Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:24:50 am



Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:24:50 am
Tên sách: Chiến sĩ trinh sát
Tác giả: Từ Văn Chiến
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2005
Số hoá: ptlinh, quansuvn


1


Tôi là con trai của một người mẹ góa chồng sớm. Mẹ luôn nói với tôi rằng:

"Phải cố gắng học hành con ạ.
Có học thì làm việc mới đỡ vất vả hơn, cuộc sống mới đỡ khổ hơn".

Cái nguyện vọng giản đơn, thực tế nhỏ nhoi của mẹ đã làm tôi nhiều lần phải thất vọng trong việc thuyết phục mẹ cho đi bộ đội. Vì thế tôi vẫn còn ngồi ghế nhà trường, trong khi các bạn cùng trang lứa cứ lần lượt rời khỏi quê hương để thực hiện khẩu hiệu: "Quân không thiếu một người", "Tất cả để diệt Mỹ ở Khe Sanh". Những bài ca sôi động, vang vọng, hào hùng trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam như giục giã mọi người: Hãy xông ra tiền tuyến... Rồi phong trào thanh niên "Ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang" đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp mọi xóm làng miền Bắc... Những cảnh náo nức tiễn đưa thanh niên tòng quân đánh giặc... khiến tôi không thể cố nén lòng học hết lớp 10 được nữa. Vì ngay từ tháng 2 năm 1970, anh Nguyễn Xuân Kính, cán bộ Sư đoàn 350 đã về tận xã tôi liên hệ tuyển quân, tôi đã đăng ký nhập ngũ.


Như mọi lần mẹ tôi lại khuyên can, nhưng do kiên trì vận động, cuối cùng mẹ cũng đồng ý. Thế là ngày 18 tháng 4 năm 1970, tôi kiêu hãnh trở thành chiến sĩ, chiến sĩ của C4 - D629 - E2 tỉnh Hải Dương.

Trước ngày nhập ngũ, tối 17 làng xóm nhộn nhịp như ngày hội. Các gia đình ngày mai có người ra trận, đèn thắp sáng choang, người vào ra nhộn nhịp nhà đến quá khuya mới hết khách.

Tiếng là nhiều bạn gái thế mà lúc chia tay, tôi không có một ai công khai bùi ngùi, bịn rịn. Điều đó, chẳng có gì phải buồn phiền. Tuy nhiên, cũng có một bức thư chia tay của H. đã làm tôi suy nghĩ. Thật là:

Chiều nay chúng bạn đến nhà
Những lời chúc tụng phòng trà trôi đi
Đêm nằm chẳng khép được mi
Hình như bạn nói câu gì? Qua thư
Điều gì nửa thực nửa hư
Điều gì vương một chút dư âm buồn.
Chút vui, chút nhớ, chút thương
Chút gì gợn nhớ vấn vương trong lòng
Cái gì tựa mớ bòng bong
Cái gì luyến láy ở trong thư nàng
Phải mình mắc nợ rồi chăng?


Lớp 8c của tôi có chín bạn gái, tám bạn đều đến chia tay, còn H. đi một mình nhưng không đi được phải ghi mấy lời cáo lỗi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:26:41 am
Tôi nhập ngũ ngày 18 tháng 4 nảm 1970. Sáng hôm ấy xã tập trung thanh niên nhập ngũ. Đi đợt này xã có 11 anh em. Thôn Vũ Xá 9 đứa gồm: Lịch, Vi, Thoan, Yên, Viễn, Cao Yên, Đúc, Vinh và tôi. Thôn Phượng Hoàng có anh Hoạt, thôn Pháp Chế có cậu Lấp. Dự lễ tiễn có đông đủ các cơ quan đoàn thể và bà con. Tôi được thay mặt những người ra đi phát biểu ý kiến. Tôi hứa trước Đảng bộ, Ủy ban và nhân dân xã nhà rằng: sẽ đi đến nơi, làm tốt nhiệm vụ của người chiến sĩ để xứng đáng với truyền thống cách mạng của quê hương.


Chúng tôi được người nhà đèo xe đạp đi đến nơi tập trung của huyện tại sân kho xã Hiệp Sơn. Bà con Hiệp Sơn dự lễ ra quân rất đông, kín cả sân kho. Tôi thấy nhiều bạn cùng lớp cũng có mặt đưa tiễn, một số bạn cùng đợt nhập ngũ đó là: Vằng, Lâm, Thiều, Dũng và mấy bạn khác nữa.


Tôi được biên chế về một đơn vị bộ binh, cùng với số anh em trong xã. Cậu Vằng, Lâm cùng lớp được biên chế về đơn vị đặc công.

Sau khi biên chế xong, chúng tôi được lệnh hành quân. Đơn vị tôi là Đại đội 4, Tiểu đoàn 629, Trung đoàn 2 tỉnh đội Hải Dương. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Xuân Kính, anh Đặng Thanh Vân chính trị viên, anh Nguyễn Khánh Toàn chính trị viên phó, anh Nguyễn Văn Mịch đại đội phó. Đại đội hành quân bộ qua phà Thái, theo đường số 5, đến ngã ba Hàng, rẽ phải qua bến Bình sang đường 18, qua Sao Đỏ rồi dừng lại ở thôn Thạch Thủy, xã cổ Thành, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương và đóng quân tại đó.


Thạch Thủy là một xóm nhỏ, con đường 18 chạy chia đôi làng. Ruộng để cấy lúa ít, phần nhiều là đồi, trồng màu, khoai, sắn... Các khu đồi núi cao được trồng các loại bạch đàn, liễu, cây đã lớn tạo nên những cánh rừng đẹp đẽ. Nhân dân Thạch Thủy yêu quý bộ đội. Mới vào lính xa nhà non nớt và bỡ ngờ, nay được chăm nom chu đáo, tôi bất giác liên tưởng đến câu thơ của Tố Hữu:

"Có bà cụ từ tâm làm mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo, nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi".


Sáu tháng huấn luyện, trong hoàn cảnh nước ta những ngày ấy bà con nhân dân tính theo định suất được 9 đến 10kg lúa 1 tháng, đâu có đủ ăn. Bộ đội được ưu tiên "Ăn no đánh thắng" nhưng làm gì đủ gạo theo tiêu chuẩn; buổi sáng thường là một cái bánh bột mì hấp, nếu có bột nở thì to bằng nắm tay dễ ăn một chút, khi hết bột nở, bánh chắc như đất sét, khó ăn lắm. Nhưng chẳng ai "bỏ mứa" bao giờ. Các chú lính ở nhà dân đều được bổ sung thêm đặc sản như khoai sọ, khoai lang, sắn luộc... Tôi là liên lạc cho anh Vân ở nhà chị Yến, cùng chung sân với nhà em Liệu, được mẹ Vấn, mẹ Thoại, chị Nguyệt, chị Yến, em Liệu thương yêu như người thân trong nhà, tự ngẫm ai dám làm gì để mọi người buồn lòng được.


Tôi nhớ mãi những kỷ niệm giản dị của những ngày đơn vị đi thao trường. Tôi ở nhà làm thống kê quân lực. Em Liệu hay từ nơi làm việc ghé về, không quên đem theo một bình óc đậu để "anh uống cho mát". Những lần như thế, Liệu bao giờ cũng hồn nhiên, vui vẻ, kể tôi nghe mọi chuyện làm tôi rất vui. Hôm đi B, Liệu đưa một cây mía lựng mật, tím đỏ để tôi làm gậy và nói: "Anh đi chân cứng đá mềm, nhớ ngày trở lại". Còn chị Yến, có lẽ do Liệu gọi bằng chị nên tôi gọi theo thì phải. Yến bằng tuổi tôi, cái tuổi con mèo "cao số", nhưng Yến đã quen gọi bằng chị rồi thì không nên điều chỉnh làm gì. Có lẽ thế nên Yến ít nói hẳn đi. Trong hành động, Yến rất tỉ mỉ, giúp tôi mọi việc cá nhân. Nhiều lần tắm xong tôi có thói quen hay ngâm quần áo để đấy, Yến thường "tiện tay" giặt hộ. Lâu thành quen. Nếu khi nào tôi không quên, tự tay giặt lấy quần áo của mình là chị Yến giận ngay, Do vậy tôi thường nhờ chị luôn. Hôm đi B, trong đêm liên hoan văn nghệ, Yến, Mừng và tôi tam ca bài: "Ai yêu miền Nam như tấm lòng miền Bắc" của nhạc sĩ Văn Ký, chúng tôi hát rất đều và say sưa. Bây giờ mới nghe người ta nói cần phải kiêng những trường hợp ba như thế.


Trong sáu tháng huấn luyện, mẹ tôi, các chị em và bạn bè đến thăm tôi vài lần. Nhiều bạn gửi thư đến thăm hỏi, động viên người lính, trao đổi việc học hành, sự nghiệp, tương lai... Tôi có cảm giác mình thật sự đã là người lớn và có phần "quan trọng" đối với mọi người.


H. người bạn gái, ba năm học chung lớp ở cấp III với tôi bao giờ cũng dịu dàng và lúng túng khi gặp mặt bạn cũng gửi một lá thư báo tin trượt tốt nghiệp. Buồn quá, làm gì đây? Và băn khoăn không biết có là bạn của tôi nữa không? Thư tôi viết cho H. tất nhiên không thể thiếu việc cho gửi lời hỏi thăm sức khỏe hai bác và em Hài. Sau là lời khuyên bạn nên đi học tiếp và việc trượt tốt nghiệp vừa qua không có gì là trở ngại cho tình bạn đã có của chúng ta. Có lẽ cụm từ "tình bạn đã có của chúng ta" không có gì chứng tỏ cho sự phát triển, trong bức thư lính đầu đời của tôi đã làm bạn thất vọng, vì thế mà tôi không còn cơ hội nào được đọc những dòng thư của H. nữa.


Sau này, trong chiến trường, nhiều lúc tái hiện hình ảnh H. cô bạn học, mập lẳn, da trắng, môi đỏ, cái miệng xinh "tệ", tóc hơi quăn, mắt màu hạt dẻ long lanh, luôn bối rối mỗi khi gặp mặt... Về phía tôi, quả thật cũng chẳng tự nhiên gì, cái cảm giác ở bên nhau thường là những lời như thiếu như thừa. Rồi cái lần H. nghỉ học vì em trai phải đi viện mới có mấy ngày thôi, tôi ngơ ngẩn nhiều". Thực sự mà nói thì hai đứa có chú ý đến nhau và mấy đứa con gái đã nhận thấy điều đó. Chả thế một lần H. đã nói nhỏ với tôi: "Sợ thầy chủ nhiệm biết", "Các bạn chế quấy, nên hay lảng tránh, không phải "ghét” đâu. Đừng hiểu lầm".

Thực là:

"Chưa một lời yêu
Chưa một nụ hôn
Chúng nó đã ồn
Mình yêu nhau đấy
Sợ thầy bạn thấy
Nên tự lừa mình... "


Trong ba năm học, tôi đến nhà H. và H. đến nhà tôi nhiều lần. Khi đến nhà H., chúng tôi rất tự nhiên vui vẻ, bố mẹ của H. tiếp đón tôi rất niềm nở, thân tình. Còn H. đến nhà tôi, bao giờ H. cũng bị lũ bạn gái áp tải tấn công. Mấy đứa bạn như Hồi A, Hồi B hay hỏi đùa mẹ tôi: "Bác có chấm cái H. làm con dâu không?", làm H. vô cùng bẽn lẽn, chẳng dám vui đùa, chuyện trò gì cả, có lẽ điều đó làm mẹ tôi thấy "Con bé dễ thương...".


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:27:52 am
Ngày tôi đi bộ đội, mẹ phàn nàn rằng: "Có nhớn mà chẳng có khôn". Bẵng đi gần năm năm trời, khi từ chiến trường về đến nhà, mẹ tôi đã nói ngay:

- Cô bạn hồi còn đi học hay đến đây, bây giờ thế nào?

Thì ra mẹ tôi đã nghĩ rằng có thể chúng tôi yêu nhau nên hỏi như vậy. Thú thực tôi bị bất ngờ và chính tôi, quả không biết cô ấy giờ ra sao nũa. Tôi chỉ ẫm ờ trả lời cho qua chuyện: "Con sẽ đi thăm sau".

Điều cũng bất ngờ và vô cùng xúc động, đó là lúc tôi đến nhà gặp mẹ H., khi tôi vừa cất tiếng chào thì mẹ H. đang gẩy rơm ngừng tay nạng nhìn tôi vài giây rồi vui vẻ hỏi:

- Anh có phải là Chiến không?

Tôi sửng sốt chưa kịp trả lời- Bà nói tiếp:

- Em nó nhắc đến anh luôn.

Tôi trở nên bối rối. Thực sự tôi thấy cay cay nơi khóe mắt. Tôi vào nhà bà chỉ tấm ảnh của H. chụp chung với Hòa treo ở cột nhà. Bà vồn vã nói:

- Ngày anh ở nhà nó bé tẹo, gầy gò, thế mà bây giờ nó béo thế đấy...

Bà lấy quyển nhật ký thời học sinh của H. đưa cho tôi... Tôi đã hiểu tất cả. Hình như đã làm xong các việc rất cần thiết ấy, lúc này bà mới mời tôi uống nước và hỏi chuyện mấy năm đi "sang Nam”, chuyện của các cụ ở nhà... Sau đó bà nhờ tôi giúp mang cho H. chiếc màn đã mua, nhưng "chưa có ai mang cho nó được”. Bà thở dài:

- Mấy năm trước, nó muốn làm nông dân nên không chịu đi học sư phạm. Sau này, nó nghĩ thế nào lại đi học sư phạm, thành ra năm nay mới được ra trường đấy. Tuổi lớn tướng rồi! Nghe đâu cô nào chưa chồng ra trường sẽ phải "sang Nam"...

- Ngày mai anh qua đây rồi đi Hưng Yên. Trường nó học ở Chợ Gạo, thị xã Hưng Yên.

Tôi như một chiếc máy vâng dạ theo các vấn đề bà nêu ra. Tôi gặp H. ngay hôm sau, tại lớp sinh hóa, ở Trường sư phạm 10 + 3 thị xã Hưng Yên. Đó là ngày 10 tháng 5 năm 1975.


Chỉ gặp lại H. tôi mới thấy cái lý do mẹ tôi phàn nàn "Có nhớn mà không có khôn". Trong số bạn gái cũng còn một người phải nói tới, đó là N. Cô có thể kém tôi một tuổi, học hết cấp II, N. đi học Trung cấp Dược, thời đó thường có câu "Nhất Y, nhì Dược". Người bạn gái đầu tiên gọi tôi bằng anh? Em chính là N. Học sinh nông thôn bạn bè chỉ "mày, tao, mi, tố" có thể vì thế mà tôi đã coi N. như em thật sự, còn N. tôi không dám chắc. Tôi quan tâm giúp đỡ, bảo vệ không để em bị bắt nạt. Nói với N. những điều rất người lớn, nhắc chú ý trong quan hệ bạn bè, nam nữ để tránh sự phiến toái...


N. tin cậy ở nơi tôi và luôn quan tâm, lo lắng cho tôi. Có thể nói, N. vui khi thấy tôi gặp điều lành, lo khi tôi gặp chuyện không suôn sẻ. Chúng tôi sống thật vô tư, trung thực suốt những năm cùng đi học một lớp ở trường cấp II Bạch Đằng. Cái ngày bạn bè chúng tôi "đội mũ rơm đi học đường dài" cả những lần đi học tránh giờ cao điểm phải đi từ khi gà gáy mà vẫn vô tư vậy.


Ngày học cấp III xa nhà, chỉ nghỉ hè tôi mới có nhiều thời gian cùng lao động với thanh niên ở thôn, như làm đường, làm thủy lợi, chống úng lụt. Những lần như thế, N. lúc nào cũng gần gũi bên tôi, sau lần hỏi ý kiến về việc chọn nghề, tôi tham gia, thế là N. đi học Trung cấp Dược. Trước hôm đi B một ngày, từ đơn vị tôi đạp xe đến Trường trung cấp Dược, đoạn đường 50km, tôi đến với N. chỉ được một lúc buổi trưa. N. tiễn tôi ra đường, nói nhiều chuyện rất nghiêm túc:

- T. hay đến đây chơi, em không thích tiếp. T. cũng biết điều đó nhưng vẫn chưa lùi bước.

Tôi nắm tay N. nói nhỏ:

- Mai anh đi rồi. Có lẽ ngày cưới của em anh không có mặt được... đừng buồn nhé...

N. nói thảng thốt nhưng quả quyết:

- Em sẽ đợi đến ngày thống nhất. Anh về em mới lấy chồng.

Tôi không nói gì thêm, chào em rồi lên xe, đạp một mạch về đơn vị. Đó là ngày 9 tháng 10 năm 1970.

Trên đường Trường Sơn, tôi viết cho N. hai lá thư. Kể chuyện hành quân, chuyện đất nước Vạn Tượng. Đây là người bạn gái duy nhất mà tôi viết thư từ chiến trường về, sau này đi chiến đấu tôi không viết thêm một lá thư nào cho N. nữa vì những năm chiến tranh có khi thư chưa đến tay người nhận thì người gửi đã hy sinh rồi. Nghĩ như vậy sẽ tốt hơn. Năm 1972 chiến tranh rất ác liệt. Một số đồng chí cùng đi bị thương, về làng đồn tôi đã hy sinh, sau này bạn bè tôi nhiều người nhắc đến tin đồn ấy.


Tháng 4 năm 1975, khi tôi chưa về nhà, người bạn đầu tiên đến thăm chính là N. Em đi cùng chồng, cũng là bạn học với tôi. Hai bạn đang nghỉ phép để tổ chức lễ cưới. Họ vừa cưới được bốn ngày. Tôi buột miệng nói với N.

- Thế là em lấy chồng lúc anh chưa về đấy nhé!

N. không nói gì, nhìn tôi. Tôi hiểu cái nhìn đó có ý rằng cần có điều phải nói, nhưng chưa phải lúc này. N. lấy chồng, cũng là diện muộn màng, so với hoàn cảnh chung lúc bấy giờ. Quả thật cho đến nay tôi vẫn chưa được em giải thích về cái nhìn chiều hôm ấy, mặc dù sau đó, chúng tôi có gặp nhau đôi ba lần.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:29:03 am
Sau sáu tháng huấn luyện, tôi đã trở thành người lính thật sự. Đại đội có hai đồng chí trước khi đi B đơn vị công bố ở lại nhận nhiệm vụ mới. Đó là Lê Văn Đúc vì mẹ mới mất, có ba em còn nhỏ. Đúc được cử đi học y tá, cũng tương tự như Đúc còn có đồng chí Thân Văn Thơ. Cán bộ khung có sự điều chỉnh, anh Nguyễn Xuân Kính vì sức khỏe yếu không hành quân được, anh Nguyễn Văn Hoàn về thay. Anh Nguyễn Văn Mịch lớn tuổi, anh Nguyễn Văn Hoàn làm đại đội phó. Các anh Đặng Thanh Vân, Nguyễn Khánh Toàn vẫn giữ chức vụ cũ. Sau một thời gian xuống A12, B4 để rèn luyện, trước khi hành quân, đại đội rút tôi về xê Bộ. Các đồng chí Trần Văn Bách và Vũ Quý Dương vẫn tiếp tục làm liên lạc đại đội. Như vậy xê Bộ có 4 liên lạc: Trần Văn Mừng và ba chúng tôi Chiến, Bách, Dương.


B1 - Thiếu úy Nguyễn Văn Thành - B trưởng; B2 - chuẩn úy Nguyễn Văn Huấn - B trưởng; B3 - Thiếu úy Trần Văn Đức - B trưởng; B4 - Thượng sĩ Nguyễn Văn Rư - B trưởng.

Đơn vị lên đường đủ quân số, ngày đầu hành quân bộ đến ga Lưu Xá, Cẩm Giàng thì dừng lại nghỉ qua đêm đến 10 giờ ngày 11 lên tầu. Đêm rạng sáng 12 chúng tôi đến ga Vinh và được đưa đến nghỉ trong các nhà dân, những cô gái thôn quê duyên dáng trong bộ áo nâu, quần đen, giọng nói thánh thót, lạ tai vui vẻ. Các gia đình miền Trung đời sống còn rất khó khăn, bữa ăn chỉ thấy khoai lang. Mùa đông về nhưng các cụ già vẫn phong phanh một manh áo mỏng với nhiều miếng vá, nhiều em nhỏ vẫn cởi truồng. Nhà chủ yếu lợp bằng lá cọ và cỏ tranh, cả vách và mái, rất ít có nhà xây lợp ngói. Nhưng tình người dân miền Trung đầm ấm, sẵn sàng nhường chỗ ở ngủ và những miếng cơm củ khoai cho bộ đội đã làm vui lòng các chiến sĩ trẻ trên đường ra trận. Đoàn quân đi qua huyện Cẩm Xuyên, Lệ Thủy, Bố Trạch của tỉnh Quảng Bình. Những xóm làng nghèo khó, những người dân khắc khổ. Càng vào sâu, những biểu hiện lạc hậu của người dân càng đậm nét. Cảnh hoang sơ nguyên thủy càng bộc lộ rõ ràng hơn. Nhưng vẫn giống mọi nơi, người dân đều hết lòng cho mặt trận, hết lòng vì những đứa con đi chiến đấu. Họ biết "thế nào cũng có đứa không về...".


Đơn vị nghỉ một ngày ở một bản dân cư thưa thớt bên đông Trường Sơn để chuẩn bị lương thực, thực phẩm. Tôi bất giác, nhớ đến câu thơ của Tố Hữu:

   "Trường Sơn Đông nắng Tây mưa
   Ai chưa đến đó như chưa rõ mình".


Bước chân leo lên dải Trường Sơn hùng vĩ của Tổ quốc. Đường mòn, rừng rậm âm u, núi cao, dốc đứng. Bây giờ khỏi phải tưởng tượng. Đoàn quân lầm lũi đi trong mưa đêm, chỉ có tiếng chân lép nhép, thỉnh thoảng có tiếng "uỵch" của ai đó vừa bị ngã. Bầu trời đen ngòm, thỉnh thoảng mới có một đốm sáng của ngọn đèn dù do một chiếc C-130 bắn ra lạc lõng trên bầu trời mênh mông.


Một vài lần anh Hoàn cho nghỉ giải lao nhưng đường lầy nhão chẳng ai bỏ được quai ba lô ra khỏi vai, mọi người đều dựa vào vách ta luy bên đường để nghỉ. Anh Hoàn ra lệnh: các B phải nhắc chiến sĩ giữ đội hình. Nghỉ tại chỗ, kiểm tra không để ai ngủ quên lại trên đường đi.


Trời về khuya, mưa đã tạnh nhưng do ngày đầu đi bộ, đường trơn, dốc, mang vác nặng nên ai cũng mệt, buồn ngủ khủng khiếp. Mãi đến quá nửa đêm mới có lệnh dừng chân hạ trại, đó là một quả đồi cây cối chen chúc, tôi mò mẫm lấy tăng võng trong ba lô ra vội vã mắc dây võng lên hai cây to, buộc dây căng tăng lên trên hai đầu dây võng, căng đều bốn góc tăng, thế là đã xong một chỗ ngủ. Toàn khu vực lao xao một lúc rồi im lặng, không có nước rửa chân, tôi bẻ lá cây lau hai cẳng chân, bàn chân rồi xỏ vào đôi bít tất, ngả lưng ngủ đến khi anh Hoàn gọi dậy để chuẩn bị đi tiếp. Lúc này tôi mới thấy đây là bãi khách đã đón nhiều đoàn hành quân qua, có rất nhiều chỗ mắc võng đã làm sẵn, đủ cả cọc phụ dây, căng tăng, giá để ba lô... thế mà hôm qua tôi không biết để tận dụng. May mà trời đã hết mưa, chứ không tránh sao cho khỏi ướt. Bữa ăn đầu tiên trên đường Trường Sơn của chúng tôi tự tay các chiến sĩ ở các tiểu đội nấu. Xê Bộ Trần Mừng tỏ ra tháo vát nhất, tôi thì cũng tạm được, còn Bách và Dương mới lên xê Bộ nên có nhiều bỡ ngõ. Mặt khác, ở gia đình hai cậu ấy vốn được săn sóc chu đáo nên cũng có phần lười.


Những bữa ăn Trường Sơn: đồ hộp với rau, măng rừng, tuy nấu nướng tạm bợ nhưng sao ăn ngon miệng thế, chẳng bao giờ thừa miếng cháy nào. Trong hành quân, nấu ăn là vất vả nhất, thao tác trong cảnh mưa gió thất thường, thời gian phải khẩn trương. Để có cơm chín, nước sôi, món ăn "phong phú", quả là một cuộc thử thách, tập dượt cho bao chiến sĩ, những người mới cách vài ngày chỉ quen nhận phần ăn từ nhà bếp, được chia sẵn trong các xoong 6, xoong 8, đĩa 4 ngăn và được quyền phàn nàn, trách cứ các chiến sĩ nuôi quân, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phải mất đến ba, bốn ngày, đại đội mới khắc phục được các tình trạng mà nhiều tiểu đội phải khổ sở như: nấu cơm chín nhưng chưa kịp ăn đã phải hành quân, những ăng gô canh bị đổ làm tắt bếp, những bếp nấu quá khói bị đại đội bắt dập lửa khi cơm còn chưa chín...


Tuy nhiên bếp xê Bộ không có tình trạng trên, nên các anh đại đội khoái lắm, luôn lấy đó để nhắc các bê phải học tập. Qua đó thấy các anh rất tự hào vì có những chiến sĩ "cận vệ" như bọn tôi.

Sau 10 ngày hành quân trên đất Lào, đơn vị được lênh dừng lại để chuẩn bị giao quân, lúc đó là trung tuần tháng 11 năm 1970. Tranh thủ ngày nghỉ, tôi viết thư về cho mẹ và các chị, có cả thư cho Nam. Tôi kể những điều mới lạ về đất nước, con người những nơi tôi đã đi qua, tôi đã nhìn, nghe thấy, với tinh thần lạc quan pha chút tự hào.

"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng".


Nơi tiểu đoàn dừng chân là trạm 13 thuộc Binh trạm 12 nằm trên địa hạt tỉnh Xa-van-na-khét. Chúng tôi được bổ sung về Sư đoàn bộ binh số 2, Quân khu 5. Mấy hôm dừng lại, tôi đi các bê gặp anh em cùng làng và bạn bè thân quen, chúng tôi nhắc nhở nhau để củng cố niềm tin, chuẩn bị tư tưởng cho những ngày thực sự gian khổ sắp tới. Tôi đề nghị với các bạn hãy tin cho nhau khi có điều kiện. Anh Hoan, đại đội phó tâm sự với tôi:

- Tiểu đoàn chọn 10 chiến sĩ trẻ để bổ sung cho một đơn vị quan trọng nào đó trên Bộ tư lệnh. Xê ta, chúng tớ chọn cậu, còn 9 đồng chí khác do các xê cử. Bọn mình rất tiếc là không được công tác tiếp với cậu để giúp đỡ cậu được nhiều hơn nữa. Thấy cậu xông xáo, dũng cảm mình rất quý. Cậu hãy cố gắng để tiến bộ...


Xê chia làm 8 khối, cùng về Sư đoàn 2. Bê 3 và cậu Mừng, Bách được bổ sung vào tiểu đoàn công binh của sư đoàn. Bê 1 của anh Thành về Trung đoàn 1.

Bê 2 của anh tuấn về Trung đoàn 141.

Chiến dịch đầu tiên ở Nam Lào tháng 3 năm 1971, trong làng đã có mấy đứa hy sinh đó là Cao Văn Thoăn, Ngô Quang Vinh. Nguyễn Văn Lịch bị thương nặng phải chuyển ra Bắc. Các chiến dịch trong năm 1972, các bạn hy sinh gồm: Nguyễn Đức Vy, Nguyễn Văn Yên, Nguyễn Văn Lấp. Bị thương phải chuyển ra Bắc điều trị là Nguyễn Trọng Viễn và anh Hoạt. Duy nhất còn tôi ở chiến trường cho đến tháng 4 năm 1975.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 17 Tháng Chín, 2021, 08:59:14 pm
2
   

Những ngày đầu là quân giải phóng.

Người đón mười chiến sĩ mới chúng tôi từ Tiểu đoàn 629 về Đại đội 21 của sư đoàn là anh Vượng. Anh nói tiếng Bắc, mặc bộ đồ bà ba đen, người gầy, da xanh, không đoán được anh bao nhiêu tuổi. Kể từ khi vào đây (1965), không nhận được thư nhà. Tiếng anh nhỏ nhẹ, chậm rãi nhưng toát lên niềm tự hào về cái đơn vị mà anh đang sống và công tác. Anh nói:

- Sư đoàn vừa hành quân từ Quảng Nam ra, ở đây sẽ có điều kiện để củng cố, huấn luyện tốt hơn ở "trỏng". Anh em mình về đơn vị bây giờ là thuận lợi rồi. Đơn vị mình là đại đội trinh sát của Sư đoàn 2 "Sư đoàn thép anh hùng".

Chúng tôi theo anh Vượng đi trên đường mòn trong rừng. Đến gần tối thì về tới đơn vị. Chúng tôi được đưa đến nhà Ban chỉ huy đại đội. Anh Xuyên người Hải Phòng là chính trị viên. Dáng anh mảnh khảnh, da xanh bủng do sốt rét nhiều, có thể bị lao nữa (?), nói chuyện với chúng tôi tiếng anh nhỏ, thỉnh thoảng lại ho húng hắng. Anh là người nghiêm nghị, chắc chắn.


Anh Thu xê trưởng, người nhỏ thó, trẻ hơn anh Xuyên đến năm sáu tuổi. Tạng thư sinh, da xanh, chỉ có đôi môi đỏ tươi và có cái miệng luôn mỉm cười vui vẻ, giọng nói miền Trung nghe lạ tai.

Anh Vũ thì thấp, mập nhưng da tím tái, anh là chính trị viên phó, anh có vẻ nghiêm nghị, ít nói.

Anh Nguyễn Đình Trụ đại đội phó, quê ở Kim Anh, Vĩnh Phúc, vào Nam từ năm 1967. Anh em cho rằng anh hay quan trọng hóa vấn đề. Còn 10 anh em tôi tuy cùng nhập ngũ một ngày, cùng huấn luyện ở Tiểu đoàn 629, cùng về Đại đội 21 nhưng mỗi đứa ở một xê nên chẳng biết nhau. Tuy nhiên tôi cũng biết gần hết tên họ.

- Nguyễn Văn Thuần, dân Phả Lại, Chí Linh, đẹp trai, tóc hơi quăn, da trắng hồng, mắt sáng, thông minh, lanh lợi.

- Trần Văn May nhà ngay thị trấn Kim Thành. Bố May là liệt sĩ, mẹ là cửa hàng trưởng cửa hàng mua bán ga Phú Thái. May béo tốt, khỏe mạnh, có vẻ chậm chạp một chút.

- Nguyễn Văn Thể - trắng trẻo, môi trên hơi ngắn lại bị kéo hơi tớn lên một tý, đôi má núm đồng tiền, không rõ trong hai chi tiết ấy, cái nào là nguyên nhân chính cho việc hắn hay cười như vậy. Thể hay nói chuyện u và hay kể về những cái quen thân, chỉ thôn Bằng Quân, Cẩm Định, Cẩm Giàng, Hải Dương nhà y mới có. Tôi nhớ cái địa danh ấy đến nỗi hình như mình đã về đấy mấy lần rồi.

- Nguyễn Văn Cảo, thân hình nhỏ bé nhanh nhẹn, hay nói khôi hài, thâm thúy. Cảo là người Thu Lãng, Ngọc Liên, Cẩm Giàng.

- Bùi Văn Nghị, béo mập, da đen bánh mật, nói chuyện cứ nhìn thẳng vào người đối thoại, trung thực, vui vẻ.

- Trần Văn Đan to cao, chắc khỏe, ít nói, không biết ở huyện nào?

- Nguyễn Văn Thành, to, mập, trắng trẻo, nói năng đi đứng hơi chậm, hiền lành.

- Nguyễn Văn Tỉnh nhỏ con đen chắc, tóc quăn. Thái dương phải có một vết sẹo to nhẵn bóng, mắt trái bị ve, có vẻ thông minh lanh lợi.

Còn một bạn nữa là Hòa không tài nào nhớ được. Tôi và May được phân công về B1, tôi A1 còn May A2.

Đơn vị vừa ở Quảng Nam ra đến nơi dừng chân gọi là K300. Đến hôm trước thì hôm sau đại đội có một bộ phận được phái đi công tác ngay. Anh Dự, Bê trưởng B1 phụ trách tổ công tác này. Nghe nói phải vài tháng sau anh Dự mới về.

Phụ trách B thay anh Dự là Phan Rị đang là trung đội phó. Anh Rị kể chuyện anh là con một thương gia ở Đà Nẵng, bố mẹ anh thường đi làm ăn qua các nước Cam-pu-chia, Lào và Thái Lan... Anh theo quân giải phóng từ Mậu Thân 1968, tạng người béo khỏe, tính nóng, nói năng to tát. Những ngày huấn luyện các khoa mục trinh sát như võ thuật, vượt vật cản, hành tiến đột nhập vào căn cứ địch. Đánh bắt tù binh, đi xuyên sơn theo góc phương vị, sử dụng bản đồ, các phương pháp đo cự ly, xác định điểm đứng, sử dụng các khí tài địa bàn, ống nhòm... Trong huấn luyện tôi tỏ ra là chiến sĩ tiếp thu nhanh, thực hành khá chuẩn xác và thành thạo. Đến mức các anh cán bộ B là huấn luyện viên phải ngạc nhiên. Còn tôi thì hiểu được vì đã học võ thuật từ cấp II, là tân binh mới ở Bắc vào, sức khỏe còn tốt, mới gác sách bút nửa năm nay. Các anh em cựu binh bị sốt rét nhiều, gầy yếu. Các môn học đòi hỏi về thể lực, nhanh nhẹn này, các anh gặp khó khăn là lẽ đương nhiên.


Ngoài các ngày tập luyện, các tiểu đội phải tiếp tục củng cố nơi ăn ở, đào hầm bò để ngủ, hầm chữ A để tránh bom pháo. Sư đoàn quy định các hầm phải có nắp gỗ phi từ 20cm trở lên. Các việc khác như kiếm củi, hái rau giúp nhà bếp... các lần đi gùi gạo. Mỗi người đi cõng gạo một lần mang khoảng 35kg. Đường đi về khoảng 5 đến 6 tiếng đi bộ... các việc đó tôi đều làm tốt. Đợt huấn luyện tại K800 từ tháng 11 năm 1970 đến tháng 2 năm 1971. Tuy ngắn ngủi nhưng đem lại cho tôi nhiều điều bổ ích; giúp tôi chuẩn bị tốt tâm thế để sống chiến đấu cùng anh em đồng chí. Có thể nói cán bộ, chiến sĩ trong A1 và cả B1 của tôi đều gần gũi giúp đỡ tôi tận tình. Cán bộ A như anh Nguyễn Văn Tịnh A trưởng, anh Nguyễn Văn Luận A phó; anh Quân A trưởng A2, anh Pha, các anh Phan Rị, anh Dự rất quý mến tôi. Các anh chiến sĩ lớn tuổi vào B trước như Đào Tất Triện, Lê Trung Thực, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thể, Lê Văn Tú, cùng ăn, cùng ngủ chung trong gian hầm bò đều nhất mực chăm sóc tôi chân thành. Các anh nói đủ mọi chuyện về gia đình, quê hương mình và đơn vị trong những năm tháng trước đây cho tôi nghe. Chính vì vậy mà tôi nhập cuộc tự nhiên, nhanh chóng. Tôi thấy tình cảm thật quý giá của những ngày đầu tiên làm lính giải phóng quân.


Những người lính cũ trên mỗi cương vị của mình đã thể hiện tình cảm bằng cách rất riêng nhưng đều tập trung vào mục đích để cậu lính mới này yên lòng. Không bị dao động trước những khó khăn ban đầu là phải sống với những người xa lạ, ngược lại có lẽ vì tình cảm ấy mà tôi đã sống đúng mực, sống cho phải lẽ nên càng được tin yêu chăng. Thực tình mà nói tôi nghĩ là lính mới chưa bị sốt rét, ốm đau gì, là người ít tuổi nhất nên sẽ rất xấu hổ nếu như chỉ biết đón nhận sự săn sóc của mọi người.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 17 Tháng Chín, 2021, 09:00:35 pm
Tết đầu tiên xa Tổ quốc trên đất nước Lào. Trong cánh rừng già, anh em chúng tôi, những chiến sĩ ở tiểu đội không có đài, sách, báo gì, do vậy không có một chút thông tin nào về quê hương, gia đình, thỉnh thoảng được chính trị viên phổ biến một số tình hình trong các buổi sinh hoạt đại đội.


Thời gian rảnh rỗi, các buổi tối lính ta tha hồ mà nói chuyện phiếm. Mọi chuyện kể mãi rồi cũng hết. Chuẩn bị đến Tết có lẽ ai cũng nhớ đến nhà, mỗi người góp mỗi câu chuyện về Tết ở quê mình. Càng gần Tết tôi thấy nhớ nhà quá, nhớ mẹ, các chị, các cháu và cả những người bạn, nỗi nhớ đến nao lòng. Trong khu vực đóng quân, thỉnh thoảng anh em thấy những tờ truyền đơn của địch ném từ máy bay xuống. Nội dung là những câu văn kiểu "con cóc" nhằm khuấy nên cái nhớ, cái buồn, cái thiệt thòi về hưởng thụ của những người lính giải phóng trong các khu rừng. Tôi nhớ bài "Mùng một Tết":

   "Tiếng pháo nổ từng tràng pháo nổ
   Trên bàn thờ mâm cỗ đã bày xong
   Mẹ tôi sửa lại mâm hồng ngủ quả
   Cha tôi xếp lại khoanh giò vừa bóc lá
   Anh tôi thêm đĩa cá để lên mâm ..."



Cảnh Tết nhất huyên náo, cái tục làm lễ ở nhà thờ họ sáng mùng một, rồi việc thăm viếng bà con họ hàng, bè bạn, chúc nhau những điểu tốt lành ở quê tôi. Cái hương sắc tết nhất bao năm đã ngấm vào tôi. Giờ đây trong hoàn cảnh mới, quả thật khó tránh khỏi nỗi buồn đơn côi của con người.


Để chuẩn bị cho Tết năm con lợn 1971, đại đội cử tôi đi nhận nhu yếu phẩm, bánh kẹo, thuốc lá từ miền Bắc gửi vào. Nơi nhận hàng ngược ra phía Bắc đến một trạm đông Trường Sơn. Tôi đã đi đến nơi về đến chốn.

Theo các anh cựu binh thì Tết này quá đầy đủ, lại vui nữa. Năm ngoái cơm không có ăn, sốt run cầm cập không thuốc uống, Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Huy Chương đi kiểm tra thấy anh em mình khổ quá đã khóc. Tiêu chuẩn Tết mỗi chiến sĩ được ăn tươi trong các ngày Tết. Thực phẩm ngoài đồ hộp còn được tăng cường mấy con heo của đồng bào Lào đem đổi lấy gạo, muối... Tiêu chuẩn một chiến sĩ: Thuốc Trường Sơn đỏ 10 bao, một lạng thuốc lào Vĩnh Bảo, hai lạng kẹo Hải Châu, Hà Nội...


Trong ngày Tết, đại đội tổ chức thi đấu bóng chuyển giữa các B, tôi trước đây chơi bóng đá, nay mới tham gia bóng chuyền thế mà cũng "đánh được". Anh Quý B trưởng nói vậy. Tôi đến các trung đội tổ chức hái hoa dân chủ, kể chuyện trinh sát. Tôi nhớ một chuyện không tốt. Một tội ác của một con người, chuyện do anh Trần Ngọc Pha kể: 

- Ở B3 có tên Tam, quê Hà Bắc. Đơn vị cử hắn cùng hai đồng chí đi mua hàng ở Hiệp Đức, chỉ vì muốn cướp số tiền mua hàng do một chiến sĩ cùng đi. Y đã nhẫn tâm bắn chết hai đồng chí của mình, rồi làm hiện trường giả nói là tổ bị địch phục kích. Khi Tam báo cáo sự việc đại đội đã phân tích tình hình, báo cáo đề nghị trên điều tra làm rõ. Tên Tam đã bị bắt về tội giết người, cướp của. Đây là một sự việc gây kinh hoàng cho toàn đơn vị. Một bài học cho chỉ huy các cấp ở các đơn vị trong việc quản lý, giáo dục cán bộ chiến sĩ. Qua đó phê phán lối sống ham lợi, vô tình, bất nghĩa. Anh Xuyên chính trị viên kể về gương dũng cảm, gan dạ của đồng chí Lương Văn Tịnh là tiểu đội phó. Đó là việc Tịnh bò vào tận phòng ngủ của xê bảo an trong ấp chiến lược, thực hiện tai nghe, mắt thấy, chân đi đến, tay sờ vào.

Anh Trụ thì hết lòi ca tụng anh Tịnh. Anh nói:

- Một lần khác Tịnh bò vào đồn giặc, con chó Béc-giê to như con bê xông ra, thế là cu Tịnh nằm "giả chết". Đằng hắng một cái anh nói tiếp: Khi chó bỏ đi lại thấy sợ, tưởng rằng Tịnh sợ quá vỡ tim chết thật, còn nó bò ra chỗ mình cười khì rồi nói:

- Đúng là ngu như chó anh nhỉ!

Anh Phan Rị kể về đồng chí Huỳnh Văn Sơn là thiếu nhi ở Đà Nẵng theo đơn vị từ năm 1968, là chiến sĩ rất gan dạ, dũng cảm, kiên cường. Sơn có nguyện vọng tha thiết được trở thành đảng viên "Đảng nhân dân cách mạng” trong một lần đột nhập vào căn cứ địch, tổ bị vướng mìn, đồng chí số 1 bị thương nặng, Sơn cũng bị thương nhưng rất bình tĩnh, đã mang được thương binh ra khỏi căn cứ địch đưa về đơn vị an toàn. Lần khác, Sơn cùng tổ đi bám địch và bị thương nặng, biết không sống được, Sơn kiên quyết từ chối băng bó, đưa cuộn băng Trung Quốc cho đồng chí Ba. Sơn nói:

- Ba cầm cuộn băng này, mình không cần nữa. Mình muốn trở thành đảng viên nhưng không đủ thời gian nữa... cho mình chào tất cả anh em nhé!...

Nghe kể về anh Sơn như vậy tôi xúc động quá, chảy nước mắt và rất tiếc là không được một lần gặp anh.

Những mẩu chuyện khác về việc khắc phục đói rét trong các lần bị địch càn. Những trận pháo hóa học tấn công trong hang đá, không có phương tiện gì chống đỡ, những thân hình gầy yếu muốn xỉu đi, nước mắt giàn giụa nhưng vẫn sẵn sàng nhả đạn vào quân thù... Tất cả những điều đó đã làm tôi thêm yêu mến, tự hào về cái đơn vị nhỏ bé của mình, tự hào về Sư đoàn 2 anh hùng "Trung dũng kiên cường" của Khu 5 bất khuất.


Là chiến sĩ, chúng tôi không thể biết ý định, chiến lược của trên, việc cả sư đoàn ra đứng chân trên đất Lào không phải chỉ vì những khó khăn về đảm bảo hậu cần, về những cuộc càn liên miên của địch khi bắt đầu "Việt Nam hóa chiến tranh". Mà ở đây còn có nhiều điều chúng tôi chưa biết. Đó là để đón và đập tan một cuộc phiêu lưu quân sự của quân ngụy Sài Gòn, nhằm phá hoại, ngăn chặn con đường tiếp tế từ hậu phương lớn vào tiền tuyến. Con đường mòn chiến lược mang tên Bác kính yêu: Đường Hồ Chí Minh.


Cụ thể, để chuẩn bị cho điều bí mật ấy, đại đội trinh sát sư đoàn ngay từ tháng 9 năm 1970 đến tháng 1 năm 1971, liên tục có các tổ đi địa hình. Tổ anh Dự cũng đã gặp một số tổ trinh sát của các đơn vị khác đang triển khai công tác trên các khu được phân công. Khu vực tổ anh Dự đảm nhiệm kéo dài từ tây đèo Lao Bảo, theo đường số 9 về Bản Đông đến thị trấn Chê Pôn...


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 17 Tháng Chín, 2021, 09:13:14 pm
Cuối tháng 12 năm 1970, một toán trinh sát khác do anh Trụ phụ trách bảo đảm cho đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn cùng đoàn cán bộ cơ quan của sư đoàn đi chuẩn bị chiến trường. Sau 3 ngày Tết, cả đơn vị được lệnh hành quân đi chiến đấu ở hậu cứ có hai ba đồng chí đau yếu. Đơn vị hành quân đến khu doanh trại cũ D24, một đơn vị thuộc Đoàn 559. Chúng tôi nhanh chóng đào thêm hầm hố, cũng phải làm hầm bò để ngủ, hầm chữ A để tránh bom đạn, hầm chiến đấu, hầm cho tổ nuôi quân và hầm làm bếp Hoàng Cầm, lập một chòi quan sát ngay trước nhà chỉ huy đại đội. Trong vòng hai ngày các việc như hầm hố, bếp núc đã xong. Các tổ công tác lần lượt đi làm nhiệm vụ...

Ngày 7 tháng 2 năm 1971, lần đầu tiên tôi được đi công tác phục vụ chiến đấu. Tổ chỉ có hai anh em.

Anh É tiểu đội trưởng, làm tổ trưởng, tôi là tổ viên.

Anh É to lớn, mập đen, lông mày chổi xể, mặt hơi gãy, mắt sâu. Coi anh thật dữ tướng, rất tiết kiệm nói cười. Anh sinh ra ở Hòa Bình, là người dân tộc Mường, tính trung thực, chất phác. Do có sức khỏe hơn người, lại ham làm nên các việc nặng nhọc anh đều chủ động làm cả, chiến sĩ trong tiểu đội đau ốm anh luôn tạo điều kiện cho nghỉ ngơi. Đối với tôi anh hay hỏi han, tâm sự, chẳng rõ do tôi là lính mới hay vì bổn phận anh là cán bộ đảng viên phải vậy? Nhưng trong trò chuyện với anh, tôi rất thoải mái. Tôi kể anh nghe về hoàn cảnh gia đình, về việc đi bộ đội còn anh kể về gia đình cho tôi nghe, tiếng anh lơ lớ: Miềng ở trên núi cao, lạc hậu lắm, người lớn, trẻ con nhiều người không có chữ. Miềng may mắn được đi học ở trường dân tộc nội trú nên biết được ít chữ. Miềng vào Đảng từ phong trào ở quê. Vợ miềng làm rẫy, con gái đã ba tuổi. Năm 1969 nhập ngũ rồi đi B ngay, đến nay không được tin tức gì về nhà, chắc chúng nó tốt cả thôi...


Anh É dẫn tôi đi chọn một điểm để đặt đài quan sát, theo điểm đánh dấu bằng chì đỏ của thủ trưởng ban 2 trên tấm bản đồ tỷ lệ 1/100.000. Hai anh em xuyên sơn để đi đến nơi đã được xác định. Anh É nói với tôi:

- Khi chiến dịch đã bắt đầu thì dù là hậu cứ của ta cũng có thể có biệt kích, thám báo, các loại máy bay trinh sát trên không của địch thường hoạt động để phát hiện ta. Trên đường đi, có thể bất ngờ gặp máy bay, phi pháo địch bắn dọn bãi đổ quân. Các tình huống ấy đều có thể xảy ra nên phải có ý thức địch tình. Đây là tình huông chiến đấu thực sự, không được chủ quan.

Hành trang của chúng tôi gọn nhẹ: một chiếc võng ni lông bọc bằng dù pháo sáng đã được nhuộm bằng thuốc đạn khói của Mỹ thành màu xanh, có tác dụng chống muỗi. Võng được gấp bó nhỏ lại bằng cổ chân đeo chéo qua vai sau lưng.


Trên thắt lưng, loại USA được giắt vào rất nhiều thứ: một túi con hai vắt cơm, một bi đông USA đựng đầy nước, một túi đựng ve thuốc chống vắt bằng nhựa nhãn USA, một túi vải anh Triện khâu cho bên trong để các gói nhỏ muối, tiêu, bột ngọt, một chiếc ni lông gấp nhỏ, 2 trái lựu đạn USA, một ăng gô Trung Quốc. Riêng cái dây lưng USA ấy cũng phải gần ba ký rồi. Trên tay cầm một khẩu AK báng gấp có lắp hai băng đạn trở đầu, trước ngực đeo lủng lẳng một chiếc ống nhòm bội số 8 nhân 30. Đó là trang bị cần thiết tối thiểu cho một chiến sĩ trinh sát. Mọi thứ phải được buộc chặt chẽ, không gây tiếng động, khi chạy, nhảy không bị rơi. Khi gặp địch thì tao ngộ chiến được. Khi xuất phát, anh É dặn:

- Đi cách tớ từ 5 đến 10 mét, tùy theo địa hình nhé.

Từ sáng đến tối chúng tôi đã đi qua và dừng lại không nhớ được bao nhiêu lần, chỉ biết mỗi lần dừng lại đều là một đỉnh núi. Chúng tôi thường cắt ngang những con suối, đường mòn, đường dây trần. Đường xuyên đều băng qua các sườn núi dốc đứng, cây rậm nên tốn sức lắm. Tôi chợt có suy nghĩ tuy đi góc phương vị nhưng cũng có thể lợi dụng đường mòn, hay khe suối có lẽ thế đỡ vất vả hơn.

Anh É không biết có hiểu được suy nghĩ của tôi không, anh dừng lại chờ tôi đến gần nói:

- Đi thế này tránh địch phục kích, tránh được máy bay trinh sát, tránh bom B-52.

Tuy chú ý chọn đường đi hiểm hóc như vậy nhưng cũng có lúc chúng tôi phải chạy bở hơi tai, vì gặp một cái rẫy lớn trong lúc đang băng qua thì trên đầu có bọn trực thăng cán gáo và tầu gầy ập đến. Những lúc ngồi chờ máy bay quay đầu anh É lại chỉ cái UH1B (tầu gầy) dẫn giải:

- Tầu gầy là trực thăng vũ trang, nó đi bảo vệ cho chiếc "cán gáo" làm nhiệm vụ trinh sát. Tầu gầy có hai tên phi công ngồi hàng dọc trang bị hỏa lực cực mạnh gồm: Rốc-két phóng lựu 40ly, súng máy 7,62ly bắn hàng trăm phát/phút. Khi phát hiện mục tiêu hắn truy đuổi oanh tạc rất dữ dội. Tránh nó phải có mưu và nhanh nhẹn, chỉ được vận động khi nó bay qua, lúc mình nhìn thấy đuôi nó, khi nó vòng lại phải nấp ngay vì nó quan sát tốt phía trước, hai bên và chụp thẳng xuống. Trong ngày hôm đó chúng tôi gặp tầu gầy đến ba lần, chúng trinh sát chủ yếu theo đường dây trần, đường mòn, những nơi có nương rẫy sông suối.


Dừng lại, anh É bảo tôi cảnh giới, anh trải bản đồ ra xem lại rồi quyết định nghỉ. Lúc này tôi mới thấy mệt chân tay mặt mũi sây sát, rớm máu vì gai cây cào móc. Từ đây, chúng tôi nhìn thấy một số bản, hầu hết các bản dân đã bỏ đi. Con sông Chê Pôn uốn khúc chảy dọc theo chân dãy núi, bên nam ngạn có các cao điểm 748, 728 và 660, thỉnh thoảng có những đoạn đường số 9 lộ ra khỏi cánh rừng già do bị bom B-52 phạt đi, tạo ra những khoảng trống, đất đỏ ối, có vài bản thấy còn dân ở. Đó là bản A Lây Nhầy, bản Xăng Ký... một số cao điểm có thể quan sát được toàn tuyến đường 9 từ Bản Đông về thị trấn Chê Pôn.


Tại điểm đứng của chúng tôi cũng quan sát được khu vực nói trên và các tuyến đường nhánh rẽ vào khu vực trạm 16. Dốc Nguyễn Chí Thanh, tuy nhiên, đặt đài bờ nam sông quan sát đến các mục tiêu nói trên sẽ gần hơn.

Chiều đó, hai anh em kiểm tra khu vực, đào hầm ngụy trang, ăn cơm tối bằng các vắt cơm còn lại, uống nước suối rồi đi ngủ. Do mệt, tôi lăn ra ngủ ngay không kịp chuyện trò gì với anh É. Sáng sau anh É gọi tôi dậy về đơn vị. Vị trí này sư đoàn có bố trí một tổ đài do anh Dũng tiểu đội trưởng Tiểu đội 3 phụ trách. Đài này gần chỉ huy sở của sư đoàn phía bắc đường số 9. Chỉ một lần đi công tác cùng anh É, thấy anh nói ít làm nhiểu. Nói và làm đều dứt khoát, nhanh chóng. Anh là chiến sĩ xuyên sơn giỏi. Hai ngày công tác cùng anh, những động tác nấp tránh máy bay, cách vận động qua bãi trắng, dừng lại xem bản đồ, lấy góc phương vị, xác định vị trí đứng trên thực địa, đánh dấu đường đi... Đó là những bài học trực quan sinh động đối với tôi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 17 Tháng Chín, 2021, 09:14:00 pm
Trưa ngày 10 tháng 2 năm 1971 tôi được đồng chí B phó Nguyễn Văn Mười thông báo:

- Đồng chí Chiến chuẩn bị đi công tác.

Một giờ sau đó tôi đã sẵn sàng lên đường thì anh Mười thông báo lại: Đồng chí Chiến ở lại nhận công tác khác. Đồng chí Lan đi thay.

Tổ công tác của anh Mười gồm có: anh Thu - đại đội trưởng, anh Mười B phó làm tổ trưởng, anh Dầm trợ lý ban 2 đi cùng, anh É và đồng chí Lan là tổ viên. Tôi cũng không rõ đi làm nhiệm vụ cụ thể ở đâu. Khi chiến dịch kết thúc không có ai trở về. Đại đội thông báo cả tổ đã hy sinh tại Bản Đông. Trường hợp hy sinh của tổ xảy ra như thế nào không rõ nên không có điều kiện để rút kinh nghiệm.


Cũng xin nói đôi điều về các anh, tuy rằng tôi mới được sống gần các anh có vài tháng, chủ yếu trong huấn luyện ở K300.

Anh Nguyễn Văn Mười sinh ra và lớn lên ở Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Anh đi theo quân giải phóng từ khi 13, 14 tuổi. Lúc huấn luyện ở K300 thấy anh là cán bộ tiểu đội gương mẫu, chân thật. Do có sức khỏe và là người phải lao động vất vả từ tấm bé nên anh chẳng nề hà bất cứ công việc gì. Là đứa bé côi cút phải đi ở đợ, nghèo khổ, tủi nhục nên tính tình anh trầm lặng, ôn hòa, nhẫn nại không cáu gắt bao giờ. Anh kể rất thực:

- Từ bé chẳng bao giờ được ăn no, ở làng bao giờ mình cũng thèm ăn. Khi quê mình được giải phóng (1964), mình đi theo bộ đội đến nay, đơn vị thiếu thốn. Nhớ lần đầu mình được ăn no thì cũng là lần suýt chết, đó là hôm đơn vị bắn được một con voi, thịt voi ăn không ngán ngấy, lại lạ miệng. Tớ ăn đến nỗi sờ vào cổ họng nắn thấy thịt, bụng căng ra, thở khó quá...

Cánh lính mới chúng tôi nghe anh kể cười vui vẻ. Thấy anh chân thực quá không ai nỡ trêu chọc. Ở cái tuổi 22, anh vẫn hồn nhiên, không có một chút riêng tư nào; chỉ có một cách bằng coi đơn vị là nhà, đồng đội là anh em và làm sao để hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

Nguyễn Ngọc Lan là chiến sĩ cùng A1 với tôi, Lan nhập ngũ năm 1969, vào chiến trường tháng 2 năm 1970. Quê Lan ở Văn Giang, Hưng Yên. Lan béo, đen lùn, chậm chạp, ít nói nhưng hay cười. Khi cười mắt cứ nhắm tít lại, chẳng thèm để ý đến trời cao đất dày gì cả. Cái tật cười "tít" mắt là cái cớ để anh pha tán và trêu chọc, để mọi người được những trận cười đến nổ ruột. Lan hay trò chuyện với tôi:

- Mình chưa có người yêu - Có lẽ thế nên những lúc cánh lính nói chuyện rất sôi nổi về đề tài bạn gái thì Lan chỉ là người dỏng tai lên mà nghe. Lan kể chuyện hào hứng nhất vẫn là chuyện Tết ở quê.

- Quê mình Tết nhất cầu kỳ lắm, nhà nào cũng phải chuẩn bị đủ các loại bánh trái, giò chả, các loại chè, thôn xóm rậm rịch hàng tháng trời. Lễ nghi, ăn uống không đơn giản như quê cậu đâu. Chỉ có mỗi loại bánh chưng thì phải. Ngày đóng quân ở thôn Than huyện nhà cậu, Tết đến vèo một cái là hết. Mình có cái thú là hay leo lên núi, vì từ bé đến khi đi bộ đội đóng quân ở đó mới biết đến núi. Ngày nghỉ xin phép đại đội leo lên núi An Phụ chơi mà háo hức cứ như đi xem hội. Đâu có hình dung được là sẽ phải leo núi đến ớn như bây giờ. Chẳng hiểu vì lý do gì, mặc dù Lan nói chuyện rất vui vẻ nhưng tôi cảm thấy một tình cảm thương thương anh. Một thanh niên chưa từng biết đến cổ tay con gái tròn dẹt ra sao, không biết rồi...

Anh Nguyễn Văn Dăm người Hà Nam Ninh trước là B trưởng ở đại đội. Anh mới được điều lên ban 2 trước khi tôi về đại đội nên không biết gì về anh.

Anh Nguyễn Văn Thu con người thư sinh có cái miệng luôn như cười rất tươi ấy tuy là đại đội trưởng nhưng có vài ba lần anh xuống hầm bò của A1 chơi và tán chuyện. Anh tâm sự:

- Mình ở quê đã đính hôn. Tục quê tớ đã đính hôn thì coi như vợ chồng rồi. Từ ngày đi đến nay không liên hệ được với nhà...

Hồi ở K300 có cô Bun Liêng xinh đẹp rất thích anh Thu, thường ngày Bun Liêng ghé thăm anh Thu và dần cô trở nên thân thiết gần gũi với cả đơn vị, cả đơn vị coi cô như người em gái, đặt cho cô cái tên Việt "Dung". Bun Liêng rất vui thích với cái tên ấy.


Qua các mẩu chuyện của Dung và các cô gài Lào, tôi biết một số tiếng Lào, tập tục, lễ giáo người Lào. Nét nổi bật của người Lào là thủy chung, trung thực và nhân hậu.

Kết thúc chiến dịch Dung nhiều lần đến đơn vị, cô rất buồn và lo lắng vì không gặp được anh Thu. Cô không được thông báo về anh Thu cho đến khi đơn vị chúng tôi hành quân đi chuẩn bị chiến dịch Tây Lào tháng 6 năm 1971. Sau này chúng tôi không được gặp Dung lần nào nữa vì đầu năm 1972 đơn vị rời đất Lào về tác chiến ở vùng Tây Nguyên của Tổ quốc.


Người cuối cùng của tổ là anh Bùi Văn É. Anh từng phụ trách tôi đi xác định vị trí đài quan sát. Các anh ra đi trong những ngày đầu tiên quân ngụy Sài Gòn đổ xuống đất Lào. Trên những cánh rừng già âm u trước đây, nay luôn phải rung lên dưới làn bom rải thảm của B-52, B-57 và các loại bom pháo Mỹ, ngụy. Bầu trời lúc nào cũng vo vo tiếng kêu đến nẫu ruột của OV10 thỉnh thoảng lại bổ nhào, phóng một quả đạn khói chỉ điểm, thế là chỉ sau vài phút có từ 2 đến 3 chiếc trực thăng vũ trang bay đến oanh tạc hoặc mấy chiếc phản lực ào đến trút bom. Vì thế nhiều cánh rừng xanh đã bị thay bằng màu đất đỏ ổi bị cày xới lên nhiều lần.


Cả tổ các anh không về trong những ngày ác liệt ấy. Sư đoàn báo tin các anh hy sinh ở Bản Đông. Là chiến sĩ tôi không biết đơn vị báo tử các anh như thế nào. Mãi đến tháng 4 năm 1996, một lần về lại Sư đoàn 2 gặp ban chính sách, được biết các anh hy sinh vào ngày 19 tháng 2 năm 1971. Đơn vị đã báo tử các anh. Riêng anh Thu và anh Dăm lúc đó không thấy xác nên đơn vị báo mất tích. Tôi đề nghị sư trưởng và sư phó chính trị Sư 2 là cần xác minh sớm đối với trường hợp anh Thu và anh Dăm để báo cho gia đình, vì vấn đề còn liên quan đến chính sách đối với gia đình có công. Thực tế thời gian đã có đến 25 năm rồi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 07:41:53 am
3

Tổ đài trên 723

Ngày 20 tháng 2 năm 1971 anh Nguyễn Văn Phải được đại đội cử đi công tác. Tổ viên dưới quyền anh có 4 đồng chí nữa là: Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Văn Phượng và tôi. Nhiệm vụ của tổ lập đài quan sát trên điểm cao 728. Phạm vi quan sát địch trên không, dưới mặt đất, khu vực từ Bản Đông theo trục đường số 9 về thị trấn Chê Pôn. Vị trí dự bị của đài là điểm cao 748 và sẵn sàng nhận nhiệm vụ theo chỉ thị của ban 2.


Anh Phải là người Yên Lãng, Hải Phòng, nhập ngũ năm 1967 vào Nam năm 1968, tuy nhỏ con nhưng nhanh nhẹn như một chú mèo. Anh giỏi môn bình địa, là giáo viên võ thuật, nói chuyện hay pha trò, cái răng khểnh chìa ra khi cười thì không ai có thể quên được.


Anh Tý là người ở Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây, nhập ngũ và đi B năm 1969, Tý trầm tĩnh, điềm đạm. Anh là chiến sĩ thông tin 2 oát.


Hoài Nam quê ở xã Tân Tiến, Văn Giang, Hưng Yên, nhập ngũ năm 1969, đi B đầu năm 1970, to mập, môi đỏ, mặt hơi gãy, mắt sáng. Nam học hết lớp 10, hay kể chuyện về nhân tài ở quê. Quê anh có "ông lang Hanh chữa gãy xương, nắn chỉnh sai khớp rất giỏi".


Tổ hành quân từ hậu cứ D24 băng qua đường 9 vượt sông Chê Pôn, ngược dốc Nguyễn Chí Thanh đến đỉnh rẽ phải, qua một bản người Lào. Bản này dân đang ở, họ vừa mới thu hoạch lúa và hoa màu ở rẫy về. Trên rẫy nhiều rau quả như đu đủ, bí đỏ, bí đao... Những người dân Lào đen cháy đang giã gạo, làm việc nhà. Họ nhìn chúng tôi đi qua không nói năng gì. Kỳ thực nhiều lúc gặp người Lào nhất là đàn ông tôi vẫn có cảm giác sờ sợ thế nào ấy. Đàn ông thường cởi trần, đóng khố, đàn bà cũng đôi khi không mặc áo, coi kỳ cục lắm. Đặc biệt con gái chưa chồng thì rất kín đáo, không để hở ngực bao giờ. 


Chúng tôi vượt sườn Tây Nam, lên điểm cao 723, đi qua một rẫy cũ, chọn bìa rừng cổ nhiều hang đá làm nơi ăn nghỉ. Đài quan sát thì đặt ở mỏm nhô ra nằm phía Đông Bắc điểm cao. Hàng ngày, anh Phải dẫn tôi và anh Tý lên đài quan sát. Nam và Phượng ở nơi nghỉ lo công tác đảm bảo và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Từ đài quan sát, chúng tôi nhìn rõ Bản Đông, các điểm cao xung quanh Bản Đông, dọc đường số 9, các điểm cao và yên ngựa thuộc 660, 748 và thị trấn Chê Pôn. Vị trí này gần Bản Đông và Chê Pôn hơn vị trí đặt đài ở phía bắc đường số 9 mà anh É và tôi chọn trước đây. Hàng ngày chúng tôi thực hiện báo cáo về ban 2 sư đoàn theo quy định, cứ sau một giờ lần bằng chiếc máy 2 oát K-63 do Trung Quốc viện trợ.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 07:42:43 am
Trên đỉnh điểm cao 723 cây cối thưa thớt nguyên là một cái rẫy cũ, có nhiều tảng đá lô nhô. Chúng tôi tận dụng làm hầm tránh bom pháo và nơi ngồi quan sát, sườn đông điểm cao là rừng già dốc đứng, phía nam thoải hơn, tạo thành yên ngựa nối với điểm cao 660, phía tây là điểm cao 748, phía tây nam là vùng giải phóng Lào, ở đây tập trung nhiều kho tàng của ta, từ đường 9 qua đây có ngầm Tha Mé, đượng Ha Me. Trước, trong và sau chiến dịch, khu vực này vẫn là một trong những trọng điểm oanh tạc của máy bay địch. Trong thời gian này, địch "nhảy cóc" lùng sục kho tàng của ta, củng cố và mở rộng Bản Đông. Toàn bộ khu Bản Đông cách đây gần 3 tuần cây cối rậm rạp là thế, nay không còn màu xanh của lá, chỉ còn lai màu đỏ của đất bị cày xới do bom đạn, và máy ủi của địch. Trên nền đất đỏ ấy là các trận địa pháo, ụ súng bằng bê tông đúc sẵn và bao cát xếp chồng lên. Những bãi xe tăng màu đen xám, những bãi đỗ trực thăng lổn nhổn những thùng hàng và bọn lính ngụy lăng xăng đi lại.


Dọc con đường số 9 chạy về phía Lao Bảo và ngược lại thị trấn Chê Pôn, các cao điểm hai bên đường, các khe suối có thể tập kết bộ đội, hay chốt giữa đều bị địch trinh sát, theo dõi thường xuyên và thường oanh tạc bằng B-52. Các trận oanh tạc đã đốn đi từng cánh rừng lớn rất khốc liệt.


Hàng ngày, chúng tôi báo cáo về sư đoàn từng chuyến trực thăng cẩu hàng đến như: Lô cốt bằng bê tông đúc sẵn, xe tăng, trọng pháo, hàng hóa quân dụng khác. Những chiếc cần cẩu bay CH-57, CH-34 trông giống những con cào cào bay từ phía đông sang Bản Đông, treo lủng lẳng dưới bụng nó những hàng hóa nói trên.


Khu vực phía nam đường 9 và tây Bản Đông như: 660, 723, 748 và thị trấn Chê Pôn, địch thường xuyên trinh sát bằng L19, OV10. Những phi cơ này bay kiên trì đến sốt ruột. Nghe tiếng vo vo, i ỉ của nó tức anh ách, hình như cả ngày nó bay như thế, thỉnh thoảng lại phóng xuống một quả đạn khói thế rồi chỉ ít phút máy bay phản lực lại đến trút bom bắn phá hủy diệt sự sống. Còn khi không nghe tiếng máy bay trinh sát, bầu trời trở nên yên ắng thì thường là mặt đất bị rung lên bởi những trận B-52 rải thảm.


Những trận B-52 rải xuống các khu vực xung quanh Bản Đông hàng ngày cứ tăng lên. Có lẽ, địch tăng cường biện pháp an ninh cho căn cứ này, tăng cường trấn an cho các binh sĩ Việt Nam cộng hòa trong một căn cứ dã chiến lâm thời bị cô lập tuyệt đối với hậu phương, đường tiếp tế duy nhất là đường không... điều bất lợi đó chẳng một nhà quân sự nào lại không biết. Còn những chiến binh làm sao lại không kinh sợ khi phải tác chiến với một đối tượng đáng gờm là Quân đội nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống quyết chiến, quyết thắng. Khi căn cứ Bản Đông tạm thời ổn định thì trận địa pháo của chúng ngày nào cũng hoạt động. Những loạt pháo bắn vu vơ lên những ngọn đồi, khe suối, những cánh rừng già của đất nước Lào này một cách bất lực, càng chứng tỏ tâm trạng lo sợ của những kẻ đi ăn trộm. Bằng Ống nhòm chúng tôi, nhìn chụp xuống căn cứ Bản Đông thấy rõ mọi hành động, cử chỉ, thấy cả ruột gan, tâm trạng của kẻ địch. Còn chúng chẳng thể thấy chúng tôi, những chiến sĩ giải phóng quân, tên đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam.


Từ khi địch đổ quân xuống Bản Đông chiều ngày 10 tháng 2 đến nay, sư đoàn chưa đánh trận nào, trong khi các sư đoàn khác đã tác chiến. Khu vực mà sư đoàn được phân công địch chưa đổ quân xuống. Trên đài quan sát, chúng tôi vẫn báo cáo tình hình địch về sư đoàn đều đặn.

- Địch đổ quân X lần chiếc UH1A hay CH34 xuống tọa độ X... Y.

- Chở đến cao điểm N loại hàng hóa gì. Và phi pháo địch oanh tạc lúc giờ Z, bao nhiêu lần chiếc CH34 chuyển quân... Ngoài theo dõi địch trên đài, còn tổ chức đi trinh sát khu vực quanh điểm cao 660. Mục đích xem có thấy dấu hiệu gì của địch đã đến hoặc sẽ đổ quân xuống đây không. Đi thực địa, chúng tôi được biết sư đoàn đã chuẩn bị điểm quyết chiến với địch tại điểm cao 660 và điểm đón lõng ở khu vực trạm 16, chân dốc Nguyễn Chí Thanh, phía đông bắc điểm cao 728. Cụ thể là các đơn vị của Trung đoàn bộ binh số 1 sư đoàn đang tập kết sẵn sàng đánh địch theo kế hoạch của trên.


Sau hôm trinh sát thực địa, anh Phải cử Nam và Phượng về hậu cứ để lấy gạo, thực phẩm. Ở lại đài chỉ còn ba anh em: anh Phải, anh Tý và tôi. Sáng ngày 2 tháng 8 năm 1971, có một trung đội 16 đồng chí công binh của sư đoàn do anh Đông chỉ huy làm nhiệm vụ chốt giữ điểm cao. Các đồng chí lên đến điểm cao là bắt tay vào việc làm hầm hào chiến đấu ngay. Công việc tiếp tục luôn cả đêm hôm đó. Trong số anh em D15 có nhiều chiến sĩ cùng Tiểu đoàn 629 với tôi. Anh em cũng lần đầu đi chiến dịch. Vì các bạn phải làm công sự chiến đấu quá gấp tôi không gặp được ai trong số họ. Buổi chiều hôm đó, có một tổ trinh sát của Bộ cũng lên điểm cao. Các anh liên hệ với anh Phải và được đưa đến bố trí cách chỗ nghỉ của chúng tôi vài trăm mét. Như vậy đến ngày 2 tháng 3, trên điểm cao 723 lực lượng ta có hơn hai mươi người.


Tối hôm ấy, bộ phận trinh sát chúng tôi về nơi nghỉ, còn anh em D15 đang tiếp tục làm hầm. Như mọi khi, chúng tôi mỗi người về chỗ ngủ của mình. Quãng 20 giờ, pháo địch từ Bản Đông nã đến cấp tập, lần đầu tiên tôi được nghe tiếng xé không khí "Xoèn xoẹt” của đầu đạn pháo. Sau tiếng đề pa ục ục đầu nòng, rồi tiếng nổ đến choáng óc của đầu đạn. Không rõ nó sẽ rơi vào chỗ nào. Tôi thấy ớn như muốn nổi da gà. Anh Phải chạy vào hầm tôi nhắc: - Cứ ngồi yên, há miệng ra. Nó nện đúng đầu mình đấy. Thấy anh bịt tai, há miệng, tôi cũng làm theo. Anh lại nói như giỡn:

- Vua chiến trường bắn vào hang này cũng chẳng ăn thua, chứ loại 105 này nhằm nhò gì. Chẳng khác nào gãi ghẻ.

Trận pháo bất thần này có khoảng 20 trái nổ trên khu vực của chúng tôi, sau đó im ắng đến sáng. Là lính mới, tôi chưa thể đưa ra một nhận định gì về trận pháo kích đó nên nhanh chóng đi vào giấc ngủ. Anh Phải là tiểu đội trưởng, chiến sĩ trinh sát kỳ cựu. Công tác đài quan sát anh đã có nhiều kinh nghiệm. Từ việc tổ chức đảm bảo bí mật cho đài, đến các thao tác xác định tọa độ trên thực địa, đo cự ly, giao hội anh đều làm rất giỏi, độ chính xác cao. Ví dụ như trận tập kích pháo binh của ta vào Bản Đông mấy hôm trước, anh Phải đã giúp pháo 122 chỉnh bắn những trái nổ rơi đúng vào các khẩu pháo địch, bắt chúng phải câm họng. Nhìn những công sự bao cát, nhà bạt, bãi hàng của địch tung lên, bốc cháy, những tên lính chạy thục mạng tìm đến các lô cốt bê tông để ẩn nấp, tôi thấy sướng cái bụng và thán phục pháo binh ta tài quá. Lần đầu tiên tôi được xem một trận pháo kích trên thực địa giống như xem bắn pháo trong phim "Lá cờ chuẩn".


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 07:43:35 am
Sáng ngày 3 tháng 3 năm 1971, khi mọi người đang ngủ. Địch lại nã lên điểm cao 723. Pháo nổ liên hồi quãng 20 phút, tiếp đó là tiếng rít của máy bay địch bổ nhào và tiếng hú của bom rơi, rồi những tiếng nổ rung chuyển đất đá, cây cối gãy đổ ào ào. Ngày còn đi học cấp II, năm 1966, máy bay Mỹ thả bom vào xã, nằm ngoài cánh đồng lúa, nhìn thấy rõ những trái bom từ bụng máy bay rơi ra lao vun vút xuống mặt đất, tiếng hú và tiếng nổ của bom trong trận ấy tôi đã được tận mắt chứng kiến, thấy sức công phá của nó. Nay ngồi trong hầm nhưng tôi cũng nhận được tiếng kêu của tử thần, bom địch giội xuống đỉnh đầu. Như anh Phải nói thì đây là công tác "dọn bãi". Chúng sẽ đổ xuống sau khi dọn bãi xong. Tiếng nổ chát chúa tứ phía của bom đạn, đạn rốc-két, tiếng va chạm của đất đá tung lên và cây cối đổ tạo nên một thứ âm thanh hổ lốn. Dần dần, không phân biệt được gì, chỉ thấy ù ù. Bỗng nhiên tôi thấy bị nhấc bổng lên rồi rơi xuồng nền đá. Khi đang quờ quạng để chui ra khỏi đống tre gỗ lẫn đất đá thì có tiếng anh Phải:

- Chiến ơi! Chiến ơi! - Tiếng anh gọi nhỏ tý y như nói thầm.

Chưa kịp trả lời thì anh Phải đã kéo tôi ra. Anh lầu bầu:

- Hầm bị trúng bom! Không chết... bị thương nhẹ, may rồi. Sang hầm tao, tao băng cho.

Khi đang băng cho tôi, vết thương phần mềm ở bụng, anh Tý chạy vào nói gì với anh Phải, tôi nghe không được. Hai anh trao đổi một lúc, sau đó anh Phải nói với tôi là phải rút khỏi đài. Lúc này trên bầu trời điểm cao 723 chỉ còn tiếng máy bay trực thăng phành phạch, quần đảo, liên tục phóng xuống hàng loạt rốc-két, loại đạn bắn phụt khói về phía sau, tiếng nổ không đanh nhưng rất uy hiếp.


Chúng cứ vòng đi, vòng lại phóng rốc-két, bắn M79 và trọng liên xuống chốt của anh em Tiểu đoàn 15. Trận chiến đấu giữa trực thăng địch và chiến sĩ chốt Tiểu đoàn 15 đã bắt đầu. Anh Phải nói: Ta phải rút nhanh, chỉ lúc nữa chúng đổ quân xuống sẽ không thể đi được. Tôi không biết gì nêu ý kiến thắc mắc: Sao không ở lại đánh nhau như anh em Tiểu đoàn 15. Anh Phải nói rất kiên quyết không hề có ý định giải thích: Chúng ta không có nhiệm vụ giữ chốt.


Chúng tôi thu dọn hành lý. Anh Tý vai đeo máy K-63, tay cầm khẩu AK đi trước. Anh Phải dẫn tôi theo sau. Anh mang hai khẩu súng và đeo trên lưng cái gùi nhỏ nhét tất cả mọi thứ vào đó. Khi ra khỏi hang đá, tôi mới thấy sức phá hoại ghê gớm của bom đạn. Những cây cổ thụ bị trúng bom bật gốc, bị mảnh văng gãy gục hoặc bị xé tước ra. Cây cối đổ ngổn ngang, khói bụi đen kịt, trông cảnh đầy chết chóc tang thương. Nhìn sang khu vực đài, những đoạn hào chưa hoàn chỉnh còn nông choèn, những căn hầm chiến đấu làm vội đơn sơ, ngại cho anh em mình quá. Tôi cứ ngoái nhìn lại khi thấy máy bay địch không bắn nữa và có nhiều chiếc trực thăng bay đến điểm cao hơn. Anh Phải kéo tôi đi khẽ nói: "Nó đổ quân đấy".


Chúng tôi nhìn thấy những chiếc UH1A, UH1C chở quân bắt đầu xuống điểm cao, khi chiếc máy bay còn cách đất dưới hai mét thì những tên lính quần áo bó chẽn tay người, đầu đội mũ sắt nhảy ào xuống. Chúng nhanh chóng lợi dụng vật che đỡ nổ súng từng loạt về phía trước không tiếc đạn. Những trực thăng đã trút hết quân vội vã bốc lên bay thẳng về phía đông. Tiểu đoàn 15 chiến đấu ngoan cường, đã bắn vài chiếc trực thăng bốc cháy. Một số tên địch bị tiêu diệt, lực lượng ta bị thương vong khá lớn ngay từ khi địch dùng hỏa lực "dọn bãi". Cuộc chiến đấu không cân sức, những tên lính mũ sắt thuộc trung đoàn 1 - sư đoàn 1 ngụy đã chiếm được nhiều đoạn hào ở nhiều vị trí trên trận địa...


Quãng 9 giờ 30, anh Phải hướng dẫn tôi cách tránh máy bay địch để không bị phát hiện. Những chiếc "tầu gầy" lúc này mở rộng vòng bay ra xa cao điểm 723 hơn. Trên trời lúc nào cũng có hai chiếc vòng lượn. Chúng bắn rốc-két và đại liên xuống bất kỳ chỗ nào nghi ngờ. Chúng tôi đi xuống yên ngựa phía tây để sang điểm cao 748. Đến một bãi đá trống trải, lúc anh Tý đang vượt đến giữa bãi thì một chiếc "tầu gầy" từ phía điểm cao 723 lao đến. Anh Phải kéo tôi nấp vào hòn đá ở bìa rừng rồi thét lớn: "Nằm xuống... Tý... Nằm xuống...". Tiếng anh chìm đi trong tiếng nổ toang toác của súng máy và hai phát rốc-két từ "tầu gầy" bắn xuống. Những chớp lửa và đất đá tung lên phía sau anh Tý. Anh Tý đã chạy vào trong rừng trước khi loạt đạn thứ hai bắn xuống, chiếc trực thăng mất mục tiêu đã vòng về phía điểm cao 723. Anh Phải kéo tôi đi theo hướng anh Tý vừa chạy. Chúng tôi mất liên lạc với anh Tý từ đó.


Hai anh em lang thang trong rừng già hoang vắng. Sự im lặng quá mức sau cái ồn ã inh tai, nhức óc kéo dài làm tôi thấy cô đơn, lẻ loi quá giữa cái mênh mông tĩnh lặng, trong rừng già tôi thấy mình nhỏ bé yếu đuối kỳ lạ. Ngồi đã khá lâu, anh Phải mới khẽ hỏi "Có mệt, đói không?".


Đến lúc này tôi mới thấy đau ở bụng, không rõ có mảnh bom, đạn gì trong ổ bụng không... còn người thì thấy rã rời. Nhìn anh Phải nét mặt rất căng thẳng mệt mỏi, không là anh Phải mọi ngày nữa. Tôi có cảm giác mình đang sắp khóc, cảm giác ấy không phải vì sợ hãi mà vì cô đơn quá, thương anh Phải và thương mình, thương anh em D15 không biết họ thế nào? Còn anh Tý chạy đi đâu? Có bị gì không? Tối đó, anh Phải đưa tôi đến một căn hầm kèo có rất nhiều bí đỏ. Đây chắc là nơi đóng quân của một đơn vị nào đó không rõ bộ đội ta hay bạn Lào, có vài cái tip đựng xôi thì có vẻ là chỗ ở của dân Lào. Nơi này không có một ai cả. Anh Phải đi đâu đó nấu cháo. Tối đó tôi ăn một bát cháo, còn anh Phải không thấy ăn uống gì. Anh lại xách súng đi đâu đó, sáng sau khi tỉnh dậy tôi thấy anh Phải ngồi đăm chiêu lúc sau anh nói:

- Tớ đưa cậu đến phẫu của 559. Họ sẽ điều trị cho cậu, khi nào khỏi đơn vị đến đón. Tý lạc mất rồi, tìm mãi không thấy. Không có người, không có máy liên lạc, tớ phải về đơn vị, không lập đài ở điểm cao 748 như dự kiến được, ta đi thôi.


Thường ngày anh Phải vui vẻ là thế, ai cũng nghĩ anh không thể kiên quyết để làm một cái gì, thế mà giờ anh đã già dặn, nghiêm nghị như một người khác. Trên đường đi đến phẫu 559 chúng tôi gặp một người tên là Vĩnh. Vĩnh kể khi chúng tôi hỏi về D15:

- Đến 11 giờ ngày hôm qua (3.3.1971), chốt của ta đã bị địch chiếm.

Anh Phải hỏi:

- Anh em mình thì sao?

- Hầu hết hy sinh và bị thương! - Anh Vĩnh yên lặng một lúc rồi kể tiếp: Trực thăng đổ quân xuồng mỏm phía đông. Những tên ngụy chiếm chiến hào, cùng sự hỗ trở của trực thăng chúng mở rộng phạm vi chiếm giữ. Anh em mình chốt ở đó hy sinh cả. Từ phía đông chúng phát triển sang phía tây nơi bọn mình chốt. Tổ mình có ba người, tớ là lính cũ còn lại hai chiến sĩ mới, khi bọn địch tấn công bọn mình, chúng nó bắn như vãi đạn. Trực thăng vũ trang bay thấp bắn xối xả, hỏa lực nó bắn xuống uy hiếp kinh khủng, bọn tớ đánh không lại. Thằng Tiến cầm khẩu B-40 lóng ngóng không phụt được, bị thằng ngụy trước mặt bắn chết bằng nhiều phát đại liên. Thằng Hùng bị trúng M-79 hy sinh. Còn mình bị trúng một viên đại liên có lẽ quá gần nên đường đạn từ phía trước ra sau hông. Từ hôm qua đến nay vẫn đái ỉa được, chắc không thủng bọng đái. Sau khi bị thương, mình bò xuống sườn phía nam, khu có nhiều hang đá, không còn bộ đội nữa đành ra đây để tìm đến nơi có trạm phẫu...


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 07:44:35 am
Như vậy đến 11 giờ ngày 3 tháng 3 địch đã chiếm được điểm cao 723. Vừa đi vừa nghỉ nên mãi đến 19 giờ chúng tôi mới đến trạm phẫu. Anh Phải làm xong thủ tục nhập viện cho tôi rồi vội vã đi ngay trong đêm ấy. Từ sau bữa tối ngày mùng 2 đến nay tôi chưa thấy anh ấy ăn uống gì.


Đêm đó, những anh em diện trung thương được chuyển về bệnh viện. Trời về khuya, ánh sao yếu ớt nhìn phía trước mờ mịt, xe chạy được cũng tài vì xe không bật đèn. Ngồi trên xe, nhìn ra bên đường thấy hố bom dày đặc. Những gốc cây trơ trọi. Một vài chỗ địch vừa đánh bom xăng và lân tinh cồn cháy sém trên các cành cây. Thỉnh thoảng lại thấy một xác chiếc xe tải bị cháy rụi. 


Dọc đường xe phải tắt máy dừng lại nhiều lần, vì trên trời xuất hiện máy bay C-130. Một anh thương binh có lẽ lính 559 vẻ thông thạo:

- Loại C-130 này có trang bị máy tia hồng ngoại dò nhiệt, khi xe chạy nó phát hiện ra ngay. Khi phát hiện nó bắn viên đạn 40ly chính xác khủng khiếp. Cánh tài nói: "Xin thùng" ngay (bắn trúng thùng xe). Còn súng máy thì kéo hàng tràng dài như bò đái. Lính xe ớn nhất loại C-130 này. Lúc đi lúc đứng như vậy đến sáng chúng tôi cũng đến bệnh viện.


Tôi được đưa vào bàn phẫu để xử lý vết thương. Các bác sĩ nói: "Không có thuốc tê, mê gì đâu, đau đấy, cố chịu nhé". Tôi nằm sấp trên bàn, nghe rõ tiếng nói và tiếng kêu lách cách của các dụng cụ phẫu thuật. Lưỡi kéo nhân ái đưa đẩy cắt các phần mô bị hư, lượn đến đâu biết đến đó, nhói lên tận óc. Mồ hôi vã ra như tắm. Tôi đã cố gắng để không kêu rên "nằm yên như cây chuối" - Mấy cô phụ mổ nói thế. Trường hợp của anh Vĩnh thì cũng được gọi là "cóc tía". Một y tá nói với bạn:

- Anh Vĩnh quân giải phóng, vết thương xuyên từ bụng ra phía sau nhưng cũng may không bị thủng bàng quang, khi rửa vết thương xuyên thấu phải dùng thuốn sắt quấn miếng gạc tẩm cồn vào đầu rồi kéo qua kéo lại, ấy thế mà cũng chẳng buồn xuýt xoa gì.

Hai chúng tôi được liệt vào hạng ưu ái, được chăm sóc tử tế, được quan tâm hơn. Điều trị quãng mười lăm ngày thì anh Vinh được xuất viện về đơn vị tiếp tục công tác. Mọi liên hệ với đơn vị và tin tức về chiến dịch tôi không được biết gì thêm nữa. Một buổi sáng thay băng, bác sĩ bảo tôi: "Vết thương sắp khô rồi, tuần tới có thể ra viện được". Tôi băn khoăn không biết về đơn vị bằng cách nào.


Tôi đang ngồi chơi bên bờ suối thì anh Phải và Phú đến. Anh Phải nói: "Chiến dịch kết thúc ngày 23 tháng 3, ta thắng lớn lắm". Anh chỉ thông báo có vậy rồi giục chúng tôi hành quân. Chúng tôi theo đường dây trần về đơn vị.

Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 6 trung đoàn, 1 lữ đoàn, 13 tiểu đoàn với 21.102 tên địch. Thu và phá gần 1.000 xe quân sự, có 538 xe tăng và xe bọc thép; hơn 100 khẩu pháo, 505 máy bay lên thẳng, 49 tầu xuồng.


Lúc nghỉ giải lao gần một bộ phận chiến sĩ đang cắt cỏ tranh, hỏi chuyện tôi được biết các anh là lính cao xạ 57ly, chủ yếu là dân Hà Nội và Hải Dương. Tôi hỏi những người Hải Dương thì một anh kể rất nhiều tên trong đó anh Tháu, cậu Tiếp. Anh Tháu và Tiếp là anh em họ với tôi. Anh Tháu đi bộ dội từ khi đang học cấp II, năm 1966, đến nay tôi chưa một lần gặp. Trong số anh em đi cùng đợt với anh có nhiều bạn học cấp I, cấp II với tôi, nay ai còn, ai mất? Ngày ở nhà mới biết ba người đã hy sinh đó là: Tuân, Tân và Dung... số còn lại đi vào chiến trường như anh Tháu, suốt từ năm 1968 đến lúc tôi đi bộ đội không ai có tin tức gì về nhà. Anh Phải đã muốn đi rồi. Tôi dặn mấy anh pháo thủ:

- Em ở K300, lúc nào rảnh các anh đến chơi, nói hộ với anh Tháu là thằng Chiến vẫn khỏe.

Sau giải phóng miền Nam anh Tháu mới ra Bắc. Gặp tôi anh nói, hôm đó anh chạy đuổi theo tôi mãi đến bờ sông không thấy mới đành quay lại. Nhiều lần anh đi tìm tôi nhưng cũng không gặp được.

Anh Phải ít nói hẳn đi, anh không nói gì thêm về chiến dịch. Có lẽ anh buồn vì trong chiến dịch này tổ đài do anh chỉ huy đã không hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí Phú nói với tôi điều đó. Phú kể sơ bộ kết quả sinh hoạt đơn vị, đánh giá rút kinh nghiệm chiến dịch:

- Các tổ đài quan sát hầu hết hoàn thành nhiệm vụ. Tổ đồng chí Hòe phục vụ Trung đoàn 1 đánh điểm cao 660 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí Hòe lúc về báo cáo tình hình, một mình gặp địch đang rút chạy, đồng chí đã bình tĩnh lừa địch, làm cho cả toán địch tưởng đã bị bao vây nên bỏ súng xin hàng. Đồng chí Hòe đã lần lượt thu từng khẩu súng của địch, bắt tên nọ trói tên kia sau đó dẫn hơn chục tên địch giao cho Ban chính trị E1 rồi tiếp tục làm nhiệm vụ của mình.

- Còn tổ đài của chúng tôi? - Tôi khẽ hỏi. Phú nói:

- Đồng chí Tý bị thương vào tay, bỏ mất khẩu súng bị kỷ luật cảnh cáo.

- Đồng chí Phải cũng bị cảnh cáo, tuy rằng do khách quan chứ không phải ý chí chủ quan. Ngừng một lúc Phú lại nói: Tuy thế, theo báo cáo của đồng chí Phải, đồng chí Chiến có nêu câu hỏi: "Sao không ở lại chiến đấu?" nên cậu được Chi ủy và chỉ huy đại đội khen ngợi.


Trên đường đi và lúc nghỉ Phú nói với tôi rất nhiều chuyện. Cũng xin nói về anh một chút. Trước anh là chiến sĩ thông tin Tiểu đoàn 17. Tuy đã hơn 20 tuổi rồi nhưng coi còn như trẻ con vì anh thuộc dạng sài đẹn, còi cọc. Mà đúng thôi, khi mới sinh ra chưa đầy một tuổi, ba má anh đã bị chết trong một lần chạy càn ở Quê Sơn. Anh được bà con đùm bọc, nuôi nấng. Dân vùng ấp chiến lược, giáp ranh nghèo túng chỉ ăn khoai, sắn, lấy chất thô cho no bụng, có mấy người to khỏe đâu. Anh là dạng ăn cơm cóp, bú chực thì còi là phải, khổ quá nên anh đi bộ đội sớm lắm, từ năm 1965-1966 gì đó. Ngày anh được gọi là bộ đội còn con nít. Đi theo chỉ vướng chân bộ đội chứ làm được trò trống gì. Theo đơn vị chiến đấu được ít ngày, họ gửi anh vào trường quân chính quân khu. Mãi năm 1968 anh mới được làm chiến sĩ thông tin ở D17. Anh làm liên lạc cho đại đội truyền đạt (thông tin chạy chân). Trước khi vào chiến dịch Nam Lào Phú mới được điều về đại đội trinh sát, ở Trung đội 3, do vậy tôi không biết anh. Phú vui tính, nói rất khó nghe, hình như cái lưỡi hơi bị to và dày, thì phải, cho nên khi nói hay bị anh em chọc ghẹo pha trò. Khi nói chuyện có nội dung nghiêm túc một chút, anh cứ một hai "đồng chí" nên anh em đặt cho biệt hiệu ”ông đồng chí". Sau hôm về đơn vị vài ngày, anh phải gặp tôi nói:

- Tớ và Tý là đảng viên bị chi bộ cảnh cáo, bọn mình không phàn nàn gì chỉ tự trách không quan tâm đến ý kiến của cậu, nếu cân nhắc một chút ở lại cùng phối hợp chiến đấu giữ chốt để tiếp tục làm nhiệm vụ mới đúng. Trường hợp không giữ được chốt thì rút cùng D15 mới phải. Thực ra lúc ấy mình không phải sợ mà quyết định rút đâu.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 23 Tháng Chín, 2021, 07:45:28 am
Đơn vị về K300 để củng cố, huấn luyện. Chiến dịch Nam Lào đã có những đồng chí ra đi mãi mãi, đó là các anh: Thu, Mười, É, Lan, Thể, May, Thành, Đan.

Anh Quý B trưởng B3 và anh Luận A phó A2 bị thương nặng phải ra Bắc điều trị, tôi và anh Viện bị thương nhẹ vẫn còn ở lại đơn vị. Anh Xuyên, anh Vũ, anh Dự, anh Vượng ra Bắc điều trị và học tập.

Tháng 5 năm 1971, đại đội được bổ sung 10 đồng chí là cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 19 về gồm các anh: Phan Đẳng Tứ, Lương Thanh Xương, Đỗ Xuân Xem, Lê Tiến Huỳnh, Nguyễn Gia Viện, Nguyễn Văn Đình, Huỳnh Văn Liêm, Kiều Văn Rĩ, Nguyễn Văn Chấn, Trần Văn Chiến. Đại đội có sự thay đổi cán bộ khá lớn.


Anh Nguyễn Đình Trụ - Đại đội trưởng; anh Phan Đăng Tứ - Chính trị viên; Trần Ngọc Pha - Trung đội phó.

B1 - anh Phan Văn Rị - Trung đội trưởng, Ngô Tấn Đê - Trung đội phó; B2 - anh Huỳnh Trung Khoa - Trung đội trưởng, Nguyễn Văn Phải - Trung đội phó; B3 - anh Nguyễn Văn Đổng - Trung đội trưởng, Lương Văn Tịnh - Trung đội phó.

Trung đội 1 các anh A trưởng là: Xương, Quân, Dũng.

Ở hậu cứ. Khoảng trung tuần tháng 5 năm 1971 đơn vị được lệnh lên đường đi chiến dịch. Một số anh em sốt rét, mới bị thương ở lại quản lý hậu cứ trong đó có tôi. Bộ phận ở lại do anh Đổng, trung đội trưởng Trung đội 3 phụ trách. Sau khi đơn vị hành quân được một tuần chúng tôi cũng chuyển đến nơi đóng quân mới. Nơi đóng quân của đại đội nằm bên bờ một con suối quanh năm có nước, cách đường mòn của trạm giao liên chỉ mấy phút đi bộ. Việc lấy gạo, thực phẩm rất gần, không xa xôi, qua sông như ở K300. Ở lại hậu cứ có các anh Trương Vũ Sáng, Nguyễn Văn Trường, Lê Như Tao thuộc Trung đội 3; B2 có anh Nguyễn Văn Vọng, Nguyễn Văn Thuần. Anh Đang tổ chức làm hậu cứ theo chỉ đạo của trên. Hàng ngày, chúng tôi đi vào rừng chọn gỗ để làm nhà, tre vầu để làm sạp (giường) nằm, bàn ghế để ăn cơm, uống nước. Một vài anh sửa lại những căn hầm bò cũ của một đơn vị đường dây nào đó để lại. Theo kế hoạch, chúng tôi lần lượt làm xong những căn nhà cho từng bộ phận. Từ nhà xê Bộ đến nhà của các tiểu đội, nhà của bộ phận nuôi quân và thông tin, tất cả là 12 căn nhà hầm bò, hầm chữ A và bàn ghế, sạp nằm ngủ. Công việc làm hậu cứ đẵn gỗ, đào đất, cõng gạo,... đối với những người ốm yếu này quả thật vất vả vô cùng. Tôi thấy rõ tình trạng ấy qua anh Sáng. Anh Trương Vũ Sáng quê ở Nam Hà, nhập ngũ năm 1968. Do bị sốt nhiều nên gầy guộc, xanh bủng, đi đứng nói năng đều chậm chạp. Những ngày làm hậu cứ đào hầm, cõng gạo, việc gì anh cũng phải cố gắng hết sức. Trong các lần cõng gạo anh đều mang bằng mọi người. Tuy nhiên bao giờ cũng đến đích chậm nhất. Anh kể chuyện gia đình:

- Vợ mình là giáo viên cấp II, mới rồi nhận được thư cô ấy viết "Anh ơi! Ngày anh ra đi con gái chúng mình còn ẵm ngửa, bây giờ nó đã lớn và hóm lắm, hàng ngày vẫn bồng chiếc gối giả làm em...". Anh nói rồi cười, cái cười chỉ nhìn mới thấy, mọi người cũng cười theo; song tôi thấy cay nơi khóe mắt, nhìn anh thương cảm vô cùng. Có lẽ chỉ khi thực sự thông cảm mới hiểu được cái nghị lực vô cùng to lớn trong anh để vượt lên tất cả, để chiến thắng, để đi cùng đồng đội trong cuộc chiến ác liệt này.


Tôi một lần biết đến sốt rét, thế mà khi leo dốc tai đánh trống thùng thùng, mắt hoa, chân cuồng, xuống dốc thì run rẩy chỉ chực khuỵu xuống, ăn cái gì cũng đắng ngăn ngắt. Vậy các anh như anh Sáng sốt như thế, thân thể, da dẻ thế kia mà làm sao không mệt mỏi được. Những ngày ở hậu cứ, anh Sáng hay nói chuyện với tôi, hỏi về gia đình, quê hương, việc học hành, việc đi bộ đội... mãi sau này khi anh hỏi về "bản chất giai cấp công nhân" tôi mới hiểu chi bộ đã phân công anh giúp đỡ tôi phấn đấu để trở thành đảng viên. Trong những ngày ở hậu cứ, thỉnh thoảng tôi lại lên cơn sốt, lính mới sốt không ăn uống được gì, ngửi thấy mùi thịt hộp là nôn thốc nôn tháo ra cái thứ nước xanh xanh vàng vàng, miệng đắng nghét như ngậm viên ký ninh. Tuy nhiên, trong số anh em ở cứ tôi vẫn là người còn khỏe hơn nên cũng không ngại việc gì. Trong năm 1971, đơn vị bình xét khen thưởng cũng chẳng rõ vì sao tôi vẫn được đơn vị bình bầu bằng khen. Tôi cảm giác có một sự chiếu cố nào đó thì phải, vì lẽ đầu năm đi chiến dịch tổ đài không hoàn thành nhiệm vụ, bản thân bị thương ngay từ đầu chiến dịch phải vào bệnh viện nằm cho đến khi chiến dịch kết thúc. Còn khi đơn vị chuẩn bị đi chiến dịch Tây Lào thì lăn ra sốt phải ở nhà làm hậu cứ, nghĩ vậy thấy áy náy vô cùng.


Tháng 8 năm 1971 chiến dịch Tây Lào đã kết thúc, anh em đi chiến đấu đã trở về. Đơn vị tổ chức bình báo công rút kinh nghiệm. Tôi được nghe các báo cáo, biết đại đội phục vụ chiến đấu trên hai hướng: hướng thứ nhất tác chiến trên cao nguyên Pô-lô-ven giải phóng thị trấn Bắc Goòng mở rộng vùng giải phóng Lào đến sát thị xã Pắc Xế bên bờ sông Mê Kông. Hướng thứ hai giải phóng Mường Pha-lan, Đồng Hến. Đối tượng tác chiến là lực lượng Phu-mi. Chiến dịch đại đội hy sinh ba đồng chí đó là các anh Chấn, Thành và Tỉnh. Các tổ công tác đều hoàn thành nhiệm vụ. Các anh đi chiến dịch kể:

- Đánh bọn ngụy Lào rất khó tiêu diệt, thấy ta mạnh chúng bỏ chạy ngay. Khi rút thường gài các loại mìn úp, mìn lá. Bộ đội ta truy kích đạp mìn bị mất nửa bàn chân, cứ một thương binh là mất luôn hai người cáng thương về sau, nên lực lượng truy kích nhanh chóng bị giảm sút. Các anh còn nói dân tộc Lào ít người, nên không muốn có sát thương (có lẽ hầu hết dân đi tu theo đạo Phật, không muốn sát sinh thì đúng hơn). Quân đội Phumi cấp trên cho binh sĩ có quyền bỏ chạy khi yếu thế để bảo toàn lực lượng. Sau khi lánh ngũ nếu tự tìm về đơn vị vẫn được dung nạp và được hưởng mọi quyền lợi. Nhân dân vùng tranh chấp Lào có thái độ bao dung đến nỗi gần như không có sự phân biệt rõ ràng lắm giữa bộ đội Pa-thét với Phu-mi và Tahánnưa (Tahángàyưa là bộ đội miền Bắc Việt Nam). Có một bà mẹ nói: "Con nào mẹ cũng thương hết, các con đừng giết nhau". Đối với bộ đội Việt Nam, các "Phòme", "ảiưởi, nọng cũng có thái độ dung hòa quý trọng, thương cảm vì phải xa nhà, phải thiếu thốn.


Sau bình báo công, đơn vị tiếp tục củng cố doanh trại và làm công tác chuẩn bị huấn luyện, đơn vị tập trung khá đông đủ. Buổi trưa hôm đó, đơn vị đang chuẩn bị ăn trưa thì B-52 địch ném bom xuống khu vực doanh trại. Vệt bom B-52 trúng vào khu vực B3 và nhà bếp theo bên phải con suối về phía đường giao liên. Anh Đổng hy sinh vì khi đó đang từ nhà bếp đi về hầm của A9. Khu vực bếp ăn bị nặng nhất. Bom rơi trúng hầm ngủ của anh nuôi bay hết đồ vật cá nhân. Các anh Toan, Tăng, Bờ đang chia cơm ở bếp đều bị thương, chỉ có cậu Thực ra suối rửa chân là không việc gì. Cơm trưa hôm ấy bom Mỹ xơi hết. Đại đội cử bộ phận mai táng anh Đổng, còn toàn bộ hành quân di chuyển về nơi đóng quân mới. Thế là công việc làm hậu cứ lại bắt đầu. Lần này lực lượng đông đảo nên chưa đến một tuần lễ việc nhà cửa, bếp núc đã xong. Đơn vị bắt tay vào huấn luyện.


Đầu tháng 11 năm 1971 anh Nguyễn Đức Mạnh được bổ sung về làm đại đội phó, anh Trần Văn Minh trung đội trưởng B3. Hai anh trước đều là chiến sĩ của sư đoàn, đều quê ở Quảng Ngãi, tốt nghiệp Trường Sĩ quan lục quân 1 vừa trở lại chiến trường. Các anh được giao huấn luyện các khoa mục, cách đánh đặc công: mật tập, cường tập; thục luyện võ thuật, đánh bắt tù binh; bắn súng AK tao ngộ chiến. Đợt huấn luyện này do anh Mạnh trực tiếp tổ chức và chỉ đạo. Suốt mấy tháng huấn luyện có báo động chiến đấu tại chỗ theo phương án, báo động hành quân di chuyển... Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được tiến hành tích cực, chấm điểm thi đua hàng ngày. Toàn đơn vị sôi nổi hẳn lên. Anh em bảo anh Mạnh làm theo kiểu "chính quy". Mấy cậu chuyên đi đặt biệt hiệu cho người, gán cho anh Mạnh là "ông chính quy".

Trong thời gian này tôi được anh Sáng và anh Xem giúp đỡ có nhận xét (nhận xét của chi bộ chi ủy C-B-A):

- Kết quả huấn luyện loại giỏi.

- Có trách nhiệm trong mọi công việc.

- Khi giao việc chỉ huy yên tâm.

- Có hiểu biết về Đảng sâu sắc.

- Cần chú ý thân mật hơn nữa với chiến sĩ mới.


Chả là các cậu Giới, Thuần, Liên mới được bổ sang vào thấy "anh Chiến ít nói cứ lụi hụi làm, thỉnh thoảng mới nói, nên bọn em thấy ngại". Các anh hướng dẫn tôi làm lý lịch và viết đơn ’'xin gia nhập Đảng nhân dân cách mạng" lúc ấy là tháng 12 năm 1971.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Chín, 2021, 08:11:23 pm
4

Ăn Tết trên đường hành quân đi chiến dịch.

Sắp đến Tết Nguyên đán, năm con lợn chuyển sang năm con chuột. Đúng ngày 25 tháng Chạp đơn vị lại được lệnh hành quân. Chẳng rõ tình hình cụ thể nhưng cũng được biết hướng hành quân sẽ đi về vùng ngã ba biên giới Việt - Miên - Lào. Đội hình hành quân cả sư đoàn, Đại đội trinh sát đi đầu.


Lần hành quân này mang rất nặng: tiêu chuẩn hai tháng gạo, thực phẩm, toàn bộ súng đạn, cuốc xẻng tư trang... ước tính xấp xỉ 40kg. Đường hành quân dài và tương đối khẩn trương. Những ngày đầu tuy còn khỏe nhưng lương thực, thực phẩm chưa bị tiêu hao, đeo nặng quá ai cũng mệt. Đại đội chỉ đạo cho dùng trước gạo của những anh em ngày đầu "bết quá". Đường hành quân sao mà dốc thế, có chỗ không phải đường mòn giao liên, con đường mới khai phá. Nhiều đoạn do địa hình không cho phép dừng chân phải đi cố, có những anh em đã phát khóc vì mệt quá rồi mà đại đội trưởng chưa cho nghỉ, kêu nhiều nhất là chàng Viện. Sau ba bốn ngày hành quân, cái mệt mỏi quen đi cũng đến lúc chúng tôi đến bờ sông Nậm Bạc. Đó là một bãi khách khá bằng phẳng. Chúng tôi đón giao thừa tại đây. Quả thật, từ hôm hành quân đến nay không ai nghĩ và nói gì về Tết. Chiều 30 Tết đơn vị vẫn nấu ăn như mọi ngày nhưng trong bữa Tất niên ấy có một chi tiết đặc biệt, tôi nhớ mãi. Số là "ông già Toan" đang cẩn thận chăm chút cho nồi canh chua cá bứa có đến hai hộp thịt loại 1kg. Nồi canh này xem ra là món chủ lực "quá tiêu chuẩn" nhằm cải thiện cho cả một đại đội cơ mà. Khi anh Toan đang khuấy chiếc đũa để cho các tảng thịt trong nồi vỡ ra thì ’’thằng cu Lập" chẳng biết nô đùa với ai vừa cười vừa chạy dưới sông lên chắc mắt nhắm tít lại vấp một cái chí tử, hắn lộn tùng phèo mấy vòng, nếu vậy thì mặc xác hắn chẳng kể làm gì, đằng này cái dép cao su lốp ô tô từ chân hắn bay đến rơi tõm vào nồi canh đang sôi sùng sục của anh Toan mới chết chứ. Thằng cu Lập ngừng cười tựa như bị ai cắt cổ. Mặt nó đực ra như ngỗng ỉa, chẳng mở được miệng. Anh Toan thì cáu lắm nhưng rất hoang mang không biết xử trí thế nào? Chắc anh đang lo, bỏ nồi canh này thì nguy hiểm, hà lạm tiêu chuẩn anh em mà ăn thì mất vệ sinh. Tôi vội cầm đôi đũa từ tay anh Toan vót ngay chiếc dép trong nồi canh ra rồi khẽ nói với anh Toan:

- Dép của nó cũng sạch thôi, chắc chỉ bị sạn chút xíu anh ạ, nếu làm thế nào để không có sạn thì vẫn ăn được.

Có lẽ khỏi lo bị ai tố cáo về việc "canh dép” nên anh Toan mới linh hoạt trở lại, anh dọa cu Lập:

- Đại đội mà biết thì bỏ tù mày đấy, cút đi, ranh con ạ.

Bữa cơm giao thừa có "canh dép" đó chúng tôi ăn ngon lành. Mà cũng tài, chẳng thấy một hạt sạn nào? Sáng mùng một Tết đơn vị vẫn hành quân, đi qua nhiều cánh rừng của đất bạn Lào, có đoạn đường cả ngày không gặp một dòng sông hay khe suối, không gặp dân hoặc bộ đội đường dây 559. Sau khi vượt sông Xê Ka Máng chúng tôi đi về địa phận Tây Nguyên của Tổ quốc. Dừng chân hai ngày, có lẽ là một binh trạm nào đấy, trên vách ta luy sừng sững do bộ đội ta vạt núi làm đường tạo thành khắc vào những khẩu hiệu màu trắng.

"Trường Sơn chuyển mình, Pô Cô dậy sóng”.
"Quyết tâm đánh thắng giặc Mỷ xâm lược”.
"Giải phóng Tây Nguyên".

Chúng tôi nhận lương thực, thực phẩm bổ sung. Gạo Cam-pu-chia rất ít, phải nhận đậu nành thay gạo. Thực phẩm có cá hộp và thuốc rê. Chiến trường B3 nổi tiếng là thiếu lương thực, vũ khí vì xa miên Bắc, đồng bằng Trung Bộ, Nam Bộ chi viện rất khó. Chính vì vậy, chúng tôi phải mang vác đến hai tháng lương thực là phải rồi. Rừng núi Tây Nguyên trùng điệp, núi đồi dân địa phương gọi là Ngọc (Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tụ... Sông gọi là "Đắk" (Đắk Si, Đắk Bà Nà...). Núi đồi san sát như bát úp, rất nhiều ngọn, tạo ra nhiều khe khung và dốc. Đất ẩm ướt, vắt muỗi nhiều vô kể.


Các đơn vị bộ đội Tây Nguyên đói kinh niên phải tự túc lương thực để chiến đấu. Khẩu phần ăn chính là sắn, chuối, rau rừng, còn gạo và thực phẩm khác là phụ. Việc lấy gạo phải đi xuống đồng bằng ven biển Quảng Ngãi xa và qua vùng địch kiểm soát, vất vả và hy sinh. Đi hàng tháng trời rưỡi lấy được gạo muối. Dù có cõng 40kg đi nữa, nếu trót lọt thì trừ ăn chỉ còn lại vài chục ký, nếu không trót lọt thì có khi chẳng còn hạt nào mang về đơn vị. Có lần, có đoạn bị phục kích tổn thất nặng nề. Do vậy ở Tây Nguyên có phong trào nương sắn cách mạng, chính nhờ nó đã góp phần nuôi quân đánh thắng. Nhận thực phẩm xong, chúng tôi hành quân về nơi tập kết, chuẩn bị bước vào chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân 1972.


Nơi dừng chân của đại đội trinh sát là một quả đồi trong rừng già, bếp ăn được đặt gần một khe núi có nước chảy. Chiến sĩ đào hầm chữ A để trú ẩn khi có phi pháo, không làm hầm bò như ở hậu cứ. Đại đội quy định không đẵn cây, bẻ cành, đại tiện hố mèo, nấu không khói, nói không tiếng. Tuy nhiên, sau 10 ngày dừng chân chúng tôi bắt đầu đói cơm, nhạt muối. Các tổ đi công tác đầu tiên còn được anh Thái quản lý cấp cho mấy lon gạo, các tổ đi sau này thì không còn gạo nữa, anh em phải dựa vào nương sắn cách mạng và khai thác tài nguyên rừng.


Chúng tôi bắt đầu bị cái đói hành hạ, đói lương thực, đói muối, do đói sinh ra thèm đủ thứ, lúc đó mới hiểu thêm một ít về câu nói của ông bà: "Đói thì thèm thịt, thèm xôi. Đã no cơm tẻ thì thôi mọi bề". Đói làm suy nhược cơ thể và tinh thần của con người, để khắc phục nó quả gian khổ vô cùng.


Ở đại đội, mỗi hôm anh Mạnh cử bốn chiến sĩ đi khai thác lương thực, chủ yếu là "chặt cây đót, lấy đọt mà ăn”. Cây đót, loại cây thân to vỏ cứng như cây dừa, cao 4 đến 5 mét, thường mọc cheo leo bên sườn các vách khe núi. Có lẽ càng hiểm hóc thì dễ tìm thấy nó. Các chiến sĩ ta gầy yếu, tay chân run lẩy bẩy, tìm được một cây hai người thay nhau chặt cả buổi chỉ đổ được một cây là cùng. Khi chặt đứt gần hết cả thân nó mới chịu đổ. Khi đổ, cây lao từ trên dốc xuống tận dưới khe sâu. Lính ta bò xuống đó ngồi lên thân cây đót chặt cho đứt rời ra, nếu ước lượng chính xác thì chặt một lần đúng tầm có đọt để lột vỏ cứng lấy đọt ra. Nếu không chính xác chặt sâu quá chưa đến đọt phải chặt lại, nếu chặt cao lên quá thì lại không lấy được phần dưới của đọt sẽ lãng phí, được ít rồi cũng phải chặt lại lần nữa. Mỗi cây đót loại lớn thì cũng được 3 đến 4kg đọt. Ăn sống cho đỡ đói thì nhớt và ngứa. Tuy có hơi ngọt một tý, xào chín ngọt như su hào. Ngày nào chúng tôi cũng được đánh chén món đót này.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Chín, 2021, 08:12:34 pm
Ăn sắn và đót, gạo, muối gần như không có, đường không một hạt, cơ thể đã thiếu dinh dưỡng nay càng suy sụp nhanh hơn. Mấy đứa chúng tôi có lúc thèm của ngọt quá bèn lấy những viên thuốc sốt bọc đường của Mỹ ngậm để thưởng thức cái vị ngọt đến khi thấy đắng là nuốt chửng viên thuốc. Ấy thế mà cũng phần nào thỏa mãn được nhu cầu về đường. Gần nơi đóng quân, chúng tôi phát hiện ra rẫy cà phê chín trông nó đỏ, đen, xanh như quả vối thế là rủ nhau tuốt ăn, ăn vừa ngọt, vừa chát, những lúc đó hình như cái gì ăn không chết người đều ngon. Tổ đi lập đài quan sát, anh Phong là tổ trưởng, tổ viên có Đặng Văn Rít, Lê Như Tao và tôi là trinh sát, Cõi và Viền là hai chiến sĩ thông tin 2 oát. Tổ đài phục vụ trực tiếp cho chỉ huy sư đoàn nên có đường dây điện thoại, vị trí đài là một mỏm đồi trên một dãy núi cây cối thưa thớt, bên dưới là một cái rẫy cũ. Từ đây nhìn sang phía đông là quận lỵ Đắk Tô, quốc lộ 14 ở phía nam chạy từ Tân Cảnh lên, xe các loại đang hoạt động bình thường, một số ấp hai bên đường và đi sâu vào trong rừng có dân sinh sống. Hầu hết nhà cửa nhỏ thấp, mái lợp bằng tôn trắng lốp. Thỉnh thoảng có những đám rừng già bị dân đốn đi để làm rẫy. Những rẫy mới được tỉa bắp, bầu, bí, mầm non chưa phủ kín mặt đất đỏ. Đài chúng tôi có nhiệm vụ theo dõi lịch hoạt động khu vực từ Tân Cảnh lên Đắk Tô. Theo dõi trục đường số 14 khu vực Ngọc Tụ và các cao điểm xung quanh quận lỵ Đắk Tô. Nói chung ngồi đài như đi xem phong cảnh, không có gì vất vả trừ đói. Tổ có anh Tao là người Thanh Hóa, vào Nam cuối năm 1969, anh gầy yếu, lúc nào cũng đờ đẫn chậm chạp. Tính anh hiền lành, chân thật, cái chân thật đến mức "quá" nên nhiều lúc cũng có điều vui hoặc phiền toái. Thấy anh da vàng, có một vài anh nói "Chắc mi bị dập mật rồi, phải đi điều trị ở bệnh viện ngay không thì chết đấy!". Thế mà anh tưởng thật nằn nì với anh Tuế quân y sĩ muốn đi bệnh viện điều trị. Anh Tuế phải tốn nhiều công sức để xóa đi cái nỗi lo "dập mật" của Tao. Một hôm, máy điện thoại chuông reo, Tao ngồi gần đấy nhấc ống nghe nói vào ống phôn:

- Tao đây! Tao! Tao...

Thấy anh cứ hét to dần, tôi cầm lấy ống nghe từ tay anh, thấy đầu dây đằng kia, một thủ trưởng nào đó đang hét toáng lên: Lính tráng gì mà hỗn quá, cứ xưng tao hoài với mình. Mình hét to nó còn hét to hơn cứ "Tao! Tao" mãi, đồng chí xem ai phải chấn chỉnh ngay. Tôi đã hiểu cái lý do phát cáu của anh bộ đội, tôi giải thích: "Thưa thủ trưởng, đồng chí vừa nghe máy đó tên là "Tao đấy ạ!" đồng chí là Lê Như Tao, chiến sĩ của tổ đài"... Đầu dây bên kia có tiếng à à rồi yêu cầu gặp tổ trưởng. Anh Phong đến nghe máy. Tôi quay sang hỏi anh Tao:

- Sao anh hét vào máy to thế?

- Mình đã xưng tên nhưng ông ấy cứ hỏi "ai" mãi, khi thấy ông nói to tớ tưởng mình nói nhỏ ông không nghe rõ, nên phải hét lên như thế.

Tôi cười: Khổ quá, thủ trưởng đâu có biết anh tên là Tao, do vậy hiểu lầm rằng anh hỗn láo dám xưng "tao” với cấp trên. Lần sau, khi nói điện thoại anh phải nói có đầu, có đuôi rằng: Thưa đồng chí tôi tên là Lê Như Tao thì mới tránh được hiểu lầm. Anh gật đầu vẻ tâm đắc. Sau nghe chuyện này, anh em pha trò diễn lại cuộc đối thoại nói trên và đặt cho anh Tao cái biệt hiệu "người hỗn láo". Tao ốm yếu, chậm chạp như vậy, nhưng đã sống, chiến đấu cùng đồng đội cho đến khi tôi ra Bắc để đi học (tháng 3 năm 1975) anh vẫn là chiến sĩ đại đội trinh sát sư đoàn.


Đối diện với tổ đài chúng tôi, ở phía nam - tây nam quận Đắk Tô là tổ đài của anh Phải. Đài anh Phải phụ trách đặt ngay trên Ngọc Tụ, một dãy núi địch thường xuyên đánh phá bằng phi pháo rất ác liệt. Ngoài việc quan sát, tổ đài này còn phải bám, đánh bọn biệt kích thám báo làm nhiệm vụ an ninh cho các điểm tập kết, các đơn vị bộ binh của sư đoàn. Bên cạnh một số tổ đài ở các khu vực bắc - đông - tây quận Đắk Tô, đại đội còn có nhiều toán, tổ trinh sát bám nắm, điều tra các căn cứ địch phục vụ cho sư đoàn chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu và phục vụ chiến đấu cho các trung đoàn. Sau 10 ngày ngồi đài quan sát tôi được đi công tác, tổ công tác có 8 người do anh Quân làm tổ trưởng. Tôi nhớ một dãy tên người liên vần: Chiến, Trường, Quân, Minh, Tao và các anh Khoát, Triện, Sáng. Nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường trên giao cho tổ trưởng, tổ viên không được biết cụ thể. Chúng tôi được lệnh mang toàn bộ tư trang hành lý, lương thực. Nói thế thôi chứ có gì mà hành lý với lương thực. Anh Thái "Thái điếc", "ông vấn đề" quản lý đơn vị đong cho anh Quân vài lon gạo, ít muối thế là cả tổ lên đường. Chúng tôi hành quân theo những sườn núi mà hầu như không có người đi, nhiều cánh rừng xuyên sơn vòng về phía đông quận Đắk Tô rồi nhằm hướng nam đi tiếp. Trên đường đi anh Quân quy định đủ thứ:

- Phải đi cách nhau 5 mét, phải quan sát sẵn sàng chiến đấu, đề phòng biệt kích thám báo, tránh gặp dân...

Đêm dừng chân chúng tôi không chặt cây, bẻ cành. Mỗi người được anh Quân chỉ nằm một chỗ không nói chuyện với nhau được. Rừng ở đây sao mà lắm vắt thế, vắt khủng khiếp. Loại vắt xanh thường nằm trên các cành cây lúp xúp, thấy hơi người nó cất hầu hết thân phía trước lên, vươn ra, sẵn sàng búng bám vào người, loại này chích vào người thì biết ngay, đau nhói, khi rứt hắn ra thì máu cứ chảy mãi không cầm lại được. Còn loại vắt nâu, đen bò dưới đất, trên lá cây mục, chúng đo nhoáng nhoàng trên mặt đất theo chân người, cứ từng đàn coi phát kinh, loại này hút máu êm ngọt, làm cho người bị hút máu không hề biết. Chỉ đến khi thấy lành lạnh, ngứa ngứa sờ sò vào đã thấy con vắt tròn ủng đã no nê không còn cử động được nữa, nó rời ra khỏi cơ thể con người một cách dễ dàng, vết cắn cũng cứ tiếp tục chảy máu. Để chống muỗi và vắt, chúng tôi phải xoa dầu vắt vào mặt, tay, chân. Loại dầu này vắt kinh không dám tiếp xúc. Do vắt nhiều như thế chúng tôi đành phải treo võng lên mà nằm, súng ống, ba lô cũng đưa vào trong võng luôn. Nằm như thế rất không an toàn vì nếu có bom pháo thì dễ bị sát thương hơn nằm dưới mặt đất.


Khi nấu ăn, chúng tôi dùng hai chiếc ăng gô nấu cơm, hai chiếc khác nấu canh, và nấu mắm nếu có cá... hay gì đó. Thứ mắm chủ yếu là muối ấy cực kỳ quan trọng, một vài ăng gô khác nấu nước uống. 8 người ăn hai ăng gô Trung Quốc cơm, cộng với rau, măng hay củ sắn, quả chuối thì cũng tạm yên cái bụng. Khi hành quân phải xóa hết dấu vết, ngụy trang lại, cũng có một vài anh phàn nàn rằng: "Anh Quân quan trọng hóa vấn đề”. Điểm dừng chân của tổ ở một quả đồi trong rừng già nằm ở phía đông Tân Cảnh. Tôi được anh Quân phân công ở lại lập đài quan sát địch khu vực Tân Cảnh, tổ đài do anh Khoát chỉ huy, còn anh Quân dẫn các anh Sáng, Triện, Trường và Minh đi công tác vào buổi chiều ngày hôm đó. Tôi cũng hiểu được các anh sẽ đột nhập vào Tân Cảnh. Đó là căn cứ đóng quân của sư đoàn 22 ngụy trong đó có sở chỉ huy của sư đoàn.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Chín, 2021, 08:15:24 pm
Đúng 9 giờ ngày 24 tháng 4 năm 1972 chúng tôi được thông báo quân ta đã giải phóng hoàn toàn quận lỵ Đắk Tô và sau đó mấy ngày thì căn cứ Tân Cảnh cũng bị ta tấn công và làm chủ. Như vậy sư đoàn 22 ngụy ở Tây Nguyên đã bị tiêu diệt. Ta bắt nhiều tù hàng binh, thu toàn bộ vũ khí trang bị của địch. Sau một đêm Tân Cảnh được giải phóng, tổ trinh sát của anh Hòe hoàn thành công tác đảm bảo cho E1 đánh Tân Cảnh cũng nhập về với tổ chúng tôi. Anh Hòe tổ chức lực lượng vào Tân Cảnh để thu thập tài liệu và chiến lợi phẩm. Căn cứ Tân Cảnh hầu hết nhà cửa, hầm hố chiến đấu của địch bị phá hủy. Lần đầu tiên tôi thấy sư đoàn sử dụng tên lửa B-72 diệt tăng địch rất hiệu quả. Những chiếc xe tăng bị cháy, những xác lính ngụy chưa được chôn nằm sõng soài dưới nắng đã căng sình trong bộ đồ lính, có mùi hôi, bu đầy ruồi nhặng. Cả khu vực im ắng đến ghê người. Chúng tôi len lỏi trong đổ nát, khu chỉ huy đã được lục soát tung lên rồi. Anh Hòe gom mấy mảnh bản đồ lồng trong giấy bóng kính còn đánh dấu chi chít các chấm xanh, đỏ, đen và mũi tên. Anh bỏ vào trong túi đựng đồ treo ở thắt lưng rồi dẫn chúng tôi sang khu kho hậu cần. Chúng tôi nhặt một số hộp sữa còn rơi lại, các bao gạo sấy. Loại gạo đóng sẵn trong các túi nilông có chỉ dẫn cách sử dụng rất tiện lợi, nếu đổ nước nóng vào sẽ có cơm nóng, nước nguội thành cơm nguội, ăn một túi ấy là no. Chúng tôi kiếm được một vài thùng đồ hộp cá, thịt và một ít lon bia, một số thùng các tông trong đựng khẩu phần ăn đủ cho một tên lính Mỹ, chắc nay để cho bọn biệt kích đây; trong hộp gồm có: hai hộp thịt xay loại 100g, hai hộp bánh quy ngọt và mặn khoảng 200g, hai hộp trái cây, hai hộp canh phở, hai cái tăm một đầu nhọn, một đầu bẹt, giấy lau miệng, giấy đi đại tiện và bao thuốc Salem loại 4 điếu, các túi nhỏ cà phê, sữa và đường trắng, một con ba ba cao su để đựng nước chứa khoảng 6 lít.


Hôm đó chúng tôi ăn sữa ông Thọ thỏa thích. Tôi lần đầu tiên được ăn sữa ông Thọ, mút một lúc hết hai hộp. Ăn sữa đặc vô địch là anh Hòe, chỉ một loáng anh đã hút hết 4 hộp mà không thấy nhức đầu tý nào? Anh nhìn chúng tôi ăn sữa, cái miệng rộng của anh nhành ra cười vẻ đắc chí, hai núm đồng tiền kiểu dấu phẩy của anh sâu hoắm vào trong khuôn mặt hơi to bản một chút, trông rất khôi hài. Cái cười khùng khục của anh như muốn nói "Thỏa mãn bần cố nhé!". Nói về cái khoản ăn của Hòe thì khỏi phải nói, các anh cựu binh kể rằng một lần đi công tác ở Quảng Ngãi, lính ta thèm của ngọt nhưng tiền không có, khi ngồi uống nước ở quán. Hòe tặc lưõi chê: "Tảng đường ở đây bé tẹo, cỡ này tớ phải chén hết 4 cặp". Chị bán hàng vui vẻ thách luôn:

- Nếu anh ăn hết xin biếu, không lấy tiền. Anh Hòe nhai đường phên rau ráu.

Đến tảng thứ ba thì chị chủ quán cười nói:

- Em thua! Anh không phải xài nữa, em xin tặng nốt số đường còn lại.

Chắc là chị chàng sợ anh Hòe cố, nhỡ chết lăn ra đó thì phải vạ nên thua non vậy thôi, chứ bố ai ăn được 8 tảng đường. Còn tài ăn thịt mỡ của Hòe ai cũng phải gọi là siêu hạng. Trong những ngày liên hoan Tết năm 1971 ở K300 miệng anh Hòe cứ bóng nhẫy lên. Ai cũng trêu đùa nói anh là người: "Có tâm hồn ăn uống" nhưng anh chỉ nhành miệng ra cười, cấm tự ái bao giờ. Có lẽ vậy mà anh rất khỏe mạnh, chẳng thấy đau ốm gì. Tối đó, hai tổ liên hoan mừng sự hội ngộ sau chiến thắng rất to lớn vừa qua. Anh Khoát nói với tôi là anh Sáng đã hy sinh do một quả pháo vu vơ nổ gặn chỗ mấy anh em treo võng. Nghe tiếng pháo rít, anh Sáng có lao vào hầm nhưng không kịp. Anh bị trúng mảnh hy sinh. Anh mất trước hôm giải phóng Tân Cảnh vài ngày, đó là ngày 20 tháng 4 năm 1972.    Tổ chúng tôi được tăng cường thêm một số đồng chí nữa gồm: Viện, Điển, Thuần "còm”, Lập, Giới. Nhiệm vụ của tổ là bám nắm địch, đảm bảo an ninh đường hành quân cho sư đoàn chuẩn bị vượt sông Pô Cô tiến về thị xã Kon Tum. Cùng làm nhiệm vụ với chúng tôi có một trung đội đặc công của T-10. Nhóm T-10 chủ yếu chốt giữ khu vực gần bến vượt. Chúng tôi khu trú trên một dãy núi phía tây sông Pô Cô sau lưng các tổ chốt của T-10. Ở đây rừng già xen lẫn rừng thưa lau lách, tre trúc, thỉnh thoảng có những bãi cỏ tranh nằm ven những khe suối nhỏ. Hàng ngày, anh Quân phân công nhiều tổ đi lùng sục hai bên con đường mòn mà sư đoàn sẽ hành quân qua. Trước hai đêm sư đoàn hành quân, có một chiến sĩ của T-10 bị mất tích. Tổ trinh sát của chúng tôi cùng anh em T-10 đi tìm kiếm, lúc đầu cứ nghĩ là có thể đồng chí bị địch bắt cóc nhưng đến mờ sáng thấy có dấu chân cọp thì chúng tôi nghĩ có thể đồng chí bị cọp vồ. Quả nhiên, chúng tôi tìm thấy xác đồng chí này bị giấu trong bụi rậm. Con cọp đã ăn một phần mông và đùi của đồng chí. Chúng tôi mai táng người đồng chí xấu số rồi lại tiếp tục công việc của mình. Không còn thời gian để phục kích tiêu diệt con cọp dữ được nữa. Ngay đêm đầu hành quân, đội hình sư đoàn bị pháo bắn, đoạn dừng lại để chuẩn bị vượt sông, cách các tổ chốt của T- 10 vài trăm mét. Anh Quân dẫn vài đồng chí ra nắm tình hình, thấy không ai bị thương vong. Sáng sớm hôm sau, anh Quân dẫn một tổ, anh Khoát một tổ đi lùng sục. Theo anh Quân thì có biệt kích đột nhập vào khu vực đường hành quân khoảng giữa các tổ chốt T-10 và nơi tập kết của trinh sát. Anh Quân dặn tôi ở lại hậu cứ, phải chú ý sẵn sàng tiêu diệt bọn biệt kích nếu chúng đi qua đây. Quãng 10 giờ thấy một chiếc trực thăng lượn quanh khu vực sau đó hạ xuống một cái rẫy cũ phía đông bắc chỗ chúng tôi chốt. Tôi không nhìn được máy bay khi nó hạ xuống quá thấp bị khuất bởi cây cối rậm rạp. Tôi phụ trách tổ vượt sang bờ bên kia sông Pô Cô. Đoạn này khá rộng. Tuy không phải là mùa lũ nhưng nước chảy rất xiết, vượt sông bằng đò, không lội bộ được. Tôi ở bến này đến ngày thứ hai, quãng 11 giờ Thuần "còm" dẫn một người béo lùn, đen bóng bước vào lán. Tôi nhận ra ngay đó là Trung, người bạn học "tẩm ngẩm tầm ngầm" tốt bụng đã cùng tôi vui chơi, học tập và lao động ở quê nhà suốt từ vỡ lòng đến lớp 6. Trung lao động giỏi, cắt cỏ nhanh, bao giờ cũng đầy gánh trước rồi cắt hộ tôi đến khi đủ gánh để hai đứa cùng về. Hai đứa cùng tổ hợp tác xã, khi đi nhổ mạ tôi chỉ làm bằng 2 phần 3 Trung là cùng. Còn gánh phân, cuốc ruộng, đắp bờ vùng bờ thửa thì mấy đứa bạn bọn tôi không ai sánh được với Trung. Là bạn học, chúng tôi hay đánh cờ tướng. Tôi thua là chủ yếu, ấy thế mà có vẻ hắn không thấy chán bao giờ. Đặc biệt không khi nào có ý định chấp quân với tôi. Trung vào Nam, giữa năm 1967 có gửi cho tôi một lá thư, rồi bặt tin từ sau đó. Trung cười khi nhìn tôi vẫn kiểu cười không thành tiếng như xưa. Hai đứa tôi cùng ít lời nên cuộc gặp bất ngờ này có vẻ tẻ nhạt quá, hình như không biết bắt đầu từ chuyện gì? Mãi sau Trung nói:

- Mình ở T-10, ở nhà thế nào?

Cái câu hỏi hắn nêu ra khái lược quá. Tôi đáp:

- Thầy mẹ và bu cậu vẫn khỏe (bố Trung hai vợ).

Hắn gật gật cái đầu rồi hỏi:

- Đi bao giờ?


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Chín, 2021, 08:16:32 pm
Tôi hiểu hắn muốn hỏi tôi vào chiến trường bao giờ, tôi bảo:

- Tớ đi tháng 4, vào sư đoàn 11 năm 70.

- Biết cậu ở đại đội ấy từ lâu rồi - Vừa nói Trung vừa đi ra khỏi lán. Tôi nắm tay Trung, hai đứa đi ra đến đường mòn, không nói thêm câu nào nữa. Tôi nhìn Trung nhập vào tốp bộ đội đang hối hả hành quân. Tôi tần ngần nhìn theo bạn và cũng không thể ngờ được đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Mãi đến tháng 9 năm 1972, trong lần chuẩn bị chiến trường ở quận Mộ Đức anh Xẻ đại đội phó đơn vị Trung tìm gặp tôi báo tin: Vũ Tuyết Trung đã hy sinh ở thị xã Kon Tum tháng 6 năm 1972, khi đơn vị làm nhiệm vụ chốt giữ đánh xe tăng địch tái chiếm biệt khu 24. Anh Xẻ nói: Trung có kể chuyện hồi đi học có yêu cô Mền là bạn người cùng làng, quan hệ hai người rất bí mật, hai gia đình và bè bạn không ai biết. Tôi chợt nghĩ, có thể hôm gặp nhau ở sông Pô Cô, Trung muốn hỏi thăm tình hình Mền chăng? Mền là em gái họ tôi, là diện hoa khôi của lớp, hoa đồng nội. Mền được xem là cô gái nhút nhát, nhưng đôi mắt luôn mở to nhìn thẳng và miệng tươi cười với người đối thoại thì lại phủ định cái rụt rè nhỏ nhẹ của cô. Theo tôi biết thì hồi đi học có ba bạn trai đặc biệt quan tâm tới Mền, đó là Tuyến, Thắng và Thư. Cả ba anh chàng họ Nguyễn Đình đều say mê một người, còn Trung thì tôi không hề ngờ tới. Khi chưa giải phóng miền Nam, tháng 4 năm 1975 về làng, Mền đến thăm, tôi đã thông báo câu chuyện anh Xẻ kể cho Mền, tôi nói:

- Trung yêu em?

Cô gật đầu rồi lặng lẽ ra về, vì đông khách tôi không nói được câu nào với cô ấy nữa. Sau ngày giải phóng, Thư thì hy sinh không trở về, còn Thắng và Tuyến cũng có đặt vấn đề nhưng lúc đó Mền chưa nhận lời. Đầu năm 1976, Tuyến và Thắng đã lấy vợ, còn Mền vẫn chưa lấy chồng. Cuối năm 1976, xã mới đưa giấy báo tử của Trung về gia đình...


Tổ tôi nhập vào đội hình hành quân cuối cùng của sư đoàn. Trên đường hành quân, anh em sôi nổi nói chuyện về chiến thắng oai hùng của sư đoàn, chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh vang dội. Những người lính chúng tôi nói về sư đoàn anh hùng của mình với lòng tự hào, kiêu hãnh. Chuyện vui quên mệt, đường dài. Chúng tôi được lệnh dừng lại ở một khu rẫy cũ nằm ở phía tây sông Đắk Bà Nà, phía đông qua sông là thị xã Kon Tum. Bộ phận trinh sát lập một tổ đài cách sông 2km. Đêm đó đào hầm trú ẩn ngay trên rẫy, đào miết đến sáng xong hầm, anh Quân đốc thúc mọi người ngụy trang khẩn trương lên các nóc hầm. Theo anh còn lô đất đỏ quá, dễ bị máy bay nhìn thấy. Công việc ngụy trang chưa hoàn tất thì đột ngột xuất hiện một tốp máy bay trực thăng từ phía Kon Turn bay đến. Anh Quân la lớn: "Tất cả nằm im". Anh nằm soài trên nóc hầm như cố che đi phần đất đỏ. Một chiếc cán gáo loại máy bay có thân hình tròn ủng hầu như thân trên bằng mi ca trong suốt. Nó bay sát sạt nhìn thấy tên phi công quan sát xuống đất bằng mắt thường. Trông nó bay rất lộn tiết, chỉ muốn cho một tràng, bắn chắc hắn phải rơi ngay thôi nhưng vì bí mật không ai được phép làm như vậy. Trên cao hơn là hai chiếc tầu gầy phành phạch, nhâng nháo vòng lượn, nó bắn vài loạt rốc-két vào bìa rừng cách chúng tôi vài trăm mét rồi bốc lên cao cút thẳng. Chiều hôm đó bộ phận chính của anh Quân cùng một bộ phận lớn của đại đội dẫn Bộ tư lệnh nhẹ của sư đoàn tiến vào thị xã Kon Tum. Đồng chí Bá Lợi, Sư đoàn phó đứng ở chỗ đài quan sát nhìn vào thị xã Kon Tum nói một mình:

- Ồ ở đây chỉ huy có lẽ tốt hơn đấy! Tại sao lại vào đấy nhỉ? - Nói vậy nhưng đồng chí lại bước chân xuống núi theo sau nhóm trinh sát và đoàn cán bộ qua sông vào thị xã Kon Tum. Đài quan sát còn Lập, Thuần, chúng tôi lại đơn lẻ làm nhiệm vụ ở quả đồi gần như trọc lốc này. Gần đài quan sát còn một trạm thông tin hữu tuyến, có hai đồng chí. Người phụ trách tên là Quang. Hầm các anh về phía sau đài quan sát vài trăm mét.


Thị xã Kon Tum bị tấn công gần một tuần nay, những ngày đầu E1 và T-10 - D15 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh chiếm biệt khu 24, kiểm soát toàn bộ sân bay Kon Tum. Lực lượng địch gồm sư đoàn 23 và địa phương quân co cụm vào khu tỉnh đường. Sư đoàn 820 tấn công từ hướng nam vào thị xã gặp khó khăn hỏa lực của mặt trận không còn đủ đạn dược để chi viện cho hướng tấn công. Hỏa lực trong biên chế của các đơn vị cũng không còn đạn để chiến đấu. Đạn bộ binh cũng bắt đầu cạn, phải sử dụng tiết kiệm. Ta không thể phát triển thêm được nữa. Trên đài quan sát nhìn qua sông, qua cánh đồng trống trải, nhìn rõ trong thị xã Kon Tum. Phía nam thị xã qua cầu Đắk Bà Nà là biệt khu lôi hổ trung tâm huấn luyện biệt kích. Khu vực nam thị xã, tỉnh đường địch vẫn làm chủ. Các cuộc phản kích của địch đều xuất phát từ khu vực tỉnh đường. Địch dùng xe tăng đánh vào phía đông sân bay, đang từng bước hòng chiếm lại biệt khu 24. Khu vực bắc tây tỉnh đường ta và địch nổ súng giành giật từng dãy phố, rất quyết liệt.


Cuối tháng 5 năm 1972, tôi nhìn thấy một cánh quân cỡ tiểu đoàn địch đang di chuyển từ tây bắc men theo tây thị xã tiến về phía cầu Đắk Bà Nà. Có thể chúng hội quân co cụm về tỉnh đường để tổ chức phản kích. Tôi báo cáo sự việc trên và nêu nhận định của mình. Anh Mạnh C phó ở trong thị xã lệnh cho tôi: "Xuất kích đánh vào đội hình địch". Tôi cử Thuần "còm" ở lại đài, dặn khi có lệnh mới của đại đội thì báo hiệu báng cách bắn súng, một phát, hai phát, ba phát áp dụng cho các tình huống. Hai chúng tôi theo đường mòn vận động xuống bờ sông, không có trắc trở gì. Bên kia sông, đội hình địch vẫn đang di chuyển. Chúng đi thành hàng dọc, pháo yểm trợ thỉnh thoảng mới có một quả rơi xuống cách bờ sông bên kia vài trăm mét. Trên trời có mấy chiếc trực thăng bảo vệ đội hình vòng đi vòng lại sát tận bờ sông. Chúng để ý đến sườn tây của đội hình. Tôi bảo Lập ngồi cảnh giới để sang sông, đoạn này lội được, chỉ ướt quần áo. Tôi đang đi xuống sông thì trên đài có 8 phát súng nổ, đó là lệnh thu quân.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Chín, 2021, 08:17:22 pm
Tôi nghĩ chắc anh Mạnh đã hình dung ra việc rất khó khăn trong vận động tấn công địch ban ngày, với lực lượng quá ít và địa hình cách trở, trống trải, nên ra lệnh rút đây. Tôi và Lập nhanh chóng quay trở lại đài thấy Thuần và Quang đang canh giữ hai người đàn ông. Họ mặc quần áo dân sự, chân không có dép. Mỗi người đeo một chiếc gùi vải nhỏ tý ở sau lưng. Anh Quang nói: "Thấy hai người lom khom cách hầm bọn mình mấy chục mét. Họ đi về phía rừng. Mình nghi ngờ dẫn về đây". Thuần còn nói: "Em báo cáo anh Mạnh về hai người này. Anh Mạnh bảo gọi anh về và tổ chức dẫn họ giao cho Ban địch vận đang ở trong rừng phía sau đài quan sát của ta mấy cây số.

Tôi hỏi hai người lạ:

- Các anh thuộc sắc lính nào?

- Không! Em là học sinh ạ? - Một tên nói vậy.

- Quen đi giầy, nay bỏ ra đau quá phải quấn vải vào chứ gì?

Tôi nói khẳng định hắn là lính. Cuối cùng thì chúng cũng nói thật:

- Bọn em lính bảo an chi khu, bị bắt quân dịch năm 1971.

- Em trung sĩ, thằng này binh nhất..

Hắn nói lý do bỏ ngũ:

- Sư đoàn 23 cộng hòa có căn cứ vững chắc, súng đạn nhiều, đông quân, hỏa lực trên chi viện xuống tối đa, thế mà cũng bị "cộng quân" đánh bật khỏi biệt khu. Em nghĩ, bọn em không chịu nổi, lợi dụng đơn vị di chuyển từ Ấp Bắc thị xã tăng cường cho tỉnh đường, em sợ sẽ chết mất, nên đêm qua bỏ đồ lính chạy qua sông, định tìm vào một bản nào đó lánh nạn mong được sống. Trong lúc đang lúng túng tìm đường thì bị các anh bắt. Hắn liên tục phân bua: "Từ khi đi lính em chỉ cầu an, luôn tìm cách ở nhà, không bắn giết ai, xin các anh thương giùm". Tôi giải thích: Các anh là tù binh được hưởng chính sách của mặt trận. Quân giải phóng không bao giờ giết hại binh sĩ đối phương đã thực sự đầu hàng. Bây giờ chúng tôi đưa các anh về phía sau. ở đấy các anh sẽ được học tập để có thể trở thành người lương thiện.

Chiều đó anh Mạnh điện đến tôi:

- Tối nay đồng chí dẫn tổ Dũng, trinh sát ấp bên phải đài quan sát.

Đến 17 giờ anh Dũng cùng các anh Viện, Hòe, Giáp lên đài quan sát. Chúng tôi chờ cho trời tối hẳn mới bắt đầu xuống núi. Tổ trinh sát do tôi dẫn đầu cứ men theo bờ sông, ngược dòng nước tiến về phía ấp.

Quá trình hành tiến phải dò mìn nên tốc độ không nhanh lắm. Dưới chân tôi là ruộng dân mới làm đất, có chỗ cây ngô con đã mọc. Đi đến cách ấp 500m anh Dũng cho tổ dừng lại, mỗi người tìm một chỗ có thể che đỡ đề phòng địch phản ứng. Sau khi đã ổn định, anh Dũng lệnh cho Hòe bắn hai loạt đạn AK, ấp vẫn im lặng như tờ, chờ chừng 5 phút chúng tôi tiếp tục tiến đến tận hàng rào. Hàng rào ấp làm bằng tre nứa loại lớn bổ đôi, một đầu chôn xuống đất, đầu trên vạt nhọn hoắt. Các đoạn tre dài 2,5 mét chôn sít nhau 10cm. Tre tạo thành hàng rào kiểu mái nhà chạy xung quanh ấp. Cách rào 2 mét về phía trong là giao thông hào. Anh Dũng bò lên sát tôi, hai anh em quan sát qua hàng rào vào bên trong. Đêm cuối tháng 5, trời tối nhìn không rõ lắm, chỉ nhìn thấy những khối đen trong chiến hào, nằm lâu theo dõi mới phát hiện đó là người khi chúng đập muỗi. Tôi và anh Dũng lết men theo hàng rào một đoạn nữa thì thấy có lính đứng dưới hào. Chúng tôi rút ra theo đường cũ. Anh Dũng nói:

- Thì ra khi nghe tiếng súng, địch triển khai sẵn sàng chiến đấu, chứ không phản ứng bằng cách nổ súng loạn xạ, vì đoạn tiếp cận của mình xa, thời gian đến hàng rào hơi lâu, nên bọn chúng thấy yên lặng, nhiều đứa lăn ra ngủ. Tôi xen vào: Thì hàng tháng nay bọn chúng ngủ nghê gì được. Ngủ gà, ngủ gật là phải.

- Xem cái kiểu trinh sát vũ trang để nắm địch là không ăn thua gì rồi. - Anh Dũng nói vậy khi chúng tôi về đến chỗ mấy anh em đang ngồi chờ. Sau này tâp huấn công tác điều tra nắm địch cũng nêu ra bài học trong việc áp dụng hình thức ’’trinh sát vũ trang". Nếu chỉ dựa vào kết quả phản ứng của địch sau khi ta nổ súng, thấy im lặng mà cho rằng không có địch thì rất sai lầm và nguy hiểm. Do vậy, yêu cầu trinh sát nhất thiết phải: "Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, chân đi tới, tay sờ vào" chứ không thể đoán, cả năm 1972 và năm 1973, rất nhiều trận đánh của bộ đội đặc công vào các cụm đóng quân dã ngoại lâm thời của ngụy cho thấy, khi ta đụng địch ở đâu thì ở đó đánh lại, còn chỗ khác chúng nằm im, làm ta rất khó phát hiện.


Trở lại đài quan sát, tôi tiếp tục theo dõi diễn biến của địch ở thị xã Kon Tum. Địch đã co cụm về phía nam thị xã và liên tục tổ chức các cuộc phản công vào các vị trí mà quân ta đang chốt giữ. Chúng tái chiếm một số mục tiêu ở phía đông sân bay, sức công của ta không còn. Các đơn vị Sư đoàn 2 đã hoàn thành đánh chiếm các mục tiêu nhưng thương vong lớn, đạn và lương thực, thuốc men đã cạn kiệt. Các đơn vị hỏa lực không còn đạn, phải chuyển sang làm nhiệm vụ vận tải, các đơn vị bộ binh đã thiếu đạn, tình trạng chiến sĩ lấy trộm đạn của nhau đã xuất hiện. Tình hình trên đã làm cho sức đề kháng đánh địch phản công kém hiệu quả. Các mục tiêu ta đã chiếm đang bị địch tấn công thu lại từng ngày.


Tấn công tái chiếm biệt khu 24 là công việc chủ yếu hàng ngày của sư đoàn 23 ngụy. Chúng có trực thăng và xe tăng yểm trợ, tấn công liên tục cả ngày. Trời Kon Tum mưa dầm rả rích, đất nhão ra, đường sá lầy lội, trơn như đổ mỡ, Sư đoàn 320 hoạt động ở vùng này trước Sư đoàn 2 gần một tháng, nên sinh lực, vật lực suy giảm nhiều, không thực hiện được nhiệm vụ đánh một số mục tiêu trong thị xã Kon Tum để cùng Sư đoàn 2 giải phóng hoàn toàn thị xã. Sư đoàn 320 cũng lâm vào khó khăn chung như các đơn vị khác đang tham chiến trong chiến dịch.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Chín, 2021, 08:29:06 pm
Ngày 2 tháng 6 năm 1972, tôi được lệnh cùng các toán trinh sát khác của sư đoàn đưa đơn vị bộ binh vào trong thị xã Kon Tum. Đó là Tiểu đoàn bộ binh số 6 Trung đoàn 141. Anh Bôn chỉ huy vượt sông Đắk Bà Nà lúc 20 giờ, đến biệt khu 24 quãng 23 giờ. Đơn vị anh Bôn được triển khai vào các vị trí của T-10 đang làm nhiệm vụ chốt chặn địch lấn chiếm từ mấy đêm nay. Chúng tôi được lệnh đào hầm để tránh bom pháo. Theo lệnh của sư đoàn phải hạn chế sử dụng lô cốt và hầm của địch, nhưng do không hiểu hết ý nghĩa của mệnh lệnh đó, lại vốn là lính trinh sát chỉ quen làm công tác phục vụ chiến đấu, ít am hiểu về tính chất ác liệt của nhiệm vụ chốt giữ trận địa, nên anh Mạnh C phó không đôn đốc anh em tích cực đào hầm mới, hầu hết các nhóm trinh sát đều sử dụng lô cốt cũ của địch để sẵn sàng chiến đấu và tránh phi pháo. Từ 23 giờ đến 6 giờ ngày hôm sau chúng tôi được yên ổn, tuy nhiên sức khỏe thì suy giảm nghiêm trọng vì vài tuần rồi tổ đài chúng tôi không có muối ăn thiếu chất, lại bị đi kiết, ai cũng mệt mỏi lả đi. Quãng 6 giờ 30 ngày 3 tháng 6, trong lô cốt chúng tôi gồm: anh Quân, Triện, Thoại, Huỳnh con, Thực và tôi đang thu xếp lại hành lý, thấy phía sân bay địch đã bố trí xe tăng dàn hàng ngang. Anh Quân báo cáo anh Mạnh tình hình trên và nói với anh em:

- Xe tăng nó sẽ bắn ĐK đấy!

Ở lô cốt phía sau chúng tôi là nhóm của anh Mạnh, Khoát, Hòe, Phong, Tuế, Vọng, Thể. Anh Khoát tranh thủ lúc yên lặng đã cùng Thể, Vọng bắt được một con heo mọi cỡ 10kg, anh Khoát tuyên bố:

- Tớ sẽ đánh tiết canh.

Mấy hôm nay các anh ở đây phải hứng nước mưa phùn để ăn uống, tắm giặt thì miễn rồi. Không biết anh Khoát làm thịt heo thế nào? Địch đã làm xong công tác chuẩn bị, đúng 8 giờ thì cuộc tấn công bắt đầu. Xe tăng địch đứng cách chúng tôi khoảng 800 mét, giữa xe tăng địch và lô cốt chúng tôi còn có đại đội đặc công của T-10. Anh em làm thành một phòng tuyến ngăn chặn không cho địch tấn công vào biệt khu 24. Các chiến sĩ T-10 đào giao thông hào, hố chiến đấu và ụ súng phía ngoài những căn nhà cấp bốn bị đổ sập, cách tăng địch trên 600 mét, địa hình nhìn ra phía địch trống trải bằng phẳng (đường bay) không có vật che khuất. Xe tăng địch đứng ngoài tầm bắn hiệu quả của B-41. Ngoài B-41 ta không còn loại súng chống tăng nào khác, ĐKZ đã hết đạn từ lâu. Từ xe tăng, bọn địch quan sát và nã từng phát ĐK100 vào từng căn hầm, ụ súng của anh em T-10, lần lượt các mục tiêu của ta bị địch phát hiện tiêu diệt. Một vài tổ từ phòng tuyến xuất kích nhưng chưa kịp phụt B-41 thì bị đại liên địch bắn hy sinh. Bộ phận chúng tôi đang theo dõi, lo cho anh em T- 10, chưa biết làm gì để hỗ trợ thì "rầm" tiếng nổ đến ù tai, khói bụi mù mịt trong lô cốt, làm mọi người sặc sụa. Anh Triện và Thực chui ra cửa trước, chạy đến khu chốt của bộ binh, còn lại trong lô cốt nghe anh Quân hô lớn:

- Thoát ra lối cửa sau. Nhanh lên!

- Nó bắn nữa đấy.

Huỳnh, Thoại đến tôi nhảy ra ngoài. Khi tôi vừa ra khỏi cửa thì một trái ĐK nữa nổ "rầm" ngay nóc lô cốt, chỗ cửa thoát ra của chúng tôi. Anh Quân thì không kịp nữa. Khi ba chúng tôi vào hầm anh Mạnh không thấy anh Quân theo. Tôi nói với anh Mạnh:

- Lô cốt chúng em bị trúng hai quả ĐK, một quả ở phía cửa trước, một quả ở phía cửa sau. Không rõ anh Quân...

- Các cậu sang chỗ Quân đi - Anh Mạnh nói vậy và cho mọi người phân tán sang các hầm khác. Tôi và anh Tuế y tá chạy lại lô cốt thì thấy anh Quân nằm ngay cửa, một vết thương xuyên từ trán ra sau gáy, một cánh tay bị gãy. Anh không nói được, tôi nâng đầu anh đặt vào đùi, thấy môi anh giật giật mấy cái. Anh Tuế kiểm tra tim và hơi thở khẽ nói:

- Đồng chí Quân hy sinh rồi!

Tôi ngồi lại một mình, lúc sau giở ba lô anh Quân, lấy ra một bộ quần áo ga ba đin mới, có lẽ bộ quần áo này anh để dành... Chưa mặc lần nào thì phải. Anh là người cẩn thận và hay nghĩ xa lắm... Tôi buồn bã thay cho anh bộ quần áo mới, nước mắt ứa ra. Quả thực, không có nước để lau chùi cho anh, bụi bặm quá. Mặc xong quần áo cho anh thì đồng chí Đăng sang giúp. Tôi đặt anh vào chiếc võng ni lông anh vẫn dùng. Gói bọc anh cẩn thận, sau đó bọc tiếp một chiếc tăng dùng dây võng buộc lại cẩn thận. Lúc này trên đầu, trực thăng quần đảo rất mạnh. Những chiếc tầu gầy bắn đại liên "toang toác", thỉnh thoảng lại chúi đầu xuống phóng mấy loạt rốc-két, tức đến điên người, nhưng chả làm gì chúng được. Xe tăng địch thì cứ tiến dần vào phòng tuyến của ta, chúng bắn dữ dội hơn. Mấy chiếc xe tải ở gần hầm anh Mạnh bị trúng đạn bốc cháy, khói mù mịt. Có lẽ tuyến phòng thủ của T-10 đã bị phá vỡ. Chúng tăng cường hỏa lực để xua bộ binh lên.


Trong lúc gói bọc anh Quân, tôi thấy xót thương anh quá. Quả thực, lần đầu tiên ôm, vuốt mắt cho người chết trong hoàn cảnh rất đột ngột này, nhưng tôi không có cảm giác sợ hãi nào.

Anh Quân là A trưởng ở A2 bên cạnh A1 của tôi. Tuy không cùng tiểu đội nhưng anh là người anh, người đồng chí, người bạn. Anh là đảng viên luôn gần gũi chăm sóc giúp đỡ mọi người, nhất là các chiến sĩ mới. Anh kể chuyện quê anh:

- Mình ở xã Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Bố là liệt sĩ chống Pháp. Mình lớn lên không biết mặt cha. Khi mẹ đi lấy chồng, thì theo mẹ ở cùng chú dượng. Nhà nghèo túng quá, học dở lớp bốn mình xin đi bộ đội, lúc đó còn nhỏ tý. Phải bỏ đá giấu trong người mới đủ cân. Năm 1967 vào miền Nam, ở đơn vị này cho đến nay.


Anh Quân ở chiến trường lâu, đã miễn dịch sốt rét, da nom hồng hào hơn mọi người. Anh ít nói, chậm chạp, làm việc gì cũng cân nhắc kỹ càng. Nhiều người cảm tưởng rằng anh hay quan trọng hóa các vấn đề. Những ngày huấn luyện ở Lào, anh hay tổ chức cải thiện cho tiểu đội. Một số anh em mới bổ sung từ Bắc vào, khi sốt rét được anh chăm sóc, cả mấy anh em ở A khác trong B cũng vậy.


Anh nuôi mấy con gà mái thường lấy trứng nấu cháo cho người ốm. Khi đơn vị hành quân đi chiến dịch, mấy chú gà được hóa kiếp để B1 của chúng tôi liên hoan. Là chiến sĩ trinh sát lâu năm, anh luôn hiểu sâu sắc ý nghĩa của việc báo cáo tình hình địch một cách chính xác và trung thực. Việc đó giúp cho trên nhận định đánh giá đúng tình hình, góp phần xây dựng quyết tâm chiến đấu đúng đắn nhự thế nào. Có lẽ tính cách ấy trở thành thói quen nổi bật (bệnh nghề nghiệp). Anh Quân luôn muốn truyền cho lính trẻ chúng tôi những đức tính, thói quen đó. Anh tâm sự: "Mình học hành ít, chậm hiểu hơn các cậu, nếu hay nói đi nói lại, nhắc đi nhắc lại các cậu cũng đừng bực mình".


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Chín, 2021, 08:30:28 pm
Tôi đặt anh Quân trong chiếc lô cốt đã bị hai quả ĐK làm toác mảng tường phía trước và nóc cửa phía sau, rồi qua hầm anh Mạnh C phó. Anh Khoát và cậu Thể đang lo làm thịt con heo mới bắt được. Anh Khoát kể đến nghề tay dao thớt thì cừ thật. Anh là lính vệ binh bổ sung về đại đội trinh sát từ tháng 12 năm năm 1970. Anh là đảng viên, quê ở Hà Nam, nhập ngũ từ năm 1966 hiện là tiểu đội phó.


Chỉ có một thùng đạn đại liên nước mưa, một con dao găm Liên Xô thế mà anh cũng làm thịt xong một con heo với đầy đủ các món cả lòng, dồi nữa. Phía trước địch vẫn bắn dữ dội về phía phòng tuyến của ta. Anh Mạnh bảo Hòe và tôi:

- Chiến dùng AK yểm trợ cho Hòe.

- Hòe dùng B-41, các cậu tìm cách làm sao bắn một chiếc xe tăng cho chúng khiếp và lập công nhé.

Anh Mạnh nhìn Hòe nói tiếp:

- Hòe bình tĩnh nhé, phải thật bình tĩnh. Tôi xách súng ra khỏi lô cốt, Hòe theo sau. Chúng tôi men theo những bức tương của các căn nhà cấp bốn để đi về hướng xe tăng. Đạn đại liên trong tầm bắn căng nên những bức tường hiểm không đủ cứng để chặn đạn. Những mảng tường bị đạn xuyên thủng, bùng bục, thấy ớn. Chúng tôi đã ra đến căn nhà cuối cùng tiếp giáp với bãi trống thì dừng lại. Tôi nấp vào đống gạch tường để quan sát, thấy xe tăng địch vẫn còn rất xa. Chúng cứ đứng ỳ ra mà nã đạn, không chịu tiến đến một bước nào. Các ụ súng bằng bao cát của T-10 hầu như đã bị hủy hết. Địch không bắn ĐK vào đó nữa nhưng không thấy bộ binh địch vượt lên trước xe tăng. Có lẽ chúng đã được khoán công việc trong ngày hôm nay chỉ làm đến ngần ấy thì phải. Tôi nhìn sang phải thấy Hòe đang loay hoay tìm địa thế ngắm bắn, tôi nói:

- Đứng đó vướng tường phía sau không bắn được.

Hòe không nói gì, anh nấp một lúc lâu... Địch không tiến lên tý nào, còn tôi và Hòe không thể xông ra bãi trống được. Có lẽ địch chỉ dừng lại bắn lai rai chờ tối sẽ lui về vị trí tập kết để ngày mai mới có kế hoạch tấn công tiếp. Hòe và tôi về chỗ anh Mạnh. Hòe băn khoăn nhìn quả đạn B-41. Tôi chợt hiểu nếu vừa rồi mình không nhắc "không bắn được" thì có thể Hòe đã phụt nó đi rồi cũng nên, vào lô cốt Hòe không nói tiếng nào. Tôi nói với anh Mạnh:

- Tăng địch đứng xa lắm. Anh em T-10 bắn cũng không tới. Bọn em nằm mãi mà chẳng thấy súng của ta nổ, chờ tối, mình có thể tập kích vào bãi xe.

Anh Mạnh không nói gì đến xe tăng nữa. Đã xế chiều, chúng tôi không đợi nhưng khi anh Khoát giục ăn cơm thì ăn chứ không ngon lành gì.

Quãng 19 giờ, không gian yên lặng, các nhóm trinh sát về báo cáo anh Mạnh. Anh Mạnh thông báo Đào Tất Triện sau khi sang hầm chốt của bộ binh, hầm này cũng bị một quả ĐK. Triện cũng hy sinh tại đó. Đơn vị bộ binh đã mai táng đồng chí Triện. Đơn vị chúng tôi lần lượt rời vị trí. Tôi và Đăng ở lại chuẩn bị đưa thi hài anh Quân đi theo. Lúc 17 giờ 30 ngày 3 tháng 6 năm 1972, trời lại bắt đầu mưa nhẹ hạt, có hai đồng chí của T-10 ghé vào hầm. Hai anh rất mệt mỏi. Chúng tôi chào nhau bằng ánh mắt. Hai người lấy từ trong ba lô ra những bao gạo sấy có dính bùn và máu đỏ. Một anh nói:

- Không biết còn ai ngoài ấy không?

Anh kia nhỏ nhẹ:

- Có lẽ còn, vận tải sẽ mang về, cả tử sĩ nữa.

Tôi không hỏi nhưng đã hiểu rằng phòng tuyến do T-10 đảm nhiệm đã bị phá vỡ từ chiều. Lệnh rút vừa rồi chính do ta không còn đủ sức cản địch nữa. Tôi và Đăng cáng anh Quân đi theo đơn vị về phía tây. Đến nơi dừng lại, chúng tôi được lệnh làm hầm trú ẩn, mai táng anh Quân ở một bãi đất trống gần hàng rào trong cùng của hướng bắc biệt khu 24. Chôn anh Quân xong có vẽ sơ đồ mộ chí, đánh dấu tọa độ trên bản đồ, ghi cách cây độc lập 10 mét về phía nam. Căn hầm chữ A, chúng tôi vừa đào vừa múc nước, quãng quá nửa đêm thì xong. Mưa vẫn rơi dầm dề, phải lấy những hòm đạn kê xuống đáy hầm làm chỗ ngồi. Cả đêm cứ thay nhau múc nước đổ ra ngoài, tôi hiểu rằng đêm nay đại bộ phận sư đoàn rút khỏi thị xã Kon Tum. Chúng tôi ở đây để chốt giữ cái cửa để đội hình ra an toàn. Ngày hôm sau, cả ngày không ai được lên mặt đất vì hầm chúng tôi đào hẳn ra bãi đất trống. Trên bầu trời, mấy chiếc OV10, L19 i ỉ kêu không lúc nào ngớt. Thỉnh thoảng lại phun ra những tiếng nói của bọn chiêu hồi được ghi âm lại. Chúng ra rả nói:

- Sư đoàn bộ binh số 2 của các bạn đã bị bao vây. Trung đoàn 66 không đủ sức để bôn tập đến chi viện cho các bạn, Sư đoàn 320 đã mất sức chiến đấu, sư đoàn 23 thiện chiến đã được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân giao nhiệm vụ giữ vững cánh cửa sắt của Tây Nguyên. Nay các chiến binh rất hứng khởi, hỏa lực dồi dào. Nếu các binh sĩ cộng quân không mau hồi chánh thì sẽ bị tiêu diệt...

Chúng tôi vẫn im lặng, nhưng dưới mặt đất, mọi hoạt động vẫn diễn ra, những quả mìn Clây mo treo trên hàng rào của địch được tháo gỡ để lấy thuốc làm chất đốt, loại thuốc C-4 màu trắng dẻo kẹo cháy nhiệt độ cao mà không có khói, cũng may có mưa nên có nước để nấu ăn. Đồ ăn thì từ khi vào thị xã được cải thiện một chút, có gạo sấy, bột đậu xanh, đường, sữa, thịt, cá hộp do anh em bộ binh thu được tặng cho. Trong mấy ngày vào thị xã, tôi thấy tinh thần chiến đấu của bộ đội không có vấn đề gì lớn nhưng điều kiện đảm bảo cho chiến đấu thì rất khó khăn. Đạn bộ binh thiếu nghiêm trọng. Tử sĩ và thương binh chuyển đi không kịp cứ tăng dần lên hàng ngày. Tối đó, chúng tôi được lệnh rút ra ngoài và có nhiệm vụ cử hai đồng chí cáng một thương binh. Đó là đêm 4 tháng 6 năm 1972.


Tôi và Đăng vào một căn nhà đổ nát, nhiều thương binh đang nằm ngồi ở đó. Tôi bảo Đăng kiếm một thương binh nặng để cáng đi. Mỗi chúng tôi kiếm một đoạn gỗ dài hơn 1 mét làm gậy, súng ba lô đeo gọn vào người, dép lột ra đeo vào thắt lưng. Đoàn người khiêng vác trật tự đi qua một cửa mở ra khỏi căn cứ. Đêm vẫn mưa, không gian im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng thở phì phò, tiếng chân bước lép nhép dưới bùn. Đòn khiêng của chúng tôi là một đoạn đòn tay gỗ hình vuông tỳ vào vai day đi, day lại làm hai vai sưng tấy lên đau điếng. Đến sáng thì chúng tôi cũng đến chân một quả đồi, thấy nhiều cáng thương đang dừng lại nghỉ. Đồng chí thương binh mà chúng tôi cáng bị sọ não, băng kín mít đầu, không nói gì được, hầu như hôn mê, thỉnh thoảng khẽ rên ú ớ không ra câu gì.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Chín, 2021, 08:31:32 pm
Một anh cáng thương đang hướng dẫn, chắc là dân vận tải D19:

- Từ đây về phẫu của sư đoàn phải qua khu Kon Zun, Kon Zẽ. Đấy là đoạn đường ác liệt, máy bay địch hay oanh tạc, phải đi thật nhanh, không được nghỉ ở đỉnh đồi.

Tôi và Đăng vốn dĩ đã gầy yếu, gần một tháng nay ăn chuối với sắn thất thường, lại bị đi kiết kéo dài, nhiều đêm không chợp mắt được, chắc người nom kinh lắm. Công việc khiêng thương binh mới mẻ này quả là quá sức. Chiếc đòn khiêng có cạnh nghiến vào vai, cái vai chẳng nhiều thịt tý nào nhức lên thôn thốt. Còn anh bạn nằm trên võng dường như mỗi lúc lại nặng thêm thì phải. Đường núi nhiều ngọn như bát úp, lên lên, xuống xuống liên tục, đường dốc mà trơn như đổ mỡ, lên dốc thì gối mỏi, xuống dốc thì chồn chân, chỉ chực khuỵu xuống. Đăng vừa đi vừa mếu gắt nhặng cả lên, mỗi khi thấy thương binh rên rỉ: "Em ơi đừng kêu nữa”... Sau khi đã băng qua hai ngọn đồi đến chân một cái dốc khá cao, nhìn cái dốc chỉ muốn xỉu. Tôi thấy một lối mòn phía bên phải, bảo Đăng tạm nghỉ để kiếm gì ăn đã, đi một đoạn chừng 5 phút, thấy có đơn vị đang xôn xao có vẻ chuẩn bị bữa trưa. Tôi có ý định xin chút thức ăn cho hai người. Thấy đồng chí chỉ huy hay chuyện, vui vẻ, tôi đánh liều nhờ vả. Nói thực, lính trinh sát quen hành quân nhẹ "một chiếc võng dù... vài kilô lương khô" nay có cáng một thương binh từ thị xã ra, đi suốt đêm đã quá mệt, nhờ giúp cho qua quả đồi này.

Anh chỉ huy nói:

- Quả đồi này dốc đứng, phải mất một giờ mới sang bên kia dốc.

Anh này quên việc tôi xin cơm, hay đơn vị không có tôi cũng chẳng rõ, khi thấy hai đồng chí được cử mang chiếc đòn tre đi, tôi vội chạy theo không nhắc lại chuyện cơm nước nữa. Hai đồng chí khiêng thương binh chạy băng băng, tôi và Đăng lẽo đẽo theo sau thỉnh thoảng phải chạy mới theo sát đồng chí khiêng cáng. Hỏi chuyện mới biết các anh là lính DKZ Tiểu đoàn 12. Do hết đạn từ đầu chiến dịch các anh chuyển sang làm vận tải:

- Hơn nửa tháng nay chẳng có hạt cơm nào. Chỉ ăn toàn sắn cách mạng và chuối rừng, chả có hạt muối nào. - Một anh lầu bầu như vậy, anh kia xen vào:

- Hôm trước mấy cha bộ binh cho ít gạo sấy, chén hết rồi. Các bố bộ binh sướng thật đấy. Đánh vào căn cứ thì tha hồ no bụng, gạo, đường sữa, chả thiếu gì.

Trời lại mưa nặng hạt, tôi cầm góc ni lông che mưa cho thương binh làm đọng trên mặt tăng một đụn nước để múc uống. Chúng tôi đã qua đoạn khó khăn, hai đồng chí ĐKZ giao lại cáng, quay lại đơn vị chẳng kịp hỏi tên nhau, không có lời cảm ơn chi cả, quả là không ai nghĩ tới cái thủ tục đời thường đó. Hai chúng tôi lại nặng nhọc với chiếc cáng có thương binh, đi theo một triền núi, rừng già rậm rạp, quãng 20 giờ ngày hôm sau giao thương binh cho đội phẫu.


Người ta chỉ chúng tôi xuống phía sườn đồi, một cái rẫy cũ, tôi trải ni lông ra đất nằm ngủ, không rửa ráy, ăn uống gì. Sáng sau tỉnh dậy, nhìn thấy Đăng mặt mũi y như mèo. Hai đứa bật cười như mếu, đi tìm gặp Vọng chiến sĩ B2 đang đợi để về nơi tập kết của đại đội.


Đến đại đội, tôi được biết thêm nhiều đồng chí hy sinh trong thị xã Kon Tum. Trung đội này được phòng tham mưu giao nhiệm vụ chốt ngăn chặn tăng địch cùng anh em T-10 ở biệt khu 24.

Các anh hy sinh gồm: anh Lương Thanh Xương, anh Huỳnh lớn, anh Cương, anh Thực, Quang, Du, Chấn, Anh....

Anh Xương là tiểu đội trưởng của tôi, người An Hải, Hải Phòng, ở Tiểu đoàn 19 về đơn vị và được bổ nhiệm làm tiểu đội trưởng. Trước hôm đi chiến dịch anh tâm sự: anh đã có vợ và hai con, một gái, một trai. Vợ anh chăm chỉ, anh rất chiều vợ, thương con. Nhưng tính anh rất nóng, vì tính nóng mà có một lần anh đánh vợ rất đau.

Anh nói:

- Hôm rồi tớ mới viết thư xin lỗi việc đánh nàng hồi trước. Cuối thư đề câu:

"Chưa về không phải quên đâu
Xin đừng có nghĩ trước sau ngắn dài".

Trong câu chuyện có cái gì đó ân hận, chắc anh rất mong ngày nào đó sẽ chuộc được lỗi lầm trước đây...

Anh Quỳnh cũng lính vận tải D19 bổ sung về. Anh là chiến sĩ B3. Anh hát bài "Bình Trị Thiên khói lửa" rất hay. Thực và Triện cũng là chiến sĩ tiểu đội tôi, hai anh cùng nhập ngũ và đi B một ngày. Các anh Quang và anh Du cùng huyện Văn Giang với anh Triện. Các anh Chiến, Thuyên bị thương phải ra Bắc điều trị. Tôi không ở lại để dự bình công, rút kinh nghiệm chiến dịch nên không biết hết số anh em hy sinh và bị thương. Tổ công tác chuẩn bị chiến trường hành quân xuống đồng bằng Quảng Ngãi. Lúc này trung tuần tháng 6, do anh Vàng Khao phó trưởng ban trinh sát sư đoàn chỉ huy. Đại đội có anh Trụ C trưởng, anh Phan Rị B trưởng, anh Pha B phó và 10 trinh sát viên. Đoàn qua các huyện miền núi Ba Tơ, Trà Bồng xuống đến giáp ranh Mộ Đức thì dừng lại. Nơi tạm trú là một cánh rừng già thuộc địa phận xã Đức Hòa. Con suối dưới chân núi khá lớn và nước trong vắt, có nhiều cá. Vượt qua một dãy núi về phía đông, ra những mỏm đồi là nhìn thấy một dãy núi phía bên kia cánh đồng lúa, màu là nơi địch bố trí tuyến phòng ngự phía tây quận lỵ Mộ Đức, đó là các đồn địch 56, Thiết Trường và đội dân vệ.


Mấy ngày đầu, lính tráng chúng tôi được phân công đi hái rau, bắt cá để cải thiện. Anh Khoát là tay nhanh nhẹn, tháo vát nhất trong công tác hậu cần. Chăm lo cải thiện nâng cao sức khỏe lính có hiệu quả. Anh Dũng không rõ kiếm đâu được tay lưới bén, nhờ đó mà việc bắt cá dễ dàng. Ngoài cá ăn hàng ngày, anh Khoát còn cùng với tổ anh nuôi chế tạo lương khô cá suối để dự trữ. Cái món lương khô gồm gạo rang vàng, cộng với cá kho cực mặn lại được tăng cường thêm muối rang có bột ngọt và ớt, nhiều khi không có nó thì ăn kém ngon hẳn đi. Tuy nhiên, anh trinh sát thường ăn cơm vắt với muối ớt, có chút bột ngọt là quý chứ mấy khi có lương khô.


Ở đây quãng năm ngày chúng tôi được chia ra đi công tác. Khác mọi khi, tổ tôi được giao nhiệm vụ trên một quả đồi. Anh Khoát nói:

- Tổ các đồng chí có nhiệm vụ điều tra địch trong căn cứ vững chắc gồm đồi 56 Thiết Trường và đồi Dân Vệ. Trước mắt, quan sát và tìm đường tiếp cận vào các điểm, khi có điều kiện thuận lợi đột nhập điều tra nội vi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Chín, 2021, 08:33:05 pm
Tối đó, anh Dũng dẫn tôi đi theo hướng đông vào phía tây đồi 56. Cả buổi chiều tôi ngồi quan sát địch. Anh Dũng nhắc tôi phải chú ý theo dõi quan sát các đoạn đường mòn từ cánh đồng vào chân đồi 56 xem dân đi làm về như thế nào. Gần tối, địch ở đồn có ra để phục kích hay gài trái hay không. Tôi làm theo hướng dẫn của anh Dũng rất kỹ càng, không thấy có gì đặc biệt. Tối đó, tôi đi số 1 dẫn tổ đột nhập vào căn cứ. Từ chỗ tổ ngồi quan sát phải đi qua một cánh đồng lúa nước và những thửa ruộng trồng dưa hấu, quãng 3km là đến chân đồi 56. Địa hình trống trở nên quan sát rất rõ. Tổ hành tiến áp sát mục tiêu rất nhanh, chỉ 20 giờ đã đến hàng rào ngoài cùng của đồn 56. Đồn này thắp điện sáng trưng. Ánh sáng trong điếm làm chúng tôi nhìn rõ nhà cửa, hầm và địch đi lại. Đồi 56 là đồi trọc, trống trải, chúng tôi phải nằm dán người xuống mặt đất, quan sát vào trong, một lúc anh Dũng nói:

- Có lẽ hôm nay chỉ vào đến đây... mai sẽ đột nhập vào hàng rào.

Tôi có ý kiến với anh Dũng và Hòe: Bây giờ còn sớm lắm, quay ra mai lại đi vào thì phí công hôm nay, lãng phí thời gian quá, đề nghị các anh làm luôn đêm nay thôi.

Dũng nói:

- Ban 2 giao nhiệm vụ trước mắt phải xem xét ngoại vi đã.

- Nhưng ban cũng nói đột vào bên trong khi có điều kiện - Tôi khẽ cãi lại.

Anh Hòe lúc này mới lên tiếng:

- Tôi đề nghị đồng chí Dũng nên thực hiện đột rào ngay đêm nay.

Thế là tổ lại tiếp tục kiểm tra vào bên trong. Dũng thì thào vào tai tôi:

- Trống trải lắm. Không bò cả ba người vào được.

- Cậu phải lợi dụng bóng tối để chui vào.

Anh Düũg nằm tại chỗ, tôi và Hòe bò men theo hàng rào ngoài một đoạn về phía đông nam đồi, chỗ này là nơi giao thoa ánh sáng từ đồn 56 và quận Mộ Đức hắt lên. Quả thực từ ngoài tối nhìn vào chỗ có ánh đèn thì rõ mồn một, còn ngồi trong chỗ đèn nhìn ra nơi tối chẳng thấy gì. Ngày nhỏ chơi trò ẩn bắt tôi đã biết rất rõ điều này. Anh Hòe nằm lại sát mép hàng rào, tôi nhẹ nhàng qua rào mỗi hàng cách nhau 7 tới 8 mét, ghi nhớ để hôm sau thể hiện mũi đột của tổ trên sơ đồ. Địch ở đây khoảng một đại đội. 23 giờ, tôi và Hòe trở lại chỗ Dũng. Chúng tôi ra nơi để quần áo rồi theo đường cũ trở về nơi trú quân khi trời chưa sáng. Sáng sau, tôi lên đài quan sát vẽ sơ đồ, đánh dấu các vị trí của đường hành tiến đường mòn, ruộng dưa, ruộng lúa nước, những chỗ ruộng bậc thang tạo thành vách đứng không thể đi bộ được và mũi chui hàng rào của tổ. Tôi đưa sơ đồ cho Dũng để anh báo cáo Ban 2 và đại đội. Khi nghe anh Khoát í ới gọi mấy cậu đi bắt cá, thấy vui tôi cũng đi theo anh. Buổi chiều tôi lên đài quan sát, tối phụ trách một tổ đột nhập vào Thiết Trường. Điểm này đi về phía nam đồi 56, là chốt hướng tây nam của quận lỵ Mộ Đức. Tổ có đồng chí Ba, người Đại Lộc, Lập chiến sĩ mới bổ sung hồi tháng 11 năm 1971 và Thể cùng nhập ngũ và bổ sung về đại đội trinh sát với tôi. Cũng đã theo dõi kỹ địch ban ngày nên tiếp cận Thiết Trường nhanh chóng. Tôi dẫn đầu tổ tiếp cận hàng rào lúc 20 giờ, bảo Thể nằm lại coi đồ, chúng tôi bôi bổ sung nhọ nghệ. Khi bôi nhọ nghệ cho Ba, tôi thấy anh run quá, Lập thì chưa chui rào bao giờ, vì vậy mình tôi chui rào, sợ mất bình tĩnh trong hàng rào thì rất nguy hiểm. Đồn này địch cũng thắp điện nhưng bố trí nhiều hàng rào hơn. Trong khu vực hàng rào, cây cối mọc khá nhiều, tạo ra vật che khuất. Tôi thứ tự khắc phục chui qua các hàng rào: Đơn, ca rô, mái nhà, cũi lợn, bùng nhùng rồi lại đơn, ca rô. Mỗi hàng rào cách đều 5 mét. Từ hàng rào ca rô trong cùng đến chỗ có ụ súng, chiến hào của địch khá xa, phải đến 30 mét. Tôi bò lên gần tên lính gác, xác định đây là chỗ đặt hai khẩu pháo. Không có hàng rào phân ra các khu trong căn cứ. Công sự có một số bê tông đúc sẵn, còn chủ yếu là hầm nửa nổi nửa chìm. Khoảng cách giữa các ụ súng, lô cốt chừng 50 mét. Tôi ngụy trang và rút ra đến hàng rào ngoài cùng thì gần 3 giờ sáng. Sau khi kiểm tra tư trang, đếm đủ số móc sắt, móc chúng vào dây buộc như khi mang theo, chúng tôi về đến chân núi thì trời đã tảng sáng.


Qua hai đêm thực sự chui vào đồn giặc tôi mới thực sự biết đến cái cảm giác lo âu, hồi hộp của người chiến sĩ trinh sát khi kề cận với địch, chỉ cần một sự nghi ngờ thôi, bọn chúng chẳng tiếc gì lựu đạn, đại liên và cả M-72 nữa... Tôi cũng có một chút kinh nghiệm là chui vào trong hàng rào, công tác khắc phục vật cản rất khó khăn, đòi hỏi phải tỉ mỉ, không thể có tiếng động, nên ít người vào là tốt nhất, càng ít người càng ít sơ suất, rủi ro bất trắc. Điều quan trọng hơn là cần phải tuyệt đối bình tĩnh tự tin, không hề sợ hãi, an toàn là chắc chắn. 8 giờ sáng tôi và Lập lên đài quan sát vẽ sơ đồ, ghi lại tất cả những điều cần thiết để báo cáo. Sau đó tôi lại ra suối, chẳng rõ vì sao không thấy buồn ngủ. Hôm sau, tôi nghỉ ở cứ. Nghe anh Mạnh nói:

- Một số tổ gặp khó khăn vì các đồn địch đều thắp điện sáng. Dũng được điều đi tăng cường cho tổ nam sông Vệ vẫn chưa về. Tổ đó đang tiếp tục hoạt động để thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Chín, 2021, 08:03:39 pm
Tôi được giao phụ trách một tổ đột nhập vào đồi Dân Vệ. Đồi này nằm ở phía nam Thiết Trường, cách Thiết Trường một yên ngựa dài 300 mét, đồi cao khoảng 40 mét so với mực nước biển. Tổ có các đồng chí: Ba, Hòe, Thể và Bé. Tối đó trời sáng trăng vằng vặc, tổ hành tiến, bóng người lồng lộng in dài trên mặt đất chắc ai cũng ớn lắm. Tôi dẫn đầu tổ băng qua các ruộng dưa đã có trái lớn, băng qua một số vườn cũng có cây ăn trái như mít, một số cây có gai, loại gai chết tiệt khi xóc vào bàn chân là gãy luôn, cái đầu ngập trong thịt cứ nhói lên trong nhịp bước, mà gai nhiều đến mức không thể tránh nổi. Đến cách hàng rào khoảng 150 mét tôi bảo Thể và Bé ở lại coi đồ và cảnh giới, còn lại tiến vào yên ngựa, xác định con đường bộ đội có thể băng qua yên ngựa sang sườn đông của dãy núi. Bên phía đông, sườn đồi dốc hơn, có nhiều bậc thang rồi gặp một con đường rải đá chạy từ đường số 1 lên rẽ phải theo sườn núi đi về phía Thiết Trường. Đường này để kéo pháo và hàng ngày xe ô tô ra vào căn cứ. Lề trái con đường là vách tả ly khá đứng, có chỗ cao hơn 3 mét và thấp dần khi đường lên đến đỉnh Thiết Trường. Chúng tôi quay lên yên ngựa, men theo triền sông núi tiến về phía đồi Dân Vệ. Khi đến hàng rào ngoài cùng, nhìn vào trong còn hai hàng rào nữa là đến công sự, công sự địch làm bằng bao cát. Đồn này không có điện nhưng ánh trăng tỏ cũng đủ để quan sát. Hòe và Ba nằm lại, tôi nhẹ nhàng chui qua hai hàng rào, đến hàng thứ ba thì dừng lại. Đồn này phạm vi bố trí của địch rất hẹp, hàng rào trong cùng cách công sự chỉ 2 đến 8 mét. Gần đến nỗi tôi chỉ thò tay qua hàng rào đơn này là sờ được vào chân tên lính đang ngủ ngồi ở ụ súng. Từ 3 tháng nay, địch ở khắp chiến trường Trung Bộ luôn bị tác động bởi các trận đánh lớn nên binh lính rất căng thẳng. Khi Sư đoàn 2 quân giải phóng trở lại chiến trường quen thuộc, chắc địch cũng đánh hơi thấy, cả tháng nay các cấp chỉ huy địch đôn đốc gắt gao việc canh phòng nên bọn lính rất căng thẳng và hoang mang. Tôi nằm cách tên lính chừng 4 mét đến 15 phút mà không thấy hắn ngọ nguậy gì. Quan sát kỹ thấy đây chỉ là chốt tiền tiêu lâm thời, cấu trúc phòng ngự sơ sài, lực lượng tối đa chỉ một trung đội, từ hàng rào ngoài cùng vào đến chỗ bố trí ụ súng chỉ 15 mét, nằm gọn lỏn trên chỏm đồi. Tôi chui ra khỏi hàng rào ngoài, cùng anh em trở ra nơi Thể và Bé đang chờ. Tôi nhắc mọi người kiểm tra xem có thiếu gì so với lúc mới xuất phát không.


Một lúc sau Hòe nói:

- Rơi mất cuốn băng Trung Quốc.

Tôi hỏi: Có nhớ rơi ở chỗ nào không?

- Không nhớ, nhưng có lẽ không cần đâu vì bông băng thiếu gì.

Tôi nói rất kiên quyết:

- Phải quay lại tìm bằng được cuộn băng thôi, phải đảm bảo bí mật.

Anh Hòe không nói gì thêm, xách súng theo tôi ngay. Hai chúng tôi chậm chạp tịến theo hành trình cũ, đến chỗ anh Hòe và Ba nằm chờ ngoài hàng rào thì anh Hòe khẽ kêu:

- Đây rồi!

Thế là tôi và Hòe nhanh chóng trở lại nơi anh em đang nằm chờ. Tôi không nêu câu chuyện bất cẩn của anh Hòe với đại đội và không có dịp nào nhắc lại việc trên. Tôi rất ngại việc do bất cẩn trong khi trinh sát, có thể xảy ra đều đáng tiếc cho chính bản thân người trinh sát, thậm chí để lộ ý đồ của trên, như vậy hết sức nguy hiểm, liên quan đến xương máu của nhiều người. Không rõ có phải do sự việc hôm ấy ám ảnh không, mà suốt những năm tháng cùng chiến đấu với anh Hòe sau này, lúc nào anh cũng không coi tôi là một cậu tân binh. Còn tôi, đến bây giờ nghĩ lại mới chợt nhận thấy thái độ ấy của anh.


Sau khi hoàn thành điều tra cụm cứ điểm phòng ngự phía tây quận lỵ Mộ Đức, tổ tôi về cứ, lúc này đại bộ phận đơn vị từ Tây Nguyên đã hành quân về đây. Trinh sát chúng tôi đã làm những việc cần thiết cho những trận đánh mới sắp bắt đầu. Chiến dịch hè thu 1972 ở vùng duyên hải Trung Bộ này.


Các tổ trinh sát chuẩn bị chiến trường từ nam sông Vệ đến Mộ Đức đã hoàn thành nhiệm vụ điều tra địch trong công sự vững chắc. Đội hình lớn của đại đội đã làm xong công tác rút kinh nghiệm chiến dich Tây Nguyên, nay hội quân về Quảng Ngãi. Anh Khái về làm đại đội trưởng, anh Tứ chính trị viên, anh Mạnh đại đội phó, thiếu chính trị viên phó. Các anh Phan Rị, B trưởng B1, anh Đê, B phó, anh Khoa B trưởng B2. Tại nơi hội quân này tôi được chi bộ tổ chức kết nạp Đảng, đó là ngày 10 tháng 7 năm 1972. Chi bộ sau chiến dịch chỉ còn lại hơn chục người. Người đảm bảo thứ nhất cho tôi là anh Trương Vũ Sáng đã hy sinh lúc chuẩn bị đánh Tân Cảnh, người đảm bảo thứ hai là anh Ngô Tấn Đê chi ủy viên. Tôi nhớ mãi buổi kết nạp Đảng hôm đó. Tại căn hầm bò, không có băng cờ, khẩu hiệu, ảnh Bác Hồ nhưng không khí thật trang nghiêm. Đồng chí Nguyễn Đăng Tứ - Bí thư chi bộ đọc quyết định kết nạp. Theo quyết định của Đảng ủy Liên chi phòng tham mưu Sư đoàn 2, ngày 15 tháng 1 năm 1972. Đồng Chí Tứ nêu: - Vì đơn vị vào chiến dịch Tây Nguyên, đồng chí Chiến liên tục đi chuẩn bị chiến trường do vậy nay mới tổ chức kết nạp được. Đồng chí Bí thư nhận xét: "Trong thực tế, các nhiệm vụ giao cho đồng chí Chiến, chỉ huy các cấp đều an tâm, tin tưởng đồng chí sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí hãy cố gắng hơn nữa để không phụ lòng tin của chi bộ, đồng chí và cấp trên".


Tôi không còn nhớ nữa về lời phát biểu cảm tưởng của mình. Chỉ còn nhớ một cảm xúc tự hào và tràn ngập một niềm tin chiến thắng.

Lệnh chiến đấu với chúng tôi bao giờ cũng đột ngột, gấp gáp. Toàn đại đội khẩn trương hành quân về phía nam. Đường đi vòng sâu vào các dãy núi cao rừng già phía tây. Sau hai ngày luồn trong rừng, chúng tôi đã nhìn thấy biển là vùng biển Sa Huỳnh, nơi mà các ngọn núi chạy nhô sát mép nước. Từ rừng xanh nhìn ra biển, biển rộng mênh mông xanh ngắt, tầm mắt được phóng xa tít tận chân trời, cảm giác tự do, phóng túng, vui thích đến kỳ lạ. Chạy gần mép nước bờ biển Sa Huỳnh là con đường quốc lộ số 1 rải nhựa đen bóng, qua đèo Bình Đê đến Tam Quan tỉnh Bình Định.


Trong lúc Sư đoàn 2 tác chiến ở Tây Nguyên thì Sư đoàn 3 đánh địch ở Tam Quan. Sư đoàn 3 cùng với lực lượng địa phương giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Nhơn trong đó có quận lỵ Tam Quan. Quân và dân huyện Hoài Nhơn hoàn toàn làm chủ tạo ra vùng giải phóng rộng lớn, liên kết với vùng giải phóng nam Quảng Ngãi. Cắt đứt tuyến đường giao thông huyết mạch của địch từ Quy Nhơn ra Quảng Ngãi.


Trước tình thế đó, địch đã cố sông cố chết mở chiến dịch tái chiếm vùng bắc Bình Định đã bị mất, nhằm khôi phục lại tuyến giao thông bộ.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Chín, 2021, 08:04:28 pm
Để tăng cường lực lượng bảo vệ vùng mới giải phóng, quân khu điều một số đơn vị của Sư đoàn 2 về đây, góp sức cùng Sư đoàn 3 và dân quân huyện Hoài Nhơn chống địch tái chiếm. Phần lớn đơn vị sư đoàn tập kết trong vùng rừng núi phía tây huyện Mộ Đức và Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Bộ phận chuẩn bị chiến trường được tách ra xuống đứng chân tại các xã Hoài Sơn, Hoài Châu; toán trinh sát của Quân khu 5 do anh Thanh làm B trưởng phụ trách đón, phổ biến tình hình địch, ta rất kỹ. Trinh sát Quân khu 5 cho biết, địch đã tái chiếm được quận lỵ Tam Quan, đồi 10 và đang tìm cách lấn chiếm ra các vị trí khác. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương hoạt động khá mạnh, phụ trách lực lượng du kích xã Hoài Sơn và Hoài Châu là anh Bẩy, cán bộ quân báo huyện.


Buổi trưa ngày hôm sau, anh Chuyển trợ lý Ban 2 sư đoàn dẫn chúng tôi đến ở một nhà dân. Người dân ở đây rất nhiệt tình với cách mạng, giúp đỡ bộ đội tận tình, họ hầu hết là đàn bà trung tuổi, đàn ông và thanh niên hầu như không có. Ngay đêm đó, chúng tôi được phái đi trinh sát quận lỵ Tam Quan. Địch chốt giữ quận Tam Quan là lực lượng mới tái chiếm. Chúng đồn trú phân tán, bí mật chỗ ngủ ban đêm nên việc đột nhập điều tra rất khó khăn. Tổ có 3 chiến sĩ: anh Đê, đồng chí Phụng trinh sát quân khu và tôi. Chúng tôi xuất phát từ thôn Thi Thê đến một địa điểm có hai du kích đón dẫn đi. Người du kích lớn tuổi tên gọi Ba Truyền. Chú Ba một tay bị khoèo, người cao lòng khòng nhưng nhanh nhẹn, dẫn chúng tôi vượt qua nhiều nhà dân, các khu vươn. Trời tối rất khó xác định phương hướng, khi đến một khu vườn, chú Ba giới thiệu đây là thôn Mỹ Lộc tiếp giáp hàng rào phía tây quận lỵ Tam Quan, lúc giải phóng, nhân dân đã dỡ bỏ hàng rào, phá hầu hết ụ súng, hầm rào trong quận, nay địch đã chiêm lại, chúng khôi phục như thế nào không rõ. Anh Đê nói với chú Ba và đồng chí du kích trở về căn cứ, còn tổ trinh sát ở lại tiếp tục công việc. Anh Đê nói:


- Ta phải xác định rõ nơi địch chốt giữ, canh phòng một cách cụ thể. Ai cũng phải chú ý tránh nhào dô chỗ địch vì hàng rào chướng ngại đã bị dỡ bỏ. Phải chú ý không để vướng mìn.

Anh Đê là lính trinh sát kỳ cựu của đại đội, quê xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, theo bộ đội Sư đoàn 2 từ năm 1966, khi quê được giải phóng, lúc đó mới 16 tuổi. Anh vừa được bổ nhiệm làm trung đội phó Trung đội 1, hiền lành, ít nói nhưng hay cười nên dễ gần. Chúng tôi ở cùng trung đội, trong trung đội có anh Nguyễn Gia Viện là chiến sĩ hay trêu đùa, cải biên bài hát về anh hùng Ngô Mây, thành bài ca Ngô Đê "Anh Ngô Đê mẹ còn cha mất". Thật ra anh Đê mồ côi cả cha lẫn mẹ, đùa hơi dai một chút anh chỉ cười khì khì.


Anh Phụng là chiến sĩ trinh sát quân khu, lần đầu đi công tác với nhau nên chưa kịp thăm hỏi gì. Anh Phụng dẫn tổ băng qua vài thửa ruộng, đến gần một căn nhà nhỏ, cửa đóng im ỉm, ba chúng,tôi ngồi ở góc vườn cây cối khá rậm rạp, anh Phụng chỉ phía trước nói:

- Đó là nơi chúng đặt trận địa pháo.

Anh Đê thì thầm:

- Phụng ở đây cảnh giới, coi đồ. Chiến trút đồ để súng lại cùng tôi vào kiểm tra trận địa pháo. Tôi phanh nhẹn cởi quần áo, anh Đê lấy thuốc "nhọ nghệ" xoa cho tôi, tôi cũng bôi nhọ nghệ cho anh để người đen sẫm lại. Khi tôi xoa lên người anh, thấy anh như bị rét, cái cảm giác ớn lạnh bỗng lan sang tôi. Anh Đê chỉ hướng tiến, tôi nhoài người qua bờ giậu, kiểu rào để làm ranh giới các nhà bên, không có gì trở ngại, vượt qua con đường mòn, một đám ruộng cây mì rồi đến một bãi tha ma, nơi có rất nhiều ngôi mộ được xây bằng gạch cẩn thận, tạo ra nhiểu mô đất tiện cho việc ẩn nấp, tuy nhiên, cả bãi không có một bụi cây nào, đất nghĩa địa cát trắng phau. Trời về khuya, trăng lên, ánh sáng ngời ngời, anh bấm tôi nằm lại nhoài lên ngang tôi và phàn nàn "đ... má, tréng quá". Tôi hiểu anh lo lắng vì chúng tôi hóa trang không hợp màu. Tôi thì thào với anh:

- Trống trải quá, anh để em vào xem chúng để pháo ở chỗ nào?

Anh Đê vỗ nhẹ đồng ý, phải cẩn thận. Tôi đưa cho anh chiếc ống nhòm, tay không bò vào trận địa pháo, không gian yên lặng đến ghê người, không hề có tiếng kêu của côn trùng. Tôi bò đúng như trong huấn luyện. Người như dán xuống mặt đất kiểu hành tiến này hàng giờ chỉ được mấy chục mét, tay chân mỏi nhừ, quãng 20 mét gặp một sợi dây căng dẫn đến cọc hàng rào thì thấy đó là một quả mìn sáng, loại này không sát thương, nó chỉ có tác dụng báo động, soi sáng, đầu đằng kia sợi dây đó buộc vào vật gì chẳng rõ. Tôi chui qua dây mìn bò men theo hàng rào áng chừng đã trở lại nơi tiếp xúc sợi dây mìn thẳng vào rào để đỡ lạc hướng ra nơi anh Đê nằm, quan sát kỹ chỉ thấy một lớp rào bùng nhùng, hai cuộn đặt sát đất, một cuộn đặt chồng lên trốc hai cuộn kia. Cọc hàng rào rất thưa phải đến hơn chục mét mới có một cọc, tuyến hàng rào chạy vòng sang hai bên chắc bao quanh vùng gọi là vườn quýt này. Dưới ánh trăng nhìn bên trong cách hàng rào 30 mét có mấy cái nhà bạt, nòng mấy khẩu pháo nhô lên khỏi công sự nông choèn, có xếp thêm các bao cát xung quanh. Rõ ràng chỉ có một hàng rào duy nhất. Có lẽ địch chẳng tin gì vào loại rào này. Chúng chỉ đặt cho cách trở mà thôi, tôi đang nghĩ loại rào lò xo đặt nổi trên mặt đất, không có cọc ghim chắc chắn thế này, nếu dùng mìn thổi nó tung lên cao rồi lại rơi xuống như cũ không thể đứt ra được. Đang mải suy nghĩ bỗng nghe một tiếng nổ rầm, sau đó liên tiếp tiếng nổ đanh của M-79, lựu đạn và hàng loạt AR-15. Tiếng nổ hỗn tạp của nhiều loại hỏa khí nghe inh tai nhức óc ở phía sau lưng tôi. Nơi đó anh Đê đang nằm, pháo sáng được phóng lên trời, máy bay C-130 bay đến thả vài chiếc đèn dù làm cho cả vùng vườn quýt sáng rực lên. Tôi nằm ngửa dán lưng xuống đất nghĩ rằng không thể và không nên vùng dậy mà chạy. Tôi lo lắng nằm nghe ngóng. Bọn ở trận địa pháo vẫn im như thóc, còn bọn phía sau chếch bên phải theo hướng tôi vào thì phản ứng quyết liệt. Vừa bắn, ném lựu đạn, vừa la hét. Tôi không thể nghe được chúng nói gì vì tiếng rất khó nghe, chỉ rõ "đù má". Pháo sáng, tiếng nổ quãng hơn 10 phút thì im bặt, trả lại cho không gian vẻ yên lặng. Tôi lặng lẽ bò quay ra, gặp dây mìn vẫn còn căng như cũ. Chui qua dây mìn, thận trọng bò nhích về nơi anh Đê. Anh Đê không còn nằm đó nữa, xung quanh chỗ anh nằm mùi thuốc nổ khét lẹt, rõ ràng địch liệng nhiều quả lựu đạn, bắn nhiều quả M-79 ra đây. Tôi chui vào vườn chỗ Phụng, Phụng cũng không có ở đây nữa, có thể từ lúc địch nổ súng đến khi ra đến chỗ Phụng cũng phải mấy tiếng đồng hồ cho nên Phụng không thể chờ được.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Chín, 2021, 08:05:38 pm
Khi tôi lần mò ra khỏi làng Mỹ Lộc đến những thửa ruộng ở phía tây quận Tam Quan thì trời đã rạng sáng. Tôi nghĩ hướng tây phía núi chắc là vùng giải phóng, mạnh dạn băng qua cánh đồng khá rộng, khi chui vào vườn cây mì lăn ra nghỉ cho đỡ mệt, bỗng nghe tiếng con gái quát lơ lớ:

- Giơ tay lên.

Tôi ngó lên thấy một cô gái, cô đội chiếc mũ lưỡi trai, cái lưỡi trai dài ngoằng, mặc áo kiểu gì mà dài thế không biết, cái tà áo xẻ ra cao lên sát nách, chị em quê tôi không có kiểu áo lạ này, họ đều mặc kiểu sơ mi Hồng Kông ngắn ngang hông, không xẻ tà. Cái quần cô ta màu kem láng bóng có vẻ cứng chứ không mềm mại như vải phíp, loại vải mà con gái quê tôi rất thích, chân cô ta đi đôi dép Thái Lan màu đỏ. Cô gái thấy tôi tần ngần quan sát cô hơi lâu, một anh chàng cỏi trần, người ngơm, mặt mũi nhọ nhành ra, hẳn cô muốn cười lắm nhưng cố nín cho oai phong thì phải.


Cô gái lắc đầu cây súng AR-15 chĩa thẳng vào tôi, làm tôi thấy ớn, lỡ cướp cò thì toi. Tôi lồm ngồm đứng dậy đi theo hướng cô ta chỉ, bị dẫn đến một căn nhà, có khá đông người, toàn là con gái, không có đàn ông hay trẻ con. Một cô nhìn tôi hỏi:

- Anh vào trong hồi hôm.

Tôi gật đầu xác nhận.

- Hồi hôm nó bắn quá trời. - Cô gái nói vẻ lo lắng. - Biết các anh bị lộ, hổng biết có ai can chi không?

Tôi khẽ nói:

- Chúng tôi mới đến đây, không rành đường về nên bị lạc, tôi ở chỗ anh Bảy.

- Anh Bảy là đội trưởng của chúng tôi đấy! - Cô gái nói như reo. Khi đã rõ tôi không phải là địch, các cô mới chuyện trò rôm rả. Mỗi người một câu lao xao lên. Họ chỉ cho tôi chỗ tắm rửa, lúc này tôi mới thấy ngượng vì nhớ ra mình đang ở trần mà người ngợm có béo tốt gì cho cam. Cái quần đùi bộ đội lúc đó chưa tiết kiệm vải nên nó rộng thùng thình, cái dây rút dài ngoằng qua cả đầu gối củ lạc, mặt mày hốc hác, nhem nhuốc. Tắm xong, một cô đưa tôi "bộ đồ" bà ba màu xanh lơ... "bà thím". Một phụ nữ trung tuổi dọn cơm cho tôi ăn, cơm gạo trắng đồng bằng với thịt heo kho lẫn cùi dừa và đậu phộng ăn thấy ngon miệng quá. Tôi ăn ngon lành, vừa ăn vừa quan sát, thấy các cô gái Hoài Nhơn da bánh mật, vui vẻ, giọng nói lạ, ngọt ngào như nước dừa, tay thoăn thoắt bóc vỏ trái dừa tươi dễ dàng như ta bóc cam, bóc quýt. Tôi uống những ngụm nước dừa nạo từ tay các cô gái, cảm giác ngọt ngào pha chút ít thi vị. Một thoáng thanh bình qua đi lòng tôi nặng trĩu, nghĩ về anh Đê và Phụng, họ có sao không? Lòng dạ bồn chồn, tôi đề nghị du kích cho tôi về chỗ anh Bảy.

Khi trời tròn bóng, một cô gái dẫn tôi đi, cô nói:

- Đây là thôn Hội An xã Hoài Châu, sang "bển" cũng "hổng" xa lắm.

Tôi không nói gì lầm lũi theo cô du kích. Vùng đất Hoài Nhơn này thỉnh thoảng lại có những đụn cát rất lớn. Cát màu trắng xóa chỉ loại cây ô rô và xương rồng mới sống được. Giữa trưa cát nóng lên, tôi đi dép Thái Lan "Dép Nhựt” không quen lại đi trên cát cứ phạch phạch làm chân mỏi rã rời. Tôi đành xách dép đi chân không, một lát thì hai bàn chân rát bỏng, vì quá mệt, tôi theo cô gái đầy vất vả, đến đầu thôn Thi Thế tôi đã nhận ra nơi xuất phát tối hôm qua. Tôi vào chỗ anh Bảy một lúc rồi chia tay du kích để về đơn vị ở xóm bên cạnh. Anh Chuyển đứng ở đầu ngõ sốt ruột hỏi:

- Thằng Đê đâu?

Tôi hiểu anh Đê chưa về, anh Chuyển ôm nhẹ lấy tôi khẽ nói:

- Sáng nay thằng Phụng về mang theo quần áo, giầy dép, súng của chúng mày. - Anh buông tôi ra, lấy cùi ngón tay cái dụi mắt rồi nói tiếp:

- Bây giờ về thêm được mày nữa cũng đỡ rồi!

Bất giác tôi thấy rưng rưng xúc động, muốn khóc òa lên. Anh Chuyển từ sáng đã bố trí một tổ luôn quan sát theo dõi khu vực vườn quýt, nơi mà chúng tôi bị lộ đêm qua. Anh dặn anh em: - Quan sát kỹ xem có trực thăng đáp xuống không? Trinh sát kỹ thuật nghe đài địch, xem chúng nó có báo cáo nào liên quan đến vụ việc hồi hôm không?


Cả ngày hôm sau nữa cũng như vậy nhưng không có tin tức gì của anh Đê. Tối ngày 7 tháng 8 năm 1972, tôi được giao nhiệm vụ dẫn tổ trinh sát vào khu vườn quýt để tìm anh Đê. Thủ trưởng Ngọc Ban 2 dặn:

- Các cậu tìm kỹ, chú ý cả mùi nữa nhé. Kiểm tra tăng võng, dây buộc, các thứ cần thiết.

Du kích dẫn chúng tôi đi, tổ có các đồng chí: Giáp, Lập, Ba, Bé. Chúng tôi tập kết buổi sáng ở nhà một người đàn bà chừng 40 tuổi. Bà có một cậu con trai tên là Trung, chúng tôi quen gọi là "má Trung". Cậu Giáp được các cô du kích tặng cho một con chó, làm thịt khao quân khi ra trận vào bữa tối. Chúng tôi không hề biết đến câu chuyện cần phải kiêng ăn thịt chó khi xuất trận, nên mọi người cứ vô tư, mãi sau này ở với lính bộ binh chúng tôi mới được biết đến nhiều trường hợp phải "kiêng" thì mới "lành”. Đại loại "thịt chó, vịt, cơm khê...".


Chú Ba du kích đầy lòng nhiệt tình, hăng hái, dẫn chúng tôi đi suốt đêm, qua các vườn, lần sờ các bờ rào, bụi cây, khe đất cố công tìm kiếm nhưng không thấy anh Đê đâu, đành trở ra, về cứ khi trời sắp sáng. Chú Ba thở dài nói: Để tôi nhờ cơ sở hỏi một số nhà dân trong khu xem có ai nuôi giấu, hoặc chôn cất không? Tôi báo cáo tình hình cho Ban 2, ban chỉ đạo thôi không tìm kiếm nữa. Trường hợp anh Đê mất tích, theo lời Phụng kể lại thì trong lúc tiếng nổ liên hồi Phụng nghe thấy địch nói: "Có một thằng" và "Nó té rồi" nhưng không có tên địch nào rượt đuổi. Khi tiếng súng yên, Phụng còn nằm đó chờ mấy anh em đến cả tiếng đồng hồ nhưng không thấy ai ra mới trở về đơn vị và nghĩ rằng anh em đã hy sinh.


Sau đêm vào Tam Quan đó tôi được phân công phụ trách tổ trinh sát đi xuống phía nam, nhiệm vụ là dựa vào du kích bám nắm địch dọc phía tây đường số 1, đoạn từ bắc Bồng Sơn đến nam quận lỵ Tam Quan. Tổ được bố trí tại thôn Tấn Thạnh, xã Hoài Hảo.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Chín, 2021, 08:06:47 pm
Quãng trung tuần tháng 8 năm 1972, tổ trinh sát do tôi phụ trách lại trở về đóng tại thôn Hội An xã Hoài Châu. Tin từ anh Bảy cho biết có một gia đình ở xóm 21, thôn Mỹ Lộc đã mai táng anh bộ đội bị chết đêm 5 tháng 8 năm 1972 trong vườn của gia đình. Khi biết tôi về đây thì các tổ trinh sát khác đã rút lên núi.


Chúng tôi ở lại nhà má Trung, vườn nhà má chỉ có dừa, một số cây bị pháo địch phạt gãy. Dân ở lại làng rất ít, hàng ngày má đưa Trung lên Trảng Cát, má nói là để tránh "canh nông" (pháo của địch). Buổi tối hôm đó pháo địch bắn vào các xóm làng dọc theo chân dãy núi phía tây huyện Tam Quan, pháo bắn nhiều loại, nhiều thời gian hơn. Cứ của du kích thôn Hội An ở đâu tôi không được biết. Liên lạc với chúng tôi chủ yếu là chú Ba Truyền và hai cô du kích. Theo chú Ba giới thiệu thì hai cô đều là em út của chú, chú tự nhiên nói:

- Tụi nó đều là vợ lính ngụy, chạy theo quân lực đi hành quân trên miền cả năm chẳng thấy mặt, nay quê giải phóng chắc chẳng dám về.

Tôi hỏi nhỏ: Vậy hai cô như thế nào? - Tôi tránh nói đến việc sao các cô không như các gia đình khác chạy vào vùng địch.

Chú Ba thở dài: Con gái thời loạn khổ thế đấy, chúng nó có muốn theo chồng cũng chẳng được, biết ở đâu mà theo, ở đây có nhà, có cửa, có ông bà già, có anh em thì cứ ở lại mà làm ăn, đánh giặc giữ làng có sao đâu. Có lẽ vì suy nghĩ như vậy nên hai cô không hề e ngại bộ đội giải phóng. Một vài lần cô Bảy cùng tôi cải trang ban ngày tiếp cận quận lỵ Tam Quan và khu ga tàu hỏa, qua các cô chúng tôi mới dễ dàng nắm phiên hiệu các đơn vị đến, đi, những cuộc hành quân sắp diễn ra ở đâu...


Về ăn uống, có thể nói là thời kỳ bọn tôi được vỗ béo, cơm gạo trắng, thịt heo, gà, cá, đậu phộng để cả vỏ rang ăn thơm bùi bổ lắm. Đồ uống cả ngày là nước đen được rang vàng rất mát. Còn nước dừa thì cánh lính đã thấy ngán rồi. Một buổi sáng cuối tháng 8 nám 1972, từ phía biển Đông nghe có tiếng "ục ục” tiếng đề pa của pháo địch rồi những tiếng hú xé không khí xọet xoẹt của đầu đạn, rồi tiếng nổ ầm ầm của đầu đạn. Đại bác địch bắn vào các xóm làng xã Hoài Sơn, pháo bắn dồn dập lên các điểm cao trên dãy núi chạy dọc phía tây các xã Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Hảo. Tôi chợt nghĩ đến kiểu oanh tạc dọn bãi đổ quân của ngụy tại chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Quả thật như vậy, sau mấy chục loạt pháo cấp tập lên các điểm cao, xuất hiện những tốp trực thăng vũ trang, loại UH1B - UH1A quần đảo bắn phá dữ dội xuống các điểm cao. Trên cao mấy chiếc L19 và OV10 bay vòng vo quan sát không trung và mặt đất bị phá nát bỏi tiếng động cơ máy bay phản lực, tiếng nổ của bom, rốc-két, đại liên. Những chiếc trực thăng vũ trang dãn ra xa các cao điểm, thì liền đó từng tốp UH1A, UH1C phành phạch bay đến, chúng hạ độ cao xuống các điểm cao, những tên lính mũ sắt quần áo bó chẽn loang lổ nhanh chóng nhảy ra khỏi máy bay. Từ sáng sớm đến 12 giờ thì cuộc đổ quân của chúng đã hoàn tất, chúng không bị một trở ngại nào. Đóng quân trên các điểm cao của dãy núi phía tây, địch đã thiết lập một vòng vây từ bắc Bồng Sơn qua Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Sơn vòng ra phía đông đến đèo Bình Đê (đồi trảng), với ý định quét toàn bộ lực lượng chiến đấu của quân giải phóng đang tập kết tại huyện Hoài Nhơn ra biển Đông và tiêu diệt. Lực lượng địch gồm 2 tiểu đoàn biệt động quân của liên đoàn 21, đó là tiểu đoàn 78 và 79. Ngay buổi chiều hôm đó, chúng tổ chức tấn công xuống các thôn Liễu An xã Hoài Sơn, các xóm ở chân núi của các xã Hoài Châu và Hoài Hảo. Lực lượng địch đóng ở quận lỵ Tam Quan và khu ga tàu hỏa, đồi 9, đồi 10 cũng tổ chức hành quân ngược lên hướng núi, hai cánh quân áp lại phối hợp để thực hiện ý đồ tiêu diệt quân giải phóng nhưng chúng đã tính nhầm.


Hầu hết lực lượng bộ đội Sư đoàn 2 và Tiểu đoàn đặc công 40 Sư 3, bộ đội địa phương đã bí mật rút khỏi khu vực địch dự kiến càn từ trước loạt pháo dọn bãi đầu tiên. Địch bắn pháo, ném bom xuống đất trống không người. Cuộc truy lùng vào các làng thì vườn không, nhà trống, cơ bản không có sự kháng cự lớn nào. Các đội du kích xã Hoài Châu, Hoài Sơn và Hoài Hảo lẻ tẻ nổ súng tập kích nhanh vào đội hình địch. Gây tâm lý căng thẳng và hạn chế hành động đốt phá nhà cửa của dân.


Tôi không rõ ý định của trên đối với tổ của tôi như thế nào, nên xử trí tình huống rất lúng túng. Không có cách gì để liên hệ được với du kích. Việc trụ lại hay rút lên rừng suy tính mãi vẫn chưa quyết được. Du kích có thể nhận được thông báo rút hết lực lượng chủ lực lên cứ. Do vậy anh Bảy không cử du kích liên lạc với chúng tôi, cả ngày hôm đó tôi và anh em đi tìm du kích. Cứ nghe súng bộ binh nổ ở chỗ nào thì bám đến nhưng du kích không thấy, chỉ thấy lính ngụy. Hầu hết du kích đã rút ra các gò bãi hoang nơi có hầm bí mật thì phải. Chúng tôi ghé vào một nhà dân nơi bọn lính vừa đi qua, một chị 30 tuổi, đầu tóc rối bù vừa khóc than giọng đầy uất ức:

- Chồng, cha, con chúng tôi đi lính cho ông Thiệu, thế mà lính của ông Thiệu lại phá phách, hãm hiếp đàn bà con gái chúng tôi. Cả xóm này chỉ toàn đàn bà con gái, đứa nào không "dô" bộ đội ông Bảy thì ở nhà lần này chúng nó lùa đi hết. Chúng nó nói "để lọc du kích ra". Chị ta nghĩ một chút rồi nói tiếp:

- Tụi nhỏ bị bọn chúng bắt đi để giải trí đấy. Tôi đây nè, bụng chửa vượt mặt thế này mà nó có tha đâu, thằng mọi chết tiệt ấy nhăn nhở nói: "Đã mấy tháng nay không hề gặp vợ nên thèm lắm", vừa nói nó vừa sấn tới đè tôi ra, chẳng kể gì đến lời kêu xin, tụi nó đều một giuộc các em ạ. Là thanh niên mới lớn chưa hề biết con gái ra sao, nay nghe chị này kể chuyện bỗ bã quá, cánh lính ngượng đỏ mặt.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Chín, 2021, 08:49:47 pm
Không tìm được du kích, mất liên lạc với Ban 2, tôi quyết định cho tổ rút lên cứ. Chúng tôi đào nhiều hố trong vườn nhà má Trung để chôn giấu tư trang. Tôi dẫn tổ luồn qua các cụm quân địch (tối đó dừng lại ở thôn Liễu An, khu nghĩa địa tây Hội An) đi lên núi theo con đường mòn mà buổi chiều bọn lính từ trên núi xuống. Đi suốt đêm đến sáng thì chúng tôi cũng về đến cứ. Thủ trưởng Ngọc khẽ phàn nàn: "Sao không ai báo cho các cậu", thủ trưởng nói nhỏ - Địch định cất vó cơ quan tham mưu Sư đoàn 2 và các lực lượng ta tham chiến ở Hoài Nhơn. Chúng sẽ dừng lại sục mấy ngày nữa ở các thôn xã phía tây đường số 1, sau sẽ co cụm lại tại quận lỵ Tam Quan và tổ chức bảo vệ tuyến giao thông trên đường số 1. Tóm lại, cuộc hành quân của địch đang diễn ra không đạt được mục đích, không diệt được quân giải phóng mà cũng chẳng lập được tề xã. Dân người ta đi hết rồi, số ít còn lại thì bị đốt phá họ càng oán ghét, do vậy dân vẫn thuộc về ta. Thủ trưởng dừng lại giây phút rồi tiếp:

- Các cậu phải dựa vào dân, liên lạc với du kích, nhờ họ giúp để trụ lại dưới đó, phải bám theo dõi lực lượng của Tiểu đoàn 78 và nắm quy luật hoạt động của địch ở quận lỵ Tam Quan, khu ga tàu và đoạn giao thông đường số 1 từ Bồng Sơn đến nam quận lỵ Tam Quan, khi cần thiết có thể liên lạc với anh Pha ở đông đường số 1, hỏi du kích Tam Quan nam.


Hàng ngày cậu cử người mang báo cáo về "Hòm thư chết" là ngôi mộ cổ tại đầu thôn Liễu An. Ngôi mộ này có thể hiện trong bản đồ tỷ lệ 1:50.000, thủ trưởng chỉ vào bản đồ nơi ngôi mộ.

Ngay sau đó tổ xuống núi, đến thôn Liễu An rồi dừng lại. Trong khi chờ trời tối, tôi dẫn anh em đến nơi có ngôi mộ cổ và nói đây là chỗ gửi báo cáo hàng ngày trước 21 giờ.

Du kích các xã Hoài Sơn, Hoài Châu đang tổ chức chống càn ban ngày và quấy nhiễu địch vào ban đêm. Cách thức ban ngày luồn đánh trong các vườn nhà dân bắn tỉa vào các lính ngụy la cà kiếm chác, ban đêm dùng B-40, B-41 hay M-72 bắn vài quả vào chỗ chúng ngủ, hay lúc chúng xuống bếp lấy đồ ăn... làm địch hết sức căng thẳng. Tìm mãi chúng tôi mới gặp được du kích, lúc ấy mới thực sự yên lòng. Mọi sinh hoạt của tổ do du kích lo liệu. Cũng may nắng nóng đồng bằng có gió nên không có mồ hôi, đã vài ba ngày không tắm và không rửa mặt mà chẳng ai kêu ngứa. Các em gái chú Ba được phân công lo toan nơi ăn ở và bám nắm địch giúp chúng tôi. Điểm tạm dừng của tổ là một căn nhà bỏ trống, còn đủ tiện nghi. Nơi này cách nhà má Trung một đụm cát, tôi hiểu chỗ dụm cát kia là cứ của du kích Hội An nhưng không được biết nó thế nào. Thực ra căn cứ vững chắc và an toàn nhất của họ là lòng dân, còn chúng tôi dựa vào dân thông qua họ. Những ngày này thật bận bịu gần như suốt cả ngày đêm không chợp mắt, bọn biệt động ngày thì đi sục sạo hạn chế, tối lo du kích tập kích nên âm thầm di chuyển, có khi một đêm di chuyển hai ba lần, do vậy bám nó rất vất vả, không cẩn thận là mất hút luôn. Quanh khu vườn nhà của má Trung và vài hộ nữa địch trú quân, công sự làm rất cẩu thả, hố bắn nông choèn, thường lợi dụng gốc cây góc tường chập tối vào đây chúng tôi không thấy địch chỉ có công sự sơ sài và vỏ đồ ăn cùng rác rưởi bọn lính bỏ lại. Chúng tôi bám theo một bộ phận địch đến khi chúng dừng lại ở một khu vườn phía đông thôn Hội An, nơi tiếp giáp cảnh đồng lúa trống trải nhìn sang thôn Mỹ Lộc, quá nửa đêm quay lại khu nhà má Trung định sẽ nghỉ tại đó, bỗng nghe tiếng thủ pháo, lựu đạn B-40, B-41 nổ liên hồi. Tôi biết đó là kiểu đánh của đặc công. Không có tiếng súng của địch phản ứng, có thể địch chủ yếu dùng lựu đạn chống lại ta. Tôi dẫn tổ rẽ sang xóm bên trái khu chiến sự để nghỉ. Sáng dậy tôi và Lập theo các vườn cây bám đến khu đêm qua đụng độ bọn địch ở đây đang bắt đầu rút khỏi vị trí về phía đông, phía đồi 10, bám theo sườn cánh quân này đến chiều tối chúng nhập vào lực lượng đóng tại quận lỵ Tam Quan. Chúng tôi trở về kiểm tra khu địch rút đi hồi sáng, khoảng 17 giờ, thấy cảnh rất đau lòng, thì ra đêm qua một mũi đặc công gặp địch, 10 đồng chí hy sinh nằm rải rác trong khu vực này. Tất cả anh em ở trần, quần xà lỏn, vũ khí đã bị địch mang đi, cổng nhà má Trung có một ông già nằm úp mặt xuống đất, có lẽ lúc đó ông đang chạy, con bò nhà má Trung cũng bị trúng đạn chết gần giếng nước. Má Trung đang khóc than lo thằng nhỏ có sao không. Từ sáng đến giờ không thấy nó đâu. Tôi tìm chú Ba Truyền nhờ dân lo giúp việc chuẩn bị mai táng các chiến sĩ, không thể biết họ là ai, quê ở đâu, đơn vị nào. 409 hay D40-F3? Bà con xóm Hội An đã bó chăn chiếu ni lông cho chiến sĩ, anh em được đưa về sân nhà má Trung. Tôi đang lúng túng về việc chôn hay đưa đi đâu? Đang băn khoăn thì Lập đưa đến một đồng chí bộ đội. Lập phát hiện anh này lấp ló ở bờ ruộng, bờ ruộng có những cây dứa, cây duôi um tùm, tạo ra chỗ ẩn nấp kín đáo. Đồng chí này là một trong 11 anh em đơn vị đặc công đánh địch hồi hôm. Đồng chí kể:

- Chúng tôi thuộc Tiểu đoàn 409 đặc công Quân khu 5, nhiệm vụ bám địch và tổ chức đánh ngay. Suốt cả tối tìm không thấy địch ở đâu, lúc quay về thì bất ngờ đụng ở đây. Địch phát hiện ta trước nhưng chúng nằm yên ném lựu đạn ta phụt B-40, B-41 mong địch nổ súng, ta sẽ phát hiện để tiêu diệt, nhưng chúng không làm vậy, khoảng 10 phút tiếng nổ im, tôi rút ra bờ ruộng nằm đó vì không có tín hiệu gì của đồng đội. Buổi sáng thấy địch ở đó khá đông, tôi biết hôm qua chúng tôi không diệt được địch mà ngược lại bị thiệt hại nặng. Tôi không rõ tình hình ở đây nên đành nằm cả ngày chờ tối đến sẽ tìm đường về Liễu An.


Khi tôi chỉ vào các chiến sĩ tử trận, anh lính run rẩy lẩm bẩm: "Mũi của tôi có 11 người”. Tôi bất giác bực mình với anh lính này, càu nhàu:

- Kể ra cậu phải liên lạc với du kích, hay ngó xem chỗ đánh nhau ban đêm như thế nào chứ.

Nghĩ rằng chê trách anh chàng này chẳng ích gì, tôi bảo:

- Bây giờ đồng chí chạy ngay về đơn vị báo cáo chỉ huy cho người đến đưa anh em đi mai táng, cám ơn bà con xin để đơn vị đến đón anh em đi.

Tôi ngồi viết báo cáo Ban 2, bên cạnh 10 đồng đội thân yêu đang nằm ngủ, không sợ hãi hay đau thương bi lụy. Các cậu Lập, Bé, Thảo mỗi đứa ngồi một chỗ mắt đỏ hoe, mọi lúc chúng vui vẻ hồn nhiên là vậy thế mà giờ đây đứa nào cũng như người già.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Chín, 2021, 08:51:49 pm
Tôi viết xong báo cáo, cử Thảo về Liễu An bỏ thư theo quy định, dặn Thảo nơi ở mới là trại du kích thôn Tấn Thạnh xã Hoài Hảo. Báo cáo đại ý:

Liên đoàn biệt động quân đã hoàn thành cuộc càn quét, hai cánh quân đông tây đã hợp lại ở các thôn Mỹ Lộc, Hội An và Tấn Thạnh. Nay chúng đã cụm về các điểm: đồi 10, đồi 9, vườn quýt, quận lỵ Tam Quan và ga tàu hỏa, địch cơ bản không gặp sự kháng cự nào đáng kể nên không bị thiệt hại gì. Ban ngày địch tổ chức các toán hành quân an ninh kết hợp với trinh sát đường không để phát hiện, ngăn chặn ta. Chúng chú ý hành lang hai bên đường số 1 đoạn từ Bồng Sơn đến Tam Quan. Nơi ở đồn trú ban đêm thường phân tán ra các bờ bụi trong vườn cây, bí mật chỗ ở. Ta rất khó phát hiện, khi phát hiện ta, chúng không nổ súng bừa bãi, chỗ nào chúng phát hiện ta thì ném lựu đạn gây sát thương. Bám địch phải rất sát vì địch hay di chuyển, đánh đặc công vào đối tượng này không hiệu quả. Tổ đã rời địa điểm đến thôn Tấn Thạnh.


Sau khi 409 có bộ phận chính sách đến nhận các liệt sĩ, chúng tôi liền hành quân về phía nam, đến Tấn Thạnh thì trời cũng hừng sáng. Trại du kích là một khu vườn hoang, có một căn nhà trống trơn toàn cột là cột. Đợi trời sáng, một cô gái tên là Thuẫn đưa cả tổ về nhà cô. Má Thuẫn là một người đàn bà trung tuổi, có lẽ Thuẫn là con đầu. Cô chừng mười chín, đôi mươi, cậu em trai Thuẫn tên là Tâm chừng mười sáu tuổi cũng là du kích. Không thấy ông bố, vùng này hầu như nhà nào cũng có người đi quân dịch. Nên bộ đội chúng tôi hầu như được dặn dò nên kiêng việc thăm hỏi các đức lang quân, mà cả nhà cấm thấy ai nhắc đến ông bố bao giờ.


Nhà Thuẫn có vườn khá rộng, rất nhiều dừa, vườn cây củ mì không ai thu hoạch mặc dù đã quá lứa nên có phần kém xanh tốt, lá cây vàng và thưa. Căn nhà lớn làm bằng gỗ, loại gỗ gì không rành nhưng cứng cáp, vững chắc, kiểu nhà gỗ của dân miền Trung Bắc Bộ, nhà ba gian, cửa gỗ có gian giữa, lợp ngói, gian giữa là một bàn thờ, trước bàn thờ một chiếc sập gỗ chẳng rõ lim hay gụ dày một tấc gồm hai tấm có bản một mét ghép lại, mặt sập đen bóng, hai gian bên không có giường chiếu gì, để toàn bao tải đựng đầy thóc. Nhà ngang nhỏ hơn, kiểu nhà có rất nhiều cột tre, một chiếc chõng tre, một võng ni lông mắc sẵn vào hai cây cột cạnh chiếc chõng. Sân lót gạch vuông khá rộng. Bà má đi làm đồng, đang mùa gặt. Trưa tối bà nấu cơm cho chúng tôi ăn. Mấy ngày đầu, ban ngày cả tổ đi bám địch, tối đến lại đột nhập vào các khu vực địch dừng lại để sẵn sàng phục vụ bộ đội đánh địch, nên quân dân chẳng mấy khi gặp nhau.


Sau một tuần, Ban 2 chỉ thị chủ yếu bám và theo dõi địch hoạt động trên đường, không đột nhập nữa, thành ra mới có dịp chuyện trò với gia chủ. Cánh lính chúng tôi nói năng vụng về, ngôn ngữ chưa thật thông hiểu, hơn nữa cô Thuẫn chủ nhà có vẻ nghiêm nghiêm nên tôi vốn dĩ đã "hà tiện" nói cười nay càng được củng cố. Đến với chúng tôi cùng Thuẫn có cô Nhạ, Thuẫn giới thiệu "chị Nhạ" là chủ tịch phụ nữ, tôi quen miệng gọi các cô là chị tuốt, không chú ý gì đến thái độ của người nói chuyện, vì chủ yếu là công việc, thật tự nhiên và vô tư. Vài buổi nghỉ ở nhà, mẹ và em trai Thuẫn đi gặt ngoài đồng, gần trưa thì chuyển các bao lúa về sân. Thuẫn phơi số lúa này, tôi giúp Thuẫn phơi hong lúa, chuyện trò vui vẻ, có lúc chạy mưa dọn một sân lúa bở hơi tai. Tuy mệt nhưng đã được sống lại những ngày cánh bạn cùng học đập lúa của hợp tác xã ở sân kho. Nhìn Thuẫn mải mê với công việc, tôi bỗng so sánh con gái quê, chị em mặc quần đen, áo nâu, khăn vuông bưng bít kín mặt, chỉ lộ có đôi mắt, chân tay đều quấn xà cạp, mọi người chú trọng giữ gìn da dẻ lắm, còn Thuẫn ở đây như mọi người nên lúc đi làm đồng vẫn vận áo quần sắc màu rực rỡ, sáng láng gần như tuyệt đối không có gam màu đen. Thuẫn hay mặc chiếc áo màu mỡ gà, kể ra tôi cũng phải có đôi lời gì đó với Thuẫn thì mới phải đạo, đằng này do tính hòi hợt, vốn sống ít ỏi, chúng tôi cứ vô tư nhận vô số những điều tốt lành ưu ái của Thuẫn và gia đình. Quả thật, chúng tôi rất ít khi nói chuyện với mọi người trong nhà. Buổi tối, tôi, Lập, Bé, mỗi đứa ngủ một chỗ để tránh rủi ro vì địch đêm hay nã pháo vào làng xóm nhưng mấy đứa này chẳng bao giờ thực hiện nghiêm mệnh lệnh. Chúng "sợ ma" nên nửa đêm cụm lại ngủ chung với nhau. Tôi thì hôm nào cũng nằm ở nhà trên. Thảo thường xuyên đi báo cáo nên hầu như không ngủ ở nhà. Một buổi đang phơi thóc ở sân Thuẫn nói:

- Từ rày nếu ai gọi chị không thèm thưa đâu.

Chỉ có một mình tôi ở đó nhưng vì chậm hiểu nên tôi lo lắng hỏi:

- Ai cơ?

- Hôm rồi em hỏi chuyện nhà một anh bộ đội, anh ấy kể: "Em có hai con cháu lớn học lớp 1, cháu nhỏ "lúc em đi" còn trong bụng mẹ.

Tôi ngơ ngác có vẻ không hiểu: thế thì có liên quan gì đến câu chuyện mà Thuẫn phải bực mình. Thuẫn nhìn tôi có vẻ bực mình nói:

- Các anh kỳ thấy mồ, nói chuyện với con gái nhỏ tuổi hơn mình mà cứ một đều "em" hai điều "em" lại còn gọi người ta là chị nữa, làm "rị" (xấu hổ) muốn chết đi được.

Tôi cũng hiểu ra rằng mình cũng không nên "lịch sự" gọi Thuẫn bằng chị nữa. Tuy nhiên, gọi "em" xưng "anh", cứ anh anh, em em và con gái mà họ không phải là em mình thì thấy ngượng, từ khi trở thành người "lớn", quả là chưa bao giờ tôi đối thoại với người bạn gái mà xưng hô như vậy, rời trường phổ thông vào ngay quân ngũ, rồi gấp gấp đi chiến trường, mấy khi có dịp gặp chị em đâu, nên chúng quen cách nói, gọi thật bình thường ấy. Nhớ lại ngày học cấp III, có một lần trong buổi học tối, H. "nhỡ” miệng gọi "anh Chiến" để bọn bạn gái nghe được, chúng chế cho ngượng tái người, hai đứa gần như phải tránh mặt nhau hàng tháng đấy thôi. Những ngày sau đó tôi chỉ gọi Thuẫn khi nói chuyện. Lúc đông người có cụm từ "cô Thuẫn", xem ý cụm từ "cô Thuẫn" chẳng làm Thuẫn ưng ý tý nào. Ở nhà Thuẫn gần nửa tháng, chúng tôi được chiều chuộng, tôi mập đen đến nỗi anh Thoại ở núi xuống phải buột miệng nói:

- Coi cậu y như quả sim chín vậy.

Một buổi tối Thuẫn nói với tôi:

- Hôm nay anh ngủ ở đây. - Cô chỉ vào chiếc võng treo toòng teng bên cạnh chiếc chõng và nói tiếp: - Em ngủ ngoài cứ.

Tối đó tôi bảo hai cậu: Lập và Bé lên nhà trên mà ngủ nhỡ khi có pháo là phải dậy để xuống hầm đấy.

Treo mình trên võng tôi đi vào giấc ngủ ngon lành, giữa đêm trở mình, tôi đưa chân lên chõng thì đặt phải một thân người, hơi giật mình, nhấc nhẹ chân ra hỏi ai đấy! - Thuẫn cầm chân tôi nói giọng rất xúc động:

- Em lên cứ, các ảnh đã bố trí người khác rồi nên em về. Thấy anh đã ngủ, em nằm đỡ, không đánh thức thành ra...

Quả thực tôi rất lo lắng, hồi hộp, người cứ ran lên như bị kiến cắn, tim đập như búa gõ, thở hổn hển. Nhớ đến mấy ngày trước đây có mấy cô du kích trêu đùa chúng tôi, Thuẫn đã khuyên can các bạn:

- Thôi đi, không các ảnh lại đánh giá con gái "dùng địch” (vùng địch).


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Chín, 2021, 08:52:48 pm
Nhờ điều đó tôi hiểu trong các cô gái và nhân dân ở đây, họ đánh giá rất cao tính nghiêm túc "thánh thiện" của bộ đội đối với phụ nữ. Có lẽ ý nghĩ ấy đã thúc đẩy, để tôi quyết định đặt bàn chân xuống đất, ngồi dậy bình tĩnh nói chuyện với Thuẫn. Tôi hỏi: - Má và cậu Tâm đi đâu? - Thuẫn nhỏ nhẹ - Mọi khi ngủ cả đây. Sáng qua mẹ và Tâm đi công chuyện, ngày mốt mới về, anh cứ nằm ngủ đi. Tôi nói tôi đi xem mấy cậu ngủ nghê ra sao và lên nhà trên chui vào giữa hai thằng em co quắp ngủ như chết giả, nghĩ ngợi mông lung rồi thiếp đi lúc nào không hay. Cả ngày hôm đó tôi không làm sao gặp được Thuẫn, rất băn khoăn vì tối nay chúng tôi phải chuyển nơi tập kết, đến ở tận chân đèo Nhông. Đi mà không có lời chia tay, lại trong hoàn cảnh hồi hôm chắc sẽ làm Thuẫn hiểu lầm, sẽ đau khổ lắm, đã đến lúc phải đi, Thuẫn vẫn chưa về... Từ đó tôi không có dịp nào gặp Thuẫn nữa. Tuổi trẻ sôi nổi bồng bột, dại khờ nếu làm ai buồn lòng cũng mong được lượng thứ, chỉ biết và ghi nhớ một điều chắc chắn rằng ở nơi đó chúng tôi đã được thương yêu, chăm sóc chu đáo nhất.


Đơn vị bộ đội huyện Hoài Nhơn tập kết ở khu vườn nhà dân không có người ở. Cây dừa và các loại cây khác mọc um tùm tạo ra một khu vực kín đáo, bên cạnh trại con đường đất đỏ xe ô tô chạy được. Con đường song song với dãy núi phía tây huyện Hoài Nhơn nối liền các xã Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Hảo đến đường số 1 gần đèo Nhông. Phía tây đường là những cánh đồng đậu phộng xen lẫn các cồn cát chạy dài đến chân dãy núi. Hai chiến sĩ bộ đội huyện dẫn chúng tôi đi địa hình các làng xóm phía đông đường đất đỏ đến khu vực đèo Nhông, bên kia trinh sát Sư đoàn 2 có một tổ do anh Pha phụ trách cũng có nhiệm vụ bám trục giao thông, chưa có việc gì để liên hệ với anh Pha, các trinh sát ở nhóm anh Pha về báo cáo cũng không qua chúng tôi, các tổ báo cáo đều phải trực tiếp không truyền qua trung gian. Trên đường hành tiến tôi luôn bận tâm đến chiếc L19 i ỉ vòng vo mãi trên đầu. Sao mà nó bay dai đến thế, cứ vòng đi vòng lại dọc đoạn đường từ đèo Nhông về Tam Quan. Quãng 10 giờ chúng tôi đến một khu vườn, trong vườn có ngôi nhà nhỏ, cây chỉ toàn là mì ngăn cách với vườn nhà khác. Phía chúng tôi đến là một bờ rào thép gai, phía đông nam vườn là cánh đồng lúa nhìn thông thống sang đường số 1 không bị che chắn gì, vào vườn nhà này ngó qua đường 1 thấy có xe và bộ binh địch đang hành quân về quận lỵ Tam Quan, mới rõ chiếc L19 trên đầu kia có nhiệm vụ an ninh cho đội hình hành quân. Căn nhà ở giữa vườn không có người. Vào trong nhà thấy có bình tách nước đã pha trà, tôi nghĩ ngay nhà này có người trước khi chúng tôi đến. Tôi phân công anh em ra chiến hào bên phải căn nhà để quan sát đường số 1, đồng chí Hoằm ra đoạn hào sau nhà để cảnh giới. Tôi và Thảo theo hào đi vòng sang bên trái căn nhà, vừa nhô ra khỏi chỗ gấp khúc của con hào thì bất ngờ nhìn thấy một lính ngụy đang lom khom, tay lăm lăm khẩu súng đi trên mép đường hào, bốn mắt gặp nhau đột ngột, hắn vội lăn xuống hào nên cũng không nổ súng được. Tôi hô rút mau và quay lại đoạn hào gấp khúc nhanh chóng vận động về chỗ đồng chí Hoằm đang cảnh giới để vượt qua bờ rào kẽm gai theo đường cũ về chỗ đồng chí du kích. Hoằm là người vượt qua hàng rào sau cùng. Như đã định thần lại, súng địch nổ loạn xạ, cả AR-15, M-19, lựu đạn và cối 61 thi nhau xả về phía chúng tôi, thì ra căn nhà trên mảnh vườn đó chính là một tổ chốt an ninh để bảo vệ sườn phía tây cho lực lượng chính hành quân trên đường số 1. Có thể bọn địch phát hiện chúng tôi trước, chúng định lừa để bắt hoặc tiêu diệt gọn tổ trinh sát, trong lúc rút, có lẽ lúc nhảy qua hàng rào, ống quần của tôi mắc vào dây thép nên bị xé toạc ra đến háng, hai dép cũng bị tung rơi mất. Chúng tôi ghé vào một nhóm bộ đội địa phương khác nghỉ chờ tối sẽ tiếp tục bám nắm lực lượng địch mới kéo về Tam Quan. Tôi viết báo cáo, đồng chí Bé mang về Liễu An, trút chiếc quần rách bươm ra nhờ cô bộ đội địa phương vá giúp rồi lên sạp đắp chiếu ngủ. Quãng 14 giờ cô gái gọi tôi dậy, đưa tôi chiếc quần đã giặt sạch vá lại lành lặn, cô cười, mời tôi đi ăn bánh xèo.


Bánh xèo làm bằng bột gạo xay nhuyễn, nhân bánh có tôm, thịt heo, và vài thứ gia vị băm nhỏ. Bột và nhân bánh được đổ lên chảo mỡ nóng từng muôi một tạo ra tiếng kêu xèo xèo, có lẽ vì thế mà người ta gọi là bánh xèo chăng? Cứ tráng đến đâu ăn đến đó, bánh nóng không cẩn thận có thể bỏng lưỡi, xung quanh năm người lần lượt nhận bánh từ cô đầu bếp cứ luôn tay, ăn thật no thì mất cả tiếng đồng hồ. Đêm đó khoảng 20 giờ, trăng sáng nhẹ, tôi định bụng nghỉ ngơi một chút sẽ cùng anh em địa phương đi tìm hiểu bọn địch mới đến ga tàu hỏa ngày hôm nay. Trong lúc anh em đang tán chuyện phiếm thì thấy đồng chí Tiến dẫn một tổ trinh sát đến đơn vị bộ đội địa phương tìm. Tiến truyền đạt lệnh của Ban 2 giao nhiệm vụ cho tổ tôi về ngay khu vực quận lỵ Tam Quan để phục vụ Tiểu đoàn 15 công binh tổ chức chiến đấu đánh địch ngay trong đêm.


Đồng chí Đình tổ viên, đảng viên trong tổ đồng chí Tiến nói với tôi:

- Nếu chúng tôi không gặp được đồng chí thì chúng tôi sẽ trực tiếp phục vụ Tiểu đoàn 15.

Tiến dẫn chúng tôi về Hội An gặp anh Tuyên tiểu đoàn trưởng. Đoàn cán bộ Tiểu đoàn 15 do anh Tuyên phụ trách có các đồng chí tham mưu trưởng, các đại đội trưởng, B hỏa lực. Bộ phận trinh sát tiểu đoàn do Đoạt phụ trách và hai chiến sĩ là Tường và Giang, ba đồng chí đều là đồng đội của tôi từ ngày huấn luyện tân binh ở Cổ Thành, Chí Linh. Từ khi vào chiến trường tới nay mới có dịp cùng nhau làm nhiệm vụ, ngoài tình đồng ngũ còn có tình đồng hương chúng tôi rất vui mừng thấy bạn mình vẫn mạnh khỏe cùng đơn vị chiến đấu qua nhiều chiến dịch.


Anh Tuyên nói với tôi:

- Rất mừng gặp được các cậu, vì các cậu bám địch ở đây đã lâu, quen địa hình, theo ý định của sư đoàn khi xác định rõ mục tiêu địch ở chỗ nào là tổ chức đánh ngay.

Trong thời gian gần đây tôi thấy kiểu đánh mật tập của đặc công không hiệu quả, địch không bị tiêu diệt, còn ta bị thương vong nhiều, tâm lý bộ đội đặc công lo lắng, ngại đánh. Bổ sung vào tổ trinh sát của tôi có anh Dũng B phó, cậu Dũng trố và Thao. Đoàn chuẩn bị cho trận đánh chia thành hai nhóm ém bám sát nơi địch tổ chức trận địa phòng ngự trong quận lỵ Tam Quan.


Tôi, Lập, Thảo phục vụ nhóm cán bộ, Doanh, Tuyên phụ trách, trinh sát tiểu đoàn đi cùng là cậu Giang. Bộ phận cán bộ các bộ phận hỏa lực do anh Long tiểu đoàn phó phụ trách kiểm tra địa hình, lựa chọn các vị trí bố trí các trận địa hỏa lực do anh Dũng phụ trách tổ trinh sát phục vụ.


Nhóm chúng tôi lần mò vào khu vực địch phòng ngự. Địch không xây đắp lô cốt, không lợi dụng các căn nhà để làm công sự và nơi ngủ nghỉ. Chúng phân tán ra các vườn cây, đào công sự hình vòng tròn quay lưng vào nhau. Tôi dẫn anh Tuyên bí mật xác định từng vị trí cụ thể. Xong việc, chúng tôi lui ra chỗ hẹn chờ đồng chí Dũng.


Bỗng từ phía địch có tiếng lựu đạn nổ, hai trái liên tục, sau đó một loạt AR-15 kéo dài rồi im bặt. Vài phút sau thì Dũng, Bé cùng mấy cán bộ Tiểu đoàn 15 chạy ra. Anh Tuyên lo lắng hỏi:

- Còn hai cậu trinh sát của tớ đâu?

Tôi và Lập vội tiến ngược hướng anh Dũng vừa chạy ra về phía lựu đạn nổ thì gặp cậu Tường. Tường áp vào tôi hổn hển:

- Tớ bị vào ngực.

Tôi sò vào nơi máu chảy nong nóng đang rỉ ở ngực và sau lưng nó, viên đạn xuyên thấu phổi. Tôi bảo Lập dìu Tường ra chỗ các anh rồi tiếp tục đi vào kiếm Đoạt. Lom khom dưới những gốc cây mì kiểu đi hú họa chứ đâu có biết Đoạt nằm ở chỗ nào, đến chỗ có mùi thuốc nổ nồng nặc tôi nằm xuống để tìm kiếm, khi chạm vào Đoạt, thấy cẳng chân còn ấm, nghĩ Đoạt chưa chết, bấm mạnh hai cái vào cổ chân nó, nó mới chịu nhúc nhích lùi lại. Đoạt thì thào tiếng gió: "Có địch gần, không rõ chỗ nào nên đang xác định hướng ra”. Đoạt theo tôi bò ra đến bờ ruộng, cảm thấy an toàn liền đứng dậy tìm về chỗ anh Tuyên đang chờ. Các anh đã cáng Tường đi cấp cứu, Đoạt không hề gì, kể sơ lược là:

- Hai đứa mình bò vào một căn nhà, khi thấy ba lô đồ đạc của ngụy nhưng không thấy người. Thằng Tường liền ù té quay ra, địch phát hiện ném lựu đạn và nổ súng. Tớ thấy lựu đạn nổ thì lăn ra, bò một đoạn, khi địch thôi không bắn súng, mình nghe ngóng xem chúng có đuổi theo lùng sục gì không. Khá lâu thấy yên, đang xác định xem lui ra hướng nào thì thấy có người sờ vào chân, nghĩ là địch nên định giả chết chứ ai ngờ anh em mình vào tìm.

Anh Tuyên lúc sau mới lên tiếng:

- Các đồng chí trinh sát của sư đoàn về ngay vị trí công tác của mình.

- Tiểu đoàn sau đây sẽ chuẩn bị để mờ sáng sẽ tấn công bọn địch này.

Nhóm trinh sát chúng tôi vừa về đến cứ của bộ đội địa phương ở Hoài Hảo thì được lệnh rút ngay về cứ, đi suốt đêm đến đơn vị cũng vừa sáng, cùng đơn vị hành quân gấp sang Quảng Ngãi.

Đợt công tác ở bắc Bình Định có một chuyện ở đoàn công tác do anh Trần Ngọc Pha phụ trách, nhóm này hoạt động ở Tam Quan đông nam đường số 1, có đồng chí Hoằm là người dân tộc Mường, trắng trẻo, đẹp trai, khi ở với dân có một bà má nhận Hoằm làm con nuôi, lúc rút ra Quảng Ngãi bà má tặng Hoằm một chiếc đài Nationna loại 3 pin, khi tổ hành quân suốt đêm qua đường 1 lên đến chân dốc cửa rừng ở xã Hoài Sơn thì Hoằm khoe với anh em là được tặng một chiếc đài, nghe vậy anh Pha yêu cầu Hoằm quay trả lại chiếc đài cho dân rồi đuổi theo đơn vị kịp trong ngày hôm sau. Đồng chí Hoằm đã thực hiện đúng như anh Pha nói, trở về đơn vị an toàn.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Chín, 2021, 09:43:17 pm
Mộ Đức - chiến dịch hè thu 1972.

Nơi tập kết của đại đội trinh sát sư đoàn nằm ở vùng rừng núi thuộc các xã Đức Phú, Đức Hòa huyện Mộ Đức - Quảng Ngãi. Tổ tôi được giao phục vụ cho Trung đoàn 1 chuẩn bị đánh cụm địch ở quận lỵ Mộ Đức.

Các cụm chốt của địch ở phía tây quận lỵ là đồi 56, Thiết Trường, Dân Vệ. Địch vẫn đứng chân nhưng ban đêm không còn thắp điện nữa. Những thắng lợi của quân dân Quảng Trị - Thừa Thiên và hoạt động mạnh của quân dân Bình Định làm cho địch phải căng thẳng đề phòng. Đợt phục vụ này chủ yếu đảm bảo cho ban chỉ huy và các cơ quan trung đoàn nghiên cứu địa hình. Lựa chọn trận địa xuất phát tấn công vào quận lỵ của hướng chủ yếu.


Buổi đầu tiên, các đơn vị phối thuộc với Trung đoàn 1 tiếp cận các mục tiêu đồi 56 và Thiết Trường.

Đoàn cán bộ T-10 có anh Xẻ đại đội trưởng tìm gặp tôi, anh tự giới thiệu là bạn của Vũ Tuyết Trung, anh biết tên tôi vì nghe Trung kể cùng làng có Chiến đang công tác ở đại đội trinh sát sư đoàn. Sau lời tự giới thiệu, anh thông báo Trung đã hy sinh trong chiến dịch Kon Tum. Anh Xẻ kể:

- Đơn vị tớ sau khi đánh vào biệt khu 24, nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực nhưng không đủ sức tấn công tiếp sang các khu vực của thị xã. Đơn vị và một số đơn vị bộ binh khác kẹt lại trong biệt khu, tổ chức chống địch tái chiếm mấy ngày giành giật ở khu sân bay, hầu hết anh em thương vong. Ta cản địch trong thế bất lợi. Xe tăng địch đứng cách ta gần 1.000 mét, nã ĐK-100 vào từng công sự. Còn ta B-40, B-41 là súng chống tăng duy nhất, còn đạn thì cách địch quá xa không bắn tới chúng, bãi trống không thể vận động sát địch.

- Em không ngờ mấy hôm đó em chiến đấu bên canh Trung, bọn em ở phía sau phòng tuyến của T-10, nhìn anh em bị tàn sát mà chẳng có cách gì ứng cứu được, vậy Trung hy sinh như thế nào?

Anh Xẻ trầm tĩnh nói:

- Trung bị thương, mảnh ĐKZ làm gãy cẳng chân, vết thương chẳng nặng lắm nhưng cậu thấy đấy, có mấy đứa thì hy sinh dần. Số bị thương tự băng bó cho nhau, chờ đến tối mới có thể đưa qua bãi trống của sân bay để chữa chạy, trời thì mưa lai rai như thế. Khi đưa được nó về phẫu tiền phương đã mất mấy ngày. Vết thương bị hoại tử, phẫu K-38 cắt lần thứ nhất, giữ lại cái đầu gối nhưng không ổn, lại phải cắt tiếp lần thứ hai lên sát háng. Lần sau Trung không chịu được, đã hy sinh ngày 10 tháng 6 năm 1972.

Anh Xẻ ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Trung nó hiền lành, gan lắm, còn sống anh em tâm sự, nó có cô ngươi yêu tên là Mền. Tuy nhiên, lúc đó hai bên gia đình không biết, bạn bè cũng vậy. Bây giờ nó hy sinh rồi, cậu viết vài dòng về để cô ấy biết, lo liệu cho cuộc sống riêng. Hình như nó linh cảm sẽ ra đi sao ấy nên trước khi vào chiến dịch Kon Tum tự nhiên nó nói mọi chuyện cho tớ nghe.


Nghe anh Xẻ tôi cũng có gửi một lá thư về nhà, có nói đến việc Trung hy sinh nhưng bức thư đó gia đình tôi không nhận được. Đến tháng 4 năm 1975, lúc tôi ở chiến trường về mới báo tin nhưng hình như Mền không tin vào sự thật đó.


Tổ công tác do tôi phụ trách có Lập, Thuần và Thuy. Thuy là lính mới được bổ sung về đại đội mấy hôm nay. Thuy mới ở đơn vị huấn luyện miền Bắc vào, cậu tá người nhỏ thó, ở tuổi mười tám cậu đáng lý phải nhanh nhẹn, vui vẻ mới hợp, đằng này cậu ta có vẻ "yếu" nữa và tôi thì lại không thích các chàng trai có vẻ "yếu" như vậy. Buổi tối chuẩn bị dẫn đoàn cán bộ E1 vào thị sát quận lỵ Mộ Đức, tôi cho Thuy ngồi lại đài quan sát và dặn cẩn thận:

- Cậu chờ ở đây, khi có cán bộ vè qua thì theo họ về nơi tập kết nghỉ trước đi nhé.

Thuy khẽ gật đầu, không nói gì thêm. Tôi, Lập, Thuần dẫn đoàn cán bộ Trung đoàn 1 do đồng chí Phạm Xưởng, trung đoàn trưởng dẫn đầu, nghiên cứu địa hình, xác định hướng đường hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công. Xác định nơi bố trí hỏa lực đi cùng, bố trí trận địa xuất phát tấn công của bộ binh trên hướng chủ yếu. Xác định cửa mở đánh chiếm lô cốt đầu cầu trên hướng chủ yếu vào quận lỵ Mộ Đức.


Các hướng tấn công thứ yếu của Trung đoàn 1 do bộ phận trinh sát khác phục vụ. Đoàn cán bộ Trung đoàn 1 vòng xuống phía nam đồi Dân Vệ, vòng sang sườn đông của đồi này. Anh Xưởng hướng dẫn cho chỉ huy các bộ phận nghiên cứu địa hình để xác định các vị trí chiếm lĩnh.


Khu vực này là làng cũ, dân đã bị dồn vào các ấp hay trong thị trấn. Vườn hoang lâu ngày cây cối mọc um tùm, cây ăn quả chủ yếu là mít, ngoài ra còn có các loại cây khác đặc biệt dưới đất rất nhiều chùm gai sắc nhọn. Loại gai xóc vào chân rất ngọt rồi gãy ra, lính trinh sát và cán bộ đi chân đất làm mồi cho loại gai này.


Anh Xưởng bảo tôi dẫn anh vào sát hàng rào ngoài cùng ở phía tây nam quận lỵ. Chúng tôi đi qua một đám ruộng nước. Hàng rào dây thép gai của địch bố trí ngay trên bờ cao của vạt ruộng này. Từ hàng rào vào bên trong nằm trên một dáng đất cao hơn triền ruộng chúng tôi vừa đi qua một mét, bên trong còn nhiều hàng rào phân chia giữa các khu. Qua ánh điện từ ngoài tôi nhìn vào bên trong thấy rõ các mục tiêu dễ dàng, tuyến lô cốt nằm ngoài là bê tông đúc sẵn. Anh Xưởng đứng quan sát hồi lâu rồi bảo:

- Ta ra thôi, các cậu xong việc rồi đấy.

Tôi và anh trở lại chỗ các đồng chí cán bộ đang chờ anh Xưởng, đoàn cán bộ trở về nơi tập kết an toàn.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Chín, 2021, 09:44:24 pm
Cũng như tổ tôi, các tổ khác đã hoàn thành nhiệm vụ, rút về nơi tập kết của đại đội trinh sát nằm ở hạ lưu con suối lớn. Phía thượng lưu là "núi Lợn" nơi Bộ tư lệnh Sư đoàn làm sở chỉ huy. Buổi trưa ngày hôm sau, lúc 11 giờ, chúng tôi chuẩn bị lấy cơm về các hầm thì có lệnh: "Mọi người mau xuống hầm, chú ý cảnh giới". Ai trong chúng tôi cũng hiểu rằng mình nằm ở khu vực B-52 sẽ rải bom. Nguồn tin này do trinh sát kỷ thuật của ta nhận được khi chỉ huy không quân Mỹ hạ lệnh cho B-52 rải thảm. Tin này bao giờ cũng chính xác. Chúng tôi ngồi dưới hầm hồi hộp vô cùng. Bầu trời miền Trung mùa thu xanh ngắt, không gian yên lặng đến ghê người, không có tiếng người, chỉ có những tiếng thở của đồng đội và tiếng đập của tim mình. 5 phút, 10 phút, 15 phút, vẫn chưa có tiếng nổ. Có đồng chí cho rằng tin không chính xác nên ra khỏi hầm. Đồng chí Bờ và Toan anh nuôi đã ra nhà bếp để chuẩn bị phát cơm cho các hầm. Tôi đang nhoài người ra khỏi hầm, khi ngửa mặt lên nhìn về hướng tây thấy có 9 vệt khói trắng, những dòng khói bắt đầu cong chếch phía đỉnh đầu về phía nam, biết B-52 đã cắt bom xong vòng quay lại. Tôi la lớn "Bom B-52 đấy" và thụt vội vào hầm. Lúc đó tiếng hú xé không khí của những trái bom ào ào và liên tiếp những tiếng nổ ầm ầm inh tai nhức óc, mặt đất rung lên bần bật, cây cối, đất đá đổ rơi ào ào. Ba loạt nổ như vậy liên tiếp. Bãi rải thảm dọc theo sườn tây của dãy núi Lợn. Dứt tiếng nổ, chúng tôi nhanh chóng ra khỏi hầm, thấy cây cối đổ ngổn ngang, bụi khói mù mịt. Đại độ không hầm nào bị trúng bom, chỉ có anh Toan bị thương ở tay, Bò bị mảnh phạt mất một mảng da đầu trật xương sọ máu me đỏ ối. Cậu ta vừa ôm đầu rên rỉ, giọng ngan đực, có cố mấy cũng chỉ vài người nghe được. Đồ ăn thức uống bị hất văng tứ tung. Chúng tôi lệnh nhanh chóng hành quân di chuyển, vượt qua suối đi sâu vào phía tây núi Lợn đến tối thì dừng lại. Trận B-52 buổi trưa gây tổn thất rất lớn cho sư đoàn, hôm ấy đúng ngày Đảng ủy Sư đoàn họp thông qua quyết tâm chiến đấu.


Khi có tin B-52 đánh, các đồng chí chỉ huy và đảng ủy viên phân tán ra các hầm để tránh bom. Trong hầm tác chiến thấy có hai hầm chữ A ở hai phía, một hầm các đồng chí chính ủy và trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 vào. Hầm kia các đồng chí Bá Lợi quyền sư trưởng, đồng chí Lập tham mưu trưởng, đồng chí Hoàng chủ nhiệm hậu cần. Khi B-52 rải bom, một quả bom đã rơi đúng căn hầm tác chiến thất, sát vào hầm các đồng chí quân sự, các đồng chí Lợi, Lập, Hoàng hy sinh tại chỗ. Các đồng chí chính ủy Phương, phó chính ủy Tùng và các đồng chí khác đã bị sức ép, bị thương.


Đơn vị phải mất nhiều thời gian để giải quyết khắc phục sự tổn thất. Đến nơi dừng chân, anh Pha phụ trách một nhóm trinh sát đi địa hình tìm nơi tập kết mới, anh Pha họ Trần. Thế nhưng không rõ vì sao anh đổi thành họ Cao - Cao Anh Pha. Vả từ lâu mọi người đã quen gọi anh như anh muốn, thành ra anh mất luôn họ Trần. Anh nguyên là y tá, chuyển hệ từ cuối năm 1970, trước lúc tôi được bổ sung về đại đội. Năm 1971 anh lên A trưởng và nay là B phó. Ngày ở K300, tôi cùng trung đội với anh nhưng khác tiểu đội sau này hầu như chưa có dịp nào đi công tác cùng anh. Đây là lần đầu tiên tôi là chiến sĩ do anh chỉ huy đi tìm hậu cứ. Tổ công tác gồm: Giáp, Thể, Điền và tôi. Chúng tôi len lỏi theo khe suối, xuyên núi lên một sườn núi khá dốc, cây cối cổ thụ dày đặc, lên đỉnh thì đúng vào đội phẫu K-38 của sư đoàn. Trời đã tối, anh Pha liên hệ cho chúng tôi được nghỉ nhờ. Buổi tối, nghe có khách là lính trinh sát nên một số anh chị em y, bác sĩ đến chơi hỏi chuyện chiến đấu. Chuyện phiếm đến quá nửa đêm mới giải tán. Anh Pha rất nhanh đã làm quen với một bác sĩ, chị tên là Công. Chúng tôi chỉ biết mặt và mối quan hệ khi chị ra chào chia tay chúng tôi. Xem ra bùi ngùi, bịn rịn, nói với anh Pha câu gì đó, chúng tôi không thể nghe được.

Lúc giải lao cậu Điền nhìn anh Pha nói:

- Chị y sĩ tên gì? Em thấy chị ấy phải lòng anh Pha đấy.

Anh Pha mặt mày rạng rỡ cười "hô, hô, hô...” kiểu cười như miễn cưỡng, cố rặn ra, người lạ sẽ rất chán, còn anh em quen thì phải chờ xem nội dung câu chuyện anh sẽ nói đáng vui hay không. Anh Pha đằng hắng khẳng định:

- Chúng tớ yêu nhau!

Cánh lính bỗng ồ lên và khen anh tài hoa, chinh phục con tim nhanh như điện. Anh bỗng trầm ngâm một chút rồi lên giọng: 

- Chuyện tình của tớ ở quê lâm ly bi đát lắm. - Anh có vẻ quan trọng nói tiếp: - Trước khi đi bộ đội, tớ có một mối tình "nồng thắm". Mối tình đó mới kết thúc cách đây 8 năm, nhưng cũng có thể nói bắt đầu từ cái ngày hôm ấy... - Anh giảm một chút âm lượng: - Ngày ấy, cái kiểu yêu nhà quê "nam nữ thụ thụ bất thân". Ngày tớ về phép, cô ấy đang là giáo sinh trường Sư phạm 10 + 2, vì thế không cưới nhau được. Ai cũng nói để thống nhất lo cho vui vẻ. Đêm trước hôm trả phép để mai lên đường đi B, tớ mất hàng giờ thuyết phục nàng phá tục nhưng không nổi. Thế là tớ dỗi, từ lúc đi B chẳng thèm thư từ gì về nữa. Gần năm sau (1968) nhận được thư của nàng. Lá thư lai láng yêu thương, đậm độ nỗi lòng chờ mong, thao thức, mong ngày tái ngộ để sửa chữa sai lầm và "xin anh đừng hờn nữa". Tớ cũng cóc gửi thư về. Hơn năm sau lại nhận được thư nàng. Nàng buồn bã báo tin rằng: "Có người đã si mê em, đã cầu hôn", hai gia đình thúc ép quá, lòng em rối bời, em chả biết tính sao? Anh ơi! Hãy cho em lời khuyên, em xin nghe anh. Nghe thương quá, mà thương thật. Tớ ghi ngáy một bức thư dài dằng dặc, rất tình cảm, yêu thương và cảm thông, tớ nói với nàng "đã hờn xong chỗ dở rồi" và "khuyên em hãy đi lấy chồng”. Nay được tin nàng đã lấy chồng, sinh con gái, cháu đã một tuổi.

- Còn chị Công đây thế nào? - Điền hào hứng hỏi.

- Chị Công à! - Anh Pha lại lên giọng. - Tớ chẳng tán tụng gì. Đêm rồi ông Thảo, viện trưởng và mấy bác sĩ đến hàng nước, mình kể chuyện trinh sát, mình toàn kể về tài năng của các cậu lính của tớ, quả thật có hơi bốc về cậu Giáp. Nào là võ thuật siêu đẳng, tuy sốt rét hom hem thế thôi nhưng bốn chàng to lực lưỡng như anh Thảo đây tấn công nó thì chỉ một loáng mỗi vị sẽ bị điểm huyệt ngồi, nằm một chỗ không thể nhúc nhích được. Còn cái mục chui đồn giặc, ra vào cứ như chỗ không người, chông mìn, cạm bẫy với hắn không là cái gì cả. Các cô ngồi nghe im thin thít, miệng tròn "chữ 0" mắt dựng "chữ I" đầy thán phục. Mình thật không ngờ cô Công không cảm anh "võ sĩ Giáp" mà để ý đến mình. Cô chủ động gặp mình hỏi đủ thứ... Bọn tớ cùng Hưng Hà, Thái Bình, thấy hay hay, hợp ý nhau, nên cảm giác rằng sẽ yêu nhau.

Cậu Điền hấp tấp:

- Thế anh có gạ phá tục...

Anh Pha cướp lới:

- Bậy nào, cơm không ăn, gạo còn đó. Chẳng giấu gì bọn bay, tao cũng liều mạng hôn bừa một cái, may mà không bị mắng.

Gần cuối năm 1974, trước khi anh Pha chuyển về Trung đoàn 1 làm chính trị viên đội trinh sát, anh đưa tôi một phong bì dày như quyển sách, anh nói:

- Thư đấy, nhờ Chiến lúc nào đi công tác ghé được đội phẫu K-38 chuyển đến cho Công giùm.

Tôi cười bảo anh:

- Thư gì mà như văn kiện tác chiến, nặng trĩu thế này.

Anh nháy mắt nói: - Nội dung thư tóm tắt, cứ hai chữ một trang: Trang 1: Dù rằng, trang 2: Núi ngả, trang 3: Trời nghiêng, trang 4: Trọn đời, trang 5: Anh vẫn, trang 6: Yêu em, trang 7: Mặn nồng...

Tôi đọc nhanh:

"Dù rằng núi ngả trời nghiêng Trọn đời anh vẫn yêu em mặn nồng".

Tôi không gặp chị Công để trực tiếp đưa thư vì hay đi công tác xa đơn vị. Tôi liền chuyển "bó" thư của anh Pha cho anh Giáo chính trị viên, nhờ anh khi đi họp gửi giúp đến chị Công ở K-38. Năm 1975 tôi nhận được thư anh Pha từ Trường Sĩ quan chính trị gửi vào đơn vị. Anh báo tin đã lấy vợ và mới sinh con gái. Tôi không rõ vợ anh là ai, có phải chị Công không. Sau năm 1975 tôi ra Bắc học, hỏi thăm thì biết anh Pha đã trở lại chiến trương, hai anh em không gặp nhau nữa.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:24:03 am
5

Đoàn trinh sát chuẩn bị chiến trường do anh Mạnh chỉ huy đi gấp xuống phía nam, dừng lại ở địa phận xã Phổ Linh, huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi.    Nơi tập kết là khu rừng giáp ranh phía tây núi Chóp. Không biết từ bao giờ, ai đã đặt tên cho hai ngọn núi này thật ngộ nghĩnh. Ngọn núi to gọi "Vú chị" ngọn núi nhỏ gọi "Vú em". Hai ngọn núi đứng ngang hàng nhìn ra biển Đông. Anh Mạnh trong đại đội tôi kể: Anh sinh ra và lớn lên ở đây và xa gia đình từ mười ba tuổi. Nay rất mong được gặp lại cha mẹ và các anh chị em trong gia đình nhưng bây giờ còn phải bí mật. Hơn nữa cũng không rõ trong nhà ai còn, ai mất, còn ở làng hay đã bị gom vào trong ấp. Anh Mạnh thân thiết, gần gũi với cậu Thể. Hai anh em có vẻ hợp nhau. Thể hay cùng anh Mạnh đi công tác nên biết nhiều về anh Mạnh hơn tôi. Từ khi về đại đội, tôi chỉ gần anh trong mấy tháng huấn luyện. Chiến dịch Kon Tum anh chỉ huy qua điện thoại là chính. Sống trực tiếp với anh chỉ có vài ngày trong thị xã Kon Tum, mấy ngày đầy bận rộn, chẳng có thời giờ tâm tình, tuy nhiên vẫn có thể nhận biết anh là cán bộ trẻ gương mẫu, dũng cảm, ham đánh địch. Ngay khi mới dừng chân, anh Mạnh phân công cho các bộ phận mỗi người một việc, lo chuẩn bị nơi tập kết. Tôi thì dẫn một tổ đi nắm tình hình xung quanh. Anh Mạnh dặn:

- Dân ở đây rất cách mạng, nhưng ta phải giữ bí mật, không để dân biết có bộ đội về. Họ mừng hay lo đều có thể bị lộ đấy.

Tôi dẫn tổ bò lên ngọn Vú em, ngọn núi hình chóp giống như chiếc nón, trên mình chỉ có cây cỏ lơ xơ, đất sỏi bạc màu, thỉnh thoảng mới có một bụi sim, mua cằn cỗi. Ngồi đây soi gương sang núi vàng khó mà giữ được bí mật. Từ núi Vú em đến quận lỵ Đức Phổ quãng hai nghìn mét, sang núi Vàng quãng hai nghìn năm trăm mét. Đồn Mồ Côi gần hơn núi Vàng B chút ít. Tất cả những nơi ấy địch đang chốt giữ, tạo thành hành lang cụm chốt bảo vệ hướng đông bắc và đông quận lỵ Đức Phổ. Con đường số 1 chạy qua các xã phía bắc là Phổ Thuận, Phổ Phong, Phổ Linh qua giữa quận lỵ Đức Phổ, qua Phổ Hòa ở phía nam. Bên phía đông đường số 1 là các xã Phổ Văn, Phổ Vinh. Vùng nông thôn dân quanh quận lỵ dân cư thưa thớt nhưng đều là nơi quân ta kiểm soát. Bọn địch chỉ chốt giữ gọn lỏn trong khu vực quận lỵ và các cao điểm Mồ Côi ở đông bắc, núi Vàng ở phía đông; phía tây nam là ấp chiến lược Hương Đoạt, Bình Định, phía nam là đồi Đá và ấp Mỹ Trang. Các dãy núi ở khu vực xã Phổ Linh, Phổ Phong, Phổ Thuận, Núi Cửa, cũng không có địch nhưng chúng có thể chiếm lĩnh khi có tình huống cần thiết.


Xã Phổ Linh hầu hết dân đều bị gom vào ấp gần sây bay. Các làng cũ xung quanh núi Vú đều không có người. Về đến cứ, tôi báo cáo toàn bộ tình hình quan sát và suy nghĩ về địa hình, địch và dân tình với anh Mạnh. Anh Mạnh nói sẽ cho một tổ đi tìm đài quan sát ở khu vực núi Vú của chúng.


Sáng sớm hôm sau, anh Mạnh gọi tôi đến giao nhiệm vụ. Anh nói chậm rãi:

- Tổ của Chiến đi theo trục đường mòn phía sau núi Vú chạy xuôi về phía nam vòng về tây sân bay Đức Phổ xem có tận dụng làm đường hành quân cho bộ đội được không. Thời gian đi để tiếp cận phía tây quận lỵ, chú ý đề phòng mìn, có thể mìn của địch, mà có khi có cả mìn của ta nữa.


Mỗi trinh sát viên chúng tôi đem theo hai vắt cơm để ăn cả ngày. Tổ có 3 anh em: Lập, Trung là tổ viên. Tôi dẫn đầu đội hình hành tiến, việc sắp xếp đội hình như vậy là sai sách. Đúng ra tôi phải đi giữa hai chiến sĩ. Tôi dặn anh em: - Các cậu chú ý quan sát cả phía sau nữa, chú ý bắt chước động tác của người đi trước. Người phía sau muốn thông tin cho người đi trước thì ném một vật gì đó làm tín hiệu.


Ba anh em đi đến một quả đồi lau lách um tùm. Một nhánh đường mòn chạy thẳng về phía huyện Hoài Nhơn. Chúng tôi rẽ trái về phía đông để tụt xuống chân đồi. Tôi bảo Lập lợi dụng địa hình chốt lại ở đỉnh dốc gần ngã ba đường. Tôi và Trung đi tiếp xuống sườn đồi. Đến giữa dốc, Trung ngồi cảnh giới ở bên đường mòn còn mình theo dốc đi xuống một đoạn nữa, đến chỗ có mỏm nhô ra của dáng núi, tách khỏi đường mòn chừng năm mét thì dừng lại. Lợi dụng một gốc cây to để quan sát xuống phía quận lỵ và xung quanh, phía dưới có một con suối chảy cắt ngang đường mòn. Con suối chạy vòng theo khe núi đến gần chân dốc, tạo gấp đột ngột thành một cái thác khá lớn, nước chảy về phía hồ lớn nằm ở phía tây, tây bắc sân bay Đức Phổ. Đối diện phía bên kia suối là một dãy núi cây cối rậm rạp, xen lẫn tiếng nước ầm ầm nghe loáng thoáng có tiếng người. Tôi kiên tâm ngồi quan sát rất lâu vào cánh rừng rậm nghi có người, soi từng gốc cây khá kỹ nhưng không phát hiện gì khả nghi, linh cảm đang có tiếng chân người đi đến sau lưng, tôi vội ngoảnh lại thì thấy Trung đang theo đường mòn đi xuống. Tôi đứng dậy và ngồi xuống để làm tín hiệu cho Trung có nguy hiểm phải dừng lại nhưng không kịp. Địch đã phát hiện Trung và tôi. Tôi nghe rõ tiếng "cóc" M- 79 để pa liền nhảy vội nép thân vào một cây to, một trái M-79 nổ ngay chỗ tôi vừa đứng, mảnh đạn ào ào văng về phía Trung. Nhìn thấy Trung ôm má, tôi vọt lên phía Trung, hai anh em lẫn vào đám cây rừng, quay lại nơi Lập đang chốt giữ. Khi thấy nhoi nhói dính ở khuỷu chân, thấy có máu mới biết mình cũng bị dính mảnh. Hai anh em chỉ bị xước da, máu chảy tý chút. Tôi phân công mỗi tổ viên ngồi cảnh giới một phía trên mỏm một quả đồi nhiều cây lau lách, tìm một chỗ tiện quan sát để xác định một số nội dung cần phải báo cáo. Đoạn đường mòn từ con suối đến quận khoảng hai kilômét, có hồ nước nằm ở phía bắc đoạn đường mòn đi về quận lỵ. Sân bay không lớn nằm ở phía đông nam hồ nước. Phía bắc sân bay có một ấp khá lớn, phía đông bắc là đồn Mồ Côi. Nam sân bay là quận lỵ. Phía đông quận lỵ là núi Vàng. Toàn bộ phía tây, tây nam tiếp giáp với quận là ruộng rẫy mà dân các ấp đang canh tác. Hiện địch có triển khai hoạt động an ninh, có lực lượng chốt giữ ở một số ngọn đồi hai bên đường mòn, đêm có trụ lại hay không thì chưa rõ.


Ngày hôm sau anh Mạnh cử tôi vượt đường số 1 để liên hệ với du kích xã Phổ Vân, nhờ họ giúp điều tra căn cứ núi Vàng. Tôi dẫn anh em đi qua xã Phổ Thuận đến sẩm tối thì nhanh chóng vượt đường số 1, con đường địch đang kiểm soát, chúng hay tổ chức chốt mai phục. Đến trại du kích xã Phổ Vân quãng hai mươi giờ. Trại du kích nằm trong khu bỏ hoang thôn Thủy Triều. Khu làng nằm gần sát bờ bắc sông Trà Câu, nơi con sông chuẩn bị ra đến cửa Mỹ Á. Núi Vàng ỏ bên kia sông, cách chúng tôi gần ba kilômét. Cứ du kích cây cối mọc rậm rạp, xung quanh được trồng tre tạo thành bờ lũy rất kín đáo, vững chãi. Loại tre gai to và cứng như đinh ba phân ken sin sít vào nhau. Ngoài lũy tre là đồng ruộng, mùa này không thấy có lúa, ruộng bị bỏ hoang nhiều, cả cánh đồng đều ngập nước. Trong cứ chỉ thấy lèo tèo mấy cái lán tạm bợ, khung lán làm bằng tre. Trong lán, các cột tre được chôn xuống đất vừa đỡ mái nhà, vừa làm chỗ mắc võng. Mỗi lán được làm sát vào lũy tre và có vài hầm hố để tránh phi pháo hoặc có thể làm hố bắn, mái lán lợp-lá mía, dừa, có khi cả ni lông, bao xác rắn. Tôi không rõ toàn khu có bao nhiêu chiếc lán kiểu này. Chúng tôi được bố trí ở bốn chiếc lán nằm ở phía đông làng. Chỉ thấy có mấy cô du kích phục vụ ăn uống.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:25:47 am
Từ địa điểm tại khu du kích tiếp cận núi Vàng phải vượt qua sông Trà Câu đi về phía nam, qua một con đường đất đỏ, du kích gọi là đường chiến lược. Con đường chạy từ đường số 1, đoạn phía tây bắc quận lỵ Đức Phổ, qua bắc đồn Mồ Côi đến chân phía tây núi Cửa qua xã Phổ Vinh về phía nam. Từ "đường chiến lược" phải qua một khu ấp Tấn Bình, Tân Tự, qua cánh đồng có sông Quán Mới. Toàn bộ phía đông và đông nam núi Vàng là ấp bỏ không và ruộng ngập nước. Phía đông bắc núi Vàng quãng hai kilômét là núi Cửa nằm gần cửa biển Mỹ Á. Hệ thống phòng thủ phía đông núi Vàng chia làm hai tuyến rõ rệt. Vật cản là hàng rào dây thép gai được bố trí trên mặt ruộng khá bằng phẳng. Tuyến lô cốt dưới chân núi được bố trí cách nhau chừng năm mươi mét, phía trong lô cốt có chiến hào, trong chiến hào là bãi trống để xe. Phía nam có mười bệ hình chữ nhật quy cách giống nhau, cách đều nhau quay ra phía biển. Phía bắc các bệ đất là bãi cát trống trải. Tiếp đó về phía bắc và tây bắc là khu có những căn nhà và các bồn chứa xăng dầu. Bên trong tuyến này nằm trên một tả ly khá cao và con đường trải nhựa chạy từ đỉnh núi Vàng xuôi về phía nam vòng theo chân núi phía đông, chạy sang đồn Mồ Côi, một nhánh chạy vào quận lỵ. Cả buổi chiều ngồi vắt vẻo trên ngọn cây trong cứ du kích, tôi ghi nhớ các địa điểm để lấy chuẩn cho đường tiềm nhập vào căn cứ núi Vàng.


Đêm đó, trung tuần tháng 9, miền Trung có áp thấp nhiệt đối, mưa to ở trên vùng núi, ở huyện Mộ Đức, Sư đoàn 2 nổ súng tấn công vào các mục tiêu, chúng tôi đã chuẩn bị trước đây gồm cụm địch nam sông Vệ, quận lỵ Mộ Đức và các căn cứ tiền tiêu. Anh Mạnh phụ trách tổ, các tổ viên gồm: Giáp, Lập, Đình, Thế và tôi. Cả nhóm lội qua sông Trà Câu, nước chỉ quá thắt lưng một chút, vượt qua đường chiến lược, băng qua khu làng bỏ không (Tân Tự) vòng sang phía đông núi Vàng, dừng lại ở một gò cao. Tôi, Giáp và Lập tiếp cận mục tiêu, theo hướng đông. Ba chúng tôi mình trần, quần xà lỏn, đội mũ binh chủng bịt tóc, Giáp rồi đến Lập đi sau yểm hộ. Tôi cầm ống nhòm đi trước quan sát. Lúc đầu chúng tôi toài, bò gần như bơi dưới mặt nước, mặt nước phủ khá dày cỏ môi, loại cỏ lá có răng cưa giống lá lúa, cỏ cứa vào da thịt gây ngứa rất khó chịu. Qua một con rạch, tiến thêm một đoạn nữa đến hàng rào ngoài cùng, Lập nằm lại phía ngoài rào để canh chừng và đón chúng quay ra. Giáp cùng tôi khắc phục hàng rào loại cấu trúc theo kiểu mái nhà. Hai anh em chui vào dễ dàng. Ruộng ngập nước nên chỉ cần chú ý dây mìn. Vào trong hơn mười mét đến hàng rào thứ hai, nhìn lại sau Giáp thấy cỏ bị đè lướt xuồng tạo ra một vệt từ ngoài vào, chờ Giáp đến nơi tôi nói: cậu nằm lại đây, trống trải lắm, để mình tớ vào thôi. Hàng rào cũi lợn, hàng rào thứ ba loại rào bùng nhùng, có một cuộn đặt kết hợp với một hàng rào đơn, tiếp đó là hàng rào bùng nhùng loại thép cứng gai bẹt như lưỡi búa. Chúng được xếp liên tục bốn vòng đặt dưới mặt đất và hai cuộn chồng lên trên, qua hàng rào thứ tư gặp một dây mìn vướng chắn ngang hướng tiến. Tôi đi lom khom bước qua dây mìn, không biết chúng là loại mìn gì. Hàng rào thứ năm là loại rào đơn đan ca rô. Đoạn này vào trong, mặt đất chỉ xâm xấp nước. Cách hàng rào hai mươi mét thẳng hướng tiến của tôi là lô cốt. Tuyến lô cốt được đặt tương đối đều nhau, năm mươi mét một chiếc. Tuyến rào nối các lô cốt với nhau. Tôi ngồi khá lâu để quan sát phía trong nhưng trời tối quá không nhìn thấy gì. Nghe ngóng thấy tuyến lô cốt không có động tĩnh, đang suy tính tiếp cận vào lô cốt để quan sát phía trong thì có ánh sáng đèn pha rọi từ một chiếc xe tuần tra đi từ phía đồn Mồ Côi sang. Chiếc xe thỉnh thoảng dừng lại quét đèn về phía đặt các chướng ngại vật và các khu vực trong căn cứ, nhờ vậy tôi quan sát được nhiều mục tiêu.


Sau tuyến lô cốt lên đến chân núi Vàng không còn hàng rào nào nữa. Từ lô cốt tuyến ngoài lên đến nơi đặt ra-đa hải quân trên đỉnh núi Vàng khoảng bảy trăm mét. Chiếc ra-đa đang hoạt động, bên phải chiếc lô cốt là một bãi đất trống, không thấy xe pháo hay khí tài nào. Bên trái lô cốt, phía sát chân núi có mười bệ đất hình chữ nhật đặt song song cách đều nhau khoảng năm mét, quay cạnh ngắn ra phía biển, tôi đoán là các bệ đặt tên lửa nhưng trên bệ không thấy có phương tiện vũ khí gì. Chiếc xe chạy qua trên một tả ly khá cao, vòng về phía nam đó là con đường do địch làm để tiện việc tuần tra, vận chuyển tiếp tế cho căn cứ núi Vàng và hỗ trợ chi viện lẫn nhau giữa các căn cứ của chúng, ước tính quá nửa đêm, tôi vừa lui ra vừa chú ý ngụy trang rất cẩn thận.. Đến chỗ Giáp, cậu ta phàn nàn nhưng không giấu vẻ vui mừng: "Làm gì mà lâu dữ vậy?''. Tôi bấm Giáp ra hiệu theo lối cũ ra đi, tôi theo sau xóa dấu vết. Ba chúng tôi về đến chỗ anh Mạnh thì trời gần sáng. Trong xóm, phía Phổ Vinh vọng lại tiếng gà. Có lẽ nó gáy đến lần mấy rồi. Cả tổ ra đến bờ sông, một gò làng cũ thì hai bờ sông đã ngập nước. Mưa lớn trên thượng nguồn nên lũ về nhanh quá. Anh Mạnh lo lắng nói: - Tớ không biết lội1 (Lội: bơi).

- Em cũng vậy. - Đình nói theo.

Tôi bảo mọi người kiếm vài cây chuối để kèm người. Lập, Giáp tự bơi được. Thể thì kèm Đình còn tôi kèm anh Mạnh. Chuẩn bị chu đáo, anh em chúng tôi lặng lẽ cắt ngang dòng lũ.

Anh Mạnh ôm chặt lấy cây chuối, tôi đẩy cây chuối ra. Lúc này mới thấy sự dữ dằn của con sông khi lũ về. Nước chảy xiết cuốn cây chuối lao vèo ra hướng biển. Anh Mạnh và tôi cố gắng lái nhưng vẫn bị trôi vài trăm mét mới qua được bờ bên kia. Nói là bờ là chỗ đứng được chứ toàn bộ khu vực đã trắng xóa, chỉ thấy có nước, thỉnh thoảng nhô lên vài gò đống, cây cối. Trời sắp sáng, anh Mạnh giục: Ta nhanh chóng về cứ kẻo dân họ đi kiếm gỗ, củi trôi sẽ nhìn thấy.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:27:54 am
Về đến cứ, tôi mắc võng ngủ một giấc cho đến khi có du kích gọi dậy ăn cơm. Cùng ăn với chúng tôi có bốn cô du kích, không thể đoán nổi tuổi tác của từng người nên chúng tôi đều gọi họ là "chị". Khi ăn, các chị hay nhìn nhau, có vẻ nín không bật thành tiếng, cử chỉ ấy làm tôi lúng túng, không biết có ai trong chúng tôi bị nhọ hay rách quần áo... Tôi có cảm giác xấu hổ, ăn quàng hết bát cơm rồi đi tìm nước uống. Bữa ăn chỉ có cơm và mắm cái1 (Cá để cả con muối rất mặn). Rau muống hoang ở đây rất sẵn nhưng các chị nói "ăn bị đau" (bệnh). Những bát dùng để ăn cơm thì các chị gọi là "chén". Những chiếc "chén" ăn cơm của du kích bé bằng tý, cậu Lập nếu ăn đủ phồng dạ dày ít nhất phải mất 30 lần đơm thật đầy. Buổi chiều, anh Mạnh bảo tôi gọi Thể, Đình đến có việc. Tôi đến lán các cậu ấy thì không thấy, hỏi Lập, Giáp các cậu ấy nói không rõ, nói hồi sáng Thể, Đình bơi sau cùng. Tôi báo cáo anh Mạnh:

- Không thấy Thể và Đình anh ạ!

Anh Mạnh nói:

- Giáp và Lập bám ra bờ sông quan sát xem sao. Gần tối Lập, Giáp về báo cáo không thấy. Tôi dẫn Lập trở lại bờ sông, nước đã rút mấp mé bờ. Dòng nước vẫn đục ngầu chảy xiết. Tôi và Lập bơi sang bờ bên kia, bò vào khu gò đất thấy yên ắng quá, xung quanh gò vẫn ngập nước, bò đến chỗ mấy cây chuối gãy thì thấy hai đứa. Tôi hù cho chúng giật bắn người lên:

- Định ngủ lại đây chắc? - Tôi nói giọng có hơi bực.

Thể nhăn nhó đáp:

- Lúc sáng vừa đẩy cây chuối ra, nước xiết quá cuốn cả người và cây chuối kẹt vào bụi tre đổ ở bờ sông, gỡ mãi mới ra được, nhìn nước chảy ớn quá, đành quay lại, nghĩ trời không mưa nó sẽ cạn nhanh, nào ngờ đến giờ chẳng cạn được bao nhiêu, bọn này tính nằm đây đêm nay nữa.

Tuy bực mình tôi cũng nói khôi hài để an ủi:

- Thằng Lập bơi như rái cá, lấy cây chuối buộc ông Đình vào kèm qua sông hộ tôi. Ông Thể nổi như bèo tây, nếu không chịu bơi trôi ra biển thì ráng chịu. Các cậu đưa hết súng, đồ cho tớ.

Chúng tôi về đến lán quãng hơn chín giờ tối. Anh Mạnh cho qua sự việc ấy, không nhắc đến. Buổi chiều hôm sau, anh Mạnh dẫn tôi ra bờ sông Trà Câu, nước sông đã cạn như cũ. Chúng tôi ngồi ở một gò đất vẽ sơ đồ. Từ bên kia sông có một người đàn ông ở trần lội qua sang bờ bên này. Anh ta đi về phía chúng tôi. Cách chúng tôi núp hai trăm mét, anh ta ngồi xuống sau vài bụi cây lúp xúp không rõ làm gì. Anh Mạnh dặn tôi coi chừng để anh tiếp cận mục tiêu. Tôi nhìn anh Mạnh đang lom khom vòng sang trái để bọc hậu người đàn ông sau bụi cây kia, thoáng nghĩ cái ông Mạnh này chắc lại muốn thực tập võ thuật đây, bắt hay giết đều dở cả. Ông này kỳ cục thật.


Anh Mạnh mất hút sau lùm cây, chỉ một lát tôi thấy anh cởi trần cùng người kia đứng thẳng dậy đi về phía tôi. Rõ ràng anh đóng vai dân hợp pháp không cần lẩn tránh sự theo dõi của địch ở núi Vàng và đồn Mồ Côi. Khi đến chỗ tôi, anh kéo người đàn ông kia cùng ngồi xuống. Anh quay sang nói với anh ta:

- Cậu nghe tớ hỏi mấy điều.

- Dạ! - Anh ta ngồi đối diện với tôi khẽ thưa.

Tôi liếc anh ta. Một thanh niên mới lớn, có cái sẹo dài nhẵn bóng dưới cằm nên trông hắn có vẻ từng trải. Tôi hỏi:

- Chắc đi càn vào vùng giải phóng bị du kích bắn chứ gì?

- Hổng có - Hắn vội giải thích - Em bị té anh à.

Anh Mạnh hỏi nhiều điều về tình hình dân, địch, du kích ở quận lỵ và các đồn ấp xung quanh. Anh ta có vẻ thành thật trả lời các vấn đề. Anh Mạnh yêu cầu:

- Cậu vẽ cho tớ cái sơ đồ đồn núi Vàng, Mồ Côi.

- Em vẽ như thế nào? - Anh ta lo lắng hỏi.

- Thì nhìn thấy gì vẽ nấy. - Anh Mạnh hướng dẫn.

- Đánh dấu hướng bắc, nam, đông, tây, đường xe chạy, chiến hào, lô cốt, nhà ở, bãi xe, nơi để kho xăng, trận địa pháo, chỗ chỉ huy ở, đơn vị nào ở núi Vàng đơn vị nào ở Mồ Côi, B, C hay D. Biết không? - Tôi nói:

- Những cái gì hình trụ kia. - Tôi chỉ về chân phía bắc núi Vàng.

- Đó là đồn chứa xăng dầu đấy. - Anh ta nói vẻ rất rành.

- Sao cậu biết? - Tôi nghi ngờ hỏi.

- Em thấy các xe téc đến bơm xăng vào các bể ấy mà.

- Còn các bệ đất hình chữ nhật ở phía đông chân núi Vàng.

Cậu ta cố nhìn theo hướng ngón tay tôi chỉ và nói: - Hình như bệ đặt súng pháo, trước đây Mỹ rất đông, nay không thấy để cái gì cả. - Cậu ta băn khoăn hỏi:

- "Vẽ" xong, làm sao đưa cho các ảnh được?

- Cậu cho tờ giấy đó vào túi ni lông, để vào hốc sẹo gốc cây này. - Anh Mạnh thò tay vào hốc cây bên cạnh, nhìn cậu ta nói: Ngày mốt có nhé.

Anh Mạnh bảo tôi: Đồng chí ghi tên anh thanh niên này, con ông bà nào? Hiện ở ấp nào để sau tiện việc liên hệ với chính quyền cách mạng lưu ý khen thưởng. Tôi cứ như chiếc máy, hội và ghi các chi tiết ấy. Xong việc, anh Mạnh và tôi cho anh thanh niên về. Khi anh chàng lội qua sông về bên kia, tôi quay sang hỏi anh Mạnh:

- Anh không sợ à, sao lại đi tiếp xúc với dân.

- Anh bảo ghi tên nó hẳn có ích gì. Biết đâu nó cũng là trinh sát?

- Thằng nhãi run như cầy sấy, chắc nó chẳng nói dối đâu. - Anh quả quyết: "Về thôi!".

Đã mấy ngày ăn cùng, ngủ kề với du kích, bộ đội và dân quân đã trở nên thân tình, một chị vui vẻ nói chuyện:

- Hổm đầu ăn cơm chung với mấy ảnh, tụi em tức cười muốn chết.

- Vì sao? - Tôi chen vào.

Vì thấy có ảnh dùng tô để ăn cơm! - Chị ta muốn nói đến cái bát sắt B-52 của cậu Lập, cậu này thì bát sắt B-52 vật bất ly thân.

- Sao nữa, tôi chưa hiểu?

- Còn mấy anh dùng chén của bọn em thì cứ đưa nhờ xới cơm liên tục. Làm con Ngọc ngồi đầu nồi cứ nâng chén cơm lên miệng lại vội phải đặt xuống chẳng thể ăn uống gì được.

- Thấy ngộ, mấy đứa em nhìn nhau suýt phá lên cười, vì ngại các ảnh "mắc cỡ" nên cố nín muốn chết, để anh đừng buồn nghẹn. - Tôi cười thông cảm.

Cánh lính chúng tôi ở rừng ăn cơm, rau, củ với muối ớt, lúc nào cũng ăn tranh thủ, vội vã, lâu thành quen, nên ăn cơm còn nhanh hơn người ta uống nước. Hơn nữa ăn như bộ đội nếu đủ cơm thì người bé nhỏ như cậu Lập hà tiện cũng xơi được 30 "chén" của du kích. Do vậy chả trách được cái lý do "muốn cười” của các chị.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:29:15 am
Anh Mạnh giao nhiệm vụ cho tôi, Thể và Đình đi tiềm nhập núi Vàng lần thứ hai. Lần này đột nhập vào phía bắc. Quãng mười tám giờ, ba chúng tôi vượt sông đoạn phía thượng nguồn. Nước cạn chỉ ngập thắt lưng, nước lũ vào ngập cánh đồng, những đống rơm rạ sau khi dân tuốt hết lúa vất bỏ trên các thửa ruộng tấp thành từng đống nhỏ. Tổ theo một bờ ruộng đắp cũng khá lớn, đi về phía núi Vàng. Ánh sáng điện từ đồn Mồ Côi hắt lên tạo ra vùng sáng yếu ớt. Trời về khuya trăng lên, ánh trăng mùa thu soi trên cánh đồng ngập nước làm chúng tôi cảm giác như bị phơi ra dưới con mắt quan sát của kẻ địch. Tôi dặn Đình và Thể giữ cự ly cách nhau mười mét, đi khom thấp để địch khó phát hiện, đến đoạn gặp một con lạch nơi có cống để nối liền bờ đất này, tạo ra một luồng nước chảy xiết nó chỉ rộng khoảng gần hai mét. Tôi xách súng nhảy vọt qua tiến lên chừng mười mét thì ngồi lại, nhìn về phía sau xem anh em có bám sát không. Dưới ánh trăng lờ mờ, tôi nhận thấy chỉ có một người đang ngồi bên kia "nổ" nước, chỗ đường vỡ, quay lại nhận ra Thể đang ngồi bên kia chỉ tay xuống dòng sông Quán. Tôi hiểu rằng Đình đi số hai đã té xuống dòng nước rồi. Khốn khổ Đình và mấy anh em người Nam ở đơn vị tôi, chẳng mấy người biết bơi khi rơi xuống nước thì chìm ngay y như cục gạch. Tôi vội ào xuống nước, con lạch sao mà sâu vậy. Chân không chạm đất, phải bơi, dang hai tay, hai chân trôi theo dòng nước một đoạn, thấy phía trước có vật gì vùng vẫy rồi lại yên. Tôi nhoài đến thì túm ngay được tóc cậu Đình. Khẩu súng cậu ta đeo chéo ra sau lưng trước khi nhảy qua "nổ" nước đã làm cho cậu ta rất khó khăn trong việc vùng vẫy khi bị gạt. Kéo Đình lên một đống rơm rạ bên bờ sông Quán, ấn mấy cái vào bụng đã chứa khá nhiều nước. Cậu ta ộc ra được vài tô nên có vẻ dễ thở hơn một chút. Tôi bảo cứ nằm yên đây, chờ bọn này xong việc quay ra sẽ cùng về.


Tôi và Thể vượt qua lạch nước tiếp tục tiếp cận hàng rào ngoài cùng tuyến phòng thủ phía bắc núi Vàng. Hai anh em ngồi quan sát rất lâu. Thể nói có ba hàng rào, tôi bảo Thể chờ ở đây rồi chui vào hai lớp rào ngoài, đến lớp thứ ba thì ngồi lại quan sát. Từ hàng rào này vào trong là bãi cỏ trống chừng 40-50 mét thấy có vài căn nhà dã chiến. Trong nữa là các khối hình trụ mà anh thanh niên nói là bồn xăng dầu, đếm có 5 bồn như thế, bãi bồn xăng có con đường xe đi vào. Mỗi bồn có đường kính quãng 5 mét cao 2 mét. Xong việc chúng tôi về căn cứ trước khi trời sáng.


Tôi ngủ đến chiều cơm xong anh Mạnh bảo tôi và Thể ra chỗ hòm thư chết xem thằng nhỏ có để đồ vào đó không? Anh dặn kỹ càng từ việc phải cảnh giác đề phòng có bẫy mìn, ổ địch phục kích...

Tôi và Thể xách súng đi men theo các bờ ruộng, nước mấp mé. Đến gần địa điểm, tôi làm hiệu cho Thể nằm xuống. Quãng 10 phút nghe có tiếng côn trùng, dế kêu ở gò đống để thư, chắc ở đó không có người, tôi đứng lên đi vào nơi đó, chỉ phải làm động tác dò mìn. Thò tay vào hốc sẹo gỗ thấy có miếng ni lông, trong có tờ giấy phê đúp học sinh. Tôi đi lại chỗ Thể vui vẻ nói:

- Anh Mạnh nhận định không sai, về đi! Tôi xăm xăm bước lên trước, bỗng thấy nhói ở một ngón chân út bên phải kêu ối, tiếp đó thấy Thể cũng kêu ối! Rắn! Rắn. Tôi bảo Thể lấy dây rút quần xà lỏn buộc chặt cổ chân lại, chúng tôi ngồi xuống bóp nặn, mút chỗ vết thương có máu chảy, xong các việc đó đứng dậy đi về, lúc đầu còn đi tập tễnh, lò cò, sau không thể đi được nữa. Thể vác súng hộ, tôi phải đi bằng một chân và hai tay, chẳng rõ cái chân bị sưng tấy buốt nhức lên đến óc do nọc rắn hay do bị buộc dây quá chặt, về đến cứ, chị du kích lau rửa lại vết rắn cắn, chích cho một mũi chẳng rõ thuốc gì, chiếc dây buộc ngăn nọc rắn được tháo ra. Tôi nằm chập chờn không ngủ được vì cái chân nhức nhối. Đến sáng thấy vẫn còn sống mới chắc không chết. Cậu Thể sau cái kêu "rắn, rắn" ấy nó vẫn đi lại bình thường, chẳng rõ nó có bị rắn cắn không? Nó cùng anh Mạnh ngay hôm đó rời Phổ Vân về nơi tập kết ở xã Phổ Linh.


Anh Mạnh đi được hai ngày rồi mà chân tôi vẫn chưa khỏi, tuy nhiên mấy anh em cũng đã hoàn chỉnh xong toàn bộ sơ đồ căn cứ núi Vàng, Mồ Côi, quận lỵ và các làng xóm của khu vực.

Tôi được đại đội gọi về Phổ Linh gấp, theo lệnh về càng sớm càng tốt, tuy rất cố gắng nhưng phải đến 20 giờ ngày hôm đó mới có mặt tại đơn vị. Anh Mạnh đón tôi nói:

- Định gọi cậu về tổ chức đi đón thằng Phượng, nhưng thôi. Anh ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Hôm tớ về giao cho tổ cậu Dũng, Hòe, Phượng, Huỳnh đi vào ấp ở phía bắc sân bay Đức Phổ, vào trong ấp thì chạm địch bị nó bắn, cả tổ ra được, trừ Phượng chờ nghe ngóng cả ngày hôm kia không thấy tin tức gì, ai cũng nghĩ nó hy sinh hoặc bị thương địch bắt mất rồi. Hôm qua Dũng bám vào ấp thì có tin một nhà dân đang nuôi giấu một anh giải phóng bị thương xác minh thấy đúng, hôm nay tổ chức đi đón nó về, gia đình này sẽ đưa nó ra ngoài ấp để anh em mình cáng nó về. Đêm đó Phượng về đến cứ, vết thương ở khuỷu chân đã được băng bó cẩn thận, Phượng kể lại với mọi người:

- Địch bất ngờ nổ súng, mình đi đầu bị dính đạn ngay, khi thấy chân đau buốt khuỵu xuống, không chạy được đành lăn ra bên rìa đường, nằm một lúc không thấy địch truy đuổi, định đứng dậy tìm đường ra với anh em nhưng không thể đi được. Máu từ vết thương vẫn chảy mạnh, nghĩ cứ nằm đây cũng chết bèn bổ thẳng vào nhà dân may ra... Mình lết mãi đến khi gõ được vào cánh cổng nhà họ, họ có người ra cũng là lúc mình kiệt sức không còn hay biết gì nữa. Lúc tỉnh lại thấy ánh sáng ban ngày, chân được rửa băng cẩn thận, nằm trong cái hòm gỗ khá lớn loại hòm dân để chứa thóc, cái hòm kê ngay giữa căn nhà. Nhà dân chỉ có một gian chật chội, chẳng có buồng khe gì.

Dũng bổ sung:

- Ông chủ nhà kể "chú lính gan lắm, tỉnh không rên la, lúc mê cũng vậy cứ nằm im như "lúa" ấy. Nhà tui gần đường tụi lính và xã ấp hay ghé dô, nước nôi chuyện phiếm hoài. Sau cái đêm các anh bị chúng rượt tụi nó có ghé dô, tôi hú vía. Lo chú lính mình kêu một tiếng là "rồi", cả ngày sau, tôi sai em nó đi dò la, tìm suốt ở mé trong núi mà không được ai, may quá hôm nay mới gặp".


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:30:15 am
Phượng được đưa đi bệnh viện để điều trị đến giữa năm 1973 mới ra viện. Phượng xin được về đại đội trinh sát, bộ phận chính đã trở thành đại đội 21 của F711 đóng quân ở huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam.


Phượng bị thương vào chân nhưng khá nặng. Chân trái bị thương đã được chữa lành sẹo nhưng không thể đi đứng bình thường được, cẳng chân co lại, đi phải dùng nạng chống. Bệnh viện cho anh ra Bắc nhưng anh xin cho được trở lại đơn vị cũ. Cả đại đội biết vậy nên rất quý mến, kính trọng anh. Không kính trọng sao được khi cuộc chiến đấu đang xảy ra vô cùng ác liệt. Biết bao đồng đội chúng tôi đã, đang và sẽ còn phải ngã xuống. Đại đội tôi chỉ từ đầu năm đến cuối năm 1972 đã có hơn 10 cán bộ chiến sĩ hy sinh, gần chục người bị thương. Cuộc chiến ác liệt, hy sinh nhiều, gian nan đói khát bệnh tật đã làm không ít chiến sĩ dao động đảo ngũ, thoái thác nhiệm vụ. Ngay đại đội có hai cậu, Thực và Xanh vì ngại hy sinh đã tự dùng súng bắn vào chân, vào tay mình để mong được loại ngũ về địa phương. Cậu Hương chiến sĩ B2 ngày hôm trước mới dùng B-40 bắn cháy một xe tăng ngụy nhưng đêm nghĩ đến phải tiếp tục chiến đấu, đến cảnh hy sinh đã từ bở đồng đội trốn về hậu phương và vài chiến sĩ nữa, không thấy không ốm đau bao giờ, v.v... Còn Phượng, dù là tật nguyền về thể xác nhưng ý chí thật khỏe khoắn vững vàng. Phượng không muốn tin vào cái sự thật là bản thân anh đã tàn phế thực sự phải xa đồng đội, không thể cùng anh em chiến đấu.


Phượng có nguyện vọng trở thành đảng viên "Đảng nhân dân cách mạng" và anh đã phấn đấu rất bền bỉ. Trong suốt năm 1973, đơn vị luôn phân tán đi phục vụ chống địch "tràn ngập lãnh thổ" nên chi bộ chưa họp làm các thủ tục báo cáo lên Đảng ủy về việc kết nạp Đảng cho Phượng được. Cả năm 1974 cho đến tháng 3 năm 1975 tôi được gọi về để ra Bắc học. Phượng vẫn là chiến sĩ nuôi quân ở đại đội. Anh vẫn chưa được kết nạp Đảng như nguyện vọng thiết tha của mình. Từ lúc chia tay, tôi không có dịp nào gặp lại anh nữa. Nhưng trong tôi anh đã là đảng viên, người đồng chí của tôi chưa được kết nạp. Vì giúp Phượng làm đơn và viết lý lịch nên tôi nhớ quê anh xã Liên Nghĩa huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.


Tôi được anh Mạnh gọi về chắc không chỉ để thông báo việc Phượng bị kẹt lại trong ấp, mà còn để sinh hoạt học tập nêu gương người tốt việc tốt, đó là tinh thần dũng cảm, gan dạ, bình tĩnh dám tin vào nhân dân của Phượng. Đồng thời cũng rút kinh nghiệm trong công tác điều tra khu căn cứ địch, nơi có nhân dân ở xen kẽ. Điều quan trọng là cần phải dám tin vào nhân dân, tổ chức tìm kiếm đồng đội ngay sau khi có tình huống xảy ra. Điều đó sẽ góp phần giảm nguy cơ để chiến sĩ ta bị địch bắt, hay bị thương không được cấp cứu dẫn đến tử vong. Sau ngày ở Phổ Linh nghỉ ngơi, tổ tôi trở lại đông đường số 1 để tiếp tục nắm địch. Tập kết ở xã Phổ Vinh, một xã nam sông Trà Câu, giáp biển là vùng địch giáp ranh. Tổ có 3 anh em, Chiến, Lập và Giáp. Dẫn tổ về Phổ Linh là một thanh niên rất hay nói chuyện, thấy tôi tập tễnh loay hoay tìm cách vượt qua đoạn đường ngập nước thì anh ta đề nghị: "Để em cõng anh qua". Tôi không từ chối để anh bạn giúp và hỏi:

- Nhà ở xã nào?

- Em là đội phó du kích xã Phổ Vinh - anh ta nói tiếp: Bây giờ các anh về nhà em đã.

Chúng tôi đến nhà anh, một căn nhà rộng rãi chắc chắn, khung gỗ, mái ngói, cửa gian không giống kiểu lán du kích. Trong nhà có bàn thờ, giường, bàn ghế hẳn hoi, anh du kích đề xuất:

- Các anh bộ đội thích "xài thịt chó lắm".

Tôi ừ à cho qua chuyện. Thế mà tối đó có thịt chó thật. Chẳng rõ họ làm thịt chó nhà ai, ở chỗ nào? Tôi không gặp người nhà anh du kích, hay bất cứ một người dân nào khác. Anh du kích giải thích: "Ở vùng tranh chấp, địch kiểm soát phải vậy". Ăn cơm xong tôi trao đổi với A... Tối đó anh dẫn tôi đi khu vực núi Cửa. Núi Cửa là một quả núi độc lập gần cửa Mỹ Á. Độ cao trên dưới 70 mét, sườn đông, đông bắc dốc khá đứng, đá xếp chồng lên nhau, tạo ra nhiều hang hốc, nhưng du kích không thể chọn nơi này làm cứ được vì địch hay hành quân, an ninh, tổ chức chốt giữ lâm thời từng đợt. Trước đây khu vực núi Cửa, cửa Mỹ Á có một đại đội Mỹ đóng. Khi Mỹ rút, căn cứ này bị bỏ không, nhân dân xã Phổ Vinh đã phá bỏ toàn bộ căn cứ. A dẫn tôi và Giáp đi về hướng bắc, đường đi qua các khu vườn, ruộng đã bỏ hoang, nhà cửa của dân đã dỡ bỏ, chỉ còn dấu tích lại nền nhà và các cây lê-ki-ma (trứng gà) các lũy tre và cây hoang dại, các bờ giậu làm ranh giới giữa các nhà, ba anh em lầm lũi trong đêm tiến về phía núi Cửa. Thỉnh thoảng dừng lại, A nói:

- Các bờ lũy này bọn em có gài trái anh ạ, bọn ngụy ngán trái của du kích lắm. Tôi hỏi lấy thứ đó ở đâu, những loại trái nổ nào? A đáp: Từ cối 81, 203 của Mỹ. Chúng tôi thu gom lại cải tiến thành trái gài, khu vực nam núi Cửa này địch không dám bén mảng đến, dân cũng không ai đến đây. Đến núi Cửa, A chỉ về phía đông có khoảng đất trống khá bàng phẳng, anh nói: Đó là bãi đỗ trực thăng của Mỹ nay bỏ hoang, du kích cũng đặt một số trái nổ chống tăng và bộ binh. Từ bãi trực thăng cũ có đường chạy qua làng Hải Môn phía tây núi cửa, chạy gần song song giữa sông Quán và Trà Câu qua các làng xóm Tân Tự, Tân Bình về đường số 1 đoạn phía bắc quận lỵ Đức Phổ. Con đường này xe ô tô vận tải có thể chở hàng hóa từ đường số 1 xuống Mỹ Á và ngược lại. Mấy ngày ở đây quan sát thấy con đường này đã bị bỏ, không có phương tiện hoạt động. Phía tây nam núi Cửa xen kẽ vài ngôi làng là cánh đồng cấy lúa nước nhưng xem ra lâu nay việc đồng áng không được coi trọng lắm. Hầu hết để ruộng hoang, cỏ mọc um tùm, xung quanh phía đông, đông nam núi Vàng là ruộng cỏ ngập nước. Từ đỉnh núi Cửa đến đỉnh núi Vàng khoảng cách gần 4km. Nam núi Vàng có ấp chiến lược do lực lượng dân vệ chốt giữ. Tây nam núi cửa khu Hải Môn cũng có lực lượng dân vệ chốt giữ ở quả đồi đất nơi gần ngã ba đường đi Tân Mỹ và đường chiến lược qua sông Trương. Đông nam núi Cửa là xã Phổ Vinh, du kích ở đây hoạt động bán hợp pháp cũng khá mạnh, các làng gần biển du kích kiểm soát hoàn toàn.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:31:15 am
Ba chúng tôi đến chân núi Cửa nhìn lên sườn núi khá dốc đứng. Theo hướng này, bộ đội chỉ có thể leo lên chứ không thể di chuyển được. Tôi bảo A ngồi đó, cùng Giáp men theo chân núi đi chếch về phía tây nam. Theo hướng này, từ đỉnh, độ dốc thoai thoải xuống chân núi, còn đều là sườn dốc khó vận động. Quay lại chỗ A lúc quá nửa đêm, trăng gần cuối tháng đã lên cao, trời mùa thu miền Trung không có mây, ánh trăng vằng vặc. A dẫn tôi lên sườn phía nam núi Cửa. Đi theo một khe đá tạo ra con suối nhỏ nước chảy róc rách, dưới những tảng đá mấp mô, thỉnh thoảng bóng hai anh em lại in dài ra khi không bị mỏm đá che khuất ánh trăng. Lên gần đỉnh núi, A chỉ cho tôi một bóng người. Nhìn từ dưới xiên lên coi tên lính như một bức vẽ. Hắn có cây súng dựa vào vai, lồ lộ dưới ánh trăng sáng giữa bầu trời mênh mông. A nói: Hôm nay địch chốt núi Cửa anh ạ, thế mà bọn em chủ quan quá, không biết chúng lên từ khi nào. Tôi nói vẻ dễ dãi: Anh vừa về với chúng tôi hôm nay lại tập trung vào lo việc bếp núc để có thịt chó cho nên thiếu chú ý là tất nhiên rồi. A phân trần: Có thể bọn này đi theo đường sông Trà Câu lên anh ạ. Chúng tôi xong việc, trở về nhà A trời chưa sáng. Mãi sau này, khi chia tay A tôi mới được biết trong đêm đó có một thuyền chợ của dân đụng tàu của địch đoạn cửa sông Trường, thuyền lật làm người dân bị chết đuối, dân xã Phổ Vinh đã vớt và tổ chức mai táng.


A mời chúng tôi ăn sáng (bữa sáng mai). Bữa ăn có thêm hai người đàn ông trung tuổi, không rõ họ là ai. A không giới thiệu chúng tôi với nhau, vì thế tôi cũng không hỏi. A vui vẻ nói: Vùng này dân đi biển, ăn khí nhiều anh ạ. Bữa sáng mai, buổi trưa, chiều, tối và "ăn hôm". Có hai bữa chính là trưa và tối. Bữa ăn "sớm mai" hôm nay khá thịnh soạn: một chiếc bánh đa nướng giòn được áp vào một chiếc bánh đa mới tráng còn nóng. Nhân bánh được chuẩn bị gồm: mực ống loại nhỏ như ngón chân cái, tôm, cá chuồn, loại cá nhảy rất xa trên mặt nước biển, tưởng nó bay được, tất cả đều được luộc chín. Rau có hoa chuối và cây chuối non, quả xanh, khế thái nhỏ. Các loại nhân và rau được đặt lên chiếc bánh đa nướng cuộn lại thành một cái ống to như chuôi dao, gọi đó là món bánh cuốn. Bánh cuốn được chấm với mắm cái có dằm hơi nhiều ớt. Ăn khỏe cũng chỉ vài ba chiếc, ăn kiểu này vừa dễ ăn và ngon miệng. Trong ba ngày ở đây chỉ có một đêm đi công tác, còn các đêm sau chúng tôi mỗi đứa một chỗ. Du kích phụ trách tôi vẫn ở nhà A còn Lập và Giáp thì được bố trí ăn nghỉ ở nhà khác. Trong các ngày đó, chúng tôi không gặp nhau. Tôi cũng không rõ chỗ ở của các cậu ấy. Tôi hiểu ở đây du kích vẫn hoạt động bí mật ở lẫn với dân. Một buổi sáng, A đưa cho tôi bộ đồ của anh ta, tôi mặc có hơi rộng một chút. A dẫn tôi ra bãi cửa sông, lúc các thuyền đánh cá từ ngoài biển trở về, dân đánh cá xúc cho tôi hàng ký cá, mùa này sẵn cá chuồn, cá lục, loại này làm mắm ăn rất ngon. Khi xách túi ni lông bự cá chuồn, tôi bỗng nhớ đến điệu bộ rất hóm hỉnh của anh Phan Bị khi đọc bài "sấm 10 yêu"; có câu "hai yêu anh có lương khô cá chuồn”. A thấy tôi tủm tỉm cười, anh không hỏi nhưng chắc chắn anh không thể hiểu được kiểu cười một mình của tôi "lương khô cá chuồn" là khái niệm, rất tượng trưng với lính trinh sát ở trên rừng. Lương khô mà anh Khoát chế thực chất toàn là ngô hay gạo rang giã nhỏ, tống đầy muối rang, có tý chút bột ngọt, ít ớt bột, ăn mặn rụt lưỡi lại. Kỳ thực cũng có vài con cá suối cũng được kho, dằm nát bét ra lẫn với khối lượng quá lớn muối và tinh bột, có dùng kính hiển vi soi cũng chẳng thấy cá đâu. Còn tôi, đã ăn và đang xách một bịch cá chuồn thực sự. Tôi sẽ chế một ăng gô cá chuồn để ăn dài ngày chứ không phải "lương khô" cho các anh. Trước buổi tối chúng tôi chia tay A để lên rừng. A mới kể tỉ mỉ về anh cho ba chúng tôi nghe. A nói chậm chạp:

- Em là lính sư 1 ngụy anh à. - Tôi hơi bất ngờ nhưng trấn tĩnh nghe A tiếp tục: Hồi năm 1971 em bị đưa ra Nam Lào. Cuộc hành quân "Lam Sơn 719" được làm lễ ra quân rất long trọng. Tụi em được trực thăng thả xuống khu vực Bản Đông, một địa danh hết sức xa lạ. Rừng núi mênh mông chẳng thấy dân và kho tàng của đối phương đâu. Hàng ngày, chỉ nhìn và nghe thấy tiếng phi cơ bom pháo của quân lực Việt Nam cộng hòa quăng xuống các cánh rừng. Bọn chỉ huy nói: của "Ai Lao". Mấy ngày sau, tụi em được trực thăng chuyển sang dãy núi 660 điểm cao ở bờ nam sông Chê Pôn. Ngay lập tức, cả trung đoàn bị quân giải phóng nã pháo tấn công, lần đầu tiên em thấy pháo binh quân giải phóng nhiều và bắn chính xác đến thế. Pháo nổ tứ phía như bắp rang, không biết đường nào mà chạy. Bọn em bỏ cả súng ống,  trang bị lội qua sông chạy về Bản Đông. Bản Đông cũng đang tình trạng hỗn loạn. May hơn mấy đứa em kịp chui vào trong chiếc trực thăng đang từ từ bốc lên, mấy đứa chậm một chút mới leo lên hoặc đu càng treo lủng lẳng dưới bụng trực thăng, khi trực thăng lên cao chúng nó lần lượt rơi xuống chết thật thê thảm. Sau lần thoát chết ấy, em dông về quê, thật đúng với các câu truyền khẩu của dân miền Trung lúc đó: "Ai Lao đi dễ khó về, khi đi áo giáp khi về áo quan". Tôi gật đầu nghe A kể, không nói cho A hay trong chiến dịch ấy ở điểm cao 723 tôi đã thấy binh sĩ ngụy bỏ chạy khi bị pháo bắn diễn ra thế nào. Tôi bỗng thấy rất đỗi tự hào không cắt nghĩa rõ vì cái gì cụ thể. Tiếng A vẫn đều đều: Quê em có đội du kích, thế là em tham gia, các anh giao em phụ trách huấn luyện... Chia tay A và du kích xã Phổ Vinh vượt đường số 1 về đến Phổ Linh trời gần sáng, núi Vàng là mục tiêu điều tra chính của tổ. Đồng chí Long Châu Sa tham mưu trưởng sư đoàn yêu cầu tìm cho được con đường tiềm nhập bí mật qua tuyến phòng thủ vòng ngoài từ phía đông lên đỉnh núi, nơi đặt trạm ra-đa và trận địa pháo của địch.


Chiều hôm sau, thủ trưởng Sa gặp anh Mạnh và tôi tại một làng ở phía nam sông Trà Câu. Thủ trưởng nói thân tình: Các cậu ở T-10 nói với mình "Chỉ có Tề thiên đại thánh mới bí mật chui lọt lên đỉnh núi Vàng". Mình suy nghĩ mãi chưa ngã ngũ chọn phương án nào. Thủ trưởng lặng yên một lát rồi nói tiếp:

- Nếu thực sự không mật tập lên đỉnh núi Vàng được thì phải dùng cách đánh bóc vỏ tuyến ngoài rồi lấn dần bộ binh xung phong lên tiêu diệt địch ở tuyến trên. - Thủ trưởng nói tiếp, giọng đầy lo ngại: "Đánh vậy tổn thất lớn lắm mà chắc gì đã lên được núi Vàng".

Tôi yên lặng nghe, liên tưởng đến tuyến phòng thủ ngăn chặn địch tái chiếm sân bay thị xã Kon Tum hồi đầu năm. Hình ảnh các xe tăng địch lì lợm đứng từ đằng xa nhằm bắn tan từng căn hầm của các chiến sĩ ta. Bây giờ từ phía đông trống trải này, ta cũng chẳng có súng pháo nào có thể chi viện khống chế hỏa lực của địch từ trên núi Vàng và đồn Mồ Côi đánh bọc sang. Cũng có thể đại bác địch từ tàu chiến ngoài biển sẽ làm vụn đất đá toàn bộ khu vực chân và sườn núi Vàng. Còn ta không thể tăng thêm bộ đội, hay rút lui qua cánh đồng ngập nước trống trải như vậy được. Sau một lúc lâu im lặng, giọng nói của thủ trưởng vẻ cương quyết hơn:

- Các cậu phải tìm một con đường để đưa một mũi đặc công mật tập đánh chiếm, chốt giữ đỉnh núi Vàng, khi kiểm soát được núi Vàng, bộ binh sẽ từ hai hướng bắc và nam đánh tiêu diệt tuyến phòng thủ dưới chân núi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Mười, 2021, 11:32:31 am
Tôi không tham gia câu nào nhưng tự thấy cần đánh như vậy mới có thể giành thắng lợi, mà ít thương vong. Thủ trưởng Sa nói tiếp:

- Để có thể thực hiện cách đánh đó, trinh sát các cậu phải mạo hiểm. - Dừng lại có vẻ cân nhắc tý chút, Thủ trưởng quả quyết: Có thể bị hy sinh nhưng nếu vì thế mà không định được một cách đánh hợp lý có thể để chiến thắng, với sự hy sinh ít thế cũng nên cố gắng mà làm các cậu ạ! Chính các cậu mới giúp cho mình những quyết định với quyết tâm cao, trong lòng không bị giày vò bởi câu hỏi sao không đánh thế này? Sao không đánh thế kia...

Tôi lúc này mới lên tiếng giọng đầy xúc động:

- Tôi sẽ cố gắng!

Thủ trưởng Sa nói rõ nhiệm vụ:

- Cậu dẫn toán cán bộ T-10 đi, để sau này T-10 sẽ tự tổ chức đưa bộ đội mật tập khi chiến dịch bắt đầu, mình tin tưởng các cậu sẽ tìm được cách vào và ra an toàn.

Tối đó, tôi dẫn ba đồng chí đặc công T-10 thâm nhập lên đỉnh núi Vàng. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng nằm lại trong núi ban ngày để đêm sau nữa mới trở ra. Gặp nhau ít phút, chúng tôi hỏi thăm để biết tên nhau. Các anh thì được tham mưu trưởng nói đến tên tôi rồi. Đêm đó là 19 tháng 9 năm 1972, bốn chúng tôi cởi trần, ba anh T-10 cầm AK còn tôi tay không đi trước. Điểm chui rào từ phía đông, cách chỗ chui lần trước ở hướng này 100 mét lui về phía nam. Đường hành tiến là ruộng ngập nước, cỏ môi bò lan kín mặt nước làm thành thảm cỏ xanh đen. Trời mới mưa nên hoàn toàn yên tâm, địch không thể gài mìn, bẫy điện chập mạch được kiểu mìn khó khắc phục nhất và thật sự chưa gặp bao giờ, các loại mìn đạp nổ thì không đặt dưới nước được do vậy chỉ cần phải chú ý loại mìn giăng dây vướng. Chúng tôi chui qua năm tuyến rào dễ dàng. Đến gần tuyến hào nối giữa các lô cốt, tôi dừng lại chờ một anh lên sát khẽ dặn:

- Các anh lần lượt theo tôi vượt qua hào. Ta sẽ đi vào khe giữa hai bệ đất, nơi đó vừa che đỡ vừa che khuất được. Tôi nhẹ nhàng đi khom thấp tiến về phía giao thông hào, hai lô cốt cách khoảng trên 25 mét, trong đêm mắt mèo cũng chẳng nhìn rõ được. Tôi ngó hai phía lòng hào không có địch, cẩn thận dò mìn rồi vượt qua chiến hào đi vào khoảng tối.

Tôi dừng lại ở ụ đất chờ đồng chí số 2 đến, rồi mới đi theo bệ đất tiến vào chân núi. Cứ như vậy cả bốn chúng tôi đã lọt vào bóng tối của các bệ đất tạo ra. Bệ đất cao gần hai mét, dài quãng 25 mét, rộng chừng 3 mét, trên mặt nó không có súng pháo nhà cửa gì. Tôi bảo các anh ngồi cảnh giới, tiếp tục đi lên tìm cách vượt con đường nhựa địch san núi tạo ra một bờ tả ly khá cao. Khi tôi bò lên gần mặt đường thì có ánh đèn pha từ chiếc xe đi tuần đi từ hướng bắc quét tới. Tôi nằm dán xuống mép tả ly nhìn lại phía sau lợi dụng ánh đèn tuần quan sát thấy toàn tuyến lô cốt im như không có người. Vài căn nhà cùng kiểu nhà cơ động dã chiến của Mỹ. Các khu nhà này có người ở, nhưng cách chỗ tôi nằm gần 200 mét, ở bên phía nam cách bệ đất khá xa thỉnh thoảng có vài cái nhà dã chiến. Xa hơn nữa là ấp Hương Đoài, nơi có địch chốt giữ. Khi chiếc xe tuần đi qua, trả lại bóng tối thần bí, vượt đường nhựa, bốn người lẫn vào sườn núi. Sườn núi phía đông dốc đứng, ở đây phải ngẩng mặt lên nếu đội mũ cối sẽ rơi khỏi đầu (về phía sau) không nhìn được đỉnh núi. Núi có nhiều tảng đá lớn nhỏ chen chúc chồng lên nhau tạo ra nhiều hang hốc tránh bom pháo và địch quan sát rất tốt. Hướng này bộ đội không thể vận động được. Chúng tôi leo lên núi hết sức thận trọng, bám và đặt chân vào các tảng đá, chú ý không để đá lăn hay bị té. Gần đến đỉnh một ngôi miếu nhỏ, có vài cây gỗ cằn cỗi, loại mọc trên núi đá nhỏ bé và thưa thớt. Quãng 24 giờ, chúng tôi lên đến đỉnh núi, chỗ chúng tôi nằm khá bằng phẳng cao hơn mỏm núi đặt ra-đa ở phía nam. Nhìn sang khu ra-đa phía đông đỉnh núi Vàng đang hoạt động. Mục tiêu, nhiệm vụ của nó là gì tôi không cần tìm hiểu, điều chắc chắn là nó kiểm soát vùng biển. Trận địa pháo nằm về phía tây. Con đường nhựa chạy xung quanh chân núi có một nhánh lên theo sườn núi phía nam, vòng qua phía bắc nơi đặt ra-đa đi vào cổng. Xung quanh mục tiêu là một hàng rào B-40 cao cỡ 3 mét. Anh em tôi ngồi đối diện với cổng chính của căn cứ. Nó ở thấp hơn chừng 5 mét. Hai bên cổng có vọng gác và lô cốt bằng bê tông. Đồng chí đại đội trưởng đặc công dặn tôi nằm đây, các anh đi nghiên cứu. Anh dẫn một đồng chí đi quay lại, kiếm đường tiếp cận khu ra-đa. Đồng chí còn lại thì đi về phía tây, nghiên cứu lối vào trận địa pháo. Còn một mình, tôi suy xét lại các yếu tố, thấy theo hướng này, nếu tổ chức tốt, ta có thể mật tập gọn trong đêm một đại đội bộ binh không đến nỗi quá khó khăn. Tôi thấy tự tin, như là đã có chiến thắng vậy. Bây giờ, việc của tôi đã hoàn thành một nửa, nếu trở ra trót lọt thì có thể khẳng định trong báo cáo trinh sát rằng: Mật tập một mũi đặc công là hoàn toàn có thể thực hiện được. Việc đánh chiếm và chốt giữ các mục tiêu như thế nào? Công việc nặng nề ấy do các đồng chí đặc công chịu trách nhiệm. Nằm đây, nhìn ra xung quanh các vị trí địch đều ở dưới thấp hẳn. Nếu chiếm được núi Vàng ta hoàn toàn khống chế toàn bộ khu vực quận lỵ, ngược lại với địch cũng có ý nghĩa như thế. Nghĩ đến phải đánh bóc vỏ, tôi hình dung ra ngay những tốp chiến sĩ bộ binh ngã gục dưới làn đạn trọng liên của địch và cuộc tấn công của ta sẽ sớm bị bẻ gãy hoàn toàn. Sau một giờ các anh trở lại, anh C trưởng nói: "Còn sớm lắm, ra vẫn kịp đấy".


Tôi đồng ý, đứng dậy dẫn các anh xuống núi. Chúng tôi trở ra nhanh hơn vì không phải dò mìn, phán đoán phía trước nhiều. Sau khi vượt qua chiến hào, tôi đi sau để ngụy trang lối đột nhập. Cả tổ ra đến gò đất chỗ anh Mạnh và Giáp nằm lại đầu hôm thì gần 4 giờ sáng. Anh Mạnh và Giáp đã về, vì theo kế hoạch đêm mai mới đến đón chúng tôi. Tôi dẫn mấy anh em về nơi tập kết. Khi anh Mạnh dậy, tôi tranh thủ báo cáo ngay với anh Mạnh về con đường mật tập và toàn bộ suy nghĩ, xét đoán của mình. Ngày hôm đó, đoàn công tác của thủ trưởng trở lại chỉ huy sở. Khi chuẩn bị rời cứ du kích, anh Mạnh nói với tôi: "Đã khẳng định cách đánh mật tập, thủ trưởng khen ngợi anh em ta". Ba đồng chí đặc công tôi không nhớ tên còn ở lại với chúng tôi, tuy thời gian ít ỏi các anh cũng đã tâm sự muốn để tôi hiểu được hoàn cảnh của mình.


Qua lời kể của anh đại đội trưởng, tôi mới biết các anh T-10 đã và đang chịu đựng những hy sinh tổn thất cực kỳ lớn, để lại gánh nặng tâm lý thiếu tin tưởng vào cách đánh đặc công đã được huấn luyện. Có ý lo ngại cách sử dụng lực lượng đặc công trong tác chiến của chỉ huy. Anh đại đội trưởng nói giọng thật buồn: Từ đầu năm đến giờ đã khá nhiều lần thay tiểu đoàn trưởng. Các anh tiểu đoàn trưởng mới lên thay nhau liên tục vì hy sinh hay bị thương. Cậu tính đến nỗi cấp trên "Không dám bổ nhiệm anh hùng Trần Đình, D phó lèn cũng là để bảo vệ anh hùng. Tiểu đoàn như vậy còn cán bộ đại đội và tiểu đội thì mật độ thay thế còn dày hơn nhiều, có lúc thực sự thiếu người chỉ huy, thiếu tay súng chiến đấu, có lúc đại đội còn chưa đủ một chục người.

Các anh chia tay tổ trinh sát đi về phía nam. Chúng tôi ngày hôm sau về cứ ở dãy núi rừng già phía tây xã Phổ Linh, để đi chuẩn bị chiến trường Sa Huỳnh.

Một buổi chiều trên đường hành quân đi Phổ Thạnh, tình cờ tôi gặp cậu Yên. Nguyễn Yên là một trong 10 thanh niên xã Thất Hùng cùng nhập ngũ. Yên cùng làng, hai anh em gặp nhau vui vẻ lắm. Yên cao lớn to khỏe, sốt rét có làm cậu ta gầy đi một chút nhưng cái khung vẫn to cao sức vóc. Tôi hỏi thăm bạn bè, Yên thông báo Viễn bị thương ra Bắc, còn lại cậu Cao Yên không rõ còn hay mất. Tôi nắm tay bạn xúc động nói: Thế là chắc chắn cả xã mình nay chỉ còn ba đứa đang ở chiến trường. Tớ với cậu chắc chắn lúc này đang sống, chỉ chưa rõ Cao Yên. Năm nay chiến dịch liên tục ác liệt quá, Yên kể trận đánh của Trung đoàn 141 vào các mục tiêu địch nam sông Vệ, đêm nổ súng là đêm lũ về bất ngờ, toàn bộ trận địa hỏa lực và bộ binh bị chìm trong nước, chỉ có đặc công T-10 là đơn thương độc mã đánh vào làm chủ các đồn địch, sau đó lại phải rút ra. Tóm lại chiến dịch kết thúc sớm, một số anh em bị lũ cuốn chết đuối, mất số súng ống, thuốc nổ và đồ dùng quân trang quân dụng khác. Bọn tớ mới rút về đây nghe nói để chuẩn bị cho giải pháp hòa bình gì đó.


Từ sau chiến dịch Kon Tum, sư đoàn sức chiến đấu có suy giảm, quân số bổ sung không kịp. Thời gian để củng cô, huấn luyện ít, các cuộc chuẩn bị cho đánh lớn vào các quận lỵ Mộ Đức, Đức Phổ đều có sự trục trặc, như B-52 đánh vào sư bộ, thiên tai bất lợi, trang bị vũ khí hạn chế, lương thực cũng không đủ, bộ đội bị đói, tác chiến dài ngày liên tục sức khỏe giảm rõ rệt, số người bị sốt rét lớn. Đại đội trinh sát của tôi có hơn 10 đồng chí liên tục coi hậu cứ, có cậu sốt tóc rụng hết, đi đứng siêu vẹo. Cậu Cảo tả: mấy đứa đi phải vịn vào cây rừng mới không bị ngã. Bộ phận ở hậu cứ có cậu Xanh, chiến sĩ mới bổ sung từ Hải Phòng vào, thấy ốm đau, đói khát, hy sinh, một phút yếu lòng đã tự gí nòng súng AK vào cổ tay bóp cò, tự gây thương tích để mong được trở lại miền Bắc. Mãi sau này, có lần về đơn vị vài ngày, tôi được đại đội cử phụ trách đoàn bộ đội của nhiều đơn vị vượt đường số 1 sang phía biển để lấy gạo về ăn. Thấy anh em đi lấy gạo cũng hết sức vất vả và nguy hiểm. Một chuyện tôi nhớ mãi, đó là lần nhóm đi cõng gạo của đại đội, đã lấy được gạo về đến chân núi dừng lại nấu cơm, cậu Xanh đề nghị: "Anh ơi, cho chúng em ăn một bữa no đi". Nghe cậu ta nói giọng cứ nhỏ dần, vẻ mặt đầy lo lắng, cầu khẩn, tôi thấy đau xót đến kỳ lạ, để nước mắt cứ tự do rơi ra trước mặt người lính gầy gò nhỏ bé. Ngồi như bất động, tôi chỉ hơi khẽ gật đầu. Bữa ăn hôm ấy, cơm trắng với mắm có một hộp cá con, thêm ít muối và bột ngọt thế mà không khí có vẻ vui nhộn hẳn lên. Cậu Xanh mở to đôi mắt nhiều lòng trắng, nhưng nhanh nhẹn hơn khoe: "Em ăn được 10 bát B-52". Lần đó cũng có ý kiến phê bình tôi "Theo đuôi quần chúng" để vi phạm tiêu chuẩn lương thực. Tôi không thể bào chữa được khuyết điểm, nhận khuyết điểm, hôm sau lại đi công tác, không rõ có phải do câu chuyện ấy không? Sau này một số chiến sĩ cứ gọi tôi: "Chính trị viên" thực ra lúc ấy tôi mới là tiểu đội trưởng ở B1.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 08:04:44 am
Sa Huỳnh.

Đoàn trinh sát đi chuẩn bị chiến trường lần này khá đông, có cả mấy anh em thông tin 2 oát. Anh Mạnh phụ trách chung. Anh Dũng B phó phụ trách một tổ, tôi phụ trách một tổ, các tổ viên trinh sát gồm: Thể, Minh, Vọng, Đình và Tao. Từ rừng đi đến đoạn đường quốc lộ 1, chúng tôi được du kích xã Phổ Thạnh, Sa Huỳnh đón, chở bằng xe gắn máy. Lần đầu tiên được ngồi sau lưng anh tài xế chiếc xe máy lao vun vút, tóc bay ngược lại phía sau, đường số 1 chạy dần ra biển, không gian thoáng rộng, ai cũng vui sướng lạ lẫm. Có lẽ mải mê vui hưởng lạc thú, cậu Hoạt đã cho gót chân vào nan hoa, khiến chiếc xe bị níu cản lại. Khi nghe tiếng cậu Hoạt kêu lên oai oái, dừng được xe lại thì cái gót chân xinh xẻo của cậu ta chỉ còn lại có cốt, máu me chảy đầm đìa từ các mảng da thịt bị xé tướp ra. Nó đau đớn quá chừng. Cậu Vọng nhanh nhẹn băng bó lại cho Hoạt xong, anh Mạnh cử Tao quay lại để đưa cậu ta về nơi xuất phát. Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình, đến đầu một khu ruộng dân làm muối, rời xe máy tạt xuống phía đông, đi mấy tiếng nữa thì đến một xóm nhỏ có dân đang ở. Xóm nhỏ này sát biển, chỉ có chục nóc nhà, cách đồn Hải Thiềng 3km về phía bắc.


Đồn Hải Thiêng nằm trên một bán đảo, dáng đất giống như quả bầu nậm, cái phần thắt nhỏ tiếp giáp với xóm nhỏ chúng tôi tập kết. Ba bể tây, nam, đông là biển mênh mông. Lối đi bộ duy nhất vào Hải Thiềng là dải đất nhỏ hẹp như cái cuống của quả bầu. Trên bề mặt của dải đất nhỏ hẹp này mọc dày sin sít toàn loại cây ô rô có gai nhọn, thân cây bé nhỏ, cứng sắt lại không thể luồn lách chui vào đám cây gai góc này vì da thịt con người không thể chịu được. Dải đất khó khăn này có chiều dài quãng 800 mét. Bộ binh vận động tấn công Hải Thiềng chỉ có thể lợi dụng lúc thủy triều xuống thấp. Bọn địch suốt ngày đêm đặc biệt chú ý đến dải đất này đề phòng du kích, đặc công xâm nhập. Phía tây đồn Hải Thiêng là eo biển. Khi nước triều lên, eo biển có khoảng cách khá rộng, chỗ rộng nhất cách hai bờ khoảng 3km, chỗ hẹp nhất từ đồn nhìn sang ấp Thạch Bi chừng 600m.


Tổ trinh sát tập kết ở xóm nhỏ Phổ Thạnh, anh Mạnh ở nhà chị Cảnh (tên người chồng). Anh Cảnh là lính đóng ở đồn Hải Thiềng, là cơ sở của cách mạng. Anh chị Cảnh đã lớn tuổi nhưng chưa có con. Chị Cảnh hàng ngày lo việc ăn uống và liên hệ giữa chúng tôi với du kích Sa Huỳnh.


Việc điều tra tiềm nhập vào Hải Thiềng không có cách gì qua nổi cái cuống quả bầu nậm đầy gai góc, không hoàn toàn chỉ vì gai góc mà còn vì lẽ không thể bí mật và an toàn. Nếu không thế, chúng tôi sẽ dùng dao sắc cắt gốc cây, đẩy gốc sang hai bên sẽ tạo ra mở đường ống cứ thế mà chui vào, nhưng không thể vì chỉ hai ngày lá cây bị phơi khô địch hiểu ra ngay, hơn thế nữa đêm nào cũng vậy, mấy ụ súng liên tục có lính gác ở lối vào này luôn nổ hàng tràng đại liên vào dải đất. Trinh sát bò sát vào khó mà tránh được đạn thẳng quét phòng ngừa ngăn chặn như thế.


Anh Mạnh đã quyết định cách trinh sát hợp pháp, tổ trinh sát giả làm dân đánh cá trên biển, ngồi trên các ghe của dân chài dễ dàng quan sát toàn bộ đồn Hải Thiêng và đông ấp Thạch Bi, kiểm tra độ sâu nông của vịnh (eo biển) lúc nước lớn và khi nước cạn. Sơ đồ đồn Hải Thiềng được vẽ chi tiết như chụp ảnh. Một buổi tối, du kích Sa Huỳnh dẫn chúng tôi đi đột nhập ấp Thạch Bi, từ xóm nhỏ chúng tôi đi theo bờ những ruộng muối phía tây vịnh lên quốc lộ 1, đi qua một đèo khá dốc và vòng vèo, đỉnh đèo trước đây có trạm kiểm soát của lính ngụy, nay địch đã bỏ trống. Theo đường số 1 đi về phía nam đến ấp Thạch Bi, ấp này do lực lượng bảo an, dân vệ kiểm soát. Phía tây đường số 1, đối diện với ấp là đồn Đá Heo, địch chốt ở đây lực lượng nhỏ, một trung đội. Tổ trinh sát vào ấp không gặp cản ngại gì. Lúc tôi dừng lại ở cửa một căn nhà, căn nhà phố nằm ở trục đường đi ra bến cảng. Mọi người chăm chú quan sát con đường và đề phòng các phía. Cửa căn nhà tôi đang nấp hé mở. Một bà cụ ấn vào tay tôi một gói nhỏ, rồi cánh cửa khép lại ngay. Tôi hiểu rằng phía trong các cánh cửa đóng im ỉm kia, nhiều cặp mắt đang dán vào nhìn ngó chúng tôi với bao tâm trạng. Họ thấy tất cả và biết chúng tôi là ai, nhưng họ đã không tuân theo lệnh của chính quyền, không gõ mõ báo động. Rõ ràng lòng dân vùng địch đã hướng về cách mạng, sẵn sàng che chở quân giải phóng đánh địch. Tôi sững sờ chìm sâu vào suy tư, gói nhỏ trong tay là bịch thuốc lá "xi cỏ", ở vùng này, thuốc lá cuốn đóng bịch 100 điếu, loại thuốc khi hút thấy phảng phất mùi thơm bánh khảo. Tôi bỗng có cảm giác vừa gặp mẹ mình.


Mấy ngày "công tác" ở Sa Huỳnh, ngoài các lần vào đồn, đi địa hình khu vực, anh Mạnh còn làm công tác bồi dưỡng "tình báo nhân dân”. Anh khuyên chị Cảnh lôi kéo các thầy tướng số tử vi vào cuộc. Ví dụ: Xem cho một vài chú lính, hạ sĩ quan về hậu vận, cần phải làm gì để tránh đại hạn, để được hưởng kết quả của hiệp định hòa bình sắp được ký kết vào tháng 10, v.v...


Chị Cảnh cho biết, anh Cảnh nói mấy ngày vừa rồi lính đảo ngũ hơi nhiều, nay chỉ huy phải ra lệnh cấm trại. Binh sĩ căng thẳng lắm. Nhiều chiến binh cáo ốm xin đi chữa bệnh và đi phép. Bọn chỉ huy hết sức hoang mang lo lắng.


Những ngày tháng cuối năm 1972 chiến trường Khu 5 có vẻ lắng xuống. Hầu như không còn trận đánh nào của chủ lực nữa. Cuối tháng 10, tôi được gọi về cứ, hướng chuẩn bị chiến trường mới là quận lỵ Ba Tơ - đây là huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi. Lực lượng địch đáng kể ở đây là tiểu đoàn biệt động quân số 69 đóng giữ căn cứ Đá Bàn. Anh Mạnh và một nhóm trinh sát vẫn ở lại Sa Huỳnh tiếp tục làm nhiệm vụ, phục vụ cho Trung đoàn 141 làm các việc chuẩn bị cho các hoạt động trước trong và sau khi có hiệp định hòa bình, (dự kiến Mỹ sẽ ký vào cuối tháng 10 năm 1972).


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Mười, 2021, 08:05:12 am
Ở hậu cứ,

Những ngày giữa tháng 10 năm 1972, tâm lý chung của bộ đội, nhân dân mong chờ việc ký kết Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tâm lý này là có thật, chí ít phần nào ảnh hưởng đến tính tích cực, chủ động chiến đấu của các cấp, các lực lượng ta. Tuy nhiên, sau khi Đài tiếng nói Việt Nam công bố việc đế quốc Mỹ lật lọng không ký hiệp định như đã cam kết cùng với các hoạt động gia tăng lấn chiếm vùng giải phóng của quân ngụy Sài Gòn. Đặc biệt là khi chúng mở chiến dịch dùng B-52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác, thì các hoạt động quân sự của quân giải phóng ở chiến trường lại được đẩy mạnh, với quyết tâm buộc quân thù phải thực hiện cam kết.


Đêm ngày 26 tháng 1 năm 1973 ta tấn công đánh chiếm giải phóng Sa Huỳnh. Quân giải phóng nhanh chóng làm chủ các mục tiêu, tổ chức chốt giữ các đồn Hải Thiềng, ấp Thạch Bi, đồn Đá Heo. Trên các xóm xuất hiện lá cờ biểu tượng của chính quyền cách mạng, "nửa đỏ của đất, nửa xanh của trời". Vùng giải phóng được mở rộng chiếm hầu hết vùng đồi núi, làng mạc, đồng bằng, thu hẹp phạm vi địch chiếm giữ ở thị trấn. Tuyến đường số 1 nối liền các vùng giải phóng từ quận lỵ Tam Quan đến nam quận lỵ Đức Phổ. Các quận lỵ, chi khu địch đều bị chia cắt ra bởi các vùng giải phóng đan xen thế cài răng lược, làm cho địch ở đâu cũng bị dồn vào thế bị cô lập.


Trên hướng Ba Tơ, Lữ đoàn 52 tăng cường cho Sư đoàn 2 đã giải phóng quận lỵ. Căn cứ Đá Bàn đã bị san bằng. Hầu hết lực lượng D69 bị tiêu diệt, tan rã, huyện Ba Tơ được giải phóng.

Theo dõi chiến trường cho thấy, việc chủ động giành đất, giành dân rất mạnh mẽ. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc đã dập tắt ý đồ khuất phục Việt Nam bằng sức mạnh của Mỹ. Hơn 30 máy bay B-52 bị bắn rơi "Điện Biên Phủ trên không" của Việt Nam đã thắng lợi, buộc đế quốc Mỹ phải ký vào hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm 1973.


Hiệp định Pa-ri vừa ký kết, chính quyền ngụy Sài Gòn chủ trương không nghiêm chỉnh thi hành, chúng mưu toan "tràn ngập lãnh thổ", tổ chức các trận tập kích nhỏ đánh chiếm lại một số vị trí mới bị mất trước ngày 28 tháng 1 năm 1973.

Khu vực hoạt động của Sư đoàn 2 chủ yếu giữ vùng giải phóng từ nam sông Vệ đến bắc Bình Định, tập trung địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Các cụm địch ở khu vực này chưa giải phóng được gồm: quận lỵ Đức Phổ và các căn cứ núi Vàng, đồn Mồ Côi, quận lỵ Mộ Đức, hầu hết các quận lỵ, tỉnh lỵ địch còn chiếm giữ. Từ những căn cứ này, địch tổ chức lấn chiếm, hoạt động vi phạm các điều khoản về ngừng bắn rất trắng trợn. Chúng đã chiếm lại được các vị trí như đồn Hải Thiềng, ấp Thạch Bi, Đức Phổ, ngã ba Thạch Trụ xã Đức Lân, Mộ Đức. Ở Ba Tơ, địch chiếm đồi ông Nguyện.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:54:21 am
6
   


Những ngày tháng sau hiệp định.

Ngày 28 tháng 1 năm 1973 Hiệp định Pa-ri về ngừng bắn tại Việt Nam được ký kết. Các bên tham chiến ngừng bắn, giữ nguyên hiện trạng lực lương. Vùng kiểm soát của Chính phủ cách mạng cộng hòa miền Nam Việt Nam bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi, trung du. Đồng bằng thì thành thế da báo. Chính quyền ngụy Sài Gòn quản lý trên danh nghĩa các thành phố lớn, đô thị miền Nam.


Đại đội trinh sát có dịp được tập trung khá đông đủ trước Tết Nguyên đán năm 1973 (ngày 7 tháng 2 năm 1973). Nơi đóng quân của đại đội là một khu rừng nằm trong thung lũng khá rộng lớn của huyện Ba Tơ. Nơi đây tiếp giáp với Trà Bồng, phía nam giáp An Lão, Bình Định, phía đông giáp Đức Phổ và Hoài Nhơn. Gần một tháng lao động làm hậu cứ, khu doanh trại đã hoàn tất nằm phía bờ nam con suối khá lớn, đoạn có con đường mòn để vào doanh trại, nước thường ngày chỉ ngang đầu gối nhưng chảy xiêt. Một hôm, nhóm cõng gạo qua đây, Đào trượt chân té, nước cuốn, anh mất tích dưới làn nước đục ngầu. Khi anh em về báo cáo, chúng tôi đi tìm đến tối mới thấy xác anh dưới hạ lưu cách đơn vị gần 4km, đó là một mất mát thật không ngờ. Những ngày ở đây công việc chủ yếu là xây dựng củng cố doanh trại, tổ chức đi nhận lương thực, thực phẩm, đặt một số đài quan sát, theo dõi các vụ ném bom, bắn pháo của địch vi phạm ngừng bắn. Tết đó, chúng tôi được ăn tết đông đủ ở doanh trại. Các tiểu đội đều có bánh chưng, giò heo, bánh kẹo và rượu. Các thứ này mua nguyên liệu ở đồng bằng lên, chiến sĩ ta chế biến, nói chung rôm rả. Sau tết tôi lăn ra ốm, sốt rét ác tính. Hôm ấy như mọi khi, sau bữa ăn tôi được đồng đội tín nhiệm nhờ làm đẹp, mỗi buổi trưa cắt tóc cho 1 đến 2 người. Sau khi đi tắm về thì bị sốt. Y tá bảo nóng đến 39°, sốt rất lạ, không có cơn rét run. Quãng ba giờ chiều thì đau bụng đi ngoài, nôn mửa ra toàn nước màu vàng, đen, xanh đắng kinh khủng. Chả trách người ta hù cậu Tao: "Cậu bị dập mật", cậu ta tin liền là phải. Miệng nôn, trôn tháo liên tục, y tá báo cáo đại đội cho cáng tôi đi viện khẩn cấp. Vọng, Viện, Thể, Lập cáng đi. Đường rừng, thỉnh thoảng có đoạn dốc ngược lên mà chúng nó vẫn khiêng tôi chạy vèo vèo. Không biết do tôi quá nhẹ, hay do tính cấp bách của nhu cầu cứu người thôi thúc những anh bạn hăng lên quên mệt, có lẽ lý do sau nhiều hơn. Tôi biết rằng, mấy anh chàng khiêng tôi kia chẳng khỏe tý nào. Thằng Lập "Lập nhái" hành quân chỉ một cái ba lô nhẹ tênh mà chốc chốc lại lôi bi đông nước ra dốc ngược vào miệng. Nó bao giờ cũng phải xâm phạm vào tiêu chuẩn nước của hai ba người khác, vì thế anh em bảo nó uống nước như nhái. Cái biệt hiệu "nhái" cũng chẳng làm nó quan tâm, nó vẫn cứ nhái như vậy hoài. Nụ cười gần như vĩnh cửu trên khuôn mặt của hắn giờ đây bỗng có vẻ căng thẳng, có nét quan trọng hiện ra. Nhìn chúng nó thay nhau đặt cáng lên vai chạy hối hả, làm tôi òa khóc thực sự. Nhiều khi người ta được người khác quá lo lắng cho mình, mà mình bất lực không làm gì được để họ bớt lo đi, nên đành khóc hoặc cười thôi. Tôi chẳng có suy nghĩ để lựa chọn. Những giọt nước mắt không tài nào ngăn được cứ tuôn ra. Không biết người ta đón tôi vào bệnh viện như thế nào. Mấy anh em thân quen đã trở về đơn vị từ lúc nào? Quanh tôi nhiều bệnh nhân lắm. Bác sĩ tên Khôi khá lớn tuổi hỏi:

- Cậu có ăn gì lạ không?

- Em không ăn gì, ăn cơm trưa như mọi người thôi ạ.

- Lạ nhỉ? - Bác sĩ nghi ngờ. Ông ta nói: "Cũng ổn rồi" sau đó đi đến với những người khác. Ở viện ít ngày, tôi được biết thêm một số tình hình, thì ra cuộc sống chiến đấu của anh em bộ binh khổ hơn nhiều so với những chàng trinh sát "lãng tử" bọn tôi. Một cậu chiến sĩ chỉ cho tôi một bệnh nhân và nói:

- Cậu ta tên là Thiện, ở đơn vị tớ, bị tâm thần đấy!

Tôi nhìn anh chàng mặc đồ bệnh viện đi lại bình thản, chưa thể tin anh chàng bị tâm thần. Cậu bạn nhìn tôi có vẻ như giễu cợt "cứ không tin đi". Anh ta lại lên tiếng giọng rất nhỏ:

- Hôm ấy, tiểu đội tớ đang huấn luyện ở bãi tập, lúc giải lao, giá súng ở hai chỗ, mọi người túm tụm vào nhau thành từng tốp để nói chuyện phiếm, bỗng bất ngờ cậu Thiện đến giá cầm lên một khẩu AK, hắn đứng ở tư thế bắn găm xuống giao thông hào rồi hét: "Hàng thì sống, chống thì chết!". Tiểu đội tớ và các tiểu đội gần đó xôn xao, hầu hết đều nghĩ cậu ta đùa. Nhiều người la: "Đùa gì mà lạ thế!". Ai đó quát: "Bỏ súng xuống". Tiếng quát vừa dứt thì hắn bóp cò, loạt đầu đi đến 4, 5 viên. Tớ bị trúng một viên của hắn nằm lăn ra. Nhìn thấy nó thật sự hung dũ, mắt long lên sòng sọc. Các tốp người trở nên hỗn loạn, người chạy, người nấp vào gốc cây, hắn còn nổ thêm hai loạt nữa. Tôi sốt ruột hỏi: "Rồi sao nữa?". "Anh tiểu đội trưởng ở phía sau nện cho nó một báng súng. Khẩu súng từ tay hắn rơi ra, mọi người xông đến trói hắn lại. Ngoài tớ, còn hai cậu nữa cũng bị dính đạn, may mà không có ai bị chết. Tớ điều trị được hơn mười ngày thì thấy người ta đưa cậu Thiện đến đây nói là "tâm thần". Anh lính này nói tiếp: "Hình như nó không nhận ra tớ, anh em cùng một tiểu đội đấy".


Lúc đầu có người nói hắn giả vờ muốn trả thù ai hoặc ức chế gì đó làm bậy trước khi tự sát. Bảo vệ có tìm hiểu nhưng ở tiểu đội nó hiển như đất, tiết kiệm nói cười, thế nào cũng xong, làm sao có thù oán với ai được. Bệnh viện này chữa cho hắn bệnh tâm thần. Anh bạn bệnh thao thao dốc bầu tâm sự. Còn tôi thấy ớn cái bệnh kỳ quặc ấy quá. Buổi chiều, tôi đi xuống lòng con suối cạn ngồi nhìn lên đồi núi ngút ngàn cây rừng rậm rạp, thấy buồn và nhớ nhà quá. Đã mấy cái tết tôi không thắp hương ở nhà thờ, không được nghe cụ Vệ đọc văn khấn sáng mùng 1, không được nghe câu chúc Tết đầu năm của các cụ bà, cụ ông, các chú thím, cô, cậu mợ, các anh chị em và các cháu... Tôi đang mải nghĩ miên man thì một người bệnh đã đứng bên tôi từ lúc nào. Tôi hơi giật mình khi anh vỗ nhẹ vào vai tôi cất tiếng ồ ồ:

- Nhớ nhà à?

- Nhớ! - Tôi thừa nhận.

- Hòa bình, hoà biết đếch gì? Tớ suýt chết ở Sa Huỳnh chỉ sau có mấy ngày hiệp định được ký đây. - Ạnh ta nói đến từ "suýt chết" thật bình thản.

- Anh là bộ binh? - Tôi hỏi.

- Ừ! - Giọng anh có vẻ sôi nổi. - Tớ ở Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 141. Đại đội tớ ra giữ chốt Hải Thiềng. Cái bán đảo khô cằn chỉ toàn cát bụi, nắng bỏ mẹ. Bọn tớ phải khẩn trương củng cố làm hầm hào để sẵn sàng chiến đấu và tránh phi pháo. Lệnh trên thì thế nhưng cánh lính cứ kháo nhau hiệp định hòa bình đã ký. Hãy để sức lực lo cho người ngợm ra hồn để đi giao dịch ở nhà hòa hợp, bọn ngụy không coi thường mình được.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:55:50 am
Tôi nghĩ quả là có chuyện hòa hợp thật, ở Ba Tơ đơn vị có mấy cậu đã tiếp xúc với bọn ngụy. Khi về kháo nhau, bọn nó cứ bảo cánh mình đều là sĩ quan giả dạng vì lính ta nói năng khá quá. Tụi lính ngụy đa số là mù chữ, nên sĩ quan nó tưởng chiến sĩ quân đội ta cũng vậy.


Thấy anh ta không nói nữa tôi nhìn anh. Anh lính này khá lớn tuổi cứ cho là thế đi, chứ trong hoàn cảnh rừng rú này bố ai đoán chính xác được tuổi. Ngay mình đây từ đầu năm 1972 cậu Thuỷ chiến sĩ mới chả gọi bác, xưng cháu là gì?

- Ngồi đây nói chuyện cái đã. Tôi dịch sang bên một chút, hơi mỉm cười, anh chàng dường như biết chắc tôi muốn nghe mọi chuyện nên anh ta liền ngồi xuống.

- Đang hân hoan bởi không khí hòa bình, có đứa suốt ngày viết thư. Tiểu đội tớ có cậu viết thư cho hai ba cô... thể nào mà chả có đứa nhầm lẫn, thư mẹ thì bỏ vào bì của người yêu, thư cho chị A lại bỏ vào bì gửi cho chị B. Lính suốt ngày tắm đẫm dưới biển. Thế rồi sáng sớm hôm đó bốn bề súng nổ. Địch tập kích vào Hải Thiềng. Ta bị bất ngờ kháng cự không lại, đành bỏ đất, bỏ của giữ người. Các lối đi vào đất liền địch chốt phong tỏa hết. Anh em mình đành vượt eo biển phía tây bán đảo mà về, súng ống bỏ hết. Nhóm tớ, mấy anh em bị thương nhẹ không muốn xa đơn vị cứ nấn ná chữa trị vết thương ở chốt, lúc này cũng phải tự vượt biển mà về. Cái eo biển thế mà rộng, tớ bị chìm, sóng đánh giạt vào ruộng muối, thế là lực lượng cứu thương đưa về đây. Mấy hôm nay ngó hoài mà không thấy mấy cậu lội biển cùng tớ.


Tôi đã hiểu anh ta, đến tôi cũng còn vì lý do tìm kiếm các bạn. Tôi đã chuẩn bị nhiều ngày cho việc đánh chiếm Hải Thiềng biết rất rõ, người khỏe bơi qua mấy kilômét biển như thế cũng khó khăn rồi, đằng này... Nghĩ đến nhiều người như anh Mạnh, cậu Đình không hề biết bơi, những người thả xuống nước như thả viên gạch. Họ có bao nhiêu người phải vượt biển một cách bất đắc dĩ như vậy...


Tôi và anh bạn đều im lặng. Cái im lặng thật nặng nề. Tôi kéo anh ta đứng dậy, buột miệng nói: Tớ cũng ở đấy trở về. Anh ta lại lầm lũi bước đi. Anh đi về những chiếc lán thương binh khác. Tôi nhìn theo anh ta cảm thấy ái ngại. Nằm viện đã trọn tuần lễ, tôi xin ra viện, bác sĩ nhìn tôi nói:

- Cậu còn yếu lắm. Sốt ác tính, hồng cầu còn triệu tám về rồi lại vào à.

Tôi năn nỉ: Em về được mà, khỏe ngay thôi bác sĩ ạ.

Anh ta nhìn tôi như ngạc nhiên dò xét sau đó buông một câu y như cũ: "Lạ nhỉ". Tôi chẳng phân tích cái cụm từ "lạ nhỉ" của ông bác sĩ, vì sau đó ông ta đồng ý cho tôi ra viện.

Đường từ viện về đơn vị, đi nhanh không đến nửa ngày. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng đã về đến đơn vị lúc trời nhập nhoạng tối. Cái phương châm năng đi, năng nghỉ có lẽ là giải pháp đúng với một anh chàng ốm yếu. Cái cảnh lên dốc gối mỏi, tai ù thình thình, xuống dốc chồn chân mắt hoa khuỵu gối. Từ trận sốt đầu năm 1971, nay lại đến với tôi. Cả năm 1972 sao mà khỏe thế. Mới có hòa bình một tý mà đã ốm rồi. Cả đoạn đường dài tôi chẳng nghĩ gì khác được ngoài việc lựa chọn đi và nghỉ. Anh em đơn vị đã ăn cơm tối xong, trong các hầm bò treo chật cứng võng. Mọi người chỉ có thể nằm trong bọc võng để không bị làm mồi cho muỗi. Tôi đi lên đại đội, anh Mạnh sai cậu Cảo nấu cho bát cháo. Anh Mạnh bảo đơn vị chuẩn bị đi làm nhiệm vụ ở Phổ Vinh. Mọi người đang sẵn sàng chò lệnh. Tôi hỏi: Anh đã gặp gia đình chưa? Anh Mạnh vui vẻ nói: "Rồi! Còn ông cụ ở trên rừng, mấy đứa em gái cũng thế". Hôm anh lên trên này có ghé qua nhà được không? Được! Tớ dẫn cả tổ trinh sát ghé, mấy thằng mắt tròn mắt dẹt, tớ tuyên bố có mấy đứa em chỉ để gả cho bộ đội. Các cậu được nước tán tếu làm mấy con nhỏ ngượng trốn biệt, thành ra chẳng dặn dò gì được chúng nó. Lần này xuống không đi lối đó, tắt phía nam quận Đức Phổ sang Phổ Vinh, nghe đâu chốt giữ núi Cửa. Ngừng một lát anh Mạnh hỏi: "Cậu sao ra viện nhanh vậy?". Tôi nói: Chẳng có bệnh gì! Sốt rét thì cứ lên cơn rồi cắt cơn, chờ khỏi thì đến bao giờ.

- Nhưng cậu gầy yếu lắm, mai tớ hỏi cậu Tuế xem có đem giấy ra viện về không đấy?

Tôi nói: Có! Không mang về các anh lại phê bình này kia cho nặng đầu thêm à, chả dại...

Cảo bưng lên xoong sáu cháo, dưới lưng một tý, tôi nhìn hắn cười dưới ánh đèn dầu dù tù mù thì hắn cũng nhận ra cái kiểu ấy. Hắn nói lấp liếm:

- Cứ ăn đi. Nếu thiếu tớ lại đi nấu nữa.

Tôi mời anh Mạnh và Cảo cùng ăn. Anh Mạnh từ chối, Cảo thì "làm một bát cho vui”. Nấu cháo cho người ốm ở đại đội này siêu nhất phải kể đến anh Quân. Anh Quân nấu cháo cho tôi ngày ở K300 năm 1971, lúc đó có quả trứng gà con so. Thứ hai chỉ có cậu Cảo. Cậu ta là liên lạc đại đội, mà đại đội thì có anh Lê Đăng Tứ là người nghiện cháo, vì thế cậu Cảo trở nên có nghề. Không chắc lắm, do cháo cậu Cảo nấu quá ngon, hay vì tôi nhịn cả ngày, hay vì người mới ốm dậy nên thấy ngon miệng quá. Nếu cậu Cảo không nhường thì có lẽ phải đi nấu thêm thật. Hai chúng tôi sì sụp ăn cháo nóng vã mồ hôi, quên xua muỗi. Ăn xong thấy chân tay, cổ ngứa ran lên, thì ra là muỗi chích. Anh Mạnh đã ngáy o o. Tôi chia tay Cảo về lán, trong lán vẫn còn tiếng nói chuyện rầm rì.


Buổi chiều hôm sau anh Trụ và anh Tứ lên sư đoàn nhận nhiệm vụ. Đến gần tối các anh mới về đơn vị. Chỉ huy và cấp ủy hội ý gấp. Cánh lính chúng tôi không biết gì vẫn cứ rong chơi như mọi ngày. Buổi tối, đại đội triệu tập mỗi A vài người lên nhà Ban chỉ huy để nhận nhiệm vụ. Tôi nghĩ không phải đi trinh sát chuẩn bị chiến trường đâu, chuẩn bị chiến trường không thể ồn ào như vậy. Sau cuộc họp, anh Xem là người trong tiểu đội đi công tác lần này, có nói với tôi là đi về vùng biển. Anh Xem chưa đến biển thật, khi từ Tây Nguyên xuống đây anh chỉ ngồi đài quan sát phục vụ cho Lữ đoàn 52 đánh Ba Tơ.


Tôi không được anh Xem kể về nhiệm vụ của đợt công tác và đại đội cũng không phổ biến. Qua thái độ của anh Xem tôi nghĩ đó là nhiệm vụ không bình thường với chiến sĩ và đơn vị trinh sát. Anh Xem tâm sự riêng với tôi:

- Cậu ngó thằng bé này có kháu không?

Tôi nhìn vào tấm ảnh anh chìa ra trước mắt. Giống! Tôi gật quả là một thằng bé quãng năm tuổi đứng dưới gốc cây dừa. Anh cười ranh mãnh khẽ nói: "Mẹ nó mới gửi vào cho tớ".

- Khổ quá cậu ạ! Ông già nhà tớ chắc không thừa nhận đâu!

- Thế hồi anh chị yêu nhau, hai gia đình chưa đi lại à? - Tôi hỏi.

- Nếu thế còn phải nói gì nữa. Bọn tớ chưa có chuẩn bị gì cho hôn nhân. Khi đi phép ai cũng tự nghĩ phải kiềm chế để sau này hãy tính. Nào ngờ ngọn lửa tình bỗng bùng lên thế là mọi việc lại diễn ra như thế. Mình cũng ghi vài lá thư về nhưng không rõ...

Tôi đồng tình với vẻ ái ngại của anh khi anh phàn nàn:

- Thật là khổ cho mẹ con cô ấy. Các cụ phong kiến... - Anh lấy ra một miếng dù hoa đã khâu thành chăn đưa tôi khẽ nói: Cầm lấy!

Tôi đẩy miếng dù lại không nhận. Anh nhìn tôi và lại nhếch mép cười. Anh Xem cười chỉ nhếch mép, mắt sáng lên long lanh, không khi nào thành tiếng. Anh tặc lưỡi: "Không cầm chắc sẽ phí mất thôi". Tiếng anh nhỏ nhẹ nhưng thủng thẳng từng tiếng rất rành rọt. Tôi bỗng có cảm giác hơi buồn, cái buồn thoáng qua, tôi trấn tĩnh nói: Thì anh mang đi mà đắp, gần biển cũng lạnh lắm đấy. Đi xa mang dù cho nó nhẹ. Tôi nói chẳng đâu vào đâu, toàn là những điều anh Xem đã biết thừa rồi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:57:28 am
Buổi chiều hôm ấy anh Mạnh dẫn một trung đội ra đi. Mỗi B vài ba người nên tôi không nhớ hết số anh em này. Phần đông là các chiến sĩ được bổ sung từ Bắc vào đợt gần cuối năm 1972. Sau này tôi được các anh trong đại đội nói chuyện, trong đội đó anh Mạnh đại đội phó chỉ huy lên chốt giữ núi Cửa, quả núi nằm ở phía bắc xã Phổ Vinh có cửa biển Mỹ Á. Cửa biển này nhiều khi có những bao gạo Trung Quốc bọc trong hai lớp ni lông trôi giạt vào. Các lần như thế bộ đội địa phương và vài đơn vị đặc công nước có nhiệm vụ vận chuyển về nơi cất giấu. Vùng bờ biển Quảng Ngãi có vài ba bãi cát chôn gạo như thế. Phía bên kia khu vực xã Phổ Quang có lực lượng của đại đội vệ binh Trung đội 1 chốt giữ.


Bộ phận của anh Mạnh tổ chức phòng ngự trên núi Cửa, được mấy ngày thì bị địch tấn công. Lúc đó là gần cuối tháng 11 năm 1973. Anh em ta bị pháo cối và trực thăng địch bắn phá sát thương nhiều, bị bật khỏi chốt. Đêm 16 tháng 2 năm 1973 anh Mạnh tổ chức lực lượng còn lại huy động từ các trận địa phụ về, kể cả nuôi quân liên lạc, anh trực tiếp chỉ huy tập kích núi Cửa. Anh Mạnh và hầu hết anh em đã hy sinh ngày 17 tháng 2 năm 1973. Nghe các anh kể lại, tôi bùi ngùi nhớ đến anh, một cán bộ rất năng nổ, ham đánh địch. Cái ý chí "còn người thì không thể mất trận địa”. Chí khí đó đã được chứng minh bằng hành động quyết đánh của anh. Tôi cũng nhớ đến anh Xem, người cựu binh của đơn vị vận tải không quen đương đầu trước làn đạn thẳng của quân thù nhưng thật bình thản tự xác định "Có thể phải hy sinh" nên đã nói những lời tâm tình như trăng trối chuyện riêng tư thầm kín với đồng đội, muốn dành cho đồng đội đồ dùng tiện lợi tốt đẹp nhất. Tôi nhớ quê anh ở Tế Nhân huyện Nông Cống, thôn nào anh có nói nhưng tôi quên mất. Điều kiện công tác chưa cho phép dịp nào đó tôi ghé đến quê anh. Anh thanh niên kia sẽ như thế nào? Với dòng họ Đỗ của anh. Tôi thấy còn nợ các anh nhiều quá.


Trên hướng Ba Tơ, khi quận lỵ Ba Tơ được giải phóng, địch tháo chạy, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tưởng là không có chuyện buồn. Đó là việc đồng chí Việt Sơn mới được điều từ Sư đoàn 3 về giữ quyền Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2. Đồng chí Hồ Hải Nam Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 52 cùng vài đồng chí cán bộ phòng tham mưu đi kiểm tra căn cứ mới được giải phóng. Đứng ở lối cửa mở của bộ binh đã tấn công vào Đá Bàn với số cán bộ đi cùng. Chiếc gậy cầm trong tay đồng chí Sơn khua vào dây một quả mìn địch gài từ lâu nổ ầm. Đồng chí Việt Sơn hy sinh tại chỗ. Đồng chí Nam đưa đến đội phẫu thì cũng hy sinh. Một vài đồng chí khác bị thương. Nhìn những đồng chí mình ra đi trong những trường hợp như thế này thật đáng tiếc nhưng chiến tranh mà, ai mà biết được những chuyện không ngờ. Tôi bỗng nhớ đến một câu đầy lạc quan trong chết chóc:

"Đùa vui không kể ngày đêm
Sau hai đợt pháo hỏi truyền thăm nhau"

Cái kiểu hỏi rất tự nhiên giống như anh Phải gọi tôi khi bị pháo bắn sập hầm: "Chiến ơi! Còn sống hả! May rồi, bị thương nhẹ”. Nhóm vệ binh tổ chức mai táng đồng chí Việt Sơn ở quả đồi gần căn cứ Đá Bàn, dưới một cây độc lập đã bị cháy sém cành lá. Đồng chí Hồ Hải Nam được mai táng ở khu đội phẫu của Sư đoàn tại Ba Tơ. Những cán bộ đã nằm xuống ở nơi ấy, chúng tôi, những người chứng kiến nay không thể nhớ được cụ thể chỗ các anh nằm. Quả là người còn lại biết bao giờ trả hết nợ cho các anh.


Trên địa bàn huyện Ba Tơ địch đổ quân xuống khu đồi Ông Nguyện. Tại đây, chúng bố trí trận địa pháo 105ly. Khu địch đồn trú nằm gọn lỏn trong mênh mông rừng núi, giữa vùng giải phóng bao la. Đường tiếp tế cho điểm cao này duy nhất chỉ có thể bằng trực thăng. Trên đồi Ông Nguyện quân ta cũng tổ chức chốt giữ, có chỗ ta và địch chỉ cách nhau mấy chục mét, có thể nói chuyện với nhau được.


Thái độ của ta là nghiêm chỉnh thực hiện và đấu tranh đòi địch cũng phải nghiêm chỉnh thực hiện hiệp định. Với tinh thần đó nên bọn địch trên đồi Ông Nguyện mới có thể đứng ở đây được, mới có thể nhận hàng tiếp tế từ những chiếc trực thăng để mà ăn uống sinh hoạt.


Từ đài quan sát, hàng ngày chứng kiến địch thường xuyên vi phạm các điều ghi trong hiệp định, chúng thực hiện hàng chục phi vụ oanh tạc, hoặc trinh sát vùng giải phóng. Hàng chục lần trận địa pháo ở đồi Ông Nguyện đề pa đưa trái nổ về các làng bản, nương rẫy của đồng bào Ba Tơ. Không những thế, đài Sài Gòn lại còn la lối vu cáo ta vi phạm hiệp định. Thật là vừa ăn cướp vừa la làng. Sau một thời gian, mọi cố gắng của nhân dân ta về việc nghiêm chỉnh thi hành hiệp định bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chà đạp. Tâm lý chung sống hòa bình đã được khắc phục và một cuộc điều chỉnh lực lượng lại bắt đầu trên địa bàn Quân khu 5.


Bộ phận lớn của sư đoàn hành quân ra phía bắc. Bộ phận còn lại tiếp tục hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là Lữ đoàn 52 và Trung đoàn 141. Đại đội trinh sát có 1 trung đội ở lại. Trung đội này do anh Phải làm trung đội trưởng. Đại đội có anh Tứ làm chính trị viên.


Tôi được biên chế trong đội hình hành quân. Đi được năm ngày thì đơn vị dừng lại tại xã Phước Sơn thuộc huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam. Phiên hiệu đơn vị mới là Sư đoàn 711. Đại đội trinh sát ghép vào đội trinh sát của đơn vị sở tại vẫn gọi là Đại đội 21. Sư đoàn 711 có các tiểu đoàn trực thuộc và đủ ba trung đoàn bộ binh: Trung đoàn 1; Trung đoàn 31 và Trung đoàn 38.


Nhiệm vụ chủ yếu của sư đoàn trong năm 1973 là chống địch lấn chiếm. Toàn chiến trường hầu như không có trận đánh lớn nào. Chủ yếu bộ đội cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích giữ đất giành dân. Công tác đảm bảo phục vụ của đại đội trinh sát thì rất vất vả. Việc trinh sát nắm địch khó khăn, các trận đánh quy mô nhỏ của bộ binh, đặc công vào các trận địa địch phòng ngự lâm thời ít hiệu quả. Nhiều trận đánh trầy trật có khi thất bại. Trinh sát bám địch dã ngoại đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết như địch thường xuyên di chuyển vị trí nên các tổ không đủ người để báo cáo kịp thời. Nhiều tổ do không đủ người theo để mất mục tiêu hay dẫn bộ binh đánh vào địa điểm địch đã di chuyển, bị chúng vu hồi đánh lại gây cho ta tổn thất. Tổ đồng chí Giáp lần nào bám địch cũng bị chúng phát hiện trước hoặc bị vướng mìn, các đồng chí Đình, Điền, Tiêm đã hy sinh.


Đồng chí Thoại phụ trách một tổ khi phát hiện địch gài lựu đạn, bản thân trực tiếp tháo gỡ lựu đạn nhưng không thực hiện tốt về kỹ thuật nên lựu đạn nổ, Thoại hy sinh ngay tại chỗ. Tổ của các anh: Dũng, Hòe, Tiến con, Dần chỉ huy bị địch phát hiện trước, nổ súng vỗ mặt, anh em ta bị bất ngờ không tao ngộ chiến được, hy sinh và bị thương. Đồng chí Lụa trinh sát trong tổ đồng chí Giáp một lần như thế chạy rơi mất súng bị thi hành kỷ luật.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 06:58:57 am
Tình hình trên diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng đã làm nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong. Đã xuất hiện tâm trạng lo ngại khi được giao nhiệm vụ đi bám địch, xuất hiện mê tín dị đoan trong chiến sĩ. Đồng chí Điền lúc còn sống nói với tôi: "Anh Giáp sát lính lắm... Anh dẫn tổ công tác lần nào cũng có người chết". Một số chiến sĩ khác như Liên, Lập, Thuần, Bé, Giới nói về các tổ do một số đồng chí khác chỉ huy cũng tương tự như vậy.


Là cán bộ tiểu đội trưởng, chi ủy viên ít tuổi đời, tuổi quân, chức vụ, cấp bậc thấp nhất, được cán bộ, chiến sĩ hay tâm tình nên phần nào tôi đã cảm nhận hiểu biết về những lo lắng của anh em. Tôi hiểu rằng tâm lý lo ngại ấy sẽ gây căng thẳng thần kinh, mất tự chủ thiếu tự tin dẫn đến hành vi do dự, lúng túng, không dám tin vào đồng đội, hành động thiếu chính xác, độ nhạy bén linh hoạt kém, xử lý tình huống không đúng dẫn đến hậu quả là bị lộ, bị thương và hy sinh hoặc không dám bám sát địch, báo cáo trên theo phỏng đoán chủ quan, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ.


Tôi báo cáo tâm trạng của anh em và suy nghĩ của mình với chi ủy và chỉ huy đại đội. Các anh rất quan tâm vấn đề này, đã báo cáo lên Đảng ủy liên chi phòng tham mưu và Ban 2 Sư đoàn.

Đại đội trinh sát thời gian này ban chỉ huy đại đội đa số là các anh mới lên. Anh Khái là người Quảng Ngãi đại đội phó nay lên đại đội trưởng. Anh Hà Xuân Giáo người Thanh Hóa là chính trị viên. Anh Nguyễn Văn Tròn là đại đội phó. Anh Tự mới từ Trường Quân chính về làm chính trị viên phó. Đại đội được lệnh tổ chức đợt huấn luyện quân sự. Nội dung huấn luyện tập trung vào các khoa mục về kỹ thuật khắc phục chướng ngại vật như mìn, cách hành tiến khi bám địch dã ngoại.


Cuối đợt huấn luyện quân sự có sinh hoạt học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 21 khóa III. Tôi còn nhớ, đảng viên thảo luận sôi nổi về kẻ thù của nhân dân ta là ai: "Kẻ thù chính và chủ mưu nguy hiểm của nhân dân ta là đế quốc Mỹ. Kẻ thù trực tiếp nguy hiểm là chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu". Và nhận định "Thế và lực của cách mạng và thuận lợi là cơ bản, khó khăn là tạm thời". Về địch thì "Yếu và khó khăn là cơ bản còn mạnh chỉ là tạm thời".


Tôi được đại đội giao nhiệm vụ chuẩn bị giáo án và lên lóp tổ chức huấn luyện khoa mục mìn. Các tài liệu huấn luyện về mìn và thực tế cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện khá kỹ. Những vấn đề lý thuyết như: Tính năng, cấu tạo, tác dụng của các loại mìn anh em đã nắm được cả. Vậy tại sao anh em vẫn sợ mìn và xử lý mìn không được?


Tôi đã gặp nhiều loại mìn gài không bao giờ quá nhạy. Trong một số lần đột điểm gặp dây vướng của các trái nổ, tôi đều phát hiện được bằng tay, chân, có đêm trăng sáng nhìn thấy cả dây mìn. Theo lý thuyết lực kéo khoảng 1,4kg mới bật được chốt an toàn quả mìn sáng, loại mìn xem ra nhỏ nhẹ, độ nhạy cao nhất. Tôi nghĩ rằng, trong huấn luyện cần làm rõ và để anh em nhận thức được: Không phải chạm vào dây vướng nổ là có thể đủ 1,4kg để làm bật chốt của quả mìn. Việc phát hiện dây vướng của quả mìn không khó, có thể dễ dàng phát hiện ban đêm bằng tay, chân hay mắt thường. Việc phát hiện các loại mìn đè nổ cũng như vậy. Việc khắc phục các loại bẫy gài kèm với các loại mìn, v.v... Và các trường hợp nên sử dụng kỹ thuật khắc phục mìn trong khi bám nắm địch.


Nói tóm lại đợt huấn luyện này nhằm khắc phục tư tưởng sợ mìn, ngại khắc phục mìn, khó phát hiện mìn, v.v... Tôi xin ý kiến của đại đội chỉ nhắc lại nhanh phần lý thuyết như cấu tạo tính năng, tác dụng của các loại mìn chống bộ binh, trọng tâm huấn luyện là làm rõ các thủ đoạn gài mìn có kết hợp bẫy, các ứng dụng phát hiện mìn trong hành tiến các trường hợp cần xử lý trong thực tế bám nắm địch. Tôi mất mấy buổi công phu tái tạo lại các kiểu bẫy đã gặp trong thực tế và tài liệu huấn luyện; sáng tạo nhiều kiểu bẫy do tưởng tượng ra để phục vụ cho đợt huấn luyện...


Trên bãi tập, đại đội được xếp thành hai hàng ngang cách 5 mét quay mặt vào nhau. Trên khoảng trống giữa hai hàng quân, tôi cho quân xanh bố trí các loại mìn thật, tất nhiên là không có kíp nổ. Thứ tự: mìn sáng có dây vướng kết hợp các bẫy "căng cũng nổ, chùng cũng nổ, gọi là căng chùng nổ”. Loại này theo lý thuyết phải có một lực 1,4kg tác động vào sợi dây ni lông (dây vướng) sẽ kéo chốt làm cho kim hỏa được giải phóng lao xuống hạt nổ điểm hỏa làm quả mìn nổ, khi quả mìn nổ sẽ phát sáng để soi rọi mục tiêu.


Tôi là chiến sĩ đi công tác, lấy khăn bịt mắt lại trang bị đeo trên mình giống như khi bám địch. Tôi lần lượt sử dụng các dụng cụ như cần tre mềm cũng phát hiện được dây mìn. Dùng cánh tay, dùng cẳng chân cũng phát hiện được dây mìn, khắc phục được quả mìn dễ dàng. Làm đi làm lại nhiều lần mà chốt của quả mìn vẫn không bị bật ra. Sau đó tôi cho mỗi tiểu đội hai đồng chí lần lượt làm thử và kết quả mọi người đều chứng kiến không một lần nào chốt mìn bật ra. Tôi nói thêm:

- Thực tế trong đêm dù tối như thế nào cảm giác của mắt khá hơn bị bịt mắt, nên việc phát hiện mìn còn dễ dàng hơn nhiêu. Ví dụ: ở căn cứ núi Vàng, lần dẫn 3 đồng chí đặc công vào gặp đến 3 dây vướng chúng tôi đều nhìn được dây ni lông chắn ngang. Chúng tôi không khắc phục đều đi khom bước qua dây mìn, v.v...

Tôi cũng lưu ý trong điều tra căn cứ địch thì không nên khắc phục làm mất tác dụng của mìn vì làm như vậy ta sẽ phải lần sờ vào mìn, một lần để khắc phục còn một lần để trả lại tư thế gài của địch, có vậy mới giữ bí mật được, vì thường ngày địch hay kiểm tra nơi gài mìn. Do vậy, trinh sát ta quan trọng là phát hiện được dây mìn, hay quả mìn rồi dùng cọc tiêu đánh dấu, để anh em đi sau, hay lúc quay trở ra không đá, đạp phải, gây nổ mìn. Tuy nhiên, trong huấn luyện tôi vẫn làm mẫu hoàn chỉnh các khâu, phát hiện, tìm đến trái nổ, động tác kiểm tra bẫy, động tác chốt khoá an toàn, động tác tháo gỡ và quy trình ngược lại, để mìn trở lại tư thế gài ban đầu, v.v... Các loại mìn đè nổ, tôi nói kỹ về đặc điểm chỉ gài đặt được ở nơi không ngập nước, cách gài chủ yếu là chôn dưới đất, loại có ba râu tôm nếu để trần rất dễ phát hiện còn thực tế có chỗ địch đào thành hố, dùng miếng cỏ hay mảnh gạch ngói để lên trốc râu tôm, như vậy khó phát hiện hơn. Loại mìn gíp giống như những chiếc hộp hình trụ chỉ nhỏ bằng trôn bát. Có loại lớn hơn đôi chút, v.v... Hai loại mìn này thường gài thành bãi, nơi dự kiến bộ binh ta xung phong hay theo các trục đường mòn. Có chỗ địch gài kết hợp với các loại mìn vướng nổ khác. Cũng như loại mìn vướng, cả đại đội được quan sát tôi làm mẫu và được làm thử.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:00:08 am
Tôi bịt mắt lại bằng chiếc khăn, tiến vào bãi mìn do quân xanh đã gài sẵn. Động tác hành tiến đầu tiên là đi khom, khi đặt mũi bàn chân xuống đất bao giờ cũng làm động tác dò mìn: cách thức di nhẹ ngón chân xuống đất đẩy nhẹ xem đất cứng hay mềm, có kênh cộm mũi bàn chân không, khi thấy chắc đặt bàn chân xuống. Các bước chân đều làm như vậy trong hành tiến. Kết quả, việc vượt qua bãi mìn cũng dễ dàng. Chỉ có điều anh em ta sốt rét mà đi khom dò mìn như thế này nhanh mỏi mệt lắm. Ai cũng kêu đau hai bắp chân, bắp đùi. Loại mìn điện chập mạch: Loại gài không có người điểm hỏa. Loại này chỉ có thể gài khi chắc chắn trời không có mưa. Bẫy của nó có khi là đè nổ, có khi là vướng nổ tùy địa hình cụ thể mà bọn địch có thể gài nhưng rất ít gặp. Trong thực tế, địch thường dùng một vật cách điện ngăn cách làm dòng điện bị hở. Khi có người làm vật cách điện rơi ra, làm nối kín dòng điện sẽ gây nổ mìn. Nói chung các bẫy này cách phát hiện cũng giống như vướng và đè nổ.


Giới thiệu xong các loại mìn, các trung đội tổ chức huấn luyện. Tổ chức tập luyện động tác ở tiểu đội. Mọi cán bộ, chiến sĩ đều phải làm đi làm lại các động tác nhiều lần. Tối nào cũng tổ chức hợp luyện từng trung đội. Các trung đội tổ chức các mũi tiềm nhập từ ngoài vào doanh trại của đơn vị... Đại đội quy định các hướng, mũi đột nhập cho các tổ, công bố trên đường hành tiến của các tổ có gài các loại mìn. Trên đường tiềm nhập có bố trí quân xanh. Các tổ phải đi qua con đường quy định để kiểm tra. Tổ trưởng phải nhận được chứng cứ do quân xanh giao cho, nếu không có nó chứng tỏ đột nhập không đúng hướng, không hoàn thành nhiệm vụ. Trên các con đường ấy quân xanh đặt nhiêu loại mìn đè, vưóng nổ. Dụng cụ để báo hiệu mũi tiềm nhập đạp phải mìn thật đơn giản, nó là một ống lon sữa bò được chế thành cái bẫy khi chốt hãm chiếc búa gõ bị kéo ra thì theo chiều trả lại bình thường của chiếc dây cao su bị xoắn, làm cho nó liên tục gõ vào đáy ống lon kêu "coong coong" rất giòn và dài... khi có tiếng kêu như vậy ở hướng nào thì có nghĩa tổ đó đã vướng mìn hy sinh "không hoàn thành nhiệm vụ". Mấy ngày tập luyện như vậy không tổ nào không hoàn thành nhiệm vụ. Anh em các tổ đều nói: "Dây vướng bằng ni lông dễ phát hiện lắm. Có lúc nhìn thấy được và việc làm bật cái chốt của quả mìn ra cũng không phải là nhẹ lắm".

Kết thúc đợt huấn luyện, anh Đồng trợ lý Ban 2 nói:

"Trong thực tế, đi vào đồn giặc ta không thể nằm sấp bụng xuống để hành tiến mà chủ yếu là đi khom thấp, hay khom cao. Ở đây, trong hướng dẫn giới thiệu cách khắc phục, hay phát hiện mìn trong hành tiến của trinh sát, còn nói chung thì tháo dỡ mìn nhất thiết phải nằm sấp càng sát đất càng tốt. Hai là đây là huấn luyện, nêu nhiều kiểu mìn bẫy phức tạp là thực hiện phương châm huấn luyện khó, phức tạp hóa vấn đề, để trong thực tế đơn giản, dễ dàng hơn thì anh em mình tự tin hơn. Cũng phải nói để anh em thấy là địch không thể chỗ nào cũng gài được mìn, và cũng không thể có để mà gài mọi chỗ. Rút kinh nghiệm chung, anh nói như vậy cần khi tôi lên nhà đại đội anh nói có vẻ châm biếm: "Mi nghĩ ra nhiều kiểu bẫy hay thiệt đấy, cũng hay hề". Anh phê bình tế nhị nhưng không ác ý. Trong khi tổ chức huấn luyện, tôi rất lo, chỉ một vài tổ khi làm các động tác phát hiện mìn mà bị bật chốt, vướng nổ, hay sập kim hỏa mìn đè nổ, hay khi đột nhập đêm bị báo động sẽ gây ra tâm lý hoài nghi về hiệu quả khắc phục, sẽ phản tác dụng việc sửa chữa tư tưởng sợ mìn. Khi anh Đồng nhấn mạnh mấy ý trên và cách nói châm biếm riêng tôi hiểu anh đã rất lo về việc tôi nêu ra quá nhiều kiểu bẫy phức tạp và cũng thấy mình đã hơi liều một cách vô thức.


Tôi nói: "Em muốn để anh em mình có niềm tin vào khả năng ta có thể vô hiệu hóa mọi kiểu cách cản phá, mưu hại ta của kẻ địch. Vì đây là bài học chữa tư tưởng mà anh". Anh cười và nhắc: "Cấm được tự ái đấy".

Khoa mục thứ hai tôi được đại đội phân công lên lớp là khắc phục vật cản. Tôi đã cùng toàn đơn vị công phu xây dựng hệ thống chướng ngại gồm tất cả các kiểu hàng rào đã thấy trong thực tế; cả hào chống xe tăng và bộ binh đột nhập, hào này rộng 3 mét sâu 2,5 mét. Thành hào hai bên và đáy đều có cắm chông tre. Kiểu hào này tôi chưa từng gặp lần nào. Trong quá trình huấn luyện, đạo diễn còn nêu các tình huống dễ giật mình, hay gây cười để anh em tập cách nín, khắc phục ho, đánh rắm có tiếng kêu, cười, v.v... Phương châm huấn luyện kết hợp rèn luyện và tập khó để ứng dụng dễ dàng trong thực tế. Khoa mục này sau khi hạ xong, trong lúc đang tổ chức thực hành thì cậu Trò liên lạc đại đội ra gọi tôi và Đặng Văn Rít về đơn vị nhận nhiệm vụ... Tôi và Rít được thông báo đúng 8 giờ có mặt ở bên kia sông Tranh, ngay ngã ba bến vượt sông có xe đón. Tôi và Rít khẩn trương chuẩn bị tư trang gọn nhẹ xuất phát vượt sông gần giờ hẹn. Từ Bến Lội lên đường số 14, nhìn lên và phía dưới dốc đều không thấy chiếc xe nào. Tôi bảo Rít: Có lẽ xe chưa tới. Chúng tôi không nói nhưng phân vân lắm, vì chưa bao giờ đi công tác bằng "xe". Tôi và Rít định tìm chỗ ngồi. Theo thói quen, tôi nhìn lên đỉnh dốc của con đường thấy có một người nhô ra, ông ta mặc bộ bà ba màu xanh trứng sáo vẫy chúng tôi một cái rồi khuất luôn vào đỉnh dốc. Tôi và Rít vội chạy lên, thủ trưởng đùa cho xe chạy một đoạn, làm hai đứa phải chạy theo một đoạn nữa mệt thở cả bằng tai. Trên xe com măng ca Bắc Kinh có một anh cần vụ to lớn như hộ pháp, một người đàn bà chừng 30 tuổi. Chị là bác sĩ Hà, vợ thủ trưởng. Thủ trưởng Nguyễn Nã, sư đoàn phó tham mưu trưởng Sư đoàn 711. Chúng tôi lên xe ngồi vào vị trí của mình trong xe im như thóc, chỉ có tiếng động cơ xe và làn khói bụi mù lên phía sau. Xe chạy theo đường số 14 ngược ra phía bắc. Trên đường, có nhiều đơn vị công binh và thanh niên xung phong đang phá núi mở rộng hoặc sang sửa mặt đường, khí thế rất sôi động khẩn trương, có nhiều đoạn đường đã sửa xong và rải nhựa rất bằng phẳng, xe đi êm như ru. Thỉnh thoảng từ phía núi có chú khỉ hay thú rừng băng qua đường, vọt xuống các khe núi. Cảnh tượng thật thanh bình. Thỉnh thoảng thủ trưởng hoặc chị Hà mới cất tiếng nói về một việc gì đó thường là rất ngắn gọn. Tôi đang liu riu ngủ vì sau nhiều giờ suy đoán về chuyến đi không biết mục tiêu này, đâm ra buồn ngủ. Bỗng xe dừng lại, tôi mở mắt nhìn. Anh cần vụ dựa người vào cửa xe nhằm lên mép trên của bờ tả ly, súng thể thao nổ gọn một tiếng, con kỳ đà đã bị trúng đạn lăn xuống rìa đường. Anh chàng nhanh nhẹn chạy tới nhặt con vật bỏ vào thùng xe. Câu chuyện về con kỳ đà, đặc điểm sinh sống, chất lượng thịt của nó rôm rả được vài ba phút, sau đó lại là những khoảnh khắc yên lặng dài lê thê. Tối đó, chúng tôi nghỉ ở một binh trạm nào đó, nơi bãi khách có một con suối khá lớn. Rừng cây cao nhiều trái bứa, bồng boong chín rụng đầy dưới gốc. Nhiều đoàn bộ đội vào ra đang lao xao dừng chân nghỉ đêm tại đây.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:03:55 am
Theo quy định, chúng tôi nấu ăn nghỉ tại bãi không được tiếp xúc hoặc gặp gỡ ai ở các đoàn vào hay ra. Thủ trưởng Nã và chị Hà vào nghỉ ở chỉ huy sở của binh trạm. Anh em tôi mỗi người chuẩn bị nhanh chỗ ngủ. Thực ra chỉ mắc một cái tăng và võng. Lo xong chỗ nằm mấy anh em làm thịt kỳ đà. Tôi và Rít lăng xăng làm các việc anh cần vụ sai khiến. Tối đó, ăn cơm có thịt kỳ đà, loại bò sát này thịt trắng như thịt gà, ăn thơm ngon lạ. Cơm xong, mọi người đều lên võng nằm, chẳng ai nói chuyện. Tôi ngủ lúc nào không hay. Khi anh cần vụ gọi dậy ăn sáng để hành quân tôi mới nghe được tiếng ồn ào của bãi khách và nước suối chảy rì rào.


Sáng sớm xe lại bon bon không nghỉ đoạn nào. Càng ra phía ngoài mặt đường nhựa càng phẳng đẹp hẳn lên. Nhiều dốc núi cao quanh co. Đến một ngã ba sông, xe chúng tôi rẽ phải sang phía đông, qua một con đập lớn (cống + cầu), đến khu rừng già núi cao thấy thỉnh thoảng có một vài tốp bộ đội mặc quân phục quân đội nhân dân và cả các nhóm dân chính. Đến gần tối thì xe dừng lại ở một khu doanh trại tại một cánh rừng già khá bằng phẳng. Các dãy nhà bộ đội ở đều đào nửa chìm dưới mặt đất, nửa nhô lên cỡ một mét theo kiểu hầm bò của bộ đội Trường Sơn, có cả sân bóng chuyền. Đêm đó thủ trưởng Nã gọi tôi lên giao nhiệm vụ:

- Một cậu ở lại với mình. Một cậu sẽ cắt rừng đến điểm này! - Chiếc bút chì đỏ trên tay thủ trưởng Nã dừng lại ở một địa danh. Tôi đọc: "Tí Lở" xã Sơn Phước. Cái điểm đó nằm ở phía đông bắc dãy núi "Dùi Chiêng", ngay gần sát bờ sông Thu Bồn, nơi ký hiệu bản làng. Có con đường mòn chạy đến bên sông, tôi đọc nhanh và ghi nhớ góc phương vị phải đi là đông nam, điểm dừng là hạ lưu con sông Tranh, đoạn tên gọi của nó được đổi thành Thu Bồn. Thủ trưởng nói tiếp: Đi thật khẩn trương để 17 giờ ngày N có mặt ở điểm để đón đoàn công tác bên kia sang. - Thủ trưởng mở xắc cốt lấy ra một phong bì đưa tôi: Cậu đưa thư này cho đồng chí trưởng đoàn. Tôi khẽ "Dạ". Xong việc, cậu về đơn vị nhận nhiệm vụ khác. Thủ trưởng đưa đầu bút lên vài điểm cao đều ở phía đông con đường tôi xuyên sơn nói: "Những chỗ này có địch đang chốt giữ, những chỗ này địch có thể phục kích hay trinh thám đi dò la. Đi đường phải tránh gặp địch, tránh dân, không được đi theo đường mòn". Nói một mạch liền như đã hết điều cần nói, thủ trưởng gấp tấm bản đồ lại bỏ vào xắc cốt. Lúc ấy ông mới nhìn tôi như thẩm định một điều gì đó rồi mỉm cười rất tiết kiệm: "Cậu phụ trách lên đi, việc quan trọng đấy". Tôi: "Dạ" to hơn một tý rồi xin phép ra về nơi Đặng Rít đang ngồi chờ. Tôi nói với Rít: "Cậu ở lại đây với thủ trưởng Nã còn tớ sẽ đi công tác không quay lại đây nữa. Anh em mình chia tay nhé. Sáng mai tớ phải đi rất sớm thì mới kịp". Tôi ra đi khi Rít còn đang ò...o. Tôi không hề biết đơn vị đó là đơn vị nào, địa danh nào. Ghi nhớ từ buổi tham mưu trưởng giao nhiệm vụ trên bản đồ, tôi băng rừng theo hướng đông nam mà đi. Nhìn bản đồ của thủ trưởng tôi biết rằng cứ đi theo đường mòn sẽ đến điểm hẹn. Tuy nhiên, lời dặn ngắn gọn của thủ trưởng "Không được đi đường mòn" chắc chắn không phải là thừa, nghĩ vậy tôi yên tâm, kiên gan mà xuyên sơn, xuyên sơn thì vất vả rồi, nhiều chỗ rừng non lau lách, dây leo chằng chịt đạp cây mà đi, có chỗ thì phải băng qua sườn núi dựng ngược lên, thỉnh thoảng mới có đoạn rừng già, hay tre trúc tạm là dễ đi một chút. Trong kỹ thuật, đi xuyên sơn ở đơn vị có cậu Thuyên dẫn đầu đoàn cán bộ đi công tác, đi thế quái nào suốt cả đêm đến sáng thì lại trở về quả đồi khi xuất phát. Tôi được gọi là xuyên sơn tốt nhưng trước đây đoạn đường chỉ vài ba tiếng, chưa bao giờ đi đoạn dây cung của một tuyến đường gần hai ngày xe chạy ròng rã như thế này. Tôi biết rằng chỉ cần chệch đi vài độ là không thể đến được mục tiêu, nếu lệch sang phía đông có thể chọc vào các vị trí địch bố trí như thủ trưởng Nã đã lưu ý trên bản đồ. Tuy nhiên, tôi cũng tự tin vào kỹ thuật của mình. Hơn nữa các mục tiêu mà tham mưu trưởng chỉ, phía bắc nó là một cánh đồng khá rộng nếu chưa gặp nó thì chưa đến những nơi có địch được. Điều lưu tâm của tôi là phải tránh những người dân, khi thấy có nhiều dấu vết họ đi lấy "dầu rái” và than hay củi ở trên các cánh rừng. Hoặc lo làm sào không đâm vào ổ địch phục hay bất ngờ gặp bọn thám báo, ngoài ra còn phải coi chừng thú dữ, chủ yếu là cọp hay gấu. Tôi nhớ lại trận chống lại con gấu con mọn ở Kon Tum mà thấy ớn. Lúc đó, gần đơn vị có cậu Hoằm giúp một tay chứ không khó mà thoát, hoặc có thoát thì mặt mũi cũng bị sẹo nhành ra. Tôi đi rất mải miết, nhiều lúc gặp những đoạn đường mòn như trêu ngươi. Leo dốc càng mệt thì con đường mòn mỗi khi gặp càng trở nên quyến rũ. Mỗi lần như vậy, tôi lại nhớ đến lời dặn "Không được đi đường mòn", tôi lại thấy những điều cần được nói ra từ miệng những con người "Tiết kiệm lời nói" thì chẳng bao giờ thừa. Thế là tôi kiên tâm xuyên sơn, chẳng biết mấy giờ, làm gì có đồng hồ, cứ đi liên tục, chỉ dám dừng lại để xác định hướng và góc của chiếc địa bàn. Quần áo thì lúc ướt lúc khô, thỉnh thoảng lại gặp một con thú nhỏ chạy trốn người. Quãng quá nửa chiều tôi gặp một con suối nước vàng khè. Con suối chảy về phía đông theo bản đồ của thủ trưởng nó sẽ qua một khu làng bỏ không rồi đổ vào dòng sông Thu Bồn. Con suối này được gọi là khe Diễn ở đoạn hạ lưu. Băng qua suối vàng leo lên một yên ngựa gặp con đường mòn, đến sát đường quan sát kỹ thấy đây là con đường dân đưa gỗ từ rừng về. Vết gỗ do trâu kéo tạo thành những con mương cạn khá sâu vào sườn núi. Con đường đi vòng vèo về phía Tí Xé, bờ tây sông Thu Bồn, Bến Lội bên tả ngạn này người ta gọi là "Tí Lở". Tôi bám cách đường mòn 4 mét đi về phía Tí Lở, đến đoạn con đường nằm sát bờ sông, nằm đây quan sát thấy bên lở bờ thành vách đứng, có lẽ thế mà dân gọi bên này là Tí Lở, còn bên kia thì được bồi lấn ra lòng sông tạo thành bãi cát rộng ven bò chạy xa mới đến mép nước do vậy gọi là Tí Bồi. Con sông này chảy qua cửa Hòn Kẽm, nước chảy xiết như xé mảnh đất Sơn Phước này ra làm hai nửa nên gọi là "Tí Xé".


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:04:51 am
Thành ra "Tí Xé" bao giờ cũng gắn với "Tí Lở", "Tí Bồi". Ngồi ở đây nhìn về phía bắc trên đỉnh dãy núi cao có một căn cứ địch, đó là Nông Sơn. Nông Sơn nằm sát bờ tả con sông Thu Bồn. Từ Nông Sơn đến Tí Lở phải qua một cánh đồng bằng phẳng, qua làng mạc bỏ hoang, qua khe Diễn qua một làng hoang nữa mới đến khu ruộng rẫy bậc thang dân đang trồng hoa màu. Đó là khu vực chân núi, phía tây nam và nam Nông Sơn. Khoảng cách từ căn cứ Nông Sơn đến Tí Lở khoảng 7km. Phía đông căn cứ Nông Sơn bên bờ hữu sông Thu Bồn là núi Cà Tang có dáng ngộ nghĩnh, y như cái răng bừa chổng ngược. Thiên nhiên kỳ thú tạo ra một quả núi dị thường. Trên đỉnh Cà Tang có một trung đội địch chốt giữ, phía bắc Cà Tang là khu đập Vĩnh Trinh huyện Duy Xuyên. Phía đông bắc là quận lỵ An Hòa, chi khu Đức Dục. Dưới chân núi Cà Tang là xã Trung Phước. Nhìn qua bên kia sông về phía đông nam là dãy núi Chòm cao sừng sững, chạy suốt từ bờ đông sông Tranh đối diện với Hòn Kẽm, bờ tây sông Tranh sang phía đông cắt ngang huyện Quế Sơn đến tận đèo Le nối tiếp nhập vào cụm đồi núi đồ sộ Hòn Tàu. Đoạn từ Hòn Kẽm dãy núi phát triển hình vòng thúng chạy ra khu đồi tôi đang ngồi. Nhìn cái cửa sông có Hòn Kẽm và núi Chòm kia bờ dốc đứng, tựa hồ như chỗ đó bị đào cắt đôi dãy núi để thành sông vậy. Giả sử đắp một con đập ở cửa Hòn Kẽm chắc chắn sẽ tạo ra một hồ nước cực lớn ở khu vực sông Tranh mà toàn bộ dãy núi Chòm, dãy Hòn Kẽm là một bờ hồ vững chãi. Có thể góp phần trị những trận lũ lụt ở hạ lưu sông Thu Bồn hầu như năm nào cũng có vào khoảng tháng 10. Quan sát địa hình thấy Nông Sơn khá đơn độc. Con sông Thu Bồn chia cắt nó với hậu cứ An Hòa, Đức Dục, Cà Tang. Sông Thu Bồn uốn khúc ôm lấy nó từ phía nam qua đông và đông bắc rồi chảy tiếp lên phía đông bắc hội nhập với sông Vu Gia và rẽ ngoặt sang đông về cửa Hội An. Toàn bộ phía bắc, tây, tây nam - nam là rừng núi trùng điệp và các khu ruộng rẫy bằng phẳng, làm Nông Sơn phơi mình ra để mọi người quan sát từ nhiều phía. Tôi đã hiểu tuyến đường xuyên sơn và nhiệm vụ sắp tới. Chính Nông Sơn là mục tiêu mà trinh sát chúng tôi sẽ điều tra để sư đoàn tổ chức trận đánh tiêu diệt, mở rộng vùng giải phóng ra toàn bộ tả ngạn sông Thu Bồn. Mặt trời đã xuống khuất những tán cây rừng, ánh nắng chỉ còn hắt lên vùng trời màu đỏ tía, không còn người dân nào dưới các ruộng rẫy. Ở nam Nông Sơn, không thấy bóng một người dân nào bên Tí Bồi, Tí Lở. Đã gần đến giờ liên lạc nên sau khi suy tính tôi theo đường mòn đi về phía bến sông có xóm Tí Lở, gặp đoàn cán bộ, chủ yếu là những người lạ, một đơn vị bộ đội nào đó. Tôi đưa thư cho người phụ trách, đồng chí này xem thư xong hỏi đôi điều về tuyến xuyên sơn và con đường xe. Tôi kể với đồng chí khu vực sư đoàn tập kết ở Bến Lội sông Tranh đi xe ô tô theo đường 14 đến điểm thủ trưởng Nã, xe com măng ca chạy liên tục khoảng 20 tiếng liền. Đi xuyên sơn từ chỗ thủ trưởng đến đây khoảng 12 giờ. Nếu đi đường mòn có thể nhanh hơn một chút. Anh cán bộ gật gù bắt tay tôi nói: "Cậu đi nghỉ, mai về đơn vị có việc gì đó thì phải". Anh và tôi không hỏi tên nhau, mọi người chỉ hiểu rằng đó là đồng đội. Sáng hôm sau du kích đưa đò, tôi qua sông và đi suốt ngày theo sườn vách núi Chòm qua Sơn Ninh, Sơn Phúc vượt đèo Le về Sơn Thạch, đến đêm về Phước Sơn nơi đại đội đang đóng quân. Đơn vị đã tổ chức huấn luyện xong. Anh Giáo, chính trị viên bắt đầu triển khai làm nương rẫy để tăng gia sản xuất. Trung tuần tháng 9 năm 1973, anh Tròn, đại đội phó phụ trách toán trinh sát đi chuẩn bị chiến trường. Tổ có tôi và Thuần "còm", Lập "nhái", Thể, Tịu, Liên. Xuất phát đi theo con sông Trầu, theo đường mòn xuôi dòng sông Tranh bên hữu ngạn. Đến chiều, nhìn về phía trước, tôi biết đang đi về phía Hòn Kẽm. Gần tối, đến lán du kích ở chân núi Chòm, anh Tròn liên hệ, họ nhận lời đưa chúng tôi đi sang Tí Xé xã Sơn Phước bằng đường thủy. Hai chiếc thuyền chở chúng tôi xuôi dòng. Đến cửa Hòn Kẽm, nhìn lên hai bên bờ sông dựng đứng vách núi đá. Nước sông trong vắt chảy xiết, bóng núi in sâu  dưới mặt nước. Tôi có cảm giác ớn ớn cảnh "nước non”. Đi qua khe của hai dãy núi đồ sộ, thăm thẳm tạo nên cửa hút gió rất mạnh. Mặt nước nổi sóng làm con thuyền chòng chành, cái cảm giác như đi qua "Cửa Tử" như cậu Thể nêu ra, tôi thấy cũng đúng.


Qua cửa Hòn Kẽm một đoạn, đến bến sông mà mấy ngày trước cô du kích đã đưa tôi từ bến Tí Lở qua. Anh Tròn dẫn cả nhóm đi theo đường về phía bắc cách Bến Lội một chút, đó là khu trại của du kích Tí Bồi thuộc xã Sơn Phước. Du kích ở đây rất ít. Đón chúng tôi duy nhất chỉ một cô. Cô gái rất vui tính, lo toan cơm nước, hướng dẫn chúng tôi phân tán ra một vài căn lán để nghỉ ngơi. Sau đó cô đi đâu không rõ. Sáng sau, anh Tròn cử một nhóm do Thể phụ trách, có cậu Liên và Lập đi địa hình, theo dõi Nông Sơn và khu vực tiếp giáp xã Trung Phước, nhiệm vụ giao cho tổ thế nào tôi không được rõ. Anh Tròn chỉ nói với tôi rất ngắn gọn: "Chờ đến 18 giờ, chúng nó không về thì ta xuất phát. Đến giờ xuất phát du kích dẫn chúng tôi xuống bến. Đứng ở bãi cát Tí Bồi, anh Tịu quấn một điếu thuốc châm lửa hút. Tôi để ý thấy anh kéo mấy hơi rồi cứ nhìn chòng chọc vào điếu thuốc. Mặt có vẻ căng thẳng. Tịu khẽ lắc đầu. Thuốc cháy lẹm, anh vứt mẩu thuốc đi, cái đầu ngoẹo ngang tàng lắc lư tiến về phía anh Tròn. Tôi không nghe Tịu nói gì, chỉ thấy anh Tròn nói hơi gắt: Chỉ mê tín. Đi thôi! - Anh khoát tay ra hiệu xuống thuyền. Lúc này trời đã tối hẳn. Anh Tròn, Tịu ngồi một thuyền đi trước, thuyền tôi đi sau. Xuôi dòng đến gần khe Diên thì bỗng nghe bên bờ hữu sông Thu Bồn súng AK của tổ cậu Thể nổ Theo quy định, đó là không an toàn, có địch hoạt động ở khu vực chân ấp không người. Nơi chúng tôi sẽ đổ bộ. Anh Tròn cho thuyền quay lại. Nước sông chảy rất xiết nên việc quay lại rất khó khăn. Thuyền chúng tôi phải đi sát bên bờ Tí Lở, lợi dụng nước quẩn để ngược dòng về nơi xuất phát. Đến trại du kích thì Thể dẫn tổ đã về ngồi nghỉ ở lán. Anh Tròn hỏi tình hình địch thì mới vỡ lẽ là do sơ suất, để hiểu lầm chứ không hề có địch.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:05:39 am
Số là: Tổ Thể ngồi đài quan sát suốt ngày chẳng thấy địch hoặc dân hoạt động ở khu vực tổ điều tra sẽ đột nhập, cả bờ bên này cũng thế. Khi anh em rút về, cậu Liên nhìn xuống bãi cát bờ sông có chú chim đậu ở bụi cây liền làm động tác tiềm nhập tiếp cận để bắt chim. Khi thấy bãi quá trống trải, anh ta lo chim sẽ phát hiện bay mất bèn sử dụng súng để bắn, mục tiêu con chim đã hoàn toàn chi phối làm cậu ta quên béng cái mật hiệu báo động cho tổ công tác. Khi súng nổ, các cậu mới nhớ đến việc sẽ làm lỡ cuộc đột nhập vào căn cứ địch của đồng đội. Cả toán đang ngồi như phỗng lo lắng vì sẽ bị kiểm điểm. Anh Tròn không quở trách gì mà chỉ nói gọn lỏn: "Mai phải cẩn thận". Còn anh Tịu thì cười tít mắt lại. Tôi hiểu anh rất đắc ý về điềm báo chẳng lành của điếu thuốc cháy lẹm đã được kiểm chứng bằng việc chuyến đi không thành. Tịu được anh Tròn giao đi đài quan sát từ sáng. Buổi tối anh Tròn dẫn tôi và Thuần còm ra bờ sông. Đồng chí xã đội trưởng tên là Dũng đưa đò cho chúng tôi xuôi dòng. Con thuyền cập vào bờ nam ấp không người, dưới chân căn cứ Nông Sơn, nước sông lúc đó xuống thấp làm chúng tôi phải lội một đoạn dài, bùn lầy đến gần đầu gối. Vào đến bờ, mọi người lấy cây cỏ gạt sạch bùn đất, nai nịt gọn gàng để chuẩn bị tiềm nhập. Đêm trăng không sáng lắm, chỉ đủ độ để chúng tôi nhìn thấy nhau ở cự ly 5 đến 6 mét. Anh Tròn đi đầu, tôi chăm chú quan sát tấm lưng to bè của anh, lúc cao lúc thấp tiến lên phía trước một cách tự tin, làm tôi rất ấm lòng. Có lẽ lần đầu tiên có một đồng chí cấp trên tự nhận lãnh trách nhiệm đi số một. Chỉ bằng hành động đó, tôi thực sự hiểu anh Tròn là cán bộ gương mẫu và dũng cảm. Tôi bỗng thấy tự hào vì có đồng đội như thế. Đi qua các ruộng rẫy nhà dân bỏ hoang, đi lên sườn tây nam của Nông Sơn, vượt qua một khe khá sâu, chúng tôi đến sườn phía nam của bình độ 200, điểm nhô ra ở phía đông căn cứ Nông Sơn. Sườn núi dốc khá đứng, lau lách mọc um tùm. Anh Tròn với sức vóc mạnh mẽ, không mệt mỏi dùng tay rẽ những gốc lau, cây. Khi có những gốc to cứng thì dùng dao găm cắt, tạo thành một luồng đường rất bí mật. Chúng tôi bò như chồn theo sau anh Tròn lên dốc mà mệt đến rã rời. Chắc anh Tròn phải mệt lắm, cái anh chàng chẳng mấy khi nói cười này cứ làm việc cần mẫn như con ong ấy thôi. Khi lên lưng chừng dốc gặp hàng rào thép gai, anh ngồi lại quay mặt về phía tôi. Tôi hiểu là dừng lại để nghỉ, anh không muốn để tôi đến gần, có lẽ anh gỡ một quả mìn hay cái bẫy nào đó chăng. Anh không muốn để nhiều người gần các tình huống nguy hiểm. Sau hơn mười phút, tấm lưng to bè của anh lại dịch chuyển về phía trước. Tôi theo anh qua 6 hàng rào, loại rào đơn bùng nhùng được bố trí từ lâu nên lau lách mọc trong đó làm cho việc dò mìn, vạch lối rất mất thời gian. Qua các hàng rào, tôi hiểu anh Tròn cực kỳ tỉ mỉ. Cái tỉ mỉ đầy trách nhiệm đối với đồng đội. Đó là những mối buộc rào, chốt an toàn mìn. Tất cả đều được đánh dấu trong đêm tối. Người đi sau nhất thiết sẽ nhận ra được qua hàng rào thứ 6 lên đến mặt phẳng bình độ 200 chỉ vài mét, đây là bãi trống cỏ mọc lưa thưa, là bãi đỗ trực thăng rất tốt. Cái điểm nhô ra phía đông này khá rộng, bề ngang chừng 50 mét nhưng chiều dài chừng 800 mét. Với diện tích này, địch có thể tập kết được một tiểu đoàn. Khi chúng tôi băng qua bình độ 200, chui vào các lớp rào ở sườn bắc thì bọn địch cũng báo thức. Chúng dậy tập thể dục trên căn cứ cao hơn chỗ chúng tôi giấu mình dưới các bụi lau lách, chờ tối sẽ tiếp tục công việc. Mỗi đứa chúng tôi chọn một chỗ nằm có thể quan sát lên Nông Sơn để cả ngày hôm đó ăn lương khô 701, loại lương thực thơm ngon như bánh khảo, chỉ tội tốn nước. Trời về trưa không khí oi nồng. Cái nóng như rang trên quả đồi trọc của miền Trung này thật khó chịu. Khi mồ hôi tuôn ra ngấm đọng lại các vết cắt do lá và cây lau lách, gai dây thép tạo ra quả là không dễ chịu chút nào. Đau và ngứa ran lên suốt cả ngày. Có lẽ do vậy mà bớt đi sự lo sợ địch phát hiện chăng. Quả thực, tôi chỉ bận tâm vào việc làm sao giảm được rát ngứa và cơn khát cứ tăng dần lên. Lúc này tôi mới thấy tiếc rẻ rằng tại sao không mặc áo vào cho đỡ khổ, ai bảo dại mà cả lũ cởi trần trùng trục thế này. Nước bọt trong miệng đặc quánh dần lại, chịu - đố mà ăn thêm được mẩu lương khô thơm ngon nào nữa. Anh Tròn ra hiệu dọn sạch lương khô đi kẻo kiến nó mò đến thì có mà toi. Tôi gật đầu nhắc cậu Thuần còm. Hắn cười nhe răng trắng nhởn, ra điều hết sạch lương khô rồi. Tôi lầu bầu: "Đúng là gầy thầy cơm". Nhìn toàn bộ sườn đông và bố phòng phía đông của căn cứ thật là rõ. Từ bình độ 200, bộ đội có thể vận động lên căn cứ dễ dàng, còn toàn bộ sườn đông dốc đứng có một tả ly được tạo ra để làm một con đường nhựa chạy từ ấp Đại Thái Bình ở chân núi phía bắc lên đỉnh Nông Sơn. Khu chỉ huy của tiểu đoàn địch số 69 và tiểu đội thông tin cũng bố trí ở hướng này. Nơi dáng đất hơi lõm vào làm cho toàn bộ bề mặt của căn cứ giống như cái dạ dày bò.


Cả một ngày dài dằng dặc cũng qua đi. Cái khát, cái rát, ngứa như đã quen thành bình thường. Anh Tròn dẫn chúng tôi tiếp tục đi xuống phía chân sườn núi khi trời đã tối hẳn. Màn đêm giúp chúng tôi tự do vượt qua ba lớp rào đến một con đường mòn đã bỏ từ lâu, cây mọc không còn thấy đường nữa. Theo con đường này, dọc theo hàng rào ngoài cùng, địch bố trí một bãi mìn dày đặc, toàn mìn ba râu tôm. Ba cái râu cứng như nan hoa xe đạp, đặt chân vào biết ngay. Bằng cách ấy, chúng tôi đi trong bãi mìn của địch không mất nhiều thời gian lắm. Bãi mìn này địch gài đã quá lâu, cây cối mọc cao hơn một mét, chẳng bao giờ chúng nó kiểm tra đến làm gì. Có thể nghĩ vậy nên anh Tròn không nhắc đến việc ngụy trang lại lối đi. Đi dọc theo lối mòn cũ thì gặp một khe nơi hội thủy của hai sườn đông và sườn đông bắc. Tôi nghe như có tiếng nước róc rách, mừng rơn, sờ tay xuống đất đá cỏ cây lổn nhổn, ẩm ướt. Nhấc một hòn đá ra tạo thành cái vuông có nước đọng lại, tôi khum hai bàn tay vục uống mấy ngụm, tuy có ngang một chút nhưng mát cổ họng, mát tận ruột, nhẹ cả người, mệt mỏi gần như biến hết. Men theo khe núi này ngược lên một đoạn mới biết phía trên là nhà bếp của bọn địch. Chúng vứt xuống khe núi này bao nhiêu là rác rưởi. Vượt qua khe núi, đi lên sườn bên kia đến tận con đường nhựa không thấy có hàng rào nào nữa. Anh Tròn bảo quay lại đi theo đường cũ về ấp không người. Mấy anh em qua khe Diễn thì trời đã mờ sáng. Đến khu vườn cũ trên cánh đồng tiếp giáp với núi Dùi Chiêng, mệt quá anh Tròn cho nằm nghỉ, chẳng ngờ cơn buồn ngủ đã chiến thắng. Ba chúng tôi ngủ ngon lành trên thảm rác, cỏ do nước lũ trước đây tấp lại, dày trên nửa mét. Khi rát mặt, tôi mở mắt thấy mặt trời đã lên gần đến đỉnh đầu. Bụng tôi đau quặn đi cầu thấy phân đen như bùn lúc sau không thấy đau nữa. Anh Tròn và Thuần đang ngáy ngon lành. Tôi đánh thức hai người dậy để đi về xóm Tí Lở. Cô Hoa du kích đưa chúng tôi qua sông về Tí Bồi an toàn.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:07:50 am
Mấy ngày sau đó, tổ chia ra đi địa hình ở nhiều khu vực. Một lần cô Hoa dẫn tôi đi khu vực núi Chòm, giáp với xã Sơn Ninh, Hoa vui vẻ nói chuyện:

- Em là xã đội phó, ở đây chủ yếu đưa đò cho bộ đội và các đoàn cán bộ khu về các huyện, hay các huyện lên khu.

Tôi đã hiểu bến sông này. Con đường mòn từ Tí Lở ngược với hướng tôi xuyên rừng chính là con đường tiếp tế từ đồng bằng Quảng Nam, lên căn cứ cách mạng. Khu vực mà thủ trưởng Nã đưa tôi đến chính là khu vực dừng chân của trung đoàn. Hôm đó thủ trưởng đi giao nhiệm vụ chiến đấu. Tôi hỏi Hoa:

- Căn cứ Nông Sơn, địch thuộc lực lượng nào?

- Biệt động quân anh ạ. Dân gọi là lính 69 - Hoa nói vẻ thông thạo.

- Nó có hay càn, hay bắn phá sang bên này sông không?

- Mấy năm nay ít lắm. Năm ngoái, có chiếm khu Dùi Chiêng. Hoa chỉ về quả núi bên kia sông. Bên này thỉnh thoảng mới bị bắn phá.

- Chắc pháo ở Đà Nẵng - Đức Dục?

- Cả pháo ở Nông Sơn. Trên đó có hai khẩu 105ly. Trước đây nó thường xuyên bắn vào hai bến sông này vì chúng biết ta chuyển hàng hóa từ đồng bằng lên mà. 

Hoa chỉ các quả đồi, phần nhiều là đồi núi trọc ở gần bờ sông Thu Bồn. Có lẽ địch làm như vậy để dễ quan sát, kiểm soát. Nhiều đoạn qua khe, qua suối cô Hoa đi trước, nhìn dáng nhỏ bé, đôi gót chân tiếp đất thật nhẹ nhàng, đôi chân gầy không có bắp thịt trắng xanh nhưng nhanh nhẹn rắn rỏi, cũng có lúc tôi thấy bám địch trong rừng chỉ có hai người một nam, một nữ kể không thoải mái như cùng là đàn ông với nhau, nhất là có những tình huống bất ngờ. Thật là:

   Cô du kích trẻ
   Dẫn anh luồn rừng
   Trông thật là xinh
   Bỗng bất thình lình
   Trời đổ cơn mưa
   Chỉ tại trời mưa
   Nó bất thình lình
   Để thấy cô mình
   Nõn nà ngà ngọc
   Thật tình chẳng muốn quay đi.


Hoa có người yêu là Động, xã đội trưởng. Hoa cười nói rất tự nhiên kể về chuyện tình của người du kích, đặc tính người dân ở đây: "Đồn rằng con gái Quảng Đà, mất một mùa thuốc chết ba vạn người".

Chúng tôi chia tay du kích xã Sơn Phước. Cô Hoa, anh Dũng, Tí Lở, Tí Bồi, xa vùng quê nổi tiếng trồng thuốc lá, thuốc nặng và thơm ngon, "thuốc lá Tí Xé". Tôi lại trở về B3 cùng anh em củng cố doanh trại và sản xuất. Khu vực đơn vị đóng quân, dân cư khá đông đúc. Dân hầu hết là cụ già, đàn bà và trẻ em. Đàn ông trẻ khỏe không thấy ai. Có một vài ông trung tuổi như ông Sơn nhà ngay gần doanh trại thì cũng là phế binh của ngụy trở về. Những thung khe xen kẽ các khu đồi núi thấp là những ruộng đồng có nhiều bậc, được dân cày cuốc cấy lúa nước. Đất đai khá màu mỡ, cỏ dại phát triển rất nhanh. Cách làm ruộng ở đây cũng khá vất vả. Trước hết phải dùng dao (rựa) phát cây, vơ, cuộn vứt lên bờ, cuốc đất vùi cỏ xuống bùn. Khi lúa lên phải chống chuột phá hoại vì quá nhiều chuột.


Đơn vị đóng cách con sông trên 200 mét. Doanh trại được xây dựng có quy củ, có sân chơi bóng chuyền, hố cát để nhảy xa, nhảy cao. Trước các nhà của Tiểu đoàn 91 có vài luống rau, dây bí, giàn mướp tạo ra vẻ thanh bình ấm cúng. Anh Giáo, chính trị viên đại đội thường ở đơn vị chăm lo công tác hậu cứ, nuôi dưỡng cán bộ chiến sĩ yếu đau bệnh tật. Anh rất coi trọng việc tăng gia sản xuất cải thiện đời sống bộ dội. Bữa ăn hàng ngày của chiến sĩ bảo đảm ăn no, có nhiều bữa được cải thiện, anh em gọi là "ăn tươi". Kết quả tăng gia sản xuất của đại đội có hiệu quả. Đơn vị có một kho lúa đến 5 tấn. Đây là nguồn lương thực bảo đảm anh em không bao giờ bị đứt bữa. Một đàn heo, gà tuy không nhiều nhưng cũng làm rộn rã vùng sơn cước, bởi tiếng gáy oai phong sáng, trưa của các chú gà trống. Đơn vị quả là ấm cúng như một gia đình mà người cha, người mẹ, người anh là anh Giáo. Khi từ Quảng Ngãi hành quân ra đây đã thấy anh là chính trị viên của đơn vị này. Là cán bộ mới sáp nhập về, tôi không hề có cảm giác xa lạ mà thấy đơn vị từ trước đến nay vẫn là một, có chăng chỉ là thay đổi chỗ đứng quân mà thôi. Anh họ Hà nhưng anh em hay gọi anh là "Trạng Giáo" nhiều khi bỏ tên tục chỉ gọi; "ông Trạng". Ông Trạng đi B từ năm 1960. Mới 38 tuổi nhưng trông anh như ông nông dân 50 tuổi. Tuy đã miễn dịch, hết sốt rét, da dẻ có phần đỏ đắn, người đầy đặn nhưng nét già vẫn trội hơn. Thường ngày, thấy anh vui cười, nói chuyện với mọi người, chẳng kể gì đó là cậu Trò liên lạc, cậu Phượng què trầm tư, cậu Xanh mắt trắng đã tự thương, hay anh Tròn người "Thổ mừ" ít nói và dũng cảm. Với mọi người, hình như anh luôn sẵn sàng: "Anh bạn có điều gì cần tới tôi không?" và hình như có điều gì đó mà không nói với anh là "khờ". Vậy từ "Trạng" không rõ tự anh hay nói mà có, hay là sự thông thái? Anh thì chẳng quan tâm đến biệt hiệu đó bao giờ. Có lẽ nụ cười đã quá thường trực trên môi để lộ cái răng nanh bịt vàng nên không còn hơi để tạo thành tiếng nữa. Ây vậy mà chẳng ai nhận thấy ở anh một chút thâm trầm, khó tính. Ở đơn vị, chủ yếu là anh em đau yếu, sốt rét suy kiệt, gãy chân, què tay, nếu chỉ họ với nhau thôi thì chỉ còn có những khuôn mặt nhăn nhó vì đau thể xác, vì tâm tưởng bi lụy nhớ nhà, nhớ đủ thứ, lại mặc cảm là người phía sau. Thử hỏi không có anh thì ai là người đem đến cho họ những nụ cười. Thiên tạo thật khéo sắp đặt là vậy. Ở đơn vị, anh Giáo là người khỏe nhất. Cái thung lũng đến mấy mẫu ruộng, lau lách mọc lút đầu, nông dân thực thụ còn thấy ngán thế mà với tài tổ chức và động viên của anh, chỉ một tuần lễ khu đất hoang đó trở thành một khu ruộng sạch sẽ được cấy lúa thẳng hàng, bởi chính anh và anh Tròn khỏe mạnh vung những đường dao, nhát cuốc tự tin dẫn đầu hơn chục người ốm yếu, cần mẫn làm cái việc "chẳng vốn quen làm" mà quên giờ, quên ngày. Anh động viên người ôm rất khéo. Mấy cậu sốt rét trường kỳ ở Quảng Ngãi ra đây, lúc đầu "võng bất ly thân", anh cười bảo: "Mấy thằng nhỏ nằm khéo thối thịt ra mất". Mà gần như vậy thật. Chân chúng bắp thịt tèo đi, coi như chiếc xe điếu, đi lại khó khăn lắm phải chống gậy, buông gậy ra chỉ chực ngã. Cậu Tuyền, Xanh, Huỳnh, Tụng, v.v... anh em cứ giỡn "Da xanh lẹt, đánh địt thối òm" (đánh rắm) nay được anh huy động các cậu bỏ võng đào giun cả ngày. Anh đề ra chính sách, anh tuyên bố:

- "Thưởng một lon sữa ông Thọ cho đứa nào đào được 2 lon giun đất. Giun đào được giao cho thằng Tới y tá phải làm thịt cho ngon, chỉ ưu tiên cho mấy đứa sốt nặng, yếu nhất mới được xơi. Mấy đứa sốt nhẹ, khỏe hơn thì hãy đợi đấy". Có lẽ kiểu nói ấy làm mất đi cái tâm lý xấu hổ của mấy đứa "phải ăn giun" như trước đây. Mấy ngày ở đại đội gần anh Giáo và một số anh em đau ốm cùng mọi người lao động, nhất là mấy hôm phát ruộng cấy lúa, tôi thấy mọi người thật vất vả. Hình như ai cũng phải cố gắng để xứng đáng với anh em tuyến trước. Còn anh Giáo đã cho tôi một ấn tượng, anh coi đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ là người thân. Chỉ có một lần duy nhất, anh trả lời tôi, khi tôi hỏi về con cái, anh nói "Cô bé đã 15 tuổi rồi!". Thì ra lúc anh đi nó mới có hai tuổi. Thời gian của tôi chủ yếu là chuẩn bị cho các trận đánh nên rất ít được gần anh.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:09:13 am
Cuối tháng 10 tôi lại đi công tác. Lần đi này có anh Dũng, anh Phan Rị phụ trách. Chúng tôi đi bộ qua sông Tiên - Sơn Thạch, vượt đèo Le sang Sơn Phúc, đến khu vực xã Sơn Ninh đã sang chiếu. Trời bỗng đổ mưa như trút nước cả vùng mưa giăng mù mịt, tối sẫm lại, mưa trên thượng nguồn, cả vùng đồi núi đồ sộ của núi Chòm như một mái nhà xối nước xuống vùng thung lũng Sơn Phúc, Sơn Ninh và Sơn Phước, trong lưu vực sông Thu Bồn. Dòng sông Thu Bồn nhỏ hẹp bởi hai dãy núi Nông Sơn ở tả ngạn và Cà Tang ở hữu ngạn không thể xả kịp lượng nước mưa cực lớn suốt từ quá Ngọ đến tối mịt vẫn chưa ngớt. Chắc là có áp thấp nhiệt đới hay bão lớn ở đâu đây. Chúng tôi không thể chờ mưa tạnh. Mưa vẫn rơi và con đường mòn chân núi Chòm đã bị ngập mất bởi nước lũ đục ngầu.


Chúng tôi lấy tăng gói ba lô, dép, các dụng cụ quân dụng khác và quần áo chỉ mặc quần xà lỏn lội, đẩy gói đồ băng qua đồng nước mênh mông. Nước lũ lên nhanh khủng khiếp. Trời mưa nhẹ hạt dần nhưng nước thì ngày một dâng cao. Ra khỏi cánh rừng nhìn về phía bắc nơi có những vạt ruộng rẫy và đồi trọc lúp xúp trước đây nay đã biến mất dưới mặt nước. Chúng tôi bơi về phía tây để sang Sơn Phước. Toàn những chiến sĩ thiện chiến sông nước nên không có chuyện phải dìu nhau. Bơi đến 20 giờ, ước tính đến sáu tiếng đồng hồ ngâm mình dưới nước, ai cũng thấy lạnh và mệt. Anh Rị cho anh em dừng lại ở quả đồi nước ngập chỉ nhô lên phần chỏm. Cả khu vực chưa ngập nước là đồi trọc lưa thưa cỏ tranh. Chỉ có một cây khá to mọc côi cút giữa đỉnh đồi nhưng cành rất ít, chỉ có vài nhánh giông ngược lên trời. Bọn tôi định kiếm ít cành cây khô nhưng không có. Cái cây tươi kia chỉ có vài cành còn lá đành quay lại lo chỗ nằm. Mọi người thấy ngón tay, ngón chân mình nhăn nheo lại. Mưa vẫn thỉnh thoảng rơi nhẹ hạt. Cái lạnh rồi cũng mất đi sau một lúc nhộn nhạo. Mọi người ngủ thiếp di dưới tấm đắp bằng ni lông và cái đêm đói rét cũng qua đi. Thật là khổ. Lần này không được phát 701 nên sáng ra vẫn cứ đói như ban đêm. Từ sáng sớm nhìn ra xung quanh bắc nam, đông tây bốn bề là nước. Phía ấp Trung Phước có vài con thuyền dân đi vớt củi hay đồ bị lũ trôi trên cánh đồng. Đó là trận lụt 23 tháng 10 hàng năm ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng này. Chúng tôi lại gói buộc để tiếp tục cuộc hành trình. Anh Rị bảo tôi: "Trại du kích Tí Bồi bị ngập rồi. Ta phải vào khu trại trên núi của họ thôi". Tôi thì không biết khu nào ngoài hai lán ở hai Bến Lội "Tí Lở, Tí Bồi". Anh Rị dẫn đầu đoàn người bì bõm bơi trong biển nước. Nói chung là không có chỗ nào tiếp đất được. Đến khoảng 10 giờ thì chúng tôi đến một quả đồi, mới thấy con đường mòn lộ ra. Đoàn người "ướt như chuột lột" nặng nhọc bê gói đồ của mình vào lán du kích, một nhà dân thì phải - bếp lửa được nhanh chóng bùng lên. Cậu Liên bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn đã làm cái việc cực kỳ cấp bách và cần thiết ấy. Theo cậu ta: "Mỗi người phải trấn một bát cháo nóng cái đã". Cậu Thuần còm thì tích cực chăm lo cho ngọn lửa luôn cháy đều không để lúc nào bị suy giảm. Lính tráng làm cái gì cũng phải nhanh gọn chóng vánh. Tôi nhìn mấy anh bạn thấy rất thân thiết. Thuần còm là lính đặc công, huấn luyện ở Chi Lê - Hòa Bình. Quê anh ở thôn Quản Phú Cầu, huyện Ứng Hoà, Hà Tây. Cả năm 1972, các lần đi công tác Thuần hay đi với tôi. Hắn tuy gầy nhưng khá khỏe mạnh, trình độ võ thuật khá. Cuối năm 1972 đầu năm 1973 Thuần sốt rét nhiều, sức khỏe kém lắm nhưng nó vẫn rất cố gắng, cũng là loại mạnh về ý chí, thể hiện tính thẳng thắn, thắng không kiêu, bại không nản. Lúc làm việc, hắn nhanh nhẹn như chú sóc.


Cậu Liên quê ở Thanh Hóa là lớp chiến sĩ bổ sung năm 1973. Cũng lính đặc công. Anh chàng này có vẻ khôn khéo của một con cáo, có ý thức để ý và óc phán xét, đánh giá con người, sự vật. Các việc công sai cần vụ hắn sốt sắng, nhanh nhẹn. Kể ra hắn thông minh và hơi láu cá nhưng vô hại với người khác. Có hắn làm cho không khí loãng ra, ta có cảm giác thoải mái, dễ chịu hơn khi thấy cậu ta nói và cười, cũng có hơi hướng của "trạng".


Chúng tôi bị kẹt nước nằm lại đây đến ngày thứ ba thì nước đã rút nhiều. Lúc này nhóm trinh sát phải chia ra làm nhiều chỗ. Tôi, cậu Thuần và Liên ở một lán nhỏ của du kích. Cái kiểu nhà tuy nhỏ nhưng có thể treo được cả chục chiếc võng. Vì không dự kiến được trận lụt nên lương thực ngô xay lẫn gạo đã sắp hết. Anh Rị đã cho mấy anh em về đơn vị cùng anh. Chiều tối hôm đó chúng tôi có thêm một người khách, đó là một phụ nữ. Chị tên là Cúc, Tỉnh hội phụ nữ Quảng Đà. Chị có nụ cười thật rạng rỡ làm cho khuôn mặt có nước da mai mái trở nên ưa nhìn. Tôi bắt tay chị, đón hộ chiếc gùi nhỏ từ vai chị treo lên chiếc cột tre cũng là cái cây mắc võng ở trong lán. Chị nói:

- Nhờ các anh ít bữa nước cạn hơn một chút mới qua sông về khu được, đi đường không có lương ăn, nhờ mấy anh cho ăn cùng.

- Chị đi có một mình? - Tôi hỏi.

- Không. Ba chị em. Lán anh Dũng hai chị nữa. - Chị cười tay vén mấy sợi tóc quăn vương trước mắt nói: Vì bên đó cũng như bên này thôi. Không đủ gạo nuôi ba người.

Tôi thầm khen các bà thật tinh ranh, không hời hợt bao giờ. Sự tinh tường ấy chỉ có được của những người công tác trong vùng giặc đã luôn khó khăn, chẳng có ai được quyền mang theo lương thực dự trữ trong khi chưa đủ để nấu ăn hàng ngày. Cũng như các chị, chúng tôi cũng phải chờ mất mấy ngày, hết gạo là dĩ nhiên thôi. Quân dân chuyện trò vui vẻ. Chị Cúc ý tứ xoay lưng lại phía chúng tôi, lấy ra mấy lá thuốc, chị quay mời anh em tôi: "Các anh hút thuốc lá". Đúng là thuốc lá, thuốc lá phơi không dẻo. Tự nó vấn lại thành điếu chứ chẳng phải thái nhỏ, chẳng phải giấy má gì. Khi thuốc cháy thì thơm, hơi khét, tàn trắng tinh. Mỗi người chúng tôi nhận một lá. Cuộn không khéo lắm nhưng cũng thành điếu, châm lửa hút. Thuốc Tí Xé hay ở đâu cũng thế thôi, hút thế này cay miệng lắm. Thuốc nặng quá làm tôi nấc lên. Chị Cúc khẽ cười nhỏ: "Nặng lắm hả?". Tôi gật đầu. Cậu Liên ngồi ở một góc thở một hơi khói ngập cả lán. Hắn thủng thẳng nói: "Ngon lắm, nhưng mà khét. Hình như có lông". Hắn cười khành khạch. Tôi chưa để ý lắm nên thấy cái cười có vẻ vô duyên. Chị Cúc mặt hơi hồng lên nói: "Hổng có đâu, xa lắm". Lúc đó tôi mới nhớ có lần hành quân gặp chị em Đại đội 3, gặp bạn trai, sau cái bắt tay bao giờ cũng có động tác đằng sau quay, sau đó là mời: ”Anh xơi thuốc". Hỏi ra mới biết con gái Quảng Nam bao giờ cũng có thuốc lá trong người. Ai cũng thủ một bịch giắt ở cạp quần để hút và khi cần thiết mời bạn. Tôi bất giác cũng mỉm cười, nhìn chị Cúc và nghĩ thầm về cái khoản này thì thằng Liên thật nhạy cảm. Tôi bảo Thuần, Liên nấu cơm ăn và đi sang lán anh Dũng. Tối đó anh Dũng và tôi đi Nông Sơn, chỉ đi địa hình xác định những quả đồi trọc, chắc là những nơi có thể bố trí binh hỏa lực, toàn bộ hữu ngạn sông Thu Bồn, khu vực bờ sông đều trống trải, rừng thưa, đồi núi trọc là chủ yếu. Đến mờ sáng chúng tôi mới về đến chỗ tập kết.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:11:19 am
Buổi trưa, gần lúc ăn cơm, tôi để ý thấy chị Cúc, Thuần, Liên thỉnh thoảng nhìn nhau rồi cười. Chị Cúc thì cười kẻ cả bao dung như vốn có, còn Liên và nhất là Thuần thì đỏ mặt có vẻ "dị". Tôi chẳng để ý. Mặc xác các cậu, ăn xong leo lên võng nằm ngả lưng rồi ngủ lịm như chết, xế chiều tỉnh dậy chỉ còn chị Cúc ngồi viết lách gì đấy. Thấy tôi dậy, chị nói: Anh Dũng và mấy anh có lệnh đi công tác gấp. Anh Düng dặn anh cứ ở đây sẽ có anh em khác đến để làm một việc khác. Tôi thì cũng đã quen với cái mệnh lệnh bất thường, chẳng khi nào giải thích này rồi. Cúc hỏi tôi còn gạo không? Tôi nhắc bao đựng gạo ra. Mấy thằng thật tốt bụng dồn gạo để lại cũng được ba bốn lon, cả chủ khách chắc được vài ngày. Tôi đưa Cúc: Còn đây. Cúc nhanh nhẹn nấu cơm. Kể ra cũng chẳng có gì lắm để mất nhiểu thời gian. Cơm ăn dã chiến với muối là chủ yếu, có rau rác gì bao giờ đâu, nay cầu kỳ hơn là có thêm món mắm cá hộp. Cúc vừa đun bếp vừa nhìn tôi cười vẻ tinh quái rồi nói:

- Anh có biết chuyện gì không?

- Chuyện gì? Bố ai đoán được. - Tôi dấm dẳng.

- Chuyện của bọn em mà anh không thấy có gì lạ sao?

- Ai mà biết được. Chuyện gì vậy? - Tôi ngồi dậy có vẻ quan tâm. Cúc vui vẻ nói:

- Hồi hôm anh đi công tác, ba đứa em ở nhà, đêm xuống thấy sợ bảo anh Thuần, Liên mắc võng hai bên, em xen vào giữa. Mấy anh cứ nói chuyện vui lan man. Bỗng em thấy một bàn tay đưa sang võng em chạm đến đùi em. Em cầm lấy bàn tay ấy, tay anh Liên, giữ yên không cho di chuyển thêm nữa. Lúc sau anh Thuần lại đưa tay sang, em lại cầm tay anh Thuần. Chắc anh này sợ anh kia biết nên nhẹ nhàng lắm. Em thấy vui đưa hai bàn tay của hai người chập vào nhau. Hai ông tướng giật nảy mình khi ba bàn tay chạm vào nhau. Thế là mọi người rút tay lại. Không khí trở nên nặng nề quá. Em đành kể câu chuyện "Tay ải tay ai, tay ẻm tay em... tay ổng tay ông" thế là cả ba anh em lại có cớ để cười phá lên. Sau đó em ngủ đến sáng đấy anh ạ. Chuyện của thanh niên mà... Tôi thấy Cúc thật già dặn và không thể ngờ khi Cúc nói: "Em mới 19 tuổi". Cúc dân Đại Lộc, lên Xanh từ năm 1969, lúc đó chưa đầy 15 tuổi. Một cô gái thật bản lĩnh và thành thật. Bữa cơm tối chủ nhà là thiểu số, còn khách số đông hơn. Đó là ba cô gái phong trào. Có lẽ Cúc là phụ trách. Cơm xong, tối xuống muỗi dĩn nhiều, không thể ngồi tán gẫu được. Cúc bảo mấy bạn về lán. Tôi vội mời hai chị sang đây mà nghỉ. Cúc bảo chúng nó đi rồi. Cúc buộc đầu dây võng vào cột dưới võng tôi một chút, đầu kia mắc vào một chiếc cọc phía ngoài gần võng của tôi. Cúc giải thích: "Em nhát đêm lắm, cho em nằm chung với”. Tôi không hiểu lắm (nằm gần) về từ "chung" theo ý cô nên có vẻ thấy ngường ngượng. Cô leo lên võng quay đầu cùng chiều với tôi. Cô gái Quảng Đà thật vô tư, tự nhiên nói, hỏi đủ thứ chuyện: miền Bắc, đơn vị, v.v... sau đó cô im lặng, chỉ còn tiếng thở đều đều thoải mái. Còn tôi cứ trằn trọc nghe đủ thứ âm thanh, tiếng giun dế kêu khi trời tạnh mưa, tiếng lá cây rụng rơi xuống mái tăng lán du kích. Đêm rừng sao mà mênh mông, dài thế, thật là:

   Em tin anh như con chiên tin Chúa
   Chẳng e gì ta trái dấu âm dương.
   Đêm mưa rừng tăng che một mái
   Hai võng cùng một cột đung đưa
   Em chuyện hoài rồi đi vào giấc ngủ
   Suốt đêm dài anh trăn trở nghe mưa...


Trận lũ lụt tháng 10 năm 1973 làm cả vùng hạ lưu sông Thu Bồn ngập nước. Nhân dân hầu hết trong vùng địch kiểm soát. Lụt làm cho đời sống của họ đã khó khăn nay càng khó khăn thêm. Nhóm cán bộ phụ nữ Quảng Đà cũng đã qua sông lên khu, còn tôi thì trở về đơn vị.


Tôi được đơn vị cử đại diện đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua của Sư đoàn. Trong đại hội có nhiều báo cáo điển hình về tinh thần chiến đấu rất ngoan cường của các đồng chí bộ đội đặc công, bộ binh. Các gương tận tụy, chu đáo với thương binh của các chiến sĩ vận tải Tiểu đoàn 19 và quân y. Tôi nhớ một báo cáo của một đồng chí bộ binh tên Trì. Đồng chí kể về thực hiện chính sách dân vận. Tiểu đội đồng chí chốt giữ một ấp nhỏ gần ngã ba Thạch Trụ, khu vực này ta mới giải phóng trước ngày ký kết Hiệp định Pa-ri. Dân vùng địch chiếm chưa thật hiểu bộ đội nên có phần e sợ. Tổ ba người của Trì đào công sự chiến đấu ở vườn một nhà dân. Công sự đào còn dở dang, buổi trưa anh em nghỉ ăn cơm, Trì ở lại cảnh giới và tranh thủ đào, sửa xong vách hầm thì phát hiện một chiếc bình sành. Khi lấy chiếc bình ra, anh mở nắp thì thấy bên trong toàn là vàng lá. Chắc là dân chôn giấu để chạy loạn. Anh báo cáo đại đội và giao chiếc bình đó cho chỉ huy. Buổi chiều, một ông già đến nói là chủ căn nhà này. Mấy hôm trước súng đạn đì đùm cùng con cháu chạy lánh sang Phổ Linh, nay thấy tạm yên nên quay về lấy đi một số đồ. Ông cụ vào nhà chắc nhìn thấy mọi thứ còn y nguyên không bị phá phách gì nên đã mạnh dạn thổ lộ về việc muốn tìm lại số tiền mới chôn mấy ngày trước đây. Trì dẫn ông cụ lên chỉ huy đại đội. Số tài sản được trả lại cho ông cụ đầy đủ. Ông cụ biết ơn xúc động vô cùng, cụ chỉ nói ngắn gọn có mấy câu: "Các anh thật là khác hẳn với các sắc lính cộng hòa”. Qua các anh mà hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ quân giải phóng. Một niềm tin, niềm tự hào trong tôi lại được dịp bồi đắp, củng cố vững chắc hơn. Niềm tin vào sự tất thắng của quân đội và nhân dân ta. Tôi phụ trách tổ công tác có anh Tịu, Thao và Niên là những chiến sĩ của Tiểu đội 3 đơn vị Sư đoàn 711. Tịu là tiểu đội trưởng của các đồng chí này. Đoàn chúng tôi vượt đèo Le sang Sơn Phúc. Tịu là người Ninh Bình, đi B từ năm 1969. Anh có dáng vóc to khỏe và nhanh nhẹn, đôi mắt sáng, hơi nhỏ, khi cười chỉ còn ti hí. Anh em bảo Tịu rất nóng tính. Tịu đi công tác với tôi lần này là lần thứ hai. Hồi chuẩn bị đột điểm Nông Sơn, sau hôm nhỡ dở anh Tròn không đưa Tịu đi nữa nên tôi chưa hiểu Tịu nhiều. Thực ra đôi lúc Tịu cũng cãi lại ai đó, khi anh ta cho là nhận xét hay phê phán không đúng. Trò đời là vậy, có khi chỉ thấy có một lần gây chuyện khác thường, hành vi ấy dù là xấu hay tốt đều để lại một dấu ấn khó quên. Không biết từ bao giờ, ngoài nóng tính, anh còn bị coi là kém kỷ luật nữa. Sự việc tôi thấy chỉ có thế này, khi tôi còn là tiểu đội trưởng Tiểu đội 1, lúc cán bộ đại đội, tiểu đội đi họp ở phòng tham mưu, đại đội giao cho tôi phụ trách toàn đơn vị, chỉ có vài ngày thôi, tôi triển khai công việc tại đơn vị. Tiểu đội của Tịu được giao làm luống trồng rau, xong thì rào chắn gà. Tịu làm xong công việc, cậu ta nói với tôi sang đại đội vệ binh tối về. Tôi đồng ý để cậu ta đi. Tôi chẳng biết anh Nhỡ có quy định gì với Tịu về việc đi sang đại đội vệ binh. Chỉ thấy khi Tịu về thì anh Nhỡ tiểu đội trưởng nói Tịu vô kỷ luật. Tịu cãi lại: "Khi đã báo cáo người phụ trách, nói vô kỷ luật là nói bậy". Thế là cuộc cãi lộn diễn ra khá lâu. Tịu mặt đỏ tía tai chạy sang tiểu đội tôi, vừa đi vừa xỉ vả anh Nhỡ. Tôi vỗ vai cùng Tịu quay lại Tiểu đội 3. Anh Nhỡ cũng nóng nảy chẳng ít độ hơn cậu Tịu. Cái dáng thư sinh trắng trẻo hay cười để lộ cái răng khểnh trên khuôn mặt hơi gầy đã biến mất. Anh đang lầu bầu: "Cán bộ mà kỷ luật kém, còn làm được cái gì". Tôi bước vào gần anh nhỏ nhẹ:

- Xin lỗi anh Nhỡ, đáng lẽ khi các anh họp về, tôi phải báo cáo ngay với anh về việc đồng chí Tịu xin phép đi vắng, vì phải báo cáo tình hình trong ngày với đại đội, thành ra chưa kịp sang anh thì cậu Tịu đến.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Mười, 2021, 07:13:12 am
Anh Nhỡ nhìn tôi giây lát rồi nói:

- Tôi đã cấm thằng cha Tịu sang đại đội vệ binh nhưng nó không nghe. - Anh nói và nhìn thắng vào mặt Tịu. Tôi vỗ vai ấn Tịu ngồi xuống chiếc ghế tre có cái bàn để uống nước nói với Tịu: Thôi, tôi thấy giữa các ông ngoài trách nhiệm trên dưới còn có cả tình nghĩa anh em nữa đấy. Làm gì mà văng ra đủ thứ, anh Giáo biết lại mắng cho. Tịu có vẻ đã hạ nhiệt độ tý chút nhưng chưa chịu im hẳn:

- Chẳng biết đầu cua tai nheo gì. Nạt nộ cái con c.

Tôi ngồi nói chuyện một lúc nữa với anh Nhỡ, sau yên hẳn mới về tiểu đội của mình.

Sơn Phúc là xã nằm ở phía bắc núi Chòm, phía đông là đèo Le, Hòn Tàu, phía bắc tiếp giáp với vùng núi Chúa, phía tây tiếp giáp xã Sơn Ninh, tây bắc là khu vực Trung Phước. Tổ chúng tôi đến đầy chủ yếu đi địa hình. Hậu cứ của chúng tôi đóng ở vườn thơm dưới chân núi Chòm. Toàn bộ khu vực này trước đây là làng mạc đông đúc, nay dân đã bỏ đi từ lâu. Những vườn cau già cây cao sin sít, vườn mít quả sai, trái chín rụng xuống gốc thành nhiều lốp bùn xốp. Những vườn thơm khá nhiều trái. Tập quán ăn trái cây vùng này cũng lạ. Không nhất thiết phải ăn trái chín, mít thường hái xanh xào nấu, quả mít chín đạp bỏ cùi xơ, chỉ lấy hạt đem rang tán nhỏ làm bột, quả dứa xào nấu với nhiều loại thực phẩm thịt, cá, có vị chua thơm ngon. Mấy hôm đầu chúng tôi đi địa hình khu vực núi Chòm từ các làng hoang ở chân núi lên đến đỉnh giông núi. Trên giông núi Chòm còn có một con đường mòn đi từ đèo Le theo sống núi đến tận xã Sơn Phước, sát bờ sông Thu Bồn. Từ đường này có rất nhiều rẽ đi sang căn cứ Bàn Thùng, căn cứ pháo binh của Mỹ đã bị huỷ bỏ, nhiều nhánh chạy xuống sườn nam đến Sơn Thạch, v.v... Các xã Sơn Ninh, Sơn Phước đều có đường nhánh lên đỉnh giống núi Chòm. Mấy ngày leo núi ăn quả "thơm" rộp lưỡi. Cả phía bắc núi Chòm là vùng đồng ruộng xen đồi núi. Cánh đồng này nếu thanh bình thì sẽ là lúa vàng bát ngát nhưng giờ đây chỉ là cánh đồng hoang đầy cỏ dại. Đồng cỏ hoang nhiều lần ngập nước nên bùn lầy là nơi sinh sống tiện lợi của lươn. Lươn nhiều vô kể. Tịu và Thao tối nào cũng đi đặt trúm lươn. Cái ống tre một đầu cho chiếc hom tre, bỏ vào trong đó ít ốc đập nát hay giun, cắm chúc đầu xuống gần sát đất thế mà sáng nào Thao và Tịu cũng mang về hàng ký lươn béo mập. Ngày nào chúng tôi cũng có món lươn om chuối, xào thơm, mít xanh, v.v... Tối khuya thì được tăng cường món cháo lươn. Tịu và Thao đều là tay nấu nướng khá. Cái món lươn này là phức tạp lắm. Thế mà các cậu ấy làm ăn cứ ngon lẹm, không có tanh tưởi gì. Gần chỗ ở có một con suối nhỏ nước nóng trong xanh. Đó là nước chảy ra từ mỏ E-xi-ti-len. Ngày nào tôi cũng ra đó ngâm mình một lúc. Ăn uống khá, tắm nước nóng ban đêm chỉ có ngủ do đó anh em tôi ai cũng tăng ký. Đặc biệt không ai một lần lên cơn sốt rét. Gần đến tết năm 1974, anh Tự, chính trị viên phó dẫn vài anh em nữa xuống tăng cường cho chúng tôi. Được mấy ngày anh Tự cùng tôi về đơn vị còn anh em ở lại do Tịu chỉ huy.


Trước tết ít ngày, anh Pha được trên điều xuống làm chính trị viên đội trinh sát Trung đoàn 1. Đơn vị tổ chức liên hoan vui vẻ tiễn anh đi nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới. Cái tết đầu tiên tương đối vui, chu đáo trong chiến trường miền Mam, lại ở gần dân. Tuy nhiên, nắng nóng quá nên không thấy không khí ngày tết quê nhà. Hầu như dân ở đây không có tục đi thăm hỏi, chúc tụng nhau ngày tết, cán bộ, chiến sĩ vui nghỉ tết ngay trong đơn vị. Sau tết, đơn vị lại tổ chức huấn luyện. Các khoa mục bám địch hành quân dã ngoại, võ thuật, điều tra địch trong căn cứ vững chắc. Sau gần hai tháng cung cố huấn luyện, chúng tôi lại lên đường.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:52:03 am
7

Nông Sơn 1974.

Lực lượng chuẩn bị chiến trường không chỉ có tổ trinh sát của sư đoàn mà còn có cả cán bộ trung đoàn và các cơ quan giúp việc của họ. Khu vực đoàn công tác tập kết ở dãy núi cao rừng già phía tây bắc Hòn Kẽm, cách căn cứ Nông Sơn chừng 10km, bộ phận trinh sát hỗn hợp của chúng tôi gồm 6 đồng chí của sư đoàn là: Trung, Thảo, Thuần, Liên, Niên và tôi. Tổ của anh Thanh có 4 người là trinh sát Tiểu đoàn 32 Quân khu 5, tổ đồng chí Vụ có 3 người. Đơn vị đánh Nông Sơn được quân khu tăng cường hỏa lực và các đơn vị kỹ thuật.


Những ngày đầu tôi ngồi đài quan sát. Nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi địch trên căn cứ Nông Sơn. Địch hàng ngày tổ chức lực lượng đi vào khu vực điểm cao 322 để khai thác gỗ. Buổi chiều nào cũng có gỗ chuyển về. Có lẽ việc làm công sự ở căn cứ này quy mô lớn. Một số điểm ở sườn tây, tây nam, nam Nông Sơn có dải đất mới đổ ra. Rõ ràng địch đào địa đạo vào trong núi. Theo tính toán các cửa hầm đều thấp hơn đỉnh núi ít nhất là 10 mét, như vậy những địa đạo này thật sự vững chắc không thể có loại bom pháo nào có thể làm sập được. Một số chiến hào được triển khai ra phía ngoài hàng rào tại điểm nhô ra của Nông Sơn ở hướng tây nam. Tổ trinh sát chúng tôi có nhiệm vụ cụ thể là: nắm chắc về địa hình, địch, dân phục vụ cho sư đoàn xây dựng quyết tâm chiến đấu. Công việc này đã làm từ giữa năm 1973, nay tiếp tục cụ thể thêm và trực tiếp phục vụ cho Sư đoàn 31 chiến đấu, phục vụ cho các hướng tấn công, lựa chọn đường hành quân, địa điểm tập kết, đường hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công, khu vực trận địa xuất phát tấn công, điểm lựa chọn cửa mở đột phá đánh chiếm đầu cầu dẫn bộ binh tiếp cận, chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công trước ngày giờ nổ súng, v.v...


Trinh sát phải chuẩn bị các nội dung đó trên ba hướng: hướng đông bộ đội chiếm lĩnh sườn đông, nam, bắc của bình độ 200, tấn công theo giông bình độ 200 lên Nông Sơn. Hướng này anh Tròn đã dẫn tôi vào từ năm ngoái. Hướng thứ hai theo triển núi tây bắc Nông Sơn, chiếm lĩnh khu vực mỏm nhô ra nơi trận địa pháo cũ của địch và sườn núi phía bắc Nông Sơn.


Trên các hướng chỉ có hướng đông là chúng tôi đã thực hiện đột nhập, còn chưa được điều tra. Đoàn cán bộ Sư đoàn 31 do chúng tôi dẫn đường đi theo con đường mòn ngược lên phía bắc qua khe suối Vàng vòng lên các dãy núi cao 575, dừng lại ở chân núi phía bắc dãy núi Hoa Ngân sừng sững. Dãy Hoa Ngân có điểm cao nhất là 800 mét. Tiểu đoàn bộ binh được phân công đảm nhiệm hướng này là Tiểu đoàn 8. Anh Bột, tiểu đoàn phó, tham mưu trưởng chỉ huy bộ phận đi chuẩn bị. Anh Bột đã vào B mấy năm mà dáng dấp vẫn trẻ trung, da trắng như bột, chẳng hề nhuộm màu chinh chiến. Đi cùng với anh còn có thủ trưởng Trí là trung đoàn trưởng và một số cán bộ tác chiến của trung đoàn. Trinh sát trung đoàn cả ba đồng chí là Vụ, Quảng và Thắng đều đi theo hướng này.


Sau một ngày ổn định nơi tập kết, trưởng đoàn phổ biến một số tình hình khu vực này. Một số quy định phải thực hiện nghiêm ngặt. Đây là khu vực thuộc huyện Giàng. Buổi sáng, tổ trinh sát chúng tôi leo lên đỉnh núi Hoa Ngân, rừng già, cây rất lớn che kín cả tầm nhìn ra bên ngoài. Tôi dẫn Lập, Thuần tụt xuống sườn nam một chút, chọn một nơi có thể quan sát được Nông Sơn. Từ độ cao 800 mét nhìn xuống Nông Sơn có độ cao dưới 300 mét quả là nơi quan sát lý tưởng. Nhìn vào ống nhòm thấy rõ hầu hết bề mặt của cái hình "dạ dày bò" của căn cứ Nông Sơn. Từ chân núi phía nam Hoa Ngân phải qua một cánh đồi núi, ruộng rẫy thấp và cánh đồng lúa nước. Cánh đồng này kẹp giữa dãy Hoa Ngân ở phía bắc và Nông Sơn điểm cao 322 ở phía nam, còn phía tây được chắn bởi dãy núi cao có điểm cao 555. Phía đông cánh đồng là sông Thu Bồn uốn khúc. Chân núi đông bắc Nông Sơn ra tận sát bờ sông ấp Đại Thái Bình, dân cư đông đúc, chủ yếu là khu dân cư do chính quyền ngụy kiểm soát. Từ ấp có con đường nhựa chạy theo chân núi Nông Sơn về phía tây vào đến khu mỏ than đã bỏ, không còn khai thác nữa. Để lại đây là những đống đất đá lần than đen ngòm và một cái hồ nước khá rộng, dài chạy dọc dưới chân yên ngựa từ Nông Sơn đến điểm cao 322. Từ con đường vào mỏ có một con đường nhựa theo sườn núi phía bắc chạy về phía đông và vòng lên điểm cao Nông Sơn cây cối nhỏ thấp. Ở các thung khe núi, từ lưng chừng lên tới đỉnh không có cây cối gì, chỉ là đồi trọc. Thỉnh thoảng có vài bụi mua thưa thớt. Ban ngày, dân đi từ ấp ra làm đồng, vào núi đốt than, kiếm lâm sản, v.v... Họ làm việc cả ngày cho đến 17 giờ thì không còn ai ngoài ấp nữa.


18 giờ mặt trời đã lặn khuất dưới cây rừng. Tổ trinh sát chúng tôi xuống núi, vì quan sát cả ngày nên biết chắc đường hành tiến đến Nông Sơn không có địch phục kích, không bị gài mìn nên việc tiềm nhập thật dễ dàng nhanh chóng. Đêm đó kiểm tra con đường hành quân đến nơi tạm dừng, đó là con đường mòn cũ cũng dễ đi. Kiểm tra sườn núi phía bắc, đất đai ít sỏi đá, dễ đào công sự và độ dốc thoai thoải bộ binh vận động dễ dàng. Từ hàng rào ngoài cùng đến lô cốt đầu cầu chỉ 40 mét. Trong tầm bắn hiệu quả của B-40, B-41, ở phía này có một lối mòn địch vẫn đi lại ra vào căn cứ để lên xuống ấp cho gần, khu đồi nhô ra là trận địa pháo cũ của địch. Con đường nhựa từ chân núi phía bắc đi qua sườn nam của mỏm nhô ra rồi bám theo sườn đông núi Nông Sơn lên phía bình độ 200, tạo ra một tả ly cao dần lên phía đỉnh núi, tạo ra phía đông một vách thành dựng đứng con ngươi không thể leo lên được, chỉ lên đến đỉnh bình độ 200 mới có thể vận động theo đường để vào căn cứ. Ở trận địa pháo cũ này cách đỉnh Nông Sơn 500 mét có thể đặt cối chế áp địch trên căn cứ, không thể dùng hỏa lực bắn thẳng được. Hỏa lực bắn thẳng chỉ có thể để kiểm soát con đường từ ấp lên và từ căn cứ xuống. Tả ly cả con đường bộ đội có thể đào hầm ếch, địch trên căn cứ không thể làm gì được họ. Xong các việc, chúng tôi rút lui về căn cứ phía bắc Hoa Ngân thì trời sáng. Tôi cử Trung và hai đồng chí trinh sát Sư đoàn 31 lên đài quan sát để đêm xuống dẫn cán bộ đi nghiên cứu. Tôi báo cáo tình hình ghi nhớ được với đồng chí phụ trách rồi về võng nằm, treo mình trên đoạn khe suối có nhiều hang đá lỏm chởm. Dòng nước suối lộ thiên, thỉnh thoảng gặp một tảng đá chắn ngang thì chảy chồm lên, tung tia nước trắng xóa tạo thành sương mù. Tôi ngủ đến trưa, dậy ăn cơm rồi chuẩn bị lên đài quan sát. Đêm thứ hai dẫn đoàn cán bộ của sư đoàn, thủ trưởng Nã gặp tôi khẽ nói: "Cậu đấy à". Tôi biết thủ trưởng vẫn nhớ cái anh chàng bị đùa, phải đuổi theo ô tô lên dốc hôm nào. Tôi tự nhủ: "Trí nhớ của thủ trưởng tốt thật. Còn tôi, thật sự không nhớ mặt lắm thành thực mà nói chỉ nhớ tên vì cả sư đoàn chỉ có một người". Đi theo thủ trưởng có một số cán bộ tham mưu và các ban sư đoàn. Điểm nghiên cứu đầu tiên là trận địa pháo cũ của địch. Sau khi giao nhiệm vụ cho các đồng chí đi cùng, thủ trưởng đập vào vai tôi nói:

- Cậu và chiến sĩ nữa đi với tôi lên trên kia xem sao.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:52:34 am
Tôi và Trung dẫn đường tiếp cận hàng rào ngoài cùng. Thủ trưởng bò đến bên tôi ra hiệu không phải chui vào, nằm một lúc, thủ trưởng ngồi dậy nhìn vào trong đồn dùng động tác đẩy hai bàn tay từ ngực ra phía trước, ý nói đặt mìn thổi phá rào mở cửa để bộ binh xung phong, mà quả mìn phải được đặt từ chỗ này. Xong việc, chúng tôi xuống núi không đến trận địa pháo mà rẽ trái để xuống con đường mòn, đi luôn về căn cứ. Các bộ phận khác theo hợp đồng, xong việc cứ thế rút về, không phải chờ đón nhau.


Đêm thứ ba tôi, Trung, Vụ, Quảng và Thắng bảo đảm đưa đoàn cán bộ của Sư đoàn 31 vào điều nghiên. Thực chất là trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ trên thực địa cho các đơn vị phối thuộc và thuộc quyền. Đoàn thật đông người. Dừng lại ở trận địa pháo, thủ trưởng Trí phân công vị trí cho các bộ phận, phân công trinh sát cảnh giới. Tôi phân công cậu Quảng cảnh giới cho khu vực trận địa pháo, tín hiệu liên lạc tróc lưỡi cộng 5 (hỏi 2 thì trả lời 3 hoặc ngược lại). Vụ và Thắng đi theo đường nhựa lên phía sườn đông gần bình độ 200 làm các việc theo yêu cầu của trung đoàn trưởng, xong việc liên lạc với Quảng để rút về. Cậu Quảng sẽ dẫn mọi người đến chỗ tôi cách chỗ Quảng 100 mét để xuống con đường mòn về căn cứ. Tôi và Trung dẫn anh Trí sư trưởng, anh Bột tiểu đoàn phó và vài cán bộ đại đội lên vị trí mà hôm qua sư phó Nã đã nghiên cứu. Xong việc cả đoàn quay xuống. Đến chỗ hẹn với Quảng, tôi bảo Trung dẫn đoàn cán bộ đi về trước, còn mình ngồi chờ nhóm của Quảng. Nơi Quảng cách hàng rào ngoài cùng ở hướng bắc này khoảng 300 mét. Tôi đang nằm nghỉ và suy nghĩ miên man thì nghe tiếng AK điểm xạ hai phát từ phía Quảng. Linh tính báo rằng đã xảy ra việc không lành, chỉ vài phút, Quảng chạy đến chỗ tôi hớt hải nói:

- Có địch... Tôi đã bắn ngã một tên biệt động.

- Ở đâu? - Tôi nói rít lên. Không chờ Quảng nói thêm, tôi nghiêm giọng: Mày bắn anh em mình rồi, bám lại xem sao ngay! - Tôi xách súng chạy lao đến chỗ có sự cố, không để ý đến sự phản ứng của địch. Quảng theo sát tôi nhảy xuống mặt đường. Vụ đang ngồi bên Thắng, được đặt dựa vào tả ly. Thắng bị viên đạn xuyên ngang gáy, sờ vào vết thương máu chỉ còn đủ để chảy ri rỉ nhưng áo sau lưng Thắng cứng lại vì đẫm máu. Thắng không nói được, thở khò khè. Chúng tôi thay nhau cõng Thắng theo đường tiềm nhập để quay về căn cứ. Đến chân núi trời đã mờ sáng, khi dừng lại thì Thắng đã tắt thở. Tôi quyết định giấu cậu ta vào bụi cây sau đường mòn ngụy trang lại. Tuy đã kiệt sức nhưng mọi người phải chạy thục mạng để vào được rừng trước khi sương mù bị mặt trời xua tan. Vào rừng, chúng tôi phải cố lên núi cao, rẽ vào cách đường mòn hơn chục mét mới dám lăn ra nghỉ. Lên đến đài quan sát, nhìn xuống cánh đồng đã có dân đi làm. Con đường từ ấp đến khu mỏ cũ, người người đi vẫn bình thường. Trên căn cứ không thấy có hiện tượng gì lạ. Tôi bảo Vụ: Cậu ở đây theo dõi xem chúng nó làm gì, chỗ Thắng nằm có người lai vãng đến không. Quan sát kỹ để đêm nay phải vào đưa cậu ấy về. Vụ gật đầu vẻ buồn tênh, còn Quảng thì y như đứa mất hồn. Tôi và Vụ không ai nói câu nào nữa với cậu ấy. Đêm sau, trinh sát đưa Thắng về phía bắc Hoa Ngân, Sư đoàn 31 tổ chức mai táng Thắng. Thắng 21 tuổi, quê ở Vụ Bản, Nam Hà. Đến lúc người ta đọc mấy lời điếu vĩnh biệt, thì cậu Quảng òa khóc, tiếng khóc thật là thảm thiết.


Quảng và Thắng cùng làng, cùng đi học phổ thông, năm 1970 Thắng đi bộ đội còn Quảng đi đại học sư phạm. Đang học năm thứ hai, giữa năm 1972 Quảng nhập ngũ. Đầu năm 1973 vào chiến trường, tình cờ Quảng được bổ sung vào đội trinh sát Sư đoàn 31, Thắng đã là tiểu đội trưởng.


Cuối năm 1974, tập huấn công tác trinh sát toàn sư đoàn, tôi gặp lại Quảng. Quảng kể lại sự việc mà theo Quảng đó là đêm hãi hùng nhất:

... Nhìn theo con đường từ Nông Sơn xuống, thấy có bóng người. Có thể các cậu ấy đi hơi xa nhau nên chỉ thấy một người. Quảng suy đoán không phải nhóm của Vụ nên tróc tróc (tặc lưõi) hai cái, chẳng thấy trả lời mà tăng tốc độ nhanh hơn lao về phía mình, mình hoảng quá bóp cò. Thấy nó ngã vội quay lại chỗ hẹn để báo tin và cũng sợ địch phản ứng nện cối hay xả súng vào chỗ mình. Đến khi nghe anh rít lên, em bỗng thấy nghi, nghĩ hay có thể là Thắng. Khi đúng là Thắng rồi, mới thấy tự trách mình, dằn vặt ghê gớm. Điều dăn vặt vì làm chết một đồng đội đã đành, ở đây còn sự tiếc nếu mình bình tĩnh hơn thì...- Quảng trầm ngâm lúc sau nói tiếp: "Tiếc là em không chú ý lắm đến cái tình "không việc vì phải quan trọng quá như thế" của Thắng. Có lẽ tính giản đơn cố hữu của Thắng đã làm cho cậu ấy có hành vi bất chấp quy định như vậy. Chắc chắn là Thắng đã nghe được tín hiệu thì nó mới tăng tốc độ lên chứ! Có lẽ Thắng vui mừng vì anh em đã an toàn gặp nhau nên quên hết nghĩa vụ trả lời và đáng tiếc là em không đón bắt được tình cảm của bạn, đã gây ra chuyện tày đình. Đơn vị phê bình em là mất bình tĩnh, hình thức kỷ luật cảnh cáo". Quảng ngừng lời, anh chàng chớp chớp mắt liên hồi. Đôi mắt to hơi lồi ra, hoe hoe. Quả thực, về hình thức tạo nên vẻ không hiền lành của con người Quảng. Quảng lại lên tiếng: ngày nghỉ phép để đi B, mẹ Thắng cứ dặn đi dặn lại: "Nếu gặp nhau, anh em che chở cho nhau". Sự việc như vậy sẽ nói sao đây với bà và họ hàng. Tôi chẳng biết nói gì để an ủi Quảng. Có lẽ bằng sự cố gắng trong công tác của mỗi người để có thể nguôi đi những điều mà ta tự thấy không hài lòng với chính bản thân mình.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:53:45 am
Tây nam Nông Sơn.

Trở lại Tí Xẻ vài ngày. Nhóm trinh sát của chúng tôi lại tiếp cận vào căn cứ Nông Sơn. Sườn núi phía đông nam lên Nông Sơn khá thoai thoải, lên đến gần hàng rào của địch có mỏm nhô ra. Độ cao của mỏm nhô ra quãng bình độ 200, dài chừng 200 mét, bề ngang 40 mét. Trên mặt nó không có cây cối, chỉ lưa thưa cỏ dại. Các sườn đông tây đều dốc đứng, lau lách mọc um tùm, dưới sâu có khe, cây rừng to hơn, rậm rạp hơn. Từ hàng rào ngoài cùng lên đến lô cốt đầu cầu, độ dốc lớn hơn, tạo ra một cấp núi cao hơn bình độ điểm nhô ra. Ngoài hàng rào, địch mới đào một con hào nông choèn. Từ trên căn cứ cũng có một đường mòn cắt ngang các lớp rào đi qua điểm nhô ra theo giông núi xuống ấp không người về phía khe Diễn. Từ hàng rào ngoài cùng đến lô cốt đầu cầu chỉ chừng 60 mét. Trên hướng này, địch bố trí 6 lớp rào, khoảng cách mỗi lớp chừng 5 mét, độ dốc hơi lớn nhưng vẫn có thể vận động nhanh được.


Phần điều tra các hướng của căn cứ Nông Sơn đã xong. Chúng tôi lại ngồi đài quan sát theo dõi địch trên căn cứ. Lúc này chúng vẫn củng cố công sự, không thấy từng toán lính đi vác gỗ ở điểm cao 322 về như trước nữa. Do hàng ngày lo công việc của mình nên tôi ít chú ý, quả thực để chuẩn bị cho trận đánh này, biết bao lực lượng được huy động, bao nhiêu cán bộ của Quân khu 5, Sư đoàn 2, các đơn vị tăng, pháo cao xạ 37ly, pháo 122 nòng dài, B.70 tên lửa của Bộ phải lặn lội khảo sát từng khúc sông, khe suối, những sình lầy, khu rừng rậm, những con đường, v.v... Đại đội trinh sát sư đoàn phải chia ra làm chục nhóm, mũi để chuẩn bị cho trận đánh này - một trận đánh sức mạnh, chắc thắng mà những cán bộ cấp thấp như chúng tôi khó mà cảm nhận được đầy đủ. Bản báo cáo được anh Đồng, trợ lý Ban 2 tổng hợp viết, tôi không thể quên các nội dung sau:

- Căn cứ Nông Sơn nằm trên độ cao 275 mét. Căn cứ do Mỹ xây dựng từ năm 1958, Hệ thống công sự chiến đấu được xây dựng ngầm bằng bê tông cốt thép, các lô cốt là bê tông đúc sẵn. Từ năm 1970 đến nay, căn cứ này được Mỹ bàn giao cho tiểu đoàn 69 biệt động quân chốt giữ.


Nông Sơn nằm trong vùng bán sơn địa hiểm trở. Con sông Thu Bồn ôm trọn phía nam, đông và đông bắc căn cứ rồi chảy về phía bắc, hợp với sông Vu Gia đổ ra cửa Hội An, Đà Nẵng. Sát bờ sông, dưới chân Nông Sơn là các ấp Bình Khương, Đại Thái Bình các ấp này hầu hết là gia đình binh sĩ, do tề ngụy kiểm soát. Bờ hữu sông Thu Bồn dưới chân núi Cà Tang cao trên 400 mét là khu dân cư tập trung Trung Phước. Trên đỉnh Cà Tang có một trung đội địch chốt giữ. Xuôi dòng nước là huyện Duy Xuyên, xã Vĩnh Trinh tiếp đến An Hòa, Đức Dục. Đây là khu vực địch hết sức coi trọng xây dựng chính quyền cơ sở. Toàn khu có 7 mâm tề xã. Lực lượng bảo an, dân phòng được lập ra bố trí ở các xã ấp, tạo ra vành đai vững chắc để bảo vệ phía tây nam thành phố Đà Nẵng. Hoạt động của du kích ở đây hạn chế. Cơ sở nằm vùng không hoạt động được, dân cư khu vực Nông Sơn, Trung Phước ước khoảng 17 ngàn người.


Địa hình phía tây Nông Sơn là rừng già, nối liền với dãy núi có điểm cao 322 là một yên ngựa. Sườn tây cứ điểm Nông Sơn dốc dựng đứng. Sườn đông, đoạn từ sau ấp Khương Bình đến bình độ 200 khá dốc. Từ bình độ 200 đến căn cứ khá bằng phẳng có chiều dài gần 800 mét thì gặp một con đường nhựa đi vào cổng căn cứ. Trên hình độ 200 khi tấn công địch, ta có thể triển khai hỏa lực đi cùng. Hướng này súng bắn thẳng chỉ phá hủy được lô cốt, nhà cửa ở phía đông căn cứ. Sườn tây nam dốc thoải đều lên đến đỉnh căn cứ. Các mỏm nhô ra ở phía bắc, nam đều nằm ngoài hàng rào.


Các điểm nhô ra đều là đồi trọc, cỏ cây thưa thớt. Xung quanh sườn của các mỏm nhô ra có thể ém quân chuẩn bị xuất phát tấn công được, vì đều cách hàng rào ngoài cùng của căn cứ từ 200 đến 800 mét. Trên mặt bằng các điểm nhô ra có thể đặt các trận địa cối hay ĐKZ. Các thung, khe phía tây bắc, đông bắc, đông nam và tây nam đều có thể chọn được vị trí ém quân hoàn toàn bí mật kể cả ban ngày. Hàng rào căn cứ ở phía bắc và tây nam phải bí mật dùng thuốc nổ để mở cửa, hàng rào phía đông có thể cắt dỡ mở cửa.


Sông Thu Bồn, mùa khô nhiều đoạn khu vực Tí Xé lội bộ được, ngập ngang ngực. Khe Diễn trừ mùa mưa có lũ còn quanh năm nước chỉ trên dưới 1 mét. Trên các quả đồi phía tây nam - nam căn cứ, các làng bỏ trống có thể tập kết bộ đội và bố trí hỏa lực của trên.


Chiều ngày 15 tháng 7 năm 1974 tôi lên đài quan sát. Tại đây, thủ trưởng Nã giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị thuộc quyền, tôi vẫn nhớ rõ mệnh lệnh chiến đấu của sư đoàn:

- Hướng tấn công chủ yếu do Tiểu đoàn 9 Sư đoàn 31 đảm nhiệm. Lực lượng của tiểu đoàn công binh, được tăng cường trung đội ĐKZ-75 và cối 82. Có nhiệm vụ chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công khu vực bình độ 200, tấn công vào các lô cốt đầu cầu đông căn cứ, nhanh chóng đánh chiếm chỉ huy sở và khu thông tin địch, bắt liên lạc với mũi thứ yếu 1 ở trận địa pháo địch và tiểu đoàn 8 ở phía bắc đánh lên. Khi hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ trận địa thì rút về Tí Lở theo hướng tây nam Nông Sơn.   

- Hướng tấn công thứ yếu 1, sẵn sàng là chủ yếu "khi Tiểu đoàn 9 gặp khó khăn. Do Tiểu đoàn 7 đảm nhiệm. Lực lượng là toàn bộ tiểu đoàn được tăng cường trung đội công binh, mìn ĐH-10 và rồng lửa (nếu cần) chiếm lĩnh trận địa pháo, hỗ trợ cho các hướng, chủ động bắt liên lạc với các hướng khác, khi làm chủ trận địa rút theo đội hình của Tiểu đoàn 9.

- Hướng tấn công thứ yếu 2, do Tiểu đoàn 8 (thiếu Tiểu đoàn 9) chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công ở trận địa pháo cũ, phía bắc Nông Sơn. Tấn công vào bắc căn cứ, phát triển tiêu diệt địch ở phía bắc căn cứ, bắt liên lạc với các hướng ở sở chỉ huy và trận địa pháo. Khi làm chủ trận địa, tổ chức chốt, tảo trừ địch ẩn nấp, bắt tù binh, thu vũ khí, tài liệu, củng cố trận địa, công sự đánh địch, đề phòng phi pháo. Rút khỏi căn cứ khi có lệnh của sư đoàn.


Hỏa lực quân khu:

- Cối 120ly đặt ở phía tây ấp không người, phía bắc khe Diễn cách đỉnh Nông Sơn 1.500 mét bắn theo mệnh lệnh của sư đoàn.

- Hai trận địa cao xạ 37ly bố trí trên điểm cao 558 có nhiệm vụ bắn tất cả các loại máy bay của địch bay trong khu vực, bảo vệ các trận địa hỏa lực.

- Hai đại đội pháo 85 nòng dài đặt tại đồi Không Tên hữu ngạn sông Thu Bồn cách Nông Sơn 1.200 mét, bắn vào các mục tiêu đã chuẩn bị trong căn cứ và theo lệnh của sư đoàn khi cần thiết.

- Đại đội hỏa tiễn điều khiển B72, bố trí tại đồi lớn phía tây bắc đồi Không Tên, cách Nông Sơn 1.200 mét bắn các mục tiêu cơ động trên căn cứ và dưới sông Thu Bồn.

- Các đơn vị tăng trong ngày N vẫn ở tại nơi tập kết chỉ có lệnh mới xuất phát.

- Yêu cầu các đơn vị hỏa lực trong biên chế của Sư đoàn 31, của trung đoàn và quân khu, phải chiếm lĩnh trận địa đúng các vị trí và cự ly đã quy định. Làm tốt công sự đảm bảo chiến đấu thời gian dài. Xạ kích phải chính xác không cho phép các trái nổ rơi ra phía ngoài hàng rào căn cứ.

- Thông tin liên lạc phải thông suốt giữa chỉ huy sư đoàn với các trận địa hỏa lực của trên và chỉ huy Sư đoàn 31, chỉ huy hướng chủ yếu và thứ yếu 1.

- Hiệu lệnh nổ mìn phá rào cho hai hướng thứ yếu là 0 giờ ngày N. Khi đặc công nổ mìn đánh Cà Tang.

- Đúng ngày N-2, hướng thứ yếu 1 phải bí mật tập kết bộ phận mở cửa đánh chiếm đầu cầu, nơi tập kết là khe Hội Thủy của hai sườn núi tây nam và tây căn cứ Nông Sơn.

- Trên các hướng khác, trước 24 giờ ngày N-1 chiếm lĩnh an toàn vào trận địa xuất phát tấn công sẵn sàng chiến đấu. Chú ý đào công sự để tránh phi pháo.

- Các trận địa hỏa lực chỉ nổ súng khi có lệnh.

- Bộ binh các hướng xung phong, lúc pháo ngừng bắn 17 giờ ngày N.

Mọi người nghe mệnh lệnh im như thóc. Khi thủ trưởng dừng lời mới ồn ào hẳn lên không có ai hỏi gì về nhiệm vụ. Chỉ có tiếng xuýt xoa vui vẻ, tin tưởng vì một trận đánh theo mọi người thì chủ yếu là hỏa lực.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:54:36 am
17 giờ ngày 16 tháng 7 năm 1974 tôi và Trung đi khỏi sở chỉ huy của sư đoàn về phía bắc núi Dùi Chiêng. Tiểu đoàn 7 đã ém quân ở khu vực này. Vài cậu bộ binh phàn nàn cơm khê không thèm ăn. Nhân đó tôi bắt chuyện với cánh lính, họ nêu ra nhiều thứ cần kiêng trước khi ra trận. Nào là: không ăn thịt chó, cơm khê cháy... Theo các cậu ấy "có kiêng có lành". Họ còn nêu một lô xích xông các sự việc để chứng minh. Lúc này tôi mới biết thêm các khía cạnh tinh thần sâu xa của người lính. Nơi mà anh em đã chứng kiến nhiều lần hơn những cái chết của đồng đội. Theo các anh là rất nhiều kiểu cách đem đến cái 1 chết. Phụ trách bộ phận khi làm nhiệm vụ mở cửa hướng tây nam là anh Hưng, tiểu đoàn phó. Anh Quang Trung, trung đội trưởng công binh. Một tiểu đội bộ binh, ba công binh, hai trinh sát sư đoàn và gần một tiểu đội trinh sát tiểu đoàn. Trinh sát tiểu đoàn cậu tiểu đội trưởng tên là Thiệu. Bộ phận công binh đem theo hai quả mìn ĐH-10: một trái 30kg và một trái 10kg. Sức thổi của nó rất mạnh, có thể dọn sạch hàng rào từ 10 đến 40 mét. Các quả mìn được đóng vào một giá gỗ thật chắc chắn. Cái giá có hai chân và một cây chống để cơ động khi đặt định hướng thổi mục tiêu. Hai chiến sĩ công binh được đặc trách mang vác bảo quản mìn.


Đoàn hơn 10 người. Khi trời tối hẳn, theo lối đi quen thuộc, tôi dẫn anh em vượt qua ấp không người rồi rẽ vào khe núi, theo khe này đi lên sườn tây của mỏm nhô ra. Đoàn dừng lại ở khe mọc dày cây cối, che kín mít lòng khe. Đoạn này trên cao có nhiều tảng đá lớn chồng xếp chen nhau tạo ra nhiều hang hốc nhưng không có tý nước nào. Đêm 16 qua đi - nhanh chóng. Chúng tôi ăn cơm vắt và muối rang chờ 1 đến tối 17 mới tiếp cận hàng rào địch để đặt mìn chờ giờ mở cửa. Chỗ chúng tôi nằm suốt một ngày dưới khe này chỉ cách địch chừng 200 mét.


Sáng ngày 17 lớp sương mù mỏng biến mất, ánh nắng mặt trời buổi sáng còn khuất sườn núi chưa soi được vào chúng tôi. Về trưa, mặt đất mỏm nhô ra được đốt nóng dần lên. Mặt trời giội lửa xuống đỉnh đầu. Tuy cây cối che khuất không có giọt nắng nào nhưng không khí và mặt đất đều bị đốt nóng. Không khí oi nồng. Bi đông nước của tôi đã hết. Uống ít nước như tôi mà đã hết nước rồi thì những chàng "nhái" sẽ gay go lắm đây. Tôi bỗng thấy nóng lên hầm hập, cái nóng của người ốm. Tôi lo lắng, nếu sốt thì nguy. Tôi mệt quá, lăn ra không còn quan tâm gì đến tình hình xung quanh. Mọi việc anh Hưng phải lo toan xoay xở. Tôi nghe văng vẳng tiếng phành phạch của trực thăng lượn đi lượn lại không phải ầm ĩ suốt mấy tiếng đồng hồ, đến quãng 15 giờ thì im hẳn. Anh Hưng căng thẳng theo dõi địch. Địch đổ thêm quân xuống Nông Sơn, không biết vì lý do gì. Ai cũng lo lắng. Anh Hưng đi đến từng người nhắc nấp kín, chú ý không để cháy nổ, cấm hút thuốc, sẵn sàng chiến đấu, v.v...


Cơn sốt kéo dài hành hạ, không đi đái, không còn mồ hôi mà cũng lạ chỉ sốt không có cơn rét run, gần tháng nay do thức đêm nhiều, nhiều đêm thức trắng, ngày lại đi quan sát trên đài nên tôi hầu như không ngủ. Cả năm 1973 cứ đi công tác thì không sao, hễ nghỉ ở đơn vị là lên cơn sốt, nay mới tạm ở đây, đã phải nghỉ ngơi đâu mà đã phản ứng thế này, có cơ hỏng việc mất. Chết cái hướng này cậu Trung chưa đi nên không thể để cậu ta tự xoay xở được. Trinh sát tiểu đoàn và anh Hưng đều trông cả vào mình. Nghĩ thế, tôi bảo Trung: Đừng nói với lão Hưng là tớ sốt nhé. Trung lo lắng mấp máy:

- Địch đổ quân thêm anh ạ! Không biết có phải bị lộ không?

Tôi càu nhàu:

- Đổ thêm xuống chỉ tăng thêm xác chết chứ làm được cái đếch gì! Thôi, theo dõi địch đi, cậu bảo anh Hưng là tớ đang ngủ.

Tôi đã ngủ được một giấc thực sự. Khi có ngươi lay gọi dậy, nhìn Hưng có lẽ anh hơi cười. Anh lắc đầu nói với tôi:

- Lính tớ mấy đứa bị xỉu đi vì khát nước. Chắc đêm nay bộ đội lên mới có nước uống.

19 giờ ngày 17, anh Hưng kiểm tra từng người để tiếp tục xuất phát. Khí trời buổi tối dịu hẳn đi. Khi lên khỏi khe, có gió thổi từ sông lên, hơi nước mát lạnh làm người như khỏe ra. Tôi cắt cơn sốt từ lúc còn đang ngủ nên bây giờ cố được. Riêng cơn khát cũng tự giác lui đi. Chỉ có đôi môi khô dính vào nhau. Nước miếng quánh lại. Tôi dẫn đoàn xung kích bò lên sườn dốc, đến độ phẳng của mỏm nhô ra thì phát hiện địch đã triển khai lực lượng trên mỏm. Tôi suy nghĩ: nếu chỉ do có thêm một đơn vị mới xuống, chúng phải tạm thời nằm đây thì may. Trường hợp bị lộ thì nguy hiểm lắm. Tôi và Trung quay lại chỗ Hưng ngồi báo cáo sự việc. Hưng suy nghĩ một lúc rồi do dự nêu ý kiến:

- Hay là ta bố trí mìn thổi tại đây để diệt bọn địch này? Vì nó án ngữ lối ta vào hàng rào rồi.

Tôi băn khoăn nêu câu hỏi:

- Còn phá rào?

Hưng nói vẻ thiếu kiên quyết:

- Dùng bộc phá đánh liên tục.

Tôi không tán thành nói: Anh Hưng và bộ phận ở lại, Trung sẽ dẫn anh lên đặt quả mìn 10kg để diệt bọn địch nống ra. Tôi sẽ dẫn anh Quang, cậu Thiệu đem quả ĐH-10 30kg vào đặt ở hàng rào. Anh nhớ khi đến giờ nổ súng để chúng tôi cho nổ mìn trước.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:55:14 am
Bị bất ngờ vì ý kiến đề xuất như một mệnh lệnh, anh Hưng gật đầu đẩy cậu Quang về phía tôi.

Tôi xách súng đi trước vòng xuống phía đông mỏm nhô ra. Quang đeo mìn như con rùa đi ở giữa, cậu Thiệu đi sau. Đã mấy lần vào đây tôi rất rõ địa hình. Nếu đi trên mặt bằng của mỏm nhô ra từ chỗ Hưng ngồi đến hàng rào chỉ mất mấy phút, đi vòng sườn gần mỏm quá e gạt bẻ lau lách gây tiếng động, địch thì chả rõ bố trí thế nào dễ bị lộ lắm. Tôi chọn đi vòng hơi sâu xuống sườn núi vì thời gian còn hơn hai tiếng nữa mới đến giờ nổ súng. Nghĩ sao làm vậy, đoạn đường hơn 200 mét thẳng, vòng vèo thì cũng chỉ thêm 100 mét nửa. Thế mà ngốn gần hai giờ đồng hồ. Vì sườn dốc quá, lại phải rẽ cây mà đi, có quãng cõng quả mìn cồng kềnh không thể chui như chồn, cáo được. Tôi nhanh chóng bò lên đoạn hào. May quá địch không nằm sát hàng rào. Có lẽ chỉ có một tổ địch ở phía ngoài gần chỗ anh Hưng mà thôi. Tôi làm hiệu để anh Quang và cậu Thiệu vào. Tôi đẩy Thiệu sang bên trái cảnh giới. Anh Quang nhanh chóng đặt giá mìn ngắm hướng tầm để quả mìn thổi được hàng rào đặt theo sườn núi, tầm của chiều thổi là tà dương nên quả mìn phải ngửa ra phía sau. Xong việc tôi và Quang lui về chỗ nấp để chờ điểm hỏa. Cậu Thiệu từ hào vượt theo sau bọn tôi. Tôi thấy hắn vội vã, sợ hắn đá vào dây điện kéo bật khỏi kíp nổ thì gay, tôi vỗ vai Quang lên kiểm tra lại ngay. Vừa nằm xuống thì đồn Cà Tang một chóp lửa sáng lóe, tiếp sau một tiếng nổ ầm, Quang điểm hỏa, một chớp lửa nhoàng trước mặt tôi. Tiếng nổ đanh chói óc, đất đá tung lên ào ào. Phía sau quả mìn của anh Hưng cũng phát nổ. Vài tiếng kêu oai oái rồi im bặt. Tôi dẫn Quang và Thiệu men theo gần đỉnh đồi đi ra nên rất nhanh. Trên Nông Sơn chỉ có một tiếng hỏi "Có can chi không”, không có tiếng một người nào nữa. Tôi chia tay anh Hưng. Anh đang bận hướng dẫn cho các tốp bộ binh của tiểu đoàn vừa tiếp cận vị trí nhanh chóng đào hố cá nhân để chiến đấu và tránh phi pháo. Anh nói: "Cậu Trung đang chờ ở dưới dốc". Tôi mệt mỏi lững thững theo con đường mòn đến nơi Trung đang ngồi. Thấy tôi đến hắn mừng rỡ nói như reo:

- Chờ anh lâu quá!

Không nói gì thêm, hai đứa lần theo đường mòn xuống núi, lội theo khe Diễn uống vài ngụm nước mát ruột rồi đi vào làng cũ có cây cối tre pheo rậm rạp, có hào chiến đấu và hầm tránh bom đạn. Đây là khu vực có bố trí trận địa cối 160ly. Thấy một chiếc võng có người nằm, tôi bảo sao chủ quan treo võng thế này, thấy anh ta làm thinh, tôi cố đập vào anh ta vài cái nữa nhưng anh ta chẳng thèm nhúc nhích. Đắn đo một tý tôi cũng chủ quan như anh ta mắc một đầu võng chung, còn đầu kia vào một cây khác, bảo Trung ngủ một tý đã. Trung thận trọng hơn, cậu ta rải ni lông ra nằm ngủ dưới hầm. Nửa đêm, tôi bỗng nghe tiếng người láo nháo ở đầu võng:

- Một, sao đây lại hai?

- Không biết! Ta cứ khiêng một đi, rồi báo cáo để cặp khác đến mang đi.

Tôi chẳng rõ đầu cua tai nheo gì, bèn mở võng ngồi dậy. Một anh chàng gầy đét há hốc miệng nhìn tôi chỉ kêu được ớ ớ... mãi mới nói ”Còn sống". Tôi phì cười, còn lâu mới chết nhá. Tôi chỉ, thằng cha nào đây khinh người quá, ngủ y như chết.


Hai anh lính cáng thương nhìn nhau rồi cùng sờ, tay mở mép võng ra, cùng kêu lên: "Đúng rồi". Tôi không hiểu vội đứng dậy ngó vào thì ra đó là một tử sĩ.

- Chúng tớ đến để khiêng anh bạn này. Hôm qua bị mấy bố công binh bắn nhầm đấy. Lính tráng kiểu quái gì, vừa hỏi mật khẩu vừa bóp cò thì bố ai kịp trả lời.

Tôi chợt nghĩ đến trường hợp của Quảng cũng như thế. Thật buồn quá.

Tôi và Trung đi luôn về đài quan sát, nơi đặt chỉ huy sở. Các nhóm trinh sát đều chia đi các hướng, có lẽ tập kết về đâu đó. Lúc này thấy đói cồn cào, quên khuấy đi mất, suốt từ buổi tối gượng gạo ăn bát cơm khê, hôm 16 đến giờ chưa có thêm hạt cơm vào bụng. Lần mò kiếm lương khô của mấy cậu thông tin, ăn nhanh như máy nghiền, bụi lương khô xộc lên mũi ho sặc sụa. Ăn đã chắc dạ nhưng không thể nào ngủ được, đành ngồi chờ trời sáng. Đúng 5 giờ ngày 18 tháng 4 năm 1974, những tiếng nổ đầu nòng để pa của pháo cối ta từ các phía liên tục phát ra thì trên căn cứ Nông Sơn bắt đầu rung lên bần bật bởi những trái pháo cối nổ liên hồi, những chớp lửa, những đụn khói làm cả bề mặt của căn cứ chìm đi nhợt nhạt. Pháo bắn liên hồi và trúng đích, dường như sau ít phút cấp tập, pháo ta bắn giảm nhịp độ hơn nhưng hầu như không có một phút nào im tiếng nổ. Cuộc pháo kích kéo dài suốt cả ngày. Đến tận 17 giờ pháo ngừng bắn, khi hỏa lực ngừng là lúc các hướng bộ binh xung phong, ở hướng tây nam nhìn rõ bộ binh ta hàng một chạy băng băng qua khu vực hàng rào, vài đồng chí đã lên đến lô cốt đầu cầu, bỗng thấy một vầng lửa bùng và tiếng nổ lớn, mấy chiến sĩ chạy lên trước chìm đi trong khỏi lửa. Sau tiếng nổ, bộ binh ở hướng này vẫn xông vào căn cứ không thấy có sư kháng cự nào của địch, ở phía đông, nơi bình độ 200 thấy có một tốp bộ binh phải giạt sang sườn nam của bình độ 200. Rõ ràng từ cổng vào căn cứ địch có ổ đề kháng, súng bắn thẳng nên bộ binh, không thể vận động trên đỉnh giông được, nhưng hiện tượng đó xảy ra không lâu, lại thấy anh em xông lên như nước chảy. Hình như toàn bộ lực lượng địch đã bị tiêu diệt, trên căn cứ không còn một ổ đề kháng nào. Nhìn lên Nông Sơn, bóng người thưa dần, từng tốp bộ đội đang theo hướng tây nam rút về nơi tập kết theo quy định chứng tỏ ta hoàn toàn làm chủ. Một số cán bộ địch vận được phái đến khu vực Nông Sơn. Các đơn vị bộ binh của Sư đoàn 1 cũng nhanh chóng làm chủ các khu vực ấp Khương Bình, Đại Thái Bình, khu dân cư Trung Phước. Khu vực Cà Tang cũng hoàn toàn được giải phóng. Khoảng 20 giờ, chúng tôi đến ấp Khương Bình, thấy các đội công tác của địa phương đang gọi loa vận động các gia đình cùng kêu gọi binh sĩ ngụy ra hàng quân giải phóng. Tiếng hú gọi người thân: "Anh ơi... Con ơi... Ba ơi..." vang động các vách núi, bờ sông. Đến 22 giờ, theo thống kê của du kích đã có gần 400 tên ra hàng. Như vậy, hai tiểu đoàn đóng trên núi Nông Sơn đã bị diệt gọn. Chủ yếu bị bắt, một số bảo an ở các ấp thấy hỏa lực ta bắn suốt ngày sợ phát khiếp chẳng hề chống cự. Theo số lượng địch ra hàng thì số bị sát thương chủ yếu lúc pháo cấp tập ban đầu, còn sau này chúng chui hết xuống địa đạo nằm nghe tiếng nổ mà phát khiếp, hầu như không còn ý chí để kháng cự, trừ có một tổ để kháng ở hướng đông, nó cũng nhanh chóng bị ĐKZ diệt ngay. Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước thật vang dội, làm sạch địch ở bờ tây sông Thu Bồn tỉnh Quảng Nam, giải phóng 17.000 dân. Lực lượng ta thương vong ít. Địch bị bắt gần như toàn bộ. Một trận đánh hợp đồng binh hỏa lực tuyệt đẹp làm cho bọn địch ở An Hòa, Đức Dục phải kinh hồn khiếp vía. Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước đóng góp một chiến công vào chuỗi chiến công liên tiếp của quân giải phóng khắp vùng, miền, chiến trường miền Nam năm 1974, để chuẩn bị cho những chiến thắng lớn năm 1975.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:56:32 am
Sáng ngày 19 tháng 7, tôi và Trung leo lên đỉnh đồn Nông Sơn. Cái căn cứ mà trước đây tôi phải mò mẫm trong đêm tối như chồn, cáo để tìm hiểu nó từ ba hướng và đã phải chứng kiến nhiều đồng đội ngã xuống. Nay được ngạo nghễ đứng trên đỉnh căn cứ giữa ban ngày, được đón gió trời lồng lộng trong nắng ấm ban mai. Thấy rất đỗi tự hào.


Nhìn ra xa bên sông Thu Bồn là khu An Hoà, Đức Dục. Xa hơn là thành phố Đà Nẵng, một khu liên hợp quân sự của Mỹ - ngụy. Nơi đó vẫn còn hàng vạn đồng bào vẫn bị kìm kẹp dưới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, sự tồn tại của nó chính là lý do để chúng tôi tiếp tục chiến đấu.


Trong im lặng, nhìn cảnh đổ nát hoang tàn của căn cứ địch. Nơi một trận địa pháo bao nhiêu năm trời không ngừng việc gây ra những cảnh đổ máu cho nhân dân các xã vùng Sơn Phúc, Sơn Ninh, Sơn Phước, cho dân lành và khách bộ hành qua sông Tí Lở, Tí Bồi.


Nhìn xuống ấp Trung Phước, nơi bến sông, tôi bất giác nhớ đến bài thơ của một chiến sĩ miền Nam tập kết in trên những trang sách học trò:

Đò Trung Phước quay đi
Chị đứng hoài trên bến

Thế mà đã gần hai mươi năm rồi vùng này mới được giải thoát khỏi cảnh:

Giờ đây quân Mỹ, Diệm
Giết hại đồng bào ta...

Không rõ anh chiến sĩ ấy và người chị gái đó hôm nay họ ở đâu. Họ có được hưởng cái cảm giác hạnh phúc khi quê hương được giải phóng hay không? Niềm hứng khởi suy tư làm tôi quên cả ý thức địch tình, khi Trung đến nói ở phía kia anh em mình vừa lôi lên một tên ngụy, hắn bị điếc đặc, sợ đến nỗi không nói được, chân tay run như cầy sấy. Tôi và Trung về ấp, qua sông về đơn vị. Trung làm dân vận lúc nào không rõ mà được bà con tặng cho một gùi quýt. Những trái quýt tròn nhỏ như bóng đèn, vỏ xanh lét, những múi vàng mọng nước, ngọt lịm. Chúng tôi đi về nơi tập kết mới của đại đội ở chân phía nam núi Chúa. Đơn vị chuẩn bị để bước vào rút kinh nghiệm, bình công đợt công tác phục vụ chiến dịch, cả đại đội mọi người đều an toàn.


Tôi không dự sinh hoạt ở đơn vị được vì đi công tác gấp. Thế là một hướng mới sư đoàn sẽ tác chiến lại được chuẩn bị. Địa bàn hoạt động của chúng tôi ở nam Duy Xuyên, đây là khu vực rộng lớn gồm: núi Chúa ở phía nam, Kỳ Vĩ ở phía đông, Văn Chỉ ở phía tây; phía bắc là An Hòa, Đức Dục - thành phố Đà Nẵng. Địa điểm này Sư đoàn 304 của đồng chí Hoàng Đan đang đánh quận lỵ Thượng Đức, thời gian kéo dài từ ngày 16 tháng 7 đến nay đã hơn một tuần mà chưa thể dứt điểm được. Các trung đoàn bộ binh gặp khó khăn. Địch ở quân khu 1 tập trung lo đối phó Thượng Đức.


Sau khi mất Nông Sơn, địch tập trung lực lượng về phòng thủ sườn đông nam Đức Dục, nơi mà chúng cho rằng quân giải phóng sẽ chọn làm hướng chủ yếu tấn công vào quận lỵ, vì phía tây bắc có con sông Thu Bồn che chắn, khu vực bờ hữu sông đồng ruộng bằng phẳng, rất khó cho việc triển khai binh hỏa lực của quân giải phóng.


Hiểu được vị trí của khu vực Kỳ Vĩ và Văn Chỉ, ta và địch giành giữ rất quyết liệt. Khi địch đưa lực lượng lên chốt Văn Chỉ, chúng thường xuyên dùng phi cơ và pháo binh oanh tạc. Nhiều mỏm đá trên Văn Chỉ đã biến thành vôi do đạn rốc-két từ những chiếc trực thăng bắn xuống. Từ Văn Chỉ nhìn tà âm xuống quận lỵ Đức Dục nên địch cố sống cố chết để giữ điểm cao này. Làm nhiệm vụ ở đây trinh sát chủ yếu đi địa hình, theo dõi các hoạt động, các cuộc hành quân dã ngoại của địch, đột nhập do các toán trinh sát khác. Chúng tôi được khuyên khích nếu bắt được tù binh thì tích cực tận dụng để khai thác thêm về tình hình địch. Một đơn vị đã tóm được một tù binh nhưng tên lính này không hiểu biết mấy về tình hình. Hình như lính ngụy chỉ được huấn luyện để bắn súng, ném lựu đạn và chấp hành lệnh chỉ huy trực tiếp. Nói chung, hắn chỉ biết hàng tháng có quyền nhận 18.000 đồng lương (2.000đ/1 tạ gạo) tên lính ngụy khai rằng:

- Em bị bắt lần thứ ba. Em chỉ biết bắn súng và nhận lương vì không biết làm gì để sống và nuôi sáu người trong nhà.

Trả lời câu hỏi của bộ đội đã bắn giết nhiều du kích và dân chưa, hắn nói rất tự nhiên:

- Hổng có! Em là lính bảo an chỉ quanh quẩn ở quận.

- Không đi càn à?

- Có! Thường thì chúng em nổ súng từ xa để du kích tránh đi, để không phải đụng độ.

- Còn khi chốt giữ các mục tiêu? - Tôi hỏi.

- Chúng em nổ súng cho nhanh, để chóng hết đạn, hết đạn là có quyền được rút lui, không bị ra tòa án binh. Hắn ngừng giây lát, nói kể cũng lô gíc:

- Chúng em sợ chết, hoặc tàn phế, vợ con hổng ai lo nên ai cũng nghĩ làm thế nào để sống được, rất ít lính ham công danh.

Khi tôi hỏi: Tại sao hố chiến đấu và hào làm sơ sài thế? Hắn nói: "Chỉ huy chỉ cho đào vậy".

- Tại sao?

- Sợ hào sâu, hầm chắc lính trốn xuống tránh đạn hoặc ngồi lút đầu dưới mặt đất, súng chổng lên trời mà bóp cò thì không nhằm vào đối phương được...

Chúng tôi đã hiểu nguồn cội của những chiến hào nông choèn. Không phải chỉ do binh lính ngụy lười lao động, hay coi thường ta không có nhiều vũ khí sát thương mà còn có lý do buộc binh lính phải nhằm vào đối phương bắn. Quan điểm dùng hỏa lực làm áo giáp bảo vệ mình. Thảo nào lính địch không có cách thức bắn điểm xạ, chỉ thấy chúng kéo cò súng để đạn đi hàng loạt dài.


Quan điểm vũ khí luận chi phối quyết định yếu tố tinh thần của địch, sẽ làm cho chúng thật tốn kém và sẽ không tránh khỏi bị thất bại. Một quan điểm về chiến tranh như thế, một quân đội hầu hết những binh sĩ như binh sĩ quèn vừa khai thác, làm sao có thể đương đầu được với cách đánh mỗi viên đạn một quân thù như chúng ta được, thực ra từ khi đi chiến đấu, bản thân tôi chưa phải bắn một phát súng nào vào kẻ thù.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:57:22 am
Lúc này, trên toàn chiến trường miền Nam đã có các trận đánh, quân giải phóng giành thắng lợi lớn, giải phóng nhiều quận huyện, diệt nhiều sinh lực địch. Tinh thần chiến đấu của các cán bộ, chiến sĩ nâng lên rõ rệt, quyết tâm chiến đấu được củng cố, niềm tin vào thắng lợi được tăng lên, đơn vị tổ chức một đợt huấn luyện quân sự, tôi được phân công khoa mục võ thuật và đánh bắt tù binh. Tài liệu huấn luyện do Cục II - Bộ Tổng tham mưu biên soạn. Hai đồng chí trợ giáo là Lập và Viện. Lập và Viện được đi tập huấn hơn hai tháng ở quân khu với các nội dung kỹ thuật, công tác tham mưu chỉ huy. Các đồng chí Thùy, Thuần tham gia đội mẫu. Các đồng chí trợ giáo và đội mẫu hăng hái thực hiện các động tác thuần thục, đã tạo ra không khí hứng thú cho người học, nên kết quả huấn luyện rất tốt. Chính trong đợt huấn luyện này, cho tôi thời gian lâu hơn rất quý giá để nhận biết những đồng chí luôn ở lại hậu cứ nhưng chính họ đã góp phần thực sự to lớn vào việc xây dựng đời sống vật chất và tinh thần lành mạnh cho cả đơn vị mà anh Hà Huy Giáo là tiêu biểu.


Từ tháng 10 năm 1974 trên chiến trường miền Nam đã có thêm những chiến thắng lớn như: Đắc Pét, Sơn Hà, Bến Héc - Plây cần, Bình Long, Phước Long, v.v... Đại đội trinh sát lại được tung đi nhiều hướng để chuẩn bị chiến trường, tổ chức nào biết việc của mình một cách sơ lược dưới sự chỉ đạo của Ban 2.


Toán trinh sát chúng tôi do anh Đồng, trợ lý Ban 2 chỉ đạo. Anh là người Tam Kỳ - bộ đội tập kết, được đào tạo trinh sát tại Trường Sĩ quan Lục quân 1. Anh trở lại chiến trường từ năm 1965. Anh Đồng quả là vui nhộn, hay nói lái, kiểu nói lái miền Nam đảo chữ của các từ ghép. Tôi không bắt chước được. Anh em hay nói đùa anh Đồng "già không đều". Con người anh về hình thức thì già trước tuổi. Anh đã một lần bị anh em bộ đội mình bắn nhầm vì anh đã hù anh em trinh sát bằng cách giả là địch. Anh đã phải trả giá cho cái tính vui đùa của mình là bị gãy một cánh tay cánh tay đã bị tật khoèo, mỗi khi có người hỏi tay anh tại sao vậy là mặt anh đỏ tía lên.


Anh Tròn đại đội phó là chỉ huy chung. Anh chàng người Thổ to béo này thật giản dị, chân thành, cực kỳ gương mẫu. Anh là người nói năng hà tiện nhưng làm việc thì thật cụ thể đến từng chi tiết nhỏ. Các lần đi chỉ huy điều tra căn cứ địch, hay bám địch dã ngoại, các anh bên ban đều biết việc anh hay tranh vị trí của chiến sĩ như: đi đầu trong các đêm tiềm nhập hay chui rào. Anh không bao giờ cãi lại. Vâng, dạ nhưng rồi anh vẫn không sửa được cái "ưu điểm" hơi quá mức cần thiết ấy. Tôi đồng ý với anh vì thấy các tổ đi công tác với anh đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và quan trọng hơn cả là không lần nào bị địch phục, vấp mìn, v.v... không có cán bộ, chiến sĩ bị thương vong. Chiến sĩ tin anh, có thể nói: "Em tin anh như vua tin vệ sĩ".


Khi ở đơn vị, anh là thợ săn số 1. Anh đã cùng đồng chí A Phủ người Mèo lặn lội trong rừng bắn được những chú lợn rừng hay mang về, tạo điều kiện để đơn vị luôn có các bữa ăn tươi. Năm nào anh cũng được bình chọn là chiến sĩ thi đua của đơn vị. Tổ có các chiến sĩ: anh Khoát, tiểu đội phó, người đảng viên tận tụy, thạo việc hậu cần; Trung trố, Thể, Dũng, Thảo. Trong số này trừ anh Khoát là lính cũ ở tiểu đoàn vận tải bổ sung về còn toàn bộ là dân đặc công khá về võ thuật. Địa bàn hoat động của tổ là huyện Phước Lâm, nơi đây không rõ ai từ bao giờ đã có câu: "Bà già cắt cổ đặc công". Anh Đồng giải thích câu đó bằng câu chuyện:

"Có ba chiến sĩ đặc công - năm 1968 đánh vào quận lỵ Phước Lâm, bị lạc vào một nhà dân, chỉ có một bà già. Bà ta nhận nuôi giấu nhưng đêm đến bà già định cắt cổ lính ta, nhưng do được phổ biến về tình hình dân ở đây chưa rõ gì về cách mạng và bộ đội. Họ hiểu ta như tội phạm, nên phải cảnh giác. Anh em mình không để bà cụ yếu ớt kia làm việc đó. Họ ngăn bà cụ hành động và giải thích cho cụ hiểu. Bà cụ đã giác ngộ nuôi giấu họ. Cả ba chiến sĩ đã trở về đơn vị an toàn. Câu chuyện thực đó đã được truyền tụng ở các đơn vị trong sư đoàn. Họ gọt giũa khái quát ngắn gọn nên chẳng ai hiểu được sự tình ra làm sao, thành ra chỉ còn một ý nhắc cán bộ cơ sở và chiến sĩ ta phải cảnh giác. Dân trong vùng giác ngộ cách mạng còn thấp kém. Cùng hoạt động với chúng tôi có tổ trinh sát của quân khu do anh Thanh, đại đội trưởng phụ trách. Các tổ viên có anh Thanh tiểu đội trưởng, anh Ngự và Nhừ là giáo viên võ thuật. Ngự và Nhừ to béo, khỏe như voi, ngoài ra còn mấy anh nữa tôi không nhớ hết tên.


Mấy ngày đầu ngồi đài quan sát, trời những tháng cuối năm nhưng ở vùng rừng núi này vẫn có những trận mưa rả rích. Đường mòn trong rừng đã mờ đi gần như mất lối, chứng tỏ đã từ lâu ít người đi lại. Những con vắt từ lớp lá mục ngẩng gần hết thân đế tìm cách bám vào chân tay các chiến sĩ. Anh Đồng đã nhắc từ trước, mỗi chúng tôi đã bôi thuốc chống vắt vào người nên hành quân an toàn tuyệt đối. Lũ vắt nâu, vắt xanh đành nhịn đói. Tôi, anh Khoát, Dũng trố ngồi trên một sườn điểm cao. Trước dãy núi này là ruộng rẫy của dân, đã đốt xong, nhiều chỗ đã dọn tương đối sạch. Cây cành đã được gom lại để chuẩn bị tỉa hạt. Phía đông đài là quận Phước Lâm. Từ quận có con đường nhựa chạy sang phía tây qua trước đài quan sát. Con đường nằm giữa thung lũng, tạo bởi dãy núi đài quan sát và dãy núi khá cao chạy song song với đường, toàn bộ sườn nam của nó áp sát đường là rẫy, dân đã tỉa ngô nhiều vụ. Nay đang để hoang. Trên dãy núi đối diện đài quan sát bên kia đường có một đại đội địch chốt giữ. Chạy về phía tây đến điểm con đường nhựa từ quận chạy vắt qua cũng có một trung đội địch chốt giữ. Mỏm núi đối diện bên này đường, địch lúc có lúc không. Trên con đường nhựa trước đài, hàng ngày cứ 7 giờ 30 phút có một tiểu đội ngụy hành quân từ quận Phước Lâm đến đồi Không Tên. Bọn này hôm thì lên phía đồi có một tiểu đội chốt, hôm thì sang mỏm đối diện. Chúng ở đó suốt cả ngày đến 16 giờ 30 phút thì hành quân trở lại quân lỵ. Toán địch này đi như vậy đã lâu chưa. Để làm gì? Sau hai ngày ngồi quan sát thấy hàng ngày dân đi làm đồng bình thường, đi về đúng giờ. Tốp lính đi về theo quy luật, thời gian, hai ngày liền không đổi. Các con đường mòn, khe suối không có gì nghi ngờ rằng có địch phục hay gài mìn, đặt bẫy. Đặc biệt dân ở đây không lên rừng khai thác lâm sản. Tất cả điều đó nói lên hoạt động của du kích xuống các khu dân cư, địch không nhiều nhưng hình như dân cũng có hiểu vùng núi do quân giải phóng kiểm soát nên việc lên các khu rừng phía nam đường hầu như không có. Địch chỉ chốt giữ an ninh trên các cao điểm phía bắc con đường.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 07:59:19 am
Sang ngày thứ ba, lúc 18 giờ tôi mới được giao phụ trách một tổ tiềm nhập qua đường nhựa lên điều tra trung đội địch chốt ở mỏm núi phía bắc đèo, nơi mà tốp địch tuần đường hầu như hôm nào cũng dừng ở đó. Tổ có anh Khoát và cậu Thảo. Theo đường mòn tôi dẫn anh em qua đường cái, lên núi rất nhanh chóng. Lên đến sườn phía đông nam của chốt địch, đội hình hành tiến giãn thưa ra. Vị trí này chúng phòng thủ rất sơ sài, vài đống cây cành do dân phát rẫy, được kéo tấp lên làm vật cản xung quanh đồn, loại rào rừng hươu, nai này chỉ khó cho chúng tôi, trinh sát phải bí mật chui vào, chui ra, còn với bộ binh thì họ đạp phứa lên, rào này ngăn sao được.


Tôi và anh Khoát ngồi xuống đống cây que hỗn độn ấy nhìn vào bên trong. Chẳng có một cái nhà bạt nào. Lô cốt không có, chỉ có mấy đụn bao cát tấp lại thành công sự chiến đấu. Các con hào nông choèn. Các tốp địch im như thóc, không thấy nói chuyện hoặc đi lại gì cả. Chúng ở thế này mấy ngày được thay thế. Ở đây chắc chắn không thể tắm táp gì được, hàng ngày không có xe tiếp tế gì bao giờ. Kể ra bọn lính ngụy này cũng khổ thật. Ngày dãi dầu nắng gió, đêm sương, lại còn phải xát thuốc chống muỗi, dĩn, vắt. Các loại thuốc làm cho da người ta đen sạm đi. Bọn địch có câu: "Da màu chiến trường, quân trường" là vậy. Tổ chúng tôi về đến cứ trời vừa sáng. Mục đích xác minh xem đêm địch có chốt lại đó không mà thôi. Tôi ghi lại chi tiết đoạn đường từ chỗ đài quan sát đến chốt của địch đi hết bao nhiêu giờ, từ chỗ có rừng ẩn nấp được đến đường nhựa cự ly bao nhiêu, v.v... Cả việc ý thức phòng thủ của địch cũng như tốp lính đi dường đều kém cảnh giác, kiểu ấy bị phục kích thì chỉ có ù té chạy. Đêm thứ tư tôi nghỉ lại ở lán. Tổ trinh sát quân khu không biết các đêm rồi đi đâu? Làm gì? Chỉ biết mọi người đến đây không thể chỉ ngồi trong lán của mình. Sáng sớm ngày thứ năm, anh Đồng gọi tôi đến. Anh nói: "Trinh sát quân khu hồi hôm vào điểm của địch bị lộ, một đồng chí không về. Cậu lên đài ngay, quan sát xem có hiện tượng gì lạ không? Chủ yếu là cái điểm có một đại đội địch chốt giữ ấy.


Tôi, anh Khoát và Thảo lên đài. Tôi không nói gì với hai người vì không được phép. Họ vẫn coi đó là việc bình thường. Tôi thì biết rất rõ anh Đồng và mọi người bây giờ sẽ dỡ bỏ lán đến một thung khe khác. Ấy là phương án đề phòng nếu anh em mình lọt vào tay giặc, có thể nơi tập kết của đoàn công tác bị lộ. Địch có thể tổ chức vây bắt hay oanh tạc gây sát thương cho ta. Quãng gần 8 giờ sáng, thấy căn cứ lâm thời của địch có vẻ nhốn nháo. Địch tụ tập đông. Trên đỉnh núi nhìn xuống sườn phía nam, bốn tên lính khiêng lên trước hàng quân một người, chính xác là đã chết. Chúng tìm kiếm gì đó một lúc rồi giải tán. Còn mấy tên đi xuống đoạn yên ngựa gần rẫy của dân đào hố. Chúng chôn người chết xuống đó. Sau đấy mọi việc trở lại bình thường. Tôi bảo Thảo chạy nhanh về nói với anh Đồng sự việc trông thấy. Tôi biết như vậy anh Đồng sẽ không di chuyển hậu cứ nữa. Khi Thảo đi rồi, tôi nói với anh Khoát người chúng chôn đó là đồng chí Ngự, trinh sát của quân khu vào đó hồi hôm không trở về. Chúng tôi ghi nhớ địa chỉ nơi địch chôn anh.


Bọn lính tuần đường vẫn đi như mọi khi, lẫn với dân đi chợ, đi làm. Có lẽ chúng không biết gì về việc có quân giải phóng đột nhập. Bọn địch lo ngại để binh sĩ biết sẽ hoang mang, dao động. Nhìn toán lính đi lại có quy luật này, tôi chợt hiểu ra nhiệm vụ của hai toán trinh sát Quân khu 5 và Sư đoàn 2 là nghiên cứu để đánh bắt tù binh địch. Đối tượng là một tên chỉ huy trong toán lính này để khai thác tình hình quận lỵ Phước Lâm. Các cụm địch trên các dãy núi này không phải là mục tiêu chính của hoạt động trinh sát và như vậy nơi sẽ có đánh lớn của ta sẽ là quận lỵ Phước Lâm, Khâm Đức. Ngày hôm sau khi anh Ngự hy sinh, anh Đồng dặn tôi ghi chép tỉ mỉ hơn về đội hình tiểu đội địch, số lượng, đội hình cự ly từng tên, thời gian đi về. Nói chung các chỉ số đó mấy ngày sau đều không đổi. Có buổi sáng có lúc chúng nhập vào dân đi trên đường. Những khi đó chúng mất cảnh giác nhất. Có tên địch treo súng vào đầu đòn gánh của dân. Có thể do đi lại như thế hết ngày này qua ngày khác chẳng có chuyện gì nên sinh ra bình thường hóa, bọn địch không cảnh giác gì nữa.


Tôi hiểu được ý định của Ban 2 là sẽ đánh bắt tù binh trong vài ba ngày tới. Thời gian bắt là ban ngày rồi, còn giờ nào thì chưa thể chắc chắn. Khoa mục đánh bắt tù binh trong đội hình hành tiến tôi đã hai lần huấn luyện cán bộ, chiến sĩ nhưng chưa một lần thực nghiệm. Theo địa hình này, việc bắt sống tù binh trong đội hình hành tiến ban ngày là khó thực hiện, vì lẽ ruộng rẫy trống trải, phía hai đầu dừng chân của địch đều là điểm có lực lượng bố phòng trong căn cứ lâm thời và vững chắc. Đoạn có khả năng thực hiện nhất thì được phát quang nằm trong tầm kiểm soát của hỏa lực bắn thẳng của địch ở điểm chốt đại đội và chốt trên đồi Không Tên.


Trường hợp ta bí mật ém sát đường từ ban đêm thì thật dễ dàng nhưng khi diễn ra cuộc đánh bắt thì cả người bắt lẫn tù binh đều sẽ bị hỏa lực địch trên các điểm cao tiêu diệt. Theo dõi toán địch này thêm một ngày sau nữa, tôi được trên gọi về nhận nhiệm vụ mới. Anh em ở lại tổ chức đánh bắt tù binh nhưng cuộc đánh bắt không thành công. Anh Nhừ là người chụp bắt tên tù binh đã bị hy sinh cùng với tên chỉ huy địch, chính do đạn đại liên trên căn cứ bắn xuống. Ta có thêm ba đồng chí bị thương, địch bị tiêu diệt hơn một nửa số đi trên đường.


Gần Tết, có một số anh em ở các tổ hy sinh như các anh Liêm, Đình, Điền. Anh Dần bị thương thủng bụng không còn khả năng chiến đấu tiếp nữa. Tôi nghỉ ngơi ít ngày để chuẩn bị đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua của sư đoàn, vẫn như mọi khi tôi lại được nghe các báo cáo điển hình về gương chiến đấu dũng cảm, tinh thần vượt khó, phục vụ quên mình; tinh thần sẵn sàng hy sinh cho chiến thắng của từng trận đánh. Những việc chiến sĩ ta đã làm, nhưng nếu con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường sẽ không thể làm nổi.


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 08:01:23 am
Tết năm 1975 ở hậu cứ khá bình yên. Hầu hết anh em các hướng đã trở về. Anh "Thái điếc" quản lý của đơn vị đang chuẩn bị cưới vợ. Anh Thái yêu chị Chạy, một chiến sĩ Đại đội 3 vận tải. Đơn vị đã đứng ra tổ chức lễ cưới cho anh chị thật đơn giản nhưng vui vẻ. Ai cũng nói câu: "Lính mà em".


Sau Tết ít ngày, tổ trinh sát lại ra đi. Các anh đi xuống các huyện phía nam của Quảng Nam khu vực Tam Kỳ, Phước Lâm còn tôi chưa được phân công nên cũng hơi buồn, ở nhà chơi với mấy anh em đau yếu.

Anh Dần kể lại trường hợp anh bị thương do địch phục. Anh đi đầu tiên nên dính không biết bao nhiêu viên bi của mìn Clây-mo. Điền, Liêm đi sau bị trúng vào ngực, vào đầu nên hy sinh ngay. Địch nghĩ cả nhóm đều chết nên chúng rút ngay không kiểm tra kỹ. Anh Tự chính trị viên phó hay gọi tôi lên uống nước. Cậu Trò liên lạc có giọng nói e é như con gái, được cái chịu khó cứ lục sục cả ngày, phục vụ xê Bộ thật chu đáo. Cậu ta làm việc thật kiên nhẫn. Tôi phàn nàn với anh Tự là có phải bị treo giò không? Ở Phước Lâm chuẩn bị bắt tù binh thì bị gọi về, mà việc theo dõi địch chỉ có tôi và anh Khoát thế mà... Anh Tự cắt lời: Việc gọi cậu về là do ý kiến của Phòng Chính trị sư đoàn đấy. Tớ chưa thể nói trước gì được... Anh có vẻ bí mật làm tôi hơi sốt ruột.

Anh lảng sang việc khác:

- À! Đánh Nông Sơn, Trung đoàn trưởng 31 đề nghị tặng Huân chương Chiến công hạng ba cho cậu. Tớ mới lên nhận hôm qua. Tiện thể các ông ấy đưa luôn cả giấy chứng nhận Huân chương Chiến công hạng ba do đồng chí Phó sư đoàn trưởng Long Châu Sa đề nghị khen khi phục vụ trinh sát núi Vàng năm 1972. Sau đó anh nói lan man một số chuyện khác về anh và quê hương anh. Anh Tự quê Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, nhập ngũ từ năm 1967 sức khỏe rất kém. Anh mới được đi học Trường Quân chính Quân khu năm kia. Năm ngoái được điều về làm chính trị viên phó. Lần đầu tiên tôi gặp anh khi anh dẫn một số trinh sát xuống Sơn Phúc bổ sung cho chúng tôi. Sau đó, tôi và anh trở về đại đội. Tôi đã quên mất cái chi tiết mà anh Tự cho là va chạm. Anh Tự kể: "Tớ gốc lính thông tin, việc chui đồn, đột điểm chưa hề làm nên lúng túng lắm. Việc tớ lúng túng không có nghĩa là sợ chết. Hôm ở Sơn Phước cậu hét làm tớ phát ớn. Nhưng tớ cũng phải thừa nhận cậu chẳng nể tớ là chính trị viên phó. Thực tình tớ rất cáu. Nhất là mấy cậu lính trân trân nhìn tớ như khiêu khích "Anh làm sao thế”, "Sao kém vậy?" nhưng lại thấy cậu hay hay. Sau này, mấy anh đại đội hay nói nhiều về cậu, nay mới có dịp tâm sự... Tôi nghe anh nói thấy ngượng, hơi đỏ mặt. Anh chẳng để ý đến thái độ của tôi. Nhược điểm của anh Tự là ở chỗ đó. Anh nói tiếp:

- Này! Anh em hình như họ nói câu "nguy hiểm chết người" khi nhìn thấy tớ là thế nào nhỉ?

Tôi chưa nghe thấy nên hỏi lại:

- Nhưng mà ai nói?

Anh lưỡng lự một lúc rồi nói:

- Mấy cậu dân Hải Phòng.

Tôi nhìn anh rồi phá lên cười. Anh có vẻ sửng sốt. Rồi anh trở lại vẻ băn khoăn. Tôi giải thích chẳng biết có trùng với ý của mấy cậu lính dân Hải Phòng không?

- Tại anh gầy quá, chân tay khẳng khiu, mặt thì hốc hác, mắt anh sâu quá, má anh tóp quá. Tóm lại, hình dáng anh cái gì cũng "quá" một tý.

- Thế thì đã sao? Liên quan gì đến "nguy hiểm chết người". - Anh cắt ngang đoạn mô tả của tôi.

- Anh không biết đâu, ở ngoài Bắc có các đường dây điện cao thế, tôi hơi do dự một tý tiếp: Người ta vẽ lên đó một chiếc đầu lâu có hai xương chéo nhau, phía dưới để "nguy hiểm chết người". Đó là biển báo nguy hiểm của ngành điện lực. - Tôi chờ xem anh cáu thế nào.

Anh yên lặng một lúc rồi nói như hỏi: ’’Đúng thế chứ?”. Tôi cũng nói không khẳng định lắm: "Chắc thế!". Anh có vẻ đỡ căng thẳng hơn một chút nói:

- Tớ lại cứ lo các cậu ấy nói mình thâm độc, là diện "nguy hiểm" nếu thế thì anh em nghĩ sai về tớ quá. Oan tớ quá. - Anh lại nói: "Cậu thấy ở cột điện ngoài ấy có thế thật à?".

Tôi cười: "Thật mà!”. Tôi đã hiểu về anh, coi trọng tâm hồn hơn thể xác. Anh bằng lòng với cách ví von tượng hình của các cậu Khôi, Bé là lính Hải Phòng. Tối đó anh Giáo từ Phòng Chính trị sư đoàn về nói oang oang: Mấy thằng khẩn trương làm cỗ tiễn chân cậu Chiến ra Bắc học, để phục vụ quân đội lâu dài. Anh Nhỡ trung đội trưởng cũng báo với tôi như vậy. Tối đó, mấy anh em ôm yếu và chỉ huy đại đội liên hoan, chúc tôi ngày mai lên đường. Đó là ngày 2 tháng 3 năm 1975. Anh Tự tặng tôi chiếc Album, bên trong ghi mấy dòng lưu niệm và tấm hình Bác Hồ. Tôi trân trọng nhận món quà của anh Tự và cảm ơn anh. Anh Giáo và các anh em khác ghi những dòng chữ chân thành vào các miếng giấy nhỏ mà anh Tự đã cắt bỏ vào chiếc túi bên trong. Anh Thái tặng tôi một khăn voan và gửi ba chiếc cho em gái Nguyễn Thu Dương ở chợ Cồn - Hải Hậu. Lên sư đoàn, anh Tru đại đội trưởng cũ, nay là trợ lý Ban 2 gửi tôi đem giùm về cho vợ anh ở xã Nhuê Khúc, thị xã Phúc Yên. Anh Thi trợ lý Ban 3 thông tin nhờ tôi đem về cho vợ anh ở làng Huệ Trì xã An Phụ, huyện Kim Môn, Hải Dương. Quà các anh gửi đều là rađio Nationna 3 pin. Anh Đồng trợ lý ban tặng tôi chiếc đài Phi-lip loại 9V nhưng tôi không nhận, nói để các anh dùng nghe tin tức.


Tôi sang Phòng Chính trị. Đồng chí trưởng ban cán bộ đọc cho tôi nghe đoạn nhận xét. Tôi biết ơn và ghi nhận những đánh giá của trên đối với mình, điều mà trong chiến đấu tôi không để ý và chính những nhận xét đó đã chắp cánh, nâng đỡ, giúp cho tôi thêm nghị lực, có niềm tin mãnh liệt vào tập thể, vào tổ chức, nó đã chi phối tôi suốt cả cuộc đời.

Anh hỏi lại tôi các giấy chứng nhận đã đủ chưa:

- Bốn giấy chứng nhận Chiến sĩ thi đua: 1971, 1972, 1973, 1974.

- Hai Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba: 1972, 1974.

- Một quyết định B bậc phó.

- Hồ sơ sinh hoạt Đảng.

Riêng hồ sơ cán bộ do Trưởng đoàn cầm.

Anh nói: Các đồng chí đi học lúc đơn vị đang vào chiến dịch quyết liệt, phải thật cố gắng để ra đến nơi và học tập cho tốt nhé. Học rồi sau phục vụ quân đội tốt hơn.

Đoàn cán bộ Sư đoàn 2 đi ra Bắc, rời sư đoàn bộ ngày 6 tháng 3 năm 1975. Chúng tôi không thể biết rằng chỉ sau đó 3 ngày chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu. Cuộc tấn công bất ngờ của ta vào Buôn Ma Thuột đã mở ra giai đoạn sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy Sài Gòn ở Việt Nam. Chúng tôi phải đi bộ một ngày, sau đó lên ô tô theo đường số 14 ra Bắc. Trên đường, chúng tôi gặp một số đoàn bộ đội hành quân bằng ô tô gấp gáp vào chiến trường. Nhìn những chiến sĩ mặt đỏ au, tươi rói hồn hậu hỏi chúng tôi khi hai xe tránh nhau: "Còn giặc không các anh ơi". Chúng tôi la to lên: "Nhanh lên thì còn đấy". Vượt ra khỏi đông Trường Sơn, con đường số 9 đưa chúng tôi đến bờ sông Thạch Hãn, dừng ở đó nghe đài loan tin chiến thắng Buôn Ma Thuột, rồi tin giặc chạy tháo thân ở Cheo Reo, Phú Bổn làm nức lòng người. Chúng tôi không thể ngờ cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc ta đã hoàn toàn thắng lợi trong mùa Xuân 1975. Trên đường ra Bắc, tâm hồn chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Niềm vui sướng cứ tăng dần lên theo các bản tin thông báo chiến thắng. Thiên nhiên miền Trung non xanh nước biếc nay càng đẹp đẽ nhân lên giữa trời nắng gió thanh bình. Tôi đã hứng chí làm bài thơ:

   Không khuất tán rừng trời cao quá
   Đất rộng mênh mang biển sóng xô
   Gió ào phần phật tà áo lính
   Vuốt ngược tóc dài đỏ loe hoe
   Nhìn thấu dọc ngang dài rộng quá
   Rừng vàng biển bạc đất quê ta.
   Cũng lắm gian nan cho điều ấy
   Muôn người dân Việt đã xông pha.


Khi về đến Tổng cục Chính trị thì chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu. Đoàn 871 là nơi đón nhận, nuôi dưỡng, giúp chúng tôi chuẩn bị mọi mặt để bước vào môi trường công tác mới.

Chúng tôi đón nhận tin chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 tại Hà Nội cùng trong niềm vui chung của nhân dân Thủ đô, những người lính từ chiến trường ra đây lại có một nỗi lòng riêng kỳ lạ:

   Xa chiến trường mấy bữa
   Đêm về rét nhức xương
   Hay là xa tuyến lửa
   Mà thêm nhớ, thêm thương
   Xa chiến trường mấy bữa
   Đêm về rét nhức xương
   Thương anh em, đồng chí
   Nhớ! Nhắc nhở gọi mình.


Chẳng phải vì tiếc không có mặt trong đoàn quân kiêu hùng rầm rập tiến vào thành phố trước sự hân hoan chào đón của đồng bào mà chỉ một chút thoáng thấy hình như mình chưa được trọn vẹn lắm trong việc góp phần làm nên chiến thắng hoàn toàn của dân tộc. Chỉ một thoáng thôi, còn sau đó chúng tôi lại bị cuốn hút vào cái không khí sôi động hào hùng theo lời hát: ''Việt Nam trên đường chúng ta đi" của nhạc sĩ Huy Du do ca sĩ Doãn Tần thể hiện được phát đi phát lại liên tục trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam làm nôn nao, xao động mọi tâm hồn.


Cả dân tộc Việt Nam tự hào cùng ca vang bài: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng". Vâng! Hơn ai hết, chúng tôi, những người lính hiểu cái giá mà quân và dân ta đã phải trả để có được chiến thắng oai hùng của dân tộc hôm nay.


Sài Gòn 1999
TỪ VĂN CHIẾN


Tiêu đề: Chiến sĩ trinh sát
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Mười, 2021, 08:02:23 am
Hơn 4 năm ở chiến trường miền Trung Trung Bộ - Nam Lào và Tây Nguyên gian khổ, ác liệt nhưng trung dũng kiên cường. Đây là quãng đời hoạt động đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ. Tôi đã sống đẹp trong khó khăn gian khổ với anh em đồng chí, được biết đến hàng chục cán bộ, chiến sĩ trong đại đội trinh sát thân thương đã ra đi mãi mãi không về. Họ đã ngã xuống cho Tổ quốc để hôm nay nước nhà độc lập. Có những người tôi chỉ mới biết tên còn quê hương, gia đình ở đâu chưa kịp biết. Hôm nay, một chút ký ức với các anh lần lượt hiện về.

1. Nguyễn Văn Thu - Đại đội trưởng - Bình Định - hy sinh 19-2-1971.

2. Nguyễn Văn Dăm - Tiểu đội trưởng - Hà Nam Ninh (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

3. Bùi Văn É - Đại đội trưởng - Hòa Bình (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

4. Nguyễn Ngọc Lan - chiến sĩ - Hưng Yên (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

5. Đồng chí Mười - Đại đội trưởng - Đà Nắng (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

6. Nguyễn Văn Thể - chiến sĩ - Hà Tây (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

7. Đồng chí May - chiến sĩ - Hải Dương (Lào) - hy sinh 19-2-1971.

8. Ngô Tấn Đê - Tiểu đội phó - Quảng Ngãi (Bình Đinh) - hy sinh 5-8-1972.

9. Lương Thanh Xương - Đại đội trưởng - Hải Phòng (Kon Tum) - hy sinh tháng 6-1972.

10. Huỳnh Lớn - chiến sĩ - Nam Hà (Kon Tum) - hy sinh tháng 6-1972.

11. Đào Tất Triện - chiến sĩ - Hưng Yên (Kon Tum) - hy sinh tháng 6-1972.

12. Nguyễn Văn Quân - Đại đội trưởng (Hải Dương) - hy sinh tháng 6-1972.

13. Kiều Văn Rĩ - Đại đội phó (Hà Tây) - hy sinh tháng 6-1972.

14. Nguyễn Văn Thực - chiến sĩ (Hưng Yên) - hy sinh tháng 6-1972.

15. Nguyễn Xuân Du - chiến sĩ (Hưng Yên) - hy sinh tháng 6-1972.

16. Trần Văn Quang - chiến sĩ (Nam Hà) - hy sinh tháng 6-1972.

17. Trần Đình Thoại - Đại đội trưởng (Ninh Bình) - hy sinh tháng 5-1973.

18. Đỗ Xuân Xem - chiến sĩ - Tế Tân - Nông Cống - Thanh Hóa - hy sinh 17-2-1973.

19. Nguyễn Văn Liêm - chiến sĩ (Quảng Nam) - hy sinh tháng 11-1973.

20. Nguyễn Văn Điền - chiến sĩ (Hà Bắc) - hy sinh tháng 12-1973.

21. Đồng chí Đổng - Tiểu đội trưởng - miền Nam - hy sinh tháng 6-1971.

22. Nguyễn Văn Hương - Đại đội trưởng (Hà Bắc) - hy sinh tháng 12-1973.

23. Đồng chí Hường - chiến sĩ - hy sinh tháng 10-1970.

24. Nguyễn Trưởng - Tiểu đội trưởng (Nam Hà) - hy sinh tháng 10-1970.

25. Trương Vũ Sáng - chiến sĩ - Bảo Lý, Lý Nhân, Nam Hà - hy sinh tháng 4-1972.

26. Nguyễn Văn Đào - chiến sĩ (Quảng Ngãi) - hy sinh tháng 3-1973.

27. Nguyễn Văn Đình - chiến sĩ (Quảng Nam) - hy sinh 1973.

28. Huỳnh Ngọc Sơn - chiến sĩ (Quảng Nam) - hy sinh 1970.

29. Nguyễn Đức Mạnh - Đại đội phó (Quảng Ngãi) - hy sinh 17-2-1973.

Và một số anh em bổ sung về các đơn vị hy sinh không nhớ tên và quê quán: Nam, Hòa, Tĩnh...