Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 12 Tháng Tám, 2021, 10:52:32 am



Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Tám, 2021, 10:52:32 am
Tên sách: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2009
Số hoá: ptlinh, quansuvn


Chỉ đạo nội dung
   ĐẢNG ỦY, BINH CHỦNG TĂNG THIẾT GIÁP

Tổ chức thực hiện
   CỤC CHÍNH TRỊ BINH CHỦNG TĂNG THIẾT GIÁP

Ban biên soạn:
   Đại tá TRỊNH ĐÌNH SINH
   Đại tá LÊ VĂN VIỆT
   Thượng tá NGUYỄN VĂN HƯNG
   Đại úy MAI THỊ NGỌC

(https://i.imgur.com/Tj16eHp.jpg)


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tám, 2021, 01:39:35 pm
LỜI GIỚI THIỆU


Trải qua 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam mà thường xuyên trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, lực lượng Tăng thiết giáp đã trở thành một Binh chủng chiến đấu hùng mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Việt Nam, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Tăng thiết giáp đã xây đắp nên truyền thống Binh chủng anh hùng “Đã ra quân là đánh thắng” lập nhiều chiến công xuất sắc trong các trận đánh then chốt và chiến dịch lớn như: Tà Mây - Làng Vây; Đường 9 - Nam Lào; Quảng Trị; Đắc Tô - Tân Cảnh; Lộc Ninh; Cửa Việt; Phước Long; Buôn Ma Thuột, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang.


Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bộ đội Tăng thiết giáp không ngừng đề cao cảnh giác cách mạng, khắc phục khó khăn, huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó.


50 năm qua, lực lượng Tăng thiết giáp đã có 34 lượt tập thể và 11 cá nhân được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ” trong đó có 9 tập thể được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” trong thời kỳ đổi mới. Binh chủng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Độc lập hạng Nhất, 4 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba. Ngoài ra còn có hơn 2.000 đơn vị và nhiều cá nhân được tặng thưởng huân, huy chương các loại.


Nhân kỷ niệm 50 năm truyền thống bộ độiTăng thiết giáp, để tôn vinh những chiến công của bộ đội Tăng thiết giáp và tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thế hệ cán bộ, chiến sỹ đã không tiếc máu xương đóng góp cho sự nghiệp giải phóng và xây cìựng bảo vệ Tổ quốc. Binh chủng Tăng thiết giáp lựa chọn và giới thiệu 50 hiện vật được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, trong cuốn “Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử” mỗi hiện vật là một câu chuyện kể cảm động, phản ánh khái quát những chiến công, những tấm gương tiêu biểu của bộ đội Tăng thiết giáp trong xây dựng và chiến đấu, về tình quân dân thủy chung son sắt và tình cảm quốc tế cao đẹp.


Hy vọng cuốn sách “Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử” sẽ góp phần giáo dục truyền thống đánh giặc giữ nước của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, truyền thống anh hùng của bộ đội Tăng thiết giáp nói riêng cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân; khơi dậy, tiếp thêm niềm tin, ý chí cho thế hệ trẻ hôm nay, động viên và khích lệ họ viết tiếp trang sử vẻ vang đó bằng những thành tích mới, chiến công mới của bộ đội Tăng thiết giáp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Trong quá trình biên soạn mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các thông tin vê hiện vật có thể còn chưa thật đầy đủ, rất mong nhận được nhiều ỷ kiến bổ sung, đóng góp của các đồng chí và các bạn cho cuốn sách ngày càng hoàn chỉnh.


Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp xin chân thành cảm ơn: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Tổng Công ty Viễn thông Quân đội và các thế hệ cán bộ chiến sĩ Tăng thiết giáp đã giúp đỡ cung cấp thông tin, tư liệu, hiện vật để cuốn sách được hoàn thành.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


ĐẢNG ỦY, BINH CHỦNG TĂNG THIẾT GIÁP


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tám, 2021, 01:40:25 pm
CHIẾC HUY HIỆU “VẬN ĐỘNG VIÊN CẤP 2”
CỦA NHỮNG HỌC VIÊN XE TĂNG VIỆT NAM ĐẦU TIÊN

Lê Hải Minh

(https://i.imgur.com/gD5hiJd.jpg)


Vào một ngày đầu thu năm 2006, chúng tôi đến thăm nhà bác Đào Văn Bàn tại thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Bác từng là một trong những học viên đầu tiên của quân đội ta được cử sang học tập tại trường xe tăng Số 4 ở thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc và được nhà trường trao tặng Huy hiệu "Vận động viên cấp 2". Chiếc huy hiệu này bác Bàn tặng cho Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp từ những ngày đầu mới thành lập. Chúng tôi đến gặp bác chính vì kỷ vật này.


Bác đon đả mời chúng tôi uống nước. Nhìn nước da đỏ hồng săn chắc và dáng vẻ nhanh nhẹn của bác, chúng tôi tấm tắc khen:

- Bác ơi! Ở tuổi 74 như bác mấy ai có được. Những cán bộ thời kỳ đầu của Binh chủng ta mà còn khoẻ như bác là quý nhất đấy ạ!

Bác Bàn cười cởi mở:

- Vâng! Theo quan niệm dân gian thì đó là nhờ giời, còn thực tế là do bản thân chịu khó lao động, luyện tập thể dục thể thao. Tôi sinh năm 1933 tại quê hương Hà Nam, khi xưa là vùng đồng chiêm trũng, vì thế tôi biết bơi từ khi mới lên 3 tuổi. Sau này vào bộ đội, trải qua hơn 40 năm quân ngũ, lúc thì học tập ở trường, khi thì chiến đấu ngoài mặt trận, dù ở môi trường nào tôi cũng có ý thức tự rèn luyện sức khoẻ.


Huy hiệu “Vận động viên cấp 2” của đồng chí Đào Văn Bàn, một trong những học viên Việt Nam đầu tiên của Quân đội ta được cử sang Trung Quốc học về Tăng thiết giáp.

Chúng tôi háo hức đề nghị bác kể về quá trình rèn luyện để đạt được danh hiệu “Vận động viên cấp 2” bác cùng đồng đội, trong những tháng ngày đầu tiên học tập về kiến thức xe tăng trên đất bạn!

Khuôn mặt rặng rỡ, ánh mắt sáng lên niềm tự hào, bác Đào Văn Bàn say sưa kể:

Từ giữa năm 1955, Đảng ta đã có chủ trương cử cán bộ sang đào tạo tại Trung Quốc để chuẩn bị cho sự ra đời của lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam, tôi rất vinh dự đã được lựa chọn để tham gia khóa học đầu tiên ấy.


Mục tiêu của chúng tôi khi được cử sang Trung Quốc học tập là làm sao trong thời gian ngắn nhất, tiếp thu được nhiều nhất những kiến thức về Tăng thiết giáp để về nước xây dựng lực lượng. Tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, giữ vững phẩm chất bộ đội Cụ Hồ để không phụ lòng tin của Đảng và nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân đội giao cho.


Lúc mới sang Trung Quốc, Đoàn học viên Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, nhưng khó khăn lớn nhất là thời tiết khí hậu khắc nghiệt; nhất là về mùa đông nhiệt độ thường xuống dưới 0°c. Do chưa quen khí hậu nên các học viên của ta thường bị cảm cúm và đau khớp, sức khỏe giảm sút, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập. Trước tình hình đó, bạn đã đưa ra một chương trình luyện tập, nâng cao trình độ và rèn luyện thể chất cho học viên Việt Nam. Bước đầu chúng tôi phải tự rèn luyện để ổn định sức khỏe, sau đó phải thực hiện nghiêm ngặt theo chương trình quy định với khối lượng và cường độ cao, mục tiêu cuối cùng là phải đạt được tiêu chuẩn vận động viên cấp 1 rồi vận động viên cấp 2.


Xác định việc rèn luyện thể thao chính là yếu tố cơ bản để có sức khỏe đáp ứng nhiệm vụ học tập nên tôi đã tham gia tích cực, nhất là các môn xà đơn, xà kép, nhảy cao, nhảy xa, chạy đường dài, bóng chuyền, bóng rổ. Cũng nhờ luyện tập thể thao mà tôi đã làm quen dần với khí hậu mùa đông khắc nghiệt ở thành phố Từ Châu, khắc phục được bệnh viêm khớp dạng thấp, vì thế tôi thường xuyên đạt kết quả tốt trong huấn luyện đào tạo, nhất là môn lái xe tăng và thông tin vô tuyến điện, tôi đã đạt trình độ cấp 2.


Tồi nhớ mãi những ngày nắng ấm, cứ đến giờ thể thao là chúng tôi rủ nhau đi tập môn nhảy xa theo tiêu chuẩn vận động viên cấp 1 và cấp 2 của bạn. Mới đầu, kết quả không mấy khả quan, học nhảy xa rất khó, ai nhảy tốt lắm cũng chỉ được hơn 3m, không đạt được tiêu chuẩn, tuy vậy chúng tôi vẫn kiên trì bảo nhau phải cố gắng rèn luyện để có sức khỏe mà học tập. Với ý chí quyết tâm cao và sự nỗ lực rèn luyện, năm 1957 tôi đạt tiêu chuẩn vận động viên cấp 1, năm 1958 đạt tiêu chuẩn vận động viên cấp 2, 100% học viên Việt Nam đạt được tiêu chuẩn vận động viên cấp 1, hơn 20% đạt tiêu chuẩn vận động viên cấp 2. Tiêu chuẩn vận động viên cấp 2 lúc bấy giờ do nước bạn quy định, ngoài việc đạt loại giỏi các môn phối hợp, học viên phải đạt thành tích nhảy xa từ 5m trở lên. Nói thì dễ vậy nhưng để làm việc đó chúng tôi phải khổ công rèn luyện rất nhiều.


Cùng chế độ học tập và rèn luyện như nhau, nhưng trình độ và sức khoẻ của đoàn học viên Việt Nam hơn hẳn học viên nước bạn. Cán bộ chiến sỹ của chúng ta đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực học tập và rèn luyện để vừa có kiến thức, vừa có sức khoẻ, vì thế học viên của ta đã hoàn thành tốt chương trình học tập ở nước bạn.


Kể đến đây, bác nheo nheo mắt, nhớ lại kỷ niệm cũ: Hơn 40 năm trong quân ngũ, tôi đã có rất nhiều kỷ niệm, nhưng những năm tháng học tập trên đất bạn Trung Quốc đã để lại những ký ức thật khó quên. Chiếc huy hiệu “Vận động viên cấp 2” ấy có ý nghĩa rất lớn đối với tôi và các đồng chí học viên lúc bấy giờ. Nó thể hiện ý chí, quyết tâm của những người chiến sĩ xe tăng đầu tiên khi vinh dự được nhận nhiệm vụ mà quân đội giao cho.


Câu chuyên của bác kể làm chúng tôi thật sự xúc động. Chia tay bác lòng chúng tôi xen lẫn sự cảm phục và tự hào, những năm tháng ấy; ý chí, quyết tâm ấy là sự khởi đầu của trang sử vàng chói lọi mà bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng đã viết nên trong nửa thế kỷ qua. Câu chuyện về những học viên xe tăng Việt Nam đã đạt được huy hiệu “Vận động viên cấp 2” trên đất bạn Trung Quốc sẽ được chúng tôi kể lại cho khách thăm quan; là điểm khởi nguồn cho những câu chuyên kể về những người chiến sĩ xe tăng năm xưa.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tám, 2021, 01:41:09 pm
TẤM BẰNG KHEN CỦA ĐỒNG CHÍ VŨ ĐỨC HÙNG


Nguyễn Thu Hiền

(https://i.imgur.com/rtt12Ou.jpg)

Bảo tàng Lực lượng Tăng thiết giáp hiện đang trưng bày tấm Bằng khen trong phong trào “Đại nhảy vọt”, đây là phần thưởng cao quý do Trường xe tăng số 4 quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tặng cho đồng chí Vũ Đức Hùng - nguyên là học viên kỹ thuật xe tăng đầu tiên của quân đội ta.


Vũ Đức Hùng sinh ra và lớn lên trên quê hương “Đất võ” Bình Định, năm 1954 nhập ngũ, là chiến sĩ bộ binh. Từ giữa năm 1955, nhiều cán bộ ưu tú trọng toàn quân được lựa chọn gửi về học tập tại Trường Văn hóa Quân đội, rồi được cử sang Trung Quốc học tập và trở thành một trong những chiến sĩ xe tăng đầu tiên của quân đội ta. Đồng chí tâm sự: “Được cử sang Trung Quốc học tập khóa đầu tiên, tôi cũng như tất cả đồng chí trong đoàn đều thấy rất vinh dự và phấn khởi, đồng thời cũng xác đinh đây là trọng trách, là nhiệm vụ lớn lao mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội tin tưởng giao cho.


Trong quá trình học tập ở Trung Quốc, đoàn học viên Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn về ngôn ngữ, điều kiện sinh hoạt, học tập, thời tiết, khí hậu... Nhưng với tinh thần yêu nước, vì Tổ quốc thân yêu, anh em đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực vươn lên, hoàn thành tốt nhiệm vụ, luôn đạt thành tích cao trong học tập, luôn dẫn đầu trong mọi phong trào hoạt động của Nhà trường. Trong từng giai đoạn học tập đều có kiểm tra, cuối kỳ có thi sát hạch lấy bằng quốc gia cấp III, tất cả đều đạt loại giỏi. Nhà trường tiếp tục nâng chỉ tiêu huấn luyện cho học viên Việt Nam lên mức cao hơn, đó là thi tiêu chuẩn nhà nước cấp II: 100% đạt khá, giỏi. Từ đó động viên, khích lệ tinh thần dám nghĩ, dám làm, ra sức thi đua lập nhiều thành tích xuất sắc. Trong kỳ thi sát hạch tiêu chuẩn quốc gia cấp I có 100% đạt giỏi.


Những năm đó, ở nước bạn đang phát động phong trào “Đại nhảy vọt”, phong trào đó đã được cụ thể hóa vào chương trình học tập của Nhà trường với các đợt thi đua cao điểm như: “Đạt thành tích học tập cao, đoàn kết tốt, kỷ luật tốt". Đoàn học viên Việt Nam đã tích cực hưởng ứng và luôn dẫn đầu. Vũ Đức Hùng là một trong những học viên luôn đi đầu trong phong trào “Đại nhảy vọt”, lập nhiều thành tích xuất sắc trong các môn thi, nắm vững kỹ thuật, chiến thuật xe tăng, xe thiết giáp và sử dụng thành thạo các loại vũ khí, khí tài, nhất là về chỉ huy kỹ thuật xe tăng. Ngoài việc học tập, đồng chí còn tích cực tham gia phong trào thể thao, rèn luyện sức khỏe, tăng gia sản xuất.


Để ghi nhận thành tích học tập và tình đoàn kết giữa quân đội hai nước Việt Nam - Trung Quốc, kết thúc khoá học nhà trường đã tổ chức lễ tuyên dương thành tích của đoàn học viên Việt Nam trong phong trào “Đại nhảy vọt” với sự đánh giá cao: “Tư tưởng dẫn đầu, tích cực, trách nhiệm, sở trường đi sâu nghiên cứu, nỗ lực học tập, thành tích vượt trội” và trao tặng Bằng khen cho đồng chí Vũ Đức Hùng cùng những học viên xuất sắc của Việt Nam. Đặc biệt, đồng chí Vũ Đức Hùng còn được công nhận là học viên xuất sắc trong 5 môn quân sự. Đây là niềm vinh dự lớn của đồng chí cũng như của khóa học viên đầu tiên về chỉ huy - kỹ thuật xe tăng của quân đội ta.


Thành tích học tập đó đã có giá trị to lớn đối với mỗi học viên, cũng như quá trình hình thành, phát triển của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng xe tăng của ta chưa có điều kiện để xuất quân, nhưng với phương châm "Lấy xe địch đánh địch”, nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ Tăng thiết giáp được cử vào chiến trường tham gia chiến đấu. Trong thời gian này, đồng chí Hùng được giao phụ trách đội thu hồi, sửa chữa xe tăng lấy được của địch. Với kiến thức đã học ở Trung Quốc và thực tế chiến trường, đồng chí đã vận dung, nghiên cứu, ứng dụng, chỉ huy đơn vị sửa chữa nhiều xe tăng thu được của địch đưa vào huấn luyện và trang bị cho các đơn vị của ta tham gia đánh địch ở Xa Mát, Lộc Ninh trong chiến dịch Nguyễn Huệ - trên chiến trường miền Đông Nam Bộ giành thắng lợi to lớn.


Sau hơn 40 năm gìn giữ những kỷ vật quý giá của đời mình, ngày 27 tháng 5 năm 2003 đồng chí đã trao lại tấm Bằng khen cho Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp lưu giữ. Mỗi lần có dịp đến thăm Bảo tàng, đứng trước những kỷ vật đó, đồng chí không khỏi bồi bồi, xúc động, nhớ lại những năm tháng sống và học tập ở Trung Quốc. Những năm tháng ấy, tuy đầy gian nan vất vả nhưng rất đáng tự hào của thế hệ những người đặt nền móng đầu tiên xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tám, 2021, 01:42:23 pm
CÂU CHUYÊN TỪ MỘT TẤM ẢNH LỊCH SỬ


Nguyễn Mai Hùng

(https://i.imgur.com/nWwppWD.jpg)

Cầm tấm hình trên tay, theo địa chỉ đường Nguyễn Khang, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội, chúng tôi tìm gặp ông Dương Đằng Giang, nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn xe tăng 202, người đã được Bộ Quốc phòng tin tưởng giao nhiêm vụ khảo sát địa điểm xây dựng doanh trại cho đơn vị xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Thấy chúng tôi đến, ông vui mừng như được gặp lại người thân qua bao ngày xa cách. Sau một hồi trò chuyên, chúng tôi đưa cho ông tấm ảnh, ông ngắm nhìn rất kỹ và quay sang nói: “Trong ảnh là những cán bộ, chiến sỹ của Trung đoàn xe tăng 202 và công nhân Công trường 92 của Bộ đang hăng hái lao động, xây dựng doanh trại cho đơn vị xe tăng đầu tiên tại thôn Hữu Thủ, xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày đó cách đây đã gần nửa thế kỷ, mà sao cứ ngỡ như mới hôm qua, thật gian nan nhưng cũng tràn đầy tự hào và trách nhiệm". Câu chuyên của ông đã đưa chúng tôi về với không khí của những ngày đầu xây dựng.


Sau khi các khóa đào tạo về chỉ huy, kỹ thuật xe tăng tại Trung Quốc chuẩn bị kết thúc, để chuẩn bị mọi yếu tố cho việc xây dựng một doanh trại cho đơn vị xe tăng đầu tiên của Quân đội ta. Theo sự chỉ đạo của Bộ, việc cấp thiết lúc này là nghiên cứu, xác định địa điểm xây dựng doanh trại cho đơn vị xe tăng. Thời điểm này, ông Dương Đằng Giang được cử về nước báo cáo tình hình với Bộ và được Bộ cử lên tỉnh Vĩnh Phúc tìm địa điểm xây dựng. Qua mấy ngày khảo sát, xem xét, nghiên cứu thực địa thấy khu vực núi Đinh thuộc xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc nằm trên trục đường từ Vĩnh Yên lên khu nghỉ mát Tam Đảo, giao thông thuận tiện, địa hình phù hợp cho xe tăng cơ động và huấn luyện kỹ, chiến thuật, bắn pháo tăng, đồng thời giữ được bí mật, có điều kiện để chăm sóc bảo dưỡng xe máy và nuôi giấu bộ đội. Về yêu cầu quân sự thì nơi đây thật lý tưởng cho việc xây dựng doanh trại chính quy của quân đội, vì vậy khu vực núi Đinh được Bộ chấp nhận.


Tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập công trường 92 để thực hiện nhiệm vụ xây dựng doanh trại cho đơn vị xe tăng đầu tiên. Dự kiến thiết kế gồm: khu sinh hoạt, khu kỹ thuật, kho xe, xưởng sửa chữa, khu giảng đường (khoảng 20 lớp học). Ngoài ra còn xây dựng được bãi bắn nhỏ, có sườn núi Đinh làm khối chắn, bãi tập lái và bãi chiến thuật phân đội.


Lúc này, cán bộ, chiến sỹ của Trung đoàn 202 lần lượt về nước đảm nhận xây dựng cơ sở vật chất cho huấn luyện. Để khắc phục khó khăn trước mắt, bộ đội ta đã dựng lán để ở và kết hợp ở nhờ nhà dân. Nhân dân thôn Hữu Thủ, xã Kim Long rất yêu quý bộ đội xe tăng, chăm lo từng bát cơm, củ sắn, bát nước chè xanh, cổ vũ động viên tinh thần lao động của bộ đội, tình cảm quân dân gắn bó ngày một nhân lên, sâu sắc và bền chặt.


Để việc xây dựng doanh trại hoàn thành, kịp đón nhận những chiếc xe tăng do Liên Xô viện trợ, toàn Trung đoàn đã lao động khẩn trương cả ngày lẫn đêm, phát cây, san đất, đào hào, mỗi người một nhiệm vụ, tiếng cuốc xẻng, tiếng cười nói râm ran suốt đêm cứ như những giàn nhạc giao hưởng rộn ràng chào đón một sự kiện trọng đại sắp đến. Tiến độ xây dựng ngày một gấp rút, khí thế thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng gia sản xuất, từng bước kiến tạo cảnh quan, môi trường, hướng về chào mừng Đại hội Đảng bộ Trung đoàn lần thứ nhất và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III.


Đầu năm 1964, một số công trình lớn tuy đã được hoàn thành, nhưng khó khăn vẫn chồng chất. Đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, Trung đoàn vừa xây dựng, vừa tổ chức các đoàn cán bộ, chiến sỹ vào Nam nghiên cứu chiến trường, nghiên cứu cách lấy xe địch đánh địch, đồng thời chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng phối hợp với bộ đội phòng không chống các cuộc không kích của máy bay Mỹ trên miền Bắc. Toàn Trung đoàn thực sự sôi động, mỗi người làm việc bằng hai, vừa xây dựng vừa trực tiếp tham gia huấn luyện, kể cả những khi mưa dầm nắng gắt cũng không làm giảm cường độ và tinh thần hăng say lao động với ý chí quyết tâm cao, tất cả hướng ra tiền tuyến.


Trải qua gần 5 năm lao động khẩn trương, liên tục, khu doanh trại chính quy đã hoàn thành, với tổng diện tích 22.540m2 có khu sinh hoạt, khu lớp học kỹ thuật, chiến thuật, thông tin, pháo, kho, xưởng, trường bắn, bãi lái, trạm bơm nước. Xung quanh các dãy nhà có cây xanh bao phủ, lối đi rải nhựa. Đó là kết quả của quá trình lao động liên tục. Biết bao mồ hôi, công sức và tâm lực của công nhân Công trường 92 và cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn đã đổ xuống cho một cơ sở quân sự ra đời. Khu doanh trại được hoàn thành không những góp phần ổn định nơi ăn, chốn ở của bộ đội mà còn tạo điều kiện nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng đơn vị chính quy, bảo đảm cho việc quản lý, khai thác, sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại sắp tới.


Khép lại câu chuyện, đọng mãi trong tôi hình ảnh về lực lượng công nhân Công trường 92 và những người lính xe tăng hăng hái lao động quên mình, biểu hiện khát vọng mãnh liệt cho một cái “nôi” của đội quân chiến đấu, hiện đại và đầy sức mạnh. Mảnh đất trung du, nơi có rừng cọ, đồi chè cùng những người mẹ, người chị đã từng nhường cơm sẻ áo, nơi đó luôn khắc ghi trong tâm khảm các thế hệ cán bộ, chiến sỹ xe tăng Việt Nam. Với ý chí kiên cường và tinh thần thép, họ đã nối tiếp nhau viết nên những bản trường ca bất hủ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Miền quê Hữu Thủ - Kim Long, doanh trại của đơn vị xe tăng đầu tiên, nay là vị trí đóng quân của Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp, nơi đào tạo những cán bộ Tăng thiết giáp cho toàn quân và quân đội các nước Lào, Campuchia. Tấm hình về công tác xây dựng doanh trại xe tăng ngày ấy hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, số 108 - đường Hoàng Quốc Việt - Cầu Giấy- Hà Nội.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tám, 2021, 07:02:38 am
CHUYỆN KỂ VỀ CHIẾC XE TĂNG T34 SỐ HIỆU 114


Phạm Tuấn Trung

(https://i.imgur.com/rT2SzXp.jpg)

Nằm trong quần thể trưng bày của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp có những “con voi thép” đồ sộ đang nghỉ ngơi hiền lành dưới giàn lá ngụy trang xanh mướt tựa như quang cảnh khu trú quân của một đơn vị xe tăng thời đánh Mỹ, đó là cảm nhận của những người đã từng đến tham quan Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Trong đó, có một chiếc xe tăng với hình dáng thô mộc, nằm ẩn mình một cách kín đáo, đó là xe tăng T34 số hiệu 114, chiếc xe đã gắn liền với tên tuổi và sự kiện quan trọng trorig lịch sử Trung đoàn xe tăng 202 nói riêng và của Binh chủng Tăng thiết giáp nói chung.


Trong một lần đi công tác, các cán bộ, nhân viên Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp đã gặp gỡ đồng chí Đào Văn Bàn - nguyên chiến sĩ lái xe tăng - người đã lái chiếc xe số hiệu 114 - chiếc xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam in vết xích trên lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Hiện nay đồng chí là Đại tá quân đội đã nghỉ hưu hiện sinh sống tại nhà số 10 - Ngõ 7 - Đường Trường Chinh - Thành phố Phủ Lý.


Đồng chí Đào Văn Bàn nguyên là chiến sĩ bộ binh thuộc Sư đoàn 325. Sau khi Đảng, nhà nước và quân đội ta có chủ trương tuyển chọn cán bộ, chiến sĩ đi đào tạo ở nước ngoài, đồng chí được lựa chọn đi học tại Trường Văn hóa Quân đội tại Kiến An (Hải Phòng). Sau đó đồng chí được gửi sang Trung Quốc để đào tạo về kỹ thuật xe tăng. Kết thúc khóa học, các học viên xe tăng Việt Nam được sắp xếp, biên chế thành các kíp xe để nhận một nhiệm vụ quan trọng: Nhận xe tăng do Liên Xô viện trợ và tham gia diễn tập hiệp đồng chiến đấu cùng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Cuối tháng 8 năm 1959, các lớp đào tạo học viên xe tăng Việt Nam đã tập trung tại Quế Lâm - Trung Quốc để tiếp nhận gần 100 xe tăng T34 và pháo tự hành CAY-76 do Liên Xô viện trợ. Đồng chí Đào Huy Vũ - Đoàn trưởng - đã công bố quyết định biên chế và giao trang bị cho từng người, từng phân đội. Xe tăng 114 được biên chế: đồng chí Trần Xuân Kiểu - Trưởng xe, Đào Văn Bàn - Lái xe, Lê Cối - Pháo thủ.


Sau khi ổn định biên chế tổ chức, tại Quế Lâm - Trung Quốc, lễ công bố Nghị định số 449/NĐ ngày 5 tháng 10 năm 1959 do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký về việc thành lập Trung đoàn xe tăng 202 - Trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được tiến hành. Ngay sau khi thành lập, kíp xe 114 vinh dự được tham gia diễn tập thực binh bắn đạn thật cùng với Sư đoàn bộ binh La Thịnh Giáo của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (đây là đơn vị Chí Nguyện Quân vừa hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu ở Triều Tiên trở về) và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau diễn tập, Trung đoàn trở về huấn luyện, chăm sóc, bảo dưỡng xe, chờ ngày trở về nước.


Đúng 17 giờ ngày 13 tháng 7 năm 1960, chuyến tàu chở xe tăng đầu tiên xuất phát từ Quế Lâm- Trung Quốc đã dừng bánh an toàn tại ga Vĩnh Yên, xe tăng số 114 dưới bàn tay điều khiển của Trung sĩ Đào Văn Bàn và sự chỉ huy của cán bộ kỹ thuật Hà Văn Đa, đã đặt 2 dải xích lên mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, đánh dấu một mốc son trong lịch sử của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam. Từ đây, mặc dù trong điều kiện đất nước còn nghèo nhưng quân đội ta đã được Đảng và nhân dân giao cho sử dụng những chiếc xe tăng hiện đại. Chính vì vậy, cán bộ, chiến sỹ trong Trung đoàn đều ý thức được việc để xe hư hỏng là không hoàn thành nhiệm vụ, là có tội với Tổ quốc, với nhân dân. Với khẩu hiệu “Xe chưa sạch, người chưa nghỉ”, kíp xe 114 đã cùng cả Trung đoàn thực hiện tốt công tác bảo quản, bảo dưỡng xe chuẩn bị cho huấn luyện và sẵn sàng tham gia chiến đấu. Bước vào mùa huấn luyện, do chưa có lái xe nên mặc dù là cán bộ kỹ thuật nhưng đồng chí Đào Văn Bàn cũng như các đồng chí đi học ở Trung Quốc về đều tham gia huấn luyện cho tân binh. Kíp xe 114 vinh dự được giao nhiệm vụ trực tiếp tham gia đào tạo những kíp lái xe tăng đầu tiên của Binh chủng và nhiều khóa học tiếp theo. Đến đầu năm 1961, sau khi hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện, chiếc xe 114 được biên chế vào Đại đội để nhận công tác khác. Sau khi được bàn giao lại cho Trung đoàn, xe tăng 114 được vinh dự trở thành "Chiếc xe của Chính ủy” với thành viên kíp xe 5 người, trong đó có đồng chí Đặng Quang Long - Chính ủy Trung đoàn. Năm 1963, Chính ủy Đặng Quang Long được cấp trên điều vào Nam chiến đấu, trước giờ phút chia tay, kíp xe 114 quây quần, dặn dò, hứa hẹn nhau tiếp tục bảo quản, giữ gìn xe thật tốt. Sau hàng chục năm tham gia huấn luyện và chiến đấu, những đồng đội trên “Chiếc xe của Chính ủy” đã thực hiện tốt lòi hứa của mình và kíp xe 114 luôn là một trong những xe dẫn đầu đơn vị trong tất cả các mặt công tác. Tất cả các thành viên của xe tăng 114 đều luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.


Sau nửa thế kỷ chiến đấu, xây dựng, Binh chủng ngày càng phát triển mạnh, được trang bị nhiều chủng loại xe tăng hiện đại hơn, nhưng không ai có thể quên hình ảnh chiếc xe tăng T34 số hiệu 114 in những vết xích đầu tiên trên đất nước Việt Nam, chiếc xe đã trở thành hiện vật tiêu biểu cho quá trình xây dựng, trưởng thành của Binh chủng và được đưa về trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tám, 2021, 07:03:27 am
CHIẾC SẮC CỐT VÀ CÂU CHUYỆN VỀ
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG TĂNG THIẾT GIÁP ĐẦU TIÊN


Mỹ Dung

(https://i.imgur.com/8KrbGCh.jpg)

Chiếc sắc cốt bằng da, màu đen, có kích thước 28cmx20cm mang số đăng ký 893/da 12, hiện đang được trưng bày trang trọng ở Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Tuy cũ kỹ nhưng nguyên vẹn, chiếc sắc cốt như chứa đầy những câu chuyện cảm động về người chỉ huy xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông chính là Thiếu tướng Đào Huy Vũ, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 202 Trung đoàn đầu tiên của Binh chủng Thiết giáp (nay là Binh chủng Tăng thiết giáp).


Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia các chiến dịch lớn: Hòa Bình, Quang Trung, Tây Bắc, Điện Biên Phủ, Thượng Lào... Dù ở cương vị nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Hòa bình lập lại, do yêu cầu phát triển của quân đội, năm 1956, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn cán bộ, chiến sĩ sang Trung Quốc học lái và kỹ thuật xe tăng. Kết thúc khóa học, trờ về nước, tháng 10 năm 1959, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 202, đơn vị xe tăng đầu tiên của quân đội ta. Tháng 6 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh Binh chủng Thiết giáp (sau này là tư lệnh).


Khi trao chiếc sắc cốt này cho Bảo tàng, ông kể: “Tháng 6 năm 1965, tôi được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh Binh chủng Thiết giáp, Ban Bảo mật trang bị cho tôi chiếc sắc cốt này. Tôi dùng đựng tài liệu, sổ ghi chép khi đi công tác, họp hành, xuống kiểm tra anh em luyện tập ở thao trường. Nó rất chắc chắn, thuận tiện, có nhiều ngăn đựng được nhiều thứ cần dùng. Ngày ấy, đất nước ta còn nghèo, lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bộ đội ta còn thiếu thốn nhiều thứ, chiếc sắc cốt bằng da màu đen này thật quý".


Những ngày đầu Trung đoàn 202 thành lập, xe tăng của ta phần lớn là của Liên Xô viện trợ, để nắm tính năng kỹ thuật xe tăng, anh em lái xe tăng phải biết tiếng Nga. Trong sắc cốt này, ông luôn mang theo cuốn sách tự học tiếng Nga. Những lúc rỗi rãi, sẵn có cuốn sách trong sắc cốt, ông tranh thủ học một vài từ mới. Nhờ chịu khó học tập, ông có điều kiện tham khảo tài liệu về tính năng kỹ thuật xe tăng của nước bạn, nắm được những kiến thức đó phổ biến cho anh em. Kết thúc năm đầu huấn luyện, Trung đoàn dành điểm cao trong bắn pháo, lái xe và bản thân ông cũng “tốt nghiệp” một chương trình ngoại ngữ. Nhờ có vốn kiến thức tiếng Nga, ông có thể trực tiếp làm việc với cố vấn Liên Xô, không phải qua phiên dịch như một năm trước đó.


Những người lính thiết giáp được chung sống, gần gũi với ông còn lưu giữ nhiều kỷ niệm về ông, nhất là đức tính cần kiệm. Anh em kể lại rằng: Từ khu vực đóng quân đến các đơn vị và bãi tập khoảng 5km, người ta thường thấy ông đi bộ, khi cần đi xe thì ông tự lái lấy. Ông nói: “Phải thực sự tiết kiệm, tiết kiệm xăng xe, tiết kiệm sức người... Nói học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ mà không làm từ những việc cụ thể thì chỉ là nói suông. Căn hầm của ông cũng vậy, chỉ đơn sơ, bình dị như mọi căn hầm của pháo thủ, lái xe vì “Thủ trưởng tự làm lấy những việc có thể làm được, ngại tốn công sức của bộ đội vào những việc chưa cần thiết...".


Ông là con người của hành động. Dù ở cương vị công tác nào, ông cũng đều toàn tàm, toàn ý xây dựng đơn vị, xây dựng Binh chủng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu để đánh thắng kẻ thù. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng xe tăng của ta chưa có điều kiện xuất quân nhưng với quyết tâm xe chưa đi được thì người cứ đi, lấy xe địch đánh địch. Để có thể phát huy khả năng của lính xe tăng ở chiến trường, ông chỉ huy đơn vị ra sức huấn luyện về xe tăng, xe thiết giáp và tập luyện hành quân mang vác nặng. Để làm gương cho anh em, ông cũng luyện tập như mọi người, cũng đeo ba lô gạch trên lưng, mang vác nặng tập leo núi... Ông rất quan tâm, đi sâu đi sát tìm hiểu tâm tư của anh em, động viên họ hăng say rèn luyện. Ông thuộc lòng tên của từng người trong đơn vị cũng như lý lịch từng xe tăng trong Trung đoàn. Ông như người anh cả luôn thương yêu giúp đỡ anh em trong đơn vị. Tình cảm và sự tận tụy của ông đã in đậm trong ký ức của những người lính xe tăng.


Đầu năm 1967, khi được cấp trên thông báo chuẩn bị đưa xe tăng vào chiến trường, trên cương vị Phó Tư lệnh Binh chủng, ông đã đề xuất nhiều ý kiến có giá trị về nghệ thuật quân sự. Tiếng gọi tiền tuyến luôn thôi thúc, ông muốn ra chiến trường để thấy tận mắt thực tế chiến đấu, để tìm lối vào trận cho xe tăng Việt Nam, mà nhiều người còn đang nghi ngại về khả năng tham chiến của nó. Ông đã trực tiếp dẫn đầu một nhóm cán bộ Thiết giáp bí mật vào chiến trường nghiên cứu tình hình. Sau khi Thường vụ Đảng ủy Binh chủng quyết định phương án hành quân bằng xích, ông lại là người trực tiếp điều hành, chỉ huy toàn bộ cuộc hành quân. Chiến thắng trận đầu ở Làng Vây đã khích lệ bộ đội Thiết giáp tiếp tục ra quân chiến đấu và chiến thắng trên các chiến trường.


Tháng 6 năm 1970, ông tham gia đoàn cán bộ sang chiến trường nước bạn Lào. Ông là vị chỉ huy gan dạ và quyết đoán. Trong chiến dịch Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, ông ra lệnh cho anh em lái xe tăng bật đèn pha xe rọi đường, bất chấp máy bay địch săn đuổi đánh phá ngăn chặn. Nhờ vậy mà xe tăng đã đi nhanh, kịp thời đến đích, xung trận thắng lợi. Tại chiến trường này, quân thù đã cướp đi con mắt trái của ông.


Kinh nghiệm trận mạc cùng với những kiến thức học được ở nhà trường đã giúp ông có kinh nghiệm luyện quân, dùng quân khá sắc sảo. Ông am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực, đăc biêt là khoa học nghệ thuật quân sự. Ông là người có khả năng đặc biệt về sử dụng lực lượng xe tăng - thiết giáp trên chiến trường. Có thể nói từ trận đầu ở Làng Vây cho đến cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đều có sự đóng góp to lớn của ông. Ông thường xông pha đi đầu trong đội hình chiến đấu, thần tốc, táo bạo của Binh chủng Tăng thiết giáp anh hùng. Nhớ lại khi đội hình cánh quân Duyên Hải chuẩn bị tiến công Phan Rang, ông đề nghị với Thường vụ Đảng ủy Binh chủng được trực tiếp đi với Lữ đoàn xe tăng 203. Ông đề xuất: "Đây là lần đầu tiên ta sử dụng tập trung cả lữ đoàn, lại vận dụng hình thức tác chiến đánh địch trong hành tiến, vì vậy sẽ có nhiều cái mới nảy sinh”. Thường vụ Đảng ủy Binh chủng đã thảo luận và nhất trí phương án: “Tư lệnh Binh chủng Thiết giáp đi trong đội hình chiến đấu của Lữ đoàn”. Phương án này đã được Trung tướng Lê Trọng Tấn, chỉ huy cánh quân "Duyên Hải" phê chuẩn.


Suốt cuộc đời là "Bộ đội Cụ Hồ", Thiếu tướng Đào Huy Vũ đã nêu tấm gương sáng về đức tính "Cần, kiệm, liêm, chính", ông là người chỉ huy dũng cảm, hết lòng thương yêu bộ đội.


Chiếc sắc cốt đã gắn bó với vị tướng tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên khắp các chiến trường. Bây giờ nó trở thành một hiện vật quý gắn với tên tuổi của vị tướng dũng cảm và tài năng của Binh chủng Tăng thiết giáp.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Tám, 2021, 07:19:20 am
CHIẾC CẶP VÀ NGƯỜI LÍNH HẬU CẦN NĂM XƯA


Nguyễn Thảo Hiền

   “Chiếc cặp mẹ trao đã bạc màu
   Hai nghìn đồng bạc dạ lo âu
   Đem về Thiết giáp năm năm chín
   Xây dựng Xe tăng lúc thủa đầu
   Mấy chục năm trường bao biến đổi
   Trải bao chinh chiến vẫn bền lâu
   Ngày nay ngân sách trăm nghìn tỷ
   Binh chủng đi lên thế mạnh giàu"


(https://i.imgur.com/EWXJC54.jpg)

Đó là những dòng cảm xúc của Đại tá Tạ Văn Cộng - Nguyên Chủ nhiệm Hậu cần Binh chủng Thiết giáp, là cán bộ phụ trách công tác tài chính đầu tiên của Trung đoàn xe tăng 202 khi ông trao kỷ vật của đời mình cho Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Sơn Thị - Lâm Thao - Phú Thọ, là người con của đất Tổ Vua Hùng, sớm giác ngộ cách mạng, năm 1947 ông rời quê hương lên đường nhập ngũ vào Cục Quân nhu Bộ Quốc phòng. Trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau, khi làm liên lạc, lúc làm anh nuôi, quản lý, kế toán v.v... đồng chí luôn phát huy tinh thần trách nhiệm ở mọi lúc, mọi nơi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, tháng 10 năm 1958, đồng chí được cử đi học khóa bổ túc đầu tiên về công tác tài chính của Quân đội nhân dân Việt Nam. Là một cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu và nhiều kinh nghiệm công tác, được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ tài chính, tháng 10 năm 1959, đồng chí được Bộ Quốc phòng điều động về làm Chủ nhiệm tài vụ Trung đoàn xe tăng 202 và được giao 2.000 đồng tiền mặt, cùng phương tiện đựng tiền. Đó là chiếc cặp bằng da, màu trắng ngà, có chiều dài 40cm, chiều rộng 30cm, khóa ở giữa, hai ngăn bên trong và hai túi nhỏ bên ngoài. Đây là niềm vinh dự lớn, đồng chí luôn ý thức giữ gìn chiếc cặp cẩn thận, coi nó như “chiếc két cơ động” dùng đựng tiền để nuôi những người lính “thép”.


Những ngày đầu thành lập, Trung đoàn bắt tay vào xây dựng lực lượng, xây dựng doanh trại, cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, phải đóng quân ở nhà dân. Để đảm bảo an toàn, đồng chí đã để chiếc cặp vào vỏ hòm đựng súng AK, và cùng các đồng chí trong bộ phận tài vụ giữ gìn cẩn thận từng đồng quĩ vốn của Trung đoàn.


Trong những năm chiến tranh ác liệt, trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau, chiếc cặp như người bạn đồng hành cùng vào Nam, ra Bắc tham gia chiến đấu, chiếc cặp dựng tiền và công văn, tài liệu luôn được đồng chí giữ gìn cẩn thận. Sau ngày chiến thắng, mặc dù trang thiết bị phục vụ công tác nghiệp vụ có hiện đại hơn, nhưng đồng chí vẫn sử dụng chiếc cặp để đựng công văn, giấy tờ và nhiều tài liệu quan trọng.


Nhớ về những năm tháng gian nan, vất vả mà oai hùng, lớn lên và trưởng thành trong ngôi nhà Tăng Thiết giáp, với 5 năm phụ trách công tác tài vụ cấp Trung đoàn và 26 năm phụ trách công tác Hậu cần các cấp của Binh chủng, đồng chí đã coi “Chiếc cặp da" như một kỷ vật quý báu, giúp mình cất giữ kinh phí, tài liêu mật của cơ quan, đảm bảo an toàn, bí mật.


Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngành Tài chính quân đội (25.3.1946 - 25.3.2001), đồng chí đã trao lại chiếc cặp cho Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp làm hiện vật truyền thống, tuy không còn nguyên vẹn, (da đã bạc màu, khóa đã bị hỏng, quai đã quấn lại bằng những sợi chỉ dù), nhưng nó chứa đựng bao kỷ niệm của người lính thép trong cuộc đời quân ngũ, coi đó như một lời nhắn nhủ cho thế hệ hôm nay và mai sau về tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn trong mọi hoàn cảnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Tám, 2021, 07:20:47 am
CÓ NHỮNG QUYẾT TÂM THƯ NHƯ THẾ


Nguyễn Duy

(https://i.imgur.com/W1vnS4W.jpg)

Thua đau ở miền Nam, Mỹ tăng cường ném bom đánh phá miền Bắc. Trước những tội ác dã man của địch ở cả hai miền Nam - Bắc, hàng triệu thanh niên nô nức lên đường tham gia tòng quân giết giặc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.


Hưởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước sục sôi khí thế đánh Mỹ với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... Trên công sự chiến đấu, trong nhà máy, hầm mỏ, đình làng, trường học... khẩu hiệu “Tất cả cho tỉền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược ” được treo khắp nơi. Nó trở thành phương châm hành động cho mọi người dân Việt Nam. Hòa trong dòng chảy đó, những người chiến sỹ xe tăng của Trung đoàn 202 ngày đêm miệt mài nghiên cứu sử dụng thành thạo những chiếc xe tăng hiện đại đầu tiên do Liên Xô viện trợ cho quân đội ta. Trong thâm tâm mỗi người ai nấy đều nung nấu quyết tâm được trực tiếp vào Nam chiến đấu, trả thù cho đồng bào miền Nam đang rên xiết trong các ấp chiến lược, trại tập trung của Mỹ nguỵ, trả thù cho những em bé, những người dân vô tội ở miền Bắc bị bom đạn Mỹ giết chết. Ý chí quyết tâm của họ được thể hiện qua những lá đơn tình nguyện vào chiến trường. Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp hiện lưu giữ hàng trăm lá đơn tình nguyên vào Nam chiến đấu của những chiến sỹ xe tăng. Xin được dẫn một số đoạn trong những lá đơn của các chiến sỹ xe tăng hồi đó.


Ngày 18.01.1966

“...Tôi đã được nghe trên đài, trên báo và thấy rõ tội ác của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai đối với đồng bào ta ở cả hai miên Nam, Bắc. Tội ác của chúng vô cùng man rợ. Ở miền Nam chúng thực hiện âm mưu đốt sạch, giết sạch. Ở miền Bắc, chúng tiếp tục bắn phá, phá hoại công cuộc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Âm mưu của chúng ngày càng thâm độc, tội ác của chúng chồng chất cao hơn núi, dài hơn sông. Chí căm thủ hàng ngày đang nung nấu trong toàn dân cả nước và đang sục sôi trong lòng những người chiến sỹ như tôi. Vì vậy tôi không thể nào làm ngơ và ngồi yên nhìn những cảnh khổ đau của nhân dân cả nước...
Trung sỹ Vũ Ngọc Lành


Ngày 26.01.1966

"... Tôi tha thiết kính mong Đảng ủy và Thủ trưởng cấp trên giao cho tôi nhiệm vụ đi chiến đấu, ở bất cứ chiến trường nào, làm bất cứ nhiệm vụ gì, tôi cũng xin kiên quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ, dù có phải hy sinh cả tính mạng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại, để giết hết lũ giặc Mỹ, trả thù cho đồng bào ta ở cả hai miền..."
Chiến sỹ Lý Văn Dừa


Khi đọc và được nghe giới thiệu những lời tâm huyết trong tập đơn tình nguyện đi chiến đấu của 62 chiến sỹ thuộc Trung đoàn xe tăng 202, rất nhiều khách tham quan Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp xúc động rơi nước mắt. Những lá đơn viết bằng máu, thời gian đã làm phai màu nhưng trong đó chứa đựng nhiệt huyết chiến đấu sục sôi của một thời đánh Mỹ. Hàng triệu, triệu thanh niên Việt Nam đã ra trận với lòng căm thù giặc Mỹ xâm lược và ý chí quyết tâm được trực tiếp cầm súng giết giặc, giải phóng miền Nam.


Ngày 27.01.1966

"... Tôi là một quân nhân, được Đảng và Quân đội trực tiếp lãnh đạo, rèn luyện. Trước những tội ác của giặc Mỹ đã gây ra, tôi tha thiết đề nghị Đảng ủy và Thủ trưởng cho tôi đi bất cứ nơi nào, bất cứ chiến trường nào, để giết hết lũ giặc Mỹ, trả thù cho đồng bào cả nước, đố là nguyện vọng duy nhất của tôi..."
Chiến sỹ Trần Hồng Kỳ


Máu chảy ruột mềm, những người lính xe tăng không thể ngồi yên khi thấy những người dân vô tội bị giặc Mỹ giết hại. Hơn lúc nào hết, các anh muốn được chia lửa với đồng đội nơi chiến trường, được sẻ chia bớt nỗi đau của nhân dân hai miền Nam - Bắc. Trong mỗi lá đơn, chúng ta thấy như có lửa, như thấy nỗi niềm trăn trở của các anh. Các anh không sợ hiểm nguy gian khổ, không sợ hy sinh, coi việc được cầm súng chiến đấu giải phóng đất nước là thiêng liêng, là hạnh phúc, là niềm tự hào của người lính.

Chiến sỹ Lý Văn Dừa viết:

“... Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, đã từng cố truyền thống chống giặc ngoại xâm lâu đời, chưa hề biết khuất phục trước bất cứ một kẻ thù nào, vì vậy giặc Mỹ đã gây nợ máu thì nhất định phải trả bằng máu...


Chiến trường yêu cầu, những người lính xe tăng có mặt trong đoàn quân trùng trùng điệp điệp hành quân vào miền Nam chiến đấu. Các anh đã vượt Trường Sơn vào Quảng Trị, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và trên đất bạn. Chiến tranh ác liệt, những người lính đã trải qua bao gian khổ hy sinh nhưng trong họ có một niềm tin bất diệt, tin vào ngày mai đất nước thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà. Họ đã chiến đấu quên mình, bất chấp mưa bom bão đạn của kẻ thù, chịu đựng những mùa đói cơm, thiếu nước, những trận sốt rét rừng hành hạ để giành giật từng mỏm núi, khúc sông, những xóm ấp thân yêu từ tay quân thù.


Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, non sông thu về một mối, Nam - Bắc đã sum họp một nhà, trong chiến công chung đó có chiến công của những người lính xe tăng. Trong số những người lính xe tăng viết đơn tình nguyện năm xưa, có nhiều đồng chí “Đã ra đi từ đó không về”. Tên các anh đã khắc vào đá, máu của các anh đã hoà vào màu xanh của cỏ cây, sông núi, để cho dân tộc Việt Nam được mãi mãi trường tồn.


Những lá đơn xin vào chiến trường miền Nam chiến đấu của những người lính xe tăng với những dòng xúc cảm mãnh liệt trong họ đã làm thế hộ trẻ hôm nay trân trọng, cảm phục. Chân lý không ở đâu xa, hãy đọc và cảm nhận trong mỗi quyết tâm thư, ở đó có những điều bình dị nhất, chân thật nhất, lý tưởng cao đẹp nhất của người lính.


Những lá đơn tình nguyện đi chiến đấu sẽ mãi là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là thông điệp về ý chí và niềm tin sắt son của lớp trẻ Binh chủng thép anh hùng. Chúng ta nguyện cố gắng hết mình để góp phần làm cho sức sống của những quyết tâm thư đó ngày càng lan tỏa mãnh liệt và có sức sống kỳ diệu trên đất nước tươi đẹp, hòa bình.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Tám, 2021, 07:21:37 am
ĐÔI CỜ LỆNH VÀ CHIẾC MŨ SẮT CỦA LIỆT SỸ NGUYỄN BÁ CỐ


Quý Dương

(https://i.imgur.com/WY76JME.jpg)

Đây là những kỷ vật còn lại của liệt sỹ Nguyễn Bá Cố - Khẩu đội phó Khẩu đội 4, Đại đội 12 pháo cao xạ, Đoàn 510. Anh đã hy sinh trong trận chiến đấu với máy bay Mỹ bảo vệ sân bay Đa Phúc ngày 19 tháng 12 năm 1967. Đôi cờ lệnh bằng vải phin đỏ, xanh và chiếc mũ sắt do Liên Xô sản xuất, anh được trang bị sau khi tham gia huấn luyện giỏi, được giao nhiệm vụ là Khẩu đội phó Khẩu đội 4, thuộc Đại đội pháo cao xạ 57 ly Đại đội 12, Đoàn 510.


Năm 1965, sau khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam, coi đây là lực lượng chủ yếu trong các cuộc hành quân tìm diệt bộ đội chủ lực Quân giải phóng, là chỗ dựa nòng cốt cho chính quyền và ngụy quân Sài Gòn. Để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ tăng cường phong tỏa đường biển, ngăn chặn biên giới bằng hàng rào điện tử Mac Namara, mở rộng đánh phá ác liệt các tuyến đường vận chuyển chiến lược của ta bằng không quân, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa.


Sinh ra tại một làng quê trù phú ở Bắc Ninh, Nguyễn Bá Cố được học tập, rèn luyện dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Anh tự hào là người con của quê hương Kinh Bắc vốn nổi tiếng về truyền thống đánh giặc giữ nước từ ngàn xưa. Năm 1965, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, anh tạm biệt quê hương, gia đình lên đường nhập ngũ và được biên chế vào Binh chủng Thiết giáp (nay là Binh chủng Tăng thiết giáp).


Trước tình hình cả nước có chiến tranh, Đảng ủy Binh chủng Tăng thiết giáp ra nghị quyết lãnh đạo trong đó có nội dung tăng cường nhiêm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, phối hợp cùng quân dân miền Bắc đập tan nhiều cuộc tập kích bằng không quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn của miền Nam, với tư tưởng chỉ đạo "Chiến đấu phòng không là nhiệm vụ cấp thiết, phải hoàn thành tốt nhiệm vụ bắn máy bay bảo vệ mục tiêu".


Để quán triệt nghị quyết của Đảng ủy đề ra, Bộ Tư lệnh Binh chủng đã điều 6 đại đội của Trung đoàn tăng 202, 5 đại đội của Trung đoàn tăng 203, 2 đại đội pháo cao xạ tự hành 2 nòng 57 ly thực hiện nhiệm vụ mới. Các đơn vị này tập hợp thành một đơn vị lấy phiên hiệu là Đoàn 510. Cái tên Đoàn 510 có ý nghĩa sâu sắc vì đó là ngày kỷ niệm thành lập Trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội ta.


Qua hơn 1 năm làm nhiệm vụ, Đoàn 510 tham gia nhiều trận đánh với quyết tâm cao đạt thành tích xuất sắc bắn rơi 5 máy bay Mỹ và góp phần cùng các đơn vị bạn bắn rơi 10 chiếc khác.

Ngày 19 tháng 2 năm 1967, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay từ Hạm đội 7, từ Thái Lan đánh phá sân bay Đa Phúc. Tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom, đạn nổ như xé tai, khói bốc lên đen kín cả khoảng trời. Mặc cho địch điên cuồng bắn phá, Khẩu đội 4 dưới sự chỉ huy của Khẩu đội phó Nguyễn Bá Cố phối hợp chặt chẽ với dân quân Núi Đôi và các đơn vị bạn kịp thời nổ súng chiến đấu với máy bay Mỹ bảo vệ sân bay Đa Phúc. Lưới lửa phòng không của ta từ mặt đất bắn lên, bủa vây máy bay Mỹ làm chúng hoảng loạn, buộc phải phóng bom bừa bãi. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, địch đánh phá suốt 2 giờ liên tục, cán bộ, chiến sỹ Đại đội 12 đa chiến đấu dũng cảm quyết tâm không rời trận địa để bảo vệ bằng được mục tiêu.


Xung quanh trận địa pháo của Đại đội 12 đều bị trúng bom, đất bị cày xới, mảnh bom văng tứ tung. Nhiều chiến sỹ của Đại đội 12 bị thương vì mảnh bom nhưng không một ai chịu rời mâm pháo. Dưới sự chỉ huy linh hoạt, mưu trí của Khẩu đội phó Nguyễn Bá Cố, Khẩu đội 4 của anh liên tiếp nhả đạn. Nguyễn Bá Cố bị nhiều vết thương vào người, máu chảy đầm đìa nhưng anh vẫn chỉ huy đơn vị nổ súng. Lúc này, trọng trách của người chỉ huy khẩu đội không cho phép anh gục ngã. Vết thương vào chân quá nặng làm anh không thể đứng vững, anh cố gắng dựa mình vào thành công sự tiếp tục phất cờ chỉ huy chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Anh đã anh dũng hy sinh ngay bên thành công sự, đôi cờ lệnh vẫn nắm chặt trong tay.


Tấm gương chiến đấu hy sinh của liệt sỹ Nguyễn Bá Cố tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ, động viên đồng đội quyết tâm chiến đấu bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ sân bay Đa Phúc, bảo vệ những mục tiêu quan trọng của Thủ đô yêu dấu. Trước khi hy sinh, Nguyễn Bá Cố đã đề đạt nguyện vọng của mình với cấp trên được vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Ý nguyện đó của anh chưa được thực hiện nhưng chiến công của anh và đồng đội đã góp phần chia lửa cùng đồng bào miền Nam ngay trên đất Bắc thân yêu.


Với thành tích dũng cảm chiến đấu, bắn rơi máy bay Mỹ, Đại đội 12 vinh dự được Quốc hội, Chính phủ trao tặng Huân chương chiến công hạng Hai, Bộ tư lệnh Phòng không Không quân gửi thư khen ngợi và tặng danh hiệu “Cồn Cỏ đất liền".


Những di vật của liệt sỹ Nguyễn Bá Cố đang được lưu giữ và trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lực lượng Tăng thiết giáp. Anh đã đi xa, nhưng tấm gương chiến đấu quả cảm của anh sẽ còn sống mãi trong lòng lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sỹ xe tăng Việt Nam.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:45:46 pm
CHIẾN CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA BỘ ĐỘI TĂNG THIẾT GIÁP
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ QUA NHỮNG TẤM ẢNH LỊCH SỬ


Mỹ Anh

(https://i.imgur.com/FCzaHlD.jpg)

Một không gian rộng, được bài trí rất đẹp, ở đó có gian nhà mái lợp bằng lá trung quân, có cánh võng Trường Sơn đung đưa, có củ mài, củ chụp và hoa rừng bên ghế lái xe tăng... là nơi trưng bày những chiến công của đặc công cơ giới Quân giải phóng miền Nam. Nổi bật trong khung cảnh sống động đó là bức ảnh các chiến sĩ quân giải phóng miền Nam, đầu đội mũ tai bèo đứng hiên ngang trên chiếc xe tăng M41.A1 mang số hiệu 247 của Mỹ vừa thu được trong trận tập kích vào Trung đoàn Thiết giáp số 1 quân ngụy Sài Gòn ở Gò Đậu - Bình Dương. Nét mặt ai nấy còn trẻ măng nhưng nụ cười của họ biểu lộ niềm tin quyết thắng. Bên cạnh bức ảnh đó là bức ảnh Bộ tư lệnh Miền trao Huân chương Chiến công Giải phóng cho đồng chí Phùng Văn Mười - đặc công thiết giáp nằm vùng trong trung đoàn xe tăng địch.


Đồng chí Vũ Đức Hùng, nguyên là cán bộ của Bộ đội Tăng thiết giáp B2 - người đã cung cấp những bức ảnh và cũng là người tham gia việc đưa đồng chí Phùng Văn Mười về cứ, kể lại:

Để xây dựng lực lượng Thiết giáp Quân giải phóng miền Nam, từ năm 1963 đến năm 1965, Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn xe tăng 202 tổ chức huấn luyện 2 đại đội đặc công cơ giới để vào Nam chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng tăng thiết giáp B2 và nghiên cứu chiến trường phục vụ cho tác chiến hiệp đồng binh chủng sau này. Đầu năm 1963, Đại đội đặc công cơ giới 46B được cử vào chiến trường B2 (Nam Bộ và cực nam Trung Bộ) có nhiệm vụ thành lập Ban cơ giới Miền. Tháng 4 năm 1964, đoàn cán bộ Thiết giáp gồm 40 cán bộ, trưởng xe, lái xe, pháo thủ, sau khóa huấn luyện đặc biệt đã hành quân vào miền Đông Nam Bộ tăng cường cho B2, sát nhập với Trung đội cơ giới của Miền thành Đại đội cơ giới lấy phiên hiệu là C40. Tháng 3 năm 1965, Đoàn 711 gồm 228 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn tăng 202 tiếp tục vào miền Đông Nam Bộ và sát nhập với C40 thành Đoàn cơ giới Miền có phiên hiệu J16.


Thực hiện chủ trương “Lấy xe địch đánh địch”, Bộ chỉ huy Miền giao cho J16 tổ chức một số trận đánh để chiếm xe địch làm phương tiện huấn luyện bộ đội, xây dựng đơn vị thiết giáp ở B2. Ngày 18 tháng 3 năm 1966, Đại đội đặc công cơ giới C40 đánh vào Trường Thiết giáp ngụy ở Thủ Đức, lấy được 1 xe địch nhưng không đưa được ra căn cứ. Trận này, Đại đội phó Trần Nhật Chiêu hy sinh, đồng chí Cao Sinh Học bị thương nhưng đồng chí vẫn bám sát trận địa, bắn chặn địch để đồng đội rút về căn cứ an toàn.


Ngày 23 tháng 3 năm 1966, C40 gồm 38 đồng chí do Đại đội trưởng Lê Như Hoà chỉ huy, phối hợp với nội ứng, tập kích bất ngờ vào Trung đoàn Thiết giáp ngụy số 1 tại căn cứ Gò Đậu thuộc Phú Cường - Bình Dương. Trận đánh này có sự tham gia của Thiếu úy ngụy Phùng Văn Mười - Chi đội trưởng Chi đội 1 thiết giáp ngụy. Anh là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam được cài vào hàng ngũ địch, Thượng sĩ Nguyễn Văn Thắng; Trung sĩ Ngô Văn Nhất là cơ sở binh vận của ta cùng một số binh sĩ giác ngộ của chi đội 1 thiết giáp ngụy. Đúng giờ quy định, Thiếu úy Phùng Văn Mười chỉ huy một số anh em ngụy binh của chi đội 1 bất ngờ từ bên trong đánh ra, kết hợp với đặc công cơ giới của ta từ ngoài đánh vào, các chiến sĩ đặc công chiến đấu dũng cảm, đoạt được 4 xe tăng M41, 6 xe thiết giáp M113, làm chủ trận địa. Đoạt được xe tăng, xe bọc thép của địch, anh em triển khai đội hình để đưa xe ra khỏi căn cứ. Nhưng khi xe nổ máy và lăn bánh ra phía cổng đã bị địch phát hiện. Chúng tổ chức chống trả quyết liệt, gọi máy bay bắn phá vào đội hình của ta, dùng xe tăng đánh chặn. Số xe ta đoạt được của chúng hầu hết đều bị địch bắn cháy, một số thoát được cũng buộc phải hủy trên đường rút lui, chỉ còn lại một chiếc xe tăng M41.A1 số 247 do Thiếu úy Phùng Văn Mười điều khiển, thoát ra chạy về hướng Phú Giáo. Đồng chí Vũ Đức Hùng kịp thời đón xe và cùng đồng chí Phùng Văn Mười lái thẳng về chiến khu Long Nguyên.


Sau khi giao xe cho đồng chí Vũ Đức Hùng, đồng chí Phùng Văn Mười cùng các chiến sỹ khác được lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 9 đón về căn cứ. Tại Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, lễ trao tặng Huân chương Chiến công giải phóng cho anh em lập công được tổ chức trọng thể trước sự chứng kiến của các phóng viên Thông tấn xã giải phóng. Đồng chí Mười Trãi đã thay mặt cho Bộ chỉ huy quân giải phóng Miền gắn Huân chương Chiến công giải phóng cho đồng chí Phùng Văn Mười.


Từ năm 1966 - 1969, chiếc xe chiến lợi phẩm được cất giấu và bảo vệ cẩn thận, trở thành phương tiện huấn luyện đầu tiên của bộ đội thiết giáp B2. Nhiều lần địch tổ chức càn quét, cho trực thăng đổ quân xuống khu vực đóng quân của Quân giải phóng để phá hủy căn cứ của ta và truy tìm chiếc xe, nhưng chúng đều thất bại. Có lần chúng đổ quân cách nơi trú quân của ta chỉ vài trăm mét, nhưng do ta ngụy trang và đảm bảo bí mật tốt nên địch vẫn không phát hiện được căn hầm giấu chiếc xe tăng. Nhiều đồng chí đã hy sinh khi chiến đấu để bảo vệ xe. Chiếc xe M41.A1 chiến lợi phẩm được J16 không chỉ dùng huấn luyện bộ đội xe tăng mà còn tổ chức tập huấn cho nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ các binh chủng bạn như Đặc công, Công binh, Pháo binh, Bộ binh... về tính năng kỹ thuật, chiến thuật xe tăng M41 để khi tác chiến có thể vận dụng hạn chế tối đa điểm mạnh và khai thác các điểm yếu của xe tăng địch.


Tháng 9 năm 1969, Bộ chỉ huy Miền ra lệnh rút các tiểu đội đặc công cơ giới cảm tử phân tán về các đơn vị trực tiếp chiến đấu, chiếc xe tăng M41.A1 được tháo hết các trang thiết bị, súng máy, dụng cụ quang học, thông tin và chôn sâu dưới lòng đất. Phải chia tay với chiếc xe tăng đã gắn bó suốt nhiều năm trời, với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, các chiến sĩ đặc công cơ giới Miền thật sự tiếc nuối và luôn mong muốn có dịp trở lại để sử dụng chiếc xe vào chiến đấu. Sau khi được biên chế về các đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu, các cán bộ, chiến sĩ đặc công thiết giáp đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trở thành lực lượng đột kích quan trọng của Quân giải phóng trên chiến trường B2.


Chiến tranh, bom đạn tàn phá, rất tiếc chiếc xe chiến lợi phẩm năm xưa không còn nhưng bức ảnh lịch sử ghi lại chiến công ngày đó được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Đồng chí Vũ Đức Hùng cũng như các cán bộ, chiến sĩ Thiết giáp B2 năm xưa mỗi lần đến Bảo tàng thường đứng rất lâu trước những tấm ảnh kỷ niệm ngày nào. Họ nhận ra mình, nhận ra những đồng đội cũ, người còn, người mất và tự hào về chiến công của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng. 


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:47:14 pm
KỶ VẬT CỦA NGƯỜI CÁN BỘ XE TĂNG VIỆT NAM
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG LÀO


Phạm Tuấn

(https://i.imgur.com/cGcYsC2.jpg)

“Tôi là Cựu chiến binh Tăng thiết giáp tỉnh Thanh Hóa, tôi đã gắn bó với Binh chủng từ những ngày đẩu thành lập và có nhiều năm công tác tại Lào. Sau khi tham quan Bảo tàng, tôi thấy những hiện vật phản ánh về hoạt động của bộ đội Tăng thiết giáp trên chiến trường Lào cón ít quá, tôi quyết định tặng Bảo tàng một số vật dụng cá nhân của mình đã sử dụng trong thời gian tham gia chiến đấu ở nước bạn Lào...". Đó là những lời đầy tâm huyết trong bức thư của bác Đỗ Văn Xảo - nguyên là Đoàn trưởng chuyên gia xe tăng được giao nhiệm vụ sang giúp bạn Lào gửi Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Vào một ngày cuối tháng 10 năm 2005, chúng tôi đến xã Hợp Thành, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Với dáng nhanh nhẹn và phấn khỏi, người cựu chiến binh đón tiếp đoàn công tác rất chân tình, cởi mở. Như đã chuẩn bị sẵn từ trước, bác lần lượt bày lên bàn những kỷ vật của mình: cuốn sổ ghi chép bằng giấy đen tự đóng; chiếc mũ cối Trung Quốc đã bạc màu; chiếc đồng hồ; bút máy kim tinh; túi đựng mìn Claymo; 1 hòm đạn đại liên; 1 cuốn tài liệu về phong tục tập quán các bộ tộc Lào; Huân chương Chiến thắng hạng Hai. Bác cho biết, tất cả số hiện vật trên đã được bác sử dụng trong suốt thời gian làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Lào từ năm 1962 đến năm 1985. Ngoài giá trị là vật sử dụng, những kỷ vật trên còn có ý nghĩa là quà tặng của Thủ trưởng Bộ tư lệnh Thiết giáp (nay là Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp) trước lúc lên đường làm nhiệm vụ. Nâng niu và trân trọng, những kỷ vật ấy đã theo người cán bộ xe tăng đi khắp nơi trên chiến trường Lào, là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn, tạo động lực thúc đẩy bác hoàn thành nhiệm vụ... Bác trầm ngâm, nhớ lại những kỷ niệm xa xưa...


Tôi sinh năm 1934, năm 15 tuổi tôi tình nguyện gia nhập quân đội, tham gia chiến đấu chống Pháp cho đến khi hòa bình lập lại. Đầu năm 1955, tôi được chọn đi học Trường Văn hóa Quân đội tại Kiến An - Hải Phòng và là một trong số 36 cán bộ được cử đi học lớp sĩ quan chỉ huy xe tăng đầu tiên tại Trường Sĩ quan xe tăng số I - Bắc Kinh - Trung Quốc.


Năm 1960, kết thúc khóa học, lớp sỹ quan chỉ huy xe tăng của chúng tôi từ Trung Quốc về nước tham gia huấn luyện, xây dựng Trung đoàn xe tăng 202, đồng thời tham gia xây dựng và huấn luyện cấp tốc 2 trung đội xe tăng bơi và tiểu đoàn tăng hoàn chỉnh đi làm nhiệm vụ chiến đấu phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Lào. Cuối năm 1961, Ban chỉ huy Trung đoàn 202 tổ chức một tiểu đoàn xe tăng bơi sang giúp bộ đội Pa-thét Lào, đồng thời để rút kinh nghiêm chiến đấu trên chiến trường Lào cho các đơn vị thiết giáp sau này. Đại úy Trần Nam và tôi được cấp trên giao phụ trách, chỉ huy tiểu đoàn sang giúp bạn Lào.


Trước ngày lên đường sang nước bạn, Đoàn cán bộ Thiết giáp chúng tôi ai cũng lo lắng bởi lần đầu tiên sang Lào, chúng tôi không biết tiếng lại không biết phong tục, tập quán của họ biết tính sao đây? Tôi nhờ người quen tìm giúp cuốn tài liệu về phong tục tập quán của các bộ tộc Lào để nghiên cứu. May quá, trước ngày lên đường, tôi nhận được cuốn sách này. Cuốn sách đã giúp ích rất nhiều cho Đoàn cán bộ Thiết giáp chúng tôi trong suốt thời gian chiến đấu và công tác trên đất bạn Lào. Bác đưa cho chúng tôi xem cuốn sổ nhỏ tự đóng bằng giấy vở học sinh. Những dòng chữ trong cuốn sổ, mực đã phai màu nhưng nét chữ vẫn ngay ngắn thẳng hàng và dễ đọc, ghi chép khá tỷ mỷ về những ngày bác và đồng đội sống, công tác giúp bạn Lào...


Tháng 5 năm 1964, bác Đỗ Văn Xảo được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ làm: Đoàn trưởng đoàn chuyên gia quân sự sang giúp bạn Lào xây dựng đơn vị xe tăng. Cũng vào dịp này Quân tình nguyên Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào mở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum. Ngày 8 tháng 6 năm 1964, Liên quân Lào - Việt đã giải phóng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, nối liền căn cứ địa trung tâm Sầm Nưa, Bắc Nam Lào, nối lại Đường 7 với Khu 4 của Việt Nam. Quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 25.000 tên địch, thu gần 3.000 súng các loại, 112 xe tăng, xe quân sự.


Trong số chiến lợi phẩm thu được trong trận này có 21 xe tăng, xe bọc thép còn khá nguyên vẹn, bác và Đoàn cán bộ Thiết giáp Việt Nam cùng với các bạn Lào sửa chữa, khôi phục xe pháo... 21 xe tăng, xe bọc thép là cơ sở vật chất đầu tiên để xây dựng Đại đội xe tăng đầu tiên của lực lượng vũ trang Pa Thét Lào. Có xe rồi, bác và đồng đội ổn định tổ chức, mở các lớp huấn luyện chỉ huy, lái xe, pháo thủ... Bộ đội Việt Nam sát cánh cùng bạn vừa huấn luyện, vừa chiến đấu bảo vệ cách mạng Lào.


Với tư cách là chuyên gia quân sự về Tăng thiết giáp, bác đã tham mưu cho Bộ tư lệnh Miền Tây và lực lượng xe tăng Pa Thét Lào sử dụng Tăng thiết giáp trong chiến đấu, đồng thời trực tiếp chỉ huy đơn vị xe tăng của bạn tham gia chiến đấu nhiều trận ờ Mường Sủi, Bản Khai, Nậm Soong... Trong số những trận đánh phối hợp với bạn Lào, bác ấn tượng nhất là tham gia chiến dịch Cánh đồng Chum - Mường Sủi năm 1971- 1972. Bác đã ghi chép: “Từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến ngày 6 tháng 4 năm 1972, Liên quân Lào - Việt mở chiến dịch tiến công vào quân phái hữu Lào có quân Thái Lan giúp sức. Xe tăng của Liên quân Lào - Việt lần đầu tiên xuất trận... ” .


Những nội dung ghi chép ngày ấy sau này giúp bác tổng kết rút kinh nghiệm cho việc sử dụng lực lượng tăng thiết giáp trên chiến trường Lào. Còn đây là chiếc túi đựng mìn Clâymo của Mỹ. Bộ đội Pha Thét Lào thu được của địch ở Mường Sủi tặng tôi làm kỷ niệm. Nó dệt bằng sợi pha nilon bền và dai nên tôi dùng dựng tài liệu. Trong những lần cùng cán bộ Bộ tư lệnh Miền Tây và cán bộ xe tăng Lào đi trinh sát, nghiên cứu chiến trường, tôi thường sử dụng chiếc túi vải bạt đựng mìn Clâymo của Mỹ để đựng tài liệu và các dụng cụ cần thiết cho gọn nhẹ, dễ cơ động. Những chiếc túi này nhỏ, không đựng được nhiều thứ, ở căn cứ tôi có chiếc thùng đựng đạn đại liên này. Những tài liệu quan trọng tôi đựng trong thùng đạn đại liên. Đây là chiếc “két sắt đặc biệt” nhiều tác dụng, dễ vận chuyển, có thể chịu được mưa nắng, khi cần thiết có thể giấu dưới nước mà tài liệu vẫn không bị ướt...


Năm 1978, tình hình trên nhiều tuyến biên giới của nước ta rất căng thẳng, trong khi đó ở Lào có nhiều nhóm thổ phỉ nổi dậy, lực lượng cách mạng Lào yêu cầu Quân tình nguyện Việt Nam sang giúp đỡ. Lúc này bác Đỗ Văn Xảo đang giữ chức Phó hiệu trưởng trường Kỹ thuật Thiết giáp phía Nam và được điều về Binh đoàn Quân tình nguyện. Trong buổi gặp mặt giao nhiệm vụ, đồng chí Đào Huy Vũ - Tư lệnh Binh chủng nói: “Chiến tranh điều đồng chí ra mặt trận, hòa bình điều đồng chí về trường, nay có chiến tranh lại điều đồng chí ra mặt trận, Bộ và Binh chủng điều đồng chí về Binh đoàn Quân tình nguyện... Tiếp đó, đồng chí Đào Văn Xuân - Phó Chính ủy Binh chủng thay mặt Bộ tư lệnh tặng bác Xảo quà kỷ niệm gồm: chiếc mũ cối Trung Quốc; đôi dép cao su; chiếc bút máy kim tinh, với lời chúc: “Mũ để che mưa nắng, dép để đạp chông gai nơi trận mạc, bút để viết báo cáo thành tích với Binh chủng". Những tặng phẩm trên trở thành những kỷ vật quý giá trong suốt quá trình công tác của bác Xảo, là nguồn cổ vũ, là lời nhắc nhở phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi khi sử dụng chúng, bác lại bồi hồi xúc động bởi chính tặng phẩm đó đã đánh dấu bước chuyển biến trong cuộc đời Binh nghiệp của mình: Tại Binh đoàn Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, bác Xảo được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Tác chiến B, sau đó về nước công tác tại Phòng C - Phòng Chiến trường - Bộ Tổng tham mưu và về nghỉ hưu năm 1992.


Sau khi trao tặng hiện vật cho cán bộ Bảo tàng, giọng nói của người cán bộ xe tăng gan góc, dũng cảm năm xưa bỗng như chùng hẳn xuống: "Phần lớn cuộc đời binh nghiệp của tôi gắn bó với chiến trường Lào. Nay, tôi đã 73 tuổi, mỗi khi nhìn lại những vật dụng đã gắn bó máu thịt với mình trong suốt những năm chiến tranh ác liệt trên đất Lào, tôi càng nhớ đến Binh chủng Thiết giáp, càng thêm yêu quý, trân trọng những tặng phẩm của Thủ trưởng Binh chủng năm xưa. Tôi cổ ý định giữ gìn những kỷ vật này cho đến cuối đời, nhưng hôm nay tôi giao lại chúng cho Bảo tàng và hy vọng những vật dụng nhỏ bé của mình cố thể góp phàn làm phong phú thêm phần trưng bày hiện vật về giai đoạn làm nhiệm vụ quốc tế của bộ đội Tăng thiết giáp Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 08:02:48 pm
MẮT XÍCH VÀ BÁNH CHỊU NẶNG XE PT-76
DẤU ẤN CỦA MỘT CUỘC HÀNH QUÂN LỊCH SỬ


Đình Quang

(https://i.imgur.com/jux5Tnt.jpg)

Có những hiện vật không gây ấn tượng mạnh như những cỗ xe, khẩu pháo hay thanh gươm, quả đạn, nhưng để lại trong lòng khách thăm quan những tình cảm sâu đậm và ấn tượng, bởi nó là chứng tích của những trận chiến oai hùng, hàm chứa những giá trị cao đẹp của người lính đã hóa thân vào cuộc chiến.


Chiếc bánh chịu nặng và mắt xích xe PT-76 trong gian trưng bày về trận đầu ra quân đánh thắng của Bộ đội Tăng thiết giáp là một hiện vật như thế. Những mắt xích đã mòn vẹt, cong vênh; chiếc bánh chịu nặng đã vỡ hết phần cao su giảm chấn, còn trơ lại vành thép cứng ấy, chính là dấu ấn của một cuộc hành quân lịch sử, cuộc hành quân bằng xích vượt hàng ngàn km của Tiểu đoàn tăng 198, Trung đoàn xe tăng 203, Binh chủng Thiết giáp năm xưa (nay là Binh chủng Tăng thiết giáp).


Ngày 20 tháng 1 năm 1968, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của Quân giải phòng miền Nam vào tuyến phòng ngự vững chắc của quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn trên đường 9 từ Cửa Việt đến biên giới Việt Nam - Lào, trong đó khu vực Khe Sanh là hướng chính. Địch có mặt trên toàn tuyến là 45.000 quân, riêng Khe Sanh có 6.000 quân, tập trung Trung đoàn 26 lính thuỷ đánh bộ Mỹ và Tiểu đoàn 37 biệt động quân Sài Gòn. Chiến dịch chia làm 4 đợt (đợt 1, quân ta tiêu diệt các cứ điểm phía tây trong đó có Làng Vây).


Bộ đội Thiết giáp lần đầu tiên xung trận, tham gia chiến dịch Khe Sanh với nhiệm vụ tiến công 2 cứ điểm Tà Mây - Làng Vây. Bộ Tư lệnh Thiết giáp (nay là Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp) đã giao nhiệm vụ cho Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 thuộc Trung đoàn xe tăng 203 đảm nhiệm trọng trách này. Mỗi đại đội được trang bị 11 xe với đầy đủ khí tài và biên chế thành 1 Tiểu đoàn tăng (thiếu) mang phiên hiệu 198, do đồng chí Hà Tiến Tuân làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Võ Đình Tấn làm Chính tri viên.


Sau 9 năm thành lập, củng cố và xây dựng lực lượng, niềm khát khao cháy bỏng của bộ đội xe tăng là được tham gia chiến đấu, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt. Vì thế, như nắng hạn gặp mưa, như sức bật của lò so không còn dồn nén cán bộ, chiến sĩ xe tăng vui như mở hội, ngày đêm chuẩn bị xe, máy, quên ăn, quên ngủ, háo hức chờ đến ngày làm lễ xuất quân lên đường ra trận, nung nấu quyết tâm giết giặc lập công.


Ngày 01 tháng 10 năm 1967, Tiểu đoàn tăng 198 được lệnh hành quân bằng xích từ Lương Sơn - Hòa Bình vào Nam theo các trục đường: số 6; 12A; 15A; 8; 21; 15B; 20; 128... hầu hết các cung, chặng đường hành quân là những con đường chiến lược, mới mở dọc dải Trường Sơn trùng điệp, men theo các triền núi, vượt qua nhiều đèo cao, sông rộng, nhiều đoạn đường cheo leo hiểm trở, một bên là vách đứng, một bên là vực sâu, đường hẹp chỉ đủ cho một xe đi, có đoạn dài 72 km nhưng có tới 911 khúc cua gấp. Đường cơ động đã muôn vàn khó khăn, lại phải hành quân dưới làn mưa bom, bão đạn của kẻ thù, sự khốc liệt ấy đã làm hạn chế tốc độ cơ động của xe tăng và thường gây ra những hỏng hóc ở bộ phận hành động, hầu hết các xe đều trong tình trạng bánh chịu nặng vỡ hết phần cao su giảm chấn, chỉ còn trơ bánh thép, chốt xích bị mòn vẹt, cong vênh, mắt xích gãy vú, rạn nứt, có xe không còn khả năng cơ động.


Không thể có khí tài thay thế, mà yêu cầu của chiến dịch ngày càng gắt gao. Làm thế nào để đưa xe vào vị trí chiến đấu đúng thời cơ và yêu cầu của chiến dịch? Để trả lời câu hỏi đó, các chiến sỹ Tiểu đoàn 198 đã có sáng kiến tháo rời từng mắt xích, chọn những mắt còn dùng được chuyển từ dải xích bên trái qua dải xích bên phải hoặc ngược lại, lắp xen kẽ những mắt xích vỡ với những mắt xích lành. Với cách làm đó, Đại đội tăng 3 đã dành được 200 mắt xích lành cho Đại đội 9 hành quân xa hơn.


Mặc dù đường dài, địa hình và thời tiết phức tạp, lại bị địch đánh phá thường xuyên, nhưng với ý chí quyết tâm cao, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn tăng 198 đã vượt mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ hành quân. Ngày 21 tháng 12 năm 1967, Đại đội tăng 3 vượt 931 km tới vị trí tập kết ở Nậm Khang, Đại đội tăng 9 vượt 1350 km tập kết tại Ha Xinh - Ta Xinh ở phía nam Đường 9.


Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã góp phần tạo yếu tố bất ngờ và điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta ở các chiến trường khác trên toàn miền Nam, trước hết là trị Thiên - Huế thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân năm 1968. Trong chiến công đó có sự đóng góp không nhỏ của những người lính xe tăng. Để có được thành công đó phải ghi nhận chính từ cuộc hành quân hoàn toàn bằng xích của Tiểu đoàn tăng 198.


Cuộc hành quân hoàn toàn bằng xích của Tiểu đoàn tăng 198 là một cuộc hành quân chiến đấu mang tính lịch sử của Binh chủng Thiết giáp, có một không hai trên thế giới. Thắng lợi của cuộc hành quân là yếu tố quan trọng góp phần vào thắng lợi giòn giã của bộ đội Thiết giáp trong trận đầu ra quân đánh thắng. Vinh dự là một trong những lực lượng quan trọng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lịch sử, Tiểu đoàn tăng 198 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang.


Thắng lợi của cuộc hành quân đầy cam go khốc liệt ấy là thắng lợi của ý chí, quyết tâm sắt đá; hành động dũng cảm, kiên cường và tinh thần đoàn kết, sáng tạo. Đó là nét đặc trưng của Binh chủng kỹ thuật chiến đấu, là một trong những yếu tố căn bản để hun đúc nên truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp anh hùng trong suốt 50 năm qua.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 08:03:41 pm
CON THUYỀN CHỞ NHỮNG CHIẾN CÔNG


Vũ Ngọc - Kim Thanh

(https://i.imgur.com/GDmpxjL.jpg)

Phòng trưng bày chuyên đề “Đã ra quân là đánh thắng" của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp có một hiện vật không thuộc nhóm vũ khí nhưng lại được nhiều khách tham quan chú ý, đó là chiếc thuyền độc mộc của bà con dân tộc xã Thuận - Hướng Hóa - Quảng Trị. Con thuyền này đã giúp bộ đội xe tăng lập chiến công hiển hách ở Làng Vây mùa xuân năm 1968.


Làng Vây là một ấp nhỏ thuộc xã Thuận (Nay là xã Tân Long) nằm trên trục Đường 9, cách Lao Bảo không xa. Để xây dựng căn cứ, Mỹ - nguỵ đã dồn bà con dân tộc Vân Kiều, Pa-Cô vào các khu tập trung. Từ năm 1966, Làng Vây đã trở thành một cứ điểm mạnh của Mỹ - nguỵ với chiều dài 1000m, rộng 600m, chia làm 4 khu do 4 đại đội biệt kích ác ôn khét tiếng chốt giữ. Trung tâm của căn cứ có sở chỉ huy, khu cố vấn Mỹ. Quân địch thường xuyên có mặt ở cứ điểm khoảng 600 tên, với 30 cố vấn Mỹ chỉ huy, lúc cao nhất địch huy động tới cả ngàn tên để bảo vệ căn cứ.


Được nhận nhiệm vụ tiến công cứ điểm Làng Vây, các cán bộ chỉ huy cấp trên và Tiểu đoàn xe tăng 198 đã đi trinh sát nhiều lần. Tập trung nghiên cứu địa hình, xác định hướng tiến công, chọn đường cơ động và giao nhiệm vụ tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng tại thực địa. Theo kế hoạch tác chiến, trên hướng tiến công chủ yếu Đại đội 9 (Tiểu đoàn tăng 198) có nhiệm vụ phối hợp cùng Tiểu đoàn bộ binh 3 (Trung đoàn 1, Sư đoàn 325) cơ động dọc sông Xê-pôn, từ hướng Nam tiến công lẽn cứ điểm Làng Vây.


Sông Xê-pôn bắt nguồn từ vùng Aphoan-Achem (Thừa Thiên - Huế). Sau khi đã uốn lượn, len lỏi giữa núi rừng phía tây Thừa Thiên, Xê-pôn chảy vào Hướng Hóa ôm lấy xã Miền, rồi ngang qua các xã: Avao, Asinh, Achu, Adơi, Xi, Thanh, Thuận, tiếp tục ngược về Lao Bảo rồi đổ ra sông Sê Băng Hiên trên đất Lào. Đoạn chảy qua làng Vây, Xê-pôn nhỏ, hẹp, quanh co, lòng sông đầy đá hộc, hai bên bờ dốc dựng đứng. Để chuẩn bị cho xe tăng cơ động, từ ngày 19 tháng 1 năm 1968, cán bộ Đại đội tăng 9 đã bao lần cùng cán bộ đơn vị Công binh bí mật thăm dò lòng sồng Xê-pôn. Các chiến sĩ Công binh đã nhiều lần bơi lặn trong dòng nước lạnh buốt để đo mực nước nông sâu, đánh dấu các khu vực có đá ngầm và phá những tảng đá to trên quãng sông nước cạn.


Trong khi bộ đội ta khẩn trương chuẩn bị chiến trường thì du kích và bà con các dân tộc Pa-Cô, Vân Kiều ở Hướng Hóa cũng thi đua “giết giặc lập công” theo cách riêng của mình. Một lòng với Đảng, với Bác Hồ, bà con xã Thuận đã đoàn kết một lòng cùng nhau giữ bí mật, che chở bộ đội, cất giấu xe tăng. Người dân nơi đây từng bị kẻ thù gieo bao đau thương, tang tóc, nay thấy bộ đội về đánh giặc ở Làng Vây, đồng bào thấy ưng cái bụng, ai cũng mong được góp sức mình vào cuộc chiến đấu có ý nghĩa này.


Đại đội tăng 9 tập kết chiến đấu ở nơi sát gần địch, mọi hoạt động của đơn vị nếu không tính toán chi tiết và cụ thể sẽ bị lộ. Đặc biệt là việc nạp bình điện của xe tăng. Đây là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp, địa điểm nạp điện ở xa, phương tiện chuyên chở phù hợp với địa hình ở đây hầu như không có, máy bay địch lại bắn phá ngày đêm. Trong điều kiện đó, bà con dân tộc Vân Kiều đã sử dụng những chiếc thuyền độc mộc giúp bộ đội xe tăng chuyên chở bình điện vượt sông Xê-pôn sang bờ sông phía tây để nạp điện. Khi được trên bổ sung một số vật tư cần thiết như mắt xích, bánh chịu nặng những con thuyền độc mộc của bà con Vân Kiều lại lao đi bất kể đêm hôm mưa rét, đồng bào còn dùng cả đòn khiêng, gùi vận chuyên vật tư, khí tài đến tận từng chiếc xe tăng. Với ý chí quyết tâm cùng với sự giúp đỡ tận tình của nhân dân địa phương, bộ đội xe tăng đã đưa toàn bộ bình điện đi nạp, giữ được bí mật an toàn, bảo đám tốt cho đơn vị chiến đấu khi thời điểm tiên công cứ điểm Làng Vây sắp đến, đã xảy ra tình huống: Do ban đầu ta dự đoán địch xây dựng công sự chủ yếu bằng gỗ, đất nên cơ số đạn pháo của xe tăng mang theo chủ yếu là đạn nổ phá. Sau khi trinh sát lại mới biết: nhiều lô cốt, hầm ngầm của địch ở Làng Vây, bọn Mỹ - ngụy đã xây dựng bằng bê tông cốt thép; Tiểu đoàn tâng 198 đã có sự điều chỉnh kịp thời: phải thay đổi phần lớn đạn nổ phá bằng đạn xuyên, nhằm phát huy sức mạnh hỏa lực để tiêu diệt các lô cốt bê tông kiên cố của địch. Đây là công việc khó khăn, nguy hiểm. Bộ đội xe tăng lại được người dân Hướng Hóa nhanh chóng giúp đỡ, những con thuyền độc mộc đêm đêm ngược xuôi dòng Xê-pôn đưa đạn xuyên vào, chuyển đạn nổ phá ra. Do sự phối hợp chặt chẽ và chính xác giữa bộ đội và nhân dân những quả đạn pháo xe tăng được nguỵ trang khéo léo nằm im dưới lòng thuyền ban đêm chuyển đi nhanh chóng, bảo đảm bí mật và an toàn tuyệt đối.


17 giờ ngày 6 tháng 2 năm 1968, trận tiến công cứ điểm Làng Vây bắt đầu. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, xe tăng ta phát huy sức mạnh đột kích, dũng mãnh lao lên vượt qua cửa mở, bắn sập các lô cốt đầu cầu, nhanh chóng thọc sâu, chia cắt đè bẹp sức kháng cự của địch, dùng hỏa lực và uy lực mạnh chi viện đắc lực cho bộ binh tiêu diệt các hỏa điểm, đánh chiếm các mục tiêu. Đến khoảng 3 giờ ngày 7 ngày 2 năm 1968, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, cứ điểm Làng Vây hoàn toàn bị tiêu diệt. Đánh thắng trận Làng Vây là chiến công đầu chói lọi của bộ đội xe tăng, mở ra trang sử vàng truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của Binh chủng “thép ” Anh hùng.


Người dân Vân Kiều, Pa-Cô luôn có tấm lòng sắt son với Đảng với cách mạng, được chứng kiến cứ điểm Làng Vây, cứ điểm mạnh trên tuyến phòng thủ đường 9 của địch đã bị quân giải phóng đánh tan, nhân dân Hướng Hóa vô cùng phấn khởi. Những con thuyền độc mộc của nhân dân các dân tộc Hướng Hóa, Quảng Trị đã vượt thác ghềnh sông Xê-pôn chở đạn giúp bộ đội xe tăng đánh trận, sau đó cùng với chủ nhân của nó lại trở về với cuộc sống mới trên quê hương giải phóng... Mấy năm gần đây Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ, nhân viên về lại chiến trường xưa sưu tầm hiện vật lịch sử, gặp những người đã trực tiếp giúp bộ đội xe tăng ra quân đánh thắng trận đầu như ông Hồ A Nhưa, Hồ A Mang... và đã sưu tầm được nhưng hiện vật thấm đượm tình quân dân. Cuối năm 2007, đại diện Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc huyện Hướng Hóa đã đưa chiếc thuyền độc mộc đến tặng Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp. Từng vẫy vùng với sông nước Xê-pôn nay chiếc thuyền độc mộc vật dụng quan trọng của bà con Vân Kiều, Pa-Cô đã vượt hàng trăm km về với thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Tĩnh lặng và bình thản chiếc thuyền độc mộc ấy được đặt tại vị trí trang trọng trong Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Chế tác thuyền độc mộc là một trong những nét văn hóa đặc sắc của người Vân Kiều. Thuyền độc mộc được làm bằng cả một thân cây gỗ lớn. Con thuyền có mặt ở Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp dài 8,9m, màu nâu gụ. Theo lời kể của chủ nhân chiếc thuyền đây là tài sản quý giá bao đời nay của gia đình, nó không chỉ là phương tiện làm ăn sinh sống trên sông, mà còn giúp chuyên chở cán bộ, chiến sỹ thương bệnh binh qua sông, tiếp tế lương thực cho bộ đội trong những năm kháng chiến... Điều đặc biệt là trên mình chiếc thuyền này còn hằn sâu những vết tích của một thời chiến tranh với những lỗ thủng do bom đạn Mỹ gây nên, đồng bào Vân Kiều đã vá lại bằng những miếng hợp kim lấy từ xác máy bay Mỹ đã bị quân dân Hướng Hóa bắn rơi.


Được ngắm con thuyền một thời “chia lửa” và lập chiến công với bộ đội xe tăng, khách thăm quan cảm nhận sâu sắc hơn về tấm lòng của người Vân Kiều và nhân dân các dân tộc Hướng Hóa đối với Đảng, với Quân đội nói chung và với Bộ đội Tăng thiết giáp nói riêng. Đúng như lời phát biểu của Thiếu tướng Vũ Bá Đăng - Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp trong buổi lễ tiếp nhận hiện vật lịch sử: "Được sự giúp đỡ của đồng bào các dân tộc huyện Hướng Hóa, Tiểu đoàn tăng 198 đã đánh thắng trận đầu tại Tà Mây - Làng Vây, chiến công mở đầu chữ truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng. Hiện vật quý giá này chính là bài học lịch sử sống động, giáo dục cán bộ, chiến sỹ hôm nay và mai sau về tình đoàn kết gắn bó giữa bộ đội Tăng thiết giáp và đồng bào các dân tộc Hướng Hóa nói riêng và nhân dân cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc".


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 08:04:19 pm
CHIẾC SÀO ĐẨY VÀ MẢNH DÙ PHÁO SÁNG


Tuấn Bảo

(https://i.imgur.com/3lEPTDN.jpg)

“Trước đây, chúng tôi luôn nghĩ rằng, Bộ đội xe tăng Việt Nam chỉ chiến đấu bằng những vũ khí kỹ thuật hiện đại những cỗ xe tăng bằng thép. Nhưng khi tới đây, tôi đã rất bất ngờ vì ngoài vũ khí tối tân, hiện đại. Bộ đội xe tăng của ta còn sử dụng cả những phương tiện rất thô sơ, gần gũi với cuộc sống hàng ngày để đánh Mỹ...”. Đó là những lời tâm sự chân thành, xúc động của một đại biểu đoàn cán bộ, nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, khi tới thăm Bảo tàng lực lượng Tăng Thiết giáp nhân dịp kỷ niệm 35 năm chiến thắng Tà Mây - Làng Vây (07.02.1968 - 07.02.2003) ngày ra quân đánh thắng trận đầu của Bộ đội Tăng Thiết giáp Việt Nam. Điều tạo nên những bất ngờ trong lòng vị khách ấy chính là chiếc sào đẩy và mảnh dù pháo sáng, những vật dụng đơn sơ được bộ đội xe tăng và công binh sử dụng để tạo nên yếu tố bất ngờ trong trận đánh lịch sử của mình.


Sau khi tiêu diệt cứ điểm Tà Mây, Tiểu đoàn tăng 198 nhận lệnh phối thuộc với các đơn vị bạn tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây - một trong những cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ Đường 9 của Mỹ - nguỵ. Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định tiến công làng Vây theo ba hướng: Hướng Tây (hướng Đường 9) là hướng thứ yếu, lực lượng tham gia gồm có: Đại đội Tăng 3 (được trang bị 11 xe tăng bơi) phối thuộc với Trung đoàn 24 - Sư đoàn 304; hướng Bắc là hướng phối hợp; và hướng Nam (hướng theo dòng chảy sông Xê-Pôn) đây là hướng được lựa chọn là hướng tiến công chủ yếu.


Đại đội tăng 9 có nhiệm vụ tiến công trên hướng Nam, muốn triển khai đội hình xuất phát tiến công, đại đội phải cơ động dọc theo dòng sông Xê-Pôn, tập kết tại làng Troài, từ đó xung phong chiếm lĩnh trận địa, thực hành đột phá và thọc sâu vào các mục tiêu chủ yếu trong cứ điểm. Sở dĩ như vậy, vì về mặt địa hình sông Xê-Pôn là một con sông nhỏ hẹp, quanh co, lòng sông đầy đá hộc, bờ sông dốc đứng là vật cản thiên nhiên gây trở ngại lớn cho hoạt động của các loại xe chiến đấu; địch không thể ngờ ta có thể dùng xe tăng tiến công từ hướng này.


Sau khi nhận lệnh, từ ngày 19 tháng 01, các chiến sĩ Đại đội tăng 9 đã phối hợp với lực lượng công binh bí mật thăm dò lòng sông, xác định đường, bến, phương án lái trên sông... và đề ra các biện pháp khắc phục vật cản để xe tăng cơ động chiến đấu. Trong quá trình cơ động theo dòng sông, để hạn chế giờ nổ máy và hạn chế tiếng ồn, các chiến sĩ Đại đội tăng 9 đã sử dụng những chiếc sào để đẩy xe tăng trôi theo dòng chảy, đợi khi pháo binh ta nổ súng thực hành giai đoạn hỏa lực chuẩn bị mới cho xe nổ máy, dùng vòng quay thấp cho xe tăng bơi đến làng Troài. Khi xe tăng cơ động nổ máy bơi theo dòng sông, lực lượng công binh đã xếp hàng, khoác những mảnh dù pháo sáng và ngâm mình dưới dòng nước giá buốt, làm cọc tiêu sống chỉ đường cho xe tăng không mắc cạn và tránh đá ngầm. Đến 22 giờ ngày 6 tháng 2, Đại đội tăng 9 đã bí mật, an toàn bơi xuôi theo dòng sông Xê-pôn vào tuyến điều chỉnh cuối cùng tại làng Troài, sẵn sàng chờ lệnh chiến đấu.


Đúng 23 giờ 25 phút ngày 6 tháng 2 năm 1968, xe tăng trên các hướng được lệnh xung phong, với sức đột kích mạnh, xe tăng cùng bộ binh thực hành đột phá, thọc sâu, chia cắt, tiêu diệt địch và nhanh chóng làm chủ trận địa.


Trận đánh Làng Vây là trận hiệp đồng binh chủng đầu tiên có xe tăng tham gia chiến đấu, giành thắng lợi giòn giã. Trong đó, "bí mật bất ngờ” là yếu tố quan trọng dẫn tới thành công.

Chiến thắng Tà Mây - Làng Vây là chiến công đầu chói lọi, mở ra trang sử vàng truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội xe tăng. Chiến thắng ấy đã đi vào lịch sử và sẽ còn sống mãi; những hiện vật của trận chiến ấy, như chiếc sào đẩy, mảnh dù pháo sáng, sẽ mãi được trân trọng lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp như là minh chứng đầy đủ nhất cho lòng dũng cảm, sự sáng tạo và ý chí quyết tâm ra quân đánh thắng trận đầu của những người chiến sĩ xe tăng Việt Nam Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:23:20 pm
CỜ “QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC”
CẮM TRÊN XE TĂNG 565

Vũ Thị Sen

(https://i.imgur.com/8rDqUBm.jpg)

“Đã gần 40 năm trôi qua, nhưng với tôi, trận Làng Vây như vừa mới diễn ra; vẫn còn đó khí thế hừng hực của trận đầu ra quân, niềm vui của các cán bộ, chiến sĩ khi quân ta làm chủ cứ điểm Làng Vây ngày 7 tháng 2 năm 1968...". Đó là tâm sự của đồng chí Ngô Xuân Nghiêm, nguyên Đại đội trưởng Đại đội tăng 9, Tiểu đoàn tăng 19, Trung đoàn 203.


Chúng tôi về gặp ông ở thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình vào một buổi chiều hè. Năm nay, tuy đã ngoài 70 tuổi nhưng ông còn khỏe mạnh, đặc biệt ông có sự minh mẫn và trí nhớ tuyệt vời. Với giọng sang sảng của người chỉ huy năm xưa, ông bắt đầu kể với chúng tôi câu chuyện về trận đánh làng Vây và lá cờ cắm trên xe 565 - chiếc xe dẫn đầu đội hình tung hoành trên căn cứ Làng Vây năm ấy.


Mùa xuân năm 1968, cùng với khí thế sục sôi của cả nước trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 - Tiểu đoàn tăng 198 - thuộc Trung đoàn 203 có vinh dự đưa xe tăng tham gia chiến đấu tiêu diệt cụm cứ điểm Tà Mây - Làng Vây trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Trước khi xuất quân, chúng tôi có một thời gian ngắn để làm công tác chuẩn bị xe pháo, đạn dược và đồ dùng trang bị. Không thể diễn tả được tâm trạng của chúng tôi ngày ấy. Cả đơn vị náo nức khác thường, ai cũng có tâm trạng hồi hộp, háo hức mong cho nhanh đến ngày xuất quân. Rồi điều đó cũng đã đến. Tôi nhớ mãi hình ảnh buổi lễ xuất quân ngày ấy. Hôm đó không khí thật trang nghiêm, dưới là cờ Tổ quốc, chúng tôi ăn mặc chỉnh tề đứng sắp hàng ngay ngắn chờ lệnh. Đồng chí Chính ủy Binh chủng Lê Ngọc Quang trao lá cờ “Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” cho chúng tôi và dặn dò: “Đây là trận đầu tiên nên các đồng chí nhất định phải đánh thắng". Những cánh tay rắn chắc của chúng tôi giơ cao, tất cả đồng thanh hô quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.


Ngày 1 tháng 10 năm 1967, đơn vị chúng tôi bắt đầu hành quân từ Lương Sơn - Hòa Bình vào chiến trường Quảng Trị. Chúng tôi tạm biệt miền Bắc thân yêu, hành quân ra trận với nung nấu mong được lập công. Sau hơn 2 tháng hành quân bằng xích, vượt hơn 1 ngàn km, đơn vị đã tập kết an toàn tại Ha Xinh - Ta Xinh để chờ lệnh chiến đấu.


Ngày 24 tháng 1 năm 1968, các đơn vị bạn đã tiêu diệt các cứ điểm phía tây, giải phóng Tà Mây. Theo kế hoạch tác chiến, Tiểu đoàn 198 phối hợp với các đơn vị bạn tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây. Đây là một cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ của ngụy tại Đường 9 - Khe Sanh. Đại đội tăng 9 do tôi trực tiếp chỉ huy nhận lệnh tiến công Làng Vây theo hướng Nam, dọc theo sông Xê-pôn. Đây là hướng đột phá chủ yếu. Anh em trong toàn đơn vị đã có nhiều sáng kiến, khắc phục khó khăn đưa được xe tăng đến vị trí tập kết tại Pê Sai cách căn cứ Làng Vây 3 km mà vẫn đảm bảo được bí mật tuyệt đối.


Lá cờ của đồng chí Chính ủy Binh chủng Lê Ngọc Quang trao trước giờ xuất quân có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là niềm tin, là sự khích lệ chúng tôi lập công trong trận đầu ra quân. Trước khi bước vào trận đánh, cả Đại đội tăng 9 xếp thành hàng chào cờ. Tôi vinh dự được cầm lá cờ trịnh trọng cắm lên cột ăng ten trên tháp pháo xe tăng 565 và đi trên chiếc xe đó chỉ huy đơn vị. Chúng tôi quy định lá cờ là tín hiệu hiệp đồng, là hiệu lệnh xung phong của toàn đơn vị.


Đúng 17 giờ ngày 6 tháng 2 năm 1968, quân ta nổ súng tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, từ các hướng xe tăng hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn. Đại đội tăng 9 đột phá trên hướng chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt Sở chỉ huy của địch tại Làng Vây. Theo phương án chiến đấu, xe tăng của Đại đội trưởng khi xung trận đi giữa đội hình để quan sát và chỉ huy, nhưng thực tế khi vào trận đánh, do tình hình có nhiều thay đổi, chúng ta không giữ được đội hình theo phương án chiến đấu. Các xe đi trước đã bị bắn hỏng, xe đại đội trưởng vượt lên hạ lệnh cho các xe khác tiếp tục tiến công. Trận đánh diễn ra vào ban đêm, trên trời máy bay địch thả pháo sáng, dưới mặt đất các thùng chứa nhiên liệu bốc cháy làm cho trận địa sáng như ban ngày. Chiếc xe tăng 565 với lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng tung hoành trên cứ điểm là sự cổ vũ động viên bộ đội ta và đó cũng là lời tuyên chiến với quân thù. Vì nhìn rõ đội hình tiến công của ta nên quân địch cứ nhằm chiếc xe chỉ huy có cắm cờ mà nã đạn. Đã hai lần xe bị trúng đạn thù, lần thứ nhất là tại cửa mở, một quả đạn pháo đã bắn thủng thân xe làm 2 chiến sĩ bị thương, lần thứ 2 khi xe đang dũng mãnh tiến gần vào trung tâm cột cờ trong cứ điểm Làng Vây thì bị trúng một quả đạn chống tăng và bốc cháy, cả kíp xe đã dũng cảm, kịp thời dập lửa cứu xe và tiếp tục chiến đấu. Trong thời khắc ác liệt đó, chúng tôi ai cũng hiểu rằng xe 565 bị bắn nhiều như vậy vì xe có cắm cờ, nhưng anh em vẫn quyết tâm dù phải hy nhưng không thể hạ lá cờ xuống, vì đó là biểu tượng ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta trong trận đánh này.


Đến 3 giờ sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, quân ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm Làng Vây, lá cờ quyết chiến quyết thắng cùng với Tiểu đoàn 198 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong trận đánh đầu tiên, lá cờ đã bị rất nhiều vết đạn của địch xuyên thủng. Kể đến đây ông xúc động ngừng lại giây lát rồi nói tiếp:

“... Để lá cờ tung bay trong suốt trận đánh, chúng tôi đã phải đánh đổi bằng máu xương của đồng đội. Trận đánh Làng Vây năm xưa đã trở thành một phần ký ức không thể phai nhòa trong tôi. Đôi lần, tôi cùng đồng đội cũ trỏ lại chiến trường xưa, nhìn từng gốc cây, con suối, tôi không khỏi xúc động. Tôi nhớ buổi lễ xuất quân khỉ nhận lá cờ Quỵết chiến Quyết thắng, nhớ những gương mặt của đồng đội trong kíp xe tăng 565, nhớ đến chiến công kỳ diệu của Bộ đội Tăng thiết giáp trong trận đầu ra quân...


Đã cuối giờ chiều, chúng tôi chia tay với ông, ra về mang theo những ký ức, kỷ niệm một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", và những mong gửi gắm những lời tâm huyết của người Đại đội trưởng ở chiến trường Làng Vây năm xưa, đến các thế hệ cán bộ, chiến sĩ xe tăng hôm nay.


Ngày mai, trở lại với công việc thường nhật của mình là một hướng dẫn viên Bảo tàng, với lòng khâm phục và tự hào về thế hệ cha anh đi trước, tôi sẽ kể lại câu chuyện xúc động về lá cờ cắm trên xe tăng giải phóng cứ điểm Làng Vây cho khách tham quan và cho đông đảo những người lính trẻ, thế hệ kế tục sự nghiệp của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:27:12 pm
CUỐN ĐIỀU LỆ ĐẢNG VÀ ĐỒNG TIỀN THẤM MÁU


Vũ Thị Sen - Lê Hải Minh

(https://i.imgur.com/cqCRyCi.jpg)

“Đã mấy chục năm nay, tôi chỉ mong có được một tấm hình hay một di vật của chồng để thờ cúng, lưu lợi cho con cháu. Đến đây tôi cảm nhận được tình đồng đội, đồng chí cao quý làm sao, tôi xin gửi lại di vật này cho Bảo tàng để chồng tôi mãi mãi được ở lại với đồng đội của mình”. Đó là những lời tâm sự đầy nước mắt của chị Nguyễn Thị Bềnh, vợ liệt sĩ Nguyễn Tiến Chén, khi đồng chí Tư lệnh Đoàn Sinh Hưởng trao lại những di vật của liệt sĩ Nguyễn Tiến Chén cho chị trong cuộc gặp mặt cựu chiến binh Tiểu đoàn tăng 198 năm 2002.


Kể từ ngày đó, đồng tiền thấm máu và cuốn Điều lệ Đảng - những di vật còn lại của liệt sĩ Nguyễn Tiến Chén được Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp trân trọng lưu giữ và trưng bày. Để mỗi dịp đến thăm bảo tàng, khách tham quan lại được nghe một câu chuyện kể xúc động về người lính xe tăng một lòng kiên trung với Đảng, giàu lòng nhân ái, giản dị trong cuộc sống; thông minh, sáng tạo trong công tác, mưu trí dũng cảm trong chiến đấu.


Mùa Xuân năm 1968, bộ đội Thiết giáp lập công xuất sắc trong trận đầu ra quân đánh thắng tại Tà Mây - Làng Vây, chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Nguyễn Tiến Chén tham gia trận đánh này với cương vị là trợ lý thông tin của Tiểu đoàn tăng 198, nhiệm vụ của anh là giữ vững mạch máu thông tin liên lạc cho đơn vị.


Không chỉ là một trợ lý thông tin giỏi, anh còn là một người thợ cơ công tài năng trực tiếp cùng đồng đội tham gia chiến đấu. Trong trận đánh Làng Vây, được phân công đi trên xe mang số hiệu 565 của Đại đội trưởng Ngô Xuân Nghiêm, Nguyễn Tiến Chén đã xuất sắc lập công. Đây là lần thử lửa đầu tiên, nhưng đã sớm khẳng định ở anh một bản lĩnh của người quân nhân cách mạng. 1 giờ sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, trên hướng tấn công vào cứ điểm Làng Vây của Đại đội tăng 9, xe 565 của Đại đội trưởng Ngô Xuân Nghiêm đang tả xung hữu đột giữa đồn thù thì bị một mảnh đạn địch xuyên thủng vỏ thép thành xe, không ngờ nó lại xuyên qua một quả đạn trên xe làm ba lô quần áo bắt lửa, khói tuôn ra mù mịt, hệ thống tự động chữa cháy của xe bị tê liệt hoàn toàn. Lúc này tình thế hết sức nguy hiểm, nếu không dập lửa kịp thời thì lựu đạn và đạn trong xe sẽ phát nổ, nguy cơ mất xe và thiệt hại đến tính mạng kíp xe là điều khó tránh khỏi. Trong tình huống đó, quên đi sự nguy hiểm với bản thân, Nguyễn Tiến Chén cùng đồng đội đã dũng cảm, nhanh chóng dùng nước trong các bi đông, thấm ướt giẻ dập lửa, chỉ ít phút sau, lửa trong xe đã bị khống chế hoàn toàn, xe lại tiếp tục chiến đấu. Chén sung sướng reo lên: “Báo cáo, lửa đã được dập tắt, thằng Mỹ thua xe ta rồi”. Bên ngoài, trận đánh vẫn diễn ra ác liệt, lửa cháy rừng rực, khói bốc mù mịt, đèn dù địch thả sáng rực, đạn cỡ nhỏ bắn vào xe tới tấp. Cùng lúc đó, pháo thủ Loan của xe 565 bị thương, không còn nạp đạn được nữa. Nguyễn Tiến Chén mặc dù chưa hiểu biết nhiều về súng pháo xe tăng, nhưng trong thời khắc chiến đấu khẩn trương, anh đã xin Đại đội trưởng cho mình thay thế pháo thủ Loan. Sau khi quan sát Đại đội trưởng làm mẫu, Chén đã có thể tự lao đạn, đóng bảo hiểm K52, nạp đạn súng máy... Mỗi khi xong việc anh lại dõng dạc hô: - Báo cáo xong! Khẩu pháo lại rung lên, đồn thù lại bùng cháy...


Sau chiến thắng Làng Vây, chiến công đầu của Bộ đội Tăng thiết giáp, Tiểu đoàn xe tăng 198 được lệnh bí mật về giấu quân trên đất bạn Lào (thuộc tỉnh Xa-va-na-khẹt), lúc ấy là mùa mưa, độ ẩm cao, việc bảo quản điện đài của đơn vị gặp nhiều khó khăn, thông tin liên lạc thường xuyên bị gián đoạn, Nguyễn Tiến Chén đã có sáng kiến đắp lò để sấy khô, bảo quản các thiết bị điện đài và phổ biến kinh nghiệm đó cho anh em trong toàn đơn vị.


Thời gian này, địch đánh phá ác liệt cả ngày lẫn đêm, thật hiếm mới có được một ngày yên bình ở cánh rừng miền Tây. Hôm ấy, máy bay B-52 của địch lại đến ném bom, chúng dùng toàn bom bi ném vào khu vực trú quân của đơn vị. Ngay sau khi vừa tắt tiếng bom, đồng chí Trần Vĩnh Đại, lúc đó là bí thư chi bộ đã có mặt để kiểm tra tình hình và những tổn thất của đơn vị, làm hồ sơ để báo cáo cấp trên.


Nguyễn Tiến Chén - người chiến sĩ cơ công đã ngã xuống, cả một vùng áo ngực trái của anh ướt đẫm máu. Trần Vĩnh Đại run run mở cúc áo người đồng đội và đã lặng đi vì trong ấy có cuốn Điều lệ Đảng và tờ tiền Một đồng; cuốn điều lệ đã bị đạn xuyên thủng và đồng tiền đã nhuốm hồng dòng máu của anh. Tờ tiền Một đồng của Ngân hàng quốc gia Việt Nam phát hành năm 1958 kẹp trong cuốn Điều lệ Đảng mà Nguyễn Tiến Chén để dành dự định đóng đảng phí, là kỷ vật duy nhất anh còn để lại. Nguyễn Tiến Chén đã hy sinh, cả đơn vị lặng đi tiếc thương người đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử.


Với hy vọng giản dị, sau ngày chiến thắng những kỷ vật này sẽ được về với gia đình của liệt sĩ Nguyễn Tiến Chén, đồng chí Trần Vĩnh Đại đã báo cáo và bàn giao những di vật của liệt sĩ Nguyễn Tiến Chén cho Binh chủng Tăng thiết giáp.


Những di vật của người chiến sĩ, người đảng viên trẻ ấy luôn được trân trọng giữ gìn tại Bảo tàng lực lượng Tăng Thiết giáp. Cuốn Điều lệ Đảng và đồng tiền thấm máu liệt sĩ như nhắc thế hệ trẻ, để có được độc lập, tự do hôm nay, biết bao người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống và hiến dâng trọn tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Đó cũng là trách nhiệm và tình cảm của người đảng viên với Đảng - một phẩm chất chính trị, đạo đức cao đẹp, trong sáng của Bộ đội Cụ Hồ.


Thật đơn sơ và bình dị, những kỷ vật thiêng liêng của liệt sỹ Nguyễn Tiến Chén đã có sức lay động lớn đối với thế hệ trẻ sau này về lý tưởng và sức mạnh chiến đấu của Đảng, đó cũng chính là nguồn cảm xúc làm nên những vần thơ "Thiêng liêng kỷ vật” của đồng chí Nghiêm Việt Đức - cán bộ Cục Chính trị Binh chủng Tăng thiết giáp”, chúng tôi xin được giới thiệu thay cho lời kết:

   “Anh nằm xuống trên đất nước Triệu Voi.
   Kỷ vật chưa kịp trao người tri kỷ
   Rất đơn sơ, một đồng tiền Đảng phí
   Cùng Điều lệ Đảng cạnh trái tim anh.
   Vì Tổ quốc anh dâng hiến tuổi xanh
   Không một tấm hình hay dòng nhật ký
   Cuốn Điều lệ cùng đồng tiền giản dị
   Đạn thù xuyên qua còn thấm máu hồng.
   Xúc động nghẹn ngào dâng cuộn trong lòng
   Xin một lần được hôn lên kỷ vật
   Nghiêng mình trước anh linh người đã khuất
   Nguyễn Tiến Chén - Thợ cơ công xe tăng
   Điều anh nói trong kỷ vật thiêng liêng
   Đó là niềm tin sắt son với Đảng
   Là mạch sống, là cội nguồn ánh sáng
   Đảng hóa thân vào trong trái tim mình.
   Kỷ vật ấy còn mãi sáng lung linh
   Như nhắc nhở ta điều thiêng liêng nhất
   Trung với Đảng, hiếu với dân là gốc
   Học và làm theo đạo đức Bác Hồ.”


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:29:10 pm
KHẨU HIỆU HÀNH ĐỘNG THEO GƯƠNG
ANH HÙNG LÊ XUÂN TẤU


Nguyễn Thiện Thanh

(https://i.imgur.com/9uU9gng.jpg)

Tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp có trưng bày một số bộ sưu tập hiện vật của các đồng chí là cá nhân tiêu biểu và các Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong lực lượng Tăng thiết giáp. Trong đó có bộ sưu tập hiện vật của Anh hùng, Thiếu tướng Lê Xuân Tấu - nguyên Tư lệnh Binh chủng. Những hiện vật được lựa chọn để trưng bày gồm 12 kỷ vật như chiếc bật lửa, đồng hồ, ca nhôm, bi đông... mỗi hiện vật có một lai lịch, một ý nghĩa riêng gắn với những năm tháng chiến đấu, công tác của người Anh hùng. Trong những hiện vật ấy tôi thực sự bị cuốn hút bởi một trang báo đã sờn cũ, mực, giấy đều đã phai màu theo năm tháng, trên đó đăng những vần thơ:

   "Tư thế tiến công vững vàng tháp pháo
   Phù Đổng Thiên V ương của thế hệ Bác Hồ
   Đè lên bãi mìn
   Phá tung cửa mở
   Lửa táp lên xe
   Mồ hôi quyện máu
   Giấu vết thương cho pháo thét gầm
   ...
   Và đường hành quân vào trận mới hôm nay
   Lê Xuân Tấu vẫn dần đầu đoàn tăng đi như sống.
   Xích sắt quay bồi hồi trên đất vừa giải phóng
   Tên người anh hùng thành tên những bài ca!"


Đó là những câu thơ trong bài thơ "Người Anh hùng và những bài ca ” của đồng chí Trần Ba - cán bộ Tuyên huấn Phòng Chính tri Binh chủng, ra đời cách đây đúng 35 năm (được đăng trên trang 3 bản tin Tăng thiết giáp số 5, ngày 15 tháng 7 năm 1972). Giờ đây đọc những vần thơ ấy, trước mắt tôi như hiện ra hình ảnh những chiếc xe tăng quân giải phóng đang hùng dũng xông lên đè bẹp quân thù. Đi sâu tìm hiểu về xuất xứ của những vần thơ còn đượm mùi khói bom chiến trận của Trần Ba, tôi đã phát hiện ra một điều thú vị, đó là bài thơ “Người Anh hùng và những bài ca” có mối liên hệ đặc biệt với tờ khẩu hiệu hành động trưng bày ở vị trí đó. Khẩu hiệu mang dòng chữ: "Hãy chiến đấu kiên cường, dũng cảm như Anh hùng Lê Xuân Tấu - Quyết thắng trận đầu, lập công xuất sắc, trả thù nhà, đền nợ nước".


Lê Xuân Tấu sinh ra và lớn lên ở xã Đôn Nhân, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Trong khí thế “xẻ dọc Trường Sơn đi cíai nước” của cả dân tộc, năm 1963 anh lên đường nhập ngũ vào Binh chủng Tăng thiết giáp. Năm 1967, tình hình cách mạng nước ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, Lê Xuân Tấu cùng với bao đồng đội của mình được vinh dự cùng những chiếc xe tăng vượt Trường Sơn lên đường vào Nam chiến đấu.


Tà Mây - Làng Vây là trận đánh đầu tiên của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam và cũng từ chiến công này đã mở ra trang sử vàng truyền thống "Trung với Đảng, hiếu với dân, đã ra quân là đánh thắng”. Tên tuổi Lê Xuân Tấu được bộ đội Tăng thiết giáp thường xuyên nhắc tới từ trận đánh đầu tiên Tà Mây - Làng Vây. Nét tiêu biểu của Anh hùng Lê Xuân Tấu là tinh thần đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, luôn vì thành tích chung của đơn vị và sẵn sàng tạo điều kiện cho đồng đội lập công. Trong trận chiến đấu tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, Lê Xuân Tấu đã chỉ huy trung đội tiêu diệt địch ở vị trí tiền duyên phòng ngự. Khi trung đội đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, nhưng trên hướng tiến công khác, địch ngoan cố chống trả quyết liệt, anh đã chỉ huy kíp xe nổ súng chi viện và phối hợp cùng đơn vị bạn tiêu diệt địch. Với ý chí “Còn một người, một xe cũng tiến công quân địch, đã đánh là thắng, đã nổ súng là tiêu diệt địch giòn giã ”, mặc dù hai lần bị thương nhưng Lê Xuân Tấu vẫn tiếp tục cùng đồng đội anh dũng chiến đấu giành thắng lợi. Với những chiến công vang dội trong trận đánh Tà Mây - Làng Vây, hành động chiến đấu dũng cảm của Lê Xuân Tấu đã được phát động học tập và noi gương trong toàn Binh chủng.


Bước vào năm 1971, mặc dù bị thất bại trên khắp các chiến trường, nhưng với bản chất xâm lược và hiếu chiến, Mỹ - ngụy vẫn mạo hiểm mở cuộc hành binh Lam Sơn 719 ra vùng Đường 9 - Nam Lào, âm mưu đánh vào tuyến vận tải chiến lược của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyên lớn. Trước âm mưu của kẻ thù, Đảng ta đã hạ quyết tâm phải đập tan hành động phưu lưu đó, bảo vệ bằng được con đường chi viện huyết mạch giữa hậu phương với tiền tuyến. Thực hiện chủ trương trên, bộ đội Thiết giáp đã sát cánh cùng các quân, binh chủng bạn tham gia chiến dịch phản công Đường 9 Nam Lào.


Ngày 27 tháng 2 năm 1972 Đại đội tăng 7 (thiếu) thuộc Tiểu đoàn tăng 297 và Đại đội tăng 9 thuộc Tiểu đoàn tăng 198 được lệnh phối thuộc với Trung đoàn bộ binh 36 - Sư đoàn 308 và một bộ phận của Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 đánh địch phản kích giữ vững điểm cao 543. Điều đặc biệt là trên mỗi chiếc xe tăng của Đại đội tăng 7 đều dán một khẩu hiệu cỡ lớn, được viết bằng mực đỏ trên nền giấy Pôluya:"Hãy chiến đấu kiên cường, dũng cảm như Anh hùng Lê Xuân Tấu - Quyết thắng trận đầu, lập công xuất sắc, trả thù nhà, đền nợ nước” và trên nền khẩu hiệu ấy là chữ ký của cán bộ chiến sĩ của Đại đội tăng 7. Với lời hứa quyết tâm trước giờ xung trận hừng hực một khí thế tiến công, Đại đội tăng 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, chi viện cho bộ binh đánh bại nhiều đợt phản kích dữ dội của địch, ý đồ phản kích để chiếm lại điểm cao 543 của địch bị đập tan, mục tiêu chiến lược trong cuộc hành binh Lam Sơn 719 của địch từng bước bị thất bại. Với chiến công xuất sắc đó, Đại đội tăng 7 đã được Bộ tư lệnh chiến dịch đánh giá cao và được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Kết thúc trận chiến đấu đánh địch phản kích, giữ vững điểm cao 543, Đại đội tăng 7 về trú quân trong một cánh rừng củng cố, ổn định biên chế tổ chức, bảo dưỡng, sửa chữa, khôi phục xe pháo chuẩn bị cho những trận chiến đấu tiếp theo.


Lúc này, có một đoàn cán bộ Binh chủng Thiết giáp (nay là Binh chủng Tăng thiết giáp) vào nắm tình hình thực tế chiến trường. Cùng đi với đoàn có đồng chí Trần Ba, nhân viên Tuyên huấn của Phòng Chính trị Binh chủng. Bắt gặp câu khẩu hiệu nổi bật trên thành tháp pháo những chiếc xe tăng còn vương mùi khói đạn, với những gương mặt các cán bộ, chiến sĩ Đại đội tăng 7 đang rạng ngời niềm vui chiến thắng. Ngay tại chiến trường giữa ngút ngàn khói lửa đạn bom, Trần Ba đã cho ra đời bài thơ “Người Anh hùng và những bài ca". Hơn một năm sau, bài thơ đã được đăng trên bản tin Thiết giáp góp phần cổ vũ, động viên cán bộ chiến sĩ xe tăng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh cùng dân tộc đi đến ngày toàn thắng.


Từ sau chiến thắng Tà Mây - Làng Vây, chiến công đầu chói lọi của bộ đội Tăng thiết giáp đã làm nức lòng toàn quân, toàn dân ta đẩy cục diện chiến trường sang thế có lợi cho cách mạng nước ta; khẩu hiệu hành động: "Hãy chiến đâu kiên cường, dũng cảm như Anh hùng Lê Xuân Tấu - Quyết thắng trận đầu, lập công xuất sắc, trả thù nhà, đền nợ nước" đã trở thành một hình thức tuyên truyền sinh động ngay tại chiến trường, kịp thời động viên khích lệ những người chiến sĩ xe tăng, phát huy sức mạnh đột kích của mình làm nên những chiến công oanh liệt.


Hình ảnh Lê Xuân Tấu cùng với chiếc xe tăng mang số hiệu 555 dũng cảm chiến đấu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, được khắc họa trong những vần thơ rực lửa, lời ca hùng tráng của các thế hệ cần bộ, chiến sỹ xe tăng. Ba mươi lãm năm sau đọc lại câu khẩu hiệu dán lên thành tháp pháo những chiếc xe tăng khi xung trận diệt thù và bài thơ được viết chính từ cảm hứng chủ đạo từ câu khẩu hiệu mang mệnh lệnh trái tim người chiến sĩ xe tăng, bên những kỷ vật của người Anh hùng, lòng tôi tràn ngập niềm cảm xúc, tự hào bởi đã được hiểu thêm, biết thêm về một thời hào hùng thế hệ cha anh đã từng sống và chiến đấu.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:29:59 pm
XE TĂNG 555 “MÃNH HỔ” ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO


Phi Nga

   “Xe tăng 555 từ trận tuyến xông lên
   Phần phật ngụy trang giữa lưng trời bụi đỏ
   Xích sắt như muôn gươm phá tung bay cửa mở
   Chọc thẳng tim đen bẩn của quân thù... ”

(https://i.imgur.com/dl2Nh8t.jpg)

Đó là một đoạn trong bài hát “Bài ca xe tăng 555 ” do Hữu Thỉnh viết lời và nhạc sĩ Ngọc Xuân phổ nhạc, ca ngợi xe tăng số 555 của Đại đội 3- Tiểu đoàn 198 - Trung đoàn xe tăng 203, chiếc xe gắn liền với trận đầu ra quân đánh thắng ờ Tà Mây - Làng Vây trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, trận đánh điểm cao 543 trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào và đã trở thành chiếc xe truyền thống của bộ đội Xe tăng Việt Nam.


Xe tăng 555 nằm trong biên chế Đại đội 3, thành viên kíp xe ban đầu gồm: Trung đội phó Lê Xuân Tấu - Trưởng xe; Nguyễn Vũ Cỏn - Lái xe; Nguyễn Văn Tuấn - Pháo thủ. Sau những chiến thắng lớn Đông Xuân và Hè Thu 1967 của ta, quân địch ở thế bị động đối phó và đang có xu hướng co cụm lại, nhất là ở mặt trận Trị Thiên, Đường số 9 và Đông Nam Bộ. Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tham mưu về việc đưa xe tăng vào chiến đấu trên chiến trường, ngày 28 tháng 6 năm 1967 Đảng ủy - Bộ tư lênh Thiết giáp (nay là Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp) đã ra nghị quyết lãnh đạo và tổ chức 2 đại đội xe tăng lội nước PT-76 là Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 thuộc Tiểu đoàn tăng 3 - Trung đoàn tăng 203 thành 1 tiểu đoàn (thiếu) đi làm nhiệm vụ, mang phiên hiệu “Tiểu đoàn tăng 198” với ý nghĩa kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng 8.


Ngày 1 tháng 10 năm 1967, Tiểu đoàn 198 bắt đầu hành quân vào chiến trường, lúc này thành viên kíp xe 555 gồm có: Trung đội phó Lê Xuân Tấu - Trưởng xe; Hoàng Đức Miêng - Lái xe; Nguyễn Văn Tuấn - Pháo thủ. Sau 1 tháng hành quân bằng xích, vượt 931km đường Trường Sơn làm gấp, đầy rẫy nguy hiểm và vượt qua những trọng điểm liên tục bị máy bay địch oanh tạc, xe tăng 555 đã cùng đơn vị đến đích an toàn ở Nậm Khang (Đường 9). Ngày 23 tháng 1 năm 1968, Đại đội tăng 3 - Tiểu đoàn tăng 198 nhận mệnh lệnh phối thuộc cho Trung đoàn 24 Sư đoàn bộ binh 304 tiêu diệt địch ở đồn Tà Mây, nằm trong cụm cứ điểm Huội San (Lào). 23 giờ 30 phút xe tăng 555 dẫn đầu đội hình xuất phát từ Chakiphìn cách Huội San 8km, trên đường hành quân, xe 555 và 558 bị sa lầy phải tổ chức cứu kéo. Đến 6 giờ 30 phút sáng ngày 24 tháng 1 cả 2 xe được cứu kéo qua ngầm, Đại đội trưởng Phan Văn Hai lên xe 555 chỉ huy cả 2 xe xông thẳng vào đồn địch. Cách cổng đồn 10m xe 558 bị bom địch đánh đứt xích không cơ động được đã đứng tại chỗ dùng hỏa lực yểm trợ cho xe 555 tiến công. Xe 555 do Trung đội phó Lê Xuân Tấu làm trưởng xe lập tức có khẩu hiệu hành động “Địch đang hoang mang, một xe ta cũng quyết đánh". Sau hơn 1 giờ chiến đấu, xe tăng cùng bộ binh, công binh hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Tà Mây. Sau trận đánh, Đại đội tăng 3 rút về vị trí tập kết, tuy mới chỉ có 2 xe xung trận nhưng đã chiến thắng, tạo nên sự tin tưởng bước đầu về sức đột phá của xe tăng trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng.


Theo kế hoạch tác chiến, sau khi chiếm Tà Mây, Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 tiếp tục tiến công cứ điểm Làng Vây một vị trí quan trọng trong tuyến phòng thủ của địch ở Khe Sanh. Đây là căn cứ biệt kích ngụy Sài Gòn được xây dựng trên 2 điểm cao (320 và 230), có hệ thống công sự phòng thủ vững chắc, với nhiều loại vũ khí hiện đại của Mỹ, sự chi viện của không quân và pháo binh. Đúng 17 giờ ngày 06 tháng 2 năm 1968 trận tiến công cứ điểm Làng Vây bắt đầu, pháo các cỡ của ta bắn dồn dập vào cứ điểm tiêu diệt một số sinh lực địch và tạo điều kiện cho xe tăng vận động. 23 giờ 45 phút xe tăng trên cả 2 hướng tây và hướng nam đồng thời nổ súng tiến công, dùng pháo bắn thẳng tiêu diệt các lô cốt tiền duyên, yểm trợ cho bộ binh và công binh mở cửa. Trên hướng tây, xe tăng 555 do Trung đội phó Lê Xuân Tấu chỉ huy vượt lên trước, bắn 6 viên đạn pháo diệt 4 lô cốt, chi viện cho bộ binh phát triển thuận lợi. Xe của đại đội trưởng Phan Văn Hai và xe 555 yểm trợ lẫn nhau, dùng pháo, súng máy tiêu diệt các lô cốt địch, lần lượt đánh chiếm các điểm cao 320, khu C102, C103 biệt kích. Đến 3giờ sáng ta cơ bản tiêu diệt gọn căn cứ Làng Vây, làm chủ chiến trường.


Trận Làng Vây thắng lợi, một không khí náo nức sôi nổi và mong được đi chiến đấu dâng lên ở tất cả các đơn vị xe tăng. Bộ tư lệnh Thiết giáp, Bộ tự lệnh tiền phương, Bộ tư lệnh 559 đã gửi thư, điện tới chúc mừng Tiểu đoàn 198. Trận đánh Tà Mây - Làng Vây đánh dấu bước trưởng thành mới của bộ đội Xe tăng Việt Nam về tổ chức chỉ huy và khả năng sử dụng vũ khí, trang bị hiện đại, đã nêu một tấm gương tiêu biểu về tinh thần mưu trí, dũng cảm, trình độ chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn xe tăng 203, đây là chiến công mở đầu trang truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Thiết giáp.


Trong chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971, xe tăng 555 nằm trong đội hình Đại đội tăng 9 - Tiểu đoàn tăng 198, có nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao 543 (gồm sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3 ngụy Sài Gòn, một tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn pháo binh thiếu, một đại đội công binh). Trong trận đánh này, kíp xe tăng 555 có các thành viên: Nguyễn Văn Duyên - Trưởng xe; Đặng Văn Đoàn - Lái xe; Nguyễn Thoảng - Pháo thủ. 11 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, Đại đội tăng 9 - Tiểu đoàn tăng 198 được lệnh xuất kích, xe tăng 555 có đồng chí Lê Cối - Chính trị viên tiểu đoàn đi cùng, đã dẫn đầu đội hình tiến công của Trung đội 1. Trưởng xe Nguyễn Văn Duyên sử dụng pháo tăng bắn tiêu diệt các hỏa điểm và sinh lực địch. Xe tăng 555 vừa tiến, vừa bắn vào khu vực trận địa pháo và xông thẳng vào khu trung tâm truyền tin, cùng bộ binh đánh chiếm Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, dùng xích sắt nghiến nát các ổ đề kháng của địch và cuối cùng đè lên nóc hầm chỉ huy, tạo điều kiên cho bộ binh ta bắt sống tên đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ trưởng Lữ đoàn dù 3 ngụy Sài Gòn. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng đạt hiệu suất chiến đấu rất cao của xe tăng 555 cũng như của Đại đội tăng 9, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Sau trận đánh, xe tăng 555 được tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba.


Gần cuối chiến dịch, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ tư lệnh Thiết giáp, một số cán bộ được giao nhiệm vụ khẩn trương nghiên cứu các phương án khôi phục và di chuyển xe tăng 555 từ chiến trường ra trưng bày tại Triển lãm Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào ở Vân Hồ - Hà Nội. Một khó khăn lớn đã nảy sinh trong quá trình khôi phục chiếc xe, đó là 80% mắt xích hỏng nặng cần phải thay thế; 50% bánh chịu nặng đã bong hết lớp cao su. Nhưng quan trọng nhất là 400 giờ máy nổ của xe tăng 555 đã quá thời hạn từ lâu, phải có máy nổ thay thế mới có thể hành quân được... Sau nhiều lần tìm kiếm ở các kho của Đoàn 559, tổ công tác đã phát hiện trong kho chứa khí tài xe xích kéo pháo có 1 máy nổ xe PT-76. Sau một thời gian nỗ lực khôi phục, sửa chữa, xe tăng 555 được các đồng chí Nguyễn Đình Trìu - Tiểu đoàn phó kỹ thuật Tiểu đoàn tăng 198; đồng chí Trần Ba - Cán bộ Tuyên huấn Binh chủng (được đào tạo thành cán bộ kỹ thuật ở trường Cao đẳng kỹ thuật xe tăng Ki ép - Liên Xô cũ); đồng chí Trần Xuân Liệu - Cán bộ Tuyên huấn Binh chủng (được đào tạo về lái xe tăng ở Trung Quốc) đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đưa xe tăng 555 về Hà Nội, trưng bày tại Triển lãm Vân Hồ. Sau khi kết thúc triển lãm Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào, xe tăng 555 đã được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.


Hiện nay xe tăng 555 đang được trưng bày trang trọng trong khuôn viên của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam và trở thành một hiện vật gốc quý giá, phản ánh nghệ thuật sử dụng tăng thiết giáp, những chiến công xuất sắc và truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam Anh hùng. Chiếc xe phiên bản được trưng bày trong bộ sưu tập xe tăng thiết giáp có thành tích chiến đấu xuất sắc tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. 


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Chín, 2021, 02:53:07 pm
BÀI CA BINH CHỦNG THÉP


Nguyễn Thu Thủy

(https://i.imgur.com/FZjIO4g.jpg)

“Năm anh em trên một chiếc xe tăng” là bài hát rất đỗi quen thuộc đối với những người lính xe tăng Việt Nam, mỗi khi được hát hoặc nghe những người lính xe tăng đều cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Binh chủng, cơ hồ như tiếng hát ấy được cất lên từ trái tim mình. Bài hát là sự tiếp nối của tâm hồn hai người lính, nhạc sỹ Doãn Nho - Nhà thơ Hữu Thỉnh và đã trở thành “Binh chủng ca” của Binh chủng Tăng Thiết giáp.


Vào năm 1970, Binh chủng thiết giáp cùng quân và dân cả nước sục sôi chuẩn bị cho chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, đập tan âm mưu của Mỹ - ngụy đánh vào tuyến vận chuyển chiến lược của ta. Nhà thơ Hữu Thỉnh lúc bấy giờ là trợ lý tuyên huấn của Binh chủng, được Phòng Chính trị cử phụ trách đội chiếu phim vào phục vụ chiến trường, viết báo, đồng thời kiêm thuyết minh.


Như bao người chiến sỹ xe tăng ra trận, Nhà thơ nhớ lại khí thế ngày lên đường ấy “Háo hức, sôi nổi, đường ra trận như một cuộc hẹn hò ai cũng sợ mình là người đến chậm".


Công việc của đội chiếu phim nơi chiến trường thật vất vả nhưng cũng đầy ý nghĩa vì ở đó nhà thơ Hữu Thỉnh đã có rất nhiều kỷ niệm vui. Vào một buổi chiều, Hữu Thỉnh xuống Đại đội 6 thuộc Tiểu đoàn 397 chuẩn bị cho cuộc bình thơ buổi tối. Vui sướng được gặp nhiều bạn cũ thuộc Trung đoàn xe tăng 202, trong đó có đồng chí Lê Đức Tuân (trước cùng Ban Chính trị ở Trung đoàn 202), Hữu Thỉnh được bạn mời cơm, bữa cơm nơi chiến trường thật ấm cúng. Để tỏ lòng hiếu khách, Lê Đức Tuân liền hô “Ai còn thịt hộp mang tất cả xuống đây" lập tức 5 người trên xe tăng T34 của Tuân mang ra cho 5 hộp thịt. Vừa ăn Hữu Thỉnh vừa nhìn mọi người và ngắm chiếc xe T34. Hình ảnh 5 người chiến sỹ đập mạnh vào tâm trí Hữu Thỉnh. Chiếc xe tăng khi còn ở hậu phương quen thuộc thế nhưng ở nơi chiến trường nó trở nên uy nghiêm, oai vệ làm sao và những người bên ta đây, ngày mai sẽ làm nên bao điều kỳ diệu. Tình cảm yêu thương, kính trọng bỗng dâng trào, Hữu Thỉnh buông đũa và ghi vội dòng cảm xúc của mình. Bài thơ “Trên một chiếc xe tăng” ra đời và hoàn thành ngay trong chiều hôm ấy.

   Năm anh em trên một chiếc xe tăng
   Như năm bông hoa xoè củng một cội
   Như năm ngốn tay trên một bàn tay
   Năm anh em cùng chung một ngọn đèn
   Vào lính xe tăng anh trước, anh sau
   Nết ăn ở người thì lạnh nóng
   Khi đã hát hòa cùng một giọng
   Một đứa đau tất cả quên ăn
   Năm anh em mỗi đứa một quê
   Đã lên xe ấy là cùng một hướng
   Đã lên xe là chung khổ sướng
   Trước quân thủ nhất loạt xông lên.
   Năm anh em mang năm cái tên
   Đã lên xe không còn tên riêng nữa
   Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa
   Năm trái tim một nhịp đập dồn.
   Một con đường đất đỏ như son
   Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng
   Một ý chí bay ra đầu ngọn súng
   Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù.



Bước vào chiến dịch, Hữu Thỉnh tiếp tục ở lại Đại đội 9 - Tiểu đoàn 198, đội chiếu phim thì trở ra Bắc, bản thảo bài thơ “Trên một chiếc xe tăng” được gửi ra cho đồng chí Lê Lộng - Trưởng ban Tuyên huấn Binh chủng lúc bấy giờ. Năm 1971, Hữu Thỉnh đọc được bài thơ “Trên một chiếc xe tăng” đăng trên báo Quân đội nhân dân với bút danh Vũ Hữu. Nhạc sỹ Doãn Nho vốn là một người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau khi dự buổi diễn tập hiệp đồng chiến đấu của bộ đội xe tăng với bộ binh năm 1960, đã ấp ủ dự định sẽ sáng tác một tác phẩm về người lính xe tăng, về tình đồng chí, đồng đội. Chính vì vậy mà khi đọc bài thơ của Hữu Thỉnh, Nhạc sỹ Doãn Nho đã thực sự xúc động trước hình ảnh người chiến sỹ xe tăng gần gũi, chân thực ấy và thấy như gặp chính nguồn cảm xúc của mình. Bài hát “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” ra đời ngày 3 tháng 9 năm 1971. Tuy nhiên khi phổ nhạc, nhạc sỹ Doãn Nho đã thay đổi một số câu từ cho phù hợp với tiết tấu và giai điệu của bài hát. Với nhịp điệu hành khúc trữ tình, âm hưởng dân ca, giai điệu bài hát thật hùng mạnh và đi vào lòng người. Đời sống chiến đấu, đời sống tình cảm của người lính xe tăng nói riêng và của người lính Việt Nam nói chung được khắc họa một cách chân thực và sâu sắc: Đoàn kết anh dũng trong chiến đấu, gắn bó yêu thương trong cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh người lính trong tác phẩm đã vượt ra khỏi phạm vi một Binh chủng, ngay khi bài hát ra đời đã được đông đảo bộ đội và nhân dân yêu mến, đón nhận với những tình cảm thân thương của mình.


Bài hát đã được tốp ca nam - Đoàn ca múa Tổng Cục Chính trị dàn dựng đầu tiên, được phổ biến rộng rãi và đăng trên Báo Nhân dân năm 1972.


Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại đã có nhiều thế hệ xe tăng mới ra đời, một kíp xe không phải là 5 thành viên nữa, nhưng hình ảnh “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” mãi mãi là biểu tượng ý chí quyết chiến, quyết thắng của sức mạnh đoàn kết thống nhất và là hình ảnh bất tử của người chiến sỹ xe tăng Việt Nam.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Chín, 2021, 02:54:30 pm
XE THIẾT GIÁP M113 SỐ HIỆU 033 - CHIẾN TÍCH CỦA
MỘT THỜI “LẤY XE TĂNG ĐỊCH ĐÁNH ĐỊCH”


Phạm Tuấn Trung

(https://i.imgur.com/jRzUT8O.jpg)

Trong bộ sưu tập xe tăng, thiết giáp đang được trưng bằy tại Bảo tàng, có một chiếc xe thiết giáp M113 chiến lợi phẩm mang nhãn hiệu USA ARMY- số hiệu 033. Chiếc xe gợi lên trong ký ức của những người cựu chiến binh năm xưa niềm tự hào, xúc động, tạo nên trong lòng lớp trẻ hôm nay sự khâm phục ngỡ ngàng bởi những chiến tích như huyền thoại.


Ngày 25 tháng 5 năm 1971, tại khu rừng thuộc chiến khu Long Nguyên - miền Đông Nam bộ, sở chỉ huy tiền phương cơ giới Miền ra quyết định thành lập đội thu gom xe tăng, thiết giáp, trang bị khí tài của địch, tổ chức sửa chữa để huấn luyện và tham gia chiến đấu. Đội được mang phiên hiệu là Đội 33 (với ý nghĩa kỷ niệm ngày thành lập Chỉ huy sở Tiền phương cơ giới Miền ngày 3 tháng 3 năm 1971). Đội 33 gồm 9 đồng chí do Vũ Đức Hùng làm đội trưởng. Nòng cốt của đội là những cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn xe tăng 202 được bí mật đưa vào chiến trường từ những năm 1964-1965, có nhiệm vụ nghiên cứu cách đánh xe tăng địch, lấy xe địch trang bị cho mình, dùng xe địch đánh địch, làm cơ sở để phát triển lực lượng tăng thiết giáp B2.


Ngày 26 tháng 5 năm 1971, Đội 33 cơ động về đóng quân tại phum Xa-át, cách Sơnun về phía tây 30 km. Ngày 28 tháng 5 năm 1971 Đội 33 được lệnh đi thu hồi xe tăng, thiết giáp của địch trên chiến trường Sơnun (Sau khi bị Quân giải phóng miền Nam chặn đánh tan tác, cả chiến đoàn quân ngụy Sài Gòn đã rút chạy và bỏ lại xe pháo rải khắp từ Ngã 3 Tấn Lộc đến Sơnun, trong đó có khá nhiều xe tăng, xe thiết giáp). Nhưng việc thu hồi lại không đơn giản chút nào, bởi vì Đội 33 ra quân nhưng không được trang bị dụng cụ, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó, trước khi rút chạy, địch đã cho phá hỏng máy móc cùng các thiết bị, những chiếc xe nằm lại chỉ là những đống sắt không hơn không kém. Để phá hủy trang bị kỹ thuật bỏ lại, địch còn tổ chức đánh phá rất ác liệt bằng không quân, pháo binh, nên công việc của tổ thu hồi gặp rất nhiều khó khăn. Mặc cho máy bay địch quần đảo, đánh phá, toàn đội vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí Vũ Đức Hùng phân công cho anh em sửa chữa những chiếc xe hỏng nhẹ, đồng thời tìm kiếm những chiếc xe địch vứt bỏ rải rác trong rừng. Thật bất ngờ, tổ tìm kiếm đã phát hiện thấy một xe thiết giáp chở quân M113 của Mỹ còn khá nguyên vẹn. Đội 33 đã tập trung sửa chữa, khôi phục chiếc xe chiến lợi phẩm này thành chiếc xe hoạt động tốt. Chiếc xe M113 gắn bó từ ngày đầu với Đội, được đặt cho số hiệu 033 để kỷ niệm ngày thành lập đơn vị. Xe thiết giáp M113 đã được bộ đội ta sử dụng để vận chuyển hàng chục tấn phụ tùng thu gom được từ những chiếc xe hỏng nặng, để lắp dồn ghép cho những xe hỏng nhẹ. Từ những yêu cầu bức xúc của chiến trường (đang cần nhiều xe tăng, xe thiết giáp cho những trận đánh lớn sau này), xe M113 số hiệu 033 còn được sử dụng vào việc vận chuyển người, phương tiện, máy móc phục vụ cho tìm kiếm, sửa chữa xe. Đặc biệt, trong một lần đi thu hồi xe địch, tổ của đồng chí Hùng còn phát hiện một trận địa gồm 3 khẩu pháo 105 mm còn nguyên do địch bỏ lại. Lúc này, xe 033 do đồng chí Hùng điều khiển vừa kéo một xe M113 bị hỏng hộp số, vừa kéo toàn bộ 3 khẩu pháo vượt suối, vượt đèo về địa điểm tập kết an toàn và bàn giao lại cho Đoàn pháo binh Biên Hòa sử dụng.


Sau thời gian ngắn tìm kiếm, thu gom, sửa chữa, với tinh thần không quản ngại hy sinh gian khổ, Đội 33 đã có trong tay hàng chục xe tăng, xe thiết giáp chiến lợi phẩm quý giá.

Tháng 6 năm 1971, cán bộ, chiến sĩ của J16 cũ đã lần lượt trở về Đội 33, quân số đã lên đến 62 đồng chí. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển cho nhiệm vụ chiến đấu mới, ngày 15 tháng 1 năm 1972, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn M26 quyết đinh chuyển Đội 33 thành Đại đội chiến đấu 33.


Trận đầu ra quân đánh địch của Đại đội 33 là tiêu diệt căn cứ Sa Mát - tỉnh Tây Ninh (gần sát biên giới Campuchia). Ngày 1 tháng 4 năm 1972, với tinh thần “Khí thế như Mậu Thân, ra quân như Nguyễn Huệ", những chiếc xe tăng, xe thiết giáp chiến lợi phẩm thu được của địch được các chiến sĩ Đại đội 33 quả cảm điều khiển, đã dẫn dắt bộ binh tiến công từ các hướng. Bị đánh bất ngờ, quân địch hoang mang không hiểu quân giải phóng lấy đâu ra nhiều xe tăng, xe bọc thép của Mỹ đến thế. Lúc này, các xe trong đội hình tiến công, phát huy tối đa hoả lực của súng máy, ĐKZ, súng bộ binh, xông thẳng vào hướng chính diện của căn cứ địch. Như những mũi tên thép, xe tăng ta dũng mãnh xông lên, dùng hỏa lực dập tắt các hỏa điểm của địch, tạo điều kiện cho bộ binh và các xe khác vượt của mở. Với khí thế áp đảo, toàn Đại đội cùng với bộ binh tiêu diệt gọn từng công sự, khu xe, trận địa pháo, đến sở chỉ huy của địch. Đây là trận đầu ra quân đánh thắng địch giòn giã của Đại đội 33 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.


Phấn khởi, tự hào về chiến thắng vừa giành được, Đại đội 33 tiếp tục vươn lên hoàn thành các nhiệm vụ tiếp theo. Từ chủ trương đúng đắn và sáng tạo “Lấy vũ khí địch đánh địch”, Đại đội 33 đã thu hồi được một số lượng lớn xe tăng, xe thiết giáp của Mỹ - ngụy. “Bộ sưu tập” của Đại đội ngày càng phong phú với nhiều chủng loại: M24; M41; M48; M113; M113 phun lửa; xe cẩu... Từ chiếc xe chiến lợi phẩm đầu tiên, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 33 đã xây dựng đơn vị ngày càng phát triển vững mạnh, tham gia nhiều trận đánh lớn và lập nhiều chiến công. Những năm gian khổ xây dựng và chiến đấu của Đại đội 33 được đền đáp. 23 giờ 30 phút ngày 4 tháng 4 năm 1975, đơn vị được lệnh cùng các cánh quân từ hướng Tây Nam tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn. Dọc đường tiến công, xe 033 đã cùng các xe trong đơn vị dùng hỏa lực tiêu diệt các ổ đề kháng, xe tăng địch, mở đường cho mũi tiến công của đơn vị thần tốc tiến vào tham gia giải phóng Sài Gòn.


Xe thiết giáp M113 số hiệu 033 như một chứng tích của chiến tranh, khắc ghi những phẩm chất anh hùng và sự hy sinh cao cả của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 33 miền Đông Nam Bộ, cũng như tính đúng đắn, kỳ diệu của chiến tranh nhân dân Việt Nam, sự sáng tạo của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam: “Lấy xe tăng địch đánh địch".


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Chín, 2021, 02:55:27 pm
PANÔ “CHÀO MỪNG QUAN KHÁCH”


Thu Linh

(https://i.imgur.com/jic3SSG.jpg)

Trong Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp hiện đang trưng bày một hiện vật “đặc biệt”, nói đặc biệt bởi lẽ hiện vật này không phải là súng đạn hay phương tiện kỹ thuật làm vũ khí phục vụ chiến tranh, mà đó là một hiện vật in đậm dấu ấn của một trận đánh then chốt trong chiến dịch lớn, bẻ gãy hoàn toàn âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ. Đó là tấm pa nô “Chào mừng quơn khách” do cán bộ, chiến sỹ Đại đội 9 - Tiểu đoàn tăng 198 - Trung đoàn 203 thu được trong trận đánh điểm cao 543 - chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào.


Năm 1971, mặc dù trong thế bị động và thất bại, Mỹ - ngụy vẫn mạo hiểm mở cuộc hành binh Lam Sơn 719 với lực lượng lớn ra vùng Đông Nam Lào, lúc cao điểm chúng huy động tới 55.000 quân và nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại. Riêng lực lượng thiết giáp có 4 thiết đoàn, 2 chi đoàn với gần 600 xe tăng, thiết giáp các loại. Mục đích cuộc hành binh này nhằm đánh vào tuyến vận chuyển chiến lược của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, gây khó khăn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân 3 nước Đông Dương.


Trước âm mưu mới của địch, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi, nêu rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là “Tập trung lực lượng kiên quỵết tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho liền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào, Campuchia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của Đế quốc Mỹ và tay sai”.


Quán triệt quyết tâm của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương chủ trương mở chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào. Trong chiến dịch này, bộ đội Tăng thiết giáp đã tham gia với quyết tâm chiến đấu “Đã đánh là thắng, càng đánh càng mạnh...”. Điển hình là trận tiến công điểm cao 543.


Ngày 18 tháng 2 năm 1971, Đại đội tăng 9 thuộc Tiểu đoàn tăng 198 gồm 9 xe tăng bơi PT-76 nhận lệnh phối thuộc cho Trung đoàn bộ binh 64 thuộc Sư đoàn 320, có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn dù 3 của quân ngụy trên Điểm cao 543. Sau khi nhận nhiệm vụ, cán bộ, chiến sỹ khẩn trương làm công tác chuẩn bị để đảm bảo cho trận đánh thắng lợi.


Điểm cao 543 nằm ở phía bắc Đường 9 và tây bắc ngã 3 Bản Đông, cách Đường 9 bảy km. Đây là căn cứ mạnh của địch với lực lượng gồm có sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, Tiểu đoàn dù 3, Tiểu đoàn pháo, 1 đại đội công binh... Địa hình thấp dần về phía Đông nam với độ dốc thoải và thấp, xe tăng có thể cơ động được. Tuy nhiên, trên điểm cao có nhiều cây to, nếu chặt cây mở đường thì sẽ bị máy bay địch phát hiện. Vì vậy, để giữ bí mật, khi mở đường cho xe tăng lực lượng công binh không chặt đổ ngay mà chỉ cưa đứt 3 phần 4 thân cây về hướng tiến của xe tăng, khi có lệnh xuất kích xe tăng húc đổ cây để tiến.


Đúng 11 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, pháo chiến dịch bắt đầu phát hỏa, Đại đội tăng 9 được lệnh xuất kích. Xe tăng 555 dẫn đầu đội hình tiến công đột phá qua cửa mở dẫn dắt bộ binh xung phong dùng pháo, súng máy bắn chế áp khu vực sở chỉ huy và các hỏa điểm địch.


Thấy xe tăng ta xuất hiện, địch tập trung hỏa lực bắn phá chặn đường. Các chiến sỹ xe tăng vừa sửa chữa vừa tích cực dùng súng 12ly7 gắn trên xe bắn trả máy bay địch. Với những loạt đạn chính xác, xe 546 và 563 đã bắn rơi tại chỗ một máy bay phản lực F4, buộc những chiếc khác phải bốc lên cao và vòng sang hướng khác. Lợi dụng thời cơ có lợi, xe tăng 555 tăng tốc độ, dũng mãnh xông lên Điểm cao 543, đánh thẳng vào Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3. Phát huy sức cơ động và tận dụng hỏa lực mạnh trên xe, các chiến sỹ xe tăng 555 kết hợp dùng pháo, súng máy với lựu đạn diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều công sự và hỏa lực địch.


Trận đánh diễn ra ác liệt và kéo dài. Sau 5 giờ chiến đấu hết sức dũng cảm và mưu trí, Đại đội tăng 9 đã phối hợp với lực lượng bộ binh và các đơn vị bạn, tiêu diệt Tiểu đoàn dù 3, Tiểu đoàn pháo và một số lực lượng khác, bắt sống tên đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn dù 3 cùng toàn bộ ban tham mưu của chúng trên điểm cao 543.


Trong trận đánh này, xe tăng đã phát huy sức mạnh, kết hợp với bộ binh vây lấn, tiêu diệt gọn quân địch, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Thắng lợi của Bộ đội Tăng thiết giáp đã góp phần đập tan cuộc hành binh Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy bảo vệ vững chắc con đường chi viện của hậu phương với tiền tuyến. Trận đánh ở Điểm cao 543 đã cổ vũ mạnh mẽ cho bộ đội ta trên toàn mặt trận, gây niềm tin tưởng trong cán bộ, chiến sỹ về sức mạnh của tác chiến hiệp đồng binh chủng. Với những thành tích xuất sắc đạt được trong chiến đấu, sau trận đánh Đại đội tăng 9 và tập thể kíp xe tăng 555 vinh dự được đón nhận Huân chương Quân công hạng 3.


Tấm panô làm bằng gỗ có kích thước 80 x 120cm được thiết kế công phu với biểu tượng chim ưng xoè cánh ôm gọn hình chiếc dù hàm ý nói lên sức mạnh cơ động của lực lượng nhảy dù ngụy, bên dưới là chữ số 3 cách điệu, giữa là hàng chữ “TĐND” thể hiện phiên hiệu của "Tiểu đoàn nhảy dù số 3". Điều đáng nói là hàng chữ "Chào mừng quan khách” là lời chào đón các lực lượng của địch trong cuộc hành binh Lam Sơn 719. Những “quan khách” đầu tiên và cuối cùng của chúng lại chính là những cán bộ, chiến sỹ của Đại đội tăng 9. Và như thế, tấm panô đã thành bằng chứng cho sự thất bại thảm hại của Mỹ - ngụy và là minh chứng cho chiến công của những người chiến sỹ xe tăng Việt Nam.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Chín, 2021, 02:56:09 pm
NÒNG SÚNG ĐẠI LIÊN M50
CỦA ANH HÙNG LIỆT SĨ ĐINH VĂN HÒE


Bảo Anh

(https://i.imgur.com/WAZCsKr.jpg)

Tại gian trưng bày về bộ đội Tăng thiết giáp trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 có trưng bày một nòng súng đại liên M50, loại súng được trang bị trên xe thiết giáp M113 của Mỹ. Hiện vật này gắn với những chiến công của Anh hùng, liệt sĩ Đinh Văn Hòe - nguyên là Trung đội phó thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn Bộ binh cơ giới 66, Trung đoàn 202, Binh chủng Tăng thiết giáp.


Đinh Văn Hòe sinh năm 1950, tại xã Xuân Hải, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Mang trong mình truyền thống của quê hương cách mạng, anh đã sớm đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lên đường nhập ngũ với mong muốn được trở thành người chiến sĩ xe tăng.


Ngay từ những ngày đầu nhập ngũ, Đinh Văn Hòe đã sớm bộc lộ chí khí cách mạng, dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Từ năm 1969 đến năm 1971, anh được biên chế vào Sư đoàn 304, tham gia chiến đấu với cương vị chiến sĩ súng máy cao xạ 12ly7, trực tiếp chiến đấu 3 trận, diệt 75 tên, bắn rơi 2 máy bay địch.


Đến năm 1972, anh được điều động giữ chức vụ Trung đội phó thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn Bộ binh cơ giới 66, Trung đoàn 202 Binh chủng Thiết giáp. Được về Binh chủng “thép”, anh càng có điều kiện phát huy khả năng làm chủ các loại vũ khí, các trang thiết bị hiện đại. Vậy là mong ước trở thành người lính xe tăng đã trở thành hiện thực, điều đó càng thôi thúc anh phấn đấu hơn trong học tập, công tác và chiến đấu.


Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Đinh Văn Hòe tham gia chiến đấu trong đội hình của Tiểu đoàn Bộ binh cơ giới 66, Trung đoàn 202. Với tinh thần “Vào trận là tiến công, đã đánh là tiêu diệt địch”, ngày 1 tháng 5 năm 1972, trong một lần đi trinh sát trận địa, gặp một tốp máy bay địch đang quần đảo và bắn phá vào trận địa của ta. Trước tình thế có thể diệt địch tại chỗ, Đinh Văn Hòe đã nhảy lên một chiếc xe bọc thép M113 bị hỏng bên đường, trên xe còn một khẩu đại liên M50 và một dây đạn còn nguyên. Anh lắp đạn, hướng nòng súng vào máy bay địch và ngắm bắn. Với 11 viên đạn, Đinh Văn Hòe đã hạ một máy bay trực thăng và làm rối loạn đội hình bay của địch buộc chúng phải rút chạy.


Tham gia trận đánh vào quận lỵ Hải Lăng của Tiểu đoàn bộ binh cơ giới 66 phối thuộc với Trung đoàn bộ binh 27 ngày 2 tháng 5 năm 1972, Đinh Văn Hòe tiếp tục chiến đấu dũng cảm và lập công xuất sắc. Hôm ấy, mũi tiến công của anh bất ngờ gặp khó khăn, trong 3 xe chiến đấu thì 1 xe bị trúng đạn, 1 xe bị sa lầy, trước tình thế nguy hiểm đó nếu không xử trí linh hoạt có thể bị địch chiếm lĩnh trận địa, người và xe của ta sẽ rơi vào tay địch, Đinh Văn Hòe đã nhanh chóng sử dụng súng B41 tiêu diệt được 1 xe tăng, dùng súng 14ly5 bắn rơi 1 máy bay vũ trang của địch. Cùng lúc anh đã hạ lệnh dùng lựu đạn khói ngụy trang cho kíp xe đang tổ chức cứu kéo lên khỏi bãi lầy. Trong hoàn cảnh chiến đấu mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, Hòe đã quên đi chính bản thân mình, chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng và anh đã anh dũng hy sinh.


Tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của Đinh Văn Hòe đã tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội Thiết giáp trong chiến đấu, thực hiện quyết tâm “Mỗi xe là một mũi tiến công, mỗi chiến sĩ xe tăng là một dũng sĩ diệt Mỹ".


10 giờ ngày 2 tháng 5, ta làm chủ hoàn toàn quận lỵ Hải Lăng. Trận Hải Lăng đã kết thúc đợt 2 chiến dịch tiến công giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Trên chiến trường Trị Thiên, lần đầu tiên có lực lượng bộ binh cơ giới tham gia đã gây được tiếng vang lớn, hoạt động tác chiến của bộ đội Thiết giáp trên chiến trường có nhiều đổi mới, khả năng phối hợp tốt giữa xe tăng và bộ binh đã góp phần vào thắng lợi to lớn của chiến dịch.


Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, liệt sỹ Đinh Vãn Hòe đã được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 23 tháng 9 năm 1973.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại đã kết thúc thắng lợi, trong khúc khải hoàn ca của ngày vui chiến thắng, chúng ta mãi mãi không quên những người con ưu tú đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Chín, 2021, 02:26:13 pm
CỜ ĐƠN VỊ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN CỦA
ĐẠI ĐỘI TĂNG 7 - TlỂU ĐOÀN 4 - TRUNG ĐOÀN TĂNG 201


Mỹ Anh

(https://i.imgur.com/UkcVwYN.jpg)

Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp hiện đang lưu giữ lá cờ Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là phần thưởng cao quý mà Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tặng cho Đại đội tăng 7 - Tiểu đoàn tăng 4 - Trung đoàn tăng 201 - Binh chủng Thiết giáp vì những chiến công xuất sắc trong thời gian xây dựng, chiến đấu từ tháng 11 năm 1971 đến tháng 12 năm 1972.


Năm 1971, sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược tại mặt trận Đường 9 - Nam Lào, ta chủ trương tiếp tục tiến công, giữ vững, phát triển thế và lực đã có, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972.


Ngày 18 tháng 11 năm 1971, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trung đoàn tăng 201, trong đó có 4 tiểu đoàn chiến đấu. Đại đội tăng 7 được thành lập ngày 28 tháng 2 năm 1972 trên cơ sở Đại đội 10 - Tiểu đoàn tăng 4 và nằm trong biên chế của Tiểu đoàn tăng 4. Sau khi thành lập, cán bộ, chiến sĩ Đại đội tăng 7 đã nhanh chóng ổn định tư tưởng, tổ chức, khắc phục khó khăn, phát động phong trào thi đua “Rèn luyện tốt, lập công lớn” và đã đạt được kết quả tốt: Pháo thủ bắn bài 2 đều đạt loại giỏi; Cán bộ và trưởng xe đã nâng được trình độ sử dụng phương tiện chỉ huy trên xe; Chiến thuật 1 xe và trung đội đạt khá.


Ngày 10 tháng 3 năm 1972, Đại đội tăng 7 được lệnh hành quân vào mặt trận Quảng Trị. Do làm tốt công tác chuẩn bị, nên chỉ sau 3 ngày hành quân, đơn vị đã vượt hơn 700km, đến địa điểm tập kết tại Vĩnh Linh, đảm bảo 100% người và xe an toàn. Tại đây, Đại đội 7 được giao nhiệm vụ phối thuộc với Tiểu đoàn 512 - Trung đoàn 203 tham gia chiến đấu. Đồng chí Nguyễn Xuân Khai - Trợ lý quân lực Bộ tư lệnh được ủy quyền truyền đạt mệnh lệnh bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Văn Thái (lúc này là Đại đội trưởng Đại đội 6 - Tiểu đoàn 512 - Trung đoàn tăng 203) làm Đại đội trưởng Đại đội tăng 7.


Ngày 29 tháng 3 năm 1972 đại đội được giao nhiệm vụ đánh vào chốt phòng ngự của địch ở Quán Ngang và căn cứ Đông Hà, vì đây là trận đánh đầu tiên của Đại đội tăng 7 hiệp đồng với bộ binh nên có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, đơn vị đã hạ quyết tâm chiến đấu, động viên cán bộ, chiến sĩ phát huy truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng”, giành thắng lợi ngay từ trận đầu để cổ vũ tinh thần cho bộ đội và rút kinh 9 nghiệm cho các trận đánh sau.


10 giờ 30 phút ngày 2 tháng 4 năm 1972, đơn vị nổ súng tiến công Quán Ngang. Do đã hiệp đồng chặt chẽ với Trung đoàn bộ binh 48 nên sau gần 1 giờ chiến đấu quyết liệt với quân địch, đại đội đã góp phần tiêu diệt hơn 200 tên địch, bắn sập 10 lô cốt, bắn cháy 2 kho xăng dầu, đạn dược, phá hủy 1 trận địa pháo, yểm trợ đắc lực cho bộ binh đánh chiếm cửa ngõ quan trọng của Quảng Trị, mở thông đường cho quân ta truy kích địch đến cầu Đông Hà và chốt giữ tại bờ Bắc sông Thạch Hãn.


Sau khi cầu Đông Hà bị đánh sập, ngày 9 tháng 4, Đại đội tăng 7 được lệnh quay về đội hình tiểu đoàn cùng đại đội tăng 6 phối thuộc cho Sư đoàn bộ binh 308 tiến công điểm cao 30 bên ngoài căn cứ Đông Hà.


Sau khi các cứ điểm bảo vệ vòng ngoài lần lượt bị quân ta tiêu diệt, địch co cụm về bảo vệ Đông Hà, với chiến thuật “Phòng ngự vỏ thép”, chúng bố trí hàng chục xe tăng, xe thiết giáp trong công sự xung quanh căn cứ, gây cho ta rất nhiều khó khăn trong các đợt tiến công tiếp theo. Sau nhiều lần trinh sát, nghiên cứu trận địa, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Thái đã chỉ huy đơn vị đưa xe tăng lên các điểm cao xung quanh căn cứ để dễ quan sát, phát hiện xe tăng trong hầm của địch. Ngày 27 tháng 4 năm 1972, trận đánh căn cứ Đông Hà bắt đầu. Đồng chí Nguyễn Văn Thái ngồi trên xe tăng T54 số hiệu 901 chỉ huy chiến đấu. Khi thấy pháo thủ trên xe bắn không có hiệu quả, đồng chí đã xuống thay vị trí và ngắm bắn trực tiếp ở cự ly 1000m, tiêu diệt liên tiếp 5 xe tăng trong hầm của địch, các xe khác tiêu diệt thêm 2 xe. Chớp thời cơ, xe tăng dẫn dắt bộ binh ta xông lên đánh chiếm điểm cao 37. Trong quá trình cơ động, xe 901 bị dây thép gai cuốn vào bánh chủ động không di chuyển được đã đứng tại chỗ bắn yểm trợ cho các xe khác đánh chiếm cửa mở. Ngay lập tức, đồng chí Nguyễn Văn Thái chuyển sang xe tăng T54 số hiệu 992 chỉ huy các xe trong đơn vị tiếp tục truy kích địch, dẫn dắt bộ binh thọc sâu đánh chiếm điểm cao 26, tiêu diệt toàn bộ Sở chỉ huy chiến đoàn 20 ngụy. Tối 28 tháng 4 năm 1972, quân ta làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Hà - Lai Phước. Ngày 15 tháng 6 năm 1972, Đại đội tăng 7 được tăng cường người và xe, đánh vào Mỹ Chánh, 3 xe tăng của đại đội đã diệt 35 tên địch, yểm trợ đắc lực cho bộ binh đánh chiếm các điểm cao. Ngày 20 tháng 8 năm 1972, đại đội nhận nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao 105, các kíp xe đã tiêu diệt 1 đại đội bộ binh địch...


Sau 1 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đại đội tăng 7 đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, tham gia chiến đấu 7 trận, tiêu diệt gần 1000 tên địch; Bắn cháy 14 xe tăng; Bắn sập 20 lô cốt; Phá hủy 3 kho đạn, kho xăng dầu; Tiêu diệt 2 trận địa pháo và súng cối; phá vỡ chiến thuật "phòng ngự vỏ thép” của địch, góp phần giải phóng thị xã Quảng Trị. Đơn vị đã kết hợp chặt chẽ chiến đấu và xây dựng, càng đánh càng mạnh, trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt và luôn là lá cờ đầu của Binh chủng Tăng thiết giáp trên mặt trận Quảng Trị, được các đơn vị bạn khen ngợi và học tập.


Với những chiến công xuất sắc đó, đơn vị đã liên tục nhận được các phần thưởng cao quý do Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trao tặng:

- 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba.

- 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Hai.

- 7 xe được tặng Huân chương chiến công giải phóng (trong đó có xe tăng T54 số hiệu 992 được tặng thưởng 2 lần).

- 45% cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương.

- 50% cán bộ, chiến sĩ được tặng Bằng khen, Giấy khen.


Đặc biệt, ngày 20 tháng 12 năm 1972, tập thể cán bộ, chiến sĩ Đại đội 7 - Tiểu đoàn 4 - Lữ đoàn tăng 201 vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tặng.


Hiện nay, Đại đội tăng 7 nằm trong biên chế Tiểu đoàn tăng 1 - Lữ đoàn tăng 201 Binh chủng Tăng thiết giáp. Phát huy truyền thống vẻ vang của thế hệ cha anh, trong những năm qua cán bộ, chiến sĩ Đại đội 7 luôn đạt nhiều thành tích cao trong học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xứng đáng với danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Chín, 2021, 02:26:56 pm
CỜ “ĐÁNH GIỎI” TRONG TRẬN LỘC NINH


Lê Huy

(https://i.imgur.com/yVbsJVo.jpg)


Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tặng Đại đội tăng 10 thuộc Tiểu đoàn tăng 20 - Đoàn Thiết giáp M26 miền Đông Nam Bộ. Đơn vị có thành tích xuất sắc tiêu diệt địch ở Lộc Ninh trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972. Lá cờ được thêu chỉ vàng trên chất liệu vải sa tanh màu đỏ, kích thước 45cm x 67cm, được trưng bày trang trọng tại phần trưng bày “Bộ đội Tăng Thiết giáp trong cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972” của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Tháng 10 năm 1970, Đại đội tăng 10 được thành lập. Sau hơn một năm huấn luyện chuẩn bị lực lượng, trang bị kỹ thuật, đến tháng 11 năm 1971, Đại đội 10 nhận lệnh hành quân bằng xích vượt hơn 2000 km vào chiến trường miền Đông Nam bộ thực hiện nhiệm vụ phối thuộc cho Sư đoàn bộ binh 5 tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Lộc Ninh, trận tiến công mở đầu cho chiến dịch Nguyễn Huệ - Xuân hè năm 1972.


Lực lượng địch ở Lộc Ninh gồm có Sở chỉ huy Chiến đoàn 9 của ngụy, chi khu Lộc Ninh, sân bay dã chiến, khu kho tiếp liệu. Quân số hơn 1000 tên, bố trí thành 3 cụm cứ điểm nối tiếp nhau theo hướng Đông Bắc - Tây nam với hệ thống phòng ngự kiên cố, mạng lưới bảo vệ vòng ngoài dày đặc và có lực lượng chi viện, ứng cứu mạnh.


Lực lượng ta tham gia chiến đấu gồm có 2 Trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn bộ binh 5, Đại đội tăng 10, Đại đội pháo phòng không 52 thuộc Tiểu đoàn tăng 20, cùng một số phân đội hỏa lực và lực lượng bảo đảm khác.


Đúng 24 giờ ngày 6 tháng 4 năm 1972, dưới sự yểm trợ của pháo binh, Đại đội tăng 10 được lệnh xuất kích. Khi tiến đến làng Mười, thấy xe tăng ta xuất hiện, quân địch hoảng sợ bỏ chạy về Lộc Ninh báo tin.


Sáng ngày 7 tháng 4, sau khi pháo binh bắn cấp tập lần cuối vào Sở chỉ huy Chiến đoàn 9 ngụy, các trung đội xe tăng cùng đại đội pháo phòng không vào tuyến triển khai trận địa bắn. Máy bay C130 địch xuất hiên chịếu đèn pha vào đội hình xe tăng của ta liền bị pháo cao xạ bắn rơi ngay tại chỗ.


Dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Đại đội tăng 10, xe tăng chia làm 2 mũi tiến công dẫn dắt bộ binh xung phong đánh chiếm Sở chỉ huy Chiến đoàn 9. Đại đội trưởng dẫn đầu mũi trái nhanh chóng tiêu diệt một xe M48 ở gần cửa mở, tạo điều kiên cho mũi phải vượt qua hàng rào, phối hợp với mũi trái đánh chiếm đầu cầu. Thấy xe tăng ta xuất hiện và tiến công mãnh liệt, binh lính địch hoảng hốt bỏ chạy ra phía cổng chính liền bị bộ binh ta tiêu diệt, số còn lại co cụm vào giữa trung tâm Sở chỉ huy để đối phó. Tên đại tá Nguyễn Công Vĩnh - Chỉ huy Chiến đoàn 9 ngụy, vội vàng hạ lệnh cho Bộ Tham mưu của chúng rút ra khỏi căn cứ. Không cho địch kịp tháo lui, xe tăng ta tiếp tục dẫn dắt bộ binh ào ạt xông lên đánh thẳng vào sở chỉ huy Chiến đoàn 9 theo hướng Tây bắc và chia cắt tiêu diệt địch tháo chạy ở phía Nam. Với sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, xe tăng và bộ binh đã tiêu diệt và bắt sống phần lớn quân địch, trong đó có tên đại tá Nguyễn Công Vĩnh - Chỉ huy trưởng Chiến đoàn 9 ngụy.


Trưa ngày 7 tháng 4, quân ta đã chiếm được chi khu và làm chủ cụm cứ điểm Lộc Ninh. Kết quả ta diệt và bắt sống hơn 1000 tên thu nhiều vũ khí trang bị của chúng. Riêng Đại đội tăng 10 và Đại đội pháo phòng không 52 đã diệt 150 tên địch, bắn rơi 1 máy bay C130, bắn sập 15 lô cốt, ụ súng, bắn hỏng 7 khẩu pháo và súng cối, 15 súng máy, diệt 1 xe M48.


Trận Lộc Ninh là trận đánh hiệp đồng binh chủng lần đầu tiên có xe tăng tham gia chiến đấu trên chiến trường Miền Đông Nam Bộ, đã thắng nhanh, diệt gọn, tiêu diệt một lực lượng lớn sinh, hoả lực của Sư đoàn bộ binh 5 ngụy. Góp phần làm tan rã ngụy quyền địa phương, mở rộng vùng giải phóng, làm bàn đạp cho quân ta tiến công xuống phía Nam, thực hiện đúng khẩu hiệu của chiến dịch “Khí thế như Mậu Thân, ra quân như Nguyễn Huệ, diệt gọn như Điện Biên".


Với những thành tích xuất sắc đã đạt được trong Chiến dịch Nguyễn Huệ - Xuân hè năm 1972, Đại đội tăng 10 - Tiểu đoàn tăng 20 - Đoàn Thiết giáp M26 - miền Đông Nam Bộ đã vinh dự được tặng cờ “Đánh giỏi" do Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trao tặng và một Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Đại đội tăng 10 đã góp phần tô thắm thêm truyền thống anh hùng của lực lượng Tăng thiết giáp miền Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Chín, 2021, 02:27:52 pm
LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI LÍNH XE TĂNG CẢM TỬ


Mai Ngọc

(https://i.imgur.com/ZSt9CBU.jpg)

Đã bao lần tôi được cầm, ngắm, đọc và cảm nhận đến từng nét chữ, từng lời viết trong lá thư của người chiến sỹ xe tăng viết cho anh trai mình trước khi bước vào chiến dịch Tây Nguyên (năm 1972). Mỗi lần xem thư và giới thiêu trận đánh căn cứ Đắc Tô - Tân cảnh cho khách tham quan là một lần trong tôi lại trào dâng xúc động, sự hoài cảm khôn nguôi về một con người.


Tôi không cùng thế hệ nhưng xin được gọi bằng “Anh” để tưởng nhớ anh, một thời trai trẻ hào hùng.


Anh Nguyễn Đắc Lượng sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo vùng trung du Phú Thọ. Rời ghế nhà trường, anh xung phong nhập ngũ. Tạm biệt quê hương, gia đình, Nguyễn Đắc Lượng hành quân vào chiến trường miền Nam chiến đấu trong đội hình “Lính xe tăng". Anh mang theo mình tình yêu và nỗi nhớ quê hương cùng những người thân yêu da diết. Nhưng miền Nam đau thương và anh dũng đang chờ những chàng trai như anh ra trận. Là người lính tuổi đôi mươi, anh xác định rõ trách nhiệm của mình, sẵn sàng cống hiến và hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân mà quên đi hạnh phúc riêng mình. Tình yêu ấy, lý tưởng ấy quyện chặt trong anh; để những khi rảnh rỗi, anh lại gói vào những cánh thư, gửi về hậu phương, nơi những người thân đau đáu ngóng trông. Những lá thư vượt Trường Sơn, vượt qua bao nhiêu đèo cao, suối sâu, vực thẳm, vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù, được đổi bằng máu của những chiến sỹ quân bưu mới đến được đất Bắc. Sự khốc liệt của chiến tranh đã làm cho những cánh thư đi về không trọn vẹn, chỉ có 3 lá thư tới đúng địa chỉ. Gia đình đón nhận, nâng niu, gìn giữ đến giờ. Anh Nguyễn Đắc Lực khi trao những bức thư này cho Bảo tàng Tăng thiết giáp đã nói: “Đó là kỷ vật cuối cùng của người em trai yêu quỷ của tôi”.


Thời gian trôi qua hơn một phần ba thế kỷ, những phong bì thư đã cũ sờn các góc, nhưng những nét chữ trong thư vẫn tươi nguyên màu mực, lá thư cuối anh viết cho người anh trai của mình vào ngày 31 tháng 10 năm 1971, khi đang ở chân dãy núi Trường Sơn. Nội dung thư mộc mạc, giản dị, chứa chan tình cảm của người chiến sỹ ở độ tuổi đôi mươi, nhưng ở đó toát lên một tinh thần lạc quan cách mạng, bản lĩnh và nghị lực, một ý chí và lý tưởng sống cao đẹp; những dòng thư ngắn ngủi anh viết tuy chưa nói hết những điều muốn nói, nhưng tôi biết, chứa đựng trong đó là đầy ắp ký ức tuổi thơ đẹp đẽ, tình yêu quê hương cháy bỏng, ngọn lửa cách mạng nhiệt thành, bầu nhiệt huyết và con tim tha thiết được sống và hiến dâng giá trị đích thực của con người cho lý tưởng. Lý tưởng ấy luôn được thắp sáng và hun đúc bằng một niềm tin mãnh liệt, đó là đất nước nhất định độc lập, Bắc - Nam xum họp một nhà, trong niềm vui chung của dân tộc có niềm vui riêng của anh và gia đình.


Chúng ta hãy cùng đọc và suy ngẫm: “Anh yêu quý! Đơn vị em hiện đang ở chân dãy Trường Sơn, đợt này em đi cố thể đến ngày thống nhất đất nước em mới về. Lúc này giữa cánh rừng Trường Sơn bao la, em rất nhớ và muốn được về thăm quê hương và gia đình. Nhưng tuổi trẻ phải cống hiến và hy sinh, em và những đồng đội phải làm tròn nhiệm vụ Tổ quốc giao cho. Còn chuyện hạnh phúc riêng của em, em sẽ đợi đến ngày đất nước ca khúc khải hoàn, lúc đố sẽ vui hơn rất nhiều anh nhỉ...”.


Anh viết lá thư này trước khi đơn vị bước vào trận đánh, đó là trận tiến công căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh mà anh linh cảm thấy sự khốc liệt và những mất mát, hy sinh...


Ngày 24 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Đắc Lượng cùng kíp xe tăng mang số hiệu 377 thuộc Trung đội 3, Đại đội 7, Tiểu đoàn tăng 297, tham gia trận đánh Đắc Tô - Tân Cảnh. Sau khi quân ta thắng lợi giòn giã và làm chủ Tân Cảnh, trung đội 3 được lệnh tiến công căn cứ Đắc Tô 2. Kíp xe 377 dẫn đầu đội hình vượt qua nhiều đợt bắn phá ác liệt của máy bay địch, đến Đắc Tô 2 sớm nhất. Thấy xe tăng ta ít, quân địch trong căn cứ cho xe tăng ra phản kích. Với ý chí quyết tâm cao độ, lòng căm thù giặc đến tận xương tủy, xe 377 đã nhanh chóng làm chủ tình thế, lao thẳng vào đội hình xe tăng địch, bắn cháy liên tiếp 7 xe tăng M41, làm quân địch hoảng loạn, tạo thời cơ cho xe tăng và bộ binh ta tiến lên tiêu diệt địch và làm chủ căn cứ Đắc Tô 2. Nhưng cả kíp xe 377 đã anh dũng hy sinh, các anh đã mãi mãi nằm lại nơi đất mẹ thân yêu khi tuổi đời còn rất trẻ.


Ngày cả nước tưng bừng mừng chiến thắng, ca khúc khải hoàn, người anh trai của anh giở lá thư cuối cùng ra đọc. Nước mắt anh đã thấm nhòe nét chữ, anh nhớ thương người em yêu quý mình... Tây nguyên được giải phóng, cuộc sống mới đã làm đổi thay diện mạo nơi đây. Những tòa nhà công sở, trường học, bệnh viện, những rừng cao su, cà phê bạt ngàn... Tây nguyên ngày càng giàu, đẹp. Tổ quốc không quên những người con cảm tử. Chiến công của anh cùng kíp xe tăng 337 đã hóa thành bất tử. Ngày 9 tháng 1 năm 2009, kíp xe 377 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Ở một vị trí đẹp nhất của Kon Tum, chiếc xe tăng 377 được tôn vinh sừng sững giữa núi rừng. Ngàv ngày, các em học sinh và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đặt dưới chân tượng đài những bông hoa rừng thơm ngát với tấm lòng thành kính...


Một cựu chiến binh, sau khi đọc bức thư của liệt sỹ Nguyễn Đắc Lượng đã viết trong sổ ghi cảm tưởng của Bảo tàng “... Lá thư của liệt sỹ Nguyễn Đắc Lượng đã làm chúng tôi hết sức xúc động, bởi lẽ nội dung trong thư và trận đánh vào cân cứ Đắc Tô - Tân Cảnh đã đánh thức lý tưởng sống cao đẹp, biết gạt bỏ những ham muốn tầm thường để cống hiến, hy sinh trọn đời cho non sông đất nước".


Bạn Hoàng Trung Dũng, sinh viên trường Đại học Ngoại thương đã ngậm ngùi khi nghe giới thiệu về bức thư và xin được tận mắt đọc từng nét chữ trong thư, sau một hồi im lặng đã viết: “Tôi đã được học, được đọc, được nghe giảng rất nhiều về đạo lý cuộc sống, về chí khí quả cảm và những tấm gương tiêu biểu cho tinh thần dân tộc. Nhưng trên thực tế vẫn còn một số bộ phận trong xã hội đang sống vô trách nhiệm và thiếu bản lĩnh. Trong khi chúng ta hàng ngày kêu gọi sự đóng góp hảo tâm cho những người nghèo, những người nhiễm chất độc của chiến tranh, những gia đình đói rét do bão lũ gây ra. Cho đến hôm nay, khi được đọc bức thư của người chiến sỹ xe tăng cảm tứ thì tôi càng thêm tin rằng vẫn còn có những tâm hồn cao đẹp, biết cống hiến hết thảy đời mình cho Tổ quốc thân yêu như các liệt sỹ, thành viên kíp xe tăng 377. Cám ơn các chị, các anh Bảo tàng Tăng thiết giáp, cám ơn liệt sỹ Nguyễn Đắc Lượng, anh đã giúp tôi tìm lại chính mình, chúng tôi nguyện phấn đấu hết mình để thật xứng đáng với sự hy sinh to lớn của các anh, mong rằng Bảo tàng tiếp tục là nơi để thế hệ trẻ chúng tôi soi mình trong đó”.


Đất nước đang trên đường đổi mới rất cần tài năng và trí tuệ của thế hệ trẻ. Những dòng suy nghĩ của bạn sinh viên và nội dung bức thư của Liệt sỹ Nguyễn Đắc Lượng có một sức mạnh lan tỏa mãnh liệt trong tôi, sức mạnh ấy đã cho tôi thêm nhiều lần cảm nhận sâu xa hơn về sự đồng cảm của các thế hệ, họ tôn trọng lịch sử, tôn trọng những giá trị đích thực của cuộc sống.


Bức thư đã góp phần tiếp thêm nghị lực, niềm tin và ý chí cho tôi và thế hệ trẻ hôm nay sống và cống hiến xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, phồn vinh. Chúng tôi nguyện sẽ trân trọng và gìn giữ bức thư của anh như một trách nhiệm thiêng liêng khi được anh trao gửi.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Chín, 2021, 02:28:39 pm
NẮM CƠM CHƯA KỊP ĂN CỦA KÍP XE TĂNG ANH HÙNG


Lưu Hiếu Minh

   "Tôi gặp vầng than trong Bảo tàng truyền thống,
   Không, đó là nắm cơm của kíp xe đánh vào Tân Cảnh - Đắc Tô
   Các anh chưa kịp ăn khi mê mải diệt thù
   Hai bảy năm nắm cơm còn đó
   Lặng lẽ vào bất tử!...."


(https://i.imgur.com/B136KY1.jpg)

Đó là những xúc cảm của đồng chí Trọng Quyết trước nắm cơm cháy đen như than khi anh đến thăm Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Đó là nắm cơm chưa kịp ăn của những người chiến sĩ xe tăng trong trận chiến Đắc Tô - Tân Cảnh.


Nắm cơm cháy thành than là di vật còn lại của cả kíp xe đã lập công xuất sắc và anh dũng hy sinh trong trận Đắc Tô 2, mặt trận Tây Nguyên ngày 24 tháng 4 năm 1972. Kíp chiến đấu trên xe hôm đó gồm 4 thành viên: Thiếu úy Nguyễn Nhân Triển - Trung đội trưởng Trung đội tăng 3 - Trưởng xe; Đồng chí Cao Trần Vịnh - Lái xe; Đồng chí Nguyễn Đắc Lượng - Pháo thủ số 1 ; Đồng chí Hoàng Văn Ái - Pháo thủ số 2.


Đúng 4 giờ 30 phút sáng ngày 24 tháng 4 năm 1972, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công căn cứ Tân Cảnh. Từ hướng đông bắc và tây bắc xe tăng ta nhanh chóng tiêu diệt các lô cốt, hỏa điểm sát cửa mở và yểm trợ lẫn nhau vượt qua các lớp hàng rào thép gai, dùng hỏa lực chi viện dẫn dắt bộ binh xung phong vào cứ điểm. Ta lần lượt đánh chiếm các vị trí quan trọng như khu cố vấn Mỹ, khu binh sỹ ngụy, Sở chỉ huy Trung đoàn 42 ngụy. Sự xuất hiện của một lực lượng lớn bộ binh tinh nhuệ và xe tăng ta đã khiến địch thực sự hoảng loạn. Bất chấp lệnh của quan thầy Mỹ, địch ở căn cứ Tân Cảnh đã vứt bỏ tất cả xe pháo rút chạy. Đến 8h ngày 24 tháng 4 năm 1972, quân địch ở căn cứ Tân Cảnh cơ bản bị tiêu diệt và bị bắt sống.


Trong lúc địch đang hoang mang vì mất Tân Cảnh, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định điều 1 trung đội xe tăng và 1 xe cao xạ 57 ly tự hành hiệp đồng với Trung đoàn bộ binh 1 đánh thẳng vào căn cứ Đắc Tô 2. Suốt nửa buổi sáng chiến đấu liên tục, không có thời gian chuẩn bị, cơm chưa kịp ăn, Trung đội tăng 3 gồm các xe 377, 354, 369 vừa củng cố đội hình cơ động, vừa nắm địch, bắt liên lạc hiệp đồng với bộ binh. Xe 377 dẫn đầu đội hình vọt lên với tốc độ cao, khéo léo di chuyển vượt qua các đợt ngăn chặn, đánh phá ác liệt của máy bay địch, tiếp cận mục tiêu sớm nhất. Quân địch trong căn cứ thấy quân ta chỉ có một xe tăng, không có bộ binh đi kèm liền cho 10 xe M41 chia làm 2 mũi bao vây xe 377. Lúc này, Xe 377 rơi vào tình thế vô cùng hiểm nghèo, một mình giữa vòng vây xe tăng địch. Nguyễn Nhân Triển đã hội ý chớp nhoáng với kíp xe và các anh đã đi đến quyết định đánh cảm tử. Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy xe 377 tả xung hữu đột, lao thẳng vào đội hình xe tăng địch bắn cháy liên tiếp 7 xe M41, làm địch rối loạn đội hình. Trong lúc hỗn chiến, xe 377 bị trúng đạn bốc cháy. Đúng lúc ấy xe 354 và 369 có bộ binh đi cùng kịp thời chi viện làm chủ căn cứ Đắc Tô 2.


Cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh là tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Tập thể xe 377 đã lập một kỷ lục, liên tiếp bắn cháy 07 xe tăng địch trong một trận đánh, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội Tăng thiết giáp trong chiến đấu.


Trận đánh kết thúc, đồng đội tìm thấy xe 377 đang bốc cháy giữa ngổn ngang xác xe tăng địch, cả kíp xe 4 người đã anh dũng hy sinh, hoá thân vào chiến thắng. Bên cạnh thi thể không còn nguyên vẹn của các anh, chỉ còn đó những nắm cơm đã cháy thành than mà các anh chưa kịp ăn giữa hai trận đánh. Thương tiếc khôn nguôi, đồng đội đã để các anh nằm lại với đất mẹ Tây Nguyên, với Đắc Tô - Tân Cảnh, nơi các anh đã chiến đấu và anh dũng hy sinh. Hơn 36 năm đã trôi qua kể từ ngày 24 tháng 4 năm ấy, các anh Triển, Ái, Lượng, Vịnh đã cùng bao đồng đội khác hóa thân vào đất mẹ, mãi mãi thanh xuân cùng điệp trùng hoa lá Tây Nguyên.


Với những thành tích đặc biệt xuất sắc ngày 9 tháng 1 năm 2009, Kíp xe tăng 377 đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Chiếc xe tăng 377 đã trở thành tượng đài chiến thắng trong lòng cán bộ chiến sỹ Tăng thiết giáp và đồng bào các dân tộc Tâỵ Nguyên, ở trung tâm huyện lỵ Đắc Tô, xe 377 đã được tôn vinh trong quần thể tượng đài chiến thắng. Nắm cơm cháy trong Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, di vật còn lại của kíp xe 377 là minh chứng về tinh thần kiên quyết tấn công tiêu diệt địch, “một xe cũng tiến công, một người cũng chiến đấu” thể hiện cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội xe tăng trong chiến đấu.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:04:30 pm
LÁ CỜ GIẢI PHÓNG VÀ XE K63 SỐ HIỆU R059
TRONG TRẬN ĐÁNH BẢO VỆ CẢNG CỬA VIỆT


Trung Anh

(https://i.imgur.com/n83JJ0q.jpg)

(https://i.imgur.com/AX4kPJg.jpg)

“... Đến thăm Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, qua những hình ảnh của Binh chủng, tôi rất xúc động hồi tưởng lại những ngày tháng phối thuộc với Đại đội 1 - Tiểu đoàn 66 - Trung đoàn Bộ binh cơ giới 202 tại cửa Việt. Những ấn tượng này có lẽ không bao giờ quên trong tâm tư, tình cảm của những người lính đã một thời cùng chia sẻ với nhau tại mảnh đất cửa Việt... Chính chiếc xe K63 số 059 đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ Cửa Việt từ đêm 28 đến rạng ngày 31 tháng 1 năm 1973...”.


Những dòng cảm tưởng nêu trên của đồng chí Lê Xuân Tường - cựu chiến binh Trung đoàn 101, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 khi đến thăm Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, đã đưa chúng tôi, những nhân viên bảo tàng ngược dòng lịch sử. Trong trận chiến đấu chống quân ngụy lấn chiếm vùng giải phóng tại Cửa Viẹt, kíp xe K63 số hiệu R059, Đại đội 1, Tiểu đoàn 66, Trung đoàn bộ binh cơ giới 202 ngày 31 tháng 1 năm 1973, đã lập công xuất sắc và được ví như “dàn tên lửa 8 nòng". Trong trận đánh này, lá cờ giải phóng cùng kíp xe K63 số hiệu R059 đã làm nên một câu chuyện đầy thú vị.


Năm 1972, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn mặt trận với “Khí thế như Mậu Thân, ra quân như Nguyễn Huệ". Trên mặt trận Quảng Trị, địch bị đánh ở La Vang, Ái Tử, Đông Hà... Ta chọc thủng nhiều tuyến phòng ngự vững chắc đã làm cho tâm lý bại trận lan rộng từ sĩ quan tới binh lính ngụy.


Ngày 27 tháng 4 năm 1972, Đại đội 1, Tiểu đoàn 66 được lệnh tiến công địch tại làng Ngô Xá Đông, cầu Ba Bến. Lực lượng tham gia chiến đấu gồm 4 xe thiết giáp K63 số hiệu: R616; R612; R652; R625, tất cả các xe đều được phát một lá cờ giải phóng mới để cắm lên xe. Hôm ấy, mặc dù trời mưa to, nước sông chảy mạnh nhưng Đại đội 1 vẫn tổ chức cho các xe vượt sông Thạch Hãn an toàn. Lúc này, cờ giải phóng trên các xe đều bị ướt và rũ xuống, nhận thấy điều đó, kíp xe 616 bàn bạc với nhau: “Để lá cờ ướt như vậy, khi chiến đấu cờ không tung bay được sẽ làm mất đi khí thế hùng dũng của xe ta” và thống nhất thay bằng lá cờ giải phóng khác. Đồng chí Nguyễn Văn Nương - Trung đội phó trưởng xe, được giao nhiệm vụ giữ lá cờ bị ướt. Nâng niu và trân trọng, đồng chí Nương cất lá cờ vào túi cá nhân của mình thật cẩn thận.


Ngày 28 tháng 4 năm 1972, kíp xe R616 cùng các lực lượng khác tham gia phản kích đánh địch và lập công xuất sắc: diệt 50 tên địch, bắn rơi 1 máy bay, thu hồi 1 xe M113, riêng đồng chí Nương bắn cháy 1 xe tăng M41 của địch.

Sau trận đánh, đồng chí Nguyễn Văn Nương người được giao nhiệm vụ giữ lá cờ của xe 616 bị thương nặng và được chuyển về tuyến sau, lúc này Đại đội J được tăng cường thêm một số xe K63 và xe cao xạ tự hành 23mm để tăng cường sức chiến đấu. Sau một thời gian điều trị, đồng chí Nguyễn Văn Nương đã trở về đơn vị tiếp tục tham gia chiến đấu và được biên chế vào kíp xe K63 số 059 với vị trí trưởng xe.


Những ngày cuối tháng 1 năm 1973, Đại đội 1 được giao nhiệm vụ phối hợp cùng Trung đoàn 101, Sư đoàn bộ binh 325 lập các chốt phòng thủ tại cảng Cửa Việt để chặn đứng các cuộc lấn chiếm đất của địch. Tại đây, đồng chí Nguyễn Văn Nương đã lấy lá cờ giải phóng của xe 616 mà anh vẫn cất giữ, treo lên vách hầm nơi đơn vị đóng quân tại xóm Mồ - Triệu Phong- Quảng Trị. Từ ngày 27 tháng 1 đến 30 tháng 1 năm 1973,   Đại đội 1 đã chiến đấu kiên cường cùng các đơn vị bạn bẻ gãy nhiều cuộc tấn công quy mô lớn, với nhiều xe tăng của địch. Đến cuối ngày 31 tháng 1, các xe trong đơn vị đã bị địch bắn hỏng, bắn cháy, Đại đội 1 chỉ còn lại 1 xe thiết giáp K63 số R059 còn chiến đấu được và 1 pháo cao xạ tự hành 23 mm bị hỏng máy. Với tinh thần quyết tâm “còn một xe, một người cũng tiến công”, Đại đội 1 và đơn vị bộ binh đã thống nhất phương án đánh địch: “Dùng xe 059 chở 8 xạ thủ B40, dưới sự chỉ viện của hỏa lực pháo binh, dùng tốc độ cao, lao vào giữa đội hình địch, các chiến sĩ sử dụng B40 sẽ ra ngoài tiêu diệt xe tăng địch”. Để thể hiện quyết tâm đó, trung đội phó Nguyễn Văn Nương đã tháo lá cờ trên vách hầm xuống và treo lên ăng ten trên xe R059, lá cờ giải phóng tung bay trước gió như tiếp thêm sức mạnh và niềm tin chiến thắng cho cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1.


5 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1 năm 1973, các loại hỏa lực pháo binh, tên lửa chống tăng của ta khai hỏa bắn phá vào đội hình địch. Một số xe tăng địch bốc cháy làm cho bộ binh của chúng hoảng loạn, một số bị tiêu diệt, một số chui vào hầm tránh đạn. Cùng lúc đó, xe R059 được lệnh xuất kích, đồng chí lái xe điều khiển xe chạy dích dắc để tránh đạn, rồi lao thẳng vào đội hình 35 chiếc xe tăng địch, các chiến sĩ trên xe lao xuống, nâng súng xiết cò, 8 quả đạn B40 thiêu cháy ngay lập tức 5 xe tăng địch. Một xe tăng M48 của địch quay nòng pháo chĩa vào xe 059 nhả đạn, lái xe Vũ Văn Nhật chuyển hướng đột ngột làm quả đạn đi sượt thành xe. Mất mục tiêu, tên lái xe của địch nâng cửa lái lên để quan sát, ngay lập tức xạ thủ 12ly7 trên xe 059 quét một loạt đạn làm tên địch chết úp mặt trên cửa lái, chiếc xe đứng khựng lại, bọn địch trong xe nhốn nháo mở cửa tìm đường thoát thân. Chớp thời cơ, lái xe Vũ Văn Nhật đề nghị trưởng xe Nguyễn Văn Nương cho lên cướp xe tăng M48 của địch. Giao cần lái cho trưởng xe, bất chấp đạn bay dày đặc, anh nhảy lên rút lá cờ giải phóng trên xe mình, cùng đồng đội lao sang cắm lên tháp pháo chiếc xe tăng M48, nhìn các chiến sĩ của ta súng trong tay sẵn sàng nhả đạn, những tên địch trong xe run sợ giơ tay xin hàng. Với kinh nghiệm học hỏi được, anh nổ máy cho xe quay lại và rú ga lao lên với tốc độ cao. Bọn địch hoảng sợ bỏ chạy, chớp thời cơ, xe 059 cùng các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 101 thừa thắng xông lên, tiến công như vũ bão, đánh vào Sở chỉ huy lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến ngụy, diệt tên lữ đoàn phó. Sau trận đánh, lái xe Vũ Văn Nhật đã điều khiển chiếc xe tăng M48 kéo về cho đơn vị thêm 3 xe tăng chiến lợi phẩm nữa. Tập thể xe K63 số hiệu R059 đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Hai.


Giờ đây, mỗi lần đến Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, khách tham quan như được sống lại trong không khí của cuộc chiến đấu bảo vệ vùng đất Cửa Việt năm xưa qua câu chuyện như huyền thoại mà có thật về lá cờ giải phóng cùng kíp xe R059 và những chiến công xuất sắc của Đại đội 1 - Tiểu đoàn 66 - Trung đoàn bộ binh 202 do các hướng dẫn viên kể lại. Những hiện vật lịch sử đó vừa là bài học kinh nghiệm quý báu về sự dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, tinh thần kiên quyết tiến công địch và giành chiến thắng của thế hệ cha anh, đồng thời là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Tăng thiết giáp mai sau phấn đấu, rèn luyện không ngừng, cùng nhau viết tiếp những trang sử vẻ vang của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:06:19 pm
BẢN BÁO CÁO
“TRẬN PHẢN KÍCH TIÊU DIỆT ĐỊCH TẠI CẢNG CỬA VIỆT”


Thảo My

(https://i.imgur.com/2DBmmVz.jpg)

Tại Đại hội thi đua quyết thắng Binh chủng Thiết giáp năm 1974, đồng chí Thượng úy Hoàng Ngọc Thành - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới - Trung đoàn 202 đã vinh dự thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 66 và Đại đội 1 -   Tiểu đoàn 397 - Trung đoàn tăng 203 đọc bản báo cáo “Trận phản kích tiêu diệt địch lấn chiếm trái phép cảng Cửa Việt". Nội dung bản báo cáo là toàn bộ diễn biến, kết quả, ý nghĩa quá trình chuẩn bị và tham gia chiến đấu diễn ra từ ngày 25 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 và những thành tích của đơn vị trong trận đánh này.


Cảng Cửa Việt nằm ở phía đông vùng giải phóng Quảng Trị, là đầu mối giao thông đường thủy trọng yếu, một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, chính trị, kinh tế. Từ giữa tháng 1 năm 1973, địch đã sử dụng máy bay đánh phá ác liệt ra khu vực Quảng Trị nhằm lấn chiếm để khống chế đường tiếp vận của ta, nhưng chúng đã bị bộ binh, pháo binh ta chặn đánh thiệt hại nặng phải co cụm lại. Mặc dù bị tổn thất nhưng chúng vẫn tập trung một lực lượng lớn, âm mưu tạo thê bất ngờ tiến công ngay trong đêm 27 rạng ngày 28, trước khi Hiệp định Pari có hiệu lực. Từ đêm 27 tháng 1 địch dùng pháo binh, máy bay, xe tăng thiết giáp và lực lượng lính thủy đánh bộ hòng chiếm phía Nam cảng Cửa Việt theo đường biển. Cảnh giác cao trước âm mưu của kẻ thù, Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới thuộc Trung đoàn xe tăng 202 được giao nhiệm vụ phối hợp với Trung đoàn 101 - Sư đoàn bộ binh 325, Tiểu đoàn 47 và Tiêu đoàn 10 - Sư đoàn bộ binh 320 sẵn sàng tiêu diệt địch bảo vệ vững chắc vùng giải phóng bắc và nam Cửa Việt. Được lệnh nổ súng, Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới đã hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh chiến đấu liên tục, bẻ gãy 6 đợt tiến công của chúng, bắn cháy 15 xe tăng thiết giáp, diệt 200 tên địch, bắn rơi 1 máy bay.


Đêm 30, Đại đội tăng 1 Trung đoàn xe tăng 203 được tăng cường cho Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới tiêu diệt địch ở bờ nam Cửa Việt. Với cách đánh thọc sâu táo bạo, chia cắt đội hình địch trong thời gian ngắn. 12 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Cuộc hành quân lấn chiếm của quân ngụy ra cảng Cửa Việt bị đập tan, ta giành thắng lợi giòn giã, diệt và bắt 2530 tên, phá hủy và thu 125 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 5 máy bay. Riêng Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới và Đại đội tăng 1 - Trung đoàn xe tăng 203 đã diệt và thu 26 xe tăng, xe bọc thép của địch.


Trận phản kích cảng Cửa Việt là một trận đánh thắng lợi trọn vẹn, triệt để, tiêu diệt nhiều sinh lực và vũ khí trang bị của địch, giữ vững và bảo vệ được khu vực có tính chất quan trọng về quân sự, chính trị và kinh tế, làm thất bại hoàn toàn âm mưu chiếm lại vùng mới giải phóng của ta.


Đánh giá thành tích của Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới trong Hội nghị cán bộ tháng 2 năm 1973, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh 320 nhận xét “Tiểu đoàn 66 Bộ binh cơ giới là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong trận cửa Việt”.


Với những thành tích đã đạt được, Đại đội 1 - Tiểu đoàn 66 bộ binh cơ giới được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 23 tháng 9 năm 1973.


Bản báo cáo “Trận phản kích tiêu diệt địch lấn chiếm trái phép cảng Cửa Việt” đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp với số đăng ký 494/Gi90.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:07:32 pm
CHIẾC XE TĂNG MANG SỐ HIỆU 985
BlỂU TƯỢNG CỦA CHIẾN THẮNG BUÔN MA THUỘT


Trần Thanh Hằng

(https://i.imgur.com/2Xu8oRb.jpg)

Cứ vào dịp cả nước tưng bừng kỷ niệm chiến thắng mùa xuân năm 1975, những người chiến sỹ xe tăng thuộc Đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn tăng 273 năm xưa lại về Hà Nội tề tựu đông đủ bên chiếc xe tăng T54 mang số hiệu 985 đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Trong trận đánh điểm huyệt vào Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, xe 985 đã gắn với tên tuổi Trung đội trưởng Nguyễn Hải Phòng, lái xe Giang Văn Thanh, trưởng xe Mai Trọng Hoạt, lái xe Phùng Văn Tính... Ký ức xa xưa dội về, họ bồi hồi nhớ lại thủa nào.


Ngày 17 tháng 1 năm 1975, xe tăng 985 trong đội hình Đại đội tăng 4, Tiểu đoàn 2, được lệnh hành quân xuống phía nam Tây Nguyên, chuẩn bị cho trận đánh lớn. Lái xe, pháo thủ khẩn trương lo thu xếp chuẩn bị, xe được lau chùi, bơm dầu mỡ, nguỵ trang kín đáo. Đạn pháo cũng được cố định thêm 10 viên, nâng tổng số đạn mang theo trong xe là 44 viên. Để chuẩn bị cho chặng đường hành quân với chiều dài 300 km, anh em có sáng kiến lấy thùng lương khô lót nilon rồi đổ nước vào, nâng lượng nước dự trữ cho người và xe lên 120-150 lít, ngoài ra còn chuẩn bị gạo, thực phẩm đảm bảo đủ ăn đường.


Dạo đó là mùa khô, để tránh máy bay địch ban ngày họ dừng chân bên cánh rừng khộp bạt ngàn nhưng trụi lá bởi chất độc hóa học của Mỹ. Suối khe quanh vùng khô cạn, nước dự trữ mang theo cũng vơi dần, những chiếc bi đông đã dốc ngược, cái khát như làm cháy cổ họng. Trên đầu, máy bay địch rà đi, rà lại, ngó nghiêng tìm mục tiêu. Dưới đất, bọn thám báo, biệt kích nống ra đánh hơi thăm dò. Kỷ luật hành quân được trên phổ biến rất nghiêm ngặt, nên không ai hút thuốc, không dùng điện đài liên lạc. Ngày nghỉ, đêm hành quân, những chiếc xe lầm lũi đi trong đêm tối, bánh xích lần mò trên những con đường mới mở. Họ phải khắc phục cái nắng, cái khát, cái đói, đánh địch mà đi, mở đường mà tiến, xóa sạch dấu vết củi lửa, dấu bánh xe lăn trên đường với phương châm: “Đi không dấu, nấu không khói". Cuối tháng 2, họ đã đến địa điểm tập kết tại buôn La vằn, cách Buôn Ma Thuột 80 km về phía bắc.


Đêm mùng 8 rạng ngày mùng 9 tháng 3, xe tăng 985 cùng đại đội tăng 4 được lệnh xuất kích tiến vào vị trí tập kết ở bắc Ia Tui, Buôn Dung, cách Buôn Ma Thuột 40 km về phía bắc. Đúng 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, chấp hành mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, cuộc tiến công vào mục tiêu then chốt bắt đầu. 5 giờ 30 phút ngày 10 tháng 2, trong khi pháo của ta nã đạn vào các mục tiêu của địch trong thị xã, pháo binh nổ súng đè đầu quân địch xuống, từ 4 hướng, xe tăng, xe thiết giáp của ta bật đèn, tăng tốc vượt rừng tiến vào thị xã.


Từ hướng Đông Bắc, xe tăng 985 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Kiều Văn Cẩm, hiệp đồng với các lực lượng của Trung đoàn bộ binh 95B, vượt qua khu vực sân bay, đánh chiếm Ngã Sáu. Tại đây, địch huy động bộ binh, xe tăng phản kích mãnh liệt. Xe tăng 985 của ta dũng mãnh xông lên cùng bộ binh chiếm được Ngã Sáu và tiến vào tiểu khu Đắc Lắc, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, ta và địch giằng co nhau từng tấc đất, phải 3 lần tổ chức đột kích mới đánh chiếm được mục tiêu được giao. 15 giờ, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt, cờ giải phóng tung bay trên tiểu khu Đắc Lắc báo tin chiến thắng.


Chiếm được tiểu khu Đắc Lắc, xe tăng được lệnh quay trở lại Ngã Sáu cùng đặc công đánh địch phản kích. 19 giờ, khu vực này đã im tiếng súng. Ngày mở màn chiến dịch kết thúc thắng lợi, xe tăng và bộ binh đánh chiếm được phần lớn thị xã Buôn Ma Thuột, trừ sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy.


Sáng ngày 11 tháng 3, trên hướng Đông Bắc, Đại đội tăng 4 gồm các xe 982, 987, 988, 985 chia thành 2 mũi, hiệp đồng với 2 tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn 95B từ Tiểu khu Đắc Lắc đánh sang hậu cứ của Sư đoàn 23 ngụy. Tại đây, các mũi tiến công của ta bị máy bay và bộ binh địch ngăn chặn, chống trả quyết liệt, xe tăng 982 bị địch bắn hỏng, pháo thủ trên xe bị thương nặng và nhiều chiến sỹ bộ binh đã hy sinh, thông tin liên lạc giữa các xe bị mất, trận đánh gặp nhiều khó khăn, xe tăng 985 cùng 3 xe còn lại của Đại đội 4 được lệnh quay trở về vị trí tạm dừng.


Đến 10 giờ ngày 11 tháng 3, sau khi củng cố, xốc lại đội hình, xe tăng 985 cùng 2 xe của Đại đội tăng 4 chia thành 2 mũi, phối hợp với bộ binh tiến công. Ở mũi tiến công phía nam trường tiểu học Nguyễn Du, chiến sự diễn ra ác liệt, bộ binh và xe tăng nhiều lần tổ chức xung phong nhưng địch chống trả quyết liệt, hai xe tăng 988, 982 bị trúng đạn, hỏng nặng, nhiều đồng chí trên xe bị thương, hy sinh. Trong tình thế hiểm nghèo, xe tăng 985 do Trung đội trưởng Nguyễn Hải Phòng chỉ huy đảm nhiệm mũi tiến công phát triển theo đường 14, vượt qua bom đạn địch tiến thẳng về phía cổng chính của Sư đoàn bộ binh 23 ngụy, dùng pháo tăng diệt 1 xe M-113 ra ngăn chặn, tạo điều kiện cho bộ binh ta xông lên tiêu diệt địch. Cùng lúc đó, xe tăng của Đại đội tăng 9 do Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng từ phía tây lao tới, bắn phát đạn pháo phá sập một góc cổng chính rồi dùng sức mạnh xô đổ cổng sắt, bộ binh và xe tăng từ các mũi ào vào, đánh chiếm những mục tiêu bên trong của căn cứ Sư đoàn 23 ngụy.


11 giờ ngày 11 tháng 3 năm 1975, quân địch ở thị xã Buôn Ma Thuật bị tiêu diệt hoàn toàn, ta làm chủ trận địa. Trận đánh đòn điểm huyệt thắng lợi, chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, ống kính của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã kịp chớp được hình ảnh xe tăng 985 tiến vào cổng chính căn cứ Sư đoàn 23 ngụy, bức ảnh được lan truyền khắp thế giới, trở thành niềm tự hào của những người lính xe tăng.


Mới ngày nào, khi đang làm nhiệm vụ phòng thủ nam Quân khu 4, đóng quân ở huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình, họ được lệnh lên đường vào chiến trường Tây Nguyên, tính đến nay đã trên 30 năm. Họ không thể nào quên ngày 3 tháng 2 năm 1973, tại một góc rừng săng lẻ, huyện 67, tỉnh Kon Tum, chứng kiến giờ phút long trọng lễ thành lập Trung đoàn xe tăng 273 mang bí danh là Đoàn Sơn Lâm, theo quyết định số 442/QĐ. Đồng chí Lê Ngọ là Trung đoàn trưởng, Chính ủy là đồng chí Mai Sinh Giá, các đồng chí Trung đoàn phó, Phó chính ủy Trung đoàn Đỗ Phùng, Vũ Đình Tư.


Giờ đây cứ mỗi lần gặp nhau, họ đều ôn lại những chiến công vang dội trên chiến trường Tây Nguyên, nhớ lại những năm tháng sống chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ... Nhớ lại đồng đội của mình đã ngã xuống vì sự bình yên cho đất nước. Họ gặp nhau mừng mừng tủi tủi, tay bắt mặt mừng sung sướng, nhìn những tấm huân chương trên ngực áo, họ tự hào là người lính xe tăng đã có một phần đóng góp vào chiến công chung của dân tộc.


Chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 985, sau khi đã lập nên những chiến công góp phần cùng quân và dân cả nước giải phóng Sài Gòn đưa non sông về một mối, nay trở thành hiện vật bảo tàng, mãi mãi sống với thời gian và tên tuổi của những người lính xe tăng ngày ấy.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:08:36 pm
CHIẾC DÙ BỌC VÕNG CỦA ANH HÙNG ĐOÀN SINH HƯỞNG


Hoàng Dương

(https://i.imgur.com/24RKgnT.jpg)

Nhân dịp khánh thành Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, trong dòng người vào tham quan có một người đàn ông đứng tuổi. Dáng gầy nhỏ, mái tóc đầy sương tuyết, nói giọng Hà Tĩnh. Ông dừng lại rất lâu bên chiếc tủ kính trưng bày bộ sưu tập gồm 40 kỷ vật của anh hùng Đoàn Sinh Hưởng như chiếc bật lửa, đèn pin, bộ tăng võng, ba lô... Mỗi hiện vật là một câu chuyện xúc động, một trang nhật ký in đậm dấu ấn của người anh hùng. Vị khách ngắm nhìn rất kỹ chiếc dù bọc võng rồi nói với chúng tôi:

''Trong điều kiện khẩn trương và ác liệt, mỗi sáng kiến dù nhỏ nhất ở chiến trường cũng mang lại ý nghĩa lớn. Chiếc dù bọc vống của đồng chí Đoàn Sinh Hưởng đã được anh em trong đơn vị áp dụng có kết quả".


Người khách tại bảo tàng sáng thu ấy là bác Lê Ngọ, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn xe tăng 273, thủ trưởng cũ của đồng chí Đoàn Sinh Hưởng.

Chiếc dù bọc võng bằng sợi hóa học, màu tím, hình chữ nhật, có kích thước 180cm x 80cm. Nhìn kỹ, chiếc dù này được chủ nhân của nó khâu bằng tay với mũi chỉ, đường kim còn vụng. Những năm tháng ở chiến trường vô cùng gian khổ, ác liệt, và nhiều khi ăn đói, mặc rách, muỗi mòng và sên, vắt. Những thứ côn trùng độc hại trong những cánh rừng già luôn ẩm ướt đã gặm nhấm dần sức lực bộ đội mà nguy hại nhất là căn bệnh sốt rét. Để giữ sức khoẻ cho chiến đấu lâu dài, đồng chí Đoàn Sinh Hưởng lúc đó là chiến sỹ Sư đoàn 308 đã có sáng kiến làm chiếc dù bọc võng. Vật liệu để làm cũng đơn giản, dễ kiếm, dễ làm, chỉ là những mảnh dù pháo sáng, chiếc màn tuyn cũ. Dù pháo sáng vốn có màu trắng, để che mắt địch, đồng chí Đoàn Sinh Hưởng đã lấy thuốc pháo sáng nhuộm thành màu tím. Nhờ có chiếc dù bọc võng, khi ngủ anh không lo bị côn trùng đốt. Thấy có tác dụng tốt, anh em trong đơn vị học tập làm theo mỗi người một chiếc. Từ khi có dù bọc võng giấc ngủ đến với bộ đội ngon hơn và như có phép lạ, tỷ lệ sốt rét trong đơn vị giảm hẳn, sức khỏe bảo đảm, bộ đội ta chiến đấu càng hăng say lập nhiều chiến công mới.


Đồng chí Đoàn Sinh Hưởng sinh năm 1949 tại Bình Ngọc, Hải Ninh, Quảng Ninh. Làng quê ấy đã đi vào thơ Tố Hữu "Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước”. Nơi đó có một mái Đình cổ xưa, ghi lại dấu ấn tinh thần chống giặc ngoại xâm và giữ vững chủ quyền đất nước của ông cha ta. Tháng 9 năm 1966, cùng một lúc đồng chí Đoàn Sinh Hưởng nhận được giấy báo vào học Trường Âm nhạc Việt Nam và giấy gọi nhập ngũ. Ngày ấy, giặc Mỹ đã leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân và hải quân. Cũng như bao chàng trai khác, Đoàn Sinh Hưởng gác lại ươc mơ trở thành ca sĩ để lên đường nhập ngũ. Vào bộ đội, là chiến sỹ của Sư đoàn "Quân Tiên Phong", chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị, sau đó được về học tại trường Sỹ quan Lục quân, ra trường với quân hàm thiếu úy, đồng chí được điều động về chiến đấu trong lực lượng Tăng thiết giáp.


Trung đoàn 273 (sau này là Lữ đoàn 273) là đơn vị xe tăng chủ lực trên chiến trường Tây Nguyên. Vốn nổi tiếng là chiến trường gian khổ, ác liệt vào bậc nhất, đồng chí Đoàn Sinh Hưởng cũng như bao đồng đội đều chịu nhiều cơn đói, cơn khát, và những trận sốt rét rừng... Chiếc dù bọc võng - sáng kiến của anh lại một lần nữa được phát huy tác dụng. Ngày ấy, trên chiến trường Tây Nguyên bộ đội ta truyền tụng câu ca dao: "Tây Nguyên ai một lần ở đó. Suốt cuộc đời nhớ lại vẫn thương nhau". Được công tác, học tập, rèn luyện trong một đơn vị có truyền thống đánh giặc giỏi, Đoàn Sinh Hưởng trưởng thành rất nhanh. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội tăng 9 - Trung đoàn xe tăng 273 tiến công vào Buôn Ma Thuột, trong trận đánh có ý nghĩa này đại đội do Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy đã khoan một mũi hiểm hóc vào căn cứ Sư đoàn 23 ngụy. Sau khi giành thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Trung đoàn 273 nhanh chóng truy kích địch ở Tuy Hòa, góp phần giải phóng hàng loạt các tỉnh ven biển miền Trung, Nha Trang, Khánh Hòa, Ninh Hòa... Đặc biệt trong trận đánh Cầu Bông ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đại đội tăng 9 được trang bị toàn bộ xe chiến lợi phẩm thu được của địch, dưới sự chỉ huy mưu trí, dũng cảm của Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng, đơn vị đã nổ súng đánh vỗ mặt vào Thiết đoàn ngụy gồm 22 chiếc, tiêu diệt 11 xe và 100 tên địch, mở đường cho Quân đoàn 3 tiến vào giải phóng sân bay Tân Sân Nhất. Trận đánh Cầu Bông là trận đánh xuất sắc, ở đó các chiến sĩ Tăng thiết giáp không chỉ thắng địch bằng lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì Tổ quốc mà thắng bằng khả năng làm chủ trang thiết bị, lấy vũ khí địch đánh địch. Với thành tích chiến đấu xuất sắc, thiếu úy - Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng được tặng 2 huân chương chiến công hạng nhì, hai huân chương chiến công hạng ba, hai lần được tặng chiến sĩ thi đua... Ngày 12 tháng 9 năm 1975, đồng chí vinh dự được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Hơn 30 năm sau ngày được phong danh hiệu cao quý, Anh hùng Đoàn Sinh Hưởng đã có những bước tiến dài trên con đường binh nghiệp, được đào tạo đầy đủ về khoa học quân sự cả trong và ngoài nước có học vị Tiến sĩ, được Đảng, Nhà nước, Quân đội giao các trọng trách: Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn xe tăng 273, Sư trưởng Sư đoàn 320, Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp. Từ tháng 4 năm 2005, Anh hùng Đoàn Sinh Hưởng là Tư lệnh Quân khu IV, một địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong thế trận quốc phòng an ninh của nước ta.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:14:39 pm
HIỆN VẬT GẮN VỚI CHIẾN CÔNG CỦA NGƯỜI ANH HÙNG


Thu Thủy - Mỹ Hạnh

(https://i.imgur.com/9rD89Nn.jpg)

Ở phòng trưng bày “Bộ đội Tăng thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975” của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp đang trưng bày 2 hiện vật của - Anh hùng Trần Hùng Vách, đó là khẩu súng M79 và chiếc áo xuân hè anh đã sử dụng trong chiến đấu, lập thành tích xuất sắc trong chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975.


Sinh ra và lớn lên tại miền quê trung du Tam Quan - Tam Đảo - Vĩnh Phúc, mảnh đất đã nuôi dưỡng những người lính xe tăng Việt Nam từ thủa ban đầu. Từ nhỏ còn chăn trâu, cắt cỏ anh thường được xem các chú bộ đội huấn luyện, lái những chiếc xe tăng, xe bọc thép và ước ao một ngày lớn lên mình cũng được lái những chiếc xe tăng oai hùng đó.


Mơ ước của anh trở thành hiện thực. Vào năm 1967 anh lên đường nhập ngũ, làm chiến sỹ vệ binh thành đội Hụế, tham gia chiến đấu 6 trận, diệt được 8 tên Mỹ. Năm 1971, sau khi tốt nghiệp trường Sỹ quan Thiết giáp và được biên chế vào Đại đội tăng 6 - Tiểu đoàn tăng 2 - Lữ đoàn xe tăng 273, tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên và Nam bộ, trên cương vị là Trung đội trưởng anh đã chỉ huy đơn vị đánh 5 trận, trận nào đơn vị cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Riêng anh đã tiêu diệt và làm bị thương 75 tên địch, bắn cháy 2 xe quân sự, phá hủy 10 súng đại liên, 2 súng M72, 6 lô cốt của địch.


Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, ngày 10 tháng 3 năm 1975, đơn vị anh được giao nhiệm vụ phối hợp với sư đoàn bộ binh 316, tham gia đánh giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột - trận đánh mở màn trong chiến dịch Tây Nguyên. Trên cương vị là Trung đội trưởng, đi đầu mũi chủ công, cùng với bộ binh đánh vào thị xã. Trên đường tiến công, xe của anh bị trúng đạn, hư hỏng nặng, đồng chí pháo thủ hy sinh, trên xe chỉ còn hai người, mặc dù bị thương nhưng với tinh thần dũng cảm và mưu trí, nén đau tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Với cách đánh sáng tạo, độc đáo “Đánh thẳng vào trong, đánh ra vòng ngoài, đánh địch phản công” xe tăng và bộ binh đã hiệp đồng chặt chẽ, tiến công vào thị xã. Chỉ sau hơn một ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch, giải phóng hoàn toàn Thị xã Buôn Ma Thuột. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là thắng lợi trọn vẹn, giòn giã đã làm rung chuyên toàn bộ chiến trường Tây Nguyên, mở màn cho những thắng lợi lớn của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.


Sau khi thua lớn ở Buôn Ma Thuột, quân địch rút chạy theo đường 7 về thị xã Tuy Hòa. Ngày 1 tháng 4 năm 1975, đơn vị anh được lệnh tiến công truy kích địch, trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, địch tổ chức phản kích mạnh, đồng đội bị thương vong, súng 12ly7 trên xe lại bị hỏng, trước tình thế đó anh đã bình tĩnh nhảy xuống, lấy súng M79 của địch lên xe tiếp tục chiến đấu, cùng đồng đội đánh tan nhiều tốp địch.


Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đơn vị anh tham gia tiến công trên hướng Tây - Tây Bắc Sài Gòn, anh đã cùng đồng đội chiến đấu với tinh thần quả cảm, 3 lần bị thương, máu thấm ướt áo, anh nén đau tiếp tục chỉ huy trung đội dũng mãnh xông lên ở ngã ba Bà Quẹo, ngã tư Bảy Hiền cùng bộ binh đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, góp phần vào thắng lợi chung của Quân đoàn 3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Với những thành tích trong chiến đấu, Trần Hùng Vách được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba và vinh dự được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hừng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15 tháng 1 năm 1976.


Trở về cuộc sống đời thường ở quê nhà với rất nhiều khó khăn nhưng anh luôn là trụ cột vững chắc trong gia đình và là người chồng, người cha mẫu mực, là tấm gương tiêu biểu trong lòng bà con hàng xóm. Mỗi dịp đến thăm Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, đứng trước kỷ vật của mình và đồng đội, anh tâm sự "Thật vinh dự và tự hào được là người con của Binh chủng Thép anh hùng, với tôi những ngày tháng chiến đấu và công tác bên đồng đội thân yêu sẽ mãi mãi in đậm trong ký ức tôi và không bao giờ phai nhạt”.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Chín, 2021, 08:16:26 pm
CHUYỆN KỂ VỀ CHIẾC XE TĂNG LỊCH SỬ


Lê Việt Hải

(https://i.imgur.com/zsJMAM3.jpg)

Hằng năm, cứ mỗi độ tháng tư về, chúng tôi lại được chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy xúc động của các cựu chiến binh Tăng thiết giáp là thành viên của kíp xe 390 - chiếc xe mang dấu ấn lịch sử đã húc đổ cánh cổng Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn (nay là Dinh Độc Lập) tiến công vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền ngụy Sài Gòn, trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Bên con chiến mã năm xưa, họ đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của thời xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước và nhớ về thời khắc lịch sử trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Anh Vũ Đăng Toàn, nguyên Chính trị viên Đại đội Tăng 4 - trưởng xe 390 nói: Chúng tôi xúc động lắm - lần nào gặp nhau chúng tôi cũng cùng nhau sống lại tâm trạng bồi hồi của những ngày ấy, gần lắm, như vừa mới xảy ra hôm qua thôi.


Năm 1972, xe tăng T59 mang số hiệu 390 lên tàu hỏa từ ga Vĩnh Yên bắt đầu cuộc hành quân Nam tiến, tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Được biên chế vào đội hình chiến đấu của Lữ đoàn xe tăng 203, xe tăng 390 đã tham gia giải phóng Huế, Đà Nẵng, các tỉnh miền Trung, sau đó nhận lệnh thần tốc hành quân tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Ngày 26 tháng 4 năm 1975, xe tăng 390 tham gia chiến đấu đập tan tuyến phòng thủ từ xa của địch ở căn cứ Nước Trong. Ngày 29 tháng 4, căn cứ Nước Trong bị tiêu diệt, 14 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng thọc sâu của Lữ đoàn tăng 203 được lệnh xuất phát tiến công theo trục đường 15, xa lộ Biên Hòa Sài Gòn, vừa tiến, vừa đánh địch. Lúc này kíp xe 390 được bổ sung và kiẹn toàn gồm 4 thành viên: Đồng chí Vũ Đăng Toàn: Chính trị viên Đại đội 4 Trưởng xe. Đồng chí Lê Văn Phượng: Đại đội phó Đại đội 4 (kiêm nạp đạn). Đồng chí Ngô Sĩ Nguyên: Pháo thủ. Đồng chí Nguyễn Văn Tập: lái xe.


Đến 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại đội tăng 4 vượt qua cầu Sài Gòn, tiến đến cầu Thị Nghè thì gặp xe tăng, thiết giáp địch ra đánh chặn. Xe tăng mang số hiệu 843 do Đại đội trưởng Đại đội tăng 4 Bùi Quang Thận chỉ huy đã nhanh chóng nổ súng, bắn cháy 2 xe M41 và một xe M113 rồi vọt lên. Vừa qua cầu Thị Nghè được một đoạn thì lại bị xe M113 của địch lao ra chặn. Đồng chí Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy xe tăng 390 đi đầu nổ súng, bằng một phát đạn bắn “Xuyên táo” diệt luôn 2 xe M113, số địch ngồi trên xe bọc thép bánh hơi V100 thấy thế hoảng sợ bỏ chạy.


Được nhân dân chỉ đường, xe tăng 390 vượt qua cầu Thị Nghè theo đại lộ Hồng Thập Tự, tiến vào đánh chiếm Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn.

Như sống lại những giây phút lịch sử hào hùng ấy, đồng chí Thiếu úy Lê Văn Phượng - nguyên là Đại đội phó, Đại đội tăng 4 nhớ lại: Theo phương án tác chiến, xe tăng 390 đến ngã tư thứ 7 thì rẽ trái là vào đến Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, nhưng xe đã chạy quá một đoạn nên phải quay lại, rẽ phải theo đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ khỏi nghĩa). Khi chỉ còn cách Dinh Tổng thống nguỵ khoảng 30m, các anh nhìn thấy xe 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy, đi từ phía đường Thống Nhất đến, húc vào cổng phụ. Đồng chí Vũ Đăng Toàn quyết định cho xe lao thẳng vào cổng chính, húc đổ cánh cổng thép, xích xe chồm lên cánh cửa bên phải, còn cánh bên trái tung bản lề, nghiêng sang một bên. Vì cảnh giác với mìn chống tăng nên đồng chí Tập cho xe chồm lên bãi cỏ trước sân rồi dừng lại. Lúc đó Đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm lá cờ giải phóng từ ngoài cổng chạy vào trong Dinh. Đồng chí Toàn, đồng chí Tập và pháo thủ số 1 Ngô Sĩ Nguyên xách súng AK chạy theo đồng chí Thận vào Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn.


Đại đội trưởng Bùi Quang Thận nhanh chóng leo lên tầng thượng, hạ lá cờ ba sọc của ngụy quyền Sài Gòn xuống, kéo cờ cách mạng lên trên nóc “Dinh Độc Lập” vào lúc 11 gờ 30 phút, đánh dấu thời điểm thành phô Sài Gòn - Gia Định hoàn toàn giải phóng, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Hình ảnh 2 chiếc xe tăng mang số hiệu 843 và 390 húc đổ cánh cổng Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 sẽ mãi mãi in đậm trong lòng những người lính xe tăng và trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam.


Trong niềm vui đoàn tụ, với ký ức hào hùng ấy, thoáng trong ánh mắt những người chiến binh xe tăng vẫn đằm sâu nỗi niềm tiếc nuối, đồng chí Vũ Đãng Toàn - trưởng xe 390 năm ấy đã xúc động nói: “Chúng tôi rất vinh dự và tự hào là những người lính xe tăng đầu tiên tới được Dinh Độc lập. Có được thời khắc lịch sử ấy, chiến công ấy, không biết bao nhiêu đồng đội, đồng chí của tôi đã hy sinh, biết bao nhiêu máu và nước mắt của đồng bào ta đã đổ để mở đường cho chúng tôi vào giải phóng thành phố mang tên Bác. Mãi mãi tôi không bao giờ quên hình ảnh các chiến sĩ bộ bỉnh đi theo xe đã hy sinh hết, quanh tháp pháo là những chiếc ba lô của họ còn nhuộm đây thuốc súng và máu...”


Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại đội tăng 4 trong đó có xe tăng 390 được lệnh ra bảo vệ cảng Nhà Rồng, và được trở về làm nhiệm vụ huấn luyện tại đơn vị tiền thân là Lữ đoàn 203. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống của bộ đội Tăng thiết giáp, xe tăng 390 được đưa về trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp và trở thành hiện vật của bảo tàng, và câu chuyện kể về chiếc xe tăng lịch sử và sẽ như một khúc ca truyền thống tiếp lửa cho các thế hệ trẻ Tăng thiết giáp mai sau.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:13:50 pm
KHẨU SÚNG NGẮN K54 CỦA ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN - LIỆT SĨ HOÀNG THỌ MẠC


Nga Trung

(https://i.imgur.com/AKFgHj6.jpg)

Đến Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, ở phòng trưng bày hiện vật năm 1975, khách tham quan thường dừng lại rất lâu trước một khẩu súng ngắn K54. Đó là khẩu súng đã gắn liền với tên tuổi của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Liệt sĩ Hoàng Thọ Mạc, một tấm gương tiêu biểu của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam. Tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của anh đã trở thành biểu tượng, niềm tự hào, thành phong trào hành động cách mạng cho lớp lớp thế hệ đoàn viên thanh niên trong Binh chủng Tăng thiết giáp noi theo.


Hoàng Thọ Mạc sinh năm 1947 trong một gia đình có truyền thống cách mạng thuộc xã Xuân Trường - huyện Xuân Thủy - tỉnh Nam Định. Phát huy truyền thống cách mang của quê hương, gia đinh và nhất là người cha thân yêu (là một liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp), năm 1965 Hoàng Thọ Mạc đã tình nguyên tham gia lực lượng Thanh niên xung phong, phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn. Tháng 6 năm 1967 anh được chuyển sang bộ đội chủ lực và năm 1972 được điều về Trung đoàn bộ binh cơ giới 202. Với tinh thần tích cực học tập, rèn luyện, anh đã nhanh chóng làm chủ nhiều loại vũ khí, trang bị và phát triển thành một sĩ quan chỉ huy mẫu mực về mọi mặt. Thiếu úy Hoàng Thọ Mạc được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 3 - Tiểu đoàn bộ binh cơ giới 66 - Trung đoàn bộ binh cơ giới 202 và trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường. Khẩu súng K54 anh luôn mang theo để chiến đấu và tham gia 5 chiến dịch lớn, lập được nhiều chiến công xuất sắc.


Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đơn vị anh phối thuộc cho Sư đoàn 320B tiến công trên hướng Bắc Sài gòn, có nhiệm vụ: Đánh chiếm Chi khu Lái Thiêu, cầu Vĩnh Bình và nhanh chóng tiến về Sài Gòn. 18 giờ ngày 25 tháng 4 năm 1975, tại vị trí tập kết chiến đấu, trong lễ tuyên thệ xuất quân, Hoàng Thọ Mạc đã thay mặt cho cán bộ, chiến sĩ trong Đại đội hứa quyết tâm: “Được tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài gòn, giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước là một vinh dự lớn, là khát vọng cháy bỏng của tôi. Dù phải hy sinh, tôi cũng kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ".


Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi đánh chiếm Lái Thiêu, tiêu diệt 1 xe tăng M41; 2 pháo tự hành 175 mm của địch, xe thiết giáp K63 số hiệu 454 do Đại đội trưởng Hoàng Thọ Mạc trực tiếp chỉ huy vọt lên, dẫn đầu đội hình thọc sâu của Quân đoàn 1 tiến về cầu Vĩnh Bình (cây cầu nằm trên quốc lộ 13 bắc qua sông Sài Gòn, cách trung tâm thành phố 5 km), đây là cây cầu có một vị trí rất quan trọng, nếu ta chiếm và giữ được là mở toang cánh cửa phía Bắc cho đại quân “thần tốc” tiến vào Sài Gòn. Chính vì vậy ở đây địch lập tuyến phòng thủ với nhiều loại vật cản, công sự kiên cố và chống trả điên cuồng. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giành giật nhau từng mét cầu.


Nhận thấy khoảng cách giữa ta và địch khó có thể phát huy hỏa lực của pháo xe tăng, Hoàng Thọ Mạc đã tổ chức bắn chế áp địch và hội ý chớp nhoáng với chỉ huy các đơn vị bạn, nhanh chóng tìm ra cách đánh chiếm cầu hiệu quả nhất. Vừa chỉ huy đơn vị chiến đấu kiên quyết, linh hoạt, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, anh liên tiếp xối đạn vào các hỏa điểm địch. Lợi dụng thời gian hỏa lực địch bị chế áp, anh lao từ trên xe xuống mặt cầu, rút khẩu K54 ra khỏi bao, khoát tay ra hiệu cho đồng đội phía sau tiến lên, lợi dụng địa hình, địa vật tiếp cận tuyến phòng thủ của địch. Súng ngắn hết đạn, anh sử dụng các loại vũ khí bộ binh khác như AK; lựu đạn; B40... cùng đồng đội bắn cháy 1 xe thiết giáp M113; 2 xe tăng M41 và tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Một quả đạn M79 của địch bay tới nổ ngay phía trước, mảnh đạn găm vào ngực, máu tuôn ra ướt đẫm, anh gắng gượng và bình tĩnh tự băng bó cho mình rồi tiếp tục chiến đấu. Ngay lúc ấy, một chiến sĩ trẻ lao lên tiếp cận mục tiêu nhưng bị địch phát hiện và tập trung hỏa lực bắn xối xả. Một quả đạn M79 khác bay tới nổ, mảnh đạn văng khắp nơi, trong khoảnh khắc ấy Hoàng Thọ Mạc đã lao vọt tới, xô người chiến sĩ ngã xuống và lấy thân mình nằm đè lên, che đạn cho đồng đội... Trước hành động dũng cảm và đầy tính nhân văn đó của Đại đội trưởng, không ai bảo ai, tất cả đồng đội của anh đều bật dậy, lao về phía quân thù. Ngọn lửa căm thù rực cháy như tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ xe tăng và bộ binh ào qua cầu như cơn lốc, đè bẹp sự kháng cự của địch, cùng các cánh quân khác tiến vào giải phóng Sài Gòn.


Người Đại đội trưởng xe tăng dũng cảm, mưu trí đã ngã xuống ở độ tuổi tràn đầy hứa hẹn và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ. Anh ngã xuống cách Sài Gòn 5km và trước giờ toàn thắng chỉ hơn 1 giờ. Sau trận đánh, Hoàng Thọ Mạc được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong suốt thời gian tham gia chiến đấu, ngày 23 tháng 9 năm 1975 Nhà nước đã quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Liệt sĩ Hoàng Thọ Mạc. Những di vật của anh như khẩu súng ngắn K54, súng tiểu liên AK... được đơn vị trân trọng lưu giữ và trao cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt nam và Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:14:48 pm
CỜ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN


Thu Mỹ

(https://i.imgur.com/BKZziql.jpg)

Tại một vị trí trang trọng của gian khánh tiết Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp đang trưng bày lá cờ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, phần thưởng cao quý mà Nhà nước tặng cho Binh chủng Thiết giáp ngày 20 tháng 10 năm 1976.


Ra đời sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lớn lên trong khói lửa đạn bom của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ trung đoàn xe tăng 202, thành lập ngày 5 tháng 10 năm 1959, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, được nhân dân thương yêu đùm bọc, được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam đã trưởng thành lớn mạnh, phát triển thành một Binh chủng chiến đấu anh hùng lập nhiều chiến công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định vai trò là lực lượng đột kích quan trọng của Lục quân Việt Nam.


Ngay sau khi thành lập, Trung đoàn xe tăng 202 bước vào chương trình huấn luyện chính quy của một đơn vị được trang bị vũ khí hiện đại. Cùng với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, bộ đội Tăng thiết giáp đã tham gia chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc.


Đầu năm 1964 tình hình cách mạng miền Nam có sự phát triển mới, sau thất bại của cuộc chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tác chiến trên chiến trường miền Nam. Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các lực lượng vũ trang trở nên khẩn trương hơn. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng lần lượt cán bộ, chiến sỹ của Trung đoàn 202 đã lên đường vào miền Nam chiến đấu, xe chưa xuất trận thì người ra trận trước, với mục đích nghiên cứu chiến trường, tìm cách lấy xe địch để đánh địch và xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp miền Đông Nam Bộ.


Năm 1967, cách mạng nước ta có bước phát triển mới, xuất hiện thời cơ chiến lược lớn, Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 12 năm 1967 xác định "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước cao nhất bằng phương pháp tổng khởi nghĩa tổng công kích giành thắng lợi quyết định".


Ngày 5 tháng 8 năm 1967, Bộ tư lệnh Thiết giáp nhận lệnh cử 2 đại đội xe tăng PT 76 (lấy phiên hiệu tiểu đoàn tăng 198 thiếu) vào chiến trường miền Nam tham gia chiến đấu tiêu diệt địch ở cứ điểm Tà Mây - Làng Vây trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh ngày 7 tháng 2 năm 1968. Xe tăng thiết giáp lần đầu tiên ra trận, nhưng với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết chiến, quyết thắng ngay trong trận đầu, bộ đội Tăng thiết giáp đã phát huy được sức mạnh của xe tăng trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Trận đánh Tà Mây - Làng Vây đã góp phần phá vỡ một mảng tuyến phòng thủ chiến lược của địch trên Đường 9, góp phần vào chiến công vang dội của quân và dân cả nước trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968. Với người lính xe tăng Việt Nam, trận đánh này là một mốc son chói lọi, đặt nền móng cho trang sử vàng truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng.


Thắng lợi trận đầu, bộ đội Tăng thiết giáp càng thêm tin tưởng và phấn khởi tiếp tục tham gia chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971, bảo vệ vững chắc con đường chi viện của hậu phương với tiền tuyến. Tiêu biểu là trận đánh: Tiêu diệt Lữ dù số 3 ngụy, bắt sống tên đại tá Nguyễn Văn Thọ ở điểm cao 543 của Đại đội tăng 9 - Tiểu đoàn tăng 198 - Trung đoàn xe tăng 203 và trận đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ trên điểm cao 550 của Tiểu đoàn tăng 297 và Tiểu đoàn tăng 397 thuộc Trung đoàn 202 và Trung đoàn 203.


Thực hiên chủ trương của Đảng quyết tâm giành thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972, bộ đội Tăng thiết giáp tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường: Trị Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ với nhiều trận đánh xuất sắc đạt hiệu suất chiến đấu cao như: Trận tiến công căn cứ Đông Hà của Tiểu đoàn tăng 512 thuộc Trung đoàn tăng 203 (ngày 28 tháng 4 năm 1972); trận tiến công địch ở quận lỵ Hải Lăng của Tiểu đoàn 66 BBCG Trung đoàn tăng 202 (ngày 02 tháng 5 năm 1972); trận tiến công căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh của Đại đội tăng 7 Tiểu đoàn tăng 297 Mặt trận Tây Nguyên (ngày 24 tháng 4 năm 1972)... góp phần mở rộng vùng giải phóng và làm tiêu hao nhiều sinh lực địch tạo bàn đạp cho quân ta phát triển xuống phía Nam, làm chuyển biến cục diên chiến tranh.


Bước sang năm 1975, trước những thời cơ và thuận lợi lớn, Bộ chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Bộ đội Tăng thiết giáp đã lập công xuất sắc trong chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Tham gia giải phóng Sài Gòn, với vai trò là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân, bộ đội Tăng thiết giáp đã ra quân với một lực lượng lớn nhất gồm 398 xe tăng, thiết giáp các loại, tham gia trên cả 5 hướng tiến công của chiến dịch. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc lập báo hiệu giờ toàn thắng cho toàn dân tộc. Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc, miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Bộ đội Tăng thiết giáp đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao cho và tự hào là lực lượng đầu tiên có mặt tại sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bộ đội Tăng thiết giáp cùng quân dân cả nước thực hiện trọn vẹn di chúc của Bác Hồ "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc sẽ xum họp một nhà...".


Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ đội Tăng thiết giáp vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công, Huân chương Độc Lập. Đặc biệt; ngày 20 tháng 10 năm 1976, Binh chủng Thiết giáp được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thật xứng đáng với lời khen của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng “Bộ đội Thiết giáp của ta, tuổi trẻ mà nhiều chiến công, đa ra quân là đánh thắng”.


Trong các chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, bộ đội Tăng thiết giáp đã vận dụng sáng tạo các quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng, kế thừa, phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta, tiếp thu có chọn lọc kiến thức khoa học quân sự hiện đại của thế giới, xây dựng nên nghệ thuật tác chiến độc đáo của Bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam đó là “Đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể”.


Sau 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, phát huy những truyền thống quý báu, đã có 34 lượt tập thể và 11 cá nhân của lực lượng Tăng thiết giáp được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, điều đó đã khẳng định được vai trò, vị trí, sức mạnh và truyền thống của bộ đội xe tăng trong chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Lào và Campuchia, góp phần làm rạng rỡ thêm trang sử vàng của Quân đội nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.


Lá cờ “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước trao tặng đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên to lớn khích lệ những người lính xe tăng tiếp bước trên con đường cách mạng mà Đảng và Bầc Hồ đã lựa chọn. Ngày nay, Bộ đội Tăng thiết giáp không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, xứng đáng là lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:15:31 pm
KỶ VẬT THIÊNG LIÊNG GIỮA HAI THẾ HỆ


Mỹ Dương

(https://i.imgur.com/Y2h5ZRD.jpg)

Tấm vải dù ấy màu cỏ úa, chỉ rộng 144cm, dài 152cm đã cũ và bị rách lỗ chỗ. Tấm vải dù đã được Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Tâm dùng trong suốt mấy năm chiến đấu trên biên giới Tây Nam và trên chiến trường Campuchia.


Anh kể: "Trước ngày lên đường đi chiến đấu, anh được về thăm nhà. Cha anh đã tặng tấm vải dù, vật kỷ niệm đời quân ngũ của ông cùng đồng đội trong một trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù” và căn dặn: “Cha mong con hãy đi tiếp con đường mà cha đã hiến dâng cả tuổi xuân cho đất nước, con hãy sống và chiến đấu sao cho thật xứng đáng với truyền thống cách mạng của quê hương và gia đình".


Đồng chí Nguyễn Đình Tâm sinh năm 1957 ở xã Lại Yên, Hoài Đức, Hà Tây. Xưa kia, vùng quê này thuộc tổng Hà Đông, một vùng quê yên bình và trù phú. Đầu năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quyết định, anh lên đường nhập ngũ vào Lữ đoàn xe tăng 201. Sau một tháng huấn luyện cấp tốc, cả tiểu đoàn của anh hành quân vào chi viện cho Lữ đoàn 273 mặt trận Tây Nguyên. Năm 1976, anh được cử đi đào tạo trưởng xe tại Trường hạ sĩ quan xe tăng 1. Vừa ra trưởng, cũng là lúc chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, Anh cùng đồng đội trong lữ đoàn bị cuốn vào cuộc chiến đấu mới. Từ tháng 12 năm 1977 đến tháng 8 năm 1979, trên cương vị chỉ huy: Trưởng xe rồi trung đội trưởng, đại đội phó, anh thường xuyên có mặt ở những nơi gian khổ và ác liệt nhất, chiến đấu mưu trí dũng cảm; 4 lần bị thương vẫn không rời vị trí chiến đấu, đã chỉ huy đơn vị bắn cháy 5 xe tăng địch, diệt 85 tên, thu 1 xe M113, 34 súng các loại, góp phần chi viện cho bộ binh diệt nhiều sinh lực địch, đánh chiếm các mục tiêu được phân công. Đặc biệt trận đánh vào điểm cao 105 Bắc Công Pông Chàm ngày 19 tháng 7 năm 1978 làm anh nhớ mãi. Theo hiệp đồng, đúng giờ G phải có một đơn vị Bộ binh phối hợp cùng với đơn vị xe tăng tiến công. Khi hiệu lệnh trận đánh đã phát ra, bộ đội xe tăng xuất phát đến vị trí hiệp đồng nhưng chưa thấy bộ binh. Đại đội xe tăng do anh chỉ huy xuất kích được một quãng thì lọt vào ổ phục kích của địch. Bằng sự mưu trí, dũng cảm, mặc dù bị thương vào tay nhưng Nguyễn Đình Tâm vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đại đội nổ súng tiêu diệt từng mục tiêu. Nghe tiếng súng, đơn vị bộ binh đã đến chi viện kịp thời. Tiếp đó, đơn vị của anh tham gia các trận chiến đấu ác liệt vượt sông Công Pông Chàm, Công Pông Thom, Xiêm Riệp và tiến vào Bát Tam Băng... giải phóng hoàn toàn Campuchia. Có trận Nguyễn Đình Tâm đã chỉ huy đơn vị chiến đấu giành thắng lợi lớn, thu 6 xe tăng và nhiều vũ khí trang bị khác của địch. Với những chiến công đặc biệt xuất sắc, Anh được tặng thưởng một Huân chương chiến công hạng Nhất, hai Huân chương chiến công hạng Ba. Ngày 20 tháng 12 năm 1979, Nguyễn Đình Tâm được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, lúc đó anh là Đại đội phó chỉ huy Đại đội 8 - nểu đoàn 3 - Lữ đoàn xe tăng 273.


Tấm vải dù người cha tặng trước ngày lên đường chiến đấu đã theo anh đi suốt mấy mùa chiến dịch. Anh dùng để đắp trong những đêm đông giá rét nơi biên giới Tây Nam và trên đất bạn Campuchia. Nó cũng trở thành vật ngụy trang mỗi lần đi trinh sát. Trong những trận chiến đấu sống mái với kẻ thù, hơi ấm của người cha, tình yêu của quê hương đất nước toả ra từ tấm vải dù như tiếp thêm cho anh sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Anh tâm sự. “Có tấm vải dù của người cha bên mình, tôi như vững tâm hơn để vượt qua mọi gian khổ hy sinh".


Cùng với những kỷ vật quý khác của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Đại tá Nguyễn Đình Tàm - Phó tư lệnh Tham mưu trưởng Binh chủng Tăng thiết giáp hiện đang trưng bày trang trọng tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, tấm vải dù như có một đời sống riêng luôn nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là lớp trẻ hôm nay đừng bao giờ quên đi quá khứ hào hùng, sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cha anh trong cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh của dân tộc.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:17:38 pm
KỶ VẬT CỦA NGƯỜI CHIẾN SĨ XE TĂNG
QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM


Minh Hải

(https://i.imgur.com/gHww1Dp.jpg)

Cuối tháng 6 năm 2007, tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp diễn ra cuộc gặp mặt rất cảm động của các cựu chiến binh đã từng công tác, chiến đấu thuộc lữ đoàn xe tăng 203. Trong không khí đầm ấm của những người đã từng kinh qua lửa đạn chiến tranh, chúng tôi đã gặp và trao đổi với Đồng chí Đoàn Văn Môn (hiện là Bí thư Đảng ủy - Đại tá - Chính ủy Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp) để tìm hiểu thông tin về những hiện vật cá nhân đồng chí đã tặng cho Bảo tàng. Đứng lặng trước những kỷ vật thiêng liêng, đã một thời gắn bó trong thời gian đi làm nhiệm vụ tại nước bạn Campuchia, đồng chí bồi hồi nhớ lại:


Với phương châm “giúp bạn là tự giúp mình", sau năm 1979, lực lượng Tăng thiết giáp quân tình nguyện Việt Nam cùng với các quân, binh chủng khác tiếp tục làm nghĩa vụ Quốc tế trên đất bạn Campuchia, đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: vừa đánh địch vừa giúp bạn củng cố, xây dựng lực lượng để bảo vệ chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho quân tình nguyện Việt Nam rút về nước.


Tháng 9 năm 1989, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam rút hết về nước theo thoả thuận giữa hai Đảng, Nhà nước và Quân đội Việt Nam, Campuchia. Nhưng sau đó, tình hình nước bạn có nhiều diễn biến phức tạp, bạn tiếp tục đề nghị ta cử lực lượng sang giúp bạn bảo vệ sân bay Puchentông và một số kho vũ khí. Thực hiện chủ trương trên, Tiểu đoàn tăng M42 (xe hệ 2 thu được của Mỹ) mang phiên hiệu 1089 được thành lập, để làm nhiệm vụ giũp bạn, đơn vị gồm 14 sỹ quan, 75 hạ sỹ quan, 10 quân nhân chuyên nghiệp, được trang bị 15 xe tăng M42, 3 xe tải, 1 xe chở vật tư và trang bị kỹ thuật.


Trong thời gian này, mặc dù bị lực lượng cách mạng truy quét và trấn áp dữ dội, nhưng bọn phản động Khơ me đỏ vẫn chưa chịu từ bỏ ý đồ phá hoại cách mạng, giành lại quyền kiểm soát đất nước Campuchia. Chúng đã khôi phục lực lượng và xây dựng được một số căn cứ quân sự, bố trí dọc biên giới Campuchia - Thái Lan và sâu trong nội địa. Từ các căn cứ trên, hàng ngày địch tăng cường quấy phá, gây tội ác với nhân dân, mặt khác chúng tiếp tục dùng các thủ đoạn ngoại giao, tâm lý hòng ép ta và bạn phải đi tới những thoả thuận có lợi cho chúng. Vì vậy, khi sang nhận nhiệm vụ, đoàn cán bộ của ta phải tuyệt đối giữ bí mật, toàn bộ quân trang, quân dụng của Tiểu đoàn tăng 1089 là trang bị của quân đội cách mạng Campuchia, để thuận tiện khi thực hiện nhiệm vụ.


Lúc này, đồng chí Đoàn Văn Môn mang cấp bậc thiếu tá, giữ chức Phó Tiểu đoàn trưởng về chính trị Tiểu đoàn 1089. Trong số quân tư trang cá nhân do nước bạn trang bị, khi về nước đồng chí vẫn còn giữ được 1 chiếc mũ mềm, 1 bi đông đựng nước, 1 bộ quân hàm, 1 khăn cà ma và một con dao găm (hiện nay những hiện vật này đang được trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp).


Đồng chí xúc động nói: “Đây là những kỷ vật đã gắn bó với tôi trong những lần băng rừng, vượt đèo, lội suối đi báo cáo tình hình đơn vị với đoàn chuyên gia quân sự Bộ Quốc phòng của ta tại Campuchia. Có hai lân những kỷ vật đó đã để lại trong tôi những kỷ niệm sâu sắc về những năm tháng chiến đấu và làm nhiệm vụ tại nước bạn”.


Lần thứ nhất, vào tháng 6 năm 1990, theo yêu cầu của phía bạn, ta đã điều một đại đội xe tăng lên U Đông thuộc tỉnh Công-pông-sư-phu làm nhiệm vụ bảo vệ kho vũ khí. Để chuẩn bị cho công tác chuyển quân được bí mật, an toàn, tôi đã cùng lực lượng trinh sát luồn sâu vào khu vực giáp ranh, cách sân bay Pu-chen-tông khoảng 100 km tìm hiểu địa hình và nắm tình hình hoạt động của bọn Pônpốt. Khi nhận nhiệm vụ này, chúng tôi đã được quán triệt: Bằng mọi cách phải giữ được bí mật, an toàn và nắm chắc được tình hình địch, không được chủ quan vì thời gian này địch hoạt động ráo riết, liều mạng, tàn ác và khát máu. Mặc dù đoạn đường chỉ khoảng 100 km nhưng vừa đi, vừa phải nắm tình hình, lại phải tuyệt đối giữ bí mật, tránh đụng độ với thám báo nên đoàn phải đi mất gần 1 tuần. Lúc này thời tiết nước bạn đang vào mùa khô, nguồn nước sạch rất khan hiếm. Trong khi đó tổ trinh sát chỉ mang theo 3 bi đông nước sạch để uống, chúng tôi không dám dùng nước suối vì sợ địch rải chất độc, không dám vào nhà dân xin nước vì sợ lộ bí mật. Những lúc khát quá phải chặt chuối rừng nhai chọ đỡ khát. Chỉ với 3 bi đông nước cho gần 7 ngày hành quân, chúng tôi phải sử dụng thật dè sẻn và chia nhau đến giọt nước cuối cùng. Vượt qua tất cả những khó khăn ấy, chúng tôi đã đi đến điểm trinh sát đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối. Chính chiếc bi đông này đã góp phần giúp tôi hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ được giao.


Sau lần đó chừng hai tháng những vật dụng trên lại cùng tôi đi làm một nhiệm vụ quan trọng khác là đón đoàn chuyên gia quân sự của ta do đồng chí Trung tá Nguyễn Việt Hùng - Phó hiệu trưởng - Trưởng phòng Huấn luyện - Trường Sỹ quan Chỉ huy Kỹ thuật Tăng làm trưởng đoàn (trong chuyến công tác sang giúp bạn xây dựng chương trình huấn luyện chuyên ngành Tăng thiết giáp tại Trường lục quân của bạn) về thăm và triển khai nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn. Chuyến đi ấy, tôi cùng 4 chiến sĩ trong trung đội trinh sát của tiểu đoàn, được trang bị 4 khẩu súng AK với đủ cơ số đạn, riêng tôi còn mang theo 1 con dao găm để phòng thân và sử dụng trong sinh hoạt. Trên đường đi, nhóm chúng tôi đã nhiều lần gặp thú dữ và đụng độ với bọn địch, buộc phải nổ súng tiêu diệt. Nhiệm vụ chưa hoàn thành mà số đạn mang theo đã gần hết. Trong tình huống ấy, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng dùng dao găm để chiến đấu trong trường hợp gặp địch và bằng mọi giá phải đảm bảo an toàn cho cấp trên. Và cuối cùng chúng tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, đón Thủ trưởng Hùng về đơn vị an toàn, trước sự mừng vui của toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Từ đó con dao găm luôn được tôi giữ bên mình và trở thành vật kỷ niệm thiêng liêng của đời quân ngũ, nó đã gợi lại trong tôi bao kỷ niệm của một thời sống, chiến đấu trên đất nước Chùa Tháp.


Với mong muốn được gửi gắm những hành trang, ký ức trong cuộc đời binh nghiệp, đồng chí Đoàn Văn Môn đã trao tặng những hiện vật trên cho Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp lưu giữ làm tư liệu giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Truyền thống chính là chiếc cầu nối liền giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, những kỷ vật đó sẽ góp phần nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay hãy biết tựa mình vào truyền thống để vững bước tiến lên trên con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:18:40 pm
NHỮNG KÝ ỨC VỀ SẢN PHẨM NGHIÊN CỨU
CHẾ THỬ LẮP TRÊN XE M113


Đào Duy Lợi

(https://i.imgur.com/jVx3qaJ.jpg)

Đứng trước gian trưng bày các hiện vật lịch sử của bộ đội Tăng thiết giáp trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, thượng tá chuyên nghiệp Nguyễn Phú Nho - nguyên trợ lý phòng Nghiên cứu và phòng Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Binh chủng bồi hồi ngắm nhìn những hiện vật là mắt xích, chốt xích và hình ảnh những chiếc xe M113 chạy thử nghiệm lắp đặt các sản phẩm của đề tài nghiên cứu. Trong đầu anh chợt hiện lên những hình ảnh như một cuốn phim quay chậm, vẽ lại ký ức có lẽ không bao giờ quên về những năm tháng cùng đồng đội, đồng chí trong cơ quan, đơn vị của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp kiên trì, nhiệt thành thực hiện những nhiệm vụ kỹ thuật, đề tài nghiên cứu, dự án liên quan đến loại xe M113. Đây là chiến lợi phẩm thu được của địch mà bộ đội ta đã sử dụng có hiệu quả trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của lũ PônPốt - YêngXari năm 1979. Chính vì vậy Bộ Quốc phòng cũng như Binh chủng Tăng Thiết giáp trong nhiều năm đã có sự quan tâm đặc biệt đối với xe M113. Từ những năm 1978, 1980, xe M113 đã được cải tiến lắp đặt súng ĐKZ, súng 12ly7 hoặc súng cối để tăng cường sức mạnh hỏa lực, rồi có cả đề án thay thế hệ thống động - truyền lực cũ bằng hệ thống động - truyền lực mới của Liên Xô,v.v... Cuối thập kỷ 80, sau khi các đơn vị quân tình nguyện của ta rút về nước, nhu cầu bảo đảm vật tư kỹ thuật cho xe M113 rất cấp thiết, lượng phụ tùng dự trữ trọng các kho đã cạn kiệt, nhất là các chi tiết, cụm chi tiết của hệ thống vận hành. Trước tình hình đó, năm 1992, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Binh chủng mở các đề tài nghiên cứu, sửa chữa, phục hồi, chế thử các phụ tùng vật tư có liên quan đến xe M113. Anh bồi hồi nhớ lại những cuộc thử nghiệm các sản phẩm chế thử và xe M113 sau cải tiến thử...


Tháng 5 năm 1993, một nhóm sỹ quan của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp, của Cục Quản lý Khoa học Công nghệ Bộ Quốc phòng và Xí nghiệp Liên hiệp Z751 đứng trên bờ sông, mồ hôi nhễ nhại đang chờ chiếc xe M113 số 934 lắp các mắt xích và vè bơi sản phẩm chế thử của đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Nghiên cứu phục hồi mắt xích và khả năng bơi của xe M113”, đang rẽ nước từ bờ bên kia sang. Kia rồi chiếc xe đội cả bèo trên tấm chắn sóng đang sùng sục lội nước leo lên bờ. Sau khi xác định lại vận tốc dòng chảy, tốc độ bơi nước của xe theo tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm tra các mắt xích sửa chữa phục hồi, đoàn cán bộ Hội đồng nghiệm thu đã khẳng định chất lượng các chi tiết chế thử như bạc lót chốt xích, đế cao su và vè bơi... đã đạt các chỉ tiêu kỹ thuật đề ra. Đây là thành công bước đầu của việc nghiên cứu sản xuất các chi tiết phụ, lắp ghép với thân mắt xích cũ tận dụng lại để tạo ra nguồn vật tư bảo đảm cho xe M113 hoạt động.


Tháng 6 năm 1996, chiếc xe M113 số hiệu 935 lắp hai dải xích - sản phẩm chế thử của đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu chế tạo thân mắt xích với đệm tỳ cao su của xe M113” được phép chạy thử lần cuối trước khi được Hội đồng Khoa học Công nghệ Bộ Quốc phòng nghiệm thu. Sau gần 30 phút chiếc xe gầm rú chạy trên khoảng đất rộng đầy những hố rãnh, gạch vụn trong Xí nghiệp Liên hiệp Z751 và trên đoạn đường nội bộ có nhiều cua gấp của xí nghiệp sửa chữa tăng thiết giáp, trước khi dừng lại theo yêu cầu của đoàn kiểm tra nó còn kịp quay vòng gấp đến 3 lần để lại những vòng tròn đồng tâm mờ màu đen do vệt cao su đế mắt xích bị chà sát mạnh lên mặt đường tạo ra mùi cao su cháy khét lẹt rồi mới dừng lại hẳn. Sau khi các thành viên Hội đồng kiểm tra kỹ cho thấy, không một mắt xích nào bị bong tróc đế cao su, phần kim loại ở các tai của thân mắt xích không bị nứt vỡ...”.


Tháng 6 năm 2001, trên bãi lái của Trường 700 - Biên Hòa - Đồng Nai, sau cơn mưa rào bất chợt, làm lầy lội thêm những vũng bùn đất đỏ, chiếc xe M113 số 937 lắp các chốt xích - sản phẩm chế thử của đề tài cấp Bộ "Nghiên cứu chế tạo chốt xích và đai ốc chốt xích xe M113" chạy tung hoành qua các vật cản nhân tạo và tự nhiên. Cả hai dải xích của xe chìm trong bùn đỏ, nghiến xào xạo khi nó chạy qua các đống đá gan gà rắn đanh. Một đụn khói đen phun ra từ miệng ống xả lẫn các tàn lửa đỏ khi nó gồng mình leo lên miệng cái "hố bom" ngập nước mưa và bùn, cả thân xe như được phủ một lớp sơn màu nâu đỏ. Sau hơn 20 km chạy thử trước sự chứng kiến của Tổ nghiệm thu kỹ thuật và lội qua một ngầm nước sạch, các chốt xích và các đai ốc lại được kiểm tra bằng mắt một cách kỹ lưỡng. Không có chi tiết nào bị vỡ hỏng, ngoại trừ 3 cái đai ốc bị mòn vẹt do cà sát quá mạnh vào những phiến đá nào đó nằm cứng trên nền đường.


Những đoạn “phim” trong đầu anh lại hiện về chầm chậm nhưng rất rõ ràng về những mái tóc điểm bạc những khuôn mặt khắc khổ, tận tụy của cả một thế hệ cán bộ kỹ thuật từng trải cùng thời với anh trong Binh chủng như anh Mỹ, anh Thiệp, anh Việt, anh Châu... cùng các đồng nghiệp trẻ tuổi cần cù sáng tạo vượt qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Rồi các anh Bính, anh Thịnh, anh Hưng, anh La, anh Hoàng, anh Hân... những cán bộ kỹ thuật có trình độ và kinh nghiệm trong công nghệ chế tạo, cùng với đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề của Xí nghiệp Liên hiệp Z751 đã tâm huyết phối hợp với cán bộ Binh chủng Tăng Thiết giáp tạo ra các sản phẩm có giá trị cho quân đội.


Đến nay nhiều sản phẩm đã được ứng dụng đưa vào sản xuất loạt nhỏ đáp ứng nhu cầu vật tư kỹ thuật thiết yếu cho xe M113... một loại xe thiết giáp chở quân có tính năng chiến đấu kỹ thuật ưu việt mà nhiều năm qua các nước trên thế giới như Mỹ, Đức, Hàn quốc, Singapo... đã cải tiến nâng cấp thành nhiều kiểu, với nhiều chức năng chiến đấu và phục vụ chiến đấu khác nhau, chúng vẫn có mặt bên cạnh thế hệ xe chiến đấu bộ binh và xe chở quân hiện đại trong các cuộc chiến tranh cục bộ gần đây.


Anh nhớ lại gần đây trong một dịp vào cơ quan Binh chủng dự đám cưới con gái một đồng đội cũ, anh ghé thăm phòng Nghiên cứu Kỹ thuật, qua chuyện trò thăm hỏi về đời thường và cả công việc đang làm, anh cảm nhận rằng thế hệ cán bộ kỹ thuật trẻ của Binh chủng vẫn đang nung nấu ý chí cải tiến nâng cấp các loại xe tăng, thiết giáp hiện có thuộc Binh chủng như xe T54/T55, M-113, BMP-1. Lòng quyết tâm, nghị lực và kiến thức thì có thừa nhưng vấn đề cuối cùng vẫn là công nghệ, thiết bị, đối tác hợp tác và ngân sách.


Anh tin tưởng, rồi ngày mai đây những chiếc xe tăng, xe thiết giáp được hiện đại hóa sẽ là những vũ khí có thể đương đầu thắng lợi trong cuộc chiến tranh công nghệ cao nếu nó bắt buộc xảy ra. 


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Chín, 2021, 08:19:38 pm
ĐỀ TÀI
“BỘ KẸP NÒNG 23mm BẮN THAY PHÁO TĂNG 1OOmm”


Nguyễn Văn Minh

(https://i.imgur.com/w3BaVG3.jpg)

Hơn 40 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lớn mạnh của Binh chủng Tăng thiết giáp có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự chuyên ngành Tăng thiết giáp, với việc triển khai thành công và có hiệu quả nhiều đề tài có giá trị cao, được nghiệm thu cấp Binh chủng - Tổng Cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng và ứng dụng rộng rãi, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của bộ đội Tăng thiết giáp.


Trước đây hàng năm các đơn vị Tăng thiết giáp toàn quân thường sử dụng đạn pháo tăng 100mm để bắn thực hành, tiêu tốn hàng nghìn viên đạn, làm giảm tuổi thọ, thậm chí làm hỏng nòng pháo do sử dụng nhiều để bắn. Ngoài ra, phải tiêu tốn lượng kinh phí rất lớn để vận chuyển đạn pháo, cộng với tiêu hao vật tư, kỹ thuật đảm bảo trước và sau bắn, làm bia bắn tập...


Để khắc phục những nhược điểm trên việc sử dụng vũ khí cỡ nhỏ, thay cho vũ khí cỡ lớn trong huấn luyện bắn đạn thật trở thành vấn đề cấp thiết. Sau khi được Bộ Quốc phòng phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và đưa vào áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đề tài "Thiết kế chế tạo bộ kẹp nòng bắn thay pháo tăng 1OOmm từ pháo cao xạ 23mm”, do Binh chủng Tăng thiết giáp quản lý, được phép triển khai ở Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp. Sau khi được giao nhiệm vụ, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường họp và ra quyết định thành lập ban đề tài gồm 04 đồng chí: Đại úy Nguyễn Văn Minh - Chủ đề tài (Nay là Đại tá Trưởng phòng Quân khí), Thiếu tá Nguyễn Tất Chính - Ủy viên, Thiếu tá Nguyễn Khắc Nguyệt - Ủy viên; đồng chí Nguyễn Văn Hoài - Kỹ sư - Giáo viên khoa cơ sở. Các đồng chí đã trăn trở, nghiên cứu và xây dựng đề tài với mục tiêu đặt ra là: Thiết kế chế tạo bộ giá kẹp nòng và cơ cấu hất vỏ đạn, cho phép sử dụng nòng và đạn cao xạ 23mm nguyên thủy, bắn thay pháo tăng 100 nhưng vẫn đảm bảo sự làm việc chắc chắn, tin cậy, an toàn cho người sử dụng và cho pháo; mô phỏng các động tác sử dụng vũ khí, gây được hiệu quả tâm lý cần thiết, phản ánh trung thực trình độ người bắn, quy trình sử dụng đơn giản giá thành hạ, dự trữ được một lượng đạn pháo tăng đáng kể cho sẵn sàng chiến đấu.


Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích cấu tạo của pháo tăng 100mm, đề tài đã chọn phương pháp kẹp đồng trục 23mm trong lòng pháo tăng, với phương án là: Lợi dụng mặt côn lớn trong buồng đạn pháo tăng 100mm để định vị dọc trục cho thiết bị kẹp nòng, dùng các mặt trụ và côn nhỏ để định vị đồng trục nòng kẹp với nòng pháo tăng, lợi dụng các bể mặt ma sát và quá trình ì để chống xoay cho thiết bị, nối loa che lửa của nòng 23mm bằng ống thép đến miệng pháo tăng và cố định bằng đai ốc để tạo liên kết cứng giữa nòng pháo tăng với thiết bị kẹp nòng, bộ phận nạp và hất vỏ đạn được tận dụng từ phần đáy vỏ đạn pháo tăng và được gia công theo kết cấu.


Ngay từ khi đăng ký mở đề tài, được sự chỉ đạo kịp thời, sự quan tâm sâu sắc của Thủ trưởng Bộ tư lệnh cũng như các cơ quan đơn vị có liên quan. Đặc biệt là Ban Giám hiệu nhà trường và các cơ quan đơn vị trong Trường sỹ quan Tăng thiết giáp, đề tài được triển khai rất thuận lợi, các đồng chí trong Ban đề tài đã nỗ lực phấn đấu, khẩn trương nghiên cứu, phân tích thử nghiệm; đã bắn đạn thật nhiều lần để kiểm tra sự làm việc, độ bền của các chi tiết, đồng thời tính toán, kiểm nghiệm, xây dựng bảng bắn, quy tắc bắn, xây dựng quy trình, số liệu hiệu chỉnh thiết bị kẹp nòng và xây dựng điều kiện cho các bài bắn dùng kẹp nòng bắn thay pháo tăng. Đề tài được Hội đồng khoa học cấp Binh chủng nghiêm thu và đã được đưa vào áp dụng, sản xuất với số lượng gần 100 bộ, trang bị cho các đơn vị Tăng thiết giáp toàn quân. Với việc sử dụng kẹp nòng cao xạ 23mm bắn thay pháo tăng 100mm theo phương án của đề tài, kết quả đem lại trong huấn luyện vẫn tương đương với bắn pháo tăng như: Đã rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, yếu lĩnh sử dụng vũ khí, rèn luyện ổn định tâm lý người bắn (Vẫn tạo chớp lửa và tiếng nổ đầu nòng). Do có ống bảo vệ nòng pháo tăng nên trong quá trình bắn, áp suất khí thuốc và nhiệt độ sinh ra do thuốc của đạn 23mm cháy không tác dụng trực tiếp vào nòng pháo tăng, góp phần nâng cao tuổi thọ của nòng pháo.


Đồng thời sử dụng thiết bị kẹp nòng 23mm để bắn thay pháo tăng 100mm cho tất cả các bài bắn trong giáo trình, tiết kiệm pháo và đạn. Nhờ sử dụng đạn 23mm nên có thể tăng số lượt tập, để tạo kỹ năng bắn thành thạo cho thành viên kíp xe tăng; giải pháp đã khắc phục tình trạng thiếu pháo 100mm trong huấn luyện, góp phần nâng cao chất lượng, huấn luyện thực hành bắn pháo trên xe tăng trong những năm qua. Tại hội thi sáng tạo kỹ thuật Binh chủng Tăng thiết giáp lần thứ nhất tổ chức vào tháng 10 năm 2008, thiết bị kẹp nòng 23mm đã được ban tổ chức tặng giải nhất và được Bộ quốc phòng cho phép được sản xuất hàng loạt, phục vụ cho các đơn vị Tăng thiết giáp toàn quân, nâng cao hiệu quả huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.


Với ý nghĩa quan trọng như vậy, để phục vụ công tác tuyên truyền giáo dục truyền thống, sản phẩm đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Đây chính là biểu tượng sâu đậm về tính năng động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm của thế hệ trẻ bộ đội Tăng thiết giáp hôm nay, góp phần thực hiện ngày càng tốt hơn cuộc vận động "Quản lý, khai thác vũ khí trang bị tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” trong Binh chủng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Chín, 2021, 05:08:11 pm
BỘ THIẾT BỊ THAY NÒNG PHÁO TĂNG T-34
TRÊN ĐẢO RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO


Nguyễn Đình Bính

(https://i.imgur.com/DYr4Gd6.jpg)

Ngày đó cách đây đã 10 năm và một buổi sáng cuối thu năm 1996, khi tôi cùng một số đồng chí: Giáp Văn Thuần, Nguyễn Quốc Khởi và Nguyễn Văn Trọng đang thực hiện sửa chữa pháo cho xe tăng của Trường bắn Cam Lâm thì được lệnh triệu tập về vị trí chỉ huy của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 để nhận nhiệm vụ đột xuất. Tại đây các đồng chí Phạm Vân Lợi - Giám đốc, Nguyễn Văn Viết - Phó Giám đốc kỹ thuật, Nguyễn Văn Dậu - Phó Giám đốc chính trị và đặc biệt có đồng chí Phùng Công Thịnh là trợ lý phòng Quân khí Cục Kỹ thuật Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp đang chờ chúng tôi.


Mở đầu cuộc họp đồng chí Thịnh nói ngay: “Lần này Binh chủng giao cho Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 và Phòng Quân khí một nhiệm vụ hết sức khó khăn là phải thay bằng được nòng pháo cho xe tăng T34 số 135 tại đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa".


Mới nghe đến đây tôi hết sức hồi hộp và băn khoăn trăn trở. Bởi vì muốn thay được nòng pháo cho xe tăng cần phải dùng cần cẩu có sức nâng ít nhất là 7 tấn. Trong những lần đi sửa chữa dã ngoại tại đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn Đông và đi qua các đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã cho thấy việc vận chuyển xe cần cẩu ra đảo cẩu tháp pháo để thay nòng pháo là không thể, vì đảo Nam Yết không có cầu cảng, xe không thể cơ động từ tàu xuống đảo được. Hơn nữa việc vận chuyển trang thiết bị, dụng cụ, phụ tùng vật tư từ trên tàu vào đảo đều bằng sức lực khuân vác của bộ đội. Thông thường tàu phải neo đậu ở vị trí có mực nước sâu khoảng 15-20m cách xa đảo 2,3 km. Để vận chuyển trang thiết bị, dụng cụ, phụ tùng vật tư vào đảo, bộ đội phải chuyển hàng từ trên tàu xuống xuồng sau đó chèo xuồng vào đảo và bốc dỡ hàng từ xuồng đưa lên đảo. Sự vận chuyển đó hết sức khó khăn nhất là khâu đưa hàng từ trên tàu xuống xuồng. Chúng ta hãy tưởng tượng để đưa một hòm phụ tùng nặng khoảng 60 kg từ trên bong tàu xuống xuồng cần ít nhất là bốn người, hai đứng ở trên tàu dùng dây chão buộc hòm phụ tùng đưa qua lan can tàu rồi thả từ từ xuống ở một vị trí thích hợp và giữ nguyên ở tư thế đó, còn hai đứng ở dưới xuồng cùng lắc lư lên xuống với xuồng, (biên độ dao động lên xuống khoảng 2m khi sóng nhỏ, nếu sóng to biên độ có thể lớn hơn) chờ khi sóng biển nâng xuồng lên thì cùng đỡ hòm dụng cụ, đồng thời hai người trên tàu nhả dây giữ hòm dụng cụ để hai người đứng dưới xuồng đỡ lấy và tụt xuống cùng với xuồng (xuồng bị hạ xuống mức thấp hơn vị trí ban đầu do sóng biển). Sóng biển gây chòng chành nên bốc dỡ hàng từ tàu xuống rất khó khăn thậm chí bị sóng hất rơi xuống biển.


Đồng chí Thịnh nói tiếp: “Việc đưa xe cẩu ra ngoài đảo là không thể, vậy các đồng chí thử nghĩ xem có phương án nào để thay được nòng pháo mà không cần dùng cẩu. Trong lúc tôi và đồng chí Viết đang tập trung suy nghĩ và chưa đưa ra được phương án nào thì đồng chí Thịnh lại nói: “Đối với pháo 100mm trên xe T54, đã có dụng cụ chuyên dùng gồm bộ bản lề, xe goòng, bộ cột chống và các thanh ray cho phép lắp khớp bản lề vào tháp pháo và thân xe để kích tháp pháo lật lên, sau đó rút lùi nòng pháo ra phía sau. Ta có thể chế tạo bộ thiết bị tương tự như vậy để thay cho pháo 85mm trên xe T34 được không? Không thấy ai có ý kiến gì khác, đồng chí Lợi nói: “Trước mắt các đồng chí cứ suy nghĩ xem có phương án nào hay hơn không, Xưởng giao nhiệm vụ cho đồng chí Viết chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ huy cùng với đồng chí Bính và thợ của phân xưởng 3 thực hiện theo phương án của đồng chí Thịnh". Buổi họp nhanh chóng kết thúc, chúng tôi nhận nhiệm vụ vừa mừng, vừa lo, mừng vì được cấp trên tin tưởng giao cho nhiệm vụ khó khăn này còn lo vì chưa biết làm ra sao.


“Cậu xuống xưởng với tớ đi” - Anh Viết vỗ nhẹ vai tôi, chúng tôi cùng nhau đi vào gian nhà kho đặt tháp pháo xe tăng T34. Cả hai chúng tôi đều biết rằng xe T34 không được thiết kế chế tạo để lắp bộ bản lề như xe T54, nhưng chúng tôi vẫn xem xét để có thể chế tạo và lắp bộ bản lề vào chỗ nào cho hợp lý. “Không có chỗ nào có thể lắp bộ bản lề như xe T54 đâu anh Viết ạ”. Tôi nói. Sau đó chúng tôi xuống phòng sửa chữa vũ khí xem xét bộ bản lề của pháo 100mm rồi về nghỉ. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi gồm: Thịnh, Viết, Bính, Thuần có mặt tại khu kho xe của Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp cùng nhau xem xét kỹ lưỡng cấu tạo của tháp pháo xe T34. Thật khó, không thể có chỗ nào để lắp bản lề cả, không thể khoan và ta rô ren trên tháp pháo để lắp bản lề được. Nếu chế tạo bản lề chỉ có thể dựa vào sự liên kết giữa tháp pháo và thân xe thông qua vành lăn tháp pháo để lắp bản lề. Anh Thuần nói: “Nếu với kết cấu lắp ráp giữa thân xe và tháp pháo như thế này thì không thể chế tạo được bản lề lắp vào tháp pháo và thân xe để kích tháp pháo lên được".

Anh Viết nói: “Được chúng ta cứ phải nghiên cứu và làm đã, anh Thịnh cứ tin tưởng ở chúng em".

Anh Thịnh vui vẻ nói: “Anh hết sức ủng hộ các chú, chiều nay anh phải về phòng, quá trình làm có gì khó khăn, vướng mắc các chú cứ báo cáo lên phòng, Phòng sẽ có phương hướng giải quyết tiếp".

Ngay buổi tối hôm ấy tôi và anh Viết cùng nhau thảo luận:

Việc khó nhất là chế tạo bộ bản lề; kết cấu, khả năng chịu tải như thế nào cho an toàn cần phải tính đến. Còn lại thanh ray, xe goòng, trụ chống thì hoàn toàn đơn giản có thể chế tạo được ngay. Bộ bản lề thì như thế nào? Chúng tôi vẽ bản thiết kế rồi nghiên cứu động học của khớp nối bản lề. Trong trường hợp này chỉ có thể chế tạo khớp nối bản lề ngược, tức là quá trình mở ra của bản lề ngược là quá trình đóng lại của bản lề thuận. Về tính toán khả năng chịu tải! Xem xét vấn đề này anh Viết nói: Phần thép chế tạo bản lề mình tận dụng phần thép chế tạo mặt bích tháp pháo (thép chế tạo mặt bích để làm ụ bê tông lắp đặt tháp pháo T34 ngoài đảo Trường Sa), và tận dụng vành lăn tháp pháo T34 cũ, còn chốt quay mình thử dùng chốt xích T54 xem sao.


Tôi nói: “Được đấy anh ạ! Chốt xích T54 chịu tải trọng động lớn thế mà lực nén của tháp T34 lên chốt khi kích tháp pháo không thể lớn tới 5 tấn đâu, vấn đề là chế tạo bộ bản lề này như thế nào để có thể lắp vào tháp pháo và kích nó lên được". “Đồng ý, thép chế tạo mình đã tận dụng toàn thép tốt để chịu lực rồi, cụ thể ngày mai sẽ tiếp tục đo đạc ở xe” - anh Viết đồng ý.

Quá trình chế tạo thiết bị thay nòng pháo cứ như vậy diễn ra, chúng tôi vừa làm vừa nghiên cứu. Mỗi người một việc, làm cái dễ trước, cái khó sau. Để chế tạo bộ thanh ray, xe goòng chúng tôi trực tiếp đo trên xe, đo chiều dài nòng pháo và kết cấu của hộp khóa nòng. Đối với bộ bản lề, chúng tôi mượn xe T34 của Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp làm vật nghiên cứu. Tổ thợ do đồng chí Viết và tôi trực tiếp chỉ huy nhiều lần thực hành tháo, kê kích tháp pháo, đo đạc tính toán và đã chế tạo thành công bộ bản lề. Để lắp bộ bản lề này vào tháp pháo và thân xe cần phải tháo hết các bu lông cố định vành lăn trên và dưới của tháp pháo, sau đó dùng kích, kích tháp pháo đều lên khoảng 25 cm, dùng gỗ kê các góc, tháo nhấc vành lăn ra ngoài. Lắp bản lề vào vị trí của vành lăn trên và dưới của tháp pháo, lúc này bản lề đang ở vị trí mở. Dùng kích thủy lực kích đều đuôi tháp pháo lên đến đâu dùng gỗ kê đến đó để bảo đảm an toàn. Khi kích tháp pháo lên đủ độ cao để rút nòng pháo về phía sau phải dùng cột trụ chống cố định chắc chắn bằng bu lông để giữ chắc tháp pháo rồi mới lắp đặt thanh ray, xe goòng và tháo liên kết giữa thân pháo với máng pháo. Quay cơ cấu tầm hạ đuôi pháo đặt vào xe goòng và kéo đẩy nòng pháo tụt về phía sau. Đến đây chúng tôi đã khẳng định thao tác thực hành thử nghiêm trên đất liền của chúng tôi đã thành công. Việc thay nòng pháo ở đảo Nam Yết sẽ thực hiện được. Nhưng trườc khi ra đảo, để khẳng định chắc chắn việc thay nòng pháo là được, chúng tôi đã báo cáo chỉ huy Xưởng, và thủ trưởng Phòng Quân khí tổ chức trình diễn dùng bộ “Thiết bị thay nòng pháo” mà chúng tôi vừa chế tạo xong thay thử nòng pháo trong đất liền cho các đồng chí có liên quan kiểm tra xem xét.


Mấy hôm sau vào một buổi sáng tiết thu nắng hoe vàng, tổ của chúng tôi gồm có Viết, Thuần, Trọng, Khởi và tôi thực hành thay nòng pháo dã ngoại cho xe T34 tại kho xe của Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp dưới sự quan sát và chứng kiến của các đại diện cơ quan cấp trên gồm: Đồng chí Thịnh - Phòng Quân khí, đồng chí Tụê - Phó trưởng Phòng Quân khí và đồng chí Hòa - Phó trưởng Phòng Tăng thiết giáp Quân chủng Hải Quân. Công việc tháo, lắp thiết bị vào xe và thực hành các thao tác thay nòng pháo hết sức khẩn trương, chính xác, 11 giờ 15 phút nòng pháo đã được thay thế. Mệt, mồ hôi ướt đẫm lưng áo nhưng ai cũng phấn khởi.


Thay mặt cho phòng Tăng thiết giáp Quân chủng Hải Quân, đồng chí Hòa nói với chúng tôi: “Xe tăng T34 số 135 ngoài đảo Nam Yết sẽ đáp ứng được nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển của chúng ta, tháng 3 sang năm sóng yên biển lặng, các đồng chí có thể lên đường ra đảo thực hiện nhiệm vụ này. Tôi xin cảm ơn sự lao động nhiệt tình và sáng tạo của các đồng chí!".


Tháng 3 năm 1997 đại diện cho tổ thợ nghiên cứu chế tạo “Thiết bị thay nòng pháo dã ngoại cho xe tăng trên đảo” của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, đồng chí Giáp Văn Thuần thợ vũ khí bậc 7/7 đã ra đảo Nam Yết thực hiện nhiệm vụ thay nòng pháo cho xe T34 số 135 và sửa chữa vũ khí cho các xe tăng trên đảo. Sau 6 tháng công tác ngoài đảo đồng chí Thuần trở về đất liền cùng với niềm vui tất cả xe tăng trên đảo đều có trạng thái kỹ thuật tốt, sẵn sàng thực hiện nổ súng khi có lệnh.


Trong bữa cơm liên hoan nhỏ đón đồng chí Thuần đã hoàn thành nhiệm vụ từ đảo xa trở về đất liền gồm có ban chỉ huy Xưởng, đồng chí Thuần và tôi, với bao câu chuyện hàn huyên về cuộc sống của những người lính đảo, những người lính thợ và chúng tôi vừa là những người chỉ huy kỹ thuật của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đồng thời cũng là những người thợ, tôi nhớ mãi một điều tâm đắc nhất và nó cũng là bài học cho tôi trong cuộc sống, công tác sau này đó là điều đồng chí giám đốc Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 nói với tôi: “Qua việc thay nòng pháo cho xe tăng trên đảo vừa rồi, nếu mọi việc không mạnh dạn làm thì cái gì cũng khó, muốn thành công cũng phải mạnh dạn, và có sự chuẩn bị chu đáo".


Các bạn ạ tôi thật sự xúc động viết lên những dòng kỷ niệm này khi nhìn thấy mô hình "Thiết bị thay nòng pháo dã ngoại tại đảo Trường Sa” tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Một thành tích nho nhỏ của chúng tôi nhưng nó là một bài học đáng trân trọng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Chín, 2021, 05:09:01 pm
QUÀ TẶNG CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐẢO


Hà Minh Hoa

(https://i.imgur.com/5G1FHKv.jpg)

Những bông hoa đá, những đóa san hô, những giọt nước mắt, cùng những cái bắt tay xiết chặt, vẫn còn lắng đọng và thẳm sâu trong tâm hồn của người chiến sĩ, nghệ sĩ đoàn nghệ thuật Binh chủng Tăng thiết giáp.

Năm 1996 Đoàn nghệ thuật Tăng thiết giáp đã được ra thăm, mang theo lời ca, tiếng hát và tình cảm ấm nồng của những người lính xe tăng đến với cán bộ, chiến sỹ nơi đầu sóng, ngọn gió thân thương này. Năm 2003 đoàn có dịp trở lại Trường Sa, chúng tôi gặp lại những người lính năm xưa và cả những chiến sỹ lần đầu ra đảo. Sự đón tiếp nồng hậu, cởi mở, của bao ngày mong đợi dành cho đoàn, làm chúng tôi không khỏi bùi ngùi, xúc động. Nơi đảo xa, các anh rất thiếu thốn tình cảm, cho dù những cánh thư từ đất liền ra đảo đã phần nào vơi đi nỗi nhớ. Vừa mới đặt chân lên đảo, cả đoàn đã tỏa xuống từng phòng ở của cán bộ, chiến sỹ. Sau những cái bắt tay, chào hỏi, là câu chuyên không dứt giữa đất liền và hải đảo. Háo hức hơn cả là những chàng lính trẻ lần đầu được nghe hát và giao lưu trực tiếp với văn công, đặc biệt là các nữ diễn viên xinh đẹp của đoàn. Những ánh mắt, nụ cười, lòi ca, tiếng hát hòa cùng tiếng sóng vỗ rì rầm của biển lại vang lên, làm vơi đi bao nỗi nhọc nhằn của người chiến sỹ noi đầu sóng, ngọn gió. Khoảng cách giữa diễn viên và khán giả thật gần gũi, ấm áp; cứ như vậy chúng tôi đàn và hát với biển khơi. Khi chúng tôi hát những bài hát về người lính, những bài hát ca ngợi Tổ quốc, họ cùng vỗ tay, hòa nhịp theo; tiếng hát của chúng tôi bay cao, vang xa, át cả tiếng sóng biển ì ầm vỗ vào bờ xa. Những làn điệu dân ca quan họ, những câu hò ví dặm cất lên như mang cả hồn quê đến với người lính đảo. Đặc biệt bài hát “Gần lắm Trường Sa ơi” được ca sĩ Hằng Nga thể hiện khá thành công, làm xúc động tâm hồn người chiến sỹ. Ở đảo không có những đóa hoa tươi rực rỡ, các anh chỉ tặng chúng tôi “Những con ốc biển”, “những nhành san hô”, nó là của tạo hóa, nhưng dưới bàn tay khéo léo, họ đã ghép thành những bông hoa rất đẹp, chứa đựng bao tình cảm của người lính đảo xa.


Ra thăm và biểu diễn phục vụ đảo lần này, ngoài những lời ca tiếng hát, điệu múa, đoàn mang theo cả những món quà rất giản dị nhưng đầy ý nghĩa gồm những con tem, phong bì thư, những cuốn sách, cây đàn... Cảm động trước tình cảm chân thành của đoàn, đồng chí Thượng tá Đỗ Khắc Phương - Phó Đảo trưởng chính trị - Đảo Trường Sa Lớn đã tặng đoàn “Nắm đất Trường Sa”, đó là kỷ vật quý báu, đầy ý nghĩa, như nhắn nhủ với đất liền rằng; chúng tôi sẽ vượt mọi khó khăn, gian khổ, vững chắc tay súng để bảo vệ từng tất đất, tấc biển thiêng liêng của Tổ quốc.


Mười hai ngày đêm trên đảo là một hành trình biết bao những kỷ niệm vui buồn của người lính - người nghệ sĩ. Những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt lăn trên gò má ửng hồng của các nữ diễn viên và ánh mắt lưu luyến như chẳng muốn rời xa. Ngày xa đảo về đất liền đã đến, có lẽ chẳng bao giờ quên ngày hôm đó, những người lính đảo ra tiễn chúng tôi, bịn rịn chia tay như những người thân yêu, những con ốc nhỏ xinh dúi vội vào tay như gửi vào đó biết bao tâm tư tình cảm. Cả người ở, người về đều không muốn bước. Trong lòng ai cũng mang một nỗi buồn khó tả. Chúng tôi nhớ những người lính biển, nhớ cái mặn nồng của gió đảo Trường Sa, nhớ những người đồng chí đồng đội ngày đêm canh giữ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.


Nếu có dịp tham quan Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, mời các đồng chí đến với phòng trưng bày "Bộ đội Tăng thiết giáp trong thời kỳ đổi mới ở đó có "Nắm đất Trường Sa" và "Những con ốc biển”, "Những nhành san hô", của những người chiến sĩ đảo Trường Sa tặng Đoàn Nghệ thuật Tăng thiết giáp trong đợt lưu diễn phục vụ trên đảo năm 2003. Tuy giản dị, nhưng chứa đựng bao tình cảm của người chiến sỹ Trường Sa gửi gắm cho những người lính xe tăng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Chín, 2021, 05:09:51 pm
HUY CHƯƠNG VÀNG
PHIM PHÓNG SỰ “VƯỜN THỨ SÁU” CỦA BỘ ĐỘI XE TĂNG


Nguyễn Phương Huyền

(https://i.imgur.com/hNYygbx.jpg)

Trong tăng gia sản xuất của quân đội thường nói đến “5 vườn”, “3 giàn". Đến đơn vị nào ta cũng gặp vườn rau, vườn cây ăn quả, vườn rau gia vị, vườn chè và vườn thuốc nam. Riêng ở Binh chủng Tăng thiết giáp có thêm “Vườn thứ sáu" - vườn rau dại ăn được.


Đúng như tên gọi của nó, vườn rau dại chỉ trồng những cây rau sống hoang dại ăn được. Nắm rau dại, lá rừng chẳng to tát gì nhưng nhìn lại lịch sử mấy cuộc kháng chiến ta thấy cây rừng Việt Bắc, lá rau dại Trường Sơn đã góp phần chăm nuôi bộ đội ta vượt qua khó khăn, thiếu thốn đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.


Từ truyền thống đánh giặc của cha anh, bằng thực tiễn kinh nghiệm trong những năm tháng chiến đấu ở Trường Sơn, Tây Nguyên, Tư lệnh Đoàn Sinh Hưởng đã có ý tưởng trồng các loại rau dại, cây rừng thành thao trường xanh; đưa bài học hậu cần vào huấn luyện sát thực tế để giáo dục bộ đội. Ngày 6 tháng 3 năm 1999, Tư lệnh đã có chỉ thị về việc "Tổ chức trồng một số loại rau dại ăn được ở Việt Nam phục vụ huấn luyện giã ngoại của bộ đội”. Ngay sau đó, Cục Hậu cần đã có hướng dẫn “Triển khai thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Binh chủng về việc trồng một số loại rau dại”. Các đơn vị trong Binh chủng đã hưởng ứng cuộc vận động và chấp hành chỉ thị làm vườn thứ sáu hết sức hào hứng.


Những nơi đóng quân đất đai cằn cỗi, bằng mồ hôi công sức và lòng nhiệt tình của cán bộ, chiến sỹ đã khai phá những thửa đất hoang, đất bạc màu để phủ lên một màu xanh tươi tốt. Đến nay, các Lữ đoàn, nhà trường mỗi tiểu đoàn đều có vườn rau dại từ 100 -150 m2 với (60 - 80 loại rau). Các kho, xưởng cũng đều có vườn rau dại trên dưới 100 m2. Lữ đoàn xe tăng 201, Lữ đoàn 215 còn có nhiều loại rau dại ít gặp và khó phân biệt để huấn luyện bộ đội.


Nhiều năm qua, cây rau dại không chỉ đưa vào bữa ăn, cải thiện đời sống bộ đội mà còn đi vào trang giáo án huấn luyện bộ đội. Hàng trăm cây rau dại ăn được sống cùng nhiều loại cây lá khác đã hướng dẫn cho bộ đội nhận biết được từng loại cây rau dại ăn được. Bài học thực hành về cây rau dại cũng lắm công phu, học tại bãi tập, học trong thực tế, học trong sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, học trong kinh nghiệm của những đồng chí đã trải qua chiến đấu. Trong diễn tập giờ đây đã có thêm bài học về rau dại. Nhiều đoàn đến thăm quan học tập tại các đơn vị trong Binh chủng, bài giới thiệu về rau dại bao giờ cũng làm khách tham quan thích thú và hết lời khen ngợi về ý tưởng sáng tạo, cách làm hay. Chỉ là những cây rau dại, nhưng khi vào trang giáo án huấn luyện lại sinh động hẳn lên, nhất là đối với cán bộ Hậu cần. Đây chính là cuộc xác định trữ lượng rau lá ăn được trên từng vùng đất, địa hình khác nhau; tình huống giả định nữa là vùng đang có chiến sự, vùng rừng đang có nhiều loại rau lá mang độc tố. Nếu nhầm lẫn có thể gây ra tai họa lớn. Những tốp cán bộ, vai nặng trĩu ba lô, cuốc xẻng, dao rựa ... Họ trải tấm bản đồ nơi đơn vị trú quân, tất cả cúi xuống để xem xét, đánh dấu, sau đó mới hướng dẫn bộ đội đi tìm rau lá ăn được.


Mùa diễn tập cuối năm 2000, các mẹ, các chị người dân tộc Thái ở bản Đá Bạc mang đến cho bộ đội nào rau, nào quả và còn chỉ cho bộ đội nhiều loại rau lá mới ở trong rừng ăn được. Đưa tay ra đỡ những bó lá lằng từ tay các mẹ, các chị, các em, những người lính xe tăng vô cùng xúc động. Đây chính là lá rừng đã gắn bó thân thiết với bữa cơm, bữa cỗ của đồng bào dân tộc Mường, Thái từ bao đời nay.


Từ ý tưởng của người chỉ huy và nhìn những vườu rau dại giờ đây đã lên xanh tốt. Đó là thành quả, công sức lao động của những người lính xe tăng đã vun trồng sau những giờ huấn luyện vất vả ngoài thao trường bãi tập. Những người làm phim đã thực hiện Phóng sự “Vườn thứ sáu” tại Lữ đoàn xe tăng 215 và thực sự bất ngờ: “Nghệ An đất cần, sỏi đá đến nước cũng không đủ để sinh hoạt nói chi đến việc trồng rau”? Ấy thế mà cây rau dại ở đây dưới bàn tay chăm sóc của cán bộ, chiến sĩ cây vẫn lên xanh tốt. Phóng sự nhằm phổ biến kinh nghiệm và dạy cho bộ đội về cách nhận biết các loại rau rừng, rau dại ăn được. Điều đó đã khắc phục được tình trạng thiếu rau xanh trong thực hiện nhiệm vụ hành quân dã ngoại, song điều quan trọng hơn là đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ có được những kiến thức cơ bản để vượt qua khó khăn thử thách trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.


Phóng sự “Vườn thứ sáu” đã đem đến Liên hoan Truyền hình toàn quân lần thứ 4 một tác phẩm báo chí ấn tượng, được Ban giám khảo đánh giá cao về tính phát hiện vấn đề, tìm thấy cái mới, cách làm hay, sáng tạo độc đáo ở Binh chủng Tăng thiết giáp. Khán giả màn ảnh nhỏ thấy được toàn cảnh bức tranh sinh động của những vườn rau dại. Tuy mỗi cây rau dại rất nhỏ bé nhưng sức sống của nó thì cực kỳ mãnh liệt và tác dụng của nó thì lại không nhỏ. Trong chiến tranh, cây rau dại còn góp phần nuôi sống bộ đội ta và đồng hành cùng người lính trong suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.


Phóng sự "Vườn thứ sáu” đạt huy chương vàng tại Liên hoan Truyền hình toàn quân lần 4 được tổ chức vào tháng 6 năm 2001, tại Quân chủng Phòng không - Không quân. Tấm huy chương vàng "Vườn thứ sáu ” của bộ đội xe tăng cùng với hàng ngàn hiện vật hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, mỗi hiện vật ở đây là một câu chuyện cảm động trong chiến đấu... và tấm huy chương vàng nói về một cách làm hay, một ý tưởng sáng tạo của những người lính xe tăng đã góp phần làm sáng mãi truyền thống Binh chủng Tăng thiết giáp Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Chín, 2021, 05:10:33 pm
NHỮNG CHIẾC MŨ XE TĂNG CẢI TIẾN


Nguyễn Đức Thiện

(https://i.imgur.com/e8JppRX.jpg)

Cuối năm 1997, sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo chuyển cấp kỹ sư chuyên ngành thông tin, tôi được trên điều về nhận công tác tại Xưởng sửa chữa Thông tin - Bộ Tham mưu - Binh chủng Tăng thiết giáp, với cương vị là Phó Giám đốc về kỹ thuật. Sau một thời gian ngắn tìm hiểu, tôi nhanh chóng quen với công việc, hiểu rõ hơn về chức năng nhiệm vụ của xưởng là đảm bảo kỹ thuật thông tin Tăng thiết giáp cho toàn quân. Nhìn những chiếc mũ công tác xe tăng của các đơn vị đem về sửa chữa, nhiều chiếc sờn rách, xác sơ, tôi không khỏi chạnh lòng. Câu hỏi: tại sao ta không sản xuất mới mũ công tác của xe tăng, trong khi ở xưởng có cả một tổ gần chục thợ bảo quản và khâu vá mũ, trong đó có nhiều đồng chí là thợ may có hạng? Thế rồi trong tôi đã hình thành một ý tưởng mới, đó là phải tìm cách sản xuất mũ công tác xe tăng trên cơ sở tận dụng những nguyên liệu phụ kiện cũ đặc chủng nhưng còn tốt như tai nghe, ống nói, ốp tai, đệm dạ chống va đập (trong các mũ cũ của Liên Xô cũ); còn thân mũ và các phụ kiện khác hay hỏng nhất thì có thể làm mới hoàn toàn để vừa nhanh lại vừa hạ giá thành. Tôi đem ý tưởng này đề xuất với Ban Giám đốc xưởng và Chủ nhiệm thông tin Binh chủng. Những đề xuất của tôi không những được cấp trên ủng hộ mà còn động viên, khích lệ, đã tiếp thêm cho tôi sức mạnh và quyết tâm. Tôi đã cùng Ban Kỹ thuật của xưởng và Quản đốc phân xưởng 2 nghiên cứu cấu tạo, cách ghép nối các chi tiết và phác thảo một quy trình may một chiếc mũ công tác của xe tăng. Công việc may thử sản phẩm đầu tiên được giao cho một thợ may “Cự phách” của xưởng thực hiện.


Những tưởng mọi việc đều suôn sẻ, nào ngờ tác phẩm đầu tiên là một cái mũ dúm dó, một số vị trí không chiết góc được (trong khi đó thợ may đã phải loay hoay gần nửa ngày). Chúng tôi lại phải điều chỉnh lại quy trình may và chiếc mũ thứ hai có khá hơn chút ít, thế nhưng phải đến chiếc thứ ba mới cho kết quả như ý. Chiếc mũ thứ ba ra đời chẳng khác chiếc mũ “Zin” chút nào, như hai giọt nước vậy, chúng tôi chuyền tay nhau sản phẩm của mình trong niềm vui khôn xiết. Tôi cho sản xuất thêm ba chiếc nữa “cho đủ mỗi thành viên kíp xe một chiếc" rồi chuyển lên Ban Giám đốc và Chủ nhiệm thông tin Binh chủng xin ý kiến chỉ đạo. Vốn là người thận trọng và kín đáo, chẳng mấy khi khen cấp dưới trước mặt bao giờ (vì ông cho rằng như vậy dễ làm cho cấp dưới sinh bệnh tự kiêu) Chủ nhiệm thông tin Binh chủng đã xem đi, xem lại từng mũi kim, đường chỉ và đội thử đồng chí nói “Các đồng chí không những phải làm được mà phải làm tốt hơn mũ của nước ngoài”, nhưng nhìn nét mặt rạng rỡ chúng tôi hiểu rằng ông đang rất hài lòng. Với sự quyết tâm và nỗ lực, cố gắng của cán bộ, nhân viên kỹ thuật Xưởng sửa chữa thông tin, chúng tôi đã có thể sản xuất được mũ công tác xe tăng với chất lượng tốt và giá thành hạ chưa bằng 1/5 chi phí mua một chiếc mũ mới nhập ngoại (một chiếc mũ mới nhập ngoại khi đó giá khoảng 52-55 USD) trên cơ sở sử dụng lại một số linh kiện, phụ kiện cũ còn tốt. Những tháng sau đó chúng tôi được giao sản xuất và phục hồi hàng trăm mũ công tác để giao cho các đơn vị Tăng Thiết giáp trong Binh chủng, được Chủ nhiệm thông tin Binh chủng đánh giá cao. Kết quả đạt được tuy nhỏ bé song đã thể hiên tình cảm và trách nhiệm của người thợ, người cán bộ kỹ thuật thông tin gửi gắm tới những chiếc sỹ xe tăng đang ngày đêm luyện tập trên thao trường, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sãn sàng chiến đấu của bộ đội tăng thiết giáp trong điều kiện khó khăn về vật tư, phụ tùng thay thế.


Hiện nay sáng kiến cải tiến này đã được một số đơn vị trong Binh chủng sử dụng đạt hiệu quả, thiết thực cho thành viên kíp xe trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. “Những chiếc mũ xe tăng cải tiến mới” số đăng ký BTTG-768/B57 đã trở thành hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục về tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của tập thể cán bộ, nhân viên Xưởng sửa chữa thông tin - Binh chủng Tăng thiết giáp Anh hùng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Chín, 2021, 02:13:15 pm
CHIẾC GHẾ LÁI XE TĂNG T54 CẢI TIẾN


Phạm Tuấn Trung

(https://i.imgur.com/gL3JqqR.jpg)

Đó là chiếc ghế lái xe tăng T54 được trưng bày trong Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp. Một số khách tham quan đã hỏi nhân viên Bảo tàng: "Chiếc ghế bằng sắt này có gì đặc biệt mà lại được trưng bày trang trọng như vậy”. Vâng, xin trả lời ngay: Đặc biệt là ở chỗ, người chế tạo ra nó đã phải trăn trở và dày công nghiên cứu cải tiến để sử dụng thuận tiện và phù hợp với vóc dáng của những chiến sĩ lái xe tăng Việt Nam.


Tác giả của chiếc ghế lái là Nguyễn Văn Nam - Thiếu tá chuyên nghiệp, công tác tại Phòng Kỹ thuật Trường hạ sĩ quan xe tăng II. Từ năm 1998, cuộc vận động “Quản lý, khai thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” diễn ra sôi nổi ở khắp các đơn vị trong Binh chủng. Là nhà trường đào tạo thành viên kíp xe cho lực lượng Tăng thiết giáp toàn quân, cán bộ, chiến sĩ trong nhà trường đã có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, đào tạo. Từ thực tiễn nhiều năm tham gia huấn luyện lái xe tăng T54, Nguyễn Văn Nam nhận thấy chiếc ghế lái nguyên bản của Liên Xô phù hợp với người Châu Âu, có vóc dáng to, cao; cấu tạo chỉ có 2 nấc (cao và thấp), điều chỉnh xa và gần bằng ốc cố định chân ghế. Trong khi đó, vóc dáng của các chiến sĩ lái xe tăng Việt Nam nhỏ bé, thao tác để chuyển vị trí ghế lái rất chậm và khó khăn, nhiều chiến sĩ đã phải dùng nhiều lớp đệm cho ghế lái cao lên mới quan sát được.


Tháng 3 năm 1998, với quyết tâm nghiên cứu, cải tiến chiếc ghế lái với mục tiêu “Thao tác được thuận tiện, nhanh gọn, phủ hợp với chiến sĩ lái xe Việt Nam”, Nguyễn Văn Nam đã không quản khó khăn, vất vả, nghiên cứu, đầu tư và chế tạo thử mô hình ghế lái T54 cải tiến. Trên cơ sở ghế lái T54 của Liên Xô, anh đã thiết kế chiếc ghế có nhiều nấc nâng, hạ độ cao cố định bằng vấu cam, kết hợp với rãnh khuyết trên thân ghế. Việc tiến, lùi ghế được thực hiện theo kiểu trượt ngăn kéo, với 2 thớt ghế (trên và dưới). Thớt trên có tấm tựa lưng, lò xo đẩy, ổ bi. Thớt dưới liền với thân ghế dưới, có khóa hãm.


Sau nhiều lần thử, chiếc ghế lái cải tiến đã được hoàn thành và được kiểm nghiệm thực tế trên xe tăng T54. Khi thao tác, nâng, hạ xuống đến vị trí phù hợp, khóa tay khóa lại, vấu cam sẽ đẩy vào đáy ghế nén thanh hãm vào rãnh răng giữ ghế ở vị trí cố định. Khi thao tác tiến, lùi: Dùng tay phải bóp khóa hãm ở phía trước bên phải, dùng sức của lưng người lái đẩy ghế về sau hay tiến về trước đến vị trí phù hợp, nhả tay khóa ra ghế được hãm lại tại vị trí đã lựa chọn, đều được thao tác một cách nhanh, gọn và dễ dàng.


Sau khi thử nghiệm, hội đồng khoa học kỹ thuật Binh chủng đã nhất trí đánh giá: Ghế lái T54 cải tiến của đồng chí Nguyễn Văn Nam đơn giản, chi phí ít, hiệu quả cao, có thể áp dụng lắp đặt trên xe huấn luyện, xe chiến đấu. Chiếc ghế cải tiến rất thuận tiện cho người lái xe trong thao tác sử dụng, tạo được vị trí ngồi của lái xe phù hợp, nhanh chóng, nhất là trong trường hợp xe phục vụ huấn luyện, đổi tập lái xe sau từng vòng lái... Sáng kiến cải tiến của Nguyễn Văn Nam thành công đã tạo nên một không khí thi đua sôi nổi trong toàn trường; nhiều sáng kiến mới đã nảy sinh và mạnh dạn thực hiện trên cơ sở tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có của đơn vị, giá thành rẻ nhưng hiệu quả cao, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới cho Binh chủng và đào tạo thành viên kíp xe Tăng thiết giáp cho toàn quân, cũng như những nhiệm vụ chính trị quan trọng khác của nhà trường.


Khi được biết sáng kiến của mình được giải thưởng, Nguyễn Văn Nam đã xúc động nói: “Tôi thật sự bất ngờ khi sáng kiến của mình được đánh giá cao, trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thêm những sản phẩm thiết thực giảm bớt những khó khăn, vất vả của đồng chí, đồng đội đang ngày đêm luyện tập trên thao trường".


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Chín, 2021, 02:14:02 pm
CÂU CHUYỆN VỀ THIẾT BỊ CHẾ TẠO BẠC GỖ ÉP CHỐNG XOAY


Vũ Duy Thông

(https://i.imgur.com/F9J7LSS.jpg)

Tới thăm Bảo tàng lực lượng tăng thiết giáp, những người làm công tác kỹ thuật chúng tôi ai cũng đều dừng lại ở hiện vật “Thiết bị chế lạo bạc gỗ ép chống xoay” cho giá tháo, lắp hãm lùi đẩy lên của pháo tăng, sản phẩm mang nhãn hiệu "Made in X32” chính hiệu, gây cho chúng tôi sự bất ngờ và rất ấn tượng. Chúng tôi xem, sờ vào giá ép bằng thép mát rượi và nhớ lại...


Giá tháo lắp hãm lùi đẩy lên trước đây do Liên Xô cung cấp đồng bộ, từ khi Liên Xô chuyển đổi thể chế chính trị nguồn hàng này không còn nữa. Hiện nay chưa có cơ sở nào sản xuất bạc gỗ ép chuyên dùng cho thiết bị này. Để đáp ứng yêu cầu sử dụng ở các đơn vị và các xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp trong toàn quân, Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã chủ động đặt hàng ở Nhà máy gỗ cầu Đuống, Nhà máy Z133 và một số cơ sở khác nhưng những cơ sở trên đều không đảm nhiệm được vì yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật.


Đứng trước thách thức này, phát huy truyền thống của đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân với những thành tích đã đạt được trong nhiều năm qua, giám đốc Nguyễn Văn Viết không chịu bó tay trước những khó khăn thực tế của đơn vị. Sau nhiều đêm dài trăn trở suy nghĩ và tìm tòi, anh nhận thấy việc nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị chế tạo bạc gỗ cho giá tháo, lắp hãm lùi đẩy lên đưa giá về trạng thái làm việc tốt là một việc làm cấp thiết. 


Để sản phẩm đạt yêu cầu kỹ thuật cần thiết, Giám đốc cùng tổ thợ sửa chữa vũ khí đã nghiên cứu lấy mẫu bạc gỗ ép chống xoay của Liên Xô để xác định kết cấu của bạc và loại keo kết dính; xác định độ bền; khả năng chịu lực, độ kẹp chặt và độ đàn hồi của bạc. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu nói về keo kết dính của nước ngoài và tìm hiểu quy trình chế biến gỗ ép của một số cơ sở chế biến, sản xuất gỗ trong nước và khả năng công nghệ của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32. Trên cơ sờ đó, đã tiến hành tính toán, thiết kế chế tạo thiết bị sản xuất bạc gỗ ép chống xoay phù hợp điều kiện thực tế của xưởng.


Từ đặc điểm kết cấu, yêu cầu kỹ thuật của bạc gỗ ép bó hãm chống xoay và khả năng công nghệ hiện có và đảm bảo được tính kinh tế và khả năng tự sản xuất được bạc, xưởng đã tận dụng vật tư khí tài sẵn có của đơn vị để chế tạo thiết bị như: khung giá, máy ép và quả lô trong có chứa nhiên liệu để tạo nhiệt; hai kích thủy lực 15 tấn và bộ phận làm mát cho kích. Trong quá trình vận hành, khi lực ép đạt 18-20 kg/cm và nhiệt độ 85- 100°c, tắt lửa và giữ nguyên lực ép khoảng 15- 30 phút tuỳ theo chiều dày của bạc gỗ ép; hạ kích lấy sản phẩm ra. Qua kiểm nghiệm thực tế, sản phẩm đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương như bạc gỗ ép chống xoay của Liên Xô chế tạo trước đây.


Thành công của đề tài có ý nghĩa rất thiết thực, giải quyết kịp thời nguồn vật tư trước đây phải nhập ngoại từ Liên Xô, đáp ứng nhu cầu trang bị dụng cụ cho các đơn vị Tăng thiết giáp toàn quân, kịp thời phục vụ tốt công tác bảo dưỡng, sửa chữa pháo. Quy trình kỹ thuật sản xuất bạc gỗ ép bó hãm chống xoay đơn giản, dễ thao tác, thợ vũ khí từ bậc 3 trở lên đều có thể tự mình vận hành sản xuất được. Hiện nay Xưởng 32 đã sản xuất số lượng các bạc gỗ ép chống xoay đủ để cung cấp cho Binh chủng và các đơn vị Tăng thiết giáp toàn quân. Sáng kiến được Tổng cục Chính trị tặng bằng khen về “Tuổi trẻ sáng tạo” năm 2002.


Chuyện phát minh sáng kiến “Thiết bị chế tạo Bạc gỗ ép chống xoay” của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã khẳng định một điều: hoạt động sáng kiến là hoạt động sáng tạo, tích cực, tự giác của những người lính thợ nhiệt huyết hôm nay được thực hiện bằng cơ sở vật chất kỹ thuật và tiềm năng hiện có của đơn vị nhằm tìm tòi những giải pháp kỹ thuật, giải pháp tổ chức sản xuất vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn cao. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách bảo đảm cho quốc phòng hạn hẹp thì việc phát huy nội lực, tinh thần lao động cần cù sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng ở mọi cấp, mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề lại được nhân lên góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị trung tâm, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chất lượng tổng hợp của lực lượng Tăng thiết giáp. Sáng kiến đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Binh chủng nói chung và nhiệm vụ cụ thể của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 nói riêng, gắn với hội thi, hội thao chuyên ngành kỹ thuật Tăng thiết giáp, gắn với cuộc vận động lớn "Quản lý khơi thác vũ khí, trang bị, kỹ thuật tốt, bền, an toàn tiết kiệm và an toàn giao thông". Đây là điểm sáng cần thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác nhằm phổ biến các sáng kiến có khả năng áp dụng trong toàn quân bằng các hình thức thích hợp như: tổ chức thao diễn kỹ thuật, tham quan, mở hội nghị chuyên đề, đăng tập san, báo, câu lạc bộ khoa học công nghệ...


Thiết bị chế tạo bạc gỗ ép chống xoay là một trong nhiều công trình có giá trị trong phong trào nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, là một trong những phong tào tiếp nối truyền thống tốt đẹp của Binh chủng Tăng thiết giáp anh hùng, khắc phục mọi khó khăn, lao động sáng tạo, tạo ra năng suất cao, chất lượng tốt, hiệu quả lớn góp phần đưa phong trào sáng kiến lên đỉnh cao mới tương xứng với tiềm năng hiện có của Binh chủng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Chín, 2021, 02:15:04 pm
CÂU CHUYỆN VỀ NGHIÊN CỨU LẮP ĐẶT
HỆ THỐNG THỦY LỰC TRỢ LỰC LÁI XE TĂNG T54/T55


Đào Duy Lợi

(https://i.imgur.com/G12CGEQ.jpg)

Vào một sáng nắng gắt cuối tháng 7 năm 2005, sau khi được nghe Trung tá Nguyễn Anh Tuấn - cán bộ của Phòng Nghiên cứu Kỹ thuật - Cục Kỹ thuật - Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp trong một buổi tập huấn giới thiệu khái quát về tính năng, cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống thủy lực trợ lực tay lái xe tăng T54/T55, Thượng úy chuyên nghiệp Lâm, “chuyên gia” lái xe thử sau sửa chữa của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 mới về nhận công tác được hơn một năm còn bán tin bán nghi về hiệu quả của hệ thống này. Anh thoáng nghĩ: "Hai cái xi lanh thủy lực bé con con thế kia mà lại làm giảm lực kéo cần lái từ 30-35 kg xuống còn 10-12 kg được sao?". Bụng bảo dạ anh thầm nghĩ "Được rồi, ta sẽ lái thử xem!". Và không phải chờ đợi lâu, ngay chiều hôm đó khi trời chiều Tam Đảo đã nhạt nắng, chiếc xe tăng T-54 vừa được lắp trợ lực lái xuất xưởng cần chạy thử gấp để kịp bàn giao cho Trường Hạ sỹ quan xe tăng II vào chiều hôm sau. Theo lệnh của Thượng tá Nguyễn Văn Viết - Giám đốc Xưởng sửa chữa. Tăng thiết giáp X32, anh trèo lên xe và nhẹ nhàng luồn vào buồng lái. Anh kiểm tra sơ bộ một lượt rồi kéo thử cần lái bên trái rồi bên phải, quái sao chúng vẫn nặng thế và anh lại nghi ngờ. Được lệnh nổ máy, anh bấm còi, bơm dầu nhờn bằng điện và khởi động động cơ. Chiếc xe tăng T-54 rung lên, một màn khói xám tỏa ra trùm lên cây bàng già trước sân phân xưởng I. Khi chế độ nhiệt động cơ đạt tới giá trị sử dụng, anh sốt ruột và lại kéo thử cần lái bên trái, nó làm sao thế này và quá nhẹ so với khi anh kéo cần lái được trợ lực bằng lò xo. Giám đốc Viết lại lệnh cho anh thợ Bắc cầm lực kế lên đo thử. Móc lực kế vào cần lái và kéo hết cỡ, lực kế chỉ 10 kg ở cần bên trái, 11 kg ở cần bên phải. "Thật là tuyệt!" - Lâm nghĩ. Thợ Bắc nói: "Ông không cần phải dùng lực lớn để kéo mà chỉ cần một ngón tay trỏ kéo là xe tăng có thể chuyển hướng được, nhưng vấn đề là ở chỗ ông phải có cảm giác đúng khi kéo cần lái về vị trí chuyển hướng và hãm dừng, đừng có nhầm, chú ý theo dõi đồng hồ báo áp suất dấu thủy lực!".


Xuất phát! Theo tiếng hô của Phó Quản đốc Tĩnh, Lâm gài số 1, tăng chân dầu chiếc xe từ từ chuyển động, anh kéo nhẹ cần lái bên trái về nấc 1 rồi nấc 2, chiếc xe quay một vòng rất đẹp, anh lại nhả cần lái, vào số 2 và điều khiển chiếc xe nặng nề trườn qua cửa phía sau xưởng. Lâm vào số 3, tăng chân dầu chiếc xe chồm lên rồi lao xuống một cái hào nông ngập nước, bùn đất văng lên từ hai dải xích sau xe. Sau hơn hai mươi phút lái quần thảo trên bãi đất rộng gần Núi Đinh, hết chuyển hướng lại quay vòng tại chỗ Lâm được lệnh lái xe quay về xưởng. Xuống xe mọi người xúm lại hỏi cảm giác thế nào, vì đây là lần đầu tiên Lâm lái xe lắp trợ lực lái thủy lực. Lâm nói luôn "Tốt! Nhưng để thật sự có cảm giác ở hai vị trí phải tiếp tục rèn luyện để quen dần".


Giám đốc Viết ra lệnh tắt máy, kiểm tra độ kín của hệ thống thủy lực, thợ Phương và thợ Bắc sau 10 phút dùng đèn công tác sục sạo các ngóc ngách rồi báo cáo không có dầu thủy lực nhỏ giọt ở các vị trí lắp nối, trên cán Piston của Xilanh thủy lực không có dầu chảy.


Buổi tối hôm đó sau khi cơm nước xong, ngồi nói chuyện với anh Quang, anh Bắc - những người thợ hàng đầu của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã từng gắn bó với "Trợ lực lái" anh được biết: để có thể lắp được một hệ thống mới lên xe tăng và để nó hoạt động bình thường, tin cậy như những hệ thống khác của xe, mà đó lại là hệ thống thủy lực thì yêu cầu kỹ thuật đòi hỏi rất cao, sai một ly là hệ thống hoạt động trục trặc ngay hoặc xảy ra sự cố hư hỏng làm xe ngừng hoạt động. Tìm hiểu sâu hơn Lâm còn biết từ năm 1994, theo đề nghị của thiếu tá Nguyễn Xuân Thiện cán bộ của Viện Kỹ thuật Cơ giới quân sự - một tiến sỹ kỹ thuật mới tu luyện từ Tiệp Khắc trở về, đến Cục Kỹ thuật đề nghị phối hợp mở đề tài nghiên cứu chế tạo một hệ thống trợ lực thủy lực lắp cho xe tăng T54/T55 với mục đích làm giảm lực điều khiển cần lái từ 30-35 kg xuống 10-12 kg. Việc giảm lực kéo cần lái sẽ mang lại hiệu quả lớn là giảm nhẹ cường độ lao động của chiến sỹ lái xe tăng Việt Nam vốn có hình thể và sức khỏe khiêm tốn, đặc biệt là khi lái xe hành quân đường dài trên đường đồi núi hiểm trở...


Sau khi được thủ trưởng Cục Kỹ thuật đồng ý, một nhóm cán bộ của phòng Nghiên cứu được triệu tập làm thuyết minh đề tài. Thủ trưởng Bộ Tư lệnh và thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật đã phê chuẩn cho phép mở đề tài. Như vậy từ năm 1994 đến tận năm 2006 dưới sự chỉ đạo của thủ trưởng Binh chủng mà trực tiếp là thủ trưởng Cục Kỹ thuật, đề tài này đã qua các giai đoạn nghiên cứu chế thử ở cấp Tổng cục Kỹ thuật, được áp dụng thử ở các cấp Bộ Quốc phòng, rồi đưa lên ở cấp Nhà nước để nghiên cứu sâu hơn về công nghệ chế tạo các chi tiết điển hình, được Bộ Quốc phòng cho phép chế thử loạt "O" vào năm 2002, trong hai năm 2005 và 2006, Bộ Quốc phòng cho phép đưa vào sản xuất ứng dụng thử loạt nhỏ. Như vậy là sau hơn 12 năm nghiên cứu sáng tạo, một tập thể cán bộ kỹ thuật của Phòng Nghiên cứu Kỹ thuật và Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 - Cục Kỹ thuật Binh chủng mà tiêu biểu là các đồng chí Nguyễn Văn Việt, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Văn Viết... đã cùng đồng chí Nguyễn Xuân Thiện (nay là đại tá, chuyên viên thuộc Phòng Khoa học Công nghệ & Môi trường Tổng cục Kỹ thuật) đã say mê, kiên trì tìm tòi, sáng tạo trong tính toán thiết kế, chế thử phụ tùng vật tư để tạo nên hệ thống này. Riêng các đối tác phối hợp với Cục Kỹ thuật để thực hiện đề tài cũng rất nhiều, mới đầu là Trường Kỹ thuật Vinhempic, nhà máy Điêzel Sông Công, rồi sau đó là Z125, Z153, Z133, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Viện Công nghệ - Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, Xưởng XI, mà trong đó Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 là đơn vị cơ sở có nhiều đóng góp trong việc lắp đặt hệ thống thủy lực vào hàng chục xe tăng T54, T59, T55 và chế tạo ra các thiết bị phục vụ lắp đặt như: máy uốn ống, bộ nguồn thủy lực, thiết bị thử các cụm thủy lực và các bộ dưỡng gá lắp... đồng thời đã đào tạo được một nhóm thợ lành nghề tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong lắp đặt, sửa chữa và điều chỉnh hệ thống trợ lực thủy lực. Trong hệ thống thủy lực thì cụm máy chi tiết nào cũng quan trọng nhưng khó khăn nhất vẫn là việc thiết kế, chế tạo và kiểm tra chất lượng cụm Xilanh thủy lực. Cụm Xilanh này khác về cả kết cấu, nguyên lý hoạt động so với các Xilanh thủy lực thông thường khác. Nó được điều khiển bằng van trượt ở bên trong, tạo ra lực tác dụng cả hai chiều; công nghệ chế tạo các chi tiết của nó đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật rất cao, nhất là các cặp chi tiết chuyển động cần có độ kín cao mà kết cấu lại không có gioăng đệm làm kín do vậy khe hở lắp ghép cần chính xác đến phần nghìn milimét như cặp con trượt và Piston. Vì vậy phải mất gần 10 năm với sự đầu tư nhiều công sức của Ban đề tài và của cán bộ, công nhân Nhà máy Z125, đến năm 2005 thì công nghệ chế tạo cụm xilanh thủy lực mới ổn định thực sự.


Câu chuyện về quá trình chế tạo và lắp đặt hệ thống thủy lực trợ lực lái nếu kể đủ thì còn rất dài. Tính đến năm 2006 đã có hơn 30 xe tăng T54/T55 trong nhóm xe huấn luyện lái, huấn luyện bắn và chiến thuật của Trường Hạ sỹ quan xe tăng II, Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp, Trường bắn Cam Lâm và Lữ đoàn 201 đã được lắp hệ thống thủy lực trợ lực lái... Đến nay nhiều xe đã được đưa vào sử dụng nhất là số xe lắp đặt năm 2006 đã chạy hàng trăm kilômét mà hầu như không xuất hiện hư hỏng.


Sau khi nghe những thông tin trên, Lâm rất tự hào về những nỗ lực bền bỉ của ngành kỹ thuật Tăng thiết giáp đã góp phần đáng kể trong lĩnh vực tự lực nghiên cứu cải tiến để nâng cao tính năng kỹ thuật của các loại xe tăng thiết giáp hiện có của Binh chủng. Anh trầm ngâm hy vọng rằng mai đây anh và các đồng đội lái xe tăng của anh trong Binh chủng sẽ được lái những chiếc xe tăng T54/T55 đã được lắp hệ thống trợ lực lái hoàn hảo. Cụm hệ thống thủy lực trợ lực lái chế thử lần đầu tiên hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, có số đăng ký: BTLLTTG: 797/K3-188.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:30:21 am
ĐÔI LỘC BÌNH ẤM TÌNH QUÂN DÂN


Nguyễn Phương Huyền

(https://i.imgur.com/mxJeaQW.jpg)

Tôi đến thăm Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp đúng vào dịp kỷ niệm 47 năm ngày truyền thống của bộ đội xe tăng. Đứng trước bao hiện vật, di vật của các liệt sĩ mà mỗi hiện vật đều gắn liền với những chiến công hiển hách của bộ đội xe tăng, ẩn chứa trong đó là những câu chuyên cảm động của những người đã sống mãi tuổi thanh xuân. Và ở đây, không chỉ có những hiện vật truyền thống của bộ đội Tăng thiết giáp, mà còn có rất nhiều tặng phẩm có ý nghĩa, biểu trưng của tình đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa bộ đội Tăng thiết giáp với nhân dân cả nước. Tôi thực sự bị thu hút khi nhìn thấy đôi Lộc bình bằng gốm rất đẹp cao gần 2m, mỗi chiếc được đặt trên một chiếc trống bằng gốm màu chì cao 80cm có in hình hoa văn như trống đồng Đông Sơn, ở giữa in nổi hình chiếc xe tăng trên nền màu hồng, phía trên và dưới là những con hạc xanh. Đặc biệt là trên mỗi chiếc Lộc bình có dòng chữ in đậm:

Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai
Kính tặng
Binh chủng Tăng thiết giáp nhân dịp kỷ niệm
45 năm ngày truyền thống (05.10.1959 - 05.10.2004).

Đôi Lộc bình được đặt hai bên của gian trưng bày chính của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp làm cho bức tranh tổng thể càng thêm sinh động.

Qua hướng dẫn viên Bảo tàng tôi được biết: Ngay từ những năm 1964; 1965, khi mà bộ đội Tăng thiết giáp còn non trẻ, đang ở trong giai đoạn huấn luyện và xây dựng lực lượng, song với tầm nhìn xa trông rộng, Đảng ta mà trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương, một bộ phận cán bộ chiến sỹ Tăng thiết giáp đã được điều vào Nam chiến đấu với phương châm “Lấy xe địch đánh địch”, đây cũng là những cán bộ chiến sĩ đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp miền Đông Nam Bộ. “Miền Đông gian lao mà anh dũng” đã ôm ấp, chở che, đùm bọc những người lính tăng thiết giáp trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tình đất và tình người nơi đây đã tiếp thêm cho cán bộ, chiến sĩ tăng thiết giáp sức mạnh để lập nên những chiến công vang dội. Những địa danh như: Bình Long, Phước Long, Xa Mát, Lộc Ninh, căn cứ Nước Trong, Biên Hòa... luôn gắn liền với những chiến công vang dội và thành tích xuất sắc trong quá trình chiến đấu xây dựng và trưởng thành của bộ đội Tăng thiết giáp.


Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm nhưng tình cảm giữa đảng bộ, chính quyền và nhân dân miền Đông Nam Bộ nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng với bộ đội Tăng thiết giáp ngày càng thêm gắn bó keo sơn. Hàng năm, dẫu công việc bộn bề nhưng Đảng ủy và Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp vẫn tạo điều kiện và thời gian cho đoàn nghệ thuật Binh chủng vào biểu diễn và phục vụ cán bộ và nhân dân, các tỉnh, thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ "miền đất gian lao mà anh dũng". Đối với những người chiến sĩ, nghệ sĩ của đoàn nghệ thuật Binh chủng khi được về với nhân dân miền Đông, họ như được về với ngôi nhà thân yêu của mình, bởi nơi đây, biết bao thế hệ cán bộ chiến sĩ Tăng thiết giáp đã từng sống và chiến đấu, dưới sự chở che đùm bọc của nhân dân, trong thời chiến cũng như trong thời bình, hình ảnh người cán bộ, chiến sĩ xe tăng vẫn luôn in đậm trong trái tim của cán bộ và nhân dân miền Đông Nam Bộ.


Với nghĩa tình trước sau thủy chung, dẫu cách xa hàng ngàn cây số nhưng trong dịp kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống của bộ đội Tăng thiết giáp, Đảng bộ và chính quyền nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tặng Binh chủng đôi Lộc bình “Gốm sứ” sản phẩm từ đất, từ nước miền Đông do chính bàn tay khéo léo của người dân Đồng Nai làm ra, đã thể hiện được tình đất, tình người sâu nặng của vùng đất nổi tiếng về nghề gốm, đó cũng là sản phẩm được kết tinh từ tình cảm của mối tình quân dân cá nước giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân miền Đông với bộ đội xe tăng.


Để đôi Lộc bình này được trưng bày trang trọng trong Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, nó đã phải trải qua một hành trình rất gian nan. Vào đêm 22 giờ ngày 7 tháng 9 năm 2004, chiếc xe vận tải đi từ Đồng Nai ra đến Hà Nội, người lái xe lần đầu tiên ra Bắc lại đi trên một chiếc xe tải lớn cồng kềnh nên có chút bỡ ngỡ, khi xe của đoàn đi đến đường Khuất Duy Tiến - Thanh Xuân - Hà Nội, thì trời đổ trận mưa rào, con đường phía trước mịt mù trắng xóa trong mưa, lái xe đã điều khiển xe nhầm vào đường ngược chiều, bị các chiến sỹ Cảnh sát giao thông ra hiệu dừng xe. Sau một hồi trình bày, giải thích, các đồng chí công an đã cảm động trước những tình cảm mà nhân dân tỉnh Đồng Nai dành cho bộ đội Tăng thiết giáp và đồng ý cho xe tiếp tục cơ động về Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Sau hơn 3 tiếng bốc giỡ, đôi Lộc bình đã được xếp đặt vào đúng vị trí trưng bày, khi ấy chuông đồng hồ báo điểm một ngày mới bắt đầu. Ngày 8 tháng 9 năm 2004, đó chính là ngày cắt băng khánh thành Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp.


Giờ đây mỗi khi đến Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp được nhìn, được ngắm và tìm hiểu về những hiện vật của bộ đội xe tăng, mỗi hiện vật là một chiến công... Đôi Lộc bình ấy là câu chuyện xũc động về tình cảm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân miền Đông Nam Bộ với bộ đội Tăng thiết giáp nói chung, đó chính là biểu tượng tình đoàn kết, gắn bó thủy chung son sắc của nhân dân tỉnh Đồng Nai nói riêng giành cho bộ đội Tăng thiết giáp suốt mấy chục năm qua.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Chín, 2021, 07:31:15 am
“CÚP VÀNG VÔ ĐỊCH” GIẢI BẮN SÚNG
QUÂN DỤNG NÂNG CAO TOÀN QUÂN LẦN 2


Lê Hải Anh

(https://i.imgur.com/1TSCynE.jpg)

Trong số gần 300 hiện vật Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp mới sưu tầm trong năm 2008, có một hiện vật rất đặc biệt; đó là chiếc “Cúp vàng vô địch” giải bắn súng ngắn, mà đội tuyển bắn súng nam của Binh chủng Tăng thiết giáp giành được tại Hội thi bắn súng Quân dụng nâng cao toàn quân lần thứ 2.


Tháng 4 năm 2008, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng đã có chỉ thị gửi các cơ quan đơn vị trong toàn quân về việc tổ chức thi bắn súng quân dụng nâng cao toàn quân lần thứ 2.

Có thể nói thi bắn súng quân dụng nâng cao là một nội dung rất mới và rất khó đối với toàn quân (năm 2000 nước ta mới tham khảo nội dung thi đấu này tại đấu trường khu vực các nước ASEAN). Với Binh chủng Tăng thiết giáp, bắn súng quân dụng nâng cao cũng mới được đưa vào huấn luyện từ mấy năm trước đây. Tuy nhiên do thực hiện tốt quan điểm, phương châm, phương pháp huấn luyện nên kết quả thực hành bắn súng quân dụng của Binh chủng cũng tương đối khả quan, trong Hội thi bắn súng quân dụng nâng cao lần thứ nhất do Bộ Quốc phòng tổ chức năm 2005, Binh chủng đã tham gia dự thi và đạt thành tích tương đối cao (Đạt giải nhất đồng đội bắn súng ngắn K54 bài 1).


Là một Binh chủng kỹ thuật chiến đấu được trang bị các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, trong công tác huấn luyện, đào tạo, bên cạnh việc huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo các loại súng pháo trên xe tăng, Binh chủng luôn quan tâm huấn luyện kỹ năng sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị khác. Riêng nội dung bắn súng ngắn K54 và súng tiểu liên AK đã trở thành nội dung bắt buộc trong các đợt tập huấn và kiểm tra quân sự hằng năm cho các đối tượng. Trong huấn luyện, Binh chủng Tăng thiết giáp đã lãnh đạo thực hiện nghiêm Nghị quyết 93, Nghị quyết 86 của Đảng ủy quân sự Trung ương, Nghị quyết 871 của Đảng ủy Binh chủng về đổi mới công tác Huấn luyện, đào tạo, coi trọng huấn luyện thực hành, chống tiêu cực, bệnh thành tích. Nên tại các đơn vị, nhà trường trong toàn Binh chủng có rất nhiều cán bộ, chiến sĩ bắn giỏi được kiểm nghiệm qua thực tế kiểm tra huấn luyện quân sự hằng năm. Vì thế, Binh chủng luôn có nguồn vận động viên dồi dào, sẵn sàng đáp ứng nhanh cho các nhiệm vụ và tham gia các hội thi, hội thao. Với những thế mạnh như vậy, Đảng uỷ Thủ trưởng Bộ Tư lệnh đã xác định quyết tâm giành được thứ hạng tốt nhất trong hội thi lần này. Thực hiện quyết tâm của Bộ Tư lệnh, tháng 7 năm 2008, Phòng Quân huấn nhà trường đã tổ chức thi tuyển vận động viên tại các lữ đoàn, nhà trường; sau gần một tháng thi tuyển, đã lựa chọn được 18 cán bộ, chiến sĩ vào đội tuyển bắn súng nam của Binh chủng, đưa về tập trung huấn luyện tại Lữ đoàn xe tăng 201.


Những ngày luyện tập đầu tiên là những ngày nắng lửa ở thao trường, với hàng loạt khó khăn nảy sinh. Trước hết là sự khắc nghiệt về thời tiết, đội tuyển luyện tập đúng vào thời điểm nắng nóng nhất trong năm, vì vậy phải xây dựng kế hoạch luyện tập hết sức tỉ mỉ, khoa học làm sao vừa đảm bảo thời gian luyện tập, vừa đảm bảo sức khoẻ cho vận động viên. Đội tuyển của ta toàn những gương mặt mới, cơ hội cọ sát với các giải đấu lớn chưa nhiều, tâm lý thi đấu chưa được rèn luyện, động tác kỹ thuật chưa chuẩn xác, thành thạo. Hơn nữa, súng tốt để dùng cho luyện tập và thi đấu không nhiều, đạn thì khác lô, hai yếu tố này cũng gây ảnh hưởng đến tốc độ bắn và chất lượng luyện tập. Với tinh thần luyện tập nghiêm tũc nhất, với quyết tâm cao nhất của cả vận động viên và huấn luyện viên, cùng với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và động viên kịp thời của Đảng uỷ, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh, đội tuyển đã từng bước vượt qua khó khăn; thời gian học lý thuyết và luyện tập trong ngày đựơc bố trí hợp lý khâu nào yếu, động tác nào còn yếu thì phải luyện tập nhiều lần cho tới khi thuần thục. Bài nào đạt khá tiếp tục luyện tập nâng cao, bài nào còn yếu, huấn luyện viên kiên trì rèn rũa cho vận động viên tập cả ngày nghỉ, giờ nghỉ cho đến khi đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó bản thân các đồng chí là vận động viên cũng nỗ lực rất nhiều, mỗi người luôn tự rút kinh nghiệm, thấy được những hạn chế của mình để tự rèn, tự nâng cao kết quả trong từng buổi tập.


Sau gần 4 tháng luyện tập, đội tuyển bắn súng nam của Binh chủng Tăng thiết giáp đã đạt trình độ chuẩn tốt, đường ngắm chính xác, phản xạ nhanh, yếu lĩnh và sự tự tin trong thi đấu được nâng lên rõ rệt. Các bài bắn súng ngắn thi đấu được luyện tập bài bản như: bắn nhanh, chính xác vào mục tiêu cố định; bắn nhanh vào mục tiêu ẩn hiện; đồng đội vận động bắn bia kim loại. Đầu tháng 10 đội tuyển bắn súng nam của Binh chủng được kiện toàn gồm 12 vận động viên, trong đó đội bắn súng ngắn là 5 vận động viên, đội bắn súng tiểu liên AK 5 vận động viên và 2 đồng chí là vận động viên dự bị.


Ngày 25 tháng 10 năm 2008, toàn đội bước vào thi đấu tại Trường bắn Miếu Môn. Sau 6 ngày đọ sức căng thẳng, sự cố gắng, nỗ lực của các đồng chí huấn luyện viên, vận động viên đã được đền đáp xứng đáng, Đội bắn súng nam của Binh chủng đạt giải nhì toàn đoàn 2 môn bắn súng ngắn K54 và súng Tiểu liên AK, giải ba đồng đội súng ngắn nam bài 1, giải Nhì cá nhân bắn súng ngắn bài 2. Đặc biệt, đội tuyển nam của Binh chủng đã giành ngôi quán quân súng ngắn K54 bài 5, đoạt được Cúp vô địch, vinh danh trong bảng vàng thành tích của toàn quân, đội bắn súng ngắn của Binh chủng gồm 5 đồng chí (Trung úy Bùi Đức Mạnh, Thiếu úy chuyên nghiệp Lê Xuân Tiến, Chuẩn úy chuyên nghiệp Đặng Đức Vinh, Thượng sỹ Nguyễn Hữu Nam, Hạ sỹ Hoàng Ngọc Tâm) đã cùng nhau đoàn kết, thống nhất thi đấu thuyết phục vượt qua 25 đội tuyển của các quân khu, quân đoàn; các quân, binh chủng bạn, thắng tuyệt đối 8/8 trận (đấu loại vòng bảng) giành cúp vàng xứng đáng trước sự thán phục của các xạ thủ toàn quân.


Chiếc cúp vô địch giải bắn súng ngắn của Hội thi bắn súng Quân dụng nâng cao toàn Quân lần thứ 2, đang được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp là thành tích thiết thực chào mừng 50 năm ngày truyền thống bộ đội Tăng thiết giáp. Đó cũng chính là biểu trưng cho sức đột kích mới của bộ đội Tăng thiết giáp trong thời kỳ mới, kế tục xứng đáng truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng” của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam anh hùng trong nửa thế kỷ qua.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Chín, 2021, 08:06:16 am
CHIẾC BÚT CỦA NGƯỜI CHÍNH ỦY


Lê Hải Minh

(https://i.imgur.com/1IkBSzX.jpg)

Trầm ngâm hồi lâu trước những hiện vật tiêu biểu của Đại tá Nguyễn Đức Cường - Chính ủy Binh chủng Tăng thiết giáp, trong gian trưng bày chuyên đề "Bộ đội Tăng thiết giáp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tại Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp, một cựu chiến binh tâm đắc nói: "Đây chính là kết tinh của những phẩm chất tuyệt vời, là hiện thân của một tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng”.


Từ lời tâm sự ấy, chúng tôi tìm đến nhà người cựu chiến binh, đó là Thiếu tướng Hoàng Đăng Huệ, nguyên Bí thư Đảng uỷ - Phó tư lệnh Chính trị Binh chủng Tăng thiết giáp. Là một trong những người làm công tác cán bộ đầu tiên của Binh chủng thép, có nhiều năm trực tiếp và chủ trì ngành công tác cán bộ, ông hiểu rất tường tận về người học trò của mình. Ông nói: "Có hai kỷ niệm sâu sắc với Cường; một là, khi phát hiện đưa Cường về làm công tác cán bộ ở cơ quan chiến dịch, Đảng ủy Lữ đoàn xe tăng 215 còn kéo dài thời gian chưa thực hiện quyết định điều động và muốn giữ lại vì đây là một người cán bộ tốt, một chiến sĩ thi đua cơ sở nhiều năm liền. Hai là, khi quyết định bổ nhiệm Cường giữ chức Phó trưởng Phòng Cán bộ, một quyết định khó khăn trong chủ trương đột phá tạo nguồn cán bộ trẻ cho quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ trì. Thực tế cho thấy, cả hai lần quyết định ấy đều chính xác tuyệt đối".


Gần 40 năm gắn bó với Binh chủng Tăng thiết giáp, hơn ai hết, ông thấu hiểu vai trò của người chủ trì ngành cán bộ nói riêng, chủ trì về chính trị của Binh chủng nói chung; đau đáu kiếm tìm và chính ông đã phát hiện ra Nguyễn Đức Cường có tố chất, khả năng đảm trách những công việc ấy. Vì vậy, năm 1995, trên cương vị Bí thư Đảng ủy - Phó tư lệnh Chính trị Binh chủng, sau khi trao quyết đinh bổ nhiệm Phó trưởng phòng Cán bộ cho Nguyễn Đức Cường, ông đã tặng người đồng chí, người học trò của mình một vật kỷ niệm có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, đó là chiếc bút đã gắn bó với ông suốt quá trình công tác. Chiếc bút do Chính ủy Sư đoàn 312 tặng ông năm 1959, sau khi ông nhận quyết định điều động của Bộ Quốc phòng về làm Trợ lý Cán bộ của Trung đoàn xe tăng 202, đơn vị xe tăng đầu tiên của Quân đội ta; chiếc bút ấy ông đã dùng để ghi hồ sơ những cán bộ đầu tiên của Trung đoàn xe tăng 202, đơn vị tiền thân của Binh chủng Tăng thiết giáp; và giờ đây, ông cũng dành riêng chiếc bút này để ký Quyết định bổ nhiệm chức Phó trưởng Phòng Cán bộ cho Nguyễn Đức Cường.


Nhớ lại kỷ niệm xưa, ông bồi hồi xúc động: "Khi trao chiếc bút, tôi dặn Cường: Chiếc bút này đã theo chú suốt một đời quân ngũ, nay trao lại cho cháu làm vật kỷ niệm. Cháu hãy dùng chiếc bút này để tự học, tự rèn, tự phấn đấu vươn lên; đồng thời phải luôn ghi nhớ, trước khi đặt bút với bất kỳ một quyết định nào, cũng đều phải xuất phát từ cái tâm, cái đức của người cạch mạng”. Lặng yên trong giây lát, mắt ông chợt ánh lên niềm tự hào, phấn khởi: "Giờ đây, tôi đã hoàn toàn yên tâm vì đã trao trọng trách cho người xứng đáng, đủ đức, đủ tài kế tục sự nghiệp phát triển lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam".


Ngược dòng thời gian, về miền quê Kinh Bắc, nơi những làn điệu quan họ trữ tình, mượt mà đã nuôi dưỡng tâm hồn chàng thanh niên Nguyễn Đức Cường, anh yêu cái cốt cách và tinh thần dân tộc, trong lòng luôn ấp ủ bao hoài bão được cống hiến và xây dựng quê hương. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1976, anh lên đường tòng quân, tham gia phục vụ chiến đấu tại biên giới Tây Nam và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; năm 1978 được điều động đi đào tạo sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Tăng thiết giáp. Từ đây, anh đã chọn cho mình một quyết định lớn của cuộc đời, gắn bó với con đường binh nghiệp.


Những năm tháng học tập, công tác của đồng chí Nguyễn Đức Cường là một quá trình phấn đấu liên tục, không mệt mỏi, luôn được tổ chức và cấp trên tin tưởng, đánh giá cao về trình độ, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, được đồng chí, đồng đội tín nhiệm, yêu quý gán cho tên trìu mến "con người của công việc". Luôn có tư duy, trí tuệ sắc sảo, bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, mạnh dạn đổi mới. Có phương pháp đánh giá cán bộ khách quan, toàn diện, tham mưu đúng, trúng và hiệu quả trong sử dụng đội ngũ cán bộ, bảo đảm đúng quan điểm của Đảng, được người, được việc, được cho tổ chức, biết tạo môi trường công tác thuận lợi để cán bộ phát huy hết khả năng và tâm huyết.


Nói về phẩm chất, năng lực của Nguyễn Đức Cường, Thiếu tướng Hoàng Đăng Huệ khẳng định: "Cường rất toàn diện, nhưng nổi bật nhất là bốn phẩm chất quý hiếm: Một là, tính Đảng, tính tổ chức tuyệt đối, trong mọi suy nghĩ, hành động của Cường, mục đích cao nhất là nhiệm vụ Đảng và tổ chức phân công; hai là, tầm nhìn hiện đại, mọi tư duy, trí tuệ của Cường đều có chiều sâu, bề rộng, tầm xa, cố tính dự báo, vượt trước, vượt trên chính cương vị đang đảm nhiệm; ba là, lương tâm trong sáng, trong con người Cường, lợi ích tập thể luôn được đặt lên trên, lên trước lợi ích cá nhân, Cường tìm đến, gọi đến để chủ động chia sẻ, giúp đỡ những người gặp khó khăn hay đang lúng túng trong giải quyết các mối quan hệ của bản thân và gia đình, chứ không đợi họ phải yêu cầu, trọng vọng, điều ấy ở những người có chức, có quyền ngày nay không dễ kiếm tìm; bốn là, khả năng ứng xử đặc biệt, thu hút nhân tâm, xử lý hài hòa các mối quan hệ".


Những phẩm chất ấy được Nguyễn Đức Cường phát huy tối đa và hiệu quả, vì vậy, trong những năm qua, trên các cương vị, trọng trách được giao như: Phó trưởng phòng, Trưởng phòng Cán bộ; Phó chủ nhiệm, Chủ nhiệm Chính trị Binh chủng; Phó hiệu trưởng Chính trị - Bí thư Đảng ủy Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp; Phó chính ủy, Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Binh chủng, đều được đánh giá là hoàn thành xuất sắc; hiện nay, trên cương vị là người chủ trì về chính trị và chỉ đạo công tác Đảng, công tác chính trị của Binh chủng, đồng chí đã tập trung chỉ đạo xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng thật sự trong sạch vững mạnh. Đẩy mạnh công tác Đảng, công tác chính trị trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng cơ quan, quản lý, rèn luyện kỷ luật và các mặt công tác hậu cần, kỹ thuật. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận vững mạnh, có cơ cấu, số lượng hợp lí, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng phát triển của Binh chủng và Quân đội trong giai đoạn mới, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, thống nhất, giữ vững ổn định chính trị nội bộ, trên dưới đồng lòng, làm cơ sở để Binh chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Nói về đồng chí Nguyễn Đức Cường - Chính ủy Binh chủng Tăng thiết giáp, nguyên là Phó hiệu trưởng Chính trị - Bí thư Đảng ủy Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp, người đã một thời kề vai sát cánh cùng Ban Giám hiệu, lãnh đạo, chỉ huy, và đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường xây dựng đơn vị cơ sở, Đại tá, Tiến sĩ Hoàng Trung Kiên - Hiệu trưởng Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp cỏi mở, chân thành: "Anh Cường là người uyên bác và nhân văn cao cả lắm; luôn vững vàng về chính trị; thao lược, sâu sắc về quân sự; tinh thông về kỹ thuật và hậu cần tài chính - Anh ấy đã thổi luồng gió mới vào Đảng ủy, Ban Giám hiệu, góp phần làm thay da, đổi thịt toàn bộ cơ thể Nhà trường bằng chính tài năng, trí tuệ và sự gương mẫu của mình; Anh ấy thực sự là hạt nhân có sức hút mãnh liệt để xây dựng mối đoàn kết trong sáng của Nhà trường trước đây và Binh chủng Tăng thiết giáp ngày nay".


Sự tận tụy, sáng suốt trong công tác và sắc sảo trong lãnh đạo, chỉ đạo của Chính ủy Nguyễn Đức Cường đã góp phần xây dựng các tập thể vững mạnh: Phòng cán bộ 15 năm liền đạt danh hiệu Đơn vị Quyết thắng, được tặng thưởng Huân chuơng Chiến công hạng Ba; Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp được tặng cờ thi đua của Chính phủ, và mới đây Nhà trường đã được Đảng, Nhà nước ta được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới; Cục Chính trị được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba; Binh chủng 2 lần được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất và nhiều tập thể, cá nhân được khen thưởng.


Bản thân đồng chí Nguyễn Đức Cường được bầu là Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở 9 năm liên tục (1982-1990) ở đơn vị, 15 năm liên tục (1991-2006) ở cơ quan Binh chủng, năm 2000 và 2003 là Chiến sỹ thi đua cấp Binh chủng, năm 2004 là Chiến sỹ thi đua cấp toàn quân. Đến năm 2005, với những thành tích đặc biệt xuất sắc, đồng chí đã được tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; năm 2006 được tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba thời kỳ đổi mới; năm 2009 được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong 2 năm thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và nhiều phần thưởng cao quý khác.


Trong thực hiện bước 2 cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" ở Binh chủng, đồng chí đã chỉ đạo chuyển trọng tâm từ "học tập" sang "làm theo" đạt nhiều kết quả tốt, góp phần xây dựng đảng bộ Binh chủng trong sạch, vững mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng không ngừng được nâng lên. Cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác được giao.


Thay cho lời kết, chúng tôi xin dẫn lời tâm sự của Thiếu tướng Hoàng Đăng Huệ "Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Binh chủng Tăng thiết giáp đã trao đổi và cùng chung ý nghĩ với tôi, Nguyễn Đức Cường xứng đáng là một Chiến sỹ thi đua toàn quốc tiêu biểu, là người chủ trì về chính trị của Binh chủng Tăng thiết giáp anh hùng, và hơn hết, xứng đáng là một tấm gương ngời sáng để cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Tăng thiết giáp noi theo".


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Chín, 2021, 08:07:14 am
CHIẾC ĐÈN DẦU VÀ HŨ SÀNH ĐỰNG GẠO
CỦA MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG NGUYỄN THỊ TÝ


Vũ Sen - Nguyễn Văn Dinh

(https://i.imgur.com/i1AakeF.jpg)

(https://i.imgur.com/TAxlLiQ.jpg)

Tại phòng trưng bày “bộ đội Tăng thiết giáp trong thời kỳ đổi mới” của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp có hai hiện vật đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều khách tham quan, đó là chiếc đèn dầu và chiếc hũ sành của Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Tý.    Chiếc đèn dầu và chiếc hũ sành là hai vật dụng quen thuộc của mỗi gia đình nông thôn Việt Nam. Nhưng với Mẹ Tý, hai vật dụng đó không chỉ là tài sản có giá trị sử dụng mà còn gắn liền với những năm tháng thăng trầm của cuộc đời Mẹ và là kỷ niệm về người con trai duy nhất đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Mẹ Nguyễn Thị Tý, sinh ra trên quê hương giàu truyền thống cách mạng huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, lớn lên trong cảnh đất nước đang chịu ách đô hộ của thực dân Pháp. Thấu hiểu hết nỗi cơ cực của người dân mất nước, Mẹ đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, tích cực ủng hộ, tham gia các phong trào hoạt động chống Pháp tại địa phương.


Cách mạng tháng Tám (năm 1945) thành công, nước Yiệt Nam dân chủ cộng hòa ra đời nhưng phải đương đầu với biết bao khó khăn, thử thách, thù trong, giặc ngoài, đặc biệt là giặc đói. Trước tình hình cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân “lá lành đùm lá rách”, và phát động phong trào “hũ gạo tiết kiệm". Gia đình Mẹ Tý tuy rất nghèo, nhưng với tinh thần, trách nhiệm của người dân một nước độc lập, Mẹ đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi của Bác Hồ. Bữa nào có gạo ăn, Mẹ bớt lại một nắm, cho vào chiếc hũ sành để tiết kiệm. Mỗi lần hũ đầy Mẹ lại có được 1,5 kg gạo mang tới cho những gia đình khó khăn hơn, qua gần 1 năm mẹ đã tích kiệm được hơn 10 hũ gạo, góp phần vào cuộc cứu đói chung của cả nước.


Sau này, chiếc hũ sành vẫn được Mẹ Tý sử dụng để đựng gạo, gia đình neo người, nhà chỉ có 2 mẹ con, cuộc sống với bao khó khăn vất vả dồn cả lên đôi vai người mẹ. Mẹ Tý đã tần tảo sớm hôm chắt chiu từng nắm gạo, củ khoai để nuôi người con trai duy nhất của mình khôn lớn...


Cùng với chiếc hũ sành, chiếc đèn dầu của Mẹ Tý là một kỷ vật thiêng liêng về người con trai đuy nhất - liệt sỹ Phùng Văn Hải.

Vào những năm 1968, 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta bước vào giai đoạn cam go, ác liệt nhất, với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt” Mẹ đã gạt nước mắt, động viên và tiễn người con trai độc nhất lên đường đi chiến đấu. Thương mẹ già sớm hôm đơn chiếc, trước khi ra tiền tuyến, người con trai đã rọi lại mái tranh nhà để yên tâm những ngày mưa gió, mẹ già không phải vất vả. Nhà nghèo, biết mẹ ước ao từ lâu có chiếc đèn dầu thắp lên cho cửa nhà ấm áp, Anh đã mua cho mẹ chiếc đèn dầu này. Những việc làm của người con tuy nhỏ bé về vật chất nhưng cũng phần nào sưởi ấm lòng mẹ. Đe rồi khi Anh đi xa, hằng đêm bên ánh đèn dầu, Mẹ luôn cầu mong cho con trai chân cứng, đá mềm, tránh được hòn tên mũi đạn của kẻ thù. Anh sáng của ngọn đèn như thắp lên niềm tin trong Mẹ, con trai Mẹ sẽ trở về. Những năm tháng đợi con về, Mẹ đã sống trong   tình thương yêu, đùm bọc của bà con làng xóm, chiếc hũ sành và cây đèn dầu nhu tiếp thêm sức mạnh cho Mẹ, làm vơi đi nỗi nhớ con.


Đất nước thống nhất, người con trai duy nhất của mẹ đã mãi mãi không về. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau của người Mẹ mất con, nhưng mẹ hiểu rằng con trai Mẹ đã hy sinh cho dân, cho nước. Chiếc đèn giờ đây đã trở thành kỷ vật thiêng liêng của người con trai, Mẹ đã nâng niu và luôn đặt cạnh di ảnh của anh. Những đêm nhớ con không ngủ, Mẹ lại thắp đèn ngồi nhai trầu, bóng mẹ đơn côi in trên vách tường, nhà lại càng thêm hưu quạnh, mẹ lại càng nhớ con hơn...


Mẹ Tý cũng như biết bao bà Mẹ Việt Nam đã chịu hy sinh thầm lặng, hiến dâng những người thân yêu nhất cho nền độc lập tự do của Tổ quốc. Có nỗi đau nào to lớn hơn? Có sự hy sinh nào cao cả hơn thế cho cách mạng? Thời gian dẫu vô tận nhưng đếm được! Còn lòng Mẹ thương con thì tuyệt đối vô cùng... Năm tháng trôi đi, người ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng các mẹ vẫn không thể nào quên được nỗi đau, vẫn âm thầm chịu đựng với những giọt nước mắt chảy ngầm.


Là những người chiến sỹ trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường, bộ đội Tăng Thiết giáp hiểu sâu sắc hơn ai hết sự cống hiến hy sinh lớn lao của các anh hùng, liệt sỹ, các đồng chí thương, bệnh binh và những người có công với cách mạng. Day dứt và xót xa trước những nỗi đau không gì so sánh nổi của những người Mẹ Việt Nam. Vì vậy, trong mấy chục năm qua, để tỏ lòng tri ân và chia sẻ trước sự hy sinh và cống hiến lớn lao ấy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Binh chủng đã đặc biệt quan tâm đến các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, đoàn kết quân dân, chính sách hậu phương quân đội. Không những trong phạm vi Binh chủng mà còn trên khắp các miền quê Bắc, Trung, Nam của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, truyền thống “lá lành đùm lá rách, uống nước nhớ nguồn” đã được cán bộ, chiến sỹ toàn Binh chủng phát huy. Với những việc làm sáng tạo, thiết thực và sâu nặng nghĩa tình đã góp phần động viên, giúp đỡ kịp thời các đối tượng chính sách, nhất là các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí thương binh nặng và các gia đình liệt sỹ có hoàn cảnh khó khăn.


Trong 10 năm qua, các cơ quan đơn vị trong toàn Binh chủng đã nhận phụng dưỡng suốt đời 28 Mẹ Việt Nam Anh hùng, xây tặng 55 nhà tình nghĩa frị giá gần 1,5 tỷ đồng, xây tặng 20 nhà đồng đội. Tặng hàng trăm sổ tiết kiệm cho các thân nhân liệt sỹ trong đơn vị và trên địa bàn đóng quân, tổ chức khám chữa bệnh cho hàng ngàn đối tượng chính sách, thăm hỏi, tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng và những người có công với cách mạng. Xây dựng quỹ đền ơn, đáp nghĩa của Binh chủng lên tới 2 tỷ đồng. Tham gia xác minh được 271 mộ liệt sỹ, xây dựng nhà bia tưởng niệm ở bến Đá Hải Lăng- Quảng Trị và tham gia xây dựng nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ huyện Triệu Phong.


Trong những năm tới, Binh chủng tiếp tục thực hiện tốt công tác chính sách, đền ơn đáp nghĩa với những việc làm thiết thực, có hiệu quả như: xây dựng quỹ đồng đội; xây dựng nhà bán trú dân nuôi; quỹ đền ơn đáp nghĩa. Đặc biệt để hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của bộ đội Tăng thiết giáp (5.10.1959 -5.10.2009) Binh chủng đã triển khai xây dựng 21 nhà tình nghĩa, nhà nghĩa tình đồng đội, nhà đồng đội cùng nhiều việc làm thiết thực khác.


“Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống văn hóa, nhân nghĩa, thủy chung của dân tộc Việt Nam. Đạo lý ấy đã in đậm trong tiềm thức của mỗi cán bộ chiến sỹ Tăng thiết giáp, những việc làm ấy đã góp phần thiết thực giảm bớt khó khăn về đời sống của những gia đình chính sách, tạo sự ổn định về tình hình chính trị ở địa phương. Khẳng định bộ đội Tăng thiết giáp nói riêng, Bộ đội Cụ Hồ nói chung, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Chín, 2021, 08:08:37 am
CẢM XÚC CỦA VỊ TƯỚNG TƯ LỆNH TĂNG THIẾT GIÁP QUÂN ĐỘI HOÀNG GIA CAMPUCHIA QUA BỨC TRANH ĐỀN ĂNGKO VÁT


Phạm Tuấn Trung

(https://i.imgur.com/WFn7ZXR.jpg)

Tháng 6 năm 2006, Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp vinh dự đón đoàn cán bộ cao cấp của Bộ Tư lệnh Tăng Quân đội Hoàng gia Campuchia do Trung tướng Lanh Kao - Tư lệnh, nguyên Trung đoàn trưởng - Trung đoàn 69; đơn vị xe tăng đầu tiên của quân đội cách mạng Campuchia (sau này là quân đội Hoàng gia Campuchia) làm trưởng đoàn đến tham quan. Với tình cảm gắn bó sâu sắc, toàn thể cán bộ, nhân viên Bảo tàng mang trên tay những bó hoa tươi thắm đón chào và chúc mừng đoàn. Thay mặt đoàn công tác, Trung tướng đã tặng Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp Việt Nam bức tranh Đền Ăngko Vát - biểu tượng lịch sử văn hóa truyền thống của đất nước Campuchia. Theo Trung tướng, đây là tất cả những tình cảm, lòng biết ơn của nhân dân Campuchia nói chung, của lực lượng tăng quân đội Hoàng gia Campuchia nói riêng gửi tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ bộ đội xe tăng Việt Nam Anh hùng.


Đoàn đã tham quan và nghe hướng dẫn viên Bảo tàng giới thiệu về lịch sử, truyền thống xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam, cùng những đóng góp to lớn cho tình đoàn kết quốc tế cao đẹp, trong đó có sự nghiệp giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng PônPốt. Tại phòng trưng bày chuyên đề quan hệ quốc tế, Trung tướng Lanh Kao đứng im lặng rất lâu trước những hình ảnh, hiện vật về bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam chiến đấu bảo vệ biên giới Tây nam và làm nhiệm vụ quốc tế trên đất Campuchia. Dường như ông đang hồi tưởng lại và cố tìm gương mặt những người bạn Việt Nam thân thiết đã chiến đấu cùng ông trong những ngày gian khổ đó: Võ Văn Thọ, Nguyễn Quang Thuyết, Lê Hồng Lanh, Phạm Thừa, Trần Công Chuyên...


Năm 1977, tập đoàn phản động PônPốt - Iêngxari đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Vì độc lập, chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, một lần nữa, bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam lại tham gia chiến đấu, ghi thêm những chiến công mới trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Tính riêng trong cuộc chiến đấu này, bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia đánh 733 trận lớn nhỏ, bắn cháy và thu 164 xe tăng thiết giáp các loại. Từ thángl2 năml978 đến tháng 6 năm 1979, lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam đã được huy động lực lượng tới mức cao nhất, bao gồm 19 tiểu đoàn với 621 xe tăng, thiết giáp, tham gia tiến công trên 7 hướng chiến dịch, hiệp đồng tác chiến với cả không quân, hải quân, pháo binh, bộ binh... và tiến công liên tục rộng khắp với chiều sâu 700 km, tham gia giải phóng 17 thành phố, thị xã, phá tan các căn cứ sào huyệt khác của địch, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến về giải phóng Phnôm Pênh và giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.


Với phương châm “Giúp bạn là tự giúp mình”, các đơn vị Tăng thiết giáp Việt Nam như: Lữ đoàn 273; lữ đoàn 22, lữ đoàn 215, cùng các trung đoàn 574; 26; 415; 416.. .trong đội hình của binh chủng hợp thành đã tham gia giúp bạn truy quét tàn quân địch, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, lực lượng vũ trang ờ cơ sở, cứu đói cho dân, giúp dân trở về quê cũ làm ăn, ổn định đời sống, phát triển sản xuất trên địa bàn thành phố PhnômPênh và các tỉnh Công Pông Chư năng, Công Pông Spư, Công Pông Chàm, Báttambăng, Xiêm Riệp... Công việc sau giải phóng trên đất nước Campuchia thật bề bộn phức tạp do hậu quả của chế độ Pôn Pốt để lại. Bộ đội xe tăng Việt Nam đã thể hiện quyết tâm góp phần giúp đất nước Campuchia hồi sinh bằng cả lương tâm, trách nhiệm, việc làm cụ thể: giúp dân dựng lán, làm nhà; dân đói thì lấy khẩu phần ăn chia cho dân; dân chưa có cày, bừa thì giúp dân tìm kiếm, tự làm; dân ốm đau thì tổ chức cứu chữa, thăm nom, chăm sóc...


Song song với việc giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang và chính quyền, các nhà trường của Binh chủng Tăng thiết giáp Việt Nam còn tiến hành đào tạo giúp bạn hàng nghìn học viên sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và thành viên kíp xe tăng thiết giáp, cử nhiều đoàn chuyên gia sang giúp bạn, góp phần xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp Quân đội cách mạng Campuchia ngày càng lớn manh.


Trưởng thành từ chiến sĩ bộ binh, sát cánh chiến đấu với bộ đội xe tăng Việt Nam,Trung tướng Lanh Kao là một trong số 30 học viên đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia được gửi sang Việt Nam đào tạo thành cán bộ chỉ huy, kỹ thuật Tăng thiết giáp tại Trường Hạ sĩ quan xe tăng I (1980-1982). Sau 2 năm học tập và rèn luyện, với ý thức, trách nhiệm cao, Lanh Kao và các học viên Campuchia đã được trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết về Tăng thiết giáp, đảm đương được nhiệm vụ trọng trách mà Đảng và Quân đội cách mạng Campuchia giao phó. Trung tướng Lanh Kao đã tham gia xây dựng trung đoàn xe tăng đầu tiên của quân đội cách mạng Campuchia ngay từ những ngày đầu. Trên cơ sở các đại đội, tiểu đoàn tăng, thiết giáp nhỏ, lẻ, Trung đoàn Tăng thiết giáp 69 - Quân đội cách mạng Campuchia được thành lập (tháng 11 năm 1984) do Pen Hót giữ chức trung đoàn trưởng, Lanh Kao giữ chức trung đoàn phó. Trung đoàn 69 đã sát cánh cùng các đơn vị Tăng thiết giáp Việt Nam chiến đấu trong chiến dịch truy quét địch mùa khô 1984-1985 và độc lập tác chiến trong các trận đánh truy quét địch ở nhiều địa bàn quan trọng. Nhanh chóng trưởng thành trong chiến đấu và công tác, Lanh Kao được bổ nhiệm các chức vụ Trung đoàn trưởng trung đoàn 69, Trưởng phòng Tăng thiết giáp và hiện nay là Tư lệnh bộ đội Tăng thiết giáp Quân đội Hoàng gia Campuchia.


Năm 1987, Bộ Quốc phòng nước ta có chủ trương đưa toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam về nước. Chấp hành mệnh lệnh của trên, các đơn vị Tăng thiết giáp của ta đã nhanh chóng hoàn thành công tác bàn giao trang bị cho Bạn và tổ chức hành quân về nước. Các đợt hành quân của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam trên các hướng đều nhận đựơc những tình cảm lưu luyến và cảm động của các đơn vị và nhân dân Campuchia. Những cử chỉ, ánh mắt, đôi bàn tay siết chặt, những giọt nước mắt trên gò má, những câu tiếng Việt mới học “Cảm ơn, cảm ơn Việt Nam, vệ mạnh khỏe” đã diễn tả được hết nỗi lòng của người dân Campuchia. Sau những ngày đoàn kết, liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung trên đất bạn, nhiều đơn vị tăng thiết giáp đã được Chính phủ cách mạng Campuchia tặng các phần thưởng cao quý: Trung đoàn Tăng thiết giáp 22 Binh đoàn Cửu Long được tặng Huân chương Ăngkor Vát; Lữ đoàn tăng 273 Binh đoàn Tây Nguyên được tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhất... Nhiều tập thể và cá nhân được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.


Trong quãng thời gian gặp gỡ, trao đổi tại Bảo tàng, Trung tướng Lanh Kao và đoàn cán bộ xe tăng Campuchia còn được nghe đồng chí Thiếu tướng Vũ Bá Đăng - Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam, giới thiệu về mối quan hệ thắm thiết giữa bộ đội xe tăng Việt Nam với bộ đội Tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Lào: Năm 1961, bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam đã tổ chức đưa 2 trung đội xe tăng PT-76; tháng 11 năm 1961 tiếp tục đưa 38 xe tăng PT-76 và một số vật tư sang giao cho Quân đội cách mạng Lào tại Mahatxay (Trung Lào) và Cánh Đồng Chum (Bắc Lào). Tháng 5 năm 1964, một đoàn chuyên gia xe tăng Việt Nam đã sang giúp quân đội Lào thu hồi được 21 xe tăng, thiết giáp của địch bỏ lại trong khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đưa về hậu cứ của bạn để khôi phục, sửa chữa và xây dựng cho bạn một đại đội xe tăng. Đây là đại đội xe tăng đầu tiên, là nòng cốt của lực lượng Tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Lào. Bên canh đó, Binh chủng giúp Lào đào tạo hàng nghìn cán bộ chỉ huy, nhân viên kỹ thuật, thành viên kíp xe trong suốt thời kỳ chống Mỹ đến nay. Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp đã được Nhà nước Lào tặng Huân chương Độc Lập hạng Nhất - Huân chương cao quý nhất của Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào.


Thiếu tướng Vũ Bá Đăng cũng tự hào khi nhắc tới mối quan hệ gắn bó giữa bộ đội xe tăng Việt Nam với bộ đội xe tăng Liên Xô, Cu Ba, Tiệp Khắc... những nước bạn anh em đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng Tăng thiết giáp - Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Trung tướng Lanh Kao và đoàn công tác cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu, ấm áp tình đoàn kết của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp Việt Nam. Trung tướng rất xúc động khi nhắc lại những kỷ niệm chiến đấu cùng bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam, những đóng góp công sức, máu xương trong sự nghiệp giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp Quân đội Hoàng gia Campuchia.


Bức tranh Đền Ăngko Vát là món quà đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa, đây là một minh chứng cho tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung của bộ đội xe tăng 2 nước nói riêng và của Quân đội nhân dân Việt Nam và Campuchia nói chung. Qua những lời tâm sự của Trung tướng và tình cảm của nhân dân cùng những người lính xe tăng Campuchia gửi gắm trong bức tranh, chúng tôi -   những người làm công tác Bảo tàng - thực sự xúc động. Trước khi chia tay, Trung tướng đã trân trọng ghi vào sổ vàng lưu niệm của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp:

“Nhân dịp đến tham quan Bảo tàng xe tăng thiết giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đoàn đại biểu Bộ tư lệnh Tăng - Quân đội Hoàng gia Campuchia xin bày tỏ sự khâm phục chủ nghĩa anh hùng cách mạng và lòng dũng cảm của lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Xỉn chúc cho tình đoàn kết, hợp tác giữa bộ đội xe tăng Việt Nam với bộ đội xe tăng Campuchia đời đời bền vững". 


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Chín, 2021, 08:09:44 am
SẮC CỜ THỜI ĐỔI MỚI


Vân Ngọc

(https://i.imgur.com/okifjCG.jpg)

Tại phòng trưng bày chuyên đề “Bộ đội Tăng thiết giáp thời kỳ mới - Sức đột kích mới”, của Bảo tàng lực lượng Tăng thiết giáp có nhiều hiện vật phản ánh những thành tích tiêu biểu của bộ đội Tăng thiết giáp trong thời kỳ đổi mới, nổi bật là 4 lá cờ "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Bốn đơn vị được vinh dự nhận phần thưởng cao quý này là Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, tuyên dương ngày 31 tháng 7 năm 1998; Lữ đoàn xe tăng 201, tuyên dương ngày 2 tháng 11 năm 2001 và Lữ đoàn xe tăng 215, tuyên dương ngày 22 tháng 12 năm 2004, Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp tuyên dương ngày 29 tháng 5 năm 2009.


Tuy nhiệm vụ có khác nhau nhưng cả bốn đơn vị đều có những nét chung, được thành lập trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mang trên mình "Một ngôi sao màu lửa”, Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp, Xưởng X32, Lữ đoàn 201, Lữ đoàn 215 đều “Đã lên xe là cùng một hướng”, ra quân phục vụ chiến đấu, chiến đấu thắng lợi trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, bảo vệ biên giới của Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế và lập công xuất sắc trong thời kỳ đổi mới.


Lịch sử Binh chủng Tăng thiết giáp còn ghi đậm những dòng tươi thắm về chiến công của Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp, Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, cũng như Lữ đoàn xe tăng 201, Lữ đoàn xe tăng 215 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Ngày 22 tháng 6 năm1965, Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ quốc phòng. Để đảm bảo tốt cho công tác huấn luyện, sần sàng chiến đấu và chiến đấu hiệu quả cao, Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp thành lập một tiểu đoàn huấn luyện, mang phiên hiệu Tiểu đoàn 10, Trong thời gian này, đế quốc Mỹ đẩy manh chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân, Tiểu đoàn 10 vừa tổ chức lực lượng tham gia chiến đấu, vừa triển khai duy trì thường xuyên công tác huấn luyện với phương châm "Tắt nhưng trình tự, lấy thực hành làm chính, huấn luyện sát với yêu cầu của chiến trường".


Trước những đòi hỏi ngày một lớn của nhiệm vụ tổ chức, xây dựng lực lượng, Binh chủng Tăng thiết giáp cần có một trung tâm huấn luyện qui mô phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của lực lượng Tăng thiết giáp trên các chiến trường. Ngày 7 tháng 1 năm 1972, trên cơ sở tiểu đoàn 10, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn 10. Có nhiệm vụ đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp và trung cấp xe tăng, thiết giáp; nghiên cứu, biên soạn tài liệu về xe tăng, thiết giáp. Trong suốt 13 năm phấn đấu liên tục “Dạy hay, học giỏi, tất cả cho sự nghiệp giải phóng miền Nam Đoàn 10 đã cung cấp một phần không nhỏ cán bộ, chiến sỹ vào chiến trường tham gia chiến đấu giành thắng lợi. Ngày 10 tháng 4 năm 1973, từ đoàn 10, Bộ quốc phòng ra quyết định thành lập Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp, trực thuộc Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp, nâng quy mô và chất lượng đào tạo lên một bước, mở rộng đào tạo bổ túc cho cán bộ xe tăng, thiết giáp ra một số nước bạn. Đặc biệt nhà trường đã thành lập đoàn huấn luyện tiền phương mang mật danh T600B bổ sung cho chiến trường để thu hồi, quản lý xe pháo, khí tài, trang thiết bị quân sự thu được của địch, kịp thời hướng dẵn, huấn luyện bộ đội sử dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ cấp trên giao.


Hướng ra tiền tuyến, với tinh thần “Không cố gì quý hơn độc lập tự do” Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã tham gia thiết kế và thi công cải tiến xe tăng thành xe tăng phá rào, xe tăng phá bom từ trường. Những sản phẩm từ bàn tay sáng tạo của cán bộ, chiến sỹ đưa vào chiến trường đã sử dụng tốt trong các trận đánh then chốt của bộ đội Tăng thiết giáp và phục vụ rà phá bom trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Đặc biệt, xưởng còn được tham gia cải tiến xe Thiết giáp phục vụ bảo quản và vận chuyển thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sơ tán. Đây là trách nhiệm, vinh dự và niềm tự hào của cán bộ chiến sĩ Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32.


Tính từ ngày thành lập 20 tháng 10 năm 1972 đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975, Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã tổ chức 16 đoàn sửa chữa cơ động phục vụ các đơn vị, sửa chữa được 221 xe tăng, thiết giáp, thu hồi được 258 xe Tăng thiết giáp của địch, góp phần cùng toàn Quân, toàn dân hoàn thành sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc, hai lần được Đảng, Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhì.


Với Trung đoàn xe tăng 201 (tiền thân của Lữ đoàn xe tăng 201), ngay sau ngày thành lập (18 tháng 11 năm 1971), Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp giao nhiệm vụ: “Khẩn trương xây dựng các đơn vị trong trung đoàn, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu Trung đoàn 201 đã khắc phục khó khăn, không ngừng học tập, rèn luyện, với tinh thần “Xé dọc Trường Sơn đi cứu nước” chỉ sau ba tháng huấn luyện, trung đoàn đã nhận nhiệm vụ lên đường chiến đấu. Ngày 5 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn xe tăng 1 hành quân vào chiến trường trong đội hình của trung đoàn xe tăng 203. Suốt cả mùa hè đỏ lửa năm 1972, trên chiến trường “Dải đất hẹp” Quảng trị, Đại đội 7, Tiểu đoàn 1 đã chiến đấu ngoan cường, lập nhiều chiến công xuất sắc, được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 20 tháng 12 năm 1972.


Ở một hướng khác của chiến trường chống Mỹ, Trung đoàn xe tăng 215 (tiền thân của Lữ đoàn xe tăng 215) thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1973. Tháng 3 năm 1975, chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Binh chủng, Tiểu đoàn tăng 1 và Tiểu đoàn tăng 2 của Lữ đoàn xe tăng 215 vào chiến trường tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử phối thuộc cho Quân đoàn 4, Binh đoàn 232 tiến công theo hướng Đông, Đông bắc và Tây nam Sài Gòn. Với tinh thần kiên quyến tiến công, hai tiểu đoàn đã hiệp đồng chặt chẽ với đơn vị bạn, chiến đấu lập công xuất sắc, góp phần to lớn vào chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau thắng lợi, cả hai tiểu đoàn đều được Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công, lữ đoàn được tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.


Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới ánh sáng của Đảng, trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng uỷ Binh chủng Tăng thiết giáp, Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, Lữ đoàn xe tăng 201, Lữ đoàn xe tăng 215, Trường sỹ quan Tăng thiết giáp đã có những giải pháp và bước đi thích hợp về huấn luyện, đào tạo, sẩn sàng chiến đấu, bảo đảm kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần bộ đội. Trong toàn Binh chủng, dường như có cuộc chạy “Việt dã” của phong trào thi đua Quyết thắng.


Tiêu đề: Bộ đội Tăng thiết giáp qua những kỷ vật lịch sử
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Chín, 2021, 08:10:28 am
Trải qua 44 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường Sỹ quan Tăng thiết giáp đã thực sự trở thành đơn vị kiểu mẫu, vững mạnh về nhiều mặt công tác. Trong nhiều năm qua, nhà trường đã đào tạo hàng ngàn cán bộ, chỉ huy, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất năng lực toàn diện, trình độ kỹ thuật, chiến thuật góp phần xây dựng lực lượng Tăng thiết giáp của Quân đội ta ngày càng lớn mạnh. Bên cạnh đó nhà trường còn đào tạo hàng trăm cán bộ, chiến sỹ Tăng thiết giáp cho Quân đội nhân dân cách mạng Lào và Quân đội cách mạng Campuchia (Nay là Quân đội Hoàng gia Campuchia).


Đóng quân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giàu truyền thống cách mạng, nhà trường luôn tạo được mối quan hệ đoàn kết gắn bó với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương. Nhiều hoạt động nhân đạo, từ thiện đã được cán bộ, giáo viên, học viên nhà trường hưởng ứng tham gia với hàng chục triệu đồng ủng hộ quĩ đền ơn đáp nghĩa, trẻ em tàn tật, nông dân nghèo của tỉnh... các hoạt động đó đã để lại những tình cảm sâu sắc trong nhân dân.


Với đội ngũ giáo viên 100% có trình độ đại học, 31% có trình độ sau đại học (Trong đó có 01 phó giáo sư, 3 tiến sỹ, 7 nhà giáo ưu tú, 9 giáo viên giỏi cấp toàn quân, 84 giảng viên giỏi cấp cơ sở...) và những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhà trường đã được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý, như; Huân chương quân công hạng Ba, huân chương chiến công hạng Nhất, huân chương Bảo vộ Tổ quốc và nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua của Bộ Quốc phòng. Đặc biệt, ngày 29 tháng 5 năm 2009 Trường sỹ quan Tăng thiết giáp được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Đối với Xưởng sửa chữa X32, bằng nội lực của mình, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ đã xây dựng khu doanh trại khang trang ở xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Công tác sửa chữa luôn được tiến hành đúng quy trình công nghệ, đảm bảo chất lượng, giữ được sự ổn định cao. Cùng với sửa chữa tại chỗ, xưởng còn làm tốt công tác sửa chữa cơ động cho các đơn vị trong Binh chủng và toàn quân. Bước chân người thợ sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã có mặt khắp mọi miền Tổ quốc. Trong quá trình lao động, ngày càng có nhiều hoa sáng kiến nở trên đôi tay người thợ. Mới đây, Xưởng đã có 15 sáng kiến cải tiến kỹ thuật được Binh chủng công nhận, góp phần phục vụ tốt cho công tác huấn luyện sắn sàng chiến đấu, đồng thời tiết kiệm được nhiều ngân sách cho Binh chủng. Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32 đã tạo được "Thương hiệu” và là “Địa chỉ tin cậy” đối với các đơn vị Tăng thiết giáp trong toàn quân. Với những thành tích tiêu biểu xuất sắc Xưởng sửa chữa chữa Tăng thiết giáp X32 được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và huân chương chiến công hạng nhì, huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhì.


Là đơn vị cơ động chiến lược, đơn vị điểm của Bộ Quốc phòng, của Binh chủng Tăng thiết giáp, Lữ đoàn 201 được coi như đơn vị "Cận vệ đỏ". Để làm tròn trách nhiệm nặng nề ấy, Lữ đoàn đã tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, trọng tâm là nâng cao chất lượng tổng hợp, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao chất lượng huấn luyện, nâng cấp nơi ăn, ở, doanh trại, khu kỹ thuật, chính quy, cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp. Những năm qua, Lữ đoàn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ huấh luyện, sẵn sàng chiến đấu, các nhiệm vụ thường xuyên, đột xuất cấp trên giao.


Lữ đoàn 201 còn là đơn vị điển hình trong thực hiện cuộc vận động xây dựng môi trường văn hoá tốt. Hệ thống thiết chế vãn hóa được xây dựng đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và thưởng thức ngày càng cao của bộ đội, bên canh đó Lữ đoàn còn tích cực tham gia vào các hoạt động chính sách, dân vận, đền ơn - đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng... những việc làm ấy đã góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững chắc ở địa phương, tạo được vành đai an toàn, đơn vị thực sự đã để lại tình cảm tốt đẹp, làm sáng mãi hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng người dân. Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, lữ đoàn đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và 18 huân chương quân công, chiến công các loại, gần đây nhất, tháng 5 năm 2009, lữ đoàn đón nhận Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng 3 của Chính phủ.


Cũng nằm trong đội hình cơ động chiến lược của Bộ, nhưng Lữ đoàn xe tăng 215 đứng chân trên mảnh đất có vùng khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, với “Bão giông” và “Nắng lửa". Trong gian nan, thử thách cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn xe tăng 215 vươn lên tự khẳng định mình. Lữ đoàn đã xác định huấn luyện là nhiệm vụ chính trị trọng tâm xuyên suốt, vì vậy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đúng phương châm, phương pháp, sát thực tế; chú trọng huấn luyện nâng cao trình độ cho đội ngũ các cấp, không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.


Một vùng phía tây Quỳnh Lưu (Nghệ An) những năm trước kinh tế - xã hội còn chậm phát triển. Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn xe tăng 215 đã đưa vào các nghị quyết, chủ trương lãnh đạo thực hiện những việc làm thật nhân văn: giúp dân xóa đói, giảm nghèo. Bằng những việc làm thiết thực, bộ đội Lữ đoàn xe tăng 215 có thêm nỗi lo toan với người dân vùng “Gió lào cát trắng” nơi lắm “Bão giật mưa chan”. Giờ đây cả một vùng quê ấy đã giàu có hơn. Lữ đoàn xe tăng 215 thực sự trở thành điểm sáng văn hóa ở khu vực miền Trung.


Chiến công trong thời kỳ đổi mói của Xưởng sửa chữa Tăng thiết giáp X32, Lữ đoàn xe tăng 201, Lữ đoàn xe tăng 215, Trường sĩ quan Tăng thiết giáp bắt nguồn từ chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn kịp thời, nhanh nhạy của Thủ trưởng Bộ tư lệnh. Thành tích đặc biệt xuất sắc của 4 đơn vị đã thể hiện rõ tinh thần hiệp đồng chặt chẽ, lập công tập thể. Danh hiệu cao quý "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cũng là thành tích, chiến công chung của toàn Binh chủng, thể hiện sự lớn mạnh không ngừng, vượt bậc của bộ đội Tăng thiết giáp anh hùng trong thời kỳ mới.


Ngày nay trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, trong cuộc đấu tranh chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bộ đội Tăng thiết giáp không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, nâng cao bản lĩnh chính trị, đề cao cảnh giác cách mạng, ra sức học tập, rèn luyện, vươn lên làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại xứng đáng là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.


Hơn 20 năm dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, Binh chủng Tăng thiết giáp nói riêng và lực lượng Tăng thiết giáp Việt Nam nói chung đã nâng vị thế của mình lên một tầm cao mới, nhiều đơn vị hoàn thành đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ, tiêu biểu đã có 9 đơn vị trong lực lượng Tăng thiết giáp được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới đã trở thành điển hình tiên tiến trong các Quân khu, Quân đoàn và các tỉnh, thành, là điểm sáng văn hóa trên địa bàn đóng quân.


Ngày 5 tháng 10 năm 2009, Bộ đội Tăng thiết giáp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống vẻ vang của mình, sắc cờ thi đua đang vẫy gọi bộ đội Tăng thiết giáp đạp bằng gian khó, đoàn kết tin tưởng, phấn đấu lập nhiều chiến công xuất sắc hơn nữa trên chặng đường mới, mãi mãi xứng đáng với truyền thống "Bộ đội Tăng thiết giáp, trung với Đảng, hiếu với dân, Đã ra quân là đánh thắng".