Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 10:06:26 pm Tên sách: Cuộc vượt ngục kỳ diệu
Tác giả: Phan Dĩnh Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân Năm xuất bản: 2009 Số hoá: ptlinh, quansuvn LỜI GIỚI THIỆU Năm 1959 là một mốc khó khăn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Nhân dân Lào. Ngày 26 tháng 7 năm 1959, bọn phản động phái hữu đã bắt giam 16 cán bộ ưu tú của Đảng Nhân dân Lào và Mặt trận Lào yêu nước, đứng đầu là Hoàng thân Xuphanuvông. Sau 300 ngày bị giam giữ, chỉ trong một đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, cả đoàn tù cùng một tiểu đội hiến binh canh gác đã biến mất khỏi trại giam Phôn Khênh làm cho bọn phản động phái hữu hất sức kinh ngạc, bàng hoàng. Gần 50 năm qua, sự kiện lịch sử trên đã được sách báo Lào và Việt Nam đề cập đến rất nhiều. Cuốn "Cuộc vượt ngục kỳ diệu" sẽ giúp bạn đọc được tiếp cận một cách trung thực, hoàn chỉnh, sinh động với sự kiện giải thoát các vị lãnh tụ Đảng Nhân dân Lào tháng 5 năm 1960 bởi tác giả - Đại tá Phan Dĩnh, nguyên là Tổ trưởng tổ công tác đặc biệt Việt Nam được đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương trực tiếp duyệt kế hoạch và giao nhiệm vụ sang Viên Chăn giúp tổ chức cuộc giải thoát nói trên theo yêu cầu của Trung ương Đảng bạn. Cuốn sách là một minh chứng của tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào như lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông là một chiến công đặc biệt tiêu biểu cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Chúng ta hãy giữ vững và phát triển tình hữu nghị đặc biệt ấy". Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 10:07:23 pm MỘT THOÁNG LỊCH SỬ Đất nước Lào trải dài trên 1.000km nằm bên tả ngạn dòng sông Mê Kông, dựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, trước thế kỷ XVIII đã từng là một vương quốc cường thịnh ở khu vực. Chầu Phạ Ngừm - vị vua có công thống nhất đất nước, lập vương quốc đầu tiên trên toàn bộ lãnh thổ này từ năm 1353, đã đặt tên nước là Lạn Xạng (Triệu Voi). Đó là nơi tụ hội của 49 bộ tộc, trong đó bộ tộc Lào - con cháu của Khun Bulôm và Khunlò di cư từ phía nam Trung Quốc xuống từ đầu thế kỷ VI - là bộ tộc lớn hơn cả, có số dân chiếm hơn 1/3 dân số cả nước. Tất cả các bộ tộc trên cùng sống hiền hòa với nhau, cùng chung cảnh ngộ, cùng chung một nền văn hóa có bản sắc riêng của Lào, thấm nhuần đạo đức nhân ái từ bi vị tha của Phật giáo. Họ đã bao đời chung lưng đấu cật xây dựng nên những đô thành, đô thị sầm uất như cố đô Luông Pha Băng êm đềm, thủ đô Viên Chăn náo nhiệt ngày nay, với những công trình cổ kính nổi tiếng đồ sộ và độc đáo như quần thể tháp chùa Thạt Luổng, Sisakệt, Phạ Kẹo (Viên Chăn), Xiêng Thong (Luông Pha Băng), That Inh Hằng (Khăm Muộn), Vặt Phu (Chăm Pa Xắc)... với những cánh đồng phì nhiêu bát ngát nằm giữa các thung lũng hay dọc các triền sông Mê Kông, sông Nặm Bạc, sông Nặm Ngừm, sông Nặm Thơn, sông Sêbăngphay, Sêbănghiêng, Sêđôn, sông Ba Xắc, cùng với những bản Mường xen kẽ nương rẫy bạt ngàn trên các dãy núi rừng trùng điệp từ Bắc đến Nam, với biết bao thắng cảnh làm ngây ngất lòng người như Cánh đồng Chum (Thượng Lào), Thác Khôn (Hạ Lào), Tát Sét (Trung Lào)... Sống trên dải đất không có bờ biển lại bị bao quanh bởi 5 nước láng giềng to lớn hơn mình nhiều lần, nhân dân các bộ tộc Lào đã phải trải qua những chặng đường dài chiến đấu chống ngoại xâm để dựng nước và giữ nước, trong đó có 3 thế kỷ (thế kỷ XV, XVI, XVII) liên tiếp nhiều lần đánh bại và đẩy lùi các đạo quân xâm lược tàn bạo của phong kiến Xiêm La, Diến Điện và đã hơn 3 lần phải bắt tay xây dựng lại kinh đô Viên Chăn, Luông Pha Băng bị đốt phá, hủy diệt, san bằng. Sau khi xâm chiếm xong Việt Nam và Campuchia, thực dân Pháp cũng hoàn thành công cuộc đặt ách đô hộ ở Lào từ năm 1893, nhưng chúng đã phải liên miên đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân các bộ tộc Lào chống chính quyền thực dân, nổi bật là các phong trào nổi dậy của Pho Cạ Đuột Phum Mi Bun (1901-1907), Kôm Ma Đăm (1910-1934), Chau Pha Pắt Chay (1919-1921), Khu Khăm (1920), v.v... Từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương - tiền thân của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay, nhân dân Lào đã dần dần tập hợp dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, kế tục truyền thống kiên cường bất khuất của cha ông, đã không ngừng đấu tranh giành lại độc lập tự do. Đồng thời với Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam, nhân dân Lào đã nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lập Chính phủ Itsala tuyên bố nền độc lập của nước Lào ngày 12 tháng 10 năm 1945. Nhưng Pháp đã đem quân trở lại đặt ách thống trị ở 3 nước Đông Dương một lần nữa, nhân dân Lào cùng với nhân dân Việt Nam và Campuchia đã kề vai sát cánh tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm kết thúc bằng Hiệp định Giơnevơ 1954. Lần đầu tiên nền độc lập của Lào được thừa nhận bằng một hiệp định quốc tế, lực lượng vũ trang kháng chiến cũng được thừa nhận với tên gọi là Lực lượng Pathét Lào và được tập kết về 2 tỉnh Sầm Nưa, Phông Saly ở phía bắc Lào. Nhưng đế quốc Mỹ đã nhảy vào thay thế Pháp thi hành chủ nghĩa thực dân kiểu mới, xây dựng ngụy quân, ngụy quyền Lào dưới cái vỏ độc lập, mưu toan xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ 1954 về Lào, mở các đợt tiến công hòng xóa bở căn cứ 2 tỉnh tập kết của lực lượng Pathét Lào, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Cuộc chiến đấu ngoan cường của quân dân hai tỉnh tập kết phía bắc được sự ủng hộ phối hợp đấu tranh chính trị của nhân dân ở 10 tỉnh còn lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào (thành lập ngày 21-3-1955) đã đập tan các cuộc tiến công đó của địch. Cuộc đấu tranh quân sự - chính trị song song đó đã dẫn tới Hiệp định Viên Chăn ngày 22 tháng 10 năm 1957 với nội dung thỏa thuận giữa hai bên là: Thành lập chính phủ liên hiệp lần đầu tiên có lực lượng Pathét Lào tham gia, sửa đổi hiến pháp, tiến hành tổng tuyển cử bổ sung, mặt trận Neo Lào Hắc Xạt ra mắt hoạt động trên phạm vi toàn quốc, 2 tỉnh tập kết và 2 tiểu đoàn Pathét Lào trở về hòa hợp trong cộng đồng Vương quốc Lào. Cuộc tổng tuyển cử bổ sung đã được tiến hành ngày 4 tháng 5 năm 1958 với thắng lợi vang dội của mặt trận Neo Lào Hắc Xạt và đồng minh của mình là lực lượng hòa bình trung lập (Neo Lào Hắc Xạt được 9 ghế, hòa bình trung lập được 4 ghế, cộng là 13 ghế trong 21 ghế nghị sĩ bổ sung, đặc biệt có một nghị sĩ nữ đầu tiên của nước Lào là bà Khămpheng Bupha, Hoàng thân Xuphanuvông ứng cử ở Viên Chăn đã trúng cử với số phiếu cao nhất). Với thắng lợi này, nhân dân toàn quốc Lào vui mừng khôn xiết và hy vọng rằng trên đất nước Triệu Voi tươi đẹp này tiếng súng sẽ ngừng nổ, máu xương sẽ ngừng đổ từ đây; cuộc sống thanh bình sẽ trở lại trong không khí hòa hợp dân tộc và dựng xây lại đất nước phồn vinh trong điệu múa và tiếng khèn lăm vông muôn thuở yên vui. Nhưng Mỹ và lực lượng phái hữu tay sai của họ không cam tâm chịu thất bại, không chịu bó tay trước viễn cảnh không còn ai tin vào những lời lẽ chống cộng mị dân của họ, không chịu chấp nhận sự thất bại hiển nhiên là toàn dân Lào đã hướng niềm tin vào những lãnh tụ chân chính và ưu tú của họ, vào ngọn cờ của Mặt trận Lào yêu nước do Đảng Nhân dân Lào lãnh đạo. Chúng đã lập tức phản ứng điên cuồng bằng hành động bạo lực trắng trợn chà đạp công lý, bất chấp dư luận. Hơn 2 tháng sau cuộc tổng tuyển cử, ngày 22 tháng 7 năm 1958, chúng lật đổ chính phủ liên hiệp, đẩy Thủ tướng Xuvănnạ Phumma đi làm Đại sứ ở Pháp; ngày 18 tháng 8 năm 1958, Phủi Sananikon lên làm thủ tướng lập chính phủ không có Pathét Lào tham gia, tuyên bố Hiệp định Giơnevơ 1954 hết hiệu lực, đình chỉ hoạt động của Quốc hội - thực chất là tước quyền của các nghị sĩ yêu nước, đình báo Lào Hắc Xạt, đóng cửa các trụ sở của mặt trận Neo Lào Hắc Xạt. Năm 1959 trở thành năm cực kỳ đen tối đối với đất nước và nhân dân Lào. Ngày 11 tháng 5 năm 1959 Phủi Sananikon ra lệnh bao vây hòng tước vũ khí tiểu đoàn 2 Pathét Lào đóng tại Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). Ngày 12 tháng 5 năm 1959 chúng cho cảnh sát bao vây nhà ở của các lãnh tụ và các nghị sĩ Neo Lào Hắc Xạt ở Viên Chăn. Đồng thời tiến hành một đợt càn quét khủng bố, bắt bớ tra tấn, bức hại các cán bộ và các cơ sở Neo Lào Hắc Xạt ở khắp các địa phương. Trâng tráo hơn nữa trong âm mưu điệu hổ ly sơn rồi chặt đầu phong trào, ngày 26 tháng 7 năm 1959 Phủi Sananikon ra lệnh bắt giam đồng chí Xuphanuvông, các nghị sĩ và các nhà lãnh đạo, cán bộ của Neo Lào Hắc Xạt, tất cả là 16 đồng chí, gồm 7 nghị sĩ quốc hội Vương quốc, 9 ủy viên Trung ương Mặt trận Lào yêu nước, trong đó có 3 đồng chí sau này kế tiếp nhau làm Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (đồng chí Xuphanuvông, đồng chí Phummi Vongvichit, đồng chí Nủhắc Phumsavẳn). Đó là bộ phận lãnh tụ cực kỳ quan trọng của cách mạng Lào, những cán bộ cốt cán ưu tú của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắc Xạt), những người con yêu quý dũng cảm của nhân dân Lào. Hành động bắt giam trái phép những đồng chí trên thể hiện bản chất hung bạo và lật lọng làm sửng sốt mọi người, còn bọn quan thầy và tay sai phản động phái hữu thì chắc mẩm rằng phong trào cách mạng Lào sẽ không còn ngóc đầu dậy được nữa. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 10:07:54 pm Nhưng bọn phản động cực hữu Lào, được sự nuôi dưỡng và chỉ đạo của quan thầy đế quốc đã nhầm to: Chỉ sau 300 ngày bị giam giữ trong trại tù Phôn Khênh nằm trong khuôn viên Bộ Tổng tư lệnh quân đội Vương quốc, được canh gác nghiêm ngặt 24/24 giờ, bỗng chỉ trong một đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960 cả đoàn tù 16 người cùng 1 tiểu đội lính hiến binh (quân cảnh) canh gác đã biến mất mà hàng chục năm sau kẻ địch cũng như công luận cũng vẫn coi đó là một hiện tượng kỳ lạ, chưa hiểu nổi cuộc vượt ngục - cuộc giải thoát lịch sử này đã được tiến hành bằng cách nào và đi con đường nào mà có thể thoát khỏi vòng vây trùng điệp và sự truy lùng gắt gao nhiều tháng trời ở mọi hướng của mọi lực lượng kẻ địch có trong tay, kể cả sử dụng lính nhảy dù thiện chiến chặn đầu, khóa đuôi mà vẫn không tìm ra một dấu vết nhỏ. Vào thời đó đã có tin đồn do sự đoán mò của bọn phản động và chúng dựa vào đó để che lấp tội ác và sự bất lực của chúng rằng "đã có một xe tải đón sẵn ở cổng trại giam để đưa tù nhân và lính gác chạy về hướng bắc theo đường số 10 lên dãy núi Phukhaukhoai cách Viên Chăn khoảng 80km đường chim bay, ở đó đã có trực thăng chờ sẵn để đón các vị về Hà Nội rồi"... Ngoài ra còn có những tin đồn thất thiệt khác, thậm chí sau này kể cả gần đây vẫn có những bài báo viết về sự kiện này nhưng chỉ mới phản ánh được phần nào sự thật, thậm chí có những chi tiết thiếu chuẩn xác, như có người viết "cuộc vượt ngục thành công là do tiểu đội lính gác tù được chính những người bị giam tuyên truyền giác ngộ nên đã mở cửa trại giam giải thoát” - đó chưa phải là toàn bộ sự thật. Sự thật là nếu không có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng nhân dân Lào, nếu không có sự chuẩn bị công phu tỉ mỉ của Tỉnh ủy Viên Chăn và đội ngũ cán bộ của tỉnh phối hợp với tổ công tác đặc biệt của Việt Nam phái sang hỗ trợ thì các vị lãnh đạo bị giam làm sao có thể tin và theo toán lính gác tù cùng trốn như thế được. Thậm chí ra khỏi trại giam rồi đoàn tù sẽ làm sao đi thoát khỏi vòng vây và sự lùng sục của hàng chục tiểu đoàn quân địch đóng ở nội thành và ngoại vi nếu không có sự phối hợp trong ngoài trại giam, giữa cơ sở nội thành với cán bộ ngoại thành tỉnh Viên Chăn và các địa phương đoàn tù sẽ đi qua, không có sự phối hợp với Trung ương, v.v... Tất cả đều đã được bài binh bố trận theo một phương án đã được bàn tính, điều chỉnh, bổ sung tỉ mỉ, liên tục trong 10 tháng trời, sử dụng hàng trăm cơ sở tin tức mật, cơ sở giao liên mật, bám sát mọi diễn biến của việc giam giữ, bố phòng trại giam và của cục diện chính trị - quân sự ở Viên Chăn cũng như ở trên đất nước Lào để đi đến quyết định giờ G chính xác và tổ chức thực hiện trọn vẹn cuộc giải thoát cũng như cuộc hành quân bí mật về căn cứ phía bắc mà không tốn một viên đạn, một giọt máu, hơn thế nữa lại vẫn giữ được tuyệt đối bí mật và tuyệt đối an toàn. Cho đến 3 năm sau ngày giải phóng toàn Lào, tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc Lào năm 1978, sự kiện trên mới được công bố thông qua việc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho đồng chí Xiêng Xổm nguyên cán bộ của Tỉnh ủy Viên Chăn - người duy nhất đã đột nhập trại giam và dẫn đường cho đoàn tù về đến căn cứ an toàn của tỉnh ủy ở ngoại thành và bà mẹ Phăn, giao liên mật của Tỉnh ủy Viên Chăn.
Sự kiện đặc biệt này có thể coi là cuộc vượt ngục hay là cuộc giải thoát đều đúng cả, bởi lẽ: Nếu những người tù nhân và lính gác không đồng lòng nhất trí vượt ngục trốn ra thì dù có một binh đoàn lớn đến giải thoát cũng không thể thành công được. Ngược lại dù các tù nhân và lính gác có tài giỏi đến đâu cũng không thể tự mình vượt ngục thành công, nếu không có kế hoạch bài binh bố trận sẵn từ bên ngoài trại giam do Tỉnh ủy Viên Chăn chỉ đạo tổ chức thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng Nhân dân Lào với sự tham gia góp phần đắc lực của tổ công tác đặc biệt Việt Nam được phái sang giúp bạn kịp thời theo yêu cầu của bạn. Tổ công tác đã tham gia giúp bạn từ khi lập kế hoạch ban đầu cho đến khi thực hiện hoàn hảo kế hoạch, không phải là chỉ đi đón các đồng chí sau khi đã thoát ra tù. Tổ đã vượt Trường Sơn ra đi theo yêu cầu của Trung ương Đảng Nhân dân Lào ngay từ khi mới nghe tin địch giam lỏng tại gia đối với các nhà lãnh đạo Mặt trận yêu nước Lào. Tổ công tác Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ theo yêu cầu của lãnh đạo bạn, thực hiện đúng chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Đây là công việc liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc bạn. Mọi việc do bạn Lào quyết định...”. Những công việc đó là truyền đạt được chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, điều tra, nghiên cứu tình hình địch cả trong và ngoài trại giam; làm tham mưu, đề xuất phương án giải thoát với Tỉnh ủy và Ban chỉ đạo của bạn; tổ chức đường dây liên lạc, giữ vững mạch máu liên lạc vô tuyến điện với Trung ương; tham gia cùng Ban chỉ đạo của bạn giải quyết các tình huống nảy sinh; đi hộ tống, bảo vệ Chủ tịch Xuphanuvông cùng đoàn đi bộ từ Viên Chăn xuyên qua 3 tỉnh về đến biên giới Việt - Lào tại Mường Thanh, Điện Biên Phủ; huấn luyện, đào tạo đặc công cho phía bạn... Tóm lại, đó là những khâu công tác khó khăn và phía bạn yêu cầu thì chúng tôi đảm nhận và đã hoàn thành xuất sắc, góp phần thực hiện hoàn hảo cuộc giải thoát. Những công việc đó là nhân tố góp phần không thể thiếu trong nguyên nhân tổng hợp dẫn đến thành công trọn vẹn của cuộc vượt ngục. Trên hết, nguyên nhân cơ bản, sâu xa, có ý nghĩa quyết định nhất đối với thành công của cuộc giải thoát này chính là truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh ngoan cường hướng về chính nghĩa cách mạng của nhân dân các bộ tộc Lào, trong đó có anh em lính cảnh vệ Vương quốc đã được giác ngộ và hàng trăm cơ sở nhân dân nội, ngoại thành Viên Chăn và ở các căn cứ mà đoàn đi qua đã nuôi dưỡng, dẫn đường, làm giao liên, làm tai mắt nắm tin địch, chiến đấu đánh lạc hướng địch và bảo vệ, giữ bí mật an toàn tuyệt đối cho đoàn. Điều đó cũng nói lên tấm gương dũng cảm, mưu trí và uy tín rất cao của Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, một nhân tố hết sức quan trọng dẫn đến thành công của cuộc vượt ngục nói riêng và của sự nghiệp đấu tranh lâu dài gian khổ để giải phóng các dân tộc Lào nói chung. Cuộc vượt ngục lịch sử - cuộc giải cứu lãnh tụ kỳ diệu nói trên được diễn tả trung thực trong cuốn sách này là một nét son rực rỡ trong các trang sử vàng của truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời còn là "một chiến công tiêu biểu của mối tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt Lào - Việt" như lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá. Nhưng sẽ là thiếu sót lớn nếu cuốn sách này chỉ diễn tả cuộc giải cứu các lãnh tụ cách mạng Lào cho đến khi kết thúc đưa các tù nhân thoát khỏi trại giam, mà không nói đến những sự kiện hệ quả, tác động, diễn biến hết sức quan trọng tiếp theo và gắn liền với cuộc vượt ngục lịch sử này. Đó là cuộc đảo chính của đại úy Koongle và lính dù Vương quốc ngày 9 tháng 8 năm 1960 (hơn 2 tháng sau cuộc vượt ngục). Đó là cuộc chiến đấu 7 ngày đêm anh dũng kiên cường trong nội thành Viên Chăn tháng 12 năm 1960 của quân đảo chính phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương của Mặt trận Lào yêu nước, có sự cố vấn và chi viện pháo binh của Việt Nam để bảo vệ chính phủ hợp pháp của Vương quốc do Hoàng thân Xuvănnạ Phumma làm thủ tướng. Đó là cuộc rút lui khỏi thành phố thủ đô bảo toàn được lực lượng để hành quân lên phía bắc đánh chiếm, giải phóng Cánh đồng Chum lần đầu tiên vào Tết dương lịch mồng 1 tháng 1 năm 1961. Cuốn sách này cũng sẽ diễn tả lại cuộc chiến đấu sôi động và quyết liệt đó tiếp theo sau cuộc vượt ngục lịch sử nói trên. Nếu nói năm 1959 là năm đen tối của cách mạng Lào thì năm 1960 lại là một trong những trang sử vàng chói lọi của đất nước Lào. Thành công của cuộc giải cứu Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Lào bị địch bắt giam gắn liền với những thắng lợi liên tiếp của công cuộc chuyển hướng chiến lược dưới sự lãnh đạo sáng suốt và dũng cảm của Đảng Nhân dân Lào, trong đó có sự kiện giải phóng Cánh đồng Chum, chẳng những phá vỡ mảng đầu tiên trong âm mưu chiến lược chiến tranh đặc biệt của bọn đế quốc ở Lào, chẳng những đã cứu vãn tình thế gay cấn của cách mạng Lào trước sự lật lọng hung bạo của địch, mà còn mở ra một cục diện mới ở Lào: cục diện hình thành 3 phái, trong đó phái trung lập yêu nước liên minh với phái Mặt trận Lào yêu nước, một cục diện so sánh lực lượng với lợi thế nghiêng hẳn về cách mạng Lào, tạo nên một đà mới cho cách mạng Lào tiếp tục tiến lên cho đến ngày toàn thắng: ngày 2 tháng 12 năm 1975 thành lập nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:58:51 pm CHỦ TỊCH XUPHANUVÔNG KỂ CHUYỆN VUỢT NGỤC PHÔN KHÊNH* (Trích hồi ký "Thời sôi động" của Đại tướng Chu Huy Mân, Nxb Quân đội nhân dân, H.2004)[/i Sau ba trăm ngày sống trong ngục tù - trại Phồn Khênh của bọn phản động phái hữu Lào có cố vấn Mỹ chỉ đạo, đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960 Hoàng thân Xuphanuvông cùng các nhà lãnh đạo Mặt trận Lào yêu nước bị giam đã được giải thoát ra khỏi trại giam trở về vùng căn cứ cách mạng. Cuộc vượt ngục được chuẩn bị công phu trong gần 10 tháng trời đầy hiểm nguy, đã được thực hiện trót lọt một cách bí ẩn như thể các đồng chí có pháp thuật tàng hình. Tiếp theo là hành trình từ đó về đến căn cứ của Tỉnh ủy Viên Chăn (Na Nhang, Loong Tòn) và cuộc hành quân đường dài lên phía bắc trở về căn cứ địa cách mạng (Sầm Nưa) trong bối cảnh địch đang dùng mọi lực lương, mọi phương tiện bao vây, lùng sục, chặn đường, nhảy dù mai phục... cũng là một hành trình đầy gian lao, thử thách hiểm nghèo có thể xảy ra ở bất cứ đoạn đường hành quân nào. Phải mất 4 tháng trời sau khi thoát khỏi trại giam, hành quân xuyên qua 4 tỉnh (Viên Chăn, Luông Pha Băng, Phông Saly, Sầm Nưa) đoàn vượt ngục mời về đến đích cuối cùng. Trong đoàn hành quân này có đồng chí Trương Văn Quý - tổ phó và đồng chí Nguyễn Văn Vinh - báo vụ viên vô tuyến điện trong Tổ công tác đặc biệt Việt Nam đi tháp tùng, phục vụ đoàn giữ liên lạc với Trung ương Đảng Nhân dân Lào và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam. Trên đường hành quân, đoàn được Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam hàng ngày thông báo tình hình bố trí lực lượng các cứ điểm địch và các cuộc hành quân lớn nhỏ của địch ở đoạn đường đoàn sẽ đi qua để cho đoàn né tránh, đi vòng và có biện pháp đối phó, khắc phục. Khi đoàn về đến biên giới Mường Thanh (cửa khẩu Long Nhai), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho chuyên cơ của Người và cử đồng chí Nguyễn Khang lên Điện Biên Phủ cùng đồng chí Chu Huy Mân đi đón đoàn. Hồi đó đồng chí Chu Huy Mân đang là Thiếu tướng, Chính ủy Quân khu Tây Bắc. Đồng chí đã ghi lại lời kể của Chủ tịch Xuphanuvông về cuộc vượt ngục Phôn Khênh trong quyển hồi ký "Thời sôi động" của mình. Lời kể của Chủ tịch Xuphanuvông dưới đây sẽ là minh chứng sống động nhất của cuộc vượt ngục lich sử này. "... Đầu tháng 9 năm 1960 anh Nguyễn Khang - Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, nguyên Bí thư Ban cán sự miền Tây từ Hà Nội lên Tây Bắc truyền đạt chỉ thị của Trung ương, tôi và anh cùng đi vào Điện Biên Phủ đón Hoàng thân Xuphanuvông. Chúng tôi vội lên xe chạy thẳng đến bản Long Nhai. Khó tả hết niềm vui và xúc động khi chúng tôi gặp Hoàng thân Xuphanuvông. Chiều hôm ấy và cả trong bữa cơm thân mật, chúng tôi được nghe Hoàng thân kể tỉ mỉ cuộc vượt ngục lịch sử của ông. Hoàng thân Xuphanuvông chậm rãi nói: Ngay khi mới bị đưa vàọ trại giam, chúng tôi đã nghĩ ngay đến việc phải tìm cách thoát trở về lãnh đạo phong trào. Nhưng quan sát trại bốn bề tường kín, ba lượt rào cao, lại bị vây giữa một trại hiến binh và nhà ở của sĩ quan, nên muốn vượt khỏi trại giam sẽ phải tiến hành một cuộc chuẩn bị kiên trì, gian khổ và hết sức thận trọng mới có hy vọng. Chúng nhốt anh em chúng tôi mỗi người ở một buồng riêng, ngày đêm khóa cửa. Việc tiếp xúc với bên ngoài và sự liên lạc với nhau ở trong trại cũng bị cắt đứt. Chúng tôi sống trong cảnh hoàn toàn bị bưng bít, không có báo, không được tin tức từ bên ngoài, nên rất khó định đoạt hành động của mình. Ngừng một lát, vẫn giọng trầm trầm chậm rãi, Hoàng thân kể tiếp: Đã hơn một tháng, bọn địch như cảm nhận mọi việc đã ổn nên chúng rút cảnh sát, chỉ để lại hiến binh canh gác trại. Những người hiến binh lạnh lùng trước đây, nay qua thái độ của họ chúng tôi biết họ đã bắt đầu tỏ lòng thương cảm. Họ không dám chuyện trò nhưng vẻ mặt, cử chỉ mỗi lần ra vào mở cửa đã nói lên tấm lòng của họ. Thế là tôi chợt nảy ý định sẽ tìm cách giác ngộ những người hiến binh này. Những lúc chỉ có một hai người ở cửa buồng giam, tôi dần dà hỏi han chuyện trò khi một câu, khi vài câu với họ. Cứ thế thành quen, chúng tôi đã tìm thấy nhiều người tốt trong số hiến binh kia để tuyên truyền giác ngộ lòng yêu nước cho họ. Một số hiến binh đã từng ở chùa, dần dần bộc lộ sự thương xót vì kính trọng tôi và anh em cán bộ Pathét Lào. Có người bí mật giúp chúng tôi những đồ dùng thiết yếu. Chúng tôi bắt đầu liên lạc được với nhau và phân công bí mật giáo dục riêng từng người. Những người hiến binh được giác ngộ càng ngày càng quý mến chúng tôi. Sau 3 tháng, giám thị bắt đầu nới lỏng, một ngày cho chúng tôi ra ngoài ít giờ để lao động, tôi và anh em của ta đã cuốc đất trồng rau, biến mảnh đất nhỏ thành mảnh vườn xinh xắn. Một số anh em hiến binh đã tự kiếm những giống rau ngon, hoa đẹp về cho chúng tôi trồng. Đến khi thấy rau xanh tốt, hoa nở thắm tươi anh em hiến binh rất khâm phục những người trong Mặt trận Lào yêu nước. Một số hiến binh giác ngộ nhất bắt đầu giúp chúng tôi từ tiếp tế thực phẩm, đồ dùng, liên lạc với gia đình ở Viên Chăn để lấy tin tức hàng ngày. Vòng vây bưng bít của bọn tay sai bị phá tan dần. Chúng tôi đã biết được tình hình tiểu đoàn 2 Pathét Lào vượt vòng vây quân thù trở về căn cứ. Chúng tôi đã nghe tin tức kịp thời ở trong nước và cả những tin quan trọng trên thế giới. Hơn một trăm hiến binh canh gác, chúng tôi đã giác ngộ được trên 40 người. Trong đó chúng tôi chọn một số trung kiên nhất, tổ chức họ thành từng nhóm bí mật với nhau tuyên truyền kỹ hơn. Trước tinh thần giác ngộ của binh sĩ, chúng tôi tin tưởng và vạch kế hoạch vượt ngục. Chúng tôi tìm được 8 người giác ngộ và kiên quyết nhất để giao nhiệm vụ chuẩn bị vượt ngục, trong đó có hai anh em cai xếp U Đon và Chănthavi. Tôi nói anh Nủhắc làm kế hoạch cụ thể cho chuyến đi lịch sử sắp tới. Hai anh em U Đon và Chănthavi được bố trí bí mật liên lạc với cán bộ Neo Lào Hắc Xạt đang hoạt động ở Viên Chăn để tổ chức đón chúng tôi về căn cứ Pathét Lào gần nhất. Chănthavi còn được giao liên lạc với 4 nhà sư ở một ngôi chùa gần đó làm tổ dẫn đường trong chặng đầu từ Viên Chăn ra. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:59:25 pm Dừng một lát, uống ngụm nước chè, Hoàng thân kể tiếp:
Vấn đề khó khăn nhất là làm sao cho 8 người được lựa chọn kia cùng gác vào một phiên với nhau, vì các lượt gác không thể chủ động bố trí nên cứ có người này lại thiếu người khác. Đáng khen cho anh Nủhắc rất khéo bày kế để họ bố trí sắp xếp đúng như kế hoạch. Cơ hội tốt đã đến! Tối ngày 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, 5 người trong số 8 anh em trung kiên cùng gác một phiên. Còn 3 người nữa cuối cùng cũng vận động gác thay cho những hiến binh khác. Việc chuẩn bị đủ số quân phục hiến binh cần thiết và bảng tay tuần tra đóng giả hiến binh đi tuần tra cũng được anh Nủhắc giao cho hai anh em U Đon chuẩn bị đầy đủ trong ngày 23 tháng 5. Thực phẩm lương khô và nilông cũng được hai anh em U Đon chuẩn bị kỹ càng. Ba giờ chiều ngày 23 tháng 5, tôi được tin bên ngoài cho biết đã bố trí xong người liên lạc và đón ở các địa điểm quy định. Ngay chập tối, một cán bộ liên lạc1 (Tức đồng chí Xiêng Xổm) từ bên ngoài cử tới được anh em hiến binh bí mật đưa vào nằm sẵn trong trại giam. Tám giờ tối, tôi nói anh Nủhắc phổ biến kế hoạch cụ thể về việc lên đường, và lúc này 8 hiến binh kia mới biết quyết định vượt ngục của chúng tôi. Cả 8 anh em tuy đột ngột biết tin, nhưng đều tỏ ra sung sướng sẵn sàng ủng hộ kế hoạch của đoàn. 12 giờ kém 5 phút, một trinh sát báo cáo đã có thể đi được. Kế hoạch được nhắc lại một lần nữa, tôi và mọi người đã cải trang thành những hiến binh. Sau khi kiểm tra lại thêm một lần nữa, tôi cho lệnh lên đường. Thế là một đội hiến binh tuần tra gồm 25 người đi hàng một hồi hộp và náo nức tiến ra phía đường cái. Đèn pha vẫn sáng, các cửa trại giam mở ra rồi được khóa lại như thường lệ. Xung quanh vắng lặng, binh sĩ và sĩ quan đều đã ngủ say. Mấy người lính thiết giáp gác giờ này cũng chẳng thèm chú ý đến đội "hiến binh tuần tra” đang lộp cộp đi ngang qua. Sang khỏi cầu Phôn Khênh, cả đoàn rẽ vào rừng chờ người dẫn đường. Một lát sau, thấy có tiếng người xì xào và loáng ánh đèn pin, chúng tôi hơi chột dạ. Tiếng Chănthavi rõ dần, chúng tôi lên tiếng nhận nhau. Từ đây cả đoàn gồm 30 người, chia thành 3 nhóm do đồng chí Xiêng Xổm dẫn theo con đường bí mật được chuẩn bị sẵn trong rừng. Trời tối mù mịt, không ai nhìn thấy ai. Đến một chỗ hơi trống trải tôi cứ theo hướng phía trước mà đi. Bỗng tôi giật mình, sao lại vắng vẻ thế này. Định thần một lúc, biết mình đã bị lạc. Do đã lường trước tình huống khi bị lạc trong đêm tối, hãy đứng im một chỗ sẽ có người tìm đến, vài chục phút sau anh em tìm thấy tôi. Mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm, đều vui mừng, chúng tôi tiếp tục lên đường. Càng về khuya, tôi càng cảm thấy chân tay rã rời. Có lẽ tuổi đã cao, lại bị giảm cân do nhiều ngày trong gian khổ thiếu thốn, tôi cảm thấy đuối sức, hơn nữa chân đã bắt đầu sưng, bật máu nên ngã nhiều lần. Anh em ái ngại. Nhưng vì tôi mà hỏng việc lớn sao đành, cách mạng Lào đang cần chúng tôi trở về, nghĩ đến lúc về căn cứ gặp lại đồng chí, đồng bào tôi như được tiếp sức mạnh. Thế là tôi cắn răng đứng dậy, vịn vào người khỏe hơn mà bước. Khoảng 4 giờ sáng, chúng tôi đã đến gần đường số 13 phía bắc Viên Chăn. Ở đây đã có một trung đội Pathét Lào chờ sẵn, họ vui mừng tiếp tục đưa chúng tôi về căn cứ an toàn. Tôi và anh Nguyễn Khang ngồi nghe Hoàng thân Xuphanuvông kể về những ngày không thể nào quên đối với ông. Tôi càng trân trọng tinh thần yêu nước của Hoàng thân, đã xem thường nguy hiểm gian nan đi làm cách mạng. Hoàng thân nhắc lại nhiều lần tinh thần và tình cảm của nhân dân các bộ tộc Lào đã dành cho ông và những nhà lãnh đạo Pathét Lào trong những ngày bị giam cầm, đặc biệt là sau khi ra khỏi nhà tù băng rừng về căn cứ đã được người dân chở che, nuôi nấng. Chúng tôi cảm nhận được, qua thử thách tôi luyện, Hoàng thân Xuphanuvông cũng như các nhà lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt lớn lên với tầm vóc cao hơn nhiều. Những nhà lãnh đạo Pathét Lào thực sự là niềm tự hào, là hy vọng và chỗ dựa tinh thần cho nhân dân các bộ tộc Lào và cách mạng Lào. Trong bữa cơm chan hòa niềm vui hiếm có của tinh thần quốc tế và tình hữu nghị Việt - Lào, Hoàng thân Xuphanuvông mấy lần xúc động nhắc đến công ơn to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Lào, Hoàng thân cho biết trong lúc bị giam cầm trong nhà lao, hình ảnh thân thương của Bác đã giúp ông và các nhà lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt thêm sức mạnh để chiến đấu. Lần này về Hà Nội thế nào Hoàng thân cũng xin được gặp Bác để thăm và chúc sức khỏe Người. Sáng hôm sau, Hoàng thân Xuphanuvông và anh Nguyễn Khang lên máy bay về Hà Nội, tôi trở lại Thuận Châu”. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:25:20 pm DANH SÁCH CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ CÁN BỘ MẶT TRẬN LÀO YÊU NƯỚC BỊ BẮT GIAM Ở TRẠI PHÔN KHÊNH - VIÊN CHĂN (Từ 26-7-1959 đến 24-5-1960) (https://i.imgur.com/AEOjCSh.jpg) Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:26:24 pm NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT 1. Nhận nhiệm vụ Sau khi Chính phủ hòa hợp dân tộc Lào (lần thứ nhất) được thành lập tháng 11 năm 1957, Ban cán sự Đảng bộ miền Tây giải thể. Tôi được thuyên chuyển về Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu tháng 5 năm 1958. Qua một lớp "vỡ lòng" 3 tháng về nghiệp vụ, tôi được cử đi học lý luận Mác - Lênin ở trường Nguyễn Ái Quốc, một vinh dự to lớn và là mơ ước của nhiều cán bộ thời đó - nhưng vừa mới kết thúc học kỳ đầu tiên thì bỗng nhiên một hôm, sau bài giảng buổi sáng của giáo sư Liên Xô, tôi được Ban Giám hiệu gọi lên văn phòng và trao cho giấy triệu tập của Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu tôi trở về ngay để nhận nhiệm vụ mới. Chiếc xe com-măng-ca đã chờ sẵn và đưa tôi về gặp đồng chí Cục trưởng Trần Hiệu. Lúc này tình hình ở Viên Chăn, phong trào ủng hộ mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắc Xạt) đang bị khủng bố nặng. Nhóm phản động cực hữu đưa Phủi Sananikon lên làm thủ tướng, xóa bỏ chính phủ liên hiệp, xóa bỏ Hiệp định Gidnevơ 1954 về Lào, đình bản báo Lào yêu nước, bao vây đòi tước vũ khí 2 tiểu đoàn Pathét Lào vào hòa hợp dân tộc, mở chiến dịch khủng bố bắt bớ cán bộ và cơ sở Neo Lào Hắc Xạt trên toàn quốc. Nghiêm trọng nhất là chúng đã bắt giam Hoàng thân Xuphanuvông cùng 15 cán bộ Neo Lào Hắc Xạt trong đó có 7 nghị sĩ Quốc hội đương chức, 8 ủy viên Trung ương Neo Lào Hắc Xạt. Đại diện Neo Lào Hắc Xạt của tỉnh Viên Chăn bị địch bắt cóc đem ra rừng giết hại, liên lạc giữa cơ quan lãnh đạo từ tỉnh lên Trung ương bị gián đoạn, điện đài vô tuyến điện bị địch lùng sục phải đem ra rừng, bị hỏng do ẩm ướt. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã yêu cầu Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cử một số đồng chí có năng lực và thông thạo tỉnh Viên Chăn trước đây, khẩn trương bí mật trở lại Viên Chăn giúp bạn tổ chức cuộc giải thoát đồng chí Xuphanuvông và các đồng chí bị giam kết hợp với việc truyền đạt triển khai nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự chính trị song song, quân sự là chủ yếu. Đáp ứng yêu cầu của Đảng bạn và chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương ta, tổ công tác đặc biệt phía Việt Nam được thành lập gồm 9 đồng chí cán bộ của Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu - do tôi (Phan Dĩnh), nguyên ủy viên Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Viên Chăn, làm tổ trưởng, đồng chí Trương Văn Quý làm tổ phó, đồng chí Nguyễn Ngôn phụ trách nhóm đặc công (bao gồm đồng chí Kiều Thanh Đăng, đồng chí Du và đồng chí Lầu). Đồng chí Trần Văn Điển lái xe, đồng chí Nguyễn Văn Vinh báo vụ vô tuyến điện, đồng chí Trần Thanh Khiết cơ yếu. Sau khi đồng chí Trần Hiệu - Cục trưởng giao nhiệm vụ, tôi được giới thiệu sang CP31 để học tập quán triệt nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào về tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng Lào, chuyển hướng từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự chính trị song song, quân sự là chủ yếu. Rồi bắt tay vào chuẩn bị, trước hết là làm kế hoạch để trình duyệt. Thế là đã rõ, ở Lào, Mỹ và tay sai đã lật lọng. Lại đánh nhau nữa rồi. Tôi sẽ lại phải ra đi chưa kịp cảm nhận cuộc sống thanh bình giữa lòng Hà Nội đang khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh... Lại sẽ vượt Trường Sơn, vượt sông Mê Kông, lại trèo đèo lội suối, lại rừng thẳm núi dày, lại chui lủi qua bao đồn địch, bao vùng đất do đối phương kiểm soát, lại ăn măng rừng uống nước suối, ngủ trên võng... nhưng hình như tôi không có thì giờ để nghĩ nhiều đến những gian khổ đó, phần vì tôi còn trai trẻ, lại đã quen lối sống bí mật, ở cơ sở địch hậu, ở rừng núi, mà phần lớn vì mải tập trung suy nghĩ về công tác sắp tới, về các tình huống, các phương án, các biện pháp để cùng bạn hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt này. Chỉ trong một tuần, dưới sự hướng dẫn của đồng chí Trần Hiệu, tôi đã soạn thảo xong kế hoạch dựa trên hai tình huống lớn đối với các đồng chí bị bắt giam, một là địch còn giam lỏng tại gia đình, hai là địch đưa vào giam chặt trong nhà tù. Ở mỗi tình huống lớn lại giả định các khả năng cụ thể tùy theo quy chế giam giữ, tổ chức canh gác có nhiều hay ít sơ hở để vận dụng kết hợp các biện pháp, vận động tổ chức đưa ra bí mật bất ngờ dưới hình thức ngụy trang thích hợp hoặc dùng đặc công bịt mồm khóa tay lính gác, khống chế chúng để đưa các đồng chí bị giam ra khỏi nơi giam giữ. Dù tình huống nào, biện pháp nào thì cũng phải tổ chức nối được liên lạc trong ngoài, cũng phải chuẩn bị cơ sở ở nội thành và căn cứ ngoại thành để đưa các đồng chí bị giam thoát ra ẩn náu được nhanh chóng nhất, an toàn nhất... Trên cơ sở các phương án đó, tôi đề nghị trang bị súng giảm thanh và thuốc mê cho các đồng chí đặc công sử dụng khi cần khống chế lính gác và đề nghị trong tổ có một đồng chí biết lái xe để khi cần dùng ô tô đưa các đồng chí thoát ra khỏi nội thành được nhanh chóng. Đồng chí Trần Hiệu trả lời: "Súng giảm thanh và lái xe thì có, còn thuốc mê thì không có, đồng chí nhờ cơ sở đến các hiệu thuốc hay bệnh viện ở Thái Lan hoặc ở Viên Chăn để mua ê te”. Đồng chí lại bảo: "Anh viết lại tóm tắt kế hoạch này và chuẩn bị lên gặp anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) để báo cáo xin duyệt". Hôm sau xe com-măng-ca đưa tôi và đồng chí Trần Hiệu đến 30 Hoàng Diệu. Qua một khu vườn trống, chúng tôi bước vào một gian phòng rộng (cũng vẫn là phòng khách hiện nay của tòa nhà chính), tôi nhớ lúc đó còn trống và rộng lắm vì chỉ có mỗi một bộ sa lông. Chúng tôi chưa kịp ngồi, Đại tướng đã từ bên trong bước ra, mặc sơ mi trắng, khoác ngoài là một chiếc áo đại cán, nét mặt nghiêm nghị, đôi mắt sáng quắc, cười hiền hậu: "Tôi mới đi họp về, tình hình khẩn trương lắm. Các đồng chí báo cáo đi”. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:27:02 pm Sau khi nghe tôi trình bày kế hoạch, Đại tướng hỏi ngay: "Đồng chí Dĩnh đã ở địch hậu bao giờ chưa?". - "Tôi đã ở địch hậu Viên Chăn 8 năm, mới về nước đầu năm ngoái ạ". Đại tướng vừa gật gù, vừa nghiêm mặt nói: "Thế mà đồng chí lại vạch kế hoạch ra giấy thế này? Ở địch hậu thì phải có thói quen không được ghi chép bất cứ công việc gì dù là một mẩu giấy nhỏ". Đồng chí Trần Hiệu "đỡ đòn" cho tôi ngay: "Vì lần đầu tiên đồng chí Dĩnh gặp thủ trưởng để báo cáo nên tôi bảo đồng chí ấy viết gạch đầu dòng để báo cáo cho gọn và khỏi thiếu sót đấy ạ". Đại tướng nói: "Vậy cho tôi xin lại bản kế hoạch này và đốt ngay tại đây nhé. Các đồng chí đừng tưởng rằng ở đất Hà Nội này mà không có Phòng nhì và Intelligence Service. Đồng chí Dĩnh đi chuyến này cần nhớ giữ bí mật được là thắng lợi một nửa rồi đấy. Đồng chí đi không được mang giấy tờ, tài liệu, không được ghi chép công việc trên giấy". Đại tướng cầm 2 trang giấy của tôi đưa, đọc chăm chú rồi bỗng dừng lại: "Kế hoạch nghi binh sau khi đưa ra khỏi nội thành như thế này chưa được. Đưa ra hướng tây mà nghi binh hướng đông, nếu tôi là địch, tôi sẽ tập trung truy lùng ở hướng ngược lại đấy. Vậy thì một là không nghi binh gì hết, hai là nghi binh 3, 4 hướng một lúc, bằng nhiều hình thức khác nhau: khi đưa ra khỏi nơi giam giữ phải xóa mọi dấu vết và tìm mọi cách buộc địch phán đoán lung tung, tiêu phí mất nhiều thời gian lùng sục vô ích để ta có thời gian đưa các đồng chí tới căn cứ an toàn". Đại tướng nói tiếp: "Kế hoạch thế này đại thể là được rồi - anh Hiệu bố trí cho đồng chí Dĩnh đi biên giới Mường Xén ngay để báo cáo anh Bảy xin duyệt, đồng chí Dĩnh còn băn khoăn điều gì không?".
Tôi nói: "Có một tình huống tôi chưa báo cáo trên giấy là tình huống giả thiết các đồng chí bị giam không nhất trí trốn ra thì chúng tôi làm thế nào?" (đây là câu tôi đã hỏi đồng chí Trần Hiệu trong quá trình bàn bạc kế hoạch mà chưa được trả lời). Đại tướng trả lời ngay: "Thì thôi, các đồng chí không phải làm gì nữa và rút về, coi như đã hoàn thành nhiệm vụ". Ngừng một lát đồng chí nói tiếp với vẻ mặt hết sức nghiêm túc: "Tôi nhắc lại: mọi chủ trương, phương án, kế hoạch giải thoát như thế nào đều do Đảng bạn quyết định, tình hình có thể thay đổi khi các đồng chí vào đến Viên Chăn, vì vậy đưa ra theo phương án nào, có đưa ra hay không cũng do lãnh đạo bạn quyết định. Đây là công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc quốc gia của bạn". Tôi ra xe hết sức phấn chấn về những lời nói của Đại tướng. Những ý kiến ấy đã cởi mở cho tôi điều lo lắng nhất trước khi lên đường, Đại tướng không biết rằng những câu nói đó chẳng những đã theo tôi trong suốt hành trình đi làm nhiệm vụ đặc biệt này mà còn trở thành cẩm nang của tôi trong chiến đấu và công tác trên đất bạn Lào với tư cách là anh bộ đội Cụ Hồ suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cho đến bây giờ nhớ lại, tôi càng thấm thía những lời nói đó chính là sự cụ thể hóa sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: "Cách mạng Lào do người Lào làm lấy - giúp bạn là tự giúp mình, giúp bạn là nhiệm vụ quốc tế cao cả". Tờ mờ sáng ngàỵ hôm sau xe com-măng-ca lại đưa tôi từ Hà Nội vào Nghệ An, qua Mường Xén sang căn cứ nước bạn để báo cáo và nhận chỉ thị của anh Bảy (bí danh của đồng chí Cayxỏn Phômvihản) lúc đó đang cùng anh Tám (bí danh của đồng chí Khămtày Siphănđon) có mặt ở đây để tiếp đón tiểu đoàn 2 Pathét Lào vừa mới thoát vây từ Cánh đồng Chum về đến căn cứ. Đồng chí Tổng Bí thư của Đảng Nhân dân Lào đã nghe kỹ báo cáo kế hoạch của tôi và những ý kiến chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đồng chí hỏi thêm tôi chi tiết đường đi, thời gian đi đường..! Tôi báo cáo rành rọt: "Tổ chúng tôi chia 2 đường. Tôi đi trước vào Ròn (Quảng Bình), vượt Trường Sơn qua đất Mahaxay (tỉnh Khăm Muộn của Lào) vượt Mê Kông sang đất Thái đi ô tô trong nội địa rồi thuê ca nô sang nội thành Viên Chăn. Dự kiến đi nhanh nhất cũng mất 15 ngày: tôi phải khẩn trương vào nội thành trước để móc nối liên lạc với các cơ sở bí mật nắm tình hình giam giữ các đồng chí bị bắt, sau đó mới ra căn cứ Loong Tòn, đến điểm hẹn tập kết của tổ công tác đặc biệt chúng tôi, cũng là nơi chúng tôi sẽ tỏa đi tìm các đồng chí Tỉnh ủy Viên Chăn ở vùng căn cứ kháng chiến cũ này - còn bộ phận thứ 2 do tổ phó Trương Văn Quý và nhóm anh em trinh sát đặc công mang theo điện đài và vũ khí nhẹ hành quân theo đường Mường Xén qua đất Xiêng Khoảng và Borikhâmxay đi ngược lên Năm Nghiệp, Năm Săn, Năm Lịch, vượt đường 13 sang Mường Phương, Loong Tòn. Vì đi giữa mùa mưa, đi nhanh nhất cũng mất 30 ngày". Nghe tôi báo cáo xong, anh Bảy nói: "Tôi hoàn toàn đồng ý với kế hoạch dự kiến của đồng chí và các ý kiến của anh Văn. Đồng chí Dĩnh đi tôi rất tin tưởng và yên tâm vì đồng chí là tỉnh ủy viên cũ của Đảng bộ Viên Chăn đã thông thạo đường đi lối lại, đã quen biết các cơ sở ở nội, ngoại thành. Đồng chí Xuphanuvông cũng đã biết đồng chí thời kỳ ở Na Mèo. Đồng chí khẩn trương sang bên ấy càng sớm càng tốt, sang đến nơi điện về ngay, tôi sẽ trực tiếp chỉ đạo việc này; cố gắng tìm được đồng chí Salyvông Khămsao (Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Lào) nghe nói cũng đã từ nội thành chạy ra vùng Loong Tòn, đang ở cùng đồng chí Thit Muôn và đồng chí Chan Mi (là 2 đồng chí ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân Lào, quê gốc ở Loong Tòn). Ngừng một lát, đồng chí nhấn mạnh với giọng nói đanh thép: "Mỹ và tay sai đã lật lọng xé bỏ Hiệp định Giơnevơ 1954 về Lào, đã phá hoại chính phủ liên hiệp và chính sách hòa bình trung lập hòa hợp dân tộc của Lào - cách mạng Lào đang ở thế "ngàn cân treo sợi tóc", phải gắn chặt việc giải thoát các đồng chí lãnh đạo bị giam giữ với việc triển khai nghị quyết chuyển hướng chiến lược phát động trở lại chiến tranh du kích song song với đấu tranh chính trị trên toàn quốc Lào, có chuyển hướng như vậy mới phục hồi và duy trì được cơ sở quần chúng yêu nước và phong trào đấu tranh của nhân dân, có phong trào đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị của nhân dân mới có điều kiện để giải thoát các đồng chí bị bắt giam được". Huấn thị của đồng chí Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào đã trở thành điều tâm niệm của tôi trong suốt hành trình đi làm nhiệm vụ đặc biệt đột xuất này. Đó là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động trong bất kỳ công tác nào của tôi và của mọi cán bộ, bộ đội Cụ Hồ sang Lào làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, cũng đều phải "lấy dân làm gốc”, đều phải dựa vào dân, xây dựng cơ sở nhân dân yêu nước và phong trào đấu tranh của nhân dân chống đế quốc xâm lược và tay sai, kể cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này. Thế là tôi lại vượt Trường Sơn vào một ngày đầu tháng 6 năm 1959, tiếp tục đi trên con đường "giúp bạn là tự giúp mình" mà lúc đó tôi không thể ngờ rằng con đường đầy gian nan này đã kéo dài suốt cả cuộc đời công tác của tôi. Cuộc giải thoát 16 nhà lãnh đạo và cán bộ Neo Lào Hắc Xạt ra khỏi trại giam Phôn Khênh - Viên Chăn đã thành công tốt đẹp vào đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, trở thành kỳ tích có một không hai mà hàng chục năm sau đối phương vẫn không hiểu được đoàn tù nhân lớn như thế, quan trọng như thế đã thoát ra bằng cách nào, theo con đường nào mà chúng huy động bao nhiêu lực lượng để truy lùng, lục soát, kể cả sử dụng quân nhảy dù vây chặn các hướng trong nhiều tháng trời mà vẫn không tìm ra. Chúng không biết được, không tìm ra được vì chúng không hiểu được các lãnh tụ Mặt trận Lào yêu nước dù ở trong hay ở ngoài ngục tù đều đã hết lòng phục vụ nhân dân, đã ẩn náu trong lòng dân, đi con đường của nhân dân, được nhân dân đùm bọc: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:27:56 pm 2. Hành quân bí mật đến mục tiêu
Theo kế hoạch đã dự kiến, xe com-măng-ca đưa tôi vào Ròn (Quảng Bình). Đường giây A25 của Trung ương đưa tôi vượt Trường Sơn sang đất Lào thuộc tỉnh Khăm Muộn. Chúng tôi không "xẻ dọc" Trường Sơn mà là "xuyên ngang" Trường Sơn - không phải là vượt qua một ngọn núi mà là các dãy núi trùng điệp, lớp lớp, hết ngọn thấp đến ngọn cao và ngược lại, hết dòng suối này đến mỏm thác kia, hết rừng rậm đến rừng thưa, hết nương rẫy này đến cánh đồng khác, có lúc ngày đi đêm nghỉ, có lúc ngày nghỉ đêm đi và ngủ trên võng, vẫn là vai mang ba lô, lưng đeo bao gạo và ống muối, vẫn là gối mỏi, chân chồn; mỗi chặng dừng chân nghỉ là có thể ngủ thiếp ngay trên thảm lá rừng hay trên phiến đá giữa lòng suối rộng. Cứ như vậy tôi đã đến địa điểm đã định là một ngôi làng bên bờ sông Mê Kông ở phía nam Thakhek đối diện với đất của Thái Lan. Mọi hành trang đi rừng đã được bở lại. Tôi mặc một bộ đồ cộc màu chàm, lưng quấn chiếc phá phe (khăn rằn) và vượt sông Mê Kông trên một con thuyền của dân đánh cá trên sông lúc 9 giờ đêm. Tất cả trong bóng tối, tất cả trong im lặng và mọi việc đều phải rất nhanh chóng. Không có chào hỏi, không có bắt tay tạm biệt - anh em giao liên bàn giao tôi cho một cơ sở Việt kiều rồi quay thuyền trở về bờ Lào ngay tức khắc. Thế là vượt Trường Sơn, vượt Mê Kông an toàn và nhanh chóng hơn dự kiến, trù tính mất 10 ngày mà chỉ đi có 7 ngày. Đêm hôm đó, tôi đã được gặp đồng chí Lê Văn Đại, lãnh đạo Việt kiều toàn Thái (lúc đó anh Đại là Bí thư Đặc ủy Việt kiều). Các đồng chí lãnh đạo Việt kiều cũ đều quen biết tôi, thậm chí rất thân thiết, từ thời tôi còn làm phó bí thư khu ủy Việt kiều U Đon (1949-1950) và đều biết tôi bấy lâu là tỉnh ủy viên tỉnh Viên Chăn công tác ở Lào. Các đồng chí thấy tôi đều mừng rỡ và chỉ biết tôi trở lại Lào tiếp tục nhiệm vụ cũ, chứ không biết gì về nhiệm vụ đặc biệt lần này. Mặc dù lúc này chính quyền quân phiệt Thái Lan vẫn đang khủng bố Việt kiều, các cán bộ lãnh đạo của Việt kiều đều phải sống bí mật chui lủi, nhưng gặp tôi các đồng chí mừng rỡ và đều hết sức giúp đỡ; thông báo tình hình, hướng dẫn đường đi lối lại, giới thiệu cơ sở chỗ dựa để đi lậi, lo lót làm giấy tờ tùy thân, v.v... Mặc dù xa đất Thái đã lâu, nhưng sinh hoạt, lối sống, phong tục, đường sá ở đây tôi vốn thông thạo từ trước và vẫn chưa khác trước là mấy. Hôm sau, tôi mặc áo kẻ sọc, quần ka ki cũ, đóng vai một thanh niên Thái đi thăm bà con và tìm việc làm, đón xe khách ở dọc đường cuối thị xã, đi qua tỉnh Sakôn Nakhon rồi đến U Đon vào ngủ tại nhà cơ sở cũ là nhà ông Cu Mộc, hôm sau đi tàu hỏa ra Nỏng Khai rồi đi thuyền máy ngược lên Tha Bo. Thời tôi còn làm tỉnh ủy viên (1955-1957) Tỉnh ủy Viên Chăn cũ đã bố trí một trạm liên lạc tại đây - đó là nhà bà Lan. Bà làm giá đậu, bán ở chợ. Giao liên của Tỉnh ủy Viên Chăn là bà mẹ Phăn ở Đông Na Sộc và mẹ Uđôm cùng với con gái là Nang Thoong ở Noỏng Xạ đã được đưa sang giới thiệu với bà Lan và qua lại với nhau nhiều năm nay. Mỗi khi có việc, một trong ba người nói trên lại từ Viên Chăn sang Tha Bo đóng vai như mọi người buôn bán qua lại sông Mê Kông hàng ngày. Bà Lan cho tôi biết đã lâu rồi, nhất là từ sau tổng tuyển cử ở Lào đến nay đã hơn 1 năm không thấy các bà Lào sang. Tình hình hiện nay ở Viên Chăn địch đang khủng bố Neo Lào Hắc Xạt, bắt bớ rất nhiều. Tôi nhờ bà Lan liên lạc với anh Phước phụ trách trạm giao liên này. Được tin tôi sang anh đã đến gặp tôi ngay, theo yêu cầu của tôi, đưa tôi lên huyện Xixiêng Mạy đối diện với thành phố Viên Chăn và giới thiệu cho tôi gặp chị Nụ bí thư chi bộ ở địa phương và em gái là Lý Thị Sửu giao thông viên cùng trạm. Hai người đã biết tôi và cùng tôi hoạt động ở cơ sở Hội Việt kiều cứu quốc từ hồi còn cùng ở U Đon (1946-1950). Các chị biết tôi công tác ở Lào nhưng không biết tôi làm gì. Tôi về ở nhà anh Sinh, một gia đình Thiên Chúa giáo, sống bằng nghề làm vườn trồng rau ở Đon Cò - là một xóm Việt kiều trồng rau ở cách xa thị trấn hơn 2km. Tôi đóng vai một người em họ của chị Sinh từ Khorat (Thái Lan) ra thăm anh chị và tá túc ít lâu để kiếm việc làm. Thế là mới chỉ cách đây hơn 10 ngày tôi còn ở Ròn trên đất Việt Nam mà hôm nay đã đứng ở ven sông Mê Kông huyện lỵ biên giới Thái - Lào để nhìn sang thành phố Viên Chăn sáng rực ánh đèn. Vượt núi, vượt sông qua hai lần biên giới đã diễn ra nhanh hơn tính toán ban đầu. Tôi vừa mừng thầm và tăng thêm tin tưởng vào các cơ sở cách mạng đã giúp đỡ tôi vẫn còn nguyên vẹn, vừa tự tin hơn vì đã vượt qua khó khăn bước đầu. Tuy nhiên, nỗi mừng đó chỉ là chốc lát và tình hình liên lạc đã khó khăn hơn nhiều so với dự kiến. Tôi đã thông qua trạm giao liên của Tỉnh ủy Viên Chăn nhắn tin theo quy ước cũ cho mẹ Phăn sang Tha Bo gặp bà Lan, nhưng một tuần rồi không có hồi âm. Như thế là đường dây liên lạc với Tỉnh ủy Viên Chăn đã bị gián đoạn. Tôi không đợi được nữa và quyết định tự mình trực tiếp sang nội thành Viên Chăn để nắm tình hình và bắt liên lạc. Tôi trà trộn trong đám người Lào, người Thái, người Hoa buôn bán, chở hàng và đi giao dịch qua lại trên sông Mê Kông bằng ca nô và thuyền gắn máy. Tôi qua cửa khẩu 2 bên sông trình giấy đàng hoàng với dáng vẻ tự nhiên nên không ai chú ý. Sang đến Văttay tôi thuê taxi tọt nhanh vào thành phố. Sau khi kiểm tra không có "cái đuôi" nào theo, tôi tìm đến nhà cơ sở cũ của tỉnh ủy ở Hoong Khà tên là ông Phò Bốt làm thợ nể ở sân bay Văttay, con gái ông có chồng làm bếp cho Tây cũng đã biết tôi từ hồi tôi phụ trách công tác nội thành của tỉnh ủy, thỉnh thoảng từ căn cứ đột nhập vào thành phố, tôi vẫn lấy đây làm chỗ dựa. Chiều tối ông Phò Bốt đi làm về. Khỏi phải nói sau phút ngỡ ngàng ông và tôi gặp nhau đều mừng rỡ như thế nào. Tôi đã yêu cầu ông cho con gái đến nhà mẹ Phăn xem tình hình thế nào, sau đó ông sẽ về quê Na Nhang (ở phía bắc nội thành 22km - 1 làng hẻo lánh dựa vào chân núi Phu Phăng) là nguyên quán của ông Phò Bốt nơi trước đây tôi đã trực tiếp xây dựng cơ sở căn cứ đóng cơ quan lãnh đạo của tỉnh, phụ trách địa bàn đồng bằng Tulakhôm - Phôn Hông và nội thành Viên Chăn (1956-1957). Phò Bốt về quê cử người đi Loong Tòn tìm liên lạc với các tỉnh ủy viên cũ. Tôi tiếp tục ăn ở tại nhà Phò Bốt, để chờ liên lạc với tỉnh ủy, đồng thời tranh thủ đi tìm liên lạc với 4 đồng chí cơ sở của Cục Nghiên cứu để nắm tình hình - ngày ngày tôi ra khỏi nhà Phò Bốt, lúc thì ban ngày, lúc thì chập tối, hôm thì quần áo chỉnh tề, đầu bôi bri-ăng-tin bóng lộn, hôm thì mặc áo màu chăm, đi dép tông như một người thợ, có hôm đi bộ, có ngày đi xe đạp. Tôi đã nối được liên lạc với 2 đồng chí theo đúng quy ước. Trong đó đồng chí Long (bí danh là Biên) là đồng đội quen biết từ trước khi còn cùng ở Đoàn 83, nguyên là một giáo viên Việt kiều. Còn đồng chí Trinh là người Nam Bộ, một đại đội trưởng đã từng nổi tiếng ở đồng bằng sông Cửu Long, nay làm viên chức cho một hãng tư nhân. Còn 2 đồng chí nữa thì không còn ở Viên Chăn mà 1 đã rời đi ở Thakhek và 1 đã trở về Sài Gòn. Việc nối liên lạc giữa 2 người của tổ chức trong vùng đối phương kiểm soát bao giờ cũng đòi hỏi rất công phu, cẩn trọng nên cũng mất rất nhiều thì giờ. Nào là đi tìm nhà, tìm nơi làm việc, nào là đi lại nhận dạng, quan sát, nào là mai phục theo dõi xem các mối quan hệ có gì đáng nghi ngờ cảnh giác, xem thói quen và giờ giấc sinh hoạt để xác định địa điểm, thời gian gặp gõ hợp lý nhất, ít bị người khác chú ý và nhất là không bị mật thám nghi ngờ theo dõi. Sau khi nối được liên lạc tôi đã đến ở tại một mảnh vườn của đồng chí Long. Ở ngoại ô, vườn trồng ngô, khoai sắn, có một ngôi nhà sàn nhỏ ở giữa vườn nơi đồng chí Long thỉnh thoảng ra trồng trọt, trông nom vườn và nghỉ ngơi cùng bạn bè hoặc vợ con. Đồng chí có một xe ôtô Renault hạt mít (2 chỗ ngồi) để đi làm, đi vườn, và trang bị cho tôi 1 xe đạp để tôi tiện đi lại ra vào thành phố. Còn đồng chí Trinh chưa đưa được vợ con ở Nam Bộ lên, vẫn sống độc thân dựa vào một gia đình Việt kiều yêu nước có con trai ở Hà Nội. Tôi đã làm việc với 2 đồng chí này nhiều buổi, tất nhiên ở địa điểm, thời gian khác nhau với tư cách là phái viên của cấp trên xuống chỉ đạo giao nhiệm vụ và nghe báo cáo của các đồng chí theo các yêu cầu điều tra. Quả thật nếu không có 2 đồng chí này thì tôi mù tịt. Làm sao biết được tình hình chính trị, quân sự tại chỗ, làm sao nhanh chóng nắm bắt được tình hình bắt bớ giam cầm khủng bố Neo Lào Hắc Xạt... Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:29:38 pm Chính lúc này - chính xác là ngày 26 tháng 7 năm 1959 phái hữu do Phủi Sananikon làm thủ tướng đã trắng trợn ra lệnh bắt giam Hoàng thân Xuphanuvông, các nhà lãnh đạo và một số cán bộ của Mặt trận Lào yêu nước Neo Lào Hắc Xạt tổng cộng 16 người.
Mọi người bình thường cứ tưởng là họ tống giam các vị vào nhà tù Săm Khê của thành phố, một nhà tù được xây dựng to nhất và kiên cố nhất nước Lào, có khu dành riêng cho tù chính trị. Nhưng không phải vậy, qua điều tra tìm hiểu của các đồng chí trên, họ đã giam các vị ở một nhà giam bí mật mới lập trong trại lính Phôn Khênh - nơi đóng trụ sở Bộ Tổng tư lệnh quân đội Vương quốc, vẫn ở trong nội thành nhưng cách trưng tâm khoảng 4km. Sở dĩ phải giữ bí mật nơi giam giữ vì họ biết uy tín của Hoàng thân Xuphanuvông và Neo Lào Hắc Xạt rất lớn, họ đề phòng quần chúng nhân dân biểu tình kéo đến nhà tù Săm Khê đòi thả các vị bị giam, v.v... Để thẩm định, xác minh và biết thêm về trại giam bí mật ở Phôn Khênh, tôi đã trà trộn trong đám dân chúng đi chợ, đi làm, đóng vai người đi vào các xóm làng ở mé bên kia cánh đồng phía sau trại lính này để thu mua nông thổ sản và gà vịt về bán. Thời đó trại lính Phôn Khênh chưa có tường xây bao quanh như bây giờ, cũng chưa có tòa nhà xây 4 tầng như hiện nay, chỉ có 3 dãy nhà sàn chạy dài là nơi làm việc, phía trước là 1 sân cỏ rất rộng, có bãi cỏ trồng cột cờ và có sân đá bóng. Xung quanh là hàng rào dây thép gai sơ sài. Phía sau là một số dãy nhà sàn thấp cho lính ở. Còn nhà giam chỉ là 1 dãy nhà tôn, ở một góc gần vườn chuối cách xa các dãy nhà sàn khoảng hơn 100m, tường bằng các tấm tôn ghép lại, mái cũng lợp tôn, chỉ có 1 cửa ra vào bịt tôn. Tôi đã vẽ ra trong óc một bản đồ của trại giam này, với tất cả chi tiết và đường đi lối lại cần thiết cho 1 cuộc tiềm nhập hay 1 cuộc tập kích hoặc 1 chuyến ra vào giả trang làm lính gác để thoát ngục, v.v... Tôi sốt ruột đợi Phò Bốt cử người đi Loong Tòn trở về để tôi sớm ra căn cứ làm việc với tỉnh ủy - và ngày ấy đã đến. Giao liên của tỉnh ủy là mẹ Uđôm đã đến gặp tôi ở nhà Phò Bốt với thông tin của đồng chí Thit Muôn và đồng chí Chan Mi nhắn tôi và hẹn tôi ngày N tức là 5 ngày nữa sẽ có giao liên về Tha Bo đón tôi sang căn cứ Loong Tòn. Hôm sau tôi cấp tốc thuê thuyền gắn máy trở về Xixiêng Mạy trà trộn trong đám dân buôn và hành khách qua lại cửa khẩu. Tôi đã thực sự sốt ruột và lo lắng - nếu không tìm được, không bắt liên lạc được với tỉnh ủy thì lời Đại tướng vẫn còn vẳng bên tai: "Mọi việc do bạn quyết định" sẽ ra sao nếu không có tỉnh ủy bạn? Ta có tự làm không? và làm bằng cách nào? Bộ phận đồng chí tổ phó Trương Văn Quý đi sau, bây giờ đã đến đâu? Ở đâu? Đúng lúc sốt ruột nhất thì đúng hẹn giao liên của Tỉnh ủy Viên Chăn đến: đó là Phò Pha và Phò Bua Sỉ mà tôi đã biết từ trước. Mừng rõ nhất là Phò Pha mang theo 1 thư ngắn viết bằng mực hóa chất trên một tờ giấy báo bọc xôi, thư của đồng chí Trương và Quý báo vừa mới đến bản Cụa ở Loong Tòn ngày hôm qua và đã gặp được đồng chí Thít Muôn và Chan Mi ở đó, anh em cùng đi đều bình yên mạnh khỏe và đang đợi tôi. Hôm sau tôi lại cải trang thành dân buôn đi tìm nông, lâm thổ sản, theo Phò Pha và Phò Bua xuống thuyền gắn máy đã thuê sẵn khi 2 người từ căn cứ ra sông Mê Kông đi xuôi xuống nay lại chạy ngược lên, đi bên bờ Thái đến "bến hẹn" thì nhanh chóng tạt sang bờ Lào ở giữa rừng cách nội thành Viên Chăn hơn 30km, thuyền cấp tốc đổ chúng tôi lên bờ rồi quay lại ngay. Lại trèo núi xuyên rừng đi theo đường voi đi, ngủ 1 đêm dọc đường, sẩm tối hôm sau chúng tôi đến căn cứ bản Cụa. Trong đêm tối mọi người mừng không tả được, ôm chầm lấy nhau, vui sướng nhất là tôi gặp đủ mặt đồng chí Saly Vôngkhămsao và các đồng chí Thit Muôn, Chan Mi, Thoongpen, Phò Tiêng. Bấy lâu lo chạy khủng bố mỗi người một túp lều, mỗi người một mảnh rẫy quanh vùng, nay nghe tin ông Phò Bốt từ Na Nhang về liên lạc báo tin tôi sang, các đồng chí đã tự động đi tìm nhau tụ họp ở nơi căn cứ đóng cơ quan cũ. Sau bữa cơm tối chúng tôi hẹn nhau hôm sau sẽ họp làm việc cả ngày. Tôi rẽ sang lán trại bộ phận đồng chí Trương Văn Quý ở cách lán trại của tỉnh ủy chừng 20m, có thể gọi và nghe tiếng gọi của nhau nhưng không nhìn thấy nhau vì rừng rậm lắm. Anh em đã báo cáo và kể chuyện cho tôi nghe cuộc hành quân đúng 1 tháng 7 ngày mới tới được Văngmạ để đi sang Loong Tòn và 3 ngày sau nhờ đường dây giữa các làng ở vùng căn cứ này báo tin nên đồng chí Chan Mi cử người đi đón anh em ở Văngmạ. Mặc dù không biết anh em sang làm gì, nhưng biết là anh em Việt Nam ở Hà Nội mới sang theo đường dây cũ của tỉnh ủy là cứ đi đón đã. Thế là các đồng chí đã đến căn cứ tỉnh ủy trước tôi 5 ngày, không sai lệch kế hoạch ban đầu là bao. Theo đồng chí Quý và anh em kể lại thì hành trình này gian khổ hơn nhiều so với hành trình của tôi. Tuy không "xẻ ngang Trường Sơn" nhưng là "xẻ dọc" các triền núi cao phía bắc tỉnh Viên Chăn và Bolikhăn, phải vượt qua nhiều sông suối giữa mùa mưa lũ trong đó có Năm Nghiệp, Năm Săn, Năm Ngừm và Năm Lịch, có đoạn qua đất Xiêng Khoảng phải tự tìm đường cắt rừng mà đi, sang đất Bolikhăn mới bắt liên lạc được với đường dây cũ của Tỉnh ủy Viên Chăn, từ đó có cơ sở du kích cũ ở từng làng dẫn đường đi xuyên rừng tránh xa đồn địch, anh em không đi qua làng mạc, chỉ có đường dây vào bắt liên lạc với cơ sở ở làng tiếp theo để bàn giao đi tiếp. Vì đường dây trong rừng lâu ngày không sử dụng tới, nhiều cây có vết chặt đánh dấu đường đi không còn, nên người địa phương dẫn đường nhiều khi vẫn bị lạc, mất nhiều thời gian lòng vòng và mất sức nhiều, đến được rìa làng, trời tối mịt, bụng đói lả vẫn phải ngồi đợi để giao liên vào làng tìm cơ sở và tìm đồ ăn tiếp tế. Đồng chí Quý người to cao trông khỏe thế mà gần đến Văngmạ còn bị lên cơn sốt rét. Anh em phải cho nằm võng và thay nhau cáng đi. Còn đồng chí Vinh thì một mình đeo trên lưng bộ điện đài nặng hơn chục cân, kiên quyết không cho người khác vác giúp, sợ anh em vấp ngã làm hỏng đài. Vậy mà cứ dừng ở chặng nghỉ nào là lập tức lên đài làm việc ngay. Trung tâm ở nhà trực liên lạc với đài này liên tục 24 giờ, ở nhà thường xuyên thông báo tình hình địch ở dọc đường cho đoàn đi đề phòng và đối phó. Anh em đặc công thì ngoài mang vác vũ khí và đảm nhiệm mang bộ Ragônô1 (Ragônô: Máy phát điện quay tay, trang bị của quân đội Mỹ), mỗi chặng dừng chân lại thay nhau quay máy để phát điện cho đồng chí Vinh làm việc. Nhìn anh em tuy đã được nghỉ ngơi mấy ngày nhưng vẫn còn phờ phạc, hốc hác vì hành quân liên tục hơn một tháng trời trên rừng, trên núi, qua sông qua suối, ai nấy đôi mắt sâu hoắm nhưng ánh mắt đều tinh nhanh, phấn khởi vì đã đi đến đích an toàn và bí mật. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Bảy, 2021, 07:08:43 pm 3. Cùng bạn chuẩn bị
Tại căn cứ Nặm Tòn này, sau một thời gian xa cách, trốn tránh, chui lủi, nay tỉnh ủy và chúng tôi lại gặp nhau, mọi người đều vui mừng phấn khởi trào nước mắt. Khi được nghe phổ biến nghị quyết chuyển hướng chiến lược và các chỉ thị của Trung ương bạn, các đồng chí đều hoàn toàn nhất trí và phấn khởi. Dưới sự chủ trì lãnh đạo của đồng chí Thít Muôn, Chan Mi, Saly Vôngkhămsao, các đồng chí đã phân công nhau đi nắm lại cơ sở, lãnh đạo quần chúng chuyển hướng đấu tranh. Chẳng bao lâu các cán bộ, chiến sĩ Pathét Lào cũ bấy lâu thoát ly ra ở rừng khi phái hữu bắt đầu khủng bố, bắt bớ, nay đều được tập hợp lại thành các đội vũ trang tuyên truyền đi khắp các huyện triển khai nghị quyết, phục hồi lại cơ sở du kích và phong trào đấu tranh của quần chúng. Đặc biệt, điện đài và cơ yếu của tổ chúng tôi ngoài việc chuyển báo cáo tình hình và tin tức về Cục và Bộ Quốc phòng ta còn làm nhiệm vụ giúp Tỉnh ủy Viên Chăn liên lạc với Trung ương Đảng bạn ở Sầm Nưa, do đó cả tỉnh ủy bạn và tổ chúng tôi đều thường xuyên nhận đựợc sự chỉ đạo của cấp trên của mình. Điện đài cơ yếu của tổ lúc đó thực sự là mạch máu duy nhất đối với hoạt động trong cơ thể phong trào cách mạng ở Viên Chăn và đối với kế hoạch giải thoát các lãnh tụ Lào lúc bấy giờ. Riêng tôi, căn cứ theo các nguồn tin mật trong nội thành và tự mình quan sát đã báo cáo với Tỉnh ủy và báo cáo Trung ương qua điện đài về tình hình chính trị nội thành Viên Chăn, tình hình giam giữ các đồng chí trong tù, đã vẽ lại được sơ đồ nhà giam Phôn Khênh. Nhà giam đặc biệt này vốn là một chuồng ngựa được cấp tốc cải tạo, gia cố lại, quây vách, lợp mái và ngăn buồng đều bằng tôn, chiều dài khoảng 30m, chia làm 2 dãy buồng mỗi buồng rộng 2m, dài 3m. Cuối dãy có một buồng vệ sinh, xung quanh nhà giam là 3 lớp hàng rào bằng tôn và bằng dây thép gai. Lực lượng canh gác trại giam và quản chế tù do một đại đội hiến binh đảm nhiệm vòng trong, một tiểu đoàn hiến binh đảm nhiệm vòng ngoài, được trang bị 2 xe AM (bọc thép), hàng ngày tuần tra canh gác liên tục suốt ngày đêm, có 2 đèn pha ở 2 góc sân, chiếu rọi ban đêm. Đó là chưa kể đến lực lượng bảo vệ mục tiêu cơ quan Bộ Tổng tư lệnh cũng đóng gần kể và cũng do đại tá Lăm Ngơn chỉ huy. Căn cứ vị trí và tình hình đối phương bố trí lực lượng, phương tiện phòng vệ như vậy, tôi đã đề xuất ý kiến trong phiên họp bàn đầu tiên là: "Không còn khả năng tập kích giải cứu bằng đặc công vì không an toàn và chỉ còn một khả năng duy nhất là nối liên lạc, chuẩn bị cơ sở bên trong rồi đưa ra bí mật bất ngờ về căn cứ của tỉnh khi thời cơ thuận lợi". Ý kiến trên được cuộc họp bàn nhất trí và được báo cáo về Trung ương Đảng bạn, Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản đã điện hồi âm đồng ý, thông báo thêm rằng Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc Ha-mác-dôn đã lập văn phòng đại diện ở Viên Chăn để theo dõi sát tình hình Lào, cho nên cần tăng thêm cảnh giác, mặt khác đã quyết định cho Tỉnh ủy Viên Chăn lập ra Ban chỉ đạo kế hoạch giải thoát do đồng chí Saly Vôngkhămsao phụ trách, phía bộ đội tình nguyện Việt Nam do tôi - tổ trưởng Phan Dĩnh được Quân ủy Trung ương chỉ định giúp bạn. Ban chỉ đạo đã quyết định bắt tay vào làm 3 việc lớn: a) Phát động đấu tranh chính trị quân sự trong toàn tỉnh: Về chính trị, gây dư luận trong nội, ngoại thành Viên Chăn phản đối việc bắt giam trái phép các nhà lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt và đòi trả lại tự do cho các vị đó càng sớm càng tốt. Việc này các cán bộ nội thành và các huyện lỵ đã thực hiện rất có hiệu quả, qua vận động giới báo chí, giới luật sư, thanh niên, sinh viên, trí thức, nhất là vận động các chùa chiền, các nhà sư tổ chức các cuộc tụng kinh niệm phật có quần chúng tham gia để cầu nguyện cho Hoàng thân Xuphanuvông và các vị lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt sớm được tự do. Ở Trung ương còn vận động Hội luật gia Quốc tế cử luật sư đến Viên Chăn để theo dõi can thiệp. Việc này đã làm cho địch gặp khó khăn lớn, buộc chúng phải trì hoãn nhiều lần việc đưa ra tòa xét xử công khai, về quân sự, thực hiện chỉ thị đẩy mạnh đấu tranh khôi phục các cơ sở du kích ở các vùng căn cứ, tỉnh ủy đã chọn trong số du kích thoát ly ở các huyện đưa về căn cứ giao cho 4 sĩ quan đặc công ta do đồng chí Ngôn phụ trách tiến hành huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật đặc công như tập kích, bắt cóc, đánh đồn... Sau một tháng huấn luyện xong, anh em đầu tiên diệt đồn Mường Phương bắt một số tù binh thu toàn bộ vũ khí, rồi tổ chức tuyên truyền vũ trang khắp vùng và tung tin tiểu đoàn 2 Pathét Lào đã về đến Viên Chăn, do đó đã tác động lớn trong việc làm cho binh lính địch hoang mang, gây khí thế chuyển hướng chiến lược trong toàn tỉnh. Sau trận này bộ phận đặc công ta được lệnh rút về nước kết hợp đã tháp tùng 2 đồng chí Trung ương bạn về căn cứ phía bắc được an toàn. Chỉ còn tôi và đồng chí Quý tổ phó cùng thông tin cơ yếu ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ giúp bạn thực hiện kế hoạch giải thoát các lãnh tụ bị giam. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Bảy, 2021, 07:09:25 pm b) Xây dựng cơ sở trong tù và tổ chức liên lạc với chi bộ nhà tù:
Vấn đề đầu tiên được Ban chỉ đạo đặt ra bàn là làm thế nào để đưa đồng chí Saly Vôngkhămsao và đồng chí Xiêng Phiên (cán bộ trẻ của tỉnh ủy) vào được nội thành an toàn bí mật để chắp nối với đồng chí Khămpheng Bupha là nữ nghị sĩ của Mặt trận Lào yêu nước trong Quốc hội Vương quốc và bà Khăm Sức là vợ đồng chí Phummi Vôngvichít, rồi từ đó móc nối với các cơ sở khác, tìm cách liên lạc vào bên trong trại giam. Đồng chí Saly và Xiêng Phiên đều đã lộ mặt ở các cơ quan đại diện Neo Lào Hắc Xạt khi mới ra công khai tại Viên Chăn, khó có thể đi công khai đàng hoàng theo đường ô tô qua nhiều trạm kiểm soát dọc đường 13 để vào nội thành. Sau khi xem xét nghiên cứu địa hình, tôi thấy chỉ có tuyến đường sông Mê Kong là địch sơ hở hơn cả, hơn nữa ta lại có cơ sở ở 2 bên sông. Vì vậy tôi đề nghị bạn sử dụng cơ sở là Việt kiều làm trạm giao liên ở bên bờ thuộc đất Thái Lan đối diện với thành phố Viên Chăn. Kế hoạch này đã được bạn nhất trí và đề nghị tôi trở về Thái Lan ngay để chuẩn bị. Sau đó độ mươi hôm, giao liên của bạn đưa Xiêng Phiên đi từ Nặm Thơn luồn rừng ra đến sông Mê Kông đóng vai lái buôn thuê thuyền xuôi xuống huyện lỵ đối diện thành phố Viên Chăn. Tại đó tôi bố trí giao liên của ta đón và đưa hai đồng chí đó về cơ sở bí mật. Hôm sau giao liên ta thuê ca nô cho các đồng chí đóng vai người Thái Lan qua lại buôn bán, mang theo giấy tờ giả, qua thẳng cửa khẩu trên đất Lào. Việc này tôi đã bố trí cho đồng chí Xiêng Phiên đi trước vài lần móc nối với nữ nghị sĩ Khămpheng được thông đồng bén giọt rồi mới bố trí cho đồng chí Saly Vôngkhămsao vào tiếp để chỉ đạo, xong lại quay ra căn cứ theo đường cũ. Bà Khămpheng Bupha đã đi vận động vợ con các vị đang bị giam đến sứ quán các nước phương Tây, Ủy ban Quốc tế, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Tòa án và các bộ của Chính phủ Lào có liên quan, kêu khóc om sòm phản đối phái Vương quốc đã bắt giam trái phép các nghị sĩ và đòi được đến thăm, đòi thả chồng con họ, cuối cùng địch phải cho các bà và các gia đình vào trại Phôn Khênh thăm nuôi đưa quà, thức ăn. Từ đó Tỉnh ủy Viên Chăn đã thường xuyên thông báo cho các đồng chí trong tù biết tình hình bên ngoài, biết Trung ương có nghị quyết chuyển hướng sang đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị, đang chuẩn bị để khi có thời cơ sẽ bí mật đưa các đồng chí thoát khỏi trại giam. Chi bộ trong tù được thành lập từ trước do đồng chí Nủhắc làm bí thư. Chi bộ đã ra nghị quyết phải rèn luyện sức khỏe và mặt khác tiến hành vận động giác ngộ số anh em binh sĩ canh gác trại giam. Từ chỗ các đồng chí bị giam chỉ gọi họ cũng không thưa, sau cho thuốc lá, họ nhận và nói chuyện, dần dần họ giác ngộ và nhận thức được các đồng chí không phải là tội phạm. Kết quả đã vận động được một tiểu đội sĩ quan, binh sĩ ngụy, trong đó có quản U Đon và On Xả là những người đáng tin cậy nhất. Quản U Đon trở thành cầu nối liên lạc giữa lãnh đạo trong tù và bà Khămpheng ở bên ngoài, từ đó nhà bà đã trở thành địa điểm liên lạc bí mật giữa ban chỉ đạo bên ngoài và chi bộ trong tù do quản U Đon là người liên lạc đắc lực vừa bí mật, vừa an toàn. Đồng chí U Đon, đồng chí On Xả sau này đã trở thành đại tá công an thuộc Bộ Nội vụ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Trong công tác giao thông liên lạc hết sức bí mật và nguy hiểm này, còn phải kể đến công sức đóng góp ngày đêm của rất nhiều cơ sở nổi bật như mẹ Phăn (sau này được Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân nhân dân Lào phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang), mẹ Uđôm, mẹ Koong Khăm (chiến sĩ thi đua toàn quốc), Nang Thoong, v.v... thường xuyên lặn lội từ căn cứ vào nội thành, xông pha qua lại đất Thái Lan bao phen, bao lần giữa sự kiểm soát gắt gao của địch - và còn một số cơ sở Việt kiều khác như gia đình bà Nguyệt, bà Nụ, bà Lan, cô Sửu, ông Đương, ông Phát, anh Vận, ông Phước, anh Nghị, anh Thuần, anh Tân... c) Chuẩn bị phương án giải thoát và tìm đường đưa ra căn cứ: Sau nhiều lần ra vào nội thành, nhiều tháng nghiên cứu bản đồ, thực địa, nhiều lần bàn bạc cân nhắc, Ban chỉ đạo đã quyết định phương án như sau: sẽ cho các đồng chí trong tù cải trang thành lính hiến binh địch, chọn thời cơ cùng đi lẫn vào tiểu đội hiến binh đã được giác ngộ đi tuần ban đêm để thoát ra ngoài. Phương án này đòi hỏi phải tìm được một con đường tắt bí mật đi từ phía sau trại giam Phon Khênh ra khu vực căn cứ cách mạng gần nhất trong đêm để đảm bảo bí mật, an toàn và bất ngờ. Việc tìm con đường này được giao cho nhóm đồng chí Xiêng Xổm vốn là người thông thạo nội thành Viên Chăn và các cơ sở phía bắc thành phố. Sau 3 tháng ròng rã, ngày đêm lần mò điều tra qua các rừng rậm, cánh đồng, nương rẫy của hàng chục làng bản, lúc đóng vai nông dân đi tìm trâu lạc, lúc đóng vai thợ mộc đi cưa thuê, cuối cùng nhóm Xiêng Xổm đã xác định được một con đường vừa băng qua ruộng vừa xuyên qua rừng rất bí mật đã được đánh dấu cẩn thận và được Ban chỉ đạo chấp thuận. Con đường này lấy một mỏm đất có cây Sảm Sả to ở cánh đồng phía bắc cách trại Phôn Khênh khoảng 1km làm điểm tập kết, từ đó băng qua suối Nặm Kiêng, các bản Nọng Tha, Nọng Pha nha, Nặm Kiêng, Na Khunọi... rồi vượt qua đường 13 để sang mỏm Bắc Kít, núi Đàn Sủng, đây sẽ là điểm hẹn đón đầu tiên của Tỉnh ủy Viên Chăn và cũng là điểm căn cứ an toàn đầu tiên. Dự tính sẽ mất khoảng 5 tiếng đồng hồ đi bộ trong đêm, từ Phôn Khênh đến đoạn vượt qua đường 13, tại đó sẽ bố trí trung đội vũ trang chờ sẵn để đưa đoàn đi tiếp từ Đàn Sủng qua núi Pha Năng sang căn cứ Loong Tòn (về phía bắc Viên Chăn 70km) các ngày hôm sau. Những công việc chuẩn bị cho cuộc giải thoát như trên đã được thực hiện một cách âm thầm lặng lẽ, giữ được bí mật tuyệt đối và tiến triển theo đúng kế hoạch. Mặc dù phải trải qưa nhiều gian nan vất vả, hiểm nguy nhưng mọi người đều tận tụy hăng say với niềm tin quyết thắng. Riêng về phần tôi và anh em trong tổ Việt Nam được Ban chỉ đạo phân công, đã thực hiện tốt nhiều khâu công tác quan trọng như: 1. Thường xuyên đột nhập nội thành Viên Chăn với giấy tờ giả để nắm tình hình qua các nguồn tin của cơ sở mật, của Tỉnh ủy bạn và của Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu ta. 2. Tổ chức và duy trì đường dây liên lạc trên sông Mê Kông và bên bờ Thái Lan, đã nhiều lần đưa đón cán bộ bạn từ căn cứ Loong Tòn ra vào nội thành không phải qua trạm kiểm soát của đối phương. Đường dây này chủ yếu dựa vào cơ sở Việt kiều yêu nước. 3. Nghiên cứu dự kiến các tình huống, tham gia ý kiến với Ban chỉ đạo chuẩn bị phương án giải thoát, dự kiến và xác định thời cơ, thời điểm hành động. 4. Bảo đảm liên lạc thông suốt giữa Tỉnh ủy Viên Chăn với Trung ương Đảng bạn qua điện đài, cơ yếu của tổ chúng tôi mang từ Hà Nội sang. 5. Huấn luyện đào tạo một số sĩ quan và chiến sĩ đặc công cho bạn sử dụng khi cần thiết trong cuộc giải cứu lãnh tụ sắp tới. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 08 Tháng Bảy, 2021, 07:13:25 pm 4. Hạ quyết tâm xác định giờ G và giải thoát
Thấm thoát đã 10 tháng trôi qua, chính phủ phản động Lào chưa đưa được, các lãnh tụ Pathét Lào bị giam ra xét xử vì các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng đã thành phong trào khắp nước Lào. Tuy nhiên, chúng đã có phần chủ quan cho rằng các đồng chí này không có ý định và cũng không có khả năng vượt ngục nữa. Trong thời gian đó, các tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa), Phong Saly, Attapư đã được các lực lượng vũ trang yêu nước Lào giải phóng trở lại, nhiều căn cứ và khu du kích ở các tỉnh đã được khôi phục, quân địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Ở thành phố, các công chức, học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân ngoại thành cũng đẩy mạnh đấu tranh chống chính phủ phản động phái hữu của Phủi Sananikon bằng nhiều hình thức. Trong Quốc hội, nhóm nghị sĩ theo xu hướng hòa bình trung lập của ông Kinin Pholsena cũng đấu tranh liên tục. Đế quốc Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng, ngày 4 tháng 1 năm 1960 nhóm sĩ quan công chức trẻ trong cái gọi là ủy ban bảo vệ quyền lợi quốc gia (CDIN) do tướng Phummi Nosavẳn cầm đầu làm đảo chính lật đổ chính phủ Phủi Sananikon đưa Chau Sổmsanit lên làm thủ tướng. Số này đại diện cho bọn phản động cực hữu Lào chủ trương cứng rắn chống phá cách mạng Lào một cách quyết liệt hơn. Ngày 20 tháng 5 năm 1960, chúng tổ chức mít tinh ở thủ đô Viên Chăn do Inpeng Sunhathay cầm đầu hô hào, đòi sớm xét xử và đòi kết án tử hình Hoàng thân Xuphanuvông cùng các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt đang bị giam giữ. Được tin này chi bộ trong tù xin ý kiến ngoài căn cứ: "Bao giờ thì nên tổ chức trốn ra?”. Trung ương trả lời: "Ra càng sớm càng tốt". Quản U Đon đã được trong tù cử ra gặp bà Khămpheng Bupha để nhận ý kiến của ban chỉ đạo về kế hoạch giải thoát. Ban chỉ đạo đã đáp ứng đúng đề nghị của chi bộ trong tù quyết định lấy 0 giờ 30 phút ngày 24 tháng 5 năm 1960 là thời điểm sẽ vượt ngục. Bởi đêm đó là đúng phiên gác trại giam của tiểu đội U Đon. Các đồng chí trong tù yêu cầu giải thoát ra tất cả cùng một lúc và bên ngoài phải cử một đồng chí vào dẫn đường mang theo 30 ổ bánh mỳ, 30 tấm ni lông đề phòng mưa, đồng thời làm vật mang theo để nhận nhau khi có bất trắc. Thực ra chi bộ trong tù hết sức lo lắng cảnh giác, chưa hoàn toàn tin vào khả năng an toàn tuyệt đối. Do đó nêu lên các yêu cầu trên để xem bên ngoài nếu thực sự có tổ chức, có cơ sở vững chắc an toàn mới làm được. Từ đó mọi thành viên mới có quyết tâm vượt ngục ra ngoài mặc dù sự nguy hiểm bất trắc là khó lường hết. Ban chỉ đạo cử đồng chí Xiêng Xổm chiều tối ngày 23 tháng 5 năm 1960 lọt vào trong trại giam với sự nội ứng của U Đon để đúng 0 giờ 30 phút ngày hôm sau dẫn đường các đồng chí trong tù thoát ra khỏi trại giam. Từ 18 giờ ngày hôm đó đồng chí Xiêng Xổm đóng vai anh họ của quản U Đon từ quê Thakhek lên thăm em, đến địa điểm gặp gỡ theo quy ước ở một quán cà phê gần Phôn Khênh, 2 người nhận nhau qua những tấm vải mưa và túi xách đựng bánh mỳ của Xiêng Xổm mang theo, hai anh em sung sướng ôm lấy nhau và U Đon dẫn Xiêng Xổm qua vọng gác của trại Phôn Khênh, rồi đưa vào khu nhà giam một cách dễ dàng, U Đon còn cho lính gác chuyển 16 bộ quần áo lính vào trong nhà giam để chuẩn bị cho các đồng chí trong tù thay. Sau khi Xiêng Xổm trình bày vắn tắt tình hình bên ngoài, kế hoạch và đường đi cụ thể, đồng chí Nủhắc đưa Xiêng Xổm vào ở tạm trong buồng vệ sinh ở để chờ giờ xuất phát, sau đó đồng chí đã hội ý chớp nhoáng trong chi ủy và phân công phổ biến kế hoạch hành động trong tất cả mọi đồng chí. Anh em sốt ruột hỏi sẽ đi đường nào, đồng chí Nủhắc trả lời: "Anh em cứ yên tâm, đã chuẩn bị đầy đủ, đồng chí Phun Sipasót đã biết hết đường, có cả "ải noọng” (quân tình nguyện Việt Nam) bố trí ở bên ngoài". Anh em rất phấn khởi và yên tâm, lặng lẽ khẩn trương chuẩn bị. Vào thời gian đó xung quanh Viên Chăn có nhiều lễ hội Lăm Vông, nhân dân ca hát nhảy múa suốt đêm, U Đon đã khôn khéo cho phép một tên lính chưa thật tin cậy được đổi phiên để vào bản nhảy múa đánh bạc qua đêm, hắn ra đi phấn khởi và tiểu đội cũng nhẹ người. 0 giờ đêm đại tá Lăm Ngơn, chỉ huy trưởng hiến binh theo lệ đến kiểm tra lần cuối trong ngày. Hắn ngó vào từng buồng giam không thấy có hiện tượng gì lạ và trở về nhà riêng. Anh em bắt đầu hành động mau lẹ thay quần áo rằn ri, cải trang thành lính ngụy. Tới 0 giờ 30 phút toàn bộ 16 tù nhân và tiểu đội canh gác xuất phát, chia làm 3 tổ lần lượt đi ra khỏi nhà giam. Mọi người trong lòng đều hồi hộp run run, vừa sung sướng vừa lo âu, dọc đường những tiếng bi đông đựng nước sột soạt, tiếng va chạm của vũ khí vào các tấm tôn bịt cửa, tiếng chó sủa đây đó và ánh sáng đèn pha ở trên tường cao vẫn dội xuống đều đều nhưng những tiếng hát lăm vông ở các bản vọng lại làm anh em trấn tĩnh dần. Đoàn "tuần tra” ra khỏi khu nhà giam, cứ cách 15 phút một tổ, lặng lẽ vượt qua những bụi chuối xung quanh doanh trại rồi nhanh chóng vượt qua các lớp rào dây thép gai. Hàng rào phía sau này chỉ để ngăn trâu bò vào, nên rất sơ sài rồi băng qua những vạt ruộng để tới đúng khu vực tập kết. Đến giờ tập kết, U Đon kêu thiếu một người, đó là em ruột U Đon đang tu ở chùa Thạt Luông, chú này xin theo anh ra rừng chiến đấu, đồng chí Nủhắc đã chấp nhận, U Đon hẹn đúng 0 giò có mặt tại gò này mà nay đã gần 30 phút vẫn chưa thấy, mọi người đều bồn chồn sốt ruột vì nếu không chờ được, cậu ta ở lại và do giận dữ không được đi thì sẽ lộ hết việc. Sau đó khoảng ít phút xuất hiện một bóng đen đầu trọc, chính là cậu ta. Sở dĩ cậu đến chậm vì phải chờ vị sư trụ trì chùa Thạt Luông (cơ sở của Neo Lào Hắc Xạt) làm lễ phá giới cho cậu ta, xong mới được cởi áo vàng. Cậu gấp chạy ra theo kế hoạch, tuy đến chậm nhưng vẫn kịp, mọi người yên tâm phấn khởi lên đường. Đoàn tiếp tục đi đến khoảng 3 giờ sáng gặp một nương rẫy dân mới đốt nên mất dấu vết mà Xiêng Xổm đã chặt trên thân cây, đoàn phải lòng vòng mất khoảng 30 phút mới tìm được đường đi đã đánh dấu. Phần vì sức khỏe, phần vì trời mưa đi trong đêm tối nên đoàn đi chậm hơn dự kiến. Khoảng 4 giờ sáng đoàn mới đến cánh đồng bản Noọng Niêng, trời đổ mưa ngày càng to, nếu đi tiếp giữa cánh đồng, không đến được điểm hẹn trước khi trời sáng như kế hoạch đã tính. Đoàn quyết định tạt vào nghỉ ở một khu rừng gần đó - rừng Đông Boong, bí mật ém lại ban ngày để tối đi tiếp. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 08 Tháng Bảy, 2021, 07:14:00 pm Còn phía trung đội đi bảo vệ đến điểm hẹn đã dàn hàng ngang nằm chờ ở bìa rừng ven đường 13 (cách Viên Chăn 19km) từ nửa đêm đến sáng rõ không thấy động tĩnh gì. Sáng hôm sau tôi vào nội thành tìm hiểu tình hình được biết là đoàn đã thoát ngục rồi, sáng ra địch mới biết và đang tung quân đi lùng sục các ngả đường số 10 lên Tha Ngòn - Bản Kơn, đường 13 đi Paksăn và đi Phôn Hông. Ban chỉ đạo nhận định có thể đoàn đã gặp trở ngại gì, bị kẹt giữa đường và có thể đã bí mật ẩn nấp đâu đó để đến tối sẽ đi tiếp. Ban chỉ đạo đã lệnh cho trung đội đi bảo vệ tiếp tục chờ và vẫn mai phục chỗ cũ từ chập tối ngày 25 tháng 5 năm 1960.
Trong khi đó ở nội đô Viên Chăn địch báo động khắp nơi và cho đi lùng sục khắp vùng phía bắc và đông Viên Chăn để tìm dấu vết, chúng nghi ta dùng ô tô chở những người trong tù đi. Chúng không tìm được tin tức gì vì nhờ trận mưa to trong đêm đã xóa sạch dấu vết của đoàn vượt ngục. Tối đến đoàn vượt ngục tiếp tục lên đường, đội đi đón đến phục sẵn chỗ cũ, 21 giờ anh em thấy bóng người vượt qua đường 13 từ ruộng chạy sang vùng rừng thưa cách điểm hẹn khoảng 100m, trung đội trưởng nhận định đó là đoàn của ta đã đi hơi chệch hướng, nên cho anh em đuổi theo những bóng đen đó. Nghe thấy tiếng chân người đuổi theo, tưởng là địch tuần tra nên đồng chí Xiêng Xổm cho đoàn nhanh chóng tản ra trong rừng, còn mình phục lại để kiểm tra và hỏi mật khẩu, đồng chí Khăm Phổn đội trưởng đi đón vừa chạy tới nghe hỏi đã trả lời đúng mật khẩu và nhận ra tiếng của đồng chí Xiêng Xổm. Thế là hai bên ôm chầm lấy nhau trong đêm tối rồi khẩn trương hối hả cùng nhau leo lên núi Pha Năng trong lòng đầy phấn khởi vì đến đây có thể coi cuộc vượt ngục đã an toàn. Đoàn lên đến mỏm núi Bắc Kít rồi đến Đàn Sủng, ở đây có một ngôi chùa và nhiều hang động, có suối nước chảy róc rách, đây là một danh lam thắng cảnh của địa phương, đoàn vào đến đây đã quá nửa đêm. Sau khi hội ý, Xiêng Xổm quyết định cho các đồng chí vượt ngục ngủ một giấc lấy lại sức để hôm sau đi tiếp, còn 2 trung đội bảo vệ thì bố trí canh gác chu đáo. Mọi người lăn ra ngủ như chết bởi đã hành quân 2 đêm liền quá mệt mỏi, gần kiệt sức. Sáng sớm hôm sau lại leo núi tiếp. Đi được khoảng 2 tiếng, thì đồng chí Saly và một số đồng chí cán bộ của Tỉnh ủy Viên Chăn đến chào đón và dẫn đường vào khu vực căn cứ của Ban chỉ đạo đã được chuẩn bị sẵn lều lán, nơi ăn, chốn ở. Mọi người hầu như không ngớt kể lại cho nhau nghe những chuyện thời sự nóng hổi của địa phương và những ngày căng thẳng trong tù. Vì có anh em lính hiến binh vương quốc cũng thoát ly đi cùng đoàn vượt ngục nên anh em tổ công tác Việt Nam chúng tôi không ra mặt tiếp xúc, họ tưởng chúng tôi là người Lào, là cán bộ Lào. Hôm sau một số trung kiên đại diện cho dân làng Na Nhang lên núi làm lễ Ba Sì, buộc chỉ cổ tay cho đoàn, vừa cảm ơn trời phật đã phù hộ độ trì và cầu chúc cho đoàn được nhanh chóng bình phục sức khỏe để tiếp tục lãnh đạo đất nước. Tỉnh ủy Viên Chăn đã quyết định bố trí đoàn bí mật tạm trú ở căn cứ này một vài tuần để đợt truy lùng của địch qua đi, theo phương châm "cá lẩn trong nước đục" vì ở đây sống ngay sát nách địch là nơi bất ngờ nhất, bí mật nhất và ở đây có cơ sở nhân dân yêu nước ở quanh chân núi là thành trì che chở bảo vệ cho đoàn được vững chắc nhất. Sau khi cách mạng thành công, chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã phong tặng đồng chí Xiêng Xổm, mẹ Phăn và nhân dân bản Na Nhang danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Hiện nay Đàn Sủng và Na Nhang đã trở thành một địa danh lịch sử, một điểm du lịch nổi tiếng của Viên Chăn. Hàng chục năm sau đối phương vẫn không hiểu được đoàn tù nhân lớn như thế, quan trọng như thế đã thoát ra bằng cách nào, theo con đường nào mà chúng huy động nhiều lực lượng để truy lùng, lục soát, kể cả sử dụng quân nhảy dù vây chặn nhiều hướng trong nhiều tháng mà vẫn không tìm ra. Cuộc giải thoát đã thành công mỹ mãn, chẳng những góp phần cứu vãn tình thế đen tối của cách mạng Lào do sự lật lọng của phái hữu phản động mà còn giáng cho chúng một đòn đau bất ngờ, gây hoang mang rối loạn trong hàng ngũ chúng, dẫn đến cuộc đảo chính của tiểu đoàn lính dù do Koongle chỉ huy (9-8-1960). Khi cuộc đảo chính nổ ra ở Viên Chăn, đoàn tù trên đường hành quân về căn cứ phía bắc mới đi đến bản Chiêng, bắc Viên Chăn khoảng 200km, Trung ương Đảng Nhân dân Lào điện chỉ thị cho đoàn chia làm 2 bộ phận: một bộ phận do đồng chí Xuphanuvông dẫn đầu tiếp tục hành quân về Sầm Nưa, lúc này đã được giải phóng. Một bộ phận do đồng chí Nủhắc Phumsavẳn lãnh đạo quay trở lại nội thành Viên Chăn hợp tác với lực lượng trung lập Koongle mở ra một giai đoạn thắng lợi mới của cách mạng Lào trong thời kỳ chuyển hướng chiến lược. Tổ công tác đặc biệt cũng chia hai: đồng chí tổ phó Trương Văn Quý đi bảo vệ đoàn đồng chí Xuphanuvông về đến Hà Nội an toàn, tôi - tổ trưởng Phan Dĩnh trở lại nội thành Viên Chăn giúp bộ phận đồng chí Nủhắc Phumsavẳn vào chỉ đạo và hợp tác với lực lượng trung lập yêu nước. Đến đây nhiệm vụ đặc biệt của 2 đảng, 2 quân đội giao phó cho Tổ công tác đặc biệt chúng tôi đã hoàn thành tốt đẹp. Thành công của cuộc vượt ngục có một không hai trong lịch sử này là do nhiều nhân tố tổng hợp mà trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt quyết đoán của Trung ương Đảng Nhân dân Lào với đồng chí Cayxỏn làm Tổng Bí thư, của chi bộ trong tù và uy tín của các đồng chí lãnh đạo bị giam, sự nỗ lực của Tỉnh ủy Viên Chăn và đội ngũ cán bộ kiên cường của tỉnh. Đó là thắng lợi to lớn của tinh thần yêu nước hướng về chính nghĩa của nhân dân các tầng lớp, các bộ tộc Lào, trong đó có tiểu đội anh em hiến binh Vương quốc và hàng trăm cơ sở yêu nước người Lào cũng như Việt kiều. Tổ công tác đặc biệt Việt Nam đã vinh dự được góp một phần nhỏ bé vào thắng lợi này, cũng là góp phần vun đắp tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt hợp tác toàn diện Việt - Lào. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:39:19 pm DANH SÁCH TỔ CÔNG TÁC ĐẶC BIỆT VIỆT NAM SANG GIÚP BẠN TỔ CHỨC THỰC HIỆN CUỘC GIẢI THOÁT ĐỒNG CHÍ XUPHANUVÔNG VÀ CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO NEO LÀO HẮC XẠT RA KHỎI NHÀ TÙ PHÔN KHÊNH - VIÊN CHĂN NGÀY 24 THÁNG 5 NĂM 1960 1. Đồng chí Phan Dĩnh (tên Lào là Khăm Sỉnh): Tổ trưởng Tổ công tác đặc biệt, nguyên là ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Viên Chăn, là bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Lào, sau Hiệp định Giơnevơ 1954 được giao nhiệm vụ tiếp tục ở lại giúp bạn ở địch hậu Viên Chăn. Năm 1958 về nước, là cán bộ Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 5 năm 1959 trở lại Viên Chăn làm Tổ trưởng Tổ công tác đặc biệt. Sau đó đã hoạt động làm chuyên gia giúp bạn liên tục 37 năm trên đất Lào. Trước khi nghỉ hưu là đại tá chuyên viên của Tổng cục II - Bộ Quốc phòng Việt Nam, nay đã 77 tuổi. Gia đình ở tại số 33 ngõ 69B phố Hoàng Văn Thái - Quận Thanh Xuân - Hà Nội. 2. Đồng chí Trương Văn Quý: Tổ phó Tổ công tác đặc biệt nguyên là bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Trung Lào, sau Hiệp định Giơrievơ 1954 tập kết về nước, là cán bộ Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu. Sau khi các lãnh tụ Lào được giải thoát, đồng chí đã tiếp tục trở lại hoạt động ở vùng địch hậu Viên Chăn, năm 1964 bị bệnh tại vùng căn cứ Nặm Thơn phải về nước điều trị, bị liệt nửa người và sau đó về hưu với quân hàm đại úy. Đồng chí đã mất năm 1991 tại Nam Định và được công nhận là liệt sĩ. 3. Đồng chí Nguyễn Ngôn: Là sĩ quan đặc công trong Tổ công tác đặc biệt. Cán bộ Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu. Đã nghỉ hưu năm 1974 với quân hàm đại úy, hiện nay đã 87 tuổi, đang cư trú ở Tổ 6 Phường Hoa Lư - thành phố Pleiku. 4. Đồng chí Nguyễn Văn Vinh: Là sĩ quan báo vụ viên vô tuyến điện của Tổ công tác đặc biệt. Sau đó có nhiều năm trở lại Lào hoạt động và làm chuyên gia giúp bạn ở Cục 213. Đồng chí về hưu năm 1978 với quân hàm đại úy. Hiện đã 86 tuổi, đang cư trú ở xã Hồng Lạc, huyện Thanh Hà, Hải Dương. 5. Đồng chí Trần Thanh Khiết: Là sĩ quan cơ yếu của Tổ công tác đặc biệt. Đồng chí về hưu năm 1982 với quân hàm thiếu tá, đã mất vì bệnh cao huyết áp năm 1997 tại Phú Bài - tỉnh Thừa Thiên Huế. 6. Đồng chí Trần Văn Điển: Là sĩ quan trinh sát kiêm lái xe trong Tổ công tác đặc biệt. Sau khi công cuộc giải thoát các lãnh tụ Lào đã hoàn thành, đồng chí tiếp tục trở lại hoạt động ở Lào và hy sinh trong một chuyến đi công tác năm 1968. Đồng chí được truy tặng liệt sĩ với quân hàm thiếu tá. 7. Đồng chí Kiều Xuân Đăng: Người Quảng Nam - thiếu úy đặc công - là liệt sĩ đã hy sinh tại chiến trường miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. 8. Đồng chí Du: Người Phú Yên - chuẩn úy đặc công - không rõ hiện ở đâu. 9. Đồng chí Lầu: Người Khánh Hòa - chuẩn úy đặc công - không rõ hiện ở đâu. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:31:50 pm CHIẾN ĐẤU TRONG NỘI THÀNH VIÊN CHĂN 1. Trở lại nội thành: Hai tháng sau khi Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Mặt trận Lào yêu nước Neo Lào Hắc Xạt được giải thoát khỏi ngục Phôn Khênh - Viên Chăn, tình hình nội bộ chính quyền phái hữu Lào hết sức rối ren. Chúng đã tung quân đội, cảnh sát, mật thám... đi khắp các hướng, rải ra khắp nơi, sử dụng cả quân nhảy dù đổ xuống chặn đường, phục kích, lùng sục vùng Phônxảo Ê - núi Phukhẩukhoai, vùng Sala Phukhun - Đường 7... Nhưng đoàn tù gồm toàn những yếu nhân, những lãnh tụ cách mạng này vẫn bặt vô âm tín. Nội bộ quân đội phái hữu rất hoang mang trong lúc các tầng lớp quần chúng nhân dân, sư sãi hết sức phấn khởi. 2 giờ đêm ngày 9 tháng 8 năm 1960, đại uý Koongle chỉ huy tiểu đoàn dù 2 của quân đội Vương quốc cùng phó của anh ta là trung uý Đươn (sau giải phóng đồng chí là Thứ trưởng Bộ Nội vụ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) đã tiến hành làm đảo chính, lật đổ chính phủ Sổmsanit nhằm chống nội chiến, thực hiện hoà hợp với lực lượng yêu nước Lào, chống sự can thiệp cửa Mỹ, thanh trừng bọn tham nhũng, xây dựng một nước Lào độc lập, trung lập và phồn vinh. Với những chính sách tiến bộ đó, Ủy ban đảo chính đã được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân, các nhà tu hành, thân sĩ yêu nước - Hoàng thân Xuvana Phuma đứng ra lập chính phủ mới và được nhà vua đồng ý. Ngày 18 tháng 8 năm 1960 Quốc hội nhất trí biểu quyết tán thành Chính phủ do Hoàng thân Xuvana Phuma làm Thủ tướng, có ông Kinin Phônsêna làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Nhưng Phummi Nosavẳn đứng ra thành lập cái gọi là "Ủy ban cách mạng" ở Savannakhet do Bun Um làm Chủ tịch. Chúng tuyên bố chống lại chính quyền Phuma, đình chỉ việc thi hành hiến pháp, ban bố tình trạng khẩn cấp. Chúng được Mỹ ủng hộ viện trợ vũ khí, trang bị. Tình hình Lào trở nên căng thẳng và diễn biến hết sức phức tạp. Trong lúc đó, đoàn tù nhân, trong đó có Hoàng thân Xuphanuvông thoát khỏi Viên Chăn đang tiếp tục hành quân bí mật lên căn cứ phía bắc Sầm Nưa, có Tổ công tác đặc biệt chúng tôi đóng vai cán bộ Lào đi cùng. Ngày 9 tháng 8 năm 1960 chúng tôi mới đến một quãng rừng ở bản Buộc Ta-xeng, bản Chiêng, cách huyện lỵ Caxỉ gần 20km, khi dừng chân tạm nghỉ, đồng chí Sisanạ Sisản (Sau giải phóng, đồng chí là Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào) mở rađiô nghe đài phát thanh Viên Chăn như thường lệ, bỗng nhảy lên hét to: "Viên Chăn đảo chính rồi! Koongle, lính dù làm đảo chính rồi... đảo chính rồi...". Mọi người vui sướng xúm lại nghe và cùng nhảy múa liên hồi, đồng chí Vinh và đồng chí Khiết lại lên máy làm việc ngay. Trung ương bạn chỉ thị cho Đoàn tạm dừng hành quân, nghỉ ngơi đợi chủ trương mới. Lúc này các cơ sở vùng giải phóng cũ đã hầu hết được khôi phục lại. Sĩ quan binh lính vương quốc hoang mang, nằm im trong các đồn. Ủy ban Trung ương Neo Lào Hắc Xạt ra tuyên bố ủng hộ cuộc đảo chính của Koongle và sẵn sàng tiếp xúc, đàm phán để thực hiện đường lối hoà bình trung lập, lập lại an ninh và thực hiện hoà hợp dân tộc... Đoàn về bản Buộc nghỉ ngơi rồi Trung ương Đảng bạn chỉ thị đoàn chia làm 2 bộ phận: bộ phận thứ nhất do Chủ tịch Xuphanuvông dẫn đầu cùng anh em cảnh vệ và đơn vị vũ trang bảo vệ đoàn tiếp tục hành quân lên căn cứ phía bắc theo hành lang tránh xa các đồn địch, đi theo các vùng cơ sở... Còn bộ phận thứ hai do đồng chí Nủhắc Phumsavẳn dẫn đầu có nhiệm vụ quay trở lại nội thành Viên Chăn để đại diện cho Trung ương Mặt trận Neo Lào Hắc Xạt vào hợp tác với Ủy ban đảo chính Koongle. Bộ Tổng Tham mưu cũng lệnh cho Tổ công tác đặc biệt chúng tôi chia làm hai: Đồng chí Trương Văn Quý, đồng chí Vinh, trong đọ đồng chí Quý kiêm luôn cơ yếu, đi theo phục vụ đoàn Chủ tịch Xuphanuvông về căn cứ phía bắc. Còn tôi và đồng chí Khiết trở lại nội thành Viên Chăn giúp bộ phận đồng chí Nủhắc và tiếp tục xây dựng căn cứ, chỉ đạo nội thành (bí danh là căn cứ 50) dựa vào cơ sở làng Na Nhang. Bộ báo sẽ cử một tổ đại điện đài và cán bộ giao thông gồm đồng chí Phan Văn Đa, Trần Văn Điển, và Bùi Sĩ Vỹ sang tăng cường cho căn cứ 50. Tình hình lúc này hết sức khẩn trương. Koongle đã cử trung uý Đươn làm đại diện đáp một máy bay nhỏ (ta thường gọi là máy bay "bà già") bí mật bay sang Hà Nội đưa thư và xin gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị Chính phủ Việt Nam giúp đỡ khẩn cấp, trước hết về quân sự. Bộ phận đồng chí Nủhắc và các cán bộ cao cấp của Neo Lào Hắc Xạt trở về Mường Phương cấp tốc, có trực thăng Koongle đến đón bay thẳng vào nội thành. Còn tôi cùng mấy trợ lý của đồng chí thì hành quân bộ nhưng cứ đường cái quan mà đi ban ngày, về đến Na Nhang liên lạc với tỉnh ủy, đồng thời cử giao liên ở căn cứ 50 lập tức vào thành cho cơ sở mật khẩn cấp điều tra báo cáo tình hình Koongle và lực lượng trung lập, lực lượng phái hữu... Tỉnh ủy bạn cũng lập tức cử các đồng chí Khăm On, Xiêng Xổm, Xiêng Phiêng là những cán bộ hoạt động nội thành vào liên hệ ngay với Koongle và trung uý Đươn với danh nghĩa Neo Lào Hắc Xạt tỉnh Viên Chăn đến tiếp xúc và sẵn sàng hợp tác bảo vệ thành phố Viên Chăn, Ủy ban đảo chính bổ nhiệm ngay Xiêng Phiêng làm phó cho đại uý Khămlọm chỉ huy tiểu đoàn cảnh vệ đóng ở Phôn khênh... Các cuộc họp bàn của Ủy ban đảo chính đều có hai đồng chí nói trên cùng dự. Đồng chí Xiêng Phiêng đưa ra Na Nhang 1 xe jeep Mỹ chở đầy súng các bin và quần áo lính dù để trang bị cho đơn vị bộ đội Pathét Lào mới được thành lập. Tôi cũng được cấp một bộ quần áo rằn ri, một chiếc mũ bêrê đỏ và một đôi giầy da mới, lại đeo ngang lưng một khẩu súng lục nữa, cổ có khăn quàng đỏ, vai còn đeo tua vải đỏ phất phơ - là dấu hiệu người của lực lượng đảo chính, trông cũng như một sĩ quan tiểu đoàn dù 2, đi lại toàn bằng xe jeep của đồng chí Xiêng Phiêng. Tôi và Xiêng Phiêng có thể đi lại ra vào các doanh trại, các cơ quan công sở mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Tôi đã đến gặp đồng chí Nủhắc và đoàn cùng đi ở Naháyđiểu. Koongle đã bố trí cho đoàn ở toà biệt thự đối diện với trụ sở cơ quan PEO của Mỹ (là bí danh của cơ quan viện trợ quân sự Mỹ nằm trong USAID - Cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ). Đồng chí Nủhắc đã phân công đồng chí Phun Sipasớt về đặt hậu cứ ở làng Hủakhủa - Nason (phía bắc nội thành 22km trên đường 13), đồng thời lãnh đạo Tỉnh ủy Viên Chăn động viên tuyển mộ, xây dựng cấp tốc một tiểu đoàn Pathét Lào án ngữ vùng này và cơ động ứng phó tình hình. Trang bị vũ khí đều do Ủy ban đảo chính cung cấp, cần bao nhiêu lấy bấy nhiêu, miễn là trong kho còn. Tôi và đồng chí Xiêng Phiêng được giao nhiệm vụ làm con thoi liên lạc giữa đồng chí Nủhắc ở trong thành và đồng chí Phunsipasớt ở Nason. Đồng chí Xiêng Xổm làm con thoi liên lạc giữa đồng chí Nủhắc, đồng chí Phummi Vôngvichít với ông Kinnin đại diện Chính phủ mới sau đảo chính. Khoảng giữa tháng 11 năm 1960 bộ phận điện đài gồm đồng chí Phan Văn Đa, Trần Văn Điển, Bùi Sĩ Vỹ và tiếp theo đó đồng chí Vụ cơ yếu đã hành quân sang đến Na Nhang - ở căn cứ 50 để tăng cường cho tôi, từ đó mạch máu thông tin duy nhất giữa Viên Chăn và Hà Nội - Sầm Nưa lại được nối liền. Khoảng cuối tháng 11 năm 1960, đồng chí Trần Ngọc Kính cùng đồng chí Huỳnh - báo vụ vô tuyến điện cũng được tăng cường sang đến căn cứ 50 Na Nhang - ở đó tôi đã xây dựng được một tổ giao thông viên người Lào, trong đó có Phò Thổm, Phò Nhăng thường xuyên ra vào nội thành. Theo lệnh trên, đồng chí Kính sang phụ trách căn cứ 50 thay tôi để tôi tập trung vào công tác giúp bạn ở trong nội thành. Trong khoảng thời gian đó, mỗi ngày tôi phải đi lại giữa Naháyđiểu và Nason ít nhất hai đến ba lần để chuyển điện của Trung ương bạn tới đồng chí Nủhắc và chuyển báo cáo của đồng chí Nủhắc về Trung ương. Tình hình khẩn trương và công việc khẩn cấp, dồn dập đến mức nhiều lần đồng chí Nủhắc không kịp viết điện mà chỉ nói ý tôi ghi lại rồi mang về Na Nhang thảo ra thành điện cho cơ yếu dịch ngay. Nhiệm vụ của tôi trở vào nội thành, ngoài giúp việc đồng chí Nủhắc, còn phải tiếp tục liên lạc chỉ đạo 2 tổ cơ sở mật, thường xuyên truyền đạt yêu cầu điều tra của trên, nắm tình hình địch và lực lượng trung lập qua 2 tổ này và báo cáo về Bộ hàng ngày, hàng tuần. Trong giai đoạn có tính chất bước ngoặt lớn ở Lào lúc đó, Trung ương ta và bạn yêu cầu chúng tôi phải đáp ứng tin tức tối đa và kịp thời nhằm giải đáp nhiều câu hỏi lớn: Nội bộ lực lượng trung lập thực chất ra sao? Khả năng có thể trụ vững không? Quan điểm thực chất của Koongle và thành viên Ủy ban đảo chính? Của Hoàng thân Xuvanna Phuma, của ông Kinnin Phônsêna? Lực lượng phái hữu ở Viên Chăn còn những đơn vị nào, thành phần nào? Vị trí đóng quân, vũ khí trang bị, v.v... Dựa vào tin tức trực tiếp của lực lượng trung lập, của tỉnh ủy bạn, kết hợp với tin của cơ sở mật và bản thân trực tiếp tiếp xúc, quan sát, tôi đã thường xuyên báo cáo Bộ và đồng chí Nủhắc để báo về Trưng ương bạn. Sau này về nhà tôi được biết Bộ và Bộ Tổng Tham mưu giai đoạn đó đã chờ đón báo cáo của tôi hàng ngày, hàng giờ bởi ngoài tin trinh sát kỹ thuật, đó là nguồn duy nhất ở Lào có nhiều tin cụ thể và chuẩn xác làm cơ sở cho những nhận định và quyết đoán hành động chiến lược kịp thời của Trung ương ta chi viện cho cách mạng Lào vào thời điểm cực kỳ quan trọng và tế nhị này. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:32:12 pm Lúc này Mỹ và Thái Lan đã và đang ra sức thúc đẩy, chi viện cho Phummi Nosavẳn tập hợp lực lượng ở Savannakhet, chuẩn bị tấn công lên Viên Chăn hòng xóa sổ Ủy ban đảo chính của Koongle và lực lượng trung lập. Trong khi đó Chính phủ Xuvanna Phuma là chính phủ hợp pháp duy nhất của Vương quốc Lào được Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa thời đó công nhận và viện trợ. Liên Xô đã giúp lập cầu hàng không Viên Chăn - Hà Nội. Hàng ngày máy bay Liên Xô chở dầu và lương thực, v.v... từ Hà Nội sang trong lúc Thái Lan đã đóng chặt cửa biên giới. Đại diện Mỹ đã gặp Thủ tướng Phuma cố thuyết phục ông chấm dứt đàm phán hoà hợp với Mặt trận Lào yêu nước, yêu cầu ông đưa Phummi Nosavẳn vào tham gia Chính phủ và dời chính phủ về Luông Pha Băng... Trước sự can thiệp và sức ép trắng trợn ấy, Thủ tướng Phuma đã bác bỏ đề nghị của Mỹ. Ngày 19 tháng 11 năm 1960, hơn 400 cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự đã đến Savannakhet giúp Phummi Nosavẳn xây dựng lực lượng. Thái Lan đã giúp Phummi huấn luyện cấp tốc 2 đại đội lính dù mới và một tiểu đoàn pháo binh gồm pháo 105mm và các loại súng cối hạng nặng. Từ ngày 23 tháng 11 năm 1960 chúng bắt đầu đưa bộ binh lên tấn công chiếm cầu Nặm Kađinh, nhưng bị lực lượng trung lập đẩy lùi. Sau đó do không có lực lượng bổ sung, cuối cùng quân trung lập buộc phải rút khỏi cầu Nặm Kađinh và thị trấn Paksăn. Thế là cửa ngõ phía tây Viên Chăn đã bị bỏ ngỏ, ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của quân và dân nội thành Viên Chăn - Tướng Kupaxit - Tư lệnh quân khu 5 bấy lâu cho quân án binh bất động ở doanh trại Chinaimô (cách nội thành 6km về phía nam) để chờ xem tình thế, liệu bề theo đóm ăn tàn, nay thấy Phummi đã nhanh chóng khôi phục lực lượng ở Trung Hạ Lào nên đã thỏa thuận ngầm với Phummi sẽ làm một cuộc đảo chính mới ở Viên Chăn. Nhận được sự liên minh của Kupaxit - tức là lực lượng Quân khu 5 còn lại, Phummi Nosavẳn lập tức từ Savannakhet bay sang Thái Lan đến Nangkhay đối diện với Viên Chăn để phối hợp kế hoạch mở cuộc tấn công toàn lực vào Viên Chăn từ 2 hướng: 1 hướng từ Chinaimô tiến vào do 1 tiểu đoàn quân khu của Kupaxit được tăng cường 2 đại đội lính dù của Phummi mới được huấn luyện từ Thái Lan sang và 2 đại đội xe bọc thép, có pháo binh của Thái Lan yểm trợ, 1 hướng từ Paksăn đánh theo đường 13, do 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 đại đội thiết giáp của Phummi đưa lên từ Savannakhet và Thakhek, có quân của Thái Lan và ngụy Sài Gòn trà trộn. Cộng lại quân số chúng mở chiến dịch này là hơn 3.000 tên. Trong khi quân trung lập Koongle chỉ có tiểu đoàn dù 2, tiểu đoàn cảnh vệ do đại uý Khămlọm chỉ huy, 1 tiểu đoàn tăng và xe bọc thép (20 chiếc), 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn hậu cần và một số đại đội không quân bảo vệ sân bay Văttay (có mấy chiếc Dakota và mấy chiếc trực thăng nhưng không đủ nhiên liệu). Ngoài ra, Mặt trận Lào yêu nước tỉnh Viên Chăn mới xây dựng được 2 đại đội bộ binh do đồng chí Sỉthong chỉ huy được gửi từ Hủakhủa - Nason vào tăng viện cho Koongle. Toàn bộ lực lượng vũ trang của phe trung lập và Pathét Lào chỉ có khoảng 2.000 quân.
Giữa lúc nước sôi lửa bỏng như vậy, ngày 7 tháng 12, đồng chí Chu Huy Mân (lúc này đang là Thiếu tướng) từ Hà Nội bí mật bay sang với tư cách Đại diện Chính phủ ta làm việc với Chính phủ Phuma đồng thời làm Cố vấn quân sự cho Koongle và Mặt trận Lào yêu nước. Cùng đi với đồng chí Chu Huy Mân chỉ có một tổ sĩ quan tác chiến. Máy bay hạ cánh lúc 3 giờ chiều. Sân bay Văttay vắng tanh, chỉ thấy loáng thoáng một số quân lính trong nhà ga. Vài ba người phóng xe jeep ra đón đoàn ở cầu thang máy bay đưa vào nhà ga ngồi nghỉ, không ai biết tiếng Việt, tiếng Pháp. Trong số sĩ quan tùy tùng, chỉ có đồng chí Ngọc bập bẹ tiếng Lào lại giọng Khu 5, nên nói gì bạn không hiểu. Hơn nữa vì giữ bí mật nên đoàn không thể xưng danh với người mà lúc này không biết là ta hay là địch. Thì ra đồng chí Kính ở căn cứ 50 (Na Nhang) nhận điện từ Hà Nội báo cử người đi đón đoàn đồng chí Thao Chăn (tức anh Mân) ở sân bay Văttay. Nhưng lúc này ở cứ không ai biết đường đi lối lại vào thành, vào sân bay, phải chờ đến quá trưa đồng chí Trần Văn Điển về mới được giao nhiệm vụ này vì đồng chí là người duy nhất đã ra vào thành... Đồng chí Điển đã tức tốc đi ngay ra bản lấy thêm một giao thông viên nữa đi cùng ra Nason báo cáo với đồng chí Phun Sipasớt và xin xe đi sân bay. Đến sẩm tối, đồng chí Điển và bạn mới đưa được đoàn anh Mân về tới Nason. Ăn cơm tối xong, anh Mân làm việc ngay với lãnh đạo bạn, anh Phun quyết định sáng sớm mai vào nội thành làm việc với đồng chí Nủhắc và với lực lượng trung lập vì xe đi ban đêm có thể không an toàn. Anh Phun cho anh Singkapô dẫn đoàn và nghỉ ở bản Na Nhang - sát chân núi, cách Nason 2km. Chiếc xe jeep đưa đoàn được nửa đường thì gặp đồng chí Phan Văn Đa và Phò Thổm đang lẽo đẽo đi bộ ra Nason để nắm tình hình bởi không hiểu vì sao đồng chí Điển đi đón đoàn đến giờ này chưa về. Hai người cùng lên xe trở về và trở thành người dẫn đường trong đêm tối. Chỉ sau 15 phút, xe jeep chồm lên chồm xuống trên con đường hết sức rậm rạp, thì đoàn đã đến Na Nhang. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:42:55 pm 2. Chiến sự trong thành phố
Khoảng 6 giờ sáng ngày 8 tháng 12 tôi mới được đồng chí Xiêng Phiêng chạy đến báo tin đoàn của đồng chí Chu Huy Mân sang và đưa tôi đến ngay chỗ đồng chí Nủ hắc ở Nahayđiểu. Tôi đến nơi thì đoàn anh Mân và anh Singkapô đã rời bản Na Nhang từ 5 giờ sáng đã đến đó trước. Anh Mân bắt tay tôi vẻ ngạc nhiên trước bộ đồ lính Koongle tôi đang mặc, anh chỉ biết tôi ở Namèo năm 1956, hồi đó tôi là đại biểu cho Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Viên Chăn về dự Hội nghị tổng kết toàn Lào. Anh hỏi: "Sao cậu lại ở đây?". Đồng chí Ngọc sĩ quan tùy tùng, đã từng quen biết tôi, nhanh nhảu nói: "Đồng chí Dĩnh đã về công tác ở Bộ Tổng Tham mưu rồi ạ!". Tôi nói ngay: "Báo cáo thủ trưởng, tình hình khẩn trương lắm, cách đây nửa tiếng đã có tiếng súng nổ ran ở phía bến tàu KM4 (cách Chinaimô 2km)”. Anh Mân bảo mọi người ngồi ngay xuống sàn nhà, cho trải tấm bản đồ ra. Tôi lập tức báo cáo ngắn gọn tình hình bố trí binh lực của 2 bên, tình hình đấu tranh chính trị quân sự đang diễn biến và kết luận: "So sánh lực lượng tại chỗ hiện nay đang rất bất lợi cho lực lượng trung lập, quân phái hữu đang có ưu thế áp đảo. Có thể hôm nay chúng bắt đầu tấn công vào nội thành Viên Chăn. Quân trung lập đang cầm chân chúng ở kilômét số 4. Trước mắt tôi đề nghị chuyển chỉ huy sở ra ngoại thành phía bắc để bảo đảm an toàn...". Anh Mân bảo tôi: "Đồng chí có cách nào rải ngay 1 đường dây điện thoại đến chỗ Koongle được không?". Tôi suy nghĩ thấy thực hiện được nhiệm vụ đó khó quá, chỉ có quân Koongle may ra làm được việc đó. Tôi trả lời: "Tôi sẽ đi nói với họ ngay”. Vừa may 1 chiếc xe jeep xịch đến, trung úy Đươn đại diện cho Koongle đến chào đoàn và báo cáo: "Hiện giờ đại úy Koongle đang ở tiền duyên km số 4 để trực tiếp chỉ huy đánh chặn địch. Kupaxit mới cho 2 đại đội mặc quần áo lính dù nhưng đeo dải ruy bàng màu trắng ở vai (để phân biệt với quân lính dù Koongle đeo dải màu đỏ) tiến vào nội thành với danh nghĩa để bảo vệ Thủ tướng Suvanna Phuma. Có thể đây là hành động thăm dò trước khi mở tấn công toàn lực. Chúng tôi đang chặn đánh chúng ở km4. Giải quyết xong trận này, đại úy Koongle sẽ đến chào và làm việc với ngài cố vấn ngay". Sau khi giao ước liên lạc, anh Mân sang phòng bên họp bàn với đồng chí Nủhắc và Singkapô cùng quyết định tìm địa điểm di chuyển ra ngoại thành gấp. Lúc này đã khoảng 10 giờ sáng, quân Koongle đang bận chiến đấu ở km4 và triển khai bố phòng sẵn sàng chiến đấu ở các hướng, các ngả đường vào nội thành, không còn ai săn sóc chúng tôi ngoài tiểu đội lính bảo vệ gác cổng, hơn nữa chúng tôi cũng phải cảnh giác cả với họ, đề phòng nếu quân Phummi ập tới chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Được trên giao nhiệm vụ, đồng chí Xiêng Xổm, Xiêng Phiêng và tôi bàn gấp và quyết định đưa cả đoàn về bản Savàng (Thoong Tùm) ở bên rìa nội thành, đến ở nhà một gia đình cơ sở là anh họ của đồng chí Xiêng Xổm. Từ đây đến đó không thể đi xuyên qua giữa thành phố, cũng không thể đi bộ, quá lộ liễu, đành phải đi đường vòng gần 3km. Nhưng chỉ có 1 chiếc "cát cát" chở được 8, 9 người do một lính trung lập lái, chúng tôi chạy đi mượn thêm được một chiếc Cirtrôen ở hàng xóm nhưng chủ nhân đã sơ tán về quê, không có người lái, trong đoàn không có ai biết lái xe - kể cả tôi, may sao đồng chí Xixanạ biết lái, thế là lên xe, lèn cá hộp mới hết người. Chúng tôi để 1 tổ lính bảo vệ ở lại đó bắt liên lạc. Ra khỏi tòa biệt thự mới thấy rõ thành phố đang bắt đầu vào chiến sự. Tiếng súng vẫn nổ phía km4 vọng lại. Đủ mọi loại xe dân sự xen lẫn xe nhà binh phóng loạn xạ trên đường. Dân bắt đầu nhốn nháo, xe đạp, xe bò, xích lô sơ tán vội vàng ra các huyện ngoại thành, đông nhất là Việt kiều, Hoa kiều; cửa hàng, cửa hiệu, công sở, tư gia đều bắt đầu đóng cửa. Trước cảnh người bồng bế nhau, tay xách nách mang, đèo bòng nhau trên đường, đã có những nhóm sinh viên, thanh niên đội mũ rộng vành, vai đeo ruy băng đỏ làm tình nguyện viên hướng dẫn giúp đỡ người già, trẻ em, cứu thương... Quân lính trung lập tỏ ra có kỷ luật, trật tự thành phố về cơ bản vẫn giữ được. Chúng tôi đến nơi được chủ nhà bố trí cho ở tòa nhà sàn bằng gỗ của ông, rộng khoảng 60m2 tha hồ rộng rãi, xung quanh có vườn bao bọc. Đồng chí Xiêng Xổm, Xiêng Phiêng và tôi lúc này mặc nhiên trở thành một tổ quân báo gắn chặt với nhau, kiêm luôn cả nhiệm vụ hậu cần, thông tin liên lạc và bảo vệ trực tiếp cho đoàn lãnh đạo Mặt trận yêu nước Lào và Cố vấn cao cấp của Chính phủ và quân đội ta. Đồng chí Xiêng Phiêng lo đi nắm tin từ chỉ huy sở của Kongle lúc này đã rời về đóng ở Sỉkhay gần sân bay. Tôi đi nắm tin của cơ sở mật lúc này đã rời trung tâm ra ngoại ô, chỉ liên lạc qua hộp thư chết. Ngoài ra tiếp cận với một số gia đình cơ sở còn lại ở trong thành như con gái Phò Bốt có chồng làm bếp cho sĩ quan Pháp ở MMF (phái đoàn quân sự Pháp). Đồng chí Xiêng Xổm vừa thường trực liên lạc, bảo vệ ông Kinin, vừa nắm lực lượng thanh niên, sinh viên, tình nguyện viên. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:43:32 pm Chúng tôi chạy đi chạy lại như con thoi. Tiếng súng ở hướng nam ngớt dần. Khoảng 4 giờ chiều Koongle và trung úy Đươn cùng đến. Trong bộ quần áo lính chiến dính đầy đất cát, mồ hôi mồ kê còn nhễ nhại, vẫn có nụ cười trên môi, Koongle nhảy trên xe xuống, chạy ù vào, ôm chầm anh Mân và mọi người: "Hôm nay thắng rồi, đẩy lùi chúng nó vế Chinaimô rồi! Tôi vừa ở công sự với anh em ở km4 về đây ngay. Theo lời tù binh ta khai thác được thì bọn này có nhiệm vụ đột nhập vào nội thành, tìm cách tiếp cận Thủ tướng Phuma và buộc Thủ tướng về Chinaimô để chúng sẽ mở tấn công toàn lực vào thanh toán lực lượng của ta...". Koongle kể vắn tắt diễn biến chiến sự từ sáng đến nay rồi mời đoàn cố vấn Việt Nam và đại diện Neo Lào Hắc Xạt về Sỉkhay nơi đóng chỉ huy sở của Koongle. Sau khi Koongle ra về, anh Mân ngồi trầm ngâm suy nghĩ, rồi gọi tôi đến ngồi bên cạnh cùng ăn cơm tối. Thực ra là ăn xôi chấm "pađẹc" và rau sống, mọi người ngồi quây thành một vòng tròn trên sàn nhà, ở giữa là một cái mâm tre có khuôn đế cao, to bằng cái nong lớn ở quê nhà, ánh Mân hỏi tôi nhiều về Koongle. Anh ấy có ấn tượng tốt về tinh thần chiến đấu dũng cảm và thái độ giao tiếp cởi mở của Koongle, song vẫn còn nhiều điều nghi ngại, anh cảm thấy có điều gì không ổn trong tầm nhìn và phong cách chỉ huy của Koongle. Điều đó cũng dễ hiểu, tôi nói rõ thêm: Koongle mới 24 tuổi, là con một gia đình nông dân người dân tộc Phu Thay ở huyện Pha Lan - đường 9 Nam Lào, học chưa hết trung học ở Savanakhet thì đi lính, đã qua thử thách chiến đấu nhiều với quân Pathét Lào, đã được bổ túc quân sự ở Philippin, là sĩ quan trẻ ở cấp tiểu đoàn nổi tiếng về xông xáo dũng cảm, cũng nổi tiếng về gái và rất mê tín dị đoan, tin vào bói toán. Tuy nhiên hiện nay Koongle có vai trò rất quan trọng, là linh hồn của cuộc đảo chính và đang có uy tín lớn trong hàng ngũ lực lượng trung lập... Anh Mân hỏi tôi: "Các cậu có điện đài ở đây không? Có đưa vào đây được không?” - Tôi trả lời: "Thưa có, chúng tôi để ở căn cứ cách đây hơn 20km. Có thể đưa vào ngay nhưng tôi phải báo cáo xin Bộ...". Anh Mân không nói gì, ăn xong cho mọi người tranh thủ đi ngủ - đúng hơn là lăn luôn ra sàn mà ngủ trong lúc anh cùng đồng chí Nủhắc và Singkapô kéo nhau vào 1 căn buồng ngồi bàn bạc rì rầm. Khoảng 2, 3 giờ sáng, các anh khua mọi người dậy để lên đường đi Sỉkhay, lúc này đã có 2 xe của Koongle cấp và 2 lái xe trung lập túc trực. Đi đêm và bất ngờ thế này là bảo đảm an toàn. Khoảng 20 phút sau chúng tôi đã đến Sỉkhay. Anh Mân bảo tôi: "Cậu lấy xe về căn cứ báo cáo Cục 2 rồi đưa điện đài cơ yếu về đây ngay. Đồng thời chuyển thư của anh Nủhắc cho đồng chí Phun Sipasớt bảo anh ấy đưa 2 đại đội tân binh của Pathét Lào vào đây ngay". Tôi và tay lái xe lính trung lập phóng trong đêm tối về Na Nhang. Gặp anh Phun ở Nason chỉ kịp báo cáo sơ qua tình hình rồi đi ngay. Đến Na Nhang, bỏ xe lại, tôi gọi Phò Thổm cùng đi vào rừng, đến căn cứ trên Đàn Sủng. Gọi là căn cứ chứ thực ra đó chỉ là 1 địa điểm trú chân trong rừng, là nơi anh em mắc võng, vừa ngủ vừa ăn, vừa làm việc trên chiếc võng ấy. Người ra vào nơi ấy phải có ám hiệu và không được đi 1 đường, không được tạo đường mòn hay dấu vết. Việc lấy điện đài cơ yếu của căn cứ phải có ý kiến của anh Kính vì tôi đã giao lại cho anh ấy. Tôi bàn: "Tình hình khẩn trương và phức tạp thế này, không có liên lạc trực tiếp với Trung ương thì không thể có những quyết định lớn, tôi nghĩ rằng yêu cầu của anh Mân cũng là mệnh lệnh của ủy viên Trung ương Đảng, của tư lệnh chiến trường, chậm trễ có thể hỏng việc lớn. Vì vậy tôi với anh, chúng ta cùng chịu trách nhiệm cứ đưa điện đài vào phục vụ anh Mân đã, rồi báo cáo Cục sau... cầu hàng không vẫn còn, thế nào Trung ương chả phải tăng cường sang ngay". Ngần ngừ với vẻ mặt không vui, cuối cùng anh nhất trí. Thế là tôi, đồng chí Đa báo vụ và đồng chí Khiết cơ yếu, ba lô trên vai lên đường ra bản để từ đó lên chiếc xe jeep vẫn chờ sẵn phóng vào nội thành... Đường 13 lúc này đã rất đông xe cộ và người đi lại, càng vào gần nội thành càng đông xe với đủ loại và nhiều nhất là xe tải chở các gia đình đi sơ tán vì sáng ngày 9 tháng 12 quân Kupaxit lại tấn công ở km4, cố chiếm lấy bến tàu để chuẩn bị làm đầu cầu cho lực lượng từ Thái Lan sang phối hợp mở tấn công lớn. Xe chúng tôi cũng phóng như bay, đường đã chật lại rải đá ong rất kém ma-xát, dễ mất tay lái, nhiều lần xuýt va chạm vào các xe đi ngược lại cũng với tốc độ cao. Mọi người đều thót tim, nhưng vẫn bình tâm vì biết rằng anh em Lào lái xe đều rất cừ. Nhưng điều gì phải đến cũng đã đến: trong 1 phút mà không ai ngờ đến nhất thì một chiếc xe jeep đi ngược chiều với chúng tôi mất tay lái và lao thẳng vào xe chúng tôi. Cậu lái xe vặn người quẹo nhanh tay lái sang bên trái, hai mũi xe va vào nhau chát chúa, tuy chỉ sượt qua nhau nhưng xe chúng tôi cũng mất tay lái, may sao gặp đoạn vệ đường thoai thoải, xe chúng tôi lăn xuống một vũng trâu đầm bên cạnh ruộng lúa. Hú vía vì chết hụt và người trên xe chỉ bị ướt hết quần áo, tôi cùng anh Đa, anh Khiết ôm bộ điện đài, ragônô và cặp tài liệu mật mã lóp ngóp bò lên mặt đường. May sao gặp ngay xe của thiếu tá Phônxay của quân trung lập đang từ Hủakhủa vào nội thành, thế là chúng tôi lại lên xe khẩn trương chạy về Sỉkhay. Tôi chạy vào báo cáo anh Mân, thấy anh đang ngồi làm việc với ông Kinin và Koongle, Singkapô, ngoài ra còn có anh Đinh Văn Khanh và anh Đào Ngọc Hưng đều là phó ban của CP31 mới sang theo chuyến bay sáng nay. Thấy tôi các anh ấy rất mừng, các anh cứ tưởng rằng tôi đã đi hộ tống đoàn Hoàng thân Xuphanuvông về nước sau khi thoát ngục rồi. Anh Mân tạm dừng cuộc hội đàm, ra bên ngoài bảo tôi cho anh em điện đài cơ yếu liên lạc với Trung ương ngay và cho đồng chí Ngọc, sĩ quan tác chiến thảo gấp 1 bức điện gửi ngay anh Văn. Lúc này phái hữu có Mỹ, Thái yểm trợ lại tiếp tục tấn công vào nội thành Viên Chăn. Thủ tướng Phuma cùng đa số các bộ trưởng đã bay sang Phnôm Pênh sáng nay, chỉ để lại ngài Kinin làm đại diện toàn quyền của chính phủ. Koongle cho biết khả năng chiến đấu bảo vệ thành phố Viên Chăn chỉ có thể giữ được tối đa 3 ngày vì bị bao vây và không có nguồn bổ sung lực lượng. Cả Kinin và Koongle đều khẩn thiết đề nghị Việt Nam giúp đỡ đưa quân chiến đấu sang tiếp viện ngay để giữ Viên Chăn. Nhưng anh Mân đã phân tích tình hình thế giới, so sánh lực lượng và các điểu kiện chính trị, quân sự khách quan nên Việt Nam chưa thể đưa đơn vị bộ binh chiến đấu sang Viên Chăn trong lúc này mà chỉ có thể chi viện hoả lực với mức độ nhất định. Trước mắt phải nỗ lực động viên và tổ chức quân và dân Viên Chăn dốc sức đánh chặn địch, bảo vệ thành phố càng dài ngày càng tốt để ta có đủ thời gian tính toán các phương án tạm thời rút khỏi Viên Chăn mà vẫn bảo toàn và phát triển được lực lượng.
Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:44:00 pm Đến khoảng trưa ngày 9 tháng 12, tuyến phòng thủ của quân Koongle ở km4 bị chọc thủng, quân Koongle lên xe tải tháo chạy về Sỉkhay, tình hình có vẻ rối loạn đến nơi. Koongle phải đích thân ra mặt đường đứng chặn các xe chở quân dù, bắt xuống tập hợp, quân số của đơn vị này ở tiền duyên hầu như vẫn còn nguyên, vì sao bỏ chạy? Thì ra pháo binh của Thái Lan bắt đầu bắn tới, lần đầu tiên nghe tiếng đạn pháo 105mm nổ bên cạnh thì quân nào mà chẳng chạy. Chẳng biết Koongle và đồng sự động viên, tổ chức lại thế nào mà đến chiều tối lại thấy đơn vị đó lên xe tiến vào thành phố, có 2 xe thiết giáp AM dẫn đầu. Khoảng 1 tiếng sau tiếng súng lại nổ ran ở phía nam và đến khoảng 12 giờ đêm, quân Koongle đã chiếm lại bến tàu km4.
Sáng ngày 10 tháng 12 đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản cùng 1 bộ phận giúp việc bí mật bay sang Viên Chăn. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình phái hữu và lực lượng trung lập, diễn biến chiến sự, đồng chí hội đàm với ông Kinin, Koongle và anh Mân để thống nhất chủ trương rút khỏi Viên Chăn theo hướng nào để có thể vừa bảo toàn, vừa xây dựng phát triển lực lượng. Khoảng 4 giờ chiều, máy bay từ Hà Nội chỏ sang 1 đại đội pháo 105mm (2 khẩu) và 1 đại đội cối 120mm (2 khẩu) với 29 pháo thủ do trung tá Lê Kích chỉ huy. Triển khai lắp đặt trận địa xong, sẵn sàng đợi lệnh thì trời sẩm tối. Mỗi pháo thủ được cấp phát ngay 1 bộ đồ lính dù và 1 khẩu súng các-bin. Trên chiến trường Đông Dương có lẽ chưa từng có trường hợp nào lính pháo thủ phải tự bảo vệ và khi cần thì tham gia tác chiến như bộ binh kiểu này. Tôi đang giới thiệu địa hình và bố trí địch - ta gho anh Lê Kích nắm, thì anh Mân dẫn 1 người đến, hỏi tôi: "Các cậu có biết nhau không?". Tôi trả lời "chưa ạ". Anh giới thiệu: "Đây là đồng chí Trí Anh - phó trưởng phòng của cậu. Đồng chí Trí Anh sẽ truyền đạt các chỉ thị của Bộ cho cậu". Nói rồi anh đi ra chỗ khác. Gặp nhau giữa chiến trường đang lúc tiếng súng trong thành phố đang vang vọng và trời đang chập tối thế này chẳng thể nói gì nhiều. Anh Trí Anh nói vắn tắt: "Bộ biểu dương đồng chí đã linh hoạt kịp thời chuyển điện đài vào thành phục vụ tư lệnh mặt trận như thế là rất tốt mặc dù chưa có lệnh của Bộ". Tôi thở phào nhẹ nhõm vì mấy hôm nay vẫn thắc thỏm áy náy về chuyện này. Anh Trí Anh nói thêm: "Mình từ sáng đến giờ chưa có tí gì cho vào bụng, mà mình lại đang có bệnh phổi...”. Nhìn vẻ mặt hốc hác của anh, tôi hiểu ý chạy ù đi ra 1 cửa hàng ở gần chợ Sỉkhay cách đó chừng hờn, 50m, gõ cửa hỏi mua 2 hộp sữa đặc và 1 gói bánh về đưa cho anh ngay. Hôm sau gặp tôi anh bảo: "Đấy là thứ cứu mạng mình giữa lúc nguy nan, lúc này mải đánh nhau, chẳng ai lo ăn uống cho bọn mình cả". Cũng tối hôm đó, anh Mân bảo tôi: "Cậu cố kiếm cho anh Kích 1 bản đồ Viên Chăn tỷ lệ xích 1/50.000, vì đi vội không kịp mang theo mà ở nhà cũng chưa có, nếu không có sẽ không bắn chuẩn xác được, bắn phí đạn mà hiệu lực không cao”. Tôi hỏi các chỉ huy trung lập, họ nháo nhác hỏi nhau và chạy tìm kiếm một hồi rồi trả lời không có vì họ không có pháo. Tôi lên xe jeep đi cùng Xiêng Phiêng và 1 tổ trinh sát của Koongle vào thành phố với ý định sẽ tìm cách tách ra và đến nhà cơ sở để nhờ kiếm bản đồ. Đường phố tối om, chỉ có xe lính trung lập chạy như bay, đến gần km1 (Sithản nửa), thỉnh thoảng có tiếng súng các-bin nổ và điểm loé sáng từ tầng gác cao của mấy toà nhà bên ven đường, đường đạn nghe chíu qua xe chúng tôi, có viên đạn đã chạm vào thành xe. Mọi người trên xe đều rất tức giận. Xe tạm dừng, ghé vào một gốc cây. Đó là toà nhà của bọn Mỹ. Tổ 3 người của Koongle mang súng tiểu liên Thompson đạp cửa toà nhà xông lên gác, trong lúc Xiêng Phiêng, cậu lái xe và tôi mỗi người 1 gốc cây chĩa súng bắn trả vào các điểm vừa loé sáng ở tầng cao, vừa bắn vừa di chuyển. Khoảng hơn 5 phút sau, nghe hàng loạt đạn tiểu liên nổ liên hồi, dồn dập trên đó rồi im bặt. Chỉ một loáng đã thấy 3 anh em chạy ra nhảy tót lên xe: "Xong rồi, đi thôi... Chúng nó chết 3 thằng, 1 con, toàn là bọn mũi lõ, còn nữa hay không chẳng biết!". Chỉ biết rằng lúc xong việc chúng tôi quay trở về thì không còn nghe tiếng súng trên tầng cao ở khu vực đó nữa. Xe chúng tôi đến chợ cũ (nay là công viên Nặm Phu) thì rẽ ngang sang phố Pang Kham, đến ngã tư Gioócgiơ Mahê (nay là đường Sảm Sẻn thay) cho xe đỗ trên vỉa hè. Tổ lính Koongle chạy đến Thạt Đăm để gặp bộ phận chỉ huy tiền duyên ở đó nắm tin tức, đồng thời hỏi có bản đồ Viên Chăn bất cứ loại gì hay không. Xiêng Phiêng chạy đến hiệu sách Casa đập cửa hỏi có bán bản đồ không. Còn tôi chạy ra hiệu sách ở gần chợ cũ - thực ra là lẻn vào nhà cơ sở ở trong một ngõ hẻm. Thật may mắn hôm đó đồng chí ấy ở vườn ngoại ô về trông nhà. Đồng chí ấy mở tủ lấy ngay cho tôi tấm bản đồ hành chính nội thành Viên Chăn tỷ lệ xích 1/100.000 và 1 tấm bản đồ tỉnh Viên Chăn tỷ lệ xích 1/20.000 đều đã cũ. Tôi chỉ kịp dặn đồng chí hết sức thận trọng trong đi lại, bảo đảm an toàn, rồi vọt ra phố ngay, chạy đến xe nhảy lên ngồi chờ, một lúc sau mọi người đã về đủ. Tổ lính Koongle kể lại tin tức trận đánh trưa nay: quân Kupaxit được pháo binh Thái đưa sang Chinaimô yểm trợ nên đã có 1 đơn vị tiến vào được đến chợ, sau đó quân ta đã đẩy lùi chúng. Hiện nay, chúng lui về cố thủ ở km4, nghĩa là chúng đã chiếm được bến tàu. Anh em trung lập đánh rất hăng, nhưng không thể làm gì hơn được. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:44:45 pm Xe chạy về đến Sỉkhay tôi đưa ngay bản đồ cho anh Kích và hỏi: "Không đào đâu ra được tỷ lệ xích 1/50.000, chỉ có 2 cái này có dùng được không, anh em suýt chết vì nó đấy!". Anh Mân chạy đến, tôi báo cáo tin tức ở tuyến phòng thủ phía trước. Trong lúc đó, anh Lê Kích dùng đèn pin và đèn bão soi đi soi lại trên bản đồ: "May quá, cũng dùng được, có thể vận dụng tính toán được nhưng hơi lâu hơn 1 tý, chết nỗi địa danh vùng này tôi không thạo, bản đồ lại chua toàn chữ Pháp, tôi không đọc được...". Anh Mân nhìn tôi: "Đồng chí Dĩnh giúp anh Kích việc này". Thế là tôi trở thành trợ lý và thông dịch viên tiếng Pháp và tiếng Lào cho một thủ trưởng pháo binh ở ngay chiến trường - nơi chỉ có mệnh lệnh và thi hành mệnh lệnh. Anh Kích hỏi tôi: "Bến tàu km4 ở đâu? cách đây mấy cây số?", tôi chỉ tay trên bản đồ: "Cây số 4 là tính từ bưu điện trung tâm thành phố, từ đó đến chỗ này 4km nữa, vậy cự ly này là 8km", tôi cầm đèn pin soi trên bản đồ, anh ấy tay compa, tay thước tính, đo đo vạch vạch, miệng lẩm nhẩm, rồi hí hoáy ghi chép. Tiếp đến: Chinaimô ở đâu? Cơ quan Viện trợ Mỹ ở đâu? Sứ quán Mỹ ở đâu? Noong Khai ở đâu?, v.v... Cứ mỗi khi cần bắn vào đâu, anh lại gọi tôi và rất hài lòng vì bao giờ tôi cũng đáp ứng được liền, không mất thời gian dò tìm trên bản đồ. Loạt đạn pháo cấp tập đầu tiên của ta tập trung vào khu vực đóng quân của địch ở km4 - bến tàu, trong đó có 10 viên bắn sang trận địa pháo của Thái Lan bên kia bờ sông Mê Kông (đất Nỏng Khai). Anh em lính trung lập ở chỉ huy sở Koongle chạy đến bắt tay pháo thủ ta trong đêm tối, ánh đèn pin loang loáng. Khoảng 20 phút sau, sĩ quan liên lạc ở tuyến trước phóng xe về báo cáo: "Các anh bắn hay lắm, giỏi lắm... đạn rơi chính xác xuống khu vực bến tàu. Bị thương vong nhiều và lần đầu tiên nghe tiếng nổ của đạn pháo ta, quân địch hoảng loạn bỏ chạy hết về phía Chinaimô, quân ta thì rất phấn khởi, đã ào lên chiếm lại bến tàu, đang củng cố lại công sự phòng thủ". Anh Lê Kích và anh em pháo thủ Việt Nam đã thực sự tạo ra chuyển biến lớn trong cục diện chiến trường Viên Chăn qua trận đánh hoả lực đầu tiên này cũng như qua các trận đánh tiếp theo. Quân phái hữu và quân Thái Lan vốn rất sợ pháo nay thực tế "ăn đòn" pháo của ta nên càng run sợ. Để chuẩn bị cho pháo ta có thể bắn tới Chinaimô một cách chính xác, anh Mân lệnh cho 2 khẩu 105mm di chuyển vào km1 nội thành (nay là khu vực Sở Địa chất, đối diện chùa Bàng Long), Koongle cho 2 xe thiết giáp vào theo, chốt ở phía trước trận địa pháo để bảo vệ và cho 1 trung úy trực tiếp chỉ huy trận địa, tuyến phòng thủ này. Vì số đạn pháo có hạn, sau khi triển khai xong trận địa mới, anh Mân chỉ thị chỉ cho bắn cầm canh xuống phía trại Chinaimô, cứ mỗi tiếng đồng hồ chỉ cho bắn 1 viên đạn. Thế mà hôm sau theo lời tù binh địch khai: cứ mỗi phát pháo ta nổ lại có thêm mấy lính địch ở Chinaimô đào ngũ. Một chuyện xảy ra tôi còn nhớ mãi là đêm hôm sau nữa, khoảng 2 giờ sáng, có tin địch chuẩn bị đợt tấn công mới lớn hơn, có tăng, có pháo yểm trợ. Anh Kích và anh trung úy bạn đang cùng tôi chúi mũi vào tấm bản đồ dưới ánh đèn pin bên cạnh mâm pháo để chuẩn bị các điểm, các hướng có thể bắn pháo khi địch tiến vào, thì khẩu đại liên trên chiếc xe thiết giáp AM bảo vệ chúng tôi - ở cách chúng tôi gần 100m - bỗng nhiên nổ súng "pằng pằng pằng"... Theo phản xạ tự nhiên mỗi người chúng tôi nằm phục xuống và lết tới một gốc cây, một góc tường, súng các-bin, súng lục lên nòng, 5 phút rồi 10 phút trôi qua không có động tĩnh gì thêm. Rồi một bóng đen từ phía chiếc thiết giáp chạy sầm sập đến, gọi to: "Không có gì đâu! Không có gì đâu!". Anh Kích và tôi lồm cồm bò dậy từ cùng 1 gốc cây. Thì ra là cậu lính thiết giáp trực chiến mệt quá ngủ quên, mơ thấy địch đến thế là ngón tay đặt trên cò súng bóp luôn...
Hú vía. Mọi người lại về vị trí cũ và ngả lưng tranh thủ ngủ được phút nào hay phút ấy. Riêng anh Kích thì 2 hôm nay, tôi thấy anh ngoài bữa ăn ra hầu như không có giờ phút nào rời chiếc bản đồ bên cạnh mâm pháo, mắt lúc nào cũng đỏ ngầu. Nhưng hai chúng tôi đợi mãi không thấy ông trung úy của Koongle đâu. Hôm sau mới biết khi có loạt tiếng nổ đầu tiến của súng đại liên trên chiếc AM bảo vệ đêm qua, anh ta đã chạy bộ tót về Sỉkhay báo cáo địch đã vào đến km1, biết chuyện, Koongle đã điều một trung úy khác đến thay. Cuộc chiến sáng ngày 11, ngày 12 tháng 12 vẫn diễn ra theo kiểu quân phái hữu tấn công rát quá thì quân Koongle lui dần vào nội thành củng cố rồi lại phản công mạnh, quân phái hữu lại tháo lui. Mỗi ngày 2, 3 đợt như vậy. Lúc này tuyến phòng thủ phía trước của ta đã có thêm 2 đại đội Pathét Lào từ Hủakhủa - Nason do đồng chí Sithoong chỉ huy vào tăng cường. Sân bay Văttay vẫn còn sử dụng được, đạn pháo và xăng dầu vẫn được tiếp tế từ Hà Nội... Có tin quân của Phummi Nosavẳn có quân Thái Lan trà trộn từ Trung Lào đưa lên, đã đến bến phà Bản Hày trên đường 13 cách Viên Chăn 30km. Chúng đợi xe tăng, thiết giáp và pháo binh đến đủ sẽ mở tấn công theo đường 13 phối hợp với quân của Kupaxit từ Chinaimô đánh vào. Dự kiến cánh quân Phummi ở phía đông sẽ không đánh theo trục quốc lộ vào thẳng nội thành, mà chúng sẽ chỉ tiến đến Đon Nủn rồi mở mũi vu hồi vòng qua ngoại thành phía bắc thành phố, nhanh chóng đánh chiếm sân bay Văttay và bọc sườn, bọc hậu quân ta trong khi quân Kupaxit tiếp tục đánh vỗ trước mặt từ phía nam lên. Ngày 13 tháng 12, đúng như dự kiến của ta, quân Phummi và quân Kupaxit đồng thời mở cuộc tấn công toàn lực trên toàn tuyến phía đông và phía nam thành phố, với ưu thế hơn hẳn về quân số và trang bị vũ khí, có quân Thái Lan yểm trợ. Sân bay Văttay đóng cửa. Cầu hàng không tạm thời gián đoạn. Tuy nhiên được sự yểm trợ của 2 đại đội pháo binh ta, quân trung lập phối hợp với quân Pathét Lào ở các hướng đều đánh rất hăng, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của bộ binh địch. Từ sáng sớm, bạn đã quyết định rời sở chỉ huy ra km8 theo đường 13 phía bắc, nơi có nghĩa trang công giáo của thành phố. Khoảng quá trưa, tiếng đạn pháo 105mm của địch nổ ngày càng gần. Rồi bỗng một tiếng nổ ầm vang hơn tiếng sấm lẫn tiếng sét ở bên tai tôi. Một quả đạn pháo rơi cách chỗ chúng tôi chưa đến 50m. Lúc đó mới ăn bữa trưa xong, tôi đang ngồi cùng tướng Mân và mấy sĩ quan Cục Tác chiến trên một chiếc "thiểngna" (lều canh lúa và nghỉ ngơi của nông dân Lào ở đồng ruộng). Âm vang tiếng nổ chưa dứt, tất cả anh em trong đó có tôi đều đã nhảy ào xuống đất, phóng ra ven ruộng nhảy xuống cái mương ngồi núp. Hoàn hồn rồi, nhìn quanh không thấy anh Mân đâu, anh em bảo nhau chạy trở lại thiểngna. Thấy anh em đến, anh Mân ngồi ở trên thiểngna đang buộc dây giày mới chậm rãi bước xuống và nói ngay: "Theo quy tắc bắn pháo, do phạm vi sát thương rộng, nên không có ai bắn lặp lại vào tuyến cũ, vào điểm rơi cũ, mà thông thường quả đạn sau sẽ vượt qua quả đạn trước, cách xa quả trước một cự ly nào đó. Vì vậy không việc gì phải chạy". Anh nói vừa dứt lời một quả đạn khác đã bay vụt qua đầu chúng tôi nổ ùng oàng ở cách chúng tôi hàng trăm mét. Nhưng không ai chạy nữa mặc dù vẫn còn thót tim do tiếng nổ vẫn lớn lắm. Thái độ ung dung bình tĩnh và phân tích ngắn gọn của anh Mân đã truyền tinh thần dũng cảm tiếp sức cho mọi người. Đúng là phong cách của một vị tướng mà lần đầu tiên tôi được thấy trong đời ở nơi chiến trường đang nóng bỏng. Sau đó cả sở chỉ huy ta lại lên mấy xe tải di chuyển về Hủakhủa vào lúc chiều tối. Khi đó cuộc - chiến ở nội thành tiếp diễn quyết liệt trong ngày theo hình thái địch dấn lên ta đẩy lại, giằng co quyết liệt trên mọi hướng, địch vẫn chưa chiếm được sân bay. Hai bên thương vong đều cao hơn mọi ngày. Đồng chí Sithoong đã hy sinh ngay trong đợt công kích đầu tiên của địch (sau này đồng chí đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lào). Quân trung lập và Pathét Lào chỉ còn khả năng đánh chặn, làm chậm bước tiến của địch, không còn khả năng phản công, phản kích lấy lại trận địa đã mất, do đó phải lui dần về phía Sỉkhay. Trận địa pháo của ta vẫn trụ lại ở km8, chỉ còn đạn để bắn cầm chừng, nhưng vẫn uy hiếp tinh thần quân địch, buộc chúng phải rất dè dặt trong tiến công. Tôi vẫn tiếp tục nhiệm vụ quân báo chiến trường và làm con thoi liên lạc giữa trận địa pháo của anh Kích với chỉ huy sở tiền phương ở Hủakhủa - Nason. Khi di chuyển đến đó, để gọn nhẹ sở chỉ huy, anh Mân đã cho bộ phận điện đài cơ yếu của đồng chí Đa và đồng chí Khiết trở về phục vụ căn cứ 50 ở Na Nhang gần đó vì đã có điện đài của Bộ Tổng Tham mưu ta tăng cường... Đến tối ngày 15 thâng 12, Koongle mới có lệnh chỉ để lại 1 đơn vị nhỏ đánh du kích, quấy rối nghi binh, còn toàn bộ quân trung lập, kể cả các lực lượng sinh viên, thanh niên tình nguyện rút khỏi thành phố theo đường 13 lên phía bắc. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:45:27 pm 3. Rút khỏi thành phố lên Cánh đồng Chum
Ngày 16 tháng 12 năm 1960, trong thành phố chỉ còn tiếng súng lẹt đẹt đây đó hoặc vài loạt tiểu liên bắn vu vơ. Nhưng quân phái hữu vẫn dò dẫm tiến rất chậm. Chúng đã chiếm sân bay và vào chiếm đóng bên trong thành phố rồi tạm dừng để củng cố chứ chưa dám truy kích đuổi theo quân đối phương, bởi chúng cũng chưa nắm được quân đối phương sẽ còn phản công, phản kích hay rút đi đâu. Địch thực sự không ngờ rằng với ưu thế hoả lực và quân số hơn gấp nhiều lần, chúng chỉ chiếm được thành phố chứ không tiêu diệt được, không làm tan rã được lực lượng trung lập yêu nước liên minh hợp tác với Neo Lào Hắc Xạt. Ngược lại các đoàn xe của quân trung lập và Neo Lào Hắc Xạt đã rút khỏi thành phố Viên Chăn với hàng trăm chiếc, bao gồm cả xe chở quân, xe kéo pháo và xe thiết giáp đã nhanh chóng hành tiến trong trật tự theo quốc lộ 13 lên phía bắc. Trong đoàn hành quân này có anh Mân (tức Thao Chăn), anh Bảy (tức đồng chí Cayxỏn), anh Phun Sipasốt, ông Kinin và Koongle. Đoàn đã nhanh chóng vượt qua Phôn Hông và ngày 14 tháng 12 đã chiếm đóng Văng Viêng - một huyện lỵ lớn trên đường 13 ở phía bắc, cách Viên Chăn 180km. Từ đó cầu hàng không Văng Viêng - Hà Nội lại hoạt động liên tục hàng ngày. Vũ khí (kể cả pháo, cối và đạn dược), xăng dầu, đồ hộp, lương khô lại được tiếp tế. Cán bộ chuyên gia giúp bạn, pháo thủ, thông tin, quân báo được tăng cường. Tuyến phòng thủ then chốt để bảo vệ Văng Viêng là cầu Hỉn Hợp trên đường 13 vắt qua sông Năm Lịch, cách huyện lỵ Văng Viêng hơn 40km về phía nam. Trận địa pháo của anh Lê Kích được triển khai ngay ở gần đầu cầu. Lúc đầu tôi cũng được bố trí ở đó để vừa giúp anh Lê Kích, vừa cùng đồng chí Xiêng Xổm nắm tin địch và làm con thoi liên lạc với chỉ huy sở ở huyện lỵ. Chúng tôi đã bám trụ ở đó cho đến ngày bắn hết viên đạn cuối cùng của khẩu pháo cuối cùng ở trận địa này, cũng là ngày máy bay T28 của Thái Lan xuất hiện lần đầu tiên xả rốc két xuống đầu chúng tôi. Tôi và đồng chí Xiêng Xổm cùng nấp 1 chỗ trong lòng con suối cạn, ép chặt mình vào vách suối bên trên có tán cây trùm lên, cũng là lần đầu tiên trong đời chúng tôi tận mắt nhìn thấy 2 vệt lửa dài từ T28 phóng thẳng xuống mặt đất kèm theo tiếng nổ kinh hồn, rồi đất đá trên bờ suối tung toé trên đầu trên cổ, trên người chúng tôi, khi T28 bay khỏi, chúng tôi trèo lên bờ thì thấy một quả tên lửa lúc nãy đã rơi trúng bờ suối chỉ cách chúng tôi có vài mét, còn để lại một cái hố nhỏ đường kính chưa đầy 1m, chiều sâu khoảng 60 phân. Ngày hôm đó anh em được lệnh rút sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng và cài mìn cho nổ sập cầu Hỉn Hợp để làm chậm bước tiến của quân địch. Đến 4 giờ chiều, pháo thủ rút cái cơ bẩm ở nòng pháo ra vứt xuống lòng sông Năm Lịch và thực hiện lệnh rút. Tất cả ta và bạn lèn chật cứng cái thùng xe tải GMC chạy về Văng Viêng. Cũng theo lệnh trên, chỉ còn cỗ pháo đã oai hùng chiến đấu từ nội thành Viên Chăn ra đến đây, đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế lịch sử của nó, nay nằm lại một mình như khối sắt vụn đen sì mà nòng vẫn ngạo nghễ vươn lên trời cao như thể tiếp tục uy hiếp tinh thần quân địch. Khả năng rút khỏi thành phố Viên Chăn để bảo toàn lực lượng đã được đặt ra ngay từ đầu cuộc chiến ở nội thành, có nhiều phương án được đưa ra bàn thảo giữa các vị lãnh đạo trên đường hành quân nhưng chưa ngã ngũ: Huyện lỵ Văng Viêng chỉ có thể là nơi trú quân tạm thời vì địa hình lòng chảo nhỏ hẹp, không có nguồn tiếp tế khi cầu hàng không bị đứt... Đưa toàn bộ lực lượng này về Sầm Nưa - căn cứ địa cách mạng của Neo Lào Hắc Xạt thì ông Kinin và bộ sậu Koongle dứt khoát không muốn, họ viện lý do đường hành quân quá dài (hơn 500km), phải qua nhiều đồn trại phái hữu, e rằng đi được đến nơi thì lực lượng còn lại chẳng bao nhiêu - thực ra còn một lý do nữa họ không muốn nói ra, đó là họ không muốn phụ thuộc vào Neo Lào Hắc Xạt. Hoặc rút quân về Mường Phương - vùng căn cứ địa cách mạng của tỉnh Viên Chăn, cách Viên Chăn khoảng 100km về phía tây bắc, nhưng địa thế chật hẹp, lại gần biên giới Thái Lan, dễ bị bao vây chia cắt, v.v... Cho đến khi đoàn lên tới Văng Viêng và dừng chân ở đó thì cuộc bàn thảo giữa anh Mân, anh Bảy, anh Phun, ông Kinin và Koongle cũng đi đến nhất trí hoàn toàn theo phương án: Đưa toàn bộ lực lượng hiện có bí mật, bất ngờ tấn công đánh chiếm Cánh đồng Chum và thị xã Xiêng Khoảng - một cao nguyên nổi tiếng có vị trí địa - quân sự, địa - chính trị hết sức quan trọng, có thể xây dựng thành căn cứ chiến lược để củng cố và phát triển lực lượng về mọi mặt. Hà Nội cũng hoàn toàn nhất trí và tích cực phối hợp với phương án này. Sau khi nhất trí, ông Kinin lên máy bay về nghỉ ở Hà Nội. Anh Bảy, anh Phun còn ở lại bàn thảo tiếp phương án hành quân và tấn công cụ thể, đến ngày 29 tháng 12 năm 1960, hai anh và các bộ phận giúp việc cồng kềnh cũng lên máy bay trở về. Tối hôm đó đoàn quân đi tấn công đánh chiếm Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng gồm hàng trăm xe cũng xuất phát lên đường từ huyện lỵ Văng Viêng dưới sự chỉ huy của Koongle và Singkapô, có Cố vấn Chu Huy Mân đi cùng. Sau 2 ngày 3 đêm vừa hành quân vừa tác chiến dọc đường vô cùng gian khổ để nhổ các cứ điểm địch như Sala Phukhun, Mường Sủi, Phu Sủng và diệt các toán phỉ Mèo Vàng Pao ra phục kích chặn đường, đúng 1 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961, đoàn quân đã tiến vào sân bay Cánh đồng Chum và 9 giờ sáng hôm đó đã làm chủ thị xã Xiêng Khoảng. Cuộc rút lui khỏi thành phố Viên Chăn của lực lượng trung lập yêu nước trong tình thế vô cùng nguy nan, nhưng được sự hợp tác của Neo Lào Hắc Xạt và sự chi viện của Việt Nam đã biến thành cuộc tiến công chiến lược đại thắng lợi, mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng giải phóng dân tộc Lào. Cuộc chiến đấu trong nội thành Viên Chăn tiếp nối liền sau cuộc giải thoát chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt, dẫn đến hành trình tiến công giải phóng Cánh đồng Chum lần đầu tiên giành thắng lợi, chẳng những cứu vãn tình thế đang rất đen tối của cách mạng Lào do sự lật lọng của địch, mà còn mở ra một giai đoạn mới: giai đoạn hình thành 3 phái ở Lào, trong đó lực lượng trung lập yêu nước Lào, đã liên minh hợp tác với Neo Lào Hắc Xạt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo nên chuyển biến nhanh chóng và to lớn trong so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Lào. Nhớ lại và ghi lại hồi ức này, những nỗi vui, buồn lẫn lộn bỗng dâng lên trong lòng tôi, vui vì đã có vinh dự được chứng kiến, được kề vai sát cánh cùng quân và dân Lào anh hùng trong cuộc chiến đấu ác liệt giai đoạn đó và liên tục đến ngày thắng lợi hoàn toàn, buồn vì nghĩ đến bao đồng đội, bạn bè đã ngã xuống, không thể trở về để có mặt trong ngày vui toàn thắng. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:47:40 pm XIÊNG XỔM KUNLAVÔNG NGƯỜI ANH HÙNG CỦA CUỘC VƯỢT NGỤC LỊCH SỬ Tôi quen biết anh Khăm Bang (tên thật của đồng chí Xiêng Xổm) từ năm 1956. Hồi đó là sau Hiệp định Giơnevơ 1954, tôi và đồng chí Phò Sa Vẻng (tức Thit Khên) - Chủ tịch Mặt trận Neo Lào Hắc Xạt tỉnh Viên Chăn cũng là ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Viên Chăn, cùng phụ trách vùng đồng bằng Phôn Hông Tulakhôm và nội thành Viên Chăn... Chúng tôi đóng trụ sở bí mật ở khu rừng Đàn Sủng, dựa vào làng Na Nhang phía bắc Viên Chăn 22km theo quốc lộ 13. Một hôm cơ sở vùng Đon Nủn phía đông ngoại thành 11km, báo tin có anh Khăm Bang bị cảnh sát lùng bắt, đã trốn từ nội thành sang Thái Lan, nay về ẩn náu ở nhà bạn là đồng chí Thao Nẹn. Sở dĩ bị truy nã vì anh đã tham gia nhóm thanh niên yêu nước trong nội thành tụ tập nhau phản đối việc Mỹ đưa tay sai Katày Đônsasolit lên làm thủ tướng chính phủ Vương quốc (như con bài Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam) để Mỹ nhảy vào thay thế Pháp ở Lào. Được tin này, đồng chí Phò Sa Vẻng và tôi đã giao nhiệm vụ cho anh Thao Nẹn thẩm tra kỹ càng rồi tuyên truyền vận động Khăm Bang tham gia tổ chức Mặt trận Itsala bí mật ở Viên Chăn, sau đó đưa Khăm Bang về công tác ở Na Nhang với chúng tôi. Khăm Bang sinh ngày 19 tháng 11 năm 1931 trong một gia đình nông dân ở làng Xoỏng Mưởng hạ, huyện Noỏng Bôk gần thị xã Thakhek thuộc tỉnh Khăm Muộn. Bố mẹ mất sớm, nhà nghèo, đông con nhưng Khăm Bang học giỏi lại sớm có chí tự lập, từ bé đã xa nhà vào chùa được các sư thầy nuôi cho ăn học, học hết lớp nhất đã thi đỗ bằng Cao đẳng tiểu học ở thị xã Thakhek. Năm 1950, Khăm Bang và em trai được sư thầy Mahả Kệt - tu ở Viên Chân, đưa lên ở chùa Vắt Ôngtự. Năm 1953 Khăm Bang đã thi vào trường trung cấp bưu điện học nghề đánh moóc (nay gọi là báo vụ viên vô tuyến điện), rồi được nhận vào làm viên chức cấp thấp ở Sở bưu điện thành phố Viên Chăn, lúc này vẫn còn có giám đốc người Pháp. Những cảnh áp bức bóc lột bất công của chế độ cũ, của bọn Pháp, bọn Nhật và bọn quan lại đã từ nhiều năm đập vào tai vào mắt nhân dân Lào, nhất là đối với lớp thanh niên ít nhiều có học vấn như Khăm Bang. Họ đã tụ tập nhau, nhen nhóm nhau để tổ chức đình công đòi tăng lương, đòi đuổi giám đốc người Pháp thay bằng người Lào, cùng nhau ra báo, in truyền đơn phản đối chính quyền Lào đã cho các hãng xe khách của Thái Lan vào Viên Chăn bóp chết các xe khách của Lào, họ còn cùng nhau phục kích dùng súng và lựu đạn đánh các xe tải chở hàng của Thái Lan vào Lào. Họ đã tiến tới chuẩn bị đảo chính lật đổ chính quyền tay sai, nhưng việc bại lộ không thành và bị khủng bố. Sau khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Giơnevơ 1954, Mỹ nhảy vào thay Pháp ở Lào, Khăm Bang cùng các bạn trong nội thành Viên Chăn lại tiếp tục hoạt động chống Mỹ và tay sai, tiếp tục phát hành báo chí phê phán các âm mưu hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa quân lấn chiếm 2 tỉnh tập kết của Pathét Lào, phá hoại công cuộc hoà hợp dân tộc... Chính Khăm Bang đã cùng các bạn mang hắc ín đến bức tường ngôi chùa Phôn Xay ở trung tâm thành phố và tường của trạm biến thế điện, tường của các cơ quan công sở quét lên đó hàng chữ đen thẫm "Katày bán nước", "USA go home" (Mỹ cút về), v.v... Chính phủ Katày đã phát lệnh truy lùng bắt bớ, chúng đã bắt được một số thành viên của phong trào, số còn lại đã phải phân tán đi khắp nơi. Khăm Bang đã chạy sang Thái Lan liên lạc với cơ sở, sau đó lại trở về Lào về tạm trú ở làng Đon Nủn, cuối cùng đã được giác ngộ theo đường lối của Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắc Xạt) và đã về Na Nhang. Đây là lần đầu tiên Khăm Bang gặp tôi cũng là lần đầu tiên gặp và làm việc với một đồng chí Việt Nam trong ban lãnh đạo của phong trào yêu nước ở Viên Chăn. Từ đó Khăm Bang về công tác ở cơ quan cùng tôi và Phò Sa Vẻng trong năm 1956 và năm 1957. Khăm Bang đã đổi tên thành Xiêng Xổm từ đó. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân 2 tỉnh Sầm Nưa, Phong Saly lần lượt đánh bại mọi đợt tấn công của quận đội Vương quốc và phong trào đấu tranh của nhân dân 10 tỉnh do chính quyền Vương quốc tạm thời kiểm soát, ngày càng sôi nổi và mạnh mẽ, buộc chính phủ Vương quốc phải chấp nhận đàm phán đi đến thành lập chính phủ liên hiệp lần đầu tiên có phe Pathét Lào tham gia, tổ chức tổng tuyển cử bổ sung trên toàn quốc, tiếp nhận lực lượng Pathét Lào hoà nhập vào cộng đồng quốc gia với sự ra mắt công khai hợp pháp của Mặt trận yêu nước Lào. Còn nhớ sau khi chính phủ liên hiệp được công bố thành lập tháng 11 năm 1957, tôi và anh em Việt Nam còn ở lại nằm vùng đều được lệnh rút về nước. Tôi còn nhớ trong buổi lễ Xù Khoăn (buộc chỉ cổ tay cầu phúc) để tạm biệt, có mặt đông đủ Phò Sa Vẻng, đồng chí Xiêng Xổm (tức Khăm Bang) cùng anh em cơ quan và một số cán bộ, nhân dân cơ sở làng Na Nhang. Xiêng Xổm đã tặng tôi vật kỷ niệm là cuốn tự điển bách khoa LaRousse của Pháp mà đồng chí đi đâu cũng luôn luôn mang theo người để tự học. Còn tôi thì tặng lại đồng chí cuốn sách "Giáo dục Cộng sản" (Education Communiste) của Kalinin mà tôi mang theo trong ba lô từ khi rời Uđon - Thái Lan để bắt đầu nhập ngũ tại Mặt trận Tây Lào. Trong buổi chia tay ấy, cũng như thường lệ có "tip" xôi, con gà luộc, hoa quả và cây chỉ để buộc cổ tay cho người lên đường, có thầy mo khấn vái theo bài vở trong dân gian kết hợp với tài sáng tác theo vần theo điệu của thầy mo. Khấn vái và buộc chỉ cổ tay xong, ông thầy mo rút cái mỏ cứng ở đầu con gà luộc ra để xem bói, xem xong ông tuyên bố: "Con Khăm Sỉng chắc chắn còn quay trở lại với dân làng chúng ta, chúng ta vẫn còn có những dịp gặp lại Khăm Sỉng". Quả nhiên tôi về nước chỉ hơn một năm, tháng 6 năm 1959 tôi đã trở lại Viên Chăn, trở lại Loong Tòn - căn cứ của tỉnh ủy và trở lại làng Na Nhang với nhiệm vụ đặc biệt sang giúp bạn tổ chức giải thoát Hoàng thân Xuphanuvông và các vị lãnh đạo Lào bị địch bắt giam. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:48:23 pm Ở Loong Tòn tôi đã gặp, làm việc và thống nhất phương hướng kế hoạch với các đồng chí Thit Muôn, Chan Mi (đều là 2 đồng chí ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân Lào) để cử đồng chí Salyvông Khămsao chủ trì Ban chỉ đạo công tác đặc biệt, cử đồng chí Xiêng Xổm và Xiêng Phiên vào nhóm hoạt động đặc biệt ở nội và ngoại thành Viên Chăn. Thế là tôi gặp lại Xiêng Xổm sau gần 2 năm xa cách, nơi gặp nhau là ở nhà ông Phò Bốt - cơ sở nội thành. Xiêng Xổm được phân công làm tổ trưởng tổ xây dựng tuyến đường tắt bí mật từ phía sau trại Phôn Khênh đến Nongtha Tạy, tắt qua cánh đồng Nỏng Phannha đi tới suối Nặm Khêm - Đông Boong, đi qua Khốcmạyxạt đi tiếp đến Nakhunnoi vượt qua đường 13 ở quãng giữa bản Hủa Xang và bản Hủakhủa - Nason, rồi đi lên núi Phu Phanăng, đến Đàn (thảm đá) Bắc Kít theo đường ghềnh đá Hỉn Lạt - Tạt Nhao để đến khu vực Phu Hủa Mợi (bắc Đàn Sủng) là căn cứ an toàn đầu tiên, dựa vào cơ sở làng Na Nhang.
Tổ đi tìm đường với Xiêng Xổm còn có đồng chí Têm người làng Nason, đồng chí Thit Nẹn người làng Đon Nủn, có Phò Văn tức Chan Phẳn, người làng Đon Nủn, đồng chí Ma Hả Tàn và Phò Thổm người bản Na Nhang. Các đồng chí này đều rất thông thạo địa hình và quen biết cơ sở nhân dân các bản làng xung quanh thành phố Viên Chăn. Họ đã từng hoạt động bí mật ở các vùng từ Na Ngơm, Na Tàn, Xốc Nọi, Xốc Nhàng, Na Khu qua Đoông Nhàng, Na Hốc, Thồng Hạp và các làng bản thuộc Tàxẻng Nặmkiệng huyện Naxai Thoong... Họ phải cân nhắc, chọn lựa 2 đến 3 con đường bí mật khác nhau. Họ đã phải mò mẫm qua các cánh đồng, cánh rừng, qua các làng bản nương rẫy, đóng vai lúc thì người đi tìm bò lạc, lúc làm người đi bán trâu hoặc người thợ cưa đi làm thuê, nhiều lần vấp phải các toán lính hiến binh tuần tra xét hỏi, đồng chí Xiêng Xổm đều trả lời trôi chảy và được chúng cho qua. Đi như vậy cả ngày lẫn đêm suốt 3 tháng trời (từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1960), các đồng chí đó đã thuộc hết các ngóc ngách, đánh dấu từng chặng, từng khúc quanh, rồi mới thống nhất với nhau lấy con đường thứ nhất đã nói ở trên. Sau khi nghe Xiêng Xổm báo cáo, đồng chí Salyvông Khămsao và tôi đểu đi kiểm tra đường để xem mức độ an toàn và tính toán giờ giấc. Tôi đã đóng vai một lái buôn ngà voi đi xe đạp từ Naháyđiểu đến Nakhunnoi, theo đường xe bò, đường đá ong ở rìa các bản làng có thể nhìn thấy những cánh đồng, cánh rừng mà đoàn tù sẽ đi qua, từ đó quan sát và tính toán. Nếu đi xe đạp với tốc độ trung bình và đi một lèo không dừng lại thì quãng đường đó chỉ đi hết khoảng 2 tiếng đồng hồ (trên dưới 20km). Đồng chí Salyvông đi thử về, tỏ ra phấn khởi nói trong cuộc họp: "Đánh là ăn chắc rồi! Ta đi bình thường thì như thế nhưng lúc đã vượt ngục ra rồi thì chắc chắn ai nấy đều sẽ rất khẩn trương, nhanh nhẹn, có khi không bảo cũng chạy ấy chứ! Chỉ mất 3 đến 4 tiếng đồng hồ thôi là đến nơi an toàn rồi. Thế là ăn chắc rồi!". Thực tế không dễ như vậy. Chúng tôi đã không thấy hết tình trạng sức khoẻ của các lãnh tụ ở tù ra sao, nhiều đồng chí già yếu, có người mang trong mình bệnh mãn tính đau xương, đau khớp, v.v... Tình hình vào lúc này đang hết sức phức tạp. Thủ tướng Phủi Sananikon sau khi được quốc hội bù nhìn của chúng giao quyền hạn đặc biệt, theo ý đồ của hắn, hắn đã ra lệnh xúc tiến việc đưa ra xét xử Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo bị bắt giam với tội danh phản quốc nhưng vì bị dư luận phản đối và phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng mạnh mẽ, hắn càng điên cuồng gia tăng đàn áp, bắn giết nhân dân, cán bộ kháng chiến cũ và các cơ sở cách mạng. Cán bộ kháng chiến cũ và phần lớn thanh niên yêu nước không thể yên ổn làm ăn ở các bản làng thôn xóm theo tinh thần hoà hợp dân tộc được nữa. Một số bỏ làng lẩn trốn vào thành phố, một số lánh đi ở nhờ bà con họ hàng ở vùng khác, còn số khác thì chạy vào rừng... Chấp hành chỉ thị nghị quyết của Trung ương về chuyển hướng chiến lược, chỉ trong thời gian ngắn, Tỉnh ủy Viên Chăn và Ban chỉ đạo cuộc vượt ngục đã nhanh chóng tập hợp lại lực lượng, huy động mọi tầng lớp tiếp tục đấu tranh bằng chính trị, pháp lý và bằng dư luận quần chúng lên án phái hữu và tranh thủ các nhân sĩ trí thức theo khuynh hướng tiến bộ, nhất là các luật sư tiến bộ lên tiếng đứng trên công lý để đấu tranh bác bỏ các luận điệu vu cáo đối với các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt, dùng cơ sở nội ngoại thành in ấn rải truyền đơn phản đối việc bắt giam trái phép Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Lào, phản đối việc xử án các vị này. Đồng thời, các tổ chức đoàn thể quần chúng của Mặt trận Lào yêu nước ở các huyện trong tỉnh đều được phục hồi, nhất là ở các vùng căn cứ kháng chiến cũ như Nặm Thơn, Nặm Xẳng, Mường Phương, Long Lịch, Nhọt Ngừm, Tulakhôm. Lực lượng vũ trang địa phương của tỉnh cũng đã xây dựng được một đại đội do đồng chí Khăm Phim chỉ huy. Đơn vị này đã tấn công tiêu diệt đồn Phônxaạt (Phukhẩukhoai, bắc Viên Chăn 80km), Trung ương lại tăng cường cho tỉnh Viên Chăn 2 đại đội, lấy danh nghĩa tiểu đoàn 2 thoát vây ở cánh đồng Chum, nay về đóng ở Đàn Buộc Kốp (bắc Đàn Sủng) đi khoảng 2km tới Phu Hủa Mợi. Lực lượng chủ lực này đo các đồng chí Khăm Phim, Khăm Phổn, Thoong Đươn và Bun Thiền chỉ huy. Họ đều là những cán bộ đã trải qua nhiều trận đánh thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ 2 tỉnh tập kết của Pathét Lào mấy năm qua. Do mâu thuẫn tranh giành quyền lợi và lợi dụng bất mãn của quần chúng đối với chính quyền Phủi Sananikon ngày càng lan rộng, ngày 1 tháng 1 năm 1960 tướng Phummi Nosavẳn tiến hành đảo chính lật đổ Phủi Sananikon, đưa Chậu Sômsanít lên thay. Bọn này xúc tiến cái gọi là "Kế hoạch ngăn chặn hiểm họa cộng sản do Neo Lào Hắc Xạt gây ra" bằng cách đưa các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt ra tòa án để xét xử với tội danh phản quốc trong vòng 1 tháng phải xong. Đồng thời chúng càng tặng cường đàn áp, bắt tiếp những người có quan hệ hợp tác với Neo Lào Hắc Xạt, ra sức đánh phá phong trào cách mạng. Mặc dù khó khăn là vậy nhưng công việc chuẩn bị cho cuộc giải cứu các lãnh tụ vẫn đang tiến triển tuy thầm lặng nhưng rất khẩn trương. Công việc này lấy khâu xây dựng đường dây liên lạc là khâu quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của kế hoạch vượt ngục. Đến giờ phút này, mọi thông tin liên lạc qua đường dây giữa bên trong và bên ngoài trại giam, giữa tổ công tác nội, ngoại thành và ban chỉ đạo của tỉnh cũng như giữa ban chỉ đạo với Trung ương Đảng đều đã thông suốt và bảo đảm liên tục, bí mật, an toàn tuyệt đối. Trong tù, đồng chí Nủhắc báo cáo ra "đã tuyên truyền được khoảng 40 người trong đại đội canh gác tù, trong đó có 11 người do quản U Đon phụ trách là đáng tin cậy nhất". Thực tế là mấy tháng qua công việc liên lạc từ trong tù ra bên ngoài thông qua trạm liên lạc là nhà bác gái Khămpheng chủ yếu vẫn do Uđon đảm nhiệm. Ở bên ngoài thì đã chuẩn bị xong con đường tắt từ phía sau trại giam Phôn Khênh về đến Đàn Sủng - Na Nhang, căn cứ an toàn đầu tiên của tỉnh. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:48:57 pm Trước tình hình khẩn trương sau cuộc đảo chính của Phummi Nosavẳn, thông qua điện đài của Tổ công tác đặc biệt Việt Nam, Tổng Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân Lào điện chỉ thị "quyết tâm tổ chức cho các lãnh tụ vượt ngục càng sớm càng tốt trước khi bị chúng đưa ra toà xét xử và đặt chỉ tiêu thực hiện không quá tháng 5 năm 1960”. Nhận được chỉ thị này, đồng chí Saly Vôngkhămsao - trưởng ban chỉ đạo công tác đặc biệt phía Lào đã cùng tôi và đồng chí Xiêng Phiên (tức Đao Viêng) bàn bạc ở cơ quan mật tại Đàn Sủng - Na Nhang. Sau đó giao cho đồng chí Xlêng Phiên vào nội thành triệu tập cuộc họp bí mật tại nhà bác gái Khămpheng Bupha ở cạnh chùa Xiêng Vè. Mặc dù cảnh sát địch vẫn công khai đứng gác trước cửa, nhưng các thành viên dự họp chờ lúc chập choạng tối đã lần lượt lẻn vào cửa sau trót lọt, gồm có Xiêng Xổm, quản U Đon, bác gái Khămpheng do Xiêng Phiện chủ trì để phổ biến chỉ thị của Trung ương Đảng và ý kiến của đồng chí Saly Vôngkhămsao. Cuộc họp đã thể hiện quyết tâm cao và phân chia công việc chuẩn bị gấp rút cho giờ G, giao cho quản U Đon theo dõi lịch cắt gác nhà giam hàng ngày, hôm nào đủ 10 người của ta gác thì báo cáo bác Nủhắc là người chỉ đạo chung trong tù để bác ấy thông tin quyết định giờ G (ngày, giờ hành động cụ thể) cho Ban chỉ đạo bên ngoài. Đồng chí Xiêng Phiên chịu trách nhiệm liên lạc với bên ngoài và với đồng chí Saly Vôngkhămsao thường trực chỉ đạo tại cơ quan mật Đàn Sủng, Na Nhang. Đến ngày vượt ngục thì dẫn 2 đại đội đã chuẩn bị tới điểm hẹn để đón đoàn lãnh tụ vượt ngục tại suối Nặm Khêm ở cánh rừng Đồng Xiêng Đi. Đồng chí Xiêng Xổm được giao tăng cường theo dõi tình hình trong nội thành Viên Chăn báo cáo lên Ban chỉ đạo để nắm chắc tình hình và xử lý mọi tình huống kịp thời, đồng thời duy trì liên lạc thường xuyên với bác Nủhắc ở trong tù thông qua U Đon. Riêng bác gái Khămpheng thì theo dõi dư luận quần chúng và các tầng lớp trong nội thành Viên Chăn, lãnh đạo phong trào đấu tranh tiếp tục phản đốil các việc làm phi pháp của chính phủ Sổmsạnít, đặc biệt khi chính phủ này mở phiên toà xét xử các lãnh tụ ta thì sẵn sàng cùng với gia đình các lãnh tụ huy động bà con, nhân dân đi đấu tranh với các cấp chính quyền theo kế hoạch đã định, nhất là khi chúng đưa tin các lãnh tụ đã vượt ngục Phôn Khênh thì phải huy động nhân dân càng đông càng tốt, đi đầu là các gia đình, họ hàng bà con của các lãnh tụ bị bắt, kiến nghị đưa đơn đòi chồng con, hô hoán ầm ĩ rằng chính phủ này đã bí mật đem những nhà yêu nước đi thủ tiêu bất hợp pháp...
Sau cuộc họp, mỗi người ra đi khẩn trương thực hiện công việc của mình đã được phân công. Điểm trọng yếu nhất mà ai nấy đều chăm chú quan tâm là cái ngày đại đội cảnh vệ thuộc tiểu đoàn cảnh vệ Phôn Khênh lên danh sách cắt gác nhà giam các lãnh tụ yêu nước. Nếu đúng tới phiên 10 cảnh vệ nhân mối của ta cùng gác thì ngày đó cũng mặc nhiên là ngày vượt ngục bởi vì mọi việc đã được kiểm tra bảo đảm sẵn sàng, chỉ chăm chú mong chờ đến ngày đó mà thôi. Nhưng đến khi theo dõi danh sách cắt gác không hôm nào đủ cả 10 người của ta. Hễ có 10 người gác thì thường chỉ có 5 người của ta còn lại là người của họ. Hàng ngày chúng lên lịch gác xong, 12 giờ mới dán lên bảng do sĩ quan cấp đại uý cắt gác chứ không phải U Đon. Nếu là U Đon cắt gác thì kiểu gì cũng cắt 10 người của ta ngay rồi. Nhưng lại do người khác cắt gác nên chẳng hôm nào đủ cả. Cứ thế sợ đến tháng 7, tháng 8, thậm chí đến sang năm cũng không chắc đã đủ, nên Xiêng Xổm phải bàn với U Đon tìm cách khác, U Đon bảo rằng: "Thì cũng có kiểu gác đúp, gác thêm đấy". Bởi vì anh em gác quen đổi phiên, gác thay, gác bù cho nhau, kiểu tuần này anh nào bận việc nhà hoặc đi nghỉ thì đến tuần sau phải gác bù cho người gác thay. Nếu vậy xem hôm nào có 5 người của ta gác rồi thì tìm cách cho người của ta xin gác thay cho 5 người còn lại đó trong tuần này, tuần sau họ sẽ gác bù lại, viện cớ tuần sau bận việc nhà, bận đi đây đi đó. Nói với bọn họ rồi mua thuốc lá COTAP mời là nó đồng ý ngay. Cuối cùng đã đến ngày lên đủ danh sách 10 người gác theo ý đồ của ta và dán ở bảng lúc 12 giờ. U Đon thấy danh sách phiên gác rồi vội chạy đi báo cáo ngay và chúng tôi tranh thủ họp bàn ngay để kịp thời bắt tay vào việc. Đến 1 giờ trưa ngày 23 tháng 5 năm 1960 là ngày mong đợi, U Đon cầm ra mẩu giấy nhỏ của bác Nủhắc ấn vội vào tay Xiêng Xổm với nét mặt có vẻ lo lắng hơn bình thường... Khi nhận thư Xiêng Xổm rất hồi hộp, đoán là thời cơ đã đến rồi và bóc ra đọc. Quả đúng như dự đoán, bác ấy đã viết trong thư như sau: "Đêm nay là đêm quyết định vượt ngục theo kế hoạch, các đồng chí bàn bạc thật cụ thể để đảm bảo an toàn tuyệt đối, đồng ý cho một số sư do U Đon yêu cầu cho đi theo nhưng họ phải làm lễ hoàn tục xong trong đêm nay, cũng phải cử người đi đón họ, bàn với U Đon về 2 ngọn đèn pha ở 2 bên đường vào cổng trại giam nên xử lý như thế nào? Nếu nó hay tắt thường xuyên thì nên tìm cách tắt trước khi vượt ngục, còn nếu nó được bật suốt thì mặc kệ không động chạm đến kẻo lộ bí mật. Riêng 2 chiếc xe bọc thép đỗ quay mặt vào cửa nhà giam giao cho 10 người cảnh vệ của ta giác ngộ hoặc mua rượu mời bọn chúng uống say. Yêu cầu Ban chỉ đạo cử cán bộ tin cậy vào trong nhà giam lúc 20h30 phút. Mua 32 mảnh vải ni lông, mỗi mảnh dài 2m. Mua 32 cái bánh mỳ đưa cho quản U Đon mang vào trước". Sau khi đọc xong thư, Xiêng Xổm bàn bạc sơ bộ với U Đon rồi hẹn 17 giờ 30 phút gặp lại U Đon tại nhà cơ sở mật ở xóm chùa Xạ Vàng để bàn bạc thêm và trả lời những vấn đề bác Nủhắc nêu trong thư. Sau đó Xiêng Xổm giáo Xiêng Phiêng thuê xe ô tô về Na Nhanh liên lạc báo cáo ngay Ban chỉ đạo. Ai nấy đều mong đợi cái ngày này từ lâu, nên đồng chí Saly Vôngkhămsao cùng chúng tôi họp bàn chớp nhoáng và nhất trí lấy ngày giờ G sẽ là 0 giờ 30 phút đêm nay (tức là đêm 23 rạng ngày 24 tháng 05 năm 1960). Một mặt Ban chỉ đạo cử đồng chí Xiêng Phiêng đi đón đơn vị bộ đội do Khăm Phim, Khăm Phon chỉ huy, từ Đàn Buộc Kốp đưa tới điểm hẹn trước 0 giờ đêm nay. Mặt khác giao Xiêng Xổm đích thân đột nhập vào trại giam lúc 20h30 phút đêm và trước đó sẽ gặp U Đon lúc 17h30 phút như đã hẹn để thông báo quyết định của Ban chỉ đạo đồng ý đáp ứng mọi yêu cầu của đồng chí Nủhắc. Đồng thời giao Xiêng Xổm kiểm tra lần cuối xem biểu hiện quyết tâm của 10 anh em cảnh vệ như thế nào khi biết tin này, bàn với U Đon xử lý đèn pha ở trước cửa nhà giam sẽ tắt hay bật? Bọn gác ở 2 xe bọc thép xử lý ra sao? Vấn đề quân phục cảnh vệ và vũ khí trang bị bổ sung nhiều hay ít. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:49:35 pm Qua cuộc gặp U Đon lần 2 trong ngày này Xiêng Xổm thấy rằng thái độ, quyết tâm của anh em cảnh vệ cả 10 người không có gì thay đổi, ai nấy đều vẫn sẵn sàng quyết tâm giải thoát lãnh tụ dù bản thân mình có phải hy sinh tính mạng, còn tỏ ra hào hứng khi biết tin đêm nay sẽ hành động. Còn về hai ngọn đèn pha thì U Đon cho biết: từ khi lắp đèn mỗi khi nó tắt là có người đến kiểm tra ngay, do đó Xiêng Xổm quyết định không động chạm tới nó. Về súng, U Đon nói sẽ cố gắng lấy thêm 11 khẩu các-bin cộng với 10 khẩu súng sẵn có của 10 cảnh vệ. Riêng đối với bọn lính gác ở 2 xe bọc thép, U Đon đã giao cho On Xả sẽ tổ chức một sòng bạc ở nhà gần đó rủ chúng sang chơi rồi mua bia rượu cho uống, không thành vấn đề gì. Quần áo, giầy, mũ, quân hàm, quân hiệu bảng đỏ (băng kiểm soát quân sự), v.v... U Đon sẽ chuẩn bị đầy đủ bảo đảm trăm phần trăm. Thống nhất xong, Xiêng Xổm hẹn gặp U Đon trước cổng đồn Phồn Khênh lúc 20h30 phút để U Đon đưa Xiêng Xổm vào trại giam. Sau này Xiêng Xổm đã kể lại cho tôi nghe chi tiết về cuộc đột nhập trại giam ly kỳ và đầy hiểm nguy này như sau:
Bảy giờ tối hôm đó, từ nhà cơ sở ra, Xiêng Xổm đến thuê taxi ở rạp chiếu phim Bua Sạ vẳn đi Phôn Khênh. Đến Phôn Khênh, Xiêng Xổm vào ngồi trong 1 cửa hàng ăn đối diện với đồn Phôn Khênh để đợi ở đó. Bác gái chủ cửa hàng ăn đó đến nay vẫn còn sống. Chồng bác ấy không còn nữa. Bác ấy là người Pak Xê, đồng hương với U Đon. U Đon hay ăn cơm ở đó và nhận làm chị em kết nghĩa. Hẹn với U Đon lúc 20h30 phút gặp nhau tại đó như đã nói trong cuộc họp lúc 17h30 phút. Vào trong quán, đặt gói bánh mỳ và vải ni lông lên bàn ở trong góc rồi gọi cà phê sữa uống và ăn bánh ngọt. Uống hết một cốc vẫn chưa thấy U Đon tới: Nếu gọi tiếp cốc nữa cũng dở vì uống xong là họ dọn dẹp bàn luôn. Đang lúng túng chưa biết xoay sở ra sao, bác gái chủ quán hỏi: "Chắc chú có hẹn chờ ai hả?". Không biết trả lời thế nào đành phải đáp: Vâng! "Hẹn gặp ai?" - bác ấy lại hỏi. Lúc này lại càng khó nói, không biết nên nói rõ hay là không. Nếu không nói rõ lúc gặp họ sẽ bảo mình nói dối là hẹn gặp người này lúc gặp lại gặp người khác. U Đon chắc cũng biết chủ quán. Nghĩ đi nghĩ lại rồi Xiêng Xổm trả lời: "Hẹn gặp thầy U Đon" (vì U Đon trước đi tu đến chức sư thầy). "Chú là thế nào với thầy U Đon?’’. Bác ấy tiếp tục hỏi, Xiêng Xổm đáp: "Trước đây tôi tu ở chùa vắt Ông Tự. U Đon cũng tu ở đó nên quen nhau, U Đon hoàn tục ra làm cảnh vệ ở đây, còn tôi thi về quê nay có dịp trở lại nên ghé thăm". Nói hết chuyện này đến chuyện khác để tránh bị nghi ngờ. Lúc U Đon tói, bác gái ấy nói: "Kia kìa, bạn anh ra tìm kìa". Quả nhiên U Đon tới thật. Ngồi nói chuyện một lúc cả hai đi vào trong đồn Phôn Khênh, U Đon cầm túi bánh mỳ đi trước, qua "ba-ri-e" thấy tên lính gác đang đọc thư dưới ánh đèn điện, U Đon đùa: "Nhận được thư của người yêu hả". Thằng đó thấy U Đon liền cho vào. Đến cửa nhà giam có toán lính gác chĩa súng đứng ở đó, U Đon nói: "Người mình!", rồi mở cửa đẩy Xiêng Xổm vào, sau đó đóng lại, khoá luôn. Bên trong tối đen không thấy gì cả cứ phải lần mò mà đi. Bác Nuhắc Phumsavẳn chạy tới cùng với một người nữa mà mãi sau này mới biết là bác Xixanạ, bác ấy ôm hôn và sờ lên ngực Xiêng Xổm xem tim có đập mạnh không rồi nói: "Ô tim đồng chí vẫn đập bình thường đấy". Bấy giờ bác Nuhắc cứ hỏi liên tục. Câu hỏi cứ mỗi lúc mỗi sâu thêm, nhưng hỏi đến đâu Xiêng Xổm trả lời rõ đến đấy vì mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng rồi và đưa túi bánh mỳ cho bác, sau đó bác đi khỏi để triệu tập phổ biến hay bàn bạc gì Xiêng Xổm chẳng biết. Bác chỉ dặn là đừng nói gì, đừng động đậy gì, cứ giữ im lặng đã. Xiêng Xổm nằm quay mặt vào tường để ngủ. Chốc chốc lại có người đến sờ nắn Xiêng Xổm, chắc là những người không dự cuộc họp của Ban lãnh đạo. Họ hỏi làm thế nào ra được? Đơn vị bộ đội đóng ở đâu? Đón ở đâu? Nhiều ít thế nào?, v.v... Xiêng Xổm sợ họ lo lắng, không tin tưởng không dám đi, nên trả lời: - Cả tiểu đoàn 2 đón. - Tiểu đoàn 2 ở đâu? - Họ hỏi. - "Ngay sát cạnh đồn Phôn Khênh" - Xiêng Xổm đáp, vì nếu nói đón ở Nặm Khêm cách 3 - 4km sợ họ lo lắng đành trả lời: "Ở ngay Phôn Khênh đây, cứ ra là gặp ngay”. Mãi sau này mới biết người hỏi là bác Singkapô. Hồi trước Xiêng Xổm có biết ai đâu. Từ khi tham gia cách mạng, ra hoạt động tại Viên Chăn thường chỉ nghe tên ông này, ông kia chứ không biết mặt. Kể cả các mẩu giấy con từ trong tù gửi ra thấy ký tên "Nủhắc" chứ có thấy mặt đâu. Hoặc cũng có khi bác ký tên là bác Thoong. Nhưng Xiêng Xổm biết bác Thoong cũng chính là bác Nủhắc. Khoảng 23h30 phút bác Nủhắc kéo tay Xiêng Xổm dẫn đến chỗ nhà tiêu tối om ở trong góc nhà giam và bảo không được ho hay hắt hơi cho đến lúc bác quay lại đón. Sau đó bác bỏ đi, làm như vậy là để tránh sự kiểm tra của tên Lăm Ngơn. Bởi vì hàng ngày cứ đúng 12 giờ đêm là tên đại tá Lăm Ngơn chỉ huy trưởng cảnh vệ Phôn Khênh đích thân đi kiểm tra khoá cửa từng phòng giam. Đến 0h15 phút bác Nuhắc quay lại dẫn Xiêng Xổm đến dự cuộc họp phổ biến kế hoạch và hạ quyết tâm vượt ngục đêm nay. Bác phân chia quần áo mũ, giầy cho mọi người, không cho mang vật nặng, chỉ duy nhất bộ quần áo đang mặc. Sau đó tổ chức thành 3 nhóm rồi phát súng cho từng nhóm. Nhóm của Xiêng Xổm được trang bị 3 súng cạc-bin. Xiêng Xổm 1 khẩu, bác Sithôn 1 khẩu còn một khẩu giao cho bác Singkapô. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:50:10 pm 0 giờ 30 phút bắt đầu vượt ngục và chia nhau thoát ra theo thứ tự nhóm 1, nhóm 2, sau cùng là nhóm 3, mỗi nhóm cách nhau 3 phút. Quy ước là nếu bị lộ, có tiếng súng nổ ở bên ngoài thì phải đánh xông ra ngoài. Điểm hẹn tập kết tại gốc cây Sảm Sả lớn ở cánh đồng hướng đường đi Nam Nỏng Tha (bây giờ là trạm phát điện Phôn Tọng). Lúc đó bác Nủhắc đã đồng ý với U Đon cho 3 nhà sư (trong đó có em trai của U Đon đi cùng) nhưng họ phải làm lễ hoàn tục xong trước đêm nay. Họ đã nhờ hoà thượng Vì Chít ở chùa Thạt Luông làm lễ hoàn tục cho nhanh. Sau đó U Đon đã cử Chănthạvi và Bunteng đi đón về, thống nhất với nhau là đón các sư hoàn tục, đưa tới điểm hẹn chỗ gốc cây Sảm Sả mà Xiêng Xổm đã đánh dấu chữ z ở gốc đó. Chănthạvi sợ không chắc chắn nên sau khi đón các sư, đã trở vào trại Phôn Khênh để kiểm tra xem có đúng là vượt ngục thật không, thì chẳng còn thấy ai, mới vội vã quay ra đưa các sư đến điểm hẹn tại gốc cây Sẳm Sả. Trong lúc đó những người vượt ngục đã tới điểm hẹn, chờ sốt cả ruột. Chờ gần một tiếng đồng hồ, cuối cùng U Đon quyết, định đi tiếp. Vừa đi khỏi được 100m thì nghe thấy tiếng bì bõm từ phía sau. Tưởng là địch đuổi theo nên U Đon ra lệnh sẵn sàng chiến đấu. Khi hỏi đáp mật khẩu mới biết là Chănthạvi. Sau khi quân số đã đủ lại tiếp tục lên đường, nhưng đã mất khá nhiều thời gian. Còn nhiều sự cố tiếp theo nữa. Sự phân công trước lúc vượt ngục là chia 3 nhóm: Nhóm 1 do U Đon đảm nhiệm có bác Hoàng thân Xuphanuvông, bác Phumi Vôngvichít; nhóm 2 do Xiêng Xổm đảm nhiệm có bác Singkapô, bác Si thôn, bác Nủhắc, bác Phun Sipasót... nhóm 3 do đồng chí On Xả phụ trách, có Bua Sỉ và mấy người còn lại. Thống nhất với nhau chỉ phụ trách nhóm là người biết và đã đi kiểm tra điểm hẹn tập kết tại gốc cây Sẳm Sả mà Xiêng Xổm đã đánh dấu chữ z. Ai tới trước thì đợi ở đó. Nhóm 1 xuất phát rồi, Xiêng Xổm rất lo vì không biết sẽ có chuyện gì xảy ra ở bên ngoài. Chỉ chăm chú nghe xem có tiếng súng là đánh thẳng ra ngoài. Anh em cứ lần lượt từng người một thoát ra. Chạm nhẹ vào tường tôn thì tiếng động cũng rất lớn, một lúc lại có tiếng chó sủa. Lộ hay không cũng chẳng ai quan tâm, chỉ chú trọng nghe tiếng súng, nếu có là chiến đấu ngay, chó sủa cũng mặc. Đến lúc không có tiếng chó sủa mà cũng chẳng nghe tiếng súng nào, nhóm 2 lại tiếp tục thoát ra ngoài theo kế hoạch cứ cách 3 phút 1 nhóm. Đến lượt nhóm Xiêng Xổm thoát ra theo lối trường dạy tiếng Anh của quân đội. Hàng rào dây thép gai của trại lính này có 3 - 4 lớp chỉ dùng chân đi giày dẫm là nó tụt xuống ngay. Vì là loại hàng rào dây thép gai dùng ngăn chặn trâu, bò nên đi qua dễ dàng. Nhóm của Xiêng Xổm mới đi đước một lúc, thấy có đèn của một xe máy chiếu tới, Xiêng Xổm vội giơ tay ra lệnh cấm qua đường này. Chỉ mới thấy cánh kiểm soát quân sự đội mũ sắt viền đỏ mặc trang phục đi tuần tra, là anh ta đã chuồn rẽ sang hướng khác ngay. Bọn lính ở hai xe bọc thép thì lúc đầu cánh On Xả, Bunteng cùng đến chơi với họ, mua bia, rượu về vừa nhậu nhẹt vừa đánh bài với họ, họ càng đánh càng ham, càng uống càng say, anh em ta lủi dần về chúng cũng không biết, chúng say rồi lăn ra ngủ. Xe bọc thép cũng để nằm ở đó. Anh em ta vừa đi vừa nghe thấy tiếng bọn chúng lè nhè, mặc kệ chúng, cứ đi luôn, mấy con chó nằm cạnh gốc cây chạy ra chạy vào cũng vậy. Bọn đánh bài có đứa nửa tỉnh nửa say nhìn thấy đoàn đi nhưng thấy toàn quân phục cảnh vệ nên chúng cũng bỏ qua, chẳng quan tâm nữa. Ta tha hồ đi vòng qua trường dạy tiếng Anh của quân đội, thoát khỏi hàng rào rồi lội qua mương Hoòng Seng. Từ đó đi tiếp tới điểm hẹn. Lúc đến nơi im ắng chẳng thấy ai, sao thế nhỉ? Nhóm 1 ra trước, sao không thấy đến điểm hẹn trước? Xiêng Xổm bèn đưa các bác vào trôn trong cánh rừng thưa cạnh đó (chỗ trạm phát điện Phôn Tọng bây giờ), rồi Xiêng Xổm chạy quay trở lại, được một đoạn thì gặp U Đon đi loạng choạng tới, Xiêng Xổm hỏi:
- Thế mọi người đâu cả rồi? U Đon đáp: - Không biết! Đi cứ thấy rơi rớt dần. - "Ồ! không thể như thế được". Xiêng Xổm kéo tay U Đon chạy quay trở lại thấy Hoàng thân Xuphanuvông đang ngơ ngác, do không chịu bỏ cái bàn viết của mình, đi đến đâu cũng tranh thủ đặt bàn xuống viết, thì ra lúc nào bác cũng đeo cái bàn có chân gập ở sau lưng, khi ngồi thì lập tức dựng lên để viết. Người khác vác giúp bác cũng không chịu. Xiêng Xổm bảo U Đon: "Anh dắt tay bác chạy tới điểm hẹn ngay đi", còn Xiêng Xổm tiếp tục quay lại tìm kiếm và thấy mỗi chỗ 2 - 3 người đang ngơ ngác ở gần đó, thấy ai cũng bảo họ: "Cứ đi thẳng tới gốc cây Sam Sả kia kìa, đấy cây cao nhất, xanh xanh đằng kia kìa... đi đi". Trước đấy giữa Nỏngthatay và cánh đồng Nỏngphanha là rừng rậm. Hồi tháng 3, Xiêng Xổm đi kiểm tra không thấy có ai phát rẫy ở đó. Nhưng nay lại thấy người ta đã phát rẫy và cây bị chặt đổ ngang đổ ngửa còn chưa kịp đốt. Nếu đi vòng tránh sẽ mất rất nhiều thời gian, Xiêng Xổm đành dẫn đoàn đi xuyên thẳng qua rẫy này theo đường cũ. Lúc đó do vướng gai vuốt mèo và các loại gai khác chằng chịt nên tiến đã khó thoái còn khó hơn. Xiêng Xổm thì nóng ruột không biết sẽ đi qua rẫy bằng cách nào. Hôm trước đã thông nhất với anh Salyvông là hôm nào ra thì trong đêm đó phải tới được nơi an toàn ngay. Bây giờ thực tế xem ra có vượt qua được rẫy, ra đến cánh đồng làng Nỏngphanha thì trời cũng sáng mất, lo đến muốn tắt thở, bây giờ khi vướng rẫy mới phát chưa đốt, ai cũng ra sức chui lách mà không nhích được bao nhiêu. Trời lại tối sầm, mây đen kéo đến kín trời, thỉnh thoảng có ánh chớp loằng ngoằng, nhiều người bị kẹt trong đám cành lá đầy gai góc, bị gai đâm vào da thịt chảy máu, đau nhức, bước đi càng chậm. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:50:35 pm Bỗng nhiên cũng chẳng hiểu là tiếng gì giống như tiếng nổ lớn, lớn lắm ùng oàng từ phía Phôn Khênh mà ai cũng nghe thấy chứ không riêng gì Xiêng Xổm. Có người nói "nghe như tiếng đạn súng cốỉ 80mm". Ai cũng nghĩ là bị lộ rồi, Xiêng Xổm bèn hô to: "Địch đuổi theo sau rồi! Đi mau! Đi mau!". Mọi người như có một sức mạnh lạ kỳ thúc đẩy, đã ùa chạy qua được rẫy đó lúc nào không biết, chẳng cần biết cành lá gai góc chằng chịt đâu cả, chỉ loáng một cái đã ra tới cánh đồng. Đủ cả, chẳng thiếu một ai. Đến lúc này trời bỗng nổi cơn mưa to gió lớn ầm ầm như trút nước kèm theo sấm động chớp giật liên hồi. Chẳng mấy chốc, cánh đồng Nỏngphanha đã tràn ngập nước đến đầu gối. Trận mưa to kéo dài cả tiếng đồng hồ, đến khi chúng tôi đã vượt qua cánh đồng gần 2km, vào được sâu trong rừng rậm Đông Boong rồi, mưa mới giảm dần và dứt hẳn. Ai nấy đều bảo: "Trận mưa này là trời phật phù hộ cho đoàn vượt ngục được an toàn đây!". Xiêng Xổm nhớ lại có khá nhiều dấu vết của đoàn để lại trên đường từ lúc ra khỏi nhà giam Phôn Khênh: như lúc vượt qua mương Hoong Seng hay đi trên các bờ ruộng, vết chân giầy đinh dẫm trên đất, trên bùn thành vệt ngay, may mà trận mưa xoá sạch dấu vết, mọi người mừng quá; hay lúc mới đi được một đoạn, bác Sithôn trượt chân ngã, văng mất mũ nên bác ấy dừng lại để tìm. Vì sợ mất thì giờ và lộ bí mật, nên bất kể người đó là ai, Xiêng Xổm cũng cứ ra lệnh "đi!". Cũng may bây giờ mưa to thế, nên có lẽ mũ đã bị cuốn trôi tận đâu rồi. Giả thử không có trận mưa này, chiếc mũ còn đó, vết giầy trên đường còn đó, ban ngày có thể trở thành dấu hiệu chỉ đường cho kẻ thù truy lùng một cách dễ dàng, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hơn thế nữa trong cơn mưa to, lại có ánh chớp loé lên luôn luôn cũng đủ soi đường cho anh em chạy nhanh được một đoạn đường dài. Tuy lúc vào tới rừng thì trời có giảm mưa nhưng tối om chẳng nhìn thấy gì. Mọi người đều kiếm các lá cây, các loại nấm có lân tinh cài lên áo quần để người đi sau có thể thấy bóng người đỉ trước, rồi người nọ bám vào lưng người kia để Xiêng Xổm dẫn đi. Xiêng Xổm là người duy nhất thông thuộc địa hình khu rừng này do trải qua 3 tháng tìm đường ở đây. Có thể nói Xiêng Xổm thuộc từng gốc cây ngọn cỏ và nhất là nhớ các ngọn cây cao mới có thể xác định được mình đang ở vị trí nào. Kinh nghiệm kiếm tìm đường ban đêm không phải nhìn xuống dưới thấp mà phải quan sát ngọn cây cao xem các cành nó chĩa sang hướng nào thì phải nhớ lấy cẩn thận. Nếu chỉ chú ý nhìn chỗ thấp thì đêm tối làm sao mà thấy, nên muốn thấy phải nhìn lên cao, từ đó nhận ra cây này là ở điểm nào, ban ngày đã kiểm tra thấy cành nó chĩa hướng nào thì ban đêm sẽ nhận ra không bị lạc.
Vào sâu trong rừng thì mưa tạnh hẳn. Gà rừng gáy khắp nơi. Thời đó gà rừng rất nhiều nên chúng gáy râm ran khắp cả. Trời sắp sáng rồi, tính theo kế hoạch là phải tới chân núi Bắc Kít rồi lên núi Phu Phạnăng khoảng 4km nữa mới tới căn cứ an toàn. Xem ra mới đi được hai phần ba đoạn đường mà trời sắp sáng, nguy to rồi, sợ không kịp. Muốn đi nhanh mà bắt các đồng chí chạy cũng không được nữa vì đã thử chạy rồi. Lúc qua đầm Nỏng Tha, bác Xuphanuvông bị chuột rút không đi được phải dừng lại cho anh em xoa bóp khá lâu mới tiếp tục đi cà nhắc được. Còn bác Thao Ma bị chóng mặt bảo chạy lần nào là chóng mặt lần ấy, toàn phải cõng. Các bác khác cũng vậy, không thể chạy được đành phải để các bác đi bình thường. Do vậy sai với kế hoạch mà anh Salyvông bảo chỉ chạy mất có 2 đến 3 tiếng là tới đích, là ăn ngon rồi... Bấy giờ đến suối Nặm Khêm do mưa to nước dâng cao nếu còn lội thử hoặc đi theo bờ đến chỗ có cầu thì xa, sợ trời sáng, nên Xiêng Xổm quyết định cho cả đoàn bơi ào qua, vượt qua gai góc mà lên được bờ bên kia thì trời cũng vừa sáng và đã gặp ngay được đơn vị bộ đội của Khăm Phổn, Khăm Phim, Thong Đươn chờ đón ở đó. Mọi người đều mừng không tả được tuy chưa hết lo. Vấn đề cấp bách là cho đoàn tạm trú ngụ ở đâu, chứ không thể cho đoàn tiếp tục đi theo kế hoạch. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 18 Tháng Bảy, 2021, 06:50:54 pm Xiêng Xổm mở cuộc họp bàn chớp nhoángvới bác Nủhắc, bác Phun Sipasớt, đồng chí Khăm Phim và Thong Đươn. Xiêng Xổm đề xuất ý kiến: "Bây giờ trời đã sáng, đã nhìn thấy trâu, bò dân thả đi ăn ở cánh đồng quanh đây. Họ sẽ nhìn thấy cả đoàn chúng ta mất. Nếu đi trú vào rừng Đồng Độk ở hướng Đông cách đây 500m chẳng khác nào quay trở lại. Kẻ thù có đuổi theo sẽ đi theo đường đó rất nguy hiểm. Dù sáng cũng mặc kệ, phải đi ngay tới cánh rừng Đồng Boong ở phía trước cách 2km. Thống nhất xong liền ra lệnh tất cả phải chạy. Bây giờ là mệnh lệnh hẳn hoi, người nào không chạy được thì có bộ đội dìu chạy. Như bác Xuphanuvông, bác Ma bị chóng mặt, anh Sỉsanạ chân cà nhắc, không chạy được, bộ đội xúm lại thay nhau cõng chạy cho bằng được. Tới rừng Đồng Boong, cử bộ đội gác xung quanh nhiều lớp và tuần tra theo rõi, còn lại tất cả lăn ra ngủ li bì. Ban chỉ huy dự kiến nếu gặp ai là người lạ đến thì bắt giữ vài hôm, cử 2 chiến sĩ ở lại trông giữ đến khi đoàn đi xa rồi mới thả. Ở trong rừng Đồng Boong cả 1 ngày, khát khô cả cổ, mưa thì to thế mà chẳng có tí nước đọng nào cả. Khát quá đành phải đi tìm cắt các loại cây cỏ, dây dợ để mút lấy nước uống, miễn không độc là được, Xiêng Xổm và anh em đã ở rừng nhiều năm, đã từng ăn qua các thứ đó rồi, nên đi quanh rừng cắt về cả đống và đem số bánh mỳ của bộ đội đã chuẩn bị sẵn chia cho mọi người ăn và uống với nước cắt từ các cành cây, dây leo đó cho đỡ khô cổ. Tạnh mưa, trời nắng nóng oi bức ngay. Hôm đó rất may không có dân vào rừng, chỉ có máy bay trinh sát bay qua bay lại rà soát khắp nơi. Kệ xác nó, anh em chẳng động tĩnh gì và chẳng quan tâm đến chúng. Thế là mất cả ngày im, lìm ở đó. Đúng 17h30 phút ra lệnh tiếp tục lên đường ngay. Từ rừng Đồng Boong tắt sang Na Khun Nọi, không đi men theo rìa làng Na Xai, mà tắt qua cánh đồng đi tiếp. Rồi lại xảy ra chuyện rắc rối do liên lạc ám hiệu không ăn khớp, do bên này nói sai mật khẩu nên bên kia không dám nhận mà suýt nữa bị nguy hiểm. Theo quy ước, đại đội của Bun Thiềng đón ở đường 13 phía bắc tại đoạn Hủa Xạng và Phôn Sọt gần Hủakhủa chỗ tắt qua chân núi Đàn Bắc Kít để vòng lên núi Phu Phạnăng. Họ nằm phục sát đất ngay cạnh mép đường cái, khi đoàn Xiêng Xổm tối đó còn cách khoảng 1km thì dừng lại, cử anh Têm đi bắt liên lạc với đại đội đó. Anh Têm cứ đi dọc theo đường cái, vừa đi vừa hô mật khẩu ầm ĩ lên, đáng lẽ phải gọi kín đáo, lại còn hô sai mật khẩu nữa. Đại đội của Bun Thiềng sinh nghi không trả lời để xem sao đã, họ cũng đoán là người mình nên không bắn, không bắt nhưng họ cũng không trả lời vì chưa chắc chắn. Loanh quanh một lúc mệt rồi anh Têm quay lại báo cáo là không thấy có ai đón cả. Lúc đó đã khoảng một giờ đêm. Đầu óc Xiêng Xổm căng thẳng như muốn vỡ ra: Vì sao bộ đội không đến đón? Đây là kế hoạch lớn, không thể sai hẹn được? Hay là do có địch hoạt động ở khu vực này hoặc đóng mai phục ở gần đó? Xiêng Xổm nhận định: dù tình huống nào thì đoàn đã đến dây là gần sát chân núi Phu Phạnăng, đoàn cũng đã có lực lượng bảo vệ đủ vũ khí, vượt qua đường cái sang được bên kia là chân núi an toàn rồi... Trời lại bắt đầu mưa là cơ hội tốt để vượt qua đường cái trống trải. Xiêng Xổm tức khắc quyết định ra lệnh cho đơn vị Khăm Phim bố trí cảnh giới hai đầu, còn lại rời khỏi vị trí ẩn nấp, không đi thành hàng dọc mà dàn hàng ngang chạy thật nhanh, băng qua đường quốc lộ luôn một lần. Khi chạy qua đường, có người suýt nữa dẫm vào đầu của các chiến sĩ nằm mai phục đón ở bờ ruộng sát đường. Anh em đi đón thấy rõ là đoàn tù vượt ngục rồi nhưng chỉ huy cho lệnh không xuất hiện vội, sợ đoàn giật mình hoảng sợ, dễ xảy ra nổ súng, hơn nữa gặp nhau giữa đường cái trống trải dễ bị lộ và mất thì giờ, nên cứ để đoàn vượt sang bên kia đường cho an toàn đã, bộ đội đi đón sẽ đi sát theo sau để bảo vệ cho chắc ăn. Sau khi vượt qua đường quổc lộ rồi, đoàn còn cố gắng chạy tiếp đến đỉnh Hỉn Lạt - Tat Nhao. Đang chạy, thấy tiếng chân chạy thình thịch đằng sau, Khăm Phổn nghi là địch đuổi theo, liền dừng lại bố trí sẵn sàng chiến đấu chặn địch. Súng máy Brenô và súng trường đều giương lên đợi lệnh, may mà bên Bun Thiềng đã kịp hô to mật khẩu mới biết là người mình, không thì đã xảy ra bắn nhau trong đêm tối. Cuối cùng cả đoàn từ chân núi Phu Phạnăng cũng đã tới được Đàn Bắc Kít là vùng tương đối an toàn, rồi tới Phu Phạnăng. Đến đây Xiêng Xổm liền ra lệnh cho đoàn ngủ lại cho tới sáng lại tiếp tục lên đường. Sáng ra anh em bảo vệ đã bẻ cành cây quét sạch đoạn đường mà đoàn chạy lên núi để xoá dấu vết ở trên cát. Từ đây chúng tôi không cần phải vội vã như trước vì đang ở trong khu vực an toàn, đã tới vùng rừng sâu núi dầy, có thể đi đứng thoải mái được. Khi tới gần suối Huội Xai Nọi đã có những cơ sở trung kiên của Mặt trận Lào yêu nước là dân làng Na Nhang, Hủakhủa - Nason tới đó từ trước để làm lán, dựng lều trại ở đó rồi, do anh Saly Vôngkhămsao huy động từ đêm hôm qua... Bộ phận trinh sát của đoàn đi trước nghe thấy tiếng động liền quay lại báo cáo không rõ là tiếng gì, có thể là địch đang tắt đường đuổi theo chăng? Trước tình hình đó Xiêng Xổm ra lệnh: "Tất cả im lặng, chuẩn bị chiến đấu". Mọi người đều phục xuống chỗ ẩn nấp, chờ lệnh. Xiêng Xổm đang bàn bạc với bộ phận chỉ huy thì thấy anh Salyvông vừa đi vừa cười nói: "Không sao! Không sao! Quân ta cả đây mà!" rồi nhanh chóng tiến đến gần ôm chầm lấy bác Xuphanuvông, bác Nủhắc và mọi người trong đoàn. Mọi người ôm nhau, kẻ cười người khóc vì vui sướng, rộn cả lên. Lúc ấy chẳng khác nào người chết đi sống lại gặp nhau. Trải qua hành trình đầy gian lao nguy hiểm nên không ai cầm được nước mắt. Tất cả cùng khóc vì mừng đã thoát khỏi nơi tử địa rồi, một nỗi vui mừng không có gì so sánh nổi. Anh Salyvông cũng nghẹn ngào mãi và các lãnh tụ cũng đều khóc sụt sùi. Sau đó anh Salyvông dẫn đầu đưa cả đoàn cùng nhau đi tới nơi họp mặt. Nào là nam nữ, nào là già trẻ đều chắp tay cung kính vái các lãnh tụ và rất sung sướng được bắt tay ôm chầm lấy các vị. Dân đã dựng ở khoảng trống giữa rừng hai dãy lều, lấy vải ni lông căng lên, chặt các gốc cây làm ghế rồi cùng nhau ngồi và mời nhau uống nước lá cây "kăm lăng sữa khồng" (lá cây sức mạnh cọp điên) đựng trong cốc ống nứa. Ai đã từng hoạt động ở núi Phu Phạnăng đều biết đến "lá sức mạnh cọp điên" cho vào ống nứa mỏng đun lấy nước uống rất khỏe. Sau đó làm lễ Xù Khoẳn (buộc chỉ cổ tay, chúc phúc, giải hạn) uống rượu rất vui vẻ, chẳng còn lo sợ gì cả. Lễ buộc chỉ cổ tay và trò chuyện kéo dài đến 15 giờ, rồi chúng tôi tiếp tục lên đường, còn nhân dân quay lại làng của mình. Đoàn đi tiếp đến cơ quan mật ở núi Phu Hủa Mợi - Nhọt Năm Hủm. Cơ quan của Ban chỉ đạo công tác đặc biệt đặt trên ngọn núi đó bí mật và hiểm trở hết sức, dù kẻ thù tìm đến bằng đường nào cũng không sợ. Như đã nói ở trên, mọi người đều không quen đi bộ, chân sưng phồng lên, chữa gần 2 tuần mới khỏi. Hàng ngày có bộ đội bảo vệ, tuần tra canh gác xung quanh, còn phân công nhau đi bắt rùa, bắt kỳ đà, còn làm bẫy bắt được cả lợn rừng... Thời kỳ đó ở núi Phu Phạnăng thú rừng và chim muông nhiều vô kể nên thức ăn bồi dưỡng rất phong phú, các vị hồi phục sức khoẻ rất nhanh, về phần Xiêng Xổm sau khi bàn giao các vị lãnh tụ thoát ngục cho anh Saly rồi trở về Viên Chăn phối hợp với Xiêng Phiên, Khăm Sing và các đồng chí trong nội thành, liên lạc gặp nhau ở bản Hồng Khạ là cơ sở của ta. Vì Khăm Sing - tức là tôi, và Xiêng Phiêng cũng không đi theo đoàn mà đã về nội thành Viên Chăn để nắm tình hình xem có động tĩnh gì. Xiêng Xổm còn có nhiệm vụ đến lấy tiền ở chỗ bác Sổmxỉ Đêxakhămphu tại cơ quan của Mặt trận Lào yêu nước trước đây đặt ở Sì Hỏm. Bác ấy ở lại trông nom tài sản của cơ quan và không bị bắt. Số tiền ở đó còn 3 triêu rưỡi kíp. Xiêng Xổm được ủy nhiệm tới đó lấy tiền mua vải võng, mũ, giầy, dép, thuốc men, đồ hộp, v.v... để chuẩn bị cho đoàn các lãnh tụ hành quân đường dài trở về căn cứ phía bắc. Tình hình Viên Chăn lúc này vẫn còn náo động lắm. Xe nhà binh, xe bọc thép chạy rầm rầm khắp phố. Máy bay trực thăng và T28 lên xuống không ngớt. Tin tức các lãnh tụ yêu nước vượt ngục đã được các đài phát thanh loan tin. Các thầy mo, thầy cúng trong thành đều bói là các vị đã an toàn rồi. Sự thật là hôm đó, đến 8 giờ sáng kẻ địch mới biết, vì người nấu ăn đưa thức ăn sáng vào ngục thì thấy cửa phòng giam đóng nhưng không khoá, lúc mở cửa ra chẳng thấy ai, hoảng sợ quá, vội chạy đi báo các sĩ quan cảnh vệ ơ Phôn Khênh. Lăm Ngơn liền quay điện thoại gọi lên báo cáo cấp trên ở khắp thành phố. Trước sự kiện đó, chính phủ, sĩ quan quân đội và cảnh sát vội triệu tập các cuộc họp khẩn cấp. Tin tức này lan truyền rất nhanh khắp các đường phố. Các hang cùng ngõ hẻm, nhất là ở các quán cà phê, dư luận bàn tán rất xôn xao, nửa tin nửa ngờ, nửa lo lắng cho rằng phái hữu bày trò để ám hại Hoàng thân Xuphanuvông, nửa lại vui mừng và hi vọng tin tưởng rằng Hoàng thân và các nhà lãnh đạo yêu nước đã thoát ngục an toàn rồi... Được tin này, bác Khămpheng Bupha theo đúng kế hoạch liền tập hợp vợ con, họ hàng của các vị bị giam đi gặp thủ tướng Xổm Xạnít để đấu tranh. Chỉ có một mình bác Khămpheng là biết sự thật còn các người khác không biết thì khóc lóc thật sự vì tưởng rằng địch đã đưa chồng con họ đi thủ tiêu, làm ầm ĩ cơ quan chính phủ, ầm ĩ cả Viên Chăn. Các bà tố cáo chính phủ có kế hoạch đem các lãnh tụ yêu nước đi thủ tiêu. Trong lúc đó chính phủ phái hữu và Bộ tổng tư lệnh tiếp tục họp bàn. Cuộc họp kéo dài trong sự cãi vã, đổ tội cho nhau, thậm chí chửi mắng lẫn nhau. Bàn về việc truy lùng tù vượt ngục, một số nói: "Ai đuổi thì đi mà đuổi! Các ông lãnh tụ này chẳng đời nào đi bộ đâu, ít ra cũng phải đi ô tô, không thì cũng bằng máy bay kia!". Cùng lúc ấy có báo cáo từ trường cảnh sát Đon Tiu báo về rằng: lúc 0 giờ 30 phút đêm qua có xe GMC (xe tải nhà binh) chạy từ Viên Chăn đi với tốc độ cao, ra hiệu dừng lại không dừng mà chạy về hướng Phukhẩukhoai. Tiếp đó còn có một báo cáo nữa là tại cây số 47 đường đi Paksăn thấy có một chiếc xe ô tô tải vứt lại cách đường 4km không có người, không thấy chủ xe. Nghe thấy thế bọn chúng chỉ vào mặt nhau nói: "Mày đi mà đuổi theo đi! không khéo đêm nay họ sẽ về tấn công Viên Chăn đấy!". Bởi vì trước đó các cơ sở nội thành đã tung tin ông Châu Súc Vôngsắc dẫn cảm tử quân Việt Nam gồm 2 sư đoàn về đóng ở núi Phu Huột - Phu Xe rồi, nên có đứa nói: "Thấy chưa, tuần trước họ đánh Phu Khẩu Khoai chết bao nhiêu người và đêm nay có thể sẽ tiến đánh Viên Chăn. Đấy đuổi theo đi!". Bọn chúng cãi nhau là nên đuổi theo đường này, nên đi đường kia nhưng cuối cùng chỉ nói mồm vậy thôi. Có tên trong số đó nói: ai đuổi thì cứ đuổi, chứ có khi bây giờ các vị ấy đang uống cà phê hay nghỉ ngơi thoải mái ở Hà Nội rồi đấy! Thử tính mà xem chiếc xe đó chạy qua Đon Tiu lúc 12h đêm với tốc độ cao như vậy, đến Phukhẩukhoai bao nhiêu kilômét? Chỉ hơn 60 kilômét là cùng. Chậm nhất thì 4h30 phút là tới Phukhẩukhoai rồi. Biết đâu từ đêm hôm qua Quân đội Việt Nam đã đem 2 - 3 chiếc trực thăng chờ sẵn trong rừng. Họ đã trèo lên trực thăng đi Hà Nội rồi. Bây giờ đang ngồi uống cà phê ở Hà Nội kia kìa, đấy đuổi theo đi". Mỗi người một phách, rốt cuộc cũng thống nhất rằng tốt hơn hết là phải chuẩn bị phòng thủ Viên Chăn trước đã vì chắc không bao lâu nữa quân Việt Nam sẽ vào giải phóng Viên Chăn. Bọn phái hữu đều mất tinh thần. Do đó chúng lấy việc chuẩn bị phòng thủ Viên Chăn làm trọng tâm vì sợ ta đánh Viên Chăn như ta đã tung tin trước đó. Còn việc tiếp tục truy đuổi tìm kiếm tù vượt ngục thì giao cho đại tá Lăm Ngơn chịu trách nhiệm chỉ huy... Bọn họ dùng cả máy bay trực thăng để truy tìm, rà đi rà lại các nơi, nhưng đoàn tù đâu có ở chỗ trống trải cho chúng nó thấy, kể cả khi đoàn ở trong rừng Đông Boong có xa xôi gì đâu. Ngày nay rừng Đông Boong xưa đã trở thành cánh đồng rồi. Nếu như bọn chúng biết rõ và đuổi theo thì đuổi kịp quá đi chứ, vì đoàn tù ngủ lại đó cả ngày chẳng có vấn đề gì. Chúng tôi đã làm cho địch hoang mang chẳng biết đường nào mà lần, mà truy tìm. Cũng từ đó tình hình ở Viên Chăn trở nên phức tạp. Ba tuần sau bọn chúng còn cho tiểu đoàn dù 2 nhảy dù xuống Mường Phương, nhảy dù xuống cả cánh đồng Na Lưỏng - Na Khưa, ở trước mặt đập thủy điện Nặm Ngừm bây giờ. Một số khác còn nhảy dù xuống Sẻn Xum, Hỉn Hợp để phục kích tìm kiếm tung tích nhưng chẳng thấy gì. Vì chúng tôi lúc đó đang ở sâu trong rừng rồi và đang được bảo vệ bởi bức trường thành vĩ đại nhất, an toàn nhất, đó là lòng dân.
Cũng từ đó tình hình Viên Chăn càng trở nên rối ren hơn. Mâu thuẫn nội bộ chính quyền của Phummi Nosavẳn ngày càng tăng, phong trào đấu tranh chống lại bọn chúng ngày càng lan rộng. Sau đó không lâu, ngày 09 tháng 8 năm 1960 xảy ra cuộc đảo chính của Koongle. Xiêng Xổm, Xiêng Phiên và tôi được giao nhiệm vụ cùng với Tỉnh ủy Viên Chăn giúp đỡ phục vụ đoàn cán bộ cấp cao của mặt trận Neo Lào Hắc Xạt, do bác Nủhắc Nosavẳn làm đại diện, gồm quá nửa số tù nhân mới thoát khỏi ngục Phôn Khênh đã quay trở lại nội thành để lãnh đạo lực lượng đảo chính Koongle và chỉ đạo công cuộc hợp tác với lực lượng trung lập yêu nước nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới của lịch sử. Sau khi nước Lào được hoàn toàn giải phóng, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được thành lập, tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc của Lào năm 1978, Xiêng Xổm đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng dân tộc của nước Lào, từ đó đến nay anh tiếp tục không ngừng công hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng, được nhân dân và bạn bè hết sức quý mến. Anh đã lần lượt đảm nhiệm các chức vụ quan trọng như Cục trưởng Cục Quân báo Lào, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Lào và đã nghỉ hưu với quân hàm Trung tướng ở độ tuổi 75. Từ đó đến nay, mỗi lần sang Việt Nam để công tác hay nghỉ ngơi, chữa bệnh anh đều đưa gia đình đến thăm gia đình tôi ở nhà riêng tại Hà Nội. Và tôi cũng đã nhiều lần đưa gia đình mình sang thăm gia đình anh ở Viên Chăn, thường tâm đắc với nhau về mọi mặt của cuộc sống. Chúng tôi đã từng nói với nhau và nói với bạn bè rằng: ai muốn đi tìm minh chứng cho quan hệ đặc biệt Việt - Lào, Lào - Việt thì xin mời đến hai gia đình chúng tôi, hai gia đình đã kết Xiều (kết nghĩa) với nhau hơn nửa thế kỷ nay. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Bảy, 2021, 07:32:36 pm NHỚ VỀ ĐỒNG ĐỘI Khi viết về cuộc vượt ngục giải cứu Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Lào, tôi thấy thật là thiếu sót lớn nếu không viết rõ, viết kỹ về những đồng đội của tôi, nhất là về những anh em đã cùng cộng tác với tôi trong chuyến đi lịch sử, chuyến công tác đặc biệt tháng 5 năm 1959 đó, cũng như trong nhiều chặng đường khác của sứ mạng quốc tế giúp cách mạng Lào. Do hoàn cảnh chiến tranh, mỗi người chúng ta thường có sự thay đổi về nhiệm vụ, thuyên chuyển đơn vị và cơ quan công tác. Trải qua hai, ba thập kỷ chiến đấu khốc liệt, công tác xa nhà, với các bạn bè đồng đội cũ, chỉ khi có cơ hội do nhu cầu công tác đi qua địa phương, đi qua đơn vị của nhau thì được gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Bởi vậy tôi cũng như nhiều anh em cán bộ lão thành khác, đến khi được nghỉ hưu mới có thời gian lục tìm kí ức, hồi tưởng lại những câu chuyện quá khứ hào hùng của anh em đồng đội cùng thế hệ. Tôi cũng đã dành thời gian để tìm kiếm những anh em lâu ngày không được gặp hoặc thậm chí mình có thiếu sót lón là tạm thời lãng quên. Tôi hỏi han bạn bè, cơ quan để tìm địa chỉ, tìm nơi ở, hoặc viết thư hỏi thăm hay đi đến gia đình họ. Cũng nhờ vậy mà tôi đã biết được rõ hơn, sâu hơn về hoàn cảnh từng đồng chí và gia đình của những đồng chí ấy sau hoà bình, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, hoàn toàn được độc lập tự do. Thật cũng là một sự may mắn vì tôi đã tìm lại được địa chỉ của hai phần ba số anh em trong tổ công tác cùng tôi thực hiện nhiệm vụ đặc biệt sang giúp bạn Lào giải thoát các lãnh tụ của bạn sau gần nửa thế kỷ. I. NHỮNG ĐỒNG CHÍ ĐÃ KHUẤT 1. Đồng chí Trương Vân Quý Đầu tiên phải kể đến là đồng chí Trương Văn Quý, người tổ phó hết sức tin cậy của tôi trong tổ công tác đặc biệt nói trên. Thực ra trước khi tôi lên đường hành quân sang Lào trong chuyên công tác đặc biệt này, tôi chưa được gặp mặt đồng chí Quý mà chỉ được anh Trần Hiệu và anh Nguyễn Vũ giới thiệu là sẽ có đồng chí Quý cùng đi sang giúp tôi, vì thời gian khẩn trương tôi phải đi trước và vào nội thành Viên Chăn, còn đồng chí Quý sẽ đưa nhóm đặc công và điện đài cơ yếu cùng vũ khí nhẹ đi sau. Tôi đi một nửa hành trình là đường công khai hợp pháp trên đất Thái Lan để tranh thủ thời gian, còn đồng chí Quý đưa anh em đi trong nội địa Lào, toàn bộ hành trình là xuyên rừng, trèo đèo, lội suối nên mất thời gian, dự tính nhanh cũng phải mất 1 tháng, còn tôi có thể đi nhanh hơn (khoảng 1, 2 tuần). Sau khi nắm tình hình ở nội thành, nắm tình hình và vẽ sơ đồ các trại giam xong, tôi ra căn cứ Loong Tòn theo đường giao liên, theo quy ước liên lạc để sang đó gặp các đồng chí tỉnh ủy viên cũ của Lào và anh em trong tổ công tác đặc biệt ở đó. Sang đến nơi tôi mới thực sự gặp mặt các đồng chí đó và đồng chí Trương Văn Quý. Khi gặp đồng chí tôi đã mừng thầm vì trên đã chọn một người giúp tôi hết sức đáng tin cậy, lại giống người Lào vì đồng chí có nước da ngăm đen, anh em thường gọi là đồng chí Quý đen (phân biệt với đồng chí Nguyễn Tử Quý, thường gọi là Quý râu). Quý râu và Quý đen cùng từng là trung đội trưởng và trung đội phó trung đội giao thông quốc tế Việt - Lào - Thái, đó là con đường duy nhất để liên lạc với thế giới bên ngoài của cách mạng khi Việt Nam bị bao vây thời chống Pháp. Lần này đồng chí làm tổ phó cho tôi, tuy đồng chí hơn tôi 5 - 6 tuổi, nhập ngũ và sang chiến đấu ở Lào trước tôi, nhưng khi gặp hay khi làm việc và mãi sau này đồng chí vẫn hết sức khiêm tốn, gọi tôi là thủ trưởng hoặc gọi anh xưng tôi. Đồng chí làm việc cẩn trọng và luôn luôn cân nhắc mọi việc trước khi quyết đoán. Theo các đồng chí đặc công và báo vụ cơ yếu kể lại, khi đồng chí phụ trách anh em đi sau thì dọc đường anh em rất cảm phục và yêu mến, tôn trọng và chấp hành mọi ý kiến anh Quý đưa ra, anh đoàn kết được mọi người trong đội xung quanh nhiệm vụ. Mặc dù trên đường đi anh em chỉ biết đây là nhiệm vụ đặc biệt, còn không rõ cụ thể là giải thoát các vị lãnh đạo cách mạng Lào đã bị bắt giam. Cũng như mọi lần, anh em đi chiến dịch, cứ cấp trên ra chỉ thị bảo đi thì đi, bảo dừng là dừng, bảo đánh là đánh. Vào đến căn cứ cũng chưa biết. Chỉ có tôi và đồng chí Quý cùng một đồng chí của bạn làm trưởng ban công tác đặc biệt Tỉnh ủy Viên Chăn là rõ kế hoạch. Anh em còn kể đồng chí rất gương mẫu, trên đường đi từ đất Xiêng Khoảng về Viên Chăn lục đó vào tháng 5, bắt đầu mùa mưa, sông suối ngập nước, đường rất khó đi, đồng chí luôn dành phần mang vác nặng. Có lần về gần Loong Tòn thì anh Quý bị sốt rét nặng, cứ lên cơn lại rên hừ hừ, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ ấm, anh vẫn cố khoác chăn vào để đi, leo núi. Anh em bàn nhau chặt đòn tre, lấy võng vải dù để thay nhau khiêng đồng chí cho kịp thời gian. Cứ đến chỗ nghỉ là đồng chí cố gắng ngồi dậy để ghi chép, viết báo cáo điện về, giữ liên lạc thông suốt cho đến khi tập kết ở căn cứ Loong Tòn. Thời gian đó chỉ có một mình tôi ra vào nội thành cùng đồng chí Saly Vôngkhămsao, Xiêng Xổm, Xiêng Phiên, từ căn cứ tỉnh ủy lúc thì đi thẳng vào thành, lúc vượt qua sông Mê Kông đi vòng sang Thái Lan để giảm bớt sự nghi ngò, đảm bảo bí mật tuyệt đối. Trong những lúc tôi vắng mặt như thế, đồng chí Quý thường xuyên ở lại căn cứ, nhận tin tức của tôi, bàn bạc cùng Tỉnh ủy Viên Chăn, rồi các đồng chí bạn gửi báo cáo về Trung ương Đảng bạn, tổ công tác phía ta thì báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu và Quân ủy Trung ương ta. Tôi bàn với đồng chí Quý về tình hình địch, trại giam, tình hình bạn, các ý kiến đề xuất, sau khi thống nhất với bạn, lại gửi báo cáo trực tiếp về. Các thông tin của bên nhà, đồng chí lại gửi vào nội thành cho tôi. Thỉnh thoảng những lần ra căn cứ tôi lại mang đường sữa cho anh em. Quan trọng nhất là thông tin nên tôi mua cái đài rađiô loại tốt nhất, nhãn Philip mang ra để anh em nghe, anh em vô cùng phấn khởi. Thời gian đó đồng chí sinh hoạt cùng anh em, chỉ đạo nhóm đặc công huấn luyện cho bạn, chỉ đạo đồng chí Vinh báo vụ viên và đồng chí Khiết cơ yếu viên tranh thủ thời gian để bồi dưỡng đào tạo thêm báo vụ viên cho bạn. Tóm lại đồng chí Quý đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Đến khi giải thoát được các lãnh tụ ra, hai đồng chí Quý và Vinh được phân công tháp tùng đoàn Chủ tịch Xuphanuvông hành quân về căn cứ của Trung ương ở Sầm Nưa. Trên đường hành quân bí mật có anh em cảnh vệ Vương quốc giác ngộ đi cùng, thường là hai tiểu đội Pathét Lào đi trước cùng anh em Việt Nam, sau đó là các lãnh tụ, cuối cùng là anh em cảnh vệ yêu nước. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Bảy, 2021, 07:33:05 pm Theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu và Cục Nghiên cứu, tôi ở lại trở vào nội thành Viên Chăn tiếp tục giúp bạn nắm tình hình, nắm cơ sở. Đoàn đồng chí Quý xuyên qua các vùng cơ sở lên đất Luông Pha Băng, Xiêng Khoảng, Sầm Nưa, qua Mường Khoa đến sát biên giới Việt - Lào ở Mường Thanh. Thời kỳ này ta đã giải phóng nhiều chỗ, địch đã rút những đồn lẻ. Đoàn đi xa địch, lấy danh nghĩa quân đội ở Hạ Lào lên khu tập kết, dân ra đón nhưng chưa cho dân biết đấy là đoàn lãnh tụ trong đó có Chủ tịch Xuphanuvông. Bà con dọc đường chỉ biết có một cán bộ già gọi là ông Phồ Xỉ. Anh em cảnh vệ vương quốc thấy đồng chí Quý, đồng chí Vinh báo vụ thì cũng tưởng là những nhân viên cán bộ người Lào thuộc lực lượng bảo vệ. Tất cả rất ít khi nói chuyện cùng nhau, chuyến đi theo trật tự, mềm mại, uyển chuyển và bí mật, tuyệt đối không ai nói lộ ra là có anh em bộ đội Việt Nam đi cùng đoàn. Đi đến đâu dân làng cũng hồ hỏi ra đón. Đến vùng cơ sở đã được giải phóng thì bạn công khai hoá ông Phò Xỉ là Chủ tịch Xuphanuvông. Nhân dân vô cùng sung sướng, anh em cảnh vệ Vương quốc tận mắt thấy quần chúng ở nông thôn nhiệt tình ủng hộ các nhà lãnh đạo, anh em hiểu đó là một sức mạnh hùng hậu. Chính sức mạnh của quần chúng trên đường đi đã củng cố thêm niềm tin của anh em lính Vương quốc đối với cách mạng. Trước đây ít nhiều qua sự "nhồi sọ" của phái hữu, tuyên truyền chống cộng sản của bọn phản động, tuy họ biết cách mạng là chính nghĩa nhưng vẫn bán tín bán nghi. Họ không biết cách thức làm như thế nào để chống lại chính quyền vương quốc vốn có từ lâu đời, chống lại Pháp, Mỹ. Qua thực tiễn phong trào dần dần họ ý thức được nhân dân chính là sức mạnh. Anh Quý trong hành trình đó được lãnh đạo bạn yêu mến, thường xuyên tiếp xúc hỏi han động viên, sau này gặp nhau bạn vẫn cứ nhắc đến Buncoong là tên Lào của anh. Điều đó rất gây ấn tượng đối với tôi.
Thực ra quá trình sống và làm việc bên cạnh nhau chỉ có khoảng thời gian ngắn trong đợt giải cứu, từ lúc chia tay, tôi ở lại với nhiệm vụ khác, anh Quý đưa các vị lãnh đạo về đến Điện Biên, vòng qua Hà Nội lên đến Sầm Nưa. Năm 1963, đồng chí được lệnh quay lại căn cứ Loong Tòn để tiếp tục nhiệm vụ giúp bạn ở cơ sở. Nhưng không may, năm 1964 đồng chí bị một trận tai biến mạch máu não khi đang nằm ở giữa rừng thì mồm méo xệch, mắt trợn ngược rồi ngã lăn từ trên võng xuống đất. Bạn và ta hết lòng cứu chữa, họ cứu đồng chí tỉnh lại nhưng đã liệt một nửa người, mắt lác xệch đi. Khi đó nhân có những chuyến tàu hồi hương cho Việt kiều Thái Lan, theo thoả thuận giữa hai hội Hồng thập tự hai nước, chúng tôi cùng bạn tổ chức dùng võng khiêng đồng chí đi xuyên rừng Lào ra sông Mê Kông, chở thuyền máy sang Thái Lan. Khi về đến Tha bo, chúng tôi tìm cách hợp thức hoá giấy tờ cho đồng chí trở thành Việt kiều mang bệnh rồi đưa vào danh sách hồi hương. Cứ thế vào Băng Cốc, bố trí người khiêng cáng đưa đồng chí về theo tàu biển từ cảng Băng Cốc về cảng Hải Phòng, về nước đồng chí được đưa vào bệnh viện điều trị, sau một thời gian, đồng chí chỉ thoát cơn hiểm nghèo, còn đi lại vẫn rất khó khăn. Dù liệt một tay một chân nhưng đồng chí vẫn tập luyện cùng cây nạng để cố đi, vẫn xin tiếp tục ở lại cơ quan công tác. Song chỉ sau 1 năm, do sức khoẻ giảm sút không thể làm việc được ở cơ quan, đồng chí được cơ quan bố trí về ở hẳn cùng gia đình nhưng vẫn hưởng lương. Từ năm 1964 đến năm 1970 đồng chí liên tục công tác tại địa phương, nào là tham gia chi ủy, tổ trưởng tổ bình dân học vụ... Sức khoẻ dần hồi phục, đồng lương đại úy cùng phụ cấp thương binh loại 3/8, sống cùng người vợ đảm đang là chị Ái làm ở nhà máy dệt ở Nam Định, đồng chí còn đảm nhiệm đi phát lương hưu ở khu phố để tăng thu nhập. Nhìn chung thu nhập như vậy cũng đủ sống cuộc đời thanh đạm và lo cho con cái học hành. Đến năm 1970, Bộ Quốc phòng quyết định cho đồng chí nghỉ hưu. Từ năm 1970 đến năm 1991, với cây nạng của mình, đồng chí tiếp tục công tác tại địa phương. Ai cũng biết đồng chí rất hăng hái và nhiệt tình tham gia công tác xây dựng cơ sở ở khu phố. Trong khoảng 20 năm đấy, tôi có đôi dịp về thăm đồng chí cùng gia đình. Một lần tôi gặp đồng chí đi phát lương hưu trở về vẫn còn chống nạng, cười nói rất lạc quan. Lần thứ hai vào cuối thập niên 80 thì đồng chí đã nằm một chỗ, tôi và một đồng chí nữa mang quà về thăm, đồng chí chỉ nói được thều thào. Lần thứ ba đồng chí chỉ đưa được cánh tay về phía tôi, vì bị cấm khẩu nên đồng chí chỉ khóc chứ không nói được nữa. Được một thời gian, khi tôi đang còn công tác ở Lào thì được tin đồng chí đã mất vào năm 1991. Nhiều khi nhớ đến anh, tôi không khỏi bồi hồi. Một cuộc đời 25 năm trong quân ngũ, tham gia nhiều trận đánh, mang trên mình hai vết thương do đạn xuyên qua từ thời chống Pháp và một bệnh hiểm nghèo do di chứng chiến trường làm anh liệt nửa người; một người ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đã từng chỉ huy trung đội giao thông quốc tế, thường xuyên đưa đón cán bộ cao cấp của Đảng ta, Đảng bạn vượt qua biên giới Việt - Lào, biên giới Lào - Thái. Đặc biệt anh đã tham gia với vai trò quan trọng trong cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Lào. Con người ấy luôn được anh em cán bộ và nhân dân hai nước yêu mến. Hơn 20 năm quân ngũ, trở về với chiếc nạng kéo lê chân, đi khắp xóm làng tham gia công tác xã hội cho đến khi bị liệt giường vẫn luôn tâm niệm, nuôi niềm tin vào cách mạng cho đến giờ phút cuối cùng. Sau ngày về hưu tôi có đến thăm gia đình anh. Nhờ sự đảm đang của chị Ái vợ anh, hiện nay con anh trưởng thành, có người đã thành kĩ sư. Tôi mừng nhất là trên tường nhà đã có bằng Tổ quốc ghi công. Tôi cũng yên tâm phần nào. Mỗi lần đến thăm gia đình và thắp hương cho anh, tôi không khỏi bâng khuâng, nhưng với riêng tôi, anh Quý đã và luôn là một người anh hùng. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Bảy, 2021, 06:03:02 pm 2. Đồng chí Trần Văn Điển
Đồng chí Điển biết lái xe, trước đây là Việt kiều Thái Lan đã từng lái xe chở thuê ở Thái, sau đó mới đi bộ đội. Đồng chí sinh năm 1923, nhập ngũ năm 1947. Trước đây, trong kháng chiến chống Pháp đồng chí đã ở mặt trận Tây Lào, là bộ đội tình nguyện Việt Nam và rất thạo tiếng Lào. Với ngoại hình lực lưỡng và nước da ngăm ngăm đen nên trông đồng chí rất giống người Lào. Do yêu cầu của tổ công tác đặc biệt, tôi đề nghị cấp trên cho tôi một lái xe, để phòng khi cần đưa các vị lãnh tụ bạn thoát khỏi thành phố bằng xe. Xe thì tôi có thể kiếm được nhưng người lái phải là người tin cậy của mình để đưa ra vùng căn cứ. Anh Trần Hiệu giới thiệu đồng chí Trần Điển. Anh Điển gia nhập tổ công tác đặc biệt là do vậy. Đó là một đồng chí rất gan dạ và xông xáo, biết lái xe từ trước khi đi bộ đội. Từ khi vào quân báo chuyên môn trinh sát ở chiến trường Lào, sau đó là về tiểu đoàn trinh sát cơ động của Cục Nghiên cứu (tiểu đoàn trinh sát duy nhất lúc bấy giờ, chưa có binh chủng đặc công). Trong chuyến công tác đặc biệt này, đồng chí hành quân đợt sau theo sự chỉ huy của anh Trương Văn Quý, tổ phó. Đi đường đồng chí bám sát anh em giao liên Lào trong đoàn để cùng hoặc có khi thay giao liên vào làng liên lạc hoặc xin lương thực, thức ăn, tham gia vào việc mang vác giúp các đồng chí thông tin, điện đài. Đồng chí luôn kiên trì chịu đựng gian khổ, không bao giờ kêu ca phàn nàn khi đi cũng như lúc về. Khi vào đến căn cứ Viên Chăn ở Loong Tòn, đồng chí là người duy nhất được anh Quý cử vào liên lạc với tôi ở nội thành, cũng là người duy nhất trong tổ ở căn cứ ra vào thành phố Viên Chăn mỗi khi có việc (căn cứ Loong Tòn cách Viên Chăn chừng 80km). Đồng chí như con thoi liên lạc một cách an toàn, bí mật, cùng hỗ trợ tôi trong việc nắm tin tức tình hình địch trong nội thành. Đến khi phương án đặc công tập kích không phù hợp hoàn cảnh mới, theo đề xuất của chúng tôi, cấp trên chuẩn y để anh em tổ này rút về nước cho đỡ cồng kềnh. Trong số đó có đồng chí Trần Văn Điển. Song vừa về đến nơi đồng chí lập tức được cử trở lại Viên Chăn ngay, dẫn đường cho đồng chí Phan Văn Đa và đồng chí Vụ vào bổ sung cho tôi. Như vậy là về nước chưa được bao lâu thì lại trở lại Lào lần 2. Lúc bấy giờ quãng tháng 8 mùa mưa tầm tã, hành trình trèo đèo vượt sông, suối, núi rừng càng thêm gian khổ. Đồng chí Điển vào giúp tôi giữ liên lạc với vùng căn cứ, thường xuyên đột nhập vào thành cùng giao liên Lào. Sau đảo chính Koongle, khi cầu hàng không đã được lập, số lượng anh em tình nguyện Việt Nam ở lại chiến trường được giảm thiểu đến mức thấp nhất. Do đó đồng chí Điển lại được trở về nước ngay trước khi diễn ra cuộc chiến đấu 7 ngày đêm ở thành Viên Chăn. Đồng chí Đa và đồng chí Vụ ở lại với tôi, còn anh Trần Ngọc Kính và đồng chí Huỳnh mới sang sau thì ở căn cứ. Các anh Quý và Vinh đã đi theo đoàn Chủ tịch Xuphanuvông hành quân lên căn cứ phía bắc. Sau khi đồng chí Điển về Hà Nội, tôi chỉ biết đồng chí vẫn tiếp tục công tác ở đội giao thông và phục vụ nước bạn. Năm 1967, trong một chuyến đi công tác đưa đoàn bạn đến biên giới Xâynhabuli, ban đêm khi mắc võng nằm ở rừng, đồng chí bị một cành cây to gãy, rơi vào người và hi sinh ngay tại chỗ. Đồng chí đã được bạn chôn cất cẩn thận. Sau khi Việt Nam và Lào được hoàn toàn giải phóng, hài cốt của đồng chí đã được quy tập về nghĩa trang Điện Biên Phủ. Năm 1995, chị Điển lên bốc mộ và đón anh về "nhà mới" ở nghĩa trang liệt sĩ Ngọc Hồi - Hà Nội. Hai năm sau, dường như đã thanh thản vì làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ, chị mất khi thọ 70 tuổi. Bốn người con của anh chị lúc đó đã yên bề gia thất. Khi tôi đến thăm gia đình vào cuối thập niên 90, con cái anh chị đều đã trưởng thành. Trên bàn thờ đã có bằng Tổ quốc ghi công. Khi thắp hương viếng đồng chí, tôi không khỏi bùi ngùi xúc động nhớ về một đồng đội đã chiến đấu kiên cường bền bỉ và đã hy sinh anh dũng vì sự nghiệp cách mạng quốc tế của Đảng, của dân tộc ta. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Bảy, 2021, 06:04:03 pm 3. Đồng chí Trần Thanh Khiết
Đồng chí là nhân viên cơ yếu của tổ công tác đặc biệt, mang trong mình nhiều điều cơ mật thuộc loại tối thượng của quốc gia, của quân đội. Đồng chí sinh năm 1930 tại Phú Vang (Huế), nhập ngũ năm 1959, phục vụ hơn 20 năm, về hưu năm 1982, lập gia đình ở quê, có 5 người con (3 trai, 2 gái). Trong hơn 20 năm quân ngũ, đồng chí thường xuyên công tác ở mặt trận B, C, thường xuyên hoạt động, chiến đấu trong lòng địch với bộ mật mã gắn liền với điện đài của các cơ quan thuộc Cục Nghiên cứu và Bộ Tổng Tham mưu. Trong chuyến công tác đặc biệt này, khi hành quân đến chặng nghỉ, trong khi anh em chuẩn bị nơi ăn chốn ở, lo mắc võng, nấu nước thổi xôi, hun muỗi thì đồng chí bao giờ cũng lẳng lặng mắc mùng, che chăn, ngồi xa anh em một chút để làm việc ngay cùng đồng chí Vinh là báo vụ điện đài. Mỗi lần tôi và anh Quý đưa điện đều giao cho đồng chí Khiết mã rồi đồng chí Vinh đánh moóc đi. Khi nhà có chỉ thị hoặc thông báo tin tức tình hình địch hoặc chỉ thị công tác thì đồng chí Vinh lại đưa cho đồng chí Khiết dịch ngay lập tức để đưa cho chúng tôi. Phần lớn đều là điện khẩn hoặc hỏa tốc cho nên làm việc hết sức căng thẳng vất vả. Có khi anh em đều đã được đi ngủ rồi nhưng đồng chí Khiết phải bật dậy ngay nếu có điện đến. Đồng chí luôn sẵn sàng tiếp nhận những bức điện dù ngắn dù dài để làm cho kịp. Với một công tác như thế, ai đã từng sử dụng điện đài mới biết được nỗi gian khổ của những người cơ yếu đi theo điện đài. Đồng chí đã về hưu năm 1982 với quân, hàm thiếu tá. Sau khi về hưu đồng chí lại tiếp tục công tác ở địa phương. Khi mất do tai biến mạch máu não thì đồng chí đương chức Chủ tịch ủy ban nhân dân thị trấn Phú Vang. Đồng chí mất đi nhân dân Phú Vang hết sức tiếc thương một người cán bộ tận tụy, vô tư. Với tư cách nguyên Tổ trưởng Tổ công tác đặc biệt, tôi đã đề nghị cơ quan chính sách Tổng cục 2 gửi quà tới đồng chí. Năm 1997, tôi về Phú Vang mang theo quà tặng của Tổng cục 2 (500 ngàn đồng) biếu đồng chí cùng gia đình. Tôi được đồng chí Dực (Yến) phụ trách ban liên lạc tình nghĩa của các đồng chí cùng ngành tại Phú Vang dẫn đường đến nhà anh. Tôi sững sờ khi nghe anh Yến cho biết đồng chí Khiết đã mất cách đó 2 tháng. Thật đáng tiếc, như vậy do những hoàn cảnh và lý do khác nhau mà tôi đã đến chậm. Chỉ 2 tháng mà âm dương cách trở, không gặp được đồng chí là điều day dứt, ân hận lớn trong tôi. Hôm tôi đến, chị Lệ - vợ anh lại không có nhà. Tôi đành thắp hương và thông qua anh Yến gửi quà và số tiền tới chị Lệ. Khi về chị ấy đã nhận được và có thư hồi âm cho tôi. Sau này tôi vẫn thư từ hỏi thăm chị và các cháu. Tôi đã xin chị được một tấm ảnh chân dung của anh để gửi vào treo trong Bảo tàng truyền thống của Tổng cục 2 - Bộ Quốc Phòng. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Bảy, 2021, 06:05:33 pm 4. Những đồng chí khác
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi, đặc biệt đối với chuyên đi công tác này, tôi còn một nỗi ân hận nữa. Đó là việc tôi và anh Nguyễn Ngôn (ở Plâycu) đã cố công gắng sức cùng những đồng chí khác tìm kiếm 3 anh em đặc công trong tất cả những danh mục đi tìm đồng đội ở Liên khu V và các đội đặc công trinh sát nhưng đều không có kết quả. Đó là đồng chí Kiều Xuân Đăng, còn gọi là Đeng, quê gốc ở Quảng Nam nhưng không rõ làng xã. Khi được cử vào công tác trong đội do tôi phụ trách thì đồng chí đang là thiếu úy đặc công. Sau khi cùng với đồng chí Ngôn là nhóm trưởng huấn luyện cho bạn một lớp đặc công cùng hành quân vào căn cứ và tham gia huấn luyện cho đội đặc công đầu tiên của bạn ở Viên Chăn, các đồng chí được lệnh rút về, rồi lại tiếp tục đi chiến đấu lúc ở chiến trường B, khi ở chiến trường C. Tôi nghe anh Ngôn nói đồng chí đã hy sinh trong một chuyên công tác năm 1968, có thể trong Mậu Thân? Tuy nhiên thông tin đó không có cơ quan tổ chức nào xác nhận. Tôi cũng không tìm ra được quê hương bản quán của đồng chí ở đâu. Ngoài ra còn đồng chí Du (người Phú Yên) và đồng chí Lầu (người Khánh Hoà), đều là đặc công trong tổ công tác của tôi. Sau khi rút về nước trước, các đồng chí làm việc gì, đi đâu, đến nay cũng không còn tổ chức nào biết. Riêng tôi và anh Ngôn cũng hết sức tìm hiểu nhưng không thể biết các đồng chí còn hay mất, còn thì ở đâu và nếu mất thì mất lúc nào. Tôi vô cùng day dứt và tiếc nuối về sự thiếu sót đó. Trong các bạn độc giả đang đọc đến những dòng chữ này, có lẽ những đồng chí đã từng mày mò, cất công khắp các chiến trường, vùng quê và những người có trách nhiệm xác nhận lý lịch cho đồng đội đã khuất ở chiến trường B, C, K trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mới thấu hiểu hết nỗi khổ tâm của người đi tìm tin đồng đội mà không có hiệu quả. Sẽ là thiếu sót lớn nếu tôi chỉ nói đến những anh em đã khuất của riêng Tổ công tác đặc biệt do tôi trực tiếp chỉ huy mà không nhớ đến những đồng chí từng là cơ sở mật của Cục Nghiên cứu thuộc Bộ Tổng Tham mưu nằm vùng ở Viên Chăn hay những cộng tác viên vốn là giao thông viên của Tỉnh ủy Viên Chăn nằm ở bên kia sông Mê Kông (trên đất Thái Lan). Dù họ không còn nữa song cũng không thể quên đóng góp của họ, dù người ít kẻ nhiều, vào việc hoàn thành nhiệm vụ của tổ công tác giúp bạn giải thoát các lãnh tụ yêu nước Lào. Bản thân họ lúc đó không hề hay biết gì về nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số đó người để lại ấn tượng rõ nhất trong tôi là đồng chí Trần Viết Long (bí danh là Biên). Đồng chí sinh năm 1912, làm giáo học ở tỉnh Xiêng Khoảng rồi về Viên Chăn tham gia hội Việt kiều cứu quốc, tham gia Việt Minh ngay từ đầu Cách mạng tháng Tám. Sau đó đồng chí Long tản cư sang Thái và là cán bộ của Tổng hội Việt kiều cứu quốc. Đến năm 1953, đồng chí sang mặt trận Tây Lào tức Đoàn 83. Ở đó đồng chí làm cán bộ dân vận của đoàn. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí theo đoàn quân tình nguyện trở về tập kết ở Mộc Châu nằm trong Sư đoàn 335. Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu đã về Mộc Châu và tuyển trong sư đoàn một số đồng chí về Cục, trong đó có đồng chí Long. Sau khi được huấn luyện cấp tốc, đồng chí được phái vào miền Nam theo chuyến tàu di cư của đồng bào ta từ Hải Phòng vào Sài Gòn trước khi Pháp rút khỏi Hải Phòng. Đồng chí mang bí số NI 14. Cư trú tại Sài Gòn được một thời gian, đồng chí liên hệ với các quan chức của chính phủ Vương quốc Lào mà trước đây là học trò của mình. Trong đó có học trò thân thiết như Katày Đonsasolit, sau khi Mỹ vào năm 1955, ông ta đã làm thủ tướng của chính phủ Vương quốc Lào. Đồng chí viết thư liên hệ để ông ta can thiệp giúp để được sang cư trú ở Viên Chăn như cũ (đồng chí Long vốn là Việt kiều ở Viên Chăn). Cuối cùng, với sự đỡ đầu của Thủ tướng Vương quốc Lào, đồng chí đã sang Viên Chăn một cách hợp pháp. Tiếp sau đó tổ chức cho vợ đồng chí cũng là đảng viên cán bộ Việt kiều tỉnh Noỏng Khai - Thái Lan sang ở cùng để thêm tính hợp pháp, hợp lý cho vỏ bọc hoạt động bí mật ở đó. Khi sang làm nhiệm vụ của Tổ công tác đặc biệt, người đầu tiên tôi nối liên lạc là đồng chí Long. Bởi khi đồng chí công tác ở Đoàn 83 thì tôi là chính trị viên đại đội ở cơ quan văn phòng chỉ huy đoàn, chúng tôi quen biết nhau từ đó. Hai gia đình vốn có mối thâm giao: ông cụ tôi, bà chị cả Phan Thị Vân và ông anh rể Nguyễn Đỉnh Hin đều quen biết vợ chồng anh, kể cả khi sang Thái Lan cùng hoạt động ở Tổng hội Việt kiều cứu quốc. Tôi móc nối với anh theo quy ước liên lạc của Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu. Lúc đó anh là viên chức của một hãng hàng không, cùng mấy người anh em được chia nhau hưởng phần ruộng vườn hương hoả mà cha ông để lại, tính ra cả nhiều trảm hecta đất vườn và nhiều nhà cửa, trong đó có một toà nhà ngay phố Pang Khăm làm cửa hàng rất tốt. Anh mở cửa hàng buôn bán những đồ dụng cụ thời trang ở đó. Cuộc sống như vậy cũng tương đối đàng hoàng sung túc làm cách mạng hơn 20 năm ở đó mà cơ quan ở bên nhà không phải cung cấp bất cứ đồng kinh phí hoạt động nào. Khi móc nối gặp anh, tôi mới biết thông tin về việc bắt giam, cũng như trại giam Chủ tịch Xuphanuvông và các vị lãnh đạo ở trại lính Phôn Khên. Sự đóng góp này vô cùng quan trọng, giúp tôi nhanh chóng có hướng điều tra tìm hiểu. Tôi nhờ anh cho mượn chiếc xe đạp, đóng giả người Lào thường xuyên đạp xe theo con đường mòn gần trại lính, từ đó nhận biết vị trí, địa điểm, quy mô trại giam, cách bố phòng và hàng rào bên ngoài cũng như sơ đồ buồng, ngăn ngách bên trong. Do chơi thân với gia đình Sananikon nên anh cung cấp những thông tin rất cụ thể về mâu thuẫn nội bộ giữa các phe nhóm Sananikon và Katày Đonsasolit, Xuvana Phuma, quan hệ với Mỹ hay số cố vấn của Mỹ và Thái Lan ra vào trại của Kupaxit ở Chinaimô. Ngay trong cuộc đảo chính giữa Koongle, phía Kupaxít án binh bất động chống lại Koongle hay việc bố trí lực lượng ra sao tôi cũng được rõ hơn nhờ tin tức của anh. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước từ những thập niên 60 kéo dài đến khi hoàn toàn giải phóng, thành lập nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thì anh Long đều có mặt ở Viên Chăn để phục vụ cách mạng. Anh Long một lòng đi theo cách mạng, còn có công nuôi giấu, bố trí công ăn việc làm cho 2 cán bộ mật của Cục Nghiên cứu, mang cả điện đài vào nhà, vào vườn cho anh em ta liên lạc. Trong hoàn cảnh sau khi phái hữu xoá bỏ Hiệp định Giơnevơ năm 1954, năm 1962 thì mối quan hệ giữa hai nước vô cùng căng thẳng. Mọi liên hệ của Việt kiều với Itasala Lào hay Việt Minh, miền Bắc Việt Nam đều bị theo dõi chặt chẽ. Bất cứ người nào bị Kupaxit tình nghi đều bị chúng bắt về Chinaimô cho vào bao tải và quăng xuống sông Mê Kông ở chỗ Kẹng Nhang (một ghềnh nước ở cách Chinaimô khoảng 2km). Cho đến sau khi Việt Nam và Lào được hoàn toàn giải phóng, anh làm đơn xin về nước để chữa trị đau dạ dày vì triệu chứng ngày một tăng nặng. Trong khi tổ chức chưa kịp giải quyết, chưa hồi âm do công việc bề bộn thì anh Long bị chảy máu dạ dày, phải vào bệnh viện Lào để mổ. Anh đã mất trên bàn mổ. Theo lời vợ anh là chị Nguyệt, anh đã có thể được cứu sống nếu kịp về Việt Nam. Do được đưa vào quá chậm, bác sĩ của bệnh viện Viên Chăn mới chỉ rạch bụng anh thì máu đã tuôn chảy ào ra không kìm nổi. Sau khi an táng cho chồng, chị có đưa các con về quê hương đất nước và được giải quyết một số chính sách. Nhớ đến chuyện của vợ chồng đồng chí Long tôi lại thấy lòng mình mang nỗi buồn nặng trĩu. Đó là những con người âm thầm phục vụ và công hiến cho cách mạng mà chưa có điều kiện làm thủ tục để hưởng chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Bảy, 2021, 06:06:11 pm Ngoài ra cũng còn một số đồng chí khác, như đồng chí Phước vốn là Việt kiều cũ ở Thái Lan (sang Thái từ trước Cách mạng tháng Tám). Đồng chí vốn là cán bộ cơ sở của hội Việt kiều cứu quốc từ hồi bí mật cho đến khi ra công khai, rồi lại rút vào bí mật khi chính quyền quân phiệt đảo chính lên nắm quyền. Anh thường xuyên phục vụ công tác cho Tổng hội Việt kiều cứu quốc và phụ trách đường dây tiếp tế ở Tha Bo, Xixiêngmạy (Noỏng Khai) phục vụ cho mặt trận Tây Lào sau này là Đoàn 83 Viên Chăn. Khi tôi ở lại nằm vùng (ở tỉnh ủy Viên chăn), thì đồng chí Phước phụ trách liên lạc giữa đặc ủy Việt kiều Thái Lan với Tỉnh ủy viên Chăn. Khi tôi trở lại để làm nhiệm vụ đặc biệt cùng tổ công tác thì chính đồng chí là giao liên phụ trách đưa tôi sang căn cứ Loong Tòn và đón tôi về khi cần thiết. Đồng chí đưa người của Tổ công tác đặc biệt Việt và Lào ra vào nội thành Viên Chăn thông qua con đường giao liên vòng sang Thái Lan. Điều đó đảm bảo an toàn cho đến khi nhiệm vụ thành công, không hề xảy ra sơ xuất, lộ bí mật chút nào.
Sau này, khi tôi tiếp tục công tác tại Lào thì đồng chí được về nước học tập và làm những nhiệm vụ khác. Đồng chí đã ra khỏi ngành rồi mất tại Thái Lan. Tôi còn nhớ anh Phát trước đây ở Xixiêngmạy là người chuyên lo giấy thông hành xuất nhập cảnh cho tôi qua lại giữa Lào và Thái Lan. Anh về nước thăm quê hương 1 lần và cũng đã mất. Anh còn có người anh ruột là Phạm Văn Minh đi bộ đội tại mặt trận Thượng Lào từ hồi kháng chiến chống Pháp (tức là một trong những người tham gia cách mạng sớm) rồi hy sinh và không còn tin tức gì. Anh Phát về nước làm đơn xin xác nhận gia đình liệt sĩ nhưng gặp nhiều khó khăn nên không được chấp nhận do thiếu điều kiện thẩm tra thẩm định. Bên cạnh đó còn có anh Vận từng lái ca nô cho tôi và nhiều cán bộ qua lại từ Thái sang Làọ cả ngày, đêm trong điều kiện bất hợp pháp, không giấy tờ hoặc giấy tờ giả để thi hành nhiệm vụ đặc biệt tại Lào. Bao nhiêu năm từ kháng chiến chống Pháp anh là giao liên của ban chỉ huy Đoàn 83 của ban tiếp tế dưới sự chỉ huy của đồng chí Phước. Cho đến nay tôi cũng không còn tin tức gì của anh. Các gia đình ông bà Bui, ông bà Pho đã từng cưu mang cán bộ ta trong nội thành Viên Chăn trong vòng kiểm soát ngặt ngèo của đối phương, nay họ cũng đã mất. Trong đường dây giao liên của anh Phước còn có anh Tân là một giao thông viên tận tụy, giỏi tiếng Thái, quen nhiều cảnh sát Thái ở bờ sông Mê Kông thuận lợi cho việc đưa đón cán bộ ta. Chính anh là người đưa tôi từ Thái Lan qua lại Lào hoặc trên đất Thái, từ Phônvisẩy lên Noọng Khai nhiều lần đi bằng ca nô, tàu thuỷ. Tôi từng chứng kiến và ngồi cạnh để cùng anh chơi bài với cảnh sát Thái trên ca nô đang chạy. Anh chơi một cách thành thạo và chuyện trò đùa cợt với cảnh sát Thái một cách tự nhiên. Sau giải phóng anh được về nước, nghỉ hưu với quân hàm thiếu tá. Anh đã mất ở trong nước. Ngoài ra còn ông bà Phan Hữu Đương ở Tha Bo, cũng là cơ sở ăn ở, giao thông đưa tôi đi lại từ Tha Bo xuống Noong Khai hay từ Tha Bo lên Xixiêngmạy. Ông cũng là thành viên trong tổ tiếp tế do anh Phước chỉ huy và đã hồi hương về nước. Ông về làm cán bộ nhân viên của CP31 cho đến khi nghỉ hưu. Ông bà chính là thân sinh của Phan Hà Thành (đạo diễn của xưởng phim tài liệu Việt Nam) và Phan Hữu Việt là cán bộ ở Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Ông bà đều đã mất. Ngoài đường dây giao liên Việt kiều dọc sông Mê Kông nói trên còn có những cơ sở yêu nước mà tôi quen biết trước đây hoặc cùng hoạt động, làm việc cho Tổng hội Cứu quốc thời gian tôi còn là Khu ủy viên Đảng bộ Việt kiều tỉnh Uđon (thời kỳ trước năm 1950). Đến khi trở lại làm nhiệm vụ đặc biệt (1959-1960) thì tôi đã xa bà con gần chục năm trời. Song họ vẫn nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ. Trên hành trình vòng qua nội địa Thái Lan để làm nhiệm vụ đặc biệt này, lúc bí mật vượt qua sông Mê Kông từ đất Lào sang Thái trong đêm tôi đã được giao liên đưa đến gặp đồng chí Lê Văn Đại - Bí thư Ban Cán sự Đảng bộ Việt kiều toàn Thái ở một địa điểm bí mật bên thành phố Nakhon. Đồng chí cho biết tình hình các cơ sở mà tôi sẽ đi qua. Hôm sau tôi ăn mặc như người Thái Lan lên xe khách đi Sacôn rồi đi Uđon. Đến Ưđon tôi xuống xe ỏ gần ga rồi băng qua đường sắt theo đường mòn vào làng Nỏngbua, ngoại ô tỉnh Uđon, nơi trước đây tôi đã từng sống và làm việc. Tôi đã dễ dàng vào được nhà ông Cu Mộc, ngày xưa là bí thư chi bộ Nỏngbua. Gia đình đồng chí là Việt kiều cũ, có thể nói là gần như "Thái hoá", mấy người con nói tiếng Việt không sõi. Gặp tôi, bác ấy và con cái rất hoan hỉ tỏ ra nhớ tôi nhưng không có vẻ gì là ngạc nhiên mà người ngỡ ngàng nhất lại chính là tôi. Đêm đến ngồi chuyện trò tâm sự mới biết là đồng chí Lê Văn Đại đã cho người liên lạc đến báo trước cho bác ấy biết là tôi sẽ đến. Những gia đình chân chất, lao động làm vườn và chăn nuôi lợn để sinh sống từ thời Bác Hồ sang hoạt động ở Thái Lan đã cư trú và hoạt động cách mạng ở đất Nỏngbua này nay chắc không còn nữa. Đồng chí Nguyễn Như Văn cũng đã ra đi từ mảnh đất này để trở về miền Nam chiến đấu chống Pháp rồi chống Mỹ cho đến ngày toàn thắng, sau này đã trở thành Trung tướng Cục trưởng Cục 2 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tôi vẫn còn nhớ vùng Xixiêngmạy - Tha Bo - Noong Khai (đối diện với thành phố Viên Chăn) là nơi tôi có nhiều trạm trú chân đùm bọc, che trở cho bản thân tôi cũng như giao liên Lào và cán bộ lãnh đạo Lào qua lại từ căn cứ của Loong Tòn tỉnh Viên Chăn để vòng qua Thái Lan rồi đột nhập, ra vào thành phố Viên Chăn mà đối phương không hề hay biết. Ngoài những đồng chí có tên trong ban tiếp tế, tổ chức giao liên tôi đã nói trên còn có nhiều gia đình Việt Kiều yêu nước khác được ban tiếp tế xây dựng thành cơ sở nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật. Ở huyện lỵ Tha Bo có gia đình bà Lan là nơi tiếp nhận giao liên Lào từ Viên Chăn sang. Cụ ông mất sớm, bà ở vậy nuôi 2 người con, khi họ trưởng thành đều đi bộ đội sang mặt trận Lào. Trong đó có chị Lan là đảng viên, cán bộ của huyện Tha Bo, sau này lấy chồng là đồng chí Phạm Kỷ, nguyên Phó chính ủy Đoàn 83 - Bí thư Ban Cán sự đảng bộ Viên Chăn, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ CP31 (sau là CP38). Mỗi khi qua lại công tác trong hoàn cảnh bí mật cũng như sau này được về nước hồi hương, bà và gia đình vẫn luôn coi tôi như ruột thịt. Hiện nay gia đình con cháu bà đang ở tại 93 Lý Nam Đế, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Gia đình ông bà Nghị làm thợ mộc ỏ Tha Bo, có người em là Thanh và gia đình bà Gái, gia đình cụ Điển là những nơi tạm trú khi qua lại căn cứ bên Lào trở về hoặc từ đó xuất phát sang nội thành Viên Chăn. Bên cạnh đó còn có các gia đình ông Thi, ông Giáp, ông Sinh ở Xixiêngmạy là những cơ sở tạm trú từng nuôi giấu cán bộ của tổ công tác. Họ được hồi hương về nước cuối năm 1960. Cụ Điển, ông bà Nghị, ông Sinh, ông Giáp nay đều đã mất. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 21 Tháng Bảy, 2021, 02:15:04 pm II. NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG
Do hoàn cảnh chiến tranh cứu nước, nay đây mai đó trên các chiến trường B, C, K, cán bộ thì luôn luôn thuyên chuyển từ cơ quan này đến đơn vị, cơ quan khác, từ chiến trường của vùng này đến chiến trường vùng kia, thêm vào đó là hoàn cảnh chiến đấu khốc liệt nên thông tin về những người ở xa là hầu như rất hiếm. Vì vậy tôi cũng như nhiều người, chỉ sau khi về hưu mới tự đặt thành vấn đề đi tìm bạn bè, thăm thú lẫn nhau. Ngoài những người đã khuất, trong số các bạn bè còn sống - phần lớn cũng đã về hưu trước tôi, thật may là tôi còn tìm được 2 đồng chí trong Tổ công tác đặc biệt đi Lào giúp bạn năm ấy. 1. Đồng chí Nguyến Văn Vinh Là báo vụ kiêm cơ công của tổ chúng tôi. Đồng chí sinh năm 1922, nhập ngũ năm 1948, quê ở xã Hồng Lạc, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương - nơi đồng chí nghỉ hưu với 30 năm tuổi quân. Thời gian đi làm nhiệm vụ đặc biệt, đồng chí một mình vác bộ điện đài GRC9 (do Mỹ sản xuất) nặng 18kg. Bộ điện đài quá nặng, anh em muốn thay nhau vác giúp nhưng đồng chí Vinh không chịu, sợ anh em vấp ngã làm hỏng máy. Dọc đường hành quân, hễ anh em dừng chân nghỉ là đồng chí hạ máy xuống làm việc ngay. Ngoài ra mỗi đồng chí còn vác theo 3kg gạo dự trữ đề phòng khi bị lạc, túi thuốc cứu thương, phao bơi, một còi sắt để đuổi voi phòng khi gặp nó ở đường rừng. Ba lô quần áo tư trang khác thì anh em chia nhau mang hộ đồng chí Vinh. Đồng chí kể chuyện thời đó đang cùng đơn vị tham gia công trường hồ Bảy Mẫu để xây dựng công viên Thống Nhất ở Hà Nội thì được gọi về giao nhiệm vụ đi công tác đặc biệt bên Lào, không biết đến địa phương nào hay mục tiêu cụ thể là thế nào. Lúc đầu tiên định cử đồng chí Phan Văn Đa đi nhưng đồng chí Đa mới học báo vụ xong, lại chưa biết chữa máy, không thể đi độc lập, trong khi đồng chí Vinh có thể đồng thời làm báo vụ và cơ công nên cấp trên cử đi thay vào đó. Suốt cả hành trình hành quân đi và về hàng ngàn cây số đường rừng cũng như lúc ở căn cứ Loong Tòn trong hơn 1 năm trời, đồng chí luôn luôn đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt với Trung ương. Nhiều lúc khối lượng các bức điện khẩn và hoả tốc quá nhiều, đồng chí làm việc suốt đêm không nghỉ, ấy vậy mà liên lạc không bao giờ bị gián đoạn. Đúng như đồng chí Hoàng - trưởng phòng thông tin liên lạc của Cục Nghiên cứu thời bấy giờ nói: "Giao máy, điện đài cho đồng chí Vinh đi chuyên công tác đặc biệt này, tôi mới yên tâm". Ngoài công việc báo vụ, những lúc rỗi rãi đồng chí còn tranh thủ huấn luyện các đồng chí nước bạn là Thoongsỉ và Bunmi làm báo vụ cho tỉnh ủy Lào. Anh Vinh còn sửa chữa một số máy GRC9 của tỉnh bạn để bạn liên lạc trực tiếp với Trung ương và giúp đồng chí Bunmi về Việt Nam học rồi quay lại Lào hoạt động bí mật trong nội thành Pakxê (Hạ Lào). Khi Lào được hoàn toàn giải phóng, đồng chí Bunmi trở thành bí thư huyện ủy ở đó và vẫn thường xuyên nhắc đến đồng chí Vinh. Sau chuyến đi công tác đặc biệt, năm 1961 đến năm 1963 đồng chí lại được cử sang Lào phục vụ tổ công tác mật của Cục Nghiên cứu do đồng chí Nguyễn Viết Thìn phụ trách ở Sêpôn - Mường Phin (đường 9 Nam Lào) rồi xuống hoạt động ở Pakxê. Năm 1976 đến 1978 đồng chí lại được cử sang làm chuyên gia trong Đoàn 176 để giúp xây dựng ngành thông tin liên lạc của Cục 49 Bộ Quốc phòng Lào, được bạn hết sức quý mến. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đồng chí nghỉ hưu năm 1979 với quân hàm đại úy, về sống cùng gia đình, bà con xóm làng tại quê nhà. Đồng chí là một người đảng viên, Bộ đội Cụ Hồ tận tụy với dân, với nước, chiến đấu công tác ở chiến trường Lào gian khổ, thường xuyên đối mặt với hiểm nguy mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 21 Tháng Bảy, 2021, 02:15:53 pm 2. Đồng chí Nguyễn Ngôn
Đồng chí cũng sinh năm 1922, bằng tuổi đồng chí Vinh, sinh tại Phổ Minh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Đồng chí Ngôn nhập ngũ tháng 8 năm 1945, đã lĩnh huy hiệu 60 năm tuổi Đảng năm 2007. Năm 1953-1954, đồng chí làm đại đội phó rồi đại đội trưởng của Tiểu đoàn 323 trinh sát đặc công Liên khu V, từng là chiến sĩ du kích Ba Tơ tập kích vào thị xã Áttapư (Hạ Lào) hoạt động đánh biệt kích địch nhiều trận ở Pạc Xoòng (cao nguyên Bôlôven). Năm 1958, cấp trên điều anh Ngôn về làm huấn luyện trinh sát của Quân khu 4. Đến đầu năm 1959, anh được giao nhiệm vụ phụ trách nhóm 4 anh em đặc công trong Tổ công tác đặc biệt sang Lào giúp bạn. Trước đó anh chưa biết nhiệm vụ cụ thể sẽ làm gì và tại địa phương nào, chỉ biết đây là nhiệm vụ đặc biệt. Khi tuyển anh, phòng 71 tổ chức thực tập tiềm nhập đồn địch để kiểm tra trình độ kỹ chiến thuật đặc công. Mục tiêu đột nhập là cổng gác cửa Nam của thành Hà Nội. Kế hoạch giao cho nhóm đồng chí Ngôn chuẩn bị phương án là 20 ngày. Đến ngày thực hiện, đúng 12 giờ đêm, anh Ngôn phân công các đồng chí Đăng và Du đột nhập bệnh viện 354 (thời đó ở sát cạnh tường thành), chọn điểm, đúng giờ hẹn vượt qua tường bệnh viện cũng là tường thành; đồng chí Lầu đột nhập nhà bảo tàng quân đội, nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (cũng có tường giáp thành) từ chập tối, lợi dụng bóng cây to trèo tường vào thành. Riêng anh Ngôn đã nắm được quy luật giờ đổi gác, quy luật xe quân sự ra vào thành là xe có số biển trong thành, số xe đó lính gác đã quen thuộc nên không hỏi giấy tờ. Đúng 11 giờ đêm, có xe vào, đồng chí nấp ở sau thân cây to cạnh cổng, khi lính gác mở cổng thì nhanh chóng đi theo bên sườn xe và thản nhiên đi theo vào thành. Người trên xe nghĩ anh là người của trạm gác, lính gác lại nhầm anh với người trên xe xuống. Cuối cùng, cả 4 đồng chí đã tập trung đúng hẹn tại một điểm trong thành. Buổi đột nhập đó có trưởng phòng 71 và trưởng phòng huấn luyện giám sát cuộc thực tập kiểm tra và đánh giá đạt yêu cầu. Trên đường hành quân xuyên rừng vượt núi từ biên giới Mường Xén qua đất Thaviêng, Thà Thôm (Xiêng Khoảng), các đồng chí trinh sát - đặc công còn có nhiệm vụ bảo vệ điện đài và cơ yếu, nhất là giúp đồng chí Vinh mang vác tư trang và bộ Ragônô (máy phát điện quay tay dã chiến của quân đội Mỹ). Dọc đường hành quân, đồng chí Ngôn và cả nhóm đặc công thay nhau quay máy Ragônô cho đồng chí Vinh lên đài làm việc ở mỗi chặng dừng chân. Tuy nhiên khi đến căn cứ Loong Tòn, tình hình đã thay đổi. Vì là tổ trưởng, tôi vào nội thành trước, qua các nguồn tin tôi được biết đối phương không còn giam lỏng các lãnh tụ Lào yêu nước mà đã cho lính đến nhà bắt các vị đưa vào giam chặt trong trại lính Phôn Khênh, ở đó chúng đã cấp tốc cải tạo chuồng ngựa thành trại giam có bố phòng nghiêm ngặt. Vì vậy tôi đã đề xuất ý kiến với bạn không dùng phương án bạo lực (dùng đặc công tập kích vào nơi giam giữ) được nữa mà chuyển sang phương án xây dựng cơ sở nội ứng, phối hợp trong ngoài, chọn thời cơ bí mật, bất ngờ đưa các vị thoát ra và về căn cứ của tỉnh ủy. Còn đặc công của ta thì chuyển sang giúp bạn mở một lớp huấn luyện đặc công để chuẩn bị lực lượng bảo vệ của bạn khi có thời cơ bí mật đưa các đồng chí bị giam thoát ra ngoài, đồng thời để làm nòng cốt phát động chiến tranh du kích trở lại theo nghị quyết chuyển hướng chiến lược của Trung ương. Ý kiến trên được Ban chỉ đạo bạn tán thành và Trung ương Đảng chuẩn y. Vì vậy sau lớp huấn luyện cấp tốc 1 tháng, lãnh đạo và Quân ủy ta đồng ý cho nhóm đặc công rút về nước. Anh em đội đặc công của đồng chí Ngôn lại trèo núi vượt sông hành quân trở về theo đường giao liên, qua các vùng cơ sở cách mạng trên đất Borikhâmxay về Nghệ An. Tại đây có xe của Cục Nghiên cứu đón các đồng chí ra Hà Nội. Sau khi về nước, đồng chí Nguyễn Ngôn làm chính trị viên phó trường trinh sát của Cục Nghiên cứu, các đồng chí khác trở về đơn vị cũ ở Quân khu 5. Tháng 12 năm 1974, anh Ngôn về hưu với quân hàm đại úy. Sau khi miền Nam giải phóng, anh đưa vợ con lên Pleiku (Tây Nguyên) lập nghiệp. Con trai tốt nghiệp trường kiến trúc, năm 1982 đã nhận được giải thưởng quốc tế ở Cuba. Trong bài "Anh bộ đội Cụ Hồ tham gia giải thoát hoàng thân Xuphanuvông" đã đăng trên báo Quân đội nhân dân cuối tuần số ra ngày 28 tháng 11 năm 2004 có đoạn viết: "Đồng bào các dân tộc ở phường Hoa Lư thành phố Plâycu ai cũng quen biết ông Nguyễn Ngôn, tổ trưởng tổ hòa giải kiêm trưởng thanh tra nhân dân. Mặc dù đã 83 tuổi, ông vẫn tích cực tham gia công tác xây dựng địa bàn và các hoạt động xã hội, sống gương mẫu, đoàn kết, được mọi người kính phục". Tiêu đề: Cuộc vượt ngục kỳ diệu Gửi bởi: quansuvn trong 21 Tháng Bảy, 2021, 02:16:49 pm Ở đoạn trên, khi kể về những người đã khuất, tôi đã viết: "Không thể chỉ kể đến những đồng chí có trong danh sách 9 anh em thuộc Tổ công tác đặc biệt". Đúng như thế, sẽ là thiếu sót lớn nếu nói về đồng đội còn sống mà tôi không nhắc đến những đồng chí ở các đơn vị phối hợp, những cộng tác viên, những cơ sở yêu nước đã hỗ trợ đắc lực cho tổ công tác chúng tôi. Mặc dù lúc đó họ chỉ biết chúng tôi đang làm công tác của trên giao, chứ không hề hay biết rằng đó là nhiệm vụ đặc biệt cụ thể như thế nào. Nhưng có thể nói, anh em trong tổ chúng tôi không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu thiếu đi sự giúp sức của họ. Trong đó, tôi còn nhớ những người còn sống, trước tiên là các đồng chí, các cơ sở đã phối hợp giúp đỡ tổ công tác đặc biệt chúng tôi, đó là các đồng chí:
- Đồng chí Tống Văn Trinh: sinh năm 1923 tại Châu Phú, thị xã Châu Đốc - An Giang, nhập ngũ ngày 2 tháng 10 năm 1946, vào Đảng ngày 6 tháng 1 năm 1948, là một đại đội trưởng nổi tiếng của Sư đoàn 330 - sư đoàn chủ lực tại mặt trận Hậu Giang của Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Tháng 4 năm 1957, đồng chí thuyên chuyển về làm cán bộ của Cục Nghiên cứu. Tháng 10 năm 1958, với bí số N113, anh được giao nhiệm vụ làm tổ trưởng cơ sở mật xuyên rừng theo đường giao liên vượt biên giới vào nội thành Viên Chăn. Khi tôi vào Viên Chăn làm Tổ trưởng Tổ công tác đặc biệt, đồng thời là phái viên của Cục Nghiên cứu, tôi móc nối liên lạc với N113 để nắm nguồn tin. Những thông tin đồng chí cung cấp phục vụ trước mắt cho nhiệm vụ đặc biệt giúp bạn, ngoài ra còn theo yêu cầu nắm tình hình địch ở Lào của cấp trên. NI 13 cũng như N114 (anh Long) đã tích cực hoạt động và giữ liên lạc thường xuyên với tôi qua hộp thư chết và mực hoá học. Cũng có khi chúng tôi gặp nhau chớp nhoáng để trao tay những tài liệu, báo cáo hay chỉ thị đã được ngụy trang. Nhờ nhiều tin tức đóng góp của các đồng chí, Tổ công tác đặc biệt đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Sau đó đồng chí Trinh tiếp tục âm thầm công tác bí mật, bất hợp pháp, sông trong gian nan nguy hiểm liên tục gần 20 năm ở vùng địch hậu Viên Chăn. Đến khi Việt Nam và Lào được hoàn toàn giải phóng đồng chí và vợ con mới được về nước. Tháng 11 năm 1977, đồng chí Trinh được chuyển ngành về công tác tại Cần Thơ với quân hàm đại úy. Đồng chí được lãnh đạo địa phương cử làm Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang cho đến khi bị tai biến mạch máu não năm 1989 mới về hưu. Anh Trinh là một cán bộ, đảng viên và quân nhân cách mạng có hơn 40 năm chiến đấu và công tác, trong đó gần nửa thời gian hoạt động ở chiến trường địch hậu Lào. Trải qua những thử thách lớn lao, anh vẫn giữ được phẩm chất đạo đức, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, còn lập được chiến công trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 và chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum phá kế hoạch Kukiệt của địch, được Bằng khen của Cục Nghiên cứu. Những điều đó quả là đáng khâm phục. - Đồng chí Phan Văn Đa: sinh năm 1932 tại Thakhek, nhập ngũ năm 1950, là báo vụ viên vô tuyến điện. Đồng chí vừa là đồng hương với tôi, vừa ỏ cùng cơ quan Ban chỉ huy Đoàn 83 thời kháng chiến chống Pháp. Đồng chí không ở trong biên chế Tổ công tác đặc biệt sang giúp bạn cùng với tôi từ đầu, nhưng sau khi cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông đã thành công trót lọt, tiếp đến cuộc đảo chính của Koongle, mặt trận Viên Chăn diễn biến khẩn trương phức tạp, cấp trên đã kịp thời cử đồng chí Đa mang điện đài sang tăng cường cho bộ phận của tôi lúc ấy nằm trong nội thành Viên Chăn. Đồng chí cùng đồng chí Vụ cơ yếu, đồng chí Bùi Sĩ Vỹ, có đồng chí Trần Văn Điển dẫn đường đã trèo đèo vượt núi băng qua ghềnh thác, sông suối muôn vàn gian khổ để sang đến căn cứ chúng tôi ở ngoại thành. Trong lúc điện đài của đồng chí Vinh đã đi theo phục vụ cuộc hành quân của Chủ tịch Xuphanuvông lên phía bắc, thì điện đài của đồng chí Đa đã trở thành mạch máu thông tin duy nhất nổi liền Viên Chăn với Hà Nội. Đồng chí đã cùng tôi vào sinh ra tử, làm việc bất kể ngày đêm giữa chiến trường nóng bỏng và đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu 7 ngày đêm ở nội thành Viên Chăn thời đó. Sau này đồng chí còn liên tục sang công tác làm chuyên gia giúp bạn nhiều đợt. Năm 1995 đồng chí đã được nghỉ hưu với quân hàm đại tá. - Bác Dương Đình Thuần: giao thông viên phụ trách đường dây ven sông Mê Kông từ Bạn Pheng - Bùng Khà - Phôn Vi Xảy - Nỏng Khai. Bác đã tận tụy phục vụ đường dây này từ kháng chiến chông Pháp đến hết kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mới nghỉ hưu, rồi tiếp tục sinh sống với vợ con tại Thái Lan, 2 người con trai của bác về nước học tập và công tác tại Hà Nội, đều đã lập gia đình. Năm 2007, bác về nước (lúc này bác đã 87 tuổi) trong đoàn đại biểu Việt kiều Thái Lan nhân kỷ niệm ngày Quốc khánh 2-9. Đoàn đại biểu gồm 30 người đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp đón rất ân cần. - Bà Lý Thị Nụ: Bà sinh năm 1925, là cán bộ của hội Việt kiều cứu quốc ở Thái Lan, vào Đảng năm 1948, Bí thư chi bộ ở huyện lỵ Xixiêngmạy, tỉnh Noong Khai (đối diện thành phố Viên Chăn) từ năm 1954 đến năm 1960. Bà đã từng chủ trì việc bố trí cơ sở ăn, ở tạm trú cho cán bộ Tổ công tác đặc biệt qua lại biên giới Lào - Thái Lan. Cuối năm 1960, bà được về nước, tiếp tục tham gia công tác địa phương, làm Bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch xã Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Từ năm 1968 đến năm 1976, bà là huyện ủy viên, Trưởng phòng tổ chức của huyện. Bà về hưu năm 1981. - Bà Lý Thị Sửu: Bà sinh năm 1937, là giáo viên tiểu học, hội viên hội Việt kiều cứu quốc ở Thái Lan. Năm 1959 đến năm 1960, bà làm giao liên phục vụ Tổ công tác đặc biệt Việt Nam vào Lào qua lại từ Xixiêngmạy (Thái Lan) sang Viên Chăn, đã nhiều lần đột nhập thành phố Viên Chăn để móc nối chuyển giao tài liệu, đưa đón cán bộ Việt và Lào đi công tác vượt sông Mê Kông. Năm 1961, bà về nước, làm công nhân Nhà máy xe điện Hà Nội, sau đó tham gia công tác ở cơ sở, làm Phó chủ tịch xã Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, Hà Nội từ năm 1968 đến năm 1977. Bà nghỉ hưu năm 1984. - Gia đình bà Gái (nay đã ngoài 70 tuổi) cùng gia đình ông Thanh nay sinh sống ở thành phố Sơn Tây, vốn là những gia đình cơ sở tạm trú tại huyện Tha Bo của Tổ công tác đặc biệt khi qua lại Thái Lan những năm 1959 đến năm 1960. Sau một thời gian mày mò tìm kiếm, khi bắt được liên lạc với đồng chí Nguyễn Văn Vinh (Hải Dương) và đồng chí Nguyễn Ngôn (Pleiku), tôi đã hẹn các đồng chí về gặp mặt tại gia đình tôi. Ngày 25 tháng 8 năm 2003, ba người lính trong Tổ công tác đặc biệt năm xưa mang theo một bức trướng đến mừng thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân ngày sinh nhật của ông. Dù đã chuẩn bị kỹ càng cùng những bộ complê, thắt ca ra vát chỉnh tề và đến sóm, nhưng ba anh em đều băn khoăn không biết liệu Đại tướng còn nhớ đến chúng tôi? Sau lời phát biểu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tình - Giám đốc, đồng thời là đại diện cho đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh, đến lượt ba anh em chúng tôi chúc thọ Đại tướng. Chúng tôi thật vui sướng và ngỡ ngàng khi ở tuổi 93 mà Đại tướng vẫn nói chuyện hoạt bát vui vẻ đến thế. Người nhớ rành rọt từng câu chuyện năm xưa khi giao nhiệm vụ đặc biệt cho tổ chúng tôi đi giúp bạn Lào. Khi nhắc đến câu chuyện cách đây gần nửa thế kỷ, tôi không khỏi bồi hồi và nói: "Khi Đại tướng giao nhiệm vụ, chúng tôi đều mới trên dưới 30 tuổi, đều còn trẻ măng, bây giờ đã...". Đại tướng cười rất tươi và đón lời ngay: "Bây giờ anh vẫn còn trẻ...". Gian phòng vốn chật ních người rộn lên tiếng cười và vỗ tay của mọi người. Tôi phấn khởi tiếp lời: "Vâng, ở tuổi 73 tôi vẫn thuộc hàng con cháu của Đại tướng". Đại tướng cười vui vẻ, không khí căn phòng thêm rộn ràng vì chúng tôi thấy rõ Đại tướng thật tinh tường và minh mẫn, phản ứng thật nhanh nhạy trong câu chuyện. Sau cuộc chuyện trò, từng đoàn khách được chụp ảnh lưu niệm cùng Đại tướng. Riêng tấm ảnh chụp cùng ba anh em trong tổ công tác đặc biệt, Đại tướng đã tự tay để tặng những dòng sau đây: "Cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông là một chiến công đặc biệt tiêu biểu cho tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Chúng ta hãy giữ vững và phát triển tình hữu nghị đặc biệt ấy. Chúc các đồng chí mọi sự tốt lành và nhớ mãi công lao của các đồng chí, trong đó có các đồng chí đã không còn... Thân, 3-9-2003 Võ Nguyên Giáp Ba chúng tôi phấn khởi nói với nhau rằng "đây là vinh dự, là phần thưởng cao quý nhất đối với Tổ công tác đặc biệt chúng ta và toàn thể các đồng chí kẻ còn người đã mất, các anh em bà con đã tham gia vào công cuộc giúp bạn góp phần giải cứu Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo Mặt trận yêu nước Lào năm xưa" - một sự kiện lịch sử quan trọng của cách mạng Lào và của quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt giữa hai nước anh em Lào - Việt". |