mà tầng lớp tiên tiến của giai cấp vô sản thực hiện quản lý cho người lao động chứ không phải thực hiện quản lý thông qua quần chúng lao động"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.36, tr.155). Cho đến những năm cuối đời, Lênin chưa bao giờ hài lòng với cách làm việc của các cơ quan nhà nước. Trong tác phẩm Thà ít mà tốt, Lênin nói: "Tình trạng các cơ quan nhà nước của chúng ta, tuy không khiến người ta ghét nhưng vô cùng đáng buồn"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.378, 385), "Quan liêu không chỉ tồn tại trong các cơ quan Xôviết mà còn tồn tại trong cả các cơ quan của Đảng"4 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.378, 385). Người nhắc nhở toàn Đảng cần chú ý: "Những nhược điểm này bắt nguồn từ quá khứ, có những điều thuộc về quá khứ tuy đã bị đánh đổ nhưng vẫn chưa bị tiêu diệt, vẫn chưa đi đến giai đoạn sắp biến thành văn hóa cổ"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.378). Qua 70 năm xây dựng, cơ cấu xã hội Liên Xô đã có sự thay đổi to lớn, trình độ văn hóa của người dân cũng được nâng cao rất nhiều, nhưng những thứ đó đã ăn sâu vào lòng người, những ảnh hưởng từ văn hóa của xã hội cũ vốn đã trở thành tập quán lại chưa hoàn toàn mất đi, vẫn còn ảnh hưởng đến hành vi của con người.


Chế độ bổ nhiệm trên thực tế đã sinh ra quan hệ dựa dẫm cá nhân giữa cán bộ cấp trên và cấp dưới, khiến cho cán bộ thoát khỏi sự giám sát của quần chúng nhân dân. Vậy là, "công bộc của xã hội" trở thành "chủ nhân của xã hội", "con cái" của nhân dân trở thành "cha mẹ" của nhân dân. Theo quy định của pháp luật, tại Liên Xô, phương thức tạo ra nguồn cán bộ lãnh đạo các cấp có hai dạng, một là bầu cử, hai là bổ nhiệm. Trong Đảng Cộng sản, trong các đoàn thể xã hội và các cơ quan Xô viết thực hiện chế độ bầu cử, trong cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện chế độ bổ nhiệm. Nhưng trên thực tế, chế độ bầu cử chỉ là hình thức, thực chất không khác với chế độ bổ nhiệm là mấy. Dưới chế độ này, việc bổ nhiệm hay miễn nhiệm và phân bổ cán bộ phụ thuộc hoàn toàn vào sự yêu ghét của lãnh đạo cấp trên. Dù là "chọn người quen thân" hay "chọn người hiền tài" đều lấy sự yêu ghét của lãnh đạo làm tiêu chuẩn: "thân" là thân với lãnh đạo, "hiền" là lãnh đạo cho rằng hiền. Như thế trong Đảng xuất hiện hai dạng cán bộ: một loại là dạng "vâng vâng dạ dạ", răm rắp nghe theo lãnh đạo, không dám xử lý vấn đề cụ thể dựa trên tình hình cụ thể, càng không dám phát huy tính năng động chủ quan, không có bất cứ sự sáng tạo nào trong công việc. "Không cần lập công, chỉ cần không sai" là tâm lý chung của dạng người này. Như vậy mới có thể giữ gìn vị trí, thậm chí có thể thăng tiến. Quan hệ huyết thống của những cán bộ này dẫn đến sự thoái hóa về năng lực của cán bộ, thế hệ sau thua kém thế hệ trước. Một loại cán bộ khác áp dụng hình thức hai mặt để đối phó với lãnh đạo. Họ trước mặt một kiểu, sau lưng một kiểu, trong khi họp thế này, sau khi họp thế khác, nói một đằng, làm một nẻo. Khi lãnh đạo còn tại vị, họ tỏ ra rất nghe lời, thậm chí còn a dua nịnh bợ lãnh đạo; một khi lãnh đạo qua đời hoặc thôi giữ chức vụ, họ liền trở mặt coi như không quen biết, trở thành những người đi đầu trong việc công kích lãnh đạo cũ. Khrushchev chính là điển hình của loại người này. Năm 1952, trong đêm trước ngày Xtalin qua đời, tại Đại hội đại biểu lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev vẫn còn ca ngợi Xtalin là "lãnh tụ và người thầy mà chúng ta kính trọng'", là "thiên tài", coi sự lãnh đạo của Xtalin là "sự lãnh đạo anh minh", gọi các tác phẩm nổi tiếng của Xtalin là "cống hiến vô giá đối với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin". Thế mà sau khi Xtalin qua đời không lâu, ông ta "quên" ngay những lời mình đã nói, mắng Xtalin là "kẻ độc tài khét tiếng nhất trong lịch sử nước Nga", "Ivan bạo chúa", "thằng ngu", "tên cướp"... Đương nhiên, trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô cũng có nhiều cán bộ chân chính, ưu tú, nhưng họ mãi không được trọng dụng, thậm chí còn phải chịu đựng áp lực tinh thần rất lớn. Những hiện tượng này cho thấy các vấn đề nghiêm trọng tồn tại trong đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Đường lối cán bộ được quyết định bởi đường lối chính trị, phục vụ cho đường lối chính trị. Nguyên nhân của các vấn đề về đường lối cán bộ nằm ở đường lối chính trị, ở thể chế chính trị. Nguyên nhân chủ yếu của việc Đảng Cộng sản Liên Xô rút lui khỏi vũ đài chính trị là sai lầm về tư tưởng chỉ đạo và đường lối chính trị, còn sai lầm trong đường lối cán bộ chỉ đóng vai trò phụ trợ.


Đảng Cộng sản Liên Xô là chính đảng của giai cấp công nhân đầu tiên nắm quyền trên thế giới, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiền trên thế giới. Chính quyền Xôviết vừa thành lập đã phải đối mặt với môi trường sinh tồn khắc nghiệt. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, môi trường sinh tồn được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn nằm trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản. Dù là về chính trị và kinh tế hay về quân sự và văn hóa, Liên Xô vẫn không mạnh bằng các nước tư bản chủ nghĩa; đối với Liên Xô luôn tồn tại mối nguy hiểm bởi sự phục hổi của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, "đuổi kịp và vượt qua các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất", "ngăn chặn sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản" luôn là việc lớn hàng đầu mà các đời lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô phải suy nghĩ. Đế đạt được mục đích này, phải thực hiện thể chế chính trị tập trung cao độ trên cơ sở dân chủ để đem nguồn nhân lực, vật lực và tài lực có hạn tập trưng vào những nơi cẩn thiết, để phòng tránh sự chia rẽ trong nội bộ đội ngũ có thể khiến cho địch lợi dụng thời cơ phá hoại việc thực hiện mục tiêu. Biện pháp quan trọng để duy trì thể chế chính trị tập trung cao độ chính là thực thi chế độ bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp, chỉ có chế độ bổ nhiệm mới có thể bảo đảm cho việc quán triệt chấp hành đường lối chính trị mà Trung ương đã đề ra.


Cuối thời kỳ nắm quyền của Gorbachev, trong nội bộ Đảng xảy ra chia rẽ, trước hết là vì đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô có sự thay đổi, từ cải tổ kinh tế chuyển sang cải tổ chính trị, rồi chuyển sang cải tổ Đảng. Để quán triệt chủ trương "dân chủ hóa" và "công khai", Gorbachev ngang nhiên đi ngược lại quy định trong Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XXVII của Đảng Cộng sản Liên Xô do chính ông ta chủ trì, nhân nhượng các hoạt động bè phái, dung túng cho sự phát triển của xu hướng tự do hóa tư sản. Điều lệ Đảng quy định rõ ràng: "Quy định về việc Đảng Cộng sản Liên Xô không thể bị phá hoại là sự nhất trí về mặt tư tưởng và tổ chức, là sự đoàn kết vững chắc như bàn thạch của đội ngũ, là kỷ luật tự giác cao độ của tất cả các đảng viên cộng sản. Bất kỳ biểu hiện nào của hoạt động bè phái và tập đoàn đều không phù hợp với tính đảng mácxít - lêninnít, không phù hợp để tồn tại trong Đảng"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.404). Tuy nhiên, khi "Phe Cương lĩnh dân chủ" do Yeltsin đứng đầu, cùng với các phe phái khác tiến hành hoạt động khắp nơi trong nước, đôi đầu với Trung ương, Gorbachev lại để cho chúng tự do phát triển; khi trên những công cụ tuyên truyền của Đảng xuất hiện những bài viết phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin, ông ta lại coi như không thấy, thỏa hiệp, nhượng bộ. Cuối cùng, chính ông ta đã phải chấp nhận những quan điểm chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa Mác - Lênin, và trở thành người đào mồ chôn Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:53:45 am
III. VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Tổ chức cơ sở của Đảng Cộng sản Liên Xô là nền tảng tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô, là phân đoạn cuối cùng trong việc thực hiện cương lĩnh và đường lối chính trị cũng như các nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô, là người trực tiếp thực hiện việc liên kết Đảng Cộng sản Liên Xô với quần chúng nhân dân, là người tổ chức và người dẫn đầu quần chúng, là tế bào và "sợi dây thần kinh" của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hình tượng của Đảng Cộng sản Liên Xô trên rất nhiều phương diện đều được thể hiện thông qua tổ chức cơ sở của nó.


Đảng Cộng sản Liên Xô có han 400.000 tổ chức cơ sở, phân bố tại các khu vực tập trung dân cư trên toàn quốc như nhà máy, hầm mỏ, nông trường quốc doanh, nông trang tập thể, bộ đội, cơ quan, trường học và các đơn vị nghiên cứu. Cho đến tháng 1 năm 1986, Đảng Cộng sản Liên Xô có 19.410.000 đảng viên. Họ tham gia các tổ chức tầng lớp ngành nghề, tiếp nhận công việc mà tổ chức đảng phân cho họ.


1. Địa vị của tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô

Địa vị của tổ chức cơ sở được quyết định bởi những nhiệm vụ mà nó đảm nhiệm.

Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu Đảng đã thông qua có những quy định khác nhau về nhiệm vụ của tổ chức cơ sở của Đảng Cộng sản Liên Xô, xu thế chung là trong các điều lệ Đảng được thông qua càng về sau thì nhiệm vụ được quy định càng nhiều, càng phức tạp, chỉ có điều lệ Đảng mà Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII thông qua là ngoại lệ. Nhưng có một số nhiệm vụ mà dường như tất cả các điều lệ Đảng đều có là: (1) Phát triển đảng viên mới; (2) Tổ chức cho các đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và nghị quyết của tổ chức đảng các cấp, giáo dục kỷ luật Đảng và giáo dục đạo đức đảng viên; (3) Thực hiện kỷ luật của Đảng, xử lý các đảng viên vi phạm kỷ luật; (4) Tuyển chọn và tiến cử lên tổ chức đảng cấp cao hơn các cán bộ của Đảng; (5) Giúp đỡ thủ trưởng hành chính làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thực hiện việc giám sát đối với công tác của thủ trưởng hành chính; (6) Động viên và tổ chức quần chúng hoàn thành công tác và kế hoạch sản xuâì; phát huy vai trò làm gương, đi đầu trong công tác và sản xuất.


Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVIII diễn ra trong bối cảnh địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô lung lay sắp đổ, là Đại hội đại biểu cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu lần này có những sửa đổi quan trọng về nhiệm vụ của tổ chức cơ sở, khẳng định địa vị độc lập của tổ chức cơ sở: (1) Quyền tự mình thành lập tổ chức cơ sở. Trong trường hợp không ít hơn 3 đảng viên, hội nghị của họ được tự quyết định thành lập tổ chức cơ sở, chỉ cần đăng ký với Đảng ủy cấp trên, không cần được phê chuẩn; (2) Tự mình quyết định hoạt động của mình. Bao gồm tiếp nhận đảng viên mới và đình chỉ đảng tịch Đảng Cộng sản Liên Xô, xác định cơ cấu, phương châm và phương pháp công tác, thời gian và quy trình hội họp, hành động chính trị, hoạt động tài chính và kinh tế của tổ chức, thiết lập quan hệ với Xôviết; (3) Có quyền triệu hồi những đảng viên cộng sản do họ đăng ký hoặc do họ tiến cử ở bất kỳ tổ chức thuộc bất kỳ cấp nào mà không cần thông qua sự đồng ý của Đảng ủy cấp trên; (4) Không còn quyền giám sát đối với lãnh đạo hành chính trong đơn vị của mình1 (Tham khảo Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.152-153). Căn cứ theo quy định trong Điều lệ cuối cùng này của Đảng Cộng sản Liên Xô, trên thực tế, tổ chức cơ sở Đảng đã thoát khỏi sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Liên Xô, hoàn toàn dựa vào "tinh tự giác" tiếp nhận "sự lãnh đạo" của Đảng Cộng sản Liên Xô. Kiểu quy định thả nổi của Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với tổ chức cơ sở Đảng làm cho tổ chức cơ sở Đảng trở thành vô nghĩa, Tổ chức cơ sở Đảng là tế bào của Đảng, sự sống còn của Đảng thể hiện ở sức sống của tổ chức cơ sở Đảng. Khi tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh thì việc quán triệt nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô khá thuận lợi; nếu ngược lại thì nghị quyết của Đảng sẽ gặp trở ngại trong quá trình thực hiện. Trong thời kỳ cuối dưới sự lãnh đạo của Gorbachev, Đảng Cộng sản Liên Xô mất đi sức hiệu triệu và sức hội tụ đối với toàn Đảng và toàn dân, trước hết là vì nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi sự ủng hộ của quần chúng, đồng thời cũng xa rời và yếu kém, không đủ khả năng liên kết với các tổ chức cơ sở Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:54:25 am
2. Vấn đề tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô

Từ trước tới nay đều tồn tại vấn đề về tổ chức cơ sở Đảng, nhưng kể từ sau khi Xtalin mất, đặc biệt là sau Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX, các vấn đề trở nên ngày càng nghiêm trọng, ngày càng nổi bật. Chủ yếu biểu hiện ở một vài phương diện sau:

Thứ nhất, tổ chức rời rạc, kỷ luật lỏng lẻo, khả năng động viên và tổ chức đảng viên giảm dần, vai trò tiên phong mất dần. Một hậu quả tiêu cực của việc Khrushchev chống lại Xtalin chính là phần lớn đảng viên cộng sản Liên Xô và quảng đại quần chúng sinh ra hoài nghi về tính chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tính khả thi của chủ nghĩa cộng sản, tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, danh dự của đảng viên cộng sản bị dao động, sự nhiệt tình quên mình dần dần nguội lạnh, vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên cộng sản dần dần nhạt nhòa. Vai trò thân thiện, vai trò khích lệ và vai trò ràng buộc của tổ chức cơ sở đối với đảng viên cộng sản cũng giảm đi rất nhiều, vai trò "pháo đài chiến đấu" cũng khó thể hiện. Có những đảng viên cộng sản không phải vì muốn thực hiện lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà xin gia nhập Đảng, mà là nhận thấy vị trí cầm quyền của Đảng và danh dự của đảng viên cộng sản giúp ích cho tiền đồ của bản thân nên mới xin vào Đảng. Sau khi vào Đảng, nhận thấy đã đạt được mục đích của mình rồi, thì họ lại không nghiêm khắc với bản thân, khiến bản thân bị hạ thấp chỉ như một người dân bình thường. Những người này là những người dễ dàng dao động nhất. Đảng viên cộng sản không phát huy được vai trò xứng đáng. Có những đảng viên cộng sản mang tư tưởng cá nhân chủ nghĩa nghiêm trọng, hoàn toàn quên mất nghĩa vụ của một đảng viên cộng sản. Đặc biệt là sau khi Gorbachev lên nắm quyền, tổ chức cơ sở Đảng hoàn toàn tê liệt, phần lớn đảng viên đề nghị được rút ra khỏi Đảng, có đảng viên tuy không ra khỏi Đảng nhưng cũng không chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng nữa, không hoàn thành nhiệm vụ mà tổ chức đảng giao cho, không tham gia hoạt động của tổ chức đảng.


Thứ hai, chủ nghĩa quan liêu trong tác phong và đơn giản hóa trong công tác của người lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng, xa rời quần chúng nghiêm trọng, vai trò đoàn kết và lãnh đạo quần chúng ngày càng yêu kém. Rất nhiều người lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng chỉ biết truyền đạt một cách rập khuôn chỉ thị của lãnh đạo cấp trên, không có khả năng liên hệ thực tế một cách sáng tạo; chỉ biết nói về chính trị một cách sáo rỗng mà không tự nguyện giúp đỡ quần chúng giải quyết những vấn đề mà họ gặp phải trong cuộc sống thực tế. Quần chúng không còn tin tưởng ở họ, sức hội tụ của tổ chức cơ sở Đảng rất kém. Khách quan mà nói, tổ chức cơ sở Đảng không có quyền lãnh đạo nghiệp vụ trong đơn vị của nó, chỉ là trợ thủ giúp đỡ người lãnh đạo hành chính hoàn thành kế hoạch và nhiệm vụ hành chính, một số lãnh đạo hành chính giao cho tổ chức cơ sở Đảng đi "làm công tác tư tưởng" đối với tất cả những vấn đề khó khăn liên quan đến lợi ích quần chúng, khiến cho người lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng thiếu đi sự nhiệt tình đối với công việc của mình.


Báo Sự thật ngày 11 tháng 4 năm 1980 đã đăng tin: một người phụ nữ ở tỉnh Penza phản ánh với tòa soạn, nhà ở của cô ây đã bị lũ cuốn trôi. Các ban, ngành liên quan đã chuyển người phụ nữ này đến ở tạm tại một tầng hầm ở gần đó. Sau đó, phòng ở vẫn không được sửa chữa, mà còn bị dỡ bỏ, và người phụ nữ này bị lãng quên hoàn toàn. Cô ấy khiếu nại khắp nơi trong suốt hai năm, tìm đến tất cả tổ chức đảng từ cơ sở cho đến Tỉnh ủy nhưng vấn đề vẫn không được giải quyết. Có một số lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng đã dọa dẫm, thậm chí là xử phạt, kỷ luật những đảng viên và quần chúng dám nói lời thật, dám đưa ra ý kiến đối với người lãnh đạo. Báo Công nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày 5 tháng 9 năm 1986 lại đăng tin: một chủ nhiệm phân xưởng của Công ty Năng lượng công nghiệp hóa học Liên Xô từ chối ký tên trên văn kiện vì phát hiện ra một dự án xây dựng bất hợp pháp. Tổng giám đốc đã đe dọa ông ta: "Ông không trốn được, kiểu gì thì cũng phải ký tên, nếu không, vị trí của ông không giữ được. Chúng tôi sẽ họp Đảng ủy, bày tỏ sự không tín nhiệm ông, vậy là ông đi đứt". Một vị kỹ sư chỉ trích vị tổng giám đốc không khiêm tôn, lạm dụng chức quyền lại bị cho là "bôi nhọ danh dự cá nhân, vu khống người khác"; vạch trần một hiện tượng vi phạm biên chế - kỷ luật tài vụ nghiêm trọng bị kêu là "cản trở công việc"; phê bình lãnh đạo bảo thủ, không thay đổi tác phong làm việc cũ bị nói thành "làm tổn hại đến uy tín của lãnh đạo". Những lời này đều được ghi chép lại, làm chứng cứ để xử phạt vị kỹ sư trên. Sau đó, người kỹ sư đã bị sa thải, tước bỏ chức vụ Đảng ủy viên vì "phát tán tin đồn vô căn cứ, lăng nhục đảng viên cộng sản thuộc Cục Quản lý, cũng như có những hành động làm bại hoại danh dự của Đảng ủy".


Những ví dụ kiểu này vẫn còn rất nhiều. Tổ chức đảng như vậy làm sao có thể giành được sự tín nhiệm của quần chúng?

Thứ ba, chủ nghĩa hình thức về học tập trong nội bộ Đảng, hội nghị Đảng không giải quyết được các vấn đề thực tế, hiệu quả giáo dục và quản lý đảng viên rất thấp. Nửa cuối giai đoạn nắm quyền của Gorbachev, tổ chức cơ sở Đảng đã hoàn toàn tê liệt. Mà trước đó, tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô thường tổ chức cho đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhưng những hoạt động kiểu này chỉ là để chấp hành quy định, thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo cấp trên, mang tính chất đối phó, căn bản không giải quyết vấn đề thực tế. Tại rất nhiều kỳ đại hội, đảng viên chỉ có thể nói suông, nói tốt, nói những lời trau chuốt, không cho phép nêu lên ý kiến phê bình. Một công nhân điện của Nhà máy dệt may 1-5 ở thành phố Vladimir đã viết thư gửi đến báo Sự thật, phản ánh lãnh đạo nhà máy của họ không quan tâm đến quần chúng, điều kiện sinh hoạt hằng ngày rất kém, khu nội trú rất lạnh, kỷ luật rời rạc, hiện tượng nghiện rượu không chấm dứt. Anh ta đã trình bày tất cả trong Hội nghị đảng viên, nhưng không những không nhận được sự ủng hộ mà còn bị giám đốc nhà máy khiển trách, còn có người đe dọa sẽ xử phạt anh ta. Hội nghị đảng viên kiểu này chỉ làm giảm đi tính tích cực ở đảng viên. Ở thành phố Lipetsk có một vị phó giám đốc nhà máy, tác phong làm việc rất thô bạo, "gào thét, đe dọa, mắng mỏ bằng những lời thô thiển" là cách giao tiếp chủ yếu của ông ta với công nhân. Ông ta còn thường xuyên nghiện rượu. Đảng ủy thông qua quyết định khai trừ Đảng đối với ông ta. Tuy nhiên, người lãnh đạo đương nhiệm muốn giữ ông ta lại, đại đa số Đảng ủy viên chủ trương nghiêm khắc kỷ luật ông ta. Phó Bí thư Đảng ủy chủ trì hội nghị vội vàng tuyên bố ngừng họp, tuyên bố "cuộc họp lần sau tiếp tục thảo luận". Cách làm bao che ngang nhiên đối với những cán bộ có vấn đề  nghiêm trọng kiểu này đã dẫn đến sự bất mãn của đảng viên và quần chúng, làm tổn hại đến uy tín của tổ chức đảng.


Giai đoạn cuối thời kỳ cầm quyền của Gorbachev, nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản thay đổi xoành xoạch, một nghị quyết vẫn chưa được truyền đạt hoàn tất, thì nghị quyết mới đã được đưa ra, ý kiến của những lãnh đạo ở Trung ương công khai cho thấy sự chia rẽ, khiến cho tổ chức cơ sở Đảng không biết làm thế nào. Có tổ chức cơ sở Đảng cũng phân thành một số bè phái, căn bản không có cách nào để triển khai công việc. Rất nhiều đảng viên lạnh nhạt đối với tổ chức cơ sở Đảng, có những đảng viên dứt khoát ra khỏi tổ chức đảng. Cũng có số ít đảng viên gia nhập vào các tổ chức chống cộng, trở thành lực lượng nòng cốt chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, trở thành một phần tử trong lực lượng làm sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:55:47 am
3. Mổ xẻ vấn đề của tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô

Vấn đề biểu hiện ở hạ tầng, nhưng gốc rễ của vấn đề nằm ở thượng tầng, chủ yếu là tại Trung ương.

Thời kỳ Lênin, Xtalin lãnh đạo, vai trò pháo đài chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô và vai trò gương mẫu đi đầu của đảng viên cộng sản rất nổi bật. Trong cuộc chiến chống lại can thiệp vũ trang từ bên ngoài và nội chiến, trong hoạt động lao động nghĩa vụ ngày thứ bảy và thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cuộc chiến khôi phục kinh tế sau đó, biểu hiện của tổ chức cơ sở Đảng và rất nhiều đảng viên đều vô cùng xuất sắc. Trong những năm này, dưới hoàn cảnh như vậy, điều kiện sinh tồn của Đảng vô cùng gian nan, một số người ích kỷ không dám hoặc không muốn xin vào Đảng, tố chất của đảng viên tương đối cao. Lúc đó điều kiện vào Đảng vô cùng khắt khe: Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng (năm 1919) đã thêm một chương về "đảng viên dự bị", quy định về việc khảo sát: "Hễ cứ là người tự nguyện vào Đảng thì đều bắt buộc phải trải qua thời kỳ dự bị"; Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng (năm 1922) quy định, thủ tục tiếp nhận đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức chia làm 3 loại, loại thứ nhất là lính hồng quân xuất thân từ công nhân và nông dân, loại thứ hai là nông dân và thợ thủ công không bóc lột người khác, loại thứ ba là những người khác (như công nhân, viên chức). Loại một và hai vào Đảng nhất thiết phải được 3 cán bộ đảng viên có 3 năm tuổi Đảng trở lên giới thiệu, loại thứ ba vào Đảng nhất thiết phải được 5 cán bộ đảng viên có 5 năm tuổi Đảng trở lên giới thiệu. Người giới thiệu phải có trách nhiệm với người được giới thiệu, nếu như giới thiệu khinh suất, phải chịu kỷ luật của Đảng, thậm chí còn bị khai trừ ra khỏi Đảng. Những loại người gia nhập Đảng khác nhau thì thời gian dự bị của họ cũng khác, loại thứ nhất là nửa năm, loại thứ 3 là hai năm. Cho nên, những phần tử đầu cơ khi đó muốn trà trộn vào Đảng là không hề dễ dàng. Lúc đó Đảng trong sạch, những đảng viên không hợp lệ đều bị đào thải kịp thời, đội ngũ trong Đảng khá trong sạch. Ngoại trừ thực hiện nghiêm ngặt kỷ luật Đảng, trong Đảng còn thực hiện những hoạt động đăng ký mới, thay đổi thẻ Đảng, hoạt động làm trong sạch Đảng với quy mô lớn diễn ra 3 lần, lần lượt vào các năm 1921,1929 và 1933 - 1934. Trong hoạt động làm trong sạch Đảng với quy mô lớn cũng từng xuất hiện hiện tượng mở rộng hóa, điều này cũng đã làm tổn hại nghiêm trọng một số đảng viên cộng sản. Thế nhưng, các hoạt động làm trong sạch Đảng này vẫn có tác động tích cực trong việc duy trì sức chiến đấu của tổ chức đảng cơ sở, duy trì tính tiên tiến của đảng viên. Tuy nhiên, Đại hội đại biểu lần thứ XVIII của Đảng đã quyết định sau này không thực hiện hoạt động này nữa, điều này đã kéo theo vấn đề thuộc một phương diện khác.


Lênin đặc biệt nhấn mạnh việc cần duy trì tính trong sạch của Đảng. Lênin đã nhiều lần nêu lên vấn đề này. Người nói: "Sức mạnh và quyền lực của Ban Chấp hành Trung ương, tính kiên định và tính trong sạch của Đảng là có thực"1 (Lênin văn cảo, Nxb. Nhân dân, 1977, q.1, tr.210). "Trên thế giới chỉ có Đảng cầm quyền như chúng ta đây, tức là chính đảng của giai cấp công nhân cách mạng, mới không theo đuổi việc gia tăng số lượng đảng viên mà chú ý nâng cao chất lượng đảng viên và "làm trong sạch" "những người lẫn vào trong Đảng"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.215). "Cần phải thanh trừ ra khỏi Đảng những phần tử gian dối, phần tử quan liêu, những phần tử không trung thành và những đảng viên cộng sản không kiên định, cùng với những phần tử tuy "thay đầu đổi mặt" nhưng trong lòng vẫn giữ nguyên tư tưởng Mensêvích"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.42, tr.147).


Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng bắt đầu giảm sút từ Đại hội Đảng lần thứ XX. Trong Đại hội lần này, Khrushchev có báo cáo bí mật phản đối sự sùng bái cá nhân. Từ đó trở đi thần tượng trong suy nghĩ của đảng viên đã sụp đổ, quyền uy của Đảng bắt đầu bị dao động, tổ chức đảng cấp dưới đối với tổ chức đảng cấp trên, đảng viên đội với người lãnh đạo Đảng đã không còn kiểu nói gì nghe nấy nữa, bắt đầu độc lập suy nghĩ, bắt đầu đưa ra ý kiến không đồng tình. Tình trạng này dẫn tới hai loại kết quả: một loại là tích cực, thể hiện ở chỗ tính chủ động và tính tích cực của đảng viên được phát huy; loại còn lại là tiêu cực, thể hiện ở chỗ đảng viên không còn tín nhiệm đối với lãnh đạo cấp trên, và trào lưu tư tưởng vô chính phủ xuất hiện tràn lan. Còn một số đảng viên mất phương hướng, mù tịt không biết làm thế nào, cho nên lúc đó mới nói "một thế hệ sụp đổ". Đến thời kỳ Gorbachev, lịch sử của Đảng hoàn toàn bị xóa sạch, trên báo chí của Đảng đã xuất hiện những trang công khai phê bình chủ nghĩa Mác - Lên in, hoạt động bè phái trong Đảng nhận được sự bao che, lãnh đạo Đảng bị nghi ngờ, tổ chức cơ sở Đảng bị tê liệt hoàn toàn.


Xóa sạch lịch sử Đảng, làm tổn hại đến uy tín của Đảng; bôi nhọ lịch sử của người tiền nhiệm nhằm tôn thêm và làm nổi bật sự "anh minh đúng đắn" của mình dần dần trở thành thói quen xấu của các đời lãnh đạo, bắt đầu từ Khrushchev. Kể từ sau khi Khrushchev cầm quyền, mỗi đời lãnh đạo Đảng sau khi lên nắm quyền đều phê phán người tiền nhiệm của ông ta, điều này chắc chắn sẽ khiến cho đông đảo đảng viên và quần chúng nhân dân nảy sinh nghi ngờ đối với lịch sử của Đảng, mất lòng tin đối với người lãnh đạo Đảng. Khrushchev phê bình Xtalin, Brezhnev phê bình Khrushchev, Gorbachev lại phê bình toàn bộ lịch sử Đảng, cái gọi là "không để lại chỗ trống" trên thực tế chính là phủ định hoàn toàn công lao, thành tích của Đảng và lịch sử huy hoàng của Đảng. Xtalin đảm nhiệm công tác lãnh đạo chủ yếu của Đảng gần 30 năm, Khrushchev cầm quyền 11 năm, Brezhnev cũng lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô 18 năm, đây là ba vị lãnh đạo có thời gian cầm quyền lâu nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, thời gian mà ba người cầm quyền cộng lại cũng gần 60 năm, chiếm 78% thời gian tồn tại của Liên Xô. Trong thời gian họ đương nhiệm, xã hội Liên bang Xôviết thu được những tiến bộ rất lớn, từ một nước nông - công nghiệp trở thành một quốc gia hiện đại hóa mạnh mẽ, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đứng thứ hai thế giới. Trong thời gian họ cầm quyền cũng phạm phải những sai lầm mang tính chất khác nhau ở những mức độ khác nhau. Phân tích những sai lầm này nhằm rút ra bài học kinh nghiệm và làm tốt hơn là điều cần thiết và phải làm. Tuy nhiên, phải có thái độ thận trọng và khách quan. Bởi vì họ là những người gánh vác trách nhiệm chủ yếu của Đảng, Đảng Cộng sản Liên Xô - Đảng cầm quyền duy nhất của cả nước, tất cả thành tựu và vấn đề của quốc gia đều gắn liền với tên tuổi của họ. Vì vậy, khi phê bình sai lầm của họ, nhất định phải đặc biệt phân tích một cách nghiêm túc, khách quan, phân rõ dòng chính và dòng phụ, phân biệt rõ hoàn cảnh lịch sử và trách nhiệm cá nhân, còn cần căn cứ theo tình hình trong nước và quốc tế để áp dụng phương pháp xác đáng nhất. Bởi vì họ là những người chịu trách nhiệm chủ yếu của Đảng, rất nhiều sai lầm của họ được quán triệt trên cả nước thông qua nghị quyết của Đảng, cá nhân họ cũng xuất hiện với tư cách là đại diện của Đảng, cho nên khi phê bình sai lầm của họ, nếu không thể nghiêm khắc phân rõ trách nhiệm thì sẽ biến thành phê bình sự lãnh đạo của Đảng, bêu xấu danh dự của Đảng, làm tổn hại đến uy tín của Đảng, bôi nhọ lịch sử Đảng. Việc vận động "dân chủ hóa", "công khai" của Gorbachev, trên thực tế là sao chép câu chữ của Lênin rồi ngụy trang thành vận động tự do hóa tư sản. Ông ta căn bản phủ định tư tưởng chỉ đạo - chủ nghĩa Mác - Lênin, căn bản phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên bang Xôviết, căn bản phủ định cương lĩnh, đường lối và chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời lại tuyên dương thành tựu của chủ nghĩa tư bản một cách vội vàng, tuyên truyền chủ nghĩa xã hội không bằng chủ nghĩa tư bản một cách thiếu căn cứ, kêu gọi học tập chủ nghĩa tư bản mà không chọn lọc. Từ lập trường này, việc phê bình những "sai lầm" trong quá khứ chỉ có thể dẫn đến chỗ phủ định hoàn toàn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ định hoàn toàn lịch sử của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn Liên Xô, chỉ có thể dẫn đến con đường tư bản chủ nghĩa. Trải qua sự phê bình và tuyên truyền như vậy, rất nhiều người, đặc biệt là thanh niên, không còn tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, không còn tin vào chủ nghĩa xã hội, không còn tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nữa, chuyển sang phương thức hoạt động của chủ nghĩa tư bản và chế độ xã hội của chủ nghĩa tư bản. Với tình hình này, tổ chức cơ sở Đảng căn bản không có cách nào để triển khai công việc.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 07:58:45 am
Quyết sách của Trung ương có nhiều thay đổi, hạt nhân lãnh đạo Trung ương không đoàn kết, tổ chức cơ sở Đảng mất phương hướng. Đây lại là một nguyên nhân quan trọng phá tan hoặc làm tổn hại đến tính chiến đẩu của tổ chức cơ sở Đảng. Tình trạng trên chủ yếu xuất hiện ở thời Khrushchev và thời Gorbachev.


Khrushchev phê phán tệ sùng bái cá nhân trong Đảng, khéo léo phân Đảng thành Đảng công nghiệp và Đảng nông nghiệp, điều này đã gây nên sự hỗn loạn rất lớn trong tư tưởng đảng viên, ảnh hưởng đến công việc của tổ chức cơ sở Đảng. Ông ta thực hiện chế độ thay đổi cán bộ Đảng luân phiên theo định kỳ, ảnh hưởng xấu đến tính tích cực của cán bộ tổ chức cơ sở Đảng.


Tháng 10 năm 1962, Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô do Khrushchev chủ trì được tổ chức. Đại hội quyết định thực hiện chế độ nhiệm kỳ đối với vị trí lãnh đạo trong Đảng, và có những sửa đổi tương ứng đối với Điều lệ Đảng. Điều 25 của Điều lệ Đảng sau khi sửa đổi quy định: "Khi bầu cơ quan lãnh đạo của Đảng, cần tuân thủ nguyên tắc thường xuyên thay đổi thành viên cơ quan, đồng thời cũng duy trì tính kế thừa của lãnh đạo". Mỗi lần tiến hành bầu cử, thành viên của chuyên khu ủy, thành ủy, khu ủy, Đảng ủy hoặc chi ủy của tổ chức cơ sở đảng ít nhất phải thay đổi một nửa. Đồng thời, Điều 56 quy định: "Để thực hiện công việc thường nhật, tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức đảng nhà ntáy chọn ra chi ủy, số ủy viên do đại hội toàn thể của Đảng 597 quy định, nhiệm kỳ một năm"1 (Tham khảo Tuyển tập Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.209-210, 218-219). Điều này chứng tỏ, thành viên của tổ chức cơ sở Đảng mỗi năm đều cần thay ít nhất một nửa. Một số thành viên tổ chức cơ sở tuổi đời chưa cao, do hết nhiệm kỳ phải từ bỏ chức vụ của mình. Theo thống kê, số lượng thay đổi bí thư tổ chức cơ sở Đảng mỗi năm là 60%. Trong số những bí thư không trúng cử, có 2/3 không phải vì năng lực làm việc không đạt, mà là vì mãn khóa theo quy định. Như vậy, số lượng bí thư có kinh nghiệm trong tổ chức cơ sở đảng giảm rất nhiều. Chế độ thay đổi định kỳ này làm cho các cán bộ của tổ chức cơ sở đảng lo lắng không yên. Hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng đại đa số không phải chuyên trách, vốn dĩ không có sức hấp dẫn, rất nhiều đảng viên chỉ dựa vào tinh thần Đảng để thực hiện nghĩa vụ của mình. Sau khi thực hiện chế độ thay đổi luân phiên định kỳ, họ càng nản lòng thoái chí, tư tưởng "làm cho qua chuyện" thường tồn tại trong các thành viên của tổ chức cơ sở Đảng. Trong tình trạng này, họ rất khó để chuyên tâm làm tốt các công việc của tổ chức cơ sở đảng.


Thời Gorbachev, đường lối tư tưởng, đường lối chính trị và đường lối tổ chức của Trung ương Đảng ở trong tình trạng lộn xộn, nghị quyết Đảng liên tục thay đổi, các phe phái mọc lên khắp mọi nơi trong nội bộ Đảng, tổ chức cơ sở đảng và rất nhiều đảng viên không biết phải làm thế nào.


Hội nghị đại biểu lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô được tổ chức năm 1988 là bước ngoặt dẫn tới sự suy vong của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong tình trạng cải tổ thể chế kinh tế không thu được hiệu quả rõ rệt, Hội nghị này quyết định thực hiện cải tổ thể chế chính trị, đầu tiên là cải tổ từ bản thân Đảng Nội dung cải tổ bao gồm: (1) Trong chỉ đạo tư tưởng cần "từ bỏ sự độc quyền về chính trị và ý thức hệ", tức là từ bỏ địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản và địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin; (2) Trong Hiến pháp, loại bỏ quy định về vai trò hạt nhân của Đảng Cộng sản trong thể chế chính trị, biên Đảng Cộng sản từ một đảng lãnh đạo thành "đảng nghị viện"; (3) Trong Đảng, xoá bỏ chế độ tập trung dân chủ, thay đổi chế độ liên bang và chế độ tự trị; (4) Cái gọi là "trả lại quyền lực cho Xôviết"; (5) Tiếp cận nguyên tắc "tam quyền phân lập" của phương Tây, theo chế độ tổng thống, loại bỏ sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Trung ương. Kết quả là cải tổ thể chế chính trị đã dẫn đến sự chia rẽ, gây rối loạn nội bộ Đảng và xã hội Liên Xô. Các cuộc chiến dư luận, cuộc chiến pháp lý, đấu tranh giữa các đảng phái, giữa các dân tộc, các cuộc biểu tình liên tục diễn ra và ngày càng sôi sục. Tuyên bố mang tính cương lĩnh thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô đã miêu tả tình hình trong nước như sau: "Đảng đang trải qua thời kỳ chuyển đổi phức tạp. Từ bỏ vai trò hạt nhân vốn có của thể chế mệnh lệnh hành chính làm cho Đảng mang tính chất của một tổ chức chính trị xã hội, dẫn đến mâu thuẫn gay gắt hơn bao giờ hết, tính tích cực của nhiều tổ chức đảng giảm sút, ý kiến và lập trường phân hóa thành hai cực, ý kiến phê phán Đảng ngày càng nhiều. Trong nước đang nhanh chóng hình thành nhiều loại đoàn thể và phong trào chính trị xã hội"1 (Tổng tập tư liệu văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.114-115). Điều được gợi là "tính tích cực của nhiều tổ chức đảng giảm sút" ở đây trước hết chỉ tính tích cực của các tổ chức cơ sở đảng giảm sút.


Nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là giữa các lãnh đạo cấp cao, phân thành nhiều bè phái. Các phe phái bảo thủ cho rằng cải tổ đã chôn vùi nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, họ bắt đầu phấn khích kể từ giai đoạn trước đó, khi cải tổ không mấy hiệu quả; phe tự do tư sản chủ trương Tây hóa cả gói, thế lực phe này không ngừng tăng lên; cái gọi là "phe dân chủ" muôn màu muôn vẻ biến thành hiện tượng gây chú ý trong đời sống xã hội Liên Xô; phong trào dân tộc chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, trào lưu tư tưởng sôvanh chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa ngày càng sôi nổi; "phe cách mạng dân chủ" do Gorbachev đứng đầu hoàn toàn xa rời chủ nghĩa xã hội khoa học, cho ra đòi đường lối "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Chia bè kéo cánh ở cấp trên dẫn tới chia bè kéo cánh ở cấp dưới, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tê liệt của tổ chức cơ sở Đảng.


Trong công tác tiếp nhận đảng viên mới, coi trọng sự gia tăng số lượng đảng viên mà coi nhẹ sự giảm sút chất lượng đảng viên cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự yếu kém của các tổ chức cơ sở Đảng. Năm 1937, Liên Xô tuyên bố về căn bản đã xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp bóc lột trong nước đã bị tiêu diệt, chỉ còn giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức với các lợi ích thống nhất. Năm 1939, Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang lần thứ XVIII quyết định xóa bỏ quy định phân loại tiếp nhận đảng viên mới, đồng thời, tuyên bố sẽ không tiến hành hoạt động làm trong sạch Đảng quy mô lớn, nới lỏng yêu cầu đối với người giới thiệu người vào Đảng. Số lượng đảng viên tăng lên nhanh chóng. Thời điểm Đại hội đại biểu lần thứ XVIII của Đảng năm 1939 có 2.877.666 đảng viên; tới Đại hội đại biểu lần thứ XIX của Đảng năm 1952 có 6.882.154 đảng viên; đầu năm 1986 khi Liên Xô cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã có tới 19,41 triệu đảng viên, gấp 6,75 lần số đảng viên thời điểm Đại hội lần thứ XVIII, gấp 2,82 lần số đảng viên thời điểm Đại hội lần thứ XIX. Cùng lúc đó, số người ra khỏi Đảng giảm mạnh. Một số đảng viền không đủ tư cách vẫn còn trong Đảng, trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của tổ chức cơ sở Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 08:01:21 am
IV. VẤN ĐỀ GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG

Giám sát của Đảng là chỉ việc kiểm tra, đôn đốc công việc và hành vi xã hội đối với các cấp lãnh đạo Đảng, các cán bộ và toàn thể đảng viên, làm cho họ tuân thủ pháp luật Nhà nước và kỷ luật Đảng; uốn nắn hiện tượng vi phạm pháp luật, kỷ luật, xử lý hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật. Giám sát của Đảng là một vấn đề quan trọng trong công tác xây dựng đảng, để đoàn kết nhân dân cả nước, bảo đảm thực hiện các nghị quyết, chính sách, phương châm, cương lĩnh, đường lối của Đảng.


1. Lý luận về giám sát của Đảng Cộng sản Liên Xô

Lý luận về giám sát của Đảng Cộng sản Liên Xô do Lênin đề ra. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đảng Bônsêvích trở thành đảng cầm quyền. Nhiều tàn dư của chế độ cũ còn tồn tại trong hệ thống nhà nước Liên Xô, thói xấu quan liêu ngấm sâu vào các cán bộ đảng, Lênin rất lo lắng về điều này. Người đã đưa ra hàng loạt kiến nghị về cải cách hệ thống nhà nước, tăng cường giám sát của Đảng.


Thứ nhất, đối tượng chủ yếu của giám sát là các cấp lãnh đạo Đảng, nhằm ngăn chặn quan liêu hóa quyền lực. Từ khi nhà nước Liên Xô mới thành lập chưa lâu, Lênin đã chỉ ra: "Hiện nay chúng ta càng cần kiên trì chủ trương có một chính quyền tuyệt đối cứng rắn, chủ trương trong một quá trình công tác nhất định, trong một thời kỳ nhất định thực hiện chức năng chấp hành thuần túy, thực hiện độc tài cá nhân, thì càng cần phải có nhiều hình thức, phương pháp giám sát đa dạng từ dưới lên trên, nhằm xóa bỏ những tệ nạn có thể nảy sinh trong chính quyền Xôviết, không ngừng diệt trừ mầm mống chủ nghĩa quan liêu"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.186). Để đề phòng đảng viên cộng sản trở nên quan liêu, Lênin đưa ra những biện pháp sau: "(1) Không chỉ đợi bầu cử mà bất cứ lúc nào cũng có thể thay thế cán bộ; (2) Lương bổng không được cao hơn lương công nhân; (3) Ngay lập tức trao cho mọi người chức năng kiểm tra, giám sát, làm cho tất cả mọi người tạm trở thành 'quan liêu', do đó làm cho không ai có thể biến thành 'quan liêu'"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.31, tr.105).


Thứ hai, trong những ngày tháng cuối đời, Lênin càng quan tâm hơn đến vấn đề giám sát của Đảng. Ngay cả khi trên giường bệnh, mỗi ngày Người vẫn dành vài phút nói về Đảng và bộ máy nhà nước. Người rất lo lắng về tình trạng của Đảng, của bộ máy nhà nước lúc đó. Người kiến nghị cải tổ Viện Kiểm sát công nông, hợp nhất Ủy ban Giám sát Trung ương với Viện Kiểm sát công nông nhằm nâng cao uy tín của Viện này, đồng thời chỉ rõ: "Cần có một số ủy viên Ủy ban Giám sát Trung ương tham dự mỗi lần họp của Bộ Chính trị, phải hình thành một tập thể liên kết chặt chẽ. Tập thể này phải bất chấp tình cảm riêng tư, phải chú ý không để cho uy tín của bất cứ người nào, dù là Tổng Bí thư hay là ủy viên Trung ương nào, cản trở họ trong việc chất vấn, thẩm tra văn kiện, nhằm hiểu tuyệt đối tình hình và làm cho các công việc tuân thủ nghiêm ngặt đúng theo quy định"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.377), "Ủy viên giám sát Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Đoàn chủ tịch Ủy ban mình, phải thường xuyên kiểm tra tất cả những văn kiện của Bộ Chính trị. Đồng thời họ phải phân phối một cách xác đáng thời gian làm việc kiểm tra của mình để kiểm tra chế độ làm việc của các cơ quan chúng ta (từ cơ quan chi nhánh nhỏ nhất đến cơ quan nhà nước cao nhất)"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.384-385, 374, 382).


Thứ ba, phải nâng cao tố chất của ủy viên giám sát và nhân viên công tác của Ủy ban Giám sát. Lênin đặc biệt coi trọng phẩm chất chính trị và năng lực làm việc của ủy viên giám sát. Người đề nghị Đại hội đại biểu '"chọn ra khoảng 75 đến 100 (đây đương nhiên con số đại thể) ủy viên mới của Ủy ban Giám sát Trung ương từ công nhân, nông dân. Những người được chọn này cũng cần phải được Đảng kiểm tra tư cách giống như các ủy viên Trung ương vì họ cũng được hưởng tất cả quyền lợi như ủy viên Trung ương"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.384-385, 374, 382).


Lênin còn yêu cầu phải cắt giảm nhân viên công tác trong Viện Kiểm sát công nông, nâng cao chất lượng cán bộ ở đây. Người yêu cầu những người làm việc trong Viện Kiểm sát công nông cần phải đáp ứng những điều kiện sau: "Thứ nhất, họ phải được đề cử bởi một số đảng viên cộng sản; thứ hai, họ phải thi kiểm tra kiêh thức về cơ quan nhà nước chúng ta; thứ ba, họ phải thi kiểm tra kiến thức về lý luận cơ bản, khoa học quản lý, chế độ làm việc của cơ quan nhà nước chúng ta; thứ tư, họ phải phối hợp làm việc với ủy viên giám sát Trung ương và Ban thư ký của Viện đó, để chúng ta có thể tin vào tất cả mọi công việc của cơ quan"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.384-385, 374, 382).


Căn cứ vào những kiến nghị của Lênin, Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga đã thông qua nghị quyết "Về nhiệm vụ của Viện Kiểm sát công nông và Ủy ban Giám sát Trung ương". Nghị quyết chỉ rõ, Viện Kiểm sát công nông và Ủy ban Giám sát Trung ương "cân kết hợp với nhau" về mặt tổ chức, cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc cải tiến cách làm việc của bộ máy nhà nước.


Thứ tư, Lênin rất quan tâm đến ý kiến của quần chúng ngoài Đảng. Người nói: "Khi đánh giá con người, khi phát hiện người "lẫn vào trong Đảng", "cậy chức ủy viên", "quan liêu hóa", thì ý kiến của quần chúng giai cấp vô sản ngoài Đảng và ý kiến của quần chúng nông dân ngoài Đảng trong nhiều trường hợp là vô cùng quý báu"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.145-146).


Thứ năm, Lênin rất coi trọng vai trò giám sát của pháp luật. Người viết: "Không nên sợ tòa án (tòa án của chúng ta là của giai cấp vô sản) và tính công khai, mà phải xét xử công khai kiểu tác phong lề mề, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thật sự trị được căn bệnh này"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.52, tr.149). Ngày 18 tháng 3 năm 1922, trong bức thư gửi các Ủy viên Bộ Chính trị, Lênin đề nghị: ''Cần nhấn mạnh với các tỉnh ủy rằng, bất kỳ người nào có ý đồ "gây ảnh hưởng" với tòa án để "giảm nhẹ" tội của đảng viên cộng sản, Trung ương sẽ khai trừ ra khỏi Đảng"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.53).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 19 Tháng Ba, 2022, 08:02:19 am
2. Chế độ giám sát của Đảng Cộng sản Liên Xô

Tháng 7 năm 1917, trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó quy định Đại hội đại biểu của Đảng bầu ra Ủy ban Giám sát. Chức trách của ủy ban này là: "Kiểm tra Phòng Kế toán của Trung ương Đảng và tất cả các công việc khác, báo cáo với Đại hội đại biểu lần sau"1 (Tuyển tập Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđđ, tr.16, 34). Năm 1920, Đại hội đại biểu toàn Nga lần thứ IX của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga quyết định thành lập Ủy ban Giám sát Trung ương và lập các tổ giám sát chuyên trách ở các tỉnh ủy, khu ủy Đảng, Ủy ban Giám sát Trung ương do Đại hội đại biểu của Đảng bầu ra, các tổ, bộ giám sát chuyên trách ở các tỉnh, khu do Hội nghị đại biểu của tỉnh, khu bầu. Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga năm 1921 thông qua nghị quyết quy định chức năng của Ủy ban Giám sát. Đại hội đại biểu lần này đã lần đầu tiên bầu ra Ủy ban Giám sát Trung ương. Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga năm 1922 đã thông qua điều lệ chi tiết về cơ cấu tổ chức, quyền lợi và nghĩa vụ của Ủy ban Giám sát Trung ương. Đây cũng là đại hội cuối cùng mà Lênin tham gia. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga đã thiết lập hệ thống giám sát trong Đảng tương đối hoàn chỉnh.


Cơ quan giám sát trong Đảng Cộng sản Liên Xô gồm hai ủy ban: Ủy ban Kiểm tra và Ủy ban Giám sát. Căn cứ Điều 28 "Điều lệ Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga" (do Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 11 thông qua tháng 8 năm 1922), "Ủy ban Kiểm tra Trung ương gồm 3 người, ủy viên phải có trên 10 năm tuổi đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra: (1) các cơ quan Trung ương Đảng có xử lý công việc nhanh chóng và chính xác hay không, Ban Bí thư Trung ương Đảng có tiến hành công tác bình thường hay không; (2) Phòng Kế toán và các công việc khác của Trung ương Đảng"2 (Tuyển tập Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđđ, tr.16, 34). Điều lệ này đã có chương 10 riêng về "Ủy ban Giám sát". Chương này quy định: "Để giúp củng cố sự thống nhất và uy tín của Đảng ở Trung ương, các khu và các tỉnh, Đại hội đại biểu Đảng, Hội nghị đại biểu các khu, tỉnh bầu ra Ủy ban Giám sát giám sát. Ủy ban Giám sát các cấp báo cáo công việc với cơ quan bầu ra mình", "Ủy ban Giám sát các cấp có quyền tham gia tất cả các hội nghị của Đảng ủy cùng cấp và các hội nghị, đại hội khác của tổ chức đảng cùng cấp, có quyền phát ngôn". "Nghị quyết của Ủy ban Giám sát các cấp các đảng ủy cùng cấp không được bãi bỏ, nhưng phải sau khi được Đảng ủy đồng ý mới có hiệu lực và được Đảng ủy thực thi". "Khi Đảng ủy cùng cấp không đạt được thỏa thuận, vần đề giao cho hội nghị đại biểu đảng cùng cấp hoặc hoặc Ủy ban Giám sát cấp trên giải quyết"1 (Tuyển tập Điều lệ Đảng Cộnọ sản Liên Xô, Sđd, tr.39-40, 90). Ủy viên giám sát Trung ương phải có từ 10 năm tuổi đảng trở lên, ủy viên giám sát khu, tỉnh phải là người vào Đảng trước Cách mạng tháng Hai. Về sau, quy định về chức năng của Ủy ban Kiểm tra và Ủy ban Giám sát trong Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô có một số thay đổi, nhưng nội dung cơ bản vẫn là những điểm này.


Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã đổi Ủy ban Giám sát Trung ương do Đại hội đại biểu bầu thành Ủy ban Giám sát Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương lập ra, chức trách của ủy ban cũng thu hẹp tương ling. Những chức trách đó là: "(1) Giám sát tình hình thực hiện các nghị quyết của Đảng và của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang của tổ chức đảng, các Xôviết và các cơ quan kinh tế; (2) Kiểm tra công tác tổ chức đảng địa phương các cấp; (3) Xử lý kỷ luật những đảng viên phá hoại cương lĩnh, điều lệ Đảng và vi phạm kỷ luật Đảng"2 (Tuyển tập Điều lệ Đảng Cộnọ sản Liên Xô, Sđd, tr.39-40, 90).


Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua đã thu hẹp hơn nữa quyền hạn của Ủy ban Giám sát: hủy bỏ điều quy định giám sát tình hình thực hiện nghị quyết của Trung ương và kiểm tra công tác của các tổ chức đảng ở địa phương, bổ sung các điều về thụ lý các khiếu nại về các quyết định kỷ luật trong Đảng và cử các đại diện toàn quyền thường trú tại các nước cộng hòa trong Liên bang, các tỉnh và khu vực biên giới. Quyền hạn của Ủy ban Giám sát tập trung vào giám sát tình hình chấp hành kỷ luật của Đảng.


Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, về hình thức đã rất đề cao vị trí của Ủy ban Giám sát, sửa đổi quy định Ủy ban Giám sát do Ban Chấp hành Trung ương lập ra thành Ủy ban Giám sát Trung ương và Chủ tịch Ủy ban Giám sát Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Đại hội đại biểu của Đảng bầu. Đại hội đại biểu đã thông qua ''Điều lệ Ủy ban Giám sát Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô". Điều lệ đó đã làm nổi bật quyền giám sát của Ủy ban Giám sát Trung ương đối với Ban Chấp hành Trung ương. Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Trung ương có quyền được tham gia các hội nghị của Bộ Chính trị, các ủy viên giám sát Trung ương có quyền tham gia các hội nghị toàn thể Trung ương và các hội nghị khác và có quyền phát ngôn, "Ủy viên Ủy ban Giám sát Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có quyền sử dụng tất cả các văn kiện của Đảng"1 (Tổng tập văn kiện Đại hội đại biểu lẫn thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô, Sđd, tr.188-189). Nhưng điều lệ này sau đó chỉ nằm trên giấy, bởi nó chưa kịp thực hiện thì Đảng Cộng sản Liên Xô đã sụp đổ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:26:21 am
3. Những vấn đề trong công tác giám sát

Thứ nhất, "bệnh nhìn xuống" của cơ quan giám sát. Tất cả các cơ quan giám sát đều mắc phải bệnh thường gặp là chỉ nhìn xuống dưới mà không nhìn lên trên, chỉ giám sát cấp dưới mà không giám sát cấp trên. Đây là một căn bệnh thường thấy của Đảng Cộng sản Liên Xô, là một căn bệnh chết người. Lênin khi sinh thời cũng không có biện pháp nào có thể trị được căn bệnh này. Những sai lầm của Xtalin sau khi ông mất mới có người phê bình. Sai lầm của Khrushchev, cũng phải đến khi ông rút lui mới được tiết lộ, mà cách ông rút lui cũng không theo quy trình dân chủ thông thường, không qua sự giám sát của Ủy ban Giám sát mà do một nhóm người nhân lúc ông không có mặt ở thủ đô, phát động "đảo chính cung đình" lật đổ ông. Phương thuốc của Gorbachev càng không thể chấp nhận được, không những không chữa được bệnh cho Đảng Cộng sản Liên Xô, mà ông còn làm cho Đảng này chết.


Về cuối đời, Lênin suy nghĩ nhiều nhất là vấn đề chính quyền nhà nước và vấn đề quyền lãnh đạo của Đảng. Khi Lênin còn sống, trong Đảng không có một một chức vụ nào ban cho người lãnh đạo nào đó có đặc quyền, Lênin trở thành hạt nhân lãnh đạo nhờ sức thu hút của cá nhân mình. Khi Người cảm thấy mình không còn sống được bao lâu, Người lập ra chức "Tổng Bí thư" và trao "quyền lực vô hạn" ấy cho một người, đề phòng khi Người ra đi, Đảng vì mất người đứng đầu mà bị tê liệt và chia rẽ. Thế nhưng, khi phát hiện ra con người nắm giữ "quyền lực vô hạn" này có thể sẽ sử dụng quyền lực không phù hợp, Người lại muốn đề nghị bãi bỏ. Nhưng bức thư Người đề nghị thay chức Tổng Bí thư của Xtalin, Người không cho đọc tại Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng, phải đợi đến khi Người mất mới được công bố. Nếu như Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng tuyên đọc bức thư đó, có lẽ nhờ vào uy tín của Lênin mà có thể bãi miễn Xtalin. Nhưng sau khi bãi miễn Xtalin thì kết quả sẽ ra sao? Thực ra Lênin chưa tính tới. Hai kiến nghị khác của Lênin là mở rộng Ban Chấp hành Trung ương và cải tổ Viện Kiểm sát công nông đều đã được thực hiện, nhưng hiệu quả không tốt như Người mong muốn. Bởi vì những biện pháp của Người không hạn chế được con người nắm "quyền lực vô hạn". Chính là Xtalin đã sử dụng quyền lực trong tay chiến thắng phe đối lập hết keo này đến keo khác. Quyền lực không tập trung không được, quyền lực tập trung mà dùng không tốt thì cũng sinh ra vấn đề, đó là sự lựa chọn lưỡng nan mà Lênin gặp phải.


Thứ hai, chủ nghĩa quan liêu của cơ quan giám sát. Cơ quan giám sát dù có giám sát cấp dưới, kết quả cũng không lý tưởng. Cơ quan giám sát là để khắc phục chủ nghĩa quan liêu, nhưng bản thân cơ quan giám sát cũng bị nhiễm bệnh quan liêu. Một là, công việc giám sát không liên hệ thực tế, không kiểm tra tình hình thực hiện nghị quyết của Đảng, của Chính phủ và đảng ủy địa phương mà tập trung tinh lực vào công văn, đề án, báo cáo tổng kết, khiến việc kiểm tra làm lấy lệ. Hai là, chỉ quan tâm đến tình hình hoàn thành nhiệm vụ có thời hạn, không quan tâm đến những nhiệm vụ không thời hạn hay thời hạn dài, bất kể tầm quan trọng của những nhiệm vụ này như thế nào. Ba là, việc kiểm tra thiếu tính mục tiêu, chỉ chọn những việc dễ để kiểm tra. Bốn là, có khi không chú ý tái sự thống nhất giữa quá trình làm việc và kết quả công việc, một số cán bộ lãnh đạo chỉ giỏi báo cáo trên giấy tờ thì được đánh giá tốt. Năm là, đôi khi kiểm tra quá tràn lan, phá vỡ trật tự làm việc thông thường, lãng phí sức người, sức của và tiền bạc, đã gây phản cảm cho các đơn vị được kiểm tra.


Thứ ba, vai trò giám sát của hội nghị Đảng không được phát huy đầy đủ. Hội nghị Đảng là biện pháp giám sát quan trọng. Theo quy định của Điều lệ Đảng, các cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo cơ quan đó phải định kỳ báo cáo công tác với đại hội đại biểu, hội nghị đại biểu, hội nghị đảng viên nơi bầu ra mình, tiếp nhận sự phê bình và giám sát. Thế nhưng, những hội nghị như thế đã thành những hội báo cáo, hội nghị chỉ thị của người lãnh đạo; đảng viên hoặc đại biểu đảng viên rất ít nêu ý kiến phê bình, dù có nêu ý kiến phê bình thi cũng rất uyển chuyển, nhẹ nhàng. Trong cuốn Những vấn đề trong công tác của cơ quan Đảng và Nhà nước, Chernenko đã đề cập việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ucraina phê bình tổ chức đảng của Bộ Công trình lắp đặt và xây dựng chuyên nghiệp quốc gia: "Trong cơ quan Bộ chưa làm mọi người hài lòng về việc giám sát và kiểm tra tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng Bộ và thực hiện nghĩa vụ xã hội chủ nghĩa. Đại hội đảng viên có lúc làm lấy lệ, ít có lợi cho việc động viên đảng viên hoàn thành nhiệm vụ cụ thệ, phê bình và tự phê bình có khi làm qua loa, đại khái. Nhiều quyết định của Thường vụ Đảng ủy và nghị quyết của Đại hội đảng viên tồn tại những khuyết điểm như đúng sai không rõ, biện pháp bất lực; không quy định trách nhiệm cá nhân cho đảng viên về việc thực hiện các nghị quyết. Hội đồng Bộ dựa vào tổ chức đảng thì làm rất kém"1 (Chernenko: Những vấn đề trong công tác của cơ quan Đảng và Nhà nước, Công ty Dịch thuật xuất bản đối ngoại Trung Quốc, 1984, tr.269). Có những cán bộ lãnh đạo chưa từng báo cáo công việc với Hội nghị đã bầu ra mình, lại có những cán bộ có thái độ thô bạo với người phê bình mình, đe dọa kỷ luật, khai trừ công chức, v.v...


Thứ tư, quần chúng giám sát không đến nơi đến chôn. Với một nước xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Người chủ thực hiện giám sát những đây tớ của mình là thiên chức của họ. Theo quy định của Hiên pháp, Xôviết là cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền giám sát tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên công chức, kiểm tra tình hình họ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Nhưng Xô viết làm việc dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, nên trên thực tế Xôviết không thể giám sát được các thành viên Đảng ủy cùng cấp. Ở Liên Xô, ngoài thông qua Xôviết, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ và tổ chức khu tập thể cũng như các kênh khiếu nại... để giám sát các lãnh đạo ra, quần chúng nhân dân còn lập ra hệ thống cơ quan giám sát chuyên trách như Ủy ban Giám sát nhân dân, tổ giám sát, trạm giám sát.


Theo "Luật Giám sát nhân dân"' do Xôviết tối cao Liên Xô ban hành tháng 11 năm 1979, cơ quan giám sát nhân dân là tổ chức thống nhất giữa giám sát nhà nước và giám sát xã hội. Ủy ban Giám sát nhân dân các cấp là cơ quan nhà nước, do Xôviết cùng cấp bầu ra và báo cáo công tác với Xôviết, chịu sự lãnh đạo của Xôviết, các tổ giám sát nhân dân của các thôn và trấn, các tổ giám sát nhân dân trong doanh nghiệp, nông trang tập thể, các cơ quan, bộ đội và các trạm giám sát nhân dân do tập thể lao động bầu ra là các tổ chức xã hội và quần chúng. Các thành viên cơ quan giám sát nhân dân một nửa là đại biểu của nhân dân, nửa còn lại là những người làm công tác đảng, đại diện chính quyền, phần tử tích cực của Công đoàn, phần tử tích cực của Đoàn thanh niên Cộng sản, công nhân, nông trang viên của nông trang tập thể. Khi Gorbachev lên nắm quyền, Liên Xô có cả thảy hơn 10 triệu giám sát viên nhân dân, ngoài ra còn có hon 400.000 người là giám sát viên ngoại biên và phần tử tích cực. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan giám sát nhân dân là: giám sát tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật; hỗ trợ cải tiến công tác của các cơ quan nhà nước. Ủy ban giám sát nhân dân có quyền cảnh cáo, phê bình, phê bình nghiêm khắc đối với những nhân viên công chức mắc sai phạm, xử lý giáng chức hoặc miễn chức đối với những người vi phạm pháp luật và kỷ luật; các tổ giám sát nhân dân có thế áp dụng các biện pháp giáo đục, không được áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Đối với những cán bộ phải xử phạt hình sự, Ủy ban Giám sát nhân dân chỉ có thể chuyển hồ sơ cho cơ quan kiểm sát xử lý.


Thứ năm, thiếu sự giám sát pháp luật. Thời Xtalin, cơ quan thanh trừng có quyền xét xử. Cơ quan này chỉ phục tùng một thủ trưởng hành chính, vừa mất đi sự giám sát của pháp luật, lại vừa mất đi sự giám sát của Đảng và nhân dân. Một lượng lớn án oan, án giả thời đó đã gây hại rất lớn đến sự nghiệp và uy tín của Đảng, để lại di chứng một thời khó xóa bỏ. Thời kỳ Khruschev và Brezhnev, quyền xét xử của cơ quan cảnh sát đã bị xóa bỏ, địa vị chấp pháp độc lập của cơ quan tư pháp được xác định. Thế nhưng, những cơ quan này vẫn bị can thiệp bởi một số lãnh đạo Đảng, làm cho một số cán bộ Đảng và chính quyền vi phạm pháp luật, phạm tội vẫn ngang nhiên ngoài vòng pháp luật. Ví dụ, con rể của Brezhnev là Yuri Churbanov, trong thời gian giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô đã tham nhũng 650.000 rúp, chỉ sau khi Brezhnev chết mới bị phanh phui và trừng phạt. Thêm một ví dụ nữa, năm 1975, báo Văn học từng tiết lộ một công ty xây dựng ở thành phố Kuybyshev xây một tòa nhà lớn để chuyên phục vụ các nhân vật cấp cao và khách quan trọng. Lãnh đạo khách sạn này đã ép nhân viên phục vụ phải ngủ với các quan chức này. Người bị hại kêu cứu cấp trên nhung không có kết quả.


Thứ sáu, sự giám sát của dư luận có hạn. Ở một số nước, giới báo chí được gọi là "vua không vương miện", có thể thấy vai trò giám sát của nó là rất lớn. Ở Liên Xô, vai trò giám sát của báo chí cũng được công nhận. Báo chí thường xuyên đưa tin thư của quần chúng và những bài phỏng vấn của phóng viên, tiết lộ những hành vi tham nhũng và tác phong quan liêu của một số cán bộ lãnh đạo. Một số tờ báo như báo Sự thật, báo Văn học... còn có chuyên mục "Giám sát". Thế nhưng ở Liên Xô, phương tiện truyền thông đại chúng đều là "'tiếng nói của Đảng", chỉ có thể nói những gì mà lãnh đạo Đảng cho phép nói. Vì vậy, trên báo chí ở Liên Xô rất khó tìm thấy những tin tức phê bình các cán bộ cấp cao. Thỉnh thoảng chúng ta cũng có thể nhìn thấy một vài tin tức phê bình cán bộ cấp cao, thì chắc chắn người đó đã bị xử lý kỷ luật rồi, việc công bố như vậy cũng phải được sự phê duyệt của tổ chức Đảng. Ví dụ, từ năm 1964 đến năm 1977, tờ Sự thật của Liên Xô lần lượt đăng những tài liệu liên quan đến việc tham nhũng, nhận hổi lộ của lãnh đạo chủ chốt của Cộng hòa Adécbaigian, Cộng hòa Grudia, Cộng hòa Kiếcghidia, Cộng hòa Udơbêkixtan và Cộng hòa Ácmênia, nhưng những thông tin này đểu được đăng sau khi người này đã bị mất chức.


Ngoài ra còn có các hình thức giám sát khác như giám sát hành chính, giám sát đơn thư khiêu kiện, giám sát kỹ thuật, v.v... Tất cả những hình thức và biện pháp này đều phát huy tác dụng nhất định, có đóng góp nhất định vào việc trừng trị tham nhũng, phòng ngừa quan liêu. Tuy nhiên, do còn lẫn lộn giữa "chủ" và "đầy tớ" nên tác dụng của các hình thức này rất hạn chế. Vì Đảng quản cán bộ, nên ở Liên Xô, cán bộ thật sự bị quần chúng nhân dân bãi miễn là rất ít.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:27:01 am
4. Mổ xẻ những vấn đề trong giám sát

Vấn đề giám sát thực chất là vấn đề quyền lợi dân chủ. Giám sát bất lực, thực chất là sự thiếu dân chủ; giám sát của quần chúng nhân dân không đến nơi đến chốn, thực chất là quyền lợi dân chủ của nhân dân không đến nơi đến chốn. Chỉ có dùng quyền lực mới có thể hạn chế được lạm dụng quyền lực, chỉ có dân chủ nhân dân mới có thể phòng chống được bệnh quan liêu.


Dân chủ là một chế độ chính trị xã hội, là sản phẩm của xã hội phát triển đến một giai đoạn lịch sử nào đó, nó sinh ra cùng với sự tiến bộ của xã hội, cũng tiêu vong cùng với sự tiến bộ của xã hội. Trong tác phẩm lịch sử nổi tiếng Nhà nước và cách mạng, Lênin đã phân tích kỹ ba hình thức dân chủ: dân chủ của xã hội tư bản chủ nghĩa - dân chủ của một số ít người; dân chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa - dân chủ của nhiều người; dân chủ của xã hội cộng sản chủ nghĩa - dân chủ của tất cả mọi người. Một khi dân chủ toàn dân được thực hiện, chế độ dân chủ sẽ bước vào một giai đoạn cao nhất, dân chủ mang ý nghĩa hiện đại sẽ tiêu vong. Lênin đã từng cho rằng, dưới chính quyền Xôviết, phải để tất cả mọi người quản lý đất nước, làm cho tất cả mọi người đều trở thành "quan liêu", như vậy bất kỳ ai cũng không thể thành quan liêu được. Thế nhưng, từ thực tiễn, Lênin nhận thức rằng, "do trình độ văn hóa thấp như vậy", những ý tưởng của Người không thể thực hiện được. Ở nước Nga Xôviết, không phải quần chúng lao động tự quản lý đất nước, mà do đội tiên phong của giai cấp vô sản quản lý đất nước cho quần chúng lao động. Thành viên của đội tiên phong tốt xấu không đồng đều. Điều này có cả điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan sinh ra chủ nghĩa quan liêu.


"Văn hóa" mà Lênin nói ở đây không chỉ mang nghĩa hẹp của "kiến thức văn hóa" mà còn chỉ văn minh của toàn xã hội, bao gồm văn minh vật chất, văn minh chính trị và văn minh tinh thần. Trong bài "Bàn về cách mạng nước ta", Lênin cũng sử dụng nghĩa rộng này của từ "văn hóa". Trong bài nàỵ, Lênin viết: "Đã thiết lập chủ nghĩa xã hội, cần phải có trình độ văn hóa nhất định (mặc dù không ai nói ra được 'trình độ văn hóa nhất định' ở đây là như thế nào, bởi vì điều này ở các nước Tây Âu đều khác nhau), tại sao chúng ta không thế dùng biện pháp cách mạng để đạt được tiền đề trình độ nhất định này trước, sau đó đuổi kịp nhân dân các nước khác trên cơ sở chính quyền công nông và chế độ Xôviết?"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.371-372).


Cơ sở vật chất tồn tại của chế độ quan liêu chính là sự tồn tại chênh lệch lợi ích. Chỉ cần tồn tại sự chênh lệch lợi ích, người ta sẽ sinh ra tham vọng theo đuổi lợi ích nhiều hơn. "Làm nghề gì ăn nghề ấy", người ta luôn dựa vào địa vị của mình, lợi dụng ưu thế của mình để tìm kiếm nhiều lợi ích hơn. Mác đã từng nói: "Thủ tiêu chế độ quan liêu chỉ có trên thực tế lợi ích phổ biến chứ không phải trong điều kiện trở thành lợi ích đặc biệt về tư tưởng, về khái niệm trừu tượng mới có khả năng; mà điều này cũng chỉ có khi trên thực tế lợi ích đặc biệt trở thành lợi ích phổ biến mới có khả năng"2 (Chủ nghĩa quan liêu - kẻ thù lớn nhất, Nhà sách tam liên Đời sống - Đọc sách - Tri thức mới, 1989, tr.119).


Chênh lệch lợi ích chỉ mất đi khi tài sản vật chất dồi dào, lao động không còn là kế mưu sinh mà trở thành nhu cầu hàng đầu của cuộc sống con người thì mới thực hiện được. Thời kỳ Công xã Pari đã thực hiện chế độ tiền lương bình đẳng giữa xã viên công xã với công nhân. Nhưng thời gian tồn tại của Công xã Pari không lâu, chế độ này chưa được thực tiễn kiểm nghiệm. Thời kỳ đầu của Xôviết cũng thực hiện chế độ nhân viên công chức nhà nước hưởng lương bình quân của công nhân, nhưng sau một thời gian ngắn cũng đã thay đổi. Ban đầu thực hiện chế độ lương cao đối với các quan chức cũ, sau đó cán bộ, đảng viên cộng sản cũng đều áp dụng chế độ lương cao. Ngoài tiền lương, các cán bộ các cấp khác nhau cũng hưởng những đãi ngộ về vật chất khác nhau, cán bộ cấp cao được rất nhiều đặc quyền. Một số người tham lam đã lợi dụng quyền lực trong tay để vơ vét những lợi ích phi pháp.


Ngày 21 tháng 9 năm 1890, trong bức thư gửi Bloch, Ăngghen viết: "Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử suy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất cuộc sống"1 (Tuyển tập thư tín Mác - Ăngghen, Nxb. Nhân dân, 1962, tr.466). Chủ nghĩa tư bản có thể ngóc đầu dậy ở Liên Xô xã hội chủ nghĩa, suy cho cùng là ở đó có đất sống cho chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, các nước xã hội chủ nghĩa chỉ có cách tạo ra năng suất lao động và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản mới có thể xóa bỏ mối nguy chủ nghĩa tư bản ngóc đầu dậy. Nhưng yếu tố kinh tế  không phải là yếu tố quyết định duy nhất, chủ nghĩa tư bản có thể ngóc đầu dậy ở Liên Xô còn do những yếu tố khác, trong đó hàng loạt những tập đoàn lợi ích của những kẻ theo đuổi lợi ích cá nhân, nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước là lực lượng nòng cốt phục hổi chủ nghĩa tư bản ở Liên Xô, mà Gorbachev và Yeltsin chính là những nhân vật đại diện chủ yếu của những tập đoàn này.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:30:06 am
Chương VII
TẬP THỂ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Lênin từng chỉ rõ: Trong xã hội giai cấp, quần chúng chia thành giai cấp, giai cấp thường do chính đảng lãnh đạo. Chính đảng này thường là tập thể tương đối ổn định, được cấu thành bởi những nhân vật lãnh tụ có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất và được lựa chọn đảm nhận chức vụ quan trọng nhất đứng ra chủ trì1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.4, tr.151). Điều này thể hiện rõ quy luật xuất hiện lãnh tụ, cũng chỉ rõ bản chất của lãnh tụ.


Lãnh tụ của giai cấp vô sản là nhân vật và tập thể lãnh đạo của giai cấp vô sản tiên tiến, dựa vào tổ chức chính trị của mình tức chính đảng giai cấp vô sản, tiến hành đấu tranh giai cấp chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phong kiến và mọi thế lực phản động trong thời đại loài người bước vào xã hội tư bản chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền và nắm chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính đảng giai cấp vô sản cần có một tập thể lãnh đạo kiên định lòng tin vào chủ nghĩa cộng sản, có trình độ lý luận sâu sắc và năng lực lãnh đạo ưu việt.


Nguyên nhân căn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô diệt vong, Liên Xô tan rã là ở nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, vấn đề chủ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô là ở tập thể lãnh đạo của Đảng. Dọc theo lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô, có thể thấy được hai loại lãnh tụ. Một loại là nhà mácxít chân chính mà đại biểu là Lênin và Xtalin. Họ có niềm tin kiên định đối với chủ nghĩa cộng sản, kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác, dẫn dắt Đảng Bônsêvích trưởng thành, lớn mạnh, trở thành tổ chức cộng sản lớn mạnh nhất trên thế giới, đưa nước Nga lạc hậu phát triển lớn mạnh, trở thành nước xã hội chủ nghĩa cường thịnh nhất trên thế giới. Kiểu thứ hai mà đại biểu là Khrushchev và Gorbachev, họ bắt đầu từ thoái hóa, biến chất thế giới quan, từng bước mất đi niềm tin vào chủ nghĩa Mác, gây ra tổn thất không thể cứu vãn cho giai cấp vô sản và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Bề ngoài họ tỏ ra tin tưởng chủ nghĩa Mác, trên thực tế họ quay lưng, phản bội chủ nghĩa Mác. Họ đã tước bỏ tính chất đội tiên phong của giai cấp công nhân, vứt bỏ chuyên chính vô sản, vứt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không còn kiên trì tư tưởng chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản, tôn chỉ căn bản vì nhân dân phục vụ và nguyên tắc tổ chức tập trung dân chủ, cuối cùng đã công khai từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, kết cục đã tạo ra bi kịch lịch sử mất đảng, mất nước.


I. NIỀM TIN CỦA TẬP THỂ LÃNH ĐẠO ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Lãnh tụ của giai cấp vô sản trước hết phải có niềm tin kiên định đối với chủ nghĩa Mác, kiên trì thế giới quan của giai cấp vô sản, trung thành bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:31:08 am
1. Lênin, xtalin là những nhà mácxít kiên định

Vladimir Ilich Lenin (Lênin) sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 trong một gia đình trí thức ở Simbirsk. Người bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ thời thanh niên. Vì mưu cầu chân lý, Người đã nhiều lần bị bắt giữ, bị lưu đày, sau đó phải lưu vong ở nước ngoài. Sự từng trải cách mạng gian nan đã củng cố vững chắc quyết tâm và ý chí lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng, phấn đấu không mệt mỏi thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của Người.


Mùa thu năm 1887, khi Lênin 17 tuổi, Người vào học ở Trường Đại học Kazan, không lâu sau, do một lần tham gia hội phản kháng của sinh viên chống chế độ cảnh sát nên Người bị bắt. Sau khi bị bắt, Người đã từng có đoạn đối thoại với viên Cục trưởng Chi Cục cảnh sát áp giải Người: "Nhóc con, định làm gì? Muốn tạo phản hả? Mày phải biết trước mặt mày là một bức tường". Lênin không ngần ngại trả lời: "Là một bức tường, có điều lại là một bức tường mục, chỉ cần đẩy một cái là đổ sập"1 (Hồi ký Lênin, Nxb. Nhân dân, 1982, t.1, tr.17). Lênin lúc đó quyết tâm lật đổ sự thống trị chuyên chế của Sa hoàng. Sau khi bị bắt giữ mấy ngày, Lênin bị đưa đến một ngôi làng gần Kazan.


Mùa thu năm 1888, nhà đương cục cho phép Lênin cùng gia đình di cư đến Kazan. Trong một căn phòng thuê nhỏ, Người đã kiên trì học tập lý luận chủ nghĩa Mác, nghiên cứu nghiêm túc quyển 1 của bộ Tư bản, tích cực, nhiệt tình tuyên truyền, giảng dạy chủ nghĩa Mác cho các thành viên nhóm chủ nghĩa Mác ở địa phương. Mấy năm sau, Người đã chuyển đến ở tại Samara, rồi đến Peterburg. Một mặt, Người tiếp tục chăm chỉ học tập các tác phẩm của chủ nghĩa Mác, dịch Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản từ tiếng Đức sang tiếng Nga; mặt khác, Người tích cực tham gia hoạt động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác. Người còn đi sâu điều tra xã hội Nga, vận dụng chủ nghĩa Mác để phân tích các vấn đề trong xã hội Nga, suy nghĩ về con đường cách mạng của giai cấp vô sản Nga. Người đã hoàn thành sự chuyển đổi tù một thanh niên với bầu nhiệt huyết cách mạng trở thành nhà cách mạng chân chính tự trang bị chủ nghĩa Mác cho mình. Người đã đi vào con đường của nhà cách mạng chuyên nghiệp hướng đến chân lý.


Mùa xuân năm 1893, trong tác phẩm được phát hiện sớm nhất cho đến nay của Người là Biến động kinh tế mới trong đời sống người nông dân, Lênin đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa Mác đối với tình hình hiện thực của kinh tế nông dân Nga, đã hé mở hình thức và quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa của nông nghiệp Nga, chỉ ra nông dân thôn xã đã phân hóa thành giai cấp tư sản và giai cấp vô sản nông thôn. Xuân hè năm 1894, Người cho ra mắt tác phẩm quan trọng "Người bạn của nhân dân" là gì và họ công kích người Đảng đần chủ xã hội như thế nào? Người đã vận dụng quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác phê phán toàn diện quan điểm duy tâm lịch sử của những người theo chủ nghĩa dân túy, chỉ ra rằng nhân dân là người sáng tạo lịch sử, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội giai cấp. Lần đầu tiên Người luận chứng những vấn đề cơ bản của cách mạng Nga, chỉ ra chế độ kinh tế xã hội nước Nga là xã hội giai cấp tư sản, như vậy, "muốn thoát khỏi xã hội này chỉ có một lôi thoát tất yếu sinh ra từ trong bản chất của chế độ tư sản, đó chính là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.1, tr.129). Người còn tin tưởng chắc chắn giai cấp công nhân Nga nhất định sẽ dẫn dắt đông đảo quần chúng lật đổ chế độ chuyên chế, đồng thời cùng kề vai sát cánh với giai cấp vô sản toàn thế giới tiến đến cách mạng cộng sản chủ nghĩa thắng lợi.


Việc lĩnh hội toàn diện thực chất tinh thần chủ nghĩa Mác, kiên trì thế giới quan của chủ nghĩa Mác, vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích xã hội Nga, cách mạng Nga và phong trào cộng sản quốc tế đã xuyên suốt trọn đời tư tưởng của Lênin, đồng thời đã xác lập sự tin tưởng tuyệt đối của Người đối với chủ nghĩa Mác. Lênin cho rằng, lịch sử và hiện tượng xã hội loài người hết sức phức tạp, "chủ nghĩa Mác đã cung cấp một đầu mối có tính chỉ đạo, giúp chúng ta có thể phát hiện được tính quy luật trong cái mớ hỗn độn, lộn xộn khó lường ây. Đầu mối đó chính là lý luận đấu tranh giai cấp"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.26, tr.60). Người còn chỉ thêm "nếu người nào chỉ thừa nhận đấu tranh giai cấp thôi, thì người đó chưa phải là nhà mácxít, có thể họ chưa vượt khỏi được phạm vi của tư tưởng tư sản và chính trị tư sản", "chỉ có những ai thừa nhận đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng thừa nhận chuyên chính vô sản mới là nhà mácxít", "phải dùng hòn đá thử vàng đỏ để kiểm nghiệm xem có thực sự hiểu biết và thừa nhận chủ nghĩa Mác hay không". Tháng 2 năm 1908, trong tác phẩm triết học quan trọng Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin chỉ ra rằng "xuất phát từ sự kiến giải được những người theo chủ nghĩa Mác đồng ý cho rằng lý luận mácxít là chân lý khách quan, kết luận duy nhất có thể rút ra là: Tiến lên theo con đường lý luận mácxít, chúng ta sẽ ngày càng tiếp cận với chân lý khách quan (nhưng quyết không thể đến tận cùng); nhưng nếu tiến lên theo bất kỳ con đường nào khác, ngoài sự hỗn loạn và sai lầm ra, chúng ta sẽ chẳng được gì"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.18, tr.145).


Lênin không những tin tưởng mà còn kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác. Cuộc đời của Người là cả cuộc đời kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội muôn hình muôn vẻ, các làn sóng tư tưởng phi mácxít, phản mácxít. Trong đấu tranh, Người bảo vệ chủ nghĩa Mác, phát triển chủ nghĩa Mác. Ra đời trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, chủ nghĩa Lênin sinh ra trong cách mạng của giai cấp vô sản, đồng thời phát triển trong đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội Quốc tế II.


Năm 1895, sau khi Ăngghen qua đời, chủ nghĩa xét lại Bernstein dần dần lan truyền trong Đảng Dân chủ xã hội Đức, thậm chí cả trong nội bộ Quốc tế II. Trong khi đang bị lưu đày, do giao thông bất tiện, thông tin bị bưng bít, Lênin không thể nắm bắt tình hình mới kịp thời, nhưng Người đã tìm cách có được tác phẩm của Bernstein. Sau khi đọc xong, Người lập tức chỉ trích chủ nghĩa xét lại là "chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa khả năng cực đỉnh", tin tưởng rằng "thất bại thảm hại của nó là không còn nghi ngờ gì nữa", đồng thời kiên quyết lao vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và sự biến dạng của nó ở nước Nga.


Năm 1908 là năm thứ 25 Mác qua đời. Để tưởng nhớ vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản thế giới, trong bài Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xét lại, Lênin đã mổ xẻ hệ thống lý luận của chủ nghĩa xét lại mà đại biểu là Bernstein, đi sâu vạch trần nền tảng xã hội, nguồn gốc giai cấp, đặc điểm và thực chất của chủ nghĩa xét lại. Người chỉ ra chủ nghĩa xét lại là ''một trường phái phản chủ nghĩa Mác trong nội bộ chủ nghĩa Mác" xuất hiện vào những năm 90 của thế kỷ XIX. Trường phái này "đã thể hiện một cách hoàn chỉnh sự xét lại học thuyết Mác, sửa đổi học thuyết Mác, tức là chủ nghĩa xét lại"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.2, tr.2).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:32:08 am
Trong khi tiếp tục đấu tranh với chủ nghĩa Bernstein, khi di độc của nó chưa gột sạch thì trong nội bộ Quốc tế II lại xuất hiện chủ nghĩa cơ hội mà đại biểu là Karl Kautsky. Họ lấy danh nghĩa nhà mácxít "chính thống", bề ngoài cũng phản đối Bernstein, nhưng trên thực tế lại đi theo con đường cơ hội chủ nghĩa thống nhất với chủ nghĩa xét lại. Họ say mê đấu tranh kinh tế  đắm đuối trong đấu tranh nghị viện, mơ tưởng "tiêu diệt" chủ nghĩa tư bản bằng biện pháp hợp pháp. Do những người này xuất hiện với bộ mặt "phái trung dung", Kautsky lại là lãnh tụ của Quốc tế II, nên quan điểm của họ đã mê hoặc không ít người.


Để vứt bỏ "tất cả những thứ cũ kỹ, hoen gỉ, rèn đúc những vũ khí kiểu mới" trong kho vũ khí của Quốc tế II, đồng thời cũng để làm cho giai cấp vô sản không rơi vào "cảnh ngộ nguy hiểm vũ trang không đủ hoặc thậm chí hoàn toàn không có vũ trang" trước cuộc chiến cách mạng mới, trong khoảng tháng 8, tháng 9 năm 1917, Lênin đã viết xong cuốn Nhà nước và cách mạng, trình bày một cách hệ thống học thuyết nhà nước của chủ nghĩa Mác, vạch trần sự ngụy biện phản bác chủ nghĩa Bernstein của Kautsky. Người chỉ thẳng ra rằng trong vấn đề chuyên chính vô sản, Kautsky "không phải phản bác và tiến hành luận chiến với Bernstein, mà trên thực tế đã nhượng bộ Bernstein nhường trận địa lại cho chủ nghĩa cơ hội"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.3, tr.193).


Tháng 8 năm 1918, Kautsky lại tung ra cuốn sách nhỏ Chuyên chính vô sản, công kích ác độc con đường Cách mạng Tháng Mười Nga của Lênin. Để vạch trần triệt để hành động phản bội của Kautsky, trong tháng 10, tháng 11 năm đó, Lênin đã viết tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautskỵ, vạch trần sâu sắc bộ mặt phản bội giai cấp vô sản của Kautsky, chỉ ra rằng Kautsky đã cắt xén linh hồn cách mạng sinh động của chủ nghĩa Mác, tuyên truyền "dân chủ thuần túy" siêu giai cấp, cổ xúy con đường nghị viện hòa bình, chống cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Người nói, Kautsky "miệng nói thừa nhận cách mạng nhưng thực tế thì quay lưng với cách mạng". Nếu "giai cấp công nhân không tiến hành chiến đấu không khoan nhượng để chống lại hành động phản bội này, hành vi thiếu khí tiết, ton hót chủ nghĩa cơ hội, dung tục hóa một cách chưa từng có chủ nghĩa Mác về lý luận này, thì không thể thực hiện đựợc mục đích cách mạng thế giới mà họ phải tiến hành"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.3, tr.588-589).


Phê phán của Lênin đối với chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II, trong chính đảng của giai cấp công nhân các nước lúc bây giờ, có ngọn cờ rõ ràng nhất và thái độ kiên quyết nhất. Cùng với sự bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ nhất, phần lớn lãnh tụ Đảng Dân chủ xã hội công khai phản bội chủ nghĩa xã hội, ủng hộ chính phủ của giai cấp tư sản nước mình tham gia vào chiến tranh đế quốc, dẫn đến sự phá sản về tư tưởng, về chính trị của Quốc tế II. Năm 1917, trong Luận cương tháng Tư Lênin đề nghị vứt bỏ cái "áo khoác bẩn thỉu" "Đảng Dân chủ xã hội", khôi phục tên gọi của chính đảng giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản. Đây là tuyên ngôn quyết liệt, triệt để của những người mácxít mà đại diện là Lênin đối với chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội. Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới trở lại quỹ đạo đúng đắn của chủ nghĩa Mác.


Lênin còn đấu tranh kiên quyết với sự xâm nhập của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội quốc tế và các biến thể của nó đối với cách mạng Nga. Chủ nghĩa Lênin đã không ngừng phong phú và phát triển trong đấu tranh.


Thời khắc gian nan có thể thử thách tính kiên định tin tưởng vào chân lý của con người nhất. Một người theo chủ nghĩa Mác trong sự nghiệp cách mạng, khi gặp nghịch cảnh thì bắt buộc phải có niềm tin tất thắng, kiên trì chân lý, dám đấu tranh, khắc phục khó khăn, giành thắng lợi. Lênin chính là điển hình về mặt này.


Ngày 28 tháng 1 năm 1924, trong một lần diễn thuyết, Xtalin đã nói đến một đoạn lịch sử như sau: Từ năm 1909 đến năm 1911, Đảng bị thế lực phản cách mạng đánh bại, rơi vào tình trạng tan rã hoàn toàn. Đây là thời kỳ mà mọi người không tin tưởng vào Đảng; đây là thời kỳ không chỉ có thành phần trí thức mà còn có một bộ phận công nhân đã lần lượt ra khỏi Đảng; đây là thời kỳ mọi người phủ định hoạt động bí mật; đây là thời kỳ chủ nghĩa thủ tiêu, thời kỳ tan vỡ. Lúc đó không chỉ Mensêvích, mà cả Bônsêvích cũng có nhiều tổ chức bè phái và tư tưởng bè phái, đại bộ phận đều rời khỏi phong trào công nhân. Mọi người đều biết, chính trong thời kỳ này đã nảy sinh ra tư tưởng đòi xóa bỏ hoàn toàn các tổ chức bí mật và tổ chức công nhân biến thành đảng Stolypin tự do chủ nghĩa hợp pháp. Xtalin nói: "Lúc đó chỉ có Lênin không bị cuốn theo mà còn giương cao ngọn cờ mang tính Đảng, lấy tinh thần bền bỉ kỳ lạ và kiên trì phi thường để tập hợp được những bộ phận rải rác còn lại của Đảng, công kích mạnh mẽ tất cả các phe phái chống Đảng trong phong trào công nhân, lấy dũng khí và nghị lực phi thường để bảo vệ tính Đảng"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển thượng, tr.179). Từ đó có thể thấy rõ tính Đảng kiên trung của Lênin. Không vì thất bại mà nản lòng, không vì trắc trở mà nhụt khí, không vì khó khăn mà rút lui. Niềm tin kiên định này bắt nguồn từ niềm tin kiên định của Người đối với chủ nghĩa Mác, bắt nguồn từ niềm tin tất thắng của Người đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, đối mặt với sự phản công điên cuống của kẻ thù bên trong và bên ngoài, Lênin càng thể hiện rõ sự bình tĩnh và kiên định mà một lãnh tụ của giai cấp vô sản cần có. Dưới sự lãnh đạo kiên cường của Lenin, Đảng và chính quyền Xô viết đã đập tan sự can thiệp vũ trang của 14 nước và cuộc nổi loạn phản cách mạng trong nước, bảo vệ thắng lợi thành quả cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc, Đảng đứng trước nhiều nhiệm vụ phức tạp như hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế  quốc dân, xử lý mâu thuẫn nghiêm trọng trong nước, v.v... Trước khó khăn, những người Bônsêvích do Lênin đứng đầu vẫn không hề lùi bước, tích cực tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố chính quyền nhân dân.


Iosif Vissarionovich Stalin (Xtalin) là người theo chủ nghĩa Mác kiệt xuất, kiên định niềm tin cách mạng. Ông sinh ngày 21 tháng 12 năm 1879, tham gia cách mạng rất sớm. Ông không giống Lênin và các nhà cách mạng khác ở chỗ, kinh nghiệm đấu tranh chính trị chủ yếu của Xtalin là ở trong nứớc Nga, đấu tranh tàn khốc đã tôi luyện tính cách kiên cường của Xtalin. Từ năm 1902 đến 1913, ông đã 8 lần bị bắt, 7 lần bị lưu đày, 6 lần trốn thoát trong khi đi lưu đày. Năm 1903 Xtalin quen biết Lênin qua thư từ, sau này dưới sự quan tâm và lãnh đạo của Lênin, ông đã trở thành một trong những lãnh tụ của Đảng Bônsêvích.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:33:03 am
Sau khi Lênin qua đời, tập thể lãnh đạo Trung ương Đảng cần một người cầm lái mới. Lúc bầy giờ, các ứng cử viên có khả năng là Trotsky, Bukharin, Zinoviev và Xtalin. Đa số đảng viên và người lãnh đạo Đảng thấy Trotsky không có cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, thậm chí ông này cho rằng không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Bukharin có một bộ phương án và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng thiếu năng lực tổ chức. Zinoviev thì cả hai mặt tài năng lý luận và tổ chức đều không nổi trội. Mặc dù Xtalin có nhiều khuyết điểm nhưng ông có niềm tin chính trị kiên định và ý chí kiên cường như sắt đá, năng lực tổ chức và khả năng vận dụng tổ chức đều hơn người.


Kể từ ngày tham gia cách mạng cho đến lúc qua đời, Xtalin không hề dao động niềm tin đối với chủ nghĩa cộng sản. Xuất phát điểm và mục đích cầm quyền của ông đều là vì sự lớn mạnh của đất nước và sự giàu có của nhân dân.


Khi Lênin còn sống, ông tích cực ủng hộ đường lối, phương châm và chính sách mácxít của Lênin, có cống hiến to lớn cho thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, củng cố và xây dựng chính quyền Xô viết. Sau khi Lênin qua đời, ông là lãnh tụ của Đảng và Nhà nước Liên Xô, lãnh đạo Đảng và nhân dân toàn quốc nỗ lực vượt qua gian khổ, xây dựng nên chế độ cơ bản xã hội chủ nghĩa. Sau đó, ông lại lãnh đạo toàn Đảng và nhân dân toàn quốc anh dũng đấu tranh, xả thân chiến đấu, đánh bại quân xâm lược phát xít, nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân sau chiến tranh. Dưới sự lãnh đạo của Xtalin, Liên Xô từ một nước nông nghiệp với trình độ kinh tế, văn hóa lạc hậu đã trở thành một nước công nghiệp xã hội chủ nghĩa lớn mạnh.


Cũng như Lênin, Xtalin luôn đấu tranh với những khuynh hướng sai lầm trong và ngoài Đảng nhằm bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác. Trong các tác phẩm quan trọng như Bàn về nền tảng của chủ nghĩa Lênin, Chủ nghĩa Trotsky hay là Chủ nghĩa Lênin?, Bàn về mấy vấn đề của chủ nghĩa Lênin và Bàn về hữu khuynh trong Đảng Cộng sản Liên bang (Bônsêvích) v.v... ông đã phê phán những quan điểm sai lầm của phái đối lập mới và cũ như Trotsky, Zinoviev, Bukharin, v.v... kế thừa và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin.


Năm 1938, Xtalin đã ra một trong những tác phẩm triết học quan trọng nhất của mình - Bàn về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là lần đầu tiên ra mắt phần 2 chương 4 của sách Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Liên bang. Ý nghĩa của tác phẩm triêt học này là ở chỗ: Dùng ngôn ngữ nôm na, trình bày ngắn gọn một cách hệ thống và toàn diện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời liên hệ chặt chẽ với thực tế lúc đó, làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trở thành hệ thống lôgích liên hoàn.


Trong tác phẩm kinh điển có thể gọi là giải thích nguyên lý triết học chủ nghĩa Mác này, Xtalin chỉ rõ: "Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan của Đảng mácxít - lêninnít". Chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự mở rộng nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nghiên cứu đời sống xã hội, đem nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng ứng dụng vào các hiện tượng đời sống xã hội, ứng dụng vào nghiên cứu xã hội, ứng dụng vào nghiên cứu lịch sử xã hội"1 (Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Sđd, tr.115-116).


Xtalin còn vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chúng để phân tích xã hội loài người, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản, ông chỉ rõ: "Từ sự biến đổi về lượng chậm chạp chuyển sang sự biến đổi về chất nhanh chóng và đột xuất đã là quy luật phát triển, thì rất rõ ràng rằng, cách mạng mà giai cấp bị áp bức tiến hành là hiện tượng hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh khỏi. Nghĩa là, quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa tư bản, không thể thông qua sự biến đổi chậm chạp, thông qua cải lương để thực hiện, mà chỉ có thể thông qua biến đổi chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thông qua cách mạng để thực hiện. Nghĩa là, muốn không phạm sai lầm về chính trị, thì phải làm nhà cách mạng, chứ đừng làm nhà cải lương chủ nghĩa"1 (Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bồnsêvích) toàn Liên bang, Sđd, tr.122-123,123).


Xtalin còn chỉ ra rằng: "Đã là phát triển được tiến hành thông qua sự bộc lộ mâu thuẫn nội tại, thông qua việc khắc phục những mâu thuẫn này trên cơ sở sự xung đột giữa các thế lực đối lập của những mâu thuẫn này, thì rất rõ ràng rằng, đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là hiện tượng hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh khỏi. Nghĩa là, đừng che giấu các loại mâu thuẫn của chế độ tư bản chủ nghĩa, mà phải bộc lộ và vạch trần những mâu thuẫn đó, không được dập tắt đấu tranh giai cấp, mà phải tiến hành đấu tranh giai cấp đến cùng. Nghĩa là, nếu không muốn phạm sai lầm về chính trị, thì phải chấp hành chính sách giai cấp không khoan nhượng của giai cấp vô sản, chứ đừng chấp hành chính sách cải lương chủ nghĩạ khoan nhượng lợi ích giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, đừng chấp hành chính sách thỏa hiệp để chủ nghĩa tư bản "lấn vào" chủ nghĩa xã hội"2 (Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bồnsêvích) toàn Liên bang, Sđd, tr.122-123,123).


Trong thực tiễn cách mạng và xây dựng của chủ nghĩa xã hội, Xtalin đã kiên trì và phát triển lý luận về việc chủ nghĩa xã hội trước hết là thắng lợi ở một nước, tiến hành xây dựng ở một nước, đã đề ra phương châm công nghiệp hóa chủ nghĩa xã hội và tập thể hóa nông nghiệp, đã trình bày lý luận về các vấn đề như đấu tranh giai cấp thời kỳ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước và đảng cầm quyền. Năm 1952, trong cuồn sách Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, đã tổng kết toàn diện kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, luận giải hữu ích nhiều vấn đề quan trọng của kinh tế chính trị học xã hội chủ nghĩa, làm phong phú và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.


Đương nhiên, một số luận điểm của Xtalin đã đi chệch quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời chủ nghĩa duy vật biện chứng, rơi vào chủ nghĩa siêu hình và giáo điều, thậm chí có lúc rất nghiêm trọng. Nhưng, là một lãnh tụ cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, ông có niềm tin kiên định đối với chủ nghĩa cộng sản, cống hiến to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng của Liên Xô và nhân dân thế giới thì ai cũng thấy rõ, không dễ xóa nhòa. Đúng như Mao Trạch Đông từng nói: "Xtalin là một nhà mácxít - lêninnít vĩ đại, nhưng cũng là nhà mácxít - lêninnít phạm một số sai lầm nghiêm trọng mà không tự coi đó là sai lầm"1 (Văn tập Mao Trạch Đông, Nxb. Nhân dân, 1999, q.7, tr.20). Đến ngay cả Khrushchev, một kẻ chống Xtalin điên cuồng, sau này cũng không thể không thừa nhận rằng: "Bất luận hành động của ông ấy (Xtalin) có khuynh hướng chủ quan thế nào chăng nữa, thì vai trò của ông ấy vẫn là tích cực", "trên con đường chính đi lên của lịch sử, ông ấy vẫn là một nhà mácxít, vẫn là một người trung thành với tư tưởng của chủ nghĩa Mác, ông đã dốc toàn lực vì sự thắng lợi của sự nghiệp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động"1 (Khrushchev: Hồi ký Khrushchev (tuyển dịch), Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2005, tr.186).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:36:01 am
2. Thế giới quan của Khrushchev và Brezhnev

Nikita Sergeyevich Khrushchev sinh ngày 17 tháng 4 năm 1894 ở thôn Kalinovka, tỉnh Kursk. Cha mẹ ông đều là những nông dân chất phác. Thời trẻ, ông từng là công nhân mỏ ở Ucraina. Năm 1929, trong thời gian học tập ở Học viện Khoa học Công nghiệp Mátxcơva, Khrushchev làm quen với vợ của Xtalin. Xtalin qua vợ mình biết đến Khrushchev, liền bảo Bí thư thứ nhất: Mátxcơva lúc bây giờ là Kaganovich đề bạt Khrushchev. Sau đó, Khrushchev lần lượt giữa chức Bí thư thứ nhất Mátxcơva, Bí thư thứ nhất Trung ương Ucraina. Năm 1939, ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, trở thành thành viên trong ban lãnh đạo hạt nhân của Trung ương. Thời kỳ Chiến tranh vệ quốc, ông còn làm ủy viên quân sự trong một phương diện quân tiền, tuyên. Sau chiến tranh, Khrushchev lần lượt giữa các chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ucraina, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang kiêm Bí thư thứ nhất Mátxcơva.


Trong công tác lãnh đạo, mặc dù Khrushchev phạm phải sai lầm nghiêm trọng, bị Xtalin và Trung ương Đảng phê bình nghiêm khắc, nhưng luôn nhận được sự tín nhiệm và trọng dụng của Xtalin. Tháng 10 năm 1952, tại Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô được triệu tập trước khi Xtalin qua đời, ông được bầu làm ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô kiêm Bí thư Trung ương, trở thành thành viên lãnh đạo hạt nhân trong ủy ban Thường vụ Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gồm 5 thành viên, vị trí chỉ đứng sau Xtalin, Malenkov và Beria. Sau khi Xtalin qua đời năm 1953, Đảng Cộng sản Liên Xô trong một thời gian dài nhấn mạnh "lãnh đạo tập thể". Nhưng Khrushchev trải qua đấu tranh trong Đảng gay gắt, đã thanh toán Beria, đánh đổ nhiều người như Malenkov, Kaganovich, Molotov..., đã loại bỏ những kẻ "bất đồng" về chính trị. Đến năm 1957 trong Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lại hình thành cục diện tập quyền cá nhân Khrushchev.


Mặc dù Khrushchev trưởng thành trong thời đại cách mạng đầy sóng gió, được thử thách trong khói lửa Chiến tranh vệ quốc, nhưng về tư tưởng và hành vi thì lại có một mặt khác. Do sự tu dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin quá kém, lại thiên về quyền thuật, vì vậy ông ta thiếu đi niềm tin kiên định đối với chủ nghĩa Mác; về thế giới quan, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng.


Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan của giai cấp vô sản, là cơ sở lý luận của người cộng sản. Học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử mácxít, là lý luận cơ bản để giai cấp vô sản quan sát và giải quyết các vấn đề cách mạng. Thế nhưng điều được Lênin gọi là "sợi dây mang tính chỉ đạo" quan sát quy luật xã hội loài người ây, là "đá thử vàng" để phân biệt chủ nghĩa Mác thật - giả lại trở nên không có nhiều giá trị đối với Khrushchev. Đối với một số vấn đề quan trọng của lý luận chủ nghĩa Mác, Khrushchev từ chỗ biết qua loa đến biết mơ hồ và cuối cùng là xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.


Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác mách bảo chúng ta rằng: Lãnh tụ của giai cấp vô sản giống như người dân thường, cũng có khuyết điểm, khó tránh khỏi phạm sai lầm. Khuyết điểm và sai lầm của lãnh tụ giai cấp vô sản là có thể phê bình được. Chỉ có như vậy mới có thể giúp cán bộ và quần chúng hiểu lãnh tụ của mình hơn, mới có thể duy trì lòng tin của Đảng và giai cấp công nhân đối với lãnh tụ, đặt mỗi vị lãnh tụ vào một vị trí thích đáng. Nhưng quyết không thể chỉ vì khuyết điểm và sai lầm của lãnh tụ mà đứng trên lập trường thù địch, không đi sâu phân tích toàn diện mà phủ định tất cả đối với lãnh tụ, phủ định toàn bộ công lao lịch sử của lãnh tụ. Phải bằng thái độ của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá một cách thực sự cầu thị công - tội, đúng - sai của lãnh tụ, đưa ra kết luận phù hợp với thực tế, thuận theo lòng dân.


Sự đánh giá của Khrushchev đối với Xtalin là hoàn toàn đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xtalin là một nhà cách mạng vĩ đại của giai cấp vô sản, là lãnh tụ được phong trào cộng sản quốc tế công nhận, đồng thời cũng có khuyết điểm và sai lầm nghiêm trọng. Đối với một nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng quan trọng như vậy ở Liên Xô, trong phe các nước xã hội chủ nghĩa và thậm chí trên toàn thế giới, lẽ ra nên xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà tiến hành đánh giá toàn diện một cách khách quan, thận trọng cuộc đời và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa do ông lãnh đạo. Thế nhưng, Khrushchev xuất phát từ mục đích cá nhân, một cách không bình thường, chưa thông qua thảo luận trong tập thể Ban Chấp hành Trung ương, mà tập kích đột xuất trong Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, trọng báo cáo bí mật đã mượn có phê bình sai lầm của Xtalin mà phủ nhận hoàn toàn công trạng của Xtalin. Đem mọi sai lầm, kể cả những sai lầm chưa được kiểm chứng, đổ tất cho một mình Xtalin. Ông đối xử với Xtalin bằng thái độ đối xử với kẻ thù, thậm chí còn tấn công thể xác và nhục mạ. Ông không xuất phát từ bối cảnh lịch sử, từ chế độ và thể chế cụ thể để tìm ra nguyên nhân phạm sai lầm của Xtalin, mà quy kết là do phẩm chất cá nhân Xtalin. Đây là chủ nghĩa duy tâm lịch sử điển hình.


Khrushchev phủ định hoàn toàn Xtalin, thực chất là phủ định chuyên chính vô sản, phủ định nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Xtalin đã bảo vệ và phát triển. Chính trong Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev bắt đầu quay lưng lại với chủ nghĩa Mác - Lênin trong một loạt vấn đề nguyên tắc. Ông ta coi cái gọi là tư tưởng "tam hòa" gồm "chung sống hòa bình", "quá độ hòa bình", "cạnh tranh hộa bình" là đường lối chung của chính sách đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa, cho rằng như vậy là có thể "tấn công mang tính hủy diệt" đối với toàn bộ mối quan hệ của chủ nghĩa tư bản, có thể thực hiện chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Nếu đó không phải là âm mưu và lừa dôi thi cũng là điều lố bịch nực cười. Trong điều kiện quốc tế bây giờ vẫn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp thì điều đó đã hoàn toàn quay lung với học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác.


Tại Đại hội XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1961, Khrushchev lại ngang nhiên đưa ra cái gọi là lý luận "đảng toàn dân" và "nhà nước toàn dân", thay đổi tính chất của Đảng Cộng sản Liên Xô từ chính đảng của giai cấp vô sản thành "đảng toàn dân", từ đó đã thực sự quay lưng với học thuyết về giai cấp và nhà nước của chủ nghĩa Mác. Trong xã hội giai cấp, mọi chính đảng đều mang tính giai cấp, đều là đại biểu của một giai cấp nhất định. Tính chất của bất cứ chính đảng nào đều không thể mang tính toàn dân, cái gọi là "đảng toàn dân" là không hề tồn tại. Nhà nước là công cụ để giai cấp thống trị thực hiện áp bức giai cấp trong xã hội có giai cãp, cái gọi là "nhà nước toàn dân" cũng không hề tồn tại. Chỉ sau khi tất cả các giai cấp bị xóa bỏ triệt để, chính đảng mới theo đó mà mất đi, mới có thể thực hiện nhà nước toàn dân đúng theo ý nghĩa của nó, tức là không có nhà nước.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:36:40 am
Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi Đảng Cộng sản cầm quyền, vừa phải đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, đồng thời cũng phải đại diện cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác, thậm chí còn phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân phi lao động khác, việc củng cố cơ sở cầm quyền của đảng, xây dựng một xã hội hài hòa, hòa mục là hoàn toàn cần thiết. Nhưng tính quần chúng và tính rộng rãi của chủ thể lợi ích mà Đảng Cộng sản đại diện thì không thể xóa mờ tính giai cấp của đảng. Ăngghen từng nói, chính đảng công nhân "trừ phi có tính chất của giai cấp công nhân rõ ràng, nếu không thì không thể giành được thành tựu thực sự. Vứt bỏ đi tính chất này thì chỉ là phe phái tôn giáo và lừa dối"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.25, tr.522).


Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô được thông qua tại Đại hội XXII đã xóa bỏ "chuyên chính vô sản" - tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác, thay vào đó là chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, đồng thời cho rằng Cương lĩnh mới này là "văn kiện của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chân chính", xuyên suốt "tư tưởng hòa bình và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân các nước", xã hội tương lai "sẽ là một xã hội tràn đầy hòa bình, lao động, tự do, bình đẳng, bác ái"2 (Văn kiện chính Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 1961, tr.299). Mọi người đều biết trong thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản, các nhà cách mạng tư sản đã lấy chủ nghĩa nhân đạo làm vũ khí đấu tranh chống phong kiến, có ý nghĩa tiến bộ, có tác dụng tích cực trong điều kiện lịch sử lúc đó, đương nhiên tính hạn chế lịch sử cũng rất rõ rệt. Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, nêu lại gọi về vong linh của ý thức hệ tư sản, ca ngợi chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng không có phân biệt, thậm chí coi chủ nghĩa nhân đạo là cương lĩnh mà Đảng phải thực hiện, coi đó là động lực và mục tiêu phát triển chủ nghĩa xã hội, thì đó là quan điểm lịch sử duy tâm, là bước lùi lớn của lịch sử.


Những lời nói và việc làm trên của Khrushchev đã làm rối loạn tư tưởng của đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô, đã khơi dòng cho Gorbachev đi theo chủ nghĩa duy tâm lịch sử và chủ nghĩa hư vô lịch sử, phủ định hoàn toàn Xtalin và lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô. Có thể nói, kể từ Khrushchev Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần xa rời, đi ngược lại, thậm chí phản bội một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, làm cho Liên Xô bắt đầu đi chệch phương hướng đúng đắn của chủ nghĩa xã hội, đã trở thành cội nguồn lý luận của đường lối "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" của Gorbachev, gieo mầm tai họa dân đến Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã.


Ngày 14 tháng 10 năm 1964, trở về Mátxcơva sau kỳ nghỉ, Khrushchev đã chủ trì Hội nghị Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong hội nghị, thành viên Đoàn Chủ tịch cũng đã dùng thủ đoạn như khi Khrushchev chống Xtalin trong Báo cáo bí mật với cách tập kích bất ngờ, đã chỉ trích và phê bình kịch liệt những sai phạm trong chính sách đốỉ nội và đối ngoại của Khrushchev, đồng thời ép ông ta đồng ý "tự nguyện nghỉ hưu". Khrushchev đành phải ký vào đơn xin từ chức đã được chuẩn bị sẵn.


Lãnh đạo mới thay thế Khrushchev là Brezhnev. Leonid Ilych Brezhnev sinh ngày 19 tháng 12 năm 1906 trong một gia đình công nhân ở thị trấn Kamensk, Ucraina. Ông đã trải qua thời niên thiếu trong Cách mạng Tháng Mười Nga, hoàn thành việc học tập trong thời kỳ Xtalin, đồng thời làm công tác lãnh đạo quản lý kỹ thuật về nông nghiệp và công nghiệp. Trong Chiến tranh vệ quốc, ông làm lãnh đạo trong quân đội, đã trải qua những năm tháng chiến tranh, sau khi chiến tranh kết thúc liên tục làm công tác lãnh đạo Đảng ở địa phương. Sau khi Khrushchev trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, vì ủng hộ Khrushchev mà ông đã thăng quan tiên chức thuận lợi. Năm 1960, ông đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô; năm 1963, lại làm Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, trở thành nhân vật thứ 2 trong Đảng. Sau khi Khrushchev bị hạ bệ, ông được tiến cử thành Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Brezhnev tuy đã điều chỉnh và sửa chữa một số sai lầm thời Khrushchev, tiến hành cải cách ở một số lĩnh vực, đã đưa ra một số chính sách mới, nhưng do ngày thường ông không đọc sách đọc báo và tu dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin quá kém, không những thiếu niềm tin đối với chủ nghĩa cộng sản, mà năng lực công tác cũng rất kém. Ông ta không thể đưa ra sáng kiến đối với những vấn đề quan trọng. Liên quan đến vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác, ông đã sửa chữa ở mức độ nhất định những lệch lạc của Khrushchev, nhưng cơ bản là vẫn đi theo những quan điểm sai lầm của Khrushchev. Hiến pháp mới tháng 10 năm 1977 vẫn đưa vào các khái niệm giả dối "nhà nước toàn dân", "đảng toàn dân", còn cho rằng "Nhà nước Xôviết đã hoàn thành nhiệm vụ chuyên chính vô sản, đã trở thành nhà nước toàn dân", "vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô - đội tiên phong của toàn thể nhân dân đã được tăng cường".


Trong thời kỳ cầm quyền của Brezhnev, tình hình đấu tranh giai cấp trong và ngoài Liên Xô hết sức phức tạp, có lúc rất kịch liệt. Trên trường quốc tế các nước phương Tây đang ra sức tiến hành diễn biến hòa bình và thâm nhập đối với Liên Xô, ở trong nước, Liên Xô cũng xuất hiện cái gọi là "người bất đồng chính kiến". Một số người cầm đầu trong số họ đã trở thành những người đi đầu tích cực hợp tác với các hành vi của phương Tây, sùng bái chế độ tư bản chủ nghĩa, cổ xúy tự do hóa tư sản, làm tổn hại nghiêm trọng hình ảnh chủ nghĩa xã hội. Lúc đó, trong Đảng Cộng sản Liên Xô cuối cùng đã hình thành một tầng lớp đặc quyền. Những người này lợi dụng quyền lực trong tay thực thi đặc quyền, tiêu xài vô tội vạ tiền tài nhà nước, xa rời quần chúng nghiêm trọng, dần dần đứng về phía đối lập với nhân dân. Những kẻ thoái hóa, biến chất ẩn núp trong thể chế bề ngoài nói bảo vệ chủ nghĩa xã hội, có lúc còn hết lời ca ngợi, nhưng trong thâm tâm thì luôn trong hướng thăm dò. Một khi thời cơ đã chín muồi, họ sẽ lộ rõ nguyên hình, công khai chống Đảng Cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội. Giống như Gorbachev, Yeltsin, Yakovlev, Shevardnadze..., họ đều trưởng thành trong thời kỳ Brezhnev, sau này trở thành cơ sở xã hội lật đổ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô.


Lúc bây giờ, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô ngày càng nhạt nhòa. Họ hài lòng với thực trạng, phản đối cải cách, về lý luận thì bảo thủ cứng nhắc, có thái độ giáo điều đối với chủ nghĩa Mác. Brezhnev ở cuối thời kỳ cầm quyền, tuy trên miệng lưỡi vẫn luôn nói Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân Liên Xô, vì nhân dân Liên Xô phục vụ, nhưng tất cả đều là những lời nói sáo rỗng, thời thượng. Bản thân Brezhnev là đại diện cao nhất cho giai tầng đặc quyền xa rời quần chúng nhân dân một cách nghiêm trọng. Như vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô ngày càng xa rời quần chúng, đồng thời mất đi tính tiên phong của Đảng, từ đó mất đi cơ sở cầm quyền của Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:38:10 am
3. Gorbachev triệt để vứt bỏ niềm tin đối với chủ nghĩa Mác

Sau khi Brezhnev qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua thời quá độ ngắn dưới sự lãnh đạo của Yuri Andropov và Chernenko. Đến tháng 3 năm 1985, quyền lãnh đạo tối cao được chuyển cho Ban lãnh đạo mới đứng đầu là Gorbachev.


Mikhail Sergeyevich Gorbachev sinh ngày 2 tháng 3 năm 1931 trong một gia đình nông dân ở thành phố Stavropol thuộc vùng biên cương phía bắc Caucasus. Ông tốt nghiệp Đại học Quốc gia Mátxcơva, có thời gian dài làm công tác Đảng. Năm 1966, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất Thành ủy Stavropol; năm 1970, làm Bí thư thứ nhất Đảng ủy khu vực biên cương Stavropol, đồng thời chiếm được cảm tình của Brezhnev. Theo sự bố trí của Brezhnev, từ năm 1971 ông là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1978 làm Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô phụ trách nông nghiệp, năm 1980 được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 11 năm 1982, sau khi Brezhnev qua đời, được sự bổ nhiệm của Tổng Bí thư Andropov, ông phụ trách công tác ý thức hệ với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Trung ương. Tháng 2 năm 1984, sau khi Andropov qua đời, Chernenko làm Tổng Bí thư, Chernenko già yếu thường để Gorbachev thay mình thực hiện chức trách của Tổng Bí thư. Ngày 10 tháng 3 năm 1985, Chernenko mất. Ngày 11 tháng 3, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể bất thường, bầu Gorbachev làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Gorbachev xuất thân từ nông dân, con đường quan lộ trên chính trường hanh thông, bước thẳng lên đỉnh cao quyền lực. Một mặt, ông là kẻ được hưởng lợi trong chế độ mà ông gọi là "chủ nghĩa toàn trị"; nhưng mặt khác, chế độ đó lại không để lại cho ông ấn tượng tốt đẹp. Trong ký ức của ông chỉ có hàng đống vấn đề. Xem ra đối với ông, chỉ có đánh đổ triệt để cái chế độ đó mới thực hiện được lý tưởng chính trị trong lòng. Cách nhìn này đã có từ lâu, xuyên suốt tâm can Gorbachev. Tư tưởng mâu thuẫn đó đã trải qua một quá trình chuyến đổi phức tạp.


Thời niên thiếu của Gorbachev đúng vào lúc Liên Xô có những thay đổi to lớn. Theo lời kể của Gorbachev, phong trào "thanh trừng" trong những năm 30 của thế kỷ XX đã lây lan đến cả những thành viên trong gia đình ông. Một người là ông nội Andrey Moiseyevich Gorbachev. Ong từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, trở về quê làm nghề nông sau khi chiến tranh kết thúc. Trong phong trào tập thể hóa nông nghiệp, ông đã cự tuyệt tập thể hóa, chỉ là nông dân cá thể. Mùa xuân năm 1934, ông bị bắt do chưa hoàn thành kế hoạch trồng cây, bị đày đến Irkutsk, sau do cải tạo lao động tốt nên năm 1935 ông được thả tự do. Một người khác là ông ngoại của Gorbachev - Pantelei. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, trong những năm 30 của thế kỷ XX, ông làm chủ nhiệm nông trang tập thể ở địa phương. Trong cuộc "đại thanh trừng" năm 1937-1938, ông bị bức hại và bị bắt với lý do ông là người lãnh đạo "tổ chức phản cách mạng Trotsky cánh hữu", sau do chứng cứ không đầy đủ nên ông được thả. Sau khi được thả, ông đã được đối xử tử tế, ông không oán trách chính quyền Xôviết, mà còn nỗ lực làm việc. Năm 1939, ông được bầu lại làm chủ tịch nông trang tập thể. Năm 1953 ông qua đời, hưởng thọ 59 tuổi1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hđi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.33, 35-37).


Những vấn đề về chính trị mà ông nội và ông ngoại gặp phải đã để lại bóng đen trong tâm hồn thời niên thiếu của Gorbachev. Sau này trong hồi ký, ông có viết, khi ông ngoại bị bắt, thậm chí là sau khi đã được thả, hàng xóm và trẻ con hàng xóm đều coi ông ấy và gia đình ông ấy như kẻ thù, "tất cả điều đó đều làm cho tôi kinh ngạc, hơn nữa là cả đời không thể nào quên"1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.64, 32). Những việc đó cũng đã ảnh hưởng đến sự trưởng thành của Gorbachev, trở thành vấn đề lịch sử mà ông muốn lý giải khi bước vào đại học. Ông nhớ lại: "Trước khi vào Đảng, tôi đứng trước một vấn đề: Viết trong lý lịch như thế nào về việc ông nội và ông ngoại bị thanh trừng? Ông ngoại Pantelei nói chưa bị xét xử, nhưng lại phải ngồi tù 14 năm. Ông nội Andrey cũng không bị xét xử nhưng bị lưu đày đến Siberia làm khổ sai". Gorbachev đã phải "trình bày một bài dài về toàn bộ quá trình liên quan đến vấn đề của ông nội và ông ngoại tại cuộc họp Đảng ủỵ, sau đó tại cuộc họp Đảng ủy khu Lênin"2 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.64, 32). Những thăng trầm của các thành viên trong gia tộc tự nhiên ảnh hưởng đến sự nhận thức của Gorbachev đối với những vấn đề như tập thể hóa nông nghiệp, "đại thanh trừng", v.v. trong thời Xtalin, ảnh hưởng đến sự đánh giá của ông đối với Xtalin và thời đại lúc bấy giờ.


Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1950, Gorbachev được tuyển vào khoa Luật trường Đại học Mátxcava, bắt đầu cuộc sống 5 năm đại học. Đây là thời kỳ ầp ủ một sự biến động và bước ngoặt trước và sau sự qua đời của Xtalin. Lúc đó phương Tây ra sức thúc đẩy "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô, lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng ngang nhiên tuyên truyền tư tưởng tự do dân chủ và quan niệm giá trị của phương Tây. Bên trong Liên Xô, những mâu thuẫn và vấn đề tích tụ lâu dài ngày càng nhiều, sự bất mãn với hiện thực của một số người tăng lên, họ yêu cầu thay đổi hiện trạng và chủ động tiếp thu tư tưởng và quan niệm của phương Tây.


Trong thời kỳ này, Gorbachev đã đọc những sách mà trước kia không đọc được, bắt đầu tiếp thu quan điểm của phương Tây. Ông còn tham gia các cuộc míttinh của sinh viên, trong míttinh phát biểu ca ngợi tự do dân chủ và công kích những căn bệnh của thời đại với những từ ngữ rất gay gắt. Ông đã nhận xét hệ thống và nội dung giáo dục đại học lúc bây giờ là: "Không khí thời đó là ý thức hệ hóa ở mức cực độ. Cũng như trên cả nước, Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang của Xtalin được coi là công thức quý báu, thịnh hành khắp nơi, trở thành quy chuẩn của tư tưởng khoa học. Xem ra, mục đích của quá trình dạy học chính là nhằm trói buộc tư tưởng của thanh niên ngay từ khi mới vào học, nhồi nhét một cách cứng nhắc cho họ một mớ chân lý không thể phản bác, khiến họ miễn dịch trước sức quyến rũ của tư duy, phân tích và so sánh độc lập. Sự kìm kẹp về tư tưởng, ở một mức độ nào đó, thể hiện ngay trong bài giảng, việc thảo luận trên lớp và tranh luận trong các dạ hội của học sinh"1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.61-63, 63-64).


Đồng thời, Gorbachev bắt đầu nghi ngờ tính khoa học của chủ nghĩa Mác. Ông từng nói: ''Những tác giả đầu tiên khiến tôi nghi ngờ về tính không thể phản bác của chân lý cuối cùng mà chúng tôi được giáo dục lại chính là Mác, Ăngghen, Lênin, thực sự là như vậy". "Càng đọc kỹ những tác phẩm của các tác giả kinh điển, tôi càng tư duy sâu sắc hơn về (có hay không) tính thống nhất giữa quan niệm của họ về chủ nghĩa xã hội với đời sống thực tế của đất nước chúng ta"2 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, quyển thượng, tr.61-63, 63-64). "Hiện thực sống động đã hằn sâu vào cả đời đi học của tôi, ngay cả những quan niệm xã hội được tuyên truyền trong sách vở cũng trở nên mờ nhạt, mỏng manh, chạm vào là vỡ trước cuộc sống hiện thực". "Càng nhiều tuổi, tôi càng hiểu rõ hơn về các kiểu lát cắt lịch sử, bởi vậy, nghi vấn của tôi cũng ngày càng lớn hơn". Sau này, ông nói thẳng ra rằng: "Động cơ của việc mong đợi và phát động phong trào cải tổ xuất phát từ 'mong muốn biến hiện thực và lý tưởng trở nên thống nhất với nhau'! Xét lại 'sự biến thể của chủ nghĩa xã hội'! Đây là một kiểu viễn cảnh và kỳ vọng được hình thành ngay trong thế hệ chúng tôi khi còn là sinh viên"1 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Sđd, tr.15, 113-114, 116-117).


Vào thời điểm Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev 25 tuổi, mới tốt nghiệp đại học không lâu, đang ở vào giai đoạn quan trọng hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan. Các lý luận sai lầm mà Khrushchev đưa ra đã để lại dấu ấn sâu sắc với Gorbachev trong quá trình trưởng thành về tư tưởng, đã làm lung lay, thậm chí làm sụp đổ lý tưởng của ông đối với chủ nghĩa cộng sản và niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa. Với lịch sử gia đình đặc biệt, ông có sự lĩnh hội sâu sắc hơn và chuyển biến tư tưởng nhanh hơn với Báo cáo bí mật của Khrushchev mà trong đó đã phủ nhận hoàn toàn Xtalin, phủ nhận lịch sử của Đảng. Ông nói: "Tôi cũng như nhiều người khác, tán thành niềm kỳ vọng dấy lên trong xã hội ta sau Đại hội XX, cho rằng đây là cơ hội quan trọng của cá nhân tôi và những người cùng trang lứa". "Đối với lịch sử và nền đại chính trị, hậu quả thực tế qua hành vi chính trị của ông ấy (Khrushchev - ND.) có ý nghĩa rất quan trọng... Sự phê phán ấy khiến chủ nghĩa toàn trị mất hết uy tín về đạo đức, khơi dậy niềm hy vọng cải tổ thể chế có vai trò thúc đẩy đối với sự phát triển của quá trình mới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và đời sống tinh thần", "bất kể ý muốn chủ quan của Khrushchev là như thế nào, xét về ý nghĩa, nó như đợt tấn công đầu tiên vào thể chế toàn trị, là đợt thử nghiệm đầu tiên để xã hội ta hướng đến nền dân chủ"1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.97, 99, 103). Tuy nhiên, Báo cáo bí mật vẫn có chỗ khiến Gorbachev bất mãn. Ông cho rằng Khrushchev phủ nhận Xtalin chưa triệt để, chưa xuất phát từ gốc rễ chế độ để phê phán "kẻ theo chủ nghĩa toàn trị" này.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 20 Tháng Ba, 2022, 07:39:36 am
Những vấn đề trong thời đại Brezhnev khiến Gorbachev càng kiên định phải kết thúc chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô. Mặc dù Brezhnev là người đóng vai trò thúc đẩy quan trọng giúp Gorbachev bước vào Điện Kremlin, nhưng vị Tổng Bí thư này không hề để lại cho ông ấn tượng tốt đẹp nào. Vì vậy, ông quyết tâm phải cải tổ và lật độ chế độ này.


Sau khi Chernenko qua đời, vào đêm trước ngày Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành bầu cử, tức là ngày 10 tháng 3 năm 1985, Gorbachev về nhà sau khi họp Bộ Chính trị xong, chia sẻ với vợ những lời đau đáu trong lòng. Căn cứ theo hồi ức của Raisa, khi đó ông nói, "ngày mai sẽ tổ chức Hội nghị Trung ương, có thể sẽ đặt vấn đề để anh làm lãnh đạo Đảng". Nói xong, ông trầm tư rồi lại tự nói với mình: "Công tác nhiều năm tại Stavropol, rồi đến Mátxcơva làm việc 7 năm, vậy mà không giải quyết được vấn đề chín muồi trọng đại nào. Dường như tồn tại một bức tường. Cuộc sống đã đặt ra yêu cầu từ sớm rồi!". Cuối cùng ông nói: "Không, không thể cứ tiếp tục sống như vậy được nữa"2 (Raisa Gorbachev: Hy vọng của tôi (Hồi ký), Sđd, tr.7). Trong hồi ký, Gorbachev cũng đề cập lần nói chuyện trên giữa ông với vợ1 (Tham khảo Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.306). Đoạn bộc bạch nội tâm này cho thấy, đây là con người luôn muốn phá hoại từ bên trong chế độ mà ông căm ghét, cảm thấy bất mãn bởi bản thân nhiều năm không làm nên chuyện gì, không thể chịu đựng cuộc sống dưới chế độ này nữa. Ông cảm thấy thời cơ sắp đến, đã tới lúc phải hành động.


Hành động này chính là việc sau khi trở thành Tổng Bí thư, ông từng bước hủy hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, mà việc giương ngọn cờ ''chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" chính là con đường tốt nhất, vừa có thể lừa dối người khác, vừa đạt được mục tỉêu chính trị của mình. Đối với Gorbachev, "phải cải tạo căn bản toàn bộ tòa nhà xã hội của chúng ta: từ nền tảng kinh tế đến thượng tầng kiến trúc"2 (Gorbachev: "Tư tưởng chủ nghĩa xã hội và thay đổi mang tính cải cách", Báo Sự thật, ngày 26-11-1989. Tham khảo Vưang Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.199), "cần phải đập tan ý thức hệ của chủ nghĩa Xtalin và tất cả mọi thứ có liên quan"3 (Bài phát biểu của Gorbachev tại Lítva ngày 11-1-1990, tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Ấu, Sđd, tr.229), "mô hình áp đặt lên Đảng và xã hội mấy chục năm qua đã thất bại về chiến lược"4 (Bài phát biểu bế mạc của Gorbachev tại Hội nghị Trưng ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 26-7-1991, Itar-Tass, điện từ Mátxcơva). Ông cho rằng, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin tồn tại "tính hạn chế", Lênin "căn bản không có một cương lĩnh hoàn chỉnh về xây dựng chủ nghĩa xã hội", bởi vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể trở thành tư tưởng chỉ đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông còn cho rằng, chủ nghĩa xã hội của Liên Xô là "chủ nghĩa xã hội bị thay hình đổi dạng", là "chủ nghĩa xã hội bị bóp méo" nghiêm trọng5 (Bài phát biểu của Gorbachev tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 28-6-1988), là chủ nghĩa xã hội "toàn trị", "chuyên chế", "quan liêu". Bởi vậy, nhiệm vụ và mục tiêu của cải tổ chính là lật đổ triệt để chế độ này, thực hiện "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" tại Liên Xô.


Nếu như thái độ đối với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa cộng sản của Gorbachev khi còn đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo còn có phần kiêng kị, che giấu, thì sau khi từ chức ông đã bộc lộ rõ nội tâm của mình.

Từ năm 1993, trong thời gian một năm rưỡi, Gorbachev có nhiều lần đối thoại với nhà hoạt động xã hội Nhật Bản Daisaku Ikeda. Trong đối thoại, ông nói: "Ngay từ thời sinh viên, tôi đã phát hiện hiện thực và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội cách nhau cả trăm nghìn dặm"1 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Sđd, tr.116, 384-385). "Về bản chất, ý nghĩa căn bản của cái gọi là chủ nghĩa xã hội mà tôi hiểu, bản thân nó chính là một loại tư tưởng bình đẳng tuyệt đối và hoàn toàn, đặc biệt là bình đẳng về kinh tế. Triệt tiêu giai cấp, khắc phục khoảng cảch giữa lao động trí óc và lao động chân tay, triệt tiêu thị trường cũng như hàng hóa = quan hệ tiền tệ, tất cả những điều này đều là một kết quả về lý luận được suy ra từ tư tưởng bình đẳng tổng thể và 'hoàn toàn' mà Lênin thường nói". "Đối với cá nhân tôi, đã có nhiều năm hoạt động chính trị, vì vậy tôi cũng hiểu rất rõ bình đẳng hoàn toàn và tuyệt đối là điều không thể thực hiện được. Từ đó về sau, quan niệm về chủ nghĩa xã hội của tôi đã thay đổi". Ông còn nói: "Bi kịch của nước Nga chính là ở chỗ tư tưởng đã chết của Tây Âu giai đoạn cuối đời Các Mác đã được nước Nga đầu thế kỷ XX lựa chọn"; chủ nghĩa cộng sản "là một loại khẩu hiệu gần như không thể thực hiện được"2 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Sđd, tr.116, 384-385).


Ngày 14 tháng 12 năm 1991, đêm trước ngày quốc kỳ Liên Xô tại Điện Kremlin bị kéo hạ, Gorbachev nói với phóng viên của tạp chí Time: "Nếu chỉ nói đến công việc của tôi, mục tiêu chính của cả cuộc đời tôi đã thực hiện được. Tôi cảm thấy bình an"1 (Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm 'cải tổ' của Liên Xô cũ, Sđd, tr.717). Sau này, Gorbachev còn nói thêm về mục đích sống cũng như cách nhìn về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản2 (Có tài liệu cho biết, trong một bài phát biểu tại một trường đại học ở Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1999, Gorbachev từng nói: "Mục đích của cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản đã tiến hành nền thống trị độc tài không thể chấp nhận nổi đối với người dân. Vợ tôi đã giúp kiên định niềm tin của tôi về vấn đề này, quan điểm này của bà ấy hình thành sớm hơn tôi. Chỉ khi tôi đã ở vị trí cao, mới có thể phát huy tác dụng lớn nhát. Bởi vậy, vợ tôi muốn tôi không ngừng nỗ lực leo lên vị trí cao. Khi trực tiếp biết đến phương Tây, quyết định của tôi không còn có thể thay đổi được nữa. Tôi phải thanh toán toàn bộ nền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô, tôi phải thanh toán sự lãnh đạo của tất cả các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng của tôi là đi theo con đường của Đảng Dân chủ xã hội". Ông còn nói: "Khi Yeltsin giải tán Liên Xô và tôi rời Điện Kremlin, hàng trăm nhà báo nghĩ rằng tôi sẽ khóc. Tôi đã không khóc, bởi mục đích chính của cuộc đời tôi đã đạt được". Xem thêm: Gorbachev: "Mục đích của cuộc đời tôi chính là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản", Nghiên cứu chính trị học, số 1 năm 2001. Bản gốc đăng tại tạp chí Dialog của Tiệp Khắc số 146 năm 1999, và được đăng ở báo Ánh sáng của Xlôvakia, số 24 năm 1999, đăng lại ở báo Nước Nga Xôviết, ngày 19-8-2000. Sau khi được đăng tải, một số học giả trong và ngoài nước bày tỏ hoài nghi về tính chân thực của bài báo trên. Nhưng mọi người đều thấy, tư tưởng mà bài báo đề cập hoàn toàn phù hợp với thế giới quan và mọi hành động của Gorbachev. Ngoài ra, một lãnh đạo chủ chốt của sự kiện ngày 19-8 trong một lần nói chuyện nội bộ vào tháng 4-2002, từng khẳng định rõ ràng là có bài phát biểu đó. Ông này cho biết: "Gorbachev không chỉ có một bộ mặt mà có đến ba, bốn bộ mặt. Mấy năm trước, Gorbachev trong bài phát biểu tại Ankara từng nói, mục đích của đời ông ta chính là hủy diệt chính quyền Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Bài phát biểu đó đã được đăng báo").


Lãnh tụ của một chính đảng giai cấp vô sản lại mất đi niềm tin với chủ nghĩa Mác, đây là điều khiến người ta phải kinh ngạc. Lãnh tụ như vậy, tất nhiên không thể bảo vệ cho lợi ích của giai cấp vô sản, tất nhiên sẽ phản bội Đảng, phản bội nhân dân, sẽ trở thành kẻ thù của nhân dân, tội đổ của lịch sử!


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:10:00 am
II. TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CỦA TẬP THỂ LÃNH ĐẠO ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Lãnh tụ của cách mạng vô sản và chính đảng giai cấp vô sản, không những phải có niềm tin và sự theo đuổi kiên định với chủ nghĩa Mác, với chủ nghĩa cộng sản, mà còn phải có trình độ lý luận cao về chủ nghĩa Mác, cũng như biết kết hợp, vận dụng với thực tế và phát triển chủ nghĩa Mác.


Nhà lý luận của cách mạng vô sản và chính đảng giai cấp vô sản phải là một nhà lý luận như sau: Họ thực sự hiểu bản chất của chủ nghĩa Mác, có thể liên hệ lý luận với thực tế, căn cứ theo lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác, giải thích và giải quyết chính xác những vấn đề thực tế nảy sinh trong lịch sử, trong cách mạng và trong quá trình xây dựng đất nước mình, phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác. Tập trung vào sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác, tập trung vào tư duy lý luận với các vấn đề thực tế, tập trung vào thực tiễn mới và phát triển mới. Đây phải là thái độ cơ bản của lãnh tự giai cấp vô sản đối với chủ nghĩa Mác, cũng là trách nhiệm mà thời đại trao cho người lãnh tụ.


1. Trình độ lý luận chủ nghĩa Mác của Lênin và Xtalin

Lênin xứng tầm là nhà lý luận vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Ông không chỉ nắm vững những quan điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác, mà còn thuận theo trào lưu thời đại, nhu cầu cách mạng cũng như thực tế phát triển, nhìn nhận chủ nghĩa Mác một cách khoa học. Vào giai đoạn giao thời giữa hai thế kỷ XIX và XX, ông đã kết hợp một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác với đặc trưng của thời đại và thực tế cách mạng nước Nga, đưa ra thuyết "thắng lợi ở một nước" của chủ nghĩa xã hội, đưa chủ nghĩa Mác của thời đại tư bản tự do trở thành chủ nghĩa Mác của thời đại đế quốc, tức là giai đoạn chủ nghĩa Lênin.


Năm 1899, trong bài viết "Cương lĩnh của chúng ta", Lênin từng chỉ ra rằng, "chúng ta quyết không nhìn nhận lý luận của chủ nghĩa Mác như điều vĩnh viễn không đổi và thiêng liêng không thể xâm phạm; mà ngược lại, chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng: nó chỉ đặt nền tảng cho một môn khoa học, những người đảng xã hội nếu như không muốn lạc hậu với cuộc sống thực tế thì cần phải thúc đẩy môn khoa học này tiến về phía trước trên các lĩnh vực"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.274). Người còn nói, đối với những người đảng xã hội của nước Nga, đặc biệt cần tìm tòi, nghiên cứu một cách độc lập lý luận của chủ nghĩa Mác, bởi đó không chỉ là những nguyên lý chỉ đạo tổng thể, mà sự vận dụng cụ thể những nguyên lý này ở Anh khác với ở Pháp, ở Pháp khác với ở Đức, ở Đức lại khác với ở Nga.


Thuyết "thắng lợi ở một nước" và cái gọi là thuyết "chủ nghĩa siêu đế quốc" mà Kautsky của Quốc tế II đưa ra sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra có sự khác biệt rõ rệt. Kautsky mộng tưởng chỉ cần tư bản tài chính quốc tế hợp lại thành một nhóm độc quyền thống nhất toàn thế giới, thì có thể "loại trừ những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc", có thể thực hiện "hòa bình lâu dài". Lênin chỉ ra một cách sắc sảo rằng, "thuyết chủ nghĩa siêu đế quốc là hoàn toàn không tương thích với chủ nghĩa Mác, là che đậy và trì hoãn mâu thuẫn căn bản nhất", đã phủ nhận một cách căn bản lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, đã hoàn toàn che đậy "tính sâu sắc của những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và tính tất yếu của nguy cơ cách mạng do chủ nghĩa đế quốc sản sinh ra"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.580). Lịch sử đã chế nhạo mong muốn đơn phương của Kautsky và cũng kiểm chứng sáng kiến khoa học của Lênin.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chính quyền Xôviết mới ra đời phải chịu sự tấn công của kẻ thù trong và ngoài nước, đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn trong việc khôi phục trật tự, phát triển kinh tế, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thực tiễn hoàn toàn mới, chưa có đáp án sẵn trong sách của Mác và Ăngghen. Lênin khắc ghi thái độ của những người sáng tạo ra chủ nghĩa Mác đối với học thuyết của chính mình: Lý luận của họ không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động.


Tháng 8 năm 1917, trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin chỉ ra rằng: "Chúng ta không thể yêu cầu Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác phải biết hết mọi tình huống cụ thể trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là suy nghĩ ngu ngốc. Chúng ta chỉ biết được phương hướng của con đường đó, chỉ biết được lực lượng giai cấp nào dẫn dắt đi theo con đường đó; còn trong thực tế cụ thể đi như thế nào, chỉ có thể được làm rõ bằng kinh nghiệm của hàng chục triệu người sau khi họ bắt đầu hành động"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.32, tr.111).


Tháng 12 năm đó, trong bài viết "Làm thế nào để tổ chức thi đua", Lênin nói: "Tất cả mọi điều hiện nay đểu nằm ở thực tiễn, hiện nay đã đến giai đoạn lịch sử then chốt: lý luận đang biến chuyển thành thực tiễn, lý luận được thực tiễn truyền cho sức sống, được thực tiễn sửa đổi, được thực tiễn kiểm nghiệm; câu nói của Mác 'một bước vận động thực tế quan trọng hơn một tá cương lĩnh' là đặc biệt chính xác"1 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.3, tr.381).


Tháng 7 năm 1918, trong ''Báo cáo về công tác của Ủy ban nhân dân tại Đại hội đại biểu toàn nước Nga Xô viết lần thứ 5", Lênin chỉ ra rằng: "Đối với nước Nga, thời đại căn cứ vào sách vở để tranh luận về cương lĩnh xã hội chủ nghĩa đã trở thành quá khứ, tôi tin tưởng sâu sắc rằng điều đó đã ra đi không trở lại. Hôm nay chỉ có thể căn cứ theo kinh nghiệm để bàn luận về chủ nghĩa xã hội"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.466).


Tháng 11 năm 1918, trong "Báo cáo về thái độ của giai cấp vô sản đối với phái dân chủ tiểu tư sản" tại Hội nghị các cán bộ làm công tác Đảng ở Mátxcơva, Lênin nói: "Học thuyết của Mác và Ăngghen không phải là giáo điều để chúng ta học thuộc lòng, nên coi đó là kim chỉ nam cho hành động. Chúng ta luôn nói và tôi cũng cho rằng, hành động của chúng ta là phù hợp, chưa từng rơi vào chủ nghĩa cơ hội, mà chỉ thay đổi sách lược. Điều này quyết không phải là phản bội học thuyết, quyết không thể bị gọi là chủ nghĩa cơ hội"3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.35, tr.219).


Lênin còn chỉ ra rằng, tinh túy của chủ nghĩa Mác, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là: phân tích cụ thể trước tình huống cụ thể4 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.4, tr.213).

Đây chính là biểu hiện tập trung của dũng khí lý luận và tinh thần sáng tạo không sợ gian khó, dũng cảm tìm tòi của Lênin. Đây chính là thái độ trịnh trọng của một nhà mácxít vĩ đại đối xử khoa học với học thuyết của Mác và Ăngghen. Chính dưới sự chỉ đạo của tỉnh thần vĩ đại và thái độ khoa học này, Lênin đã dẫn dắt Đảng Bônsêvích và nhân dân khắc phục muôn vàn gian khó, tiến hành thực tiễn vĩ đại. Chính sách cộng sản thời chiến đã phát huy vai trò to lớn nhằm đánh lui sự tấn công ác liệt của kẻ thù cả bên trong lẫn bên ngoài, bảo vệ chính quyền Xôviết non trẻ. Chính sách kinh tế mới, để thích nghi với thay đổi mới, đã kịp thời xoay chuyển cục diện phức tạp trong nước, tích luỹ được những kinh nghiệm quý báu. Đây là lần thử nghiệm đầu tiên của một quốc gia lạc hậu trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp kinh nghiệm hữu ích cho việc xây dựng cũng như công cuộc cải cách nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này.


Xtalin từng đánh giá Lênin như sau: Có hai phe chủ nghĩa Mác. Những người theo chủ nghĩa Mác giả hiệu là những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội, chỉ bề ngoài thừa nhận chủ nghĩa Mác mà không chịu tìm hiểu thực chất tinh thần của chủ nghĩa Mác, càng không muốn thực hành chủ nghĩa Mác; còn những người theo chủ nghĩa Mác chân chính, không những thừa nhận chủ nghĩa Mác, mà đã kết hợp thực tế cách mạng, vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác. Họ không thỏa mãn với việc giải thích thế giới, mà lấy việc cải tạo thế giới làm mục đích. Người tổ chức và lãnh tụ của phái này là Lênin1 (Xtalin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1979, t.2, tr.129-130). Lênin là nhà lý luận và thực tiễn kiệt xuất của đảng dân chủ xã hội cách mạng2 (Xem thêm Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển thượng, chú thích 1, tr.20). Chủ nghĩa Lênin không chỉ đã phục sinh cho chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển chủ nghĩa Mác thêm một bước nữa trong điều kiện đấu tranh mới giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Đây là toàn bộ chân lý về chủ nghĩa Lênin3 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển thượng, tr.186).


Bukharin cũng từng nói: "Lênin không chỉ là một con người sắt thép, hiểu rõ tính khí của lịch sử, điều khiển lịch sử, chỉ đạo phương hướng để lịch sử băng băng tiến tới. Lênin còn là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất"1 (Bukharin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1988, quyển trung, tr.67, 75). "Sở dĩ Lênin giống như chiến lược gia, có thế thực hiện thành công những chuyển biến to lớn này là bởi ông là nhà lý luận vĩ đại nhất, có thể phân tích toàn diện, rõ ràng, so sánh sức mạnh giai cấp của những giai cấp nhầt định, đánh giá họ, khái quát về lý luận, rồi từ những khái quát lý luận đó đưa ra những kết luận tương ứng về thực tiễn và chính sách", "bản thân ông nắm chắc thứ vũ khí vô cùng sắc bén của chủ nghĩa Mác, đồng thời không bao giờ coi chủ nghĩa Mác là một thứ giáo điều xơ cứng bất biến, mà coi đó là công cụ để chỉ rõ phương hướng trong hoàn cảnh nhất định"2 (Bukharin: Tuyển tập, Sđd, quyển thượng, tr.179-181). Ông là nhà lý luận hàng đầu nắm vững phương pháp trừu tượng của Mác3 (Bukharin: Tuyển tập, Nxb. Nhân dân, 1988, quyển trung, tr.67, 75).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:11:17 am
Sau khi Lênin qua đời, nước Cộng hòa Xôviết vẫn còn phải đối mặt với tình trạng căng thẳng cả ở trong và ngoài nước, điều này đã đặt ra cho Xtalin, người kế thừa của Lênin, một loạt vấn đề lý luận trọng đại. Khi đó, có một bộ phận người tương đối lớn kiên trì cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể giành được thắng lợi trước tiên ở một nước, nhưng không thể xây dựng thành công trong một nước, đặc biệt là ở quốc gia có nền kinh tế  văn hóa lạc hậu như nước Nga.


Trotsky, người cổ vũ cho "thuyết cách mạng không ngừng" và "thuyết cách mạng thế giới", căn bản không tin tưởng một quốc gia có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cũng không tin tưởng giai cấp công nhân có thể cùng với nông dân hình thành nên liên minh vững chắc. Ông bám vào kết luận cá biệt của những người sáng lập chủ nghĩa Mác, cho rằng "sự phát triển thực sự của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tại nước Nga chỉ có khả năng thực hiện sau khi giai cấp vô sản giành thắng lợi tại một vài quốc gia châu Âu quan trọng nhất". Ông còn nghiễm nhiên cho rằng, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền, giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nông dân sẽ xảy ra "xung đột đổi đầu", "mâu thuẫn mà vị trí chính phủ công nhân đang đứng chỉ có thể được giải quyết khi đặt trong phạm vi quốc tế tức là vũ đài cách mạng thế giới của giai cấp vô sản"1 (Dẫn từ Xtalin: Tuyển tập, Sđd, t.1, tr.290, 283). Ông cho rằng, chỉ có thông qua cách mạng thế giới và dựa vào cách mạng thế giới, mới có thể giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và nông dân, và để cuối cùng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


Zinoviev cũng cho rằng, không có sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, việc một mình Liên Xô xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là không thể. "Có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa tại một quốc gia, không phải là nước Mỹ, mà là tại đất nước chúng ta - một đất nước nông dân hay không? Chúng ta không cần tranh luận (về điều đó - ND.), xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại một quốc gia là điều không thể2 (Báo Sự thật ngày 23-12-1925, dẫn từ Chu Thượng Văn, Diệp Thư Tông, Vương Ty Đức: Lịch sử hưng vong của Liên Xô, Nxb. Thượng Hải, 1993, tr.137).


Không chỉ có vậy, những người như Trotsky, Zinoviev, Kamenev còn kết bè kéo cánh, hình thành liên minh chính trị, cùng nhau chống lại Xtalin. Đây không còn là tranh luận đơn thuần nữa.

Trong thời điểm nguy cấp này, Xtalin đã phê phán mạnh mẽ kiểu lý luận bi quan "không tin tưởng giai cấp vô sản nước Nga có năng lực, có bản lĩnh" xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ông chỉ ra rằng, đây là "bóp méo chủ nghĩa Lênin" và "không tin tưởng vào sự nghiệp chủ nghĩa xã hội". Nếu như Đảng không có lý do quả quyết rằng giai cấp vô sản Liên Xô có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thì Đảng không còn lý do để tiếp tục cầm quyền, bất luận thế nào cũng nên từ bỏ chính quyền và chuyển sang vị trí của đảng đối lập1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđđ, t.1, tr.510, 438).


Ông còn chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng trong một quốc gia: "Đây chính là khả năng sử dụng sức mạnh nội bộ của nước ta để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và nông dân, chính là dưới sự đồng tình và giúp đỡ của những người vô sản tại quốc gia khác, nhưng không cần thiết phải có sự thắng lợi trước hết của cách mạng vô sản tại các quốc gia khác, giai cấp vô sản có thể giành lấy chính quyền và lợi dụng chính quyền này để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa tại đất nước mình"2 (Xtalin: Tuyển tập, Sđđ, t.1, tr.510, 438). Nếu không có khả năng này, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là công cuộc xây dựng không có tương lai, chính là công cuộc xây dựng không có niềm tin vào việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nếu như không tin vào khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu như không tin rằng nền kỹ thuật lạc hậu của nước ta (Liên Xô) không phải là trở ngại không thể khắc phục trên con đường xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa toàn diện, thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phủ nhận khả năng này chính là không tin vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính là rời xa chủ nghĩa Lênin.


Liên Xô có năng lực một mình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã cho thấy dưới điều kiện đất nước bị chủ nghĩa đế quốc bao vây, nguyện vọng mãnh liệt và quyết tâm kiên cường của người dân Liên Xô trong việc xây dựng đất nước trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, cũng đã phản ánh yêu cầu và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội Liên Xô, đã thuận theo trào lưu lịch sử. "Thuyết xây dựng thành công ở một nước" đã kiên trì và phát triển "thuyết thắng lợi ở một nước" của Lênin. Đây là cống hiến lý luận nổi bật của Xtalin trong thời đại của ông, với tư cách một nhà cách mạng vô sản vĩ đại, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, và đã tạo ra ảnh hưởng sâu rộng đối với phong trào cộng sản quốc tế.
Sau quá trình đấu tranh tư tưởng và xử lý về tổ chức quyết liệt, học thuyết thắng lợi ở một nước của Lênin đã được bảo vệ và phát triển, tư tưởng chính xác của Xtalin cũng được bảo vệ. Trên nền tảng thống nhất nhận thức tư tưởng, Liên Xô đã mở màn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội quy mô lớn. Dưới sự lãnh đạo của Xtalin, nhân dân Liên Xô nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa đất nước và tập trung hóa nông nghiệp, cơ bản xác lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tháng 11 năm 1936, Xtalin tuyên bố: "Xã hội Liên Xô chúng ta đã cơ bản thực hiện chủ nghĩa xã hội, đã xây dựng được chế độ xã hội chủ nghĩa, tức là thực hiện được chế độ mà chủ nghĩa Mác gọi là giai đoạn thứ nhất của chủ nghĩa cộng sản hay là giai đoạn đầu. Nói vậy nghĩa là, chúng ta đã cơ bản thực hiện được giai đoạn thứ nhất của chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa xã hội"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, t.2, tr.399). Sau đó, Xtalin còn lãnh đạo nhân dân Liên Xô tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết với thù trong giặc ngoài, giành được thắng lợi vĩ đại trong chiến tranh chống phátxít, đã bảo vệ và làm lớn mạnh quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.


Cần phải chỉ ra rằng, mặc dù tuyên bố Liên Xô đã cơ bản xây dựng được chủ nghĩa xã hội, nhung trình độ lực lượng sản xuất khi đó vẫn còn lạc hậu, đời sống của đông đảo công nhân, nông dân vẫn thấp, một số chỉ số về sản xuất và thu nhập bình quân đầu người thậm chí còn thấp hơn nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Điều này cho thẩy, chính quyền Xô viết vẫn còn nhiệm vụ nặng nề là phải tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phát triển han nữa lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhanh và tốt hơn nữa mức sống của quần chúng nhân dân, vì thế, nói chủ nghĩa xã hội "đã được xây dựng" là còn sớm. Điều này cho thấy, nhận thức của Xtalin về một vấn đề lý luận quan trọng "như thế nào là chủ nghĩa xã hội" vẫn còn hạn chế mang tính lịch sử rõ nét. Đương nhiên, dưới tiền đề chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội đã được xác lập, việc kịp thời tuyên bố Liên Xô đã cơ bản xây dựng được chủ nghĩa xã hội khi đó vẫn có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ niềm tin cách mạng của nhân dân Liên Xô và các nước trên thế giới.


Năm 1952, trong cuốn sách Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô xuất bản những năm cuối đời, Xtalin đã tổng kết có hệ thống những kinh nghiệm của Liên Xô trong hơn 30 năm xây dựng kinh tế - xã hội chủ nghĩa, đã trình bày rõ tính chất của quy luật kinh tế cũng như quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đã luận giải vấn đề sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đã trình bày lý luận về mâu thuẫn vẫn tồn tại giữa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với lực lượng sản xuất. Mặc dù những luận giải trong sách không hoán toàn chính xác, nhưng trong điều kiện lịch sử khi đó, việc đưa ra các quan điểm như sản xuất xã hội chủ nghĩa vẫn là sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vẫn phát huy tác dụng, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội và lửc lượng sản xuất vẫn tồn tại mâu thuân là sự cống hiến quan trọng cho lý luận kinh tế chủ nghĩa Mác và có ảnh hưởng to lớn đến thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước.


Tháng 11 năm 1958, trong bài nói chuyện khi đọc Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô của Xtalin, Mao Trạch Đông đã khẳng định đầy đủ những cống hiến lý luận của Xtalin. Ông nói, "Xtalin là người đầu tiên viết nên kinh tế chính trị học xã hội chủ nghĩa". " Tôi cho rằng trong cuốn sách Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô này, mặt đúng là chủ yếu". "Rất nhiều quan điểm trong sách vô cùng có ích với chúng ta, càng đọc càng thấy hứng thú". "Việc nghiên cứu vấn đề kinh tế chính trị học hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn". Bởi vậy, ông hiệu triệu cán bộ của Đảng "phải chịu khó đọc, đọc nhiều lần", "cán bộ cấp thường vụ tỉnh ủy, thường vụ cấp ủy địa khu trở lên đều phải nghiên cứu, dành ra mấy tháng để tổ chức học tập".


Không thể phủ nhận, mô hình chủ nghĩa xã hội hình thành trong thời đại Xtalin, một mặt, thể hiện được sức sống to lớn, nhưng mặt khác cũng tồn tại những hạn chế, ngay cả khi vẫn còn phát huy tác dụng. Giai đoạn sau thời kỳ cầm quyền của Xtalin, tình hình kinh tế trong nước của Liên Xô vô cùng nghiêm trọng. Đến năm 1950, nền kinh tế Liên Xô mới hồi phục lại trạng thái trước chiến tranh. Trong giai đoạn xây dựng hòa bình hiếm hoi, Xtalin cũng đã bắt đầu tổng kết những bài học kinh nghiệm của Liên Xô trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mùa Thu năm 1952, nửa năm trước khi qua đời, Xtalin đã nhận thức được rằng, với Liên Xô "cải cách là không thể tránh khỏi"1 ("Ryzhkov nói về nguyên nhân giải thể của Liên Xô", chuyên san Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội thế giới, số 25, ngày 8-8-2008, tr.3). Nhưng sứ mệnh lịch sử ấy đã không thế được thực hiện khi ông còn sống.


Tóm lại mặc dù Xtalin vẫn còn những hành động giáo điều với chủ nghĩa Mác, thậm chí trên một số vấn đề còn đi ngược lại chủ nghĩa Mác, nhưng trên phương diện kiên trì, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, ông đã có những cống hiến quan trọng. Ông không hổ danh là nhà lý luận mácxít, là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những người theo chủ nghĩa xét lại của Quốc tế II đã từng vui mừng trước sai lầm của phe cánh tả như Bebel. Vì vậy, Lênin đã dùng một câu chuyện ngụ ngôn của Nga để châm biếm những người theo chủ nghĩa xét lại: "Chim ưng có lúc còn bay thấp hơn gà, nhưng gà vĩnh viễn không bao giờ bay cao được như chim ưng"1 (Tham khảo Lênin: Tuyển tập (bản năm 1972), tr.600. So sánh của Lênin có xuất xứ từ một câu truyện ngụ ngôn của Krylov). Xtalin là nhà mácxít vĩ đại, tuy từng có sai lầm, nhưng ông luôn luôn là chim ưng, mà những kẻ theo chủ nghĩa xét lại tấn công, phỉ báng ông, cùng lắm cũng chỉ là đàn gà đứng trên đống phân phía sân sau của phong trào công nhân.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:12:51 am
2. Trình độ lý luận của Khrushchev và Brezhnev

Thời trẻ, Khrushchev không được hấp thụ nền giáo dục có hệ thống, đến khi tham gia chính trị cũng không nghiên cứu cẩn thận lý luận chủ nghĩa Mác. Molotov từng đánh giá ông như sau: Khrushchev chưa từng bao giờ hứng thú, cũng chưa từng suy nghĩ thế nào là chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác, không biết một chút gì về lý luận. Mao Trạch Đông cũng từng đánh giá về Khrushchev: "Ông ấy không hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin, dễ bị mắc lừa chủ nghĩa đế quốc"2 (Các bài viết của Mao Trạch Đông sau thành lập nước, Nxb. Văn hiến Trung ương, 1993, t.8, tr.601). Cựu Tổng thống Mỹ Nixon khi nói về Khrushchev lại cho rằng: "Rất khó để tôi tưởng tượng rằng ông ấy trên thực tế đã đọc hết hay chưa ba tập sách dày Tư bản của Mác. Về phương diện này, ông ấy khác với Xtalin. Xtalin đọc nhiều và viết nhiều sách về lý luận chủ nghĩa cộng sản"1 (Nixon: Lãnh tụ, Nxb. Tri thức, 1983, tr.241).


Sau khi Xtalin qua đời, ông để lại một nước Liên Xô hùng mạnh, nhưng đồng thời cũng là một nước Liên Xô tồn tại những vấn đề nghiêm trọng. Sự phát triển của lịch sử không bao giờ có ngoại lệ, luôn yêu cầu những người lãnh đạo đi sau, một mặt phải kế thừa những mặt đúng của người đi trước, mặt khác phải khắc phục những khuyết điểm và vấn đề mà thời đại trước để lại.


Thế nhưng, về những vấn đề lý luận trọng đại liên quan đến sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, Khrushchev lại thiếu kiến thức cần có. Khi giải quyết những vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh của Đảng và đất nước, ông thiếu tư duy lý tính và tầm nhìn sâu rộng, mà luôn xuất phát từ suy nghĩ duy ý chí và cảm xúc nhất thời, thậm chí còn mong đợi thông qua những biện pháp thô lỗ, mạo hiểm để đạt được mục đích, vì vậy, ông chỉ có thể trở thành kẻ phá hoại những nguyên tắc lý luận chủ nghĩa Mác.


Xtalin nhấn mạnh quá mức chế độ sở hữu công đơn nhất. Điều này có lợi cho việc tăng cường nền tảng kinh tế xã - hội chủ nghĩa, củng cố chính quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng tồn tại những mâu thuẫn đa tầng nấc giữa chế độ sở hữu công đơn nhất và lực lượng sản xuất thực tế. Lực lượng sản xuất của Liên Xô vừa có sản xuất lớn với trình độ xã hội hóa rất cao, vừa có sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán. Tính đa tầng nấc của kết cấu lực lượng sản xuất yêu cầu chế độ sở hữu phải đa dạng hóa, yêu cầu về khách quan cho phép tồn tại nền kinh tế sở hữu phi công hữu ở một mức độ nhất định, trong phạm vi nhất định. Xtalin đưa ra hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Ở một ý nghĩa nào đó, đây cũng là một loại phát triển, nhưng ông đã bỏ qua tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế phi công hữu. Khrushchev không những không thể khắc phục thiếu sót cửa Xtalin, mà ngược lại còn tiến thêm một bước nữa trên nền tảng tìm kiếm nghiên cứu của Xtalin. Ông vẫn dừng lại ở quan niệm "mức độ công hữu càng cao càng tốt". Ông không ngừng hợp nhất các nông trang tập thể quy mô nhỏ thành nông trang tập thể quy mô lớn, rồi biến các nông trang tập thể thành nông trường quốc hữu toàn dân. Có một số nông trang được mở rộng đến mức độ không thể nào quản lý được. Có một số nông trang nghèo khó, làm ăn thua lỗ yêu cầu được chuyển thành nông trường quốc doanh, như vậy vừa gây tổn thất cho quốc gia, vừa làm tăng thêm thói quen ăn nồi cơm chung. Ông đã cho xóa bỏ hợp tác xã thủ công nghiệp, vội vàng để hợp tác xã sở hữu tập thể quá độ sang chế độ sở hữu toàn dân. Về vấn đề giữ hay bỏ đất vườn1 (Tương đương đất phần trăm của Việt Nam (ND.)) và ngành chăn nuôi do các thành viên nông trang tập thể tự sản xuất và kinh doanh lại càng thay đổi nhiều hơn. Vốn là nhằm khuyến khích các thành viên và nhân viên nông trang phát triển ngành nghề phụ của cá nhân đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng đến cuối năm 1958, nghề phụ cá nhân lại bị hạn chế, khiến việc sản xuất nghề phụ suy giảm nhanh chóng, dẫn đến tình trạng bất mãn nghiêm trọng của người dân nông thôn, gây tổn thất cho nền kinh tế nông nghiệp.


Trong những năm cuối đời, Xtalin nhìn ra tính hàng hóa của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng ông tổng kết, cho rằng đây là do nhu cầu sản xuất và lưu thông giữa hai loại hình doanh nghiệp sở hữu toàn dân và tập thể. Xtalin cho rằng, sản xuất xã hội chủ nghĩa là nền sản xuất hàng hóa đặc thù, với phạm vi hoạt động là sản phẩm tiêu dùng cá nhân, tư liệu sản xuất không phải là hàng hóa. Đại hội XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1961 căn cứ theo báo cáo của Khrushchev đã thông qua "Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô", tuy đã đề ra "cần tận dụng đầy đủ mối quan hệ giữa hàng hóa và tiền tệ", nhưng cũng chỉ có một khẩu hiệu đó mà thôi. Dưới tác động của sự nóng vội thực hiện chủ nghĩa xã hội của Khrushchev, Cương lĩnh còn chỉ ra: "Cùng với quá độ tiến tới chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa toàn dân và chế độ phân phối cộng sản chủ nghĩa, mối quan hệ giữa hàng hòa và tiên tệ về (phương diện) kinh tế sẽ lỗi thời và diệt vong"1 (Văn kiện chính Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII, Sđd, tr.236).


Về cơ chế vận hành kinh tế, thể chế kinh tế kế hoạch mà Xtalin tập trung quá mức được xây dựng trên kết cấu chế độ sở hữu quá đơn nhất. Vào thời đại Xtalin, chưa đặt ra vấn đề coi trọng tận dụng thị trường. Nhưng vào những năm cuối đời, Xtalin nêu ra tính tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều này về mặt lôgích đã khẳng định vai trò của thị trường. Tại Đại hội XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev đã biểu dương mạnh mẽ thành tựu của kế hoạch 7 năm từ năm 1955 trở lại. Khi tổng kết kinh nghiệm trong 6 năm qua, ông chỉ biết "kiên trì hoàn thiện công tác kế hoạch và lãnh đạo đối với nền kinh tế  quốc dân". Mặc dù, ông đã đề ra "phải cải tiến về căn bản công tác kế hoạch", nhưng cũng chỉ tổng kết thành "nâng cao trách nhiệm của Đảng và cơ quan kinh tế trong việc hoàn thành nghị quyết và chỉ tiêu của Đảng và Chính phủ". Trong báo cáo của ông không hề xuất hiện hình bóng của "thị trường", càng không hề coi trọng vai trò của thị trường.


Về vấn đề giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội, Khrushchev không những không thể sửa sai cho Xtalin mà còn đi xa hơn nữa. Năm 1959, ông cho rằng Liên Xô đã bước vào "thời kỳ triển khai toàn diện xây dựng chủ nghĩa cộng sản"; năm 1961 lại tuyên bố Liên Xô phải "cơ bản xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong 20 năm". Đây là đánh giá về giai đoạn phát triển xã hội thoát li thực tế nhất trong lịch sử Liên Xô. Thực chất của đánh giá sai lầm này chính là đã phủ nhận trong giai đoạn lịch sử chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại giai cấp, tồn tại những thời điểm diễn ra đấu tranh giai cấp, thậm chí là vô cùng kịch liệt.


Bước tiến nóng vội, cực đoan và duy ý chí cũng khiến Khrushchev khó có thể đột phá được sự ràng buộc của chế độ sở hữu "quy mô lớn, mức độ công hữu cao", chế độ phân phối quân bình chủ nghĩa cũng như thể chế kinh tế  kế hoạch. Điều này khiến cải cách kinh tế của ông không có thành tựu gì lớn. Bên cạnh việc phê phán mạnh mẽ Xtalin, ông vừa không thể kiên trì mặt đúng đắn của Xtalin, lại vừa lặp lại những sai lầm của Xtalin, thậm chí còn mắc những lỗi lầm nghiêm trọng hơn Xtalin. Bởi vậy, về lý luận ông không thể có thành tựu gì, chưa nói gì đến khả năng phát triển chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ ông cầm quyền, vấn đề của Liên Xô càng nghiêm trọng hơn, vì vậy việc ông bị phế truất giữa nhiệm kỳ cũng không có gì lạ.


Trong thời đại Brezhnev đã có sự điều chỉnh và sửa chữa một số sai lầm lý luận của Khrushchev, cũng tiến hành một số chính sách mới, khiến kinh tế Liên Xô có sự phát triển nhất định, xã hội cũng tương đối ổn định, đời sống nhân dân cũng được nâng cao. Nhưng Brezhnev không phải là một nhà lý luận có trình độ, trình độ lý luận chủ nghĩa Mác của ông không cao hơn Khrushchev là bao.


Brezhnev mặc nhiên cho rằng, lực lượng sản xuất của Liên Xô đã "phát triển cao độ", quan hệ sản xuất đã "chín muồi cao độ", về chính trị đã "dân chủ cao độ", "các giai cấp, các nhóm xã hội, các dân tộc lớn nhỏ của Liên Xô đã hình thành mối quan hệ mới, hài hòa - quan hệ hợp tác hữu nghị"1 (Tổng tập văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXIV, Sđd, 1976, tr.105). Lý luận này đã phủ định tính tất yếu của việc Liên Xô phải tiến hành cải cách căn bản. Điều này được phản ánh đầy đủ qua thái độ của ông đối với cải cách "thể chế kinh tế mới" vào cuối những năm 60 thế kỷ XX.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:13:50 am
Theo Brezhnev, thể chế kinh tế của Liên Xô không cần phải cải cách, chỉ cần "hoàn thiện". Sau sự kiện mùa Xuân Budapest, Liên Xô đã tiến hành phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường. Một số học giả chủ trương coi trọng vai trò cơ chế thị trường bị trấn áp. Liberman, người đề xuất thể chế kinh tế mới, thậm chí buộc phải công khai tự phê bình vế kiến nghị "mở rộng một cách không phù hợp vai trò của lợi nhuận"2 (Trần Chi Hoa (chủ biên): Liên Xô thời đại Brezhnev, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998, tr.69).


Không ít chính khách và học giả xuất phát từ cá tính và trình độ lý luận của Brezhnev để giải thích nguyên nhân của những vấn đề nảy sinh trong thời kỳ đó.

Có người cho rằng, Brezhnev thời thanh niên không có gì hơn người, trong cuộc Chiến tranh vệ quốc cũng không có chiến công hiển hách, nhưng ông lại được trọng dụng vào giai đoạn cuối thời đại Xtalin, thăng tiến ổn định trong thời đại Khrushchev, đặc biệt đã trở thành lãnh đạo cao nhất của Liên Xô trong "cuộc chính biến cung đình" tháng 10 năm 1964. Điều này có liên quan đến sự bình dị, tính cách ôn hòa, không có dã tâm của Brezhnev. Trong các Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thời đó, Brezhnev bị cho là năng lực tương đối kém, không tạo thành mối uy hiếp đối với ai. Ông cũng nhiều lần "khiêm tốn" nói rằng, bản thân không có tài lãnh đạo, càng không có dã tâm trở thành lãnh tụ. Điều này ngược lại giúp ông thoát cơn hoạn nạn trong cuộc đấu tranh chính trị nguy hiểm. Sau khi Khrushchev mất chức, Suslov và Shelepin, để tránh việc cả hai đều chịu tổn thất, đành phải tiến cử Brezhnev làm Tổng Bí thư, bởi ông là "nhân vật mà mọi người đều có thể chấp nhận".


Trình độ văn hóa của Brezhnev không cao, lại không thích học hành, đặc biệt không thích đọc các trước tác của chủ nghĩa Mác - Lênin, thiếu ham muốn tìm tòi tri thức. Sau khi trở thành lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô, ông dành rầt nhiều thời gian và sức lực vào việc săn bắn, lái xe cũng như các hoạt động khác. Ông không thích viết. Vô số những báo cáo, bài phát biểu, lời chúc, điện mừng đều là do người khác viết hộ. Volkogonov, Chủ tịch Ủy ban tiếp nhận và bảo quản tư liệu của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và KGB sau khi Liên Xô sụp đổ, từng nói: "Ngoại trừ (ở một mức độ nhất định) Lênin và Xtalin ra, các nhân vật lãnh tụ sau này trên thực tế không tự viết gì hết. Tôi từng thấy số lượng lớn văn kiện tại các kho tư liệu, những văn kiện này dường như thuộc về Khrushchev, Brezhnev và các lãnh tụ khác. Sở dĩ tôi nói là 'dường như', là bởi tất cả họ đều chỉ là 'người tuyên đọc' các báo cáo, bài phát biểu, diễn thuyết viết sẵn, ngoại trừ những bút phê trăm điều như một cũng như một số ghi chép không thông suốt được ghi trên giấy nháp, lịch bàn, sổ tay, họ thực tế không tự viết gì". Brezhnev thậm chí còn không muốn đọc. Tất cả các tài liệu cũng như bài phát biểu và báo cáo mà người khác viết hộ, ông đều để người khác đọc cho nghe. Trong giai đoạn cuối cầm quyền, toàn bộ tài liệu là do người khác đọc thành tiếng để ông nằm nghe trên ghế tựa, có lúc còn ngủ gật1 (Volkogonov: Bảy vị lãnh tụ, Nxb. Thông tin, 1955, t.2, tr.18, 71-72. Chuyển dẫn từ Trương Tiệp: "Bàn từ việc Nga kỷ niệm 100 năm ngày sinh Brezhnev", đăng trên Tầm nhìn Toàn cầu, ngày 8-12-2008).


Đối với những sự việc nảy sinh, Brezhnev là "người bị bệnh dị ứng", "thiếu tính quả quyết và ý chí kiên cường"2 (Arbatov: Nội tình chính trị của Liên Xô: Chứng kiến của người biết chuyện, Sđd, tr.333). Phong cách phát biểu báo cáo của ông trước nay là đều đều, không có cao trào, cũng không có trình độ, vô vị, nhạt nhẽo, kiểu cách nghiêm nghị. Sau hai lần đột quỵ vào năm 1974-1975, ông lại càng thiếu sức sống, tư tưởng lại càng xơ cứng hơn. Aphanasayev, nguyên Tổng Biên tập báo Sự thật, từng nhiều lần tham gia vào công tác khởi thảo các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Theo hồi ức của ông, phương thức, cách viết và thứ tự khởi thảo Báo cáo Đại hội của Trung ương Đảng đều có mẫu: Phần mở đầu luôn luôn là "nguy cơ tổng thể của chủ nghĩa tư bản"...; phần thứ hai là tình hình trong nước, lúc nào cũng là "thành tựu to lớn" và "hạn chế cá biệt"... Ông cũng tiết lộ, khởi thảo văn kiện cho Brezhnev không bao giờ có yêu cầu về "tư tưởng mới", lại càng không bao giờ có "tư tưởng độc đáo". Chỉ cần biết cách đổi hình thức mới cho tư tưởng cũ, tìm được cách biểu đạt mới là coi như có "tính sáng tạo" rồi3 (Aphanasayev: Ghi chép của Tổng biên tập báo "Sự thật'', Sđd, tr.100).


Brezhnev thời trẻ từng làm công nhân, kỹ sư, có kiến thức chuyên môn về nông nghiệp và luyện kim. Nhưng ông không có hứng thú với lý luận, lại càng thiếu sự hiểu biết một cách hệ thống về chủ nghĩa Mác. Năm 1965, khi đã trở thành người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xò, trong buổi thảo luận về dự thảo thứ nhất báo cáo kỷ niệm 20 năm chiến thắng cuộc Chiến tranh vệ quốc, ông nói: "Rất khó để tôi hiểu rõ tất cả những điều này. Nói thật, tôi không làm về lĩnh vực này (tức lĩnh vực lý luận - chú giải của người dẫn). Thế mạnh của tôi là làm công tác tổ chức và tìm hiểu tâm lý của mọi người"1 (Chuyển dẫn từ C. Cheyenov: Brezhnev, lãnh đạo thời đại hoàng kim, bản tiếng Nga, 2002, tr.123; xem thêm Trương Tiệp: "Bàn từ việc Nga kỷ niệm 100 năm ngày sinh Brezhnev", Tlđd). Ông cũng từng nói với các trợ lý của mình: "Viết đơn giản một chút, đừng viết như thể tôi là một nhà lý luận, nếu không thì chẳng ai tin đây là do tôi viết, họ sẽ cười nhạo tôi đây". Ông cũng thường xóa bỏ những đoạn viết phức tạp, đặc sắc, có lúc thậm chí còn yêu cầu xóa bỏ những trích dẫn từ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác và giải thích rằng "có ai mà tin tôi từng đọc các trước tác của Mác"2 (Arbatov: Nội tình chính trị Liên Xô: Chứng kiến của người biết chuyện, Sđd, tr.162). Điều nực cười hơn nữa là vào tháng 11 năm 1977, một người không có trình độ học thức như Brezhnev lại thản nhiên nhận Huy chương vàng Các Mác, giải thưởng cao nhất trong ngành khoa học xã hội do Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô trao tặng, vì những thành tựu đặc biệt sáng tạo trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là trường hợp nực cười, mang tính mỉa mai lịch sử.


Tiền đề để phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác là phải thực sự hiểu thực chất và tinh túy của chủ nghĩa Mác. Brezhnev với trình độ lý luận không cao, không thể nào căn cứ theo lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác để giải thích chính xác và giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của Liên Xô, cũng không thể nhìn nhận cải cách một cách khoa học. Kết quả là không suy nghĩ đến cải cách, đất nước thiếu sức sống, lỡ mất cơ hội tốt để phát triển hơn nữa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:15:15 am
3. Gorbachev trở thành kẻ theo chủ nghĩa xét lại

Ngày 10 tháng 3 năm 1985, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập họp Bộ Chính trị. Cuộc họp lần này nhằm quyết định nhân sự Tổng Bí thư để ngày hôm sau giới thiệu ra Hội nghị Trung ương bất thường. Ponomarev phát biểu tại cuộc họp: "Thời gian gần đây, chúng ta đã làm rất nhiều công việc để sửa lại Cương lĩnh của Đảng. Bởi vậy, tôi tin tưởng sâu sắc rằng, đồng chí ấy (chỉ Gorbachev) nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin biết phân tích rõ ràng những vấn đề mang tính cương lĩnh phức tạp nhất"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđd, t.1, tr.311). Lịch sử sau này đã chứng minh, đánh giá trên đi ngược lại với thực tế.


Xét về lực, Gorbachev được đào tạo tốt, trong thời gian học đại học được đào tạo tương đối hệ thống về chủ nghĩa Mác. Sau khi tốt nghiệp, ông có thời gian dài làm công tác Đảng, có kinh nghiệm phong phú. Sau khi trở thành Tổng Bí thư, ông cũng không quên thể hiện "tái lý luận" của mình, có thể bỏ lại các công việc quan trọng khác để tập trung vào viết sách. Chính vị Tổng Bí thư trẻ tuổi được Gromyko đánh giá là "tri thức uyên bác", "tư duy mẫn tiệp, sâu sắc" này, do thế giới quan của ông thay đổi, dần dần từ bỏ niềm tin với chủ nghĩa Mác - Lênin, cuối cùng đã hướng sang chủ nghĩa dân chủ xã hội, từ đó trở thành kẻ phản nghịch của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.


Roy Medvedev, người từng bị khai trừ đảng tịch vì viết cuốn Để lịch sử phán xét, sau này được khôi phục dưới thời Gorbachev, 10 năm sau khi Liên Xô tan rã, đã có đánh giá về Gorbachev hoàn toàn khác với Ponomarev: "Gorbachev không phải là nhà tư tưởng", "những quan điểm của ông về nhiều vấn đề lý luận chủ nghĩa xã hội cũng là biết nửa vời". Sự nắm bắt của ông về lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là "trì trệ không tiến bộ", "chưa từng nghĩ đến nó sẽ lại tỏa sáng". "Những lý luận khoa học của ông về các lĩnh vực khác như khoa học kinh tế, khoa học chính trị, xã hội học và xây dựng quốc gia đều chỉ là biết lớt phớt". "Gorbachev tuy đưa ra khẩu hiệu và yêu cầu 'tư duy mới', nhưng ông không hề sáng tạo ra bất kỳ tư tưởng mới nào"1 (Roy Medvedev: Năm cuối cùng của Liên Xô, Sđd, tr.258-259). Quan điểm này của Medvedev dù ít nhiều có chút "dự báo vuốt đuôi", nhưng phần nào cũng phản ánh được sự thực.


Tháng 11 năm 1987, sau chưa đầy hai năm rưỡi nhậm chức Tổng Bí thư, Gorbachev nhận lời của chủ một nhà xuất bản Mỹ, xuất bản cuốn sách Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới do ông viết. Ông đã trình bày trong sách một cách hệ thống quan điểm cải tổ của mình. Cùng với việc triển khai cải tổ và sự thay đổi của tình hình, ông lại cho đăng các bài viết "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi mang tính cách mạng" và "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội" vào tháng 3 năm 1990, đã hoàn thiện hơn lý luận "tư duy mới" cải tổ của ông, làm mục tiêu và phương hướng của cải tổ càng rõ hơn nữa. Nội dung khái quát của cả hai bài viết này là cần thực hiện "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" tại Liên Xô. Tháng 7 năm 1990, Đại hội XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô đã thông qua Cương lĩnh hành động "Hướng đến chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" do Gorbachev chủ trì.


Nền tảng quan trọng hàng đầu của "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" là chủ nghĩa nhân đạo. Gorbachev một mặt xuất phát từ quan điểm nhân tính trừu tượng, coi đây là công cụ phân tích, cho rằng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô không phù hợp với nhân tính, thậm chí là chà đạp nhân tính. Ông cho rằng, chủ nghĩa Xtalin theo kiểu tập quyền đã vì chủ nghĩa tập thể hư cấu mà coi nhẹ cá tính của con người, cản trở sự phát triển của cá tính, "đã cắt gọt đi bản chất nhân đạo của câu trúc chủ nghĩa xã hội"1 (Gorbachev: "Tư tường xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi mang tính cách mạng", Báo Sự thật, ngày 26-11-1989. Xem thêm "Tuyển dịch các vấn đề của Liên Xô và Đông Âu", số 1 năm 1990, tr.30). Mục đích cuối cùng của cải tổ là thực hiện "giá trị nhân đạo trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị cũng như văn hóa" của chủ nghĩa xã hội, "thể hiện đầy đủ nhất tính chất nhân đạo chủ nghĩa trong chế độ của chúng ta"2 ("Báo cáo tại Hội nghị chào mừng 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga", xem thêm Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Tuyển tập tham luận về chủ nghĩa xã hội, Nxb. Bắc Kinh, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1998, t.2, tr.858).


Mặt khác, ông gắn chủ nghĩa nhân đạo với bản chất của chủ nghĩa xã hội, coi đây là mục tiêu phấn đấu của người cộng sản. Ông đã hoàn toàn tiếp nhận quan điểm của chủ nghĩa xã hội nhân đạo của Khrushchev, nêu lại khẩu hiệu "tất cả vi con người, vì hạnh phúc của con người". Ông cho rằng, đây không chỉ là nguyên tắc mang tính cương lĩnh của Đảng, mà còn là "cốt lõi của tư tưởng xã hội chủ nghĩa là con người", "diện mạo mới của chủ nghĩa xã hội chính là diện mạo của con người xã hội chủ nghĩa". Ông nói, quan điểm "phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện phát triển tự do của mọi người" mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu ra là cương lĩnh của chủ nghĩa nhân đạo, đã thể hiện được nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo vĩ đại. Ông còn nói, bản thân Mác cho rằng, "xã hội trong tương lai chính là chủ nghĩa nhân đạo được thực hiện một cách thực sự, thiết thực"1 (Gorbachev: "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi mang tính cách mạng", Tlđd. Xem thêm "Tuyên dịch các vấn đề của Liên Xô và Đông Âu", số 1 năm 1990, trang 25, 32). Lôgích này của Gorbachev đã trở thành cái gốc cho những phần tử tự do hóa tư sản các nước trên thế giới từ thập niên 1980 đến nay.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:15:55 am
Có nhiều cách giải thích về chủ nghĩa nhân đạo. Những nghiên cứu của các chuyên gia, học giả liên quan sau này cho thấy: có chủ nghĩa nhân đạo là nguyên tắc luân lý và mô phạm đạo đức của nhân loại, có chủ nghĩa nhân đạo là thế giới quan, lịch sử quan. Chủ nghĩa Mác xưa nay chưa từng phủ nhận chủ nghĩa nhân đạo là nguyên tắc luân lý và mô phạm đạo đức của nhân loại, mà còn khẳng định vai trò của nó trong việc thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển. Người cộng sản cũng chủ trương chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nhưng, việc coi chủ nghĩa nhân đạo là một kiểu thế giới quan, lịch sử quan nhằm giải thích xã hội loài người và lịch sử xã hội loài người lại rơi vào quan điểm lịch sử duy tâm. Bởi vì, chủ nghĩa nhân đạo là một ngọn cờ mà giai cấp tư sản phản đối nền chuyên chế phong kiến và chế độ đẳng cấp, tuy có ý nghĩa tiến bộ lịch sử của nó, nhưng con người và nhân tính mà giai cấp tư sản nói đến là con người và nhân tính trừu tượng, là điều tự nhiên và vĩnh hằng không có thuộc tính giai cấp, là tiêu chuẩn và thước đo tất cả mọi điều bao gồm cả lịch sử nhân loại. Những điều đó lại không hề xuất phát từ sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa nền tảng kinh tế và thượng tầng kiến trúc để nhận thức về xã hội loài người và sự tiến bộ của xã hội loài người, mà coi động lực của phát triển lịch sử và tiến bộ xã hội là bởi thiên tính lương thiện hoặc lý tính của nhân loại. Gorbachev không hề nhìn nhận chủ nghĩa nhân đạo tư bản chủ nghĩa một cách biện chứng và lịch sử, mà đã thoát li điều kiện lịch sử cụ thể, thoát li quan hệ lịch sử đặc thù, mở rộng chủ nghĩa nhân đạo sang lĩnh vực lịch sử và chính trị, sử dụng chủ nghĩa nhân đạo để phân tích những vấn đề trong thực tiễn chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, coi đây là yêu cầu bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và nhiệm vụ của cải tổ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu phấn đấu của người cộng sản. Điều này về căn bản đã đi ngược lại quan điểm duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác, cũng như nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.


Đại sứ Mỹ cuối cùng tại Liên Xô Matlock từng nhìn nhận một cách sắc sảo: "Lý luận đấu tranh giai cấp là quan điểm diễn biến về kết cấu nhà nước của những người theo chủ nghĩa Lênin và là khái niệm trung tâm làm căn cứ cho cuộc chiến tranh lạnh với phương Tầy", "tôi để ý thấy nhiều dấu hiệu dần dần xét lại hoặc vứt bỏ lý luận này (chỉ thời kỳ Gorbachev - chú giải của người dẫn)". Với tầm nhìn xa, ông còn chỉ ra: "Nếu như lãnh đạo Liên Xô thực sự muốn từ bỏ quan niệm này (chỉ lý luận đấu tranh giai cấp - chú giải của người dẫn), thì họ có tiếp tục gọi tư tưởng chỉ đạo của mình là 'chủ nghĩa Mác' nữa hay không cũng không còn quan trọng. Đây là 'chủ nghĩa Mác' ở dạng khác áp dụng trong một xã hội dạng khác rồi"1 (Xem thêm Little Jack, F. Matlock: Ghi chép trải nghiệm bản thân về sự giát thể của Liên Xô, Sđd, tr.162, 164,169). Cái xã hội mà phương Tây công nhận tự khắc không còn là xã hội xã hội chủ nghĩa nữa.


Thuyết tha hóa lại là một cơ sở lý luận của "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Tha hóa lao động là quan điểm mà từ đầu Mác đã nêu ra nhằm vào những tiêu cực của chế độ thuê dùng lao động của chủ nghĩa tư bản, với ý chỉ thành quả mà người công nhân sáng tạo ra lại trở thành sức mạnh áp bức chính họ. Bởi vì, kết quả của lao động chỉ có thể khiến nhà tư bản phát tài, nhưng lại khiến bản thân người công nhân chịu nghèo khổ. Gorbachev vận dụng quan điểm tha hóa mà Mác phê phán chủ nghĩa tư bản vào xã hội xã hội chủ nghĩa, phê phán chủ nghĩa xã hội trong sự phát triển của bản thân nó, do những hoạt động của bản thân chủ thể xã hội, không ngừng hình thành sức mạnh tha hóa, cho rằng "chủ nghĩa xã hội toàn trị" của Liên Xô đã dân đến "sự tha hóa giữa con người với chính trị, chính quyền, giữa con người với tư liệu sản xuất, tài sản, giữa con người với văn hóa". Gorbachev cho rằng, sự lãnh đạo về chính trị của Đảng Cộng sản có nghĩa là sự "chiếm đoạt chính quyền" của Đảng Cộng sản, tạo ra sự lũng đoạn về chính trị, hình thành nên sự tha hóa giữa con người với chính trị, chính quyền, về kinh tế, chế độ công hữu chiếm vị trí thống lĩnh, đã loại trừ sự lựa chọn của mọi người về chế độ sở hữu, tạo ra sự lũng đoạn kinh tế, hình thành nên sự tha hóa giữa con người với tư liệu sản xuất, tài sản. Về tư tưởng, chủ nghĩa Mác ở địa vị chỉ đạo, đã cản trở "việc tiếp nhận tất cả các tư tưởng tiến bộ trên thế giới", tạo ra sự lũng đoạn về tinh thần, hình thành nên sự tha hóa giữa con người với văn hóa. Tất cả những điều then chốt này là do sự lũng đoạn của Đảng Cộng sản với mọi thứ quyền lực, đây là căn nguyên sản sinh ra tha hóa. Thuyết giáo này của Gorbachev cho đến nay cũng đã trở thành lôgích chung cho tất cả các thế lực thù địch lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa.


Bởi vậy, để khắc phục tha hóa cần phải loại trừ sự lũng đoạn trên các lĩnh vực, đặc biệt là sự lũng đoạn của Đảng Cộng sản, cải tạo về căn bản toàn bộ tòa tháp xã hội của chúng ta: từ nền tảng kinh tế  đến thượng tầng kiến trúc. Điều đó cũng có nghĩa là phải từ bỏ triệt để chủ nghĩa xã hội sản sinh ra tha hóa, thay vào đó là "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo".


Nhìn nhận chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là căn nguyên sản sinh ra hiện tượng tha hóa, về lý luận là không đứng vững. Lý do là bởi sự xác lập chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội đã loại trừ nền tảng xã hội của sự tha hóa vốn chỉ được hình thành trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản. Việc xây dựng chế độ công hữu đã xác lập nền tảng kinh tế tất yếu để loại trừ sự tha hóa giữa con người với tư liệu sản xuất. Nền chuyên chính vô sản, với cơ sở là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và liên minh công nông, đã xác lập tiền đề chính trị cơ bản để bảo đảm về chính trị việc đông đảo người dân lao động có quyền làm chủ, tránh sự tha hóa giữa quần chúng nhân dân với chính quyền, chính trị. Để thực hiện tất cả những điều này thì không thể xa rời thế giới quan của giai cấp vô sản - sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể bảo đảm tự do tư tưởng của đông đảo người dân, mới có thể học tập thành quả tích cực của các tư tưởng khác, cũng mới có thể ngăn chặn sự tha hóa khiến quần chúng nhân dân không thể sáng tạo và phát triển văn hóa của mình. Hiển nhiên, Gorbachev đã không nhìn thấy sự khác biệt về căn bản giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với chế độ tư bản chủ nghĩa, áp dụng một cách cứng nhắc quan điểm tha hóa không thành thục mà Mác nêu ra vào giai đoạn đầu do chịu ảnh hưởng của Feuerbach, để phân tích các vấn đề và tệ nạn của xã hội xã hội chủ nghĩa, rồi cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa Liên Xô tồn tại tha hóa toàn diện. Điều này đã xa rời lý luận và phương pháp về quan điểm lịch sử duy vật, không nhìn thấy rằng quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa còn thích ứng tổng thể với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của cơ sở kinh tế. Điều này tất nhiên không thể nào đưa ra được kết luận khoa học, mà chỉ có thể dẫn đến quan điểm lịch sử duy tâm, dẫn đến mặt trái của chủ nghĩa xã hội khoa học.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:16:41 am
Cổ xuý cho thuyết đa nguyên, đề xuất dân chủ đa nguyên lại là một mệnh đề lý luận nữa do Gorbachev đưa ra. Gorbachev cho rằng, chủ nghĩa xã hội trong thực tế vốn không nhân đạo, tồn tại hiện tượng tha hóa, căn nguyên của vấn đề nằm ở tính toàn trị của chủ nghĩa xã hội Liên Xô, sự lũng đoạn quyền lực của Đảng Cộng sản đối với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, xã hội của chủ nghĩa xã hội, vậy thì lối ra căn bản đê khắc phục tha hóa, loại trừ lũng đoạn chính là thực hiện dân chủ đa nguyên. "Dân chủ" là mệnh đề quan trọng tương đương với "nhân đạo". Ông còn xuất phát từ thuyết nhân tính trừu tượng, luận chứng về tính hợp lý của dân chủ đa nguyên. Ông cho rằng, bản tính của con người là độc lập, tự do, là không chịu ràng buộc của bất kỳ mối quan hệ nào. Xã hội lý tưởng nên là xã hội phù hợp với loại nhân tính này. Bởi vậy, ông chủ trương thực hiện "đa nguyên hóa chính trị", tiến hành chế độ đa đảng và dân chủ nghị viện tư bản chủ nghĩa, kết thúc sự lũng đoạn của Đảng Cộng sản với chính quyền, đồng thời thực hiện "đa nguyên hóa ý thức hệ", xóa bỏ vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, cho phép các loại tư tưởng tồn tại và phát triển tự do, khiến chế độ văn hóa có thể phản ánh các ý kiến và chủ trương khác nhau của các nhóm xã hội.


Gorbachev viện lý do tính đa dạng của các lợi ích cụ thể mà phủ nhận tính thống nhất của lợi ích căn bản, từ đó nêu ra việc phải chấm dứt quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ định vai trò lãnh đạo của chủ nghĩa Mác. Đây là sai lầm căn bản. Nên nhìn nhận xã hội xã hội chủ nghĩa mặc dù còn tồn tại sự khác biệt và mâu thuẫn lợi ích, nhưng toàn thể người dân đều có lợi ích chung, lợi ích căn bản. Sự khác biệt và mâu thuẫn lợi ích giữa các cá nhân, cá thể là sự khác biệt và mâu thuẫn lợi ích được xây dựng trên cơ sở thống nhất lợi ích căn bản. Tiền đề của việc thỏa mãn nhu cầu lợi ích của các cá nhân và cá thể là phải bảo đảm lợi ích căn bản và lợi ích lâu dài của số đông nhân dân. Kiên trì lợi ích căn bản của số đông nhân dân là nhằm thực hiện tốt hơn nữa lợi ích của cá nhân và cá thể, không tồn tại mâu thuẫn giữa hai điều này. Phải thống nhất việc thỏa mãn lợi ích của cá nhân và cá thể với việc kiên trì lợi ích căn bản của số đông nhân dân. Để làm được điều này, phải kiên trì chủ nghĩa xã hội, kiên trì người dân làm chủ, kiên trì lấy chủ nghĩa Mác làm chỉ đạo. Xuất phát từ tính đa dạng của nhu cầu lợi ích trừu tượng, hiển nhiên không thể kết luận rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa phải thực hiện dân chủ đa nguyên.


Chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo không phải là phát minh cá nhân của Gorbachev, càng không phải là lý luận gì mới. Nguồn gốc của lý luận này là chủ nghĩa Bernstein mà Ăngghen và Lênin đã mạnh mẽ phê phán từ lâu, là biểu hiện của chủ nghĩa dân chủ xã hội Quốc tế II trong điều kiện lịch sử mới, có cùng một mạch với luồng tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu.


Gorbachev không hề e ngại gì về điều này. Trong bài viết "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội" đăng vào tháng 3 năm 1990, ông cho rằng: "Giữa những người Xã hội và những người Cộng sản đã không còn tồn tại hố sâu chia rẽ như trước", "lập trường chính trị" "trên cơ sở quan điểm giá trị nhân đạo và dân chủ" và "lập trường thế giới quan đều gần gũi với nhau hơn", còn trong "chủ nghĩa xã hội thực sự" mà cải tổ phải thực hiện "bao gồm cả quan điểm giá trị cơ bản vốn được các phái khác của cuộc vận động xã hội chủ nghĩa tán đồng". Thậm chí, ông còn cho rằng: "Cách mạng Nga năm 1917 là sự đáp lại đối với tự do, bình đẳng, bác ái mà cuộc Đại cách mạng Pháp mưu cầu, đồng thời cũng là sự thử nghiệm mạnh dạn để thực hiện trên thực tế những lý tưởng cao cả đó"1 (Gorbachev: "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội", Tlđd; xem thêm Viện Nghiên cứu phát triển và hợp tác quốc tế Cục Biên dịch Trung ương (biên dịch): Chủ nghĩa xã hội trong tương lai, Nxb. Biên dịch Trung ương, 1994, tr.10, 13, 20). Sau khi Liên Xô giải thể, Gorbachev càng nói thẳng thắn hơn: "Trong mấy năm cải cách ấy, chúng tôi chính là muốn biến Đảng Cộng sản Liên Xô thành Đảng Dân chủ xã hội. Khi đó đã khởi thảo kế hoạch tương ứng dự định triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ XXIX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhưng cuộc đảo chính cũng như chính sách cấm các hoạt động trên thực tế của Đảng Cộng sản Liên Xô của Yeltsin đã khiến kỳ đại hội không thể tiến hành"2 (Gorbachev, Slaven: Lịch sử chưa kết thúc: Ghi chép trao đổi của Gorbachev, Nxb. Biên dịch Trung ương, 2003, tr.157).


Điều mỉa mai là vào năm 1989, chính khách Mỹ Brzezinski đã chỉ ra thực chất cuộc cải tổ của Gorbachev. Ông nói: "Trong quá trình cải tổ, Gorbachev đã dần đi vào con đường của chủ nghĩa xét lại... Ông không chỉ muốn cải tổ kết cấu kinh tế của Liên Xô, mà còn muốn sửa đổi nền tảng tư tưởng của chế độ Liên Xô, thậm chí ở mức độ nhất định còn thay đổi trình tự chính trị của Liên Xô". Ông còn chỉ ra rằng: "Ảnh hưởng của việc xuất hiện một vị Tổng Bí thư theo chủ nghĩa xét lại trong Điện Kremlin là vô cùng lớn", "mối nguy hiểm đặc biệt nghiêm trọng nằm ở việc làm tan rã lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của cộng đồng chủ nghĩa cộng sản thế giới". Đảng Cộng sản Liên Xô sẽ có ngày "mất đi sự kiểm soát lũng đoạn với xã hội", "Liên bang Xôviết có thể tan rã bất kỳ lúc nào"1 (Zbigniew Brzezinski: Đại thất bại, hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, Nxb. Khoa học quân sự, 1989, tr.65-66, 76-77). Brzezinski khi đó phê phán Gorbachev rõ ràng là có ý đồ khác, nhưng khả năng quan sát nhạy bén của chính khách tư sản này lại khiến một số người tự cho là "nhà mácxít" phải hổ thẹn.


Năm 1915, trong bài viết "Sự phá sản của Quốc tế II", Lênin đã phân tích sâu sắc về nguyên nhân hình thành chủ nghĩa cơ hội mà Kautsky là đại diện. Người nói: "Chủ nghĩa cơ hội không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, không phải là tội lỗi, sai lầm và sự phản bội của cá biệt một ai, mà là sản phẩm xã hội của cả một thời đại lịch sử"2 (Lênin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.494). Cũng tương tự, chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo cũng tràn lan trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và nhanh chóng trở thành tư tưởng chỉ đạo của cải tổ, tuyệt đối không phải là điều ngẫu nhiên.


Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trào lưu tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ phát triển tràn lan trên quốc tế. Khrushchev phủ định hoàn toàn Xtalin và một số quan điểm sai lầm của ông, đã dựng lên căn cứ lý luận của đường lối "'chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Tháng 3 năm 2001, Gorbachev khi trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Mayak đã nói thẳng: Chúng tôi là những đứa con của Đại hội XX, lịch sử những năm 1960 của Liên Xô có ảnh hưởng rất lớn đến chúng tôi, chúng tôi thời trẻ vào Đảng với sự tin tưởng và trung thành, nhưng sau Đại hội XX, tư tưởng của chúng tôi bắt đầu thay đổi.


Tháng 12 năm 2003, học giả Nga Barakilov trong một buổi tọa đàm đã chỉ ra rằng: nếu như nói Khrushchev là "người cha cải tổ" của Liên Xô, kỳ thực là "người cha cải tổ" của Gorbachev; Gorbachev trong quá trình cải tổ không chỉ học từ Khrushchev mà còn làm hơn thế nữa. Ông còn nói: Khrushchev phê phán Xtalin, nhưng Gorbachev không chỉ phê phán Xtalin mà còn nguyền rủa Đảng Cộng sản Liên Xô, phủ định lịch sử Liên Xô, thậm chí còn tính sổ cả Lênin; Khrushchev phê phán người khác mê tín cá nhân, thực hiện sùng bái cá nhân, Gorbachev không chỉ như vậy, mà còn loại bỏ tất cả những người phản đối mình, đến giai đoạn cuối ông thậm chí còn gạt Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô sang một bên, xây dựng thể chế Tổng thống, với ý đồ một tay che lấp bầu trời, nắm trọn quyền lực quốc gia1 (Đoàn Khởi Tăng: "Nhận thức lại của học giả Nga về mấy vấn đề lịch sử - Tùy bút thăm Nga", Lịch sử thế giới, số 5-2004, tr.137).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:18:28 am
III. TÀI NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CÁC LÃNH TỤ ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Lãnh tụ của các chính đảng giai cấp vô sản không những phải có niềm tin kiên định vào chủ nghĩa Mác, có trình độ lý luận để vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác, mà còn phải có tài năng tổ chức thực tiễn siêu việt, tức năng lực lãnh đạo. Nắm vững sứ mệnh tổ chức cũng như năng lực động viên mọi người phấn đấu vì sứ mệnh đó, tức là năng lực lãnh đạo. Cựu ngoại trưởng Mỹ Kissinger từng nói một cách hình tượng rằng: lãnh đạo là phải khiến người của mình, xuất phát từ nơi họ đang đứng, dẫn dắt họ đi đến nơi chưa từng đến2 (Xem thêm Long Đông Phi (biên soạn): Quản lý kiểu Deming và thực tiễn doanh nghiệp, Nxb. Công nghiệp máy móc, 2004, tr.1-2). Tức là người lãnh đạo phải biết cách chuyển hóa lý tưởng thành hiện thực một cách sáng tạo.


Lãnh tụ có sứ mệnh đặc biệt khác với người lãnh đạo thông thường, đòi hỏi họ phải có năng lực lãnh đạo vượt trội hơn người. "Sự khác biệt giữa người lãnh đạo thiên tài và những kẻ bình thường không phải ở chỗ người ấy nói như thế nào và nói gì, mà phải xem người ấy thực hiện lời nói của mình như thế nào. Để có thể đạt được mục tiêu đặt ra, để được người dân ghi nhớ trong lòng, chỉ có thể là nhà tổ chức vĩ đại, chứ không phải là những nhà diễn thuyết"1 (Valery Boldin: Lịch sử thăng trầm của Gorbachev, Sđd, tr.290). Khả năng quan sát siêu phàm và tầm nhìn xa lịch sử, năng lực chỉ huy quyết sách sáng suốt, năng lực động viên tổ chức vô cùng hiệu quả, là những tài năng mà lãnh tụ siêu phàm cần phải có. Sự hình thành và phát huy những tài năng này luôn có liên quan mật thiết với phẩm chất và cá tính của lãnh tụ.

1. Lênin và Xtalin - hai lãnh tụ với tài năng lãnh đạo siêu phàm

Xtalin từng chỉ ra rằng, trong lịch sử từng xuất hiện các kiểu lãnh tụ. Trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cũng từng xuất hiện những lãnh tụ thế này hoặc thế kia, nhưng Lênin vừa không giống với các "lãnh tụ thời kỳ sóng gió" có tinh thần hy sinh và lòng dũng cảm nhưng yếu về lý luận, cũng không giống với các "lãnh tụ thời bình" mạnh về lý luận nhưng yếu về công tác tổ chức và thực tế. Người "có cả sức mạnh lý luận lẫn kinh nghiệm tổ chức thực tế trong các phong trào vô sản", "Lênin, và cũng chỉ có Lênin, mới là lãnh tụ chính đảng giai cấp vô sản mạnh mẽ nhất, dạn dày nhất trên thế giới hiện nay"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, t.1, tr.136).


Lênin giỏi trong việc biến chính sách của Đảng thành hành động của quần chúng. Người giỏi trong việc khiến cho không chỉ cán bộ lãnh đạo hiểu, mà cả đông đảo quần chúng đều hiểu và nắm được mỗi cuộc vận động, mỗi cuộc đấu tranh. Đây là một nghệ thuật lãnh đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lênin hiểu sâu sắc rằng, "một khi đã nắm vững quần chúng về tư tưởng, thì có thể chuyển biến thành sức mạnh". Người nói: "Nêu chỉ là chính nghĩa., chỉ là sự căm phẫn của quần chúng với bóc lột, thì vĩnh viễn không thể dẫn dắt họ đến với con đường đúng đắn của chủ nghĩa xã hội"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.2, tr.324). Bởi vậy, quần chúng phải hiểu về chủ nghĩa Mác, tiếp nhận sự giáo dục của chủ nghĩa Mác.


Để dẫn dắt quần chúng tiến về phía trước theo phương hướng của cách mạng, Lênin một mặt học tập một cách hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác, nắm vững một cách đầy đủ, thực chất tinh thần chủ nghĩa Mác và vận dụng học thuyết này vào toàn bộ thực tiễn cách mạng của mình; mặt khác, Người rất coi trọng việc sử dụng lý luận khoa học để vũ trang cho đảng viên và quần chúng, rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, tích cực tuyên truyền cho cán bộ của Đảng và đông đảo quần chúng về chủ nghĩa Mác, làm cho Đảng và quần chúng duy trì sự liên hệ mật thiết, thường xuyên, làm cho chính sách của Đảng kịp thời chuyến hóa thành hành động của quần chúng.


Năm 1903, tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, phái Mensêvích đã bất chấp tình hình lịch sử của nước Nga, rập khuôn cách làm của phương Tây, chủ trương Đảng "được hình thành từ các công đoàn không đảng phái, đấu tranh để cải thiện tình trạng kinh tế của giai cấp công nhân". Trên thực tế là nhằm xây dựng một đảng theo chủ nghĩa cải lương của giai cấp tư sản, chỉ tiến hành đấu tranh kinh tế, không nhằm đấu tranh chính trị, không giành chính quyền. Để loại bỏ sức ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội Mensêvích trong nội bộ Đảng và quần chúng, xác lập đường lối xây dựng đảng theo chủ nghĩa Mác, Lênin đã tích cực tuyên truyền đến quần chúng nguyên tắc tổ chức, đường lối tổ chức và cương lĩnh của Đảng, tổ chức các cán bộ kiên định của Đảng thành "đội quân chính quy" của giai cấp công nhân. Trong các tác phẩm nổi tiếng như "Bắt đầu từ đâu?", "hầm gì?", "Một bước tiến, hai bước lùi", Lênin từng nhấn mạnh: Đảng là đội tiên tiến của giai cấp công nhân; Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân; Đảng phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng; nguyên tắc tổ chức của Đảng là chế độ tập trung dân chủ; Đảng phải có kỷ luật nghiêm khắc. Lênin từng chỉ rõ, Đảng phải thực hiện mục đích của bản thân, vừa phải có sách lược kiên định, vừa phải có nghệ thuật đấu tranh linh hoạt khéo léo; vừa phải vô cùng bí mật, vừa phải xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, để lãnh đạo quần chúng tiến hành chiến đấu thắng lợi. Chính bỏd thông qua các công việc đi sâu vào chi tiết, Đảng Bônsêvích mới có thể giành được sự ủng hộ của đông đảo cán bộ và quần chúng, mới có thế có được "mười ngày rung chuyển thế giới" vào tháng 10 năm 1917 tại Saint Peterburg, với tuyên bố lịch sử: thế giới đã bước vào kỷ nguyên mới.


Khả năng nhìn nhận nhạy bén, dự báo khoa học cũng là những tố chất mà người lãnh đạo ưu tú cần có. Xtalin từng nói: "Nếu muốn lãnh đạo thì cần phải có tầm nhìn dự báo"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, q.2, tr.12). Không có tầm nhìn dự báo thì không thể lãnh đạo, cũng có nghĩa là không có mọi thứ. Mao Trạch Đông từng nói: "Gọi là tầm nhìn dự báo, không phải để chỉ một sự vật gì đã xuất hiện phổ biến, với số lượng lớn trên thế giới này, xuất hiện trước mắt, lúc đây mới dự báo; mà thường yêu cầu phải nhìn xa hơn, tức là khi chỉ mới manh nha tại đường chân trời, xuất hiện chút đỉnh, với lượng nhỏ và chưa phổ biến, thì đã có thể nhìn thấy, có thể nhận biết được ý nghĩa phổ biến của nó trong tương lai"2 (Văn tuyển Mao Trạch Đông, Nxb. Nhân dân,1996,1.3, tr.395).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:19:28 am
Lênin có khả năng dự báo lịch sử siêu phàm, đặc biệt là vào những thời khắc lịch sử trọng đại. "Trong những thời khắc chuyển biến của cách mạng, Người thực sự đã tỏa sáng tài hoa, quan sát hết mọi điều, dự báo được hành động của các giai cấp và những trắc trở có thể xảy ra của tiến trình cách mạng. Người quả thực là nắm vững như lòng bàn tay những điều này"3 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, q.1, tr.181). Lênin không chỉ có vũ khí là lý luận khoa học, mà còn có sự nhận định và dự báo sâu sắc với quy luật và xu hướng phát triển của lịch sử. Năm 1917, sau Cách mạng Tháng Hai, nước Nga xuất hiện tình trạng hai chính quyền tồn tại song song: một là chính quyền Xôviết đại diện cho công nhân, binh sĩ; một là chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản. Khi đó, liên quan đến việc nhìn nhận như thế nào về chính phủ lâm thời trong nội bộ đảng Bônsêvích có sự chia rẽ sâu sắc. Lênin đã chỉ rõ, cách mạng nước Nga không thể dừng ở giai đoạn cách mạng dân chủ, mà phải chuyển từ cách mạng dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong Luận cương tháng Tư nổi tiếng, ông đưa ra quyết sách chiến lược chuyển cách mạng dân chủ thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng ban đầu, đại đa số lãnh đạo trong Đảng không hiểu ý đồ chiến lược của Lênin. Khi Ban Chấp hành Đảng Bônsêvích tại Saint Peterburg thảo luận về Đề cương của Lênin, chỉ có 2 người bỏ phiếu tán thành, 13 người bỏ phiếu phản đối, vì vậy đã phủ quyết Luận cương này1 (Xem thêm Trần Chi Hoa (chủ biên): Đề cương lịch sử Liên Xô (1917- 1937), Sđd, t.1, tr.9). Molotov sau này nhớ lại: Tôi chưa bao giờ phản đối Lênin, nhưng dù là tôi hay bất kỳ một ai trong số những người luôn song hành cùng Lênin, đều có thể lập tức hiểu rõ lời của ông. Toàn bộ Đảng Bônsêvích đều đang thảo luận về cách mạng dân chủ, nhưng ông lại nói về cách mạng xã hội chủ nghĩa! Lênin với sự kiên nhẫn và sự nhiệt tình vô cùng lớn lao, đã giải thích cặn kẽ và toàn diện căn cứ khách quan với ý nghĩa to lớn trong tư tưởng chiến lược của mình, đã phản bác quan điểm sai lầm của những người phản đối, cuối cùng đã khiến những đồng chí nhất thời không hiểu ấy thay đổi thái độ. Điều này đã phản ánh đầy đủ tài năng lãnh đạo siêu việt của Lênin.


Xtalin là một vị lãnh đạo kiệt xuất trong lịch sử Liên Xô sau khi Lênin qua đời. Ông đã lãnh đạo công cuộc công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp của Liên Xô, bước đầu xây dựng được chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Sau đó, ông còn lãnh đạo quân dân Liên Xô giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc chiến tranh chống phátxít. Tài năng lãnh đạo siêu việt của ông đã nhận được sự tôn trọng và đánh giá cao của đông đảo người dân Liên Xô và nhân dân cách mạng thế giới.


Khrushchev hoài nghi và phủ nhận tài năng lãnh đạo của Xtalin, công kích Xtalin là thiếu tài chỉ huy quân sự, "không có đủ biện pháp" trước hàng loạt dấu hiệu chiến tranh sắp bùng phát, "dựa vào quả địa cầu nhựa để xây dựng kế hoạch tác chiến", thậm chí còn nói rằng "nếu như không có Xtalin, thì chúng ta có thể tiến hành chiến tranh thuận lợi hơn nữa"1 (Khrushchev: Hồi ký Khrushchev (tuyển dịch), Sđd, tr.188, 392, 395).


Nhà văn, nhà lịch sử quân sự nổi tiếng Vladimir Karpov, người từng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đại biểu Xôviết tối cao, trong tác phẩm Đại nguyên soái Xtalin từng vạch trần những chỉ trích này của Khrushchev. Ông chỉ rõ ra rằng, Xtalin không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại của giai cấp vô sản, mà còn là một thống soái quân sự siêu việt.


Ông viết trong sách rằng: Ngay từ giai đoạn đầu của chính quyền Xôviết, Xtalin đã chỉ huy Hồng quân non trẻ chinh chiến trên những miền biên cương trong cuộc nội chiến, đã thể hiện được trí tuệ, sự ngoan cường, kiên quyết và quyết đoán của một nhà lãnh đạo quân sự xuất; sắc trong tình hình phức tạp2 (Vladimir Karpov: Đại nguyên soái xtalin, Sđd, tr.13). Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Xtalin đã đích thân chỉ huy trên tuyến đầu, có những đóng góp không thể phủ nhận trong sự thắng lợi của cuộc chiến. Ông nêu ví dụ trong cuộc chiến bảo vệ Mátxcơva từ tháng 10 năm 1941 đến tháng 4 năm 1942, vào ngày Lễ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1941, trong tình cảnh vô cùng khốn khó khi bên ngoài địch bao vây, Thủ đô bên bờ vực nguy hiểm, Xtalin vẫn kiên trì tổ chức duyệt binh trên Quảng trường đỏ Mátxcơva và làm lễ chúc mừng dưới ga tàu điện ngầm. Hành động vô cùng bất ngờ nhưng chấn động lòng người này là sự miệt thị, thách thức và thị uy đối với kẻ xâm lược tưởng chừng hùng mạnh, đã đoàn kết và cổ vũ vô cùng mạnh mẽ niềm tin và quyết tâm của quân dân Mátxcơva cũng như quân dân cả nước anh dũng chiến đấu chống lại quân Đức. Karpov cho rằng, "hai hoạt động này là sự chứng minh rõ ràng về phẩm chất xuất sắc của Xtalin với vai trò là một chính trị gia và lãnh tụ đoàn kết các dân tộc nhà nước Xô viết"1 (Vladimir Karpov: Đại nguyên soái xtalin, Sđd, tr.378).


Trước việc Khrushchev nói rằng Xtalin không có biện pháp đầy đủ trước chiến tranh, Giáo sư Triết học, Trường Đại học Mátxcơva, Alexander Zinoviev đã phản bác mạnh mẽ. Zinoviev từng tham gia Chiến tranh vệ quốc, cũng từng là một thành viên trong nhóm ám sát Xtalin. Cho đến khi Xtalin qua đời, ông vẫn luôn là một phần tử chống chủ nghĩa Xtalin tích cực. Sau này, suy nghĩ lý trí đã thay đổi căn bản cách nhìn của ông về Xtalin. Năm 2005, ông đã đăng bài viết "Thời đại của tôi - về cuộc chiến Vệ quốc vĩ đại năm 1941-1945", nhân kỷ niệm 60 năm thắng lợi cuộc chiến chống phátxít của Liên Xô.


Trong bài báo, ông viết: "Trong một thời gian dài, đất nước ở trong trạng thái chuẩn bị chiến tranh. Ban lãnh đạo của Xtalin hiếu rất rõ chiến tranh là điều không thể tránh khỏi, mọi người đều hiểu kẻ thủ là ai, đất nước cũng đã tiến hành chuẩn bị về vật chất cho chiến tranh". "Tôi tin rằng, bất kỳ người lãnh đạo nào khác dù ở dưới sự chỉ đạo của chiến lược chính trị - xã hội như thế nào cũng không thể làm được nhiều như Xtalin. Căn cứ theo điều kiện năm đó, những chuẩn bị của Xtalin đã ở mức tốt nhất rồi. Những người phê phán chủ nghĩa Xtalin đều tin tưởng chắc chắn rằng, nếu không có Xtalin và nếu như tiến hành chiến lược khác thì có thể tránh được sự khủng bố và tổn thất năm đó. Nhưng họ chẳng khác gì những kẻ lắm điều vô trách nhiệm, chỉ biết đứng ngoài mà nói".


Zinoviev cũng thừa nhận, sự chuẩn bị chiến tranh về phương diện vật chất, kỹ thuật và quân sự thuần túy, trước thời điểm tháng 6 năm 1941, nhà nước chưa có sự chuẩn bị tốt ở mức độ cần thiết. Nhưng ông đồng thời cũng chỉ ra rằng: "Đây không phải sai lầm của Xtalin, cũng như Ban lãnh đạo của ông. Sự thay đổi, phát triển của sự vật không phụ thuộc vào Xtalin, các nhà chiến lược phương Tây không khờ khạo, nếu như họ đợi đến khi Liên Xô trang bị đầy đủ rồi đánh thì mới kỳ lạ". Ông còn chỉ ra rằng: "Nếu như đất nước có thêm mấy năm nữa (hai, ba năm, không cần nhiều hơn) để chuẩn bị chiến tranh, thì tổn thất sẽ nhỏ hơn nhiều, nhưng việc hoàn toàn tránh được tổn thất to lớn về nguyên tắc là không thể, bởi vì kẻ địch có thực lực lớn mạnh, chúng vừa có kinh nghiệm quân sự, vừa có trình độ tri thức cao. Sĩ khí của quân đội Đức rất cao, có phương hướng rất rõ ràng..."1 (Xem thêm Alexander Zinoviev, "Thời đại của tôi - về cuộc chiến Vệ quốc vĩ đại năm 1941-1945", Tạp chí Tư tưởng tự do, số 5-2005).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 25 Tháng Ba, 2022, 07:20:24 am
Về việc Khrushchev nghe nói từ chỗ Beria rằng "Xtalin trong mấy ngày đầu chiến tranh hoang mang lúng túng, trốn trong biệt thự liền mấy ngày, không màng đến chiến sự", ông Karpov, tác giả cuốn sách Đại nguyên soái Xtalin cho rằng, điều này không đúng với sự thật. Trong sách, ông đã công bố nhật ký tiếp khách của Xtalin do thư ký trực ban phòng tiếp khách ghi lại. Nhật ký liệt kê cụ thể thời gian và họ tên lãnh đạo Đảng, quân đội Liên Xô mà Xtalin tiếp mỗi ngày từ ngày 21 tháng 6 khi chiến tranh nổ ra đến ngày 28 tháng 6 năm 1941. Trong 8 ngày đó, Xtalin tổng cộng đã tiếp 191 lượt người, mỗi ngày ít là 8, 9 người, nhiều là 30 người. Tài liệu này cho thấy, trong những ngày đầu chiến tranh, Xtalin luôn bám trụ trên cương vị của mình2 (Vladimir Karpov: Đại nguyên soái xtalin, Sđd, tr.278-285). Tác giả còn dùng sự thật chính xác để chứng minh rằng, Xtalin không hề trốn đến biệt thự của mình để né tránh chiến sự. Khrushchev chỉ căn cứ vào lời nói một phía của Beria mà quả quyết tuyên bố tại Đại hội kết luận rằng Xtalin sợ địch, rõ ràng là vô cùng không nghiêm túc, cũng vô cùng hoang đường.


Xtalin đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề "đại thanh trừng", điều này là sự thực không thể tranh cãi. Nhưng giống như điều mà bộ sách giáo khoa mới phục vụ cho các giáo viên lịch sử tham khảo do Nga xuất bản gần đây, cuộc "đại thanh trừng" nói cho cùng đã thanh trừng một số người cần phải thanh trừng, trấn áp không hoàn toàn là "lạm sát người vô tội"1 (Xem thêm "Quan điểm mới trong sách tham khảo dạy và học lịch sử phiên bản mới của Nga - Phỏng vấn Nghiên cứu viên Ngô Ân Viễn, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, số 4/2008). Bởi vậy có người cho rằng, cuộc vận động này ở một mức độ nhất định cũng đã phản ánh "tầm nhìn xa đáng kinh ngạc" của Xtalin trên phương diện năng lực lãnh đạo. Karpov trong tác phẩm trên còn dẫn lại ví dụ Nga hoàng Alexander đệ nhất đã lợi dụng thành công "đội quân thứ 5" trong nội bộ Pháp để giành thắng lợi trong chiến tranh chống pháp, để chứng minh việc Xtalin cần thanh trừng các thế lực thù địch trong nước đế làm tốt công tác chuẩn bị phòng ngự trên cả nước. Ông còn dẫn lại lời của cựu Đại sứ Mỹ tại Liên Xô Joseph Davies cho rằng, "đội quân thứ 5" của nước Nga đã bị bắn bỏ trong cuộc "đại thanh trừng", "điều này đã chứng minh Xtalin và những chiến hữu thân cận có tầm nhìn xa đáng kinh ngạc". Davies còn nói, nếu như Xtalin và chiến hữu không loại bỏ những phần tử phản bội, thì sự chống chọi của Liên Xô trong năm 1941 "sẽ không có ý nghĩa gì"2 (Vladimir Karpov: Đại nguyên soái Xtalin, Sđd, tr. 135-136).


Sau khi Lênin qua đời, với tài năng lãnh đạo siêu việt và thành tựu công việc to lớn, Xtalin đã xác lập được địa vị lãnh đạo hạt nhân của mình trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, về lịch sử, đã trở thành người kế tục sự nghiệp của Lênin. Điều này là nhận thức chung trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, bao gồm cả Khrushchev. Trong thời đại Xtalin, chưa có người nào khác có thể thay thế vai trò của Xtalin và địa vị của ông trong nội bộ Đảng.


Năm 1943, Xtalin từng nói, tôi biết sau khi tôi chết sẽ có người chất một đông rác to lên mộ tôi, nhưng ngọn gió của lịch sử nhất định sẽ cuốn những thứ rác rưởi đó đi một cách không thương tiếc! Lịch sử luôn kiểm nghiệm lời dự đoán này. Hơn 50 năm sau khi Xtalin qua đời, bất kể là những người như Khrushchev, hay như Gorbachev sau này dù có phóng đại thị phi, thay trắng đổi đen như thế nào, thậm chí là đặt điều vu khống, nhưng luôn có một số người chính trực, có lương tri, với thái độ có trách nhiệm với lịch sử, không ngừng phanh phui lời nói dối của những kẻ âm mưu, trả lại chân tướng lịch sử vốn đang phủ bụi, chú giải về phong thái lãnh tụ của bậc vĩ nhân một thời.


Ngày 21 tháng 12 năm 1959, cựu Thủ tướng Anh Churchill, người từng hợp tác và cũng từng là đối thủ của Xtalin, nhân dịp 80 năm ngày sinh của Xtalin, đã có bài phát biểu tại Hạ viện, đánh giá về Xtalin với thái độ kính trọng như sau: "Điều vô cùng may mắn với nước Nga đó là người lãnh đạo đất nước trong những năm tháng thách thức khó khăn là Joseph V. Xtalin, vị thống soái thiên tài và giàu lòng kiên nhẫn. Ông là một nhân vật kiệt xuất, giành được sự kính trọng của những người sống trong thời kỳ gian khổ như chúng ta. Xtalin sức khỏe hơn người, học nhiều hiểu rộng, ý chí kiên định, bất luận là xử lý công việc hay nói chuyện, ông đều quyết đoán, kiên quyết, không nể nang...


Các tác phẩm của ông có một luồng sức mạnh to lớn"1 (Chuyển dẫn từ Hà Hoằng Giang, "Cơn gió lịch sử sẽ chi rõ thật giả - Về cuốn sách "Đại nguyên soái Xtalin" và tác giả"; Lý Thận Minh (Chủ biên): Báo cáo Nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội thế giới - Về tiếng sóng mới trong lòng thung lũng (phần 2), Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2006, tr.303). Churchill còn nói một câu rất nổi tiếng: Khi Xtalin tiếp quản nước Nga, nước Nga chỉ là một quốc gia tay nắm cày gỗ; khi ông qua đời, nước Nga đã sở hữu vũ khí hạt nhân2 (Chuyển dẫn từ Vladimir Karpov: Đại nguyên soái Xtalin, Sđd, tr.792-793). Điều này cho thấy, ngay cả một số chính khách của phương Tây cũng khâm phục tài năng lãnh đạo và công trạng lịch sử của Xtalin.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 06:58:52 am
2. Năng lực lãnh đạo của Khrushchev và Brezhnev

Sau khi Khrushchev lên cầm quyền, phải đối mặt với một sứ mệnh lịch sử rất quan trọng - đó là phải làm thế nào để thay đổi cái cũ, đưa ra cái mới, cải cách tích cực, ổn thỏa thể chế quản lý tập trung quyền lực quá mức dưới thời Xtalin, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Phải nói rằng, ông đã nhìn thấy những vấn đề dưới thời Xtalin, cũng có mong muốn tiến hành cải cách, nhưng ông không những thiếu tư tưởng chỉ đạo chính xác và phương pháp quyết sách khoa học, mà còn thiếu tài năng và khả năng nhận định mà một người lãnh đạo cần có, bởi vậy không thể đưa ra được một đáp án khiến mọi người thỏa mãn và kinh qua được sự kiểm nghiệm của lịch sử.


Phải nói rằng, Khrushchev đã thấy được Liên Xô cần phải tiến hành cải cách, và đã có những thử nghiệm có ích. Nhưng Khrushchev lại xuất phát từ kinh nghiệm, làm việc theo cảm tính, ra mệnh lệnh cưỡng chế thậm chí là chỉ cần hứng lên, xử lý công việc theo cảm hứng nhất thời, bởi vậy đã làm nhiều việc ngu ngốc, vội vàng, lố bịch.


Khrushchev từng phê phán Xtalin rất ít khi đi ra ngoài, không hiểu tình hình nông thôn, chỉ ngồi ở nhà mà chỉ huy sản xuất nông nghiệp. Nhưng ông, người thường xuyên đi ra bên ngoài, thì có được bao nhiêu hiểu biết về tình hình nông thôn? đưa ra được bao nhiêu quyết sách khoa học?


Ông không tiến hành nghiên cứu điều tra, chỉ dựa vào mệnh lệnh hành chính, mở rộng một cách mù quáng diện tích trồng ngô. Thực tế, khí hậu miền Bắc không phù hợp trồng ngô, bởi vậy sản lượng rất thấp, được không bằng mất. Kosygin sau này đánh giá cho rằng: Đây là biện pháp do một vị lãnh đạo tưởng tượng ra, ép buộc thực hiện, đã gây ra tổn thất to lớn cho nền kinh tế  quốc dân. Khi đó, để bày tỏ sự bất mãn, người dân Liên Xô, đã sáng tác ra một câu chuyện cười chính trị như sau: Một đội bóng đến sân vận động Dinamo đá bóng, nhưng khi đến nơi họ rất bất ngờ khi phát hiện ra rằng cả sân bóng đã trồng đầy ngô!


Ông mù quáng chủ trương khẩn hoang trên quy mô lớn. Trong giai đoạn 1954-1956, Liên Xô đã tiêu tốn số lượng lớn nhân lực, vật lực và tài lực, khai khẩn hơn 40 triệu hécta đất hoang, xây dựng mấy trăm nông trường quốc doanh. Nhưng thổ nhưỡng ở đó căn bản không phù hợp với việc trồng trọt. Việc khẩn hoang đã phá hoại kết cấu thổ nhưỡng và lớp thảm thực vật, dẫn đến tình trạng xói mòn đất và bão cát nghiêm trọng, ngoài ra độ phì nhiêu thổ nhưỡng giảm xuống làm thu hoạch giảm dần theo năm, khiến hàng chục triệu mẫu đất bị bỏ hoang.


Ông còn can dự vào hoạt động sản xuất nông nghiệp cụ thể. Cadắcxtan vốn chủ yếu trồng tiểu mạch, nhưng Khrushchev lúc thì yêu cầu trồng đậu Hà Lan, lúc thì yêu cầu trồng đậu tương, và quy định phải chiếm 1/4 toàn bộ diện tích trồng trọt, khiến 691 sản lượng tiểu mạch giảm thiểu nghiêm trọng; về ngành chăn nuôi, Khrushchev lúc thì yêu cầu vắt sữa bò, lúc thì không cho vắt, lúc thì bắt phải nuôi buộc cọc, lúc thì không được buộc1 (Xem thêm: Tốc ký Hội nghị Trung ương tháng 3 của Đảng Cộng sản Liên Xô từ ngày 24 - 26-3-1965, Nxb. Tri thức Thế giới, 1966, tr.105, 110).


Tháng 5 năm 1957, Khrushchev đưa ra khẩu hiệu nông nghiệp phải nhảy vọt mà không hề có căn cứ gì. Kế hoạch 7 năm bắt đầu từ năm 1959, yêu cầu sản lượng thịt của Liên Xô mỗi năm phải tăng trưởng 12%, trong 7 năm tăng trưởng 1,5 đến 2 lần. Dưới kế hoạch nhảy vọt và áp lực chính trị, các địa phương ở Liên Xô xuất hiện làn gió thổi phổng thành tích. Để thực hiện lời hứa với Khrushchev sẽ tăng gấp đôi sản lượng thịt, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Ryazan là Larionov đã sử dụng các thủ đoạn lừa dối như: bỏ giá cao thu mua động vật của tư nhân hoặc tỉnh ngoài, giết mổ động vật quá mức, thậm chí giết cả bò sữa và gia súc giống, báo cáo thành tích giả để tâng công, khiến ngành chăn nuôi và cả ngành nông nghiệp của tỉnh này gần như phá sản. Sau này sự việc bại lộ, vì sợ tội, viên Bí thư Tỉnh ủy này đã tự sát.


Chính bởi sự chỉ huy mù quáng, mệnh lệnh cưỡng chế và sai lầm chính sách của Khrushchev mà nền sản xuất nông nghiệp của Liên Xô tăng giảm thất thường. Vào giai đoạn cuối cầm quyền của ông đã xuất hiện tình trạng nông nghiệp tăng trưởng chậm, khủng hoảng lương thực nghiêm trọng. Liên Xô chuyến từ nước xuất khẩu lương thực truyền thông thành nước nhập khâu lương thực.


Về lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, cuộc cải tổ năm 1957 đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng hỗn loạn trong nền kinh tế quốc dân. Việc các bộ và cơ quan chủ quản Trung ương bị giải tán, số lượng lớn các doanh nghiệp trung ương bị giải thể, cũng như quyền quản lý của các nước cộng hòa được mở rộng, đã phá hoại sự lãnh đạo thống nhất của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân, làm suy giảm quyền lực của Trung ương, tạo điều kiện cho chủ nghĩa địa phương phát triển. Thể chế quản lý công nghiệp và xây dựng được chuyển đổi đơn giản từ hình thức các bộ quản lý ngành dọc trước đây sang hình thức lãnh đạo song song của Ủy ban kinh tế  các cấp, tức là chuyển từ quản lý ngành dọc sang quản lý theo khối, không có lợi cho việc chuyên môn hóa và phối hợp sản xuất trong nội bộ ngành nghề, phá hoại sự thong nhất giữa kỹ thuật và hành chính, cũng hạ thấp trình độ lãnh đạo chuyên môn hóa.


Về vấn đề cán bộ, Khrushchev liên tục điều động và cách chức cán bộ, khiến hạt nhân lãnh đạo các cấp thiếu tính kế thừa, đội ngũ cán bộ rất không ổn định. Ông còn nhấn mạnh việc tách tổ chức Đảng tại các tỉnh và vùng biên cương thành tổ chức Đảng công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là không những không phát huy được vai trò như dự định, mà ngược lại còn làm suy giảm nghiêm trọng sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, không chỉ cắt đứt mối liên hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp, mà còn khiến bộ máy các cơ quan Đảng và chính quyền cồng kềnh hơn nữa, vấp phải sự phản đối phổ biến của các bí thư tỉnh ủy.


Ngày 17 tháng 10 năm 1964, báo Sự thật đăng bài xã luận về việc Khrushchev mất chức. Bài xã luận đánh giá về Khrushchev như sau: Kết luận vội vàng, quyết định xa rời thực tế và hành động thô bạo, liều lĩnh, nói năng khoác lác, về cơ bản đã bất chấp kết luận mà khoa học và kinh nghiệm thực tế đã nghiên cứu. Tất cả những điều này đều chứng minh rằng, Khrushchev căn bản không có tố chất và năng lực để trở thành lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 06:59:38 am
Tài năng lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Brezhnev được đánh giá là kém nhất trong các đời lãnh đạo cao nhất của Liên Xô. Tuy ông có một số kinh nghiệm công tác tại địa phương và cũng từng lãnh đạo bộ đội tham gia Chiến tranh vệ quốc, nhưng về tổng thế vẫn không có tài năng và trí tuệ xuất chúng, là mẫu người làm việc theo quy trình, một lãnh đạo tầm thường. Mọi người đều biết, các báo cáo và bài viết của ông đều do người khác khỏi thảo, ông thậm chí còn chưa xem trước mà chỉ đọc theo văn bản đã được chuẩn bị trước. Đặc biệt là trong giai đoạn cuối cầm quyền, ông trở nên thiếu nhiệt tình, không làm nên việc gì, xa cách quần chúng và thực tế nghiêm trọng, không coi trọng nghiên cứu về sự thay đổi phát triển của tình hình khách quan, quen với việc tuân theo quy trình cũ, thỏa mãn với hiện trạng, sợ tiến hành cải cách to lớn. Viện sĩ Aphanasayev, người từng đảm nhiệm chức vụ Tổng Biên tập của bảo Sự thật, rồi tạp chí Người Cộng sản trong thời kỳ Brezhnev và có quan hệ thân thiết với nhà lãnh đạo này, trong hồi ký của mình từng cho biết như sau: "Trong đầu tôi có hai Brezhnev, một Brezhnev là từ mùa Hè năm 1976 trở về trước, tức là trước khi ông bị bệnh; một Brezhnev là sau mùa Hè bất hạnh ấy. Brezhnev trước là một người tràn đầy sinh khí, hoạt bát, có cống hiến..., còn Brezhnev sau lại là một người bệnh tật đầy mình, không thích vận động, ít nói, không biết suy nghĩ"1 (Aphanasayev: Ghi chép của Tổng Biên tập báo "Sự thật", Sđd, tr.68-69). Đánh giá này về cơ bản là phù hợp với tình hình thực tế.


Brezhnev, con người thiếu tinh thần và phẩm chất sáng tạo ấy, tuy đã sửa đổi một số sai lầm dưới thời Khrushchev cầm quyền, có ý định khắc phục sự hỗn loạn mà Khrushchev gây ra, ví dụ như: ở một mức độ nhất định, khẳng định công trạng lịch sử của Xtalin và khôi phục danh dự của Xtalin, đồng thời còn điều chỉnh lại lý luận "Đảng toàn dẫn", "Nhà nước toàn dân" của Khrushchev, và hủy bỏ sự phân biệt giữa tổ chức Đảng công nghiệp và tổ chức Đảng nông nghiệp, khôi phục sự thống nhất tổ chức của Đảng, Xôviết, Công đoàn và Đoàn Thanh niên. Phải nói rằng, trong mấy năm đầu ông cầm quyền, tình hình trong nước vẫn tương đối tốt. Nhưng do hạn chế về nhận thức và tính không triệt để trong thực tiễn, ông chưa thể loại trừ về căn bản ảnh hưởng tiêu cực mà Khrushchev mang lại. Trong nửa cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, ông đã tiến hành cải cách "thể chế kinh tế mới" và giành được thành quả tương đối rõ ràng. Như mọi người đều biết, thành tích này có được chủ yếu là bởi kế hoạch và sự sắp xếp cụ thể của Kosygin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô khi đó.


Nông nghiệp dưới thời Brezhnev có sự phát triển nhất định, nhưng thể chế quản lý nông nghiệp vẫn tồn tại những vấn nạn tương đối nghiêm trọng. Brezhnev không tiếp thu một cách nghiêm túc những bài học của Khrushchev, cũng không tiến hành điều tra nghiên cứu một cách cẩn thận, mà tiếp tục theo đuổi mù quáng mô hình "quy mô công xã nhân dân lớn tiện cho việc sản xuất tổng hợp quy mô lớn, công xã nhân dân có tính xã hội chủ nghĩa và tập thể hóa cao hơn hợp tác xã nông thôn", ép buộc một số nông trang quá độ thành nông trường quốc doanh quy mô lớn. Dưới khẩu hiệu "chuyên môn hóa" và "tập trung hóa", ngành nghề phụ cá nhân bị hạn chế và dần teo tóp. Nông nghiệp và các ngành công nghiệp có liên quan phát triển không hài hòa với nhau đã hạn chế sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Coi nhẹ nông trang là đặc điểm của chế độ sở hữu tập thể, Nhà nước vẫn quản lý tập trung quá nhiều, quá chặt đối với nông nghiệp. Vấn đề "nổi cơm chung" không được giải quyết hợp lý. Tất cả những nhân tố này đều đã ảnh hưởng đến tính tích cực trong sản xuất của các nông trang tập thể và thành viên nông trang.


Trong giai đoạn cuối của thời đại Brezhnev, Liên Xô đã bộc lộ không ít vấn đề, phát triển kinh tế vấp phải khó khăn to lớn, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngày càng thấp, cơ chế kinh tế ngày càng gò bó sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng ông coi như không biết những vấn đề này, tiếp tục mù quáng cho rằng, xã hội Liên Xô là một xã hội "xã hội chủ nghĩa phát triển", điều này đã phản ánh việc ông xa rời thực tế nghiêm trọng, tô hồng thực tại, che đậy vấn đề và mâu thuẫn. Trên thực tế Liên Xô thời điểm đó đang bên vực khủng hoảng nghiêm trọng về các phương diện. Những vấn nạn cố hữu trong thể chế kinh tế chính trị ngày càng nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút mạnh, khoảng cách về kinh tế và khoa học công nghệ so với phương Tây ngày càng xa. Sự lãnh đạo tập thể quay trở lại cục diện cá nhân chuyên quyền, sùng bái cá nhân. Đồng thời, sự khuếch trương ra bên ngoài và chạy đua vũ trang cũng gây ra gánh nặng to lớn cho đất nước.


Brezhnev không chỉ thiếu tư duy và năng lực đổi mới, mà còn thiếu cả quyết tâm và sức mạnh để giải quyết vấn đề. Ông đã không thể phá vỡ tình trạng trì trệ trong phát triển kinh tế - xã hội, không thể xoay ngược xu thế từ thịnh sang suy của Liên Xô, không thể dẫn dắt quốc gia xã hội chủ nghĩa này tiếp tục tiến bước. Vị lãnh tụ của thời thịnh vượng cuối cùng đã trở thành danh từ riêng chỉ sự bảo thủ và xơ cứng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:00:46 am
3. Gorbachev - người lãnh đạo không làm trọn chức trách

Gorbachev là lãnh đạo cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên bang Xôviết. Tháng 3 năm 1985, khi mới lên cầm quyền, ông là người lãnh đạo của chính đảng lớn với hơn 20 triệu đảng viên, một quốc gia thống nhất với tổng diện tích hơn 22 triệu km2; vậy mà 6 năm sau, khi ông từ chức Tổng thống Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị ông tự tay giải tán, Liên Xô cũng cùng đó mà biến mất khỏi bản đồ thế giới. Bất kể là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô hay Tổng thống Liên Xô, ông đều là kẻ thất bại, là một lãnh đạo không làm trọn chức trách.


Nhìn vào lý lịch của Gorbachev, trước khi trở thành lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô, ông có quá trình công tác nhất định, có thể nói là thăng tiến rất nhanh. Năm 35 tuổi, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất Thành ủy Stavropol, năm 39 tuổi đảm nhiệm chức Bí thư thứ nhất Đảng ủy Khu biên giới Stavropol. Năm 1980, khi Gorbachev 49 tuổi, đã trở thành Ủy viên Bộ Chính trị trẻ nhất của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 11 tháng 3 năm 1985, tại Hội nghị Trung ương bất thường, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.


Việc Gorbachev đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư không phải là không có tranh luận. Căn cứ theo một cuộc nói chuyện nội bộ tháng 12 năm 2001 của một nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, "Gorbachev đã thông qua phương thức không bình thường để trở thành Tổng Bí thư". "Tình hình khi đó rất khó khăn. Gorbachev không có uy tín gì trong Đảng, trong nước. Trong Bộ Chính trị có rất nhiều đồng chí với uy tín cao hơn Gorbachev, hoàn toàn có đủ năng lực lãnh đạo Đảng và đất nước... Tại cuộc họp Bộ Chính trị, đã không mời Shcherbytsky của Ucraina và Kunayev của Cadắcxtan bởi họ kiên quyết phản đối Gorbachev trở thành Tổng Bí thư. Bộ Chính trị khi đó không hề muốn bầu Gorbachev, Gromyko đã có bài phát biểu đặc biệt, thuyết phục các Ủy viên Bộ Chính trị bầu cho Gorbachev. Cuối cùng Gorbachev đã trúng cử Tổng Bí thư với tỉ lệ đa số thấp". Gorbachev tự nói rằng, tại cuộc họp, các lãnh đạo như Gromyko, Tikhonov, Grishin, Solomentsev đã đánh giá ông rất cao, nói ông "có kiến thức uyên bác, kinh nghiệm tương đối phong phú", là "người nắm chắc kinh tế số một trong Ban Bí thư Trung ương", "ông là người phù hợp nhất với yêu cầu đối với Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương", "thường xuyên có một số kiến giải rất có giá trị", "biết lắng nghe ý kiến của người khác"1 (Thuật Thao (biên dịch): Hồi ký Gorbachev, Sđđ, t.1, tr.309-310)... Đương nhiên, ở đây có phần tự khoa trương. Ngoài ra, có sự khoa trương của những lãnh đạo khác với ông, với mục đích chính hiển nhiên là nhằm tạo dựng uy tín và hình ảnh của lãnh đạo mới.


Học giả Trung Quốc đã đánh giá công bằng đối với việc Gorbachev được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô như sau: "Sự thực Liên Xô giải thể đã chứng minh một cách rõ ràng rằng, bất luận là năng lực lãnh đạo, trình độ chính sách, hay là nhận thức tư tưởng, phẩm chất đạo đức, ông đều không đảm nhiệm được công việc. Nhưng do những vấn nạn của cơ chế lựa chọn cán bộ cũ của Liên Xô, một người như vậy, vào thời khắc then chốt mang tính bước ngoặt lịch sử của Liên Xô, đã lên nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô"2 (Trần Chi Hoa (chủ biên): Đại cương lịch sử hưng vong của Liên Xô, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2004, tr.619).


Thực tế chứng minh rằng, ngoài vấn đề rời bỏ đường lối, năng lực cầm quyền của Gorbachev không hề giỏi như một số người từng nói. Chúng ta chỉ cần lấy một vài ví dụ cũng đủ để chứng minh điều này.

Đầu năm 1978, Gorbachev đảm nhiệm chức vụ Bí thư Trung ương Đảng phụ trách công tác nông nghiệp. Có tài liệu chứng minh, "trong thời gian 7 năm ông quản lý công tác nông nghiệp (từ năm 1978 đến năm 1984), sản lượng lương thực cả nước giảm từ 237 triệu tấn xuống 173 triệu tấn, khiến Đề cương phát triển lương thực mà Đảng Cộng sản Liên Xô tuyên truyền năm 1982 đã trở thành tờ giấy lộn"1 (Sogley: Lịch sử chính trị nước Nga hiện đại (bản tiếng Nga), Mátxcơva, 1994, tr.10. Chuyển dẫn từ Trần Chi Hoa (chủ biên): Đại cương lịch sử hưng vong của Liên Xô, Sđd, tr.618).


Năm 1985, sau khi lên cầm quyền không lâu, Gorbachev đề ra "Chiến lược tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội", trong đó có một nội dung quan trọng là nhấn mạnh phát triển ngành chế tạo máy. Do kế hoạch không chu đáo và chỉ tiêu quá cao nên kết quả không hề lý tưởng. Sau đó, ông thay đổi mục tiêu, mở rộng lĩnh vực ưu tiên phát triển sang kỹ thuật sinh học, luyện kim, công nghiệp hóa học. Điều này đã khiến các bộ, ngành cụ thể không biết thực hiện như thế nào, ngay cả Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cũng cảm thấy rất khó hiếu. Ryzhkov sau này viết rằng: "Chỉ mới một tháng trước đã nói rõ là ưu tiên phát triển ngành chế tạo máy, vậy mà nay lại đột nhiên có thêm một loạt yêu cầu ưu tiên phát triển"; "chỉ trong có mấy tháng ngắn ngủi, danh mục phương hướng ưu tiên phát triển kinh tế quốc dân đã điền đi điền lại bao nhiêu lần"2 (Nikolai Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Sđd, tr.88-89). Điều này cho thấy rõ, Gorbachev thiếu lộ trình và thường xuyên thay đổi trong bố trí thực hiện cải tổ. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện "Chiến lược tăng tốc", khi chưa qua suy nghĩ thận trọng và lắng nghe lời khuyên của các bộ, ngành liên quan và chuyên gia nông nghiệp, đã quyết định thông qua biện pháp can thiệp hành chính, triển khai cuộc vận động "chống nát rượu" mang tính toàn quốc, việc này cũng phản ánh Gorbachev thiếu năng lực và hoàn toàn không hiểu tình hình đất nước. Điều này tưởng chừng như việc nhỏ, nhưng đã tác động nghiêm trọng đến ngành trồng nho và sản xuất rượu, làm giảm lượng lớn nguồn thu thuế nhà nước, khiến tình trạng tư nhân nấu rượu và buôn lậu rượu tràn lan, dẫn đến sự phàn nàn và bất mãn của đông đảo quần chúng1 (Xem thêm Ngô Ân Viễn: Bàn về lịch sử Liên Xô, Sđd, tr.292). Đương nhiên, sự thất bại của "Chiến lược tăng tốc" chủ yếu là bởi không điểm đúng huyệt của cải tổ, vẫn đặt trọng điểm cải tổ là ưu tiên phát triển cồng nghiệp nặng, từ đó khiến vấn đề kết cấu kinh tế không hợp lý và nặng nề hon nữa, nhưng đồng thời cũng bộc lộ năng lực kém cỏi của Gorbachev.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:01:40 am
Trong lĩnh vực chính trị, những đặc điểm của Gorbachev về sự thiếu quyết đoán, dễ dao động, lật lọng đặc biệt rõ nét.

Tháng 3 năm 1990, nước Cộng hòa Lítva tuyên bố độc lập, Gorbachev ban đầu bày tỏ kiên quyết phản đối và gây áp lực mạnh, thậm chí điều quân đội Liên Xô tiến hành diễn tập quân sự tại Lítva, cũng như tiến hành phong tỏa kinh tế nhằm vào Lítva. Nhưng sau đó, ông lại mềm lại, bày tỏ "không phản đối về nguyên tắc" với việc Lítva thoát li khỏi Liên Xô, chỉ "cần tiến hành đàm phán". Tháng 1 năm 1991, quần chúng Lítva tiến hành bãi công và biểu tình, hạ bệ chính phủ Lítva, còn Đảng Cộng sản Lítva thành lập "Ủy ban cứu quốc", yêu cầu khôi phục hiệu lực của Hiến pháp Liên Xô tại Lítva. Gorbachev không hề tính toán đầy đủ, đã bày tỏ ủng hộ "Ủy ban cứu quốc", thậm chí còn mặc nhiên cho phép Liên Xô đưa lính dù và bộ đội nội vụ đóng quân tại thủ đô Vilnius của Lítva. Nhưng dưới sự phản đối mạnh mẽ của các nước phương Tây và phe đối lập trong nước, lại lập tức nhượng bộ, ra lệnh cho lính dù và bộ đội nội vụ rút về, tuyên bố chấm dứt hoạt động của "Ủy ban cứu quốc", bày tỏ phải giải quyết vấn đề bằng biện pháp chính trị và phái đoàn đại biểu đến Lítva tiến hành điều đình. Điều này đã dẫn đến trạng thái độc lập của Lítva trên thực tế và khởi đầu cho sự giải thể của Liên Xô.


Như mọi người đều biết, Liên Xô trong quá trình cải tổ đã xuất hiện tình trạng chia rẽ và đấu tranh giữa "phe Cấp tiến" và "phe Truyền thống". Phe cấp tiến phản đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chủ trương đi theo con đường tư bản chủ nghĩa phương Tây và giải thể Liên Xô. Phe Truyền thống muốn duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và thống nhất đất nước, tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đối mặt với sự đấu tranh ác liệt giữa hai phe, Gorbachev luôn dao động, thỏa hiệp chiết trung, mong muốn điều hòa điều không thể điều hòa. Tháng 10 năm 1987, trước và sau Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev từng phê phán nghiêm khắc và cách chức Bí thư thứ nhất Thành ủy Mátxcơva của Yeltsin, nhân vật đại diện cho phe Cấp tiến. Nhưng sau đó, ông lại bổ nhiệm Yeltsin làm Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban xây dựng quốc gia (hàm Bộ trưởng) và dung dưỡng cho ông này tiến hành các hoạt động chính trị chống Đảng Cộng sản Liên Xô, thậm chí còn ủng hộ ông này trở thành đại biểu của Xôviết tối cao vào tháng 5 năm 1989. Cùng với đó, Gorbachev còn có các hành động tấn công chèn ép Ligachev, nhân vật đại diện cho phe Truyền thống. Tháng 12 năm 1990, trước và sau Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ IV Liên Xô, trước bối cảnh phe Truyền thống có thanh thế lớn, Gorbachev lại nghiêng về phe Truyền thống, xây dựng ban lãnh đạo cơ bản là người thuộc phe Truyền thống, thậm chí còn công khai thừa nhận tại Đại hội Đảng của Mátxcơva rằng "có tội trước giai cấp công nhân"1 (Xem thêm Lý Cảnh Trị, Vương Chính Tuyền: Tiến trình phát triển chủ nghĩa xã hội, Nxb. Nhân dân Liêu Ninh, 2001, tr.465), đồng thời chỉ trích phe Cấp tiến "có ý đồ phủ định tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chủ trương tư bản hóa xã hội". Nhưng không lâu sau đó, vào ngày 23 tháng 4 năm 1991, Gorbachev lại cùng những người thuộc phe Yeltsin tiến hành hội nghị bàn tròn, phát biểu Tuyên bố chung 9+1, nhằm gạt bỏ cơ quan quyền lực tối cao của đất nước được hình thành hợp pháp, quyết định vận mệnh của toàn Liên bang. Sự dao động, thỏa hiệp chiết trung của Gorbachev không phải là điều gì lạ trong suốt quá trình cải tổ. Tất nhiên, cuối cùng ông đã ngả hẳn về phe Cấp tiến, liên thủ với những người như Yeltsin, điều đó được quyết định bởi đường lối mà ông tiến hành. Tuy nhiên, nhìn vào lập trường trung lập, mập mờ mà Gorbachev lựa chọn trong thời gian dài giữa phe Cap tiến và phe Truyền thông, sự dao động không ngừng giữa ủng hộ và phản đối giữa hai phe, cũng cho thấy rõ Gorbachev thiếu năng lực cầm quyền.


Nhìn từ góc độ năng lực cầm quyền, Gorbachev chỉ có bề nổi mà thiếu thực chất, chỉ thích nói sáo rỗng, thiếu ý chí kiên định và khả năng nhận định sâu sắc, hay dao động, mềm yêu thiếu quyết đoán, nhưng trên các vấn đề quan trọng, ông lại không chịu chấp nhận các ý kiến bất đồng, có tính chuyên quyền cá nhân. Ryzhkov từng chỉ ra rằng, "ông ấy chỉ biết, chỉ thích, chỉ muốn nói điều sáo rỗng, chỉ một mình trình bày thao thao bất tuyệt những điều rỗng tuếch, biến hóa câu chữ và trình bày những tư tưởng cứng nhắc, sáo rỗng một cách màu mè, biến những điều này thành những chuyện quan trọng, mới mẻ cần giải quyết ngay". "Về khí chất và tính cách, Gorbachev không thể trở thành nguyên thủ quốc gia thực thụ. Ông ấy không có tố chất của nguyên thủ quốc gia, hoàn toàn không muốn đưa ra những quyết định quyền uy, chỉ toàn thảo luận không ngừng, nghe các loại ý kiến khác nhau, tranh luận không thôi và lấy cớ để không đưa ra quyết định cuối cùng, khéo nói nhưng không khẳng định, không bày tỏ rõ đồng ý hay phản đối. Ông ấy không bao giờ chịu trách nhiệm trước bất kỳ quyết định sai lầm nào, toàn lấy cái gọi là tập thể nghiên cứu, quyết định để che đậy cho việc rũ bỏ trách nhiệm. Nhưng, chỉ có thời gian đầu của cải tổ là tập thể quyết định, đến sau này là do ông ấy một mình chuyên quyền"1 (Nikolai Ryzhkov: Mười năm đại loạn, Sđd, tr.367, 369). Còn có rất nhiều cựu lãnh đạo Liên Xô có cách nhìn như vậy hoặc tương tự.


Roy Medvedev, người từng là Đại biểu nhân dân Liên Xô, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, trong sách của mình từng nêu ra một câu chuyện như sau về Gorbachev cho thấy tác phong chuyên quyền cá nhân của ông. Hạ tuần tháng 12 năm 1990, Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ IV Liên Xô quyết định bổ sung thêm một Phó Tổng thống. Người có sức cạnh tranh lớn nhất khi đó là Nazarbayev, Tổng thống nước Cộng hòa Cadắcxtan, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Cadắcxtan. Đa số đại biểu chuẩn bị bỏ phiếu bầu cho ông này. Nhưng Nazarbayev tuyên bố, "ông không cam chịu làm cái bóng cho Gorbachev", nếu như ông đảm nhiệm chức Phó Tổng thống Liên Xô, thì phải "đồng thời kiêm nhiệm chức Thủ tướng chính phủ Liên Xô". Nazarbayev trong bài phát biểu công khai còn nhằm vào các vấn đề của Trung ương, "điểm mặt chỉ tên Gorbachev". Bởi vậy, Gorbachev bất chấp sự phản đối của các đại biểu khác, không hề bàn bạc trước với Tiểu tổ đại biểu nhân dân, cố ý đề cử Yanayev làm Phó Tổng thống. Do được Gorbachev vận động, Yanayev mới đắc cử với tỷ lệ thấp tại vòng bỏ phiếu thứ hai1 (Xem thêm Roy Medvedev: Năm cuối cùng của Liên Xô, Sđd, tr. 10-11).


Năm 2007, "nhân vật bất đồng chính kiến" nổi tiếng tại Liên Xô Solzhenitsyn trả lời phỏng vấn của Tuần báo Der Spiegel của Đức, đã bình luận về Gorbachev: "Tác phong lãnh đạo của Gorbachev cho thấy sự ấu trĩ đáng kinh ngạc về chính trị, thiếu kinh nghiệm, thiếu tinh thần trách nhiệm với đất nước mình. Đây không phải là thi hành quyền lực, mà là sự từ bỏ quyền lực một cách ngu ngốc"2 (Ân Tự Lê (biên dịch): "Solzhenitsyn bàn về lịch sử Liên Xô và chính phủ Putin", Tạp chí Động thái lý luận nước ngoài, số 12 năm 2007).


Đương nhiên, việc Gorbachev không làm trọn chức trách và cuối cùng trở thành kẻ thất bại, nguyên nhân quan trọng không phải ở việc năng lực cầm quyền kém, mà là bởi ông đã tiến hành một đường lối sai lầm, đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Sở dĩ ông thiếu khả năng nhận định cần có, trước tiên là bởi ông không nhìn ra quy luật phát triển của xã hội loài người, đi ngược lại dòng chảy của lịch sử.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:03:13 am
Chương VIII
ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ ĐỐI PHÓ VỚI CHIẾN LƯỢC TÂY HÓA,
PHÂN HÓA CỦA THẾ GIỚI PHƯƠNG TÂY


Trong một thời gian dài, bắt đầu từ khi Khrushchev lên nắm quyền, thế lực thù địch phương Tây đứng đầu là Mỹ đã tìm trăm phương ngàn kế thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô, mà các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã rất chủ quan, không hề biết đến. Đặc biệt trong thời kỳ Gorbachev, tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không những không tự giác chống lại áp lực "diễn biến hòa bình" của phương Tây, mà còn ra sức đón chào, chủ động tiếp nhận, khiến cho tập thể lãnh đạo Đảng ngày càng thoái hóa, đội ngũ của Đảng mất đi ý chí chiến đấu, tổ chức Đảng trong những thời khắc sinh tử yếu đến gió thổi cũng đổ. Phương Tây thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" Tây hóa, phân hóa Liên Xô là một nhân tố quan trọng dẫn đến Liên Xô mất Đảng, mất nước.


I. SÁCH LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CỦA PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI LIÊN XÔ

Chính quyền Xôviết ra đời, đã dẫn đến hận thù mạnh mẽ của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và luôn gặp phải những hành động phá hoại và quấy rối điên cuồng của thế lực thù địch trong và ngoài nước. Các chính trị gia đế quốc từ đầu đã thề rằng, nhất định phải "bóp chết từ trong nôi" chế độ xã hội mới toanh này.


Thế lực thù địch phương Tây lúc đầu áp dụng thủ đoạn can thiệp quân sự trắng trợn. Sau khi can thiệp quân sự bị phá sản, lại chuyển sang nhiều hình thức khác như bao vây quân sự, cô lập ngoại giao, cấm vận kinh tế  mua chuộc tay sai làm phản, tạo mâu thuẫn và xung đột dân tộc ở Liên Xô. Ví dụ, sau khi Liên Xô thành lập không lâu, cơ quan gián điệp của Đức ở nước ngoài liền cử người triển khai các hoạt động trong những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Grudia, mục đích là làm cho Grudia thực hiện "độc lập" dưới sự bảo hộ của nước Đức. Hoặc là, trong thời gian những năm 1932-1943, Đại sứ Liên Xô tại Anh là Ivan Maisky đã bị cơ quan tình báo của nước Anh mua chuộc, mà lãnh đạo hành động này chính là Churchill, người mà năm đó đã thề rằng phải "bóp chết từ trong nôi" chính quyền Xôviết. Con trai ông là Randolph đích thân đảm nhiệm vai trò "người môi giới" với Maisky. Đêm trước diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước phương Tây thực hiện chính sách bình định của phátxít Đức, mưu đồ "dẫn họa sang phía Đông", mượn thế lực phátxít để tiêu diệt tận gốc cái gọi là "bệnh dịch chủ nghĩa Bônsêvích". Nhưng dưới sự lãnh đạo kiên cường của Đảng Cộng sản Liên Xô do Xtalin đứng đầu, tất cả mọi âm mưu của phương Tây đều gặp phải sự thất bại nhục nhã. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sức mạnh của Liên Xô tăng lên gấp bội, địa vị quốc tế nâng cao chưa từng có. Trước tình hình mới như vậy, thông qua "diễn biến hòa bình" làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, thay đổi chế độ xã hội của Liên Xô đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến lược đối với Liên Xô của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ.


1. Diễn biến hòa bình đối với Liên Xô là mục tiêu chiến lược bất di bất dịch của thế lực phương Tây

"Diễn biến hòa bình" là một thuật ngữ chính trị mang hàm ý đặc biệt, đầu tiên được Đại sứ Mỹ tại Liên Xô George Frost Kennan nêu ra vào tháng 7 năm 1947. Ông dự đoán: thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Xôviết.


Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cố vấn chính sách ngoại giao của Chính phủ Truman - kẻ đề xướng chính sách diễn biến hòa bình John Foster Dulles đã công khai tuyên bố: "Chúng ta là một nước lớn duy nhất có vật chất và tinh thần đều hoàn hảo không sứt mẻ, chúng ta phải lãnh đạo thế giới, khôi phục nguyên tắc được coi là chuẩn mực hành vi". Dưới cái nhìn của ông, "tín ngưỡng và cơ chế của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô khác rất xa với thể chế chính trị dân chủ của phương Tây. Tín ngưõng chính thức của nó là chủ nghĩa duy vật trừu tượng, hình thức chính phủ là chủ nghĩa toàn trị, đời sống kinh tế là chủ nghĩa xã hội nhà nước cực đoan". Điều này không chỉ hình thành "thách thức toàn diện, mang tính toàn cầu" đối với Mỹ, mà còn "thách thức đối với địa vị tối cao của thế giới Cơ đốc giáo"1 (Âu Dương Hồng Binh, Nguyễn Tông Triết: Nhà ngoại giao thời Chiến tranh lạnh - Dulles, Nxb. Tri thức thế giới, Trung Quốc, 1999, tr.67-68). Tháng 6 năm 1946, Dulles đăng bài viết dài hai kỳ "Suy nghĩ và đối sách với chính sách ngoại giao của Liên Xô" trên tạp chí Đời sống, không hề che đậy sự thù hận của ông đối với chế độ xã hội và chính sách đối nội, đôỊ ngoại của Liên Xô, đồng thời cũng trình bày khá rõ tư duy Chiến tranh lạnh kiềm chế toàn diện Liên Xô.


Dulles chủ trương kiềm chế toàn diện Liên Xô, trong đó quan trọng nhất là thông qua các biện pháp hòa bình như thâm nhập tư tưởng, tuyên truyền quảng bá, "ngày càng tăng thêm khó khăn nội bộ trong Đảng Cộng sản Liên Xô". Năm 1950, Dulles trình bày miệng cuốn sách Chiến tranh hay hòa bình, đề ra "phải dùng mọi thủ đoạn có thể để đấu tranh với chủ nghĩa cộng sản". Ông cho rằng, lực lượng then chốt để giao thiệp với Liên Xô là thực lực, nhưng thực lực không chỉ bao gồm thực lực quân sự, còn bao gồm thực lực kinh tế và một số thứ vô hình khác, ví dụ như đưa ra đánh giá đạo nghĩa cũng như dư luận thế giới đối với hành động của họ. Do đó, Dulles trong cuốn sách này đề ra rõ ràng rằng, phải "tiến hành một cuộc chiến tranh tư tưởng" đối với Liên Xô và các nước Đông Âu.


Churchill, người đã từng đảm nhiệm chức Thủ tướng Anh và từng có những hợp tác hiệu quả với các nhà lãnh đạo Liên Xô thời chiến tranh, sau chiến tranh đã khôi phục rất nhanh bản tính giai cấp của một chính trị gia chống cộng. Ngày 5 tháng 3 năm 1946, tại Fulton, Mỹ, ông đã phát biểu một bài diễn thuyết về Chiến tranh lạnh làm kinh động thế giới, công kích Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu "hoặc là một số kẻ độc tài, hoặc là trùm sỏ chính trị được tổ chức nghiêm ngặt, họ thông qua một đảng có đặc quyền và một đội ngũ cảnh sát chính trị, sử dụng không hạn chế quyền bính". Ông tuyên bố, đối với một số nước "an ninh", "hạnh phúc", "tự do", "tiến bộ" như Mỹ, Anh mà nói, "trách nhiệm của họ không phải là dùng vũ lực để can thiệp vào công việc nội bộ của những nước mà ta chưa chinh phục", mà phải dùng "thanh điệu lớn mà không sợ sệt để tuyên truyền về nguyên tắc vĩ đại của tự do và nhân quyền cơ bản"1 (Lịch sử thế giới sau chiến tranh (1946), Nxb. Nhân dân Thượng Hải, 1976, t. 2, tr.45-46). Diễn thuyết ở Fulton của Churchill không những mở ra nội dung cốt lõi trong chính sách kiềm chế Liên Xô của phương Tây, mà còn là sự giải thích tốt nhất cho tư tưởng diễn biến hòa bình Liên Xô của Dulles.


Lúc đó, nước Mỹ đang trong tình trạng chống cộng điên cuồng chưa từng có. Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tổng thống Truman phát biểu tại Quốc hội bản thông điệp về tình hình đất nước được xem như là bản tuyên ngôn của "chủ nghĩa Truman". Ông tuyên bố, phải trả lời trước cái gọi là "làn sóng bạo chúa cộng sản lan rộng", đồng thời "giải thích với toàn thế giới lập trường của nước Mỹ trước thách thức của chủ nghĩa toàn trị mới này". Trong "bài hịch" chống cộng này, Truman đã ngụy biện, thế giới sau chiến tranh đang tồn tại hai "cách sống" hoàn toàn đối lập nhau, trong đó một cách sống là "lấy ý chí của đa số làm nền tảng, nó thể hiện nổi bật là chế độ tự do, chính phủ theo chế độ đại nghị, bầu cử tự do, bảo đảm tự do cá nhân, tự do ngôn luận và tôn giáo tín ngưỡng, tự do không chịu sự áp bức của chính trị". "Cách sống thứ hai lại lấy ý chí của thiểu số áp đặt lên đa số làm nền tảng. Cái mà nó dựa vào là: sợ hãi và áp bức, báo chí và truyền thông bị kiểm soát, bầu cử được sắp đặt sẵn từ trước, tự do cá nhân bị kiềm chế". Trước một thế giới như vậỵ, "chính sách của Mỹ phải ủng hộ nhân dân tự do các nước", "phải giúp đỡ nhân dân tự do các nước dựa vào cách của chính mình để giải quyết các vấn đề liên quan đến vận mệnh của họ". Ông tuyên bố, ủng hộ "nhân dân tự do các nước trên thế giới", để "bảo vệ tự do của họ", "trách nhiệm vĩ đại này đã đặt lên đầu chúng ta rồi"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình Liên Xô, Nxb. Nhân dân Hồ Bắc, 1989, tr.27-30).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:04:33 am
Năm 1953, Truman lại đề ra cái gọi là "chính sách giải phóng" kiềm chế toàn diện ảnh hưởng của Liên Xô. Lúc này, ông phê bình những người không tin rằng áp lực tinh thần, áp lực tuyên truyền có thể sản sinh hiệu quả là những người "quá vô tri". Ông cho rằng, Liên Xô đã "dùng chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm lý và phương pháp tuyên truyền để đạt được mục đích này". Do đó, ông đầy tự tin bày tỏ, "họ có thể làm được, chúng ta cũng có thể làm được".


Dùng nhiều phương thức hòa bình như chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm lý, chiến tranh tuyên truyền văn hóa để gia tăng ảnh hưởng đối với Liên Xô, "kế không đánh mà thu phục được lòng người", thúc đẩy Liên Xô tự thực hiện diễn biến, không những là mục tiêu chủ yếu của Tổng thống và Chính phủ Mỹ đối với Liên Xô, mà còn là nguyện vọng của tất cả chính trị gia Mỹ. Tháng 1 năm 1960, Ủy ban ngoại giao của Thượng nghị viện Mỹ đã đưa ra một bản báo cáo nghiên cứu với chủ đề "Ý thức hệ và công việc ngoại giao". Báo cáo gửi gắm rõ ràng hy vọng diễn biến hòa bình ở Liên Xô vào nội bộ xã hội Liên Xô. Báo cáo trình bày, "sự biến chất cuối cùng về ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa chủ yếu được quyết định bởi kết quả phấn đấu của các lực lượng trong xã hội cộng sản và nội bộ tập đoàn cộng sản. Những hành động từ bên ngoài giúp gia tăng sự biến chất này là có hạn". Do đó, Mỹ và các nước phương Tây một mặt kiền trì chủ trương thực hiện nguyên tắc dân tộc trong nội bộ tập đoàn cộng sản, để cổ vũ các nước Đông Âu tách ra khỏi Liên Xô, từ đó làm tan rã phe Liên Xô - Đông Âu; mặt khác, "còn đề ra tiếp xúc rộng rãi nhất với xã hội cộng sản", để "thúc đẩy diễn biến trong chế độ của Liên Xô và nội bộ tập đoàn cộng sản". Vì vậy, báo cáo đã kiến nghị với tập đoàn thống trị Mỹ: "Chính sách của chúng ta phải thúc đẩy được giao lưu thực chất khác hẳn với giao lưu  trên hình thức", tức "tìm cách xây dựng mối liên hệ rộng rãi với những phần tử trí thức trong tập đoàn cộng sản, cuối cùng thiết lập quan hệ rộng rãi với các chính trị gia tầng lớp trung và cao cấp, dần dần ảnh hưởng tới sự bảo vệ của họ đối với ý thức hệ".


Các chính trị gia Mỹ còn nhìn nhận rất rõ ràng rằng, để thay đổi chế độ xã hội của Liên Xô, chỉ dựa vào sự thâm nhập ý thức hệ có lẽ không đủ. Do đó báo cáo kiến nghị, các nhà quyết sách của Mỹ phải xây dựng một chính sách toàn diện, tích cực, có thể ngăn chặn được chủ nghĩa cộng sản; sử dụng tổng hợp các biện pháp, trong đó bao gồm cả vũ khí mang tính quyết định là ưu thế kinh tế. Bởi vì kinh tế Mỹ không ngừng tăng trưởng, do đó có thể chứng minh là quan điểm cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô ưu việt hơn chế độ tư bản chủ nghĩa là giả tạo1 ("Báo cáo nghiên cứu số 10 của Ủy ban ngoại giao Thượng viện Mỹ: Ý thức hệ và công việc ngoại giao", trích trong Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.36-39). Dựa trên những nhận thức và phân tích như vậy, tác dụng của biện pháp kinh tế trong chính sách diễn biến hòa bình của Mỹ đối với Liên Xô, tức là lợi dụng ưu thế kinh tế để kìm hãm đà phát triển của Liên Xô, trong thời gian dài cạnh tranh về kinh tế kỹ thuật kéo đổ Liên Xô, đã nâng lên rõ rệt.


Cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Nixon của Đảng Cộng hòa bước vào Nhà Trắng, còn thậm tệ hơn tất cả các đời tổng thống trước về mặt cổ xúy diễn biến hòa bình ở Liên Xô. Nixon nhận thức rõ ràng rằng, so sánh lực lượng Mỹ - Xô chủ yếu thể hiện ở các mặt quân sự, kinh tế và chính trị, nhưng "gốc rễ đối địch của hai bên là ở ý thức hệ", mà Mỹ trong so sánh lực lượng về ý thức hệ với Liên Xô đã "nắm chắc át chủ bài", bởi vì "giá trị quan tự do và dân chủ của chúng ta trên thế giới có sức hâp dẫn mạnh mẽ". "Nếu như chúng ta bị thua trong chiến tranh tư tưởng thì tất cả mọi vũ khí, hiệp ước, thương mại, viện trợ đối ngoại cũng như cầu nối văn hóa đều là vô ích"1 ([Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Nhà sách Tam Liên, 1989, tr.92).


Nixon gộp Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Xtalin, phátxít Đức dưới sự khống chế của Hitler và Italia dưới sự thống trị của Mussolini thành ba "chính quyền độc tài" lớn, cho rằng đó đều là sản vật của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiến tranh thế giới thứ hai khiến Đức, Italia, Nhật xóa bỏ chế độ chuyên chế, duy chỉ có chế độ chuyên chế Liên Xô "lại mạnh lên cực độ", "nó tạo ra sự đe dọa càng lớn hơn với tự do và hòa bình", do đó, nước Mỹ phải chiến thắng Liên Xô. Nhưng Liên Xô đã có tiềm lực quân sự và năng lực chiến tranh tương đương với Mỹ, Nixon cũng không dám tùy tiện nói chiến tranh được, mà chủ trương "tìm kiếm thắng lợi mà không có chiến tranh" với Liên Xô, thắng lợi này chính là "thắng lợi của tư tưởng tự do đối với tư tưởng thống trị toàn trị phủ định tự do", "thắng lợi của nhân quyền toàn nhân loại không bị chính trị áp bức"2 ([Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Sđd, tr.5, 13). Nói một cách đơn giản, đó chính là thắng lợi của tư tưởng diễn biến hòa bình.


Tư tưởng phải thực hiện diễn biến hòa bình ở Liên Xô của Nixon bắt nguồn từ tổng kết của ông về kinh nghiệm lịch sử đấu tranh chống Liên Xô ở các nước phương Tây. Dưới góc nhìn của ông, nhân loại ở thế kỷ XX xảy ra ba cuộc chiến tranh thế giới chứ không phải hai cuộc, Chiến tranh thế giới thứ ba chính là cuộc Chiến tranh lạnh do Liên Xô gây ra, là cuộc chiến tranh hơn 40 năm mà Liên Xô gây ra với "thế giới tự do". Ông phân tích, biện pháp chủ yếu mà Liên Xô đấu tranh với các nước phương Tây là tuyên truyền, ngoại giao, đàm phán, viện trợ đối ngoại, bàn tay chính trị, lật đổ, hoạt động ngầm cũng như thông qua tay sai để tiến hành chiến tranh. Trong tình hình này, đấu tranh của Mỹ với Liên Xô là "đấu tranh giữa văn hóa toàn trị và văn hóa tự do, là đấu tranh giữa nước sợ hãi tự do và nước sùng bái tự do". Do đó, biện pháp đấu tranh của Mỹ với Liên Xô là làm ngược lại cách làm của Liên Xô. Cuối những năm 1980, khi Gorbachev xuất hiện trong Điện Kremlin, chính sách đối nội, đối ngoại của Liên Xô được điều chỉnh toàn diện, vị chính trị gia tư sản lắm mưu nhiều kế này cuối cùng cũng nhìn ra được viễn cảnh hiện thực của diễn biến hòa bình ở Liên Xô, vào những năm tuổi già viết cuốn sách Năm 1999 không đánh mà thắng, không tiếc sức lực vạch ra sách lược cho thế hệ sau lật đổ Liên Xô.


Nixon đã từng chủ trương Mỹ - Xô tiến hành "thi đua hòa bình", nhưng thực chất của "thi đua hòa bình" mà ông nói là từ để thay thế cho diễn biến hòa bình. Trong cuốn Năm 1999 không đánh mà thắng, Nixon đã nói thẳng thừng rằng, "chỉ có cổ vũ diễn biến hòa bình trong tập đoàn Liên Xô mới có thể giảm bớt trạng thái căng thẳng trong xung đột Mỹ - Xô", "mới có khả năng hòa bình thực sự"1 ([Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Sđd, tr.44). Có thể thấy rằng, Nixon không hề hy vọng Mỹ cùng với quốc gia xã hội chủ nghĩa lớn nhất thế giới thi đua hòa bình thực sự, cùng xây đắp hòa bình cho nhân loại, duy trì an ninh và ổn định thế giới. Mục đích cuối cùng của ông là dựa vào phương thức hòa bình đế loại bỏ triệt để Liên Xô và các nước Đông Âu dưới sự ảnh hưởng của nó. Trong mắt ông, diễn biến hòa bình là sự lựa chọn tốt nhất để Mỹ chiến thắng Liên Xô với cái giá nhỏ nhất, từ đó lãnh đạo thế giới.


Năm 1975, sau khi "Hiệp định Henxinki" được ký kết tại Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu, các nước phương Tây càng công khai dưới danh nghĩa "quan tâm tình hình nhân quyền của nhân dân Liên Xô" để gia tăng thêm áp lực và ảnh hưởng đối với Liên Xô, hòng lấy giá trị quan phương Tây trói buộc Liên Xô, đồng thời ủng hộ phong trào "người bất đồng chính kiến" dưới nhiều hình thức (bao gồm cổ vũ những tổ chức kiểu như "nhóm công chúng giám sát Liên Xô thực hiện điều khoản văn kiện Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu" được thành lập ở Mátxcơva và một số thành phố lớn khác của Liên Xô), từ đó mở rộng hơn nữa quy mô và ảnh hưởng của phong trào "người bất đồng chính kiến".


Reagan, Tổng thống Mỹ giữa những năm 80 của thế kỷ XX là một cao thủ trong việc thúc đẩy chính sách diễn biến hòa bình ở Liên Xô. Tháng 6 năm 1982, trong bài phát biểu tại một hội nghị nước Anh ông đã bày tỏ rằng sứ mệnh chủ yếu của thế giới phương Tây giai đoạn cuối thế kỷ XX là "vừa bảo vệ hòa bình, vừa bảo vệ tự do". Để "tư tưởng tự do và dân chủ dần dần tỏa sáng", các nước phương Tây "phải hành động", giúp đỡ cái gọi là "phong trào dân chủ" ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nói một cách cụ thể, tức là "nuôi dưỡng kết cấu cơ sở của dân chủ" ở một số nước này, xây dựng "chế độ xuất bản tự do, thành lập công đoàn, tổ chức chính đảng, mở trường đại học", bởi vì chế độ này cho phép nhân dân của một nước tự lựa chọn văn hóa nước mình, thông qua phương thức hòa bình để có biện pháp điều hòa mâu thuẫn của nước mình. Để thực hiện được những mục tiêu này, ông chủ trương Liên Xô và Mỹ thực hiện cái gọi là "cạnh tranh tư tưởng và quan niệm giá trị" "trên cơ sở hòa bình và đối đẳng". Ông bày tỏ tin tưởng, "trên con đường thẳng tiến của sự nghiệp tự do dân chủ, chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ bị vứt vào đống rác lịch sử". Đồng thời ông cũng không quên nói với mọi người, nhiệm vụ mà ông đã đưa ra không phải những người thuộc thế hệ của ông có thể hoàn thành được1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.42-46).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:05:54 am
2. Biết bao hình thức biểu hiện của sách lược và thủ pháp diễn biến hòa bình

Mục tiêu chiến lược diễn biến hòa bình ở Liên Xô của các nước phương Tây là bất di bất dịch, nhưng sách lược và thủ pháp thực hiện mục tiêu này lại linh hoạt, đa dạng. Cùng với sự thay đổi, phát triển của tình hình quốc tế, đặc biệt là tình hình nội bộ Liên Xô, cũng như mối quan hệ giữa phương Tây và phương Đông - mà trước tiên là mối quan hệ giữa Liên Xô và phương Tây lúc lên lúc xuống, sách lược diễn biến hòa bình do Mỹ và các nước phương Tây thực thi ở Liên Xô trong những giai đoạn khác nhau có hình thức biểu hiện khác nhau. Nhưng nói tóm lại, hình thức có muôn màu thì bản chất vẫn chỉ có một. Các nhân tố vận dụng tổng hợp, các sách lược khác nhau được phối hợp với nhau là thủ pháp cơ bản nhất, thông thường nhất mà các nước phương Tây thực thi diễn biến hòa bình ở Liên Xô.


Một là, lợi dụng tuyên truyền quảng bá để thực hiện "chiến tranh tuyên truyền" và "chiến tranh tâm lý" trong một thời gian dài.

Tập đoàn thống trị Mỹ rất coi trọng tác dụng đặc biệt của truyền thông đại chúng trong truyền bá quan niệm giá trị của phương Tây, hủy hoại thanh danh của chủ nghĩa xã hội, bôi xấu hình ảnh Đảng Cộng sản, diễn biến hòa bình các nước xã hội chủ nghĩa. Tổng thống Mỹ cuối những năm 50 của thế kỷ XX Eisenhower tuy xuất thân là quân nhân, nhưng quen thuộc với tác dụng đặc biệt của công cụ tuyên truyền trong đấu tranh chính trị quốc tế. Ông đã từng nhấn mạnh, nước Mỹ chi 1 USD cho tuyên truyền, tương đương với chi 5 USD cho quốc phòng. Năm 1977, Tổng thống Carter lên nắm quyền, cũng coi trọng công tác tuyên truyền, ông khen ngợi đài Tiếng nói Hoa Kỳ là "nhân tố mang tính then chốt trong chính sách đối ngoại của Mỹ". Chính phủ Reagan cũng rất coi trọng vai trò to lớn của tuyên truyền dư luận, năm 1983 từng bỏ ra 1 tỷ USD để giúp đỡ phát triển sự nghiệp tuyên truyền. Quốc hội Mỹ tuyên bố trong một văn kiện lúc đó: "Phát thanh truyền hình là phương pháp duy nhất có thể lật đổ được chế độ xã hội chủ nghĩa"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.75).


Các nước phương Tây đứng đầu là Mỹ luôn xem các kênh phát thanh thù địch với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu trong triển khai cuộc chiến tuyên truyền chống Xô, chống cộng. Trong các công cụ này, công cự chủ yếu nhất, ảnh hưởng tương đối lớn thuộc về đài "Tiếng nói Hoa Kỳ", đài "Châu Âu tự do", đài "Tự do", đài "BBC" của Anh, v.v...


Đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" là một trong những công cụ quan trọng nhất để nước Mỹ tiến hành tuyên truyền chống cộng, thực hiện chính sách diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa. Đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" thành lập vào năm 1942, lúc đầu thuộc Cục tình báo thời chiến, sau là đài phát thanh do Cục Báo chí Mỹ quản lý, đến đầu những năm 1950 đã có hàng vạn nhân viên, mỗi ngày dùng các loại ngôn ngữ phát liên tục trong 5 giờ đồng hồ, mỗi năm chi hàng trăm triệu USD2 (Âu Dương Hồng Binh, Nguyễn Tông Triết: Nhà ngoại giao thời kỳ chiến tranh lạnh - Dulles, Sđd, tr.112). Năm 1978, đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" do Cục Giao lưu quốc tế Mỹ quản lý. Năm 1982, Cục Giao lưu quốc tế đổi tên thành Cục Báo chí Mỹ, trực thuộc lãnh đạo Nhà Trắng. Từ đó, địa vị và vai trò của đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" được nâng cao hơn. Giám đốc đài phải do Tổng thống bổ nhiệm, người đứng đầu của các bộ phận quan trọng đều phải do quan chức ngoại giao đảm nhiệm. Từ năm 1982, đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" thành lập Ban Xã luận, khi viết các bài xã luận phải trao đổi ý kiến với các cơ quan như Nội các, Nhà Trắng, Bộ Quốc phòng Mỹ, để phản ánh chính, xác lập trường và tiếng nói của Chính phủ Mỹ. Theo thống kê của người dân Mỹ, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" có 30 triệu thính giả ở Liên Xô, chiếm hơn 10% tổng dân số Liên Xô lúc đó. Tháng 12 năm 1987, trong buổi Kỷ niệm thành lập đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" Reagan đã đích thân gửi điện chúc mừng, khen ngợi đây là "lực lượng phi quân sự to lớn, là lực lượng phát sáng trong bầu trời xã hội cộng sản chủ nghĩa đen tối"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.76).


Đài ''Châu Âu tự do" và đài "Tự do" là hai đài cỡ lớn mà Mỹ xây dựng ở châu Âu nhằm đối phó với Liên Xô. Trong đó đài "Châu Âu tự do" được thành lập vào năm 1949, do "Ủy ban châu Âu tự do" của Mỹ tổ chức thành lập, lấy thính giả ở các quốc gia Đông Âu làm đối tượng chính, mục đích là đập tan ảnh hưởng của Liên Xô ở khu vực này. Đài "Tự do" thành lập năm 1951, do "Ủy ban Bônsêvích giải phóng" tổ chức thành lập, lúc đầu gọi là Đài phát thanh giải phóng, chuyên làm công tác tuyên truyền chống Liên Xô. Hai đài phát thanh này trên danh nghĩa là độc lập, trên thực tế đều do Chính phủ Mỹ kiểm soát nghiêm ngặt và cấp vốn. Cho đến đêm trước Liên Xô giải thể, hai đài phát thanh này tổng cộng có hơn 1.740 nhân viên, chủ yếu đến từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Số tiền mà Cục Quản lý Đài Quốc tế Mỹ chi cho hai đài này lên tới 195 triệu USD1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.79). Lúc đó, đài "Châu Âu tự do" ngoài việc mỗi ngày phát 19 giờ bằng ngôn ngữ của các nước Trung, Đông Âu còn phát 3 giờ bằng tiếng dân tộc thiểu số Liên Xô như tiếng Extônia, Látvia, Lítva. Đài "Tự do" mỗi ngày phát bằng tiếng Nga và ngôn ngữ của 11 dân tộc thiếu số Liên Xô, mỗi tuần phát tổng cộng 46 giờ. Nixon từng khen ngợi rằng, riêng đài "Châu Âu tự do" và đài "Tự do" đã ngăn chặn được Liên Xô gieo rắc ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân Liên Xô và Đông Âu.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:06:32 am
Hai là, lợi dụng giao lưu nhân viên để thâm nhập tư tựởng, làm sa đọa thế hệ sau của Liên Xô.

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ và các nước phương Tây áp dụng chính sách phong tỏa nghiêm ngặt đối với Liên Xô, giao lưu nhân viên giữa Liên Xô và các nước phương Tây tương đối hạn chế. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn, địa vị quốc tế và vai trò của Liên Xô cũng nâng cao rõ rệt. Cùng với mức độ tham gia vào các sự vụ quốc tế của Liên Xô không ngừng mở rộng, giao lưu nhân viên và giao lưu văn hóa giữa Liên Xô với các nước phương Tây cũng không ngừng được phát triển. Sau khi Khrushchev nắm giữ quyền lực tối cao trong Đảng và Chính phủ Liên Xô, giương ngọn cờ chống sùng bái cá nhân phủ định hoàn toàn Xtalin, Liên Xô xuất hiện cái gọi là "tan băng" thì giao lưu giữa Liên Xô và các nước phương Tây xuất hiện cục diện gần như là "không đề phòng".


Trước tình hình này, một số chính trị gia Mỹ nhìn nhận ra, thông qua giao lưu nhân viên tiến hành thâm nhập tư tưởng văn hóa vào Liên Xô có thế là một trong những phương thức nhanh nhất "gieo những hạt giống tự do" ở những quốc gia này. Năm 1956, Tổng thống Mỹ Eisenhower đề ra ý tưởng triển khai "giao lưu nhân dân với nhân dân" trên quy mô lớn với Liên Xô. Năm 1957, Khushchev thăm Mỹ, quan hệ Mỹ - Xô đột nhiên ấm lên. Trong năm này, ngay cả đến Dulles chống cộng cực đoan cũng cho rằng đây là cơ hội không được đánh mất. Ông vui mừng bày tỏ, nước Mỹ gửi gắm hy vọng vào thế hệ sau của lãnh đạo Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bởi vì các vị lãnh đạo này "phải có con, rồi đến con của con họ, thế hệ sau của họ sẽ giành được tự do". Theo hồi ức sau này của Eisenhower, đến năm 1958, ông "từng nghiên cứu và phác thảo ra một kiến nghị, yêu cầu Mỹ và Liên Xô trao đổi hàng loạt lưu học sinh, số người phải vượt xa con số ít ỏi mà mỗi năm chúng ta (Mỹ) cử đi hoặc nhận vào, tổng số có thể lên đến hàng vạn người". Sở dĩ ông đưa ra kiến nghị này, theo lời của chính ông, bởi vì ông đã chán việc gặp gỡ những người cộng sản Liên Xô lão thành lắm rồi, sẽ có một ngày lớp người mới nắm quyền ở Liên Xô, phải nỗ lực tranh thủ chính là lớp người này". Tháng 1 năm 1960, báo cáo nghiên cứu "ý thức hệ và công việc ngoại giao" của ủy ban Ngoại giao Thượng nghị viện Mỹ đã công khai cổ xúy: "Để thúc đẩy diễn biến chế độ ở Liên Xô và nội bộ tập đoàn cộng sản, chúng ta nên đề xướng tiếp xúc rộng rãi nhất với xã hội cộng sản". Tháng 10 năm 1963, Ngoại trưởng Anh Alec Douglas - Home cũng nêu ra: "Xét về lâu dài, con đường đánh bại chủ nghĩa cộng sản là dùng tư tưởng của chúng ta để đánh vào các nước cộng sản chủ nghĩa"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.100).


Thực tế sau này chứng minh, người Mỹ không hề uổng công vô ích. Thông qua việc thu hút lượng lớn thanh niên Liên Xô sang Mỹ du học, họ đã dốc sức tiến hành tuyên truyền chống cộng trong giới trẻ Liên Xô, cuối cùng cũng đào tạo được một lực lượng thân Mỹ, thân phương Tây, chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội. Yakovlev, người đã từng bị thương nơi tiền tuyến trong Chiến tranh Vệ quốc, sau chiến tranh được đào tạo chuyên sâu ở Ban Nghiên cứu sinh Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng thuộc vào hàng ngũ này. Theo lời ông ta, sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, ông đi Mỹ, tuy sau này có trở về, nhưng "trong đầu đã ăn sâu tư tưởng tự do", "vấn đề tư tưởng đã lệch sang hữu rồi". Từ đó trở đi, ông bắt đầu "cải cách thế giới quan", không còn tin vào chủ nghĩa xã hội nữa, mà cho rằng "thời khắc giấc mơ xã hội chủ nghĩa tự kết liễu mình, thời khắc năng lực động viên tư tưởng xã hội chủ nghĩa tự cạn kiệt sớm muộn rồi cũng sẽ tới"1 (A.N. Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.20-22). Chính con người mất khí tiết chính trị bị Mỹ diễn biến hòa bình này vào cuối những năm 60 đẩu những năm 70 của thế kỷ XX đã trở thành một quan chức cấp cao trong Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, và sau này lại đảm nhiệm chức Đại sứ Liên Xô tại Canada. Sau khi Gorbachev lên cầm quyền vào giữa những năm 1980, ông đã trở thành một cốt cán đắc lực của Gorbachev, thậm chí được phương Tây gọi là "cha đẻ của cải tổ" và "cha đẻ của dân chủ" ở Liên Xô. Từ năm 1990 đến năm 1991, khi công cuộc cải tổ của Đảng Cộng sản Liên Xô mắc sai lầm khiến tình hình không ổn định, Yakovlev với vai trò là thành viên nòng cốt trong tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đầu tiên đã ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương, sau đó chính thức tuyên bố ra khỏi Đảng. Sau đó, ông từ người của phái dân chủ công khai và cuồng nhiệt trong Đảng trở thành một kẻ chống chủ nghĩa Mác và một phần tử chống cộng ngoan cố và cực đoan.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:07:16 am
Ba là, lợi dụng cái gọi là "vấn đề nhân quyền " để can thiệp nội bộ, ra sức ủng hộ "người bất đồng chính kiến".

Lãnh đạo Mỹ và các nước phương Tây khác đều rất coi trọng vai trò đặc biệt của vấn đề nhân quyền trong quá trình diễn biến hòa bình ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong cuộc tranh tài chính trị đối kháng với Liên Xô, lật đổ Đông Âu, để sử dụng tốt con bài "nhân quyền", đánh tốt trận "nhân quyền" này, không một đời Tổng thống Mỹ nào sau chiến tranh thế giới là không vắt óc suy nghĩ. Ví dụ, năm 1961 sau khi Kennedy được bầu làm Tổng thống Mỹ đã bày tỏ rõ ràng, Mỹ và các nước phương Tây phải "lợi dụng đầy đủ vấn đề nhân quyền để phát huy sức ảnh hưởng của đạo nghĩa". Năm 1974, Quốc hội Mỹ thông qua tu chính án Jackson Vanik, trực tiếp gắn kết vấn đề chính sách di dân của Liên Xô và các nước Đông Âu với vấn đề đãi ngộ tối huệ quốc trong thương mại quốc tế. Năm 1975, nước Mỹ công khai tuyên bố, vấn đề nhân quyền đã trở thành "vấn đề bức thiết nhất trong thời đại chúng ta". Sau đó, nội các Mỹ chính thức thành lập Cục Sự vụ nhân quyền, lợi dụng vấn đề nhân quyền can thiệp vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là mức độ can thiệp vào nội bộ Liên Xô tăng lên rõ rệt.


Trong thời kỳ này, do có sự giúp đõ mạnh mẽ của các nước phương Tây, đồng thời cũng do nguyên nhân tự thân của Liên Xô, phong trào "người bất đồng chính kiến" của Liên Xô đặc biệt sôi nổi. Những người tham gia phong trào này không chỉ có những phần tử trí thức sùng bái dân chủ phương Tây và những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, mà còn có phái tự do trong Đảng, trong đó có nhà vật lý học hạt nhân nổi tiếng, người được mệnh danh là "cha đẻ của bom khinh khí", viện sĩ Sakharov. Năm 1975, Sakharov được trao giải Nobel hòa bình. Bất cứ người nào lúc đó cũng đều không khó để nhìn ra, giải thưởng mà phương Tây trao cho Sakharov không phải vì thành tích học thuật của ông, mà bởi hoạt động chính trị của ông ở cái gọi là "Ủy ban nhân quyền" do ông thành lập được Mỹ và các nước phương Tây vô cùng thích thú. Từ đó trở đi, giải Nobel hòa bình cũng trở thành một công cụ mà các nước phương Tây thực hiện diễn biến hòa bình ở Liên Xô.


Sau khi Carter lên nắm quyền Tổng thống Mỹ năm 1977, nước Mỹ tuyên bố rõ ràng, "nguyên tắc đạo nghĩa là cơ sở tốt nhất để sử dụng vũ lực của Mỹ và mở rộng ảnh hưởng của Mỹ". Vai trò của nhân quyền trong ngoại giao Mỹ, đặc biệt là trong xử lý quan hệ với Liên Xô ngày càng rõ rệt. Carter nhậm chức không lâu đã tiếp kiến tác giả lưu vong ở phương Tây Solzhenitsyn, để động viên tinh thần cho ông và những "người bất đồng chính kiến" của Liên Xô. Đồng thời ông còn gửi thư cho Sakharov, bày tỏ rõ ràng rằng, nước Mỹ "sẽ tiếp tục thực hiện lời hứa kiên định thúc đẩy nhân quyền ở nước ngoài".


Để bày tỏ ủng hộ cái gọi là "sự nghiệp nhân quyền" của những "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô, tháng 4 năm 1979, Mỹ dùng chiêu bài "bảo vệ nhân quyền", dùng hai gián điệp Liên Xô hoạt động trong Liên hợp quốc bị Mỹ bắt để đổi lấy năm "người bất đồng chính kiến", lấy đó bôi xấu thanh danh của Liên Xô. Tháng 12 năm đó, chính quyền Carter còn tổ chức cái gọi là "tuần lễ nhân quyền", một mặt nhằm thể hiện với toàn thế giới về lý tưởng, niềm tin và quyết tâm của Mỹ thúc đẩy nhân quyền; mặt khác cũng là để gia tăng áp lực với Liên Xô, tạo thế trợ uy cho phong trào "người bất đồng chính kiến" đang ngày càng sôi nổi ở Liên Xô.


Sau khi Reagan lên nắm quyền năm 1981, vị trí và vai trò của ngoại giao nhân quyền trong chính sách đối ngoại của Mỹ tiếp tục tăng cao. Lúc này, ngay cả một số người Mỹ cũng nhìn ra được ý đồ thực sự của Mỹ trong việc giương cao lá cờ nhân quyền ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Một vị học giả tên là Lawrence Sohöp nói rất có lý, nước Mỹ thúc đẩy ngoại giao nhân quyền, "mục tiêu công kích thực tế chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa, nó có khuynh hướng chống cộng mạnh mẽ và khôi phục chiến tranh lạnh về ý thức hệ". Ông còn thẳng thắn chỉ ra rằng: "mục tiêu cuối cùng của phong trào nhân quyền là âm mưu cổ vũ người bất đồng chính kiến ở những nước xã hội chủ nghĩa"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.92-93).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 26 Tháng Ba, 2022, 07:08:18 am
Bốn là, lợi dụng rộng rãi các tổ chức phi chính phủ, xây dựng lực lượng phá hoại trong nội bộ Liên Xô.

Sau những năm 80 của thế kỷ XX, quy mô hành động diễn biến hòa bình ở Liên Xô của các nước phương Tây càng lớn, cũng càng khó đề phòng. Từ đó trở đi, phương Tây không chỉ dừng lại ở ủng hộ những "người bất đồng chính kiến" đơn lẻ, tự mình tác chiến nữa, mà đồng thời chuyển hướng nhìn sang các tổ chức phi chính phủ đang lên. Bởi vì những tổ chức này không những hoạt động rất sôi nổi mà còn vô cùng dễ dàng trong việc truyền bá quan niệm giá trị phương Tây, mở rộng cách sống của phương Tây, lên tiếng ủng hộ phe đối lập trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu, phối hợp với chính phủ nước mình thực hiện diễn biến hòa bình ở Liên Xô và Đông Âu.


Năm 1982, Tổng thống Mỹ Reagan phát biểu bài diễn thuyết nổi tiếng ''thúc đẩy phong trào dân chủ hóa". Tháng 10 năm đó, Quốc vụ khanh Shultz đã triệu tập hội nghị với chủ đề "Dân chủ hóa quốc gia Đảng Cộng sản". Tại Hội nghị, ông bày tỏ rõ ràng: nước Mỹ gửi gắm hy vọng vào các thế lực nội bộ của các quốc gia Đảng Cộng sản. Để cái mà nước Mỹ gọi là thế lực nội bộ gia tăng áp lực lên chính quyền Đảng Cộng sản, chính phủ Mỹ ngoài "hai thứ hành động và ngôn luận chỉ trích các hành động của quốc gia Đảng Cộng sản xâm phạm nhân quyền" ra, còn "cần có công cụ mới, lực lượng mới, trọng điểm mới", "cần áp dụng nhiều hành động hơn nữa để ủng hộ sự xuất hiện của dân chủ ở các nước cộng sản".


Sau đó, vào cuối năm 1983, Quốc hội Mỹ thông qua biện pháp toàn quốc thực hiện tặng tiền dân chủ. Năm sau đó, một tổ chức mang tên "Quỹ dân chủ toàn quốc" được thành lập ở Mỹ, thành viên của nó bao gồm các loại đoàn thể chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa như Thương hội Mỹ, Liên minh lao động - liên minh sản xuất. Quốc hội Mỹ mỗi năm đểu phải cấp vốn cho Quỹ có bôỉ cảnh đặc biệt, sứ mệnh đặc biệt này. Theo thống kê, năm 1989 xảy ra biến động lớn ở Đông Âu, số tiền mà Quốc hội Mỹ chi cho Quỹ này lên tới 25 triệu USD. Một hãng truyền thông Anh lúc đó tiết lộ: mục đích chủ yếu mà Quốc hội Mỹ chi cho Quỹ này là "dùng vào phát triển dân chủ", "ở các nước cộng sảrụ điều này bao gồm cả ủng hộ những tổ chức và tờ báo độc lập phục vụ mở rộng cửa và khôi phục xã hội văn minh". Để khoản tiền này đến đúng chỗ, việc cấp kinh phí "được tiến hành thông qua các tổ chức ngầm và các tổ chức lưu vong ở nước ngoài đi ngược lại nguyện vọng của chính quyền Đảng Cộng sản". Nghe nói, Quốc vụ viện Mỹ tương đối hài lòng với hoạt động của Quỹ này, cho rằng nó là "chất xúc tác hữu dụng để Mỹ liên hệ với tổ chức địa phương"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.93-94). Lúc đó, Mỹ còn có "trung tâm dân chủ" đặt cơ sở ở New York, cũng nằm trong hàng ngũ tổ chức phi chính phủ. Tổ chức này có tính chất giống với "Quỹ dân chủ toàn quốc", cũng chơi con bài "bảo vệ nhân quyền", cung cấp sách, máy tính và tiền bạc cho "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô.


Thế lực phương Tây, đứng đầu là Mỹ còn đặc biệt quan tâm tới việc khuyến khích và ủng hộ thế lực chia rẽ dân tộc trong nước Liên Xô. Nixon đã từng nói, mối quan hệ giữa người Nga với các dân tộc khác trong đất nước Liên Xô là "quả bom hẹn giờ kêu tích tắc trong bức tường điện Kremlin", phương Tây "khi xây dựng chính sách phải nghĩ đến sự khác biệt lớn vốn có giữa Chính phủ Trung ương Liên Xô và nhân dân các dân tộc Liên Xô", "phải nghĩ cách mở rộng liên hệ giữa phương Tây và nhân dân Liên Xô". Bởi vì nhìn về lâu dài, "tiếp xúc với nhân dân tự do phương Tây tất nhiên sẽ khiến Chính phủ Liên Xô chịu càng nhiều áp lực quốc tế, buộc Chính phủ Liên Xô phải cho phép nhân dân của mình chi phối nhiều hơn nữa đời sống của chính mình"2 ([Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Sđd, tr.40).


Mỹ và các nước phưang Tây không tiếc công sức, không từ thủ đoạn hỗ trợ các thế lực phản động trong nội bộ Liên Xô, kiên định mục tiêu làm tan rã và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Một trong hai chủ biên của tờ Tạp chí Dân chủ của "Quỹ dân chủ toàn quốc" Mỹ là Larry Diamond không hề che đậy nói rằng, Mỹ và các nước phương Tây thực hiện "nhân quyền" và "dân chủ hóa" ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, tức là phải "xây dựng xã hội văn minh" ở các quốc gia này, mà các bước đi cụ thể để thực hiện mục tiêu này, "đầu tiên là phải phá võ sự độc quyền của đảng và chính phủ trong các mặt thông tin, tổ chức và quyền lực", "tiếp đến phải có xuất bản phẩm độc lập, thành lập các đoàn thể như công đoàn, doanh nghiệp và các tổ chức khác, mở rộng lĩnh vực chính trị trong các hoạt động tự do, thu hẹp quyền lực của chính phủ", "sau đó các phần tử dân chủ phát động một phong trào chia sẻ quyền lực và cuối cùng tiếp nhận quyền lực", "giống như Công đoàn Đoàn kết của Ba Lan tiến hành thành công hoạt động và tiếp nhận quyền lực"1 (Lưu Hồng Triều (chủ biên): Chiến lược, sách lược, thủ pháp của phương Tây trong diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.95-96).


Về vấn đề này, trong cuốn Năm 1999 không đánh mà thắng Nixon còn nói trắng trợn hơn. Ông bày tỏ, Mỹ và phương Tây phải thường xuyên thông qua "kênh bí mật" "cấp vốn cho các cá nhân và đoàn thể ủng hộ mục tiêu của Mỹ" ở Liên Xô và các nước Đông Âu, để "ủng hộ phong trào dân chủ chính trị ở những nước này". Ngoài ra, Mỹ còn phải hỗ trợ vốn cho công đoàn, các tờ báo ở đó, để kiên quyết thực hiện "chủ nghĩa Reagan", ủng hộ "chiến sĩ tự do, nhà cách mạng chống cộng" trong nội bộ các quốc gia này.


Năm là, lợi dụng thủ đoạn kinh tế để gia tăng áp lực, làm cho kinh tế Liên Xô rơi vào hoàn cảnh khó khăn.

Các nước trên thế giới dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi để tiến hành giao dịch kinh tế, chuyển nhượng kỹ thuật và hoạt động tín dụng là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế. Nhưng phương Tây lại lấy đó làm thủ đoạn để dụ dỗ và buộc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa "diễn biến hòa bình". Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mỹ một mực lợi dụng việc bí mật thành lập Ủy ban trù bị Pari tháng 11 năm 1949 để tiến hành bao vây, cấm vận và hạn chế thương mại đối với các nước xã hội chủ nghĩa, hòng gia tăng áp lực. Về điểm này, chính giới phương Tây không hề giấu giếm. Ngày 14 tháng 3 năm 1964, Quốc vụ khanh Mỹ Dean Rusk phát biểu trong Ủy ban Ngoại giao Thượng nghị viện, "từ chối thương mại hay khuyến khích thương mại đều nhằm thúc đẩy thực hiện mục tiêu của nước ta", khiến các quốc gia cộng sản "chịu áp lực lớn nhất về kinh tế". Trong cuốn sách Nền hòa bình chân chính xuất bản năm 1984, Nixon có nói: "Chúng ta phải liên kết lực lượng kinh tế" ở các nước dân chủ công nghiệp hóa để có thể giành được sự nhượng bộ về chính trị từ tập đoàn phương Đông, coi đó là điều kiện trao đổi để chúng ta hợp tác kinh tế"; "tăng cường mậu dịch và tiếp xúc, có thể thúc đẩy diễn biến hòa bình trong nội bộ tập đoàn Liên Xô".


Sách lược này của phương Tây biểu hiện rõ nét trong vấn đề hợp tác phát triển kinh tế với Liên Xô. Ngay từ năm 1935, tức là không lâu sau khi Mỹ và Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao, Mỹ đã phê chuẩn đãi ngộ tối huệ quốc thương mại đối với Liên Xô. Sau khi xảy ra chiến tranh Triều Tiên, Mỹ liền xóa bỏ đãi ngộ tối huệ quốc với Liên Xô. Năm 1972/ trong bối cảnh quan hệ Mỹ - Xô đã ấm lên nhiều, Mỹ lại phê chuẩn đãi ngộ tối huệ quốc với Liên Xô. Tháng 12 năm 1974, Quốc hội Mỹ thông qua Dự luật cải cách thương mại trong đó có "Tu chính án Jackson Vanik", "Tu chính án Stevenson" và Dự luật Ngân hàng xuất nhập khẩu. Dự luật cải cách thương mại quy định, Liên Xô muốn được đãi ngộ tối huệ quốc, phải xóa bỏ hạn chế đối với "người bất đồng chính kiến" trong nước, đặc biệt là người Do Thái di cư ra nước ngoài; Dự luật Ngân hàng xuất nhập khẩu quy định, trong vòng 4 năm, khoản vay tín dụng mà Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ cho Liên Xô vay mỗi năm không quá 300 triệu USD1 (Tham khảo Trần Chi Hoa (chủ biên): Liên Xô thời kỳ Brezhnev, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, tr.303-304). Mặc dù Liên Xô nhiều lần bày tỏ phản đối, nhưng Mỹ không hề động lòng, một mực kiên quyết như vậy. Kết quả là phát triển quan hệ thương mại Mỹ - Xô gặp hạn chế rất lớn, từ đó Liên Xô chịu sự tổn thất nặng nề về kinh tế.


Năm 2007, cựu nhân viên Cục Tình báo Trung ương Mỹ Peter Schweizer xuất bản cuốn Thắng lợi - Chiến lược bí mật của Chính phủ Mỹ đối với Liên Xô, tiết lộ tình hình bên trong việc Chính phủ Mỹ bí mật trù tính làm tan rã Liên Xô. Để đập tan Liên Xô, Chính quyền Reagan và Cục Tình báo Trung ương Mỹ đã thuê một loạt chuyên gia, trong đó có các chuyên gia về kinh tế chính trị quốc tế, xây dựng chiến lược "chiến tranh mềm" Mỹ làm tan rã Liên Xô, một mặt ra sức thúc đẩy cạnh tranh vũ khí hạt nhân, đề ra kế hoạch chiến tranh giữa các vì sao, ép buộc Liên Xô phát triển phiến diện ngành công nghiệp quân sự, tiến hành chạy đua quân sự, lấy đó để tiêu hao thực lực kinh tế của Liên Xô; mặt khác nghĩ trăm phương ngàn kế để kiềm chế giá dầu trên thị trường quốc tế nhằm giảm mạnh nguồn ngoại hối của Liên Xô, buộc Liên Xô rơi vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Có tài liệu nói, từ khi nổ ra chiến tranh Trung Đông lần thứ tư năm 1973, giá dầu trên thị trường quốc tế tăng từ 3,01 USD lên hơn 32 USD mỗi thùng năm 1980. Sau đó, giá dầu trên thị trường quốc tế lại trượt mạnh, cho đến trước và sau năm 1985, vẫn loanh quanh ở mức 13,17 USD mỗi thùng, giá dầu Liên Xô xuất khẩu thấp nhất từng trượt xuồng 6 USD mỗi thùng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:41:01 am
II. THÁI ĐỘ VÀ BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ ĐỐI VỚI DIỄN BIÊN HÒA BÌNH

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô thời kỳ đầu như Lênin, Xtalin sớm đã nhận thức nhạy bén rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một ốc đảo mà kinh tế văn hóa rất không phát triển, giai cấp tiểu tư sản như biển cả mênh mông, ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp mục nát, suy đồi thâm căn cố đế hơn nữa lại bị bao vây bởi chủ nghĩa tư bản trong thời gian dài, Đảng cầm quyền của giai cấp vô sản và chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn phải đổi mặt với khả năng thoái hóa, biến chất, đối mặt với áp lực to lớn do nội bộ thay đổi kết hợp với bên ngoài phá hoại dẫn đến Đảng và Nhà nước tan rã. Để giải quyết vấn đề lịch sử khó khăn chồng chất nàỵ, ứng phó thành công với thử thách mang tính lịch sử sinh tử tồn vong nàỵ, Lênin và Xtalin đã đưa ra một loạt tư tưởng quan trọng phòng chống hủ bại, đồng thời để thực hiện những tư tưởng này đã tiến hành tìm tòi và có thành tích đáng kể, để lại cho thế hệ sau nhiều kinh nghiệm thành công. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô sau này như Khrushchev, Brezhnev dù ít dù nhiều cũng ý thức được sự tồn tại của vấn đề, thậm chí cũng cảm nhận mơ hồ được tính nghiêm trọng, tính phức tạp của vấn đề, nhưng chưa gióng lên hồi chuông cảnh báo kịp thời đến toàn Đảng, chưa đưa ra được tư tưởng rõ ràng để ngăn chặn diễn biến hòa bình, càng chưa đưa ra được chính sách và sách lược chống lại diễn biến hòa bình một cách chi tiết, hệ thống, hiệu quả, để lại chỉ là tai họa tiềm ẩn và bài học lịch sử vô cùng đau đớn.


1. Lênin, Xtalin giữ cảnh giác cao độ trước khả năng thế lực phương Tây lật đổ chính quyền Xôviết

Ngay trước thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga Nga, các thế lực phản động nước Nga đã dự đoán, nói Bônsêvích đoạt lấy chính quyền sẽ tạo nên rất nhiều tai ương và tốt nhất là cứ để cho Bônsêvích giành lấy chính quyền, sau đó lại đánh đổ bọn họ. Lênin là một nhà chiến lược, nhà tư tưởng có tầm nhìn xa trông rộng, đồng thời cũng là một nhà sách lược, nhà thực tiễn coi trọng thực tế. Người tin tưởng chắc chắn rằng, Bônsêvích không những có thế giành được chính quyền, mà còn có thể "chống đỡ được cuộc tổng tiến công của các lực lượng thù địch" trong điều kiện "môi trường rất phức tạp", củng cố chính quyền của mình, quản lý tốt nhà nước mới, tổ chức tốt cuộc sống mới, xây dựng tốt xã hội mới.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đối mặt với hiện thực khó khăn lúc đó do giai cấp tư sản và giới tri thức tư sản nghĩ trăm phương nghìn kế âm thầm phá hoại chính quyền Xôviết mới thành lập, Lênin lập tức xét đến vấn đề giai cấp vô sản và đông đảo nhân dân lao động sẽ quản lý, lãnh đạo đất nước như thế nào, Đảng cầm quyền của giai cấp công nhân sẽ xây dựng chính quyền như thế nào, củng cố chính quyền ra sao. Mùa xuân năm 1918, trong khi suy nghĩ về nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết, Lênin chỉ ra sâu sắc rằng: "Ở nước ta, giai cấp tư sản đã bị đánh bại, nhưng vẫn chưa diệt tận gốc, chưa bị xóa bỏ, thậm chí chưa bị đập tan triệt để. Do đó, phải đề ra chương trình đấu tranh với giai cấp tư sản với hình thức mới cao hơn, phải đi từ nhiệm vụ đơn giản là tiếp tục tước đoạt nhà tư bản chuyển sang nhiệm vụ phức tạp hơn, khó khăn hơn, tức là phải tạo điều kiện để giai cấp tư sản vừa không thể tồn tại được, vừa không thể tái sinh được. Rất rõ ràng, nhiệm vụ này vô cùng to lớn, nhiệm vụ này không hoàn thành tức là không có chủ nghĩa xã hội"1 (Lênin: Toàn tập, Sđđ, q. 34, tr.157,153,177).


Lênin phân tích sâu sắc về môi trường quốc tế và những vấn đề mà chính quyền Xôviết phải đối mặt lúc đó. Người chỉ ra rằng, lực lượng phòng bị của nước Nga Xôviết lúc đầu là rất yêu kém, "trong môi trường quốc tế không ổn định và vô cùng nguy cấp, chúng ta phải dốc toàn bộ sức lực lợi dụng thời cơ do điều kiện khách quan đem lại đê chữa trị vết thương nghiêm trọng trên cơ thể toàn xã hội do chiến tranh gây ra, phát triển kinh tế đất nước"2 (Lênin: Toàn tập, Sđđ, q. 34, tr.157,153,177). Có thể thấy rằng, trong điều kiện tình hình trong và ngoài nước lúc đó phức tạp đan xen, Đảng cầm quyền phải đối mặt với nhiệm vụ muôn vàn khó khăn như vậy, Lênin coi phát triển kinh tế tăng cường thực lực, điều động mọi nhân tố tích cực phấn đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa làm điều kiện hàng đầu để củng cố chuyên chính vô sản, phòng chống chính quyền xã hội chủ nghĩa bị lật đổ và tan rã. Lênin cảnh tỉnh Đảng vừa mới cầm quyền và giai cấp công nhân: "chúng ta một phút cũng không được quên, thế lực tự phát của giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản chống chính quyền Xôviết từ hai mặt: một mặt là hoạt động từ bên ngoài... âm mưu và bạo động... không ngừng đặt điều vu không; mặt khác là hoạt động bên trong, lợi dụng tất cả các phần tử có hại và tất cả những điểm yếu để tiến hành mua chuộc nhằm hỗ trợ cho các hiện tượng vô kỷ luật, tự do phân tán và hỗn loạn"3 (Lênin: Toàn tập, Sđđ, q. 34, tr.157,153,177). Lênin cho rằng, hành động phá hoại trên hai phương diện này đểu vô cùng nguy hiểm.


Trong thời kỳ nội chiến, Lênin và Đảng Bônsêvích đã lãnh đạo quân dân cả nước tiến hành trận chiến đẫm máu chống lại sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc nhằm lật đổ chính quyền Xôviết. Tháng 3 năm 1920, khi cuộc nội chiến sắp kết thúc, hòa bình sắp đến, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Lênin kịp thời chỉ ra rằng: "Sau khi chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến tranh khói lửa như vậy, vẫn còn phải đánh một trận không đổ máu nữa". Các nước phương Tây "muốn biến xây dựng kinh tế trong hòa bình thành đập tan chính quyền Xôviết trong hòa bình. Hỡi các ông đế quốc, xin lỗi, chúng tôi đã có đề phòng!"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.38, tr.285- 286).


Sau khi nội chiến kết thúc, môi trường bên ngoài của đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới dẩn dần được cải thiện, chính quyền nhà nước chuyên chính vô sản ngày càng được củng cố. Trong hoàn cảnh này, Lênin nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của xây dựng Đảng, chỉ ra rằng, trong cuộc đấu tranh chính trị phức tạp với thế lực thù địch, bất kể sự không triệt để hay sự mềm yếu nào về lý luận và bât cứ sự xa rời quần chúng nào trong thực tiễn đều có thể trực tiếp làm tăng nguy cơ giai cấp tư sản lật đổ chính quyền giai cấp vô sản, giai cấp tư sản ngày mai sẽ lợi dụng những thứ mà hôm nay những người có tầm nhìn hạn hẹp cho rằng chỉ là mâu thuẫn về mặt lý luận để đạt được mục đích phản cách mạng của họ.


Cần chỉ ra rằng, trong quá trình chống lại sự đe dọa của ngoại xâm và những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa tư tưởng tư bản chủ nghĩa, Lênin còn suy nghĩ sâu sắc về vấn đề làm thế nào để tồn tại và phát triển lâu dài trong sự bao vây của chủ nghĩa tư bản, kịp thời đưa ra tư tưởng chiến lược cùng chung sống hòa bình với các nước tư bản chủ nghĩa, tích cực tiếp thu những thành quả ưu tú của văn minh nhân loại. Tháng 9 năm 1919, trong thư gửi công nhân Mỹ, Lênin đề ra, trong lịch sử sắp có một "thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa cùng chung sống với các nước tư bản chủ nghĩa"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.188, 200). Tháng 10 năm đó, trong chuyên mục "Trả lời phóng viên báo Tin tức hằng ngày Chicago", Người bày tỏ: Chính phủ Nga Xôviết bảo đảm không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, đồng thời cũng "hoàn toàn đồng ý ký Hiệp định kinh tế  với Mỹ (với tất cả các nước nhung đặc biệt là với Mỹ)"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.37, tr.188, 200). Tháng 2 năm 1920, khi nhận trả lời phỏng vấn của phóng viên hãng Tin tức thế giới của Mỹ, Lênin càng bày tỏ rõ ràng rằng, nước Nga Xôviết muốn chung sống hòa bình với nhân dân các nước. Dựa vào những tư tưởng mang tính xây dựng này của Lênin, Chính quyền Xôviết ngày 15 tháng 3 năm 1922 đã ra Công hàm trước khi triệu tập Hội nghị Genoa, trang nghiêm tuỵên bố rằng: "Chính phủ nước Nga không hề che giấu sự khác biệt căn bản giữa các nước cộng hòa Xôviết và các quốc gia tư bản chủ nghĩa về chế độ chính trị và chế độ kinh tế, nhưng đồng thời cũng cho rằng, hai bên hoàn toàn có thể hợp tác có hiệu quả và đi đến sự đồng thuận trong lĩnh vực kinh tế... Chính quyền Xô viết sẽ cử đoàn đại biểu đến Genoa dự Hội nghị và quyết tâm sẽ hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia, bảo đảm không can thiệp vào chính trị nội bộ và tổ chức kinh tế của nhau"3 ([Liên Xô] Gromyko (chủ biên): Lịch sử chính sách đối ngoại của Liên Xô, Sđd, quyển thượng, tr.188).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:42:00 am
Là bậc thầy về tư tưởng và là lãnh tụ chính trị của cách mạng vô sản, Lênin từ trước tới nay luôn là người theo chủ nghĩa hiện thực. Người nhất quán cho rằng, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không phải là quan hệ đối lập đơn giản, mà là quan hệ qua lại và phát triển. Ngay từ đầu Người đã nói, "chủ nghĩa xã hội có thực hiện được hay không, được quyết định bởi chúng ta có kết hợp tốt hay không giữa chính quyền Xôviết, tổ chức quản lý Xôviết với những thứ tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.170-171, 520). Dưới góc nhìn của Lênin, chính quyền giai cấp vô sản nêu không lợi dụng đầy đủ chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là thành tựu về văn hóa, kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, thì không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội. Sau khi nội chiến thắng lợi, cùng với sự khôi phục của kinh tế và triển khai sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin suy nghĩ càng sâu hơn, xa hơn về vấn đề quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, tư tưởng chủ nghĩa xã hội phải kế thừa và phát triển tất cả những thành quả văn minh nhân loại, trong đó có thành tựu của chủ nghĩa tư bản, lại càng chín muồi hơn. Người đã từng nói, "sứ mệnh lịch sử của Xôviết là đảm nhiệm cả vai trò người đào huyệt, người kế thừa và người tiếp quản chế độ nghị viện tư sản cũng như cả chế độ dân chủ tư sản"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.39, tr.70). Lênin còn dùng một công thức đơn giản để giải thích tư tưởng của Người: chính quyền Xô viết + trật tự đường sắt của Phổ + kỹ thuật của Mỹ và tổ chức Trust + giáo dục quốc dân Mỹ + ... = tổng = chủ nghĩa xã hội3 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.34, tr.170-171, 520). Nếu đơn giản hóa một chút công thức này của Lênin, đó chính là: chính quyền Xôviết + thành quả văn minh của chủ nghĩa tư bản = chủ nghĩa xã hội.


Xtalin là người kế tục sự nghiệp vĩ đại mà Lênin sáng lập ra, lãnh đạo Đảng và nhà nước Liên Xô trong suốt 30 năm. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội hình thành ở Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Xtalin còn tồn tại nhiều vấn đề, Xtalin trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều sai lầm, thậm chí mắc sai lầm nghiêm trọng, nhưng không một chút nghi ngờ rằng: để ngăn chặn một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới không bị lật đổ, không thay đổi màu sắc, Xtalin đã tiến hành tìm tòi hữu ích về mặt lý luận và đổ ra công sức to lớn về mặt thực tiễn.


Trước hết, Xtalin thấy rõ rằng, sau khi âm mưu dùng thủ đoạn quân sự để tiêu diệt chính quyền Xôviết bị thất bại, các nước phương Tây có thể dùng các thủ đoạn phi quân sự để tiếp tục kiềm chế. Năm 1928 ông đã chỉ ra rằng, chỉ cần "giai cấp vẫn tồn tại, tư bản quốc tếvẫn tồn tại, các nước phương Tây sẽ không chịu ngồi yên nhìn một nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển. Trước đây, tư bản quốc tế muốn dùng sự can thiệp quân sự trực tiếp để lật đổ chính quyền Xôviết. Thử nghiệm này không thành công. Hiện tại tư bản quốc tế vắt óc suy nghĩ, hơn nữa sau này cũng sẽ vắt óc suy nghĩ dùng can thiệp kinh tế một cách tiềm ẩn, không thể cảm nhận được nhưng lại rất hiệu quả để làm suy yếu thực lực kinh tế của nước ta", "tất cả những điều này đều liên quan chặt chẽ tới cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư bản quốc tế và chính quyền Xôviết, căn bản đừng nói gì đến ngẫu nhiên cả"1 (Xtalin: Tuyển tập, Sđd, quyển hạ, tr.25). Từ đó, ông cảnh tỉnh toàn Đảng phải "giữ cảnh giác cao nhất" đối với các hành động can thiệp và phá hoại phi quân sự trong và ngoài nước.


Thứ hai, Xtalin nhạy bén phát hiện ra khả năng và nguy cơ cán bộ trong Đảng lơ là, nhụt ý chí trong thời kỳ phát triển hòa bình. Lúc đó, Liên Xô đã bước vào thời kỳ phát triển hòa bình, thế giới tư bản chủ nghĩa đã chuyên sang giai đoạn tương đối ổn định. Do đó, trong Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần nảy sinh tư tưởng ngủ say trong hòa bình, như thể sự nghiệp xã hội chủ nghĩa có thể thuận buồm xuôi gió, giống như ngồi trên chuyến tàu nhanh đặc biệt, không cần đổi chuyên là có thể đi thẳng tới chủ nghĩa xã hội. Xtalin đã đưa ra những phê bình sắc bén đối với những tư tưởng được gọi là "thuyết buông trôi", "thuyết vận may", tự nhiên "tất cả sẽ đâu vào đấy" và từ đó nảy sinh những tư tưởng lười biếng, tinh thần sa sút. Ông chỉ ra rằng, những tư tưởng này không có lợi cho phát triển hòa bình của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Ông nhắc nhở toàn Đảng, nhất định không được cho rằng mình có 1 triệu đảng viên, 2 triệu đoàn viên, 10 triệu hội viên công đoàn là có thể bảo đảm chiến thắng quân địch, quyết không được tự an ủi mình. Ông còn nghiêm khắc cảnh báo toàn Đảng: "Một chính đảng to lớn nhất, nêu không tiếp thu bài học của lịch sử, nếu không thường xuyên tăng cường sẵn sàng chiến đấu cho giai cấp mình, cũng có thể lâm vào cảnh bất ngờ gặp địch, cũng có thể bị tiêu diệt"1 (Xtalin: Toàn tập, Sđd, q.11, tr. 57-58).


Đặc biệt là, Xtalin hết sức coi trọng tăng cường giáo dục tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trong và ngoài Đảng nhằm chống lại sự xâm nhập và thẩm thấu của ý thức hệ tư sản phương Tây. Điểm này biếu hiện rất rõ ràng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô có mấy chục triệu dân sinh sống trong vùng bị địch tạm chiếm giữ, hàng triệu người bị bọn phátxít giam giữ tại nước Đức, còn rất nhiều quân nhân bị bắt làm tù binh, những người này bị đầu độc và ảnh hưởng bởi tư tưởng của bọn phátxít. Trong quá trình hồng quân Liên Xô phản công thắng lợi, lại có một bộ phận lực lượng vũ trang bám rễ ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa, họ cũng bị các thế lực phản động phương Tây nghĩ trăm phương ngàn kế gặm nhấm về tư tưởng. Tất cả những điều trên khiến một số công dân Liên Xô có ảo tưởng nhất định về chế độ tư bản chủ nghĩa, từ đó tạo điều kiện cho chủ nghĩa đế quốc thúc đẩy diễn biến hòa bình đối với Liên Xô. Đối mặt với tình hình mới này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã triển khai cuộc vận động giáo dục tư tưởng cộng sản chủ nghĩa với quy mô lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời còn thiết lập lại hệ thống giáo dục trong Đảng, tổ chức phần lớn cán bộ đến học tập tại trường Đảng các cấp, nâng cao hơn nữa trình độ tư tưởng chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cộng sản của đông đảo đảng viên và quần chúng. Đồng thời, Đảng Cộng sản Liên Xô còn phê bình nghiêm khắc ý thức hệ tư sản phương Tây, nhấn mạnh phản đối "chủ nghĩa thế giới". Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô không những đưa ra các nghị quyết riêng về nhiều vấn đề trong lĩnh vực văn nghệ, mà còn tổ chức các buổi thảo luận chuyên đề về các phương diện triết học, sinh vật học, ngôn ngữ học, kinh tế chính trị học. Không thể phủ nhận rằng, trong phong trào giáo dục tư tưởng này Đảng Cộng sản Liên Xô cũng có một số sai lầm: một là, thiếu sự phân tích thực sự cầu thị, xem nhẹ ưu điểm và thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong khoa học kỹ thuật và quản lý; hai là, cương lĩnh hóa một cách ồ ạt, nâng một số vấn đề học thuật thành vấn đề chính trị, đồng thời dùng biện pháp mệnh lệnh hành chính để giải quyết, kết quả đã làm tổn thương một loạt phần tử trí thức, gây ra hậu quả không tốt. Mặc dù vậy, cần phải khẳng định vai trò của phong trào giáo dục tư tưởng này đối với việc chống lại diễn biến hòa bình của phương Tây, nó nói lên sự cảnh giác cao độ của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với âm mưu diễn biến hòa bình của phương Tây. Thời kỳ Khrushchev mặc dù có phê phán Xtalin, nhưng trong cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô xuất bản lúc đó vẫn khẳng định, thông qua cuộc đấu tranh này, "chủ nghĩa thế giới và tư tưởng giai cấp tư sản khác đã bị đánh đòn chí mạng", "trình độ tư tưởng văn hóa của Liên Xô đã nâng cao rất nhiều, do đó có khả năng nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ và văn hóa của nhân dân Liên Xô1 ([Liên Xô] B.N. Ponomariov (chủ biên): Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô, Sđd, tr. 664).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:43:02 am
2. Những sai lầm nghiêm trọng của Đảng Cộng sản Liên Xô trong ứng phó với diễn biến hòa bình thời kỳ Khrushchev

Thời kỳ đầu Khrushchev lên nắm quyền, đúng vào lúc cuộc Chiến tranh vệ quốc của Liên Xô kết thúc không lâu. Lúc đó, kinh tế quốc dân Liên Xô khôi phục và phát triển nhanh chóng, sức mạnh tổng hợp tầng mạnh, uy danh quốc tế lẫy lừng, trong nước hình thành cục diện mới xã hội bình ổn có trật tự, các dân tộc đoàn kết hữu hảo. Đương nhiên, Đảng và Chính phủ Liên Xô đã coi nhẹ công tác tuyên truyền chính trị và giáo dục tư tưởng đối với đông đảo đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là tập thể thanh, thiếu niên. Do đó, một số giai cấp nào đó trong xã hội Liên Xô, đặc biệt là thanh niên có khuynh hướng tư tưởng và hành vi đời sống không ăn khớp với chuẩn mực đời sống đạo đức của chủ nghĩa xã hội. Họ hướng tới dân chủ, tự do và phong cách sống của giai cấp tư sản, có lúc còn có biểu hiện chống Xô trực tiếp. Thế nhưng, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô do Khrushchev đã đứng đầu không nhận thức được đầy đủ tính chất nghiêm trọng của những vấn đề này, càng không có những biện pháp giải quyết thiết thực khả thi.


Sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, mặt trận văn hóa tư tưởng xuất hiện trào lưu "tan băng", với đặc trưng là "phi Xtalin hóa". Rất nhiều tác phẩm văn học dưới chiêu bài chống sùng bái cá nhân, khen ngợi chủ nghĩa hư vô lịch sử, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do cực đoan và chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng. Khrushchev còn công khai tán thưởng văn học bóp méo lịch sử Chiến tranh vệ quốc, từ đó làm cho tư tưởng người dân càng thêm hỗn loạn. Sau khi xảy ra sự kiện Ba Lan và sự kiện Hunggari tháng 10 năm 1956, những vấn đề trong nội bộ Liên Xô ngày càng nhiều, ngày càng nghiêm trọng. Do đó, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã lựa chọn một số biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn một số hiện tượng cực đoan, xoay chuyển cục diện hỗn loạn. Tháng 2 năm 1957, hơn 100 sinh viên đại học bị khai trừ khỏi Đảng, lý do là bọn họ đã tiến hành "hoạt động chính trị chống cộng". Nhưng áp dụng biện pháp đơn giản này để đối phó với phong trào tư tưởng của thanh niên, hiệu quả hẳn không tốt. Tháng 3 cùng năm, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã xử lý tạp chí Vấn đề lịch sử, 10 biên tập viên bao gồm cả chủ biên đã bị cách chức, lý do là họ chỉ vạch trần sai lầm của Xtalin mà không kiên quyết lên án "khuynh hướng chủ nghĩa xét lại", bị khuất phục bởi "tính khách quan của giai cấp tư sản". Không lâu sau, họa báo Ngọn lửa nhỏ do "không tích cực trình bày nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ, không phản ánh sự lao động của nhân dân, mà ngược lại đăng hàng loạt các tác phẩm không có ý nghĩa" nên đã bị phê bình qua nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Thế nhưng, những giải pháp được áp dụng cho những vấn đề cụ thể này vẫn không ngăn được cái gọi là "phi Xtalin hóa" phát triển.


Trong tình hình này, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô Khrushchev ít nhiều ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề. Mùa hè năm 1957, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lần lượt tổ chức Hội nghị nhà văn, Hội nghị những người sáng tác văn học nghệ thuật, Hội nghị các phần tử tích cực trong Đảng, với ý định thống nhất lại ý thức tư tưởng. Khrushchev trong một lần phát biểu đã nói, bài học từ sự kiện Hunggari đã "thức tỉnh chúng ta, đối với âm mưu của các thế lực phản động nhắm vào chủ nghĩa xã hội, nếu không tăng cường giám sát về chính trị, áp dụng thái độ không theo nguyên tắc và không chủ kiên, sẽ xảy ra hậu quả gì". Khrushchev công khai bày tỏ, trong nghệ thuật của Liên Xô, "ngoài phái Xôviết ra, không có và không thể có bất cứ phái nào khác", không thể để một nhóm người hung hãn, tàn bạo dựa dẫm vào chủ nghĩa đế quốc "tổ chức bè phái dơ bẩn của họ ở trong nước chúng ta". Năm 1962, Đảng Cộng sản Liên Xô nhiều lần tổ chức Hội nghị công tác ý thức hệ, nghiên cứu thảo luận vấn đề mặt trận tư tưởng. Khrushchev thừa nhận, trong lĩnh vực ý thức hệ, sai lầm của Đảng Cộng sản Liên Xô ở chỗ không kịp thời phát hiện một số hiện tượng không lành mạnh của giới nghệ thuật, càng không áp dụng những biện pháp cần thiết để ngăn chặn hiện tượng này lây lan. Ông tuyên bố phải tiến hành chỉnh đốn tất cả các lĩnh vực này. Ngày 21 tháng 6 năm 1963, trong Nghị quyết Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lại nhắc lại "nhiệm vụ chủ yếu của công tác giáo dục tư tưởng của Đảng trong điều kiện hiện nay là: bảo đảm thực hiện Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt tư tưởng. Xây dựng nền tảng kỹ thuật vật chất của chủ nghĩa cộng sản, xây dựng quan hệ xã hội của chủ nghĩa cộng sản, bồi dưỡng con người mới, nâng cao tính cảnh giác chính trị, phát động cuộc tấn công toàn diện vào tư tưởng đế quốc chủ nghĩa và tàn dư cũ trong tư tưởng của con người".


Trên thực tế, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Khrushchev không hề nhận thức đúng được tính nghiêm trọng của vấn đề, càng không đưa ra được biện pháp giải quyết thực tế, khả thi. Các nước phương Tây lúc đó đang gia tăng thúc đẩy chiến lược diễn biến hòa bình, mưu đồ dựa vào đó làm sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô. Nhưng Khrushchev luôn thiếu cảnh giác với điều này, đứng trước thế tiến công của ý thức hệ hù dọa ép người của phương Tây vẫn tê liệt và thiếu phương pháp. Khrushchev có lúc cũng dùng lời lẽ sắc bén phê phán chủ nghĩa đế quốc, nói chủ nghĩa đế quốc "đang dùng mưu ma chước quỷ để phá hoại tình hữu nghị của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa", "chủ nghĩa đế quốc Mỹ mỗi năm chi 100 triệu USD tiến hành hoạt động lật đổ phe xã hội chủ nghĩa". Nhưng đây đều là văn chương sáo rỗng, Khrushchev chưa hề nhìn nhận nghiêm túc, cũng không tổ chức lực lượng triển khai phản kích đối với sự xâm nhập tư tưởng của các nước phương Tây, càng không áp dụng các biện pháp thực tế để tăng cường đấu tranh ý thức hệ và giáo dục tư tưởng. Do đó, dần dà lâu ngày, những thứ phi mácxít, phi chủ nghĩa xã hội trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội ngâm dần, thế giới quan của cán bộ lãnh đạo cap cao và nhân sinh quan của đông đảo đảng viên và quần chúng nhân dân dần dần thay đổi, loạt "người đào huyệt" cho chính quyền vô sản hướng tới chủ nghĩa tư bản phương Tây cũng dần dần trưởng thành. Điều này chính là chuẩn bị mảnh đất màu mỡ và điều kiện thuận lợi để thế lực phương Tây thực hiện diễn biến hòa bình.


Phải chỉ ra rằng, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô thời Khrushchev không những ngoảnh mặt làm ngơ đối với thế tấn công của diễn biến hòa bình của phương Tây, mà còn phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng về mặt này.

Một là, phủ định toàn bộ cách làm của Xtalin, khiến trong Đảng Cộng sản Liên Xô và xã hội Liên Xô xuất hiện sự hỗn loạn về tư tưởng nghiêm trọng, hoài nghi, phủ định, thậm chí bôi nhọ Đảng Cộng sản Liên Xô, bôi nhọ bản thân chế độ xã hội chủ nghĩa, những luận điệu nhảm nhí đánh lừa dư luận lan truyền nhanh chóng, từ đó trợ giúp cho chiến dịch diễn biến hòa bình của phương Tây. Thế lực thù địch phương Tây mượn đó để bôi xấu Đảng Cộng sản Liên Xô, phá hoại thanh danh chủ nghĩa xã hội, dấy lên làn sóng chống Xô, chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn trên toàn thế giới, khiến cho Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô lâm vào tình cảnh khó khăn nghiêm trọng. Có thể nói, chính Khrushchev đã "dâng chuôi kiếm cho kẻ khác", đã cung cấp một "quả bom hạng nặng" cho chiến dịch diễn biến hòa bình phương Tâỵ, hơn nữa còn có thể sử dụng nhiều lần trong thời gian dài.


Hai là, phủ nhận tính nguy hiểm của việc chủ nghĩa tư bản phục hồi vẫn tồn tại ở Liên Xô, khiến Đảng Cộng sản Liên Xô và đông đảo quần chúng mất đi sự cảnh giác cần có. Khrushchev đi ngược lại truyền thống cách mạng thời Lênin và Xtalin, về mặt lý luận khen ngợi "thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp", phủ nhận tính nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản phục hồi ở Liên Xô. Tháng 1 năm 1959, trong Báo cáo tại Đại hội XXI Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev nhấn mạnh: "Hiện nay trên thế giới, không có bất kỳ lực lượng nào có thể khôi phục được chủ nghĩa tư bản ở nước ta... nguy cơ chủ nghĩa tư bản phục hổi ở Liên Xô đã không còn. Điều này có nghĩa là, chủ nghĩa xã hội không những giành được thắng lợi hoàn toàn, mà còn giành được thắng lợi triệt để"1 (Tài liệu Đại hội đại biểu bất thường lần thứ XXI Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.119-120). Tháng 10 năm 1961, tại Đại hội lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev lại nói: "Hy vọng của chủ nghĩa đế quốc muốn làm cho chế độ tư bản chủ nghĩa sống lại, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa lụi tàn ngày càng bị tiêu tan"2 (Tổng tập Văn kiện chủ yếu Đại hội đại biểu lẫn thứ XXII Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr.33, 38). Sự lưu hành của quan điểm lý luận này dẫn đến đông đảo cán bộ và quần chúng nhân dân Liên Xô hiểu lầm rằng trong xã hội đã không còn thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội nữa, do đó không có bất kỳ quan niệm đấu tranh giai cấp nào, cũng mất đi sự cảnh giác đối với khả năng chủ nghĩa tư bản phục hồi và diễn biến hòa bình phương Tây.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:43:31 am
Ba là, trong quan hệ đối ngoại, phiến diện cổ xúy cho "chung sống hòa bình" và "thi đua hòa bình", tạo cơ hội cho phương Tây diễn biến hòa bình ở Liên Xô. Thời Lênin, Xtalin, phương Đông và phương Tây hình thành hai thế giới song song cách biệt, đối kháng. Hình thành cục diện như vậy, chủ yếu là kết quả do việc các nước đế quốc chủ nghĩa thực hiện thù địch, phong tỏa, thậm chí can thiệp vũ trang vào các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian dài, họ phải chịu trách nhiệm chủ yếu trước cục diện thế giới căng thẳng. Thế nhưng, trong bối cảnh các nước phương Tây không đưa ra bất cứ lời hứa hoặc nhượng bộ nào, Khrushchev tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1956 đã đơn phương đề ra các nước xã hội chủ nghĩa không được đối kháng với các nước tư bản chủ nghĩa, hai loại hình thái xã hội phải thực hiện "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình".


Mấu chốt của vấn đề không ở chỗ các nước xã hội chủ nghĩa cần hay không cần hòa bình, có cùng với các nước tư bản chủ nghĩa thực hiện "'chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình" hay không, mà ở chỗ lúc đó có điều kiện và khả năng thực hiện mong muốn này hay không. Trong bối cảnh các nước phương Tây đã khởi động và tăng cường thúc đẩy diễn biến hòa bình đối với Liên Xô, Khrushchev đề ra, "chung sống hòa bình" và "thi đua hòa bình" chẳng qua là một ảo tưởng. Khi ảo tưởng trở thành thực tiễn không sát với thực tế nảy sinh nguy hại cũng khó tránh.


Mặc dù Khrushchev sau khi vấp ngã và rút ra được bài học, có phần siết lại, nhưng đường lối ngoại giao này có vai trò to lớn trong việc làm tan rã vũ trang tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, từ đó thiếu phòng bị cần thiết đối với phương Tây, tiến tới tạo bước đột phá cho thế lực thù địch tăng cường thúc đẩy chiến lược diễn biến hòa bình.


Bốn là, lý luận khủng bố hạt nhân của Khrushchev, phủ nhận sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp quốc tế trong điều kiện vũ khí hạt nhân, cổ xúy hợp tác giai cấp quốc tế sau này trở thành căn cứ lý luận quan trọng "tư duy mới" về quan hệ đối ngoại của Gorbachev. Khrushchev đưa ra một lý do quan trọng mà các quốc gia của hai chế độ xã hội phải "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình", đó là sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân đã thay đổi quan hệ quốc tế, thay đổi quy luật đấu tranh giai cấp. Đây là cốt lõi lý luận của Khrushchev trong vấn đề quốc tế. Ông ta cho rằng, sau khi vũ khí hạt nhân xuất hiện, đã không còn sự khác biệt giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. "Bom nguyên tử không phân biệt chủ nghĩa đế quốc, nhân dân lao động ở nơi mà nó oanh kích, do đó tiêu diệt một nhà tư bản độc quyền, cũng sẽ tiêu diệt hàng triệu công nhân". Trong tình hình đó, dân tộc bị áp bức và nhân dân bị áp bức sẽ phải từ bỏ cách mạng. "Bất kỳ một cuộc chiến tranh cục bộ nhỏ nào đều có thể trở thành một đốm lửa thổi bùng lên chiến tranh thế giới"; "hiện tại, bất cứ chiến tranh nào, cho dù bắt đầu bằng chiến tranh phổ thông, chiến tranh phi hạt nhân, cũng sẽ trở thành tên lửa mang tính hủy diệt - chiến tranh hạt nhân". Như vậy, "chúng ta sẽ hủy hoại 'con tàu Noah' của mình - trái đất". Tức là đứng trước sự uy hiếp, đe dọa vũ khí hạt nhân của chủ nghĩa đế quốc, nhân dân cách mạng thế giới và các nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể lựa chọn khuất phục, không thể chống lại bởi vì chiến tranh hạt nhân sẽ dẫn đến sự hủy diệt của loài người, "nếu như mất đầu thì nguyên tắc còn có ích gì nữa?"


Lý luận khủng bố hạt nhân của Khrushchev sau này được Gorbachev trực tiếp vận dụng làm cơ sở lý luận "tư duy mới" về quan hệ quốc tế. Gorbachev lấy sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân làm lý do, chủ trương đặt cái gọi là "lợi ích toàn nhân loại" lên vị trí hàng đầu. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng "lợi ích toàn nhân loại cao hơn tất cả", ông ta đã từ bỏ quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác, hủy bỏ triệt để vũ trang tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô với phương Tây, không những tự mình trở thành tù binh của diễn biến hòa bình phương Tây, mà dưới sự ép sát từng bước của thế lực thù địch phương Tây, dưới tác động của các nhân tố trong và ngoài, Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô từng bước đi đến tan rã và hủy diệt.


Năm là, đi ngược lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thai nghén và đào tạo một loạt lực lượng "nội ứng" cho diễn biến hòa bình phương Tây. Bắt đầu từ Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev liên tục đưa ra những lý luận sai lầm như "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình", "quá độ hòa bình" cùng với "nhà nước toàn dân", "đảng toàn dân". Những lý luận trên đi ngược lại nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhiều mặt, lại thêm sự phối hợp của trào lưu tư tưởng "tan băng" hung hăng ngang ngược, tác dụng tiêu cực của nó hết sức nghiêm trọng, thậm chí ảnh hưởng đến cả một thế hệ thanh niên của Liên Xô. Rất nhiều thanh niên không hề hiểu rõ truyền thống cách mạng của Đang Cộng sản Liên Xô, thiếu sự tôi luyện về thực tế cách mạng, hiểu mơ hồ về nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, chưa xây dựng được lý tưởng kiên định về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Những thanh niên này trưởng thành dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Khrushchev và Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô cùng với trào lưu tư tưởng "tan băng", sau này, họ bị gọi là "con đẻ của Đại hội XX", hoặc gọi là "thế hệ những năm 1960". Gorbachev đã nhiều lần nói mình là "con đẻ của Đại hội XX", thuộc về cái gọi là "thế hệ những năm 1960". Cũng chính những phần tử côt cán trong số những "con đẻ của Đại hội XX" như Gorbachev, Yeltsin, Yakovlev, trong cuộc chiến tranh khốc liệt ở Liên Xô sau những năm 80 của thế kỷ XX, đóng vai trò "người đại diện" của chủ nghĩa tư bản phương Tây, đóng vai trò là "con ngựa thành Troy" khi Đảng Cộng sản Liên Xô và nội bộ chính quyền nhà nước đón diễn biến hòa bình của phương Tây, là "người đào huyệt" cho Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô.


Tóm lại, thời kỳ Khrushchev, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong ứng phó với diễn biến hòa bình, bài học vô cùng sâu sắc.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:44:15 am
3. Những thành quả và mất mát của Đảng Cộng sản Liên Xô trong ứng phó với diễn biến hòa bình thời kỳ Brezhnev

Xét về tổng thể, về phương diện kiềm chế sự tấn công của ý thức hệ phương Tây, phòng chống sự biến chất của Đảng và xã hội, nhận thức của Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ Brezhnev tỉnh táo hơn nhiều so với thời kỳ Khrushchev, tính cảnh giác mạnh hơn trước, tính chủ động công tác về phương diện này cũng được nâng cao hơn trước. Điều này đầu tiên thể hiện ở chỗ có nhận thức tương đối cao về tính sắc bén trong đối kháng giữa hai loại chế độ và hai loại ý thức hệ, đặc biệt là sau sự kiện "mùa xuân Praha" xảy ra ở Tiệp Khắc năm 1968. Sau khi tình hình trong nước Ba Lan trở nên xấu đi vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô tăng cường hơn sự kiểm soát trong lĩnh vực ý thức hệ, các ban, ngành hữu quan đả kích mạnh mẽ "khuynh hướng phản cách mạng" của "công đoàn đoàn kết". Ngoài ra, Đảng Cộng sản Liên Xô có sự nhận thức và cảnh giác nhất định đối với âm mưu chiến lược của các thế lực phương Tây lợi dụng chủ nghĩa dân chủ làm mâu thuẫn và xung đột trong nước, phân hóa tan rã Liên Xô. Năm 1972, trong Nghị quyết về việc chuẩn bị chào mừng 50 năm thành lập Liên Xô, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô yêu cầu tổ chức Đảng các cấp "kiên quyết vạch trần những nhà tư tưởng chống cộng, những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội tả hữu khuynh, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa sô-vanh", đề phòng thế lực phương Tây lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô.


Trong thời kỳ Brezhnev, thế lực chống cộng phương Tây lợi dụng hơn nữa cái gọi là "dân chủ", "nhân quyền" để tấn công Liên Xô, can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô. Chính sự nhúng tay của các thế lực phương Tây, bắt đầu từ sau những năm 60 của thế kỷ XX, "người bất đồng chính kiến" ở Liên Xô bắt đầu hoạt động ở nhiều nơi, trong đó có nhiều người trên thực tế hoạt động phá hoại chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tương đối coi trọng vấn đề này, đồng thời đã áp dụng những biện pháp đối phó nhất định. Ví dụ, sau khi con gái của Xtalin, bà Alliluyeva Svetlana chạy sang phương Tây, xuất bản cuốn hồi ký vạch trần mặt xấu trong giới lãnh đạo Liên Xô, đã nảy sinh những ảnh hưởng tiêu cực trong và ngoài Liên Xô. Về việc này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã áp dụng một loạt các biện pháp cụ thể. Lại ví dụ, sau khi nhà vật lý học nổi tiếng Sakharov của Liên Xô - người được mệnh danh là "cha đẻ của bom khinh khí" trở thành "người bất đồng chính kiến", phương Tây có nhiều bài viết về ông này.


Để phòng ngừa hiện tượng Sakharov lan rộng, tạp chí Người cộng sản đăng bài xã luận, chỉ trích Sakharov "liên kết với kẻ thù không đội trời chung với hòa bình và an ninh thế giới", ngoài ra còn động viên hơn 40 viện sĩ hàn lâm và hơn 30 tác giả cùng đăng thư ngỏ, công kích Sakharov "xuyên tạc hiện thực Liên Xô và rắp tâm chỉ trích chế độ xã hội chủ nghĩa", trở thành "công cụ tuyên truyền của kẻ thù chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác". Cùng với đó, Liên Xô còn giao thiệp ngoại giao nhiều năm với Mỹ về vấn đề nhân quyền, kiên quyết chống lại âm mưu núp dưới bức màn "bảo vệ nhân quyền" đề can thiệp vào nội bộ Liên Xô.


Phải chỉ ra rằng, Andropov khi đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia, thái độ của ông về đấu tranh giữa hai chế độ xã hội, hai ý thức hệ Đông - Tây tương đối rõ ràng, phân tích cũng khá thấu đáo. Mùa xuân năm 1976, trong khi mọi người đang say sưa với sự hòa dịu giữa phương Đông và phương Tây, Andropov trong một lần báo cáo đã nhắc nhở: "Chúng ta phải cảnh giác chú ý với âm mưu quỷ kế của kẻ thù đối với chủ nghĩa xã hội, kịp thời vạch trần và ngăn chặn những biện pháp nhằm lật đổ nền tảng chính trị, kinh tế, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa". Mùa thu năm 1977, Andropov lại sắc sảo chỉ ra rằng: "Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn chưa từ bỏ âm mưu lật đổ chế độ mới hoặc vật cản trên con đường tiến bước của nó, cho dù chúng không thể sử dụng vũ lực để tiêu diệt chế độ này. Bọn chúng tạo ra các hoạt động gián điệp và hoạt động phá hoại trong lĩnh vực chính trị và kinh tế cũng như các cơ quan đặc biệt, trong đó bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực đặc biệt nhằm phá hoại ý thức hệ". Ông cảnh báo rõ ràng: Những cơ quan đặc biệt của chủ nghĩa đế quốc "cố gắng hết sức để phá hoại, làm lung lay lòng tin vào chủ nghĩa cộng sản của người dân Liên Xô, đem quan điểm và đạo đức hoàn toàn không ăn khớp với chủ nghĩa xã hội áp đặt lên chúng ta, hòng làm thay đổi chính trị và xã hội ở Liên Xô theo hướng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc". Tháng 2 năm 1979, Andropov phát biểu tại Hội nghị Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô, chủ đề là "Hoạt động phá hoại ý thức hệ là vũ khí có độc của chủ nghĩa đế quốc", trong đó hai lần nhấn mạnh tính nguy hại của "hoạt động phá hoại ý thức hệ" của chủ nghĩa đế quốc. Ông nói, tình hình thế giới đã hòa dịu, "đấu tranh ý thức hệ của hai chế độ đối lập nhau ngày càng sâu sắc, hoạt động phá hoại ý thức hệ của chủ nghĩa đế quốc càng được tăng cường", trong điều kiện như vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô "càng phải nâng cao hơn nữa tính cảnh giác chính trị, làm cho các biện pháp đập tan hành động phá hoại ý thức hệ ngày càng có hiệu quả"1 (Tham khảo Tuyển tập phát biểu của Andropov, Sđd, tr.258, 259, 339).


Trong thời kỳ Brezhnev, mặc dù xã hội Liên Xô xét về tổng thể tương đối ổn định, các biện pháp ứng phó với diễn biến hòa bình thu được hiệu quả nhất định, nhưng chỗ đứng của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô không cao, chỉ hạn chế ở những biện pháp hành chính mang tính sự vụ, không xuất phát từ chiến lược đấu tranh lâu dài, lại thêm đánh giá về "tính chín muồi" của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô quá cao, đặc biệt là thiếu nhận thức cần có và hành động tất yếu đối với cải cách thể chế truyền thống, do đó vô cùng yếu ớt trước những biện pháp áp dụng trong chiến lược diễn biến hòa bình của phương Tây. Đồng thời, Đảng và xã hội Liên Xô lại tích tụ nhiều thứ tiêu cực, những thứ này rất dễ bị thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, trở thành nhân tố phá hoại làm sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô, làm rối loạn xã hội Liên Xô, lật đổ triệt để chủ nghĩa xã hội Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 27 Tháng Ba, 2022, 10:44:45 am
Những thứ tiêu cực độc hại này chủ yếu biểu hiện ở những điểm dưới đây.

Một là, hiệu quả trong giáo dục chính trị tư tưởng rất ít, rất nhiều cán bộ đảng viên đánh mất lý tưởng niềm tin.

Trong thời Brezhnev, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bỏ ra rất nhiều công sức nhằm tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng. Tổ chức Đảng các cấp và bộ ban ngành mở trường Đảng và trường cán bộ nhiều không đếm được, chuyên đào tạo cán bộ Đảng và nhân tài quản lý trên các lĩnh vực. Mỗi lần sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Hội nghị toàn thể Trung ương, tinh thần hội nghị đều được truyền đạt nhanh chóng, đồng thời tổ chức học tập trong phạm vi toàn Đảng. Nhưng hiệu quả của những công việc này rất ít, tố chất chính trị và trình độ đạo đức của đội ngũ cán bộ không hề nâng cao rõ rệt. Rất nhiều người trong văn phòng, trong hội nghị nói một đằng, trên bàn ăn, nơi vui chơi giải trí lại nói một nẻo. Xuất hiện nhiều "người hai mặt", chứng tỏ đội ngũ cán bộ của Đảng bắt đầu thoái hóa. Vấn đề trong lĩnh vực ý thức hệ ngày càng nhiều. Không những vậy, lý tưởng niềm tin của một số lãnh đạo cũng tê liệt rồi. Ví dụ, cháu gái của Brezhnev, là Lyubov Yakolema, trong cuốn hồi ký Thế giới đánh mất sau lưng tôi được viết sau khi chuyển đến Mỹ năm 1990 đã nói, đến sau những năm 1960, Brezhnev "đã không còn tin vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin hay tiền đồ của chủ nghĩa cộng sản". Ông nói với em trai: "Thế nào là chủ nghĩa cộng sản, đây đều là những lời nói suông để đánh lừa nhân dân"1 (Trích dẫn từ Đồng Lạc Sơn: Đọc nhầm văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 1997, tr. 88).


Hai là, sự lãnh đạm về chính trị của thanh niên tăng lên, thế hệ bất cần đời dần dần hình thành.

Một bản báo cáo điều tra năm 1968 của KGB cho thấy, lúc đó rất nhiều sinh viên "thiếu hứng thú đối với việc tham gia các hoạt động chính trị, xã hội", học sinh "tham gia diễu hành ngày lễ không phải là tự nguyện". Có một số người không muốn học chủ nghĩa Mác - Lenin, cho rằng "lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời", nhưng lại "thích đài phát thanh phương Tây hơn", đặc biệt là đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" và "Làn sóng nước Pháp". Trong số các thanh niên nghe đài phát thanh phương Tây, trên 1/3 đã hình thành "quan điểm đối lập về tư tưởng". Rất nhiều sinh viên "hoàn toàn xa lạ với Đảng", cho rằng "đảng viên cộng sản chân chính là không có". Sau sự kiện Tiệp Khắc, một số sinh viên có hứng thú đối với vấn đề "đảng đối lập", cho rằng thành lập đảng đối lập là biện pháp giải quyết vấn đề, còn có người cho rằng sự kiện Tiệp Khắc có khả năng tái diễn ở Liên Xô. Một số thanh niên có biểu hiện "bất hảo" về mặt chính trị đã thành lập những tổ chức kỳ lạ như "Đảng thanh niên Nazi", "Hội chữ thập kỵ sĩ", "Đế quốc thứ tư". Một số thanh niên đã thành lập các loại tổ chức nhỏ, đoàn thể nhỏ như câu lạc bộ, tổ liên hợp sáng tác, đăng những bài viết không tốt về chính trị. Còn có một số người kết thành bè nhóm lưu manh, khẩu hiệu lấy tư tưởng "Hippy" làm nền tảng, "đấu tranh cho dân chủ của tự do và xã hội". Năm 1976, trong báo cáo liên quan của những tổ chức trên gửi cho Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô nhắc đến, "trong rất nhiều cơ quan trinh sát của các nước đế quốc chuyên thành lập bộ phận nhắm đến thanh niên các nước xã hội chủ nghĩa", "thanh niên Liên Xô bị kẻ thù coi như là một đối tượng cực kỳ quan trọng làm tan rã về mặt tư tưởng". Hiện tượng này cho thấy, là tương lai của Đảng và đất nước, một bộ phận khá lớn thanh niên Liên Xô đã không còn niềm tin chủ nghĩa xã hội tất thắng nữa. Công tác thanh niên của Đảng Cộng sản Liên Xô thất bại nghiêm trọng.


Ba là, không có biện pháp hữu hiệu ngăn cấn sự thẩm thấu của văn hóa tư tưởng thế giới phương Tây, sự phản kích lại thế tiến công của ý thức hệ thế lực thù địch là có hạn.

Theo thống kê của KGB năm đó, những năm 1960 - 1970, đài phát thanh vô tuyến điện của phương Tây phát ở Liên Xô lúc nhiều nhất lên tới 41 kênh, mỗi ngày phát tổng cộng 253 giờ, trong 12 chuyên mục có tới 7 chuyên mục dành riêng cho thanh niên. Trong quá trình tiến hành thâm nhập vào thanh niên Liên Xô, những thanh niên du học, tu nghiệp tiến sĩ, hoặc du lịch nước ngoài đã trở thành mục tiêu chủ yếu để các nước phương Tây làm "sụp đổ về tư tưởng", về mặt này, các kênh như giao lưu học thuật, giao lưu học sinh chiếm vị trí quan trọng. Tiếp xúc và liên hệ thư từ kín với người nước ngoài cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với một số thanh niên Liên Xô hình thành "tư tưởng thù địch". Do sự tuyên truyền có hại của phương Tây, ở nhiều thanh niên Liên Xô còn xuất hiện những hành vi bất hảo về phương diện tôn giáo, một số người còn có hành vi phản xã hội rõ rệt. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó đã phát hiện ra những vấn đề này, nhưng không tìm ra được phương pháp giải quyết hữu hiệu, trong nhiều trường hợp áp dụng thái độ buông xuôi. Ngoài ra, dưới sự ủng hộ của một số thế lực phương Tây, những tác phẩm của "người bất đồng chính kiến" như Solzhenitsyn, Sakharov và hồi ký của những người lưu vong chính trị được lưu truyền rộng rãi trong thế giới ngầm, tạo ra ảnh hưởng lớn trong xã hội, đặc biệt là trong giới trí thức và thanh niên, học sinh, làm nhiễu loạn nghiêm trọng trong Đảng và lòng dân, mối nguy hại lớn của nó ngay lập tức thể hiện toàn bộ dưới thời Gorbachev.


Bốn là, sách lược trong đấu tranh ngoại giao về vấn đề nhân quyền chưa thỏa đáng, trả giá nặng nề trong thỏa hiệp với phương Tây.

Ngay trong thời kỳ Khrushchev, Liên Xô đã đề xướng tổ chức Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu. Sau khi Brezhnev lên cầm quyền gia tăng hơn nữa mức độ khỏi xướng an ninh châu Âu. Trải qua nhiều năm đấu tranh, Liên Xô và Mỹ cuối cùng đã ký văn kiện tối hậu của Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu vào tháng 8 năm 1975. Trong quá trình này, nhân quyền trở thành tiêu điểm của vấn đề. Lúc đó, để khiến phương Tây thừa nhận biên giới sau chiến tranh, thực hiện cố định hóa hệ thống Yalta, Liên Xô đã chấp nhận những chủ trương của phương Tây về chủ nghĩa nhân đạo và hợp tác trên các phương diện khác, đồng ý "giao lưu tự do" giữa nhân dân, tổ chức, cơ quan với các nước tham gia hội nghị. Sau hội nghị, các nước phương Tây rất coi trọng những quy định về "nhân quyền", "tự do" trong Hiệp định Henxinki, thường xuyên lợi dụng những điều khoản của nó để gia tăng áp lực lên Liên Xô và các nước Đông Âu, Liên Xô không còn cách nào, nhượng bộ từng bước, không còn dám áp dụng bất cứ hành động nào đối với "người bất đồng chính kiến" của nước mình. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến "người bất đồng chính kiến" Liên Xô trở thành tai họa. Sau khi Liên Xô giải thể, nhiều chuyên gia đều cho rằng, những thỏa hiệp quan trọng trong vấn đề nhân quyền với phương Tây là một thất bại trong cuộc đời chính trị của Brezhnev, cũng là một sai lầm nghiêm trọng trong ngoại giao của Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:31:39 am
III. SỰ THỎA HIỆP VÀ ĐÓN NHẬN THẾ TlẾN CÔNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH CỦA PHƯƠNG TÂY THỜI KỲ GORBACHEV

Tháng 3 năm 1985, khi Gorbachev lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Liên Xô có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, quan hệ dân tộc và chính sách đối ngoại cũng cần phải điều chỉnh hợp lý. Đảng Cộng sản Liên Xô hô hào cải tổ, nhân dân mong đợi cải tổ. Đáng buồn là, Gorbachev không phải là người theo chủ nghĩa Mác chín muồi về tư tưởng, kiên định về chính trị, cũng không phải nhà cải tổ nhìn xa trông rộng, đa mưu túc trí. Công cuộc cải cách mà ông ta phát động, từ tư tưởng chỉ đạo cho đến mục tiêu cuối cùng, từ phương thức hành động đến biện pháp thực thi, từ đầu đến cuối đều là mâu thuẫn với nhau, hỗn loạn không có trật tự. Đường lối "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" mà ông đề xướng không những không "đổi mới toàn diện" trong Đảng, nhà nước, xã hội, quan hệ dân tộc, không làm cho địa vị quốc tế và tình hình của Liên Xô được cải thiện căn bản, mà ngược lại đã mở cánh cửa thuận lợi cho phương Tây thúc đẩy diễn biến hòa bình.


Các nước phương Tây nắm chắc cơ hội Liên Xô tiến hành cải tổ, lợi dụng nhược điểm của Gorbachev, trù tính cẩn thận, dần dần áp sát, tấn công toàn diện trong diễn biến hòa bình trên các mặt chính trị, kinh tế, dân tộc, ngoại giao. Đứng trước tình hình trên, tập đoàn lãnh đạo Gorbachev không những không có bất cứ cảnh giác nào, không có bất cứ sự phản kháng nào, ngược lại còn lựa chọn thái độ thỏa hiệp và đón nhận, phối hợp với diễn biến hòa bình của phương Tây, từng bước từng bước dẫn Liên Xô đến con đường hủy diệt. Trong cả quá trình phương Tây phát động tiến công diễn biến hòa bình đối với Liên Xô, Gorbachev trên thực tế đóng vai trò "nội ứng", về mặt tư tưởng, "tư duy mới chính trị quốc tế" và "phi ý thức hệ hóa quan hệ quốc tế" mà Gorbachev tán dương khiến Đảng Cộng sản Liên Xô và xã hội Liên Xô buông lỏng cảnh giác đối với âm mưu diễn biến hòa bình của phương Tây; "dân chủ hóa" và "công khai" mà ông ta tán dương đã tạo điều kiện chính trị và môi trường dư luận cho sách lược diễn biến hòa bình của phương Tây đối với Liên Xô; ông ta núp dưới bóng xóa bỏ "lỗ hổng lịch sử", xuyên tạc một cách ác ý lịch sử của Đảng và Nhà nước, bật đèn xanh cho thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội phủ định hoàn toàn lựa chọn của Cách mạng Tháng Mười Nga và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt chính trị, Gorbachev làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên hóa về chính trị theo kiểu phương Tây, để cuối cùng phương Tây thực hiện diễn biến hòa bình ở Liên Xô, đồng thời dọn đường cho xây dựng thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.


1. Những biểu hiện chủ yếu trong thỏa hiệp và đón nhận thế tiến công diễn biến hòa bình của phương Tây

Sách lược đối với diễn biến hòa bình của phương Tây thời kỳ Gorbachev không những không hề cảnh giác, mà còn chủ động đón nhận. Điều này không tách rời đường lổỉ "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" mà ông ta thúc đẩy. Gorbachev lựa chọn thỏa hiệp và đón nhận diễn biến hòa bình của phương Tây đối với Liên Xô thể hiện trên nhiều phương diện. Chủ yếu phản ánh ở những vấn đề dưới đây.

Một là, để mặc cho truyền thông phương Tây xâm nhập, thực hiện đa nguyên hóa ý thức hệ.

Biện pháp chủ yếu trong chiến lược thực hiện Tây hóa, phân hóa của Mỹ và phương Tây với Liên Xô là lợi dụng truyền thông đại chúng, tiến hành ồ ạt xâm nhập ý thức hệ. Đài phát thanh quy mô lớn mà nước Mv đặt ở Tây Au là đài phát thanh Châu Âu tự do" và đài phát thanh "Tự do", mỗi ngày dùng 6 loại ngôn ngữ "truyền bá những thông tin về những sự kiện quan trọng xảy ra trên thế giới cũng như Liên Xô và các nước Đông Âu", tuyên truyền những "thành tựu", phong cách sống và giá trị quan của xã hội phương Tây. "Tập đoàn truyền thông nước Anh" (BBC) mỗi ngày dùng 40 loại ngôn ngữ và đài phát thanh "Sóng điện Đức" dùng 35 loại ngôn ngữ tuyên truyền đến các nơi trên thế giới. Những đài phát thanh cỡ lớn này đảm nhận nhiệm vụ gieo rắc ý thức hệ phương Tây vào Liên Xô và các nước Đông Âu, trọng điểm là phủ định lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, phóng đại vô hạn những vấn đề xã hội tồn tại của Liên Xô và các nước Đông Âu, kích động sự bất mãn của nhân dân, đồng thời hướng những bất mãn này vào Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cục tình báo Trung ương Mỹ còn khẳng khái tài trợ cho các cơ quan nghiên cứu hữu quan thiết kế'một "Phương án Harvard", với kế hoạch loại bỏ những tình cảm được hình thành lâu dài của nhân dân Liên Xô đối với Lênin và Xtalin, làm cho các tác phẩm bôi xấu và chống Lênin và Xtalin tràn ngập trên báo chí, đài phát thanh, truyền bình, điện ảnh, tìm cách làm cho dân chúng Liên Xô chấp nhận chuyển di hài Lênin ra nơi khác, v.v... Họ còn ca ngợi một cách có dụng tâm "tư duy mới" của Gorbachev, ủng hộ cuộc cải tổ làm suy yếu, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô và quay lưng với chế độ xã hội chủ nghĩa, thừa cơ ca ngợi cái gọi là "cuộc sống tốt đẹp" và "tính ưu việt" của chế độ tư bản chủ nghĩa của phương Tây.


Em trai Ngoại trưởng Mỹ Dulles, nguyên Cục trưởng Cục tình báo Trung ương Mỹ Allen Dulles, khi nói về sự thẩm thấu ý thức hệ của Mỹ đối với Liên Xô, đã tuyên bố một cách tự tin rằng: "Nếu chúng ta dạy thanh niên Liên Xô hát bài hát của chúng ta và nhảy múa cùng, như vậy chúng ta sớm muộn phải dạy bọn họ tư duy vấn đề theo cách mà chúng ta cần"1 (Trích dẫn từ Vương Hiểu Đức: Văn hóa Mỹ và ngoại giao Mỹ, Nxb. Tri thức thế giới, 2000, tr.219-220). Rõ ràng là, thế giới phương Tây rất chú ý dùng phong cách sống và phong cách tiêu xài của họ để ảnh hưởng đến đông đảo dân chúng Liên Xô, đặc biệt là thanh niên.


Đứng trước thế tấn công tuyên truyền này, Gorbachev không những mất đi cảnh giác, không chú ý giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với nhân dân Liên Xô, ngược lại còn cổ vũ dân chúng chấp nhận phương Tây. Trong Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8 năm 1985, ông ta đã nói: "Người Liên Xô phải trực tiếp tiếp xúc với người nước ngoài. Không phải sợ, hãy để bọn họ giao lưu... một số người sẽ thấy, thế giới thật lớn, rực rỡ, đa sắc"1 (A. Chernyaev: Sáu năm bên cạnh Gorbachev, Sđd, tr.56-57). Ngày 14 tháng 7 năm 1987, khi gặp người phụ trách báo chí và giới văn nghệ, ông ta nói: "Hãy để ngôn từ của chúng ta đa dạng một chút, để cả xã hội cùng tham gia, hãy để thuyết đa nguyên của chủ nghĩa xã hội lấp đầy mỗi tờ bảo". "Thuyết đa nguyên" mà Gorbachev cổ xúy trên thực tế đã phủ định vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trên lĩnh vực ý thức hệ, làm rồi loạn tư tưởng trong và ngoài Đảng Cộng sản Liên Xô, khiến tư tưởng giai cấp tư sản lan tràn tự do. Từ tháng 12 năm 1988, Liên Xô ngừng gây nhiễu đối với các đài phát thanh phương Tây mà trước đây từng bị coi là đài phản động, đồng thời quyết định giải ngân 4 triệu rúp, nhập khẩu 20 tờ báo của phương Tây, bán công khai trong nước2 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.102). Tiếp theo đó, Gorbachev lại dựa vào hình thức pháp luật để cố định phương châm đa nguyên hóa ý thức hệ. Ngày 12 tháng 6 năm 1990, Gorbachev lợi dụng chức vụ Tổng thống phê chuẩn Luật xuất bản thông tin, tuyên bố thực hiện "tự do thông tin", "không cho phép độc quyền bất cứ một công cụ dư luận nào". Ngày 15 tháng 7 năm đó, Gorbachev ban hành Lệnh Tổng thống về dân chủ hóa truyền hình và phát thanh, tuyên bố truyền hình và phát thanh nhà nước "độc lập với chính trị và tổ chức xã hội", không cho phép "bất kỳ chính đảng nào" độc quyền1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.307), từ đó tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với công cụ tuyên truyền dư luận. Tất cả những điều này đã góp phần giúp đỡ cho sự tấn công của phương Tây đối với dư luận Liên Xô.


Do Đảng Cộng sản Liên Xô đã mở rộng cánh cửa đối với thế tiến công ý thức hệ của phương Tây, trước và sau năm 1990, trào lưu vứt bỏ chủ nghĩa xã hội trong xã hội Liên Xô đạt đến cao trào. Một bản kết quả điều tra dân ý mang tính toàn quốc cho thấy, khi người dân trả lời câu hỏi "Liên Xô nên lựa chọn con đường nào", 32% người được điều tra cho rằng phải bắt chước nước Mỹ; 17% lựa chọn nước Đức; 11% lựa chọn Thụy Điển. Không ít thế lực chính trị quyết định đi con đường gọi là "cách mạng triệt để", vứt bỏ "bờ bên này" chủ nghĩa xã hội, bước chân vào "bờ bên kia" tư bản chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn phù hợp với định nghĩa "tuyên truyền hiệu quả nhất" trong lệnh của Ủy ban An ninh quốc gia Mỹ: "Đối tượng được tuyên truyền đi theo phương hướng do anh chỉ định, nhưng họ lại cho rằng phương hướng đó là do họ tự lựa chọn".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:32:45 am
Thứ hai, đón nhận thế tấn công "dân chủ" của phương Tây, rập khuôn mô hình chính trị của phương Tây.

Phương Tây từ trước tới nay chỉ trích Liên Xô là quốc gia "chuyên quyền", "độc tài", đồng thời dùng "nhân quyền", "dân chủ" và "tự do" của phương Tây làm vũ khí, phát động thế tiến công mãnh liệt đối với Liên Xô. Ngày 4 tháng 11 năm 1988, Tổng thống Mỹ Reagan đã đăng bài trên tạp chí Đời sống quốc tế của Liên Xô trong đó có câu: "Toàn thế giới đang mong ngóng trông thấy Liên Xô thay đổi, nhìn thấy Liên Xô áp dụng những biện pháp gia tăng tự do"1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.95, 212-213). Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tân Tổng thống Mỹ Bush phát biểu, chính sách của phương Tây là "cổ vũ Liên Xô diễn tiên theo xã hội mở cửa", do đó yêu cầu Liên Xô "hợp tác với phương Tây", "thực hiện đa nguyên hóa chính trị bền vững, tôn trọng nhân quyền"2 (Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho lý luận chủ nghĩa xã hội, Nxb. Bắc Kinh, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1998, quyển hạ, tr.958). Trong các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Mỹ và Liên Xô, Mỹ cũng đều đưa vấn đề "nhân quyền", "dân chủ", "tự do" vào chương trình nghị sự, tạo áp lực lớn cho lãnh đạo Liên Xô.


Trước tiên, phương Tây lẩy vấn đề "nhân quyền" làm "điểm đột phá". Gorbachev lên nắm quyền không lâu, nước Mỹ liền thông qua nhiều kênh, nhiều lần yêu cầu Liên Xô phải sớm phóng thích "người bất đồng chính kiến" trong nước, đặc biệt là Sakharov - nhà vật lý hạt nhân có ảnh hưởng rất lớn. Theo góc nhìn phương Tây, vấn đề "nhân quyền" là mắt xích yêu nhất trong phát triển xã hội Liên Xô, lợi dụng vấn đề này buộc Liên Xô nhượng bộ nhiều đối với "người bất đồng chính kiến", vừa có thể làm xấu đi hình tượng Đảng Cộng sản Liên Xô, vừa có thể khiến nhà lãnh đạo Liên Xô thay đổi tư duy chính trị của mình, tự nhiên thay đổi tiến trình chính trị xã hội của quốc gia. Do đó, quan chức cấp cao Mỹ mỗi lần đến thăm Liên Xô, đều lợi dụng cơ hội để gặp "người bất đồng chính kiến" trong nước Liên Xô, cổ vũ họ kiên trì đấu tranh. Ngày 22 tháng 10 năm 1987, Ngoại trưởng Mỹ Shultz khi thăm Liên Xô đã gặp 40 "người bất đồng chính kiến", cổ vũ họ "tiếp tục kiên trì", cũng nói rằng, cho dù quan hệ Mỹ - Xô có cải thiện, nhưng "vấn đề nhân quyền vẫn là vấn đề chủ yếu"3 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.95, 212-213).


Trước thế tiến công "nhân quyền" của phương Tây, Gorbachev lúc đầu cũng định chống lại, thậm chí từ chối sự chỉ trích của phương Tây, nhưng sau đó không lâu bèn thỏa hiệp, nhượng bộ. Trong đó, một sự việc điển hình là khôi phục lại danh dự cho Sakharov. Sakharov vốn là "cha đẻ của bom khinh khí" của Liên Xô, là "người bất đồng chính kiến" nổi tiếng, ông chủ trương Tây hóa toàn bộ Liên Xô, sao chép chế độ tư bản chủ nghĩa phương Tây. Người này rất sôi nổi trong thời kỳ Brezhnev, thường xuyên gặp gỡ phóng viên phương Tây, phát biểu những chính kiến bất đồng, còn thành lập một tổ chức gọi là "bảo vệ nhân quyền". Đầu những năm 1980, do Sakharov công khai phản đối Liên Xô đưa quân sang Ápganixtan nên bị buộc phải chuyển đến sống ở thành phố Gorky. Nhưng đến 16 tháng 12 năm 1986, dưới áp lực của Mỹ, Gorbachev đã phải đích thân gọi điện mời Sakharov quay về Mátxcơva, khuyến khích ông ta làm chính trị, còn sắp xếp cho ông ta hai căn nhà và biệt thự1 (A. Chernyaev: Sáu năm bên Gorbachev, Sđd, tr.140). Sakharov lại đưa ra yêu cầu Liên Xô phóng thích các tội phạm chính trị khác. Theo đó, Liên Xô miễn cưõng phóng thích 140 "người bất đồng chính kiến"2 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr. 25, 28). Nhưng Sakharov vẫn chưa hề hài lòng với điều này, ông ta tiếp tục đưa ra một danh sách, yêu cầu Liên Xô phóng thích thêm 200 tội phạm chính trị. Trong buổi gặp gỡ Đại sứ Mỹ tại Liên Xô Matlock, ông ta còn đốc thúc nước Mỹ "không được buông lỏng áp lực đối với Liên Xô, để phóng thích tất cả các tội phạm chính trị đang bị giam cầm"3 (Little Jack, F. Matlock (Mỹ): Ghi chép trải nghiệm bản thân về sự giải thể của Liên Xô, Sđd, tr. 119). Sakharov lúc này trên thực tế đã trở thành người phát ngôn của phương Tây tại Liên Xô. Gorbachev không những cho phép ông ta được tiếp xúc và liên hệ thường xuyên với phía Mỹ, mà còn cổ vũ ông ta tham gia các hoạt động chính trị, thậm chí còn dành cho ông ta sự chăm sóc đặc biệt. Khi bầu cử đại biểu nhân dân Liên Xô tháng 3 năm 1989, Sakharov gặp phải sự phản đối của rất nhiều người tại Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, do đó đã không trúng cử. Nhưng Gorbachev lập tức tăng thêm cho Viện Khoa học Liên Xô mấy suất, Sakharov cuối cùng đã trúng cử đại biểu nhân dân Liên Xô. Sau này, Sakharov và Yeltsin tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô đã liên kết với gần 300 nghị sĩ, thành lập "Đoàn nghị sĩ xuyên khu vực", đồng thời biến nó thành một đảng đoàn đối lập kịch liệt chống Đảng Cộng sản Liên Xô. Đối với điều này, Gorbachev chưa từng bày tỏ khiển trách hay phản đối. Những cách làm này của Gorbachev được mọi người gọi là "thả hổ về rừng", trên thực tế đã tạo điều kiện cho Sakharov và những "người bất đồng chính kiến" hành động trắng trợn chống Đảng Cộng sản Liên Xô và chống chủ nghĩa xã hội. Ngày 14 tháng 12 năm 1989, Sakharov bị bệnh qua đời, Gorbachev vô cùng thương tiếc, tuyên bố đây là "sự tổn thất to lớn"1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.212-213). Do lập trường và thái độ "rõ ràng" này của Gorbachev, ngày càng có nhiều người bất đồng chính kiến và các phong trào "người bất đồng chính kiến" quy mô lớn ở Liên Xô được công khai hóa và hợp pháp hóa rất nhanh.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:33:28 am
Trong thời gian này, thế tấn công "dân chủ" của phương Tây chuyển hướng sang ủng hộ các phe phái phản động trong nước của Liên Xô, đẩy mạnh chăm sóc cho "người đào huyệt" của Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền Xôviết. Liên Xô lúc đó, dưới sự phát động khẩu hiệu "dân chủ hóa" của Gorbachev, hàng vạn "tổ chức phi chính thức" liên tục được lập lên ở khắp nơi trong nước. Theo tiết lộ của bài xã luận trên báo Sự thật ngày 28 tháng 12 năm 1987, "tổ chức phi chính thức" của Liên Xô lúc đó đã lên tới hơn 3 vạn. Trong đó, có một lượng lớn là tổ chức chính trị chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, chúng có cương lĩnh, có tổ chức, có quần chúng, có tập san, còn được sự ủng hộ mạnh mẽ của phương Tây. Trước tình hình này, Gorbachev lựa chọn thái độ bỏ mặc, thậm chí ủng hộ khuyến khích. Tại Đại hội đại biểu lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6 năm 1988, ông ta phát biểu, "sự tăng mạnh của các đoàn thể xã hội thể hiện các loại lợi ích xã hội" là "đặc điểm nôi bật" của cải tổ; "nói chung, đây là thể hiện xuất sắc của tinh thần nhân dân, nó xứng đáng được ủng hộ mạnh mẽ". Cho đến ngày 18 tháng 7 năm 1989, tại Hội nghị Bí thư thứ nhất các Khu ủy và Trung ương các Đảng Cộng hòa trong toàn Liên Xô, ông ta nhấn mạnh, những tổ chức xã hội này "tuyệt đại đa số chủ trương đi sâu cải tổ, chủ trương dân chủ hóa hơn nữa... phù hợp khách quan giữa mục đích tích cực của các tổ chức này và mục đích cải tổ", do đó nên "đối thoại và hợp tác với họ". Thực ra các "tổ chức phi chính thức" này ban đầu là manh nha của chính đảng, sau này phát triển thành các chính đảng thực sự, đặt nền móng cho Liên Xô thực hiện chế độ đa đảng. Gorbachev lúc đầu phản đối thực hiện chế độ đa đảng, nhưng theo sự phát triển của tình hình lại thỏa hiệp nhượng bộ, tuyên bố tán thành chế độ đa đảng, đồng thời tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1990 đã đưa ra kiến nghị thực hiện chế độ đa đảng. Không lâu sau, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô thông qua nghị quyết, sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, quy định thực hiện chế độ đa đảng ở Liên Xô, xóa bỏ địa vị lãnh đạo luật định của Đảng Cộng sản Liên Xô. Một năm sau, đến tháng 2 năm 1991, toàn Liên Xô xuất hiện 20 chính đảng mang tính toàn quốc, hơn 500 chính đảng cấp 1 ở các nước cộng hòa. Cách làm của Gorbachev, trên thực tế là đón nhận thế tấn công "dân chủ" của phương Tây, cổ vũ các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội trong nước tổ chức lại, kết thành chính đảng, triển khai đấu tranh cướp quyền với Đảng Cộng sản Liên Xô. Tình hình lúc đó, giống như trong bài viết của báo Le Figaro của Pháp ngày 23 tháng 7 năm 1990: "Dân chủ trong đời sống thường ngày của Liên Xô đã thiết lập rồi", "luật lệ cấm đoán đã phế bỏ rồi, người ta có thể tùy ý công kích Đảng Cộng sản và quân đội", "phong trào của phe đối lập được cho phép và được khích lệ", "Đảng và quân đội 70 năm nay đều là trụ cột của xã hội, đến nay đều bị chỉ trích và lên ấn", "Đảng bị mất uy tín", "Liên Xô - Tổ quốc của giai cấp vô sản thế giới trước kia hầu như đã trở thành Tổ quốc của chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa vô chính phủ"1 (Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho lý luận chủ nghĩa xã hội, Sđd, quyển hạ, tr.964).


Trong số các phe đối lập bên trong Liên Xô, phương Tây quan tâm nhất và ủng hộ mạnh mẽ là phe Yeltsin. Yeltsin lúc đầu từng là tướng tài đắc lực của Gorbachev, được điều động từ nơi khác về đảm nhiệm chức vụ quan trọng Bí thư thứ nhâì: Thành ủy Mátxcơva. Nhưng sau đó không lâu, ông ta liền phản đối phương châm cải tổ của Đảng Cộng sản Liên Xô, phản lại Gorbachev, đồng thời trở thành nhân vật lãnh tụ của phe đối lập. Vào mùa hè năm 1987, Đại sứ Mỹ tại Liên Xô đã tiếp xúc với Yeltsin. Sự "thẳng thắn" chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội của Yeltsin đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho Đại sứ Mỹ, nước Mỹ lập tức coi ông ta là đối tượng công tác trọng điểm, toàn lực ủng hộ các hành động chống đối nhằm chống lại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền liên minh, chia cắt Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên Xô. Kỳ lạ là, Gorbachev cũng rất quan tâm tới Yeltsin, sau khi phế bỏ chức vụ lãnh đạo trong Đảng của Yeltsin, vẫn bổ nhiệm ông ta làm Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban Xây dựng quốc gia (cấp Bộ trưởng). Tháng 3 năm 1989, Yeltsin từ bỏ chức vụ Bộ trưởng, tranh cử đại biểu nhân dân Liên Xô, và đã thành công. Nhưng ông ta đã không trúng cử tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô bầu đại biểu Xô viết tối cao ngày 27 tháng 5 năm đó. Do đó, Gorbachev lại một lần nữa dang tay giúp đỡ, đặc cách cho phép một đại biểu Xô viết tối cao đã trúng cử "nhường chỗ" cho Yeltsin1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.134). Sau đó, nước Mỹ hai lần mời Yeltsin thăm Mỹ, dành cho ông sự đón tiếp cao độ và ủng hộ mạnh mẽ. Một lần là vào tháng 9 năm 1989, Yeltsin thăm Mỹ chỉ với thân phận đại biểu nhân dân Liên Xô. Một lần khác là vào tháng 6 năm 1991, Yeltsin thăm Mỹ với thân phận đương kim Tổng thống Nga. Để giúp Yeltsin chống lại Đảng Cộng sản Liên Xô, tháng 4 năm 1991, Sở nghiên cứu Hoover thuộc phe tư tưởng bảo thủ Mỹ đã đưa ra quyết định, cử chuyên gia định kỳ sang Liên Xô làm cố vấn cho Yeltsin, cung cấp tư vấn miễn phí. Khi Yeltsin ra tranh cử Tổng thống Nga, có 5 chuyên gia Mỹ làm cố vấn cho ông ta, thù lao do phía Mỹ chi trả. Lúc đó, Đại sứ Mỹ tại Liên Xô giữ liên hệ mật thiết nhất với Yeltsin, số lần mà ông ta gặp gỡ với Yeltsin còn nhiều hơn nhiều so với số lần gặp gỡ Tổng thống Liên Xô Gorbachev. Dưới sự thúc đẩy của nước Mỹ, Gorbachev nhiều lần "bắt tay hợp tác" với Yeltsin. Ngày 10 tháng 7, Gorbachev bày tỏ chúc mừng khi Yeltsin tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Nga, nhấn mạnh sự đắc cử của Yeltsin là "kết quả của thay đổi dân chủ do cải tổ mang lại", đồng thời kêu gọi tăng cường sự hợp tác và thông cảm lẫn nhau giữa Trung ương và Nga1 (Theo AFP tại Mátcơva ngày 10-7-1991). Trong sự kiện "ngày 19 tháng 8" diễn ra sau đó, Gorbachev càng đứng gần với phương Tây và Yeltsin, cùng đối phó với "Ủy ban tình trạng khẩn cấp quốc gia" lúc đó đang cố gắng xoay chuyển tình thế đồng thời tuyên bố giải tán Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, khiến tình hình chính trị của Liên Xô thay đổi đột ngột.


Phải nói rằng, Yeltsin rất cảm kích trước tấm ân tình mà nước Mỹ dành cho mình, hơn nữa đã có đi có lại. Đêm trước sự kiện "19 tháng 8", Popov, nhân sĩ nổi tiếng thuộc phe đối lập Liên Xô đã dùng mẩu giấy mật báo Đại sứ Mỹ, nói rằng có người đang tính toán một âm mưu lớn. Sau khi xảy ra sự kiện "19 tháng 8", Tổng thống Mỹ hai lần nói chuyện điện thoại với Yeltsin, ổn định tinh thần và khích lệ ý chí của ông ta; các quốc gia tư bản chủ nghĩa chính ở phương Tây lập tức bày tỏ rõ ràng ủng hộ Yeltsin, đồng thời tuyên bố tạm ngưng mọi kế hoạch viện trợ Liên Xô. Tháng 12 năm 1991, khi cùng với lãnh đạo Ucraina và Bêlarút âm mưu giải tán Liên Xô, Yeltsin cũng đã thông báo tình hình với Tổng thống Mỹ và được Mỹ ủng hộ.


Trước đó, phương Tây còn trực tiếp ủng hộ sự bạo loạn xã hội trong nước Liên Xô. Từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1991, gần 1 triệu công nhân khai khoáng Liên Xô tổ chức bãi công, gây ra tổn thất to lớn. Ngày 22 tháng 3, hai nhân viên công tác trong Sứ quán Mỹ tại Liên Xô đã tham gia Đại hội đại biểu công nhân bãi công mỏ than Donbass, bày tỏ ủng hộ bãi công. "Liên đoàn lao động - Liên đoàn ngành nghề" của Mỹ cũng công khai bày tỏ ủng hộ bãi công của công nhân mỏ Liên Xô, đồng thời còn viện trợ về vật chất. Đối với những vấn đề này, Gorbachev thể hiện tương đối khoan dung, không tra, không hỏi, không biểu dương hay phê bình, cũng chưa hề vì điều đó mà có ý kiến với các nước phương Tây.


Tóm lại, phương Tây đã làm rất nhiều việc xấu đối với Liên Xô trong các mặt phát động tấn công "dân chủ", nhúng tay vào công việc chính trị nội bộ, ủng hộ phái đối lập. Nhưng Gorbachev không những không gia tăng phản đối hay kiểm soát, ngược lại còn đón nhận mưu đồ diễn biến hòa bình của phương Tây, rập khuôn mô hình chính trị của phương Tây tại Liên Xô, thực hiện tam quyền phân lập, dân chủ nghị viện, tự do bầu cử, chế độ đa đảng và chế độ Tổng thống, biến đời sống chính trị của Liên Xô thành một mớ hỗn độn, cuối cùng dẫn đến "mất Đảng, mất nước". Gorbachev làm như vậy là bởi vì nói cho cùng ông ta không phải nhà mácxít chân chính, nói thật lòng, ông ta thực ra là tín đồ trung thành của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Do đó, mặc dù lúc đầu ông ta nhấn mạnh "dân chủ thêm một chút, chủ nghĩa xã hội thêm một chút", kết quả sau này lại là "dân chủ" càng ngày càng nhiều, từ đó đi đến dân chủ hóa tuyệt đối và chủ nghĩa vô chính phủ, mà chủ nghĩa xã hội lại ngày càng ít, cuối cùng đi đến hủy diệt triệt để.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:34:08 am
Ba là, dung túng cho phương Tây "phân hóa" Liên Xô, để mặc Liên bang đi đến giải thể.

Sách lược diễn biến hòa bình mà phương Tây thúc đẩy ở Liên Xô, trên thực tế là sử dụng cách làm tiến hành đồng bộ, ngoài việc phát động tấn công "dân chủ" thúc đẩy Liên Xô đi con đường "Tây hóa", một trọng điểm khác là kích động mâu thuẫn dân tộc, tiến hành "phân hóa", thúc đẩy Liên Xô giải thể. Tình hình lúc đó là, mâu thuẫn dân tộc tồn tại lâu ngày ở Liên Xô bởi Gorbachev thực hiện cái gọi là "dân chủ hóa quan hệ giữa các dân tộc" đã bộc lộ đầy đủ và trở nên gay gắt, tạo nên đối lập và xung đột dân tộc nghiêm trọng. Các nước phương Tây lợi dụng thời cơ đục nước béo cò, một mặt sử dụng các phương tiện truyền thông đổ thêm dầu vào lửa đối với các hoạt động chia rẽ dân tộc ở Liên Xô; mặt khác cử người triển khai các hoạt động tại các tổ chức dân tộc chủ nghĩa để bày mưu tính kế và động viên tinh thần cho họ. Đứng trước âm mưu "phân hóa" của phương Tây, Gorbachev đã thiếu cảnh giác, ứng phó sơ suất, ngăn chặn không hiệu quả, nhượng bộ từng bước trong quan hệ dân tộc, đành chịu nhìn Liên Xô đi vào con đường giải thể.


Lúc đó, thế tiến công trọng điểm của phương Tây trong "phân hóa" Liên Xô đầu tiên hướng đến ba nước cộng hòa trong Liên bang bên bờ biển Bantích là Lítva, Latvia, Extônia. Các nước phương Tây từ trước đến nay đều cho rằng, ba nước Bantích gia nhập Liên Xô là "bất hợp pháp", là kết quả của việc Liên Xô "mở rộng xâm lược". Ngày 1 tháng 12 năm 1989, nguyên thủ hai nước Mỹ và Liên Xô gặp gỡ tại Malta, Tống thống Mỹ đã gia tăng áp lực đối với Gorbachev, tuyên bố Mỹ từ trước tới nay không thừa nhận Liên Xô sáp nhập ba nước Bantích, đồng thời cảnh cáo Gorbachev không được dùng vũ lực để đối phó với các phong trào dân tộc của ba nước Bantích. Thế nhưng, phong trào chia rẽ dân tộc ở Liên Xô sớm nhất là bắt đầu từ ba nước Bantích. Bắt đầu từ năm 1987, cứ vào ngày 23 tháng 8 hằng năm, ba nước Bantích đều xảy ra biểu tình mang tính quần chúng với quy mô lớn dưới sự xúi giục và ủng hộ của các nước phương Tây, mượn dịp kỷ niệm năm ký kết Điều ước Xô - Đức năm 1939, kháng nghị Liên Xô "thôn tính" nước minh, đồng thời đưa ra khẩu hiệu đòi độc lập. Tháng 10 năm 1988, ở ba nước Bantích lần lượt thành lập tổ chức "Mặt trận nhân dân", mục đích là thúc đẩy hơn nữa phong trào chia rẽ dân tộc. Ngày 23 tháng 8 năm 1989, 2 triệu người dân ba nước Bantích vượt qua biên giới, tay nắm tay kết thành "sợi dây người" dài 600 km, dấy lên phong trào "Con đường Bantích", đồng thời đưa ra khẩu hiệu "đánh đổ Đảng Cộng sản Liên Xô" và "thoát khỏi Liên Xô"1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.154). Ngày 20 tháng 12 năm đó, Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Lítva với 850 phiếu thuận, 180 phiếu chống thông qua nghị quyết, tuyên bố độc lập, thoát khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 11 tháng 3 năm 1990, Xôviết tối cao Lítva với 91:42 phiếu thông qua nghị quyết, tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên Xô. Theo đó, Xôviết tối cao hai nước Látvia, Extônia cũng thông qua khôi phục tuyên ngôn và pháp lệnh độc lập, đẩy phong trào chia rẽ dân tộc lên thành cao trào.


Phải nói rằng, lúc đó Gorbachev từng phản đối Lítva tuyên bố độc lập, hơn nữa đã từng áp dụng những biện pháp nghiêm khắc, bởi vì ông ta không muốn nhìn thấy Liên Xô đi đến bước đường giải thể trong nhiệm kỳ cầm quyền của mình. Ngày 13 tháng 3 năm 1990, Gorbachev phát biểu tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô rằng Lítva tuyên bố độc lập là bất hợp pháp và vô hiệu. Theo đó, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô đã thông qua nghị quyết tương ứng, tuyên bố quyết định độc lập của Lítva "không có hiệu lực pháp lý". Quân đội Liên Xô đóng tại Lítva đã tiến hành diễn tập quân sự, biểu dương vũ lực, gia tăng áp lực đối với Lítva. Ngày 21 tháng 3, Gorbachev ban hành lệnh Tổng thống, yêu cầu Chính phủ Liên Xô lựa chọn giải pháp để bảo vệ chủ quyền của Liên Xô, đồng thời yêu cầu công dân Lítva phải giao nộp vũ khí trong vòng 7 ngày. Tiếp theo đó, 100 chiếc xe của quân đội Liên Xô từ kế bên tòa nhà Hội nghị Lítva đang họp bên trong ầm ầm kéo đến. Đồng thời, quân đội Liên Xô chiếm lĩnh tòa nhà Trung ương Đảng và Văn phòng Viện Kiểm sát Lítva, đóng cửa khẩu biên giới duy nhất của Lítva thông ra nước ngoài (Ba Lan). Ngày 13 tháng 4, Gorbachev cảnh cáo lãnh đạo Lítva, nếu trong vòng 2 ngày không hủy bỏ văn kiện độc lập, Liên Xô sẽ "ngừng cung cấp" sản phẩm. Theo đó, Liên Xô thực hiện đóng cửa kinh tế, ngừng cung cấp dầu mỏ, giảm cung cấp khí đốt thiên nhiên cho Lítva. Trong thời gian này, Lítva kiên trì quyết định độc lập, nhưng thể hiện không thông qua lại văn kiện độc lập mới, đồng thời yêu cầu đối thoại với Liên Xô. Các nước phương Tây cũng gia tăng áp lực đối với Liên Xô, Tổng thống Mỹ Bush công khai thể hiện ủng hộ quyền tự quyết của Lítva, cảnh báo Liên Xô không được dùng vũ lực. Thế là sự đối kháng giữa Lítva và Trung ương Liên bang rơi vào trạng thái giằng co, thái độ của Gorbachev bắt đầu mềm xuống, ngày 24 tháng 5, ông ta gặp đại diện của Lítva, bày tỏ về nguyên tắc không phản đối Lítva tách khỏi Liên Xô, đồng thời nói: "Hành động của Lítva là công bằng, công khai và hợp tình hợp lý, nhưng điều này cần phải đàm phán"1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.270, 285-286, 295).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:36:31 am
Tháng 1 năm 1991, Lítva lại một lần nữa rơi vào tình thế căng thẳng, xảy ra sự kiện đổ máu. Thực ra, sự kiện này là do Gorbachev cố tình gây ra, ông ta mưu đồ lợi dụng sự thay đổi của tình thế lúc đó để kiểm soát cục diện Lítva. Ngày 7 tháng 1, Chính phủ Lítva nâng giá mạnh các mặt hàng thực phẩm, dẫn đến sự bất mãn của người dân, hàng loạt quần chúng bao vây tòa nhà Quốc hội, dẫn đến Chính phủ từ chức. Tiếp theo đó, những người cộng sản địa phương phản đối chia rẽ dân tộc đã thành lập Ủy ban cứu quốc Lítva, đòi khôi phục hiệu lực của Hiên pháp Liên Xô tại Lítva, đồng thời âm mưu đoạt quyền.


Gorbachev đích thân tiếp đại diện của 16 đoàn thể công chúng đến từ Lítva, lắng nghe yêu cầu của các đại diện muốn thực hiện "chế độ Tổng thống" tại Lítva. Trung ương Liên bang cử quân đội đến Lítva, một đội quân nhảy dù nhanh chóng đóng quân tại Vilnius. Tiếp đó, theo lời thỉnh cầu của "Ủy ban cứu quốc", bộ đội nội vụ Liên Xô đã chiếm lĩnh tòa nhà xuất bản vốn thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Vilnius, đồng thời kiểm soát tòa nhà của Đài Phát thanh và truyền hình quốc gia, xảy ra xung đột vũ trang với các phần tử dân tộc chủ nghĩa bảo vệ tòa nhà, làm 14 người chết, 150 người bị thương. Thế là nước Mỹ lập tức ra tuyên bố, chỉ trích quân đội Liên Xô đã "khiêu khích" tại Lítva, yêu cầu Liên Xô "ngừng đe dọa, quay lại bàn đàm phán". Quyền Ngoại trưởng Mỹ và Đại sứ Mỹ tại Liên Xô lần lượt gặp Đại sứ Liên Xô tại Mỹ và quan chức ngoại giao Liên Xô, bày tỏ lập trương cứng rắn của Mỹ với Liên Xô. Bản thân Bush cũng đích thân ra tay, một mặt gọi điện thoại cho Gorbachev, gây áp lực cho ông ta; mặt khác, gửi công hàm bí mật cho ông ta, yêu cầu ông ta thực hiện lời hứa với các nước phương Tây là không sử dụng vũ lực đối với ba nước Ban tích, nếu không, Mỹ sẽ dừng viện trợ kinh tế đối với Liên Xô. Phòng trào "nước Nga dân chủ" ở Liên Xô cũng phát động cuộc biểu tình với quy mô lớn, phản đối quân đội Liên Xô "tấn công" Lítva, bày tỏ ủng hộ nhân dân Lítva. Yeltsin lại ra Tuyên bố chung với lãnh đạo ba nước Ban tích, tuyên bố củng ủng hộ về vấn đề "chủ quyền", còn công khai chỉ trích chính sách hiện hành của lãnh đạo Liên Xô. Trong thời khắc quan trọng này, Gorbachev lập tức thay đổi thái độ, thực hiện thỏa hiệp nhượng bộ, tuyên bố Trung ương Liên bang chưa từng hạ lệnh nổ súng, tuyên bố phải dùng biện pháp chính trị để giải quyết vấn đề Lítva, đồng thời tuyên bố rút quân khỏi Lítva, "Ủy ban cứu quốc" cũng tuyên bố giải tán1 (Tham khảo Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm 'cải tổ' của Liên Xô cũ, Sđd, tr.441-442). Thế là Liên Xô hoàn toàn mất kiểm soát đối với ba nước Bantích. Việc Lítva tuyên bố độc lập, trên thực tế là tạo "bước đột phá" cho Liên Xô giải thể, sau đó, xu thế chia rẽ dân tộc diễn ra ở khắp nơi trong cả nước, các nước cộng hòa thuộc Liên bang như Grudia, Mônđavia, Ucraina cũng hăng hái làm theo, lần lượt tuyên bố độc lập, nguy cơ giải thể của Liên Xô ngày càng rơi càng sâu.


Phải chỉ ra rằng, các hành động phá hoại của Mỹ như gây mâu thuẫn dân tộc, phân hóa Liên Xô không chỉ dừng lại ở ba nước Bantích. Từ năm 1989-1991, khi phong trào chia rẽ dân tộc ở khắp nơi trong cả Liên Xô trở thành cao trào, Đại sứ Mỹ tại Liên Xô hầu như đi khắp nơi trong cả nước Liên Xô, không những đến Ácmênia và Adécbaigian của vùng nam Cápcadơ để tiến hành xúi giục, mà còn đến Ucraina, Mônđavia và vùng Trung Á để tiến hành hoạt động, đến đâu cũng hội kiến và tích cực ủng hộ cái gọi là "nhà hoạt động dân tộc chủ nghĩa". Trong đó, Ucraina trở thành đối tượng trọng điểm trong thực hiện chiến lược "phân hóa" của phương Tây. Lãnh đạo tổ chức dân tộc chủ nghĩa lớn nhất ở Ucraina "Ruch" nhiều lần được mời sang "thăm" Mỹ. Mùa hè năm 1991, Tổng thống Mỹ Bush sau khi thăm Mátxcơva đã thăm chớp nhoáng Kiev, nhấn mạnh, tương lai của Ucraina phải do người dân Ucraina chọn lựa, thể hiện sự ủng hộ của Mỹ đối với thế lực chủ nghĩa dân tộc. Dưới sự thúc đẩy mạnh mẽ của phương Tây, phong trào chia rẽ dân tộc ở Ucraina nhanh chóng trở thành cao trào. Ngày 24 tháng 8 năm đó, Quôc hội Ucraina thông qua nghị quyết, tuyên bố độc lập. Ngày 1 tháng 12, Ucraina tổ chức bỏ phiếu công dân, phê chuẩn độc lập của Ucraina. Ucraina là nước cộng hòa lớn thứ hai chỉ sau Liên bang Nga ở Liên Xô. Sự độc lập của Ucraina thực ra là một đòn chí mạng dẫn đến Liên Xô giải thể.


Gorbachev đối mặt với thế tấn công của phương Tây và sự kháng nghị của các phe đối lập trong nước, chưa bao giờ áp dụng các biện pháp hữu hiệu, mà cứ ngày càng lùi bước, để mặc cho các thế lực chia rẽ dân tộc tiến hành các hoạt động điên cuồng, ngang ngược. Cuối cùng, ông ta chỉ hy vọng thông qua ký kết bản điều ước liên minh mới để duy trì một quốc gia theo chế độ liên bang, nhưng do ông ta phạm phải hàng loạt sai lầm nghiêm trọng, hy vọng này cũng biến thành một giấc mơ không thể thực hiện được. Là một lãnh đạo tối cao của Liên Xô, trong thời khắc quan trọng quốc gia đối mặt với sự chia rẽ, Gorbachev lại mềm yếu nhu nhược, nhất mực thỏa hiệp nhượng bộ, thực hiếm thấy trong các nước trên thế giới. Có người cho rằng, sau sự kiện "19 tháng 8", chỉ cần Gorbachev có hành động, có thể tránh được Liên Xô giải thể. Ý kiến này sau này được rất nhiều người ủng hộ. Ngày 5 tháng 7 năm 1994, Nghị viện Nga tổ chức buổi điều trần về vấn đề Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Tại Hội nghị, Gorbachev đã cố sức chối bỏ trách nhiệm, nói rằng sự sụp đổ của Liên Xô là do sai lầm chính trị của những người khác tạo nên, không phải là kết quả của việc ông ta thúc đẩy cải tổ. Lukyanov phản bác nói, không có bất cứ nguyên nhân quan trọng nào có thể dẫn tới việc Liên Xô giải thể, lý do Liên Xô đi đến cái kết hoàn toàn là do Gorbachev không hành động. Ông nói, Gorbachev chỉ cần "động ngón tay"' là có thể ngăn chặn Yeltsin, Kravchuk và Shushkevich ký kết điều ước thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập; nếu Gorbachev hành động, ba người này sẽ "không còn lựa chọn, chỉ có thể chạy sang nước ngoài"1 (Theo UPI tại Mátxcơva, ngày 5-7-1994). So sánh với nước Nga sau khi Liên Xô giải thể, mặc dù chế độ xã hội đã thay đổi căn bản, lãnh đạo Nga là Yeltsin và Putin lại có thể lựa chọn lập trường cứng rắn, kiên quyết chống lại những áp lực của phương Tây, bất chấp những kháng nghị của phe đối lập trong nước, trấn áp nghiêm ngặt những thế lực chia rẽ dân tộc, đã phát động hai cuộc chiến tranh Chechnya.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:37:30 am
Bốn là, cầu xin viện trợ kinh tế của phương Tây, chấp nhận các loại điều kiện của phương Tây.

"Chiến lược tăng tốc" được thực hiện sau khi Gorbachev lên cầm quyền, hiệu quả không hề rõ rệt, cải tổ kinh tế về cơ bản cũng là "không chuyển biến", tiến triển không lớn. Sau này, Gorbachev chuyển trọng điểm cải tổ sang chính trị, nhấn mạnh tiến hành "cải tổ căn bản" đối với thể chế chính trị, cuối cùng dẫn đến rối loạn xã hội ngày càng gay gắt, xung đột xã hội liên tục không ngừng căng thẳng, tình hình kinh tế ngày càng trầm trọng, đời sống nhân dân giảm xuống rõ rệt. Năm 1990, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai GDP Liên Xô xuất hiện tăng trưởng âm, bắt đầu rơi vào khủng hoảng kinh tế. Tình hình này làm cho Gorbachev lúng túng, vì vậy đã khẩn thiết, cúi đầu cầu xin viện trợ kinh tế của các nước phương Tây. Phương Tây nhân cơ hội này đã đưa ra các loại yêu cầu và điều kiện, gia tăng thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô. Thế là, Liên Xô tiến hành "cải tổ" theo phương hướng chỉ dẫn của phương Tây, nhanh chóng bước lên con đường "mất Đảng, mất nước".


Lúc đó, sự kiện nổi bật nhất là xây dựng "Kế hoạch Harvard". Khởi nguồn của vấn đề là, tháng 4 năm 1991, "Cương lĩnh chống khủng hoảng" do Thủ tướng mới của Chính phủ Liên Xô là Pavlov chủ trì xây dựng gặp phải sự phủ định và bất mãn của phía Mỹ. Vì điều này, Gorbachev đã phê bình Pavlov, sau đó đích thân gọi điện cho Tổng thống Mỹ Bush, nói ông ta đã ra lệnh cho Yavlinsky xây dựng phương án cải tổ kinh tế mới, đồng thời quyết định cử ông ta đến Mỹ để báo cáo tình hình. Bush lập tức đồng ý. Yavlinsky là Phó Thủ tướng chính quyền Nga trước đó, năm 1990 ông ta phản đối phương án cải tổ kinh tế "Quá độ lên kinh tế thị trường có điều tiết" do Thủ tướng Chính phủ Liên Xô Ryzhkov chủ trì xây dựng, tuân theo lệnh của Yeltsin cùng với Viện sĩ Shatalin xây dựng "Kế hoạch 500 ngày", đưa cả nước hoàn thành quá độ lên kinh tế thị trường trong thời gian ngắn, đồng thời thực hiện phi quốc hữu hóa và tư hữu hóa đối với 70% tài sản quốc hữu. Trải qua sự tranh luận gay gắt, Gorbachev điều hòa hai phương án nói trên, hình thành "phương án Tổng thống", nhưng trước đó ông ta nói rằng, ông ta đánh giá phương án của Yavlinsky cao hơn. Điều đó cho thấy Gorbachev rất tin tưởng Yavlinsky trong cải tổ kinh tế. Theo như tiết lộ sau này, Yavlinsky nhận sự ủy thác của Gorbachev và Yeltsin, dẫn đầu nhóm bảy người bay sang Mỹ vào khoảng trung tuần tháng 5 năm 1991, tiến hành hội đàm với Quỹ Tiền tệ quốc tế Ngân hàng Thế giới và tổ chức tập đoàn của 7 nước, tìm kiếm viện trợ của phương Tây, đồng thời bàn bạc với nhóm chuyên gia của trường Đại học Harvard Mỹ, đề ra kế hoạch cải tổ Liên Xô dựa vào viện trợ của phương Tây. Trung tuần tháng 6, "Kế hoạch Harvard" do chuyên gia hai nước xây dựng, sau khi sửa đổi đã chính thức được ban hành, với tên gọi là "Cùng đứng trước thời cơ". Sau đó Yavlinsky cầm bản "Kế hoạch Harvard" quay trở lại Mátxcơva, báo cáo với Gorbachev và Yeltsin. Gorbachev hoàn toàn nhất trí đối với bản "Kế hoạch Harvard", cho rằng đây là "bước ngoặt lịch sử" đối với hợp tác kinh tế giữa Liên Xô và các nước phương Tây. Yeltsin bày tỏ hài lòng đối với "Kế hoạch Harvard". Nội dung cốt lõi của "Kế hoạch Harvard" là gắn kết giữa cải tổ của Liên Xô với viện trợ của phương Tây. Kế hoạch quy định, phương Tây mỗi năm viện trợ cho Liên Xô từ 30 đến 50 tỷ USD, 5 năm tổng cộng là từ 150 đến 250 tỷ USD, Liên Xô thực hiện "thị trường hóa", "tư hữu hóa", "dân chủ hóa" triệt để, cho phép các dân tộc tự quyết, cắt giảm lực lượng quân sự. Kế hoạch còn quy định, viện trợ của phương Tây phải sát với các bước đi trong cải tổ của Liên Xô, nửa năm điều chỉnh một lần. Cũng có thể nói là, Liên Xô phải tiến hành cải tổ triệt để theo các yêu cầu của phương Tây về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự mới có thể đổi lấy viện trợ của phương Tây; Liên Xô cải tổ bao nhiêu, phương Tây viện trợ bấy nhiêu. Nói theo cách nói lúc đó, "cải tổ nhiều, viện trợ nhiều, cải tổ ít, viện trợ ít, không cải tổ, không viện trợ". Ý đồ của phương Tây là rõ ràng. Ngày 2 tháng 6 năm đó, nguyên Tổng thống Mỹ Nixon đăng bài trên Washington Post, thẳng thắn bóc trần mục đích của việc viện trợ của phương Tây. Ông nói: "Lợi ích chiến lược then chốt của Mỹ không ở chỗ cứu vãn Mátxcơva bằng kinh tế mà là hủy hoại chế độ cộng sản chủ nghĩa của Liên Xô. Chính sách của Mỹ nên là thúc đẩy xây dựng chính phủ dân chủ, kinh tế thị trường và tiến hành tự quyết dân tộc Nga và phi Nga"1 (Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho lý luận chủ nghĩa xã hội, Sđd, quyển hạ, tr.967). Do đó, "Kế hoạch Harvard" đã chứng minh, Gorbachev đã quyết tâm phối hợp với diễn biến hòa bình của phương Tây, dự tính làm sụp đổ triệt để chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô.


Nhưng những tranh cãi về phương án cải tổ kinh tế trong nước của Liên Xô vẫn đang tiếp tục. Bởi vì "Cương lĩnh chống khủng hoảng" của Chính phủ Liên Xô và "Kế hoạch Harvard" của Yavlinsky có những khác biệt rõ ràng. Hai phương án đều đưa ra nhiệm vụ của chế độ sở hữu phi quốc hữu hóa và tư nhân hóa, nhưng phương án 1 chủ trương bảo lưu 30% chế độ sở hữu nhà nước, 70% còn lại lấy chế độ sở hữu tập thể làm chính, chế độ sở hữu tư nhân làm phụ; còn "Kế hoạch Harvard" chủ trương lấy chế độ tư hữu làm chính. Hai phương án đều chủ trương quá độ lên kinh tế  thị trường, nhưng phương án 1 chủ trương duy trì sự can dự của nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế, phương án 2 lại chủ trương gạt bỏ sự can dự của nhà nước; phương án 1 chủ trương dựa vào sức mạnh của quốc gia để tiến hành cải tổ, phương án 2 lại chủ trương dựa vào sự viện trợ của phương Tây để thực thi cải tổ. Trong tranh luận gay gắt, Gorbachev phủ định sự khác biệt về nguyên tắc giữa hai phương án, lại hợp nhất hai phương án làm một, hình thành một "kế hoạch Tổng thống", mục đích dựa vào đó để nhận viện trợ to lớn của phương Tây. Thế nhưng, cái gọi là "viện trợ" của phương Tây thực ra chỉ là "mồi câu". Lúc đó, một người Mỹ từng tham gia khởi thảo "Kế hoạch Harvard" tên là Ferch nói: "Phương Tầy sẽ không bỏ một khoản tiền lớn ra để đổi lấy một lời hứa. Phương Tây sẽ bắt đầu một tiến trình, chúng tôi chỉ viện trợ lớn sau khi tiến trình kết thúc (nếu thành công), chúng tôi phải có một quốc gia tư bản chủ nghĩa dân chủ"1 (John Lloyd: "Tập đoàn 7 nước suy nghĩ kế hoạch cứu vớt kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa", Financial Times (Anh), ngày 13-6-1991). Tình hình sau này cũng đúng như vậy. Ngày 16 tháng 7 năm đó, Gorbachev cầm bản "Kế hoạch Harvard" của mình đi London, gặp gỡ nguyên thủ của 7 nước phương Tây, tham dự "Hội nghị Thượng đỉnh 7+1", báo cáo về phương án cải tổ của Liên Xô với nguyên thủ 7 nước phương Tây, mục đích lấy đó để đối lấy viện trợ to lớn của phương Tây. Nhưng kết quả lại vô cùng thất vọng, 7 nước phương Tây lúc đó không hề hứa hẹn về một khoản viện trợ nào, chỉ phê chuẩn Liên Xô trở thành "thành viên chính thức" của Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Mặc dù "Kế hoạch Harvard" chưa chính thức thực hiện, nhưng ý đồ của Gorbachev đã bộc lộ ra hoàn toàn. Sau đó, ông ta vẫn dựa theo mạch của "Kế hoạch Harvard" để phát triển, trong khi tiếp tục tranh thủ và chờ đợi viện trợ của phương Tây, khiến cải tổ Liên Xô đi theo chỉ dẫn của phương Tây, bước theo con đường "thị trường hóa", "tư hữu hóa", "dân chủ hóa" triệt để, ông ta đặc biệt nhấn mạnh phải "nhanh chóng giải phóng phần lớn doanh nghiệp thoát khỏi sự kiểm soát của nhà nước, thực hiện tư hữu hóa"1 (Gorbachev: "Phương châm cơ bản ốn định kinh tế quốc dân và quá độ đi lên kinh tế thị trường", báo Sự thật, ngày 18-10-1990), tăng tốc đi tới chủ nghĩa tư bản, tiêu diệt triệt để nhà nước Xôviết và Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:38:24 am
Năm là, khuất phục trước áp lực ngoại giao của phương Tây, chịu làm "đối tác nhỏ" của Mỹ.

Gorbachev thực hiện ngoại giao "tư duy mới", tuy có ý nghĩa tích cực nhất định trong việc sửa chữa sự mở rộng, tranh bá trong quá khứ và làm dịu cục diện căng thẳng quốc tế, nhưng nó lại đi theo một lối rẽ khác, đưa "lợi ích toàn nhân loại cao hơn tất cả" làm hạt nhân của chính sách ngoại giao, phủ định hoàn toàn đấu tranh giai cấp tồn tại khách quan trong phạm vi quốc tế, phối hợp với phương Tây thực hiện diễn biến hòa bình đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác, đồng thời ngả về phương Tây trong rất nhiều vấn đề quốc tế.


Thứ nhất, tích cực thúc đẩy Đông Âu đại biến động. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phương Tây rất không hài lòng với khu vực Đông Âu, nơi có những thế lực của Liên Xô, do đó sử dụng mọi thủ đoạn, tìm trăm phương nghìn kế thực hiện diễn biến hòa bình đối với các nước Đông Âu, mưu đồ lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia này. Trải qua mấy chục năm nỗ lực, các nước phương Tây cuối cùng cũng đạt được thành công, khiến tình hình các nước Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX trở nên trầm trọng. Tình hình Đông Âu tuy là kết quả của sự nỗ lực của phương Tây, nhưng Gorbachev cũng đóng vai trò thúc đẩy và phối hợp vô cùng quan trọng. Trước hết, ông ta thông qua cổ xúy "tư duy mới", "công khai", "dân chủ hóa" và "thuyết đa nguyên", làm rối loạn tư tưởng các quốc gia Đông Âu, giúp đỡ các thế lực chống cộng ở các quốc gia này. Lúc đó, phe đối lập của các quốc gia Đông Âu đang mượn chiêu bài "công khai" và "dân chủ hỏa", thậm chí gọi tên và trích dẫn lời của Gorbachev để dây lên sự rồi loạn xã hội và tiến hành cướp quyền. Tiếp đó, Gorbachev trực tiếp ủng hộ và nhúng tay vào tình hình phức tạp của Đông Âu, ông ta nhằm vào thái độ khác nhau của lãnh đạo các nước Đông Âu đối với cải tổ "tư duy mới", áp dụng các biệp pháp hoặc biểu dương, hoặc phê bình, hoặc gây áp lực, hoặc làm cho nó sụp đổ. Tại Hunggari, đang lúc những ngươi như Pozsgay trong nội bộ Đảng yêu cầu thực hiện chế độ đa đảng, nhung Tổng Bí thư Grosz vẫn phân vân chưa quyết định, Liên Xô đã công khai tuyên bố, các nước Đông Âu có thể tự quyết định có thực hiện chế độ đa đảng hay không, Hunggari thực hiện chế độ đa đảng "không đe dọa đối với Liên Xô". Grosz không chống đỡ được áp lực hai tầng đến từ trong và ngoài nước, cuối cùng Hunggari khơi dòng đầu tiên, tuyên bố thực hiện chế độ đa đảng. Tại Ba Lan, Gorbachev ủng hộ thử nghiệm "đa nguyên hóa về chính trị" và "nghị viện dân chủ", đồng thời kiến nghị Đảng Cộng sản Ba Lan nhượng bộ Công đoàn Đoàn kết, để Công đoàn Đoàn kết tổ chức nội các. Sau sự  việc đó, rat nhiều đảng viên của Ba Lan trách mắng Gorbachev là "bán đứng Đảng Công nhân thống nhất", "giúp đỡ Công đoàn Đoàn kết". Tại Bungari, ông ta ủng hộ Mladenov lật đổ Zhivkov - người không tán thành cải tổ "tư duy mới". Tại Cộng hòa Dân chủ Đức, ông ta ủng hộ phe đối lập trong và ngoài Đảng lật đổ Honecker - người kiềm chế cải tổ "tư duy mới". Tại Rumani, ông ta thậm chí thông qua Ủy ban An ninh quốc gia để ủng hộ phe đối lập trong quân đội Rumani, trực tiếp tham gia sự kiện lật đổ Ceausescu. Sau khi Ceausescu bị giết, ngày 26 tháng 1 năm 1990, Xôviết tốỉ cao Liên Xô còn tuyên bố tước hai tâm Huân chương Lênin và một tấm Huân chương Cách mạng được trao cho ông này trước đó1 (Theo AFP, Mátxcơva ngày 26-1-1990). Cuối cùng, Gorbachev lại công khai hoan nghênh và chính thức khẳng định đại biến động ở Đông Âu. Ngày 17 tháng 11 năm 1989, trong khi gặp Chủ tịch Quốc hội Liên bang Đức và Pháp, ông ta nói sự thay đổi của Đông Âu "có ý nghĩa vô cùng tích cực". Từ ngày 2 đến ngày 3 tháng 12, ông ta nói trong buổi gặp gỡ với Tổng thống Mỹ Bush tại Malta: "Nên bày tỏ hoan nghênh đối với những diễn biến trong tiến trình thay đổi ở Đông Âu". Ngày 9 tháng 12, ông ta phát biểu trong Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô: "Năm nay là một năm Đông Âu xuất hiện biến động to lớn và nổi tiếng", "đặc trưng rõ rệt nhất của cải tổ ở Đông Âu chính là dân chủ hóa, đổi mới xã hội chủ nghĩa", đây là "kết quả các nước xã hội chủ nghĩa phát triển đến một giai đoạn nhất định theo quy luật". Lại nói "lập trường nguyên tắc" của Liên Xô đối với tình hình Đông Âu là "hoan nghênh,sự thay đổi tích cực". Ngày 16 tháng 12, trong Điện mừng gửi Đại hội đại biểu bất thường của Đảng xã hội thống nhất Đức, Gorbachev đã công khai tuyên bố về những diễn biến của Cộng hòa Dân chủ Đức, "đã diễn ra những sự việc mà vốn nó phải diễn ra"1 (Tham khảo Vương Chính Tuyền (chủ biên): Đại sự ký Liên Xô - Đông Âu, Sđd, tr.210, 214).


Tóm lại, trong quá trình diễn biến của Đông Âu, Gorbachev đóng vai trò đổ thêm dầu vào lửa, phối hợp với diễn biến hòa bình của phương Tây, chôn vùi chủ nghĩa xã hội của các nước Đông Âu, làm Liên Xô mất đi nhiều đồng minh, mất đi không gian chiến lược và vùng đệm rộng rãi. Điều này dĩ nhiên phù hợp với lợi ích của phương Tây, vì điều này mà Gorbachev nhận được sự biểu dương cao độ của phương Tây. Ngày 1 tháng 1 năm 1990, Thủ tướng Anh, bà Thatcher dùng tiếng Nga phát biểu trên Đài phát thanh, chúc mừng năm mới nhân dân Liên Xô. Bà nói, đại biến động ở Đông Âu phải "cảm ơn Gorbachev"; "Chủ tịch Gorbachev lẽ ra nên được khen ngợi đặc biệt vì những thay đổi có ý nghĩa lịch sử cuốn chiéu châu Âu". Ngày 2 tháng 2, Tổng thống Mỹ Bush trong buổi tiếp phóng viên Nhật báo phố Wall đã khen ngợi Gorbachev, "nói về việc ông ta xử lý và cổ vũ biến đổi hòa bình ở Đông Âu, chúng ta đương nhiên phải khen ngợi vì điều đó"; "tôi cho rằng, những kết quả của công việc mà ông ta làm là Đông Âu diễn ra biến đổi hòa bình, sự biến đổi này bất cứ ai trong chúng ta cũng không thể ngờ tới được"2 (Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho lý luận chủ nghĩa xã hội Sđd, quyển hạ, tr.959-960). Ngày 6 tháng 7, tuần báo L'Express của Pháp đăng bài: "Sự chấn động mạnh mẽ làm cho Đông Âu nổ tung trong vài tháng, mà sự chấn động này hoàn toàn do Mátxcơva"; "có thể khẳng định một điều là, ngòi lửa của kíp nổ đến từ Mátxcơva"3 ("Kế hoạch bí mật của Gorbachev vì sao thất bại", tuần báo L'Express (Pháp), số 1 ngày 6-7-1990. Tham khảo Hứa Chinh Phàm (chủ biên): Kho lý luận chủ nghĩa xã hội, Sđd, quyển hạ, tr.964).


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:39:08 am
Thứ hai, để mặc cho Tây Đức thôn tính Đông Đức. Nước Đức chia cắt làm hai, vốn là kết quả cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau này, Liên Xô luôn chủ trương duy trì giữ vững đường phân giới hình thành sau chiến tranh thế giới, phản đốỉ thống nhất Đông Đức và Tây Đức. Lập trường này luôn được giữ vững cho đến năm 1989 - thời kỳ Gorbachev. Thế nhưng, trước tình hình diễn biến của Đông Âu và áp lực của phương Tây, lập trường của Liên Xô có sự thay đổi căn bản vào năm 1990. Trong vòng không đầy một năm, Gorbachev từng bước nhượng bộ cho phương Tây, thái độ và chủ trương quay 180° trong vấn đề thống nhất nước Đức, từ phản đối thống nhất cho đến đồng ý thống nhất, từ chủ trương thống nhất chậm từng bước cho đến chấp nhận thống nhất nhanh chóng, từ phản đối Đức sau khi thống nhất gia nhập NATO đến không phản đối Đức gia nhập NATO. Kết quả là, ngày 3 tháng 10 năm 1990, nước Đức đã nhanh chóng thực hiện thống nhất. Vì thế những điều kiện mà Liên Xô đặt ra ngày càng ít, ngày càng thấp, hơn nữa vội vội vàng vàng rút quân đội, để mặc cho Tây Đức "thôn tính" Đông Đức. Những thứ mà cuối cùng Liên Xô có được, một là, nước Đức sau khi thống nhất phải bảo đảm cắt giảm quân đội, thừa nhận đường biên giói châu Âu sau chiến tranh, ngăn chặn thế lực phátxít khôi phục; hai là, Đức hứa cho Liên Xô vay 5 tỷ Mác, đồng thời bồi thường 13 tỷ Mác cho Liên Xô sau khi rút quân khỏi Đông Đức. Lúc đó phương Tây trước mặt thì chấp nhận những đề nghị của lãnh đạo Liên Xô như Gorbachev, rằng sau khi nước Đức thống nhất, NATO sẽ không mở rộng về hướng Đông, nhưng lời cam kết này không lâu sau cũng bị sự thật làm tan biến. Nói tóm lại, những hành động của lãnh đạo Liên Xô trong vấn đề thống nhất nước Đức là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của phương Tây. Thủ tướng Đức lúc đó Helmut Kohl nói: "Chúng ta nên cảm ơn Gorbachev, tư duy mới trong chính sách cải tổ và chính sách ngoại giao của ông ta là một trong những điều kiện để biến những thay đổi sâu sắc ở Đức và châu Âu trở nên có thể". Còn Gorbachev thì sao? Mãi cho đến đầu năm 1997, ông ta vẫn nói với biên tập viên Nhà xuất bản Societats của Đức rằng, về việc thống nhất nước Đức, "Chúng tôi đã sử dụng phương thức tốt nhất để giải quyết vấn đề này"1 (Trích dẫn từ Lưu Bảo Hải, Hứa Bình: "Gorbachev đang bận gì?", báo Tối nay, ngày 5-2-1997). Tháng 11 năm đó, phu nhân của Gorbachev là Raisa còn không hề xấu hổ nói: "Đối với người dân Đức mà nói, Gorbachev đúng là người cha thống nhất"2 ("Raisa trả lời phỏng vấn", Họa báo Sao sáng của Đức, ngày 20-11-1997).


Thứ ba, ngả về phương Tây trong rất nhiều vấn đề quốc tế ủng hộ và bám theo Mỹ. Mặc dù Gorbachev thúc đẩy ngoại giao "tư duy mới", bỏ đối kháng, dốc sức cải thiện quan hệ và tăng cường hợp tác với phương Tây, nhưng các nước phương Tây đứng đầu là Mỹ luôn luôn kiên trì lợi ích giai cấp và lợi ích quốc gia của họ, can thiệp khắp nơi, mở rộng bá quyền, thu hẹp không gian chiến lược và phạm vi thế lực của Liên Xô. Cựu Tổng thống Mỹ Nixon nói: "Cạnh tranh là cốt lõi trong quan hệ Mỹ - Xô"; "thứ mà chúng ta ưu tiên bảo vệ nhất là lợi ích thiết thân của chúng ta"; "để bảo vệ lợi ích thiết thân của chúng ta, chúng ta không do dự sử dụng hải quân lục chiến"3 ([Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Sđd, tr.105, 125-126). Đối mặt với tình hình này, để né tránh cuộc chiến tranh hạt nhân, vì "lợi ích toàn nhân loại", Gorbachev đã từ bỏ đấu tranh và đối kháng, nhất mực nhượng bộ và phục tùng để đón nhận phương Tây, làm cho Liên Xô trở thành "đối tác nhỏ" của Mỹ trên nhiều vấn đề quốc tế. Ví dụ trong vấn đề cắt giảm quân, kiểm soát quân đội, Gorbachev đã đón nhận Mỹ, từng bước nhượng bộ; trong vấn đề khu vực điểm nóng thì lấy lòng Mỹ, tuyên bố rút quân Liên Xô đóng ở Cuba, thậm chí nhẫn nhịn và hùa theo Mỹ phát động Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Ngày 2 tháng 8 năm 1990, Irắc xuất quân chiếm đóng Côoét, gây ra khủng hoảng vùng Vịnh nghiêm trọng. Ngày 9 tháng 9, Gorbachev có buổi gặp gỡ với Tổng thống Mỹ Bush tại thủ đô Henxinki của Phần Lan, sau đó ra tuyên bố chung, nói "hành vi xâm lược của Irắc là không thể nhẫn nhịn được", Mỹ và Liên Xô sẽ thực hiện "trừng phạt" đối với Irắc. Ngày 19 tháng 11, nguyên thủ hai nước Xô - Mỹ lại gặp nhau tại Pari, hai bên cho rằng, không thể loại bỏ khả năng sử dụng vũ lực đối với Irắc1 (Tham khảo Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm 'cải tổ' của Liên Xô cũ, Sđd, tr.358, 396). Điều này cho thấy, Liên Xô đã quyết định bỏ mặc và hùa theo Mỹ dùng vũ lực đối với Irắc. Sự nhượng bộ này của Gorbachev gần như "đẹp" ngang với sự nhượng bộ của Khrushchev trong thời khủng hoảng tên lửa ờ Cuba thời trước. Dư luận quốc tế chỉ ra rằng, điều này đánh dấu sự chuyển biến to lớn trong chính sách Liên Xô - Trung Đông. Mọi người đều biết, Liên Xô vốn có lợi ích to lớn về địa chính trị yà kinh tế tại khu vực Trung Đông, nó không cho phép phương Tây hoành hành ngang ngược ở đây. Nếu là 5 năm trước, Liên Xô nhất định sẽ chỉ trích nặng nề Mỹ và Ixraen can thiệp công việc nội bộ của Arập, quyết không đạt được ý kiến thống nhất với Mỹ, càng không đồng ý để Mỹ phát động chiến tranh ở đây. Liên Xô bây giờ thay đổi thái độ, hiển nhiên là kết quả của ngoại giao "tư duy mới" của Gorbachev thỏa hiệp nhượng bộ với phương Tây, cũng là sự lựa chọn đường cùng của Liên Xô do khủng hoảng nội bộ ngổn ngang, tự biết sức mình không ngăn nổi Mỹ sử dụng vũ lực. Sau đó không lâu, tháng 1 năm 1991, Mỹ phát động Chiến tranh vùng Vinh với Irắc, từ đó cho thấy Mỹ đã bắt đầu trở thành một "siêu cường" duy nhất trên thế giới mà không cần kiêng kỵ phản ứng của Liên Xô.


Sáu là, không chịu nổi sự cám dỗ của viền đạn bọc đường của phương Tây.

Gorbachev không phải là người không hề dao động trước đồng tiền, thậm chí có người nói, ông ta "yêu tiền như yêu mạng sống"; dùng đồng đôla để hạ bệ một số lãnh đạo là mánh khóe thường được áp dụng trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của phương Tây. Năm 1990, Gorbachev được trao tặng giải Nobel hòa bình của năm, giải thưởng trị giá 860.000 USD. Lúc đó, ông ta nói với Phó Tổng thống Yanayev, nếu nộp quyên góp 700.000 USD, giữ lại cho mình 160.000 USD có được không? Yanayev trả lời, nếu như vậy phản ứng xã hội sẽ rất tốt. Sau này ông ta lại hỏi Yanayev, nếu quyên góp 100.000 USD, phần còn lại 760.000 USD giữ lại cho mình có được không? Yanayev không trả lời. Từ đó có thể thấy được thái độ của Gorbachev. Lại lấy thêm một ví dụ, trong thời gian Gorbachev thăm Hàn Quốc năm 1991, Tổng thống Hàn Quôc Roh Tae-woo đưa cho ông ta một phong bì bên trong có 100.000 USD, tin rằng ông ta sẽ cầm. Đồng thời, phu nhân của Gorbachev là Raisa cũng nhận được 100.000 USD. Gorbachev hỏi Boldin, thư ký của ông ta xử lý thế nào với 200.000 USD này. Boldin trả lời, trước tiên nên để nó trong tủ bảo hiểm đã! Sau sự kiện "19 tháng 8", Boldin bị bắt, tủ bảo hiểm và số USD kể trên hoàn toàn rơi vào tay Gorbachev. Còn sự việc nữa là, nghe nói để đền đáp lại "cống hiến to lớn" của Shevardnadze trong việc bức tường Berlin sụp đổ và nước Đức thống nhất, Chính phủ Đức đã mua cho ông ta một ngôi biệt thự sang trọng trị giá 13 triệu USD tại khu nghỉ dưỡng Baden, miền Nam nước Đức. Từ những ví dụ kể trên có thể thấy, các nước phương Tây đúng đầu là Mỹ không vô cớ đem tiền bạc, biệt thự và "vinh dự" kiểu như giải Nobel hòa bình tặng cho bè nhóm Gorbachev. Mục đích của họ có thể nói là ai ai cũng biết.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:40:35 am
2. Cơ sở tư tưởng và thực chất của đường lối ngoại giao thỏa hiệp và đón nhận phương Tây của Gorbachev

Gorbachev đã áp dụng đường lối thỏa hiệp và đón nhận đối với thế tấn công diễn biến hòa bình của phương Tây, ngoài những nhân tố như tham tiền, bị phương Tây mua chuộc, một điều căn bản nhất là sự thoái hóa về thế giới quan cá nhân, vứt bỏ toàn bộ quan điểm cơ bản và lập trường nguyên tắc của chủ nghĩa Mác trong các vấn đề quốc tế, không nhìn rõ thực chất và bản chất của tình hình đấu tranh quốc tế phức tạp, do đó, vứt bỏ nguyên tắc trong ngoại giao và vấn đề quốc tế quan trọng, khuất phục bởi áp lực của chủ nghĩa đế quốc, nhất mực thỏa hiệp, nhượng bộ, thực hiện đường lốỉ ngoại giao mà trên thực chất là chủ nghĩa đầu hàng. Đường lối ngoại giao này về mặt khách quan có tác dụng xóa bỏ vũ trang tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, chào đón thế lực thù địch phương Tây thúc đẩy chiến lược diễn biến hòa bình, là nguyên nhân chủ yếu mà phương Tây mãi 40 năm sau mới đạt được.


Cơ sở tư tưởng trụ cột trong đường lối quan hệ của Liên Xô với các nước phương Tây thời kỳ Gorbachev chính là "lợi ích của toàn nhân loại cao hơn tất cả". Gorbachev cho rằng đây là điểm cốt lõi trong "tư duy mới" trong cải tổ và quan hệ đối ngoại của ông ta. Rút ra kết luận như vậy bởi vì ông ta dựa vào hai căn cứ chủ yếu sau.


Một là, ngày nay thế giới là một chỉnh thể có liên hệ với nhau, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong cộng đồng quốc tế ngày càng lớn, những vấn đề mang tính toàn cầu mà một nước không thể giải quyết một cách đơn độc ngày càng nhiều. Các vấn đề mang tính thế giới đang đe dọa sự sinh tồn và phát triển của nhân loại. Ông ta nói, hiện nhân dân các nước trên thế giới giống như một đám vận động viên leo núi bị buộc vào nhau trên sườn núi. Họ hoặc là cùng leo lên trên, đến tận đỉnh núi, hoặc là cùng nhau ngã xuống vực thẳm". Bởi vậy, "trong thế kỷ XX, vào những năm cuối của thế kỷ đầy căng thẳng này, nhân loại phải thừa nhận rằng, cần thiết đưa lợi ích toàn nhân loại lên vị trí tối thượng của thời đại"1 (Gorbachev: Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Nxb. Tân Hoa xã, 1987, tr.176, 184).


Hai là, Gorbachev đã kế thừa lý luận khủng bố hạt nhân của Khrushchev, cho rằng trong điều kiện vũ khí hạt nhân, chiến tranh sẽ dẫn đến sự hủy diệt văn minh nhân loại, nếu con người không còn tồn tại nữa, nói gì đến lợi ích cụ thể của giai cấp, dân tộc, quốc gia. Do đó, sự sinh tồn của con người phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Ông ta nói, từ sau khi loài người bước vào thời đại dùng năng lượng hạt nhân cho mục đích quân sự, "tình hình thế giới có thể xuất hiện cục diện mà giới chính trị không thể kiểm soát được", "nó sẽ chịu sự chi phối mang tính ngẫu nhiên". "Cùng với sự xuất hiện của vũ khí hủy diệt đại quy mô (phổ biến), sự đối kháng giai cấp trên vũ đài quốc tế có giới hạn khách quan, vượt qua giới hạn này sẽ xuất hiện sự đe dọa hủy diệt toàn bộ". "Một khi đã nổ ra chiến tranh hạt nhân, tất cả mọi sinh linh đều sẽ biến mất khỏi trái đất này". "Trong sự xung đột hạt nhân toàn cầu, không có kẻ thắng, cũng không có người thua, nhung văn minh thế giới không thể tránh khỏi sự sụp đổ". "Đây thậm chí không phải một cuộc chiến tranh theo cách hiểu thông thường, mà là tự sát". Bởi thế xét từ hậu quả của cuộc chiến tranh hạt nhân có thể nổ ra, xã hội loài người "lần đầu tiên xuất hiện lợi ích toàn nhân loại hiện thực, chứ không phải trừu tượng, hôm nay chứ không phải xa xôi, khiến cho văn minh nhân loại tránh bị hủy diệt"1 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.173, 177, 185). Nhân loại muốn học cách chung sống hòa bình trên thế giới, thì phải đặt ra một tư duy chính trị mới.


Nhìn từ góc nhìn của Gorbachev, lợi ích toàn nhân loại đã cao hơn lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, thì nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác chỉ đạo chính trị quốc tế và quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan điểm về giai cấp, học thuyết về nhà nước sẽ lỗi thời, không thể trở thành nền tảng tư tưởng chỉ đạo quan hệ đối ngoại của Liên Xô. Thay vào đó là sự đối lập giữa siêu giai cấp và ý thức hệ, thuyết nhân tính, chủ nghĩa nhân đạo xuất phát từ bản tính con người.


Gorbachev nói, trong quan hệ đối ngoại, lập trường chính trị nên thoát khỏi thiên kiến hẹp hòi của ý thức hệ, "không nên đưa mâu thuẫn trong ý thức hệ vào trong quan hệ giữa các quốc gia, khiến cho chính sách đối ngoại phục tùng theo bất đồng của ý thức hệ, bởi vì ý thức hệ có thể hoàn toàn đối lập, còn lợi ích của sinh tồn và ngăn chặn chiến tranh lại là phổ biến, cao hơn tất cả"2 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.173, 177, 185). Trong lịch sử nhân loại lần đầu tiên yêu cầu cấp bách chúng ta phải có "tư duy mới" trong quan hệ quốc tế "bức thiết đòi hỏi đưa những tiêu chuẩn về luân lý đạo đức xã hội làm cơ sở cho chính trị quốc tế, nhân tính hóa và nhân đạo hóa quan hệ quốc tế"3 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.173, 177, 185). Ông nhấn mạnh, "chiến lược trong chính sách đối ngoại của Liên Xô phải lấy hòa bình, hợp tác, phối hợp, tiến bộ và chủ nghĩa nhân đạo làm xuất phát điểm". Liên Xô phải xóa bỏ "hình ảnh kẻ thù" đối với các nước phương Tây trong ý thức hệ, tuyên bố trong quan hệ quốc tế không còn kẻ thù nữa.


Xuất phát từ nhân đạo hóa và phi ý thức hệ hóa quan hệ quốc tế, Gorbachev đề ra, toàn nhân loại không phân giai cấp, dân tộc và quốc gia "tiến tới đại hợp tác", phải xóa bỏ sự đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, thực hiện "nhất thể hóa" hai thể chế xã hội lớn này. Đây là cương lĩnh ngoại giao xã hội chủ nghĩa nhân đạo dân chủ của Gorbachev.


Theo Gorbachev, uy lực của vũ khí hạt nhân quyết định và thay đổi tất cả, quyết định vận mệnh sinh tồn hay diệt vong của nhân loại, thay đổi quan hệ và phương thức tư duy của nhân loại; thế giới là "chỉnh thể phụ thuộc lẫn nhau", cần đưa "nguyên tắc toàn nhân loại vào vị trí ưu tiên trong mệnh lệnh tuyệt đối của thời đại", vậy thì không thể tách biệt, thậm chí đối lập một số quốc gia này với một số quốc gia khác, mà nên "xóa bỏ đối kháng giữa hai thể chế xã hội lớn". Sự cạnh tranh giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa về mặt kinh tế, chính trị và ý thức hệ phải hạn chế trong phạm vi cạnh tranh hòa bình lấy hợp tác làm tiền đề, không bên nào không được coi đối phương là kẻ địch; phải "'sẵn sàng đưa ra thỏa hiệp có thể cùng chấp nhận được", đồng thời coi đối thoại và thông cảm lẫn nhau, chứ không phải đối kháng lẫn nhau, làm mục tiêu. Nói tóm lại, trong tình hình tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng, vấn đề mang tính toàn cầu ngày càng nổi lên, thì tất cả mọi mâu thuẫn giữa các quốc gia không cùng chế độ xã hội, giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau đều phải phục tùng theo lợi ích chung của toàn nhân loại.


Chính dưới sự chỉ đạo của tư tưởng ngoại giao và cương lĩnh ngoại giao "giá trị toàn nhân loại cao hơn tất cả", thực hiện "nhất thể hóa" hai thể chế xã hội lớn, Đảng Cộng sản Liên Xô dưới thời Gorbachev thực hiện một đường lối ngoại giao từ phục tùng đến đầu hàng, đã đem đến sự mất mát khó lường hết cho lợi ích quốc gia của Liên Xô và cả sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của thế giới. Thực ra, cơ sở tư tưởng và căn cứ lý luận nâng đỡ cho ngoại giao "tư duy mới" của Gorbachev là không có. Nó không những đi ngược nghiêm trọng nguyên tắc lý luận chủ nghĩa Mác, mà còn thoát ly nghiêm trọng thực tế đấu tranh quốc tế.


Trước hết, về mặt lý luận, tồn tại lợi ích chung của toàn nhân loại, nhưng không tồn tại lợi ích chung của toàn nhân loại cao hơn tất cả một cách trừu tượng. Trong thời đại liên kết và giao lưu giữa các nước ngày càng mật thiết, trên thế giới đương nhiên tồn tại những vấn đề mang tính toàn cầu như đe dọa hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt... Những vấn đề trên nếu giải quyết không tốt sẽ trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại và phát triển bền vững của toàn nhân loại. Do đó cần cộng đồng quốc tế và các nước có trách nhiệm liên quan phải coi trọng các vấn đề chung mà toàn nhân loại phải đối mặt, tăng cường điều hòa và hợp tác quốc tế thúc đẩy giải quyết các vấn đề liên quan. Nhưng sự tồn tại của các vấn đề trên không có nghĩa là lợi ích chung của toàn nhân loại sẽ cao hơn tất cả.


Trong xã hội loài người còn tồn tại giai cấp, dân tộc và phân chia quốc gia, đương nhiên vẫn có lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia. Trong đó lợi ích giai cấp là nền tảng của quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Quốc gia trên bề mặt là đại diện cho lợi ích các thành viên trong toàn xã hội, nhưng nó chỉ là "khối vận mệnh chung hư ảo", về bản chất chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị. Trong cộng đồng quốc tế lấy quốc gia làm đơn vị cơ bản, quốc gia và chính phủ các quốc gia là chủ thể trong cộng đồng quốc tế, khi nhận thức và xử lý các vấn đề nhân loại phải đối mặt, luôn luôn phục tùng theo ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị nước mình, tính toán đầu tiên vẫn là lợi ích của nước mình, của dân tộc mình, của giai cấp mình, đồng thời lấy đó làm căn cứ để hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại. Các nước lớn phương Tây không muốn từ bỏ quyền sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, không muốn tiêu hủy hoàn toàn triệt để vũ khí hạt nhân, không muốn gánh vác trách nhiệm tương ứng về vấn đề môi trường, đó chính là sự thể hiện cụ thể của việc lợi ích chung toàn nhân loại vẫn phải phục tùng lợi ích giai cấp. Đây là sự phản ánh về bản chất của giai cấp tư sản độc quyền quốc tế. Tính toán đầu tiên của họ là làm thế nào để thực hiện tối đa hóa lợi nhuận tư bản, làm thế nào để bảo vệ sự ổn định và lâu dài của chế độ tư bản chủ nghĩa.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:41:28 am

Thứ hai, nói về vấn đề đe dọa của vũ khí hạt nhân và chiến tranh hạt nhân: vũ khí hạt nhân, chiến tranh hạt nhân là đáng sợ, nhưng vũ khí hạt nhân là vũ khí do nhân loại nghiên cứu và chế tạo ra, chiến tranh hạt nhân phải có người phát động mới có thể bùng nổ. Then chốt là phải xem vũ khí hạt nhân nằm trong tay ai. Trong thời kỳ Gorbachev cầm quyền, Mỹ và Liên Xô tích trữ một lượng lớn vũ khí hạt nhân, tồn tại mối nguy hiểm chiến tranh hạt nhân, điều này đe dọa nghiêm trọng đến sự sinh tồn của nhân loại. Nhưng sự xuất hiện của các vấn đề hủy diệt hạt nhân, đe dọa hạt nhân là kết quả của chiến lược và chính sách toàn cầu của một số nước phát triển đứng đầu là Mỹ thúc đẩy chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, cũng có nhân tố Liên Xô tranh bá với các nước đó. Đứng trước sự đe dọa hạt nhân, nhân dân các nước trên thế giới phải phản đối chạy đua quân bị giữa các nước siêu cường, đặc biệt là cạnh tranh quân bị hạt nhân, chủ trương cắt giảm quân bị và ngăn chặn vũ khí hạt nhân, đề phòng chiến tranh thế giới, bảo vệ hòa bình thế giới. Cuộc đấu tranh này liên quan đến hòa bình và an ninh toàn thế giới. Nhưng không thể vì đó mà cho rằng, dưới sự uy hiếp của hạt nhân, mọi mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các giai cấp, các quốc gia đều sẽ biến mất hoặc bị xếp vào vị trí thứ yêu. Cho dù không xảy ra chiến tranh hạt nhân, không có nghĩa là những thủ đoạn chiến tranh phi hạt nhân và thủ đoạn đấu tranh phi chiến tranh đều không thể sử dụng.


Ba là, trong thời đại giới chính khách tư sản thề phải tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn và đấu tranh giữa các quốc gia của hai chế độ xã hội ngày càng phức tạp và gay gắt, việc Gorbachev đề xướng phi ý thức hệ hóa, nhân đạo hóa quan hệ quốc tế chẳng khác gì tự mình cởi bỏ vũ trang tư tưởng. Từ khi trên trái đất có chủ nghĩa Mác, xuất hiện các quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến nay, cuộc đấu tranh không thể hòa giải giữa hai loại ý thức hệ, hai chế độ xã hội chưa hề dừng lại dù chỉ một ngày. Trong tình hình các biện pháp vũ lực ngày càng khó phát huy vai trò cùng với lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh, giai cấp tư sản lũng đoạn phương Tây bất đắc dĩ phải áp dụng hình thức diễn biến hòa bình "mềm", nhưng giai cấp tư sản muốn tiêu diệt các nước xã hội chủ nghĩa, mục tiêu chiến lược do giai cấp này quyết định từ trước đến nay chưa hề lung lay.


Trong bối cảnh quốc tế các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội chưa từ bỏ lập trường thù địch và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, thậm chí còn gia tăng thúc đẩy diễn biến hòa bình đối với Liên Xô, Gorbachev đề ra phi ý thức hệ hóa và nhân đạo hóa quan hệ quốc tế trên thực tế là gạt bỏ đấu tranh giai cấp và gạt bỏ chủ nghĩa Mác. Ông ta không đếm xỉa đến hiện thực cuộc đấu tranh giữa thâm nhập và chông thâm nhập, giữa lật đổ và chống lật đổ, không áp dụng bất cứ một biện pháp phòng ngừa nào chống thâm nhập, chống lật đổ, khiến Liên Xô tự trói mình khi đối mặt với thế tiến công của giai cấp tư sản quốc tế chính sách ngoại giao của Liên Xô từ thỏa hiệp, nhượng bộ cho đến phục tùng, đầu hàng phương Tây không lấy gì làm lạ nữa.


Trong vấn đề quốc tế Gorbachev đã vứt bỏ quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác, hậu quả của nó ngay cả các chính khách tư sản phương Tây cũng nhìn thấy rồi. Đại sứ cuối cùng của Mỹ tại Liên Xô Matlock chỉ ra: "Đấu tranh giai cấp là khái niệm trung tâm của quan điểm diễn tiến về kết cấu nhà nước của những người theo chủ nghĩa Lênin, cũng là khái niệm trung tâm lý giải nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh lạnh của phương Tây. Không có nó, lý do của Chiến tranh lạnh không còn tồn tại nữa, cơ sở lý luận của một đảng chuyên chính cũng theo đó mà mất đi". Ông nói: "Tôi đã chú ý đến hàng loạt dấu tích từng bước xét lại hoặc loại bỏ lý luận này. Trước khi lý luận này bị vứt bỏ chính thức, bất cứ thay đổi nào chứng tỏ quan hệ giữa chúng ta tốt lên đều là hư ảo, nhiều lắm cũng là tạm thời". "Chỉ cần Liên Xô không vứt bỏ hạt nhân ý thức hệ trong chế độ của mình - quan niệm về đấu tranh giai cấp, thì Chiến tranh lạnh sẽ không ngừng lại. Nhưng một khi đã vứt bỏ, tự thân chế độ này đã không còn bất cứ căn cứ lý luận nào nữa"1 ([Mỹ] Little Jack, F. Matlock: Ghi chép trải nghiệm bản thân về giải thể của Liên Xo, Sđd, tr.162, 758, 164).


Chúng ta không thể phủ nhận rằng, các nước xã hội chủ nghĩa nên vượt qua sự khác biệt về ý thức hệ, cùng với tất cả các nước, bao gồm các nước tư bản chủ nghĩa phát triển để phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, tăng cường hợp tác và giao lưu về kinh tế, kỹ thuật, đây là điều cần thiết để thúc đẩy phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa; nhưng điều này cũng không có nghĩa là các nước xã hội chủ nghĩa buông lỏng hoặc từ bỏ cảnh giác trước thế tiến công hòa bình trong lĩnh vực ý thức hệ mà phương Tây phát động. "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng". Trên thực tế, các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa, không thể hoàn toàn thoát ly khỏi ảnh hưởng của ý thức hệ, trong giao lưu kinh tế, thương mại và thực tiễn ngoại giao cụ thể vẫn cứ thể hiện các sắc thái ý thức hệ khác nhau. Trên thực tế cách làm của Gorbachev ngược lại, các nước phát triển phương Tây do Mỹ đứng đầu không những không làm nhẹ bớt đi sự khác biệt và đối lập trong lĩnh vực ý thức hệ của hai chế độ xã hội, mà ngược lại còn tăng cường vai trò và chức năng của đấu tranh ý thức hệ, vận dụng các thủ đoạn về chính trị, kinh tế  ngoại giao để tích cực thúc đẩy chiến lược diễn biến hòa bình chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội.


Cuối cùng, giữa hai thể chế lớn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản tuy có mặt giao lưu, hợp tác, nhưng vẫn có sự khác biệt nhau về nguyên tắc, về bản chất là quan hệ lật đổ hoặc bị lật đổ, không bao giờ xuất hiện xu thế "nhất thể hóa" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.


Về mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, một mặt phải thấy được rằng, chủ nghĩa tư bản vì khởi đầu sớm, quá trình lịch sử dài, trong quá trình phát triển đã tích lũy được nhiều thành quả văn minh nhân loại đáng để cho các nước xã hội chủ nghĩa tham khảo tiếp thu, không thể áp dụng thái độ đóng cửa đối với chủ nghĩa tư bản; nhưng mặt khác, cũng phải nhìn thấy rằng chủ nghĩa xã hội là vật phủ định và vật thay thế của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội trong khi trải qua giai đoạn phát triển dài đằng đẵng sẽ dần dần thay thế chủ nghĩa tư bản, là xu thế tất yếu trong phát triển xã hội loài người. Do đó, trong quan hệ đối ngoại vừa phải giao lưu với các nước tư bản chủ nghĩa, đồng thời cũng không thể từ bỏ nguyên tắc. Phải tỉnh táo nhận ra rằng, trên vũ đài quốc tế, "tư" mạnh "xã" yếu1 ("Tư" chỉ chủ nghĩa tư bản, "xã" chỉ chủ nghĩa xã hội (ND.)), hai giai cấp lớn, hai chế độ xã hội vẫn tồn tại các loại mâu thuẫn và đấu tranh, có lúc đấu tranh vẫn rất gay gắt. Trong tình thế đấu tranh quốc tế mà chủ nghĩa tư bản mưu đồ bao vây và tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, đảng cầm quyền của các nước xã hội chủ nghĩa càng cần có sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, đồng thời áp dụng các đối sách tích cực.


Thế nhưng, khi đối mặt với cục diện thế giới với hai chế độ xã hội cùng tồn tại song song Gorbachev lại chủ trương thoát khỏi thiên kiến hẹp hòi về ý thức hệ, thực hiện "nhất thể hóa" hai hệ thống xã hội, thực chất là muốn xã hội chủ nghĩa Liên Xô chủ động gia nhập vào hệ thống tư bản chủ nghĩa. Đây là hành vi phản bội, đi ngược lại lợi ích quốc gia của Liên Xô, đi ngược lại sự nghiệp giai cấp vô sản quốc tế. Sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cuối cùng bị Gorbachev thông qua cầu nối cải tổ "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" mà bị chủ nghĩa tư bản nhất thể hóa.


Tóm lại, nhấn mạnh một chiều việc cùng chung sống, cùng hợp tác giữa hai chế độ xã hội, hoàn toàn coi nhẹ, thậm chí phủ định bản chất đối lập và đấu tranh giữa hai chế độ xã hội, điều này vô cùng nguy hiểm trong tình thế hiểm nghèo khi các nước phương Tây gia tăng thúc đẩy thâm nhập ý thức hệ và lật đổ một cách hòa bình.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 01 Tháng Tư, 2022, 07:43:05 am
3. Vai trò của diễn biến hòa bình của phương Tây trong đại biến động Liên Xô và bài học lịch sử

Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể là kết quả của tổng hợp nhiều nhân tố, trong đó diễn biến hòa bình của phương Tây chắc chắn là một nhân tố quan trọng. Không ít người cho rằng, nguyên nhân chủ yếu khiến Đảng Cộng sản Liên Xô mat Đảng, Liên Xô giải thể là Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị thua trận trong việc chống lại thế tiến công của ý thức hệ phản cách mạng. Ví dụ, một số học giả của Mỹ cho rằng, Liên Xô sụp đổ là "kết quả của hai Tổng thổng của hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ có tầm nhìn xa và lãnh đạo kiên cường".


Không những thế các nhân vật quan trọng của một số nước phương Tây cũng cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô bị mất Đảng, Liên Xô sụp đổ là kết quả của diễn biến hòa bình của Mỹ đối với Liên Xô. Nguyên Thủ tướng Anh, bà Thatcher, cho rằng, với niềm tin "chủ nghĩa xã hội chắc chắn thất bại, nước Mỹ chắc chắn ngày càng lớn mạnh", Tổng thống Mỹ Reagan đã nắm điểm yếu của Liên Xô lúc đó là tập trung tinh lực phát triển sức mạnh quân sự, còn các mặt khác yếu kém (như cơ sở vật chất), thông qua phát triển kế hoạch gọi là "chiến tranh giữa các vì sao", cuối cùng đã đánh sụp Liên Xô. Bà còn nói, chính "Reagan đã đánh và đã thắng Chiến tranh lạnh", "ông dựa vào nguyên tắc được đặt ra tỉ mỉ và công phu để tìm cách khuất phục người Liên Xô", "cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc gian ác này chính là kế hoạch phòng ngự chiến lược của Mỹ"1 (Tham khảo Tào Ngọc Hà: "Phương Tây nhìn nhận thế nào về nguyên nhân giải thể ở các nước xã hội chủ nghĩa", Mặt trận lý luận cao cấp, số 1 năm 2001, tr.61).


Ngày lễ Noel 25 tháng 12 năm 1991, cũng tức là ngày Liên Xô tuyên bố sự cáo chung, nguyên Tổng thống Mỹ George Bush nói trên truyền hình: "Hơn 40 năm nay, nước Mỹ lãnh đạo phương Tây đấu tranh với chủ nghĩa cộng sản và môi đe dọa đối với giá trị quan quý giá nhất của chúng ta... Sự đối kháng này hiện nay đã kết thúc... Đây là thắng lợi của dân chủ và tự do.  Đây là thắng lợi của sức mạnh chính nghĩa của giá trị quan của chúng ta"1 (Tin Tân Hoa xã, Oasinhtơn ngày 25-12-1991).


Việc coi lãnh tụ Mỹ, coi chủ nghĩa Reagan, coi thắng lợi của giá trị quan phương Tây là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Liên Xô sụp đổ, cũng không phải là quá lời. Triết học mácxít mách bảo chúng ta một triết lý cơ bản: trong sự phát triển, biến đổi của sự vật, nguyên nhân bên ngoài tuy có vai trò quan trọng, nhung chung quy đó chỉ là điều kiện để sự vật biến đổi, nguyên nhân bên trong mới là căn cứ để sự vật biến đổi, nguyên nhân bên ngoài phải thông qua nguyên nhân bên trong mới có thể phát huy vai trò. Nói về diễn biến hòa bình của phương Tây, vai trò của nó trong sự biến đổi của phương Tây là quan trọng, nhưng chung quy lại cũng chỉ là nhân tố bên ngoài.


Trong mọi thủ đoạn của các quốc gia phương Tây nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa, nếu coi diễn biến hòa bình giống với dựa hoàn toàn vào sức mạnh tự thân lật đổ bằng vũ lực, thì nó bắt buộc phải dựa vào lực lượng nội ứng lớn mạnh ẩn núp bên trong các nước xã hội chủ nghĩa mới có thể phát huy vai trò mang tính thực chất. Thực ra, vai trò chủ yếu giúp các nước phương Tây đánh thắng "trận chiến không có khói súng" nhằm vào Liên Xô và các nước Đông Âu ẩn nấp trong lực lượng nội ứng bên trong các quốc gia này. Ở Liên Xô chủ yếu là ở phe cải tổ "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" đứng đầu là Gorbachev và "phe dân chủ" chủ trương đi theo con đường tư bản chủ nghĩa lớn mạnh trong quá trình cải tổ. Chính đường lối cải tổ '''chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" đã đi ngược lại hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin, làm sụp đổ Đảng của mình, đồng thời câu kết với phương Tây, trong ngoài phối hợp, mới tạo thuận lợi trong chiến lược diễn biến hòa bình, mới để các thế lực thù địch phương Tây giành được thắng lợi lớn nhất với cái giá nhỏ nhất.


Bài học mất Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô thật đau đớn, và sâu sắc. Nhìn từ góc độ cảnh giác đối với diễn biến hòa bình của phương Tây, căn bản nhất là phải đề phòng nội ứng xuất hiện trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa phối hợp với diễn biến hòa bình của thế lực thù địch phương Tâỵ, xét cụ thể có mấy điểm chủ yếu dưới đây.

Thứ nhất, xây dựng và áp dụng cơ chế tuyển dụng cán bộ có hiệu quả, tạo ra một đội ngũ cán bộ kinh qua được những thử thách cầm quyền và cải cách mở cửa lâu dài, đó là then chốt bảo đảm Đảng và chính quyền nhà nước mãi mãi không biến sắc. Sự sụp đổ của Liên Xô vừa là kết quả của diễn biến hòa bình của phương Tây, cũng vừa là kết quả tự diễn biến của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chủ yếu của vấn đề xuất phát từ tầng cao nhất. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Mao Trạch Đông đã nhạy bén nhắc nhở rằng: Chủ nghĩa đế quốc gửi gắm hy vọng diễn biến hòa bình vào thế hệ thứ ba, thứ tư của chúng ta, phải đặc biệt cảnh giác những kẻ dã tâm và những kẻ âm mưu cá nhân tiếm quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Lúc đó phong trào cộng sản quốc tế lâm vào tình trạng chia rẽ sâu sắc, Đảng Cộng sản Liên Xô không nghe và cũng không thể nghe lời cảnh báo trung thực đó. Trong thời gian dài, họ coi thường công tác tuyển chọn, đề bạt, bồi dưỡng, sử dụng và giám sát cán bộ cao cấp, thỉnh thoảng đưa những con người trình độ thấp kém, xa cứng bảo thủ lên cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, thậm chí giao vận mệnh của Đảng và nhà nước cho những kẻ bệnh tật vô phương cứu chữa. Khi mà cục diện ông già cầm quyền, người bệnh quản lý đất nước khó có thể kéo dài được nữa, thì một nhóm các chính khách, các nhà đầu cơ vô nguyên tắc, không có lòng tin, thậm chí cá biệt các phần tử đối lập giai cấp như Gorbachev, Yeltsin, Shevardnadze, Yakovlev liền thừa cơ tiến vào hoặc trà trộn vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và nhà nước.


Thứ hai, phải coi trọng cao độ lý luận cơ bản của Đảng, luôn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác làm chỉ đạo và không ngừng tiến cùng thời đại. Cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cấp cao phải nhận thức đầy đủ rằng, trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong cục diện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, đồng thời với việc cảnh giác để không tái phạm sai lầm khuếch trương đầu tranh giai cấp, cũng cần phải nhớ rằng trong phạm vi nhất định của xã hội, vẫn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, bởi thế vẫn không thể vứt bỏ chuyên chính vô sản. Phải tỉnh táo thấy rằng, chủ nghĩa tư bản tuy xuất hiện một số thay đổi mới, nhưng mâu thuẫn cơ bản và bản chất chưa thay đổi và không thể thay đổi. Vì thế cần đề phòng sự xâm nhập và ảnh hưởng đối với Đảng bởi những lý luận và trào lưu tư tưởng sai lầm, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa hư vô lịch sử, thuyết dập tắt đấu tranh giai cấp, v.v...


Thứ ba, phải kiên trì không mệt mỏi triển khai giáo dục lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong Đảng và trong quần chúng nhân dân, kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa và niềm tin cộng sản chủ nghĩa. Đó là điều kiện quan trọng ngăn chặn các nước phương Tây thực hiện sách lược diễn biến hòa bình và đề phòng sự biến sắc của Đảng và chính quyền Nhà nước. Vì thế phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo và hướng dẫn của Đảng đối với tuyên truyền đại chúng, nắm chắc quyền chủ đạo công tác tuyên truyền, đặc biệt phải coi trọng cao độ việc trang bị cho Ban lãnh đạo trên mặt trận lý luận của Đảng và lĩnh vực ý thức hệ. Từ hai mặt trái - phải của Đảng Cộng sản Liên Xô đã chứng minh: vai trò định hướng của truyền thông đại chúng đối với cuộc sống xã hội, đặc biệt là sức ảnh hưởng đối với tư tưởng hành vi của thế hệ trẻ là trở ngại chính, ngăn chặn sách lược diễn biến hoà bình của các nước phương Tây. Bài học chủ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô là ở chỗ, thời trì trệ thì dư luận xã hội một giọng đồng loạt, khi cải tổ thì dư luận xã hội hỗn loạn. Đặc biệt, trong thời Gorbachev, dưới sự chỉ đạo của tư tưởng sai lầm "đa dạng hóa ý thức hệ" và cái gọi là "công khai", Đảng Cộng sản Liên Xô không hề điều tiết sự mở cửa của dư luận, thậm chí còn để những tư tưởng và ngôn luận chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội sai lầm đủ loại được truyền bá rộng rãi trong và ngoài Đảng.


Thứ tư, cần phải tiến hành giám sát có hiệu quả đối với sự thành lập và hoạt động của những tổ chức phi chính phủ, nghiêm ngặt đề phòng các lực lượng thù địch trong và ngoài nước lợi dụng họ để làm mưa làm gió. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội là lãnh đạo nhất nguyên hóa, không thể cho phép bất kỳ các đoàn thể và tổ chức xã hội phi mácxít nào thách thức địa vị lãnh đạo và vai trò chỉ đạo của Đảng. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, không bao lâu sau "tiến trình Henxinkỉ", trong đất nước Liên Xô đã xuất hiện các tổ chức phi chính thức đủ loại, bí mật xuất bản và phát tán các xuất bản phẩm muôn màu muôn vẻ nhằm bôi nhọ Đảng Cộng sản Liên Xô và chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Đảng Cộng sản Liên Xô tuy có trừng trị nhưng luôn không đủ mạnh. Sau khi Gorbachev lên nắm quyền, số lớn các tổ chức phi chính phủ (lúc đó gọi là tổ chức phi chính thức) được vận dụng sinh ra dưới ngọn cờ "dân chủ hóa". Lúc đầu, Đảng Cộng sản Liên Xô tuy từng tỏ ra phản đối đa đảng, nhưng đối với sự xuất hiện và hoạt động của số đông các tổ chức loại này thì nhìn thấy mà như không, không nghe, không hỏi gì về sự cấu kết giữa những tổ chức này với các thế lực chống Xô, chống cộng ngoài nước, kết quả là rước hổ về nhà. Có tổ chức phát triển thành "đội quân thứ 5" của thế lực bên ngoài tại Liên Xô, có tổ chức liên hợp lại thành phái đối lập lớn mạnh ngang vai phải lứa với Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền Trung ương Liên Xô. Với sự bỏ mặc và dung túng của những người như Gorbachev, từ một Đảng Cộng sản Liên Xô không thể thách thức cuối cùng đã bị đánh đổ, bị chôn vùi, bị diễn biến một cách hòa bình, những "tiểu nhân vật" mà người ta coi chẳng ra gì và những tập đoàn xã hội do họ phi pháp lập ra ấy đã đóng vai trò to lớn.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:47:12 am
PHỤ LỤC
ĐẠI SỰ KÝ THỊNH SUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
[1883-1991]


Tháng 9-1883: Nhóm "Giải phóng lao động" được thành lập ở Geneve, Thụy Sỹ. Đây là đoàn thể mácxít đầu tiên của nước Nga, người sáng lập là G. V. Plekhanov. Nhiệm vụ chủ yếu của nhóm "Giải phóng lao động" là truyền bá chủ nghĩa Mác và chuẩn bị thành lập chính đảng mácxít ở nước Nga.

Năm 1892: Lênin thành lập Tổ mácxít đầu tiên ở Samara.

Tháng 12-1895: Lênin thành lập "Hiệp hội đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân" ở Saint Petersburg, nó được Lênin gọi là "manh nha của chính đảng cách mạng vô sản nước Nga".

Từ ngày 13 - 15-3-1898: Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga được bí mật tổ chức ở Minsk, tuyên bố thành lập Đảng. Đại hội đã ra một bản "Tuyên ngôn", tuyên bố tôn chỉ của Đảng là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Để làm được điều đó, trước tiên phải lật đổ sự thống trị của chuyên chế Sa hoàng; còn chỉ rõ rằng sự đấu tranh của giai cấp vô sản Nga là một bộ phận không thể tách rời của phong trào dân chủ xã hội quốc tế. Đại hội đã thông qua một loạt nguyên tắc xây dựng Đảng, đồng thời bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 3 người là Stepan Radchenko, Boris Eidelman và A. Kremer. Do Đại hội không xây dựng cương lĩnh và điều lệ Đảng, hơn nữa, không lâu sau Đại hội có hai đồng chí trong Ban Chấp hành bị bắt, tổ chức Đảng ở các địa phương vẫn ở vào tình trạng phân tán, do đó trên thực tế Đảng vẫn chưa được thành lập.


Ngày 24-12-1900: Lênin và Plekhanov đã sáng lập ra tờ báo chính trị đầu tiên trên toàn nước Nga - báo Tia lửa in ở Leipzig, Đức, bí mật chuyển phát tới nước Nga, nhiệm vụ của tờ báo là làm cho các tổ chức dân chủ xã hội trên toàn nước Nga được vũ trang hơn nữa về tư tưởng và liên kết hơn nữa về tổ chức. Những năm 1900-1903, Lênin đã đăng hơn 50 bài trên tờ báo Tia lửa. Báo Tia lửa còn xây dựng bản thảo cương lĩnh đầu tiên cho Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga.


Từ ngày 30-7 - 23-8-1903: Đại hội đại biểu Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga lần lượt được tổ chức tại Brúcxen của Bỉ và Luânđôn của Anh. Đại hội đã thông qua bản thảo cương lĩnh Đảng do Ban Biên tập báo Tia lửa đệ trình, trong đó chỉ rõ ràng rằng, cương lĩnh tối cao của Đảng là thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chuyên chính vô sản để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; cương lĩnh tháp nhất tức nhiệm vụ trước mắt lúc đó là lật đổ chế độ chuyên chính Sa hoàng, xây dựng nước cộng hòa dân chủ, thực hiện chế độ ngày làm việc 8 tiếng, thực hiện các dân tộc hoàn toàn bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc, xóa bỏ triệt để tàn dư của chế độ nô lệ ở nông thôn.

Khi Đại hội bầu cơ cấu lãnh đạo của Đảng, Lênin và những người ủng hộ đã giành được đa số: 3 người được bầu làm Ủy viên Trung ương là Gleb Krzhizhanovsky, Friedrich Lengnik và Vladimir Noskov đều là người ủng hộ Lênin; 3 người trúng cử vào Ban Biên tập báo Tia lửa là Lênin, Plekhanov và người phản đối Lênin Julius Martov, nhưng Martov đã từ chối đảm nhiệm chức vụ này. Vì vậy, những người ủng hộ Lênin được gọi là "phái đa số" (tiếng Nga gọi là "Bônsêvích"), những người ủng hộ Martov bị gọi là "phái thiểu số" (tiếng Nga gọi là "Mensêvích").

Tại Đại hội lần này, mặc dù trong Đảng xuất hiện hai phe phái lớn, nhưng Đại hội đã thông qua được cương lĩnh, điều lệ Đảng thể hiện đường lối cách mạng theo chủ nghĩa Mác, đặc biệt là trong cương lĩnh Đảng đã viết vào yêu cầu xây dựng chuyên chính vô sản, bầu ra cơ cấu lãnh đạo Trung ương thực hiện đường lối cách mạng do Lênin đứng đầu, từ đó mở ra một trang mới trong lịch sử phong trào cách mạng giai cấp vô sản nước Nga. Nó đánh dấu việc ở nước Nga đã xuất hiện một chính đảng cách mạng kiểu mới - Đảng Bônsêvích, khác hoàn toàn với các Đảng ở Tây Âu theo chủ trương cải lương chủ nghĩa. Lênin là người sáng lập chính của chính đảng kiểu mới này. Lênin sau này chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa Bônsêvích là một loại trào lưu chính trị, được tồn tại dưới dạng một chính đảng, bắt đầu từ năm 1903".


Từ ngày 22-1-1905 - 14-6-1907: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, nước Nga nổ ra cuộc cách mạng dân chủ tư sản đầu tiên. Đây là phong trào cách mạng mang tính quần chúng đầu tiên trong lịch sử thế giới thế kỷ XX. Cách mạng tuy kết thúc thất bại, nhưng nó đã giáo dục nhân dân, rèn luyện Đảng và giai cấp vô sản. Lênin gọi cuộc cách mạng này là cuộc "tổng diễn tập" cho Cách mạng Tháng Hai và Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.


Từ ngày 25-4 - 10-5-1905: Đại hội đại biểu lần thứ III Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga tổ chức tại Luânđôn, Anh. Phái Mensêvích không tham gia vào Đại hội lần này. Đại hội đã xây dựng đường lối và sách lược của Đảng trong cách mạng dân chủ tư sản nước Nga, chỉ ra cách mạng phải do giai cấp vô sản lãnh đạo, nông dân là đồng minh tin cậy của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sau khi hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản phải lập tức chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã sửa đổi Điều lệ Đảng, tiếp thu điều mà Lênin nêu ra ở Đại hội trước về điều kiện đảng viên (tức là mỗi một đảng viên đều phải tham gia vào một tổ chức Đảng). Đại hội đã hợp nhất hai cơ cấu lãnh đạo Trung ương là Ban Chấp hành Trung ương và Ban Biên tập báo Tia lửa, thành Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồrn 5 ủy viên và 3 ủy viên dự khuyết do Lênin đứng đầu. Trong các ủy viên, ngoài Lênin ra, còn có Bogdanov, Krasin, Postolovsky và Rykov.


Từ ngày 25 - 30-12-1905: Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga tổ chức Hội nghị đại biểu lần thứ nhất: tại Tampere, Phần Lan. Hội nghị đã nghe bản báo cáo về tình hình hiện nay và vấn đề đất đai của Lênin. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về "Cải tổ trong Đảng", trong đó chỉ ra "Hội nghị đại biểu khẳng định, nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ là không thể tranh cãi". Đây là lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của Đảng Bônsêvích nhắc đến khái niệm chế độ tập trung dân chủ.


Từ ngày 23-4 - 8-5-1906: Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ IV tại Stockholm, Thụy Điển. Đây là Đại hội đại biểu "thống nhất" mà phái Bônsêvích và Mensêvích cùng tham gia. Tại Đại hội, khi thảo luận về các vấn đề tình hình và nhiệm vụ trước mắt, vấn đề đất đai cũng như thái độ của Đảng đối với Đuma quốc gia, hai phái đều tiến hành đấu tranh gay gắt. Lênin, Xtalin và Lunacharsky đã tham dự Đại hội. Lênin đã phát biểu nhiều lần ở Đại hội, trình bày quan điểm của phái Bônsêvích. Do trong các đại biểu tham dự, phái Mensêvích chiếm đa số, một loạt các vấn đề của Đại hội đều đã thông qua quyết nghị của Mensêvích. Trong số 10 ủy viên Trung ương được Đại hội bầu ra, phái Bônsêvích chỉ có 3 người. Đó là Desnitsky Sosnovsky, Krasin và Rykov.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:49:14 am
Từ ngày 13-5 - 1-6-1907: Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ V tại Luânđôn, Anh. Lênin đã báo cáo về vấn đề thái độ đối với chính đảng tư sản, trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải vạch rõ tính giả dối của Đảng Dân chủ Lập hiến, đồng thời phải tranh thủ liên kết hành động với chính đảng tiểu tư sản trong Đuma quốc gia. Trong 11 ủy viên Trung ương do Đại hội bầu ra, phái Bônsêvích có 5 người, đó là Gônđenbéc Teodorovich, Đubrôvinxki, Rozhkov, Fedorovich và Nogin1 (Theo tài liệu khác, Đại hội đã bầu ra 12 ủy viên, trong đó có 4 người phái Bônsêvích (BT.)).


Từ ngày 18 - 30-1-1912: Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga tổ chức Hội nghị đại biểu lần thứ 6 tại Praha, Tiệp Khắc, còn gọi là Hội nghị Praha. Hội nghị quyết định thanh trừ phái Mensêvích ra khỏi Đảng. Từ đây kết thúc sự thống nhất trên hình thức hai phái trong Đảng, Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích) với tư cách là một chính đảng độc lập xuất hiện trên vũ đài chính trị nước Nga. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương do Lênin đứng đầu. Trong các ủy viên có Sverdlov, Ordzhonikidze, Zinoviev và Xtalin đang bị đi đày.


Ngày 5-5-1912: Báo Sự thật - cơ quan ngôn luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga ra đời ở Peterburg.

Ngày 23-8-1915: Lênin đăng bài "Bàn về khẩu hiệu Liên bang châu Âu", trong đó chỉ ra: "Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa"2 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.26, tr.447).


Từ tháng 9 đến tháng 10-1916: Lênin đăng bài "Cương lĩnh quân sự cách mạng vô sản", trong đó chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển cực kỳ không đều nhau trong các nước. Dưới chế độ sản xuất hàng hóa thì không thể nào khác thế được. Do đó phải đi đến kết luận tất yếu này: chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi trong tất cả các nước"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, t.30, tr.173).


Từ ngày 3 - 15-3-1917: Nhân dân và giai cấp công nhân nước Nga lật đổ thống trị chuyên chế Sa hoàng, giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai, thực hiện được nhiệm vụ giai đoạn một của kế hoạch chiến lược của Đảng Bônsêvích. Sau cách mạng đã xây dựng chính phủ lâm thời đại diện cho giai cấp tư sản và lợi ích của địa chủ. Chính phủ này kiên trì phải tiếp tục cuộc chiến tranh đế quốc, tức Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng thời từ chối giải quyết vấn đề đất đai. Nhưng sau khi cách mạng thắng lợi, quyền lực thực tế của nhà nước lại bị khống chế trong tay của Xôviết với đại diện là công binh. Thế là ở nước Nga đã xuất hiện cục diện "hai chính quyền cùng tồn tại".


Ngày 16-4-1917: Lênin và những người lãnh đạo Đảng Bônsêvích như Zinoviev, Lunacharsky trở về thủ đô Pêtrôgrát qua đường nước Đức. Đông đảo các đại diện công nhân, binh sĩ đứng ở bên tàu nhiệt liệt chào đón lãnh tụ vĩ đại Lênin trải qua 9 năm ở nước ngoài.


Ngày 17-4-1917: Tại Hội nghị cán bộ của Đảng Bônsêvích, Lênin đã đọc báo cáo "Bàn về nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng này". Đây chính là bản Luận cương tháng Tư nổi tiếng. Văn kiện có ý nghĩa lịch sử này đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng Bônsêvích là từ cách mạng dân chủ tư sản quá độ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xây dựng cương lĩnh và phương châm, chính sách chính trị, kinh tế trong thời khắc lịch sử cách mạng quan trọng này.


Từ ngày 7-12-5-1917: Đảng Bônsêvích triệu tập Hội nghị đại biểu lần thứ 7, thông qua đường lối cách mạng mà Lênin đưa ra trong bản Luận cương tháng Tư.

Ngày 17-7-1917: Chính phủ lâm thời giai cấp tư sản đàn áp vũ trang quần chúng công nhân, nông dân biểu tình, đồng thời hạ lệnh truy nã Lênin. Cục diện "hai chính quyền cùng tồn tại" cũng theo đó mà kết thúc. Cuộc trấn áp này khiến đại đa số quần chúng công nhân, nông dân nhìn thấu được chân tướng phản động của chính phủ lâm thời giai cấp tư sản, bắt đầu đứng về phía Đảng Bônsêvích. Điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã chín muồi.


Từ thắng 8 đến tháng 9-1917: Lênin ẩn cư ở một căn lều bên hồ Razliv, cách Pêtrôgrát hơn 30 km. Người một mặt giữ liên hệ mật thiết với Trung ương Đảng, một mặt viết tác phẩm lý luận Nhà nước và cách mạng. Quyển sách này xuất bản tháng 5 năm 1918 tại Pêtrôgrát.


Từ ngày 8 - 16-8-1917: Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích) tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VI. Lênin vì đang ở vào trạng thái bí mật nên chưa thể đến Đại hội. Xtalin đã báo cáo công tác trước Đại hội. Đại hội thông qua nghị quyết chống lại sự bức hại đối với Lênin, đồng thời phản đối đưa Lênin ra tòa xét xử. Xét đến việc Xôviết đã bị chính đảng thỏa hiệp của giai cấp tiểu tư sản nắm giữ, Đại hội quyết định thu lại khẩu hiệu "Tất cả chính quyền thuộc các về Xôviết".


Ngày 7-10-1917: Lênin từ nơi ẩn náu ở vùng biên giới Phần Lan trở về Pêtrôgrát trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 7-11-1917: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích) và Lênin, đội Xích vệ công nhân và binh sĩ cách mạng nước Nga đã lật đổ chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản, giành thắng lợi vĩ đại trong khởi nghĩa vũ trang Tháng Mười Pêtrôgrát.

Từ đêm 7 đến ngày 9-11-1917: Đại hội đại biểu lần thứ II đại biểu công - binh Xô viết toàn nước Nga được tổ chức tại Smolny, tuyên bố thắng lợi vĩ đại của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Đại hội thông qua Lời kêu gọi nhân dân do Lênin khởi thảo, tuyên bố toàn bộ chính quyền thuộc về Xôviết. Đại hội căn cứ vào báo cáo của Lênin, thông qua "Sắc lệnh hòa bình" và "Sắc lệnh đất đai". Đại hội bầu ra Chính phủ lâm thời công nông - Ủy ban nhân dân. Lênin được bầu làm Chủ tịch Ủy ban. Toàn bộ Ủy viên là của Đảng Bônsêvích, Trotsky là Ủy viên ngoại giao nhân dân, Rykov là Ủy viên nội vụ nhân dân, Xtalin là Ủy viên sự vụ dân tộc nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là kết quả vĩ đại do Đảng Bônsêvích và lãnh tụ Lênin dám sáng tạo lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Ngày 15-11-1917: Trải qua chiến đấu ác liệt, khởi nghĩa vũ trang Mátxcơva đã giành được thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:50:56 am
Ngày 12-1-1918: Tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III đại biểu công - binh Xôviết toàn nước Nga. Đại hội thông qua "Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột" do Lênin khởi thảo. Đây là văn kiện có tính Hiến pháp do Xôviết ban hành.


Ngày 3-3-1918: Ở thành phố biên giới phía Tây nước Nga Brest - Litovsk, Nga và nhóm đồng minh Đức, Áo đã ký bản điều ước hai bên chấm dứt tình trạng chiến tranh (tức "Hòa ước Brest"). Theo bản Điều ước này, nước Nga bị mất đi vùng lãnh thổ rộng lớn, đồng thời phải đền bù một khoản tiền lớn cho nước Đức.


Từ ngày 6 - 8-3-1918: Đại hội đại biểu lần thứ VII (khẩn cấp) Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Pêtrôgrát. Đại hội chủ yếu thảo luận về vấn đề rút khỏi chiến tranh thế giới của chủ nghĩa đế quốc, cuối cùng thông qua nghị quyết với 30 phiếu tán thành, 12 phiếu phản đối, 4 phiếu trắng, chấp nhận "Hòa ước Brest". Đại hội thông qua nghị quyết đổi tên "Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (Bônsêvích)" thành "Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga".


Ngày 8-3-1918: Nhóm quân Anh đầu tiên đổ bộ vào cảng Murmansk ở miền Bắc nước Nga, mở màn cuộc chiến tranh của 14 nước đế quốc dùng vũ trang can thiệp vào nước Nga Xô viết và cuộc nội chiến của nước Nga. Đảng Bônsêvích và chính quyền Xôviết tuyên bố "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang lâm nguy", động viên và tổ chức toàn Đảng, toàn dân vùng lên chiến đấu.


Ngày 26-4-1918: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức Hội nghị toàn thể, thảo luận và nhất trí thông qua đề cương Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết do Lênin khởi thảo, trong đó chỉ ra: nhiệm vụ trung tâm trước mắt của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga đã từ "lấy lại nước Nga" chuyển thành "quản lý nước Nga".


Mùa hè năm 1918: Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga đã bắt đầu thực hiện chính sách "Chủ nghĩa cộng sản thời chiến" trên toàn nước Nga. Nội dung chủ yếu của nó là: thực hiện chế độ trưng thu lương thực dư thừa; đưa doanh nghiệp quy mô lớn, vừa và một bộ phận quy mô nhỏ vào quốc hữu, đồng thời thực hiện quản lý tập trung nghiêm túc; nghiêm cấm tự do thương mại; thực hiện chặt chẽ phân phối thống nhất lượng lương thực và đồ tiêu dùng hằng ngày cho người dân; thực hiện tiền lương thực tế.


Ngày 30-8-1918: Sau khi Lênin diễn thuyết tại một công xưởng ở Mátxcơva, lúc rời khỏi hội trường thì bị một nữ đảng viên của Đảng Cách mạng xã hội Kaplan bắn, viên đạn có thuốc độc khiến Lênin bị trọng thương.

Từ ngày 18 - 23-3-1919: Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội đã thông qua nghị quyết về "vấn đề quân sự", phê phán "phe đối lập quân sự", nhâh mạnh đường lối xây dựng Hồng quân chính quy và sử dụng chuyên gia quân sự cũ. Đại hội còn thông qua nghị quyết về "thái độ đối với tầng lớp trung nông", chỉ ra phải chuyển từ chính sách trung lập trung nông sang chính sách cùng với trung nông xây dựng liên minh vững chắc. Đại hội thông qua cương lĩnh Đảng mới, quy định nhiệm vụ của Đảng "thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội".


Ngày 10-5-1919: Lênin tham gia lao động nghĩa vụ ngoài giờ ngày thứ Bảy do đảng viên Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga của Cục Đường sắt Mátxcơva - Kazan phát động. Những buổi lao động nghĩa vụ như thế này được tổ chức sau giờ tan tầm các ngày thứ Bảy nhằm chi viện cho Đảng và Nhà nước chống lại sự tấn công vũ trang của kẻ thù trong và ngoài nước. Sau đó, phong trào "Lao động nghĩa vụ ngày thứ bảy cộng sản" đã nhận được sự hưởng ứng trong toàn quốc. Lênin gọi đây là "mầm non của chủ nghĩa cộng sản" và "hành động vĩ đại".


Tháng 10-1919: Bukharin và Preobrazhensky cùng soạn thảo, xuất bản sách lý luận phổ thông Chủ nghĩa cộng sản ABC (còn gọi là Nhập môn chủ nghĩa cộng sản). Lênin cho rằng cuốn sách này rất có giá trị đối với việc phổ cập chủ nghĩa Mác.


Từ ngày 29-3 - 5-4-1920: Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng Gộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội chủ yếu thảo luận xây dựng kế hoạch kinh tế thống nhất, cũng như các vấn đề xây dựng kinh tế hữu quan khác, trong đó bao gồm cả những điểm quan trọng của kế hoạch điện khí hóa toàn quốc. Đại hội còn thông qua nghị quyết xuất bản Lênin Toàn tập.


Ngày 28-2-1921: Thủy quân Kronshtadt thuộc căn cứ hải quân biển Bantích Nga nổ ra binh biến. Sự kiện này phản ánh sự bất mãn nghiêm trọng của họ và quần chúng công nông đối với chính sách "cộng sản thời chiến".


Từ ngày 8 - 16-3-1921: Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội chủ yếu thảo luận vấn đề quá độ từ chính sách "cộng sản thời chiến" sang chính sách kinh tế mới, đồng thời căn cứ vào báo cáo của Lênin thông qua nghị quyết "Đóng thuế hiện vật thay thế chế độ trưng thu lương thực dư thừa". Lênin cho rằng, chính sách kinh tế mới là "một chính sách kinh tế dễ được người nông dân chấp nhận". Đại hội còn thông qua nghị quyết "Thống nhất trong Đảng", trong đó chỉ ra: "Hoạt động của bất cứ phe phái nào trong Đảng đều là có hại, đều không được phép".


Mùa xuân năm 1921: Nước Nga Xô viết bắt đầu thực hiện chính sách kinh tế mới. Nội dung chủ yếu của nó ngoài việc lấy thu thuế hiện vật thay thế cho chế độ trưng thu lương thực dư thừa và giảm nhẹ thuế lương thực, còn cho phép tư nhân sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho phép nông dân cho thuê ruộng đất và thuê người làm công, khôi phục lại tự do thương mại và xây dựng lại quan hệ tiền - hàng, thực hiện chế độ cho thuê và thuê.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:51:34 am
Từ ngày 27-3 - 2-4-1922: Đại hội đại biểu lần thứ XI Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đây là Đại hội cuối cùng mà Lênin lãnh đạo và tham gia. Tại Đại hội, Lênin đã trình bày toàn diện về ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách kinh tế mới. Người tổng kết lại những thành tựu thu được trong một năm kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế mới. Đồng thời Người tuyên bố bước lùi đã kết thúc, cần phải bố trí lại lực lượng để dễ dàng tấn công các thành phần tư bản chủ nghĩa. Đại hội còn thông qua "Điều lệ Ủy ban Kiểm tra Trung ương".


Ngày 3-4-1922: Ban Chấp hành Trung ương khóa mới Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức Hội nghị toàn thể, Hội nghị quyết định lập chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Xtalin được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


Ngày 30-12-1922: Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết được thành lập. Lúc đó, gia nhập Liên bang có nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Ucraina, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Bêlarút, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Xôviết Nam Cápcadơ.


Từ tháng 1 đến tháng 3-1923: Trong lúc chữa bệnh, Lênin đã khẩu truyền 5 tác phẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao, đó là Trích lục nhật ký, Bàn về hợp tác xã, Bàn về cách mạng nước ta, Chúng ta cải tổ Viện kiểm sát công nông như thế nào và Thà ít mà tốt. Trong đó, trong tác phẩm Bàn về cách mạng nước ta, Lênin chú trọng trình bày tính hợp lý và tính lịch sử tất yếu của Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong tác phẩm này, Người thừa nhận cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải có nền tảng kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định, nhưng cho rằng, xuất phát từ tình hình thực tế của nước Nga, có thể thay đổi trật tự phát triển lịch sử thông thường: đầu tiên giành lấy chính quyền, sau đó xây dựng văn minh vật chất. Người viết, nếu xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có trình độ văn hóa nhất định, "vì sao chúng ta không thể dùng biện pháp cách mạng giành lấy tiền đề này trước, sau đó trên nền tảng chính quyền công nông và chế độ Xôviết đuổi kịp nhân dân các nước?". Người còn tổng kết thêm một bước: "Quy luật thông thường của phát triển lịch sử thế giới, không những không hề bài xích tính đặc thù về hình thức hoặc trật tự phát triển của giai đoạn phát triển cá biệt, mà ngược lại còn lấy đó làm tiền đề".


Từ ngày 17 - 25-4-1923: Đại hội đại biểu lần thứ XII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Lênin vì đang chữa bệnh nên không thể tham gia Đại hội. Xtalin đã báo cáo công tác Trung ương trước Đại -hội. Đại hội kêu gọi toàn Đảng chú ý nắm chắc công tác kinh tếchú ý tăng cường liên minh công nông. Đại hội căn cứ vào kiến nghị của Lênin, hợp nhất hai cơ quan là Viện kiểm sát công nông và Ủy ban Kiểm tra Trung ương thành một cơ quan - Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đại hội tiếp tục bầu Xtalin làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương.


Ngày 21-1-1924: V.I. Lênin - người sáng lập, lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga và Nhà nước Xô viết từ trần vì bệnh nặng, thọ 54 tuổi.

Từ ngày 29 - 31-1-1924: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga (Bônsêvích) tổ chức Hội nghị toàn thể, quyết định tiếp nhận ít nhất 100.000 công nhân sản xuất vào Đảng để tưởng niệm Lênin. Trong 2 tháng (từ tháng 2 đến tháng 5), có hơn 240.000 người gia nhập Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga.


Tháng 4-1924: Xtalin đăng tác phẩm Bàn về nền tảng của chủ nghĩa Lênin.

Tháng 4-1924: Lần đầu tiên phát hành ấn phẩm lý luận chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga - Tạp chí Bônsêvích (tháng 11 năm 1952 đổi tên thành Người Cộng sản).

Ngày 21-5-1924: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức Hội nghị toàn thể khẩn cấp. Kamenev chủ trì Hội nghị và đọc bức thư khẩu truyền (lúc đó chưa công khai) của Lênin trong thời gian lâm bệnh từ tháng 12 năm 1922 đến tháng 1 năm 1923 cho Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đàng, trong đó kiến nghị Xtalin nên chuyên khỏi vị trí Tổng Bí thư Đảng. Vì điều này, Xtalin đề xuất từ chức tại Đại hội. Thế nhưng những người tham dự Đại hội cho rằng, trong thời gian gần đây "mối lo ngại về nguy cơ rạn nứt giữa Tổng Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương vẫn chưa xảy ra" như ở trong thư Lênin nhắc tới. Đại hội với 30 phiếu thuận trên 10 phiếu chống thông qua Nghị quyết, kiến nghị Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng bầu Xtalin tiếp tục giữ chức vụ Tống Bí thư Ban Chấp hành Trung ương.


Từ ngày 23 - 31-5-1924: Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đây là Đại hội đại biểu đầu tiên của Đảng tổ chức sau khi Lênin mất. Zinoviev báo cáo công tác của Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội. Báo cáo nêu lên những thành tích to lớn trong phát triển kinh tế  quốc dân. Đại hội quyết định cùng với Quốc tế Cộng sản hợp tác xuất bản Mác - Ăngghen toàn tập, còn quyết định thành lập Viện nghiên cứu Lênin. Đại hội bầu Xtalin tiếp tục giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương.


Từ ngày 18 - 31-12-1925: Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội phê phán "phái đối lập mới" do Zinoviev và Kamenev đứng đầu, bãi chức lãnh đạo Tỉnh ủy Lêningrát của Zinoviev, bổ nhiệm Kirov đảm nhiệm chức vụ này. Đại hội quyết định đổi tên Đảng từ "Đảng Cộng sản (Bônsêvích) Nga" thành "Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang".


Ngày 25-1-1926: Xtalin đăng bài "Bàn về một số vấn đề của chủ nghĩa Lênin".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:53:30 am
Từ ngày 2 - 19-12-1927: Đại hội đại biểu lần thứ XV Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Trong báo cáo công tác của Ban Chấp hành Trung ương, Xtalin chỉ rõ, trong những năm 1926 - 1927, tổng giá trị nông nghiệp toàn quốc đạt mức 108,3% so với trước Chiến tranh thế giới thứ nhất; tổng giá trị công nghiệp đạt mức 109%. Nhiệm vụ của Đảng là tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ thành phần tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế quốc dân, phải thay đổi kinh tế tiểu nông của chế độ tư hữu thành nông trang tập thể xã hội chủ nghĩa. Đại hội thông qua nghị quyết toàn lực triển khai phong trào tập thể hóa nông nghiệp.


Từ ngày 23 - 29-4-1929: Hội nghị đại biểu lần thứ 16 Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Hội nghị thảo luận và thông qua nghị quyết về chỉ tiêu phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928-1932).


Từ ngày 26-6 - 13-7-1930: Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội lại một lần nữa thảo luận về vấn đề tập thể hóa nông nghiệp, yêu cầu "chủ nghĩa xã hội triển khai tiến công quy mô lớn trên toàn tuyến, xóa bỏ giai cấp phú nông và thực hiện tập thể hóa toàn bộ".


Ngày 4-2-1931: Tại Hội nghị đại biểu lần thứ nhất nhân viên ngành công nghiệp xã hội chủ nghĩa toàn Liên Xô, Xtalin đưa ra khẩu hiệu "Kỹ thuật quyết định tất cả". Ông nhấn mạnh, kéo dài phát triển tức là lạc hậu, mà lạc hậu sẽ phải ăn đòn. Liên Xô lạc hậu 50-100 năm so với các nước tiên tiến, phải chạy hết khoảng cách này trong 10 năm. Do đó, Bônsêvích phải nắm được kỹ thuật tiên tiến.


Ngày 13-11-1931: Viện Nghiên cứu Mác - Ăngghen - Lênin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang được thành lập.

Từ ngày 30-1 - 4-2-1932: Hội nghị đại biểu lần thứ 17 Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Hội nghị thảo luận và thông qua nghị quyết "Xây dựng chỉ tiêu phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933-1937)".


Từ ngày 26-1 -10-2-1934: Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội thảo luận và thông qua nghị quyết "Phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô trong giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933- 1937). Nghị quyết nhấn mạnh nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, giảm giá thành, cải tiến chất lượng và chủng loại sản phẩm ở các ban, ngành kinh tế quốc dân trên cơ sở thực hiện cải tiến kỹ thuật và nắm vững kỹ thuật mới.


Ngày 1-12-1934: Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, lãnh đạo chủ chốt Tỉnh ủy Lêningrát S. M. Kirov bị ám sát.

Ngày 4-5-1935: Xtalin phát biểu trong buổi lễ tốt nghiệp của học viên Học viện Hồng quân, đề ra khẩu hiệu "Cán bộ quyết định tất cả". Ông nhấn mạnh chỉ ra rằng, hiện nay Liên Xô đang đứng trước khó khăn nổi cộm là thiếu nhân tài, thiếu cán bộ và người nắm vững kỹ thuật, phải coi trọng vấn đề này, nỗ lực mở rộng đội ngũ trí thức giai cấp công nhân.


Ngày 17-11-1935: Xtalin phát biểu tại Hội nghị lần thứ nhất những người công tác Stakhanov toàn Liên bang, chỉ ra rằng phong trào Stakhanov phản ánh cao trào mới thi đua lao động xã hội chủ nghĩa và cao trào cách mạng kỹ thuật mới trong cả nước, thể hiện tinh thần cách mạng cộng sản chủ nghĩa của giai cấp công nhân. Stakhanov là một công nhân trong mỏ than Donbass. Ông đã vận dụng kỹ thuật mới khai thác được 102 tấn than trong một ca 6 tiếng (định mức là 7 tấn), từ đó dấy lên phong trào quần chúng sáng tạo kỹ thuật và thi đua lao động trong các ngành nghề trong cả nước.


Những năm 1936-1939: Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tiến hành phong trào thanh trừng và trấn áp "kẻ thù giai cấp và tay sai của chúng" trong và ngoài Đảng trên quy mô lớn trong phạm vi cả nước. Căn cứ vào những tư liệu, hồ sơ liên quan được các ban, ngành hữu quan Liên bang Nga công bố năm 1992, trong cao trào "đại thanh trừng" từ năm 1937-1938, tổng cộng có khoảng 680.000 người bị hành quyết.


Ngày 25-11-1936: Xtalin báo cáo "Dự thảo Hiến pháp Liên Xô" tại Đại hội đại biểu bất thường lần thứ VIII Xôviết toàn Liên Xô. Đại hội lần này thông qua Hiến pháp mới của Liên Xô, trong đó tuyên bố Liên Xô đã xóa bỏ giai cấp bóc lột, chỉ còn lại giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và phần tử trí thức, hơn nữa ranh giới giữa họ cũng đang biến mất. Hiên pháp mới tuyên bố Liên Xô "đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội".


Từ ngày 23-2 - 5-3-1937: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức Hội nghị toàn thể. Tại Đại hội, Xtalin một lần nữa chỉ ra rằng: "Tiến triển của chúng ta càng lớn, thắng lợi càng nhiều, tàn dư giai cấp bóc lột đã bị đánh tan càng thêm hung ác, chúng càng áp dụng hình thức đấu tranh gay gắt hơn".


Ngày 23-2-1937: Tại Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã thảo luận về vấn đề "hoạt động phản Đảng" của Bukharin và Rykov, quyết định tước bỏ Đảng tịch của hai người này. Tháng 3 năm sau, hai người bị xử tử hình vì "tội phản quốc".


Ngày 1-10-1938: Xuất bản cuốn Giáo trình sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang do Hội đồng đặc biệt của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang biên soạn và được Trung ương Đảng thẩm định.


Từ ngày 10 - 21-3-1939: Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội thông qua "Nghị quyết về kế hoạch 5 năm lần thứ ba phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô (1938-1942)". Trong báo cáo, Xtalin chỉ ra rằng, nhiệm vụ kinh tế cơ bản của Liên Xô là trong vòng 10 đến 15 năm, sản lượng bình quân đầu người sẽ đuổi kịp và vượt các nước tư bản chủ nghĩa chủ chốt.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:54:50 am
Từ ngày 15 - 20-2-1941: Hội nghị đại biểu lần thứ 18 Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức ở Mátxcơva. Hội nghị đồng ý với kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô năm 1941 đã được Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang và Ủy ban nhân dân Liên Xô thông qua, còn nhất trí thông qua nghị quyết "Nhiệm vụ của tổ chức Đảng trong ngành công nghiệp và vận tải".


Ngày 22-6-1941: Phátxít Đức bất ngờ tập kích Liên Xô. Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô bắt đầu. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang đã anh dũng chống lại quân xâm lược.


Ngày 30-6-1941: Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô và Ủy ban Nhân dân Liên Xô công bố quyết định chung, thành lập Ủy ban Quốc phòng Liên Xô, Xtalin giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng.


Trung tuần tháng 7-1941: Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang bắt đầu thực hiện chế độ Chính trị viên trong Hồng quân Liên Xô, mục đích là cải thiện và tăng cường công tác chính trị trong Hồng quân, củng cố kỷ luật Hồng quân, hoàn thành, tốt hơn nữa nhiệm vụ chiến đấu.


Ngày 18-7-1941: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang thông qua nghị quyết "Tổ chức đấu tranh ở hậu phương quân Đức", kêu gọi dốc sức triển khai đấu tranh địch hậu.


Ngày 6-11-1941: Trong thời khắc nguy cấp khi phátxít Đức tấn công Mátxcơva, Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang và tổ chức Xôviết vẫn như thường lệ tổ chức Đại hội chào mừng 24 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Tại Đại hội, Xtalin đã đọc báo cáo, kêu gọi toàn Đảng và nhân dân cả nước lao động quên mình chi viện cho tiền tuyến, bảo vệ Mátxcơva, tiêu diệt toàn diện, triệt để quân xâm lược.


Ngày 7-11-1941: Tổ chức Lễ duyệt binh truyền thống kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga tại Quảng trường Đỏ, Mátxcơva. Xtalin phát biểu tại Lễ duyệt binh. Ông nói: "Sứ mệnh giải phóng vĩ đại đặt trên vai các đồng chí. Các đồng chí phải xứng đáng với sứ mệnh này!". Sau khi buổi lễ kết thúc, Hồng quân vừa tham gia duyệt binh lập tức đi thẳng ra tiền tuyến chiến đấu.


Ngày 27-1-1944: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức Hội nghị toàn thể, nghiên cứu vấn đề mở rộng quyền hạn về quốc phòng và ngoại giao của các nước cộng hòa liên bang, thông qua nghị quyết kiến nghị cải tổ Bộ Ủy viên nhân dân Quốc phòng và Bộ Ủy viên nhân dân Ngoại giao thành Bộ Liên bang kiêm nước cộng hòa, đồng thời ở mỗi nước cộng hòa thuộc Liên bang đều thành lập Bộ Ủy viên nhân dân Quốc phòng và Bộ ủy viên nhân dân Ngoại giao. Hội nghị còn đồng ý lấy quốc ca mới "Liên bang vững chắc của các nước cộng hòa tự do" thay thế cho bài quôc ca cũ "Quốc tế ca", đồng thời quyết định lấy bài "Quốc tế ca" làm Đảng ca của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang.


Ngày 9-5-1945: Xtalin đọc "Lời kêu gọi nhân dân", tuyên bố Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô đã kết thúc thắng lợi. Đây là kết quả chiến đấu anh dũng của quân dân toàn Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang và Xtalin. Trọng chiến tranh có 3 triệu đảng viên đã hy sinh trong khi chiến đấu hoặc trong khó khăn, gian khổ.


Ngày 28-2-1947: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức Hội nghị toàn thể, thông qua nghị quyết "Biện pháp phát triển nông nghiệp thời kỳ sau chiến tranh", đã đưa ra một loạt biện pháp và kiến nghị nhằm khôi phục và phát triển hơn nữa sản xuất nông nghiệp, trong đó bao gồm cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với sản xuất nông nghiệp, ra sức đào tạo cán bộ nông nghiệp, lấy kỹ thuật mới trang bị cho nông nghiệp, cũng như đấu tranh với các hiện tượng vi phạm các quy định trong lao động nông nghiệp.


Tháng 9-1952: Cuốn sách Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô của Xtalin được xuất bản.

Từ ngày 5 - 14-10-1952: Đại hội đại biểu lần thứ XIX Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang tổ chức tại Mátxcơva. Malenkov đọc báo cáo công tác tại Đại hội. Đại hội đã phê chuẩn "Chỉ tiêu phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1951-1955)". Đại hội quyết định đổi tên Đảng từ "Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang" thành "Đảng Cộng sản Liên Xô", đồng thời quyết định đổi Bộ Chính trị Trung ương thành Đoàn Chủ tịch Trung ương và giải tán Cục Tổ chức Trung ương, chức năng của nó do Ban Bí thư thực hiện.


Từ ngày 16-10-1952: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể, bầu ra Đoàn Chủ tịch và Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Căn cứ đề xuất của Xtalin, Đoàn Chủ tịch lại thành lập Ủy ban thường vụ, gồm 5 người là Xtalin, Malenkov, Beria, Bulganin, Khrushchev.


Ngày 5-3-1953: Lãnh đạo tối cao Đảng Cộng sản Liên Xô I.V.Xtalin qua đời, hưởng thọ 74 tuổi. Thủ tướng Anh Churchill hơn 6 năm sau, với tâm trạng phức tạp, đã bình luận như sau về Xtalin: "Khi ông tiếp nhận nước Nga, nước Nga chỉ có chiếc cày tay bằng gỗ, khi ông nhắm mắt xuôi tay, nước Nga đã có vũ khí hạt nhân".


Ngày 6-3-1953: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Xôviết tối cao Liên Xô, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tổ chức Hội nghị liên tịch. Hội nghị thông qua nghị quyết bổ nhiệm Malenkov làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô; đồng thời quyết định xóa bỏ Ủy ban Thường vụ Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Từ ngày 2 - 7-7-1953: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã nghe Malenkov báo cáo về vấn đề Beria, thông qua nghị quyết "Tội phản Đảng, phản quốc của Beria", đồng thời quyết định khai trừ Đảng tịch của Beria. Ngày 23 tháng 12 năm đó, Beria bị tử hình.


Từ ngày 3 - 7-9-1953: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã nghe báo cáo "Biện pháp phát triển hơn nữa nông nghiệp Liên Xô" của Khrushchev và thông qua nghị quyết tương ứng. Nghị quyết yêu cầu trong sản xuất nông nghiệp thực hiện nguyên tắc "kích thích vật chất", bao gồm nâng cao giá cả thu mua sản phẩm nông nghiệp, giảm định mức giao nộp nghĩa vụ. Hội nghị bầu Khrushchev làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Ngày 3-5-1954: Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua nghị quyết, xét lại "Vụ án Lêningrát". Vụ án này liên quan đến các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang như nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô kiêm Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước Voznesensky, nguyên Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Kuznetsov và nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Nga Rodionov.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:57:25 am
Từ ngày 25 - 31-1-1955: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị thông qua nghị quyết kiến nghị bãi miễn chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô của Malenkov. Ngày 8 tháng 2, Hội nghị Xôviết tối cao Liên Xô quyết định tiếp nhận đơn xin từ chức của Malenkov, đồng thời bổ nhiệm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Bulganin làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.


Từ ngày 14 - 25-2-1956: Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Khrushchev báo cáo công tác của Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội. Trong báo cáo, ông đã đề ra lý luận "Tam hòa" nổi tiếng (tức cái gọi là "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình" và "quá độ hòa bình"). Đại hội đã thông qua nghị quyết "Chỉ tiêu phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô trong kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (1956- 1960) của Đảng Cộng sản Liên Xô".


Từ tối ngày 24 đến rạng sáng ngày 25: Khrushchev lại làm báo cáo bí mật về "Sùng bái cá nhân và hậu quả của nó". Trong báo cáo này, Khrushchev đã đả kích mạnh mẽ và phê phán gay gắt Xtalin, ông đã không tiếc dùng những lời lẽ không thực tế, khuếch đại quá mức và vô trách nhiệm. Báo cáo này đã gây ra chấn động lớn và ảnh hưởng tiêu cực trong và ngoài Đảng Cộng sản Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế.


Từ ngày 13 - 14-2-1957: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức hội nghị toàn thể. Hội nghị căn cứ vào báo cáo của Khrushchev thông qua nghị quyết về "Cải tiến hơn nữa công tác quản lý công nghiệp và ngành xây dựng", trong đó yêu cầu sửa đổi thể chế quản lý bộ, ngành thành thể chế quản lý khu vực. Nghị quyết này đã giải tán một loạt các Bộ Liên bang và các nước cộng hòa, đồng thời giao quyền quản lý ngành công nghiệp và xây dựng cho Ủy ban kinh tế quốc dân của 105 khu hành chính kinh tế mới thành lập.


Từ ngày 22 - 29-6-1957: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã thảo luận về vấn đề "Tập đoàn phản Đảng Malenkov, Kaganovich, Molotov", quyết định bãi nhiệm chức vụ Ủy viên Đoàn chủ tịch Trung ương và Ủy viên Trung ương của 3 người, đồng thời bãi nhiệm chức vụ ủy viên dự khuyết Đoàn Chủ tịch, Bí thư Trung ương và ủy viên Trung ương của Shepilov, người được giao nhiệm vụ theo dõi "Tập đoàn phản Đảng".


Ngày 4-7-1957: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua nghị quyết, bắt đầu từ tháng 1 năm 1958, xóa bỏ chế độ giao nộp các loại nông sản nghĩa vụ của nông trang viên trong các nông trang tập thể, xã viên hợp tác xã, công nhân, viên chức có nghề phụ.


Ngày 29-10-1957: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã thảo luận và thông qua nghị quyết "Cải tiến công tác Đảng và công tác chính trị trong lục quân và hải quân Liên Xô", trong đó phê phán Zhukov "đã phá vỡ nguyên tắc chủ nghĩa Lênin của Đảng trong việc lãnh đạo bộ đội vũ trang... bắt đầu xây dựng sùng bái cá nhân đối với ông trong quân đội Liên Xô". Hội nghị quyết định bãi nhiệm chức vụ Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương và Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô của Zhukov. Ba ngày trước Hội nghị, Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô đã bãi nhiệm chức Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô của ông, đồng thời bổ nhiệm Malinovsky đảm nhiệm chức vụ này.


Từ ngày 14 - 16-11-1957: Hội nghị đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản, Công nhân các nước tổ chức tại Mátxcơva. Hội nghị đã thông qua "Tuyên ngôn Hội nghị đại biểu Đảng Cộng sản, Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa" (tức "Tuyên ngôn Mátxcơva" và "Tuyên ngôn hòa bình").


Từ ngay 25 - 26-2-1958: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị căn cứ vào báo cáo của Khrushchev thông qua nghị quyết "Phát triển hơn nữa chế độ nông trang tập thể, cải tổ các trạm máy kéo cơ khí", quyết định bán máy kéo và các cơ khí nông nghiệp khác cho các nông trang tập thể, đồng thời sửa các trạm máy kéo thành trạm sửa chữa kỹ thuật.


Từ ngay 17-18-6-1958: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã thảo luận và thông qua nghị quyết hủy bỏ chế độ nông trang tập thể giao nộp nghĩa vụ các sản phẩm nông nghiệp cho nhà nước. Hội nghị còn bầu Podgorny làm Ủy viên dự khuyết Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Từ ngay 27-1 - 5-2-1959: Đại hội đại biểu bất thường lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội nghe báo cáo của Khrushchev về "Con số kiểm soát trong phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô năm 1959-1965". Trong báo cáo, Khrushchev chỉ ra, Liên Xô đã bước vào "giai đoạn mới triển khai toàn diện xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa". Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa cộng sản.


Từ ngay 13 - 16-7-1960: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã phê chuẩn đề nghị của Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô về việc rút toàn bộ chuyên gia Liên Xô ở Trung Quốc về nước.


Từ ngay 17-31-10-1961: Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Tại Đại hội, Khrushchev đọc phát biểu khai mạc và báo cáo công tác Ban Chấp hành Trung ương, báo cáo về Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới và điều lệ mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đây là bản cương lĩnh thứ 3 tiếp sau hai bản cương lĩnh được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ II và Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1903 và 1919. Trong Cương lĩnh Đảng đã chỉ ra, Liên Xô phải trong vòng 20 năm (đến năm 1981) "xây dựng xong xã hội cộng sản chủ nghĩa". Cương lĩnh Đảng còn chỉ ra: Chuyên chính vô sản ở Liên Xô đã không còn cần thiết nữa; là một nước chuyên chính vô sản giai đoạn này đã trở thành "Nhà nước toàn dân", cùng với đó, Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân đã trở thành "Đảng toàn dân".

Đại hội còn thông qua nghị quyết, cho rằng trong Lăng Lênin "tiếp tục giữ quan tài pha lê của Xtalin là không thích hợp". Vào chính buổi tối thông qua nghị quyết này, linh cữu của Xtalin bị chuyển ra khỏi Lăng Lênin, an táng ở Điện Kremlin sau lăng.


Từ ngày 19 - 23-11-1962: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã nghe báo cáo của Khrushchev về "Vấn đề phát triển kinh tế Liên Xô và sự lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế quốc dân", đồng thời thông qua nghị quyết tương ứng, yêu cầu căn cứ vào nguyên tắc sản xuất (tức cái gọi là "Đảng Công nghiệp" và "Đảng Nông nghiệp") để cải tổ các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:58:18 am
Ngày 30-3-1963: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi thư cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu căn cứ vào sự biến đối của tình hình thế giới "xây dựng đường lối chung của phong trào cộng sản thế giới phù hợp với nhiệm vụ căn bản của nó trong giai đoạn hiện tại".


Ngày 14-7-1963: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đăng "Thư ngỏ gửi tổ chức Đảng các cấp và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô" để đáp lại "Kiến nghị về đường lối chung trong phong trào cộng sản quốc tế" ngày 14 tháng 6 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.


Ngày 14-10-1964: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đồng ý để Khrushchev "tự nguyện" rút khỏi chức vụ Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, đồng thời bầu Brezhnev làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày hôm sau, Đoàn chủ tịch Xôviết tối cao miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô của Khrushchev, đồng thời bổ nhiệm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Kosygin đảm nhiệm chức vụ này.


Ngày 1-11-1964: Báo Sự thật - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xô đăng bài của Ban Biên tập, trong đó chỉ ra: "Vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, vì sự tăng cường tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô đã trở thành Đảng của toàn thể nhân dân".


Ngày 6-11-1964: Brezhnev phát biểu trong Lễ míttinh kỷ niệm 47 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, trong đó chỉ ra: "Nhà nước toàn dân của chúng ta là sự phát triển tự nhiên của nhà nước chuyên chính vô sản".

Ngày 16-11-1964: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã thông qua nghị quyết "Hợp nhất tổ chức Đảng Công nghiệp và tổ chức Đảng Nông nghiệp ở các khu, vùng biên cương", trong đó chỉ ra: "Phải khôi phục nguyên tắc dựa vào đặc trưng sản xuất của vùng để xây dựng tổ chức Đảng và cơ quan lãnh đạo của nó", "những khu, vùng biên cương vốn bị phân theo tổ chức Đảng Công nghiệp và tổ chức Đảng Nông nghiệp thì sẽ được khôi phục thành tổ chức Đảng của khu, vùng biên cương".


Ngày 3-3-1965: Brezhnev và những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô tham dự lễ khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ hai Hiệp hội Nhà văn Liên bang Nga. Trong phát biểu chúc mừng đại hội, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô nhấn mạnh phải kiên quyết phản đối "chung sống hòa bình" trong lĩnh vực ý thức hệ.


Ngày 8-5-1965: Brezhnev báo cáo tại Lễ kỷ niệm 20 năm thắng lợi Chiến tranh vệ quốc, trong đó chỉ ra, "Ủy ban Quốc phòng đứng đầu là Xtalin đã lãnh đạo mọi hành động phản kích quân địch", đồng thời lại nói: "Chúng ta sẽ nỗ lực đến cùng thể hiện quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XX và XXII và đường lối chung trong Cương lĩnh Đảng Cộng sản Liên Xô".


Từ ngày 27 - 29-9-1965: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị căn cứ vào báo cáo của Kosygin, thông qua Nghị quyết về "Kích thích kinh tế như cải tiến quản lý công nghiệp, hoàn thiện công tác kế hoạch và tăng cường sản xuất công nghiệp", quyết định bắt đầu từ năm 1966 các xí nghiệp trong cả nước sẽ phân theo từng giai đoạn, từng loạt để thi hành "thể chế mới kích thích kinh tế", tức là cải cách "thể chế kinh tế mới". Hội nghị còn thông qua nghị quyết, yêu cầu khôi phục "căn cứ nguyên tắc của ban, ngành tổ chức quản lý công nghiệp, căn cứ ban, ngành công nghiệp thành lập Bộ Liên bang kiêm nước cộng hòa và Bộ toàn liên bang".


Ngày 6-12-1965: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị căn cứ vào giải thích của Brezhnev, đã thông qua Nghị quyết đổi cơ quan Kiểm sát của Đảng và Nhà nước thành cơ quan Kiểm sát nhân dân.


Từ ngày 29-3 - 8-4-1966: Đại hội đại biểu lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Đây là Đại hội Đảng đầu tiên tổ chức sau khi Brezhnev lên cầm quyền. Đại hội khẳng định sửa chữa một số sai lầm, cách làm thời Khrushchev, bày tỏ phải lấy thái độ khoa học, nguyên tắc lãnh đạo tập thể và tinh thần cầu thị làm nền tảng cho mọi hành động của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Đại hội đã thông qua Nghị quyết "Sửa đổi một phần Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô", trong đó bỏ quy định cứng trong Điều lệ Đảng được Đại hội XXII thông qua là Đảng ủy và Bí thư Đảng ủy các cấp vào mỗi lần bầu cử khóa mới phải thay đổi một số lượng người nhất định. Nghị quyết còn đổi Đoàn Chủ tịch Trung ương thành Bộ Chính trị Trung ương, đổi tên chức danh Bí thư thứ nhất Trung ương thành Tổng Bí thư Trung ương. Brezhnev được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tháng 12-1966: Nhân dịp sinh nhật lần thứ 60 của Brezhnev, Xô viết tối cao Liên Xô trao tặng ông Huân chương Lênin và phần thưởng Sao vàng anh hùng Liên Xô.

Ngày 3-11-1967: Brezhnev báo cáo trong Lễ míttinh kỷ niệm 50 năm Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, trong đó tuyên bố, trải qua 50 năm phấn đấu, Liên Xô đã xây dựng thành công "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển". Đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Liên Xô nhắc đến khái niệm "xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển''.


Ngày 19-8-1968: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị bất thường, quyết định can thiệp vũ trang đối với Tiệp Khắc. Hai ngày sau, tức rạng sáng ngày 21-8, quân đội Liên Xô và 4 nước Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hunggari, Ba Lan chiếm lĩnh toàn bộ biên giới Tiệp Khắc.


Ngày 13-12-1969: Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp hội nghị, thảo luận vấn đề đăng bài kỷ niệm 90 năm ngày sinh Xtalin. Ý kiến của những người tham dự Hội nghị về việc có nên đăng bài hay không và bài sẽ viết như thế nào không thống nhất. Cuối cùng Brezhnev nói: "Bởi vì trong chúng ta không ai tranh cãi về những cống hiến với cách mạng của ông (chỉ Xtalin), hơn nữa trong bất cứ lúc nào cũng sẽ không đưa ra tranh cãi; đồng thời cũng không có ai từng nghi ngờ, thậm chí cho đến bây giờ cũng không nghi ngờ những sai lầm nghiêm trọng của ông, đặc biệt là giai đoạn cuối". Bởi vậy, Brezhnev chủ trương đăng bài kỷ niệm, đồng thời chỉ thị phải "viết bài này với một giọng điệu ổn định".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 07:59:06 am
Từ ngày 30-3 - 9-4-1971: Đại hội đại biểu lần thứ XXIV Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội căn cứ vào báo cáo của Kosygin đã thông qua Nghị quyết "Chỉ tiêu phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô trong kế hoạch 5 năm giai đoạn 1971-1975". Kosygin trong báo cáo chỉ ra rằng, việc hợp nhất xí nghiệp, thành lập công ty liên hợp, xóa bỏ cục quản lý chung các bộ, ngành, xây dựng thể chế quản lý giữa bộ, ngành và công ty liên hợp là hình thức thích hợp hoàn thiện quản lý kinh tế quốc dân. Đại hội còn thông qua "Quyết định sửa đổi một phần Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô", trong đó quy định rõ ràng, Đại hội đại biểu theo thông lệ của Đảng Cộng sản Liên Xô do Ban Chấp hành Trung ương tổ chức mỗi 5 năm ít nhất một lần.


Ngày 19-5-1972: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị thông qua nghị quyết "Về việc thay đổi thẻ Đảng".

Từ ngày 24-2 - 5-3-1976: Đại hội đại biểu lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô họp tại Mátxcơva. Đại hội căn cứ báo cáo của Kosygin thông qua nghị quyết "Phương châm cơ bản phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô giai đoạn 1976-1980". Trong Ban Chấp hành Trung ương mà Đại hội bầu ra, số đại biểu liên nhiệm chiếm trên 83%, nêu không tính những người đã qua đời, tỷ lệ liên nhiệm lên tới 90%.


Ngày 10-3-1976: Báo Sự thật - cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đăng bài nổi tiếng "Chiến sĩ hăng hái đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản", kỷ niệm 80 năm ngày sinh của Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvích) toàn Liên bang, Bí thư Trung ương, lãnh đạo chủ chốt công tác ý thức hệ của Đảng A. A. Zhdanov. Bài viết biểu dương "'ông phản đối, đổi xử khách quan với những quan điểm phản mácxít, đồng thời nêu tấm gương về chiến đấu, tính Đảng".


Ngày 8-5-1976: Nhân dịp tròn 31 năm thắng lợi Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev được trao quân hàm Nguyên soái Liên Xô.

Tháng 12-1976: Để mừng sinh nhật lần thứ 70 của Brezhnev, báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xô, liên tục trong 7 ngày mở chuyên mục đăng lượng lớn các bài chúc mừng. Cùng với đó, tại thành phố Dneprodzerzhynsk quê hương của Brezhnev (trước đây là thị trấn Kamjanskoie) đã dựng tượng bán thân của ông bằng đồng đen.


Ngày 24-5-1977: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã nghe báo cáo "Dự thảo Hiến pháp Liên Xô" của Brezhnev. Hội nghị đã bãi nhiệm chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô của Podgorny. Sau đó, Xôviết tối cao Liên Xô tổ chức hội nghị, bãi nhiệm chức vụ Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô của Podgorny, đồng thời bầu Brezhnev đảm nhiệm chức vụ này.


Ngày 27-12-1979: Theo quyết định của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Liên Xô, quân đội Liên Xô xâm nhập vũ trang và chiếm đóng Ápganixtan. Ngày hôm sau, Brezhnev gửi điện cho Babrak Karma, chúc mừng ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Dân chủ nhân dân Ápganixtan, Chủ tịch ủy ban Cách mạng và Thủ tướng Chính phủ Ápganixtan.


Ngày 3-10-1980: Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Kosygin "do tình hình sức khỏe" đã từ chối chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô đã bổ nhiệm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N. A. Tikhonov đảm nhiệm chức vụ này.


Từ ngày 23-2 - 3-3-1981: Đại hội đại biểu lần thứ XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Brezhnev báo cáo công tác Trung ương. Đại hội đã thông qua Nghị quyết "Phương châm cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội Liên Xô năm 1981-1985 và trước năm 1990". Theo báo cáo của phương tiện truyền thông Liên Xô, khi Brezhnev báo cáo, từng được "78 lần vỗ tay, 40 lần vỗ tay dài và 8 lần vỗ tay tựa như sấm dậy làm gián đoạn". Tại Đại hội, Gorbachev được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Ngày 1-3-1981: Trước ngày sinh nhật lần thứ 50 của Gorbachev, ông được trao tặng huân chương Lênin.

Ngày 22-4-1982: Tại Lễ kỷ niệm 112 năm ngày sinh Lênin, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Andropov đọc báo cáo với chủ đề "Chủ nghĩa Lênin là suối nguồn bất tận của tinh thần cách mạng và tinh thần sáng tạo của quần chúng", trong đó lần đầu tiên nhắc đến "Thuyết khởi điểm chủ nghĩa xã hội phát triển", cho rằng hiện nay "Liên Xô đang ở vào khởi điểm của giai đoạn lịch sử lâu dài của chủ nghĩa xã hội phát triển". Đây là một sự sửa đổi lý luận "Liên Xô đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phát triển" do Brezhnev nêu ra.


Ngày 10-11-1982: Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev qua đời do bệnh nặng, hương thọ 76 tuổi.

Ngày 12-11-1982: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị bất thường, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Chernenko chịu sự ủy thác của Bộ Chính trị, kiến nghị bầu đồng chí Andropov, Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Những người tham gia Hội nghị đều nhất trí tán thành.


Tháng 3-1983: Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định thực hiện rộng rãi chế độ khoán tập thể trong nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. Tổ chức nhận thầu ký hợp đồng với nông trang và nông trường, xây dựng quan hệ hạch toán kinh tế. Tổ chức khoán có đầy đủ quyền tự chủ đối với sản xuất.


Ngày 25-7-1983: Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thông qua nghị quyết, quyết định bắt đầu thử nghiệm cải cách thể chế quản lý kinh tế, yêu cầu giảm bớt chỉ tiêu kế hoạch cho các xí nghiệp; định mức giao cho các bộ phận không thay đổi trong vòng 5 năm, nêu vượt quá định mức thì toàn bộ sẽ thuộc quyền sở hữu của xí nghiệp.


Ngày 9-2-1984: Y.V. Andropov, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô qua đời do bệnh nặng, hưởng thọ 70 tuổi.

Ngày 13-2-1984: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị bất thường, nhất trí bầu Chernenko, Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 02 Tháng Tư, 2022, 08:00:05 am
Ngày 10-3-1985: K.U. Chernenko qua đời do bệnh nặng, hưởng thọ 74 tuổi.

Ngày 11-3-1985: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể bất thường. Hội nghị căn cứ đề xuất của Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Gromyko, nhất trí bầu Gorbachev, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.


Từ tháng 3 đến tháng 9-1985: Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tăng thêm 4 Ủy viên chính thức và 1 Ủy viên dự khuyết, miễn chức 1 ủy viên; Ban Bí thư tăng thêm 3 Bí thư, miễn chức 1 Bí thư; trong các ban, ngành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thay đổi hơn 20 Bộ trưởng và hàng chục lãnh đạo cấp bộ khác; ở địa phương, thay hơn 30 Bí thư thứ nhất các Khu ủy và một loạt lãnh đạo cấp thành phố, khu. Gorbachev thừa nhận: "Trong khoảng thời gian ngắn ngủi sau Hội nghị toàn thể hồi tháng 4, phần lớn các thành viên trong Ban Bí thư Trưng ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Trưởng các ban ngành Trung ương Đảng đã thay người mới, toàn bộ các thành viên trong Đoàn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô trên thực tế cũng đã thay người mới".


Ngày 23-4-1985: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Báo cáo của Gorbachev tại Hội nghị đã đưa ra một cách khá toàn diện về cương lĩnh cầm quyền của ông, trong đó đặc biệt nhắc đến "Chiến lược gia tốc", nói sứ mệnh của Đảng là "lãnh đạo phong trào toàn thể nhân dân tranh thủ đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội đất nước". Báo cáo còn nhấn mạnh rằng phải mạnh dạn đề bạt và sử dụng cán bộ trẻ.


Ngày 25-2-1986: Đại hội đại biểu lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu họp tại Mátxcơva. Đây là Đại hội đầu tiên từ sau khi Gorbachev lên cầm quyền. Gorbachev đọc "Báo cáo chính trị" trước Đại hội, Ryzhkov đọc báo cáo về "Phương châm cơ bản phát triển kinh tế  - xã hội Liên Xô từ năm 1986-1990 và trước năm 2000", đồng thời thông qua Nghị quyết tương ứng. Trong báo cáo chính trị, Gorbachev chỉ ra: tình hình đòi hỏi phải "cải tổ căn bản" thể chế kinh tế, mục tiêu cải tổ là "hoàn thiện chủ nghĩa xã hội". Ông cho rằng "thành quả chính trị chủ yếu" của Đại hội là xác định "đường lối tổng thể tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội đất nước".


Từ ngày 27 - 29-1-1987: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Tại Đại hội, Gorbachev đã có báo cáo về "Cải tổ và chính sách cán bộ của Đảng", tiến hành tổng kết đối với cải tổ trong 2 năm vừa qua. Trong báo cáo, ông nhấn mạnh, dân chủ không chỉ là một khẩu hiệu, mà là "mục tiêu của cải tổ" và "thực chất". Tại Đại hội lần này, Yakovlev được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.


Ngày 14-2-1987: Báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã đăng bài phát biểu của Gorbachev tại Hội nghị lãnh đạo công tác tuyên truyền toàn quốc, trong đó chỉ ra: "Trong lịch sử và văn học Liên Xô đều không nên để một cái tên và khoảng trống bị lãng quên". Phát biểu này là một lời hiệu triệu công khai nhìn nhận lại Đảng Cộng sản Liên Xô và lịch sử Liên Xô của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mà đại diện là Gorbachev.


Ngày 6-5-1987: Mátxcơva xảy ra biểu tình, đòi địa vị hợp pháp cho các đoàn thể không chính thức. Bí thư Thành ủy Mátxcơva Yeltsin khi nói chuyện với những người tham gia biểu tình đã đồng ý, nói rằng chỉ cần "xây dựng một cương lĩnh và điều lệ cho mình, đăng ký là một tổ chức xã hội, là có thể hoạt động".


Từ ngày 25 - 26-6-1987: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể, thảo luận vấn đề cải cách thể chế quản lý kinh tế và vấn đề tổ chức. Tại Hội nghị lần này, Yakovlev từ Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.


Ngày 1-11-1987: Cuốn Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới của Gorbachev được xuất bản. Trong sách đề ra: "Hạt nhân của tư duy mới là thừa nhận giá trị của toàn nhân loại cao hơn tất cả, nói xác đáng hơn là thừa nhận sinh tồn của nhân loại cao hơn tất cả".


Ngày 13-3-1988: Báo Nước Nga Xôviết đăng bài của giáo viên Học viện Công nghệ Lêningrát Nina Andreeva "Tôi không thể từ bỏ nguyên tắc", đã phê bình sắc bén một loạt những bài viết và lời nói phê phán và phủ định Xtalin lúc đó, cho rằng những bài viết và lời nói đó "làm cho nhân loại bị mất phương hướng", là bôi nhọ Liên Xô xã hội chủ nghĩa.


Ngày 5-4-1988: Báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đăng bài của Ban Biên tập với tiêu đề "Nguyên tắc của cải tổ: Tính cách mạng của tư duy và hành động", phản kích lại bài viết của Nina Andreeva, chỉ trích quan điểm của bài viết này "hoàn toàn không dung hòa và đối lập với phương châm cơ bản của cải tổ", là "cương lĩnh tư tưởng và tuyên ngôn của thế lực chống cải tổ", cho rằng biện hộ thay cho Xtalin chính là "biện hộ cho quyền lực của sự độc đoán chuyên quyền".


Từ ngày 28-6 - 1-7-1988: Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Hội nghị đại biểu lần thứ 19. Hội nghị chủ yếu thảo luận về vấn đề cải tổ thể chế chính trị. Hội nghị đề xuất phải "cải tổ căn bản" thể chế chính trị, đồng thời đặt nó lên "vị trí hàng đầu". Nội dung trọng tâm của cải tổ thể chế chính trị là dịch chuyển trung tâm quyền lực từ Đảng sang Xôviết, mục tiêu của cải tổ là xây dựng "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo". Hội nghị lần này cho thấy, trọng điểm cải tổ của Gorbachev đã chuyển từ cải tổ thể chế kinh tế sang cải tổ thể chế chính trị.


Từ ngày 25-5 - 9-6-1989: Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ nhất tổ chức tại Mátxcơva. Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev được bầu làm Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô.

Ngày 26-11-1989: Báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đăng bài lý luận dài "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cải tổ mang tính cách mạng" của Gorbachev. Bài viết nhắc đến phải "cải tạo căn bản toàn bộ tòa cao ốc chủ nghĩa xã hội: từ nền tảng kinh tế cho đến kiến trúc thượng tầng", đồng thời lần đầu tiên khẳng định chính diện học thuyết "tam quyền phân lập" của giai cấp tư sản, yêu cầu đưa chế độ dân chủ của các nước tư bản chủ nghĩa vào trong nước.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 03 Tháng Tư, 2022, 04:32:18 pm
Ngày 13-1-1990: Trong bài phát biểu tại Đại hội các phần tử tích cực Đảng Cộng sản Lítva, Gorbachev nói: "Tôi cho rằng, nêu thực hiện chế độ đa đảng, cũng không có gì là bi kịch, hơn nữa tôi có thể nói rõ ràng với các vị điều này, nó xuất hiện như một kết quả của tiến trình lịch sử thông thường, là phù hợp với yêu cầu của xã hội".


Từ ngày 5 - 7-2-1990: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Tại Hội nghị, Yeltsin phát biểu yêu cầu thực hiện chế độ đa đảng. Trong bài phát biểu của mình, Gorbachev lại nói địa vị của Đảng "không cần thông qua Hiến pháp để tăng cường hợp pháp hóa. Không nói cũng rõ, Đảng Cộng sản Liên Xô phải đấu tranh để giành địa vị đảng cầm quyền, nhưng điều này phải được thực hiện nghiêm ngặt trong phạm vi dân chủ, bỏ đi mọi quyền ưu tiên về mặt pháp luật và chính trị". Tại Hội nghị lần này, Yeltsin còn cổ vũ "bỏ qua chế độ tập trung dân chủ". Gorbachev lại bày tỏ phải "'nhận thức lại từ đầu nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ".


Từ ngày 11 - 16-3-1990: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Hội nghị đã thông qua "Kiến nghị sửa đổi và bổ sung Hiến pháp Liên Xô về vấn đề thể chế chính trị (Điều 6 và Điều 7 Hiến pháp Liên Xô)", đồng thời quyết định đưa vấn đề này ra xem xét tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ III. Hội nghị còn quyết định đề cử Gorbachev làm ứng cử viên Tổng thống Liên Xô.


Từ ngày 12 -15-3-1990: Đại hội đại biểu nhân dân bất thường lần thứ III tổ chức tại Mátxcơva. Đại hội thông qua Nghị quyết "Lập chức vụ Tổng thống và biện pháp sửa đổi bổ sung Hiến pháp Liên Xô (Luật cơ bản)". Quyết định xóa bỏ và sửa đổi điều luật liên quan đến địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong đời sống chính trị quốc gia trong Hiến pháp Liên Xô (Điều 6 và Điều 7 Hiến pháp Liên Xô), đồng thời bầu Gorbachev làm Tổng thống Liên Xô nhiệm kỳ đầu tiên; Lukianov làm Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô.


Ngày 29-5-1990: Yeltsin được bầu làm Chủ tịch Xôviết tối cao Liên bang Nga tại Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ nhất Liên bang Nga.

Từ ngày 2 -13-7-1990: Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức tại Mátxcơva. Đây là Đại hội cuối cùng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại Đại hội, Gorbachev đã báo cáo tổng kết công tác và nhiệm vụ của Đảng. Đại hội đã thông qua bản Tuyên bố mang tính cương lĩnh "Đi lên chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo", xác định đường lối chính trị của "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo. Tại Đại hội, Yeltsin đọc trước mọi người bản tuyên bố ra khỏi Đảng của mình và rời khỏi hội trường ngay sau đó.


Ngày 13-7-1990: Tiếp ngay sau Yeltsin, tại buổi họp báo do Xôviết thành phố Mátxcơva tổ chức, thị trưởng Mátxcơva Popov và thị trưởng Lêningrát Sobchak công khai tuyên bố ra khỏi Đảng. Họ còn cổ vũ lãnh đạo Xôviết các cấp không tham gia bất cứ một chính đảng nào.


Ngày 11-11-1990: Gorbachev gặp Yeltsin. Hai bên đồng ý xây dựng "Chính phủ liên hợp". Yeltsin bày tỏ, Liên bang Nga ít nhất phải giành được 3 chức vụ là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Tài chính.


Ngày 17-3-1991: Liên Xô tổ chức quyết định trung cầu dân ý về vấn đề có nên bảo lưu liên bang hay không. Kết quả bỏ phiếu có 76,4% công dân tán thành bảo lưu "Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết". Sáu nước Cộng hòa thuộc liên bang không tham gia bỏ phiếu là 3 nước ven biến Ban tích, Mônđavia, Grudia và Ácmênia. Nhưng một bộ phận người dân ở những nước này đã tham gia bỏ phiếu thông qua các Cục ở địa phương hoặc tổ chức đoàn thể xã hội, trong đó đa số người dân tán thành bảo lưu liên bang.


Ngày 23-4-1991: Gorbachev bỏ qua Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Xôviết tối cao Liên Xô, trực tiếp gặp mặt các nhà lãnh đạo của 9 nước cộng hòa thuộc liên bang là Liên bang Nga, Ucraina, Bêlarút, Adécbaigian và 5 nước Trung Á, đã ra "Tuyên ngôn ốn định tình hình trong nước" (tức cái gọi là Tuyên ngôn "9+1"), đề xuất phải ký Hiệp ước liên bang mới một cách nhanh nhất, đồng thời trong vòng nửa năm sau khi ký Hiệp ước sẽ thông qua Hiên pháp mới, bầu ra Nghị viện mới và thành lập Chính phủ Trung ương mới. Liên bang mới thành lập sẽ được đổi tên là "Liên bang Cộng hòa chủ quyền Xô viết". Tuyên ngôn còn bày tỏ rằng 6 nước Cộng hòa khác thuộc Liên bang không tham gia buổi gặp này (3 nước ven biển Bantích, Mônđavia, Grudia và Ácmênia) "có quyền giải quyết độc lập vấn đề Hiệp ước gia nhập Liên bang", trên thực tế thừa nhận vị trí độc lập của họ.


Ngày 19-6-1991: Yeltsin trúng cử Tổng thống Liên bang Nga.

Ngày 20-7-1991: Yeltsin ký mệnh lệnh "chấm dứt các hoạt động tổ chức phong trào xã hội mang tính chính đảng và quần chúng tại các cơ quan, tổ chức nhà nước thuộc Liên bang Nga" (tức cái gọi là mệnh lệnh "phi Đảng hóa"). Mệnh lệnh tuyên bố cấm các chính đảng hoạt động trong cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng các cấp và xí nghiệp cơ sở, mũi nhọn của nó trực tiếp hướng vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 22-7, thị trưởng Mátxcơva Popov đi đầu thực hiện mệnh lệnh này.


Ngày 25 - 26-7-1991: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị toàn thể. Tại Hội nghị, Gorbachev đọc báo cáo về Cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong báo cáo ông nói: "Đảng Cộng sản Liên Xô nên coi toàn bộ tài sản xã hội chủ nghĩa và tư tưởng dân chủ của nước mình và thế giới, không riêng gì chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng cho mình".


Ngày 8-8-1991: Báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô công bố bản dự thảo Cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Liên Xô và đưa ra thảo luận trong toàn Đảng. Trong bản dự thảo viết: "Đảng Cộng sản Liên Xô đặt lợi ích của người lao động lên vị trí hàng đầu, đồng thời hôm nay Đảng sẽ hoạt động như một Đảng tiến bộ xã hội và cải cách dân chủ, Đảng công bằng xã hội và giá trị toàn nhân loại, Đảng tự do kinh tế và chính trị".


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 03 Tháng Tư, 2022, 04:33:28 pm
Ngày 15-8-1991: Tổng thống Liên Xô Gorbachev công bố văn bản chính thức "Hiệp ước Liên bang Cộng hòa chủ quyền Xôviết", rõ ràng vứt bỏ tính chất xã hội chủ nghĩa của Liên bang. Các nước tham gia đều là nước có chủ quyền. Liên bang chỉ bảo lưu quyền lực giới hạn như ngoại giao, quốc phòng, an ninh và phát hành tiền tệ. Dự định ngày 20 tháng 8 sẽ tổ chức lễ ký Hiệp ước Liên bang mới này.


Sáng sớm ngày 19-8-1991: Đúng vào lúc Gorbachev đang nghỉ tại trại nghỉ dưỡng Crưm ở bên bờ Hắc Hải, một ngày trước ngày ký kết Hiệp ước Liên bang mới, Phó Tổng thống Liên Xô Yanayev tuyên bố trên đài phát thanh ờ Mátxcơva: Tổng thống Gorbachev vì điều kiện sức khỏe không thể thực hiện chức trách Tổng thống được, căn cứ vào điều khoản hữu quan của Hiên pháp Liên Xô, bắt đầu từ hôm nay, ông sẽ thay thếchức Tổng thống. Tiếp theo Yanayev, Thủ tướng Liên Xô Pavlov và Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban Quốc phòng Liên Xô Paklanov cùng ra bản "Tuyên bố lãnh đạo Liên Xô", tuyên bố bắt đầu từ 4 giờ ngày 19 tháng 8 năm 1991 (giờ Mátxcơva) trở đi, ở một số địa phương của Liên Xô thực hiện tình trạng khẩn cấp trong vòng 6 tháng, đồng thời tuyên bố thành lập "Ủy ban tình trạng khẩn cap quốc gia Liên Xô", thành viên ngoài 3 người đã kể ở trên, còn có 5 người sau: Kryuchkov (Chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô - KGB), Pugo (Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô), Starodubtsev (Chủ tịch Liên minh nông dân Liên Xô), Ji Djakov (Chủ tịch Hội Liên hợp xí nghiệp nghiệp quốc doanh và thiết bị công nghiệp, xây dựng, vận tải, bưu điện), Yazov (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô).

Ủy ban tình trạng khẩn cấp quốc gia ra "Lời kêu gọi nhân dân Liên Xô", trong đó chỉ ra, Liên Xô "đang phải đối mặt với nguy hiểm chết người, chính sách cải tổ do Gorbachev phát động và bắt đầu... vì nhiều lý do đã đi vào ngõ cụt, cả đất nước trên thực tế đã mất kiểm soát". Tiếp đó, quân đội Liên Xô tiên vào trung tâm thành phố Mátxcơva, xe bọc thép và xe tăng chiếm giữ trận địa sát cơ quan quan trọng của nhà nước, quảng trường thành phố và các tuyên giao thông quan trọng.


Ngày 19-8-1991: Buổi sáng, Ủy ban tình trạng khẩn cấp quốc gia ra mệnh lệnh số 1, yêu cầu lập tức giải tán các loại tổ chức và vũ trang bất hợp pháp, nghiêm cầm tụ tập, diễu hành, biểu tình và bãi công, chấm dứt các hoạt động của chính đảng, đoàn thể xã hội và quần chúng có hại đến tình hình ổn định, còn quy định một loạt các biện pháp nhằm giữ vững trật tự đời sống kinh tế. Buổi chiều, Ủy ban tình trạng khẩn cấp quốc gia ra mệnh lệnh số 2, quyết định tạm thời hạn chế xuất bản báo chí và các ấn phẩm chính trị xã hội của Trung ương và Mátxcơva, chỉ cho phép 9 loại báo được xuất bản phát hành như báo Sự thật, báo Tin tức, báo Sao đỏ.


Sự kiện "19 tháng 8" kể trên là một nỗ lực cuối cùng nhằm cứu vãn Nhà nước Liên bang xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân sự Liên Xô đã làm.

Ngày 21-8-1991: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Dzasokhov đã phát biểu trong buổi họp báo nói: Ban Bí thư Trung ương cho rằng, không thể cho phép ý đồ thành lập chế độ chuyên chế chủ trương tổ chức Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có sự tham gia của Tổng Bí thư Gorbachev.


Tối 21-8-1991: Gorbachev ra tuyên bố, khẳng định ông đã kiểm soát toàn diện được tình hình, qua vài ngày nữa là có thể thực thi chức vụ Tổng thống.

Sáng sớm 22-8-1991: Gorbachev từ trại nghỉ dưỡng Crưm trở về Mátxcơva.

Ngày 22-8-1991: Yeltsin phát biểu trước Tòa nhà Hội nghị của Liên bang Nga: "Mọi hành động đi ngược lại Hiến pháp của ủy ban tình trạng khẩn cấp quốc gia đều được hạt nhân của chủ nghĩa Xtalin mới trong lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bí mật phê chuẩn", đồng thời tuyên bố tổ chức Đảng Cộng sản trong quân đội Liên Xô là phi pháp.

Gorbachev phát biểu trên truyền hình: "Lúc này đây tôi đang nói trước các bạn, đã có thể nói đầy đủ căn cứ rằng: đảo chính đã phá sản. Bọn âm mưu đã tính toán sai... Bọn mạo hiểm đã bị bắt và sẽ bị trừng phạt... Có những người không những gánh chịu sự rủi ro mất đi địa vị và tự do bản thân, mà còn thường xuyên chịu nguy hiểm về tính mạng, nhưng họ vẫn đứng trong hàng ngũ bảo vệ chế độ Hiến pháp, pháp luật và nhân quyền, tôi phải cảm ơn họ. Đầu tiên tôi phải chỉ ra vai trò kiệt xuất của Tổng thống Nga Yeltsin, ông là hạt nhân ngần chặn âm mưu và chuyên chính".


Ngày 23-8-1991: Trong buổi gặp mặt giữa Gorbachev và các nghị sĩ Liên bang Nga, Yeltsin đã công kích và chỉ trích gay gắt Gorbachev và Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời tuyên bố trước mặt mọi người: "Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga đã tham gia 'đảo chính'. Bởi vậy, bây giờ tôi ký vào lệnh Tổng thống Liên bang Nga, tạm dừng các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga trên lãnh thổ Liên bang Nga".


Ngày 24-8-1991: Gorbachev tuyên bố từ chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời tuyên bố: do Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô không kiên quyết chống đảo chính, yêu cầu Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải thể, Đảng Cộng sản của các nước cộng hòa và tổ chức Đảng địa phương tự giải quyết tiền đồ của mình. Ông còn lấy danh nghĩa Tổng thống Liên Xô, ra mệnh lệnh cho Đảng Cộng sản Liên Xô chấm dứt hoạt động trong lực lượng vũ trang Liên Xô và tất cả các cơ quan quân sự, cơ quan nhà nước và cơ quan bảo vệ pháp luật.


Ngày 25-8-1991: Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ra tuyên bố, chấp nhận quyết định của Gorbachev về việc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự động giải tán. Đồng thời đề nghị Gorbachev, Yeltsin và lãnh đạo các nước Cộng hòa thuộc Liên bang cho tổ chức Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô hoặc áp dụng các biện pháp khác tại Mátxcơva để thảo luận vấn đề vận mệnh của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này, nhưng vẫn chưa nhận được phúc đáp. Cùng với đó, tất cả các cơ quan của Đảng Cộng sản Liên Xô cúng bị giải tán, toàn bộ tài sản, hồ sơ của Đảng Cộng sản Liên Xô bị giao nộp cho các cơ quan hữu quan của Liên bang Nga quản lý, các vật kỷ niệm về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô ở các nơi bị phá hủy và dỡ bỏ.

Tổng thống Liên bang Nga Yeltsin ký pháp lệnh, tuyên bố toàn bộ tài sản của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga thuộc sở hữu của Nhà nước Liên bang Nga.


Ngày 5-11-1991: Yeltsin một lần nữa ban hành mệnh lệnh nghiêm cấm hoàn toàn Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga hoạt động trong phạm vi biên giới của Liên bang Nga. Trước và sau đó, Đảng Cộng sản các nước Cộng hòa thuộc Liên bang cũng đều hoặc bị câím hoạt động, hoặc bị tuyên bố là phi pháp, hoặc tuyên bố đổi tên. Đến đây, Đảng Cộng sản Liên Xô, trải qua quá trình 93 năm gập ghềnh, khúc khuỷu, cuối cùng đã sụp đổ.


Tiêu đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng
Gửi bởi: nhinrathegioi trong 03 Tháng Tư, 2022, 04:34:34 pm
LỜI KẾT


Là chủ biên của cuốn sách, xem xong bản thảo cuối cùng, có thể nói như trút được gánh nặng, nhưng không, tôi thậm chí không hề có cảm giác nhẹ nhõm.

Tôi cho rằng, trong lịch sử phong trào cộng sản thế giới thế kỷ XX, có ba sự kiện lớn rất đáng chú ý: một là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; hai là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949; ba là Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể vào cuối năm 1991. Hai sự kiện đầu, mặc dù một số ít người vẫn còn hoài nghi, nhưng có thể nói rằng, lịch sử đã đưa ra kết luận. Thời gian xảy ra sự kiện thứ ba cách chúng ta rất gần, không ít sự thực của bản thân nó vẫn rắc rối, không dễ gì nhìn ra chân tướng, đối với nguyên nhân xảy ra sự kiện này, tính chất của sự kiện này phải đưa ra một lời giải thích có thể đứng vững trong lịch sử và có sức thuyết phục, hoàn toàn không phải là việc dễ. Vì vậy, từ ngày bắt đầu xây dựng đề tài, là người chủ trì để tài, trên đầu và sau lưng tôi đã treo lên một cây kiêm vô hình và giơ lên một ngọn roi vô hình.


Bản thân sự thực lịch sử chỉ có một, nhưng đứng trên lập trường khác nhau, vận dụng quan điểm và phương pháp khác nhau để nhìn nhận cùng một sự thực lịch sử, sẽ có được các loại kết luận, thậm chí kết luận hoàn toàn tương phản nhau. Đối với sự kiện lớn Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể, quan điểm trong và ngoài nước rất nhiều; về nguyên nhân xảy ra sự kiện trọng đại này, vẫn còn có những cách giải thích khác nhau. Trong một giai đoạn lịch sử tương đối dai, nghiên cứu về vấn đề này có thể sẽ không có một đáp án thống nhất; những tranh cãi xung quanh chủ đề này không kết thúc.


Nói về tính tất yếu của những khúc khuỷu trên con đường lịch sử, chúng ta là "những người theo chủ nghĩa bi quan", không thể vượt qua được thời đại mà chúng ta đang sống và trình độ phát triển kinh tế xã hội; nhưng nhìn từ viễn cảnh tươi sáng của dòng lịch sử, chúng ta lại là những người theo chủ nghĩa lạc quan kiên định, tin vào điểm đến cuối cùng tất yếu của sự phát triển lịch sử nhân loại.


Chúng ta nói rằng, trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài, nhận thức đối với cùng một sự kiện lịch sử trọng đại sẽ không có cùng một đáp án thống nhất, nhưng điều này không có nghĩa là không có chân lý khách quan, không có đáp án chính xác. Nhưng trong chiều dài lịch sử, cùng với sự theo đuổi lý tưởng tốt đẹp cuối cùng tự do và phát triển toàn diện của con người, tin rằng phần đông chúng ta sẽ dần dần thoát khỏi sự ràng buộc phiến diện. Thực tiễn xã hội tất sẽ chỉ ra cho con người các loại chân lý. Hơn 10 năm từ khi Liên Xô giải thể, xã hội Nga sau khi trải qua một loạt tai ương như nhà nước tan rã, dân tộc chia cắt, kinh tế  sụp đổ, mức sống người dân giảm xuống, chuẩn mực đạo đức và trình độ văn minh xuống dốc, tuổi thọ trung bình rút ngắn, đã bắt đầu suy ngẫm lại nhận thức đối với lịch sử.


Năm 2007 và 2008, Nga lần lượt xuất bản giáo trình lịch sử mới là Lịch sử nước Nga hiện đại (1945-2006) và Lịch sử nước Nga (1900-1945). Giáo trình lịch sử mới khẳng định đầy đủ những thành tựu đã giành được trong phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ Liên Xô, đồng thời cũng đưa ra không ít quan điểm mới về vấn đề đánh giá Xtalin. Ví dụ, trong giáo trình cho rằng cuộc "đại thanh trừng" vào những năm 30 của thế kỷ XX mặc dù có vấn đề nghiêm trọng, nhưng có mặt cần thiết của nó, phải nhìn nhận biện chứng; cho rằng Xtalin "là người bảo vệ hệ thống chế độ bảo đảm cho đất nước bước xã hội công nghiệp", "là lãnh tụ của một quốc gia cận kề với chiến tranh", v.v... Ngày 19 tháng 5 năm 2009, Tổng thống Nga Mevedev ký lệnh Tổng thống tuyên bố thành lập "Ủy ban đấu tranh với những âm mưu làm nguy hại đến lợi ích nước Nga và xuyên tạc lịch sử" trực thuộc Tổng thong, tuyên chiến với những âm mưu xuyên tạc lịch sử, đặc biệt là lịch sử Chiến tranh vệ quốc. Đây rõ ràng là một minh chứng nữa cho thấy toàn dân tộc Nga đánh giá đúng đắn về lịch sử nước mình.


Một mặt, thế giới biến đổi rất nhanh, thông thường chúng ta không kịp nhận ra. Mặt khác, quy luật lịch sử ca bản cũng có mấy điều như vậy, sự vật biến đổi qua lại, cũng không thể thoát khỏi quy luật phát triển lịch sử. Từ một nghĩa nhất định, mục đích căn bản của việc chúng ta nghiên cứu việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng, Liên Xô giải thể, chính là để tìm kiếm một thứ gì đó mang tính quy luật bên trong, để làm bài học sâu sắc cho thế hệ sau. Cuốn sách này là kết quả cuối cùng của dự án Quỹ khoa học xã hội quốc gia và dự án trọng điểm của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc "Nghiên cứu bài học lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xo mất Đảng" do Tổ đề tài Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc đảm nhiệm. Để tiện cho các độc giả tra cứu thời gian, địa điểm xảy ra và tình hình cơ bản của một số sự kiện trọng đại trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, ở phần cuối của cuốn sách này, chúng tôi có phần phụ lục Đại sự ký thịnh suy của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Quyển sách này là kết tinh lao động của các thành viên trong Tổ đề tài và toàn thể những người cầm bút. Tổ đề tài có các đồng chí sau: Lý Thận Minh (Tổ trưởng, Phó Viện trưởng, nghiên cứu viên Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Trần Chi Hoa (Nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu lịch sử thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Ngô Ân Viễn (Nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu Nga - Trung Á - Đông Âu, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Hình Quảng Trình (Nghiên cứu viên Trung tâm nghiên cứu lịch sử biên cương, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Trương Thụ Hoa (Nghiên cứu viên Trung tâm Thông tin văn hiến, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Lý Chính Đông (Nghiên cứu viên Cục Nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc), Vương Chính Tuyển (Giáo sư Học viện Quan hệ quốc tế, Đại học Nhân dân Trung Quốc), Vu Hồng Quân (Nghiên cứu viên Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc), Quách Xuân Sinh (Phó Giáo sư Học viện Quan hệ quốc tế, Đại học Nhân dân Trung Quốc).


Các tác giả của cuốn sách này:

Lời mở đầu: Lý Thận Minh Chương I: Trần Chi Hoa

Chương II: Vương Chính Tuyền, Tào Trường Thịnh (Giáo sư Học viện Quan hệ quốc tế, Đại học Bắc Kinh)

Chương III: Trương Thụ Hoa

Chương IV: Ngô Ân Viễn

Chương V: Quách Xuân Sinh

Chương VI: Lý Chính Đông

Chương VII: Hình Quảng Trình, Uông Đình Hữu (Phó Giáo sư Học viện Chủ nghĩa Mác, Đại học Nhân dân Trung Quốc)

Chương VIII: Vu Hồng Quân, Vương Chính Tuyền

Phụ lục: Trần Chi Hoa


Cuốn sách này là tiếng nói trong một nhà, mong nhận được sự chỉ giáo của mọi nhà. Chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng, bản thảo sắp đưa đi in, trong đó có nội dung các chương liên quan, vẫn còn không ít thiếu sót; trong một số vấn đề mang tính kỹ thuật và biểu đạt chữ nghĩa cụ thể, mặc dù qua rất nhiều lần hiệu đính nhưng có thể vẫn có những chỗ sai sót, mong giới học thuật cùng đồng hành và các độc giả phê bình sửa sai. Chúng tôi cũng rất vui lòng được nghe các quan điểm học thuật khác nhau, rất vui được cùng mọi người giao lưu thảo luận thêm.


Toàn bộ thành viên trong Tổ đề tài và những người chấp bút cuốn sách này, mặc dù không cùng cơ quan, tuổi tác khác biệt, nhung trong quá trình mười năm nghiên cứu, đều có thể cùng giúp đỡ lẫn nhau, cùng ra sức hợp tác. Là chủ biên của cuốn sách, bất luận về mặt tư tưởng lý luận hay tác phong học tập, tác phong làm việc, tôi đều học được không ít những điều quý báu từ mọi người. Nghiên cứu viên Trần Chi Hoa phối hợp thống nhất bản thảo, giáo sư Vương Chính Tuyền, giáo sư Lưu Thư Lâm của Đại học Thanh Hoa đã hiệu đính các vấn đề mang tính kỹ thuật như chú thích và dẫn văn cuối cùng, Phó Giáo sư Uông Đình Hữu giúp chủ biên sửa chữa cần thiết đối với các chương cá biệt, nghiên cứu viên Vương Lập Cường phối hợp với Tổ đề tài các công tác tổ chức cụ thể. Tại đây, tôi xin gửi tới mọi người lời cảm ơn sâu sắc.


Ngày 15 tháng 10 năm 2010
Lý Thận Minh