Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:46:48 am



Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:46:48 am
Tên sách: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2010
Số hóa: macbupda

* Chỉ đạo nội dung:
   - Thiếu tướng, TS. PHẠM VĂN THẠCH
   - Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HÀ
   - Đại tá, PGS, TS. HỒ KHANG
* Chủ biên:
   Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
* Biên soạn:
   - Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
   - Đại tá VŨ TRỌNG HOAN
   - Trung tá, ThS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG


(https://i.imgur.com/nzDZnde.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuc
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:47:40 am
Lời nói đầu

Trong những năm 1978-1989, đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được giao nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước. Tiếp đó, theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam lại sát cánh cùng quân và dân Campuchia đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng hòng khôi phục chế độ diệt chủng; củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng các đoàn thể quần chúng rộng khắp, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân không ngừng lớn mạnh, đủ sức vươn lên đảm đương nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

Được nhân dân Campuchia yêu quý, đùm bọc, giúp đỡ tận tình và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đoàn kết, liên minh chiến đấu, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vô sản cao cả, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng Campuchia. Đó là thắng lợi hết sức lo lớn của tình đoàn kết chiến đấu giữa Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia; đồng thời cũng là thắng lợi chung của cách mạng ba nước Việt Nam, Campuchỉa và Lào.

Nghiên cứu lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia (1978-1989) là việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia là một bộ phận của lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam; đồng thời là một bộ phận của lịch sử quan hệ, đoàn kết chiến đấu giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội hai nước Việt Nam - Campuchia.

Với ý nghĩa đó, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)” nhằm khẳng định sự giúp đỡ to lớn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, vô tư của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đối với cách mạng Campuchia; đồng thời góp phần phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.

Nội dung cuốn sách trình bày hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ quá trình giúp cách mạng và nhân dân Campuchia (1978), đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân (1979), truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng chính trị, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, đến khi thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đề ra, rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước (1989).

Tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, biên soạn, song chắc chắn cuốn sách khó tránh khỏi khiếm khuyết. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam rất mong Bạn đọc đóng góp, phê bình để khi có điều kiện tái bản cuốn sách đạt chất lượng tốt hơn.

Nhân dịp cuốn “Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)” xuất bản, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã giúp đỡ tận tình để cuốn sách được ra mắt Bạn đọc.


VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:48:36 am
MỞ ĐẦU

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng nằm trên bán đảo Đông Dương. Campuchia có diện tích 181.035 kilômét vuông; phía Tây và Tây Bắc giáp Vương quốc Thái Lan, phía Bắc giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, phía Nam tiếp giáp vịnh Thái Lan với bờ biển dài hơn 400 kilômét, phía Đông giáp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với đường biên giới chung dài khoảng gần 1.000 kilômét.

Campuchia là quốc gia có điều kiện khí hậu, đất đai rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là các loại cây lương thực, cây ăn quả và cây công nghiệp; đồng thời có nhiều lâm sản quý, mỏ kim loại và các loại đá quý; nguồn nước ngọt và cá Biến Hồ khá dồi dào, góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước.

Campuchia là một quốc gia đa dân tộc với khoảng 13,5 triệu người (2005); bao gồm người Khơme, người Hoa, người Việt... Campuchia có hai tôn giáo lớn; Bà la môn và đạo Phật, với công trình kiến trúc Ăngco Thom và Ăngco Vát có nhiều chùa tháp, đền đài. Dân tộc Campuchia có nhiều tài năng sáng tạo không chỉ trong lao động sản xuất mà cả trong nghệ thuật kiến trúc.

Nhân dân Campuchia có nhiều nét tương đồng với nhân dân Việt Nam, đều cần cù lao động, yêu hoà bình và tự do, quá trình xây dựng đất nước đã xây đắp nên một nền văn hoá, nghệ thuật đẩy sức sống. Từ lâu giữa hai nước Việt Nam và Campuchia đã có quan hệ kinh tế, nhưng do đường giao thông đi lại khó khăn và là hai nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn nặng về tự cung tự cấp, nên giao lưu hàng hoá còn hạn chế. Từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị lên ba nước Đông Dương, bắt đầu khai thác thuộc địa để vơ vét tài nguyên, một số đường giao thông qua biên giới hai nước Việt Nam - Campuchia bắt đầu được xây dựng để vận chuyển, khai thác tài nguyên ở các nước trên bán đảo Đông Dương. Mặc dù có điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế và có nhiều lâm, thổ sản quý, các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp, nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến, nền kinh tế của hai nước Việt Nam - Campuchia còn nghèo nàn, lạc hậu; đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.

Cùng chung một kẻ thù, cùng nguyện vọng đấu tranh giải phóng đất nước, nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia dễ đồng cảm và liên kết với nhau một cách tự nhiên để chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm 1863-1888, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long (Việt Nam) đã có sự liên kết nhất định với nhân dân ở phía Đông Campuchia. Nhiều đội nghĩa quân của hai nước hoạt động dọc biên giới Việt Nam - Campuchia như Trương Quyền... (Việt Nam), A Cha Xoa, Pô Kum Bô... (Campuchia) được nhân dân hai nước giúp đỡ đã gây cho thực dân Pháp một số thiệt hại. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Campuchia cuối thế kỷ XIX và các phong trào yêu nước của nhân dân hai nước đầu thế kỷ XX còn mang tính cục bộ, chưa kết thành phong trào rộng lớn, đặc biệt là thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp với thời đại, nên chưa phát động được mọi tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Trong lúc cách mạng Việt Nam, Campuchia và Lào đang lúng túng, bế tắc về đường lối, thì tháng 10 năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời kỳ mới trong phong trào cách mạng thế giới, thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ. Là người Việt Nam đầu tiên đến với Cách mạng Tháng Mười Nga, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Đông Dương.

Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930, được sự ủy nhiệm của quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (gồm Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ở Trung Kỳ) thành một Đảng Cộng sản duy nhất mang tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 10 năm 1930 đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương). Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia ngày nay), đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia, Lào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất (10-1930) phân tích: Ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đều là thuộc địa của thực dân Pháp, ba dân tộc tuy khác nhau nhưng cùng chung một ách thống trị của thực dân, có quan hệ mật thiết với nhau về chính trị, kinh tế, địa lý; do đó, cần phải liên kết chặt chẽ với nhau, đoàn kết và thống nhất hoạt động chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngay sau khi thành lập, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương giao cho tổ chức Cộng sản các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ trách nhiệm giúp đỡ xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng chi bộ Đảng ở Campuchia và Lào. Đối với Campuchia, từ năm 1930 và những năm tiếp theo, Việt Nam đã giúp những người cách mạng Campuchia xây dựng các cơ sở quần chúng cách mạng, các chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên lần lượt được xây dựng ở Phnôm Pênh, Côngpông Chàm, Kanđan, Báttambang... Từ đây, bắt đầu hình thành liên minh chiến đấu giữa cách mạng ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào trên tinh thần quốc tế vô sản.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, cao trào cách mạng 1930-1931 ở Việt Nam, đỉnh cao là Xô-viết – Nghệ Tĩnh, đã gây tiếng vang lớn đối với Campuchia và Lào, khích lệ tinh thần đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Pháp. Rút kinh nghiệm từ Xô-viết - Nghệ Tĩnh, những năm 1930-1933 và 1936-1939, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương hướng trọng tâm hoạt động sang xây dựng cơ sở quần chúng, nhất là cơ sở trong Việt kiều, phát triển chi bộ Đảng cả ở Campuchia và Lào. Nhờ vậy, đường dây liên lạc giữa Việt Nam, Campuchia và Lào duy trì thường xuyên, thông suốt.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:51:25 am
Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới lần thứ hai chuyển biến rất mau lẹ với thắng lợi dồn dập của Liên Xô và phe Đồng minh. Trước tình hình quân Đồng minh sớm muộn sẽ vào, phát xít Nhật tiến hành đảo chính, hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ở Campuchia, sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật hất cẳng Pháp, đưa Sơn Ngọc Thành lên làm Bộ trưởng ngoại giao rồi làm Thủ tướng chính phủ thân Nhật. Vua Xihanúc chỉ biết xin Nhật hoàng sớm ban bố sắc dụ thừa nhận nền độc lập cho Campuchia như họ đã hứa sau ngày đảo chính. Trong khi đó, cơ sở tổ chức Đảng ở Campuchia đã bị khủng bố từ năm 1938, cuộc vận động yêu nước của Acha Hemchiêu cũng bị dẹp tan; vì vậy, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh nhưng ở Campuchia không có một cuộc nổi dậy giành chính quyền như ở Việt Nam và Lào. Chính quyền Campuchia vẫn nằm trong tay vua Xihanúc và Thủ tướng Sơn Ngọc Thành.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp dựa vào quân Anh nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Tiếp đó, tháng 10 năm 1945, thực dân Pháp đưa quân từ Sài Gòn lên chiếm đóng vùng Đông Bắc Campuchia, hòng tạo bàn đạp đánh chiếm vùng Hạ Lào và phối hợp với cánh quân trên đường số 14 đánh chiếm Tây Nguyên.

Trước tình hình thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước Đông Dương, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, trong đó chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ tư lệnh Lào - Miên (10-1946). Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã giúp Campuchia phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, một số nhân sĩ Campuchia tạm lánh sang Thái Lan, được sự giúp đỡ của lực lượng kháng chiến Việt kiều đã thành lập “Ủy ban dân tộc giải phóng Khơme”. Tuy nhiên, do thành phần trong ủy ban có những phần tử phức tạp, gây chia rẽ, đến năm 1949, ủy ban này tan rã. Một bộ phận tiên tiến trong “Ủy ban dân tộc giải phóng Khơme” đã kịp thời tách ra khỏi ủy ban này và tổ chức các cơ sở cách mạng trong nhân dân, xây dựng các khu căn cứ ở vùng Pailin, Báttambang. Một bộ phận khác tổ chức các nhóm vũ trang hoạt động trong các phum, sóc ở tỉnh Báttambang, miền Đông và miền Nam Campuchia. Từ năm 1947 trở đi, những người yêu nước Campuchia liên hệ mật thiết với lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ (Việt Nam), thành lập các khu kháng chiến ở các vùng Đông Nam (1947), Đông Bắc, Tây Nam (1948). Từ những căn cứ kháng chiến này, sự đoàn kết chống thực dân Pháp giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia ngày càng được tăng cường và phát triển.

Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về tăng cường phối hợp, đẩy mạnh kháng chiến, các khu 7, 8, 9 và Liên khu 5 điều động các đội vũ trang tuyên truyền và cán bộ lần lượt sang hoạt động, gây cơ sở ở nhiều vùng căn cứ của Campuchia. Tháng 9 năm 1948, Khu 8 phái một đơn vị thuộc Trung đoàn 115 sang vùng Đông Nam Campuchia tổ chức đường liên lạc nối liền vùng giải phóng các tỉnh Prâyveng, Kandan với vùng giải phóng hai tỉnh Tàkeo và Svâyriêng ở vùng Đông Bắc. Tháng 10 năm 1948, Khu 7 cử một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 305 sáp nhập với đơn vị Ítxarắc (tỉnh Svâyriêng) và một đại đội thuộc Trung đoàn 311 thành một đơn vị hỗn hợp Khơme - Việt Nam, mang tên Bộ đội Sivôtha, với khoảng 600 cán bộ, chiến sĩ. Bộ đội Sivôtha đã đánh một số trận ở Ba Thu, Ba Vệt, Sóc Dầm; kiểm soát đường số 1 từ Sài Gòn đi Phnôm Pênh. Cuối năm 1948, đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên của Liên khu 5 sang giúp Bạn ở Đông Bắc tỉnh Krachiê. Ở vùng Tây Nam Campuchia, Khu 9 cũng lần lượt cử một số đơn vị sang phối hợp với Bạn xây dựng thành những đơn vị hỗn hợp Miên - Việt như hai đơn vị 302, 305 hoạt động ở tỉnh Campốt, đơn vị 632 ở tỉnh Tàkeo. Năm 1949, Khu 9 điều Trung đoàn 131 sang khu căn cứ vùng Tây Nam, giúp cách mạng Campuchia.

Để đẩy mạnh việc giúp đỡ cách mạng Campuchia, tháng 3 năm 1950, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Ban cán sự toàn Miên (Campuchia). Tiếp đó, Liên khu 5 đưa đội vũ trang tuyên truyền thứ hai sang giúp Bạn ở đông bắc tỉnh Stung Treng. Sau một thời gian, đội được Đặc ủy Việt kiểu tổ chức và chỉ đạo hoạt động ở Đông Bắc Côngpông Thom. Cuối năm 1950, Liên khu 5 đưa đội vũ trang tuyên truyền thứ ba sang tăng cường hoạt động ở vùng Đông Bắc Stung Treng. Nhờ vậy, phong trào kháng chiến của Campuchia từng bước phát triển, cơ sở mở rộng xuống các vùng đồng bằng đông dân, đường số 13, số 19. Sau đó, ta còn đưa một số đội vũ trang tuyên truyền sang hoạt động giúp Bạn kháng chiến.

Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II ra nghị quyết về các vấn đề quan trọng của cách mạng ba nước Đông Dương, trong đó nêu rõ: “Nhiệm vụ của cách mạng ba dân tộc nói chung vẫn là chống đế quốc nhưng cũng có nhiều điểm cụ thể khác nhau”(1). Đại hội xác định sẽ thành lập ở mỗi nước một chính đảng cách mạng riêng, phù hợp với hoàn cảnh từng nước để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở các nước Việt Nam, Campuchia và Lào được đẩy mạnh. Tháng 3 năm 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme yêu nước (Ítxarắc), Mặt trận Lào tự do họp, quyết định thành lập “Khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào” dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tương trợ, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

Để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, ngày 19 tháng 6 năm 1951, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia được thống nhất với tên gọi Quân đội giải phóng Ítxarắc. Tiếp đó, ngày 28 tháng 6 năm 1951, Việt Nam giúp Bạn thành lập Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia (lúc đầu mang tên là Đảng Nhân dân Khơme)(2).


(1) Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật. H, 1975, tr.156.
(2) Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, diễn ra lừ ngày 26 đen ngày 29 tháng 5 năm 1981, đã quyết định lấy ngày 28 tháng 6 là ngày thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:53:47 am
Theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, từ năm 1951, Việt Nam giúp Campuchia tổ chức Mặt trận Ítxarắc, từng bước xây dựng, mở rộng cơ sở ở nhiều nơi, xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập Chính phủ kháng chiến lâm thời. Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1951-1954), Việt Nam đưa quân tình nguyện sang giúp Bạn kháng chiến. Quân đội giải phóng Ítxarắc đã kề vai sát cánh cùng với Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Đầu năm 1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Campuchia và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta chủ trương đẩy mạnh tác chiến ở vùng Đông Bắc Campuchia để phối hợp với các chiến trường, nhất là chiến trường Tây Bắc Việt Nam và chiến trường Thượng Lào. Những ngày đầu tháng 4 năm 1954, Trung đoàn 101 (Đại đoàn bộ binh 325) cùng với đại đội 200 Quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào tiến xuống phối hợp với các lực lượng vũ trang ở vùng Đông Bắc Campuchia, mở cuộc tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn và một số thị xã (gồm 1/2 diện tích và 1/6 số dân cả nước Campuchia), góp phần đánh bại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Campuchia góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân các nước Đông Dương. Đặc biệt, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, thừa nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào. Quân viễn chinh Pháp phải rút toàn bộ ra khỏi Đông Dương, chấm dứt chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ.

Sau Hiệp định Giơnevơ, hòa bình được lập lại trên đất nước Campuchia. Chính phủ Vương quốc Campuchia do Nôrôđôm Xihanúc làm Thủ tướng (từ năm 1960 là Quốc trưởng) tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập. Sự lựa chọn này tạo thuận lợi cho việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình trên bán đảo Đông Dương. Song, việc Campuchia đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập đã khiến đế quốc Mỹ phải thực hiện âm mưu khác với Việt Nam và Lào: từ dùng sức ép chính trị, thông qua viện trợ kinh tế, quân sự đến dùng bạo lực lật đổ, can thiệp quân sự.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ đã hậu thuẫn Lon Non - Xirích Matắc, thành viên trong Chính phủ Vương quốc Campuchia, tiến hành đảo chính lật đổ Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, thành lập chính phủ mới do Cheng Heng làm Quốc trưởng, Lon Non làm Thủ tướng. Ngày hôm sau, Chính phủ Mỹ tuyên bố công nhận Chính phủ Lon Non.

Cuộc đảo chính đã làm tăng mâu thuẫn cao độ giữa toàn thể nhân dân Campuchia với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phản động. Chỉ 5 ngày sau khi nổ ra đảo chính, Chính phủ đoàn kết dân tộc Campuchia, Mặt trận thống nhất dân tộc và Quân đội giải phóng dân tộc Campuchia được thành lập. Ngày 29 tháng 3 năm 1970, tiếng súng chống Mỹ và tay sai bùng nổ ở tỉnh Tàkeo, mở đầu cuộc đấu tranh mới của nhân dân Campuchia.

Trước tình hình đế quốc Mỹ lật đổ Chính phủ Xihanúc, ngày 4 tháng 4 năm 1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện số 99 cho Trung ương Cục miền Nam, yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy. các chiến trường: “Nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài”(1).

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, chỉ huy của Trung ương Cục, Quân ủy Miền và theo yêu cầu của Bạn, một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công địch, giải phóng nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh Krachiê, Tàkeo, Campốt.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, đế quốc Mỹ huy động 10 vạn quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia, đưa Campuchia vào quỹ đạo của Mỹ; đồng thời bao vây, uy hiếp cách mạng miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị ta quyết định cử một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam sang phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia chiến đấu chống Mỹ. Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và theo yêu cầu của Bạn, Cuối tháng 4 năm 1970, 4 sư đoàn bộ binh (1, 5, 7, 9), 2 trung đoàn bộ binh (24, 25), Trung đoàn pháo binh 211, tiểu đoàn đặc công Quân giải phóng miền Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công ở vùng biên giới Việt Nam - Campuchia và các tỉnh Đông Bắc Campuchia nhằm đánh bại âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương. Sau hơn hai tháng chiến đấu (29-4 đến 30-6-1970), bộ đội ta và Bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu gồm 2 vạn tên, trong đó có hàng ngàn tên Mỹ(2); giải phóng 5 tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia với hơn 4 triệu dân. Thắng lợi của chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia làm thất bại chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của Học thuyết Níchxơn, buộc phần lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Campuchia, tạo điều kiện xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh kháng chiến ở Campuchia.


(1) Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Điện số 99 gửi Trung ương Cục miền Nam (ngày 4-4-1970), lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb CTQG, H, 2005, tr. 279. Theo tài liệu của Quân đội Sài Gòn, chiến dịch nảy có 7.450 tên ngụy, 2.765 tên Mỹ bị diệt.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 06:59:33 am
Trong năm 1970, ta và Bạn còn phối hợp chiến đấu đánh bại cuộc hành quân Chenla 1 (từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1970). Đặc biệt là, trong năm 1971, ta và Bạn mở 2 chiến dịch gồm: Chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia và chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chenla 2. Trong chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia (từ ngày 4-2 đến ngày 31-5-1971), các đơn vị ta gồm 3 sư đoàn bộ binh (5, 7, 9); 2 trung đoàn pháo binh (75, 96Z), 1 trung đoàn đặc công, 3 đại đội bộ binh và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71” của Mỹ - quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2 vạn tên(1), phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, bảo vệ an toàn khu căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam.

Trong chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chenla 2 (27-10 đến 4-12-1971), các đơn vị ta gồm Sư đoàn bộ binh 9, bốn trung đoàn bộ binh độc lập (205, 207, 201, 203), Tiểu đoàn 32, Tiểu đoàn pháo binh 22 và lực lượng cách mạng Campuchia có hai tiểu đoàn cùng một số đại đội bộ đội địa phương tỉnh, du kích các phum đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, thu nhiều vũ khí, đánh bại cuộc hành quân Chenla 2, tạo ra thế so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Campuchia.

Những thắng lợi to lớn của lực lượng vũ trang ta và Bạn trên chiến trường Campuchia trong năm 1971 đã tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Campuchia. Từ cuối năm 1971, thế và lực của cách mạng Campuchia phát triển vượt bậc, buộc quân đội Lon Non phải co về phòng ngự trong các thành phố, thị xã. Các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, được sự chi viện của Quân tình nguyện Việt Nam, tiếp tục tiến công quân đối phương trên khắp các mặt trận, bao vây Thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố, thị xã, khống chế đường giao thông, đẩy quân ngụy Lon Non lâm vào tình thế bị cô lập.

Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ thúc ép quân Lon Non mở các cuộc hành quân lấn đất, chiếm dân, hòng mở rộng địa bàn chiếm đóng. Điển hình là tháng 2 năm 1972, chúng tập trung 15 tiểu đoàn quân ngụy Campuchia cùng 22 tiểu đoàn địa phương quân và Binh đoàn 9 mở cuộc hành quân mang mật danh Ăngco Chey đánh ra khu vực Ba Rài - Ăngco Vát. Theo yêu cầu của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, tháng 7 năm 1972, Quân ủy Trung ương giao cho Bộ tư lệnh Miền thống nhất với Bạn mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Ăngco Chey. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 203, Tiểu đoàn đặc công 28, Đoàn 1 pháo binh Miền; lực lượng vũ trang Campuchia có 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 304, 1 đại đội trợ chiến, 6 đại đội độc lập. Sau 20 ngày phối hợp tiến công (từ ngày 8 đến 28-8-1972), lực lượng vũ trang ta và Bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 487 tên, bắt 17 tên, phá hủy một số vũ khí trang bị, đánh bại cuộc hành quân Ăngco Chey, góp phần giữ vững vùng giải phóng Campuchia; đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long (từ ngày 10-6 đến 10-9-1972) thắng lợi.

Sang năm 1973, với việc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27-1) về Việt Nam và ký Hiệp định Viêng Chăn (21-2) về Lào đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng trên bán đảo Đông Dương. Phát huy thế thuận lợi, quân và dân Campuchia, được sự hỗ trợ tích cực và phối hợp chặt chẽ của Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục tiến công địch trên các mặt trận, giành thắng lợi lớn. Đến cuối năm 1973, vùng giải phóng Campuchia được mở rộng, chiếm 90% diện tích cả nước với 5 triệu dân. Với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, trong năm 1974, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia lần lượt bẻ gãy các cuộc hành quân Menben Rum Chây, Đen-ta 28, Rôlut Xiêm Riệp của địch, sau đó bao vây thủ đô Phnôm Pênh.

Những tháng đầu năm 1975, thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 ở miền Nam đã tác động mạnh mẽ đến cách mạng Campuchia. Đứng trước thời cơ thuận lợi, từ ngày 14 đến 16 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng Campuchia liên tục tiến công đánh chiếm nhiều vị trí trọng yếu của địch. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng Campuchia tiến công làm chủ hoàn toàn Phnôm Pênh. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi. Đây cũng là thắng lợi chung của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia và Lào.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo thuận lợi cho nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia và Lào xây dựng và phát triển đất nước. Bước sang thời kỳ cách mạng mới, Đảng ta tiếp tục chủ trương: Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”(2).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004, tr. 306, 316.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H, 1977, tr. 178-179.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 07:00:04 am
Thế nhưng, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Campuchia vừa giành thắng lợi, cũng là lúc cuộc cách mạng Campuchia bị phản bội. Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari lợi dụng thành quả cách mạng Campuchia để thiết lập “Nhà nước Campuchia dân chủ”, thi hành đường lối đối nội, đối ngoại phản động. Về đối nội, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari dựng lên mô hình “Chủ nghĩa cộng sản độc đáo kiểu Campuchia”, xóa bỏ thành thị, chợ, tiền tệ, tôn giáo, trường học, văn hóa dân tộc; dồn dân thành thị về nông thôn, cưỡng bức lao động khổ sai trong các “công xã”; dùng nhiều thủ đoạn man rợ thủ tiêu tất cả những người chống đối. Về đối ngoại, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari kích động thù hằn dân tộc chống Việt Nam. Thực hiện âm mưu đó, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xan khước từ mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Đảng và Nhà nước ta, ráo riết xây dựng lực lượng quân sự, chuẩn bị chiến tranh, đưa một lực lượng lớn quân đội áp sát biên giới Tây Nam Việt Nam, gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm, làm cho tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia ngày càng căng thẳng.

Ngay sau ngày quân và dân ta giải phóng miền Nam (30-4-1975), Pôn Pốt đã đưa quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc (3-5-1975), Thổ Chu (10-5-1975). Từ cuối năm 1975, đầu 1976, quân Pôn Pốt liên tiếp xâm phạm biên giới Việt Nam có hệ thống và quy mô ngày càng lớn. Tháng 3 năm 1977, Pôn Pốt cho quân lấn sâu vào nhiều nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam trên tuyến biên giới dài gần 100 kilômét, từ Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang) đến Tịnh Biên (tỉnh An Giang). Lính Pôn Pốt gài chông, mìn, lựu đạn, bắt trâu bò, cướp dụng cụ sản xuất và tàn sát nhân dân ta. Đặc biệt nghiêm trọng là đêm 30 tháng 4 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari huy động lực lượng cỡ 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh cùng lực lượng địa phương hai tỉnh Tàkeo, Kandan bất ngờ mở cuộc tiến công vào hầu hết các đồn công an nhân dân vũ trang Việt Nam dọc biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương thuộc tỉnh An Giang, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Từ đây, số vụ gây chiến tranh xâm lược của quân đội Pôn Pốt trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta ngày càng tăng, từ 174 vụ năm 1975 và 254 vụ năm 1976, tăng lên 1.150 vụ năm 1977 và đến tháng 10 năm 1978 lên tới 4.820 vụ. Chúng đốt cháy hàng vạn ngôi nhà, hàng nghìn trâu, bò bị giết, hàng vạn héc ta ruộng bị bỏ hoang, đặc biệt là giết hại hàng vạn dân thường, trong đó phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em.

Hành động của quân Pôn Pốt không còn mang tính chất là những vụ xung đột quân sự vi phạm biên giới quy mô nhỏ, lẻ, mà đã phát triển thành một cuộc chiến tranh xâm lược. Cuối tháng 12 năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tập trung 19 sư đoàn áp sát biên giới Campuchia - Việt Nam. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, chúng huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương ra lệnh cho các đơn vị bộ đội ta tổng phản công, tiến công trên toàn tuyến biên giới, quyết tâm tiêu diệt quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng các phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy, đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, quân và dân ta đã kiên quyết đánh trả, đẩy quân Pôn Pốt ra khỏi biên giới, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tiếp đó, theo yêu cầu của nhân dân và Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiến hành tổng tiến công, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979), cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng và hồi sinh đất nước.

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng, sớm có quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lịch sử và mối quan hệ đó đã trở thành một truyền thống, một quy luật tồn tại và phát triển của hai nước. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, hai dân tộc cùng sát cánh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, truyền thống đó được biểu hiện rõ nét qua những lần Việt Nam kịp thời đáp lời kêu gọi của cách mạng Campuchia, sẵn sàng đưa Quân tình nguyện sang giúp Bạn: lần đầu tiên sang phối hợp chiến đấu với Bạn chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); lần thứ hai đưa Quân tình nguyện sang giúp Bạn trong kháng chiến chống Mỹ (1970-1975); lần thứ ba sang giúp cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, giải phóng đất nước, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 07:04:20 am
Chương I

QUÂN TÌNH NGUYỆN VÀ CHUYÊN GIA QUÂN SỰ VIỆT NAM
GIÚP CÁCH MẠNG CAMPUCHIA GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC
KHỎI CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
(1978-1980)

1. Quá trình hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia chống chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (17-4-1975), nhân dân Campuchia hy vọng sẽ được sống độc lập, hoà bình và hoà hợp dân tộc để xây dựng đất nước. Nhưng cách mạng Campuchia đã bị lực lượng Khơme đỏ, do tập đoàn Pôn Pốt(1) - Iêng Xari đứng đầu phản bội. Đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt: Dân tộc Campuchia đứng trước thảm họa diệt chủng; đồng thời cũng hết sức khó khăn, phức tạp đối với các lực lượng yêu nước chân chính, nhất là lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.

Sau khi thành lập Nhà nước Campuchia dân chủ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đề ra mục tiêu phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, trong đó tập trung mọi nỗ lực, tự lực cánh sinh cao độ, thực hiện một cuộc cách mạng triệt để, từ 15 - 20 năm có nền công nghiệp hiện đại phục vụ trở lại nông nghiệp. Thực hiện mục tiêu đó, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tổ chức lại đất nước, khai thác “thế mạnh nông nghiệp” của Campuchia và đề ra khẩu hiệu: “có lúa có tất cả”, “có lúa là có sắt thép”, “lúa là vàng, là nhà máy”. Để tập trung cho phát triển nông nghiệp, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari cho rằng những gì không phải là nông nghiệp, không có ích cho “phát triển kinh tế nông nghiệp”, trong đó có thành thị đều phải xoá bỏ triệt để. Thực hiện chủ trương đó, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã dồn dân thành phố về các vùng nông thôn, biến những người “không có ích cho nông nghiệp” thành những nông dân lao động trong các công xã. Cuộc dồn dân lần thứ nhất (diễn ra trong tháng 4 năm 1975) đã đẩy hơn 2 triệu dân Phnôm Pênh, hơn 200,000 dân ở Báttambang và hàng chục vạn dân ở các thị xã, thị trấn khác (khoảng gần nửa số dân của cả Campuchia) về các vùng nông thôn. Tháng 5 năm 1975, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện tiếp đợt dồn dân thứ hai, xáo trộn dân trong toàn quốc, chuyển dân từ các tỉnh phía Nam và phía Đông về phía Tây Bắc nhằm tập trung nhân lực khai thác vùng này, loại trừ khả năng chống đối trong nhân dân.

Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thi hành nhiều chính sách rất thâm hiểm như: xoá bỏ thành thị, đóng cửa hàng loạt xí nghiệp, công xưởng, các trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật ở thành phố. Thủ tiêu mọi hoạt động dịch vụ, đuổi hàng triệu người dân thành thị về các vùng nông thôn, rừng núi, buộc phải đi làm các công việc nặng nhọc trên đồng ruộng, trong rừng rú. Dồn dân ở nông thôn vào các “công xã”, cưỡng bức làm ăn chung theo kiểu trại lính, tước đoạt ruộng đất và mọi tư liệu sản xuất của nông dân, biến họ thành những xã viên công xã bị kìm kẹp, áp bức dưới chế độ “Ăngca”(2). Xoá bỏ tiền tệ, xoá bỏ lưu thông hàng hoá, cấm mua bán, đổi chác. Phá bỏ trường học, chùa chiền, nhà thờ, cấm các hoạt động tôn giáo.

Những chính sách tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nhân dân Campuchia trên tất cả các lĩnh vực sản xuất đình đốn, 5.857 trường học, 796 bệnh viện, phòng thí nghiệm bị phá bỏ; 1.968 ngôi chùa, 108 đền thờ bị đập phá... Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã gây ra sự xáo trộn lớn trong đời sống văn hoá, xã hội, làm đảo lộn các giá trị văn hoá truyền thống. Theo số liệu công bố tại kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khoá I nước Cộng hoà nhân dân Campuchia: Trong 3 năm 8 tháng 20 ngày cầm quyền, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã tàn sát 3.314.768 người; đưa đi mất tích gần 570.000 người, làm cho 141.848 người bị tàn phế, hơn 200.000 trẻ em bị mồ côi. Tội ác diệt chủng do tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari gây ra là “tai họa khủng khiếp, là tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử loài người”(3).

Đối với quân đội, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari dùng mọi thủ đoạn thanh trừng nội bộ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ yêu nước, nhất là những người có quan hệ với Việt Nam bị cách chức, thanh trừng và sát hại, thay vào đó là những phần tử hẹp hòi, quân phiệt. Tháng 6 năm 1976, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thanh trừng cán bộ quân sự (cán bộ chủ trì) trong Bộ chỉ huy miền Đông, bắt đưa đi thủ tiêu nhiều cán bộ từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn, ở Sư đoàn 3, 60% cán bộ chủ chốt bị loại trừ. Tiếp đó, chúng tổ chức thanh trừng cán bộ Vùng 24 (Quân khu 203), chúng bắt 90% cán bộ từ cấp xã đến cấp vùng và 10 cán bộ từ cấp tiểu đoàn đến cấp sư đoàn của Sư đoàn 4 để thanh trừng. Tháng 7 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari mở cuộc thanh trừng cán bộ cao cấp trong quân đội Campuchia không theo chúng.

Những chính sách tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện mang tính chất diệt chủng, đưa dân tộc Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong, đồng thời cũng buộc những đảng viên, chiến sĩ cách mạng chân chính và những người yêu nước Campuchia phải vùng lên đấu tranh để cứu dân tộc, cứu nước cứu mình. Không cam chịu dưới chế độ thống trị tàn bạo của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, nhân dân Campuchia đã vùng lên đấu tranh với những hình thức và phương pháp khác nhau, từ các vụ chống đối lẻ tẻ ở một số khu, vùng, đơn vị quân đội, từng bước lan rộng ra nhiều nơi trong cả nước.


(1) Theo một số tài liệu nước ngoài thì Pôn Pốt sinh năm 1925 (cũng có tài liệu nói là 1928) tên thật là Xa Lôt Xa, xuất thân từ một gia đình quan lại có họ với vua. Năm 1947, Xa Lôt Xa học tại Pháp và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1953 về nước, với danh nghĩa đảng viên Đảng Cộng sản Pháp xin gia nhập Đảng Nhân dân cách mạng Cao Miên (1954). Bằng nhiều thủ đoạn, Pôn Pốt từng bước nắm quyền lãnh đạo Đảng, đưa Đảng đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau khi giành được chính quyền từ tay Lon Non, Pôn Pốt làm Thủ tướng. Bằng việc thi hành chính sách đuổi dân ra khỏi thành phố, biến họ thành những người nô lệ sông trong các “công xã” và buộc phải lao động kiệt sức trên đồng ruộng, biến binh lính thành những người chỉ biết phục tùng lệnh của “Ăngca”, Pôn Pốt và tập đoàn lãnh đạo do y đứng đầu đã gây ra họa diệt chủng ở Campuchia, gây chiến tranh biên giới chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù số 1... Khi Phnôm Pênh được giải phóng (1-1979) Pôn Pốt chạy ra nước ngoài, tiếp tục chỉ đạo lực lượng Khơme đỏ chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân Campuchia.
(2) Theo tiếng Campuchia “Ăngca” là tổ chức thể hiện sự thần bí, quyền uy tối thượng bất khả xâm phạm. Thuật ngữ “Ăngca” xuất hiện lần đầu trên đài phát thanh của Pôn Pốt vào ngày 19 tháng 3 năm 1971. Sau ngày 17 tháng 4 năm 1975, thuật ngữ “Ăngca” xuất hiện trong hiến pháp của Campuchia dân chủ.
(3) Trường Chinh: Vấn đề Campuchia, Nxb Sự thật, H, 1979, tr. 11.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 07:07:55 am
Từ năm 1975, trên địa bàn các tỉnh Đông Bắc Campuchia đã có các nhóm ly khai hoạt động chống lại chế độ Pôn Pốt. Nhân dân huyện Tà Veng (55A), huyện Vươn Sai (tỉnh Ráttanakiri), dưới sự lãnh đạo của đồng chí Bu Thoong và đồng chí Bun Mi, đã nổi lên chống lại chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari. Các đồng chí Bu Thoong, Bun Mi cùng đồng chí Thoong Bay (Huyện ủy viên huyện 52T), đồng chí Sươn Huyện ủy viên (huyện 55B), đồng chí Khăm Phun (Bí thư xã Vươn Sai) đứng ra vận động, tập hợp hơn 4.000 người, lựa chọn xây dựng được 5 trung đội vũ trang làm nòng cốt xây dựng căn cứ U-pứng, sát biên giới Việt Nam. Đồng chí Soi Keo được giao phụ trách 5 trung đội vũ trang công tác, cùng đồng chí Thoong Bay phụ trách các tổ chức quần chúng nhân dân đánh địch, bảo vệ căn cứ. Trước sự phát triển của phong trào ly khai ở các tỉnh Đông Bắc, Pôn Pốt - Iêng Xari đã huy động quân đội đàn áp. Để bảo toàn lực lượng, tháng 8 năm 1975, đồng chí Bun Mi triệu tập một cuộc họp bàn việc tổ chức cho nhiều cán bộ ly khai lánh sang hai nước Việt Nam và Lào. Đoàn sang Lào có 2.500 người, do các đồng chí Khum, Tương, Sươn phụ trách. Đoàn sang Việt Nam có 1.943 người của hai làng Kcho Buôn và Kcho Dươi, do hai đồng chí Bu Thoong và Thoong Bay phụ trách. Lực lượng còn lại do đồng chí Bun Mi chỉ huy, lập căn cứ ở Tàgiạc chống lại quân Pôn Pốt.

Sau khi sang Việt Nam (tháng 9 năm 1975), lực lượng ly khai của các tỉnh Đông Bắc Campuchia chuyển về Gia Bốc (tỉnh Gia Lai - Kon Tum). Được sự giúp đỡ của nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum, họ đã dần dần có cuộc sống ổn định, nhiều người trong số họ tích cực tham gia các đội vũ trang cách mạng, sẵn sàng trở về giải phóng quê hương.

Cùng với phong trào nổi dậy ở các tỉnh Đông Bắc, ở nhiều nơi khác, dưới sự lãnh đạo của những người yêu nước cách mạng, binh lính và quần chúng nhân dân Campuchia cũng liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari và thu được một số kết quả. Tại thị xã Krachiê, ngày 24 tháng 3 năm 1976, lực lượng nổi dậy đã chiếm toàn bộ các cơ quan vùng đặc biệt Krachiê; kiểm soát toàn bộ đường sông, đường biển đến Krachiê. Một số cán bộ chính quyền của Pôn Pốt bỏ chạy, buộc Pôn Pốt phải điều lực lượng của Quân khu Tây Nam lên giải tỏa, lập lại chính quyền. Trong hai năm 1976-1977, phong trào nổi dậy không chỉ lan rộng ra nhiều địa bàn, thu hút các lực lượng tham gia, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp: từ huyện đến vung, khu và cả Trung ương; có người là Bộ trưởng, Thứ trưởng, Bí thư Chủ tịch... Trong quân đội có cán bộ từ cấp sư đoàn xuống tới trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội đã bí mật tổ chức lực lượng đánh lại bọn Pôn Pốt. Tháng 4 năm 1976, Chakrey, Tư lệnh Sư đoàn 170 lên kế hoạch lật đổ chính quyền ở Phnôm Pênh. Nhiều cán bộ chỉ huy trung, cao cấp trong quân đội, cán bộ phụ trách các cơ quan trực thuộc Trung ương, một số cán bộ tỉnh ủy và đơn vị chủ lực cùng tham gia kế hoạch này bị mật vụ của Pôn Pốt phát hiện sát hại.

Sang năm 1978, khi tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đẩy mạnh chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam, phong trào nổi dậy càng lan rộng trong cả nước Campuchia. Từ ngày 28 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1978 đã liên tiếp xảy ra các vụ nổi dậy của quần chúng và lực lượng vũ trang chống lại tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari. Điển hình là trận phục kích ngày 28 tháng 3, đánh vào đoàn xe của Sư đoàn 260 trên đường 14 (Srô Khơtum), diệt 10 tên lính Pôn Pốt, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng; trận tập kích ngày 13 tháng 4 vào sở chỉ huy Sư đoàn 260, diệt 6 sĩ quan; trận đốt cháy kho lúa ngày 15 tháng 4 của Trung đoàn 93 (sư đoàn 920 Pôn Pốt).

Trước sự chống đối ngày càng tăng, ngày 19 tháng 4 năm 1978, tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari ra lệnh cho quân đội vây bắt lực lượng chống đối ở 4 huyện vùng 43 (Côngpông Thom). Quân Pôn Pốt đã bắt và sát hại nhiều người thân của những người chống đối để “ngăn chặn móc nối và tiếp tế”, không cho lan tràn sang các vùng khác. Những cuộc đàn áp dã man của quân Pôn Pốt đã gây nên sự bất bình, nghi kỵ lẫn nhau ngay trong hàng ngũ của chúng, dẫn đến nhiều nhóm ly khai ở các vùng 20, 21 ra đời. Các cuộc đấu tranh chống tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari ngày càng lan rộng, với quy mô lớn và được tổ chức chặt chẽ hơn.

Tháng 6 năm 1978, nhiều cuộc nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng có sự chỉ huy thống nhất diễn ra trong một thời gian dài ở Quân khu Trung tâm, Quân khu Đông Bắc, Quân khu 203 và Vùng đặc biệt Krachiê. Chính quyền Pôn Pốt tập trung lực lượng quân đội (kể cả những đơn vị thuộc các sư đoàn đang tác chiến ở biên giới) về đàn áp phong trào đấu tranh của binh lính và nhân dân. Chúng tiến hành những đợt lùng quét, thanh trừng lớn trong nội bộ, nhất là trong lực lượng vũ trang đang đóng quân ở các địa bàn biên giới vì lo sợ các lực lượng này chạy sang phía Việt Nam. Bè lũ Pôn Pốt nêu khẩu hiệu “Tiêu diệt tất cả mầm mống của lực lượng chống đối để ổn định nội bộ, dù phải diệt thêm 1 triệu người Campuchia cũng kiên quyết làm”, “giết nhầm 1 kẻ vô tội còn hơn để sót 1 kẻ chống đối”(1). Chúng nhận xét: “Dân ở Quân khu Đông là dân thân Việt Nam nên phải giết, chỉ để lại những ai thực sự trung thành với chế độ”(2)... Do các cuộc thanh trừng tràn lan, nhiều đơn vị quân đội Pôn Pốt bị xáo trộn, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt, tinh thần binh lính hoang mang, sa sút, nhiều người đào ngũ, hoặc trốn vào rừng tìm đến các căn cứ của lực lượng cách mạng Campuchia. Nhằm ly gián lực lượng chống đối, không cho họ liên kết với nhau và móc nối với Việt Nam, bè lũ Pôn Pốt còn dùng chính sách xáo trộn dân vùng này sang vùng khác, dồn dân vào sâu trong nội địa; mặt khác chúng cũng sử dụng các thủ đoạn lừa bịp mị dân như tuyên bố chấm dứt việc phân loại xã viên, hoan nghênh những ai từ nước ngoài trở về...


(1), (2) Tình hình Campuchia, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 82, ĐVBQ 2316, tr. 134.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 07:11:17 am
Trong khi các lực lượng trong nước nổi dậy chống chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, một bộ phận khác gồm lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đã nhanh chóng chuyển sang nhiều vùng biên giới Tây Nam Việt Nam để tránh khỏi tổn thất do các cuộc đàn áp của quân Pôn Pốt gây ra. Ngay khi các cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia bùng nổ, ta đã tận tình giúp đỡ nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Ban đầu, hơn 10 vạn người Campuchia(1), trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên, lần lượt trốn sang Việt Nam, ta thuyết phục một số trỏ về. Nhưng khi họ vừa về qua khỏi biên giới liền bị quân Pôn Pốt giết hết. Trước tình hình đó, ta chuyển bộ phận còn lại vào sâu trong nội địa ta; lựa chọn trong số họ những người có trình độ để bồi dưỡng, huấn luyện trở thành cốt cán cho cách mạng Campuchia. Đối với lực lượng nổi dậy còn trụ lại ở trong nước, ta tìm cách móc nối, giúp đỡ họ và từng bước phối hợp đấu tranh chống Pôn Pốt.

Từ năm 1977, trước tình hình người Campuchia bị tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari truy bức phải bỏ quê hương sang Việt Nam lánh nạn ngày càng nhiều, theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thành lập một đơn vị (tương đương cấp tiểu đoàn) làm nhiệm vụ giúp đỡ những người Campuchia chạy lánh nạn sang Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 7 tháng 9 năm 1977, Tư lệnh Quân khu 7 ra Quyết định số 113/QĐ-77, thành lập khung tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Campuchia, lấy phiên hiệu là Đoàn 977(2). Đoàn 977 trực thuộc Cục Chính trị Quân khu; có nhiệm vụ tiếp đón, giúp đỡ Bạn về nơi ăn ở. Ban đầu, lực lượng Bạn chỉ có hơn 50 người, sau phát triển lên hàng trăm. Qua tuyển chọn, huấn luyện, lực lượng Bạn từng bước tổ chức thành các khung trung đội, đại đội.

Trong những tháng cuối năm 1977, đầu năm 1978, cùng với việc tiếp tục thanh trừng nội bộ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã mở nhiều cuộc tiến công sang biên giới Việt Nam. Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ thị cho Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang Quân khu 7 kiên quyết phản công và tiến công, đẩy địch về bên kia biên giới. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị trinh sát của ta bắt liên lạc được với một số tổ chức cách mạng của Campuchia. Thông qua tổ chức này, ta giúp đỡ nhiều người dân Campuchia bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari xua đuổi đang lẩn trốn trong rừng, đưa họ về các khu tạm cư, tổ chức cứu đói, cứu chữa bệnh tật, giúp dân ổn định cuộc sống.

Trước nguy cơ cả dân tộc Campuchia bị diệt chủng do chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari tiến hành hàng loạt cuộc thanh trừng nội bộ diễn ra ngày càng tàn bạo, những người cách mạng chân chính Campuchia tha thiết đề nghị Việt Nam giúp nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Với quan điểm “Cách mạng Campuchia phải là sự nghiệp của chính nhân dân Campuchia, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân Campuchia”, Đảng ta chủ trương giúp Bạn và tổ chức công tác chuyên gia giúp Bạn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để phối hợp chiến đấu. Ngày 21 tháng 4 năm 1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 34/QĐ-QU thành lập Ban phụ trách công tác Z (Campuchia), lấy bí danh là Ban 10, do đồng chí Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Trưởng ban; các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Ủy viên. Ban 10 có nhiệm vụ:

1. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thường vụ Quân ủy Trung ương về công tác đối với cách mạng Campuchia, tiến hành tổ chức, quản lý, giáo dục những anh em Campuchia có điều kiện về chính trị, sức khoẻ trở thành lực lượng vũ trang cách mạng và những người có ích cho sự nghiệp cách mạng Campuchia và cho tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

2. Nghiên cứu đề xuất với Quân ủy Trung ương phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ lực lượng Campuchia thực hiện nhiệm vụ.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Ban 10 được phép tổ chức một cơ quan giúp việc (với danh nghĩa là một đoàn, mang phiên hiệu Đoàn 478), gồm các cán bộ cao cấp, trung cấp phụ trách công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị và bảo đảm hậu cần. Quân ủy Trung ương yêu cầu Đoàn chuyên gia 478 phải thực hiện nghiêm chỉnh phương châm tôn trọng độc lập chủ quyền của Bạn, đoàn kết hữu nghị, chống tư tưởng nước lớn, chống thái độ tự cao, thiếu khiêm tốn, thiếu tin tưởng ở Bạn. Phải để cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của Bạn. Trong từng giai đoạn, tùy tình hình cụ thể mà có cách giúp Bạn thích hợp về chủ trương, kế hoạch, đồng thời cùng Bạn tổ chức thực hiện tốt công việc sau khi bàn bạc nhất trí. Trong quá trình công tác giúp Bạn, chuyên gia phải phát huy tính tích cực, chủ động, nhưng cũng phải hết sức kiên trì, không gò ép, áp đặt ý kiến của mình cho Bạn; chống bao biện, làm thay. Phải xuất phát từ đặc điểm của cách mạng Campuchia mà vận dụng kinh nghiệm của Việt Nam, chống giáo điều, rập khuôn, máy móc. Phải nhạy bén, linh hoạt và chủ động giúp Bạn, hết sức cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của địch tìm cách phá hoại và chia rẽ cách mạng hai nước. Nắm vững nội dung và yêu cầu giúp Bạn trong từng thời kỳ, trong từng vấn đề, từng mặt công tác, trong đó tập trung giúp Bạn về đào tạo đội ngũ cán bộ.


(1) Tình hình Campuchia, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 82, ĐVBQ 2316, tr. 132.
(2) Cán bộ Đoàn 977 chủ yếu từ Đoàn 500 của Quân khu 7 vừa giải thể chuyển sang.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2021, 07:13:13 am
Trong quá trình giúp Bạn, Đoàn chuyên gia 478 thực hiện theo nhiệm vụ, những vấn đề quan trọng, khó khăn và phức tạp phải xin chỉ thị cấp trên. Trước khi gợi ý hoặc trình bày với Bạn những ý kiến về chủ trương, kế hoạch, biện pháp chính phải chuẩn bị chu đáo và bàn bạc tập thế thống nhất trong nội bộ chuyên gia Việt Nam. Trường họp khẩn trương cần có ý kiến giúp xử lý nhanh chóng thì người phụ trách Đoàn hoặc tổ chuyên gia có thể bàn với Bạn, nhưng sau đó phải báo cáo với cấp trên và tập thể cơ quan lãnh đạo. Từng thời gian hoặc sau khi thực hiện các nhiệm vụ quan trọng phải cùng Bạn kiểm điểm rút kinh nghiệm công tác, thực hiện phê bình và yêu cầu Bạn góp ý kiến đối với chuyên gia, đồng thời thống nhất đánh giá tình hình, chương trình, kế hoạch làm việc để hai bên cùng chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình. Trong quan hệ với Bạn phải giữ đúng nguyên tắc, tránh sự hiểu lầm, nghi kỵ lẫn nhau. Giữ bí mật quốc gia của ta và cách mạng Campuchia.

Sau khi được thành lập, Ban phụ trách công tác Z đã nhanh chóng cử cán bộ về các địa phương có nhân dân Campuchia lánh sang tị nạn để nắm tình hình, tuyển chọn cốt cán, bước đầu xây dựng lực lượng giúp Bạn. Trên cơ sở được chuyên gia ta giúp, ngày 12 tháng 5 năm 1978, tại Đoàn 977 (Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mang tên “Lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” được thành lập, do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng. Đây là đơn vị tiền thân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia (gồm 125 cán bộ, chiến sĩ), đánh dấu sự phát triển mới của lực lượng cách mạng Campuchia.

Cùng với việc hình thành Đoàn 478 giúp cách mạng Campuchia, các quân khu 5, 7, 9 cũng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng lực lượng. Xác định Quân khu 7 là một địa bàn trọng điểm trong công tác xây dựng lực lượng giúp Bạn, ngày 22 tháng 5 năm 1978, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Trần Văn Quang, Trưởng ban 10 vào trực tiếp truyền đạt chủ trương giúp Bạn của Quân ủy Trung ương cho Quân khu. Quân ủy xác định: Nhiệm vụ giúp Bạn của Quân khu 7 là xây dựng lực lượng vũ trang cho Bạn, yêu cầu nhanh nhưng phải bảo đảm thật chắc về mặt chính trị và bảo đảm được bí mật. Đặc biệt là phải xây dựng lực lượng này đúng với bản chất chính trị của một lực lượng vũ trang cách mạng chân chính, một quân đội kiểu mới theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó phải đạt được ba yêu cầu.

1. Làm cho lực lượng vũ trang Bạn nhận thức đúng kẻ thù trong và ngoài nước.

2. Phải có quyết tâm cách mạng, dũng cảm chiến đấu và đoàn kết thống nhất nội bộ, hoà hợp dân tộc trong nội bộ Campuchia, giữa lực lượng trong nước và đang ở ngoài nước.

3. Phải có tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, đặc biệt phải giữ vững tình đoàn kết keo sơn ba nước Đông Dương như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Quân khu 7 triển khai nhiều hoạt động giúp cách mạng Campuchia. Trong hai ngày 8 và 9 tháng 6 năm 1978, trên địa bàn Quân khu 7, ta đã giúp Bạn thành lập 6 đội vũ trang cách mạng cứu nước Campuchia (mỗi đội từ 12 đến 15 người). Các đội vũ trang này đã phối hợp với lực lượng cách mạng trong nội địa Campuchia tuyên truyền giác ngộ cho nhân dân Campuchia về đường lối, chủ trương của cách mạng, về tội ác diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, vận động thanh niên tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống lại chế độ Pôn Pốt. Ngoài ra, Quân khu còn tổ chức lực lượng trinh sát thọc sâu, bắt liên lạc với các nhóm ly khai ở Mi Mốt và Vùng 21.

Cùng với hoạt động trên, để hỗ trợ lực lượng nổi dậy chống lại chế độ Pôn Pốt, tạo điều kiện cho cách mạng Campuchia phát triển, Quân khu 7 mở chiến dịch phản công đường 7 (từ ngày 10 tháng 6 đến ngày 30 tháng 7 năm 1978), đánh chiếm một số mục tiêu từ Sông Chiêu đến Phum Đa, mở rộng bàn đạp, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng các căn cứ cách mạng.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, ngày 16 tháng 6 năm 1978, Bộ Chính trị ra Quyết định số 20/BCT thành lập Ban công tác Z Trung ương (Ban B.68), do đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Phó viện trưởng Viện Khoa học quân sự Việt Nam, làm Trưởng ban. Các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Doãn Tuế, Tổng tham mưu phó; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Nguyễn Hữu Tài, Vụ trưởng Ban Đối ngoại Trung ương làm Phó ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban B.68 là:

1. Theo dõi, nghiên cứu tình hình Z (Campuchia) về mọi mặt, báo cáo và đề xuất với Bộ Chính trị quyết định đường lối, chủ trương, chính sách giúp đỡ cách mạng Campuchia.

2. Triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương giúp xây dựng các lực lượng vũ trang Campuchia và đề xuất với trên về phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ các lực lượng Campuchia hoạt động.

3. Giúp Bạn đào tạo cán bộ, thành lập các ban vận động cách mạng ở từng địa phương, từng địa bàn, tiến tới thống nhất dưới sự chỉ đạo của Ban vận động cách mạng chung, đồng thời nghiên cứu đề xuất ý kiến giúp Bạn xây dựng các tổ chức quần chúng, các tổ chức Đảng khi có điều kiện.

4. Thực hiện chi viện vật chất cho Campuchia theo chủ trương của Trung ương. Trước mắt bảo đảm việc quản lý, nuôi dưỡng, huấn luyện, trang bị và giúp Bạn hoạt động.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Ban B.68 được tổ chức một bộ máy gồm: Văn phòng, Vụ Nghiên cứu tổng hợp, Vụ Tổ chức cán bộ; các tiểu ban: Tham mưu, Chính trị, Hậu cần và khung cán bộ huấn luyện quân sự, chính trị cho Bạn. Thời gian đầu, bộ máy cơ quan Ban B.68 chủ yếu dựa vào bộ máy cơ quan Ban phụ trách công tác Z của Quân ủy Trung ương. Ít lâu sau, Văn phòng Ban B.68 được tách riêng thực hiện theo nhiệm vụ được giao.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Chín, 2021, 06:18:56 am
Trước yêu cầu phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, ngày 16 tháng 6 năm 1978, tại suối Râm, Quân khu 7 khai giảng lớp huấn luyện quân sự giúp Bạn. Lực lượng tham gia huấn luyện gồm 2 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội đặc công, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội thông tin, 1 đại đội hoả lực, 2 đại đội công binh và vận tải. Thời gian huấn luyện 35 ngày.

Trên địa bàn Quân khu 5 và Quân khu 9, ta cũng tổ chức đón, bảo vệ và nuôi dưỡng được hàng vạn dân Campuchia chạy sang lánh nạn. Ở hầu hết các tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia, ta đều tổ chức bộ phận tiếp nhận nhân dân Campuchia từ biên giới. Các bộ phận này ngoài việc chuẩn bị sẵn cơm, nước, thuốc chữa bệnh để cứu đói, cứu chữa bệnh tật được ngay, còn hướng dẫn bà con vào các điểm tạm cư. Tại các nơi này, nhân dân Campuchia được bố trí nơi ăn ở và sản xuất, đảm bảo cuộc sống bình thường.

Để trực tiếp giúp Bạn về huấn luyện, xây dựng lực lượng vũ trang, theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, tháng 6 năm 1978, Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Đoàn 578 (tương đương cấp sư đoàn). Đoàn 578 có ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và 5 đại đội trực thuộc (vệ binh, thông tin, trinh sát, quân y, vận tải). Ban chỉ huy Đoàn gồm có Trung tá Trần Tiến Cung, Đoàn trưởng; Thượng tá Trần Ngọc Quế, Chính ủy; Trung tá Đinh Trí, Đoàn phó và Trung tá Vũ Khắc Thịnh, Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị. Được sự giúp đỡ của lực lượng vũ trang Quân khu 5, mà trực tiếp là Đoàn 578, đến tháng 7 năm 1978, Bạn đã thành lập được 1 tiểu đoàn gồm 5 đại đội và 17 đội công tác (tổng số 600 người)(1).

Tháng 7 năm 1978, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 778 (tương đương cấp sư đoàn), đặt dưới sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7, với nhiệm vụ huấn luyện, tổ chức, xây dựng lực lượng giúp Bạn. Cũng trong thời gian này, Trường Hạ sĩ quan Quân khu 7 khai giảng lớp đào tạo hạ sĩ quan đầu tiên cho Bạn gồm 202 hạ sĩ quan, chiến sĩ. Trong thời gian 30 ngày, các học viên học các bài cơ bản về kỹ thuật, chiến thuật bộ binh; sử dụng các loại vũ khí có trong biên chế và công tác quản lý, chỉ huy tiểu đội, trung đội. Một số đồng chí ở cơ quan Tiền phương Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, đã từng hoạt động ở Campuchia trong thời kỳ chống Mỹ như Nguyễn Hiệu, Phan Đình Túc... cùng một số cán bộ chính trị của Quân khu 7, cán bộ quân sự địa phương và lãnh đạo của Bạn tập trung các cán bộ người Khơme, lựa chọn những thanh niên khỏe mạnh trong số dân tạm lánh sang Việt Nam có giác ngộ chính trị, căm ghét chế độ diệt chủng Pôn Pốt, có tinh thần yêu nước để huấn luyện đào tạo cán bộ.

Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo, chỉ huy đối với cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, ngày 19 tháng 7 năm 1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 69/QĐ-QUTW tổ chức Tiền phương Bộ Quốc phòng. Tiền phương Bộ Quốc phòng có chức năng chỉ huy thống nhất mọi hoạt động tác chiến của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng ở phía Nam thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Trung tướng Lê Đức Anh được chỉ định làm Chỉ huy trưởng. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền và Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Chỉ huy phó. Bộ phận tiền phương của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Xây dựng kinh tế căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm phục vụ bộ phận Tiền phương Bộ Quốc phòng hoàn thành các nhiệm vụ theo quy định của Bộ.

Để hỗ trợ lực lượng yêu nước Campuchia, các lực lượng vũ trang ta trên biên giới Tây Nam tích cực hoạt động, buộc địch phải đối phó ở phía trước. Từ ngày 15 tháng 5 đến 30 tháng 9 năm 1978, hai quân đoàn 3 và 4, hai sư đoàn của Quân khu 7, hai sư đoàn của Quân khu 5 mở đợt tiến công lớn trên hướng đường 1, đường 7, vùng giáp ranh tỉnh Tây Ninh, đường 19... loại khỏi vòng chiến đấu 6 sư đoàn địch, làm suy yếu nghiêm trọng khối chủ lực, buộc địch phải đối phó, tạo điều kiện cho các lực lượng yêu nước Campuchia hoạt động. Đồng thời theo yêu cầu của Bạn, ta điều động các đội trinh sát luồn sâu vào trong lòng địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng.

Tháng 9 năm 1978, lực lượng trinh sát luồn sâu của Bộ (do đồng chí Nguyễn Bá Ngọc, cán bộ Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu làm Đội trưởng) và của Quân khu 7 bắt liên lạc được với lực lượng ly khai Vùng 20 của ông Chia Xim, các đội công tác của Quân đoàn 3 bắt liên lạc được với lực lượng của ông Hêng Xomrin (nguyên ủy viên Khu ủy Miền Đông, Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 4) lãnh đạo. Lực lượng này có hơn 400 quân và hàng vạn dân đi theo xin sang lánh nạn ở Việt Nam, trong đó có nhiều người tình nguyện được tham gia lực lượng vũ trang cách mạng để trở về giải phóng đất nước khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pốt khi có thời cơ.


(1) Tiểu đoàn này ban đầu do đồng chí Sôi Keo làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Bu Thoong làm Chính trị viên.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Chín, 2021, 06:21:00 am
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác giúp Bạn, tháng 10 năm 1978, Đoàn chuyên gia 478 ban hành quy định tạm thời về nhiệm vụ, phương châm, chế độ công tác giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Về nhiệm vụ, quán triệt đường lối, chủ trương, quan điểm đoàn kết quốc tế của Đảng ta đối với cách mạng Campuchia, chuyên gia quân sự phải đi sâu nghiên cứu tình hình cách mạng Campuchia, cùng các cơ quan có liên quan đề xuất với cấp trên những chủ trương, kế hoạch nhằm giúp Bạn xây dựng lực lượng và đưa lực lượng vào hoạt động, thực hiện sự phối hợp chiến đấu và công tác giữa lực lượng vũ trang ta và Bạn. Trên cơ sở tình hình thực tiễn của Bạn kết hợp với kinh nghiệm của quân đội ta mà góp ý với Bạn về chủ trương, kế hoạch xây dựng lực lượng và hoạt động của các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng căn cứ địa, xây dựng cơ sở hậu phương. Chuyên gia ở cấp nào phải giúp Bạn ở cấp đó thực hiện tốt chức trách và hoàn thành nhiệm vụ; qua đó không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt của Bạn, tìm hiểu được tình hình đội ngũ cán bộ để có kế hoạch giúp đỡ phù hợp. Giữ mối liên hệ mật thiết giữa quân đội ta và lực lượng vũ trang Bạn, nhằm góp phần xây dựng, củng cố và không ngừng phát triển mối đoàn kết liên minh chiến đấu giữa cách mạng và quân đội hai nước.

Ngày 3 tháng 11 năm 1978, được sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng nổi dậy chống lại chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari tiến công căn cứ Sêrêca của quân Pôn Pốt ở phía Tây Bắc Đầm Be (Côngpông Chàm). Sau 1 giờ chiến đấu, lực lượng nổi dậy làm chủ căn cứ, tiêu diệt hơn 100 tên, thu 1 kho vũ khí, đạn dược và đồ dùng quân sự. Phong trào nổi dậy chống lại chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari lan rộng khắp cả nước, không chỉ lớn về quy mô mà còn có bước chuyển mới về tổ chức và phương thức đấu tranh. Đã có sự phối hợp giữa các lực lượng, giữa thành thị với nông thôn; đã biết kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nổi dậy của quần chúng với binh biến của binh lính.

Tháng 11 năm 1978, tại Quân khu Đông, lực lượng nổi dậy hoạt động mạnh ở các huyện Camchơrích, Tơnang Khơmun (Côngpông Chàm). Tại Quân khu Đông Bắc, hàng trăm nhân dân vùng Siêngpạng (Stung Treng) và vùng Bôkeo (Ráttanakiri) nổi dậy chống lại việc bắt thanh niên đi lính cho Pôn Pốt. Nhiều truyền đơn kêu gọi nhân dân khu Đông và Đông Bắc cùng đồng bào cả nước đoàn kết đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, phản đối việc chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari gây chiến tranh biên giới với Việt Nam, đòi xây dựng nước Campuchia hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1978, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia phát triển ngày càng mạnh mẽ và giành nhiều thắng lợi. Đầu tháng 12 năm 1978, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Mônđônkiri đánh chiếm 1 căn cứ địch, diệt hơn 100 tên, thu nhiều súng đạn và lương thực. Tiếp đó, nhân dân hai huyện Sơlông và Crôchơmia (Côngpông Chàm) nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số xã. Ở Quân khu 203 và Quân khu Đông Bắc nổ ra nhiều vụ binh biến của binh lính.

Trong khi đó, được các quân khu 5, 7, 9 giúp đỡ, lực lượng vũ trang Bạn cũng có sự phát triển. Đến tháng 12 năm 1978, bộ đội ta đã giúp Bạn xây dựng được 22 tiểu đoàn bộ binh và 69 đội công tác. Đây là những nhân tố vô cùng quan trọng tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từng bước tự đảm đương nhiệm vụ chuẩn bị phối hợp với Quân tình nguyện Việt Nam, đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng để xây dựng lại đất nước.

Để tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Campuchia đứng lên cứu đất nước thoát khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pốt ta đã giúp Bạn thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Quân khu 7 được giao chuẩn bị địa điểm, đường sá và công tác bảo vệ; Tổng cục Hậu cần lo việc ăn uống và đưa đón nhân dân Campuchia từ một số trại tị nạn về địa điểm mít tinh an toàn. Ngày 2 tháng 12 năm 1978, tại vùng giải phóng Snun (tỉnh Krachiê), Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã ra mắt nhân dân Campuchia(1). Mặt trận công bố Cương lĩnh 11 điểm nhằm thực hiện quyết tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng thi hành nhiệm vụ cách mạng trước mắt của nhân dân Campuchia là nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động gia đình trị Pôn Pốt. Iêng Xari, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác đẫm máu của chúng, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, phát huy truyền thống Ăngco, làm cho Campuchia thật sự là một nước hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, không liên kết. Mặt trận cũng khẳng định tăng cường tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, xây dựng lại đất nước Campuchia hòa bình, phồn vinh.

Cùng với việc hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, sự ra đời của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và sự giúp đỡ của Việt Nam đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia vươn lên một tầm cao mới. Ngay sau khi thành lập, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã đề nghị Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia, “không phải chỉ cứu giúp mấy vạn người tị nạn mà phải cứu giúp cả một dân tộc”(2). Theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã kề vai sát cánh cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, giải phóng đất nước khỏi họa diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân.


(1) Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia gồm 14 người, do ông Hêng Xomrin (nguyên Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ khu Đông, Chính ủy kiêm Sư đoàn trưởng) làm Chủ tịch, Chea Sim (nguyên Ủy viên Viện đại biểu nhân dân) làm Phó Chủ tịch và các ủy viên: Rô Samay, Matly, Bun Mi, Mea Somnang, Neou Samon, Hun Xen, Mean Saman, nhà sư Long Sim, nữ bác sĩ Thạch Kanh Nha, Hem Samin, giáo sư Chan Vên, nhà báo Prach Sun.
(2) Ban liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia, Kỷ yếu 8 năm hoạt động của Ban liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia (1998-2006), Nxb GTVT, H, 2007, tr. 397.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Chín, 2021, 06:22:44 am
2. Cùng các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia giải phóng đất nước thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân.

Đến tháng 12 năm 1978, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của quân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Ta chẳng những đập tan các cuộc tấn công của địch, giữ vững địa bàn, mà còn giúp Bạn phát triển nhiều lực lượng, mở rộng địa bàn và các căn cứ trong nội địa Campuchia. Quân Pôn Pốt tiếp tục lâm vào thế bị động phải đối phó cả ở ngoài biên giới và ở trong nội địa. Nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, các cuộc thanh trừng ở các quân khu, sư đoàn tin cậy của Pôn Pốt ở Phnôm Pênh liên tiếp xảy ra. Phong trào yêu nước trong nhân dân Campuchia phát triển mạnh mẽ, các cuộc nổi dậy của quần chúng ở nhiều nơi đang chuyển thành cao trào dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Nhìn chung so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường phát triển thuận lợi cho cách mạng hai nước Việt Nam Campuchia.

Trước bước phát triển mới của phong trào cách mạng Campuchia và so sánh lực lượng trên toàn tuyến biên giới hoàn toàn có lợi cho ta, trong hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam; đồng thời theo yêu cầu của Bạn, sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân. Ta xác định quyết tâm: sử dụng sức mạnh bất ngờ, thần tốc, mãnh liệt, đập tan cuộc tiến công xâm lược lớn của địch ở biên giới Tây Nam; tiếp đó giúp lực lượng cách mạng Campuchia, bao vây tiêu diệt khối chủ lực, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não của địch ở Phnôm Pênh, chiếm cảng Côngpông Xom và các sân bay lớn, ngăn chặn sự can thiệp từ bên ngoài bằng đường biển, đường không; thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh.

Theo chủ trương đó, ta dự kiến tổ chức ba chiến dịch kế tiếp nhau:

Chiến dịch 1: Tạo điều kiện chuẩn bị thế và lực cho các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có thời gian để phát triển ảnh hưởng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra toàn đất nước; đồng thời cũng là thời gian lực lượng của Bạn thử thách, rèn luyện, trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng.

Chiến dịch 2: Tiêu diệt, làm tan rã các sư đoàn chủ lực tuyến 1 của Pôn Pốt trên đường số 1, đường số 7, tạo thế đánh vào đầu não địch ở Phnôm Pênh.

Chiến dịch 3: Tập trung đánh vào đầu não địch ở Phnôm Pênh và các mục tiêu còn lại.

Để giúp Bạn hiệu quả trên lĩnh vực quân sự đòi hỏi cần có một đoàn chuyên gia chuyên trách về mặt quân sự. Trước tình hình đó, ngày 12 tháng 12 năm 1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 129/QĐ-QU chính thức thành lập Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia (mang phiên hiệu Đoàn 478) thuộc Ban B.68. Lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 478 gồm các đồng chí: Nguyễn Thuận (Trưởng đoàn), Lê Chiêu (Chính ủy), Hà Hữu Thừa, Lê Hiền Hữu, Nguyễn Hiệu, Nguyễn Duy Hiền, Nguyễn Văn Viễn, Lê Đức Trứ. Đồng thời, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 130/QĐ-QU thành lập Đảng bộ Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (gọi tắt là Đảng bộ 478), đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. Ban chấp hành Đảng bộ Doãn 478 có nhiệm vụ:

“1. Nghiên cứu, đề xuất với Quân ủy Trung ương những chủ trương về việc giúp Bạn xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ. Đồng thời lãnh đạo chuyên gia quân sự Việt Nam tiến hành giúp lực lượng vũ trang Bạn xây dựng và chiến đấu.

2. Lãnh đạo, chuyên gia Việt Nam chấp hành đúng đường lối quốc tế của Đảng, các nguyên tắc, chế độ quy định trong mối quan hệ; tôn trọng độc lập chủ quyền và mọi phong tục tập quán của Bạn; tăng cường đoàn kết hữu nghị, hợp tác trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm cả trước mắt và lâu dài.

3. Hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc các quân khu 5, 7, 9 trong việc thực hiện các chủ trương giúp Bạn của Quân ủy Trung ương đã xác định. Thường xuyên quan hệ chặt chẽ với Ban B.68 của Trung ương để báo cáo và xin hướng dẫn những vấn đề có liên quan và phối hợp với chuyên gia các ngành khác để tiến hành công tác giúp Bạn đạt kết quả tốt.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Chín, 2021, 06:24:50 am
Về quyền hạn, Đảng ủy Đoàn 478 được giải quyết công việc về Đảng tương đương với Đảng ủy các binh chủng”(1). Đồng chí Lê Chiêu (Chính ủy) được cử giữ chức Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Thuận (Đoàn trưởng), Hà Hữu Thừa (Trưởng ban Quân sự), Nguyễn Duy Hiền (Trưởng ban Chính trị), Lê Đức Trứ (Trưởng ban Hậu cần) là Đảng ủy viên. Cùng với việc thành lập Đoàn chuyên gia quân sự 478, các quân khu 5, 7, 9 cũng thành lập một phòng chuyên về công tác giúp Bạn.

Trong khi Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta bàn kế hoạch tổng phản công, tiến công giải phóng Campuchia và thành lập Đoàn chuyên gia quân sự 478, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đề nghị Việt Nam giúp Bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xan, giành chính quyền về tay nhân dân. Theo đề nghị chính đáng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và căn cứ kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua, ngày 17 tháng 12 năm 1978, Tiền phương Bộ Quốc phòng (thành lập ngày 19-7-1978)(2), hạ quyết tâm chiến đấu và giao nhiệm vụ cho các đơn vị thực hiện kế hoạch tiến công giải phóng Campuchia: Quân khu 5 và Quân khu 7 đảm nhiệm tiến công giải phóng các tỉnh miền Đông Campuchia. Các quân đoàn chủ lực 2, 3, 4 tập trung tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch, hướng chủ yếu là Quân đoàn 4. Tiến công giải phóng Phnôm Pênh bằng ba cánh quân do hai quân đoàn 3, 4 và Quân khu 9 đảm nhiệm.

Lực lượng tham gia cuộc tổng tiến công có 18 sư đoàn bộ binh thuộc 3 quân đoàn (2, 3, 4), 3 quân khu (5, 7, 9); các đơn vị binh chủng và một số đơn vị thuộc các quân chủng phòng không, không quân, hải quân; 600 xe tăng, xe bọc thép, 587 khẩu pháo các loại, 7.000 ô tô vận tải, 137 máy bay, 160 tàu thuyền chiến đấu. Tổng số quân tham gia khoảng 25 vạn.

Chiến dịch phản công và tiến công lớn lần này do Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ huy, gồm các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Lê Ngọc Hiền. Cơ quan tiền phương Cục Tác chiến do đồng chí Cục trưởng Lê Hữu Đức cùng các đồng chí Phan Hàm, Lê Duy Mật (Cục phó) phụ trách.

Về phía địch, đến tháng 12 năm 1978, quân Pôn Pốt có 23 sư đoàn, một số đơn vị hải quân, không quân và trung đoàn binh chủng với tổng số quân khoảng 170.000 (quân chủ lực 120.000; quân địa phương 50.000). Trang bị 250 khẩu pháo, 275 xe tăng, xe bọc thép, 79 máy bay, 170 tàu tuần tiễu, phóng lôi và phục vụ. Địch bố trí ở biên giới 19 sư đoàn, trong đó Quân khu Đông (203) và Vùng 505 (Krachiê) có 12 sư đoàn.

Ngày 23 tháng 12 năm 1978, địch huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, trong đó, chúng dùng 3 sư đoàn đánh vào Bến Sỏi nhằm chiếm Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh vào khu vực Bảy Núi (An Giang), 3 sư đoàn đánh vào khu vực Hà Tiên (Kiên Giang).

Tận dụng thời cơ về mặt pháp lý do việc tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari cho quân tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, đồng thời để bảo vệ hậu phương chiến dịch bị địch uy hiếp, trên cơ sở kế hoạch tác chiến đã được chuẩn bị, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh cho các lực lượng chiến đấu trên tuyến biên giỏi Tây Nam đồng loạt mở cuộc phản công tiêu diệt quân địch, thực hiện quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị thông qua sớm hơn dự định.

Ngay sau khi địch đánh vào Bến Sỏi, ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 4 sử dụng 2 sư đoàn (341 và 2), một trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, 2 trung đoàn địa phương (Quân khu 7) và một số đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp thực hành phản công địch trên hai hướng, hình thành thế bao vây chặt 3 sư đoàn địch ở Bến Sỏi. Ngày hôm sau, địch cho một trung đoàn bộ binh và 15 xe tăng ra phản kích, bị ta chặn đánh quyết liệt phải co lại. Đến ngày 28 tháng 12, ta mở đợt tấn công quyết định, diệt và bắt toàn bộ quân địch xâm lấn khu vực tây bắc Bến Sỏi.

Từ ngày 23 đến 30 tháng 12 năm 1978, trong khi Quân đoàn 4 tập trung tiêu diệt địch ở bắc Bến Sỏi, trên hướng Quân khu 7, ta sử dụng hai sư đoàn (5 và 303) tiến công dọc theo đường 10 và đường 13, đánh chiếm thị xã Krachiê, diệt và bắt hơn 1.000 tên, giải phóng 25.000 dân.


(1) Quyết định số 129/QĐ-TW của Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 12 tháng 12 năm 1978. Tài liệu lưu Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ 1036.
(2) Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị bảo vệ biên giới Tảỵ Nam, Tiền phương Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia cho đến khi thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Bộ Tư lệnh 719) ngày 6 tháng 6 năm 1981.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Chín, 2021, 06:27:01 am
Quân khu 5 sử dụng các trung đoàn 143, 726 (Gia Lai - Kon Tum), 94 (Sư đoàn 307), 812 (Sư đoàn 309), 250, 142 (Đắk Lắk) giải phóng bắc và nam sông Xan, Xămtùng; các điểm cao 302, 328, 308, 336, 222 và Phi nay, chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch, tạo thành gọng kìm từ hướng sông Xan, uy hiếp Bôkhăm, bắc đường 19, điểm cao 230 và Bôkeo. Đến ngày 30 tháng 12 năm 1978, ta tiêu diệt các mục tiêu đã định, phá vỡ tuyến phòng ngự cơ bản của địch, giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia.

Trên hướng Quân khu 9, quân ta phản kích địch ở nhiều nơi. Sư đoàn 339 tổ chức nhiều trận đánh ở khu vực Gò Rượi, Gò Viết Thuộc, Gò Châu Giang, Đứt Gò Suông, đuổi địch về bên kia biên giới. Sư đoàn 4, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 8) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 330) phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tập trung đánh địch, khôi phục toàn bộ khu vực Rộc Xây. Sư đoàn 8 (thiếu Trung đoàn 2) mở cuộc phản công khôi phục lại khu vực bắc Hà Tiên.

Sau khi hành quân vào vị trí tập kết ở khu vực xã Tri Tôn, huyện Bảy Núi (tỉnh Kiên Giang), Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306) được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9), được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phối hợp với Quân khu 9 và hiệp đồng với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng Tây Nam. Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là Quân khu Đông Nam của địch (lực lượng có 4 sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính thủy đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên với 5 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn xe tăng và hơn 100 tàu, xuồng chiến đấu). Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng đánh địch ở khu vực kênh Vĩnh Tế, thu hồi phần đất cuối cùng của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm trái phép.

Trong 9 ngày đêm (từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 12 năm 1978), bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt kế tiếp nhau, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ vùng chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước.

Ngay sau khi quân và dân ta bắt đầu mở cuộc phản công, ngày 23 tháng 12 năm 1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã nhận định: “Sinh lực địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt nhất để các lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia cùng với nhân dân và binh sĩ khỏi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari, đập tan chế độ độc tài phát xít khát máu của chúng”(1). Tiếp đó, ngày 26 tháng 12 năm 1978, Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia phát động toàn dân tận dụng thời cơ và sự giúp đỡ của bộ đội Việt Nam, tập trung lực lượng đứng lên đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiến công quân địch trên tất cả các hướng. Sau đòn tiến công giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia của các đơn vị thuộc Quân khu 5 và Quân khu 7, sáng ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 3 mở chiến dịch A88 tiến công giải phóng vùng Đông sông Mê Công, phía Bắc thủ đô Phnôm Pênh và các tỉnh Côngpông Thom, Xiêm Riệp, Báttambang, Puốcxát. Lực lượng tham gia chiến dịch trên hướng Quân đoàn 3 có 4 sư đoàn bộ binh: 10, 320, 31 và 302 (Quân khu 7 tăng cường); các lữ đoàn 273, 234, 40, 7 và Trung đoàn thông tin 29. Lực lượng cách mạng Campuchia phối hợp tác chiến với Quân đoàn 3 có 3 tiểu đoàn bộ binh và 6 đội công tác vũ trang

Vào 6 giờ ngày 31 tháng 12 năm 1978, chiến dịch tiến công đánh chiếm vùng Đông sông Mê Công của Quân đoàn 3 bắt đầu. Từ hướng Tây Bắc, Sư đoàn 320 đánh vào Đầm Be và Sê Rêkâk, mở đường cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm hai vị trí Suông và Chúp, chặn địch rút chạy về thị xã Côngpông Chàm. Sư đoàn 10 đánh tan các ổ đề kháng của địch ở làng 28, điểm cao 125 và 113. Sư đoàn 31 đánh chiếm Phsaâm, Ămpuk và phát triển về phía Krek, Sư đoàn 302 tiến công Phlong, Tànốt, Tàâm phát triển chiếm đường 24, giải phóng vùng Đông sông Mê Công. Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và hai đại đội thiết giáp tiến công đánh chiếm thị xã Prâyveng.


(1) Tuyên bố của Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Báo Nhân dân số 8930 ngày 8 tháng 1 năm 1979.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:13:37 am
Ở hướng Quân khu 9 và Quân đoàn 2, sáng 31 tháng 12 năm 1978, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công. Sau 30 phút chiến đấu, bộ đội ta đánh tan 2 trung đoàn địch, làm chủ khu vực kênh Vĩnh Tế. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, không quân ta ném bom sở chỉ huy tiền phương Quân khu Đông Nam, các sở chỉ huy sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Tapông, Kirivông, phum Sêkê. Cũng trong thời gian này, Trung đoàn công binh 219 nhanh chóng hoàn thành việc bắc cầu cho quân ta vượt qua kênh Vĩnh Tế, tiến công đánh chiếm các mục tiêu được giao.

Đêm 1 tháng 1 năm 1979, Trung đoàn bộ binh 2 đưa lực lượng bao vây Bà Cò, nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Quân ta chia thành nhiều mũi, kết hợp giữa tiến công chính diện và vu hồi; địch không chống cự nổi phải bỏ chạy về hướng Bà Ca. Phát huy thắng lợi, Trung đoàn 2 đánh chiếm luôn Bà Ca. Trong thời gian này, Trung đoàn 1 được tăng cường Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 tiến công các vị trí của trung đoàn 12 (sư đoàn 210 Pôn Pốt) tại khu vực Ba Súc. Sau 20 phút chiến đấu, bộ đội ta làm chủ các mục tiêu. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 1, Trung đoàn 3 cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp đánh chiếm khu vực bắc cầu Cây Mít, sau đó phát triển lên Bà Ca, Ba Súc, truy kích tiêu diệt quân địch và làm chủ khu vực núi Đất, núi Ăng Chao. Phát hiện sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 210 địch, Trung đoàn 3 nhanh chóng sử dụng 1 tiểu đoàn và 10 xe M113 cùng 3 xe PT85 của quân khu tăng cường tiến công sở chỉ huy địch, đến 14 giờ 30 ngày 3 tháng 1 năm 1979, các đơn vị của Trung đoàn 3 chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 210 của địch ở Prochrey.

Ngày 2 tháng 1 năm 1979, được sự yểm trợ đắc lực của hoả lực pháo binh, lực lượng xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 đột phá tiêu diệt địch ở phum Tunliếp, Tôliốp, Đông Nam Santâng, các điểm cao 384, 451, 328; phát triển xuống phum Sêkê, diệt 2 trung đoàn (15 và 16) của địch, sau đó thọc sâu vào Kirivông, diệt sở chỉ huy sư đoàn 250 và trung đoàn 17 địch. Phối hợp chặt chẽ với các đòn tiến công của Quân đoàn 2; các sư đoàn 4, 330, 339 của Quân khu 9 và các đơn vị tăng cường đánh chiếm Giồng Bà Ca, Puốcxát, phum Đông, sở chỉ huy sư đoàn 210 địch ở Prochrey, núi Tham Dung, núi Xôm, ngã ba Tà Lập, sau đó phát triển tấn công về Tàkeo. Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đánh chiếm xong các mục tiêu trong chiến dịch 1. Sau đợt tác chiến này, theo mệnh lệnh của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 304 (được tăng cường xe tăng, pháo binh) làm lực lượng dự bị cho Bộ chỉ huy liên quân sẵn sàng tiến công giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Các lực lượng còn lại của Quân đoàn tiến công giải phóng Côngpông Trạch, Campốt và hiệp đồng với Hải quân giải phóng cảng Côngpông Xom.

Hướng Quân đoàn 4, căn cứ vào quyết tâm của Bộ và qua nắm tình hình địch, trong hai ngày 30 và 31 tháng 12 năm 1978, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn họp tại sở chỉ huy ở Bosmôn nam ngã tư Nhà Thương (dự họp có Trung tướng, Tư lệnh Mặt trận Tây Nam Lê Trọng Tấn) giao nhiệm vụ cho các đơn vị: Sư đoàn 7 đánh chiếm Đônso, phát triển chiếm Preynhây và Côngpông Tràbéc. Sư đoàn 2 đánh chiếm Changtroi, phát triển sang phía tây chiếm Ăngcosa. Sư đoàn 341 chiếm bờ đập tây - bắc Châk, phát triển chiếm Xoàiriêng, Tàthiết. Sư đoàn 9 chiếm Prasốt, Tácưng và cầu Xoàiriêng. Trung đoàn Long An và Trung đoàn 3 (Quân khu 9) đánh lên Tàkoeng, Tàthiết và đường số 1. Hai trung đoàn (thiếu) Tây Ninh đánh địch xung quanh Côngpông Trạch, nếu có thời cơ sẽ chiếm Côngpông Trạch.

Cuộc họp cũng dự kiến khả năng nếu thắng lợi của ta trên hướng Quân khu 7 đảm nhiệm (tỉnh Krachiê) và đường số 13, Bên Sỏi làm địch tan rã sớm hơn thì quân đoàn sẽ cho Sư đoàn 341 và Sư đoàn 9 cùng nổ súng vào ngày N (1-1-1979), không chờ đến ngày N + 1 như kế hoạch trước.

Ngày 1 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 4, với các lực lượng được trên tăng cường(1) nổ súng đánh địch trên trục đường 1 và vùng ven hai bên bờ sông Mê Công. Các trung đoàn 209, 14 (Sư đoàn 7), 38, 1 (Sư đoàn 2) từ các bàn đạp phía tây đường số 24 tiến công ra đường số 10 - Đônso. Do không thực hiện được luồn sâu chia cắt, các sư đoàn đều phải đột phá chính diện nên thương vong cao (2 sư đoàn bị thương 294 người, hy sinh 49 người). Trong khi đó, Sư đoàn 341 mở nhiều đợt xung phong cũng không chiếm được bờ đập tây bắc Châk, bị thương hơn 100 người, ở các hướng khác, quân ta tiến công đều gặp địch chống cự quyết liệt. Để khắc phục khó khăn, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định chuyển Sư đoàn 341 sang làm nhiệm vụ dự bị. Các sư đoàn 2, 7, 9 và Trung đoàn Long An tạm dừng tiến công để chuẩn bị thêm.


(1) Trong chiến dịch giúp Bạn giải phóng Phnôm Pênh, Quân đoàn 4 được Bộ Tổng Tham mưu tăng cường 5 trung đoàn bộ đội địa phương của hai quân khu (7, 9) 1 trung đoàn hải quân (Quân khu 9) và 1 trung đoàn công binh của Bộ.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:15:43 am
Giữa lúc các đơn vị tạm dừng để củng cố đội hình chuẩn bị cho đợt tấn công mới thì đêm 2 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 nhận được tin cấp trên thông báo: đến ngày 2 tháng 1 năm 1979, ba cụm quân chủ lực địch (mỗi cụm 5 sư đoàn) án ngữ các trục đường số 1, 2, 7 về Phnôm Pônh bị ta tiêu diệt một bộ phận và tan rã ta đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng sông Mê Công. Để giữ phần đất còn lại, bộ tham mưu quân Pôn Pốt đã cho rút quân ở đường số 1 và đường số 10 về phòng ngự ở Sacách, Prêyveng, Niếc Lương. Ngay sau khi nhận được thông báo của trên, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định: Sư đoàn 341 chuyển từ hướng đường số 10 sang đánh thọc sâu theo đường 244, Sacách - Niếc Lương; các đơn vị còn lại tiếp tục tấn công theo kế hoạch đã định.

Sáng ngày 3 tháng 1 năm 1979, không quân ta đánh phá phía bắc phà Niếc Lương và oanh tạc đội hình rút lui của địch ở khu vực cách Xoàiriêng 12 kilômét. Tận dụng kết quả oanh kích của không quân, các mũi tiến công của Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 nhanh chóng đánh chiếm đường số 10 (đoạn Chân Trai), phát triển chiến đấu ra Preynhây. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 9 chiếm được bắc ngã ba Tàhô (nằm trên trục đường số 1, phía tây Prasốt). Trên hướng Sư đoàn 341 do đường xấu và xe thiết giáp đến chậm, nên trưa ngày 3, các đơn vị mới cơ động triển khai lực lượng chiến đấu.

Trên hướng biển, Bộ tư lệnh Hải quân thành lập xong sở chỉ huy tiền phương ở đảo Phú Quốc để chỉ huy các lực lượng hải quân ta tham gia tác chiến. Hai biên đội tàu chiến đấu được lệnh vào vị trí tập kết ở khu vực đảo Nam Du và An Thới. Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 đang ém quân ở đảo Phú Quốc, sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu. Các lực lượng hải quân trên vùng biển phía Nam cũng được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng chi viện cho các lực lượng chiến đấu trên biển khi cần. Quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8 tháng 1 (trước khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc bàn về vấn đề Campuchia), sau khi xem xét diễn biến chiến đấu trên toàn chiến trường, Tiền phương Bộ Quốc phòng nhận thấy hướng Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn, nên đã quyết định bổ sung nhiệm vụ và chuyển hướng tiến công của Quân khu 9 đang phát triển thuận lợi thành hướng tiến công chủ yếu.

Trưa ngày 5 tháng 1 năm 1979, các đồng chí Lê Đức Thọ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, thay mặt Quân ủy Trung ương và Tiền phương Bộ Quốc phòng, đến Chi Lăng (sở chỉ huy Quân khu 9) trực tiếp giao nhiệm vụ bổ sung cho Quân khu 9. Theo nhiệm vụ mới, Quân khu 9 sẽ đánh chiếm sân bay Pôchentông, Bộ tư lệnh thiết giáp, Đài phát thanh, khu nhà ở và phủ thủ tướng. Quân đoàn 4 chuyển thành lực lượng phối hợp, có nhiệm vụ “đưa một bộ phận đi trước hỗ trợ Bạn đánh chiếm cầu Mônivông và Bộ Tổng tham mưu địch, nếu có điều kiện thì đánh chiếm Hoàng Cung”(1).

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 5 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 7 cơ động đánh địch theo trục đường số 1 đến Niếc Lương (trong đó tổ chức 1 trung đoàn vượt sông để tiến công trong hành tiến vào thủ đô Phnôm Pênh). Sư đoàn 341 cơ động triển khai đội hình chiến đấu ở khu vực phía bắc đường số 1, sẵn sàng đưa 1 trung đoàn vượt phà Niếc Lương vào Phnôm Pênh. Sư đoàn 9 sử dụng 1 trung đoàn bao vây núi Sacách, bảo vệ hai bên sườn cho Sư đoàn 7, lực lượng còn lại truy kích địch ở phía nam đường số 1 đến sát sông Mê Công. Sư đoàn 2 tiếp tục tiến công địch, giữ hành lang nam đường 10, nam bắc đường số 1 (đoạn đông và tây Côngpông Tràbéc). Chiều ngày 6, Sư đoàn 7 tiến quân đến sát bờ sông khu vực bến phà Niếc Lương, Sư đoàn 9 chiếm được khu vực nam đường số 1 - Preynhây, Sư đoàn 3 cơ động đến khu vực Sacách (tây nam Ăngcosa), Sư đoàn 2 chiếm lĩnh được khu vực phía bắc đường số 1, tây bắc Xoàiriêng.

Cũng trong thời gian này, Tiền phương Bộ tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho các đơn vị bí mật đánh chiếm bãi đổ bộ tại chân núi Tà Lơn, phong toả đường 3 và đường 4, tiến đánh cảng Côngpông Xom, tiêu diệt lực lượng hải quân địch, ngăn chặn không cho tàu chúng từ quân cảng Rêam, Côngpông Xom chạy ra biển, bảo vệ sườn trái đội hình đổ bộ của Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Đối tượng tác chiến của Hải quân ta là các tàu thuyền chiến đấu của địch hoạt động trên vùng biển Campuchia (bờ biển dài khoảng 400 kilômét, trong đó có 44 đảo), đặc biệt là sư đoàn 164 hải quân và trung đoàn 17 biên phòng của Pôn Pốt đang chốt giữ khu vực cảng Côngpông Xom và tỉnh Cô Công. Phối hợp chiến đấu với lực lượng của hải quân có lực lượng bộ binh của Quân đoàn 2.

6 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh tổng công kích vào thủ đô Phnôm Pênh từ ba hướng: Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 (lực lượng chủ yếu) và Sư đoàn 341 (dự bị) cùng lực lượng binh chủng tăng cường (đặc công, xe tăng, pháo binh) vượt sông Mê Công tiến theo trục đường số 1 và đường sông Mê Công, đánh vào Phnôm Pênh. Sau khi ra khỏi khu vực đường lầy, đánh tan các cụm phòng ngự địch, Quân đoàn 4 phát triển tiến công nhanh, Bộ giao lại nhiệm vụ tiến công hướng chủ yếu cho Quân đoàn 4; đồng thời tập trung không quân chi viện đắc lực cho các mũi tiến công của Quân đoàn tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.


(1) Lịch sử Quân đoàn 4, tập II, Nxb QĐND, H, 1994, tr. 94.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:16:56 am
Sư đoàn không quân 372 sử dụng 142 lượt máy bay đánh phá sở chỉ huy các sư đoàn 260, 271, 703, các trận địa pháo, các tàu xuồng địch trên sông Mê Công, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cho bộ binh phát triển chiến đấu. Sau khi hoàn thành đánh mở rộng bàn đạp phía đông Niếc Lương, chiều ngày 6 tháng 1, lực lượng đi đầu của Sư đoàn 7 (Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 14) đã chiếm lĩnh phía tây bến phà Niếc Lương, làm công tác chuẩn bị vượt sông. Đêm 6 tháng 1, với tinh thần khẩn trương nhất, Trung đoàn Hải quân 926 đã triển khai xong các phương tiện vượt sông trên hướng chủ yếu của Quân đoàn 4. Sáng ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 7 phối hợp với Binh đoàn 1 Campuchia vượt sông Mê Công (qua khu vực bến phà Niếc Lương); với lực lượng áp đảo, quân ta nhanh chóng đánh tan sư đoàn 260 địch. 10 giờ, bộ đội ta đánh chiếm cầu Mônivông, địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về phía tây. 11 giờ, các đơn vị của Sư đoàn 7 và Binh đoàn 1 Campuchia tiến vào thành phố Phnôm Pênh, chiếm các cơ quan Trung ương, khu sứ quán và Đài phát thanh.

Trên hướng Quân đoàn 3, sáng ngày 6 tháng 1, Quân đoàn tập trung hoả lực chi viện Sư đoàn 320 vượt sông đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm. Địch huy động không quân, pháo binh đánh phá ngăn chặn ta rất quyết liệt. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Vũ Cối, các đội xung kích của Trung đoàn 64 dùng xuồng máy dũng cảm vượt sông dưới làn đạn địch, đánh chiếm bờ sông phía tây. 8 giờ 30 phút ngày 6 tháng 1, các đơn vị thuộc Sư đoàn 320 mở các đợt xung phong mãnh liệt, đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm, đập tan tuyến phòng ngự vững chắc của 2.000 quân địch do Xon Xen, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy, mở thông cánh cửa quan trọng vào thủ đô Phnôm Pênh.

Sáng ngày 7 tháng 1, được pháo binh chi viện đắc lực, Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10) do Trung đoàn trưởng Vũ Khắc Đua chỉ huy cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp, cao xạ tăng cường tiến công trong hành tiến theo trục đường số 7, đánh tan lực lượng địch ngăn chặn ở núi Phuchê, vượt sông Tông Lê Sáp đánh chiếm kho xăng phía bắc Phnôm Pênh, đánh chiếm khu vực nhà máy xay, nhà máy hoa quả, nhà máy cơ khí, kho súng, kho đạn và phát triển sang phía đông đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu quân Pôn Pốt, bắt liên lạc với các đơn vị của Quân đoàn 4 ở trung tâm thành phố.

Trên hướng Quân khu 9, sáng ngày 6 tháng 1, Sư đoàn 330 tiến công Thnôtbâk, Tani, bị địch ngăn chặn quyết liệt, đến 15 giờ chiều mới vượt qua ngã tư Thnốtbâk 2 kilômét. Trung đoàn 10 Sư đoàn 339 tiến công theo đường Anchao - Tani bị địch chặn lại ở Tani. Trên đường số 2, Sư đoàn 4 được tăng cường xe tăng, thiết giáp tiến công Tàkeo bị địch ngăn chặn cách ngã tư Thnôtbâk 6 kilômét. Trước tình hình đó, chiều ngày 6 tháng 1, Bộ tư lệnh Quân khu 9 lệnh cho Sư đoàn 330 tăng cường lực lượng đánh chiếm đoạn đường từ ngã tư Thnốtbâk đến Tani, mở đường cho các đơn vị thọc sâu theo đường 3. Ngay chiều ngày 6, Sư đoàn 330 đã sử dụng Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) và 10 xe thiết giáp từ phía nam đánh thẳng lên núi Sangcông, phối hợp với Trung đoàn 2 ngay trong đêm phát triển đánh chiếm các mục tiêu ở Tani. Quân ta đột phá liên tục, đánh tan 4 tuyến phòng ngự của địch, mở đường cho đội hình thọc sâu tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.

Sau khi Sư đoàn 330 chiếm được Tani, lực lượng tiền vệ của Quân khu 9 nhanh chóng đánh chiếm cầu Kal Tuốt bảo đảm cho Sư đoàn 330 tiếp tục thọc sâu. Được không quân chi viện hoả lực, 11 giờ ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 330 đánh chiếm sân bay Pôchentông, ta thu 30 máy bay các loại giao cho Bạn làm cơ sở để thành lập trung đoàn không quân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia. Ngay sau đó, các đơn vị của Quân khu 9 phát triển tiến công vào Bộ tư lệnh thiết giáp và Bộ Tổng tham mưu địch. 17 giờ ngày 7 tháng 1, quân ta cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia hoàn toàn làm chủ thành phố Phnôm Pênh.

Trên hướng biển, 19 giờ ngày 6 tháng 1, lực lượng đổ bộ của Lữ đoàn hải quân 126 áp sát chân núi Tàlơn, địch phát hiện và dùng pháo bắn mạnh vào khu vực đổ bộ của ta. Nhưng chỉ ít phút sau, các trận địa pháo địch đã bị bộ đội đặc công (gồm 87 cán bộ, chiến sĩ đổ bộ trong các đêm 4 và 5 tháng 1) tiến công tiêu diệt; các trận địa pháo tầm xa của ta đặt ở Phú Quốc, Hòn Đốc cũng kịp thời nổ súng chi viện chế áp các trận địa pháo địch ở các đảo Hòn Nước, Phú Dự, An Tây, Tre Mắm, Kiến Vàng, bắn phá ngăn chặn quân địch ở ngã ba Môke không cho chúng tiến ra Tà Lơn.

Trong lúc các lực lượng đổ bộ đánh chiếm khu vực Tà Lơn thì hai tàu 203 và 215 thuộc Biên đội 2 cảnh giới ở sườn trái bãi đổ bộ phát hiện 2 tàu địch từ khu vực đảo Phú Dự và Hòn Nước tiến về khu vực tàu đổ bộ của ta. Hai tàu ta lập tức nổ súng đánh chặn, bắn chìm 1 tàu địch, chiếc còn lại bỏ chạy. 1 giờ 30 phút ngày 7, 5 tàu địch từ khu vực cảng Rêam tiến ra biển hòng tiến công vào các tàu đổ bộ của ta. Các tàu HQ-05, HQ-07 được sự phối hợp của tàu 613 nổ súng mãnh liệt, bắn chìm 1 tàu, buộc các tàu còn lại phải tháo chạy, ở hướng Biên đội 1, các tàu HQ-01, HQ-03, HQ-197 và HQ-205, sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghi binh ở hướng Côngpông Xom được lệnh cơ động sang phía quân cảng Rêam (cách khoảng 16 kilômét) dùng pháo tầm xa bắn chi viện bộ binh phát triển tiến công, ở khu vực biển Kép, các tàu ta quần nhau với 4 tàu địch, ta bắn chìm 1 tàu, bắn bị thương 1 tàu khác. Phía ta, tàu 215 trúng đạn địch, một số cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:19:31 am
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đổ bộ và đánh chiếm các mục tiêu xung quanh Tàlơn, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tổ chức lực lượng đột kích gồm 12 xe tăng, xe bọc thép và một phần lực lượng của Tiểu đoàn 864 đánh chiếm ngã ba Kôki, sau đó toàn bộ lực lượng đổ bộ phối hợp với bộ binh Quân đoàn 2 hình thành hai cánh phát triển tiến công địch về phía cảng Côngpông Xom và cảng Rêam.

Sau khi giải phóng Phnôm Pênh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập, do ông Hêng Xomrin làm Chủ tịch. Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia ra tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari, thành lập chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia; đồng thời yêu cầu các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiếp tục giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 2 giải phóng thị xã Prâyveng, Sư đoàn 4 giải phóng thị xã Tàkeo. Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 24 Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 giải phóng thị xã Côngpông Thom. Ngày 10 tháng 1, lực lượng hải quân Vùng 5 và Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) giải phóng cảng Côngpông Xom, Trung đoàn 9 và Tiểu đoàn 8 Hải quân đánh bộ giải phóng cảng quân sự Rêam. Ngày 11 tháng 1, Sư đoàn 339 (Quân khu 9) giải phóng thị xã Côngpông Chnăng.

Ngày 12 tháng 1 năm 1979, nước Cộng hoà nhân dân Campuchia được thành lập. Trong các ngày từ 12 đến 16 tháng 1 năm 1979, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiếp tục phát triển tiến công, giải phóng thị trấn Sisôphôn (Báttambang), thị trấn Sơlông, thị xã Báttambang, thị xã Puốcxát Otđômiênchay.

Ngày 16 tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Mặt trận phía Tây Nam Tổ quốc “đã chiến đấu anh dũng, làm nên một thắng lợi lịch sử rất vẻ vang. Bằng một trận thần tốc... đã đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt xâm lược biên giới Tây Nam Tổ quốc ta, phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công và nổi dậy của nhân dân Campuchia anh em, đánh đổ chế độ diệt chủng tàn bạo bị mọi người lên án. Đây là thắng lợi chung của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia. Thắng lợi to lớn này góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”(1).

Ngày 17 tháng 1 năm 1979, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), được không quân chi viện, tiến công giải phóng thị xã Cô Công. Đây là thị xã cuối cùng của Campuchia được giải phóng(2).

Ngày 25 tháng 1 năm 1979, nhân dân Campuchia tổ chức lễ mừng chiến thắng giải phóng đất nước khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari.

Chiến thắng ngày 7 tháng 1 năm 1979 của cách mạng Campuchia có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại. Từ đây, nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, như Quân ủy Trung ương ta đã nhận định: “Do phát triển tiến công giành thắng lợi nhanh, lực lượng địch bị tan rã lớn, chưa bị tiêu diệt gọn (tàn quân còn nhiều, một số nơi chúng còn tổ chức chỉ huy và phương tiện thông tin liên lạc, còn khống chế dân, tích trữ lương thực, đạn dược để phát động chiến tranh du kích). Lực lượng cách mạng Campuchia chưa phát triển kịp theo yêu cầu, hậu quả của chế độ nô dịch tàn bạo của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari còn rất nặng nề... nên còn nhiều việc phải giải quyết...”(3).

Tình hình đó đặt ra cho Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia những nhiệm vụ đầy khó khăn, gian khổ, đòi hỏi phải có bản lĩnh kiên cường, quyết tâm cao và nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả mới bảo vệ được thành quả cách mạng và xây dựng lại đất nước.


(1) Điện số 10/CV-TW ngày 16 tháng 1 năm 1979 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Tài liệu lưu tại Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu.
(2) Theo kế hoạch có 3 chiến dịch, nhưng diễn biến chỉ có một chiến dịch đánh liên tục. Kết quả đến ngày 17 tháng 1 năm 1979, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6 vạn tên (từ 8 đến 10 sư đoàn quân Pôn Pốt) chủ yếu là tan rã.
(3) Báo cáo tình hình công tác quân sự của Quân ủy Trung ương (số 45-QUTƯ ngày 8 -2-1979). Hồ sơ 1085 - Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 9.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:21:55 am
3. Phối hợp với Bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính quyền cách mạng, hảo vệ vùng giải phóng.

Mặc dù đã bị thiệt hại lớn, nhưng tàn quân Pôn Pốt vẫn còn đông (khoảng 4 vạn tên rút chạy vào vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, ẩn náu trong các khu vực địa hình rừng núi hiểm trở, trà trộn trong dân). Kẻ thù còn duy trì được cơ quan đầu não, hệ thống chỉ huy và còn khống chế được một số vùng nông thôn với số dân tương đối lớn. Lợi dụng sự thông thạo về địa hình, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tàn quân địch lẩn trốn ở khắp nơi, được các thế lực phản động hậu thuẫn tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Với nguồn viện trợ dồi dào và vũ khí của nước ngoài, bọn Pôn Pốt - Iêng Xari chủ trương khôi phục lại các trung đoàn, sư đoàn chủ lực đã bị tan rã, phân chia khu vực hoạt động cho bọn chỉ huy các đơn vị vừa được khôi phục. Âm mưu của địch là phá hoại, khống chế các trục giao thông huyết mạch, đánh chiếm lại một số địa bàn chiến lược do các lượng yêu nước Campuchia kiểm soát để xây dựng các căn cứ chống phá lâu dài chính quyền cách mạng Campuchia, hòng khôi phục lại chế độ độc tài phản động ở nước này.

Chỉ hai ngày sau khi thành phố Phnôm Pênh được giải phóng, quân Pôn Pốt đã tiến hành nhiều hoạt động tập kích, phục kích đánh phá giao thông, gây khó khăn cho việc chuyển quân, tiếp tế hậu cần của các đơn vị ta. Ngày 9 tháng 1, quân địch đánh chiếm thị trấn Uđông (cách Phnôm Pênh 60 kilômét phía bắc) và kho đạn ở Longvéc (bắc Uđông 10 kilômét), đưa số vũ khí lấy được vào rừng; sau đó chúng sử dụng bộ binh (cỡ trung đoàn, sư đoàn thiếu, có xe tăng yểm trợ) đánh vào thị xã Tàkeo và thị xã Puốcxát.

Từ giữa tháng 1 năm 1979, mức độ đánh phá của địch trên các mặt trận trở lên ác liệt hơn. Chúng sử dụng bộ binh cỡ tiểu đoàn, trung đoàn liên tiếp tấn công vào ngã sáu Bátđông; sử dụng bộ binh cấp sư đoàn, có xe tăng yểm trợ, đánh vào khu vực tây, tây bắc thị xã Côngpông Spư; gây ra vụ thảm sát man rợ nhân dân ở Takhmau (phía nam thủ đô Phnôm Pênh). Ở mặt trận đường số 5, địch sử dụng 2 trung đoàn, có xe tăng, thiết giáp hỗ trợ, đánh chiếm đoạn đường số 5 từ bắc Uđông đến Longvéc, chúng chiếm kho súng Uđông, đẩy Trung đoàn 10 Sư đoàn 339 về phía Nam.

Trên địa bàn Báttambang - Xiêm Riệp và 4 tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh, địch còn hơn 20.000 quân đang lẩn trốn, chúng được bọn chỉ huy tập hợp lập ra nhiều đơn vị mới phối hợp với các tổ chức phản động như “Linh hồn Khơme”, “Voi trắng ngà xanh”, “Chính phủ liên hiệp kháng chiến” để đẩy mạnh hoạt động chống phá chính quyền cách mạng, đánh phá các vùng mới giải phóng.

Cùng với việc gom quân, liên kết với lực lượng Sêrêka (do Mỹ dựng lên từ năm 1970), Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức củng cố các bàn đạp, các căn cứ, tổ chức lại đường dây Đông - Tây. Chúng thành lập các mặt trận phía tây Phnôm Pênh, đường 5, Tây Nam... hòng triển khai lực lượng phản kích chiếm lại các địa bàn đã mất.

Nhằm có một cơ quan chuyên trách về giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ đạo chiến đấu bảo vệ thành quả của cách mạng Campuchia, ngày 24 tháng 1 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 30/QĐ-QP tách Đoàn chuyên gia quân sự 478 ở Ban B.68 về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đoàn 478 có nhiệm vụ thường xuyên quan hệ chặt chẽ với Ban B.68 của Trung ương để báo cáo và chịu sự hướng dẫn những vấn đề liên quan, phối hợp với chuyên gia các ngành khác để tiến hành công tác giúp cách mạng và nhân dân Campuchia.

Trước tình hình địch tập trung lực lượng chuẩn bị phản kích hòng giành lại một số địa bàn quan trọng, ngày 9 tháng 2 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng triệu tập cuộc họp mở rộng tại thành phố Phnôm Pênh (dự họp có chỉ huy các quân khu 5, 7, 9; các quân đoàn 2, 3, 4 và chỉ huy các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia) để đánh giá tình hình địch, ta và triển khai kế hoạch truy quét tàn quân địch, giúp Bạn củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng.

Theo kế hoạch đã được hội nghị bàn bạc thống nhất, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam sẽ phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở các chiến dịch truy quét tàn quân địch để bảo vệ các trục giao thông, các địa bàn chiến lược, tiêu diệt các căn cứ của quân Pôn Pốt, ngăn chặn các nguồn viện trợ từ bên ngoài thâm nhập qua biên giới Thái Lan vào trong nội địa cho bọn phản động và tàn quân Pôn Pốt.

Trong khi các đơn vị quân tình nguyện đang khẩn trương triển khai lực lượng giúp Bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, bảo vệ vùng mới giải phóng và chính quyền cách mạng thì ngày 17 tháng 2 năm 1979, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc nước ta bùng nổ. Trên diễn đàn quốc tế, được sự hậu thuẫn của các thế lực phản động, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức vu cáo, xuyên tạc sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Chín, 2021, 06:23:34 am
Những âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari và các thế lực quốc tế tiếp tục phá hoại cách mạng Campuchia và Việt Nam chỉ càng thắt chặt thêm tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, tại thủ đô Phnôm Pênh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chủ tịch Hêng Xomrin, thay mặt Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia ký Hiệp ước Hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Hiệp ước gồm 9 điều với những nội dung chủ yếu sau đây:

Điều 1: Hai bên cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị, hợp tác anh em Việt Nam - Campuchia, lòng tin cậy và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình bảo vệ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị thủy chung Việt Nam - Campuchia đời đời trong sáng.

Điều 2: Trên nguyên tắc việc bảo vệ và xây dựng đất nước mình là sự nghiệp của chính nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết hết lòng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao động hoà bình của nhân dân mỗi nước, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của lực lượng đế quốc và phản động quốc tế. Hai bên sẽ tiến hành các biện pháp có hiệu quả nhằm thực hiện điều cam kết này khi một trong hai bên yêu cầu.

Điều 3: Nhằm giúp nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hai bên sẽ tăng cường quan hệ trao đổi và hợp tác anh em cùng có lợi và giúp đỡ nhau về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và trao đổi chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm xây dựng đất nước về mọi mặt. Nhằm mục đích đó, hai bên sẽ ký những hiệp định cần thiết, đồng thời tăng cường tiếp xúc và hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan và các tổ chức quần chúng của hai nước.

Điều 4: Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký kết một hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng đường biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước.

Điều 5: Hai bên hoàn toàn tôn trọng đường lối độc lập tự chủ của nhau. Hai bên kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, hoà bình, hữu nghị hợp tác và không liên kết, theo nguyên tắc không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào công việc nội bộ nước khác, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ của nước mình và không cho phép bất kỳ nước nào dùng lãnh thổ nước mình để can thiệp vào nước khác.

Hai bên coi trọng truyền thống đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em lâu đời giữa nhân dân Campuchia, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam, nguyện ra sức tăng cường quan hệ truyền thống đó trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Hai bên tăng cường quan hệ mọi mặt với các nước xã hội chủ nghĩa. Là những nước ở Đông Nam châu Á, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Campuchia kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và các nước khác ở Đông Nam châu Á, tích cực góp phần vào hoà bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam châu Á. Hai bên phát triển quan hệ hợp tác với các nước dân tộc độc lập, các phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai bên tích cực góp phần vào sự đoàn kết và lớn mạnh của phong trào không liên kết chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế khác, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới.

Điều 6: Hai bên sẽ thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau về những vấn đề thuộc quan hệ hai nước và những vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có lý có tình...

Trong bản Hiệp ước, hai bên cũng khẳng định, Hiệp ước không nhằm chống một nước thứ ba nào và không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo các hiệp định hai bên hoặc nhiều bên mà họ đã tham gia.

Theo tinh thần của bản Hiệp ước, một bộ phận Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy quét tàn quân địch, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khôi phục sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:15:20 am
Cùng với việc tổ chức lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự làm nhiệm vụ ở Campuchia, thực hiện Điều 3 của Hiệp ước Hoà bình hữu nghị và hợp tác, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về “Hợp tác văn hoá, giáo dục, y tế và khoa học”. Theo đó, hai bên hợp tác và giúp đỡ nhau trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế và khoa học.

Về văn hóa, hai bên sẽ trao đổi các đoàn văn hóa, nghệ thuật điện ảnh, báo chí; hợp tác về xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, triển lãm, thông tin quần chúng; giúp nhau đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật và trao đổi chuyên gia văn hóa.

Về giáo dục, trao đổi các đoàn làm công tác giáo dục và giáo viên các cấp, các ấn phẩm của Nhà xuất bản Giáo dục của mỗi nước và trao đổi kinh nghiệm các mặt trong lĩnh vực giáo dục; hợp tác trong việc khôi phục cơ sở giáo dục, biên soạn và xuất bản sách giáo khoa và các tài liệu giáo dục khác.

Trong lĩnh vực y tế, hợp tác giải quyết những vấn đề y tế cấp bách trong việc chữa các bệnh phổ biến và công tác phòng dịch, chống dịch; trao đổi kinh nghiệm trong công tác tổ chức, quản lý các cơ sở y tế; trao đổi cán bộ y tế, nhân viên kỹ thuật và các tài liệu về y học, dược học; hợp tác trong công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân; hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế; hợp tác trong việc sản xuất thuốc phòng bệnh, chữa bệnh và khai thác các nguồn dược liệu; hợp tác và giúp nhau trong việc điều trị bệnh nhân.

Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, hai bên sẽ trao đổi các đoàn nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; hợp tác nghiên cứu về khoa học, trao đổi những kinh nghiệm thông tin khoa học.

Trên cơ sở Hiệp ước, Hiệp định đã ký kết với Chính phủ Campuchia cũng như thỏa thuận giữa chính phủ hai nước, ngày 26 tháng 2 năm 1979, Hội đồng chính phủ ta ra Quyết định số 72-CP tổ chức Đoàn chuyên gia kinh tế - văn hóa của Chính phủ ta (lấy bí danh là A40) giúp Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia và cử đồng chí Nguyễn Côn, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế, kế hoạch của Trung ương Đảng làm Trương đoàn. Các đồng chí Hồ Viết Thắng, Phó chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Nguyễn Tuân, Thứ trưởng Bộ Điện và Than, phụ trách khối công nghiệp làm Phó trưởng đoàn. Các đồng chí Trần Khải, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp; Nguyễn Hữu Bảo, Thứ trưởng Bộ Nội thương; Đặng Văn Thông, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Phạm Văn Sơn, Thứ trưởng Bộ Lâm Nghiệp; Lê Thành Công, Thứ trưởng Bộ Văn hóa và thông tin; Nguyễn Duy Cương, Thứ trưởng Bộ Y tế là thành viên. Đoàn chuyên gia A40 có nhiệm vụ giúp Chính phủ Bạn nghiên cứu chủ trương, chính sách, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở Campuchia và giúp thực hiện những công việc kinh tế, văn hóa mà Bạn chưa có khả năng và do Bạn yêu cầu.

Để tạo điều kiện cho chuyên gia kinh tế - văn hoá của ta hoạt động được thuận lợi trong tình hình mọi mặt chưa thật ổn định, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao trách nhiệm cho Tiền phương Bộ Quốc phòng và Tiền phương Tổng cục Hậu cần bảo đảm điều kiện công tác tối thiểu cần thiết cho các đoàn chuyên gia kinh tế - văn hoá của ta. Khi cần thiết, đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia của ngành ở Trung ương và tỉnh, thành phố sẽ liên hệ với các đơn vị quân đội (quân khu, quân đoàn, sư đoàn hoặc trung đoàn) gần nhất để yêu cầu giúp đỡ các mặt, gồm:

1. Cung cấp về lương thực và thực phẩm theo tiêu chuẩn chung (mỗi đoàn không quá 20 - 30 người, nếu có cả điện đài và lực lượng bảo vệ đi theo).

2. Phương tiện đi lại trên đất Bạn (cũng như từ ta sang đất Bạn và ngược lại) trong phạm vi khả năng và điều kiện cho phép, nếu vì lý do nào đó đoàn chuyên gia của ta không thể mang theo phương tiện riêng của đoàn được.

3. Cung cấp xăng dầu cho các đoàn có mang theo ô tô mà không thể mang theo xăng dầu sang đất Bạn hoặc tiếp tế không kịp.

4. Cung cấp quần áo và mũ theo quy định chung cho cán bộ trong các đoàn chuyên gia của ta được điều động sang công tác lâu dài trên đất Bạn, trước khi lên đường.

5. Cung cấp thuốc men hoặc chữa bệnh khi cần thiết.

6. Sử dụng phương tiện thông tin (điện thoại và vô tuyến điện) để bảo đảm giữ liên lạc thông suốt với Trung ương, với cấp ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, nếu đoàn không có điện thoại, điện đài mang theo.

7. Bảo đảm an toàn cho các đoàn chuyên gia của ta hoạt động ở những nơi mà các đoàn chuyên gia không có lực lượng bảo vệ đi theo và điều kiện không cho phép.

8 Các đơn vị bộ đội và các đoàn chuyên gia của ta phải chấp hành đúng các nguyên tắc, chế độ, tiêu chuẩn về cấp phát, giao nhận và quản lý của Nhà nước theo hướng dẫn của Tiền phương Tổng cục Hậu cần.

Hàng tháng, hàng quý, Tiền phương Tổng cục Hậu cần có trách nhiệm báo cáo, thanh quyết toán số lượng vật tư hàng hoá (lương thực, quần áo, xăng dầu...) đã thực sự cấp phát cho các đoàn chuyên gia của ta (hiện vật và tính thành tiền) gửi về Phủ Thủ tướng, đồng thời gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính.

Tiền phương Bộ Quốc phòng và Tiền phương Tổng cục Hậu cần có trách nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị cấp dưới hướng dẫn kiểm tra đôn đốc việc thực hiện. Nếu gặp khó khăn kịp thời báo cáo để Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:16:22 am
Thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị và quyết định của Chính phủ, sau khi Đoàn chuyên gia kinh tế văn hoá ở Trung ương được thành lập và sang thủ đô Phnôm Pênh giúp Bạn, 8 tỉnh biên giới (kể cả Nghĩa Bình, Phú Khánh) và thành phố Hồ Chí Minh, lần lượt cử đoàn chuyên gia kinh tế và văn hoá sang giúp Bạn.

Tiếp đó, các tỉnh Cửu Long, Đồng Nai, Quảng Nam - Đà Nẵng cũng lần lượt cử đoàn chuyên gia sang giúp Bạn. Đoàn chuyên gia của các tỉnh, thành, do một đồng chí Thường vụ, Phó chủ tịch tỉnh, thành phụ trách. Thành phần gồm: các đồng chí phó ty (sở) hoặc tương đương của các ngành Nông nghiệp, Thủ công nghiệp, Thương nghiệp và Vật tư, Giao thông vận tải, Bưu điện, Y tế, Tài chính và Kế hoạch, Thủy lợi, Hải sản, Lâm nghiệp...

Đến tháng 2 năm 1979, ta đã hình thành hệ thống chuyên gia giúp Bạn Campuchia gồm: Ban B.68 giúp xây dựng các tổ chức và cơ quan chính trị của Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp và các đoàn thể quần chúng, chỉ đạo các đoàn chuyên gia ở địa phương. Đoàn chuyên gia kinh tế - văn hóa (A40) giúp xây dựng khối kinh tế - xã hội, văn hóa. Đoàn chuyên gia quân sự (Đoàn 478), giúp xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và chỉ đạo chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Đoàn chuyên gia an ninh (K79) giúp về công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giúp xây dựng lực lượng an ninh Campuchia.

Bên cạnh các đoàn chuyên gia trên còn có Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia thực hiện các nhiệm vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trong đó tập trung vào ba nhiệm vụ chủ yếu: Một là, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy quét tàn quân địch. Hai là, phát động quần chúng, xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ba là, giúp nhân dân Campuchia nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất.

Trong thời kỳ đầu, nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, tiêu diệt các căn cứ, các tổ chức phản động, giữ vững chính quyền cách mạng được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta trên chiến trường Campuchia. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam (gồm một số đơn vị thuộc các quân đoàn 2, 3, 4; các quân khu 5, 7, 9 và một số đơn vị quân chủng, binh chủng tăng cường) phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở nhiều đợt truy quét tàn quân địch, dồn chúng về biên giới phía Tây Bắc Campuchia.

Trên hướng Quân đoàn 2, sau khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong đợt tổng tiến công, Quân đoàn tổ chức lực lượng đứng chân trên hai khu vực: Sư đoàn 304 và các đơn vị tăng cường đảm nhiệm khu vực đường số 4 - cảng Côngpông Xom. Sư đoàn 325 và một số đơn vị binh chủng truy quét địch ở khu vực tỉnh Campốt.

Sau khi truy quét, tiêu diệt địch ở các căn cứ ví rừng núi đông đường số 3 (thung lũng, điểm cao 46) đẩy địch ra xa, bảo đảm an toàn cho thị xã Campốt, và hậu phương chiến dịch, cuối tháng 1 năm 1979, Sư đoàn 325 chuyển hướng lên hoạt động ở bắc đường số 3, đánh địch ở khu vực từ bắc diêm cao 127 đến tây nam núi Con Sâu, đèo 24. Sau 15 ngày chiến đấu, ta và Bạn loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên địch, thu một số vũ khí, tạo bàn đạp chuẩn bị tiến công tiêu diệt quân địch ở Trốpsala.

Trong thời gian này, Sư đoàn 304 vừa khẩn trương củng cố khu vực đứng chân, vừa cùng lực lượng Bạn tổ chức tiến công địch từ bắc cầu Côngpông Sơmách đến Vênhriêng và đánh chiếm khu vực từ Vênhriêng đến nam cầu Tànày. Cuối tháng 1, địch dùng một lực lượng lớn bộ binh, có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ chia thành nhiều mũi đánh vào các khu vực phòng thủ của ta từ nam cầu Tànày đến Vênhriêng; ta bắn cháy 3 xe tăng, đập tan các cuộc phản kích của địch, nhưng lực lượng của ta cũng bị tổn thất do chưa nắm chắc thủ đoạn tác chiến của địch, giải quyết cách đánh chưa tốt, còn nặng về đánh chính diện, đánh xua đuổi, không tích cực thực hiện luồn sâu, bao vây chặt nên đã để địch chạy thoát nhiều và bắt dân đi theo.

Đầu tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 bước vào đánh địch đợt hai, giúp Bạn truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng. Phối hợp tác chiến với Quân đoàn có Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3) trên hướng Campốt; Sư đoàn 339 và Sư đoàn 4 (Quân khu 9) hoạt động ở Đông Bắc Salakhum; ở hướng đường số 4 và cảng Côngpông Xom có bộ đội Hải quân Vùng 5 và Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Rút kinh nghiệm chiến đấu đợt 1, trong đợt hai, Quân đoàn 2 quyết tâm tập trung lực lượng tiến công liên tục, không cho địch kịp hồi sức; vừa tập trung lực lượng bộ binh đẩy mạnh tiến công địch ở phía trước; đồng thời sử dụng một lực lượng cùng các đơn vị binh chủng tổ chức phòng thủ vững chắc các vùng căn cứ ở phía sau, bảo đảm an toàn giao thông. Trong tác chiến kết hợp chặt chẽ đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; kết hợp đánh chính diện với đánh vu hồi; đánh dứt điểm từng khu vực, đánh trúng chỉ huy, phá căn cứ địch; chú trọng đưa dân trở về làng cũ; thu gom triệt để vũ khí trang bị và các kho tàng của địch giao cho Bạn quản lý, triệt nguồn tiếp tế của địch; kết hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn thực hiện tiến công về quân sự và đẩy mạnh công tác binh vận; cùng Bạn vận động, tổ chức nhân dân củng cố, xây dựng các vùng giải phóng về mọi mặt.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:17:14 am
Ở khu vực Campốt, ngày 2 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 sử dụng 1 tiểu đoàn luồn sâu vào điểm cao 177 (Đông Bắc Trốpsala); đồng thời sử dụng lực lượng còn lại bao vây chặt quân địch co cụm ở Trốpsala. Sau 4 ngày chiến đấu, Trung đoàn 95 diệt và bắt nhiều tên địch, làm chủ Trốpsala. Phối hợp với Trung đoàn 95, Trung đoàn 101 vừa làm nhiệm vụ phòng thủ ở tuyến sau, vừa sử dụng lực lượng đánh địch từ tây điểm cao 23 đến bắc điểm cao 54. Ta tổ chức nhiều mũi truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng nghìn dân bị chúng cầm giữ ở Trốpsala; đồng thời tổ chức tốt các đợt đánh địch phản kích từ Kaosala xuống hòng chiếm lại khu vực này.

Tại khu vực bắc đèo 244, ngày 7 tháng 2 năm 1979 Trung đoàn 18 liên tiếp đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Ngày 10 tháng 2, Trung đoàn tổ chức trận vận động tiến công trên đường số 37, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng địa bàn phòng thủ. Sau đợt tác chiến này, theo lệnh của trên, Sư đoàn 325 phối hợp với các sư đoàn 4, 339, 320 và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc hợp vây lớn tiêu diệt lực lượng của Quân khu Đông Nam địch đang tập trung ở Chúc và các vùng xung quanh.

Nhận nhiệm vụ tổ chức tiến công truy quét địch từ đông bắc điểm cao 244 đến Kaosala và từ Kasăng đến Chúc, ngày 13 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 101) tổ chức luồn sâu áp sát các căn cứ địch. Sáng ngày 14 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn đồng loạt nổ súng. Trung đoàn 18 đánh chiếm Trêpêng Sđen, Trung đoàn 95 đánh chiếm Kaosala. Sau khi làm chủ các mục tiêu, Sư đoàn 325 phát triển chiến đấu đánh chiếm Kasăng, Taken, điểm cao 55 tây bắc Chúc và tiếp tục đánh sâu vào vùng căn cứ địch.

Chiều ngày 17 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn 325 chiếm được khu vực Trapengpreng và điểm cao 154, sau đó phối hợp với các đơn vị của Quân khu 9 phát triển chiến đấu ra đường số 3 tiến công địch ở Rútsét, Vátăngcôi và các điểm cao 87, 50. Sau hơn 1 tuần phối hợp chiến đấu cùng các đơn vị Bạn, Sư đoàn 325 đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Bộ đội ta tiêu diệt sở chỉ huy Quân khu Đông Nam, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 230 và trung đoàn 123 địch, góp phần cùng các đơn vị Bạn giải phóng một vùng rộng lớn nằm giữa Chúc, Campốt và Côngpông Trạch, giải phóng gần 100.000 dân.

Ở khu vực đường số 4, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 phòng thủ phía sau; Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 phát triển tiến công địch từ bắc cầu Tànày đến đèo Píchnin và khu vực cảng Côngpông Xom. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính diện với thọc sâu vu hồi, các đơn vị của Sư đoàn 304 tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ đường số 4 và khu vực cảng Côngpông Xom. Từ ngày 17 đến 19 tháng 2 năm 1979, được Quân đoàn tăng cường xe tăng, xe bọc thép và pháo tầm xa của Lữ đoàn 164 chi viện, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 66 tiến công khu vực đèo Píchnin. Sau hai ngày chiến đấu, bộ đội ta và Bạn tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch, làm chủ khu vực đèo Píchnin, trong đó có nhà máy thủy điện công suất 10.000KW.

Trong 40 ngày đêm phối hợp cùng lực lượng Bạn và các đơn vị của Quân khu 9 truy quét địch trên cả hai hướng Cam Pốt và Côngpông Xom, các đơn vị của Quân đoàn 2 đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, góp phần giải phóng nhiều vùng dân cư rộng lớn ở Quân khu Đông Nam và Đặc khu Côngpông Xom, giải phóng gần 350.000 dân, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, giúp Bạn ổn định đời sống nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng.

Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 27 tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 được lệnh trở về Tổ quốc nhận nhiệm vụ mới. Quân đoàn 2 vinh dự được Quốc hội và Chính phủ ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia trao tặng Huân chương Ăng co kèm theo bức trướng mang dòng chữ “Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, tuyệt vời”. Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304), Đại đội 7 (Lữ đoàn 203 xe tăng) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai; 163 tập thể, 1.260 cán bộ, chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong hoạt động giúp Bạn được thưởng Huân chương Quân công và Chiến công các hạng.

Trong khi Quân đoàn 2 rút quân về nước thì Quân đoàn 3 nhận lệnh chuyển đội hình lên phía bắc và tây bắc Campuchia. Quân đoàn chuyển lên vùng sâu, vùng xa, tiếp tế rất khó khăn, địch liên tục đánh phá. Nhiều thử thách dồn dập đến với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn. Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định phát động phong trào “Giết giặc lập công”, thi đua với quân dân các tỉnh phía Bắc. Với tinh thần “bám dân, bám địa bàn, truy quét triệt để tàn quân địch”, ngay trong đợt truy quét đầu, các đơn vị của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Bạn đánh các đồn biên phòng Poipét, Concoóc, tiêu diệt nhiều tàn quân địch trên biên giới Tây Bắc Campuchia.

Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 309; Trung đoàn 726 (Quân khu 5) và Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 113 đặc công của Bộ) để mở “chiến dịch 3”, phối hợp cùng các đơn vị Bạn truy quét tàn quân địch, tiêu diệt cơ quan Trung ương của Pôn Pốt - Iêng Xari ở khu vực phía tây Báttambang.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:19:18 am
Thực hiện nhiệm vụ được giao, từ ngày 22 tháng 3 đến 24 tháng 4, Quân đoàn 3 tập trung 3 sư đoàn bộ binh (10, 31, 309), Trung đoàn 726 và một số đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh mở chiến dịch truy quét địch ở phía tây Báttambang, chủ yếu là khu vực Tàsanh, Sămlốt, Tứcsóc.

Mở đầu chiến dịch, từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 3, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 66 đánh chiếm các bàn đạp Chisăng, Păngrôlin; Trung đoàn 24 chốt chặn đường 43 ở nam Sămlốt. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 866 tiến công Sênôtức, Thơmin, Trung đoàn 977 làm nhiệm vụ mở rộng hành lang, Trung đoàn 922 đánh chiếm Taghen. Ngày 27 tháng 3, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 31 tiến công Tàsanh - Sămlốt từ hai hướng. Sư đoàn 10 đánh vào Sămlốt và ngăn chặn đường rút lui của quân địch sang biên giới Thái Lan. Sư đoàn 31 từ phía đông, đông bắc tiến công căn cứ Tàsanh, sau đó phát triển chiến đấu truy quét tàn quân địch dọc biên giới phía tây nam và tây bắc tỉnh Báttambang. Ngày 29 tháng 3, ta đánh chiếm đài phát thanh và một số cơ quan trung ương địch đặt ở phum Tứcsóc. Trong 4 ngày đêm hoạt động, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 tiêu diệt hơn một nghìn tên địch, thu.hàng nghìn súng các loại, 5 xe tăng, hàng chục chiếc ô tô và nhiều đồ dùng quân sự.

Phát huy thắng lợi, từ ngày 1 đến 24 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 10 phối hợp với Sư đoàn 309 và Trung đoàn 726 tiến công tiêu diệt tàn quân địch tại Lôvia, Nimít, Poipét, Kaomêlai và Khaocalon, giải phóng một dải biên giới dài hơn 150 kilômét. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.000 tên địch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại và nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, giải phóng hơn 7 vạn dân.

Nhằm triệt phá cơ sở hậu cần chiến lược của quân Pôn Pốt ở thung lũng Kravanh, từ ngày 29 tháng 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng hai sư đoàn bộ binh (10 và 31), Lữ đoàn xe tăng 273 và lực lượng của trên tăng cường (các lữ đoàn 7; 234; Trung đoàn 29) phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công tiêu diệt địch ở phía tây tỉnh Puốcxát. Bước vào chiến dịch, từ ngày 29 tháng 4 đến 3 tháng 5, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 24 chốt chặn chiến dịch ở phía tây Pramôi, Trung đoàn 66 đánh chiếm Sapiêng. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 977 tiến công Phlếch; đồng thời sử dụng hai trung đoàn 28 và 866 thực hành luồn sâu, tiến công đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Tiểu đoàn 9 đặc công (Bộ tăng cường) đánh chiếm Sơnai Pra. Do nắm chắc tình hình địch và địa hình, các đơn vị đã thực hiện được ý định của bộ chỉ huy chiến dịch là: đánh vỡ thế trận của địch, đánh trúng chỉ huy, truy diệt địch, làm chủ địa bàn, thu vũ khí, phương tiện chiến tranh, kho tàng, giải phóng được nhiều dân bị địch bắt đi theo.

Trong khi chiến dịch ở phía tây Puốcxát đang tiếp diễn thì ngày 3 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân đoàn 3 trong tháng 6 phải hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở địa bàn tỉnh Puốcxát bàn giao cho đơn vị Bạn và tiến hành cơ động toàn bộ lực lượng, binh khí kỹ thuật ra phía Bắc làm lực lượng dự bị của Bộ.

Thực hiện chỉ thị của Bộ, từ ngày 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, triệt phá các cơ sở hậu cần của địch, giúp Bạn mở rộng vùng giải phóng và phát động nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Trong chiến dịch này, bộ đội ta đã triệt phá hoàn toàn căn cứ chiến lược Kravanh của địch, giải phóng biên giới phía tây tỉnh Puốcxát, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại cùng nhiều tài liệu quan trọng của Pôn Pốt, thu hàng trăm tấn lúa gạo, hàng trăm tấn muối, hàng nghìn mét vải, hàng nghìn lít xăng dầu, hàng chục kiện thuốc chữa bệnh bàn giao cho chính quyền cách mạng tỉnh Puốcxát, giải phóng 145.000 dân. Cùng với việc truy quét, đánh địch, Quân đoàn còn giúp Bạn xây dựng 1 đội du kích, thành lập chính quyền ở 6 phum, tuyên truyền giác ngộ cho 116.641 lượt người, khám chữa bệnh cho 959 người, cứu đói cho dân 115 tấn lương thực.

Sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, những ngày đầu tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 tiến hành bàn giao địa bàn tác chiến cho các đơn vị Bạn. Sư đoàn 320 tăng cường cho Quân khu 9 từ tháng 1 đến tháng 6 cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ và được lệnh bàn giao địa bàn trở về đội hình chiến đấu của Quân đoàn(1). Ngày 17 tháng 6 năm 1979, đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 3 rời Campuchia trở về Tổ quốc. Đến đầu tháng 8 năm 1979, toàn bộ đội hình Quân đoàn hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia về phía Bắc (Việt Nam) nhận nhiệm vụ mới. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Quân đoàn 3 ở Campuchia, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ghi nhận: Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho, thực hiện được yêu cầu: “Đi đến dâu là Bạn tin, dân mến, kẻ thù khiếp sợ và ta thì trưởng thành”(2).


(1) Từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn bộ binh 320 và một phân đội xe tăng của Quân đoàn 3 được phối thuộc cho Quân khu 9 làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch ở phía nam thủ đô Phnôm Pênh, Trong gần 6 tháng đầu năm 1979, Sư đoàn đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt tàn quân của các sư đoàn 210, 250, 270, 805 quân Pôn Pốt, bảo vệ thị xã Tàkeo, khai thông các tuyến đường số 3, 33, 42. Đồng thời giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở và lực lượng vũ trang địa phương. Đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn 320 được lệnh trở về đội hình Quân đoàn 3.
(2) Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3 - Biên niên sự kiện (1964-2000), Nxb QĐND, H. 2002, tr. 560.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:20:53 am
Trên hướng Quân đoàn 4, sau khi cùng các đơn vị Bạn hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng đất nước, Quân đoàn 4 tổ chức 1 lực lượng làm nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Phnôm Pênh; đồng thời điều Sư đoàn 9 phối hợp với Quân khu 9 truy quét địch ở Uđông, Longvéc, giải toả đường số 5 và đường sắt từ Uđông, Kravanh lên Rômia, bảo đảm giao thông đường sông từ Phnôm Pênh đi Côngpông Chnăng. Sư đoàn 7 cơ động đánh địch ở phía tây sân bay Pôchentông và phía tây bắc thành phố. Sư đoàn 341 sử dụng một lực lượng đánh địch xung quanh thị xã Côngpông Spư, một lực lượng phối hợp với Sư đoàn 2 đánh địch ở khu Bàu Diu, giữ vững đường số 4.

Sau khi phối hợp với Quân khu 9 và lực lượng Bạn giải toả đường số 5, khôi phục khu vực Uđông, Longvéc, mở rộng địa bàn kiểm soát từ Phnôm Pênh lên Côngpông Chnăng và Puốcxát, hình thành vành đai vững chắc bảo vệ thủ đô Phnôm Pênh, thực hiện nhiệm vụ của Tiền phương Bộ giao, Quân đoàn 4 tiếp tục phối hợp với các đơn vị Bạn đánh phá căn cứ địch ở tây nam Côngpông Chnăng. Tại khu vực này, lực lượng Quân khu Tây Nam của địch sau khi rút vào dãy núi Tượng và vùng rừng núi tây nam thị xã Côngpông Spư đã xây dựng các căn cứ, bàn đạp, tiếp tục phản kích ra đường số 2, đường số 4 và thị xã Tàkeo.

Để tiêu diệt chỉ huy địch, triệt phá các kho tàng, căn cứ của chúng trong khu vực từ núi Tượng đến nam đường số 4, tây nam và nam thị xã Côngpông Spư, không cho chúng rút lên phía bắc đường số 4, hỗ trợ Quân khu 9 và Quân đoàn 2 tiến công phá vỡ hệ thống căn cứ địch, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 341, được tăng cường Trung đoàn Ba Gia, tiến công trên hướng chủ yếu từ đông bắc đánh xuống tây nam trục đường số 4, phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 2 chốt giữ và kiểm soát các trọng điểm trên đoạn đường này, ngăn chặn không cho địch từ phía nam vượt qua đường số 4; đồng thời sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu) đảm nhiệm hướng phối hợp đánh chiếm khu vực phía nam Côngpông Spư đến đường 26 (đoạn bắc Snông), giữ sườn đông nam cho Sư đoàn 341; đồng thời phối hợp với Sư đoàn 341 đánh địch ở đường số 4 và một số đơn vị của Quân khu 9 đánh địch ở nam núi Chàngô.

Ngày 28 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 341 (thiếu) đánh chiếm các điểm cao trên đường số 4 và phát triển chiến đấu xuống phía tây thị xã Côngpông Spư. Sư đoàn 7 đánh chiếm khu vực đông - tây đường 26 đến nam đường số 4. Do lực lượng địch ở khu vực bắc núi Tượng chống cự quyết liệt, các đơn vị của Quân khu 9 chưa giải quyết xong mục tiêu nên ngày 29 tháng 2, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng 2 trung đoàn của Sư đoàn 7 theo đường 26 lên chi viện cho lực lượng của Quân khu 9; đồng thời sử dụng Trung đoàn 1 (Ba Gia) theo đường số 110 đánh xuống Snăng (tây nam Phnôm Pênh 45 kilômét). Ngày 3 tháng 3 năm 1979, bộ đội ta làm chủ Snăng.

Trên hướng Sư đoàn 341, sau khi đập tan các đợt phản kích của địch vào phía bắc thị xã Côngpông Spư, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn sử dụng một trung đoàn phối hợp với các đơn vị của Sư đoàn 7 đánh xuống nam Kanđan, cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng số dân bị địch bắt đi theo. Ngày 9 tháng 3, các đơn vị của Quân đoàn phát triển chiến đấu, kết hợp chặt chẽ với Sư đoàn 339 (Quân khu 9) tiêu diệt quân địch ở Môlúp. Những ngày sau đó, địch cho lực lượng liên tục phản kích hòng chiếm lại điểm cao 212 và tây Kandan, nhưng đều bị các đơn vị của Quân đoàn 4 đập tan. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn 4 loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, bắt hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại, 200 tấn đạn, giải phóng 14.000 dân bị địch bắt đi theo. Thắng lợi lớn nhất của Quân đoàn trong chiến dịch này là ta đã khống chế hoàn toàn đường số 4 sớm hơn dự kiến 1 ngày; đánh trúng 2 căn cứ cấp sư đoàn của địch, thu hẹp vùng căn cứ của địch, mở rộng vùng giải phóng, đảm bảo an ninh cho thủ đô Phnôm Pênh và các vùng xung quanh.

Sau khi bị ta truy quét, trên địa bàn do Quân đoàn 4 phụ trách, địch bố trí thành ba khu vực: Khu nam đường số 4, tây đường số 3 đến bắc núi Tượng; khu vực nam - bắc Amleng và đường số 14; khu vực đông - tây đường sắt đoạn Puốcxát. Tại khu vực Amleng - Kimri, nơi được mệnh danh là “Phnôm Pênh mới” của Pôn Pốt, địch tập trung các sư đoàn bộ binh 74, 250, 260; sư đoàn 488 pháo binh và sư đoàn 377 thiết giáp cùng nhiều kho tàng, phương tiện dự trữ chiến tranh. Lợi dụng địa hình hiểm trở, chúng xây dựng nơi đây thành một căn cứ lớn hòng chống phá chính quyền cách mạng.

Nhận nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt địch ở khu vực Amleng - Kimri, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 5 (Quân khu 7). Quyết tâm của ta và Bạn là tập trung lực lượng tiêu diệt các cơ quan chỉ huy, các căn cứ trung ương và quân khu. Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn sinh lực địch, đánh chiếm các kho tàng trang bị và lương thực của địch; đồng thời phát động nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, củng cố vùng giải phóng.

Ngày 19 tháng 3 năm 1979, các đơn vị thuộc sư đoàn 9 đánh chiếm vùng đông và bắc Thmei, diệt nhiều địch, bắt hàng trăm tên, thu 1 kho súng, giải phóng gần 1 vạn dân. Tiếp đó, Sư đoàn tổ chức nhiều đợt truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng vạn dân. Trong thời gian này, các đơn vị của Sư đoàn 5 tiến công địch ở nam đường số 114, Kravanh,; Tangpon, giải phóng hơn 15.000 dân, sau đó phát triển về hướng Kimri. Sư đoàn 7 truy quét địch ở các điểm cao từ Khumpous. Tàpeng - Thmei, gây cho địch nhiều thiệt hại.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2021, 06:24:30 am
Trong đợt chiến đấu từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn 4 đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên địch, thu nhiều vũ khí đạn dược, 1.200 tấn lúa, giải phóng gần 5 vạn dân. Từ ngày 23 đến 26 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn 9 tiến công tiêu diệt địch ở Longcam, Thmabăng, tây bắc Domei tây Choen, diệt và bắt nhiều địch, giải phóng 11.000 dân. Sư đoàn 5 đánh chiếm cao điểm 223, sau đó phát triển lên Domei, bắt liên lạc với Sư đoàn 9. Sư đoàn 7 đánh địch từ khu vực Knôngnam đến núi Kandan và tây nam Khumpút, diệt và bắt nhiều địch, giải phóng 10 vạn dân. Những ngày cuối tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn tiếp tục truy quét tàn quân địch, mở rộng vùng giải phóng. Ngày 31 tháng 3 năm 1979, chiến dịch kết thúc, bộ đội ta giải phóng gần 10 vạn dân, loại khỏi chiến đấu hầu hết các sư đoàn địch, bước đầu làm phá sản âm mưu xây dựng căn cứ lâu dài để chống phá ta của địch. Do địa bàn tác chiến rộng, địa hình hiểm trở, sự phối hợp giữa các lực lượng chưa nhịp nhàng, nên ta chưa diệt được bộ chỉ huy cao nhất của địch ở khu vực này.

Từ ngày 5 đến ngày 15 tháng 4 năm 1979, Quân đoàn nhận nhiệm vụ phối hợp với Bạn và Quân khu 9 tiến công địch ở bắc Kirirom. Mở đầu chiến dịch, Quân đoàn sử dụng 2 sư đoàn thiếu (7 và 9) cùng một số đơn vị xe tăng, thiết giáp mở hướng tiến công phối hợp cùng Quân khu 9 từ tây bắc Côngpông Spư 70 kilômét vào hướng Kirirom. Tiếp đó, từ ngày 12 tháng 4, Quân đoàn sử dụng 1 trung đoàn của Sư đoàn 341, 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 và Trung đoàn 250, dưới quyền chỉ huy của Ban chỉ huy Sư đoàn 341, đánh địch ở tây bắc Rômiá, tây sân bay Côngpông Chnăng - nam Pômlây, bảo vệ đường số 5 và đường sắt, tạo bàn đạp cho cuộc tiến công quyết định vào căn cứ địch ở Lếch - Ôran. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi chiến đấu gần nghìn tên, giải phóng 12.000 dân, thu nhiều súng đạn, phương tiện chiến tranh giao cho Bạn.

Sau chiến dịch này, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ giao nhiệm vụ cùng với Quân đoàn 3; Quân khu 7 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch quy mô lớn tiêu diệt quân địch ở căn cứ Ôran - Lếch - Tàsanh. Bước vào chiến dịch, Quân đoàn nhận lệnh trả Sư đoàn 5 về đội hình chiến đấu của Quân khu 7; đồng thời được Tiền phương Bộ tăng cường Trung đoàn 14 công an vũ trang và 3 trung đoàn bộ binh (thiếu) của 3 tỉnh (Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang) đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn 3 tỉnh Canđan, Côngpông Chnăng, Puốcxát.

Trong đợt 1 của chiến dịch, Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 341 (được tăng cường Trung đoàn 250) đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu từ đường số 5, Puốcxát và Kracon đánh xuống phía nam Lếch, Sư đoàn 9 (thiếu) làm nhiệm vụ vu hồi, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tấn công truy quét địch ở tây bắc ga Rômía.

Ngày 27 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 9 đánh chiếm được phía nam Lếch, Sư đoàn 7 chiếm được tây bắc Rômía. Trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 341 đánh lui các đợt tiến công của địch vào Puốcxát nhưng thương vong của ta khá cao. Trong các ngày từ 29 tháng 4 đến 10 tháng 5, Sư đoàn 341 liên tục tiến công địch, giành quyền kiểm soát khu vực xung quanh Lếch và nam Puốcxát 20 kilômét. Sư đoàn 9 đánh chiếm khu vực phía nam Lếch 20 kilômét đến Nam Bắc đường số 561 và đông nam Bâmnek. Trong trận đánh vào căn cứ Lếch, ta thu được con dấu và giấy giới thiệu của Văn phòng 870 (văn phòng Trung ương của Pôn Pốt), diệt hàng trăm tên, bắt hàng nghìn tù binh, gọi hàng hàng trăm tên, giải phóng gần một vạn dân.

Từ ngày 11 đến 15 tháng 5, Quân đoàn điều Sư đoàn 341 (thiếu) và Sư đoàn 9 (thiếu) được tăng cường Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) trở lại đánh địch ở khu vực đông - tây đường số 28, nam đường số 5, bắc đường sắt và đông nam Bâmnek, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 500 dân. Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn sử dụng 3 sư đoàn thiếu (341, 7, 9) tiến công địch ở dãy núi Ôran, bắc Amleng, nam bắc đường số 124 và từ nam đường số 561 đến nam đường sắt (đoạn tây - nam Rôrnía) nhằm tiêu diệt hệ thống chỉ huy và các đơn vị thuộc mặt trận đường số 5 địch. Sau 10 ngày chiến đấu, bộ đội ta diệt và bắt hơn 600 tên địch, giải phóng 23.500 dân. Sau đợt tiến công này, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng đảm bảo vừa chốt giữ biên giới, vừa đánh địch trong nội địa: Trung đoàn 250 chốt giữ khu vực đông bắc biên giới 30 kilômét; Trung đoàn 14 công an vũ trang chốt tại đông biên giới từ 15 đến 20 kilômét; các trung đoàn địa phương Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang bố trí tại Canđan, nam Phnôm Pênh, Côngpông Chnăng, Puốcxát. Các sư đoàn 7, 9, 341 tiếp tục làm nhiệm vụ tiến công, truy quét tàn quân địch.

Như vậy, tính từ giữa tháng 1 đến cuối tháng 6 năm 1979, với 5 chiến dịch lớn, nhỏ, Quân đoàn 4 và các đơn vị được Bộ tăng cường đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh, căn cứ lớn của địch ; giải phóng hàng chục vạn dân, mở rộng vùng giải phóng. Bên cạnh những thành công, trong tác chiến các đơn vị Quân đoàn cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế như chưa tạo được yếu tố bí mật, bất ngờ của chiến dịch; chưa xây dựng được những phân đội thiện chiến đánh luồn sâu, vu hồi trên địa hình rừng núi; chưa có kinh nghiệm và thiếu biện pháp bảo đảm để chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch hiệp đồng; cơ động lực lượng còn chậm. Đây là những bài học quý báu được Bộ tư lệnh Quân đoàn nghiêm túc chỉ ra để các đơn vị rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu những năm tiếp theo.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:12:17 am
Song song với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch bảo vệ vùng giải phóng, để thực hiện tốt 6 mặt công tác giúp Bạn theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đã tổ chức 2 hội nghị bàn biện pháp tổ chức giúp Bạn, tập trung vào thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản là:

1. Giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền địa phương và các đoàn thể quần chúng.

2. Tăng cường huấn luyện, trang bị, nâng cao năng lực chỉ huy, tác chiến giúp quân đội cách mạng Campuchia.

3. Giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, từng bước ổn định sản xuất và đời sống.

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, các đơn vị trực thuộc quân đoàn đều thành lập các tổ công tác giúp Bạn do Chính ủy hoặc Phó chính ủy phụ trách. Các trung đoàn bộ binh thành lập thêm tiểu đoàn thứ 4 làm nhiệm vụ quản lý địa bàn, giúp Bạn xây dựng lực lượng dân quân du kích, củng cố chính quyền cách mạng trên các địa bàn đứng chân.

Lúc đầu, ta chú trọng xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang dọc theo quốc lộ 9 và các tuyến đường sông quan trọng; sau đó mở rộng, tiến tới hoàn chỉnh trong từng khu vực, từng huyện, từng tỉnh. Cùng với các đội công tác, quân đoàn đã thành lập Phòng Dân quân để phối hợp cùng các phòng Dân vận, Địch vận và các ngành khác giúp Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ đạo giúp Bạn toàn diện trên các mặt. Tính đến cuối tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 4 đã thành lập 28 đội công tác với 488 cán bộ chuyên trách, tổ chức tuyên truyền cho hơn 1,5 triệu lượt người, huy động hơn 16.000 lượt người tham gia các cuộc mít tinh; tổ chức nhiều buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, thu hút gần 100.000 lượt người xem, giúp đỡ đưa hơn 83.000 lượt người về quê cũ làm ăn.

Về xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể, quân đoàn đã giúp 3 tỉnh Kandan, Côngpông Chnăng và Puốcxát xây dựng chính quyền ở 1.156 phum (ấp) với 3.448 cán bộ; ở 234 khum (xã) với 1.170 cán bộ; các hội thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi ở các khum được tổ chức và đi vào hoạt động tương đối nền nếp. Các đơn vị trong quân đoàn còn kết hợp với chuyên gia và ban cán sự tỉnh (người Campuchia) mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ hành chính phum, khum và cán bộ làm công tác vận động quần chúng.

Các đơn vị đứng chân trên các địa bàn đã tích cực giúp Bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang. Đến tháng 6 năm 1979, tỉnh Puốcxát đã xây dựng được hơn 2.000 dân quân, du kích (522 có súng), tỉnh Côngpông Chnăng có gần 1.600 người (1.200 có súng), tỉnh Kandan 7.090 người (2.311 người có súng). Tính chung 3 tỉnh, số dân quân, du kích có gần 10.700 người (trang bị 4.033 súng). Dân quân, du kích được tổ chức thành các tổ ở phum và trung đội ở khum, về xây dựng bộ đội địa phương, ta giúp tỉnh Côngpông Chnăng xây dựng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương, tỉnh Puốcxát xây dựng được 17 đại đội với tổng số quân là 3.456, người trang bị 1.827 súng. Các đơn vị dân quân, du kích được huấn luyện 10 ngày, bộ đội địa phương được huấn luyện 2 tháng. Cán bộ trung đội, đại đội của Bạn đều được quân đoàn giúp đỡ tập huấn về chỉ huy và chuyên môn. Đặc biệt, quân đoàn đã mở lớp đào tạo cán bộ giúp quân đội Campuchia khoá đầu tiên với 140 học viên tham gia. Ngoài ra, quân đoàn còn giúp Binh đoàn 1 lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng, huấn luyện 7 tiểu đoàn với 1.486 quân.

Trong 6 tháng đầu năm 1979, Quân đoàn 4 còn bàn giao cho Quân đội cách mạng Campuchia một khối lượng lớn chiến lợi phẩm, gồm 5.000 tấn lúa, 100 tấn muối, 117 xe ô tô các loại, hơn 100 tấn đường, 70.000 hộp sữa và hơn 30.000 mét vải. Với tình cảm quốc tế trong sáng, cán bộ và chiến sĩ quân đoàn đã tiết kiệm giúp đỡ nhân dân Campuchia 247 tấn gạo, góp 271.000 ngày công lao động xây dựng và sửa chữa 186 trường học, 1 trại trẻ mồ côi, 32 bệnh xá, 9.181 nhà ở; khám bệnh và phát thuốc cho gần 120.000 lượt người. Những việc làm nghĩa tình đó đã góp phần giải quyết một phần khó khăn, giúp nhân dân Bạn nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Đối với Quân khu 5, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công giải phóng Campuchia, Quân khu 5 được giao phụ trách địa bàn 4 tỉnh: Ráttanakiri, Mônđônkiri, Stung Treng, Prếtvihia. Trên địa bàn này, tàn quân các sư đoàn 801, 920, 775, 612, 616 còn khoảng hơn vạn tên lẩn trốn hoạt động. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1979, các đơn vị của quân khu liên tục tổ chức các đợt truy quét, bảo vệ các trục giao thông, các địa bàn chiến lược; đồng thời giúp nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền ở các địa phương. Do lực lượng mỏng, địa bàn rộng, địch lẩn trốn trong dân nên công tác truy quét của ta gặp nhiều khó khăn; ở một số nơi, chính quyền bị địch khống chế, không phát huy được tác dụng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:13:30 am
Để tăng cường lực lượng đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đầu tháng 3 năm 1979, Quân khu 5 thành lập 2 sư đoàn (315 và 342). Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn 315 nhận nhiệm vụ thay Sư đoàn 309 bảo vệ địa bàn đông sông Mê Công. Sau đó, quân khu bàn giao 2 sư đoàn (309, 342); 2 trung đoàn bộ binh (250, 276), Trung đoàn pháo binh 572b và 4 tiểu đoàn binh chủng (đặc công, xe tăng, pháo binh, công binh) cho Bộ để tăng cường cho các quân khu 7, 9 và các quân đoàn 3, 4.

Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 315 đảm nhận địa bàn hoạt động của Sư đoàn 309 ở khu vực đông sông Mê Công thuộc vùng Đông Bắc Campuchia. Nhiệm vụ cụ thể là: tiếp tục truy quét tàn quân sư đoàn 801 địch; cùng các đơn vị Bạn bảo vệ an toàn vận chuyển trên trục đường 19; giúp Bạn vận động quần chúng, khôi phục sản xuất, xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng chính quyền, cứu đói, chữa bệnh, ổn định đời sống nhân dân.

Vùng Đông Bắc Campuchia gồm 5 tỉnh (Ráttanakiri, Mônđônkiri, Stung Treng, Prếtvihia và Krachiê, diện tích trên 10 vạn kilômét vuông, dân số khoảng 10 vạn người. Lực lượng địch trên địa bàn này có tàn quân các sư đoàn 801, 920 và lực lượng các vùng 105, 107. Chúng dựa vào dãy núi Đăngrếch dọc biên giới Campuchia - Thái Lan để nhận viện trợ từ bên ngoài chuyển vào nội địa, giúp tàn quân Pôn Pốt phá hoại cách mạng Campuchia.

Đảm nhận tác chiến trên một địa bàn rộng, thưa dân, địa hình phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, địch thường xuyên đánh phá, Sư đoàn 315 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Trương Đúc Chữ, Chính ủy Trương Trung Thắng vừa tập trung lực lượng truy quét địch, vừa tích cực giúp đỡ Tiểu đoàn 179 (bộ đội địa phương tỉnh Ráttanakiri) xây dựng, phát triển lực lượng đánh địch, bảo vệ địa bàn; đồng thời phối hợp với Trung đoàn công binh 280 và lực lượng thanh niên xung phong đang thi công trên trục đường số 19, bảo đảm giao thông trên tuyến hành lang chính của mặt trận, từ ngầm Ada Đao lên tỉnh Stung Treng.

Cuối tháng 3 năm 1979, tại thị xã Stung Treng, đồng chí Huỳnh Hữu Anh, Tư lệnh Tiền phương Quân khu 5 cùng các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận đã thông qua kế hoạch bố trí lực lượng của Sư đoàn 315 như sau:

- Trung đoàn bộ binh 142 đứng chân ở Lomphát và một phần về phía nam huyện Bôkeo (Ráttanakiri) đến đông Stung Treng, hoạt động trong khu vực từ nam đường 19 đến giáp giữa Mônđônkiri, Krachiê; đánh địch ở khu vực giáp ranh ba huyện Lomphát, Bôkeo, Bunglung và khu vực rừng xanh nam sông Sêrêpốc, bảo vệ phà Sêrêpốc đi Cônhek và ngã ba đường 19, 141 và trục đường 141. Sở chỉ huy trung đoàn ở thị trấn Lomphát.

- Trung đoàn 143 bố trí ở khu vực Vonsai (Ráttanakiri), Xiêmpạng (Stung Treng) bắc sông Sê San, hoạt động trong khu vực từ đông sông Mê Công đến biên giới Campuchia - Lào; tập trung đánh địch ở trọng điểm nguồn suối Lalay - Ponglay - Nava - bắc Hátpớ đến làng Nhơn và giúp Bạn xây dựng hai huyện Vonsai, Xiêmpạng. Sở chỉ huy trung đoàn ở Vonsai.

- Trung đoàn 733 đảm nhiệm khu vực Ôchum (bắc Bunglung), vừa tranh thủ huấn luyện, vừa bảo đảm đường 194 đến nam Sê San, đường 194B Bunglung - Taveng và hoạt động trong phạm vi Bunglung, đông Vonsai đến ngã ba biên giới Lào - Campuchia - Việt Nam.

- Trung đoàn pháo binh 729 bố trí ở đông Bunglung, tây Bôkeo; tập trung huấn luyện chuyển binh chủng kết hợp vận động quần chúng bảo vệ địa bàn và đường 19 (đoạn đông Bunglung). Sư đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc đứng chân ở thị xã Bunglung, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn đứng chân, vừa giúp dân ổn định cuộc sống.

Cùng với việc triển khai lực lượng giữ địa bàn, các đơn vị trong Sư đoàn 315 vừa tổ chức các đợt truy quét tàn quân địch. Từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 1979 các đơn vị của Sư đoàn đánh 16 trận, diệt và bắt hàng trăm tên địch, thu một số súng đạn. Tiếp đó, từ ngày 15 đến 25 tháng 4, Sư đoàn sử dụng Trung đoàn 143 phối hợp với Trung đoàn 94 và Tiểu đoàn đặc công 407 bao vây tiêu diệt địch ở tam giác đông nam Xiêmpạng và vùng Ôtầng. Trung đoàn 142 (thiếu 1 tiểu đoàn) phối hợp bộ đội địa phương truy quét địch ở Lomphát nam Bôkeo, bắc sông Sêrêpốc.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:14:35 am
Cùng với việc tiến hành truy quét địch và giúp dân phát triển sản xuất, củng cố chính quyền cách mạng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 315 bằng hành động thực tế đã gây được niềm tin yêu với nhân dân Campuchia. Có lần địch tung tin sẽ đánh úp cơ quan tỉnh của Bạn ở Vonsai hòng kéo quân ta ra đối phó. Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã phán đoán đúng ý định của địch nên chỉ sử dụng 1 lực lượng nhỏ bảo vệ Vonsai còn lại tập trung truy quét tàn quân địch ở khu vực suối Lalay và khu vực biên giới A-tô-pơ (Hạ Lào), diệt nhiều tàn quân địch, giải phóng 3.000 dân, trong đó có con trai đầu và cháu nội của ông Buôn Chuôn, Chủ tịch tỉnh Ráttanakiri. Ngoài ra, Sư đoàn còn đưa được nhiều dân ở vùng đông bắc Bôkeo về lập làng mới trên đường số 179. Khi bọn lính Pôn Pốt đến đốt nhà, đuổi dân ra rừng, Trung đoàn 733 đã nhanh chóng cơ động lực lượng đánh địch, bảo vệ an toàn cho dân. Trong dịp Tết cổ truyền Chon Chnam Thơmây (14 và 15 tháng 4 dương lịch), các đơn vị Sư đoàn 315 tổ chức bảo vệ chu đáo để nhân dân trong vùng được vui chơi, ca hát. Nhiều người dân Campuchia rất cảm động đã ân cần buộc chỉ cổ tay, té nước cầu phúc cho Bộ đội tình nguyện Việt Nam. Những tình cảm cao đẹp đó đã góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó tin tưởng giữa Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam với Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia.

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1979, do yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm hành lang vận chuyển và đánh địch bảo vệ địa bàn, Quân khu 5 tổ chức thêm Trung đoàn công binh hành lang 280 và 4 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 15 đại đội huyện để tăng cường cho các tỉnh Đông Bắc của Campuchia.

Ở hướng Quân khu 7, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công, Quân khu được giao phụ trách địa bàn Battambang - Xiêm Riệp và 4 tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Svâyriêng, Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê). Trên địa bàn này, Khơme đỏ đã tập hợp tàn quân với khoảng từ 22.000 đến 25.000 quân, phân bố trên các địa bàn như sau:

- Xiêm Riệp khoảng 6.000 quân, hoạt động tại các khu vực Ampin, núi Hồng, tây bắc Crolanh, Anlongveng.

- Báttambang khoảng 8.000 quân ở Xixôphôn, Thơmapuốc, Poipét, Pailin, nam đường 10 và ven Biển Hồ.

- Bắc Côngpông Chàm, Côngpông Thom có khoảng 5.000 quân (gồm tàn quân ba sư đoàn 603, 280, 310 và lực lượng ba vùng 41, 42, 43).

- Các sở chỉ huy của Quân khu Trung tâm, Mặt trận đường 7, 2 sư đoàn mới thành lập (512, 515) tập hợp lại ở đông đường 6 dọc tuyến sông Chinít, sông Xan, tây núi Chi tạo thành các cụm đóng quân từ 200 đến 1.000 tên.

- Krachiê có khoảng 2.000 quân, gồm Trung đoàn 93 (của Sư đoàn 920), tàn quân các sư đoàn 260, 920 và các vùng 505, 801. Lực lượng này phân tán thành nhiều cụm từ vài chục đến vài trăm tên, đóng tại vùng tây, tây bắc Krachiê. Ngoài ra, ở Côngpông Chàm, địch có khoảng hơn 3.000 quân thuộc lực lượng ly khai của Boring, Hiêsonna, Chăhsbtha(1).

Trong giai đoạn đầu, do lực lượng mỏng, địa bàn rộng, Quân khu 7 chủ yếu tập trung truy quét địch bảo vệ giao thông, giữ một số địa bàn trọng yếu. Sau khi Bộ giao cho Quân đoàn 3 giữ Báttambang - Xiêm Riệp từ ngày 12 tháng 2 đến 20 tháng 3 năm 1979, Quân khu tập trung 3 sư đoàn (5, 302, 303) và trung đoàn đặc công (thiếu) đánh vào các căn cứ của Quân khu Trung tâm địch từ sông Xan, sông Chinít đến đường 7. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu diệt 546 tên, bắt 1.221 tên, vận động nhân dân kêu gọi 11.124 tên ra hàng, giúp 20.000 dân thoát khỏi sự khống chế của địch. Ta thu 3.515 tấn thóc, 20 tấn muối, kịp thời cấp cho dân khắc phục nạn đói.

Để tăng cường lực lượng giữ địa bàn, ngày 17 tháng 3 năm 1979, Quân khu 7 điều Sư đoàn 317 mới thành lập (gồm 6 trung đoàn: 775, 747, 115, 770b, 320 và 774 pháo binh) sang Campuchia làm nhiệm vụ chiến đấu ở tỉnh Côngpông Thom. Sư đoàn 317 triển khai Trung đoàn bộ binh 775 đứng chân tại huyện Sonđan, Trung đoàn 747 đứng chân tại huyện Barày, Trung đoàn 115 đứng chân tại huyện Satong, Trung đoàn pháo binh 774 đứng chân tại huyện Sântuk. Trung đoàn 770b đứng chân tại thị xã Côngpông Thom. Từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn vừa tổ chức điều tra nghiên cứu tình hình địch, xây dựng các đội công tác, vừa làm nhiệm vụ giúp Bạn; đồng thời tổ chức truy quét địch. Trong đợt hoạt động đầu tiên trên chiến trường Campuchia, các đơn vị của Sư đoàn diệt 34 tên, bắt 4 tên, gọi hàng 273 tên, thu 102 súng các loại, bảo vệ được địa bàn và các mục tiêu được giao.


(1) Theo tài liệu số 52/BC ngày 30 tháng 1 năm 1979, lưu tại Cục Nghiên cứu (Bộ Tổng Tham mưu).


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:16:40 am
Để tăng cường sự chỉ đạo, chỉ huy đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia, ngày 30 tháng 3 năm 1979, Thường trực Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 95/QW-TW chỉ định đồng chí Lê Hai, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia Tiền phương Bộ Quốc phòng.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, từ tháng 4 năm 1979, Tiền phương Quân khu 7 tách làm hai bộ phận để chỉ đạo Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu hoạt động tại Campuchia trên hai mặt trận. Tiếp đó, ngày 11 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 553/QĐ-QP lâm thời tổ chức Bộ chỉ huy Mặt trận 479 trực thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7.

Mặt trận 479 phụ trách hướng bắc Campuchia, gồm các tỉnh Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay, Báttambang. Lực lượng nòng cốt là các đơn vị thuộc Tiền phương Quân khu 7, được bổ sung một số đơn vị của Quân khu 5 do đồng chí Bùi Thanh Vân, Phó Tư lệnh Quân khu 7 làm Tư lệnh, đồng chí Lê Thanh, Phó Chính ủy Quân khu làm Chính ủy. Thời kỳ đầu, cơ cấu tổ chức Mặt trận 479 gồm: Bộ tư lệnh, ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và các sư đoàn 5, 302, 309, 317; 6 trung đoàn bộ binh trực thuộc (6, 7, 160, 205, 726, 740); 5 trung đoàn binh chủng (145 xe tăng - thiết giáp, 488 pháo binh 548 công binh, 594 cao xạ, 611 thông tin) và hai đoàn chuyên gia 7704, 7705.

Lực lượng còn lại của Quân khu 7 và một số đơn vị được Bộ tăng cường đảm nhiệm các tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê, Svâyriêng, Prâyveng). Thời gian đầu, các lực lượng này đặt dưới sự chỉ huy của Tiền phương Quân khu 7, sau đổi thành Mặt trận 779. Đây là bước phát triển mới về tổ chức chỉ huy lực lượng chiến đấu trên chiến trường Campuchia của Quân tình nguyện Việt Nam: thành lập các mặt trận do các quân khu chỉ huy và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia sau này.

Sau khi thành lập, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 liên tục mở các đợt truy quét tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng dân; đồng thời giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng. Đứng chân trong đội hình Mặt trận 479, Sư đoàn 5 đảm nhiệm bảo vệ tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, trên địa bàn 5 huyện phía bắc Báttambang. Trên địa bàn này, địch có 2 sư đoàn (320 và 519) Pôn Pốt và 14 tiểu đoàn thuộc lực lượng của Xon Xan. Dựa vào vùng giáp biên giới Thái Lan, địch ra sức xây dựng lực lượng và củng cố hệ thống căn cứ (Kaomêlai, điểm cao 175, Côla, Chùmrumthơmây, Côngxilốp) dọc biên giới làm bàn đạp để mở đường, lập hành lang đưa người và vũ khí, phương tiện vật chất vào nội địa Campuchia; dùng quân tập kích vào các điểm tựa của ta; dùng tiền bạc mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ bọn Khơme phản động để thành lập “chính phủ ba phái”.

Để đối phó với các âm mưu của địch, Sư đoàn 5 (gồm 3 trung đoàn bộ binh 4, 174, 16, Trung đoàn 28 pháo binh và 8 tiểu đoàn trực thuộc) được Mặt trận 479 tăng cường 3 trung đoàn (688, 689, 160) triển khai đội hình trên chính diện 160 kilômét (từ Ôđa, Kaomêlai đến Tàmốc), chiều sâu 94 kilômét (từ Poipét đến Crolanh), làm nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tổ chức phòng ngự, bảo vệ biên giới, không cho địch vận chuyển hàng viện trợ vào nội địa; đồng thời kết hợp với lực lượng Bạn truy quét, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, phá các căn cứ lõm của chúng. Mặc dù địa bàn rộng, hiểm trở, khí hậu vô cùng khắc nghiệt, quân địch thường xuyên đánh phá nhưng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 5 đã kiên cường trụ bám, bước đầu làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của địch.

Được Bộ tư lệnh Mặt trận 479 giao nhiệm vụ đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn phía tây bắc Mặt trận 479, Sư đoàn 302, dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Phê, Chính ủy Mai Văn Thoạn, triển khai lực lượng trên 10 huyện thuộc các tỉnh Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay và một phần tỉnh Báttambang trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan với chính diện và chiều sâu khoảng 200 kilômét. Để đảm bảo vừa có lực lượng cơ động, vừa có lực lượng chốt giữ địa bàn, sau khi nắm tình hình địch và địa hình, Sư đoàn đã sử dụng 2 trung đoàn (271 và 88) làm nhiệm vụ cơ động; 3 trung đoàn bộ binh (201, 429, 690), Trung đoàn pháo 962 và 9 tiểu đoàn trực thuộc làm nhiệm vụ chốt giữ địa bàn. Bằng nhiều hình thức tốc chiến, Sư đoàn đã tập trung mọi nỗ lực truy quét tàn quân địch, tìm diệt các căn cứ lõm, bảo vệ các trục đường giao thông, ngăn chặn địch tiếp tế từ ngoài biên giới vào trong nội địa; đồng thời tích cực giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng, bước đầu hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

Trong thời gian này, căn cứ vào nhiệm vụ được Bộ tư lệnh mặt trận giao, các sư đoàn 309, 317 và các trung đoàn trực thuộc Mặt trận 479 đều triển khai lực lượng chốt giữ địa bàn và truy quét địch. Với phương châm tích cực truy quét tàn quân địch, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với củng cố địa bàn, xây dựng lực lượng, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã ngăn chặn có hiệu quả việc tiếp tế viện trợ của địch từ ngoài biên giới vào nội địa, củng cố thế trận, bảo vệ vùng giải phóng, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng ta; đồng thời giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:18:36 am
Trên hướng Quân khu 9, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong tổng tiến công giải phóng đất nước Campuchia, các đơn vị của Quân khu được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ chuyển sang thực hiện nhiệm vụ truy quét địch từ Puốcxát đến Uđông nhằm giải phóng số dân bị địch bắt đi theo và giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thời gian này, trên địa bàn Quân khu phụ trách, tàn quân các sư đoàn 1, 502, 261 của địch đã phục hồi; chúng đẩy mạnh hoạt động đánh phá giao thông từ Uđông đến Puốcxát. Trên địa bàn 2 tỉnh Tàkeo và Campốt. tàn quân các sư đoàn 210, 250, 270, 805 cũng đẩy mạnh các hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Chúng lập ra các mặt trận giao thông, tung quân đánh chiếm các địa bàn quan trọng, chia cắt giao thông của ta; đồng thời gom dân, cướp lương thực, vũ khí đưa về xây dựng một số căn cứ ở vùng rừng núi hòng tạo các bàn đạp đánh phá các vùng giải phóng của Bạn.

Để khôi phục các tuyến giao thông, từ giữa tháng 1 năm 1979, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 339 phối hợp với lực lượng của Quân đoàn 4 tiến hành truy quét địch, mở rộng hành lang bảo vệ tuyến đường 5 từ Côngpông Chnăng đến Uđông. Sư đoàn 330 truy quét địch trên hướng Puốcxát. Sư đoàn 4 và các lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh An Giang; Hậu Giang, Bến Tre, Trung đoàn 1 (Gia Định) đánh địch trên hướng Tàkeo.

Từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 2 năm 1979, địch tập trung 2 sư đoàn (210 và 270), có xe tăng và pháo binh yểm trợ, tiến công thị xã Tàkeo. Được Bộ tăng cường thêm Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3), Quân khu 9 tập trung lực lượng giải toả Tàkeo và các khu vực xung quanh.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, từ đầu tháng 2 năm 1979, Quân khu 9 phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 mở chiến dịch lớn truy quét quân địch ở phía tây nam Campuchia và khu vực từ nam – bắc đường 4 đến Cô Công. Trong chiến dịch này, Quân khu sử dụng Sư đoàn 9 và Sư đoàn 320 thực hành đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng bắc và hướng đông núi Tượng Lăng. Sư đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 3 độc lập và Tiểu đoàn 198 đặc công Quân khu đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng nam và phía tây núi Tượng Lăng. Sư đoàn 8 ở hướng tây nam (Campốt) sẵn sàng cơ động lực lượng đánh địch trên các hướng khi cần. Lực lượng bộ đội địa phương thuộc các tỉnh của Quân khu và lực lượng Bạn làm nhiệm vụ đánh địch tại chỗ, sẵn sàng cơ động phối hợp với các đơn vị chủ lực.

Ngày 11 tháng 2 năm 1979, trên các hướng theo nhiệm vụ được giao các đơn vị của Quân khu nổ súng đánh địch. Sư đoàn 339 đánh vào phía nam và tây Môlúp. Ngày 17 tháng 2, quân ta chiếm được Salakhum và tiến hành truy quét địch ở phum Ô. Các đơn vị Sư đoàn 4 đánh địch ở đông - bắc Chuk và truy quét địch ở phía bắc đường 3. Sư đoàn 8 đánh địch ở tây - nam Chuk. Đến ngày 18 tháng 2, các đơn vị của Quân khu hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu xung quanh núi Tượng Lăng và hình thành thế bao vây chiến dịch. Những ngày tiếp theo, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 339, Sư đoàn 8 (thiếu) và Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3 tăng cường) đánh vào vùng Tượng Lăng, Chúp, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu được nhiều súng các loại và các phương tiện chiến đấu khác của địch, giải phóng 200.000 dân.

Sau chiến dịch, Quân khu điều động Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 lên đảm nhiệm địa bàn tỉnh Campốt và từ nam Chamka Lương đến Píchnin để Quân đoàn 2 rút quân về nước nhận nhiệm vụ mới. Đầu tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 310 (Quân khu 7) cho Quân khu 9 để đảm nhiệm địa bàn khu vực Preynop (tỉnh Campốt). Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, Quân khu mở tiếp chiến dịch 2B, đánh địch ở khu vực Tượng Lăng, nam núi Lớn rồi chuyển sang tiến công truy quét địch ở khu vực đường số 4.

Trong thời gian này, Sư đoàn 330 tăng cường cho Quân đoàn 4, sau khi hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở Lếch, khu vực đường sắt (nam Krako), đánh địch giải toả ở Uđông, các đơn vị của Sư đoàn tiếp tục tham gia chiến đấu cùng các đơn vị Bạn ở phía tây thị xã Côngpông Chnăng, sau đó phát triển vào Rômía. Một lực lượng khác của Sư đoàn cùng Quân đoàn 3 đánh địch ở Puốcxát. Cuối tháng 2 đầu tháng 3, trên hướng đường số 5, Sư đoàn 330 cùng Sư đoàn 339 và một lực lượng của Quân đoàn 4 đánh vào các căn cứ của sư đoàn 1 và sư đoàn 502 địch, tiêu diệt phần lớn lực lượng của chúng. Riêng Sư đoàn 330 trong đợt tác chiến này đã loại khỏi chiến đấu hơn 700 tên, bắn cháy 3 xe tăng, thu 5 chiếc khác và hàng nghìn khẩu súng các loại, góp phần giải toả quốc lộ 5, giải phóng hơn 20.000 dân.

Sau đợt hoạt động này, Tiền phương Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 330 trở lại đội hình Quân khu 9 để tham gia truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng. Trong đợt hoạt động nửa cuối tháng 3 năm 1979, ngoài việc truy quét địch, loại khỏi chiến đấu 2 tiểu đoàn, 7 đại đội, 4 trung đội, diệt nhiều tên, thu gần 400 khẩu súng các loại, giải phóng hơn 3 vạn dân, Sư đoàn còn giúp Bạn tổ chức được 5 đại đội bộ đội địa phương (700 quân, trang bị 571 súng các loại), xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cho 18 xã (726 du kích trang bị 273 súng các loại). Tuy Sư đoàn hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Quân khu giao, nhưng tổn thất còn cao (hy sinh 317 đồng chí, bị thương 905 đồng chí, cháy 5 xe, hỏng 11 xe quân sự); việc cung cấp hậu cần phục vụ chiến đấu ở nhiều nơi không đáp ứng được kịp thời do đường xa, địa hình phức tạp, địch liên tục đánh phá


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2021, 06:19:40 am
Đầu tháng 4 năm 1979, sau khi ta rút bớt một số lực lượng về nước để bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, địch tập trung tàn quân các sư đoàn 210, 250, 230, 164 502, 460 ở Quân khu Tây Nam ra sức phản kích hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực nam - bắc đường số 4.

Để tiêu diệt tàn quân địch, bảo vệ địa bàn, triệt mọi nguồn tiếp tế, hệ thống kho tàng và các căn cứ lõm của địch, theo kế hoạch của Tiền phương Bộ Quốc phòng, từ ngày 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1979, Quân khu 9 tập trung các sư đoàn 4, 8, 330, 339 và lực lượng trên tăng cường (2 sư đoàn 320 và 310, 6 trung đoàn độc lập và 15 tiểu đoàn bộ đội địa phương của các tỉnh trong Quân khu) mở chiến dịch 3 phối hợp với Quân đoàn 4 truy quét, tiêu diệt các căn cứ lõm của địch ở nam - bắc đường số 4. Theo kế hoạch chung của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 310, 339 phối hợp với Quân đoàn 4 đánh địch ở phía bắc đường 4; tập trung chỉ đạo các sư đoàn 8, 320, 330, các trung đoàn độc lập và bộ đội địa phương đánh địch ở nam đường số 4, khu vực núi Chàngô, bắc Tàâm, tây - tây nam núi Tượng Lăng và Đôngkamchay.

Mở đầu chiến dịch, ở phía bắc đường số 4, các sư đoàn 4, 310 cùng lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Minh Hải lần lượt đánh chiếm các khu vực Chikho, Chiphắt Kamlot, Thomabang, Tatailơ, Kirirom, Trapenrung, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng hoàn toàn đường 18 từ Sêramben đến Cô Công với gần 3.500 dân. Sư đoàn 330 đánh địch ở khu vực Chàngô lớn, Chàngô nhỏ, núi Tượng Lăng, Píchnin. Bị ta đánh mạnh ở bắc đường số 4, địch dồn về phía nam đường, Quân khu kịp thời điều sư đoàn 339 (thiếu 1 trung đoàn) tăng cường cho lực lượng phía nam. Bằng nhiều trận đánh bồi, đánh nhồi liên tiếp, quân ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu, trong đó có khu tây phum Ô. Sau khi bị mất khu vực ngã ba Môlúp và bắc Kaosala, rất nhiều tàn quân địch chạy về phía bắc và phía tây phum Ô. Trong các ngày từ 21 đến 27 tháng 4 năm 1979, Quân khu sử dụng Sư đoàn 8 vu hồi từ hướng tây nam kết hợp với một số lực lượng của các sư đoàn 330, 320 từ hướng tây bắc và hướng đông đánh vào phum Ô, diệt hơn 200 tên, thu 14 xe tăng và hàng trăm khẩu súng các loại.

Cũng trong thời gian này, Sư đoàn 8 và lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Kiên Giang vừa truy quét, vừa phối hợp với nhân dân kêu gọi hơn 900 lính địch ra hàng. Các đơn vị bộ đội địa phương của các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, An Giang, được pháo binh và thiết giáp Quân khu chi viện, bao vây tiêu diệt quân địch ở Chuk. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu 9 cùng các đơn vị Bạn tiêu diệt và bắt hàng nghìn tên, gọi hàng 1.270 tên, thu 26 xe tăng, 169 xe vận tải, 1.909 súng các loại và hàng trăm tấn đạn dược, lương thực quân trang, quân dụng; giải phóng các huyện Sêramben Ptusakô, Chiphát, Thomabăng và bắc đường số 4.

Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, từ ngày 1 tháng 5 đến 20 tháng 6 năm 1979, Quân khu 9 tiếp tục mở các chiến dịch 4 và 5 nhằm truy quét tàn quân địch còn lẩn trốn ở các vùng rừng núi, nhất là các khu vực ta dự đoán địch có khả năng lập các kho tàng, sở chỉ huy như phía bắc và đông bắc Kirivông, tây núi lớn, Kasala đông và nam Tàlơn, tây bắc Campốt. Ở khu vực tứ giác bắc Kirivông, Sư đoàn 339 đã đánh trúng một số kho tàng của địch, diệt hơn 100 tên, thu 100 máy thông tin và nhiều đạn dược. Ở phía nam đường số 4, các sư đoàn 4, 8, Trung đoàn 152 (Kiên Giang) đánh chiếm sở chỉ huy các sư đoàn 210, 230, 250. Lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh Tiền Giang, Cửu Long, Minh Hải, Bến Tre, Hậu Giang kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia truy quét tàn quân địch ở khu vực tây thị xã Puốcxát và một số huyện của tỉnh Côngpông Chnăng.

Cùng với việc tập trung lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu đánh địch bảo vệ địa bàn, Quân tình nguyện còn cử nhiều đội công tác tham gia giúp Bạn củng cố xây dựng chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể. Theo yêu cầu và sự thoả thuận của Trung ương Đảng Bạn, ngày 15 tháng 5 năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 75/CT-TW về việc tổ chức các lực lượng chuyên gia Việt Nam tại các tỉnh Campuchia, gồm: các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, các đoàn chuyên gia Việt Nam cấp Trung ương, cấp tỉnh và tổ chuyên gia cấp huyện; các đội công tác hoạt động theo từng thời gian về kinh tế, kỹ thuật, y tế, giáo dục, văn học, nghệ thuật. Ban Bí thư phân công một số tỉnh của Việt Nam giúp tỉnh Bạn, các tỉnh ủy được tổ chức một tiểu Ban chuyên trách, do một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch chuyên trách. Các tỉnh Việt Nam không cử các đội công tác sang tỉnh Bạn làm nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng. Nhiệm vụ này do các đơn vị quân đội hoạt động trên tỉnh Bạn được Tiền phương Bộ Quốc phòng và các quân khu giao nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng chính quyền, có thể tổ chức ra các đội công tác và phải bố trí thêm cán bộ chính trị, cán bộ dân vận làm nhiệm vụ được giao và phối hợp chặt chẽ với đoàn chuyên gia cấp tỉnh.

Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, truy quét tàn quân địch, vừa làm công tác phát động quần chúng, giúp Bạn xây dựng chính quyền cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đến tháng 6 năm 1979, các đơn vị Quân tình nguyện kết hợp giúp nhân dân các địa phương xây dựng chính quyền tự quản ở hầu hết các tỉnh, huyện, xã; giúp Bạn tổ chức 39.000 dân quân tự vệ, trang bị 15.000 súng. Đặc biệt, Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp Bạn tổ chức quân chủ lực và quân địa phương, biên chế thành một lữ đoàn, 2 trung đoàn, 32 tiểu đoàn bộ đội chủ lực, 36 đại đội địa phương huyện, 111 đội công tác (quân số 15.379 người). Chỉ riêng trên địa bàn do Quân khu 9 đảm nhiệm, Quân tình nguyện đã giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng ở 20/23 huyện, 216/260 xã; đồng thời giúp 4 tỉnh Bạn xây dựng được 6 tiểu đoàn, 17 đại đội bộ đội địa phương, 3 khung huấn luyện tân binh (tương đương tiểu đoàn) và hàng trăm đội du kích ở các xã, ấp.

Như vậy, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định đưa lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự sang giúp các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, giải phóng đất nước khỏi hoạ diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó, theo đề nghị của Đảng, Nhà nước Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được Đảng, Nhà nước ta giao nhiệm vụ ở lại Campuchia triển khai lực lượng truy quét tàn quân Pôn Pốt, giúp Bạn củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, từng bước ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, hồi sinh đất nước.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2021, 06:15:45 am
4. Tổ chức lực lượng, cùng Bạn đánh địch trên các mặt trận, truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng

Được sự phối hợp chiến đấu của Bộ đội tình nguyện, sự giúp đỡ của chuyên gia quân sự Việt Nam, các lực lượng cách mạng Campuchia đã mở rộng vùng giải phóng, bước đầu củng cố chính quyền cách mạng; nhân dân từng bước khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.

Bị thất bại rất nặng nề, nhưng được các thế lực bên ngoài viện trợ, tàn quân Pôn Pốt dựa vào địa hình biên giới phía Tây hiểm trở tiếp tục tập hợp lực lượng hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Cùng với việc thu gom tàn quân, khôi phục các đơn vị chủ lực, xây dựng các tổ chức phản động, đẩy mạnh hoạt động đánh phá trong nội địa, bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari còn lợi dụng các diễn đàn quốc tế tiến hành các hoạt động chính trị, ngoại giao hòng vu cáo, cô lập Việt Nam.

Về chính trị, Pôn Pốt - Iêng Xari và các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài giương cao ngọn cờ “độc lập, hoà bình, dân chủ, trung lập, không liên kết” giả hiệu. Chúng ra sức tập hợp lực lượng phản cách mạng, lập ra các tổ chức phản động như “Mặt trận quốc gia giải phóng nhân dân Campuchia”, “Mặt trận Ăngco Khơme”, “Đại bàng den”, “Phong trào mặt trận sông Mê Công” nhằm lôi kéo nhân dân trong nước và đánh lừa dư luận quốc tế, tập trung mũi nhọn chống Việt Nam. Ở trong nước, chúng cũng lập ra nhiều tổ chức phản động hoạt động ngầm như “Đảng dân tộc chủ nghĩa”, “Linh hồn Khơme”, “Đảng voi trắng”... Chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo chính quyền cách mạng, kích động tinh thần dân tộc cực doan, hẹp hòi. Vừa tiến hành các thủ đoạn chiến tranh tâm lý gây chia rẽ liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia, địch vừa tích cực cài cắm lực lượng ngầm trong lực lượng vũ trang và chính quyền cách mạng, trong các tổ chức quần chúng, chuẩn bị các mặt hòng nổi dậy cướp chính quyền khi có thời cơ.

Về ngoại giao, chính phủ lưu vong do Pôn Pốt - Iêng Xari lập ra ở nước ngoài tìm mọi cách lợi dụng các diễn đàn quốc tế để vu khống, xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, hợp lý hoá các nguồn viện trợ của nước ngoài cho bọn tàn quân của chúng; đồng thời gây áp lực buộc ta rút Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước để chúng dễ bề đánh phá chính quyền cách mạng Campuchia non trẻ.

Về quân sự, địch chủ trương thực hiện “cuộc chiến tranh hai giai đoạn”, từ “tranh chấp” đến “tổng phản công”, dựa vào vùng “đất thánh” Thái Lan làm căn cứ địa để xây dựng, phát triển lực lượng. Song song với việc tích cực gom quân, xây dựng các căn cứ chỉ huy, sản xuất, tạo các bàn đạp để đánh phá giao thông, tập kích các cơ quan, doanh trại, kho tàng, thị xã, thành phố hòng tiêu hao sinh lực, phương tiện chiến đấu của ta và Bạn, địch ra sức mở rộng chiến tranh du kích, ém quân và xây dựng các căn cứ “lõm” trong dân, đẩy mạnh hoạt động trong nội địa. Vừa tích cực củng cố các căn cứ đứng chân trên biên giới, chúng vừa tổ chức hành lang vận chuyển tiếp tế từ ngoài vào cho bọn tàn quân trong nội địa. Trong mùa mưa năm 1979, địch chủ trương:

1. Tích cực đưa lực lượng thâm nhập từ ngoài biên giới vào nội địa, vừa hoạt động đánh phá, vừa tổ chức xây dựng lực lượng, tạo bàn đạp đứng chân ở những nơi xung yếu. Tạo thế uy hiếp các thị trấn, thị xã, các trục đường giao thông huyết mạch. Mở rộng địa bàn giành dân, xây dựng chính quyền và lực lượng du kích hai mặt. Mở hành lang nối liền các căn cứ của chúng trong nội địa và hành lang từ nội địa nối thông với bên ngoài.

2. Đẩy mạnh hoạt động vũ trang đánh phá các địa bàn xung yếu của ta, đồng thời tích cực xây dựng cơ sở trong dân, xây dựng chính quyền và du kích hai mặt tại chỗ. Chú trọng tuyên truyền vận động tập hợp nhân dân trong các đảng phái của Pôn Pốt và Sêrêka.

3. Tuyển chọn người từ các địa phương, tàn quân của các đơn vị cũ để thành lập các đơn vị chủ lực cơ động mới.

Về sử dụng lực lượng trong mùa mưa, địch xác định sử dụng lực lượng vừa và nhỏ, đánh giao thông, tập kích các kho tàng, vị trí đóng quân làm cho ta mỏi mệt, bị tiêu hao sinh lực dẫn đến phải rút bỏ địa bàn và nhường quyền kiểm soát cho chúng.

Đầu tháng 7 năm 1979, Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia triệu tập Hội nghị để đánh giá tình hình, đề ra nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước Campuchia trong giai đoạn cách mạng mới. Đánh giá thắng lợi mùa khô 1978-1979, Hội nghị nêu rõ: thắng lợi mùa khô rất lớn, không những làm nức lòng nhân dân cả nước mà còn tác động rất lớn đến dư luận thế giới. Nhân dân được giải phóng ngày càng ổn định dần về mọi mặt... Vị trí của Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia ngày càng được nâng cao ở trong nước và trên trường quốc tế.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2021, 06:17:17 am
Về nhiệm vụ và công tác trước mắt cụ thể của cách mạng Campuchia, Hội nghị xác định cần giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ, củng cố và mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, tập hợp rộng rãi mọi người thật tâm yêu nước thương nòi nhằm chống lại Pôn Pốt - Iêng Xa ri và bọn phản động tay sai, cứu dân thoát khỏi họa diệt chủng. Tích cực chăm lo đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân, ra sức xây dựng chính quyền, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, tiếp tục truy quét tàn quân địch, giữ gìn trật tự an ninh. Tăng cường và giữ vững sự đoàn kết giữa quân đội và nhân dân hai nước Campuchia - Việt Nam. Tăng cường đoàn kết quốc tế nhằm đánh bại hoàn toàn những âm mưu thâm độc mới của địch để xây dựng một nước Campuchia hoà bình, độc lập, dân chủ, không liên kết tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đề ra những nhiệm vụ của cách mạng Campuchia trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó việc bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng được xác định là nhiệm vụ then chốt lâu dài; phục hồi sản xuất nông nghiệp để cứu đói và chữa bệnh, ổn định đời sống nhân dân là nhiệm vụ cấp bách trước mắt.

Theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục giúp Bạn truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân khôi phục sản xuất, nhanh chóng ổn định đời sống. Triển khai nhiệm vụ giúp Bạn theo đề nghị của Đảng, Nhà nước Campuchia, ngày 10 tháng 7 năm 1979, Quân ủy Trung ương họp bàn về việc tổ chức lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Vấn đề đặc biệt quan trọng hiện nay là phải ra sức nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang của ta trên chiến trường Campuchia, phù hợp với nhiệm vụ bảo đảm giành thắng lợi trước mắt và lâu dài”(1).

Thường trực Quân ủy Trung ương chủ trương sử dụng một số sư đoàn, trung đoàn bộ binh cùng các đơn vị vũ trang của Campuchia đứng chân trên các địa bàn chiến lược làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, phát động và tổ chức quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng, ở mỗi tỉnh sẽ bố trí 1 tiểu đoàn tập trung, mỗi huyện một đại đội hoặc một trung đội làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu. Ở xã, ấp bố trí đội công tác (trung đội hoặc tiểu đội ban đầu, mỗi đội công tác bố trí ta 2 người, Bạn 1 người, sau đó tăng dần thành phần của Bạn đến khi Bạn tự đảm nhiệm được hoàn toàn công việc ở cơ sở).

Về chỉ huy, trước yêu cầu giúp Bạn trong tình hình mới, Bộ Tổng Tham mưu quy định các quân khu 5, 7, 9 tổ chức mỗi quân khu một sở chỉ huy tiền phương để chỉ huy các lực lượng trực thuộc từng quân khu chiến đấu ở Campuchia. Lực lượng quân sự của các tỉnh phía Nam tham gia chiến đấu tại Campuchia thuộc quân khu nào do Tiền phương quân khu đó chỉ huy và đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Tiền phương Bộ Quốc phòng.

Do yêu cầu nhiệm vụ công tác chuyên gia giúp Bạn trên các lĩnh vực ngày càng mở rộng nên đã nảy sinh nhiều vấn đề cần được tập trung giải quyết kịp thời, đảm bảo các yêu cầu về chính trị, quân sự, ngoại giao Nhằm mục tiêu đó, ngày 24 tháng 8 năm 1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 19/NQ-TW thành lập Ban phụ trách công tác K (Campuchia) để thay mặt Trung ương Đảng Chính phủ và Quân ủy Trung ương giải quyết mọi công việc có quan hệ với Campuchia; đồng thời cũng là cơ quan Tổng Chuyên gia chỉ đạo các đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia. Ban phụ trách công tác K do đồng chí Lê Đức Thọ làm Trưởng ban, đồng chí Lê Đức Anh là Phó ban thứ nhất. Các đồng chí Nguyễn Côn, Hoàng Thế Thiện làm Phó ban.

Để kiện toàn về tổ chức và đưa các hoạt động của các đoàn chuyên gia vào nền nếp, trên cơ sở ý kiến của các trưởng đoàn chuyên gia, Ban phụ trách công tác K đã có quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của các đoàn chuyên gia quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá.

Đối với chuyên gia quân sự, nhiệm vụ chủ yếu là giúp Bạn củng cố, xây dựng chính quyền cách, mạng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, bảo vệ chính quyền cách mạng; đồng thời phối hợp với chuyên gia các ngành kinh tế, văn hoá giúp Bạn từng bước điều tra nắm tình hình về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt về đời sống và sản xuất, phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu và điều kiện thực tế của từng địa phương.


(1) Nghị quyết số 130/QUTƯ-A ngày 10 tháng 7 năm 1979, Hồ sơ 1106, Trung tám Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2021, 06:18:30 am
Về mối quan hệ công tác của các đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, trong đó có chuyên gia quân sự, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quy định:

1. Đối với Bạn phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, phong tục tập quán của Bạn. Mọi việc đều phải bàn bạc nhất trí với Bạn và cuối cùng do Bạn quyết định; ta không tuỳ tiện, không ép buộc. Phải luôn giữ vững đoàn kết hữu nghị với Bạn và nhân dân Bạn.

2. Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương chính sách lớn thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Trung ương và Chính phủ ta, các đoàn chuyên gia quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá của ta ở cấp tỉnh, thành không được tuỳ tiện phát ngôn, dù là gợi ý hoặc hứa hẹn với Bạn trước khi được Trung ương và Chính phủ ta thông qua. Đó là nguyên tắc.

3. Quan hệ giữa các đoàn chuyên gia của ta phải gắn bó mật thiết với nhau và gắn bó với các đơn vị quân đội của ta và Bạn đóng tại địa phương.

4. Các đoàn chuyên gia về quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá cùng hoạt động trong một địa bàn phải phối hợp với nhau chặt chẽ, thống nhất nhận định và hành động trên các mặt hoạt động.

5. Kịp thời thông báo và tranh thủ ý kiến cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh, thành, cơ quan, đơn vị cấp trên về các vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét và giải quyết của tỉnh, thành và quân khu, quân đoàn (của ta ở phía sau).

6. Định kỳ báo cáo về đoàn chuyên gia quân sự, kinh tế văn hoá của ta ở Trung ương; kịp thời xin chỉ thị về những vấn đề vượt quá nhiệm vụ và quyền hạn của mình hoặc theo yêu cầu của Bạn.

Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ giúp Bạn đã xác định, các đơn vị quân tình nguyện bước vào đợt hoạt động phối hợp với Bạn đánh địch giữ địa bàn, bảo vệ vùng giải phóng trong mùa mưa đầu tiên ở Campuchia

Đứng chân trên địa bàn 3 tỉnh Canđan, Côngpông Chnăng và Puốcxát, các đơn vị của Quân đoàn 4 sử dụng một phần lực lượng (chủ yếu là cấp đại đội, tiểu đoàn) tiến hành các hoạt động truy quét địch, bảo vệ giao thông, chốt giữ địa bàn, bảo vệ vùng giải phóng, củng cố chính quyền cách mạng. Lực lượng chủ yếu của Quân đoàn tập trung, chấn chỉnh tổ chức, bổ sung quân số và trang bị, chuẩn bị cho các hoạt động tác chiến lớn trong mùa khô, đồng thời giúp Bạn huấn luyện các đơn vị chủ lực.

Trong công tác giúp dân ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất, 6 tháng cuối năm 1979, cán bộ chiến sĩ Quân đoàn 4 đã quyên góp giúp nhân dân trên địa bàn đóng quân được 41.000 kilôgam gạo, giúp dân sửa chữa 1.358 ngôi nhà, 457 trường học, đắp 18.490 mét đường, đào 3.000 mét mương, cấy 828 héc-ta lúa, điều trị bệnh cho 86.000 lượt người dân Campuchia. Kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang các địa phương của Bạn, cán bộ, chiến sĩ ta đã tích cực bám dân, bám địa bàn; kiên trì vận động, thuyết phục nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống, chống các âm mưu phá hoại, chia rẽ của bọn phản động. Bằng những việc làm thiết thực như cứu đói, giúp dân khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, các đội công tác của quân đoàn đã vận động được 2.098 người lầm đường lạc lối ra đầu thú và thức tỉnh hàng ngàn sĩ quan, binh lính của Pôn Pốt, đưa họ trở về sum họp với gia đình.

Trên địa bàn do Quân khu 7 đảm nhiệm, bước vào mùa mưa, trước âm mưu thủ đoạn hoạt động mới của địch, theo chỉ đạo của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân khu đã tiến hành điều chỉnh lực lượng, chuyển hướng nhiệm vụ, đưa một số đơn vị xuống hoạt động ở cơ sở vừa làm nhiệm vụ nắm địa bàn, vừa giúp đỡ chính quyền địa phương cứu đói, chữa bệnh, ổn định đời sống nhân dân, thực hiện giúp Bạn toàn diện trên các mặt; đồng thời sử dụng lực lượng cơ động kết hợp với lực lượng tại chỗ mở các chiến dịch tổng hợp đánh phá các căn cứ hành lang của địch ở nội địa và biên giới.

Ở các tỉnh Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay, Báttambang, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 vừa thực hiện nhiệm vụ khoá chặt biên giới, giúp Bạn xây dựng chính quyền và xây dựng lực lượng vũ trang, vừa mở các đợt truy quét tàn quân địch. Phương châm tác chiến của Mặt trận trong mùa mưa là lấy hoạt động thường xuyên nhỏ lẻ là chính, lấy cấp đại đội, tiểu đoàn làm chính yếu. Khi cần sử dụng cấp trung đoàn (thiếu) tăng cường đánh nhỏ lẻ; đồng thời tích cực chuẩn bị phương án để khi cần có thể đánh cấp sư đoàn theo phương thức kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch ngoài địa hình với truy quét địch luồn vào trong dân. Trong truy quét địch ở cơ sở, chú trọng phát hiện lực lượng địch cài cắm trong các cơ quan chính quyền và lực lượng vũ trang của Bạn, diệt ác ôn và cốt cán của Pôn Pốt, không để chúng kìm kẹp, khống chế dân. Bằng nhiều đợt truy quét dọc biên giới, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã cơ bản ngăn chặn được các hoạt động thâm nhập của địch qua các cửa khẩu biên giới; đồng thời tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá các căn cứ lõm của chúng ở Ôtabưa, Kaomêlai, tây Đăngkum, Ampin, núi Hồng, Tàsanh.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2021, 06:20:28 am
Tính riêng đợt hoạt động mùa mưa năm 1979 (từ tháng 6 đến tháng 9), toàn Mặt trận 479 đã đánh 1.502 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 4.661 tên địch trong đó diệt 1.143 tên, gọi hàng 861 tên, 2.306 tên ra trình diện, thu 655 súng các loại. Trong công tác giúp Bạn xây dựng chính quyền, tính đến tháng 10 năm 1979 trên địa bàn do Mặt trận 479 đảm nhiệm, ta đã giúp Bạn xây dựng chính quyền (kể cả bầu và chỉ định) ở 59 huyện thị, 455/612 xã và 4.729 ấp. Về xây dựng lực lượng đã tuyển được 44.773 du kích, trang bị 11.459 súng. Nhiều đội du kích ở Côngpông Thom, Côngpông Chàm, Xoàiriêng, Báttambang đã đảm nhiệm đánh được địch, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền, giữ gìn trật tự trị an trong xã, ấp. Các huyện Barài, Săngtuk huy động hơn 500 du kích phối hợp chiến đấu với bộ đội Việt Nam đạt kết quả tốt. Các đơn vị trên toàn Mặt trận đã tổ chức huấn luyện giúp Bạn được 12.516 cán bộ cơ sở (xã, ấp); tập huấn bồi dưỡng 1.659 cán bộ từ tiểu đội đến đại đội, giúp Bạn vận động thuyết phục có kết quả lực lượng của Bôring, kêu gọi hơn 800 người trở về với cách mạng. Qua giáo dục, huấn luyện, ta đã giúp Bạn xây dựng 1 tiểu đoàn của tỉnh Côngpông Chàm. Ngoài ra, các đơn vị trên địa bàn đóng quân còn giúp hàng trăm tấn gạo cứu đói cho dân, đưa 55.825 người dân bị Thái Lan đẩy về 2 đợt, giúp họ về các địa phương ổn định chỗ ăn ở và sản xuất(1). Cùng với các hoạt động trên, ta còn giúp Bạn phá các tổ chức chính trị phản động của phong trào “Linh hồn Khơme” (gọi tắt là CPK do Inđuông Đare và Ingđuông Chanhtria cầm đầu hoạt động ở 4 tỉnh Báttambang, Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay và Côngpông Thom).

Bên cạnh những kết quả trên, công tác giúp Bạn của các đơn vị Mặt trận 479 vẫn còn một số khuyết điểm tồn tại. Hội nghị Đảng ủy Mặt trận 479 mở rộng (họp từ ngày 30 tháng 9 đến 2 tháng 10 năm 1979) đã chỉ rõ: “Hiệu suất chiến đấu thấp, thương vong của ta còn cao: hy sinh 136 (có 28 trường hợp ngoài chiến đấu), bị thương 249 (có 72 trường hợp ngoài chiến đấu). Nhiệm vụ giúp Bạn đã hoàn thành cơ bản phát động chính quyền đạt 154/199 xã trong số 22 huyện của 2 tỉnh (Báttambang, Xiêm Riệp). Nắm được 985.765 nhân khẩu trong 205.433 hộ. Bầu được 13.683 du kích phum, 2.904 du kích xã, trang bị 3.080 súng các loại. Các tiểu đoàn 1, 5, 18 và một số đại đội thuộc tỉnh Báttambang của Bạn đã được ta bồi dưỡng huấn luyện và giúp đỡ hoạt động, chất lượng nâng lên, tiến bộ rõ rệt...”(2).

Trên địa bàn do Quân khu 9 đảm nhiệm, bước vào mùa mưa năm 1979, nhiều nhóm tàn quân địch đẩy mạnh hoạt động ở bắc Côngpông Spư, nam Chàng Ô, Cô Công. Chúng chặn cướp lương thực, đột nhập bắt cóc cán bộ phum, xã, gây trở ngại cho chính quyền cách mạng. Địch lập ra nhiều nhóm phản động, dùng chiến tranh tâm lý kích động hận thù dân tộc, xuyên tạc các chủ trương của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Có nơi, địch tự lập chính quyền dưới hình thức “do dân bầu”; bên ngoài chúng hô hào ủng hộ cách mạng, nhưng bên trong lại tiếp tay cho các tổ chức phản động chống phá cách mạng. Lợi dụng địa hình hiểm trở và mùa mưa ta cơ động lực lượng, tiếp tế vận chuyển khó khăn, địch đẩy mạnh hoạt động ở các vùng nông thôn rừng núi gây cho lực lượng chốt giữ bảo vệ địa bàn của ta nhiều khó khăn.

Để thực hiện nhiệm vụ giữ địa bàn do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, sau khi điều chỉnh lực lượng, các đơn vị thuộc Quân khu 9 tổ chức nhiều phân đội nhỏ (chủ yếu cấp trung đội, đại đội) liên tục lùng sục, truy quét tàn quân địch ở các vùng nông thôn và vùng ven. Vừa tiến công quân sự ta vừa đẩy mạnh công tác binh vận; kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân địa phương và cả tù binh đầu hàng kêu gọi binh lính địch trở về với cách mạng. Các đơn vị đã kêu gọi được nhiều binh lính địch mang súng trở về với cách mạng, nổi bật là Trung đoàn 2 (Sư đoàn 330), trong một tháng đã kêu gọi được gần 500 quân lính địch ra hàng.

Song song với hoạt động trên, các đơn vị còn tăng cường huấn luyện, giúp đỡ các lực lượng chiến đấu của Bạn. Trong tháng 7 và 8 năm 1979, du kích và bộ đội địa phương của Bạn ở 8 xã khu vực phía nam rừng xanh huyện Baty (Tàkeo), của 5 huyện thuộc tỉnh Côngpông Spư và các huyện Chuk, Cam Pốt, Túcmia tỉnh Campốt... đã tích cực đánh địch ở các vùng ven căn cứ, diệt và bắt hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí. Ta đã thực hiện được phương châm phối hợp cùng các lực lượng Bạn đánh địch, bảo vệ dân, hạn chế hoạt động của địch ở vùng ven, không cho chúng cướp bóc, phá hoại sản xuất; góp phần ổn định đời sống nhân dân.

Với gần một nghìn lần xuất kích truy quét tàn quân địch, mùa mưa năm 1979, các đơn vị thuộc Quân khu 9 đã loại khỏi chiến đấu hơn 6.000 tên địch, thu hơn 3.000 súng các loại. Lực lượng Bạn tham gia chiến đấu hơn 50 trận, diệt 78 tên, bắt và gọi hàng 204 tên, thu gần 200 súng các loại. Nhìn chung, trong tác chiến mùa mưa, các sư đoàn quân tình nguyện 4, 8, 330, 339, một số trung đoàn binh chủng và lực lượng các tỉnh tăng cường dưới sự chỉ huy của Tiền phương Bộ tư lệnh Quân khu 9 đều thực hiện được mục tiêu đề ra là giữ được địa bàn, tiêu hao sinh lực địch, giảm thương vong của ta; đồng thời giúp Bạn củng cố chính quyền, phát triển được lực lượng. Tuy nhiên, hoạt động trong mùa mưa cũng bộc lộ những sơ hở của ta trong bố trí lực lượng, tổ chức truy quét địch, đặc biệt là tiếp tế hậu cần cho các đơn vị ở vùng sâu, vùng xa chưa đảm bảo được kịp thời.


(1) Báo cáo tình hình thực hiện những nhiệm vụ công tác lớn trong quý III năm 1979 tại Hội nghị thường kỳ của Đảng ủy Quân khu 7 trong hai ngày 4 và 5 tháng 10 năm 1979, số 18/BC ngày 5 tháng 10 năm 1979.
(2) Nghị quyết Hội nghị Đảng ủy Mặt trận 479 mở rộng từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 1979.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2021, 06:22:09 am
Trên địa bàn do các đơn vị Quân khu 5 đảm nhiệm, các sư đoàn 2, 307, 315 vừa triển khai lực lượng giữ địa bàn, ngăn chặn địch đánh phá giao thông vừa tổ chức lực lượng truy quét địch ở biên giới và nội địa. Đứng chân trên địa bàn tiếp giáp giữa ba nước Đông Dương, mùa mưa năm 1979, Sư đoàn 315 được Tiền phương Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ truy quét tàn quân địch giữ vững địa bàn được giao; đồng thời giúp Bạn xây dựng lực lượng quân sự, củng cố chính quyền cơ sở, vận động nhân dân sản xuất, ổn định đời sống.

Trong mùa mưa, lợi dụng nước sông Sê San lên to, Sư đoàn 315 đã sử dụng Trung đoàn 733 huy động thuyền của dân ở Vươnsai di chuyển ngược lên Tàveng và đi sâu vào các suối Khămpha, Tàpộp, phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Kon Tum đánh sâu vào căn cứ sư đoàn 801 Pôn Pốt ở biên giới, phá nhiều cơ sở hậu cần của địch.

Song song với nhiệm vụ truy quét địch, Sư đoàn 315 tổ chức nhiều chốt bảo vệ giao thông trên các trục đường số 19, 141, 194 với tổng chiều dài 120 kilômét. Vừa đảm bảo giao thông, các đơn vị của Sư đoàn vừa tổ chức 106 trận đánh địch, diệt 119 tên, thu 82 súng, 13 thuyền phá hủy nhiều kho tàng và khu dồn dân của địch ở bắc sông Sê San, đưa 5.000 dân bị địch bắt đi theo trở về làng cũ. Ngoài ra, các trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc của Sư đoàn còn thành lập các đội vũ trang công tác giúp Bạn. Toàn Sư đoàn tổ chức được 16 đội công tác, giúp Bạn đăng ký hộ khẩu được 60 thôn, bản, quản lý được 2.748 hộ với 12.230 dân.

Cũng trong thời gian này, các sư đoàn 2 và 307, theo nhiệm vụ được giao, vừa tổ chức lực lượng giữ địa bàn, vừa đẩy mạnh hoạt động truy quét tàn quân địch. Với hàng trăm trận đánh vừa và nhỏ, bằng nhiều hình thức tác chiến phong phú, các đơn vị đã loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá âm mưu lập căn cứ trong dân của chúng, giúp Bạn bảo vệ được chính quyền cách mạng và vùng giải phóng.

Cùng với hoạt động tác chiến, để tăng cường thêm lực lượng giúp Bạn ở cơ sở, tháng 8 năm 1979, Quân khu 5 tổ chức thêm 4 tiểu đoàn địa phương và 15 đại đội huyện để giúp 4 tỉnh Đông Bắc Campuchia: Ráttanakiri, Mônđunkiri, Stung Treng, Prếtvihia (mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn và từ 3 đến 4 đại đội); đồng thời điều động lực lượng giúp Bạn thành lập 4 bộ chỉ huy quân sự thống nhất ở 4 tỉnh và một trường đào tạo cán bộ cho Bạn.

Từ ngày 18 đến 24 tháng 11 năm 1979, hội nghị chuyên gia toàn Campuchia được tổ chức với sự tham gia của đại biểu các đoàn chuyên gia quân sự (478), Đoàn chuyên gia kinh tế - văn hoá (A40), Đoàn chuyên gia an ninh (K79), chuyên gia một số bộ, ngành, quân khu, tỉnh, thành phía nam đang làm nhiệm vụ giúp Campuchia. Sau khi nghe đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng ban phụ trách công tác Campuchia, điểm lại một số kết quả giúp Bạn trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế - văn hoá; đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Tiền phương Bộ Quốc phòng tại Campuchia, báo cáo về tình hình địch - ta trên chiến trường, âm mưu, thủ đoạn của địch trong thời gian tới, hội nghị tập trung bàn các giải pháp nhằm giúp Bạn ổn định đời sống nhân dân, khôi phục và phát triển sản xuất, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang.

Về khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, với sự giúp đỡ tích cực của chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam, đến cuối năm 1979, cả nước Campuchia đã lập được hơn 46 nghìn tổ sản xuất (mỗi tổ gồm từ 10 đến 15 gia đình, với 20 - 30 lao động canh tác trên một diện tích chừng 20 héc-ta đất). Tổ sản xuất được chia làm ba loại: Tổ loại 1, mọi người lao động trên diện tích chung, thu hoạch chia theo lao động. Tổ loại 2, mọi người lao động theo lối đổi công, từng gia đình thu hoạch lấy sản phẩm của mình. Tổ loại 3, các gia đình tổ chức lao động riêng lẻ nhưng cùng nhau sinh hoạt vui chơi. Người lao động tự do sản xuất và tự hưởng hoa lợi của riêng mình.

Lúc đầu, các gia đình trong tổ sản xuất mới chỉ tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để sống, nhưng dần dần họ trở thành một lực lượng có tổ chức, một tổ chức vừa mang tính chất kinh tế, vừa có tính chất chính trị, quốc phòng, an ninh; tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, bảo vệ lẫn nhau chống lại kẻ thù.

Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp, khuyến khích nông dân tham gia các tổ sản xuất, ngày 20 tháng 12 năm 1979, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã quyết định không thu thuế nông nghiệp, không bắt nông dân đóng góp dưới bất cứ hình thức nào; nông dân được hưởng toàn bộ sản phẩm do mình làm ra. Nhà nước còn tạo điều kiện cung cấp cho nông dân thóc giống, bảo đảm về thủy lợi và phân bón. Những chính sách này đã góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2021, 06:17:18 am
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ giúp dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, tranh thủ thời gian mùa khô, các đơn vị ta tích cực đẩy mạnh truy quét tàn quân địch, củng cố vùng giải phóng.

Ngày 19 tháng 12 năm 1979, tại sở chỉ huy Tiền phương Quân khu 9 ở thị xã Cô Công, đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Tiền phương Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị giao nhiệm vụ cho các đơn vị thuộc Quân khu 9 và Vùng 5 Hải quân. Các đồng chí Trần Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân khu 9; Nguyễn Đệ, Phó tư lệnh quân khu, Tư lệnh Tiền phương Quân khu 9; đồng chí Tuấn, Tư lệnh Vùng 5 Hải quân, Chỉ huy Lữ đoàn 950; chỉ huy 6 trung đoàn biên phòng, chuyên gia tỉnh Cô Công và đại diện các cơ quan Tiền phương Bộ, Tiền phương Quân khu dự hội nghị.

Căn cứ vào tình hình thực tế địch - ta, Tiền phương Bộ quyết định: Tiền phương Quân khu 9 chỉ huy các lực lượng giúp Bạn bảo vệ biên giới tỉnh Cô Công và vùng ven biển Cô Công (gồm các đảo Do, đảo Cô Công, đảo Kot Samách); Vùng 5 Hải quân đảm nhiệm tác chiến trên biển và các đảo còn lại.

Đối với nhiệm vụ phòng thủ biên giới, Tiền phương Quân khu 9 phải đưa lực lượng ra bố trí sát biên giới Thái Lan, vượt sang sông Mêtock, không để địch áp sát tuyến sông Mêtock. Hoàn chỉnh bố trí lực lượng chốt giữ, bảo đảm tiến công và phòng thủ vững chắc, chặn đứng mọi âm mưu, thủ đoạn đánh phá, thâm nhập của địch, thực hiện khoá chặt biên giới.

Quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo trực tiếp của Tiền phương Bộ, bước vào mùa khô 1979-1980, Đảng ủy Quân khu 9 xác định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang quân khu trên chiến trường Campuchia:

Một là, nắm vững nhiệm vụ trung tâm, giúp Bạn vận động quần chúng sâu rộng nhằm phát triển thực lực cách mạng, phá các âm mưu sử dụng phần tử hai mặt trong chính quyền cách mạng của địch; đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống mọi mặt cho nhân dân, khắc phục các hậu quả địch để lại.

Hai là, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển quần chúng, củng cố lực lượng vũ trang cho Bạn với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, đập tan các cuộc bạo loạn, diệt trừ các nhóm vũ trang, triệt phá các căn cứ chỉ huy, các cơ sở sản xuất, hậu cần, triệt cắt mọi nguồn tiếp tế của địch. Chiếm lĩnh và khống chế những nơi địch có thể sử dụng để khôi phục căn cứ hành lang, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng, các trục giao thông huyết mạch, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân. Chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng phòng thủ biên giới và bờ biển tỉnh Cô Công.

Ba là, đẩy mạnh tốc độ giúp Bạn xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng chính trị cho lực lượng Bạn. Tăng cường xây dựng đoàn kết, nhất trí giữa Bạn và ta, củng cố liên minh chiến đấu giữa hai quân đội ngày càng vững chắc.

Về sử dụng lực lượng truy quét địch, Tiền phương Quân khu 9 xác định: ở địa bàn Cô Công sử dụng Sư đoàn 4, Trung đoàn 5, tăng cường 3 tiểu đoàn (trinh sát, đặc công, công binh) của Quân khu. Kết hợp với lực lượng Vùng 5 Hải quân và lực lượng địa phương của Campuchia truy quét tàn quân sư đoàn 164 địch ở Thamaso, Trapengrung, Thambăng, tây và nam Ôđôngtức. Sư đoàn 330 và Sư đoàn 8 truy quét địch ở khu vực Chàng Ô, núi Lớn, tây Tượng Lăng, Kamchay, núi Mây, núi Con Sâu, Kaosala, bắc và tây bắc thị xã Campốt. Lực lượng của tỉnh An Giang cùng lực lượng Bạn truy quét địch ở đông Tượng Lăng, Anchao, Kirirom, Bátty (rừng xanh) phối hợp với Sư đoàn 330 và Sư đoàn 8 ở phía tây. Lực lượng của tỉnh Cửu Long phối hợp với Sư đoàn 330, truy quét địch ở địa bàn Uđông và nam - bắc đường số 4.

Đối với công tác quần chúng, các đơn vị phải quán triệt sâu sắc và nhuần nhuyễn giữa yêu cầu xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang với giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội (cứu đói, chữa bệnh, cứu đau, đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế...); phải nắm chắc dân, dựa vào dân để phát hiện các phần tử hai mặt của địch.

Trong nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng lực lượng, các tỉnh Cửu Long, Kiên Giang, An Giang và Sư đoàn 4 được phân công giúp các tỉnh Tàkeo, Campốt, Côngpông Spư, Cô Công xây dựng mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn tập trung, huyện có đại đội bộ đội địa phương, xã có trung đội du kích; ngoài ra giúp huấn luyện lực lượng dân quân theo yêu cầu của Bạn. Sư đoàn 330 giúp xây dựng hai tiểu đoàn (2 và 3), Sư đoàn 8 xây dựng một tiểu đoàn, Đoàn 978 và Quân khu giúp Bạn xây dựng Binh đoàn 2.

Thực hiện nhiệm vụ truy quét địch, những tháng cuối năm 1979, đầu năm 1980, trên địa bàn biên giới các đơn vị thuộc Quân khu 9 lần lượt đánh bại các thủ đoạn bu bám, lấn chiếm chốt, chia cắt phía trước phía sau của sư đoàn 164 địch, đánh bật nhiều đợt tấn công của chúng vào các điểm cao 322 và 172 A, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giữ vững các chốt, đồng thời đẩy mạnh truy quét địch ở khu vực Viêngviên.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2021, 06:19:10 am
Trong nội địa, các đơn vị Quân khu 9 kiểm soát được các địa bàn, triệt phá các “lõm”, hỗ trợ đắc lực cho công tác vận động quần chúng, phá rã chính quyền hai mặt và phần tử hai mặt của địch, đập tan nhiều âm mưu bạo loạn của chúng trong dịp lễ Chon Chnam Thơmây (ngày 15 tháng 4); bảo vệ an toàn các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, tạo điều kiện củng cố xây dựng chính quyền cách mạng.

Trong mùa khô, từ tháng 10 năm 1979 đến tháng 5 năm 1980, trên địa bàn do Quân khu 9 đảm nhiệm, các đơn vị ta đã loại khỏi chiến đấu 3.207 tên địch, thu 1.872 súng các loại, 30 tấn đạn, 76 máy thông tin các loại, hơn 90 tấn lương thực. Giải phóng thêm 1.182 dân. Phía ta thương vong 315 đồng chí.

Sau khi hoàn thành kế hoạch tác chiến mùa mưa, trên địa bàn do Mặt trận 479 đảm nhiệm, trong mùa khô 1979-1980, ta đẩy mạnh hoạt động truy quét địch. Đảng ủy mặt trận xác định nhiệm vụ chủ yếu là tiêu diệt và gọi hàng quân địch trong nội địa, đánh bại các cuộc tiến công của địch từ ngoài biên giới đánh vào với bất cứ quy mô nào; gấp rút xây dựng cho Bạn mạnh lên toàn diện, nhanh, vững chắc để Bạn từng bước quản lý được tình hình trật tự trị an trên địa bàn và cùng ta đánh địch.

Quân đoàn 4 được Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Bạn trên tuyến biên giới từ Pailin đến Cô Công và trong nội địa. Trên tuyến Pailin - Cô Công, quân Pôn Pốt thường xuyên có tàn quân của các sư đoàn 1, 2, 111 và 164 hoạt động phá hoại trên các tuyến đường sắt, đường số 5 và đường số 56, Trong nội địa, tàn quân các sư đoàn 502, 344, 232 và 520 và các toán quân do Lơvây, Pôn Lóc, Sà Rươn chỉ huy thường xuyên tập kích đánh phá các cơ sở cách mạng của Bạn. Yêu cầu đặt ra đối với Quân đoàn 4 là phải kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch ở biên giới, nội địa với phát động quần chúng phá các lực lượng ngầm và các tổ chức ngầm, tổ chức hai mặt của địch. Đáp ứng yêu cầu trên, mùa khô 1979-1980, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đề ra một số nhiệm vụ:

1. Tiếp tục đánh địch ở biên giới, đưa lực lượng ra chốt khu vực Đông Tây sông Mê Nam. Trung đoàn 686 biên phòng, Trung đoàn bộ binh 10 (Sư đoàn bộ binh 339), Trung đoàn 250 biên phòng triển khai chốt có trọng điểm từ biên giới Pailin đến giáp Cô Công. Sư đoàn bộ binh 341 phát triển trên đường số 10, đoạn Sămlốt - Tức Sóc, đánh địch củng cố địa bàn và làm lực lượng cơ động.

2. Các sư đoàn 7, 9, 339 (thiếu) phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh của Bạn tổ chức đánh địch còn ẩn náu trong nội địa và triệt phá các căn cứ hành lang của chúng ở các khu vực Amleng, Kimri, nam Lếch và Biển Hồ.

Thực hiện nhiệm vụ được giao Trung đoàn 10 (Sư đoàn 339) và các trung đoàn biên phòng 686, 250 đã mở các đợt truy quét địch ở hai bên bờ sông Mênam; Sư đoàn 341 đánh địch ẩn náu hai bên trục đường 10 Sămlốt, Tứcsóc, đập tan bộ máy chỉ huy của địch (gồm mặt trận 1; mặt trận quân khu tây Bắc và sở chỉ huy một số sư đoàn bộ binh) ở khu vực này. Tiếp đó, Trung đoàn 686 và Trung đoàn 10 (Sư đoàn 339) đưa lực lượng ra chốt giữ biên giới tuyến Mênam, Trung đoàn biên phòng 250 xây dựng cụm điểm tựa phòng thủ Pailin.

Ở nội địa, các sư đoàn 9, 7 và 339 (thiếu) tiếp tục đánh các căn cứ trọng điểm của địch ở Amleng, Kimri, Lếch, Ôran. Ta sử dụng tù hàng binh dẫn đường phá được nhiều căn cứ, cơ sở sản xuất của địch ở khu vực núi Ôran, thu hồi nhiều kho tàng quân trang, quân dụng của chúng.

Những tháng đầu năm 1980, địch tiếp tục đưa những toán quân nhỏ từ biên giới thâm nhập vào nội địa phối hợp với lực lượng ẩn náu trong các địa hình phức tạp ven sông Tônglê Sáp móc nối với bọn phản động trà trộn trong dân đẩy mạnh các hoạt động đánh phá ta ở tây - nam Mung; đông - bắc Amleng, núi Kimri, tây Krakô, các huyện 10, 14, 16 (Côngpông Chnăng), Sầmrông, đông và tây Rôviêng. Ở biên giới, tàn quân các sư đoàn 1, 111 khôi phục hoạt động ở khu vực 20 nhà, Pailin, Sămlốt; Sư đoàn 164 đẩy mạnh hoạt động ở khu vực từ điểm cao 322 đến bắc Cô Công. Từ tháng 3 năm 1980, địch đưa thêm lực lượng về hoạt động ở phía nam đường 56, bắc Pramôi. Chúng dùng hoả lực từ biên giới bắn vào các khu vực đứng chân của các đơn vị biên phòng, cài mìn, phục kích các bộ phận đi tải thương, tải gạo, cắt đường dây điện thoại, phá các trục giao thông quan trọng của ta.

Sau các đợt truy quét tàn quân địch ở các địa bàn trọng yếu, làm đường cơ động lên các điểm chốt tiền tiêu, vận chuyển hàng các loại, đảm bảo chốt giữ biên giới; đồng thời sử dụng lực lượng giúp Bạn phát động quần chúng đánh địch ẩn náu trong dân, phát hiện những phần tử phản động hoạt động trong chính quyền và lực lượng vũ trang Bạn, dập tắt âm mưu bạo loạn ở Phnôm Pênh và Côngpông Chnăng; đến cuối tháng 5 năm 1980, Quân đoàn 4 điều chỉnh đội hình giữ các khu vực trọng điểm, chuẩn bị đánh địch trong mùa mưa. Sư đoàn 341 cùng với Bạn triển khai hoạt động đánh địch bảo vệ địa bàn Mông, Tàsanh, Sămlốt, Rôviêng, Đảo Đá, Pramôi và đông tây sông Cô Công. Sư đoàn 9 đảm nhiệm khu vực Bannâk, Rômía, Pônlây, bắc huyện 16 (tỉnh Côngpông Chnăng). Sư đoàn 7 phối hợp với Bạn hoạt động ở khu vực Amleng, Kimri. Ngoài lực lượng chốt giữ địa bàn, Quân đoàn còn đưa một số lực lượng phối hợp hoạt động với Bạn và lực lượng Quân khu 7 ở đông và bắc các huyện 16; 18 (tỉnh Côngpông Chnăng); đồng thời phối hợp với một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre cùng Bạn đánh địch ở vùng giáp ranh, giúp các địa phương củng cố chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2021, 06:20:06 am
Bước vào mùa mưa năm 1980, Quân đoàn 4 sử dụng lực lượng chốt chặn bảo vệ địa bàn, ngăn chặn âm mưu phục kích, đột nhập đánh phá của địch đồng thời sẵn sàng cơ động lực lượng giúp Bạn tiêu diệt các đơn vị lớn của địch. Ngày 25 tháng 8 năm 1980, Quân đoàn phối hợp với Bạn và lực lượng Quân khu 7 mở đợt truy quét quân địch ở địa bàn giáp ranh giữa Côngpông Chàm và Côngpông Chnăng, giữa Prâyveng với Kanđan và các bến phà Prekđam, Niếc Lương; đồng thời đẩy mạnh công tác bảo vệ giao thông và đánh phá các lực lượng ngầm của địch. Sau đợt hoạt động này, Quân đoàn 4 sư dụng Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ hỗ trợ Bạn bảo vệ thành phố Phnôm Pênh, sân bay Pôchentông và đoạn đường sắt từ Phnôm Pênh đến ga Lôven (dài 92 kilômét có 47 cầu). Sư đoàn 9 cùng Bạn bảo vệ đoạn đường sắt từ ga Lôven đến ga Bannâk (dài 156 kilômét có 15 cầu). Các đơn vị còn lại được phân công phối hợp cùng Bạn bảo vệ đường số 5 (dài 275 kilômét với 207 cầu lớn nhỏ).

Được giao nhiệm vụ truy quét, tiêu diệt các căn cứ địch ở tuyến biên giới, trọng điểm là Phumcu, Tơrôm Anlongveng, Sư đoàn 302 (Quân khu 7) đã sử dụng lực lượng đặc công, trinh sát luồn sâu, tiêu diệt nhiều căn cứ, kho tàng của địch ở tuyến biên giới. Vừa triển khai xây dựng các cụm điểm tựa cấp đại đội, tiểu đoàn, tiến hành rào rấp, khoá biên giới, Sư đoàn vừa tổ chức lực lượng truy quét địch trong nội địa. Hướng chủ yếu là khu vực đông đường 68 đến Anlongveng và khu vực giáp giới ba huyện Chôngcan I, Xrayxnam và tây phum Chếch).

Sau khi điều chỉnh lại lực lượng bố trí trên các địa bàn từ tháng 2 năm 1980, các đơn vị của Sư đoàn tiến hành nhiều đợt truy quét địch ngoài địa hình, tiêu diệt các căn cứ lõm; đồng thời tổ chức tiến công các cứ điểm, cụm cứ điểm của địch trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, tạo điều kiện cho các đơn vị Bạn và lực lượng vũ trang địa phương của Campuchia bố trí tuyến phòng thủ biên giới ngăn chặn địch xâm nhập vào nội địa, củng cố chính quyền cách mạng. Trong năm 1980, Sư đoàn 302 giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền ở 8 huyện, 71 xã, 1.360 phum; xây dựng và huấn luyện cho Bạn được 9 đại đội 2 chức năng với số quân 1.821 người và 2.840 du kích huyện xã; trang bị cho Bạn 4.106 khẩu súng các loại; giúp Bạn xây dựng được 7 trường học, 46 trụ sở ủy ban nhân dân, 10 bệnh xá, tạo điều kiện cho Bạn giữ vững vùng giải phóng, củng cố chính quyền cách mạng.

Trong năm 1980, căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Sư đoàn 317 (Quân khu 7) điều chỉnh địa bàn đứng chân của các đơn vị. Cùng với việc truy quét tàn quân địch, phá căn cứ kho tàng và cơ sở sản xuất của chúng, bảo đảm an toàn hai trục đường số 6 và 12, Sư đoàn tập trung củng cố 5 tiểu đoàn làm công tác quân sự địa phương tại 5 huyện và tổ chức Trung đoàn 747 (thiếu 1 tiểu đoàn) cơ động phối hợp với các lực lượng khác ở tỉnh Prâyveng hoạt động trong chiến dịch tổng hợp mùa khô năm 1980. Trong đợt 1 (từ ngày 5 đến ngày 30-1-1980), Sư đoàn tập trung lực lượng đứng chân ở các xã ven trục đường số 6 cùng các lực lượng vũ trang địa phương vận động nhân dân không nghe theo các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của địch phá hoại ngày lễ chiến thắng (7 tháng 1), bắt nhiều tên đầu sỏ phản động.

Trong trận đánh ngày 27 tháng 2 năm 1980 ở đông nam Kôkithom, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 747) và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 775) hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, diệt 20 tên, bắt 2 tên, thu 17 súng các loại, làm chủ căn cứ của địch. Trong chiến dịch tổng hợp mùa khô ở khu vực Lôvia từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1980 sư đoàn đánh 96 trận, loại khỏi chiến đấu hàng trăm tên địch thu 328 súng các loại, giải phóng 233 dân.

Ngày 24 tháng 5 năm 1980, Bộ tư lệnh Quân khu 7 quyết định tách một bộ phận Sư đoàn 317 (gồm các trung đoàn 115, 770 và một số cơ quan trực thuộc) phối hợp với chuyên gia tỉnh Đồng Nai thành lập Đoàn 7701 làm nhiệm vụ giúp Bạn tại tỉnh Côngpông Thom. Lực lượng còn lại của Sư đoàn 317 hành quân lên chiến trường Báttambang, Xiêm Riệp. Tại đây, Sư đoàn được bổ sung Trung đoàn bộ binh 6 (của Sư đoàn 5), trung đoàn pháo binh và một số đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ dự bị cơ động cho Mặt trận 479.

Trên địa bàn do Quân khu 5 phụ trách, mùa khô 1979-1980, địch sử dụng sư đoàn 801 lập hậu cứ ở sát ngã ba biên giới Thái Lan - Campuchia - Lào, tập trung lực lượng đánh phá khu vực tây sông Mê Công, nam bắc đường 126, Chép, Thala, Khâupa, Tabok. Sư đoàn 920 hoạt động ở đông sông Mê Công, trên địa bàn một số huyện thuộc các tỉnh Mônđônkiri, Krachiê, Côngpông Thom. Các sư đoàn 612, 616 lập căn cứ hậu cần ở khu vực điểm cao 547 và phân tán lực lượng hoạt động dọc biên giới Thái Lan - Campuchia, phía tây tỉnh Prếtvihia và phía đông tỉnh Xiêm Riệp.

Sau khi bị các sư đoàn 2, 307, 315 của ta truy quét, tàn quân địch được tổ chức lại thành hai mặt trận ở đông và tây sông Mê Công. Chúng đặt mục tiêu: ở tây sông Mê Công đẩy mạnh các hoạt động du kích, tập kích bằng hoả lực, phục kích nhỏ, phát triển đánh giao thông bằng các loại mìn. Tích cực xây dựng, phát triển đội quân ngầm, đánh chiếm một số chốt của ta ở biên giới, tạo thế xen kẽ ở nội địa, chiếm đất, giành dân để tạo “khu vực giải phóng”.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2021, 06:21:06 am
Ở đông sông Mê Công, chúng đưa lực lượng vào nội địa, phát triển các cơ sở ngầm, cơ sở hai mặt để tạo thế đấu tranh chính trị. Trên cơ sở nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của địch, mùa khô 1979-1980, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 tổ chức lực lượng chốt giữ địa bàn và liên tục truy quét tàn quân địch nên chúng chỉ thực hiện được một số vụ tập kích, phục kích lẻ tẻ.

Trong đợt hoạt động mùa khô, từ ngày 15 tháng 10 năm 1979 đến ngày 30 tháng 5 năm 1980, trên toàn chiến trường Campuchia, ta loại khỏi vòng chiến đấu 20.255 tên địch, thu 11.296 súng các loại, bước đầu đánh bại âm mưu phục hồi, phát triển lực lượng, lấn đất, giành dân, tạo thế hai vùng, hai chính quyền của địch.

Căn cứ tình hình thực tế công tác giúp Bạn, tháng 2 năm 1980, Bộ Chính trị quyết định thành lập Tổng đoàn chuyên gia, do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách, để trực tiếp chỉ đạo các đoàn chuyên gia cho sát với tình hình thực tế. Theo chỉ đạo của Tổng đoàn chuyên gia, ta rút các tổ chuyên gia cấp huyện, giao nhiệm vụ xây dựng huyện và cơ sở cho các tiểu đoàn địa bàn. Với tinh thần tích cực, chủ động, kết hợp chặt chẽ với chính quyền và các lực lượng vũ trang địa phương, đến tháng 8 năm 1980, trên cả bốn mặt trận, ta đã xây dựng cho mỗi tỉnh của Campuchia có từ 3 đến 5 tiểu đoàn địa bàn. Lực lượng nòng cốt của các tiểu đoàn địa bàn do bộ đội địa phương của Bạn và các đội công tác của ta phối hợp tổ chức, ban đầu theo tỷ lệ ta hai, Bạn một sau đó tăng dần lực lượng của Bạn, tuỳ tình hình từng địa phương từng địa bàn. Các đội công tác được lệnh sáp nhập vào các tiểu đoàn địa bàn, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của các đoàn quân sự và Bộ tư lệnh các mặt trận.

Bước vào mùa mưa năm 1980, địch tập trung xây dựng các căn cứ trên biên giới phía Bắc và phía Tây. Vừa tích cực xây dựng lực lượng, tích trữ vũ khí, lương thực, địch vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao phô trương thanh thế “Nhà nước Campuchia dân chủ” để hợp pháp hoá viện trợ của nước ngoài. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tiếp tế khó khăn, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn liên tục tổ chức các đợt truy quét đánh địch, giữ vững địa bàn. Ta đánh thiệt hại nặng 7 sư đoàn Pôn Pốt mới khôi phục, buộc 5 sư đoàn khác phải chạy ra ngoài biên giới hoặc trốn sâu vào vùng rừng núi tây bắc. Tuyến phòng thủ biên giới phía Bắc và phía Tây (khoảng 740 kilômét) của Bạn được củng cố với các trọng điểm: Prếtvihia, Sàmrông, Nimít, Kaomêlai, Pailin, Sămlốt, tây sông Mêtúc (Cô Công), ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động thâm nhập của địch từ ngoài biên giới vào nội địa.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Campuchia trong tình hình mới, ngày 6 tháng 6 năm 1980, Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 62/CT-TM về việc thay đổi phiên hiệu Bộ chỉ huy các tỉnh giúp Bạn. Theo đó, Bộ chỉ huy quân sự thống nhất của ta ở các tỉnh trên đất Bạn đổi tên thành Bộ chỉ huy quân sự đoàn. Các đoàn thuộc Quân khu 5 phụ trách gồm: 5501 (Ráttanakiri), 5502 (Mônđônkiri), 5503 (Stung Treng), 5504 (Prếtvihia); Quân khu 7 gồm: 7701 (Côngpông Thom), 7702 (Côngpông Chàm), 7703 (Svâyiêng), 7704 (Báttambang), 7705 (Xiêm Riệp), 7706 (Prâyveng), 7707 (Krachiê), 7708 (thành phố Phnôm Pênh); Quân khu 9 gồm: 9901 (Côngpông Spư), 9902 (Côngpông Chnăng), 9903 (Puốcxát), 9904 (Campốt), 9905 (Tàkeo), 9906 (Kanđan), 9907 (Cô Công).

Song song với các hoạt động tác chiến, để tạo dư luận trong và ngoài nước ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa công cuộc xây dựng, hồi sinh đất nước của nhân dân Campuchia, trên cơ sở các thỏa thuận đã đạt được giữa hai Đảng, hai Nhà nước, ta và Bạn tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác; đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.

Thực hiện thỏa thuận, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh (27 và 28-1-1980) đã ra Thông cáo và Tuyên bố về vấn đề hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á. Các văn kiện này thể hiện bước phát triển mới của tình hữu nghị và quan hệ hợp tác giữa 3 nước. Theo tinh thần của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước, nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, ngày 18 tháng 8 năm 1980, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân Cách mạng Campuchia ký Hiệp định về việc viện trợ không hoàn lại. Theo đó, phía Việt Nam sẽ giúp Campuchia một số lương thực, thực phẩm vật tư, thiết bị, dụng cụ, giống cây, giống con và hàng tiêu dùng để tiếp tục phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân và cho các lực lượng vũ trang Campuchia.

Bên cạnh đó, ta còn giúp Bạn khảo sát, thiết kế tu sửa, phục hồi các hạng mục công trình nhằm củng cố quốc phòng, khôi phục kinh tế và văn hóa của Campuchia; vận chuyển những vật tư, hàng hóa do các nước khác viện trợ cho Campuchia giao tại cảng Việt Nam. Đồng thời giúp Hội đồng nhân dân Cách mạng và Ủy ban cách mạng các tỉnh và thành phố của Campuchia một số xe vận tải cần thiết để tăng cường năng lực vận chuyển vật tư hàng hóa lưu thông trên đất Campuchia (phía Campuchia cung cấp xăng dầu, các chi phí khác do phía Việt Nam đảm nhiệm). Tiếp tục nhận đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, học sinh các ngành, đồng thời cử cán bộ và công nhân kỹ thuật sang giúp theo yêu cầu của Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2021, 06:22:06 am
Thực hiện chủ trương “tỉnh giúp tỉnh, huyện giúp huyện” của Đảng và Nhà nước ta, các tỉnh và huyện thuộc ba quân khu phía nam đã tổ chức nhiều hoạt động cứu trợ giúp nhân dân Campuchia phục hồi sản xuất, từng bước ổn định đời sống. Sau khi giúp đỡ vận chuyển 55.825 người dân từ biên giới Campuchia - Thái Lan trở về các địa phương, tháng 8 năm 1980, Đảng ủy Quân khu 7 ra nghị quyết xác định: đưa lực lượng về huyện, xã giúp Bạn xây dựng cơ sở, bảo vệ dân; giúp Bạn xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ gìn an ninh chính trị, cứu đói, chữa bệnh, giúp đỡ nhân dân sản xuất, ổn định đời sống là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Quân khu. Trên tinh thần đó, hàng nghìn tấn gạo, hàng vạn cây, con giống, công cụ sản xuất được các đơn vị và các tỉnh trong Quân khu gửi sang giúp đỡ nhân dân các tỉnh Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Báttambang, Xiêm Riệp. Với kinh nghiệm phong phú vào sự chỉ đạo sát sao của Quân khu, đến hết năm 1980, trên địa bàn do Quân khu phụ trách, nhân dân Bạn cơ bản đã ổn định đời sống; các ngành nghề được phục hồi, nhanh chóng đi vào sản xuất có hiệu quả.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chính trị của nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, dịch bệnh, nhanh chóng phục hồi sản xuất, Đảng ủy Quân khu 9 đã ra nghị quyết chuyên đề về giúp Bạn một cách cơ bản, toàn diện. Sau khi đưa 7.700 gia đình trở về quê cũ làm ăn, các lực lượng vũ trang Quân khu đã huy động lực lượng và vật liệu xây dựng nhà ở giúp 1.600 dân Campuchia ổn định nơi ăn ở. Lực lượng hậu cần Quân khu trong những tháng cuối năm 1979, đầu năm 1980 đã vận chuyển 10.000 tấn lương thực, 1.000 tấn hạt giống, gần 2.000 con giống (gồm trâu, bò, lợn), 20 máy cày, bừa, hơn 13.000 công cụ cầm tay, hàng vạn dụng cụ gia đình giúp nhân dân Campuchia khắc phục nạn đói, phục hồi sản xuất, Trong hai năm 1979-1980 Quân khu đã giúp các tỉnh kết nghĩa đào tạo 243 y sĩ, y tá, hơn 100 giáo viên, tạo điều kiện để Bạn phục hồi các cơ sở y tế, giáo dục.

Trên địa bàn 4 tỉnh Đông Bắc Campuchia, các đơn vị Quân khu 5 tập trung phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng ô tô chia làm hai đợt gồm 290.536 người về quê cũ làm ăn. Các tiểu đoàn địa bàn kết hợp chặt chẽ với nhân dân địa phương giúp Bạn xây dựng 386 ban tự quản cứu đói cho 114. 644 người. Dân về đến đâu được bộ đội ta giúp đỡ ổn định nơi ăn chốn ở đến đó được cứu đói giúp công cụ, cây, con giống phát triển sản xuất. Được đi lại tự do, con cái được cắp sách tới trường, người dân Campuchia càng phấn khởi ra sức bảo vệ, xây dựng chính quyền cách mạng. Nhân dân làng Nhơn biết bọn tay sai Pôn Pốt về hoạt động đã bắt giao cho tổ công tác của ta. Bà con ở phum Căn Thơmây (Stung Treng) dẫn đường cho bộ đội vây đánh, phá tan âm mưu đưa 6 vạn dân đi tị nạn của địch.

Cứu đói, chữa bệnh, cấp cây, con giống giúp dân phát triển sản xuất vào thời điểm mà mọi sức lực của người dân đã cạn kiệt, khi mà kẻ thù ra sức gieo rắc tâm lý hoang mang, thù địch và tìm mọi cách chia rẽ, thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta, là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề và nguy hiểm. Vì nhiệm vụ cứu đói, chữa bệnh, giúp dân phát triển sản xuất, mang lại cuộc sống yên vui, hạnh phúc cho nhân dân, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ta đã hy sinh ở các làng bản, phum sóc xa xôi, nhiều người mang thương tích, bệnh tật suốt đời.

Cùng với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng, những năm 1979-1980, công tác cứu đói, chữa bệnh, giúp nhân dân Campuchia ổn định đời sống, phục hồi sản xuất của các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã đem lại những kết quả to lớn và có ý nghĩa thiết thực trên các mặt kinh tế, văn hoá xã hội, y tế, giáo dục, phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ vùng giải phóng và xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng.

Như vậy, từ đầu năm 1979 đến cuối năm 1980, sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc trên hướng Tây Nam, đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Đảng và Nhà nước ta quyết định đưa Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cùng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi bọn diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân, hồi sinh và phát triển dân tộc.

Tuy nhiên, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari, được sự hậu thuẫn của các thế lực đế quốc, phản động, chưa chịu từ bỏ âm mưu phục hồi chế độ độc tài chuyên chế; ra sức tập hợp, tổ chức lực lượng, tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Campuchia. Chính vì vậy, theo đề nghị của Đảng, Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được Đảng, Nhà nước ta giao nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, hồi sinh đất nước.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:44:25 am
Chương II
SÁT CÁNH TRUY QUÉT TÀN QUÂN ĐỊCH,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG,
CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
(1981-1985)

1. Giúp Bạn củng cố thế trận, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng

Cuối năm 1980, đầu năm 1981, sau hơn một năm rút lực lượng chủ lực còn lại lên đứng chân ở biên giới giáp Thái Lan, địch tiến hành củng cố, bổ sung thêm quân số, trang bị cho các sư đoàn chủ lực. Chúng đưa một bộ phận lực lượng (khoảng 1/3 quân chủ lực) vào các địa bàn xung yếu của 7 tỉnh biên giới phía Tây nhằm xây dựng các “căn cứ lõm” trong dân, đồng thời đẩy mạnh hoạt động du kích ở 12 tỉnh nội địa.

Ở các tỉnh biên giới giáp Thái Lan, địch tập trung xây dựng căn cứ của các cơ quan Trung ương, cơ quan bộ tổng tham mưu, các bộ tư lệnh quân khu bắc, tây bắc, cơ quan chỉ huy mặt trận đông và tây, hệ thống hậu cần, kho tàng, cửa khẩu tiếp nhận viện trợ, bệnh viện, khu huấn luyện và hậu cứ các sư đoàn. Các căn cứ này đều ở sâu trong đất Thái Lan từ 2 đến 10 kilômét. Phần lớn các sư đoàn chủ lực được địch bố trí trên tuyến biên giới tiếp giáp với Thái Lan để bảo vệ các căn cứ này. Đồng thời, địch tổ chức lực lượng luồn sâu (từ 2 đến 3 tiểu đoàn) đánh phá giao thông và vùng giải phóng của bạn. Chúng phân chia địa bàn hoạt động cho các sư đoàn như sau: Sư đoàn 164, sở chỉ huy sư đoàn và 2 tiểu đoàn hoạt động ở biên giới giáp Thái Lan, còn 3 tiểu đoàn hoạt động trong nội địa tỉnh Cô Công. Các sư đoàn 502, 221, 340 (thuộc Bộ Tổng tham mưu), sở chỉ huy ở biên giới Thái Lan, có các bộ phận hoạt động ở Tàsanh, Sămlốt, Rôviêng, Phlêch (đường 36). Các sư đoàn 1, 2, 3 (quân khu tây bắc cũ), sở chỉ huy ở biên giới giáp Thái Lan, hoạt động ở nam Nimít, Takung Krao, Bavel, rừng Preychat, Svaychek, Thmapuok. Sư đoàn 775 (quân khu Bắc cũ), sở chỉ huy ở đất Thái Lan, hoạt động từ bắc Sàmrông đến Anlongveng, Xiêm Riệp. Các sư đoàn 515, 912 (quân khu Kanđan cũ) sở chỉ huy ở biên giới giáp Thái Lan, có bộ phận cấp tiểu đoàn hoạt động ở đông núi Hồng, huyện Chi Kreng và đường số 6 (Xiêm Riệp). Các sư đoàn 801 và 920 hoạt động ở khu vực ngã ba biên giới.

Ở 12 tỉnh nội địa, địch đưa một số lực lượng chủ lực luồn sâu ém sẵn ở một số tỉnh (vùng). Bước đầu chúng hình thành mặt trận 1 (gồm các tỉnh Puốcxát, Côngpông Chnăng, Côngpông Spư, Phnôm Pênh) do tên Ren, Phó Tổng tham mưu trưởng chỉ huy(1). Mục tiêu chiến lược của địch là làm chuyển biến về so sánh lực lượng ở Campuchia theo hướng có lợi cho chúng. Phá vỡ liên minh chiến lược, chiến đấu giữa Việt Nam - Campuchia, làm cho Việt Nam bị tiêu hao, bị kiệt sức, phải nản lòng, phải rút quân về nước trong khi cách mạng Campuchia còn non yếu.

Chúng đặt chỉ tiêu đến năm 1982 sẽ giành phần lớn ba tỉnh Báttambang, Xiêm Riệp, Prếtvihia và tây Stung Treng để làm căn cứ bàn đạp, tạo thế hai vùng, hai chính quyền đối lập trong nội địa Campuchia. Từ đó mở rộng hoạt động du kích trong cả nước, giành 60% ấp, xã; 50 đến 60% số dân; trên cơ sở đó đưa lực lượng tàn quân Pôn Pốt lên sáu vạn tên, được trang bị đầy đủ và có thể tác chiến ở các quy mô khác nhau; xây dựng lực lượng cho bọn phản động Xom Xen, ở bên đất Thái Lan; xây dựng lực lượng ngầm trong nội bộ cách mạng và trong các vùng cách mạng kiểm soát để làm nội ứng cho tiến công quân sự, làm cơ sở tiến hành bạo loạn khi cần thiết; chiếm lĩnh và phá rối thị trường Campuchia, làm cho nền kinh tế không khôi phục lại được, tiếp tục suy sụp(2).

Về phía ta, sau các hoạt động tác chiến mùa mưa năm 1980, bước vào mùa khô năm 1980-1981, bên cạnh những thuận lợi, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta cũng đứng trước những khó khăn thử thách, những nhiệm vụ mới, đòi hỏi sự chỉ đạo thống nhất, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị.

Trước tình hình đó, Đảng ủy Mặt trận 479 chủ trương phát huy thắng lợi đã giành được, tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động tiến công địch toàn diện trên chiến trường. Nắm chắc dân, củng cố chính quyền cách mạng vững chắc phát triển lực lượng vũ trang đảm bảo về số lượng và chất lượng, loại trừ phần tử hai mặt. Phát huy sức mạnh tổng hợp, liên tục tiến công địch trên cả hai mặt trận nội địa và biên giới, sẵn sàng đập tan các cuộc tiến công với mọi quy mô của địch từ ngoài vào, đồng thời phải đề phòng ngăn chặn, loại trừ và dập tắt các cuộc bạo loạn ở nội địa, bảo vệ vững chắc địa bàn. Không ngừng củng cố tình đoàn kết liên minh chiến đấu, hợp tác toàn diện, lâu dài giữa hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam - Campuchia, đưa cách mạng Campuchia tiến nhanh, tiến vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu của thế lực phản động nước ngoài can thiệp vào Campuchia.


(1) Tình hình địch từ tháng 12 năm 1980 đến tháng 4 năm 1981. Tài liệu của Tiền phương Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu KC-655.
(2) Đại tướng Lê Đức Anh: Quân đội nhân dân Việt Nam và nhiệm vụ quốc tế cao cả trên đất Bạn Campuchia, Nxb QĐND, H, 1986, tr 71.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuc
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:45:41 am
Thực hiện chủ trương của Đảng ủy và chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận 479, mùa khô 1980-1981, Sư đoàn 5 vừa tập trung làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đập tan mọi luận điệu chiến tranh tâm lý của địch, vừa phối hợp với quân dân các địa phương tích cực truy quét địch, bảo vệ vùng giải phóng. Những tháng đầu năm 1981, Sư đoàn triển khai lực lượng hoạt động ở các huyện Xixôphôn, Thmopuốc, Phnumsrôk, Phnepria, Môngconrôrây. Cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn 16, 688, 4, 28, 174, 689 cùng các tiểu đoàn đặc công, pháo binh, xe tăng – thiết giáp mở nhiều đợt truy quét địch ở ngoài rừng kết hợp với lực lượng bám địa bàn bóc gỡ các toán quân địch cài cắm trong dân. Điển hình là các trận ngày 17 tháng 4 năm 1981, Đại đội 13 Trung đoàn 16 phục kích diệt 11 tên; trận đêm 11 tháng 5 năm 1981, Trung đoàn 689 biên phòng tập kích cụm quân địch ở phum Ria (cao điểm 217), diệt 38 tên. Ngoài ra, các đơn vị của Sư đoàn 5 còn kết hợp với lực lượng dân quân và bộ đội địa phương của Bạn đánh phá các căn cứ lõm của địch ở đông bắc huyện Thmopuốc, gọi hàng 158 tên địch, giúp Bạn xây dựng 14 đội du kích ở hai huyện Thmopuốc và Môngconrôrây.

Là lực lượng dự bị cơ động tăng cường cho Mặt trận 479, đứng chân ở hai tỉnh Báttambang, Xiêm Riệp, Sư đoàn 317 được giao nhiệm vụ xây dựng huấn luyện thành lực lượng dự bị cơ động của mặt trận trên ba hướng là Xixôphôn, Sầmrông và Báttambang, sẵn sàng thay chân các sư đoàn phòng thủ phía trước khi có lệnh. Tiến hành tác chiến cơ động cùng với đơn vị bạn trên các hướng, đập tan các cuộc tấn công của địch với mọi qui mô từ ngoài vào, đồng thời dập tắt các cuộc bạo loạn trong nội địa bảo vệ vững chắc các khu vực then chốt và mục tiêu quan trọng trên địa bàn của Mặt trận gồm Xixôphôn, Poipét, Sầmrông, Báttambang và Xiêm Riệp. Thường xuyên theo dõi nắm địch, nghiên cứu nắm chắc tình hình, địa hình, đường cơ động trên các hướng, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu cao, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống; bảo vệ thành quả cách mạng, tham gia xây dựng, củng cố chính quyền các cấp và xây dựng lực lượng vũ trang Bạn vững mạnh về mọi mặt.

Thực hiện kế hoạch hoạt động mùa khô 1980-1981, Sư đoàn triển khai lực lượng đánh địch trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang. Từ ngày 8 tháng 12 năm 1980 đến cuối tháng 1 năm 1981, Sư đoàn 317 cùng với Sư đoàn 5 đánh vào căn cứ Tàkôngkrao Trung đoàn 775 và Trung đoàn 6 được pháo binh Mặt trận chi viện, đánh chiếm được mục tiêu, diệt và bắt nhiều tên, thu gần 2 tấn đạn các loại.

Theo yêu cầu của Mặt trận, từ ngày 15 tháng 2 đến 27 tháng 3, Sư đoàn sử dụng hai trung đoàn 775 và 747 đứng chân ở khu vực Xiêm Riệp, Bầntiâysrây; đồng thời sử dụng một lực lượng bảo vệ khu vực Ăngco cùng Đoàn quân sự 7705 truy quét địch, hỗ trợ cho Ban củng cố chính quyền, điều tra nắm dân số để chuẩn bị bầu cử. Từ ngày 27 tháng 3 đến 30 tháng 5, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 775 về đứng chân ở huyện Chicreng và huyện Sônicum làm nhiệm vụ truy quét địch ở khu vực rừng Prâychơka, cùng với Trung đoàn 115 Đoàn quân sự 7701 hoạt động trên khu vực ranh giới ba tỉnh Xiêm Riệp, Côngpông Thom và Pếtvihia.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, mùa khô 1980-1981, Quân đoàn 4 phối hợp với Bạn tổ chức đợt tác chiến từ ngày 10 tháng 12 năm 1980 đến 16 tháng 3 năm 1981. Bộ tư lệnh Quân đoàn sử dụng hai sư đoàn (7 và 9) đánh địch ở nam bắc Ôrang, tây Ămleng, bắc quận 16 (Côngpông Chnăng); Sư đoàn 339 và các lực lượng tăng cường (Trung đoàn 2 Sư đoàn 330 và 1 tiểu đoàn của thành đội Phnôm Pênh) đánh địch ở nam bắc đường 56, trọng điểm là căn cứ của Sà Rươn ở bắc đường 56; Trung đoàn 686 tiến công địch ở điểm cao 492; Đoàn quân sự tỉnh Hậu Giang phối hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang Bạn đánh địch ở Cồn Xiêm, Biển Hồ, gây cho chúng một số thiệt hại.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, các đơn vị bám địa bàn tích cực tổ chức các đợt tiến công truy quét địch. Đến đầu tháng 3 năm 1981, bộ đội ta cơ bản làm chủ các địa bàn, buộc địch phải rút các lực lượng lên sát biên giới với Thái Lan. Trong đợt hoạt động này, ngoài việc tiêu diệt lực lượng địch ở điểm cao 492, ta còn đánh trúng căn cứ 31 (đông Ô ran), diệt chỉ huy và nhiều địch ở đây.

Phát huy thắng lợi vừa giành được, bước vào đợt 2 (từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 17 tháng 7), Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu) phối hợp với Bạn và lực lượng chủ lực của Quân khu 9 diệt địch ở điểm cao 322, tây Ămleng và nam dãy Kravanh. Sư đoàn 339 và Đoàn quân sự Tiền Giang củng cố địa bàn xung quanh khu vực Puốcxát - Phlêch. Một bộ phận Sư đoàn 7, Đoàn quân sự Hậu Giang và lực lượng bạn mở chiến dịch tổng hợp diệt căn cứ của Sà Rươn (phía nam ga Bannâk).

Trong đợt 2, thực hiện mệnh lệnh của Bộ tư lệnh 719, Quân đoàn đưa Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 2 và Trung đoàn 42) từ đường 5 sang đường số 6 đánh địch, phối hợp với các đơn vị bạn truy quét quân địch trên địa bàn hai huyện giáp ranh giữa Côngpông Thom và Xiêm Riệp. Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) chuyển về hoạt động bảo vệ khu vực đường sắt. Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) từ nam Bannâk chuyển sang truy quyết địch ở khu vực Ôrang, Rômía. Mặc dù địch tung ra nhiều thủ đoạn mới như dùng hoả lực mạnh, sử dụng quy mô đại đội, tiểu đoàn tiến công chiếm chốt tiền tiêu của ta, tăng cường gài mìn phục kích trên các tuyến đường, nhưng do làm tốt công tác chuẩn bị, có nhiều biện pháp đối phó kịp thời và tổ chức hợp đồng chiến đấu chặt chẽ, các đơn vị tham gia truy quét đợt hai đã đạt hiệu suất chiến đấu cao.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:46:36 am
Cùng thời gian này, các đơn vị thuộc Quân khu 5 vừa truy quét địch, vừa giúp Bạn xây dựng các tiểu đoàn địa bàn, đưa 41 đại đội hai chức năng xuống hoạt động ở cơ sở. Trước tình hình mới, các đơn vị xác định 5 nhiệm vụ chủ yếu là:

1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm Chỉ thị 34 của Tiền phương Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ giúp Bạn, cùng Bạn đẩy mạnh phong trào bảo đảm trật tự xã hội trong phạm vi địa bàn. Giúp Bạn bầu cử Hội đồng nhân dân xã và bầu cử Quốc hội, xây dựng nền nếp, mối quan hệ giữa ta và Bạn, nắm dân, giúp dân sản xuất, xây dựng thực lực cách mạng, củng cố chính quyền, du kích và bộ đội tỉnh, huyện của Bạn.

2. Đẩy mạnh tác chiến truy quét địch theo khu vực đã phân công và theo nhiệm vụ trên giao, sẵn sàng chấp hành mệnh lệnh cơ động đến địa bàn mới.

3. Thực hiện đầy đủ chương trình huấn luyện quy định của trên. Đẩy mạnh phong trào “toàn quân hành động theo điều lệnh”, thực hiện tốt chế độ chức trách, xây dựng tác phong, lề lối làm việc chính quy.

4. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo đảm đời sống, nâng cao chất lượng bữa ăn của cán bộ, chiến sĩ; bảo đảm đầy đủ các chế độ, đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, bảo đàm sức khoẻ cho bộ đội.

5. Về công tác đảng, công tác chính trị, hoàn thành học tập Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, học tập Hiến pháp và các nghị quyết của Trung ương Đảng, tập trung giải quyết tư tưởng, kiên định nhiệm vụ giúp Bạn lâu dài.

Thực hiện nhiệm vụ Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao, tháng 1 năm 1981, Sư đoàn 315 cử 84 cán bộ, chiến sĩ xuống hai tỉnh Ráttanakiri và Stung Treng để cùng Bạn tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng tham gia cuộc bầu cử chính quyền các cấp. Tiếp đó trong tháng 2 năm 1981, Sư đoàn phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn mở đợt hoạt động tổng hợp (quân sự, chính trị, binh vận), vừa đẩy mạnh truy quét địch lẩn trốn trong rừng, vừa bóc gỡ địch bu bám trong dân, bảo vệ bầu cử các cấp. Sau đợt hoạt động này, chấp hành mệnh lệnh của Mặt trận, Sư đoàn đưa toàn bộ lực lượng cơ động lên bảo vệ địa bàn đông và tây sông Mê Công. Trung đoàn 143 đứng chân ở Thala vừa truy quét tàn quân địch, vừa bảo vệ nâng cấp đường 126 từ Thala đến Chép. Trung đoàn 142 giữ khu vực ngã ba đường 19 và đường 13 đến Ôkriêng, giáp Krachiê, hoạt động đánh địch và giúp bạn ở Xiêmbọt. Trung đoàn 733 đứng chân ở Côngpông Xalâu (tây Mường Khổng thuộc đất Lào) hoạt động từ tây sông Mê Công đến Pleikhằn, đánh cắt hành lang địch ở khu vực tiếp giáp biên giới ba nước Thái Lan - Lào - Campuchia. Trung đoàn 729 đứng chân ở khu vực điểm cao 190 tập trung huấn luyện chuẩn bị diễn tập giúp Bạn xây dựng địa bàn ở khu vực Chưrốp. Ngoài việc giúp Bạn bảo vệ tốt bầu cử ở các địa phương, đơn vị của Sư đoàn 315 đã tích cực đi sâu nắm dân nắm địch, giúp các địa phương sản xuất, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trên địa bàn 8 huyện thuộc tỉnh Xiêm Riệp, từ ngày 18 tháng 2 đến 31 tháng 5 năm 1981, các đơn vị thuộc Quân khu 7 mở chiến dịch tổng hợp truy quét làm trong sạch địa bàn. Ta diệt 122 tên, bắt 135 tên, gọi hàng 424 tên, tạo điều kiện củng cố chính quyền địa phương, giúp dân phát triển sản xuất.

Hướng Quân khu 9, những tháng đầu năm 1981 ta truy quét tàn quân địch ở đông và tây sông Mê Công tiêu diệt tàn quân sư đoàn 164, làm chủ căn cứ 336. Vừa đẩy mạnh các hoạt động truy quét địch, ta vừa giúp bạn phát động quần chúng tích cực củng cố, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang các cấp. Cùng với phát động quần chúng đánh địch bằng mọi hình thức quân sự, chính trị, kinh tế, binh vận, địch vận, phá các tổ chức ngầm của địch, loại các phần tử hai mặt, làm trong sạch nội bộ, Sư đoàn còn giúp bạn đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, phục hồi các hoạt động văn hoá, tôn giáo bình thường của nhân dân. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Quân tình nguyện, các đoàn chuyên gia quân sự được giao nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng cơ sở đã tích cực tổ chức lực lượng bám địa bàn, bám dân, phát hiện địch, không cho chúng lập căn cứ lõm trong các vùng giải phóng, ngăn chặn các hành lang vận chuyển của địch từ biên giới vào nội địa.

Ngày 9 tháng 4 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 98/QĐ-QP thành lập Trường bồi dưỡng chuyên gia quân sự, mang phiên hiệu Trường 481 thuộc Đoàn 478. Trường có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên gia ở Campuchia, tập huấn chuyên đề nghiệp vụ cho chuyên gia quân sự ở Campuchia, đào tạo phiên dịch tiếng Campuchia cho chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Tiếp đó, ngày 30 tháng 4 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 66/CT-QP giao nhiệm vụ cho các trường quân sự tiếp nhận và tổ chức huấn luyện học sinh quân sự Lào và Campuchia, trong đó có 780 học viên Campuchia được nhận vào các trường quân sự của Việt Nam. Đây là một nỗ lực lớn nhằm nâng cao chất lượng chuyên gia và giúp bạn giải quyết những khó khăn về thiếu cán bộ quân sự.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:48:18 am
Song song với hoạt động quân sự, thời gian này ta giúp Bạn đẩy mạnh công tác xây dựng chính quyền cơ sở, tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia các hoạt động chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội và chính quyền các cấp của Bạn.

Ngày 1 tháng 5 năm 1981, nhân dân Campuchia nô nức đi bầu cử Quốc hội và chính quyền các cấp. Số cử tri đi bầu trong toàn quốc đạt 97,82%, có nhiều khum đạt 100%. Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội vào cuối tháng 6 năm 1981 đã bầu ra Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Ban Thường vụ và các cơ quan thường trực của Quốc hội; đồng thời thông qua Hiến pháp mới của Cộng hoà nhân dân Campuchia. Hiến pháp mới khẳng định nước Cộng hoà nhân dân Campuchia là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hoà bình, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện đường lối đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc của Campuchia. Những hoạt động tôn giáo phù hợp với Hiến pháp và pháp luật đều được Nhà nước đảm bảo... Hiến pháp mối phản ánh nguyện vọng, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân Campuchia.

Cùng với việc xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức Đảng và chính quyền, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp Bạn xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng. Mặt trận đoàn kết xây dựng bảo vệ Tổ quốc Campuchia ngày càng được mở rộng bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, đại diện các ngành, các giới yêu nước và tiến bộ, các dân tộc và các tôn giáo. Tổ chức mặt trận được thành lập ở các tỉnh, huyện cùng với các tổ chức của đoàn thanh niên, hội phụ nữ đã kêu gọi, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia sản xuất, xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới.

Từ ngày 26 đến 29 tháng 5 năm 1981, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IV. Đảng Cộng sản Việt Nam đã cử đoàn đại biểu do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đầu, đi dự Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trình bày nhấn mạnh: Lịch sử cách mạng Campuchia hơn nửa thế kỷ qua chỉ rõ, khi có sự gắn bó giữa cách mạng Campuchia với cách mạng Việt Nam thì giành được thắng lợi. Ngược lại, khi liên minh hữu nghị Campuchia - Việt Nam bị kẻ thù phá vỡ, tinh thần dân tộc hẹp hòi bị kích động thì cách mạng bị tổn thất. Campuchia là một nước trên bán đảo Đông Dương cùng với Việt Nam và Lào có chung một kẻ thù. Cách mạng Campuchia không thể giành thắng lợi nếu không gắn liền với ba dòng thác cách mạng, không đoàn kết chặt chẽ với hai nước anh em Việt Nam và Lào...

Đại hội đề ra đường lối cách mạng Campuchia với những nội dung cơ bản là: Giương cao ngọn cờ yêu nước và ngọn cờ đoàn kết quốc tế; bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu và rất thiêng liêng của toàn dân Campuchia; khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Sau Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia lần thứ IV, trên cơ sở các chủ trương về hợp tác Việt Nam - Campuchia đã được hai Đảng, hai Nhà nước thoả thuận, để thống nhất lãnh đạo chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 18 tháng 5 năm 1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36/QUTƯ về tổ chức Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Căn cứ chủ trương của Bộ Chính trị và nghị quyết của Quân ủy Trung ương, ngày 6 tháng 6 năm 1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (mang phiên hiệu Bộ tư lệnh 719), do Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Tư lệnh; Trung tướng Lê Hai, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Phó Tư lệnh về Chính trị. Theo quyết định, Bộ tư lệnh 719 trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời là cơ quan đại diện của Bộ Quốc phòng trên hướng Tây Nam. Bộ tư lệnh 719 có nhiệm vụ:

1. Thống nhất chỉ huy, chỉ đạo các lực lượng vũ trang của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia về tác chiến và hoạt động giúp Bạn; kịp thời có những biện pháp có hiệu lực để nâng cao sức mạnh chiến đấu và chất lượng công tác của các đơn vị Quân tình nguyện.

2. Trực tiếp giúp Bạn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng và tổ chức phòng thủ đất nước. Có kế hoạch phối hợp chặt chẽ các lực lượng vũ trang Việt Nam ở Campuchia với lực lượng vũ trang Bạn trong nhiệm vụ tác chiến, phòng thủ và trong các hoạt động khác. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam giúp Bạn xây dựng và bảo vệ thực lực cách mạng của Bạn.

3. Nghiên cứu, đề xuất với Bộ Quốc phòng các vấn đề có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Campuchia và các vấn đề có liên quan giữa chiến trường Campuchia với các chiến trường khác ở khu vực Đông Dương.

4. Hợp đồng với các quân khu phía Nam trong kế hoạch đánh địch, bảo vệ biên giới hai nước.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:51:48 am
Tư lệnh 719 đồng thời là đại diện của Bộ Quốc phòng Việt Nam bên cạnh Bộ Quốc phòng Bạn, được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, chỉ đạo các tổ chức của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, các quân khu, quân chủng, binh chủng ở phía Nam trong nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang hoạt động trên chiến trường Campuchia. Bộ tư lệnh 719 được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo cơ quan chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia, chỉ đạo Bộ tư lệnh các quân khu 5, 7, 9 thực hiện các công tác bảo đảm hậu cần và kỹ thuật đối với các lực lượng của quân khu hoạt động ở Campuchia và tham gia ý kiến với các bộ tư lệnh quân khu về công tác xây dựng các đơn vị này.

Về tổ chức, Bộ tư lệnh 719 gồm có tư lệnh, các phó tư lệnh (6 đồng chí) và các cơ quan tham mưu, chính trị; cơ quan đại diện của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Cục Cán bộ, Cục Tài vụ; các bộ tư lệnh quân chủng, binh chủng và một số cơ quan chức năng khác. Từ đây, việc lãnh đạo, chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ngày càng thống nhất, chặt chẽ.

Trên cơ sở hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác (ký ngày 18-2-1979), ngày 11 tháng 6 năm 1981, tại Phnôm Pênh, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Campuchia ký Hiệp định về giúp đỡ và hợp tác quân sự giữa hai nước. Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ Quốc phòng hai nước triển khai các hoạt động giúp đỡ lẫn nhau.

Từ ngày 15 đến 20 tháng 6 năm 1981, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu Đoàn đại biểu quân sự nước ta thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà nhân dân Campuchia và dự lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày truyền thống các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Trong chuyến thăm Campuchia, đồng chí Bộ trưởng đã trực tiếp làm việc với Bộ tư lệnh Quân tình nguyện, các cơ quan tiền phương của Bộ tư lệnh các quân khu 5, 7, 9, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 và có nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Sau chuyến thăm của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, căn cứ tình hình thực tế chiến trường và đề nghị của Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ngày 18 tháng 7 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ số 230/QĐ-QP đến số 232/QĐ-QP) chuyển cơ quan Tiền phương của các bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 thành các bộ tư lệnh Mặt trận 579, Mặt trận 779, Mặt trận 979. Các bộ tư lệnh 579, 779, 979 có quyền hạn tương đương Bộ tư lệnh Quân đoàn, chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ tư lệnh 719 về tác chiến và hoạt động ở Campuchia, đồng thời chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của các bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7. Quân khu 9 về các mặt khác.

Cụ thể, Bộ Tư lệnh 579, do đồng chí Huỳnh Hữu Anh làm Tư lệnh, chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 5 (gồm các sư đoàn bộ binh 315, 307, một số trung đoàn độc lập, đơn vị binh chủng và các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu) hoạt động trên địa bàn 4 tỉnh (Mônđônkiri, Rátanakiri, Stung Treng, Prếtvihia).

Bộ tư lệnh 779, do Tư lệnh Nguyễn Minh Châu chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 7 (gồm các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu, 4 trung đoàn của các sư đoàn 5, 302, 317(1) và một số lực lượng binh chủng tăng cường), hoạt động trên địa bàn 5 tỉnh: Côngpông Thom, Côngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Krachiê (phía đông và đông nam Campuchia).

Bộ tư lệnh 979 Tư lệnh Nguyễn Đệ chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 9 (gồm các sư đoàn bộ binh 4, 8, 330, các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu và một số đơn vị binh chủng tăng cường), hoạt động trên địa bàn 8 tỉnh: Côngpông Spư, Côngpông Chnăng, Puốcxát, Campốt, Tàkeo, Kandan, Cô Công, Côngpông Thom (phía nam và tây nam Campuchia).

Cùng ngày 18 tháng 7, Bộ Quốc phòng ra một số quyết định giải thể các đoàn chuyên gia quân sự trực thuộc các quân khu để thành lập các phòng chuyên gia quân sự thuộc Bộ tư lệnh các quân khu, gồm: Quyết định số 229/QĐ-QP giải thể Đoàn 578, thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 579 Quân khu 5; Quyết định số 227/QĐ-QP giải thể Đoàn 779 thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 779 Quân khu 7; Quyết số 228/QĐ-QP giải thể Đoàn 978, thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 979 Quân khu 9. Tiếp đó, ngày 9 tháng 10 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 340/QĐ-QP chuyển Bộ tư lệnh Mặt trận 479 thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7 về trực thuộc Bộ Quốc phòng (kể từ ngày 1-11-1981). Lực lượng nòng cốt của Bộ tư lệnh 479 là các sư đoàn 5, 302, 317 và một số đơn vị tăng cường của Quân đoàn 4(2). Quyền hạn Bộ tư lệnh 479 tương đương Bộ tư lệnh Quân đoàn. Bộ tư lệnh 479 tiếp tục làm nhiệm vụ tác chiến và hoạt động giúp Bạn trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang.


(1) Lực lượng chủ yếu của các sư đoàn 5. 302, 317 thời kỷ này luân phiên hoạt động dưới sự chỉ huy của Mặt trận 479.
(2) Lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 thời điểm này vẫn làm nhiệm vụ cơ động của Bộ trên chiến trường Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:53:42 am
Trong khi ta chấn chỉnh tổ chức, điều chỉnh lực lượng để hoàn thành thế bố trí chiến lược thích hợp với đặc điểm cụ thể của chiến trường Campuchia thì Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức thu thập tàn quân, củng cố lực lượng chống phá cách mạng Campuchia.

Mùa khô 1981-1982, địch phục hồi được 11 sư đoàn chiến đấu, chiếm giữ một phần quan trọng biên giới 7 tỉnh phía bắc và tây bắc Campuchia. Trong nội địa, chúng đẩy mạnh hoạt động trên địa bàn 12 tỉnh. Tuy cường độ và quy mô hoạt động thấp hơn các năm trước, nhưng số vụ nghiêm trọng nhiều hơn. Tháng 12 năm 1981, ba phái (Pôn Pốt, Sêrêka, Mônika) thành lập “Chính phủ liên hiệp ba phái”, gây tác động tâm lý trong dân và tạo được một số ảnh hưởng về chính trị, ngoại giao, ở nội địa, địch chủ trương tiếp tục đưa quân chủ lực vào sâu nội địa, phân tán lực lượng, tích cực xây dựng và củng cố lực lượng ngầm, xây dựng “mặt trận” cấp phum, xã, tăng cường đánh du kích mạnh và rộng khắp (nhất là đánh giao thông, vận chuyển), đồng thời thúc đẩy việc tăng gia sản xuất tạo nguồn hậu cần tại chỗ về lương thực. Ở biên giới, chúng ra sức xây dựng các đơn vị chủ lực, tăng cường phòng thủ các căn cứ bằng mìn, vật cản, chống ta tập kích, truy quét.

Về chính trị, ngoại giao, chúng tiếp tục tăng cường chiến tranh tâm lý, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm phát huy tác dụng của “chính phủ liên hiệp” trong việc tập hợp lực lượng, gây thanh thế, tranh thủ viện trợ và tăng sức ép về ngoại giao đòi Việt Nam rút quân(1).

Về phía ta, sau khi ký các hiệp định về tiếp tục cử Chuyên gia quân sự Việt Nam sang công tác tại Campuchia (20-11-1981) và hiệp định về Việt Nam viện trợ quân sự cho Campuchia (25-11-1981), để kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ, chuyên gia quân sự đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Campuchia, ngày 10 tháng 2 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 108/CT-QP bổ sung một số điểm về chính sách, chế độ đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia và Lào như bảo đảm về sinh hoạt chế độ khen thưởng, chế độ khuyến khích những người phục vụ kéo dài (kể từ năm thứ tư trở đi), chế độ đối với thương binh, bệnh binh, liệt sĩ; chính sách đối với gia đình quân nhân, chính sách đối với chuyên gia quân sự, phiên dịch.

Triển khai nhiệm vụ tác chiến năm 1981-1982 đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường, Bộ tư lệnh 719 chủ trương tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn quân địch đã lọt vào nội địa, xoá bỏ trình trạng xen kẽ địch - ta ở biên giới; không để địch mở rộng hoạt động; giúp Bạn từng bước nâng cao khả năng chỉ đạo, chỉ huy, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng đánh địch rộng khắp.

Thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Quân tình nguyện, bước vào mùa khô 1981-1982, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng, phân chia địa bàn hoạt động thành hai mặt trận: Mặt trận 1 gồm các đơn vị bộ đội địa phương Campuchia và một phần lực lượng của Quân đoàn 4 đóng trên ba tỉnh Kanđan, Côngpông Chnăng,

Puốcxát, với nhiệm vụ chủ yếu là vận động quần chúng, vạch mặt bọn địch trà trộn trong dân, tiêu diệt các toán quân địch hoạt động trong nội địa. Mặt trận 2 gồm lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 kết hợp với một số đơn vị chủ lực của Quân đội cách mạng Campuchia có nhiệm vụ đánh phá các căn cứ, chặn hành lang tiếp tế của địch từ biên giới vào nội địa.

Trong đợt 1 của chiến dịch mùa khô, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu), Sư đoàn 339, bộ đội công binh, vận tải của Quân đoàn cùng các lực lượng phối thuộc gồm Trung đoàn 250 (Sư đoàn 339), Sư đoàn 196 (thiếu), Binh đoàn 2 của Bạn và một tiểu đoàn của Thành đội Phnôm Pênh tổ chức các đợt hoạt động tập trung từ nam đường 10 đến nam đường 56 theo tuyến chiến đấu nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng của Sà Rươn, sư đoàn 111 và các sư đoàn thuộc mặt trận 1 quân Pôn Pốt. Sư đoàn 9 (thiếu) hoạt động ở khu vực Stưng - Chikleng, núi Hồng, dưới sự chỉ huy của Mặt trận 479; đồng thời từng bước chuyển toàn bộ đội hình về đứng chân ở khu vực mới, sẵn sàng cơ động theo đường số 6 về hướng Xixôphôn khi có lệnh.

Mở đầu đợt 1 chiến dịch mùa khô 1981-1982, ngày 1 tháng 11 năm 1981, ta sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu), Trung đoàn 8 (Sư đoàn 339) và một số đơn vị của Sư đoàn 196 (Bạn) tiến công căn cứ của Sà Rươn. Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 339 và các lực lượng của Binh đoàn 2 (Bạn) tiến công các căn cứ lõm của sư đoàn 111 ở ven đường 56, Rôviêng, Samátđông. Sư đoàn 9 phối hợp với Đoàn 9903 đánh các căn cứ do tên Thi và Lơvây chỉ huy.


(1) Báo cáo tình hình địch quý IV năm 1981 của Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu (tiền phương) ngày 2 tháng 1 năm 1982. KC655, lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:56:32 am
Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ trong đợt 1, ngày 15 tháng 3 năm 1982, Quân đoàn 4 tiến hành đợt 2 chiến dịch tập trung lực lượng tiến công một số căn cứ địch ở biên giới. Trên hướng Sư đoàn 7 (được tăng cường 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 250 biên phòng, 2 trung đoàn của Sư đoàn 196 và 2 khẩu pháo 130mm), ta mở đợt tiến công căn cứ Chămca Srâu - Tứcsóc và cao điểm 348. Do quá trình chuẩn bị chiến trường của ta không đảm bảo bí mật nên trước khi ta nổ súng, địch kịp phân tán lực lượng, chỉ để lại một bộ phận nhỏ cầm cự. Ta chiếm được mục tiêu nhưng chỉ tiêu diệt được một lực lượng nhỏ của địch, thu 276 súng, 14 máy thông tin và một số quân trang, quân dụng. Tiếp đó, Sư đoàn 7 được lệnh cơ động về địa bàn tỉnh Côngpông Chnăng, triển khai lực lượng giữ Pônlây, ga Banâk và khu vực Rômía.

Trên hướng Sư đoàn 339, các đơn vị phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang Bạn đánh bại các đợt tập kích của địch bằng hoả lực và bộ binh nhằm chiếm các điểm tựa của ta ở khu vực tây sông Mênam, điểm cao 492, bảo vệ an toàn đường 56. Sư đoàn 9 cùng các đơn vị Bạn mở các đợt truy quét tàn quân địch, bảo vệ an toàn giao thông trên đường số 5 và hệ thống đường sắt. Qua hai đợt tác chiến mùa khô, tuy Quân đoàn 4 chưa tiêu diệt được nhiều sinh lực địch (vì địch phân tán lực lượng, tránh các cuộc tấn công trực tiếp của ta và Bạn) nhưng các đơn vị của Quân đoàn đã giúp bạn giữ vững các địa bàn, củng cố chính quyền cách mạng, đập tan âm mưu của địch lấn đất giành dân, xây dựng chính quyền hai mặt.

Ở Mặt trận 779, mùa khô 1981-1982, Sư đoàn 5 và một số lực lượng tăng cường phối hợp với Sư đoàn 309, một bộ phận Đoàn quân sự 7704 và bộ đội địa phương Campuchia đánh căn cứ sư đoàn 320, văn phòng trung ương của Pôn Pốt ở Ôđa, Kaomêlai, Đầmrông, Namsáp, đồng thời tiếp tục bung lực lượng ra truy quét, triệt phá hành lang của địch ở khu vực nam cao điểm 175. Ngày 14 tháng 1 năm 1982, sư đoàn 5 sử dụng Trung đoàn 16 phối hợp với Sư đoàn 309 tiến công căn cứ Sư đoàn 320 Pôn Pốt. Sau 3 ngày chiến đấu ác liệt, Trung đoàn 16 đánh chiếm và làm chủ khu vực Namsáp, sau đó phát triển chiến đấu đánh chiếm Tàngóc. Trong đợt 1 chiến dịch, Sư đoàn 5 cùng Sư đoàn 309 diệt hơn 200 tên, thu 92 súng (có 1 pháo 37mm), 10 tấn đạn, 6 xe ô tô, 1 máy thông tin, 30 tấn gạo, phá hủy 1 pháo 105mm. Trong đợt 2 của chiến dịch, Sư đoàn 5 cùng các đơn vị truy quét đánh chặn lực lượng địch ở khu nam cứ điểm Kaomêlai. Do địa hình phức tạp, địch bố trí nhiều mìn và vật cản ngăn chặn, công tác nắm địch và chuẩn bị của ta chưa chu đáo nên trận đánh kéo dài, thương vong cao, các đơn vị của Sư đoàn phải dừng lại củng cố, rút kinh nghiệm.

Thời gian này, trên hướng Mặt trận 579, các sư đoàn 315, 307 tiến công các căn cứ của sư đoàn 801 Pôn Pốt và bọn phỉ Lào ở ngã ba biên giới Lào - Campuchia - Thái Lan. Ta đánh trúng sở chỉ huy, hậu cứ sư đoàn 801 quân Pôn Pốt, diệt gọn hai tiểu đoàn (701, 703) phỉ Lào, loại khỏi chiến đấu 342 tên địch, thu 107 súng các loại. Ngoài ra, các đơn vị còn truy quét bọn tàn quân trung đoàn 83 (sư đoàn 801 Pôn Pốt) ở tây bắc Xiêmpăn đánh vào đông bắc Vonsai, tây nam Bôkeo, căn cứ các trung đoàn 402, 403 (sư đoàn 775 Pôn Pốt), căn cứ sư đoàn 920 ở Mônđônkiri, căn cứ 547 trên biên giới Thái Lan. Trong nội địa, các tiểu đoàn địa bàn 2, 36, 50, 80, 96 đánh các trận vừa và nhỏ, kết hợp chặt chẽ với công tác địch vận, làm tan rã nhiều tổ chức phản động kêu gọi hàng trăm binh lính địch ra hàng.

Những hoạt động tích cực của bộ đội ta trên các mặt trận làm cho địch bị động lúng túng, chúng không thực hiện được kế hoạch mùa khô 1981-1982 (chiếm 70% phum, xã, giành 60% dân, xây dựng các căn cứ quân sự lớn ở biên giới phía bắc và phía tây,...) nhưng hiệu suất chiến đấu của bộ đội ta và Bạn nhiều trận còn thấp. Ta chưa triệt được các hành lang vận chuyển của địch; trong nội địa, số địch hoạt động trà trộn trong dân còn nhiều.

Sau hội nghị chuyên gia toàn Campuchia (từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 5 năm 1982), kịp thời rút kinh nghiệm những mặt còn tồn tại, những tháng đầu mùa mưa năm 1982, trên các mặt trận, ta tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truy quét, đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân của địch.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới, ngày 8 tháng 6 năm 1982, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia (thay Ban phụ trách công tác K (Campuchia) và Tổng đoàn chuyên gia). Đồng chí Lê Đức Anh được chỉ định làm Trưởng ban. Cùng ngày, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 847/QĐ chuyển Lữ đoàn 950 thuộc Bộ tư lệnh 979 thành Đoàn quân sự làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia tại Đặc khu Côngpông Xom, mang phiên hiệu Đoàn 950.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 06:59:51 am
Trên cơ sở những kết quả giúp Bạn đã đạt được trên các mặt công tác, ngày 14 tháng 7 năm 1982, Bộ Quốc phòng chỉ đạo rút một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia về nước. Đây là đợt rút quân đầu tiên theo Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương lần thứ 6 (diễn ra từ ngày 6 đến ngày 7 tháng 6 năm 1982 tại thành phố Hồ Chí Minh). Sư đoàn bộ binh 317 (Quân khu 7) và một số đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia được lệnh trở về Tổ quốc đã được Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý(1).

Sau đợt rút quân đầu tiên này, ngày 5 tháng 8 năm 1982, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Trường 481 thuộc Đoàn 478 về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ ủy nhiệm cho Bộ tư lệnh 719 quản lý, chỉ huy và chỉ đạo Trường 481 về mọi mặt. Trường 481 lâm thời được hưởng quyền hạn và chế độ như các trường sĩ quan. Đồng thời với nhiệm vụ chiến đấu, việc giúp Nhà nước Campuchia củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng luôn được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Đảng ta xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng có ý nghĩa quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ quốc tế của quân đội ta ở Campuchia.

Trên cơ sở nhiệm vụ đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, căn cứ điều kiện và tình hình thực tế trên chiến trường những năm 1981-1982, Bộ tư lệnh 719 đề ra ba nhiệm vụ(2), trong đó nhiệm vụ “giúp cho Bạn mạnh dần lên trên các mặt, đủ sức đấu tranh với địch, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, xây dựng đất nước” được xác định là nhiệm vụ then chốt cơ bản nhất.

Theo phương hướng đó, bên cạnh việc tiếp tục kiện toàn các đoàn quân sự, các tiểu đoàn địa bàn, tạo điều kiện để Bạn chủ động trong tác chiến, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên các mặt trận đã giành nhiều thời gian huấn luyện cho Bạn. Phương châm huấn luyện nâng cao hiệu suất chiến đấu của phân đội nhỏ, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng cấp tiểu đoàn, trung đoàn, giúp Bạn xây dựng thế trận bảo vệ biên giới, chủ động đánh địch trong nội địa luôn được chỉ huy các mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện từng chiến trường. Các đợt tập huấn về cách đánh, về phát động quần chúng tham gia xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

Từ chỗ “ta, Bạn cùng làm” dần dần chuyên gia ta đã giúp cho Bạn trưởng thành, tự làm một phần kế hoạch, tự triển khai lực lượng và đảm nhiệm tác chiến trên từng hướng, từng khu vực, từng bước vững chắc, đẩy địch vào thế khó khăn suy yếu. Các kế hoạch tạo ra hai vùng, hai chính quyền trên lãnh thổ Campuchia của địch liên tiếp bị thất bại làm cho cục diện chiến trường đi vào thế ổn định, an ninh chính trị được giữ vững Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã góp phần tạo ra so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho các lực lượng cách mạng Campuchia.

Đến năm 1982, ta đã giúp Bạn xây dựng 2 binh đoàn, 2 sư đoàn, 12 tiểu đoàn binh chủng, 33 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 135 đại đội bộ đội huyện, 3 tiểu đoàn biên phòng, 13 trường đào tạo cán bộ cơ sở sơ cấp và trung cấp với tổng quân số 52.214 người (trong đó có 6.000 cán bộ). Vừa xây dựng phát triển bộ đội chủ lực, ta vừa xây dựng cho Bạn một đội ngũ cán bộ cơ sở rộng khắp với 184 đội công tác (11.507 người) và hơn 128.000 dân quân tự vệ xã ấp, góp phần thiết thực bảo vệ chính quyền cách mạng. So với trước ngày Tổng tiến công giải phóng Campuchia thì lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia, qua hơn 3 năm xây dựng đã có sự lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và chất lượng(3).

Cùng với việc giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia còn đồng thời triển khai nhiệm vụ cứu đói giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống, phục hồi sản xuất.

Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, chia sẻ và cảm thông sâu sắc với những khó khăn của nhân dân Campuchia, cán bộ, chiến sĩ ta hoạt động trên chiến trường Campuchia đã nêu cao tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, tạo mọi điều kiện giúp đỡ nhân dân các địa phương nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Quân đoàn 4 là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai giúp 1,2 triệu dân ba tỉnh Kanđan, Côngpông Chnăng, Puốcxát và 7 vạn dân huyện Mung (tỉnh Báttambang). Bộ tư lệnh Quân đoàn đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực giúp nhân dân thoát khỏi nạn đói. Những ngày đầu đất nước Campuchia mới giải phóng, các kho lương thực của chế độ Pôn Pốt đều trống rỗng, lương thực trong dân bị tàn quân Pôn Pốt chạy qua cướp sạch. Công tác vận chuyển đảm bảo hậu cần của Quân đoàn gặp không ít khó khăn do địch đánh chặn giao thông, khẩu phần ăn bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ phải tính toán từng ngày. Mặc dù vậy, nhiệm vụ cứu đói cho dân vẫn được cán bộ, chiến sĩ các đơn vị thực hiện kịp thời với nhiều biện pháp thiết thực. Trong khi vận chuyển từ phía sau chưa lên kịp, bộ đội tình nguyện nhường bớt khẩu phần ăn hàng ngày để cứu dân. Sư đoàn 7 cử các tổ cứu đói giúp nhân dân ba huyện thuộc tỉnh Kanđan. Sư đoàn 9 thành lập các tổ công tác mang gạo và thuốc chữa bệnh giúp nhân dân tỉnh Côngpông Chnăng. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 341 nhịn ăn bữa sáng để giúp nhân dân huyện Mung. Sư đoàn 339 môi tuần một lần chở gạo xuống giúp nhân dân huyện Lếch. Các đoàn 24, 25, 71 quyên góp gạo tiết kiệm hàng ngày gửi giúp nhân dân các huyện còn lại của tỉnh Kanđan.


(1) Từ tháng 3 năm 1979 đến tháng 7 năm 1982, Sư đoàn 317 đánh 2.342 trận lớn nhỏ, loại khỏi chiến đấu 5.935 tên; giúp Bạn xây dựng 5 huyện, 79 xã, 669 ấp. Sư đoàn được Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia tặng Huân chương Bảo vệ hạng Nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương Quân công hạng Nhất. 244 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công các loại.
(2) Ba nhiệm vụ đó là: Tiếp tục truy đánh cho địch suy tàn hơn nữa đến mức không gượng dậy được, những đơn vị lớn không thể trụ bám trong nội địa; Giúp cho Bạn mạnh dần lên trên các mặt đủ sức đấu tranh với địch, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, xây dựng đất nước; Bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược và chiến đấu giữa Việt Nam - Campuchia ngày cảng tăng cường trên thế vững chắc.
(3) Trước ngày Tổng tiến công giải phóng Campuchia khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mới có 21 tiểu đoàn, 5 đại đội, 69 đội công tác với tổng quân số 4.890 người, trong đó có 316 cán bộ.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2021, 07:02:49 am
Kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các tổ công tác của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự các mặt trận 579, 779, 979 đi sâu xuống các bản làng với tinh thần “viên thuốc chia đôi, bát cơm sẻ nửa”, chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, vượt qua mọi sự rình rập, phá hoại của kẻ thù để giúp nhân dân các địa phương khắc phục nạn đói, dịch bệnh đang lan tràn, ở các phum. sóc xa xôi, do địch đánh phá, vận chuyển lương thực gặp khó khăn, nhiều gia đình phải ăn củ mài, củ chuối thay cơm, cán bộ, chiến sĩ ta đến công tác đã san sẻ cả khẩu phần ăn rất ít ỏi của mình để giúp dân. Cháu Xa Văn Ni lên 8 tuổi được y tá Chu Trọng Tố thuộc Đại đội 10 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 141 Sư đoàn 7 cứu sống trong tình trạng đói lả hấp hối chờ chết. Hàng trăm cháu khác ở trong tình trạng tương tự được các cán bộ, chiến sĩ các mặt trận 479, 579, 779, 979 đem về nuôi dưỡng ở các trại mồ côi. Được chia sẻ những lon gạo, những viên thuốc trong lúc cái chết đã kề bên, nhiều người dân Campuchia ghi lòng tạc dạ sự giúp đỡ chí tình của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam. Càng hiểu sâu sắc những phẩm chất tốt đẹp của người lính cách mạng, của Bộ đội Cụ Hồ, bà con càng tin tưởng ủng hộ bộ đội Việt Nam. Bà Bun Mi ở phum Chom, huyện Kiri sau khi 7 người trong gia đình được cứu khỏi chết đói, đã đến đội công tác xin cho bà con được đi theo bộ đội Việt Nam. Nhiều gia đình ở huyện Lếch, huyện Mung vận động chồng con trước đây là binh lính, sĩ quan trong quân đội Pôn Pốt ra trình diện chính quyền cách mạng.

Không chỉ giúp Bạn trong những vấn đề cấp bách trước mắt, Đảng và Nhà nước ta còn chỉ đạo Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các bộ, các ngành tích cực giúp Bạn trên tất cả các lĩnh vực khác. Trong lĩnh vực văn hoá giáo dục đến năm 1982, ta đã hoàn thành 37 hạng mục công trình văn hoá giúp Bạn. Hai bên đã ký kết các hiệp định về đào tạo chuyên gia kinh tế, văn hoá, theo đó năm 1982 ta giúp Bạn đào tạo 374 chuyên gia (dài hạn 88, ngắn hạn 286), đáp ứng được yêu cầu của Bạn. Năm 1982, ta nhận đào tạo cho Bạn được 409 học sinh, sinh viên (gồm trên đại học 13, đại học 127, trung học 127 và phổ thông 142). Ngoài ra, các trường chính trị hàng năm nhận khoảng 800 người, quốc phòng - an ninh 1.000 người. Chuyên gia ta giúp Bạn đào tạo tại Campuchia 1.500 sinh viên, 1.000 trung cấp, sơ cấp các ngành kỹ thuật và hàng ngàn cán bộ học bổ túc văn hoá trong các lớp nghiệp vụ ngắn hạn. Ta đã đón 17 đoàn cán bộ các ngành của Campuchia sang học tập, trao đổi kinh nghiệm trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật.

Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giúp Bạn, ngày 15 tháng 11 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra chỉ thị về kiện toàn các đoàn chuyên gia quân sự giúp các sư đoàn bộ binh Campuchia, đồng thời hoàn chỉnh biểu biên chế Đoàn chuyên gia quân sự của Bộ Quốc phòng ta giúp Bộ Quốc phòng Campuchia. Trong thời gian này, các đoàn chuyên gia của các tổng cục, quân chủng, binh chủng sáp nhập đầu mối về trực thuộc Đoàn chuyên gia quân sự 478.

Từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 12 năm 1982, nhận lời mời của Bộ Quốc phòng nước ta, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hoà nhân dân Campuchia do đồng chí Bu Thoong, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức nước ta. Trong buổi làm việc ngày 23 tháng 12 tại Hà Nội, đại diện hai Bộ Quốc phòng đã ký văn kiện hợp tác giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia.

Đánh giá về hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia năm 1982, Bộ tư lệnh Quân tình nguyện (719) khẳng định: “Bộ đội ta phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các ngành đã giành được những thắng lợi quan trọng, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển thành quả cách mạng... Lực lượng cách mạng Campuchia được củng cố một bước về chất lượng. Một số đơn vị Campuchia có khả năng chiến đấu và hoạt động tốt”(1). Những thành tựu đó đã giúp Bạn xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền, ổn định đời sống phát triển sản xuất, làm cho tình hình chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội của Campuchia được cải thiện và có bước phát triển vững chắc, góp phần vào việc củng cố khối liên minh chiến đấu đặc biệt ba nước Đông Dương ngày càng vững mạnh.

Trong hai năm 1981-1982, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động trên đất Bạn trong hoàn cảnh rất nhiều khó khăn thử thách: tàn quân địch còn đông, nhiều tổ chức phản động ở cả trong nước và nước ngoài phối hợp hoạt động chống phá ta ráo riết ở khắp nơi; chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang bạn còn non trẻ, chưa đủ sức bảo vệ thành quả cách mạng. Vượt qua mọi khó khăn gian khổ, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chiến đấu truy quét, tiêu diệt tàn quân địch với nhiệm vụ bảo vệ vùng giải phóng củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng. Đến năm 1982, ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu “ta, Bạn cùng làm”, “ta một, Bạn một”, đã rút một phần Quân tình nguyện Việt Nam về nước và nỗ lực phấn đấu theo hướng “Bạn hai, ta một” để Bạn tự đảm đương phần lớn nhiệm vụ xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, bảo vệ vùng giải phóng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây là cơ sở quan trọng để Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động có hiệu quả hơn trên chiến trường Campuchia những năm tiếp theo.


(1) Nghị Quyết số 210A-NQ ngày 26 tháng 10 năm 1982 của Bộ Tư lệnh 719, Lưu trữ văn phòng Bộ TƯ lệnh Quân khu 7.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2021, 06:18:53 am
2. Phối hợp với Bạn tiến công, tiêu diệt các căn cứ dọc biên giới phía Tây, truy quét tàn quân địch.

Sau thất bại nặng nề về quân sự trong hai năm 1981-1982, bước sang năm 1983, địch âm mưu đánh chiếm và kiểm soát một vùng gắn liền với biên giới Thái Lan nhằm tạo nên hình thái “2 vùng, 2 chủ lực, 2 chính quyền”. Chúng chủ trương đưa chiến tranh vào nội địa, giành dân, xây dựng lực lượng phản động ngầm hòng làm cho tình hình Campuchia mất ổn định, gây bạo loạn, cướp chính quyền ở từng khu vực, từng bước tiến tới thực hiện âm mưu cơ bản xoá bỏ Nhà nước Campuchia.

Được sự giúp đỡ của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cùng đội ngũ cán bộ, chuyên gia dân, chính đảng từ Trung ương và các địa phương của Việt Nam, đến năm 1984, các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của Campuchia đã đạt được những thành tựu đáng kể. Về kinh tế, diện tích canh tác đạt 1.670 hécta (năm 1979 chỉ đạt 700 hécta), sản lượng lương thực 2.058.850 tấn, năng suất bình quân 1,17 tấn/hécta. Khôi phục và trồng mới trên 52.000 hécta cây cao su, khai thác được 67.700 mét khối gỗ.

Nền sản xuất công nghiệp được phục hồi, hàng trăm nhà máy, xí nghiệp đã khôi phục và xây dựng mới. Các xí nghiệp do Trung ương quản lý sản lượng tăng từ 40 - 50% hàng năm. Công tác giáo dục phát triển nhanh, hệ thống giáo dục mở rộng đến tận phum, xã. Năm học 1981-1982 có hơn 1,3 triệu học sinh, đến năm 1982-1983 đã phát triển lên 1,5 triệu học sinh. Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp từ Trung ương đến xã với trên 30 bệnh viện và 10.000 giường bệnh.

Về quân sự, mặc dù thất bại liên tiếp trên mặt trận biên giới phía Tây và trong nội địa, song được các thế lực phản động bên ngoài tiếp sức, các đơn vị địch (nhất là chỉ huy) vẫn còn lực lượng khá lớn. Chúng tập trung lực lượng khôi phục lại một số căn cứ như Ô đa, Sơ Đa, Kaomêlai, Đăngkum, Ampin... Mặt khác, địch cố gắng đưa phần lớn lực lượng của các sư đoàn 320, 415, 705 vào sâu trong nội địa xây dựng các căn cứ lõm trên tuyến trung gian và khu vực Biển Hồ. Trước mắt, chúng ra sức củng cố thế trận ở vùng biên giới giáp phía Tây bằng cách chiếm lại các căn cứ đã mất, củng cố các căn cứ còn lại, xây dựng thêm các căn cứ mới, điều chỉnh một số cửa khẩu và hành lang để đưa lực lượng và vận chuyển vật chất vào nội địa; xây dựng cơ sở ngầm và chính quyền hai mặt ở các phum, sóc; tăng cường đánh phá, tập kích vào các vị trí đứng chân của ta và Bạn, tổ chức các lực lượng nhỏ, lẻ phục kích, gài mìn ở các tuyến đường, nhằm quấy phá, gây mất ổn định trong nội địa. Ngoài ra, địch tăng cường đánh phá giao thông và những vị trí sơ hở của lực lượng cách mạng, thường xuyên đột nhập vào các xã, ấp hẻo lánh để gây cơ sở, cướp lương thực, đẩy mạnh tuyên truyền kết hợp hăm dọa, khủng bố quần chúng nhằm tạo thế có lợi cho chúng.

Ngày 20 tháng 1 năm 1983, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 05/NQ-QU về nhiệm vụ quân sự năm 1983. Về nhiệm vụ quốc tế đối với Campuchia, nghị quyết nêu rõ: Tiếp tục giúp Bạn nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang cả về trình độ chính trị, khả năng quản lý bộ đội, chỉ huy chiến đấu và công tác phát động quần chúng; bảo đảm cho Bạn có thể độc lập hoàn toàn hoàn thành nhiệm vụ, hợp đồng chiến đấu với lực lượng ta và tiến tới phụ trách từng địa phương lớn hơn. Tiếp tục góp phần giúp Bạn củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, bảo đảm tin cậy về chính trị, làm được công việc theo chức trách, phát huy được sức mạnh của các ngành để chống chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, bóc gỡ các cơ sở ngầm. Phát huy sức mạnh tổng hợp, đánh địch cả trên biên giới và trong nội địa, cả ngoài rừng và trong các phum, sóc, cả căn cứ và trên hành lang; đánh liên tục và có trọng điểm, đồng thời tiếp tục giúp Bạn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và hậu cần, kỹ thuật. Để thực hiện tốt các chủ trương đó, cần tập trung kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia và quân tình nguyện; nghiên cứu tiến tới có những quy chế cần thiết về tổ chức và hoạt động liên minh chiến đấu giữa ta và Bạn.

Trước tình hình địch vẫn ngoan cố dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài, tập trung lực lượng chống phá ác liệt cách mạng Campuchia, ngày 15 tháng 2 năm 1983, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 39/NQ-TW “Về điều chỉnh tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang (1983-1986)”. Nghị quyết xác định ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia:

“1. Tiếp tục làm cho Pôn Pốt tan rã, suy tàn hơn nữa.

2. Tiếp tục xây dựng thực lực cách mạng Campuchia mạnh hơn lên cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đảm nhiệm cuộc chiến đấu thắng lợi với mọi kẻ thù bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước.

3. Bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược, chiến đấu Campuchia - Việt Nam trên một thế vững chắc hơn và mạnh hơn”(1).


(1) Biên niên sự kiện hoạt động của Đảng, Nhà nước, quân đội, chuyên gia Việt Nam - Campuchia, tập III, 2008. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 194.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2021, 06:20:36 am
Trên cơ sở 3 mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia, nghị quyết xác định mục tiêu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từ năm 1983 đến năm 1986 phải nhanh chóng có số lượng quân chủ lực và quân địa phương khoảng 12 vạn, tổ chức thành 8 sư đoàn, 20 trung đoàn bộ binh, 7 trung đoàn binh chủng, 15 tiểu đoàn bộ binh, 300 đại đội bộ binh và khoảng 15 vạn dân quân du kích.

Để bảo đảm tiến độ xây dựng tuyến phòng thủ chất lượng tốt và vững chắc, Bộ Chính trị Campuchia chủ trương tổ chức một số đơn vị hỗn hợp, gồm cả lực lượng Campuchia và Việt Nam. Ở các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chính quy và đơn vị binh chủng kỹ thuật, yêu cầu Quân đội nhân dân Việt Nam tăng cường cho một số cán bộ mà Campuchia chưa có điều kiện đào tạo, bồi dưỡng, ở các huyện và tỉnh, nếu thấy cần thiết tăng cường cho một số cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm về công tác cơ sở và công tác phát động quần chúng ở cơ sở. Các cán bộ, chiến sĩ Việt Nam được tăng cường có nhiệm vụ và quyền hạn như cán bộ, chiến sĩ Campuchia và dưới sự chỉ đạo của Đảng và Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia.

Quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ giúp Bạn trong tình hình mới, đầu năm 1983, Bộ Tư lệnh 719 ra nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1983 của Bộ đội tình nguyện trên chiến trường Campuchia. Nghị quyết nêu rõ: “Mục tiêu chiến lược là giúp Bạn mạnh lên, hơn hẳn địch về số lượng và chất lượng để Bạn có thể tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ cách mạng Campuchia, phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu”(1).

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục giúp Bạn xây dựng các phương án tác chiến đối phó với các tình huống có thể xảy ra, chủ động đánh địch, tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng; đồng thời giúp Bạn đề ra phương hướng củng cố, phát triển lực lượng, tăng cường cán bộ, giúp Bạn tuyên truyền xây dựng cơ sở quần chúng ở những vùng sau lưng địch, tổ chức từng đội công tác xuống các phum, xã, đặc biệt là các tỉnh dọc biên giới phía Tây, giáp Thái Lan. Trong tất cả các nhiệm vụ đó, việc giúp Bạn truy quét tàn quân địch dọc biên giới phía Tây được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên chiến trường Campuchia trong năm 1983. Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia mở các chiến dịch truy quét tàn quân địch để bảo vệ các trục đường giao thông, các địa bàn chiến lược, tiêu diệt các căn cứ của quân Pôn Pốt ở biên giới phía Tây, ngăn chặn các nguồn viện trợ từ bên ngoài thâm nhập qua biên giới Thái Lan vào nội địa Campuchia cho bọn phản động và tàn quân Pôn Pốt. Các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự thuộc các mặt trận 479, 579, 779, 979 đẩy mạnh hoạt động giúp cách mạng và nhân dân Campuchia tiếp tục truy quét tàn quân địch, kể cả ở vùng biên giới và trong nội địa, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

Trên địa bàn Mặt trận 479 phụ trách có các sư đoàn 5, 302, 309, 317; 6 trung đoàn bộ binh trực thuộc (6, 7, 160, 205, 726, 740); 5 trung đoàn thuộc các binh chủng (xe tăng, thiết giáp, pháo binh, công binh, cao xạ, thông tin). Nhiệm vụ của Mặt trận 479 là hỗ trợ bạn mở nhiều đợt tiến công đánh vào các căn cứ và cơ quan Trung ương của địch ở vùng biên giới phía Tây Campuchia. Đợt hoạt động lớn chủ yếu là đánh vào khu căn cứ, sở chỉ huy, kho tàng của các phe phái phản động.

Theo kế hoạch, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1983, Trung đoàn 16, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 5) tiến công đánh chiếm căn cứ Phân khu 205 (lực lượng Sêrêka) ở Nông Chăn. 12 giờ ngày 1 tháng 2, ta làm chủ toàn bộ Phân khu. Liên tiếp những ngày sau đó, ta tổ chức truy kích và đánh địch phản kích. Qua 7 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt 272 tên địch, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, thu 102 súng và nhiều đạn dược, quân trang, quân dụng. Phối hợp với trận tiến công căn cứ Nông Chăn, ngày 2 tháng 2 năm 1983, một phân đội thuộc Tiểu đoàn 13 Trung đoàn 429 Sư đoàn 302 (gồm 14 đồng chí) tập kích quân địch ở Núi Cóc, diệt 25 tên, thu một số vũ khí.

Các đơn vị làm nhiệm vụ dọc biên giới phía Tây Campuchia không quản khó khăn, vất vả, anh dũng cùng Bạn chiến đấu. Ngày 3 tháng 3 năm 1983, Trung đoàn 429 Sư đoàn 302 tổ chức đánh chiếm căn cứ Ôxamếch (lực lượng Mônika) diệt 257 tên, bắt 25 tên, thu 82 súng các loại, bắn rơi 1 máy bay A37, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Ngày 10 tháng 3 năm 1983, Trung đoàn 16 (Sư đoàn 302) tiến công đánh chiếm các căn cứ Ôkalúa (quân Sêrêka), Ôxamếch, Cần Riêng (Tà Xanh, Sămlốt), diệt nhiều địch, thu vũ khí của chúng.


(1) Bộ Tư lệnh 719, Nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1983 của bộ đội tình nguyện trên chiến trường Campuchia. Tư liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ số 1009.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2021, 06:21:27 am
Tiếp đó, ngày 12 tháng 3 năm 1983, Trung đoàn 812 (Sư đoàn 309) được tăng cường Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 31) tiến công căn cứ Trung đoàn 16 (Sư đoàn 415 Pôn Pốt) ở Comriêng. Sau khi làm chủ trận địa, Trung đoàn chốt giữ thêm ba ngày, truy quét địch phản kích, phá hủy toàn bộ căn cứ, buộc địch phải rút chạy sang biên giới Thái Lan. Ngày 8 tháng 4 năm 1983, Trung đoàn 250 (thiếu) được tăng cường Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 812) cùng một bộ phận binh chủng do Sư đoàn bổ sung, truy quét tàn quân của Sư đoàn 221 Pôn Pốt ở khu vực núi Tà Đạt (nằm ở phía tây Sămlốt, huyện Pailin), diệt 56 tên địch thu 17 súng và hai máy nổ.

Cùng thời gian này, Sư đoàn bộ binh 5 sử dụng hai tiểu đoàn và hơn 30 khẩu súng cối ĐKZ tiến công tiểu đoàn Sêrêka và khu vực Bộ Tổng tham mưu của Pôn Pốt ở gần hồ Ampin (Tây Nam Sàmrông), phá hủy 50 nhà, bắn cháy 1 kho đạn. Trong 6 tháng đầu năm 1983 các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.901 tên, bắt 286 tên, dụ hàng 598 tên, thu 807 súng, 392 tàu xuồng và hơn 10 tấn lương thực.

Trên hướng Mặt trận 779, các đơn vị ta giúp Bạn ở 3 tỉnh phía đông (Prâyveng, Svâyriêng, Côngpông Chàm) và một số huyện thuộc tỉnh Krachiê. Tháng 3 năm 1983, lực lượng pháo binh của Mặt trận phối hợp với Bạn chi viện bộ binh chiến đấu ở các điểm tựa dọc biên giới, khôi phục lại một số nơi bị địch chiếm, kiềm chế các trận địa pháo địch khi chúng chi viện tiến công hoặc bắn sâu vào đất bạn. Tháng 4 năm 1983, lực lượng pháo binh Mặt trận, gồm 36 khẩu pháo xe kéo và 48 khẩu pháo mang vác, chi viện bộ binh tiến công địch ở Phnôm Chát, Osamak và Sămlốt, loại khỏi vòng chiến đấu 1.224 tên, bắn cháy 3 xe quân sự, 1 kho đạn, phá hủy 3 kho trang bị. Các đơn vị quân tình nguyện thuộc Mặt trận 779 còn sử dụng lực lượng công binh và một bộ phận lực lượng bộ đội chiến đấu phối hợp với bạn huy động 8 tiểu đoàn thanh niên xung phong làm đường, xây dựng các căn cứ hậu cần. Các tuyến đường số 19, 26 được nâng cấp đã đáp ứng yêu cầu vận chuyển và cơ động chiến đấu.

Phối hợp với các đơn vị Bạn, tại huyện Caraveng, tỉnh Puốcxát, Đoàn A383 (Sư đoàn 339) hoàn thành toàn bộ hệ thống hầm hào, công sự chiến đấu trước thời hạn trên giao. Đại đội 6 phục kích đánh địch tại hàng rào căn cứ “lõm” của chúng trong nội địa, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Tháng 3 năm 1983, Đoàn A383 chuyển sang giúp bạn tại huyện Môngcônbrây thuộc tỉnh Báttambang. Đây là vùng địch thường đóng quân dọc biên giới từ điểm cao 555 đến Kaomêlai. Hàng ngày, địch tập kích liên tục vào các điểm tựa của ta trên tuyến Bua, Nămsấp, điểm cao 230; đồng thời đưa lực lượng vào lập căn cứ “lõm” ở khu vực Biển Hồ, tây bắc Lôvia, tây Tơrôm, đường 58, đường 5 và hoạt động quấy phá một số khu vực trong nội địa. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình địch, Ban chỉ huy Đoàn A383 tổ chức các đợt trinh sát nắm địch và quyết tâm đánh sâu vào căn cứ, hậu cứ của chúng ở khu vực đường biên và nội địa, làm trong sạch địa bàn, bảo vệ thành quả cách mạng.

Các đơn vị Mặt trận 579 làm nhiệm vụ giúp Bạn ở Đông Bắc Campuchia tại địa bàn 4 tỉnh: Ráttanakiri, Mônđônkiri, Stung Treng và Prếtvihia. Lực lượng trực thuộc Mặt trận gồm các sư đoàn 315, 307, 3 cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và các đơn vị binh chủng, bảo đảm, phục vụ. Ngày 10 tháng 3 năm 1983, Bộ Quốc phòng Campuchia ra quyết định tổ chức cơ quan đại diện của Bạn bên cạnh Mặt trận 579 để cùng bàn bạc giải quyết mọi tình huống trên địa bàn; đồng thời tạo điều kiện để Bạn học tập và quen dần với công việc chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan cấp Quân khu, giúp Bạn mau chóng trưởng thành.

Thực hiện quyết định của Bộ và theo yêu cầu của Bạn, Mặt trận 579 giúp Bạn chấn chỉnh tổ chức biên chế lực lượng vũ trang cấp huyện. Theo phương hướng đó, đại đội chiến đấu huyện sáp nhập với đội vũ trang ơ huyện thành “đại đội hai chức năng” (chiến đấu và vận động quần chúng). Trên địa bàn Mặt trận 579 đảm nhiệm có 41 đại đội, mỗi huyện có từ 2 đến 3 đại đội, mỗi đại đội có 2 trung đội bộ binh và 3 hoặc 4 đội công tác vận động quần chúng, có 2 phái viên Việt Nam phụ trách một cụm (từ 2 đến 4 xã), mỗi huyện tổ chức từ 2 đến 3 cụm chiến đấu.

Theo sự phân công của Mặt trận 579, Sư đoàn bộ binh 307 phụ trách địa bàn tỉnh Prếtvihia; Sư đoàn 315 làm nhiệm vụ ở miền tây sông Mê Công. Hai sư đoàn 307 và 315 tiến sát biên giới phía Tây phối hợp với các trung đoàn chủ lực 18, 19 của bạn; các tiểu đoàn đặc công 407, 409, Đoàn 381 và Tiểu đoàn 3 thiết giáp sẵn sàng đánh địch trên biên giới. Ờ các tỉnh Ráttanakiri và Mônđunkiri, Mặt trận giao cho lực lượng vũ trang địa phương của Bạn và các tiểu đoàn tỉnh đảm nhiệm.

Với quyết tâm “đánh tập trung với đối tượng địch trong công sự vững chắc trên điểm cao và phòng ngự chốt giữ, đánh địch phản kích dài ngày”, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam thuộc Mặt trận 579 tổ chức nghiên cứu, chuẩn bị thao trường, bãi tập; đồng thời tăng cường cán bộ có kinh nghiệm huấn luyện theo sát các đơn vị; liên tiếp mở các lớp tập huấn giúp Bạn nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ, nâng cao khả năng chiến đấu của bộ đội ta và Bạn, nắm tình hình lực lượng và cách bố phòng của địch.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2021, 06:23:33 am
Tiểu đoàn 26 và Đoàn 5503 (Sư đoàn bộ binh 307), làm nhiệm vụ ở tỉnh Prếtvihia không chỉ huấn luyện giỏi mà còn giúp Bạn nâng cao hiệu suất chiến đấu. Trung đoàn 95 (Sư đoàn 307), Tiểu đoàn 22 (Stung Treng), Trung đoàn 142, Đoàn 301 là những đơn vị điển hình trong phong trào giúp Bạn xây dựng nội bộ và tiến công truy quét tàn quân địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên trên biên giới.

Cùng với nhiệm vụ nghiên cứu, tìm cách đánh địch, Đoàn A382 tổ chức huấn luyện bổ sung. Nội dung chủ yếu là sử dụng bản đồ, địa bàn, phương pháp trinh sát tìm địch và chiến thuật tập kích, phục kích. Đoàn còn tổ chức trồng rau, chăn nuôi lợn và gia cầm; toàn Đoàn thu hoạch hàng chục tấn rau xanh, hàng tấn thịt cá, hàng trăm lít mật ong. Những sản phẩm do đơn vị lao động sản xuất được sử dụng ngay trong các bữa ăn hàng ngày, góp phần bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội. Cán bộ, chiến sĩ Mặt trận luôn khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, chiến đấu thắng lợi. Trong những tháng đầu năm 1983, các đơn vị thuộc Mặt trận 579 tham gia truy quét tàn quân địch, thắng nhiều trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí, được Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Chiến công các loại và những phần thưởng cao quý khác.

Để đáp ứng yêu cầu giúp Bạn trong tình hình mới, ngày 12 tháng 3 năm 1983, Bộ Quốc phòng ta ra Chỉ thị số 295/CT-QP về việc kiện toàn tổ chức chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia và mối quan hệ của chuyên gia Việt Nam với cán bộ Bạn. Chỉ thị nêu rõ: Về hệ thống tổ chức chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, số lượng chuyên gia ở mỗi cấp được xác định tùy theo yêu cầu phát triển lực lượng và sự trưởng thành từng bước của Bạn. Đoàn chuyên gia quân sự Trung ương (Đoàn 478) là tổ chức trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đoàn 478 trực tiếp chỉ đạo, quản lý mọi mặt đối với chuyên gia quân sự bên cạnh các cơ quan Bộ Quốc phòng Bạn và các trường, lớp, các đơn vị cơ sở thuộc Bộ Quốc phòng Bạn. Tư lệnh các mặt trận 479, 579, 779, 979 chỉ đạo, quản lý mọi mặt chuyên gia thuộc quyền.

Về mối quan hệ giữa chuyên gia quân sự Việt Nam và cán bộ Bạn, Bộ xác định đây là quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đoàn kết gắn bó vì nhiệm vụ chung. Chuyên gia quân sự mỗi cấp làm việc chủ yếu với cấp được phân công giúp đỡ và với cơ quan, đơn vị thuộc quyền chỉ đạo, quản lý của cấp đó và có trách nhiệm giúp bạn toàn diện, theo như cấp lãnh đạo của Bạn đã yêu cầu. Hiệu quả công tác của chuyên gia quân sự giúp Bạn phải đạt được trên cả ba mặt: cơ quan, đơn vị Bạn hoàn thành tốt nhiệm vụ; cán bộ Bạn ngày càng trưởng thành về mọi mặt, cơ quan, đơn vị Bạn ngày càng vững mạnh; mối quan hệ liên minh đoàn kết Việt Nam - Campuchia ngày càng thêm gắn bó.

Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3-1982) và tinh thần Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương (2-1983), ngày 11 tháng 4 năm 1983, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết 10/NQ-TW “Về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia trong giai đoạn mới”. Bộ Chính trị khẳng định: “Cũng như từ trước đến nay, từ nay về sau, Đảng và nhân dân ta luôn luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, coi sự nghiệp cách mạng của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em như sự nghiệp của bản thân mình, tự nguyện, chủ động và hết lòng, hết sức gánh vác phần trách nhiệm nặng nề của mình”. Đồng thời chỉ rõ, cần “Coi trọng giúp Bạn tăng cường thực lực cách mạng vững mạnh về mọi mặt, trước hết là xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, coi đây là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng mỗi nước; đồng thời là hạt nhân giữ vững và tăng cường đoàn kết giữa ba Đảng, ba nước và ba dân tộc. Phát triển sự hợp tác toàn diện, chặt chẽ giữa ba nước trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và đối ngoại..., trong đó hợp tác về kinh tế, văn hóa trở thành lĩnh vực hết sức quan trọng, tạo nền tảng cho việc củng cố liên minh chiến lược lâu dài giữa ba nước”(1).

Đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, chỉ thị xác định: “Hết sức giúp Bạn tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang... đặc biệt là về đào tạo cán bộ, giáo dục chính trị, bảo đảm hậu cần làm cho các lực lượng quốc phòng và an ninh của hai nước Bạn trưởng thành nhanh, dần dần tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh”(2).

Triển khai thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng ta ra Thông tri số 28/TT-TW (ngày 6-6-1983) “Về việc tổ chức phổ biến và thi hành Chỉ thị số 10 của Bộ Chính trị”. Thông tri nêu rõ: “làm cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng, trước hết là những đồng chí có trách nhiệm thường xuyên quan hệ với hai nước Bạn, nhận thức rõ ý nghĩa sống còn trong việc tăng cường liên minh với hai nước, hai dân tộc anh em trong giai đoạn mới và nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cơ bản của Đảng ta trong việc tăng cường quan hệ với Bạn”(3).


(1) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 44 (1983) Nxb CTQG, H, 2006, tr. 74-75.
(2), (3) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 44 (1983), Nxb CTQG.H, 2006, tr. 76, 129.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2021, 06:24:24 am
Ban Bí thư giao cho Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp Campuchia giúp Ban Bí thư tổ chức phổ biến và triển khai chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị. Đồng thời yêu cầu trong thời gian trước mắt cần ưu tiên tuyển chọn, bồi dưỡng chuyên gia và tạo mọi điều kiện để chuyên gia giúp Bạn hiệu quả theo yêu cầu của Bạn; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung chính sách phù hợp đới với Quân tình nguyện và chuyên gia giúp cách mạng Campuchia.

Mặc dù đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đối với Bạn, ta không chỉ quan tâm, ưu tiên viện trợ cho Bạn về vật chất mà còn đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần. Ngày 13 tháng 4 năm 1983, nhân dịp Tết cổ truyền của nhân dân Campuchia, Đoàn đại biểu Quân tình nguyện, chuyên gia và tùy viên quân sự nước ta đến chúc Tết Bộ Quốc phòng Campuchia. Đồng chí Bu Thoong, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng nhiều cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia đã thân mật tiếp đoàn. Đồng chí Bu Thoong, thay mặt Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Campuchia chuyển lời thăm hỏi thân mật đến toàn thể Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Đồng chí bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân đội Campuchia đối với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã dành cho sự nghiệp cách mạng chân chính của nhân dân Campuchia, góp phần tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa hai nước Việt Nam - Campuchia.

Trên địa bàn Quân đoàn 4 đang làm nhiệm vụ giúp Bạn (3 tỉnh Kanđan, Côngpông Chnăng và Puốcxát), đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn, đặc biệt là nhân dân vùng biên giới và vùng sâu, vùng xa. Quân Pôn Pốt ẩn náu ở vùng rừng núi thường xuyên đột nhập các phum, cướp thóc gạo, trâu bò, đốt nhà dân và khủng bố. Các nhóm phản động khác như lực lượng Sêrêka trà trộn, móc nối, gây cơ sở trong dân ra sức tuyên truyền xuyên tạc hòng chia rẽ Campuchia và Việt Nam. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 không chỉ hoạt động giúp Bạn về vật chất mà không ít lần đổ máu để bảo vệ dân. Nắm vững đường lối và chính sách quốc tế của Đảng, với tinh thần cảm thông và chia sẻ sâu sắc đối với nhân dân Campuchia, cán bộ và chiến sĩ Quân đoàn nỗ lực vượt khó để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Biện pháp cơ bản được Bộ tư lệnh Quân đoàn đề ra là bám chắc dân, phát huy tinh thần đoàn kết vốn có giữa quân đội ta với lực lượng vũ trang, chính quyền cách mạng và nhân dân Campuchia; trên cơ sở đó phát hiện kịp thời và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch. Mặt khác, cán bộ, chiến sĩ ta tăng cường các hoạt động giúp đỡ chính quyền, quân đội, giúp bạn nhanh chóng trưởng thành, đủ sức đảm đương trách nhiệm quản lý địa bàn, tổ chức sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.

Trong những tháng đầu năm 1988, Quân đoàn phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở nhiều đợt hoạt động, liên tục đánh bại các đợt phản kích của địch; triệt phá các căn cứ, kho tàng, hành lang quan trọng của chúng ở nội địa cũng như ở biên giới. Đặc biệt, việc triển khai khu vực phòng thủ mới và lực lượng trên “tuyến 5 nhà” được tiến hành chặt chẽ, hợp lý, đúng kế hoạch. Đồng thời, Quân đoàn triển khai nhiều mặt công tác như điều tra, nghiên cứu nắm tình hình địa phương, chuẩn bị lực lượng, bồi dưỡng cán bộ, quán triệt nhiệm vụ chính trị cho các đơn vị, tổ chức các hội nghị chuyên đề rút kinh nghiệm chỉ đạo chiến đấu. Quân đoàn tổ chức lực lượng xuống các vùng sâu, các tỉnh Puốcxát, Kanđan, đưa các đội công tác xuống các xã làm công tác huấn luyện, các đơn vị trực thuộc đảm nhiệm từng địa bàn cụ thể.

Trong khi vừa tác chiến, vừa giúp Bạn xây dựng và chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ, Quân đoàn luôn chấp hành nghiêm chính và sáng tạo mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên. Đồng thời thực hiện tốt chức năng của đơn vị chủ lực cơ động và chức năng đội quân công tác. Trong thời gian ngắn, Quân đoàn giúp lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia xây dựng, củng cố và phát triển chính quyền từ không đến có, từ yếu đến mạnh, từ cơ sở xã, ấp đến huyện, tỉnh. Chính quyền của Bạn từng bước phát huy hiệu lực quản lý Nhà nước trong bảo vệ và xây dựng địa phương. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có bước phát triển vượt bậc. Từ một binh đoàn lúc đầu (Binh đoàn 1) đã xây dựng thêm Sư đoàn chủ lực đầu tiên trong cả nước (Sư đoàn 196), mỗi tỉnh có từ một đến hai tiểu đoàn địa phương, mỗi huyện có một đại đội, mỗi xã có một trung đội dân quân du kích. Khả năng chiến đấu của ba thứ quân Bạn ngày một nâng cao, dần dần đủ sức đảm nhiệm được công tác quân sự địa phương ở địa bàn đảm nhiệm.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2021, 06:21:03 am
*
*   *

Nhằm thống nhất giải quyết một số vấn đề về quan hệ ba nước trên bán đảo Đông Dương, trong hai ngày 22 và 23 tháng 2 năm 1983, ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã tiến hành Hội nghị cấp cao tại Viêng Chăn Hội nghị ra Tuyên bố khẳng định tình đoàn kết chiến đấu và hợp tác hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân ba nước Đông Dương và tuyên bố ủng hộ thoả thuận giữa hai chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia về việc rút Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Hai chính phủ Campuchia và Việt Nam thỏa thuận: Tất cả Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia sẽ rút về nước sau khi mối đe dọa của các thế lực phản động, cũng như việc sử dụng lãnh thổ Thái Lan để chống nước Cộng hòa nhân dân Campuchia và mọi sự ủng hộ đối với bọn Pôn Pốt và bọn Khơme phản động khác được chấm dứt hoàn toàn; hòa bình, an ninh của Campuchia, đặc biệt là ở biên giới Campuchia - Thái Lan được bảo đảm. Hai chính phủ còn thỏa thuận hàng năm sẽ quyết định việc rút Quân tình nguyện Việt Nam về nước trên cơ sở xem xét tình hình an ninh ở Campuchia.

Ngày 12 tháng 4 năm 1983, Hội nghị bất thường Bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương họp tại Phnôm Pênh bàn về tình hình thế giới và khu vực, nhất là ở bán đảo Đông Dương. Tại hội nghị này, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam thông báo về việc rút Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia trong năm 1983 và sẽ tiến hành vào tháng 5. Theo thỏa thuận giữa Đảng, Nhà nước hai nước Việt Nam và Campuchia, ngày 2 tháng 5 năm 1983, phần lớn lực lượng Quân đoàn 4, gồm 1 sư đoàn và 6 lữ đoàn, trung đoàn ở Campuchia rút quân về nước sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng và nhân dân Campuchia. Đây là đợt rút quân lần thứ hai của ta nhằm thực hiện Tuyên bố về Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia của Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia họp tại Viêng Chăn tháng 2 năm 1983. Đến ngày 31 tháng 5 năm 1983, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam rút quân đợt 2 đã hoàn thành rút quân về nước. Nhân dịp này, Quân đoàn 4 vinh dự được Hội đồng Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăngco, Huân chương cao quý của Cộng hoà nhân dân Campuchia và Hội đồng Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

Nhằm đáp ứng tình hình của Campuchia trong giai đoạn mới, ngày 14 tháng 5 năm 1983, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết số 11/NQ-TW về “Trách nhiệm giúp Bạn mạnh lên, tự đám đương cuộc đấu tranh với địch trong những năm tới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Cách mạng Campuchia tuy có bước trưởng thành đáng kể, nhưng chưa đủ mạnh để tự đảm đương đấu tranh với địch. Nhiệm vụ của ta giúp Bạn còn rất nặng nề và khẩn trương. Trong khoảng 3 - 5 năm trước mắt, ta phải giúp cách mạng Campuchia đạt được mục tiêu chiến lược:

1. Tiếp tục làm cho địch suy tàn đến mức không thể gượng dậy được, không thể bám trụ được trong nội địa lãnh thổ Campuchia.

2. Làm cho Bạn đủ mạnh, dần dần đáp ứng được cuộc đấu tranh với địch, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước trong tình hình như hiện nay.

3. Liên minh chiến lược và chiến đấu Việt Nam. Campuchia được tăng cường trên một thế mới vững chắc hơn.

Để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra, nhất là mục tiêu thứ 2, Đảng ta xác định phải ra sức giúp Bạn mạnh lên cả về chính trị, quân sự và kinh tế, văn hoá, trong đó khâu then chốt nhất là phải giúp Bạn xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và an ninh, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ... về quốc phòng - an ninh, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang và công an mạnh lên cả về số lượng và chất lượng đi tới tự đảm nhiệm cuộc chiến đấu thắng lợi với mọi kẻ địch ở biên giới và nội địa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước”(1).

Bộ Chính trị coi việc giúp Bạn nhanh chóng trưởng thành và tiên lên tự đảm đương được nhiệm vụ tự đấu tranh với địch là yêu cầu cấp thiết và cơ bản. Đó là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có bộ phận Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia.


(1) Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ số 758.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2021, 06:22:24 am
Tiếp theo Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 14 tháng 5 năm 1983, ngày 27 tháng 5 năm 1983, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết số 12/NQ-TW về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia: “Tập trung giúp Bạn hơn hẳn địch vổ số lượng và chất lượng để Bạn nắm chắc lấy công việc của mình, tự đề ra chủ trương, biện pháp và trực tiếp tổ chức thực hiện. Chuẩn bị cho Bạn từng bước tự đảm nhiệm, điều hành mọi nhiệm vụ công tác trong từng đơn vị, từng địa phương huyện, tỉnh, tiến tới đảm nhiệm toàn bộ địa bàn.

Đối với các đơn vị Quân tình nguyện của ta, “có nhiệm vụ phối hợp với Bạn tiếp tục tăng cường hoạt động chiến đấu giữ vững địa bàn được giao; tích cực chủ động trinh sát nắm bám các mục tiêu địch vùng giáp biên, kiên quyết tiến công phá kho tàng, không để địch xây dựng căn cứ lõm trên địa bàn đóng quân; diệt nhiều địch, thu vũ khí, phương tiện chiến tranh, bẻ gãy không cho địch thực hiện ý định phá hoại chính quyền cơ sở Bạn, tăng cường đánh phá hành lang chuyển quân, vận chuyển cơ sở vật chất của địch vào nội địa”(1).

Quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các mặt hoạt động giúp Bạn. Theo phân công của Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Sư đoàn bộ binh 9 (Quân đoàn 4) nhận nhiệm vụ ở lại, phối thuộc Mặt trận 479 giúp Bạn tác chiến bảo vệ tuyến biên giới tỉnh Báttambang. Ở đây lực lượng địch có 2 sư đoàn 980 và 616 chốt chặn ở phía đông và tây Poipét cùng một số trung đoàn khác. Thời gian này, các đơn vị địch không phát triển, quy mô và số lần hoạt động giảm dần. Các hoạt động chủ yếu của chúng vẫn là sử dụng lực lượng nhỏ (từ 10 đến 20 tên) tập kích, quấy phá, dùng hoả lực là chính, kết hợp phục kích, gài mìn...

Âm mưu của địch lúc này là giành quyền làm chủ biên giới, tạo bàn đạp đưa từ 50 đến 60 phần trăm lực lượng chiến đấu vào nội địa, tăng cường các hoạt động quân sự, giành lại 60 phần trăm xã, ấp. Trước âm mưu của địch, Bạn đề xuất ý định tác chiến, đồng thời ta phối hợp chặt chẽ để đạt được mục tiêu là giành quyền làm chủ, củng cố thế trận biên giới lâu dài, vững chắc. Theo dõi sát diễn biến các hoạt động của địch, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Mặt trận 479, Sư đoàn 9 triển khai kế hoạch tác chiến đạt hiệu quả cao, đồng thời làm tốt công tác giúp Bạn xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền cơ sở.

Từ giữa năm 1983, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có bước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đủ sức cùng các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam còn lại đảm đương nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sau khi một số đơn vị Quân tình nguyện đã rút về nước theo đúng kế hoạch, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam luôn coi trọng việc chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức và yêu cầu các đơn vị thực hiện tốt các mệnh lệnh điều động của Bộ, sẵn sàng cơ động, kịp thời đáp ứng yêu cầu chiến đấu trên các địa bàn chiến lược theo đề nghị của Bạn.

Nhiều đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ sâu trong đất Bạn, địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, ăn ở vô cùng khó khăn, nhưng với quyết tâm giúp Bạn đã không quản hy sinh gian khổ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Một số đơn vị thuộc Mặt trận 479, Mặt trận 579, Mặt trận 979 được phân công phối hợp với Bạn bảo vệ hai tuyến đường chiến lược cơ động từ Phnôm Pênh đến tây huyện Mung tỉnh Báttambang gồm đường sắt và đường số 5 vận chuyển liên tục và tuyến đường số 56 vận chuyển theo mùa.

Xác định đường số 56 là tuyến trọng điểm vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược cho các đơn vị đang làm nhiệm vụ bảo vệ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, các đơn vị công binh đứng chân trên tuyến đường vận dụng kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ tích cực sửa chữa, mở đường và tham gia đánh địch bảo vệ an toàn tuyến đường vận chuyển chiến lược theo từng khu vực được phân công. Các đơn vị hoạt động ở khu vực biên giới tổ chức xây dựng hệ thống công sự, chiến hào, trận địa hoả lực tương đối kiên cố, bảo đảm yêu cầu chiến đấu. Trong xây dựng phương án tác chiến, nhiều đơn vị chú trọng nâng cao một bước về kỹ thuật dò, gỡ mìn, hạn chế thương vong cho ta. Đồng thời có biện pháp đề phòng địch liều lĩnh sử dụng chất độc ở các điểm tựa và chốt tiền tiêu; công tác phòng chống hoá học được quan tâm đúng mức.

Theo yêu cầu của Bạn, ta không chỉ giúp Bạn thực hiện tốt 3 mục tiêu chiến lược cách mạng do Đảng Bạn đề ra từ đầu năm 1983, mà trong quá trình giúp Bạn, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta đã không quản khó khăn, gian khổ, kiên trì động viên nhân dân tin tưởng ở cách mạng, củng cố chính quyền, góp phần xây dựng cuộc sống ngày càng ổn định.


(1) Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông BQP hồ sơ số 68.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2021, 06:23:43 am
Trong quá trình giúp Bạn, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta hết sức coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng bộ đội, trước hết là cán bộ, đảng viên thông suốt và nhất trí cao mọi chủ trương, nhiệm vụ giúp Bạn, thực sự gương mẫu về mọi mặt để dẫn dắt cấp dưới cùng thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế vô tư, trong sáng, coi sự nghiệp cách mạng của nước Bạn như sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa bộ đội ta với quân và dân Campuchia, tất cả vì sự nghiệp cách mạng chung của hai nước. Thực sự khiêm tốn, tôn trọng bạn, kiên nhẫn, tận tình hướng dẫn giúp đỡ Bạn tiến bộ, thực hiện miệng nói tay làm, đồng cam cộng khổ cùng Bạn chiến đấu, công tác và sản xuất. Kiên quyết chống mọi biểu hiện tư tưởng nước lớn, ban ơn, xem thường Bạn, tạm bợ, ngại khó ngại khổ, thiếu an tâm làm nhiệm vụ giúp Bạn.

Quán triệt những yêu cầu nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự trực tiếp giúp Bạn, lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị các đơn vị tổ chức thực hiện đúng quan điểm quốc tế chân chính, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và quân đội giao phó, góp phần tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Căn cứ tình hình thực tế và yêu cầu của Bạn, tháng 6 năm 1983, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia “phải tiếp tục tăng cường hoạt động chiến đấu giữ vững địa bàn được giao; tích cực, chủ động trinh sát bám nắm các mục tiêu địch vùng giáp biên, kiên quyết tấn công phá kho tàng, không để địch xây dựng căn cứ lõm trong địa bàn đóng quân, diệt nhiều địch, thu vũ khí và phương tiện chiến tranh, bẻ gãy không cho địch thực hiện được ý định phá hoại chính quyền cơ sở Bạn, tăng cường đánh phá hành lang chuyển quân, vận chuyển cơ sở vật chất của địch vào nội địa...”(1).

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Sư đoàn bộ binh 5 được Mặt trận 779 giao nhiệm vụ phụ trách khu vực biên giới từ Kaomêlai đến Đăngcum, cao điểm 175 nơi địch luôn tiến hành các hoạt động ráo riết cả về quân sự và chính trị. Trên hướng biên giới phía bắc đường số 5, sư đoàn 519 quân Pôn Pốt từng bước lấn sâu vào trong biên giới, có nơi đến 7 kilômét. Trong nội địa địch soi mở nhiều đường hành lang vận chuyển lương thực, trang bị, vũ khí, đẩy mạnh các hoạt động quấy phá và xây dựng lực lượng ngầm trên địa bàn rộng gồm nhiều phum, xã. Hoạt động của địch đã khiến đời sống cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện gặp nhiều khó khăn do việc tiếp tế lương thực, thực phẩm, trang bị không kịp thời. Tuy nhiên, Sư đoàn vẫn nỗ lực phấn đấu, phối hợp với lực lượng Bạn đánh phá các lực lượng ngầm do địch cài cắm trong phum, xã; kết hợp đánh địch hoạt động nội địa, tiến công căn cứ trên tuyến biên giới với huy động dân công xây dựng tuyến phòng thủ biên giới.

Thực hiện chủ trương tiêu diệt địch, Sư đoàn 5 sử dụng Trung đoàn 16, Trung đoàn 174, có sự phối hợp của Trung đoàn 271 Sư đoàn 302 và các đơn vị pháo binh, thiết giáp tiến công mục tiêu Nông Chăn, do 4 tiểu đoàn địch đóng giữ. Sau nửa ngày chiến đấu, bộ đội ta làm chủ trận địa, diệt 274 tên, thu 103 súng, căn cứ Phân khu 205 bị san phẳng, khôi phục lại địa bàn Đãngcum; đồng thời, bộ đội ta tăng cường các hoạt động truy quét địch trong nội địa, hỗ trợ lực lượng Bạn và nhân dân ở 5 huyện vùng bắc tỉnh Báttambang đánh phá lực lượng ngầm và củng cố một bước thực lực cách mạng ở các địa phương.

Cùng với nhiệm vụ giúp Bạn về quân sự, Mặt trận 779 phát động các đơn vị thực hiện phong trào giảm khẩu phần ăn, nhường lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh cứu đói, giúp dân. Các đội công tác xuống phum, xã vận động nhân dân tích cực sản xuất chống đói, giúp dân giải quyết các khâu như thủy lợi, giống, nông cụ, sức kéo. Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1983, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 5 đã giúp dân 30.630 ngày công cấy lúa, khám chữa bệnh cho 167.000 lượt người. Cán bộ, chiến sĩ các đơn vị thuộc các trung đoàn 160, 16, 28 và 174 đến từng phum, xã giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng, tổ chức các đoàn thể phụ nữ, thanh niên, các tổ chức vũ trang từ bộ đội tập trung huyện đến du kích xã, phum phát triển nhanh, mạnh. Nhiều chiến sĩ không biết tiếng Khơme, chưa quen công tác đoàn thể phụ nữ, thanh niên, công tác quản lý hành chính; nhưng với tinh thần trách nhiệm và tình cảm gắn bó với Bạn đã chịu khó học tiếng Khơme để truyền đạt kinh nghiệm cho bạn dễ hiểu khi vận dụng vào thực tế của Bạn. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam, tình hình ở 5 huyện vùng bắc tỉnh Báttambang có bước phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Hai huyện Thmopuốc và Xixôphôn thành lập 5 đại đội bộ đội địa phương, 100% số xã thành lập được chính quyền nhân dân, từng bước tự đảm đương nhiệm vụ quản lý, điều hành, xây dựng cuộc sống, giữ vững trật tự, an toàn ở địa phương.

Mặt trận 779 hoạt động trên chiến trường rộng, xa hậu phương, các đơn vị hậu cần, kỹ thuật luôn cố gắng bảo đảm những nhu cầu thiết yếu phục vụ chiến đấu và sinh hoạt của bộ đội. Ở các đơn vị bộ đội tình nguyện phong trào tăng gia sản xuất, chăn nuôi gia cầm, đánh bắt cá, trồng rau xanh, trồng cây lương thực phát triển góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn, đảm bảo sức khoẻ cho bộ đội. Ngoài ra, bộ đội ta còn khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, xây dựng nhà ở, kho tàng, hội trường, bệnh xá... tạo điều kiện ổn định nơi ăn, ở, sẵn sàng cùng Bạn cơ động chiến đấu.

Không chỉ giúp Bạn xây dựng cuộc sống ấm no, tự đảm đương nhiệm vụ mà công tác giáo dục, văn hoá cũng được Đảng và Chính phủ ta đặc biệt quan tâm. Theo quan điểm giúp Bạn toàn diện, ngày 4 tháng 5 năm 1983, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 552/CT-QP về “Giao nhiệm vụ tổ chức lớp đào tạo giáo viên văn hoá tiếng Việt sang giúp Campuchia”. Chỉ thị nêu rõ: Bộ Quốc phòng ta giúp Bạn từ tổ chức lớp, nội dung giảng dạy đến việc đảm bảo mọi nhu cầu vật chất trong thời gian bạn học tập. Số lượng giáo viên ta giúp Bạn đào tạo tuy không nhiều nhưng với điều kiện khó khăn như đất nước Bạn thì số cán bộ này sẽ là nguồn bổ sung rất quý vào hàng ngũ cán bộ Bạn sau này.


(1) Hồ sơ lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng - cặp số 14, B1, tr.43.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2021, 06:25:17 am
Những tháng cuối năm 1983, các đơn vị Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 579 tiếp tục giúp Bạn củng cố các đại đội hai chức năng ở huyện và các tiểu đoàn làm nhiệm vụ lâu dài ở các tỉnh. Với lực lượng chủ lực, ta giúp kiện toàn Trung đoàn 18 đủ quân số là 1.558 người; thành lập Trung đoàn 19 đứng trong đội hình Sư đoàn 307 Quân tình nguyện Việt Nam. Với cách làm đó, lực lượng vũ trang Bạn có bước phát triển tương đối nhanh. Riêng ở 4 tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia, từ một Tiểu đoàn Giabôk có 20 đội vũ trang công tác với 588 đồng chí, đến cuối năm 1983 đã có 10.109 đồng chí, tăng 17 lần, gồm 697 cản bộ từ xã, trung đội đến tỉnh đội, nhiều cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần và một số cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật, giáo viên các trường. Đội ngũ cán bộ Bạn phần lớn được trưởng thành qua thực tế các phong trào quần chúng và qua chiến đấu.

Được sự giúp đỡ tích cực của ta, Bạn đã tổ chức lực lượng cán bộ bên cạnh cơ quan Mặt trận 779 để bồi dưỡng, thực tập, làm cơ sở cho việc thành lập Quân khu 1 sau này. Các tiểu đoàn Bạn được bố trí xen kẽ vào các trung đoàn Quân tình nguyện, các đại đội huyện xen kẽ với các tiểu đoàn địa bàn của ta để thực hiện giai đoạn “ta Bạn cùng làm”, chuẩn bị điều kiện để “Bạn làm ta giúp”, ở một số địa bàn, ta rút quân về tập trung tăng cường hoả lực và tranh thủ huấn luyện cơ động đánh địch.

Với tình cảm đoàn kết, gắn bó, vào những dịp lễ, Tết, ngày truyền thống, Trung ương Đảng Bạn đều cử cán bộ đến thăm hỏi các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của ta. Ngày 27 tháng 7 năm 1983, nhân ngày thương binh liệt sĩ, đoàn cán bộ cao cấp của Nhà nước Campuchia do Chủ tịch Hêng Xomrin dẫn đầu đến thăm thương binh, bệnh binh Việt Nam ở Phnôm Pênh. Đồng chí Hêng Xomrin nêu rõ: “Nhân dân Campuchia mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của Đảng, Chính phủ nhân dân và Quân đội Việt Nam, thực hiện những lời di huấn bất diệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương anh em đã giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng tàn bạo Pôn Pốt, giành thắng lợi lịch sử ngày 7 tháng 1 năm 1979 giúp nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước”(1).

Thời gian này, địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phá hoại; các đơn vị ta và Bạn tăng cường lực lượng, chủ yếu là dân quân tự vệ và dân công, chủ động đánh ngăn chặn địch, đồng thời tranh thủ đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng các khu vực trên tuyến được giao. Mặt trận 979 giúp Bạn tại 8 tỉnh, thủ đô Phnôm Pênh và tiếp nhận ba tỉnh (Côngpông Chnăng, Puốcxát, Báttambang) do Quân đoàn 4 rút về bàn giao lại. Trên địa bàn Mặt trận phụ trách, địa hình phức tạp, thời tiết rất khắc nghiệt, điều kiện ăn ở khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật phát sinh, sức khoẻ của bộ đội suy giảm. Khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, Mặt trận 979 tiến hành điều chỉnh, bố trí lực lượng hợp lý để giúp Bạn chiến đấu đạt hiệu quả cao.

Trên mặt trận biên giới, ở Cô Công, Sư đoàn bộ binh 4 tập trung lực lượng phối hợp với Bạn phán kích địch quyết liệt. Ở Puốcxát, tại các cao điểm 1500, 876, 954, bộ đội ta tổ chức phản kích, khôi phục lại các chốt và giữ vững được các khu vực ta đứng chân. Ngày 24 tháng 9 năm 1983, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 1 Sư đoàn bộ binh 330 bảo vệ đoàn tàu Phnôm Pênh đi Báttambang lọt vào trận địa phục kích của địch ở phía tây Côngpông Chnãng đã hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, bảo vệ an toàn cho đoàn tàu, diệt tại chỗ 16 tên, thu một số vũ khí.

Mặt trận 979 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quét sạch các căn cứ địch dọc tuyến biên giới phía Tây và tập trung lực lượng, đẩy mạnh tiến công địch trong nội địa; đồng thời, giữ vững giao thông, sau khi đánh dứt điểm từng khu vực, đánh trúng chỉ huy, phá căn cứ địch đã thu gom triệt để vũ khí trang bị và các kho tàng của địch giao cho Bạn quản lý, triệt nguồn tiếp tế của địch. Các đơn vị thuộc Mặt trận 979 đã kết hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn thực hiện tiến công về quân sự và đẩy mạnh công tác binh vận; cùng Bạn vận động, tổ chức nhân dân tăng gia sản xuất, từng bước ổn định đời sống. Với những cố gắng to lớn, trong năm 1983, ở nội địa, Mặt trận 979 đã phối hợp với Bạn đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên, thu hơn 1.000 súng các loại, làm nhiều bộ phận chủ lực địch tan rã từng mảng.

Để tăng cường sự lãnh đạo đối với Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, ngày 15 tháng 8 năm 1983, Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 184/QU chỉ định đồng chí Nguyễn Như Ngà, Đoàn phó về chính trị và đồng chí Nguyễn Khánh, Phó ban quân sự bổ sung vào Đảng ủy Đoàn 478. Trước đó, ngày 4 tháng 5 năm 1983 Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 61/VP-QU chỉ định đồng chí Lê Khả Phiêu và đồng chí Mai Xuân Tần bổ sung vào Ban cán sự 719, làm ủy viên.

Ngày 25 tháng 8 năm 1983, đại diện Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam và Campuchia ký Nghị định thư về hợp tác 2 bên và về việc Việt Nam viện trợ vật chất, kỹ thuật, đào tạo cán bộ, cử chuyên gia sang Campuchia trong năm 1983. Nghị định thư gồm 7 điều, trong đó điều 2 đề cập đến chuyên gia quân sự Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia.


(1) Báo Quân đội nhân dân, ngày 27 tháng 7 năm 1983.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2021, 06:27:20 am
Thực hiện Nghị định thư đã ký giữa Bộ Quốc phòng hai nước, ngày 11 tháng 11 năm 1983, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 02/QĐ-QP-K ban hành chức danh và số lượng chuyên gia quân sự của Bộ Quốc phòng nước ta bên cạnh Bộ Quốc phòng Campuchia. Tổng số chuyên gia quân sự là 59 đồng chí. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao cho Đoàn 478 lập danh sách bố trí cụ thể từng chuyên gia quân sự, báo cáo Tiền phương Bộ trước ngày 30 tháng 11 năm 1983 để Bộ duyệt, sau đó, báo cáo Bộ Quốc phòng Campuchia. Đoàn 478 sẽ kiện toàn tổ chức biên chế, hoàn thành trước ngày 1 tháng 4 năm 1984.

Nhằm giải quyết một phần khó khăn trong sinh hoạt cho Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia, nhất là ở vùng biên giới phía Tây, trước đó. ngày 25 tháng 10 năm 1983, Bộ Quốc phòng ta ra Quyết định số 1514/QĐ-QP về “Tăng thêm một phần mức sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ đang hoạt động trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan”. Quyết định nêu rõ, mức phụ cấp được áp dụng cho các sư đoàn 302, 5 và 309 thuộc Mặt trận 479, Sư đoàn 307 thuộc Mặt trận 579 và Sư đoàn 339, Đoàn 9907 thuộc Mặt trận 979. Chính sách, chế độ của Bộ Quốc phòng được thực hiện đã tạo niềm tin, sự phấn khởi để bộ đội tình nguyện tiếp tục giúp bạn hiệu quả.

Từ ngày 16 đến 26 tháng 11 năm 1983, Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị tổng kết công tác đảng, công tác chính trị giúp Campuchia 5 năm (1979-1983). Tham dự hội nghị có đại biểu cơ quan Tiền phương Bộ Quốc phòng, Đoàn 478, các mặt trận 479, 579, 779, 979; các đoàn quân sự tỉnh, tiểu đoàn địa bàn huyện và đại biểu của cơ quan Bộ Quốc phòng; Đoàn 678 Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Đoàn 578 chuyên gia Việt Nam ở Lào, Trường chuyên gia 481, các học viện, trường quân sự Việt Nam có cán bộ quân sự Campuchia học.

Hội nghị đã nghe các báo cáo về công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ giúp Bạn của các mặt trận, Đoàn 478, chuyên gia Trường lục quân tổng hợp của bạn, chuyên gia Sư đoàn 286, báo cáo của một số đoàn quân sự tỉnh, tiểu đoàn địa bàn huyện và tổ phái viên xã. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm 5 năm về công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ giúp Bạn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia đã khẳng định vị trí, vai trò và kết quả đạt được trong nhiệm vụ giúp Bạn; đồng thời chỉ rõ một số vấn đề quan trọng cần tiếp tục phát huy giúp quân đội và nhân dân Campuchia trong thời gian tới.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh 719, ngày 2 tháng 12 năm 1983, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia mở đợt tuyên truyền sâu rộng nhân kỷ niệm 5 năm thắng lợi của cách mạng Campuchia. Chủ đề đợt vận động này là: “Nêu cao lập trường chính nghĩa và chính sách hoà bình của ba nước Đông Dương, đẩy mạnh vận động quốc tế ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia”(1). Tiếp đó, ngày 6 tháng 12, Bộ Tư lệnh 719 ra Chỉ thị số 237/CT-A về “Tổ chức đợt sinh hoạt chính trị quán triệt những quan điểm, tư tưởng của Đảng, thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Bạn của chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia”. Chỉ thị nêu rõ: “Phải tổ chức chỉ đạo chặt chẽ việc kiểm điểm ở Đảng ủy các cấp đến chi bộ để làm cơ sở cho việc kiểm tra, hoạt động và phấn đấu thường xuyên cho từng đối tượng, từng cán bộ, chiến sĩ. Đối với cấp ủy từ tiểu đoàn trở lên và cán bộ cao cấp, trung cấp cần chú ý làm rõ các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của Đảng ta trong nhiệm vụ giúp Bạn, đánh giá đúng về Bạn, về nhân dân Bạn”(2).

Thực hiện các chỉ thị của Bộ Tư lệnh 719, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam triển khai thực hiện nhiệm vụ tiếp tục giúp Bạn xây dựng, tổ chức các cơ sở cách mạng mới, phát triển các tổ chức quần chúng, dựa vào dân, tin tưởng nhân dân, tranh thủ tuyên truyền phát động nhân dân ủng hộ cách mạng, tham gia đánh địch, nhất là phá các tổ chức ngầm của địch. Trên cơ sở đó tập trung xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ở các địa phương của Bạn.

Cuối năm 1983, Ban cán sự 719 tiếp tục được kiện toàn. Ngày 9 tháng 12 năm 1983, Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 289/QN-QU chỉ định đồng chí Đoàn Khuê, Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 làm Phó Bí thư thứ nhất Ban cán sự 719. Tiếp đó, ngày 24 tháng 12, Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 312/QN-QU chỉ định đồng chí Lê Nam Phong, Phó tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 làm ủy viên Ban cán sự 719.

Nhằm phát huy hiệu quả công tác giúp Bạn, ngày 28 tháng 12 năm 1983, Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia và Bộ Tư lệnh 719 gửi điện số 247/B tới các Bộ tư lệnh 479, 579, 779, 979, các trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam và đoàn quân sự giúp Bạn ở các tỉnh về việc cần nắm vững 4 nhiệm vụ của tiểu đoàn huyện, nhanh chóng khắc phục tình trạng một số cán bộ chưa hiểu rõ và thực hiện chưa đầy đủ nhiệm vụ; hoặc có nơi vượt quá phạm vi nhiệm vụ được quy định cho tiểu đoàn, gây ảnh hưởng không tốt trong quan hệ giữa ta với ta và giữa ta với Bạn. Vì thế, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự phải nắm vững quan điểm, thực hiện nghiêm túc 4 nhiệm vụ của tiểu đoàn huyện trong giúp Bạn.

Như vậy, trong năm 1983, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, bổ sung quân số chiến đấu và được bồi dưỡng thêm kinh nghiệm giúp Bạn. Nhìn chung, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tuy còn một số khuyết điểm và có lúc vấp váp, nhưng đã có nhiều cố gắng tập trung giúp Bạn giải quyết những vấn đề lớn như xây dựng lực lượng vũ trang, đánh địch cả ở vùng biên giới và trong nội địa, xây dựng kế hoạch phòng thủ đất nước, tham gia phát động phong trào quần chúng đánh địch cài cắm cơ sở phản động trong dân, giúp Bạn xây dựng đội ngũ cán bộ trương thành, được cán bộ và nhân dân Bạn tin cậy, quý mến và hợp tác trong chiến đấu, xây dựng cũng như các mặt công tác khác.


(1) Báo Quân đội nhân dân, ngày 1 tháng 12 năm 1983.
(2) Tư liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ số 1009.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:13:50 am
*
*   *

Sau những năm nỗ lực hàn gắn vết thương do chế độ diệt chủng Pôn Pốt để lại và đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự, từ năm 1984, Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia từng bước tự đảm đương được những vấn đề trọng yếu của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Cách mạng Campuchia đang có những bước phát triển mới với nhiều thuận lợi cơ bản. về địch, tuy bị ta đánh thiệt hại nặng trên các địa bàn nhưng được sự tiếp sức của các thế lực phản động quốc tế, bọn Pôn Pốt vẫn không từ bỏ âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, phục hồi chế độ diệt chủng. Chúng ráo riết bắt thanh niên, thành lập nhiều đơn vị vũ trang mới, dựa vào vùng biên giới Thái Lan để xây dựng các căn cứ quân sự và dân sự, xây dựng cơ sở trong nội địa, đẩy mạnh hoạt động trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao hòng tạo ra thế hai vùng, hai chính phủ, phản kích giành lại các địa bàn đã mất. Trước tình hình đó, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục phối hợp với Bạn chiến đấu, đánh bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.

Trên hướng Mặt trận 479, ngày 29 tháng 1 năm 1984, Tiểu đoàn 15 đặc công thuộc Sư đoàn 309 tập kích địch ở điểm cao 383, loại khỏi vòng chiến đấu 10 tên, thu 1 đại liên, 1 cối 60mm, 1 súng K63, đốt cháy 12 nhà và nhiều quân trang, quân dụng của địch; ta hy sinh 2 đồng chí, bị thương 6 đồng chí. Ngày 23 tháng 2 năm 1984, Tiểu đoàn 47 tập kích diệt 13 tên địch, thu một số vũ khí, phá sập 3 nhà ở của chúng.

Ngày 14 tháng 4 năm 1984, Sư đoàn 302 được tăng cường hoả lực pháo binh, xe tăng tiến công đánh chiếm căn cứ sư đoàn 912 địch ở Tà Veng, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên, thu 260 súng, 100 tấn đạn, 30 tấn gạo, bắn rơi một máy bay. Cùng ngày, Sư đoàn 5 tiến công căn cứ Trung ương của Sêrêka ở khu vực Sangke, hồ Ampin; Sư đoàn 309 tiến công địch ở bắc Châk. Sư đoàn 196 bạn tiến công địch, giữ chốt khu vực mỏ kim cương ở Tà Sanh.

Cùng với việc giúp Bạn tiến công địch, ta chú trọng giúp Bạn xây dựng thế trận chiến đấu và an ninh; huy động hàng chục vạn quần chúng phát quang ven các trục lộ giao thông quan trọng (56, 58, 68, 69, 5, 6, đường 7 ngang, đường 7 dọc). Mùa khô 1983-1984, riêng tỉnh Xiêm Riệp huy động được 211.591 lượt người với khoảng 1,5 triệu ngày công đắp đường và phát quang các đường số 5, 6. Tỉnh Báttambang huy động 103.000 lượt người sửa chữa đường 10, đường 58, làm mới đường từ Baven đi nam Sấp dài 92 kilômét, chặt 12.000 cây gỗ làm cầu và 43 cống. Chính quyền Bạn tương đối ổn định, 80% chính quyền các cấp quản lý và nắm chắc được dân, duy trì các hoạt động điều hành công tác hàng ngày.

Đối với Mặt trận 579, địa bàn hoạt động của các đơn vị rất phức tạp bởi đây là nơi tiếp giáp cả ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Tại đây, Mặt trận có nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, giữ vững địa bàn được giao, giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng nhằm ổn định đời sống nhân dân. Các đơn vị đã tổ chức lực lượng giữ vững địa bàn, đồng thời đẩy mạnh hoạt động truy quét tàn quân địch. Với nhiều trận đánh lớn, nhỏ và vận dụng nhiều hình thức đánh địch phong phú, các đơn vị đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, giúp Bạn giữ vững địa bàn, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Ngày 6 tháng 1 năm 1984, Tiểu đoàn 409 tập kích địch ở tây bắc biên giới Campuchia - Lào, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên, thu 1 súng B41, phá 12 nhà ở, 1 cối 60mm và nhiều quân trang, quân dụng. Ngày 3 tháng 3 năm 1984, Đội 4 (Đoàn 382) tổ chức một bộ phận trinh sát vũ trang gồm 15 người, do Đại đội trưởng Trần Minh Quý chỉ huy, phục kích địch trên hành lang từ biên giới vào nội địa, loại khỏi vòng chiến đấu 30 tên. Ngày 10 tháng 3 năm 1984, Đoàn 382 tập kích căn cứ “lõm” của địch ở Bua, phá hủy 4 nhà bạt và toàn bộ căn cứ. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 4, Đoàn đánh 2 trận, loại khỏi vòng chiến đấu và làm bị thương hàng chục tên, thu 2 súng AK, phá 1 đại liên. Tiếp đó, ngày 12 tháng 5, Đoàn 382 đánh địch trên hành lang, diệt 15 tên, thu 6 súng. Từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 20 tháng 7, Đoàn tổ chức đánh địch liên tục 6 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên, thu 2 súng. Những trận chiến đấu thắng lợi của Đoàn 382 góp phần làm giảm mật độ hoạt động quấy phá của địch ở khu vực Bua.

Cùng thời gian này, lực lượng pháo binh hỗ trợ Quân tình nguyện thuộc Sư đoàn bộ binh 315 và 2 trung đoàn bộ binh (2 và 307) tiến công căn cứ tiền phương Bộ Tổng tham mưu của Pôn Pốt (khu vực cao điểm 547) và sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 612 (khu vực đền Prếtvihia) loại khỏi vòng chiến đấu 374 tên, chế áp 5 trận địa súng cối, bắn cháy 2 kho đạn, thu 135 súng các loại.

Song song với nhiệm vụ giúp Bạn đánh địch, bảo vệ chính quyền, Mặt trận 579 giúp Bạn tổ chức huấn luyện 10.125 cán bộ cơ sở (xã, ấp); tập huấn bồi dưỡng 1.659 cán bộ từ tiểu đội đến đại đội; giúp Bạn vận động, thuyết phục, kêu gọi hơn 600 người trở về với cách mạng. Qua bồi dưỡng, huấn luyện ta đã giúp Bạn tự đảm nhận một số nhiệm vụ. Ngoài ra, các đơn vị trên địa bàn đóng quân còn giúp hàng trăm tấn gạo cứu đói cho dân, vận chuyển số dân từ Thái Lan chuyển về an toàn, giúp họ ổn định cuộc sống.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:15:05 am
Các đơn vị Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 579 phối hợp với Bạn phát hiện hàng ngàn tên địch trà trộn trong dân và trong các tổ chức cách mạng, trong đó có nhiều tên giữ chức vụ chủ chốt trong chính quyền và tổ chức vũ trang ngầm của địch ở cấp phum, xã, có một số ở cấp huyện.

Lúc này, căn cứ địch trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan được củng cố và cải tiến trang bị; chúng đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống phá cách mạng Campuchia bằng nhiều thủ đoạn, tổ chức lực lượng nhỏ theo từng toán có trang bị hoả lực, đánh vào một số chốt của ta ở Ba Biên (nhất là ở khu C, nơi Trung đoàn 142 chiếm giữ). Quân địch tích cực luồn lực lượng về nội địa hoạt động 2 mặt ở Sầm An, Chisen, Chép, bản Beo, bản Kẽm, Rôpênh, đông Pơlách; chúng đánh mìn, phục kích, gây khó khăn cho ta trong việc vận chuyển.

Để nâng cao hiệu quả đánh địch của các đơn vị bộ đội Bạn và Quân tình nguyện của ta, tháng 1 năm 1984, Bộ tăng cường hai đoàn đặc công A5 và A9 cho Bộ Tư lệnh 479. Đoàn A5 là Tiểu đoàn 51 của Trung đoàn 780, lực lượng gồm 3 đội và các phân đội trực thuộc. Đoàn A9 là Tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 113, lực lượng gồm có 4 đội và các phân đội trực thuộc. Sau thời gian làm công tác tổ chức, huấn luyện bổ sung, ngày 19 tháng 2 năm 1984, hai đoàn hành quân sang Campuchia nhận nhiệm vụ ở khu vực bắc và tây bắc hai tỉnh Báttambang và Xiêm Riệp. Như vậy, lực lượng đặc công thuộc Mặt trận 479 gồm các đơn vị A5, A9 và các tiểu đoàn 13, 14, 15, 47. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1984, lực lượng đặc công phối hợp với Bạn mở các chiến dịch tiến công đánh chiếm một số căn cứ lớn của địch trên tuyến biên giới phía Tây do Mặt trận 479 đảm nhiệm.

Thời gian này, mặc dù bị thất bại nặng nề nhưng địch vẫn cố giữ và giành giật với ta các địa bàn quan trọng dọc biên giới. Chúng tập trung chủ yếu vào một số khu vực Tây - Tây Nam (địa bàn Mặt trận 979), phía Tây (địa bàn Mặt trận 479), phía Bắc (địa bàn Mặt trận 579). Thủ đoạn hoạt động của địch là phục kích, gài mìn, đánh phá giao thông, xây dựng các lực lượng ngầm để quấy rối, tung tin gây chiến tranh tâm lý. Trong hoạt động tác chiến, địch thường tập kích vào lực lượng ta quy mô cấp tiểu đoàn (tại Kanđan và Mung), đồng thời sử dụng cối, ĐKZ từ đất Thái Lan bắn vào các khu vực ven biên giới, nơi nghi có lực lượng ta chốt giữ.

Trên hướng Mặt trận 779, những tháng đầu năm 1984, lực lượng vũ trang Mặt trận phối hợp chặt chẽ với Bạn hoạt động thường xuyên tại các khu vực trọng điểm như sư đoàn 920, quân khu trung tâm, sư đoàn 801, sư đoàn 804, sư đoàn 875, sư đoàn 616 và căn cứ của lực lượng Sêrêka ở bắc sông Chinít. Qua các đợt hoạt động, ta tiêu diệt nhiều địch, thu vũ khí, phá kho tàng. Điểm nổi bật là ta giúp Bạn phá tan các tổ chức phản động có vũ trang mới nhen nhóm như nhóm “Voi trắng ngà xanh” của tên Kim San.

Các đơn vị Quân tình nguyện tích cực phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức phát quang các địa hình rậm rạp, có “lõm” căn cứ địch ở Pralay, Kraya (bắc Satông thuộc tỉnh Côngpông Thom), khu vực Tức Sa, Đồi Công, điểm cao 112, 115 (Côngpông Chàm) và một số trọng điểm ven Biến Hồ. Đồng thời chỉ đạo một số đơn vị phối hợp với địa phương mở rộng diện tích đất canh tác đưa dân đến sản xuất như Đôn Thi, Tức Sa nam sông Chinít (Côngpông Chàm). Riêng tỉnh Krachiê trong năm 1984 tổ chức phát quang dọc đường số 13 (đoạn từ thị xã đi Snun) với chiều dài 80 kilômét, chiều ngang từ 200 - 300 mét.

Bên cạnh đó, bộ đội ta còn giúp Bạn phát động phong trào xây dựng thế trận chiến đấu, xây dựng các phum, xã và cụm phum, xã chiến đấu, tạo thế liên hoàn để đánh địch có hiệu quả. Tại 5 tỉnh thuộc Mặt trận 779, ta và Bạn xây dựng được 408/483 xã chiến đấu theo mô hình liên hoàn, 209 xã xây dựng hoàn chỉnh gồm công sự, vật cản nổ và không nổ, tổ chức diễn tập theo các phương án chiến đấu.

Ngày 31 tháng 3 năm 1983, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 07/NQ-QUTW “Về tăng cường liên minh chiến lược và chiến đấu Việt Nam - Campuchia”. về phương hướng nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, nghị quyết nêu rõ: Trong khoảng 3 - 5 năm tới, chúng ta phải giúp cách mạng Campuchia phấn đấu đạt được 3 mục tiêu chiến lược:

“1. Tiếp tục làm cho các loại tàn quân và phản động Campuchia, nhất là tàn quân và phản động Pôn Pốt, tiếp tục tan rã và suy tàn.

2. Xây dựng lực lượng cách mạng Campuchia lớn mạnh về mọi mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước, trở thành lực lượng quyết định thắng lợi cuối cùng của cách mạng Campuchia, tạo điều kiện cho Quân tình nguyện Việt Nam tập trung xây dựng thành lực lượng cơ động khu vực và cơ động chiến lược chung.

3. Tăng cường liên minh chiến lược, chiến đấu Việt Nam - Campuchia một cách toàn diện, vững chắc hơn và mạnh hơn trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, chống mọi kẻ thù...”(1).


(1) Biên niên sự kiện hoạt động của Đảng, Nhà nước, quân đội, chuyên gia Việt Nam - Campuchia. Tập III, 2008. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 219.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:16:33 am
Ba mục tiêu chiến lược trên đây thể hiện hướng tiến lên của cách mạng Campuchia, là phương hướng tăng cường liên minh chiến lược chiến đấu Việt Nam - Campuchia; đồng thời là những nội dung cơ bản của nhiệm vụ quốc tế mà Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia phải thực hiện.

Trong các tháng 4, 5 và 6 năm 1984, địch tiếp tục chống phá cách mạng Campuchia. Chúng củng cố các căn cứ, hậu cứ, kho tàng ở biên giới và bên kia biên giới; mở thêm hành lang, đưa lực lượng vào nội địa hòng khôi phục các căn cứ lõm, đánh phá chính quyền và các tổ chức cách mạng, làm mất ổn định chính trị của đất nước Campuchia. Thủ đoạn của chúng là lợi dụng địa hình rừng núi hiểm trở, phức tạp để giấu lực lượng; đồng thời tổ chức lực lượng từng toán nhỏ lẻ phát hiện dấu vết của ta, gài mìn trên trục hành lang quân ta thường qua lại. Mọi hoạt động của địch không thành quy luật, nơi nào chúng bị đánh, nơi đó tự đối phó, nếu thấy nguy cơ bị tiêu diệt thì tổ chức trốn chạy. Nếu phát hiện lực lượng ta ít và thời cơ thuận lợi, chúng triển khai lực lượng tập kích, bao vây, đánh lén để tiêu hao, tiêu diệt ta.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh 719 chủ trương liên tục mở các đợt hoạt động truy quét tàn quân địch cả ở đường biển, trên hành lang, trong các căn cứ “lõm” nhằm bảo đảm an ninh chính trị và mọi thành quả cách mạng của nhân dân. Thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh, các đơn vị Quân tình nguyện tích cực chuẩn bị chiến trường, phương án chiến đấu nhằm tiêu diệt địch, bảo vệ an toàn căn cứ đứng chân.

Trên địa bàn Mặt trận 979 đảm nhiệm, địa hình hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, địch chống phá cách mạng quyết liệt; việc tiếp tế, vận chuyển lương thực đạn dược của ta và Bạn rất khó khăn. Để thực hiện nhiệm vụ giữ vững địa bàn do Bộ Tư lệnh 719 giao, sau khi điều chỉnh lực lượng, các đơn vị thuộc Mặt trận tổ chức nhiều phân đội nhỏ, liên tục lùng sục, truy quét tàn quân địch ở các vùng nông thôn và vùng ven. Với phương châm vừa đẩy mạnh tiến công quân sự, vừa kết hợp với công tác binh vận, cùng lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân kêu gọi binh lính địch trở về với cách mạng, 6 tháng đầu năm 1984, toàn Mặt trận đã kêu gọi được hơn 500 người trở về với cách mạng.

Cùng với các hoạt động trên, các đơn vị thuộc Mặt trận còn chú trọng công tác huấn luyện theo quy định của Bộ, đồng thời giúp đỡ Bạn tổ chức các lớp huấn luyện, tập huấn theo nội dung của từng năm. Trong năm 1983, tại tỉnh Cô Công, ta giúp bạn tổ chức được 14 lớp tập huấn gồm 1.300 người với những nội dung huấn luyện thiết thực, Bạn dễ hiểu và dễ thực hiện.

Ở tỉnh Puốcxát, từ ngày 25 đến 27 tháng 3 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 330 tiến công đánh chiếm căn cứ của trung đoàn 71, 72 địch, loại khỏi vòng chiến đấu 67 tên, thu nhiều vũ khí. Ngày 8 tháng 4 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 330 tiến công địch từ cao điểm 482 ra cửa khẩu 301, làm chủ hoàn toàn căn cứ của Sư đoàn 86 địch. Ở tỉnh Cô Công, đầu tháng 5 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 4 phối hợp với Sư đoàn bộ binh 196 Bạn đánh thiệt hại nặng trung đoàn 11, 12 địch.

Cuối tháng 5 năm 1984, lực lượng pháo binh của Mặt trận 979 sử dụng 18 khẩu pháo xe kéo của Tiểu đoàn 6 và Tiểu đoàn 4 cùng 31 khẩu pháo đi cùng chi viện cho Quân tình nguyện thuộc Sư đoàn bộ binh 330 và Sư đoàn 196 của Bạn đánh chiếm căn cứ Sóc San (sư đoàn 111 quân Pôn Pốt) và cửa khẩu 301 ở phía tây Tà Sanh; địch tan rã từng mảng, ta tiếp tục truy kích, tiêu diệt nhiều tên, thu vũ khí của chúng.

Ở Mặt trận 579, Sư đoàn 315 Quân tình nguyện giúp Bạn trên chiến trường Đông Bắc Campuchia. Địa bàn Sư đoàn phụ trách rộng, bao gồm ba tỉnh Stung Treng, Prếtvihia và Chămpắcxắc (Lào); đời sống nhân dân trong vùng còn nhiều khó khăn, kẻ thù luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng quyết liệt. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của ta khắc phục khó khăn, gian khổ, kiên cường bám trụ cùng quân và dân Bạn giữ vững địa bàn, từng bước ổn định đời sống.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia và của Mặt trận 579, Sư đoàn 315 chỉ đạo, lãnh đạo các đơn vị đánh địch giữ vững địa bàn, thường xuyên có 1/3 lực lượng thay phiên hoạt động trên các khu vực trọng điểm theo yêu cầu của bạn. Sư đoàn xây dựng phương án cùng bạn tổ chức ra quân chiến đấu quy mô cấp trung, đại đội, tiểu đoàn; đồng thời cử các trung đoàn tham gia phối hợp chiến đấu với bạn đạt kết quả tốt. Trung đoàn 165 tham mưu cho bạn nhiều phương án tác chiến đạt hiệu suất cao, phá được một số căn cứ lõm, kết hợp với phát động quần chúng truy quét bọn hoạt động ngầm, bắt và gọi ra tự thú 148 người có liên quan với địch. Trong điều kiện vừa tác chiến, vừa làm công tác địa bàn phân tán, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 315 và các trung đoàn trực thuộc đã tập trung chỉ đạo bảo đảm huấn luyện theo sát nội dung chiến đấu, có phương châm, phương pháp huấn luyện theo yêu cầu giúp Bạn.

Về công tác sửa chữa và bảo vệ các tuyến đường quân sự, Sư đoàn lãnh đạo Trung đoàn bộ binh 143 khắc phục mọi khó khăn về thời tiết khắc nghiệt phương tiện thiếu thốn để làm đường 127 dài 10 kilômét xong trước thời hạn quy định 45 ngày. Trung đoàn bộ binh 142, Trung đoàn bộ binh 733 và Tiểu đoàn 15 công binh hoàn thành xây dựng đoạn đường Mường Mun - Kẽm, dài 104 kilômét và đường 128 B từ Kẽm đi Rôpênh, dài 80 kilômét. Ngoài ra, Sư đoàn còn cử Trung đoàn 143, Tiểu đoàn 15 công binh cùng bạn bảo vệ tuyến đường 13 và đường 126, tạo điều kiện để ta và Bạn tổ chức vận chuyển an toàn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:18:41 am
Thực hiện phương châm đánh đến đâu chốt giữ đến đó, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới vững chắc, thực hành truy quét địch cắt đứt hành lang và địch ngầm trong nội địa, giúp các đơn vị vũ trang Bạn nâng cao khả năng tác chiến đánh địch, Sư đoàn 315 cùng đơn vị vũ trang Bạn tham gia chiến dịch tổng hợp ở khu vực tứ giác 4 huyện Crolanh, Thmopuốc, Pailin, Preynom. Sau một thời gian giúp Bạn, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 315 được rèn luyện thử thách, tích luỹ được một số kinh nghiệm hoạt động nhất định ở nước Bạn, nên quá trình hướng dẫn, tham mưu cho Bạn có nhiều thuận lợi. Bên cạnh đó, lực lượng bạn từng bước trưởng thành và biết hiệp đồng chặt chẽ trong hoạt động chiến đấu cũng như các hoạt động khác.

Trên hướng Mặt trận 479, từ ngày 5 đến 17 tháng 4 năm 1984, Trung đoàn 31 (Sư đoàn 309) chiến đấu phối hợp với Sư đoàn bộ binh 5 tại khu vực bắc Đăngcum, tiến công sở chỉ huy trung đoàn 408 (sư đoàn 519 Pôn Pốt), loại khỏi vòng chiến đấu 45 tên, thu 154 súng các loại.

Tại địa bàn hai tỉnh Báttambang và Xiêm Riệp, địch tăng cường hoạt động xâm nhập nội địa, móc nối với lực lượng hoạt động chống phá cách mạng, khống chế nhân dân và chính quyền Bạn ở cấp xã, âm mưu gây bạo loạn lật đổ ở những nơi có điều kiện. Trước tình hình diễn biến phức tạp, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 phân công Sư đoàn 309 phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn phát động nhân dân cùng đánh lực lượng địch ngầm.

Chiến dịch đánh địch ngầm được mở từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 13 tháng 7 năm 1984, trên địa bàn 9 xã (thuộc 3 huyện) gồm: Bà Vân, Cần Đôn, Sơnưng (huyện Bátđomboong); Lovia, Plây, Maphúc (huyện Môngconrôrây); Xađao, Ôđa Khếp, Prây Mía (huyện Pailin). Tại đây, ta giúp Bạn triệt phá các cơ sở địch ngầm, bắt nhiều tên tay sai gây nguy hiểm cho cách mạng.

Mặt trận 479 giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, huấn luyện Đại đội 135 huyện Pailin trưởng thành nhanh chóng, tham gia truy quét, đánh địch, bảo vệ được điểm tựa và địa bàn được giao. Đồng thời với nhiệm vụ chiến đấu, Mặt trận luôn chú trọng các mặt công tác. Việc phát triển Đảng, củng cố chi đoàn thanh niên được tiến hành thường xuyên và đạt chất lượng, số chi bộ ngày một tăng. Công tác quy hoạch, kiện toàn đội ngũ cán bộ thực hiện thường xuyên, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu. Các lớp bồi dưỡng và tập huấn lý luận chính trị, học tập chỉ thị, nghị quyết cho cán bộ các cấp được tổ chức định kỳ theo nội dung Bộ quy định.

Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng thương bệnh binh thực hiện chính sách đối với liệt sĩ, chế độ khen thưởng, kỷ luật... được Mặt trận quan tâm và giải quyết kịp thời, chu đáo. Cán bộ, chiến sĩ an tâm thực hiện nhiệm vụ, vì vậy, số vụ việc vi phạm kỷ luật quân đội giảm đáng kể.

Đối với các đơn vị thông tin liên lạc, mặc dù trang bị thiếu thốn, chất lượng máy móc, bộ đàm không đảm bảo, song cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị thông tin liên lạc nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, sửa chữa máy móc kịp thời bảo đảm thông tin luôn luôn thông suốt.

Về công tác hậu cần, Mặt trận cung cấp đầy đủ định lượng và tiêu chuẩn ăn, uống, mặc, thuốc men và đảm bảo chữa bệnh cho cán bộ, chiến sĩ chuyên gia và Quân tình nguyện. Lực lượng vận tải tổ chức vận chuyển được một khối lượng lớn hàng hoá quan trọng. Các đơn vị tổ chức tăng gia sản xuất được nhiều lương thực thực phẩm, góp phần bảo đảm tiêu chuẩn và cải thiện đời sống cho bộ đội.

Cán bộ, chiến sĩ làm công tác kỹ thuật nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh; trong điều kiện phụ tùng, vật tư khan hiếm đã phát huy sáng tạo, tích cực thu gom, quản lý, khai thác các loại trang bị và tổ chức sửa chữa kịp thời, bảo đảm tốt xe, máy, trang bị phục vụ công tác huấn luyện và cơ động chiến đấu của các đơn vị.

Trong 6 tháng cuối năm 1984, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 479 đã giúp nhân dân trên địa bàn đóng quân 30 tấn gạo, sửa chữa trên 1.000 ngôi nhà, 318 trường học, đắp 14.245 mét đường, đào 2.500 mét mương, cấy 781 hécta lúa; điều trị bệnh cho 63.000 lượt người dân Campuchia. Phối hợp với các lực lượng tại chỗ của Bạn, các đơn vị tích cực... bám dân, bám đất, thuyết phục, kêu gọi nhân dân không đi theo bọn phản động. Bằng tình cảm, trách nhiệm và những việc làm thiết thực, công tác vận động tuyên truyền thu được kết quả đáng kể, hơn 600 người lầm đường lạc lối đã trở về với cách mạng và được hưởng lượng khoan hồng.

Thực hiện thỏa thuận giữa Đảng và Nhà nước hai nước Việt Nam - Campuchia, ngày 23 tháng 6 năm 1984, các lữ đoàn 688, 689, Trung đoàn 550 và một số tiểu đoàn độc lập Quân tình nguyện Việt Nam được lệnh rút quân về nước. Đây là đợt rút quân thứ ba một bộ phận Quân tình nguyện ở các tỉnh miền Tây và Tây Bắc Campuchia về nước. Tại cuộc mít tinh tiễn Quân tình nguyện Việt Nam ở xã Bavét, huyện Chăntria, tỉnh Svâyriêng, đồng chí Hêng Xomcay - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tinh Svâyriêng nêu rõ: “Truyền thống đoàn kết Việt Nam - Campuchia đã có từ lâu đời, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cũng như trong nạn diệt chủng, chúng tôi vô cùng biết ơn Bộ đội tình nguyện Việt Nam đã cứu giúp chúng tôi khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước, mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân Campuchia”(1).

Như vậy, trong quá trình giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, giai đoạn từ đầu năm 1983 đến giữa năm 1984, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu vượt qua thử thách và khó khăn nhiều mặt để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Sự giúp đỡ của cán bộ, chiến sĩ ta đối với Bạn ngày càng hiệu quả và Bạn ngày càng trưởng thành, từng bước tự đảm đương nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với ta trong hoạt động chiến đấu cũng như các hoạt động khác. Thành quả đạt được cho thấy vai trò to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong giúp Bạn, đồng thời khẳng định lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia có đủ khả năng tự đảm nhiệm bảo vệ và xây dựng đất nước hồi sinh.


(1) Tư liệu lưu tại lưu trữ Bộ Quốc phòng, B2-01.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:20:22 am
2. Cùng quân và dân Campuchia củng cố thế trận biên giới, đánh bại các thủ đoạn phá hoại của địch

Từ giữa năm 1984, trên biên giới Campuchia - Thái Lan, địch duy trì sức ép quân sự, đẩy mạnh các hoạt động vũ trang khiêu khích. Được sự giúp đỡ của nước ngoài, chúng ra sức phá hoại cách mạng Bạn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Mặt khác, chúng ráo riết tập hợp bọn phản động trong nước và bọn lưu vong, đẩy mạnh hoạt động của FULRO, lôi kéo các phần tử bất mãn, thoái hoá, đẩy mạnh việc đưa lực lượng vào nội địa để mở rộng các hoạt động phát triển cơ sở ngầm và gây bạo loạn.

Tình hình cách mạng Campuchia còn nhiều khó khăn, phức tạp do lực lượng của Pôn Pốt - Iêng Xari vẫn còn ở biên giới và nội địa. Trên chiến trường, các đợt phản kích của địch bị thất bại, kết thúc giai đoạn tranh chấp chiến lược giữa ta và địch. Lực lượng của địch ngày càng bị tiêu hao, các hoạt động tác chiến, phá hoại công cuộc hồi sinh đất nước trên địa bàn nhiều tỉnh giảm đáng kể.

Đến đây, thực lực cách mạng của Bạn (Đảng, chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang) đã phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng, nổi bật là sự phát triển của lực lượng vũ trang và bán vũ trang. Lực lượng này đã được thử thách và lớn mạnh qua chiến đấu với địch ở mặt trận biên giới cũng như trong nội địa. Bộ đội chủ lực được xây dựng theo hướng từng bước phát triển thành những đơn vị lớn, có các binh chủng kỹ thuật cần thiết như pháo binh, công binh, thiết giáp, không quân, hải quân. Bộ đội địa phương ngày càng trưởng thành. Nhiều tiểu đoàn, đại đội độc lập được thành lập ở các tỉnh, huyện, sức chiến đấu ngày càng cao.

Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có sự hỗ trợ của Quân tình nguyện Việt Nam đã đánh tan một loạt căn cứ của địch, đẩy lực lượng Pôn Pốt và “chính quyền ba phái” lùi sâu sang biên giới Thái Lan (phá tan 16 căn cứ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên và lực lượng địch ngầm ở nội địa), xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Cùng với sự phát triển của lực lượng vũ trang, 3 phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân (đánh địch, sản xuất, xây dựng thực lực cách mạng) phát triển sôi nổi và ngày càng rộng khắp. Trong phong trào quần chúng xuất hiện nhiều nhân tố mới rất cơ bản, tạo thuận lợi cho quá trình Bạn tự đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước.

Nhằm tăng cường giúp Bạn xây dựng cơ sở, ngày 10 tháng 7 năm 1984, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia ra nghị quyết chỉ rõ: “Giúp Bạn trong công tác phát động quần chúng, xây dựng 3 phong trào cách mạng phải phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các ngành giúp Bạn tiếp tục vận động quần chúng, đưa 3 phong trào cách mạng đi vào chiều sâu, trở thành phong trào thường xuyên, liên tục và mạnh mẽ; trên cơ sở đó mà chống luận điệu chiến tranh tâm lý của địch một cách hiệu quả, chống các hiện tượng cầu an, tiêu cực trong bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang Bạn và cũng trên cơ sở đó mà đẩy mạnh xây dựng Đảng, Đoàn, củng cố chính quyền các cấp...”(1).

Quán triệt nghị quyết trên, các phái viên, đội công tác, chuyên gia quân sự của Mặt trận 979 đi sâu xuống cơ sở cùng Bạn tổ chức các lớp học cho quần chúng ở phum, xã, tổ đoàn kết sản xuất. Nội dung chủ yếu là 5 bài chính trị cơ bản của Trung ương Bạn; trong từng thời gian bổ sung những vấn đề mới cho phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước. Qua học tập, nhân dân Bạn nhận thức được tình hình và nhiệm vụ của quần chúng, sôi nổi tham gia các phong trào sản xuất, chiến đấu và xây dựng thực lực cách mạng vững mạnh.

Trên cơ sở thực lực cách mạng Bạn có bước phát triển lớn, ta tập trung giúp Bạn để Bạn mạnh hơn hẳn địch về số lượng và chất lượng. Từ đó Bạn chủ động nắm lấy công việc của mình, đề ra chủ trương, biện pháp và trực tiếp tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả điều hành mọi công tác trong từng đơn vị, từng địa phương huyện, tỉnh, tiến tới đảm nhiệm toàn bộ địa bàn thay thế cho lực lượng bộ đội Việt Nam rút ra cơ động.

Để tạo nguồn bổ sung đội ngũ cán bộ Bạn, Mặt trận 979 giúp Bạn tổ chức, lựa chọn cán bộ ưu tú đưa lên cấp trên hoặc đưa ra nước ngoài học tập, tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ Bạn về kỹ thuật, chiến thuật về năng lực quản lý, chỉ huy điều hành công việc ở cấp cơ sở, từ tiểu đội đến tiểu đoàn, huyện đội. Đồng thời tổ chức chấn chỉnh, sắp xếp lại biên chế, rút các cán bộ có năng lực ở đơn vị lên, chọn hàng trăm cán bộ từ các đơn vị, cơ quan gửi đi học ở Trường 481 và bồi dưỡng tại Trường Văn hoá của Mặt trận để sau đó trở về cùng cán bộ các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ.


(1) Tư liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, cặp số 3 - Hồ sơ 24


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Mười, 2021, 06:22:22 am
Để đáp ứng tình hình mới, ngày 12 tháng 7 năm 1984, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 228/NQ-TW về: “Tăng cường tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan” nhằm phấn đấu sớm thực hiện 3 mục tiêu chiến lược đề ra, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, tạo thế và điều kiện thuận lợi cho việc đưa lực lượng vũ trang ra thay thế Quân tình nguyện Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Nghị quyết chỉ rõ: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập trung khả năng xây dựng phòng tuyến biên giới và từng bước khép kín biên giới Campuchia - Thái Lan. Các nội dung chính gồm:

1. Bố trí lực lượng vũ trang, tổ chức phòng thủ tuyến biên giới, tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và phân công cho các tỉnh cả nước mỗi tỉnh phụ trách xây dựng và quản lý một đoạn biên giới. Xây dựng hệ thống trận địa của bộ đội trên biên giới, gồm: hệ thống công sự, chiến hào, vật cản; hệ thống trận địa hoả lực, pháo binh, cao xạ và hệ thống vật cản.

2. Xây dựng tuyến ngăn chặn, hệ thống nối liền với các khu vực trận địa bộ đội, hình thành tuyến ngăn chặn khép kín toàn biên giới. Hệ thống vật cản làm bằng hàng rào dây thép gai, mìn, đê, hào, luỹ, rào rấp hầm chông, cạm bẫy”(1).

Ngày 1 tháng 9 năm 1984, Mặt trận 579 nhận nhiệm vụ xây dựng công trình phòng thủ biên giới mang mật danh “K5” nhằm tạo thế trận đánh địch, bảo vệ biên giới, ngăn chặn địch tấn công. Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình K5, lãnh đạo, chỉ huy Mặt trận xác định lấy lực lượng vũ trang làm chủ yếu, lực lượng công binh làm nòng cốt kỹ thuật; phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và liên minh chiến đấu của các lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Mặt trận chỉ đạo tổ chức trinh sát thực địa, xác định vị trí công trình, mô hình vật cản từng đoạn, từng khu vực phòng thủ và các điểm tựa trong khu vực đứng chân để thi công hậu cứ, kho tàng và các hạng mục khác. Sau đó, xây dựng kế hoạch và tổ chức lực lượng tham gia xây dựng, gồm hầu hết các đơn vị chủ lực (ta và Bạn) dọc biên giới, trong đó bộ đội công binh làm nòng cốt.

Để đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, cùng với lực lượng dân công, mỗi tỉnh tổ chức 1 tiểu đoàn dân quân (riêng Côngpông Thơm 2 tiểu đoàn). Trong năm 1984, Mặt trận 579 huy động 228 lượt dân công và 502 lượt bộ đội địa phương với 118.500 ngày công; đồng thời giúp Bạn mở 6 đợt tập huấn (10 ngày) cho 2.000 dân quân, du kích. Qua các đợt giáo dục, học tập, dân quân du kích đã phát huy vai trò bảo vệ trật tự trị an ở thôn xã (34 xã ở Ráttanakiri, 14 xã Stung Treng, 7 xã Mônđônkiri), độc lập đánh địch hiệu quả, được Mặt trận đánh giá cao. Các đại đội vũ trang công tác trở thành lực lượng hoạt động liên xã, vận động quần chúng đánh địch, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, xây dựng thực lực cách mạng Campuchia.

Trong chiến dịch C84 (từ ngày 25 đến 27 tháng 7 năm 1984), một số đơn vị Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 579 cùng lực lượng vũ trang Bạn tiến công, tiêu diệt hoàn toàn các căn cứ của địch ở khu vực điểm cao 547 (M1), diệt 574 tên, thu 500 súng các loại và hơn 500 tấn đạn dược, phá hủy hoàn toàn khu căn cứ của các sư đoàn 612, 616, và 980. Trong trận đánh này, ta và Bạn tổ chức hiệp đồng chiến đấu tiêu diệt 1 căn cứ lớn của địch, phá hủy 1 khu căn cứ cửa khẩu, nguồn nuôi sống và duy trì hoạt động cho hai đầu sư đoàn trong nội địa Campuchia; đồng thời cắt đứt nguồn bổ sung tiếp tế từ bên ngoài vào làm cho địch hoang mang, lo sợ.

Tổng kết rút kinh nghiệm trận đánh, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 đánh giá: “Thắng lợi góp phần củng cố lòng tin cho nhân dân và lực lượng vũ trang Bạn, tạo điều kiện cho bạn phát động quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng và bóc gỡ cơ sở ngầm của địch cài cấy trong dân, thúc đẩy cao trào cách mạng của Bạn tiếp tục phát triển thuận lợi”(2).

Không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Bạn trong chiến đấu, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn giúp Bạn xây dựng, củng cố các cơ sở xã, ấp. Căn cứ vào nghị quyết của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 719 xác định nhiệm vụ chủ yếu trong năm 1984: “Giúp cách mạng Campuchia phát triển đúng hướng, đúng quy luật; giúp Bạn xây dựng thực lực đủ mạnh để làm nòng cốt cho toàn dân Campuchia làm chủ đất nước, đấu tranh với địch, bảo vệ Tổ quốc trong thế trận liên minh chiến lược chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia. Giúp Bạn mạnh lên hơn hẳn địch cả về số lượng và chất lượng để Bạn có thể tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ cách mạng Campuchia với sự hỗ trợ của ta”(3).


(1) Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Nghị quyết số 228, tháng 7 năm 1984. Tư liệu lưu tại thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Tư liệu số 07-B3, Lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.
(3) Nghị quyết số P17, ngày 15 tháng 12 năm 1983 về: Nhiệm vụ giúp Bạn năm 1984 và năm 1985, Tư liệu lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2021, 06:15:58 am
Do nhận thức rõ ở cơ sở ấp, xã là nơi tập trung nhân lực, vật lực, là nơi xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, nơi thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Bạn và là nơi diễn ra cuộc đấu tranh rất phức tạp, quyết liệt để giành dân giữa cách mạng và phản cách mạng ở Campuchia. Nên, Nghị quyết Trung ương lần thứ ba của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã nhấn mạnh việc xây dựng cơ sở, xây dựng ấp, xã vững mạnh là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng. Cũng với tinh thần đó, ngày 21 tháng 9 năm 1984, Bộ Tư lệnh 719 ra Chỉ thị số 166/CT-BTL “Về việc giúp đại đội hai chức năng (bộ đội địa phương huyện) của Bạn nâng cao hiệu lực hoạt động ở ấp, xã”. Chỉ thị quy định, cán bộ Việt Nam được cử sang cùng công tác với Bạn ở đại đội hai chức năng sẽ cùng Bạn nắm vững tình hình, âm mưu và các thủ đoạn hoạt động của địch, có kế hoạch đánh địch và chống chiến tranh tâm lý của chúng; giao cho địa phương xây dựng thế trận quân sự, phương thức đấu tranh chống địch, xây dựng dân quân, xây dựng ấp, xã chiến đấu; nắm vững tình hình của nhân dân để báo cáo lên trên và giúp Bạn tuyên truyền nâng cao trình độ chính trị và giải quyết nguyện vọng của nhân dân, góp phần đẩy mạnh các phong trào cách mạng quần chúng ở địa phương; giúp Bạn phát hiện, bồi dưỡng những người tích cực, ưu tú trong phong trào cách mạng của quần chúng, trong chính quyền nhân dân và các tổ chức quần chúng để phát triển thành đảng viên nòng cốt và cán bộ.

Thực hiện chỉ thị này, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam bố trí lực lượng cùng đại đội hai chức năng ở huyện (bộ đội địa phương huyện) làm nòng cốt trong việc phát động toàn dân đánh giặc, bảo vệ ấp, xã, làm chỗ dựa cho nhân dân làm chủ ấp, xã. Những năm trước, ta bố trí các phái viên ở đội vũ trang công tác, đến nay trở thành một bộ phận của đại đội hai chức năng, góp phần giúp Bạn vận động quần chúng đẩy mạnh 3 phong trào cách mạng ở cơ sở, xây dựng ấp, xã vững mạnh. Nhiều cán bộ ta giúp Bạn đã cùng ăn, cùng ở, cùng hoạt động, cùng Bạn xây dựng thực lực cách mạng và đánh địch hiệu quả.

Xuất phát từ quan điểm “giúp Bạn là tự giúp mình”, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự không tiếc công sức, mồ hôi và xương máu giúp Bạn. Cán bộ, bộ đội ta tuyên truyền giáo dục về chính sách của Đảng và Nhà nước, về nhiệm vụ của người dân Campuchia. Bằng tình cảm và các hoạt động thực tế hàng ngày, cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia quân sự được nhân dân Bạn tin yêu, kính trọng. Việc tổ chức thành công các tổ sản xuất cũng là một thắng lợi trong quá trình giúp Bạn của Quân tình nguyện Việt Nam. Qua tổ sản xuất, người dân bước đầu hiểu được ý nghĩa của lao động tập thể, có trách nhiệm và tình cảm với nhau, cùng phấn đấu để cuộc sống no ấm, hạnh phúc.

Nhờ sự giúp đỡ tận tình của ta, các tổ chức đảng, chính quyền và tổ chức quần chúng của Bạn ngày càng được củng cố và phát triển. Trên địa bàn Mặt trận 479 đảm nhiệm, 80% số xã có đảng viên; Mặt trận 579 có 72%, Mặt trận 779 có 75% và Mặt trận 979 là 67%. 100% xã có tổ nòng cốt, 97% số xã có chi đoàn thanh niên hội phụ nữ. Gần 90% số xã có dân quân, du kích được trang bị súng.

Trên hướng Mặt trận 779, các đơn vị hoàn thành công tác chuẩn bị để từng bước chuyển giao cho Bạn tự đảm nhiệm địa bàn 3 tỉnh Prâyveng, Svâyriêng Côngpông Chàm. Tháng 7 năm 1984, Ban cán sự Mặt trận họp đề ra chủ trương: “Đối với khu vực 3 tỉnh (Prâyveng, Svâyriêng, Côngpông Chàm) phải xây dựng thế ổn định ngày càng vững chắc, phát triển thế làm chủ của nhân dân, đưa phong trào toàn dân đánh địch làm chủ địa bàn thành cao trào truy đánh, triệt tiếp tế; phát động quần chúng tác chiến và binh vận. Trên cơ sở đó, ta và Bạn đẩy mạnh tốc độ phát triển thực lực, củng cố chính quyền, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đối với hai tỉnh Côngpông Thom và Krachiê, hoạt động của địch còn phức tạp. Do vậy, phải bằng phong trào quần chúng kết hợp với hoạt động của lực lượng vũ trang đánh chặn địch, triệt tiếp tế từ ngoài vào và từ trong ra, phá hành lang, tiêu diệt địch khi chúng từ biên giới vào, làm chúng mất sức chiến đấu”(1).

Do cách mạng Bạn đã phát triển, cán bộ Bạn có thể tự đảm nhận nhiệm vụ nên các mặt trận bắt đầu rút cán bộ từ các đơn vị ra để kiện toàn đoàn chuyên gia quân sự tỉnh và các tổ phái viên chuyên gia huyện. Mặt trận 979 tập trung huấn luyện các đại đội, tiểu đoàn bộ đội Bạn đang chiến đấu ở phía trước, đồng thời rút quân theo kế hoạch của trên. Mặt trận 479, Mặt trận 579 giúp Bạn mở lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ bổ sung làm nòng cốt cho các đại đội, tiểu đoàn Bạn, để khi chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, Bạn có thể tự điều hành mọi việc. Mặt trận 779 giải thể 3 trung đoàn bộ binh (742, 744, 115), rút cán bộ từ các đơn vị ra tăng cường cho đoàn chuyên gia quân sự tỉnh và phái viên chuyên gia huyện. Hai tỉnh Prâyveng và Svâyriêng tự điều hành công việc từ tỉnh đến cơ sở phum, xã; ta giải thể hai đoàn quân sự 7706 và 7703, để Bạn tự giải quyết mọi việc. Đến tháng 9 năm 1984, Mặt trận bàn giao tỉnh Côngpông Chàm, giải thể Đoàn quân sự 7702, thành lập đoàn chuyên gia quân sự và các tổ phái viên chuyên gia huyện giúp Bạn.

Trên hướng Mặt trận 979, ngày 28 tháng 7 năm 1984, Bộ Tư lệnh Mặt trận mở đợt hoạt động tác chiến ở khu vực Biển Hồ. Đợt hoạt động này có ý nghĩa then chốt cho toàn bộ hoạt động chiến đấu cuối năm 1984. Nhiệm vụ của toàn Mặt trận được xác định: “Một là, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, đánh bật các đầu đơn vị của địch ra khỏi khu vực Biển Hồ, bảo vệ vững chắc đường 5, đường 6, khu vực đông dân của các thị xã, thị trấn xung quanh khu vực Biển Hồ, quyết tâm làm chủ khu vực Biển Hồ trong mùa khô 1984-1985 và những năm tới. Hai là, tổ chức phát động quần chúng tham gia đánh địch, bảo vệ tính mạng tài sản nhân dân, làm chủ phum, xã”(2).


(1) Tài liệu số 06-B3, Lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.
(2) Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, cặp số 4 - Hồ sơ 8.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2021, 06:16:43 am
Cùng ngày 28 tháng 7, Bộ Tư lệnh 719 ra Chỉ thị số 133/CT về tổ chức, nhiệm vụ của tổ phái viên chuyên gia quân sự tỉnh bố trí ở huyện. Chỉ thị nêu rõ: Để giúp Bạn lâu dài, ngoài việc lựa chọn một số cán bộ để tăng cường cho các đại đội hai chức năng, cần bố trí ở các huyện mà tiểu đoàn địa bàn của ta đã rút đi hoặc đã tập trung cơ động, một tổ phái viên chuyên gia. Nhiệm vụ của tổ là giúp Đoàn trưởng chuyên gia quân sự tỉnh nắm tình hình, giúp cán bộ huyện của Bạn nắm và chỉ đạo ba phong trào cách mạng quần chúng trong huyện, xây dựng cơ quan quân sự địa phương làm chỗ dựa cho cán bộ huyện Bạn khi tiểu đoàn rút đi hoặc tập trung cơ động và Bạn tự đảm đương công việc; nắm tình hình hoạt động, chỉ đạo, hướng dẫn công tác, quản lý cán bộ tăng cường của ta ở các đại đội hai chức năng của Bạn.

Về tổ chức, tổ phái viên gồm 3 cán bộ và một số chiến sĩ phục vụ (4 người). Ba cán bộ gồm 1 chính trị và 2 quân sự, giữ các chức từ tiểu đoàn đến trung đoàn hoặc tương đương trở lên; am hiểu tình hình của huyện, có năng lực, gương mẫu, có uy tín đối với cán bộ Bạn và nhân dân. Các chiến sĩ gồm thông tin, công vụ và nấu ăn. Phương pháp làm việc là mọi công việc đều bàn bạc, trao đổi trong tổ rồi phân công theo chức trách và tự xuống cơ sở hoạt động, giúp Bạn xây dựng về các mặt.

Trong hoạt động tác chiến, ngày 4 tháng 8 năm 1984, Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 31) đánh căn cứ của địch ở phía đông PhnumVia, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên, bắn bị thương nhiều tên khác, thu 12 súng (có 1 khẩu cối 82mm), thu hàng trăm quả đạn cối 82 và cối 60. Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 31 truy kích, đánh đuổi địch ở phía bắc núi Dài, diệt 12 tên, bắt 40 tên, thu 1 súng AK, 35 xe bò. Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1984, Trung đoàn 31 tác chiến 37 lần (trong đó 3 lần cấp trung đoàn thiếu, 8 lần truy quét cấp tiểu đoàn, 10 lần truy quét cấp đại đội), loại khỏi vòng chiến đấu 61 tên, bắt 40 tên, gọi hàng 3 tên, thu 37 súng, trên 6.000 viên đạn các loại, phá hủy hoàn toàn 1 căn cứ cấp tiểu đoàn của địch ồ phía đông Ôđa.

Trên hướng Báttambang, từ tháng 10 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 330 tiến công đánh chiếm lại khu vực cửa khẩu 301, gồm cao điểm 391 và cao điểm 482 (do địch chiếm lại trong mùa mưa 1984). Trong suốt thời gian mùa mưa và đầu mùa khô, địch dùng hoả lực từ phía Thái Lan chi viện, liên tục phản kích cố đánh bật ta, nhưng mọi cố gắng của chúng đều thất bại, ta giữ vững cửa khẩu 301. Kết quả mùa khô 1984-1985, Mặt trận 979 đã loại khỏi vòng chiến đấu 5.135 tên, thu 3.816 súng các loại, 15 xe ô tô, phá hủy 500 tấn vũ khí, đạn dược. Ta làm chủ tuyến biên giới từ Cô Công đến nam Pailin dài 176 kilômét.

Bằng những đòn tiến công mạnh vào các căn cứ quan trọng ngoài biên giới kết hợp với việc truy quét, xây dựng lực lượng cách mạng trong nội địa của lực lượng vũ trang cách mạng, tình hình Campuchia đã biến đổi ngày càng có lợi cho cách mạng. Lực lượng “Liên hiệp 3 phái Khơme” phản động lâm vào thế lúng túng, bị động, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt.

Đến cuối tháng 9 năm 1984, ta và Bạn đã tiến công, tiêu diệt và làm tan rã nhiều địch, giành thắng lợi lớn. Bạn có bước trưởng thành, tự vươn lên làm chủ công việc. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta tiến bộ nhiều mặt, góp phần vào thắng lợi của Bạn, chất lượng chiến đấu tăng, quan điểm, phương pháp giúp Bạn chuyển biến tốt. Nhìn chung, ta và Bạn đã có nhiều tiến bộ trong thực hiện ba mục tiêu chiến lược, bước đầu làm đảo lộn thế trận của địch trên biên giới, làm giảm hoạt động của chúng cả ở biên giới và nội địa. Bạn tự đảm nhiệm được một số huyện, tỉnh khi ta rút.

Nắm thời cơ chiến lược mới, từ mùa khô năm 1984-1985, ta bàn bạc thống nhất với Bạn mở chiến dịch tổng phản công trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, đánh vào các căn cứ sào huyệt của các phái Khơme phản động nhằm tạo thế và lực để Bạn giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh cách mạng, xây dựng lại đất nước.

Theo sự phân công của Bộ Tư lệnh 719, tháng 10 năm 1984, Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 phối hợp với Bạn mở chiến dịch biên giới mùa khô 1984-1985, đồng loạt tiến công các căn cứ chỉ huy “trung ương 3 phái”. Quyết tâm của chiến dịch là dùng lực lượng chủ lực của ta và Bạn lần lượt tiến công đánh chiếm các căn cứ đầu não, căn cứ quân sự của cả 3 phái địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn sinh lực của chúng, thu vũ khí và phương tiện chiến tranh, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch, triệt phá căn cứ “lõm”, cắt đứt hành lang vận chuyển của chúng trong nội địa, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: Sư đoàn 5, Sư đoàn 9, Sư đoàn 302, Sư đoàn 309, Sư đoàn 7, Sư đoàn 179, Sư đoàn 286 (Bạn), Trung đoàn 55, Trung đoàn 43, Trung đoàn 415 tăng thiết giáp, Đoàn A9 đặc công, Đoàn 7704, Đoàn 7705, Trung đoàn 7 và một số đơn vị binh chủng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2021, 06:17:35 am
Cuối tháng 10 năm 1984, các phân đội trinh sát luồn sâu bám nắm tình hình hoạt động, điều tra mục tiêu vị trí phòng ngự của địch. Tiểu đoàn 25 công binh tích cực sửa cầu, làm đường bảo vệ tuyến để các đơn vị vận tải vận chuyển trang bị vũ khí về vị trí tập kết chiến đấu tại Cần Đôn. Các điểm tựa của Trung đoàn 689, Trung đoàn 16 đêm ngày liên tục theo dõi và sẵn sàng chiến đấu khi địch có kế hoạch đánh phá chuẩn bị của ta. Tiếp đó, Trung đoàn 16, Trung đoàn 689 và các tiểu đoàn 25, 27, 29 cùng lực lượng vũ trang và nhân dân Bạn tích cực xây dựng, củng cố tuyến phòng thủ biên giới.

Chiến dịch dự kiến được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn 1 (tạo thế): Làm đường cơ động, đánh chiếm làm chủ khu vực Ôđa, dãy điểm cao 373 mà địch mới khôi phục lại. Giai đoạn 2: Tiến công căn cứ sư đoàn 320. Giai đoạn 3: Phát triển chiến đấu tiến công sư đoàn 474, căn cứ Kaomêlai và một số căn cứ còn lại.

Trước khi chiến dịch diễn ra, ngày 15 tháng 11 năm 1981 Trung đoàn 31 nhận nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu, tiêu diệt sở chỉ huy và căn cứ trung đoàn 909 của sư đoàn 320. Sau đó, phát triển chiến đấu tiến công tiêu diệt và làm chủ các căn cứ của trung đoàn 707, hiệp đồng với các đơn vị bạn đánh chiếm Kaomêlai, đánh bại các đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa, tổ chức rà phá bom mìn, bảo đảm cho các lực lượng thi công các công trình phòng thủ.

7 giờ sáng ngày 9 tháng 1 năm 1985, chiến dịch mùa khô 1984-1985 bắt đầu. Các đơn vị nổ súng tiến công nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch đề ra. Trung đoàn 812, Trung đoàn 96 đánh chiếm và làm chủ cao điểm 297 đến cao điểm 373, sau đó phát triển chiến đấu làm chủ các cao điểm 229, 325, 352. Ngày 31 tháng 1 năm 1985, lực lượng Sư đoàn 309 triển khai theo đúng kế hoạch và ý định của cấp trên. Lúc này, sở chỉ huy Sư đoàn đứng chân tại cao điểm 229. Chiến thuật chủ yếu của địch thời điểm này là tăng cường hoạt động, sử dụng hoả lực mạnh bắn phá, phục kích đường cơ động của ta, luồn lách sâu vào nội địa, tìm hiểu ý định chiến dịch của ta để đối phó.

Trong giai đoạn đánh chiếm mục tiêu, các đơn vị tham gia chiến dịch đã tiêu diệt sư đoàn 320 Pôn Pốt, căn cứ các trung đoàn 907, 903, 901 và tổng hành dinh “trung ương 3 phái” ở Kaomêlai. Sư đoàn 309 sử dụng Trung đoàn 31, có xe tăng thiết giáp yểm trợ, tiến công trên hướng chính. Ngoài ra, Trung đoàn tổ chức một mũi tiến công sang phía tây, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 320 để bắt liên lạc với Trung đoàn 271 ở Sơđa. Ngày 10 tháng 2, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 812) đánh chiếm và làm chủ cao điểm 378 với sự yểm trợ của pháo binh sư đoàn.

6 giờ sáng ngày 12 tháng 2, các trận địa pháo của Sư đoàn đồng loạt nã đạn vào các mục tiêu, sau 40 phút chiến đấu, ta làm chủ căn cứ sư đoàn 320 Pôn Pốt, loại khỏi vòng chiến đấu 39 tên, thu 11 khẩu cối 120 ly, 2 khẩu ĐKZ 75 cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh khác của địch. Sau đó, Sư đoàn 309 tiếp tục tiến công vào mục tiêu căn cứ Tổng hành dinh “Trung ương 3 phái”. Với lối đánh táo bạo, bất ngờ, Sư đoàn nhanh chóng làm chủ hoàn toàn căn cứ Kaomêlai, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, nhiều tên khác bị thương; thu trên 1.000 khẩu súng và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Giai đoạn 1 chiến dịch kết thúc.

Sang giai đoạn 2 của chiến dịch (từ ngày 9 tháng 1 đến ngày 15 tháng 2 năm 1985), ý định của ta và Bạn là thực hiện đánh chắc thắng, tập trung lực lượng hình thành thế bao vây từ phía sau là chính, sau đó thực hiện tiến công từ hai bên sườn kết hợp đột phá chính diện và bao vây ở các hướng khác.

Bộ đội ta phối hợp với Bạn đánh chiếm cao điểm 318 là căn cứ của tiểu đoàn đặc nhiệm 311 (khoảng 200 quân). Căn cứ này được bố trí thành ba cụm từ đỉnh đến sườn cao điểm và khu vực yên ngựa (sở chỉ huy và kho tàng), ngoài ra có các chốt tiền tiêu; hướng phòng ngự chủ yếu là nam và đông nam. Đây là một trong những bàn đạp để địch tung lực lượng vào nội địa hoạt động chống phá cách mạng. Tại đáy, địch có lợi thế là chiếm được nhiều điểm cao, khống chế hoả lực trên diện rộng công sự vững chắc, nhiều vật cản, kể cả mìn; binh lính thông thuộc địa hình. Nhưng chúng phải rải quân trên địa bàn rộng, căn cứ nằm sâu trong nội địa nên dễ bị bao vây, tinh thần binh lính sa sút.

Nắm chắc tình hình địch, theo đúng sự phân công của Mặt trận, Sư đoàn 7 (thiếu Trung đoàn 165) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 3 (Sư đoàn 9), một tiểu đoàn (Trung đoàn công binh 550) và cụm pháo binh chiến dịch. Phương án tác chiến xác định: tập trung binh lực, hoả lực trên hướng tiến công chủ yếu, tổ chức đột phá chính diện kết hợp đánh tạt sườn, hình thành thế bao vây chặt phía tây - bắc, tây - nam, lợi dụng bãi mìn của địch, bố trí thêm bãi mìn của ta ở những nơi không có lực lượng bao vây hình thành thế vây kín; thực hiện đánh chắc, tiến chắc chiếm các điểm cao 200, 318, đưa hoả lực lên chi viện cho bộ binh.

14 giờ ngày 24 tháng 1 năm 1985, các đơn vị xuất phát từ hậu cứ, hành quân cơ giới trên chặng đường dài 800 kilômét. Thời tiết đang mùa hanh khô, thiếu nước ngọt, việc tiếp tế hậu cần cho chiến sĩ gặp nhiều khó khăn, nhưng với quyết tâm cao, 5 giờ ngày 6 tháng 2, các đơn vị vào đến vị trí nổ súng tiến công. Đến 17 giờ ngày 7 tháng 2, ta chiếm được các mục tiêu theo kế hoạch đề ra. Ngày 8 tháng 2, các đơn vị tổ chức thế trận sẵn sàng đánh địch phản kích và tiếp tục truy lùng địch trong khu vực ta làm chủ.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2021, 06:18:26 am
Mặc dù phải cơ động từ xa, đường tiếp cận phức tạp, thời gian tổ chức chiến đấu gấp, địa hình rừng núi rậm rạp, thiếu nước sinh hoạt, công tác bảo đảm khó khăn, song Sư đoàn 7 đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh, phối hợp cùng Bạn nổ súng đúng thời gian, chiếm được mục tiêu, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Sau khi đánh chiếm cao điểm 318, Sư đoàn 7 tiếp tục nhận nhiệm vụ hỗ trợ Bạn tiến công các căn cứ trung đoàn 107, 108 của sở chỉ huy sư đoàn 474 quân Pôn Pốt.

Qua trinh sát, ta nhận rõ thủ đoạn của địch là thường xuyên tung lực lượng ra phục kích, lùng dấu vết của ta, kiểm tra hành lang. Khi phát hiện những hiện tượng có thể bị tấn công, chúng tung trinh sát vào phía sau ta quấy phá, buộc ta phải thay đổi kế hoạch tiến công. Khi bị tiến công, chỗ nào chưa bị đánh, địch nằm im; đồng thời tìm chỗ sơ hở của ta để phản kích bằng hoả lực, nhất là ở cạnh sườn và phía sau. Trên hướng chủ yếu, ngày 12 tháng 2 năm 1985, ta đánh chiếm căn cứ 107, 108 và đường 24, ngày 13 tháng 2, ta tiếp tục đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 474 và cao điểm 329. Với cách đánh tập trung xe tăng, thiết giáp trên hướng chủ yếu, đột phá chính diện, kết hợp với bên sườn, đánh nhanh, tiến chắc, ta thu được kết quả cao.

Trên hướng thứ yếu, ta chiếm được căn cứ sở chỉ huy lúc 7 giờ 45 phút, đánh thiệt hại nặng bọn địch chốt giữ, thu 17 súng. Để chiếm trục đường 24, Trung đoàn 209 tiến quân về hướng tây. Tiểu đoàn 8 cử một đại đội phát triển về hướng đông - bắc, phối hợp với Trung đoàn 165, lực lượng còn lại cùng Bạn chốt giữ, đánh địch phản kích ở căn cứ 107. Ở hướng luồn sâu, ngày 15 tháng 2 các trung đoàn 165, 141 phối hợp cùng bạn tiếp tục truy kích địch. Sư đoàn 7 và Trung đoàn 31 (Sư đoàn 309) hỗ trợ Bạn đánh chiếm căn cứ “Cơ quan đại diện chính phủ ba phái” ở Kaomêlai lúc 11 giờ 30 phút ngày 15 tháng 2 năm 1985.

Chiến dịch kết thúc, ta giúp Bạn chiến đấu tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn sinh lực địch, đánh chiếm cơ quan chỉ huy “Trung ương 3 phái” Khơme phản động; bố trí lực lượng phòng thủ và xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; phá vỡ thế liên hoàn của địch từ nội địa đến biên giới, đẩy tất cả căn cứ của chúng lùi xa khỏi biên giới, buộc chúng phải thay đổi thế bố trí lực lượng, thay đổi phương thức hoạt động. Thắng lợi của chiến dịch đã góp phần tạo điều kiện cho cách mạng Campuchia xây dựng lực lượng và làm chủ nội địa trên thế mạnh. Đây là thắng lợi to lớn và quan trọng của ta trong 7 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp Bạn. Với thành tích trong mùa khô 1984-1985, một số đơn vị Quân tình nguyện đã được Đảng và Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất. Trung đoàn 174, Trung đoàn 16, Trung đoàn 4, Trung đoàn 689 biên phòng, Trung đoàn 28 pháo binh; Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4; Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16; Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 174 được tặng Huân chương Chiến công.

Cùng với thắng lợi oanh liệt trong chiến dịch mùa khô 1984-1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ “S4” ta càng giành thắng lợi lớn. Đầu tháng 11 năm 1984, Sư đoàn bộ binh 5 nhận nhiệm vụ tiến công tiêu diệt căn cứ “S4” của địch. Mục tiêu là đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 519 Pôn Pốt và các trung đoàn 401, 403, 405, 408 lịch trên tuyến biên giới từ cao điểm 171 đến Prâymon. Căn cứ “S4” của địch có hệ thống mìn dày đặc trên một chính diện 7 kilômét và chiều sâu 1 kilômét, ngoài ra, có hệ thống hầm công sự kiên cố. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Sư đoàn tập trung mọi nỗ lực để chuẩn bị cho trận mở màn. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 18 tháng 11 năm 1984.

- Giai đoạn 1 (từ 18 tháng 11 năm 1984 đến ngày 10 tháng 1 năm 1985), ta tiến công tiêu diệt các căn cứ địch ở khu vực Nông Chăn, Đăngkum, Ampin, đánh vào lực lượng Sêrêka. 5 giờ 20 phút ngày 18 tháng 11 năm 1984, Sư đoàn 9 đánh chiếm căn cứ địch ở Nông Chăn, mở đầu chiến dịch.

Sau khi khai thác điểm yếu của địch bố trí trên diện rộng, phòng ngự trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 5 sử dụng Trung đoàn 16, tăng cường một đại đội xe tăng T54, một đại đội công binh phá vật cản, tiến công. Sư đoàn bí mật hành quân đưa lực lượng vào vị trí tập kết chuẩn bị tiến công căn cứ sư đoàn 519 Pôn Pốt ở Prâymon, một trong các mục tiêu quan trọng nằm trong khu vực đánh chiếm đầu tiên của ta trên tuyến Poipét Seăng, Đăngkum, Ampin.

5 giờ 40 phút ngày 25 tháng 12 năm 1984, sau 20 phút bắn pháo chuẩn bị, Trung đoàn 16 và Trung đoàn 4 chia làm hai mũi tiến công căn cứ 403 và Đoàn 405 của địch từ phía tây nam và đông nam. Trung đoàn 174 đánh vu hồi từ phía bắc vào sở chỉ huy sư đoàn 51 của địch. Trung đoàn 16 khắc phục bãi mìn dày đặc, kết hợp dùng ĐH10, dò gỡ để khai thông cửa mở, đưa xe tăng đột kích. Dựa vào công sự phòng ngự, địch chống trả quyết liệt. Trận đánh kéo dài 11 giờ trong ngày. Quân ta chiếm sở chỉ huy địch và hoàn toàn làm chủ trận địa Trong trận này, ta diệt 76 tên, thu 99 súng các loại và 1 kho đạn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2021, 06:19:26 am
- Giai đoạn 2 (từ ngày 9 tháng 1 đến 15 tháng 2 năm 1985); ta phối hợp với lực lượng Bạn chiếm căn cứ địch ở Sơđa, Ôđa, Kaomêlai, Noọng Prư. Sư đoàn 5 được tăng cường Trung đoàn 271 (Sư đoàn 302), Trung đoàn 5 (Sư đoàn 286), 5 xe tăng, 6 pháo 130mm. Nhiệm vụ của Sư đoàn 5 là phát triển chiến đấu, tiến công đánh chiếm Ampin, căn cứ chỉ huy tối cao của lực lượng Sêrêka. Lực lượng bảo vệ căn cứ gồm 2 phân khu 202, 203 và 1 tiểu đoàn, quân số trên 5.000 tên. Trước các đợt tiến công mở đầu chiến dịch của ta, địch dự đoán khả năng bị ta tiến công nên tổ chức phòng thủ chặt chẽ thành nhiều tuyến hệ thống công sự hầm hào vững chắc, liên hoàn. 6 giờ 30 phút ngày 7 tháng 1 năm 1985, pháo của ta từ các hướng bắn chuẩn bị vào tất cả các mục tiêu trong căn cứ.

Trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 16 và Trung đoàn 4 cùng xe tăng, thiết giáp nổ súng tiến công. Trung đoàn 4 cùng Đại đội 6 xe tăng đột phá, nhanh chóng đánh chiếm căn cứ phân khu 203 của địch. Trung đoàn 16 chiếm phân khu 202 và đánh chiếm căn cứ bộ tổng tham mưu Sêrêka. Trung đoàn 689 tiến công từ hướng nam và Trung đoàn 174 cùng một trung đoàn Bạn đánh từ hướng bắc xuống tiếp cận mục tiêu, tạo thế bao vây chặt căn cứ; địch dựa vào công sự vững chắc phản kích quyết liệt, gây khó khăn cho ta.

Trước tình hình đó, Sư đoàn 5 đưa lực lượng dự bị của Trung đoàn 689 tiến công khép chặt thế bao vây. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 thọc sâu đánh chiếm một số vị trí, tạo điều kiện cho Trung đoàn 4 chiếm hoàn toàn các mục tiêu. 9 giờ sáng cùng ngày, đại bộ phận quân địch rút chạy về hướng tây sang đất Thái Lan. Sáng ngày 8 tháng 1 năm 1985, ta làm chủ khu vực căn cứ. Trong trận đánh này, Sư đoàn 5 loại khỏi vòng chiến đấu trên 500 tên, thu 633 súng các loại, đánh chiếm toàn bộ căn cứ quan trọng của địch.

- Giai đoạn 3 (từ ngày 5 đến 11 tháng 3 năm 1985), ta phối hợp với Bạn đánh chiếm căn cứ địch ở khu vực Tàtum và Côla, Đăngrếch. Trung đoàn 4 được lệnh cơ động về Sàmrông, phối thuộc Sư đoàn 302 tiến công căn cứ Tàtum. Chiến đấu trong đội hình của sư đoàn Bạn nhưng cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 4 luôn phát huy truyền thống Đơn vị anh hùng, Tiểu đoàn 1 lập công xuất sắc, góp phần tiêu diệt toàn bộ căn cứ trung ương Mônika, triệt phá hành lang của địch vào hướng bắc tỉnh Xiêm Riệp.

Ngày 2 tháng 3 năm 1985, các đơn vị thuộc Sư đoàn 5 hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, sẵn sàng bước vào đợt cuối cùng của chiến dịch tiến công các căn cứ Kala, Tàlốc. 6 giờ ngày 5 tháng 3, pháo binh của ta chi viện hỏa lực cho Trung đoàn 4 từ hướng đông nam đánh thẳng vào khu vực trung tâm căn cứ Kala. Trung đoàn 174 đánh từ hướng bắc xuống, vượt qua khu tiền duyên của tiểu đoàn 19 địch, phát triển vào căn cứ phân khu 201. Trung đoàn 16 đánh chiếm khu vực Tàlốc. Sau hơn 1 giờ chiến đấu, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ các mục tiêu quy định. Ngay sau đó, Trung đoàn 174 và Trung đoàn 16 tiếp tục phát triển đánh chiếm căn cứ Đăngrếch, Trung đoàn 1 (lực lượng tăng cường) đánh chiếm cao điểm 383 và cao điểm 400 ở bắc Tàlốc. Đến 12 giờ ngày 5 tháng 3 Sư đoàn làm chủ khu vực Kala, Tàlốc, Đăngrếch. Toàn Sư đoàn loại khỏi vòng chiến đấu 107 tên, bắt 2 tên, thu 162 súng các loại. Ngày 11 tháng 3, các đơn vị Bạn làm chủ căn cứ trung ương Mônika tại khu vực Tatum. Ngày 15 tháng 3 năm 1985, chiến dịch kết thúc.

Sau hơn 3 tháng chiến đấu, trong chiến dịch tiến công căn cứ “S4”, bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, ta và Bạn đánh 260 trận, trong đó 14 trận cấp sư đoàn, 20 trận cấp trung đoàn, 90 trận cấp tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 10.077 tên, thu 6.875 súng các loại, bắn cháy 12 ô tô, bắn rơi máy bay, phá hủy nhiều kho tàng và đồ dùng quân sự khác(1). Đánh chiếm, gây thiệt hại nặng bộ tổng tham mưu Sêrêka ở Ampin, tổng hành dinh cơ quan “Trung ương 3 phái” ở Kaomêlai - Noọng Prư, tổng hành dinh cơ quan Mônika ở Tàtum; 3 căn cứ sư đoàn của Pôn Pốt là: 320, 474, 519; 5 căn cứ phân khu (tương đương sư đoàn) của Sêrêka: 201, 202, 203, 204 và phân khu trung tâm, 6 căn cứ cấp lữ đoàn của Mônika.

Những tháng đầu năm 1985, một số đơn vị Quân tình nguyện phối hợp cùng Bạn chiến đấu giành thắng lợi lớn. Từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 7 tháng 3 năm 1985, Sư đoàn bộ binh 307, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 859), Trung đoàn 142 (Sư đoàn 315), Trung đoàn 687, Tiểu đoàn 407 đặc công, Trung đoàn pháo binh 572, Trung đoàn xe tăng 574 của Quân khu 5 cùng Trung đoàn 18 Campuchia tiến công tiêu diệt căn cứ sư đoàn 612 của Pôn Pốt ở Phanen Kăntung. Trong trận này, ta và Bạn đã tiêu diệt 287 tên, bắt 30 tên, thu 168 súng các loại, hơn 100 tấn đạn, 150 tấn gạo và một số trang bị khác.

Cùng với nhiều thắng lợi trên vùng biên giới, ở nội địa, quân tình nguyện tổ chức đánh địch, làm công tác vận động quần chúng, địch vận chiếm được một số căn cứ lõm như Tàben Svay, căn cứ trung ương FULRO ở Bôngviêng, Lalay.


(1) Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động của Mặt trận 479 Quân khu 7 trên chiến trường Campuchia (từ ngày 14 tháng 4 năm 1979 đến ngày 14 tháng 4 năm 1989).


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:15:52 am
Các trận chiến đấu của ta và Bạn trên tuyến biên giới và nội địa đã phá tan toàn bộ căn cứ chiến lược quan trọng của địch, đánh trúng bọn đầu sỏ phản động gây tổn thất nặng nề cho địch, đồng thời tạo thế và lực cho cách mạng Bạn, hệ thống căn cứ điểm tựa và cụm điểm tựa phòng thủ liên hoàn từ trục dọc 34 đông Ba Biên đến trục dọc 30 tây, giáp Xiêm Riệp, nối liền xuống đồn Cô Công. Ta đã đạt mục tiêu khoá chặt quân địch, đẩy lùi chúng về bên kia biên giới Thái Lan, không cho chúng đánh chiếm một số khu vực trọng yếu ở biên giới và tây sông Mê Công, về phía bạn, đã giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, xây dựng được thế trận làm chủ trên toàn tuyến biên giới, mở ra cục diện mới trên chiến trường, tiếp tục đánh địch giành thắng lợi.

Trong thời gian này, Mặt trận 979 đảm nhiệm toàn bộ địa bàn các tỉnh Côngpông Chnăng, Puốcxát và nam Báttambang, tiếp nhận lại Sư đoàn bộ binh 339, Đoàn quân sự 9903, Binh đoàn 2 và lực lượng địa phương các tỉnh. Như vậy, Mặt trận 979 đảm nhiệm 8 tỉnh và thủ đô Phnôm Pênh.

Địa hình Mặt trận đảm nhiệm phức tạp, rừng núi, khí hậu khắc nghiệt, mùa khô thiếu nước, mùa mưa ngập lụt, địch dễ lợi dụng đánh nhỏ lẻ quấy rối ta. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong năm 1985, Mặt trận 979 điều chỉnh bố trí lại lực lượng. Trung đoàn bộ binh 2 Sư đoàn bộ binh 8 nhận nhiệm vụ vào Kos Sala, Trung đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 8 đứng chân ở Chúk (Campốt), Trung đoàn 1 Sư đoàn bộ binh 8 đứng chân ở Pýchnin, Trung đoàn 2 Sư đoàn bộ binh 330 về Amlan, Trung đoàn 1 Sư đoàn bộ binh 330 về bắc Rômía, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 10 Sư đoàn bộ binh 339 và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn thiết giáp 26 về Baican (Puốcxát), Trung đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 330 làm lực lượng cơ động về Phnôm Pênh, Sư đoàn bộ binh 4 và Sư đoàn bộ binh 339 đứng chân tại Cô Công và tây Puốcxát.

Sau khi ổn định tổ chức, biên chế, phân bổ lại địa bàn hoạt động, các đơn vị Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 979 phối hợp với Bạn đánh bại mọi âm mưu mới của địch, kiên quyết đập tan âm mưu thiết lập 2 vùng, 2 lực lượng, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn quân địch. Đồng thời xây dựng thế trận tiến công và phòng thủ vững chắc cả ở biên giới và nội địa, triệt cắt tiếp tế, xâm nhập của địch bằng mọi đường, giúp Bạn xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, thực hiện thắng lợi 2 mục tiêu chiến lược, tiến lên tự đảm đương sự nghiệp cách mạng Bạn như nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng Bạn đề ra.

Cùng với nhiệm vụ giúp Bạn chiến đấu, Quân tình nguyện Việt Nam còn giúp Bạn dò gỡ được hơn 100.000 trái mìn, rào lấp hơn 30 kilômét vật cản; Bạn dò gỡ được gần 40.000 trái mìn và tháo 76.500 chông sắt. Tiểu đoàn 25 công binh khai thác gần 10.000 mét khối đá, xây dựng 2 cầu và tu sửa hàng chục kilômét đường, ngoài ra còn phối hợp với Trung đoàn 16, Trung đoàn 689 xây dựng hai điểm tựa với hàng chục kilômét giao thông hào và nhiều hầm kiên cố; đồng thời tổ chức 24 đại đội xuống các phum, xã cùng Bạn xây dựng cơ sở, tổ chức đánh địch; tham gia hơn 30 trận đánh, loại khỏi vòng chiến đấu 154 tên, bắt 58 tên, gọi hàng 21 tên, thu 113 súng các loại. Các đại đội thuộc Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 16, Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 174 lập nhiều thành tích trong truy quét địch ở nội địa, cùng bạn phát triển phong trào cách mạng ở địa phương.

Trong khi đó, các đơn vị của Mặt trận 579 tích cực hoàn thành kế hoạch công tác huấn luyện được giao. Mặt trận tổ chức thực hiện diễn tập tiểu đoàn chiến đấu tiến công, kết hợp pháo binh và xe tăng có bắn đạn thật. Mặt trận kết hợp bóc gỡ các nhóm địch ngầm tại các xã Thmei, Tàpô, Chrưng huyện Thmopuốc; Buônlây, Namtao huyện Prelep Ple. Trung đoàn 16 phối hợp với Bạn tổ chức nhân dân rào làng xã chiến đấu và huy động hàng chục ngàn ngày công làm đường, phát tuyến bảo vệ giao thông, tổ chức huấn luyện cho dân quân, du kích thành thục chiến thuật chiến đấu bảo vệ làng xã.

Theo thoả thuận giữa Đảng, Nhà nước hai nước Việt Nam - Campuchia, trong năm 1985, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục rút quân về nước. Đây là đợt rút quân thứ 5, gồm 3 lữ đoàn 7703, 7706 và 9906 thuộc Binh đoàn 52. Ngày 2 tháng 4 năm 1985, tại buổi lễ tiễn cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn 52 ở tỉnh Stung Treng, đồng chí Khăm Phanchivông, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh nhấn mạnh: “Tất cả những đổi mới trong đời sống của nhân dân tỉnh chúng tôi không tách rời sự giúp đỡ chí tình đầy hiệu quả của Quân tình nguyện Việt Nam, nghĩa nặng, tình sâu này in đậm trong tâm khảm nhân dân Stung Treng. Nhân dân chúng tôi coi việc được thay mặt cho cả nước tiễn Binh đoàn 52 Quân tình nguyện Việt Nam về nước là niềm vinh dự to lớn cho chúng tôi”(1).

Theo kế hoạch, ngày 4 tháng 4 năm 1985, Lữ đoàn 9906 Quân tình nguyện Việt Nam hành quân trở về Tổ quốc. Tiếp đó, tại thị xã Prâyveng và Svâyriêng, Ban cán sự Đảng, Ủy ban nhân dân cách mạng, Ban chỉ huy quân sự hai tỉnh Prâyveng và Svâyriêng tổ chức mít tinh trọng thể tiễn cán bộ, chiến sĩ các lữ đoàn 7703 và 7706 Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia trở về nước.


(1) Báo Quân đội nhân dân, ngày 10 tháng 6 năm 1985.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:18:17 am
Ngày 18 tháng 4 năm 1985, Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia ra Chỉ thị số 48/CT về công tác mùa mưa 1985 gửi các đoàn chuyên gia tại Campuchia. Chỉ thị nêu rõ, công tác chuyên gia sắp tới phải rất khẩn trương, nhạy bén, không ngừng nâng cao tinh thần đoàn kết và ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh địch và thương yêu, quý trọng nhân dân, nêu gương dũng cảm và lối sống lành mạnh, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ trong mùa mưa, làm cho phong trào dân quân mạnh lên khắp nơi, trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh với địch và xây dựng, phát triển Đảng Bạn, tạo bước chuyển biến có ý nghĩa đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia.

Cuối tháng 4 năm 1985, Bộ Tư lệnh 579 họp với Bộ Tư lệnh khu vực 1, các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang các tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia bàn kế hoạch triển khai thực hiện việc rào tuyến “KT85” có chiều dài khoảng 168 kilômét, trong đó có 3 khu vực rào chốt và 2 khu vực rào ngăn chặn từ đông nam điểm cao 547 đến Núi Cụt và đoạn biên giới giáp Lào với mục đích bảo vệ biên giới, ngăn chặn địch xâm nhập phá hoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá; tạo điều kiện cho Bạn làm chủ nội địa, sẵn sàng đối phó với địch trong mọi tình huống, đẩy mạnh xây dựng đất nước.

Tháng 5 năm 1985, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 39 về nhiệm vụ chung của cách mạng Campuchia. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu rất thiêng liêng của toàn dân, về quốc phòng cần tập trung cùng với Quân tình nguyện Việt Nam kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của địch ở biên giới với đủ thế tiến công cả về mặt chính trị và quân sự. Xây dựng tuyến phòng thủ ngày càng vững chắc và hiệu quả, tạo điều kiện tiến tới kiểm soát toàn tuyến biên giới”(1).

Thực hiện nghị quyết Đảng Bạn, ta giúp Bạn tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới K5. Chỉ riêng trên địa bàn Mặt trận 579, trong năm 1985, ta đã cùng Bạn huy động được 42.200.000 ngày công gồm 42.131 dân công, 22.299 dân quân của 6 tỉnh, thành; 4 sư đoàn chủ lực của Bạn phối hợp với 5 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn công binh Quân tình nguyện Việt Nam tham gia.

Ngày 19 tháng 7 năm 1985, Bộ Quốc phòng Campuchia ban hành Kế hoạch số 10/BQP “Về việc mở các chiến dịch tổng hợp trong nội địa nhằm tiêu diệt và làm tan rã lớn quân địch, bóc địch ngầm, xây dựng thế trận vững chắc”(2). Thực hiện Kế hoạch của Bộ Quốc phòng, các đơn vị Bạn phát động phong trào quần chúng xây dựng cơ sở, xây dựng xã, ấp từng bước tự lực tác chiến cũng như liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau. Lực lượng chủ lực phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương bảo vệ ấp, xã, phát động quần chúng đẩy mạnh công tác binh địch vận và bóc địch ngầm. Bồi dưỡng cho đội ngũ cốt cán từng ấp, xã biết nắm tình hình, phân loại, giáo dục, quản lý quần chúng, đẩy mạnh tác chiến của bộ đội và dân quân, tác chiến tiêu diệt địch.

Với chủ trương vừa giúp Bạn chiến đấu, vừa ổn định tổ chức để Bạn tự làm lấy mọi việc và theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng Bạn, ta giúp xây dựng khung cán bộ của Sư đoàn 196 và 1 trung đoàn bộ binh. Trên địa bàn Mặt trận 779, ta giúp Bạn bố trí hợp lý gồm 9 tiểu đoàn địa phương, 4 cơ quan tỉnh đội, 94 đại đội huyện với tổng quân số 15.387 người, trong đó có 2.687 cán bộ từ trung đội phó trở lên, 11.999 dân quân xã, trang bị 4.640 súng; 31.054 dân quân phum, trang bị 10.588 súng; 3.186 tự vệ xí nghiệp, trang bị 1.959 súng; 1.195 dân quân giao thông, trang bị 901 súng các loại. Được sự giúp đỡ của chuyên gia quân sự và Quân tình nguyện Việt Nam, số đảng viên trong lực lượng vũ trang Bạn tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Năm 1979 mới có 7 đảng viên sinh hoạt ghép với các ngành thì đến tháng 8 năm 1985, lực lượng vũ trang Bạn có 59 chi bộ với 469 đảng viên(3).

Ngoài công tác giúp Bạn tác chiến đạt hiệu suất cao xây dựng lực lượng vũ trang, làm tốt công tác dân vận thúc đẩy các phong trào thi đua của Bạn đi vào chiều sâu, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam còn tổ chức tăng gia sản xuất, đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, bảo đảm sức khỏe cho bộ đội. Các đơn vị luôn giữ nghiêm kỷ luật chiến trường, đoàn kết, gắn bó với đơn vị Bạn, duy trì các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, nâng cao đời sống tinh thần cho bộ đội và sức mạnh chiến đấu của đơn vị.

Những tháng cuối năm 1985, tình hình cách mạng Campuchia ngày càng phát triển thuận lợi, lực lượng vũ trang Bạn phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Ở nhiều đơn vị, Bạn chủ động chỉ huy, chỉ đạo các hoạt động đánh địch và xây dựng đạt hiệu quả cao. Bốn sư đoàn chủ lực của Bạn phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ đội tình nguyện Việt Nam tiến công các căn cứ địch ở biên giới và trong nội địa, gây cho địch nhiều thiệt hại. Có những trận, bạn độc lập tác chiến đạt hiệu suất chiến đấu cao như trận Trung đoàn 7 Sư đoàn 286 tiến công căn cứ Ôbốc (Sêrêka phân khu 102) ở biên giới Campuchia - Thái Lan. Đánh giá tình hình lực lượng của cách mạng Campuchia thời gian này, đồng chí Hêng Xomrin, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia nêu rõ: “Lực lượng cách mạng nước ta hình thành và trưởng thành một bước quan trọng, tự đảm đương hầu hết các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội quốc phòng, là bước chuyển biến mới có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Campuchia”(4).


(1) Tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng Tham mưu, số 1006.
(2) Tài liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ 1032.
(3) Năm 1985, trên địa bàn Mặt trận 779 có 4 tỉnh ủy, 1 ban cán sự, 9 huyện ủy, 116 chi bộ, 1.027 đảng viên.
(4) Phát biểu của đồng chí Hêng Xomrin tại Hội nghị tổng kết hoạt động mùa khô 1984-1985 Tư liệu lưu Văn phóng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:19:54 am
Cùng với việc hỗ trợ Bạn chiến đấu đánh địch trên biên giới và nội địa, chuyên gia quân sự và Quân tình nguyện Việt Nam vận dụng kinh nghiệm trong nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp Bạn trong quá trình vận động quần chúng. Thông qua các cuộc vận động chính trị lớn, quần chúng nhân dân càng tin tưởng đi theo cách mạng. Trên địa bàn Mặt trận 779 đảm nhiệm, Quân tình nguyện và chuyên gia ta phối hợp với Bạn huy động hàng nghìn người tham gia học tập chính trị. Nhờ được học tập, giác ngộ, quần chúng đã tố giác trên 2.000 phần tử hai mặt, tố cáo gián điệp còn cài cắm trong dân. Tại các phum, xã, tình hình trật tự trị an tương đối ổn định, nhân dân tin tưởng hoàn toàn vào cách mạng. Công tác địch vận, vận động địch ra hàng có bước tiến bộ, nhất là ở Konhek, Stung Treng, Prếtvihia, Ráttanakiri. Phong trào hoạt động cách mạng của quần chúng phát triển rộng khắp các tỉnh Bạn.

Sau khi Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07, ngày 26 tháng 8 năm 1985, Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết định kiện toàn Ban cán sự 719 và chỉ định Ban cán sự gồm 7 đồng chí: Lê Đức Anh - Bí thư, Đoàn Khuê - Phó Bí thư thứ nhất, Lê Hai - Phó Bí thư và các ủy viên: Nguyễn Văn Tiện, Vũ Thành, Mai Xuân Tần, Hồ Bá Phúc, Lê Khả Phiêu, Lê Nam Phong.

Để phù hợp với tình hình mới, ngày 1 tháng 11 năm 1985 Ban cán sự 719 ra Chỉ thị số 251/CT về việc chấp hành 10 điều quy định đối với cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam (thay cho 9 điều quy định ban hành năm 1979 để phù hợp với tình hình mới) Tiếp đó, ngày 7 tháng 11 năm 1985, cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh 719 ban hành Hướng dẫn số 264/HK về một số vấn đề công tác đảng, công tác chính trị đối với các đơn vị chủ lực, địa phương và cơ quan, nhà trường làm nhiệm vụ giúp Bạn, cùng Bạn xây dựng cơ sở.

Nhằm giảm bớt khó khăn cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 8 tháng 11 năm 1985, Bộ Quốc phòng quy định tạm thời chính sách đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng thuộc các đơn vị làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Ngoài các khoản phụ cấp đang hưởng như phụ cấp thâm niên, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp chiến đấu (nếu có), các đối tượng được hưởng khoản phụ cấp khu vực và phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt theo mức cao nhất trong nước, bằng 53% tính theo phụ cấp quân hàm đối với người hưởng lương và 52% tính theo phụ cấp quân hàm đối với hạ sĩ quan, binh sĩ. Việc quan tâm của Đảng và Bộ Quốc phòng đã động viên cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam yên tâm thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia.

Nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, ngày 26 tháng 11 năm 1985, Đảng ủy Quân sự Trung ương gửi thư căn dặn: “Nhận rõ trách nhiệm nặng nề đối với sự nghiệp cách mạng của Bạn và sự liên minh đặc biệt giữa hai nước, các đồng chí phải anh dũng chiến đấu, tận tụy công tác, nâng cao ý chí, không lùi bước trước bất cứ khó khăn nào, hết lòng giúp Bạn, làm cho thế và lực của cách mạng mạnh hẳn lên, liên tục chủ động tiến công tiêu diệt địch và làm tan rã quân địch, làm cho thế và lực của chúng suy yếu nghiêm trọng hơn nữa. Tất cả các đơn vị chủ lực và địa phương, cơ quan và đơn vị bất cứ ở đâu đều phải tham gia công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở, giúp dân đẩy mạnh 3 phong trào cách mạng ở địa phương... Các chuyên gia quân sự cần nhận rõ yêu cầu mới một cách sâu sắc, nêu cao ý thức trách nhiệm, thấm nhuần hơn nữa quan điểm quốc tế của Đảng, phấn đấu nâng cao năng lực, rèn luyện phẩm chất, cải tiến phương pháp công tác, chân thành, vô tư, bền bỉ giúp bạn, không bao biện, không buông trôi, lúc nào cũng là tấm gương tốt cho Bạn, lấy sự trưởng thành vững chắc của Bạn làm mục tiêu và hướng nỗ lực cao nhất của mình”(1).

Căn cứ vào tình hình thực tế ở các địa phương và theo yêu cầu của Bạn, tháng 12 năm 1985, Bộ Tư lệnh 719 ban hành Hướng dẫn số 272/HK “Mấy vấn đề đối với bộ đội ta giúp Bạn và cùng Bạn xây dựng trong nội địa Campuchia, trong đó nêu rõ vị trí, vai trò của cơ sở; mục đích của bộ đội ta giúp Bạn xây dựng cơ sở vững mạnh và phương pháp tiến hành công tác giúp Bạn, cùng Bạn xây dựng, củng cố và đẩy mạnh hoạt động các tổ chức ở cơ sở (xã, ấp). Đồng thời xác định việc triển khai hoạt động giúp các lực lượng vũ trang Bạn (gồm bộ đội chủ lực và lực lượng cơ động của các đoàn quân sự tỉnh; các tiểu đoàn địa bàn và tổ phái viên chuyên gia quân sự huyện; kể cả ở cơ quan, trường học, xí nghiệp, kho tàng).

Trong năm 1985, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ta và Bạn đã giành được thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện trên vùng biên giới Campuchia - Thái Lan. Các đơn vị quân tình nguyện đã cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt tất cả các căn cứ lớn của địch ở biên giới và bước đầu xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) đáp ứng yêu cầu bảo vệ đất nước. Đồng thời, ta và Bạn đẩy mạnh truy quét địch trong nội địa, gây cho chúng nhiều tổn thất và đẩy chúng vào tình thế ngày càng khó khăn, suy yếu. Các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã có bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, ngày càng đảm đương được nhiệm vụ chiến đấu và làm công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng. Ghi nhận sự đóng góp của chuyên gia, cán bộ và công nhân Việt Nam trong việc giúp cách mạng Campuchia, ngày 6 tháng 9 năm 1985, tại Phnôm Pênh, Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia tổ chức trọng thể lễ trao tặng Huân chương Lao động và Huân chương Hữu nghị cho 45 chuyên gia, cán bộ và công nhân viên Việt Nam có thành tích xuất sắc giúp cách mạng và nhân dân Campuchia hồi sinh đất nước và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.


(1) Thư Đảng ủy Quân sự Trung ương gủi thư động viên cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ 1447. tr. 3.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:20:29 am
*
*   *

Trong những năm 1981-1985, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp lực lượng cách mạng Campuchia từng bước tạo nên sức mạnh tổng hợp, bố trí thành thế trận ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh địch, hình thành thế chia cắt từ biên giới đến từng cơ sở xung yếu đông dân trong nội địa Campuchia. Dưới lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các quân khu, trực tiếp là Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam, Bộ Tư lệnh 719 và Bộ tư lệnh các mặt trận 479, 579, 779, 979, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia không ngừng tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao sức mạnh và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức Đảng trong cơ quan chuyên gia quân sự các cấp và cán bộ trực tiếp giúp Bạn ở cơ sở. Quân tình nguyện Việt Nam luôn nêu cao phẩm chất cách mạng và năng lực giúp Bạn ở các cấp và cơ sở, đáp ứng yêu cầu cơ bản trong nhiệm vụ giúp Bạn.

Quân tình nguyện đã phối hợp với Bạn đánh nhiều trận, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, thu hẹp phạm vi căn cứ, hạn chế các hoạt động phá hoại của chúng. Tuy nhiên, trong một số trận, ta và Bạn chưa thực hiện diệt được nhiều địch, kể cả đánh căn cứ, triệt hành lang ở biên giới và nội địa. Bọn chỉ huy, đầu sỏ địch chưa bị loại trừ triệt để, hệ thống chỉ huy, thông tin địch còn tồn tại và phát triển. Ta và Bạn chưa thực hiện kết hợp nhuần nhuyễn giữa tác chiến với địch vận; đánh địch với triệt tiếp tế, ngăn chặn hành lang, đánh địch ngoài rừng với bóc địch ngầm trong dân. Việc đánh phá đội quân ngầm kết quả còn thấp. Công tác phát động quần chúng, nắm dân, xây dựng cơ sở còn nặng về diện rộng, thiếu chiều sâu, biện pháp giáo dục nhiều lúc chưa thích hợp với từng đối tượng.

Song nhìn chung, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ phối hợp với Bạn tiến công diệt các căn cứ ở vùng biên giới, truy quét tàn quân địch, đánh bại các thủ đoạn phá hoại của chúng, củng cố thế trận cả trên vùng biên giới và trong nội địa; đồng thời giúp Bạn củng cố xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, xây dựng cơ sở, củng cố chính quyền, góp phần ổn định đời sống nhân dân. Cho đến cuối năm 1985, ở hầu khắp các tỉnh, Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực, tạo điều kiện ổn định tình hình để nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước. Những kinh nghiệm về công tác giúp Bạn trong những năm 1981-1985 và những năm trước đó tiếp tục được Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phát huy hiệu quả trong những năm tiếp theo, góp phần tích cực xây dựng thế trận và lực lượng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia, đồng thời tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:22:40 am
Chương III

TÍCH CỰC XÂY DỰNG THẾ TRẬN VÀ LỰC LƯỢNG,
BẢO VỆ VỮNG CHẮC THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG,
HOÀN THÀNH THẮNG LỢI NHIỆM VỤ QUỐC TẾ Ở CAMPUCHIA
(1986-1989)

1. Giúp Bạn xây dựng thế trận, phát triển lực lượng, đánh bại kế hoạch “chiếm đất, giành dân” của địch.

Bước sang năm 1986, nhân dân Campuchia đã thực sự bước vào công cuộc vận động cách mạng sâu rộng, có tổ chức hệ thống chính quyền thống nhất trên quy mô cả nước và từng bước tự đảm đương được nhiều mặt, trong đó tự tổ chức bảo vệ được phần lớn các thị xã, thị trấn và phum, ấp. Cuộc sống của nhân dân Campuchia từng bước được hồi sinh và dần đi vào thế ổn định.

Mặc dù bị tổn thất nặng trong mùa khô 1984-1985, trong đó bị mất 16 căn cứ ở vùng biên giới, nhưng lực lượng địch vẫn còn khá đông. Chúng đứng chân ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, đồng thời có những “lõm” căn cứ ở nội địa và tiếp tục được các thế lực phản động bên ngoài tiếp sức. Địch âm mưu vừa đẩy mạnh các hoạt động tiêu hao, kìm chân lực lượng ta và Bạn ở vùng biên giới phía Tây, vừa tăng cường lực lượng thâm nhập, chuyến hướng hoạt động vào nội địa, với hy vọng giành dân tạo thế xen kẽ, áp sát đô thị, nhất là thủ đô Phnôm Pênh, chuẩn bị mọi mặt chờ thời cơ phản công giành thắng lợi lớn. Thủ đoạn của địch là dùng mọi biện pháp để khống chế, đe doạ dân, bắt, giết hại cán bộ chính quyền cấp xã, ấp; bí mật xây dựng lực lượng ngầm, cướp của cải, lương thực, bắt thanh niên theo chúng hòng gây hoang mang, làm tan rã chính quyền cách mạng ở cơ sở.

Địch dùng các thủ đoạn hết sức thâm hiểm. Chúng nêu khẩu hiệu “hoà giải dân tộc, hoà bình trung lập” hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Campuchia mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác và gây chia rẽ, phá hoại tình đoàn kết chiến đấu giữa Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam với quân và dân Campuchia.

Đặc biệt, địch đề ra kế hoạch hành động trong 3 năm (1986-1988)(1) nhằm tạo ra thế có lợi cho chúng thực hiện mưu đồ giành quyền kiểm soát trên toàn lãnh thổ Campuchia. Trước mắt, năm 1986, chúng tập trung củng cố lực lượng, thành lập nhiều đơn vị vũ trang mới, phân công lại địa bàn hoạt động, tổ chức soi mở hành lang, xây dựng căn cứ ở vùng ngoại biên, trong đó tập trung xây dựng Biển Hồ thành căn cứ lớn để chống phá quyết liệt cách mạng Campuchia. Năm 1987, thực hiện đưa 80% quân vào nội địa, đẩy mạnh các hoạt động quân sự, tiêu diệt lực lượng cách mạng, giành 50% chính quyền cấp phum, xã; phá hoại kinh tế, chính trị quốc phòng. Năm 1988 là năm then chốt, tập trung nỗ lực cao nhất, lấy nội địa làm địa bàn hoạt động chủ yếu dựa vào lực lượng ngầm và các cơ sở mật đồng loạt nổi dậy toàn phần. Địch hy vọng với sự giúp đỡ tích cực từ bên ngoài, kế hoạch này sẽ được thực hiện từng năm và cuối cùng chúng giành lại quyền kiểm soát trên toàn lãnh thổ Campuchia.

Đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của địch, trong năm 1986, ta và Bạn xác định quyết tâm tập trung mọi nỗ lực cao hơn nữa của Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, thực hiện ba mục tiêu chiến lược do Bạn đề ra với hiệu quả cao trong một thời gian nhất định. Mục tiêu cuối cùng là làm cho lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng lớn mạnh về nhiều mặt, đủ sức đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, làm chủ vận mệnh đất nước Ăngco.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân ủy Trung ương, Hội nghị Ban cán sự Đảng, Bộ.Tư lệnh 719 (5-1985) xác định nhiệm vụ giúp Bạn trong những năm 1986-1990, Trước mắt, trong hai năm 1986 và 1987, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tập trung giúp Bạn giành thắng lợi cơ bản cả ba mục tiêu chiến lược, đưa cách mạng Campuchia tiến tới ổn định vững chắc, Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ. Từ năm 1988 đến năm 1990, ta cùng Bạn tiếp tục đánh cho địch suy yếu tan rã, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và ta chủ động rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước.

Thực hiện chủ trương đó, cấp ủy và chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục bộ đội và tổ chức thực hiện tích cực ở tất cả các mặt trận trên toàn chiến trường Campuchia. Căn cứ tình hình chung và khả năng phát triển của cách mạng Campuchia, từ năm 1986, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị yêu cầu các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam coi trọng việc lãnh đạo công tác tư tưởng, tăng cường giáo dục bộ đội nhận thức sâu sắc đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quân đội ta, kiên trì phấn đấu làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng và nhân dân Campuchia.


(1) Nội dung cơ bản của kế hoạch dựa theo tài liệu của địch do ta thu được.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2021, 06:24:23 am
Tổng cục Chính trị xác định: Các cơ quan, đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự phải quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, tập trung vào nhiệm vụ chính trị trung tâm là giúp Bạn xây dựng cơ sở cách mạng vững chắc ở nội địa, nhằm vào khâu then chốt: nâng cao chất lượng mọi mặt của lực lượng vũ trang Campuchia, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở để không ngừng tăng cường thực lực cách mạng cho Bạn. Mọi hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia đều nhằm tiếp tục tập trung nỗ lực cao nhất giúp Bạn thực hiện tốt ba chủ trương chiến lược:

Một là, làm chủ vùng biên giới ngày càng thêm vững chắc bằng lực lượng tổng hợp, sức mạnh tổng hợp và tất cả phương tiện Bạn hiện có, kể cả ta tiếp tục tăng cường lực lượng khi cần thiết.

Hai là, cùng với Bạn tập trung xây dựng thực lực cách mạng về mọi mặt, trong đó lấy xây dựng cơ sở chính trị và chất lượng chiến đấu của lực lượng vũ trang Campuchia làm khâu then chốt có ý nghĩa quyết định tạo tiền đề đẩy mạnh các mặt hoạt động xây dựng và chiến đấu thắng lợi.

Ba là, tập trung lực lượng tiến công có hiệu quả vào các sào huyệt của địch trên tất cả các hướng, làm cho địch cả ở biên giới và nội địa suy tàn nhanh chóng cả về tinh thần và tổ chức không sao hồi phục được nữa(1).

Năm 1986, lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia có các mặt trận 479, 579, 779, 979 và Bộ Tư lệnh 719. Mặt trận 479 đảm nhiệm giúp Bạn ở hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang (Tây, Tây Bắc Campuchia); Mặt trận 579 giúp Bạn ở 4 tỉnh: Mônđônkiri, Ráttanakiri, Stung Treng, Prếtvihia (Bắc, Đông Bắc Campuchia); Mặt trận 779 giúp Bạn ở 5 tỉnh: Côngpông Thom, Côngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Krachiê (Đông, Đông Nam Campuchia); Mặt trận 979 giúp Bạn ở 8 tỉnh: Côngpông Spư, Côngpông Chnăng, Puốcxát, Campốt, Tàkeo, Kanđan, Cô Công, Côngpông Xom (Nam, Tây Nam Campuchia). Bộ Tư lệnh 719 chỉ đạo, chỉ huy chung toàn bộ các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ chiến đấu và giúp Bạn trên chiến trường Campuchia.

Đến năm 1986, sau hơn 7 năm làm nhiệm vụ quốc tế, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng lực lượng, đánh đuổi tàn quân địch, từng bước xây dựng đất nước Campuchia hồi sinh. Với thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, tháng 1 năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho Mặt trận 479, Mặt trận 779 và Sư đoàn bộ binh 5 thuộc Mặt trận. Phần thưởng cao quý này đã kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ ta nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia do Đảng, Nhà nước ta giao theo yêu cầu của Bạn.

Tháng 1 năm 1986, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 7 Quốc khánh Cộng hoà nhân dân Campuchia, nhiều đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước, các ngành và các tổ chức quần chúng Campuchia đã đến thăm thương binh, bệnh binh Việt Nam đang điều trị tại các bệnh viện ở Thủ đô Phnôm Pênh và một số địa phương. Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Campuchia do đồng chí Hô Nôn - Ủy viên Trung ương Đảng dẫn đầu đến một bệnh viện của Quân tình nguyện Việt Nam tại Phnôm Pênh đã bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đối với Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu quên mình vì sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia, đồng thời chân thành cảm ơn sâu sắc đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử Quân tình nguyện Việt Nam sang làm nhiệm vụ quốc tế cao cả tại Campuchia.

Bên cạnh nhiệm vụ tác chiến và giúp đỡ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng, phát triển thêm một bước về quân số, trình độ chiến đấu, một bộ phận lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được giao nhiệm vụ tiếp tục giúp quân và dân Campuchia xây dựng tuyến phòng thủ, góp phần tăng cường thế và lực để Bạn từng bước tự làm chủ việc bảo vệ vùng biên giới phía Tây Campuchia.

Ngày 6 tháng 1 năm 1986, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 02/QĐ-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tiếp tục giúp Bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới (K5), hoàn thành trước ngày 31 tháng 5 năm 1986; các năm sau củng cố thêm cho vững chắc. Bộ Tư lệnh Công binh trực tiếp chỉ đạo về kỹ thuật và giúp Bạn làm kế hoạch, cung ứng vật tư và quản lý thi công đảm bảo thời gian và đáp ứng về kỹ thuật. Đồng thời Bộ cũng quyết định sử dụng một số đơn vị công binh trực thuộc Bộ, công binh của các quân khu 5, 7, 9 để xây dựng các căn cứ quốc phòng - kinh tế hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 1987.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb QĐND, H, 2000, tr. 995.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười, 2021, 06:12:45 am
Từ ngày 13 đến 15 tháng 2 năm 1986, Bộ Tư lệnh 719 tổ chức hội nghị sơ kết đợt 1 mùa khô 1985-1986; (từ tháng 11-1985 đến tháng 1-1986) và xác định phương hương nhiệm vụ năm 1986. Tham dự hội nghị có các tư lệnh quân khu, tư lệnh và phó tư lệnh quân sự, chính trị và phụ trách K5 của các mặt trận, các cơ quan thuộc Bộ Tư lệnh 719, Đại diện của Bộ Tư lệnh 719, K5 và các mặt trận 479, 579, 779, 979 đã báo cáo về tình hình hoạt động, kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm qua đợt 1 hoạt động trong mùa khô 1985-1986.

Kết. luận hội nghị, đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh 719 nêu rõ: Qua hoạt động đợt 1 trong mùa khô 1985-1986 cho thấy âm mưu ngoan cố, những mặt yếu và thất bại của địch, thấy khả năng to lớn của ta và Bạn; cần tiếp tục thực hiện quyết tâm chiến lược trong 2 năm (1986-1987). Để thực hiện 3 mục tiêu chiến lược phải hình thành được thế bố trí chiến lược mới và hoàn thành 3 chủ trương chiến lược:

1. Làm chủ biên giới, ngăn chặn vùng biên giới ngày càng thêm vững chắc bằng mọi biện pháp tổng hợp và phương tiện tổng hợp của Bạn là chính, ta làm nòng cốt. Đến cuối năm 1987, biên giới vững chắc hơn. Chuẩn bị quy hoạch, điều kiện, hình mẫu để khai thác các công trình chiến đấu cơ bản, lâu dài, sẵn sàng đối phó với chiến tranh quy mô lớn.

2. Giúp Bạn xây dựng thực lực về mọi mặt, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tập trung xây dựng cho được cơ sở, làm chuyển biến tình hình nội địa và nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang. Trong năm 1986 tập trung giúp Bạn củng cố tổ đoàn kết sản xuất, xây dựng ấp đấu tranh chống địch, bảo vệ được mình, huấn luyện cho dân quân chiến đấu, xây dựng các cụm ấp chiến đấu; xây dựng lực lượng dân quân xã chiến đấu và xây dựng đại đội hai chức năng của huyện đánh địch tốt và làm công tác cơ sở tốt.

3. Tăng dần lực lượng chiến đấu hiệu quả, làm cho địch suy yếu hơn nữa, cả địch ngoài rừng và địch ngầm, địch ở biên giới và nội địa; giúp Bạn ngày càng mạnh về thế và lực để từng bước tự đảm đương công việc.

Những tháng đầu năm 1986, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục giúp các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia xây dựng công trình K5. Công trình này dài hơn 600 kilômét, trải dọc tuyến biên giới giữa Campuchia và Thái Lan; được xây dựng gồm các cụm điểm tựa, hình thành từng khu vực phòng thủ, vừa có chính diện, vừa có chiều sâu tương đối vững chắc, trong đó có đầy đủ hệ thống công sự chiến đấu, hào chiến đấu, công sự bảo đảm, hào giao thông, hệ thống vật cản, mạng đường cơ động trong nội bộ cũng như đường cơ động giữa các tuyến, đường cơ động về phía trước, phía sau, đường tuần tra biên giới, bể nước, kho chứa lương thực, vũ khí... bảo đảm cho Bạn tổ chức phòng ngự, bảo vệ vùng biên giới trong thời gian dài.

Công trình phòng thủ biên giới này được khởi công xây dựng từ cuối năm 1984 và đã hoàn thành ở một số khu vực trọng điểm. Nhiệm vụ trong năm 1986 là hoàn thành về cơ bản các hạng mục xây dựng trên phạm vi toàn tuyến để sang năm 1987 tiến hành củng cố bổ sung, tạo được cơ sở vật chất cần thiết cho Bạn làm chủ và kiểm soát được toàn bộ đường biên, bảo vệ vững chắc tuyến phòng thủ biên giới phía Tây. Đây là nhiệm vụ vô cùng nặng nề và khó khăn đối với ta và quân dân Campuchia, bởi đất nước Campuchia còn rất nghèo nàn, nền kinh tế kiệt quệ sau nhiều năm bị chiến tranh và chế độ diệt chủng Pôn Pốt tàn phá. Nguồn nguyên liệu trong nước hầu như không có, đường sá vận chuyển xa. Trong khi đó, địch luôn tìm mọi cách xâm nhập biên giới, tiến hành các hoạt động phá hoại, gây nhiều khó khăn cho ta. Nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ Chính phủ cách mạng và tham gia xây dựng rất tích cực. Bên cạnh đó, nhân dân Việt Nam cũng như nhiều Bạn bè quốc tế quan tâm giúp nhân dân Campuchia xây dựng công trình phòng thủ chiến lược biên giới Campuchia - Thái Lan.

Lực lượng tham gia xây dựng tuyến phòng thủ gồm toàn bộ các đơn vị công binh của các mặt trận 479, 579, 779 và 979, 2 trung đoàn công binh của Bộ (269 và 521), 2 sư đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn công binh của Bạn cùng với sự giúp đỡ tích cực của Quân tình nguyện Việt Nam (10 trung đoàn của 4 sư đoàn) thuộc Mặt trận 479. Các lực lượng này vừa tham gia xây dựng các cụm điểm tựa, vừa chốt giữ bảo vệ biên giới. Ngoài các đơn vị trên, Bạn còn huy động số lượng lớn nhân dân Campuchia tham gia. Trong quá trình xây dựng, Bạn đã huy động tới 32 vạn lượt người, trong đó chủ yếu là dân quân tự vệ, dân công, lực lượng công nhân, viên chức các ngành và địa phương. Các đơn vị triển khai lực lượng trên từng địa bàn và tiến hành xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo từng khu vực được phân công.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười, 2021, 06:13:31 am
Địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang với chiều dài 450 kilômét đường biên do Mặt trận 479 phụ trách được phân chia thành 5 công trường của cả ta và Bạn; trong đó lực lượng thi công chủ yếu là Trung đoàn công binh 548 (Mặt trận 479), Trung đoàn công binh 25 (Quân khu 7) và Trung đoàn công binh 521 (Bộ Tư lệnh Công binh). Có một số khu vực do Bạn phụ trách thi công, ta cử chuyên gia giúp Bạn về các vấn đề kỹ thuật. Tại khu vực do Mặt trận 479 đảm nhiệm xây dựng có đường số 5 và số 6 là hai trục đường chiến lược chạy từ phía Đông sang phía Tây Campuchia; ngoài ra còn có các trục đường số 58, 67, 68, 69 và số 10 là những trục đường chiến dịch cùng một số đường quân sự làm gấp, hình thành mạng đường vận chuyển nguyên vật liệu, hậu cần cho cả ta và Bạn; đồng thời cũng là mạng đường cho các đơn vị của ta cơ động khi chiến đấu.

Trong các trục đường trên, đường số 68 do Trung đoàn công binh 25 đảm nhiệm được thi công xây dựng bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và thời gian đề ra. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 25 đã khắc phục mọi khó khăn, chủ động xây dựng kế hoạch, tập trung xe máy, tổ chức tốt lực lượng bảo vệ và đánh địch đảm bảo cho đơn vị thi công an toàn. Đồng thời thực hiện tốt công tác quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, phát huy sức mạnh tổng hợp, hợp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, nên đã hoàn thành từng công việc được giao.

Sau một thời gian lao động khẩn trương, đến giữa năm 1986, Trung đoàn 25 công binh đã nâng cấp được 26 kilômét đường. Trung đoàn còn tiến hành sửa chữa và làm mới toàn bộ đoạn đường từ cầu Crolanh đến Sàmrông, bào đảm cho xe trọng tải 40 tấn qua lại an toàn; đồng thời tổ chức sản xuất được 3.500 mét khối đá ở mỏ đá Crolanh, phục vụ xây dựng, nâng cấp một số đoạn đường khác.

Thời gian tiếp theo, Trung đoàn 25 công binh được giao nhiệm vụ tiếp tục thi công một số hạng mục công trình đường số 68. Mục tiêu chủ yếu là hoàn chỉnh đoạn đường 9 kilômét từ nam cầu Chông Can đến Sàmrông (đoạn Crolanh - Sàmrông). Trung đoàn sử dụng các tiểu đoàn 98 (2 đại đội), 739 (3 đại đội), 25 (2 đại đội) và 3 đại đội dân công của bạn. Tổng quân số tham gia xây dựng, ta 776 người, bạn 321 dân công. Trong quá trình thi công, Trung đoàn bị địch tập kích 11 lần bằng hoả lực vào nơi trú quân và bị phục kích 2 lần, hỏng 3 xe. Mặc dù vậy, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã khắc phục khó khăn, khẩn trương xây dựng với quyết tâm cao, hoàn thành các hạng mục được giao vượt tiến độ trước 70 ngày, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật.

Trước yêu cầu xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía Tây ngày càng khẩn trương, lãnh đạo, chỉ huy Mặt trận 479 xác định các khu vực trọng điểm cần tập trung lực lượng xây dựng hoàn chỉnh dọc biên giới dài hơn 110 kilômét. Lực lượng ta và Bạn đã nỗ lực phấn đấu, từng bước hoàn thành các hạng mục trong từng khu vực trọng điểm, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật và thời gian quy định. Trên hướng này, các đơn vị của ta còn tham gia đánh trả địch, hạn chế rất nhiều các hoạt động xâm nhập đánh phá của chúng, bảo vệ an toàn hành lang để ta và Bạn xây dựng tuyến phòng thủ biên giới.

Bên cạnh các đơn vị nêu trên, Mặt trận 479 còn được phối thuộc Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn 209 Sư đoàn bộ binh 7 (đến tháng 4 năm 1986, Trung đoàn 209 chuyển về đội hình Sư đoàn 7) và Trung đoàn 550 công binh của Quân đoàn 4. Trong quá trình xây dựng tuyến phòng thủ, do điều kiện mùa mưa nước ngập nên việc cơ động lực lượng, thi công và sinh hoạt của bộ đội gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Còn mùa khô, nhiều nơi bộ đội ta phải làm nhiệm vụ và sinh hoạt ngay trên các đồi núi, gò đất cao, nắng gay gắt, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Trong những tháng đầu năm 1986, các đơn vị phải tổ chức vận chuyển từ tuyến sau lên hơn 4 triệu lít nước phục vụ sinh hoạt cho bộ đội. Do điều kiện ăn ở khó khăn, thiếu thốn, nên bệnh dịch phát sinh, sức khoẻ của bộ đội bị giảm sút. Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm xây dựng đạt chất lượng, hiệu quả cao, các đơn vị đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch như bố trí vật cản vượt 170%, đào hào, đắp luỹ từ 1,5 mét khối một công tăng lên 2,5 mét khối một ngày công (cá biệt có người đạt 5,5 mét khối), khai thác gỗ tròn tăng từ 25 cây một ngày công lên 40 cây một ngày công. Có lúc, bộ đội phải tranh thủ làm cả ban đêm để bảo đảm tiến độ thi công. Sau một thời gian tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 phát quang 3.892.600 mét vuông đường tuần tra, mở được 23.400 mét đường; đào hào, đắp lũy dài 25 kilômét, xây dựng 583 hầm chữ A trên hai khu vực điểm tựa cấp trung đoàn; dò gỡ mìn trên diện tích 1.239.415 mét vuông với hàng trăm nghìn ngày công, góp phần tăng cường thế phòng thủ trên tuyến biên giới phía Tây Campuchia.

Trên hướng của Mặt trận 779, Trung đoàn công binh 549 cùng một số đơn vị ta và Bạn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng tuyến phòng thủ với các hoạt động bảo đảm giao thông trên toàn tuyến. Trên hướng này, địch sử dụng pháo binh tăng cường đánh phá một số khu vực trọng điểm của ta ở Poipét, Ampin, Anlongveng... Ngoài ra, chúng còn đưa lực lượng phục kích trên các hành lang, gài mìn đánh xe ngăn chặn giao thông của ta. Trong điều kiện địch đẩy mạnh các hoạt động phá hoại, các đơn vị ta và Bạn đã tăng cường lực lượng, chủ yếu là dân quân tự vệ và dân công của Bạn để bảo đảm tiến độ xây dựng. Các đơn vị của ta chủ động đánh ngăn chặn địch, đồng thời tranh thủ đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng các khu vực trên tuyến được giao.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười, 2021, 06:15:15 am
Với những nỗ lực to lớn, đến tháng 4 năm 1986, trên cả hai hướng Mặt trận 479 và Mặt trận 779, ta và Bạn đã xây dựng hoàn chỉnh tuyến vật cản ngăn chặn, mở thêm đường tuần tra, xây dựng thêm các con trạch (để bao hào chiến đấu, hào giao thông), bố trí bổ sung mìn và các loại chông ở địa bàn xung yếu; đồng thời tổ chức nâng cấp tuyến đường số 32, mở thêm đường quân sự, xây dựng hàng loạt cầu và ngầm mới. Ngoài ra, các đơn vị của ta và Bạn còn xây dựng được 73 cụm điểm tựa, trong đó có một số cụm điểm tựa được xây dựng kiên cố (gồm công sự bằng bê tông cốt thép) có hệ thống đường hầm chiến đấu cho bộ binh. Quá trình xây dựng, ta và Bạn đã tổ chức đào đắp được 11.958 công sự các loại, 160 kilômét hào giao thông, hoàn chỉnh 144 kilômét hào giao thông khác, xây dựng gần 50 điểm cấp nước, 18 sân bay trực thăng, bố trí hàng chục vạn quả mìn các loại..., góp phần cải thiện một bước đáng kể điều kiện chiến đấu bảo vệ tuyến biên giới.

Trên hướng này, lực lượng công binh Mặt trận 479 đào được hàng trăm kilômét hào phòng thủ, bố trí 43.500 mũi chông, phát quang 782.170 mét vuông tuyến đường tuần tra, gỡ 492 quả mìn. về công trình chiến đấu, lực lượng công binh mặt trận xây dựng được 231 hầm ẩn nấp, sửa 174 hầm, làm và sửa 3 hầm chỉ huy, 3 công sự quan sát, 3 hầm đạn, 38 công sự hoả lực, 359 hố chiến đấu, 10 lô cốt và 2 nhà kho. Đồng thời tổ chức xây dựng được 46 cầu, sửa 30 cầu, sửa 43 kilômét đường, khai thác hơn 4.533 mét khối đá, phát quang 739 mét vuông đường, làm mới 16 kilômét đường(1), tạo điều kiện bảo đảm giao thông thuận lợi.

Các sư đoàn 302, 309 của ta và các sư đoàn 286, 6, 179 của Bạn là những đơn vị lập nhiều thành tích trong xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên hướng Mặt trận 479. Đặc biệt, Sư đoàn 302 đảm nhiệm xây dựng gần 100 kilômét đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 302 đã phối hợp với lực lượng Quân đội cách mạng Campuchia, dân quân, dân công của Bạn xây dựng, củng cố vững chắc 3 cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, 5 cụm điểm tựa cấp đại đội; đồng thời phát quang, bố trí vật cản, chông sắt trên một vùng với diện tích 530.000 mét vuông, trải dài 82 kilômét, mở đường hành lang, đường tuần tra và đường nhánh lên các cụm điểm tựa.

Trên hai hướng Mặt trận 579 và Mặt trận 979, các đơn vị ta và Bạn cũng khẩn trương đẩy mạnh các hoạt động xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn được phân công. Các đơn vị quân tình nguyện vừa đánh địch, vừa tổ chức xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía Tây Campuchia. Việc xây dựng trên hướng này gặp khó khăn do nhiều loại vật tư và khối lượng lớn vật chất hậu cần vận chuyển từ Việt Nam sang không kịp thời. Mặt khác, nguồn nước ở các vùng biên giới phía Tây Campuchia vào mùa khô bị cạn, nên nước dùng cho sinh hoạt của bộ đội và nước sử dụng thi công công trình rất khan hiếm, phải vận chuyển từ xa. Vượt qua những khó khăn đó, các đơn vị ta và Bạn đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Ở hướng Mặt trận 579, Sư đoàn 315 nhận nhiệm vụ chốt giữ trên khu vực ngã ba biên giới Campuchia - Thái Lan - Lào. Lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 315 cử lực lượng công binh của Sư đoàn xây dựng công sự, trận địa trên các điểm cao ta chốt giữ. Đến ngày 12 tháng 2 năm 1986, công binh Sư đoàn 315 đã cơ bản xây dựng xong sở chỉ huy sư đoàn, trạm phẫu thuật, trạm xá và hệ thống công sự, trận địa; đồng thời bố trí bãi mìn xung quanh các điểm cao 426, 555, 743, 718, 563, 612, 417, với chính diện rộng 14 kilômét và chiều sâu 4,5 kilômét. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ công binh Sư đoàn và các đơn vị bộ binh trực thuộc Sư đoàn trinh sát địa hình và phân chia khu vực bố trí mìn ngăn chặn địch từ xa. Ban Công binh Sư đoàn 315 đã lập hồ sơ các bãi mìn và giao cho từng phân đội rải đội hình hàng ngang, bố trí mìn lùi dần về phía sau, làm đến đâu nguy trang và cắm mốc đến đó. Cuối tháng 2 năm 1986, Sư đoàn 315 đã hoàn thành nhiệm vụ bố trí bãi mìn ngăn chặn địch từ xa.

Ở khu vực Sư đoàn 307, từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 3 năm 1986, công binh Sư đoàn lập hệ thống vật cản ngăn chặn địch, gồm lưới dây thép gai bùng nhùng, trồng cây gai, cây tre, đào các giao thông hào, bên dưới đáy hào rải chông chân chim; đồng thời phối hợp cùng các đơn vị bố trí được 32.788 quả mìn chống bộ binh, 288 quả mìn chống tăng và ngả cây rừng, tạo thành bãi vật cản trên đường ô tô dài 8 kilômét. Một số khu vực khác trên tuyến phòng thủ biên giới do Mặt trận 579 đảm nhiệm tiếp tục được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh các sư đoàn 315, 307, trên hướng Mặt trận 579 còn có Trung đoàn công binh 280, 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn công binh 270 tham gia xây dựng tuyến phòng thủ. Nhằm nâng cao năng suất xây dựng, Quân khu 5 tăng cường một số cán bộ kỹ thuật và phương tiện thi công cơ giới từ trong nước sang, góp phần hoàn thành các công trình quân sự xây dựng được giao.

Trên hướng Mặt trận 979, các đơn vị ta và Bạn triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới dài hơn 60 kilômét trong điều kiện thuận lợi hơn. Ở hướng này, Bạn huy động được một lực lượng đông đảo nhân dân ba tỉnh biên giới (Cô Công, Puốcxát, Báttambang) và nhân dân một số tỉnh phía sau tham gia. Trong năm 1986, các đơn vị thuộc Mặt trận 979, với lực lượng công binh làm nòng cốt, tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống công trình chiến đấu, hệ thống vật cản, mạng đường cơ động, vận chuyển, các công sự phía trước và phía sau. Mặc dù xây dựng trong điều kiện địch thường xuyên xâm nhập, pháo kích vào một số khu vực, nhưng ta đã tổ chức đánh chặn hạn chế địch phá hoại. Sau một thời gian khẩn trương xây dựng, các đơn vị trên hướng Mặt trận 979 đã hoàn thành hàng chục cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, hàng chục khu vực phòng thủ sư đoàn với đầy đủ hệ thống vật cản nổ, không nổ cùng hàng trăm kilômét hào chiến đấu và các công trình bảo đảm hậu cần, vũ khí trang bị.

Như vậy, đến giữa năm 1986, lực lượng quân tình nguyện thuộc các mặt trận 479, 579, 779, 979 và một số đơn vị khác của ta đã cùng các lực lượng Bạn và nhân dân Campuchia hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng các hạng mục công trình đúng thời gian quy định, hình thành tuyến phòng thủ dọc vùng biên giới phía Tây Campuchia. Công trình K5 đã phát huy đánh địch hiệu quả, hạn chế địch xâm nhập, cải thiện một bước điều kiện sinh hoạt, chiến đấu của bộ đội ta và Bạn.


(1) Lịch sử bộ đội công binh Quân khu 7 miền Đông Nam Bộ (1945-1995), Nxb QĐND, H, 1996, tr. 284-285.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười, 2021, 06:17:10 am
*
*   *

Đồng thời với việc giúp nhân dân Campuchia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, lực lượng ta và Bạn tổ chức tiến công vào các sào huyệt của địch trên tất cả các hướng, làm cho lực lượng của chúng cả trong nội địa và vùng biên giới nhanh chóng bị tiêu hao, suy tàn, tan rã nhiều đơn vị không thể hồi phục được. Theo yêu cầu của Bạn và thực hiện chỉ thị của Bộ Tư lệnh 719, các mặt trận 479, 579, 779, 979 tích cực chuẩn bị lực lượng, lương thực, vũ khí đạn dược, thuốc men, tổ chức các trận đánh địch trên các hướng.

Trên khu vực do Mặt trận 479 đảm nhiệm có 8 sư đoàn của ta và Bạn (gồm các sư đoàn 302, 309, 9, 7, 5 quân tình nguyện và các sư đoàn 286, 179, 196 của Bạn). Các đơn vị ta và Bạn đã tiến hành đánh chiếm các điểm cao và căn cứ của địch, bảo vệ hành lang cho các lực lượng xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Tháng 1 năm 1986, ta mở cuộc tiến công căn cứ Ampin. Căn cứ này địch có hệ thống vật cản, hầm hào kiên cố, hệ thống chỉ huy hoàn chỉnh, được bố trí thành 3 tuyến ngăn chặn: tuyến 1 gồm 10 tiểu đoàn chiến đấu; tuyến 2 gồm sở chỉ huy của hai quân khu 202 và 203; tuyến.3 gồm cơ quan bộ tham mưu, khu chính phủ và kho tàng.

Riêng hệ thống chiến hào, địch xây dựng theo hai tuyến, nối liền hầm chỉ huy phân khu với các trận địa hoả lực. Bên ngoài, địch dựa vào địa hình hiểm trở, cải tạo thành các bãi vật cản và bố trí những bãi mìn hỗn hợp với chiều sâu từ 40 - 200 mét, cách tiền duyên phòng ngự 300 mét. Ở phía tây căn cứ, địch bố trí hàng rào cọc chống tăng kết hợp với các hầm bẫy và mìn chống tăng, có một số đoạn địch làm hàng rào, hầm bẫy trên chiều sâu khoảng 500 mét.

Về phía ta, Sư đoàn bộ binh 5 thuộc Mặt trận 479 được giao nhiệm vụ tiến công căn cứ Ampin đã phát huy sức mạnh của binh chủng hợp thành, quyết tâm đột phá chính diện và hai bên sườn, nhanh chóng thọc sâu chia cắt, thực hành bao vây địch. Sư đoàn dự định tiến công theo hai hướng, lần lượt tiêu diệt từng bộ phận địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ căn cứ địch trong thời gian 1 đến 2 ngày. Hướng chủ yếu do Trung đoàn bộ binh 4 và Trung đoàn bộ binh 16 đảm nhiệm, lực lượng công binh có nhiệm vụ mở 4 cửa mở cho bộ binh và xe tăng tiến công.

Theo kế hoạch, 6 giờ 30 phút ngày 7 tháng 1 năm 1986, pháo binh Sư đoàn bắn cấp tập đợt 1, đến 6 giờ 45 phút pháo binh chuyển sang bắn dồn dập đợt 2. Đội hình mở cửa của công binh bắt đầu triển khai, đến 7 giờ 35 phút mở xong cửa số 2 với chiểu sâu từ 150 - 200 mét. Cửa mở số 3 là một trong các cửa mở trên đoạn đột phá, công binh ta dùng mìn ĐH-10 và bộc phá liên tục mở cửa, đến 7 giờ 45 phút, bộ binh và xe tăng xung phong đột phá tiền duyên địch. Trên hướng thứ yếu, cửa số 7 mở thuận lợi, tạo điều kiện cho Trung đoàn bộ binh 174 chuyển từ hướng cửa số 8 sang tiến công theo cửa số 7. Kết quả, công binh đã mở được 4 cửa mở, trong đó có 3 cửa cho xe tăng và xe M113, bảo đảm cho bộ binh và xe tăng tiến công tiêu diệt cứ điểm địch. Sau trận này, Sư đoàn bộ binh 5 tiếp tục phối hợp với Trung đoàn 71 Sư đoàn 178 của Bạn và Trung đoàn Côngpông Chàm tiến công đánh chiếm các điểm cao 107, 400, 383, 430, 428, diệt 340 tên, bắt 102 tên, thu 194 súng các loại, góp phần vào thắng lợi chung ở các mặt trận.

Theo chỉ thị của Bộ, Sư đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 7 và Trung đoàn công binh 550 thuộc Mặt trận 479 khẩn trương chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng hỗ trợ Bạn đánh địch. Đối tượng tác chiến chủ yếu là sư đoàn 920 địch, có khoảng 500 - 600 quân, biên chế thành 4 trung đoàn (91, 92, 93 và 94), hoạt động trên địa bàn các tỉnh Krachiê, Côngpông Chàm. Trung đoàn 91 nhiệm vụ thực hiện vận chuyển tiếp tế theo hành lang từ bắc núi Chi, qua Sămpô đến bộ chỉ huy sư đoàn 920 ở vùng núi thuộc huyện Ôrang, tỉnh Môn. Trung đoàn 92 hoạt động phân tán, chủ yếu ở các huyện Xnun, Sơlông, tỉnh Krachiê. Hai trung đoàn 93 và 94 cơ động đánh phá các căn cứ của ta và Bạn ở vùng Đầm Be, Mi Mốt, vùng nam sông Mê Công. Ngoài ra, địch còn có các sư đoàn 417, 801 vượt sông Mê Công, sẵn sàng hỗ trợ khi cần thiết.

Tại tỉnh Krachiê, địch thực hiện phân tán lực lượng, từng bước mở rộng địa bàn hoạt động, tạo thành một số vùng tranh chấp, hòng phát triển thành những “vùng giải phóng” của chúng. Thực hiện âm mưu đó, địch đẩy mạnh các hoạt động phá hoại, đánh phá chính quyền phum, xã, huyện và lực lượng vũ trang của ta và Bạn; xây dựng lực lượng ngầm gây chia rẽ nhân dân; mua và cướp bóc lương thực, bắt dân đi lính cho chúng... Địch dùng các thủ đoạn khi tập trung, lúc phân tán, nghi binh, lúc ẩn, lúc hiện rất linh hoạt, kết hợp cả hoạt động quân sự và gây chiến tranh tâm lý. Trong hai tháng 2 và 3 năm 1986, tại tỉnh Krachiê, địch đã 114 lần cho quân đột nhập vào các phum, xã, bắt 80 thanh niên làm lính cho chúng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười, 2021, 06:18:23 am
Các sư đoàn bộ binh 7, 9 nhận nhiệm vụ giúp Bạn trên địa bàn hiểm trở, tình hình địch rất phức tạp. Chúng có thể luồn lách, né tránh, hoặc xây dựng căn cứ “lõm” ở những nơi gần dân, mở các hành lang bí mật để cơ động và tiếp tế cho nhau. Ngược lại, các sư đoàn của ta hoạt động ở địa bàn cơ động không thuận lợi và khí hậu khắc nghiệt nhất là trong mùa mưa, ảnh hưởng tới sức khoẻ và khả năng chiến đấu của bộ đội.

Trên địa bàn hoạt động của các sư đoàn 7, 9 còn có một số đơn vị thuộc Mặt trận 779, Mặt trận 579 và lực lượng vũ trang của Bạn. Mặt trận 779 gồm 5 tiểu đoàn và 1 trung đoàn ở Krachiê, Côngpông Chàm; Mặt trận 579 có một số đơn vị ở địa phận huyện Ôrang, tỉnh Mônđônkiri. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có hai tiểu đoàn tỉnh Krachiê, 15 đại đội huyện, dân quân các xã, ấp và 1 tiểu đoàn của tỉnh Côngpông Chàm. Các đơn vị vũ trang của Bạn trang bị còn thiếu thốn, trình độ tác chiến hạn chế, chưa làm chủ được địa bàn để tiến công địch, có nơi còn bị địch khống chế không hoạt động được.

Bước vào đợt hoạt động đầu năm 1986, lực lượng đặc công thuộc các mặt trận tiếp tục chiến đấu tiêu diệt địch ở các căn cứ lõm. Ngày 17 tháng 1 năm 1986, đặc công Mặt trận 779 tập kích căn cứ địch ở tọa độ 99-06, gây cho địch một số thiệt hại.

Theo yêu cầu của Bạn và căn cứ tình hình thực tế chiến trường, tháng 3 năm 1986, Bộ Quốc phòng ta và Bộ Tư lệnh 719 giao nhiệm vụ quân sự năm 1986-1987 cho Sư đoàn bộ binh 7 cùng các đơn vị Quân tình nguyện của Mặt trận 779, Mặt trận 579 có sự phối hợp của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh bại và làm tan rã sư đoàn 920 địch trên địa bàn các tỉnh Krachiê, Côngpông Chàm và các huyện Keosoma, Ôrang thuộc tỉnh Mônđônkiri ở vùng đông sông Mê Công; làm công tác cơ sở, xây dựng lực lượng cách mạng Campuchia trên địa bàn được giao, vừa tác chiến vừa huấn luyện cho một số đại đội, tiểu đoàn mạnh của Bạn; đồng thời tranh thủ tăng gia sản xuất, góp phần cải thiện một bước đời sống cho bộ đội.

Quán triệt nhiệm vụ trên giao, đến ngày 14 tháng 4 năm 1986, mọi công tác chuẩn bị của Sư đoàn bộ binh 7 đã cơ bản hoàn thành. Sư đoàn quyết tâm tập trung lực lượng thực hiện ba mục tiêu, làm chuyển biến nhanh chóng tình hình có lợi cho cách mạng Campuchia, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng cho Bạn (cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương) đủ sức độc lập tác chiến tiêu diệt địch, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ cuộc sống mới của nhân dân; phá thế của địch, xây dựng thế tiến công và làm chủ của lực lượng vũ trang cách mạng Bạn, tiêu diệt đại bộ phận lực lượng sư đoàn 920 địch, triệt hạ các căn cứ, hành lang, nguồn tiếp tế của chúng trong dân, đẩy địch vào thế bị bao vây, cô lập, ngày càng khốn quẫn, suy yếu đi đến tan rã.

Sư đoàn 7 hoạt động trên địa bàn có vùng giải phóng và căn cứ cũ, nhân dân hiểu biết về cách mạng, về bộ đội tình nguyện Việt Nam; các cơ sở cách mạng mới được xây dựng nhưng cũng khá vững chắc. Tuy một bộ phận nhân dân bị địch lôi kéo, bị lung lay lòng tin đối với cách mạng, nhưng nếu ta khôn khéo vẫn có thể tranh thủ được. Trước tình hình đó, Sư đoàn chủ trương trong công tác giúp Bạn, mọi hoạt động đều phải dựa vào dân, tin nhân dân, tranh thủ tuyên truyền, phát động nhân dân ủng hộ cách mạng, tham gia đánh địch, nhất là phá các tổ chức ngầm của địch. Trên cơ sở đó đẩy mạnh công tác dân vận, xây dựng, củng cố thực lực cách mạng ở cơ sở, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng rộng khắp, thực hiện những mục tiêu trước mắt của cách mạng Campuchia, giữ vững quyền chủ động và phát huy thế tiến công tiêu diệt, đánh tan rã lực lượng địch, củng cố chính quyền cách mạng ở cơ sở. Đây là một trong những vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi và sự phát triển ngày càng vững chắc của cách mạng Campuchia.

Thực hiện chủ trương đó, Sư đoàn chỉ đạo các đơn vị phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, chính quyền cách mạng và nhân dân địa phương nắm tình hình, triển khai thế trận bao vây, chia cắt lực lượng địch, lấy đánh địch ở ngoài địa hình là chủ yếu, kết hợp truy kích địch ở các căn cứ “lõm” với phát động nhân dân, cùng nhân dân phá vỡ các cơ sở địch ngầm hoạt động ở phum, xã, huyện.

Phối hợp với các đơn vị Bạn và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, Sư đoàn chỉ đạo các đơn vị thực hiện phương châm lấy đại đội bộ binh làm cơ sở, tổ chức thành hai bộ phận: một bộ phận lực lượng đánh địch ở bên ngoài, một bộ phận hỗ trợ các lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng xã về mọi mặt. Đối với cấp tiểu đoàn, trung đoàn, mỗi tiểu đoàn đảm nhiệm hoạt động hỗ trợ Bạn ở một cụm gồm từ 2 - 3 xã và mỗi trung đoàn bộ binh đảm nhiệm hỗ trợ Bạn ở một huyện.

Mở đầu đợt hoạt động, Trung đoàn bộ binh 209 phối hợp với một tiểu đoàn vũ trang tập trung tỉnh Krachiê mở hai đợt tác chiến cấp trung đoàn (thiếu) đánh vào khu vực núi Chi, tiếp đó củng cố địa bàn, truy kích địch ở các căn cứ và hành lang của chúng. Trên các hướng khác, Mặt trận 479 sử dụng các phân đội nhỏ phối hợp hiệp đồng với các đại đội hai chức năng huyện và dân quân tìm diệt các hành lang qua sông Mê Công và các căn cứ “lõm” của địch ở khu vực núi Năm Ngàn và một số khu vực thuộc các huyện Sơloong, Đầm Be, Mi Mốt, Xnun, gây cho địch một số thiệt hại.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:16:23 am
Trong khi đó, Sư đoàn bộ binh 9 và Trung đoàn công binh 550 chuyển phối thuộc Mặt trận 479 tiếp tục giúp lực lượng cách mạng Campuchia đánh địch, bảo vệ vùng biên giới nam và bắc Poipét, xây dựng khu vực phòng thủ cho hai trung đoàn lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia ở vùng biên giới Poipét trên đường vào Kaomêlai. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 và Trung đoàn công binh 550 vừa đánh địch, vừa xây dựng tuyến phòng thủ biên giới và giúp cách mạng Campuchia xây dựng, củng cố thực lực ở cơ sở từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ địa bàn.

Phát huy tinh thần quốc tế cao cả, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 và Trung đoàn công binh 550 đã tích cực xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hiệp đồng với các đơn vị vũ trang Bạn đánh địch. Lúc đầu, ta và Bạn tổ chức một số trận đánh quy mô nhỏ, đạt hiệu suất cao. Sư đoàn 9 sử dụng lực lượng với quy mô và hình thức phù hợp, chủ động tiến công, đánh địch phản kích, cắt đứt hành lang tiếp tế của chúng; đồng thời nắm tình hình, phát hiện địch và phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn đánh địch trong nội địa.

Trong 7 tháng hoạt động, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã hỗ trợ lực lượng cách mạng Campuchia đánh nhiều trận. Riêng Sư đoàn 9 đã cùng Bạn đánh 92 trận quy mô từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn (thiếu), diệt nhiều sinh lực địch, thu 271 súng. Sư đoàn 7 tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, thu một số vũ khí, bắt 135 tên hoạt động ngầm trong các tổ chức cách mạng và trong nhân dân. Trước những hoạt động tác chiến mạnh mẽ của ta và bạn, địch rất hoang mang, lúng túng, bị động đối phó. Đa số lực lượng của sư đoàn 920 địch phải bỏ các căn cứ ở phía đông sông Mê. Công lẩn trốn sang bờ tây. Bộ phận địch còn lại gồm 40 tên ở căn cứ “lõm” mang 11 súng ra hàng, 332 tên khác hoạt động ngầm mang 40 khẩu súng ra trình diện chính quyền cách mạng, trở về với nhân dân.

Ở địa bàn Mặt trận 579, Sư đoàn 315 chỉ huy các trung đoàn bộ binh 143 (thiếu Tiểu đoàn 2), 142 (thiếu Tiểu đoàn 6) đánh địch ở một số vị trí trọng điểm trong nội địa, đồng thời sử dụng Trung đoàn 729 pháo binh, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ chi viện hoả lực cho Trung đoàn bộ binh 733 và Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 143, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 142 phòng ngự ở tuyến trước. Ngày 24 tháng 1 năm 1986, tổ quan sát pháo binh cùng 1 trung đội của Tiểu đoàn 7 tiến công địch ở điểm cao 412, loại khỏi khỏi vòng chiến đấu 5 tên, thu một số súng và tài liệu của chúng. Ngày 30 tháng 3 năm 1986, Đại đội 5 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 143 tập kích địch ở tọa độ 87.47, loại khỏi vòng chiến đấu 13 tên, bắn bị thương 3 tên, thu một số vũ khí và quân trang, quân dụng. Tiếp đó, ngày 8 tháng 4 năm 1986, Đại đội 11 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 142 phát hiện địch trú quân ở tọa độ 51.096 đã tập kích, diệt 4 tên, thu vũ khí và một tập bản đồ của địch.

Bên cạnh các trận đánh đạt mục đích đề ra, có một số trận đánh, các đơn vị của Sư đoàn 315 còn có những sơ suất, bị tổn thất, không diệt được địch. Đó là trận phục kích của Đại đội 2 Tiểu đoàn 7 Trung đoàn bộ binh 733 ở Bản Kho (ngày 20 tháng 1 năm 1986) nổ súng không tiêu diệt được địch, khi ta rút lui 2 đồng chí đã hy sinh do vướng mìn địch. Ngày 23 tháng 3 năm 1986, bộ phận trinh sát Sư đoàn 315 hoạt động ở khu vực rừng Pôtiếp phát hiện địch bỏ chạy, không truy kích, không nổ súng để chúng chạy thoát... Những thiếu sót này đã được lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời góp phần nâng cao hiệu quả chiến đấu trong các trận đánh địch tiếp theo.

Để đáp ứng yêu cầu của Bạn, tháng 5 năm 1986, Sư đoàn 315 điều chỉnh lại lực lượng bố trí phòng ngự trên tuyến biên giới và đánh địch ở nội địa. Trung đoàn bộ binh 733 và Trung đoàn 19 của Bạn được tăng cường Tiểu đoàn 6 Trung đoàn bộ binh 142, 1 đại đội xe tăng Trung đoàn 574 (8 chiếc) Tiểu đoàn 3 Trung đoàn công binh 280 và 4 tiểu đoàn dân quân của 4 tỉnh (Stung Treng, Prếtvihia, Ráttanakiri, Krachiê). Trung đoàn bộ binh 143 hoạt động ở nội địa từ Kẽm đến Đầm Rây, nam bắc suối Rêpâu; Trung đoàn bộ binh 142 (thiếu Tiểu đoàn 6) hoạt động ở đông tây Chăngha, tây Stung, Thơ Mia, Chà Rạch, làm nhiệm vụ đánh chặn các hành lang xâm nhập của địch. Việc bố trí lực lượng như trên bảo đảm sự phối hợp tác chiến giữa các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam và Quân đội cách mạng Campuchia; góp phần tiêu hao, làm suy yếu lực lượng địch, hạn chế các hoạt động phá hoại của chúng.

Nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Bộ Quốc phòng hai nước, ngày 21 tháng 5 năm 1986, Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia đã ký nghị định thư, theo đó Bộ Quốc phòng Việt Nam tiếp tục bổ sung, điều chỉnh đủ số lượng chuyên gia quân sự dài hạn theo kế hoạch hợp tác và cử chuyên gia ngắn hạn về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ sang giúp Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia. Bộ Quốc phòng Việt Nam tiếp tục nhận điều trị cán bộ, thương binh, bệnh binh của phía Campuchia tại Việt Nam và tại các cơ sở điều trị của Quân tình nguyện Việt Nam trên đất Campuchia với số lượng như hai bên đã thỏa thuận trong năm 1985.

Theo thoả thuận giữa hai chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia, ngày 21 tháng 5 năm 1986, Bộ Quốc phòng nước ta và Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia ra thông báo về việc rút một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam về nước. Đợt rút quân này (đợt thứ 5) gồm Sư đoàn bộ binh 8, Lữ đoàn bộ binh 95, Trung đoàn bộ binh 37 và một số đơn vị binh chủng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:18:11 am
Nhân dịp một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế về nước, ngày 27 tháng 5 năm 1986, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia tổ chức trọng thể lễ trao Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất cho Sư đoàn bộ binh 8, Lữ đoàn bộ binh 95 và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì cho Trung đoàn bộ binh 37 Quân tình nguyện Việt Nam.

Tai buổi lễ, đồng chí Bu Thoong - Ủy viên Bộ Chính trị, phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia nêu rõ: “Được sự giúp đỡ chân thành của quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã trưởng thành nhanh chóng. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự về phát triển cả về số lượng và chất lượng, vừa hợp tác với Quân tình nguyện Việt Nam, vừa từng bước thay thế đơn vị quân tình nguyện trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ biên cương phía tây và toàn bộ lãnh thổ Campuchia, bảo vệ các xã, ấp và cuộc sống thanh bình của nhân dân. Nhân dân và Quân đội cách mạng Campuchia đời đời ghi nhớ công lao cao cả của Quân đội nhân dân Việt Nam anh em đã hy sinh xương máu của mình cho sự nghiệp cách mạng Campuchia”(1).

Thay mặt cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam, Thiếu tướng Trương Minh Thông bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia đã đánh giá cao những cống hiến của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Campuchia và dành cho các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam về nước lần này những phần thưởng cao quý.

Sáng ngày 28 tháng 5 năm 1986, tại thủ đô Phnôm Pênh, Bộ Quốc phòng và Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia tổ chức lễ tiễn các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam trở về Tổ quốc sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng và nhân dân Campuchia. Cùng ngày 28 tháng 5, các đơn vị quân tình nguyện qua biên giới về huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Đại diện lãnh đạo, chỉ huy Quân khu 9 cùng đông đảo nhân dân đã đến đón chào cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về nước an toàn.

Nhân kỷ niệm lần thứ 35 ngày truyền thống Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia và ngày đoàn kết quân dân, ngày 19 tháng 6 năm 1986, Hội đồng Nhà nước, Bộ Quốc phòng và Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia tổ chức mít tinh trọng thể tại Phnôm Pênh. Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước ta do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đã tham dự. Đọc diễn văn tại cuộc mít tinh, đồng chí Hêng Xomrin - Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia nêu rõ những thành tựu Quân đội cách mạng Campuchia đạt được trong 35 năm; đồng thời bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đối với các thế hệ Quân tình nguyện Việt Nam đã làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng và nhân dân Campuchia.

Đối với đội ngũ cán bộ tiếp tục ở lại giúp cách mạng Campuchia, từ ngày 25 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1986, Bộ Tư lệnh 719 mở lớp tập huấn phái viên chuyên gia quân sự huyện về công tác xây dựng cơ sở. Nội dung tập huấn gồm các vấn đề xây dựng cơ sở vững mạnh và vai trò của cấp huyện đối với việc xây dựng cơ sở; hướng dẫn giúp Bạn củng cố tổ đoàn kết sản xuất 3 chức năng; củng cố, xây dựng và hoạt động chiến đấu của dân quân ấp, cụm ấp chiến đấu; hướng dẫn về nhiệm vụ, tổ chức, phương thức hoạt động của đại đội hai chức năng; về phối hợp với chuyên gia an ninh giúp Bạn đấu tranh bóc gỡ lực lượng ngầm của địch ở xã, ấp; nhiệm vụ, phương pháp công tác của tổ phái viên chuyên gia quân sự huyện và sự lãnh đạo của chi bộ phái viên; về hoạt động tổng hợp ở cụm ấp, xã trên địa bàn huyện. Kết thúc khoá học, 94 chuyên gia quân sự được phân công về các địa phương giúp bạn củng cố, xây dựng cơ sở, góp phần phát triển phong trào cách mạng ở các địa phương của Bạn.

Trong hai ngày 30 và 31 tháng 7 năm 1986, Bộ Tư lệnh 719 tổ chức hội nghị khu vực Biển Hồ nhằm đánh giá tình hình giúp Bạn thời gian qua và đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp tục giúp Bạn đẩy mạnh truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang và các tổ chức cách mạng của Bạn phát triển. Tham dự hội nghị có các bộ tư lệnh mặt trận 479, 779, 979 và các ban. chỉ huy quân sự của các tỉnh quanh Biển Hồ (Puốcxát, Côngpông Chnăng, Côngpông Spư, Xiêm Riệp, Báttambang, Côngpông Chàm, Kanđan). Hội nghị nghe đại diện các mặt trận 479, 779, 979; các tỉnh khu vực Biển Hồ báo cáo về tình hình giúp Bạn truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng các tổ chức đoàn thể cách mạng và nhiệm vụ giúp Bạn trong thời gian tới.


(1) Báo Quân đội nhân dân số 8978, ngày 28 tháng 5 năm 1986.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:20:08 am
Kết luận hội nghị, đồng chí Đoàn Khuê, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 nêu rõ: Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với ta trong mùa mưa năm 1986 là đánh địch, tiêu hao, tiêu diệt làm cho chúng không ổn định; chuyển mạnh trung tâm công tác về các ấp, xã nhất là các ấp yếu; đẩy mạnh công tác vùng giáp ranh cắt hành lang, triệt tiếp tế của địch, xây dựng ta và Bạn mạnh lên. Cụ thể là phải xây dựng các tổ đoàn kết sản xuất đánh cá thực sự của ta, không cho địch xen vào; không cho địch bám các căn cứ lõm, mùa mưa này ta phải đánh cho chúng bật ra hết; không cho địch qua lại đường số 5, đường số 6, cắt hành lang, nắm cho được dân và đánh địch hiệu quả. Nhằm đáp ứng những yêu cầu trên, ta phải cùng Bạn nắm lại dân (xây dựng các cụm dân như Puốcxát), chuẩn bị tốt các đội quân công tác để bám vào các điểm, các cụm dân cư, ít nhất là bám xây dựng 6 tháng, hết mùa mưa qua mùa khô. Cần nắm có bao nhiêu cụm dân thì cử đủ số đội công tác xuống xây dựng cơ sở cho hết mùa mưa sang năm 1987. Xây dựng căn cứ lõm, theo dõi các điểm nổi khi nước lên để đánh địch và khi nước rút thì chiếm luôn. Khống chế địa bàn, không cho địch tràn ra, đưa các đội công tác về xây dựng các ấp, xã, đưa lực lượng chốt đánh cắt hành lang địch. Theo phân công của các mặt trận và tỉnh, các đơn vị quân tình nguyện cần đẩy mạnh hoạt động giúp Bạn, trọng tâm từ ngày 10 tháng 9 đến ngày 30 tháng 10 năm 1986.

Ngày 17 và 18 tháng 8 năm 1986, tại Hà Nội diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ 13. Hội nghị ra thông báo nêu rõ: “Trong khi chưa có một giải pháp chính trị về vấn để Campuchia, căn cứ tình hình hiện nay ở Campuchia, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia khẳng định vẫn tiếp tục rút dần Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia và việc rút quân sẽ hoàn thành vào năm 1990 như đã tuyên bố”(1).

Để tăng cường công tác giúp Bạn, ngày 2 tháng 9 năm 1986, Ban cán sự Đảng Bộ Tư lệnh 719 ra Nghị quyết số 125/NQ về phương hướng nhiệm vụ và những chủ trương công tác năm 1987 của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Nghị quyết nêu rõ, nhìn chung, những nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp công tác lớn để ra cho năm 1986 được các đơn vị trong Bộ Tư lệnh quán triệt và tổ chức thực hiện tích cực, đạt hiệu quả tốt. Thế trận tiến công và làm chủ cả biên giới và nội địa được tăng cường, góp phần thúc đẩy cục diện cách mạng Campuchia tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực, có thêm thuận lợi mới để tiếp tục tiến lên.

Tuy nhiên, cả ta và Bạn còn một số hạn chế. Bộ đội Bạn có bước trưởng thành, nhưng trình độ giác ngộ chính trị, bản chất cách mạng, ý chí chiến đấu còn yếu, có trường hợp chưa kiên quyết đánh địch, hiệu quả chiến đấu thấp. Năng lực lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ còn nhiều mặt yếu. Đối với chuyên gia ta giúp Bạn còn nặng về quân sự đơn thuần, chưa bám sát phong trào còn hiện tượng làm thay hoặc buông xuôi cho Bạn tự làm. Quân tình nguyện tuy vẫn giữ vững bản chất cách mạng, nhưng còn một số điểm yếu về tư tưởng và tổ chức. Một số đơn vị quản lý bộ đội chưa chặt chẽ, để xảy ra trường hợp vi phạm kỷ luật... Những hạn chế, thiếu sót đó cần nhanh chóng khắc phục để tiếp tục giúp Bạn hiệu quả trong thời gian tới.

Về phương hướng nhiệm vụ năm 1987, Nghị quyết xác định tiếp tục quán triệt sâu sắc tính chất, đặc điểm cuộc đấu tranh và phương hướng giành thắng lợi của cách mạng Campuchia. Phát huy thắng lợi đã giành được, kiên trì giúp Bạn tiếp tục thực hiện 3 mục tiêu chiến lược với hiệu quả và chất lượng cao hơn. Năm 1987 tập trung làm chuyển biến trên 4 vấn đề cơ bản: Một là, giúp Bạn làm chủ kiểm soát biên giới chặt hơn, đẩy mạnh xây dựng cơ sở trong nội địa, trước mắt tập trung làm chuyển biến các ấp, xã yếu ở vùng đông dân. Hai là, giúp Bạn nâng cao chất lượng bộ đội, cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia. Bốn là, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của Quân tình nguyện. Bốn vấn đề này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giúp Bạn và cùng Bạn xây dựng cơ sở, làm chuyển biến tình hình nội địa và giúp Bạn nâng cao chất lượng bộ đội là hai việc có ý nghĩa then chốt; giúp Bạn xây dựng cơ sở, làm chuyển biến tình hình nội địa là trọng tâm số 1.

Từ ngày 1 đến 5 tháng 10 năm 1986, Bộ Tư lệnh 719 tổ chức hội nghị quân chính toàn chiến trường Campuchia. Tham dự hội nghị có 144 đại biểu, đại diện Thủ trưởng Bộ, các tổng cục, các bộ tư lệnh mặt trận 5, 7, 9; các bộ chỉ huy các mặt trận, chuyên gia khu vực và cơ quan 719. Hội nghị đã nghe đại diện các mặt trận 479, 579, 779, 979 và một số tổng cục, quân khu báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia.

Kết luận hội nghị, Đại tướng Lê Trọng Tấn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng nhận định: ở biên giới Thái Lan - Campuchia, địch còn giữ các căn cứ, nắm được các đơn vị, các cửa khẩu hành lang. Do ta ngăn chặn nên có hạn chế địch thâm nhập hơn trước, nhưng chúng vẫn còn thâm nhập về người và vũ khí vào nội địa. Chúng chú trọng xây dựng lực lượng ngầm, coi đây là lực lượng 2, 3 tức là lực lượng trong dân, trong các tổ chức cách mạng của bạn, ta chưa nắm chắc được.


(1) Báo Quân đội nhân dân số 9061, ngày 19 tháng 8 năm 1986.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:21:00 am
Về phía ta, trong năm qua đã diệt và làm tan rã một bộ phận sinh lực địch, nhưng chỉ giảm 1.800 tên, địch vẫn duy trì được quân số 54.000 tên. Ta chưa diệt được đơn vị lớn, chỉ huy, đầu sỏ ngầm. Ta giúp Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược còn hạn chế. Tốc độ suy giảm của địch còn chậm, địch ra vào biên giới, bám được một số vùng, chủ lực còn hoạt động gây cho ta và Bạn một số thiệt hại, Bạn trưởng thành còn chậm, cơ sở còn yếu...

Trên cơ sở nhận định đó, đồng chí Tổng tham mưu trưởng nhấn mạnh: cần rút kinh nghiệm việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược tốt hơn, giúp Bạn trưởng thành, xây dựng cơ sở và xây dựng thực lực cách mạng cho Bạn là hai nhiệm vụ then chốt, trong đó xây dựng cơ sở là trọng tâm số 1. Kiện toàn đội ngũ chuyên gia là khâu có ý nghĩa quyết định, phải chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn, bồi dưỡng năng lực, phương pháp tốt, cơ chế rõ ràng. Kết hợp chiến đấu với huấn luyện, huấn luyện phải phù hợp với điều kiện chiến đấu của chiến trường, huấn luyện tân binh, huấn luyện bộ đội theo yêu cầu, nhiệm vụ không vi phạm kỷ luật trong quan hệ với Bạn. Với tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, cần nghiên cứu giảm cơ quan trung gian, đơn vị, cơ sở không cần thiết, tăng cường giúp Bạn ngày càng hiệu quả.

Từ ngày 6 đến 10 tháng 10 năm 1986, Đảng bộ chuyên gia Việt Nam tại Campuchia đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ ba. Tham dự đại hội có đại biểu chuyên gia các lĩnh vực đang làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia. Đại hội đánh giá kết quả đạt được của công tác chuyên gia trên các mặt nói chung cũng như đóng góp của chuyên gia quân sự nói riêng và xác định phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh công tác chuyên gia trong tình hình mới, cùng các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đẩy nhanh việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược mà hai Đảng đã đề ra.

Những tháng cuối năm 1986, theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Mặt trận 479, các sư đoàn bộ binh 7, 9 tổ chức rút kinh nghiệm về thực tiễn hoạt động mùa mưa 1986. Nội dung tập trung vào các mặt: đánh địch ở các căn cứ “lõm”, dựa vào nhân dân để phát hiện, phá vỡ các tổ chức cơ sở địch ngầm, củng cố các tổ chức cách mạng Campuchia ở xã, ấp. Qua đợt rút kinh nghiệm này, các đơn vị đã biên soạn được một số tài liệu có tác dụng thiết thực như: “Một số kinh nghiệm chiến đấu của phân đội nhỏ trên địa hình rừng núi”, “Mấy vấn đề về biện pháp bảo đảm chỉ huy, bảo đảm bí mật cho đợt hoạt động tác chiến mùa khô tới trên địa bàn Sư đoàn bộ binh 7”, “Đại đội hoạt động ở cơ sở làm nhiệm vụ giúp Bạn đạt ba mục tiêu chiến lược tại địa bàn xã”... Đây là những tài liệu tổng kết kịp thời từ hoạt động thực tiễn trên chiến trường Campuchia, rất có ý nghĩa đối với các đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế giúp Bạn trong những năm tiếp theo.

Cùng thời gian này, Bộ phận tiền phương của Binh chủng Thông tin liên lạc tổ chức hội nghị chủ nhiệm thông tin các đơn vị đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Hội nghị đánh giá, các đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ chiến đấu, liên minh chiến đấu giữa bộ đội ta với quân đội cách mạng Campuchia. Về liên lạc vô tuyến điện sóng ngắn giữa Bộ Tư lệnh 719 với Bộ, giữa các mặt trận 479, 579, 779, 979 với các sư đoàn đạt tỷ lệ 94 - 95% và chuyển nhận 51.112 bức điện kịp thời, chính xác, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị. Mạng lưới liên lạc hữu tuyến điện, vô tuyến điện tiếp sức trên 6 hướng trục chính đạt lưu lượng đàm thoại trung bình từ 80 - 100 lần/ngày (cao nhất là 120 - 150 lần/ngày). Liên lạc quân bưu đã chuyển nhận gần 1.000 công văn, 15.480 kilôgam văn kiện, thư từ, sách báo trên khoảng 12.510 kilômét an toàn.

Về phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới, hội nghị xác định: cần đẩy mạnh tiến độ xây dựng các công trình, nâng cao chất lượng thông tin liên lạc phục vụ tuyến phòng thủ biên giới (K5); củng cố mạng thông tin đường trục, nhất là từ Phnôm Pênh đến các hướng Stung Treng, Côngpông Chàm, Xiêm Riệp, Báttambang Côngpông Xom. Đồng thời chấn chỉnh các đài canh, liên lạc vượt cấp xuống các sư đoàn, giúp Bạn xây dựng một số công trình thông tin và đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật thông tin cho Bạn.

Hội nghị tổng kết năm 1986 của Bộ Tư lệnh Đặc công trên chiến trường Campuchia đã nghiên cứu, thảo luận, đánh giá những vấn đề chủ yếu về tác chiến và xây dựng, đặc biệt là về tác chiến, kể cả thành công và hạn chế; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm về chỉ đạo, chỉ huy và tác chiến của đặc công các mặt trận 479, 579, 979. Hội nghị nêu rõ phương hướng những năm tới phải tiếp tục quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, nâng cao chất lượng toàn diện cả về trình độ kỹ thuật, chiến thuật, vũ khí trang bị, cả chính trị, tinh thần và vật chất; đẩy mạnh đánh phá các căn cứ, hậu cứ địch trên tuyến biên giới, các hành lang và căn cứ trong nội địa. Đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng phương án đánh những mục tiêu quan trọng để khi có lệnh là đánh địch được ngay. Hội nghị nhấn mạnh, công tác bảo đảm vũ khí trang bị cho đặc công phải gọn nhẹ, uy lực cao; lương thực, thực phẩm, thuốc men phải thuận tiện khi sử dụng, thực hiện luồn sâu và cơ động nhanh, đáp ứng yêu cầu chiến đấu trên chiến trường Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:21:53 am
Sau đợt tổng kết rút kinh nghiệm, phương châm hoạt động chủ yếu của các đơn vị quân tình nguyện được xác định là tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bạn trong mọi hoạt động tác chiến và xây dựng thực lực cách mạng; nhường thuận lợi cho Bạn, tạo điều kiện thuận lợi để Bạn nhanh chóng tiếp thu trình độ chiến thuật, kỹ thuật, từng bước tự đảm đương tác chiến độc lập. Trong chiến đấu, phương châm cơ bản là tích cực hỗ trợ cho Bạn tiêu diệt gọn từng toán địch, từng căn cứ “lõm” của chúng, kết hợp bao vây, cô lập làm tan rã lực lượng địch.

Theo yêu cầu của Bạn và thực hiện phương châm đó, trong những tháng cuối năm 1986, Sư đoàn bộ binh 7 triển khai lực lượng ở các khu vực trọng điểm phía tây sông Mê Công đánh địch. Một số tiểu đoàn của Sư đoàn bộ binh 7 phối hợp với các đơn vị vũ trang cách mạng Campuchia đánh vào các căn cứ “lõm” của địch ở khu vực núi Chi, đông sông Mê Công. Sư đoàn còn tổ chức một bộ phận lực lượng hoạt động có tính chất chiến dịch tổng hợp ở khu vực trọng điểm Năm Ngàn, phối hợp với các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân Campuchia (khoảng 5.000 người) đánh địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Sư đoàn tổ chức được 42 đội công tác xuống các xã, ấp tuyên truyền, phát động quần chúng phát hiện, khống chế, phá vỡ các tổ chức địch hoạt động ngầm. Kể từ ngày 1 tháng 11 đến đầu tháng 12 năm 1986, bộ đội ta đã hỗ trợ Bạn tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu 36 súng và nhiều đồ dùng quân sự.

Trong đợt hoạt động tác chiến những tháng cuối năm 1986, nhiều đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được Bộ Tư lệnh 719 và Bộ Tư lệnh các mặt trận 479, 579, 779, 979 biểu dương. Trong chiến đấu đã xuất hiện nhiều cán bộ chiến sĩ nêu gương dũng cảm, mưu trí đánh địch như: Thượng úy Phạm Văn Viễn, hạ sĩ Phạm Văn Mởn (Sư đoàn bộ binh 9), binh nhất Nguyễn Văn Úc (Sư đoàn bộ binh 7)... Những tấm gương chiến đấu dũng cảm được các đơn vị học tập, phát huy và càng xuất hiện nhiều tấm gương dũng cảm mới trong suốt những năm Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Song song với nhiệm vụ chiến đấu, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn giúp Bạn xây dựng, củng cố cơ sở ấp, xã. Đây là một nhiệm vụ hoàn toàn mới và khó khăn đối với bộ đội ta. Do vị trí chiến lược của cơ sở ấp, xã và theo yêu cầu của Bạn, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của ta, trong đó quân tình nguyện là lực lượng nòng cốt, tập trung sức giúp Bạn xây dựng, củng cố cơ sở.

Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược này, các đơn vị quân tình nguyện điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí lực lượng, tổ chức chỉ đạo, chỉ huy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ta. Là lực lượng hoạt động ở cơ sở, trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân dân và chính quyền cách mạng ở cơ sở, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện đã không ngừng khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp Bạn, cùng với Bạn xây dựng, củng cố cơ sở ấp, xã ngày càng vững mạnh, nhất là các ấp, xã ở các vùng trọng yếu.

Được sự giúp đỡ của Mặt trận 779 và đoàn chuyên gia quân sự tinh Krachiê, lúc đầu các sư đoàn bộ binh 7, 9 tập trung vào 11 xã cơ sở yếu, sau đó phát triển rộng ra các ấp, xã lân cận theo kế hoạch thống nhất do Bạn đề ra. Riêng Sư đoàn bộ binh 7 cùng với Bạn thành lập Ban chỉ huy thống nhất từ tỉnh xuống đến xã để chỉ đạo quá trình xây dựng lực lượng vũ trang Bạn về mặt tổ chức và trình độ năng lực chiến đấu; đồng thời tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia lực lượng vũ trang và xây dựng chính quyền cách mạng của Bạn ở cơ sở.

Thực hiện chủ trương đó, các đơn vị quân tình nguyện tiến hành vũ trang tuyên truyền ở 17 xã, 113 ấp, phát động nhân dân củng cố, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở. Chỉ sau một thời gian, phần lớn chính quyền, tổ chức dân quân tự vệ và tổ chức cách mạng ở các ấp, xã trước kia không hoạt động, đã đi vào hoạt động nền nếp. Đặc biệt là các ấp Cân Bây, Xê Da, Đầm Rây, Xoài Chia được ta giúp đỡ xây dựng đã tự chủ động đánh địch, bảo vệ vững chắc địa bàn của ấp mình. Một số đại đội thực hiện hai chức năng của huyện Đầm Be đã phát huy tốt vai trò làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang địa phương, ở một số nơi, trước kia chính quyền ấp, xã và các tổ chức quần chúng bị địch khống chế, lũng đoạn thì nay được thanh lọc, xây dựng lại trong sạch và bước đầu điều hành hiệu quả mọi công việc. Cuối năm 1986, Sư đoàn 7 còn cử 42 đội công tác xuống các ấp, xã phát động quần chúng, khống chế, phá tan các tổ chức địch ngầm, giúp nhân dân củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng cuộc sống mới.

Sư đoàn bộ binh 9 cũng đẩy mạnh giúp Bạn xây dựng ấp, xã. Cán bộ, chiến sĩ ta tuyên truyền giáo dục cho cán bộ và nhân dân Bạn hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước cách mạng Campuchia, nhiệm vụ của nhân dân Campuchia trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước và hiểu rõ hơn Bạn, thù, tính tất yếu khách quan của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia. Nhờ vậy, đông đảo nhân dân các ấp, xã đã tham gia các phong trào cách mạng như tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và phát triển sản xuất. Tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng ngày càng củng cố và phát triển. Trong tổng số 13 xã, thì 8 xã có đảng viên, 100% xã có tổ nòng cốt, 100% xã có chi đoàn thanh niên, với 221 đoàn viên. Phong trào tuyển quân, xây dựng lực lượng vũ trang của Bạn đạt 60% chỉ tiêu kế hoạch đề ra (228 người/380 người). Lực lượng dân quân các xã có 644 người, được trang bị 522 súng và 1.005 dân quân phum được trang bị 539 súng các loại.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:23:10 am
Đối với Sư đoàn 315 (Mặt trận 579), nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng cơ sở cũng được chú trọng. Sư đoàn cử các đội công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở các xã (khum) trọng yếu như Choam, Tấc Khom, Đốc Tơre (huyện Choan Ksan), Côngpông Xalâu 1, Côngpông Xalâu 2, Chép 2 (huyện Chep), Thơ Mia, Chà Rạch, Pớtôria (huyện Chi Sen) thuộc tỉnh Prếtvihia. Các đơn vị của Sư đoàn 315 tổ chức hàng trăm buổi tuyên truyền, học tập các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cách mạng Campuchia và tổ chức mít tinh cho 83.917 lượt người, bồi dưỡng 148 cán bộ phum, khum (thôn, xã), tổ chức được 120 dân quân trong 9 xã; xây dựng được 3 đại đội 2 chức năng cho 3 huyện. Đồng thời giúp nhân dân gặt lúa, đào giếng, làm nhà, sửa chữa đường sá với hàng nghìn ngày công. Tổ chức cứu chữa nhiều người dân bị ốm đau, dọn vệ sinh, cắt tóc, chiếu phim phục vụ nhân dân ở nhiều nơi, gây được tình cảm mến phục Bộ đội tình nguyện Việt Nam.

Nhờ phong trào tăng gia sản xuất ở các ấp, xã phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng ổn định. Ngoài số lương thực dùng để ăn, nhân dân còn có lượng dư bán cho nhà nước như huyện Môngconrôrây có 6 xã thu mua được 4.130 tấn lúa, huyện Xixôphôn cũng có 6 xã thu mua được 168 tấn lương thực... Nhìn chung, hoạt động giúp Bạn xây dựng cơ sở của quân tình nguyện có nhiều cố gắng và đạt kết quả tốt. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ ta đã chấp hành tốt kỷ luật dân vận, tạo được lòng tin cho cán bộ, nhân dân Campuchia. Mối quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Bạn ngày càng phát triển vì sự hồi sinh của dân tộc Campuchia.

Cuối năm 1986, nhân sự Bộ Tư lệnh 719 có sự thay đổi. Ngày 6 tháng 11 năm 1986, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định số 1319/NQNS-TW bổ nhiệm đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Trung ương Đảng - Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 làm Tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đồng thời Bộ Chính trị quyết định điều động đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh 719 về Bộ Quốc phòng nhận nhiệm vụ mới(1). Trước đó, ngày 15 tháng 8 năm 1986, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Quyết nghị số 142/QNĐU về việc chỉ định bổ sung đồng chí Hồ Bá Phúc làm Ủy viên Ban cán sự Đảng 719.

Ngày 22 tháng 11 năm 1986, Đảng ủy Quân sự Trung ương họp hội nghị kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ quân sự năm 1986 và đề ra phương hướng nhiệm vụ quân sự năm 1987. Đánh giá về tình hình nhiệm vụ quân sự năm 1986 trên chiến trường Campuchia, Hội nghị nêu rõ: Ta đã giúp Bạn và cùng với Bạn đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, điều chỉnh bố trí lực lượng, hình thành thế trận phù hợp với tình hình phát triển mới của chiến trường; tích cực đánh địch và ngăn chặn địch ở biên giới Campuchia - Thái Lan, trên các hành lang thâm nhập và nhất là truy quét địch trong nội địa (loại khỏi vòng chiến đấu trên một vạn tên địch). Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng. Nhìn chung, thế và lực cách mạng Campuchia tiếp tục được tăng cường. Tuy nhiên, thành tích đạt được trong năm 1986 chưa tương xứng với thế và lực đã tạo ra được sau thắng lợi mùa khô 1984-1985. Kết quả thực hiện 3 mục tiêu chiến lược còn hạn chế. Hiệu quả giúp Bạn của chuyên gia quân sự và hiệu suất chiến đấu của Bộ đội tình nguyện chưa cao.

Sang năm 1987, địch vẫn tăng cường phá hoại cuộc sống hồi sinh của nhân dân Campuchia. Chúng ra sức tìm mọi cách tạo thế, tạo lực hòng làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho chúng, nuôi ý đồ đảo ngược tình thế, tiến tới giành thắng lợi quyết định. Thực hiện âm mưu đó, địch vẫn dùng biện pháp chiến lược cơ bản là đưa lực lượng từ các căn cứ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan vào nội địa tuyên truyền giành dân, tìm cách đánh phá hòng vô hiệu hoá chính quyền cách mạng ở phum, xã và vô hiệu hoá lực lượng vũ trang Bạn: kết hợp với chiến tranh tâm lý, dụ dỗ mua chuộc, đe dọa, gây mất ổn định trong nhân dân và các tổ chức quần chúng, lực lượng cách mạng ở phum, xã.

Tại vùng biên giới, địch sử dụng lực lượng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, không quân đánh phá, chiếm một số điểm tựa, cụm điểm tựa của ta và Bạn. Chúng củng cố hệ thống đài quan sát, công sự, làm đường cơ động, bố trí chông mìn ở các khu vực xung yếu đối diện với ta. Ngoài ra, địch còn tổ chức các lực lượng chuyên trách trinh sát, nắm tình hình hoạt động của ta và Bạn trên tuyến phòng thủ biên giới, tìm cách đánh phá mở hành lang đưa lực lượng vào sâu trong nội địa.

Nhằm ngăn chặn địch đánh phá, các đơn vị quân đội ta và Bạn ở tuyến phòng thủ biên giới đã anh dũng chiến đấu trên các địa bàn được giao. Trong quá trình chiến đấu ngăn chặn địch hoặc tiến công triệt phá các căn cứ xuất phát tiến công của chúng, địa bàn nào bộ đội ta và Bạn làm chủ thì đồng thời tiến hành xây dựng, cải tạo hệ thống công sự, hệ thống vật cản để tạo thế đánh địch phản kích, hạn chế địch vào nội địa.


(1) Ngày 22 tháng 12 năm 1986, Hội đồng Nhà nước ra Quyết định số 778/HĐNN7 bổ nhiệm Đại tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:26:00 am
Ngày 2 tháng 1 năm 1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra nghị quyết số 06/NQ-ĐUQSTW về nhiệm vụ quân sự năm 1987. Đối với nhiệm vụ ở Campuchia Nghị quyết nêu rõ: “Tiếp tục giúp Bạn và phối hợp với Bạn đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng các tổ chức cách mạng ở cơ sở, bóc gỡ lực lượng ngầm của địch ; truy quét phá vỡ các căn cứ lõm, chặn đánh tiêu diệt lực lượng xâm nhập và các đoàn tiếp tế, kết hợp bịt các cửa khẩu triệt phá các hành lang xâm nhập; tăng cường bảo đảm an ninh ở các vùng nội địa, trước hết là các khu vực và mục tiêu quan trọng; sẵn sàng đánh bại các cuộc tập kích, lấn chiếm biên giới Campuchia - Thái Lan. Luôn luôn quán triệt 3 mục tiêu chiến lược trong giúp Bạn, nhất là việc xây dựng thực lực cách mạng và bồi dưỡng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ Bạn”(1).

Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia trong tình hình mới, ngày 31 tháng 1 năm 1987, Bộ Quốc phòng ra Thông tư số 127/TT-QP hướng dẫn thực hiện chính sách đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng. Thông tư quy định cụ thể về chế độ, chính sách đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự, người phục vụ chuyên gia (tiền lương, một số khoản phụ cấp), góp phần cải thiện điều kiện sinh hoạt, yên tâm làm nhiệm vụ quốc tế giúp Bạn.

Trong những ngày tháng gian khổ thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta luôn nhận được nhiều tình cảm động viên của hậu phương trên quê hương Việt Nam. Hằng năm, các tỉnh, thành ở phía nam thường cử đoàn đại biểu đại diện cho từng cơ quan, địa phương sang thăm động viên, tặng quà bộ đội ta, nhất là vào dịp các ngày lễ, ngày Tết. Nhân dịp Tết Nguyên đán 1987, Thành hội phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Tết đến nhớ người chiến sĩ biên cương” và cử cán bộ cùng đoàn đại biểu nhân dân thành phố đi thăm, tặng quà (gồm 247 chiếc áo len, 100 mét vải và các thứ nhu yếu phẩm khác trị giá 676.133 đồng) cho cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 302 và ở lại cùng vui tết với bộ đội. Những đoàn đại biểu các tỉnh, thành phố của Việt Nam đến thăm các đơn vị Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự là sự cổ vũ thiết thực đối với cán bộ, chiến sĩ ta; động viên họ nỗ lực phấn đấu, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng và nhân dân Campuchia.

Từ ngày 12 đến 18 tháng 2 năm 1987, Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị sơ kết công tác giúp Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược then chốt cách mạng Campuchia. Tham dự hội nghị có Phó Tư lệnh chính trị Bộ Tư lệnh 719, Phó Tư lệnh các quân khu phía Nam và các mặt trận 479, 579, 779, 979; đại biểu của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Bộ Tư lệnh và cơ quan tham mưu, chính trị Bộ Tư lệnh 719. Hội nghị đánh giá tình hình giúp Bạn và cùng Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia trong thời gian qua và bàn biện pháp đẩy mạnh tốc độ giúp Bạn nhanh chóng trưởng thành trong thời gian tới.

Kết luận hội nghị, đồng chí Chu Huy Mân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nêu rõ: Căn cứ vào đặc điểm tình hình địch, ta trên chiến trường Campuchia cần có những biện pháp giúp Bạn thực hiện ba mục tiêu chiến lược đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn. Chiến trường biên giới và nội địa có vị trí và tác dụng khác nhau thì yêu cầu và cách hoạt động cũng khác nhau, nhưng chỉ đạo phải thống nhất, phối hợp chặt chẽ. Hình thành lực lượng tổng hợp để phát huy thế mạnh và tinh thần tiến công tổng hợp để đánh thắng địch, cần nắm chắc vấn đề xây dựng thực lực cách mạng nói chung và lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng Campuchia nói riêng. Chúng ta phải giúp Bạn yêu cầu cả về tư tưởng và tổ chức. Nguyên tắc là giúp Bạn đảm đương được nhiệm vụ, tự làm chủ được công việc.

Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia trong tình hình mới, đầu năm 1987, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều chỉnh nhân sự về cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Ngày 26 tháng 2 năm 1987, Bộ Chính trị ra Quyết định số 96/NQ-NS-TW bổ nhiệm Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng giữ chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Tiếp đó, ngày 11 tháng 4 năm 1987, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Quyết định số 75/ĐUQSTW chỉ định bổ sung ba đồng chí vào Ban cán sự 719 gồm: đồng chí Lê Hai, Phó Bí thư Ban cán sự làm Bí thư; bổ sung đồng chí Lê Ngọc Hiền vào Ban cán sự làm Phó Bí thư và đồng chí Lê Khả Phiêu làm Phó Bí thư.

Nhằm tăng cường hiệu quả công tác giúp Bạn của đội ngũ chuyên gia quân, dân, chính, Đảng, Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia đã đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hội đồng Bộ trưởng duy trì mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với Đoàn chuyên gia và điều chỉnh một số chế độ, chính sách đối với cán bộ đi công tác dài hạn ở Campuchia. Công văn số 624/CV-TC ngày 9 tháng 5 năm 1987 của Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia gửi đồng chí Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta đã thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia và Đoàn được Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định là cơ quan lãnh đạo toàn diện và tại chỗ về công tác giúp Bạn tại Campuchia. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia ngoài sự cố gắng, nỗ lực của mình còn phải kịp thời nhận được các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta một cách thường xuyên. Những năm qua, nhiều chỉ thị, nghị quyết của Nhà nước ta không được Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng cũng như một số Bộ liên quan gửi cho đoàn chuyên gia, làm cho việc quán triệt cũng như tổ chức thực hiện những chủ trương mới của Đảng, Nhà nước trong chuyên gia thường chậm. Vì vậy, đề nghị Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ liên quan giữ mối liên hệ thường xuyên chặt chẽ với Đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.


(1) Biên niên sự kiện hoạt động của Đảng, Nhà nước, quân đội, chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, tập IV..., 2008; tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 339.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:28:00 am
Tiếp đó, ngày 15 tháng 6 năm 1987, Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng Công văn số 667/CV-TC đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cho phép tiếp tục thực hiện đúng, đầy đủ những quy định đã ghi trong Chỉ thị 01 của Ban Bí thư và nhiều điểm trong Chỉ thị số 87/CT của Hội đồng Bộ trưởng; đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tính chất, điều kiện công tác ở chiến trường Campuchia. Công văn nêu rõ: “Mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và từng bước điều chỉnh, bổ sung những chế độ, chính sách đối với cán bộ đi công tác dài hạn ở Campuchia, góp phần động viên đội ngũ chuyên gia yên tâm làm nhiệm vụ quốc tế.

Tuy nhiên, những chế độ, chính sách đối với chuyên gia công tác dài hạn ở Campuchia còn chắp vá, có chỗ thiếu nhất quán, nội dung một số chế độ, chính sách chưa phản ánh đúng thực trạng và điều kiện công tác ở Campuchia. Gần đây, Nhà nước ta có điều chỉnh, bổ sung chính sách đối với cán bộ đi Campuchia, có một số điều không được sát thực ảnh hưởng đến tư tưởng, sự yên tâm phấn đấu trong đội ngũ chuyên gia. Đến nay, Bạn đã trưởng thành, cho nên cán bộ đi làm nhiệm vụ chuyên gia càng phải đảm bảo chất lượng, theo đúng tiêu chuẩn như Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 01 của Ban Bí thư đã quy định. Mặt khác, đất nước Bạn vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, hoạt động chuyên gia còn nhiều khó khăn, nên chế độ chính sách cần thực sự khuyến khích cán bộ đi Campuchia làm nhiệm vụ giúp Bạn”(1).

Thực hiện chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước, cuối năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung một số chính sách, chế độ, đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia theo hướng điều chỉnh mức ăn thường xuyên lên như mức ăn bồi dưỡng ở bệnh xá; nâng mức tiền tiêu vặt hàng tháng lên gấp đôi; thực hiện chế độ phụ cấp khuyến khích đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ đã phục vụ trên hạn định nghĩa vụ quân sự (sau khi rút quân) và ưu tiên con sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng đi lao động hợp tác quốc tế; thực hiện chế độ bồi dưỡng sức khỏe khi rút quân về nước, chế độ trợ cấp một lần khi về phục viên, nghỉ hưu. Các chính sách, chế độ đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự được sửa đổi, bổ sung phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện ăn ở, sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm quốc tế ở Campuchia đã thực sự góp phần động viên cán bộ, chiến sĩ ta thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Ngày 17 tháng 6 năm 1987, đại diện Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đại diện Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia ký Nghị định thư về việc hợp tác và viện trợ quân sự năm 1987 và Nghị định thư về chuyên gia quân sự. Nghị định thư về chuyên gia quân sự (gồm 5 điều) Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ đáp ứng đủ số lượng chuyên gia theo yêu cầu của Bạn với tổng quân số năm 1987 là 1.822 người (gồm 1.522 chuyên gia, 119 sĩ quan phục vụ chuyên gia và 181 viên chức quốc phòng phục vụ chuyên gia).

Theo yêu cầu của Bạn, năm 1987, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ ngăn chặn địch, tạo thế cho bộ đội ta và Bạn chốt giữ, bảo vệ tuyến phòng thủ biên giới. Lực lượng tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới gồm toàn bộ lực lượng công binh của các mặt trận 479, 579, 979, các trung đoàn công binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, công binh của Sư đoàn 4 và 6 trung đoàn bộ binh (tương đương 35 tiểu đoàn và 6 đại đội), cùng với công binh của 3 sư đoàn và 2 lữ đoàn bộ binh của Bạn. Ngoài ra, Bạn còn huy động hàng chục triệu ngày công của dân công, dân quân, các cơ quan của Bạn tham gia xây dựng.

Nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới năm 1987 được triển khai trên địa bàn rộng và kéo dài trên tuyến biên giới gần 600 kilômét (gồm cả một số khu vực đã xây dựng cần củng cố). Các hạng mục công trình được xây dựng ngày càng đi vào chiều sâu, nhất là việc bổ sung hệ thống vật cản ngăn chặn và củng cố hệ thống công sự ở những nơi địch tổ chức lấn chiếm, đánh phá ác liệt. Trong quá trình xây dựng đã từng bước hình thành được mô hình tuyến phòng thủ bao gồm các hạng mục như hệ thống vật cản ngăn chặn; điểm tựa; cụm điểm tựa, khu vực phòng thủ; đường sá cơ động, vận chuyển; công trình cấp nước, sân đỗ trực thăng; hệ thống kho, xưởng, bệnh viện, bệnh xá; hệ thống trận địa pháo binh và mạng thông tin liên lạc; khu dân cư biên giới.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng công trình quân sự đặc biệt trên tuyến biên giới, theo chỉ thị của Tư lệnh Quân khu 7, hai mặt trận 479 và 779 thành lập Ban chỉ huy công trình, đồng thời tổ chức tập huấn cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia xây dựng. Quân khu 7 còn cử một số cán bộ kỹ thuật sang trực tiếp giúp hai mặt trận lập dự án thiết kế thi công; đồng thời liên hệ với Tiền phương Bộ Tư lệnh Công binh cử cán bộ giám sát thi công.


(1) Công văn số 667/CV-TC của Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ 546.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:29:08 am
Trong đợt xây dựng tuyến biên giới những tháng đầu năm 1987, Mặt trận 479 đã bố trí hệ thống vật cản gồm 2.473.410 mũi chông, làm 458 kilômét đường tuần tra, đào 248 kilômét hào, dò gỡ được 3.267 quả mìn. về xây dựng cụm điểm tựa, các đơn vị sửa chữa và làm mới 790 hầm chữ A, sửa và làm 101 lô cốt, 858 công sự có nắp, 9 hầm chỉ huy, 15 hầm đạn, đào 29.598 mét giao thông hào, xây 17 trận địa hoả lực. Đồng thời tiến hành mở được 386 kilômét đường vành đai, sửa 584 kilômét đường cơ động, nâng cấp 30,8 kilômét đường cấp phối, khai thác 28.133 mét khối đá và 193,7 mét khối gỗ.

Để đảm bảo nước sinh hoạt cho bộ đội và dân công đang xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, các đơn vị ta xây dựng được 119 bể nước và 17 dập nước. Tại các căn cứ của ta, bộ đội công binh các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã xây dựng được 31 kho, 11 trạm xá và 6 sân bay trực thăng, bảo đảm kịp thời yêu cầu tác chiến. Riêng Trung đoàn 25 công binh được chỉ huy Mặt trận giao nhiệm vụ phối thuộc Sư đoàn 286 bạn xây dựng tuyến vật cản bảo vệ sở chỉ huy K5 (Sàmrông). Trung đoàn đã huy động toàn bộ lực lượng và phương tiện của đơn vị, khắc phục nhiều khó khăn, nỗ lực với tinh thần cao, đến ngày 15 tháng 5 năm 1987 hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp đó, cuối tháng 5 năm 1987, Trung đoàn 25 công binh còn hoàn thành việc xây dựng các hạng mục chính của công trình NT.47 (gồm hầm chỉ huy, nhà xe tăng...). Trong quá trình xây dựng công trình, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia không chỉ đổ mồ hôi, mà tổn thất cả xương máu. Trên hướng Mặt trận 479, ta hy sinh 125 người, bị thương 205 người, hàng chục xe vận tải và nhiều trang thiết bị khác bị hỏng nặng.

Trong năm 1987 Mặt trận 579 có sự thay đổi về lãnh đạo, chỉ huy. Ngày 4 tháng 9 năm 1987, Bộ Chính trị ra Thông báo số 28/TB-TW cử Thiếu tướng Lê Huân, nguyên Phó Tư lệnh Mặt trận 579 giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 5 kiêm Tư lệnh Mặt trận 579. Đại tá Đỗ Hữu Hạnh, nguyên Phó Chủ nhiệm chính trị Quân khu 5 giữ chức Phó Tư lệnh chính trị Mặt trận 579. Đại tá Lê Văn Ba, nguyên Phó Tư lệnh chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận 579 giữ chức Phó trưởng đoàn về chính trị Đoàn 478 kiêm chuyên gia Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Campuchia.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, các đơn vị thuộc Mặt trận 579 tiếp tục xây dựng, sửa chữa các hạng mục công trình trên tuyến phòng thủ biên giới. Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, tập trung lực lượng và phương tiện xây dựng với quyết tâm cao, đến cuối năm 1987, nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ trên hướng Mặt trận 579 cơ bản hoàn thành. Toàn bộ hệ thống đường cơ động, vận chuyển chủ yếu trong khu vực dài 824 kilômét được nâng cấp, cải tạo, kế cả hệ thống cầu, bến vượt. Riêng lực lượng công binh còn mở được hơn 400 kilômét đường mới, làm mới và sửa được 397 cầu bằng gỗ. Các hạng mục công trình chiến đấu, hệ thống vật cản hoàn thành với chất lượng tốt, bảo đảm cho các đơn vị Quân tình nguyện và lực lượng vũ trang Bạn có thế đứng vững chắc trong các khu vực phòng thủ.

Ngoài ra, lực lượng công binh Mặt trận 579 tham gia xây dựng một số công trình phục vụ dân sinh cho nhân dân Campuchia, điển hình là cầu Hữu nghị qua sông Sêrêpốc. Trong quá trình giúp Bạn năm 1987, riêng bộ đội công binh Mặt trận 579 đã hy sinh 152 người, trong đó 90 người hy sinh do bị trúng mìn địch.

Ở hướng Mặt trận 979, trong năm 1987, các đơn vị chỉ tập trung xây dựng một số hạng mục, còn chủ yếu là sửa chữa, nâng cấp các hạng mục xây dựng từ những năm trước. Sau một thời gian nỗ lực lao động, các đơn vị đã xây dựng hoàn thành công sự chỉ huy; xây móng và đổ bê tông bệ nhà xe được 23 gian, san lấp 5.000 mét vuông mặt bằng, đào đắp 2.000 mét khối đất, xây 500 mét khối gạch đá. Ngoài ra còn san lấp được 2.500 mét vuông mặt bằng, đào đắp 1.000 mét khối đất và đổ 57 mét khối bê tông cốt thép ở công trình khác.

Tổng kết quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, Mặt trận 779 đã sửa chữa được 18 kilômét đường, làm 9 cầu, bảo đảm giao thông cho các hoạt động lớn trên tuyến đường 85 kilômét, khảo sát đường 95 kilômét, bảo đảm cơ động bằng thuyền bo bo trên sông phục vụ chỉ huy Mặt trận với 1.200 kilômét đường sông; dò gỡ được 40 mìn chống tăng, khai thông tuyến biên giới với diện tích 120.000 mét vuông, dò gỡ mìn giúp Bạn ở Snuôn, Côngpông Chàm được 2.000 mét vuông. Các lực lượng của ta và Bạn đã cơ bản hoàn thành xây dựng hệ thống điểm tựa, cụm điểm tựa, khu vực phòng thủ; hệ thống vật cản ngăn chặn nổ và không nổ, hào chiến đấu, các trận địa hoả lực, hệ thống đường cơ động và vận chuyển tiếp tế, tăng khả năng phòng thủ trên toàn tuyến biên giới phía Tây Campuchia.

Như vậy, đến cuối năm 1987, tuyến phòng thủ biên giới do các mặt trận 479, 579, 979 đảm nhiệm xây dựng ngày càng được củng cố hoàn chỉnh, tạo thế đứng vững chắc và liên hoàn, có tác dụng phát hiện và khống chế. ngăn chặn kịp thời các cuộc tiến công, xâm lấn của địch. Sau 3 năm (gồm 3 mùa khô, 2 mùa mưa) thực hiện xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía Tây Campuchia, các đơn vị quân tình nguyện thuộc các mặt trận và lực lượng vũ trang, nhân dân Bạn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhiều đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc đã được nhận những phần thưởng cao quý của Nhà nước Campuchia và Đảng, Nhà nước ta. Công trình tuyến phòng thủ biên giới là biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Hình ảnh anh bộ đội Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:30:11 am
Từ năm 1987 và những năm tiếp theo là giai đoạn Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia nỗ lực vươn lên hoàn thành cơ bản ba mục tiêu chiến lược, tiến tới Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam kết thúc vẻ vang nhiệm vụ quốc tế; nhân dân Campuchia tự đảm đương sự nghiệp cách mạng bảo vệ và xây dựng đất nước trong điều kiện địch tuy suy yếu và thất bại trong âm mưu chuyển hướng chiến lược, nhưng vẫn chờ cơ hội Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta rút hết sẽ tiếp tục chống phá cách mạng Campuchia. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của ta là tập trung giúp Bạn xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở vững mạnh; đồng thời kết hợp triệt phá các hành lang vận chuyển tiếp tế của địch, tiêu hao, làm tan rã địch ở các căn cứ “lõm” của chúng.

Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Mặt trận 479 mơ đợt hoạt động tiến công vào các căn cứ “lõm” của các sư đoàn, trung đoàn địch. Trên hướng Sư đoàn bộ binh 7, đối tượng tác chiến vẫn là sư đoàn 920 địch. Đến tháng 6 năm 1987, chúng tăng cường thêm lực lượng của các sư đoàn 417, 801 quân Pôn Pốt và hai sư đoàn 3, 5 của các lực lượng phản động khác (khoảng 500 quân). Sau một thời gian hoạt động, bộ đội ta phát hiện địch thường đánh theo lối du kích là chính, song ta vẫn chưa tìm ra cách đánh thích hợp với những quy luật hoạt động mới của chúng. Hàng năm, từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5, địch chỉ để lại một bộ phận lực lượng trên địa bàn (mỗi căn cứ có khoảng 15 - 20 tên), còn phần lớn lực lượng (kể cả chỉ huy) bí mật chuyển ra biên giới học tập, lấy vũ khí, lương thực. Đến tháng 8 và tháng 9 năm 1987, chúng thực hiện vận chuyển và đưa lực lượng từ biên giới vào, tổ chức các hoạt động phá hoại ở nội địa. Âm mưu của địch là đánh rã chính quyền cách mạng phum, xã và thay thế vào đó là chính quyền “Campuchia dân chủ”; phát triển dần lực lượng vào các vùng sâu; dùng tiền, vàng để mua lương thực tại chỗ, bắt thanh niên, thiếu niên đi lính cho chúng. Địch thường phân tán lực lượng nhỏ lẻ, tránh né những nơi có Bộ đội tình nguyện. Chúng tập trung hoạt động ở những nơi ta và Bạn sơ hở, huy động lực lượng từ 100 - 150 quân đánh nhanh, hòng gây thanh thế và thiệt hại cho ta rồi phân tán rút lui.

Trước âm mưu và thủ đoạn hoạt động mới của địch, trong năm 1987, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia tổ chức 6 đợt hoạt động tổng hợp đánh địch ở núi Chi, trên tuyến hành lang và các căn cứ “lõm” của địch ở khu vực phía bắc và đông nam thị xã Krachiê. Trong những tháng đầu năm 1987; do chưa nắm chắc quy luật hoạt động của địch và không thông thạo địa hình nên hiệu quả chiến đấu của quân tình nguyện và Bạn chưa cao. Trong căn cứ, địch thường bố trí trung đoàn thiếu hoặc trung đoàn tăng cường, hoạt động trên địa bàn một đến hai huyện hoặc ở vùng giáp ranh các huyện. Chúng không đóng quân lâu dài tại một căn cứ, mà thường di chuyển căn cứ trên những khu vực nhất định. Địch chọn xây dựng căn cứ thường ở nơi có địa hình hiểm trở, gần dân, có nước, mùa mưa không bị ngập, dễ cơ động đối phó với ta...

Sau một thời gian hoạt động, nắm tình hình, ta dần dần tìm ra quy luật hoạt động của địch và nghiên cứu tìm ra cách đánh ngày càng đạt hiệu suất cao. Sư đoàn bộ binh 7 đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tác chiến hiệu quả, gây cho địch thiệt hại nặng. Có trận, Bạn đã diệt được cả chỉ huy tiểu đoàn địch. Trong năm 1987, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 7 đã cùng Bạn theo dõi, phát hiện địch 113 lần tung lực lượng vào sâu trong vùng nội địa do lực lượng cách mạng Campuchia kiểm soát. Sư đoàn đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Bạn đánh 92 trận, trong đó có 80 trận đạt hiệu suất cao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu 137 súng các loại. Trong quá trình phối hợp cùng Bạn chiến đấu, 35 cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 7 đã anh dũng hy sinh, 36 đồng chí bị thương.

Thời gian này, Sư đoàn 9 sau khi hoàn thành xây dựng tuyến phòng thủ biên giới được lệnh rút về tuyến sau làm nhiệm vụ cơ động thuộc Mặt trận 479 và giúp Bạn củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở ba huyện Xixôphôn, Pơvân và Môngconrôrây thuộc tỉnh Báttambang. Sư đoàn nhận nhiệm vụ đánh cắt hành lang địch từ biên giới vào nội địa, tích cực chủ động tiến công truy quét địch ở nội địa; tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng sư đoàn 450 và hai phân khu 204, 205 của địch; triệt hạ các căn cứ “lõm”, bám phum, xã và căn cứ chỉ huy trong rừng, giữ vững thế trận an ninh địa phương, về tác chiến, Sư đoàn đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh địch, củng cố địa bàn, gây cho địch nhiều thiệt hại. Trong 3 tháng đầu năm 1987, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn tác chiến 40 lần, tiêu diệt hàng chục tên địch, bắt 6 tên, thu 42 súng. Chỉ riêng đợt hoạt động từ ngày 22 tháng 6 đến 20 tháng 9 năm 1987, Sư đoàn 9 đã tiêu diệt hàng chục tên địch, bắt 5 tên. Các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã liên tục chiến đấu ngăn chặn, hạn chế địch xâm nhập vào nội địa phá hoại cuộc sống của nhân dân Campuchia.

Với tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng, các đơn vị Quân tình nguyện vừa thực hiện tác chiến, vừa làm công tác giúp Bạn. Trước tình hình phong trào cách mạng của quần chúng phát triển chưa đều, chưa mạnh, thế trận an ninh các địa phương chưa thật vững chắc, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị quân tình nguyện chủ động hợp đồng với Bạn làm nhiều việc góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở nhiều địa phương, trong đó phong trào đánh địch, kêu gọi người thân lầm đường trở về với gia đình đạt hiệu quả cao. Các đơn vị quân tình nguyện phân tán thành các đội, tổ công tác đến phum, xã, phối hợp, hiệp đồng dìu dắt lực lượng dân quân Bạn cùng đánh địch.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:31:12 am
Được giao nhiệm vụ giúp Bạn ở 13 xã thuộc 3 huyện và hai tỉnh Xiêm Riệp, Báttambang, Sư đoàn bộ binh 9 (Mặt trận 479) thành lập 13 đội công tác gồm 111 đồng chí cùng Bạn làm công tác vận động quần chúng tham gia phong trào cách mạng ở địa phương. Để củng cố thực lực cách mạng ở các xã, cán bộ, chiến sĩ ta cùng Bạn rà soát, nắm lại chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp trong xã; thống nhất đánh giá, phân loại phum, xã, tổ đoàn kết sản xuất, trên cơ sở đó xác định xã trọng điểm cần tập trung củng cố. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu là cùng với Bạn chăm lo công tác phát triển đảng, xây dựng tổ viên nòng cốt, đoàn thanh niên, nhằm bổ sung và nâng cao chất lượng đội ngũ cốt cán, đáp ứng yêu cầu phát triển phong trào cách mạng của Bạn. Thực hiện chủ trương đó, chỉ trong thời gian ngắn, Sư đoàn bộ binh 9 đã cùng với Bạn phát triển thêm 57 tổ với 380 tổ viên và 6 chi đoàn với 156 đoàn viên ở các xã, huyện trọng điểm.

Nhằm củng cố, tăng cường khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội ta đã giúp 3 tiểu đoàn dân quân tỉnh Báttambang và 1 tiểu đoàn dân quân Svâyriêng trụ bám, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Các đội công tác Sư đoàn bộ binh 9 còn giúp hai huyện Xixôphôn và Môngconrôrây xây dựng 2 tiểu đoàn dân quân cơ động của địa phương; giúp Bạn huấn luyện dân quân về kỹ thuật, chiến thuật 6 lần với 157 lượt người tham gia học tập.

Trong công tác địch vận, các đơn vị quân tình nguyện cùng với Bạn tuyên truyền vận động, tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập chính sách của Đảng, Nhà nước Campuchia, vận động nhân dân kêu gọi con em theo địch trở về với cách mạng. Riêng Sư đoàn bộ binh 9 đã cùng nhân dân địa phương vận động được 125 người theo địch ra hàng trở về với gia đình. Ta cùng với Bạn theo dõi và qua phát hiện của quần chúng, lập hồ sơ hàng trăm tên thuộc lực lượng Pôn Pốt và Sêrêka, hỗ trợ Bạn bắt hàng chục tên. Các đội công tác cùng với lực lượng vũ trang an ninh của Bạn bảo vệ tốt an ninh trật tự địa phương, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng, không để địch phá hoại. Cuộc sống của nhân dân từng bước được cải thiện.

Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 1987, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng với Bạn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động, hướng vào thực hiện 3 mục tiêu chiến lược giành thắng lợi đáng kể. Ta và Bạn phối hợp đánh địch trên biên giới phía Tây, đẩy lùi các đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa, ngăn chặn nhiều đợt địch hoạt động vận chuyển trên các tuyến hành lang. Trong nội địa, ta và Bạn tăng cường truy quét đánh địch trên các địa bàn trọng điểm; đồng thời đẩy mạnh phát động quần chúng, xây dựng và củng cố các tổ chức cách mạng ở cơ sở. Ta đã giúp Bạn bồi dưỡng hơn 1.000 cán bộ và tổ chức 1.046 đội công tác đưa xuống cơ sở hoạt động. Đến tháng 6 năm 1987, Bạn củng cố được 36% xã mạnh, 46% xã trung bình, còn 18 - 20% xã yếu. Qua chiến đấu và công tác, lực lượng Bạn được rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Các đơn vị chủ lực Bạn được đưa ra chốt giữ vùng biên giới đã kiên trì bám trụ, anh dũng chiến đấu, giữ vững địa bàn. Một số đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân chủ động đánh địch đạt hiệu quả cao.

Tháng 7 năm 1987, Bộ Tư lệnh 719 xác định nhiệm vụ giúp Bạn trong 6 tháng cuối năm 1987: Tiếp tục cùng Bạn đẩy mạnh chiến đấu, tiêu diệt địch; đồng thời phát huy vai trò làm chủ của Bạn, để Bạn chủ động độc lập tác chiến, bàn giao cho Bạn một số địa bàn để Bạn tự đảm đương xây dựng, bảo vệ sự nghiệp cách mạng của Bạn. Quán triệt nhiệm vụ do Bộ Tư lệnh 719 đề ra, các đơn vị Quân tình nguyện phối hợp với Bạn đẩy mạnh đánh địch. Hoạt động tác chiến nổi bật cuối mùa mưa năm 1987 là ta cùng Bạn mở chiến dịch tiến công tổng hợp ở khu vực Biển Hồ (từ ngày 20-9 đến 18-11-1987). Trong chiến dịch này, lực lượng của Mặt trận 479 và lực lượng Bạn ở hai tỉnh Báttambang và Xiêm Riệp (được lực lượng hải quân, không quân chi viện) liên tục tiến công vào các cụm quân địch. Bị bao vây và tiến công từ nhiều phía, sau một thời gian chống cự, địch phải tháo chạy từ nam quốc lộ 6 (Xiêm Riệp) lên phía bắc Báttambang.

Ở hướng đông, các đơn vị thuộc Mặt trận 779 tăng cường việc phòng thủ các thị xã, thị trấn, bảo vệ những tuyến đường giao thông trọng yếu, kết hợp đánh phá các căn cứ lõm, căn cứ vùng sâu và các hành lang của địch. Căn cứ vào tình hình lực lượng ta và địch, các đơn vị quân tình nguyện chủ yếu hoạt động chiến đấu quy mô cấp đại đội. Trong năm 1987, các đơn vị quân tình nguyện thuộc Mặt trận 979 đã đánh 263 trận trong tổng số 601 trận diễn ra trên địa bàn 8 tỉnh ở vùng Tây Nam Campuchia, gây cho địch thiệt hại nặng, buộc chúng phải đạt ra vùng biên giới phía Tây ẩn náu, không dám hoạt động phá hoại như trước nữa.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:33:06 am
Ngày 3 tháng 7 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 09/CT-TW “Về quan hệ Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia”. Chỉ thị nêu rõ: “Trong giai đoạn mới, ta và các Bạn Lào, Campuchia đều nhấn mạnh phải ra sức tăng cường liên minh chiến lược Việt Nam - Lào Việt Nam - Campuchia, cũng như giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương theo hướng tăng cường liên minh chính trị trên cơ sở hợp tác kinh tế và hợp tác phòng thủ. Với tinh thần đổi mới tư duy, ta và Bạn xác định rõ thêm tinh thần, quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia:

1. Liên minh trên bán đảo Đông Dương là liên minh chiến lược toàn diện có ý nghĩa sống còn. Hợp tác kinh tế, văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng, tạo cơ sở vật chất cho liên minh và hợp tác toàn diện giữa các bên nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng và thế mạnh kinh tế của mỗi nước và của ba nước. Sử dụng tốt nhất lao động, đất đai, tài nguyên và năng lực sản xuất hiện có bằng những hình thức hợp tác thích hợp; đồng thời coi trọng, tranh thủ sự hợp tác chặt chẽ và sự giúp đỡ to lớn về các mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

2. Trong hợp tác kinh tế, văn hóa giữa ta và các nước Bạn cần chuyển mạnh từ giúp đỡ viện trợ và cho không là chủ yếu sang hợp tác sản xuất, kinh doanh theo phương châm hai bên cùng có lợi, coi đó là sự hợp tác cơ bản, lâu dài, tạo tiền đề và điều kiện tiến tới phân công lao động và hợp tác hóa sản xuất, phối hợp kế hoạch kinh tế quốc dân, phối hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

3. Trong quan hệ phải lấy nâng cao chất lượng và hiệu quả làm phương châm chỉ đạo hoạt động hợp tác. Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của hai nước mà xác định chương trình hợp tác thiết thực cho đến năm 1996, bảo đảm tính hiện thực của các thỏa thuận, kiên quyết khắc phục những tổ chức, những hoạt động, những công việc ít hiệu quả, kém chất lượng.

4. Quan hệ giữa các bên là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Một mặt phải tôn trọng độc lập, tự chủ của mỗi nước; mặt khác phái bảo vệ và tăng cường liên minh, phải thể hiện được tinh thần bình đẳng, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, đồng thời phải bảo đảm sự lựa chọn cơ bản lâu dài của liên minh”(1).

Để các thỏa thuận về sự liên minh, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia được thực hiện ngày càng hiệu quả, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định giao nhiệm vụ cho các Bộ, Ban, Ủy ban liên quan xây dựng kế hoạch hợp tác của Bộ, Ban, Ngành, địa phương trong thời gian tới. Đối với Bộ Quốc phòng, cần chuẩn bị các phương án về hợp tác quốc phòng trình Bộ Chính trị xét duyệt để trao đổi ý kiến và phối hợp với bạn triển khai thực hiện.

Trên cơ sở đánh giá kết quả giúp Bạn và cùng Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược do Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đề ra, ngày 10 tháng 8 năm 1987, Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia đề ra kế hoạch tiếp tục giúp Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược trong những năm 1988-1990 với quyết tâm “kiên quyết chuyển để Bạn tự làm, ta giúp Bạn sớm tự đảm đương nhiệm vụ làm chủ công việc của mình. Tổ chức và phát huy sức mạnh tổng hợp, động viên nỗ lực lớn nhất của ta và Bạn, tích cực, khẩn trương, với biện pháp và bước đi thiết thực, hiệu quả để thực hiện bằng được 3 mục tiêu chiến lược. Tiếp tục làm thay đổi so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, làm cho thế và lực cách mạng Campuchia mạnh hơn han thế và lực bọn phản động, đánh bại âm mưu và các thủ đoạn chiến lược của địch... Tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng Campuchia vững bước tiến lên, tự tin ở sức mình trước những thử thách trong bước chuyển mới của cách mạng. Tiếp tục củng cố liên minh chiến lược chiến đấu Việt Nam - Campuchia, làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Campuchia trong bất cứ tình huống nào. Khi Quân tình nguyện Việt Nam tập trung làm nhiệm vụ cơ động cũng sẵn sàng hỗ trợ kịp thời, không để cho tình hình cách mạng Campuchia bị đảo ngược”(2).

Ngày 22 tháng 8 năm 1987, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Quyết nghị số 220/ĐUQSTW chỉ định bổ sung đồng chí Lê Ba làm đảng ủy viên Đảng ủy Đoàn 478. Tháng 8 năm 1987, Bộ Chính trị chỉ định Thiếu tướng Lê Khả Phiêu, Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia giữ chức Phó Tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Đại tá Nguyễn Xuân Khôi, nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần kiêm Phó Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Tư lệnh 719 giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Tư lệnh 719. Tháng 10 năm 1987, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra quyết nghị chỉ định đồng chí Nguyễn Minh Châu và đồng chí Trần Văn Trân vào Ban cán sự Đảng 719 làm ủy viên.


(1) Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 3 tháng 7 năm 1987, tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ 579.
(2) Đảng ủy Quân sự Trung ương, Ban cán sự 719, Kế hoạch giúp Bạn, cùng Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược 1988-1990 ở Campuchia, tài liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ 1010.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:35:10 am
Sau một thời gian tham gia giúp Bạn và cùng Bạn thực hiện 3 mục tiêu chiến lược do hai Đảng đề ra, ta và Bạn đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, liên tục tiến công tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lực lượng địch, làm cho thế và lực địch tiếp tục suy yếu. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia trưởng thành, từng bước đảm đương được nhiệm vụ ở biên giới và nội địa. Căn cứ vào tình hình cách mạng, ngày 8 tháng 10 năm 1987, Chính phủ Cộng hòa Campuchia ra tuyên bố về giải pháp chính trị vấn đề Campuchia, trong đó nêu rõ tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam về nước. Ngày 9 tháng 10, Chính phủ ta ra tuyên bố hoàn toàn ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Campuchia.

Thực hiện thỏa thuận Chính phủ hai nước, ngày 11 tháng 10 năm 1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Campuchia ra thông báo về việc tiếp tục rút một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước trong tháng 11 năm 1987. Đây là đợt rút quân lần thứ 6 của Quân tình nguyện Việt Nam, gồm Binh đoàn 94 (1 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn và một số đơn vị binh chủng), Binh đoàn 99 (2 lữ đoàn bộ binh và một số đơn vị binh chủng).

Sáng ngày 27 tháng 11 năm 1987, tại Phnôm Pênh, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia và Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia tổ chức trọng thể lễ trao Huân chương Ăngco cho hai binh đoàn 94 và 99 Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Tiếp đó, ngày 29 tháng 11 năm 1987, tại Thủ đô Phnôm Pênh, trong bầu không khí thắm tình đoàn kết gắn bó giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, Bộ Quốc phòng Cộng hoà nhân dân Campuchia tổ chức tiễn các đơn vị Quân nguyện Việt Nam về nước.

Cuối năm 1987, Thái Lan quyết định rút quân lớn quân đội của họ ở dọc biên giới Thái Lan - Campuchia về phía sau. Trước tình hình đó, ngày 12 tháng 12 năm 1987, Bộ Quốc phòng Cộng hoà nhân dân Campuchia ra tuyên bố cho biết đã thoả thuận với Bộ chỉ huy Quân sự tình nguyện Việt Nam tại Campuchia quyết định rút Quân tình nguyện Việt Nam đang đóng dọc biên giới Campuchia - Thái Lan vào bên trong lãnh thổ, cách biên giới 15 kilômét, trừ một số khu vực mà các lực lượng phản động vẫn sử dụng để xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia hoạt động phá hoại chống nhân dân Campuchia. Đồng thời, Cộng hoà nhân dân Campuchia đề xuất thành lập một khu vực hoà bình dọc hai bên biên giới Campuchia - Thái Lan dưới sự giám sát quốc tế Ngày 13 tháng 12 năm 1987, Bộ Ngoại giao ta ra tuyên bố hoàn toàn ủng hộ tuyên bố của Bộ Quốc phòng Cộng hoà nhân dân Campuchia và coi đây là bước quan trọng góp phần làm giảm tình hình căng thẳng dọc biên giới Campuchia - Thái Lan, góp phần vào một giải pháp chính trị đúng đắn nhằm giải quyết vấn đề hoà bình ở Campuchia.

Trước tình hình sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia phát triển ngày càng thuận lợi, ngày 30 tháng 12 năm 1987, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta ra Quyết định số 35/QĐ-TW “Về đổi mới phương thức quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trong tình hình mới”. Bộ Chính trị nêu rõ: “Cách mạng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia có mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, bình đẳng và tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia có sự phát triển và trưởng thành đáng kể, ngày càng phát huy năng lực tự chủ, sáng tạo trong vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân mình. Xuất phát từ tình hình trên, Bộ Chính trị quyết định đổi mới phương thức quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia với những nội dung cơ bản như sau:

“1. Hợp tác giúp đỡ nhau về chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở nhất trí thoả thuận giữa Đảng với Đảng.

2. Từ nay không có chuyên gia cao cấp bên cạnh cấp cao của Trung ương Đảng Bạn. Chuyên gia ta được cử sang nước Bạn là khi Bạn có yêu cầu và Trung ương ta đồng ý.

3. Quan hệ trao đổi ý kiến ở cấp Trung ương được thực hiện thông qua đại diện Bộ Chính trị gặp gỡ bàn việc, hoặc thông qua gặp gỡ giữa Bộ Chính trị hai Đảng, hoặc ba Đảng. Quan hệ thường xuyên thì thông qua Đại sứ đặc mệnh toàn quyền như đối với các nước, các đảng anh em khác.

4. Hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật là quan hệ giữa hai Nhà nước thông qua sự phối hợp kế hoạch ngắn hạn, dài hạn và thông qua các hiệp định, nghị định, các biên bản thoả thuận và thông qua Đại sứ ta tại nước Bạn. Mọi quan hệ kinh tế giữa ngành với ngành, tỉnh với tỉnh, cơ sở với cơ sở hai nước phải được sự phê chuẩn và giám sát của Nhà nước các bên căn cứ vào những thoả thuận đã ký kết với cấp Chính phủ.

5. Đoàn chuyên gia tại nước Bạn chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn và quản lý thống nhất về chương trình, nội dung, phương pháp công tác của chuyên gia ta giúp Bạn và chỉ đạo công tác nội bộ chuyên gia ta.

6. Đoàn chuyên gia ta tại nước Bạn do một Trưởng đoàn và một số Phó Đoàn trưởng lãnh đạo”(1).


(1) Quyết định số 35/QĐ-TW ngày 30 tháng 12 năm 1987 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta, lưu tại Trung tâm lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ số 578.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười, 2021, 07:36:32 am
Triển khai thực hiện Quyết định số 35/QĐ-TW của Bộ Chính trị, ngày 31 tháng 12 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 36/QĐ-TW về chức năng nhiệm vụ của Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia trong tình hình mới. Theo đó, Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia do một trưởng đoàn và một số phó đoàn trực tiếp lãnh đạo (theo Quyết định số 35 của Bộ Chính trị thay cho Quyết định số 132/NQNS-TW ngày 8 tháng 6 năm 1982 về việc thành lập Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia). Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia chỉ có trách nhiệm quản lý thống nhất về chương trình, nội dung giúp Bạn và chỉ đạo công tác nội bộ các chuyên gia và các đoàn chuyên gia Việt Nam của các ban, ngành ở Trung ương và các địa phương đang công tác tại Campuchia.

Nhiệm vụ cụ thể của Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia làm chỉ đạo và quản lý chuyên gia dài hạn, bồi dưỡng chính trị, lãnh đạo tư tưởng và chăm lo đời sống của chuyên gia, kiểm tra chuyên gia ngắn hạn về hiệu quả công tác và quan hệ ta - Bạn. Từ nay, ta chỉ có chuyên gia sang Campuchia khi Bạn có yêu cầu và Trung ương ta đáp ứng được. Các ban, ngành và các tỉnh, thành phải đảm bảo cử những chuyên gia theo đúng yêu cầu, đúng tiêu chuẩn và có chất lượng. Việc thay thế chuyên gia dài hạn của các ban, ngành và các địa phương trong nước phải được sự nhất trí của Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia có trách nhiệm góp ý kiến với Ban tổ chức Trung ương và các ban, ngành, địa phương trong nước lựa chọn chuyên gia; góp ý kiến với các cơ quan liên quan trong, nước quy định các chế độ, chính sách đối với chuyên gia.

Về quan hệ với Bạn Campuchia, khi được Ban Bí thư và Thường trực Hội đồng Bộ trưởng ta ủy nhiệm, Trương, Phó đoàn chuyên gia trực tiếp quan hệ với Bạn về vấn đề chuyên gia. Việc hợp tác giữa ta với Bạn về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, trao đổi chuyên gia ngắn hạn về kỹ thuật nghiệp vụ đều là quan hệ giữa Nhà nước và Nhà nước, thông qua sự phối hợp trong kế hoạch ngắn hạn và dài hạn, các biên bản thoả thuận, các hiệp định và nghị định thư và thông qua Đại sứ ta tại nước Bạn. Trưởng, Phó đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia được tham gia vào những nội dung hợp tác và trao đổi chuyên gia nói trên. Đối với các đoàn chuyên gia Việt Nam của các ban, ngành Trung ương và địa phương, Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia có trách nhiệm hướng dẫn sơ kết, tổng kết công tác từng thời gian để việc giúp Bạn mang lại hiệu quả thiết thực. Trưởng, Phó đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia cần chấn chỉnh lại đội ngũ chuyên gia cho phù hợp với tình hình mới, sắp xếp lại bộ khung gọn, nhẹ và có chất lượng. Đối với số cán bộ, công nhân viên chức đã hoàn thành nhiệm vụ ở Campuchia được rút về nước, Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn các ban, ngành và địa phương trong nước bố trí công việc thích hợp và giải quyết các chính sách xã hội khác cho số cán bộ công nhân viên chức này(1).

Theo các quyết định số 35 và số 36 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta, hệ thống chuyên gia Việt Nam, trong đó có chuyên gia quân sự, hoạt động giúp Bạn theo phương thức đổi mới quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia; đồng thời thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ quy định mới của Bộ Chính trị.

Như vậy, trong hai năm 1986-1987, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam với tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng đã khắc phục mọi khó khăn, cùng với Bạn xây dựng cơ bản tuyến phòng thủ biên giới (K5), tổ chức chiến đấu tiêu diệt địch, đập tan âm mưu khôi phục chế độ độc tài của chúng. Đồng thời giúp lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng, củng cố và phát triển chính quyền các cấp từ cơ sở phum, xã đến huyện, tỉnh. Nhờ sự giúp đỡ của ta, lực lượng vũ trang Bạn ngày càng phát triển cả về quân số và trình độ tác chiến cũng như trang bị vũ khí. Đời sống của nhân dân Campuchia ngày càng ổn định. Thế và lực của cách mạng Campuchia ngày càng lớn mạnh, Bạn từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.


(1) Quyết định số 36/QĐ-TW ngày 31 tháng 12 năm 1987 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tư liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 34, ĐVBQ 578


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:20:27 am
2. Tiếp tục giúp Bạn xây dựng và chiến đấu, hoàn thành ba mục tiêu chiến lược, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, rút quân về nước.

Được sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, trong đó có Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, tình hình Campuchia vẫn có những diễn biến phức tạp do địch phá hoại. Mặc dù thế và lực bị suy yếu và thất bại trong âm mưu chuyển hướng chiến lược, nhưng địch vẫn tiếp tục cấu kết với các thế lực phản động quốc tế và lợi dụng ta rút quân về nước đẩy mạnh các hoạt động chống phá chính sách hoà hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước Campuchia. Chúng ráo riết đưa chủ lực vào nội địa hoạt động, tích cực giành dân, xây dựng chính quyền hai mặt và đề ra chỉ tiêu “lật đổ 2, xây dựng 4”, hòng vô hiệu hoá chính quyền và lực lượng vũ trang Bạn, kìm chân Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam. Thế nhưng, do lực lượng hạn chế và phân tán, địch chỉ tổ chức các hoạt động nhỏ lẻ, phần lớn là thực hiện các vụ bắt cóc cán bộ cơ sở, khủng bố ở một số phum, xã, vô hiệu hoá chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương của Bạn, nhằm giải phóng một số phum, xã và hàng loạt cụm phum, gây khó khăn cho cách mạng Campuchia.

Trong hai năm 1988-1989, nhiệm vụ chủ yếu của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được xác định là cùng Bạn nỗ lực phấn đấu hoàn thành 3 mục tiêu chiến lược, kết thúc một thập niên làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, tạo thuận lợi cho nước Cộng hoà nhân dân Campuchia chuyển sang giai đoạn mới, tự đảm đương sự nghiệp cách mạng bảo vệ và xây dựng đất nước. Đặc biệt năm 1988 là năm bản lề thực hiện 3 mục tiêu chiến lược, đòi hỏi Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu đẩy nhanh việc giúp Bạn xây dựng thực lực cách mạng để đủ sức tự mình đảm đương nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thực hiện Quyết định số 35/QĐ-TW của Bộ Chính trị, ngày 7 tháng 1 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ta ra chỉ thị, trong đó quy định về chương trình, nội dung và phương pháp công tác chuyên gia quân sự phù hợp với chủ trương đổi mới quan hệ giữa Đảng ta và Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia. Quán triệt chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng ta, ngày 27 tháng 2 năm 1988, Bộ Tư lệnh 719 ra Chỉ thị số 2/CT về việc lãnh đạo bước chuyển từ đoàn quân sự tỉnh thành đoàn chuyên gia quân sự tỉnh, về cơ cấu tổ chức, các đoàn chuyên gia, trong đó có chuyên gia quân sự, sẽ được nghiên cứu, giảm bớt về số lượng trong năm 1988. Do số lượng giảm nên quy chế và phương pháp làm việc của chuyên gia quân sự cũng thay đổi. Phương pháp làm việc của chuyên gia quân sự tiếp tục thực hiện theo 10 điểm bắt buộc, trong đó quan trọng nhất là tinh thần trách nhiệm phải được đề cao, phải nhiệt tình trong công tác giúp Bạn, chịu khó, chịu khổ trong các công việc giúp Bạn; nội dung đề xuất với Bạn phải được nghiên cứu, cân nhắc nhiều mặt, có hiệu quả thiết thực, được Bạn tin cậy tiếp thu.

Phương hướng nhiệm vụ của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia được Bộ Tư lệnh xác định: Đẩy mạnh thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia lần thứ 5 về công tác xây dựng, củng cố cơ sở phum, xã; củng cố và phát triển cơ sở của lực lượng vũ trang, phát triển một bước rõ rệt dân quân phum, xã và công tác địch vận. Tích cực xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, huyện; giao cho tỉnh, huyện hoàn toàn chịu trách nhiệm cả về việc tuyển quân, công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, chăm sóc đời sống, chỉ huy chiến đấu và dựa vào bộ đội tỉnh để xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực và các loại binh chủng khác. Đối với quân tình nguyện, trong năm 1988, ta giúp Bạn xây dựng thực lực cách mạng ở cả biên giới và nội địa, xây dựng chính quyền phum, xã, đập tan kế hoạch 3 năm của địch.

Ngày 21 tháng 4 năm 1988, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 103/NQ-ĐUQSTW về triển khai nhiệm vụ quân sự giúp cách mạng Campuchia trong những năm tới (1988-1990). Nghị quyết đánh giá tình hình địch, nêu bật những thành tựu mà lực lượng cách mạng Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua và Bạn có trưởng thành rõ rệt. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị chủ trương năm 1988 sẽ rút 5 vạn quân tình nguyện về nước; đồng thời đề ra một số quy định về tổ chức và phương thức tiếp tục giúp Bạn phù hợp với tình hình mới ở Campuchia.

Quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tập trung giúp Bạn từng bước vươn lên giữ vững độc lập, tự chủ; đồng thời ta chuyển nhanh, dứt khoát nhiệm vụ cho Bạn để rút dần lực lượng, trước hết là chuyên gia quân sự cùng trang bị kỹ thuật về nước. Trong những tháng đầu năm 1988, ta từng bước điều chỉnh lực lượng trên các mặt trận 479, 979; bắt đầu giải thể các đoàn chuyên gia quân sự và thành lập các đoàn chuyên gia giúp Bạn với lực lượng gọn nhẹ trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, giáo dục, y tế, nông nghiệp, công thương nghiệp.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:21:41 am
Ngày 23 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 12/NQ-TW về vấn đề Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Trên cơ sở đánh giá tình hình ta, địch trên chiến trường Campuchia, nêu rõ những nhân tố mới thể hiện khả năng tự chủ, tự lực, ý chí vươn lên của Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia, Bộ Chính trị quyết định lần lượt bàn giao các công việc trên đất Bạn cho Bạn tự đám đương và đẩy nhanh tiến độ rút Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước. Bộ Chính trị xác định: “Ta phải thực hiện kiên quyết, khẩn trương, nhưng vững chắc chủ trương rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước.

Để thực hiện có kết quả các chủ trương trên, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, các mặt trận ở Campuchia và các quân khu phía Nam giải quyết các công việc có liên quan một cách chu đáo, khẩn trương, tích cực, vững chắc, tránh mọi sơ hở. Chú trọng các vấn đề bàn giao chiến trường, chương trình và phương thức rút quân, bố trí lực lượng ở lại bàn giao tài sản cho Bạn, tổ chức chỉ đạo, chỉ huy công tác chính sách đối với cán bộ, bộ đội, công tác tư tưởng, tổ chức đón Quân tình nguyện hoàn thành nghĩa vụ quốc tế về nước...”(1).

Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cụ thể cho Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tổ chức giải quyết từng bước các công việc liên quan một cách chủ động, vững chắc, tránh mọi sơ hở, ảnh hưởng đến quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Tiếp đó, tháng 5 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ta ra Chỉ thị số 39/CT-TW hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 12/NQ-TW của Bộ Chính trị về vấn đề Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia. Chỉ thị nêu rõ, các ngành, các địa phương cần tổ chức tốt việc đón tiếp, thăm hỏi, động viên các đơn vị Quân tình nguyện về nước, khen thưởng xứng đáng Quân tình nguyện và chuyên gia; đồng thời tiếp tục làm tốt công tác chi viện cho các đơn vị Quân tình nguyện còn ở lại chiến trường Campuchia hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế giúp Bạn.

Ngày 10 tháng 5 năm 1988, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư thay mặt Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi thư cho Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Đồng chí Tổng Bí thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ ta đã kề vai sát cánh với quân và dân Campuchia đánh bại các cuộc phản kích điên cuồng của địch, giúp Bạn xây dựng lực lượng và trưởng thành. Đồng thời căn dặn Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tiếp tục giúp Bạn thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược hai Đảng đề ra.

Cùng với việc lần lượt bàn giao các công việc cho Bạn tự đảm đương và đẩy nhanh tiến độ rút Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước, cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia cũng được Bộ Quốc phòng điều chỉnh lại.

Ngày 25 tháng 5 năm 1988, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 161/QĐ-QP về việc tổ chức bộ phận đại diện Bộ Quốc phòng Việt Nam làm nhiệm vụ giúp Bạn (lấy mật danh là Đoàn 890), thay thế cho Tiền phương Bộ tư lệnh 719. Đoàn 890 có chức năng nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra và tổ chức hiệp đồng giữa các mặt trận để thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia. Cùng ngày, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 162/QĐ-QP về tổ chức Đoàn công tác giúp Bạn (lấy mật danh là Đoàn K88). Đoàn K88 là bộ phận cán bộ thường trực của Bộ Quốc phòng ta bên cạnh Bộ Quốc phòng Bạn để giữ mối liên lạc giữa Bộ Quốc phòng hai nước. Đoàn có nhiệm vụ tổng hợp tình hình chung trên chiến trường, báo cáo và đề xuất với Bộ Quốc phòng về các vấn đề giúp Bạn; đồng thời giúp Bạn tổ chức các lớp tập huấn cán bộ theo yêu cầu của Bạn về các mặt công tác tham mưu, nắm địch, huấn luyện, quản lý bộ đội; bảo đảm trang bị kỹ thuật hậu cần, góp ý với Bạn về việc đề nghị sử dụng chuyên gia ngắn hạn.

Đối với việc giúp Bạn ở cấp quân khu, đơn vị chủ lực và tỉnh đội: ở quân khu do Bộ tư lệnh các mặt trận 479, 579, 779, 979 trực tiếp đảm nhận. Khi Bạn yêu cầu, các mặt trận tổ chức một số tổ công tác giúp Bạn trong từng thời gian về xây dựng điểm đơn vị chủ lực, đơn vị địa phương, về công tác quân sự địa phương và xây dựng dân quân. Các tổ công tác này khi cần mới tổ chức và sẽ giải thể sau khi làm xong nhiệm vụ. Các sư đoàn, trung đoàn quân tình nguyện đóng quân và hoạt động trên các địa bàn ngoài việc phối hợp cùng Bạn đánh địch, khi Bạn yêu cầu có thể tổ chức một số tổ cán bộ giúp Bạn tập huấn về tác chiến cấp phân đội và bồi dưỡng kỹ thuật.


(1) Biên niên sự kiện hoạt động của Đảng, Nhà nước, quân đội, chuyên gia Việt Nam - Campuchia, tập V (1988-1989). Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 385.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:24:14 am
Năm 1988, Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia xác định quyết tâm tự đảm đương cuộc chiến đấu thắng lợi. Thực tế cho thấy, khi Quân tình nguyện Việt Nam từng bước bàn giao chiến trường cho Bạn, các lực lượng vũ trang Bạn đã tự đảm đương được nhiệm vụ phòng thủ tác chiến đánh địch để quân tình nguyện rút về các vị trí đứng chân ở tuyến sau, sẵn sàng hỗ trợ bạn đánh địch khi Bạn yêu cầu.

Sau đợt học tập, quán triệt Nghị quyết số 12/NQ-TW của Bộ Chính trị về vấn đề Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, các đơn vị Quân tình nguyện và Bạn tiến hành bố trí lại đội hình. Theo kế hoạch, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 chính thức bàn giao cho Bạn 15 cụm điểm tựa biên giới. Ba sư đoàn chủ lực cùng hai trung.đoàn (thuộc Quân khu 4 của Bạn) đã đảm nhiệm 15 cụm điểm tựa này để Quân tình nguyện rút vế đứng chân ở phía sau. Tiếp đó, các sư đoàn chủ lực của Bạn lần lượt chuyển ra đóng giữ các cụm điểm tựa trên tuyến biên giới thay thế các đơn vị Quân tình nguyện thuộc Mặt trận 479 chuyển về tuyến sau. Lực lượng Bạn đã đảm nhiệm được 33/36 cụm điểm tựa, tổ chức bố trí lực lượng có trọng điểm và chiều sâu, đồng thời có lực lượng sẵn sàng cơ động hỗ trợ ở tuyến sau.

Cùng thời gian này, Mặt trận 779 tổ chức bàn giao tỉnh Krachiê thuộc Quân khu 1 và Quân khu 2 của Bạn cho Mặt trận 579 gồm cơ quan tỉnh (4 cơ quan, trường huấn luyện), 3 tiểu đoàn (21, 22, 23), 14 đại đội địa phương, 4 huyện và một thị xã. Đầu tháng 6 năm 1988 Mặt trận 579 điều động Trung đoàn 733 Sư đoàn 315 về hoạt động giúp Bạn ở Ôxay. Trong thế bố trí lực lượng mới, các đơn vị quân tình nguyện cơ bản rút ra làm nhiệm vụ cơ động sẵn sàng chi viện cho Bạn ở tuyến trước; một bộ phận quân tình nguyện tham gia hoạt động tác chiến truy quét tàn quân địch trong nội địa.

Lợi dụng ta vừa bàn giao địa bàn, Bạn chưa có kinh nghiệm chiến đấu, những tháng đầu năm 1988, địch tăng cường đánh phá các điểm tựa do các đơn vị chủ lực Bạn trấn giữ. Chúng tập trung lực lượng bộ binh và hỏa lực pháo binh với mật độ cao, đánh chiếm các điểm tựa ở khu vực Kaomêlai, Preymon, đông tây Trapcang Tan. Chiến sự diễn ra ác liệt ở nam Trangveng, các điểm cao 310, 663, 615, 44, Ôbốc, Chăng Kra. Lực lượng Bạn kiên cường chiến đấu đánh trả, giữ vững các cụm điểm tựa, sau đó tổ chức phản kích đánh chiếm lại các điểm đã mất. Từ ngày 16 tháng 6 đến 17 tháng 7 năm 1988, quân địch mở các cuộc tiến công chiếm 10 trong số 15 cụm điểm tựa của Bạn. Sau một thời gian chiến đấu, lực lượng vũ trang Bạn được sự chi viện của Quân tình nguyện Việt Nam đã giành lại toàn bộ các cụm điểm tựa bị địch chiếm giữ.

Sau khi thành lập thêm một số xã, huyện, mới ở vùng biên giới, Bạn chuyển tỉnh Báttambang về trực thuộc Quân khu 5, tỉnh Krachiê về Quân khu 1 của Bạn. Để đáp ứng yêu cầu của Bạn, quân tình nguyện điều chỉnh lại lực lượng đóng giữ trên một số địa bàn của các mặt trận 479, 579, 779, 979.

Đến giữa năm 1988, toàn bộ các đoàn chuyên gia quân sự trực thuộc các mặt trận 479, 779, 579, 979 đều giải thể và được điều về các tiểu đoàn để tổ chức thành các trung đoàn mới. Mặt trận 479 thành lập 3 trung đoàn bộ binh 160, 74, 262; các trung đoàn binh chủng và nhà trường cũng giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Sư đoàn 309 và Trung đoàn 262 thuộc Mặt trận 479 bàn giao một số cụm điểm tựa cho Mặt trận 979 cùng Bạn phòng thủ. Mặt trận 579 tập trung xây dựng hai trung đoàn bộ binh 95, 143 và trung đoàn 280 công binh, 4 tiểu đoàn độc lập (50, 97, 210 và Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 733). Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, tổng số quân tình nguyện ở các mặt trận 479, 779 còn hơn 21.000 người, Mặt trận 579 còn 7.500 người. Toàn bộ lực lượng này và một bộ phận lực lượng của Mặt trận 979 đóng quân theo hướng tập trung cơ động trên các địa bàn trọng điểm, tích cực cùng Bạn truy quét địch ở các căn cứ lõm, chặn đánh hành lang tiếp tế của địch, hỗ trợ Bạn xây dựng cơ sở, mở rộng địa bàn làm chủ ở các vùng trung gian giáp ranh rừng núi và sẵn sàng chi viện Bạn, giữ vững tuyến phòng thủ biên giới, đánh địch xâm nhập, xây dựng căn cứ nội biên, bảo vệ thành quả cách mạng.

Nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương về vấn đề Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, ngày 29 tháng 5 năm 1988, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 124/CT về công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ quân sự giúp cách mạng Campuchia trong những năm 1988-1990. Tổng cục yêu cầu các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cần tập trung thực hiện hai nội dung chính:

Một là, tiến hành công tác tư tưởng, bảo đảm sự nhất trí, quyết tâm rất cao và vững chắc, thực hiện thắng lợi những chủ trương của Đảng giúp Bạn về quân sự trong những năm tới; tăng cường công tác đảng, công tác chính trị; ra sức nâng cao chất lượng và hiệu quả trong các nhiệm vụ chiến đấu, công tác giúp Bạn xây dựng thực lực cách mạng, góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, đẩy mạnh thực hiện ba mục tiêu chiến lược.

Hai là, làm thật tốt việc kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy, nâng cao chất lượng Bộ đội tình nguyện; đề cao trách nhiệm của các cấp, các đơn vị trong toàn quân; phối hợp chặt chẽ với cơ quan của Đảng, chính quyền, đoàn thể, nhân dân các địa phương làm tốt công tác cán bộ, công tác chính sách đối với lực lượng làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia; tăng cường công tác lãnh đạo, giáo dục, quản lý, củng cố kỷ luật trong Bộ đội tình nguyện và chuyên gia; đẩy mạnh công tác dân vận, củng cố quan hệ đoàn kết, liên minh giữa ta và Bạn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:25:34 am
Tiếp đó, tháng 6 năm 1988, Tổng cục Chính trị ra chỉ thị về việc triển khai việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mặt công tác đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Chỉ thị nêu rõ: Các mặt công tác chủ yếu cần tập trung thực hiện là về tư tưởng, củng cố kiện toàn tổ chức, giải quyết chu đáo chính sách, công tác dân vận và công tác bảo vệ nội bộ trước khi rút quân về nước (kể từ đơn vị rút quân theo kế hoạch năm 1988 đến các đơn vị rút cuối cùng trong năm 1989).

Triển khai thực hiện chỉ thị của Tổng cục Chính trị, cấp ủy và chỉ huy, cơ quan chính trị các đơn vị phía Nam trực tiếp làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu, quán triệt, tổ chức thực hiện tốt các mặt công tác chủ yếu do Tổng cục Chính trị đề ra.

Về công tác tư tưởng, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên và quần chúng thông suốt, nhất trí cao đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội. Trên cơ sở đó xác định rõ ý thức trách nhiệm tiếp tục nâng cao tinh thần quốc tế trong sáng, sẵn sàng giúp Bạn chiến đấu; đồng thời tận tụy công tác, không ngần ngại vất vả kể cả hy sinh vì thắng lợi và sự trưởng thành vững chắc của cách mạng và cuộc sống hồi sinh của nhân dân Campuchia.

Đối với công tác tổ chức, cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cơ quan, đơn vị quân tình nguyện, chuyên gia quân sự ta khẩn trương chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức bảo đảm quân số, nâng cao chất lượng chính trị và trình độ tác chiến, lựa chọn những người đủ tiêu chuẩn đưa vào nguồn và bố trí đi học, hoặc bồi dưỡng để phát triển cán bộ lâu dài; đồng thời kết hợp chặt chẽ với công tác bồi dưỡng phát triển đảng viên, tăng cường lực lượng lãnh đạo ở các cơ quan, đơn vị.

Trong công tác chính sách, cấp ủy, chỉ huy từ cơ quan đến đơn vị đều lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời việc cứu chữa, tổ chức chuyển thương binh, bệnh binh về nước chăm sóc, điều trị; đồng thời khẩn trương làm các thủ tục xác minh kết luận những trường hợp quân nhân mất tin, mất tích; tu sửa mộ các liệt sĩ chưa cất bốc, quy tụ về nước. Bên cạnh đó, các cơ quan đơn vị tập trung xem xét, đề nghị khen thưởng cho những tập thể và cán bộ, chiến sĩ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế để Đảng, Nhà nước ta, cũng như Đảng và Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương, Huy chương các loại.

Về công tác dân vận và công tác bảo vệ, lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp kết hợp chặt chẽ việc tăng cường giáo dục bộ đội tự giác chấp hành các quy định trong quan hệ với quân và dân Campuchia, kịp thời phát hiện đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện vi phạm kỷ luật quần chúng; đồng thời phối hợp với Bạn nắm tình hình, cùng nhau giải quyết những vấn đề còn tồn động trong quá trình làm nhiệm vụ quốc tế trên đất Bạn.

Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Tổng cục Chính trị, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động giúp Bạn thiết thực, hiệu quả. Đối với Sư đoàn 309 (Mặt trận 479) được giao giúp Bạn, cùng với Bạn xây dựng thực lực cách mạng cả ở vùng biên giới và nội địa.

Trên địa bàn Mặt trận 479, thực hiện phương châm Bạn làm, ta giúp để Bạn tự đảm đương nhiệm vụ tác chiến bảo vệ Tổ quốc, Sư đoàn 309 chuyển giao địa bàn do sư đoàn đảm nhiệm phòng thủ trước đây cho Sư đoàn 196 Bạn tự đảm đương nhiệm vụ. Các đơn vị của Sư đoàn 196 Bạn vào thay Sư đoàn 309 Quân tình nguyện tại các điểm tựa, cụm điểm tựa, đánh chặn hành lang trên tuyến biên giới, tiếp tục củng cố tuyến phòng thủ biên giới (K5), chủ động các hoạt động đánh địch. Tuy nhiên, do khả năng tự đảm đương nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ và chiến đấu bảo vệ của Bạn còn hạn chế nên trong hai tháng 4 và 5 năm 1988, Sư đoàn 309 phải huy động lực lượng hỗ trợ Bạn chiến đấu. Riêng Trung đoàn 31 được huy động hoạt động 5 lần, diệt 19 tên địch, thu 15 súng các loại, 2.000 kilôgam lương thực và một số đồ dùng quân sự.

Trong khi đó, ở tuyến biên giới tỉnh Báttambang, địch tăng cường các hoạt động đánh phá mở hành lang đưa lực lượng vào nội địa, lập căn cứ “lõm”, giành giật, lấn chiếm một số địa bàn hòng tạo thế đứng chân phá hoại khi Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước. Quán triệt chủ trương của trên, Sư đoàn 5 khẩn trương triển khai thế bố trí lực lượng, chuyển giao địa bàn cho Bạn, giúp các đơn vị vũ trang Bạn xây dựng lực lượng và đẩy mạnh đánh địch ở hành lang, phá tan âm mưu chiếm đất, giành dân trong nội địa của địch.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:27:15 am
Thực hiện mục tiêu chiến lược làm cho Bạn mạnh lên, địch ngày càng suy yếu để ta rút quân về nước, những tháng đầu năm 1988, Sư đoàn 5 đã phối hợp với các đơn vị Bạn và dân quân du kích địa phương tích cực truy quét, phục kích địch trên các tuyến hành lang, gây cho chúng một số thiệt hại. Ngày 4 tháng 2 năm 1988, Trung đoàn 4 Sư đoàn 5 và dân quân các xã Bengxàreng, Xarachích tổ chức truy quét địch ở khu vực Smach, tiêu diệt 35 tên, bắt một số tên, thu 12 súng. Tiếp đó, Trung đoàn 4 mở rộng địa bàn hoạt động khắp huyện Phnum Srok. Các trung đoàn khác thuộc Sư đoàn 5 cũng đẩy mạnh hoạt động như Trung đoàn 16 ở huyện Thơmapuốc, Trung đoàn 174 ở huyện Prelep Ple, Trung đoàn 689 ở giữa hai huyện Ampin và Thơmapuốc. Các đơn vị đều dựa vào dân, phối hợp cùng nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương Bạn đánh địch, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể cách mạng của Bạn ở các huyện.

Ở Mặt trận 979, Sư đoàn 330 Quân tình nguyện đã cùng với Lữ đoàn 92, Trung đoàn Tà Keo, Trung đoàn Cần Đan Bạn đánh nhiều trận ở khu vực biên giới và trung tuyến, bẻ gãy các đợt phản kích có pháo, cối chi viện của địch. Tháng 4 năm 1988, địa bàn hoạt động của Sư đoàn 330 được mở rộng sâu vào khu trung tuyến đông và tây đường số 10, kiểm soát khu vực Pailin. Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 tiếp tục làm lực lượng cơ động của Sư đoàn ở phía trước. Thực hiện kế hoạch đánh phá các căn cứ, hành lang địch từ biên giới vào nội địa, Trung đoàn 1 Sư đoàn 330 đã tổ chức các đợt truy quét, phục kích địch ở nhiều nơi. Điển hình là trận Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 1 Sư đoàn 330 phục kích địch ở khu vực Vườn Cam trên đường số 1013. Sau khi phát hiện lực lượng vận tải địch không vào khu vực phục kích, đơn vị chuyển sang tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên, thu một số vũ khí.

Sau trận này, địch tập trung các sư đoàn 86, 415, 120 mở đợt tiến công ở vùng biên giới, từ Pailin đến đồi Chu; đồng thời đưa một số trung đoàn chủ lực vào khu trung tuyến hình thành thế bố trí lực lượng xen kẽ ta, tổ chức gài mìn trên đường số 10, đường 10B, nhằm cắt đứt sự chi viện của ta từ tuyến sau lên, bao vây cô lập lực lượng tuyến trước để tập trung đánh và kiểm soát từng khu vực của ta và Bạn.

Trước thế bị địch bao vây, bắn phá, các đơn vị của Bạn ở tuyến biên giới gặp khó khăn, địch đánh chiếm được một số cụm điểm chốt, Trung đoàn 2 Sư đoàn 330 phải bố trí lực lượng hỗ trợ Bạn phòng thủ, điều động Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 lên thay thế, bộ phận chốt của Lữ đoàn 92 Bạn trên điểm cao 412 bị hoả lực địch tàn phá. Tại khu trung tuyến, Sư đoàn 330 chỉ đạo Tiểu đoàn 3 và đại đội công binh của Sư đoàn khắc phục mìn địch trên đường số 10 và 10B, từ cua chữ “V” đến Vườn Cam và Tiểu đoàn 1 truy kích địch phía đông đường số 10, đánh phá căn cứ sư đoàn 15 địch.

Trước tình hình diễn biến mới trên tuyến biên giới, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn 330 thống nhất đánh giá đây là giai đoạn thử thách đầu tiên khi Bạn tự đảm nhiệm bảo vệ khu vực biên giới; đồng thời xác định điều quan trọng là ta phải tổ chức cho Bạn đánh địch, khôi phục các chốt bị địch chiếm để kịp thời xử lý các tình huống khi ta còn bên cạnh Bạn. Sư đoàn chuẩn bị tiếp tục đánh địch trên tuyến vận chuyển trung gian và rà phá mìn; đồng thời tổ chức lực lượng đánh địch, phá tan âm mưu đưa lực lượng vào nội địa của chúng. Được ta giúp đỡ, Lữ đoàn 92 Bạn nhanh chóng được củng cố, trở lại đảm nhiệm khu vực do ta bàn giao trước đây.

Đầu tháng 7 năm 1988, lợi dụng ta mới bàn giao cho Sư đoàn 196 Bạn một số khu vực trên tuyến biên giới, khả năng chiến đấu của Bạn còn hạn chế, sư đoàn 415 quân Pôn Pốt mở cuộc tiến công vào các khu vực này. Âm mưu của địch là phong toả, cắt đường số 10, cô lập bao vây tiêu diệt Sư đoàn 196 Bạn đang đứng chân ở Pailin. Để hỗ trợ cho Bạn chiến đấu, Sư đoàn 309 tổ chức đợt hoạt động tác chiến ở khu vực bắc Chisăng. Phát hiện một bộ phận lực lượng địch đang co cụm ở phía bắc Chisăng (đường số 10), Sư đoàn 309 liền chia làm nhiều mũi đánh vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ, quân địch không kịp chống trả vội vã tháo chạy về hướng tây bắc. Sau một thời gian chiến đấu, bộ đội ta diệt hàng chục tên địch, thu một số vũ khí. Trong khi đó, một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 309 tăng cường cho Sư đoàn 196 Bạn đánh phản kích địch tại Pailin, diệt 21 tên địch, thu nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng. Đợt hoạt động của Sư đoàn 309 kéo dài hơn chục ngày đã phá vỡ ý định phong toả, chia cắt đường số 10 của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 196 Bạn phản kích chiếm lại một số vị trí đã mất, giữ vững các khu vực phòng ngự do ta bàn giao cho Bạn trước đây.

Bước vào mùa mưa năm 1988, trong bối cảnh lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã rút từng bộ phận và chuẩn bị rút toàn bộ về nước, Bộ Quốc phòng nước ta chủ trương chấn chỉnh, rút gọn tổ chức biên chế một số đơn vị. Thực hiện quyết định của Bộ, ngày 1 tháng 6 năm 1988, Tư lệnh Mặt trận 479 điều Tiểu đoàn 739 công binh công trình, Tiểu đoàn 278 công binh về trực thuộc Mặt trận. Tiếp đó, ngày 18 tháng 6, Trung đoàn 25 công binh cũng giải thể (tức Trung đoàn 548 công binh), chỉ để lại 2 tiểu đoàn 739 và 278 tiếp tục làm nhiệm vụ giúp Bạn ở Xiêm Riệp.

Từ giữa năm 1988, hệ thống chuyên gia các cấp của ta ở Campuchia không còn. Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giúp Bạn, các mặt trận 479, 779, 579, 979 thực hiện giúp Bạn theo chủ trương Cục giúp Cục, Phòng giúp Phòng, đơn vị giúp đơn vị. Theo chủ trương đó, ta giúp Bạn triển khai thực hiện cuộc vận động “Xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện”, do Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng Bạn phát động; giúp Bạn xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội theo Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, xây dựng tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên theo Chỉ thị số 24 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, tạo sự chuyển biến rõ rệt trên nhiều mặt trong các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2021, 06:28:21 am
Quân tình nguyện và một bộ phận chuyên gia quân sự Việt Nam còn lại ở Campuchia tập trung mọi nỗ lực cao nhất, giúp Bạn và cùng với Bạn chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi quyết định trong việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã đề ra. Để thực hiện quyết tâm đó, Bộ Tư lệnh 719 xác định khẩn trương đổi mới về tổ chức và phương pháp giúp Bạn theo yêu cầu nhiệm vụ của Bạn; quán triệt phương châm chuyển nhanh, chuyển mạnh và dứt khoát để cho Bạn tự đảm đương về mọi mặt; đồng thời khắc phục tư tưởng thiếu tin tưởng ở sự vươn lên của Bạn cũng như tâm lý cho rằng nhiệm vụ giúp Bạn đã kết thúc, từ đó buông lỏng việc giúp nhân dân Campuchia. Bộ Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị:

1. Tác chiến đúng phương châm, đối tượng, đúng chức năng nhiệm vụ đạt hiệu quả cao, phối hợp chặt chẽ với Bạn, chi viện kịp thời, có hiệu quả, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Bạn tác chiến giữ vững tuyến phòng thủ biên giới và đánh địch ở nội địa.

2. Đoàn kết chặt chẽ với Bạn, cả các cấp lãnh đạo địa phương, lực lượng vũ trang và nhân dân Bạn; xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, bồi dưỡng trình độ chuyên môn kỹ thuật quân sự cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật các binh chủng pháo binh, công binh, thông tin để Bạn phát triển lực lượng binh chủng, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.

3. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, vững về chính trị, tư tưởng trong mọi tình huống, giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành tốt các chính sách, xây dựng đội ngũ cán bộ trưởng thành, chống biểu hiện lơ là, chờ rút quân, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch; không vi phạm kỷ luật, làm giảm lòng tin của Bạn.

Trong tình hình mới, nhiệm vụ trọng tâm của quân tình nguyện là tập trung cơ động, sẵn sàng chi viện giúp Bạn khi cần thiết. Sau đợt rút quân lần thứ 7, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia có giảm về số lượng đơn vị, nhưng các đơn vị ở lại giúp Bạn như Sư đoàn 302, Sư đoàn 330, các trung đoàn 16, 66, 4... được tập trung nâng cao chất lượng. Các đơn vị quân tình nguyện đã cùng với Bạn liên tục chiến đấu trên chiến trường, nhất là ở những địa bàn lực lượng vũ trang Bạn mỏng, địch hay đánh phá. Một số trung đoàn, tiểu đoàn Quân tình nguyện Việt Nam đã khắc phục mọi khó khăn, cùng Bạn đánh địch ở tuyến hành lang, diệt các căn cứ “lõm” ở tuyến trung gian và cả trong nội địa, trực tiếp chi viện, hỗ trợ Bạn trong công tác phá lực lượng ngầm của địch, củng cố phong trào cách mạng.

Ngày 6 tháng 8 năm 1988, lãnh đạo hai Đoàn K88 và 890 họp với Bộ tư lệnh Mặt trận 979 đánh giá tình hình địch, ta trên địa bàn tỉnh Báttambang, do Mặt trận 479 mới bàn giao cho Mặt trận 979. Hội nghị xác định: Để giúp Bạn xây dựng, củng cố lực lượng, ổn định tình hình, cần tiếp tục cùng Bạn đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động phá hoại của địch và xây dựng cơ sở tốt.

Những tháng cuối năm 1988, các đơn vị thuộc Sư đoàn 302 Quân tình nguyện mở đợt hoạt động mùa khô. Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 11, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 phối hợp với lực lượng vũ trang huyện Varin hoạt động ở khu vực huyện Lôvia, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch, thu một số vũ khí. Từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 12 năm 1988, Trung đoàn 6 tập trung lực lượng truy quét địch ở khu vực tứ giác tây bắc Xiêm Riệp, loại khỏi vòng chiến đấu 62 tên, bắt 47 tên, gọi hàng 17 tên, thu 32 súng các loại, góp phần hạn chế các hoạt động phá hoại của địch.

Trung tuần tháng 11 năm 1988, trong khi chuẩn bị rút về nước, Sư đoàn 309 bổ sung 589 cán bộ, chiến sĩ và một số phương tiện binh khí, kỹ thuật tổ chức thêm Tiểu đoàn 8 trong đội hình Trung đoàn 31 ở lại làm nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia. Vừa củng cố tổ chức, Tiểu đoàn 8 vừa sử dụng lực lượng hoạt động đánh địch ở khu vực Bancasa, nơi có một tiểu đoàn của lữ đoàn 705 quân Pôn Pốt đóng giữ, đồng thời phục kích ngăn chặn lực lượng địch rút quân theo đường 58 từ Tànghen về Ba Núi. Sau ba ngày trinh sát, ngày 26 tháng 11 năm 1988, Tiểu đoàn 8 phát hiện căn cứ “lõm” của lữ đoàn 705 địch. Cán bộ, chiến sĩ ta bí mật vận động áp sát phía sau căn cứ địch; sau đó bất ngờ tập kích vào các mục tiêu trong căn cứ dưới sự chi viện hoả lực của pháo trung đoàn và hoả lực của các đơn vị Bạn, diệt và làm bị thương một số tên, số còn lại bỏ chạy cũng bị ta truy kích. Kết quả, bộ đội ta diệt 19 tên địch, thu một số vũ khí và quân trang, quân dụng. Trong trận đánh này, đồng chí Đỗ Viết Định, Đại đội trưởng Đại đội 6 đã nêu tấm gương cán bộ chỉ huy mưu trí, quyết đoán, xử trí tình huống linh hoạt, chỉ huy đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Sau khi Sư đoàn 309 rút quân về nước, Trung đoàn 31 được tăng cường một đại đội pháo 105mm của Tiểu đoàn 10 thuộc Trung đoàn pháo binh 487 Sư đoàn 309. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1989, Trung đoàn là đơn vị cơ động độc lập trên một hướng do Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy.

Chấp hành chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Mặt trận 979, Sư đoàn 330 điều động Trung đoàn 1 cùng Trung đoàn 3 phối hợp với lực lượng Trung đoàn 6 Sư đoàn bộ binh 339 Bạn đánh địch, khôi phục tuyến chốt của Trung đoàn Cần Đan từ Tứcsóc đến điểm cao 412 và cửa khẩu 301. Sau một thời gian phối hợp chiến đấu, đến ngày 25 tháng 11 năm 1988, ta và Bạn làm chủ toàn bộ thế trận, chia cắt địch ở khu vực biên giới và khu trung tuyến, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên, thu 357 súng (có 12 cối 100mm). Ta tiếp tục củng cố thế trận, chuẩn bị bàn giao tuyến phòng thủ biên giới cho Lữ đoàn 92 Bạn đảm nhiệm.

Đồng thời với nhiệm vụ hoạt động tác chiến, Quân tình nguyện Việt Nam còn giúp Bạn xây dựng cơ sở ở các vùng trọng điểm. Tháng 12 năm 1988, các đơn vị Quân tình nguyện tổ chức tập huấn cán bộ cơ sở cho Bạn thuộc Quân khu 2, Quân khu 4. Nội dung tập huấn gồm công tác chỉ huy, tham mưu, quản lý bộ đội, hiểu và biết cách sử dụng các vũ khí trang bị binh chủng do Quân tình nguyện Việt Nam chuyển giao. Qua đợt tập huấn, các cán bộ của Bạn đã nắm được những vấn đề lý luận chung và vận dụng hiệu quả trong đợt tác chiến ở tuyến biên giới tỉnh Xiêm Riệp. Riêng Mặt trận 579 đã tiến hành giúp Bạn về huấn luyện quân sự, nhất là huấn luyện binh chủng. Các cơ quan chức năng của Mặt trận 579 tổ chức hướng dẫn bạn xây dựng kế hoạch huấn luyện pháo 105mm, 85mm; pháo cao xạ 37mm và A72; tổ chức tập huấn cán bộ phòng không, huấn luyện và bàn giao cho Bạn 2 khẩu ĐKZ 82mm, 2 khẩu ĐKZ 75mm, 2 cối 120mm; đồng thời huấn luyện một số cán bộ, chiến sĩ pháo binh giúp Bạn. Quân tình nguyện Việt Nam cũng huấn luyện cho Bạn sử dụng xe thiết giáp M113, đào tạo 52 lái xe, 34 quản lý, 36 quân khí viên, 36 quân y sĩ và tập huấn nghiệp vụ cho 140 cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần. Trong năm 1988, ta đã tổ chức tập huấn cho Bạn hàng chục đợt với gần một nghìn lượt người tham gia. Sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của Quân tình nguyện Việt Nam đã góp phần tích cực vào sự lớn mạnh, trưởng thành của các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của Bạn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:19:51 am
*
*   *

Sau 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã cùng với quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia thực hiện được ba mục tiêu chiến lược do Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đề ra. Trên đà thắng lợi và trưởng thành của Bạn, ngày 7 tháng 1 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc thực hiện Quyết định số 35/QĐ-TW của Bộ Chính trị về đổi mới phương thức quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. Đối với Campuchia, chỉ thị nêu rõ: Từ tháng 1 năm 1988, Việt Nam rút chuyên gia cao cấp của Đảng ta ở cơ quan cấp chiến lược của Đảng Bạn, thực hiện đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội hai nước Việt Nam và Campuchia theo thông lệ quốc tế. Mọi quan hệ trao đổi ý kiến ở cấp Trung ương được thực hiện thông qua đại diện Bộ Chính trị của hai Đảng.

Ngày 21 tháng 5 năm 1988, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Chỉ thị số 39/CT-TW hướng dẫn thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Trên cơ sở đánh giá tình hình chiến trường Campuchia, những nhân tố mới thể hiện sự vươn lên của cách mạng và nhân dân Campuchia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đẩy nhanh tiến độ rút Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước. Bộ Chính trị giao trách nhiệm cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức thực hiện quyết định này.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 26 tháng 5 năm 1988, Bộ Quốc phòng nước ta ra Thông báo về việc rút hết Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia trong năm 1989, sớm hơn một năm (trước dự kiến đến năm 1990) so với thoả thuận tháng 8 năm 1985 giữa Cộng hoà nhân dân Campuchia và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông báo nêu rõ, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia thoả thuận:

1. Rút 5 vạn Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước trong năm 1988. Việc rút bộ phận lớn này của Quân tình nguyện Việt Nam sẽ được tiến hành từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1988.

2. Cùng với đợt rút Quân tình nguyện Việt Nam lần này, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia sẽ rút về nước trong năm 1988.

3. Bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam còn lại ở Campuchia sẽ đặt dưới sự chỉ đạo của Cộng hoà nhân dân Campuchia và sẽ được rút hết về nước vào năm 1989.

Cùng ngày 26 tháng 5, Bộ Quốc phòng Cộng hoà nhân dân Campuchia cũng ra thông báo nêu rõ, trong quá khứ cũng như hiện tại, mỗi khi nhân dân Campuchia gặp khó khăn và yêu cầu sự giúp đỡ, Việt Nam đều đáp ứng, luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của nhân dân Campuchia. Đến khi tình hình Campuchia đã ổn định trở lại, Việt Nam cũng đều rút quân tình nguyện của mình về nước.

Song song với việc rút Quân tình nguyện Việt Nam về nước, hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia cũng thoả thuận về việc kết thúc nhiệm vụ lịch sử của Đoàn chuyên gia Việt Nam, trong đó có chuyên gia quân sự tại Campuchia. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia quyết định lấy ngày 28 tháng 6 năm 1988, ngày thành lập Đảng nhân dân cách mạng Campuchia, làm mốc kết thúc sứ mệnh lịch sử của Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp nhân dân Campuchia trong sự nghiệp hồi sinh và bảo vệ đất nước. Theo thoả thuận của hai Bộ Chính trị, Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia sẽ rút về nước làm 3 đợt: Đợt 1, tháng 7 năm 1988, rút chuyên gia 24 bộ, ngành Trung ương và 9 tỉnh, thành phố và một số cán bộ, nhân viên làm công tác nội bộ. Đợt 2, tháng 10 năm 1988, rút tiếp một số đoàn chuyên gia và đợt 3, đầu tháng 12 năm 1988, rút toàn bộ chuyên gia Việt Nam về nước.

Cùng với việc rút lực lượng chuyên gia dân, chính, đảng, từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1988, Quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện đợt rút quân thứ 7, gồm Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam (Bộ Tư lệnh 719), Mặt trận 479, Mặt trận 779, 8 đoàn quân sự và hệ thống chuyên gia quân sự tại hai quân khu (2 và 4), 7 tỉnh và thành phố Phnôm Pênh; 2 sư đoàn bộ binh 5 và 309 (trừ Trung đoàn 31 tiếp tục ở lại giúp cách mạng Campuchia); 2 trung đoàn bộ binh (7 và 658); 22 tiểu đoàn, 1 đại đội bộ binh, 3 trung đoàn bộ, 1 đại đội binh chủng (tổng cộng 22.766 người), với 118 xe tăng, thiết giáp, 291 xe ô tô, 37 khẩu pháo các loại.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:21:08 am
Nhân dịp Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện (Bộ Tư lệnh 719) và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam (Đoàn 478) chuẩn bị thực hiện đợt đầu của kế hoạch rút quân năm 1988, ngày 29 tháng 6 năm 1988, tại Thủ đô Phnôm Pênh, Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia tổ chức trọng thể lễ trao tặng Huân chương Ăngco cho Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam. Tham dự có các đồng chí Hêng Xomrin, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Chia Xim, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận; Bu Thoong, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia; Côibuntha, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và đại biểu các ban, ngành, các tổ chức quần chúng ở Trung ương và Thủ đô Phnôm Pênh.

Thay mặt Đảng, Nhà nước Campuchia, đồng chí Chia Xim biểu dương công lao to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước của nhân dân Campuchia; đồng thời nhấn mạnh; Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Campuchia mãi mãi khắc sâu tinh thần quốc tế cao cả của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong việc giúp đỡ quân đội và nhân dân Campuchia hồi sinh, bảo vệ và xây dựng đất nước. Thay mặt Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, Thượng tướng Lê Ngọc Hiền cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia đã đánh giá cao sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Campuchia và trao tặng Quân tình nguyện Việt Nam huân chương cao quý nhất của Campuchia; đó là vinh dự lớn lao đối với cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết quốc tế của “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Campuchia trong giai đoạn mới.

Ngày 30 tháng 6 năm 1988, tại sân bay quốc tế Pôchentông, Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia, Bộ Quốc phòng Campuchia, Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố Phnôm Pênh tổ chức trọng thể lễ tiễn Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia về nước.

Cùng ngày, Thành ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức mít tinh đón Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam. Thay mặt Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng biểu dương Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và nêu rõ: Trong tình hình đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội, Bộ Quốc phòng tin tưởng các đồng chí tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của mình cùng với nhân dân sẵn sàng chiến đấu, giữ nghiêm kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiếp theo việc rút Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia về nước, trong các tháng 7, 8, 9, 10 và tháng 11 năm 1988, các đơn vị binh chủng, bảo đảm chỉ huy, bảo đảm công trình, hậu cần, kỹ thuật và một số đơn vị khác (tổng cộng 32.000 người) đã lần lượt rút về nước. Ngày 1 tháng 12 năm 1988, Bộ Quốc phòng nước ta ra thông báo, bộ phận cuối cùng của kế hoạch rút 5 vạn Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia năm 1988, gồm 6 sư đoàn bộ binh (4, 5, 307, 309, 315, 339), với tổng số 18.000 người, sẽ rời khỏi Campuchia từ ngày 15 đến 21 ngày tháng 12 năm 1988, bằng đường thuỷ và đường bộ.

Thực hiện kế hoạch rút quân đợt cuối cùng của năm 1988, trong nửa đầu tháng 12, các sư đoàn 5, 309 (Mặt trận 479), 307, 315 (Mặt trận 579), 339, 4, 330 (Mặt trận 979) làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia gấp rút triển khai các mặt công tác chuẩn bị, bảo đảm rút quân theo đúng kế hoạch, nhanh, gọn, an toàn, Ở trong nước, Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 7, 9 cử cán bộ triển khai công tác chuẩn bị đón các đơn vị trực thuộc quân khu về nước.

Từ tháng 11 đến đầu tháng 12 năm 1988, lợi dụng việc các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam chuẩn bị rút bộ phận cuối cùng của đợt rút 5 vạn quân về nước, địch tiến hành các hoạt động thâm nhập phá hoại ở một số khu vực biên giới sâu trong lãnh thổ Campuchia. Với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị quân đội Campuchia được một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam hỗ trợ đã đánh trả mạnh mẽ, tiêu diệt, làm tan rã, gọi hàng trăm tên địch ra hàng, thu một số vũ khí, trang bị của chúng. Thắng lợi này khẳng định ý chí tự vươn lên làm chủ toàn bộ đất nước của quân dân Campuchia và tình đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu hiệu quả giữa các đơn vị Quân đội cách mạng Campuchia và Quân tình nguyện Việt Nam. Đồng chí Tia Banh - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hoà nhân dân Campuchia gửi thư biểu dương các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã hiệp đồng, sát cánh cùng các đơn vị Quân đội Campuchia chiến đấu đạt hiệu quả cao, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:22:38 am
Những ngày đầu tháng 12 năm 1988, các sư đoàn 4, 5, 309, 339, 307 và 315 Quân tình nguyện Việt Nam đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị để rút về nước. Nhân dịp các sư đoàn Quân tình nguyện Việt Nam chuẩn bị rút về nước, ngày 17 tháng 12 năm 1988, tại thủ đô Phnôm Pênh, Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Hội đồng Bộ trưởng và Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Campuchia tổ chức trọng thể lễ trao tặng Huân chương Ăngco cho các sư đoàn 4, 5, 309, 339, 307, 315 và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc cho 31 đơn vị trực thuộc các sư đoàn Quân tình nguyện Việt Nam. Tham dự buổi lễ có các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và Quân đội Campuchia. Thay mặt Đảng và Nhà nước Campuchia, đồng chí Tia Banh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đọc diễn văn khẳng định, sự có mặt của Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia trong những năm qua là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong việc bảo đảm sự hồi sinh của đất nước và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Campuchia mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của Quân tình nguyện Việt Nam.

Theo kế hoạch, từ giữa tháng 12 năm 1988, hai sư đoàn bộ binh 307 và 315 Quân tình nguyện Việt Nam thuộc Mặt trận 579 làm nhiệm vụ quốc tế ở vùng Đông Bắc Campuchia bắt đầu rút quân về nước. Hai sư đoàn trong suốt 10 năm đã sát cánh cùng lực lượng vũ trang và nhân dân 5 tỉnh ở vùng Đông Bắc Campuchia (Prếtvihia, Stung Treng, Ráttanakiri, Mônđônkiri, Krachiê) chiến đấu giải phóng nhân dân thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, giúp nhân dân Campuchia xây dựng cuộc sống mới. Tiếp đó, các sư đoàn 4, 5, 309, 339 cũng lần lượt rút về nước. Đến ngày 21 tháng 12 năm 1988, toàn bộ ban chỉ huy và các đơn vị của 6 sư đoàn bộ binh (4, 5, 309, 339, 307, 315) Quân tình nguyện Việt Nam gồm 18.000 quân đã trở về Tổ quốc. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh Tây Ninh, Đồng Tháp, Kiên Giang, Gia Lai - Kon Tum thay mặt quân và dân cả nước tổ chức đón tiếp tận tình những cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần tô thắm truyền thống quốc tế vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cuối tháng 12 năm 1988, sau khi rút quân đợt 7 (gồm 5 vạn), bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam ở lại tiếp tục giúp cách mạng Campuchia do Chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia quản lý, chỉ đạo chung và sẽ rút hết vào năm 1989.

Thi hành Quyết định số 76/QĐ-TW ngày 18 tháng 11 năm 1988 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ta về việc giải thể Đoàn chuyên gia và Đảng ủy Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, ngày 25 tháng 12 năm 1988, Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia ra Thông báo số 45/VPK2 nêu rõ, kể từ ngày 11 tháng 12 năm 1988, đợt rút chuyên gia của 5 đoàn hoàn thành. Các giấy tờ, con dấu của đoàn chuyên gia không còn hiệu lực trên đất Campuchia, bao gồm cả các ký hiệu B.68, A40, K79, 478 và các đoàn chuyên gia tỉnh, thành phố tại Campuchia. Ban Bí thư giao nhiệm vụ cho các đồng chí Trịnh Ngọc Bích, Nguyễn Dy Khoát, Hoàng Xuân Trường ở thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giải quyết hoàn thành nốt các việc còn lại của các đoàn chuyên gia Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về nước.

Cùng với việc rút 5 vạn quân tình nguyện, các đoàn chuyên gia quân sự thuộc các mặt trận 479, 579, 779, 979 giải thể và tổ chức thành các trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc các mặt trận. Như vậy, lực lượng trực thuộc Mặt trận 479 còn Sư đoàn bộ binh 302, 2 trung đoàn của Sư đoàn 5, 4 trung đoàn bộ binh và 5 tiểu đoàn binh chủng. Lực lượng thuộc Mặt trận 579 có các Trung đoàn 143 (Sư đoàn 315), Trung đoàn 95 (Sư đoàn 307), Trung đoàn 280 công binh, 4 tiểu đoàn bộ binh độc lập, 4 tiểu đoàn pháo binh, cao xạ, một đại đội thiết giáp và các cơ quan Mặt trận (tổng quân số là 7.500 người). Các đơn vị thuộc Mặt trận 579 tiếp tục giúp Bạn hoàn chỉnh thế bố trí lực lượng trên tuyến biên giới và trong nội địa, hình thành thế trận phòng thủ biên giới và bảo vệ các thị xã thị trấn, các tuyến giao thông quan trọng. Mặt trận chỉ đạo các đơn vị quân tình nguyện tăng cường củng cố các công sự trận địa phòng ngự trên tuyến biên giới; đồng thời tổ chức bàn giao khu vực công sự vật cản cho Bạn từ đoạn đường số 18 (Bàu Đều) đến đoạn đường số 30 (Cả Chùa) và tổ chức thực hiện thay phiên phòng thủ giữa ta và hai trung đoàn 17, 18 của Bạn trên tuyến biên giới.

Lợi dụng ta bàn giao chiến trường, lực lượng Bạn mới đến thay thế, địch tăng cường mở các cuộc tiến công hòng chiếm giữ các địa bàn trọng yếu nơi biên giới. Riêng cuối tháng 12 năm 1988, địch đã 5 lần tiến công vào các cụm điểm tựa trên tuyến phòng thủ biên giới của Bạn, ta cùng với Bạn kiên cường chiến đấu, đánh bại các cuộc tiến công của địch, giữ vững các khu vực trận địa.

Trong công tác xây dựng cơ sở, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam phân thành từng tổ công tác đến từng phum, xã giúp Bạn vận động quần chúng, tổ chức nắm dân, củng cố chính quyền, xây dựng thế làm chủ của nhân dân ở phum, xã, đánh bại âm mưu “tổng đánh phum, giải tán 2, xây dựng 4, giành chính quyền từ cơ sở” của địch. Được sự phối hợp của các đơn vị Quân tình nguyện, nhân dân các địa phương Bạn tổ chức ra các đội công tác đẩy mạnh giáo dục quần chúng, bóc gỡ địch ngầm, củng cố chính quyền và đoàn thể phum, xã; đồng thời triển khai thế trận chiến đấu liên hoàn giữa các phum, các cụm phum, xã, cụm xã; giữa các thị xã, thị trấn đông dân cư. Riêng Mặt trận 779, đến cuối năm 1988, các đội công tác đã củng cố được 12/493 xã khá, 315 xã trung bình; 144/4.457 ấp khá, 2.715 ấp trung bình; đưa 202 ấp yếu lên ấp trung bình và khá. Nhiều phum, xã đã trưởng thành, tự đảm đương điều hành được mọi công việc của địa phương.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:25:10 am
Nhằm giúp Bạn củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, tạo chuyển biến mới về chất để từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ đánh địch, bảo vệ địa phương, bảo vệ đất nước, các mặt trận 479, 579, 779, 979 đã chú trọng giúp Bạn toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong năm 1988, ta giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang tập trung ở Quân khu 2 (gồm 19.490 người) và Quân khu 4 (gồm 16.070 người). Riêng Quân khu 4 có 3 sư đoàn, 2 trung đoàn; cấp tỉnh có 2 trung đoàn và 22 tiểu đoàn, cấp huyện có 66 tiểu đoàn bộ đội địa phương. Ngoài ra, Bạn còn có 3 trung đoàn (gồm 7 tiểu đoàn) của các tỉnh nội địa được huy động lên tăng cường cho Quân khu 4 của Bạn tổ chức phòng thủ biên giới. Quân khu 2 có 2 trung đoàn trực thuộc Quân khu (tăng 1 trung đoàn), 17 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh (tăng 8 tiểu đoàn), 113 đại đội bộ đội địa phương huyện (tăng 19 đại đội).

Về dân quân tự vệ, được sự giúp đỡ của Quân tình nguyện, Bạn đã phát triển được lực lượng khá lớn ở nhiều phum, xã; trong đó Quân khu 4 có 38.005 người, trang bị 31.508 súng; Quân khu 2 có 35.059 người, trang bị 28.150 súng các loại. Lực lượng dân quân tự vệ đã tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ giao thông giữ gìn trật tự an ninh phum, xã.

Nhìn chung, trong năm 1988, được sự giúp đỡ tận tình của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đã có sự trưởng thành trên nhiều mặt và từng bước tự đảm đương được nhiều mặt trong xây dựng, chiến đấu, bảo vệ thành quả cách mạng.

Đánh giá về hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong năm 1988, Đảng ủy Quân sự Trung ương nêu rõ: “Cán bộ và chiến sĩ, kể cả các đồng chí đã hết nghĩa vụ quân sự, vẫn tiếp tục anh dũng tiến công địch, khắc phục khó khăn, gian khổ, phát huy những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội tình nguyện, nhiều đơn vị và nhiều cán bộ, chiến sĩ lập được nhiều thành tích xuất sắc. Cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các cấp đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý bộ đội chiến đấu và công tác tốt.

Nhiều đồng chí đã phát huy tốt năng lực trong quan hệ với Bạn, biết phát hiện nhân tố tích cực và khả năng tiềm tàng của Bạn, đồng thời thấy được những khó khăn thực tế để tìm cách khắc phục và có phương pháp giúp Bạn tiến bộ, trưởng thành nhanh. Nhiều đơn vị quân tình nguyện vẫn phát huy được truyền thống giữ nghiêm kỷ luật quần chúng, làm tốt công tác dân vận trong hoạt động giúp Bạn. Trong chiến đấu và công tác xa Tổ quốc, có nhiều khó khăn thiếu thốn về sinh hoạt, nhưng cấp ủy và chỉ huy các mặt trận, các sư đoàn, trung đoàn xuống đến phân đội đã chăm lo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, bảo đảm đời sống tinh thần của bộ đội ở cơ sở và trong chiến đấu”(1).

Sang năm 1989, các lực lượng vũ trang và chính quyền cách mạng Campuchia đã có đủ khả năng tự đảm đương sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia. Đối với Quân tình nguyện Việt Nam, nhiệm vụ đặt ra trong năm 1989 là phải tập trung cố gắng cao nhất, tận tâm, tận lực giúp cách mạng Campuchia giành thắng lợi quyết định trong việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã đề ra, sau đó rút toàn bộ lực lượng, các loại vũ khí, trang bị về nước.

Ngày 5 tháng 1 năm 1989, tại cuộc hội đàm giữa Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam, do đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư dẫn đầu với Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Campuchia, do đồng chí Hêng Xomrin, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia dẫn đầu, hai bên thống nhất sẽ rút hết Quân tình nguyện Việt Nam còn lại khỏi Campuchia không chậm hơn tháng 9 năm 1989; đồng thời bàn các biện pháp nhằm phát huy sự nỗ lực cao nhất của phía Campuchia và sự giúp đỡ tích cực của Việt Nam để hoàn thành thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia, làm cho lực lượng Campuchia tự đảm đương hoàn toàn sau khi Quân tình nguyện Việt Nam rút hết về nước.

Trên cơ sở quyết định của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam và Campuchia, ngày 6 tháng 1 năm 1989, Đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng nước ta, do Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu và Đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng Campuchia, do đồng chí Bu Thoong, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, đã tiến hành hội đàm để bàn việc thực hiện quyết định của lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước. Thay mặt Bộ Quốc phòng Campuchia, đồng chí Bu Thoong nhấn mạnh, trước tình hình mới phải xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường quốc phòng, an ninh, dựa vào lực lượng quần chúng; xây dựng lực lượng cơ động, đáp ứng yêu cầu xử trí mọi tình huống. Đồng thời phải nghiên cứu hình thức mới trong việc liên minh giữa hai nước Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực có hiệu quả.

Thay mặt Bộ Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh đề cập những nhiệm vụ cụ thể của mỗi bên trong năm 1989 và sau khi Quân tình nguyện Việt Nam rút hết về nước, trong đó nhấn mạnh: từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1989, chúng ta phải giúp Bạn xây dựng thế tiến công địch ở từng tỉnh và cả nước. Từng tỉnh chịu trách nhiệm tỉnh mình, tiến công địch toàn diện, đây là khâu then chốt, cơ bản. Về quân sự, từng tỉnh, huyện phải xây dựng ý thức tìm địch mà đánh, trên cơ sở đánh địch thắng lợi về quân sự, đẩy mạnh địch vận thành một phong trào sôi nổi, thu hút cả cán bộ, bộ đội và nhân dân tham gia.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb QĐND. H, 2002. tr. 999-1.000.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:27:02 am
Đứng trước tình hình, nhiệm vụ mới, công tác đảng công tác chính trị có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự giúp cách mạng và nhân dân Campuchia xây dựng, bảo vệ thành quả cách mạng. Việc nhiều đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước năm 1988 đã tác động đến tư tưởng cán bộ, chiến sĩ ở lại giúp Bạn. Có một số cán bộ do nhận thức và quán triệt nhiệm vụ chính trị chưa tốt nên đã nảy sinh tư tưởng bi quan, buông lỏng quản lý, chỉ huy đơn vị.

Để quán triệt sâu sắc nhiệm vụ giúp Bạn trong tình hình mới, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị và mặt trận đã kịp thời ra nghị quyết uốn nắn những tư tưởng lệch lạc còn tồn tại, thống nhất quan điểm trong công tác giúp Bạn; tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế giữa ta và Bạn, khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Bạn, xứng đáng với truyền thống quốc tế vẻ vang của “Bộ đội Cụ Hồ”. Các mặt trận 4 79, 579, 779, 979 lãnh đạo, chỉ đạo, các đơn vị trực thuộc khắc phục khó khăn, gian khổ, tập trung giúp theo yêu cầu của Bạn. Trong những tháng đầu năm 1989, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục giúp Bạn chiến đấu trên tuyến phòng thủ biên giới, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm nhập, phá hoại của địch.

Thời gian này, địch tiếp tục xây dựng một số căn cứ và đưa dân đến ở tại các trại tị nạn sát biên giới. Chúng tập trung lực lượng mở các cuộc tiến công vào các vị trí của Bạn dọc tuyến biên giới và đưa lực lượng, vũ khí xâm nhập vào nội địa phá hoại. Bạn đã tự đảm đương nhiệm vụ chiến đấu trên tuyến phòng thủ biên giới; đồng thời đẩy mạnh hoạt động đánh các căn cứ lõm và hành lang của địch, ngăn chặn địch xâm nhập nội địa. Nhìn chung, toàn tuyến biên giới, Bạn đã tự giữ vững được các chốt; âm mưu lấn chiếm của địch bị thất bại. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Bạn, ở một số khu vực, ta tiếp tục phối hợp với Bạn phòng thủ. Trên hướng Mặt trận 979, Trung đoàn 31 (Sư đoàn 309) được giao nhiệm vụ giúp Bạn và cùng Bạn chủ động đánh địch cả trên tuyến biên giới và khu vực nội địa, từ bắc đường số 10 tới phía nam Nam Sấp (địa bàn Sư đoàn 6 Bạn phụ trách) và từ thị xã Báttambang ra vùng biên giới. Đồng thời, Trung đoàn 31 trực tiếp giúp, hỗ trợ các đơn vị Bạn (Trung đoàn 2 Phnôm Pênh, Trung đoàn 2 Báttambang, Lữ đoàn 95 bộ đội chủ lực và lực lượng du kích các phum, xã ở hai huyện Bà Vân, Ô Đôn Ta) về xây dựng lực lượng, huấn luyện, tác chiến.

Từ ngày 18 đến 23 tháng 1 năm 1989, một bộ phận của Trung đoàn 1 (Sư đoàn 330) cùng lực lượng Trung đoàn 3 (Sư đoàn 6 Bạn) từ cửa khẩu 301 tiến công các căn cứ và trận địa cối của địch ở vùng biên giới. Bộ đội ta và Bạn đã phá 14 kho tàng, nhiều trận địa hoả lực và diệt một bộ phận sinh lực địch.

Ngày 5 tháng 2 năm 1989, đoàn đại biểu cao cấp của Đảng, Nhà nước Campuchia, do đồng chí Hêng Xomrin, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Campuchia dẫn đầu thăm, chúc Tết Quân tình nguyện Việt Nam ở Thủ đô Phnôm Pênh. Đồng chí Tổng Bí thư đánh giá cao Quân tình nguyện Việt Nam đã kề vai sát cánh cùng quân và dân Campuchia giành thắng lợi lớn trong xây dựng đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng và mong cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện tiếp tục giúp nhân dân Campuchia giành thắng lợi to lớn hơn nữa, góp phần tăng cường quan hệ đoàn kết giữa quân đội và nhân dân hai nước Campuchia - Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.

Tháng 2 năm 1989, Mặt trận 579 chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện trực thuộc phối hợp với Bạn tăng cường đánh cắt hành lang của địch ở trục 30 căn cứ Rừng Xanh, 3 huyện Bunglung, Lomphát, Bôkeo; đồng thời mở đợt tiến công tổng hợp và vận động quần chúng làm công tác địch vận làm cho địch suy yếu, tan rã. Một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với Bạn đánh các căn cứ lõm của địch như căn cứ Chăn Tu, căn cứ La Lay, gây cho địch nhiều thiệt hại. Trong khi đó, một số đơn vị thuộc Mặt trận 979 rút về khu trung tuyến hoạt động. Trung đoàn 1 Sư đoàn 330 được Quân khu 9 tăng cường lực lượng đã mở đợt hoạt động đánh vào các vị trí của sư đoàn 415, sư đoàn 320 địch, trọng tâm là núi Chóp, nhằm triệt phá hệ thống kho tàng căn cứ, triệt tiêu trung tâm hành lang địch từ vùng biên giới vào khu vực Mung. Trong đợt hoạt động này, bộ đội ta đã phá tan thế của địch ở khu trung tuyến, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên, thu hơn 200 súng các loại, sư đoàn 320 địch bị thiệt hại nặng. Tháng 4 năm 1989, ta tiếp tục truy quét địch ở khu vực bắc đường số 10, diệt 32 tên, thu 15 súng.

Được sự giúp đỡ của Việt Nam, cách mạng Campuchia ngày càng lớn mạnh. Đến tháng 4 năm 1989, đứng 10 tháng sau khi các đoàn chuyên gia quân sự cùng hơn 50% Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phát triển rất nhanh, đặc biệt là bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, trình độ tổ chức chỉ huy nâng lên rất nhiều và hiệu suất chiến đấu của Bạn ngày một tăng. Trong khi đó, Khơme đỏ được sự tiếp sức của các thế lực bên ngoài dồn mọi nỗ lực vẫn không thể xoay chuyển được tình thế ngày càng chuyển biến có lợi cho cách mạng và nhân dân Campuchia. Tuyên bố chung đánh giá cao công lao to lớn của Quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng và nhân dân Campuchia và khẳng định sẽ rút hết quân về nước vào cuối tháng 9 năm 1989.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:45:12 am
Với mong muốn sớm ổn định tình hình ở Campuchia, ngày 5 tháng 4 năm 1989, Chính phủ ba nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Campuchia và Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã ký tuyên bố chung về việc rút toàn bộ Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước.

Ngày 19 tháng 6 năm 1989, tại kỷ họp thứ 5 Quốc hội khoá VIII, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng, Thượng tướng Đoàn Khuê, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đọc báo cáo về việc Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả trở về Tổ quốc vào tháng 9 năm 1989. Báo cáo nêu rõ, gần 11 năm, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn và gian khổ. hy sinh, thể hiện rõ đạo đức, truyền thống của dân tộc Việt Nam “Hàng xóm tắt lửa, tối đèn có nhau”, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước Bạn tức là mình tự giúp mình”, sát cánh cùng quân đội và nhân dân Campuchia tiến hành thắng lợi công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Campuchia.

Đến cuối tháng 9 năm 1989, những đơn vị cuối cùng của Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả sẽ trở về Tổ quốc, kết thúc chặng đường cùng nhân dân và Quân đội nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ và xây dựng đất nước Campuchia hồi sinh, khôi phục và giữ vững tình hữu nghị giữa nhân dân ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam, góp phần bảo vệ hoà bình và ổn định ở Đông Nam châu Á và thế giới. Đây là hành động sáng ngời thiện chí của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết của Hội nghị cấp cao Việt Nam, Lào, Campuchia họp ngày 2 tháng 12 năm 1985; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ và quyền tự quyết dân tộc của nhân dân Campuchia. Theo đó, Việt Nam sẽ hoàn thành việc rút hoàn toàn Quân tình nguyện về nước vào cuối tháng 9 năm 1989. Kỳ họp cũng đã thông qua nghị quyết về Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trở về nước vào cuối tháng 9 năm 1989, đồng thời tuyên dương công lao to lớn của Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự và chuyên gia các ngành, các địa phương của Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với cách mạng và nhân dân Campuchia.

Nhằm làm thất bại hoàn toàn ý đồ chiến lược của địch, tạo thế và lực cho Bạn đánh địch hiệu quả, từ giữa năm 1989, ta và Bạn mở đợt tiến công địch trên khắp các chiến trường. Với quyết tâm cao, Quân tình nguyện và các đơn vị Bạn đã đánh nhiều trận, từ truy quét, đánh triệt phá hành lang khu vực 300 nhà, đánh chiếm các căn cứ tại Pailin đến phát triển tiến công khu vực bắc đường số 10, gây cho địch thiệt hại nặng. Tháng 6 năm 1989, các đơn vị Quân tình nguyện vừa tiếp tục cùng Bạn truy quét địch ở khu vực đông, tây đường số 10. Trong hai tháng 7 và 8, ta tiếp tục phối hợp với Bạn mở đợt tiến công tổng hợp; đồng thời củng cố thêm thế và lực cho cách mạng Campuchia lớn mạnh để ta rút hết lực lượng cùng các phương tiện, trang bị kỹ thuật về nước trong tháng 9 năm 1989.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng, tháng 7 năm 1989, Lữ đoàn thông tin 596 tổ chức bàn giao đường dây hữu tuyến điện dài 124 kilômét (đường cột) từ cửa khẩu Mộc Bài qua Niếc Lương đến Phnôm Pênh; đồng thời bàn giao các trạm Niếc Lương, Svâyriêng và các tổ bảo vệ đường dây Chi Phu, Ta Bo cùng các thiết bị gồm 4 máy TCT-1, 2 tổng đài, 6 máy điện thoại, 2 máy nổ. Đến ngày 14 tháng 7 năm 1989, Lữ đoàn 596 bàn giao xong toàn bộ và Bạn bắt đầu sử dụng khai thác, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia hồi sinh.

Cùng thời gian này, các đơn vị tổ chức đợt sinh hoạt chính trị theo chỉ đạo của Tổng cục Chính trị. Đợt sinh hoạt được lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị tổ chức chặt chẽ, thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc, góp phần giải quyết tốt mối quan hệ nội bộ, bình chọn cán bộ, chiến sĩ đạt danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”, học tập những điển hình tiên tiến. Phong trào thi đua với Trung đoàn 88 và các trung đoàn giỏi của quân tình nguyện; thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu và công tác vận động quần chúng được các đơn vị hưởng ứng sôi nổi cho đến những ngày cuối cùng còn giúp Bạn trên đất nước Campuchia.

Nhằm bảo đảm cho Quân tình nguyện Việt Nam trở về nước nhanh chóng, an toàn, công tác bảo đảm thông tin liên lạc được chuẩn bị và triển khai chặt chẽ. Lữ đoàn thông tin 596 tăng cường vô tuyến điện sóng ngắn, đồng thời chuẩn bị máy sóng cực ngắn liên lạc với các đơn vị hành quân bằng đường bộ, đường thuỷ, đường không. Việc liên lạc giữa Mặt trận 479 với Bộ được thực hiện bằng máy vô tuyến điện P140 và tiếp sức P401. Trong đội hình hành quân của các đơn vị, việc liên lạc được thực hiện theo phiên, đồng thời bố trí một số đài canh liên tục để trong bất kỳ tình huống nào và ngay trên đường hành quân vẫn có thể báo cáo kịp thời từ cấp dưới lên cấp trên và cấp trên chỉ đạo, chỉ huy đối với cấp dưới theo kế hoạch đề ra.

Công binh các mặt trận 479, 579, 779, 979 cũng được giao nhiệm vụ sửa chữa, bảo đảm hệ thống đường sá, cầu cùng các loại xe, binh khí kỹ thuật cho các đơn vị Quân tình nguyện rút về nước. Công binh Mặt trận 479 được giao nhiệm vụ chốt bảo vệ một số tuyến đường với tổng chiếu dài hơn 100 kilômét; san ủi hàng chục đoạn đường vòng tránh, lắp 30 mét cầu dẫn cho xe tăng lên tầu, ghép phà tải trọng 50 tấn đưa xe tăng vượt sông Xen ở thị xã Côngpông Chàm, bảo đảm cho 1.026 xe, pháo các loại của Mặt trận 479 và Mặt trận 779 sẵn sàng hành quân về nước.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:48:48 am
Để ghi nhớ công ơn của các liệt sĩ - chiến sĩ quốc tế Việt Nam đã hy sinh tại chiến trường Campuchia và thể hiện sự quan tâm đối với cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế trở về nước, Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu chính quyền và nhân dân các địa phương trong cả nước; Một là, chuẩn bị tiếp nhận, chôn cất hài cốt liệt sĩ từ Campuchia chuyển về các nghĩa trang ở địa phương, bảo đảm an toàn, chu đáo về mọi mặt. Hai là, tổ chức thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, bệnh binh từ Campuchia trở về đang điều trị, an dưỡng ở các bệnh viện và các trại nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh, bảo đảm đầy đủ chế độ của Nhà nước đối với đối tượng chính sách này. Ba là, có kế hoạch đón tiếp thật chu đáo những đơn vị Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia sẽ rút về nước vào tháng 9 năm 1989; tạo điều kiện giúp đỡ về vật chất, động viên về tinh thần cho các đơn vị. Bốn là, chăm lo, giúp đỡ bố mẹ, vợ con các liệt sĩ, các gia đình thương binh, bảo đảm đời sống ổn định cho các đối tượng chính sách. Năm là, ưu tiên giúp đỡ, sắp xếp việc làm, nơi ở cho những cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về, tạo điều kiện cho anh em tiếp tục cống hiến vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhằm đón tiếp chu đáo quân tình nguyện trở về nước, tháng 8 năm 1989, Đảng và Nhà nước ta quyết định thành lập Ban đón tiếp cấp Nhà nước, Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước, do đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm Trưởng ban. Ban đón tiếp cấp Nhà nước chỉ đạo ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có Bộ đội tình nguyện ở Campuchia thực hiện: Một là, lập ban đón tiếp cấp tỉnh, thành phố, gồm đại diện cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các thành viên thuộc Mặt trận để giúp cấp ủy, Ủy ban nhân dân chỉ đạo, tổ chức đón tiếp. Hai là, tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong nhân dân về việc Bộ đội tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia; lập kế hoạch đón tiếp cụ thể, giúp các đơn vị trở về có nơi ăn ở, phương tiện sinh hoạt được tốt. Ba là, khi Bộ đội tình nguyện về nước, phối hợp với các quân khu, các ngành của Trung ương tổ chức quần chúng tiếp đón, chào mừng Bộ đội tình nguyện ngay tại các cửa khẩu, tổ chức mít tinh tại các tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Hậu Giang, thành phố Hồ Chí Minh... Các địa phương không trực tiếp đón Bộ đội tình nguyện trớ về, cần có sự phối hợp đón tiếp chu đáo.

Để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, trước khi những đơn vị cuối cùng Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, từ tháng 8 đến đầu tháng 9 năm 1989, Đảng, Nhà nước và quân đội Campuchia đã cử Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Nhà nước Campuchia và một số đoàn đại biểu sang thăm hữu nghị nước ta. Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước và quân đội Campuchia đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam, các bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã sinh thành, nuôi dưỡng, tôi luyện những chiến sĩ quốc tế thuỷ chung, hy sinh vì nền độc lập tự do của nhân dân Campuchia, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vinh quang mà Tổ quốc và nhân dân Việt Nam giao.

Ngày 5 tháng 9 năm 1989, Chính phủ ta tuyên bố rút toàn bộ Quân tình nguyện Việt Nam về nước sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giúp Campuchia. Đợt rút quân cuối cùng tiến hành từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 9 năm 1989, theo đường bộ và đường thủy về nước. Nhân dịp này, ngày 19 tháng 9 năm 1989, tại Thủ đô Phnôm Pênh, Đảng và Nhà nước Campuchia tổ chức lễ trao tặng Huân chương Ăngco cho 4 mặt trận (479, 579, 779, 979), Đoàn 5 hải quân, Trung đoàn căn cứ không quân 901, Sư đoàn bộ binh 330, Sư đoàn bộ binh 302 và trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất cho 74 đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam.

Thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia, đồng chí Chia Xim nêu rõ: Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã kịp thời, sát cánh với nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng, mở ra trang sử mới của nhân dân Campuchia từ ngày 7 tháng 1 năm 1979. Kẻ thù của nhân dân Campuchia chưa từ bỏ dã tâm quay trở lại giết hại nhân dân Campuchia, một lần nữa, Quân tình nguyện Việt Nam lại tiếp tục giúp Campuchia bảo vệ Tổ quốc để nhân dân Campuchia có đủ thời gian và điều kiện xây dựng lại đất nước, củng cố lực lượng của mình. Trong hơn 10 năm ở Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam còn nhường áo, sẻ cơm, làm hết sức mình để giúp Campuchia đẩy lùi nạn đói, tăng gia sản xuất, ổn định cuộc sống. Sự có mặt của Quân tình nguyện Việt Nam trong hơn 10 năm qua là yếu tố không thể thiếu được trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn, sự hy sinh cao cả không gì so sánh nổi của Quân tình nguyện Việt Nam, vì sự nghiệp cách mạng Campuchia.

Thực hiện chủ trương của Ban đón tiếp cấp Nhà nước, tại các cửa khẩu biên giới hữu nghị Việt Nam - Campuchia thuộc địa bàn Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, đại diện Trung ương Đảng, Chính phủ, quân đội, chính quyền, đoàn thể xã hội các tỉnh, thành phố và nhân dân địa phương của ta và Bạn đã tổ chức trọng thể lễ tiễn và đón Quân tình nguyện Việt Nam, những đơn vị cuối cùng rút quân từ Campuchia chia về nước. Đợt rút quân cuối cùng gồm 26.000 cán bộ, chiến sĩ thuộc các mặt trận 479, 579, 779, 979 và các đơn vị còn lại của hai sư đoàn bộ binh 330 và 302, Đoàn 5 hải quân, Trung đoàn căn cứ không quân 901 và một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, binh chủng bảo đảm cùng các loại xe tăng, xe bọc thép, pháo mặt đất và pháo phòng không lần lượt hành quân từ Thủ đô Phnôm Pênh và một số tỉnh trên đất nước Campuchia trở về Tổ quốc.

Cuộc hành quân được chuẩn bị chu đáo, đúng kế hoạch. Trong đợt rút quân này, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 có 15.000 người, trở về nước theo 2 đường thuỷ và bộ. Bộ phận hành quân đường bộ qua 2 cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát (Tây Ninh), còn bộ phận hành quân đường thuỷ qua cửa khẩu Tân Châu (Đồng Tháp). Ngày 26 tháng 9, khi chiếc xe cuối cùng vừa qua cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh), đài vô tuyến điện trên xe P140 của Lữ đoàn 205 điện báo ngay về Bộ Quốc phòng: “Toàn bộ Quân tình nguyện Việt Nam đã trở về Tổ quốc an toàn”(1). Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc vẻ vang hơn 10 năm trọn nghĩa, vẹn tình của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng và nhân dân Campuchia. Với tinh thần quốc tế cao cả, quyết tâm cao, nỗ lực liên tục, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã cùng lực lượng cách mạng Campuchia hoàn thành ba mục tiêu chiến lược mà Đảng và Chính phủ hai nước đã đề ra.


(1) Lịch sử bộ đội thông tin liên lạc (1945-2005), Nxb QĐND, H,.2005, tr. 757.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:51:15 am
Ngày 28 tháng 9 năm 1989, tại thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng và tuyên dương công trạng cán bộ, chiến sĩ Mặt trận 479, 779 cùng nhiều đơn vị Quân tình nguyện đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang ở Campuchia trở về Tổ quốc. Đến dự có đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng ban đón tiếp Nhà nước; Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Thượng tướng Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và đại diện một số cơ quan, đoàn thể Trung ương và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ thay mặt Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao công lao to lớn của Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia; đồng thời nhắc nhở các cấp, các ngành và địa phương phải chăm lo thật tốt công tác hậu phương đối với cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện vừa trở về.

Ngày 29 tháng 9 năm 1989, Chính phủ nước ta ra tuyên bố về việc hoàn thành rút toàn bộ Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Ban Tuyên bố nêu rõ: Cách đây hơn 10 năm, thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, trừng trị bọn Pôn Pốt xâm lược; đồng thời đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sang Campuchia cùng với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia chiến đấu đập tan chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng. Tiếp đó, theo yêu cầu của Nhà nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục giúp cách mạng và nhân dân Campuchia bảo vệ công cuộc hồi sinh, chống bọn Pôn Pốt và các thế lực thù địch mưu toan phục hồi chế độ diệt chủng ở Campuchia...

Xuất phát từ đường lối nhất quán của Việt Nam là triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, căn cứ vào tình hình thực tế lớn mạnh của các lực lượng vũ trang nhân dân Campuchia, theo thoả thuận giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia, từ năm 1982. hàng năm, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia đã được rút về nước. Sau 7 lần rút quân, đến ngày 26 tháng 9 năm 1989, toàn bộ Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia cùng toàn bộ vũ khí, khí tài đã được rút hết về nước.

Nhân dịp Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về nước, Đảng và Nhà nước ta đã tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 45 đơn vị và 8 cá nhân (có 5 liệt sĩ) đã có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quốc tế vô sản của quân đội ta. Đánh giá về sự giúp đỡ của Việt Nam, báo Prôchiachuôn (Nhân dân), cơ quan ngôn luận của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ngày 26 tháng 9 năm 1989 viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới chế độ diệt chủng Pôn Pốt, trên thế giới này không biết bao nhiêu là kẻ mạnh, kẻ giàu, nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc ta mà thôi”(1).

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đánh giá: “10 năm giúp Bạn Campuchia là thắng lợi đầu tiên của nhân dân ta khi đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đánh bại một bước âm mưu làm suy yếu lâu dài đất nước ta,... bảo đảm cho nhân dân ta, trước hết là các tỉnh phía Nam, giữ được hoà bình, ổn định để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, củng cố cơ sở chính trị, nâng cao đời sống nhân dân. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước với tư thế hoàn thành nhiệm vụ, sáng ngời chính nghĩa. Lực lượng yêu nước và tiến bộ Campuchia tự mình đứng vững trước sự tiến công của các thế lực thù địch. Hai nhân tố ấy là biểu hiện nổi bật của thắng lợi cực kỳ quan trọng của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hướng Tây Nam và mười năm giúp Bạn, đã góp phần xứng đáng cùng với những thành tựu tổng hợp về kinh tế, chính trị, ngoại giao, tạo ra cho đất nước ta một cục diện mới, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thắng lợi”(1).

Tóm lại, hơn mười năm (1978-1989), Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, giúp Bạn từng bước trưởng thành, tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong quá trình giúp Bạn, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã cùng với Bạn xây dựng thế trận phòng thủ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, từng bước bàn giao cho bạn tự bảo vệ; giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang (gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, phối hợp với Bạn chiến đấu ở vùng biên giới phía Tây, truy quét địch trong nội địa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch; củng cố chính quyền cách mạng Bạn ở cơ sở ngày càng vững mạnh, khôi phục sản xuất, từng bước ổn định cuộc sống của nhân dân. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã nêu cao tinh thần quốc tế cao cả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp Bạn chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng đất nước hồi sinh, thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã đề ra. Cán bộ, chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã để lại trong lòng người dân Campuchia những tình cảm tốt đẹp không bao giờ nhạt phai, góp phần tô thắm truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam - 60 năm bảo vệ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945 - 2.9.2005), Nxb QĐND, H, 2005, tr 368-369.
(1) Tư liệu về Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Ban Tổng kết lịch sử, Phòng Khoa học Công nghệ, Văn phòng Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:52:34 am
KẾT LUẬN

Sau 30 năm liên tục kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1795), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam đã giành được độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ đây, nhân dân Việt Nam được sống trong hòa bình, có quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới; có điều kiện tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục và phát triển đất nước. Thế nhưng, ngay sau khi nhân dân ta kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một tình huống vô cùng phức tạp xảy ra trên bán đảo Đông Dương. Đó là cuộc chạy đua của các nước lớn nhằm lấp “khoảng trống quyền lực” do Mỹ để lại sau khi buộc phải rút quân khỏi Việt Nam, Campuchia và Lào. Trong cuộc chạy đua đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế triển khai chiến lược mới, bằng những thủ đoạn mới, tiếp tục chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta cũng như của nhân dân các nước Đông Dương.

Thủ đoạn thâm hiểm nhất là tuyên truyền tư tưởng thù hằn, gây chia rẽ các dân tộc, nuôi dưỡng, kích động và sử dụng tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari “làm tên tay sai xung kích” để tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã theo đuổi đường lối đối nội và đối ngoại hết sức phản động; trong nước thì tuyên bố xây dựng “chủ nghĩa cộng sản độc đáo của Campuchia”; song thực chất đã biến đất nước thành một địa ngục, đẩy nhân dân Campuchia đứng trước thảm họa diệt chủng. Bên ngoài, chúng vu khống Việt Nam âm mưu lập liên bang Đông Dương để thôn tính Campuchia, coi Việt Nam là “kẻ thù số 1” và tìm cách câu kết với các thế lực phản động quốc tế, dựa vào nguồn viện trợ từ bên ngoài để xâm lấn biên giới Việt Nam, gây bao tội ác đối với nhân dân ta ở vùng biên giới Tây Nam.

Tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari đã trở thành kẻ thù nguy hiểm của nhân dân Campuchia và nhân dân Việt Nam. Với tham vọng đất đai và mưu đồ làm cho Việt Nam mất ổn định, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia, kích động hằn thù dân tộc, phản bội trắng trợn tình đoàn kết truyền thống giữa hai dân tộc và lực lượng cách mạng của hai nước. Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần bày tỏ thiện chí giải quyết bằng hòa bình và tự kiềm chế. Nhưng ta càng tự kiềm chế, kẻ địch càng lấn tới. Từ tháng 4 năm 1977, bất chấp thiện chí hòa bình của Đảng và Nhà nước Việt Nam, chúng gây ra cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta.

Chừng nào chế độ Pôn Pốt còn tồn tại thì người dân Campuchia còn tiếp tục bị đày ải, giết hại; người dân Việt Nam không thể được sống trong hoà bình, ổn định để xây dựng đất nước. Không cam chịu đổ tập đoàn phản động huỷ hoại dân tộc mình, những người cách mạng chân chính Campuchia đã tập hợp lực lượng nổi dậy chống chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, quân và dân ta buộc phải cầm súng chiến đấu ngăn chặn và đẩy lùi hành động xâm lược của quân Pôn Pốt.

Một lần nữa, nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia lại chung trong một chiến hào chống kẻ thù chung. Để đập tan kẻ thù xâm lược tận sào huyệt của chúng và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, đầu tháng 1 năm 1979, một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc phản công - tiến công chiến lược đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Tiếp đó, theo đề nghị của Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định để lại một bộ phận Quân tình nguyện ở lại Campuchia, đồng thời cử chuyên gia quân sự sang giúp lực lượng vũ trang cách mạng cùng nhân dân Campuchia bảo vệ và xây dựng lại đất nước.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:54:38 am
Qua hơn 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, được nhân dân Campuchia gọi là “Bộ đội nhà Phật”, đã vận dụng sáng tạo đường lối, phương châm, nguyên tắc giúp Bạn của Đảng và Nhà nước ta, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giúp cách mạng và nhân dân Campuchia trên một số mặt chủ yếu sau đây:

1. Giúp đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (17-4-1975), mỗi người dân Campuchia hy vọng sẽ được sống trong độc lập, hoà bình và có thể hoà hợp dân tộc, cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia đã bị lực lượng Khơme đỏ, do Pôn Pốt - Iêng Xari cầm đầu lợi dụng chiếm đoạt. Sau khi nắm quyền, với chủ trương xây dựng “chủ nghĩa cộng sản độc đáo kiểu Campuchia”, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã phá hủy nặng nề cơ sở kinh tế - xã hội, gây ra nạn diệt chủng khủng khiếp ở Campuchia. Tội ác của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã khiến cho hàng loạt cuộc nổi dậy chống lại chế độ diệt chủng diễn ra ở hầu khắp các nơi trong cả nước, mà đỉnh cao là cuộc nổi dậy ở Quân khu Đông và ở các tỉnh Côngpông Chàm, Prâyveng, Xoàiriêng. Hàng vạn nhân dân và những người cách mạng Campuchia đã chạy lánh sang Việt Nam để tránh tổn thất do chế độ Pôn Pốt tàn sát gây ra. Những người lãnh đạo phong trào nổi dậy chống Pôn Pốt đã tìm cách liên hệ với Việt Nam, nhờ Việt Nam giúp chuẩn bị xây dựng lại Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia để tập hợp lực lượng, lãnh đạo nhân dân chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới, giải phóng đất nước. Nhờ sự giúp đỡ của Việt Nam, những đơn vị lực lượng vũ trang yêu nước đầu tiên của Campuchia ra đời (12-5-1978). Tiếp đó, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập (2-12-1978), kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới. Mặt trận khẩn thiết yêu cầu sự giúp đỡ của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đưa quân đội sang cùng lực lượng cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Theo yêu cầu của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước Bạn tức là mình tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam đã sang giúp lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt. Sự có mặt của Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia là niềm hy vọng duy nhất của người dân Campuchia để họ được cứu thoát khỏi họa diệt chủng. Những người già ở tỉnh Báttambang bộc bạch: “Chúng tôi theo đạo Phật, ngày đêm cầu trời khấn Phật cứu giúp, nhưng ngày này qua ngày khác không thấy ai đến. Chúng tôi nghĩ trên cõi đời này chỉ có Việt Nam có thể cứu chúng tôi. Quả nhiên bộ đội Việt Nam đã đến”(1).

Đề cập sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam đối với nhân dân Campuchia trong việc đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, Quốc vương Xihanúc khẳng định: “Nếu họ (Việt Nam) không đánh đuổi bọn Pôn Pốt thì tất cả mọi người (Campuchia) có thể đã bị chết. Không chỉ riêng tôi mà là mọi người. Chúng (Khơme đỏ) đã có thể giết chết tất cả chúng ta, ít nhất thì chúng ta cũng đã được sống sót và chính vì điều này mà chúng ta có thể nói rằng Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã không mắc sai lầm (khi đề nghị Việt Nam giúp đỡ chống Khơme đỏ), bởi vì nếu chúng ta không được giải phóng khỏi bọn Pôn Pốt thì toàn dân tộc có thể đã bị tiêu diệt”(2).

Với sự tham gia của đông đảo nhân dân Campuchia, từ mùa mưa năm 1978, Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công giải phóng các tỉnh phía Đông Campuchia và ngày 7 tháng 1 năm 1979 giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh. Tiếp đó, Quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công giải phóng tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn và vùng nông thôn rộng lớn, đẩy quân Pôn Pốt chạy sâu vào vùng rừng núi ở biên giới Campuchia - Thái Lan.

Chiến thắng ngày 7 tháng 1 năm 1979 đã cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari. Từ đây, nhân dân Campuchia bắt đầu xây dựng lại đất nước, thực hiện hồi sinh dân tộc và khôi phục tình đoàn kết truyền thống Campuchia - Việt Nam.

Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta quyết định đưa Quân tình nguyện Việt Nam sang giúp lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng là việc làm hết sức cần thiết, thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, vì sự sống còn của nhân dân Campuchia. Bộ đội Việt Nam sang cứu giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng là việc làm chính nghĩa.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb QĐND, H, 2004, tr. 146. Tin Kinh doanh, Báo Campuchia, ngày 8 tháng 9 năm 1995.
(2) Báo Campuchia, ngày 8 tháng 9 năm 1995.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Mười, 2021, 06:56:43 am
2. Cùng quân và dân Campuchia từng bước đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn quân sự của địch nhằm khôi phục chế độ diệt chủng ở Campuchia.

Với thắng lợi vĩ đại ngày 7 tháng 1 năm 1979, các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia được sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam đã đánh đổ bộ máy thống trị của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari từ trung ương đến cơ sở. Thế nhưng, lực lượng quân sự của chúng còn khoảng 4 vạn quân với bọn đầu sỏ chỉ huy rút chạy về vùng biên giới phía Tây, Tây Bắc và rút vào ẩn náu ở một số vùng rừng núi trong nội địa Campuchia. Pôn Pốt đã trốn chạy ra nước ngoài, nhưng vẫn tiếp tục chỉ đạo lực lượng Khơme đỏ chống phá chính quyền cách mạng và nhân dân Campuchia. Với sự giúp đỡ của bên ngoài và dựa vào những căn cứ ở phía Tây Campuchia, chúng tập hợp lực lượng đưa vào trong nội địa tổ chức đánh lẻ, quấy rối, tiêu hao lực lượng cách mạng. Cùng với các hoạt động quân sự, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari đẩy mạnh hoạt động chính trị, ngoại giao, hòng tạo sức ép đẩy lực lượng Việt Nam ra khỏi Campuchia trong lúc lực lượng cách mạng còn yếu, hy vọng phản công chiếm lại thủ đô Phnôm Pênh và lập lại chính quyền phản cách mạng.

Trước tình hình đó, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng vừa giành được là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối với nhân dân Campuchia. Việc Chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia thành lập được các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước trong phong trào không liên kết công nhận đã khẳng định sự hợp pháp của Chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia. Trong chính sách đối ngoại, Đảng và Nhà nước Campuchia chủ trương đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam là quan hệ liên minh chiến lược. Với Hiệp định hoà bình hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia ký ngày 18 tháng 2 năm 1979 đã thể hiện nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia cũng như tinh thần quốc tế cao cả của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Hai bên khẳng định tiếp tục tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác hữu nghị lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt để củng cố nền độc lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân mỗi nước.

Thực hiện những cam kết đã ghi trong Hiệp ước, Đảng và Nhà nước ta đã để lại một bộ phận Quân tình nguyện, đồng thời cử các đoàn chuyên gia, trong đó có chuyên gia quân sự, tiếp tục giúp các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia từng bước đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch nhằm khôi phục chế độ diệt chủng ở Campuchia.

Đề cập tới sự có mặt của quân đội Việt Nam ở Campuchia, luật sư R.Vên, Trưởng phái đoàn điều tra của Hội Luật gia dân chủ quốc tế trong cuộc họp báo ngày 8 tháng 5 năm 1979 tại Pa-ri (Pháp) khẳng định: Trong giai đoạn đầu Quân đội Việt Nam đánh đổ quân đội Pôn Pốt xâm lấn lãnh thổ Việt Nam, đó là quyền tự vệ chính đáng của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 2, Quân đội Việt Nam giúp lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng đất nước. Đó là nghĩa vụ giúp các dân tộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc như đã được nêu trong Nghị quyết 26-25 của Liên Hợp quốc. Hiện nay, sự có mặt của Quân đội Việt Nam tại Campuchia là căn cứ vào Hiệp ước hữu nghị và hợp tác ký giữa hai nước ngày 18 tháng 2 năm 1979”(1).

Như vậy, việc Quân đội Việt Nam giúp cách mạng và nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, sau đó theo yêu cầu của Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia tiếp tục ở lại là việc làm chính nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Buổi đầu bảo vệ thành quả cách mạng, bạn có 22 tiểu đoàn bộ binh và gần 100 đội công tác, chưa đủ sức để làm nòng cốt cho nhân dân đánh bại tàn quân Pôn Pốt, nhưng đó là lực lượng vũ trang cách mạng chân chính của nhân dân Campuchia khi được Việt Nam giúp đỡ xây dựng sẽ phát triển và từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ của Bạn. Vì thế, trong những năm 1979-1982, Quân tình nguyện Việt Nam giúp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia chủ yếu theo hình thức phối hợp chiến đấu giữa các đơn vị Việt Nam - Campuchia và Campuchia - Việt Nam. Ta cùng Bạn chiến đấu truy quét tàn quân địch cả ở vùng biên giới phía Tây, Tây Bắc và trong nội địa. Đến năm 1983, khi Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô Phnôm Pênh và cảng Côngpông Xom, ta cùng Bạn mở nhiều cuộc tiến công tiêu diệt địch, phá tan các căn cứ ở biên giới, ngăn chặn hành động phá hoại của địch. Năm 1984, Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ thêm 4 tỉnh: Svâyriêng, Prâyveng, Côngpông Chàm, Kanđan và một số huyện ở các tỉnh khác. Đến năm 1985, khi Bạn tự đảm đương được một phần trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan thì ta chủ yếu cử một số đơn vị phối hợp, hoặc một bộ phận nhỏ lực lượng tham gia chiến đấu cùng Bạn, hoặc làm lực lượng dự bị sẵn sàng cơ động hỗ trợ cho Bạn chiến đấu trong trường hợp cần thiết. Nhờ phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, tổ chức phối hợp chiến đấu và vận dụng các cách đánh hợp lý, ta và Bạn đã tiêu diệt, làm tan rã nhiều đơn vị quân địch khi chúng từ các căn cứ ở vùng biên giới phía Tây xâm nhập vào phá hoại trong nội địa, đánh bại kế hoạch “chiếm đất, giành dân” của địch, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng, hồi sinh đất nước.


(1) Theo Báo Quân đội nhân dân, ngày 11 tháng 5 năm 1979.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2021, 06:18:45 am
3. Giúp nhân dân Campuchia khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, đất nước hồi sinh và phát triển.

Chế độ Pôn Pốt đã bị đánh đổ nhưng hậu quả gần 4 năm thống trị để lại đối với đất nước Campuchia vô cùng nặng nề. Đối với nền kinh tế Campuchia bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đẩy đến bờ vực thẳm; cơ sở vật chất. phương tiện và công cụ sản xuất bị phá hoại; sức sản xuất bị tổn thất nặng nề; các phương thức canh tác quen thuộc bị xoá sạch... Đứng trước những hậu quả hết sức nặng nề đó, Đảng và Nhà nước Campuchia dự tính phải phấn đấu gian khổ nhiều năm mới khôi phục được sản xuất, ổn định đời sống, hồi sinh đất nước Campuchia.

Song, với sự giúp đỡ của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, trong đó trực tiếp là Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự cùng lực lượng chuyên gia dân, chính, đảng và các lực lượng khác của Việt Nam được cử sang, nhân dân Campuchia đã dần vượt quá những khó khăn, thách thức lớn, từng bước khôi phục sản xuất và mọi hoạt động xã hội, sớm ổn định đời sống.

Trước hết, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam xác định đánh địch và cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói là hai việc cấp bách như nhau. Ngay sau khi giải phóng, Đảng và Nhà nước Campuchia phải tập trung giải quyết vấn đề cấp bách hàng đầu là cứu sống ngay lập tức hàng triệu con người đang bị cái đói và bệnh tật đe doạ từng ngày, từng giờ đang lan rộng và ngày càng nghiêm trọng. Nếu như trong tháng 6 năm 1979, trong cả nước Campuchia có 2,4 triệu người đói thì một tháng sau, nạn đói đã đe doạ 3,2 triệu người (60% dân số). Trước tình hình đó, Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch vận chuyển cứu đói và phục vụ sản xuất nông nghiệp trước mắt cho Campuchia. Lực lượng quân tình nguyện được giao nhiệm vụ nhanh chóng giúp Bạn mở cảng biển Côngpông Xom và khôi phục đường sắt từ cảng đến Phnôm Pênh, góp phần vận chuyển 203.000 tấn lương thực của các nước viện trợ, trong đó Việt Nam giúp 45.000 tấn cho Chính phủ Campuchia. Bộ đội ta đã giúp Bạn vận chuyển, phân phối 150.000 tấn đến tay nhân dân. Ngoài nguồn lương thực viện trợ, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn nhường cơm, sẻ áo, làm nhiệm vụ vận chuyển, phân phát hàng viện trợ cho nhân dân, tổ chức cho dân đi lấy lương thực địch cất giấu ở các kho trong rừng. Bằng các biện pháp tích cực, khẩn trương, đến cuối năm 1980 - đầu năm 1981, ta đã giúp Bạn ngăn chặn được nạn đói.

Một trong những vấn đề cấp bách cũng cần được khẩn trương giải quyết sau ngày giải phóng là giúp Bạn đưa hơn 1 triệu dân đang chịu cảnh màn trời, chiếu đất, xáo trộn chỗ ở trở về quê cũ, nơi mà chế độ Pôn Pốt đã buộc họ phải rời bỏ trước đây, sớm ổn định nơi ăn chốn ở. Để giúp dân trở về quê cũ, bộ đội tình nguyện đã khẩn trương huy động và sử dụng mọi phương tiện vận chuyển đưa bà con trở về quê. Đối với những nơi chưa có điều kiện đưa dân trở về quê cũ, ta động viên bà con tạm ở lại làm ăn, khi tình hình cho phép sẽ đưa họ về.

Cùng với việc giúp dân trở về quê cũ, cán bộ, chiến sĩ ta đã đóng góp công sức và vật liệu giúp dân dựng lại nhà cửa, trường học, bệnh xá... phân phát dụng cụ gia đình, công cụ sản xuất, hạt giống, con giống để nhân dân khôi phục sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp và các ngành trực tiếp liên quan đến đời sống sinh hoạt hàng ngày. Được sự giúp đỡ của Việt Nam trong đó có Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam và sự nỗ lực của nhân dân Campuchia, cuối năm 1979. một số nơi đã có lúa gặt, góp phần quan trọng từng bước đẩy lùi nạn đói.

Đồng thời với đói khát, bệnh tật cũng là mối tai họa hoành hành khắp nơi trong cả nước, phổ biến là các bệnh sốt rét, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da, suy dinh dưỡng… Đội ngũ quân y ở các đơn vị quân tình nguyện đã cùng chuyên gia y tế Việt Nam cử sang giúp chính quyền Campuchia từng bước khôi phục hệ thống chăm sóc sức khoẻ, tổ chức khám y tế cho nhân dân; đồng thời giúp nhân dân vệ sinh thôn, xã sạch sẽ, thực hiện phòng chống dịch bệnh.

Bằng các hoạt động hiệu quả trong chiến đấu bảo vệ dân, giúp đỡ tận tình nhân dân từng bước ổn định đời sống, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được nhân dân Campuchia trìu mến gọi là “Bộ đội nhà Phật”. Chính “Bộ đội nhà Phật” đã giúp nhân dân Campuchia thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc vĩ đại, góp phần củng cố tình đoàn kết truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia.

Đánh giá sự đóng góp của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong công cuộc hồi sinh đất nước Campuchia, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu rõ: “Cán bộ, chiến sĩ quân đội ta được giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” đã “làm tốt công tác vận động quần chúng, giúp nhân dân nước Bạn xây dựng lại cuộc sống, xây dựng chế độ mới từ cơ sở. Chỉ có Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng ta lãnh đạo, trải qua mấy chục năm làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế, mới có thể làm được như vậy”(1).


(1) Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2-2001, tr. 3.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2021, 06:22:31 am
4. Giúp Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể, đủ sức vươn lên từng bước tự đảm đương nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia.

Với phương châm giúp Bạn xây dựng thực lực cách mạng để tiến tới tự làm lấy cách mạng của mình, Đảng ta sớm chủ trương giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng để sát cánh chiến đấu bên cạnh Quân tình nguyện Việt Nam đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ nhân dân và chính quyền cách mạng sau này, Thực hiện chủ trương của Đảng, ngay từ năm 1978, vừa đánh địch, các quân khu 5, 7, 9 vừa tích cực giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1978, các quân khu của ta đã giúp Bạn xây dựng được 22 tiểu đoàn bộ binh và 69 đội công tác.

Sau khi đánh đổ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, nhân dân Campuchia rất lo quân Pôn Pốt sẽ trở lại tàn sát nếu bộ đội Việt Nam rút đi. Vì vậy, việc tiếp tục giúp Bạn xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang là một yêu cầu cấp thiết của cách mạng Campuchia. Nhiệm vụ đặt ra đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam là phải giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ, xây dựng lực lượng vũ trang mạnh. Bước đầu đưa họ vào các đơn vị của ta để kèm cặp, dìu dắt, tổ chức các đơn vị hỗn hợp, sau đó tách ra thành các đơn vị độc lập, phân công nhiệm vụ phù hợp bên cạnh các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam để rèn luyện, nâng cao dần trách nhiệm và trình độ mọi mặt cho lực lượng vũ trang Bạn. Ngoài lực lượng vũ trang tập trung được trang bị vũ khí bộ binh khá đầy đủ và được huấn luyện về quân sự, chính trị, ta cũng rất quan tâm giúp Bạn xây dựng lực lượng dân quân du kích ở cơ sở.

Được sự giúp đỡ tích cực của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, đến khi Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, tháng 1 năm 1989, Bạn đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân, gồm các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn chủ lực, các đơn vị binh chủng, hệ thống các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy từ Trung ương đến cơ sở, với tổng quân số 128.746 người; trong đó bộ đội chủ lực là 48.183 người, bộ đội địa phương 80.863 người và 42.000 cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Đối với Đoàn chuyên gia quân sự 478 đã cùng Tiền phương Bộ Quốc phòng giúp Bạn xây dựng bộ máy cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật; giúp Bạn xây dựng Trường Lục quân, Trường Kỹ thuật Thông tin, Trường Hậu cần... Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ Bạn ngày càng phát, triển và trưởng thành. Hầu hết đội ngũ cán bộ là những người đã được rèn luyện thử thách trong chiến đấu và đào tạo ở các trường trong nước và nước ngoài. Qua nhiều năm thử thách trong chiến đấu chống quân Pôn Pốt, bảo vệ đất nước, nhiều người đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành cán bộ cao cấp của quân đội cách mạng Campuchia.

Không chỉ giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự còn là lực lượng quan trọng cùng với đội ngũ chuyên gia dân, chính, đảng được Đảng và Nhà nước ta cử sang giúp Bạn hình thành hệ thống chính quyền cách mạng từ Trung ương xuống cơ sở. Trong xây dựng chính quyền, vấn đề quan trọng là đội ngũ cán bộ. Sau giải phóng, đội ngũ cán bộ của Bạn vừa thiếu lực lượng, vừa yêu cả về nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn. Dựa vào chính quyền cách mạng, các đoàn thể quần chúng và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đã phối hợp chặt chẽ với các đoàn chuyên gia cấp tỉnh, tổ chuyên gia cấp huyện giúp Bạn lựa chọn, lập hồ sơ, kiểm tra, xem xét lý lịch từng người; sau đó tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp. Bộ đội ta đã giúp Bạn tăng cường đội ngũ cán bộ xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng các cấp ở 21 tỉnh, thành phố, 169 huyện, thị trấn, 1.540 xã phường và 12.247 ấp.

Bên cạnh việc xây dựng lượng lượng vũ trang và chính quyền cách mạng các cấp, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn phối hợp với các đoàn chuyên gia Việt Nam cử sang giúp Bạn xây dựng các tổ chức đoàn thể như: Công đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn thành niên... Nhờ sự giúp đỡ tận tình của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cùng chuyên gia các cấp, các tổ chức đoàn thể của Bạn được hình thành từ Trung ương xuống cơ sở và từng bước củng cố, góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước(1).

Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đạt được những thành tựu trên đây và một số thành tựu khác trong hơn 10 năm giúp cách mạng và nhân dân Campuchia là quá trình phấn đấu, chịu đựng biết bao khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, kể cả hy sinh, trong đó hàng vạn cán bộ, chiến sĩ ta đã ngã xuống không bao giờ trở lại. Nhờ quán triệt đường lối quốc tế vô sản cao cả, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao, giúp Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và xây dựng đất nước hồi sinh.

Ghi nhận những đóng góp to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đối với cách mạng Campuchia, Đảng và Nhà nước ta đã tặng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có 1 Huân chương Sao vàng, 24 Huân chương Hồ Chí Minh, 10 Huân chương Độc lập cho các tập thể và 20 vạn Huân chương Chiến công cho cán bộ, chiến sĩ. 45 đơn vị và 8 cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đảng và Nhà nước Campuchia đã khen thưởng 144 đơn vị Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế đối với nhân dân và sự nghiệp cách mạng Campuchia, gồm 25 Huân chương Ăngco, 116 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, 3 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì và 183.090 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc các hạng cho cán bộ, chiến sĩ cùng một số phần thưởng cao quý khác.


(1) Theo thống kê của Bạn đến đầu năm 1989, bộ máy đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng của Bạn có 246.666 người.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2021, 06:23:39 am
Qua hơn 10 năm Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chính sau đây:

Một là, quán triệt sâu sắc đường lối chính trị, quân sự của Đảng và Nhà nước ta đối với cách mạng Campuchia để thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia.

Đường lối chính trị, quân sự của Đảng và Nhà nước ta đối với cách mạng Campuchia là sự kết hợp nhuần nhuyễn nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh; là sự kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế cao cả, đã được thực hiện thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ở Campuchia.

Đảng ta luôn coi bảo vệ và phát triển mối quan hệ với Campuchia là quan hệ hữu nghị đặc biệt, tăng cường sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của Đảng ta trong đường lối quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia. Những quan điểm cơ bản đó trong đường lối quốc tế của Đảng ta đối với Campuchia là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam khi được giao nhiệm vụ sang giúp theo yêu cầu của Bạn.

Đáp lời kêu gọi của nhân dân và Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự sang giúp Bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, tiếp đó là giúp xây dựng lại đất nước, hồi sinh dân tộc, giữ vững thành quả cách mạng. Đây là một quyết định hết sức đúng đắn bởi chỉ khi nào tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari bị đánh đổ, người dân Campuchia mới thoát khỏi họa diệt chủng, mới có quyền sống; nhân dân ta mới được sống bình yên, xây dựng đất nước, khôi phục tình đoàn kết truyền thống Việt Nam - Campuchia.

Trong bối cảnh đất nước Campuchia vừa thoát khỏi họa diệt chủng, quân Pôn Pốt bị đánh tan, nhưng lực lượng chúng còn đông được sự giúp đỡ từ bên ngoài luôn tìm cách phá hoại cách mạng Campuchia, việc Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Bạn đòi hỏi phải nỗ lực rất lớn. Nắm vững đường lối quốc tế của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc phối hợp giúp nhau trong chiến đấu, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đã thường xuyên quán triệt, vận dụng để giúp Bạn hiệu quả. Mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia quân sự, từ xây dựng đến chiến đấu và công tác đều thống nhất theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giúp nhân dân nước Bạn tức là mình tự giúp mình”, giúp Bạn để Bạn tự vươn lên làm chủ giành thắng lợi, tránh tác phong bao biện, làm thay.

Quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối quốc tế giúp cách mạng Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Bạn theo nguyên tắc chuyển từng bước theo hướng ta làm giúp Bạn, đến ta giúp Bạn làm và cuối cùng là Bạn làm, ta giúp, về phương châm giúp Bạn của ta là dìu dắt Bạn, phối hợp với Bạn, tạo điều kiện cho Bạn trưởng thành từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ. Theo đường lối quốc tế của Đảng và Nhà nước, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đã thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia ngày càng hiệu quả, góp phần cùng Bạn giành thắng lợi từng bước, tiến tới để Bạn trưởng thành tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước khi Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự rút về.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2021, 06:24:24 am
Hai là, nắm vững chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, hết lòng, hết sức thực hiện nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia theo đường lối thống nhất giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia.

Trong việc giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, vấn đề quan trọng là phải nắm vững chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, vô tư, hết lòng, hết sức thực hiện nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia theo đường lối thống nhất giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, trên cơ sở đó thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu Bạn đề ra. Trước tình hình đất nước Campuchia vẫn còn nguy cơ chế độ diệt chủng trở lại, nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt tàn quân địch, bảo vệ thành quả cách mạng được coi là hàng đầu. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài giữa hai nước.

Theo Hiệp ước, Chính phủ Campuchia đề nghị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia cùng với Bạn truy quét tàn quân địch, bảo vệ thành quả cách mạng. Đề nghị của Chính phủ Campuchia được thể hiện bằng hiệp định về giúp đỡ và hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Campuchia (ký ngày 11-6-1981), trong đó Điều 4 quy định sự phối hợp chiến đấu và công tác giữa Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia trên đất nước Campuchia.

Tiếp đó, tháng 2 năm 1983, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia xác định ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia, trong đó nhấn mạnh tăng cường đoàn kết liên minh Campuchia - Việt Nam, tạo thế và lực vững mạnh hơn nữa. Về phía Việt Nam, Bộ Chính trị ta cũng xác định ba mục tiêu chiến lược của Bạn là phương hướng giành thắng lợi của cách mạng Campuchia; đồng thời là nội dung, nhiệm vụ quốc tế của Quân tình nguyện và chuyên gia ta. Trong thời gian từ 3 - 5 năm phải đạt được ba mục tiêu chiến lược là giành thắng lợi quyết định, ta có thể chủ động rút quân về nước.

Trên cơ sở hai Bộ Chính trị Việt Nam và Campuchia thống nhất thực hiện ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã quán triệt cho bộ đội và chuyên gia, xây dựng quyết tâm, kiên quyết và kiên trì phấn đấu giành cho được thắng lợi quyết định, về quan điểm cơ bản của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Bạn được xác định: Cách mạng Campuchia phải do nhân dân Campuchia tự làm lấy. Việt Nam giúp Campuchia là tạo điều kiện để từng bước Bạn đảm nhiệm được sứ mệnh lịch sử của đất nước mình.

Theo quan điểm đó, trong quá trình giúp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam luôn dìu dắt, phối hợp với Bạn chiến đấu, tạo điều kiện cho Bạn từng bước trưởng thành tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Nhờ vậy, đến đầu năm 1983, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô Phnôm Pênh và cảng Côngpông Xom. Năm 1984, Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ thêm 4 tỉnh: Svâyriêng, Prâyveng, Côngpông Chàm, Kanđan và một số huyện thuộc các tỉnh khác. Năm 1985, Bạn tự đảm đương bảo vệ được một phần quan trọng trên tuyến biên giới phía Tây Campuchia.

Trên cơ sở Bạn đã từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ các địa bàn quan trọng, Hội nghị Ban cán sự Đảng Bộ Tư lệnh 719 xác định: “Trong 2 năm 1986-1987, tập trung giúp Bạn giành thắng lợi cơ bản cả ba mục tiêu chiến lược, đưa cách mạng Campuchia tiến tới ổn định vững chắc, Bạn tự đảm đương được nhiệm vụ”(1). Căn cứ vào tình hình thực tế ở Campuchia, tháng 8 năm 1985, ta và Bạn thống nhất kế hoạch: Đến năm 1987, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ đất nước, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục rút về nước cho đến năm 1990 thì hết. Nhờ quyết tâm và nỗ lực to lớn của cả ta và Bạn, việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển, giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Trên cơ sở đó, tháng 5 năm 1988, ta và Bạn thống nhất rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự (kể cả chuyên gia dân, chính, đảng) về nước vào năm 1989, sớm hơn kế hoạch dự định một năm (trước dự kiến năm 1990).

Như vậy, trên cơ sở thống nhất đường lối cách mạng giữa Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng hai nước, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam với tinh thần quốc tế trong sáng, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Bạn đã nỗ lực phấn đấu vươn lên cùng với Bạn thực hiện cơ bản hoàn thành ba mục tiêu chiến lược. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ giúp Bạn. Lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đóng vai trò lực lượng giành thắng lợi cuối cùng.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Sđd, tr. 159.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2021, 06:25:45 am
Ba là, tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Campuchia, giúp Bạn theo đúng chức năng, nhiệm vụ của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp Bạn, lực lượng chuyên gia quân sự, mang phiên hiệu Đoàn 478 ra đời khá sớm (12-1978) với nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đồng thời giúp Bạn chiến đấu. Quá trình giúp Bạn, lực lượng chuyên gia quân sự được bổ sung, lớn mạnh, góp phần xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từng bước trưởng thành. Cuối năm 1978, đầu 1979, một lực lượng lớn quân tình nguyện hình thành, gồm các quân đoàn 2, 3, 4 và một số đơn vị của các quân chủng Hải quân, Phòng không - Không quân; các quân khu 5, 7, 9 có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia mở cuộc phản công, tiến công đánh đố chế độ diệt chủng Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giúp Bạn giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh và giải phóng đất nước Campuchia khỏi chế độ Pôn Pốt, nước Cộng hòa nhân dân Campuchia được thành lập và giúp nhân dân Campuchia bước đầu ổn định tình hình, tháng 3 năm 1979, Quân đoàn 2 được lệnh rút về nước. Tiếp đó, tháng 7 năm 1979, Quân đoàn 3 rút về nước nhận nhiệm vụ mới.

Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia trong tình hình mới, tiếp theo Đoàn chuyên gia quân sự 478, tháng 2 năm 1979, các Đoàn chuyên gia quân sự 479, 7708 và 959 hình thành, giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 5 năm 1979, Bộ chỉ huy Mặt trận 479 trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 7 được thành lập có nhiệm vụ giúp Bạn ở các tỉnh Xiêm Riệp, Báttambang (Bắc Campuchia). Các cơ quan tiền phương của các Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 đảm nhiệm giúp Bạn ở các tỉnh phía Bắc, Đông Bắc; Đông, Đông Nam và Nam, Tây Nam Campuchia.

Để thống nhất chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đang hoạt động tại Campuchia, tháng 6 năm 1981, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Bộ Tư lệnh 719) trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam được thành lập. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh 719 là trực tiếp giúp Bạn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và tổ chức bảo vệ thành quả cách mạng.

Tiếp đó, tháng 7 năm 1981, các mặt trận 579, 779, 979 (mỗi Bộ Tư lệnh Mặt trận có quyền hạn tương đương Bộ Tư lệnh quân đoàn) được thành lập (trên cơ sở các cơ quan tiền phương của Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 7, 9), do Bộ Tư lệnh 719 chỉ đạo, chỉ huy tác chiến và hoạt động giúp Bạn; Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 7, 9 chỉ đạo, chỉ huy các mặt hoạt động khác. Lực lượng trực thuộc mỗi mặt trận gồm một số sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng, các đoàn quân sự tỉnh; hệ thống cơ quan và bộ phận chuyên gia quân sự. Mặt trận 579 giúp Bạn ở 4 tỉnh: Mônđônkiri, Ráttanakiri, Stung Treng, Prêtvihia (Bắc, Đông Bắc Campuchia). Mặt trận 779 giúp Bạn ở 5 tỉnh: Côngpông Thom, Côngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Krachiê (Đông, Đông Nam Campuchia). Mặt trận 979 giúp Bạn ở 7 tỉnh: Côngpông Spư, Côngpông Chnăng, Puốcxát, Campốt, Tàkeo, Kanđan, Cô Công (Nam, Tây Nam Campuchia).

Trong quá trình giúp Bạn, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự thường xuyên quán triệt, nắm vững và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình trên đất Bạn, từ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia khôi phục sản xuất, xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội, đến giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể của Campuchia. Nhìn chung, quá trình giúp Bạn từ chỗ làm giúp, đến giúp làm và cuối cùng là Bạn làm, ta giúp rồi Bạn tự làm lấy. Với tinh thần quốc tế trong sáng, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trên các mặt công tác, được Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia đánh giá là lực lượng quan trọng quyết định việc giúp cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và giúp Bạn bảo vệ, xây dựng đất nước hồi sinh.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:26:29 am
Bốn là, xây dựng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự vững mạnh về mọi mặt, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia.

Thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở nơi xa hậu phương, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam; Đảng ủy, Bộ tư lệnh các mặt trận 479, 579, 779, 979 và Đoàn 478 đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về mọi mặt, trước hết là vững vàng về chính trị tư tưởng, giỏi về quân sự và chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời có tinh thần tự lực tự cường, ý chí tự khắc phục khó khăn, thiếu thốn, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong xây dựng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự, Đảng ta hết sức quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực lãnh đạo, chỉ huy, có bản lĩnh hoạt động độc lập cao, năng lực công tác tốt; không ngừng nâng cao tinh thần quốc tế cao cả vì sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia. Vì thế, những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia quân sự được Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng điều động sang đều là những cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng và chiến đấu để giúp Bạn. Nhiều chuyên gia được tham gia học tiếng Campuchia để hiểu rõ phong tục, tập quán của nhân dân Campuchia nhằm nâng cao hiệu quả giúp Bạn.

Trước khi sang giúp Bạn, cán bộ cũng như chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đều được học tập chính trị để nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng về nhiệm vụ giúp Bạn và phương hướng, nhiệm vụ cụ thể trong công tác giúp Bạn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đều ban hành các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn về công tác giúp Bạn, trong đó yêu cầu Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự phải học tập, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, phong tục tập quán của nhân dân Campuchia để vận dụng hoàn thành nhiệm vụ giúp Bạn.

Quán triệt tầm quan trọng và xác định rõ ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, ngay từ khi sang đất Bạn, mỗi đơn vị quân tình nguyện cũng như đoàn chuyên gia quân sự; mỗi cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và từng chuyên gia quân sự Việt Nam đều nỗ lực phấn đấu, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, coi đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng cần thực hiện thường xuyên. Đồng thời, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, bảo đảm công tác hậu cần, kỹ thuật và công tác nội bộ, thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ và chính sách hậu phương đối với cán bộ, chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Trong những năm làm nhiệm vụ giúp cách mạng và nhân dân Campuchia, nhờ cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị thường xuyên tổ chức giáo dục, quản lý chặt chẽ; cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đã xác định rõ trách nhiệm trước Đảng, quân đội và nhân dân hai nước, không ngừng phấn đấu, rèn luyện về phẩm chất chính trị và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vượt qua những khó khăn, thiếu thốn, kể cả hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ giúp Bạn. Tuy nhiên, quá trình giúp Bạn, cũng có một số trường hợp cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia ta thể hiện thái độ nước lớn, chưa tin vào Bạn, chưa có sự thống nhất cao giữa ta và Bạn ở một số việc cụ thể; một số nơi còn có hiện tượng áp đặt, hoặc làm thay Bạn. Cũng do hầu hết bộ đội tình nguyện và chuyên gia ta không biết tiếng Campuchia, nên dẫn đến sự hiểu biết về văn hoá, phong tục, tập quán của Bạn còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả giúp Bạn. Bên cạnh đó, một số chiến sĩ ta còn vi phạm kỷ luật chiến trường, kỷ luật dân vận, ảnh hưởng đến quan hệ giữa ta và Bạn. Cấp ủy, chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ở các cấp đã nghiêm khắc với những trường hợp vi phạm, kiên quyết khắc phục hạn chế, thiếu sót, tạo được lòng tin đối với cả ta và Bạn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:28:12 am
Năm là, giải quyết hài hoà giữa hai nhiệm vụ dân tộc và quốc tế, kết thúc thắng lợi nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, rút quân về nước.

Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, tiếp đó là quá trình Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng và nhân dân Campuchia hơn 10 năm có mối quan hệ rất chặt chẽ, khăng khít đòi hỏi Đảng, Nhà nước và quân đội ta phải giải quyết một cách đúng đắn, hài hoà giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là Đảng, Nhà nước và quân đội ta phải quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia quân sự về tính chất và mục đích chính trị của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược phục vụ chiến lược của nước ngoài do tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tiến hành, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hoà bình ổn định để xây dựng đất nước; đồng thời xác định rõ nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia ta giúp lực lượng yêu nước, cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước, khôi phục tình đoàn kết truyền thống Việt Nam - Campuchia. Vì thế, mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam của ta và mục đích chính trị của cuộc chiến tranh giải phóng của Bạn thống nhất chặt chẽ, cùng chống kẻ thù chung vì lợi ích của cả hai dân tộc Việt Nam và Campuchia.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế là một thể thống nhất. Đó là chân lý cao cả của tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước Bạn tức là mình tự giúp mình”. Thực chất đây là cuộc liên minh chiến đấu giữa ta và Bạn. Lực lượng tiến hành chiến tranh bao gồm cả lực lượng ta và lực lượng Bạn. Lúc đầu, lực lượng cách mạng Campuchia còn nhỏ, trang bị vũ khí hết sức thô sơ, chưa đủ sức tự đánh đổ chế độ diệt chủng, nhưng là đại biểu hợp pháp duy nhất của nhân dân Campuchia, sẽ phát triển mạnh mẽ và từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ của Bạn. Hai lực lượng ta và Bạn đều có vai trò quyết định; về lâu dài, lực lượng cách mạng Campuchia là lực lượng quyết định thắng lợi cuối cùng của cách mạng Campuchia.

Ngay từ đầu, Đảng, Nhà nước và quân đội ta đã xác định rõ quan điểm này và giải quyết một cách hết sức hài hoà giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế trong suốt quá trình giúp Bạn. Sau khi giúp lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước Campuchia chính thức đề nghị Đảng và Nhà nước ta để Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở lại một thời gian giúp Bạn bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng lực lượng cho Bạn về mọi mặt. Đảng và Nhà nước ta đã có quyết định đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của Bạn, nhất quyết không để cho chế độ Pôn Pốt quay trở lại, cho dù các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, vu khống, gây sức ép đối với Việt Nam. Chủ trương đó của Đảng đã được quán triệt sâu sắc đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia quân sự Việt Nam trong hơn 10 năm giúp Bạn. Biết rằng tiếp tục ở lại là phải chịu nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, nhưng với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, vô tư; mỗi cán bộ, chiến sĩ và chuyên gia quân sự đều thông suốt và tự giác chấp hành nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia.

Quá trình giúp Bạn, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự luôn tôn trọng độc lập chủ quyền và các quyết định của Bạn, nắm vững đường lối, chính sách của Bạn; nhất là cùng Bạn thực hiện ba mục tiêu chiến lược cách mạng do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bạn đề ra và Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta cũng xác định ba mục tiêu chiến lược của Bạn là nội dung nhiệm vụ quốc tế và cũng là nhiệm vụ dân tộc của ta; đồng thời vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm của ta để giúp Bạn phù hợp, hiệu quả. Mục đích là để Bạn từng bước trưởng thành, tạo điều kiện để Bạn giương cao ngọn cờ độc lập, xây dựng cho được quan hệ tin cậy, bình đẳng giữa ta và Bạn. Quá trình giúp Bạn hơn 10 năm cũng là quá trình thường xuyên giáo dục quan điểm, tư tưởng về sự kết hợp hài hòa giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta về bình đẳng dân tộc, tôn trọng Bạn, tạo thuận lợi cho Bạn phát huy năng lực và trí tuệ trong đấu tranh với địch, hồi sinh dân tộc và phát triển. Đến năm 1989, với sự giúp đỡ vô tư, trong sáng, hiệu quả của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, cùng những nỗ lực to lớn của Bạn đã cơ bản thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược: Tàn quân Pôn Pốt suy yếu, tan rã; Bạn mạnh lên và đứng vững, thành quả cách mạng được bảo vệ vững chắc.

Như vậy, quán triệt đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, tính chất, mục đích chính nghĩa của chiến tranh, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã giải quyết hài hoà giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế, giúp cách mạng và nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, thực hiện hồi sinh và phát triển dân tộc, kết thúc nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, rút quân về nước.

Những thành tựu to lớn mà Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đạt được trong nhiệm vụ giúp lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, xây dựng thực lực cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước hồi sinh; cũng như những bài học kinh nghiệm trong hơn 10 năm ghi thêm dấu ấn sâu sắc về bản chất cách mạng và truyền thống quốc tế vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.

Hơn 10 năm, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã thực hiện được một điều kỳ diệu, mang tính quốc tế cao cả và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Được Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện được một điều kỳ diệu: Giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, vươn lên hồi sinh dân tộc, xây dựng thực lực cách mạng lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt, có khả năng tự đảm đương nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ đất nước.

Sau khi Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, cũng như các lực lượng khác của Việt Nam rút về nước, địch dốc toàn bộ lực lượng tập trung phản kích từ mùa mưa năm 1989 đến mùa khô 1991, hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Khi phải tự đảm đương nhiệm vụ chống lại các cuộc phản kích của địch, Quân đội nhân dân Campuchia và nhân dân Campuchia với nỗ lực rất lớn, đã bẻ gãy các cuộc phản kích, nhất là cuộc phản kích chiến lược mùa khô năm 1991, đánh tan những lực lượng tập trung quan trọng của Pôn Pốt. Không còn hy vọng giành thắng lợi về quân sự, đối phương phải chấp nhận ngừng bắn, thực hiện giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia. Cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến (5-1993) thành công với thắng lợi cơ bản của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia và Hiến pháp mới được công bố (8-1993) là cơ sở nhanh chóng tạo hòa bình, ổn định để Campuchia thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.

Ngày nay, cách mạng Việt Nam và cách mạng Campuchia đã chuyển sang giai đoạn mới có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đứng trước những khó khăn, thách thức đòi hỏi cần tiếp tục tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước, góp phần giữ vững ổn định, củng cố hòa bình, hợp tác và phát triển trên bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:28:56 am
PHỤ LỤC

I. MỘT SỐ SỰ KIỆN VỀ CAMPUCHIA TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1979

- Ngày 17 tháng 4 năm 1975: Campuchia được hoàn toàn giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Lon Non.

- Ngày 3 tháng 5 năm 1975: Quân Pôn Pốt đổ bộ lên đảo Phú Quốc.

- Ngày 9 tháng 5 năm 1975: Quân Pôn Pốt xâm phạm biên giới Việt Nam ở nhiều nơi, từ Hà Tiên đến Tây Ninh.

- Ngày 10 tháng 5 năm 1975: Quân Pôn Pốt tiến công đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt đi hơn 500 đồng bào ta.

- Từ tháng 12 năm 1975 đến đầu năm 1976, quân Pôn Pốt đánh chiếm lãnh thổ biên giới nước ta thuộc tinh Gia Lai - Kon Tum (nay là hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum) và tỉnh Đắk Lắk (nay là Đăk Lăk, Đắk Nông).

- Tháng 6 năm 1976: Bè lũ Pôn Pốt kích động trong nhân dân và quân đội Campuchia tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù số 1, ráo riết hô hào chiến tranh chống Việt Nam.

- Ngày 30 tháng 4 năm 1977: Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari mở rộng các hoạt động xâm chiếm biên giới thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta trên biên giới Tây Nam bắt đầu.

- Ngày 25 tháng 9 năm 1977: Quân Pôn Pốt tập trung 9 trong số 14 sư đoàn chủ lực cùng bộ đội địa phương mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam.

- Ngày 31 tháng 12 năm 1977: Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari công khai đưa vấn đề xung đột biên giới ra trước dư luận thế giới hòng vu cáo cô lập Việt Nam.

- Ngày 12 tháng 5 năm 1978: Thành lập đơn vị vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia, do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng.

- Ngày 2 tháng 12 năm 1978: Thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, do ông Hêng Xom Rin làm Chủ tịch.

- Ngày 7 tháng 1 năm 1979: Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng.

- Ngày 8 tháng 1 năm 1979: Thành lập nước Cộng hòa nhân dân Campuchia.

- Ngày 17 tháng 1 năm 1979: Toàn bộ đất nước Campuchia được giải phóng.

- Ngày 18 tháng 2 năm 1979: Campuchia và Việt Nam ký Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:33:12 am
II. HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ VÀ HỢP TÁC
GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ CỘNG HÒA NHÂN DÂN CAMPUCHIA

Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia.

Xuất phát từ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị anh em Việt Nam - Campuchia đã vượt qua nhiều thử thách và trở thành một sức mạnh không gì phá vỡ nổi, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng mỗi nước.

Nhận thức sâu sắc rằng độc lập, tự do, hòa bình và an ninh của hai nước có quan hệ khăng khít với nhau và hai bên có nghĩa vụ hết lòng hết sức giúp nhau củng cố và bảo vệ những thành quả cách mạng vĩ đại đã giành được trải qua gần ba mươi năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh.

Khẳng định rằng tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác hữu nghị lâu dài về mọi mặt giữa Việt Nam và Campuchia đáp ứng lợi ích sống còn của nhân dân hai nước, đồng thời là một nhân tố bảo đảm hòa bình, ổn định vững chắc ở Đông Nam châu Á, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân các nước trong khu vực này và góp phần giữ gìn hòa bình thế giới.

Tin tưởng rằng thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Campuchia dưới ngọn cờ vẻ vang của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế của mỗi nước, sự tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau là cơ sở vững chắc để phát triển không ngừng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước.

Nhằm mục đích tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác hữu nghị lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt để củng cố nền độc lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân mỗi nước, góp phần giữ gìn hòa bình và ổn định ở Đông Nam châu Á và trên thế giới, phù hợp với những mục tiêu của phong trào các nước không liên kết và Hiến chương Liên Hợp quốc.

Đã quyết định ký Hiệp ước này và đã thỏa thuận những điều sau đây:

Điều 1. Hai bên cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị, hợp tác anh em Việt Nam - Campuchia, lòng tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình bảo vệ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị thủy chung Việt Nam - Campuchia đời đời trong sáng.

Điều 2. Trên nguyên tắc việc bảo vệ và xây dựng đất nước mình là sự nghiệp của chính nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết hết lòng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao động hòa bình của nhân dân mỗi nước, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của lực lượng đế quốc. Hai bên sẽ tiến hành các biện pháp có hiệu quả nhằm thực hiện điều cam kết này khi một trong hai bên yêu cầu.

Điều 3. Nhằm giúp nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hai bên sẽ tăng cường quan hệ trao đổi và hợp tác anh em cùng có lợi và giúp nhau về các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và trao đổi chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm xây dựng đất nước về mọi mặt. Nhằm mục đích đó, hai bên sẽ ký những hiệp định cần thiết, đồng thời tăng cường tiếp xúc và hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan và các tổ chức quần chúng của hai nước.

Điều 4. Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hòa bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký kết một hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới này thành biên giới hòa bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước.

Điều 5. Hai bên hoàn toàn tôn trọng đường lối độc lập, tự chủ của nhau. Hai bên kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và không liên kết, theo nguyên tắc không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào công việc nội bộ nước khác, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ của nước mình và không cho phép bất kỳ nước nào dùng lãnh thổ nước mình để can thiệp vào nước khác.

Hai bên coi trọng truyền thống đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em lâu đời giữa nhân dân Campuchia, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam, nguyện ra sức tăng cường quan hệ truyền thống đó trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Hai bên tăng cường quan hệ mọi mặt với các nước xã hội chủ nghĩa. Là những nước ở Đông Nam châu Á, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa nhân dân Campuchia kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng với Thái Lan và các nước khác ở Đông Nam châu Á, tích cực góp phần vào hòa bình và phồn vinh của khu vực Đông Nam châu Á. Hai bên phát triển quan hệ hợp tác với các nước dân tộc độc lập, các phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai bên tích cực góp phần vào sự đoàn kết và lớn mạnh của phong trào không liên kết chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế khác, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới.

Điều 6. Hai bên sẽ thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau về những vấn đề thuộc quan hệ hai nước và những vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có lý có tình.

Điều 7. Hiệp ước này không nhằm chống một nước thứ ba nào và không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo các hiệp định hai bên hoặc nhiều bên mà họ tham gia.

Điều 8. Hiệp ước này có hiệu lực ngay từ ngày trao đổi thư phê chuẩn; việc phê chuẩn sẽ làm theo thủ tục của mỗi bên.

Điều 9. Hiệp ước này có giá trị trong hai mươi lăm năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng mười năm nếu một trong hai bên ký kết không thông báo bằng văn bản cho bên kia ý muốn hủy bỏ Hiệp ước một năm trước khi Hiệp ước hết hạn.

Hiệp ước này làm tại Phnôm Pênh, Thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ngày 18 tháng 2 năm 1979, thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Khơme, cả hai văn bản đểu có giá trị như nhau.

Thay mặt Chính phủ
                                                                                                
Thay mặt HĐNDCM
nước XHCNVN
                                                                                                
nước Cộng hòa ND Campuchia
PHẠM VĂN ĐỒNG
                                                                                                
HÊNG XOMRIN
Thủ tướng Chính phủ
                                                                                                
Chủ tịch Hội đồng nhân dân CM


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:39:17 am
III. NHỮNG PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ QUÂN TÌNH NGUYỆN
VÀ CHUYÊN GIA QUÂN SỰ VIỆT NAM TẠI CAMPUCHIA
ĐƯỢC ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CAMPUCHIA
TẶNG THƯỞNG
(1)

1. Huân chương, huy chương do Nhà nước Việt Nam trao tặng:

- 1 Huân chương Sao vàng: Quân tình nguyện Việt Nam (1988).

- 24 Huân chương Hồ Chí Minh (cho các đơn vị).

- 10 Huân chương Độc lập (cho các đơn vị).

- 20 vạn Huân chương Chiến công các hạng (cho cán bộ, chiến sĩ) và nhiều phần thưởng cao quý khác.

2. Huân chương, huy chương do Nhà nước Campuchia trao tặng:

- 25 Huân chương Ăngco (cho các đơn vị).

- 116 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (cho các đơn vị).

- 3 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì (cho các đơn vị).

- 183.090 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc các hạng (cho cán bộ, chiến sĩ) và nhiều phần thưởng cao quý khác.


(1) Tư liệu ở bảng thống kê này chưa được đầy đủ, đề nghị các tổ chức và cá nhân nào biết rõ, xin báo về Bộ môn Lịch sử Tổ chức quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam để bổ sung đầy đủ, chính xác, xứng đáng với chiến công to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia (1979-1989).


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:41:22 am
III. ĐƠN VỊ VÀ CÁ NHÂN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
ĐƯỢC PHONG TẶNG DANH HIỆU
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
(1)

A. Đơn vị

1. Sư đoàn 315 bộ binh thuộc Mặt trận 579 (Quân khu 5).

2. Sư đoàn 9 bộ binh (Quân đoàn 4, tuyên dương lần 2).

3. Trung đoàn 143 bộ binh thuộc Sư đoàn 315, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

4. Trung đoàn 94 bộ binh thuộc Sư đoàn 307, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

5. Trung đoàn 29 bộ binh thuộc Sư đoàn 307, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

6. Trung đoàn 280 công binh thuộc Mặt trận 579 (Quân khu 5).

7. Trung đoàn 88 bộ binh thuộc Sư đoàn 302, Mặt trận 779 (Quân khu 7, tuyên dương lần 2).

8. Trung đoàn 201 bộ binh thuộc Sư đoàn 302, Mặt trận 779 (Quân khu 7).

9. Trung đoàn 250 bộ binh thuộc Sư đoàn 309, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

10. Trung đoàn 16 bộ binh thuộc Sư đoàn 5, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

11. Trung đoàn 159 bộ binh thuộc Mặt trận 779 (Quân khu 7).

12. Trung đoàn 1 bộ binh thuộc Sư đoàn 330, Mặt trận 979 (Quân khu 9, tuyên dương lần 3).

13. Trung đoàn 157 bộ binh thuộc Sư đoàn 339, Mặt trận 979 (Quân khu 9, tuyên dương lần 2).
14. Trung đoàn 659 vận tải thuộc Cục Hậu cần, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

15. Trung đoàn 917 thuộc Sư đoàn 370 (Quân chủng Không quân, nay là Quân chủng Phòng không - Không quân, tuyên dương lần 2).

16. Tiểu đoàn 15 công binh thuộc Sư đoàn 307, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

17. Tiểu đoàn 18 quân y thuộc Sư đoàn 307, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

19. Tiểu đoàn 32 trinh sát thuộc Mặt trận 579 (Quân khu 5).

20. Tiểu đoàn 782 vận tải thuộc Cục Hậu cần, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

21. Tiểu đoàn Q.22 thuộc Cục Hậu cần, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

22. Tiểu đoàn 1 bộ binh thuộc Trung đoàn 4, Sư đoàn 5, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

23. Tiểu đoàn 5 bộ binh thuộc Trung đoàn 174, Sư đoàn 5, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

24. Tiểu đoàn 5 bộ binh thuộc Trung đoàn 96, Sư đoàn 309, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

25. Tiểu đoàn 1 bộ binh thuộc Trung đoàn 812, Sư đoàn 309, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

26. Tiểu đoàn 9 bộ binh thuộc Trung đoàn 6, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

27. Tiểu đoàn 31 quân y thuộc Sư đoàn 309, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

28. Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 25 công binh, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

29. Tiểu đoàn 220 thuộc Trung đoàn 686, Sư đoàn 339, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

30. Tiểu đoàn 6 bộ binh thuộc Trung đoàn 20, Sư đoàn 4, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

31. Tiểu đoàn 1 thuộc Đoàn quân sự 9901, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

32. Tiểu đoàn quân y thuộc Sư đoàn 339, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

33. Tiểu đoàn thông tin thuộc Sư đoàn 339, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

34. Tiểu đoàn 6 bộ binh thuộc Trung đoàn 2, Sư đoàn 330, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

35. Tiểu đoàn trinh sát thuộc Sư đoàn 330, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

36. Tiểu đoàn 94 thuộc Trung đoàn 73 trinh sát (nay thuộc Tổng cục II).

37. Tiểu đoàn 2 công binh thuộc Lữ đoàn 229 (Bộ tư lệnh Công binh, tuyên dương lần 2).

38. Tiểu đoàn 563 thuộc vùng 5 Hải quân (Quân chủng Hải quân).

39. Đại đội 18 quân y thuộc Trung đoàn 733, Sư đoàn 315, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

40. Đại đội 18 quân y thuộc Trung đoàn 142, Sư đoàn 315, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

41. Đại đội 6 thông tin thuộc Mặt trận 479 (Quân khu 7).

42. Đại đội 2 trinh sát thuộc Tiểu đoàn 47, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

43. Đại đội trinh sát thuộc Trung đoàn 320, Mặt trận 779 (Quân khu 7).

44. Đại đội 21 trinh sát thuộc Trung đoàn 271, Sư đoàn 302, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

45. Viện Quân y 175 thuộc Cục Quân y (Tổng cục Hậu cần).

46. Viện Quân y 7E thuộc Mặt trận 479 (Quân khu 7).

B. Cá nhân

1. Liệt sĩ Phạm Văn Đắp, sinh năm 1963, quê: Ba Điền, Ba Tơ, Quảng Ngãi; chiến sĩ thuộc Đại đội 9 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 733 Sư đoàn 315, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

2. Liệt sĩ Lê Văn Vằn, sinh năm 1952, quê: Tân Trào, Ninh Giang, Hải Dương; Thiếu úy, Tiểu đội trưởng lái xe thuộc Đại đội 51 Tiểu đoàn 782, Cục Hậu cần, Mặt trận 579 (Quân khu 5).

3. Liệt sĩ Nguyễn Đức Hành, sinh năm 1960, quê: Triệu Phước, Triệu Hải, Quảng Trị; hạ sĩ, tiểu đội phó Trung đội trinh sát Tiểu đoàn 504 Trung đoàn 320, Mặt trận 779 (Quân khu 7).

4. Liệt sĩ Nguyễn Văn Việt, sinh năm 1961, quê: Bình Trị Đông, Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; hạ sĩ, chiến sĩ Đại đội trinh sát Đoàn 7701, Mặt trận 779 (Quân khu 7).

5. Liệt sĩ Lê Cao Thăng, sinh năm 1955, quê: Quảng Văn, Quảng Xương, Thanh Hoá; Thiếu úy, Phó Đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 5A, Mặt trận 979 (Quân khu 9)

6. Lê Quang, sinh năm 1934, quê: Thuận Vi, Vũ Thư, Thái Bình; Đại tá, Trưởng phòng Quân y, Cục Hậu cần, nguyên Viện trưởng Viện Quân y 7E, Mặt trận 479 (Quân khu 7).

7. Hồ Khải Hoàn, sinh năm 1955, quê: Định Thành, Giá Rai, Bạc Liêu; Thiếu tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 157 Sư đoàn 339, Mặt trận 979 (Quân khu 9).

8. Nguyễn Văn Tham, sinh năm 1957, quê: Liêm Phong, Thanh Liêm, Hà Nam; Đại úy, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn trinh sát thuộc, Sư đoàn 330, Mặt trận 979 (Quân khu 9).


(1) Các đơn vị và cá nhân được Nhà nước ta phong tặng ngày 30 tháng 8 năm 1989, do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia (1979-1989)


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:44:05 am
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm chiến đấu giúp Bạn và xây dựng đơn vị của Trung đoàn 71 Quân đoàn 4 trong thời gian làm nhiệm vụ ở Campuchia từ 1979-1983, lưu ở Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

2. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng 10 năm trên chiến trường Campuchia của Sư đoàn bộ binh 9 (Quân đoàn 4), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (năm 2002).

3. Báo cáo tình hình công tác quân sự của Quân ủy Trung ương số 45-QUTƯ ngày 8 tháng 2 năm 1979. Hồ sơ 1085. Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.

4. Báo cáo tình hình thực hiện những nhiệm vụ công tác lớn trong quý III năm 1979 tại Hội nghị thường kỳ của Đảng ủy Quân khu 7 ngày 4 và ngày 5 tháng 10 năm 1979, số 18/BC ngày 5 tháng 10 năm 1979. Lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7.

5. Báo cáo tình hình địch quý IV năm 1981 của Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu (tiền phương) ngày 2 tháng 1 năm 1982. KC 655, lưu ở Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

6. Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động của Mặt trận 479/Quân khu 7 trên chiến trường Campuchia (ngày 14 tháng 4 năm 1979 đến ngày 14 tháng 4 năm 1989).

7. Báo Nhân dân từ năm 1979 đến năm 1989.

8. Báo Quân đội nhân dân từ năm 1979 đến năm 1989.

9. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Điện gửi Trung ương Cục miền Nam, điện số 99, ngày 4 tháng 4 năm 1970, lưu ở Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

10. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Điện gửi Trung ương Cục và Quân ủy Miền, điện ngày 3 tháng 5 năm 1970, lưu tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.

11. Bộ Quốc phòng, Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nxb QĐND, H. 2004.

12. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh Công binh, Biên niên ên lịch sử Công binh Việt Nam (1945 - 2000). Nxb QĐND, H. 2004.

13. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh Công binh, Lịch sử Công binh Việt Nam (1945-2005), Nxb QĐND, H. 2006.

14. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh Quân khu 9, Lịch sử Sư đoàn bộ binh 4 Quân khu 9, Nxb QĐND, H. 2004.

15. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H. 2004.

16. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Nxb QĐND, H. 2003.

17. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb QĐND, H.2001.

18. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lược sử quân đội các nước Đông Nam Á, Nxb QĐND, H. 2006.

19. Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H. 2004.

20. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004), Nxb QĐND, H. 2004.

21. Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Lịch sử Sư đoàn bộ binh 5 (1965-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

22. Binh chủng Pháo binh, Biên niên sự kiện lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1976-1996), Nxb QĐND, H. 1999.

23. Binh chủng Pháo binh, Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1976-1996), Nxb QĐND, H. 1999.

24. Binh chủng Thông tin liên lạc, Lịch sử Bộ đội Thông tin liên lạc (1975-2005) (Biên niên), Nxb QĐND, H. 2005.

25. Campuchia - con đường lịch sử lựa chọn và sự lựa chọn con đường có tính chất lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự số 9 năm 1989.

26. Campuchia - thắng lợi của một cuộc cách mạng chân chính, Nxb ST, H. 1979.

27. Trường Chinh, Mấy vấn đề quân sự của cách mạng Việt Nam, Nxb QĐND, H. 1983.

28. Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb ST, H. 1975.

29. Trường Chinh, Về vấn đề Campuchia, Nxb ST, H. 1979.

30. Chỉ thị của Ban Bí thư, số 75/CT-TW, ngày 15 tháng 5 năm 1979, về tổ chức lực lượng giúp Bạn K. (Chỉ thị số 75-CT/TW ngày 15-5-1979), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb CTQG, H. 2005.

31. Con đường dẫn đến sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Campuchia, Trung tâm thông tin khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, H. 1979.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 39 - 49 (1978-1986), Nxb CTQG, H. 2005-2007.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H. 1977.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H. 1987.

35. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Lịch sử Công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2000), Nxb QĐND, H. 2004.

36. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Lịch sử Sư đoàn 302 (1977-1997), Nxb QĐND, H. 1997.

37. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9, Công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 9 (1945-2000) (Biên niên), Nxb QĐND, H. 2001.

38. Đảng ủy - Chỉ huy Sư đoàn 309, Lịch sử Sư đoàn 309 - Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang (9.1978 - 9.1998), Nxb QĐND, H. 1998.

39. Đảng ủy - Chỉ huy Sư đoàn 330, Lịch sử Sư đoàn bộ binh 330 - Quân khu 9 (1976-2001), Nxb QĐND, H. 2004.

40. Đảng ủy - Chỉ huy Trung đoàn bộ binh 1, Lịch sử Trung đoàn bộ binh 1 - Sư đoàn 330 Quân khu 9 (1963-2003), Nxb QĐND, H. 2005.

41. Đại hội V, Đảng nhân dân cách mạng Campuchia, Nxb ST, H. 1986.

42. Đại tướng Lê Đức Anh, Nxb QĐND, H. 2005.

43. Đại tướng Lê Đức Anh, Quân đội nhân dân Việt Nam và nhiệm vụ quốc tế cao cả trên đất bạn Campuchia, Nxb QĐND, H. 1986.

44. Hà Giao, Cách mạng Campuchia và nghĩa vụ quốc tế của quân đội ta, Nxb QĐND, H. 1982.

45. Hội nghị cấp cao Lào - Campuchia - Việt Nam (22 - 23.2.1983), Nxb ST, H 1983.

46. Hoàng Văn Thái, Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, Nxb ST, H. 1983.

47. Hun Xen. Tính đặc thù của cách mạng Campuchia. Luận án PTS Khoa học Triết học - Học viện Nguyễn Ái Quốc, H. 1990.

48. Hun Xen, 10 năm quá trình Campuchia (1979-1989), (Viện LSQSVN sao 2002).

49. Khiếu Anh Lân, Từ các hoạt động chiến dịch của quân tình nguyện Việt Nam trên hướng Tây Bắc Campuchia, nghiên cứu (dự báo) một số vấn đề về chiến dịch trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, công trình KHQS - Học viện Lục quân - Đà Lạt.

50. Lê Duẩn, Về chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước ở Việt Nam, Nxb QĐND, H. 1985.

51. Lê Hai, Nhân dân Campuchia gọi Quân tình nguyện Việt Nam là “Bộ đội nhà phật” - Kỷ yếu hội thảo khoa học “Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Nxb QĐND, H. 2004.

52. Lê Hai, Sự thống nhất hữu cơ giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, giữa tinh thần quốc tế trong sáng của Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia 1979-1989, Tạp chí Lịch sử quân sự số 1, 2 năm 2001.

53. Lê Kim, Ông hoàng Xihanúc nói về tội ác của Khơme đỏ đối với Việt Nam, tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 năm 1989.

54. Lê Kim, Tại sao bọn Pôn Pốt gây ra thảm họa “diệt chủng”? Tạp chí Lịch sử quân sự, số 9 năm 1989.

55. Lịch sử bộ đội Đặc công Quân đội nhân dân Việt Nam (1945-2002), Nxb QĐND, H. 2002.

56. Lịch sử Bộ đội công binh Quân khu 7 - miền Đông Nam Bộ (1945-1995), Nxb QĐND, H. 1996.

57. Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên Quân đoàn 3 - Biên niên sự kiện (1964-2000), Nxb QĐND, H. 2002.

58. Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên Quân đoàn 3 (1964-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

59. Lịch sử Bộ đội Hoá học, tập 2 (1975-1998), Nxb QĐND, H. 1998.

60. Lịch sử Bộ đội Thông tin liên lạc (1945-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

61. Lịch sử Binh chủng Tăng - thiết giáp, tập 2 (1975-1999), Nxb QĐND, H. 1999.

62. Lịch sử Campuchia, Nxb VHTT, H. 1995.

63. Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3 (1976-2005), Nxb CTQG, H. 2006.

64. Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb QĐND, H. 2002.

65. Lịch sử Cục Quân lực (1945-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

66. Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

67. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-1996) (Biên niên), Nxb QĐND, H,1996.

68. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

69. Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam (1977-1999), Nxb QĐND, H. 2005.

70. Lịch sử Lữ đoàn công binh 25 Quân khu 7 (1976-1996), Nxb QĐND, H. 1997.

71. Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1976-1996), tập 2, Nxb QĐND H 1996.

72. Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn cửu Long) 1974-2004, Nxb QĐND, H. 2004.

73. Lịch sử Quân chủng Phòng không, tập 3, Nxb QĐND, H. 1994.

74. Lịch sử Sư đoàn 302 (1977-1997), Nxb QĐND, H. 1997.

75. Lịch sử Sư đoàn 306 (1978-1998), Nxb QĐND, H. 1998.

76. Lịch sử Sư đoàn 31 (1974-2004), Nxb QĐND, H. 2004.

77. Lịch sử Sư đoàn 315 (1979-1998), Nxb QĐND, H. 1998.

78. Lịch sử Sư đoàn 317 (1979-1999), Nxb QĐND, H. 1999.

79. Lịch sử Sư đoàn bộ binh 4 Quân khu 9 (1974-2004), Nxb QĐND, H. 2004.

80. Lịch sử Sư đoàn 7 (1966-2006), Nxb QĐND, H. 2006.

81. Lịch sử Sư đoàn 9, tập 2, Nxb QĐND, H. 1995.

82. Lịch sử Sư đoàn bộ binh 8 (1974-2000), Nxb QĐND, H. 2000.

83. Lịch sử Trung đoàn 31 - Sư đoàn 309 (1946-2001), Nxb QĐND, H. 2001.

84. Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2 (1976-2004), Nxb QĐND, H. 2004.

85. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10/NQ-TW, ngày 11 tháng 4 năm 1983, về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia trong giai đoạn mới, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 44, Nxb CTQG, H. 2007.

86. Nghị quyết số 39/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, ngày 15 tháng 2 năm 1983, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

87. Nghị quyết số 228/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, ngày 12 tháng 7 năm 1984, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

88. Nghị quyết số 39/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, tháng 5 năm 1984, lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.

89. Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 14 tháng 5 năm 1983, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

90. Nghị quyết số 12/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 27 tháng 5 năm 1983, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

91. Nghị quyết của Bộ Tư lệnh 719 về nhiệm vụ công tác năm 1983 của Quân tình nguyện trên chiến trường Campuchia. Tư liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

92. Nghị quyết (số 210A-NQ ngày 26-10-1982) của Bộ Tư lệnh 719 - Phần đánh giá công tác năm 1981-1982 và phương hướng nhiệm vụ năm 1983, lưu trữ văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.

93. Những bài học kinh nghiệm thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Đảng ta về mặt quân sự đối với Campuchia, Viện LSQSVN, H. 1983.

94. Phùng Đình Ấm, Mặt trận 479 - Mười năm trên đất nước Ăngco, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 9 năm 2006.

95. Phùng Đình Ấm, Một thời để nhớ (Hồi ký), Nxb QĐND, H. 2002.

96. Quân đội nhân dân Việt Nam 60 năm bảo vệ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945 - 29 2005), Nxb QĐND, H. 2005.

97. Quân đoàn 3, Lịch sử Sư đoàn 31 Lam Hồng (1974-1999), Nxb QĐND, H. 2002.

98. Quân đoàn 4 - Ban Lịch sử quân sự, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7 Quân đoàn 4) đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1966-1996), Nxb QĐND, H. 1997.

99. Quyết định của Ban Bí thư, số 39/QĐ-TW, về việc kiện toàn tổ chức Đảng trong Đoàn chuyên gia giúp Bạn K. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb CTQG, H. 2006.

100. 60 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2005), Nxb QĐND, H. 2005.

101. Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996.

102. Tài liệu tham khảo về ngày thành lập Quân đội nhân dân Campuchia lần thứ 30, Cục 100 - Bộ Quốc phòng, H. 1983.

103. Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 3 (1975-1995), Nxb QĐND, H. 1996.

104. Tổng cục Kỹ thuật - Biên niên sự kiện 1974-1987, Nxb QĐND, H. 1994.

105. Tổng kết Quân đoàn 4 về công tác đảng, công tác chính trị trong chiến tranh hướng Tây Nam (30.4.1977 - 30.4.1988), Quân đoàn 4, 1991, lưu tại Viện LSQSVN.

106. Tổng kết 10 năm 1979-1988 về chiến tranh Tây Nam và nhiệm vụ giúp Bạn Campuchia. Quân đoàn 4, H. 1991.

107. Tổng kết 10 năm công tác bảo đảm quân y chiến trường Campuchia của Quân khu 9 (1979-1989). Phòng Quân y - Cục Hậu cần Quân khu 9, H. 1989.

108. Tổng kết 10 năm chiến đấu giúp Bạn Campuchia, Minh Hải xuất bản, 1990.

109. Tổng kết 12 năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế (1977-1989) của lực lượng vũ trang Đồng Nai, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai, xuất bản 1990.

110. Tổng kết Công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia (30 4.1977 - 30 4.1988), Quân đoàn 4, 1988.

111. Tổng kết Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của lực lượng vũ trang Quân khu 9. Tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 9, 2007.

112. Tổng kết Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của lực lượng vũ trang Quân khu 7. Tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7, 2007.

113. Tổng kết Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của lực lượng vũ trang Quân khu 5. Tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 5, 2007.

114. Tổng kết Sự thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Đảng ta về quân sự đối với Campuchia, Viện LSQSVN, H.1983.

115. Tổng kết Công tác chỉ huy tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), Nxb QĐND, H. 2001.

116. Tổng kết Pháo binh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Binh chủng Pháo binh, H. 2007.

117. Tội ác diệt chủng của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari, Nxb ST, H. 1980.

118. Viện Sử học, Việt Nam - Những sự kiện (1945-1986), Nxb KHXH, H. 1986.

119. Việt Nam từ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tới đổi mới và phát triển (Hồ sơ 60 năm 1945-2005), Nxb LĐ, H. 2005.


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:47:21 am
(https://i.imgur.com/sVQHIlC.jpg)

Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng thăm và kiểm tra Sư đoàn 317 (năm 1979)

(https://i.imgur.com/6xYYzjK.jpg)

Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam thăm Sư đoàn 302 (năm 1981)

(https://i.imgur.com/YYWDRuR.jpg)

Đồng chí Bu-thoong, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia và Thiếu tướng Nguyễn Xuân Hòa, Phó Tư lệnh về chính trị Quân khu 7
thăm bộ đội tình nguyện tại mặt trận 479 (năm 1982)

(https://i.imgur.com/Qh4P9tK.jpg)

Thượng tướng Lê Ngọc HIền, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam thăm và nói chuyện với bộ đội tình nguyện tại Báttambang (năm 1988)


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:49:15 am
(https://i.imgur.com/JEDnt68.jpg)

Bộ đội tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia làm nhà, nhanh chóng ổn định cuộc sống

(https://i.imgur.com/WjU6sQs.jpg)

Bộ đội tình nguyện phát gạo giúp đỡ nhân dân tỉnh Côngpông Thom (Campuchia)

(https://i.imgur.com/4yJVUWD.jpg)

Quân y Sư đoàn 317 tổ chức khám chữa bệnh cho nhân dân Campuchia

(https://i.imgur.com/fvp0nCC.jpg)

Bộ đội tình nguyện Việt Nam dạy học cho các cháu mồ côi nhà trẻ Hoa Hồng tại thủ đô Phnôm Pênh


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:50:41 am
(https://i.imgur.com/WKfNElE.jpg)

Đoàn đại biểu Mặt trận 479 thăm chính quyền tỉnh Xiêmriệp (Campuchia)

(https://i.imgur.com/hKgnwyN.jpg)

Các cháu thiếu nhi Campuchia thăm bộ đội tình nguyện Việt Nam

(https://i.imgur.com/RLxFnyb.jpg)

Bộ đội tình nguyện giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia huấn luyện quân sự bảo vệ Tổ quốc

(https://i.imgur.com/EYnEd7o.jpg)

Bộ đội tình nguyện Việt Nam hỗ trợ bộ đội cách mạng Campuchia giữ vững biên giới Campuchia - Thái Lan


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:52:03 am
(https://i.imgur.com/YgTlCvs.jpg)

Đồng chí Tia Banh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia đọc diễn văn tại lễ tiễn đưa Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước,
tổ chức tại thủ đô Phnôm Pênh (năm 1989)

(https://i.imgur.com/SCHIVm3.jpg)

Nhân dân thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) lưu luyến tiễn đưa Quân tình nguyện Việt Nam về nước (tháng 9-1989)

(https://i.imgur.com/IMeiDM3.jpg)

Các nhà sư ở thị xã Xiêmriệp thăm hỏi, tặng quà các chiến sĩ quân tình nguyện trước khi rút vè nước (năm 1989)

(https://i.imgur.com/xKcg7iN.jpg)

Sư đoàn 302 trong đội hình Quân tình nguyện Việt Nam rút quân qua cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh (ngày 26-9-1988)


Tiêu đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Mười, 2021, 07:53:23 am
(https://i.imgur.com/6bPxRvk.jpg)

Thượng tướng Nguyễn Quyết, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thăm và kiểm tra đơn vị quân tình nguyện
hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về nước (tháng 9-1989)

(https://i.imgur.com/wULT3VK.jpg)

Thượng tướng Đoàn Khuê, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tổng Tham mưu trưởng thăm nơi ở của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 88
sau khi đơn vị trở về nước (năm 1989)

(https://i.imgur.com/Mb04wnS.jpg)

Đời đời nhớ ơn các liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam