Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:52:21 am



Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:52:21 am
Tên sách: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Tác giả: Dương Xuân Đống
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 1998
Số hoá: ptlinh, ktqsvn


CÙNG BẠN ĐỌC


Theo sự gợi ý của báo Quân đội nhân dân cuối tuần (trước kia là báo Quân đội nhân dân thứ bảy), tôi bắt đầu viết những bài báo ngắn dưới một mũ chung Văn hóa quân sự, và đã đăng tải thường xuyên trên báo này. Cuốn TỪ CÂY GIÁO ĐẾN KHẨU SÚNG là sự tập hợp những bài báo đó và có bổ sung thêm một số bài khác.


Ai cũng hiểu rõ, văn hóa vốn là một vấn đề hết sức rộng lớn, bao trùm lên mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội như âm nhạc, hội họa, thời trang, gia đình, học đường... dưới những biểu hiện phong phú của cái hay, cái đẹp thông qua sự lựa chọn khác nhau và mang theo một bản sắc riêng biệt của từng vùng, từng cộng đồng người, từng dân tộc. Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội, vậy quân sự cũng có những cái hay, cải đẹp riêng của nó và thể hiện thành đặc trưng trí tuệ dân tộc trong sự nghiệp giữ nước, biểu hiện ở những cái thắng, cái hùng. Văn hóa quân sự Việt Nam là nội dung thực chất của văn hóa giữ nước.


Đặc thù của quân sự là đấu tranh vũ trang, một kiểu hành động bằng bạo lực. Mà kiểu hành động nào - dù là bạo lực - muốn thắng lợi cũng phải có phương tiện và phương pháp, ở đây, phương tiện là quân đội - bao gồm lực lượng và vũ khí - và phương pháp là cách thức tác chiến theo các quy mô cao thấp khác nhau - nội dung thực chất của nghệ thuật quân sự. Từ đó, những bài viết đều nhầm khai thác theo hai nhóm đề tài: phương tiện - lực lượng, vũ khí - và phương pháp - nghệ thuật quân sự.


Như trên đã nói, văn hóa là sự lựa chọn để có những bản sắc riêng phản ánh mối quan hệ chủ quan và khách quan trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nên ở từng bài, người viết đều cố gắng khai thác mọi góc cạnh khác nhau của sự lựa chọn đó. Cụ thể là khi thực hiện các bài viết về quân đội, tôi đi sâu, tìm hiểu những cách lựa chọn trong việc tuyển mộ, phiên chế tổ chức, trang bị - từ vũ khí thô sơ đến vũ khí hiện đại - huấn luyện, giáo dục, bảo đảm hậu phương, đào tạo người chỉ huy... để tạo nên sức mạnh. Còn khi thực hiện các bài viết về nghệ thuật quân sự, tôi lưu tâm vào những cách lựa chọn về lí luận và thực tiễn chuẩn bị và thực hành tác chiến, về các hình thức và phương thức tác chiến cũng như các kiểu loại tác chiến... để đi tới chiến thắng.


Đối với người viết, đây là một việc làm còn rất mới mẻ, lạ lẫm nên cách tiếp cận cũng hết sức dè dặt, vì vậy tôi phải từng bước dò dẫm, vừa làm vừa học. Rồi đây, để các bài viết về văn hóa quân sự trong thời gian tới đạt chất lượng tốt hơn, phục vụ được hiệu quả hơn, tôi mong được sự chỉ giáo của các nhà khoa học cùng đông đảo bạn đọc ở trong và ngoài quân đội.

Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan và các cá nhân đã hết lòng giúp đỡ cho cuốn sách được ra đời.


Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1997
DƯƠNG XUÂN ĐỐNG


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:53:38 am
BA QUÂN,
TỪ CỔ NHẤT ĐỂ GỌI TÊN QUÂN ĐỘI


Từ xưa đến nay, để chỉ quân đội nói chung, nhân dân ta vẫn hay dùng cặp từ "ba quân", ví như trên sân khấu, viên tướng tuồng ra hô lớn "bớ tam quân". Tác giả Truyện Kiều từng viết: "Ba quân chỉ ngọn cờ đào". Trong văn học dân gian cũng vậy: "Gái ngoan tìm chồng ở chốn ba quân".


Để giải thích hiện tượng này, "Từ điển tiếng Việt" do Văn Tân chủ biên - định nghĩa "ba quân" là quân sĩ nói chung (xưa quân sĩ chia làm ba cánh là tiền quân, hậu quân, trung quân hoặc trung quân, tả quân hữu quân). "Từ điển tiếng Việt" - do Hoàng Phê chủ biên - định nghĩa "ba quân" là "ba đạo quân hoặc ba cánh quân lớn; tất cả binh sĩ dưới quyền chỉ huy của một viên tướng nói chung. Thề trước ba quân". Gần đây có người lại cho rằng: "Theo từ điển Từ Hải và Từ Nguyên của Trung Quốc thì quân là một đơn vị quân đội thời xưa, gồm có 12.500 lính. Ngày xưa ở Trung Quốc quy định Thiên tử có số quân là 6 quân... Các nước chư hầu vào loại lớn, mỗi nước chỉ được phép có số quân là 3 quân... Nước chư hầu vào loại trung bình chỉ được phép có số quân là 2 quân... Còn nước chư hầu vào loại nhỏ thì được phép có số quân là 1 quân... Vì vậy, người ta thường dùng từ sasu quân... hoặc ba quân... để chỉ quân đội nói chung".


Liệu những cách giải thích trên đã thỏa đáng chưa? Chúng ta cùng bắt đầu bằng từ QUÂN. Lịch sử thế giới đã ghi rõ các phiên chế lớn trong quân đội cổ đại Trung Hoa được gọi tên là: đạo, lộ, lữ, vệ, quân... Đạo, lộ nghĩa gốc là "con đường", những con đường dẫn quân đội ra chiến trường. Lữ là "đi nơi xa", gần đồng nghĩa với "viễn chinh", quân đội đi chiến đấu ở những miền đất lạ. Vệ là "giữ gìn". Nhiệm vụ, chức năng quân đội là "giữ gìn" đất nước, "che chở” non sông. Về thực chất, các từ đó chỉ mới thể hiện ra một vài tính chất chứ chưa bao hàm được nội dung cơ sở vật chất - kỹ thuật chi phối sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Trong số đó, chỉ có từ quân là thích hợp nhất cho việc dùng để chỉ đơn vị quân đội. Theo cách hội ý của chữ Hán, quân bao gồm hai thành tố: mịch là "trùm lên", xa là "xe". Việc quân, trong đó bao trùm lên tất cả là những cỗ xe chiến. Thật vậy, ở thời cổ đại, từ phương Đông đến phương Tây, binh lực mạnh yếu đều căn cứ chủ yếu vào số lượng xe chiến. Dưới thời Tây Chu, nước Thiên tử có "vạn thặng" (mười ngàn cỗ xe chiến), nước chư hầu lớn có "thiên thặng" (ngàn cỗ xe chiến), nước chư hầu nhỏ có "bách thặng" (trăm cỗ xe chiến). Thặng là cỗ xe chiến có bốn ngựa kéo. Sở dĩ việc quân quan tâm đặc biệt đến xe chiến là vì thời đó, trừ quân đội Ba Tư, tất cả mọi quân đội trên thế giới đều chưa có kỵ binh. Con người biết dùng ngựa để kéo xe trước khi biết dùng ngựa để cưỡi, ở Trung Hoa, kỵ binh xuất hiện vào cuối thế kỷ IV - đầu thế kỷ III trước Công nguyên. Bởi vậy, việc cơ động trong tác chiến nhất thiết phải dùng xe chiến. Từ nội dung đó, quân được xem là "đơn vị tổ chức (chiến đấu) cơ bản" mà ngày nay, chúng ta hiểu là trung đoàn và những thuật ngữ quân sự tương ứng: "binh đội chiến thuật", "bộ đội", "đơn vị" - để giải quyết các trận đánh trên chiến địa. Cũng tương tự như vậy, "đơn vị tổ chức (chiến đấu) cơ bản" "dưới thời cổ đại ở Hy Lạp là phă-lăng, ở La Mã là lê-gi-ông. Sang thời trung đại, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, "đơn vị tổ chức (chiến đấu) cơ bản" ở châu Âu nói chung là régiment, ở Nga là polk, còn ở Trung Hoa và Việt Nam (từ thời Đinh đến thời Tây Sơn) vẫn là quân. Số quân buổi đầu nhà Trần, mỗi quân là 2.400 người. Như vậy, ở phương Đông, từ Trung Hoa đến Việt Nam, từ quân được dùng tới khoảng 2.400 năm. Không những thế, loại đơn vị này còn tồn tại khá lâu, tới gần 500 năm nữa. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đơn vị tổ chức cơ bản trong tất cả các quân đội là trung đoàn (từ 1.200 đến 1.500 người).


Bây giờ chúng ta chuyển sang con số BA, nghĩa của tam, từ tiếng Hán. Do nhu cầu của chiến đấu, lý luận cũng như thực tiễn, các lực lượng vũ trang cổ đại, kể cả nhà Tây Chu, thường phiên chế theo nguyên tắc "tam tam chế", cấp nào cũng có tả, trung, hữu. Tổ chức đó phản ánh cách bảo vệ đội hình chiến đấu mạnh ở chính diện và yếu ở hai bên. Để chống tình trạng "hở sườn", cùng với trung quân - đại bộ phận lực lượng, vị trí của người chỉ huy - từng cấp đều tổ chức thêm hai bộ phận "tả dực" và "hữu dực". Dực là "cánh chim". Chính vì vậy, thuật ngữ quân sự mới có cụm từ "tả xung, hữu đột" (xông bên trái, đánh bên phải) mà không hề có cụm từ "tiền xung, hậu đột" (xông phía trước, đánh phía sau) hoặc "thượng xung, hạ đột" (xông lên trên, đánh xuống dưới). Để hình dung cách bố trí lực lượng tác chiến này, chúng ta hãy quan sát đội hình thi đấu một trận bóng đá. Ở hai bên sườn của hàng tiền đạo, bên phải và bên trái các cầu thủ trung phong, bất cứ trận đấu thuộc hạng nào cũng đều có hai cầu thủ "tả biên" và "hữu biên". Biên là "bên cạnh". Tiếng Việt gọi là "cánh trái" và "cánh phải...". Chính do sự tương đồng của tả dực - hữu dực và tả biên - hữu biên, tiếng Pháp đều ghi chung là aile gauche và aile droite. Theo sử sách, ở Việt Nam, thời Lý - Trần, các đơn vị chiến đấu đều có sự tổ chức "ba bộ phận" như vậy. Năm thứ hai đời vua Lý Thái Tổ (1011) có quân túc xa tả và hữu. Khi vua Trần Thái Tông mới được nước, cũng định các quân Tả Hữu thánh dực.


Tóm lại, BA QUÂN là sự phiên chế lực lượng vũ trang theo nguyên tắc "tam tam chế" - gồm ba bộ phận tả, trung, hữu - lấy "quân" làm "đơn vị tổ chức (chiến đấu) cơ bản" ở Trung Hoa và Việt Nam suốt mấy ngàn năm lịch sử. Bởi vậy, khi nói đến ba quân, người ta nghĩ ngay đến sự đồng nghĩa với quân đội, với lực lượng vũ trang nói chung bằng một cách gọi tên cổ nhất.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:54:27 am
CHIẾN XA HAY KỊ BINH RA ĐỜI TRƯỚC?


Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, người ta vừa dùng ngựa để cưỡi lại vừa dùng ngựa để kéo xe. Vậy chung quanh con ngựa, "sức kéo" hay "sức chở" của nó ra đời trước? Phần đông dư luận đều cho rằng loài người cũng như dân du mục Trung Á - biết cưỡi ngựa trước khi dùng nó để kéo xe rồi từ đó mà đoán định rẳng trong lĩnh vực quân sự, kỵ binh đã ra đời trước chiến xa. Sự thật lịch sử quân sự diễn ra như thế nào?


Dưới thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên), trong "Binh pháp thập tam thiên", Tôn Tử viết: "Phàm cất quân tác chiến, nếu dùng ngàn cỗ khinh xa, ngàn cỗ trọng xa, mười vạn quân lính, tải lương ngàn dặm thì chi phí cho tiền phương và hậu phương, chiêu đãi khách khứa, chuẩn bị chiến cụ, sửa chửa xe cộ, giáp trụ, mỗi ngày tốn tới ngàn vàng mới có thể đưa được mười vạn quân lên đường". Cùng thời đó, con cái quý tộc chủ nô ở Trung Quốc đều được dạy dỗ "lục nghệ" (sáu nghề) mà trong đó có hai nghề thuộc nghiệp vụ chuyên môn cho những người chỉ huy quân sự là "xạ" (bắn cung) và "ngự" (điều khiển chiến xa). Khổng Tử và 72 học trò của ông đều là những người rất tinh thông "lục nghệ". Như vậy ở thời Xuân Thu, bên cạnh bộ binh, chung quanh ”con ngựa", người ta chỉ mới nói đến binh chủng chiến xa - loại xe do ngựa kéo - và khi nhắc đến nhiệm vụ chỉ huy quân sự, người ta cũng chỉ nói đến việc "điều khiển chiến xa" chứ chưa hề nói đến việc "cưỡi ngựa" trong chiến tranh. Điều đó chứng tỏ rằng ở thời điểm này, cưỡi ngựa còn là việc xa lạ trong xã hội. Còn đến thế kỷ XIII, ở Việt Nam, khi nhắc đến những nhiệm vụ của người chỉ huy, Trần Quốc Tuấn nhắc nhở: "Người làm tướng không nên lấy giỏi cung đao cưỡi bắn làm tài mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi". Dĩ nhiên trong nội dung lời căn dặn - đó, ông khuyên các bậc chỉ huy cấp dưới phải lấy việc nâng cao trình độ tư duy quân sự làm trọng nhưng về kỹ năng, bên cạnh việc "bắn cung" như thời cổ đại, ông chỉ lưu ý đến việc "cưỡi ngựa" mà không hề nhắc một câu đến việc "đánh xe" vì ở thời trung đại, chiến xa do ngựa kéo đã không còn tồn tại trong quân đội các nước nữa. Sang thời Chiến Quốc (475-221 trước Công nguyên), cuốn "Binh pháp Ngô Khởi" ra đời. Thời gian gần đây, ở Trung Quốc, trong quá trình thẩm định nội dung cuốn sách lý luận quân sự hiện đang lưu hành đó, sự xuất hiện của kỵ binh cũng được đề cập tới. Quách Mạt Nhược, một học giả lớn, có uy tín ở thời hiện đại Trung Quốc, đã phủ nhận chi tiết "ba ngàn kỵ binh" nêu trong thiên Lệ Sĩ (khích lệ binh sĩ). Ông cho rằng bị kinh Trung Hoa chỉ xuất hiện sau khi Triệu Vũ Linh Vương (ở ngôi từ năm 325-299 trước Công nguyên, sau thời gian hoạt động của Ngô Khởi khoảng 100 năm) học theo cách ăn mặc và kỹ thuật cưỡi ngựa, bắn cung của các bộ tộc du mục phương Bắc rồi truyền vào trung nguyên. Sự khẳng định trên nói lên rằng vào cuối thời Chiến Quốc, kỵ binh Trung Quốc mới xuất hiện còn trước đó, việc cơ động lực lượng chủ yếu vẫn là chiến xa.


Trở lên trên là tình hình Đông Á thời cổ đại.

Còn tình hình Tây Á và châu Âu ở thời điểm đó? Về nội dung này, Ph.Ăng-ghen đã có nhận xét rằng trọng các quân đội của thế giới cổ đại thì quân đội Ai Cập là quân đội đầu tiên mà chúng ta có được ít nhiều tư liệu đáng tin cậy. Bộ binh là sức mạnh của quân đội ấy. Bộ binh sử dụng rất nhiều chiến xa. Còn Át-xi-ri là nước đã cung cấp cho chúng ta một hình ảnh sớm nhất về các quân đội châu Á. Bộ binh cũng được trang bị giống như bộ binh Ai Cập. Các cỗ chiến xa hãy còn là một thành phần quan trọng trong quân đội. Ở châu Âu, tình hình cũng tương tự, nghĩa là trong quân đội Hy Lạp ở thời kì vinh quang của nó-như Hô-me mô tả-kỵ binh vẫn là một điều chưa biết đến. Các quý tộc và các thủ lĩnh vẫn còn chiến đấu trên những cỗ chiến xa.


Điều chắc chắn là trong cuộc chiến tranh Hy Lạp- Ba Tư (500-449 trước Công nguyên), kỵ binh chưa xuất hiện. Chả thế mà người chiến binh được giao nhiệm vụ báo tin chiến thắng lớn ở Ma-ra-tông (490 trước Công nguyên) đã phải chạy bộ, vượt qua 42km đường rừng núi từ chiến trường về kinh đô A-ten và đã kiệt sức, gục ngã sau khi nói lại lời cuối cùng. Ngày nay, trong các trận thi đấu thể thao, người ta vẫn thường tổ chức chạy ma-ra-tông. Đó chính là bắt nguồn từ chiến thắng lịch sử này. Tuy đã từng đánh giá tài thao lược của A-lếch-xăng-đrơ Ma-xê-đoan (356-323 trước Công nguyên), "một trong những người chỉ huy kỵ binh xuất sắc nhất của mọi thời đại" nhưng Ph.Ăng-ghen cũng cho rằng loại "binh chủng kỵ binh nặng chiến đấu lần đầu tiên trong lịch sử" đó "đã quyết định kết cục trong trận đánh ở Ác-ben-la, cũng chỉ là một hiện tượng rất ngoại lệ, đến nỗi từ ngày ấy đến nay, chúng ta cũng không nghe nói gì thêm về nó nữa". Trong quân đội La Mã, việc sử dụng kỵ binh còn chậm hơn nhiều so với quân đội các nước đương thời vì quân lính La Mã chưa hề cưỡi ngựa bao giờ. Về sau, so với thời kỳ chiến tranh Puy-ních (264-241, 218-201 và 149-146 trước Công nguyên), kỵ binh La Mã có khá hơn đôi chút nhưng chưa có khi nào được tổ chức thành một binh chủng riêng biệt mà chỉ là một số đơn vị nằm trong các đạo quân. Cùng với những nhận xét vừa nêu ra mang tính chất chung, Ph.Ăng-ghen vẫn không quên dành riêng một trường hợp ngoại lệ cho quân đội vương quốc Ba Tư. Đó là "đất nước của những người cưỡi ngựa, ở đó kỵ binh đã lập tức chiếm được địa vị thống trị, cái địa vị mà nó đã chiếm giữ từ ngày xưa trong tất cả các quân đội phương Đông".


Đến đây, qua khảo sát tiến trình lịch sử quân sự ở từng thời đại, từng địa bàn thường xảy ra chiến tranh trong thời cổ đại, để thay cho lời kết luận, chúng ta đã có thể khẳng định rõ được thứ tự ra đời của "đánh xe" và "cưỡi ngựa" đúng như Ph.Ăng-ghen đã từng khái quát: "Có lẽ ban đầu, ngựa chỉ dùng để kéo xe, chí ít trong lịch sử quân sự, các cỗ chiến xa đã có từ lâu trước đội quân cưỡi ngựa".


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:55:12 am
KỊ BINH VỐN SINH RA TỪ CHÂU Á


Ở phương Tây, người ta mệnh danh ngựa là "con thú quý tộc" vì nó từng là biểu tượng của "quyền lực", của "thủ lĩnh", "chủ nô", của "lãnh chúa", "kị sĩ". Không những thế, trong một thời gian rất dài, tới hàng ngàn năm, con ngựa đã góp phần đẩy bộ binh xuống hàng thứ yếu, nâng kỵ binh lên địa vị độc tôn, thực sự tham gia giải quyết các trận đánh khắp nơi ở châu Âu. Có ai biết rằng kỵ binh vốn sinh ra từ hai vùng đất của châu Á: vùng đồng cỏ Trung A và vùng đồng cỏ Bắc Á.


Thường thì giống ngựa Trung A rất đẹp, thon thả, nhanh nhẹn và có sức chịu đựng dẻo dai. Con tuấn mã Bu-xê-phan của hoàng đế A-lếch-xăng-đrơ Ma-xê-đoan (356-323 trước Công nguyên) cũng sinh ra từ vùng đất này. Dân chúng ở đây khi bước vào lịch sử đã từng là nhứng người sống trên đồng cỏ, giỏi chăn nuôi và thạo cưỡi ngựa. Từ đây, năm 1740, trước Công nguyên, người Cát-xít đã tiến vào chinh phục vùng Lưỡng Hà. Trong quá trình xâm nhập của họ, ngựa chiến cũng được đưa vào sử dụng. Và người Át-xi-ri đã học được cách dùng ngựa chiến của người Cát-xít. Sở dĩ người Át-xi-ri xây dựng được một đế quốc rộng lớn, bao gồm nhiều trung tâm văn hóa cổ đại như Lưỡng Hà, I-răng, Xi-ri, Tiểu A, Pa-lét-xtin, Ai Cập, phần lớn cũng là nhờ chiến thuật dùng kỵ binh. Từ Át-xi-ri, chúng ta có được một hình ảnh sớm nhất về quân đội châu Á. Đó là một đội quân chuyên nghiệp. Ngoài bộ binh, quân đội Át-xi-ri còn có đội kỵ binh cơ động, sử sách còn ghi, khoảng 1710 trước Công nguyên, người Hích-xốt - dân du mục sống trên đất Xi-ri và Pa-lét-xtin ngày nay - cũng đã từng dùng ngựa chiến đi chinh phục Ai Cập. Cho nên, bất luận thế nào thì người Ai Cập biết dùng ngựa để cưỡi và biết sử dụng đội kỵ binh hoàn toàn là nhờ có các nước châu Á láng giềng. Từ những sự kiện lịch sử đó, người ta đoán định rằng ngựa được dùng vào chiến trận khá lâu nhưng kỵ binh chỉ có thể xuất hiện khoảng 1.000 năm trước công nguyên bắt đầu từ những người dân Trung Á. Thế nhưng ở thời điểm đó, kỵ binh Át-xi-ri có chiếm ưu thế trên vùng đất từ bờ phía Đông Địa Trung Hải tới bờ phía Tây sông Anh-đuýtx thì cũng chỉ là một đội kỵ binh nhẹ, không chính quy. Khi tiến công, nó thường chia thành từng nhóm lộn xộn, dễ bị một đội bộ binh có trang bị tốt và vững vàng đánh bại. Phải chờ tới khi người Hi Lạp cải tạo được giống ngựa chiến và đưa vào sử dụng trong các đơn vị kỵ binh, việc xây dựng kỵ binh chính quy mới được hình thành. Và đến thời A-lếch-xăng đrơ Ma-xê-đoan, kỵ binh châu Âu lại được phát triển lên một bước nữa. Trong kỵ binh chính quy có kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Kỵ binh nặng - với giáp trụ, vũ khí đầy đủ - giữ vai trò quyết định trên chiến địa. Bên cạnh kỵ binh chính quy còn có kỵ binh không chính quy, gồm những kị sĩ bắn cung và những kị sĩ trang bị rất gọn, nhẹ, có thể vừa chiến đấu trong đội hình kỵ binh lại vừa chiến đấu trong đội hình bộ binh. Bằng cách tổ chức như vậy, A-lếch-xăng-đrơ đã giành được chiến thắng Ác-ben-la lừng lẫy vào năm 331 trước Công nguyên. Từ đó, ông được công nhận là một trong những người chỉ huy kỵ binh xuất sắc nhất của mọi thời đại. Đáng tiếc là sau khi A-lếch-xăng-đrơ qua đời, ở châu Âu, không còn ai nhắc đến kỵ binh của Hi Lạp và Ma-xê-đoan nữa. Sang thời trung đại, nhất là từ thế kỉ X, mối quan tâm đến kỵ binh đã rời vùng Địa Trung Hải, chuyển vào trung tâm châu Âu. Nhưng vào thời đó, những đội kỵ binh này chỉ là loại kỵ binh hiệp sĩ, tuy được huấn luyện kĩ càng song trang bị lại quá nặng nề. Mỗi kị thủ mang trên mình người - ngựa tới 300kg sắt thép nên rất khó cơ động, dễ dàng làm mồi cho kỵ binh đối phương. Chính vì vậy, đến thế kỷ XIII, những đội kỵ binh quá nặng nề ấy thường xuyên ở vào tình trạng kiệt quệ và cuối cùng đã bị đội kỵ binh nhẹ, cơ động của phương Đông đánh bại.


Nói đến kỵ binh phương Đông ở đây, tức là nói đến vùng đất thứ hai sản sinh ra kỵ binh ở châu Á. Theo Quách Mạt Nhược, một học giả nổi tiếng, kỵ binh Trung Quốc xuất hiện sau khi Triệu Vũ Linh Vương (ở ngôi vua từ năm 325 đến 299 trước Công nguyên) học theo cách ăn mặc và kĩ thuật cưỡi ngựa, bắn cung của các bộ tộc du mục phương Bắc rồi truyền vào nội địa Trung Quốc. Như vậy, kỵ binh còn bắt nguồn từ những người du mục vùng Bắc Á mà trong đó phải kể đến người Mông Cổ, những người vốn sinh ra từ trên lưng ngựa.


Do thể chất, tính kỉ luật, được cấp đủ ngựa chiến và mọi điều kiện vật chất khác nên kỵ binh Mông Cổ đã có một sự cơ động nhanh chóng, nhẹ nhàng. Mỗi ngày, họ có thể hành quân tới 70 km hay hơn nữa. Vì vậy, vốn cùng từ cư dân nông nghiệp nhưng quân đội Mông Cổ đã tỏ ra hơn hẳn các quân đội phong kiến đương thời - rất chậm chạp và cơ động chỉ là sự cần thiết nhất thời. Quân đội của họ là những đạo kỵ binh được phiên chế thành những đơn vị 10 người, 100 người, 1000 người (guran) và 10.000 người (tumen) đặt dưới quyền người chỉ huy bộ lạc. Mỗi kỵ binh Mông Cổ vừa có thể chiến đấu trên lưng ngựa lại vừa có thể chiến đấu dưới đất, vừa có cung tên đánh xa lại vừa có gươm, trùy để đánh gần, vừa thuần thục chiến đấu cá nhân lại vừa phối hợp hành động nhịp nhàng trong đội hình tập thể. Mỗi một đạo kỵ binh Mông Cổ đều là một tổ chức, có sự hiệp đồng của đội hình mật tập với đội hình tản khai, của đánh xa và của đột kích, của sự ăn ý giữa kỵ binh nặng - kỵ binh chủ lực - và kỵ binh nhẹ. Về vũ khí, kỵ binh Mông Cổ được trang bị rất gọn nhẹ. Mỗi kị thủ thường đem theo hai, ba con ngựa chiến. Khi thấy ngựa đối phương đã mệt, họ lập tức thay ngựa, nối dài cuộc chiến, nhanh chóng giành thắng lợi quyết định. Cùng ngựa chiến, kỵ binh nặng còn được trang bị gươm cong và áo giáp da thuộc có quét sơn còn kỵ binh nhẹ lại được trang bị cung tên: cung ngắn chiến đấu trên mình ngựa, cung dài chiến đấu dưới mặt đất. Trong quá trình chiến tranh, họ còn học được kỹ thuật công thành của người Hán đem áp dụng ngay vào việc đánh chiếm các thành lũy, còn xây dựng bằng gỗ và đất nện, của các nhà nước phong kiến ở Trung Á và Đông Âu. Với tính ưu việt của một lực lượng kỵ binh hùng mạnh, vô song như vậy, họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược đầy thú tính của những bộ tộc săn bắn và du mục ra phạm vi toàn thế giới. Tàn sát và phá hoại tất cả mọi thứ trên dọc đường tiến quân là mục đích hành động của họ. Được vay mượn từ nền văn minh Hoa Hạ rồi lắp ghép một cách chính xác vào tất cả những gì có thể để làm tăng thêm sức mạnh của mình, người Mông Cổ ở thế kỷ XIII đã có được những đạo kỵ binh hoàn hảo và những vũ khí đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chỉ tính riêng về tổ chức quân sự, kỵ binh Mông Cổ cũng đã có một chất lượng hơn hẳn kỵ binh các nước Âu - Á thời trung đại. Nhưng điều rất cơ bản là trong khi tại khắp nơi, kỵ binh chỉ mới được sử dụng ở quy mô chiến thuật thì kỵ binh Mông Cổ đã được sử dụng ở quy mô chiến lược. Đây là bước phát triển mới về nghệ thuật quân sự. Theo quan điểm này, mà người đề xướng là Thành-cát-tư Hãn (1155-1227), kỵ binh được tổ chức thành các tập đoàn hội chiến lớn, kết hợp chặt chẽ giữa kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Nó vừa có sức đột kích mạnh, lại vừa có tính cơ động cao trong một không gian cực lớn và một thời gian rất dài. Kết quả cuối cùng của hơn 70 năm (1207-1279) chiến tranh, kỵ binh Mông Cổ đã lần lượt quật ngã các đội kỵ binh Đại Kim, Đại Tống ở châu Á và các đội kỵ binh Nga, kỵ binh Giéc-ma-ni và đội kỵ binh Tơ-tông nổi tiếng ở châu Âu, làm chủ một vùng đất bao la, trải dài từ bờ Hoàng Hải đến trung tâm châu Âu.


Tóm lại, nhờ sự ra đời của kỵ binh, binh chủng thứ hai sau bộ binh, các nhà quân sự thiên tài, như A-lếch-xăng Ma-xê-đoan ở châu Âu thời cổ đại và Thành-cát-tư Hãn ở châu Á thời trung đại, đã tổ chức, xây dựng và sử dụng nó vào chiến tranh và đã lập nên những chiến công hiển hách, đồng thời đưa nghệ thuật quân sự của loài người phát triển lên một bước mới trong thời đại vũ khí lạnh. Công lao đưa con ngựa làm bộ phận cấu thành của một binh chủng mới như vậy, trước hết thuộc về người châu Á.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:55:52 am
BỘ SẬU


Hiện nay, khi nói đến bộ máy làm việc của một cơ quan, một xí nghiệp, một nông trường... người ta thường dùng khẩu ngữ "bộ sậu". Từ này bắt nguồn từ đâu?


Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, "bộ sậu" là "tổng thể nói chung những người, những bộ phận làm thành một bộ máy nào đó. Bộ sậu lãnh đạo của nhà máy". Từ điển Hán - Việt lại giải thích "bộ sậu", theo nghĩa đen là "nước bước ngựa đi" và theo nghĩa bóng là "thứ tự làm việc". Cụ thể hơn, "bộ" là "bước, đi bộ" và "sậu" là "ngựa chạy mau, nhanh chóng, thình lình". Như vậy, theo nghĩa của hai phía, từ thuần Việt và từ gốc Hán, chúng ta có thể khái quát lại, "bộ" là "bước chân người" và "sậu" là "bước chân ngựa". Xét về quy mô trong lịch sử, qua ngôn ngữ, công việc mà rầm rập vang lên tiếng những "bước chân" người, ngựa như vậy, không thể nào khác là những hoạt động quân sự. Lịch sử quân sự lại ghi rõ bộ binh - "những lính đi bộ" - ra đời trước kỵ binh tới hàng ngàn năm. Cho nên, theo vị trí từ ngữ, "bộ" đặt trước, "sậu" để sau cũng là điều hợp lí. Theo ý đó, tiếng Việt còn có cặp từ "binh mã". Thật ra, cặp từ này chỉ có nghĩa là "người lính" và "con ngựa", những người và vật ở trạng thái tĩnh. Để phản ánh không khí sôi động của chiến trận, phải nói đến chân người đang đi, vó ngựa đang chạy. "Bộ sậu" đã thể hiện đúng nội dung đó với tư cách một thuật ngữ quân sự.


Để làm rõ hơn, chúng ta hãy tìm những dẫn chứng trong lịch sử quân sự cổ đại. Đối với tất cả các dân tộc, chỉ trừ những bộ lạc du mục, phần lớn quân đội, nếu như không phải toàn bộ, bao giờ cũng chỉ gồm có lính đi bộ. Đó là quân đội Ai Cập, quân đội Atsiri, quân đội Hi Lạp, La Mã cổ đại, quân đội các nước thời Tây Chu, thời Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc, quân đội nhà nước Văn Lang, Âu Lạc... Có thể nói rằng tới mấy chục thế kỉ, từ khi loài người có chiến tranh đến thế kỉ X, thời điểm kỵ binh trở thành "binh chủng chủ yếu của quân đội", mọi hoạt động chiến trận phần lớn đều được vận hành trên những "bước chân người". Đến thế kỉ XIV, vũ khí nóng được sử dụng phổ biến ở châu Âu và nhất là đến thế kỉ XVII, khi khẩu súng cầm tay được trang bị rộng rãi cho mọi chiến binh thì "bước chân người" càng có vai trò to lớn. Ở thế kỉ XX này, dù cho các phương tiện cơ động quân sự hiện đại trên bộ đã đạt tới vận tốc mấy trăm ki-lô-mét/giờ nhưng chúng cũng không phủ định nổi tốc độ chậm chạp với năm - bảy ki-lô-mét/giờ của những bước chân người lính bộ binh vì chính lực lượng này mới giữ vị trí then chốt trên chiến trường. Nếu không hiểu được như vậy thì không thấy hết giá trị lớn lao của những "bước chân người" chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong cuộc 'Vạn lí trường chinh" vào những năm 30, không thấy hết công sức vô bờ của những người nông dân Việt Nam vác "gậy tầm vông" đi đánh giặc trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp cũng như không thấy hết tầm vóc vĩ đại của sự nghiệp "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ.


Trở lên trên là tìm hiểu về "bước chân người”, bây giờ chúng ta chuyển sang "bước chân ngựa". Nếu như đã khẳng định rằng kỵ binh ra đời sau bộ binh hàng ngàn năm thì lịch sử cũng không thể phủ định được sự có mặt của con ngựa trong nhiệm vụ kéo xe chiến bên cạnh người lính bộ binh. Về nội dung này, Ph.Ăng-ghen đã từng nhận xét: "Trong các quân đội của thế giới cổ đại thì quân đội Ai Cập là quân đội đầu tiên mà chúng ta có được ít nhiều tư liệu đáng tin cậy... Bộ binh sử dụng rất nhiều chiến xa". Còn Atsiri là nước đã cung cấp cho chúng ta một hình ảnh sớm nhất về các quân đội châu Á. Các cỗ xe chiến hãy còn là một thành phần quan trọng của quân đội. Ở châu Âu, tình hình cũng tương tự, nghĩa là trong quân đội Hi Lạp ở thời vinh quang của nó như Hô-me đã mô tả - kỵ binh vẫn còn là một điều chưa biết đến. Các quý tộc và các thủ lĩnh đang còn chiến đấu trên những cỗ xe chiến. Ở Trung Quốc, lịch sử thời cổ đại cũng đã từng lấy số lượng nhiều ít chiến xa để đánh giá sức mạnh quân sự của các quốc gia, ví như nước của Thiên tử có "vạn thặng" (mười ngàn cỗ xe chiến), nước của chư hầu lớn có "thiên thặng” (một ngàn cỗ xe chiến). Thế nhưng cũng phải thấy rằng, bên cạnh "bước chân người", chỉ khi "bước chân ngựa kéo" được chuyển thành "bước chân ngựa cưỡi", nghĩa là khi kỵ binh thay xe chiến làm lực lượng đột kích thì hoạt động quân sự mới tạo được những bước chuyển biến mạnh mẽ. Vì vậy, trong lịch sử quân sự, người ta thường nhắc đến hai cuộc viễn chinh cực kì to lớn, được tiến hành bằng lực lượng kỵ binh ở quy mô toàn thế giới. Đó là những cuộc "chiến tranh chữ Thập" nhằm đi xâm chiếm thuộc địa về phía Đông của các nước phong kiến Tây Âu, của các chế độ hiệp sĩ, của các thành phố thương mại ở Italia vào thế kỉ XI-XIII, dưới lá cờ Ki-tô giáo nhằm giải phóng những vật linh thiêng của Thiên chúa ở Jérusalem và giải phóng những vùng "đất thánh" khác khỏi chính quyền Hồi giáo. Đó là cuộc chiến tranh chinh phạt tàn khốc, mang đầy máu và nước mắt, kéo dài 72 năm (1207-1279) của kỵ binh Mông Cổ đi đánh chiếm lãnh thổ của 40 quốc gia Âu - Á, chạy suốt từ Hoàng Hải, trên bờ Tây Thái Bình Dương, đến tận thành phố Viên, thủ đô nước Áo ở trung tâm châu Âu.


Tóm lại, "bộ sậu" là một từ gốc Hán, vốn là một thuật ngữ quân sự, phản ánh những hoạt động đấu tranh vũ trang của hai lực lượng tiêu biểu là "người lính" và "con ngựa" thông qua các biểu tượng "bước chân người" và "bước chân ngựa”. Dần dần theo thời gian, các lực lượng đó bị "dân sự hóa" trong nếp suy nghĩ của mọi người và ngày nay, "bộ sậu" chỉ còn có nghĩa là bộ máy hoạt động nói chung mà không mang theo tính quân sự nửa.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:56:43 am
TÌM HIỂU CỤM TỪ "THẬP ĐẠO TƯỚNG QUÂN”


Trước khi trở thành vua Lê Đại Hành năm 980, Lê Hoàn giữ cương vị Tổng chỉ huy quân đội nhà Đinh với chức danh là "Thập đạo tướng quân điện tiền đô chỉ huy sứ”, thường gọi tắt là Thập đạo tướng quân. Trong cụm từ chỉ chức danh này có ghi tên các phiên chế lớn, từ cao đến thấp, đặt dưới quyền của người chỉ huy. Đó là "đạo", "tướng" và "quân".


Đạo là phiên chế hành chính, có số quân cố định tới 10 vạn người, một hình thức phiên chế cao nhất của triều đại đương thời, trấn giữ một phương hướng chiến lược. Theo tiếng Hán, "đạo" là đường đi. Để chỉ khái niệm này, tiếng Hán còn có từ "lộ". Đây là hai từ đồng nghĩa. Giữa "đạo" là phiên chế của quân đội với "đạo" là đường đi vốn có một mối liên hệ từ rất lâu đời. Số là, ngày xưa, dưới thời bạch khí, không gian tác chiến của người lính, dù là dùng vũ khí đột kích như gươm giáo, hay vũ khí xạ kích như cung tên, cũng đều chật hẹp, chỉ tính trên dưới trăm bước chân.


"Giết người ngoài trăm bước là cung tên, giết người trong năm mươi bước là giáo mác".

Với điều kiện hạn chế của vũ khí, để giao tranh, hai bên tham chiến phải đưa nhau đến một chiến trường, thường là một bãi đất rộng rãi, bằng phẳng hoặc trên một cánh đồng. Để tới điểm hẹn, người ngựa xe cộ phải có đường đi (đạo, lộ). Từ đó, trong thuật ngữ quân sự hình thành cụm từ "đạo quân", "lộ quân". Thời hiện đại, trong lực lượng vũ trang cách mạng Trung Quốc vẫn có cụm từ "Bát lộ quân". Chính vì thế, "đạo, lộ" chỉ đường đi và "đạo, lộ" chỉ các phiên chế quân đội, chữ Hán đều viết chung một dạng tự.


Cấp phiên chế dưới "đạo" là "quân". Quăn cũng là một phiên chế hành chính, có số binh lính cố định, thực hiện các nhiệm vụ chiến thuật. Theo thuật ngữ quân sự ngày nay, nó có tên gọi là "binh đội chiến thuật" hoặc "đơn vị chiến đấu cơ bản", tức là "trung đoàn". Đây là đơn vị tổ chức cơ bản của tất cả mọi quân đội Đông Tây trên thế giới dưới thời bạch khí. Chỉ đến khi súng cầm tay được trang bị cho hết thảy binh sĩ, nhất là từ sau Đại Cách mạng tư sản Pháp (1789), khi cấp sư đoàn, quân đoàn ra đời, cấp phiên chế chiến thuật này mới có sự thay đổi đáng kể.


Trong quân đội nhà Đinh, số quân của "quân" chỉ bằng 1/10 số quân của "đạo" và lại gấp 10 lần số quân của "lữ". Tiếp theo, "lữ" bằng 10 "tốt", ’’tốt" bằng 10 "ngũ", "ngũ" bằng 10 người. Đây là hệ thống phiên chế quân đội theo cơ số 10. Theo Hê-rô-đốt, trong tác phẩm "Lịch sử trong chín cuốn sách" quân đội Ba Tư cổ đại cũng được tổ chức thành những đơn vị 10 người, 100 người, 1000 người. Đến thế kỉ XIII, quân đội Mông Cổ vẫn còn phiên chế theo hệ thống cơ số 10 này: bách hộ, 100 người; thiên hộ (gu-ran), 1.000 người; vạn hộ (tu-men), 10.000 người.


Giữa "đạo" và "quân" là "tướng". Tướng không phải là phiên chế hành chính như các đơn vị trên mà là một phiên chế tác chiến nên không có số quân cố định, rất linh hoạt, ít nhiều phụ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của từng thời gian dài, ngắn khác nhau ở chiến trường. Thông thường, quân số của nó ít hơn cấp "đạo" nhưng nhiều hơn cấp "quân". Trong đó có đủ cả vũ khí, trang bị, quân kị, quân bộ. Hình thức phiên chế này được sử dụng nhiều trong các quân đội từ thời Đinh, đến thời Trần (từ cuối thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV). Chịu ảnh hưởng từ "Hành quân pháp" của Đại Việt, qua Thái Diên Khánh, tri châu đất Hoạt, quân đội nhà Tống cũng tổ chức loại phiên chế này. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta (1075-1077), Quách Quỳ đã từng được lệnh "đem quân 9 tướng" tiến đến bờ bác sông Như Nguyệt. Chức danh các cấp chỉ huy phiên chế "tướng" có Chánh tướng, Phó tướng, Chuẩn tướng và để chỉ huy tất cả các "tướng" là Đại tướng. Từ tên gọi phiên chế, dần dần "tướng" thành chức danh cấp quân hàm. Nói đến "tướng", người ta chỉ còn nghĩ đến những người chỉ huy cấp cao mà quên mất tên phiên chế. Tuy thế trên thế giới hiện nay, một số quân đội, như lục quân Pháp, khi nói đến chức danh những người chỉ huy cấp cao, người ta vẫn gắn liền với tên phiên chế thuộc quyền.


Để chỉ Thiếu tướng, tiếng Pháp viết Général de brigade, người chỉ huy lữ đoàn.

Trung tướng là Général de division, người chỉ huy sư đoàn.

Đại tướng là Général de corps d’armée, người chỉ huy quân đoàn.

Tóm lại, "Thập đạo tướng quân" là chức danh vị Tổng chỉ huy quân đội của Lê Hoàn mà trong đó có tên các đơn vị thuộc quyền ông. Tìm hiểu cụm từ này cũng là một dịp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, lai lịch các phiên chế quân đội trong lịch sử của dân tộc. 


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Chín, 2021, 06:57:55 am
"TƯỚNG QUÂN" TỪ PHIÊN CHẾ ĐẾN NGƯỜI CHỈ HUY


Khi xưng hô hay nói về một vị chỉ huy tối cao, lớn tuổi, có vị trí tuyệt đỉnh của quân đội, người ta hay dùng hai tiếng "tướng quân". Kính thưa tướng quân... Tướng quân Trần Quốc Tuấn...

Ai cũng hiểu "tướng" là người chỉ huy quân sự cấp cao hiện nay. Nhưng tại sao ở những trường hợp trên, sau từ ''tướng" lại kèm từ "quân"? Có người cho rằng đấy là ngôn ngữ giao tiếp đối với cấp trên nhằm cho "có đôi", dễ nghe, tránh cộc lốc vì "không lịch sự", "thiếu lễ phép", là cách xếp đặt từ ngữ theo "phép hài thanh", êm tai. Nếu vậy sao không thay vào đấy bằng những cặp từ "tướng lĩnh", "tướng soái"? về nội dung, từ "tướng lĩnh" được dùng như từ "tướng quân".


Để giải thích hiện tượng cụ thể này, chúng ta hãy bắt đầu từ tên gọi hai phiên chế lớn nhất, có giá trị tiêu biểu trong lịch sử quân sự trung đại Việt Nam, trước hết là "quân". Đây là một loại phiên chế tồn tại khá lâu, từ thời Đinh (cuối thế kỷ X) đến thời Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII), thời Hồ, thời Lê mang tên là "vệ". Là một phiên chế hành chính, có số quân cố định, "quân" thực hiện các nhiệm vụ của chiến thuật. Theo thuật ngữ quân sự ngày nay, nó là "đơn vị tổ chức cơ bản", là "binh đội", có vai trò như "trung đoàn" trong quân đội hiện đại. Đối chiếu với lí luận, điều này hoàn toàn trùng hợp với lịch sử quân sự thế giới. Vào cuối thế kỉ XVIII, đơn vị tổ chức cơ bản trong tất cả các quân đội là trung đoàn. Tuy thế nhưng trên chiến trường, nhiều lúc "quân" không đáp ứng được những nhiệm vụ tác chiến, cần phải có những phiên chế lớn hơn. Từ đó "tướng" ra đời. Sử sách Việt Nam còn ghi rõ mùa xuân 1077, nhà Tống cử Quách Quỳ và Triệu Tiết "đem quân 9 tướng” sang xâm lược nước ta. Theo thư tịch Trung Quốc, "tướng" của nhà Tống là sự mô phỏng tổ chức phiên chế quân đội nhà Lý. Là một phiên chế tác chiến, "tướng" bao gồm từ hai "quân" chủ lực tinh nhuệ trở lên, có sức chiến đấu mạnh. Quân số của "tướng" rất linh hoạt, thiếu ổn định, ít nhiều tùy thuộc vào các nhiệm vụ cụ thể của chiến trường trên phạm vi cả nước. Nó giữ vai trò thích đáng trong những trận đánh lớn, giữa quân chủ lực hai bên, có giá trị quyết định cuộc chiến tranh như trận Chi Lăng năm 981, trận sông Như Nguyệt năm 1077, trận Chương Dương - Thăng Long năm 1285, trận Bạch Đằng năm 1288... Khi làm nhiệm vụ, "quân" và "tướng" bao giờ cũng có một sự hiệp đống thống nhất, chặt chẽ. Với tư cách đơn vị thành viên, "quân" chiến đấu trong đội hình của "tướng", dĩ nhiên phải chịu sự chỉ huy trực tiếp của cấp đó, nhất là dưới thời Lý - Trần, thời kì mà quân đội chính quy của nhà nước phong kiến độc lập ở nước ta được tổ chức ngày càng hoàn bị. Mối quan hệ "tướng - quân" hữu cơ này được giữ vững từ cuối thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV. Theo tổ chức quân đội, trong khoảng thời gian đó, người đứng đầu "tướng" đồng thời cũng đứng đầu tất cả số "quân" thuộc quyền, vì vậy, chức danh của người chỉ huy "tướng", từ thấp lên cao, dưới thời Đinh - Lê, đều có ghi đủ cặp từ "tướng quân". "Chuẩn tướng quân", "phó tướng quân", "chánh tướng quân” là những chức danh chỉ huy của một "tướng". "Đại tướng quân" là chức danh chỉ huy của nhiều "tướng" như của Phạm Cự Lạng năm 980. Số "tướng" đặt dưới sự chỉ huy của ông bao gồm toàn bộ lực lượng cơ động của quân đội Đại Cồ Việt khi đất nước chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh chống Tống lần thứ nhất. Khái quát các chức danh của người chỉ huy "tướng" ở thế kỉ X, chúng ta có thể quy về một công thức chung:

   Quyền hạn chỉ huy
   (một, nhiều tướng)
   Chuẩn, phó, chánh, đại tướng quân

Từ công thức trên, chúng ta có thể suy ra rằng chức danh của Lê Hoàn cũng được tạo ra từ các thành phần tương ứng:

Thập đạo + tướng quân

Các chức danh đó đều có mẫu số chung là "tướng quân".

Từ thế kỉ XI đến hết thế kỉ XIV, cũng với mẫu số trên nhưng nội dung chức danh của người chỉ huy đã có thêm những thành tố mới. Ở thời Lý chức danh của Lê Phụng Hiểu là Đô thống thượng tướng quân, của Lý Thường Kiệt là Phụ quốc thượng tướng quân, ở thời Trần, chức danh của Lê Phụ Trần là Thủy quân đại tướng quân, của Phạm Ngũ Lão là Thân vệ đại tướng quân, của Trần Khánh Dư là Phiêu kị đại tướng quân. Đó là những chức danh của các cấp chỉ huy quân sự cấp cao khi trong phiên chế tổ chức quân đội nhà nước phong kiến nước ta có cấp "tướng" và cấp "quân".


Sang thế kỉ XV, và cũng từ thời điểm ấy, trong quân đội các triều đại phong kiến Việt Nam, phiên chế "tướng" không còn nửa nhưng chức danh các vị chỉ huy quân sự cấp cao vẫn giữ nguyên cặp từ "tướng quân". Đó là những trường hợp dưới triều Lê. Chức danh của Nguyễn Xí là Long hổ thượng tướng quân, của Trịnh Khả là Tả lân hổ vệ thượng tướng quân, của Phạm Vấn là Tả vệ kim ngô vệ đại tướng quân, của Lê Khôi là Kì lân hổ vệ thượng tướng quân.


Từ giữa thế kỉ XVI, dưới triều Lê trung hưng, các chức danh của người chỉ huy quân sự cấp cao, cặp từ trên chỉ còn lại "tướng" ví như chức danh của Trịnh Tạc là Tả tướng thái úy tây quốc công, của Trịnh Căn là Phó đô tướng thái bảo Phú quận công, của Đào Quang Nhiên là Phó tướng thiếu úy, của Hoàng Nghĩa Giao là Phó đô tướng tả đô đốc.


Đến cuối thế kỉ XVIII, sang thời cách mạng nông dân Tây Sơn, hệ thống phiên chế tổ chức quân đội đã khác hẳn các chế độ phong kiến trước. "Tướng" không được tổ chức nữa nhưng "quân" thì vẫn là "đơn vị chiến đấu cơ bản" như trước. Đặc biệt là "tướng" không còn dùng để gọi các vị chỉ huy quân sự cấp cao mà được thay vào đó bằng "đô đốc" và "đại đô đốc" như đô đốc Đặng Tiến Đông, đô đốc Bùi Thị Xuân, đại đô đốc Lộc, đại đô đốc Bảo...


Như vậy rõ ràng chức danh người chỉ huy quân sự cấp cao của quân đội ta ở thời trung đại là bắt nguồn từ tên phiên chế "tướng" và "quân". Hai từ này là những từ Việt gốc Hán. Chính vì vậy, trong sử sách "tướng, quân" chỉ phiên chế và "tướng quân" chỉ chức danh người chỉ huy đều được chữ Hán viết chung một dạng tự và, khác với "tướng" chỉ quan văn trong "tướng quốc", "tể tướng", "thừa tướng" xưa kia và "thủ tướng” ngày nay. Sự chuyển hóa nội dung khái niệm được thể hiện ra ngôn ngữ cũng vẫn tuân thủ mối quan hệ bất biến đó. "Tướng" ở cương vị người chỉ huy phải đặt trên, để trước; "quân" ở cương vị phục tùng phải đặt dưới, để sau. Dần dần, theo thời gian, từ dùng để thể hiện sự chuyển hóa sang phiên chế phục tùng - "quân" - đã bị rút gọn theo thói quen của ngôn ngữ như những ví dụ đã nêu. Và ngày nay, cụm từ chỉ chức danh người chỉ huy quân sự cấp cao của quân đội hiện đại, dù cương vị cao thấp khác nhau cũng đều mang theo từ "tướng", như chuẩn tướng, thiếu tướng, trung tướng, thượng tướng, đại tướng.


Sự chuyển hóa này bắt nguồn từ đâu? Số là trong quá trình sử dụng tên các phiên chế thuộc quyền để gọi chức danh người chỉ huy là nhằm xác nhận trí tuệ; tài năng của cả tập thể quy tụ vào người đó. Trí tuệ, tài năng của người chỉ huy càng cao tên gọi và cách xưng hô với người đó càng được khẳng định. Chỉ có một điều, khi quân đội ta đang có các phiên chế "tướng" và "quân" thì mặc nhiên có chức danh "tướng quân" ở bên cạnh. Thế nhưng khi các phiên chế đó không còn, cặp từ "tướng quân" rồi từ "tướng" vẫn được đặt cùng tên tuổi một số vị chỉ huy quân sự cấp cao. Cho đến hiện nay, sự việc đó đang tiếp tục diễn ra. Tuy vậy, vào thế kỉ XX này, cặp từ "tướng quân” trọn vẹn cũng vẫn còn được đặt cùng tên tuổi người chỉ huy trong một vài trường hợp hết sức đặc biệt. Đây không phải là sự bổ nhiệm bằng văn bản của nhà nước, của quân đội cho người chỉ huy ở từng phiên chế cụ thể mà là sự khái quát cao độ của nhân dân với mục đích tôn vinh những tài năng, trí tuệ quân sự siêu việt, tiêu biểu một cách xứng đáng cho cả một quân đội, một dân tộc, một thời đại.


Tóm lại, đến đây, chúng ta đã thấy rõ: không một từ ngữ nào đi ra ngoài sự chi phối của một khái niệm tương ứng theo mối quan hệ nội dung quyết định hình thức. Sự cấu trúc về vị trí "trước sau" của cặp từ "tướng quân" cũng không thể đi ra ngoài quy luật trên. Điều này có nghĩa là cặp từ đó đã phản ánh một cách trung thực nội dung kỉ luật hiệp đồng tác chiến nghiêm ngặt, chặt chẽ tại chiến trường của quân đội ta trong lịch sử, phải đâu là "phép lịch sự" trong quan hệ giao tiếp, "phép hài thanh" bề ngoài của ngôn ngữ như một số người lâu nay hằng ngộ nhận.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 09:48:46 am
"KÉP" LÀ "TIỂU ĐỘI TRƯỞNG" THỜI LÝ


Trong tập truyện ngắn chọn lọc của Nguyễn Công Hoan có một tác phẩm tên là "Đào kép mới". Theo tác giả, "đào" là diễn viên nữ, "kép" là diễn viên nam. Người đọc, ai cũng hiểu như thế. Vậy "kép" bắt nguồn từ đâu?


Số là dưới triều Lý, trong tất cả các lực lượng vũ trang, từ lực lượng cơ động đến lực lượng tại chỗ, cứ 15 chiến binh được biên chế thành một "giáp". Tổ chức này là đơn vị nhỏ nhất, tương đương với tiểu đội ngày nay. Người chỉ huy giáp có chức danh là "quản giáp". Viên quản giáp, ngoài việc quản lí, chỉ huy binh lính trong huấn luyện, chiến đấu, là chủ yếu, lại còn phụ trách cả việc vui chơi, ca hát cho đơn vị.


Bên cạnh đó, theo chữ Nôm "giáp" và "kép" - như "áo giáp" và "áo kép" - đều được ghi chung một con chữ là "giáp" - nghĩa là giữa hai từ đó, chỉ có một cách phát âm.

Như vậy, "kép" vốn là một từ ngữ chỉ chức danh người phụ trách một đơn vị nhỏ nhất của quân đội, cấp quân hàm thấp nhất trong ngạch chỉ huy quân sự đương thời, tương đương với chức vụ tiểu đội trưởng bây giờ. Dần dần, theo thời gian, xã hội quên mất chức năng thứ nhất mà chỉ còn nhớ lại, chức năng thứ hai - phụ trách vui chơi, ca hát - của "kép". Từ đó, "kép" trở thành từ ngữ chỉ người diễn viên nam. Vốn là một thuật ngữ của phái võ, "kép" đã chuyển thành một thuật ngữ của phái văn. Nội dung mới này chính thức xuất hiện vào thời điểm nào, rất khó xác định, chỉ biết rằng, trong lĩnh vực quân sự, ”kép" ra đời từ năm 1025, đã tồn tại 920 năm và mất đi để thay vào đó bằng từ "diễn viên nam" từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Sự mất đi của từ "kép", chắc chắn trong xã hội ta hiện nay, một số người, nhất là những người cao tuổi, đều nhớ rõ, vì chỉ mới cách đây 50 năm, còn sự ra đời của nó xin được mượn lời nhà bác học Phan Huy Chú - ghi trong Lịch triều hiến chương để chứng minh rằng "kép" vốn là một thuật ngữ quân sự.

"Lí Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 2 (1011), đặt quân túc xa tả và hữu, đều 500 người.

Năm thứ 16 (1025), chia binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người làm quản giáp".


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 09:49:48 am
BỘ BINH ĐẠI VIỆT PHÁT TRIỂN SỚM TỪ THẾ KỶ XIII


Thần tích làng Do Lễ (Tam Hưng, Thủy Nguyên, Hải Phòng) đã trân trọng ghi lại chiến công của người lính bộ binh Vũ Nguyên trong cuộc chiến tranh giữ nước năm 1288. Nguyên vốn là một cố nông, phải cày thuê cuốc mướn để nuôi mẹ già. Thế rồi một hôm, quân đội triều đình hành quân qua làng để ra trận. Nguyên xin phép mẹ, tòng quân lên đường giết giặc và đã lập công lớn.


Đây là một chuyện lạ của thế giới, vì ở thời đó, bộ binh đã bị đẩy lùi xuống hàng phụ thuộc, chỉ là binh chủng hỗ trợ. "Người châu Á cũng như châu Âu rất coi thường bộ binh vì đó là đội quân gồm toàn những người nghèo, không có ngựa, chủ yếu là nô lệ và nông nô, không có một tổ chức chắc chắn, không có giáp tự vệ, vũ khí duy nhất chỉ là giáo và kiếm... Lính cưỡi ngựa, bắn cung trở thành một binh chủng được ưa chuộng..." (F.Engels, Tuyển tập Luận văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978).


Như vậy ở thời trung đại, kỵ binh đã trở thành một binh chủng, thực sự tham gia giải quyết các trận đánh. Nhưng điều đó chưa có nghĩa là nghệ thuật quân sự đã có một sự tiến triển. Trong các quân đội, trên đại thể, kỵ binh còn phiên chế vào các đơn vị bộ binh, chiến đấu phân tán trong đội hình bộ binh. Trên chiến trường, kỵ binh chỉ được sử dụng ở quy mô chiến thuật, theo quan điểm nghệ thuật quân sự đương thời. Tuy đóng vai trò chủ yếu của quân đội, song kỵ binh châu Á chỉ được trang bị sơ sài, không được huấn luyện tốt nên không thể chống lại kỵ binh Mông Cổ. Kỵ binh châu Âu, điển hình là kỵ binh Nga và kỵ binh Phổ, được huấn luyện kỹ càng nhưng trang bị lại quá nặng nề. Mỗi kỵ thủ mang trên người tổng cộng 300kg vũ khí và giáp trụ, luôn luôn bị "giam mình trong vỏ thép" (F.Engels-Sđd)" nên rất khó cơ động, dễ dàng làm mồi ngon cho kỵ binh Mông Cổ, kể cả đội kỵ binh Tơ-tông nổi tiếng đương thời. Điều sai lầm lớn nhất về nghệ thuật quân sự của các lực lượng kỵ binh Âu - Á lúc bấy giờ là dùng kỵ binh để chống kỵ binh. Kỵ binh bên nào cũng lầm tưởng là mình mạnh, nhựng thực tế chiến trường đã cho thấy rõ là không thể nào thắng nổi kỵ binh Mông Cổ.


Sự khác biệt giữa kỵ binh Mông Cổ với kỵ binh Âu - Á thời này là: mỗi một kỵ binh Mông Cổ vừa có thể chiến đấu trên lưng ngựa lại vừa có thể chiến đấu dưới đất; vừa có cung tên đánh xa, lại vừa có gươm để đánh gần; vừa thuần thục chiến đấu cá nhân lại vừa phối hợp hành động nhịp nhàng trong đội hình. Mỗi một đạo quân kỵ binh Mông Cổ đều là một tổ chức, có sự hiệp đồng của đội hình mật tập với đội hình tản khai, của đánh xa và của đột kích, của sự ăn ý giữa kỵ binh nặng - kỵ binh chủ lực - và kỵ binh nhẹ. Về vũ khí, kỵ binh Mông Cổ được trang bị rất gọn nhẹ. Mỗi kỵ thủ thường đem theo hai, ba con ngựa chiến. Khi thấy ngựa đối phương đã mệt, họ lập tức thay ngựa, tiếp tục cuộc chiến đấu, nhanh chóng giành chiến thắng. Cùng ngựa chiến, kỵ binh nặng còn được trang bị gươm cong và áo giáp da thuộc có quét sơn; còn kỵ binh nhẹ lại được trang bị cung tên: cung ngắn chiến đấu trên lưng ngựa, cung dài chiến đấu dưới mặt đất. Nhưng điều khác biệt rất cơ bản nữa là trong khi kỵ binh Âu - Á chỉ được sử dụng ở quy mô chiến thuật thì kỵ binh Mông Cổ đã được sử dụng ở quy mô chiến lược. Đây là bước phát triển mới về chiến lược quân sự. Theo quan điểm này, kỵ binh được tổ chức thành những tập đoàn hội chiến lớn, kết hợp chặt chẽ giữa kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Vì vậy, kỵ binh Mông Cổ đã có một chất lượng khác hẳn. Nó vừa có sức đột kích mạnh lại vừa có tính cơ động cao trong một không gian lớn và một thời gian rất dài.


Với một trình độ nghệ thuật quân sự phát triển cao như vậy nhưng kỵ binh Mông Cổ đã không thi thố được tài năng trên đất Đại Việt. Đó là vì sở trường bị hạn chế rất nhiều. Thời trung đại, nếu trên thế giới, bộ binh bị coi khinh, "hầu như không ai còn có ý đồ tổ chức nó nữa" (F.Engels - Sđd) thì ở nước ta vào thế kỷ XIII, bộ binh lại là "át chủ bài" để chống lại kỵ binh Mông Cổ và cả ba lần đều đã thắng lợi.


Khi tổng kết thắng lợỉ của những cuộc chiến tranh giữ nước ở thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn đã rút ra ba bài học lớn: "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước ra sức" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khái quát lại, đó là sự đoàn kết nhất trí từ bên trong của dân tộc, nhưng trong các cuộc chiến tranh chỉ có sự đồng lòng, sự hòa thuận mà không có một nghệ thuật quân sự điêu luyện thì làm sao chống lại được kẻ thù hung hãn nhất thế giới đương thời. Đó chính là chiến lược dĩ đoản binh chế trường trận, bụộc quân xâm lược phải đánh theo cách đánh của ta, nghĩa là phải dùng kỵ binh chiến đấu chống bộ binh. Tinh thần của chiến lược này là dùng số lượng đông đảo của "trăm họ đều là lính", lực lượng của những người dân binh, những người lính bộ binh của mọi miền đất nước, có hạt nhân là những đội quân thường trực của triều đình, tinh túy về chất lượng, để chống lại kỵ binh Mông Cổ. Đông đảo số lượng người nông dân mặc áo lính bộ binh đã tạo thành "thế trận hình người", chống lại quân xâm lược ở mọi nơi, mọi lúc.


Dân binh là nguồn bổ sung dồi dào, vô tận cho lực lượng vũ trang thường trực theo tinh thần "có việc điều động thì gọi ra" (Lê Trắc - An Nam chí lược), vì trong cuộc đọ sức quyết liệt với một kẻ thù thiện chiến như vậy mà thiếu vắng những đơn vị vũ trang chuyên nghiệp để giành thắng lợi quyết định là điều không thể được. Nhưng dù xây dựng lực lượng vũ trang thường trực để hạn chế đến mức tối đa tính cơ động của kỵ binh, nghệ thuật quân sự Đại Việt vẫn lưu tâm đặc biệt đến tính rộng khắp của nó. Lực lượng thường trực bao gồm quân cấm vệ đóng ở kinh thành và quân chiến đấu ở các lộ là quân của triều đình. Thế nhưng quân triều đình có phái đến lộ nhiều lúc vẫn không kịp ứng chiến. Thí dụ trong cuộc chiến tranh năm 1258, khi địa phương có giặc, quân các lộ phải tập trung lại chiến đấu, thiếu sự phối hợp của dân binh làng xã, không nhân sức mạnh chiến đấu lên được. Trước tình hình đó, năm 1261, triều đình ban bố ngạch phong quân. Việc làm này nhằm thực hiện sự kết hợp quân đội với dân binh chiến đấu hoặc làm kế hoạch "thanh dã" từ cấp lộ đến cấp huyện, có khi đến làng xã. Còn cấp làng xã là địa bàn hoạt động của dân binh. Như vậy, quân triều đình gọi là du quân, chiến đấu từ kinh thành đến các lộ. Phong quân là lực lượng thường trực làm nòng cốt cho việc chiến đấu tại địa phương, chiến đấu tại chỗ. "Phong quân để xông mà du quân để đi quanh" (Binh thư yếu lược).


Số lượng du quân không nhiều, thường "quân ở trong cấm vệ và quân ở các lộ không đầy mười vạn người" (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương) nhưng khi cần thiết, số quân đó có thể huy động tới nửa triệu. Riêng số quân của các con trai Trần Quốc Tuấn cũng đã tới 200.000. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, vua Trần Nhân Tông đã xác định:

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh
(Hoan Diễn đang còn chục vạn quân)

Quân thường trực có hàng chục vạn người, có du quân, phong quân, có quân cấm vệ, quân các lộ... nhưng việc trang bị đều lấy vũ khí của người lính bộ binh làm chuẩn. Trừ quân cấm vệ được trang bị tốt nhất, có áo giáp phòng hộ, còn tất cả mọi người lính thường trực đều chỉ có gươm giáo, ở phong quân, việc trang bị còn sơ sài hơn nữa, khi cần kíp "có người chỉ cầm gậy mà thôi" (Trần Phu - An Nam tức sự).


Với quan điểm "trăm họ đều là lính", bất cứ ai, không kể giàu nghèo, sang hèn, đều có thể tham gia quân ngũ, giết giặc cứu nước. Từ đó, việc tuyển lựa người chỉ huy cũng rất rộng rãi. Người nào có tài năng đều có thể được cất nhắc, không nhất thiết là người trong hàng ngũ tôn thất (Đại Việt sử ký toàn thư).


Yết Kiêu và Dã Tượng đều xuất thân là gia nô nhưng trong chiến đấu đã từng lập công lớn. Phạm Ngũ Lão vốn là một người lĩnh bộ binh trong đội quân vương hầu nhưng do tài năng đã được tiến cử vào quân cấm vệ và đã đạt tới chức vụ người cầm quân cao nhất lúc bấy giờ là Điện súy. Chính Phạm Ngũ Lão đã xây dựng được mối quan hệ "phụ tử chi binh" điển hình trong đạo quân của ông theo đúng như lời dạy của Trần Quốc Tuấn: "Thu hút được binh sĩ như cha con một nhà" (Đại Việt sử kỷ toàn thư).


Tóm lại, trên thế giới, cuộc đời người lính bộ binh quả là có những bước thăng trầm, nhất là khi kỵ binh đóng vai trò quyết định trên chiến trường. Phải chờ đến thế kỷ XVII, khi hỏa khí xuất hiện, súng cầm tay được trang bị rộng rãi, người lính bộ binh trên thế giới mới có một vai trò thích đáng. Trái lại, ở Việt Nam, suốt mấy nghìn năm lịch sử, không riêng thế kỷ XIII, người lính bộ binh - nhất là bộ binh gươm giáo - bao giờ cũng ở vị trí hàng đầu, lực lượng đột kích chủ yếu trong các cuộc chiến tranh yêu nước. So với thế giới, nghệ thuật quân sự Việt Nam về sử dụng binh chủng đã có sự phát triển rất sớm và rất mới.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 09:50:41 am
HỔ TRƯỚNG KHU CƠ


"Hổ trướng khu cơ" là tên cuốn binh thư của Đào Duy Từ viết vào đầu thế kỷ XVII. Tại sao tác giả lại lấy cụm từ đó đặt tên cho cuốn sách của mình?

"Hổ trướng", nghĩa đen là bức màn che vẽ hình con hổ - vì con vật này là biểu tượng của sức mạnh, của đấu tranh vũ trang - từ đó mà có nghĩa bóng là nơi làm việc của người chỉ huy một quân đội hay một đạo quân; "khu cơ” - hoặc "xu cơ" - nghĩa đen, "xu" là "then gài cửa"; "cơ" là "cái máy" còn nghĩa bóng là phần cơ mật, trọng yếu trong một công việc. Như vậy, "Hổ trướng khu cơ" là "Việc cơ yếu bí mật trong quân". Việc cơ yếu, bí mật đó không ngoài việc hành quân, tác chiến. Ngày nay chính là công việc của cơ quan tham mưu.


"Tham mưu", nghĩa đen, "tham" là "dự vào" "mưu" là "lo liệu sáp đặt trước khi làm việc", và theo nghĩa bóng, thứ nhất là "giúp người chỉ huy trong việc đặt và tổ chức thực hiện các kế hoạch quân sự và chỉ huy quân đội. Sĩ quan tham mưu" và thứ hai là "giúp góp những ý kiến lớn, có tính chất chỉ đạo. Tham mưu cho lãnh đạo", về nghĩa thứ nhất, theo lịch sử quân sự, các bộ tham mưu, cơ quan "giúp người chỉ huy" những tổ chức chỉ đạo đặc biệt - chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, nghĩa là khi quân đội đông người của giai cấp tư sản hình thành, kéo theo sự xuất hiện các binh đoàn chiến thuật - sư đoàn quân đoàn - và các liên binh đoàn lớn - các tập đoàn quân. Còn nghĩa thứ hai, những người "giúp góp những ý kiến lớn..." thì đã có mặt trong lịch sử Đông Tây ngay từ thời cổ đại với những bậc mưu sĩ, những "tả hữu" bên cạnh các thủ lĩnh, các thống soái quân sự. Ví như, ở Hy Lạp cổ đại, đó là "hội đồng Ghê-ru-xi-a" ở Xpáctơ, "hội đồng mưu sĩ" ở A-ten; ở thời Xuân Thu đó là Phạm Lãi, Văn Chúng bên cạnh Việt vương Câu Tiễn; ở thời Tây Hán, đó là Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín bên cạnh Lưu Bang. Sang thời trung đại, tại Việt Nam, trong cuộc chiến tranh chống Tống ở thế kỷ XI, đó là Thái hậu Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành bên cạnh vua Lý Nhân Tông; trong các cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, nhất là trong hai cuộc chiến tranh năm 1285 và năm 1288, đó là Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải bên cạnh hai vua Trần; trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XV, đó là 19 hào kiệt tại hội thề Lũng Nhai, những hạt nhân đầu tiên của Bộ tham mưu nghĩa quân bên cạnh minh chủ Lê Lợi. Sang thời cận đại, như trên đã nói, vào cuối thế kỷ XVIII, sau Cách mạng tư sản Pháp 1789, quân đội đông người tư sản ra đời. Cùng với khối quân đông đảo, bên cạnh các binh chủng bộ binh, kỵ binh, binh chủng pháo binh đã phát huy được tính năng và tác dụng của mình trong việc cơ động tác chiến cùng bộ đội nên đã tạo điều kiện cho sự ra đời các binh đoàn chiến thuật và các liên binh đoàn lớn. Đó là những hình thức phân chia và thu nhỏ quân đội để gánh vác những sứ mạng mới của lịch sử mà trước kia binh đội chiến thuật cơ bản là trung đoàn không đảm đương nổi. Đến thời điểm này, với khối lượng binh sĩ đông đảo, bộ chỉ huy tối cao chỉ có thể chỉ huy tác chiến bằng cách sử dụng hệ thống các cơ quan chỉ huy đang phát triển. Vì vậy, vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, nhiệm vụ và biên chế của các cơ quan tham mưu được tăng lên và cuối cùng hình thành Bộ tổng tham mưu. Việc lập Bộ tổng tham mưu bắt đầu với việc đặt ra trong quân đội các nước lớn ở châu Âu chức vụ Tổng quản quân doanh và các binh đội quân doanh, ở nước Nga, các binh đội đó được thành lập năm 1711 và năm 1763 thì đổi tên thành Bộ Tổng tham mưu. Chức năng chủ yếu của cơ quan này là vạch các kế hoạch chiến lược tổ chức tình báo, đặt kế hoạch, bảo đảm các biện pháp động viên và triển khai chiến lược, chuẩn bị các lực lượng dự bị chiến lược. Thực tiễn từ các cuộc chiến tranh của Napoléon (1799-1815) đến các cuộc chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871), chiến tranh Nga-Phổ (1877-1878) đã chứng minh điều đó. Sang thời hiện đại, các Bộ tổng tham mưu của các nước tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đều trải qua khảo nghiệm nghiêm ngặt, đã lộ rõ sự cần thiết phải hoàn chỉnh nó để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh, để động viên mọi khả năng kinh tế và quân sự của quốc gia. Cùng với sự gia tăng về trang bị kỹ thuật và quân số của quân đội thường trực, khối lượng công việc mà Bộ Tổng tham mưu phải giải quyết cũng tăng lên rất nhiều. Đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, khối lượng công việc của nó còn tăng lên gấp bội. Ví dụ sinh động mà chúng ta thấy được rõ nhất là qua cuốn hồi ký "Bộ Tổng tham mưu Xô-viết trong chiến tranh" của Đại tướng X.M.Xtê-men-cô. Ở nước ta, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 7-9-1945. Đó là cơ quan chỉ huy lực lượng vũ trang của Nhà nước, có chức năng bảo đảm trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và điều hành các hoạt động quân sự trong thời bình và thời chiến.


"Hổ trướng khu cơ" - việc cơ mật, trọng yếu trong bức màn che có vẽ hình con hổ - là như vậy, nếu hé ra thì lộ hết.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 09:51:11 am
"SƯ ĐOÀN" - "SỰ PHẬN CHIA" VÀ THU NHỎ


Những người am hiểu tiếng Pháp nói rằng "division" nếu trong toán học, có nghĩa là "sự phân chia" thì trong quân sự lại có nghĩa là "sư đoàn", Muốn hiểu rõ được hiện tượng ngôn ngữ này, chúng ta cần tìm hiểu về sự phát triển của kỹ thuật quân sự và chiến thuật của nước Pháp vào cuối thế kỷ XVIII.


Thời điểm đó, pháo binh đã trở thành một binh chủng độc lập, phục tùng những quy tắc chiến đấu riêng. Ngay ở nước Pháp, từ năm 1671, trung đoàn pháo binh cũng đã được thành lập. Song song với sự kiện trên là súng cầm tay - nhất là súng trường có cắm lưỡi lê - được trang bị đến từng người lính, đã vĩnh viễn đưa cây giáo "đi vào quá khứ". Loại hỏa khí cá nhân này vừa làm nhiệm vụ xạ kích lại vừa làm nhiệm vụ đột kích khiến cho hiệu suất chiến đấu của bộ đội được nâng lên rõ rệt. Như vậy, về mặt kỹ thuật quân sự, sự phát sinh và phát triển của hỏa khí đã dẫn tới sự hình thành binh chủng pháo binh - bên cạnh bộ binh và kỵ binh - cùng với sự trang bị rộng rãi hỏa khí cá nhân cho người lính không phải là không tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nghệ thuât quân sự - bắt đầu từ chiến thuật và cơ cấu tổ chức quân sự sau này.


Cũng vào những năm cuối thế kỷ XVIII, cuộc chiến tranh của khối liên minh các nước phong kiến châu Âu chống nước Cộng hòa Pháp đã làm cho quân đội nước này bị tổn thất nặng nề. Trước một kẻ thù có ưu thế lớn về số lượng, nước Pháp đã phải tuyển mộ vào quân đội những thanh niên tình nguyện giết giặc, cứu nước của dân tộc với một quy mô rộng lớn. Nhưng dù có tạo được một ưu thế về số lượng nhưng không đủ thời gian huấn luyện cho binh sĩ nên nước Pháp cách mạng vẫn phải chịu sự thất bại sau cuộc chiến. Yêu cầu bức xúc đặt ra lúc bấy giờ là phải xây dựng một hệ thống chiến thuật mới mà nội dung cơ bản là: Thứ nhất, mỗi công dân, khi cần thiết, đều có nghĩa vụ tòng quân. Do đó, việc xây dựng quân đội được tiến hành bằng biện pháp cưỡng bức tuyển mộ đã làm cho quân số nước Pháp tăng lên rất nhiều. Thứ hai, việc cung cấp hậu cần hoàn toàn dựa vào sự huy động của nhân dân trên đường hành quân, sở dĩ có tình trạng đó là vì nhà nước cộng hòa mới ra đời, không đủ kinh phí cung cấp lều trại và xe cộ vận chuyển quân trang, quân dụng cho những binh sĩ đang cầm súng ở phía trước giống như quân đội các nước phong kiến châu Âu đương thời. Vả lại lúc bấy giờ, quân đội cách mạng Pháp phải thực hiện đóng quân dã ngoại. Đồ đạc cá nhân người lính đã trở nên đơn giản hơn để họ có thể tự mang gọn trên mình.


Nhờ vậy, họ đã tổ chức được một đội hình chiến đấu cơ động, nhẹ nhàng so với các quân đội đối phương. Thứ ba, về tổ chức chiến thuật, những phiên chế không lớn lắm - có tính độc lập nhất định trong tác chiến, theo nguyên tắc "phân chia quân đội" với sự hiệp đồng giữa ba binh chủng - bộ binh, kỵ binh, pháo binh - đã hình thành. Thời đó, hình thức phiên chế này được gọi là "đầu quân đội" hoặc "phân đoàn", sau gọi là "sư đoàn". Trong khi đó, phần lớn các quân đội châu Âu, trung đoàn vẫn là tổ chức cao nhất. Mỗi sư đoàn như vậy đã trở thành một quân đội thực sự với quy mô thu nhỏ lại, có khả năng tác chiến độc lập và có thể đề kháng mãnh liệt thậm chí với một đối phương có ưu thế về số lượng. Sức mạnh của sư đoàn chính là kết quả của sự hỗ trợ và kết hợp với nhau giữa ba binh chủng - dưới hình thức ba trung đoàn - vào trong một đơn vị chiến đấu. Tại đây, bộ binh giữ vai trò chủ yếu, được trang bị súng trường có lưỡi lê, vừa dùng hỏa khí để đánh xa lại vừa dùng bạch khí để đánh gần nhằm kết thúc trận đánh với sự hiệp đồng của pháo binh - ở giai đoạn chuẩn bị và chi viện cho mọi hành động của bộ binh. Còn kỵ binh, thì "làm tai, mắt" - như tuần tra, trinh sát, bảo vệ cạnh sườn... nối tiếp và hoàn tất mọi hành động của bộ binh trong truy kích khi quân địch rút chạy. Sự kết hợp ba binh chủng - sau thêm binh chủng công binh - trong một cơ cấu tổ chức quân sự mới như vậy - được mệnh danh là "binh đoàn chiến thuật cơ bản" - đã thể hiện rõ một ưu thế lớn về chiến thuật của quân đội hiện đại. Hơn hai trăm năm nay, ưu thế này vẫn giữ nguyên giá trị.


Ở nước ta, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, do yêu cầu của chiến tranh, những sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng được thành lập, lúc đầu mang tên là đại đoàn. Phiên chế mới này - đoàn lớn - để phân biệt với trung đoàn - đoàn vừa - và tiểu đoàn - đoàn nhỏ. Sư đoàn 308 thành lập vào tháng 8 năm 1949 tại Thái Nguyên. Sư đoàn 304 thành lập vào tháng 3 năm 1950 tại Liên khu 4. Đây cũng chính là những phiên chế được hình thành theo nguyên tâc "phân chia quân đội" có sự hiệp đồng của các binh chủng để tác chiến trên những chiến trường nhất định - chủ yếu là chiến trường Bắc Bộ - và đã góp phần không nhỏ, đưa cuộc chiến tranh yêu nước lâu dài và gian khổ của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 09:53:21 am
BINH ĐỘI, BINH ĐOÀN, QUÂN ĐOÀN, QUÂN ĐỘI


Như chúng ta đã thấy, quân đội lớn hơn quân đoàn nhưng trái lại, binh đội lại nhỏ hơn binh đoàn. Về vấn đề này có hai cách hiểu.

Thứ nhất, trong cấp đội, theo phiên chế hành chính, có số quân ổn định, từ nhỏ đến lớn, bao gồm tiểu đội, trung đội, đại đội. Tiểu đội là đơn vị nhỏ nhất, trung đội là đơn vị trung gian giữa tiểu đội và đại đội. Đại đội là đơn vị cơ sở.


Trong cấp đoàn, theo phiên chế hành chính, từ nhỏ đến lớn có tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn. Tiểu đoàn là đơn vị trung gian giữa đại đội và trung đoàn. Trung đoàn là đơn vị cơ bản, là bộ đội nên không phải không có lý mà người ta thường gọi trung đoàn là đơn vị. Trung đoàn có từ rất lâu đời. Trong suốt chiều dài lịch sử quân sự, loại phiên chế này có một vị trí rất quan trọng, ở phương Đông nó xuất hiện cùng chiến tranh với tên là quân. Còn ở phương Tây, từ thời cổ đại Hi Lạp, nó là pha-lăng và đến thời La Mã nó là lê-gi-ông. Sang thời trung đại, ở phương Tây, trung đoàn có tên gọi là régiment và ở Nga là polk. Còn ở Trung Quốc và Việt Nam có tên gọi là quân. Đến thế kỷ XVIII, trung đoàn là phiên chế hành chính cao nhất và phổ biến trên phạm vi toàn thế giới. Còn sư đoàn và quân đoàn đến Cách mang tư sản Pháp (1789-1792) mới xuất hiện. Riêng ở Việt Nam, sư đoàn đầu tiên ra đời trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là sư đoàn 308 được thành lập ở Thái Nguyên vào tháng 8 năm 1949. Và quân đoàn ra đời vào những năm kết thúc cuộc chiến tranh giai phóng ở thế kỷ XX này. Đó là quân đoàn 1, thành lập vào tháng 10 năm 1973. Sự thật thì vào tháng 10 năm 1970, trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, một phiên chế tương đương cấp quân đoàn, binh đoàn 70, đã ra đời nhưng đó chỉ là phiên chế tác chiến, chưa phải là phiên chế hành chính với số quân ổn định như ba năm sau đó.


Thứ hai, theo phiên chế tác chiến là tổ chức theo nhiệm vụ, không có số quân ổn định, đội nhỏ hơn đoàn. Cấp đội nhằm sử dụng trong tác chiến chiến thuật, tính từ trung đoàn trở xuống nên trung đoàn gọi là binh đội và các cấp dưới của nói gọi là phẤn Đội, tính từ tiểu đoàn đến tiểu đội. Cấp đoàn nhằm sử dụng trong tác chiến chiến dịch nên gọi chung là binh đoàn, gồm từ nhỏ đến lớn: sư đoàn, quân đoàn. Quân đội một số nước còn có tập đoàn quân, phương diện quân, dã chiến quân. Riêng sư đoàn, khi mới ra đời, gọi là phân đoàn, cấp dưới của binh đoàn, tương tự như phẤn Đội, cấp dưới của binh đội, và chỉ dùng trong tác chiến chiến thuật nên có tên gọi là binh đoàn chiến thuật cơ bản. Ở Việt Nam, sư đoàn, khi mới ra đời có tên gọi là đại đoàn, lại được sử dụng trong tác chiến chiến dịch từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp cho đến cuối những năm kháng chiến chống Mỹ, trước khi quân đoàn chính thức ra đời. Quân đoàn, về phiên chế tác chiến chiến dịch trong các quân đội trên thế giới thì là cấp thấp nhất nhưng về phiên chế hành chính lại là cấp cao nhất. Nó được xem là phiên chế hoàn chỉnh, độc lập, một sự thu nhỏ của quân đội, với sự kết hợp chặt chẽ của bộ binh, kỵ binh và pháo binh, sau có thêm công binh, những binh chủng đã có mặt ở cuối thế kỷ XVIII, khi loại phiên chế mới này xuất hiện.


Bao trùm lên tất cả các cấp, từ phiên chế hành chính đến phiên chế tác chiến, là quân đội. Quân đội vốn là hai từ khác nhau nhưng được để sóng đôi: "quân" và "đội", "quân" là cấp cao nhất và "đội" là cấp thấp nhất. "Quân" đã được nói đến nhiều còn "đội”? Đó là phiên chế nhỏ nhất, khoảng trên dưới 10 người. Thời Đinh - Lê, gọi là ngũ 10 người, vì vậy có cụm từ đội ngũ, quân ngũ, nhập ngũ... Thời Lý, gọi là giáp, 15 người. Thời Nguyễn gọi là thập, 10 người. Chúng là những phiên chế đã có mặt cách đây khoảng ba mươi thế kỉ để dân tộc ta gọi tên, nhằm thâu tóm một hệ thống phiên chế của "một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do nhà nước xây dựng nên để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hay chiến tranh phòng ngự" như Ph.Ăng-ghen đã từng định nghĩa về quân đội.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 05 Tháng Mười, 2021, 01:13:49 pm
BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA NGƯỜI LÍNH BỘ BINH


Bất cứ lúc nào và ở đâu, người lính đầu tiên của mọi quân đội đều là bộ binh, chính Ph.Ăng-ghen cũng xác nhận điều đó:

"Đối với tất cả các dân tộc, chỉ trừ những bộ lạc du mục, phần lớn quân đội, nếu như không phải là toàn bộ, bao giờ cũng chỉ gồm có lính đi bộ".

Đó là những quân đội đầu tiên ở châu Á như Át-xi-ri, Ba Tư, Ba-bi-lon, Trung Quốc; ở châu Phi như Ai Cập và ở châu Âu như Hy-lạp... Ra đời cùng với những nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những người lính bộ binh trong các quân đội đó, vũ khí cơ bản của họ là cây giáo và cơ động chiến đấu bằng đôi chân.


Ở một số nước như Ai Cập, Trung Quốc, Hy Lạp... khi kỵ binh chưa ra đời, đã có những chiến xa do ngựa kéo. Tuy thế nhưng việc cơ động bằng chiến xa bao giờ cũng dành riêng cho những kẻ cầm quyền. Như thời vinh quang của hệ thống quân sự Hi Lạp (thế kỷ XI-thế kỷ IX trước Công nguyên), theo Hô-me mô tả, thì phải là giai cấp chủ nô và các cấp chỉ huy chiến đấu mới được ngồi trên xe chiến. Còn ở thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên) của Trung Quốc cũng vậy. Chỉ có tầng lớp quý tộc mới được điều khiển chiến xa.


Như vậy, cho mãi đến thời kỳ sau này của lịch sử cổ đại, bộ binh vẫn giữ vai trò chủ yếu của mình trên chiến trường.

Bước sang thời trung đại, lực lượng sản xuất phát triển mạnh hơn thời cổ đại. Các quan hệ kinh tế - xã hội phong kiến đã trực tiếp tạo ra tổ chức quân sự của nó. Chính cơ cấu đẳng cấp chiếm hữu ruộng đất đã trao cho tầng lớp quý tộc quyền thống trị những người nông dân. Sự phụ thuộc vào ruộng đất của nông dân dưới chế độ phong kiến đã làm suy sụp hoàn toàn binh chủng bộ binh. Sự phục vụ trong bộ binh bắt đầu bị coi khinh như một thứ nô lệ, nông nô, nên chất lượng của bộ binh tất yếu bị giảm sút. Đến cuối thế kỷ X, kỵ binh lại là binh chủng duy nhất của quân đội.


Bộ binh thời đó, một phần lấy từ trong đám đầy tớ, một phần lấy từ nông dân, đại đa số là lính cầm giáo, thiếu phương tiện phòng hộ, lại ô hợp lộn xộn, không được tổ chức thì làm sao địch nổi với các kỵ binh hiệp sĩ cùng với ngựa chiến được giáp sắt che kín từ đầu đến chân.


Không những thế, với tài năng quân sự kiệt xuất, Thành-cát-tư Hãn cùng với học trò và con cháu ông ta đã sử dụng kỵ binh ở quy mô chiến lược, làm cho kỵ binh Mông Cổ trở thành một quân đội lừng danh, trăm trận trăm thắng, suốt từ Âu sang Á ở thế kỷ XIII.


Vào thế kỷ XIV, khi bắt đầu có sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự phát triển của thành thị, thành phần quân đội mới có sự thay đổi. Lúc đó, quân đội phong kiến không còn nữa. Những quân đội mới được xây dựng nên từ những người lính đánh thuê, những người mà chỗ độ phong kiến tan rã đã trao lại cho họ quyền được tự do phục vụ cho bất cứ ai có tiền muốn sai khiến họ.


Những người lính đánh thuê đó họp lại thành các khối bộ binh. Cũng như xưa kia, họ được trang bị lưỡi gươm, cây giáo và chiến đấu thành từng khối đông dày đặc. Vì được trang bị và huấn luyện tốt hơn bộ binh phong kiến nên trên chiền địa, họ đã tỏ ra vững vàng và có kỷ luật hơn. Những tân binh được tuyển mộ đều đặn và tuy là lính đánh thuê nhưng họ vẫn hơn hẳn những tân binh tuyển mộ bất thường từ trong đám đông vô kỷ luật của tầng lớp đày tớ, dưới chế độ phong kiến. Vai trò bộ binh bắt đầu được phục hồi.


Cùng với sự thay đổi thành phần quân đội là sự phát triển của hỏa khí vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI. Hai sự kiện lớn lao đó đã góp phần tích cực cho bộ binh có thêm chất lượng mới. Sự hiệu quả của hỏa lực và tính cơ động của pháo binh đã chấm đứt sự thống trị lâu dài của cây giáo trong bộ binh. Từng bước thay thế cho cây giáo là khẩu súng hỏa mai. 1/3 bộ binh là lính bắn súng được phối thuộc với lính cầm giáo. Cho đến nửa cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, cùng với việc sử dụng rộng rãi lưỡi lê thì các cây giáo cũng bị loại trừ triệt để khỏi chiến địa. Khẩu súng cầm tay đã có đủ hai chức năng, vừa là bạch khí, vừa là hỏa khí, vừa để đâm lại vừa để bắn. Lính bắn súng đã thực sự đóng vai trò nòng cốt của trận đánh. Ngay những đội kỵ binh đáng sợ nhất thời bấy giờ cũng phải lùi bước trước hỏa lực chính xác của lính bắn súng.


Từ đây, vũ khí cơ bản của người lính bộ binh đã chuyển hẳn từ cây giáo sang khẩu súng và binh chủng kỵ binh đã phải trao lại vị trí chủ yếu trên chiến địa cho binh chủng bộ binh. Sự thay đổi diệu kỳ đó đã được hoàn tất đúng vào những năm đầu của cuộc "Chiến tranh giành quyền thừa kế" ở Tây Ban Nha (1701 - 1714).


Bắt đầu từ thời điểm huy hoàng ấy, vai trò của người lĩnh bộ binh trên chiến trường được khẳng định và hoàn thiện dần. Ngày nay, khoa học, kỹ thuật phát triển như vũ bão, những vũ khí hiện đại, tinh khôn lần lượt ra đời nhưng cũng không thể phủ định được vai trò quyết định của người lính bộ binh. Chính họ mới là những người cuối cùng đến tiếp nhận phần đất đai đã đánh chiếm được sau chiến thắng và cũng chính họ là những người chịu trách nhiệm giải quyết mọi hậu quả trên chiến trường.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 05 Tháng Mười, 2021, 01:14:31 pm
CÂY GIÁO VÀ KHẨU SÚNG CẦM TAY - NHỮNG VŨ KHÍ CƠ BẢN


Từ mấy ngàn năm nay, khi xã hội loài người có chiến tranh đến nay, trên chiến địa, mọi người lính đều nhất thiết được trang bị một loại vũ khí cá nhân. Thuật ngữ quân sự gọi đó là vũ khí cơ bản. Chính vì vậy, "cây giáo" và "khẩu súng cầm tay", tiếng Hán đều có tên gọi chung là "thương" hoặc "sang". Khác nhau chỉ là dạng tự.


Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy trước thế kỷ XIV, trên chiến trường, người lính chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như giáo, gươm, lao, phóng, cung tên... Đó là bạch khí hay vũ khí lạnh. Giáo gươm đánh gần, gọi là vũ khí đột kích, dùng để đâm, chém. Lao, phóng, cung tên đánh xa, gọi là vũ khí xạ kích, dùng để ném bắn. Vũ khí đột kích, nhất là cây giáo đóng vai trò chủ yếu. Vũ khí xạ kích chỉ để hỗ trợ. Tất cả mọi người lính đều được trang bị cây giáo khi chiến đấu trong đội hình tập thể. Thanh gươm trang bị cho những người chỉ huy hoặc những chiến binh chiến đấu ở ngoài đội hình. Để đột phá, nghĩa là tiến công, chọc thủng tuyến phòng ngự, làm rối loạn hàng ngũ nhằm tiêu diệt đối phương trong chiến đấu, sự thắng bại nhất nhất đều phụ thuộc vào "sức đâm" của những cây giáo. Các nhà quân sự gọi đây là xung lực. Như vậy, ở thời đại bạch khí, cây giáo là vũ khí cơ bản của người lính. Cây giáo gồm hai phần: phần cán bằng gỗ vẫn dài hơn, nhiều hơn phần mũi bằng kim loại. Vì vậy chữ "thương" là giáo thuộc bộ "mộc".


Từ giữa thế kỷ XIV trở đi, thuốc nổ được dùng phổ biến trên các chiến trường Tây, Nam và Trung Âu dưới hình thức những khẩu đại bác. Hơn 300 năm sau, khẩu súng cầm tay được trang bị rộng rãi cho hết thảy mọi người lính. Thời đại hỏa khí - vũ khí nóng - bắt đầu. Thay cho cây giáo, khẩu súng - tính từ súng trường - trở thành vũ khí cơ bản. Nếu như trong thời đại bạch khí, "đâm chém" là chính, thì bây giờ "bắn" lại ở vị trí hàng đầu dù cho trên đầu nòng súng có thêm chiếc lưỡi lê, vật hóa thân và kế thừa chức năng của mũi giáo. Từ thời điểm ấy, trên phạm vi toàn thế giới - trước hết từ châu Âu - việc đột phá hoàn toàn phụ thuộc vào "sức lửa" của tất cả những nòng súng tuy trên thực tế chiến trường, ở một số nơi, xung lực vẫn còn được sử dụng. Lấy bắn làm chính, khẩu súng trường nổ từng phát một được cải tiến dần thành khẩu súng liên thanh, bắn nhiều phát liên tiếp, bao gồm đại liên thanh, trung liên thanh và tiểu liên thanh với cỡ nòng to nhỏ khác nhau. Theo cách rút gọn của ngôn ngữ, người ta gọi chúng là đại liên, trung liên và tiểu liên. Trong cơ cấu khẩu súng cầm tay, từ súng trường đến súng tiểu liên, trừ phần báng gỗ ra, kim loại vẫn chiếm phần lớn, nên chữ "thương" thứ hai thuộc về bộ "kim". Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), súng liên thanh được sử dụng rộng rãi. Ngày nay quân đội các nước được trang bị nhiều kiểu loai tiểu liên khác nhau nhưng vào những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên chiến trường Việt Nam hai loại tiểu liên phổ biến trong quân đội hai bên là súng AR15 và súng AK47.


Đến đây - để thay cho lời kết luận - có một điều cần lưu ý rằng từ giữa những năm 40, nhất là từ giữa những năm 50, loài người đã bước sang thời đại vũ khí hạt nhân. Tuy thế, nhưng khẩu súng cầm tay truyền thống của người lính từ 300 năm nay vẫn chưa thể nào thay thế được. Thậm chí có nơi, người lính vẫn còn chiến đấu bằng gươm, giáo, cung tên. Hiện tượng đó nói lên rằng "cây giáo" và "khẩu súng cầm tay" cho đến cuối thế kỷ này vẫn là vũ khí cơ bản của người lính, giữ vị trí quyết định trên chiến trường.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 05 Tháng Mười, 2021, 01:15:06 pm
GẬY GỘC, GẬY TẦM VÔNG


"Gậy gộc", nói khái quát, theo từ điển tiếng Việt, là công cụ "dùng để đánh... "Dùng gậy gộc đánh cướp". Về nghĩa cụ thể, "gậy" là "đoạn tre, gỗ... tròn, cầm vừa tay, thường dùng để chống khi đi hoặc để đánh. Chống gậy. Phang cho một gậy". "Gộc" là "phần gốc và rễ, thường là của cây đã già cỗi, còn lại sau khi bị chặt đốn đi. Đào gộc tre. Đun bằng củi gộc". Còn "tầm vông" là một loại "tre, thân nhỏ cứng, không có gai" ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, khi vót nhọn, hơ lửa, đầu gậy đanh lại, nhọn cứng như một lưỡi giáo. Tre già là bà lim (tục ngử). Vũ khí bằng chất liệu tre, rắn đanh, khó gẫy, tuy đơn sơ nhưng cũng là một thứ vũ khí lợi hại.


Như vậy, về lý luận "gậy" được xem là loại vũ khí thô sơ, lâu đời nhất trên chiến địa và tại trường đấu mà chất liệu thường lấy từ loại cây thân mộc. Chả thế mà ngày nay, trong võ nghệ vẫn có những vận động viên chuyên sử dụng gậy (côn) và tay không (quyền) để thi đấu. Nhân vật Từ Hải - một người hoạt động trong lĩnh vực quân sự - từng được Nguyễn Du miêu tả là "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Trong quá trình phát triển của vũ khí, chiếc gậy được cắm thêm những mẩu xương thú, những mảnh đá nhọn và khi kim loại ra đời, người ta thay vào đấy những mũi nhọn bằng đồng, bằng sắt thép để tạo nên những cây giáo. Do đó, trong tiếng Hán, "thương" là cây giáo, được xếp vào bộ "mộc" như chúng tôi đã có dịp trình bày (Ngôn ngữ và Đời sống, số 3-1996). Cúng theo tiếng Hán, "trượng" là "gậy" nhưng "trượng" cũng là tên gọi chung của vũ khí thời xưa. Khi quân đội hai bên đối địch bắt đầu giao tranh, người ta gọi là "khai trượng" và đánh đòn bằng gậy thì gọi là "trượng đả".


Trở lên trên đã trình bày, "gậy" vốn là loại vũ khí đột kích cổ nhất nhưng trong thực tế chiến đấu cũng tồn tại lâu nhất và đã trở thành loại vũ khí phổ biến, thông dụng nhất của quần chúng vũ trang ở khắp mọi nơi trên hành tinh này. Dưới thời cận đại, những người nông dân trong Đại Cách mạng tư sản Pháp (1789) từng dùng gậy gộc, búa rìu phá tan nhà ngục Bastille. Và những năm 70 của thế kỷ này, quần chúng cách mạng Chi-lê dưới thời cố Tổng thống A-giăng-đê cũng vác gậy gộc, xem như một thứ vũ khí, tuần hành trên đường phố thủ đô Xan-ti-a-gô.


Ở Việt Nam, chiếc gậy cũng có một sức sống khá mãnh liệt. Theo ghi chép của Trần Cương Trung (Trần Phu) - sứ thần nhà Nguyên sang thăm nước ta năm 1293 - dân binh Đại Việt, khi được tin báo thì kéo đi hết, vũ khí tự trang bị lấy nhưng cũng "có người chỉ cầm gậy mà thôi". Đến cuối thế kỷ XIX, trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp, chiếc gậy - mà tiêu biểu là "gậy tầm vông" - đã được dùng làm vũ khí của nghĩa quân như lời "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu "Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ". Tiếp bước cha anh, với chiếc gậy tầm vông truyền thống, những người nông dân yêu nước trên vùng châu thổ của dòng sông "chín rồng" bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Và cũng từ thời điểm này, "gậy tầm vông" đã trở thành biểu tượng của chiến tranh toàn dân. Tuy vậy cũng có một số người cho rằng "gậy tầm vông" được ghi lại trong sử sách, trong thơ ca là phản ánh một thực tế chiến đấu những ngày đầu của cuộc chiến tranh giải phóng lần thứ nhất rồi sau đó và cho đến ngày nay, có giá trị như một loại vũ khí thô sơ chứ thực ra trên chiến trường nếu chỉ riêng "gậy tầm vông" ở Nam Bộ và "gậy gộc" trên cả nước làm sao đủ sức đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi. Còn theo quy luật phát triển của chiến tranh giải phóng, du kích chiến nhất thiết phải tiến lên vận động chiến. Dân quân, du kích xóm làng tuy có góp phần rất lớn, rất quan trọng vào việc tiêu hao quân xâm lược nhưng phần quyết định số phận cuộc chiến tranh chính là những đòn tiêu diệt lớn của các lực lượng chính quy. Nói như vậy chẳng sai nhưng không phải đã hoàn toàn đúng. Trước hết, chúng ta phải thấy "gậy tầm vông" ra đời giữa thế kỷ XX này - cũng như từ giữa thế kỷ XIX trước đây - là một tất yếu lịch sử. Theo truyền thống nghìn đời trên đất nước thượng võ này, khi "sơn hà nguy biến", mọi người dân đều tự trang bị cho mình một thứ vũ khí bên cạnh lòng yêu nước nồng nàn vốn có sẵn.


Chúng không hẳn là súng gươm mà có thể là công cụ lao động như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". Nghĩa là ai có thứ gì, dùng thứ đó, miễn là có thể sát thương quân xâm lược. Chất liệu vũ khí của những người "thợ cày đánh giặc" này đâu có nhất thiết là sắt thép.


Thường ngày, họ không phải là lính chiến nên theo nếp suy nghĩ cổ truyền của các bậc tiền bối, trước những kẻ thù đụng chạm đến quê hương, xóm làng, đất nước thì chỉ có việc là "chặt tre nên gậy, gặp đâu đánh què". "Tre nên gậy" ở đồng bằng sông Cửu Long chính là cây gậy tầm vông. Đó cũng là lẽ tự nhiên. Chất liệu này sẵn có trong vườn, trên bờ dậu sau nhà từ hàng cây trước ngõ. Không những thế, "gậy tầm vông" còn có giá trị mở đầu vì trong những cuộc chiến tranh giải phóng lâu dài của dân tộc suốt ba mươi năm qua, do hoàn cảnh lịch sử quy định, đồng bào Nam Bộ phải chịu "đi trước, về sau". Không chỉ "mở đầu", những người nông dân trên vùng đất "Thành đồng Tổ quốc" còn biết "đánh thắng trận đầu" ngay từ ở Thị Nghè, ở Cầu Bến Phân... trước khi các đoàn quân "Nam tiến" kịp đến nơi. Chả thế mà mãi cho đến cuối tháng 10-1945 - tức là sau một tháng gây hấn ở Sài Gòn - giặc Pháp, được thêm lực lượng tăng viện, lại có quân Anh giúp sức, mới phá được vòng vây, đánh rộng ra các tinh Nam Bộ. Từ những chiến thắng đó nên khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ thì "gậy tầm vông" đã trở thành hiện tượng phổ biến, có mặt rộng khắp ở mọi bản làng, thôn xóm trên thế "cài răng lược" giữa ta và địch, bên cạnh các đơn vị bộ đội chủ lực. Đó cũng lại là một đặc điểm nữa của truyền thống chiến tranh nhân dân Việt Nam, chiến tranh được tiến hành tại chỗ, theo bề mặt, không bao giờ có chiến tuyến rạch ròi như mọi cuộc chiến tranh cổ kim đông tây trên thế giới. Ở Việt Nam, chiến tranh tiến hành theo chiến tuyến chỉ diễn ra mỗi một lần trên bờ bắc sông Như Nguyệt vào năm 1077 trong cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân xâm lược Tống, dưới sự lãnh đạo của Thống soái Thái úy Lý Thường Kiệt. Còn như các binh đoàn chủ lực trong cuộc kháng chiến chống Pháp sở dĩ có được những chiến thắng ở Việt Bắc, ở Biên giới, ở Điện Biên... chính là nhờ sự phối hợp tác chiến chặt chẽ bằng cách kìm chân địch ở trước mặt, ở sau lưng, dàn mỏng lực lượng chúng ra trên phạm vi cả nước của "gậy gộc", của những chiếc "gậy tầm vông" huyền diệu.


Tóm lại, "gậy gộc" là một thứ vũ khí thô sơ lâu đời nhất, xuất hiện trước vũ khí lạnh rất xa và đã tồn tai cho đến tận ngày nay. Ở thế kỷ XX này, "gậy gộc" nói chung và ”gậy tầm vông" nói riêng đã trở thành loại vũ khí thần kỳ trong tay những người Việt Nam yêu nước. Không những thế "gậy tầm vông" còn là niềm vinh hạnh, là biểu tượng chiến thắng của chiến tranh giải phóng suốt mấy chục năm qua.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 05 Tháng Mười, 2021, 01:15:58 pm
"ĐÂM" RA ĐỜI TRƯỚC "CHÉM"


Thường ngày, người ta vẫn nói "đâm chém" - hai động tác của người lính khi sử dụng vũ khí lạnh - đi liền với nhau nhưng quá trình phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, động tác "đâm" đã ra đời trước động tác "chém" ít ra cũng tới hàng vài chục thiên niên kỷ.


Để làm rõ, chúng ta hãy tìm hiểu định nghĩa hai từ này trong "Từ điển tiếng Việt". "Đâm" là "đưa nhanh cho mũi nhọn chạm mạnh vào nhằm làm cho thủng, làm tổn thương. Dùng giáo đâm". "Chém" là "làm cho đứt bằng cách bổ mạnh lưỡi gươm, dao vào. Chém đầu, chém tre đẵn gỗ". Theo các định nghĩa trên, mục đích của "đâm" là "làm cho thủng", còn mục đích của "chém" là "làm cho đứt". Để "làm cho thủng", công cụ không nhất thiết là vũ khí, miễn là có "mũi nhọn", còn để "làm cho đứt", công cụ phải là "gươm, đao" nghĩa là phải có "iưỡi sâc". Muốn tạo nên các công cụ có "mũi nhọn" không khó lắm, có thể đập vỡ một hòn đá, bẻ gãy một cành cây nhưng công cụ "chém" nhất thiết phải được chế tác từ kim loại, thậm chí phải là sắt mới đủ sức "làm cho đứt" được. Mà trong lịch sử tiến hóa nhân loại, khi thanh kiếm sắt ra đời là lúc loài người bước đến "ngưỡng cửa của thời đại văn minh", thời đại mà chiến tranh "đã trở thành những chức năng thường xuyên trong sinh hoạt của nhân dân”. Như vậy, động tác "chém" là kết quả ra đời của thanh kiếm sắt cùng với chiến tranh, còn động tác "đâm'' có thể được gây ra ngay từ những công cụ không hẳn là kim loại, khi mà xã hội loài người chưa có loại nguyên liệu đó và cũng chưa xuất hiện chiến tranh. Hay nói một cách khác, khi loài người bắt đầu biết sử dụng công cụ lao động thì đã biết thực hiện động tác "đâm" để chọc lỗ, tra hạt giống khi gieo trồng hoặc sát thương con thú khi săn bắt. Thời điểm đó chắc chắn là trước khi vũ khí lạnh ra đời rất xa.


Đó là nói về chất liệu của công cụ "đâm - chém”. Còn sau khi thanh kiếm, lưỡi gươm ra đời thì bản thân các loại vũ khí đó bao giờ cũng có "mũi nhọn" và ”lưỡi sắc". Trong quá trình chiến đấu, khi nào người lính cũng thực hiện động tác "đâm” trước khi thực hiện động tác "chém".


Trong đội hình chiến đấu cũng vậy. Những người chiến binh cầm giáo luôn luôn được bố trí thành một bộ phận ở phía trước. Họ thực hiện động tác "đâm" là chính, còn người chỉ huy mang gươm, kiếm bao giờ cũng ở phía sau như trong đội hình pha-lăng của người Hy Lạp, đội hình ma-níp của người La Mã hoặc ở chính giữa như trong đội hình bát quái của người Hoa Hạ.


Nếu như ”đâm" là dùng "mũi nhọn" để chọc thủng thì bất cứ một phương thức tác chiến nào trong tiến công cũng đều phải để việc đột phá bằng lực lượng xung kích lên hàng đầu. Trong một trận đánh mà không "làm cho thủng" được tuyến phòng ngự của đối phương thì xem như là thất bại.


Tóm lại, "đâm - chém" tuy là hai động tác sử dụng vũ khí lạnh của người lính trong chiến tranh nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, động tác "đâm" đã ra đời trước động tác "chém" rất lâu. Còn khi dao kiếm đã xuất hiện thì việc sử dụng chúng, người lính cũng thực hiện động tác "đâm" trước động tác "chém". Ngay trong đội hình chiến đấu cũng vậy, những người lính đều được bố trí ở phía trước để thực hiện động tác "đâm" bằng những mũi giáo nhọn. Và nếu như "đâm" nhằm mục đích "làm cho thủng" thì bất cứ một phương thức tác chiến nào, việc đầu tiên cũng là chọc thủng để phá vỡ tuyến phòng ngự của địch để rồi sau đó mới xông lên chém giết, tiêu diệt chúng.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 05 Tháng Mười, 2021, 01:16:28 pm
TẠI SAO NGƯỜI LÍNH THƯỜNG XUYÊN ĐỘI MŨ?


Thường ngày, ở những chốn thâm nghiêm như đền chùa, lăng tẩm, dinh thự... hoặc tại những buổi lễ trang trọng như chào cờ, đưa tang, đón tiếp cấp trên... ai nấy đều ngả mũ, nón để thể hiện sự kính trọng nhưng trái lại, các quân nhân vẫn đội mũ trên đầu. Hiện tượng đó nói lên điều gì ? Để làm rõ, chúng ta hãy tìm hiểu kỹ về trang bị cá nhân người lính.


Lịch sử quân sự đã ghi rõ, sự trang bị trên bao giờ cũng hình thành hai phần: vũ khí và phương tiện phòng hộ. Vũ khí để đánh địch, để tiến công; phương tiện phòng hộ để giữ mình, để phòng ngự. Tiến công và phòng ngự vốn là hai mặt quan hệ hữu cơ với nhau trong hành trang của một chiến binh. Về vũ khí, dưới thời bạch khí, đó là gươm giáo, cung tên; dưới thời hỏa khí, đó là súng đạn, cụ thể là súng cầm tay, kể từ súng hỏa mai, súng trường cắm lưỡi lê, súng ngắn, lựu đạn và ngày nay là súng tiểu liên. Bây giờ, chúng ta đi sâu vào phương tiện phòng hộ. Ai cúng thấy rõ là thân thể con người chia làm ba phần: đầu, mình và chân tay. Từ đó, phương tiện phòng hộ cũng có các phần tương ứng là "giáp" và "trụ". "Giáp" để giữ mình và chân tay, còn "trụ" để che đầu. Phương tiện này lúc đầu chỉ đơn giản có chiếc mộc ghép bằng gỗ dày hoặc chiếc khiên đan bằng sợi mây. Từ gốc Hán gọi chung các công cụ này là "thuẫn" và từ đó xuất hiện cụm từ "mâu thuẫn", "mâu" (một loại giáo có lưỡi nhọn, dài và cong như hình con rắn) đâm và "thuẫn" đỡ. Chiếc mộc, chiếc khiên làm cơ sở cho giáp trụ phát triển dần lên thành chiếc mũ đội đầu và tấm kim loại che ngực. Tất cả bộ binh nặng của quân đội Hy Lạp cổ đại đều được trang bị mũ và giáp che ngực. Trong các ngôi mộ cổ thuộc thời đại Hùng Vương, người ta cũng tìm thấy các tấm đồng che ngực của chiến binh. Đến thời trung đại, "giáp trụ" đã trở thành phương tiện phòng hộ hoàn chỉnh: mũ đội đầu, giáp che toàn bộ thân mình và chân tay, nhất là từ thế kỷ X trở đi, khi kỵ binh trở thành quân chủ lực trên chiến trường châu Âu. Sức chở của con ngựa chiến có thể mang trên lưng một chiến binh với đủ vũ khí và giáp trụ kim loại tới 300 kg như kỵ binh Nga, kỵ binh Giéc-ma-ni, kỵ binh Tơ-tông... Loại giáp trụ này đã đứng vững suốt 700 năm, mãi cho tới khi hỏa khí ra đời, nhất là khi súng cầm tay được trang bị rộng rãi cho người lính bộ binh vào thế kỷ XVII. Như chúng ta đã biết, trong cơ thể con người, đầu là "cơ quan đầu não" nên việc bảo vệ nó chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Vì dưới thời vũ khí lạnh, mục tiêu của gươm giáo là nhằm vào ngực và đầu. Giết chết cũng có nghĩa làm cho đối phương "mất đầu". Chả thế mà luật pháp của triều đại Tần Thủy Hoàng (258-210 trước Công nguyên, ở Trung Quốc) quy định cho người lính hễ giết giặc, phải chém lấy đầu đem về làm vật chứng mới được thăng lên một cấp. Vì vậy, thời ấy, người ta gọi đầu giặc là "thủ cấp". Hiện nay, ngôn ngữ thường ngày vẫn lưu hành từ ngữ "võ biền". Từ ngữ này chỉ một khái niệm khái quát, có ý chê bai loại quan võ dốt nát về học thức. Vậy "biền" là gì? "Biền" là một từ gốc Hán, nghĩa đen là "chiếc mũ". Đây là phương pháp hoán dụ trong ngôn ngữ, lấy một bộ phận - mũ đội đầu (người lính) - để chỉ toàn bộ con người (hoạt động quân sự). Theo đó trong tiếng Hán còn có cụm từ "biền mâu" để chỉ toàn bộ trang bị người lính: "biền" tượng trưng cho toàn bộ phương tiện phòng hộ, "mâu" là vũ khí. Việc bảo vệ đầu trong chiến đấu đã được xem trọng ngay từ thời cổ đại qua thời trung đại và lại càng được đặc biệt chú ý ở thời cận đại, khi mà bộ áo giáp kim loại bị viên đạn của hỏa khí làm vô hiệu hóa. Ở thời đại chúng ta đang sống, việc tập trung vào bảo vệ đầu không chỉ trong lĩnh vực quân sự, mà còn lan sang cả lĩnh vực lao động sản xuất, lĩnh vực thi đấu thể thao... Chính thế mà ngày nay, tất cả mọi qưẤn Đội hiện đại, nhất là bộ binh, đều được trang bị mũ sắt, một phương tiện phòng hộ không thể nào thiếu vắng. Vì vậy, việc đội mũ nói chung trong mọi trường hợp đều là sự thể hiện hành động sẵn sàng chiến đấu của người lính và đã đi vào đời sống thường ngày, kể cả những lễ nghi trang trọng nhất.


Tóm lại, từ rất xa xưa, đội mũ đã là hành động chiến đấu trong thời chiến và sẵn sàng chiến đấu trong thời bình của người lính. Mà chiến đấu và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu là một nghĩa vụ thiêng liêng, một phẩm chất trong sáng, cao đẹp trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc đối với mọi quân nhân.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:05:34 pm
CHIẾC NỎ LIỄU VÀ KHẨU SÚNG THẦN CƠ


Ở thời đại bạch khí, khi thuốc súng chưa có, từ thế kỷ XIV trở về trước, việc sử dụng vũ khí, từ đột kích đến xạ kích, tất cả đều từ sức lực trực tiếp của con người. Cung tên thường bắn phát một. Thế nhưng người dân nước Âu Lạc (từ năm 208 đến nắm 179 trước Công nguyên), với đàu óc sáng tạo của mình đã biết chế ra một loại vũ khí xạ kích mới có khả năng bắn nhiều mũi tên cùng một lúc. Đó là chiếc nỏ liễu.

"Vua (An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ...". (Đại Việt sử ký toàn thư).

Nỏ vốn là một loại vũ khí rất độc đáo của cư dân Đông Nam Á. So với cung, nỏ có ưu thế hơn. Nó có báng tì ngắm, người bắn có thể giương được những cánh cung khỏe hơn. Được đặt trên đường rãnh cố định, mũi tên khi bắn ra bao giờ cũng bay theo đúng hướng. Trên cơ sở đó, người Việt cổ cải tiến chiếc lẫy để có thể bắn một phát được nhiều mũi tên. Đó chính là loại nỏ liễu. Theo sử cũ "tên bắn như mưa, trúng ai nấy chết" vì đầu mũi tên đồng đã sắc lại tẩm thuốc độc. Chiếc lẫy nỏ đơn giản nhưng kỳ diệu - tưởng như có phép thần - là một sáng tạo lớn của tổ tiên ta. Chỉ một cải tiến về cơ khí đã làm cho hiệu suất chiến đấu của vũ khí thay đổi hẳn. Sức mạnh đó còn được nhân lên gấp bội khi vũ khí đem trang bị cho cả một đội quân: nỏ binh.    


Cùng với việc cải tiến lẫy nỏ là việc chế tạo những mũi tên đồng thau. Kho tên đồng được phát hiện ở vùng Cổ Loa năm 1959 cho thấy: đầu mũi tên bằng đồng thau, loại tốt, có ba ngạnh, nhọn sắc, có đuôi dài tới 4 - 5cm. Việc sản xuất những mũi tên đồng cũng đòi hỏi một trình độ kỹ thuật luyện kim cao. Thông thường các sản phẩm bằng đồng thau bao gồm các thành phần kim loại chính là đồng đỏ (Cu), thiếc (Zn) và sau này thêm thành phần chì (Pt). Trong chế tạo vũ khí, người Việt cổ chú ý tăng thêm tỉ lệ thành phần hai kim loại sau. Thiếc làm tăng độ cứng còn chì làm tăng độ bền dai. Với phương pháp đó, thành phần chì được tăng lên trong hợp kim đúc để sản xuất ra những mũi tên đồng. Đây là những vật phẩm tuy hình thức bé nhưng cần trọng lượng cao, đảm bảo độ nặng, cân bằng với chuôi tên có kích thước lớn để bay xa và lao chính xác tới mục tiêu.


Trong đền cổ Loa ngày nay có chiếc nỏ thờ là "nỏ liên châu", có dàn cắm hàng chục mũi tên. Trong lịch sử, nỏ liễu đã trở thành nỗi kinh hoàng với quân xâm lược Triệu Đà.

Mười tám thế kỷ sau, đầu thế kỷ XV, khi xã hội loài người bước vào thời đại hỏa khí, một người Việt Nam là Hồ Nguyên Trừng đã đóng góp cho nền kỹ thuật quân sự dân tộc một phát minh mới. Đó là khẩu súng thần cơ (máy móc như thần).

Súng thần cơ gồm bộ phận ống trơn làm nòng, đúc bằng sắt, bên trong có mũi tên cũng bằng sắt, đạn chì và thuốc súng, có ngòi châm lửa để bắn. Phía sau là phần báng. Thần cơ có nhiều loại với những kích cỡ lớn, nhỏ khác nhau. Loại nhỏ - thần cơ sang - tức súng bộ binh - bắn xa từ 600 đến 700m, làm vũ khí tiến công. Loại lớn - thần cơ pháo - kéo bằng xe hoặc đặt trên giá gỗ, làm vũ khí phòng ngự. Ra đời, thần cơ đã là một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí cho quân đội. Từ đó, nhiều hình thức và phương pháp sử dụng hỏa lực, kết hợp hỏa lực với bạch khí, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích để đánh địch cũng ra đời theo. Với tính năng, tác dụng như vậy nên quân Minh đã học tập và đem sử dụng trong chiến đấu.


"Đến đời Thành Tổ nhà Minh (1403-1424), đánh nước Giao Chi được phép đúc thần cơ sang pháo (các súng máy các cỡ)"... (Lê Quí Đôn, Vân đài loại ngữ).

Loại vũ khí này được xem là "trọng khí của nhà nước".

Trong quân đội nhà Minh bắt đầu có thêm "thần cơ doanh", một đội quân chuyên sử dụng súng thần cơ. Vì vậy, Thiên triều quy định mỗi khi "tế binh khí phải tế Trừng".

Trên thực tế nhà Minh không hoàn toàn học tập kỹ thuật đúc súng của Hồ Nguyên Trừng. Từ giữa thế kỷ XIV, người Trung Quốc đã có những khẩu súng thần công với những cái tên oai hùng như "Vô địch đại tướng quân", "bắn xuyên trăm lỗ, âm vang chín tầng mây". Điều mà nhà Minh học được ở Hồ Nguyên Trừng chính là kỹ thuật chế tạo thần cơ dã chiến.


Ở Việt Nam, súng ống có thể ra đời trước đó từ nhiều thế kỷ. Vì mùa xuân năm 1390, tướng nhà Trần là Trần Khát Chân đã dùng hỏa pháo bắn trúng thuyền quân xâm lược Chăm-pa, giết chết Chế Bồng Nga tại ngã ba sông Luộc. Đầu thế kỷ XV, Hồ Nguyên Trừng đã nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật đúc súng mà chế tạo ra súng thần cơ. Do địa hình sông ngòi ở nước ta, việc chuyển quân phần lớn là bằng thuyền, vả lại, vận động chiến vốn là cách đánh phổ biến trong mọi cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta. Từ những thực tiễn đó nên khi thần cơ ra đời, Hồ Nguyên Trừng đã đưa ngay loại vũ khí này cơ động cùng quân đội.


Tầm cỡ sáng chế của Hồ Nguyên Trừng có thể sánh ngang những cải tiến của anh em nhà Buy-rô, người Pháp, ở giữa thế kỷ XV. Chính từ những cải tiến ấy vua Pháp Sác-lơ VIII đã đưa pháo thành một binh chủng cơ động cùng bộ binh, mở đường cho quân đội các nước châu Âu bước vào thời kỳ pháo dã chiến, tham gia mọi trận đánh trên chiến trường. Nhưng so với phát minh của Hồ Nguyên Trừng, sự kiện cách mạng đó trong lịch sử quân sự thế giới còn diễn ra muộn hơn năm mươi năm.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:06:07 pm
KHẨU SÚNG TRƯỜNG VỚI CHIẾC LƯỠI LÊ


Ngày nay, khẩu súng trường với chiếc lưỡi lê không còn nhiều giá trị chiến đấu nữa. Trên chiến trường, trong hành động cá nhân, người lính hoàn toàn sử dụng súng tiểu liên. Vậy tại sao người lính cầm súng trường có lưỡi lê tuốt trần vẫn có mặt trong những lễ nghi trang trọng? Chúng ta hãy đi ngược dòng lịch sử quân sự thế giới.


Kể từ khi thuốc nổ được sử dụng phổ biến trên chiến trường vào thế kỷ XIV cho đến khi người lính bộ binh được trang bị khẩu súng cầm tay phải mất gần 300 năm. Tuy mới chỉ là khẩu súng hỏa mai có ngòi, từ thế kỷ XVI trở đi, sau mũi giáo, khẩu súng cá nhân này đã trở thành vũ khí thứ hai của người lính. Bởi thế, theo tiếng Hán, "thương" (cũng đọc là "sang") nghĩa là mũi giáo và cũng có nghĩa là khẩu súng cầm tay. Sự khác nhau chỉ là dạng tự. "Thương" là giáo thuộc bộ "mộc" và "thương" là súng thuộc bộ "kim", ở thế kỷ XVI, súng hỏa mai còn rất nặng nề, khi bắn phải đặt trên nạng gỗ. Trong giáp chiến, người lính cầm súng không có khả năng tự vệ mà phải dựa vào sức mạnh của người lính cầm giáo.


Cùng với việc ra đời của khẩu súng hỏa mai, kỵ binh cũng được cải tiến. Binh chủng này không còn giáp trụ nặng nề như kỵ binh hiệp sĩ thời trung đại mà đã có sức cơ động cao, sức đột kích mạnh. Trước đòn sấm sét của kỵ binh, lính cầm giáo tỏ ra bất lực. Vốn là một lực lượng tiến công chủ yếu thì đến thế kỷ XVI, họ chỉ còn đơn thuần là một lực lượng phòng ngự để bảo vệ cho lính cầm súng. Với lý do đó, vào khoảng nửa sau của thế kỷ XVII, số lượng lính cầm giáo giảm đi rất nhiều so với lính cầm súng và bị loại dần khỏi chiến địa. Từ đấy, người lĩnh cầm súng thực sự đóng vai trò chủ chốt của bộ binh. Họ đã có thể dựa vào hỏa lực của mình để chống lại kỵ binh đối "phương một cách hiệu quả. Trong giao tranh, nhiều phen, kỵ binh đã phải chùn bước trước sự giáng trả quyết liệt, chính xác của lính cầm súng. Tuy ngọn giáo bị loại khỏi vòng chiến nhưng đâu có phải đã thiếu hẳn những trận giáp lá cà? Thực tế chiến trường thấy cần sự có mặt một loại vũ khí mới, tương đương như mũi giáo. Đáp ứng nhu cầu đó, chiếc lưỡi lê cắm trên đầu ngọn súng ra đời. Lưỡi lê, sự hóa thân của mũi giáo, là một phát minh đáng kể của người Pháp khoảng năm 1640 và phải đấu tranh suốt 60 năm với mũi giáo, đến năm 1699, mới được hoàn thiện. Mặc dù chưa hoàn toàn thay thế cho mũi giáo nhưng lưỡi lê ra đời cũng đã cho phép người lính cầm súng có thể tự vệ, không như trước kia, phải núp dưới "ô bảo hộ" của người lính cầm giáo. Cùng với sự ra đời của lưỡi lê, quá trình nạp đạn cho súng hỏa mai cũng đã đơn giản hơn nên việc bắn cũng nhanh hơn khiến hiệu suất chiến đấu được nâng lên rõ rệt, đủ sức khắc phục những nhược điểm mà lưỡi lê chưa làm nổi. Cho đến thế kỷ XVIII, trong binh chủng bộ binh đã hoàn toàn vắng mặt lính cầm giáo mà chỉ gồm độc nhất một loại lính, đó là linh cầm súng trường đầu cắm lưỡi lê. Loại vũ khí này đã trở thành thông dụng và tiện lợi suốt 200 năm cho đến tận đầu thế kỷ chúng ta đang sống.


Như trên đã nói, khẩu súng trường với chiếc lưỡi lê hiện chỉ còn là dấu vết của "một thời vang bóng" nhưng nó vẫn là vật đại diện chung cho vũ khí cơ bản của người linh bộ binh, ở đấy có cả vũ khí đột kích, chiến đấu ở cự ly gần, lẫn vũ khí xạ kích, chiến đấu ở cự ly xa, có cả vũ khí của thời đại bạch khí lẫn vũ khí của thời đại hỏa khí.


Tóm lại, khẩu súng trường với chiếc lưỡi lê còn tồn tại đến thế kỷ XX này là một chứng tích quý báu rất lâu đời của lịch sử kỹ thuật quân sự và đã được nhiều thế hệ nâng niu, trân trọng. Tiêu binh cầm súng trường có lưỡi lê tuốt trần được xếp vào các buổi lễ vẫn thường là một nghi thức trang trọng. Đó là buổi tang lễ những người chỉ huy quân đội, là việc canh gác những chốn tôn nghiêm như lăng tẩm, đền đài, dinh thự hoặc là việc đón tiếp các quan khách nước ngoài ở hàng thủ tướng chính phủ và ở hàng nguyên thủ quốc gia.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:06:50 pm
THÀNH LŨY Ở HÀ NỘI TRƯỚC KINH THÀNH THĂNG LONG


Ai cũng hiểu từ năm 1010, Hà Nội được đặt tên là Thăng Long và là kinh đô của nhà nước phong kiến Việt Nam nhưng ít người biết rằng, gần 500 năm, trước khi có kinh thành này, tại đây, một số thành lũy đã được dựng lên.

Công việc đó được tiến hành lần đầu tiên ở Hà Nội cổ là từ bàn tay Lý Bí. Năm 545, ông dựng thành lũy bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch để chống quân xâm lược nhà Lương. Hà Nội có thành lũy là từ bấy giờ.

Năm 607, sau khi Lý Phật Tử bị nhà Tùy tiêu diệt, đất nước ta bị thôn tính, chính quyền đô hộ phương Bắc dời nhiệm sở từ Long Biên (Yên Phong, Bác Ninh) về Tống Bình, tên của Hà Nội gốc được đặt ra dưới thời Tống thuộc Nam Triều (Trung Quốc) (420-589) vào nửa đầu thế kỷ V, một cái tên tủi nhục của Hà Nội cổ, chỉ một vùng đất bị "nhà Tống bình định". Từ đấy, Hà Nội cổ trở thành vị trí trung tâm của đất nước, nhất là sau năm 679, khi toàn bộ đất Giao Châu bị nhà Đường đổi thành "An Nam đô hộ phủ". Lũ thống trị ngoại bang liên tiếp củng cố và mở rộng Tống Bình thành dinh lũy chủ yếu của chúng. Một hệ thống thành lũy ngày càng đồ sộ liên tiếp mọc lên trên vùng đất này. Năm 621, Thái thú Khâu Hòa bắt đầu xây dựng "Tử thành" (thành con) bên bờ sông Tô Lịch. Chu vi tòa thành không quá 2km. 130 năm sau, năm 757, La thành xuất hiện trên đất Hà Nội cổ. Người đắp tòa thành này là Kinh lược sứ Trương Bá Nghi. Nghĩa đen "La thành" là "tường bao quanh". Đúng vậy, La thành được xây nên nhằm quây kín phủ thành đô hộ sau phong trào Mai Thúc Loan (năm 722) và những cuộc cướp bóc của bọn cướp biển Chà Và. Tuy thế nhưng tòa quân thành này chỉ cao vài thước, nhỏ hẹp và không vững chắc lắm. Năm 791, sau phong trào Phùng Hưng (766-791) - một phong trào làm rung chuyển đất trời Tống Bình - tiếp đó, năm 801, những viên quan đô hộ như Triệu Xương, Bùi Thái lại xây đắp, củng cố thêm La thành. Năm 808, Đô hộ Trương Châu sửa sang lại La thành và đặt cho nó một cái tên mới là "An Nam La thành". Thành có ba cổng, trên có lầu cao theo phong cách môn lâu phương Bắc. Trong thành có mười tòa nhà, dựng theo cung điện phong kiến Trung Hoa, hai bên có lầu giáp trượng làm kho vũ khí. Đấy là một tòa thành xây dựng phía bờ nam sông Tô Lịch, có quy mô lớn đầu tiên trên đất Hà Nội cổ. Tất cả những thành lũy của bọn thống trị phương Bắc được xây dựng như vậy nhưng trước khí thiêng đất nước Giao Chỉ và nhất là sợ nhân dân bản địa nên đã có lần, như năm 825, Đô hộ Lý Nguyên Hỉ đã tâu xin dời phủ đô hộ sang phía bờ bắc sông Hồng. Như vậy, qua nhiều lần xây dựng, đến năm 863, đất Hà Nội cổ đã có ba tòa thành. Thứ nhất là thành Giao Châu, hay thành Giao Chỉ tức phủ thành đô hộ, chu vi hơn 6km, lấy hào thiên nhiên phía bắc là sông Tô Lịch, phía đông là sông Hồng. Thành này cũng gọi là "cựu thành" (thành cũ) hay "thành cũ Tô Lịch" vì nằm trên bờ sông Tô Lịch, được xây đắp và sửa sang trong nửa thế kỷ, từ năm 757 đến năm 808. Thứ hai là "tử thành" (thành con), được bọc trong tòa thành chính nói trên. Thứ ba là "kim thành" (thành mới). Thành này cũng gọi là La thành nhưng xây đắp từ thời Đô hộ Lý Nguyên Hỉ, vào năm 825. Sang thời Đô hộ Điền Tảo, từ năm 835, hàng năm nhân dân phải nộp tiền làm lũy gỗ quanh thành. Đến năm 858, Kinh lược sứ Vương Thức thu tiền thuế một năm của An Nam, mua tre gỗ trồng quanh 12 dặm thành, đào hào rào lũy, bên ngoài trồng tre gai. Vì vậy, thành mới có tên gọi là Lặc Trúc (rào chân bằng tre). Việc kẻ thống trị nước ngoài liên tiếp đắp thành Hà Nội cổ chứng tỏ chúng phải luôn luôn đương đầu với những cuộc nổi dậy của nhân dân. Mặt khác, Hà Nội và lưu vực sông Hồng ở thế kỷ VIII - thế kỷ IX luôn luôn bị quân Chà Và, Côn Lôn ở vùng biển phía Nam và quân Nam Chiếu ở nội địa phía Tây Bắc đến cướp phá. Bất lực, lũ quan cai trị nhà Đường sợ hãi, bỏ thành chạy về nước. Trước tình hình đó, các hào trưởng, người Việt ở khắp nơi đã lãnh đạo con em đứng lên chống giặc, giữ làng liên tiếp trong ba năm. Lợi dụng thành quả ấy, nhà Đường cướp thời cơ, cử Cao Biền đem đại quân sang, mở trận tổng công kích, đuổi lũ giặc Nam Chiếu ra khỏi đất nước ta. Tiếp đó, viên Tiết độ sứ kiêm nghề phù thủy này đáp lại và mở rộng "An Nam la thành" nên từ đó thành có tên mới là "Đại La". Thành này theo "Đại Việt sử ký toàn thư" có "vòng quanh là 1982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc... đê vòng quanh thành dài 2.125 trượng 8 thước, thân cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng"... Từ một danh từ chung, Đại La đã trở thành một danh từ riêng, một tên gọi của Hà Nội cổ trước Thăng Long.


Tóm lại, trải qua 321 năm, từ tòa thành đầu tiên được Lý Bí xây dựng lên trên đất Hà Nội cổ, năm 545, đến thành Đại La, được Cao Biền sửa sang và xây đắp lại vào năm 866, những chủ nhân của chúng đều không đạt tới mục đích đã đề ra, kể cả phía ta lẫn phía địch. Lý Bí định xây dựng tòa thành "bằng tre gỗ" làm hàng rào hòng che chân cho một quân đội mới nhen nhóm thì làm sao có thể "trụ vững" trước một đạo quân xâm lược nhà nghề ngay cả khi quân đội đó phòng ngự thành Gia Ninh (Việt Trì). Còn dĩ nhiên, tất cả mọi tòa thành của chính quyền đô hộ, không riêng ở Hà Nội cổ, dù vững chắc đến đâu cũng không ngăn cản được sức quật khởi của cả một dân tộc. Chỉ sau năm 1010, khi Đại La mang tên là Thăng Long và trở thành kinh đô của nhà nước Đại Việt, kinh thành đó mới được xem là "thắng địa", là "đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời" (Lý Công uẩn, Chiếu dời đô).

(Theo Trần Quốc Vượng, vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa)


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:07:54 pm
CHE PHỐ CÓ THÀNH, GIỮ LÀNG CÓ LŨY


"Thành phố" và "lũy tre làng" là những từ ngữ hết sức quen thuộc. "Thành phố" là "khu vực tập trung đông dân cư quy mô lớn, thường có công nghiệp và thương nghiệp...". Còn "làng" "vừa là một đơn vị hành chính, vừa là một địa bàn cư tụ có tính chất cha truyền con nối của người nông dân". Qua hai định nghĩa trên của từ điển chúng ta thấy "thành phố" và "làng” đều là những điểm quần cư, dù là hoạt động công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp hay nông nghiệp. Để bảo vệ cho mình, những người dân ở đấy đều xây dựng nên những bức tường cao, gọi là "thành" hoặc đắp những bờ đất lớn, gọi là "lũy". Những từ đó vốn là những thuật ngữ quân sự.


Lịch sử cổ đại thế giới ghi rõ khi kim loại - nhất là sắt - ra đời, công việc sản xuất đã tăng lên không ngừng. Của cải xã hội ngày càng dồi dào, các ngành nghề xuất hiện nhiều hơn làm cho thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự tách rời đó dẫn đến một nền sản xuất hàng hóa đồng thời thương nghiệp cũng ra đời. Vào thời điểm đó, trong xã hội hình thành những trung tâm của bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc mà người ta gọi là thành thị. Của cải ngày một tăng đã khêu gợi lòng tham của những kẻ muốn xâm chiếm, tước đoạt khiến cho nhu cầu phòng vệ được đặt ra. Vì vậy, thành thị buộc phải có những bức tường thành bao quanh chúng và đã trở thành một bộ phận hữu cơ của thành thị. Chả thế mà bằng cách hoán dụ, người Pháp đã xem tường thành như là thành phố. "L’ennemi est sous nos murs" (Quân địch đang ở trong thành phố của chúng ta). Dịch theo nghĩa đen là "Quân địch đang ở dưới những bức tường của chúng ta". Từ mục đích quân sự, tường thành ra đời và được phát triển về chất liệu xây dựng từ thấp lên cao, từ gỗ đến đá. Nếu như buổi sơ khai, thành chỉ là những hàng rào gỗ thì tiến lên một bước nữa ở khoảng cách giữa các hàng cọc gỗ, người ta đã đắp đất. Chính thế mà trong tiếng Hán bộ phận cấu thành của từ "thành" và từ "lũy" đều có từ "thổ" (đất). Loại thành đất này vẫn còn phổ biến ở các nước vùng Trung Á và Đông Âu trong quá trình chống lại sự xâm lược của người Mông Cổ vào thế kỷ XIII. Bước tiếp theo là việc xây dựng những bức tường đá thay cho những bức tường bằng đất nện. Hệ thống tường đá này vững bền hơn, đồng thời, cũng gây nhiều khó khăn cho sức tiến công của đối phương. Cho đến cuối thời trung đại, tường đá là thủ đoạn bố phòng duy nhất của các dân tộc văn minh nhất, ở thời trung đại, thành lũy là nét đặc trưng của tác chiến phòng ngự. Chúng được chia ra nhiều loại: thành hoàng, thành trì và thành quách. "Thành hoàng" là loại thành chung quanh có hào sâu nhưng không có nước. "Thành trì” là loại thành chung quanh có hào sâu và có nước. "Thành quách" là loại thành có nhiều lớp, lớp trong và lớp ngoài. Theo tiếng Hán, "hoàng" là "rãnh đào quanh thành, không có nước", "trì" là ao, "quách" là "lớp thành ngoài".


Nếu như thành - nhất là quân thành - một địa điểm ở nơi "thế hiểm, xung quanh có xây tường kín" cần phải xây dựng quy mô lớn với nhiều kiểu loại khác nhau như dưới thời phong kiến Tây Âu, thì lũy lại đơn giản hơn nhiều. Lũy "thường đắp bằng đất" để "bảo vệ một vị trí", ở Việt Nam, mỗi làng đã trở thành một vị trí bảo vệ và trên đất nước, có bao nhiêu làng thì có bấy nhiêu bờ lũy. Làng Việt Nam không giống làng của người Đức, hình thành từ sự phân hóa của thị tộc và bộ lạc, cũng không giống làng của người Pháp thời trung đại, hình thành từ sự tập hợp cư dân dưới sự bảo hộ của những thủ lĩnh quân sự. Ở Việt Nam, làng hình thành trong quá trình tự nguyện liên kết giữa những người nông dân lao động trên con đường đi chinh phục những vùng đất gieo trồng. Tại đấy, họ phải thường xuyên chiến đấu kiên cường chống thiên tai và xâm lược. Do đó, nhu câu hình thành lớp lũy tre để bảo vệ cũng là điều tất yếu. Ở Việt Nam, trong quá trình dựng nước và giữ nước, việc "xây thành" không nhiều - có chăng chỉ là một số nơi tiêu biểu như thành Cổ Loa, thành Tây Giai - nhưng việc "trồng tre đắp lũy" lại là công việc thường xuyên và phổ biến. "Lũy tre làng" đã trở thành một hình ảnh gắn chặt với quê hương trong tâm trí của tất cả mọi người dân Việt, sở dĩ có hiện tượng đó là vì thứ nhất, về kinh tế, xá hội phong kiến Việt Nam không sao tạo được một hoạt động thương nghiệp có chất lượng cao để lập nên những thành thị theo đúng tiêu chuẩn của nó, ngay đến Hà Nội, một thành thị vào loại lớn và tiêu biểu nhất cho cả nước ở thời điểm đó. Tận giữa thế kỷ XIX, vẫn còn có những làng nông nghiệp mới, hình thành ngay giữa chốn đế đô phồn hoa này với những tên Tân Khai, Tân Lập. Vì vậy, bức tường thành để bảo vệ những phường buôn, những phố xá đó chỉ là một hàng rào bằng tre. Thứ hai, về quân sự, ở Việt Nam, trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm, chiến tranh vận động là chủ yếu. Việc xây dựng thành quách để thực hiện tác chiến phòng ngự là điều rất hãn hữu. Thông thường, các binh đoàn chủ lực cơ động trên phạm vi cả nước đã lấy lũy tre làng làm những điểm trú quân tác chiến, còn các lực lượng vũ trang địa phương và dân binh thì lại dựa vào lũy tre làng, làm thế ỷ dốc, để từng bước chặn địch và tiêu hao chúng, tạo thế cho quân triều đình giáng những đòn quyết định. Nhờ vào hàng nghìn, vạn lũy tre làng đó mà nhân dân ta đã ba lần đánh tan quân Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, đánh tan quân Minh ở thế kỷ XV...


Phát huy truyền thống, lũy chiến đấu, ở thế kỷ XVII, Đào Duy Từ đã dựa vào địa hình hiểm trở vùng cửa sông Nhật Lệ, xây dựng nên một hệ thống chiến lũy phòng ngự, giúp chúa Nguyễn chống lại chúa Trịnh tới 145 năm (1630-1775). Ở thời hiện đại, ngay cả khi chiến tranh đã diễn ra trên không gian ba chiều, khi không quân đã xuất hiện, các lũy tre làng ở Việt Nam vẫn còn giữ nguyên giá trị chiến đấu chống lại quân xâm lược trong ba mươi năm chiến tranh giải phóng như Cảnh Dương, Nguyên Xá, Củ Chi, Ấp Bắc...


Tóm lại, ở tất cả mọi điểm quần cư, dù là đô thị, phố phường trong thời cổ đại, đến thời cận đại, từ phương Đông sang phương Tây hay là ở thôn ấp, xóm làng của Việt Nam từ thời trung đại cho tới ngay cả thời hiện đại, để duy trì sự sống bình yên, bao giờ cũng phải có những hàng rào bảo vệ. Từ đó, "thành" và "lũy" đã ra đời. Đấy là một việc làm tự nhiên của con người qua bao thế hệ và vì thế mà thời gian đã xóa nhòa mất ranh giới giữa ngôn ngữ quân sự và ngôn ngữ dân sự để trở thành ngôn ngữ đời thường, điều mà rất ít người để ý.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:08:32 pm
SÂU HÀO, CAO THÀNH


"Thành cao hào sâu" vốn là một vấn đề được các nhà quân sự sử dụng nhiều trong việc bố phòng đất nước, đúng như lời nhận xét của Ph.Ăng-ghen: ..."Cho đến cuối thời trung cổ, tường đá là thủ đoạn bố phòng duy nhất của các dân tộc văn minh nhất. Những bức thành ấy đã được xây cao đến mức bắc thang lên để vượt qua cũng còn khó khăn". Và "chắc chắn rằng ngay từ thời kỳ rất sớm, người ta đã đào hào vây quanh bức tường và coi đó là vật chướng ngại chủ yếu khi tiến vào thành". Thành và hào đã được đề cập tới, lần này chúng ta tìm hiểu đến "độ cao của thành" và "độ sâu của hào" để rồi từ đó tìm hiểu tiếp đến chiều thứ ba của không gian trong hoạt động quân sự.


Cao và sâu vốn là hai phía nằm trên một chiều của không gian ba chiều bên cạnh chiều dọc và chiều ngang. Đó là một chiều mà phải trải qua ba ngàn năm tiến hành chiến tranh, loài người mới đủ khả năng vươn tới. Thực tế lịch sử quân sự cho ta thấy từ đầu thế kỷ XX về trước, chiến tranh chỉ diễn ra trên mặt phẳng, trên hai chiều của không gian: chiều dọc và chiều ngang. Tính cách của Từ Hải, một nhân vật trong Truyện Kiều, được xem là "đấng anh hùng", dưới ngòi bút của Nguyễn Du, đã nói lên điều đó qua một từ ngữ gốc Hán là "tung hoành" và một từ ngữ thuần Việt là "dọc ngang". "Bấy lâu bể sở, sông Ngô tung hoành", "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Biết rằng bên tiến công, cũng như trong mọi hành động đấu tranh vũ trang, con người không đủ sức vươn tới chiều không gian thứ ba, bên phòng ngự đã lấy "thành cao hào sâu" để ngăn chặn, xem đó như là một "vùng cấm". Ví như Vạn lý trường thành ở Trung Quốc được bắt đầu xây dựng từ cuối thế kỷ III trước công nguyên, dài 6.700km, cao trung bình từ 7 đến 8m, dày từ 5 đến 6m. Thành Đại La ở Việt Nam được xây dựng từ năm 866 cũng cao gần 8m, dày tới 7,5m. Nếu tính cả bức tường nhỏ trên mặt thành thì chiều cao đạt tới 10m. Đến thế kỷ XVII, dựa vào địa hình vùng cửa sông Nhật Lệ, Quảng Bình, Đào Duy Từ đã xây dựng tuyến phòng ngự Lũy Thầy, cao tới 6m, giúp quân Nguyễn chống lại quân Trịnh. Không chỉ xây thành, dựng lũy mà các thống soái quân sự tài giỏi còn biết lợi dụng địa vật, địa hình, tạo cho mình độ cao và độ sâu sẵn có trong thiên nhiên để phòng ngự. Vị trí của dãy núi Tam Điệp trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mãn Thanh, tác dụng của dòng sông Như Nguyệt trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân xâm lược Tống năm 1077... là những minh chứng sinh động. Thực tế chiến trận của lịch sử đã cho ta thấy những công trình phòng ngự đó không phải không có những đóng góp đáng kể vào chiến thắng cuối cùng. Nếu như Ngô Tam Quế, viên tướng nhà Minh, không phản bội Tổ quốc, dẫn đường cho quân Mãn Thanh qua cửa ải Sơn Hải Quan tiến vào trung nguyên thì chắc gì chúng đã vượt qua được Vạn lý trường thành; và nếu như Lũy Thầy thiếu kiên cố, rõ ràng là quân Nguyễn không thể trụ vững suốt 42 năm trước 7 lần tiến công mãnh liệt của quân Trịnh để rồi tồn tại sau đó 102 năm nữa. Nhằm chống lại "thành cao hào sâu", một biểu hiện của sự lợi dụng về chiều không gian thứ ba mà con người chưa đủ sức làm chủ, quân đội bên tiến công đã tìm mọi cách hoặc triệt phá bằng máy bắn đá hoặc chiếm lĩnh bằng cách dùng thang leo lên tường thành và bằng cách dùng tháp vây hãm, buộc đối phương đầu hàng. Bắt đầu từ thế kỷ XIV cho đến cuối thế kỷ XVI, ở châu Âu, việc đưa pháo binh cơ động cùng bộ binh đã làm thay đổi hẳn cách thức tiến công vào các cứ điểm phòng ngự, thế nhưng việc xây dựng "thành cao hào sâu" chưa phải đã chấm dứt. Ngay trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), quân Pháp vẫn còn xây dựng hệ thống chiến lũy Ma-gi-nổ để chống lại quân Đức. Nhưng đâu chỉ có thế mà con người nói chung, giới quân sự nói riêng, đều không muốn dừng lại ở đấy mà từ bao đời nay luôn suy nghĩ tới việc chiếm lĩnh chiều không gian thứ ba, nghĩa là muốn được bay cao như con chim, lặn sâu như con cá. Đó chính là tư tưởng làm cơ sở cho việc xuất hiện máy bay và tàu ngầm. Và đến khi các phương tiện kỹ thuật này xuất hiện, lập tức giới quân sự đưa ngay chúng vào sử dụng. Thật vậy, chiếc máy bay có người lái đầu tiên trong lịch sử, dưới hình thức tàu lượn, ra đời năm 1891 thì chỉ sau đó hai chục năm, năm 1910, máy bay quân sư đã bắt đầu được sản xuất. Còn mẫu tàu ngầm đầu tiên được chế tạo năm 1620 thì đến Chiến tranh giành độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (1775-1783), các nhà quân sự đã đưa vào các trận chiến đấu trên biển.


Ngày nay, việc chiếm lĩnh chiều không gian thứ ba của con người đã trở thành hiện thực trong đấu tranh vũ trang ngót một thế kỷ. Máy bay chiến đấu phản lực đã đạt tới trần bay chừng 20 km. Rất có thể trong một tương lai không xa lắm sẽ xuất hiện loại máy bay vừa hoạt động trong khí quyển lại vừa hoạt động trên khoảng không vũ trụ. Còn tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đã lặn xuống độ sâu tới 400m. Thế nhưng việc quay lại tìm hiểu "thành cao hào sâu" cũng giúp chúng ta biết được một giai đoạn lịch sử của hoạt động quân sự.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:09:17 pm
THEO CHÂN NGƯỜI Ả-RẬP, THUỐC NỔ ĐẾN CHÂU ÂU


Ngày nay, mọi người đều thừa nhận rằng sự ra đời của thuốc nổ bắt nguồn từ các nước phương Đông: Trung Quốc và Ấn Độ. Hai nước này, do điều kiện thiên nhiên, ở trong lòng đất có rất nhiều diêm tiêu. Vì vậy, từ rất xa xưa, nhân dân Trung Quốc đã biết chế tạo thuốc nổ từ sự hỗn hợp của chất muối đó với lưu huỳnh và than củi. Theo biên niên sử, hỏa pháo đã có từ Trung Quốc từ năm 618 trước Công nguyên. Gần đây, một số báo chí châu Âu lại cho rằng sự kiện đó có thể xuất hiện sớm hơn chừng 1300 năm nữa. Còn như ở Ấn Độ, tập hồi ký đầu tiên viết về hỏa pháo hầu như cũng hoàn toàn trùng hợp với thời kỳ xác định chắc chắn sự xuất hiện của nó ở Trung Quốc.


Từ hai nước này, người Ả-rập có được diêm tiêu và các chất nổ khác vào thế kỷ IV đến thế kỷ VIII qua "con đường tơ lụa" từ Á sang Âu. Vì vậy, đến thế kỷ VII, khi người Ả-rập mở "cuộc tiến quân lớn" vào Bắc Phi, Tây Âu và Tây Nam Á để thành lập đế quốc Ả-rập, kéo dài chừng hơn nửa thế kỷ - tính từ các hoàng đế thuộc triều đại O-mê-i-át (661-750) đến năm 732, khi quân đội Ả-rập bị quân Đội Pháp, dưới sự chỉ huy của thừa tướng Sác-lơ Mác-ten, đánh bại tại trận Poa-chi-ê, chặn đứng hẳn bước tiến, không cho quân xâm lược tiến sâu vào nội địa Tây Âu, thì vũ khí nóng cũng đã xuất hiện. Vào thời điểm đó, điều chắc chắn là những cư dân thuộc chủng tộc Hy Lạp trong đế quốc Bi-dăng-ti-um lần đầu tiên biết đến thuốc nổ - sau này trở thành "lửa Hi Lạp" - là nhờ người Ả-rập, kẻ địch của họ. Ở đây có một điều cần được làm sáng tỏ là cụm từ "lửa Hy Lạp". Nói đến "Hy Lạp", nhiều người nghĩ ngay đến một nhà nước cổ đại châu Âu, ở trên bờ bắc Địa Trung Hải, nơi bắt nguồn nền văn minh châu Âu hiện đại và đã bị nhà nước La Mã thôn tính vào năm 30 trước công nguyên. Gần đây trên báo chí đã có sự ngộ nhận đáng tiếc như vậy. Sự thật không phải thế. "Lửa Hy Lạp" ở đây là loại vũ khí nóng của người Hy Lạp đầu thời trung đại. Chính sợ người đọc nhầm lẫn, Ph.Ăng-ghen đã phải nói rõ là "những người Hy Lạp thành Bi-dăng-ti-um". Vậy thành Bi-dăng-ti-um ở đâu? Số là vào cuối thời kỳ đế chế La Mã, phần Đông bộ của đế quốc tỏ ra bền vững và an toàn hơn phần Tây bộ. Từ đó, xu hướng chung là muốn chuyển dần trung tâm chính trị của đế quốc sang phía Đông. Vì thế, năm 324, hoàng đế La Mã Công-xtan-ti-nútx đã xây dựng một kinh đô mới ở mỏm đất nằm giữa Hắc Hải và eo biển Bô-xpho ngày nay, trên nền cũ của thành bang Hy Lạp Bi-dăng-ti-um rồi lấy tên mình đặt cho nó là Công-xtan-ti-nô-pô-lít (thường vẫn gọi là Công-xtan-ti-nốp, nay là It-xtan-bun, thủ đô nước Thổ Nhĩ Kỳ). Tiếp đó, năm 395, hoàng đế kế vị Tê-ô-đô-di-út lại đem chia đế quốc La Mã cho hai người con trai: người con thứ được phần Tây bộ, kinh đô là Rô-ma, người con cả được phần Đông bộ, kinh đô là Công-xtan-ti-nốp. Sau khi đế quốc La Mã - cũng là phần Tây bộ - bị diệt vong vào năm 476, loài người bước sang thời trung đại, phần Đông bộ còn lại được gọi là đế quốc Bi-dăng-ti-um, theo tên cũ của thành bang Hy Lạp. Như thế, "lửa Hy Lạp" có thể xuất hiện đầu tiên ở châu Âu vào cuối thế kỷ VII - đầu thế kỷ VIII,   vì năm 717, khi bắn cháy các thuyền chiến của quân đội Ả-rập, chặn đứng đối phương trước kinh thành Công-xtan-ti-nốp, quân đội đế quốc Bi-dăng-ti-um, dưới sự chỉ huy của hoàng đế Lê-Ô III I-xâu-ri-an, đã dùng đến "lửa Hy Lạp". Thế nhưng từ thời điểm đó, mặc dù thuốc nổ đã đặt chân đến địa đầu của châu Âu, suốt một thời gian dài, tới hơn một trăm năm sau, các dân tộc phương Tây vẫn chưa hề biết gì về vũ khí nóng. Trong khi đó thì người Ả-rập hình như lại đã nhanh chóng làm cho những hiểu biết của mình trở nên phong phú hơn từ những kiến thức học được của người Trung Quốc. Điều đáng chú ý là trong thời gian bị người Ả-rập thống trị, người Tây Ban Nha đã có được những bí quyết về thuốc nổ. Chính thế mà trong quá trình đấu tranh giành lại lãnh thổ trên bán đảo Pi-rê-nê, năm 1118, liên quân giải phóng Tây Ban Nha đã biết sử dụng hỏa pháo đánh chiếm lại thành phố Xa-ra-gốt từ tay người Ả-rập. Đến đầu thế kỷ XIV thì sự hiểu biết về pháo binh của người Ả-rập đã chuyển sang người Tây Ban Nha. Và việc sử dụng pháo binh của các dân tộc khác ở châu Âu là do người Tây Ban Nha truyền đến. Kế đó vào khoảng năm 1350, súng ống được sử dụng ở tất cả các nước miền Tây, Nam và Trung Âu. Cũng từ đấy, thời đại vũ khí nóng bắt đầu.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:09:56 pm
TÌM CỘI NGUỒN CỦA VŨ KHÍ NÓNG


Ngày nay, mọi người đều thừa nhận rằng sự ra đời của thuốc nổ đã làm cho toàn bộ hệ thống tiến hành chiến tranh thay đổi. Những phát minh đó bắt nguồn từ các nước phương Đông, Trung Quốc và Ấn Độ.

Do điều kiện thiên nhiên, ở hai nước này, trong lòng đất có rất nhiều diêm tiêu. Theo sử sách ghi lại thì nhân dân Trung Quốc đá biết dùng thuốc nổ để chế tạo hỏa pháo từ năm 618 trước Công nguyên. Thế nhưng cũng phải đến năm 1232, các nhà nghiên cứu mới có được trường hợp đáng tin cậy đầu tiên về việc sử dụng rộng rãi súng và thuốc nổ. Đó là khi bị quân Mông Cổ vây đánh, nhân dân Phủ Khai Phong đã phòng ngự bằng các khẩu đại bác bắn đạn tròn bằng đá. Lịch sử kỹ thuật quân sự cũng xác nhận rằng ở giai đoạn pháo nòng trơn, đạn pháo là sỏi đá, sắt vụn hoặc chất cháy. Ngay thư tịch Trung Quốc cũng ghi rõ: "Ngày xưa, tên "súng đại pháo" là lấy tên gọi từ máy bắn đá". Còn như ở Ấn Độ thì tập hồi ký đầu tiên viết về hỏa pháo hầu như cũng toàn trùng hợp với thời kỳ xác định chắc chắn sự xuất hiện của nó ở Trung Quốc.


Từ Trung Quốc và Ấn Độ, người Ả-rập có được diêm tiêu và các chất nổ khác qua con đường thương mại từ Á sang Âu. Vì vậy, đến thế kỷ VII, khi người Ả-rập mở cuộc tiến công to lớn vào Bắc Phi, Tây Âu và Tây Nam Á để thành lập đế quốc Ả-rập thì vũ khí nóng cũng đã xuất hiện. Vào thời điểm đó, điều chắc chắn là những cư dân thuộc chủng tộc Hy Lạp trong đế quốc Bi-dăng-ti-um lần đầu tiên biết đến thuốc nổ - sau này trở thành "lửa Hy Lạp" - là nhờ kẻ địch của mình, người Ả-rập. Trong quá trình bị người Ả-rập thống trị, người Tây Ban Nha đã có được những bí quyết về thuốc nổ. Đến đầu thế kỷ XIV, sự hiểu biết về pháo binh đã chuyển từ người Ả-rập sang người Tây Ban Nha. Việc sử dụng pháo binh của các dân tộc khác ở châu Âu là do người Tây Ban Nha truyền đến. Vào khoảng năm 1350, súng ống được dùng rộng rãi ở tất cả các nước miền Tây, Nam và Trung Âu. Từ đấy, thời đại vũ khí nóng bắt đầu. Tuy vậy, những khẩu pháo của châu Âu lúc ấy trông rất nặng nề, đồ sộ, vận chuyển hết sức vất vả, khó khăn. Mãi đến giữa thế kỷ XV, châu lục này mới có những bước phát triển đáng kể trong việc chế tạo và sử dụng pháo binh, bắt đầu từ những đóng góp của anh em nhà Buy-rô (Bureau) vào khoảng năm 1450. Nhờ đó, những khẩu pháo mở cửa đột phá được chế tạo. Người Pháp sử dụng ngay loại vũ khí này cơ động chiến đấu cùng với bộ binh và kỵ binh. Binh chủng mới ra đời đã nhanh chóng giúp vua Sác-lơ (Charles) VIII (1470-1498) gIành được những chiến thắng đáng ngạc nhiên ở I-ta-li-a.


Những đóng góp củA anh em nhà Buy-rô vào binh chủng pháo binh giữa thế kỷ XV thật to lớn nhưng tính về thời gian thì chậm hơn 50 năm so với những phát kiến về thần cơ sang - pháo của Hồ Nguyên Trừng ở Việt Nam. Súng thần cơ (máy móc như thần) gồm một bộ phận ống trơn làm nòng, đúc bằng sắt, bên trong có những mũi tên cũng bằng sắt, đạn chì và thuốc súng, có ngòi châm lửa để bắn. Phía sau là phần báng. Thần cơ có nhiều loại, kích, cỡ lớn, nhỏ khác nhau. Loại nhỏ - thần cơ sang - tức súng bộ binh - bắn xa từ 600 đến 700m, làm vũ khí tiến công. Loại lớn - thần cơ pháo - kéo bằng xe hoặc đặt trên giá gỗ, làm vũ khí phòng ngự. Ra đời, thần cơ đã là một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí cho quân đội. Từ đó, nhiều hình thức và phương pháp sử dụng hỏa lực, kết hợp hỏa lực với bạch khí, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích để đánh địch cũng ra đời theo. Với tính năng, tác dụng như vậy nên quân đội nhà Minh sau khi đánh Giao Chỉ, đã học tập được phép đúc súng thần cơ sang - pháo (các súng máy các cỡ)... và đưa vào chiến đấu. Loại vũ khí này được xem là "trọng khí của nhà nước", vì vậy, Thiên triều quy định mỗi khi "tế binh khí phải tế Trừng". Trên thực tế, nhà Minh không hoàn toàn học tập kỹ thuật đúc súng của Hồ Nguyền Trừng. Từ giữa thế kỷ XIV, người Trung Quốc đã có những khẩu thần công phát huy được tác dụng trong chiến đấu phòng ngự và công thành. Điều mà quân đội nhà Minh học được ở Giao Chỉ chính là kỹ thuật chế tạo thần cơ dã chiến, loại đại bác gọn nhẹ, cơ động thuận tiện, dễ dàng. 


Ở Việt Nam, súng ống chính thức ra đời khi nào, hiện nay chưa rõ. Chỉ biết rằng mùa xuân năm 1390, tướng nhà Trần là Trần Khát Chân đã dùng hỏa pháo bắn trúng thuyền chiến quân xâm lược Chăm-pa, giết chết Chế Bồng Nga tại ngã ba sông Luộc. Đến đầu thế kỷ XV, Hồ Nguyên Trừng đã nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật đúc súng mà chế tạo ra thần cơ sang - pháo. Do địa hình sông ngòi ở nước ta, việc chuyển quân phần lớn bằng thuyền, vả lại, vận động chiến vốn là cách đánh phổ biến của dân tộc ta. Từ những thực tiễn đó nên khi thần cơ ra đời, Hồ Nguyên Trừng đã đưa ngay nó cơ động cùng quân đội. Khách quan mà xét, phần đóng góp của người Việt Nam họ Hồ này vào sự phát triển pháo binh trên phạm vi toàn thế giới đáng được trân trọng. Tuy thế, sự đóng góp đó cũng chỉ nằm trong lĩnh vực cơ động của pháo. Ông không phải là người đầu tiên sử dụng vũ khí nóng trên hành tinh này như có người ngộ nhận rằng thế giới còn đang thai nghén về súng đại bác thì chúng ta lại càng tự hào về những sáng chế, phát minh của ông.


Tóm lại, chúng ta có thể kết luận rằng, vũ khí nóng ra đời từ châu Á. Làm cho những kiến thức về vũ khí nóng được phong phú và đưa những kiến thức vào châu Âu để nó được phát triển mạnh mẽ tại các nước này, dẫn tới sự thay đổi hẳn bộ mặt của chiến tranh cũng là người châu Á. Đặc biệt là trong quá trình phát triển này, việc trực tiếp tìm tòi, cải tiến cách sử dụng vũ khí nóng, đưa nó cơ động cùng bộ đội là thành tựu của người Việt Nam - một dân tộc cũng lại ở châu Á, mà người đóng góp nhiều công sức nhất là Hồ Nguyên Trừng.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:10:32 pm
HÒN ĐÁ VÀ KHẨU ĐẠI BÁC


Hòn đá và khẩu đại bác tưởng là hai vật rất khác nhau nhưng lại có "khá nhiều duyên nợ" với nhau. Không phải không có lý do mà trong tiếng Hán có ba từ "pháo" (đại bác) thì đã có hai từ thuộc bộ "thạch" (đá). Xét về dạng tự, ở trong khẩu đại bác có hòn đá.


Ngược dòng lịch sử quân sự, chúng ta thấy, ngay từ thời cổ đại, người Hy Lạp đã biết dùng máy bắn đá. Nó hoạt động theo nguyên lý của cây cung, bao gồm một chiếc khung bằng gỗ và một bộ phận mềm dẻo, dễ uốn, đủ sức co giãn, được lắp thừng to bện bằng lông hoặc lõi dây. Máy bắn đá chia thành nhiều loại, loại nhỏ dùng trong hoạt động dã chiến, loại lớn dùng để công thành. Có nhứng trường hợp máy bắn đá đưa tới mục tiêu những hòn đá lớn xa tới 1/4 dặm. Trong thời gian vây đánh Giê-ru-xa-lem, người La Mã đã dùng tới 300 máy bắn đá như thế.


Sang thời trung đại, khoảng một thời gian dài, trước thế kỷ XIV, khi thuốc nổ còn chưa được sử dụng vào chiến tranh thì bên cạnh gươm giáo, cung tên bằng kim loại, trên chiến địa nhiều nơi ở châu Âu, đá vẫn còn được sử dụng làm vũ khí. Ví như trận Ha-xting, một trận đánh lớn ở nước Anh năm 1066, rìu đá vẫn còn được dùng để chiến đấu. Hơn 270 năm sau, năm 1339, tại trận Lao-pen, một trận đánh quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của các bang ở Thụy Sĩ, bộ binh của họ không có một thứ vũ khí nào khác ngoài đá để chiến đấu ở cự ly xa.


Đó là ở châu Âu. Còn ở châu Á, thì máy bắn đá xuất hiện lần đầu tiên trong quân đội nhà Tống (960-1279), vẫn được gọi là "pháo thạch cơ", sau đó gọi tắt là "pháo". Loại này đưa viên đạn đi theo nguyên lý đòn bẩy, gồm một cần bật và một giá đỡ. Đầu cần bật có buộc những giỏ đựng đạn. Đầu giá đỡ, người ta bện nhiều sợi dây để khi ’’bắn’’ có thể giật mạnh, tạo sức đẩy, hất các viên đạn đá ở đầu cần bật đi xa.


Sau khi thuốc nổ xuất hiện, việc bắn pháo cũng có sự thay đổi. Để đưa viên đạn đi, người ta không phải dựa trên nguyên lý của cây cung như ở châu Âu, cũng không phải dựa trên nguyên lý đòn bẩy như ở châu Á nữa, mà dựa vào năng lượng của hợp chất diêm tiêu, lưu huỳnh và than củi. Thời đại của vũ khí nóng, của súng ống kim loại bắt đầu. Tuy thế nhưng những khẩu pháo sử dụng thuốc nổ có mặt lần đầu tiên ở Trung Quốc trong trận phòng ngự Phủ Khai Phong chống lại quân xâm lược Mông Cổ năm 1232 cxng bắn bằng những viên đạn đá hình tròn. Hơn 100 năm sau, khoảng năm 1350, khi súng đại bác được dùng phổ biến ở tất cả các nước miền Tây, Nam và Trung Âu, thì những viên đạn cũng vẫn còn là những hòn đá như mấy ngàn năm trước. Mãi đến thế kỷ XV, nhờ công nghiệp luyện kim phát triển, ở nước Pháp và nước Đức, khẩu pháo mới được đúc bằng sắt, đồng và đồng đen và mới bắt đầu bắn đi những viên đạn kim loại, mở đường cho những viên đạn xuyên, những trái nổ ra đời.


Quá trình hình thành những viên đạn đó kể từ khi thuốc nổ đi vào châu Âu phải mất tới một, vài thế kỷ nhưng tất cả đều bắt đầu từ những viên đạn đá cổ truyền.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:11:11 pm
CHIẾC BÁNH XE TRONG CHIẾN TRẬN


Trong các thứ binh khí - kỹ thuật của người lính, chiếc bánh xe được xếp vào bậc "tuổi thọ cao nhất". Vì từ khi loài người có chiến tranh đến nay, suốt hơn ba ngàn năm lịch sử, cái vật mang theo hình tròn đầy đặn đó lúc nào cũng có mặt trên khắp các nẻo đường chinh chiến.


Theo lịch sử thế giới, bánh xe xuất hiện đầu tiên ở vùng Lưỡng Hà (Trung Cận Đông) vào cuối thời kỳ đồ đá mới, khoảng ba ngàn năm trước Công nguyên. Ngược lại, ở châu Mỹ, trước khi Crít-xtốp Cô-lông (1450-1506) tìm ra châu lục này, năm 1492, thì thổ dân ở đây lại chưa hề biết đến bánh xe.


Loài người đưa bánh xe vào chiến trận qua chiếc xe chiến đầu tiên - có hai bánh, do hai hoặc bốn ngựa kéo. Khoảng 1.500 năm trước Công nguyên, quân đội Ai Cập dưới thời Tân vương quốc đã có binh chủng xe chiến bên cạnh binh chủng bộ binh. Dưới thời cổ đại, trên quy mô toàn thế giới, ở Đông Á, quân đội các nước thời Xuân Thu, Chiến quốc, ở Tây Á, quân đội nước At-xi-ri và ở châu Âu, quân đội các nước Hy Lạp, La Mã cũng đã sử dụng nhiều xe chiến. Có xe chiến, việc cơ động của quân đội đả trở nên nhanh chóng, việc đột kích đạt hiệu quả cao hơn. Từ năng lượng của bắp thịt người - ngựa, những chiếc bánh xe chiến đầu tiên trong lịch sử quân sự đã lăn trên các nẻo đường hành quân hơn ba ngàn năm (1.500 năm trước và 1.800 năm sau Công nguyên) mặc dù đến thế kỷ X, kỵ binh ra đời, đã giữ vị trí quyết định trong tác chiến. Tuy thế nhưng sự kiện đó không thể nào phủ định được vai trò vận tải quân sự của những cỗ xe ngựa (và cả những cỗ xe trâu, xe bò).


Vào thế kỷ XVIII, sự phát minh máy hơi nước của Giêm Oát (1736-1819) đã dẫn tới sự ra đời của tàu thủy đi trên sông biển và tàu hỏa đi trên đất liền. Bánh xe quay vòng trên đường chinh chiến ở thời điểm này đã chuyển từ bánh xe ngựa sang bánh xe - đúng ra là guồng nước - của tàu thủy (vì vậy trong tiếng Hán có từ "luân thuyền" - thuyền chạy bằng bánh xe - và "giang luân" - bánh xe đi trên sông) và bánh xe của tàu hỏa. Từ hai phương tiện giao thông mới này, trong hoạt động quân sự đã có những biến đổi đáng kể. Với quan niệm đề cao "sức mạnh trên biển", các nước tư bản Tây Âu đã sử dụng tàu chiến, đại bác đi xâm chiếm thuộc địa và dùng loại vũ khí này để chống đối nhau. Bên cạnh đó, các nhà lý luận của giai cấp tư sản như A.Ma-han (Mỹ) và Ph.Cô-lông (Anh) còn đề ra học thuyết quân sự "lực lượng hải quân", "chiến tranh bang hải quân". Còn xe lửa, một phương tiện chưa từng thấy lại có giá thành rẻ nhất đã đáp ứng được những nhu cầu vận tải quân sự đối với những quân đội đông người thời ấy. Không những thế, phương tiện cơ động bằng thứ xe chiến khổng lồ này cùng với phương tiện chỉ huy bằng điện tín đã là hai nhân tố chủ yếu giúp cho một hình thức tác chiến mới ra đời ở thế kỷ XIX là chiến dịch.


Trở lên trên, chúng ta đã thấy chiếc bánh xe quay vòng trong chiến trận chuyển từ năng lượng sinh vật sang năng lượng cơ giới đã đưa tới những biến đổi lớn trong việc tiến hành chiến tranh. Nhưng năng lượng quay vòng bánh xe của máy hơi nước, của động cơ đốt ngoài, mới chỉ là bước đầu, phải chờ đến khi năng lượng quay vòng đó chuyển sang động cơ đốt trong. Loại động cơ này được phát minh đã dẫn đến sự ra đời của ô tô và, tiếp sau đó còn là xe tăng, xe thiết giáp, máy kéo, máy bay... Nhờ sự quay vòng của những chiếc bánh xe ô tô, hàng sư đoàn đền hàng quân đoàn với đầy đủ vũ khí trang bị đã có thể cơ động một cách nhanh chóng, kịp thời qua những đoạn đường dài là điều hoàn toàn có thể thực hiện được trong một thời gian tương đối ngắn. Ngày nay, khi mà yếu tố bất ngờ đã trở thành một nguyên tắc của chiến tranh thì người ta chú ý rất nhiều đến việc nâng cao khả năng cơ động lực lượng bằng nhiều phương thức khác nhau, kể cả bằng đường không, nhưng vì quá tốn kém cho nên cơ động bằng đường bộ, nhất là bằng ô tô có một vị trí to lớn, thậm chí ở một số trường hợp nó còn là chủ yếu. Qua đó, chúng ta thấy rõ nếu như những chiếc bánh ô tô xoay tròn đã giúp cho bộ đội nâng cao được khả năng cơ động thì những chiếc bánh xe tăng, xe thiết giáp lại giúp cho bộ đội hạn chế được sự sát thương của bom đạn đối phương và tăng cường được sức chiến đấu trong những tình huống phức tạp của máu lửa.


Như vậy là chiếc bánh xe quay vòng trong chiến trận bắt đầu từ chiếc bánh xe ngựa đến chiếc bánh xe của tàu thủy dưới nước, chiếc bánh xe lửa trên đường ray, chiếc bánh lốp cao su của ô tô trên đường cái, chiếc bánh xe răng cưa quay trong vòng xích của xe tăng, xe thiết giáp đã nối tiếp nhau đi cùng người lính qua mọi nẻo đường của chiến tranh dù là trên chiến trường đã có tới ba thời đại vũ khí, vũ khí lạnh, vũ khí nóng và vũ khí hạt nhân. Cho đến đầu thế kỷ này, khi máy bay chiến đấu ra đời, một bộ phận quân đội đã chiến đấu trên không trung, nhiều người ngỡ rằng chiếc bánh xe sẽ không đi cùng người lính nữa. Nhưng không! Chưa từng có người phi công nào trước khi vút lên bầu trời cao rộng mà lại không để đôi bánh xe máy bay của mình lướt nhanh trên đường băng và cũng không một chiến sĩ lái máy bay nào trước khi hạ cánh đã dám quên kiểm tra kỹ lưỡng đôi bánh xe lắp dưới ghế ngồi để tiếp đất.


Tóm lại, ở thời đại nào, chiếc bánh xe cũng vẫn có mặt trong chiến trận, sở dĩ như vậy là vì nhiệm vụ vĩnh hằng của nó là phục vụ cho khả năng cơ động của các lực lượng chiến đấu. Bởi lẽ "đi" và "đánh" - hành quân và tác chiến - là điều muôn thủa của chiến tranh. Có quân đội nào trên thế giới đánh mà lại không đi và không đi mà có thể đánh được. Để đi được nhanh, mau chóng rút ngắn thời gian, thu hẹp không gian, chiếc bánh xe, vì vậy, ngày càng được hoàn thiện. Từ việc đẽo gọt tấm gỗ tròn thô kệch lúc ban đầu, bánh xe chiến được lắp ghép thêm phần kim loại lên vành nhằm làm giảm dần độ ma sát, bớt gập ghềnh khi lăn trên mặt đường và ngày nay những chiếc bánh xe cơ giới đã được chế tác từ kim loại và cao su để đạt tới tốc độ cao trong giao thông cũng như trong cơ động tác chiến. Tất cả các loại bánh xe đó dĩ nhiên đều là hình tròn duy có điều khoa học - kỹ thuật càng phát triển thì hình tròn bánh xe càng hoàn chỉnh tới mức độ chính xác rất cao, vành vạnh hết mức và càng ngày, tần số vòng quay của các bánh xe đó càng mãi mãi tăng lên, không nghỉ, không ngừng.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 04:11:39 pm
NỐI GIÁO CHO GIẶC


Nối giáo cho giặc nghĩa là "ví hành động tiếp tay cho giặc hoặc giúp đỡ, khuyến khích kẻ có hành động sai trái". Bên cạnh tổ hợp trên, tiếng Việt còn có những thành ngữ tương ứng "vẽ đường cho hươu chạy", "rước voi về giày mồ"...

Những cụm từ trên được hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa khái quát. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu thành ngữ này về phía nghĩa đen qua từng từ cụ thể để tìm ra xuất xứ của nó. "Cho giặc" chắc chắn rằng đã quá rõ, còn lại "nối giáo" là gì? Vấn đề đặt ra là ở thời đại bạch khí, vũ khí cá nhân gồm có giáo, gươm, rìu, chiến, cung tên... Nhưng tại sao người ta chỉ nói "nối giáo" mà không hề nói "nối gươm", "nối rìu", "nối tên"...? Như đã trình bày trong các bài "Gậy gộc, gậy tầm vông", "Cây giáo và khẩu súng cầm tay - những vũ khí cơ bản", cây giáo là vũ khí cá nhân, trang bị cho tất cả mọi người lính, từ bộ binh đến kỵ binh. Đó là loại vũ khí đóng vai trò quyết định trên chiến địa. Cây giáo chúng ta đang nói ở đây là cây giáo kim loại, ra đời cùng với chiến tranh. Trên thực tế lịch sử loài người, trước khi cây giáo kim loại ra đời, đã có cây giáo gỗ rồi cây giáo có mũi bằng đá hoặc xương thú. Sang thời đại hỏa khí, khi khẩu súng cầm tay được trang bị rộng rãi, chiếc giáo bị loại bỏ thì một hình thức hóa thân của nó được cắm trên nòng súng, đó là chiếc lưỡi lê. Như vậy, chỉ tính riêng cây giáo kim loại, trên quy mô toàn thế giới, tuổi thọ của nó cũng đã tới hơn ba ngàn năm. Hãy tính từ trong các quân đội cổ đại như quân đội Ai Cập (Bắc Phi), quân đội Atsiri (Lưỡng Hà), quân đội nhà Thương (Trung Quốc)... vũ khí trang bị cho tuyệt đại đa số lính chiến - dù là đồng hay sát - đã thấy có mặt cây giáo. Riêng ở Việt Nam, trong các di chỉ khảo cổ thuộc giai đoạn Đồng Đậu dưới thời đại Hùng Vương, người ta đã tìm thấy khá nhiều mũi giáo bằng đồng: loại có chuôi tra cán, loại có họng lắp thân, loại đúc theo hình búp đa... Ngay ở thế kỷ này, trong những thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, gậy tầm vông, dao, kiếm, nhất là cây giáo, vẫn giữ một vị trí đáng kể.


Như chúng ta đã biết, dưới thời đại vũ khí lạnh, giáo là vũ khí đánh gần, cách sử dụng là đâm. Cung tên là vũ khí đánh xa, cách sử dụng là bắn. Cung tên có ưu điểm là sát thương địch từ xa nhưng mỗi lần hành động, dù trúng hay trượt, mũi tên bay khỏi cây cung, sẽ "một đi không trở lại", nghĩa là một mũi tên dùng thường không quá một lần. Trái lại, cây giáo không sát thương địch được từ xa nhưng nó lại luôn luôn nằm trong tay người chiến binh. Chủ nhân của nó có thể đâm bao nhiêu lần cũng được, không bị hạn chế. Chỉ một điều là trong hành động, người lính lúc nào cũng phải vươn người, với tay ra phía trước để đưa phương tiện sát thương tới mục tiêu. Thực chất việc làm đó là "nối dài cây giáo" một cách có ý thức mặc dù loại vũ khí này của bộ binh La Mã đã gần 2m và của kỵ binh trung đại đã dài từ 4 đến 6m. Vì trong chiến đấu, thiếu động tác đó, mũi nhọn của vũ khí không bao giờ "hoàn thành được nhiệm vụ".


Đến đây, ai cũng thấy rõ công lao to lớn của cây giáo trên chiến địa. Cho nên trong tiếng Hán, đã không ít từ liên quan đến hoạt động quân sự có mang theo thành phần loại vũ khí này, dưới dạng chữ "qua". Ví như "qua" trong "can qua", "vũ" trong "vũ lực", "nhung" trong "binh nhung", "chiến" trong "chiến tranh", "phạt" trong "chinh phạt", "tiêm" trong "tiêm kích", "giới" trong "cảnh giới", v.v.


Tóm lại, nối giáo cho giặc là một thành ngữ như chúng ta đã biết và lấy một hành động quân sự cụ thể làm nội dung. Hành động đó phản ánh sự phát huy sức mạnh của một loại vũ khí chủ lực dưới thời bạch khí mà vật tiêu biểu, nhất thiết phải là cây giáo trong tay người lính chiến.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:37:25 am
"XUẤT KỲ BẤT Ý", CÁCH ĐÁNH SỞ TRƯỜNG CỦA NGƯỜI VIỆT


Trong "Từ điển tiếng Việt" xuất bản gần nhất, "xuất kỳ bất ý" được định nghĩa: "Bất thình lình, thừa lúc ta không ngờ, làm cho không kịp đối phó. Xuất kỳ bất ý rút súng ra bắn".


Cụm từ gốc Hán này vốn là một thuật ngữ quân sự, lần đầu tiên được Tôn Tử nêu ra trong cuốn "Binh pháp thập tam thiên" nổi tiếng dưới thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên).

"Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý"

(Tiến công theo lối kỳ, (đối phương) không phòng bị, Ra quân theo lối kỳ, (đối phương) chẳng để ý). Ở cuốn binh thư trên, tác giả còn viết tiếp:

"Trong tác chiến nói chung là dùng chính để đối địch, dùng kỳ để đánh thắng. Cho nên người giỏi dùng kỳ thì biến hóa vô cùng như trời đất, cuồn cuộn vô tận như sông ngòi, xoay vần mãi mãi như mặt trăng, mặt trời, thay đổi khôn cùng như thời tiết bốn mùa. Thanh âm chỉ có năm nhưng có thể tạo thành những bản nhạc nghe không nhàm, màu sắc chỉ có năm nhưng có thể tạo thành những hình ảnh xem không chán, mùi vị chỉ có năm nhưng có thể tạo thành những món ăn nếm không ngán. Thế tác chiến không ngoài kỳ và chính, nhưng kỳ và chính biến hóa khôn lường. Sự biến hóa giữa kỳ và chính như chuyên động tuần hoàn, không có đầu mối, không ai biết thế nào mà hạn định".


Vậy "chính - kỳ" là gì? Đó là hai thủ đoạn tác chiến chủ yếu trên chiến địa, nội dung chứa đựng nhiều nghĩa.

Về mặt bố trí lực lượng cảnh giới là "chính”, lực lượng tập trung cơ động là "kỳ", lực lượng kiềm chế là "chính", lực lượng đột kích là "kỳ"; lực lượng tiến công vỗ mặt là "chính", lực lượng đánh cạnh sườn, bao vây vu hồi là "kỳ".


Về mặt tác chiến, đánh một cách đường đường, chính chính, có quy củ, công khai, theo nguyên tắc chung, đánh dàn trận thông thường của quân đội chính quy là "chính"; đánh một cách linh hoạt, khác lạ, theo kiểu bí mật, bất ngờ, vượt ra ngoài lối đánh thông thường như phục kích, tập kích là "kỳ".


Bằng cách đánh theo lối kỳ, năm 206 trước Công nguyên, 5 vạn quân Tây Hán, dưới sự chỉ huy của Hàn Tín, đã chiến thắng Trần Dư cùng 10 vạn quân Triệu, bắt sống vua Triệu tại Tỉnh Hình (thường gọi là Bối thủy trận).


Lối đánh "chính - kỳ" vào Việt Nam từ bao giờ, hiện nay chưa xác định được nhưng rõ ràng nó mang một màu sắc hoàn toàn mới.

Từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn cũng đã bàn nhiều về lối đánh này.

"Quân chính thì bộ khúc rõ ràng, đúng theo pháp độ. Quân kỳ thì không cần pháp độ bó buộc, nghìn biến muôn hóa..."

Mặc dù ông từng là người "soạn chép binh pháp các nhà" nhưng trước quan điểm của Tôn Tử "phương pháp dùng binh, quân gấp 10 thì bao vây, gấp 5 thì tiến đánh..." ông đã đưa ra một cách lập luận khác hẳn:

"Quân gấp 10 thì bao vây, gấp 5 thi tiến đánh, đó là quân chính...".

"Phàm thắng địch phải là nhờ ở kỳ".

Từ đó, ông xác định vai trò của người chỉ huy tác chiến:

"... Tướng hay dùng chính mà không dùng kỳ là tướng giữ gìn, hay dùng kỳ mà không dùng chính mới là tướng chiến đấu...".


Sau đó hai thế kỷ, thế kỷ XV, trên cơ sở tư tưởng quân sự Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi đưa ra một nhận xét khái quát:

"Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ".

Qua cách lập luận của hai nhà tư tưởng quân sự lớn của dân tộc, chúng ta thấy rõ dù là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hay chiến tranh giải phóng dân tộc, nhân dân ta đều không muốn thực hiện cách đánh theo lối "đúng pháp độ", "bộ khúc rõ ràng" mà thiên về lối đánh "nghìn biến, muôn hóa", lối dùng mai phục, "đánh bất ngờ".


Xuất phát từ tư tưởng chỉ đạo đó, các trận đánh lớn, quyết định thắng lợi các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc đều được tiến hành bằng cách đánh theo lối kỳ.

Đó là trận giương đông, kích tây, đánh tháng quân Tống trên bờ bắc sông Như Nguyệt năm 1077, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Thường Kiệt.

Đó là trận thủy chiến, đánh thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng năm 1288, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trần Quốc Tuấn.

Đó là trận mai phục, đánh thắng quân Minh trên ải Chi Lăng năm 1427, dưới sự chỉ huy của các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú...

Đó là trận thắng quân Mãn Thanh năm 1789 tại Ngọc Hồi - Đống Đa, dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Quang Trung.

Chắc ai cũng còn nhớ câu nói tại đây của đô đốc Đặng Tiến Đông với nhà vua:

"Chúa thượng đem chính binh đánh phía trước, thần đem kỳ binh lẻn đánh phía sau, đang đêm nhân khi giặc không phòng bị mà tiến công nên dễ thắng lợi".


Tóm lại, do điều kiện thường xuyên tiến hành chiến tranh yêu nước, bảo vệ độc lập tự do tới hàng ngàn năm, trong hoàn cảnh phải luôn luôn "lấy ít thắng nhiều", nhân dân ta không thể đánh theo lối thông thường mà phải đánh theo lối "lạ lùng", lối khác thường mới có thể chiến thắng được quân xâm lược, phép đánh theo lối kỳ như vậy đã thấm sâu vào máu thịt của bao nhiêu thế hệ và từ đó đã đi vào lối sống thường ngày, lâu đời, trở thành ngôn ngữ dân sự.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:38:13 am
"TÀI THAO LƯỢC" CỤM TỪ ĐÓ BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?


Để chỉ những tài năng quân sự kiệt xuất, thường nhân dân ta gọi đấy là "tài thao lược". Cụm từ đó bắt nguồn từ đâu?

"Thao" và "lược" là tên gọi tắt hai cuốn binh thư cổ của Trưng Quốc: "Lục thao" và "Tam lược".

"Lục thao" là sáu phép bình thiên hạ, gồm có văn thao (thu phục lòng người), võ thao (bình thiên hạ, giữ nước), long thao (tuyển chọn tướng sĩ), hổ thao (hành quân, tiến thoái động tĩnh), báo thao (chiến đấu với địch theo trạng thái biến hóa của chúng), khuyển thao (huấn luyện quân sĩ). Đó là cuốn sách đã có từ đầu thời Chiến Quốc, ghi tên tác giả là Khương Tử Nha, một khai quốc công thần nhà Chu (thế kỷ XI đến năm 771 trước Công nguyên) nhưng có thể là do người đời sau giả thác. "Tam lược" là ba kế sách về quân sự. Thứ nhất là thượng lược, còn gọi là tướng lược (mưu lược làm tướng), thứ hai là trung lược, còn gọi là quân lược (mưu lược của binh sĩ), thứ ba là hạ lược, còn gọi là trận lược (mưu lược đánh trận). Giới sử học quân sự nghi vấn liệu nó có phải do Hoàng Thạch Công viết rồi trao lại cho học trò là Trương Lương - một võ tướng lừng danh, đã từng giúp Lưu Bang lập ra nhà Hán (206 đến 24 trước Công nguyên) hay không? Nhưng dù đúng hay sai, việc đó để các nhà khoa học xác minh. Chỉ biết từ xưa đến nay, dư luận rộng rãi vẫn cho rằng hai cuốn sách đó là có thật và do chính hai tác giả trên viết ra. Giữa hai thời điểm ra đời các cuốn sách đó - bao trùm lên cả thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thời kỳ chiến tranh xảy ra liên miên ở Trung Quốc - còn xuất hiện bốn cuốn binh thư khác nửa là "Binh pháp thập tam thiên" của Tôn Tử, "Binh pháp" của Ngô Khởi, "Tư Mã pháp" của Điền Nhương Thư và "Uất Liễu tử" của Uất Liễu. Còn cuốn binh thư thứ bảy, " Lý Vệ Công vấn đối" (hoặc "Đường - Lý vấn đối"), thì do học trò của Lý Tĩnh ghi chép lại những lời hỏi đáp của Lý Thế Dân, vua Thái Tông nhà Đường, với tướng là Lý Tĩnh mà thành. Cuốn sách ra đời khoảng 1044 - 1060 dưới thời Tống Thần Tông (1023-1064), sau cuốn "Tam lược" một ngàn năm.


Như vậy là bảy cuốn binh thư cổ ra đời vào hai giai đoạn: giai đoạn trước Công nguyên và giai đoạn thế kỷ XI, cách nhau một thời gian rất xa. Có thể nói rằng khi cuốn binh thư thứ bảy ra đời, nội dung kiến thức quân sự của sáu cuốn binh thư thời cổ đại đã được các nhà quân sự nghiên cứu, thực hiện và gọi thâu tóm lại là "thao lược" vì nó bắt đầu bằng "thao" và kết thúc bằng "lược", vả lại, cuốn binh thư ra đời sau cùng này, trên thực chất không có gì mới. Nội dung chủ yếu của nó chỉ là sự bàn luận về những quan điểm, ý tứ của sáu cuốn binh thư ra đời trước nó.


Về hình thức, cách gọi này là phương pháp hoán dụ, một biện pháp tư từ, dùng một bộ phận để chỉ toàn thể, lấy phần am hiểu binh pháp của những người có tài năng quân sự kiệt xuất để chỉ chung cho lớp người đó. Trong văn học cũng có những trường hợp tương tự. Hội "Tao Đàn" do Lê Thánh Tông thành lập năm 1495 cũng là cách gọi rút ra từ tên tập thơ "Lý Tao" của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc.


Về nội dung, cách gọi trên còn thể hiện một quan niệm về xem xét, đánh giá tài năng con người của nhân dân ta. Trong thực tiễn, nếu chỉ hành động mà không có kiến thức, không có sự hiểu biết về những hành động đó thì chưa hẳn là một con người tài năng. Tục ngữ vẫn có câu "Một người hay lo bằng một kho người hay làm". Trần Quốc Tuấn cũng thường dạy cấp dưới: "Người làm tướng không nên lấy giỏi cung đao cưỡi bắn làm tài mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi". Không những thế, ông còn nói rõ, đối với người "tướng chỉ huy được cả thiên hạ", bên cạnh lòng nhân từ, sự tín nghĩa, coi bốn biển như một nhà, phải có đủ kiến thức "trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người...".


Như vậy, rõ ràng là trong mọi lĩnh vực, bên cạnh việc thành thạo về thực hành, nhân dân ta vẫn chủ trương có sự am hiểu nhiều về lý luận. Ngay cả trong lĩnh vực quân sự, lĩnh vực được xem là phải sử dụng nhiều đến vũ lực, đến sức mạnh nhưng người Việt Nam vẫn cho rằng cùng với việc tinh thông võ nghệ, cần phải có sự hiểu biết sâu sắc về binh thư, binh pháp. Thế mới là người thực sự có tài năng quân sự.


Âu đây cũng là cách nói về truyền thống trọng kiến thức của dân tộc đã có từ bao đời nay.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:39:32 am
ĐỘI HÌNH CHIẾN ĐẤU PHA-LĂNG (HY LẠP) VÀ
"TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI" (TRUNG QUỐC)


Đội hình chiến đấu là sự bố trí thế trận của phân đội, binh đội, binh đoàn cùng các phương tiện tăng cường của các đơn vị đó để tiến hành các trận chiến đấu.

Ngay từ thời cổ đại, đội hình chiến đấu đã ra đời. Ở Hy Lạp, cơ sở của đội hình chiến đấu là pha-lăng. Đó là thế trận siết chặt dày đặc thành một khối dọc của bộ binh nặng trang bị giáo, lao, kiếm và khiên mộc. Pha-lăng còn được tổ chức từ 8 đến 25 hàng ngang. Được hoạt động như một thế trận chiến thuật thống nhất, ở trong đội hình pha-lăng, các chiến binh chĩa giáo về phía trước và che kín toàn bộ chính diện bằng dãy khiên mộc của mình.


Ở Trung Quốc, đội hình chiến đấu đầu tiên, ra đời từ thời Xuân Thu (770 đến 476 trước Công nguyên) là trận đồ bát quái hay bát quái, có nghĩa là "thế trận tám chướng ngại". Nó cũng còn có tên gọi nữa là "trận đồ cửu cung". Do đó, trong thuật ngữ quân sự cổ Trung Quốc có cụm từ "trận đồ cửu cung bát quái”. Đây là kiểu đội hình chiến đấụ của bộ binh người Hán ở Hoa Hạ chống lại người-ngựa của dân du mục phương Bắc.


Đội hình này xếp theo hình chữ "tỉnh", có 9 ô vuông, 8 ô bao quanh 1 ô ở giữa. Tỉnh (#) là giếng, một vật rất quen thuộc với người Hán, vốn cư dân vùng đất hoàng thổ, rất màu mỡ song ít sông ngòi, phải lấy giếng làm nguồn nước sinh hoạt. Tám đội đó bố trí trên 8 ô là: 1 đội tiền vệ, 4 đội chủ lực, 2 đội cạnh sườn (bên phải và bên trái) và 1 đội hậu vệ. Đội tiền vệ có nhiệm vụ tuần tra canh gác, cảnh giới chống lại sự đột kích bất ngờ của địch. Hai đội cạnh sườn, trong tiến công sẽ đột kích vào hai bên sườn quân địch còn trong phòng ngự thì yểm hộ, không cho địch tập kích vào sườn đội hình. Các đội chủ lực chiến đấu trong đội hình nhằm áp đảo địch, truy kích khi thắng lợi, trong phòng ngự, đập tan sức tiến công của chúng. Đội hậu vệ bảo đảm an toàn phía sau, làm lực lượng dự bị cho trận đánh, khi cần thiết sẽ phối hợp với các đội chủ lực phát huy chiến quả. Việc chỉ huy được tiến hành bằng cách phát khẩu lệnh bằng miệng, bằng các tín hiệu âm thanh và màu sắc vào ban ngày hoặc bằng ánh lửa vào ban đêm. Người chỉ huy ở chính giữa đội hình, bên ngoài 8 ô, nghĩa là ở ô thứ 9. Vì vậy, tất cả 9 ô đó được gọi là "cửu cung", 9 ngôi nhà lớn, 9 nơi trú quân (8 nơi của binh sĩ và 1 nơi của người chỉ huy).


So với đội hình pha-lăng, đội hình bát quái ưu việt hơn. Thứ nhất, đội hình pha-lăng chỉ bố trí được trên địa hình bằng phẳng rộng rãi của đồng bằng châu Âu. Phải đợi đến khi người La Mã thay đội hình pha-lăng bằng đội hình ma-níp thì đội hình chiến đấu này mới đủ sức tác chiến ở địa hình bị chia cắt. Trái lại, đội hình bát quái rất linh hoạt, cơ động, có thể phát huy tác dụng trên địa hình mấp mô ở phía bắc Trung Quốc. Thứ hai, đội hình pha-lăng xếp theo khối vuông với số lượng gần như ngang nhau cả phía trước lẫn chiều sâu, rất xơ cứng, chỉ có thể công kích chính diện, dễ bị hở sườn và không truy kích được khi địch rút chạy. Do đó, trong hội chiến Ma-ra-tông (490 trước Công nguyên), quân Ba Tư thua chạy, quân Hy Lạp đành bó tay. Vì vậy, các tướng soái thời cổ đại đã nghiên cứu kỹ những mặt yếu của pha-lăng địch, nhất là việc dàn đều lực lượng ở chính diện, đồng thời cải tiến thế trận của mình để giành thắng lợi. Trong hội chiến Lớt (371 trước Công nguyên), tướng Ê-pa-mi-nông-đát (khoảng 420-362 trước Công nguyên) là người đầu tiên biết phân bố không đồng đều lực lượng dọc theo chính diện và đã tạo ra một quả đấm mạnh ở phía sườn trái bằng cách bố trí tại đây một khối dọc gồm 50 hàng ngang. Nhờ vậy, ông đã thành công trong việc chia cát pha-lăng của quân Xpác-tơ (có ưu thế về số lượng) và đánh tan đối phương. Trong hội chiến Ac-ben-la (331 trước Công nguyên), A-lếch-xăng-đrơ Ma-xê-đoan (356-323 trước Công nguyên) lại có bước cải tiến mới bằng cách phối hợp các binh chủng lại với nhau trên chiến địa. Tuy lấy pha-lăng bộ binh làm cơ sở của đội hình chiến đấu song ở hai cạnh sườn, ông đã tăng cường kỵ binh. Là một bộ phận độc lập của đội hình chiến đấu, kỵ binh có nhiệm vụ chủ yếu là đột kích vào cạnh sườn và sau lưng địch nhằm kết hợp với đột kích chính diện cửa pha-lăng. A-lếch-xăng-đrơ Ma-xê-đoan cũng là người đầu tiên có tư tưởng dùng bộ binh trung làm lực lượng dự bị. Những nội dung công việc mà Ê-pa-mi-nông-đát và A-lếch-xăng-đrơ cải tiến trong đội hình pha-lăng thì đội hình bát quái đã có sẵn từ đầu. Lực lượng của nó được bố trí kín kẽ cả trên 8 hướng, cho nên không chỉ công kích chính diện, mà còn có thể công kích vào cả hai bên sườn. Không những thế, đội hình bát quái còn có đội hậu vệ làm lực lượng dự bị cho trận đánh trong mọi tình huống.


Với ưu điểm như vậy, "trận đồ cửu cung bát quái" có sức sống rất lâu bền. Trên cơ sở đội hình này, đến thời Tam Quốc, thế kỷ III, Gia Cát Lượng đã sử dụng lực lượng trong chiến đấu, tạo nên thế trận "bát môn kim tỏa" (tám cửa được chốt giữ bằng khóa vàng) khiến Tư Mã Y và hai con trai suýt bị thiêu cháy nếu không có trận mưa rào, còn Lục Tốn sở dĩ thoát chết là nhờ có người chỉ đường ra. Phỏng theo trận đồ của Gia Cát, đến đời Đường, thế kỷ VIII, Lý Tĩnh cải tạo thành trận đồ Lục Hoa, lực lượng bố trí xòe ra như sáu bông hoa, tạo nên thế trận liên hoàn, doanh lớn bọc lấy doanh nhỏ như những cánh hoa ngoài che chở những cánh hoa trong, gọi là Lý Vệ Công binh pháp.


Ở Việt Nam, vào thế kỷ VIII, Trần Quốc Tuấn cúng đã thu góp binh pháp mọi nhà, làm ra "đồ bát quái cửu cung" gọi là " Vạn Kiếp tông bí truyền thư". Đây là một trong những tác phẩm lý luận quân sự của ông, tiếc rằng, hiện nay đã thất truyền. Đến thế kỷ XVII, Đào Duy Từ đã nghiên cứu, tìm hiểu, đưa "trận đồ cửu cung bát quái" vào tập "Hổ trướng khu cơ" làm tài liệu giáo dục quân sĩ. Thế trận biến hóa thật khôn lường, có nhất biến, nhị biến rồi tứ biến, thập biến, có trận vuông, trận tròn lại có trận thẳng, trận cong...


Tóm lại, so với đội hình pha-lăng, ngay từ lúc ra đời đội hình bát quái đã có nhiều ưu điểm hơn. Chính vì thế mà nó được kế thừa, phát triển và tồn tại tới gần ba thiên niên kỷ.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:41:40 am
XƯNG HÙNG, XƯNG BÁ


Ttheo định nghĩa của từ điển, "xưng hùng, xưng bá" là người "tự coi mình có quyền chi phối ở trong một vùng, một khoảng, không phục tùng một quyền lực nào cả".

Về mặt lịch sử, "xưng hùng, xưng bá" xuất hiện từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Đó là thói quen của các vua nước Sở nhằm lấn át các nước chư hầu khác để giành lấy địa vị cao nhất cho mình như các trường hợp Hùng Dịch, Hùng Cừ...

Cụm từ trên có từ thuần Việt như xưng và các từ gốc Hán như bá và hùng. Từ xưng đã rõ nghĩa, chúng ta tìm hiểu từ bá và hùng. Bá là người đứng đầu nước chư hầu. Từ đó xuất hiện các cặp từ bá chiếm (dùng sức mạnh chiếm của người), bá chủ (người đứng đầu các nước chư hầu), bá quyền (một nước hùng cường chiếm đoạt và thống trị nước khác)... và cụm từ "mưu đồ bá vương". Cụm từ này có ý nghĩa là "tính toán, sắp đặt mọi sự nhằm thực hiện cho được ý định (thường là lớn)" như làm bá, làm vương. Việc làm đó có hai con đường: "bá đạo" và "vương đạo". Tuy cùng mục đích giành quyền lực nhưng "bá đạo" là lấy vũ lực đàn áp còn trái lại "vương đạo” là lấy nhân nghĩa chinh phục lòng người. Xét theo dạng tự chữ Hán, "vương" là người biết nối liền ba ngôi: trời, đất và người. Trong đó "thuận lòng người" là điều quan trọng nhất.


Còn hùng từ gốc Hán nhưng được xem là cách phiên âm của khun, một danh hiệu chỉ người đứng đầu của các dân tộc Nam Á thuộc ngữ hệ Môn - Khơ-me như Kháng, La Ha, Khơ Mú, Xinh Mun... và các ngữ hệ Tày - Thái như Thái Tây Bắc, Lào... Trong truyền thuyết người Kháng, người La Ha có các tù trưởng Khun Quằng, Khun Mun, Khun Piềng... đã từng tổ chức nhân dân địa phương chống lại cuộc di cư lớn của người Thái từ phía Nam Trung Quốc tràn đến vùng Sơn La, Lai Châu hiện nay. Trong truyện dân gian người Kháng ở vùng Thuận Châu (Sơn La) có các nhân vật quý tộc: Khun Lú, nàng Ủa. Trong dã sử người Lào có Khun Bô-rom, người đã đưa bộ tộc mình tiến vào định cư ở đất Lào bây giờ. Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám, trẻ con vùng Sơn Tây vẫn dùng câu "... Ông Khuấn nhà mày" để chửi nhau. Khuấn coi như ông tổ, người cầm đầu một dòng họ. Dưới chế độ phong kiến Việt Nam, người đứng đầu một phe phái hoặc một phường hội được gọi là trùm. Tiếng Việt cổ đọc là klum sau chuyển thành tlùm. Như vậy, hùng, khun, cun, khuấn, tlùm đều chỉ người đứng đầu và có cách phát âm gần giống nhau. Đến đây có một vấn đề được đặt ra. Tại sao các vua nước Sở dùng danh hiệu hùng để tự xưng là người đứng đầu? Số là người Sở không phải là gốc Hán mà là "man di", nghĩa là người ngoại tộc ở phía Nam và phía Đông đất Trung nguyên.


Họ vốn sinh ra và lớn lên ở vùng lưu vực sông Dương Tử, là một dân tộc trong Bách Việt (Nam Á). Mà Bách Việt là các tộc người cư trú từ vùng lưu vực sông Dương Tử xuống đến vùng châu thổ sông Mê-kông ở phía Nam. Cho nên hùng của các vua nước Sở và vua Hùng của nhà nước Văn Lang có chung một nội dung cũng là điều hợp lý vì cả hai đều nằm trong một không gian văn hóa của người Bách Việt.


Bàn về từ hùng cũng còn có một cách giải thích nữa. Đó là luận điểm của một học giả người Pháp - H. Maspéro - và được một số người đồng tình. Ông cho rằng vì dạng tự gần giống nhau nên từ lạc bị ghi nhầm thành từ hùng. Đúng hay sai, hãy để các nhà khoa học phân giải. Chúng ta chỉ biết rằng từ tố lạc - trong lạc dân, lạc điền - do chữ Hán ghi lại cũng là một cách phiên âm của từ tố "rặc" (nước rặc, cạn rặc) trong tiếng Việt cổ vùng Phú Thọ, nghĩa là "nước xuống, nước lui".


Tóm lại, "xưng hùng, xứng bá" là muốn tự xưng làm người đứng đầu, nhưng trong cụm từ đó, hùng và bá là hai từ gốc Hán song lại có nguồn gốc khác nhau. Hùng là một từ được ghi lại bằng chữ Hán nhưng thật ra là cách phiên âm của ngôn ngữ Việt cổ nói riêng và ngôn ngữ Bách Việt nói chung. Từ lạc có thể cũng là một hiện tượng như vậy. Đây cũng là mối quan hệ qua lại thông thường của hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa ở cạnh nhau. Quy luật đó chắc chắn không có sự ngoại lệ đối với nền văn hóa Hán, một nền văn hóa từ mấy nghìn năm nay vẫn được xem là khổng lồ, là vĩ đại chỉ biết "tỏa sáng” mà không hề biết "vay mượn".


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:43:10 am
LẦN THEO VẾT XE, LẮNG NGHE TIẾNG TRỐNG


Thời Xuân Thu, vào mùa xuân năm 684 trước Công nguyên, quân đội nước Tề tiến đánh vào nước Lỗ. Vua nước Lỗ là Trang Công chuẩn bị ứng chiến. Tào Quệ đến xin được gặp nhà vua.

Ngay câu đầu, Tào Quệ đã hỏi: "Dựa vào đâu mà chúa thượng cử quân chống lại nước Tề". Trang Công trả lời: "Quần áo, thức ăn hàng ngày, ta không hề hưởng một mình mà đã phải chia sẻ cho dân chúng. Làm như vậy, chắc chắn là khi quân xâm lược đến, ta ra trận, trăm họ sẽ ủng hộ". Nghe nói vậy, Tào Quệ vui vẻ hưởng ứng: "Hay lắm! Thế thì đấy là việc làm hết lòng, hết sức vì đất nước, xứng đáng là tận trung với nhân dân. Dựa vào đấy, chúng ta có thể đủ sức quyết một trận sống mái với quân Tề. Vậy thi khi xuất trận, chúa thượng cho phép thần được theo hầu". Sau đó, hai người cùng ngồi trên một chiếc xe chiến tiến ra chiến địa. Khi quân đội hai bên tham chiến bày binh, bố trận xong xuôi, Trang Công chuẩn bị đánh trống trận, ra lệnh công kích. Tào Quệ vội xua tay: "Chưa, chưa, chưa đến lúc!". Để cho quân Tề giống trong tới lần thứ ba, Tào Quệ mới nói với Trang Công: "Bây giờ chúa thượng có thể đánh trống và hạ lệnh công kích được rồi đấy". Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân đội nước Lỗ, quân xâm lược đã nhanh chóng tan rá, tháo chạy. Trang Công định cho quân đuổi theo. Tào Quệ lại can: "Chậm lại một chút nữa, chưa vội". Nói xong, ông lại xuống xe kiểm tra dấu vết xe chiến của quân Tề rồi lại leo lên thành xe nhìn mãi ra xa. Xong xuôi đâu đấy, Tào Quệ mới tỏ ý: "Được rồi". Thế là Trang Công hạ lệnh truy kích, tiêu diệt hết bọn tàn quân.


Sau khi thắng trận, Trang Công mới hỏi tại sao Tào Quệ lại phải thận trọng như vậy. Ông giải thích: "Việc đánh nhau trên chiến địa, điều quan tâm hàng đầu là tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Quân đội phải dồi dào dũng khí. Thử xem quân địch có dũng khí hay không, hãy lắng nghe tiếng trống trận và quan sát vết bánh xe chiến của chúng. Bao giờ cũng vậy, việc đánh trống trận lần thứ nhất là để lấy dũng khi cho ba quân, đánh trống trận lần thứ hai thì dũng khí đang hăng sẽ dần tàn lụi và đánh trống trận đến lần thứ ba thì dũng khí quân Tề xẹp xuống, trái lại dũng khí quân ta lại tràn đầy. Chính lúc đó, bất cứ một quân đội nào xuất kích cũng dễ dàng đánh bại được quân Tề. Tuy thế, khi chúng đã thua chạy, không phải quân ta truy đuổi được ngay mà cần tính toán kỹ. Vì ràng khó mà đoán định được thái độ của đối phương, nhất là đối với một nước lớn như Tề. Biết đâu chúng giả vờ tháo chạy rồi bố trí trận địa mai phục để đánh úp. Sở dĩ thần phải xuống xe, xem xét tỷ mỷ mới thấy được quân kỳ của chúng cái nằm ngả, cái nằm nghiêng, không theo một hàng lối nào cả. Tất cả những điều lắng nghe và trông thấy, thần cho rằng quân địch không còn dũng khí nữa. Chúng đã phải thua chạy là điều chắc chắn nên thần mới bắt đầu hạ lệnh truy đuổi".


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 18 Tháng Mười, 2021, 07:44:47 am
THẮNG GIẶC BẰNG BA LẦN ĂN TRỘM


Thời Chiến Quốc (476-221 trước Công nguyên), nước Tề kéo quân đến đánh nước Sở. Vua Sở cử tướng Doãn Tử Phát đưa binh xa ra biên giới chặn giặc. Nhưng tình hình chiến sự rất căng thẳng. Sau ba lần giao chiến, quân Tề chẳng mảy may nao núng. Không những vậy, khí thế của chúng lại còn mạnh thêm. Tử Phát vô cùng bối rối, tưởng chừng như không còn cách nào để gỡ cho ra mối bòng bong này. Trong lúc ấy có một người dân đến xin gặp. vị thống soái đang ngỡ ngàng thì người khách lạ nói ngay:

- Tôi là người suốt đời chỉ lo việc đào tường, khoét vách của thiên hạ để sinh sống. Tuy vậy, tôi cũng là một người dân, chả lẽ thấy đất nước có biến mà lại chịu ngồi nhìn. Tôi biết rằng mấy hôm nay, tướng quân ăn không ngon, ngủ không yên trước thế giặc dữ mà chưa tìm ra cách phá. Nếu cho phép, tôi xin "thử tay nghề" ngaỵ tại doanh trại giặc, có khi xoay chuyển được tình thế cũng nên.


Đang lúng túng, Tử Phát đành phải chấp thuận hành động lạ lùng có một không hai này, một việc làm mà chưa hề cuốn binh thư nào ghi chép.

Đêm thứ nhất, anh ăn trộm lần mò vào doanh trại giặc, lấy bức trướng đem về. Ngay sáng hôm sau, Tử phát cử người công khai đem trả. Đêm thứ hai, anh ăn trộm chui vào tận phòng ngủ viên tướng Tề, nhấc gọn chiếc gối đầu. Lần này, Tử Phát lại cử người đem trả. Đến đêm thứ ba, anh ăn trộm bò vào tận giường viên chủ tướng giặc, rút gọn chiếc kim cài đầu của hắn. Cũng như hai lần trước, Tử Phát lại sai người đem trả. Sau ba lần bị mất trộm, viên tướng Tề vô cùng hoảng sợ. Y nghĩ rằng, doanh trại quân đội được canh phòng nghiêm mật là vậy mà người của đối phương đi về như vào chỗ không người. Nếu cứ thế này, có lẽ cái đầu của mình rồi cũng bị "mất trộm" nốt. Thế là y vội vàng xuống lệnh cuốn cờ, rút quân về nướn. Cuộc chiến tranh kết thúc, phần thắng lợi thuộc về quân Sở.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Mười, 2021, 08:00:01 pm
MỘT SỐ TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN


Một hội chiến, một chiến dịch bắt đầu từ những trận mở màn.

A Lỗ là một trận đánh như vậy. Sau gần ba tháng tác chiến hết sức gian khổ, hiểm nghèo nhưng cực kỳ anh dũng, chống lại 60 vạn quân xâm lược Mông - Nguyên trên bốn hướng, cuối tháng 1 - 1285, quân và dân ta đã tạo được một tình thế chiến lược mới, bắt đầu có lợi cho ta, không lợi cho địch. Khối quân chủ lực ta đã tập trung, sẵn sàng chuyển sang phản công chiến lược. Trong khi đó, đại quân địch chia thành hai khối lớn: khối chủ yếu, khoảng 10 vạn, đóng ở Thăng Long - Chương Dương, do Thoát Hoan trực tiếp nắm giữ; khối thứ hai, khoảng 8 - 9 vạn, đóng tại Thiên Trường - Trường Yên, do Toa Đô chỉ huy. Nối liền hai khối quân đó là một hệ thống đồn trại mà A Lỗ giữ vị trí hiểm yếu nhất.


Đồn A Lỗ, đặt tại cửa sông Luộc. Nó vừa bảo đảm khu trung tuyến của hệ thống đồn trại giặc theo dọc sông Hồng, vừa khống chế vùng "ngã ba sông", không để quân ta từ biển, từ sông Luộc vào sông Hồng tiến đánh đại bản doanh của chúng ở Thăng Long. Giữ đồn A Lỗ là tướng vạn hộ Lưu Thế Anh.


Ý đồ chiến lược của quân và dân ta lúc bấy giờ là chia cắt lực lượng địch, không cho hai khối chủ lực phối hợp với nhau khi quân ta thực hành phản công chiến lược. Đòn tiến công không thể trực tiếp giáng xuống một trong hai khối đó được. Như thế rất nguy hiểm vì lập tức, địch sẽ dựa vào hệ thống đồn trại trên dọc sông Hồng, tăng số quân lên gấp bội, gây rất nhiều khó khăn cho ta. Cho nên, điểm nút của sự chia cắt đó chính là vị trí A Lỗ. Cùng với tính chất hiểm yếu, một bộ phận lực lượng ở đây còn là những quân sĩ từ Chăm pa kéo ra, vừa phải hành quân xa lại vừa phải tham chiến ở Thanh - Nghệ, sức chiến đấu đã giảm sút đi nhiều, đúng như nhận định của Bộ Thống soái tối cao: "Quân giặc nhiều năm đi xa, quân nhu chở đi vạn dặm, tất rất mệt nhọc. Ta lấy sung sức mà đánh mệt nhọc, trước hết đánh phủ đầu, làm mất nhuệ khí của chúng thì nhất định phá được".


Căn cứ vào tình hình đó, Trần Quốc Tuấn đã sử dụng một phần chủ lực, do ông trực tiếp chỉ huy, bất ngờ đánh úp, giáng một đòn sấm sét xuống A Lỗ. Không chống cự nổi, Lưu Thế Anh buộc phải rút quân tháo chạy.


Điều chú ý là khi A Lỗ bị tiến công, mặc dù quân địch tại chỗ đã điên cuồng chống cự, thì ngược lại, tại Trường Yên và Thăng Long, quân Nguyên vẫn "án binh bất động". Kể cả sau đó, chúng cúng không có một hành động nào để lập lại mối liên hệ giữa hai khối quân.


Thực tế chiến trường đó đã cho phép Trần Quốc Tuấn đi tới một kết luận chính xác. Thời cơ đẩy mạnh phản công tiêu diệt đại quân địch đã đến. Lúc bấy giờ, một vấn đề được đặt ra: đòn tiến công chiến lược đầu tiên sẽ nhằm vào Thăng Long hay Trường Yên? Nhiều ý kiến cho rằng, để chắc thắng, nên hướng nỗ lực về phía Trường Yên vì khối quân ở đây yếu hơn về lực lượng, về tinh thần chiến đấu lại nằm trong thế bị cô lập. Nhưng Trần Quốc Tuấn lại cho rằng sau những chiến thắng vừa qua, thế của quân và dân ta đang như cơn bão lớn mà thế của Toa Đô chẳng khác gì đám bọt biển. Lấy bão lớn mà diệt bọt biển là không tương xứng. Ông cho rằng cần phải phát huy khí lực của quân và dân ta đang lúc hưng thịnh, bất ngờ mở cuộc tiến công quy mô lớn vào khu vực Thăng Long, tiêu diệt bộ phận đại quân của Thoát Hoan.


Chủ trương trên tuy rất táo bạo nhưng đã có sự cân nhác, thận trọng, kỹ càng. Hành động quân sự này chẳng những bảo đảm được chắc thắng trước mắt mà còn tạo nên một cục diện mới, có lợi cho quân và dân ta phát triển thế tiến công chiến lược trong những đòn tiếp theo và đã đưa cuộc chiến tranh giữ nước năm 1285 tới thắng lợi hoàn toàn.


Đúng 140 năm sau, năm 1425, trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XV, quân và dân ta lại giành được một chiến thắng mở màn nửa tại Trà Long.

Sau gần 7 năm (từ tháng 2-1418 đến tháng 10-1424), luẩn quẩn ở miền rừng núi Tây Bắc Thanh Hóa, quân và dân ta mới xác định được một hướng chiến lược đúng đắn cho việc phát triển cuộc chiến tranh, thích hợp nhất với thời cơ và hoàn cảnh lúc ấy là tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An. Giữa hai đường tiến quân, nghĩa quân cúng thấy rõ nếu theo đường qua đồng bằng thì sẽ vấp phải thành Diễn Châu, một vị trí kiên cố, có quân Minh đóng giữ, khó lòng vượt qua. Hướng tối ưu là theo đường miền núi. Con đường này tuy hiểm trở, khó đi nhưng lại được che chở kín đáo, có thể đối phó dễ dàng trước mọi tình huống. Trên đường hành quân, nghĩa quân quyết định trước hết phải chiếm được thành Trà Long, một vị trí án ngữ nhưng chỉ có quân ngụy đóng giữ dưới sự chỉ huy của Cầm Bành, một tên ngụy quân thuộc dân tộc ít người.


Để tiết kiệm xương máu mà lực lượng giữ thành không phải là mạnh, nghĩa quân chủ trương bao vây bức hàng. Ngoài số nghĩa quân, tham gia trợ lực còn có cả nhân dân các làng bản trong vùng. Kết quả là sau hai tháng bị giam hãm, thiếu lực lượng chi viện, viên tướng giữ thành phải mở cửa ra hàng.


Chiếm được Trà Long, một vị trí then chốt nằm trên đường thượng đạo từ Bắc vào Nam, qua lưu vực sông Con và hai con đường thủy bộ từ thành Nghệ An lên Ai Lao theo lưu vực sông Lam, nghĩa quân đã khống chế được cả miền rừng núi Nghệ An, từ Trà Long, nghĩa quân có thể uy hiếp được cả thành Nghệ An, một căn cứ trung tâm của địch ở vùng này.


Sau đòn Trà Long, chớp thời cơ, nghĩa quân đã thừa thắng, đánh bại hoàn toàn cuộc phản công lớn của địch ở Khả Lưu, Bồ Ai. Đây là những chiến thắng lớn nhất kể từ khi cuộc chiến tranh nổ ra. Không những thế, nghĩa quân còn đưa được một số lực lượng ra Bắc, hoạt động ở các châu Gia Hưng và Quốc Oai - bao gồm một dải đất từ phía nam Hà Tây lên tới phía nam Sơn La ngày nay, tạo bước đi vững chắc cho những thắng lợi sau này.


Có thể nói rằng từ chiến thắng mở màn Trà Long, quân và dân ta đã làm thay đổi lớn về cán cân lực lượng, có lợi cho ta, không lợi cho địch. Chúng bắt đầu suy yếu cả về thế và lực. Cuộc chiến tranh giải phóng đã chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn phát triển ra quy mô cả nước.


525 năm sau, ngày 16-9-1950 đã diễn ra trận Đông Khê, trận đánh mở màn của chiến dịch Biên giới trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhằm khai thông biên giới Việt - Trung, lúc đầu ta chủ trương giải phóng một phần biên giới, đoạn từ Cao Bằng đến Thất Khê và xác định Cao Bằng là điểm công kích chủ yếu. Thế nhưng sau khi nghiên cứu tình hình thực địa, thấy vị trí này "rắn", khó tạo nên được chiến thắng mở màn cho chiến dịch, ta chuyển điểm công kích sang Đông Khê và tuy có khó khăn nhưng cũng đã đi tới mục đích. Sau khi Đông Khê bị diệt, đoán rằng đối phương đã chuyển hoạt động xuống phía Nam, địch cho binh đoàn Lơ Pa-giơ từ Thất Khê hành quân lên, định bất ngờ chiếm lại căn cứ đã mất nhưng bị chặn đánh nên buộc phải triển khai đội hình, chiếm lĩnh một số điểm cao ở phía Nam Đông Khê và nhích dần đến dãy núi Cốc Xá. Tại đây, chúng hy vọng đón cánh quân của Sác-tông vừa rút khỏi Cao Bằng đang tiến dần xuống phía Đông Nam, nhưng rồi không trụ lại được trước sức tiến công mạnh mẽ của quân ta. Cuối cùng, Lơ Pa-giơ cùng Ban tham mưu đã bị bắt. Binh đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn. Sau khi được tin binh đoàn Lơ Pa-giơ lâm vào cảnh khốn quẫn, binh đoàn Sác-tông vội vã đốt xe pháo, rẽ tắt vào rừng hợp quân với nhau ở Cốc Xá. Thế nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu. Số phận bi thảm của binh đoàn không sao cứu nổi. Toàn bộ số quân, trong đó có cả Sác-tông và Ban tham mưu binh đoàn bị bắt sống. Sự kiện này đã đưa chiến dịch đến toàn thắng.


25 năm sau nữa, năm 1975, quân và dân ta lại lập nên một chiến thắng mở màn nửa là chiến thắng Buôn Ma Thuột. Tuân thủ một nguvên tắc tác chiến truyền thống bất di bất dịch của dân tộc: "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” - nhưng phải là hiểm yếu. A Lỗ, Trà Long, Đông Khê đã có được những điều kiện như thế. Buôn Ma Thuột cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Nắm chắc hướng Bắc Tây Nguyên là nơi tập trung lực lượng mạnh của địch, nơi đối đầu với các nguy cơ từ phía Bắc tràn tới, quân và dân ta xác định Nam Tây Nguyên là hướng đột phá và thị xã Buôn Ma Thuột là điểm quyết chiến tiêu diệt địch. Tiến công vào Nam Tây Nguyên là thọc vào sườn, vào sau lưng địch. Đây là cách đánh hiểm truyền thống của dân tộc. Nó có ý nghĩa lớn và quan trọng vì tạo nên sự chia cắt về chiến lược giữa Tây Nguyên với vùng đồng bằng ven biển miền Trung. Hướng Nam Tây Nguyên là một bất ngờ thì điểm quyết chiến ở Buôn Ma Thuột lại càng làm cho địch hoảng hốt, hoang mang đến cực độ trước sức mạnh và trình độ tác chiến của quân chủ lực ta. Chúng không tưởng tượng nổi chiến sự lại có thể diễn ra ở một vùng sâu, vùng "kín cổng, cao tường" như vậy trong khi mọi ứng phó đang dồn vào Bắc Tây Nguyên, dõi theo những "động tác giả", mà Công Tum và Plây Cu là hai trọng điểm. Mặt khác, Buôn Ma Thuột còn giữ một vị trí rất hiểm yếu. Vốn là nơi đóng sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn 23 ngụy, nó lại nằm trên ngã ba đường chiến lược. Từ vị trí có giá trị lớn này, quân ta dễ dàng tiến xuống các mục tiêu khác ở các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ, thực hiện chia cắt giữa miền Trung với Sài Gòn, thủ đô của chính quyền ngụy, với chiến thắng Buôn Ma Thuột, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược là tiêu diệt một số đáng kể quân chủ lực địch và giải phóng hoàn toàn vùng đất Tây Nguyên.


Một điểm ưu việt đáng nói tới của những chiến thắng trên là khi địch đã mất các căn cứ đó, chúng không làm sao có thể xoay chuyển lại được thế cờ.

Xem A Lỗ là một trận đánh mở màn, có giá trị lớn ở giai đoạn quyết định đối với toàn bộ cuộc chiến tranh, để chắc thắng, Trần Quốc Tuấn đã "xuất tướng", tự cầm quân xung trận. Ở Đông Khê cũng vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, đã đi sát mặt trận để giúp đỡ Bộ chỉ huy chiến dich và động viên bộ đội chiến đấu. Ở Buôn Ma Thuột, bên cạnh việc phát huy ưu thế về tinh thần chiến đấu, về địa hình rừng núi, quân ta đã nghiên cứu kỹ càng việc tập trung lực lượng, cách sử dụng các binh chủng, các loại binh khí kỹ thuật, quyết tâm thắng nhanh, thắng gọn, thắng ngay từ trận đánh mở màn.


Tóm lại, dù hoàn cảnh lịch sử của từng thời đại có khác nhau, việc tiến hành chiến tranh không giống nhau nhưng các chiến thắng trên đều bắt nguồn từ truyền thống nghệ thuật quân sự dân tộc, nghĩa là đều đi lên bằng một chiến thắng mở màn, tựa như một năm mới mở đầu bằng một mùa xuân tươi đẹp.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Mười, 2021, 08:01:37 pm
VỀ MỘT DỰ BÁO CỦA TRẦN QUỐC TUẤN


Năm 1300, trước khi qua đời,Trần Quốc Tuấn đã dặn dò lại vua Trần Anh Tông về kế sách giữ nước. Nội dung đó thường được gọi tắt là bản Di chúc.

Trong văn kiện này, sau khi tổng kết về những cuộc chiến tranh yêu nước trong quá khứ của lịch sử dân tộc và ngay ở thời đại mình, Trần Quốc Tuấn rút ra một kết luận: "Quân giặc cậy có trường trận, quân ta cậy có đoản binh. Đem đoản binh chống lại trường trận là việc thường của binh pháp". Và ông khẳng định: "Nếu thấy quân giặc ồ ạt kéo đến như lửa cháy gió thổi thì dễ chế ngự". Nhưng ông vẫn cảnh giác, nhắc nhủ các thế hệ sau về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra trong tương lai, đồng thời đề xuất những biện pháp ngăn ngừa. "Nếu chúng dùng cách chiếm cứ dần như tăm ăn lá dâu, không lấy của dân, không cầu được chóng thì mình phải dùng lương tướng xét tình hình biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng phó, làm thế nào thu hút được binh sĩ như cha con một nhà mới có thể chiến thắng được, vả lại, phải nới sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước".


Điều nhắc nhở của ông không phải là không có căn cứ mà đều dựa vào lý luận chung và thực tế lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc. Trong "Binh pháp thập tam thiên" - cuốn binh thư đầu tiên của loài người, ra đời từ thời Xuân Thu, trước Trần Quốc Tuấn 1.

800 năm - Tôn Tử khẳng định: "Chiến tranh lâu dài mà có lợi cho quốc gia là việc xưa nay chưa từng có". Chiến tranh ở đây - theo quan niệm Tôn Tử - là chiến tranh chinh phạt - thực chất là chiến tranh xâm lược - về thời gian, nhất thiết phải "ồ ạt để thắng nhanh". Đó là một thông lệ. Còn nếu "chiếm cứ dần", "không cầu được chóng" là trái với lý luận, là ngoại lệ. Về mục đích, chiến tranh chinh phạt bao giờ cũng là tàn sát, cướp bóc, vơ vét. Chính Tôn Tử cũng đã viết: "Những tướng soái thông minh bao giờ cũng nhằm lấy lương từ nước địch". "Không lấy của dân", đấy chỉ là "động tác giả". Thực tế lịch sử dân tộc cũng cho thấy Thục Phán bị mất nước, Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử thôn tính chính cũng là vì kẻ thù bên ngoài đã xảo quyệt thay đổi phương thức tiến hành để bên trong vẫn giữ nguyên mục đích của chiến tranh là xâm lược, chiếm đoạt. Vậy đằng sau các hiện tượng đó, thực chất là âm mưu gì? Trần Quốc Tuấn nhắc nhở các thế hệ sau phải hết sức đề phòng.


Để giải quyết những khó khăn này, cần có những biện pháp thích hợp. Trước hết là "phải dùng lương tướng". Đây là điều kiện tiên quyết, đúng như phương châm của chúng ta ngày nay "cán bộ quyết định hết thảy". "Lương tướng" là tướng giỏi, không chỉ là một thống soái quân sự tài trí mà còn là nhà chính trị đủ khả năng quán xuyến toàn bộ công việc đất nước. Theo ông, đó là người "dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, coi bốn biển như một nhà. Đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ, không ai địch được...". Thứ hai là phải "xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng phó". Đây là điều mà ở cương vị thống soái tối cao, trong các cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, nhiều lần ông đã xử trí cực kỳ linh hoạt. Cuối năm 1282, tại hội nghị Bình Than, nhà vua cùng vương hầu, bá quan quyết định tổ chức một trận quyết chiến chiến lược để chặn đứng cuộc chiến tranh và tiêu diệt quân xâm lược tại Vạn Kiếp, nhưng tháng 2 năm 1285 trước sức tiến công ồ ạt của chúng, Trần Quốc Tuấn thấy tình hình rất nguy hiểm, không thể hành động như cũ mà đã kịp thời thay đổi kế hoạch, cho đại quân rút ngay khỏi chiến trường để bảo toàn lực lượng. Đó là ở quy mô chiến lược, còn ở quy mô chiến thuật, ông đã có những cách giải quyết rất sáng tạo. Ví như sau những trận chiến đấu oanh liệt ở vùng Nghệ An, đã phần nào trì hoãn được bước tiến, tiêu hao một số sinh lực địch và làm chúng mệt mỏi, quân đội ta rút dần về phía Thanh Hóa. Đến đây, xét thấy không thể lùi thêm được nữa và tuy rằng binh lực không nhiều, Trần Quốc Tuấn vẫn cho quân đội dừng lại, dựa chắc vào công sự chiến đấu, tổ chức phòng ngự, chống lại 10 vạn quân Toa Đô từ phía Nam tiến ra. Thứ ba là "thu hút được binh sĩ như cha con một nhà". Đây là điều Trần Quốc Tuấn rất quan tâm: "Quân sĩ có cái vui mổ trâu, nấu rượu, cái khí thế ném đá, vượt rào, họ yêu mến tướng như con em yêu mến cha anh, như chân tay, giữ gìn đầu mắt, không ai có thể ngăn nổi họ... Tướng mà coi quân sĩ như cỏ rác thì quân sĩ coi tướng như cừu thù. Mong cho họ sung vào hàng ngũ cũng còn khó, còn mong gì họ gắng sức đánh giặc nữa. Đó là cái chước lớn của tướng soái để vỗ về quân sĩ vậy", ông hiểu rõ rằng không tranh thủ được sự đồng tình của các tướng sĩ thì không thể động viên họ đánh giặc được. Dã Tượng, Yết Kiêu, Nguyễn Địa Lô là những thuộc hạ gần gũi của ông. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống Mông - Nguyên, họ đã lập được nhiều thành tích lớn. Sở dĩ có được những chiến công đó, một phần vì họ yêu nước nhưng phần khác cũng là vì họ được ông đãi ngộ như tình cha con. Thứ tư, biện pháp mà Trần Quốc Tuấn coi là "thượng sách để giữ nước" là "phải nói sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc". Vốn xuất thân từ một gia đình đại quý tộc phong kiến nhưng vị thống soái quân sự tối cao ấy cũng đã từng trải qua những chức vụ chỉ huy từ thấp đến cao. Đến cuộc chiến tranh 1285, khi đã trở thành Tổng tư lệnh, ông vẫn đi sát người lính nơi chiến địa nên không kịp rút lui cùng với đại quân. Thế nhưng theo kế hoạch, mặc dù binh thuyền rút hết, thuyền của Yết Kiêu vẫn ở lại chờ ông cho đến cùng. Thấy vậy, Trần Quốc Tuấn đã vui mừng thốt lên: "Chim hồng hộc bay được cao là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không... thì cũng như chim thường thôi". Gian khổ, sống chết cùng với nhân dân suốt ba cuộc chiến tranh liên tiếp trong 30 năm, ông rất thông cảm với mọi khó khăn, mất mát trong nhân dân nên sau khi chiến thắng, có ý kiến cho rằng cần sửa lại thành Thăng Long vì bị phá phách nhiều nhưng ông không nhất trí: "Việc sửa lại thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay, không thể chậm trễ được là việc úy lạo nhân dân... Có như thế, dân mới nức lòng, càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói: "Chúng chí thành thành" tức ý chí dân chúng là một bức thành kiên cố. Đó mới là cái thành cần sửa ngay".


698 năm đã qua, kể từ khi Trần Quốc Tuấn từ trần - tháng 8 năm Canh Tý (tháng 9-1300) - nhưng tính thời sự về lời dự báo của ông đến nay như vẫn còn nguyên giá trị.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 21 Tháng Mười, 2021, 08:02:32 pm
QUÂN HỒI VÔ PHÈNG


"Quân hồi vô phèng" vốn là cách nói thông tục của thành ngữ "quân hồi vô lệnh". Cụm từ này có nghĩa là "quân đội bại trận tháo chạy, không cần có lệnh rút quân; thường dùng để ví cảnh hàng ngũ rối loạn, không còn có trật tự, có tổ chức gì nữa".


Sẽ rất thú vị khi chúng ta tìm hiểu riêng từng từ trong đó. "Quân hồi" là "quân đội ở chiến trận về hoặc quân thua rồi mà chạy về", ở đây thuộc về nghĩa thứ hai. "Vô lệnh" là "không có mệnh lệnh". "Lệnh", nếu ở trong tiếng Hán là "bố cáo ra" thì trong tiếng Việt lại chỉ "chiếc thanh la dung để báo hiệu lệnh. Nói oang oang như lệnh vỡ. Lệnh ông không bằng cồng bà. "Thanh la" còn có một tên khác là "phèng la". Đây là một từ tượng thanh vì "phèng phèng" vốn là "tiếng thanh la hay tiếng lệnh". Như vậy "lệnh", "thanh la" hay "phèng la" đều là một loại nhạc khí gõ bằng đồng thau, hình đĩa tròn, tiếng vang và chói. Từ đó, "vô lệnh", một cặp từ gốc Hán, dẫn đến "vô phèng la" và đã rút gọn thành "vô phèng", một cặp từ nửa gốc Hán, nửa thuần Việt.


Ngày nay, nếu như trên chiến địa, các mệnh lệnh chỉ huy được phát ra qua tiếng kèn đồng thì cách đây gần ba ngàn năm, từ thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên), tiếng trống đã được dùng làm tín hiệu tiến quân, còn tiếng cồng, tiếng lệnh, tiếng thanh la, tiếng phèng la lại được dùng làm tín hiệu lui quân. Trong lịch sử, các nhạc cụ trên tuy được dùng làm tín hiệu lui quân nhưng những đạo quân chiến bại - mới chỉ tính riêng trên chiến trường Việt Nam, từ thời trung đại đến nay đã có biết bao cuộc rút lui diễn ra trong cảnh "không kèn, không trống".


Đó là năm 1077, sau hơn ba tháng không những không chọc thủng được tuyến phòng ngự trên sông Như Nguyệt mà trái lại, quân xâm lược Tống còn bị quân đội nhà Lý đánh cho thiệt hại nặng, chủ tướng Quách Quỳ đã phải chấp nhận thất bại và cho rút quân về trong "tình hình hỗn loạn, giẫm đạp lên nhau".


Đó là năm 1288, thấy rằng, với một lực lượng khổng lồ, tới nửa triệu quân, nhưng không thể chiến thắng nổi quân dân Đại Việt, Thoát Hoan - chủ tướng quân xâm lược Nguyên - Mông, phải quyết định cho quân kỵ - bộ theo hướng Lạng Sơn và đoàn thuyền chiến theo đường biển rút về nước. Kết quả là toàn bộ lực lượng thủy quân bị diệt gọn ở sông Bạch Đàng. Còn đoàn quân kỵ - bộ thì bị quân ta truy kích, đánh cho tơi tả khiến chúng "đã thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc”, phải "buộc vết thương lại mà chống đỡ".


Đó là năm 1427, bất lực trước cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc ta, tại "Hội thề" ở phía Nam thành Đông Quan, Vương Thông, chủ tướng quân xâm lược Minh đã phải ngậm ngùi đọc lời cam kết rút 10 vạn quân còn lại về Trung Quốc trước khi vua Minh tuyên bố "hưu chiến" và ra lệnh "triệu hồi".


Đó là năm 1789, trước những tin chiến sự khủng khiếp, từ các mặt trận cùng một lúc dồn về như đòn trời giáng, Tôn Sĩ Nghị, chủ tướng quân xâm lược Mãn Thanh, cảm thấy "quân giặc quá nhiều" và đã bị "vây kín bốn mặt". Hắn "sợ mất mật" và "ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn thân binh, nhằm hướng bác, chuồn trước qua cầu phao". Thấy thế, "quân sĩ các doanh đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh cướp vượt cầu, xô đẩy nhau rơi xuống sông, chết rất nhiều".


Đó là năm Ị954, saụ khi Điện Biẽn Phủ thất thủ, quân xâm lược Pháp đã vội vàng rút khỏi một số căn cứ ở đồng bằng Bắc bộ. Ngày 10 tháng 6, chúng bỏ Thái Bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình. Ngày 1 tháng 7, chúng bỏ Nam Định. Ngày 3 tháng 7, chúng bỏ Phủ Lý.


Đó là vào mùa xuân 1975, khi vùng đất Tây Nguyên đã bị mất sau chiến thắng mở màn Buôn Ma Thuột, quân ngụy ở miền Nam đã rơi vào tình trạng hoang mang cực độ. Bó tay trước sức tiến công như vũ bão của quân và dân cả nước, các tư lệnh chiến trường đành phải cho cấp dưới "tùy nghi di tản" bất chấp mệnh lệnh "tử thủ" của Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu.


Qua những sự kiện lịch sử quân sự trên, chúng ta tưởng chừng như việc rút lui đồng nghĩa với bại trận, với tháo chạy. Hoàn toàn không phải thế. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì trong hàng ngủ các đạo quân bại trận "quân lính thường sợ địch hơn sợ mệnh lệnh của người chỉ huy"... Chúng ta hãy nghe luận điểm của Trần Quốc Tuấn: "Lui mà không mất đất thì lui, lánh mà giữ được toàn thì lánh. Chạy mà có chỗ dụ địch, hàng mà có chỗ đặt mưu, bỏ mà có chỗ giữ, mất mà có chỗ thu, thế thì sự chạy, sự hàng, sự bỏ, sự mất, người hành binh phải dùng trí để xem cho có lợi".


Sự rút lui chiến lược năm 1285 đã thể hiện rõ luận điểm đó. Số là vào tháng 11-1282, tại Hội nghị Bình Than, vua tôi nhà Trần đã quyết định tổ chức một trận quyết chiến chiến lược để chặn đứng cuộc chiến tranh và tiêu diệt quân xâm lược tại Vạn Kiếp. Nhưng đến tháng 2-1285, trước sức tiến công mạnh mẽ của chúng, Trần Quốc Tuấn thấy tình hình rất nguy hiểm, không thể hành động như cũ được nên đã kịp thời thay đổi kế hoạch, cho đại quân rút ngay khỏi chiến trường để bảo toàn lực lượng. Cuộc lui quân chiến lược này thật gian lao vất vả. Nhưng nhờ nó, quân dân Đại Việt đã có đủ thời gian tiêu hao địch, làm cho chúng mệt mỏi theo cách "kiên thủ chở suy" để rồi giáng trả những đòn sấm sét, giành lấy thắng lợi cuối cùng.


Năm 1789, cuộc rút lui chiến lược của quân ta khỏi đất Bắc Hà về chiếm giữ tuyến phòng ngự Tam Điệp - Biện Sơn là một sáng tạo độc đáo, đúng như nhận định của Nguyễn Huệ: "Các người đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng". Quả nhiên với tư tưởng chủ quan ngạo mạn, quân Mãn Thanh lầm tưởng quân ta sợ oai, phải tháo chạy. Chúng có biết đâu rằng sự né tránh hết mực khôn ngoan đã đẩy chúng tới một sai lầm khủng khiếp. Kết quả là đạo quân xâm lược gần 29 vạn tên, đã bị tiêu diệt chỉ trong vòng 5 ngày đêm.


Thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, sự rút quân của Trung đoàn Thủ đô ra khỏi Hà Nội khói lửa phải đâu là sự tháo chạy? Nếu không có hành động "biết mình, biết người" này thì làm sao quân và dân ta có được lực lượng chủ yếu cho việc tiến hành đấu tranh vũ trang 9 năm sau đó để đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng danh, giải phóng nửa phần đất nước.


Tóm lại, "quân hồi", rút lui, bản thân nó không có gì đáng chê trách, đừng "kiêng kỵ" nó nếu như ta biết sử dụng đúng vị trí con bài này. Chớ để rút lui chủ động đồng nghĩa với rút chạy bị động. Sự rút lui né tránh lực lượng địch lúc ban đầu nhằm "giữ sức" cho những trận quyết chiến giành thắng lợi cuối cùng khác rất xa sự tháo chạy, bảo mạng trong thế tuyệt vọng trước sức mạnh quá chênh lệch của đối phương. Nếu như những cuộc rút lui chiến lược trong các cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta chỉ là phương tiện, là nấc thang đi tới toàn thắng thì trái lại những đạo quân xâm lược lại dùng rút lui làm cứu cánh, làm mục đích cuối cùng nhâm thủ tiêu chiến đấu vì trên thực tế, chúng không đủ sức thực hiện chức năng này và đã hoàn toàn bị đánh bại. Chính những sự rút lui đó đồng nghĩa với "quân hồi vô phèng".


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:39:31 pm
THẤT THẾ


"Thất thế" là một cụm từ gốc Hán. "Từ điển tiếng Việt" định nghĩa là "mất địa vị, quyền hành hay ảnh hưởng to lớn vốn có. Nhà nho thất thế, sa cơ thất thế". "Hán - Việt từ điển" định nghĩa là "mất quyền thế, mất chỗ dựa". Cũng có người lại định nghĩa là "mất lợi thế”.


Những định nghĩa trên là giải thích theo cách hiểu dân sự. "Thất thế" vốn là một thuật ngữ quân sự. Hiểu một cách khái quát, đó là "thế trận ở trong tình trạng yếu kém, dễ có khả năng bị đánh bại". Bây giờ chúng ta đi sâu vào nghĩa cụ thể của cụm từ này. "Thất" là mất, còn "thế"? Đây là từ gọi tắt của "binh thế" - nghĩa là "thế trận" - một khái niệm được Tôn Tử đề ra đầu tiên trong cuốn "Binh pháp thập tam thiên" vào cuối thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên). Theo ông, "thế" bao gồm các khái niệm: thứ nhất, là hình thái bố trí, hình thái triển khai của lực lượng chiến đấu. Tạo thế tức là biết vận dụng kỳ binh và chính binh. Nói một cách khác, kỳ và chính là nội dung thực chất của "thế". "Thế trận không ngoài kỳ và chính"; thứ hai, là trạng thái vận động, là khả năng, tiềm lực vận động của lực lượng chiến đấu, là xu thế phát triển của cục diện chiến đấu. "Đặt người vào thế tức là dùng người để chiến đấu cũng như lăn gỗ đá. Tính chất gỗ đá là đặt ở chỗ bằng thì nằm im, đặt chỗ dốc thì lăn"; thứ ba, là điều kiện, hoàn cảnh trong đó một lực lượng hoạt động. "Phàm quân lính bị hãm vào bước nguy hại thì sau đó mới có thể làm nên thắng bại". Như vậy, ngay từ thời cổ đại, lịch sử quân sự Trung Quốc đã có những khái niệm khá rõ ràng, cụ thể và hoàn chỉnh về "thế". Nhưng chiến tranh của họ tiến hành thường là chiến tranh phi nghĩa giữa các nhà nước phong kiến nhầm thôn tính lẫn nhau. Quân đội của họ chiến đấu không có lý tưởng nên thiếu tinh thần dũng cảm. Các nhà chỉ huy quân sự phải dựa vào "thế" nhằm khắc phục điểm yếu chí tử đó, nghĩa là dùng những kích thích từ bên ngoài để tác động vào binh sĩ như "leo lên cao rồi cất thang đi", như "xua đàn dê... không để cho biết cuối cùng sẽ đi đến đâu".


Trái lại, "thế" của dân tộc ta là thế của chiến tranh chính nghĩa, yêu nước, chiến tranh chống giặc ngoại xâm, tuy trong từng thời đại có những biểu hiện khác nhau nhưng nội dung cơ bản là: thứ nhất, về hình thái bố trí, triển khai lực lượng đó là thế triển khai từ trước, bố trí sẵn các lực lượng trên chiến trường, tạo nên thế trận vững châc và cơ động ví như thế trận phòng ngự của quân và dân nhà Lý chờ sẵn quân Tống trên bờ sông Như Nguyệt năm 1077, "thế giặc nhàn" của quân và dân nhà Trần đón đánh quân xâm lược Nguyên - Mông năm 1288; thứ hai, về trạng thái hoạt động của các lực lượng vũ trang, đó là thế trận cả nước đánh giặc, ở đâu có giặc là ở đó có người tham chiến. Điều này thể hiện rõ nét trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân xâm lược Mông - Nguyên năm 1285. Hay như sự nổi dậy đều khắp của nhân dân ta trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, trong cuộc khởi nghĩa của Lý Bí năm 542; thứ ba, về xu thế phát triển cục diện của toàn cuộc chiến tranh hay trong từng trận đánh, đó là thế đánh địch dồn dập, căng thẳng, ví như cuộc tiến công mãnh liệt của quân ta vào Ngọc Hồi - Đống Đa từ đêm ba mươi đến sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu (1789). Hoặc như gần đây nhất là thế tiến công của quân và dân ta trong chiến cục mùa xuân 1975; thứ tư; về nội dung bên trong hoặc sự biểu hiện ra bên ngoài của các lực lượng tham chiến. Đó là khí thế của quân và dân cả nước dựa trên cơ sở nhân nghĩa, ý thức tự lập, tự cường, lòng yêu nước sẵn có đã được hun đúc từ truyền thống văn hóa giữ nước lâu đời của dân tộc.


Như vậy, trong chiến tranh yêu nước chống xâm lược, dân tộc ta đã xây dựng được một khái niệm hoàn chỉnh về "thế". Về hình thức tuy có những đặc điểm tương tự như các khái niệm về thế hình thành trong lịch sử cổ đại Trung Quốc song mặt khác, về nội dung nghệ thuật tạo thế lại khác rất xa. Trong lịch sử quân sự Trung Quốc, "thế" hoàn toàn dựa trên tính chất phi nghĩa của các cuộc chiến tranh thôn tính và bành trướng và trên cơ sở trói buộc những người lính chiến đấu một cách khiên cưỡng. Bởi vậy, thế trận đó chỉ dừng lại ở hàng ngũ binh sĩ, mang tinh hạn hẹp, xơ cứng, bất biến. Chính vì thế mà sau Tôn Tử 1300 năm, Lý Tĩnh, nhà tư tưởng quân sự đồng thời là người chỉ huy quân sự nổi tiếng đời Đường, cũng vẫn cho rằng: "Thường trong việc binh, quân tiến lên trước là chính, lui về sau là kỳ". Điều đó nghĩa là lấy chính làm chính, lấy kỳ làm kỳ mà không hề nói đến sự tuần hoàn, chuyển hóa giữa chính và kỳ. Trong khi đó, khái niệm về thế và nghệ thuật tạo thế của dân tộc ta đã quán triệt tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân rộng lớn, dựa trên cơ sở phát huy tinh thần yêu nước của những chiến sĩ, những công dân tự giác cầm vũ khí chiến đấu một cách thông minh và dũng cảm. Do đó, thế trận của dân tộc ta có một chiều sâu rõ rệt. Nó không dừng lại ở hàng ngũ những người lính chiến mà đi hẳn vào quần chúng vũ trang, vào nhân dân nói chung nên rất linh hoạt, uyển chuyển, tạo được sự biến hóa muôn vẻ, muôn màu. Chính vì vậy, "thất thế" trong chiến trận ở Việt Nam vẫn chứa đựng những yếu tố để chuyển đổi, xoay ngược lại tình hình.


Để làm rõ, chúng ta hãy xét thế trận cụ thể của một số cuộc chiến tranh qua từng lúc thịnh, lúc suy của ba giai đoạn: phát sinh, phát triển và kết thúc, ví như trong cuộc chiến tranh chống Tống lần thứ hai (1075-1077), với chiến lược "ra quân trước để chặn mũi nhọn của giặc", Lý Thường Kiệt đã huy động 10 vạn quân thủy - bộ tiến sang Ung - Khâm - Liêm thực hiện phản chuẩn bị của giặc. Hoàn thành nhiệm vụ của giai đoạn một, quân ta rút về phòng ngự, đợi giặc trên bờ sông Như Nguyệt. Nhưng vào giai đoạn hai, trước sức mạnh ào ạt của quân xâm lược, quấn ta chịu thất thế. Có lúc, kỵ binh địch chọc thủng được tuyến phòng ngự, thọc thẳng tới gần Thăng Long. Nhưng với thế trận dàn sẵn, binh thuyền quân ta đã chặn đứng quân địch tại Vĩnh An, phá tan kế hoạch hội quân thủy - bộ của chúng. Mặt khác là cùng với quân chủ lực đánh địch trên bờ sông Như Nguyệt thì ở phía sau lưng chúng, quân các lộ, dân binh các làng bản cũng hoạt động mạnh mẽ mà chiến công nổi bật nhất là thuộc về Thân Cảnh Phúc. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ theo một kế hoạch tác chiến bao quát như vậy, quân ta đã chuyển dần từ nguy thành yên, từ thất thế thành thắng thế và cuối cùng, phần chiến thắng quyết định đã thuộc về nhân dân ta. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1285 mặc dù thế trận được triển khai sẵn song tình hình chiến sự của dân tộc ta cũng không phải đã thuận lợi. Trước sức mạnh hùng hổ của hơn 50 vạn quân xâm lược ky - bộ Nguyên - Mông từ bốn hướng tiến vào, ngay từ giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, quân ta đã rơi vào tình trạng bị ép. Để bảo toàn lực lượng, Trần Quốc Tuấn tổ chức một cuộc rút lui chiến lược, "nhử địch vào sâu" nhằm phân tán lực lượng của chúng. Nhưng sang đến giai đoạn hai, quân ta vẫn chưa xoay chuyển được tình hình. Quân địch vẫn bám sát nhất là khi cánh quân Toa Đô ở phía nam đánh ra, bọn Trần Kiện, Lê Trắc đầu hàng càng làm quân ta gặp khó khăn hơn. Nhưng lại chính lúc quân địch tiến hành truy đuổi, rải quân ra chiếm đóng một số căn cứ cúng là lúc phía sau lưng bị thế trận chiến tranh nhân dân quấy rối, tiêu hao dần lực lượng. Và đến cuối giai đoạn hai thì cán cân lực lượng đã nghiêng dần về phía quân ta để rồi kết thúc bằng những thắng lợi giòn giã vào giai đoạn cuối cùng. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mãn Thanh năm 1789 lại có những đặc điểm riêng, ở giai đoạn đầu, quân ta phải chịu thất thế trước sức mạnh quá chênh lệch của 29 vạn quân xâm lược, vả lại lúc đó lòng dân Bắc Hà cũng chưa nghiêng hẳn về phía "người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ". Việc Ngô Văn Sở - Ngô Thì Nhậm rút khỏi Thăng Long về phòng ngự ở Biện Sơn - Tam Điệp chính là biểu hiện điều đó. Nhưng sự né tránh khôn ngoan hết mức được xem như một vật xúc tác "làm cho giặc kiêu căng", sai lầm, đưa tới sự chuyển hóa hẳn cán cân lực lượng nghiêng về phía quân ta. Từ thất thế ở giai đoạn đầu, sang giai đoạn hai trở đi, quân ta đã giành được ưu thế, để rồi kết quả cực kỳ chói lọi của cuộc chiến tranh hoàn toàn thuộc về dân tộc ta.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:40:18 pm
KHÔNG BAO GIỜ CÙNG MỘT LÚC,
NGUYỄN HUỆ CHỐNG HAI KẺ THÙ


Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự Việt Nam ở cuối thời trung đại. Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta ở thế kỷ XVIII - thường xuyên phải đấu tranh chống lại nhiều thù trong giặc ngoài mạnh hơn mình gấp bội - nên suốt 18 năm làm tướng cầm quân đánh giặc - tính từ khi quân Tây Sơn nổi dậy, năm 1771, cho đến khi đánh tan quân Mãn Thanh, nãm 1789 - không bao giờ cùng một lúc, ông chống lại hai kẻ thù mà luôn tìm cách phân hóa, để lần lượt tiêu diệt chúng.


Lần thứ nhất vào những năm đầu của cuộc khởi nghĩa. Vào thời điểm ấy, năm 1765, chúa Nguyễn Phúc Khoát qua đời, người kế vị là Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đang còn nhỏ tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Trương Phúc Loan. Y rắp tâm phế bỏ ấu chúa, đưa Nguyễn Phúc Thuần lên thay và ngày càng tỏ ra là một kẻ tham tàn bạo ngược. Bọn quan lại và các tầng lớp trên của xã hội Đàng trong lúc ấy đều oán ghét tên quyền thần họ Trương, muốn phò Hoàng Tôn Dương lên ngôi Chúa nhưng đành chịu vì "lực bất tòng tâm". Nắm được tình hình đó, năm 1771, Nguyễn Huệ và các lãnh tụ nghĩa quân nêu khẩu hiệu: "Đánh đổ Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương" để phất cờ dấy binh. Dưới danh nghĩa đó, trong những ngày đầu khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã tự nhận mình là quân của Hoàng Tôn Dương để chống lại quân của Trương Phúc Loan. Chính nhờ khẩu hiệu đấu tranh rất sát tình hình như vậy nên đã lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia khi mà phong trào đang còn ở thời kỳ trứng nước.


Lần thứ hai, vào cuối năm 1774, khi thấy tình hình quân Nguyễn suy yếu trước nghĩa quân Tây Sơn, quân Trịnh, dưới sự chỉ huy của tướng Hoàng Ngủ Phúc, đã vượt sông Gianh, lần lượt đánh chiếm Bố Chánh, Đồng Hới và tháng 1 năm 1775 thì hạ thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn bỏ chạy vào Gia Định sau khi đã để lại một số tướng lĩnh hoạt động ở vùng Quảng Nam. Thừa thắng, tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiếp tục tiến xuống phía Nam và đụng độ với quân Tây Sơn tại đèo Hải Vân. Trước sức mạnh đối phương, nghĩa quân buộc phải rút khỏi các căn cứ của mình. Thấy quân Tây Sơn đang ở thế bức bách, tướng Tống Phúc Hiệp tập trung lực lượng quân Nguyễn, đánh chiếm Phú Yên. Khó khăn quá, nghĩa quân đành phải bỏ vị trí này, rút về Quy Nhơn. Như vậy là vùng căn cứ bị thu hẹp lại và nghĩa quân lâm vào thế bị kẹp giữa hai gọng kìm. Để đối phó với tình hình cực kỳ hiểm nguy, các lãnh tụ nghĩa quân cho người tới gặp Hoàng Ngũ Phúc, xin nhận làm đội quân tiên phong của Trịnh để đánh Nguyễn. Sau một thời gian hành quân xa lại phải liên tục chiến đấu gần một năm trời, quân Trịnh cũng muốn nghỉ ngơi đôi chút nên đã chấp nhận "lời thỉnh cầu tự nguyện" đó. Tuy thế, viên tướng Trịnh vẫn giữ nguyên vị trí đóng quân, áp sát căn cứ địa của "kẻ đồng minh mới" với ý đồ nếu nghĩa quân đánh thắng quân Nguyễn, quân Trịnh sẽ bám theo sau, giành lấy chiến quả, chiếm lại đất đai mà không phải nhọc công. Trái lại, nếu quân Tây Sơn thất bại, quân Trịnh sẽ tiến sâu thêm, tiêu diệt nghĩa quân, trực tiếp đối phó với quân Nguyễn. Thấy rõ được dã tâm đó, nghĩa quân quyết định dù bất cứ giá nào cũng phải giành lại Phú Yên, đẩy quân Nguyễn lùi xuống phía Nam. Có như vậy, nghĩa quân mới đủ khả năng buộc quân Trịnh phải từ bỏ ý đồ của mình. Quả nhiên, sau khi rảnh tay đối phó với mặt Bắc, quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, đã dốc toàn lực lượng, đập tan hai vạn quân Nguyễn, chiếm lại đất Phú Yên. Để từng bước thực hiện kế hoạch lấn chiếm, trong khi Nguyễn Huệ tiến đánh xuống phía Nam thì Hoàng Ngũ Phúc cũng cho quân tiến gần vào căn cứ địa nghĩa quân. Thế nhưng, những chiến thắng vang dội của Nguyễn Huệ đã khiến y chùn bước và đành phải nhân danh chúa Trịnh phong chức "Tây Sơn hiệu tiền phong tướng quân" cho vị tướng nông dân trẻ tuổi này. Và sau đó, tự thấy không thể đàn áp nổi phong trào Tây Sơn, cũng như không thể nào tiến sâu hơn được nữa, Hoàng Ngũ Phúc đành phải bỏ đất Quảng Nam, lui về Phú Xuân rồi không bao lâu thì rút hẳn đại quân về Bắc Hà. Như vậy là bằng sự ứng phó khéo léo của mình, nghĩa quân Tây Sơn - mà linh hồn là Nguyễn Huệ - đã đẩy lùi được một kẻ địch mạnh hơn mình là quân Trịnh ở phía Bắc để tập trung lực lượng tiêu diệt quân Nguyễn ở phía Nam.


Lần thứ ba, vào cuối năm 1784, đầu năm 1785, khi quân xâm lược Xiêm kéo vào Gia Định. Khi đó, với cương vị Tổng chỉ huy nghĩa quân, tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Huệ biết rõ rằng quân Xiêm chẳng qua chỉ lợi dụng danh nghĩa giúp Nguyễn Ánh để nhằm mục đích thực chất là xâm lấn đất đai và cướp bóc của cải. Chính Nguyễn Anh cũng đã từng than phiền về "tình trạng hai lòng của người Xiêm". Để khoét sâu nhược điểm của quân xâm lược và tìm cách ly gián, tăng thêm sự hoài nghi giữa chúng với Nguyễn Anh, Nguyễn Huệ cử người đem vàng bạc, gấm vóc đến gặp Chiêu Tăng - chủ tướng quân Xiêm - xin giảng hòa: "Tân triều (Tây Sơn) và cựu triều (Nguyễn Anh) nước tôi tranh nhau lãnh thổ và nhân dân, không thể cùng đứng với nhau được, nước tôi cùng nước Xiêm cách trở xa xôi, trâu và ngựa không thể đánh hơi nhau được, chẳng hay Vương Tử đến chốn này làm gì? Chi bằng hai nước chúng ta hòa hiếu với nhau. Sau khi xong việc, nước tôi sẽ y lệ tiến cống. Như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cựu chúa (Nguyễn Ánh) nước tôi để mặc chúng tôi lo liệu, xin Vương tử đừng giúp đỡ". Quả nhiên, việc giảng hòa riêng với Chiêu Tăng đã phát huy tác dụng mạnh mẽ. Trước hết, nó làm tăng thêm sự ngờ vực của Nguyễn Ánh đối với Chiêu Tăng. Nếu không thì y đã không thề thốt: "Nếu vì lợi mà phải thất trận, làm nhục quốc thể thì tôi trốn sao khỏi tội trời diệt. Xin quốc vương chớ nghi ngờ". Không những thế, hắn lại còn hí hửng bàn với Nguyễn Ánh: "Giặc rất tin tôi, tất không phòng bị, ta nên thừa thế mà đánh phá giặc ngay". Thật là mơ hồ. Ngay trong nội bộ còn có sự ngờ vực, nghi kỵ và đang bị lợi dụng triệt để thì trên chiến địa làm sao hai kẻ đối địch lại có thể dễ dàng tin nhau mà thiếu sự đề phòng như vậy. Chính sai lầm nghiêm trọng đó đã không cứu vãn được sinh mệnh 5 vạn quân Xiêm trên sông nước Rạch Gầm - Xoài Mút như lịch sử đã ghi lại.


Lần thứ tư: vào năm 1786, khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà lần thứ nhất. Đối với quân Tây Sơn, đây là một khó khăn rất lớn so với những cuộc tiến công quân Nguyễn ở Gia Định. Tặi đây, tầng lớp phong kiến thống trị vừa có tập đoàn vua Lê lại vừa có tập đoàn chúa Trịnh. Tuy chỉ là bù nhìn nhưng vua Lê vẫn được nhân dân ủng hộ vì trên danh nghĩa vẫn là một triều đại chính thống. Bên cạnh đó, chúa Trịnh mặc dù bị nhân dân oán ghét nhưng trong tay vẫn còn có thực lực. Khi bị quân Tây Sơn tiến công, điều chắc chắn là hai tập đoàn này sẽ dựa vào nhau để chống lại. Nếu như tập đoàn vua Lê bị tiêu diệt, tập đoàn chúa Trịnh còn lại vẫn tiếp tục kháng cự và như thế, nhiệm vụ tác chiến của quân Tây Sơn coi như không hoàn thành. Trái lại, nếu tập đoàn chúa Trịnh bị đánh đổ, tập đoàn vua Lê còn lại sẽ dựa vào tầng lớp sĩ phu, kêu gọi nhân dân cần vương cứu giá chống lại quân Tây Sơn. Căn cứ vào tình hình cụ thể của Bắc Hà, Nguyễn Huệ thấy rõ là cần phải phân hóa kẻ thù. Ở thời điểm này, kẻ thù chính, trước mắt là tập đoàn thống trị họ Trịnh. Khẩu hiệu "phù Lê, diệt Trịnh" đã được nêu lên để tranh thủ sự đồng tình của các tầng lớp nhân dân và triệt để cô lập tập đoàn chúa Trịnh đồng thời tập hợp mọi lực lượng chống đối nhà Trịnh ở Bắc Hà nhằm tăng thêm sức mạnh cho đại quân Tây Sơn khi bước vào cuộc chiến. Diệt được nhà Trịnh tức là xóa bỏ một ách thống trị phong kiến tàn bạo, nặng nề nhất cho nông dân Bắc Hà và cũng là xóa bỏ được sự phân chia Nam Bắc, thực hiện thống nhất nước nhà. Và kết quả là nhiệm vụ tiến công Bắc Hà của quân Tây Sơn đã hoàn thành tốt đẹp đúng như dự kiến ban đầu của "người anh hùng áo vải".


Tóm lại, trong chiến trận, việc phân hóa kẻ thù để từ đó xác định ra đối tượng tác chiến chủ yếu quả là một việc không đơn giản. Thế nhưng bàng một tư duy nhạy bén và cặp mắt tinh tường của người thống soái quân sự, Nguyễn Hụệ đã không bao giờ sai lầm. Và mọi kẻ thù của ông, trước sau đều lần lượt bị đánh bại.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:41:02 pm
HAI CUỘC CHIẾN TRANH, HAI BỨC THƯ TRÁ HÀNG


Lâu nay, người ta biết nhiều về tài trận mạc của Nguyễn Huệ - một thống soái cầm quân từ tuổi 18 và 21 năm đánh Nam, dẹp Bắc không hề một lần chiến bại - nhưng ít người chú ý đến khả năng tâm lý chiến của ông. Phải nói ngay rằng, những đòn cân não đó đã đẩy những tên chủ tướng quân xâm lược lún sâu xuống hố sai lầm, để rồi sau đó chuốc lấy những thất bại cay đắng, không sao cưỡng lại được. Hai bức thư trá hàng của ông sau đây là những minh chứng khá sinh động.


Bức thư thứ nhất được viết vào khoảng đầu tháng 1 năm 1785 sau khi ông nhận trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Xiêm. Chiêu Tăng, chủ tướng quân Xiêm, vốn là một tên tham lam, hai mặt - trên danh nghĩa là giúp Nguyễn Anh nhưng thực tế là lợi dụng cuộc viễn chinh để cướp bóc của cải. Nhằm khoét sâu thêm nhược điểm cơ bản trong hàng ngủ quân địch và tìm cách ly gián, tăng thêm sự hoài nghi giữa chúng với nhau, ông cử người mang một bức thư cùng nhiều vàng bạc gấm vóc đến gặp chủ tướng quân Xiêm xin giảng hòa: "Tân triều (triều Tây Sơn) và cựu triều (triều Nguyễn) nước tôi tranh nhau lãnh thổ và nhân dân, không thể cùng đứng với nhau được. Nước tôi cùng nước Xiêm cách trở xa xôi, trâu và ngựa không đánh hơi nhau được, chẳng hay Vương tử đến chốn này làm gì? Chi bằng hai nước chúng ta hòa hiếu với nhau. Sau khi xong công việc, nước tôi sẽ y lệ tiến cống. Như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cựu chúa (Nguyễn Ánh) nước tôi để chúng tôi lo liệu, xin Vương tử đừng có giúp đỡ". Trước thái độ "nhún nhường" của Nguyễn Huệ, Chiêu Tăng một mặt nhận lễ vật để thỏa lòng tham, mặt khác lại âm mưu giảng hòa rồi nhân đó mà bất ngờ tiến công lại đối phương. Thấp mưu, tự ngộ nhận là cao tay, y đâu có biết được đây chỉ là "những động tác giả". Bức thư giảng hòa phát huy ngay được tác dụng vì đã gây thêm mối hoài nghi cho Nguyễn Anh. Trước thái độ ngờ vực đó, có lần Chiêu Tăng đã phải phân trần: "Nếu vì lợi mà phải thất trận, làm nhục quốc thể thì tôi trốn sao khỏi tội trời diệt. Xin quốc vương chớ nghi ngờ". Tính từ khi Nguyễn Huệ đem quân vào Mỹ Tho, lúc đầu Chiêu Tăng cũng lo phòng thủ, chờ đợi một cuộc phản công lớn nhưng chỉ thấy "phía bên kia" mở những cuộc tập kích nhỏ lại điều đình giảng hòa nên y hí hửng bàn với Nguyễn Anh: "Giặc rất tin tôi, tất không phòng bị, ta nên thừa thế đánh phá ngay". Là người đã biết đánh trúng tâm lý quân địch, tất nhiên Nguyễn Huệ nắm chắc rằng sớm muộn thế nào chúng cũng sẽ khởi binh. Những cuộc tập kích nhỏ, việc điều đình giảng hòa chẳng qua chỉ là sự ngụy trang nhằm thúc đẩy đối phương sớm rời khỏi căn cứ tiến về phía trận địa mai phục như ông mong đợi, đồng thời làm cho chúng thêm chủ quan, tự mãn, tạo ra nhân tố bất ngờ cho trận đánh.


Quả nhiên, kế hoạch nhử địch ra khỏi căn cứ đã thành công lớn. Bằng một trận đánh vận động, toàn bộ 5 vạn quân xâm lược thủy - bộ đã bị tiêu diệt gọn trên sông nước Rạch Gầm - Xoài Mút vào sáng ngày 19-1-1785.

Bức thư thứ hai, Nguyễn Huệ viết cho Tôn Sĩ Nghị, chủ tướng quân xâm lược Mãn Thanh, vào tháng 12 năm 1788 trên đường tiến quân ra Bắc. Ông biết rõ viên tướng này thực sự là một người tài năng, về khoa học, y được nhà vua phong chức Tổng toản trực tiếp chỉ đạo nhiều học giả lỗi lạc biên soạn bộ sách lớn Tứ khố toàn thư; về quân sự, y được ban tước Mưu dũng nhất đẳng công vì đã từng cầm quân chinh phạt nhiều nơi, chiến công không nhỏ; về chính trị, y nhiệm chức chức Lưỡng Quảng tổng đốc, cai quản hai vùng lãnh thổ hết sức rộng lớn, có giá trị chiến lược của triều đình. Từ một người văn võ song toàn như vậy lại chỉ trong một thời gian ngắn, y đã chiếm trọn cả một quốc đô, khiến cho đối phương "sợ hãi, đã ôm đầu chạy trốn". Thêm vào đó, y còn được hoàng đế Càn Long khen là một "đại thần toàn tài", "không đầy một tháng mà đã thành công, thật xứng đáng với sự ủy nhiệm của trẫm". Tất cả những yếu tố thuận lợi về chủ quan và khách quan đó đã làm cho viên Tổng chỉ huy của đạo quân Thiên triều tự cao, tự đại cũng là điều dễ hiểu. Bằng phương pháp khích tướng - đánh vào tính tự cao, tự đại để gây tác động tinh thần - bức thư trá hàng của Nguyễn Huệ có giá trị như một liều thuốc cực mạnh, ru viên tướng họ Tôn "ngủ kỹ trên thành tích của mình", mê man, không đủ sức tỉnh táo nhận rõ đúng, sai của chân lý, yếu, mạnh của đối phương trên chiến trường: "Nay đại nhân vâng lệnh của Thiên Hoàng đế, hỏi tội thần về việc đuổi chúa, cướp nước. Thần xiết bao run rẩy sợ hãi. Chuyến này đến đây, thần sẽ tới tại chỗ gần gũi để chờ lệnh đại nhân phân xử". Nhận thư, thấy những lời lẽ khiêm nhường, người viết xác định đúng tội danh như vua Lê gán ghép là "đuổi chúa, cướp nước" với một thái độ "run rẩy sợ hãi" nên Tôn Sĩ Nghị yên trí rằng "tên tù trưởng mọi rợ, sợ oai phải đầu hàng" và không một chút do dự, lớn tiếng ra lệnh: "Hãy rút quân về Thuận Hóa để chờ phân xử". Như ta đã biết, trên đà tiến công thẳng lợi, việc quân Mãn Thanh dừng lại phòng ngự là điều cực kỳ sai lầm về chiến lược. Đã như vậy, thế phòng ngự, đặc biệt ở phía nam Thăng Long, thực tế có hình thành nhưng cũng là cách bố trí rời rạc của một đạo quân nghỉ ngơi. Với cách phòng ngự đó, Tôn chủ tướng đã tỏ ra rất chủ quan khinh địch, mất cảnh giác nghiêm trọng, chỉ tính đến việc đánh người, tùy tiện như "thò tay lấy đồ vật trong túi, đến sớm lấy sớm, đến muộn lấy muộn" mà không nghĩ đến trường hợp nếu bị tiến công thì đối phó như thế nào. Với kiểu tư duy "không biết mình, không biết người" như vậy - điều tối kỵ đối với người chỉ huy quân sự - nên khi đại quân Nguyễn Huệ đã tiến sát đến Ngọc Hồi rồi, Tôn Sĩ Nghị vẫn cho rằng "không có gì đáng lo ngại". Tên phó tướng Hứa Thế Hanh còn tuyên bố mạnh mẽ hơn: "Đến sáng mai, hợp quân lại đánh, xem ta quét sạch người Nam". Thật ra, được Nguyễn Huệ "phỉnh nịnh, tâng bốc", Tôn Sĩ Nghị và bè lũ chỉ mơ hồ nhận thức được cái dạng vẻ bề ngoài, thông qua một lớp vỏ bọc cực kỳ khéo léo, mà không thấy được rằng trong khi đó, cánh quân bộ binh của đô đốc Đặng Tiến Đông đã luồn sâu vào tới cung Tây Long, cánh quân tượng binh - với 200 thớt voi chiến - của đại đô đốc Bảo đã phục sẵn ở Đầm Mực. Và như lịch sử ghi nhận, sau khi tiếng súng nổ, phát lệnh công kích trên toàn tuyến Ngọc Hồi - Đống Đa, chỉ trong vòng một buổi sáng, 29 vạn tên xâm lược hầu như đã bị xóa sổ. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789 kết thúc thắng lợi.


Như vậy, đến đây chúng ta có thể đi tới một sự nhất trí rằng nếu như những sai lầm của quân xâm lược đã rõ ràng là nguyên nhân chủ yếu làm chúng thất bại thì cái nhìn sắc sảo của người "anh hùng áo vải" để phát hiện ra những lầm lẫn đó - cụ thể là của các chủ tướng đối địch - lòng kiên nhẫn chờ đợi cho những lẫm lẫn đó chín mùi đặng quyết tâm giáng những đòn quyết định, sự mau lẹ cực kỳ như chớp nhoáng nhằm đánh tan kẻ địch đáng để cho chúng ta phải hoàn toàn khâm phục và không sao tìm được đủ lời khen.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:41:41 pm
NGHI BINH TRONG CUỘC CHIẾN TRANH
BẢO VỆ TỔ QUỐC NĂM 1789


Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789, hoạt động nghi binh của Nguyễn Huệ đã giữ một vị trí to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho dân tộc ta đi tới toàn thắng. Bài viết này mong góp phần tìm hiểu một số khía cạnh của những hoạt động đó.


Trước hết là nói về các nguyên tắc. Đây là điều mà nội dung khắt khe của chúng buộc thống soái Nguyễn Huệ phải tuân thủ một cách triệt để. Nguyên tác đầu tiên là nắm vững tình hình địch. Đây là điều sống còn trong bất cứ cuộc giao tranh nào. Nếu không nắm vững âm mưu địch, không dự kiến đầy đủ tình hình và thiếu sự chuẩn bị từ trước thì làm sao ông có thể tổ chức được một cuộc hành quân dài ngày với một quy mô đồ sộ trên một không gian rộng lớn cho hàng mấy trăm ngàn người như thế mà sự sửa soạn lên đường chỉ vẻn vẹn có hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Trong việc nắm vững tình hình địch, Nguyễn Huệ đặc biệt quan tâm đến năng lực, cá tính của từng người chỉ huy quân đội địch. Ông biết rõ đề đốc Hứa Thế Hanh, người trực tiếp cầm quân ở Ngọc Hồi, một viên tướng người Mãn, có "tầm cỡ”, được vua Càn Long xem là một "đề đốc đại viên", nên việc đưa quân công kích vỗ mặt vào "điểm cứng" này, một vị trí then chốt nhất, trừ ông ra, không ai làm nổi. Đặc biệt là nét tự cao, tự đại của viên tổng chỉ huy được ông "khai thác" một cách triệt để. Bức thư trá hàng, với lời lẽ tâng bốc, là một kiểu "khích tướng", đẩy tên tổng đốc Lưỡng Quảng ngày càng chìm sâu xuống hố sai lầm khủng khiếp. Rõ ràng là trong cuộc chiến tranh này, thế trận của địch tan vỡ rất nhanh, không sao gượng lại được, về cả hai mặt: vật chất và tinh thần. Hiệu quả về vật chất là toàn bộ đạo quân xâm lược bị tiêu diệt và tan rã, trận địa bị chiếm lĩnh nhưng hiệu quả về tinh thần, cụ thể về tâm lý, là điều đáng quan tâm. Trước đó, Tôn Sĩ Nghị là kẻ huênh hoang nhất, xem đối phương "như hạng trâu dê", "nhổ bãi nước bọt, xoa tay là làm xong việc", bây giờ lại trở nên hoảng loạn nhất. Trước cảnh bị vấy hãm khốn quẫn, y "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy". Đạt tới kết quả đó, chính là do Nguyễn Huệ đã "điểm" trúng "huyệt" yếu nhất của viên chủ tướng địch. Một nguyên tắc nữa của hoạt động nghi binh là sự thống nhất và hiệp đồng trong ý định chung. Tháng 9 năm 1788, đất Gia Định có nguy cơ lọt vào tay Nguyễn Anh nhưng Nguyễn Huệ vẫn phải "án binh bất động" vì trước đó một tháng, Phú Xuân vừa nhận được tin quân Thanh có mưu đồ xâm lược. Phải chờ tình hình thật chín muồi, Nguyễn Huệ mới quyết định được hướng tiến quân. Trước nguy cơ mất nước, ông phải xử lý ngay rồi sau mới tính đến việc dẹp yên bọn phản động ở phía Nam. Đó là tất cả nội dung phương hướng chiến lược của Nguyễn Huệ vào cuối năm 1788. Thấm nhuần ý đồ dồn mọi lực lượng cho phía Bắc của người chỉ huy tối cao, khi quân Thanh vượt qua biên giới, Ngô Thì Nhậm đã ứng phó tình hình một cách rất sáng tạo là tổ chức một cuộc triệt thoái. Việc làm đầy ý nghĩa này được Nguyễn Huệ đánh giá rất cao: "... Bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng". Sự hiệp đồng trong ý định chung cũng được thực hiện một cách hết sức sít sao. Tiêu biểu nhất là sự hiệp đồng về thời gian nổ súng giữa hai mũi tiến công chủ yếu: ở Ngọc Hồi và Thăng Long. Chính sự hiệp đồng "ăn ý" trong một trống canh này đã nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã cả một đạo quân ngót ba chục vạn người.


Cũng giống như mọi hoạt động nghi binh khác, hoạt động nghi binh trong cuộc chiến tranh này cũng phải thông qua một số hình thức và biện pháp. Đó là thông tin giả và triển khai lực lượng giả. Hai lần Nguyễn Huệ gửi thư sang hàng ngũ địch đều là sự đánh lừa, dùng hình thức trá hàng để ngụy trang cho nội dung giáng đòn bằng vũ lực. Lần thứ nhất, vào cuối tháng 11-1788, khi quân xâm lược tiến gần đến biên ải, từ Bắc Hà, một phái đoàn được cử đi, gồm mệt số quan lại cũ nhà Lê, đem bức thư, mượn tiếng Giám quốc Lê Duy Cận, sang xin nghị hòa làm kế hoãn binh để quân ta có thời gian rút về Tam Điệp - Biện Sơn, chờ đại quân ta tiến hành phản công chiến lược, như chủ trương của Ngô Thì Nhậm: "Cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi...". Đây cũng là lẽ thường tình. Tôn Tổng đốc cho rằng bọn vua quan nhà Lê vốn đã kính sợ nhà Thanh, bây giờ lại chính những đại diện của lớp người đó mang thư đến xin "nới tay" thì có gì đáng nghi ngờ. Việc cỏn con đó làm sao có thể trì hoãn được kế hoạch tiến quân của Thiên triều. Lần thứ hai, Nguyễn Huệ cho người đem thư trá hàng nhưng lại đứng tên ông. Thấy lời lẽ trong thư hết sức nhún nhường, tên tướng đầy tự mãn đã rơi ngay vào kế hiểm. Điều này cũng thật hợp lô-gích. Trước cảnh thành bỏ trống, quân rút chạy, vốn khinh mạn, kiêu căng, Tôn Sĩ Nghị tin ngay rằng đối phương sợ hãi, không dám giao chiến. Bây giờ lại nhận thêm một lá thư xin hàng nữa, y đinh ninh đó là sự thật, vả chăng, trong thâm tâm y, cũng như ý đồ chung của triều đình Mãn Thanh, là không muốn chiến tranh diễn ra trên đất Bắc Hà, nên đã lớn tiếng ra lệnh: "Hãy rút quân về Thuận Hóa chờ phân xử". Trong quá trình gửi thư trá hàng lần sau, có thể Nguyễn Huệ cũng tính đến sự kiểm chứng của Tôn Sĩ Nghị qua phía thứ ba. Nhưng việc đó làm sao mà thực hiện được khi lá thư gửi đi khoảng từ 26-12-1788 đến 4-1-1789 - trong vòng mười ngày Nguyễn Huệ dừng quân ở Nghệ An - mà ngày tổng công kích là 30-1-1789. Thời gian thật quá ngắn ngủi. Hai thời điểm chỉ cách nhau độ chừng một tháng, lại mắc vào hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh mà đường sá thì cách trở xa xôi tới 300km. Và cũng thử hỏi ai là người đủ can đảm xông vào cơ quan Tổng hành dinh của người chỉ huy đối phương để làm rõ thực chất của bức thư? Cùng với hình thức thông tin giả bằng thư trá hàng, để quân địch "yên tâm", khi chúng vượt qua bờ cõi, Nguyễn Huệ đã hư trương thanh thế bằng việc tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở bãi sông Hồng và cho triển khai giả một bộ phận lực lượng chiến đấu tiến hành đắp lũy, đào hào, phao tin sẽ quyết chiến tại phòng tuyến sông Như Nguyệt, như Lý Thường Kiệt đã từng làm trước đó bảy trăm năm. Đây cũng là những hình thức thông tin giả nhưng bằng những hành động thực, về bản chất, triển khai giả là một sự phô trương, một sự răn đe. Tuy việc làm đó không có mục đích chiến đấu nhưng mang đầy tính mạo hiểm. Nếu đối phương chấp nhận tác chiến, cách giải quyết phải thế nào? Thế trận sẽ từ đó mà đảo lộn hoàn toàn. Nhưng rồi hành động táo bạo này đã có sự đền bù thích đáng vì nó được hoạch định từ một người thống soái quyết đoán, tự tin và dám chịu trách nhiệm như Nguyễn Huệ.


Tóm lại, những hoạt động nghi binh trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789 mang tầm cỡ chiến dịch - chiến lược, có một giá trị lớn và đã thu được những kết quả đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc đại phá 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:49:31 pm
NGHỆ THUẬT ĐÁNH BẤT NGỜ TRONG CHIẾN THẮNG ĐỐNG ĐA


Giành bất ngờ và phát huy hiệu lực của bất ngờ là một trong những nhân tố chủ yếu, nhân tố thực chất đưa tới chiến thắng Đống Đa lừng lẫy.

Như chúng ta đã biết, từ xưa tới nay, trong chiến tranh, trên tất cả các quốc gia, ở mọi loại tác chiến, từ các hội chiến lớn đến các trận đánh nhỏ, người chỉ huy quân sự ở cấp nào cũng mong muốn và đều có ý chí, nguyện vọng giành lấy bất ngờ và phát huy hiệu lực của nó để giành thảng lợi. Toàn bộ lịch sử quân sự đã chứng minh điều đó.


Trong cuốn Binh pháp thập tam thiên, một cuốn sách lý luận quân sự nổi tiếng của Trung Quốc, ra đời cách đây 2.500 năm, Tôn Tử đã viết:

"... Tiến công nhất định sẽ thắng là vì đã đãnh vào chỗ địch không chú ý đề phòng...".

Đến đầu thế kỷ XIX, ở nước Phổ, khi viết tác phẩm lý luận quân sự đồ sộ bàn về chiến tranh, Claudơvít đã dành cả chương IX trong tập 3 để nói về bất ngờ.

Ở Việt Nam ta, vào thế kỷ XV, trong bài cáo Bình Ngô, khi bàn về nhân tố này, Nguyễn Trãi cũng nêu rõ:

   "Lấy yếu thắng mạnh nên đánh bất ngờ
   Lấy ít địch nhiều thường dùng mai phục"

Nguyễn Huệ cũng vậy. Về nghệ thuật đánh bất ngờ, ông xứng đáng ở vị trí bậc thầy. Bằng nghệ thuật quân sự điêu luyện của mình, không chỉ ông đã đánh thắng địch trong từng hội chiến, từng trận chiến đấu mà còn đánh thắng địch trong cả một cuộc chiến tranh lớn chính vì ông đã biết gây cho chúng một bất ngờ lớn về chiến lược.


Trong chiến thắng Đống Đa, do giành được và phát huy hiệu lực của nhân tố bất ngờ trên tất cả mọi mức độ mà Nguyễn Huệ đã đánh tan đạo quân xâm lược Mãn Thanh, kết thúc thắng lợi cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại năm 1789.


Xét về tương quan lực lượng, ở hội chiến này đã nổi bật lên hai điều kiện. Thứ nhất là về quân số, địch có 3 ta có 1. Tuy rằng cố gắng hết mức nhưng Nguyễn Huệ vẫn không đủ sức tập trung được lực lượng đáng kể cho từng trận, từng hội chiến. Như vậy, rõ ràng là không chỉ trong toàn bộ cuộc chiến tranh mà ngay trong từng mức độ tác chiến, ưu thế số lượng vẫn luôn luôn nghiêng về phía quân Mãn Thanh. Thứ hai là dù đã chuyển sang tạm dừng tác chiến, địch vẫn đang nắm trong tay quyền chủ động chiến lược. Do hai điều kiện đó, Tôn Sĩ Nghị vẫn đinh ninh là đối phương không thể đủ khả năng để thực hành tiến công chiến lược.


Quy luật của chiến tranh từng xác định đã tiến công là phải tạo được ưu thế. Nhưng vì số quân không nhiều, trong chừng mực nào đó cũng có phần bị động, Nguyễn Huệ không thể đánh thắng một đạo quân đông lại đang nắm quyền chủ động chiến lược như vậy được. Bởi thế, không có cách nào hơn là ông phải phát huy yếu tố bất ngờ, tạo thế mạnh, áp đảo đối phương, nhất là phát huy yếu tố bất ngờ chiến lược. Gây được bất ngờ là tạo được ưu thế, dùng mạnh đánh yếu, dùng thế mạnh hủy diệt trong một thời gian ngắn nhất mà ta lại tổn thất ít nhất. Bất ngờ chiến lược sẽ nhân sức mạnh áp đảo lên gấp bội.


Vậy bất ngờ chiến lược được biểu hiện như thế nào? Trước hết, Nguyễn Huệ sử dụng một phương thức hành động hết sức bất ngờ là thực hành tiến công chiến lược ngay sau khi địch lầm tưởng là đối phương "sợ hãi đã ôm đầu chạy trốn", phải bỏ Bắc Hà rút về Biện Sơn - Tam Điệp. Thứ hai là tạo cho địch những nhận định sai lầm và duy trì niềm tin đó về ý đồ chiến lược của ta. Biết rõ Tôn Sĩ Nghị tự cao tự đại, xem đối phương "như hạng trâu dê", "nhổ bãi nước bọt, xoa tay là xong", trên đường tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ cho người đem thư trá hàng: "Nay đại nhân vâng lệnh của Thiên hoàng đế, hỏi tội thần về việc đuổi chúa, cướp nước. Thần xiết bao run rẩy sợ hãi. Chuyến này đến đây, thần sẽ tới tại chỗ gần gũi để chờ lệnh đại nhân phân xử". Quả nhiên, viên tướng họ Tôn trúng kế, lớn tiếng ra lệnh: "Hãy rút về Thuận Hóa để chờ phân xử’. Từ đó, hắn càng chắc mẩm "tên tù trưởng mọi rợ sợ oai phải đầu hàng" nên không hề có sự đề phòng, có chăng chỉ là sự đối phó với các cuộc tiến công nhỏ. Thứ ba là Nguyễn Huệ cho chủ lực xuất hiện phía cạnh sườn và sau lưng địch ở Hải Dương, Lạng Giang, Phượng Nhãn nhằm cắt đứt đường rút lui, đường tăng viện và tuyến hậu cần chiến lược của địch đồng thời giáng một đòn rất hiểm là đánh thẳng vào nơi sơ hở nhất, thọc sâu vào đại doanh của địch ở cung Tây Long, làm rối loạn ngay từ đầu sự chỉ huy của cơ quan đầu não, cô lập hoàn toàn tập đoàn chiến lược phía Ngọc Hồi để tiêu diệt được nhanh gọn. Thứ tư là đi trước địch, chọn đúng thời cơ chuyển sang tiến công chiến lược, tiến công một cách thần tốc. Biết rằng "đến sang xuân, vào ngày mồng 6" địch "sẽ xuất quân", Nguyễn Huệ cướp thời gian, quyết giành thắng lợi vào trưa mồng 5. Lợi dụng những ngày Tết, thời gian người ta thường nghỉ ngơi, quân lính giặc cũng "đang chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân" nhất là vừa mới giành được một số thẳng lợi bước đầu, dễ sơ hở, Nguyễn Huệ mở ngay đợt phản công chiến lược, vì lực lượng có hạn, nếu không nhanh chóng tiêu diệt địch, để thời gian tác chiến kéo dài, địch sẽ tìm cách đối phó, ông đã hành động hết sức quyết liệt, nâng cao tốc độ tiến công lên 16km/ngày tưởng chừng như "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" khiến chính Tôn Sĩ Nghị cúng phải hốt hoảng kêu lên: "Sao mà thần đến thế!". Thứ năm là Nguyễn Huệ áp dụng phương thức tổng hội chiến để tiến hành tác chiến nghĩa là cùng một lúc, vào rạng sáng mồng 5, khi đạo quân Đặng Tiến Đông tiêu diệt xong các đồn Nam Đồng, Khương Thượng, đang tiến nhanh về phía cung Tây Long thì ở phía Nam, quân chủ lực, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, cũng bắt đầu nổ súng công kích vào tập đoàn chiến lược Ngọc Hồi, giết chết tại trận hàng vạn tên cùng với các phó tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long.


Do giành được bất ngờ chiến lược như vậy nên kết quả là trong vòng năm ngày đêm, bằng một tổng hội chiến thần tốc, Nguyễn Huệ đã đánh bại hoàn toàn đạo quân xâm lược Mãn Thanh, tiêu diệt và làm tan rã 29 vạn tên, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền làm chủ kinh thành Thăng Long cũng như làm chủ trên cả đất nước. Thật là một sự kiện rất hiếm có trong lịch sử quân sự Việt Nam cũng như trong lịch sử quân sự thế giới.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười, 2021, 06:50:00 pm
Không chỉ gây nên sự bất ngờ lớn về chiến lược, Nguyễn Huệ còn gây nên những bất ngờ khác cho địch trong từng hội chiến, từng trận đánh.

Ở Ngọc Hồi, phải lấy 1 thắng 2, quân địch lại biết quân ta đã có mặt ở Hà Hồi, sớm muộn rồi chúng cũng bị tiến đánh, vậy phải làm thế nào để đạt được bất ngờ? Nhằm giấu kín ý đồ đánh lớn, trong ngày mồng 4, trên toàn chính diện, Nguyễn Huệ cho các đội kỵ binh, các đội quân lưu động tiến hành các trận đánh nhỏ, thực chất là để tiêu hao lực lượng địch, gây cho chúng những hoang mang, những sai lệch. Vì thế cho tới đêm mồng 4, Tôn Sĩ Nghị vẫn cho rằng "đối với giặc, không có gì đáng lo ngại". Hứa Thế Hanh cũng tuyên bố: "Đến sáng mai hội quân lại đánh, xem ta quét sạch người Nam". Việc sử dụng pháo binh đối với địch ở đây cũng là một điều không ngờ. Tôn Sĩ Nghị vẫn yên trí quân ta chỉ có voi chiến làm lực lượng đột kích. Chả thế mà điều quân luật thứ tư của quân Thanh đã ghi rõ: "... Sức voi tuy khỏe, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và lao, làm cho nó bị đau và chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết...". Sự thật thì đến trận Ngọc Hồi, quân ta đã sử dụng pháo - voi, đặt đại bác trên lưng voi chiến, pháo di chuyển nhanh hơn, tính cơ động phát huy tốt hơn, việc sử dụng pháo binh linh hoạt thêm, tạo được hỏa lực cao trên những điểm quyết định. Bởi vậy khi bất ngờ trông thấy "voi chở đại bác xông ra trận" quân địch vội bỏ chạy tán loạn vì khiếp nhược, không chống cự nổi. Ở Ngọc Hồi, địch xây dựng trận địa thành tuyến chiến lũy khá kiên cố. Muốn chọc thủng tuyến trận địa này phải áp dụng một phương pháp tác chiến mới, bất ngờ với địch, Nguyễn Huệ dùng chiến thuật những tung đội sâu, có sự hợp đồng tác chiến giữa bộ binh, tượng binh và pháo binh. Sau khi pháo binh bắn mật tập, bộ binh xung kích tràn lên, có tượng binh làm lực lượng đột kích đi cùng.


Ở Đầm Mực, do giấu kín được tuyến cơ động, đạo quân của đại đô đốc Bảo đã bất ngờ xuất hiện ngay trên tuyến địch định rút về. Sau đó bằng pháo binh, tượng binh, quân ta đã dồn toàn bộ số quân địch vừa thoát chết ở Ngọc Hồi, vào trận địa phục kích. Và ở đây, chúng đã bị đội tượng binh, 200 con voi chiến giày nát. Trong số đó có cả tổng binh Thượng Duy Thăng.


Ở Thăng Long, trong từng trận chiến đấu, địch cũng không khỏi bị những bất ngờ. Tại Khương Thượng, cũng do biết giữ bí mật tuyến cơ động nên đạo quân Đặng Tiến Đông đã bất ngờ xuất hiện được ở nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất, hoàn toàn không có sự chuẩn bị. Do xuất hiện bất ngờ, nổ súng bất ngờ, xung kích bất ngờ nên trận đánh đả được giải quyết nhanh gọn. Tuyệt vọng vì thiếu biện pháp ứng phó, Sầm Nghi Đống đã treo cổ tự tử. Tại cung Tây Long, sau khi san phẳng các đồn Khương Thượng, Nam Đồng, quân ta dùng lực lượng kỵ binh nhẹ, bất ngờ chọc thủng vào soái phủ, gây nên sự hoảng loạn cực kỳ cho chính bản thân chủ tướng Tôn Sĩ Nghị, phó tướng Hình Đôn Hạnh, tổng binh Lý Hóa Long, ở đây, một điều diễn ra quả thật bất ngờ và khủng khiếp với quân địch là cùng với quân đội tiến công vào Thăng Long, nhân dân chín xã ngoại thành cũng lần lượt nổi dậy, dùng rơm rạ đốt thành "trận rồng lửa", khắp bốn bề vây kín quân cướp nước.


Qua một số nét vừa trình bày, chúng ta thấy chiến thắng Đống Đa là một mẫu mực về nghệ thuật đánh bất ngờ trên cả ba mức độ: chiến lược, hội chiến và chiến đấu.

Nhờ phát huy được yếu tố bất ngờ, quân đội và nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, do Nguyễn Huệ lãnh đạo và chỉ huy, đã thu được những kết quả to lớn: đánh thắng địch khi chúng không chuẩn bị, không chờ đợi; nhanh chóng giáng cho chúng những tổn thất hết sức nặng nề; làm tê liệt ý chí chiến đấu và gây nên những hoảng loạn trong đội ngũ của địch; tước mất mọi khả năng đề kháng của chúng do đó đã đánh bại hoàn toàn một đạo quân xâm lược lớn mạnh trong một thời gian cực ngắn với một tổn thất thấp nhất.


Vì vậy, trong hoàn cảnh phải lấy ít đánh nhiều, sự bất ngờ là một nhân tố tạo thành thế mạnh áp đảo. Qua thực tiễn chiến thẳng Đống Đa, nổi rõ lên những điều kiện đạt bất ngờ đó là: tạo sai lầm cho địch đối với ý định của ta; giữ tuyệt đối bí mật kế hoạch hành động và những chuẩn bị tác chiến; tính đột nhiên trong công kích vào những nơi địch không chờ đợi; hành động kiên quyết và thần tốc và cuối cùng là sử dụng khéo léo các phương tiện và các phương thức chiến đấu mới.


Tóm lại, tạo bất ngờ là kết quả của cả một quá trình rất phức tạp. Đó là thành quả của thiên tài trí tuệ thống soái tối cao, của tài năng sáng tạo ở mọi cấp chỉ huy, của năng lực chiến đấu cao và kỷ luật nghiêm của rộng rãi quần chúng binh sĩ, của phương pháp hành động của mọi binh đội, của toàn bộ sự đào luyện về quân sự và chính trị của quân đội Việt Nam do Nguyễn Huệ chỉ huy ở thời đại này.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:54:08 pm
KIỂU CÔNG KÍCH THỨ NĂM TRONG LỊCH SỬ


Trên chiến địa, khi quân đội hai bên đối địch, nếu có ý định tiến công, thường áp dụng các kiểu công kích - theo tiến trình lịch sử - sau đây:

Thứ nhất: Kiểu công kích đơn giản nhất, công kích bằng trận tuyến song song. Đó là khi mà cả hai bên tiến công đồng thời trên toàn bộ chính diện bằng cách dàn đều lực lượng, suốt từ phía sườn này sang phía sườn kia và kết cục trận đánh được giải quyết bằng sức mạnh. Tiêu biểu cho kiểu công kích này là hội chiến Ma-ra-tông (490 trước Công nguyên). Thứ hai, công kích theo đội hình chếch. Đó là phương pháp tập trung lực lựợng, tiến công vào một bên sườn quân địch, do Ê-pa-mi-nông-đát sáng tạo ra và đã chiến thắng rực rỡ ở hội chiến Lớt (371 trước Cổng nguyên). Thứ ba, công kích bằng cánh quân ở giữa, còn các cánh hai bên sườn lùi lại phía sau làm đội dự bị. So với hai kiểu trên, kiểu công kích này có nhiều thiếu sót hơn cả, ít được áp dụng và không khi nào mang lại kết quả. Do áp dụng kiểu công kích này, đạo quân La Mã đã bị bao vây và bị tiêu diệt gọn ở hội chiến Can (216 trước Công nguyên). Thứ tư, công kích bằng các cánh quân cạnh sườn, hoặc là đồng thời hoặc là lần lượt. Trong khi ấy, cánh quân trung tâm lui về phía sau. Đây là chiến thuật mà Na-pô-lê-ông rất ưa thích. Khi giáp chiến, ông bắt buộc kẻ địch phải giảm bớt số quân ở trung tâm để tăng cường cho các cạnh sườn, còn bộ phận trung tâm, ông bố trí lùi lại phía sau và được tăng cường bằng một lực lượng lớn kỵ binh dự bị và cuối cùng lao vào lỗ thủng chính giữa đội hình quân địch và kết thúc trận đánh bằng một đòn tiêu diệt. Hội chiến Au-xtéc-lích (1805) là một điển hình của kiểu công kích này.


Qua bốn kiểu công kích trên, chúng ta thấy rõ ở kiểu công kích thứ nhất, việc thực hiện thuần túy là bằng sức mạnh, bằng vũ lực. Từ kiểu công kích thứ hai trở đi mới có sự tham gia của tư duy, của trí tuệ. Ở đây, một điều cần nhớ: nhược điểm muôn thuở của đội hình chiến đấu là mạnh phía trước, phía chính diện, và yếu ở hai bên. Biết rõ như vậy, các vị chỉ huy quân sự của mọi thời đại đều tìm hết cách tăng cường lực lượng để bảo vệ cạnh sườn của mình và "khai thác triệt để" mặt yếu này của đối phương để giành thắng lợi. Tại Ma-ra-tông, một hội chiến được công kích theo kiểu dàn đều lực lượng, những người cầm quân chiến đấu hai bên đều tìm đủ cách khắc phục việc "hở sườn". Quân Ba-tư dùng kỵ binh, quân Hi Lạp dùng bộ binh nặng, những người lính tinh nhuệ nhất. Chỉ tiếc rằng hành động công kích ở đây còn rất "thật thà", chỉ biết chia đều lực lượng trên một đội hình chiến đấu xơ cứng, nặng nề nên hiệu suất chiến đấu đã bị hạn chế rất nhiều. Từ chỗ dàn đều lực lượng ở Ma-ra-tông đến chỗ tập trung sức mạnh ở Lớt, quân đội các thành bang Hi Lạp cổ đại phải trải qua thực tế chiến trận hơn một trăm năm. Thế nhưng sự dồn sức đó cũng chỉ biết hướng vào một điểm trên cánh của chính diện. Phải chờ đến hội chiến Ac-ben-la (331 trước Công nguyên), hành động vu hồi vào cạnh sườn và phía sau mới hình thành rõ nét. Đây là một hội chiến - dưới sự chỉ huy của A-lếch-xăng Ma-xê-đoan - tiêu biểu cho sự phát triển nghệ thuật quân sự tới mức cao nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ Hi Lạp. Nhà nước La Mã ra đời. Đội hình chiến đấu ma-ni-puyn (cũng gọi là ma-níp) rồi đội hình cô-hoóc lần lượt thay thế đội hình pha-lăng. Bởi vậy, các lực lượng chiến đấu đã "có sức cơ động lớn, nên đội quân La Mã đã vượt xa đội quân Hy Lạp". Thế nhưng điều đáng tiếc là tại hội chiến Can, Va-rông, vị chỉ huy quân đội La Mã, đã không phát huy được ưa thế đó mà đã tổ chức đội hình siết chặt dày đặc của mình theo kiểu pha-lăng, lạc hậu tới ba trăm năm, với thế trận mạnh ở giữa và yếu ở hai cạnh sườn, một kiểu đội hình mà những điểm yếu được phơi trần ra nên đã dễ dàng bị quân Các-ta-giơ, dưới sự chỉ huy của Ha-ni-ban, tiêu diệt gọn. Từ thời điểm đó, hội chiến Can được xem là một minh chứng lịch sử về nghệ thuật hợp vây, một trong những hội chiến điển hình đối với sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật quân sự châu Âu cũng như trên phạm vi toàn thế giới trong thời cổ đại. Vượt qua thời trung đại, cụ thể là tới 2021 năm, từ hội chiến Can (216 trước Công nguyên) đến hội chiến Au-xtéc-lich (1805), nghệ thuật quân sự loài người mới nhận được một kiểu công kích mới, kiểu công kích thứ tư, cũng là kiểu công kích đầu tiên trong thời đại vũ khí nóng. Ưu điểm nổi bật của kiểu công kích này là Na-pô-lê-ông đã biết khai thác triệt để chỗ yếu từ hai bên cạnh sườn của đội hình chiến đấu bằng cách tăng cường lực lượng ở những chỗ đó phía đội hình quân mình rồi lần lượt tiến công vào hai cạnh sườn đội hình đối phương. Cũng trong hội chiến này, pháo binh từng trở thành chiến thuật riêng, vốn được áp dụng vào trong thực tiễn chiến trường - có thể xem như là một nghệ thuật đặc biệt của người Pháp mà sau đó, tất cả các dân tộc châu Âu đều bắt chước - đã nhanh chóng làm rối loạn đội hình địch ngay từ đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh tiến lên tiêu diệt địch theo đội hình giãn thưa kết hợp các khối dọc.


Trở lên trên, bài viết đã lần lượt trình bày bốn kiểu công kích tại chiến trưòng châu Âu, từ cổ đại đến cận đại. Đặc biệt là ở châu Á, cụ thể là ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, quân đội Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đã xuất hiện một kiểu công kích mang màu sắc phương Đông. Đó là công kích thẳng vào chính diện đồng thời vu hồi vào hai cạnh sườn và sau lưng. Hội chiến Ngọc Hồi - Đống Đa (1789) là một thí dụ điển hình. Tại đây, Nguyễn Huệ đã xác định rõ đối tượng công kích là những tập đoàn chủ yếu nguy hiểm nhất của đối phương. Vì vậy, đồn Ngọc Hồi và cung Tây Long, hai vị trí then chốt trong toàn bộ thế bố trí của địch đã trở thành những mục tiêu của hành động. Còn các mục tiêu khác ở Sơn Tây, ở phía bác sông Hồng, ông thấy không cần "đụng chạm" tới vì biết rằng chúng sẽ phải tháo chạy khi bị uy hiếp mạnh. Đối với toàn chiến cục, Nguyễn Huệ thực hiện phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa khối công kích tiến đánh phía trước với khối bao vây, vu hồi phía sau. Riêng các mục tiêu công kích, ông không áp dụng phương pháp "cuốn chiếu" mà tiến hành tiến công gần như cùng một lúc, trước sau chỉ gói gọn trong một trống canh. Nhằm bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, gây rối loạn cho sự chỉ huy của địch ngay từ đầu, cung Tây Long - nơi đặt đại bản doanh của chủ tướng Tôn Sĩ Nghị - được xử lý trước bằng một lực lượng gọn nhẹ, có sức đột kích mạnh và nhất là có sức cơ động nhanh, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài: đô đốc Đặng Tiến Đông. Còn Ngọc Hồi, một "điểm rắn", một vị trí rất "gai góc", do Hứa Thế Hanh chỉ huy, một viên tướng người Mãn, có "tầm cỡ" từng được vua Càn Long đánh giá là một "đề đốc đại viên" thì Nguyễn Huệ trực tiếp đảm nhiệm. Để chắc thắng, riêng ở vị trí này, ông cũng áp dụng phương pháp tác chiến bằng sự hiệp đồng chặt chẽ giữa công kích phía trước - phía Nam Ngọc Hồi với lực lượng chủ yếu - và bao vây phía sau - của đội dự bị mạnh, với mấy trăm voi chiến, đặt dưới sự chỉ huy của đại đô đốc Bảo - đã dồn số tàn quân địch - từ Ngọc Hồi thoát ra - xuống Đầm Mực và tiêu diệt hoàn toàn. Như trên đã nói, đối với toàn chiến cục, Nguyễn Huệ thực hiện kiểu công kích thẳng vào chính diện đồng thời vu hồi vào các cạnh sườn và sau lưng. Theo thuật ngữ quân sự phương Đông, đây là phương pháp tác chiến theo kiểu "chính - kỳ". Vì thực chất của nó là "dùng chính để đối địch, dùng kỳ để đánh thắng". Tại hội chiến này, phương pháp đó được thể hiện thành nhiều lớp, lồng vào nhau, tạo thành một thế trận bao vây chặt và kín khiến đối phương không thể nào thoát ra được. Nếu như đội dự bị, sau đó trở thành đạo kỳ binh - xuất hiện ở Đầm Mực - của chính binh đánh thẳng vào chính diện Ngọc Hồi thì tất cả lực lượng ở đây lại là chính binh của đạo kỳ binh đánh vào cung Tây Long. Và tất cả các lực lượng tác chiến này ở phía Nam sông Hồng lại trở thành chính binh của đạo kỳ binh, dưới sự chỉ huy của đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, đánh vào phía sườn trái của địch ở Hải Dương cũng như của đạo kỳ binh, dưới sự chỉ huy của đại đô đốc Lộc, tiến ra Lạng Giang, Phượng Nhãn, phục kích, chặn đường rút chạy của tàn quân địch. Chỉ tiếc là gió mùa đông - bắc cản trở, cánh quân phục kích này không hoàn thành được nhiệm vụ, nếu không, chắc chắn rằng vị Tổng đốc Lưỡng Quảng họ Tôn kia đã không thoát thân về được tới Thiên triều để đi nhậm chức Tổng đốc Lưỡng Giang.


Ở đây có một điều đáng quan tâm là so với bốn kiểu trên thì kiểu công kích này xuất phát từ phương pháp tác chiến "chính - kỳ" cổ xưa của phương Đông nhưng có đưa vào đấy các yếu tố mới mà nổi bật lên là những người chiến binh nông dân giàu lòng yêu nước, có khả năng chiến đấu cao so với thời ấy và những khẩu súng cầm tay nòng trơn bên cạnh những cây giáo dài quen thuộc, hai yếu tố làm cơ sở cho việc xuất hiện đội hình giãn thưa kết hợp các khối dọc. Và rồi phép đánh "chính - kỳ" truyền thống kết hợp với đội hình chiến đấu mới đó - dưới tài năng quân sự kiệt xuất của Nguyễn Huệ - đã hình thành nên một kiểu công kích mới, kiểu công kích thứ năm trong lịch sử quân sự thế giới.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:54:54 pm
ĐIỆU HỔ LY SƠN


Nói đến đấu tranh vũ trang là phải nói đến sức mạnh, mạnh được yếu thua. Trong loài thú lại không có con vật nào có sức mạnh bằng con hổ, khi mà trình độ khoa học kỹ thuật của loài người đang còn thấp kém, sức mạnh còn hoàn toàn dựa trên năng lực sinh học. Cho nên "chúa sơn lâm" vẫn hay được dùng làm biểu tượng cho sức mạnh quân sự nhất là khi tư thế của con thú dữ này là nằm trong hang, ở trên núi. Bên cạnh đó, binh thư cổ lại dạy "tị thực, kích hư" - tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Điều đó có nghĩa là khi đối phương còn ở trong căn cứ, trong thành quách thì không nên công kích mà tốt nhất là dụ chúng ra khỏi vị trí - như lừa con hổ ra khỏi núi - để mà diệt. Từ đó, thuật ngữ quân sự xuất hiện cụm từ "điệu hổ ly sơn". Đây cũng là cách đánh sở trường của quân và dân ta trong tác chiến vận động. Trong lịch sử chiến tranh yêu nước Việt Nam đã nổi lên nhiều dẫn chứng sinh động như thế.


Đó là trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1285. Số là sau 5 tháng nhử quấn xâm lược vào sâu, dàn mỏng lực lượng địch, đẩy chúng vào thế bị động, cuối tháng 5, quân và dân ta bắt đầu mở trận đánh lớn vào khối đại quân của chúng ở Thăng Long, đưa cuộc chiến tranh sang giai đoạn phản công chiến lược.


Để thực hiện ý đồ này, quân các lộ và các đội dân binh từ hướng bác, hướng tây và tây nam đã đánh úp hàng loạt các đồn lũy bao quanh Thăng Long nhằm thu hút, kìm chân và đánh lạc hướng địch để quân chủ lực bất ngờ giáng một đòn mãnh liệt vào bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), một cơ sở hậu cần chiến lược cách kinh thành 40km về hướng đông nam. Đến lúc đó, chủ tướng Thoát Hoan mới thấy rõ hướng hành động chủ yếu của đối phương nên đã vội vàng tung kỵ binh ra đối phó. Như vậy một việc làm rơi trúng ý định của quân ta. Ngay từ khi kỵ binh địch đang vận động trên chiến trường, quân và dân ta đã tổ chức những trận địa mai phục tại các xóm làng quanh khu vực Chương Dương, sẵn sàng tiêu diệt chúng. Đây cũng là trận thử sức đầu tiên giữa bộ binh ta với kỵ binh địch theo cách đánh "dĩ đoản binh chế trường trận", nghĩa là công kích kỵ binh ngay khi chúng đang vận động, khác hẳn cách tập kích vào kỵ binh đang nằm ngủ trong lều trại ban đêm như ở trận Đông Bộ Đầu 27 năm về trước. Để diệt địch, quân ta dựa vào hệ thống hầm hào, dùng cung nỏ bắn gục những con ngựa chiến rồi xông lên, giết chết những kỵ thủ vừa bị hất ngã bằng vũ khí lạnh. Chính tại chiến địa này, quân chủ lực ta đã bẻ gẫy mũi nhọn tiến công của những gu-ran (đơn vị 1000 người) kỵ binh tinh nhuệ nhất của thế giới đương thời. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy mà đòn chí tử đó đã làm rung chuyển cả khối đại quân xâm lược khiến chúng phải vội vã tháo chạy khỏi Thăng Long để rồi lại bị tiêu diệt lớn tại các trận địa chờ sẵn ở Vạn Kiếp, một hội chiến quyết định thẳng lợi hoàn toàn cuộc chiến tranh chống Nguyên - Mông lần thứ hai.


Đó còn là trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ở đây, ai cũng thấy rằng sau thất bại từ biên giới vào cuối năm 1950, quân xâm lược đã phải rút bỏ nhiều vị trí chiếm đóng và mất một năm ra sức cũng cố lực lượng, Đ.Đ. Tát-xi-nhi, Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp tại Đông Dương, mới dám đi tới quyết định phản công, giành lại quyền chủ động chiến lược và cho quân đánh chiếm Hòa Bình.


Đối với ta, sự kiện quân sự này có hai điều thuận lợi: một là cuộc tiến công đó tuy có gây ra những khó khăn nhưng đã tạo thời cơ để ta tiêu diệt sinh lực địch vì lực lượng cơ động tinh nhuệ của chúng phải phân tán trên một chiến tuyến xa lạ, địa hình không thuận lợi mà công sự lại chưa vững chắc; hai là phần lớn lực lượng cơ động đã tập trung tại Hòa Bình nên thế bố trí của địch ở đồng bâng Bắc Bộ bị dàn mỏng, mà tương đối sơ hở so với trước là các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn sông Hồng đến vùng trung du. Vì trên thực tế, sau Chiến dịch Biên giới, trên chiến trường chính, các lực lượng vũ trang ta tuy có giữ vững được quyền chủ động chiến lược nhưng cũng vẫn chưa giành được ưu thế quân sự, chưa phá được phòng tuyến địch, chưa làm thay đổi được tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ. Nay tự địch kéo quân ra là một cơ hội rất tốt để quân ta tiêu diệt chúng. Tương kế, tựu kế, Đảng ta quyết định mở chiến dịch Hòa Bình và bố trí các sư đoàn chủ lực đánh địch trên hai mặt trận: vây hãm và tiêu diệt quân cơ động của địch trên chiến trường này đồng thời phối hợp với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương phá thế bình định, phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch tại đồng bằng Bắc Bộ.


Kết quả là sau hơn 100 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân ta đã kết thúc thắng lợi chiến dịch Hòa Bình. 22.000 tên địch bị diệt, riêng ở mặt trận sau lưng địch có 15.000 tên. Đây là số địch bị diệt cao nhất từ trước tới thời điểm ấy trong một chiến dịch. Bên cạnh đó, ta còn tiêu diệt, bức rút, bức hàng hơn 1000 đồn bốt, tháp canh. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Ninh đến Bắc Giang xuống sát tới đường số 5 qua một số tỉnh thuộc đồng bằng Bâc Bộ. Hai triệu dân đã được giải phóng.


Đó lại còn là trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Tại chiến dịch Plây Me (19-10 - 26-11-1965), sau khi cụm cứ điểm Plây Me (do 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy phòng ngự), bị quân ta bao vây, áp sát và gây nhiều thiệt hại nặng, chiều 23-10-1965, địch buộc phải điều chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy đến ứng cứu. Nhưng rồi chiến đoàn này cũng bị loại khỏi vòng chiến đấu. Biết rằng việc bao vây, áp chặt đã đạt đủ mức gây cho địch tác động phản ứng dây chuyền, quân ta chuyển toàn bộ lực lượng về vị trí chuẩn bị đón đánh quân Mỹ đến ứng cứu và chọn thung lũng Ia Đrăng, ở phía tây cứ điểm Plây Me, làm điểm quyết chiến. Lực lượng đó không ngoài sư đoàn kỵ binh bay số 1. Vì khi triển khai lực lượng trên toàn miền Nam, đế quốc Mỹ đã đưa vào chiến trường Tây Nguyên những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ vào bậc nhất mà nòng cốt chính là sư đoàn này. Và trên thực tế, trước khi bước vào chiến dịch, sư đoàn ấy đã có mặt tại An Khê. Qua việc chuẩn bị chiến đấu của quân ta, có người đã đặt ra câu hỏi: sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ đổ quân xuống thung lũng này là do ta chủ định dụ địch hay chỉ là hành động ngẫu nhiên của chúng? Nếu không chủ định thì làm sao có được sự lập lại tới hai lần ở hai chiến dịch: Sa Thầy (1966) và Đác Tô 1 (1967)?


Quả nhiên, thấy quân ngụy bị giáng đòn đau, đúng như dự kiến, từ 14 đến 17-11-1965, lữ đoàn 3 thuộc sư đoàn kỵ binh bay số 1 đã liên tiếp đổ quân xuống thung lũng Ia Đrăng. Thực hiện triệt để khẩu hiệu "bám thắt lưng địch mà đánh", các phân đội bộ binh ta đã chủ động hiệp đồng công kích ngay khi quân địch vừa chạm chân tới đất. Về mặt lý thuyết, đổ bộ hạ cánh bằng máy bay lên thẳng là một phát minh mới nhất của quân đội Mỹ và cũng là một phát minh mới nhất thế giới đương thời nhưng trên thực tế chiến đấu, lực lượng kỵ binh đã lộ rõ những mặt yếu chí tử khi chiến đấu ở ngoài công sự. Bởi vậy chỉ qua bốn ngày giao chiến với đối phương, lữ đoàn 3 đã bị loại khỏi vòng chiến đấu sau khi tiểu đoàn 2 bị tiêu diệt - như phía Mỹ đã chịu thừa nhận - tiểu đoàn 1 bị thiệt hại nặng. Chiến dịch Plây Me kết thúc. Thắng lợi ở phía ta.


Về kết quả trận đánh, sau này bại tướng Oét-mo-len đã phải thừa nhận: sư đoàn kỵ binh bay số 1 "có 300 người chết, như vậy là tổn thất rất nghiêm trọng...". Nhưng đâu có phải chỉ là "tổn thất" tuy rằng "rất nghiêm trọng" mà sự kiện quân sự ở thung lũng Ia Đrăng còn có một tác động hết sức sâu xa như lời nhận xét của trung tướng về hưu Harold G.Moore (lúc đó là trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 tham chiến ở Ia Đrăng): "Ia Đrăng, trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam". Và còn hơn thế nữa như lời nhận xét của Uy-liêm Bân-đi, trợ lý ngoại giao Mỹ: "Ia Đrăng... đã trở thành một cái mốc lịch sử". 


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:55:35 pm
CHỮ HIẾU TRONG QUAN NIỆM CỦA TRẦN QUỐC TUẤN


Lịch sử Việt Nam có đoạn ghi lại lời An Sinh Vương Trần Liễu dặn con trai là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời: "Nếu con không vì cha mà lấy thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt. Vương suy nghĩ kỹ, không theo lời cha, cử động rất cẩn thận". Bài viết này muốn tìm hiểu về "cử động rất cẩn thận” đó, cụ thể là tìm hiểu chữ "hiếu" trong quan niệm của Trần Quốc Tuấn.


Trước hết, chúng ta hãy xét đến nội dung và ý nghĩa của từ này. "Hiếu" nghĩa là "hết lòng thờ cha mẹ". Theo phép "hội ý" của tiếng Hán, chữ "hiếu" bao gồm chữ "tử" cõng chữ "lão", ý muốn nói người con phụng dưỡng cha mẹ. Sinh ra từ thời chiếm hữu nô lệ Trung Quốc, chữ "hiếu" nằm trong lễ giáo của đạo Nho. Theo lịch sử thế giới cổ đại, đạo Nho, do Khổng Tử đề xướng, không phải là một thứ tôn giáo, mà là một học thuyết chính trị. Nó ra đời vào cuối thời Xuân Thu (từ - 770 đến - 476), khoảng cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V trước Công nguyên. Thực chất học thuyết này, lúc mới hình thành, chỉ là một hệ thống quan hệ ứng xử giữa con đối với cha mẹ (hiếu), bề tôi đối với vua (trung), bè bạn đối với nhau (tín) và người đối với người nói chung (nhân, nghĩa). Hệ thống khái niệm của đạo Nho chỉ nhằm xây dựng con người như là một phần tử của thiên hạ, của một cộng đồng văn hóa chứ không phải xây dựng con người như là một thành viên, một công dân của một nước, một Tổ quốc theo đúng nghĩa của nó. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi lẽ Khổng Tử sống dưới thời Đông Chu, khi thiên hạ đã được chia thành hàng trăm nước lớn nhỏ. Các nước ấy tựu trung chỉ là những miền đất, cấp cho người này, người nọ, không có một quá trình hình thành nào cả. Ví như nước Tề là phần lãnh thổ phong cho Khương Tử Nha, một đặc đẳng công thần của nhà Chu; nước Lỗ là phần lãnh thổ phong cho Bá Cầm, con Chu Công Đán, cháu gọi vua Chu Võ Vương bằng bác ruột. Vào thời đó, Khổng Tử cũng như mọi kẻ sĩ đi ngao du khắp nơi, ai khéo dùng thì một dạ, một lòng với người đó. Ngũ Viên - thường gọi là Ngủ Tử Tư - là một kiểu người như vậy. Đây là một loại trung thần điển hình ở Trung Quốc cổ đại bởi sự tận tụy hy sinh với vua Ngô Hạp Lư, người đã biết cách sử dụng ông ta. Nhưng chính ông ta lại đem quân Ngô trở về tiêu diệt nước Sở, miền đất đã sinh ra ông ta, rồi sai người quật mả vua Sở Bình Vương, đem thây ra quật ba trăm roi, chỉ vì trước đó, nhà vua đã nghe lời gièm pha, giết chết cha ông ta là Ngũ Xa và anh ruột ông ta là Ngũ Thượng, vì hiếu với cha, ông ta đã nhẫn tâm đưa quân nước ngoài giẫm đạp lên quê cha đất tổ. Cuối cùng, con người vong quốc đó lại bị ngay Phù Sai - con trai và là người nối ngôi Hạp Lư - bức tử.


Theo chân đạo Nho, chữ "hiếu" vào Việt Nam. Mà Việt Nam vốn là một đất nước có quá trình hình thành qua hàng ngàn năm xây dựng và chiến đấu. Nếu như Tổ quốc là một khái niệm hoàn toàn xa lạ trong đạo Nho thì nó lại là một khái niệm trung tâm văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, vào đất nước này, chữ "hiếu" đã bị khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời tiếp thụ chữ "hiếu" trong cách ứng xử với cha mẹ, người Việt Nam còn phát triển và đưa vào khái niệm này một nội dung mới, lớn hơn rất nhiều. Đó là chữ "hiếu" đối với Tổ quốc. Bên cạnh "tiểu hiếu", ở Việt Nam còn có "đại hiếu". Chính vì "đại hiếu" mà từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn, một người xuất thân từ trong một gia đình đại quý tộc phong kiến "thông minh hơn người, đọc đủ các sách, có tài văn võ" nhưng không câu nệ "làm con chớ nên trái ngược" mà hành động theo lời cha dặn. Ông đem ý kiến đó thăm dò các gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người can rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một lúc mà để lại tiếng xấu nghìn năm... Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu". Một hôm, ông ướm thử ý kiến con trai trưởng là Hưng Võ Vương Nghiễn: "Ngày xưa có được thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào"? Hưng Võ Vương trả lời: "Nếu là họ khác cũng còn không nên huống chi cùng một họ". Ông khen ngầm là phải. Lại một hôm, ông đem câu ấy hỏi con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Ông không ngờ rằng Quốc Tảng đã trả lời: "Tống Thái Tổ là một ông lão làm ruộng mà thừa thời cơ dấy vận đã có được thiên hạ". Nghe vậy, ông rút gươm chỉ vào mặt: "Kẻ làm tôi phản loạn là do đứa con bất hiếu này". Hưng Võ Vương nghe tin, vội vàng chạy đến xin lỗi hộ, ông mới tha. Giận quả, ông dặn người con trai trưởng: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào". Sở dĩ Trần Quốc Tuấn không thực hiện lời di huấn của cha vì biết chắc rằng điều đó chỉ làm giảm sức chiến đấu của đất nước trước quân xâm lược Mông -   Nguyên. Đạo Nho nói rất nhiều đến điều "nhân" và xác định cái gốc của nó là chữ "hiếu". Hữu Nhược, người học trò xuất sắc của Khổng Tử từng nói: "Người mà biết giữ gìn hiếu thảo với cha mẹ và tôn kính với anh em, tức là biết nắm lấy cái gốc của điều "nhân". Nhưng chính Khổng Tử, khi nói về mối quan hệ giữa con người với nhau, cơ sở để phát sinh điều "nhân" - chữ "nhân" bao gồm hai thành tố: chữ "nhân đứng" là "người" và chữ "nhị" là "hai" - cũng đã từng căn dặn học trò là Tử Cống: Có một chữ mà trọn đời mình có thể làm theo là chữ "thứ", "nghĩa là việc mình không muốn, chớ làm cho người khác". Là một người theo đạo Nho một cách sáng tạo, Trân Quốc Tuấn biết gạt bỏ "tiểu hiếu", mối quan hệ giữa hai người - cha và con - nén mình, gạt bỏ dục vọng, làm theo cha chỉ có lợi cho riêng bản thân, để đi cùng "đại hiếu", mối quan hệ giữa một công dân với cả cộng đồng dân tộc, mong đem lại lợi ích to lớn cho đất nước.


Tóm lại, với một quan niệm tiến bộ, Trần Quốc Tuấn đã biết suy tính, cân nhắc, "cử động rất cẩn thận", đưa vào chữ "hiếu" một nội dung hoàn toàn mới. Đó là "hiếu" với Tổ quốc, với dân tộc. Trong hàng ngũ đại quý tộc phong kiến Việt Nam, tư tưởng của ông đã đi trước thời đại khá xa.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:56:28 pm
NHÀ TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ THIÊN TÀI CỦA THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI


Ở thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam chúng ta có thể tự hào rằng đã sản sinh cho cả loài người một nhà tư tưởng quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn mà trên phạm vi toàn thế giới, từ cuối thế kỷ V đến giữa thế kỷ XVII - dài gần một ngàn hai trăm năm dưới thời trung đại - không một trí tuệ nào đủ sức vượt qua.


Các tác phẩm lý luận quân sự của ông gồm có "Vạn Kiếp tông bí truyền thư", "Binh thư yếu lược", "Hịch tướng sĩ" và bản "Di chúc" (lời đặn dò vua Trần Anh Tông trước khi ông qua đời). Theo "Văn uyên các thư mục" - được soạn năm 1441, dưới thời nhà Minh (Trung Quốc) - ông còn là tác giả cuốn "Kinh sử hỗ ký". Quyển sách đó đã bị thất lạc. Còn "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" chỉ lưu lại được bài tựa của Trần Khánh Dư ở đầu sách.


"Hịch tướng sĩ" và bản "Di chúc" đã được sử sách xác định rõ. Còn cuốn "Binh thư yếu lược" hiện đang lưu hành mặc dù có những tồn nghi về nội dung nhưng vẫn là cuốn binh thư đầu tiên của Việt Nam cũng như của thế giới trung đại. Là người viết nhiều tác phẩm lý luận quân sự nhất trong giai đoạn sơ kỳ và trung kỳ của thời đại này "thời đại cằn cỗi" về lý luận quân sự, như nhận xét của Ph.Ăng-ghen, đồng thời Trần Quốc Tuấn cũng được xem là người đại biểu ưu tú nhất trên lĩnh vực này.


Thật vậy. Ở Trung Quốc, bảy cuốn binh thư cổ xưa và tinh hoa nhất, được mệnh danh là "Võ kinh thất thư" (bảy cuốn sách kinh điển về quân sự) thì tới sáu cuốn được viết ra từ trước công nguyên. Riêng cuốn thứ bảy - "Đường - Lý vấn đối" của Lý Tĩnh - ra đời vào giữa thế kỷ XI, thực ra nội dung tác phẩm này không có gì mới. Vấn đề chủ yếu trong đó chỉ là sự bàn luận về những quan điểm, ý tứ của sáu cuốn binh thư trước đó. Còn ở La Mã cổ đại, cuốn "Tóm lược những nguyên tắc quân sự' của Vê-gie-xơ (Végèce)- được viết vào cuối thế kỷ IV, đầu thế kỷ V - là cuốn sách lý luận quân sự cuối cùng của chế độ chiếm hữu nô lệ phương Tây. Phải chờ đến những năm 1519-1520, khi châu Âu bước vào giai đoạn hậu kỳ thời trung đại, thời Văn hóa phục hưng - khi súng đại bác đã tham gia chiến đấu rộng rãi trong các quân đội - loài người mới được đón nhận cuốn sách lý luận quân sự mới - "Nghệ thuật của chiến tranh" - mà Ma-ki-a-ven-li (Machiavelli), người I-ta-li-a, là tác giả.


Ở đây có một điều đáng nói là sau 161 năm (1207-1368) tồn tại - 72 năm (1207-1279) tiến hành chiến tranh chinh phạt và 89 năm (1279-1368) đặt nền thống trị ổn định trên đất trung nguyên - đế quốc Mông - Nguyên không hề để lại cho đời sau một cuốn sách nào về lý luận quân sự. Mặc dù ở thời đại đó, bằng cách sử dụng kỵ binh, người Mông Cổ đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của nghệ thuật quân sự trên hành tinh của chúng ta.


Nếu ở phạm vi thế giới, mãi cho đến thế kỷ XVIII, khi cuộc Chiến tranh giành độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1775-1783) và cuộc Chiến tranh cách mạng Pháp (1789-1792) nổ ra, chiến tranh nhân dân mới trở thành thông lệ thì ngay từ thế kỷ XIII - nghĩa là trước đó 500 năm - Trần Quốc Tuấn đã có những luận điểm quân sự nổi tiếng như "chúng chí thành thành" (ý chí nhân dân là bức thành), "quốc - gia tinh lực" (nước - nhà chung sức). Ông huy động toàn dân tiến hành chiến tranh giữ nước bằng "thế trận hình người". "Hình trận dáng chữ nhân, gọi tên là nhân trận, thuận cũng là chữ nhân, nghịch cũng là chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, hợp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người. Một người làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận, nghìn muôn người động làm một người" (Binh thư yếu lược). Thế trận được hình tượng hóa bằng chữ nhân đó gọi một cách nôm na là thế "kiềng ba chân", rất chắc chắn, vững chãi trong phòng ngự, là "mũi nhọn ngọn giáo" rất sắc bén, mạnh mẽ trong tiến công.


Thời trung đại, thành luỹ và kỵ binh là hai công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh. Trong đó, kỵ binh Mông Cổ - dưới sự chỉ huy tài giỏi của Thành-cát-tư Hãn và con cháu ông ta - đã giẫm đạp lên bao nhiêu lãnh thổ của nửa phần châu Âu và nửa phần châu Á. Mặc dù học tập "binh pháp các nhà", song Trần Quốc Tuấn không hành động theo cách "lấy kỵ binh chống kỵ binh" như luận điểm nghệ thuật quân sự phổ biến lúc bấy giờ. Dựa vào sức mạnh của quần chúng vũ trang, ông thực hiện một chiến lược quân sự hết sức sáng tạo là "dĩ đoản binh chế trường trận", lấy bộ binh chống kỵ binh, một sự kế thừa và phát huy cao độ truyền thống "lấy yếu chống mạnh" ở thế kỷ XIII. Ông cho đấy là "việc thường trong binh pháp" trong khi ở thời điểm đó, "sự phục vụ trong bộ binh bắt đầu bị coi khinh như là một thuộc tính của những tên nô lệ và nồng nô" (Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập luận văn quân sự). Chính nhờ nghệ thuật "không đặc biệt" đó mà đã ba lần, dân tộc ta chiến thắng oanh liệt thứ binh chủng "bậc nhất" của thế giới đương thời.


Tính sáng tạo là đặc trưng thực chất của lý luận quân sự Việt Nam trong thời trung đại. Trần Quốc Tuấn cũng không đi ra ngoài đặc trưng đó. Ông chủ trương lấy nông dân làm nguồn bổ sung dồi dào, vô hạn cho bộ binh dưới hình thức "bách tính giai binh" (trăm họ là lính), "tận dân vi binh" (mỗi người dân là một người lính). Còn hình thức động viên đông đảo trai tráng nhập ngũ chỉ xuất hiện ở nước Cộng hòa Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại khối liên minh của các nước phong kiến châu Âu sau năm 1789 và xuất hiện ở nước Phổ năm 1813 trong cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của quân đội Na-pô-lê-ông (Napoléon). "Biện pháp số lượng" của ông chính là nhầm tạo thành những lực lượng cơ động - quân triều đình - và những lực lượng tại chỗ - quân các vương hầu, phong quân (quân thường trực địa phương từ tỉnh đến huyện) và dân binh làng xã - trên khắp đất nước để hạn chế tới mức cao nhất tính cơ động của kỵ binh Mông Cổ. Dù nhanh đến đâu cũng không bằng đã có sẵn tại chỗ và từ trước. Các lực lượng vũ trang ấy, ngày nay ta vẫn gọi chung là "ba thứ quân", đã hình thành trong hoàn cảnh lịch sử như vậy. Đây là một kiểu tổ chức quân sự hết sức độc đáo, chưa hề có ở bất cứ một nước nào trên thế giới trung đại. Tuy thế nhưng ông cũng luôn luôn đặt lên vị trí hàng đầu chất lượng của những người cầm vũ khí. "Quân cần tinh, không cần nhiều" (Đại Việt sử ký toàn thư). Bên cạnh đó, ông còn cho rằng đội ngũ tướng lĩnh, những người chỉ huy đóng vai trò quyết định của việc cầm quân tác chiến. Theo ông: "Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, coi bốn biển như một nhà, đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ, không ai địch nổi". (Binh thư yếu lược). Điều này, ở thời trung đại, ngoài ông ra, chắc chắn rảng không một tài năng nào vươn tới.


Tóm lại, với tư tưởng "nghìn muôn người sống làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận", tư tưởng "tận dân vi binh" và tư tưởng "dĩ đoản binh chế trường trận", Trần Quốc Tuấn thực sự xứng đáng là một nhà tư tưởng quân sự thiên tài của cả thế giới trung đại vì đã có những quan điểm về chiến tranh, về quân đội và về nghệ thuật quân sự rất độc đáo, rất mới và đi trước thời đại rất xa.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:57:25 pm
SUY NGHĨ VỀ CHỮ "HIẾU" CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH DẠY BỘ ĐỘI


Chủ ttịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ của dân tộc, người sáng lập Đảng và quân đội ta. Người đã dạy cán bộ, chiến sĩ quân đội phải trung với nước, hiếu với dân và coi đó là phẩm chất cao quý của người lĩnh cách mạng.

Ngày 26-5-1946, lần đầu tiên, Người đưa khẩu hiệu sáu chữ vàng "Trung với nước, hiếu với dân" ghi trên lá cờ trao tặng Trường võ bị Trần Quốc Tuấn (Trưởng sĩ quan lục quân I) nhân dịp khai giảng khóa I, và cũng là chung cho cả toàn quân, vì trước đó, ngày 22-5-1946, Người vừa ký sắc lệnh đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Ngày hôm ấy, trong lời huấn thị, Người còn dặn thêm: "Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta". Hai năm sau, ngày 1-5-1948, nhân dịp Trường võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng khóa IV, Người lại viết thư: "... Sau nữa, tôi vui lòng tặng trường sáu chứ: Trung với nước, hiếu với dân". Ngày 22-12-1964, nhân dịp quân đội ta tròn hai mươi tuổi, cũng là lúc dân tộc ta bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, Người đã phát triển thành khẩu hiệu chung cho toàn quân: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân... Nhiệm vụ nào cúng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...". Tháng 9-1967, trong bức điện gửi Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, Người biểu dương: "Là tinh hoa của dân tộc, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã nêu cao tinh thần trung với nước, hiếu với dân...". Ngày 26-7-1951, trong bức thư gửi Bộ trưởng Bộ thương binh - cựu binh, Người còn biểu dương các thương binh: "Anh em thương binh đã hy sinh một phần xương máu để giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tận trung với nước, tận hiếu với dân". Như vậy, khi đề cập mối quan hệ giữa bộ đội với nhân dân, chữ "hiếu" đã được nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới.


"Hiếu" nguồn gốc của từ nghĩa là "hết lòng thờ cha mẹ", phụng dưỡng cha mẹ. Xuất hiện từ thời chiếm hữu nô lệ Trung Quốc, chữ "hiếu" nằm trong lễ giáo của đạo Nho. Đạo Nho do Khổng Tử đề xướng, ra đời vào cuối thời Xuân Thu, khoảng cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V trước Công nguyên. Thực chất, học thuyết chính trị này, lúc mới ra đời, chỉ là một hệ thống về quan hệ ứng xử giữa con đối với cha mẹ (hiếu), bề tôi đối với vua (trung), bạn bè đối với nhau (tín) và người đối với người nói chung (nhân, nghĩa). Vì hệ thống khái niệm của đạo Nho chỉ nhằm xây dựng con người như là một phần tử của thiên hạ, của một cộng đồng văn hóa chứ không phải là xây dựng con người như là một thành viên, một công dân của một nước, một tổ quốc theo đúng nghĩa của nó.


Khi phát biểu quan điểm đối với những thành tựu văn hóa loài người, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "... Học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". Theo Người, một trong những điều hay là chữ "hiếu”.


Theo chân đạo Nho, chữ "hiếu" vào Việt Nam, một dân tộc có quá trình hàng ngàn năm xây dựng và chiến đấu. Nếu như Tổ quốc là một khái niệm hoàn toàn không có trong đạo Nho thì nó lại là một khái niệm trung tâm của văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, chữ "hiếu" khi vào nước ta đã được khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời tiếp thụ chữ "hiếu" trong cách ứng xử với cha mẹ, người Việt Nam còn phát triển và đưa vào khái niệm này một nội dung mới, lớn hơn rất nhiều. Đó là chữ "hiếu" đối với Tổ quốc. Từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn, một người xuất thân trong gia đình đại quý tộc phong kiến, nhưng không chịu nghe lời cha, cướp ngôi vua mà lại một lòng vì non sông gấm vóc, đem hết sức mình, liên tiếp tham gia ba lần kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc và lập nên những chiến công hiển hách. Sang thế kỷ XV, Nguyễn Trãi không theo cha sang Trung Quốc làm tròn đạo hiếu mà ở lại Tổ quốc để rồi mười năm sau trở thành linh hồn của cuộc chiến tranh giải phóng.


Ở những thế kỷ trước, tổ tiên ta đã biết phá vỡ mối quan hệ chật hẹp trong chữ "hiếu" của đạo Nho để vươn tới một mối quan hệ mới, cao đẹp hơn là quan hệ giữa người công dân đối với Tổ quốc. Tiếp thụ cái hay của lễ giáo đạo Nho và kế thừa truyền thống đạo làm người của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm này một quan hệ ứng xử hoàn toàn mới, rộng lớn hơn cho lực lượng vũ trang cách mạng: hiếu với dân. Vì Người cho rằng: "Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội". Cho nên chỉ có bộ đội, những người đứng trên tuyến đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, những người quyết "hy sinh xương máu, có khi cả tính mệnh" mới thấu hiểu hết ý nghĩa sâu sắc của đạo làm con, "không phải là "cứu tinh của nhân dân" mà là "có trách nhiệm phụng sự nhân dân".


Nội dung cơ bản của "hiếu với dân" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là Quân đội ta là của nhân dân do Đảng lãnh đạo; bộ đội là con em của nhân dân cho nên phải chiến đấu hy sinh quên mình vì nhân dân. Nhân dân là nền tảng của quân đội, cha mẹ của bộ đội, cho nên phải giáo dục, đoàn kết, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, công tác. Bảo vệ nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của quân đội. Người thường kêu gọi: "Hỡi toàn thể bộ đội, quân dân, tự vệ! Chúng ta quyết không để cha mẹ, bà con ta cho chúng giết hại". Nhiệm vụ thứ hai là giúp dân, "xây dựng một đời sống tự do, sung sướng hơn". Người thường nhắc nhở bộ đội: "Phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại". Vì: "Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể thắng lợi được". Người cũng thường nói: "Muốn thành công, phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi, và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng... nhân hòa là quan trong hơn hết". "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân", vì vậy, bộ đội - lực lượng vũ trang của nhân dân - dù "bất cứ trong tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân để mà tồn tại. Đó là cái chìa khóa của mọi thắng lợi". Muốn "dựa vào dân", "bám chắc lấy dân", "phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu", làm thế nào để "dân như nước, mình như cá". Theo lời dạy của Người, ngay từ khi dân tộc ta chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ lần thứ nhất: "Quân đội Việt Nam và dân chúng Việt Nam đã liên kết thành một khối, quyết không chịu làm nô lệ dưới một chế độ thuộc địa nào". Đó chính là sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Điều cơ bản xuyên suốt tư tưởng quân sự của Hồ Chủ tịch là sức mạnh không bờ bến của nhân dân".


Tuân theo lời dạy "trung với nước, hiếu với dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua hai cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã có gần 100 học viên ngã xuống, 2 học viên được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 4 học viên được phong quân hàm trung tướng. Quân đội ta từ ngày thành lập 22-12-1944 đến ngày 22-12-1994, sau năm mươi năm chiến đấu và trưởng thành, đã được tặng thưởng ba huân chương Sao vàng, 888 người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (có 87 người là nữ, 249 người là liệt sĩ). Trong hai năm gần đây thêm nhiều đơn vị, địa phương, cá nhân tiếp tục được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tất cả cán bộ, chiến sĩ quân đội ta xứng đáng với tên gọi trìu mến là "Anh bộ đội Cụ Hồ".


Tính từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng lực lượng vũ trang nhân dân ta sáu chữ vàng "trung với nước, hiếu với dân", đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Danh ngôn đó đã và đang thấm sâu vào máu thịt của từng chiến sĩ trong quân đội ta, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh vũ trang trong 30 năm chiến tranh cứu nước vừa qua và công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười Hai, 2021, 07:17:49 pm
GỌI "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" BẰNG "ANH" KHÔNG AI GỌI BẰNG "CHÚ"


Vào những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ này, sau khi dân tộc ta giành được chính quyền, bắt đầu đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong xã hội đã xuất hiện cụm từ "Anh bộ đội Cụ Hồ".

Về lý luận, "bộ đội" là tên gọi chung các đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên trong nhiều quân chủng, trừ không quân và hải quân. Thuật ngữ này còn được dùng để chỉ tên quân chủng (bộ đội lục quân, bộ đội tên lửa chiến lược, bộ đội phòng không...), binh chủng (bộ đội bộ binh cơ giới, bộ đội xe tăng...) hoặc bộ đội chuyên môn (bộ đội thông tin, bộ đội đường sát...).


Từ ngữ "bộ đội" lúc đầu có thể chỉ lưu hành trong hàng ngủ các nhà khoa học quân sự và các vị chỉ huy với tư cách là một thuật ngữ để nói đến các đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang cách mạng, chiến đấu trên đất liền là chính, vì lúc đó, quân đội ta chưa có không quân và hải quân. Từ trong quân đội, "bộ đội" truyền ra ngoài và được nhân dân sử dụng làm ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày. Thực ra về lý luận, nội dung từ "bộ đội” không có gì mới song về thực tiễn xã hội Việt Nam vào những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thì nó lại mang tính cách mạng rõ rệt. Theo nếp suy nghĩ cố hữu, lúc bấy giờ, mọi người không có thiện cảm với từ "quân đội". Ai cũng ngờ rằng "tập đoàn người vũ trang" này chính là nơi tụ tập những tên lính khố xanh, khố đỏ, những tên lính lệ, lính dõng, những kẻ nợ máu truyền kiếp của nhân dân và đem so sánh với những chiến sĩ "vì nhân dân quên mình" để rồi đặt niềm tin vào họ, những người được mệnh danh là "bộ đội".


Sử dụng từ "bộ đội", người Việt Nam đã có được một từ thích hợp để đặt cho quân đội non trẻ của mình, một công cụ của chính quyền nhân dân, tiến hành chiến tranh giải phóng nhằm giữ vững thành quả của Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên không phải không có lý do mà người ta gọi những chiến sĩ đấu tranh vũ trang đó là "Anh bộ đội Cụ Hồ". Đây cũng là một hiện tượng lạ, một cách thể hiện "hết sức Việt Nam". "Vì hiếm có nước nào trên thế giới mà nhân dân lấy tên của lãnh tụ đặt cho quân đội nước mình như ở ta”. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì "từ trong khu giải phóng Việt Bắc, đồng bào các dân tộc đã trìu mến gọi các đơn vị vũ trang là "bộ đội Ông Ké" hay "bộ đội Ông Cụ" một cách thân thương, chân chất như tấm lòng của đồng bào đối với vị lãnh tụ của mình, mà nhiều người lúc đó chưa biết tên Bác. Có lẽ về sau, khi biết tên Người, đó là Bác Hồ, là Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam mới, mọi người đã gọi "bộ đội Ông Ké" là ”bộ đội Cụ Hồ"; và cũng từ chiến khu Việt Bắc, tên gọi yêu quý ấy xuất hiện từ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp".


Ai cũng biết rằng Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến bùng nổ, tất cả mọi người, không kể già trẻ, trai gái, giàu nghèo, sang hèn đều hăng hái tham gia các ngành công tác xã hội. Riêng ngành quân sự, đặc biệt là những chiến sĩ trực tiếp cầm súng đối mặt với quân thù, tuyệt đại đa số là nam giới, là những thanh niên trên dưới đôi mươi. Như vậy, người ta gọi bộ đội bằng "anh" cũng là thỏa đáng, vì đại từ này vừa chỉ lứa tuổi, chỉ giới tính lại vừa thể hiện sự kính trọng của xã hội đối với lớp người đã mạnh khỏe lại dũng cảm, dám đem xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Họ là thế hệ thanh niên đầu tiên tham gia quân đội theo chế độ tình nguyện. Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, lớp quân nhân "anh bộ đội" bước sang tuổi trung niên. Sau chín năm chiến tranh, con em họ lên tuổi thanh niên và bắt đầu nhập ngũ. Đó cũng là lúc Nhà nước ta bãi bỏ cách tuyển quân theo chế độ tình nguyện mà ban hành luật tuyển quân theo chế đệ nghĩa vụ quân sự. Vào thời điểm này, cụm từ "chú bộ đội" ra đời. "Chú" vốn là một đại từ chỉ người, "dùng hạn chế trong một số tổ hợp" như chú rể, chú tiểu... "Chú bộ đội" là "người con trai hoặc người đàn ông trẻ tuổi", mặc quân phục. Với tư cách là một đại từ phiếm chỉ, khái quát, "chú" không chỉ dùng để gọi lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự đầu tiên của quân đội, lớp đàn em kế cận của những "Anh bộ đội Cụ Hồ", mà chủ yếu là dùng để chỉ chung cho tất cả mọi quân nhân thuộc các thế hệ con, cháu của họ nữa. Rõ ràng là từ giữa những năm 60 trở lại đây, khi mà các thế hệ kế tiếp những "Anh bộ đội Cụ Hồ" gia nhập quân đội, người ta vẫn gọi những lớp chiến sĩ trẻ này là "chú bộ đội" mà ít khi gọi là "anh bộ đội" mặc dù tuổi đời của họ cũng hệt như ông, cha họ trước đó mấy chục năm, khác chăng ở chỗ một bên nhập ngũ theo chế độ tình nguyện và một bên theo chế độ nghĩa vụ quân sự. Đây tựa như một sự ưu ái của ngôn từ, một sự quy ước chung của xã hội. Người ta chỉ chấp nhận để đại từ "anh" - với tính khái quát rất cao - trước cụm từ "bộ đội Cụ Hồ". Hình như ai nấy đều cho rằng đặc biệt thế hệ "Anh bộ đội Cụ Hồ" mới xứng đáng là "anh", là "cha, anh" còn tất cả mọi thế hệ bộ đội kế tiếp, mãi mãi chỉ là em, là con, là cháu...


Tóm lại, tìm hiểu cụm từ "anh bộ đội" để rồi từ đó tìm hiểu tiếp đến cụm từ "chú bộ đội", chúng ta biết được hoàn cảnh ra đời của từ "bộ đội" đối với quân đội cách mạng khi mà quân đội cũ không còn nữa. Giữa hai cụm từ trên có một mối quan hệ thật bền chặt, khăng khít. Nội dung của chúng thể hiện rõ tính liên tục của một truyền thống yêu nước và cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang giữa các thế hệ. Thế hệ "Anh bộ đội Cụ Hồ" từ nửa thế kỷ nay vẫn là một tấm gương ngời sáng để cho các thế hệ "chú bộ đội" phấn đấu noi theo.


Tiêu đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1
Gửi bởi: ktqsvn trong 30 Tháng Mười Hai, 2021, 07:18:51 pm
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA


Hiện nay, từ văn hóa được nhắc đến khá nhiều: văn hóa trong học đường, văn hóa trong thương nghiệp, văn hóa trong giao tiếp... và như vậy cũng có văn hóa trong quân sự nói chung, trong nghệ thuật quân sự nói riêng. Đây là một vấn đề rất lớn, khó có thể giải quyết trong một vài trang báo. Tuy thế, nhân đây, người viết bài này xin được đề cập đôi điều về một khía cạnh nhỏ là "nghệ thuật quân sự - nhìn từ góc độ văn hóa" để bạn đọc cùng tham khảo.


Trước hết, chúng ta nên thống nhất với nhau rằng ”văn hóa trong nghệ thuật quân sự" là nghiên cứu nghệ thuật quân sự dưới góc độ văn hóa, chính xác hơn là góc độ khoa học văn hóa, gọi tắt là văn hóa học. Vậy nghệ thuật quân sự là gì? Đó là "lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến". Còn đối tượng của văn hóa? Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, là "mối quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng với thế giới hiện thực, được biểu hiện thành những kiểu lựa chọn, với các độ khúc xạ riêng". Từ đó, chúng ta xác định rõ nghiên cứu nghệ thuật quân sự dưới góc độ văn hóa, không phải là nghiên cứu chính bản thân nghệ thuật quân sự. Đó là đối tượng của khoa học quân sự. Đây là nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng với lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến mà những người tham chiến lựa chọn ra phương pháp tác chiến thích hợp nhất với bản sắc riêng để chiến thắng.


Bằng cách làm rõ phần lý luận, chúng ta hãy tìm những ví dụ từ trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. "Dĩ đoản binh chế trường trận", "lấy ít đánh thắng nhiều", "dùng mai phục, đánh bất ngờ", "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu"... là những biểu tượng trong nghệ thuật quân sự được hình thành qua những kiểu lựa chọn về phương pháp tác chiến độc đáo mang theo bản sắc riêng của người Việt Nam, từng đánh thắng bao nhiêu quân cướp nước từ thời cổ đại đến thời hiện đại. Sở dĩ dân tộc ta xây dựng được một truyền thống đánh giặc giữ nước hào hùng thể hiện dưới một nền nghệ thuật quân sự hiếm có như vậy là vì tuy cùng phương châm "lấy ít đánh thắng nhiều" nhưng trước từng kẻ thù cụ thể, dân tộc ta lại so sánh, cân nhắc, tính toán để lựa chọn ra một phương pháp tác chiến riêng biệt, có hiệu quả cao, không hề "rập khuôn", để đánh thắng. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: ở thế kỷ XI là "tiến công trước, làm nhụt nhuệ khí giặc", ở thế kỷ XIII là "dĩ đoản binh chế trường trận", ở thế kỷ XVIII là "thần tốc"; trong các cuộc chiến tranh giải phóng; ở thế kỷ XV là "tiến công, từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến toàn cục", ở thế kỷ XX là "đánh lâu dài", "đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, cuối cùng đánh đổ hoàn toàn quân xâm lược". Ngay trong từng cuộc chiến tranh, từng chiến cục, các nhà lãnh đạo đất nước, các vị chỉ huy quân sự cũng dùng tài quyền biến, điều chỉnh lại phương pháp tác chiến cho phù hợp với tình hình nhẳm đi tới chiến thắng, ví như ở thế kỷ XIII, để chuẩn bị đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược của quân Nguyên - Mông sắp sửa diễn ra, tháng 11-1282, tại Bình Than, các vua Trần và triều đình dự kiến sẽ tập trung lực lượng đánh địch ngay từ thời kỳ đầu cuộc chiến. Thế nhưng đến tháng 2-1285, khi quân đội chúng kéo vào, ở cương vị Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Trần Quốc Tuấn thấy trước sức mạnh ào ạt của kẻ thù, không thể hành động đúng như kế hoạch cũ và hướng tới mục đích bảo toàn lực lượng, đã tổ chức ngay một cuộc rút lui chiến lược, thực hiện phương châm "kiên thủ chờ suy" để rồi sau đó phản công giành thắng lợi quyết định. Vào năm 1975, Đảng ta chủ trương sẽ tiến hành phản công chiến lược, giành lại đất nước trong thời gian hai năm nhưng khi chiến dịch Tây Nguyên rồi tiến đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng thắng lợi, một thời cơ mới đã xuất hiện. Trước tình hình đó, kế hoạch ban đầu được rút ngắn, rút ngắn dần và cuối cùng thời gian hành động chỉ còn chưa đầy hai tháng và bằng phương châm "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" sự nghiệp đấu tranh thống nhất Bắc - Nam đã hoàn thành vào ngày 30-4-1975. Không chỉ ở quy mô chiến lược, chiến cục, mà ngay cả ở quy mô chiến dịch cũng đã có những trường hợp tương tự. Ví như ở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu thị xã Cao Bằng được chọn làm điểm đột phá nhưng sau khi nghiên cứu tình hình thực địa, Bộ tư lệnh chiến dịch thấy chủ trương đó không thích hợp nửa nên đã dựa vào phương châm "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" và chọn Đông Khê làm trận đánh mở màn. Mất cứ điểm này, như đứt một mắt xích, quả nhiên, quân Pháp buộc phải rút bỏ toàn bộ hệ thống căn cứ chiếm đóng trên đường số 4. Chiến dịch đã nhanh chóng thắng lợi. Đầu năm 1954, khi bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, chủ trương của Đảng ta là dốc toàn bộ lực lượng để "đánh nhanh, giải quyết nhanh". Nhưng tại chiến trường, sau khi thấy quân địch tăng cường lực lượng, tổ chức phòng ngự kiên cố, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận thức ra rằng kế hoạch hành động đề ra trước đó không thể bảo đảm thẳng lợi được nên dù phải khắc phục rất nhiều khó khăn, vẫn kiên quyết đề nghị chuyển nhanh phương châm chiến dịch sang "đánh chắc, tiến chắc". Với sự lựa chọn một kiểu tác chiến chính xác, sát hợp với tình hình chiến trường như vậy, dân tộc ta đã làm nên "Một Điện Biên chấn động địa cầu", kết thúc vẻ vang chín năm kháng chiến thánh thần chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là ở Việt Nam, còn trên phạm vi thế giới, những nền nghệ thuật quân sự đạt tới những chiến thắng đáng kể cũng chính là kết quả của những sự lựa chọn phương pháp tác chiến thích hợp. Vào thời trung đại, ở thế kỷ XIII trong khi quân đội các nhà nước phong kiến Âu - Á chỉ mới sử dụng kỵ binh ở quy mô chiến thuật, biên chế phân tán loại binh chủng này vào các đơn vị bộ binh thì Thành-cát-tư Hãn, Thống soái quân sự Mông Cổ, đã biết tổ chức kỵ binh tập trung thành những binh đoàn chiến lược hùng hậu, cơ động theo quy mô lớn, trên những không gian rộng và trong những thời gian dài. Nhờ phương pháp tác chiến mới lạ đó, kỵ binh Mông Cổ đã tạo được những quả đấm quyết định trong quá trình chinh phục 40 quốc gia chạy suốt từ bờ Hoàng Hải đến tận Trung Âu. Thế nhưng vào đến nước Đại Việt, kỵ binh Mông - Nguyên đành chịu bó tay vì trên xứ sở này, phương pháp tác chiến của loại binh chủng hạng nhất ở thời trung đại đã không phát huy được tác dụng để giành chiến thắng. Cũng như vậy, vào thời hiện đại ở châu Âu, trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), dựa trên các học thuyết quân sự "chiến tranh tổng lực" của Lu-đen-đoóc (Ludendorf - người Đức), "chiến tranh trên không" của Đu-ê (Douhet người I-ta-li-a) và "chiến tranh cơ giới" của Phu-lơ (Fuller - người Anh), Hít-le đã thực hiện kiểu "chiến tranh chớp nhoáng" nhằm giành thắng lợi trước khi đối phương triển khai được các nguồn dự trữ của mình. Đó là chiến lược tiến công bất ngờ, không cần tuyên chiến, sử dụng rộng rãi, ồ ạt xe tăng, máy bay và bộ đội đổ bộ đường không. Với phương pháp tác chiến hiện đại này, quân đội phát xít Đức đã thu được những kết quả khả quan khi tiến đánh một số nước châu Âu. Trong thế tiến công như chẻ tre, Hít-le tưởng rằng cứ hành động theo "bài bản" cũ là có thể đè bẹp Hồng quân khi huy động một lực lượng đồ sộ vượt qua biên giới Liên Xô (cũ) và trên thực tế, chúng có thu được một số "thành tích" ở thời kỳ đầu. Nhưng cũng từ thời điểm đó, chúng không hiểu rằng tính chất cuộc chiến tranh đã thay đổi, tương quan lực lượng hai bên không còn như cũ và dĩ nhiên, phương pháp tác chiến đã lỗi thời để rồi cuối cùng nhận lấy sự đầu hàng không điều kiện.


Tóm lại, qua những phần trình bày trên, từ lý luận đến thực tiễn lịch sử quân sự của Việt Nam và thế giới, chúng ta có thể kết luận được rằng Văn hóa trong nghệ thuật quân sự thực chất là cái dấu ấn của con người - kể cả hai bên đối địch - lên lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến.