Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 17 Tháng Mười, 2021, 10:25:39 am - Tên sách: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch
- Tác giả: Cao Kim - Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội - Năm xuất bản: - Người số hóa: giangtvx, dungnuocgiunuoc LỜI NHÀ XUẤT BẢN Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa vào quá khứ. Đất nước Việt Nam tươi đẹp đang từng ngày, từng giờ đổi mới nhưng ký ức hào hùng về một thời đạn lửa vẫn còn vọng mãi. Bởi đó là những năm tháng mà cả dân tộc ta đã làm nên một HUYỀN THOẠI. Huyền thoại của hai mươi năm "Máu nở thành hoa". Thử hỏi có "cuộc sinh nở nào đau đớn vậy - Rất tự hào mà xót tận trong da" (Tố Hữu - Việt Nam, Máu và Hoa). Tự hào bởi từ trong cuộc trường chinh ấy, giữa những ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, giữa cái mất và cái còn, giữa tận cùng đau thương và hy vọng, chúng ta đã hun đúc nên những GIÁ TRỊ SỐNG đích thực và thiêng liêng. Đó chính là tình yêu đối với Tố quốc; tình cảm của lãnh tụ đối với nhân dân, của nhân dân đối với lãnh tụ; tình cảm đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó; tình cảm quân - dân cá nước; tình cảm hậu phương - tiền tuyến; tình cảm ruột thịt của miền Bắc đối với miền Nam đi trước về sau; tình cảm của cả dân tộc một lòng thủy chung đi theo cách mạng... Tất cả những giá trị ấy đã hun đúc nên sức mạnh Việt Nam, làm nên một "Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ". Xót xa vì trong cuộc trường chinh ấy, có biết bao mất mát, hy sinh của đồng bào và chiến sĩ ta, bao nhiêu chàng trai, cô gái đã hy sinh cả tuổi xuân. Và đã hơn nửa thế kỷ đi qua, vẫn còn đâu đó những niềm vui không có cơ hội được tái sinh, những kiếp người, những số phận vì chiến tranh mà côi cút, neo đơn; vì chiến tranh mà không cất nổi bước chân đi về tương lai, hòa nhập cộng đồng... Dù biết không có hình thức nghệ thuật nào, kể cả thi ca, có thể diễn tả hết được hiện thực của chiến tranh. Và những câu chuyện về nữ chiến sĩ giao liên mật giữa đô thành Sài Gòn trong cuốn sách này cũng không nằm ngoài sự bất lực ấy. Nhưng những hình ảnh giản dị mà vô cùng thông minh, gan dạ, những bước chân đi về như con thoi giữa mọi hiểm nguy trong vùng địch hậu của nhân vật nữ chiến sĩ giao liên Minh Nguyệt (Sáu Thắm) cùng đồng đội vẫn gợi lại những tình cảm mến thương, sự khâm phục trong mỗi chúng ta, bởi trước hết người ghi lại ký ức ấy là nhân chứng của chiến tranh. Tác giả từng là người lính trên mặt trận báo chí ở chiến trường miền Nam những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Và cảm xúc của tác giả được viết ra từ trong khói lửa, trong những năm tháng cùng nằm gai nếm mật với đồng bào, đồng chí, đồng đội mình giữa sào huyệt địch. Hôm nay chúng ta được sống trong hòa bình, dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới của hội nhập và phát triển. Điều đó lại càng không cho phép chúng ta lãng quên quá khứ, không được quên những sự hy sinh, mất mát của đồng bào, chiến sĩ ta, không được quên những người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc của riêng mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Chẳng còn bao lâu nữa là tròn 50 năm sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân (1968 - 2018). Chúng ta không thể nào quên những hy sinh, mất mát của những năm tháng ấy. Ngày nay, có rất nhiều người trong chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ không đi qua chiến tranh, mới chỉ hiếu được phần nào về sự hy sinh của thế hệ cha ông. Có lẽ vì vậy trách nhiệm của mỗi chúng ta là cần phải làm thật nhiều điều thiết thực và ý nghĩa để sự hy sinh vô giá ấy luôn được trân quý, tự hào, tạo thêm sức mạnh cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Cuốn sách "Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch" của tác giả - nhà báo Cao Kim (Kim Toàn) là một trong những thông điệp Nhà xuất bản muốn gửi bạn đọc. Tác giả là một trong những nhà báo cách mạng vừa cầm bút, vừa cầm súng tại chiến trường, từng trực tiếp đối diện với sự khốc liệt của chiến tranh, giữa sự sống và cái chết để ghi lại các hình ảnh chân thực nhất về những con người bình dị, hoạt động thầm lặng mà sự hy sinh của họ có thể chúng ta không bao giờ viết hết được. Cuốn sách như một lời tri ân để lịch sử mãi nhớ và biết ơn về họ. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 22 Tháng Mười, 2021, 05:08:33 pm Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch
Chiến tranh đang dần lùi xa. Mỗi lần giở lại những trang ghi chép tại mặt trận Sài Gòn - Gia Định thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tôi lại nhớ đến các chiến sĩ biệt động và giao liên mật tại nội đô mà tôi từng đồng cam, cộng khổ và viết về họ. Đó là những chàng trai, cô gái dễ thương, sống trung thực, hồn nhiên, vô tư, giàu tình cảm và đầy mưu trí, dũng cảm, lúc nào cũng sẵn sàng xả thân vì hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Minh Nguyệt, nữ đội viên nhỏ tuổi nhất của Tổ giao liên mật C30 (thuộc đơn vị giao liên T4) là một chiến sĩ trong số đó. Tôi gặp Minh Nguyệt (Sáu Thắm) lần đầu vào cuối năm 1966 và gặp lại em tại Sài Gòn - Gia Định giữa đợt chống càn ác liệt ở vùng ven đô sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân - 1968. Là con gái Sài Gòn chính gốc, có dáng mảnh mai, xinh xắn, nhanh nhẹn, thông minh và gan dạ, em được mọi người trong đơn vị thương mến ví như "cánh chim nhỏ" nơi đô thành ngày ấy. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 22 Tháng Mười, 2021, 05:09:06 pm Dọc ngang khắp chôn đô thành
Cư trú tại quận Ba, gia đình Minh Nguyệt là một trong nhiều gia đình sớm bị chính quyền Sài Gòn liệt vào danh sách "những gia đình Việt Cộng" và luôn bị theo dõi, đe dọa, khủng bố gắt gao. Cả nhà em có tới bảy người (gồm ba, má, chị Hai, chị Ba, anh Tư, anh Năm và Nguyệt) theo cách mạng, hoạt động kháng chiến. Noi gương ba, má và các anh chị, ngay từ khi đang là nữ sinh Trường Trung học Gia Long, Nguyệt đã hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Liên tiếp trong những năm từ 1964 đến 1967, Nguyệt vừa đi học vừa làm giao liên, bí mật chuyển tài liệu của tổ chức tới các cơ sở. Em rất vui khi được góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến chông xâm lược, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Mấy tháng trước khi ta mở cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân - 1968, Nguyệt bận rộn bởi luôn được giao việc cần cấp phải chạy đua với thời gian. Như "cánh chim nhỏ" tinh nhanh, sáng đi học, chiều tối em len lỏi khắp các ngõ ngách của đô thành. Biết tự bảo vệ mình và cơ sở cách mạng, Nguyệt luôn thay đổi cách ăn mặc và phương tiện đi lại cho phù hợp với từng chuyến công tác: lúc đi bộ, lúc đi xích lô, xe đạp, xe gắn máy, lúc đi xe đò, xe lam hoặc taxi... Một số lần, Nguyệt tương kế, tựu kế "nhờ" cả sĩ quan địch (từng là bạn học một thời) dùng xe quân sự Mỹ chở em đi làm nhiệm vụ mà chúng không hay đang ngồi cùng "Việt Cộng". Tận dụng lợi thế hợp pháp của nữ sinh và sự sơ hở của địch, không những em tiếp nhận, vận chuyển kịp thời, an toàn mọi tài liệu, hàng hóa do tổ chức giao mà còn khai thác thông tin từ một số sĩ quan, binh lính địch cung cấp cho lãnh đạo, chỉ huy. Nhiều lần, Nguyệt bị bọn mật thám theo dõi, chặn đường và bọn cảnh sát bao vây, rượt đuổi, nhưng lần nào em cũng biết dựa vào bà con, cô bác, khéo đánh lạc hướng kẻ địch, rồi mau lẹ biến mất trước sự ngơ ngác của chúng. Không ít lần, khi chuyển xong tài liệu, Nguyệt lánh vô nhà thờ Tân Định hay nhà thờ Chúa Cứu Thế, lẫn trong đám đông con chiên nghe cha giảng đạo. Hàng chục lần em vô chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Xá Lợi, mượn áo ni cô, ngồi cùng các tăng ni, phật tử và nhà sư tụng kinh, niệm Phật. Nơi Nguyệt thường ghé nhiều nhất sau mỗi chuyến đi là các rạp hát: có lúc em vô rạp Long Phụng cạnh chợ Sài Gòn (chợ Bến Thành); có lúc lại vô rạp Nam Quang bên chợ Đuổi, rạp Thanh Vân giáp chợ Hòa Hưng, hoặc rạp Đại Nam (nay là rạp Công Nhân) gần chợ cầu Muối... Nguyệt thản nhiên mua vé vô ghế ngồi như mọi người, giả bộ xem biểu diễn nghệ thuật, nhưng thực ra em kiếm chỗ để chợp mắt, trấn tĩnh sau những giờ phút căng thẳng, hồi hộp và cắt đứt sự đeo bám của bọn mật thám. Một hôm, giữa khu Chợ Lớn đông đúc, Nguyệt không may bị địch phát hiện và đón bắt khi em từ một cửa hàng ăn sáng bước ra. Chúng đẩy em lên xe Jeép đậu sẵn, đưa thẳng về Tổng Nha cảnh sát Sài Gòn. Tay bị còng, vừa nhìn thấy mặt tên chiêu hồi, em bị chúng xô té sấp xuống chân tường đau điếng. Rồi chúng xúm lại xét hỏi, hăm dọa em. Giữa hang ổ của bọn quỷ dữ, sự nguy hiểm tính mạng ập đến quá nhanh, cảnh tra tấn, tù đày tưởng không thể tránh khỏi, nhưng em vẫn bình tĩnh nghĩ cách thoát thân. Biết chúng không có bằng chứng rõ rệt nào để giam giữ mình, em vừa nói lý lẽ với bọn sĩ quan địch, vừa dồn thêm tội chết cho kẻ chiêu hồi chỉ điểm là đứa vu cáo em và lừa gạt cả cảnh sát. Quả nhiên, bọn nó nghi ngờ nhau, cho kiểm tra lại thẻ học sinh và trường học của Nguyệt. Cuối cùng, chúng phải thả em về... Cuối mùa Xuân năm 1967, Nguyệt được tổ chức đưa ra chiến khu học tập, rèn luyện một thời gian rồi lại trở về đô thành tiếp tục làm giao liên mật thuộc đơn vị giao liên T4 do ông Tư Tăng chỉ huy. Có sẵn giấy tờ hợp pháp là học sinh đang sống và học tại Sài Gòn, lần này, Nguyệt không chỉ hoạt động ở nội đô mà còn ra cả vùng ngoại ô phía bắc. Cứ đôi ba tuần hoặc một vài tháng, vào chủ nhật, trong những vai khác nhau, em tìm cách "qua mặt" các chốt kiểm soát của địch, mang tài liệu và một số hàng hóa (do cơ sở đóng gói, sắp đặt sẵn), lên xe đò như người thành phố về quê dự đám cưới, đám tang hay đám giỗ, để tới điểm hẹn ở huyện Hóc Môn hoặc Củ Chi. Giao "hàng" xong, em nhận tài liệu của tổ chức, rồi ra bắt xe đò hoặc xe ngựa và lại tìm cách vượt qua các chốt địch thường chặn xe xét hỏi, trở về trong ngày, kịp trao cho nơi nhận. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 22 Tháng Mười, 2021, 05:10:27 pm Chim khôn thoát hiểm
Đầu mùa khô năm 1967, Minh Nguyệt được tổ chức giao nhiệm vụ mang một số "hàng" từ nội đô lên huyện Dầu Tiếng, tỉnh Tây Ninh. "Hàng" gồm toàn văn phòng phẩm (giấy sáp, giấy đánh máy, giấy viết, sổ sách, bút bi, mực in) cùng các loại thuốc chữa bệnh, nhiều nhất là thuốc trị sốt rét. Mỗi thứ đều được cơ sở đóng gói, ngụy trang cẩn thận. Trước lúc Nguyệt lên đường, người phụ trách tổ công tác dặn dò em rất kỹ: - Anh chị em mình ở trển đang rất cần những thứ này. Bọn địch coi đây là hàng cấm, ai mang nhiều đều bị chúng quy tội tiếp tay cho "Việt Cộng". Nguyệt hết sức cố gắng nhưng cần khéo léo và cẩn thận, nghe! Ngồi trên xe đò với dáng một cô gái thị thành về thăm quê, Minh Nguyệt lo nghĩ đủ thứ. Khác với mọi lần, chuyến này không những em mang nhiều đồ hơn, đi xa hơn, mà lại tới ngay vùng "tam giác sắt" dày đặc các lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn, nơi thường xuyên có chiến sự. Biết bao sự bất trắc khó lường, nhưng do bình tĩnh, gan dạ và có kinh nghiệm hoạt động sau nhiều lần đi lại vùng ngoại ô phía bắc thành phố, Nguyệt lần lượt vượt qua các chốt kiểm soát của địch, đến điểm hẹn tại làng 14 Dầu Tiếng an toàn. Mừng thầm vì hoàn thành nhiệm vụ giao "hàng" cho cơ sở đầy đủ và đúng hẹn, Nguyệt tưởng khi trở về nội đô sẽ nhẹ nhàng, suôn sẻ, nhưng không ngờ, ngay sau đó, em phải đối mặt với một tình huống cực kỳ nguy hiểm. Chuyện xảy ra không liên quan đến số "hàng" do Nguyệt mới mang đến. Giao "hàng" xong, Nguyệt rời Dầu Tiếng quay về bằng lối khác. Em lên xe lôi rẽ vô con đường đất đỏ gập ghềnh đầy cát bụi - nơi bọn địch rất ngán phải đi xe qua vì chúng thường bị du kích và bộ đội ta đắp mô, gài mìn, phục kích, tấn công bất ngờ. Vừa tới xã Thanh An, huyện Bến Cát (tỉnh Bình Dương), tình cờ Nguyệt gặp mấy bạn gái thân thiết từ chiến khu Bình Long tới. Bạn bè thời chiến, sống chết có nhau, lâu ngày gặp lại, ai cũng mừng rớt nước mắt. Mọi người chưa kịp hỏi nhau đôi câu thì một tốp trực thăng (máy bay lên thẳng) Mỹ, toàn loại "cá rô", "cá lẹp" từ đâu phành phạch lao tới quần đảo nhiều vòng trên đầu xóm và bìa rừng. Tiếng rít của đàn máy bay bay thấp và tiếng súng nổ gây náo động. Có lẽ địch phát hiện thấy đơn vị nào của ta và chúng định bao vây? Nguyệt đoán vậy và giục các bạn mình chạy lẹ vô rừng trước khi máy bay lượn lại. Em cũng rẽ nhanh vô đầu xóm. Quả nhiên, cả tốp máy bay ào ào sà xuống và đổ quân giữa trảng cỏ. Bọn lính Sài Gòn do sĩ quan Mỹ chỉ huy, hình thành hai mũi, vừa chặn bìa rừng vừa tiến vô xóm. Chắc có kẻ chỉ điểm nên chúng hung hăng sục vào từng nhà để tìm "Việt Cộng" Nguyệt lánh trong một gia đình người quen. Em đứng phía sau nhà, định tìm cách ra khỏi vòng vây của địch, nhưng bọn chúng đã chặn hết lối. Nguyệt vội vô nhà tắm, múc nước xối xuống chân như đang tắm giặt. Ai dè, có bàn tay bất ngờ kéo mạnh tâm rèm cửa nhà tắm. Nguyệt giật mình nhìn ra: một thằng sĩ quan Mỹ cao, to, đeo lon trung tá, xuất hiện trước mặt. Nó chĩa súng ngắn vô em và la lên: - Vixi! Vixi! (Việt Cộng! Việt Cộng!) Nguyệt nhanh trí khoát tay và đáp lại nó bằng tiếng Anh: - Nô Vixi! (không phải Việt Cộng!) Ngạc nhiên thấy cô gái ở nơi heo hút, xa thị thành mà biết nói tiếng Anh, thằng Mỹ hạ súng xuống và kéo tay em vô nhà. Nó hỏi tên và nơi cư ngụ, em trả lời vanh vách. Thằng Mỹ gật đầu, rồi đưa tay chào em và quay đi. Em cũng chào lại nó, vẻ thân thiện. Nguyệt tưởng nó đi luôn, nhưng lát sau, nó quay lại cùng một viên thông dịch. Thằng Mỹ chỉ vô Nguyệt và biểu viên thông dịch rằng cô gái có vẻ không phải "Việt Cộng" vì là học sinh Sài Gòn và biết tiếng Anh. Viên thông dịch thốt lên: "Trời ơi, sếp lầm rồi! Việt Cộng ở khắp nơi và họ đâu có dốt nát! Nhiều Việt Cộng nói tiếng Anh như gió đó sếp! Tên sĩ quan Mỹ đổi sắc mặt. Nó nhún vai, trợn mắt và ra lệnh bắt ngay "tên nữ Việt Cộng". Bọn chúng kè tay Nguyệt, đẩy em lên xe Jeép và đưa tới giam giữ tại xã. Trời tôi dần. Trước khi bay về nghỉ đêm tại thị xã Tây Ninh, tên sĩ quan Mỹ giao cho bọn lính Sài Gòn ở lại canh giữ Nguyệt cẩn thận để ngày mai nó gặp. Nguyệt bị chúng còng tay, đẩy vô góc một ngôi nhà nhỏ chật chội - nơi tụ tập của bọn bảo an, dân vệ, muỗi nhiều như vãi trấu. Ba tên lính, mỗi tên một khẩu AR15, thay nhau canh chừng và kèm sát em. Suốt đêm ngồi bệt dưới nền nhà ẩm thấp trong tâm trạng căng thẳng, lo lắng, mệt mỏi và bị muỗi rừng bu tới hành hạ, Nguyệt không sao chợp mắt nổi. Hôm sau, mặt trời vừa tỏa nắng, tên sĩ quan Mỹ đã đáp máy bay trực thăng từ Tây Ninh đến. Nó xộc tới nơi giam giữ Nguyệt, ngó nhìn một lát và ra lệnh tên lính mở còng cho em. Nó sai khiến, dặn dò bọn lính, rồi lại vội bay đi. Nguyệt nghĩ, rất có thể chúng sẽ đưa em về Sài Gòn hoặc có âm mưu ác độc gì đó. Thấy tay mình không còn bị còng và thằng Mỹ đang vắng mặt, Nguyệt nảy ý định tìm cách thoát thân. Lựa lúc mấy tên lính gác đang uể oải vì thức đêm, Nguyệt giả bộ nhăn nhó như đau bụng và nói: - Mấy ông ơi, tôi là đàn bà, con gái đang có kinh. Bị mấy ông giam cầm từ hôm qua tới giờ không cho tắm rửa, thay đồ, tôi chịu hết nổi. Chắc mấy ông cũng thấy gớm... - Vậy bây giờ cô muốn gì? - Một tên hỏi Nguyệt. - Mấy ông cho tôi lại quán đằng kia mua băng vệ sinh; quán chỉ cách đây chừng vài trăm mét thôi - Nguyệt trả lời. - Không, không thể cho cô được tự đi - Nó lắc đầu lia lịa. - Vậy mấy ông dẫn tôi đi cho yên tâm - Nguyệt gợi ý luôn. Vẻ như không muốn để cô gái làm dơ dáy nơi làm việc của chính quyền xã, bọn nó nhìn nhau và gật đầu. Ba thằng lính, thằng nào cũng súng đạn lăm lăm, dẫn Nguyệt đến quán tạp hóa. Nguyệt vô mua hai miếng băng vệ sinh và lanh trí nói với bà chủ quán: - Bác ơi, cảm phiền bác, cho cháu vô nhà tắm thay đồ một chút. Thấy Nguyệt bị lính đi kèm, lúc đầu bà chủ quán cũng ngần ngại, nhưng khi nghe em nói mình đang có kinh, bị bắt vô cớ, từ hôm qua tới giờ chưa được thay đồ, bà la lớn: - Trời đất ơi! Mấy ông lính "quốc gia" sao ác quá! Đàn bà có kinh mà không cho thay đồ thì chết người ta. Mấy tên lính đưa mắt nhìn nhau, tên nọ hỏi tên kia. Một thằng hỏi chủ quán về cửa hậu ngôi nhà. Khi nghe bà chủ nói không có cửa hậu, nó mới cho Nguyệt đi thay đồ. Nguyệt để lại đôi dép ngoài cửa làm tin với bọn lính rồi lẳng lặng vô nhà tắm. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Nguyệt: bằng mọi cách, sống chết gì lúc này em cũng phải thoát khỏi tay địch. Nhìn gian nhà tắm trống lốc, bức tường bao không cao và không có mái lợp, phía sau là đồng ruộng, Nguyệt tính ngay đến cách vượt tường. Em với tay, định vọt lên liền, nhưng không có thế đứng và rất khó bám. Ngó vô góc bếp thấy mấy chiếc ghế nhỏ của gia đình chủ quán dùng để ngồi ăn cơm, Nguyệt lấy ba chiếc kê chồng lên nhau cạnh tường nhà tắm. Rồi lập tức, em leo lên và nhảy tót xuống phía ngoài. Chân vừa chạm đất, Nguyệt run lên vì lo lắng, hồi hộp và do thiếu ăn, thiếu ngủ từ hôm qua dồn lại. Nhưng đây là phút sống chết, không có đường lui, em phải liều mạng, phải tranh thủ từng giây, nếu không sẽ mất cơ hội. Cố trấn tĩnh, Nguyệt dồn hết sức lực, cúi người lao nhanh giữa khu ruộng hoang. Chạy được chừng vài trăm mét, em nghe tiếng súng AR15 nổ rộ lên từ phía quán tạp hóa. Bọn địch đã phát hiện "Việt Cộng" chạy trốn. Chúng la lôi, báo động ầm ĩ. Các họng súng đều tập trung chĩa về phía Nguyệt, xả đạn không tiếc. Mặc đạn bay chiu chiu, ràn rạt đằng trước, đằng sau, trên đầu, dưới chân như bủa vây quanh mình, Nguyệt vẫn chạy, hướng tới khu vườn rậm của xóm trước mặt, cắt qua góc đồng trống, em chạy chênh chếch, lúc ẩn, lúc hiện bên các lùm cây. Có lúc em nằm xuống, lăn mấy vòng tránh đạn rồi lại bật dậy chạy tiếp. "Trong giây phút này, rất có thể mình sẽ ngã xuống vì dính đạn kẻ thù, mình xác định rồi. Nhưng không sao, mình cứ chạy, ráng chạy nữa, chạy mới thoát, nhất định không để địch bắt lại...". Suy nghĩ ấy theo sát từng bước chân trần rớm máu của Nguyệt, giúp em thêm sức mạnh vượt lên. Chỉ trong chốc lát, Nguyệt lọt vô xóm Xoài, một xóm nhỏ, nhà dân thưa thớt, có nhiều cây xanh. Tiếng la ó của địch nghe nhỏ dần, nhưng tiếng súng bắn đuổi từ phía sau vẫn nổ ran và đạn vẫn bay tới vèo vèo. Mệt đến đứt ruột, đứt gan, đôi chân như rã rời, muốn khuỵu xuống mà em không thể dừng bước. Men theo bờ vườn, vượt qua một đoạn rào kẽm gai của "ấp chiến lược" cũ bị phá đổ, Nguyệt cố chạy vô ngôi nhà gần đó, nhưng cửa chốt chặt. Em tạt luôn qua hai, ba nhà khác, nhà nào cũng cửa đóng, then cài. (Em biết, lâu nay, mỗi khi nghe súng nổ ran, bà con nơi đây thường đóng cửa, ở trong nhà hoặc xuống hầm đề phòng những chuyện khó lường). Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 22 Tháng Mười, 2021, 05:11:17 pm Nguyệt tiếp tục chạy sâu vô xóm. Chợt em phát hiện có một gia đình vẫn mở hé cửa. Không ngần ngại, em phóng thẳng tới, gõ cửa và lách vô. Trong nhà chỉ có hai người, đều là phụ nữ: chị chủ nhà đang sắc thuốc cho mẹ già bị bệnh nằm mệt trên giường. Mùi thuốc bắc sực nức. Nguyệt vừa nói vừa thở:
- Chị ơi, cứu em với! Em đi nhổ củ mì mướn cho người ta, bị lính chọc ghẹo, em không chịu, chúng nó rượt bắt em. Chị cho em trốn vô nhà một chút, chị ơi! - Em có phải " Việt Cộng " không? - Chị chủ nhà hỏi. - Em chuyên đi làm mướn kiếm sống, đâu có biêt "Việt Cộng" là gì... - Nguyệt ngập ngừng đáp. Chị chủ nhà nhìn Nguyệt, nghĩ ngợi giây lát rồi vội chốt cửa, giục em: - Em lên giường nằm chung với má chị, lẹ lên! Nằm ở phía trong, quay mặt vô vách. Theo lời chị, Nguyệt lách vô bên bà cụ bệnh nặng đang nằm bất động. Chị chủ nhà cẩn thận lấy tấm mền đắp cho Nguyệt và dặn: - Tiếng súng nổ ác như vậy là chúng nghi có "Việt Cộng" đó. Chút nữa, chắc tụi nó sẽ đi xét từng nhà. Khi nào chúng tới, em nhớ phải làm bộ rên lên, nghe! Đúng như phán đoán của chủ nhà, chừng ba mươi phút sau, một tốp lính địch hùng hổ đập cửa, ập vô nhà chị. Nhìn thấy bà già ốm nhom, teo tóp, da dẻ xám đen, mắt nhắm nghiền, nằm bất động bên một người đàn bà khác đang rên rỉ, tên cầm đầu tốp lính hỏi chủ nhà: - Bà có thấy tên "Việt Cộng" nào chạy vô đây không? - Không. Tôi không thấy gì hết trơn! - Chị chủ nhà trả lời, vẻ ngạc nhiên. - Nhà này có mấy người? - Nó lại hỏi. - Gia đình tôi có ba mẹ con. Má và em tôi bị bệnh nặng nằm đó; còn tôi đang sắc thuốc. Chắc mấy ông cũng ngửi thấy mùi thuốc bắc - Chị đáp. - Vậy chồng bà đâu? - Ổng ly dị tôi, đi ở với vợ bé từ lâu rồi! Không hiểu do ngán ngẩm về sự lạnh lẽo và gia cảnh chủ nhà hay khó chịu bởi mùi hôi hám của người bệnh pha trộn với mùi thuốc bắc, bọn lính chỉ ngó nghiêng một lát rồi lắc đầu, kéo nhau đi. Chị chủ nhà và Nguyệt thở phào. Nguyệt định ngồi dậy, nhưng chị biểu em cứ nằm chút nữa, đề phòng tụi nó quay lại. Em ngoan ngoãn nghe chị. Lần này, do quá mệt, Nguyệt thiếp đi lúc nào không hay. Chừng gần ba giờ chiều, chị chủ nhà mới gọi em dậy. - Tụi lính rút hết rồi! Thấy em ngủ ngon quá, chị không gọi. Từ nãy tới giờ, chị em mình cũng chưa kịp biết tên nhau. Chị là Tư Trân, còn em tên gì? - Dạ, em tên Nguyệt - Nguyệt đáp. - Chị mới nấu cơm, em dậy ăn kẻo đói - chị ân cần bảo Nguyệt. - Chị Tư ơi, chị tốt với em quá! Em cảm ơn chị nhiều - Nguyệt rưng rưng ôm lấy chị Tư Trân như người chị ruột. Bữa cơm chỉ có miếng cá lóc khô với rau lang luộc chấm mắm nêm mà Nguyệt ăn thấy ngon lạ lùng. Chị Tư khéo léo gợi chuyện, Nguyệt vẫn nói em đi làm mướn kiếm sống và bị bọn lính chọc ghẹo, rượt bắt. "Nhìn em rất dễ thương. Dáng em là học sinh thành thị chứ không phải người đi nhổ củ mì mướn" - Chị Tư nói vậy. Chị cũng kể sơ sơ về chồng mình và bà má bệnh tật, giống như hồi trưa nói với tụi lính địch. Cơm nước xong, Nguyệt phụ với chị Tư sắc thuốc cho má, nhưng chị không chịu. Chị đưa quần áo của mình cho Nguyệt thay và giục em đi tắm. Đêm ấy, Nguyệt ngủ lại nhà chị Tư. Trong câu chuyện rủ rỉ, nhỏ to, em ngạc nhiên thấy chị chỉ kể về quân Giải phóng miền Nam, về tội ác giặc Mỹ và chuyện bà con quê mình nổi dậy phá "ấp chiến lược" do Mỹ và chính quyền Sài Gòn lập ra. Chắc chị Tư là người đằng mình, nếu không phải cơ sở mật cũng là người thân "Việt Cộng". Nguyệt nghĩ vậy và cứ lặng thinh nghe chị "tuyên truyền cách mạng". Giữa lúc bị kẻ thù truy đuổi, gặp được người như chị Tư chở che, giúp đỡ và chỉ bảo nhiều điều, Nguyệt mừng lắm. Nhưng theo nguyên tắc hoạt động bí mật, em không thể thổ lộ với chị về mình. Hình như chị Tư cũng nhận ra điều đó. Sáng hôm sau, chị Tư dậy rất sớm, lo cho Nguyệt trở về Sài Gòn. Để tránh địch phát hiện Nguyệt trên đường từ xóm Xoài ra tỉnh lộ, chị chọn đôi dép Thái cho em đi, đưa bộ quần áo khác của mình cho Nguyệt mặc và giữ lại giặt giũ, cất giấu bộ đồ của em dính đầy đất, có nhiều chỗ rách do vướng rào kẽm gai khi chạy trốn địch hôm qua, cẩn thận hơn, chị còn lấy tấm khăn rằn sọc đỏ sậm trùm lên đầu em như mấy bà, mấy chị đứng tuổi. Không để Nguyệt đi một mình (phần vì không biết đường, phần vì đề phòng bất trắc), chị Tư dùng xe đạp chở em vòng qua lối vắng, xa nơi tụ tập của bọn bảo an, dân vệ, rồi đạp thẳng ra tỉnh lộ. Rất may, một chiếc xe đò vừa tới. Chị Tư hối Nguyệt mau lẹ lên xe kẻo lỡ chuyến. Nghẹn ngào chia tay chị Tư kính yêu, Nguyệt hẹn nhất định sẽ có dịp trở lại thăm chị, người cứu mạng mà suốt đời em mang ơn. (Sau này Nguyệt mới hay, chị Tư Trân có chồng là bộ đội Giải phóng và chưa có con. Anh Tư Tấn - chồng chị, hy sinh anh dũng trong chiến đấu tại chiến trường miền Đông Nam Bộ. Chuyện anh bỏ vợ đi theo vợ bé do chị nghĩ ra chỉ để che mắt địch. Còn cụ bà bị bệnh nặng mà chị Tư lo chạy chữa chính là mẹ chồng chị. Lúc Nguyệt chạy trốn bọn địch ở quán tạp hóa, nghe tiếng súng rộ lên, đoán có người đằng mình bị chúng rượt bắt, chị Tư chủ động mở hé cửa để cứu anh em mình. Giữ đúng lời hẹn, Nguyệt đã về thăm chị Tư Trân và kết tình chị em). Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 25 Tháng Mười, 2021, 07:04:36 am Đưa "người yêu" vê thăm "quê nội"
Theo hẹn, chiều ngày 15-11-1967, Minh Nguyệt đến gặp ông Sáu Khánh tại quán ăn "Hải Đường" ở chân cầu Sài Gòn. Vốn có dáng cao, to, lại mang vỏ bọc là "nhà thầu khoán", hôm ấy, ông Sáu Khánh bệ vệ trong bộ đồ tây màu sáng, đội nón nỉ, đeo kính râm, đi giày da và xách ca táp đen. Nhìn "nhà thầu khoán", không ai nghĩ đó là Tổ trưởng tổ giao liên mật C30, người chỉ huy trực tiếp của Nguyệt. Chọn nơi khuất trong góc quán, trong khi ngồi đợi nhà hàng làm món ăn, ông Sáu Khánh và Nguyệt tranh thủ từng phút để bàn công chuyện. Ông Sáu cho hay, giữa tuần tới, Nguyệt có nhiệm vụ mang một số dụng cụ y tế, trong đó có khoảng 30 ông chích (tiêm), 20 cái pen, 20 cái kéo, cùng một số thuốc men, bông băng... tới xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi để đưa vô căn cứ kháng chiến. Biết Nguyệt rất lo về sự nguy hiểm khi mang số lượng lớn "hàng quốc cấm" giữa nơi ngày đêm địch kiểm soát gắt gao, ông Sáu bảo Nguyệt cứ yên tâm, tổ chức sẽ chuẩn bị cho Nguyệt đến mức tối đa. Dự định, "hàng" sẽ được gom và để ở cơ sở trong chợ Củ Chi, Nguyệt chỉ việc nhận tại đó và xách đi. Khó nhất là con đường từ chợ huyện đến xã Trung Lập Thượng. Tuy chặng đường chỉ dài chừng hơn 20 ki-lô-mét nhưng xe quân sự của bọn Mỹ đi lại nhiều, phải qua một số trạm khám xét của cảnh sát và luôn có bọn bảo an, dân vệ tuần tra, canh gác hoặc mật thám theo dõi. Nếu đi lẻ như mọi lần và mang số "hàng" lớn, Nguyệt rất dễ lộ và bị địch bắt. Muốn vượt chặng đường đầy nguy hiểm ấy, cần phải có cách làm mới, táo bạo, bất ngờ. Ông Sáu và Nguyệt bàn tính tới mấy phương án liền. Chợt ông hỏi: - Nguyệt nè, cháu có thể tận dụng lợi thế về mối quan hệ hiện nay của mình, kiếm cách dụ một người nào trong số bạn học cũ hiện đang là sĩ quan cảnh sát Sài Gòn để cùng cháu chuyển số "hàng" này. - Ôi, hay quá! Vậy mà cháu chưa nghĩ tới! Cách đó có thể được đó, chú Sáu! - Nguyệt nói với vẻ tự tin. Thực ra, phương án này, thủ trưởng Tư Tăng và ông Sáu Khánh đã tính từ Củ Chi. Sở dĩ hôm nay ông Sáu bàn với Nguyệt vì ông muốn trực tiếp nghe thêm ý kiến của Nguyệt. Khi thấy cách làm đó phù hợp, ông mới nói chi tiết về nhiệm vụ mà Nguyệt được giao. - Đây là lần đầu đơn vị mình chuyển "hàng" bằng cách mới, Nguyệt cần hết sức bình tĩnh, linh hoạt và luôn cảnh giác. Dù lựa ai, cháu cũng đừng quên, tuy là bạn học cũ nhưng đó là sĩ quan cảnh sát Sài Gòn do Mỹ đào tạo. Bọn Mỹ nhiều mưu kế lắm - Ông Sáu dặn - Nguyệt nhớ nè: chỉ còn bốn hôm nữa là đến ngày làm đám giỗ bên nội tại nhà ông Năm Hóa. Các cô, chú đợi cháu về. Mọi việc ở xã đã có chú và chú Tư Tăng lo. Ráng lên, nghe Nguyệt! - Dạ, cháu nhớ. Mấy chú yên tâm! Đêm ấy về nhà, Nguyệt không sao ngủ được. Em nghĩ tới mấy bạn trai cùng học trung học và ra trường trước em, là sĩ quan cảnh sát Sài Gòn. Trong số người muôn làm thân với Nguyệt có Nghĩa, con một gia đình quan chức cỡ bự. Nghĩa hơn em hai tuổi, hiện là thiếu tá an ninh, làm việc tại Tổng Nha cảnh sát. Lâu nay, Nghĩa vẫn săn đón, làm mọi việc để gây cảm tình với Nguyệt và mong chinh phục được trái tim em. Nhiều lần, sắp đến giờ tan học, Nghĩa đến tận trường đón Nguyệt đi ăn trưa. Thỉnh thoảng, vào chủ nhật, Nghĩa còn rủ Nguyệt tới rạp xem phim hay đi chơi. Đôi lần, Nghĩa ngỏ ý yêu Nguyệt, nhưng em chỉ nói mình còn đang đi học, chưa nghĩ chuyện yêu đương. Thực sự, Nguyệt không yêu Nghĩa, vì không hợp. Hơn nữa, hoàn cảnh gia đình Nguyệt trái ngược hoàn toàn với gia đình Nghĩa. Trong khi ba, má cùng các anh, chị Nguyệt và bản thân em gian khổ theo cách mạng, ủng hộ kháng chiến chống Mỹ xâm lược thì ba, má Nghĩa là những nhân vật chống Cộng có vai vế trong bộ máy chính quyền Sài Gòn. Nghĩa được gia đình cưng chiều từ nhỏ và sớm được Mỹ đào tạo tại Trường Sĩ quan Đà Lạt. Để tránh sự nghi ngờ, dị nghị, hoặc hiểu lầm của mọi người đối với mình và giảm bớt phức tạp, nguy hiểm trong công tác, năm rồi, Nguyệt đã báo cáo tổ chức chuyện này và quyết định cắt luôn mối quan hệ của mình với Nghĩa. Nguyệt tưởng thái độ dứt khoát, quan điểm rõ ràng của em được hoan nghênh, nhưng Ban chỉ huy đơn vị lại có ý khác. - Chú biết Nguyệt không yêu Nghĩa và hiểu sự thành thực của cháu. Nhưng theo chú, Nguyệt chưa nên buông bỏ mối quan hệ này. Cháu cần giữ vững liên hệ với Nghĩa để từng bước cảm hóa nó, qua đó nắm thông tin về hoạt động của đối phương và hướng Nghĩa vào những việc có lợi cho ta. Quan trọng là cháu phải giữ quan hệ cho đúng mực, bảo đảm an toàn, tuyệt đối không được để lộ mình, gia đình và tổ chức - Thủ trưởng Tư Tăng khuyên, cũng là giao nhiệm vụ cho Nguyệt như vậy. Nguyệt làm đúng theo ông Tư Tăng dặn. Đến bây giờ, chuẩn bị cho chuyến đưa số "hàng" quan trọng về Củ Chi, Nguyệt càng thấy người chỉ huy của mình biết nhìn xa. Nguyệt lo lắng, băn khoăn khi nghĩ về dự định đưa Nghĩa "vào cuộc". Thời gian không còn nhiều. Em chưa biết gặp Nghĩa lúc nào và cần nói sao để Nghĩa nghe dễ lọt tai, không chút nghi ngờ. Liệu Nghĩa có nhận lời không? Hôm sau, Nguyệt vẫn tới trường. Thiệt may, khi sắp tan học, từ cửa sổ nhìn ra, Nguyệt thấy Nghĩa trong sắc phục sĩ quan cảnh sát, đang dừng xe Jeép ở cổng. Nghĩa đến rất đúng lúc. Dù biết Nghĩa đợi mình, nhưng khi gặp, Nguyệt vẫn giả bộ hỏi: - Ủa, Nghĩa tới hồi nào? Định kiếm ai đó? - Nghĩa mới tới. Tính mời Nguyệt cùng đi ăn trưa, được không? - Nghĩa vừa nói vừa cười. - Hay quá! Nguyệt cũng đang đói bụng nè! - Nguyệt hồn nhiên đáp lại bằng ánh mắt đầy thiện cảm và nụ cười thật dễ thương. Vui thích trước cử chỉ của "phái đẹp", Nghĩa đón Nguyệt lên xe và đưa tới một nhà hàng quen thuộc gần đó. Trong lúc ngồi ăn vui vẻ, Nguyệt định nói với Nghĩa việc mình cần, nhưng giữa chỗ đông người ăn uống ồn ào, nhất là có mấy sĩ quan quân đội Sài Gòn lầm lì ngồi kế bên, em thấy không tiện. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 25 Tháng Mười, 2021, 07:06:06 am Xong bữa, Nghĩa rủ Nguyệt đi uống sinh tố, Nguyệt nói em thích ăn kem. Chiều ý "người yêu", Nghĩa đưa Nguyệt tới thẳng quán kem ở bến Bạch Đằng. Nguyệt kéo tay Nghĩa tới một bàn sát mé sông để ngồi hóng gió. Vốn không ưa cảnh sát nên vừa thấy có thiếu tá dắt gái bước vào, những người ăn kem vội tản ra chỗ khác, để mặc hai người trò chuyện. Nguyệt cho đây là dịp tốt đối với em. Lựa lúc Nghĩa đang hào hứng, muốn tiếp tục thể hiện sự tin cậy của mình, Nguyệt mạnh dạn nói:
- Mấy bữa nữa, Nguyệt về đám giỗ trên Củ Chi. Đi một mình buồn lắm. Nguyệt muốn Nghĩa cùng đi, chịu không? - Ủa, Nguyệt lên trển giỗ ai? - Nghĩa hỏi. - Giỗ ông cố nội. Nghĩa đi không? - Nguyệt trả lời và hỏi lại. Tưởng Nguyệt tạo cơ hội để Nghĩa làm quen dần với gia đình "người yêu", không chút đắn đo, Nghĩa gật đầu: - Được! Nghĩa thích đi với Nguyệt mà! - Vậy Nghĩa hứa đi! - Nguyệt muốn "chốt" lại, không cho Nghĩa đổi ý. Nghĩa nắm tay Nguyệt: - OK! Nghĩa hứa. Được chưa? Nguyệt cười vui và dặn Nghĩa hai hôm sau tới đón mình tại nhà cậu út Đông, cậu ruột em ở gần cầu Ông Lãnh. "Vậy là có "bùa" hộ mệnh rồi". Nguyệt mừng thầm khi ra về. Tuy có phần yên tâm nhưng em vẫn lo: lo Nghĩa có thể kiếm cớ hủy chuyến đi Củ Chi vì lý do nào đó; lo cả chuyện Nghĩa có thể lợi dụng Nguyệt để toan tính một âm mứu đen tối, đưa Nguyệt vô bẫy rồi phá hoại cơ sở cách mạng. Dù sao, Nguyệt vẫn luôn cảnh giác. Nguyệt hồi hộp mong tới "ngày giỗ ông cố nội". Và ngày giỗ đã đến. Hôm đó là chủ nhật, 19 tháng 11 năm 1967, tức ngày 18 tháng 10 năm Đinh Mùi. Nguyệt dậy sớm hơn mọi ngày để chải đầu và sửa soạn những thứ cần thiết. Em không mặc áo dài như hằng ngày đến trường hay mặc đồ kiểu cách như lúc cùng Nghĩa tới câu lạc bộ sĩ quan Sài Gòn, mà chỉ giản dị với chiếc áo sơ mi trắng và quần tây màu xanh dương như nhiều người thành thị về thăm quê thường mặc. Đúng 6 giờ sáng, Nghĩa đánh xe Jeép tới đón Nguyệt. Lần này, Nghĩa vẫn mang sắc phục sĩ quan cảnh sát, đeo kiếng đen, nhưng không tự lái xe một mình mà có tài xế riêng (cũng là cảnh sát) đi cùng. Nguyệt vui vẻ đưa tay để Nghĩa dắt lên xe. Rất phấn chấn, Nghĩa nói tài xế lái xe đến quán hủ tiếu. Ăn sáng xong, ba người mới lên đường, nhằm hướng ngoại ô. Ngồi bên Nghĩa trên xe Jeép như một nhân tình của sĩ quan cảnh sát Sài Gòn, ngông nghênh giữa đường đúng lúc nhiều người qua lại, Nguyệt ngại lắm. Nhưng em vẫn bình tĩnh, không quên vai diễn mà mình đang đảm trách. Trong khi Nghĩa tỏ ra thích thú được Nguyệt đưa về thăm "quê nội" thì Nguyệt lặng im, đăm đăm nhìn phía trước. Nguyệt gượng cười khi Nghĩa đưa tay vuốt nhẹ mái tóc đen mượt mà, buông dài bên bờ vai của em và tán tỉnh. Chắc Nghĩa cho rằng Nguyệt ít nói vì em mắc cỡ và giữ ý tứ khi có tài xế cùng ngồi trên xe. Nghĩa đâu hay, lúc đó, đầu óc Nguyệt căng như dây đờn bởi lo lắng về công chuyện đang diễn ra. Xe chạy đến gần chợ Củ Chi. Nguyệt nói tài xế cho dừng xe bên cổng chợ. Em bước xuống và dặn Nghĩa: - Nghĩa ngồi đợi chút, Nguyệt vô chợ mua ít trái cây và mấy thứ về đám giỗ rồi đi tiếp. - Nghĩa đi cùng Nguyệt vô chợ xách đồ, được không? - Nghĩa tỏ ra sốt sắng. - Thôi, Nghĩa khỏi đi! - Nguyệt khoát tay - Bây giờ mà Nghĩa vô chợ, bà con tưởng cảnh sát đến bố ráp, tìm bắt "Việt Cộng", họ dẹp hết hàng hóa thì làm sao Nguyệt mua đồ? Nghe Nguyệt nói có lý, Nghĩa gật đầu cười và cùng tài xế ngồi đợi trên xe. Nguyệt lẳng lặng đi giữa đám đông. Em quẹo qua dãy hàng bông và hỏi tới sạp hàng của bà Hai Huê, một cơ sở tại chợ. - Con chào dì Hai. - Nguyệt lên tiếng. - Cô mua gì? - Bà Hai Huê hỏi lại. - Dạ, con là cháu của chú Sáu Khánh tới nhờ dì bán cho ít đồ làm đám giỗ. Nhận ra đúng mật khẩu và tín hiệu liên lạc, bà Hai Huê mừng rỡ: - Vô đây! Con vô đây với dì! Bà Hai dắt Nguyệt vào nhà và đưa thẳng em lên tầng lầu. Hai dì cháu vừa rì rầm trò chuyện vừa xếp các gói "hàng" được bọc sẵn khéo léo như những gói bánh ngọt cùng một số trái cây vô chiếc giỏ đệm loại lớn. Nguyệt xách giỏ xuống tầng trệt, bà Hai lại đặt thêm vô đó hai hộp đèn cầy màu trắng, hai bó nhang to và trên cùng là hai bó bông thọ vàng rực. Nguyệt chào bà Hai và xách giỏ đồ ra cổng chợ. Đang cùng tài xế đợi trên xe, vừa nhìn thấy Nguyệt từ trong đám đông tới, Nghĩa vội nhảy xuống phụ Nguyệt xách đồ. Nguyệt bình thản đưa giỏ cho Nghĩa xách và nhắc Nghĩa cần nhẹ tay kẻo hư đồ cúng giỗ. Theo đúng ý Nguyệt, Nghĩa đặt giỏ đồ ngay sau ghế ngồi của hai người, rồi quay lại dắt Nguyệt lên. - Sao Nguyệt mua nhiều đồ dữ vậy? - Nghĩa hỏi. Nguyệt cười cười, giọng thân mật: - Chừng này ăn nhằm gì! Nghĩa chưa biết đó. Mấy năm trước, mỗi lần về quê, Nguyệt còn mua nhiều hơn. Đám giỗ bên nội Nguyệt đông người lắm! Nghe Nguyệt nói vậy, Nghĩa chỉ biết vậy. Chiếc xe Jeép tiếp tục phóng đi. Đây chính là chặng đường nhiều trở ngại nhất, dễ phát sinh những tình huống khó lường, đòi hỏi Nguyệt phải đặc biệt chú ý. Ngồi bên Nghĩa, tuy có "bình phong" che chắn, nhưng Nguyệt vẫn thấy như ngồi bên đống lửa. Cố giấu sự lo lắng và tránh những câu hỏi vu vơ từ Nghĩa, Nguyệt hướng Nghĩa vào những chuyện về bạn bè thời còn nhỏ. Thỉnh thoảng, Nguyệt phải tránh ánh mắt đầy vẻ coi thường của những người trên xe ngựa hoặc bà con nông dân gánh trái cây đi ngược chiều khi họ thấy một cô gái trẻ đang cặp kè với sĩ quan cảnh sát. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 25 Tháng Mười, 2021, 07:07:30 am Xe Jeép lần lượt qua tất cả các tốp lính tuần tra và ba chốt gác. Đến ngã tư chợ Phước Hiệp, xe quẹo tay mặt và đi nữa. Khi gần tới trạm kiểm soát bên đường, đột nhiên một tốp lính từ trong trạm nhào ra định chặn xe. Nghĩa cho tài xế dừng lại.
- Ê! Có chuyện gì đó, tụi bay? - Nghĩa hỏi, giọng hách dịch. Nhận ra người trên xe là sĩ quan cảnh sát mang lon thiếu tá, bọn lính vội đứng nghiêm, đưa tay chào và luýnh quýnh đáp: - Dạ, dạ không có gì. Mời thiếu tá đi ạ! Không thèm nói thêm câu nào với lũ lính, Nghĩa biểu tài xế đi tiếp. Chiếc xe lao trên đoạn đường đất đá lởm chởm do nhiều chỗ bị đào xới nham nhở, cuốn theo những đám bụi đất mù mịt. Nguyệt lặng nhìn mấy xóm, ấp nghèo thưa thớt, xác xơ hai bên đường và những đồng ruộng bỏ hoang, sắp tới nơi rồi. Nguyệt hồi hộp nhận ra điểm hẹn đang hiện dần phía trước. Khoảng 10 giờ 30 phút, xe quẹo vô khu đất rộng, tới sát một ngôi nhà lá giữa vườn cây thấp của ấp Ràng, thuộc xã Trung Lập Thượng. Đó chính là nhà ông Năm Hóa, nơi làm đám giỗ. Ngó lướt vô nhà, Nguyệt thấy có khá đông người. Đang trò chuyện ồn ào, thấy chiếc xe Jeép chở thiếu tá cảnh sát đậu ngay trước cửa, nhiều người trong nhà ông Năm Hóa nhốn nháo đứng dậy, ngơ ngác nhìn. Tưởng xe cảnh sát đến vây bắt "Việt Cộng", vài người vội lánh ra phía sau, sợ bị khám xét. Chỉ có ông Tư Tăng, ông Sáu Khánh và ông Năm Hóa (chủ nhà) là hiểu rõ sự xuất hiện khác thường của chiếc xe Jeép chở viên thiếu tá cảnh sát và cô gái trẻ. Cả ba ông đều mặc bộ bà ba đen cũ kỹ, đầu quấn khăn rằn, chân đất, xuề xòa, mộc mạc như những ông già quê Nam Bộ. Ông Tư Tăng (còn gọi ông Hai) đúng dáng một vị cao niên có vai vế quan trọng nhất trong đám giỗ. Bình tĩnh bước ra cửa, ông Hai nói lớn cho cả nhà cùng nghe, để mọi người yên tâm: - Mấy đứa cháu nhà mình từ Sài Gòn về rồi nè! Chắc chút nữa xong đám giỗ, tụi nó còn đi công chuyện nên đánh xe về đây luôn. Nhìn Nguyệt và Nghĩa đang ngồi trên xe, ông Hai mỉm cười, vẫy tay và thân mật gọi: - Vô đây, vô đây, mấy cháu. Người tài xế vội mở cửa xe cho sếp. Nghĩa bước xuống trước rồi đưa tay đón Nguyệt ra. Thong thả cùng Nghĩa vô nhà, Nguyệt tươi cười, tíu tít chào hỏi hết người này tới người nọ: "Con chào ông Năm, bà Bảy"; "con chào ông Hai, ông Sáu"; "con chào chú Ba, cô Chín; chào cô Bảy, thím Mười, anh út...". Nhìn người nào cũng lạ hoắc, không rõ là ai, nhưng Nghĩa vẫn khẽ cúi đầu chào như Nguyệt và nhận từ họ những nụ cười thân thiện. Trong lúc Nguyệt và Nghĩa đang gặp gỡ bà con thì người tài xế khệ nệ xách giỏ đồ của Nguyệt từ xe Jeép vô theo. Ông Năm Hóa đón nhận giỏ đồ và lấy ra mấy bó nhang, đèn cầy và hai bó bông thọ đặt lên bàn thờ. Ông chỉ để lại những gói giống như bánh ngọt trong giỏ và đưa cho ông Sáu Khánh cất kỹ trong nhà. Nguyệt kéo Nghĩa tới gần mấy ông già và giới thiệu với "người yêu": - Đây là chú Hai (Tư Tăng). Đây là chú Năm (Năm Hóa), em chú Hai, hai người anh em con bác, con chú. Còn đây là cô Bảy, cô Chín... bên nội. Nguyệt nói vậy, Nghĩa cũng chỉ biết vậy. (Thực ra, ông Tư và ông Năm không có họ hàng gì với nhau. Ông Tư Tăng là chỉ huy trưởng đơn vị giao liên T4, thủ trưởng của Nguyệt. Ông Năm Hóa là cơ sở mật tại đây và cũng không có họ với Nguyệt. Xã Trung Lập Thượng không phải quê nội hay quê ngoại của Nguyệt mà chỉ là nơi em thường bí mật lui tới giao và nhận tài liệu. Nguyệt biết, nhân dịp nhà ông Năm có giỗ, ông Tư Tăng và ông Sáu Khánh đã đưa tiền nhờ ông Năm sắp đồ cúng nhiều hơn mọi năm để mời thêm một số bà con trong xã (cơ sở của ta) cho đám giỗ thêm đông đảo và làm nơi đón Nguyệt, Nghĩa từ Sài Gòn tới. Sau đám giỗ, ông Tư còn có họp kín). Ông Năm Hóa đưa Nguyệt và Nghĩa tới trước bàn thờ nghi ngút khói nhang. Trên bàn, các loại bánh, trái và lễ mặn bày chật kín. Ông Năm quỳ chân, hướng lên bàn thờ, chắp tay vái và lẩm nhẩm khấn. Nguyệt và Nghĩa cùng mọi người lần lượt thắp nhang kính cẩn vái vong linh "ông cố nội". Tuần nhang vừa cháy hết cũng là lúc mọi người quây quần quanh các bàn ăn. Nguyệt và Nghĩa được xếp ngồi ăn chung bàn cùng ông Tư, ông Sáu, ông Năm Hóa và mấy người đứng tuổi. Bữa ăn diễn ra vui vẻ vì toàn nghe ông Tư, ông Sáu vừa uống rượu vừa kể chuyện các bà vợ đánh ghen. Do không uống rượu, Nguyệt buông đũa sớm hơn mọi người. Em lặng lẽ đứng dậy xuống nhà sau như người đi rửa tay. Nguyệt gặp gỡ và khen mấy dì, mấy cô, mấy chị nấu các món ăn ngon. Lát sau, Nguyệt thấy ông Tư Tăng cũng giả bộ đi vệ sinh để tranh thủ gặp em. Vẻ hài lòng, ông cười và nói nhỏ với Nguyệt: - Hôm nay, Nguyệt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cháu đóng vai rất đạt. Đi với thiếu tá cảnh sát ngụy mà không ai biết đây là "Việt Cộng"! Chính chú cũng ngạc nhiên về sự khéo léo của cháu đó. Về Sài Gòn, Nguyệt nhớ đi học bình thường; mấy chú sẽ giao nhiệm vụ mới cho cháu. Được thủ trưởng động viên kịp thời, Nguyệt thấy vui và thêm tự tin. Nguyệt cùng Nghĩa ra về trong sự lưu luyến của bà con trong họ. Ông Năm Hóa sai vợ con mang ra hai túi lớn, một túi nhỏ đựng đầy trái cây và ba cặp bánh tét. Ông Năm trao quà tận tay từng người. - Đây là phần quà của cháu Nghĩa; đây là của Nguyệt. Còn đây của tài xế - ông Năm nói. - Dạ, dạ, chúng con cảm ơn chú! Chú Năm chu đáo quá! - Chúng con chào mấy chú, mấy cô, mấy thím, mấy anh chị... Nguyệt và Nghĩa ríu rít chào mọi người rồi lên xe. Chiếc xe Jeép chầm chậm quay đầu ra khỏi khu đất gồ ghề và phóng đi. Ngồi bên Nguyệt, ngây ngất chút men rượu đế, Nghĩa cứ tấm tắc khen bà con vùng quê hiền lành và sống tình cảm. Còn Nguyệt chỉ kể với Nghĩa về các món ăn ngon chỉ có ở Củ Chi. Xe Nghĩa chạy thẳng vô nội đô và đưa Nguyệt về tận nhà cậu Út ở gần cầu Ông Lãnh. Lúc ấy, Nguyệt mới thở phào. (Từ chuyến đầu tiên cùng "người yêu" về quê an toàn, mấy tháng sau, Nguyệt còn được tổ chức sắp đặt đưa Nghĩa đi tiếp với em ba chuyến nữa để chuyển một số "hàng" quan trọng từ nội đô tới ba xã khác ở Củ Chi. Trong đó, một lần Nguyệt và Nghĩa về "đám giỗ", một lần về "đám cưới" và một lần đến thăm bà cô, ông bác bị đau bệnh. Các chuyến đi thường vào chủ nhật với "kịch bản" không giống nhau. Lần nào Nguyệt cũng căng đầu óc, lo đến thót tim khi phải xử lý những tình huống bất ngờ. Chuyển "hàng" theo cách mới tuy đầy mạo hiểm nhưng mọi thứ của tổ chức giao đều được Nguyệt đưa tới điểm hẹn kịp thời và an toàn. Có điều thú vị, dù là sĩ quan an ninh làm việc tại Tổng Nha cảnh sát Sài Gòn, trong cả bốn chuyến "vi vu" với Nguyệt, thiếu tá Nghĩa vẫn không hay mình đi với "Việt Cộng" và làm việc cho "Việt Cộng". Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Mười, 2021, 06:53:47 am Nhiệm vụ đặc biệt
Mấy tháng cuối năm 1967, các đội biệt động thành và cơ sở giao liên mật của ta ráo riết chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng phối hợp với các lực lượng võ trang giải phóng thực hiện kế hoạch đánh lớn tại nội đô. Thời gian đó, Minh Nguyệt khá bận rộn. Em liên tục bắt xe đò, xe ngựa, chuyển tài liệu khẩn từ nội đô ra vùng ven Sài Gòn và ngược lại. Trưa ngày 30 tháng 11, Nguyệt đến nhà má Tám "vú sữa", một cơ sở tại ấp Bến Vua, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi để gặp thủ trưởng Tư Tăng (Nguyễn Văn Tăng), người chỉ huy đường dây giao liên T4, đang chờ em tại đó. Ông Tư Tăng thân mật bảo em: - Hôm nay, Nguyệt vô trỏng, có việc mới. Mấy chú đang phân vân, chưa rõ giao cho cháu việc này có khó quá không? - Dạ, chú Tư cứ cho hay. Nếu được, cháu sẽ ráng làm. - Nguyệt trả lời chân thành. - Chú cần Nguyệt kiếm cho mấy chiếc nón (mũ) quân cảnh của địch - ông Tư nói - Chắc cháu cũng đoán biết ta kiếm loại nón này để làm gì rồi. Các cơ sở đã chuẩn bị gần đủ những thứ cần thiết cho đơn vị chiến đấu, chỉ còn thiếu ba chiếc nón quân cảnh. - Thứ nón của Mỹ có hai chữ "QC" màu trắng, tụi quân cảnh vẫn đội, phải không chú? - Nguyệt hỏi. - Đó, đúng thứ đó. Mấy chú cần đủ ba chiếc - Ông nhắc lại rành rọt. - Việc này cũng khó, chú Tư! Để cháu tính coi có cách nào... - Nguyệt suy nghĩ và trả lời. - Chú biết, Nguyệt quen một số bạn học cũ hiện là sĩ quan địch và cháu đang tìm cách cảm hóa họ - ông gợi ý - Nơi ấy, biết đâu cháu có thể kiếm ra món "hàng" này? Cũng có thể nhờ mua lại của những người chuyên lấy đồ Mỹ bán ở chợ trời... Cháu cứ nghĩ, coi cách nào được việc và an toàn. Dừng lại giây lát, ông Tư Tăng dặn Nguyệt: - Đây là nhiệm vụ do cấp trên giao. Thời gian gấp lắm. Ráng làm, nghe Nguyệt! Chú tin ở cháu! - Vậy trong bao lâu phải có "hàng", thưa chú? - Chậm nhất là nửa tháng. Tốt nhất trong một tuần, càng sớm càng hay. - Dạ, cháu nhớ rồi, chú Tư! Hôm ấy, Nguyệt không về nội đô ngay mà ghé qua nhà chú Mười Lễ, một cơ sở ở xã Trung Lập Thượng và nghỉ đêm tại đó để chờ nhận tài liệu. Suốt đêm, Nguyệt trăn trở nghĩ cách để kiếm cho được ba chiếc nón quân cảnh của địch. Em hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ được giao. Sắp tới, chắc các chiến sĩ biệt động ta sẽ cải trang thành lính quân cảnh địch, đột nhập và tấn công mục tiêu nào đó của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chính ông Tư Tăng, một cán bộ biệt động dạn dày kinh nghiệm trận mạc nơi đô thành, nhiều lần từng cùng đồng đội cải trang như vậy để đánh địch bất ngờ. Việc cải trang đòi hỏi phải đồng bộ, giống như thiệt, nếu khác lạ có thể gặp nguy hiểm. Loại nón mà Nguyệt cần là thứ nón nhà binh do Mỹ sản xuất, chúng quản rất chặt, đụng vô dễ bị bắt. Tuy vậy, được góp phần phục vụ anh em đằng mình chiến đấu, Nguyệt đâu sợ. Không thể để vì thiếu ba chiếc nón quân cảnh mà ta phải giảm ba tay súng. Nhưng kiếm "hàng" ở đâu và bằng cách nào đây? Nếu gặp nhóm bạn học cũ là sĩ quan cảnh sát, quân đội Sài Gòn để hỏi xin nón quân cảnh, em sẽ bị chúng nghi ngờ. Còn nhờ người ra chợ mua của kẻ lấy cắp đồ Mỹ, em rất dễ bị bọn mật thám theo dõi. Nguyệt nghĩ tới nhóm bạn gái hồi cùng học trường Gia Long. Em nhớ Minh Thu, một nữ sinh hiền lành, tốt bụng. Tuy Thu hơn tuổi Nguyệt và học khác lớp nhưng hai đứa hợp tính nhau. Do hoàn cảnh gia đình, Thu lấy chồng sớm, không thể học tiếp hoặc tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn như các bạn. Nguyệt biết rõ cả Đạt - chồng Thu. Hồi còn ở bậc tiểu học, Đạt học cùng trường với Thu và Nguyệt. Khi lên trung học, do nam và nữ không được học chung, Đạt học tại Trường Võ Trường Toản (của nam sinh), còn Thu và Nguyệt học tại Trường Gia Long (dành cho nữ sinh). Đạt bị ép buộc vào làm lính cho quân đội Sài Gòn và đang ở đơn vị quân tiếp vụ. Vợ chồng Minh Thu chính là nơi Nguyệt có thể tìm kiếm nguồn "hàng" mà em cần. Nguyệt chỉ băn khoăn: gần ba năm nay, em chưa gặp vợ chồng Thu, không rõ bạn mình ra sao?... Sáng hôm sau, nhận tài liệu do ông Ba Chí cử người mang tới, Nguyệt tức tốc ra bến xe Củ Chi về Sài Gòn. Em đến cơ sở tại đường Kỳ Đồng và một cơ sở khác trong bệnh viện Chợ Rẫy trao xong tài liệu rồi vội đón xe buýt, đến ngay nhà Minh Thu ở đường cống Quỳnh. Nghĩ tới việc gặp Thu để nhờ vợ chồng bạn kiếm cho chiếc nón quân cảnh, Nguyệt hồi hộp lắm. Gần trưa, Nguyệt tới cửa nhà Thu và nhấn chuông. Lúc đó, Thu đi chợ, chồng Thu đi làm; chỉ có bé gái, con của Thu ra mở cửa. Nguyệt ngồi chờ tại thềm nhà chừng hai mươi phút thì Thu đạp xe về. Quá mừng vì bất ngờ gặp nhau giữa thời loạn lạc, Minh Thu và Minh Nguyệt nói cười ríu rít. - Mày đi đâu mất tiêu mà bữa nay mới thấy mặt? - Thu hỏi, có ý trách bạn. - Ôi, lu bu quá mày ơi! Tối ngày tao vừa đi học vừa phụ với má và đi làm mướn kiếm sống - Nguyệt thủng thẳng trả lời và hỏi lại - Hồi này, anh Đạt (chồng Thu) còn làm "quân tiếp vụ" không? - Vẫn ở bển. Bây giờ, ảnh là đại úy, chuyên trông coi quân trang, quân dụng. Chút nữa, ảnh về nhà nghỉ trưa, mày sẽ gặp. Bữa nay, Nguyệt đến chơi, chắc còn chuyện gì? Mừng thầm vì biết rõ nơi có nguồn "hàng" mình đang cần, nhân lúc Thu gợi hỏi, Nguyệt nói luôn: - Thu nè, bà già tao biểu kiếm cho má chiếc nón quân cảnh mà tao kiểm chưa ra. Mày có không? - Ủa, má xin nón quân cảnh làm gì? - Thu hỏi lại. - Để giã cua đồng - Nguyệt đáp. - Trời đất! Thứ nón đó của nhà binh, tụi cảnh sát thấy mình xài là nó bắt liền. - Má tao lại thích giã cua bằng nón quân cảnh, tao mới khó. - Gì mà khó ! Nếu má thích, tao có nón cho má - Thu cười. Vừa lúc đó, Đạt về. Đã lâu không gặp, nay nhìn Đạt trong trang phục quân đội Sài Gòn, Nguyệt thấy lạ. Đạt cũng không nhớ Nguyệt. Đến khi Thu gợi rõ tên Minh Nguyệt, bạn học cũ của cả hai vợ chồng, Đạt mới nhận ra. Thu kể lại với chồng chuyện Nguyệt tới thăm và muốn xin một chiếc nón Mỹ để bà già giã cua. Lưỡng lự giây lát, Đạt khẽ mỉm cười, gật đầu và nhắc Nguyệt hãy giữ kín chuyện này kẻo gặp rắc rốì. Vợ chồng Đạt mời Nguyệt ở lại ăn cơm và thưởng thức món bánh xèo. Do mới ăn tại nơi làm việc nên Đạt vô phòng nghỉ trưa, để Thu cùng ăn và trò chuyện với Nguyệt. Cơm nước xong, Thu kéo tay Nguyệt tới trước chiếc tủ lớn không khóa của gia đình và mở ra. Nhìn vô tủ, Nguyệt ngạc nhiên thây toàn đồ quân trang, quân dụng, gồm quần, áo, dây thắt lưng, giày da và nón các loại. - Mấy thứ này do anh Đạt thỉnh thoảng mang về đó. Có cả nón quân cảnh nè. Mày lựa một cái cho má đi - Thu khoe bạn và lấy ra 4 - 5 chiếc nón quân cảnh để Nguyệt coi. Nguyệt hiểu ngay: đây là những đồ Mỹ do Đạt lén gom lại để bán dần cho tụi lính kiểng hoặc những tên lính lỡ đánh mất đồ, sợ tiêu mạng. - Mày cho tao cái này, nghe! - Nguyệt vừa nói vừa lựa một chiếc nón còn mới. Thu lấy giấy báo bọc kín chiếc nón, bỏ vô giỏ xách của Nguyệt và dặn bạn hết sức cẩn thận, đừng để lũ cảnh sát dòm ngó thấy. Nguyệt mừng lắm. Em không nghĩ việc tìm kiếm "hàng" lại diễn ra mau lẹ như vậy. Chia tay Thu, Nguyệt xách túi rảo bước một đoạn rồi vẫy xe taxi. Em không về nhà mình mà đến nghỉ tại nhà cậu Út ở gần cầu Ông Lãnh. Ngay sáng hôm sau, Nguyệt đáp xe đò mang "hàng" tới ấp Bến Vua tại Củ Chi và trao tận tay cho người chỉ huy. Nhận chiếc nón quân cảnh đầu tiên và nghe Nguyệt kể lại chuyện xin nón tại nhà bạn gái, thủ trưởng Tư Tăng rất thích thú với cách làm khôn khéo của em. Ông động viên Nguyệt liên hệ với Minh Thu để tiếp tục kiếm cách xin nón. Ông đưa cho Nguyệt một ngàn năm trăm đồng (loại tiền của chính quyền Sài Gòn) và dặn: "Cháu cầm số tiền này làm lộ phí và mua quà cho con của vợ chồng Thu. Hãy ráng lên, nghe Nguyệt!". Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Mười, 2021, 06:55:34 am Ba hôm sau, chừng 9 giờ sáng, Nguyệt xách một giỏ đầy trái cây trở lại nhà Thu. Lúc ấy, Đạt vắng nhà; hai đứa con Thu đi học chưa về. Thu giữ Nguyệt ở lại chơi lâu hơn và cùng ăn cơm trưa. Nguyệt kể:
- Bữa hổm, mày gởi cho má tao cái nón quân cảnh, bả khoái quá trời! Má biểu, cái thứ nón Mỹ nó làm bằng hợp chất gì đó, vừa cứng vừa mềm, lại nhẹ, đội rất êm mà giã cua thì quá đã! - Vậy hả? Má khoái là tao vui rồi - Thu cười. Tiện dịp, Nguyệt "làm tới": Nhưng tao đang khó xử đây, mày ơi! - Lại chuyện gì? - Thu hỏi. - Bởi má khoái cái nón đó nên chị Ba tao cũng khoái luôn. Chỉ biểu tao phải kiếm cho chị một cái y trang nón của má. Tao ngại quá! - Khỏi lo, Tao sẽ gởi mày cái nón nữa cho chị Ba. Nghe Thu nói, Nguyệt mừng hết biết. Cơm trưa xong, Thu lại mở tủ để Nguyệt lựa lấy một chiếc nón mà bạn thích. Nguyệt dòm khắp tủ và thấy vẫn còn tới 3-4 chiếc nón quân cảnh, cả cũ lẫn mới. Em đang rất cần thêm một chiếc nữa như vậy, cần lắm! Minh Thu thật tốt với mình, nhưng còn Đạt, dù là bạn học cũ nhưng anh ta đang mang lon đại úy quân đội Sài Gòn. Phải rất thận trọng, lúc này không thể để họ gợn chút nghi ngờ... Cũng như lần trước, Thu lấy giấy báo bọc kín chiếc nón quân cảnh và đặt vô giỏ xách của bạn. Nguyệt xếp thêm gói lá dứa thơm (loại lá để nấu chè) cho phủ kín miệng túi. Em cảm ơn Thu và không quên gởi lời thăm Đạt. Thu dặn Nguyệt nhớ đến chơi luôn, tới ngày nào cũng được, vì: "Thu thường ở nhà một mình, buồn lắm!". Có "hàng", Nguyệt lên xe đò, mang ngay ra ngoại ô. Em lần lượt "qua mặt" các trạm kiểm soát của địch, chuyển trót lọt chiếc nón quân cảnh thứ hai tới cơ sở tại xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi. Nhận thêm chiếc nón mới, thủ trưởng Tư Tăng và mọi người trong tổ đều vui. Ông Tư tỏ vẻ tâm đắc với "kịch bản" mà Nguyệt vừa thể hiện tại gia đình Minh Thu. Trước lúc em trở lại nội đô, ông động viên: - Chú biết, mấy hôm rồi, Nguyệt rất cố gắng và khéo lắm mới kiếm được hai chiếc nón quân cảnh. Nhưng còn chiếc nón thứ ba, có thể khó kiếm hơn hai chiếc trước. Cháu cần linh hoạt, khéo léo hơn, bảo đảm an toàn, nghe! Chú rất hy vọng và tin ở Nguyệt. Hơn một tuần lễ sau, Nguyệt lại tới thăm Thu khi Đạt vắng nhà và hai đứa con nhỏ của Thu còn đi học. Nguyệt đến đúng lúc Thu mới từ chợ về. Ngạc nhiên thấy Nguyệt xách một bao đầy bắp, khoai lang, khoai mì, lại một giỏ trái cây và gói lá chuối tươi, Thu hỏi: - Mày mang cái gì đi đâu mà nhiều dữ vậy? - Mang cho mày đó. Tao biết mày vẫn khoái những thứ này, đúng không? - Còn gói lá chuối? - Tao mua lá cho chị Ba gói bánh - Nguyệt nói - Thu nè, bữa trước, mày cho chị Ba cái nón quân cảnh để giã cua, chị khoái lắm. Má và chị Ba tao đều cảm ơn mày. Nguyệt đưa cả bao khoai, bắp và một số trái cây cho Thu, chỉ để lại trong giỏ của mình ít trái và gói lá chuối. Thu vui vẻ nhận quà và biểu Nguyệt ngồi nghỉ, để Thu xuống bếp sửa soạn bữa trưa, mời Nguyệt cùng ăn. Nguyệt theo Thu vào bếp định cùng nấu nướng và chuyện trò cho vui, nhưng Thu không nghe. Nguyệt định phụ với Thu làm món cá lóc, Thu cũng không chịu. - Bạn bè với nhau, nếu tao có điều gì không ưng, mày bỏ qua cho tao, nghe Thu! Tưởng Nguyệt nói vậy là có ý nhận về mình những thiếu sót do mấy năm ít đến thăm bạn bè, Thu nói: - Có gì mà không ưng! Thời buổi chiến tranh, đàn bà, con gái như bọn mình còn sống và gặp lại nhau là tốt rồi! Nguyệt lững thững đi tới, đi lui, ngó khắp nhà Thu. Lúc này, trong đầu em chỉ nghĩ đến chiếc nón quân cảnh thứ ba. Đã hai lần Nguyệt xin nón của vợ chồng Thu: lần đầu nói xin cho má, lần hai xin cho chị Ba - những người mà Thu đều gặp khi đến thăm gia đình Nguyệt tại nội đô. Không lẽ, lần này Nguyệt lại xin tiếp cho chị Hai? Nguyệt thấy hơi kỳ và chắc không ổn. Bởi chưa lần nào Thu gặp chị Hai, chỉ nghe láng máng chị lấy chồng và sống ở tận Cần Thơ. Mắc mớ gì chị Hai phải xin nón quân cảnh từ Sài Gòn về miền Tây để giã cua? Nếu Nguyệt hỏi xin thêm chiếc nón thứ ba, có thể Thu sẽ nghi ngờ và kiếm cớ từ chối. Thời gian ở nhà Thu và cơ hội kiếm chiếc nón quân cảnh không còn nhiều. Vậy làm cách nào đây? Nguyệt vừa suy nghĩ vừa tiếp tục đi ra, đi vô, bước tới, bước lui. Mấy lần, Nguyệt dừng lại trước tủ đựng quân trang, quân dụng của vợ chồng Thu, rồi em lại quay xuống bếp. Thấy Thu hí húi làm cá lóc ở phía hè sau nhà, Nguyệt ra coi, nhưng bị Thu "đuổi "vô, không cho bạn đến gần chỗ cá muối tanh hôi. Nguyệt quay trở lại phòng trên. Một ý định táo bạo nảy ra trong đầu em: phải đánh liều thôi, nếu chậm trễ, khi chồng và các con của Thu về, Nguyệt không thể làm được gì. Nguyệt đến trước tủ đựng quân trang, quân dụng. Rất mau lẹ, em mở tủ, lấy một chiếc nón quân cảnh còn mới, rồi khép tủ lại. "Thu ơi! Mong mày hiểu cho tao và đừng giận tao, nghe! Tao không phải là đứa bạn xấu, không có thói trộm cắp. Thứ nón này, vợ chồng mày gom được của quân cướp nước và đã cho tao hai cái. Nay, bất đắc dĩ, tao phải "trưng dụng" thêm một cái nữa, tất cả chỉ để phục vụ kháng chiến chông xâm lược. Việc hệ trọng lắm, tao không thể cho mày biết trước. Rồi vợ chồng mày sẽ hiểu thêm về tao" - Nguyệt thầm nhắn bạn. Em lật ngửa chiếc nón quân cảnh, bỏ vô giỏ xách, xếp tiếp lên đó mớ trái cây và phủ kín giỏ bằng gói lá chuôi tươi mang theo hồi nãy. Trong gian bếp, Thu vẫn đang cắm cúi làm cá. Không thể nói lời nào với Thu, Nguyệt lặng lẽ xách giỏ ra cổng. Tự nhiên, trông ngực Nguyệt đập rộn lên. Em hồi hộp lắm. Lúc này mà Thu chạy ra hoặc Đạt đi làm về, Nguyệt thiệt khó xử, có thể em còn gặp rắc rối. Cố lấy lại bình tĩnh, Nguyệt đóng cổng, cài chốt phía trong cẩn thận rồi mới rảo bước. Không về theo lối cũ như hai lần trước, em rẽ qua một ngõ mới. Vừa đi, Nguyệt vừa để ý quan sát mọi động tĩnh xung quanh. Lòng vòng một đoạn, không thấy có dấu hiệu gì khả nghi, em vẫy chiếc xe taxi, phóng về nhà cậu Út ở khu cầu Ông Lãnh. Cùng cậu mợ và cả nhà ăn trưa xong, Nguyệt vội xách giỏ đi liền. Em không lên xe đò như mọi lần mà ngồi xe lam. Qua chợ Sài Gòn, Nguyệt chuyển sang chiếc xe lam khác, rồi dông thẳng ra ngoại ô. Đến gần bến xe Củ Chi, Nguyệt lại rời xe lam và đón xe ngựa đi tiếp. Lần lượt vượt qua các điểm kiểm soát dọc đường và bọn cảnh sát tại bến xe, khoảng 3 giờ chiều, khi về tới cơ sở ở ấp Bến Vua, xã Nhuận Đức, Nguyệt cảm thấy nhẹ người. Đón Nguyệt trở lại an toàn cùng món "hàng" độc, thủ trưởng Tư Tăng và mọi người trong tổ công tác mừng rớt nước mắt. Một lần nữa, ông Tư Tăng biểu dương "cánh chim nhỏ" Minh Nguyệt hoàn thành xuất sắc "nhiệm vụ đặc biệt", kiếm đủ ba chiếc nón quân cảnh trong thời gian sớm nhất. Chiều tối hôm đó, tại nhà má Tám "vú sữa", Nguyệt được má và các cô, chú trong tổ "chiêu đãi" một bữa bánh xèo ngon lành. (Sau này Nguyệt mới biết, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mâu Thân năm 1968, các chiến sĩ biệt động thành cải trang rất giống lính quân cảnh, đột nhập Tổng Nha Cảnh sát địch, đánh đòn bất ngờ, gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Trong những chiếc nón quân cảnh mà chiến sĩ ta đội hôm đó, có ba chiếc do Nguyệt mang về từ nhà vợ chồng Minh Thu. Cuối năm 1975, sau khi Sài Gòn được giải phóng, Nguyệt đến thăm Thu và Đạt. Thấy Nguyệt chững chạc, khỏe khoắn trong trang phục của quân Giải phóng, lại đội nón tai bèo, cổ quấn khăn rằn Nam Bộ, vợ chồng Thu đều ngạc nhiên. Nhắc lại chuyện Nguyệt "biến mất" cùng chiếc nón quân cảnh thứ ba trong tủ gần tám năm trước, Thu và Đạt dần hiểu ra và không nhịn được cười. Vợ chồng Thu rất cảm phục sự mưu trí, gan dạ của Nguyệt và thấy vui vì mình cũng được góp phần nhỏ bé với cách mạng. Tuy có chút mặc cảm về hoàn cảnh riêng, nhưng vợ chồng Thu không giận Nguyệt điều gì. Thu chỉ trách bạn chưa thật tin mình trong lúc khó khăn. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Mười, 2021, 06:57:06 am Người "mẹ trẻ" trên xe đò
Sau cuộc Tổng tấn và nổi dậy của quân và dân ta hồi Tết Mậu Thân năm 1968, quân đội Mỹ và Sài Gòn điên cuồng mở các cuộc hành quân phản kích, càn quét, đánh phá dữ dội tại Sài Gòn - Gia Định và các vùng phụ cận nhằm "đẩy Việt Cộng ra xa thành phố". Nhiều cơ sở của ta bị lộ; không ít cán bộ và chiến sĩ ta hy sinh hoặc sa vào tay giặc. (Trước đó, người cha kính yêu của Minh Nguyet - một cơ sở cách mạng - bị địch sát hại dã man; chị Hai của em bị chúng bắt và tù đày tại Côn Đảo). Bản thân Nguyệt và anh Tư, anh Năm của em cũng bị chúng truy nã. Hoạt động của Nguyệt đầy khó khăn và nguy hiểm. Tuy vậy, em không hề nao núng. Càng căm thù quân xâm lược và chính quyền tay sai bán nước, em càng ráng sức vượt lên trong nhiệm vụ thầm lặng. Để phù hợp với tình hình mới, tổ công tác của Nguyệt được sắp xếp lại gọn nhẹ hơn và luôn thay đổi địa điểm, phương thức giao nhận tài liệu, hàng hóa. Tổ chức yêu cầu cả ba người trong đường dây này (gồm Ba Chí, Tư Cúc và Minh Nguyệt) đều phải đổi tên. Vậy là từ sau Tết Mậu Thân, Minh Nguyệt mang tên mới: Sáu Thắm, với bí số T6. Ngày 25-4-1968, Sáu Thắm tới điểm hẹn mới của tổ tại chợ Củ Chi gặp thủ trưởng Tư Tăng cùng ông Sáu Khánh, Tổ trưởng tổ công tác của Thắm. Trong tổ, Thắm được mấy chú quý mến như con cháu mình và luôn tin tưởng giao những việc phù hợp với nữ sinh nhỏ tuổi. Hôm đó, sau khi nhận "hàng" do Thắm chuyển từ nội đô ra, thủ trưởng Tư Tăng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Thắm khi trở về. Ông đưa ra mấy tờ báo và dặn dò: - Từ nay, Thắm có thêm nhiệm vụ chuyển báo Giải Phóng vô nội đô. Báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam mình đó. Cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở trỏng rất mong được đọc báo cách mạng để thông hiểu chủ trương, chính sách của Mặt trận, thấy rõ chiến thắng của ta, thất bại của địch, giữ vững niềm tin vào thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc chiến này. Báo Giải Phóng là tiếng nói của Mặt trận phục vụ cuộc đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nên kẻ địch cấm đọc, cấm lưu hành. Bởi vậy, chuyển báo cũng là việc khó khăn và nguy hiểm. Các cô, chú tin ở Thắm và có cách giúp cháu. Ráng làm thiệt tốt, nghe Thắm! Nhận hai tờ báo do người chỉ huy đứng tuổi trao cho, Thắm thấy mấy chú đã khéo che mắt địch bằng cách cắt đi hai chữ lớn Giải Phóng (tên của tờ báo) ở đầu trang, dán thay vào đó bằng tên của báo khác, xuất bản tại Sài Gòn: một tờ được dán hai chữ Chính Luận; tờ kia dán hai chữ Thách Đố. Thủ trưởng Tư Tăng còn chỉ cho Thắm cách xếp lẫn hai tờ báo ấy với tờ Chính Luận khác, để dưới túi xách, rồi đặt mấy bộ đồ lên; trên cùng là một số tờ báo Sài Gòn mới, Tin Sáng, Tiếng Chuông (đều xuất bản hợp pháp). Làm như vậy, nếu qua các điểm kiểm soát của địch, bọn chúng ít chú ý. Sáu Thắm xách túi cùng bà con buôn bán trái cây từ xã Nhuận Đức tới bến xe Củ Chi. Mặc dù quen thuộc đường đi nước bước nhưng Thắm vẫn không khỏi lo lắng. Mọi lần, tài liệu em nhận thường là mẩu giấy mỏng tang, rất dễ cất giấu; lần này là những tờ báo khổ lớn, không thể cuộn nhỏ bằng đầu đũa, càng không được làm rách nát. Chuyển báo Giải Phóng giữa vùng địch kiểm soát là chấp nhận sự nguy hiểm đối với tính mạng, đòi hỏi Thắm phải rất cẩn thận, luôn bình tĩnh, mưu trí, gan dạ, vì một sơ xuất nhỏ cũng có thể bị lộ. Thắm hiểu rõ ý nghĩa việc mình làm. Dù chỉ có hai tờ thôi, nhưng vô tới đô thành, khi được "nhân bản" để nhiều người đọc, tác dụng của báo chắc không nhỏ. Chiếc xe đò vẫn đậu tại bến để đợi thêm khách. Thắm chọn một ghế gần mấy bà lớn tuổi. Mọi người ngồi chưa nóng chỗ, tốp cảnh sát địch đã xộc tới. Giống như mọi lần, chúng nhảy lên xe, vừa chửi bậy, vừa soát xét hành lý của khách. Thắm hồi hộp lắm, nhưng vẫn tỏ ra bình thường. Em ôm trước ngực chiếc túi không khóa, ai nhìn cũng thây rõ mớ quần áo phụ nữ và mấy tờ báo Sài Gòn. Hai tên cảnh sát lôi từng bao rau, củ và trái cây từ dưới các ghế ra xét. Một tên chửi tục: "Đ.m mấy mụ Việt Cộng hay làm bộ đi mua bán trái cây để giấu vũ khí, tài liệu. Mấy mụ giấu ai chớ không giấu nổi tụi này nghe!". Mặc chúng lục soát giỏ đồ của các bà xung quanh, Thắm cầm tờ Chính Luận, vẻ chăm chú đọc như không dính gì đến những người buôn bán. Thực ra, lúc đó, trống ngực em đập thình thịch. Em cố giữ nét mặt tỉnh khô và nghĩ cách đối phó với cảnh sát nếu chúng xét chiếc túi của mình. Một tên cảnh sát tiến đến chỗ Thắm. Nó dòm vô chiếc túi xách, rồi ngó em trừng trừng. Em ngưng đọc báo, bình thản nhìn lại nó. Từng phút nặng nề trôi qua. Dường như không thấy chút nghi ngờ nào từ cô gái thị thành đang cầm tờ báo chống Cộng, nó lẳng lặng bước đi. Khi bọn chúng xuống xe, Thắm mới kéo dây khóa túi, gấp tờ báo lại và thở phào. Xe rời bến. Tuy bớt hồi hộp nhưng Thắm vẫn lo. Biết đâu đang có kẻ theo dõi mình? Thắm tự thấy phải "cắt đuôi" đeo bám, nếu có. Khi tới gần một xóm ven đường, Thắm nói người tài xế dừng lại cho em xuống xe. Đón chiếc xe ngựa, đi tới khu Lăng Cha Cả, em lại xuống nữa. Rồi vẫy tiếp chiếc xe lam, em nhảy lên ngồi một lèo vô tận nội đô. Tới đường Hồng Thập Tự (nay là đường Xô viết Nghệ Tĩnh), Thắm đến trước cổng bệnh viện Từ Dũ gặp cô Năm Trinh, chuyên mua bán báo cũ. Hai người chào hỏi nhau và trò chuyện đôi câu. Em rút trong túi xách mấy tờ báo Sài Gòn mới, Tin Sáng, Tiếng Chuông đặt trên xấp báo cũ của cô Năm; còn tờ Chính Luận và tờ Thách Đố, em đưa cho cô cất riêng. Cô Năm gật đầu, mỉm cười, vẻ hài lòng và không quên đưa tiền cho Thắm, giống như cô vẫn trả cho những người hay lui tới bán báo cũ. Cô nhắc nhỏ Thắm: "Nhớ cẩn thận nghe con! Thắm chào cô Năm - cơ sở mật của ta, rồi hòa vô dòng xe cộ đông đúc trên đường phố. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 27 Tháng Mười, 2021, 06:57:43 am Lần đầu chuyển báo Giải Phóng vào nội đô trót lọt, được cấp trên khen, Sáu Thắm càng thêm tự tin vào công việc của mình. Từ đó đến hết năm 1968 và suốt hai năm 1969, 1970, có tới 17 lần Thắm đưa báo của Mặt trận vào Sài Gòn. Mỗi lần em chỉ được mang một hoặc hai tờ, nhiều nhất là ba, bốn tờ, tất cả đều cắt dán sẵn. Việc cất giấu báo cũng luôn thay đổi: có khi để trong túi đựng quần áo; có lúc đặt dưới giỏ trái cây; có lần cuộn trong lá chuối rồi cho vào ruột đòn bánh tét như "nhân" bánh... Thân gái như em, mỗi chuyến đi là một chuyến căng thẳng, lo âu: không chỉ lo đối phó với bọn mật thám, chiêu hồi theo dõi, bọn cảnh sát kiểm soát, chọc ghẹo dọc đường; lo đụng các cuộc càn quét, đánh phá tàn bạo với đủ loại máy bay, xe tăng, xe bọc thép, pháo binh của Mỹ và quân đội Sài Gòn, mà còn lo cơ sở của ta bị lộ, nếu em không cẩn thận, dễ bị chúng gài bẫy đón bắt. Trường hợp cô Tư Cúc, người cùng tổ với em, bị địch vây bắt trên đường công tác do có kẻ chỉ điểm, càng khiến em luôn nêu cao cảnh giác.
Chuyến đưa báo đầu Xuân Kỷ Dậu - 1969 đối với Thắm là một trong những chuyến đi đáng nhớ. Hôm ấy, Thắm tới giao "hàng" và nhận báo Giải Phóng tại điểm hẹn ở Củ Chi giữa lúc địch đang kiểm soát gắt gao và đánh phá dữ dội vùng "tam giác sắt". Để tránh sự chú ý của địch, tổ trưởng Sáu Khánh không trao ngay túi đồ (trong đó có báo Giải Phóng) cho Thắm xách về như trước mà dặn em đi tay không đến bến xe, tìm gặp người phụ nữ mặc bộ bà ba màu xanh dương, đội nón lá có quai màu đỏ, ẩm đứa con mới sinh, để được hỗ trợ. Tới bến, Thắm nhận ra ngay một chị mặc bộ đồ, đội nón, ẵm con nhỏ như ông Sáu Khánh nói. Chị mang theo túi đồ và giỏ đựng chiếc bình thủy, chắc đang đợi Thắm. Bước thẳng đến chỗ chị, Thắm hỏi nhỏ: - Chị ơi! Chị có phải là chị Cửu? Nhìn cô gái mặc áo sơ mi trắng, tóc xõa, không đội nón (đúng trang phục của người mình cần gặp) và xách chiếc giỏ màu trắng, chị gật đầu: - Đúng rồi, chị nè! Long đó hả? Em khỏe không? Hai chị em đều mừng khi nhận đúng ám hiệu quy ước gặp nhau. Thực ra, Cửu và Long chỉ là mật khẩu; còn tên của hai người đều không phải vậy. Chị là Út Biểu, người được tổ chức phân công giúp Thắm trong chuyến đi này. Chị Út Biển trao đứa bé cho Thắm ẵm và dặn em phải giả bộ như người mới sinh con; còn chị chỉ là người nhà đi theo chăm sóc sản phụ. Thắm hiểu ý và làm theo chị, mặc dù em bỡ ngỡ vì lân đầu trong vai người mẹ trẻ. Chị Út không quên vuốt cho tóc Thắm phủ kín vai và đưa nón của mình để Thắm đội che luôn cả "hai mẹ con", rồi mới xách túi và giỏ bình thủy cùng em lên xe. Hai chị em ngồi bên nhau, chỉ cách tài xế vài hàng ghế. Thắm ôm "con" ngồi phía trong, chị Út ngồi bên ngoài, sát lối đi. Chị đặt túi đồ cạnh chân Thắm. Em biết trong túi ấy có hai tờ báo Giải Phóng xếp ở dưới cùng, được cắt dán và lót vải áo mưa; còn trên mớ quần áo là mấy tờ báo Sài Gòn cũ dùng làm giấy gói. Xe đò chưa kín chỗ, tốp cảnh sát địch đã kéo đến chặn cửa lên xuống. Ba tên hung hăng nhảy lên xe lục lọi hành lý của khách để tìm kiếm vũ khí và tài liệu "Việt Cộng". Một tên xét gần đến chỗ chị Út. Bỗng, đứa bé trên tay Thắm khóc ré lên. Thắm ôm "con", vỗ về, nhưng bé không chịu nín mà còn quậy mạnh. Thắm mở tấm khăn đắp quanh người bé. Hóa ra nó mới tè, ướt sũng! Chị Út giúp Thắm lấy đồ trong túi xách thay cho bé. Thằng nhỏ vẫn khóc. Chị giục Thắm: "Em cho con bú đi. Nó đói rồi đó! Bất ngờ trước tình huống phát sinh, Thắm thoáng lúng túng và hơi mắc cỡ. Là gái mới lớn, chưa có chồng, em đâu biết cho con bú, mà lại bú giữa chỗ đông người! Nhưng nghĩ đến nhiệm vụ, nghe "lệnh" của chị Út, chẳng ngượng ngùng, em cúi xuống mở nút áo. Quả nhiên, được ngậm vú "mẹ", dù không có sữa, thằng bé cũng nín thinh. Thấy tên cảnh sát vẫn đứng đó, lừ lừ nhìn hai chị em và hình như nó muốn xét đồ, chị Út lẹ tay kéo chiếc túi không khóa, lục kiếm chiếc khăn nhỏ cho Thắm lau mặt "con" - thực ra chị cố ý để tên cảnh sát biết trong túi chỉ đựng mớ quần áo phụ nữ, đồ của trẻ sơ sinh, khăn lót, bình pha sữa, ly, muỗng, vài hộp sữa và mấy tờ báo cũ, những thứ này chẳng thể làm hại "quốc gia". Có thể tên cảnh sát cũng nghĩ vậy. Chắc không muốn mất thời gian ở chỗ nhếch nhác, nó lẳng lặng quay qua lục xét người khác rồi cùng đồng bọn rút đi. Cả hai chị em đều thấy nhẹ người khi chiếc xe đò ra khỏi bến. Chị Út Biểu và Thắm không đi suốt tuyến mà kêu tài xế dừng xe để cùng xuống ngã ba Ông Tạ. Chị đưa cho Thắm chiếc túi xách có báo Giải Phóng với vài bộ quần áo phụ nữ và mấy tờ báo Sài Gòn, còn đồ của trẻ sơ sinh đã được chuyển sang giỏ đựng bình thủy. Thắm trao "con" cho chị Út Biểu, tạm biệt chị và bé rồi xách túi nhảy lên chiếc xe ngựa từ Củ Chi vừa lộc cộc chạy tới. Gần đến ven đô, em lại rời xe ngựa, chuyển sang chiếc xe lam đi thẳng vô quận nhất. Thắm ghé dãy hàng bán bánh mỳ ở cửa phía Tây chợ Sài Gòn và tới quầy của cô Út Của, một người vừa bán bánh vừa mua báo cũ để gói bánh. Thắm trao xấp báo cho cô Út Của. Cô mừng rỡ cất lẹ hai tờ báo gấp riêng (có cắt dán) vô tủ kiếng trên chiếc xe đẩy, rồi đưa cho em ổ bánh mỳ kẹp thịt và tiền bán báo. Không tiện dừng lâu với cô Út (cơ sở mật), Thắm ghé vô chợ, rồi quẹo ra lối cửa Bắc và lại ung dung đi tiếp... Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 28 Tháng Mười, 2021, 07:32:27 am Bí mật trong chiếc bánh chưng
Hôm đó, Sáu Thắm mang tài liệu từ nội đô tới cơ sở ở gần chợ Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) sớm hơn dự định do em khéo léo vượt qua tất cả các chốt kiểm soát của địch ở dọc đường. Giao xong tài liệu, Thắm đến gặp ngay cán bộ chỉ huy để nhận nhiệm vụ trước khi quay trở lại Sài Gòn. Ông Ba Chí, Tổ phó tổ giao liên C30 vui mừng về chuyến đi an toàn của Thắm. Tin yêu người chiến sĩ trẻ tuổi và nhiệt tình của tổ, ông nói: - Trong tuần này, Thắm có nhiệm vụ chuyển vô thành một loại "hàng" đặc biệt. Bữa nay, chú không giao "hàng" tại đây, mà cháu phải tới nhận từ nơi khác. Chuyến đi sắp tới cũng không kém phần nguy hiểm. Ráng làm thiệt tốt nghe, cháu! - Dạ, cháu sẽ cố gắng hết sức. Mấy chú yên tâm - Thắm lễ phép đáp. Cũng như mọi lần, ông Ba Chí dặn Thắm tỉ mỉ về nơi cần đến, thời gian có mặt, người cần gặp, việc cần làm và không quên nhắc Thắm luôn cảnh giác, bảo đảm an toàn. Theo chỉ dẫn của người chỉ huy lớn tuổi và dạn dày kinh nghiệm hoạt động bí mật, Sáu Thắm về Sài Gòn, tìm ngay đến cơ sở mới ở chợ Vườn Chuối. Đúng 11 giờ trưa ngày 5-3-1969, Thắm bước vô quán hủ tiếu ở đầu chợ và gặp một cô gái đang đón khách hàng. - Cho tôi hỏi, có phải đây là quán cô Bảy Mạnh? - Dạ phải - cô gái trả lời. - Cô cho tôi gặp cô Bảy. - Chị đợi em chút, nghe! - Cô gái trả lời và chạy vô phía trong. Chỉ mấy phút sau, một phụ nữ đứng tuổi bước ra. Bà hỏi Thắm: - Cháu cần gặp cô Bảy Mạnh phải không? Cô nè! Thắm chào cô và nói mình là cháu chú Ba Chí, có công chuyện đến nhờ cô Bảy giúp đỡ. Nhìn "cháu chú Ba" mặc áo ca rô sọc hồng, tóc bới cao sau gáy và đội nón lá (đúng mật hiệu), cô Bảy mừng rỡ. - Ồ, cháu chú Ba! Cháu tên gì? - Cô hỏi. - Dạ, cháu tên Thắm. - Vô trong này, con! - Cô thân mật đổi cách xưng hô. Rồi cô dẫn Thắm vô thẳng nhà trong. Rất mau lẹ, Thắm ngồi nghiêng đầu để cô Bảy gỡ giúp mái tóc mình. Cô nhẹ nhàng rút từng chiếc kẹp xinh xinh, lật từng nếp tóc cuộn mềm mại của Thắm cho xòa xuống lưng và lấy ra một mẩu giấy nhỏ xíu. Cô đọc chữ trên mẩu giấy và lẳng lặng cất đi rồi mới tiếp tục chuyện trò. - Mái tóc dài của Thắm đẹp quá! Ai bới tóc cho con mà khéo vậy? - Cô hỏi. - Dạ, má con mới bới cho hồi sáng đó, cô! - Thắm trả lời. - Hèn chi, cô thấy bới tóc con gọn gàng, cân đối, giản dị, dễ thương quá! Cô Bảy không quên nhắc Thắm ngồi yên cho cô chải và bới lại mái tóc như cũ để đề phòng có kẻ theo dõi. Cơm nước và nghỉ trưa xong, cô Bảy biểu Thắm cùng cô đi tiếp một số nơi để nhận "hàng". Cô đích thân dẫn Thắm ra đường Hùng Vương (nay là đường Võ Thị Sáu), đón xe đò lên Biên Hòa. Thắm theo cô đến nhà người quen của cô trong tiệm bán đồng hồ ở gần chợ phố và nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, hai cô cháu ra bến xe đò, tiếp tục qua Long Khánh. Cô dẫn Thắm đến gần chợ Long Khánh và vô gia đình cô Ba Tơ, một cơ sở mật. Vui mừng khi gặp nhau, cô Bảy và cô Ba rù rì trò chuyện lúc nhỏ, lúc to, bàn bạc khá lâu. Nghe tiếng nói, Thắm biết cô Ba Tơ người miền Bắc. Chưa rõ chuyện chồng, con cô ra sao, Thắm chỉ thấy cô nghèo, ở một mình. Cô làm nghề bán lá dong và dây lạt gói bánh chưng, có mấy cháu gái giúp việc. Nhà cô vốn nhỏ, hẹp, lại chất đầy lá dong và dây lạt nên càng chật chội. Nhưng "chật nhà, không chật lòng", cô Ba nói vậy và luôn niềm nở lo cơm nước cho khách chu đáo. Hai đêm liền, do phải đợi "hàng", cô Bảy Mạnh và Thắm đều ngủ trên chiếc giường nhỏ ngay cạnh đống lá dong. Hôm sau, cô Ba dẫn cô Bảy qua một con hẻm sâu hun hút trong ngõ và tới nhà chú Năm Hiền để nhận "hàng". Đúng là người sao, tên vậy. Chú Năm Hiền coi bộ hiền khô. Hình như chú là thợ sửa chữa máy móc gì đó. Thắm thấy chú ốm nhom, da sạm nắng và quanh nhà bày ngổn ngang môtơ, kìm, búa, ốc, vít... Có khách đến, chú đón tiếp thân tình. Tuy ít nói nhưng lúc nào chú cũng tươi cười. Và chú cũng nói tiếng Bắc. Lần đầu tới đây, qua chú Năm Hiền và cô Ba Tơ, Thắm hiểu rõ hơn những điều em từng nghe nói. Gia đình chú Năm, cô Ba và nhiều bà con trong xóm phố đều từ miền Bắc di cư vô hồi năm 1954. Dù sống tại phương Nam loạn lạc gần 15 năm nhưng nhà nào cũng giữ được nếp gia phong, tập quán tốt đẹp của quê cha đất tổ, trong đó có phong tục gói bánh chưng. Giống như nhiều người miền Bắc đang sinh sống tại Hố Nai, Biên Hòa, Long Khánh, bà con xóm phố này gói bánh chưng quanh năm, nhiều nhất là dịp Tết cổ truyền và có bán ở cả Sài Gòn, Chợ Lớn. Hôm đó, chính tại nhà chú Năm Hiền, Thắm được cô Ba Tơ và chú Năm trao cho món "hàng" không giống với các thứ hàng mà lâu nay em vẫn chuyển. Đó là ba chiếc bánh chưng lớn, mỗi chiếc nặng chừng một ký. Khác với bánh tét Nam Bộ thường gói bằng lá chuối, hình tròn và dài như bó giò, những chiếc bánh chưng Thắm nhận đều gói bằng lá dong xanh, hình vuông và cột hai đôi dây lạt mềm mại, thẳng đều. Thắm hiểu, dưới lớp lá bọc mấy chiếc bánh chưng nấu chín gồm gạo nếp, đậu xanh và thịt heo, còn một thứ "nhân" đặc biệt mà em phải bí mật chuyển đến nơi cần nhận. Cô Bảy Mạnh nhắc Thắm chú ý chi tiết quan trọng: - Ba chiếc bánh này đều cột bằng dây lạt màu trắng, trong đó có một chiếc được cột thêm sợi chỉ màu đỏ nhỏ vô dây lạt ở dưới. Dọc đường đi, nếu bị địch kiểm soát hoặc bất đắc dĩ phải cho ai đó, con có thể đưa một hay hai chiếc bánh kia, còn giữ lại chiếc bánh đánh dấu bằng sợi chỉ đỏ. - Dạ, con nhớ rồi, cô Bảy yên tâm - Thắm lễ phép nói. Cô Bảy Mạnh giúp Thắm xếp bánh vô chiếc giỏ đệm lớn. Thắm cẩn thận đặt chiếc túi nhỏ đựng đồ của mình lên giỏ và kéo kín khóa dây. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 28 Tháng Mười, 2021, 07:33:30 am Chia tay chú Năm Hiền và cô Ba Tơ, Thắm xách giỏ bánh chưng cùng cô Bảy rời Long Khánh. Mấy hôm ở xóm phố nghèo, Thắm còn nhận ra thêm một sự thật: bà con nơi đây hiền lành, chất phác, nhiều người nhiệt tình tham gia hoạt động cách mạng, ủng hộ kháng chiến chống ngoại xâm, chứ không phải ai cũng "chống Cộng" như bộ máy "chiến tranh tâm lý" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn rêu rao hòng kích động hận thù dân tộc, chia rẽ Bắc - Nam.
Cô Bảy Mạnh và Thắm cùng ngồi xe đò trở lại Sài Gòn. Trước khi về nhà ở chợ Vườn Chuối, cô Bảy dặn Thắm khá tỉ mỉ đường đi để em chuyển giỏ bánh chưng đến giao cho cậu Ba Bi. Vốn rành nhiều đường phố, ngõ ngách nội đô, Thắm xách giỏ tới thẳng đường Công Quỳnh. Đến dãy hàng bán thịt heo phía sau chợ Thái Bình, em dừng lại trước một căn nhà và hỏi bà già đang nhặt rau trước cửa: - Bà ơi! Cho cháu hỏi, đây có phải nhà cậu Ba Bi? - Đúng rồi. Tôi là mẹ Ba Bi nè! - Bà già ngừng tay, trả lời Thắm. - Cháu xin lỗi, bà thứ mấy? - Tôi thứ mười. Còn cháu, tên gì? - Dạ, cháu tên Thắm. Cháu có công chuyện cần gặp cậu Ba Bi. - Cậu Ba đi làm, chưa về. Cháu ngồi đợi, bà đang nấu cơm để chút nữa cậu Ba về kịp ăn rồi đi nữa. - Thưa bà, cậu Ba làm nghề gì vậy? - Thắm mạnh dạn hỏi thêm. - Cậu làm nghề chạy xích lô máy - Bà nói. Ngồi đợi ở gần cửa, Thắm thấy hồi hộp. Theo lời dặn của cô Bảy Mạnh, Thắm đã đến đúng nhà, hỏi đúng người, nhưng chưa rõ tướng mạo cậu Ba Bi ra sao? Liệu cuộc gặp này có gì trục trặc không? Thắm đang lan man suy nghĩ thì một người đàn ông cao, to, da ngăm đen, tóc quăn, giống như người nước ngoài xuất hiện trước cửa. - Đó, cậu Ba Bi về đó, cháu! - Bà Mười biểu Thắm. Thoáng chút lúng túng vì rất khó đoán tuổi người đàn ông mới gặp, Thắm lên tiếng: - Dạ... chào cậu Ba. Cậu gật đầu nhìn em. Thắm nói luôn: - Cô Bảy Mạnh nhờ cháu mang chiếc bánh chưng này cho cậu Ba. - Cảm ơn cháu! Nghe rất đúng mật khẩu, Thắm mở túi xách lây chiếc bánh chưng có sợi chỉ đỏ đưa cho cậu Ba Bi. Cậu Ba lặng lẽ cầm chiếc bánh cất vào trong nhà. Vẫn nhớ lời chỉ dặn hồi nãy của cô Bảy Mạnh, Thắm lấy thêm chiếc bánh thứ hai, xuống bếp mượn bà Mười cái dĩa lớn, để bánh vô dĩa rồi đặt lên bàn thờ ông Mười ở trong nhà. Nhìn di ảnh ông Mười treo trên tường, Thắm ngạc nhiên vì khuôn mặt người trong tấm hình rất giống cậu Ba Bi. Thắm thắp nhang và kính cẩn vái vong linh ông Mười. Khi quay lại, em thấy bà Mười và cậu Ba đứng cạnh mình. (Sau đó, Thắm mới hay, ông Mười là người Ấn Độ. Bà Mười lấy ông từ hồi ổng còn mở tiệm bán vải ở chợ Thái Bình và sinh được cậu Ba Bi. Ông Mười mất sớm, một mình bà ở vậy nuôi con khôn lớn. Lâu nay, gia đình bà là cơ sở tin cậy của cách mạng. Với lợi thế của người gốc Ấn Độ làm nghề chạy xe xích lô máy, địch ít chú ý, cậu Ba Bi không chỉ chuyển tài liệu mà nhiều lần còn bí mật chuyển vũ khí, đạn dược phục vụ lực lượng biệt động thành hoạt động). Bà Mười và cậu Ba Bi mời Thắm ở lại ăn cơm, nhưng em từ chối vì "còn công chuyện cần đi". Chia tay bà Mười và cậu Ba, Thắm xách túi qua dãy hàng bán thịt heo, ghé vô chợ Thái Bình rồi đi luôn ra cửa khác. Em vẫy xe taxi, chạy tuốt về phía cầu Ông Lãnh. Trưa hôm đó, Thắm về nhà cậu Út Đông - người cậu ruột từng nuôi dưỡng, chăm sóc Thắm từ nhỏ và quý mến như con đẻ. Biết mọi người trong gia đình lâu nay thỉnh thoảng mới ăn bánh chưng, Thắm bóc chiếc bánh còn lại trong chuyến đi của mình, mời cậu, mợ và các em cùng thưởng thức hương vị loại bánh thơm ngon, mang nét văn hóa truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc. Bốn hôm sau, Sáu Thắm có mặt tại khu căn cứ Bến Dược, huyện Củ Chi. Ông Ba Chí, Tổ phó Tổ giao liên rất vui khi nghe Thắm báo cáo cuộc hành trình kiên trì của em đê chuyển trót lọt chiếc bánh chưng đến nơi nhận. Ông Ba biểu dương Thắm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ông hỏi Thắm: - Cháu có biết, trong chiếc bánh chưng được đánh dấu bằng sợi chỉ đỏ mà cháu mang hôm đó là gì không? - Dạ, nguyên tắc bí mật, cháu không biết - Thắm thưa. Ông Ba Chí gật đầu cười: - Bây giờ, công việc xong rồi, chú có thể "bật mí" cho cháu hay: trong chiếc bánh ấy là cuốn sách "Sống như Anh" của nhà báo Trần Đình Vân viết về Anh hùng - liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, người thợ điện của Sài Gòn mình. Cuốn sách đó sẽ được in lại và bí mật lưu hành trong nhiều trường học, xóm phố để tuổi trẻ học tập và làm theo tấm gương hy sinh lẫm liệt của anh Trỗi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thắm vừa làm được một việc quan trọng và có ý nghĩa. Các chú sẽ đề nghị cấp trên khen thưởng cháu. Ông Ba Chí hỏi thêm: - Nè, Thắm đã đọc cuốn "Sổng như Anh" chưa? - Dạ, rồi. - Thắm trả lời - Năm 1967, hồi ra chiến khu, trước khi trở về Sài Gòn, cháu đã đọc cuốn sách đó hai lần. Anh Nguyễn Văn Trỗi thật tuyệt vời. Cháu và bạn bè rất thương anh Trỗi và học được ở ảnh nhiều điều. Hài lòng về người nữ đội viên giao liên nhỏ tuổi mà thông minh, gan dạ và đầy bản lĩnh, ông Ba Chí thân mật bắt tay Thắm: - Các cô, chú luôn tin ở cháu. Chiều nay, có nhiệm vụ mới, Thắm cần vô Sài Gòn ngay. Mấy cơ sở nội đô đang chờ cháu đó. Thắm đi mạnh giỏi, ráng tiếp tục làm thiệt "ngon", nghe cháu! Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 28 Tháng Mười, 2021, 07:36:07 am Lọt giữa nơi địch dồn dân
Chiều ngày 19 tháng 5 1969, Sáu Thắm mang tài liệu từ cơ sở tại Đồng Dù đến xã Nhuận Đức an toàn. Xong việc, Thắm qua ngay xã Thái Mỹ, đợi gặp cán bộ chỉ huy để nếu có tài liệu, em chuyển vô nội đô kịp thời. Thời điểm đó, Thái Mỹ và một số xã ở huyện Củ Chi còn nằm trong vùng bị địch kiểm soát; ta chỉ hoạt động bí mật vào ban đêm. Sáu Thắm tới nhà dì Hai Lời, một cơ sở lâu năm, nơi cán bộ ta thường xuyên đi về. Dì Hai có bốn người con đều hoạt động cánh mạng: anh Hai Long, anh Ba Lý tham gia đội du kích xã; chị Tư Chi lấy chồng ở chợ Củ Chi, chuyên bán cháo lòng; chị Năm Liễu, chuyên nghề nuôi heo nái - cả hai chị đều là cơ sở mật. Dì Hai Lời sống bằng nghề đan rổ, rá, thúng, nia... Dưới các bụi tre quanh nhà dì đều có hầm bí mật. Dì Hai tin cậy và quý Thắm như con. Nhiều lần, dì là đầu mối giao "hàng", tài liệu cho Thắm và nhận các thứ do Thắm chuyển tới. Dì Hai Lời sắp xếp cho Thắm qua nghỉ tại nhà chị Năm Liễu, con gái út của dì, cũng là nơi Thắm quen thân do nhiều lần em từng lui tới. Thắm hiểu hoàn cảnh gia đình chị Năm và thương mến chị. Mới ba mươi chín tuổi mà chị có tới bốn đứa con, gồm hai trai, hai gái, đứa lớn nhất 9 tuổi, nhỏ nhất mới 3 tuổi. Anh Sáu Mẩn, chồng chị, là đội viên du kích xã. Ảnh thường đi miết, thỉnh thoảng mới về nhà. Tuy quần quật tối ngày với nghề nuôi heo nái để kiếm tiền chăm sóc các con nhưng chị Năm vẫn nhiệt tình công tác giao liên. Lần nào tới nhà chị, Thắm cũng có quà cho mấy mẹ con và phụ chị nấu cám heo hoặc tắm rửa cho sấp nhỏ. Sáu Thắm ở nhà chị Năm hơn ba ngày. Tôi hôm thứ tư, Thắm thấy trong ấp có sự khác thường: bọn dân vệ đi lại nhiều hơn và tụ tập ăn nhậu ồn ào ở đầu ấp. Nghe chúng kháo nhau, Thắm đoán địch sắp đưa quân tới dồn dân xã Thái Mỹ vào "ấp chiến lược" và truy bắt "Việt Cộng". Em nghĩ cách ra khỏi Thái Mỹ và trở về nội đô để đề phòng địch phát hiện. Đêm đó, Thắm phụ giúp chị Năm Liễu thu xếp đồ đạc chuẩn bị chống địch gom dân và định hôm sau ra đón xe đò đi Sài Gòn sớm. Nhưng em không thể ra khỏi ấp, vì bốn phía đều bị bọn lính chốt chặn. Mới mờ sáng, pháo từ các căn cứ Mỹ trong vùng dồn dập nã đạn xuống quanh các ấp. Pháo vừa dứt, từng đàn máy bay trực thăng không rõ từ đâu ào ào kéo tới, sà rất thẫp và đổ quân xuống cánh đồng. Bọn lính địch tràn vô các ấp, vừa đi vừa nổ súng loạn xạ và la lối om xòm. Chúng phát loa, kêu tất cả mọi người phải lập tức rời khỏi nhà để vào "ấp chiến lược", ai chống lệnh "quốc gia" sẽ bị bắt hoặc bắn bỏ. Cả ấp, cả xã xôn xao, náo động. Tiếng trẻ khóc, tiếng gọi nhau xen lẫn tiếng chó sủa ran. Lửa, khói bốc lên ngùn ngụt từ mấy ngôi nhà bị bọn lính đốt cháy. Là người từng khốn khổ vì nhiều lần bị giặc dồn dân, bắt bớ, đe dọa và cướp bóc triền miên, chị Năm Liễu không lạ các thủ đoạn của giặc và biết cách đối phó chúng. Chị nhắc Thắm: - Tụi nó tới ấp rồi. Chị em mình đều có thế hợp pháp, không ngại. Thắm đi cùng chị và sấp nhỏ ra khỏi nhà với mọi người, đừng để tụi nó nghi mình chống đối, nghe em! Thắm không ngờ mình lọt giữa vòng vây của địch và sắp bị chúng dồn vô khu gom dân hay "ấp chiến lược" nào đó. Sự việc diễn ra quá nhanh. Địch có vẻ hung hăng, chúng buộc mọi người ở Thái Mỹ "nội bất xuất, ngoại bất nhập", nếu Thắm đi lại lúc này rất dễ bị lộ. Chỉ có trà trộn vào dân như những người chạy giặc, theo cách chị Năm chỉ dẫn mới bớt nguy hiểm. Thắm nghĩ vậy và vội quàng chiếc khăn màu sẫm và đội nón lá che bớt mái tóc dài. Khi Thắm đang cùng chị Năm sửa soạn gồng gánh thì bọn lính ập vô. Chúng chĩa súng, lên đạn, vừa chửi tục, vừa hối thúc mọi người ra khỏi ấp. Một tên nổ súng hăm dọa. Nghe tiếng súng, mấy đứa con chị Năm xanh mặt, khóc thét lên. "Mấy ông khỏi kêu. Chúng tôi đi nè!" - Chị Năm trả lời tốp lính và nhào tới ôm các con. Đặt đôi thúng gánh trước cửa, chị ẵm thằng Đông (3 tuổi) và con Thu (5 tuổi) ngồi chung một thúng. Còn thằng Hạ (7 tuổi), chị cho ngồi riêng trong chiếc thúng thứ hai, kèm một bọc gạo và mấy thứ đồ lặt vặt. Tội nghiệp sấp nhỏ, đứa nào cũng ốm nhom và kêu đói. Thắm phụ chị Năm nâng đôi thúng gánh ba đứa con lên vai, rồi một tay dắt cháu Xuân (9 tuổi) - con gái lớn của chị, một tay xách túi đựng quần áo của cả nhà, em lẳng lặng cùng chị ra đường. Chợt ngó lại, thấy bọn lính sục sạo trong nhà và chọc bầy heo chạy nháo nhác, tức quá, chị Năm tính quay vô cản chúng. Nhưng nghĩ đến Thắm và đàn con nhỏ, chị cố nén căm uất, bước đi. Thắm kéo con Xuân theo sát chị Năm cùng ba đứa nhỏ ngồi trên thúng gánh, giữa đám đông bà con xóm ấp vừa bị giặc lùa ra đường. Nhìn khắp, Thắm chỉ thấy toàn ông bà già, phụ nữ và trẻ nít; ai cũng gồng gánh, tay xách nách mang, dắt díu nhau lôi thôi, lếch thếch. Mặc bọn lính lầm lì, mặt mũi dữ dằn, súng ống lăm lăm kèm sát phía sau, mấy ông già uất ức vừa đi vừa nguyền rủa những kẻ tàn bạo nhân danh "chánh nghĩa quốc gia" mà dùng súng đạn ép người dân phải rời bỏ mồ mả Tổ tiên, ông bà, bỏ cả nhà cửa, ruộng vườn, đến nơi tập trung như kẻ bị tù tội. Lặng lẽ bước giữa dòng người ồn ào, đi đứng lộn xộn dưới nắng gắt, Sáu Thắm càng thây thương mẹ con chị Năm và bà con quá chừng. Em cũng lo, chưa biết mình và mọi người bị địch dồn về đâu và chúng còn giở tiếp những thủ đoạn gì? Lúc nào Thắm có thể ra khỏi nơi nhộn nhạo, phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro này? Đoàn người uể oải bước, mỗi lúc một rời rạc vì nhiều gia đình phải dừng lại dọc đường chờ đợi nhau do có người già đau yếu và con nít kêu khóc đòi ăn uống, ỉa đái. Mãi gần trưa, mọi người mới tới khu đất giữa xã Thái Mỹ. Bọn lính dồn tất cả các gia đình vô một trường học trống lốc của xã. Chúng buộc các gia đình phải ở tạm trong đó, tự lo ăn, lo ngủ tại chỗ, đợi đến hôm sau chúng tra xét từng người rồi đưa tiếp vô " ấp chiến lược". Vậy là Sáu Thắm đã rõ ý đồ của địch. Trưa và chiều hôm đó, hàng trăm con người bị ép rời nhà cửa tới đây đều phải trải chiếu hoặc áo mưa nằm, ngồi chen chúc, vạ vật trong ngôi trường hoang vắng, chật chội và ẩm mốc. Sáu Thắm cùng chị Năm kiếm một chỗ ở góc nhà để bọn trẻ nằm nghỉ, rồi lo nấu nướng, ăn uống cho cả nhà. Đến cuối buổi chiều, Thắm để ý thấy bọn lính kéo nhau rút dần hết, chỉ còn tụi dân vệ ở lại canh chừng những người dân bị giữ trong trường học. Đêm đó, nằm cạnh chị Năm Liễu và mấy đứa con chị, Thắm trằn trọc suốt. Em nói nhỏ với chị: - Chị ơi! Sáng mai, bằng mọi cách em phải về Sài Gòn sớm. Nếu để tụi nó đến kiểm tra, dẫn theo kẻ chiêu hồi tìm "Việt Cộng", em có thể bị lộ. Em nhờ chị báo lại với dì Hai và chú Tư, chú Ba giúp em. Mấy bữa nay có em trong nhà, chị Năm thêm vất vả. Em cảm ơn chị nhiều. - Đừng nghĩ vậy, Thắm ơi! Chị em mình thương nhau mà! - Chị Năm ôm lấy Thắm, thì thầm - Sáng mai em đi sớm là đúng, cần ra khỏi đây trước khi bọn địch từ huyện, xã kéo tới. Em nhớ phải rất cẩn thận, nghe Thắm! Sáng hôm sau, Thắm dậy sớm. Em chải lại tóc, sửa soạn áo quần cho gọn gàng hơn. Thắm tính sẵn một vài tình huống phải đối phó với địch nếu gặp sự cố và em tin mình sẽ có cách vượt qua. Trời tảng sáng, qua cửa sổ, Thắm nghe có tiếng nói rì rầm mỗi lúc một gần của mấy bà gánh hàng từ xã bên đi chợ. Mây tên dân vệ canh chừng vẫn ôm súng ngồi ngáp trước cửa. Thắm xách giỏ bước thẳng tới gần một tên dân vệ có vẻ vẫn thức và thản nhiên hỏi hắn: - Cảm phiền ông, cho tôi hỏi bây giờ là mấy giờ? Nó đứng dậy, nhìn Thắm đầy vẻ ngạc nhiên. Nhận ra người trước mặt mình là một cô gái trẻ, nó gãi đầu, gãi tai, đưa tay coi đồng hồ và trả lời liền: - Đúng 5 giờ. Cô định đi đâu sớm vậy? - Nó hỏi lại. - Tôi ra đón xe đò về Sài Gòn kẻo lỡ. - Ủa, mà cô không phải người xã này sao? Vậy hồi hôm cô vô đây làm chi cho cực? - Hôm rồi, tôi về thăm bà Hai Lời, là dì tôi ở ấp Bình Thượng. Tôi chưa kịp đi thì bị mấy ông đưa vô đây. Bữa nay tôi phải về Sài Gòn. - Có phải bà Hai Lời chuyên đan rổ rá không? - Thì đó, đúng rồi! - Tôi cũng biết bà Hai Lời mà! - nó tỏ vẻ thân thiện - Vậy cô cho tôi coi giấy? Thắm đưa thẻ căn cước cho tên dân vệ. Nó đọc lướt rồi gật đầu, đưa thẻ trả lại Thắm. Không một chút nghi ngờ, lại còn làm bộ "lịch sự" với con gái thành thị, nó chỉ Thắm cứ theo mấy bà đi chợ vừa qua đây, chút nữa là gặp xe ngựa. Thắm mỉm cười, gật đầu "cảm ơn" nó rồi xách giỏ bước vội trên con đường đất đỏ. Em mừng vì buổi sớm xuất hành suôn sẻ. Đi một đoạn ngắn, Thắm gặp và nhập ngay vào nhóm người gánh hàng bông. Vừa lúc có chiếc xe ngựa chạy qua, Thắm vẫy tay cho xe dừng và nhảy lên. Trên xe chỉ có mấy người, ai cũng đầy vẻ mệt mỏi. Thắm chọn một chỗ gần ông chủ xe. Tưởng ai, hóa ra ông Hai, người mà em quen do nhiều lần từng được ông chở qua lại trong huyện.Thỉnh thoảng, ông Hai xe ngựa ngừng ít phút đón thêm khách rồi lại cho xe chuyển bánh. Nhìn về phía trước, Thắm chợt nhận ra một đoàn xe nhà binh chở đầy lính đang rầm fâm chạy ngược lại phía mình. Từng chiếc xe lớn hùng hổ lao qua, cuốn bụi mù mịt. Chúng chạy sát chiếc xe ngựa nhỏ bé, mỏng manh, lại gầm rú như điên loạn, làm con ngựa khiếp sợ chồm lên, khiến ông Hai phải nhảy xuống dừng xe và giữ ngựa. Đợi cho chiếc cuối cùng trong đoàn xe chở lính đi qua, ông mới cho con ngựa của mình tiếp tục cuộc hành trình. Giọng bực tức, ông Hai thủng thẳng nói, cố ý để Thắm và mấy người khách trên xe cùng nghe: - Bữa nay, tụi nó lại kéo nhau trở lại xã Thái Mỹ bố ráp và tìm kiếm "Việt Cộng" nữa đó. Lũ chó này chỉ ăn cướp và giết dân, chứ bây giờ "Việt Cộng" nào còn ở trỏng mà kiếm. Để coi, không chừng chúng lại bị mấy ông du kích "oánh" cho tơi tả! Nghe ông Hai nói giống như người đằng mình, Sáu Thắm không giấu được cười. Khi đến chợ Củ Chi, Thắm chia tay ông Hai xe ngựa và chuyển sang chiếc xe đò. Em ngồi luôn trên xe cho đến chợ Hòa Hưng rồi lẫn trong dòng người đông đúc giữa nội đô. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 28 Tháng Mười, 2021, 07:38:17 am Những ngày kềm nén đau thương
Tuần đầu tháng 9 năm 1969, Sáu Thắm và các cơ sở trong đường dây giao liên của ta ở Sài Gòn đều bàng hoàng khi nghe tin dữ: Bác Hồ kính yêu, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta từ trần. Đó cũng là những ngày Sáu Thắm và đồng đội hoạt động rất khó khăn do địch kiểm soát gắt gao. Suốt ngày đêm, bộ máy chiến tranh tâm lý Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra rả xuyên tạc tình hình chiến trường miền Nam hòng gây hoang mang, giảm niềm tin và quyết tâm của đồng bào, chiến sĩ ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Tại nội đô, chính quyền Sài Gòn không những cấm tụ tập đông người, cấm nghe Đài Phát thanh Giải phóng và "Đài Hà Nội" (Đài Tiếng nói Việt Nam) mà còn rải mật vụ trà trộn trong các xóm phố theo dõi, bắt bỏ tù bất cứ ai chúng nghi ngờ hội họp, tổ chức tưởng niệm hay lập bàn thờ, cầu siêu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù vậy, tổ công tác của Sáu Thắm cũng như nhiều đồng bào và chiến sĩ ta ở Sài Gòn vẫn có những cách sáng tạo, linh hoạt, với nhiều hình thức để tưởng niệm Bác Hồ kính yêu, bày tỏ sự nhớ thương và lòng biết ơn đối với người Anh hùng dân tộc. Sáng ngày 11-9, theo hẹn, Sáu Thắm đến gặp "nhà thầu khoán" Sáu Khánh (Tổ trưởng Tổ giao liên C30) tại quán cà phê ở gần cửa Bắc chợ Sài Gòn (Bến Thành). Ông Sáu Khánh và Thắm vừa ngồi chưa nóng chỗ, mấy tên mật thám đã lảng vảng xung quanh. Phải cắt ngay mấy cái "đuôi" đang đeo bám theo dõi mình, hai người lặng lẽ rời khỏi quán bằng lối khác rồi vẫy xe taxi tới bến Bạch Đằng. Lựa một quán kem vắng vẻ gần nhà hàng Mỹ Cảnh, ông Sáu Khánh thông báo nhanh với Thắm việc đột xuất cần làm gấp, đó là chuẩn bị tổ chức lễ tưởng niệm Bác Hồ. Giọng ông nghe nghèn nghẹn: - Chắc Thắm đã biết tin Bác Hồ qua đời. Bác mất là nỗi đau thương, mất mát vô cùng to lớn của dân tộc ta. Theo chỉ đạo của cấp trên, trong tháng này, các đơn vị, cơ sở tại nội đô sẽ tổ chức tưởng niệm Bác bằng nhiều hình thức phù hợp. Nhóm cơ sở của tổ ta tại nội đô dự định làm thiệt gọn, nhẹ vào 9 giờ 30 phút sáng ngày 13 tháng 9 tại nhà cô Tư Nhẫn ở gần chợ cầu Muối. Cháu nhớ, nghe Thắm! - Dạ, cháu nhớ - Thắm trả lời. - Còn đây là nhiệm vụ của cháu - ông Sáu trao cho Thắm mẩu giấy nhỏ và nói tiếp - Cháu đến gặp ngay mấy bà, mấy cô trong tổ, đưa giấy cho từng người đọc để họ biết việc mình cần làm hôm đó. Khi mọi người đọc xong, cháu hủy giấy luôn. Nhìn đôi mắt rưng rưng của Thắm, giọng ông Sáu cũng trầm xuống. Ông dặn thêm: - Những ngày này, đồng bào và chiến sĩ cả nước ta ai cũng đau buồn. Nhưng cháu luôn nhớ, chúng ta đang sống trong vùng địch kiểm soát. Bọn nó theo dõi mình mọi nơi, mọi lúc. Cháu nói lại ý kiến của chú với mấy bà, mấy cô và dặn mọi người đặc biệt chú ý: Minh thương nhớ Bác Hồ thì để trong lòng; dù đau buồn đến đâu cũng ráng kềm nén, không được khóc, khóc là lộ liền. Nhớ, nghe cháu! Chia tay ông Sáu Khánh, ngay chiều đó và ngày hôm sau, giả bộ như người đi chợ, Sáu Thắm lẳng lặng đạp xe đến các phố gặp từng cơ sở để đưa mẩu giấy nhỏ của Tổ trưởng Sáu Khánh. Từ cô Út Của bán bánh mì ở cửa phía Tây chợ Sài Gòn đến cô Năm Trinh mua giấy báo cũ và bán dầu gió ở cạnh Bệnh viện Từ Dũ; từ cô Tư Hà ở đường Nguyễn Thông (nay là đường Trần Văn Đang) đến cô Mộng Liên chuyên nhuộm quần áo dạo trong các ngõ ngách..., gặp ai, Thắm cũng phải nén xúc động vì thấy cô nào khi đọc mẩu giấy của ông Sáu Khánh cũng bật khóc. Thắm lần lượt nhắc lại với từng cô về lời dặn của tổ trưởng: "Mình thương nhớ Bác thì để trong lòng. Lúc này phải kềm nén, không được khóc". Ngày 13 tháng 9 năm ấy (tức mồng 2 tháng 8 năm Kỷ Dậu) là ngày đáng nhớ đối với Sáu Thắm và mọi người trong nhóm cơ sở của Tổ giao liên. Theo hẹn, từng người lẻ tẻ đến "đám giỗ" tại nhà cô Tư Nhã, ở đường Cô Bắc, gần chợ Cầu Muối. Từ 5 giờ sáng, ông Ba Chí (Tổ phó) thong thả đạp xe xích lô như người đi đón khách sớm. Dừng xe trước cửa, bước vô nhà cô Tư Nhã, ông Ba Chí ngạc nhiên thấy Tổ trưởng Sáu Khánh đã có mặt tại đây trước mình. Khoảng 6 giờ, cô Tư Hà mang đến hai cây đèn cầy và bó nhang to. Tiếp đó, cô Năm Trinh xách tới một giỏ bánh, kẹo. Sáu Thắm đến lúc 7 giờ, mang theo giỏ trái cây và hai bó bông huệ lớn. Cô Mộng Liên xách túi đồ lễ kèm theo một gói băng tang màu trắng. Riêng cô Út Của không đến một mình mà có cậu con nuôi tên là Vinh, chừng 22 tuổi, chở đến bằng xe đạp. Cô định cho nó tới "để có đứa sai vặt", nhưng chỉ ngồi chốc lát, nó dông luôn. Bàn thờ gia tiên của cô Tư Nhã đặt trên lầu của ngôi nhà nhỏ gồm hai lầu, một trệt. Chồng cô Tư Nhã là cán bộ huyện ủy Hóc Môn, hy sinh từ thời kháng chiến chống Pháp. Không có con, cô Tư không đi bước nữa mà ở vậy cùng hai đứa con người anh ruột, kiếm sống bằng buôn bán lặt vặt và bí mật hoạt động cách mạng. Hôm nay, được tổ công tác tin cậy chọn nhà mình làm địa điểm tổ chức tưởng niệm Bác Hồ dưới hình thức "đám giỗ", cô Tư Nhã (trưởng nhóm giao liên cơ sở), coi đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm vinh dự. Bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với vong linh vị lãnh tụ kính yêu, từ hôm qua, cô lặng lẽ sắm đồ lễ, có cả nhang thơm, đèn cầy và tiền, vàng, bạc bằng giấy... để cúng Bác theo nghi lễ truyền thông của dân tộc. Đúng thời gian đã định, cô Tư Nhã khóa cửa tầng trệt, mọi người lên hết tầng lầu. Trên đó, Sáu Thắm cùng ông Sáu Khánh và ông Ba Chí đã tỉ mỉ bày xong lễ vật trước bàn thờ. Đợi cả nhóm có mặt đông đủ và đeo băng tang, ông Sáu Khánh rút trong ca táp ra lá cờ đỏ sao vàng bằng giấy, rộng cỡ nửa trang báo, và tấm hình chân dung Bác Hồ, in đen trắng, rộng bằng vở học trò. Treo xong lá cờ và tấm hình Bác trên bàn thờ, ông Sáu Khánh đốt đèn cầy và trịnh trọng thắp nhang. Rồi ông khẽ hô mọi người đứng nghiêm chào cờ Tổ quốc. Hướng lên bức hình chân dung Bác Hồ, trong khói nhang nghi ngút, ông Sáu định nói mấy lời mở đầu như tuyên bố lý do, nhưng cổ ông nghẹn lại, mắt ông nhòa lệ. Cố gắng lắm, ông Sáu cũng chỉ bật ra được mấy câu: - Các đồng chí ơi, Bác Hồ mất thiệt rồi! Hôm nay, tại đây, chúng ta làm lễ tưởng niệm Bác kính yêu... Mới nói được bấy nhiêu, giọng ông Sáu đã lạc đi. Tất cả mọi người đứng quanh ông đều òa lên nức nở. Vẫn biết, lúc này, giữa sào huyệt địch, nếu khóc to, tiếng khóc vọng ra ngoài là bất lợi, nhưng không ai có thể kềm nổi nước mắt. Người nào cũng ôm mặt, cắn răng, rưng rưng, cố nén để không bật lên thành tiếng. Riêng cô Năm Trinh bị ngất xỉu tại chỗ. Sáu Thắm và các cô Tư Nhã, Út Của phải vội nâng cô dậy và xoa dầu cho cô tỉnh lại. Mấy phút nặng nề trôi qua... Nhìn ông Ba Chí, ông Sáu Khánh nói tiếp: - Bây giờ, chúng ta im lặng nghe đồng chí Ba Chí đọc lời tưởng niệm Bác. Lau vội đôi mắt đỏ hoe, ông Ba Chí rút trong túi ra tờ giấy nhỏ và hướng lên tấm hình Bác Hồ. Giọng ông run run: "Kính thưa vong linh Bác kính yêu! Hôm nay, giữa Sài Gòn còn đang bị quân thù chiếm đóng và kềm kẹp, chúng con vô cùng đau đớn... " Mới đọc được chừng ấy chữ, nước mắt ông Ba đã đầm đìa. Cổ ông tắc nghẹn. Tiếng ông khản đặc. Ông mím chặt môi, nấc dồn dập và không sao đọc tiếp. Ông Ba khóc, mọi người lại rưng rức khóc theo. Cố lấy bình tĩnh, ông Sáu Khánh cầm tờ giấy do ông Ba Chí đưa. Chợt ông quay lại, trao tờ giấy cho Sáu Thắm: - Thắm là người trẻ và tinh mắt nhứt tại đây. Chú giao cho cháu đọc nè! - Ông Sáu Khánh rưng rưng nói - Lời tưởng niệm này nhất thiết phải đọc. Thắm đọc đi! - Dạ, cháu xin phép đọc! - Sáu Thắm run run đón nhận tờ giấy từ ông Sáu Khánh, hướng lên bàn thờ. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 28 Tháng Mười, 2021, 07:40:19 am Không khác ông Ba Chí, Thắm cũng suýt bật khóc khi cất lời mở đầu. Nhìn lá cờ Tổ quốc và hình chân dung Bác thiêng liêng, Thắm cố nén xúc động. Tuy khó đọc liền mạch (do mấy lần phải ngưng để gạt nước mắt), nhưng những câu chữ mộc mạc viết tay trên tờ giấy nhỏ qua giọng đọc của Thắm cũng toát được tình cảm chân thành, sự tiếc thương, niềm tự hào, quyết tâm sắt đá của những chiến sĩ giao liên đang lặng thầm hoạt động giữa sào huyệt địch đối với vị lãnh tụ vĩ đại và rất đỗi kính yêu. Thắm đọc trong nghẹn ngào:
... "Kính thưa Bác! Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược đang diễn ra vô cùng ác liệt, chúng con ở nơi tuyến đầu của Tổ quốc chưa một lần được gặp Bác, vậy mà Bác đã ra đi. Chúng con đau buồn lắm, Bác ơi!" ... "Bác mất đi là sự đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi đối với cả nước, với miền Nam và với chúng con". ... "Bác để lại cho chúng con muôn vàn tình thân yêu. Khắc ghi lời dạy và thực hiện Di chúc của Bác, chúng con nguyện biến đau thương thành hành động, không sợ gian khổ, hy sinh, quyết chiến đấu đến cùng, góp phần cùng toàn dân, toàn quân chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, để đất nước ta mau được hòa bình, thống nhứt, Nam Bắc sum họp một nhà "... Sáu Thắm dứt lời, mọi người đều bật khóc. Cô Năm Trinh lại ngất xỉu; mấy người vội đỡ cô dậy và xoa tiếp dầu gió cho cô. Nhưng thời gian không cho phép tổ công tác kéo dài những phút nặng trĩu đau buồn. Mọi người đỡ nhau đứng dậy mặc niệm Bác Hồ theo tiếng hô nhỏ của tổ trưởng Sáu Khánh. Trong tiếng nức nở, sụt sùi, từng người lần lượt quỳ trước bàn thờ, kính cẩn chắp tay khấn vái vong linh Bác. Ngó nhìn đồng hồ, ông Sáu Khánh lau nước mắt, đốt thêm ba nén nhang vái Bác một lần nữa và nghiêm trang nói với mọi người: - Các đồng chí! Những ngày này, cả nước ta đang để tang Bác. Biến đau thương thành hành động, mỗi người chúng ta hãy cứng rắn lên. Hãy ráng công tác, chiến đấu hết mình, xứng đáng là con cháu Bác Hồ. Tôi chỉ nói gọn vậy. Buổi lễ của ta kết thúc tại đây. Để bảo đảm an toàn, chúng ta cần giải tán! Nhớ trọng trách của chủ nhà, cô Tư Nhã hạ xấp giấy tiền, vàng, bạc trên bàn thờ xuống. Ông Sáu Khánh và ông Ba Chí cũng tháo lá cờ và tấm hình Bác, gấp gọn cùng tờ giấy của tổ vừa đọc, rồi đưa hết cho cô Tư Nhã. Tiếp nhận gói cờ, ảnh, tờ giấy và băng tang của từng người, cô Tư Nhã trịnh trọng nâng cao trước mặt, hướng lên bàn thờ, lẩm nhẩm khấn vái xin phép Bác rồi thả tất cả vô thùng thiếc, châm lửa đốt cháy cùng xấp giấy tiền, vàng, bạc để xóa luôn dấu tích. Mọi người lặng lẽ chia tay nhau. Cô Tư Nhã xuống tầng trệt mở cửa. Là người rời khỏi nhà cô Tư Nhã đầu tiên, ông Sáu Khánh bước ra cửa vừa lúc có chiếc taxi chạy tới. Ông bình thản vẫy xe và phóng đi. Ông Ba Chí cũng đẩy chiếc xích lô của mình ra rồi nhảy lên, đạp lẹ. Đợi hai ông đi khuất, Sáu Thắm mới bước tiếp. Em đi bộ đến gần chợ cầu Muôi rồi bắt xe lam về thẳng nhà cậu Út bên cầu Ông Lãnh. Sáu Thắm tưởng những người còn lại ở nhà cô Tư Nhã tiếp tục ra về suôn sẻ, công việc kết thúc đúng theo kế hoạch, nào ngờ, chỉ sau đó ít phút, mấy cô, mây dì gặp chuyện chẳng lành. Thắm biết tin này khi em đến cửa Tây chợ Sài Gòn hôm sau và giựt mình nghe bà con quanh chợ xôn xao chuyện "bà Út Của bán bánh mỳ mới bị cảnh sát bắt". Đạp xe đến gần chợ Cầu Muối, Thắm cũng nghe một số người bàn tán về vụ cảnh sát bao vây nhà cô Tư Nhã hôm trước và bắt đi năm "nữ Việt Cộng". Không lẽ, cả nhóm cơ sở thuộc tổ của Thắm lọt vào tay địch? Nếu vậy, tổ giao liên, trong đó có Thắm, rất dễ bị lộ. Thắm lập tức báo cáo tổ chức để kịp thời đối phó với địch. Em được giao theo dõi sát diễn biến của vụ này. Chừng hơn một tuần lễ, hay tin địch đã thả hết nhóm phụ nữ bị bắt tại nhà cô Tư Nhã, Sáu Thắm kiếm cách gặp cô Út của ở nơi cô bán bánh mỳ. Hỏi cô, Thắm mới rõ đầu đuôi sự việc. Cô Út kể rằng, trưa hôm đó, sau "đám giỗ" (Lễ truy điệu Bác Hồ) tại nhà cô Tư Nhã, ba người (gồm ông Sáu Khánh, ông Ba Chí và Sáu Thắm) vừa ra khỏi nhà thì bọn cảnh sát địch ập tới. Lúc ấy, năm người (gồm các cô Tư Nhã, Năm Trinh, Tư Hà, Mộng Liên, Út Của) đang phụ giúp chủ nhà bưng thức ăn và dọn dẹp nơi thờ cúng. Nghe tiếng đập cửa rầm rầm và tiếng gọi "mở cửa" dồn dập, biết bị địch bao vây, mọi người giựt mình, lo lắng, nhưng chưa hiểu vì sao chúng đến mau lẹ vậy? Chủ nhà vừa mở cửa, cô Út Của rụng rời chân tay khi thây chính thằng Vinh, con nuôi của mình, dẫn đám cảnh sát xộc vào. Bọn địch hung hăng la hét, lục soát khắp nhà, làm rối tung nơi đặt bàn thờ gia tiên của cô Tư Nhã. Mặc dù không kiếm được bằng chứng nào về hoạt động của "Việt Cộng", chúng cũng còng tay các cô, đẩy lên xe Jeép, đưa tới Tổng Nha cảnh sát Sài Gòn. Chúng tra hỏi từng cô về sự có mặt của mình tại nhà cô Tư Nhã. Tất cả các cô đều trả lời rằng mình tới đó để làm "đám giỗ". Tưởng các cô dễ hoang mang và hết đường chối cãi, bọn chúng cho dẫn vô kẻ biết rõ hoạt động của từng người và mọi diễn biến tại "đám giỗ" để đối chất. Kẻ đó là thằng Vinh. Chẳng dè, vừa thấy Vinh ló mặt, cô Út Của liền chồm tới túm cổ nó. Mắt cô long lên. Không cần đắn đo gì, cô vừa chỉ mặt thằng Vinh, vừa la khóc inh ỏi như muốn trút sự căm giận lên kẻ khốn kiếp: "Thì ra là mày! Là mày! Đồ chó đẻ! Mày quên rồi sao? Bố mẹ mày chết sớm, dù nghèo khó, phải lo ăn từng bữa, tao cũng cố nuôi mày từ nhỏ tới lớn. Tao tưởng mày nên người, nhưng không ngờ mày bỏ nhà theo lũ lưu manh, trộm cắp. Bao lần mày chửi tao, hăm dọa đánh tao chỉ vì không có tiền cho mày ăn chơi, cờ bạc, đĩ điếm. Bây giờ, mày lại bày đặt dựng chuyện mẹ mày và mây bà bạn hàng này là "Việt Cộng". Mày trả ân, trả nghĩa người nuôi dưỡng mày vậy sao, thằng khốn nạn? Mày không bằng con chó! Từ giờ, tao từ mặt mày!" Thằng Vinh run rẩy đứng câm lặng trước sự nguyền rủa của cô Út Của. Bọn lính xúm tới ngăn cản. Nhưng mỗi lần chúng kéo cô ra, cô lại nhào vô túm áo, giựt tóc và xỉ vả nó dữ hơn. Tức tối vì cuộc "đối chất" không thành, địch tiếp tục giam giữ và xét hỏi từng người. Các cô lại dồn tội cho thằng Vinh bất hiếu. Tới ngày thứ bảy, thấy không kiếm đâu ra bằng chứng kết án "nhóm phụ nữ gớm ghê" này, bọn chúng phải thả các cô về và tống giam tên Vinh về tội lừa gạt "cảnh sát quốc gia". Rất ân hận, áy náy về sự sơ suất, mất cảnh giác của mình, ngay hôm ra khỏi nơi địch giam giữ, cô Út Của đã nhận khuyết điểm với cô Tư Nhã. Cô Út coi đây là bài học sâu sắc nhớ đời và mong mọi người trong nhóm hết sức cảm thông. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười, 2021, 05:01:58 pm Đụng địch ở Thới Tam Thôn
Những năm tháng làm giao liên mật, Sáu Thắm luôn bị địch theo dõi, nhiều lần bị bao vây, hai lần bị chúng bắt giam. Nhưng do mưu trí, dũng cảm và may mắn được bà con hết lòng chở che, giúp đỡ, lần nào em cũng thoát. Một trong những lần Thắm gặp hiểm nguy là hôm giáp mặt với địch tại Hóc Môn, em và tổ trưởng Sáu Khánh bị chúng bủa vây giữa ban ngày. Đó là sáng ngày 13 tháng 3 năm 1971. Theo hẹn, Sáu Thắm đến nhà ông Ba Khang (cơ sở của ta) ở ngã ba Chùa, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn để nhận tài liệu chuyển vô nội thành. Không giống các cơ sở ở nơi khác Thắm vẫn tới, đây là quê hương ông Sáu Khánh, người tổ trưởng sắc sảo, đầy mưu trí, dũng cảm của Thắm. Đến nhà ông Ba Khang chính là đến gặp anh ruột của ông Sáu Khánh. Ngôi nhà ông Ba cùng con cháu đang ở là nhà của cha mẹ già (đã qua đời) để lại cho mấy anh em ông - nơi ông Sáu Khánh ra đi kháng chiến và thỉnh thoảng vẫn bí mật ghé về. Nhà ông Ba Khang nằm sát nhà cô Mười Hết, em út của hai ông (cơ sở của ta). Chồng cô Mười cũng thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng. Cô ở với hai con gái: con lớn tên là Mỹ, làm tiệm may tại nhà; con nhỏ tên Nga, phụ mẹ nấu bắp để đem bán tại chợ Hóc Môn. Mấy lần trước, mỗi khi về đây, Sáu Thắm thường nhận tài liệu từ ông Ba Khang hoặc cô Mười Hết. Lần này, Thắm cần trực tiếp gặp và nhận nhiệm vụ từ tổ trưởng Sáu Khánh, bởi ông đang có mặt tại quê. Thắm nhớ, ông Sáu Khánh từng dặn, khi về tới ngã ba Chùa, Thắm không đi thẳng vô nhà ông Ba Khang mà nên qua nhà cô Mười Hết, nếu thấy yên ổn mới theo lối cửa sau thông sang nhà ông Ba. Sở dĩ phải đi vòng như vậy vì ông Ba Khang có thằng con trai tên Khải (cháu ruột ông Sáu Khánh) rất ngang ngược, không đáng tin cậy. Khải và vợ cũng buôn bán tại chợ như cô Mười Hết, nhưng hay lêu lổng, đua đòi ăn chơi, nhậu nhẹt, cờ bạc. Đề phòng sự bất lợi, ông Sáu và ông Ba không muốn Khải biết sự xuất hiện của Thắm tại nhà mình. Chừng hơn 10 giờ, Thắm vô nhà cô Mười Hết. Cô Mười biểu Thắm qua nhà ông Ba Khang ngay, ông Sáu Khánh đang đợi ở đó. Không thể gặp lâu, ông Sáu Khánh trao cho Thắm chiếc giỏ đựng hai chục nem chua gói lá chuối và 5 ổ bánh mỳ. Riêng nem có hai loại: một chục nem bình thường; một chục "nem đặc biệt"(giấu tài liệu), được gói thắt như bím tóc. - Thắm chuyển số nem này vô xóm Hãng Sáo, đường Trần Quang Khải, giao cho cô Tư Hà. Khi ngồi xe đò, nếu bị địch kiểm soát, cháu có thể lột vài gói nem, tỉnh bơ ăn trước mặt mọi người để tụi nó bớt nghi ngờ - ông Sáu Khánh dặn - Bây giờ, Thắm qua nhà gặp cô Mười, cổ sẽ đưa bắp nấu cho cháu xếp thêm lên giỏ rồi hai cô cháu cùng đi chợ luôn. Có thể, bọn địch đang theo dõi chú cháu mình đó. Cẩn thận nghe, Thắm! Thắm trở lại nhà cô Mười Hết theo lối cửa thông. Cô Mười đang xếp những trái bắp mới nấu còn nóng hổi vô thúng. Coi lại giỏ đồ của Thắm, cô tỏ vẻ không yên tâm. Cô biểu Thắm đưa hai chục gói nem trong giỏ đồ cho cô giấu dưới thúng bắp của mình để gánh đi trước, còn Thắm chỉ xách giỏ có bánh mỳ và 10 trái bắp nấu đi sau; khi hai cô cháu tới chợ Hóc Môn, cô sẽ đưa lại nem chua cho Thắm. Cô Mười Hết tất tả gánh bắp đi chợ. Ở nhà còn Thắm và hai con gái của cô: con Mỹ may quần áo và con Nga nấu bắp. Cô vừa đi chừng 20 phút, Thắm xách giỏ đồ định ra tiếp. Bỗng có tiếng chạy rầm rập và tiếng nói ồn ào ngoài đường. Ngó ra, Thắm giựt mình thấy tốp lính địch súng ống lăm lăm, đang đứng trước cửa nhà ông Ba Khang. Nguy hiểm rồi! Thắm biết, lúc đó, cả hai ông Sáu Khánh, Ba Khang đều đang ở trong nhà và chốt hết các cửa. Bọn lính kêu chủ nhà "mở cửa". Không thấy ai trả lời, chúng càng la hét và đập cửa rầm rầm. Chắc có kẻ chỉ điểm cho địch nên chúng mới kéo thẳng tới bao vây nhà ông Ba Khang như vậy - Thắm nghĩ. Nghe tiếng la lối om xòm của bọn lính, hai chị em Mỹ và Nga lo sợ, định đóng cửa, nhưng Thắm cản lại: "Lúc này, hai em đóng cửa là tụi nó nghi ngờ liền. Cứ để cửa mở bình thường". Thắm biểu Nga tiếp tục xuống bếp nấu bắp; còn Mỹ bình tĩnh vô chỗ máy may cùng Thắm chuyện trò như chủ tiệm đối với khách hàng. Hai em làm theo ý chị Thắm. Chợt từ phía nhà ông Ba Khang có tiếng súng AR15. Tiếp đó, tiếng la hét rộ lên cùng tiếng chạy gấp gáp của bọn lính. Rồi bất ngờ, một tốp lính ập vô nhà cô Mười Hết. Nhìn khắp tiệm may chỉ có hai cô gái trẻ đang lựa mẫu vải may đồ, một tên chĩa súng, hỏi: - Ê! Mấy cô có thấy tên "Việt Cộng" nào chạy vô đây không? - Nãy giờ, ngồi may đồ, chúng tôi không thấy ai vô hết trơn - Thắm vừa căng tấm vải cùng em Mỹ ngắm lựa màu sắc, vừa làm bộ ngạc nhiên trả lời hắn. Không hỏi gì thêm, tốp lính lục lọi quanh tủ vải, giá treo quần áo, sục sạo khắp nhà, kéo nhau xuống bếp và ngó nghiêng quanh chỗ Nga đang hý húi nấu bắp. Chúng nói với nhau: - Sao kỳ vậy ta? Rõ ràng tên "Việt Cộng" mới vọt qua hướng này mà biến đâu mất tiêu? Không chừng, nó chạy phía khác? Lại có tiếng súng AR15 nổ ran trong xóm. "Đi thôi tụi bay!" - Cả tốp lính ngơ ngáo rồi hối nhau chạy ra khu ngã ba Chùa. Tụi lính vừa rút, Nga từ dưới bếp chạy lên. Em nói trong nước mắt: "Mấy chị ơi, cậu Ba Khang bị tụi lính bắt đi rồi! Còn cậu Sáu (Sáu Khánh) đang bị tụi nó rượt. Hồi nãy, cậu Sáu nhảy từ nhà cậu Ba qua đây. Gặp em ở sau nhà, cậu ấy chỉ kịp đưa chiếc nón nỉ biểu em đốt, rồi vọt luôn. Em đẩy chiếc nón của cậu vô sâu trong bếp lửa. Nón vừa cháy hết thì tụi lính ập vô nhà mình. Em run quá! Không rõ lúc này, cậu Sáu có thoát khỏi tụi nó?". Nghe Nga báo tin về ông Ba và ông Sáu Khánh, Thắm càng lo và hồi hộp. Thắm lo sự nguy hiểm đang ập đến với người tổ trưởng và với em. Không lẽ, Khải (con ông Ba Khang) đã theo giặc gây tội lỗi này với cha đẻ và chú ruột của hắn? - Thắm nghi ngờ. Biết Khải chưa lần nào gặp mình và địch cũng chưa phát hiện, nhân lúc chúng đang nhốn nháo rượt theo ông Sáu Khánh, Thắm dặn dò hai em Mỹ, Nga vài câu rồi lẳng lặng xách giỏ đồ ra khỏi nhà. Táp vô nhóm mấy bà gồng gánh đi cùng chiều, mặc bọn lính đứng rải rác bên đường, Thắm tà tà tới chợ Hóc Môn cách đó không xa, nơi cô Mười Hết bán bắp nấu đang đợi. Lúc ấy, chợ đang đông. Thắm đi tới, đi lui, mấy lần định tới chỗ cô Mười để nhận lại hai chục gói nem chua, nhưng không tiện, vì khách mua bắp vẫn ngồi quanh cô. Không thể lộ mặt ở bất cứ tiệm quán nào ngoài đường, Thắm ghé vô một quán hủ tiếu kín đáo trong chợ, có thể quan sát xung quanh, vừa ăn trưa, vừa đợi cô Mười và tránh sự theo dõi của bọn mật thám. Phải hết sức cảnh giác, vì Thắm biết, từ chỗ cô Mười ngồi chỉ cách chỗ vợ Khải - con dâu ông Ba Khang bán bánh mì ở gần cầu Quay chừng bốn, năm chục mét. Thỉnh thoảng, Khải vẫn đến đây phụ vợ bán hàng. Rất có thể, trưa nay hắn cũng lảng vảng quanh chợ. Mãi tới 12 giờ 30 phút, cô Mười mới vắng dần khách mua bắp. Thắm trả tiền hủ tiếu rồi đặt giỏ đồ của mình ở góc bàn và nói với bà chủ quán: - Dì ơi ! Dì cho con gởi giỏ đồ. Con đi vệ sinh và mua mấy thứ lặt vặt. - Được, được, nhưng có tiền bạc hay thứ gì quý, cô phải mang theo. Cô để đó lỡ bị mất, tôi không chịu đâu - Bà chủ quán trả lời. - Dì yên tâm. Con chỉ có mười trái bắp nấu và năm ổ bánh mỳ thôi. - Thắm vừa nói vừa lấy một trái bắp biếu bà chủ quán. Bà nhận trái bắp và mỉm cười. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười, 2021, 05:02:55 pm Rời quán hủ tiếu, Thấm qua mấy sạp hàng bên cạnh mua một chiếc giỏ đệm khác rộng hơn giỏ cũ và mua thêm chục trái cây rồi lững thững xách tới chỗ cô Mười Hết.
- Cô ơi! Bán cho con mấy cái bắp - Thắm lên tiếng. Đang nóng ruột trông ngóng, thấy Thắm tới, cô Mười mừng. - Nãy giờ, con ở đâu? Cô lo cho mày quá! Có bị kẹt gì không con? - Cô hỏi. Nhân lúc vắng khách, Thắm cúi xuống nói nhỏ với cô Mười về việc mình đụng địch. Cô rụng rời chân tay và suýt bật khóc khi nghe tin hai anh ruột cô đang gặp nguy nan. - Vậy là rõ rồi! Chính thằng Khải chỉ điểm cho lính về bắt cha đẻ và chú ruột nó chứ không ai khác! - Cô Mười đau đớn nói - Hồi hôm, nó xin tiền ông Ba Khang để ăn nhậu, cờ bạc, bị ổng rầy la và không cho. Nó chửi lại và hăm dọa đi báo lính về bắt ổng và bắt luôn ông Sáu Khánh "Việt Cộng". Tưởng nó chỉ láo lếu, ai dè nó hại cha chú nó thiệt! Đồ khốn nạn! Tuy bị dồn nén bởi những nỗi khổ tâm, tức giận và lo lắng, nhưng cô Mười Hết vẫn không quên việc hẹn với Thắm. Cô lấy hai chục gói nem chua trong thúng đưa lại cho Thắm, kèm theo mười trái bắp nấu và giục: - Con đi lẹ kẻo lại đụng tụi nó. Mọi chuyện để cô tính tiếp. Cẩn thận nghe, Thắm! Thắm chào cô Mười và không quên trả cô tiền bắp như mọi người đến mua hàng. Bỏ luôn chiếc giỏ đồ mới gởi ở quán hủ tiếu, Thắm xách chiếc giỏ đệm mới, trong đó có hai chục nem chua, đi bộ tới bến xe Hóc Môn. Vừa may có xe đò sắp rời bến, Thắm nhảy lên, ngồi gần ghế của bác tài. Nhưng Thấm không vô thẳng nội đô mà xuống xe tại ngã ba Ông Tạ. Từ đây, em vẫy chiếc xe ngựa qua chợ Hòa Hưng; tiếp đó lại nhảy xe buýt đi một chặng nữa rồi mới chuyển sang xe xích lô đến xóm Hãng Sáo, nơi cô Tư Hà đang nóng lòng đợi Thắm. Ra khỏi khu vực địch vây ráp và chuyển được tài liệu đến điểm hẹn an toàn, Sáu Thắm thấy nhẹ người. Tuy vậy, em vẫn lo lắng về ông Sáu Khánh và ông Ba Khang: không rõ, khi Thắm rời khỏi nhà cô Mười Hết, địch bắt ông Ba đưa đi đâu? Và trong cuộc vây ráp của chúng gây náo động Thới Tam Thôn hôm đó, Ông Sáu Khánh có thoát hiểm? Rất mừng là điều lo lắng của Thắm sớm được giải tỏa. Chỉ một tuần lễ sau, nhân chuyến đưa tài liệu từ nội đô ra căn cứ Bến Dược, huyện Củ Chi, Thắm vui mừng được gặp lại người tổ trưởng kính mến của mình. Ông Sáu Khánh vẫn tỉnh khỏe, chỉ đau chân tay do nhiều chỗ bị trầy xước. Giọng nói sang sảng, đầy lạc quan, ông Sáu kể với Thắm về những phút ông đối phó với địch khi bị bọn chúng bao vây, rượt đuổi tại Hóc Môn quê nhà tuần trước... Hôm đó, sau khi trao tài liệu (gói trong nem chua) cho Thắm và thấy Thắm đã qua nhà cô Mười Hết, ông Sáu chốt cửa, bàn công chuyện với ông Ba Khang. Hai anh em ông vừa ngồi được ít phút thì địch ập đến. Nghe tụi lính la hét, kêu mở cửa, biết bị vây, ông Ba giục và chỉ cho ông Sáu thoát lẹ ra phía sau, để một mình ông ở lại đối phó với chúng. Tháo vội đôi giày da vứt lại cho Ông Ba, ông Sáu leo lên đầu nhà, nhảy phóc sang góc vườn cô Mười. Mặc tụi lính đập cửa dồn dập, ông Ba liệng đôi giày của ông Sáu xuống ao rau muông phía sau nhà và cố xóa các dấu vết trước khi mở cửa cho chúng vô. Lúc chạy ngang qua nhà cô Mười, nhìn thấy cháu Nga, ông Sáu Khánh đưa chiếc nón nỉ của mình cho cháu đốt trong bếp nấu bắp, rồi lao tiếp về phía những lùm cây rậm rạp sau mấy căn nhà cùng xóm. Nghe tiếng súng AR15 của địch bắn vu vơ từ phía sau, ông Sáu khom lưng luồn lách qua các hàng cau san sát, hết vườn này tới vườn khác. Không rẽ sang xóm bên, ông nhảy tiếp qua mấy con mương nhỏ ngập nước, chạy cặp theo bờ mương, lẫn giữa những giàn bầu, giàn mướp rậm rạp, rồi quẹo vô nhà cháu Quân chuyên bán tạp hóa (Quân là con trai ông Hai Kỳ - anh ruột ông Sáu, đang công tác xa). Biết vợ chồng Quân bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của mình, ông Sáu nói vội: "Tụi lính đang dí bắt chú nè! Hai đứa giúp tao, lẹ lên!" Ông đưa khẩu súng ngắn Rulo cho Thanh - vợ Quân, biểu cháu vùi giấu trong khạp đựng gạo; còn Quân mang vô buồng cất giấu cho ông chiếc ca táp. Tiếng súng và tiếng la lối của tụi lính rộ lên mỗi lúc một gần. Ông Sáu vọt luôn qua vườn cây phía đầu nhà Quân, chạy vòng vèo một đoạn rồi táp vô ngôi nhà ở gần đường. Đó là nhà cháu Thành - em ruột của Quân. Thằng Thành hoảng hồn khi thấy ông Sáu bị lính rượt bắt. Thương chú ruột quá, nhưng nó hơi bối rối, chưa biết làm cách nào cứu chú mình thoát khỏi nguy ngập. Ông Sáu liền chỉ vào chiếc xe gắn máy của Thành: - Con lấy xe chở chú tới ngay bệnh viện Hóc Môn. Nếu gặp tụi lính, chúng hỏi thì con nói là chở ông già đau bệnh đi cấp cứu, nghe không? - Dạ, con hiểu rồi! Vậy con chở chú đi liền - Thành vừa nói vừa dắt xe ra. Ông Sáu Khánh nhảy lên xe, ngồi sau Thành. Một tay bám thắt lưng thằng cháu, một tay ông ôm bụng. Xe nổ máy, ông Sáu cũng bắt đầu giả bộ nhăn mặt, cắn răng và rên la như người đang đau nặng. Dù vô cùng lo lắng, nhưng Thành vẫn bình tĩnh, thận trọng cho xe lách qua các đoạn đường có nhiều tốp lính địch tụ tập quanh xe nhà binh. Mấy lần xe của Thành chạy gần đám lính, một số tên ngó nhìn Thành chằm chằm như muốn chặn hỏi, nhưng thấy trên xe có ông già quần áo xộc xệch, chân đất, không nón, ôm bụng quằn quại và rên rỉ, lại thấy Thành vừa bóp còi xin đường vừa la "cấp cứu! cấp cứu!", bọn chúng đều dãn ra và ngó theo. Chỉ chừng hơn hai mươi phút sau, ông Sáu Khánh được chở tới bệnh viện Hóc Môn. Thành đưa ông vào thẳng phòng cấp cứu. Ông vẫn ôm bụng kêu đau. Nữ y tá trực phòng hỏi bệnh, ông Sáu Khánh nhăn nhó trả lời: "Tôi là người nhà bác sĩ Trí. Tôi đau lắm, đau khắp người! Chỉ có bác sĩ Trí mới biết rõ bệnh của tôi. Làm ơn cho tôi gặp bác sĩ ngay". Người y tá vội gọi bác sĩ Trí (chính là cơ sở mật của ta). Giựt mình khi gặp ông Sáu Khánh trong hoàn cảnh này, bác sĩ Trí vừa hỏi han vừa kiểm tra nhiệt độ, bắt mạch, đo huyết áp và cho bệnh nhân uống nước. Thấy ông Sáu lại ôm bụng quằn quại, kêu đau mỗi lúc một to, vẻ lo lắng, bác sĩ nói với mọi người: "Ông này bệnh nặng lắm, phải đưa ngay lên bệnh viện trong thành phố". Rồi bác sĩ Trí điều xe Hồng thập tự lập tức chở ông Sáu tới bệnh viện Chợ Rẫy. Tới đó là ông Sáu Khánh khỏe re. Khỏi cần thuốc thang, ông Sáu đi lại bình thường. Chỉ kẹt một chút: cái bóp của ông Sáu bị rớt từ lúc nào không hay; túi ông không còn một cắc. Ghé vô một cơ sở khác ở gần đó, ông Sáu phải tháo chiếc cà rá trên tay, nhờ người đem bán cho tiệm vàng để có tiền mua quần áo, nón, giày... rồi tắm rửa, thay đồ, ăn uống, nghỉ ngơi. Trưa hôm sau, ông Sáu được cơ sở đón về căn cứ tại Củ Chi. Ông Sáu Khánh còn cho Thắm hay, ông Ba Khang bị địch bắt giữ ngay sau lúc chúng vô nhà và không truy tìm được ông Sáu. Tụi nó đưa ông Ba về giam ở bốt Hóc Môn vì "chứa chấp và tiếp tay cho Việt Cộng". Nhưng do không có bằng chứng để buộc tội, vài hôm sau, chúng phải thả ông về. Ông Sáu Khánh không quên chuyện buồn và đau lòng khi nhắc đến thằng Khải, con ông Ba Khang. Ông Sáu cho biết, Khải lộ mặt là kẻ làm thám báo cho địch. Vì tiền, nó cam tâm định giết cả cha, chú và làm hại cách mạng. Cũng may, nó không biết mặt Thắm... Nhưng thằng bất hiếu, bất nhân ấy đã phải trả giá đắt. Từ chiều tối đó tới mấy hôm sau, bọn địch buộc nó phải tự đi tìm ông Sáu Khánh cho chúng. Nó dắt theo vài tên thám báo đi khắp các thôn rình mò suốt ngày đêm nhưng không sao tìm thấy tung tích ông Sáu và "nhóm Việt Cộng nguy hiểm". Cay cú vì tốn bao công sức vây ráp mà không có kết quả, bọn chỉ huy địch trút bực tức lên đầu thằng Khải: chúng nện nó một trận nhừ tử rồi còng tay đưa đi đâu không rõ. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười, 2021, 05:04:14 pm Chim nhỏ tung cánh bay xa
Suốt ba năm, từ 1969 đến 1971, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc vây ráp, khủng bố tại nội đô nhằm tìm bắt "Việt Cộng". Không ít cơ sở của ta bị lộ. Một số người trong đường dây với Sáu Thắm không may lọt vào tay địch, bị chúng bỏ tù hoặc sát hại dã man. Sáu Thắm và các cán bộ, chiến sĩ Tổ giao liên C30 phải đương đầu với những khó khăn, thách thức chưa từng thấy. Có thời gian, toàn tổ phải tạm thời "án binh bất động’' để tránh sự theo dõi của chúng. Dựa vào một số tên chỉ điểm, bọn mật vụ Sài Gòn ráo riết truy tìm Sáu Thắm. Nhiều lần, chúng vây chặt đám đông bên đường phố, đưa kẻ chiêu hồi đi theo để nhận mặt và yên trí rằng "Việt Cộng" không có phép nào thoát nổi, vậy mà Thắm vẫn biến mất. Tức tối vì khó bắt "tên nữ Việt Cộng trẻ" và không phá được đường dây giao liên mật do Tư Tăng chỉ huy, chúng dán hình Thắm khắp các phố để truy nã và treo giải cho những ai bắt được em. Thương con gái gặp hiểm nguy, má Hai Hòa - má ruột của Thắm, phải kín đáo nhờ mấy người tốt bụng đi bóc bỏ các tấm hình của Thắm bị chúng dán trên cột điện, tường nhà, góc phố. Ráo riết sục sạo, rình mò nhiều ngày vẫn không tìm được tung tích của Thắm, bọn địch dắt theo kẻ chỉ điểm đến bắt má Hai tại nhà. Chúng đưa má tới giam giữ ở Tổng Nha cảnh sát - nơi có thiếu tá Nghĩa, "người yêu" Nguyệt. Tại đây, địch dồn dập tra khảo má để kiếm tin tức về Nguyệt. Cuộc đối đáp giữa má với chúng khiến cả bọn luôn lúng túng. Chúng hỏi: - Con gái bà hiện đang ở đâu? - Tôi nói rồi mà mấy ông cứ hỏi hoài! Con tôi hư thân mất nết, dám bỏ nhà theo trai đi tối ngày, khi có chửa mới vác bụng về. Ghét mặt, tôi chịu hết nổi, nên từ nó luôn và đuổi đi từ lâu !- Má trả lời. - Làm mẹ có con gái hư, bà không thương sao, lại đuổi đi? - Một tên lên giọng dạy đời. - Ông nói chi lạ vậy? Người mẹ nào chẳng thương con. Nhưng thứ con gái bỏ nhà theo trai rồi chửa hoang là sự nhục nhã với gia đình và dòng họ, cha mẹ chỉ thiếu nước chui xuống đất mà chết chứ thương cái nỗi gì? Tôi hỏi, giả dụ con gái của mấy ông chửa hoang, mấy ông có thấy ngượng và muốn đuổi đi không? - Mụ già đừng nói lòng vòng! Ở Sài Gòn hiện có cả chục ngàn gái chửa hoang, người ta đâu bị đối xử như con gái bà? - Tên sĩ quan an ninh gượng gạo nói. - Vậy nên xã hội này mới loạn! - Má Hai dấn tiếp. - Mụ già chớ nói xấu "chính nghĩa quốc gia"!- Hắn nạt nộ - Mụ có khai không? Con Nguyệt đang ở đâu? - Tôi đã nói là nó theo trai. Còn chúng nó dắt nhau đi đâu, tôi không biết! - Má nói. Thấy không thể hăm dọa "mụ già cứng đầu, cứng cổ", bọn địch hùng hổ túm tóc, túm cổ má Hai, đẩy má vô phòng tra tấn. Tại đây, bọn ác ôn mặt người dạ thú giở nhiều cực hình man rợ đối với người phụ nữ hiền lành. Mấy lần, má Hai ngất đi vì những đòn hiểm của kẻ thù. Không cho ăn uống, chúng bỏ mặc má nằm đau đớn suốt ngày trong góc phòng giam ẩm ướt nước trộn với máu. Xót thương người chị ruột bị giam cầm và đánh đập dã man, cậu Út của Thắm phải chạy chọt để được vô chăm sóc chị. Nhìn chị Hai mặt mũi sưng húp, chân tay bầm tím, quần áo rách bươm và bê bết máu, cậu Út ôm chị mà không cầm được nước mắt. Bất lực vì dùng cực hình cũng không làm má Hai nao núng, tuần sau, bọn địch lại giở thủ đoạn nham hiểm khác. Chúng đưa má Hai trở lại phòng hỏi cung. Tên sĩ quan an ninh gườm gườm nhìn má và nhếch mép, nói: - Nếu bà không biết con gái đang ở đâu, hôm nay, bọn tôi sẽ giúp bà. Nói cho bà hay, bọn tôi đã bắt được con Nguyệt và đưa tới đây. Bà có muốn gặp con gái không? Thoáng giật mình khi nghe tên sĩ quan nói, nhưng má Hai kịp trấn tĩnh ngay, vì má không tin con gái mình dễ dàng bị địch bắt. Biết chúng giăng bẫy đánh lừa, má Hai thủng thẳng trả lời như thách thức: - Mấy ông cứ đưa nó tới gặp tôi coi. Tên sĩ quan quay lại phía cửa và hất hàm ra lệnh. Lập tức, hai tên lính dẫn vô một người đàn bà. Người này trùm khăn kín mặt và ngực, chỉ để hai lỗ nhỏ nơi hai con mắt. Mấy tên lính đưa chị ta tới trước má Hai. Má lặng thinh, nhìn xoáy vô người bịt mặt. Ngập ngừng giây lát, bỗng chị ta bước tới nắm tay má và nói lí nhí: - Má ơi, con là Nguyệt nè! Trời ơi, má không nhận ra con sao? Má Hai vẫn ngồi im. Má ngó kỹ dáng vẻ, nhất là đôi bàn tay thô ráp và đen sạm cùng với sự lúng túng, sợ sệt của chị ta. - Chắc con chết mất. Cứu con với, má ơi! - Chị ta nói tiếp. "Vậy là quá rõ rồi! Đây đâu phải dáng vẻ, giọng nói và bàn tay con gái mình" - Má Hai nghĩ. Bất ngờ, má túm hai bàn tay lạ và đẩy xô chị ta ra. - Mày không phải con tao! Để tao coi cái mặt thật của mày - Vừa nói, má Hai vừa chồm tới giựt mạnh tấm khăn đen che mặt của kẻ tự nhận là con. Người đàn bà lạ hoảng hốt cố kéo tấm khăn cho không tuột khỏi mặt. Sợ đổ bể màn kịch, tên sĩ quan cuông cuồng giữ má Hai lại và lệnh cho lính lập tức đưa người kia ra khỏi phòng. Cay cú vì trò xảo trá bị một bà già vạch trần, bọn ác ôn tiếp tục trút lên má Hai những trận đòn tra tấn dã man, nhưng vẫn không moi ở má được điều gì. Địch giam giữ và hành hạ má Hai suốt nửa tháng liền. Cuối cùng, do không đủ bằng chứng buộc tội, chúng phải thả má về. Có điều rất đáng chú ý, khiến má Hai phải nhắc cậu Út tìm cách nhắn ngay cho Nguyệt biết để cảnh giác đề phòng. Đó là suốt những ngày má Hai bị giam giữ và tra tấn đến thừa chết, thiếu sống tại Tổng Nha cảnh sát, tuyệt nhiên má không thấy bóng viên thiếu tá an ninh vẫn tự nhận là "người yêu" của Nguyệt. Sau khi má rời trại giam, bọn mật thám còn rình rập, đe dọa nhiều hơn và ngày đêm theo dõi mọi động tĩnh quanh nhà má. Đoán chừng Nguyệt sẽ tìm cách về nhà thăm má, mấy tháng liền, địch rải lính trà trộn trong dân, đón lõng các ngả đường, quyết bắt bằng được "tên nữ Việt Cộng". Thời điểm đó, hoạt động của Thắm chồng chất những khó khăn, nguy hiểm. Không thể để SáuThắm sa vào tay giặc, tháng 9 năm 1971, tổ chức quyết định rút Thắm lên chiến khu và thay đổi địa bàn em công tác. Rời Sài Gòn quê hương, tạm biệt má kính yêu và bà con, anh chị em, bạn bè nội đô thân thiết, "cánh chim nhỏ" Sáu Thắm nhanh chóng hòa mình cùng đồng đội trong cuộc chiến đấu mới. Từ ấy, em tiếp tục trưởng thành, trở thành cán bộ tin cậy của cách mạng, tiếp tục dọc ngang khắp nẻo đường kháng chiến nơi miền Đông gian lao mà anh dũng. Tháng 3 năm 1998 Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười, 2021, 05:08:05 pm Phụ lục Nhà báo KIM TOÀN và dấu ấn trong lòng đồng nghiệp* (Bài đăng trên tuần báo "Nhà báo và Công luận", cơ quan Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam, số ra đầu tháng 6 - 2012) Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi tôi còn là học trò trường huyện Tiên Lãng, anh Kim Toàn đã là phóng viên báo của Đảng bộ Tỉnh ủy Kiến An. Hồi đó, miền Bắc nước ta đang sôi nổi trong phong trào "Sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, lửa Thành Công, cờ Ba nhất" và "Trống Bắc Lý". Khắp nơi, hầu như ở đâu mọi người cũng hăng hái thi đua lao động sản xuất, công tác và học tập thật tốt vì miền Nam ruột thịt. Năm 1961, hợp tác xã nông nghiệp quê tôi được chọn làm điểm tổ chức hội thao kỹ thuật cải tiến công cụ sản xuất của tỉnh và được đón Phó Thủ tướng Phạm Hùng về thăm. Là phóng viên đi cùng Phó Thủ tướng và lãnh đạo tỉnh về dự ngày hội thao của nông dân quê tôi, anh Kim Toàn đã kịp thời có bài ghi nhanh kèm ảnh đăng Báo Kiến An nhan đề "Ngọc Động vui hội làm mùa". Bài báo ấy của anh là sự động viên, cổ vũ thiết thực không chỉ đối với bà con hợp tác xã quê tôi mà đối với Đảng bộ và nhân dân toàn huyện Tiên Lãng. Tôi có ấn tượng tốt về anh và thích thú nghề làm báo cũng từ đó. Năm 1963, khi tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng hợp nhất, Báo Kiến An và Báo Hải Phòng kiến thiết hợp nhất thành Báo Hải Phòng, anh Kim Toàn tiếp tục làm phóng viên tờ báo xuất bản hằng ngày của Đảng bộ thành phố Cảng. Từ năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, anh Kim Toàn là một trong những phóng viên chủ lực của Báo Hải Phòng xông xáo đi nhiều, viết khỏe. Bài và ảnh của anh liên tục xuất hiện trên báo Đảng. Năm 1965, giặc Mỹ ồ ạt đổ quân vào xâm lược miền Nam và cho máy bay, tàu chiến điên cuồng ném bom, đánh phá miền Bắc nước ta, khi đọc Báo Hải Phòng, tôi thấy vắng tên anh Kim Toàn. Mãi tới năm 1968, trong một cuộc họp mặt cộng tác viên do Ban Biên tập Báo tổ chức tại Tòa soạn ở số 2, phố Đà Nẵng, tôi mới biết anh cùng một số nhà báo quê miền Nam sau khi học xong lớp báo chí đặc biệt do Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức đã bí mật vượt Trường Sơn đi B từ trước đó ba năm. Anh Huỳnh Ngọc Lý, người từng cùng Tòa soạn với anh Kim Toàn hồi ở Báo Kiến An, bảo tôi: "Kim Toàn đang công tác tại Báo Giải Phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Ở chiến trường, Kim Toàn vẫn luôn có bài gửi ra đăng Báo Hải Phòng và nhiêu báo của trung ương. Người tại trận viết bài gửi về là quý lắm!". Ngày nhà báo Thép Mới - Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, còn sống, mấy lần tôi được nghe ông kể về những năm ông hoạt động báo chí tại chiến trường miền Nam, nhất là hồi làm Tổng Biên tập Báo Giải Phóng. Nhớ lại một thời vô cùng khó khăn, gian khổ và ác liệt khi làm Báo Giải Phóng, ông khen ngợi nhiều nhà báo nhiệt tình, dũng cảm, năng động và chân thành, luôn đi đầu trước mọi hiểm nguy, trong đó có các nhà báo từ miền Bắc chi viện miền Nam như: Thái Duy (Trần Đình Vân), Vũ Tuất Việt, Kim Toàn, Thế Phiệt.. Ông kể về nhà báo Kim Toàn: "Từ ngày vào Báo Giải Phóng, Kim Toàn lấy bút danh là Cao Kim. Cậu ấy là phóng viên xông xáo, viết nhiều thể loại, chụp ảnh và trình bày báo đều được. Cao Kim có giọng hát truyền cảm, thỉnh thoảng lại múa hát cùng Văn công Giải phóng. Đi chiến dịch, cậu ấy thường học ca vọng cổ cùng các cô giao liên và còn dạy các cô hát chèo, hát dân ca Quan họ. Tay máy, tay súng, Cao Kim đi nhiều nơi, không chỉ ở vùng giải phóng mà cả vùng đang tranh chấp và vùng địch kiểm soát. Nhiều tháng, cậu ấy lăn lộn ở đồng bằng Nam Bộ, sát cánh cùng bộ đội, du kích và nhân dân đánh Mỹ, diệt ác, phá kìm, nhất là tại vùng ven sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây. Cậu ấy còn bám trụ tại các tỉnh Bình Long, Phước Long ở Nam Tây Nguyên, hàng năm trời "nằm vùng" trong các làng thuộc đồn điền cao su và các sóc của đồng bào dân tộc Stiêng, Tà-mung, Châu-ro cùng cán bộ địa phương xây dựng cơ sở cách mạng và tổ chức huấn luyện công tác báo chí. Cao Kim vốn gầy nhom, sau nhiều tháng hoạt động ở vùng rừng núi - nơi dày đặc bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ, lại phải cùng anh em làm rẫy, tự túc lương thực để sống và luôn bị sốt rét nên càng gầy còm. Có lần, tại cơ quan Báo ở chiến khu, tuy bị sốt rét và viêm gan nặng, cậu ấy vẫn ngồi cạnh hầm viết bài, cố giấu những cơn đau. Tôi phải buộc cậu ta nằm lên võng và cử bốn anh em đồng nghiệp thay nhau khiêng gấp tới bệnh viện Liên cơ trong rừng để cấp cứu mới qua nguy kịch. Nguy hiểm và ác liệt nhất phải kể đến chuyến công tác cuối năm 1967, Cao Kim cùng tôi bí mật đột nhập Sài Gòn - Gia Định trước khi ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 lịch sử. Tôi đã dặn Cao Kim "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Để tránh bọn địch theo dõi, phát hiện, lúc đó không nhất thiết phải vào quá sâu trong nội đô, nhưng cậu ấy ít chịu ở vòng ngoài. Tôi và Cao Kim có những kỷ niệm nhớ đời trong thời gian hoạt động giữa sào huyệt địch. Hết đợt một của cuộc Tổng tiến công, tôi trở về chiến khu, còn Cao Kim được phân công tiếp tục ở lại, nhập vào Đội vũ trang tuyên truyền T4 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định), vừa chiến đấu vừa hoạt động báo chí. Thời điểm đó, Mỹ - ngụy phản kích dữ dội chưa từng thấy. Các trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, cả ban ngày và ban đêm, ở khắp nội đô, ngoại ô và vùng phụ cận. Anh em khối Tuyên huấn - Báo chí của ta tổn thất không nhỏ. Cuối tháng 3-1968, Ban Biên tập Báo Giải Phóng nhận được giấy báo tử của Ban Quân y Phân khu 3 (mặt trận phía Tây Nam Sài Gòn - Gia Định), báo rằng nhà báo Cao Kim đã hy sinh trong trận chiến đấu chống càn tại xã Bình Chánh, huyện Tân Trụ ngày 8-3-1968; an táng tại ấp Nhứt, xã Long Định, huyện cần Đước, tỉnh Long An gần đó. Đính kèm giấy báo tử là giấy của Đảng ủy Ban Tuyên huấn Trung ương Cục giới thiệu đảng viên Cao Kim sinh hoạt Đảng với cấp ủy mặt trận T4. Cả Tòa soạn làm lễ truy điệu Cao Kim trong nỗi đau buồn, tiếc thương người đồng chí, đồng nghiệp thân thiết. Ba tháng sau, anh chị em Tòa soạn ngỡ ngàng khi thấy Cao Kim xuất hiện tại căn cứ của Báo tại rừng Tây Ninh, vai đeo bòng tư trang, vai khoác súng AK và máy ảnh, người gầy đét, da đen sạm. Thì ra, trước trận chống càn ở Bình Chánh, Tân Trụ, Cao Kim nộp giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng của mình cho anh Hai Ca - bí thư chi bộ kiêm đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền T4. Trong một trận giáp chiến giữa đồng bưng sình lầy với lực lượng địch đông đảo, có máy bay, pháo binh và xe lội nước yểm trợ, Cao Kim và một số chiến sĩ bị thương khi cùng đơn vị đánh trả các đợt phản kích và vượt khỏi vòng vây của chúng. Riêng đội trưởng Hai Ca bị thương rất nặng, lúc đưa tới trạm quân y tiền phương thì hy sinh. Người ta tìm trong túi ngực Hai Ca thấy có giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng ướt đẫm máu, mang tên Cao Kim. Ai cũng bảo người đó là Cao Kim nên Ban Quân y Phân khu mới viết giấy báo tử gửi về Báo Giải Phóng. Tiêu đề: Cánh chim nhỏ giữa sào huyệt địch Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười, 2021, 05:08:53 pm Năm 1973, được cử trở lại tỉnh Bình Phước và làm phóng viên thường trú của Báo Giải Phóng tại vùng giải phóng Lộc Ninh để phản ánh về các cuộc trao trả tù binh và khí thế đấu tranh của quân, dân ta đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, có lần Cao Kim còn bị vùi lấp dưới hầm vì bọn Mỹ - ngụy lật lọng, trắng trợn cho máy bay ném bom hủy diệt thị trấn Lộc Ninh, gây thêm tang tóc đối với đồng bào ta. May mà cậu ấy được đồng đội và bà con đào đất kéo lên, cứu chữa kịp thời. Năm sau, trên đường hành quân ở miền Trung, Cao Kim lại suýt phải báo tử do đột ngột bị xuất huyết toàn thân. Dù kiệt sức vì mất máu quá nhiều, phải cấp cứu tại bệnh viện Quân y gần nửa tháng, cậu ấy vẫn lạc quan, tự tin và chiến thắng bệnh tật."
Kể đến đây, nhà báo Thép Mới mỉm cười, giọng ông trầm xuống:" Chiến tranh là như thế. Đó là nơi thể hiện, bộc lộ rõ nhất bản lĩnh, phẩm chất, tính cách con người, trên mọi lĩnh vực. Những người thực sự dũng cảm, xông xáo, không sợ hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và lập công xuất sắc thường rất ít kể về bản thân. Ngược lại, kẻ nhút nhát, chuyên xu nịnh, cơ hội, bè phái, lúc cần xung trận là lảng tránh, gặp thất bại thì hoảng hốt, dao động và đổ lỗi cho người khác, khi chiến thắng thì tranh công, vỗ ngực khoác lác, coi mình như chứng nhân lịch sử và đòi hỏi đủ thứ. Ở Báo Giải Phóng có nhiều nhà báo đáng quý như Cao Kim. Nhưng cá biệt cũng có người thuộc dạng như tôi vừa nói. Làm báo cách mạng mà thiếu bản lĩnh, không biết tự trọng và tôn trọng sự thật, cứ ngộ nhận lịch sử, thật có lỗi với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và đồng nghiệp"... Tôi gặp lại anh Kim Toàn - nhà báo Cao Kim - sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hòa bình, thống nhất. Đó là thời gian anh vừa "nâng cấp" sức khỏe vừa tiếp tục hoàn chỉnh chương trình học tập lý luận chính trị, nghiệp vụ. Anh là một trong 12 nhà báo Việt Nam đầu tiên sau chiến tranh được Ban Tuyên huân Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam chọn cử đi học lớp bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ dành cho lãnh đạo các cơ quan báo chí do Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ) tổ chức tại Praha (Tiệp Khắc) và được cấp Thẻ Nhà báo Quốc tế. Trở về thành phố Cảng quê hương, anh Kim Toàn làm ủy viên Ban Biên tập kiêm Thư ký Tòa soạn, sau đó được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập, rồi Tổng Biên tập Báo Hải Phòng. Nhận nhiệm vụ Tổng Biên tập tờ báo của Đảng bộ địa phương vào những năm đầu thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, phải vượt qua biết bao khó khăn, thiếu thốn, anh cùng Ban Biên tập vừa quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, hình thức tờ nhật báo, vừa tích cực xây dựng, đào tạo lại đội ngũ người làm báo tại chỗ và tìm mọi cách từng bước đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất Tòa báo. Với phẩm chất, năng lực và nhiệt huyết báo chí của bản thân, hai khóa liền anh được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hải Phòng. Anh còn làm Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Nhà báo thành phố; ba khóa liền (khóa 5,6,7) được bầu vào Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam (riêng khóa 6, anh là ủy viên Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam phụ trách Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố phía Bắc). Anh chăm lo giúp đỡ lớp nhà báo trẻ kế cận để Báo Hải Phòng và tổ chức Hội Nhà báo địa phương luôn dồi dào nguồn cán bộ lãnh đạo. Các nhà báo Nguyễn Quân, Trịnh Lệnh, Kim Cúc, Quốc Hòa, Trọng Nghĩa... từ phóng viên và cán bộ cấp phòng lần lượt được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập Báo. Khi anh Kim Toàn nghỉ hưu, nhà báo Nguyễn Quân được bổ nhiệm làm Tổng Biên tập; nhà báo Trịnh Lệnh được điều động làm Giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình Hải Phòng và kế vị anh làm Chủ tịch Hội Nhà báo thành phố. Khi nhà báo Nguyễn Quân nghỉ hưu, nhà báo Trọng Nghĩa được bổ nhiệm làm Tổng Biên tập kế tiếp (tất nhiên, cùng với tầm nhìn và cách sắp xếp cán bộ của người đứng đầu cơ quan Báo và tập thể Ban Biên tập theo quy hoạch, còn phải có sự nỗ lực cá nhân của từng thành viên trong đội ngũ kế cận mới thành sự kế tục xứng đáng sau này). Mỗi khi nhắc đến nhà báo Kim Toàn, tôi và nhiều người còn nhớ những kỷ niệm và ấn tượng tốt đẹp về anh - một thành viên nhiệt tình, có trách nhiệm của Ban lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, nhiều năm gắn bó với các hoạt động của Hội. Ngày 12 tháng 7 năm 1996, anh Kim Toàn là một trong 20 nhà báo Việt Nam xuất sắc được Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ) tặng thưởng Huy chương cao quý của OIJ nhân kỷ niệm nửa thế kỷ thành lập tổ chức báo chí quốc tế lớn này. Không chỉ các nhà báo cao tuổi mà nhiều nhà báo trẻ, đồng chí, đồng nghiệp từng sống và làm việc với nhà báo Kim Toàn ở mọi miền mà tôi quen biết đều quý mến anh - một người luôn lạc quan, yêu đời, sống khiêm tốn, giản dị, trọng tình nghĩa và lúc nào cũng tâm huyết với nghề. Về hưu đã hơn mười năm, ngòi bút nhà báo Kim Toàn vẫn liên tục hoạt động. Dù tuổi cao, sức khỏe kém trước, anh vẫn không rời máy vi tính và máy ảnh. Tên anh luôn xuất hiện trên báo chí, cả trong Nam và ngoài Bắc, với những bài đầy ắp kỷ niệm về đồng chí, đồng nghiệp, Tổ quốc và nhân dân, gắn với một đời làm báo sôi nổi. KHÁNH TOÀN (Nguyên uỷ viên Thường vụ thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, nguyên Tổng Biên tập tạp chí "Người Làm Báo") |