Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 19 Tháng Sáu, 2021, 07:31:32 pm



Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Sáu, 2021, 07:31:32 pm
Tên sách: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Tác giả: Cao Thanh Tân
Nhà xuất bản: Quân Đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2009
Số hoá: ptlinh, quansuvn


LỜI TÁC GIẢ


Do duyên may, tôi có điều kiện đến một số vùng đất biên cương thiêng liêng của Tổ quốc để thực hiện trách vụ và cũng đã không ít lần bâng khuâng, có những cảm giác khác nhau về cảnh sắc đất trời biên thuỳ nước Việt. Rồi một trong những dịp quý giá đó, tôi đã bị cuốn hút mạnh mẽ bởi khung cảnh địa lý và không gian văn hoá - lịch sử đầy huyền thoại của vùng đất Châu Đốc và do vậy đã hình thành ý tưởng vào lúc thuận lợi sẽ thực hiện một chuyên khảo về vùng đất này.


Dịp may đó đã đến và khi được các nhà khoa học ủng hộ, động viên, tôi đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch và thực hiện khảo sát thu thập tư liệu về vùng đất Tây Nam; dù gặp không ít khó khăn, trở ngại, mà điều đó trước hết lại xảy ra chính ở ngay tại Hà Nội khi tiếp cận nguồn tài liệu địa bạ chữ Hán, rồi sau nữa là do địa bàn nghiên cứu quá xa, thời gian điền dã không nhiều, nguồn tư liệu khai thác, được lại không như mong muốn,... Tuy nhiên, được sự giúp đỡ của nhiều người và cố gắng của bản thân nên cuối cùng cuốn sách cũng đã hoàn thành, dẫu chưa đúng hẹn. Dù vẫn biết, trong điều kiện thuận lợi không nhiều và khả năng có hạn, nội dung công trình chưa đạt được mong muốn, nên chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết. Tác giả vô cùng cảm ơn, và mong nhận được sự góp ý, phê bình của các nhà khoa học và các độc giả để nâng cao chất lượng công trình.


Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, tác giả trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của GS - TSKH. Vũ Minh Giang - Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, GS - TS. Nguyễn Quang Ngọc - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, các nhà khoa học của Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ, nhăn dân và các chiến sĩ biên phòng tỉnh An Giang đã giúp đỡ rất nhiều trong quá trình khảo sát, nghiên cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành công trình này.

TÁC GIẢ


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 22 Tháng Sáu, 2021, 08:18:08 pm
MỞ ĐẦU


Trên con đường thiên lý nghìn năm khai phá, làm chủ miền phù sa Nam Bộ của người Việt, nếu Bà Rịa - Đồng Nai là nơi in những dấu chân lịch sử đầu tiên của lưu dân, thì Châu Đốc lại là chặng dừng chân cuối cùng của người Việt ở phương Nam.


Với huyền thoại "Tiền tam giang, hậu thất lĩnh", "Thất Sơn mầu nhiệm" nơi "sơn bất tại cao, thuỷ bất tại thâm" của chốn "địa linh"..., vùng đất mới Châu Đốc nổi danh về sự lung linh huyền ảo của một miền cổ tích truyền kỳ nơi xứ sở miền Tây quê lụa. Vùng đất này không những có ý nghĩa chiến lược trên nhiều phương diện mà còn là một khu vực tộc người tiêu biểu của Nam Bộ: Việt, Khmer, Chăm, Hoa; là trung tâm phát sinh tôn giáo, tín ngưỡng như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hoà Hảo,... Sự hình thành và phát triển của vùng đất Châu Đốc từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX và có vai trò quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ vùng đất biên ải Tây Nam do vị trí "cửa ngõ" hiểm yếu phía tây thành Gia Định.


Trong lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền mấy thế kỷ qua, Châu Đốc đã thực sự chứng tỏ là một vùng biên cương quan trọng. Hiện tại và tương lai vùng đất này không chỉ là địa phương đầy tiềm năng phát triển về giao thông, thương mại, du lịch và văn hoá, năng động về kinh tế, mà vẫn còn ẩn chứa nhiều phức tạp về tôn giáo, tộc người và chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu vùng đất này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn.


Xuất phát từ nhận thức, nghiên cứu lịch sử đất nước không thể bỏ qua việc tìm hiểu lịch sử một địa bàn cụ thể, một thành tô quan trọng của lịch sử dân tộc. Nghiên cứu lịch sử một khu vực sẽ không chỉ giúp chúng ta vừa hiểu sâu sắc một vùng đất, bô sung cho bức tranh toàn cảnh về diện mạo lịch sử đất nước, để không chỉ tìm hiểu cái riêng trong cái chung và ngược lại.


Từ tiếp cận đối tượng bằng nhiều hướng khác nhau để nghiên cứu vùng đất Châu Đốc, cuốn sách hy vọng không chỉ đem lại cho bạn đọc nhận thức mới về một vùng biên giới cụ thể, mà hơn thế còn cung cấp những cơ sở khoa học cho việc nhận thức toàn bộ biên giới Tây Nam và lịch sử chủ quyền vùng đất phía Nam của Tổ quốc.


Trong khuôn khổ của khảo cứu, tác giả bắt đầu tìm hiểu lịch sử vùng đất này từ lúc thành lập "Châu Đốc đạo" (1757) cho đến Hiệp ước Giáp Tuất (1874). Đây là một giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu quá trình xác lập, khẳng định chủ quyền hoàn toàn của triều Nguyễn ở vùng đất Tây Nam, tạo cơ sở pháp lý cho nhà nước Đại Nam quản lý vững chắc và lâu dài vùng đất này.


Cho đến khi thực dân Pháp xâm lược ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867), Châu Đốc đã trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của nước Việt và cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Châu Đốc chống thực dân Pháp để bảo vệ chủ quyền nói lên điều đó. Năm 1868, sau khi thực dân Pháp đàn áp phong trào kháng chiến của Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá và năm 1873, sau khi dập tắt "ngọn lửa" khởi nghĩa Bảy Thưa - Láng Linh của tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương ở Châu Đốc; sự thực, đến lúc này mới đánh dấu việc thực dân Pháp cơ bản kết thúc giai đoạn bình định miền Tây Nam Kỳ.


Với sự kiện ký kết hiệp ước phân ranh biên giới Nam Kỳ - Cao Miên (1873) và đặc biệt là Hiệp ước Giáp Tuất (1874) giữa triều đình Huế và Pháp; đến đây thực dân Pháp đã chính thức hoá việc chiếm hữu toàn thể xứ lục tỉnh (như Điều 5 Hiệp ước nói rõ "Hoàng đế Đại Nam công nhận chủ quyền hoàn toàn của nước Pháp ở 6 tỉnh Nam Kỳ"). Từ đây kết thúc thời kỳ khai phá vùng đất Châu Đốc của người Việt, mở đầu thời kỳ của chủ nghĩa thực dân. Nam Bộ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Công trình kết thúc ở thời điểm này.


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của cuốn sách có 4 chương, ở chương I, đề cập ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, lịch sử đến sự hình thành vùng đất và dân cư; tổ chức xã hội của các tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa ở Châu Đốc. Chương II, kinh tế và vai trò của kinh tế đối với sự phát triển của vùng đất Châu Đốc. Chương III, sự thống nhất trong đa dạng về văn hoá của cư dân Châu Đốc và ảnh hưởng của văn hoá đến quá trình khai phá, bảo vệ chủ quyền vùng đất biên thuỳ. Chương IV, đề cập quá trình hình thành đường biên giới quốc gia ở vùng Châu Đốc và một số chính sách của triều Nguyễn về xây dựng và bảo vệ chủ quyền vùng đất "phên dậu" Tây Nam Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 24 Tháng Sáu, 2021, 09:37:32 pm
Chương 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT VÀ DÂN CƯ


Môi trường địa lý và hoàn cảnh lịch sử là những điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi vùng đất. Do vị trí địa lý của mình, mỗi dân tộc sống không chỉ trong môi trường tự nhiên mà cả trong môi trường lịch sử nhất định và tự mình trải qua ảnh hưởng của môi trường ấy.


1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Môi trường địa lý tự nhiên của một vùng đất là điều kiện tất yếu và thường xuyên của phát triển xã hội, là nền tảng không thể thiếu được cho sự sinh tồn của con người. Từ môi trường địa lý con người rút ra những thứ cần cho sinh hoạt cũng như cho lao động; bất kỳ lúc nào con người cũng cần có môi trường và không thể thoát ly môi trường được.


Lao động của con người sáng tạo ra của cải, nhưng sáng tạo từ vật chất có sẵn trong thiên nhiên và bằng cách sử dụng lực lượng của thiên nhiên. Người ta không thể lấy bất cứ cái gì thay cho thiên nhiên.

Là chỗ dựa cho quá trình hoạt động của con người, ảnh hưởng của điều kiện địa lý sẽ có vai trò đẩy mạnh hay làm chậm quá trình phát triển của vùng đất, sẽ có tác động đến cách thức sản xuất, cách ăn uống, mặc, ở, đi lại của con người, thậm chí, chi phối cả tình cảm, tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống văn hoá tinh thần của cư dân.


Đối với sự phát triển của xã hội loài người, hoàn cảnh địa lý là tất yếu thường xuyên. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử vùng đất Châu Đốc, không thể bỏ qua hay coi thường ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý được.

a- Vị trí, giới hạn

Sau khi chiếm đóng thành Châu Đốc ngày 22-6-1867, thực dân Pháp đã phân chia Nam Kỳ, Châu Đốc trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh vào những thập niên cuối thế kỷ XIX.

Diện tích của tỉnh Châu Đốc khoảng 300.000ha, được tạo thành bởi đất phủ Tuy Biên, gồm 3 huyện Tĩnh Biên, Tây Xuyên và Đông Xuyên của tỉnh An Giang thời Nguyễn. Tỉnh Châu Đốc nằm giữa 102°30 và 103°20 kinh tuyến Đông và 11°30 vĩ tuyến Bắc, cách Sài Gòn 220km [154, tr.313]. Vào năm 1876, một Ủy ban xác lập biên giới đã hoạch định biên giới đoạn Châu Đốc với Campuchia là những cột mốc bằng gỗ cứng từ số 84 đến số 124.


Phía bắc Châu Đốc giáp với Campuchia, tuyến đường quy ước qua cột mốc 84, từ đó chạy dọc theo phía đông, vượt qua sông Hậu cho đến cột mốc số 89, đến rạch Bình Di, tới sông Châu Đốc qua cột mốc số 96, sau đó đến kênh Vĩnh Tế với khoảng cách độ 1.200m và đến cột 124 là giới hạn cuối cùng giữa Campuchia với hai tỉnh Châu Đốc và Hà Tiên. Phía đông Châu Đốc giáp với tỉnh Tân An và Long Xuyên, phía nam được phân chia bởi Rạch Giá và một phần thuộc tỉnh Long Xuyên, phía tây giáp Hà Tiên và đường biên dọc theo kênh Hà Tiên tới tận Châu Đốc [154, tr.313].


Vùng đất này bốn bề đều là đồng bằng thông với các xứ "như cái tang hoa tụ lại ở bầu xe" [80, tr.164]. Sách Đại Nam nhất thống chí nói: "Thực là đất hình thắng quan yếu ở miền Tây" [80, tr.164]. Sách Gia Định thành thông chí cũng nhận xét Châu Đốc "thực là nơi yếu địa biên phòng" [21, tr.198]. Với vị trí địa lý này, sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến nhiều mặt kinh tế, xã hội, văn hoá của tỉnh Châu Đốc, mà chúng ta sẽ xem xét ở những phần sau.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Sáu, 2021, 08:00:57 pm
b- Địa hình

Địa hình của khu vực Châu Đốc, là yếu tố ngoại mạo nổi bật nhất của cảnh quan, yếu tố bền vững nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thành phần khác của tự nhiên. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng sâu sắc và thường xuyên đến đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của con người. Châu Đốc là một vùng đất có tính chất khá độc đáo và đa dạng so với các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu Long, vừa có đồng bằng, vừa có núi, tạo nên địa hình cảnh quan kỳ thú hiếm có ở Nam Bộ. Có thể chia địa hình Châu Đốc làm hai khu vực chính sau đây:

- Khu vực giữa hai sông: sông Tiền và sông Hậu từ Cao Miên đổ vào Châu Đốc, chảy song song về phía đông ôm gọn vùng đất giữa hai sông từ Vĩnh Xương về đến Chợ Mới. Đây là vùng đất cù lao màu mỡ, dân cư đông đúc, xưa nay vân gợi lên trong tâm trí người Việt hình ảnh của sự phú túc, ấm no. Vùng đất này có nhiều sông rạch chia cắt và nối liền hai sông như rạch Ông Chưởng, sông Vàm Nao, kênh Vĩnh An,...

- Vùng đất đồng bằng và đồi núi phía tây sông Hậu có tỉnh lỵ Châu Đốc. Từ trung tâm của đạo Châu Đốc (1757-1832), tỉnh lỵ An Giang (1832-1867), đến cuối thế kỷ XIX, Châu Đốc trở thành tỉnh lỵ tồn tại đến năm 1975. Châu Đốc là trung tâm trọng yếu, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá quan trọng, có thể liên hoàn với vùng núi trong mọi hoạt động, không bị ngăn cách như vùng cù lao bởi con sông Hậu. Vùng đồi núi phía tây là 3 dãy liên hoàn nhau, gồm Dài lớn, Dài nhỏ và Phú Cường, có khoảng 33 ngọn đồi lớn nhỏ nằm rải rác từ Tịnh Biên vào Tri Tôn, với mức độ đồi núi san sát bên nhau, trong đó có vùng Thất Sơn. Thất Sơn là dãy núi hùng vĩ, với những ngọn cao thấp không đều nhau, kéo rộng ra thành hình cánh cung dài trên 30km, rộng khoảng 17km, chiếm khoảng 1/7 diện tích tỉnh Châu Đốc.

Về hình thế, Thất Sơn được coi là xương sống của Châu Đốc, là nơi "dung thân vạn đại" của kẻ chí sĩ, là khu vực chiến lược tính kế lâu dài cho quốc gia. Thất Sơn không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng đất mà còn là nhân tố khá đặc biệt chi phối đời sống văn hoá tâm linh của cư dân vùng này.


c- Đồi núi

Nằm ở phía tây nam Nam Bộ, vùng Châu Đốc có cảnh quan địa lý khá độc đáo, vừa có đồng bằng vừa có núi. Ngoài những hòn lẻ: núi Sam, núi Sập khá nổi tiếng, đồi núi Châu Đốc chủ yếu tập trung ở vùng Thất Sơn.


Với diện tích khoảng 43.000ha [148, tr.344], Thất Sơn tạo cho miền này không chỉ có vẻ đẹp khác thường, phong cảnh núi non hùng vĩ mà còn mang nhiều truyền thuyết về một vùng Thất Sơn huyền bí, linh địa "Tiền tam giang, hậu thất lĩnh". Thất Sơn (bảy ngọn núi) có nhiều tài liệu ghi khác nhau. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chưa thấy nói đến danh hiệu Thất Sơn. Đến đời Tự Đức sách Đại Nam nhất thống chí viết về Thất Sơn có 7 núi sau: 1. Núi Tượng, 2. Núi Tô 3. Núi Cấm, 4. Núi Ốc Nhẫm, 5. Núi Nam Vi, 6. Núi Tà Biêt, 7. Núi Nhân Hoà. Trong đó, núi Tượng (tức Kỳ Lân Sơn) ở xã Ba Chúc, cao khoảng 124m, chu vi 5.000m; núi Tô (tức Cô Tô hay Phụng Hoàng Sơn) cao 614m, chu vi 30.000m; núi Cấm (Bạch Hổ Sơn), cao 710m, chu vi 46.000m; núi Nam Vi cao 135m, chu vi 2.000m.


Với cảnh sắc của vùng núi ở giữa đồng bằng, Thất Sơn đã tô điểm cho cảnh quan Châu Đốc nét đẹp hiếm có. Sách Gia Định thành thông chí đã hết lời khen vùng núi Châu Đốc "vách dốc ngậm mây, suối cong tắm ngọc...” (núi Ca - Âm) [21, tr.50]; núi Nam Sư "tròn như đống vàng ở trên hồ vọt lên mặt đất trang trọng tươi đẹp"; núi Tà Biệt "nhỏ mà tự cường, thấp mà không khuất phục, có khí lỗi lạc ở trong" [21, tr.50j; núi Đài Tốn "gà gáy trăng dưới núi, tiếng chó sủa xuân trong động, thực có vẻ yên hà ở ngoài đời" [21, tr.51]. Những ghi chép của Trịnh Hoài Đức cho thấy, Thất Sơn là một vùng núi không chỉ đẹp, giàu như trong mơ mà còn là vùng đất ẩn chứa khí thiêng của sông núi.


Theo quan niệm phong thuỷ, Thất Sơn là nơi tụ "huyệt Long Đảnh" và mười hai huyệt huyền diệu [151, tr.88], nơi có "Kim Thành huyệt" được coi là Bảo Sơn (số 7), tương ứng với Cửu Long (số 9) - là Cửu Long huyệt hay Minh Đường huyệt - nơi âm dương hoà hợp, thánh nhân ra đời [52, tr.43]. Thất Sơn hiểm trở, lại ở vùng biên thuỳ "sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh, thuỷ bất tại thâm hữu long tắc linh", nên trở thành nơi tu tiên luyện đạo, "Tu Phật Phú Yên, tu Tiên Bảy núi", điểm xuất phát đầu tiên của các tôn giáo Nam Bộ: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hoà Hảo,... Vùng núi Châu Đốc còn chứa đựng một nguồn của cải quý giá. Trong các thế kỷ XVII, XIX, khi các lưu dân người Việt, Khmer, Chăm, Hoa đến đây, họ đã được nuôi sống bằng nguồn tài nguyên quý giá, nhiều loại thú rừng như hươu nai, hổ báo, rùa, rắn,... và nguồn lâm sản dồi dào, nguồn dược liệu vô tận.


Từ xưa, ông cha ta đã dựa vào Thất Sơn để chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Để hỗ trợ và phát huy tính ưu việt của Thất Sơn, triều Nguyễn đã nỗ lực rất lớn để khai thống kênh Vĩnh Tế nối liền vùng biên giới Châu Đốc, Hà Tiên (1820-1824). Ở phía đông Thất Sơn, triều Nguyễn còn đào kênh Thoại Hà, nối liền Long Xuyên - Rạch Giá (1817). Đây là những công trình phòng thủ quan trọng tạo cho vùng đất chiến lược Châu Đốc có khả năng đập tan các đội quân xâm lược từ phía tây, bảo vệ "cửa ngõ" Tây Nam hiểm yếu của Gia Định.


Trong lịch sử, núi rừng Châu Đốc đã trở thành hào luỹ tự nhiên, sừng sững bao bọc phía Tây Nam đất nước, tiền đồn bảo vệ cửa ngõ phía tây Gia Định. Hiện tại và tương lai, Thất Sơn vẫn là một địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh và trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biên giới Tây Nam.


d- Đất đai

Châu Đốc được may mắn đón tiếp vị "phúc thần" Cửu Long ở hai ải địa đầu huyện Tân Châu và huyện An Phú.

Nhờ vậy, phần lớn đất đai thuộc vùng Châu Đốc là phù sa rất tốt còn một số rất ít là đất cát và đất sét lẫn mùn. Có thể chia đất ở Châu Đốc thành hai loại như sau:

- Đất phù sa: Hằng năm nước sông Cửu Long dâng cao, có năm lên 4 - 5m, mang theo phù sa chảy tràn vào đồng ruộng dọc hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu. Sau khi lũ rút, phù sa lắng lại trên đất cũ một lớp dày khoảng 2cm rất màu mỡ và phù hợp cho canh tác nông nghiệp.

- Đất cát pha: Loại này nằm trong vùng núi non thuộc phủ Tĩnh Biên xưa, nay là hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, gồm cát và phân thổ (nhiều lá cây mục nát thành phân) thích hợp cho việc trồng trọt các loại củ sắn, khoai, làm rẫy, trồng lúa,...


Năm 1985, theo phân loại Soil Taxonomy/ƯSDA, Trường đại học Cần Thơ, đất An Giang được phân thành sáu nhóm chính: Nhóm thứ nhất, nhóm đất phù sa ngọt, có diện tích 157.626,28ha, chiếm 44,86% tổng diện tích, là nhóm đất tốt nhất, không nhiễm phèn hay các độc tố khác, hàm lượng dinh dưỡng từ khá đến cao và cân đối, được phù sa sông bồi dày và nhiều. Nhóm thứ hai, nhóm đất phèn, chiếm 17.674,50ha, bằng 5,03% tổng diện tích, là nhóm đất xấu nhất, có nhiều độc chất làm hại cây trồng, sinh vật cũng như môi trường. Nhóm thứ ba, nhóm đất phù sa có phèn, chiếm 98.217,85ha, bằng 29,5% tổng diện tích, là nhóm đất có tầng sinh phèn xuất hiện khá sâu, ít có khả năng gây độc hại. Nhóm thứ tư, nhóm đất than bùn hữu cơ, chiếm 1.777,04ha, bằng 0,5% tổng diện tích. Nhóm thứ năm, nhóm đất phát triển tại chỗ và phù sa cổ chiếm 26.334,78ha, bằng 7,49% tổng diện tích, nghèo dinh dưỡng. Nhóm thứ sáu, các loại khác, bao gồm núi đá và đất tự xáo trộn, chiếm 49.785,53ha, bằng 14,17% tổng diện tích. Diện tích mặt nước của các sông rạch lớn chiếm 10.269ha, bằng 2,92% tổng diện tích, gồm chủ yếu là hệ thống sông Tiền và sông Hậu [152, tr.29, 31].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Sáu, 2021, 08:02:53 pm
e- Sông rạch

Trong lịch sử phát triển của vùng Châu Đốc, sông nước luôn đóng vai trò quan trọng. Sông nước không những cần cho sự sống của mọi sinh vật mà còn là nhân tố quyết định sự phát triển mọi mặt của vùng đất này.


Trên thế giới, ngay từ thời viễn cổ, không phải ngẫu nhiên mà các nền văn minh lớn ra đời gắn liền với những lưu vực lớn của thế giới như: Văn minh sông Nil, sông Ấn, sông Hằng, Hoàng Hà và Trường Giang,...


Với vùng đất Châu Đốc, sông nước là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định sự phân bố dân cư, phân bố lực lượng sản xuất ngay từ khi những lưu dân đầu tiên đặt chân đến nơi này. Sông rạch là những yếu tố thiên nhiên được người dân Châu Đốc sử dụng về nhiều mặt hơn cả. Trước tiên và phổ biến nhất là những lưu dân dùng sông rạch để đi lại và cũng vì vậy mà các thôn ấp thường được lập nên ven các sông rạch. Điều này được sách Monographie de la province de Châu Đốc xác nhận cuối thế kỷ XIX: "Hầu như toàn bộ dân cư sống ở bờ sông. Rất hiếm người định cư ở bên trong đất liền" [156, tr.47]. Sông rạch ở Châu Đốc cũng là những mạch máu tập trung phần lớn hoạt động của địa phương, quyết định sự hình thành các trung tâm hành chính, kinh tế của vùng như Châu Đốc, Tân Châu, Long Xuyên,... Người Châu Đốc từ mấy thế kỷ nay đã lợi dụng sông nước để giải quyết vấn để thức ăn và giao thông, tưới nước cho vụ mùa và đem đến cho ruộng đồng nguồn phù sa đáng kể, nhất là trong mùa lũ, từ tháng 5 đến tháng 11 hằng năm.


Sông Tiền từ Cao Miên chảy đến Châu Đốc qua biên giới ở thôn Vĩnh Xương, về Tân Châu, Sa Đéc,... đổ ra biển Đông. Theo Trịnh Hoài Đức, đầu thế kỷ XIX mặt sông Tiền rộng 830 tầm 2 thước [21, tr.58]. Ngày nay, sông rộng khoảng 1,2km, lưu lượng nước chảy xiết. Là nguồn nước chủ yếu cho các cánh đồng giữa hai sông, sông Tiền có nhiệm vụ tải lũ nên lượng nước chảy trên sông rất lớn, nó nhận đến hai phần ba lưu lượng của sông Cửu Long và có lòng sâu nên là con sông mang nhiều nước và phù sa nhất. Sách Gia Định thành thông chí nói về sông Tiền: "... Nước ngọt rưới nhuần, bừa ruộng gieo mạ, được thóc kể có gấp trăm lần, vườn thì sẵn trầu cau, dừa quả, dâu phai, ngòi lạch thì đầy rẫy cá, tôm, cua, lươn, nhà tự đi bắt lấy để ăn, chẳng phải đi mua ở chợ, vườn trước ruộng sau, đều có nghề sẵn, dân khen là nơi giàu có và đông người" [21, tr.52].


Sông Hậu chảy qua địa phận Châu Đốc ở làng Khánh An, đến Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng rồi đổ ra biển. Đây là nguồn nước tưới cho hầu hết đất nông nghiệp trong vùng Châu Đốc bằng hệ thống kênh mương. Sách Gia Định thành thông chí viết về Hậu giang: "... tưới dội ruộng vườn, bao hàm bến bãi, làm nguồn lợi về sông nước, thóc gạo, cá mú không thể xiết ăn" [21, tr.52]. Năm 1836, triều đình Huế đúc Cửu đỉnh, khắc hình tượng sông Hậu vào Huyền đỉnh; năm Tự Đức thứ ba (1850), ghi vào điển thờ, là một danh xuyên của nước Việt.


Lưu lượng dòng chảy của sông Cửu. Long rất lớn, chừng 34.000m3/giây ở đỉnh châu thổ (Phnôm Pênh) vào mùa lũ lớn nhất, còn trung bình là 10.700m3/giây. Hằng năm cứ đến tháng 7, khi trận lũ mùa bắt đầu thì mực nước sông Tiền cao hơn sông Hậu. Trong những tháng mùa khô, nước sông hạ xuống, mực nước hai sông gần bằng nhau. Người ta ước tính hằng năm, sông Cửu Long chuyển tải ra biển khoảng hơn 500 tỉ mét khối nước, gấp bốn lần lượng nước hằng năm của sông Hồng, trong đó có hàng tỉ mét khối phù sa và nếu tích tụ số phù sa sông Cửu Long trong vòng 60 năm thì có thể trải ra trên toàn bộ diện tích Nam Bộ cao đến 1 mét. Sự lưu thông trên các con sông nói trên rất là thuận tiện, vì sông lớn tàu bè cập bến tại tỉnh thành, phủ, huyện hai bên sông dễ dàng, giúp ích cho đi lại, đời sống, buôn bán phồn thịnh. Trong mùa nước lớn, nước sông Cửu Long dâng lên, tràn ngập kênh rạch, đồng ruộng, đất đai phì nhiêu, giúp cho nghề nông và nghề chài lưới được trúng mùa sung túc.


Ngoài hai sông lớn, vùng Châu Đốc còn những sông nhỏ khác. Từ biên giới, sông Hậu có một chi lưu chảy về hướng Tây Nam đi sát với biên giới, đến Nhơn Hội hợp với sông Châu Đốc chảy từ Cao Miên về. Đoạn sông phân ranh biên giới này (chạy song song biên giới khoảng 100m) gọi là Bình Di (Ben-ghi). Từ Nhơn Hội, sông Châu Đốc chảy về gặp sông Hậu ở tỉnh lỵ Châu Đốc tạo thành ngã ba sông. Sông Châu Đốc dài 28km, chạy song song cách đường biên giới 1.200m. Sách Gia Định thành thông chí ghi: sông Châu Đốc ở phía tây thượng lưu Hậu giang, rộng 70 tầm, sâu 9 tầm. Ngoài cửa sông Châu Đốc theo dòng lớn Hậu giang chảy vào Nam, rộng 300 tầm, khi nước lên sâu 10 tầm [21, tr.58].


Sông Vàm Nao (Hồi Oa, kênh Thuận, Thuận Cảng) nối sông Tiền với sông Hậu, dài khoảng 6,5km. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: "Kênh Thuận, rộng 4 trượng sâu 1 trượng, cửa trên tự Tiền giang chia ra, chảy về phía nam chừng mười ba dặm, cửa dưới thông với Hậu giang" [80 tr.172]. Đầu thế kỷ XIX, dòng Vàm Nao cuộn chảy xiết nhiều cá sấu trú nấp ở đây. Khẩu truyền, lúc đầu là đường voi đi sau thành rạch nhỏ. Rồi dần dần do mực nước sông Tiền cao hơn sông Hậu, nên sức nước chảy rất xiết. Hằng năm, từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch lũ về mạnh, đến Vàm Nao quẹo phải tạo nên dòng nước xoáy tròn (Hồi Oa thuỷ), xuồng ghe đi lại rất nguy hiểm hay bị nhấn chìm. Đầu thế kỷ XIX, những người dân đào kênh Vĩnh Tế vì sưu dịch nặng nề bỏ trốn về qua đây, leo lên tre bờ bên này vít ngọn xuống để trèo sang bò bên kia vượt sông vì sợ cá sấu. Về sau, vì nước chảy mạnh lâu ngày, sông lở và lớn dần, nay sông Vàm Nao rộng tương đương sông Hậu. Khi quân Xiêm xâm lược Nam Bộ năm 1841, bị quân Nguyễn đánh cho tan tác tại nơi đây phải trốn chạy về nước. Năm 1939, làng Hoà Hảo bên bờ Vàm Nao trở thành Thánh địa của đạo Hoà Hảo khi Huỳnh Phú Sổ khai sáng tôn giáo này ở Châu Đốc.


Ngoài sông ngòi, Châu Đốc còn có hệ thống kênh rạch khá dày đặc. Kênh rạch là hình ảnh tiêu biểu của quê hương Nam Bộ nói chung và của Châu Đốc nói riêng kể từ những ngày đầu khai phá. Hệ thống kênh rạch đóng vai trò quan trọng trong giao thông thuỷ, xổ phèn thoát lũ trong mùa nước lên và đưa nước ngọt vào đồng ruộng phục vụ canh tác lúa và các loại cây trồng. Mấy thế kỷ qua, kênh rạch vừa có vai trò phòng thủ vừa cơ động lực lượng. Cùng với sông Tiền, sông Hậu, kênh rạch tạo nên hệ thống phòng ngự lợi hại bằng thuỷ đạo trong chống xâm lược và bao vệ chủ quyền lãnh thổ Tây Nam.


Trong hệ thống kênh rạch ở Châu Đốc, trước hết phải kể đến vai trò nổi bật của kênh Vĩnh Tế. Đó là một thuỷ đạo quan trọng, được khai thông không chỉ để đẩy mạnh khai phá vùng đất chiến lược tân cương, phân ranh lãnh thổ Tây Nam, cơ động nhanh lực lượng từ Châu Đốc hỗ trợ cho vùng Hà Tiên khi có chiến tranh xâm lược xảy ra mà còn có giá trị lớn về giao thông, thương mại, dân sinh, xổ phèn thoát lũ vùng tứ giác Long Xuyên, đưa nước ngọt vào đồng ruộng, đẩy mạnh tốc độ khẩn hoang, lập làng ở vùng đất hoang vu đầu thế kỷ XIX ở vùng biên cương Tây Nam. Năm 1843-1844, vua Thiệu Trị cũng cho đào kênh Vĩnh An nối liền Tân Châu - Châu Đốc. Mục đích chính đào kênh là để nối liền sông Tiền và sông Hậu ở vùng biên giới, cơ động nhanh lực lượng từ Hậu giang ra Tiền giang, khỏi đi đường vòng qua sông Vàm Nao quá xa và phát triển khẩn hoang, lập thôn ấp ở vùng này.


Ngoài các sông rạch lớn trên, ở Châu Đốc còn có rất nhiều kênh rạch nhỏ khác. Sông Tân Giang, ở bờ phía nam sông Tiền, là chỗ giáp giới giữa tỉnh Châu Đốc và Cao Miên. Sông Tú Điền, rộng 4 trượng, sâu 3 thước. Sông Lễ Công, cửa trên rộng 4 trượng, sâu 8 thước, chảy về phía nam 60 dặm gặp sông Hậu. Bờ phía tây sông xưa có thủ sở Hùng Sai, phía tây cửa trên của sông có đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh [80, tr.172]. Ngoài ra, còn có rạch trên Châu Đốc, rạch dưới Châu Đốc, rạch Ruột Ngựa, rạch Tân Ca, rạch Triều Thuỷ, rạch Vĩnh Hậu,...


Châu Đốc cũng có nhiều ao hồ thiên nhiên. Đặc biệt, ở huyện Tây Xuyên (nay là huyện An Phú) có búng Bình Thiên, diện tích trên 3.000ha, được coi là "Biển Hồ" của Châu Đốc. Búng thông với sông biên giới Bình Di, nằm giữa hai xã Khánh Bình - Nhơn Hội, tuyến địa đầu biên giới, có nhiều cá, tôm.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Sáu, 2021, 08:23:19 pm
f- Giao thông

Đặc điểm địa lý của vùng Châu Đốc là có nhiều sông lớn kênh rạch chằng chịt rất thuận tiện cho giao thông thuỷ tuy nhiên phát triển giao thông đường bộ hạn chế.

Đường bộ vùng Châu Đốc thời Nguyễn còn ít ỏi, do bị địa hình sông rạch và hồ ao chia cắt. Thời Minh Mệnh, thư tịch chỉ nói đến hai con đường. Một đường bộ từ lỵ sở Châu Đốc vào núi Sam, dài 5km, do Thoại Ngọc Hầu đứng ra đốc suất binh dân làm. Con đường này được đắp rất gian khổ, vì băng qua cánh đồng nước rất sâu, đầy bùn lầy và cỏ năn, cỏ lác. Con đường thứ hai chạy dọc theo phía bắc bờ kênh Vĩnh Tế, từ Châu Đốc đến Hà Tiên, được tạo nên sau khi đào kênh Vĩnh Tế.


Vào thời Nguyễn, ở Châu Đốc việc công tư, vận chuyển binh mã, lương thảo và dịch trạm chủ yếu bằng ghe thuyền trên đường thuỷ. Các tuyến đường giữa hai sông Tiền và sông Hậu do địa hình bị chia cắt nên ngắn, giá trị sử dụng hạn chế trong vùng, không thuận tiện bằng giao thông thủy.


g- Khí hậu, thời tiết

Ở Châu Đốc, thời tiết, khí hậu không chỉ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, đối với hoạt động của con người mà còn góp phần quyết định tính cách, lối sống của cư dân.

Trong sản xuất nông nghiệp, đất nước và khí hậu là những yếu tố rất quan trọng. Tuy nhiên, đất và nước là những yếu tố con người có thể cố gắng để cải tạo được, còn riêng yếu tố khí hậu, con người chưa thế cải tạo mà phải thích nghi, ở Châu Đốc, hiệu quả khí hậu thời tiết còn thể hiện trong nhiều mặt hoạt động khác nữa của con người. Khí hậu không chỉ tác động đến nông nghiệp, được mùa hay mất mùa mà còn chi phối nhiều đặc điểm về tập quán sinh sống, làm ăn của con người, quyết định hiệu quả của các phương thức khai thác chế ngự tự nhiên, quyết định những điều kiện lao động và sức khoẻ của cư dân. Khí hậu cũng có những tác động rất quan trọng đến cách nghĩ, cách tư duy, tín ngưỡng, lễ hội, tập quán, sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân Châu Đốc.


Ngay từ thời mới đặt chân đến Nam Bộ, ảnh hưởng của khí hậu đã tác động đến toàn bộ đời sống của cư dân Việt cả về mặt thuận lợi và bất lợi, những dấu ấn đó còn in đậm trong ký ức cũng như trong văn hoá dân gian ở Châu Đốc: "Giang lưu xà vĩ đoạn. Vũ đả Phật đầu khai" (Nước chảy đứt đuôi rắn. Mưa đánh vỡ đầu Phật).


Điều kiện khí hậu, thời tiết ở Châu Đốc, trước hết biểu hiện do vị trí địa lý tạo nên.

- Về nhiệt độ

Là vùng đất nằm gần xích đạo và có vĩ độ thấp nên Châu Đốc có số lượng ngày nắng rất nhiều trong năm. Trong sách Gia Định thành thông chí, khi nói về khí hậu, Trịnh Hoài Đức có nhắc đến những tư tưởng của Kinh Dịch "Phương Nam thuộc quẻ Ly. Ly là tượng mặt trời, thuộc hành Hoả", "khí hậu Gia Định thường nóng", "Nam Việt khí trời nóng mà đất lại ẩm thấp, nên hoả hun đúc, khí biển xung khích cổ động thành ra sấm sét, cho nên mỗi khi mưa thì đồng thời sấm sét" [21, tr.16, 17]. Sách Đại Nam nhất thống chí nói về khí hậu tỉnh An Giang "khí trời nóng nực, chất đất ẩm thấp", "từ tháng chạp đến cuối mùa xuân khí nóng lưu hành" [80, tr.164].


Do việc tìm hiểu khí hậu thời tiết vùng Châu Đốc thời Nguyễn gặp nhiều khó khăn, vì không có phương tiện kỹ thuật đo đếm nên thư tịch cũng chỉ nhắc đến một cách khái lược như trên. Tuy nhiên, theo địa lý học, sự thay đổi khí hậu thời tiết qua thời gian một trăm năm trên một khu vực địa lý không khác nhau nhiều. Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ đầu thế kỷ XIX trở lại đây, nói chung không có biến chuyển gì thật đặc biệt, khí hậu dao động trong những giới hạn thông thường tương tự thế kỷ XX này [128, tr.33].


Tham khảo kết quả nghiên cứu khí tượng từ đầu thế kỷ XX đến nay, chúng ta biết được nhiệt độ không khí hằng năm ở vùng Châu Đốc: nhiệt độ trung bình năm của Tân Châu và Long Xuyên chênh nhau 0,4°c, so với Cần Thơ là nơi có nhiệt độ thấp nhất chênh từ 0,6°C-1°C, so với thành phố Hồ Chí Minh từ 0,1°C-0,5°C, so với Rạch Giá 0°c-0,6°c [74, tr.27].


Xét về nhiệt độ trung bình, tháng nóng nhất là tháng 1, nhiệt độ hơn 28°c. Nhưng những tháng mùa nóng nhiệt độ tối cao của không khí đạt tới những trị số rất lớn và trong một số trường hợp đã vượt qua giới hạn sinh lý của nhiều loại cây trồng và gia súc nhiệt đới (41,7°C), thường xuất hiện vào tháng 3 hoặc tháng 4. Nhiệt độ không khí tối cao trung bình vào khoảng 35°C-36°C. Tháng chạp là tháng lạnh nhất ở Châu Đốc chỉ có 26°c, nhưng những tháng mùa đông, nhiệt độ không khí tối thấp tuyệt đối có thể xuống tới 15°C-16°C đối với vùng đồng bằng và 13°C-14°C với vùng Thất Sơn [133, tr.33].


Từ năm này qua năm khác, từ mùa khô đến mùa mưa, cũng như tháng này qua tháng khác, nhiệt độ ở Châu Đốc đều có những thay đổi, biến động nhất định, nhưng sự thay đổi đó không lớn như các khu vực khác ở miền Bắc và miền Trung.

+ Nắng

Ở Châu Đốc, một năm chỉ có hai mùa khá rõ rệt, mùa mưa và mùa khô.

Mùa khô, số giờ nắng trung bình ở Châu Đốc từ 225- 270 giờ/tháng. Mùa mưa số giờ nắng thường từ 160- 200 giò/tháng và khoảng từ 6-7 giò/ngày. Mặc dù đất Châu Đốc hầu như có nắng quanh năm, có lúc nắng ghê gớm, nhưng không gay gắt như miền Trung và miền Bắc.


Các nhà nghiên cứu về khí hậu nước ta cho rằng, ở Châu Đốc nói riêng và Nam Bộ nói chung, những ngày nóng nhất trong mùa hạ cũng không hơn những ngày đông thường lệ là mấy. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất chỉ hơn mùa đông chưa đầy 3°c và nếu so sánh chung các tháng mùa hạ với các tháng mùa đông thì chênh lệch chỉ vào khoảng 1°c [128, tr.73], thành thử tuy gần xích đạo mà trái với ấn tượng thông thường, mùa hạ không gay gắt, thời tiết tương đối dịu, dễ chịu. Mọi tập quán sinh hoạt sản xuất theo mùa, thay đổi theo đặc điểm chế độ mưa nhiều hơn là theo chế độ nhiệt độ và có thể coi khí hậu Nam Bộ như chỉ có một mùa hạ vĩnh cửu. Cùng với nước, nắng cũng là một điều kiện quyết định đối với sản xuất nông nghiệp. Dưới ánh nắng, chất lượng cũng như sản lượng mùa màng đều tăng. Đối với con ngươi sự thừa thãi ánh nắng và gió của vùng Châu Đốc cũng kích thích các quá trình tăng lớn của cơ thể.


Như vậy, với điều kiện nắng thừa thãi quanh năm không chỉ thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp mà còn có tác dụng tốt đối với cơ thể con người. Vì mùa nắng cơ thế không bị hao phí nhiệt lượng để chống rét, có điều kiện tích luỹ năng lượng.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Sáu, 2021, 08:23:55 pm
+ Mưa

Mùa hạ ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Châu Đốc nói riêng cũng trùng với mùa mưa. Mùa mưa ở Châu Đốc thường bắt đầu vào tháng 5, kết thúc vào tháng 11 hằrg năm. Trong khi 6 tháng mùa khô lượng mưa chỉ chiếm không đầy 8-10% lượng mưa cả năm, thì trong 6 tháng mùa hạ, lượng mưa vượt quá 80%.


Mưa mùa hè ở Châu Đốc đã tạo ra những thuận lợi có tính chất căn bản cho ngành trồng trọt, đem lại nguồn nước tự nhiên dồi dào cho cây trồng. Những cơn mưa ở Châu Đốc, đặc biệt là mưa giông có tác dụng đặc biệt tạo thành các loại muối Nitơ thiên nhiên rơi theo nước mưa xuông mặt đất. Theo các kết quả phân tích cho thấy, trong những cơn giông, kèm theo sấm chớp, tác dụng của những tia lửa điện có thể làm cho khí Nitơ chứa trong khí quyển kết hợp với các chất khác, tạo thành Nitrat và Amoniac, là loại phân đạm rất quý rơi xuống theo mưa. Ở nước ta các cơn mưa giông có khả năng đem lại cho mỗi héc-ta đồng ruộng từ 20 đến 100 kilôgam đạm nguyên chất [127, tr.112]. Đó là nguồn tài nguyên khí hậu quý giá cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi có tính chất căn bản trên, ở Châu Đốc, nếu mưa nhiều cũng có những khía cạnh bất lợi, làm thoái hoá đất, nước cuốn trôi các chất vôi tăng độ chua thay đổi cấu tượng của đất, làm đất tơi xốp, bạc màu nhanh chóng.


Chế độ mưa ở Châu Đốc có sự phân hoá sâu sắc theo hai mùa gió. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 và kết thúc vào cuối tháng 4 năm sau. Trong suốt mấy tháng liền lượng mưa trung bình không tháng nào quá 100mm, thông thường chỉ đạt 50-60mm vào các tháng đầu và cuối mùa, 5-15mm vào các tháng giữa mùa. Lượng mưa của các tháng mùa khô cộng lại không vượt quá 150mm, chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa hằng năm. Trịnh Hoài Đức ghi: "khí hậu Gia Định thường nóng, cuối mùa xuân mới bắt đầu mưa, đến hè là mùa mưa, mùa thu hay mưa rào" [21, tr.16]. Thư tịch cũ cũng viết: "tháng tư, tháng năm trở đi mới có mưa, mưa đêm thì ngày tạnh, ngày mưa thì đêm tạnh" [80, tr.164]. Như vậy, những ghi chép ở thế kỷ XIX về tình hình mưa ở Châu Đốc không khác gì chế độ mưa hiện nay. Mưa nhiều nhất vẫn tập trung trong các tháng 7, 8 và 9. Lượng mưa hằng năm ở Châu Đốc vào khoảng 1.400- 1.500mm và ít biến động qua các năm. Giá trị cực đại lượng mưa hằng năm ở đây chỉ đạt tới 2.100mm và giá trị cực điểm là 900mm. So với lượng mưa hằng năm miền Đông (1.800-2.000mm) và ở miền cực Tây (2.000-2.200mm) thì Châu Đốc thuộc vào khu vực ít mưa [74, tr.29-30].


Như vậy, ở Châu Đốc mưa là yếu tố quan trọng bổ sung dòng chảy cho sông ngòi, kênh rạch, cung cấp nước cho quá trình sinh trưởng và phát triển của sinh vật. Đặc điểm ở miền Tây Nam Bộ, nơi mà quanh năm nhiệt độ và ánh sáng dư thừa thì mưa kết hợp với tốc độ lũ của sông lớn trở thành nhân tố chính không chỉ chi phối thời vụ, cơ cấu cây trồng, năng suất mùa màng và chất lượng sản phẩm mà mùa mưa còn chi phối lịch lễ hội, tín ngưỡng dân gian của cư dân Châu Đốc. Ví như, lễ Kỳ yên thường được tổ chức vào tháng 4 - 5 hằng năm, thực chất là để đón mưa, cầu mưa.


+ Gió bão

Chế độ gió ở Châu Đốc cũng giống chế độ gió ở miền Tây Nam Bộ.

Mùa đông từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, ở Châu Đốc có gió Đông Bắc hoặc Bắc - Đông Bắc. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 có gió Tây Nam hoặc Nam - Tây Nam. Tốc độ gió khá lớn. Hầu hết khắp nơi trong vùng tốc độ gió trung bình đều đạt 3 mét/giây. Trong năm, tốc độ gió mạnh nhất cũng không vượt quá 25-30 mét/giây. Có hai ngọn gió thổi nhiều nhất và mạnh nhất ở Châu Đốc là ngọn gió nồm (hướng gió Nam) và ngọn gió chướng (hay gió bấc). Gió Nam bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch đem lại mưa rào một mùa. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi rằng: "các tháng hè thường nhiều gió nồm" [80, tr.164]. Trong khoảng thời gian này khí hậu thay đổi, từ tháng 3 bắt đầu nóng nực gọi là lập hạ, cho đến tháng 8 mưa nhiều thì khí hậu dịu dần là lập thu. Qua đến tháng 10 thì mưa bớt dần và khí hậu trở nên mát mẻ, gọi là lập đông. Gió chướng bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch, đem lại sự lạnh lẽo và báo hiệu mùa khô khan sắp tới.


Nam Bộ nói chung và Châu Đốc nói riêng là khu vực ít bị bão tố nhất nước ta. Trịnh Hoài Đức lấy tư tưởng Dịch để lý giải điểu này và kết luận: "Gia Định không có gió bão" [21, tr.17]. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng nói, vùng này ít có gió bão, gió Tây cũng rất ít [80, tr.164]. Những nghiên cứu gió bão từ đầu thế kỷ XX đến gần đây cho thấy, mùa bão trên toàn quốc từ tháng 7 đến tháng 11, cực đại vào tháng 9, gồm 85% tổng số bão. Mùa bão và tần suất bão không đồng nhất từ Bắc chí Nam. Theo thống kê nhiều năm, hằng năm có 3,74 cơn bão đổ bộ vào duyên hải Việt Nam, 1,42 cơn vào Bắc Bộ và Thanh Hoá, 1,35 cơn vào từ Nghệ An đến Quảng Ngãi, 0,82 cơn vào Nam Trung Bộ và chỉ có 0,15 cơn vào Nam Bộ [48, tr.85]. Bão hay đổ bộ vào Nam Bộ những tháng 11-12, nhưng tần suất rất nhỏ, không phải năm nào cũng xảy ra, đồng thời bão mùa này rất yếu, không gây nhiều tác hại như những nơi khác. Vì vậy, vùng Châu Đốc rất hiếm khi có bão.


Từ những tìm hiểu về điều kiện tự nhiên vùng Châu Đốc, chúng ta biết được Châu Đốc là vùng biên ải địa đầu của miền Tây Nam Bộ có khí hậu thời tiết điều hoà, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Địa hình Châu Đốc vừa có đồng bằng vừa có núi đồi, có nhiều sông rạch ao hồ, đó không chỉ là vựa lúa, vựa cá mà còn có thể mạnh trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, nghề thủ công, chăn nuôi, làm đồ gốm, buôn bán,... Vị trí địa lý, địa hình và điều kiện khí hậu thời tiết thuận lợi, mưa gió điều hoà, ít có bão tố..., không chỉ tác động đến đời sống kinh tế của cư dân mà còn tác động đến lịch lễ hội, tín ngưỡng và đời sống tâm linh của con người nơi đây.


Là địa bàn biên giới của vùng Tây Nam, Châu Đốc trở thành nơi tụ cư không chỉ của lưu dân người Việt trong buổi đầu mà còn là địa bàn người Khmer sinh sống từ nhiều đời, của người Chăm, Hoa và sự thiên di các tộc người này trong nhiều thế kỷ do những biến động chính trị, xã hội. Điều đó làm cho vùng đất Châu Đốc trở thành nơi cộng cư khá tiêu biểu của các tộc người chủ yếu ở Nam Bộ: Việt, Khmer, Chăm, Hoa.


Với những điều kiện tự nhiên và xã hội trên, Châu Đốc đã trở thành nơi giao lưu của các nền văn hoá lớn, văn hoá Ấn Độ của người Khmer, văn hoá Hán trong người Hoa, văn hoá Hồi giáo của người Chăm, trong đó văn hoá Việt trở thành văn hoá chủ thể trong cộng đồng cư dân nơi đây. Cũng do điều kiện địa lý và lịch sử, vùng Châu Đốc trở thành địa bàn hiểm yếu, cửa ngõ giao thương quan trọng trong buôn bán giữa Gia Định và Nam Vang, là vị trí chiến lược quan trọng, là con đường sứ thần các nước thường qua lại, là hướng tiến quân quan trọng của quân xâm lược khi chúng tấn công Nam Kỳ. Vì vậy, Châu Đốc trở thành vị trí chiến lược trong kế hoạch phòng thủ và tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng đất Tây Nam từ thời Nguyễn đến nay.


Như vậy, điều kiện tự nhiên, mà đặc biệt là yếu tố địa lý đã ảnh hưởng rất quan trọng đến các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... của vùng đất Châu Đốc. Cũng do những yếu tố địa lý và lịch sử hình thành vùng đất Châu Đốc có những điểm đặc biệt hơn so với các vùng khác ở Nam Bộ, điều mà chúng ta sẽ đề cập tới trong phần sau đây.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:09:39 pm
2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT VÀ DÂN CƯ

a- Lịch sử hình thành vùng đất Châu Đốc

Những tư liệu sử học, dân tộc học và khảo cổ học đến nay cho thấy, cách đây khoảng 5.000 năm đã có cư dân sinh sống ở vùng đất Nam Bộ (sọ cổ An Sơn).

Vào thế kỷ I sau Công nguyên, khi nước Phù Nam xuất hiện, thì các bộ tộc giôống người Indonesien đã cư trú ở khắp ven biển Nam Đông Dương. Từ thế kỷ I - VII, đã xuất hiện một nước Phù Nam có nền kinh tế và văn hoá khá phát triển. Điển hình là sự tồn tại một trung tâm Óc Eo và nền văn hoá Óc Eo phát triển rực rỡ. Những chứng tích cổ nhân học bước đầu cho thấy, chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo được xếp vào loại hình nhân chủng Indonesien mà bộ phận cư dân theo tín ngưỡng đạo Bàlamôn, chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá Ấn Độ cổ đại. Văn hoá Óc Eo phát triển từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ thứ VII trên đồng bằng Nam Bộ, ở vào vị trí trung tâm của Vương quốc Phù Nam trong thời cổ đại, mà ranh giới kéo dài từ Võ Cạnh (Nha Trang) cho đến vùng Mê Nam, bán đảo Mã Lai và cả vùng hải đảo phía Nam, mà một hình ảnh cụ thể hơn có thể quan niệm được là một tập hợp các tiểu quốc và những bộ lạc lớn được phân bố theo tộc người.


Vào thời đại Óc Eo, Nam Bộ ở trong vùng hội tụ của những dòng giao lưu giữa các dân tộc khác nhau của vương quốc Phù Nam rộng lớn mà những quan hệ văn hoá mở rộng đến Trung Hoa, Java, Thái Lan, Mã Lai, Ấn Độ, thế giới Địa Trung Hải và có thể cả Trung Á [25, tr.109]. Kinh đô Phù Nam ở Vyâdhapura gần đồi Ba Phnom, cách biển chừng 200km. Hải cảng giao thương với nước ngoài ở Óc Eo, gần núi Ba Thê (thuộc tỉnh An Giang ngày nay). Thư tịch cổ của Trung Quốc ghi rõ vị trí của Phù Nam. Theo Thuỷ kinh chú, chương 36...: "Lâm Ấp, hướng Đông giáp biển, hướng Tây đến nước Từ Lang, hướng Nam giáp nước Phù Nam, hướng Bắc giáp nước Cửu Đức...", "dân rợ Từ Lang ở miền thượng lưu sông Lâm Ấp. Đi về hướng Nam sẽ đến vương quốc Phù Nam [73, tr.233]. Nam Tề thư cũng nói: "hàng hoá bán của Phù Nam thường là vàng, bạc, lụa, hàng" hoặc "năm 244, một cơ quan thương mại Phù Nam thành lập gần thủ phủ Nam Kinh gọi là Phù Nam quán" [73, tr.233]ĩ


Trong sách Ethnographie des peuples étranges à la Chine (Lés Méridionaux Traduit par Le Marquisd' Hervey de Saint - Denis, Genève, 1883), ở mục lục cuối sách ghi tên 74 nước "ngoại tộc Nam man" nói những nước ở phía Nam Trung Quốc, trên bán đảo Đông Dương và quần đảo Nam Dương của Mã Đoan Lâm, thu thập tất cả sử sách nói về phương Nam Trung Quôc từ trước đến thế kỷ XIII, có ghi 11 nước, trong đó có ghi Lâm Ấp, Phù Nam, Chân Lạp, là ba nước lớn ở gần nhau [25, tr.142]. P.Pelliot, trong Nam Tề thư cũng nói, nửa sau thế kỷ VII, nhà sư Nghĩa Tình cho rằng: "Thời xưa gọi là Phù Nam... Người xứ ấy thờ nhiều vị thiên thần. Ngoài ra, Phật pháp cũng thịnh hành. Nhưng rồi một tên vua hung bạo đã huỷ diệt hết" [60, tr.255].


Đến thế kỷ VI, từ một thuộc quốc của Phù Nam, tiểu quốc Khmer mạnh lên, thành lập nước Chân Lạp và bành trướng thế lực đánh chiếm Phù Nam. Những tranh chấp trong triều đình Phù Nam diễn ra trước đó đã làm suy yếu triều đình Trung ương, cùng với sự tấn công của Chân Lạp đã làm cho Phù Nam nhanh chóng thất bại và bị Chân Lạp thôn tính. Sau khi bị Chân Lạp xâm chiếm và bị tàn phá nặng nề, trung tâm Óc Eo (miền Tây sông Hậu) rơi vào tình trạng hoang vắng, tiêu điều. Còn Chân Lạp với dân cư ít ỏi, đất đai quá rộng lớn, không thể nào đủ sức cai quản. Quan trọng hơn, vùng đất thấp đó không phù hợp với truyền thống canh tác và truyền thống cư trú của họ. Chân Lạp - "một tộc người tự đóng mình trên thềm đất cao của lưu vực sông Mê Kông và không biết gì đến biển", "không quen sông nước và chủ yếu là không cần cuộc sống gắn với sông nước, với biển” - BP Groslier, Indochine, carrefour des arts, Paris, 1961, tr.67, 68 [60, tr.254-255]. Sau cuộc tấn công của Chân Lạp vào khoảng năm 550 và sự tan rã của Phù Nam, những cư dân ở Nam Bộ vẫn tiếp tục sinh sống trên vùng đất cũ của mình. Trung tâm chính trị của Chân Lạp lúc bấy giờ ở vùng Tong-le Sap (Biển Hồ) cách xa xã hội của các dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, chính quyền Trung ương cũng không có những ảnh hưởng nào sâu đậm lắm tới họ [25, tr.110].


Từ thế kỷ IX cho đến XI, là thời kỳ củng cố vương triều Angkor và bành trướng thế lực về phía tây, ảnh hưởng của vương triều Angkor chưa kịp lan rộng đến Nam Bộ. Những thế kỷ XII và XIII là những thời kỳ binh biến ở phía đông với những cuộc chiến triền miên giữa Chân Lạp và Champa. Tiếp theo đó là các đợt xâm lăng của đế quốc Nguyên - Mông vào các nước Đông Nam Á. Do đó, ảnh hưởng chính trị, kinh tế và văn hoá của các triều đại Angkor vào vùng châu thổ sông Cửu Long có thể nói rất là yếu. Cũng vào thời kỳ này, có lẽ đã diễn ra quá trình tan rã trong cơ cấu của nhiều cộng đồng cư dân bản địa vì không thích nghi được với hoàn cảnh chính trị mới, với sự hiện diện của tộc người Chân Lạp mới du nhập, với tình trạng chiến tranh... đã dần dần rời bỏ địa bàn sinh hoạt của họ và rút về những vùng núi ở miền Đông Nam Bộ và phía nam Trường Sơn. Vào các thế kỷ XIV - XVII, những mâu thuẫn phong kiến giữa Đại Việt và Champa, giữa vương quốc Thái và Chân Lạp đã đưa đến sự dồn nén của một số cư dân Chăm xa hơn về phía nam, một số cư dân Khmer xa hơn về phía đông [25, tr.112], gây nên những tranh chấp mới giữa Champa và Chân Lạp.


Tình trạng hoang dã của đồng bằng Nam Bộ được Châu Đạt Quan mô tả trong chuyên công du đến Chân Lạp bằng đường sông Cửu Long cuối thế kỷ XIII trong cuốn Chân Lạp phong thổ ký: "hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm lý, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cảnh đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm nghìn trâu rừng tựu họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm lý" [78, tr.80]. Vào khoảng những năm 1516-1550, có nhiều đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha đến cửa Tiểu, cửa Đại. Họ định chiếm Mỹ Tho để lập một thương cảng nhưng sau đó phải bỏ ý định. Vì vùng này hầu như không có dân [132, tr.11]. Cho đến tận đầu thế kỷ XVII, đất Nam Bộ vẫn còn khá hoang vu. Sách Phủ biên tạp lục ghi rằng: "... từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại trở lên toàn là rừng rậm hàng nghìn dặm" [19, tr.439-440]. Tình hình Nam Bộ trong thế kỷ XVII cũng được nhà truyền giáo Alexandre de Rhode mô tả "quạnh hiu, hoang mạc" và chú thích "không có vật gì thuộc về sự sống" [A Rhodes - Những cuộc viếng thăm Trung Quốc và các vương quốc phương Đông, Paris, 1653 [44].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:10:11 pm
Thực tế lịch sử cho thấy, việc Chân Lạp sợ mất nước do Xiêm xâm lăng là sự thật lịch sử đau lòng tiếp diễn trong 3 thế kỷ. Từ năm 1351 trở đi, kinh đô Angkor huy hoàng luôn luôn bị Xiêm đánh phá. Từ đó về sau, người Chân Lạp không lúc nào được yên thân, hết người Chàm đến người Xiêm luân phiên cướp phá. Triều đình phải dời đô về Phnôm Pênh (tức Nam Vang) năm 1434. Xiêm tiếp tục xâm lấn một lần nữa, Cao Miên lại phải thiên đô đến Lôvek (tức La Bích) năm 1528. Nhưng Xiêm lại tàn phá cung điện và chùa chiền nguy nga ở Lôvek, đốt phá cả kho tàng, sử sách và kinh kệ quý báu (1593). Từ đó, coi như Xiêm trực tiếp thông trị Cao Miên. Việc phế lập vua chúa Cao Miên đều do Aythia quyết định [25, tr.148].


Triều đình Chân Lạp phải tập trung lực lượng để đối phó với Xiêm đang tiếp tục lấn đánh Chân Lạp ở phía tây. Vì vậy, trong nhiều thế kỷ chiếm đất Phù Nam, vua Chân Lạp không làm gì lớn lao để phát triển vùng đất Nam Bộ [40, tr.26]. Trên danh nghĩa đất Nam Bộ thuộc Chân Lạp nhưng "thuộc một cách lỏng lẻo", các dân tộc vẫn sống tự trị và mấy sóc Khmer lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chính thuộc triều đình Chân Lạp. Trong khi đó, triều đình Chân Lạp phải tập trung lực lượng ở phía nam Biển Hồ (sau khi bỏ Angkor ở phía bắc) để đối đầu với Xiêm La đang tiếp tục lấn đất ở phía tây. Cho nên, khi lưu dân Việt bắt đầu tới khẩn hoang lập ấp thì vùng Sài Gòn và Nam Bộ vẫn là đất tự do của các dân tộc mà hầu như là vô chủ, là đất hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa [25, tr.236].


Như vậy, từ thế kỷ XIII - XVII, vùng đất Nam Bộ hình như đang ở trong quá trình hoang hoá do sự tan rã trong cơ cấu dân cư. Những nhóm người thưa thớt chỉ còn quần tụ ở một số vùng Vũng Tàu - Bà Rịa, Prei Nokor, Sóc Trăng, Trà Vinh, Thất Sơn,... Trừ một vài nhóm lẻ tẻ người Khmer nghèo khổ đi tìm cuộc sống nói trên, trong một thời gian dài vùng hoang dã Nam Bộ là nơi bôn tẩu, ẩn nấp của những phe phái thất thế, những "phó vương", "đệ nhị vương",... khi tranh giành quyền lực ở triều đình Chân Lạp, nơi tụ họp của những phần tử bất hảo, nơi những người Khmer nghèo bị áp bức bóc lột đến lánh nạn,... Những người dân này không bị ràng buộc bởi một chính quyền nào.


Việc không đủ sức cai quản, không phù hợp với truyền thống canh tác, tập quán cư trú và sự buông lỏng, thờ ơ với đất Nam Bộ của Chân Lạp kéo dài cho đến năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập nền hành chính ở Nam Kỳ của người Việt. Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn mà quốc vương Chân Lạp chẳng có ý kiến gì. Bởi họ chẳng mấy thiết tha với vùng Nam Bộ bấy giờ còn "điểu thú quần hoang" này. Từ khi tháp nhập đất Hà Tiên vào Đàng Trong đến năm 1757, trong nửa thế kỷ mà chúa Nguyễn đã chiếm lĩnh trọn đất đồng bằng sông Cửu Long. Đó là cuộc mở mang bờ cõi quan trọng nhất và nhanh nhất của chúa Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam.


Sở dĩ, sự mở rộng lãnh thổ của Đàng Trong nhanh như vậy, vì sự tháp nhập đất Hà Tiên của Mạc cửu trở thành một yếu tố quan trọng, "tạo thành một thế gọng kìm" [58, tr.268], khiến sự mở cõi của chúa Nguyễn trở thành bước nhảy vọt. Khi Hà Tiên đã là của Đàng Trong thì lịch sử sẽ "xoay vần", vì Chân Lạp bị đe doạ, xâm lược từ phía Xiêm, vì Chân Lạp muốn tìm sự nương nhờ từ chúa Nguyễn, vì lợi ích của Đàng Trong,... Đây là những nguyên nhân lịch sử để cho Gia Định và Hà Tiên sớm nối liền một dải.


Ở Chân Lạp, từ khi Nặc Nguyên về làm vua, thường hay hà hiếp "rợ Côn Man" (người Chàm) và lại thông sứ với chúa Trịnh ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết được việc ấy nên sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên (1753). Đến năm 1755, Nặc Nguyên thua, bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ. Năm sau, Thiên Tứ dâng thư lên chúa Nguyễn nói rằng, Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Đôn (Long An) và Soài Rạp (Gò Công) để chuộc tội và xin về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho, Nguyễn Cư Trinh bèn dâng sớ bày tỏ cách khai thác đất ấy. Chúa Nguyễn bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về nước [46, tr.332].


Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc (coi việc nước). Nặc Nhuận đang còn lo hiến đất Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng - Bạc Liêu) [134, tr.43] để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua thì bị con rể là Nặc Hinh giết rồi cướp lấy ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa thế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy đến Tầm Phong Xoi, bị phiên liêu (quan chức Chân Lạp) là Oc-nha Uông giết. Bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên. Thiên Tứ cũng vì Nặc Ông Tôn trần tấu, dâng thư về chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xin lập Nặc Tôn làm vua Chân Lạp, chúa Nguyễn thuận cho, ban sách phong tặng Ông Tôn làm quốc vương, khiến Mạc Thiên Tứ hiệp binh tướng 5 dinh đem Ông Tôn về nước. Khi được ngôi tôn, Ông Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn để tạ ơn. Chúa Nguyễn bèn sai Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh lấy đất Tầm Phong Long lập ra 3 đạo: Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo, Đông Khẩu đạo [21, tr.80]. Sau đó, Nặc Tôn lại dâng đất 5 phủ phía tây Hà Tiên là Hương Ức, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ đem những vùng đất ấy dâng cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn cho thuộc vào trấn Hà Tiên quản hạt.


Do đó, đất Châu Đốc được chính thức thành lập vào năm Đinh Sửu - 1757 từ cố thổ Tầm Phong Long. Giới hạn Tầm Phong Long thời đó có thể hình dung là: Phía tây tương đương với đường biên giới Việt Nam - Campuchia hiện nay; phía bắc chạy dọc phía bắc sông Tiền đến Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu; chiều ngang, từ Hà Tiên sang tận Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Long Hồ (Vĩnh Long ngày nay) [27, tr.11].


Như vậy, từ năm 1708 đến năm 1757, do sức ép xâm lược Chân Lạp từ phía Xiêm, do sự tranh giành quyền lực của triều đình Chân Lạp làm suy yếu thế nước, những yếu tố khách quan đó đã giúp chúa Nguyễn mở rộng sự chiếm cứ của mình lên toàn cõi đồng bằng sông Cửu Long trong nửa thế kỷ. Vùng đất Châu Đốc được thành lập trong điều kiện lịch sử như đã nêu trên.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:11:26 pm
b- Lịch sử hình thành các cộng đồng dân cư Châu Đốc

- Người Việt

Mặc dù đến năm 1757 đạo Châu Đốc mới trở thành chủ quyền chúa Nguyễn, nhưng lưu dân Việt đã có mặt ở đây từ trước, đặc biệt là ở những cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu.

Năm Kỷ Mão (1699), Nặc Thu đắp lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam cướp bóc dân buôn người Việt. Tướng Long môn là Trần Thượng Xuyên bấy giờ đóng giữ Doanh Châu (cù lao Giêng) báo lên. Chúa Nguyễn sai Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm thông suất hợp với tướng sĩ Long môn đi đánh, đi đến đâu quân Chân Lạp tan rã đến đấy. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nặc Thu xin hàng, Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao báo tin. Nguyễn Hữu Cảnh và nhiều binh lính bị bệnh dịch nặng, nhiều người bị chết sau khi rút khỏi nơi này. Trong đội quân của Nguyễn Hữu Cảnh có thể có một số người bệnh tật, ốm yếu xin ở lại, một số đào ngũ, bỏ trốn,... Vì vậy, sử thời Nguyễn chép: Nguyễn Hữu Cảnh có công dẹp yên Cao Miên rồi mở mang đất này nên nhân dân nhớ công đức mà lập miếu thờ [21, tr.57]. Tương truyền ông huy động binh dân nạo vét lòng sông, nên sông được đặt tên sông Ông Chưởng và dân chúng đã lập đền thờ ghi ơn ông từ đó cho đến ngày nay.


Nếu đúng như vậy, thì rất có thể đây là những người Việt, người Hoa đầu tiên đã đến khai phá vùng Châu Đốc. Tuy nhiên, đất Châu Đốc thời kỳ này chưa phải là chủ quyền của chúa Nguyễn nên người Việt đến sinh sống chưa nhiều, vả lại, vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu thấp, ngập lụt quá sâu, vùng Thất Sơn đồi núi đất xấu. Cả vùng Châu Đốc thời này hầu như mênh mông lầy rậm, hoang dã, đầy cọp, sấu, rắn rết vì "xuống sông hốt trứng sấu, lên bò xỉa răng cọp".


Tình trạng trên đã làm nản lòng thối chí không ít người Việt muốn đến đây để khai phá, mưu sinh. Ngay cả đến đầu thế kỷ XIX, vùng đất này vẫn còn là nỗi sợ hãi của những lưu dân đào kênh Vĩnh Tế.

"Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi
Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà”.

Sau năm Đinh Sửu (1757), khi đạo Châu Đốc, đạo Tân Châu thành lập, lưu dân người Việt mới chính thức đến đây làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, thời kỳ này có lẽ chỉ mới có thêm một ít người Việt và gia binh cư ngụ xung quanh các đồn, bảo ít ỏi Châu Đốc, Tân Châu, Hùng Ngự, trên những giồng đất gần bờ rạch ven sông [27, tr.11]. Họ phá rừng làm ruộng, trồng lúa, hoa màu, khai thác thu nhặt nguồn lợi tự nhiên dồi dào trên rừng, đánh bắt cá trên sông rạch để sinh sống. Nửa cuối thế kỷ XVIII, mấy lần quân Xiêm xâm lược Nam Bộ các năm 1772, 1784,... tràn qua Châu Đốc, Tân Châu, cư dân vùng này không khỏi bị tàn phá, thiệt hại. Thời kỳ nội chiến khốc liệt cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh mải lo chống chọi với Tây Sơn và bôn tẩu lánh nạn Tây Sơn không với tay quản lý được vùng Tây Nam xa xôi, nên không có ai lo tổ chức xã, thôn ở vùng đất mới Châu Đốc. Nếu có những xóm ấp mói lập ở vùng này, thì hẳn đây là sự di dân tự do của người Việt, do nguyên nhân chiến tranh, đào ngũ, lánh nạn hoặc thành phần bất hảo,...


Theo gia phả dòng họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Lân, một chi của họ Nguyễn theo phò tá Nguyễn Định Vương chạy đến Long Xuyên thì khi Định Vương bị bắt, ông và Nguyễn Ánh chạy lạc mỗi người một nơi. Ông vào huyện Vĩnh An tỵ nạn. Trong cơn binh cách, Tây Sơn ngày càng mạnh, nên ông thế cùng lực tận "quả bất địch chúng", phải "mai danh ẩn tích" chờ cho yên ổn qua năm 1783. Sau ông ở lại khai khẩn vùng này. Ông mất ngày 5-11-1790 [41, tr.220] tại huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.


Cả vùng Châu Đốc chỉ có vùng cù lao giữa hai sông là nơi được khai khẩn nhiều và sớm hơn cả. Sử triều Nguyễn đã nói đến đất Vàm Nao thời kỳ này có nhiều cau khô. Vì vậy, khi bị quân Tây Sơn đánh, chạy về Vàm Nao các năm 1787 và 1789, Nguyễn Ánh cho quân lấy hạt cau khô kết làm đạn để bắn [81, tr.31]. Và việc năm 1778, Nguyễn Ánh sai cai đội Trần Văn Năng đến Tân Châu đóng thuyền đi biển [81, tr.31] cho thấy vùng đất này đã có nhiều dân cư. Năm 1744, do sắc lệnh cấm tín đồ Thiên Chúa người Việt thờ cúng tổ tiên, nên trong đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1865) dấy lên một làn sóng phản ứng mạnh mẽ. Sau khi chúa Nguyễn ban hành chỉ dụ cấm đạo 1750, các giáo sĩ bị trục xuất, bắt bớ, nhiều tín đồ bị sát hại. Các tín đồ Thiên Chúa tỵ nạn đã đến Cái Đôi, bên kia bờ sông Hậu, bãi Dinh, cù lao Giêng vào năm 1778, đến Bò Ót năm 1779. Họ đã phá rừng làm ruộng, mở ấp lập làng và lập giáo đường để duy trì tín ngưỡng của mình [27, tr.14]. Trước đó, vào năm 1750, người Chàm cư ngụ ở U Đông và Kompong Chàm bị Chân Lạp ngược đãi đã kéo về định cư bên bờ sông Hậu, tại làng Châu Giang, về sau, những ngươi Chăm ở Chân Lạp về, lại được triều Nguyễn cho định cư tại 9 làng Chăm ở bên rạch Bình Di và bờ sông Hậu vào năm 1859.


Vào đời Gia Long (1802-1820), đạo Châu Đốc vẫn đặt dưới chế độ quản lý quân sự, gọi là "Châu Đốc tân cương" do một quản đạo đứng đầu, trực thuộc quan trấn thủ Vĩnh Thanh. Tuy nhiên, do tình hình biên giới phức tạp nên từ năm 1812, viên trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường phải rời lỵ sở đến đóng tại đồn Châu Đốc [40, tr.102]. Kể từ đây trở đi, đồn Châu Đốc trở thành trung tâm chính trị của vùng đất này. Do ở vị trí xung yếu, viên trấn thủ Vĩnh Thanh ngoài việc đóng giữ đồn Châu Đốc, còn lãnh chức bảo hộ Cao Miên quốc ấn và kiêm lý việc biên vụ Hà Tiên.


Gia Long thấy rằng, đối với tuyến Tây Nam thì Châu Đốc là nơi "yếu địa". Hai yếu tố sơn xuyên, dãy Thất Sơn là địa lợi về cứ hiểm quân sự; sông Tiền, sông Hậu là hai thuỷ đạo thương mại, giao thông, quốc phòng,... Sông Cửu Long trước khi chảy đến Gia Định phải qua biên giới Châu Đốc. Đây là con đường chính mà Xiêm, Chân Lạp thường hay tiến quân mỗi khi xâm lược Nam Bộ. Vả lại, Châu Đốc là vùng sông nước, rừng rậm, vùng biên giới Thất Sơn hiểm trở, tiện lợi cho các băng đảng, trộm cướp, gian thương thường xuyên đi về ẩn náu, là vùng đầy rẫy mê tín của người Việt, bùa ngải của người Khmer, Chăm,... Nhưng đây là vùng đất chưa được khai khẩn, dân cư, thôn ấp còn ít ỏi, kinh tế còn nghèo nàn. Vì vậy, để phát triển kinh tế, xã hội và quản lý bảo vệ chủ quyền, triều đình đã lưu tâm hơn đến vùng đất này. Gia Long từng nói: "Châu Đốc, Hà Tiên bờ cõi không kém Bắc Thành" [84, tr.317]. Vì vậy, năm 1816 triều đình sai đắp bảo Châu Đốc để "giữ nơi quan trọng ở biên thuỳ" [84, tr.273]. Để thúc đẩy phát triển kinh tế và dân cư, Gia Long chọn cử những viên quan tài năng, mẫn cán bổ làm quan ở Châu Đốc như Diệp Hội (1817) - người Hoa, vì "nhanh nhẹn, giỏi giang, xử sự cũng được lòng người". Gia Long sai "chiêu tập dân Hán [Việt], dân Thổ và người Thanh đến ở, cho được đông đúc. Phàm kẻ làm nghề trồng cây, chăn nuôi, buôn bán, thợ gốm, thợ rèn, đều cứ theo nghiệp mình, kẻ cùng thiếu thì nhà nước cho vay" và chiếu dụ: "Nay mới phủ dụ, chiêu tập nên nhân việc có lợi mà chỉ dẫn cho họ yên nghiệp làm ăn" [84, tr.311].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:12:17 pm
Để nhanh chóng phát triển vùng đất tân cương, Gia Long đã cho thi hành nhiều việc làm quan trọng, có tác dụng lớn lao, tích cực đối với tiến trình khai phá thành lập thôn ấp vùng Châu Đốc. Sau khi đắp xong đồn Châu Đốc, để phát triển kinh tế và dân cư phía tây sông Hậu cũng như vấn đề an ninh, quốc phòng, Gia Long cho đào kênh Thoại Hà, đắp bảo Tân Châu, Châu Giang và Chiến Sai để quản lý bảo vệ tốt hơn vùng biên thuỳ. Đồng thời, xúc tiến kế hoạch đào sông Vĩnh Tế mà Gia Long từng ước muốn: "Đất này nếu mở đường sông để đi thẳng đến đất Hà Tiên, làm ruộng, đi buôn đều được lợi cả. Sau này, dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể trở thành một trấn to lớn" [84, tr.308].


Trước khi khai thông kênh Vĩnh Tế, ở vùng phía tây sông Hậu đã có những nhóm lưu dân Việt, Khmer, Hoa ở rải rác. Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định viết đầu thế kỷ XIX nói rằng: Rạch Trà Thôn hai bên đều có dân cư và ruộng vườn. Rạch này rộng 4 tầm, sâu 3 thước, phía bên trái thông với rạch Ông Chưởng, rạch này cạn và hẹp, mùa thu - đông nước đầy nên thuyền buôn đi lại rất đông, hai bên bờ phía trước thì dân cư, phía sau là rừng chằm, đến mùa xuân - hè nước cạn nên có nhiều người đắp đập để bắt cá; ở rạch Ông Chưởng thượng đến rạch Ông Chưởng hạ "hai bên bờ đều có dân cư", ở cù lao Vàm Nao và cù lao Tây "ở đó có dân cư và ruộng vườn"; ở rạch Cái Dầu có "dân cư đắp bờ bắt cá"; rạch Vàm Nao hạ "hai bên bờ đều có dân cư". Sách Gia Định thành thông chí cũng đã ghi rõ khá nhiều điểm dân cư ở vùng này. Ở núi Ca Âm có người Kinh, người Thượng cày cấy, chăn nuôi và câu chài ở quanh chân núi. Núi Khê Lạp [21, tr.50], núi Ba Xùi, núi Nam Vi [21, tr.51] đều có người Khmer ở theo "triền núi và đường rừng". Tuy nhiên, phía tây sông Hậu có lẽ dân cư còn lẻ tẻ, từng xóm nhỏ nên không thấy sử cũ ghi thành từng thôn rõ ràng như vùng cù lao giữa hai sông. Sách Gia Định thành thông chí viết đầu đời Minh Mệnh ghi, Châu Đốc có 14 thôn ở giữa sông Tiền và sông Hậu như sau: ở cù lao Dinh có 4 thôn Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông, Phú Hưng; cù lao nhỏ Tây Nam có 3 thôn Tân Phước, Phú An Đông, Tân Tịch; cù lao nhỏ Đông Nam có thôn Tân Thối; cù lao Ngưu có 2 thôn Tân Hoà, Tân Thuận; cù lao Tòng Sơn có thôn Tòng Sơn; cù lao Tê có thôn Tân Hưng; cù lao Long Sơn có thôn Tân Phú Lâm; cù lao Năng Gù có thôn Bình Lâm [21, tr.63, 64].


Vùng đất Châu Đốc giữa hai sông thời kỳ này nằm một phần trên đất tổng Vĩnh Trinh mói lập của huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Đất tổng Vĩnh Trinh chạy dài từ biên giới gần Cao Miên, đến sông Cái Tàu Thượng, có 29 thôn [21, tr.114]. Đất Châu Đốc ở phía tây sõng Hậu nằm trên địa phận huyện Vĩnh Định. Huyện này kéo dài từ biên giới Việt - Miên đến biển, đất đai, địa giới tuy rộng nhưng dân cư chưa đông, khó khẩn hoang, nên chưa chia thành tổng, có tất cả 37 thôn điếm [21, tr.116]. Dưới triều Nguyễn, vì nhà nước cần nhân lực để khai phá những vùng đất mới, nên đã đưa đến Châu Đốc nhiều lực lượng khác nhau. Châu Đốc trở thành nơi tụ họp của dân "tứ chiếng". Trong đó, nhiều người có nguồn gốc bất hảo, những tù phạm sung quân, những kẻ bị tội lưu, đồ,... làm cho thành phần xã hội ở đây khá phức tạp.


Vì Châu Đốc là vùng đất mới chưa được khai khẩn nhiều, lại là vùng biên giới hiểm trở về địa hình, phức tạp về xã hội, quan trọng về quốc phòng..., vua Minh Mệnh nhắc nhở biên thần Thoại Ngọc Hầu: "Châu Đốc là một vùng xung yếu, nhà ngươi phải hết sức khéo léo trong mọi trường hợp trấn an, phủ dụ nhân dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ những dân buôn xây dựng xóm làng, làm cho số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng được khai khẩn thêm. Vấn đề biên phòng cũng cần được trù liệu chu đáo" [111, tr.279].


Tuy vậy, cho đến năm 1830, Châu Đốc mới chỉ lập được có 41 xã thôn, phường và dân mới hơn 800 đinh, địa lợi chưa được khai khẩn nhiều, dân cư chưa đông đúc. Triều đình cho đây là vùng biên cương mới mẻ, muốn cho có dân ở và khai phá đã triển hoãn việc thu thuế thân và thuế điền thổ nhiều năm. Minh Mệnh dụ rằng: "Đất đó là vùng biên giới quan trọng của quốc gia, trẫm vì muốn nhân dân bảo thủ, cho nên phải đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là chính sách kế hoạch biên phòng. Còn vấn đề thuế khoá đinh điền, đâu phải là việc cần phải toan tính trước" [111, tr.300].


Sau cuộc cải cách hành chính ở phía Bắc (1831), năm sau Minh Mệnh "chia định địa phận" ở Nam Kỳ, bảo Châu Đốc được gộp với đất hai huyện Vĩnh An và Vĩnh Định của trấn Vĩnh Thanh, lập nên tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ đóng ở đồn Châu Đốc. Đất An Giang thời mới lập (1832) được chia thành 2 phủ: Tuy Biên và Tân Thành. Vào cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy đất phủ Tuy Biên lập nên tỉnh Châu Đốc. Phủ Tuy Biên hồi năm 1832 có hai huyện: Đông Xuyên và Tây Xuyên. Huyện Đông Xuyên vốn là đất huyện Vĩnh An, là vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu. Huyện Tây Xuyên nằm ở phía tây sông Hậu, kéo dài từ biên giới đến giáp tỉnh Hà Tiên. Huyện Đông Xuyên có 4 tổng: An phú, An Lương, An Thành và An Toàn. Huyện Tây Xuyên có 3 tổng: Chu Phú, Định Thành, Định Phước. Vào năm 1832, số dân đinh toàn tỉnh An Giang là 25.645 người [80, tr.187].


Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống triều Nguyễn ở Gia Định, quân Xiêm theo ước hẹn với Khôi, đem binh đánh sang Nam Kỳ. Châu Đốc bị thất thủ (12-1833). Đầu năm 1934, bị quân Nguyễn đánh bại ở Vàm Nao và Châu Đốc, quân Xiêm phải kéo nhau rút chạy về nước. Sau trận nay, làng mạc Châu Đốc bị tàn phá nặng, dân cư xiêu tán, ruộng đất bị bỏ hoang. Mãi đến năm 1836 mà dân vẫn chưa trở lại. Địa bạ thôn Mỹ Phú ghi: "dân làng xiêu tán hết" không ai trở về cày cấy [184].


Tuy nhiên, thời kỳ này thôn ấp ở Châu Đốc phát triển khá nhanh. Từ 56 thôn năm 1831, đến năm 1836 đã lập thêm được 35 thôn, đưa tổng số thôn người Việt vùng này lên 91. Năm 1839, diện tích đất đai và dân cư vùng Châu Đốc lại được tăng thêm, do lập thêm hai huyện Hà Âm và Hà Dương. Huyện Hà Dương có 4 tổng; huyện Hà Âm có 4 tổng [99, tr.275]. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi huyện Hà Dương có 40 xã thôn phường phố, huyện Hà Âm có 40 xã và thôn [80, tr. 160-161].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:12:52 pm
- Người Khmer

Như vậy, đến năm 1839 đất Châu Đốc có 4 huyện: Đông Xuyên, Tây Xuyên, Hà Âm, Hà Dương. Tuy nhiên, ở hai huyện Hà Âm và Hà Dương, các thôn ấp của người Việt ở xen lẫn với các "súc sách" của người Khmer. Khách quan mà nói, một số nhóm lẻ tẻ người Khmer nghèo khổ đã đến sinh sống rải rác nhiều nơi ở Châu Đốc từ trước.


Những dấu vết cư trú, hoặc chùa Phật còn lại đến nay ở xã Vĩnh Ngươn, thị xã Châu Đốc, ven bờ kênh Vĩnh Tế, vùng Tịnh Biên cho thấy khá rõ điều đó. Thư tịch triều Nguyễn cũng ghi, ở sông Tân Giang "nơi đây dân Kinh và dân Cao Miên ở chung với nhau"; dọc theo bờ sông (Ưu Đàm) là ruộng vườn người Kinh, ở phía sau là chỗ người Cao Miên ở lẫn lộn cùng nhau [21, tr.57]. Tuy nhiên, hiện tại người Khmer hầu hết cư trú quây quần ở vùng núi Ba Thê và Thất Sơn thuộc các huyện Thoại Sơn, Tịnh Biên và Tri Tôn. Theo chúng tôi, khi người Việt đến khai phá vùng Châu Đốc, người Khmer thấy tộc người khác mình về văn hoá, họ tự mình lặng lẽ rút về vùng núi sống cùng đồng tộc, vốn cùng thói quen canh tác và cư trú ở vùng cao. Dù không thật chính xác nhưng sách Monographie de la proưince de Chaudoc đã phản ánh hiện tượng đó: "Người Khmer bị người An Nam dồn vào vùng núi" (Cambodgiens- Relégués par les Annamites dans la région montagneuse) [156, tr.47].


Đến đầu thế kỷ XIX, những "súc sách" Khmer ở Thất Sơn sống xen lẫn với thôn ấp người Việt và người Hoa, được Trịnh Hoài Đức nêu nhiều lần trong Gia Định thành thông chí [21, tr.50, 51]; Đại Nam nhất thống chí [80, tr.170] và Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định. Tuy nhiên, thời kỳ này, người Khmer vùng Thất Sơn có thể chỉ mới là những "súc sách" nhỏ, chưa có những phum, sóc đông đúc như thôn ấp người Việt, nên có lẽ chưa thấy Trịnh Hoài Đức ghi chép được các đơn vị cư trú của họ ở vùng này. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Khmer tập trung quanh triền núi Thất Sơn theo hình "vành khăn", sinh nghiệp về săn bắt và thả lưới, bủa câu trong ao chằm [21, tr.50], [80, tr.170].


Với chính sách chiêu tập các sắc dân đến khai khẩn, lập làng, phát triển kinh tế, xã hội ở Châu Đốc từ năm 1817 trở đi, người Khmer đến Châu Đốc nhiều hơn và dần dần tập trung đông hơn ở Thất Sơn, nơi có những đồng tộc của họ đã định cư từ trước. Tuy nhiên, những trung tâm người Khmer ở Hà Tiên, Thất Sơn (Châu Đốc) là những nơi biên giới hiểm trở, vấn đề an ninh không được đảm bảo, điều làm cho triều Nguyễn phải thường lưu tâm. Người Khmer ở Thất Sơn thường liên lạc với người Khmer Hà Tiên và Chân Lạp, những trung tâm Khmer này thường bị người Xiêm lợi dụng cho mưu đồ chính trị xâm lược Chân Lạp và Nam Kỳ, chống lại quốc gia Đại Nam. Dưới triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, người Khmer vùng này đã nhiều lần nổi dậy chống lại triều Nguyễn.


Triều Nguyễn đã cho người Khmer vùng Tây Nam được hưởng quy chế khá rộng rãi, cấm dân Việt tranh chiếm điền thổ và các sở thuỷ lợi với người Khmer, ruộng của người Khmer 9 năm mới thu thuế [105, tr.356].


Năm 1839, khi thành lập hai huyện Hà Âm, Hà Dương, số dân đinh của hai huyện là 2.520 người. Trong số này hẳn có không ít người Khmer [99, tr.275]. Đến năm 1879, theo thống kê của chính quyền thực dân Pháp, tổng số người Khmer Châu Đốc có 15.281 người, trong số 98.124 người toàn tỉnh [155, tr.201], chiếm khoảng 15% tỷ lệ dân cư. Còn theo Baurac năm 1894, dân số Khmer Châu Đốc có 18.500 người trong tổng số 95.811 người toàn tỉnh [154, tr.314]. Đến năm 1901, sách Monographie de la province de Chaudoc ghi người Khmer có 28.847 người trong tổng số 145.819 dân cư toàn tỉnh [156, tr.46].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:13:45 pm
- Người Chăm

Cũng từ thế kỷ XV trở đi, những biến động lịch sử đã dồn ép một bộ phận người Chàm từ miền Trung đến sinh sống ở Chân Lạp. Tại Chân Lạp, do bị hiểu nhầm, bị kỳ thị, người Khmer đã xua đuổi người Chàm (1750) [81, tr.212]. Có lẽ vì nguyên nhân này, mà một số người Chàm đã chạy đến cư trú tại vùng Châu Giang. Chứng tích duy nhất còn lại có thể chứng minh cho điều đó là phiến đá đặt ở thánh đường Mubarăk của người Chàm ghi niên đại 1750.


Hội điển có ghi, năm 1807 vua Gia Long dụ cho quan An phủ sứ đồn Châu Đốc chiêu tập các sắc dân đến Châu Đốc làm ăn, trong đó có người Chăm và Mã Lai [63, tr.107]. Đến năm 1820, theo Monographie de la province de Chaudoc thì một tổng người Chàm ở Cao Miên, Saet Abubaca bị buộc tội phản nghịch, bị gọi đến triều đình, lúc đó vì bị ốm, ông đã không thể đến đó được. Vua Cao Miên cho rằng ông này không muốn tuân lệnh mình, đã cho bắt và xử trảm ông ở Ou Đông. Nhiều người trong số họ đã bỏ trốn và đến sống dưới sự che chở của những ngươi Mã Lai ở Châu Đốc. Vị quan đứng đầu Châu Đốc đã cho họ ở làng Châu Giang, về sau những người Chăm đã bí mật về Chân Lạp và đưa tất cả cha mẹ họ đang bị tống giam ở Kompongluông vượt ngục [156, tr.48].


Vào tháng 9 năm Tân Sửu (1841), quan quân Nguyễn do Trương Minh Giảng chỉ huy ở Trấn Tây rút về An Giang [101, tr.352], những người Chàm và Mã Lai cũng theo về để tránh sự trả thù của ngươi Khmer [154, tr.316]. Điều này được Hội điển xác nhận, vào năm 1843: Người Chà Và và người Chàm, nguyên trước ở Trấn Tây đổi về An Giang, đàn ông, đàn bà, già trẻ tất cả là 2.383 người, đã xếp cho ở tại cửa sông Châu Giang. Tuy nhiên, vì bờ sông Châu Giang phần nhiều là bùn lầy, cày cấy khó khăn, nên vua Thiệu Trị sai cho đến phủ Ba Xuyên để họ cày cấy sinh sống, nếu ai tình nguyện đi Tây Ninh thì cũng cho [63, tr.109]. Tuy vậy, có lẽ số người Chăm này không rời đến ở Ba Xuyên hoặc Tây Ninh, vì ở Ba Xuyên về sau không có người Chăm, còn ở Tây Ninh thì số người Chăm đã có 5.000 người đến từ năm 1755 và về sau còn lại rất ít. Theo chúng tôi thì ý kiến của Baurau đáng lưu ý hơn, khi ông cho những người Chăm này được ổn định nơi ở mới, mà nơi đầu tiên là búng Bình Thiên trên bờ rạch Bình Di [154, tr.316] (nay là xã Nhơn Hội và Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang, hiện có nhiều người Chăm sinh sống).


Những người Chăm và Mã Lai này theo Thực lục vốn là lính thuộc 3 cơ An man của triều Nguyễn ở Chân Lạp [98, tr.264]. về sau, do tình hình ở Chân Lạp khó khăn, những người Mã Lai và người Chăm lại tiếp tục di cư về sông tại Châu Đốc. Theo sử triều Nguyễn, vào năm 1859 có 1.000 người Chàm và Chà Và từ Chân Lạp về ở Châu Đốc [107, tr.85]. Trong những đợt di cư của người Chăm nói trên, triều Nguyễn cho họ định cư thành bảy làng: Châu Giang, Kô Tam Bong, Phủng Soài, La Ma, Ka Côi, Ka Cô Ky, Sbau [154, tr.316-317]. Tình trạng này tồn tại cho đến năm 1867, khi thực dân Pháp đến xâm chiếm Châu Đốc. Năm 1879, thực dân Pháp gọi những người Chăm và Mã Lai là người Mã Lai, có 9.228 người [155, tr.201]. Vào năm 1880, Labussière ước lượng ở Châu Đốc có chừng 1.100 gia đình Chàm. Nếu trung bình mỗi gia đình có 12 người, thì tổng số dân Chàm lúc đó là 13.200 người [157, tr.226].


Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX người Chàm ở Châu Đốc có xu hướng giảm dần, Loui Mérard cho rằng nguyên nhân của tình trạng đó là do họ trở về với vùng mà nơi gốc gác sinh ra của họ, nơi vẫn còn nhiều đồng hương của họ sinh sống, đó là Chân Lạp [156, tr.52]. Vì vậy, năm 1893 số dân này được ghi thành người Mã Lai là 5.212 người [154, tr.314]. Năm 1899, số người Chăm và Mã Lai đóng thuế thân cho chính quyển thực dân Pháp là 1.173 người và đến năm 1901 có 5.085 người [156, tr.17, 20]. Tỷ lệ người Mã Lai chiếm một phần mười, còn người Chàm chiếm chín phần mười. Vào năm 1936, người Chăm ở Châu Đốc có 6.000 người, đến năm 1963 là 12.700 ngươi, năm 1964 chỉ có 10.000 người [16, tr.127], năm 1972 có 1.336 gia đình với 8.582 người [153, tr.14]. Vào tháng 2-1976, người Chăm vùng này có 8.656 người, tháng 10-1979 là 11.995 người, đến 1989 là 11.585 người [16, tr.127].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Sáu, 2021, 02:14:15 pm
- Người Hoa

Vào năm 1699, trong đoàn quân Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Chân Lạp có quân Long môn Trần Thắng Tài (người Hoa) đóng ở cù lao Giêng cùng hành quân [81, tr.154], sau khi thắng giặc, dừng lại ở đất Cái Sao. Trận dịch lớn ở đây, có thể một số binh lính phải ở lại, vì ốm đau, vì đào ngũ, trong trận rút quân vội vã của Nguyễn Hữu Cảnh (1700). Nếu đúng như vậy, thì đây có thể là những người Hoa đầu tiên xuất hiện ở vùng Châu Đốc.


Sang đầu thế kỷ XIX, sau chiếu dụ của vua Gia Long các năm 1807 và 1817, người Hoa cùng với các sắc dân khác như Việt, Khmer, Chăm đã đến Châu Đốc khai khẩn, buôn bán, làm ăn. Diệp Hội được cử làm cai phủ Châu Đốc, là người Hoa đầu tiên đến Châu Đốc được chính thức nhắc đến trong thư tịch triều Nguyễn [84, tr.310, 311]. Người Hoa đến Châu Đốc phần lớn làm nghề buôn bán ở tỉnh lỵ Châu Đốc, Tân Châu..., một số khác làm ruộng rẫy ở vùng Thất Sơn [80, tr.170] và nơi khác [80, tr.172]. Năm 1834, trong 41 xã thôn phường phố ở Châu Đốc có 3 phương 2 phố đều là người Hoa. Tổng đốc An - Hà Trương Minh Giảng xin đánh thuế theo lệ người Thanh biệt nạp, mỗi người mỗi năm phải nộp tiền dung dịch là 6 quan 5 tiền [92, tr.276]. Tuy nhiên, số người Hoa sống ở Thất Sơn làm ruộng rẫy có lẽ khá ít trong nửa đầu thế kỷ XIX, bởi vậy trong địa bạ năm 1836 chỉ ghi có một người tên Trác Vũ (thôn Thoại Sơn, tổng Định Phước) có 5 mẫu đất trồng dâu [201]. Năm 1842, sau khi triều Nguyễn dẹp xong khởi nghĩa Thất Sơn, trong số người ra hàng có nhiều người Khmer và người Thanh. Sách Thực lục ghi rõ số lượng là 9.500 người. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ và Phùng Nghĩa Phương thay nhau đi sắp đặt, lựa chia lập thôn ấp, đặt người trông coi giúp đỡ để họ khai khẩn ruộng đất và ở yên [10, tr.181]. Có lẽ sau sự kiện trên thì số người Hoa ở Thất Sơn đông hơn trước.


Cuối đời Minh Mệnh sang đầu thời Thiệu Trị, ở vùng Châu Đốc có hai phố buôn bán của người Hoa là Vĩnh Hội và Vĩnh Hội Đông, thuộc huyện Tây Xuyên [64, tr.349]. Cho đến năm 1849, sử triều Nguyễn nói ở An Giang có 3 bang người Hoa, 2 bang Triều Châu và 1 bang Phúc Kiến. Những ngươi Hoa này nguyên trước từ Trấn Tây về đây sinh sống [105, tr.168].


Nhìn chung, số người Hoa ở Châu Đốc thế kỷ XIX có nguồn gốc ở từ Chân Lạp về, do các nguyên nhân từ chính sách chiêu mộ cư dân đến khai khẩn, buôn bán phát triển kinh tế Châu Đốc, từ con đường giao thương Gia Định - Nam Vang có thể một số người Hoa dừng chân lại sinh sống ở Châu Đốc. Một lý do khác rất quan trọng là tình hình chính trị Chân Lạp thường không ổn định, hay bị Xiêm xâm lược... làm cho người Hoa không yên ổn làm ăn. Mỗi khi ở Chân Lạp có biến động người Hoa thường chạy về Nam Kỳ sinh sống, trong đó đặc biệt có Châu Đốc thuận tiện và gần [107, tr.241]. Ngay cả thế kỷ XX cũng vậy, Châu Đốc là nơi đi về của người Hoa ở Cao Miên trong những lúc hữu sự.


So với người Khmer và người Chăm thì ở Châu Đốc số người Hoa ít hơn. Vào năm 1876, Châu Đốc có 807 nhân đinh người Hoa; theo sách Les frontières du Cambodge, năm 1879 ở Châu Đốc có 1.386 người Hoa và Long Xuyên có 605 người Hoa sinh sống [155, tr.201]. Năm 1893, vùng Châu Đốc có 1.100 người Hoa [154, tr.314], đến năm 1901 có 1.816 người Hoa và 1.944 người Minh Hương [156, tr.46], năm 1926 có 158 người Hoa và 1.578 người Minh Hương. Cho đến trước năm 1975, số người Hoa hay gốc Hoa chiếm khoảng 1,5% dân số của vùng này.


Sau khi lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, năm 1851 Đoàn Minh Huyên phái đệ tử đi khai hoang lập trại ruộng ở nhiều nơi, trong đó có những địa điểm quan trọng là vùng Thới Sơn và Láng Linh, ở Thới Sơn, tín đồ phá lau sậy, đầm lầy hoang vu, sau lập nên hai làng Hưng Thới, Xuân Sơn (nay ở huyện Tịnh Biên). Tại Láng Linh, sau khi Pháp xâm lược (1867) lãnh tụ Trần Văn Thành lãnh đạo tín đồ vừa sản xuất, làm ruộng lúa, trồng dâu, dệt vải vừa rèn đúc vũ khí, chờ cơ hội chống Pháp. Ở căn cứ Láng Linh (sau thành thôn Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú), có lúc đã lên đến 1.200 người. Ngoài ra, ở cồn Nhỏ có đồn binh của nghĩa quân, về sau trở thành làng Bình Thạnh Đông (nay là xă Phú Bình, huyện Phú Tân) và ở Cái Dầu, một đệ tử khác của Đoàn Minh Huyên là cụ Nguyễn Văn Xuyến cũng đến khai phá (nay là thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú). Năm 1867, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được nhen nhóm ở vùng núi Tượng, các thôn An Định, Lương Phi, Ba Chúc,... dần dần được hình thành.


Cho đến giữa thế kỷ XIX, thôn ấp ở vùng Châu Đốc mọc lên rất nhiều. Năm 1853, đất Châu Đốc có bốn huyện: huyện Tây Xuyên có 3 tổng gồm 38 xã, thôn, phố, bang; huyện Hà Dương có 4 tổng, 40 xã, thôn, phường, phố; huyện Hà Am có 2 tổng, 40 xã, thôn; huyện Đông Xuyên có 4 tổng, 33 xã, thôn [80, tr.159, 162].   


Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây (1867), Pháp chia Nam Kỳ thành 24 sở Tham biện (Inspection). Tỉnh An Giang cũ được chia thành 3 sở Tham biện: Châu Đốc, Sa Đéc và Ba Xuyên. Hạt tham biện Châu Đốc vốn là đất phủ Tuy Biên cũ. Sau Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874) giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp, vùng đất Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ) trở thành đất hai tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên và tồn tại đến năm 1975. Năm 1893, tỉnh Châu Đốc mới có tổng số dân cư là 95.811 người, trong đó có 70.579 người Việt, 18.500 người Khmer, 5.212 người Chăm - Mã Lai, 1.100 người Hoa [154, tr.314]. Đến cuối thế kỷ XIX, vùng đất Châu Đốc (phủ Tuy Biên) có 16 tổng và 143 làng [15, tr. 290-291, 315-316].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:03:09 pm
3. TỔ CHỨC XÃ HỘI CÁC TỘC NGƯỜI Ở VÙNG CHÂU ĐỐC

a- Tổ chức xã hội người Việt

Tổ chức xã hội của người Việt ở Bắc Bộ và Trung Bộ với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị xã hội của xã hội Việt Nam cổ truyền - một đơn vị căn bản của quốc gia - đã được nhiều người nói đến. Đó là các xã thôn và các cộng đồng dân cư sinh sống trong xã thôn. Tuy nhiên, tổ chức xã hội của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Châu Đốc nói riêng lại chưa được chú ý đúng mức, đặc biệt là dưới thời Nguyễn để tìm hiểu xã hội của người Việt, trước khi thực dân Pháp đặt ách nô lệ trên toàn cõi Việt Nam.


Một điều khá rõ ràng là, trước năm 1802 có một số thôn ấp người Việt đã hình thành ở vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu và việc hình thành nên các thôn ấp nơi đây đều xuất phát từ động lực kinh tế và mang tính tự quản.


Trước năm 1802, tổ chức xã thôn ở Châu Đốc mang các tên xã, phường, trang, ấp, trại, thôn... và đứng đầu có cai trại, cai lân, cai ấp... Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú có nói đến ở Đàng Trong thời kỳ này chúa Nguyễn đặt các chức xã trưởng và tướng thần. Tướng thần giống như khán thủ, là người trông coi trật tự trị an trong xã. Về sau, công việc của khán thủ được truyền cho trương tuần, một phần do phó lý trưởng đảm trách để quản lý xã thôn, thu thuế phú dịch [57, tr.21].   


Thời kỳ Nguyễn Ánh khôi phục Gia Định, bộ máy chính quyền cơ sở được tăng cường, phân công nhiệm vụ khá rõ ràng. Các chức vụ trong tổ chức thôn ấp ở Châu Đốc, có lẽ không khác thôn ấp các vùng khác ở Nam Kỳ. Đó là, các chức vụ: trùm cả, trùm chủ, trùm nghị, xã trưởng (thôn trưởng, ấp trưởng), thủ khoán, câu đương, tri thâu,... Nhiệm vụ các chức vụ trên do Nguyễn Ánh quy định như sau: trùm cả là chức vụ đứng đầu làng, cai quản chung; trùm chủ làm phụ tá cho trùm cả; trùm nghị là chức vụ có quyền tham gia đóng góp ý kiến; xã trưởng (thôn trưởng, ấp trưởng) làm trung gian giữa dân và cấp trên, lo việc thuế khoá, hành chánh; thủ khoán quản lý tài sản công quỹ; câu đương là người biết luật pháp, làm chức năng hoà giải các vụ xích mích nhỏ; tri thâu là phụ tá xã trưởng về mặt thuế khoá [143, tr.28].


Từ năm 1802 trở đi, cũng giống như các làng Việt ở Bắc, Trung, Nam, làng Việt vốn là đơn vị tụ cư của người nông dân, dần dần được nhà nước biến thành đơn vị hành chính cấp cơ sở. Để đảm bảo bộ máy làng xã vận hành tốt, làng Việt nào cũng có bộ máy quản lý xã hội và phong tục làng xã. Làng Việt ở Châu Đốc cũng giống như làng Việt ở những nơi khác về mặt thiết chế quản lý cơ bản ở thế kỷ XIX là vẫn song song tồn tại hai cơ cấu: cơ cấu hành chính nhà nước và cơ cấu tự trị - tự quản làng xã, vì vậy có tác giả gọi là cơ chế quản lý kép [57, tr.116].


Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, các điểm cư trú của người Việt ở Châu Đốc đã mang trong nó những đặc điểm khá khác biệt không chỉ với làng Việt ở Bắc Bộ, Trung Bộ mà còn khác cả với làng Việt ở Nam Bộ. Điểm giống các làng Việt ở Nam Bộ có thể thấy là sự hình thành những làng Việt một cách tự phát do lưu dân lập nên từ năm 1699 đến năm 1757 và sau đó là những làng khai phá do chính sách đồn điền của nhà nước phong kiến Nguyễn. Mặt khác, điều đặc biệt cho những thôn ấp Việt ở Châu Đốc là vùng đất khá quan trọng nơi "cửa ngõ" phía tây của Gia Định trong chính sách bảo vệ biên thuỳ Tây Nam. Vì vậy, triều Nguyễn đã có chính sách quan tâm khá đặc biệt. Ngoài mục đích kinh tế - xã hội, các điểm dân cư Châu Đốc còn là những căn cứ quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biên ải Tây Nam [105, tr.371]. Ngoài ra, một số thôn ấp Việt ở Châu Đốc được hình thành nên từ những trại ruộng của tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương ở Hưng Thới, Xuân Sơn, Láng Linh. Đây là những trại ruộng, những căn cứ kháng Pháp núp dưới danh nghĩa tôn giáo. Bởi vậy, tổ chức xã hội của người Việt nơi đây có những đặc điểm không giống tổ chức xã hội người Việt các vùng khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Đứng đầu các "trại ruộng" là những "ông Đạo", "tăng chủ”, chứ không phải là những lý trưởng, trưởng thôn và một tập thể những hương dịch. Cũng như vậy, ở vùng núi Tượng thuộc Thất Sơn các thôn Lương Phi, Tú Tề, Ba Chúc, được hình thành từ những căn cứ chống Pháp của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nửa cuối thế kỷ XIX, mà bộ máy quản lý xã hội ở vùng Tứ Ân Hiếu Nghĩa là những "ông Gánh"... Đây cũng là một nét khác biệt của làng xã Châu Đốc so với làng xã Việt ở Nam Kỳ thời Nguyễn.


Ngoài ra, ngay từ nửa cuối thế kỷ XVIII, để duy trì tín ngưỡng của mình, những giáo dân Thiên Chúa tỵ nạn đã đến đất Châu Đốc cư ngụ. Họ mở đất lập thôn ấp, dựng giáo đường tạo thành một cơ sở của giáo hội. Địa bàn của một giáo xứ thường là một thôn, quản lý xã hội của những vùng giáo dân chắc hẳn là các giáo sĩ. Các giáo sĩ, cha xứ ở Châu Đốc thời kỳ này không chỉ là những người kiểm soát, lãnh đạo tinh thần tín đồ mà còn là những địa chủ.


Đối với Công giáo, tính cách cộng đồng là một nét đặc trưng tính cách của tôn giáo, mà nhà thờ chính là nơi thực hiện một cách rõ nét và cụ thể nhất tính cộng đồng này. Nhà thờ đối với người Công giáo vừa là nơi thờ tự, vừa là một trung tâm sinh hoạt của họ. Nhà thờ không chỉ là nơi quy tụ người Công giáo trong một làng mà còn chính là nơi tạo ra và duy trì tính cộng đồng của tín đồ người Công giáo.


Nhà thờ là một trung tâm thu hút và sinh hoạt mới của làng Việt, những người Công giáo, do đó không phải không có ảnh hương đến cơ cấu tổ chức của làng Việt. Ví như, có lúc đã tạo ra không ít mâu thuẫn trong tổ chức làng và cũng đã từng là một thách thức đối với khả năng cởi mở và đón nhận những cái mới của làng Việt [55, tr.170].


Cũng từ thế kỷ XVIII - XIX, những người Chàm theo tín ngưỡng Hồi giáo từ Chân Lạp trước sau kéo về hai bên bờ sông Hậu, sống rải rác trên các vùng hoang vắng, màu mỡ lập nên những "palay" - làng Chàm ở Châu Đốc, cùng với những phum, sóc Khmer ở vùng Thất Sơn, những phố buôn bán kinh doanh của người Hoa ở vùng Châu Đốc, Tân Châu... đã làm cho bức tranh làng xã ở Châu Đốc lung linh đậm màu sắc mà không một tỉnh nào ở đồng bằng sông Cửu Long có được.


Trở lại vấn đề tổ chức xã hội của người Việt ở Châu Đốc trong thế kỷ XIX ta thấy: Sau năm 1802, khi mới lên ngôi vua, Gia Long rất quan tâm đến vấn đề làng xã, đề cao vai trò của làng xã và coi việc đối xử với nó như là quốc sách của đường lối trị nước: "Nước là họp các làng mà thành..., vương chính là lấy làng làm trước” [83, tr.102]. Chính vì vậy, vua Gia Long đã có nhiều cố gắng để cải tổ bộ máy hương chính. Không chỉ thể hiện bằng điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà, triều Nguyễn còn tìm mọi cách để quản lý xã thôn Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đời Minh Mệnh, năm 1828, vua xuống chiếu quy định mỗi xã thôn phường chỉ đặt một lý trưởng, nếu số đinh trên 50 người thì đặt một phó lý, trên 150 người thì đặt hai phó lý. Chế độ bầu lý trưởng được thực hiện có tính chất "dân chủ" nhưng phải được phủ huyện xét kỹ, sau đó được đưa lên quan trấn tỉnh để cấp văn bằng và làm mộc triện [89, tr.85]. Việc đặt chức lý trưởng là biện pháp của nhà nước nhằm thực hiện sự tập trung quyền lực hành chính ở xã thôn, nhấn mạnh đến vai trò trách nhiệm của cá nhân. Mọi quy định thưởng phạt đều tập trung chủ yếu vào nhân vật này.


Trước năm 1852, giai đoạn lưu dân phải nỗ lực vào việc khai hoang lập ấp, triều đình hỗ trợ bằng cách cho họ quyền tự trị, tự quản. Cho đến thời Tự Đức, công việc khai hoang đã đạt được những thành quả quan trọng, triều Nguyễn thấy cần từng bước thể chế hoá bộ máy hành chính địa phương, sắp xếp lại bộ máy quản lý xã thôn Nam Kỳ. Vì vậy, Tự Đức ban hành "Minh điều hương ước" năm 1852. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng làm căn cứ tư liệu để nghiên cứu thôn ấp Nam Kỳ thế kỷ XIX. Theo quy định này, tổ chức xã thôn Nam Kỳ cũng mô phỏng theo bộ máy hành chính của miền Bắc. Trong mỗi làng xã có khoảng từ hai đến ba chục hương chức [132, tr.90]. Theo "Minh điều hương ước", mỗi xã thôn Nam Kỳ đều có năm loại chức dịch: một loại, có thề xuất phát từ tầng lớp nghèo nàn, chỉ biết lấy công lao làm thành tích thì được cử vào các chức vụ thừa hành, giám sát, tuần tra... mang tính năng động; một loại, xuất thân từ tầng lớp phú hào có thể cử vào các chức vụ quản lý tiền bạc, tài sản; một loại, căn cứ vào lý lịch (con cháu các bậc có công khai hoang lập làng) có thể được cử vào các chức vụ giữ gìn truyền thống địa phương; một loại, xuất thân từ tầng lớp có học hành, có thể được cử vào các chức vụ như giấy tờ, bút mực, giáo dục, văn hoá...; các quan văn võ khi hưu trí về làng được cử chức "hương quan", cố vấn các mặt [143, tr.26].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:03:41 pm
Theo Đỗ Hữu Nghiêm thì hội đồng hương thôn đầy đủ nhất gồm có khoảng 22 hương chức lớn, 16 dịch mục phụ tá. Nếu làng xã nhỏ nhất cũng phải có ít nhất 3 hương chức chính thức giao dịch với cấp trên là xã trưởng, hương thân và hương hào [56, tr.162]. Theo Trương Ngọc Tương thì trong một xã có khoảng 30 nhiệm vụ [143, tr.26]. Còn theo Ngô Văn Hoà thì những làng lớn, số hương chức, dịch mục... còn lớn hơn nhiều [34, tr.44, 46]. Tuy nhiên, để tránh sự rườm rà thời đó cho phép mỗi người kiêm năm ba chức vụ hoặc các thôn ấp (nhỏ hơn xã) được tuỳ nghi lược giản [143, tr.26].


Cư dân trong làng ở Nam Kỳ có thể chia thành hai hạng người: dân bộ, những người dân đinh đóng thuế và những người dân ngoài hay dân lậu, không có tên trong sổ nộp thuế. Dân bộ lại được chia làm hai hạng: những người có quyền định đoạt công việc trong làng xã; những dân đinh và gia đình dân đinh, về hạng người thứ nhất, dù có những tên gọi khác với miền Bắc và miền Trung, song đại thể bộ máy quản lý xã hội người Việt ở Nam Kỳ vẫn không khác biệt so với Trung và Bắc.


Làng xã được cai quản và đại diện bởi một tập thể những hương dịch. Hội đồng hương chức được chia làm hai nhóm: hương chức và dịch mục. Hương chức thảo luận và biểu quyết mọi việc trong làng, dịch mục chỉ biết thi hành lệnh trên. Theo phong tục, những hương chức được lựa chọn trong số những người nhiều ruộng đất, có uy tín, đức hạnh, cao niên. Lệ năm Tự Đức thứ 10 định rằng: Phải từ 30 tuổi trở lên mới được bầu làm chánh phó lý trưởng [23, tr.47]. Nhiệm kỳ của hương chức không được ấn định, trừ thôn trưởng hay xã trưởng có hạn định một năm, nhưng nhiệm kỳ này có thể kéo dài vô hạn định. Chỉ khi có một thành viên của hội đồng hương chức bị khuyết thì hội đồng mới tìm người khác thay vào theo nguyên tắc: Hội đồng lựa chọn lấy người thay thế. Nguyên tắc này không được áp dụng với xã trưởng, hương thân và hương hào, những người được trên bổ nhiệm theo sự giới thiệu của hội đồng hương chức [34, tr.44].


Theo lệ thường, những phiên họp theo thường lệ hay bất thường ở làng đều do hương cả triệu tập họp công khai ở đình làng, có tất cả những hương chức và dịch mục tham dự. Tuy dự họp nhưng dịch mục không có quyền biểu quyết hoặc quyết định. Đứng đầu các hương chức là hương cả và hương chủ, tương đương với tiên chỉ và thứ chỉ ở miền Bắc. Kết cấu của bộ máy tổ chức xã thôn Nam Kỳ gồm có những thành viên như sau: hương cả (hay ông Cả) và hương chủ, hương sư, hương trưởng, tham trưởng, hương nhứt, hương nhì, hương chánh, hương lễ, hương văn, hương quan, hương ẩm, thủ bộ, thủ chỉ, thủ bổn, câu đương, thủ khoán, cai đình.


Hội đồng hương chức gồm hai loại người. Loại người cao nhất gồm một loại những hương chức có chức năng nhiệm vụ rõ ràng, có hương chức chỉ có tính chất danh dự. Nhưng loại hương chức này lại là những người có uy tín và có quyền quyết định mọi việc trong làng. Họ giao việc thừa hành những quyết định của họ cho loại hương chức thứ hai gồm có 3 người là: xã trưởng hay thôn trưởng, hương thân và hương hào [34, tr.44, 45].


Lý trưởng chịu trách nhiệm trước nhà nước về sưu thuế, binh dịch... do nhà nước bổ nhiệm, là người liên lạc chính thức giữa làng và nhà nước. Ví như, năm 1865 nhà nước định rõ lệnh trừng phạt các tổng lý về việc gọi binh thu lương [108, tr.264]. Các hương chức như xã trưởng (hay thôn trưởng), hương thân, hương hào đứng vào hạng cuối cùng trong hàng ngũ các hương chức. Nhưng để hoàn thành những nhiệm vụ của mình, họ lại chỉ huy và được một số dịch mục giúp đỡ như: lý trưởng, ấp trưởng, trùm dịch (hay còn gọi là trùm việc, cai tuần, cai thị, cai binh, cai thôn...). Ngoài ra, để giúp việc cho hương lễ còn có: tri lễ, học trò lễ hay lễ sanh. Những người giúp việc cho cai đình thì có biện đình, tư văn, ông từ, tri sự, tri khách và cuối cùng là biện lại, người phải biết chữ để làm thư ký cho làng [34, tr.45, 46].


Như vậy, có thể thấy, thôn ấp ở Nam Kỳ cũng không khác mô hình xã thôn miền Bắc, vẫn mang đầy đủ tính chất tự trị và tự quản của làng Việt, về đại thể, cơ cấu và chức năng của bộ máy tổ chức xã hội Nam Kỳ cũng thống nhất với bộ máy này ở người Việt vùng khác. Các hương chức có quyền tự do hành động rất lớn kể cả một số quyền lực tư pháp và hành chính. Họ hành động mà không bị các cấp chính quyền từ cấp phủ, huyện trở lên kiểm soát, miễn là những luật pháp và mệnh lệnh của nhà nước trung ương về các mặt thuế, sưu dịch, binh dịch được các hương chức truyền đạt cho các làng xã và thi hành.


Cơ cấu chính trị này làm thành một tổng thể với nển tảng kinh tế, xã hội nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ khuôn mặt của nó, nếu không nói đến cơ cấu tinh thần làng xã. Bởi vì, tham gia vào tổ chức quản lý xã thôn còn có đình. Đình làng chính là biểu tượng của cuộc sống tinh thần và vật chất của làng. Ngôi thứ của từng người đều thể hiện ở vị trí của họ ở đình làng. Chế độ đắng cấp ở xã thôn còn thể hiện trong chỗ ngồi và hương ẩm. Người ta coi trọng miếng ăn ở chốn đình trung không phải vì tham ăn uống mà là vì ngôi thứ, đẳng cấp xã hội. Ngôi đình đồng nghĩa với sự sắp xếp trật tự xã hội của làng [57, tr.231]. Về ngôi thứ chỗ ngồi ở chốn đình trung, trong "hương ẩm tửu" được triều Nguyễn quy định khá rõ vào năm Tự Đức thứ 8 [106, tr.135], theo quy định với Bắc Hà. Hầu như mỗi thôn làng ở Châu Đốc và Nam Bộ đều có một cái đình, điều này được Trịnh Hoài Đức xác nhận: "Mỗi làng đều làm một cái đình" [21, tr.146]. Khi đề cập đến đình về mặt tác động đến tổ chức xã hội của người Việt, thấy rằng: Trước tiên, đình có chức năng khá rõ ràng về tôn giáo và tín ngưỡng, nơi thờ cúng Thành hoàng làng và các thần linh, những vị thần che chở cho dân làng. Nhưng bên cạnh chức năng tôn giáo, đình còn có chức năng quan trọng khác. Đình là khu vực chủ yếu để hội họp, sinh hoạt cộng đồng, việc thuế má, phu phen tạp dịch cho nhà nước, việc tế tự, làm đình, sửa miếu,... Nhà vuông (nhà việc) ở đình còn là nơi hội họp của các chức sắc, của hội đồng hương chức,... để xét xử và phạt vạ những người vi phạm luật lệ của làng, là nơi để ăn uống, hương ẩm tửu,...


Như vậy, đình làng có tính chất như là nơi sinh hoạt của cộng đồng, nơi ăn uống chung của thôn ấp và còn như là một pháp đình của hương thôn. Ngoài ra, khi khuyết lý trưởng hay phó lý, đình là nơi bầu cử các chức đó... Nhà nước phong kiến cũng đã thông qua việc nắm các thành hoàng để nắm lấy xã thôn, để củng cố quyền uy, quyền lợi của mình và thông qua việc thần phục được các thành hoàng mà điều khiển các làng xã.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:05:09 pm
b- Tổ chức xã hội người Khmer

Những dấu vết mờ nhạt của tổ chức xã hội và bộ máy quản lý cổ truyền phum, sóc hiện tại khó có thể tái hiện một cách rõ nét thực tế lịch sử xã hội người Khmer đã diễn ra. Tuy nhiên, những biến động lịch sử mang tính bước ngoặt đã để lại những dấu ấn khá quan trọng trong đời sống xã hội người Khmer Châu Đốc từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt, khi vùng đất Tầm Phong Long thuộc chủ quyến chúa Nguyễn (1757) và rõ ràng hơn là việc vùng Khmer Thất Sơn nằm trong tổ chức hành chính phủ Tĩnh Biên năm 1839, làm cho sự quản lý của nhà nước phong kiến đối với xã hội người Khmer ở đây được rõ rệt hơn. Khi người Pháp xâm lược Châu Đốc, sự biến đổi trong đời sống xã hội người Khmer một lần nữa lại diễn ra. Mặc dù vậy, những cơ cấu cổ truyền của họ vẫn còn bảo tồn trong một số phạm vi và có những ảnh hưởng nhất định trong xã hội và văn hoá ở vùng này.


* Phum: Tổ chức xã hội nhỏ truyền thống của người Khmer là phum. Phum là đớn vị cư trú của người Khmer bao gồm một số gia đình quần tụ trong một khoảnh đất nhất định. Đây không phải là đơn vị hành chính mà là một đơn vị cư trú mang tính chất truyền thống. Phum tiếng Khmer có nghĩa là "đất", "thổ cư" hay "vườn" [130, tr.73].


Giáo sư Som Sun Un trong "Lịch sử Campuchia" cho biết: Phum có từ thờii vương quốc Phù Nam còn lưu truyền cho đến bây giờ. Thậm chí còn trước thời kỳ đó nữa [51, tr.29]. Thời đó, cư dân ở đây đã sống tập trung thành phum, không còn du canh du cư. Họ đã có tiếng nói, sống trong những ngôi nhà nhỏ lợp bằng lá dừa nước, dùng búa để đốn gỗ, dùng đá mài để cọ lửa, dùng hũ đựng lúa, dùng chậu đựng nước và rượu. Họ trồng lúa nước, dùng lưỡi hái bằng đồng hoặc xương sườn thú để gặt lúa [51, tr.26]. Cũng theo Som Sun Un thì ở Campuchia không có dạng phum như vậy, người ta cất nhà rải rác khắp nơi, nếu nơi nào có dạng phum như thế ấy chính là do người Khmer gốc từ đồng bằng sông Cửu Long đến làm ăn sinh sống lập ra [51, tr.27]. Nhà trong phum làm bằng gỗ và mái được lợp bằng lá dừa nước. Lá dừa nước là một đặc trưng củạ đồng bằng sông Cửu Long mà Campuchia không có. Ở Campuchia lợp nhà bằng lá thốt nốt hoặc cỏ tranh [51, tr.29].


Đặc điểm cư trú của người Khmer Châu Đốc khác với người Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng. Nếu phum, sóc của người Khmer Trà Vinh, Sóc Trăng được xây dựng trải dài theo các dải đất "giồng" thì phum, sóc của người Khmer Châu Đốc được lập quanh các chân núi, sườn đồi theo hình "vành khăn" ở Ba Thê, Thất Sơn.


Cơ cấu của phum thường gồm hàng rào tre xung quanh cổng phum, khu dân cư, chuồng gia súc, đất vườn hay rẫy. Mỗi phum có tên gọi riêng, thường là tên vị tổ sáng lập ra phum. Quy mô từng phum có thể một nhà hay 5-10 nhà hoặc nhiều hơn. Sự phát triển dân cư trong phum bắt nguồn từ một gia đình, các thành viên trong phum là con cháu của gia đình đó. Đặc điểm phổ biến của người Khmer trong hôn nhân là cư trú phía vợ, đặc điểm đó nổi lên đậm nét trong từng phum. Nghĩa là, các đôi vợ chồng mới cưới khi ra ở riêng thì cất nhà ngay bên cạnh nhà bố mẹ vợ trong cùng một phum. Vì vậy, thành viên trong phum thường có quan hệ huyết thống hay quan hệ hôn nhân với nhau tính theo dòng nữ. Người đứng đầu phum không có ý nghĩa về mặt hành chính mà chỉ có ý nghĩa thân tộc.


Việc quản lý phum do một "mê-phum" đứng ra đảm nhiệm. Mê-phum có thể là một người đàn bà hoặc một người đàn ông có tuổi tác, có uy tín và thuộc thế hệ trên hoặc đóng vai trò lớn trong dòng họ. Mê-phum có nhiệm vụ thay mặt cho các thành viên của phum về mọi công việc trong phum và mối quan hệ giữa các phum trong sóc. Những công việc đó thường nặng về các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng như cúng neak tà, arak của phum (cúng thần dòng họ phum), tổ chức việc lên chùa trong các ngày lễ (Wêl), vận động các gia đình trong phum giúp đỡ lẫn nhau, việc hiếu, hỷ,... Sinh hoạt của phum mang tính chất cộng đồng và tự quản của một tập thể người vừa có quan hệ huyết thống, vừa có quan hệ của những ngươi láng giềng trong một khu vực cư trú.


Tuy nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, trong quá trình khai phá đất Châu Đốc, một bộ phận cư dân Việt, Hoa, Chăm đến sinh sống xen kẽ với người Khmer. Trịnh Hoài Đức đã viết trong Gia Định thành thông chí, người Việt, người Tàu và người Cao Miên "nhà ở kế cận nhau, kết thành thôn lạc, chợ quán để thu lấy nguồn lợi ở chằm rừng, sông núi" [21, tr.51]. Cùng với các bộ phận cư dân Việt, Hoa, sự tác động của bộ máy chính quyền Nguyễn khi can dự vào bộ máy quản lý xã hội ở đây đã làm cho kết cấu tổ chức phum, sóc trong xã hội truyền thống của người Khmer có những biến đổi.


Tóm lại, phum của người Khmer ở Châu Đốc không phải là một đơn vị hành chính mà là một đơn vị cư trú nhỏ của những người có cùng quan hệ huyết thống. Tính cộng đồng của các thành viên trong cùng một phum khá chặt chẽ, không chỉ biểu hiện về huyết thống, về đất đai, về thờ cúng,... mà còn thấy rõ trong quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và sinh hoạt.


* Sóc: Sóc là một tổ chức xã hội bao gồm nhiều phum. Sóc vốn tiếng Khmer là "srok". Trong tiếng Khmer Nam Bộ, sóc có nhiều nghĩa "một khu vực cư trú", "quê hương", "xứ sở", "địa phương", ở Campuchia, từ "srok" có nghĩa là một khu vực hành chính tương đương một huyện, ở Nam Bộ, người Việt đã Việt hoá từ "phum, srok" thành "phum, sóc" để chỉ những khu vực cư trú của người Khmer tương tự như các làng của người Việt.


Tính cộng đồng của sóc thể hiện rõ trên lĩnh vực cư trú và tôn giáo. Giữa các sóc có ranh giới theo quy ước. Ranh giới đó có thể là luỹ tre, gốc cây cổ thụ, lối mòn,... Dân sóc canh tác đất rẫy ngay trong sóc và đất ruộng chung quanh sóc. Không có chế độ ruộng công của sóc như làng xã người Việt, cho nên sóc hầu như không có tính cộng đồng dựa trên chế độ ruộng công [130, tr.36]. Nhưng không phải vì vậy mà cho sóc là một tập hợp dân cư gần nhau về địa lý mà không được tổ chức, không có quan hệ hữu cơ. Sóc có tính cộng đồng khá chặt chẽ của nó, thể hiện đậm nét nhất ở mặt tôn giáo, đó là nhà chùa. Ngôi chùa là nơi tiêu biểu cho bộ mặt phum, sóc, là nơi thiêng liêng nhất trong cuộc sống. Nó không chỉ là trung tâm tôn giáo, văn hoá và trường học... của người Khmer, mà còn là nơi tiêu biểu cho bộ mặt của phum, sóc. Có thể nói, đời sống tinh thần của người Khmer là ở chùa, chùa là sợi dây liên kết cư dân trong sóc không chỉ về mặt tư tưởng mà còn về mặt tổ chức. Từ chùa đến người dân trong sóc có một hệ thống tổ chức khá chặt chẽ và có hiệu lực.


Quản lý sóc, có một tổ chức nhân sự gồm một người đứng đầu gọi là "mê sork", có nghĩa là "mẹ sóc", "chủ sóc” và các cộng sự viên chuyên trách các công việc công cộng. Chủ sóc và các thành viên quản trị sóc thường là những người có tuổi, có kinh nghiệm và uy tín được dân chúng tín nhiệm bầu lên để quản lý phum, sóc. Theo truyền thống tự quản, các mê phum, mê sóc chăm lo những công việc chung như giữ gìn trật tự an ninh trong sóc, giải quyết mọi tranh tụng giữa các gia đình thành viên, vấn đề nhân sự, ruộng đất, quản lý sử dụng tài sản công như nguồn nước, bãi đất công, khu rừng... tổ chức lễ hội, các cuộc vui trong sóc và trong vùng. Thông qua "mê-sork" các mệnh lệnh, quy định, chính sách của nhà nước được truyền đến các thành viên và ngược lại.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:05:40 pm
Một trong những trách nhiệm của quản trị sóc là duy trì thường xuyên mối quan hệ giữa nhà chùa và các thành viên trong sóc. Mê-sóc và các thành viên sẽ gặp gỡ và bàn bạc với các sư cả (luk-krou) và ban quản trị chùa (nhom-wat) về những việc có liên quan đến hoạt động của nhà chùa, cũng như các nghĩa vụ tôn giáo của các thành viên trong sóc. Các mê-phum, mê-sóc sẽ tham gia các buổi lễ cúng tế làm phước của tín đồ hiến dâng lễ vật cho chùa, cũng như việc quyên góp để tự tạo cho chùa. Điều này cũng thể hiện sự tác động của nhà chùa trong việc quản lý xã hội người Khmer, thể hiện mối quan hệ giữa nhà chùa, sư sãi với các thành viên của phum, sóc.


Duy trì sự tồn tại và vận hành của phum, sóc còn là trách nhiệm chung của các thành viên phum, sóc (kon-sork). Mối quan hệ giữa các thành viên trong sóc mang tính chất bình đẳng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Trách nhiệm của các thành viên là nghiêm túc chấp hành các quy định tập tục truyền thống của phum, sóc, giữ gìn đoàn kết và an ninh trong sóc, thực hiện một cách tự giác các nghĩa vụ đóng góp, phục vụ đối với nhà chùa.


Sóc là một đơn vị kinh tế riêng biệt gần như đóng kín. Hoạt động kinh tế của sóc chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và mang tính chất tự cấp tự túc. Sóc còn là một đơn vị tín ngưỡng. Trong sóc thường có một chùa, hoặc nhiều hơn để thò Phật (năm 1889 ở Châu Đốc có 27 sóc nhưng có đến 44 chùa [156, tr.53]) có sãi trụ trì. Sãi cả là người có quyền lực cao nhất trong vùng có cảnh chùa. Tất cả cư dân trong sóc đều chịu sự điều khiển của nhà chùa về cả việc đạo lẫn việc đời. Thông qua hoạt động của nhà chùa, người dân duy trì được các phong tục tập quán, những truyền thống văn hoá của dân tộc. Mỗi chùa đều có ban quản trị chùa (nhom-wat) lo về mặt quản lý những hoạt động tôn giáo của cư dân trong phum, sóc. Đạo Phật Tiểu thừa có vai trò độc tôn trong sinh hoạt xã hội của người Khmer, do đó sư sãi được đặc biệt kính trọng. Dù các sư sãi không trực tiếp tham gia quản lý phum, sóc nhưng những ý kiến của họ vẫn được mọi người coi trọng [146, tr.70] trong sự vận hành các hoạt động của phum, sóc.


Kể từ nửa cuối thế kỷ XVIII, khi thành lập đạo Châu Đốc, những người Khmer vùng này vẫn còn sinh sống tự do ở vùng núi Thất Sơn. Sang thế kỷ XIX, trước nhu cầu quản lý lãnh thổ và phát triển kinh tế, xã hội ở một vùng biên thuỳ phức tạp, nhà Nguyễn cho thành lập phủ Tĩnh Biên (1839). Những người Khmer Châu Đốc vốn tồn tại với những thiết chế xã hội truyền thống tự quản của các phum, sóc, đến đây phải chấp nhận một cơ cấu hành chính phong kiến của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn phong chức tước cho những người đứng đầu địa phương các "châu-wai", "mê-sork" để họ trở thành quan chức của triều đình [1, tr.159]. Tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), triều đình chuẩn cho các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên bảo ban dân trong hạt cho con em học tập chữ Kinh. Những người Khmer biết được nghĩa sách chữ Hán thì được đặt làm tổng trưởng, lý mục để khuyến khích [98, tr.78]. Triều Nguyễn thông qua những người này và hệ thống quản lý xã hội truyền thống của họ để quản lý cư dân Khmer.


Là vùng biên giới thường xuyên xảy ra chiến tranh xâm lược, tranh chấp lãnh thổ và tộc người, triều Nguyễn đã có những chính sách văn hoá, xã hội, nhằm làm cho những yếu tố Việt được giữ tính cách chủ thể. Ở đây, triều Nguyễn cũng đã noi theo kinh nghiệm quản lý xã hội của người Trung Hoa, tư tưởng "Thư đồng văn, xa đồng quỹ, hạnh đồng luân" của Nho giáo, tư tưởng thống nhất lãnh thổ văn hoá. Cho đến năm 1828, lời tâu của quan cai cơ Tĩnh Biên về "Người Man Lão đã thấm nhuần giáo hoá, đồ ăn mặc của dân gian phần nhiều theo người Hán (Việt)" [89, tr.87] thể hiện rõ điều trên. Triều Nguyễn ra lệnh người Khmer "lần lượt học tập, tiếng nói, áo mặc, ăn uống của người Kinh" để theo giáo hoá. Đồng thời, cũng sai người Kinh học chữ Khmer để cho "tình ý thông nhau", "cho phong tục có khác nhau mà dần dần làm văn tự và luân lý cùng giống nhau tốt đẹp" [98, tr.78]. Năm 1839, triều Nguyễn đặt tên họ cho người Khmer ở vùng An Giang, Hà Tiên và cho người Việt và người Khmer ở xen kẽ nhau để "làm ăn cùng xen lẫn, trông nhau mà bắt chước lẫn nhau” [110, tr.268]. Nhà Nguyễn sử dụng chính sách "lưu quan" bằng người Việt và tổ chức bộ máy hành chính xuống tận cơ sở tổng xã [1, tr.162]. Cùng với bộ máy hành chính phong kiến, bộ phận người Việt, Hoa đến sinh sống, lập làng xen kẽ các phum, sóc đã dần dần làm thay đổi bước đầu bộ mặt xã hội truyền thống của người Khmer Châu Đốc.


Cũng trong thế kỷ XIX, cùng với những ảnh hưởng chính trị từ bên ngoài vào, chiến tranh biên giới xảy ra, một bộ phận người Khmer Châu Đốc bị lôi kéo, cùng với sự phản ứng lại chính sách của nhà Nguyễn đã đứng lên chống lại triều đình. Trước âm mưu của Xiêm La và tình hình rối ren phức tạp của Chân Lạp, xã hội Khmer Châu Đốc bị xáo động liên tục từ đời Minh Mệnh đến đời Tự Đức. Tuy nhiên, cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược, những cơ cấu của xã hội cổ truyền của người Khmer vẫn được bảo tồn trong một số phạm vi và mức độ nhất định.


Dưới chế độ thực dân cuối thế kỷ XIX, để phục vụ cho lợi ích khai thác thuộc địa, kiểm kê dân số, thu thuế khoá, lao dịch... thực dân Pháp bắt người Khmer phải mang hai họ Chau (chàng) cho nam và Neáng (nàng) cho nữ. Từ đó, những họ trên trở thành họ chính thức của người Khmer cho đến nay.


Tóm lại: Người Khmer Châu Đốc là những cư dân nông nghiệp, cấu trúc xã hội của họ là những tổ chức truyền thống dựa trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp. Phum, sóc là những cấu trúc cơ bản tiêu biểu cho những đặc điểm xã hội cổ truyền của người Khmer Châu Đốc. Tính cộng đồng của phum, sóc khá chặt chẽ, ở phum, tính cộng đồng chủ yếu về mặt huyết thống, cư dân trong phum hầu hết họ hàng với nhau. Còn sóc thì mang tính chất một công xã láng giềng, trong đó nhà chùa với giáo lý, hệ thổng tổ chức và ảnh hưởng chi phối của nó giữ một vai trò quan trọng gắn bó các cư dân. Cơ cấu xã hội của phum, sóc Khmer được vận hành dựa trên những tập tục truyền thống và mang đậm dấu ấn của Phật giáo Tiểu thừa. Sự đan xen hoà hợp giữa truyền thống dân tộc và tôn giáo ở vùng biên giới thường xảy ra trong tranh chấp lãnh thổ và tộc người khiên cho phum, sóc Khmer phải trải qua nhiều biến động. Thế kỷ XIX, bộ máy hành chính phong kiến của triều Nguyễn đã tham dự vào quản lý phum, sóc và cùng với quá trình chung sống với các tộc người khác Việt, Hoa, Chăm,... đã làm thay đối một số nét cấu trúc. Những nguyên tắc vận hành và quản lý phum, sóc theo truyền thống đã bị lôi cuốn theo cơ cấu hành chính của chính quyền phong kiến. Xã hội phum, sóc được quản lý bởi hai cơ chế song song với nhau, sự quản lý hành chính của nhà nước và sự tự quản lý của phum, sóc. Mặc dù đã ít nhiều làm quen với những tác động khách quan từ bên ngoài du nhập vào phum, sóc, những người Khmer Châu Đốc vẫn căn bản giữ lại bên trong không gian phum, sóc, cách ly phần nào với những chuyển động của xã hội bên ngoài, bảo tồn, duy trì tình trạng ngưng đọng, chậm tiến. Những thiết chế xã hội truyền thống này vẫn còn bảo lưu, tác động lâu dài và chi phối không ít cuộc sống của người Khmer.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:06:30 pm
c- Tổ chức xã hội người Chăm

Xã hội người Chăm ở Châu Đốc là một xã hội khép kín và riêng biệt hắn giữa các sắc dân ở đây. Người Chăm sống trong những làng riêng biệt của mình, gọi là palay. Mỗi palay thường có nhiều xóm gọi là "puk". Mỗi thôn xóm được tổ chức như một đơn vị hành chính. Đó là những tổ chức xã hội cổ truyền của người Chăm.


Để quản lý xã hội, trong hệ thống quản lý cổ truyền của từng palay có một số chức vụ: mỗi palay có một vị hakim, một vị naếp và một sei ahly (trưởng xóm). Số ahly tuỳ theo quy mô của làng, có nhiều hay ít xóm, ít hay nhiều các surao. Có thể xem đây là một bộ máy tự quản của các palay trong xã hội cổ truyền của người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long và tiêu biểu nhất trong xã hội người Chăm ở Nam Bộ nói chung.


Người lãnh đạo tôn giáo và quản lý xã hội cao nhất palay, cả "thần quyền" và "thế quyền" trên hết là một vị "hakim". Hakim thường là một vị bô lão gương mẫu, có uy tín, có kiến thức đạo giáo sâu rộng và thông hiểu tập quán của dân tộc. Ông được dân chúng bầu lên và đảm nhận trách vụ mãn đời. Hakim có nhiệm vụ quản lý thánh đường, các surao (thông qua ahly) theo dõi việc thực hiện các bổn phận của tín đồ Hồi giáo và tổ chức các ngày lễ tôn giáo, dựa vào giáo luật giải quyết các vụ tranh tụng giữa các thành viên palay [15, tr.312j. Bên cạnh hakim, trong thôn ấp còn có vị phụ tá gọi là naếp do hakim chỉ định, với sự đồng ý của thành viên, trong số những người thông hiểu giáo lý để giải quyết giữa các thành viên trong thôn ấp, cùng chăm sóc theo dõi mọi việc liên quan đến sự hành đạo của tập thể. Ngoài ra, ở mỗi puk (xóm) còn bầu một vị trưởng xóm (ahly). Ahly có nhiệm vụ trông nom surao (nhà nguyện), giúp đỡ tín đồ thực hiện các nhiệm vụ tôn giáo trong phạm vi xóm. Trong những trường hợp quan trọng ahly sẽ nhờ đến hakim giải quyết.


Theo tục lệ, vị ahly được mọi người xem như là anh cả (ngay-ta-ha = người già cả) đứng đầu xóm, cộng sự với hakim, họp thành một cơ quan, có thể coi như là cơ quan quản trị thôn xã trong nội bộ cũng như trong tương quan của tập thể này đối với tập thể khác. Trong những ngày thường, vị ahly phải coi việc quản trị tiểu thánh đường (surao), nơi đây cũng được xem là nhà hội của một xóm. Hằng ngày dân trong xóm đến hành lễ (săm bah yăng) tại surao. Chỉ đến ngày thứ 6 và những ngày thánh lễ, tín đồ mới tụ họp tại thánh đường chính gọi là masdjid, được xây cất đồ sộ theo kiến trúc các thánh đường Hồi giáo khác. Masdjid khác surao ở điểm, surao chỉ là một ngôi nhà nhỏ, của một xóm dùng làm nơi hành lễ và đồng thời là nơi họp bàn các vấn đề có tính chất lợi ích chung và nhân đó người ta có thể ăn uống tại đấy. Trái lại, masdjid là một nơi trang nghiêm tuyệt đối, khi bước vào người ta không được nói gì, làm gì ngoài việc đọc thánh kinh.


Do chức năng của mình, hakim có thể bãi chức naếp và các ahly. Đồng thời vị hakim có thể bị dân chúng bãi nhiệm nếu ông vi phạm các điều nghiêm cấm của giáo luật đạo Hồi. Tiêu chuẩn chọn các vị hakim, naếp và ahly nói chung là những người am hiểu giáo lý Hồi giáo, tập quán vá là tín đồ gương mẫu. Cố vấn cho các hakim, naếp và ahly còn có các vị bô lão vốn có một kinh nghiệm sống và am hiểu tập tục Hồi giáo. Nhất là các vị imâm, các ông tuôn (thầy dạy), những người được mang danh hiệu hadji (người từng đi hành hương tại Thánh địa La Mecque), là những người có kiến thức và uy tín nhất định.


Bộ máy tự quản của từng palay hoạt động chủ yếu dựa trên giáo luật Hồi giáo, mà nền tảng pháp lý của nó chính là thánh kinh Coran. Chính vì vậy mà nó vừa phải chăm lo giải quyết việc đòi lẫn việc đạo. Mỗi thành viên của palay đồng thời là một tín đồ Hồi giáo sống trong cộng đồng Hồi giáo của mình. Cơ sở quyền lực của bộ máy ấy vừa là thần quyền vừa là thế quyền và nó được mọi thành viên trong palay tín nhiệm một cách dân chủ. Vị hakim do đó còn là "giáo cả" trực tiếp trông nom thánh đường. Mặc dù không hưởng một quyền lợi vật chất nào, nhưng về mặt tinh thần thì đó là một vinh dự lớn lao mà mọi thành viên dành cho họ.


Tầng lớp lãnh đạo tinh thần: Bên cạnh tầng lớp quản trị xóm ấp của người Chăm, ở vùng Châu Đốc còn có hệ thống quản lý xã hội palay dựa trên cơ sở giáo luật Hồi giáo và tập trung quyến lực xã hội vào thánh đường. Đó là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo thuần tuý gọi là halâu tnưng akkama. Họ là những vị hadji, imâm, khotib, bilăl trong từng palay: bilăl (muszin) người làm nhiệm vụ kêu gọi tín đồ làm lễ vào trưa ngày thánh lễ (thứ 6 hằng tuần); khotib: người giảng giải giáo lý kinh Coran cho tín đồ tại thánh đường vào ngày thánh lễ; imâm: người hướng dẫn tín đồ thực hiện nghi thức cầu nguyện vào ngày thánh lễ,...


Các chức vụ trên do dân cử trong những người có đạo đức, uy tín, được tín đồ tín nhiệm. Tuy nhiên, họ không phải là một chức sắc của tôn giáo mà được cắt đặt luân phiên giữa các vị có khả năng có thể cáng đáng công việc.

Khi hành lễ họ phải mặc những chiếc áo dài chấm gót, đầu vấn khăn. Dù không phải là giới tăng lữ nhưng họ vẫn được tín đồ trọng vọng, vị nể [14, tr.19].

Đối với người Chăm Châu Đốc, kinh Coran là tất cả. Đó là lẽ sống, là đạo đức của con người, là cách ứng xử và pháp luật quản lý xã hội palay. Người Chăm có đức tin khá mạnh vào thánh Allah, tin vào ngày tận thế, vào ngày phán xử cuối cùng và họ mong được sống cõi tâm linh trên thiên đường sau khi từ trần. Người đàn ông Chăm chịu ảnh hưởng giáo lý Hồi giáo sâu sắc hơn nữ giới, bởi vì chính họ, theo giáo luật hằng ngày phải đến thánh đường để nghe giảng kinh, còn nữ giới thì không bắt buộc. Mỗi ngày người Chăm phải cầu nguyện ở thánh đường hay ở surao hoặc nơi khác 5 lần. Trưa thứ 6 hằng tuần là ngày lễ thánh bắt buộc nam giới tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục cổ truyền nghiêm chỉnh để đến thánh đường nghe giảng kinh Coran [7, tr.236].   


Điểm đặc biệt là khác với gia đình mẫu hệ của người Chăm miền Trung, ở người Chăm Châu Đốc chế độ gia đình phụ hệ đã được xác lập. Do ảnh hưởng của giáo luật và tập tục đạo Hồi, địa vị phụ nữ trong xã hội bị liệt vào hàng thứ yếu. Họ không được đến thánh đường và nghĩa địa, là những không gian linh thiêng. Vai trò chủ thể trong kinh tế - xã hội thuộc về đàn ông đã góp phần xoá bỏ dần tàn dư chế độ mẫu hệ của người Chăm. Quyền thừa kế tài sản phần lớn thuộc về con trai, đàn ông, dù vẫn còn bảo lưu một vài yếu tố tàn dư mẫu hệ (tục đưa rể, con gái vẫn được hưởng một phần tài sản...) [146, tr.259].


Như vậy, ở người Chăm Châu Đốc bộ máy quản lý xã hội với hệ thống hakim, hadji tổ chức chặt chẽ và có nhiệm vụ xã hội rõ rệt. Ngoài ra, do sự ràng buộc của tập tục... gắn liền với tôn giáo và những chế tài, kỷ cương khá khắt khe, nó có đủ uy lực chế ngự khiến con người phải kiêng dè. Đời sống cộng đồng và xã hội dường như gắn liền với đời sống tôn giáo. Xã hội người Chăm Châu Đốc là một xã hội khép kín, những xóm làng biệt lập và không cách xa xóm làng người Việt nhưng nếp sống của họ có những đặc điểm riêng, tập tục riêng. Mỗi surao hay mỗi cụm làng là một giáo khu có một thánh thất (surao). Cả vùng có một thánh đường (mosqué), mỗi khu có một trưởng giáo khu (hakim), có một số vị tư tê (imâm) và một số vị phó tư tế (katib) là những ngươi trông coi tín đồ. Trong phạm vi hẹp hơn còn có bilăl, có chức năng như giám thị và thường giữ vai trò phụ lễ. Nói chung, imâm là những người có vai trò quan trọng và thiết thực hơn cả, là những người phụ trách cả phần đạo và phần đời của mỗi đơn vị dân cư - tín đồ [61, tr.57]. Xã hội ở đây dường như là xã hội phụ hệ, xã hội của đàn ông con trai, giới phụ nữ bị xem nhẹ, bị lùi về sau bức màn, sống trong sự kín đáo, ít giao tiếp với bên ngoài.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:07:08 pm
d- Tổ chức xã hội người Hoa

Sự hình thành và phát triển cộng đồng người Hoa ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, liên tục, gắn liền với những biến động lịch sử trong đời sống chính trị hai nước. Những biến động đó đã đẩy một bộ phận người Hoa rời khỏi Tổ quốc của mình ra nước ngoài sinh sống, trong đó có một bộ phận người Hoa đã đến Việt Nam. Quá trình đó bắt đầu diễn ra mãnh liệt vào cuối thế kỷ XVII, kể từ khi người Mãn Thanh đánh bại triều Minh lên cầm quyền ở Trung Quốc. Những cư dân "Minh mạt Thanh sơ" lánh ra nước ngoài, chờ thời cơ về chống Thanh và khôi phục cơ đồ nhà Minh.


Do những điều kiện chính trị và kinh tế thuận lợi, với chính sách khá cởi mở, chúa Nguyễn lại đang cần nhân lực để khai phá vùng đất phía Nam, nên năm 1679 đã cho nhóm người Hoa là Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho, nhóm Trần Thượng Xuyên ở Biên Hoà, ở Hà Tiên cũng có Mạc Cửu. Họ đã phá rừng, làm ruộng, lập nên xóm thôn, mở chợ buôn bán và thu hút đến đây nhiều kiều dân Trung Hoa di cư khác nữa. Đến năm Mậu Dần (1698), khi tổ chức hành chính vùng Nam Kỳ, chúa Nguyễn cho người Hoa ở Đông Phố và Đồng Nai lập thành thôn xã riêng. Nên lần đầu tiên ở Nam Kỳ có tổ chức Thanh Hà xã và Minh Hương xã của người Hoa. Tuy nhiên, tổ chức xã hội Thanh Hà xã và Minh Hương xã đã ra đời ở miền Trung ít nhất đã từ giữa thế kỷ XVII [31, tr.18]. Điều này được Chen Ching Ho dẫn chứng bằng tấm biển sắc phong ghi "Khánh đức Quý Tỵ niên cốc đán thư" treo ở Quan Công miếu Hội An. Khánh Đức là niên hiệu Lê Thần Tông và Quý Tỵ niên là năm 1653. Vì vậy, Chen Ching Ho khẳng định: ít nhất là năm 1653, Hội An Minh Hương xã, tức Minh Hương xã đầu tiên của Việt Nam đã được sáng lập [31, tr.18].


Theo những tư liệu lịch sử, Chen Ching Ho cho rằng: ngay từ đầu các Minh Hương xã thực chất là những đơn vị hành chính tự quản như làng xã Việt và có bộ máy hương chức như cai xã, hương quan, hương lão và hương trưởng [32 tr.10]. Cai xã là ngươi đứng đầu của Minh Hương xã, hương lão là trưởng lão của xã, là người đại diện của làng, đồng thời là người chủ toạ của hương hội. Hương lão do mấy vị tiến bối trong hương trưởng đảm nhận. Đến thế kỷ XIX, hương lão cũng gọi là hương thân hoặc hương mục, thường có 2 viên, chức vụ của một viên là thủ sắc (coi giữ các sắc lệnh), còn một viên khác là thủ bộ (giữ các giấy tờ công văn). Hương trưởng là những nhân sĩ danh giá và có thể lực trong làng, cũng là đại diện của dân xã. Theo thường lệ, người nào làm hương trưởng phải có "bút toán sao thông, gia tư vật lực" (nghĩa là phải thông chữ nghĩa và phải có tài sản) mới được đảm nhận.


Căn cứ vào tình hình trên thì, Minh Hương xã cũng như các làng khác, là một đoàn thể tự trị, tất cả công việc trong xã đều theo hợp nghị mà định đoạt. Quy chế này đại khái được duy trì cho đến đầu thế kỷ XIX, nhưng do sự gia tăng dân số và phát triển hành chính nên đến đời Minh Mệnh, thấy có thêm mấy chức vụ mới trong hương chức: chính trưởng, là người đứng đầu một lân; phụ trưởng là phụ tá cho chính trưởng; giáp thủ, chuyển đạt chính lệnh của quan nha hoặc coi việc liên lạc giữa các hương chức và dân xã (chức này đã có xuất hiện từ năm 1750) [32, tr.14].


Tuy nhiên, cũng có người cho rằng từ "xã" trong "Minh Hương xã" không phải dùng để chỉ một đơn vị hành chính như xã thôn, mà chỉ mang ý nghĩa là một tổ chức "về mặt cai trị", vì xã của Minh Hương không có đất đai, ranh giới và người trong "xã" ấy cư ngụ ngay trên đất của làng xã người Việt [149, tr.22]. Ý kiến này rất đáng được lưu ý. Tuy nhiên, theo Chen Ching Ho thì Minh Hương xã Hội An có lãnh thổ hẳn hoi, đến năm 1878 có chừng 22 mẫu 1 sào 3 thước và 10 lân phụ thuộc [32, tr.9]. Về sau, trong các tỉnh đều có nhiều xóm người Minh Hương ở và họ được gọi là "người Minh Hương”. Lâu ngày thành lệ, tiếng Minh Hương trước kia để chỉ một thôn, một xã của người Minh Hương, sau lại dùng để gọi những người lai cha Tàu mẹ Việt [149, tr.22].


Phải nói rằng, ở Đàng Trong thời kỳ trước năm 1802, các chúa Nguyễn đã thi hành một "chính sách thân thiện" với người Hoa. Năm 1780, Nguyễn Ánh tiếp tục chính sách với người Hoa như những đời chúa trước. Năm 1790, Nguyễn Ánh ban hành một chỉ dụ, xếp Hoa kiều theo quê quán, chẳng hạn Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Triều Châu,... và cho cai phủ (tổng thư ký) và ký phủ (thư ký) điều khiển họ. Nguyễn Ánh cũng ban hành một sắc luật, theo đó mỗi người Hoa phải đóng thuế và phục vụ cho quốc gia với tư cách là một người lính hoặc một người dân [22, tr.163]. Những người Hoa được xếp loại bởi quê quán và ghi vào sổ bộ trong năm 1790, là nguồn gốc của hệ thống "bang" (tổ hợp của những người cùng miền) của ngươi Hoa về sau. Tuy nhiên, ngày tháng chính xác về sự khai sinh thật sự của hệ thống này ta không được biết, bởi mãi tới năm 1810 chữ "bang" mới lần đầu tiên xuất hiện trong sử liệu Việt Nam. Sách Thực lục ghi: "Năm Canh Ngọ, tháng 11, sai bang trưởng Quảng Đông là Hà Đạt Hoà thuê ba người thợ làm ngói ở Quảng Đông khiến nung ngói lưu ly các sắc xanh vàng lục ở Khố Thượng (nay là gò Long Thọ), để cho công tượng học chế đúng theo như kiểu, xong rồi hậu thưởng cho về" [84, tr.97].


Như vậy, ít nhất đến năm 1810 hệ thống bang đã hiện diện ở Việt Nam. Vậy nhưng, Đào Trinh Nhất lại cho hệ thống bang ngươi Hoa được thành lập vào năm Gia Long thứ 3 (năm 1814) [59, tr.14]. Châu Thị Hải trong khi nghiên cứu về người Hoa cũng nói năm Gia Long thứ 3 (1814) là năm chế độ bang của người Hoa được thể chế hoá [26, tr.71], không rõ hai tác giả đã dựa vào tư liệu nào?


Sự phân chia Hoa kiểu ra từng bang theo đặc điểm đồng hương và đồng tiếng một phần nào đó giúp nhà nước tiếp xúc kiểm tra hoạt động của người Hoa. Thế nhưng, tổ chức bang ra đời trước hết đại diện quyền lợi của chính người Hoa, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và giữ gìn bản sắc dân tộc và xã hội cộng đồng người Hoa ở nước ngoài. Chúng ta không biết được chính xác thời gian ra đời chính thức của bang và thời gian người Hoa bầu ra bang trưởng. Đào Trinh Nhất có nói thời điểm ra đời bang trưởng người Hoa là năm 1824 [59, tr.14], cũng thiếu chính xác cả về niên đại lẫn sự kiện.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Sáu, 2021, 10:07:35 pm
Ở Nam Kỳ, theo thư tịch triều Nguyễn, thấy có 4 bang người Hoa là Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu và Hải Nam [88, tr.88]. Cuối thế kỷ XIX, số lượng người Hoa của bang Quảng Đông có tới 80.000 người, chiếm 40% tổng số người Hoa, bang Phúc Kiến có 33.000 người chiếm 17%, bang Triều Châu 30.000 người chiếm 15% tổng số người Hoa ở Nam Kỳ [26, tr.71].


Theo quy định của triều Nguyễn, trong một vùng nếu có những người Thanh thuộc về một bang và những người cư ngụ thuộc về Minh Hương xã, con cháu của họ nếu hơn 18 tuổi phải ghi tên vào sổ bộ Minh Hương xã, nếu hơn 5 người thì được phép lập ra một xã Minh Hương [102, tr.358]. Những nơi người Hoa ở rải rác trong các xã thôn khác thì họ được ghi vào theo sau sổ hộ khẩu của xã thôn đó và phải theo lệ nộp thuế cho lý trưởng sở tại [63, tr.310]. Vì vậy, có lẽ những người Hoa Châu Đốc sống rải rác ở vùng Thất Sơn, Bình Di,... đều ghép theo các thôn xã Việt. Năm 1842, sau khi triều Nguyễn dẹp yên được khởi nghĩa Thất Sơn, người Thanh, người Thổ ra đầu thú tới hàng nghìn người. Họ được sắp xếp, chia đặt thôn ấp để định cư ở vùng Thất Sơn [102, tr.181]. Từ thời Minh Mệnh vùng Châu Đốc có những phố buôn bán người Hoa như: Vĩnh Hội, Vĩnh Hội Đông [64, tr.349]. Người Hoa ở Châu Đốc chủ yếu là người các bang Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, số lượng các bang xấp xỉ nhau. Người ta quen gọi người Tiều tức là Triều Châu, người Quảng tức Quảng Đông. Đó là do căn cứ vào nguồn gốc xuất phát từ cố quốc. Người Hoa có 3 nghĩa trang rất lớn của vùng này từ xưa đến nay tại núi Sam.


Vào thời Nguyễn, người Hoa Châu Đốc chủ yếu từ Chân Lạp về. Mở đầu, từ thời Gia Long có Diệp Hội từ Chân Lạp về làm cai phủ Châu Đốc, đến đòi Tự Đức ở Châu Đốc có 3 bang người Hoa cũng từ Chân Lạp về [105, tr.168]. Những biến cố chính trị trong khu vực và ở Chân Lạp trong thế kỷ XIX - XX thường làm cho người Hoa ở Chân Lạp phải chuyển cư về Châu Đốc sinh sống.


Như trên đã nói, Thanh Hà xã và Minh Hương xã là một tổ chức tự trị, tự quản của người Hoa đã hiện hữu từ lâu ở Viêt Nam. Sau đó, những tổ chức của những người cùng miền, cùng ngôn ngữ bang xuất hiện. Tổ chức bang thực sự là một tổ chức xã hội biệt lập, nó tồn tại như một mô hình xã hội Trung Hoa truyền thống thu nhỏ, như một bộ phận ổn định trong cơ cấu cư dân Châu Đốc và Việt Nam. Ngoài ra, trong xã hội người Hoa còn có hội quán. Hội quán đầu tiên ra đời từ thế kỷ XVII ở Hội An. Về sau, trong các bang người Hoa ở các miền đều có hội quán. Các hội quán thực chất là các "hội quán đồng hương", là một trụ sở để bàn việc hội đồng, đồng thời "là một cơ quan để trau dồi lễ nghĩa" [31, tr.37], như Trung Hoa hội quán, Phúc Kiến hội quán, Triều Châu hội quán, Quảng Triệu hội quán, Quỳnh Phủ hội quán,... Trong các hội quán "Sùng phụng Thiên Hậu, xuân thu sóc vọng, khi cúng khi cầu, coi muôn người như một nhà, kinh doanh tính toán chẳng nài, chẳng nạnh, cùng nhau hết sức đồng lòng, đau ốm cứu nhau, hoạn nạn giúp nhau, trái phúc mầm lành chẳng khá kể xiết" [31, tr.58]. Ngoài ra, trong sinh hoạt cộng đồng Hoa, Quan Công miếu giữ một địa vị trọng yếu hơn cả, là một trung tâm điếm của xã hội người Hoa ở Châu Đốc.


Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XVIII - XIX, ở Châu Đốc đã hình thành 4 tộc người chủ yếu: Việt, Khmer, Chăm, Hoa. Tuy có nhiều nguồn gốc khác nhau tìm đến Châu Đốc để xây dựng cuộc sống, nhưng phần lớn họ đều là những người dân nghèo, bị áp bức bóc lột... nên họ đều có chung một số phận lịch sử. Đến vùng đất mới, họ phải nương tựa vào nhau để khai phá thiên nhiên hoang sơ đầy khó khăn buổi đầu, chung sức chống thú dữ và thiên nhiên khắc nghiệt và chống ngoại xâm để bảo vệ vùng đất mà mình đã đổ bao nhiêu mồ hôi, công sức, kể cả xương máu để tạo nên ở vùng biên thuỳ hẻo lánh miền Tây Nam Bộ.


Mặc dù có những nét riêng, biệt tộc người trong ngôn ngữ, phong tục tập quán, đời sống tín ngưỡng, tâm linh... nhưng đến vùng đất mới, qua quá trình khai phá, lao động sản xuất và sinh hoạt, do điều kiện địa lý, lịch sử và xã hội... người dân Châu Đốc đã hình thành nên những đặc tính chung, đặc biệt trên phương diện tâm lý xã hội. Đó là những tình cảm coi nhau như anh em, người thân, không phân biệt nguồn gốc, tâm lý quý khách, trọng tình nghĩa, có cung cách ứng xử bộc trực, thẳng thắn, dễ dãi, chí tình nhưng nóng nảy, không chịu khuất phục trước sự áp bức bất công, tinh thần bảo vệ người thân và lẽ phải...


Sự hỗn hợp dân cư từ nhiều nguồn gốc, nhiều tộc người, nhiều tín ngưỡng khác nhau không hề là yếu tố cản trở đoàn kết, gắn bó giữa các tộc người. Giữa các dân tộc đã diễn ra sự bao dung về mặt tín ngưỡng, văn hoá. Người Việt và các tộc người khác có cơ hội thâu thái những nét ưu tú của văn hoá các cư dân khác cùng cộng cư vào bản lĩnh văn hoá của mình, từ việc sử dụng công cụ lao động cho đến phong tục, tín ngưỡng... Sự giao lưu văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần nơi đây rất đậm đà, nhưng thể hiện bản lĩnh văn hoá, sức sống văn hoá của người Việt là chủ đạo.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 09:54:05 pm
Chương 2
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CHÂU ĐỐC THỜI NGUYỄN


1. KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Về kinh tế nông nghiệp, ta có thể chia vùng Châu Đốc thành hai vùng: vùng đồng bằng thấp và vùng núi.

Điển hình của vùng đồng bằng thấp là khu "Tứ giác Long Xuyên", một khu đất trũng. Nhìn một cách đại cương có thể coi 4 đỉnh của khu tứ giác này là Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên. Trừ những "giồng" đất tương đối cao ven bờ sông Hậu, thì cốt đất ở đây thấp, hiện nay chỉ từ 0,8 đến 1,0m so với mặt biển, cách nay hàng trăm năm chắc hẳn cốt đất còn thấp hơn nhiều. Vì vậy, nửa cuối thế kỷ XVII, vùng đất này hầu như chưa có người Việt đến ở.


Vùng đồng bằng giữa sông Tiền và sông Hậu cốt đất cao hơn, phù sa màu mỡ, cuối thế kỷ XVIII đã có một số người Việt đến khai phá. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, người Việt đến đây đông hơn, khai phá rừng làm ruộng, lập thôn ấp. Ngoài một số gia binh cư ngụ xung quanh các đồn, bảo Tân Châu, Châu Đốc, Hùng Ngự, từ năm 1757, có một số lưu dân Việt lánh nạn chiến tranh, như dòng họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Lân [41, tr.320] hoặc những kẻ bỏ ngũ, trốn tránh quân dịch, những kẻ phiêu lưu đi tìm đất mới,...


Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, kinh tế nông nghiệp Châu Đốc dù diện tích còn ít ỏi nhưng khá phồn thịnh. Vùng đất cù lao thời kỳ này đã trồng được rất nhiều cau [82, tr.31], vùng Tân Châu đã có nghề đóng thuyền phát triển [82, tr.31]. Vào năm 1778 trở đi, những tín đồ Công giáo lánh nạn đàn áp của chúa Nguyễn lần lượt đến sinh sống ở vùng Cái Đôi, cù lao Giêng, Bò Ót,... phá rừng, vỡ ruộng, lập làng. Năm 1750, những người Chàm ở Chân Lạp bị ngược đãi cũng về định cư ở làng Châu Giang, bên bờ sông Hậu. Nửa đầu thế kỷ XIX, vào những năm 1841 và 1859, những người Chàm ở Chân Lạp tiếp tục kéo về làm nghề "ngư điếu và khẩn hoang" tại vùng Châu Giang, Bình Di, ven bờ sông Hậu... Những phum, sóc Khmer trải dài vòng quanh sườn núi Thất Sơn theo hình "vành khăn" làm ruộng, rẫy đã làm cho bản đồ kinh tế Châu Đốc thời kỳ này dù còn ít ỏi nhưng hầu như đã có mặt khắp vùng. Những cư dân Châu Đốc thời kỳ này khai phá, làm ruộng rẫy, trồng lúa, hoa màu và khai thác nguồn lợi dồi dào từ tự nhiên để duy trì cuộc sống.


Đầu thế kỷ XIX, để phát triển kinh tế, xã hội và quản lý chủ quyền vùng đất biên thuỳ quan trọng Châu Đốc và Tây Nam, vua Gia Long cho chiêu tập các sắc dân Việt, Khmer, Hoa, Chăm,... đến đây để làm ruộng, trồng cây, nuôi súc vật, buôn bán, làm nghề gốm để phát triển kinh tế [84, tr.311] và phủ dụ quan trấn làm mọi cách để dân yên nghiệp làm ăn [84, tr.311].


Cùng với chính sách trên, triều Nguyễn cho xây dựng kiên cố hơn các đồn, bảo Châu Đốc, Tân Châu, Châu Giang, Chiến Sai và khơi thông các con kênh quan trọng Thoại Hà, Vĩnh Tế, đắp đường, làm cầu,... Vì vậy, dân số vùng Châu Đốc phát triển khá nhanh. Viên trấn thủ Thoại Ngọc Hầu đã lập được 20 thôn mới, vay của nhà nước 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân để làm ăn [88, tr.180]. Đến năm 1831, Châu Đốc có 56 xã thôn và 1.400 đinh,...


Tuy nhiên, triều Nguyễn cho Châu Đốc là vùng biên cương quan trọng mà xa xôi, nên nhà nước chỉ muốn cho dân cư đến ở và phát triển kinh tế để quản lý, bảo vệ chủ quyền là chính chứ không phải vì thuế khoá. Vì vậy, nhà nước đã nhiều lần triển hạn, tha giảm thuế thân và thuế điền thổ [111, tr.300]. Thời kỳ khẩn hoang, nguồn thực phểm từ sông rạch, vùng núi Thất Sơn dồi dào, ăn dùng không hết, người Việt khai thác những nguồn lợi tự nhiên hầu như vô tận đó. Còn lương thực nhiều lúc khó khăn, lưu dân phải lấy bông súng phơi khô, bỏ hạt vào bao tải đập cho tách vỏ ra, lấy hạt nấu ăn cho đỡ đói. Vì hạt bông súng hơi chát, người ta phải độn với gạo, ngô, khoai,...


Vùng đất Tây Xuyên phần lớn là đất thấp trũng phèn (nay là vùng Tứ giác Long Xuyên) nên nông dân Châu Đốc có phương thức làm ruộng trồng lúa nổi, loại lúa mà Châu Đạt Quan đã nói đến ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIII: "có một loại lúa bãi không gieo mà tự mọc, nước cao đến một trượng thì lúa cũng cao cùng" [78, tr.16]. Đó là những giống lúa Tàu, lúa Sạ, giống Tàu Bình, giống Tàu Nút. Nông dân vùng Châu Đốc vẫn có câu: "Cạn thì Tây, sâu thì Tàu" (nơi nước ngập vừa phải thì trồng các giống Nàng Tây Đùm, Nàng Tây,...; nơi nước ngập sâu thì trồng các giông Tàu Bình, Tàu Nút,...) [29, tr.51]. Vào đầu thế kỷ XX, lúa nổi được trồng tập trung nhiều nhất ở vùng Châu Đốc, với 154.460 ha trong tổng số 217.550 ha của toàn vùng Nam Kỳ và với năng suất trung bình 13,4 tạ/ha trong một năm bình thường, không bị thiên tai [29, tr.52].


Vào cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, nếu mưa muộn, đất khô dùng cày hoặc bừa lấp hạt giống. Mức gieo khoảng 40- 50kg một mẫu (80-100 kg/ha) thóc giống. Người làm lúa sạ (lúa nổi) phải tính toán sao cho đến khoảng ngày 5 tháng 5 âm lịch, lúc nước bắt đầu về, thì cây lúa đã lên cao dưới 1m, đủ sức vượt nước. Sau khi sạ xong, hoàn toàn không cần chăm sóc gì cho lúa, "mặc lúa với trời”. Khi lũ về, nước càng lên, thân cây càng vươn dài, ra nhiều rễ phụ. Lúc nước lên, lúa phải chạy đua với nước, cây không đẻ nữa. Gặp năm nước rút chậm, lúa nổi có thể trổ bông trước khi nước xuống.


Bình thường lúa nổi cho năng suất thấp, chỉ 50-60 giạ (10-12 tạ) một hécta, có khi thấp hơn. Năm trúng vụ lúa nổi, năng suất có thể đạt 100-150 giạ (20-30 tạ) một hécta, thậm chí đến 200 giạ (40 tạ/ha). Tuy năng suất thóc thấp nhưng năng suất lao động lúa nổi lại vào loại cao nhất. Nếu làm một hécta lúa nổi chỉ cần 25-30 công lao động, tính ra chỉ cần 2-3,5 công để thu hoạch một tạ lúa nổi [29, tr.53, 54]. Xưa nay ở vùng Châu Đốc thích hợp trồng các loại lúa nổi Ba Sào, Nàng Đùm, Nàng Đùm to, Nàng Qướt, Sông Lớn, Trường Hưng, Đuôi Trâu,... Thời gian sinh trưởng của các giống lúa nổi đều khoảng 200 ngày, có khi 230 ngày, thậm chí đến 250 ngày. Phần lớn các giống lúa nổi đều có gạo đỏ. Lúa nổi có cả nếp lẫn tẻ. Nếp có các giống mù u, nếp đỏ... Phẩm chất gạo thường kém, cơm cứng, xấu mã nên hầu như chỉ tiêu thụ trong vùng [29, tr.54]. Thời kỳ khẩn hoang, lúa nổi có lẽ là nguồn sống của một số lớn cư dân Việt và Khmer vùng trũng phèn Châu Đốc. Đây là hình thức sản xuất lúa khá thích hợp môi trường sinh thái địa phương, khi vùng đất này hầu như bị ngập lụt khá lâu.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 09:54:45 pm
Vào thế kỷ XVIII - XIX, ngoài các giống lúa nổi nói trên, vùng đất Châu Đốc cũng như Nam Bộ còn có nhiều lúa trời (lúa ma). Lúa trời thường mọc lẫn với cỏ năn, cỏ lác. Bông lúa trời ngắn, hạt nhỏ có râu dài, mỗi gié chỉ chừng 3, 4 hạt, hạt dễ rụng, vỏ trấu màu vàng nhạt khá mỏng, nên khi xay lượng gạo có thể chiếm trên 80% trọng lượng thóc. Khi chín, hạt rụng xuống nước, bị vùi xuống lớp phù sa rồi nằm đó đợi đến mùa mưa năm sau gặp nước, gặp ẩm sẽ lại nảy mộng, đâm rễ, ra lá, vượt lên khỏi nước. Người dân vùng Châu Đốc và Nam Bộ vẫn thường đi thu hoạch lúa trời, một nguồn lương thực rất quan trọng thời kỳ này. Người ta đi "đập lúa trời" bằng xuồng, khi lúa chín rộ trên đồng. Mỗi xuồng cần hai ngươi, có thể đập được 50-60 kg/ngày [29, tr.155].


Thời kỳ khẩn hoang, người dân làm đất phát cỏ bằng phảng. Lúc phát cỏ dưới nước, người ta lấy cù nèo gom cỏ lại, đưa cỏ vào bờ, rồi hót lên, chờ cỏ thối, đem trâu trục đất cấy lúa. Đồng ruộng thời đó đỉa rất nhiều, người ta bắt đỉa bỏ vào "cà om" trong đó bỏ thuốc lào cho đỉa chết. Mỗi ngày bắt được nửa cà om đỉa (khoảng 1kg). Những mùa đầu làm lúa, thường bị hươu nai phá, người ta lấy hũ quét vôi trắng vào, mỗi đoạn cắm 1 cái hũ quét vôi, hươu thấy trắng sợ không dám đến phá ruộng. Để bắt cua, khỏi bị chúng phá lúa, ngươi ta phải gói xác mắm treo vào một cái cọc, khi cua tụ lại nhiều thì lấy nơm để bắt cua;... nếu không, tháo nước cho ruộng khô để tránh cua phá lúa. Ở gần người Khmer, người Việt sử dụng cày dơi của họ để cày ruộng, khi đi ra đồng cũng cúng bái "Ông Tà" như người Khmer.


Đến đời Minh Mệnh, để phát triển nông nghiệp "chỗ địa đầu xung yếu", vua xuống chiếu cho chiêu tập dân đi buôn các làng, khai vỡ ruộng đất, làm nhà ở cho thành thôn ấp, nếu có ai vay mượn bạc tiền, thóc gạo để làm vốn sắm đồ làm ruộng thì cấp phát [63, tr.154]. Cho đến cuối năm 1832, quan thành Gia Định tâu: đất Châu Đốc, đã nhiều lần chiêu tập dân cư khai khẩn ruộng đất hơn 20 năm nay, chưa định ngạch thuế. Năm nay quan thành Gia Định sai người đi xem xét thì 41 xã thôn phường phố lý đã lập từ trước, đinh số được hơn 1.100 người, ruộng đất được 9 thửa và 15 thôn phố mới lập, đinh số được hơn 300 người, ruộng chân núi được 5 thửa. Xin châm chước để đặt ngạch thuế. Vua cho những thôn phố mới lập "sinh sống chưa được thừa thãi", cho miễn tô thuế thêm 3 năm, còn những thôn xã lập từ trước thì bắt đầu từ sang năm phải nộp thuế thân, nhưng cho hoãn tô ruộng 1 năm nữa [90, tr.136].


Để phát triển kinh tế vùng biên thuỳ Tây Nam, triều Nguyễn đưa những tù phạm bị sung quân, phát lưu, tội đồ, cho đến những người phải an trí đưa đến làm nô, sung làm việc khổ sai,... ở những nơi bỏ hoang thuộc Lục tỉnh, giao cho lính đồn điền sở tại quản thúc, bắt làm ruộng. Những tù xử tội sung quân, phát lưu, tội đồ thì cứ để nguyên xiềng xích bắt làm việc [99, tr.184]. Tháng 11 năm Tân Tỵ (1821), triều đình cho giải trên 130 tù phạm bị sung quân và bị lưu ở Bắc thành đi Gia Định. Khi đến thành thì bỏ xiềng khoá rồi phát đi Châu Đốc để sai phái, làm việc [85, tr.277]. Năm 1845, những người "vì việc công mà mắc lỗi" ở trong Kinh và ngoài các tỉnh được tha vài chục đều phát đi làm việc ở quân thứ An Giang, "để nhân việc ấy mà lập công" [103, tr.303].


Triều Nguyễn đồng ý theo lời tâu của Nguyễn Tri Phương, tỉnh An Giang tiếp giáp cõi nước Miên, đất bỏ hoang còn nhiều, từ năm 1852 trở đi, đưa những tên tội phạm, trộm cắp... ở 6 tỉnh Nam Kỳ phát giao cho các đồn bảo tỉnh An Giang sai phái. Tên nào dân xã nhận lãnh về thì hết hạn (tội mãn đồ 3 năm) tư giao các tỉnh sức nhận; tên nào dân xã không muốn nhận lãnh, thì lưu lại đồn làm lính, tuỳ tiện cho khai khẩn để cày cấy. Số ruộng khai khẩn được bao nhiêu cho giữ làm sản nghiệp đời đời [105, tr.352].


Như vậy, ở vùng đất Châu Đốc và tuyến Tây Nam, những tù phạm, tội đồ,... là một lực lượng mà triều Nguyễn sử dụng để khai phá.

Để phát triển vùng đất này, triều Nguyễn khuyến khích việc "chiêu dân lập ấp". Vua Thiệu Trị nói rằng: "những đất ở suốt dọc biên giới, phần nhiều bỏ không nếu tùy từng chỗ để cho dân ở, khiến ruộng nương ngày một mở mang, người ở ngày một đông đúc, cũng là một chước hay bền vững cho biên cương". Vua chuẩn cho tỉnh thần An Giang chiếu theo địa thế suốt dọc biên giới trong hạt chỗ nào có thể chiêu dân lập ấp hoặc đặt trường sở giao dịch thì tâu báo, rồi thực hiện [102, tr.356].


Để khuyến khích việc dồn dân lập ấp, triều đình nhiều lần định lệ thưởng phạt việc khai khẩn ruộng hoang cho xã thôn vào năm 1839 [111, tr.73], năm 1841 [101, tr.288], năm 1845 [103, tr.402] và năm 1864 [108, tr.137],... Minh Mệnh ban chiếu rằng: Căn bản của thiên hạ việc nông là quan trọng hơn cả; các viên phủ châu huyện nào có lòng chăm lo cần mẫn về việc cày cấy, trồng tỉa về căn bản (tức nghề nông) mà ra sức làm, thời các quan địa phương nên thường thường khen thưởng để khuyến khích [110, tr.28]. Trong một lần khác, vua dụ bộ Lễ (1835): "việc đầu tiên của chính sự vương giả không gì lớn bằng việc làm cho dân được no đủ" [94, tr.89]. Năm 1839, Minh Mệnh định lệ thương phạt khai khẩn ruộng hoang xứ Nam Kỳ. Hạt nào khai khẩn thêm từ 800 mẫu trở lên thì quan tỉnh được gia lên 1 cấp, từ 600 mẫu trở lên thì thưởng kỷ lục 2 lần và 3 tháng tiền lương, từ 200 mẫu trở lên, được kỷ lục 1 lần. Phủ huyện khai khẩn được 300 mẫu trở lên được thưởng kỷ lục 1 lần, từ 150 mẫu trở lên được thưởng phi long ngân tiền lớn nhỏ đều 4 chiếc, từ 100 mẫu trở lên được thưởng lớn nhỏ 3 chiếc; cai phó tổng từ 100 mẫu trở lên được thưởng tiền 15 quan, 50 mẫu trở lên được thưởng 8 quan, xã thôn trưởng từ 200 mẫu trở lên được thưởng 20 quan, 100 mẫu trở lên được thưởng 18 quan, 50 mẫu trở lên thưởng 10 quan, 20 mẫu trở lên thưởng 4 quan. Nếu địa phương nào bỏ hoang nhiều cũng bị phạt theo thứ bậc [111, tr.73].


Vùng biên thuỳ Châu Đốc thường là nơi chiến trường chính của những cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Sau cơn binh hoả, nông dân phiêu tán, mùa màng thiệt hại, ruộng đất bỏ hoang nhiều, vì vậy, nhiều lần nhà nước phải gia tâm, chiêu dụ vỗ về dân chúng. Sau cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi năm 1833, Minh Mệnh dụ rằng: đối với những người buôn bán quanh phố sợ hãi tản đi, thì hợp lại cho yên, đối với tiểu dân ở chỗ xóm làng phiêu bạt, thì gọi về cho yên ở, cốt sao cho chợ không đổi cửa hàng, người đều ở yên. Còn ruộng nương có chỗ bỏ hoang, nên kịp thời khuyến khích cày cấy. Phàm ruộng nào nên cấy thì bảo cấy thêm. Đến như khoai, đậu, rau và lúa mạch có thể ăn cho khỏi đói thì bảo dân trồng, khiến cho đất không có chỗ bỏ không, dân có chỗ nhờ sống thì sau khi được yên có thể mong lại đủ trọn vẹn được. Đấy là một nỗi khổ tâm của ta lo lắng cho dân, chưa từng lúc nào nằm được yên gối [91, tr.44].


Nhà nước đã nhiều lần giảm miễn thuế cho dân vùng Châu Đốc. Gia Long cho rằng, châm chước ngạch thuế, đổi định lại thuế nhẹ "để khỏi đau khổ cho dân" [83, tr.95]. Minh Mệnh thì nói: "phàm những ruộng đất, sản vật có tương quan mật thiết với sức người, sức của của nhân dân, phải được giảm nhẹ sắc thuế để biểu thị một nền chính trị khoan hồng, quảng đại của triều đình" và vấn để trước hết là "phủ dụ, nâng niu vùng biên thuỳ" [111, tr.350, 351]. Vì vậy, năm 1817, Gia Long miễn thuế thân và lao dịch 1 năm cho dân xiêu dạt 14 thôn ở Vĩnh Thanh và hạ lệnh cho trấn thần gọi trở về [84, tr.328]. Đối với người Khmer, năm Tự Đức thứ 2, hạn cho 5 năm mới thu thuế, đến năm Tự Đức thứ 3 lại hoãn thêm cho 3 năm, năm Tự Đức thứ 10 lại hoãn thêm cho 1 năm, tổng cộng miễn thuế là 9 năm, số ruộng mới khẩn thì cho vào hạng ruộng núi, đất cho vào hạng đất trồng khoai đậu [106, tr.356]. Triều đình giảm miễn thuế cho các bang người Hoa năm cuối đời Minh Mệnh và 2 năm đầu thời Thiệu Trị vì chiến tranh phải xiêu tán.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 09:55:44 pm
Với sự quan tâm, khuyến khích của nhà nước, từ sau 1802 cho đến cuối thời Minh Mệnh, kinh tế nông nghiệp vùng Châu Đốc đã có những biến chuyển căn bản. Trong tổng diện tích đất canh tác 33.396 mẫu 3 sào có 616 mẫu 3 sào 2 thước đất trồng cau, 5.421 mẫu 4 sào 1 thước đất trồng khoai đậu, 628 mẫu 5 sào đất trồng dâu, 2.408 mẫu 3 sào đất vườn... Bởi vậy, nông nghiệp Châu Đốc hằng năm đã sản xuất ra một khối lượng khá lớn thóc gạo, nông phẩm để nuôi sống cư dân, bán ra thị trường trong vùng và Chân Lạp, bán cho "kho Thường bình" ở Tĩnh Biên [106, tr.52]. Là vùng biên khổn quan trọng, lương quân Hà Tiên và Nam Vang hằng năm đều do An Giang cấp, vì vậy, những kho đụn, lương thảo ở Châu Đốc phải luôn được tích trữ nhiều. Ngoài ra, quân Nguyễn đóng ở Châu Đốc rất nhiều, "đông như mây họp", để khi cần trưng điệu cho gần. Bởi vậy, ngoài lương quân đưa từ tỉnh khác đến, hằng năm An Giang phải mua rất nhiều thóc gạo của dân để làm lương quân [97, tr.60]. Ngoài việc quân nhu tốn kém, các công trình kinh tế - xã hội khác ở Châu Đốc cũng tiêu tốn một lượng lương thực lớn. Hàng nghìn binh dân đào kênh Thoại Hà (1817), hơn 80.000 người đào kênh Vĩnh Tế từ năm 1820-1824, mỗi người mỗi tháng 1 phương gạo, cũng như việc chi 21.021 phương gạo cho 12.000 dân đào kênh Vĩnh An (1843-1844)..., không lấy đâu khác ngoài nông phẩm của dân Châu Đốc và Nam Kỳ.


Vì vậy, nông nghiệp Châu Đốc thời kỳ này đã có những vai trò nhất định trong phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tây Nam.

Để phát triển kinh tế nông nghiệp, ngoài việc đưa lực lượng tù phạm... đến Châu Đốc để khai phá, ngoài chính sách chiêu dân lập ấp, khuyến khích khai khẩn đất hoang như nói trên, triều Nguyễn còn thực hiện chính sách đồn điền ở vùng Tây Nam. Việc làm đồn điền ra đời đã từ lâu trong lịch sử và cũng có từ thời Nguyễn Ánh. Đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn nhận thức rất rõ vai trò và vị trí của nó, "đồn điền là phép hay thời xưa" nên triều Nguyễn tiếp tục thực hiện trong cả nước, đặc biệt là vùng biên thuỳ Tây Nam, mà trọng điểm là vùng Châu Đốc - Hà Tiên.


Bởi vì, biên thuỳ Tây Nam đất rộng người ít, "người lo việc nước xướng lên nghị này để chiêu tập dân lưu vong, dồn làm cơ đội. Nay tuy ruộng ấy gọi là đồn điền, nhưng về sau để làm sản nghiệp của dân lâu dài. Thực là một kế hay" [166, tr.43]. Vì vậy, khi mang cờ tiết đến miền Nam làm Kinh lược sứ, một trong 13 việc được Nguyễn Tri Phương dâng sớ tâu bày là họp những dân nghèo túng cho đi làm đồn điền để giúp kế sinh sống [105, tr.253]. Minh Mệnh cũng dụ rằng: "Mộ dân làm đồn điền có lợi rất nhiều. Lúc vô sự thì ở yên cày cấy, quân thừa lương, dân thừa ăn, lúc có việc thì bảo vệ cho nhau, dân đều là quân, giữ thì vững, đánh thì thắng. Đó là mưu kế tốt nhất để đủ lương, đủ quân, có thể giữ vững bờ cõi và phòng bị giặc ngoài" [95, tr.28].


Do đó, trước thời Nguyễn Tri Phương làm đồn điền ở Nam Kỳ, năm 1822 Minh Mệnh đã đổi danh hiệu đồn điền bốn phủ ở Gia Định cho theo ngạch lính [112, tr.120] và đến năm 1832, ở An Giang đã dồn bổ các lính ở đồn điền cũ vào 4 cơ thuộc tỉnh là An Nghị Tả, An Nghị Hữu, An Nghị Tiền và An Nghị Hậu, sau đó những biền binh đồn điền khai khẩn được hơn 700 mẫu ruộng [102, tr.358]. Năm 1836, Minh Mệnh quy định chỉ bắt trả thóc giống khi thu hoạch còn bao nhiêu lính đồn điền được hưởng [96, tr.78]. Năm 1839, triều đình quy định, mùa thu hoạch ruộng đồn điền lấy một nửa bỏ vào kho, còn một nửa cấp cho người làm đồn điền và đình chỉ việc cấp khẩu lương [110, tr.87]. Cho đến tháng Giêng năm Quý Sửu (1853), chuẩn cho xứ Nam Kỳ làm phép đồn điền lập ấp. Triều đình thông sức cho cả nước, cho tình nguyện ứng mộ, mộ được bao nhiêu, giao cho 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, còn dư cho qua Vĩnh Tế, Ba Xuyên, Tĩnh Biên, chỗ nào đất hoang thời cứ ở mà cày. Như mộ người đồn điền thời thúc làm lính đồn điền, chia 50 người Kinh làm 1 đội, 500 người làm 1 cơ, nhưng mộ người lập ấp thì phải được 10 người trở lên, mới cho tuỳ chỗ khai khẩn lập bộ, người Thanh mộ cũng cho. Người nào mộ lính đồn điền được một đội cho bổ suất đội, được 1 cơ cho bổ chánh đội thứ sai phó quản cơ. Ngày sau thành căn cước, một đội làm 1 ấp, 1 cơ làm 1 tổng, còn quản cơ, suất đội đều lãnh chức tổng trưởng, ấp trưởng. Người nào mộ dân lập ấp được 30 người tha xâu thuế trọn đời, được 50 người được thưởng chánh bát phẩm nhưng lãnh chức tổng lý. Còn thuê ruộng đất hiện khẩn và thuê đinh đều cho khoan hạn 10 năm mới bắt đầu thu để tỏ sự khuyến khích cho người ứng mộ [105, tr.372].


Chính sách lập đồn điền của nhà Nguyễn ở Tây Nam nhằm thực hiện theo kế hoạch "tĩnh vi nông, động vi binh" ở vùng biên thuỳ. Vì vậy, triều đình đồng ý theo lời Phạm Thế Hiển (tuần phủ Gia Định). Phàm con đường quan yếu giáp nước Miên, thì mộ dân dời đến đấy, đóng đồn luyện võ, chia làm làng ấp, dồn thành đội ngũ, khi vô sự thì tản cư khai khẩn, lúc có việc thì đoàn kết canh giữ. Đến vài năm, dân tự đông, đất mở rộng, binh giỏi mạnh, lương thực nhiều, giải hoà thì giữ bền, chiến tranh thì tất phải thắng [105, tr.403].


Cũng cuối năm 1853, triều đình đồng ý cho thực hiện theo kế hoạch của Nguyễn Tri Phương. Ở Hà Tiên, An Giang chia ghép đất ở cho bọn tù được tha hoặc 300 hoặc 700 tên, dồn làm đội ngũ Hướng Thiện, Quy Thiện, cấp vốn cho khẩn ruộng, hạn cho 10 năm phải nộp giả đủ [105, tr.418]. Cùng thời gian đó, biên dân Hà Tiên ứng mộ khai khẩn ở Tiền Giang tất cả 500 người, ở Hậu Giang 435 người, Nguyễn Tri Phương đã dồn làm cơ Ninh Biên nhất, nhị, tam [105, tr.418].


Một năm sau Nguyễn Tri Phương tâu về: Hiện nay đã dồn thành cơ đội được 21 cơ, lập thành làng mạc trên dưới 100 ấp, chia đặt cho đóng đồn sự thể đã nghiêm, hình thức đã thành, không đến nỗi dân dễ tán đi nữa. Bấy giờ lập ra cơ đội thì An Giang có 2 cơ An Vũ, An Dũng. Lại còn những người ứng mộ đi sông Vĩnh Tế thì ở An Giang dồn riêng làm 4 cơ Ninh Biên nhất, nhị, tam, tứ. Lập thành làng ấp thì Nam Kỳ có 124, An Giang có 23 ấp [106, tr.48]. Năm 1854, tỉnh An Giang cũng tâu phủ huyện ở hạt ấy khuyên bảo người dân trong hạt dự chứa được 48.000 phương thóc, lại trồng được khoai, củ và ngô so với năm ngoái gấp 3, 4 lần. Phủ Tuy Biên trồng hơn 6.006 mẫu ngô [106, tr.52]. Đến năm 1856, tỉnh An Giang và Hà Tiên đều báo cáo chiêu mộ được 1.646 dân đinh, lập 159 thôn ấp, khẩn 8.333 mẫu ruộng. Tháng 5 nhuận năm Đinh Tỵ (1857), Nguyễn Tri Phương về kinh tâu, hiện nay 6 tỉnh được mùa, thóc gạo thừa ăn [106, tr.338]. Tuy nhiên, việc đồn điền "lợi nước, lợi dân mà không lợi cho tổng lý, vậy nên tổng lý đặt điều" [112, tr.297] và binh ở đồn điền phần nhiều là "dân không có căn cứ" làm bậy, bỏ trốn... Mặc dù việc đồn điền có những hạn chế, nhưng hiệu quả thì thấy rõ, nên về sau năm 1867 triều Nguyễn vẫn tiếp tục đặt ra đồn điền ở nơi khác (Bắc Ninh).


Như vậy, dù còn có những hạn chế, nhưng biện pháp đồn điền đã có những tác dụng tích cực, phát triển diện tích canh tác, mở rộng các điểm định cư của người Việt, "tịch thổ tráng biên" (mở rộng đất đai, làm mạnh biên giới), tăng cường khả năng phòng thủ biên thuỳ. Thực tế là khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, lo sợ quân đồn điền, nên giải tán các đồn điền do triều Nguyễn lập ra.


Chính sách đồn điền của triều Nguyễn thực sự là biện pháp "tĩnh vi nông, động vi binh" tích cực, cùng với chính sách khẩn hoang, chiêu dân lập ấp... ở vùng Châu Đốc và Tây Nam đã làm kinh tế nông nghiệp phát triển, mở rộng các vùng định cư người Việt, góp phần củng cố ổn định kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng ở vùng biên thuỳ quan trọng này.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 09:57:15 pm
2. TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT CHÂU ĐỐC THEO ĐỊA BẠ NĂM 1836

Ở nước ta xưa, các triều đại phong kiến đã thực hiện đạc điền và phân hạng đất nhằm nắm đất đai cả về số lượng và chất lượng. Năm 1092, nhà Lý lần đầu tiên ra lệnh đo đạc ruộng đất, lập điền bạ để đánh thuế theo diện tích. Thời nhà Lê thế kỷ XV, ruộng đất đã được phân ra các hạng nhất, nhị, tam nhằm phục vụ cho chính sách quân điền và định mức tô thuế.


Các năm 1805, 1810, 1836, 1840, nhà Nguyễn đã tiến hành làm địa bạ thống nhất cho các xã thôn, tiến hành phân đẳng định hạng ruộng đất thành tứ đẳng điền (ruộng lúa), lục hạng thổ (ruộng trồng màu), làm cơ sở cho chính sách tô thuế, mua bán ruộng đất và quân cấp đất công cho dân chúng.


Dưới thời phong kiến, khi mà sản phẩm sản xuất nông nghiệp nuôi sống toàn bộ xã hội thì đất đai có vai trò quan trọng đặc biệt. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp.


Sau khi đạc điền thổ và lập địa bạ ở miền Bắc, miền Trung, năm 1836 triều Nguyễn sai Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế và Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng sung làm Kinh lược đại sứ cầm phù tiết thay vua kinh lý Nam Kỳ [96, tr.51], trong đó việc đo đạc điển thổ, lập địa bạ là trọng yếu. Cho đến tháng 5, việc đạc điền, lập sổ địa bạ 2 tỉnh Biên Hoà, Gia Định đã xong, còn lại Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên cũng hoàn tất vào ngày 3 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 17. Vì vậy, tư liệu chủ yếu để khôi phục bức tranh toàn cảnh về tình hình ruộng đất Châu Đốc thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX là các địa bạ có niên hiệu năm Minh Mệnh thứ 17 nói trên. Các địa bạ này đều là bản gốc hiện lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I - Hà Nội.


Việc đạc điền thổ ở Nam Kỳ lục tỉnh được coi là một thành công lớn của triều Nguyễn. Tuy nhiên, một công việc lớn lao và khó khăn như thế mà chỉ thực hiện trong một thời gian ngắn nên không thể đầy đủ và chính xác. Vì vậy, đã xảy ra tình trạng người có ruộng nhiều thì ghi vào sổ ít, người có ruộng ít thì ghi vào sổ nhiều, ruộng hoang lại ghi là ruộng thực canh, ruộng của người này ghi thành ruộng của kẻ khác. Vì thế, các quan để nghị khám chữa lại cho đúng. Triều đình đã hai lần sức khắp các xã thôn lục tỉnh nếu có sai, nhầm thì kêu bày để khám lại và sửa chữa [56, tr.36]; [89, tr.127]. Tuy nhiên, về sau không thấy sử triều Nguyễn nói tới việc này, nên không rõ kết quả ra sao.

a- Tình hình ruộng đất Châu Đốc

Đất Châu Đốc vào thời kỳ này là phủ Tuy Biên thuộc tỉnh An Giang của Nam Kỳ lục tỉnh, gồm có 2 huyện Đông Xuyên và Tây Xuyên. Phủ Tuy Biên gồm có 91 thôn thì chỉ còn 77 thôn có địa bạ (chiếm 84,62%), còn 14 thôn bị mất địa bạ (chiếm 15,38%). Trong 77 thôn còn địa bạ, có 53 thôn có kê khai ruộng đất (68,9%), còn 24 thôn mới lập, chưa kê khai ruộng đất (31,1%).


Ruộng đất phủ Tuy Biên không phân phối đồng đều cho các huyện, tổng và xã thôn, vì lịch sử khai phá sớm muộn và điều kiện tự nhiên khác nhau.

Hai huyện chia nhau: Đông Xuyên: tổng diện tích canh tác 24.785 mẫu 5 sào 2 thước (viết tắt là 24785.5.2), chiếm 74,2%. Tây Xuyên: tổng diện tích canh tác 8610.8.7 thước, chiếm 25,8%.

Huyện Tây Xuyên ở phía tây sông Hậu, có vùng đồi núi hoang vắng và vùng Tứ giác Long Xuyên trũng phèn, sát biên giới hầu như chưa được khai phá, phần lớn ruộng đất nằm ở huyện Đông Xuyên, là vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu, đồng bằng phù sa màu mỡ.

Như vậy, tỷ lệ diện tích của 2 huyện:

1. Huyện Đông Xuyên chiếm 74,20%.

2. Huyện Tây Xuyên chiếm 25,80%.


Sơ đồ tổng diện tích của 7 tổng:

1. Tổng Chu Phú - TX, có 102.2.3, chiếm 0,3%

2. Tổng Định Thành - TX, có 1625.6.8, chiếm 4,9%

3. Tổng An Thành - ĐX, có 1966.3.9, chiếm 5,9%

4. Tổng An Lương - ĐX, có 2417.7.3, chiếm 7,2%

5. Tổng An Toàn - ĐX, có 5904.3.14, chiếm 17,67%

6. Tổng Định Phước - TX, có 6882.9.11, chiếm 20,6%

7. Tổng An Phú - ĐX, có 14497.0.6, chiếm 43,4%.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Bảy, 2021, 10:02:07 pm
Bảng 1. Thống kê Địa bạ năm 1836

Đơn vị tính: mẫu.sào.thước.tấc

(https://i.imgur.com/p0NlHBA.jpg)
(https://i.imgur.com/6inREYv.jpg)
(https://i.imgur.com/OR4iq83.jpg)


Trong tổng số 91 thôn vùng Châu Đốc, thì có 14 thôn bị mất địa bạ, chiếm 15,38%, còn 77 thôn có địa bạ (chiếm 84 62%), có 24 thôn mới lập không có ruộng đất hoặc chưa kê khai ruộng đất. Còn lại 53 thôn có ruộng đất, nhưng có sự chênh lệch khác biệt rất lớn về diện tích.

- 24 thôn mới lập, chưa khai ruộng đất thực canh
- 8 thôn có từ 2.5.3 đến dưới 10.0.0
- 9 thôn có từ 10-0.0 đến dưới 50.0.0
- 1 thôn có từ 50.0.0 đến dưới 100.0.0
- 9 thôn có từ 100.0.0 đến dưới 300.0.0
- 4 thôn có từ 300.0.0 đến dưới 400.0.0
- 5 thôn có từ 400.0.0 đến dưới 700.0.0
- 6 thôn có từ 700.0.0 đến dưới 1500.0.0
- 1 thôn có từ 1500.0.0 đến dưới 2000.0.0
- 2 thôn có từ 2000.0.0 đến dưới 3000.0.0
- 2 thôn có từ 3000.0.0 đến dưới 4000.0.0
- 1 thôn có từ 4000.0.0 đến dưới 4.090.6.4.

Như vậy, có 24 thôn chưa có ruộng đất = 12,98% tổng số thôn.

42 thôn sở hữu dưới 1000.0.0 = 79,2% tổng số thôn.

11 thôn sở hữu từ 1000.0.0 đến 4090.6.4 = 20,8% tổng số thôn.

Nhưng tính theo tuyệt đối thì:

24 thôn hoàn toàn không có ruộng đất.

42 thôn chiếm 10.847.7.12 = 32,5% số ruộng đất.

11 thôn chiếm 22.547.5.12 = 67,5% số ruộng đất.

Tuy nhiên, vùng Châu Đốc có diện tích ruộng đất bình quân trên 630.0.0/thôn là cao nhất lục tỉnh Nam Kỳ và là cao nhất cả nước vào năm 1836.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:53:25 pm
b- Ruộng đất thuộc sở hữu công

Địa bạ năm 1836 không đo đạc và ghi chép đất đai thuộc quốc gia công thổ như rừng, núi, đường đá, hào luỹ, duy nhất chỉ ghi ở vùng Châu Đốc có 2 sở đồn, bảo thuộc địa phận thôn Long Sơn. Địa bạ chỉ đo đạc và ghi chép cẩn thận các loại hạng ruộng đất để tính quyền sở hữu và để tính thuế.


Ruộng đất thuộc sở hữu công, tức sở hữu nhà nước tại Nam Kỳ lục tỉnh xưa chia làm 2 loại:

- Dân cư thổ, là đất để cho dân chia nhau làm nhà ở, chia một lần rồi thôi, không phải chia lại. Như Trương Đăng Quế đã nói: "những đất dân cư ở vùng đất hoang và gò đống, trong sổ trước không ghi tên người nộp thuế, thì liệt vào hạng dân cư thổ, miễn thuế; nếu có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng công thô [134, tr.211].

Dân cư thổ ở vùng Châu Đốc không nhiêu, chỉ có 104.6.3.


- Công điền công thổ, là ruộng đất thuộc sở hữu công, tức thuộc sở hữu quốc gia, dành để cho dân làng chia nhau canh tác theo những "khẩu phần" và định kỳ (3 năm hoặc 6 năm chia lại) do triều đình ban hành.


Công điền công thổ ở vùng Châu Đốc không nhiều lắm, chỉ có 2691.1.10 và việc phân chia cũng không phức tạp. Công điền công thổ của thôn nào thì do thôn nấy chia nhau canh tác mà trong địa bạ ghi là bản thôn đồng canh.


Tuy nhiên, nguồn gốc ruộng đất công ở Châu Đốc ra đời từ nhiều lý do:

+ Có nguồn gốc từ ruộng đất tù phạm canh tác. Triều Nguyễn quy định, những nơi nào có đồn điền, đều lượng trích những ruộng đã thành điển cho tù phạm quản nhận cày cấy,... Những ruộng tù phạm làm không hết, cho dân nào cận tiện đấy cày cấy nộp thuế sung làm công điền [100, tr.51].

+ Từ nguồn gốc, có người ruộng nhiều cày cấy không hết báo lên quan, phát giao cho người trong thôn xã nhận cày cấy, được sung làm ruộng công [111, tr.74].

Tính chung công điền công thổ vùng Châu Đốc có 2795.4.10, chiếm 8,4% tổng diện tích ruộng đất.

Công điền công thổ phân phối không đều, nơi nhiều nơi ít, như huyện Đông Xuyên có 8,3% (2056.0.8/24785.5.2), trong khi huyện Tây Xuyên lại có 8,5% (739.4.2/8610.8.7) và riêng tổng Chu Phú - huyện Tây Xuyên có tới hơn một nửa diện tích ruộng đất (56%), là công điền công thổ (57.2.3/102.2.3). Thậm chí, có thôn công điền công thổ chiếm 100% tổng diện tích ruộng đất: Vĩnh Thịnh Trung (Định Thành), Vĩnh Lạc (Chu Phú), An Nông (Chu Phú), Vĩnh Tế Sơn (Chu Phú), Vĩnh Thông (Chu Phú), Vĩnh Điểu (Chu Phú), Vĩnh Lộc (An Lương), Vĩnh Thọ (Chu Phú). Tuy nhiên, đây là những thôn có ruộng đất rất ít, thôn cao nhất chỉ có 18.1.0.


Thống kê ruộng đất ở vùng Châu Đốc cho thấy: Trong 53 thôn có ruộng đất thì 41 thôn có ruộng đất tư (chiếm 77,3%). Số lượng diện tích ruộng đất công chiếm 2795.4.10/33396.3.9 (chiem 8,4%).


Như vậy, so với diện tích ruộng đất công ở miền Bắc, miền Trung thì diện tích ruộng đất công ở Châu Đốc rất thấp: 8,4% trong tổng diện tích, so với Nam Bộ (7,57%) thì tỷ lệ ruộng công Châu Đốc thuộc loại cao hơn mức trung bình.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:55:12 pm
c- Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (phán canh)

Ruộng đất của từng chủ canh tác trên một diện tích hay của hai ba chủ canh tác trên một diện tích hoặc ruộng họ đều được coi là tư điền tư thổ.

Ruộng đất tư ở vùng Châu Đốc có mấy đặc điểm sau:

+ Vừa là phân canh, vừa là phụ canh: Trên một diện tích canh tác có khi có 2 chủ cùng sở hữu, trong đó một chủ là người của bản thôn còn chủ kia là người khác thôn, thậm chí khác tổng, huyện. Chúng tôi tạm xếp những trường hợp này thuộc sở hữu phụ canh để tiện cho phân loại ruộng đất. Như trường hợp địa bạ thôn Thịnh Hoà Trung, tổng Định Phước, huyện Tây Xuyên ghi 1 ngươi trong thôn là Võ Văn Bảo, đồng sở hữu một diện tích 17.3.0 với Văn Phú Thuận ở thôn Thái Thuận cùng tổng [200, tập I].

+ Vừa là ruộng đất của bình dân vừa là ruộng đất của chức dịch: Trên một diện tích phân canh, có khi có hai hoặc ba chủ cùng phân canh, nhưng có trường hợp một người cùng thôn là dân thường còn người kia là chức dịch trong thôn. Vì vậy, việc xếp loại thửa ruộng đất đó thuộc ruộng đất chức dịch hay không đã trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi tạm xếp diện tích ruộng đất đó vào sở hữu chức dịch cho dễ xử lý trong phân loại sở hữu và trên thực tế canh tác. Như trường hợp viên dịch mục thôn Bình Đức (tổng Định Thành, huyện Tây Xuyên) cùng sở hữu với 2 người khác trong thôn là Thái Văn Tâm và Lê Văn Minh một thửa ruộng 9.0.0 [206, tập I].

+ Trong một diện tích có nhiều người sở hữu (đồng sở hữu) như:

* Đỗ Văn, Nguyễn Văn Nhiên và Nguyễn Văn Tự (thôn Thịnh Hoà Trung) cùng phân canh một số diện tích 12.5.8 và một số diện tích khác 2.0.0 [200, tập I].

* Địa bạ thôn Mỹ Phước ghi 2 chủ: Đặng Thị An và Phan Thị Tuế đồng phân canh 6.0.0 [197, tập I].

* Địa bạ thôn Bình Đức ghi 3 chủ Nguyễn Văn Hoà, Lê Văn Thắng và Vũ Văn Yến phân canh một diện tích 8.0.0 [206, tập B9].

* Lê Văn An và Nguyễn Văn Bình (thôn Bình Hoà Trung), cùng sở hữu 15.5.0 [207, tập B9].

* Mai Thị Hương và Mai Thị Bình cùng sở hữu 2 thửa 13.9.6 thước và 1.4.4 (thôn Mỹ Hưng) [182, tập A4].


Tổng diện tích ruộng đất tư vùng Châu Đốc có 30600.8.14, chiếm 91,6% tổng diện tích ruộng đất, thấp hơn trung bình diện tích lục tỉnh Nam Kỳ (92,43%).

Trong đó, diện tích ruộng đất tư từng huyện như sau:

1. Huyện Đông Xuyên có 22729.4.9, chiếm 91,7% ruộng đất tư toàn huyện.

2. Huyện Tây Xuyên có 7871.4.5, chiếm 91,5% ruộng đất tư toàn huyện.


Ruộng đất tư các tổng:

1. An Lương: 2267.6.10 = 93,8% tổng diện tích.

2. An Toàn: 5174.2.6 = 87,6% tổng diện tích.

3. An Phú: 13358.8.8 = 92,2% tổng diện tích.

4. An Thành: 1928.7.0 = 98,1% tổng diện tích.

5. Định Thành: 1363.9.3 = 83,9% tổng diện tích.

6. Định Phước: 6462.5.2 = 93,9% tổng diện tích.

7. Chu Phú: 45.0.0 = 44% tổng diện tích.


Nhìn vào diện tích sở hữu tư nhân ở Châu Đốc ta thấy:

Các tổng của huyện Đông Xuyên, vùng cù lao giữa hai sông ruộng đất phù sa màu mỡ, được khai khẩn sớm nên diện tích khá nhiều. Còn hai tổng Định Thành, Định Phước của huyện Tây Xuyên, là vùng đồng bằng phía nội địa được khai khẩn sớm, diện tích ruộng đất khá lớn.


Riêng tổng Chu Phú nằm dọc theo đường biên giới, mặc dù có số thôn nhiều nhất trong vùng (25 thôn) nhưng diện tích ruộng đất ít nhất trong vùng (45.0.0), do phần lớn là thôn mới lập (15 thôn) chưa kể khai ruộng đất; có 3 thôn có ruộng đất tư nhưng ít, thôn Vĩnh Ngươn nằm sát ngay trấn lỵ Châu Đốc nhưng chỉ có 23.7.0, còn thôn Vĩnh Thành thì ít nhất 9.9.0.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:56:22 pm
d. Ruộng đất tư nhân phụ canh

Ruộng đất của người trong thôn canh tác gọi là phân canh, ruộng đất của thôn mà do người ngoài thôn (tổng, huyện, phủ, tỉnh) canh tác gọi là phụ canh. Thuế ruộng đất không phân biệt phân canh hay phụ canh. Có thôn nhiều ruộng đất phụ canh, có thôn ít phụ canh.

Diện tích phụ canh toàn vùng Châu Đốc gồm 2396.9.14, chiếm 7,2% tổng diện tích toàn vùng.

Diện tích phụ canh từng tổng như sau:

1. An Lương: 108.0.0 = 4,5% diện tích toán tổng.

2. An Toàn: 340.8.3 = 5,8% diện tích toàn tổng.

3. An Phú: 782.2.9 = 5,4% diện tích toàn tổng.

4. An Thành: 53.7.8 = 2,7% diện tích toàn tổng.

5. Định Thành: 283.14 = 17,4% diện tích toàn tổng.

6. Định Phước: 825.7.9 = 12,0% diện tích toàn tổng.

7. Chu Phú: 3.5.0 = 3,4% diện tích toàn tổng.

Ruộng đất phụ canh của Châu Đốc có trường hợp trên một diện tích có người trong thôn và người khác thôn cùng sở hữu, như đã nói ở phần phân canh. Tuy nhiên trường hợp này ít xảy ra. Tình hình phụ canh phổ biến hơn là người khác thôn, tông và huyện đến phụ canh. Tuy nhiên, hầu hết người phụ canh ở thôn kế cận, tổng kế cận hay huyện kế cận. Địa bạ cũng có nhiều trường hợp người phụ canh ở tỉnh khác (Định Trường). Tuy nhiên, các trường hợp phụ canh ở gần với đất Châu Đốc (phía bắc sông Tiền), không thấy có trường hợp nào phụ canh ở địa phương quá xa vùng Châu Đốc.


So với tình hình sở hữu phụ canh ở miền Bắc, miền Trung thì tỷ lệ ruộng đất phụ canh ở Châu Đốc nhiều hơn, song là đặc điểm chung giống các vùng khác ở Nam Kỳ, phản ánh tình hình giao lưu ruộng đất và đặc điểm khai phá của vùng Nam Kỳ thế kỷ XIX.


e- Tỷ lệ sở hữu của phụ nữ

Tổng số diện tích sở hữu của phụ nữ 4.826.6, chiếm 16,1% tổng diện tích ruộng đất, với 673 thửa. Trung bình thửa 7.1.7.

Diện tích sở hữu của phụ nữ ở từng tổng:

1. An Lương: 364.8.1 = 16,0% tổng diện tích.

2. An Toàn: 698.6.7 = 13,5% tổng diện tích.
   
3. An Thành: 143.7.13 = 7,5% tổng diện tích.

4. An Phú: 2572.5.9 = 19,3% tổng diện tích.

5. Định Thành: 123.2.2 = 9,0% tổng diện tích.

6. Định Phước: 923.7.6 = 14,3% tổng diện tích.

Như trên trình bày, sở hữu của phụ nữ chiêm 16,1% diện tích ruộng đất, phản ánh trong chế độ phong kiến Việt Nam mặc dù tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại khá nặng nề, nhưng về quyền lợi kinh tế người phụ nữ vẫn được xã hội thừa nhận và ở vùng Châu Đốc tỷ lệ sở hữu ruộng đất của phụ nữ khá cao.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Bảy, 2021, 08:57:28 pm
g- Sở hữu của chức dịch

Diện tích của chức dịch có: 1604.8.10, chiếm 4,8% tổng diện tích toàn vùng. Trong đó, diện tích của các tổng gồm:

1. Tổng An Lương: 127.3.5 = 5,6% tổng diện tích.

2. Tổng An Toàn: 176.8.14 = 3,4% tổng diện tích.

3. Tổng An Phú: 449.5.13 = 3,4% tổng diện tích.

4. Tổng An Thành: 314.1.0 = 16,3% tổng diện tích.

5. Tổng Định Thành: 200.9.2 = 14,7% tổng diện tích.

6. Tổng Định Phước: 329.7.6 = 5,1% tổng diện tích.

7. Tổng Chu Phú: 6.0.0 = 13,0% tổng diện tích.


Ở Châu Đốc, ruộng đất của chức dịch được tính cho những người có tên trong địa bạ gồm quan lại cấp tổng, cai tổng, phó tổng, thôn trưởng, lý trưởng, dịch mục, người bản thôn làm "tả bạ".

Tổng số thửa ruộng đất 176. Tổng diện tích 1604.8.10. Trung bình thửa 9.7.0.

Người có diện tích nhiều nhất: 158.4.0 (Nguyễn Văn Hiền, thôn Tiến An).

Ngươi có diện tích ít nhất: 1.0.0 (2 người, Nguyễn Văn An, thôn Long Sơn và Lê Văn Tuyên, thôn Thái Thuận). Tổng số 78 người. Trung bình sở hữu 20.5.7.

Thôn có diện tích nhiều nhất: Tân Lộc (An Phú): 314.8.8.

Thôn có diện tích ít nhất: Nhân Hoặ (An Phú): 2.1.10.

Diện tích trung bình: 41.1.0/thôn.

Tuy nhiên, trong số sở hữu chức dịch có trường hợp một diện tích có 2, 3 chủ sở hữu, trong đó một người là chức dịch còn người khác chỉ là người trong thôn. Như trường hợp viên dịch mục thôn Bình Đức đồng sở hữu với 2 "bản thôn nhân" Thái Văn Tâm và Lê Văn Minh một thửa ruộng 9.0.0 [206, tập B9]. Trong những trường hợp này để dễ cho việc tính sở hữu chúng tôi tạm xếp vào sở hữu chức dịch.


Dưới chế độ phong kiến thế kỷ XIX, nhiều người lên án nạn bao chiếm ruộng đất của tầng lớp quan lại và chức dịch, có chủ đất diện tích lên đến hàng nghìn mẫu, trong đó có nhiều người quan lại, chức dịch có quyền thế. Nhưng khi nghiên cứu địa bạ Châu Đốc, từ cai tổng cho đến chức dịch ở xã thôn không thấy có hiện tượng này, tỷ lệ ruộng đất chức dịch chiếm 4,8% tổng diện tích, nói lên một phần điều đó.


Nhận xét:

Mặc dù vùng đất Châu Đốc được thành lập muộn hơn so với nhiều vùng đất khác ở Nam Bộ, nhưng đến thế kỷ XIX, với chính sách của nhà nước, tốc độ khai phá ruộng đất ở đây khá nhanh.

Cho đến khi thực dân Pháp xâm lược, cư dân Châu Đốc đã lập được nhiều thôn ấp, khai khẩn, canh tác trên hàng chục nghìn mẫu, thúc đẩy tiến trình khai phá tân cương Tây Nam. Tình hình ruộng đất Châu Đốc theo địa bạ năm 1836 cho thấy, tuy hình thành chậm, nhiều thôn chưa kê khai ruộng đất, nhiều thôn có ruộng đất rất ít, nhưng diện tích trung bình của một thôn ở vào loại cao nhất của cả nước nửa đầu thế kỷ XIX. Ở đây cũng xảy ra hiện tượng phụ canh phổ biến, phản ánh đặc điểm khai phá vùng đất mới và giao lưu sở hữu ruộng đất khá phổ biến ở Nam Kỳ. Ruộng đất chức dịch dù không nhiều, tỷ lệ so với diện tích không cao, phản ánh đặc điểm nạn bao chiếm ruộng đất trong tầng lớp tổng lý chức dịch chưa thấy xảy ra ở Châu Đốc, tỷ lệ ruộng đất của phụ nữ khá cao, thể hiện vai trò kinh tế của họ và phản ánh vị trí của người phụ nữ trong xã hội không phải quá thấp kém. Tỷ lệ ruộng đất công thấp, tương tự các vùng khác của Nam Kỳ cũng thể hiện điều kiện khai phá, điều kiện tự nhiên và lịch sử của vùng đất này so với miền Bắc, miền Trung.


Như ta biết, địa bạ Châu Đốc được lập năm 1836, nhưng phủ Tĩnh Biên - trung tâm cư trú của người Khmer đến năm 1839 mới được triều Nguyễn thành lập, nên đó là lý do trong địa bạ Châu Đốc năm 1836 không thấy ghi ruộng đất của người Khmer. Còn người Hoa ở Châu Đốc có lẽ tập trung buôn bán ở các phố chợ Châu Đốc, còn người Chăm thời này rất ít, chủ yếu là buôn bán nhỏ và đánh cá. Vì vậy, địa bạ Châu Đốc năm 1836 không thấy ghi ruộng đất của người Khmer và người Chăm.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:21:44 pm
3. TÌNH HÌNH THƯƠNG MẠI Ở CHÂU ĐỐC TỪ NĂM 1757 ĐẾN NĂM 1874

a- Tình hình buôn bán từ năm 1757 đến năm 1802

Mặc dù sau năm 1757, khi đạo Châu Đốc mới thành lập, lưu dân Việt đến đây còn ít ỏi. Nhưng con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang dần được hình thành. Nửa sau thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn đã lập ra ở vùng Châu Đốc các quan tấn Châu Giang, Tân Châu, Đông Xuyên, Chiến Sai,... để vừa kết hợp quản lý chủ quyền, vừa kiểm soát thu thuế tuần ty với các thuyền buôn Gia Định - Nam Vang.


Trên cơ bản, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII ở Nam Bộ, Nguyễn Ánh có hai chính sách kinh tế quan trọng. Khuyến nông, cấm giết trâu, bò, để làm sức kéo sản xuất, nhằm có nhiều lương thực cho lương quân và buôn bán với nước ngoài, đổi lấy vũ khí nhằm đánh lại vương triều Tây Sơn.


Nguyễn Ánh cấm dân buôn bán với người nước ngoài, nếu lén lút sẽ bị trừng trị nặng. Chính quyền Nguyễn Ánh giành độc quyền buôn bán để phục vụ nhiệm vụ quân sự. Khuyến khích tàu nước ngoài đến bán vũ khí, đạn dược, hay nguyên liệu để chế thành súng đạn. Như vào tháng 5 năm Kỷ Dậu (1789), quy định: Từ nay, những thuyền buôn người Thanh hễ chở đến 4 thứ: sắt, gang, kẽm, lưu huỳnh thì nhà vua mua cả. Nếu số hàng đem đến nhiều thì miễn không thu thuế cảng, lại còn cho mua nhiều hàng chở về. Nếu tàu nào chở đến 10 vạn cân được xếp hạng nhất, miễn thuế cảng, cho chở gạo về 30 vạn cân, chở đến 6 vạn cân là hạng nhì, cho chở gạo về 22 vạn cân, chở đến 4 vạn cân thì cho chở về 15 vạn cân... [82, tr.15]. Với chính sách này, đã có nhiều thuyên buôn mang hàng quân dụng đến bán nên Nguyễn Ánh mua sắm được số lượng vũ khí khá dồi dào.


Khi chính sách buôn bán với người Thanh có kết quả tốt, Nguyễn Ánh cũng đã có những chính sách tương tự với người Xiêm. Năm 1797, quy định: Nếu thuyền buôn người Xiêm có đến buôn ở Nam Bộ, hạng thuyền lớn phải chở 30.000   cân sắt, hạng trung 20.000 cân, hạng nhỏ 10.000 cân trở lên, còn diêm tiêu thì không kể nhiều ít, đến bán theo giá cả thì mới được mua các sản vật tơ, vải,... Nếu không thì bị cấm, không cho đến buôn bán [82, tr.271]. Với những quy định như trên, Nguyễn Ánh đã thu được những kết quả như mong muốn.


Việc cấm dân buôn bán đường biển ra nước ngoài và thuyền buôn các nước không được chở trộm vật cấm như thóc gạo, kỳ nam, trầm hương, ngà voi, sừng tê, ngoài mục đích như nói trên còn có thể có nguyên nhân khác là Nguyễn Ánh không muốn cho tư thương chở gạo bán ra phía Bắc, địa bàn quân Tây Sơn.


Tuy vậy, khác với chính sách ngăn cấm buôn bán phía tuyến biển, đối với Chân Lạp và Xiêm La thì Nguyễn Ánh lại không cấm. Có chăng, những lúc cấm đó, chỉ là "việc quyền nghi một thời", nhằm tranh thủ Chân Lạp, vì sợ tư thương Việt ngoài buôn bán còn tranh chiếm và làm những việc tổn thương đến quan hệ "hoà hiếu" của "lân bang" mà Nguyễn Ánh đang muốn tranh thủ, lợi dụng nhằm tạo một địa bàn, một chỗ dựa an toàn, tiến thoái khi "thiên nan vạn nan", để tập trung lực lượng chống lại Tây Sơn ở Đàng Ngoài. Ví như, năm 1790, Nguyễn Ánh cấm thuyên buôn Nam Kỳ không được đi qua các đạo thủ Quang Hoá, Tuyên Uy, Thông Bình để sang buôn ở Chân Lạp, hoặc sai lấy 68 sở Thuỷ lợi ở Hậu Diện thuộc Tiền Giang và ở Châu Đốc, thuộc Hậu Giang trả về Chân Lạp, cấm người Việt không được xâm lấn hoặc mua riêng [82, tr.243].


Chính sách tranh thủ Xiêm, Chân Lạp của Nguyễn Ánh đã góp phần làm cho lực lượng Đàng Trong được bảo toàn. Trong những lần bị quân Tây Sơn đuổi dài, Nguyễn Ánh "tẩu quốc" đến nương nhờ Xiêm vương, chờ cơ hội "phục quốc". Ngoài ra, người Xiêm còn sai quân để giúp Nguyễn Ánh về đánh lại Tây Sơn. Tuy nhiên, do Nguyễn Văn Thành can ngăn, nên Nguyễn Ánh từ chối. Trong thời gian dốc sức cuối cùng để giành thắng lợi quyết định với quân Tây Sơn, vì thiếu lương quân, Nguyễn Ánh phải nhờ đến lương thực Xiêm, Chân Lạp. Đầu năm 1802, Nguyễn Ánh sai đi mua thóc ở Xiêm 500 xe và thu ở Chân Lạp 1.000 xe để cấp cho quân sĩ [83, tr.13]. Thắng lợi của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn, một phần quan trọng do tranh thủ được Chân Lạp và Xiêm La.


Vì vậy, nửa sau thế kỷ XVIII, ở tuyến biển Nguyễn Ánh "đóng cửa" cấm ngặt dân Nam Bộ buôn bán ra nước ngoài và cấm tàu thuyền nước ngoài mua những thứ cấm. Trái lai ở tuyến Tây Nam, Nguyễn Ánh mở cửa cho buôn bán, cho thuyền buôn Chân Lạp và thuyền buôn nước ngoài đi từ Ba Xắc đến Nam Vang (1795) như vua Chân Lạp xin, bởi lẽ Nguyễn Ánh muốn tranh thủ Chân Lạp như nói ở trên. Người Chân Lạp đến buôn ở Nam Kỳ chủ yếu là muối và gạo, những thứ họ thiếu nhiều nhất. Vì vậy, Nguyễn Ánh đã ban ấn "Ngự tứ thông hành" để họ đi qua cửa khẩu trấn Di và cửa khẩu Châu Đốc được thuận tiện (1795) [tr82, tr.206]. Dân Nam Kỳ đi buôn Nam Vang cũng được phê bằng đóng dấu triện "Thông hành thủ tín" (thông hành giữ làm tin) [82, tr.225].


Như vậy, ở tuyến biển, trong nửa sau thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh giữ độc quyền buôn với nước ngoài, nhằm mua bán vũ khí phục vụ chiến tranh chông Tây Sơn, còn cấm hẳn tư thương buôn bán lén lút (ai làm trái thì bị trị tội nặng, xử 100 roi, xiềng sung dịch 3 năm, tài sản sung công) [82, tr.94]. Nhưng đối với Chân Lạp và Xiêm La thì Nguyễn Ánh không cấm, thậm chí còn tạo điều kiện cho con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang thông thương, mà chủ yếu qua cửa khẩu Châu Đốc, vì đi vòng đường biển Hà Tiên thì xa hơn nhiều.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:34:33 pm
b- Tình hình buôn bán ở Châu Đốc với các vùng Nam Kỳ (1802-1874)

- Chính sách buôn bán

Từ năm 1802 cho đến tháng 9 năm Bính Thân (1836), triều đình không thu thuế các thuyền buôn giữa Châu Đốc với các vùng thuộc Nam Kỳ.

Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1834), Minh Mệnh hạ lệnh cho các tỉnh: phải cấp "bằng chiếu" cho những thuyền bè của dân đi lại hay đi buôn ở trong tỉnh hạt mình, nếu đi sang hạt khác dưới 2 ngày thì thôi, còn từ 3 ngày trở lên tổng lý phải xét thực cấp giấy, 10 ngày trở lên do phủ huyện cấp giấy, hạn không quá 3 tháng, mãn hạn rồi phải đổi giấy khác [93, tr.192].


Năm 1835, thự bố chính An Giang Trương Phúc Cương lại xin "ra lệnh cho các tỉnh khám kỹ các thuyền ở sông trong hạt, chia ra từng hạn cấp bằng đánh thuế" để những dân xô theo mạt nghệ sẽ có thể quay về làm ruộng [95, tr.122].


Sau đó, triều đình quy định lệ thuế thuyền đi buôn ở sông lục tỉnh Nam Kỳ 1836 như sau: thuyền có bề ngang rộng từ 4 thước trở lên đóng thuế quan 1 quan 5 tiền, từ 5 thước trở lên thì 3 quan, 6 thước trở lên thì 5 quan [96, tr.25]. Tuy nhiên, chỉ thu thuế hàng hoá còn thuyền chở thóc gạo và những vật cần dùng lặt vặt đều được miễn thuế.


Triều Nguyễn quy định: "phàm họ tên thuyền buôn, thước tấc phân thuyền cùng số tiền thuế thu được hằng tháng biên ghi, cuối tháng phải báo tỉnh, tỉnh đem sổ lớn, hằng tháng tư bộ. Cuối năm làm thành sổ dâng lên, do bộ xem xét trước định ngạch thuế. Bắt đầu từ ngày 1 tháng Giêng năm Đinh Dậu (1837) sở nào hơn số địa phương thu hơn lần trước thì được nghị thưởng, nếu kém hoặc thiếu thì nghị phạt và bắt phải bồi, nơi nào dám có trưng thu ngoài ngạch thuế để thiệt cho người buôn thì địa phương phải hặc, nêu thiên tư che chở sẽ bị phạt" [97, tr.309, 310]. Theo quy định của nhà nước, ai buôn bán các thứ hàng hoá khác thì mới tuỳ hạn đánh thuế, còn nếu chỉ chở thóc gạo đều được miễn thuế. Thế nhưng, các sở thuế quan vẫn cứ đánh thuế những người buôn thóc gạo, lại còn những người buôn hàng hoá khác thì tìm mọi cách để trốn thuế. Tổng đốc Vĩnh Long - Định Tường là Đàm Văn Phúc đề nghị cấp giấy cho những người đi buôn để đánh thuế, còn những người làm ruộng chỉ chở thóc lúa đi bán thì thôi, đồng thời trị tội nặng những kẻ buôn bán gian lận và những sở quan thuế lạm thu... Vì vậy, triều đình quy định lại việc miễn thuế chở thóc gạo cho thuyền ở sông kể cả của nhà nông và cả người đi buôn, chỉ thu thuế buôn hàng hoá khác [98 tr.195]. Từ trước đã có lệ thuế cho thuyền buôn các tỉnh Nam Kỳ, tuy nhiên hạng thuyền lớn thì chưa có lệ thuế. Đến năm 1839, Minh Mệnh định rõ lại như sau:


(https://i.imgur.com/AEF5Fah.jpg)
[Nguồn 99, tr.47]


Từ tháng 8 Canh Dần (1840) trở đi, chiến tranh xảy ra tàn phá nặng nề, mất mùa, gạo đắt, thuyền buôn ít đi lại, đời sống dân rất khổ. Vì thế, 4 tháng cuối năm Tân Sửu (1841) triều Nguyễn đình chỉ không thu thuế quan nữa [101, tr.358]. Từ năm 1842 đến năm 1843, chiến tranh vẫn chưa kết thúc, Thiệu Trị cho đình chỉ việc thu thuế quan ở 6 tỉnh Nam Kỳ từ tháng 5 đến hết năm 1843. Chiến tranh đến năm 1847 mới kết thúc. Sau 8 năm bị tàn phá, đứng trước nhu cầu cấp bách hồi phục kinh tế, ổn định đời sống, vua Tự Đức phải ra lệnh tha miễn thuế cửa quan lâu dài.


Như vậy, từ năm 1802 đến năm 1836, triều Nguyễn không thu thuế buôn bán nội vùng Nam Kỳ. Có hơn 10 năm thu thuế hàng hoá, nhưng không thu thuế thóc gạo (1836-1847). Cũng có khi triều Nguyễn cấm buôn bán lúa gạo, nhưng việc đó do tác động của chiến tranh biên giới hoặc do dân buôn bán lậu gạo cho giặc. Trên cơ bản, từ năm 1802 đến năm 1867 không thu thuế hàng hoá, đặc biệt là lúa gạo. Mục đích đánh thuế được triều Nguyễn nói rõ "nhằm át nghề ngọn khuyên chăm nghề gốc", "để làm cho dân xô theo mạt nghệ sẽ có thể quay về làm ruộng"... Tuy nhiên, mức thuế như quy định năm 1839 (thuyền 4 thước thuế 1,5 quan)1 (Thời giá trung bình ở An Giang năm 1825: 1 phương gạo giá 9 tiền 55 đồng; 1841: 1 phương gạo giá 2 quan 1 tiền 20 đồng) thì không hẳn là quá cao với vùng đất Nam Kỳ và đến năm 1848 thì bỏ hẳn.


Như vậy, mặc dù những biến động chính trị - quân sự đã tác động mạnh đến chính sách buôn bán ở Nam Kỳ. Trên cơ bản, triều Nguyễn không đánh thuế hàng hoá ở Nam Kỳ, nhằm làm cho thóc gạo lưu thông, điều hoà giá cả, ổn định đời sống dân cư.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:39:21 pm
- Việc buôn bán

Trên thực tế, gần cuối đời Gia Long, những chính sách kinh tế, xã hội và gắn liền với nó là chính sách quản lý chủ quyền lãnh thổ mới được thể hiện rõ nét ở Châu Đốc. Sau khi kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế đào xong, việc giao thương buôn bán giữa Châu Đốc - Hà Tiên và trong vùng được đẩy mạnh. Những cư dân người Việt sông trên Châu Đốc vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu trồng lúa trên 24.500 mẫu, cung cấp một khối lượng lớn thóc gạo, hàng hoá cho trong vùng và cho cả nhà nước.


Ngoài canh tác lúa nước và hoa màu, cư dân Châu Đốc còn đánh bắt cá tôm, một nguồn lợi tự nhiên rất lớn ở sông rạch. Họ chỉ cần thả câu, buông lưới hoặc vạch bùn, rẽ cỏ, lượng bắt thì đã thu được rất nhiều. Nguồn lợi sông rạch ở Châu Đốc rất dồi dào, cư dân ở đây ngoài ăn dùng không hết đã "đem bán các ngả" với số lượng rất nhiều.


Bản thống kê thuế thuỷ lợi tỉnh An Giang sau đây cho thấy một phần điều đó.

(https://i.imgur.com/NANpExH.jpg)
(https://i.imgur.com/aq3NgVz.jpg)

[Nguồn 63, tr.586, 592]


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:42:39 pm
Ngoài nguồn lợi từ ao đầm, sông rạch, vùng núi Thất Sơn có vô vàn sản vật quý khai thác được, thừa ăn cư dân còn đem trao đổi, bán đi khắp vùng. Triều Nguyễn hằng năm cũng thu được nhiều thuế sản vật nơi đây. Sử triều Nguyễn ghi: tháng 6 năm Giáp Dần (1854) "vua hạ lệnh hằng năm chiếu thu thuế sản vật ở An Giang, Hà Tiên (tôm gạo khô, cá lẹ khô, hồ tiêu, tổ yến) để bàn giao cho chứa vào kho ở Đà Nẵng, đợi giao cho thuyền buôn nước Thanh đem đi bán [106, tr.31]. Ngoài ra, những địa phương nào lắm sản vật nhà nước cũng bỏ tiền ra mua khá nhiều như ngà voi, sừng tê, để làm đồ công, tuỳ việc chi dùng và bán ra nước ngoài. Năm 1836, triều đình đặt lệ hằng năm thu mua sản vật các tỉnh trong đó An Giang có:
"da hươu, da nai, gân hươu, đậu khấu, sừng tê, nhung hươu, hạt sen 10.000 cân, tôm khô đã bóc vỏ 3.000 cân, cá thiết linh khô 5.000 cân, các hạng ván gỗ táu, gỗ tử thuận" [106, tr.296]. Ngoài số lượng sản vật nộp thuế và cho nhà nước, số lượng lớn còn lại được người dân bán ra thị trường trong khu vực.


Bảng thống kê sản vật An Giang mua nộp cho nhà nước các năm 1836, 1837 sau đây thể hiện một phần điều trên.

(https://i.imgur.com/mvoH9Th.jpg)
(https://i.imgur.com/mMplCXz.jpg)

Nguồn [961, [97]


Trong khi những lưu dân Việt đến Châu Đốc và Nam Bộ ra sức khẩn hoang lập làng xóm, phát triển sản xuất nông nghiệp thì những người Hoa đến đây đã lập nên những phố phường buôn bán. Mặc dù số lượng người Hoa ở Châu Đốc không nhiều nhưng họ có tài làm thủ công nghiệp và buôn bán, họ nắm vai trò chủ đạo trong lĩnh vực thương mại. Người Hoa đã góp phần quan trọng để hình thành nên những trung tâm buôn bán như chợ Châu Phú (Châu Đốc), Long Sơn (Tân Châu), Bình Long (Cái Dầu), Cái Vừng, góp phần không nhỏ cho thương mại Châu Đốc phát triển ở thế kỷ XIX.


Do có mỏ đất sét tốt ở Nam Quy (Tri Tôn) nên người Khmer có nghề gốm làm cà ràng, trách, om,... khá nổi tiếng. Hàng của họ bán đi nhiều nơi khắp Nam Kỳ và sang tận Nam Vang, cũng có khi khách hàng phải đợi vì không đủ hàng bán cho thị trường.


Những làng Chăm ven bờ sông Hậu: Châu Giang, Phủm Soài, Katabong, Lama, Khánh Hoà, Đa Phước, rạch Bình Di,... không chỉ nổi tiếng về "ngư điếu và khẩn hoang", mà họ còn rất giỏi về buôn bán nhỏ, mang hàng đi bán chịu khắp vùng biên giới Việt Nam - Cao Miên, đến tận Sài Gòn, Nam Vang,...


Như vậy, với điều kiện địa lý ở vùng biên giới, môi trường tự nhiên thuận lợi, nông nghiệp hàng hoá phát triển khá, lại được kích thích bởi kinh tế hàng hoá trong vùng và của con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang, việc buôn bán ở Châu Đốc đã có những chuyên biến khá mạnh trong 6 thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, theo đó phát triển chung trong vùng và vươn ra buôn bán với ngoài vùng tận Nam Vang và nước Cao Miên.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:44:35 pm
c- Buôn bán giữa Châu Đốc - Chân Lạp từ năm 1802 đến năm 1874

- Chính sách buôn bán

Do tiếp liền với cảnh thổ Chân Lạp, lại có sông Tiền, sông Hậu nối liền Gia Định - Nam Vang, vì vậy Châu Đốc trở thành cửa khẩu thông thương quan trọng trên con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang.


Chính sách buôn bán của triều Nguyễn đối với biên giới Tây Nam là sự tiếp tục chính sách của Nguyễn Ánh nửa sau thế kỷ XVIII, mà luồng buôn bán, giao thương qua hai đường chính là cửa khẩu Châu Đốc và đường biển Hà Tiên. Tuy nhiên, nếu thuyền buôn Gia Định đi Nam Vang qua cửa khẩu Châu Đốc sẽ gần hơn đi vòng đường biển Hà Tiên, vì Châu Đốc cách Nam Vang chỉ có 244 dặm rưỡi [80, tr.185].


+ Về lệ thuế: Năm 1802, khi vừa lên ngôi vua, Gia Long quy định lệ thuế thuyền Nam Kỳ đi buôn Nam Vang chia làm 3 hạng như sau: Hạng nhất tiền thuế 210 quan, hạng nhì 140 quan, hạng ba 70 quan. Tuy nhiên, thời kỳ này do không quy định thước tấc nên người buôn dùng tre kết thành bè chở hàng không có hạn lượng. Mãi đến năm 1836, Minh Mệnh mới sai địa phương đo kích thước bề ngang thuyền làm thành danh sách nộp tại sở tào chính địa phương và định lại mức thuế:

Thuyền hạng nhất có xà ngang 7 thước trở lên mỗi lần tiền thuế 200 quan, hạng nhì 6 thước trở lên thuế 150 quan, hạng ba 5 thước thuế 100 quan [63, tr.463]. Còn những thuyền buôn trong 5 tỉnh Nam Kỳ, nếu đi buôn Chân Lạp mà thân thuyền ngắn hơn, không sâu rộng như thuyền đi buôn Chân Lạp thì đánh thuế thân như sau: Thuế nội hạt bề ngang lòng thuyền 6 thước thu 5 quan, 5 thước thu 3 quan, nay thu gấp đôi. Thuế nội hạt loại thuyền 4 thước 8, 9 tấc trở xuổng là 1,5 quan nay thu gấp rưỡi là 2 quan 2 tiền 30 đồng [97, tr.84]. Đến năm 1839, quy định thêm lệ thuế thuyền buôn Nam Kỳ đi buôn Chân Lạp như sau: Thuế như năm 1836: Thuyền 4 thước 8, 9 tấc, trở xuống thu 2 quan 1 tiền 30 đồng; thuyền 5 thước trở lên thu 6 quan; thuyền 6 thước trở lên thu 10 quan. Thuế mới định: Thuyền 7 thước trở lên thu 14 quan; thuyền 8 thước trở lên thu 18 quan; thuyền 9 thước trở lên thu 22 quan; thuyền 10 thước trở lên theo lệ trên tăng thêm [99, tr.47].

Ngoài lệ thuế buôn bán, triều Nguyễn còn có những quy định khá cụ thể điều lệ xét hỏi việc kiểm soát buôn bán qua biên giới ở cửa khẩu Châu Đốc. Theo quy định năm 1851 thì:


+ Thuyền dân người Kinh, người Hoa, người Man, người Thổ Nam Kỳ muốn đi buôn Cao Miên đều phải kể rõ họ tên "quán chỉ" thuyền, số người bao nhiêu, đi bao nhiêu ngày thì về, cần có lý trưởng, bang trưởng "kết nhận", quan tỉnh xét thực phê vào làm bằng. Nếu mang hàng cấm, người dị dạng thì bắt giải về tỉnh để xét. Nếu quá hạn dưới một tháng thì "tạm ghi lỗi", ngoài một tháng thì phạt nặng chủ thuyền, ngoài 3 tháng mà không thấy trở về thì đem những người bảo đảm "kết nhận", xét rõ trị tội nặng.


+ Thuyền người nước Thanh, người Thổ nước Cao Miên, xin giấy ở quan Phiên đến tỉnh An Giang buôn bán phải qua các đồn, bảo xét thực cho đi, khi xong việc trở về đem giấy phê làm bằng trước, đổi cho "tò trát", hết hạn đem về nộp. Nếu quá hạn thì tra xét xem, thuyên ấy đã đến hạt nào tư cho hạt ấy đuổi về thu lại trát của tỉnh, phát giao giấy bằng cũ rồi tha về. Nếu chở trộm vật cấm thi bắt giải tỉnh xét,...


+ Việc "đóng cửa", "mở cửa" biên giới buôn bán ở cửa khẩu Châu Đốc và tuyến Tây Nam: Từ năm 1802 đến năm 1833, quan hệ giữa nhà Nguyễn và Chân Lạp bình thường nên con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang diễn ra tốt đẹp, thậm chí có lúc Gia Long còn tạo điều kiện thuận lợi cho thuyền buôn Chân Lạp và miễn thuế cho, như từ năm 1806 đến năm 1808 Gia Long lại ban ấn "Ngự tứ thông hành chiếu" cho người Chân Lạp và miễn thuế những người Chân Lạp, người Thanh buôn bán ở Nam Kỳ, nếu có bài thuyền và ấn triện hợp lệ [83, tr.309]. Nhưng từ sau khi Lê Văn Khôi khởi loạn ở Nam Kỳ (1833), việc buôn bán giữa Gia Định - Nam Vang bị cấm hẳn. Cuối năm 1834, tỉnh thần An Giang là Nguyễn Công Trứ tâu xin, Minh Mệnh tạm bỏ lệnh cấm tư nhân chuyên chở gạo muối cho dân Kinh được sang Chân Lạp buôn bán và đến tháng 4 năm At Mùi (1835) thì bỏ hắn lệnh cấm, cho thông thương như cũ.

Tuy nhiên, năm 1840 chiến tranh xảy ra khắp đất Nam Kỳ, tàn phá đất Châu Đốc, Vĩnh Tế, Thất Sơn, Hà Tiên kéo dài mãi đến năm 1847. Vì vậy, việc giao thương giũa Nam Kỳ - Chân Lạp bị đình chỉ. Năm 1846, triều Nguyễn cho mở trường giao dịch (chợ biên giới) ở Đa Phúc gần thành Châu Đốc và phủ Tây Ninh, tỉnh Biên Hoà, để dân vùng biên giới thông thương. Sau chiến tranh năm 1847, triều Nguyễn lại mở cửa biên giới cho buôn bán trở lại [104, tr.332]. Cho đến năm 1853, dân Cao Miên bị đói, triều đình sợ người Miên đến Nam Kỳ mua nhiều thóc gạo làm cho giá cả đắt lên nên cấm mua bán,...


Như vậy, từ năm 1802 đến năm 1867, trên cơ bản triều Nguyễn mở cửa "cho buôn bán thông thương giữa Nam Kỳ - Chân Lạp, đặc biệt hai thứ muối, gạo". Việc "đóng cửa" hay "mở cửa" trục buôn bán Gia Định - Nam Vang qua cửa khẩu Châu Đốc nhìn chung không xuất phát từ lý do để phát triển kinh tế mà chủ yếu do nguyên nhân chính trị và quân sự.


Dưới thời phong kiến, nhà Nguyễn vẫn coi nước Chân Lạp là một phiên thuộc, dân Chân Lạp là "con đỏ của triều đình", cho nên việc mở cửa cho buôn bán cũng là để thể hiện "lòng nhân đều như một". Điều đó, có thể giải thích rõ một phần, tại sao ở tuyến biển cấm rất chặt, không cho tư nhân buôn bán ra ngoài, cho đến năm 1876 Tự Đức mới mở cửa "thì ở tuyến Tây Nam triều Nguyễn không cấm" (trừ những thời gian ngắn có chiến tranh). Thời kỳ này cuộc tranh giành ảnh hưởng của người Việt và Xiêm diễn ra khá gay gắt, thể hiện bằng cuộc xung đột 1840-1847, tàn phá đất Tây Nam, buôn bán bị tắc nghẽn và đời sống của dân Nam Kỳ khổ cực, một phần do ảnh hưởng nặng nề của nạn can qua.


+ Việc thu thuế thuyền buôn bằng hiện vật.

Trong lệ thuế Minh Mệnh năm 1836 quy định: Các thuyên buôn đến buôn bán từ Nam Kỳ đến Chân Lạp và ngược lại đều chiếu thu gạo muối bằng 1/10 số lượng hàng hoá (giá mỗi phương gạo 1 quan tiền, 1 phương muối giá 3 quan tiền) trừ vào tiền thuế. Nếu các thuyên buôn chở hàng hoá đi qua lại địa phận các đồn thủ ở An Giang như: Châu Giang, Tân Châu, An Lạc, Trấn Di và nhánh sông Đông Xuyên thuộc Hậu giang đều do viên đồn khám đo, chiết hạng thu thuế. Hoặc là khi thuyền đi buôn Chân Lạp, thuyền ấy thuộc hạng nào, chở số muối, gạo bao nhiêu, quan địa phương phê giấy nói rõ khi đến nơi xét thực đánh thuế bằng 1/10 hàng hoá, thu thuế bằng muối, gạo như trên. Nếu thiếu muối, gạo, thì thu thuế tiền cho đủ ngạch thuế, nếu thừa muối, gạo, thì mua hết cả và trả tiền theo giá quy định trên. Thuyền Nam Kỳ đi buôn Chân Lạp hoặc ngược lại tính theo lệ này thu thuế [99, tr.47]. Lệ thuế năm 1839 cũng nhắc lại lệ thu thuế bằng muối, gạo thay tiền thực hiện như trước.


Như vậy, thuế được thu bằng hiện vật: gạo và muối thay tiền. Tại sao lại như vậy? Thời kỳ này ở tuyến Tây Nam thường xảy ra chiến tranh biên giới và bị Xiêm xâm lược (1833, 1841), có lúc chiến tranh kéo dài (1840-1847) trên đất Nam Kỳ và Chân Lạp. Vì vậy, khi có chiến tranh quan quân Nguyễn đến Nam Kỳ và Chân Lạp rất đông. Lượng lương thực cho quân tốn phí rất nhiều. Vì vậy, việc thu thuế buôn chuyến bằng gạo, muối thay tiền nhằm lấy làm lương quân là một biện pháp kinh tế - quân sự ở thời Nguyễn. Đây là một biện pháp đã có kết quả nhất định và làm lợi cho nhà nước khá nhiều.


+ Mức thuế.

Có 2 loại tiền thuế: thuế cửa quan bến tuần và thuế hàng hoá. Thuế cửa quan bến tuần là thuế đánh vào phương tiện theo chuyến phân hạng thu theo kích thước lớn nhỏ của tàu thuyền buôn. Thuế hàng hoá, là thuế đánh vào khối lượng hoặc số lượng hàng hoá buôn bán. Mức thuế bằng 1/10 giá trị hàng hoá (tức 10%) [97, tr.84].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:46:30 pm
- Việc buôn bán

Như trên đã nói, do vị trí địa lý gần Nam Vang hơn Hà Tiên, lại có 2 thuỷ đạo lớn thông thương nên Châu Đốc là cửa khẩu trên trục buôn bán Gia Định - Nam Vang. Thứ hai, do điều kiện sông rạch, đường thuỷ liền nhau "nên dân phần nhiều ở thuyền buôn bán kiếm lời". Điều kiện địa lý và địa hình đã hình thành một cách tự nhiên luồng buôn bán này. Thứ ba, đến thời Nguyễn kinh tế hàng hoá đã phát triển, đặc biệt ở Nam Kỳ khá mạnh. Lợi nhuận do buôn bán tạo ra hấp dẫn rất nhiều người đi buôn, tâm lý buôn bán cũng sớm hình thành trong suy nghĩ của người dân Châu Đốc.

"Cắt lúa làm chi đau lưng mỏi cổ
Bước xuống ghe hàng cầm chỗ bán buôn"

Hơn nữa, Chân Lạp dù đất rộng, phì nhiêu nhưng "dân Phiên phần nhiều vì có lòng sợ khó, ngại khổ, bỏ không cày cấy..." cho nên đói kém vẫn thường hay xảy ra. Vì thế, những thứ mà người Chân Lạp thường thiếu nhất là muối với gạo và thường họ phải đến Hà Tiên, Châu Đốc và Nam Kỳ để mua. Mặt khác, thời đó đất Chân Lạp rất nhiều sản vật quý, những núi đậu khấu làm người Xiêm rất thích, ngà voi, sừng tê, sa nhân, gân hươu, mật ong, gỗ quý,... giá cả lại rẻ, người Chân Lạp thì có những thứ không biết cách khai thác,... vì vậy, đã cuốn hút nhiều người đi buôn Chân Lạp, đặc biệt những người Hoa ở Nam Kỳ.


Con đường buôn bán Gia Định - Nam Vang diễn ra khá tấp nập. Có lúc dân Nam Kỳ đi buôn thành từng đoàn lên đến 500 người ở các sách man Cỗ Khăng, Bồ Lô (Chân Lạp), lại cầm binh khí để tự vệ. Làm cho những người Xiêm cũng phải sợ, đề phòng..., nên sau Gia Long quy định, chỉ được cấp giấy thông hành tối đa là 10 người, để láng giềng khỏi phải sợ [84, tr.275].


Ở Châu Đốc, huyện Đông Xuyên là nơi trồng dâu nuôi tằm nổi tiếng, đặc biệt mặt hàng lụa Mỹ Á, Cẩm Tự của Tân Châu được bán sang tận Chân Lạp, Lào, thậm chí sang cả đến Xiêm, Hạ Châu (Singapore), Ấn Độ, Philippin. Giữa thế kỷ XVIII, lái buôn phương Tây Pierre Poire đến Gia Định đã đặc biệt chú ý tơ lụa Tân Châu. Trong ký ức người Chăm nơi đây vẫn còn lưu giữ những giai thoại, những hình ảnh về những chiếc thuyền con của người Chăm buôn hàng từ Chân Lạp về chạy ngang luồn lách đến nỗi canô tuần tiễu của thực dân Pháp không tài nào đuổi bắt được. Người Hoa ở Châu Đốc nắm vai trò chủ đạo trong lĩnh vực thương mại. Khi người Pháp mới đến miền Tây đã vấp phải sự cạnh tranh của thương nhân Hoa kiều vì họ có đường dây buôn bán với Trung Hoa qua ngả Hà Tiên và Cao Miên [36, tr.121]. Người Hoa buôn lúa gạo, tơ lụa Tân Châu,... đưa sang Nam Vang và thu gom các sản phẩm quý của núi rừng như mật ong, đậu khấu, sa nhân, nhung hươu, ngà voi,... Vùng gốm của người Khmer ở Tri Tôn hằng năm xuất nhiều nồi, cà ràng, trách, om,... ở các làng Nam Quy, Châu Lăng, Trà Đảnh sang Nam Vang.


Để tăng cường giao thương buôn bán của cư dân hai bên biên giới, triều Nguyễn cho mở trường giao dịch (chợ biên giới) ở Đa Phúc, gần thành Châu Đốc (1844), mỗi tháng chợ họp 6 kỳ, mỗi kỳ 2 ngày. Người Kinh, Thổ, Thanh, Chàm đi lại buôn bán rất nhiều. Việc mở trường giao dịch ở Châu Đốc không chỉ để lưu thông hàng hoá, làm sinh kế cho dân mà còn nhân đó để triều Nguyễn nắm tình hình biên giới và "bí mật phòng ngừa", "không để cho tình hình ngoài biên giới tiết lậu" [103, tr.247]. Trong thời gian biên giới yên ổn, việc giao thương qua cửa khẩu Châu Đốc được duy trì, thuyền buôn qua lại nhiều thì nhà nước cũng thu về một số tiền thuế đáng kể. Bảng thống kê tình hình thu thuế ở các cửa quan ở Châu Đốc từ năm 1837 đến năm 1840 thể hiện một phần điều đó:


(https://i.imgur.com/0uUKAWo.jpg)

[Nguồn 63, tr. 443, 498,500, 504]


Từ tháng 8 năm Canh Tý (1840), do có chiến tranh biên giới nên thuế năm này thu được ít hơn trước. Năm 1843, triều Nguyễn cho đình miễn thu thuế ở cả 4 sở này.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Bảy, 2021, 07:47:25 pm
Vài nhận xét:

Thứ nhất, nằm trong điều kiện tự nhiên thuận lợi về đất đai, khí hậu thời tiết và nhân văn, có ruộng đất tư phát triển, thủ công nghiệp khá, kinh tế hàng hoá phát triển sớm, tâm lý buôn bán sớm hình thành, lại được kích thích bởi kinh tế hàng hoá trong vùng và nằm trên trục đường buôn bán Gia Định - Nam Vang, nên việc buôn bán và kinh tế Châu Đốc được kích thích, phát triển.

Tình hình buôn bán ở Châu Đốc tác động đến phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, làm động lực cho phát triển xã hội, hỗ trợ một phần cho ổn định và quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Đồng thời góp phần vào việc trao đổi và giao lưu văn hoá giữa các tộc người trong và ngoài vùng.


Thứ hai, chính sách buôn bán của triều Nguyễn ở Châu Đốc và Nam Kỳ luôn gắn liên với nhiệm vụ chính trị - quân sự, chống xâm lược, quản lý và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và ổn định trật tự xã hội phong kiến.

Lúc bình thường thì mở cửa cho buôn bán, lúc có chiến tranh hoặc chiến sự thì nghiêm cấm. Vừa mở cửa cho buôn bán nhưng thông qua đó để nắm tình hình biên giới, vừa cho phát triển buôn bán vừa kết hợp các quy định thu thuế bằng hiện vật gạo, muối để sung đủ lương quân nơi biên giới, vừa có chính sách an dân chiêu tập, phát triển buôn bán, ổn định cuộc sống của các nhóm dân cư.


Thứ ba, người Hoa ở Châu Đốc cũng như Nam Kỳ có tài buôn bán, làm chủ thị trường thương mại, nhưng lại bị sức mạnh của bộ máy hành chính quan liêu áp chế, phong toả nên cũng chỉ phát triển trong chừng mực, không thoát ra khỏi sức mạnh của thể chế. Mặc dù vậy, người Hoa ở Châu Đốc có nhiều đóng góp hình thành nên các trung tâm buôn bán Châu Đốc, Tân Châu, Cái Dầu,... trong vùng và phát triển buôn bán ra ngoài vùng, góp phần làm cho buôn bán Châu Đốc phát triển.


Thứ tư, triều Nguyễn mở cửa cho buôn bán tuyên Tây Nam, nhưng cấm hẳn tư thương buôn bán tuyến biển vì sợ tiết lậu tình hình, cũng như sợ gạo, muối bị bán đi nhiều làm cho giá cả cao và gây thiếu đói. Điều đó kết hợp với những tai biến bất thường xảy ra, gây nên những hậu quả xã hội như nông dân phiêu tán, tụ họp nhau đi cướp phá, bạo động, nguyên nhân của các bệnh dịch, giết hại dân lành, dẫn đến tình trạng bất an cho xã hội và gây mất ổn định trật tự xã hội.

Như vậy, triều Nguyễn coi trọng và đề cao ổn định trật tự xã hội phong kiến mà ít quan tâm, nói đúng hơn là không quan tâm đến phát triển kinh tế đất nước, "đóng cửa" cố thủ trong thành lũy "trọng nông ức thương" đã tồn tại từ lâu.


Thứ năm, triều Nguyễn vẫn luôn nói đến "trọng nghề gốc, bỏ nghề ngọn", "dĩ nông vi bản". Cho nên, tuy vẫn cho buôn bán, nhưng khi thấy dân buôn bán quá nhiều thì lại muốn cấm nghề buôn bán để cho dân quay trở về làm ruộng.

Năm 1853, sau mấy năm bỏ thuế quan tân và bỏ các cửa quan bến tuần tại Nam Kỳ, thấy dân "xô nhau đi buôn quá nhiều", vua Tự Đức "muốn hạn chế nghề buôn đuổi dân về làm ruộng" [105, tr.387]. Điều đó, không chỉ biểu hiện thái độ lừng chừng, mà nó thể hiện tư tưởng "ức thương" đến lúc này vẫn là tư tưởng thường trực của triều Nguyễn thế kỷ XIX. Vì vậy, nhà nước vẫn cho buôn, nhưng đó chỉ là ở tuyến Tây Nam, với nước bảo hộ, phiên thuộc, còn trên cơ bản buôn bán với nước ngoài bằng tuyến biển thì bị phong toả, cấm hẳn. Tuy nhiên, quy luật cung cầu làm cho buôn bán vẫn diễn ra. Đặc biệt, dù cấm tư thương buôn bán tuyến biển nhưng hàng lậu vẫn bán cho người Thanh và thuyền của dân vẫn đến Hạ Châu bán rất nhiều gạo, triều Nguyễn không thể nào ngăn được, rồi sau đó lại mua thuốc phiện trở về Việt Nam ngày một nhiều, làm cho triều Nguyễn cấm không được cuối cùng phải cho buôn bán và đánh thuế thuốc phiện. Mãi đến năm 1876, Tự Đức mới mở cửa biển cho dân đi buôn ra nước ngoài thì Nam Kỳ lục tỉnh đã mất về tay thực dân Pháp rồi và cái ách nô lệ đó đang chuẩn bị tròng vào cổ người Việt Nam trên toàn cõi.


Vì vậy, nói ở tuyến biên giới Tây Nam do chiến tranh nhiều nên đã làm cho buôn bán bị đình trệ, chậm phát triển, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Bởi vì, nếu chiến tranh không xảy ra thì kinh tế Nam Kỳ cũng khó có được những chuyển biến lớn lao.


Tâm lý "trọng nông ức thương" của nhà nước, cùng với hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời đó đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý buôn bán của cư dân. Trừ một số ít người Hoa đã hình thành nên một tầng lớp phú thương tuy không phổ biến, còn lại đa phần trong xã hội đều là buôn bán nhỏ. Mục đích đi buôn của người dân mang tính sách lược và rất cụ thể là giải quyết khó khăn cuộc sống đời thường trước mắt.

Đi buôn đi bán có lời
Kiếm tiền kiếm bạc đem về nuôi con


Trừ một số rất ít người có ít vốn kha khá, thì cuối cùng cũng lại mua ruộng tậu trâu vì họ không biết đầu tư vào đâu, để làm gì vì tầm nhìn của họ bị hạn chế. Tư tưởng "dĩ nông vi bản" và "tứ dân" đã làm cho cả xã hội từ triều đình đến cư dân ở trong vòng luẩn quẩn, dẫm chân tại chỗ. Một xã hội như vậy là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất an trong xã hội và kinh tế, là nguyên nhân xáo động ở nông thôn Việt Nam thế kỷ XIX, nhất là những khi có tai biến bất thường do mùa vụ, dịch bệnh hoặc do thời tiết khí hậu tạo ra,...


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Bảy, 2021, 08:49:46 pm
4. THỦ CÔNG NGHIỆP   

a- Dâu tằm - nghề dệt

Ngoài kinh tế nông nghiệp và buôn bán, ở Châu Đốc có một nghề nổi tiếng hơn cả là nghề trồng dâu nuôi tằm, xe tơ dệt lụa của người Việt. Nó đã trở thành nghề truyền thống quan trọng, chủ yếu của cư dân vùng Tân Châu, huyện Đông Xuyên.

... Gái nào thảo bằng gái Tân Châu
Tháng ngày dệt lụa trồng dâu
Thờ cha nuôi mẹ quản bao tháng ngày...


Theo địa bạ năm 1836, cả vùng Châu Đốc có 628 mẫu 5 sào đất trồng dâu, tập trung chủ yếu ở huyện Đông Xuyên 423 mẫu 3 sào. Diện tích trồng dâu được phân bố trong 9 thôn của 5 tổng, nhưng nhiều nhất là thôn Tân Hưng 345 mẫu 8 sào. Có nhiều làng chuyên sống về nghề tằm tơ như Long Phú, Long Thuận, Long Khánh, Thường Thới, cù lao Ma, Tân An, Vĩnh Hoà,... Tân Châu là trung tâm sản xuất và buôn bán tằm tơ nổi tiếng ở Nam Kỳ và Campuchia. Công việc trồng dâu, chăn tằm, xe tơ được tiến hành quanh năm. Cuối thế kỷ XIX ở Tân Châu đã có sự phân công hoá giữa những người sản xuất, có người chuyên trồng dâu bán lá, các nhà tằm thì chuyên mua lá chăn tằm, những trại ươm tơ chuyên mua kén tằm và có lúc đã lên tới 150 lò ươm, sau đó họ bán tơ cho các xưởng dệt thủ công gia đình và cuối cùng đến người buôn bán tơ tằm với thị trường gần xa.


Với điều kiện tự nhiên, thời tiết thuận lợi nắng ấm quanh năm, lại không có mùa đông giá rét, vào thế kỷ XIX, dâu ở Tân Châu mỗi năm có thể thu hoạch 5 lứa lá [157, tr.31], đầu thế kỷ XX mỗi năm có thể thu hoạch được 8 lứa lá, hơn hẳn nghề trồng dâu ở miền Trung và miền Bắc. Sản phẩm ở đây có lụa Mỹ A nổi tiếng, sau đến cẩm tự hoa dâu, hoa cúc,... Lụa Tân Châu đẹp, bền màu, mặc mát, là mặt hàng lý tưởng cho vùng khí hậu quanh năm nắng nóng. Hàng lựa Tân Châu được ưa chuộng khắp Nam Kỳ và ra nước ngoài Chân Lạp, Lào, thậm chí còn đi xa hơn sang tận cả Xiêm, Hạ Châu (Singapore), Ấn Độ, Philippin. Giữa thế kỷ XVIII, lái buôn phương Tây Pierre Poire đến Gia Định đã đặc biệt chú ý đến tơ lụa Tân Châu. Lúc đầu người ta nhuộm lụa bằng vỏ dà, bằng lá chàm, rồi dùng thuốc nhuộm. Tuy vậy, vẫn chưa bền màu và đẹp. Về sau, họ nhuộm lụa bằng trái mặc nưa mua từ Chân Lạp và dần dần người Tân Châu trồng được cây mặc nưa không phải đi mua.


Nghề tằm tơ Tân Châu phát triển mạnh, lại nằm trên ở sông Tiền, trên luồng thương mại Gia Định - Nam Vang nên những thuyền buôn người Hoa đi về tấp nập. Tân Châu trở thành trung tâm tằm tơ nổi tiếng của Nam Kỳ, để rồi ngày càng trở thành trung tâm buôn bán tấp nập. Vì vậy, đến thời Pháp thuộc, Viện Tằm tơ được thành lập ở Tân Châu (1907).


Ngoài người Việt nổi tiếng về nghề dệt tơ tằm, người Khmer và người Chăm vùng Châu Đốc vẫn thường duy trì nghê dệt truyền thống của mình để phục vụ nhu cầu ăn mặc,... theo tập tục. Đặc biệt, phụ nữ, con gái Chăm từ lúc lớn lên cho đến lúc lấy chồng "khuê môn bất xuất", hầu như không ra ngoài, suốt ngày xe tơ, dệt vải.


Cho đến cuối thế kỷ XIX, mặc dù hàng hóa nước ngoài tràn vào Nam Bộ, nghề dệt bị cạnh tranh gay gắt, nhưng nghề dệt truyền thống trong các tộc người Khmer, Chăm vẫn được bảo tồn, vì nó gắn liền với sinh hoạt, tập tục ăn mặc khá riêng biệt của họ.


b- Nghề nhuộm

Cùng với nghề tằm tơ, nghề nhuộm ở Châu Đốc xưa cũng khá nổi tiếng. Đặc biệt là kỹ thuật nhuộm lụa bằng trái mặc nưa, làm cho lụa bền màu, bóng, đẹp.

Lúc đầu trái mặc nưa chỉ có ở Chân Lạp, dân Châu Đốc hằng năm phải đi mua về để nhuộm, có năm phải mua đến 12.000 tấn. Dần dần họ trồng được không phải đi mua nữa. Nghề nhuộm chủ yếu thực hiện trong từng gia đình có nghề ươm tơ dệt lụa. Nhuộm là công đoạn sau cùng để hoàn tất sản phẩm. Từ cuối thế kỷ XIX, nghề ươm tơ bị sa sút, thực dân Pháp lại cấm không cho phát triển dệt tại vùng Châu Đốc, nghề nhuộm có xu hướng giảm sút, nhưng vẫn đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất hàng hoá. Đầu thế kỷ XX, vùng cù lao Giêng, Chợ Mới có 18 xưởng nhuộm (1927), đến sau giảm xuống còn 16 xưởng (1929). Ở Chợ Mới tập trung đến 8 xưởng nhuộm của gia đình và các cơ sở dệt nhuộm lụa của Hội truyền giáo ở cù lao Giêng. Ở vùng Tân Châu các xưởng nhuộm tập trung ở trung tâm Tân Châu.


Nhìn chung, nghề nhuộm ở Châu Đốc thế kỷ XIX đã đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt kinh tế, xã hội của vùng, góp phần phát triển đời sống và giao thương buôn bán trong và ngoài vùng.


c- Nghề gốm

Nghề gồm ở Châu Đốc phát triển từ đầu thế kỷ XIX khi Gia Long cho chiêu tập các sắc dân đến đây cho tụ họp đông đúc. Những người trồng cây, chăn nuôi, buôn bán, thợ gốm, thợ rèn, đều cứ theo nghiệp của mình [84, tr.311].


Đặc biệt, nghề gốm phát triển mạnh ở vùng Tri Tôn, do ở đây có mỏ đất sét tốt, sản phẩm gốm làm ra chất lượng khá cao. Trong đó, sóc Phnom Pu (núi Đôi), nay là ấp An Thuận, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, có đông đảo bà con Khmer sinh sống, chuyên sản xuất đồ gốm thủ công. Từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nghề gốm vùng này rất phát triển. Ghe thuyền các nơi về ăn hàng đậu chật bến sông, kéo dài dọc hai bên cầu Hàng Me. Đồ gốm của Tri Tôn không chỉ bán khắp các tỉnh miền Tây, mà còn sang tận Chân Lạp, cạnh tranh với đồ gốm Kông-pông Chnăng là nơi sản xuất gốm nổi tiếng. Chất lượng gốm của người Khmer Tri Tôn được nhiều nơi ưa thích. Đất làm gốm được khai thác dưới chân núi Nam Quy, cách sóc hơn một cây số, là loại đất sét xám có nhiều cát mịn. Sản phẩm gốm ở Tri Tôn khá đa dạng, như các loại nồi, cà-ràng, trách, bếp lò,... Nhưng đặc biệt nhất là cà-ràng và ống khói lò nấu đường thốt nốt. Cà-ràng của Tri Tôn khá nổi tiếng và là một mặt hàng bán chạy nhất. Bếp nấu cà-ràng khá linh hoạt, có thể để trên sàn nhà bằng tre nứa, ván gỗ, có thể để ngay trên ghe thuyền không sợ bị cháy mặt sàn, gọn nhẹ, dễ di chuyển.


Vào cuối thế kỷ XIX, sách Monographie de la province de Chaudoc có nói đến các sản phẩm gốm, nồi, lò,... ở Nam Quy được dân bản xứ đánh giá rất cao [157, tr.34]. Nhưng mấy chục năm gần đây nghề gốm vùng này đã sa sút. Hiện nay, một số gia đình không còn làm gốm, các gia đình khác chỉ sản xuất cầm chừng, sản phẩm khó tiêu thụ, giá thành lại rẻ, thu nhập thấp, các thương lái lại ép giá,...


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Bảy, 2021, 08:50:42 pm
d- Nghề mộc

Ở Châu Đốc, nghề mộc được phát triển khá sớm. Bằng chứng đầu tiên được sử triều Nguyễn ghi lại năm 1778, Nguyễn Ánh sai cai đội Trần Văn Năng đến Tân Châu đóng thuyền đi biển [82, tr.31], cho thấy nghề mộc vùng này đã phát triển khá sớm.


Đặc điểm địa hình vùng đất Châu Đốc là sông ngòi chằng chịt như mắc cửi. Đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã nói, ở xứ này không có thuyền bè không thể đi lại được [21, tr.150]. Mọi sự vận chuyển, giao dịch ở vùng này đều bằng đường thuỷ. Như vậy, yếu tố địa hình không chỉ quy định phương thức làm ăn mà còn quy định phương tiện giao thông, việc đi lại của cư dân. Trong môi trường tự nhiên như vậy, việc giao thông chỉ có thể sử dụng thuyền bè là chính, còn các phương thức đi lại, vận chuyển trên bộ chỉ giữ vai trò phụ. Mỗi gia đình không chỉ sắm xuồng ghe làm phương tiện đi lại, "sắm xuồng là để làm chân", mà còn đi chợ, thăm bà con, chở củi, gạo, đi buôn bán, đi làm ruộng, đi câu, đi đánh bắt cá, vận chuyển..., mọi việc đều đi lại bằng thuyền. Vì vậy, thuyền ghe được coi là phương tiện giao thông quan trọng bậc nhất của vùng sông nước. Có những gia đình dùng thuyền làm nhà ở, gắn bó với ghe thuyền, suốt đời sống lênh đênh trên mặt nước, chẳng phải vì họ nghèo mà vì thói quen, tập quán của gia đình.


Thiên nhiên vùng Châu Đốc thế kỷ XVIII, XIX, ưu đãi cho nghề mộc, nghề đóng thuyền phát triển. Rừng rậm bao phủ vùng Thất Sơn, nhiều gỗ sao ở núi Đài Tôn, núi Ngất Sum, cù lao Cái Sao [21, tr.200], gỗ dầu ở Cái Dầu, rừng Chân Lạp sát kê Châu Đốc,... Sách Monographie de la province de Chaudoc đã nói đến 17.397 hécta rừng Châu Đốc và thống kê những loại danh mộc của vùng: gỗ sao, cam xe, dầu ca-chất, sến,... [157, tr.29]. Đặc biệt gỗ sao (Hopca Odorata), dùng đóng thuyền rất tốt, bền, là loại gỗ nổi tiếng ở Nam Bộ được ca tụng "nhẹ chắc dùng để đóng thuyền, có sức chịu đựng rất cao, chôn dưới đất 100 năm vẫn không hư nát".


Như vậy, điều kiện tự nhiên và địa hình đã tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của con người, là điều kiện khách quan làm cho nghề mộc ở Châu Đốc phát triển sớm. Đến cuối thế kỷ XIX, nghề mộc ở Châu Đốc vẫn tiếp tục tồn tại trong các gia đình đã từng có tay nghề cao, hoạt động mang tính chất gia đình, cha truyền con nối. Nghề mộc hầu như có mặt khắp nơi trong vùng. Đầu thế kỷ XX toàn vùng có 49 xưởng mộc thủ công chuyên làm đồ gia dụng, đóng thuyền bè (35 xưởng mộc và 14 xưởng đóng thuyền), nhiều nhất ở thôn Mỹ Luông có 19 xưởng mộc [36, tr.106].


Như vậy, nghề mộc phát triển khá sớm và nổi tiếng ở vùng Châu Đốc, nghề mộc không chỉ sản xuất đồ gia dụng, làm nhà cửa mà còn đóng những thuyền ghe, những phương tiện giao thông đi lại bậc nhất của xứ sở được mệnh danh là văn minh kênh rạch.


Ngoài những nghề trên, ở Châu Đốc còn có những nghề khác như khai thác lâm sản, đánh bắt cá, chăn nuôi,... phục vụ cho đời sống và đưa một phần sản phẩm trao đổi buôn bán trên thị trường trong và ngoài vùng,...


Trong lịch sử phát triển kinh tế của vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn ta có thể thấy một số vấn đề sau:

- So với các tỉnh Nam Bộ, vùng đất Châu Đốc thành lập muộn, nhưng tốc độ phát triển khá nhanh. Điều đó không chỉ do tác động của yếu tố địa lý, do nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, do sức ép của tình hình chính trị và đối ngoại mà còn do yêu cầu quản lý bảo vệ lãnh thổ. Trong đó, yếu tố nhà nước, vai trò của thể chế đã đóng một yếu tố khá tích cực, có tác dụng thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế, xã hội vùng đất này từ năm 1802 đến khi thực dân Pháp xâm chiếm Châu Đốc.

- Do điều kiện môi trường sinh thái, dù nền kinh tế dựa vào nông nghiệp trồng lúa nước là chủ yếu, nhưng bên cạnh đó, Châu Đốc rất có điều kiện phát triển nhiều ngành kinh tế quan trọng khác, tạo thế mạnh khá toàn diện cho kinh tế Châu Đốc như buôn bán, dâu tằm tơ, nghề mộc, khai thác và đánh bắt thuỷ sản, chăn nuôi, trồng cây ăn trái,... Thực tế, ngày càng chứng tỏ vùng đất Châu Đốc có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế nông - công - thương - du lịch, tiềm năng ít có tỉnh nào đồng bằng sông Cửu Long sánh được.

- Là vùng đất mới, điều kiện khai phá thuận lợi, nhiêu ruộng đất tư, ít ruộng đất công, đã có hiện tượng tích tụ và tập trung ruộng đất, đã có nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, lại là vùng đất biên giới và được tác động, kích thích bởi con đường giao thương Gia Định - Nam Vang, tâm lý buôn bán sớm phát triển, là địa bàn cộng cư của các tộc người điển hình ở Nam Bộ, Việt, Khmer, Chăm, Hoa, mỗi dân tộc có một tiềm năng riêng, đã làm cho vùng Châu Đốc có những thế mạnh không chỉ về văn hoá mà còn tiềm ẩn những khả năng phát triển nhiều mặt, phong phú, mang đậm sắc thái Tây Nam.

- Tuy ẩn chứa nhiều tiềm năng, nhưng khu vực dân cư này vẫn tồn tại tâm lý "tạm bợ" trong người Việt, tâm lý thụ động, cầu an, không thích làm giàu của người Khmer, tâm lý buôn bán nhỏ, đóng kín... trong người Chăm, cũng như việc dành nhiều tiền của, thời gian cho thực hành đức tin tôn giáo đã lãng phí thời gian và hạn chế sự phát triển sản xuất, kìm hãm sự phát triển chung của vùng đất này.


Tuy nhiên, từ khi thành lập cho đến khi bị thực dân pháp cai trị, kinh tế Châu Đốc đã có vị trí rất quan trọng. Thứ nhất, nó vừa là nền tảng, vừa là động lực và vừa là mục tiêu của sự phát triển. Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc ổn định chính trị, ổn định xã hội, khẳng định chủ quyền ở địa bàn biên giới, là điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát triển dân cư, tạo cơ sở xã hội cho nhà nước ở vùng đất mới. Thứ hai, là động lực phát triển của xã hội, kinh tế Châu Đốc đã tạo cơ sở vật chất và tiềm lực quốc phòng tại chỗ, hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức bảo vệ chủ quyền, chiến lược phòng thủ ở khu vực khá nhạy cảm về chính trị, lãnh thổ, tộc người, tôn giáo và tín ngưỡng. Thứ ba, kinh tế Châu Đốc đã thực sự làm bệ đỡ cho văn hoá, giao lưu văn hoá giữa các tộc người, là yếu tố quan trọng trong việc cố kết cộng đồng, ổn định tâm lý lưu dân, vượt qua những khó khăn trong thời kỳ khẩn hoang buổi đầu ở một địa bàn biên giới phức tạp.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:32:28 pm
Chương 3
ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA CƯ DÂN VÙNG ĐẤT CHÂU ĐỐC


1. VĂN HOÁ ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG

Khi xét đến văn hoá đảm bảo đời sống, những yếu tố quan trọng nhất thường được đề cập đó là việc ăn, mặc, ở, đi lại. Trong đó, ăn là một nhu cầu cơ bản, là "vũ khí sinh tồn", có ăn con người mới tồn tại. Vì vậy, ăn chiếm vị trí hàng đầu trong ăn, mặc, đi lại... của con người. Và ăn không chỉ thể hiện tính vật chất mà còn biểu hiện tập quán, nếp sống văn hoá của cư dân trong môi trường địa lý tự nhiên nhất định: "văn hoá ẩm thực" và còn là một nghệ thuật sống.


a- Ăn uống của các cộng đồng dân cư

- Ăn uống của người Việt

Bất cứ ở đâu, con người muốn tồn tại cũng phải lấy ăn làm đầu. Vì vậy, cách đây mấy nghìn năm Kinh Thư đã nói: "Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên" (Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm trời).


Môi trường tự nhiên Châu Đốc (đất, nước, khí hậu, ánh sáng...) rất thuận tiện cho sự tăng trưởng của nhiều loại động vật và thực vật, từ chim muông, rùa, rắn, ếch, tôm, cá trai, ốc... đến rau củ, trái cây... mà sách Gia Định thành thông chí [21, tr. 157-158] và Đại Nam nhất thống chí đã thống kê khá đầy đủ [80, tr. 197-198]. Vì vậy, ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến bữa ăn của cư dân rất rõ rệt. Trong cơ cấu bữa ăn hằng ngày cũng như trong tổng thể khối lượng thức ăn tiêu thụ của cư dân Châu Đốc, ngoài cơm là thành phần chất bột chủ yếu không thể thiếu thì thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Bởi vậy, công thức cơm cá trong cơ cấu bữa ăn đã trở thành chuyện thường ngày [75, tr.50] của cư dân Châu Đốc. Từ cá, cư dân Châu Đốc có thê chế biến thành hàng chục món ăn khác nhau. Chế biến để ăn ngay thì có món luộc, kho, chiên, nướng, hấp, nấu ám, nấu chua, làm gỏi, làm chả. Để dự trữ có cá khô, cá muối, cá thính và các loại mắm. Riêng cá nướng, một kiểu ăn có nguồn gốc xa xưa từ thời khẩn hoang thì người dân Châu Đốc cũng có nhiều cách, mà độc đáo nhất là cá lóc nướng trui bọc trong bùn non hay lá chuối khi cá vừa được bắt lên [75, tr.80].


Tuy nhiên, trong cơ cấu bữa cơm thường ngày người dân Châu Đốc cũng như Nam Bộ quen ăn món có vị mặn kèm theo canh (cơm + món mặn + canh/rau). Trịnh Hoài Đức đã nói đến khẩu vị mặn được tất cả mọi người ưa thích [21, tr.147]. Sách Gia Định thành thông chí cũng đã nói đến tài ăn mắm của dân Nam Kỳ, có người ăn vã 2 thùng cá mắm đến hơn 20 cân, chỉ ăn một bữa hết, để làm trò đánh đố" [21, tr.148].


Ngoài loại mắm kho trong các bữa cơm còn có mắm sông. So với mắm Nam Bộ thì người dân vùng Châu Đốc nổi tiếng với các loại mắm hàng thế kỷ qua, như mắm thái, măm trên, mắm lóc, mắm ruột...

   Mắm Châu Đốc
   Dốc Nam Vang
   Bò Châu Giang
   Kênh Vĩnh Tế [2, tr.29].

Ngày nay, còn những nhà làm mắm nổi tiếng ở đường Thượng Đẳng Lễ - thị xã Châu Đốc, sản phẩm được gửi bán khắp nơi. Cũng là xứ "ưa ăn mắm" ở Nam Bộ như Trịnh Hoài Đức đã nói, nhưng mắm Châu Đốc là nơi "lẫy lừng và nổi tiếng từ xưa ở Nam Kỳ lục tỉnh" [39]. Trong đó, có một loại mắm được coi là "đệ nhất danh mắm" ở Châu Đốc là mắm ruột. Mắm này được làm từ ruột cá lóc hoặc cá bông. Nếu nói, sử dụng ruột cá là một biểu hiện sang trọng trong tiêu dùng cá, thì việc lấy ruột cá làm mắm là đệ nhất sang trọng [136, tr.24]. Đối với người Việt, mắm giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn đạm động vật cho các bữa ăn hằng ngày của con người. Sau cơm, mắm phải kể đến món canh. Với khí hậu nóng bức quanh năm người dân Châu Đốc không thể thiếu món canh trong từng bữa ăn.


Thời kỳ khẩn hoang, đời sống còn khó khăn, thiếu thốn, sau một ngày phát cỏ đẵn cây, ngoài cá, tôm, cua bắt được ở bưng đìa, lưu dân nhặt bông súng, kèo nèo, rau dừa, rau mác, rau ngổ, rau đắng nấu nồi canh tập tàng. Canh tập tàng từng là món ăn đắc dụng đối với những lưu dân người Việt thời khẩn hoang. Lương thực có khi phải lấy hạt bông súng ăn cho đỡ đói... Gạo thời đó làm ra từ lúa trời, đuôi dài. Nồi cơm, bát canh tập tàng, đĩa dưa mắm, đĩa rau là bữa ăn đạm bạc nhưng đem lại sức lực cho những lưu dân buổi đầu mở cõi.


Nói đến bữa ăn của người dân Châu Đốc, canh là món phổ biến. Tuy nhiên, canh chua được xem là món cốt lõi của bữa ăn. Buổi đầu, khí hậu còn khá khắc nghiệt, nắng nóng quanh năm, bệnh tật, dịch lệ thường hoành hành nên cư dân thường ăn món chua để có thể chống lại bệnh tật [140, tr.79]. Nguyên liệu nấu canh chua rất đa dạng, phong phú, nhưng hai món chủ yếu quyết định cấu thành nồi canh chua là cá với chất chua (me chua, me đất, lá bứa, khế, bần...)- Theo quan niệm y học Đông phương, những thức ăn có vị đắng (măng, mướp đắng, rau đắng, rau ngổ, rau sam đắng, mơ lông), vị chua (khế, me, chua me...) và vị mặn có tính bình, mát và thuộc âm [131, tr.351], có tác dụng làm bữa ăn trở nên ngon miệng, dễ ăn, giải nhiệt, tăng sức đề kháng cho cơ thể, chống cảm cúm, tạo sự cân bằng âm dương. Đó là lý do giải thích tại sao những ngươi dân Châu Đốc có truyền thống, kinh nghiệm hay ăn mắm, canh chua trong điều kiện nang nóng quanh năm.


Trong bữa ăn, các loại rau đối với người Việt không chỉ là một loại thực phẩm, mà đặc biệt còn có công dụng (ít hoặc nhiều) trong việc phòng trị bệnh. Người Việt thường có câu "cơm không rau như đau không thuốc". Đặc biệt các loại rau gia vị, ngoài những hương vị riêng, làm cho món ăn thêm màu sắc hấp dẫn, tạo cảm giác ngon miệng, kích thích tiêu hoá, còn là những cây thuốc có chất phytoncid, là chất sát trùng thực vật, giải cảm, trị sốt, ho... [10, tr.9] như hành, tỏi, tía tô, kinh giới, hương nhu, rau răm, húng chanh,... Vì vậy, người Việt thường coi mỗi món ăn là một vị thuốc. Ngoài những món ăn mang tính cổ truyền của người Việt: cơm, mắm kho, canh, còn có những món ăn phản ánh điều kiện tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long mà các nơi khác hiếm thấy, được coi là đặc sản: thịt chuột đồng, thịt rùa, thịt rắn, thịt cá sấu, con đuông,... mang tính xài sang, cao cấp.


Trong những ngày lễ, tết, người dân Châu Đốc thường gói hai loại bánh, bánh tét và bánh ít để cúng ông bà tổ tiên. Ngoài ra, còn có bánh phồng làm từ nguyên liệu bột nếp để cúng quảy trong dịp giỗ, tết... Nghề làm bánh phồng nay vẫn phát triển mạnh ở xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, bạn hàng các tỉnh đến mua hàng khá tấp nập [30, tr.19]. Vào những dịp làm cỗ đãi khách, các món ăn được bày khá nhiều, vừa thể hiện sắc thái đậm đà của khẩu vị, điều kiện tự nhiên phương Nam, vừa biểu hiện tư tưởng hào phóng, thoải mái của người Châu Đốc. Ngoài các món ăn, đồ uống như rượu đế được làm từ nếp lên men, là món nhậu được giới đàn ông người Việt ưa thích. Trà là thứ nước giải khát thông dụng, tuy cách thưởng thức không giông người Việt phường Bắc, xem uống trà là một thứ tao nhã, thưởng thức. Đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức gọi trà là "chè Huế", mà mỗi người Nam Bộ đều thích uống [21, tr.148]. Người đàn bà Việt vẫn giữ thói quen ăn trầu, còn đàn ông thì hay hút thuốc.


Cộng cư lâu đời với các tộc người khác, cư dân Việt vừa bảo tồn truyền thống vừa sáng tạo, tiếp thu, cải biến những món ăn của người Khmer, Hoa, Chăm làm phong phú, đặc sắc thêm món ăn của mình. Món canh chua trong bữa ăn người Việt là kết quả của sự tiếp thu, cải biến, điều chỉnh canh chua của người Khmer cho hợp khẩu vị dân tộc (người Khmer nêm canh chua với cơm mẻ và mắm bò-hóc (prahoc), người Việt nêm bằng me và nước mắm). Người Việt cũng ảnh hưởng người Hoa những món ăn như lạp xưởng, thịt quay, mì, cháo quẩy, bánh bao...; ảnh hưởng của người Chăm món cà ri bò hay gà, nhưng thay vì cà ri nấu với sữa tươi, người Việt nấu với nước cốt dừa,...


Có thể nói, là tộc người nông nghiệp, di cư về phương Nam, người Việt vẫn bảo lưu cách ăn truyền thống và lối ăn cơm bằng đũa. Cơ cấu bữa ăn vẫn là cơm, món mặn (cá, thịt kho...) canh chua và rau. Cách ăn của cư dân Việt Châu Đốc không chỉ mang tính cách dân tộc, linh hồn dân tộc, tình cảm quê hương mà còn là vũ khí sinh tồn, là chất keo đoàn kết các thành viên trong cộng đồng, có khả năng làm người ta khuây khoả nỗi nhớ làng, nhớ quê hương, cội nguồn. Cách ăn uống của người Việt Châu Đốc không đi vào cách thức nấu nướng cầu kỳ, tỉ mỉ, thưởng thức cái tinh tế của lối sống kiểu như người Huế và Bắc Bộ mà thiên về sự dư dật, phong phú, ít chú ý tới cái tinh vi trong cách nấu, cách bày, tới mỹ cảm trong ăn uống. Người Châu Đốc ăn nhiều, ăn no, ăn thoải mái [125, tr.20]. Tuy nhiên, do cần thích nghi với khí hậu, tự nhiên, xã hội và văn hoá nên món ăn của người Việt Châu Đốc cũng có những tiếp thu, biến đổi để hợp với khẩu vị, tư tưởng dân tộc nhưng mang sắc thái mới mẻ, độc đáo của văn hoá đảm bảo vật chất ở vùng đất Tây Nam.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:33:23 pm
- Ăn uống của người Khmer

Cũng như người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer Châu Đốc là những cư dân nông nghiệp, nên nguồn lương thực chính của họ vẫn là lúa gạo. Trong ăn uống người Khmer vẫn còn giữ được khá rõ nét yếu tố văn hoá tộc người.


Nếu ngươi Việt Châu Đốc ưa ăn mắm và có những loại mắm cá nổi tiếng, thì người Khmer có món mắm bò-hóc là món ăn ưa thích. Mắm bò-hóc có thể dùng để nêm canh, nêm món ăn hoặc ăn sống, có hương vị đặc biệt. Món bún nước lèo đặc trưng nổi tiếng của người Khmer cũng được nêm bằng mắm bò-hóc. Người Khmer lấy nước này ăn với bún trong bữa ăn ngày giỗ, tết, lễ làm phước, cúng chùa. Có một món mắm mà người Khmer rất thích đó là mắm chua (pha-ớt). Mắm chua khi ăn có rượu ngon, là một món ăn tuyệt vời của người Khmer [140, tr.157]. Người Khmer rất thích các vị chua, cay và béo, đặc biệt là vị chua. Vì vậy, họ có nhiều món canh chua ("xiêm-lo-mò-chu").


Trong hầu hết món ăn mặn và ngọt của người Khmer đều nấu với nước béo của quả dừa. Đây là một công thức khá độc đáo mà không phải dân tộc nào cũng có thể chấp nhận dễ dàng [140, tr.159]. Trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của người Khmer, bánh ngọt giữ một vị trí khá quan trọng và chiếm một số lượng phong phú trong những dịp cưới, tết, lễ tôn giáo nhập hạ, ra hạ, Phật đản. Người Khmer rất tự hào về các loại bánh ngọt cổ truyền. Cốm dẹp (angbok) là món truyền thống không thể thiếu vào dịp lễ tạ ơn mặt trăng (Ok Angbok), một lễ hội nông nghiệp của người Khmer. Họ cũng thích dùng đường thốt nốt để nấu các món ăn ngọt lẫn mặn nhằm tăng hương vị thơm ngon [140, tr.163]. Người Khmer cũng ưa thích uống rượu, nhất là trong những dịp lễ, Tết,... Nước thốt nốt cũng là thứ nước giải khát lâu đời của họ.


Cũng như nhiều tộc người Việt, Hoa, Chăm ở Châu Đốc, người Khmer cũng luôn có ý thức dùng thức ăn để trị bệnh. Như một số món ăn có tác dụng hạ nhiệt tránh chứng bệnh sởi, ban phát trong mùa hè, dùng thịt cóc chữa bệnh suy dinh dưỡng và bệnh bụng báng của trẻ em, suy nhược cơ thể của người lớn... Mỗi loại thức ăn, lễ vật dâng cúng theo quy ước thường chỉ phục vụ cho từng cuộc lễ nhất định và được đặt trong những vật dụng riêng. Vì vậy, có khi chỉ cần nhìn vào thức ăn dâng cúng cũng có thể hiểu được đó là lễ gì.


- Ăn uống của người Chăm

Trong việc ăn uống người Chăm Châu Đốc phải tuân theo những quy định khắt khe của giáo luật Hồi giáo. Những điều cấm tín đồ ăn uống trong kinh Coran được tóm tắt như sau:

1. Cấm ăn các loại động vật sống trong nước, nếu khi đưa lên bờ đã chết thì mới được ăn (trừ thú độc). Loài nào vừa sống dưới nước vừa sống được trên cạn (sống ở 2 nơi) thì không được ăn như rùa, rắn...; 2. Ăn được các loài thú 4 chân sống trên mặt đất, trừ loài thú có 2 nanh và loài thú hung dữ, ăn giựt (nết ăn xấu) thì không được ăn; 3. Được ăn thịt tất cả các loại chim bay trên trời. Cấm ăn thịt những loài chim bổ nhào giựt mồi (nết ăn xấu) như quạ, diều hâu... Vì giáo luật muốn tín đồ ăn cái lành, không muốn tín đồ ăn thịt vật hung dữ, sẽ lây nhiễm tính hung dữ của chúng.


Giáo luật Islam cũng cấm tín đồ ăn thịt heo, vì heo là con vật ghê bẩn, ngoài heo còn có rắn, chuột, mèo, rùa cũng không được ăn. Trong tháng ăn chay Ramadal (tháng 9 Hồi lịch), tín đồ phải nhịn ăn từ khi mặt trời sắp mọc (lần cầu kinh đầu tiên của ngày) đến sau khi mặt trời lặn (lần cầu kinh buổi tôi). Trong suốt tháng Ramadal, tín đồ chỉ được ăn uống vào ban đêm, còn ban ngày không ăn, không hút thuốc, kiêng các nhu cầu xác thịt... Tháng ăn chay nhằm giúp tín đồ rèn luyện ý chí, di dưỡng tinh thần. Người Chăm ưa thích món "cà boh" (cà-búa). Họ lấy thịt bò, gà, trâu, dê loại ngon xắt miếng, ướp gia vị, tỏi, hành, tiêu, cà ri, nước dừa,... nấu vài giờ là được. Món này thường được ăn với cơm, để lâu khoảng nửa tháng không hỏng. Đặc biệt, món cà-búa thường được dùng trong đám cưới, lễ sinh nhật của Môhamet, cúng cơm tập thể. Trong bữa ăn thường ngày, người Chăm thích ăn canh chua nấu thịt hoặc cá.


Bánh ngọt giữ một vai trò quan trọng trong việc ăn uống của người Chăm Châu Đốc. Ngươi Chăm rất thích dùng bánh ngọt nên trong các dịp lễ, tết, đám cưới, tháng chay Ramadal... họ thường làm bánh ngọt đế biếu tặng, ăn bánh ngọt, uống trà [140, tr.270]. Về thức uống, theo giáo luật Islam, tín đồ uống được tất cả, chỉ cấm những thứuống bị say. Vì mỗi ngày 5 lần tụng kinh, nếu uống say thìtín đồ quên cả thánh Allah và quên những nhiệm vụ của mình trong xã hội. Trà là đồ uống phổ biến dùng để giải khát của người Chăm.


- Ăn uống của người Hoa

Việc ăn uống của người Hoa thể hiện đời sống ẩm thực lý thú, phong phú, là đặc điểm riêng của tộc người và là truyền thống văn hoá đặc sắc của người Hoa.


Buổi đầu đến vùng Châu Đốc, phần lớn người Hoa nghèo đều có thói quen ăn sáng cháo nóng, kèm với hột vịt muối, củ cải muối ngâm vào nước tương, trái cà na ngâm muối. Sau khi ăn cháo ai muốn ăn thêm gì nữa thì tuỳ ý. Người Hoa Châu Đốc cũng như Nam Bộ chế biến được rất nhiều món ăn ngon và đã trở thành cả một nghệ thuật.


Đặc điểm của món ăn của người Hoa thường là sự tổng hợp từ một món chính (như thịt, cá, tôm, cua...) với món phụ (các loại rau, quả, đậu...) nấu kèm theo món chính để làm cho món ăn trở nên phong phú, không đơn điệu mà lại thêm ngon miệng.


Một đặc điểm khác nữa là món nước lèo của người Hoa. Hầu như bếp ăn nào của họ cùng có nồi nước lèo để nấu với mì sợi, hủ tiếu, nấu canh, nấu xúp... Cách chế biến thức ăn của người Hoa nói chung đều giống nhau trên đại thể, song trong từng nhóm địa phương như Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hẹ,... cũng có nhưng phong cách riêng. Gia vị để nêm vào thức ăn của người Hoa cũng có một danh mục phong phú. Dù gạo là lương thực chính, người Hoa còn bổ sung thêm nguồn lương thực chế biến từ bột mì như mì vằn thắn, mì sợi. Tuy nhiên, ở mỗi nhóm địa phương người Hoa có cách thức chế biến món mì khác nhau [140, tr.208, 209]. Người Hoa có món bánh đặc trưng không thể thiếu là bánh củ cải. Tuy nhiên, vì bánh này làm tốn thời gian, cầu kỳ, nên chỉ có trong dịp giỗ, lễ, tết. Đám cưới người Hoa có hai thứ không thể thiếu là kẹo thèo lèo và bánh bía. Kẹo thèo lèo được làm bằng đậu phộng, mè, đường mật, rất được người Hoa ưa thích, bánh bía làm bằng bột gạo, mì, nhân đậu xanh, đường cát ngọt.


Bánh ngọt, loại bánh truyền thống của người Hoa có rất nhiều như: bánh tổ, có hình tròn, để lâu không hỏng, phù hợp với điều kiện khó khăn cần dự trữ; bánh nếp đỏ có hình chữ nguyệt là loại bánh truyền thống thường dùng trong những dịp Tết Thanh minh, Tết Nguyên đán, Tết mồng 5 tháng 5... Người ta còn thống kê được, riêng về bánh của người Hoa Triều Châu có khoảng 24 loại khác nhau [140, tr.211].


Đồ uống của người Hoa cũng thể hiện yếu tố văn hoá tộc người. Trong đó, rượu là một loại đồ uống rất quan trọng, vừa có tác dụng tốt cho sức khỏe, vừa có vai trò lớn trong giao tiếp, quan hệ xã hội, đặc biệt là những dịp vui, hội hè, đám cưới, lễ, tết,... Trước đây có gia đình ông Vĩnh Phong Long làm rượu trắng có tiếng không chỉ ở Châu Đốc mà còn khắp lục tỉnh. Trà cũng là một thứ đồ uống truyền thống thể hiện yếu tố văn hoá vật chất nhưng mang đậm phong cách, lối sống, văn hoá ẩm thực của người Hoa. Đặc biệt, người Hoa Triều Châu rất nổi tiếng về kỹ thuật ướp trà [140, tr.212]. Hiện nay, ở thị xã Châu Đốc còn có những hiệu trà của người Hoa Triều Châu nổi tiếng như cửa hiệu "Thành Hưng" (đường Bạch Đằng), "Bình Bình" (đường Lê Công Thành), "Hiệu trà 111" (đường Thượng Đẳng Lễ...).


Người Hoa rất thích màu đỏ, trong đời sống vật chất kể cả đời sống tinh thần, màu đỏ luôn tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Bắt nguồn từ sự tích của người Hoa, ngày xưa có con Niên hay quấy phá con người nhưng nó rất sợ màu đỏ. Vì vậy, trong cuộc sống người Hoa luôn sử dụng màu đỏ, biểu hiện cho sự an toàn, điềm lành, đưa lỳ xỳ bao màu đỏ, cô dâu mặc áo đỏ, viên chè ỉ nhuộm màu đỏ, ngày đầy tháng của trẻ em cúng quả trứng nhuộm đỏ... và số đỏ là số may mắn, tốt lành.


Nhìn chung ăn uống của người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long phản ánh đậm nét văn hoá tộc người, nó là một loại biểu tượng (symbol) văn hoá nhằm biểu thị ý nghĩa tín ngưỡng, thái độ ứng xử, niềm ước mong, tư tưởng của con người. Người Hoa là một dân tộc có ý thức trong việc kết hợp ăn uống và chữa bệnh. Để phù hợp với môi trường nắng nóng quanh năm, người Hoa thường sử dụng các món ăn có vị hàn - âm, giải nhiệt, dễ tiêu hoá, giúp cho cơ thể cân bằng âm dương... Phương pháp dinh dưỡng - trị bệnh bằng ăn uống của người Hoa theo nguyên tắc thức ăn phải phù hợp với môi trường sinh thái [140, tr.217-218]. Đối với người Hoa, thức ăn cũng là lễ vật thể hiện lòng thành của con người dâng lên tổ tiên, thần thánh. Thức ăn cũng giữ vai trò thiết yếu trong tín ngưỡng của người Hoa.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:35:12 pm
b- Trang phục của các tộc người

- Trang phục của người Việt

Trang phục là một nhu cầu thiết yếu của con người. Nó quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong xã hội, địa lý, lịch sử, kinh tế, lễ giáo, đẳng cấp, tập tục, tín ngưỡng... Nên nói đến trang phục của một tộc người là nói đến một nội dung khá rộng và phức tạp. Trong khuôn khổ công trình và tư liệu ít ỏi, chúng tôi chỉ có thể cố gắng đề cập đến những nét khái quát, đặc trưng của y phục, chứ chưa có điều kiện và có thể đi sâu tìm hiểu nhiều mặt của trang phục tộc ngươi Việt.


Về y phục, người Việt Châu Đốc thời Nguyễn, có lịch sử ăn mặc tương đồng các vùng đất khác ở Nam Bộ. Khởi đầu, phải nói đến y phục của Đàng Trong. Theo thư tịch cũ, đến năm 1744, ngoài người Việt, xứ Đàng Trong còn có nhiều tộc người khác như người Đường, người Cao Miên, người Chà Và..., nhưng y phục, đồ dùng thì người nước nào theo phong tục người nước ấy. Duy người Việt thì vẫn ăn mặc theo tục cũ của người Giao Chỉ. Người có quan chức đội mũ "Cao sơn", mặc áo "Phi phong", đi giày da, còn dân thường thì húi tóc, đi chân không. Nam nữ đều mặc áo cổ cứng, tay áo ngắn, áo đều may liền ở hai nách; không có quần dài, quần đùi, đàn ông dùng một đoạn vải quấn từ lưng xuống đến mông buộc thắt ở rốn, gọi là cái khố, con gái mặc váy không có lót, đội cái nón to... [21, tr.143].


Đến năm Giáp Tý (1744), thời kỳ Nguyễn Phúc Khoát ở ngôi chúa Đàng Trong, xảy ra những biến cố được coi là kỳ lạ, hiện tượng cát bồi ở cửa Thuận An, lời đoán của một thầy bói,... và khi đó ở Nghệ An có truyền câu sấm "Bát thế hoàn Trung đô" (Tám đời trở lại Trung đô) [20, tr.66]. Phúc Khoát là đời chúa thứ 8 có ý "chống mệnh", bèn tham chước cách ăn mặc các triều đại Trung Quốc từ đời Hán Đường đến Đại Minh, để chế ra kiểu mới, đổi y phục trong dân gian, áo mặc, nhà ở, đồ dùng của thường dân thì "đại lược" như thể chế của nhà Đại Minh [81, tr.208] "bỏ hết thói hủ lậu của người Bắc Hà" [21, tr.143]. Có tác giả cho rằng, chúa Nguyễn truyền cho quan, quân, dân ăn mặc theo sách "Tam tài đồ hội" [140, tr.51] và quy định cụ thể các kiểu dáng y phục, tuy nhiên không hiểu sách này như thế nào.


Như vậy, có thể nói đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát y phục của Đàng Trong và Đàng Ngoài đã khác nhau về cơ bản. Sang thế kỷ XIX, vào năm 1802 khi bàn về phong tục, vua Gia Long cho quần áo dân Bắc Hà không đẹp "phải nên một phen sửa định" để cả nước giống nhau. Tuy nhiên Gia Long cũng thấy "sửa đổi phong tục cũng phải dần dần" [83, tr.97]. Nên sau 26 năm đất nước thống nhất, mà y phục cả nước còn quá khác biệt. Đấy là lý do để năm 1828, Minh Mệnh phải ra chỉ dụ bắt dân từ sông Gianh trở ra phải thay đổi y phục giống như phía Nam [89, tr.118]. Thế nhưng, mãi mười năm sau (1837), từ sông Gianh trở ra Bắc vẫn chưa đổi cho thống nhất để "hết thảy ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh", mà miền ngoài vẫn theo tục cũ, con trai đóng khố, con gái mặc áo vạt khép với nhau, dưới mặc váy. Minh Mệnh ra chỉ dụ, trong năm Đinh Dậu (1837) phải thay đổi tất cả, nếu năm sau vẫn còn người ăn mặc theo tục cũ thì trị tội [97, tr.231].


Như vậy, ở Đàng Trong từ năm 1744 trở đi, đã thay đổi lối ăn mặc, cách ăn mặc này cơ bản có lẽ được duy trì cho đến cuối thế kỷ XIX. Mặc dù, từ năm 1802 trở đi, các vua Nguyễn đã có một số chỉ dụ để bổ sung như: năm 1828, 1837... nhưng cơ bản có thể theo lối năm 1744.


Cư dân Việt vào khẩn hoang vùng Châu Đốc phần lớn là những người nghèo, có gốc gác miền Trung nên ảnh hưởng cách ăn mặc của người Đàng Trong. Nam cũng như nữ khi lao động mặc áo cánh ngắn (áo lá) bằng vải ta, cổ thấp, không có tay, xẻ vạt kiểu miền Trung hoặc mặc áo "cụt đà" nhuộm màu giang, áo lục nâu, áo vạt hò (áo cài khuy một bên) là kiểu áo thường nhật. Quần của nam giới chỉ ngắn tới gối, quần của phụ nữ dài hơn (quần vải ta, vải địa phương dệt tay, thô sợi). Phụ nữ Đàng Trong không còn mặc váy nhưng có người vẫn còn dùng yếm [124, tr.78]. Màu sắc chủ yếu của y phục thời kỳ này là màu nâu sẫm (nhuộm bằng cây dà) hoặc chàm sẫm ngả sang đen mốc (nhuộm bằng cây cóc mọc dại, rồi đem dấn bùn cho thẫm màu) [140, tr.53]. Về sau, ở Châu Đốc do có nghề tằm tơ phát triển đã nhuộm vải bằng trái mặc nưa, màu đẹp và bền hơn. Ngươi Việt Châu Đốc cũng như Nam Bộ hầu hết đi chân đất theo tập quán lâu đời, những người giàu có, quan lại mới mang hài, dép.


Lễ phục của nam giới cũng như nữ giới thuộc tầng lớp bình dân là áo dài đen, quần đen, khăn xếp hoặc bới tóc, đi chân đất, có khi đi guốc. Chiếc áo dài Việt Nam thời kỳ này được xem vừa là lễ phục vừa là quốc phục của cả hai phái nam nữ. Kiểu áo của cả hai phái đều không khác nhau nhiều về dáng vẻ, chất liệu vải, cỡ rộng hẹp [140, tr.54]. Đặc điểm chung của lễ phục người Việt thời đó là rộng dài, thể hiện sự kín đáo, nghiêm trang tề chỉnh, thể hiện đặc trưng của tộc người. Ngày nay, y phục đó còn được những tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An Giang vẫn còn dùng mặc rất phổ biến, thể hiện ý thức bảo tồn phong tục tập quán dân tộc từ thế kỷ XIX đến nay.


Thế kỷ XIX, người phụ nữ Châu Đốc và Nam Bộ đều mặc áo dài thường xuyên, kể cả khi lao động nặng nhọc. Phụ nữ bình dân thông thường mặc quần áo dài, đi chân đất, đầu đội khăn hoặc nón lá. Phụ nữ ra đồng làm ruộng hay khi dệt vải, xay lúa ở nhà cũng như buôn bán ở chợ đều mặc áo dài... Có thể nói, đó là chiếc áo dài thường nhật của phụ nữ, từ người nghèo cho đến những tầng lớp trên giàu có. Đầu thế kỷ XX, phụ nữ Châu Đốc và Nam Bộ vẫn thường xuyên mặc áo dài [140, tr.64], không chỉ vì thói quen mà vì nó còn là trang phục kín đáo, che kín cơ thể cả phía trước lẫn phía sau và còn do quan niệm luân lý thẩm mỹ, tập quán ăn mặc kín đáo của phụ nữ phương Đông. Như có học giả đã nói: Người Việt cực kỳ kinh sợ sự trần truồng, người ta có thể mặc áo rách, nhưng người ta không bao giờ cởi truồng, nhất là phụ nữ, thuộc âm, nguyên lý của bóng tối lại phải càng rất kín đáo [38, tr.465]. Vào nửa cuối thế kỷ XIX, Châu Đốc có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa phát triển, đặc biệt là vùng Tân Châu, nên cư dân ở đây ăn mặc khá đẹp, đặc biệt là phụ nữ [36, tr.27].


Như vậy, đến thế kỷ XIX, lễ phục truyền thống của dân tộc Việt được kết tinh thành những đặc điểm sau: quần chùng - áo dài - khăn xếp. Lễ phục và triều phục của triều Nguyễn cũng giữ theo lệ ấy, chỉ khác về chất liệu vải,  về dáng, màu sắc của từng bộ phận kết thành: quan (mũ), đai (thắt lưng), bào (áo dài), hốt, cân (khăn), nài (dây), miệt (tất chấn), bổ tử trên ngực áo,... Các loại lễ phục của quan lại nói trên không thoát ra khỏi y phục truyền thống, đã trở thành lễ phục - quốc phục của người Việt với 3 yếu tố cơ bản hợp thành: quần chùng - áo dài (tay thụng) - khăn đóng.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:35:39 pm
Ngoài các y phục nói trên của người Việt Châu Đốc và Nam Bộ, thế kỷ XIX được coi là thời điểm xuất hiện của bộ quần áo bà ba [140, tr.62]. Tuy nhiên, ý kiến đó đến nay cũng chỉ là phỏng định và vì vậy thời gian xuất hiện và nguồn gốc ra đời đáng tin cậy của bộ bà ba còn nhiều điều mơ hồ. Có ngươi cho rằng áo bà ba là kiểu áo được du nhập từ đảo Pi-năng ở Malaixia, nơi có tộc người Ba-ba sinh sống, đó là một tộc người mang hai dòng máu Hoa và Malaixia. Kiểu áo này của người Ba-ba du nhập vào Nam Bộ theo con đường giao thương của người Hoa. Hoặc có thể áo bà ba được ảnh hưởng, cách tân từ áo lá với áo "xá xẩu" may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cổ đứng, giữa cài nút thắt [140, tr.62]. Cũng có người cho áo bà ba là kết quả của một quá trình cải tiến từ bộ áo cài nút và quần hai ống đã được dân Đàng Trong dùng từ thời chúa Nguyễn [35, tr.15].


Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn. Khăn răn là loại khăn có nguồn gốc của người Khmer mà người Việt đã ảnh hưởng. Tuy nhiên, khi tiếp thu khăn rằn của người Khmer, người Việt Nam Bộ đã làm cho nó trở thành đa dụng. Đêm sương lạnh dùng làm khăn quấn quanh cổ và ngực cho ấm, ngày nắng thì quấn lên đầu thay nón mũ, khi tắm xong quấn quanh hông để thay quần áo, lau mồ hôi lúc lao động, khi ngủ có thể làm chăn đắp [35, tr.20]... Mặc dù thời điểm xuất phát bộ bà ba chưa được xác định rõ, nhưng đến đầu thế kỷ XX đã thấy những người tham gia khởi nghĩa Phan Xích Long mặc nó (1913-1916) và mãi đến sau năm 1945, hầu hết thanh niên nam nữ mới bỏ hẳn bộ quần áo dài và thay vào đó là bộ bà ba được mặc phổ biến cho đến ngày nay [140, tr.66].


Y phục ngày tết, ngày lễ, đám cưới của người Việt Châu Đốc và Nam Bộ như nói trên ở thời Nguyễn đối với cả hai giới đàn ông và đàn bà, già trẻ có lẽ phải là bộ quần áo dài - khăn đóng truyền thống. Trong đám cưới, chú rể mặc áo dài, khăn đóng, cô dâu mặc áo dài, đội "hoành" (khăn xếp nhiều nếp) trên đầu.


Về tang phục (hiếu phục) người Việt Nam Bộ và Châu Đốc thời Nguyễn vẫn sử dụng tang phục theo "Thọ mai gia lễ" tương tự như người Việt miền Bắc và miền Trung. Tuỳ theo mối quan hệ, tang phục thường có 5 loại (ngũ phục đồ): Trảm thôi: mặc áo xổ gấu để tang 3 năm; Cơ niên (Tư thôi): mặc áo vén gấu để tang 1 năm; Đại công: để tang 9 tháng; Tiểu công: để tang 5 tháng; Ti-ma: để tang 3 tháng.


Để biểu hiện tình cảm đau buồn của người thân trong gia đình đối với người qua đời, tang phục phải dùng vải thô, vải xấu màu trắng. Tang phục còn biểu hiện mối quan hệ thân tộc của ngươi mặc nó đối với những người quá cố. Trong đám tang cha, con trai mặc áo xô "Trảm thôi" (vải chỉ to sợi, xổ lai), còn trong tang mẹ thì mặc áo "Tư thôi" (vải chỉ to sợi may lai), bên ngoài khoác áo gai ngắn (chỉ sự đau xót, khổ sở), sau lưng kết miếng vải vuông, gọi là "phụ bản" (ngụ ý người con trai cõng trên lưng sự thương nhớ người quá cố), đầu đội khăn bít cân "dây rơm mũ bạc", tay chống gậy tre nếu tang cha, chống gậy ngô đồng hay cây vông nếu tang mẹ.


Như vậy, qua tang phục người Việt ta thấy, nó không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa người chết và người đang sống mà còn nhắc nhở người sống biểu lộ tình thương yêu và sự biết ơn đối với người đã khuất. Tang phục của người Việt dù đơn giản song biểu thị thái độ nghiêm túc, mang được những ý nghĩa sâu sắc, cũng là một mặt của đời sống văn hoá của người Việt Châu Đốc nói riêng và của người Việt nói chung.


Nhìn chung lại, y phục người Việt Châu Đốc và Nam Bộ thời Nguyễn có thể chia thành hai giai đoạn: Trước năm 1744, người Việt Châu Đốc sử dụng y phục theo kiểu cũ. Từ năm 1744 trở đi, chúa Nguyễn định sắc phục mới, dần dần hình thành bộ quốc phục quần chùng - áo dài - khăn đóng cho cả nam nữ và trở thành quốc phục - lễ phục cho người Việt. Có thể là đến cuối thế kỷ XIX - XX, bộ quần áo bà ba bắt đầu xuất hiện ở Nam Bộ. Đặc biệt, từ giữa thế kỷ XX về sau, bộ bà ba, khăn rằn đã phổ biến trong đời sống. Đây là sự tiếp thu, cải biến văn hoá từ các tộc người khác của người Việt. Như vậy, vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp thu yếu tố bên ngoài và vừa sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh môi trường, người Việt Nam Bộ và Châu Đốc đã định hình y phục của mình vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, điều này cũng bị tác động mạnh mẽ bởi những quy định của chính sách chính trị, xã hội và văn hoá từ thời các chúa Nguyễn đến các vua Nguyễn, thế kỷ XIX y phục Việt được định hình chính thức, mặc dù trong quá trình đó, được nhiều lần điều chỉnh, bổ sung thêm cho hoàn chỉnh và ổn định hơn.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Bảy, 2021, 07:36:22 pm
- Trang phục người Khmer

Trang phục của người Khmer Châu Đốc và Nam Bộ thế kỷ XIX thể hiện yếu tố văn hoá tộc người.

Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Siêu đã nói đến cách mặc của người Khmer "người ở trần truồng không mặc quần áo. Lấy vải hoa quàng ngang lưng. Tục gọi là cái văn" [115, tr.330]. Sách Liệt truyện cũng ghi tương tự "lấy vải sặc sỡ quấn ngang lưng, không mặc quần áo" [113, tr.563]. Trang phục thường ngày của đàn ông hay đàn bà Khmer là những chăn (tấm vải rộng), khi mặc xếp mối về phía trước, đây là những "xà-rông", chiếc khố của nam giới, mình để trần, chân đi đất. Đàn bà thường quấn chăn, mặc áo bà ba, không có cổ. Trang phục truyền thống đám cưới của chú rể là "sampôt hôi" (tấm vải rộng, khi vận quanh người từ hông trở xuống, kéo vải từ phía trước luồn giữa 2 chân vòng ra sau thành một loại như quần, phồng to và ngắn ngang gối) để thẳng bình thường (như chiếc xà-rông), màu đỏ hoặc màu sẫm, có hoa văn. Chú rể có thể mặc loại áo Khmer ngắn màu đỏ hoặc màu trắng, kiểu cổ đứng, tay dài, cài cúc phía trước. Trang phục cưới truyền thống của cô dâu là chiếc "sampốt" lộng lẫy, dài đến cổ chân, có hoa văn cùng chiếc áo ngắn tay bó chân hoặc để hở một bên vai. Sau cùng là cái mũ cưới hình tháp nhọn 3 tầng kết hoa lộng lẫy. Tập tục nhuộm răng cho cô dâu, chú rể biểu thị quan điểm thẩm mỹ của người Khmer truyền thống mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo [140, tr.151]. Tóc của người Khmer thường quăn gợn sóng tự nhiên,...


Vào thế kỷ XIX, nhà Nguyễn buộc người Khmer đổi bỏ y phục, ăn mặc theo lối người Việt. Sách Gia Định thành thông chí ghi năm 1816, nhà Nguyễn ban cho các quan Cao Miên những đồ văn võ triều phục. Kể "từ đấy y phục khí dụng của quan và dân Cao Miên đều bắt chước theo phong tục của ta, các man tục như trùm vải lên đầu, quấn vải làm váy... đều dời bỏ cả" [21, tr.85], Năm 1825, triều Nguyễn theo lời xin của lính đồn Oai Viễn (trấn Vĩnh Thanh) xin cải y phục theo như người Việt [112, tr.129]. Năm 1838 triều Nguyễn chuẩn cho 3 tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long sai lần lượt quan dân người Khmer trong hạt học tập tiếng nói, áo mặc, ăn uống theo người Kinh [98, tr.78]. Mục đích của triều Nguyễn có thể thấy rõ tính tích cực ở vùng biên thuỳ Tây Nam, tuy nhiên đã động chạm đến phong tục tập quán là một việc khó dời đổi.


Tuy nhiên, trong quá trình cộng cư lâu dài với người Việt, người Khmer đã dần dần ảnh hưởng cách ăn mặc của người Việt. Cũng như y phục người Việt, bộ quần áo bà bà đen, khăn rằn là y phục thường ngày của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long. Còn trong những ngày lễ tết, cưới, người Khmer mới ăn vận y phục truyền thống.


Cũng như các nét sinh hoạt vật chất khác, ăn uống, nhà ở... trang phục của người Khmer Châu Đốc thể hiện khá rõ nét hai vấn đề, vừa bảo lưu những yếu tố truyền thống, bản sắc tộc người vừa giao lưu ảnh hưởng văn hoá của các tộc người khác như người Việt, Hoa trong nhà cửa, ăn uống và trang phục ở trên cùng một địa bàn cộng cư.


- Trang phục của người Chăm

Trang phục không đơn thuần phản ánh một nội dung quan trọng của văn hoá vật chất, mà còn là một biểu hiện tiêu biểu của đời sống văn hoá tinh thần tộc người, vì vậy nhìn trang phục có thể phân biệt khá rõ đặc điểm của mỗi dân tộc. Đối với người Chăm Châu Đốc điều này được thể hiện rất rõ ràng.


So với các tộc người khác ở Châu Đốc thì người Chăm đã bảo lưu khá đậm nét trang phục truyền thống của mình từ xưa đến nay. Trong đó, bộ nữ phục của người Chăm gồm 3 thứ cơ bản, khăn đội đầu (khănhpum), áo (táh) và váy (khănh). "Khănh-pum" là bộ phận quan trọng không thể thiếu trong bộ nữ phục Chăm trong ngày lễ lẫn ngày thường. Chiếc áo dài cổ truyền ("táh") của phụ nữ Chăm là kiểu áo dài quá gối, rộng, may bít tà, cổ áo rộng để khi mặc có thể chui đầu. Tay áo dài đến cổ tay, bó chặt... Chiếc áo dài cổ truyền này được phụ nữ Chăm mặc trong những ngày lễ, tết, ngày cưới, còn ngày thường họ chỉ mặc áo ngắn như áo sơ mi. Ngày cưới cô dâu cũng mặc áo "táh" cổ truyền, tuy nhiên đẹp và rực rỡ hơn dịp khác [140, tr.252-253]. Váy của người Chăm có 2 loại, người lớn thì mặc váy quấn, còn trẻ em thì mặc váy dài đến tận gót chân. Trang phục của người Chăm thường sử dụng màu xanh chàm và màu đen - màu sắc truyền thống từ lâu đời của họ.


Ảnh hưởng cách ăn mặc truyền thống và tuân thủ giáo luật Islam quy định, nên phụ nữ Chăm phải luôn mặc váy với áo dài tay và phải choàng khăn lên đầu, đặc biệt khi đi ra ngoài nơi ở. Đây là một tập quán thể hiện sự kín đáo, đứng đắn chuẩn mực mà mỗi phụ nữ Chăm phải tuân theo. Đối với nam giới, bộ thường phục của người Chăm gồm có mũ, áo và xà rông. Tín đồ nam từ nhỏ đến lớn, khi ở nhà cũng như lúc đi ra ngoài đều phải đội mũ. Thời Nguyễn các vị Hiệp quản chỉ huy các đội dân binh Chàm ở Châu Đốc, được nói tới hay đội chiếc "khôn" bằng nỉ đỏ. Đàn ông người Chăm thường ở trần mặc xà rông hoặc mặc áo "chêva" rộng, màu trắng, dài quá mông.


Trong đám cưới, trang phục chú rể Chăm giống như trang phục của vị Hadji đi hành hương ở thánh địa La Mèque. Đó là áo "kơrông" màu trắng, dài chấm gót, cùng với xà rông trắng, đầu quấn khăn trắng và đội thêm chiếc vòng "ykal" bằng gỗ, kim loại hoặc dây vải quanh đầu để giữ chặt chiếc khăn quàng [140, tr.262-263]. Thời Minh Mệnh, triều đình bắt người Chăm thay đổi trang phục, chữ viết, ngôn ngữ theo người Việt. Đến đời Thiệu Trị, triều đình cho hồi phục phong tục và trang phục như cũ cho người Chăm.


Như vậy, trang phục của người Chăm vừa bảo lưu những yếu tố truyền thống vừa in đậm dấu ấn của tôn giáo (đạo Hồi) vừa ảnh hưởng điều kiện tự nhiên môi trường sinh thái Tây Nam.


- Trang phục người Hoa

Phụ nữ Hoa thường ngày mặc bộ quần áo màu sẫm hoặc vải đen, kiểu áo ngắn có tay dài hoặc ngắn ngang khuỷu, có hàng cúc phía sườn phải nút thắt, cổ áo cao mềm, tà xẻ từ hai bên hông hoặc loại áo xẻ ở giữa, cài nút thắt [140, tr.203].


Đàn ông thường mặc quần đùi đen rộng dài đến đầu gối lúc ở nhà. Khi lao động họ mặc quần áo màu đen, áo "xá xẩm" cổ truyền như kiểu Tôn Trung Sơn, cổ đứng xẻ giữa từ cổ xuống vạt, cài nút thắt, lưng áo có đường nổi [140, tr.205]. Người Hoa thích đội nón "hạt dưa", đi giày bố. Trang phục cưới cô dâu người Hoa là bộ đồ màu đỏ (kam hoành), vì màu đỏ biểu thị sự may mắn tốt đẹp. Bộ áo cưới gồm chiếc xiêm đỏ bằng gấm thêu, dài chấm gót và chiếc áo ngắn bằng gấm ngũ sắc, cổ đứng xẻ giữa, nút thắt to, tay áo dài và rộng để lộ chiếc áo trắng bên trong. Bộ đồ cưới gồm xiêm với áo dài, gọi là "tai khoành", là bộ áo truyền thống của người Hoa. Theo cổ tục, cô dâu bới tóc, thoa dầu, giắt trâm hình cành hoa đỏ và lá trắc bá diệp xanh tươi, tượng trưng cho sự trẻ trung. Cô dâu Quảng Đông còn đội thêm chiếc mũ phượng gồm hình chim phượng và các bông hoa đỏ, phía trước mặt có tấm rèm thưa bằng hạt châu để che mặt [140, tr.204]. Chú rể người Hoa mặc bộ xiêm và áo bằng vải xanh, dệt chữ Thọ hoặc chữ Phúc bằng Hán tự. Xiêm có thể cùng hoặc khác màu với áo. Áo kiểu thường dài, cổ áo cao, tay dài và rộng, cài cúc ở sườn phải hay ở giữa. Bên trong mặc áo trắng, trên đầu đội mũ quả bí hoặc mũ dưa hấu màu xanh sẫm, chân đi hia bọc gấm [140, tr.205-206].


Nhìn chung, người Hoa đến đồng bằng sông Cửu Long phần lớn là người nghèo, phải lao động cật lực để kiếm sống, vì vậy cách ăn mặc đơn giản, xuê xoà vì họ là tầng lớp bình dân và còn phù hợp với khí hậu nóng quanh năm.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 08 Tháng Bảy, 2021, 07:10:22 pm
c- Nhà ở của cư dân Châu Đốc

- Nhà ở người Việt

Tuy cuộc sổng chưa thực sự ổn định, nhưng ngay từ lúc mới bước chân đến vùng Châu Đốc, những lưu dân Việt đã phải tạo cho mình một không gian để cư trú, đó là những lán trại hoặc nhà "bè nổi" ở những nơi ngập nước.


Nếu là lều, trại thì có cột bằng cây, gỗ và lợp, che bằng cỏ lá. Dù kiến trúc đơn sơ thế nào thì những lán trại này cũng có hai bộ phận quan trọng là khung sườn và mái che, còn tường vách có thể có hoặc có thể không. Còn về kiểu nhà bè cỏ nổi, theo lời những vị cao niên vùng Láng Linh được ông bà mấy đời truyền lại cho biết: Thời kỳ lưu dân mới đến, vùng này còn bưng trấp bạt ngàn, họ lấy cỏ lá, lau sậy xếp thành lớp dày, sau lấy gỗ, củi gác lên trên, rồi lại chất tiếp lớp cỏ khác, tiếp đến lớp gỗ củi... Cứ như vậy, tạo thành cái bè nổi. Người ta sống tạm trên bè. Hai kiểu nhà "dã chiến" trên đây là tạm bợ cho những lưu dân khẩn hoang buổi đầu, của những trại, nậu ăn ong, săn thú, của những hộ nhựa trám, hộ dầu rái, của những tín đồ Thiên Chúa giáo lánh nạn.


Từ sau năm 1744, chúa Nguyễn quy định thay đổi y phục, đồ dùng Đàng Trong, thì nhà ở Châu Đốc phổ biến kiểu "nhà xuyên trinh" theo lối nhà chữ Hợp của Trung Quốc mà Bình Nguyên Lộc đã nói khá phổ biến ở người Việt miền Trung và miền Nam [140, tr.316]. Tuy nhiên, không như người Việt miền Bắc và miền Trung, thường coi trọng nơi ở, "an cư lạc nghiệp", "sống cái nhà, già cái mồ", lưu dân Việt Châu Đốc nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung phần lớn sống trong những ngôi nhà tương đối tạm bợ, thường gọi là "nhà đạp", "nhà đá". Bởi vì, khi không có thể ở lại, họ dùng chân đá, đạp bỏ để ra đi. Do hoàn cảnh lịch sử và tâm lý, người Việt Châu Đốc không có tư tưởng sống ở một nhà, chết chôn một mồ như người Việt miền ngoài.


Điều đó có thể giải thích từ nguyên nhân lịch sử và điều kiện tự nhiên. Thời kỳ đầu, cuộc sống lưu dân còn rất gian nan, nên nhà cửa chưa phải là quan trọng nhất. Hơn nữa, nền đất sình lầy, nên làm nhà to rất khó khăn, vả lại, là vùng đất biên giới, binh hoả liên miên, cuộc sống bấp bênh, bao phen nhà mới dựng đều bị phá huỷ. Ngoài ra, một nguyên nhân rất quan trọng, tác động đến kiến trúc nhà ở của người Việt đồng bằng sông Cửu Long là thời tiết khá ôn hoà, không có gió bão, không có nắng chói chang thiêu đốt và rét cắt thịt như ở miền Bắc, nên người ta có thể sống tạm trong những lều, trại quanh năm.


Mãi đến thế kỷ XIX, khi cuộc sống lưu dân đã tương đối ổn định, từ những túp lều nhỏ hẹp, một số người Việt đã dần cất được những ngôi nhà to đẹp, vững chãi hơn từ những danh mộc, vật liệu tốt. Ngoài dòng kiến trúc chính thống, kiến trúc cung đình, dinh thự, trại lính, kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo,... nhà dân gian người Việt Châu Đốc về mặt bằng nhìn chung có hai dạng tương đối phổ biến là nhà đất và nhà sàn. Trong đó, thông dụng hơn là loại nhà đất.


+ Nhà đất là loại hình cư trú chủ yếu của người Việt, là kiểu nhà truyền thống của người Việt ở miền Bắc và miền Trung được người dân khẩn hoang đưa vào vùng đất mới. Trong đó "nhà chữ Đinh" khá phổ biến, là loại nhà có một căn ngang (nhà dưới, nhà phụ) liền với một căn dọc (nhà trên, nhà chính) dạng chữ Đinh "J" Hán tự. Căn nhà chữ Đinh thường được làm gỗ lá 1, 2 hoặc 3 gian, có chái, phía trước gian chính có hiên che [140, tr.22]. Ngoài nhà chữ Đinh còn có nhà chữ Công, nhà sắp đọi, nhà thảo bạt... tuy không phổ biến.

Về kết cấu kỹ thuật: nhà thường có hệ thống khung sườn chịu lực. Sườn nhà là bộ phận cốt yếu nhất của nhà, thể hiện kết cấu và trình độ kỹ thuật xây dựng nhà. Phổ biến là kiến trúc kết cấu gỗ với mái dốc. Các thành phần gỗ của nhà đều liên kết mộng khớp chặt chẽ mà không dùng đến đinh, có thể thay thế từng bộ phận khi hỏng hoặc tháo ra di chuyển dễ dàng. Cũng chính vì vậy có người cho nhà của người Việt vừa là bất động sản vừa là động sản.


+ Nhà cột giữa, thuộc kết cấu kỹ thuật cổ truyền mang tính bản địa của người Việt ở Trung Bộ [7, tr.329]. Yếu tố cơ bản của nhà này là cột cái (cột giữa) đâm thẳng từ nền nhà lên nóc nhà, đỡ và gắn chặt trực tiếp vào cây đòn dông. Từ đầu cột giữa liên hệ với đầu cột trước và đầu cột sau bằng một chiếc kèo đơn hoặc kèo kép có một con xỏ chốt ngang. Toàn bộ sườn nhà liên kết với nhau bởi những miếng nêm, mộng, hoặc buộc dây [7, tr.329]. Tuy nhiên, nhược điểm của kết cấu nhà này là không gian nhà bị vướng, hẹp và khó bày biện do các hàng cột giữa.


+ Nhà xuyên trinh: là dạng nhà có bộ khung không có cột cái ở chính giữa, thay bằng hàng cột giữa là hai hàng cột cái đưa ra hai bên lòng nhà. Hai cột cái của mỗi vì được liên kết vững chắc bởi cây "trinh" xuyên ngang, thường là cây "trinh" thẳng, không uốn cong như ở miền Trung. Nhà thường có 4 vì kèo (nhà 3 gian), những vì kèo này dỡ lấy mái nhà có sườn nghiêng dốc. Chiều dọc các hàng cột được nối với nhau bởi các xà gỗ cho bộ khung thêm vững chắc, gọi là "trinh xuyên lãng" (miền Trung gọi là xà dọc) [7, tr.329]. Nhà trinh tiện lợi hơn nhà cột giữa, không chỉ nhờ khung nhà vững chắc hơn mà lòng nhà còn rộng rãi hơn [140, tr.30]. Nhà xuyên trinh là kiểu nhà từ miền Trung được đưa vào và có lẽ xuất hiện ở miền Nam sau năm 1744 mà Bình Nguyên Lộc nói đó là ảnh hương kiểu nhà của người Trung Quốc và Trịnh Hoài Đức cũng nói người Việt ảnh hưởng theo nhà ở của nước Đại Minh [21, tr.143]. Nhà xuyên trinh là dạng nhà thể hiện trình độ kiến trúc cao ở nông thôn Nam Bộ, kiểu nhà này vốn là biến thể từ loại "nhà rường" ở Trung Bộ.


- Nhà sàn: Từ thủa xưa, cư dân Phù Nam vùng này đã ở bằng nhà sàn lợp lá [53, tr.347]. Đây là một cố gắng nổi bật để thích ứng với tự nhiên và nỗ lực chế ngự thiên nhiên của cư dân sống trên đồng lầy và đồng bằng thấp ngập nước.

Đến thời khẩn hoang, lưu dân Việt ở Châu Đốc vùng ngập nước và những nơi đất thấp, quá ẩm ướt cũng phải làm nhà sàn để ở, vì họ không thể làm nhà ngay trên mặt đất như nơi khác, về kiểu dáng, kết cấu kỹ thuật, vật liệu xây dựng nhà sàn của người Việt Châu Đốc tương tự như của căn nhà đất bình thường. Chỉ khác nhà trệt là thêm hệ thống cột sàn, sàn, cầu thang [140, tr.34]. Tuy nhiên, ngay cả vùng ven chân núi như ở Thất Sơn, người Việt cũng làm nhà sàn để ở. Mục đích của loại nhà này thì không phải để tránh nước lụt, mà chủ yếu là tránh ẩm ướt, thú dữ, rắn rết, côn trùng độc hại, phòng vệ,... Nhà sàn có ưu điểm là sạch sẽ, mát mẻ, thoải mái và sáng sủa hơn nhà đất. Như vậy, nhà sàn của người Việt Châu Đốc được xây dựng ở hai vùng địa lý khác nhau, vùng thấp ngập nước và vùng cao Thất Sơn. Ở đây có thể thấy nhà ở không chỉ vừa ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên mà còn có thể ảnh hưởng kiểu nhà sàn của người Khmer trong vùng. Trong quá trình định cư ở Châu Đốc ngứời Việt cũng sản sinh ra loại nhà nửa sàn nửa đất, mà phía trước nhà là bờ sông rạch. Ngoài ra, do nhiều sông rạch, chỗ nào cũng có thuyền ghe, nên nhiều người dân lấy thuyền làm nhà [21, tr.149], lênh đênh trên mặt nước để sinh sống.


Như vậy, nhà ở của người Việt Châu Đốc nhìn chung có hai loại, nhà sàn và nhà đất, trong đó phổ biến kiểu nhà xuyên trinh và nhà cột giữa. Nhà cột giữa là kiểu nhà truyền thống, bản địa của người Việt, nhà xuyên trinh có lẽ xuất hiện chính thức sau năm 1744, theo cải cách của chúa Nguyễn. Về hình dáng, nhìn chung, nhà người Việt ở Châu Đốc có hình chữ nhật là kiểu nhà phổ biến nhất.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 08 Tháng Bảy, 2021, 07:10:55 pm
Về vật liệu xây dựng, được khai thác tại chỗ hoặc lân cận, như gỗ tràm, đước, cau, dừa, tre... có khắp nơi, hoặc gỗ sao khai thác ở vùng Cái Sao, gỗ dầu khai thác ở vùng Cái Dầu, gỗ căm xe khai thác ở Thất Sơn hoặc mua tận Chân Lạp. Mái nhà và tường, vách lợp bằng lá dừa nước, cỏ gianh vùng Thất Sơn... rất sạch, mát và bền. Như vậy, vật liệu xây dựng khai thác tại chỗ đã quyết định cấu trúc và hình ảnh ngôi nhà. Ngôi nhà làm bằng vật liệu tự nhiên hoà hợp với phong cảnh chung quanh, đồng thời nó cũng phản ánh nhà ở ảnh hương mạnh mẽ của môi trường tự nhiên.


Về phân bố mặt bằng sinh hoạt: Dù là nhà đất, nhà sàn hay "nhà thuyền", dù to hay nhỏ, người Việt luôn thu xếp để có hai phần không gian nhà trên - nhà dưới. Chủ nhà luôn tập trung mọi nỗ lực để làm đẹp cho công trình chính (nhà trên), ở nhà chính, căn phòng rộng và thông thoáng, tốt nhất ở giữa nhà thường nổi bật là bàn thờ tổ tiên, mà có lúc người Việt làm cho nó gần giống với một phần công trình tôn giáo. Vì vậy, tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng, ngôi nhà của người Việt trước hết là một ngôi nhà của gia đình và là một nhà thờ [38, tr.655]. Bàn thờ tổ tiên là nơi che chở cho những người trong gia đình, thường đặt sát tường phía sau của gian giữa nhà chính. Trước bàn thờ là nơi tiếp khách, thể hiện tinh thần hiếu khách, trọng khách, là một đặc điểm khá rõ nét của người Việt.


Nhà chính còn là không gian của đàn ông, ông chủ và con trai. Vì vậy, nhìn vào nhà của người Việt, người ta nhận thấy khá rõ sự chi phối bởi tư tưởng tôn trọng và sự phân cách nam nữ. Điều này cũng chứng tỏ, trong đời sống vật chất lẫn tinh thần, người Việt Châu Đốc vẫn bị ảnh hưởng khá nặng tư tưởng Nho giáo. Không gian nhà ngang, là nơi dành cho phụ nữ, con gái, có bếp, nhà kho, nơi để đồ đạc, nông cụ, đặt gần giếng nước, gần nơi chăn nuôi gia súc..., là nơi nấu nướng, ăn uống, sinh hoạt trong gia đình. Bếp là nơi tập hợp chính cho cả nhà. Người ta ăn uống và làm việc quanh bếp, có khi cả nghề phụ ngoài nông nghiệp. Như vậy, nhà ở của người Việt, ngoài chức năng sinh hoạt và thờ cúng, còn đáp ứng nhu cầu kinh tế, bố trí thích hợp với nhu cầu của nghê nông (người - tài sản - súc vật).


Qua báo cáo của chính quyền Pháp năm 1878 cho thấy, nhà người Việt đồ đạc rất đơn sơ [140, tr.40-41], cũng như đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã nói "nhà của người Việt làm thấp, trải chiếu ngồi xuống đất, không có bàn ghế" [21, tr.143]. Tuy nhiên, đó chỉ là hình ảnh ngôi nhà của những người Việt khẩn hoang nghèo. Trái lại, nhà của những điền chủ, quan lại, thương nhân thì vẫn khá to, đẹp và làm bằng những danh mộc... Do ở xa triều đình Huế nên những quy định khắt khe của triều Nguyễn, dân Việt vùng Châu Đốc ít ảnh hưởng hơn. Nhưng, dẫu sao ngôi nhà của họ cũng đã không tiến triển nhiều, bởi những quy định dân thường không được phép xây dựng và ở nhà gạch lợp ngói [38, tr.653].


Nhìn chung, ngôi nhà của người Việt không chỉ thể hiện yếu tố vật chất trong đời sống của xã hội mà nó còn là yếu tố tinh thần nữa. Vì nếu không tuân thủ những tập tục, lễ nghi: cúng đất đai, thổ thần, lễ phạt mộc, lễ thượng lương... xem tuổi, xem hướng nhà theo Bát quái, nhị thập tứ sơn... sẽ gây thiệt hại cho những ngươi cư trú trong gia đình. Vì làm nhà là một sự kiện hệ trọng, cuộc sống của những người trong nhà phụ thuộc rất lớn vào việc làm nhà của họ. Tuy nhiên, là những cư dân nghèo đến khẩn hoang vùng đất mới xa cội nguồn, qua nhiều lần chuyển cư, những ký ức cũ về Kinh Dịch, về phong thuỷ, những quan niệm về âm dương ngũ hành... đã phai nhạt đi ít nhiêu. Trái lại khung cảnh địa lý, điều kiện thời tiết, khí hậu lại có khác miền Trung, miền Bắc, nên trong việc cất nhà, một số người Việt đã đơn giản hoá những nghi lễ, tập tục cho phù hợp với thực tiễn. Tuy những nét căn bản như kiểu dáng, cấu trúc kỹ thuật, bố trí mặt bằng sinh hoạt nhìn chung vẫn kế thừa tư tưởng, tập tục của người Việt miền ngoài và có cải biến một số tiêu tiết (hoặc có giao lưu) để thích ứng với điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên tại chỗ như nhà xuyên trinh có sườn xuyên lãng, sườn trốn cột, sườn trảo bẹt,...


Nhưng, những thay đổi từ nội dung đến hình thức đều rất ít, không đáng kể. Đặc biệt là giải pháp tổ chức không gian hình khối ngôi nhà chính, thể hiện sự kế thừa tổ chức không gian của nông thôn người Việt đã tương đối ổn định trong một xã hội nông nghiệp cổ truyền. Điều này do điều kiện kinh tế, xã hội quy định, là tâm lý, tập quán từ thế hệ này sang thế hệ khác, nên không có những biến đổi cơ bản. Nó vừa biểu hiện trạng thái tương đối tĩnh, ngưng đọng của kỹ thuật kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Việt, do kinh tế thấp, đời sống bấp bênh, thiên tai, giặc giã và những quy định khắt khe của nhà nước phong kiến. Đồng thời, qua những cải tiến, dù ít ỏi nhưng cũng phản ánh tâm lý thích nghi, cởi mở, năng động, trước những yêu cầu của đời sống thực tiễn.


Nhà ở phản ánh rõ nhất ảnh hưởng của môi trường, qua tính chất của những vật liệu được sử dụng. Nhà ở là sản phẩm của khí hậu từng khu vực và ảnh hưởng của môi trường địa lý cũng rất quan trọng, nhưng còn một điểm gây ảnh hưởng lớn nhất đến cấu tạo nhà, bố cục bên trong là lối sống, luật lệ dân cư: là cách tư duy và tư tưởng truyền thống của tộc người. Trong bố cục mặt bằng nhà ở người Việt Châu Đốc nói riêng và người Việt cả nước nói chung đều duy trì nguyên tắc thế cân bằng đối xứng hai bên qua trục chính, gian giữa là quan trọng vì đó là nơi thờ tổ tiên dòng họ, thờ Phật, thánh, thần, nhà ở cũng thể hiện sự trọng nam khinh nữ... Tất cả những nguyên tắc đó có nguồn gốc tôn giáo tín ngưỡng, tổ chức xã hội, tập quán sinh hoạt và cách tư duy...


Như vậy, sự ra đời của nhà ở người Việt không chỉ phục vụ cho sinh hoạt, chức năng nông nghiệp mà còn dựa vào chức năng tôn giáo tín ngưỡng, ngoài ra còn mang tính thẩm mỹ và nghệ thuật trong kiến trúc. Nói cách khác, nhà ở người Việt Châu Đốc nói riêng và người Việt nói chung là một đơn vị cư trú, một đơn vị sản xuất (một đơn vị kinh tế), một đơn vị cân bằng sinh thái. Đó còn là một tổ chức không gian vừa đóng vừa mở, vừa biệt lập vừa giao lưu, một đơn vị đạo đức, tinh thần, một đơn vị tín ngưỡng, nó vừa mang tính ổn định và có biến đổi trong điều kiện địa lý tự nhiên và không gian xã hội mới rộng mở so với không gian xã hội truyền thống.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 08 Tháng Bảy, 2021, 07:11:25 pm
- Nhà ở người Khmer

Người Khmer ở vùng Châu Đốc sống tập trung chủ yếu ở vùng Thất Sơn. Trịnh Hoài Đức khi viết về vùng núi này đã nhiều lần nói tới họ: Dân Cao Miên chia nhau ở theo triền núi và đường rừng [21, tr.50].


Nhà ở của người Khmer Châu Đốc có 2 loại: nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống của họ. Đây là loại nhà chân cao có bộ khung liền cột chịu lực, mái dốc. Vì tập quán ngại cư trú trên sông nước nên nhà sàn của người Khmer thường xây dựng trên các khu đất cao như ở chân đồi, sườn núi. Người Khmer xưa rất ít làm nhà trệt như người Việt vì họ quan niệm mặt đất vốn là nơi các vị thần thường đi lại [40, tr.78]. Vì vậy, họ làm nhà sàn cao không chỉ thoáng, mát, tránh côn trùng, thú dữ mà còn vì tránh va chạm các vị thần. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIX do điều kiện môi trường và kinh tế, xã hội thay đổi, lại cộng cư lâu dài với người Việt, người Hoa nên dần dần người Khmer cũng đêu làm nhà đất để ở. Trong việc xây cất nhà người Khmer tiến hành với nhiều nghi thức và rất thận trọng, nhiều kiêng kỵ. Khi làm nhà họ thường cậy nhờ đến ông Achar bày vẽ để tránh va chạm đến các thần linh và ma quỷ [140, tr.143].


Người Khmer tin vị thần Arak-pteach, là vị thần bảo hộ nhà cửa nên trong mỗi gia đình đều thờ Arak-pteach, vì vị thần đó trông coi, bảo hộ đời sống vật chất lẫn tinh thần của gia đình và phum, sóc Khmer.


- Nhà ở người Chăm

Phần lớn người Chăm ở Châu Đốc đến định cư trên bờ sông Hậu khá muộn nên triều Nguyễn sắp xếp cho họ ở những vùng khá thấp, thường bị ngập sâu vào mùa lũ. Vì vậy, họ không làm nhà đất mà đều làm nhà sàn khá cao, người ta thường gọi là "nhà cao cẳng", từ 1,5-2m [156, tr.50].


Nhà sàn người Chăm thuộc loại bốn mái, mái rất dốc [156, tr.50], gồm hai mái chính và hai mái phụ ở đầu hồi. Người Chăm cho rằng nhà của họ là hình ảnh của chiếc thuyền úp ngược. Vật liệu làm nhà là tranh tre, gỗ lá khai thác được trong khu vực. Hướng nhà lý tưởng là cửa chính đầu hồi nhà, đầu đòn dông luôn quay về hướng sông rạch. Họ cho rằng, vốn là dân sông nước, đi biển, đi sông nhiều nên đầu hồi cũng như đòn dông nhà được quan niệm như mũi thuyền, phải quay thẳng hướng ra sông, ra biển. Nhà sàn người Chăm có kết cấu nhà cột giữa, cột giữa là cột cái. Trước đây, người Chăm có dạng kết cấu nhà cột giữa với loại vì cột không kèo. Đây là kiểu nhà đặc trưng của nhà sàn Chăm vùng Phan Rang. Trong đó cột là bộ phận chủ yếu, vừa có chức năng cột vừa có chức năng thay thế kèo để đỡ đòn tay và đòn dông, cột giữa biến dạng thành trụ ngắn tựa trên xà ngang thành loại vì cột trốn không kèo [140, tr.242-243].


Kết cấu bộ cột nhà người Chăm thường gồm 3 cột cái, 6 cột hàng nhì và 6 cột hàng ba. Nhờ vậy bộ sườn nhà của nhà sàn khá vững chắc [140, tr.243]. Buổi đầu mới đến vùng Châu Đốc, nhà sàn người Chăm còn làm tạm bợ bằng vật liệu tranh tre, nứa, cột nhà được chôn xuống đất. Dần dần về sau đời sống khấm khá, từ đầu thế kỷ XX đến nay nhà sàn người Chăm được xây cất vững chãi và khá đẹp.


Về bố trí mặt bằng sinh hoạt, nhà người Chăm thường dành gian ngoài để tiếp khách, đồng thời là nơi dành cho đàn ông, ông chủ. Đây là nơi được xem trang trọng nhất của căn nhà, đồng thời là nơi tiến hành tắm rửa xác chết khi nhà có tang. Gian giữa được ngăn để làm buồng riêng cho con gái trong gia đình, phần còn lại dành cho việc xe tơ, dệt vải, thêu thùa may vá của phụ nữ. Gian trong cùng là nhà bếp và nơi để dụng cụ, lương thực. Hiên sau là nơi để lu nước, nhà tắm. Vì người Chăm không thờ tổ tiên nên trong nhà không có bàn thờ, họ theo đạo Hồi nhưng tôn giáo này không thờ tượng cốt, do vậy trong nhà hầu như không có trang trí gì. Bàn ghế để tiếp khách cũng không có. Mỗi khi khách đến, chủ nhà mang chiếc chiếu trải ở gần phía cửa ra vào của nhà sàn mời khách ngồi [140, tr.245-247].


Trong thời gian xây dựng nhà mới, người Chăm Châu Đốc có hai lễ chính là lễ dựng cột và lễ lên nhà mới. Sau khi làm nhà xong, họ thường dùng hai lá "bùa" dán ở trước cửa và sau nhà, vì tin sẽ ngăn ngừa được quỷ "say tron" (loại quỷ chuyên cám dỗ con người vào con đường tội lỗi), ngăn được mọi điều rủi vào nhà và cầu phúc nơi thượng đế Allah của họ [140, tr.248]. Tàn dư tín ngưỡng mẫu hệ vẫn còn được bảo lưu qua việc người Chăm Châu Đốc coi cột cái giữa nhà tượng trưng cho người phụ nữ - trụ cột chính trong gia đình. Tuy nhiên, cũng có người cho đó tượng trưng cho cột buồm con thuyền của người Chăm xưa ở miền Trung vốn thạo nghề sông biển.


Như vậy, nhà ở của người Chăm Châu Đốc vừa mang tính kế thừa truyền thống, vừa mang yếu tố tôn giáo và điều kiện tự nhiên ở vùng đất mới Tây Nam đất nước.


- Nhà ở người Hoa

Cùng đến đồng bằng sông Cửu Long một thời kỳ với người Việt, lại có những nét tương đồng về văn hoá nên trong sinh hoạt vật chất của người Hoa cũng có những yếu tố không khác lắm so với người Việt.

Người Hoa vùng Châu Đốc cũng có 2 loại nhà sàn và nhà đất mà thoạt nhìn không khác gì lắm của người Việt. Người ta chỉ có thể phân biệt nó nhờ những tờ giấy đỏ viết bằng chữ Hán dán ở cột và vách trước của nhà, chi tiết ở người Việt hiếm có [140, tr.192]. Cũng như người Việt, nhà người Hoa có loại 1 gian, 3 gian, 5 gian... và thường cất theo lối xếp đọi (từ một đến ba dãy), hoặc có khi là nhà một gian hai chái. Hầu hết nhà đất lẫn nhà sàn của người Hoa đều là nhà xuyên trinh. Có tác giả đã tạm chia thành hai loại kết cấu kỹ thuật của nhà người Hoa là: nhà có "vì không kèo" và nhà "vì có kèo". Trong đó nhà xuyên trinh "vì không kèo" là kiểu nhà truyền thống của người Hoa, còn nhà xuyên trinh "vì có kèo" là thể hiện yếu tố giao tiếp văn hoá với người Việt [140, tr.196]. Ở vùng ngập nước, người Hoa cũng ở nhà sàn như người Việt. Phân bố mặt bằng sinh hoạt nhà sàn người Hoa cũng không khác nhà sàn người Việt mấy.


Nhà của người Hoa ngoài chức năng là nơi cư trú còn là nơi thờ cúng tổ tiên, thần thánh, nơi sản xuất, làm ăn..., cho nên khi xây cất nhà họ rất quan tâm đến việc cúng "thổ thần" để cầu phúc cho nhà ở. Việc thờ cúng nơi ở rất được người Hoa quan tâm, một hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành ngay từ ngoài sân vào tận bếp. Bàn thờ Thiên quan (như bàn thờ Thiên người Việt) ở ngoài sân, để thờ vị thần giữ cửa xua đuổi tà ma, đem lại bình yên cho gia đình. Ở cửa chính có thể treo bùa "bát quái tiên thiên", "hậu thiên" hoặc hình "Tử vi đại đế" (chúa tể các vì sao) để ngăn chặn những luồng khí xấu vào nhà. Trong nhà người Hoa thường thờ ông Bổn (người giúp đỡ người Hoa di cư), thờ Quan công và một số vị thần khác. Người Hoa cũng có bàn thờ tổ tiên, bàn thờ thổ thần, bàn thờ thần tài, ông Táo,...


Mặc dù, với người Hoa, đối tượng được thờ phụng rất nhiều và có rất nhiều bàn thờ, nhưng nhìn chung lại tất cả những tín ngưỡng đó đều thể hiện mong ước nhà cửa được bình yên, không bị tà ma, ác quỷ quấy phá, làm ăn phát tài, phát lộc.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Bảy, 2021, 01:49:14 pm
2. VĂN HÓA TINH THẦN

a- Phong tục tập quán

Theo quan niệm của người Việt xưa nay và ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, người Việt coi phong tục tập quán có 4 nội dung chính rất quan trọng: quan, hôn, tang, tế. Tục lệ quan, hôn là việc thiết yếu của người đang sống, tang tế là việc hiếu nghĩa, tế tự đối với người đã khuất. Những nội dung trên không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân mà còn mang tính xã hội sâu sắc.


Quan là lễ gia quan (lễ đội mũ), lễ trưởng thành cho người con trai khi đến tuổi 20. Tuy nhiên, lễ quan xưa ở người Việt không được thịnh hành, có chăng chỉ hạng vua chúa, sĩ phu mới làm, còn trong dân gian có lẽ không phù hợp nên không thấy thực hiện. Hôn là việc cưới gả, lấy vợ, lấy chồng. Tang là việc ma chay, tế là việc tế tự tổ tông, thần kỳ. Đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức có nói phong tục Nam Kỳ có đủ lễ quan, lễ hôn, lễ tang, lễ tế. Lễ hôn có đủ 6 lễ (lục lễ) nhưng chỉ sĩ phu mới làm được [21, tr.142].


Trong nội dung phong tục tập quán, chúng tôi chỉ xin được trình bày phần hôn nhân và tang ma, còn "quan" không được thịnh hành ở xã hội Việt chúng tôi xin không bàn tới; riêng "tế", việc tế tự liên quan đến tín ngưỡng, tế tự thần kỳ, chúng tôi sẽ trình bày ở phần tín ngưỡng cuối chương này.


- Hôn nhân

+ Hôn nhân người Việt

Hôn nhân là việc rất thiêng liêng, hệ trọng, việc "chung thân đại sự" trong cuộc đời của một con người. Người xưa đã cho "hôn lễ là đầu mối của đạo nhân" [83, tr.163] và "phối thất chi tế vạn phúc chi nguyên" nghĩa là việc hôn nhân là nguồn gốc của muôn hạnh phúc.


Trong xã hội Việt Nam xưa, nếu người con trai nào đấy không lấy vợ, độc thân hoặc không có con, đều bị coi là bất hiếu. "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (tội bất hiếu có ba, mà tội không có con là lớn hơn hết). Không những có khi anh ta không được dự hội làng, hoặc bị mất chỗ ngồi ở chiếu trên mà còn có thể bị khinh rẻ và bị chế diễu trong xã hội [38, tr.568]. Mục đích chính của hôn nhân là lưu truyền dòng dõi và duy trì việc thờ cúng tổ tiên. Vì vậy, tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng: "Cùng với cái chết, lấy vợ, lấy chồng là hành vi trọng thể nhất" [38, tr.568]. Việc hôn nhân ở Nam Kỳ thế kỷ XIX được Trịnh Hoài Đức nói tới có 6 lễ (lục lễ). Đó là lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh [21, tr.142].


Sáu lễ (lục lễ) trên là theo Chu Công có từ thời Xuân Thu [138, tr.394], nhưng ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XIX, theo Trịnh Hoài Đức, lục lễ đó chỉ hạng sĩ phu mới làm được. [21, tr.142]. Vậy trong dân gian, có lẽ phiền phức thái quá nên không làm theo lục lễ? Có lẽ, vì vậy nên đến năm 1855 vua Tự Đức đã phải định lại "lục lễ" thành "tam lễ" và giảm số lượng lễ vật khi gả chồng cho công chúa [105, tr.100]. Đó là, nạp thái phụ vào với vấn danh; nạp trưng phụ với nạp cát; thỉnh kỳ, lễ điệu nhạn gộp với lễ thân nghênh (lễ nạp nhạn trước nằm trong lễ nạp thái) [105, tr.100]. Có lẽ từ đấy về sau, "lục lễ" đã thu lại chỉ còn tam lễ. Điều này được sách Đại Nam nhất thống chí khẳng định "Việc hôn thú chỉ có 3 lễ: vấn danh, thỉnh kỳ và thân nghênh" [80, tr.10]. Ở Nam Bộ, việc hôn nhân được gọi tên 3 lễ này có khác các nơi nhưng chung quy 3 lễ trên đều được tiến hành cơ bản không khác người Việt nơi khác. Đó là lễ "dạm" (nạp thái), lễ ăn hỏi (vấn danh) và lễ cưới (thân nghênh). Thứ tự các lễ tiến hành từng bước một, lễ sau quan trọng hơn lễ trước. Trong lễ cưới của người Việt thường gồm lễ vu quy tại gia đình nhà gái và lễ thành hôn tại gia đình nhà trai.


Theo tục xưa, sau lễ cưới còn có lễ hợp cẩn. Lễ này chỉ dành riêng cho đôi tân hôn. Trong phòng đặt con heo quay nhỏ, một trái bầu non, chồng cầm dao cắt trái bầu làm đôi, thành hai cái ly để vợ chồng rót rượu vào uống gọi là chữ "cẩn", rồi mỗi người cầm một miếng bầu, ăn thịt heo quay và uống rượu gọi là "hiệp". Khi uống, hai người cầm chén rượu mà trao với nhau gọi là "giao bôi". Sau khi kết thúc xong lễ cưới là coi như kết thúc việc hôn lễ. Thông thường đám cưới người Việt Châu Đốc và đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức vào đầu mùa khô, sau khi mùa gặt kết thúc, khoảng trước hoặc sau tết. Đây là dịp nông nhàn, đường sá khô ráo, sạch sẽ, thuận tiện cho hôn lễ.


Việc hôn nhân xưa của người Việt không chỉ thực hiện theo lễ mà còn theo tục lệ [80, tr.129]. Ví như trước hay sau khi cử hành hôn lễ, người Việt có lễ "cheo" (hay lễ treo), gọi theo chữ Hán là "lan nhai" hay "lan dai". Tục xưa gọi thế, chưa rõ nguồn gốc ra đời và ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, ở đám cưới người Việt từ Nam đến Bắc vùng nào cũng có [123, tr.331]. Vào năm 1855, tiên cheo được nhà nước quy định nộp cho hương trưởng là: người giàu 1 quan 2 tiền, người vừa 6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì thu gấp đôi [105, tr.136]. Về sau, vào năm 1860, triều đình nhắc lại việc nộp cheo như trên một lần nữa, nhưng quy định từ lúc vấn danh cho đến lúc cưới không được để lâu quá 6 tháng [108, tr.137]. Cũng theo cổ tục, con gái có 5 điều không được lấy làm vợ ("nữ hữu ngũ bất thú"): con nhà nghịch, con nhà loạn pháp, người có tội, có ác tật (hủi...), người có tang cha mẹ (nghịch gia tử bất thú, loạn gia tử bất thú, thê hữu hình nhân bất thú, hữu ác tật bất thú, tang phụ trưởng tử bất thú) [71, tr.9]. Theo lệ xưa, người chồng cũng có quyền bỏ vợ khi vợ có thất xuất (7 điểu xấu): không thuận với cha mẹ, vô sinh, dâm loạn, ghen tuông, có tật xấu (ác tật), hay ngồi lê đôi mách, gian giảo. Nhưng luật Gia Long cũng quy định 3 trường hợp không được bỏ vợ: khi không còn cha mẹ nương ngụ, khi vợ đã chịu tang cha mẹ chồng 3 năm và khi lấy nhau người chồng còn nghèo khổ, sau trở nên giàu có [38, tr.574].


Việc kén vợ chọn chồng bị quan niệm "môn đăng hộ đối" chi phối, đó không chỉ bởi ý thức coi trọng chức tước quyền uy, danh vọng mà còn do chi phối bởi của cải, đồng tiền..., nghĩa là vì danh lợi. Nếu là người con có hiếu thì "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" (phụ mẫu sở sinh sở định). Chế độ đa thê cũng tồn tại hợp pháp ở Việt Nam dưới thời phong kiến, nó đáp ứng trước hết lý tưởng về hạnh phúc là có nhiều con, mục đích của nó là tiếp nối dòng dõi, sau nữa vì tính sĩ diện, khoe khoang, tự hào vì có nhiều vợ. Vì vậy, không tránh khỏi chuyện "năm thê bảy thiếp", nhất là những người có quyền thế và giàu sang. Người Việt có tâm lý rất sợ tuyệt tự. Vì vậy, khi người vợ bị vô sinh, người chồng phải lấy vợ hai để có con, đặc biệt là con trai để nối dõi và thờ cúng tổ tiên [38, tr.579]. Và cũng bởi nhà nước không quy định tuổi lấy vợ, lấy chồng nên đã dẫn đến nạn tảo hôn thường xảy ra trong xã hội [76, tr.539]. Do khi có tang thì không được cưới hỏi, vì vậy nảy sinh việc "cưới chạy tang". Nhà Nguyễn đã nhiều lần quy định để điều chỉnh việc hôn thú (các năm 1804, 1855, 1860, 1864...) để hạn chế sự xa xỉ, khuyên răn tiết kiệm, tuỳ theo điều kiện kinh tế [105, tr.136].


Như vậy, trong "quan hôn tang tế", thì việc hôn nhân được người Việt rất coi trọng. Đối với người Việt, việc hôn nhân bao giờ cũng được coi là công việc gia đình chứ không phải là một hành vi của cá nhân chỉ liên quan đến cô dâu, chú rể. Và mặc dù có những tục lệ, nhưng nhìn chung khi xét về hôn nhân của người Việt thì những lễ nghi Nho giáo rất được coi trọng trong xã hội.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Bảy, 2021, 01:50:09 pm
+ Hôn nhân người Khmer

Theo chế độ hôn nhân xưa của người Khmer, người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ, nhưng đàn bà chỉ được lấy một chồng, về tuổi thành hôn, luật tục không quy định. Khi nào con người ở tuổi "biết xấu hổ", "biết tự trọng" là có quyền lấy vợ hoặc lấy chồng [120, tr.18].


Người Khmer tuyệt đối ngăn cấm quan hệ hôn phối giữa những người cùng huyết thống, trực hệ như cha mẹ với con cái, cô dì chú bác với cháu... nhưng ở bàng hệ, hôn nhân chỉ bị ngăn cấm giữa các anh chị em ruột thịt, còn hôn nhân con cô con cậu, con chú bác, con dì đều được chấp nhận. Những cuộc hôn nhân như trên phản ánh chế độ nội tộc hôn xa xưa của ngươi Khmer và nhằm mục đích bảo vệ của cải gia đình không để vào tay người ngoài. Ngoài ra, tập tục cư trú bên nhà vợ sau hôn nhân phản ánh tàn dư của một chế độ cư trú theo mẫu hệ xa xưa [137, tr.68-70].


Theo cổ tục của người Khmer, trước khi cưới vợ cho con, đàng trai phải nhờ "mai mối" gọi là "Sua-đon-đal". Khi đồng ý, nhà gái định ngày đám hỏi ("tâl-don-dâl"). Trong tiệc hỏi, hai bên định ngày cưới ("chul-thngay-ca") và định lễ cưới do một bên nào hay hai bên cùng chịu. Đàng trai tặng đàng gái đồ nữ trang, mùng, mền, chiếu gối... Tháng cưới đẹp thường từ tháng 11 đến tháng 2 âm lịch, sau khi mùa màng đã xong. Còn từ tháng 6 đến tháng 9 âm lịch không có đám cưới vì là mùa nhập hạ của sư sãi. Trước lúc cưới có tập tục ở rể nhiều gian khổ khoảng 3 năm mới được cưới.


Đến ngày cưới ("pi-thi-à pia-ni-pua"), hai họ nhờ 2 vị cao niên gọi là Achar điều khiển buổi lễ, chi phí cho 2 người này đa phần do nhà trai chịu. Trong tục lệ cưới của người Khmer có lễ cột tay (Chen-đay) thủ nghĩa vợ chồng gắn bó suốt đòi. Lễ này diễn ra từ sáng tới tối. Sáng hôm sau hai họ làm lễ "chọn giờ tốt", gọi là "yót-uê-lia", được cử hành trước sân nhà, dưới bàn thờ trời (Ri-ên) có đủ mặt cha mẹ họ hàng thân thích và 2 ông Achar. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu, ngoảnh mặt về hướng Đông, chờ lúc mặt trời chiếu đủ ánh sáng mới bắt đầu làm lễ, nếu có mây, mưa che mặt trời thì chờ đến khi một con chim hay đàn chim bay qua có tiếng hót rõ ràng mới cử hành lễ, gọi là lấy con vật thế mặt trời. Cha mẹ đôi bên, hai ông Achar và thân thích lần lượt chúc tụng đôi tân hôn xong rồi thì bế mạc lễ cưới. Buổi chiều, gia chủ dọn tiệc mời hai vị Achar và những người giúp đám, ngỏ lời cảm ơn và xin lượng thứ nếu có sơ suất. Tối đến, cô dâu chú rể nhờ khoảng 4 người đông con, gia đình hoà thuận giăng mùng để động phòng. Theo tục lệ, những người này nằm ngủ phía ngoài mùng cô dâu chú rể, chân đè lên chăn màn trong 3 đêm liền để xem hai người có sự gì không báo cho gia đình để thu xếp [40, tr.92-93].


Ngày xưa, người Khmer Nam Bộ theo cổ tục của người Khmer ở Cao Miên nên việc hôn nhân rất phức tạp. Vào thế kỷ XIX trở đi, ở cạnh người Việt, Hoa, sự giao lưu, ảnh hưởng đã làm cho thủ tục đám cưới đơn giản hơn nhiều.


+ Hôn nhân của người Chăm

Gia đình Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc là gia đình phụ quyền, người chồng có quyền cưới nhiều vợ, là chủ gia đình. Tuy nhiên, do tàn dư mẫu hệ nên khi lấy vợ, người con trai vẫn phải gửi rể bên nhà vợ.


Khi nhà trai tìm được cô gái vừa ý, thì nhờ ông mai (ôn-ma-ha) hay bà mai (mụ-ma-ha) đến trao đối với nhà gái. Sau khi hai bên đồng ý, các cha mẹ cho con mình biết để chấp hành. Tiếp theo, nhà trai tổ chức lễ "khẳng định lời hứa" như lễ hỏi của người Việt. Sau "đám hỏi", cô dâu, chú rể tương lai có thể thăm viếng nhau nhưng không được trực tiếp trò chuyện hoặc quá gần gũi.


Thời gian làm đám cưới (la-khah) do hai bên quyết định vào thời gian thuận tiện nhất. Đám cưới kéo dài hai ngày. Trước ngày cưới, nhà trai đem tiền chợ (Pa-lan-chơ) sang nhà gái, với các thứ áo quần, chăn gối cho cô dâu. Đám cưới bên nhà gái thường tổ chức đông vui, linh đình hơn nhà trai. Trước lễ cưới một ngày là ngày nhóm họ (Hagây pađưng bariuk). Bên nhà trai trang hoàng hoa đăng, chú rể mặc áo dài trắng, đầu đội mũ vải trắng như những Hadji từng đã hành hương ở thánh địa Mecca và làm "lễ lên ghế" (Tà cộ Kghề) trước lúc kết hôn, do ông Ôn Uôk (có vai trò như một thầy pháp) hướng dẫn. Ngày nhóm họ bên nhà gái, cô dâu mặc áo dài nhung đỏ, vận xà rông tơ tằm, ngồi trên ghê làm lễ do "mụ Uôk" (như một thầy pháp) thực hiện.


Ngày cưới chính thức là ngày nhà trai đưa rể sang nhà gái. Trước lúc rời khỏi cầu thang, mọi người cùng hát bài hát giã từ cha mẹ (La mệ la mư). Khi nhà trai đến cổng đại diện nhà gái ra mời họ nhà trai lên nhà. Nhà gái tiếp nhận lễ và tiến hành làm lễ "Kobol" (lễ gả con gái). Chú rể đến trước mặt cha mẹ vợ và ông mai. Một người có chức vị trong đạo Hồi đọc nguyên tắc, tập tục hôn nhân (Khot bah). Sau đó, chủ hôn nhà gái nắm tay chú rể, long trọng tuyên bố: "Gia đình tôi bằng lòng gả con gái tôi tên là... cho chàng trai này tên là... với số tiền đồng là...". Chàng rể đáp lại "Tôi xin nhận người con gái này, từ nay là vợ chính thức của tôi. Tôi có nộp số tiền đồng là...". Tiếp đến, mọi người chào mừng. Ông Ôn Uôk đưa chàng rể vào phòng cô dâu. Cô dâu ngồi xếp bằng trên giường, có "mụ Uôk" ngồi cạnh. Chàng rể đến trước mặt cô dâu, đưa tay rút cây trâm cao nhất trên đầu cô dâu. Một vị bô lão cầu nguyện, chúc phúc đôi vợ chồng son. Rồi chàng rể thay đổi y phục ra ngoài tiếp khách.


Đêm hợp cẩn, cô dâu chú rể ăn cơm tượng trưng trong cùng một mâm và một đĩa. "Mụ Uôk" mời một bà có chồng, gia cảnh sung túc đến chuẩn bị giường cho đôi tân hôn hợp cẩn. Khi đôi tân hôn bước vào giờ phút bước ngoặt cuộc đời, thì ở dưới giường một ngọn đèn dầu sáng lên và cháy mãi trong 3 ngày tiếp theo, thủ nghĩa phá bùa phép của kẻ xấu, chống ma quỷ đến gần.


Ba ngày trăng mật đi qua. Đến ngày thứ tư, cha mẹ, họ hàng chú rể tới thăm viếng nhà gái, mang theo vật dụng để vợ chồng trẻ bắt đầu xây dựng gia đình riêng. Nếu bên chú rể khấm khá sẽ cất cho đôi tân hôn một căn nhà mới cạnh nhà cha mẹ vợ. Mặc dù nam giới là chủ gia đình, nhưng con trai Chăm khi lấy vợ theo tập tục vẫn phải ở rể.


+ Hôn nhân của người Hoa

Theo tục lệ người Hoa, để đôi thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng, hai họ trai gái phải qua nhiều nghi lễ, gọi là "lục lễ" như tập tục của người Trung Hoa xưa.

Trước tiên là lễ nạp thái (nạp tài), bên nhà trai đem lễ vật sang nhà gái (như lễ chạm ngõ người Việt). Nếu nhà gái đồng ý thì xong bước một. Bước thứ hai: làm lễ viết tên chàng trai (bằng chữ "Càn" tên quẻ đầu trong Bát quái, tượng Trời và cô gái bằng chữ Khôn, cũng tên quẻ trong tám quẻ của Dịch (chủ về Đất) và thiệp hồng rồi đặt trong hũ gạo bên nhà trai. Sau ba ngày, nếu trong hai họ mọi chuyện yên vui thì đó là điềm lành. Bước thứ ba là: lễ nạp kiết. Hai họ thông báo cho nhau biết đôi trẻ được tổ tiên, Trời Phật phù hộ, có thể nên vợ chồng. Bước thứ tư là: lễ nạp tệ. Nhà trai đem tiền nộp cho nhà gái để mua sắm áo quần, đồ trang sức... cho cô dâu tương lai. Ngoài ra, nhà trai còn phải mang lễ vật sang cúng bên nhà gái. Trong đó, không thể thiếu những món đồ ngọt: kẹo thèo lèo, mè dẻo... tượng trưng một cuộc sống ngọt ngào, thắm thiết bên nhau của cặp vợ chồng trẻ tương lai. Bước thứ năm là: lễ thỉnh kỳ: định ngày cưới cho đôi trẻ. Bước thứ sáu là: lễ thân nghinh, tổ chức đón dâu. Khi đón dâu về nhà, bên họ nhà trai làm lễ cúng gia tiên. Họ hàng thân thuộc, bè bạn tặng quà cưới. Người cao tuổi tặng trước, người ít tuổi tặng sau. Đồ tặng có khi là trang sức bằng vàng, ngọc... hoặc tiền trong phong bao giấy hồng điều. Trong ngày đưa dâu, rước dâu ở cả nhà trai, nhà gái, dù nghèo đến mấy cũng có tiếng pháo nổ.


Người phụ nữ Hoa xưa do ảnh hưởng Nho giáo, nặng đạo "Tam tòng", đã "xuất giá" thì "tòng phu", chồng là ông chủ thực sự trong nhà bảo gì thì vợ phải nghe theo.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Bảy, 2021, 01:51:10 pm
- Việc tang lễ

+ Tang lễ của người Việt

Cái chết là một sự kiện rất hệ trọng đối với mỗi con người. Từ hàng nghìn năm trước Khổng Tử đã từng dạy học trò có ba việc quan trọng nhất của thiên hạ là ăn, tang và tế "Sở trọng giả, thực, tang, tế". Trong ba việc này, thiếu một việc gì cũng đều không được. Riêng đối với người Việt, từ trong nếp nghĩ, nếp cảm đến thực tế cuộc sống, tử vong vốn được coi là một trong bốn "đại sự" của đời người: quan, hôn, tang, tế.


Xưa, tục lệ tang ma của ngươi Việt ở Châu Đốc cũng không có gì khác biệt nhiều so với các vùng khác ở Nam Bộ và cả nước. Người Việt coi trọng biểu lộ lòng hiếu thảo của con cái và thể hiện sự thương đau của người đang sống đối với người đã chết. Trong việc tang, thì lễ tang cha mẹ trọng hơn cả. Vì công ơn cha mẹ đối với con như trời biển. Cho nên hiếu nghĩa của con đối với lễ tang cha mẹ là điều hệ trọng bậc nhất của nhân sinh.


Ở Nam Kỳ, Trịnh Hoài Đức đã nói, người Việt dựa theo sách Văn Công gia lễ (sách lễ của nhà Văn Công, tức Chu Hy đời Tống), sách Khâm thị nghi tiết, để làm tang lễ [21, tr.142]. Triều Nguyễn cũng quy định "việc tế táng điếu phúng hết thảy theo như Gia lễ của Chu Văn Công" [83, tr.164]. Nói chung, lễ tang của người Việt dù ở địa phương nào cũng gồm những công việc chính: An bài người chết, phát tang, tẩm liệm, thành phục, phúng điếu, động quan, an táng, táng hậu.


Khi trong nhà có tang, người ta thường mời một vị cao niên có kinh nghiệm và am tường các chi tiết nghi thức, tập tục đứng ra làm "hộ lễ", điều khiển toàn bộ công việc. Khi người thân trong gia đình sắp nhắm mắt, con cháu thường được gọi về để nhìn mặt lần cuối, hoặc nghe trăng trối trước lúc "đi xa" vào cõi vĩnh hằng. Sau khi thân nhân chết, gia đình phải "an bài thi hài" như vuốt mắt, nắn sửa chân tay, dùng nước thơm lau mình cho ngươi chết, nút chặt bông vào hai lỗ tai, hai lỗ mũi, đặt nằm ngay ngắn hai tay duỗi xuôi, buộc 2 ngón chân lại với nhau, phủ mặt bằng tờ giấy bản trắng (hay miếng vải trắng), với ý nghĩa để người chết không thấy con cháu buồn và cũng không để lộ ra làm đau lòng thêm cho người thân.


Theo lệ xưa, cũng có người làm lễ phạn hàm, là dùng gạo, tiền để bỏ vào miệng, hàm nghĩa là ngươi con hiếu thảo chẳng nỡ để miệng cha mẹ trống không. Ở Nam Bộ, khi làm lễ phạn hàm, nhà giàu thường bỏ vàng, hạt trân châu vào miệng người chết, còn giới bình dân thường bỏ gạo. Tiếp theo, hoặc đồng thời với công việc kể trên là việc "phát tang", báo cho thân tộc, bạn bè người chết biết tin buồn. Người Việt thường phải chọn "ngày giờ tốt" để làm các lễ tẩm liệm (gói người chết đặt vào quan tài) để khỏi gây rủi ro cho những người thân trong gia đình. Kể từ lúc làm lễ nhập quan xong, đặt linh cữu ra gian giữa, lập bàn thờ thì mọi nghi thức của đám tang mới thực sự bắt đầu.


Xưa các nhà giàu thường có tục quàn linh cữu trong nhà nhiều ngày, có khi cả tuần lễ, cả tháng, tiến hành các nghi lễ cúng tế phúng viếng [77, tr.585]. Đây là một hủ tục có ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, đáng lo ngại nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm. Tệ ăn uống linh đình, giết trâu, mổ heo để đãi khách phúng viếng khá phổ biến. Đó là tập tục lạc hậu, vừa mất vệ sinh vừa tốn kém, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của nhiều người xung quanh, gây không khí bi ai kéo dài trong gia đình và cả hàng xóm.


Bước tiếp sau đó là lễ an táng, tức là di quan từ nhà đến huyệt mộ. Tang ma của người Việt theo tục thổ táng. Trước khi hạ huyệt, người ta phải làm lễ cúng "thổ thần" để xin phép được an táng, cúng xong, lễ hạ huyệt bắt đầu. Khi hạ huyệt, những người thân thiết trong nhà, những người ruột thịt hoặc những người chịu ơn nuôi dạy... ném mấy hòn đất xuống huyệt, như để biểu lộ sự vĩnh biệt cuối cùng với ngươi quá cố. Sau đó là lấp huyệt và đắp nấm mộ. Cuối cùng là lễ thắp nhang trước mộ, vái lạy rồi ra về.


Vào thế kỷ XIX, ở Láng Linh (Châu Đốc), mùa nước nổi không còn đất để chôn, nhiều nhà nghèo phải lấy chiếu bó thây ngươi chết hay quấn đệm, bó lại bằng vạc tre, đàn ông 7 miếng, đàn bà 9 miếng, neo bằng cối đá, đợi nước rút, lượm xương cải táng lại [119, tr.187] hoặc buộc vào gốc cây, có khi bị đứt dây, nước lũ trôi mất xác. Nếu gần vùng Thất Sơn, người ta bỏ xác lên thuyền, chèo tít lên vùng núi để chôn cất. Nếu ở xa, có khi người ta đưa xác người chết vào nơi có rừng tràm, lùm cây giữa cánh đồng xa vắng đóng cọc chéo, đặt quan tài quàn tạm tại đây, hoặc dùng dây treo quan tài lên cành cây...


Lễ mở cửa mả, đắp mộ hoặc làm nhà mộ được tiến hành 3 ngày sau khi an táng. Trong đám tang người Việt, một số gia đình có lập đàn, rước thầy chùa tới tụng kinh cho linh hồn người chết được siêu thoát. Vì quan niệm "sống dầu đèn, chết kèn trống" nên người Việt có lệ mời đội tang nhạc đến đánh trống thổi kèn từng chặp để đuổi tà khí và để người chết khuây khỏa. Trịnh Hoài Đức cũng nói đám tang người Việt Nam Bộ hay dùng nhạc tang [21, tr.142]. Lễ táng hậu là lễ thờ cúng liên tục 3 ngày sau khi chết. Trong thời gian này, bàn thờ người chết đặt tại gia đình luôn có hương đèn, ngày hai hay ba bữa bới cơm cúng đặt lên bàn thờ. Ngày thứ ba, ra mộ làm lễ "mở cửa mả", với lòng tin là linh hồn người chết biết đường biết nẻo mà về nhà, chứng giám lòng thành của người thân và phù hộ cho gia đình [75, tr.114].


Đến 49 ngày sau khi người thân chết, người ta làm tuần chung thất. Nhà giàu xưa kia nhân dịp này rước thầy chùa về tụng kinh sám hối dùng cỗ chay cúng 49 ngày [21, tr.142], nhà bình dân chỉ bày mâm cơm, cúng có hương đèn, trà, nước, hoa trái... Đúng 100 ngày, làm tuần tốt khốc (lễ thôi khóc). Kể từ tuần này trở đi, con cháu sẽ không còn khóc nữa và cũng thôi cúng cơm mỗi ngày hai bữa. Vào tuần này, con cháu cúng tế lần cuối cùng, người ta có làm một tiệc lớn. Tuần tốt khốc còn gọi là tuần "Bách nhật" (100 ngày). Đến đúng một năm thì làm giỗ đầu gọi là Tiểu tường. Đến hết hai năm làm giỗ thì gọi là "Đại tường". Đại tường cũng gọi là giỗ hết. Thế nhưng, phải đợi tới hai tháng sau nữa để chọn một ngày làm lễ trừ phục, nghĩa là bỏ hết đồ tang (tất cả đồ tang chế đều đem đi hoá sau một cuộc lễ) và con cháu, những người để tang trong nhà mặc lại thường phục như trước. Thực tế là thời gian từ "Đại tường" tới lễ "trừ phục" là 3 tháng, cộng với hai năm trước là 27 tháng.


Người Việt có có tục, khi trong nhà có một người chết, phải dùng nhiều rượu thịt, cỗ bàn để thết đãi khách khứa viếng đưa quá tốn kém [21, tr.142]. Vì vậy, triều Nguyễn quy định không được "quá xa hoa", cỗ bàn ăn uống nhiều ít phải tuỳ ở nhà có tang, không được vịn lệ đòi hỏi [83, tr.164]. Tuy nhiên, vì là "nợ miệng" nên khi có tang là "nhất nhân tử vạn nhân túy" (một người chết mà muôn người say). Dân gian không chỉ lên án những người làm con kiêu bạc "Sống thì con chẳng cho ăn. Lúc chết xôi thịt làm văn tế ruồi", mà còn lên án những kẻ lợi dụng người chết để cầu danh, trục lợi. Từ đời Gia Long về trước có tục tin địa lý nên để quan tài lại hằng năm để chọn đất chôn vừa mất vệ sinh, vừa gây ô nhiễm, đến thời Minh Mệnh có lệnh cấm, nên nhiều người phải bỏ [21, tr.142]...


Như vậy, tang ma của người Việt Châu Đốc, cũng như cả nước chẳng còn là chuyện riêng của người chết, mà là chuyện của những người đang sống từ gia đình, dòng họ cho đến cả cộng đồng. Tang lễ đã trở thành một nghi thức có tính cách luân lý của xã hội. Trong bất cứ tập thể người Việt nào, vấn đề tang lễ vẫn được coi là nghi thức quan trọng để biểu lộ tình cảm của những người thân đối với kẻ quá cố. Người Việt nặng tình cảm, coi trọng huyết thống gia đình, thân tộc, coi trọng tinh thần báo hiếu nên đã từ lâu, vấn đề tang ma được thực hiện một cách quy củ, chu đáo và cẩn thận. Lễ tang của người Việt Châu Đốc cũng nhằm biểu lộ lòng tiếc thương người vừa mất, tiễn đưa linh hồn người ấy đến nơi an nghỉ một cách trọn vẹn để được mồ yên mả đẹp. Do đó, không gây phiền hà cho đời sống, mà còn tạo ra cơ may vận tốt cho gia đình về danh vọng, của cải, sức khoẻ nhiều đời sau, "làm quan có mã, kẻ cả có dòng", "sống về mồ mả, ai sống về cả bát cơm". Điều đó thể hiện quan niệm "sống khôn thác thiêng", "dương sao âm vậy", thể hiện quan hệ giữa người chết và người sổng rất chặt chẽ, thông qua việc "phù hộ" hay "trừng phạt". Trong lễ tang của người Việt phản ánh rất rõ ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, của Nho, Phật và Lão. Lâu ngày các định lệ này đã thành ra tục lệ và những biến thể phù hợp với nếp sống riêng của người Việt.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Bảy, 2021, 01:52:31 pm
+ Tang lễ của người Khmer

Người Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa nên khi tín đồ chết, theo tục lệ của đạo là phải hỏa thiêu và đem tro cốt (xá lỵ) bỏ vào bình và đem thờ trong tháp.


Tuy nhiên, theo cuốn Religious System of China của tác giả người Anh De Groot và cuốn Le Royaume du Cambodge của nhà khảo cổ học người Pháp Moura, cũng như những quan sát của Châu Đạt Quan trong Chân Lạp phong thổ ký thế kỷ XIII thì ở người Khmer có 3 loại táng là: hỏa táng (thiêu xác bằng lửa), điểu táng: cho chim ăn thịt; thuỷ táng: thả xác trôi sông [75, tr.104]. Từ thế kỷ XVI đến nay, ngươi Khmer có tục thiêu xác khi có người chết. Nếu người chết ở xa hoặc có người thân ở xa không về dự tang lễ kịp thì họ tạm chôn xác chết bằng quan tài gỗ tạp 6 tấm ở dưới đất 3 năm mới đào lên đốt. Người Khmer nào cũng có nguyện vọng "sống gửi của, chết gửi xương", nghĩa là lúc còn sống đem tiền của cúng chùa, khi chết thì hài cốt gửi vào tháp ở chùa [40, tr.105].


Khi trong nhà có người sắp chết, người ta đội trên đầu người đó một cái vòng bằng vải trắng che mặt để người chết quên nhà cũ, tránh hồn về quấy phá người thân. Lúc có người mới chết, người ta mời ông sãi đến tụng kinh dẫn dắt linh hồn người chết theo đường chính, đầu thai làm người không phải súc vật. Khi tụng kinh xong, người ta tắm xác chết bằng nước thơm, thay đồ, xong bỏ vào hòm. Buổi tối, vị sãi tụng kinh khoảng 2 tiếng, sáng hôm sau thì đem đi chôn. Hoặc đến ngày giờ đã chọn, người ta khiêng quan tài ra nhà thiêu cạnh chùa gọi là "pachha". Khi liệm hoặc táng người chết, người Khmer đều xem ngày giờ tốt để con cháu làm ăn thuận lợi về sau.


Tùy theo hoàn cảnh, nếu người thân ở xa có thể về được thì người nhà đợi, nếu không thì gia đình an táng nhanh hơn. Nếu hỏa thiêu ngay thì lấy tro cốt để vào cái bình gọi là "Kôtt" mang để ở trong tháp cạnh nhà hoặc tháp ở chùa. Nếu địa táng, đến khoảng 3 năm người ta đào lấy cốt xương thiêu để lấy tro bỏ vào tháp ở chùa. Đến ngày lễ tại chùa, lễ vào năm mới, ngày giỗ hoặc dịp thuận tiện người ta mời vị sư đến ngôi tháp cạnh chùa có để thố tro tàn, hay mời sư về nhà đọc kinh cầu siêu, tụng kinh, thuyết pháp để mong người chết sớm được vào Niết bàn. Người nào vì điều kiện không thể thờ cúng theo tục lệ thì lấy làm khổ tâm, vì không giữ tròn bổn phận đời với người chết.


+ Tang lễ của người Chăm

Tang lễ của người Chăm ở Châu Đốc tuân thủ theo luật đạo quy định, rất đơn giản và đảm bảo vệ sinh.

Khi có một người đang hấp hối, láng giềng được huy động đến để đọc Thánh kinh Coran. Họ tin rằng, khi nghe đọc như vậy, trí óc bệnh nhân sẽ sáng suốt và trút linh hồn với đầy đủ đức tin của người Hồi giáo. Khi người bệnh tắt thở, các vị bô lão thường khuyên các thân quyến hãy thương kẻ quá vãng và không nên khóc lóc kể lể [14, tr.22]. Người ta tắm rửa sạch sẽ cho tử thi, lau chùi xong, đem để nằm trên bộ ván. Tiếp đó làm "Kaphanh", tức là xé vải trắng (không dùng dao, kéo để cắt và cũng không may vải), quấn tử thi ba lớp. Những ông hakim, ahly và một số bô lão được mời đến chứng kiến, kiểm tra tử thi đã làm đúng thủ tục, rồi cùng nhau cầu nguyện cho hồn người chết. Trong lúc bệnh nhân tắt thở, ông Seak (người làm vệ sinh và giữ thánh đường) đi rao báo cho xóm làng biết để đến cầu nguyện, giúp đỡ. Đồng thời, cũng kêu gọi thanh niên đào huyệt nơi gia đình người chết đã chọn và khiêng xác đi chôn [121, tr.72-73]. Nơi chôn tốt nhất là khoảnh đất quanh thánh đường (masdjid). Huyệt thường đào sâu quá đầu người, chiều dài hướng Đông - Tây, ngang khoảng 1-1,2 mét, chiều dài hơn chiều cao của người chết khoảng 1,10 mét. Dưới chân vách đất bên phía Nam, người ta khoét một cái lỗ theo chiều dài đặt vừa với tử thi và tử thi nằm lệch về phía bên huyệt, đầu quay về hướng Tây (hướng của Thánh địa Mecca) [121, tr.73].


Người Chăm ở đây không dùng hòm, tử thi được đặt nằm trên một cái cáng gọi là "hanh đu" có mui che bên trên. Đoàn người đưa đám thỉnh thoảng ngừng lại; người ta nói là để cho linh hồn kẻ quá vẵng nhắn nhủ với cỏ cây. Không kèn, không trống, không tiếng khóc than, đám tang cử hành yên lặng. Mồ nhà giàu cũng như nhà nghèo đều đắp đất như nhau, chứ không xây, hai đầu có hai tảng đá huặc thanh gỗ mỏng làm mộ chí. Từ ngày chôn đến ngày thứ 40, một người trong họ hoặc một người được thuê đọc Thánh kinh Coran bên phần mộ một cách thường xuyên và cần thiết, nhất là lúc mặt trời lặn và khi mặt trời mọc. Việc đọc kinh Coran như vậy là để tưởng niệm người quá vãng. Ngay buổi tối bữa chôn, mọi người sẽ tụ họp tại nhà người chết, hoặc tại surao để cùng đọc kinh cho hương hồn kẻ quá vãng, gọi là "tahalêl".


Việc làm tuần sẽ thực hiện ngày thứ 3, 7, 10, 30, 40 và 100. Và từ đó nửa năm sẽ cúng một lần. Việc cúng trong những ngày lễ trên gọi là "ngăk pa thi", có ý nghĩa là tập họp một số người với ý niệm hướng về người đã khuất. Đọc xong mọi người cùng dùng cơm. Trong tập tục người Chăm Hồi giáo Islam, không có việc thờ phụng người quá vãng bằng bài vị như người Việt. Cho đến cả cúng kiếng cũng vậy, người ta có thể cúng lúc nào cũng được và một cách giản dị là khi có món ngon vật lạ muốn tưởng niệm người đã mất thì thường đưa đến nhà ông "tuôn" (thầy dạy kinh thánh) hoặc "imâm" ở thánh đường làm lễ "căn goi", đọc kinh cầu nguyện. Tuyệt nhiên không bao giờ có việc lạy. Họ chỉ "lạy" theo một số quy định của Coran tức "Sambahyang", mỗi ngày 5 lần mà thôi và việc này là hướng về Thượng đế duy nhất là thánh Allah.


Điều đáng lưu ý của người Chăm Châu Đốc là người chết ở thôn ấp nào thì chôn ở đó, hiếm khi đưa đi xa và khi đã chôn rồi, ngôi mộ được xem là vĩnh viễn, tuy mộ chỉ là một cái nấm bằng đất mà thôi. Việc cải táng, di chuyển hài cốt cũng hoàn toàn bị cấm.


+ Tang lễ của người Hoa

Cũng như người Hoa ở Nam Bộ, đám tang của người Hoa Châu Đốc được cử hành trang nghiêm song không quá u buồn, ảo não.

Người Hoa quan niệm "sinh ký tử quy". Vì vậy, trong mỗi đám tang, vừa có nỗi buồn ly biệt của người "sinh ký" (sống gửi), vừa có hạnh phúc của người "tử quy" (thác về). Cho nên, người Hoa đốt pháo. Đốt pháo lúc động quan, chuyển quan khi hạ huyệt, đốt pháo tạo nên một "chuyển hoá" về tâm lý cho người sống vẫn trang nghiêm mà bớt chút u buồn. Cách để tang trong gia đình có người chết cũng có những khác nhau. Con trai bận áo trắng, đội khăn trắng, cháu đội khăn xanh, chắt đội khăn đỏ, con gái, con dâu đội mũ mấn. Thân bằng, bạn hữu, người lối xóm đi tiễn đưa được tang chủ trao cho một túm chỉ đỏ với ngụ ý cầu chúc gặp nhiều may mắn. Trong lễ tang của những gia đình khá giả, tang chủ còn thuê đội kèn hoặc đội lân đi tiễn đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Các đội này vừa đi vừa thổi kèn hoặc múa lân từ nhà ra nghĩa trang và bao giờ họ cũng đi trước đòn khiêng áo tang hoặc xe tang.


Nhạc tang không sầu não ai oán mà bi hùng. Ra tới mộ sau lễ cúng, ông thầy cúng thả một con gà sống cho bay đi, ai bắt được gà này đem về nuôi sẽ phát tài phát lộc. Trong việc tang người Hoa rất coi trọng việc xem ngày giờ liệm, động quan, hạ huyệt, mời thầy địa lý xem hướng mộ vì nơi "ở" của người đã khuất ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống của những người đang sống trong gia đình. Cũng vì quan niệm "sống cái nhà, già cái mồ", người Hoa cũng rất chú trọng trong việc xây dựng mồ yên mả đẹp cho người đã khuất.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:30:47 pm
b- Tín ngưỡng dân gian và lễ hội ở Châu Đốc

Trong nhiều tín ngưỡng của người Việt Châu Đốc, công trình chọn nêu 3 sinh hoạt cơ bản: thờ cúng tổ tiên - tín ngưỡng mang ý nghĩa cá nhân, gia đình, dòng họ; cúng đình - Thành hoàng - tiêu biểu cho tín ngưỡng cộng đồng, làng xã; thờ Mẫu - tín ngưỡng phồn thực, Mẹ - Sinh, Âm - Đất của cư dân nông nghiệp.

- Thờ cúng tổ tiên của người Việt

Người Việt trong khi thiết tha hướng tới tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và con cháu mình, đã không bao giờ quên truyền thống nhớ nguồn, hướng về cội nguồn. Do đó, tục thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục thiêng liêng của người Việt, là truyền thống tốt đẹp của văn hoá Việt Nam, đã được định hình ở nước ta từ lâu đời. Thờ cúng tổ tiên không chỉ trở thành một tín ngưỡng sâu sắc của người Việt mà còn là đạo lý. Đặc biệt có nơi, như vùng Châu Đốc thế kỷ XIX đến nay, nó còn được coi là "Đạo": Đạo ông bà, Đạo tổ tiên.


Ở người Việt Châu Đốc nói riêng và người Việt cả nước nói chung thờ cúng tổ tiên được đặt vào vị trí quan trọng nhất, vai trò trung tâm trong đời sổng tinh thần của cư dân. Người Việt theo tam giáo (Nho, Phật, Lão), tin vào sự bất diệt của linh hồn, nên cho rằng linh hồn người chết luôn lui tới người đang sống, là một thành viên vô hình của gia đình, vẫn luôn ngự trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong cuộc sống và giúp đỡ khi cần, "con cháu ở đâu tổ tiên ở đấy". Quan niệm qua việc thờ cúng tổ tiên, người khuất và người còn sống như có một sự liên lạc mật thiết, tồn tại khá phổ biến ở người Việt. Nói cách khác, "những liên hệ huyền bí và mạnh mẽ" gắn người sống và người chết trong sự thờ cúng tổ tiên [24, tr.18]. Vì vậy, sự tin tưởng vào vong hồn ông bà, cha mẹ ngự trên giường thờ, có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống.


Đạo lý "uống nước nhớ nguồn” là điều đầu tiên phải kể đến trong thờ cúng tổ tiên. Một mặt, con cháu bày tỏ sự tri ân đối với tổ tiên, mặt khác nó cũng thể hiện trách nhiệm của con cháu đối với tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đĩnh, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong hành vi cúng tế cụ thể. Khi nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của người Việt, một học giả nước ngoài nhận xét: "Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ lễ là tuyệt đối cần thiết, để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia" [40, tr.100]. Người Việt luôn mong nhận được "phúc ấm" của tổ tiên, vừa lo "đời cha ăn mặn đời con khát nước", vừa lo trách nhiệm để lại "hồng phúc", "phúc trạch" cho con cháu. Khi cúng tế tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại và mặt khác chuẩn bị hành trang cho thế hệ tương lai.


Thờ cúng tổ tiên của người Việt còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Tác giả Nguyễn Văn Huyên đã nhận xét: "Yếu tố" vững chắc nhất gắn bó các thành viên của đại gia tộc là việc thờ cúng tổ tiên" [38, tr.582]. Để duy trì tổ chức cộng đồng từ gia đình tới dòng họ, người Việt rất coi trọng việc ghi chép gia phả. Đây là việc làm mang tính chất giáo dục gia đình và giữ gìn kỷ cương, nền nếp gia phong. Do đó, truyền thống được bảo tồn, lễ nghi trật tự được tôn trọng. Niềm tin, ý thức gia tộc cũng như ý thức về một cội nguồn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh có vai trò rất to lớn trong tổ chức cố kết cộng đồng, là sức mạnh giúp cho cộng đồng chiến thắng trước mọi đe doạ của ngoại xâm. Thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện "đạo hiếu" của người Việt, mà nó còn phù hợp với tư tưởng hiếu của Nho gia. Nghi thức tang chế và cúng giỗ được mô phỏng theo Nho giáo đã được các vương triều phong kiến ủng hộ vì nó góp phần quan trọng vào việc tổ chức xã hội, bảo đảm tôn ti trật tự trong gia đình, dòng họ cho tới quốc gia. Ở người Việt Châu Đốc và người Việt Nam Bộ, sự thờ cúng ông bà, cha mẹ đã khuất là một việc rất hệ trọng và đượm phần sâu nặng:

Tổ tiên con ráng phụng thờ
Mấy lời mẹ bảo ngày giờ chớ quên...
Còn cha, còn mẹ thì hơn
Không cha, không mẹ như đờn đứt giây
Có cha như bát nước đầy
Côi mẹ như chích lạc bầy kêu sương.



Sở dĩ, họ có lòng hiếu nghĩa như vậy, vì trên vùng đất để lại cho con cháu, tổ tiên họ đã vượt qua mọi gian nan để đuổi sấu, bắt rắn, chống lại địch hoạ thiên tai và cả nhân tai, để khai phá đất này. Bởi thế ơn cha mẹ khi sống cũng như thờ cha mẹ lúc chết có ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt [17, tr.27]. Những bức hoành phi đề "phụ mẫu chi ân" (ơn cha mẹ), "phụ mẫu ai ai" (nhố thương cha mẹ) và những câu đối:

"Công đức bách niên duy
Tổ tôn vạn đại hiền"
(Công đức tổ tiên trăm năm ghi nhớ.
Con cháu muôn đời gặp điều hay).



Tất cả đều nói lên ý niệm nhớ ơn cha mẹ rất thiêng liêng gắn bó ở người Việt Nam Bộ. Trong ý thức của người Việt, khái niệm tổ tiên bao gồm từ nhà tổ, tổ họ cho đến tổ làng, tố nghề, tổ nước. Vì vậy, có tác giả đã nhận xét: "Đạo thờ cúng tổ tiên được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ thờ những người có công sinh dưỡng đã khuất, nghĩa là những người có cùng huyết thống mà (còn) thờ cúng những người có công với cộng đồng làng xã, đất nước" [144, tr.315]. Vì vậy, ở người Việt Châu Đốc, khắp mọi nơi, ở bất cứ ngôi đình nào người Việt cũng đều đặt bàn thờ tiên hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ rất trân trọng. Rất nhiều đình làng thờ những nhân thần có công khai mở đất hoặc đánh giặc giữ nước: Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Trung Trực, Lê Văn Duyệt,...


Ở Châu Đốc, có thể coi thờ cúng tổ tiên là một phong tục đã được tôn giáo hóa. Vì vậy, người Việt gọi là "Đạo ông bà", "Đạo thờ tổ tiên". Điều đó, được thể hiện rõ ràng trong giáo lý "Tứ ân" không chỉ của tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, mà có cả trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ngay cả các tôn giáo mới ra đời trên vùng đất này nửa đầu thế kỷ XX như Hoà Hảo cũng biêt dựa trên cơ sở thờ cúng tổ tiên, kể cả đạo Cao Đài ở miền Đông Nam Bộ. Ngay cả các tín ngưỡng dân gian khác như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ Đức thánh Trần,... ta cũng thấy tác động của tín ngưỡng thờ tổ tiên với sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Điều đó, cũng phù hợp với lời nhận xét của cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi: "Dù với tâm lý cởi mở, dễ chấp nhận các tôn giáo tín ngưỡng thì người Việt Nam với lòng tôn sùng tổ tiên đã đặt tất cả các tôn giáo tín ngưỡng khác xuống hàng thứ yếu" [9, tr.113].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:31:28 pm
Có thể nói rằng, đối với người dân Châu Đốc thế kỷ XIX, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã được tôn giáo hóa thành đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Vì vậy, không ngẫu nhiên mà người ta gọi tôn giáo này là "Đạo Lành". Điều đó được thể hiện rõ ràng trong giáo lý "Tứ Ân" của đạo. Trong "tứ đại trọng ân" thì người Việt Châu Đốc coi "ân tổ tiên cha mẹ" là hàng đầu, sau mới đến ân đất nước, ân đồng bào nhân loại và ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).


Như vậy, với việc thờ cúng tổ tiên và giáo lý Tứ An của Bửu Sơn Kỳ Hương, người Việt Châu Đốc vẫn chứng tỏ dù có xa nơi "chôn nhau cắt rốn" từ miền Trung, miền Bắc, dù xa cội nguồn, đến vùng đất mới, họ vẫn luôn nhớ về "cố hương", vẫn đang tìm kiếm lại "căn cước" của chính mình, tự khẳng định mình và tìm kiếm lại lý lịch đích thực của người Việt, một thứ lý lịch không dựa trên những tiêu chuẩn xã hội và giai cấp nào đó mà dựa vào "huyết thống" và "di truyền sinh học" và cũng như có người cho đó là "di truyền văn hoá" [24, tr.18].


Trên bình diện khác, bình diện những xung đột văn hoá hay những đụng độ về văn hoá, khi người Pháp xâm lược 3 tỉnh miền Tây; với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt đã có chỗ dựa để chống lại những làn sóng xâm nhập văn hoá ồ ạt từ bên ngoài đe doạ làm mất bản sắc văn hoá dân tộc (chứ không phải chỉ mất chủ quyền lãnh thổ). Vì vậy, ngoài nghi thức thờ cúng tổ tiên, người Việt Chấu Đốc còn giữ lại cho mình cách phục sức - lễ phục truyền thống: quần chùng, áo dài, khăn đóng (của các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa) như thái độ bảo tồn phong tục tập quán, giữ gìn văn hoá dân tộc, chống lại những gì phương Tây xa lạ.


Suy cho cùng, Bửu Sơn Kỳ Hương một hiện tượng tôn giáo hóa thờ cúng tổ tiên - là một phản ứng của văn hoá Việt đôi với sự xâm nhập của văn hoá ngoại lai.

Ở người Việt Châu Đốc, dù vẫn giống người Việt khắp mọi miền, nhưng vẫn còn một nét đặc thù về sự thờ cúng tổ tiên, tổ tiên gia đình và tổ tiên cả nước gắn chặt với nhau trong tưởng niệm và thờ cúng. Điều này thể hiện rất rõ khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ. Với người Việt, ân tổ tiên cha mẹ và ân đất nước gắn bó chặt chẽ với nhau, hoà làm một. Người Việt Châu Đốc và những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương vùng này chiến đấu chống Pháp không chỉ vì chúng đến cướp nước mà cùng với đó, còn vì quê cha đất tổ, nơi có bàn thờ tổ tiên, có mồ mả của ông cha mình.


Cũng như người Việt cả nước, trong gia đình bất cứ người Việt Châu Đốc nào (trừ tín đồ Thiên Chúa giáo) cũng đều có bàn thờ gia tiên trong nhà. Bàn thờ thường được đặt ở vị trí trang trọng nhất và họ thường tổ chức cúng tế tổ tiên vào dịp giỗ chạp, lề, tết,... Tập quán này của người Việt mang ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc. Là hình thức nhắc nhở các thành viên trong gia đình, dòng họ nhớ đến tổ tiên, nhớ đến truyền thống tốt đẹp của gia tộc mình. Đây là điểm xuất phát quan trọng không thể thiếu được trong sinh hoạt tinh thần người Việt. Đây cũng là khởi đầu và là tế bào cơ bản của việc giáo dục mọi đức tính tốt đẹp của con người như lòng yêu thương quê hương, gia đình, lòng yếu tổ quốc và hơn hết là ý thức về cội nguồn của mình. Nhờ ý thức này mà nhiều giá trị tích cực của nó được giữ gìn và phát huy [72, tr.48].


Việc thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Nam Bộ được Trịnh Hoài Đức nói đến nhiều lần trong sách Gia Định thành thông chí. Người Việt "cứ đến cuối năm, may áo mới đẹp, quét rửa sạch trong nhà ngoài sân, dán câu đối mới, bày bàn ghế, sửa soạn chỗ thờ cúng tổ tiên", "mồng một Tết đầu giờ Dần, dậy đốt đèn hương, dâng nước chè nóng, lễ bái tổ tiên", "làm cỗ bàn đặt cúng tổ tiên, mỗi ngày sáng chiều hai buổi, như để cung phụng người còn sống" [21, tr.144]. Trịnh Hoài Đức cũng nói: Việc cúng ngày mồng một Tết, tuy sách vở không có nhưng đó cũng là tục hậu nên kẻ sĩ phu phải làm và trong dân gian thường đến ngày mồng 5 Tết thì cúng tổ tiên [21, tr.144].


Một trong những hình thức để biểu lộ sự thờ phụng là săn sóc tới phần mộ tổ tiên. Về việc này Trịnh Hoài Đức viết: Thường đến cuối năm người Việt vẫn quét dọn, bồi đắp phần mộ tổ tiên, vì con cháu không nỡ ngồi nhìn cây cỏ rậm bẩn, mồ mả sụt lở [21, tr.146]. Nhân dịp này con cháu thắp hương trên mộ, khấn vái mời tổ tiên về ăn Tết. Đây là một trong những hành vi tôn kính thiêng liêng nhất mà người sống có thể bộc lộ với người chết. Vì ở người Việt, mồ mả là một tài sản thiêng liêng, được tôn kính sâu sắc [37, tr.589]. Tuy nhiên, việc thờ cúng tổ tiên của người Việt Châu Đốc không chỉ diễn ra trong những ngày giỗ, lễ, tết,... mà có khi bất cứ việc gì xảy ra liên quan đến gia đình, con cháu đều cáo gia tiên. Vì người Việt luôn có tâm lý tin ở sự phù hộ của tổ tiên và sự hiện diện của tổ tiên quanh mình.


Như vậy, trong khi hướng tới tương lai, người Việt không hề đoạn tuyệt với quá khứ, trân trọng quá khứ là một truyền thống văn hoá đặc sắc của người Việt. Thờ cúng tổ tiên hay "Đạo ông bà", "Đạo tổ tiên" là nét văn hoá đặc trưng, bền vững của người Việt. Người Việt Châu Đốc thờ phụng tổ tiên chính vì sự hiếu, vì sự tôn kính, nhớ thương và vì sự biết ơn các bậc sinh thành của người sống đối với người đã khuất. Đó là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" ("ẩm hà tư nguyên", "báo bản tư nguyên") của người Việt Châu Đốc cũng như người Việt cả nước. Một đạo lý sống truyền thống giàu tính nhân văn có vai trò rất tích cực trong việc củng cố, nâng cao đạo lý xã hội, là chỗ dựa vững chắc, có khả năng "đề kháng", "miễn dịch" cho nền văn hoá dân tộc trước sự tiến công, xâm nhập ồ ạt của những văn hoá xa lạ từ bên ngoài đe doạ làm mất bản sắc văn hoá của dân tộc [24, tr.18]. Thờ cúng tổ tiên không chỉ trở thành "vô thức tập thể" của cư dân Việt, một thứ "gen văn hoá" tinh thần, một thứ "di truyền văn hoá" mà vì nó còn là một tập tục mà người Việt đặc biệt gắn bó, một chiều sâu tâm linh, có tác dụng giáo dục rất sâu sắc, một tác nhân cố kết cộng đồng, tác động rất lớn tới quyết tâm bảo vệ gia tộc, tổ tiên và bảo vệ quê hương, Tổ quốc thiêng liêng của người Việt xưa cũng như nay.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:34:02 pm
- Lễ cúng đình - hội làng truyền thống của người Việt

Trong đời sống tín ngưỡng và tâm linh của người Việt, đã từ lâu lễ cúng đình - hội làng truyền thống chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt làng xã. Đó là một lễ hội thiêng liêng và đông vui nhất của làng được tổ chức định kỳ hằng năm và diễn ra một cách khá nghiêm trang, sùng kính. Đó là nơi hội tụ những nét độc đáo lâu đời của các hội làng người Việt, là nơi bảo lưu và tỏa sáng những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam.


Từ cuộc sống đầy nhọc nhằn đầy bất trắc, người dân gửi gắm khát vọng và ước muốn của mình về một cuộc sống bình yên, no đủ ở vị Thành hoàng làng. Hội làng thường lấy đình làm cơ sở. Đấy là nơi thờ Thành hoàng làng. Vì vậy, giữa hội làng và tín ngưỡng Thành hoàng có một sự đồng nhất. Hội làng chính là nghi thức biểu đạt quan niệm của dân làng về thần Thành hoàng [142, tr.148].


Dù xa cách "cố hương", người Việt Châu Đốc vẫn là những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Vĩ vậy, tín ngưỡng cúng đình thờ Thành hoàng vẫn còn tiềm ẩn trong táng sâu "ký ức văn hoá" của cư dân, đến vùng đất mới lại thức dậy và phát triển. Tuy nhiên ở vùng đất mới, hồi quang của nền văn hoá cũ, lại cộng cư với nhiều tộc người khác: Khmer, Chăm, Hoa, khác về tín ngưỡng trong môi trường mới lạ... nên trong cơ cấu tín ngưỡng của người Việt Châu Đốc cũng có những biến thái.


Do điều kiện lịch sử người Việt đến Châu Đốc khá muộn, vì vậy đình miếu ở Châu Đốc được xây dựng chưa lâu lắm. Ngay buổi đầu của những làng mới lập, người Việt mới chỉ dựng lên những đền, miếu để thờ. Thậm chí, đến nay còn có những đình vẫn ghi đền hoặc miếu ở cổng đình hay trước cửa như đình Bình Mỹ, đình Quốc Thái, đình Châu Phú. Sách Đại Nam nhất thống chí đã nói đến trường hợp buổi đầu mới lập của đình Châu Phú là đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh do Thoại Ngọc Hầu dựng nên [80, tr.193].


Hầu hết mỗi làng Việt Châu Đốc ở thế kỷ XIX đều có một đình hoặc miếu. Các đình miếu hồi mới lập đều có quy mô nhỏ, gỗ lá đơn sơ. Dần dần, cuộc sống của cư dân ổn định, khấm khá hơn, đình, miếu mới được trùng tu, mở rộng. Thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), do chính sách "tiêu thổ kháng chiến" nên nhiều đình ta tự phá, đốt cháy không để quân Pháp lấy làm đồn bốt: như đình Đồng Đức, nhiều đình khác bị Pháp đốt cháy như đình Nhơn Hội, Vĩnh Xương,... Nên đến nay, nhiều đình không còn hình dáng kiến trúc thế kỷ XIX. Hầu hết đình được trùng tu, xây lại từ đầu thế kỷ XX đến nay.


Kiến trúc đình người Việt ở Châu Đốc thường chia làm 3 phần: võ ca, võ quy và chánh tam. Dù được xây dựng, trùng tu lại nhiều lần, lần sau kiên cố vững chắc, đẹp hơn lần trước, nhưng kiến trúc vẫn không thay đổi nhiều. Như đình làng Bình Mỹ đến nay đã được xây lại 4 lần (1786, 1816, 1890, 1928), có kiến trúc kiểu chữ Tam, mái tam cấp, nóc cố lầu, lợp ngói âm dương đại tiểu. Kiến trúc mái đình có 9 nóc chia làm 3 dãy võ ca 3 nóc, võ quy 3 nóc, chánh tẩm 3 nóc, mái ngói nhiều tầng lớn nhỏ, cao thấp nằm nhấp nhô trên một công trình kiến trúc, hình khối đồ sộ. Mái đình chín nóc là biểu hiện cho ngôi "cửu ngũ", ý tứ sâu xa của người xưa được gửi gắm vào công trình kiến trúc. Đó là ước muốn vị thần đại diện cho "thiên tử" bảo hộ cho dân làng được thái bình an lạc.


Nội thất, trước tiên từ sân đình vào có võ ca (ca múa), nơi ngày lễ diễn ra hát bội, cúng thần trong các lệ cúng kỳ yên hằng năm. Nối tiếp võ ca là nhà chầu, nơi các quan chầu lễ và cầm chầu mỗi khi hát bội. Nhà chầu còn gọi là "võ cua" hav "võ quy", vì nhà có mái khum như vỏ mai cua hay mai rùa. Đây là nơi diễn ra lễ nghi cúng thần. Nối liền "võ quy" với chánh tẩm là thông hành. Chánh tẩm là khu vực quan trọng nhất của ngôi đình. Cách bài trí ở chánh tẩm rất trang nghiêm. Chính giữa, trên là bàn thờ thần, dưới bàn thờ chính là bàn thờ hội đồng, hai bên bàn thờ chính là những bàn thờ các vị thần linh khác.


Trước bàn thờ thần là nơi tôn nghiêm nhất của ngôi đình, trên bệ là khánh thờ. Trong khánh thờ là chữ Thần bằng Hán tự màu vàng trên nền đỏ, ngai thờ để hộp đựng sắc thần (ở những đình có sắc). Dưới bàn thờ thần là ban chánh tế (nơi để vật phẩm cúng thần), được bày trí đồ tự khí. Hương án thờ Hội đồng, tượng trưng nơi vị thần tiếp các vị hương chức trong làng. Trên hương án có đồ tự khí, hai bên bàn chính là hương án thờ các vị thần linh cận vệ chính thần như:

+ Hương án Tả ban: thờ những vị quan có nhiệm vụ túc trực bảo vệ vị thần.

+ Hương án Tiền hiền: thờ những bậc tiền bối đã có nhiều công lao quý báu trong việc khai hoang lập làng, xây dựng và phát triển ngôi đình.

+ Hương án thờ "Chủ xứ sơn quân" (thần Hổ): khi khẩn đất hoang vốn là rừng rậm có nhiều thú dữ, trong đó "Chúa sơn lâm" thường gây tai hoạ cho con người nên dân gian tín ngưỡng thờ thần Hổ, cầu mong "Chúa sơn lâm" không gây hại cho dân làng (ở sân đình Thới Sơn - Tịnh Biên có miếu thờ "Ông cả" (Ông Hổ), còn gọi là "Ông Đạo Hổ” khá lớn).

+ Hương án Hữu ban: thờ những vị quan có nhiệm vụ bảo vệ vị thần.

+ Hương án Hậu hiền: thờ những bậc tiền bối có nhiều công lao trong việc phát triển làng như lập chợ, xây dựng cầu đường...

+ Hương án Tiền cố hương lão: thờ những bậc tiền bối hữu công của làng và của đình (ở đình Bình Mỹ, danh sách Tiền cố hương lão đến nay có 60 người).

+ Hương án Tiên sư: thờ những người thầy dạy nghề cho dân ngày đầu làng mới thành lập, ngày sau có cuộc sống ấm no, nghề nghiệp phát triển ổn định, dân làng luôn ghi nhớ công lao to lớn ấy.

+ Hương án thờ Bạch mã thái giám: tín ngưỡng dân gian người Việt Châu Đốc cho đây là một loại ngựa thần lông trắng rất linh hiển, có nhiệm vụ phục vụ sự đi lại của vị thần (như đình Châu Phú, Châu Phong, Long Sơn, Bình Long,...).


Trước sân đình thường có bàn thờ Thần Nông, ngay sau bình phong từ cổng chính vào đình, ở hai bên sân đình cũng thường có miếu thờ ông Hổ, miếu Bà Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương... Cuối cùng là: nhà kho phía sau bàn thờ thần, nơi lưu giữ tài sản, hiện vật của đình; nhà hội: để tiếp quan khách trong các lệ cúng; nhà trù (nhà khói): phục vụ thiết đãi quan khách...; nội tẩm: trưng bày các vật thờ tự, tế lễ, phục vụ khách tham quan trong những ngày lễ hội đình.


Nhìn chung, bố cục trong đình người Việt Châu Đốc cơ bản là giống nhau, nhưng cũng tùy theo các đối tượng thờ cúng trong đình của từng thôn mà xếp đặt các bàn cúng thờ vị này hay vị kia theo quan niệm của từng làng.


Kể từ khi triều Nguyễn sắc phong Thành hoàng để đưa đình làng vào hệ thống thần kỳ được thờ cúng của nhà nước thế tục thì đình người Việt ở Châu Đốc cũng như cả nước đã trở thành cơ sở nằm giữa hai thiết chế: chính thống và dân gian. Và cũng như đình thần ở Nam Bộ, đình làng người Việt ở Châu Đốc có nhiều chức năng, vừa là trú sở của các vị thần Thành hoàng và nhiều vị thần khác, vừa là trung tâm hành chính của hương đảng, vừa là trung tâm văn hoá của thôn ấp.


Những vị thần được thờ phụng, ở Châu Đốc, đình của ngươi Việt thường thờ rất nhiều thần: thành hoàng, phúc thần, thần linh và những danh nhân sinh tiên có công với làng. Cũng như các đình ở Nam Bộ, sự phân loại các vị thần được thờ ở Châu Đốc có thể phân ra thành 3 loại như sau: 1. Thành hoàng và phúc thần; 2. Những vị thần linh theo tín ngưỡng dân gian; 3. Sự phối hưởng của nhiều thần linh Khmer, Hoa [132, tr.35], kể cả thần linh người Chăm.


Đáng chú ý là các danh nhân có công với vùng đất Châu Đốc, có công đánh giặc giữ nước được thờ phụng rất phổ biến như: Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản,... Các danh nhân này được thờ phụng như những Thành hoàng của làng Việt ở Châu Đốc. Trong số 84 đình chúng tôi thống kê được trên đất Châu Đốc xưa, hiện có 11 đình thờ danh nhân Nguyễn Hữu Cảnh. Đây là một trường hợp đặc biệt mà không địa phương nào ở vùng đất Nam Bộ có. Mặc dù, trên thực tế, công lao khai phá và trấn giữ vùng biên thùy Tây Nam này thì đóng góp của Thoại Ngọc Hầu là đứng đầu, nhưng chính đền miếu, đình thần thờ Thoại Ngọc Hầu lại ít hơn Nguyễn Hữu Cảnh. Như nội dung sự hình thành dân cư Châu Đốc đã nói ở đầu Chương 1, cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, vùng đất này chưa thuộc chủ quyền chúa Nguyễn. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn đi đánh Nặc Thu (Chân Lạp) vì y đắp lũy Bích Đôi, Nam Vang và cầu Đôi, cướp bóc dân buôn Việt. Sau khi thắng giặc, Nguyễn Hữu Cảnh dẹp bọn cướp bóc, vỗ về lưu dân Việt, người dân ở đây đã thờ ông như thờ một người che chở làm ăn cho họ, như đại diện của chính quyền Nguyễn ở vùng đất xa xôi. Trải 300 năm qua, nhân dân vẫn còn tri ân ông, những đền miếu thờ ông hương khói vẫn không bao giờ dứt.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:35:03 pm
Nhân vật thứ hai, được người Việt thờ phụng nhiều là Thoại Ngọc Hầu. Tại Châu Đốc có 7 ngôi đình thờ phụng ông, chưa kể các đền miếu ở Thoại Sơn và quanh vùng trung tâm Châu Đốc. Ông là người có nhiều công lao đánh giặc, trấn giữ biên thùy, khai phá lập hơn 20 làng, khơi sông, đắp lộ, làm cầu, làm đường ở vùng Châu Đốc. Ngoài ra, Nguyễn Trung Trực, Lê Văn Duyệt,... là những nhân vật được nhân dân vùng này ghi ơn, thờ phụng sau hai nhân vật trên.


Lễ hội cúng đình: Lễ kỳ yên là lễ chính của đình, người Việt Châu Đốc gọi là lễ vía thần, thực chất vừa là cúng thần vừa là lễ hội nông nghiệp để cầu an: cầu cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận.

Nghi thức cúng lễ kỳ yên ở đình vùng Châu Đốc tuân theo điển lệ của triều Nguyễn nên lễ cúng đình ở Châu Đốc cũng như ở Nam Bộ căn bản giống nhau [129, tr.106]. Những ghi chép của Trịnh Hoài Đức về lễ kỳ yên của người Việt Nam Bộ đầu thế kỷ XIX xét đến nay không khác mấy. Lễ hội thường diễn ra trong 3 ngày, gồm có 3 lễ chính: Túc yết, Đoàn cả (Đàn cả), Tiền hiền - Hậu hiển [21, tr.146]. Những nghi lễ khác như: Rước sắc thần, xây chầu - đại bội,... là những lễ thức phụng sự 3 lễ chính. Thời gian cúng đình ở vùng Châu Đốc thường diễn ra từ mồng 10 đến giữa tháng 5 âm lịch. Đây vừa là lễ kỳ yên vừa cúng thần Nguyễn Hữu Cảnh, kỷ niệm ngày mất của ông (đình Châu Phú, Bình Thủy, Mỹ Phước). Cũng có đình cúng giữa tháng 4 âm lịch như các đình Bình Mỹ, Bình Long, Châu Phong,...


Việc cúng tế được diễn ra nơi trang nghiêm nhất, ở nhà bái đường và chính đường, còn hội thì diễn ra ở nhà võ ca. Vào ngày đầu của lệ cúng, thường có tổ chức lễ nghênh thần, mang ý nghĩa đưa vị thần bảo hộ thăm thôn làng, chứng kiến đời sống, sinh hoạt của toàn dân trong làng. Sau khi vị thần này trở về và an vị tại ngôi đình thì tiến hành cúng tế theo nghi thức cổ truyền là Lễ Túc yết (Túc trực - Yết kiến). Đúng 1 giờ đêm đầu, mọi người đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng Túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông chánh bái, có sự giúp sức của bồi tế. Toàn bộ nghi thức hành lễ đều theo lệnh của hai người thủ xướng đứng hai bên hương án kế cận vị chủ tế. Tất cả lễ nhạc, động tác dâng hương, dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế, bái lạy đều phải đúng theo lời người chủ xướng... Những đình làng có sắc phong thì có thêm mục lễ "tuyên sắc" vào giữa đêm đầu tiên. Lễ được tiến hành trong hương trầm nghi ngút, trong tiếng nhạc lễ, có các vị bô lão mặc áo dài, khăn đóng đứng trang nghiêm hai bên bàn thờ thần, mắt hướng về nơi "tuyên sắc" như hồi tưởng lại công lao sự nghiệp của ngươi có công khai mở đất đai, xây dựng cuộc sống từ buổi đầu.


Lễ vật chính dâng cúng trong lễ Túc yết gồm có một con heo (đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén huyết, một ít lông, gọi chung là mao huyết, xôi, trái cây, trầu cau, một đĩa muối gạo... Bắt đầu vào lễ, ông chánh tế đến dâng hương lễ trước bàn thờ. Rồi lần lượt "ban quản trị" thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "khởi chinh cổ", sau khi đánh 3 hồi trống gỗ và 3 hồi chiêng mõ, ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chước tửu, tiệm trà bắt đầu. Diễn biến của buổi lễ đều theo sự điểu khiển của người xướng lễ. Sau khi dâng hương, dâng ba tuần rượu và dâng trà, theo lời của người xướng lễ, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Ban tế quỳ xuống "đọc văn" trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc để phụ hoạ cho giọng đọc. Dứt bài văn tế, ông chánh tế nghỉ cúng, đốt văn bản này và một ít giấy tiền vàng bạc, chôn mao huyết (để tế Đất). Phần nghi thức Túc yết đến đây coi như đã xong.


2. Lễ Chánh tế (còn gọi là Đoàn cả (đoàn tụ đông đúc hơn cả), mục đích tạ thần), nghi thức diễn lại như lễ Túc yết, có hơi khác là sau phần dâng trà của lễ Túc yết là phần "ẩm phước thụ tộ" (uống rượu và ăn thịt) mang ý nghĩa truyền thống, phần thưởng của thần ban cho vị chánh tế.


3. Lễ Tiền hiền - Hậu hiền, nhằm tạ ơn các vị tiền hiền - hậu hiền và các bậc có công với làng, với đình. Lễ này diễn ra ngày thứ ba. Hiện nay, lễ này được làm trong ngày thứ 2, sau lễ Đoàn cả. Nghi thức đơn giản hơn lễ Túc yết nhưng cũng rất long trọng. Trong nghi thức cúng tế này có xây chầu hát bội, được tổ chức tại võ ca phía trước chính điện. Những người tham dự cùng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng đứng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bộ hoá trang trống mõ sẵn sàng. Ông chánh bái ca công (chủ trì lễ xây chầu) nhúng cành dương vào tộ nước cầm trên tay vẩy lên và đọc lời cầu nguyện:

- Nhất, sái thiên thanh (thứ nhất, vãi nước lên trời xanh, cầu cho mưa thuận gió hoà).

- Nhị, sái địa ninh (thứ nhì, vãi nước xuống mặt đất cầu cho đất đai phì nhiêu).

- Tam, sái nhơn trường (thứ ba, vãi nước cho loài người, cầu cho dân gian được trường thọ).

- Tứ, sái quỷ diệt hình (thứ tư, vãi nước vào loài quỷ dữ cầu cho chúng bị tiêu diệt) [5, tr.72]. Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và đến chương trình của đoàn hát bộ, diễn xuất các vai tuồng xưa.


Như vậy, lễ cúng đình ở vùng Châu Đốc, thực chất là một lễ kỳ yên. Vì động tác của ông chánh bái là động tác của một thầy pháp, động tác ma thuật nhằm cầu mưa.


Sau phần lễ là phần hội, phần sôi động nhất của lễ cúng đình. Đó là lễ hội cổ truyền thấm nhuần tinh thần cộng cảm không thể thiếu được trong đời sống thôn dã, sau những ngày tháng lao động mệt nhọc trong khung cảnh làng quê thanh bình, trật tự. Cư dân đến với lễ hội cúng đình trước hết để tỏ lòng tôn kính và biết ơn các vị phúc thần và các bậc tiền nhân có công khai phá, mở làng để lại cơ nghiệp cho con cháu, đồng thời cũng là dịp biểu thị ý thức tôn trọng văn hoá của dân tộc, hưởng thụ hình thái sinh hoạt cộng đồng vôri có nhiêu gắn bó với phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian mà mỗi năm chỉ diễn ra có một lần.


Như vậy, cũng như mọi cư dân Việt ở miền Bắc, miền Trung và Nam Bộ, vai trò cái đình trong đời sống của nông dân Việt Châu Đốc có một vị trí tương đối đặc biệt.


Mặc dù ở vùng đất mới khai phá hệ thống thần linh được thờ phụng và kiến trúc đình làng có những biến đổi so với đồng bằng sông Hồng, dẫn đến sự khác biệt ở nhiều chi tiết, khác trong việc rước và trò diễn có liên quan... Tuy nhiên, lễ hội cúng đình của người Việt Châu Đốc vẫn bảo lưu khá đậm nét những đặc điểm và ý nghĩa của một lễ hội nông nghiệp cổ truyền. Hội làng cúng đình trước hết liên quan đến sản xuất mùa vụ, nguồn sống quan trọng của cư dân Việt, đó là những nghi thức lễ tiết nông nghiệp cầu mùa, đánh cồng chiêng cầu sinh sôi nảy nở, đánh trống cầu mưa... sau đó có cả cách cầu khẩn sự viện trợ của thần linh. Đình làng gắn với đời sống tín ngưỡng, được xây dựng không chỉ phản ánh nhu cầu tự nhiên của cư dân để có nơi thờ cúng sinh hoạt mà còn là sự bày tỏ lòng thành kính ngưỡng vọng thiêng liêng, tôn thờ nhắc nhở tổ tiên, anh hùng có công và thần linh, cũng là một mục đích của hội làng. Lễ hội cúng đình cũng xuất phát từ nhu cầu giải toả những uẩn khúc trong đời sống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng.


Lễ hội cúng đình của người Việt cũng có ý nghĩa đặc biệt là giáo dục cho các thế hệ trong làng, những bài học đạo đức quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là củng cố mối dây liên lạc thiêng liêng giữa tất cả các thành viên trong cộng đồng, giáo dục truyền thống để truyền bá tinh thần cộng đồng làng xã, tạo ra sức mạnh đặc biệt có khả năng phát triển, cố kết ràng buộc mọi người với nhau. Vì vậy, cùng với quá trình nắm làng xã ngày thêm chặt của nhà nước và để có thể xác lập quyền lực tối cao trong đời sống tôn giáo làng mạc, nhà nước phong kiến thấy mình phải có trách nhiệm xem hội làng như một yếu tố biểu hiện quan trọng của văn hoá dân tộc, đồng thời cũng tranh thủ lợi dụng hội làng để củng cố quyền uy, quyền lợi của mình, thông qua nắm Thành hoàng làng mà nắm lấy các làng xã, quản lý thần dân và chủ quyền của nhà nước, nhất là ở những vùng biên giới phức tạp thường xảy ra tranh chấp lãnh thổ và chủ quyền quốc gia như vùng đất Châu Đốc. 


Lễ hội cúng đình của người Việt Châu Đốc đã góp phần tạo nên một sinh hoạt văn hoá xã hội riêng của người Việt so với các tộc người khác như Khmer, Hoa, Chăm cùng cộng cư ở khu vực này, giúp cho cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ - văn hoá - tộc người, là một vũ khí văn hoá, một bản lĩnh văn hoá để cho cộng đồng người Việt thế kỷ XIX đứng vững và tồn tại ở vùng đất biên cương này.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:36:36 pm
- Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

Người Việt Châu Đốc dù xa cội nguồn nhưng vẫn là những nông dân gắn bó với nghề trồng lúa nước, đến vùng đất mới vốn văn hoá tiềm ẩn trong họ "thức dậy", trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu.

Trịnh Hoài Đức đã ghi đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam Bộ "tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần", tin thờ bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động, bà Hỏa Tinh, bà Thuỷ Long, cô Hồng, cô Hạnh [21, tr.142]. Thực ra, đó là tục thờ cúng Thất Thánh (Bảy Bà), một sự hoà đồng tín ngưỡng thờ Mẫu của nhiều tộc người khác nhau, mà Huỳnh Tịnh Của đã ghi Bảy Bà trong sách Đại Nam quốc am tự vị năm 1895 gồm: Bà Chúa Tiên, bà Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ, bà Chúa Động, bà cổ Hỷ, bà Thuỷ, bà Hoả [11, tr.19].


Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển khá mạnh mẽ ở người Việt Nam Bộ vào thế kỷ XIX. Ở Châu Đốc, trong chùa Tây An cũng có ban thờ Mẫu, để thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc, Chúa Tiên và cô Hai Hiên. Ở thị xã Châu Đốc nay có miếu thờ Bảy Bà (Thất Thánh miếu) có từ thế kỷ XIX, ở núi Sam có miếu Bà Chúa Xứ.


Về kiến trúc và bài trí điện thần, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Châu Đốc có hai dạng: phối tự trong chùa hoặc được lập miếu thờ riêng. Ở dạng phổi tự, có thể thấy ở chùa Tây An (xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc), là kiểu bài trí điện thần theo tiền Thánh hậu Phật, ở chùa Ba Chúc (xã Ba Chúc huyện Tri Tôn) cũng bài trí trước miêu, sau chùa, miếu để thờ Mẫu.


Song song với dạng phối tự thờ Mẫu nói trên là lập miếu thờ riêng Bà Chúa Xứ... Miếu có thể thờ phụng chung hoặc miếu riêng của từng nhà để cúng tại gia. Các làng Việt Châu Đốc thường có miếu Bà Chúa Xứ. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ của người Việt Châu Đốc phát triển mạnh, thể hiện bằng việc các miếu Bà Chúa Xứ có mặt ở nhiều nơi; thậm chí, miếu Bà Chúa Xứ còn xuất hiện cả trong khuôn viên của đình làng. Trong số các nơi thờ tự thì miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam (thị xã Châu Đốc) là nơi linh thiêng, tiêu biêu nhất cả về truyền thuyết lẫn điện thần và lễ hội, không chỉ nổi tiếng ở vùng đất Châu Đốc mà còn nổi tiếng cả Nam Bộ [122, tr.165]. Dù có nhiều truyền thuyết về sự xuất hiện pho tượng lạ Bà Chúa Xứ ở núi Sam, nhưng đều có một cái chung, đó là quá trình hiện thực hoá một nhân vật thần linh được phụng thờ. Linh tượng được coi là Bà Chúa Xứ vốn là pho tượng sa thạch đàn ông, được tô điểm thành phái nữ. Chính tâm thức thờ Mẫu của người Việt đã khiến cho pho tượng nam trở thành một Thánh Mẫu đầy quyền năng.


Đầu tiên miếu được làm bằng tre lá đơn sơ. Khi tượng "Bà" mới được phát hiện khoảng năm 1820-1825. Về sau miếu được sửa chữa, mở rộng nhiều lần. Năm 1870, miếu được xây dựng to lớn, chắc chắn hơn, nên lát gạch tàu, cột gỗ, vách ván, lợp ngói móc, tường xây hồ ô dước. Năm 1972, miếu được thiết kế xây dựng khang trang to đẹp, là miếu Bà Chúa Xứ lớn nhất ở Nam Bộ.


Điện thần miếu Bà gồm hai lớp. Lớp trong cùng là Ban thờ Bà có tượng Bà đặt trên. Bên phải có ban thờ "Linga" (về sau đặt ban thờ cậu); bên trái là ban thờ cô. Lớp thứ hai là ban thờ Hội đồng, bên trái là ban thờ Tiền hiền khai khẩn, bên phải là ban thờ Hậu hiền khai cơ. Cách bài trí điện thờ trên đây là sự hội tụ của nhiều tín ngưởng, là hỗn dung tiền Thần hậu Mẫu trong một không gian thiêng. Mẫu (Bà Chúa Xứ (sở) ngự ở trên cao. Linga và Yôni vốn là tín ngưỡng của một tộc người khác, nay được người Việt tiếp thu thành văn hoá thờ Mẫu, làm ban cậu ban cô, phù hợp với triết lý Âm - Dương, Mẹ - Sinh, phồn thực. Gần hơn, cụ thể hơn có các bậc Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ. Điều này vừa thể hiện triết lý Âm - Dương sinh thành của Kinh Dịch, vừa thể hiện Hiếu - Nghĩa tổ tiên được hỗn dung thành bài trí điện thờ ở Bà Chúa Xứ núi Sam.


Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là sự hội tụ của nhiều tín ngưỡng. Linh tượng được coi là "Bà Chúa Xứ" vốn là một pho tượng đàn ông ngồi vương giả, tóc uốn thành những búp xoăn thả về phía sau, trên mặt tượng có một vành như vương miện đội trên đầu. Có lẽ pho tượng này là di vật của nền văn hoá Óc Eo, mà hiện nay trên đỉnh núi Sam còn lại một bệ đá vuông mỗi chiều 1,6m, dày 0,3m, ở giữa có lỗ hình vuông 30cm x 30cm. Dưới chân pho tượng có một cái ngỗng, nếu đem lắp vào bệ đá vuông trên thì vừa khít. Cũng tại đây, tháng 10-1994, một Yôni được phát hiện ở sân miếu Bà, đủ một đôi với Linga có từ trước.


Năm 1942, nhà khảo cổ học người Pháp Malleret khi đến Châu Đốc nghiên cứu văn hoá Óc Eo, cho đây là loại tượng thần cổ Visnus thường thấy trong các loại tượng cổ của nền điêu khắc Ấn Độ. Năm 1986, đoàn khách ngoại giao Ấn Độ đến thăm miếu này rất ngạc nhiên được gặp loại tượng thần Shiva ở núi Sam, mang tên Bà Chúa Xứ. Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam có lẽ phát triển sớm nhất từ thời Thiệu Trị (1841-1847) về sau. Bởi vì, cho đến gần cuối đời Minh Mệnh (1820-1840), vùng núi Sam vẫn còn khá hoang vu, cư dân thưa thớt. Địa bạ năm 1836 ghi rõ thôn Vĩnh Tế mới chỉ có 5 mẫu dân cư thổ [193]. Ngay cả sách Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí và Thực lục,... cũng không thấy ghi chép đến miếu Bà Chúa Xứ. Có lẽ thời kỳ đầu, miếu Bà còn nhỏ bé, lại ở vùng hoang vắng, chưa thu hút được khách thập phương đến lễ bái?


Lịch lễ miếu Bà Chúa Xứ hằng năm như sau: Ngày 15 tháng Giêng cúng Âm hồn ở miếu Âm Nhơn (người âm), những người "vị quốc vong thân", anh hùng liệt sĩ, cô hồn, thờ cúng bá tánh. Lễ cúng Âm nhơn có rước ông Quan Đế, Châu Xương, Quang Bình, cúng cầu an, trừ họa diệt quỷ... Như vậy, lễ cúng này còn ảnh hưởng tín ngưỡng của người Hoa. Các ngày 24-26 tháng tư cúng Bà Chúa Xứ. Ngày 5 tháng 6, cúng Thoại Ngọc Hầu. Các ngày 14-16 tháng 8, lễ cúng kỳ yên đình thần Vĩnh Tế. Các ngày 26-27 tháng 8, lễ cúng miếu Khổng Tử. Ngày 25 tháng Chạp, lễ cúng Lạp miếu đưa thần. Các lễ cúng lớn nhất của miếu là lễ cúng Âm nhơn, lễ cúng Bà Chúa Xứ và lễ kỳ yên đình Vĩnh Tế.


Như vậy, có thể thấy, ở miếu thờ Mẫu này vừa mang tính chất đình làng: cúng đình thần, lễ Nguyên tiêu rằm tháng Giêng, lễ cúng Thoại Ngọc Hầu, cúng Tiền hiền, lễ Lạp thần... vừa là văn thánh tế Khổng Tử. Lễ vía Bà với tư cách là thờ Mẫu, lịch trình diễn ra như sau: Lễ hội Bà Chúa Xứ (còn gọi là ngày vía Bà) hằng năm được tổ chức vào các ngày 25, 26 tháng tư âm lịch, vía chính vào ngày 25.

1. Lễ thỉnh sắc: Lễ này diễn ra chiều ngày 24, rước Long đình từ miếu sang lăng Thoại Ngọc Hầu thỉnh sắc vua phong đưa về miếu thờ trong dịp lễ hội. Các bài vị có Thoại Ngọc Hầu, bà chính phẩm Cháu Thị Tế, bà nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị Hội đồng... Khi về đến miếu Bà, 4 bài vị trên được an vị tại chánh điện. Mọi người dâng hương thỉnh an. Sau đó, lễ thỉnh sắc được kết thúc.

2. Lễ tắm Bà: Lễ này được tiến hành vào 24 giờ đêm 24. Ông chánh bái và các vị bô lão niệm hương, dâng rượu, trà. Đến giờ tắm, y môn (rèm vải) và cửa điện được đóng lại. Một nhóm phụ nữ dùng nước thơm và khăn, tắm bằng cách lau tượng Bà. Xong, mặc cho Bà áo mũ mới thật lộng lẫy. Tắm xong, hàng nghìn khách thập phương chờ sẵn ùa vào cướp lộc bày sẵn trên các bàn như bông hoa, trái cây... Nước tắm Bà được xem như nước Thánh chữa được bệnh, uống vào khoẻ mạnh, may mắn, không bị ma quỷ quấy nhiễu... Tháng 4 là thời điểm mùa mưa bắt đầu đến, lễ tắm Bà được tiến hành vào thời điểm này với ý nghĩa thiêng là mừng nước mới, ý nghĩa phồn thực, cầu mưa, cũng như tiễn cũ đón mới cho một vụ mùa no ấm.

3. Lễ Túc yết: Được tổ chức lúc 0 giờ ngày 25. Tất cả bô lão trong làng và người dự lễ phục chỉnh tề. Có 4 học trò lễ và 4 đào thài. Vật cúng gồm có một con heo đen tuyền đã được cạo lông, mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chín, một đĩa mao huyết, một mâm xôi, một mâm trái cây, một đĩa gạo muối. Vào lễ, sau khi ông chánh bái và người niệm hương trước bàn thờ, là phần "khởi chinh cổ": Đánh ba hồi trống với ba hồi chiêng. Nhạc lễ bắt đầu nổi lên là lễ dâng hương, chước tửu, hiến trà. Diễn biến của buổi lễ được thực hiện theo 2 người xướng lễ. Ông chánh bái đi trước bốn học trò lễ và 4 đào thài đi theo sau. Ông chánh bái rót rượu, sau đó học trò lễ đem dâng cúng. Sau 3 lần chước tửu, hiến trà, văn tế được đem ra đọc trước bàn thờ. Văn tế đọc xong ông chánh bái đốt văn tế, vàng mã. Lễ Túc yết kết thúc.

4. Lễ xây chầu: Bắt đầu lễ, người xướng lễ hô to "ca công tựu vị". Ông chánh bái, ca công tiến tới bàn thờ giữa võ ca, hai tay cầm dùi trống đưa ngang trán khấn. Sau đó cầm cành dương liễu nhúng vào tộ nước rồi vẩy ra xung quanh, đọc to những lời cầu nguyện ”nhất sái thiên thanh, nhị sái địa ninh, tam sái nhơn trường, tứ sái quỷ diệt hình". Ý nghĩa 4 câu này giống như ở lễ cúng đình. Xong, chánh bái xướng "ca công tiếp giá”, lập tức đoàn hát bộ nổi chiêng trống và bắt đầu chương trình hát bộ.

5. Lễ Chánh tế: Vào 4 giò sáng ngày 26, tiến hành lễ Chánh tế giống như lễ Túc yết. Chiều 27 hồi sắc Thoại Ngọc Hầu về sơn lăng, kết thúc cúng vía Bà.


Như vậy, lễ hội Bà thực chất là một lễ kỳ yên. Vì động tác ông chánh bái là động tác của một thầy pháp, động tác ma thuật nhằm cầu mưa, có thể gặp ở nhiều lễ cúng đình khác ở Châu Đốc. Vì vậy, có thể nói rằng lễ hội vía Bà núi Sam, khởi thuỷ là nghi thức cầu mưa mà hình thức thể hiện của nó là lễ kỳ yên rồi các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu đan xen vào, hội nhập lại thành lễ hội thờ Bà. Tuy nhiên, ẩn giấu phía sau lễ hội và nhân vật được thờ phụng là ước mơ của cư dân cầu mong ở đất đai một vụ mùa tươi tốt, một cuộc sống bình yên "quốc thái dân an" của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.


Có thể nói, lễ hội vía Bà núi Sam là lễ hội mang màu sắc hỗn dung, vừa có biểu tượng biểu thị về vũ trụ (Trời) biểu thị về Đất (Mẫu), biểu tượng tín ngưỡng phồn thực (linga - yôni), biểu tượng về hồn linh và nhân thần (thờ Thoại Ngọc Hầu, bà chánh phẩm và bà nhị phẩm, tiền hiển, hậu hiền), biểu tượng về tôn giáo (thờ Khổng Tử),... Đó không chỉ vừa là thế giới tâm linh truyền thống của người Việt mà vừa là sự tiếp thu ảnh hưởng tín ngưỡng của tộc người khác trên địa bàn cộng cư. Đặc biệt, ở vùng đất biên thuỳ Tây Nam sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ đã trở thành một thứ vũ khí cố kết cộng đồng, an ủi, động viên, tạo thêm sức mạnh cho những lưu dân Việt trụ vững trước những thử thách để khai phá và bảo vệ miền đất biên ải hiểm yếu.

   Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chi thị.
   Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường.
   (Xin thì được, ban cho thì linh, bảo trong giấc mộng.
Người Xiêm sợ hãi, người Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường).


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 10 Tháng Bảy, 2021, 05:37:57 pm
- Tín ngưỡng của người Khmer

Ở người Khmer Châu Đốc và đồng bằng sông Cửu Long có nhiều hình thức tín ngưỡng, ăn tết vào năm mới (Choi chnam thmay), lễ cầu an, lễ cúng trăng (Âkâmbok); cúng thần bảo hộ dòng họ (Arăk), thần bảo vệ đất đai (Neak Tà), tín ngưỡng cúng tổ nghề, tín ngưỡng hồn lúa... Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn chế của cuốn sách chúng tôi chỉ cố gắng nêu khái quát 2 loại tín ngưỡng phổ biến, nhất là cúng Neak Tà và Arăk.

+ Cúng Neak Tà

Có thể có nhiều quan niệm khác nhau về tín ngưỡng Neak Tà nhưng tựu trung đều thống nhất Neak Tà là thần bảo hộ một khu vực đất đai. "Neak" là tên chỉ con người nói chung, Tà là người đàn ông đứng tuổi, thường được người Việt gọi là "ông Tà".


Miếu Neak Tà của người Khmer có nhiều hình thức hoặc chỉ đơn giản là một miếu thờ bằng tranh, tre dưới gốc cây trong khuôn viên một phum nhỏ hay ở một góc ruộng. Loại khác lớn hơn ở trong khuôn viên chùa, hay một địa điểm nào khác trong phum sóc, ngã ba đường. Đây là loại miếu dành cho Neak Tà watt (Neak Tà chùa) và Neak Tà srok (Neak Tà chủ xóm). Thần tượng trong miếu Neak Tà được tượng trưng bằng vài hòn đá có to, có nhỏ, hình bầu dục, mặt nhẵn bóng. Ngoài ra cũng có một số Neak Tà không có miếu như Neak Tà ở ngã ba, ngã tư sông rạch... [147, tr.125].


Neak Tà hoặc có tên tượng trưng bằng vật linh (tên con vật) hoặc có tên của thực vật, địa lý, như cây trôm, cây đa, giếng, bên... hay Neak Tà có tên tượng trưng bằng tên người, vị thần... Dù Neak Tà được mang tên gì thì cũng phải gắn với lợi ích thực tiễn của con ngươi, được họ suy tôn làm thần bảo hộ. Hằng năm, người dân trong khu vực có miếu tập trung cúng Neak Tà một lần, khoảng tháng 4 dương lịch, nhằm cầu an cho mọi người, cầu mưa thuận gió hoà, vụ mùa bội thu. Trong những trường hợp khác cá nhân hay tập thể khi có việc gì cũng tìm đến Neak Tà để van vái, cầu xin.


Trong nhiều khuôn viên chùa Khmer cũng có miếu thờ Neak Tà. Khi trong chùa có vị sư sãi nào ốm đau lâu, họ cũng cầu xin Neak Tà [51, tr.50-51]. Thông thường, lễ cúng Neak Tà hằng năm của người Khmer Châu Đốc và miền Tây thường sớm hơn vùng Sóc Trăng, Trà Vinh, họ cúng trước khi mùa mưa đến khoảng tháng 4 - 5 dương lịch. Mùa mưa bắt đầu ở vùng biển phía Tây, An Giang và Kiên Giang sớm hơn vùng nội địa một tháng nên người Khmer nơi đây cúng Neak Tà sớm hơn.


+ Cúng Arăk

Đối với người Khmer, Arăk là một vị thần bảo hộ dòng họ (Arăk chuabua). Mỗi một dòng họ thờ một Arăk riêng để phù hộ cho gia đình mình.

Bàn thờ Arăk là những trang, treo giống khánh thờ của người Việt, đặt ngay trong nhà nhưng luôn luôn nằm ở gian bìa hoặc một bên vách nhà. Trên mặt trang thờ có đặt đoạn thân cây chuối, trái dừa khô, trên có cắm nhang, đèn, đặt 5 lá trầu cuốn lại, một số vật trang trí bằng giấy màu kiểu hình tháp và đĩa kết bằng bẹ chuối [51, tr.51-52]. Mỗi dòng họ Khmer, có thể có nhiều Arăk và ngược lại một Arăk cũng có thể được thờ bởi một số dòng họ. Người ta cúng Arăk mỗi khi gia đình gặp chuyện không lành; có người bệnh, làm ăn kém, tai nạn bất thường,...


Như trên ta thấy, Arăk chủ yếu là thần bảo vệ dòng họ. Tuy nhiên, khái niệm Arăk còn đi kèm theo một số danh từ chung để biểu thị một số thần bảo hộ như Arăk pteh (thần bảo hộ nhà cửa), Arăk phta (thần bảo hộ gia đình), Arák phum (thần bảo hộ mảnh đất của loại gia đình cư trú theo phía vợ),...


Đề cập đến thần bảo hộ của các mảnh ruộng, người Khmer còn dùng thuật ngữ Arăk viel, thần này giữ một vai trò quan trọng trong việc đồng áng, chính "ông ta" là người giữ mảnh ruộng đang được cày cấy, trông coi nương mạ khỏi chuột bọ quấy phá, chăm sóc trâu bò... Do đó, có nơi hai thuật ngữ Neak Tà và Arăk có ý nghĩa tương đồng trong một mức độ nhất định, thậm chí có sự lẫn lộn. Tuy nhiên, trong thực chất, giữa Arăk và Neak Tà có những sự khác biệt khá đậm nét [147, tr.121-122] và cơ bản, đó là Arăk chủ yếu là thần bảo hộ của một dòng họ (của một đơn vị huyết thống - tàn dư sự thờ cúng trong thị tộc mẫu hệ) trong khi tín ngưỡng Neak Tà nổi bật với sự thờ cúng ông Tà chủ xóm (Neak tà mechas srock).


Qua những trình bày trên ta thấy, Neak Tà và Arăk đều là những thần bảo hộ đối với người Khmer. Tuy nhiên, có điều khác là thần trong tín ngưỡng Neak Tà được khái quát cao hơn, có địa vị lớn và do đó phát huy ảnh hưởng, phạm vi rộng trong xã hội rộng lớn và giải quyết những chuyện của cộng đồng phum, sóc... còn ảnh hưởng của Arắk chỉ trong phạm vi gia đình, dòng họ mà thôi.


- Tín ngưỡng trong người Hoa và người Chăm

Người Hoa Châu Đốc thường có tục thờ "Quan Thánh Đế Quân" (Quan Công) vì ông có tinh thần "Trung cang nghĩa khí" với vua, với dân, khi chết linh hiển, giúp ngươi Hoa bình yên, làm ăn yên ổn, phát đạt. Người Hoa còn thờ Bà Thiên Hậu, có tên thật là Lâm Mai Nương ở vùng Mai Châu, Phúc Kiến, đời Tống. Bà có tinh thần can đảm, cứu cho những người đi biển bị tai nạn, lại hay bốc thuốc cứu người ôrn mau lành bệnh trong trận dịch tả, sau được vua phong làm "Thiên Hậu". Bà được những người Hoa vùng ven biển Trung Hoa thờ phụng và cầu mong bà phù hộ sự bình yên khi đi đánh cá ở biển khơi. Người Hoa ở Châu Đốc thờ bà Thiên Hậu, cầu mong được sự giúp đỡ để được bình yên, làm ăn phát tài, phát lộc. Họ cũng tôn thờ ông "Bảo Sanh Đại Đế", một danh y nổi tiếng thời Tống ở Phúc Kiến, trị bệnh cho Hoàng hậu sinh được hoàng tử. Vua phong cho ông chức quan ngự y nhưng ông không nhận, xin đi chữa bệnh cho muôn dân. Khẩu truyền, ông tới đâu lành bệnh đến đó, ông vào nhà nào thì nhà đó hết bệnh và sống rất thọ. Tới ngày ông chết, dân hai vùng Quảng Đông và Phúc Kiến thờ ông trong tất cả các làng. Khi người Hoa vượt biển đến Nam Bộ mang theo chân nhang hoặc cốt cây ông Bảo Sanh (tượng bằng danh mộc). Người Hoa còn cho rằng, họ có thể bỏ vợ con nhưng không thể bỏ chân nhang hoặc cốt cây của ông Bảo Sanh. Họ thờ ông vì tôn trọng đức cứu người, không tham lam, ký bán trẻ con cho ông, cầu mong khoẻ mạnh (khi mới sinh con, người Hoa đưa con đến miếu thắp nhang xin ông bảo vệ để dễ nuôi...).


Người Chăm theo đạo Hồi ở Châu Đốc ít có những tín ngưỡng riêng. Mọi sinh hoạt tín ngưỡng của họ đều quy tụ ở thánh đường Hồi giáo và theo các tín điều do kinh Coran quy định.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:31:40 pm
c- Tôn giáo của cư dân Châu Đốc

- Nho giáo

Nho giáo vốn là học thuyết về chính trị và đạo đức của giai cấp phong kiến Trung Quốc, vì vậy nó tác động nhiều đến giai cấp phong kiến Việt Nam. Nho giáo cũng thấm sâu vào đời sống của người Việt nhiều thế kỷ. Ở vùng đất mới khai phá, Nho giáo cũng tác động khá mạnh mẽ đến đời sống của cư dân Việt Châu Đốc qua hai con đường chủ yếu, tư tưởng chính thông qua bộ máy hành chính của nhà nước thế tục và của Nho sĩ bình dân.


Ở Châu Đốc mặc dù chủ quyền lãnh thổ thuộc nhà Nguyễn từ năm 1757, nhưng trước đó đã có cư dân Việt cư trú, nửa sau thế kỷ XVIII, lại xảy ra nội chiến Nguyễn Ánh - Tây Sơn, vì vậy, tư tưởng chính thống nhìn chung xâm nhập sau tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XIX trở đi, nhà Nguyễn đã đưa tư tưởng Nho giáo - hệ tư tưởng của nhà nước phong kiến vào Nam Bộ nhằm quản lý đất nước, ốn định đời sống nhân dán và phát triển kinh tế, xã hội. Nhà Nguyễn đưa tư tưởng chính thống vào đời sống xã hội ngươi Việt bàng cách sắc phong cho Thành hoàng, định điển lệ, ban hành nghi thức tế lễ thờ cúng thần kỳ ở làng xã. Nho giáo cũng dạy con người trung quân ái quốc, tu dưỡng đạo đức, tôn kính và thờ cúng tổ tiên, cố kết cộng đồng duy trì phong tục tốt đẹp, có nhân, có nghĩa, có lễ, có tín.


Dù phải nói rằng ở vùng đất mới Châu Đốc, những lưu dân khai phá, vốn nghèo khổ ít học nhưng cho đến khi thực dân Pháp xâm lược, ảnh hưởng của Nho giáo không hắn là nhỏ. Tuy có người cho ở Nam Bộ Nho giáo đậm chất Nghĩa nhạt chất Lễ. Điều đó có thể đúng nhưng chưa đủ. Vì nhìn trên bề nổi có thể cho Nho giáo ở Nam Bộ đã nhạt dần, nhưng khi nhìn vào bê sâu đời sống của người Việt vùng Châu Đốc, từ tổ chức xã hội đến ăn mặc, ở, đi lại, từ cưới hỏi, tang ma đến tế lễ thì có lẽ không ai nói ảnh hưởng Nho giáo ở đây là nhạt cả. Tuy nhiên, Nho giáo không phải là một thế giới quan hoàn chỉnh, nó không đáp ứng được đầy đủ đời sống tâm linh của con người. Vì vậy, ngoài Nho giáo ra người Việt Châu Đốc còn tiếp thu cả Đạo giáo và Phật giáo.


- Đạo giáo

Dù không có hệ thống cơ sở thờ cúng nhưng Đạo giáo ở Châu Đốc có ảnh hưởng rất sâu rộng và trở thành một yếu tố rất quan trọng trong sinh hoạt tâm linh của cư dân Việt vùng đất này. Dù nhà nước thế tục nhiều lần ngăn cấm phù thuỷ và đồng bóng [82, tr.97], nhưng trong dân gian các thuật sĩ, đạo sĩ tồn tại không ít. Đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã nói đến dân Nam Bộ không chỉ sùng Phật mà còn tin đồng cốt, dán bùa, đọc thần chú [21, tr.142]. Đó chắc hẳn là những biểu hiện của Đạo giáo.


Hình ảnh của Đạo giáo trong cuộc sống thể hiện ở vai trò của thầy pháp trong các nghi lễ cúng đình, cúng tạ thổ; động thổ, cúng cô hồn thí thực, cúng sao giải hạn, trong các bùa nêu ngày tết. Hình ảnh của Đạo giáo còn được thể hiện qua các động tác ma thuật của thầy pháp trấn yểm, bùa chú. Đạo sĩ cũng thường dùng bùa nước, chú pháp, phù thuỷ,... để trừ tà, trị bệnh, trong dân gian. Đặc biệt trong tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương ảnh hưởng Đạo giáo khá mạnh mẽ. Ngoài các cây "ếm" để trấn yểm ở vùng Thất Sơn, ngoài việc chữa bệnh bằng bùa phép của các ông đạo, tín đồ còn tin vào "lòng phái" và bùa chú, sự cầu Trời, khấn Phật để trừ tà ma quỷ mỵ, tránh thiên tai, dịch tễ, ốm đau. Mỗi nông dân khi nhập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương hay Tứ Ân Hiếu Nghĩa được cấp một giấy chứng nhận gọi là "lòng phái", bằng giấy bản màu vàng, in lời kinh trừ tà ma. Trong lòng phái ghi họ tên, tuổi của tín đồ. Lòng phái của Tứ Ân Hiếu Nghĩa ghi rõ "Tuỳ thân hữu cấp thái quy y, tùng trừ tà ma, quỷ mỵ, bất đắc thọ hại sinh nhân quy chánh, trừ ngũ vị long vương, trừ ôn, hoàng dịch, lệ, trừ tà ma, quỷ mỵ sát quỷ chân" [139, tr.56]. Ngoài ra, trong Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa, chùa được xây cất, mang nặng ảnh hưởng của phái tu tiên, luyện đan và những khái niệm của Lão Trang, chùa chiền tịnh xá, miếu thờ thường được xây theo kiểu bát quái [139, tr.58]. Các tên gọi "ông Đạo" chắc hắn là biến thể của đạo sĩ mà ra nhưng được gọi bình dân hoá.


Như vậy, do không thể công khai chống chính quyền bằng quân sự, Bửu Sơn Kỳ Hương cũng như Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã sử dụng thần quyền, tôn giáo để tập hợp và tổ chức một cách công khai và bán công khai lực lượng nông dân miền Tây nhằm chống lại ách áp bức bóc lột hà khắc của tầng lớp quan lại phong kiến và thực dân xâm lược. Trong đó Bửu Sơn Kỳ Hương đã sử dụng có hiệu quả những pháp thuật, bí quyết của đạo sĩ dùng để đuổi tà ma quỷ quái nhằm đem lại niềm tin cho tín đồ.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:32:25 pm
- Phật giáo Đại thừa

Cùng với những đợt lưu dân vào khai phá vùng đất mới từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Phật giáo Bắc Tông được du nhập vào Nam Bộ bằng hai con đường chính. Con đường thứ nhất từ Thuận - Quảng, con đường thứ hai do những thiền sư Trung Hoa từ các di thần nhà Minh thuộc hệ phái Lâm Tế [49, tr.12]. Đạo Phật du nhập vào Nam Bộ trước hết ở vùng Đồng Nai - Gia Định, sau đó lan dần đến tận miền Tây, Châu Đốc theo bước chân của những cư dân khẩn hoang tuy chưa rõ rệt.


Cho đến năm 1847, khi Doãn Uẩn lập chùa Tây An thì phái Thiền Lâm Tế (Lâm tế chánh tông) xuất hiện chính thức ở Châu Đốc. Thiền phái này đã có ở Nam Bộ, mà di tích là Tổ đình Giác Lâm, có người trụ trì đầu tiên là Thiền sư Viên Quang, trụ trì thứ hai là Tăng cang Tiên giác Hải Tịnh (1827-1869). Sư Hải Tịnh được Doãn Uẩn mời về làm trụ trì danh dự của chùa Tây An năm 1847. Năm 1849, trụ trì chùa Tây An là Phật thầy Đoàn Minh Huyên, có pháp danh là Thiền sư Pháp Tạng. Nhưng Đoàn Minh Huyên muốn đi "hoằng dương" đạo mới, nên để lại sư đệ là Minh Võ Nhất Thừa để vào Thới Sơn phát triển đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Đến năm Tân Mùi (1871), Tăng cang Tiên giác Hải Tịnh cùng các chư Hoà thượng các tỉnh Nam Kỳ tổ chức Đại giới đàn ở chùa Tây An. (Đại giới đàn là một cuộc lễ sát hạch để thừa nhận công đức tu tập, từ đó có sự phong chức (theo từng thứ bậc) chính thức là tu sĩ (tỳ kheo). Đến đầu thế kỷ XX, Tổ Phi Lai về vùng núi Doi (Chi Lăng - Tri Tôn) lập chùa Phi Lai cổ tự, chùa này trở thành trung tâm Phật học đầu tiên của vùng Châu Đốc.


Buổi đầu đến vùng đất mới, xa quê hương, lạ phong thổ, những biến động dữ dội của chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém thường xuyên diễn ra cùng với nỗi nhớ vì xa quê, nhớ tổ tiên, người thân lúc rảnh rỗi nảy sinh nhu cầu tâm linh, tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn, dần dần làm cho lưu dân tìm đến với tôn giáo. Phật giáo vốn là tôn giáo truyền thống của ngươi Việt, có ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống tâm linh cư dân, vì vậy quần chúng đến với Phật giáo trong những ngày sóc vọng, cũng như nhu cầu có thầy cầu an lúc ôm đau, cầu siêu lúc qua đòi... Phật giáo thực sự là liều thuốc an thần, chất men say, an ủi vỗ về, giúp đỡ người dân dịu đi những bất hạnh, căng thẳng về mặt tâm lý, tạo niềm tin cho con người, vượt qua những khó khăn trong buổi đầu khẩn hoang..., nhu cầu tín ngưỡng do đó cũng là nhu cầu tự nhiên, cấp bách như nhu cầu cơm áo.


Với tư tưởng triết lý nhân bản lấy con người làm trung tâm, Phật giáo không chỉ có nguồn sinh lực mạnh mẽ để bám rễ dễ dàng ở các nước châu Á, hoà đồng với các tín ngưỡng bản địa trong khu vực mà còn phù hợp với tâm lý, truyền thống người Việt, lại đáp ứng được nhu cầu tinh thần của lưu dân vốn đa số là những nông dân khô cực, nên đã bám rễ sâu vào tâm linh của quần chúng, giúp họ an tâm sản xuất và khai phá vùng đất mới.


Do vùng đất Châu Đốc được khai phá chậm so với những vùng khác ở Nam Bộ, nên hầu hết các chùa Phật giáo ở đây được xây cất từ đầu thế kỷ XIX trở về sau. Như chùa Thụy Sơn được Thoại Ngọc Hầu xây dựng khi đào kinh Thoại Hà khoảng năm 1817. Còn chùa Tây An mãi năm 1847 mới được viên Tổng đốc An Giang - Doãn Uẩn xây dựng, chùa Hang được xây dựng khoảng năm 1840, chùa Giồng Thành xây dựng năm 1875. Đến nửa cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX thì chùa chiền ở Châu Đốc mới được xây cất khá nhiều theo tốc độ khẩn hoang lập làng của người Việt.


Hầu hết các chùa ban đầu đều là những am tranh, tre lá..., về sau dần dần mới được tu sửa, xây dựng lại kiên cố, to đẹp hơn. Như chùa Giồng Thành (Long Hưng tự), vốn được hoà thượng Trần Minh Lý xây dựng lần đầu trên nền một giồng đất vốn là bờ thành của một đồn binh ở Tân Châu thời Nguyễn, nên được gọi là chùa Giồng Thành. Buổi đầu nền chùa bằng đất, nhà chùa bằng tre lá đơn sơ, dần dần qua bôn lần xây dựng lại, chùa mới có nền gạch, tường vôi, lợp ngói to lớn khang trang như hiện nay [118, tr.34]. Chùa Tây An ở núi Sam, Châu Đốc xây dựng từ 1847 cũng đơn sơ, cho đến năm 1861 được hoà thượng Nhất Thừa trùng tu lại. Trải qua nhiều lần mới được to đẹp nổi tiếng.


Theo sách Monographie de la province de Chaudoc thì cuối thế kỷ XIX ở Châu Đốc có 79 chùa Phật của người Việt và 5 chùa Phật của người Hoa, có 89 sư nam, 25 sư nữ người Việt. Các ngôi chùa chính là chùa Tây An, Long Phú, Phú An [156, tr.53].


Phật giáo là tôn giáo truyền thống của cư dân Việt, có ảnh hưởng sâu rộng trong sinh hoạt văn hoá và đời sống tâm linh của cư dân. Phật giáo thực sự là phương thuốc hiệu nghiệm làm "bệ đỡ" cho tinh thần dân Việt vùng Châu Đốc khi đến khẩn khoang lập ấp ở vùng đất mới. Tuy nhiên, đến vùng đất mới, môi trường sống mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới. Cộng cư với những tộc người khác, nên không thể tránh khỏi tín ngưỡng cũ mới đan xen, tư tưởng Phật giáo truyền thống trong người Việt cũng có những biến đổi, người Việt đã có một tính cách mới, một tư duy mới. Hiện tượng khác về tư tưởng Phật giáo ở Châu Đốc của người Việt chúng ta sẽ nói đến ở tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương sau đây.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:34:05 pm
- Tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương

Bửu Sơn Kỳ Hương (mùi hương lạ của núi báu) do Đoàn Minh Huyên (1807-1856) vốn là một nông dân quê làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc sáng lập năm 1849.

Sự ra đời của đạo buổi đầu bắt nguồn từ những nguyên nhân trực tiếp, do chinh phục vùng đất lạ sình lầy, đầy, cọp, sấu, thú dữ, khí hậu khắc nghiệt, chiến tranh biên giới, mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra thường xuyên. Đặc biệt, trận đại dịch từ đầu năm 1849-1850 đã giết hại hơn một nửa số dân đinh nước ta thời này. Trong đó miền Tây Nam Bộ bị ảnh hưởng nặng nề (theo thống kê của Bộ Hộ, trận dịch này bị chết 589.460 người [105, tr.185] chiếm 57% số dân đinh cả nước năm 1847: 1.029.501 người). Hậu quả trên làm xáo động xã hội và nhân tâm. Trong hoàn cảnh đó, Đoàn Minh Huyên đã đến với người dân để cứu vớt họ. Ông vừa giảng đạo vừa chữa bệnh cho dân bằng bùa phép và dược thảo, góp phần đẩy lùi nạn dịch, cứu sống được nhiều người, nên được người dân tin theo.


Vốn là vùng đất mới hoang vu và đầy bí ẩn, vì vậy lưu dân Việt cảm thấy trở nên bé nhỏ, bất lực và khiếp sợ trước thiên nhiên đầy tai hoạ, bệnh tật luôn đe doạ cướp đi mạng sống của mình. Tâm lý kinh sợ thiên nhiên bí ẩn, sùng bái thiên nhiên là đặc điểm nổi bật trong buổi đầu khai hoang vùng đất mới.

Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh...
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma...


Đây cũng là một yếu tố tác động đến đời sống tâm linh của lưu dân người Việt. Mặt khác, từ miền ngoài đến họ vốn là những nông dân nghèo, tội đồ, binh lính bỏ ngũ, lánh nạn chiến tranh, trốn chạy sự áp bức bóc lột của quan lại phong kiến..., với khát vọng tự do và khát vọng giải phóng, giải phóng khỏi nghèo đói và giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Nửa cuối thế kỷ XVIII, lưu dân khẩn hoang tự do và tự do làm ăn trong nếp nghĩ, nếp sống, bất khuất kiên cường trước thiên nhiên, không luồn cúi trước sức mạnh xã hội phi nghĩa,... đã dần trở thành tính cách của người nông dân Nam Bộ.

"Trời sanh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chìu ai không chìu"


Thế nhưng, đến nửa đầu thế kỷ XIX, tính cách ấy bị dồn nén, bị quy định khắt khe của nhà nước, bị áp bức của địa chủ, cường quyền. Cuối cùng, bất lực trước ách áp bức xã hội, mất lòng tin vào khả năng mình, con người lại nhờ cậy, tin tưởng vào lực lượng ngoài trần thế. Họ đi tìm sự bù đắp tinh thần cho cá nhân, khi còn bất lực trước cuộc sống, họ đến với tôn giáo là để tìm niềm tin thiêng liêng mới, giải thoát cho hiện thực đầy bất công khổ cực. Đến miền đất mới, mặc dù người Việt tuy đã nhiều tín ngưỡng trong con người, nhưng để cân bằng đời sống tâm linh không thể không tôn sùng những tín ngưỡng bản địa, những lực cản mới, những sức mạnh vô hình. Vì vậy, không thể không nảy sinh những nét tín ngưỡng mới [17, tr.32]. Vì vậy sức mạnh vô hình, "siêu thế gian" đã chi phối phần thiêng liêng của con người, chế ngự cuộc sống hằng ngày của họ.


Trên bình diện tư tưởng, trên đất Nam Bộ, do cư dân tứ chiếng tập hợp lại đã mấy đời, cách xa ý thức hệ Nho giáo và các tôn giáo Phật, Đạo... có "bài bản", nên họ sẵn sàng chấp nhận những tôn giáo, hỗn dung giáo lý. Trong tình hình đó, Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của một bộ phận cư dân đang khao khát một niềm tin thiêng liêng mới, để giải thoát cho hiện thực cuộc sống.


Với Đoàn Minh Huyên, do truyền giảng đạo và chữa bệnh cho dân bằng những bùa phép lạ lùng mà hiệu quả làm không ít kẻ xấu, thầy lang tức tối, tố cáo ông là "gian đạo sĩ". Ông đã bị chính quyền cầm giữ tại Châu Đốc. Nhưng sau đó, được trả tự do và đến chùa Tây An tại núi Sam, lập nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, thu hút đông đảo tín đồ ở vùng miền Tây Nam Bộ. Mỗi tín đồ của ông đều được cấp một "lòng phái" (thẻ/chứng nhận) có triện son, mang 4 chữ báu linh "Bửu Sơn Kỳ Hương" bằng Hán tự. Uy tín to lớn của Đoàn Minh Huyên trước hết là do hoạt động chữa bệnh cứu dân thoát khỏi dịch bệnh có hiệu quả, sau nữa là do sức thuyết phục của giáo lý mà ông truyền bá.


Giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương là giáo lý Phật giáo, được bình dân hoá, lược giảm phần lý thuyết cho phù hợp với trình độ nhân sinh. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy tâm thành làm gốc, lấy hướng thiện làm mục đích, với pháp môn học Phật tu Nhân là sợi dây vô kết có hiệu quả đám quần cư, tứ chiếng trước thiên nhiên hoang vu, huyền bí. Về học Phật, Phật Thầy Tây An khuyên tín đồ "làm lành lánh dữ" cốt giữ cái tâm được tịnh. Muốn như vậy thì phải ráng tâm niệm 6 chữ "Di Đà". Quan trọng hơn cả là tính thực tiễn của giáo lý, Bửu Sơn Kỳ Hương hướng tín đồ vào hành động tu Nhân, nỗ lực đền đáp tứ đại trọng ân (Tứ ân): Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân đồng bào nhân loại và ân Tam bảo.


Giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương là sự kết hợp giữa học Phật và tu Nhân, không tu Nhân thì không học Phật được. Bửu Sơn Kỳ Hương chú ý canh tân về hình thức tu luyện, giản dị hoá những tập tục thờ cúng rườm rà để phù hợp với hoàn cảnh lưu dân khẩn hoang buổi đầu. Tín đồ tu không cần chùa, không "ly gia cát ái", không đầu tròn áo vuông, không thờ tượng cốt, chỉ treo tấm Trần điều (vải đỏ) tượng trưng cho tinh thần "Vô vi", cho ngôi Tam Bảo, không ăn chay, không gõ mõ tụng kinh, không xuống tóc, cạo râu... Vật phẩm dâng cúng chỉ hương hoa và nước lã đơn sơ, chỉ thuyết pháp chứ không dùng văn tự mà ghi chép kinh kệ. Tín đồ hầu hết là tại gia cư sĩ. Sự canh tân về giáo lý, tín điều như trên là dù ít dù nhiều của Bửu Sơn Kỳ Hương là nhằm đáp ứng nhu cầu tình thế và nhu cầu thực tiễn, thích hợp với lưu dân khẩn hoang vùng đất mới nên thu hút được đông đảo tín đồ. Vì vậy, Đoàn Minh Huyên được quần chúng coi là một vị hoạt Phật, một giáo chủ.


Bửu Sơn Kỳ Hương còn tỏ ra có những hoạt động mang lợi ích thiết thực cho đời sống lưu dân. Năm 1851, Đoàn Minh Huyên chia các đệ tử thành nhiều đoàn đi "khai sơn trảm thảo" khẩn hoang nhiều vùng hoang vu, lập những trại ruộng: Ông Đạo Ngoạn đưa đạo hữu về vùng Cần Lố (Đồng Tháp Mười) sau mở rộng vùng khai hoang ra khắp nẻo rạch Trà Bồng, rạch Ông Bường và rạch Cần Lố (nay thuộc Đồng Tháp); Trần Văn Thành chỉ huy khẩn hoang vùng đầm lầy, lau sậy Láng Linh (vùng Láng linh thiêng, nay thuộc huyện Châu Phú); một trại ruộng núi Két do cụ Bùi Văn Thân (tức Bùi Thiền Sư) hướng dẫn sau lập nên hai làng Hưng Thới - Xuân Sơn (nay là Thới Sơn thuộc huyện Tịnh Biên); một trại ruộng ở vùng Cái Dầu do cụ Nguyễn Văn Xuyến chỉ huy (nay thuộc huyện Châu Phú). Nhờ đức tin, tín đồ đã chịu đựng gian khổ, bám trụ và khẩn hoang những vùng đầm lầy, rừng rậm, phù hợp với chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn thời kỳ này.


Khi thực dân Pháp xâm lược Châu Đốc (1867), tiếp nối truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc và tư tưởng giáo lý Tứ Ân, những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đã bị cuốn hút tự nhiên vào ngọn cờ khởi nghĩa do lãnh tụ Trần Văn Thành xướng suất ở Bảy Thưa (Láng Linh). Trần Văn Thành là một chánh quản cơ của triều Nguyễn, người có nhiều công dẹp loạn người Thổ ở vùng biên thuỳ Tây Nam, ông cũng là một hiền thủ của Phật Thầy Đoàn Minh Huyền. Từ năm 1867 đến năm 1873, tại Láng Linh, nghĩa quân đã tích trữ lương thảo, rèn đúc vũ khí, chiêu mộ nghĩa dũng, xây dựng căn cứ, chuẩn bị khởi nghĩa. Căn cứ có lúc đến 1.200 người. Nghĩa quân đã nhiều lần đem quân đánh phá đồn giặc ở vùng Châu Đốc, gây khó khăn không ít cho quân Pháp [52, tr.88]. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, cuối cùng khỏi nghĩa Bảy Thưa không khỏi chịu chung số phận với các cuộc chiến đấu của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân,...


Sau khi Phật Thầy Tây An viên tịch (1856) và "ngọn lửa Bảy Thưa" bị thực dân Pháp dập tắt (1873), các môn đệ của Đoàn Minh Huyên vẫn tiếp tục con đường hoằng dương giáo pháp của Phật Thầy. Người ta coi ông đã được "chuyển kiếp", tái thế qua 4 lần: Từ Đức Phật Trùm (1868) ở núi Tà Lơn, Đức Bổn Sư (1878) ở núi Tượng, Sư Vãi Bán Khoai (1901-1902?) và cuối cùng là Đức Huỳnh Giáo Chủ (1939) của Phật giáo Hoà Hảo1 (Năm 1999, Bửu Sơn Kỳ Hương có 10.596 tín đồ ở An Giang).


Từ giữa thế kỷ XIX cho đến cuối thế kỷ này, Bửu Sơn Kỳ Hương đã có những ảnh hương rộng lớn đối với xã hội. Bằng tài năng thiên bẩm trong thuyết pháp, bằng bùa phép của Đạo giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương đã tập hợp được một lực lượng quần chúng đông đảo dưới ngọn cờ tín ngưỡng của mình, để thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn, đưa lại nhiều lợi ích thiết thực cho nông dân. Trong mắt tín đồ, Đoàn Minh Huyên trở thành "giả nhân dương thế" nhận mệnh lệnh của cõi Tiên, của Phật, là đấng thiêng liêng làm gạch nối giữa cõi thiêng và quần chúng. Những huyền thoại được thêu dệt về xảo thuật, bùa phép, sai khiến được thánh thần, ác thú, tiên tri... dù có những điều huyễn hoặc, nhưng sự thành công lạ lùng trong việc trị bệnh cho dân chúng và cứu được rất nhiều người là có thật. Trên thực tế đã gieo được vào lòng tín đồ niềm tin sắt đá về sứ mạng của một vị giáo chủ được Trời, Phật đem đến để cứu độ chúng sinh. Cùng với huyền thoại được thêu dệt vây quanh Đoàn Minh Huyên về một Thất Sơn huyền bí, linh địa, càng khẳng định niềm tin về một vị Phật Thầy có sứ mạng mặc khải chân lý và giải thoát cho đời là hữu lý trong tin tưởng, trong tâm linh tín đồ. Cuối cùng với tư tưởng đời "Hạ ngươn", "mạt pháp" sắp chấm dứt, đời "Thượng ngươn", "Hội Long Hoa" sắp ra đời, như là cứu cánh, hấp dẫn và lôi cuốn quần chúng một cách lạ thường. Vì vậy, Bửu Sơn Kỳ Hương đã tập hợp được một số lượng đông đảo nông dân miền Tây đứng dưới ngọn cờ tôn giáo.


Sự ra đời và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương ở miền Tây Nam Bộ giữa thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng tích cực trong giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc. Dù nó tạo ra những hình ảnh, hy vọng, lý tưởng một cách giả tạo nhưng đã làm cho tín đồ được an ủi và vơi đi những nỗi đau thực tại, khoả lấp những bất hạnh của cá nhân, tạo niềm tin, hy vọng cho những người nghèo khổ bế tắc, hướng tới một xã hội tốt đẹp. Bửu Sơn Kỳ Hương đã có vai trò rất lớn trong thực tiễn, lay động được cả một cộng đồng người, chịu đựng gian khổ, bám đất khẩn hoang, lập làng, bảo vệ vùng biên thuỳ Tây Nam hiểm yếu. Thái độ ái quốc và hoạt động chống thực dân Pháp, mưu độc lập cho xứ sở chẳng qua là việc hành xử "Tứ đại trọng ân" theo giáo lý môn phái. Bửu Sơn Kỳ Hương và những phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX chứng tỏ, trong khung cảnh chính trị bế tắc những nỗ lực đấu tranh giành độc lập đều nghi trang dưới hình thức tôn giáo.


Vai trò xã hội của Bửu Sơn Kỳ Hương không chỉ dừng lại ở sự phát triển khẩn hoang, lập trại ruộng, lập thôn ấp và đấu tranh giành độc lập cho quốc gia, mà còn là nhân tố quan trọng góp phần liên kết cộng đồng, điều chỉnh hành vi đạo đức, tạo ra những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức tiến bộ, duy trì thuần phong mỹ tục, phong tục tập quán của người Việt, góp phần tạo nên ổn định xã hội, trị an ở vùng biên thuỳ phức tạp.


Bửu Sơn Kỳ Hương, một giáo phái thuộc thiền phái Lâm Tế đời thứ 35, nhờ tính ưu việt của giáo lý được cải biên từ giáo lý Phật giáo và những hoạt động thực tiễn đã thu hút được đông đảo nông dân miền Tây dưới ngọn cờ tín ngưỡng để giải cứu những nhu cầu kinh tế, xã hội và phản ánh đời sống tâm linh của người Việt ở Nam Bộ. Bửu Sơn Kỳ Hương chống Pháp không chỉ vì chống xâm lược mà còn vì đối kháng văn hoá và chiến đấu bảo tồn phong tục tập quán, bảo vệ văn hoá dân tộc. Vì vậy, Bửu Sơn Kỳ Hương là một hiện tượng văn hoá độc đáo của người Việt phương Nam và là một tôn giáo địa phương sớm nhất ở Việt Nam, có ảnh hưởng lốn đến lịch sử chính trị và tư tưởng Nam Kỳ.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:34:56 pm
- Thiên Chúa giáo

Kể từ năm Nhâm Thìn (1532) khi vị Thừa sai đầu tiên đến Việt Nam được sử sách nói đến, đó là giáo sĩ Inikhu đi đường biển vào giảng đạo Công giáo tại làng Ninh Cường và Trà Lũ (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), thì Thiên Chúa giáo ở phương Tây bắt đầu truyền vào Việt Nam. Còn ở Đàng Trong người truyền đạo sớm nhất là giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte năm 1569.


Cũng như Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn Đàng Trong, đã cấm người Tây giảng đạo trong nước và giết người giảng đạo [45, tr.160]. Cho đến năm 1742, khi Đức Giáo hoàng Benoit XIV ra Tông hiến Exquo Singulari cấm các tín đồ Thiên Chúa giáo thờ cúng tổ tiên, đã gây nên sự bất bình trong dân chúng. Các cố đạo Đàng Trong phải tuân theo sắc lệnh Toà thánh La Mã, vì thế mà họ phải chịu những tai vạ thử thách về sau. Ở Đàng Ngoài, năm 1754, chúa Trịnh Doanh giết các đạo trưởng và đạo đồ. Còn ở Đàng Trong thì ngay từ năm 1750, chúa Võ vương đã ra chỉ dụ cấm đạo và trục xuất giáo sĩ, phá huỷ tất cả các nhà thờ, trừ ông Kofler và nhà thờ của ông gần cạnh điện chúa [134, tr.34]. Do các cuộc bách hại dữ dội đời các chúa Minh vương, Võ vương nên số tín đồ Đàng Trong hầu như không phát triển, thậm chí còn giảm sút. Năm 1693, Đức Giám mục Perrez ước tính có khoảng 38.000-40.000 giáo hữu ở Đàng Trong, thì đến năm 1747 trong danh sách do chính các Hội Dòng thiết lập ra và gửi cho Giám mục Khâm mạng Toà thánh cũng chỉ có khoảng 39.000 giáo hữu [80, tr.124]. Trước tình hình trên, nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo đã đến miền Tây Nam Kỳ tỵ nạn. Năm 1780 có 3 chị em tín đồ Thiên Chúa ở miền Bắc, trong cơn bức hại của chúa Trịnh Sâm, xiêu lạc vào Gia Định, đến lánh nạn ở cù lao Giêng (Châu Đốc) lập gia đình và định cư tại đây. Từ đây, Thiên Chúa giáo chính thức xuất hiện ở vùng Châu Đốc. Đến năm 1782, có hai anh em   là Trùng Thiền và Bà Huỳnh cũng đến cư ngụ, nhưng lúc này vẫn chưa có họ đạo. Năm 1783, khi ông Lê Văn Sanh (ông nội của Á thánh Phụng) đến cù lao Giêng, lúc này họ đạo có 23 gia đình Thiên Chúa. Năm 1778 ở Cái Đôi, năm 1779 ở Bò Ót (Thốt Nốt), Năng Gù (Châu Phú), Trà Đư (Hồng Ngự) đã hình thành nên các họ đạo, khi vùng đất này mới được người Việt khai phá chưa lâu.


Năm 1875, linh mục Gaziguol đứng ra xây dựng nhà thờ Cù Lao Giêng to lớn, hoàn thành năm 1889. Nhà thờ xây dựng theo kiểu "Style Roman", cao 30m, dài 50m, rộng 10m. Lòng nhà thờ có sức chứa 800 giáo dân đứng và ngồi trong cuộc lễ. Năm 1876, 6 nữ tu sĩ dòng Công giáo ngươi Pháp đã xây dựng Tu viện Chúa Quan Phòng (xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới). Đây là một cơ sở lớn nhất miền Nam của Công giáo. Tu viện gồm nhiều dãy nhà đồ sộ, dày đặc trên 2ha đất. Mỗi dãy thường là 2 tầng có 11-13 căn, dài 52m, rộng 13m cao 15m. Tại tu viện có căn nhà chính rộng 15m, dài 52m cao 17m theo kiến trúc Gôtic.


Vào năm 1858, ở Đàng Trong có 4 giáo phận, tín đồ Thiên Chúa giáo An Giang và Hà Tiên thuộc giáo phận Cao Miên (giáo phận Cao Miên gồm toàn quốc Cao Miên, miền Nam Lào và hai tỉnh An Giang, Hà Tiên), giáo dân chủ yếu thuộc 2 tỉnh này. Dòng Chúa Quan Phòng ở cù lao Giêng có tập viện gồm 50 dì, các nữ tu này điều hành 5 cô nhi viện, ở cù lao Giêng cũng thành lập một chủng viện, thuộc giáo phận Cao Miên, có 82 chủng sinh. Giáo phận Cao Miên cũng có 77 trường với 3.336 học sinh, có 5 cô nhi viện do các nữ tu Dòng Chúa Quan Phòng với 588 trẻ, có 5 bệnh viện, năm 1897 có tới 2.676 bệnh nhân [12, tr.102].


Theo tài liệu Giáo hội Công giáo, ở tỉnh lỵ Châu Đốc, năm 1870 đã hình thành một xứ đạo, do hai thừa sai người Pháp là cha Martin và Gonet đến khẩn hoang được 50 mẫu ruộng, vừa xây nhà thờ, nhà xứ, vừa chia cho giáo dân canh tác, hình thành nên một cộng đồng Công giáo nhỏ. Nhà thờ Châu Đốc đầu tiên được xây dựng năm 1871 ở bờ phía Tây sông Hậu, làm bằng gỗ lá. Đến năm 1882, do sông Hậu bị lở, linh mục quản xứ lúc ấy là cha P. A. Noroberne dời nhà thờ vào trong cách 100m, ở vị trí ngày nay. Từ đó, nhà thờ được xây dựng kiên cố, với kiến trúc mái vòm kiểu La Mã và chọn thánh phó tế Laurenso làm quan thầy. Năm 1947, nhà thờ Châu Đốc được trùng tu khu vực cung thánh, đến năm 1996, xây dựng to lớn như hiện nay. Họ đạo thị xã Châu Đốc năm 1999 có 3.000 giáo dân, trong đó gần một phần ba tín đồ là Việt kiều từ Campuchia về trong thập niên 70 của thế kỷ XIX [135, tr.16].


Theo sách Monographie de la province de Chaudoc, vào cuối thế kỷ XIX, tín đồ Công giáo toàn vùng Châu Đốc đã có 3.399 người, có 5 nhà thờ, có một giáo sĩ sống ở thủ phủ và một giáo sĩ khác sống ở cù lao Tây [156, tr.53]. Còn theo J. C Baurac thì năm 1894 ở vùng Châu Đốc có 2 xứ đạo, một ở Châu Phú do ông P. Martin đứng đầu và một ở Tân Qưới do ông P. Lavastre lãnh đạo [154, tr.321].


Như vậy, bên cạnh những lưu dân tự do người Việt và các tổ chức chiêu mộ đồn điền của nhà nước, các cuộc tỵ nạn của các nhóm tôn giáo đã góp phần tích cực vào việc mở rộng đất hoang, lập thôn xóm người Việt ở Châu Đốc, trong đó sự đóng góp của các đoàn lưu dân Công giáo có một vị trí rất quan trọng đối với việc khẩn hoang vùng đất mới Châu Đốc từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:36:06 pm
- Hồi giáo

Hồi giáo đã đóng một vai trò rất quan trọng, chi phối toàn "bộ đời sống của người Chăm Châu Đốc từ những sinh hoạt vật chất như ăn mặc, xây cất Thánh đường, đến đời sống tinh thần, tín ngưỡng, tôn giáo và cả đến tổ chức xã hội...


Đạo Hồi là một tôn giáo lớn của thế giới, phát sinh tại Mecca thuộc Ả rập Xê út do vị giáo chủ Môhamét [571, tr.632] sáng lập. Toàn bộ giáo lý Hồi giáo được tập trung trong quyển kinh Coran, được coi là "những lời của Allah". Hồi giáo chủ trương "nhất thần" thể hiện trong câu kinh nhật tụng khẳng định của các tín đồ chỉ có Allah là thượng đế cao cả ("Ashaduallaila ha illollohh"). Allah tồn tại vĩnh viễn không có màu sắc, mùi vị, không có hình ảnh và cũng không thể hiện dưới bất cứ hình thức nào. Chính vì quan niệm này mà các tín đồ Hồi giáo tuyệt đối không thờ những thần tượng như các tôn giáo khác [54? tr.65].


Rường cột giáo lý gồm có 5 điều chính gọi là "Rukun Islam” vốn là những điều căn bản tối thiểu mà mỗi tín đồ Islam ở vùng Châu Đốc phải biết và thực hành là:

1. "Kalimah Sahađat"..., đó là những câu kinh nhật tụng, căn bản đức tin của người Hồi giáo. Chỉ có Allah là thượng đế cao cả và Tiên tri Môhamed là Thiên sứ của Allah mà thôi.

Người Chăm Châu Đốc khắc ghi vào tâm não những câu trên và đọc nó trong các lễ cầu nguyện hằng ngày, cả những lúc nóng giận, cần chế ngự mình để được bình tĩnh hơn, họ cũng thốt ra câu "La ila ha illolloh".

2. Ưsgolli: Sự hành lễ cầu nguyện hằng ngày, mỗi ngày 5 lần: 5 giờ sáng, 12 giờ trưa, 16 giờ chiều, 18 giờ chiều và 20 giờ tối.

3. Nhịn đói tháng Ramadan: Trong tháng này hằng ngày mọi tín đồ không được ăn uống kể cả hút thuốc lá từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều.

4. Zakat: Hằng năm (vào tháng Ramadan) mọi tín đồ phải bố thí cho kẻ nghèo trong bổn đạo.

5. Đi hành hương tại Thánh địa Mecca.


Có thể nói người Chăm Islam Châu Đốc thực hiện một cách nghiêm túc các bổn phận của một tín đồ. Ở đây, Hồi giáo chi phối sâu sắc mọi mặt trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của họ. Hồi giáo giữ vai trò chủ đạo trong các mối quan hệ từ phạm vi cá nhân, gia đình, xóm ấp đến toàn cộng đồng. Người Chăm Châu Đốc có một quan niệm cũng như một đời sống tinh thần hoàn toàn dựa trên đức tin Hồi giáo. Họ tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu giúp của Allah về "ngày tận thế", về "ngày phán xét cuối cùng" và thành tâm thực hiện các bổn phận của mình để Allah cứu giúp lên Thiên đàng trong ngày phán xét. Họ cầu nguyện mỗi ngày 5 lần, chí ít cũng ba lần tại Thánh đường, surao hay bất cứ nơi nào thuận tiện. Trưa thứ 6 hằng tuần nam tín đồ tắm rửa sạch sẽ, y phục chỉnh tề lũ lượt đến Thánh đường làm lễ. Phụ nữ có thể cầu nguyện tại surao hoặc tại nhà. Họ thực hiện nghiêm túc bổn phận nhịn ăn tháng Ramadal và luôn ước ao được đi hành hương. Họ tin tưởng tuyệt đối vào Thánh kinh Coran và xem đó không chỉ chứa đựng toàn bộ giáo lý Hồi giáo mà còn bao hàm cả những nguyên tắc tổ chức xã hội, luật pháp, luân lý và đạo đức... [6, tr.331].


Có thể nói, giáo lý Hồi giáo, luôn luôn khép kín tâm hồn, tư tưởng người tín đồ của mình, từng phút, từng giờ, từng ngày, từ tháng này sang năm khác cho đến hết cuộc đời: sống chết vì Thánh Allah, vì nhà Tiên tri Môhamed, vì thánh kinh Coran.


- Phật giáo Tiểu thừa của người Khmer

Đạo Phật Tiểu thừa từ thế kỷ XIII đến nay là tôn giáo chủ yếu chi phối sinh hoạt tinh thần của người Khmer.

Tuy nhiên, ở địa bàn Châu Đốc đã có một thời gian khá dài cư dân ở đây theo đạo Bàlamôn, ngay từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên, thời mà vùng đất này còn thuộc lãnh thổ của Vương quốc Phù Nam. Đến thế kỷ thứ IX, Phật giáo Đại thừa được truyền vào người Khmer và rất thịnh hành trong những năm 1181-1218. Những tư liệu khảo cổ học và các tư liệu thành văn cho thấy đạo Bà la môn và Phật giáo đã có mặt ở vùng đất này. Đặc biệt ở vùng Bảy Núi và Ba Thê, những bi ký và một số tượng đá phát hiện được đã chứng tỏ nơi đây là một trung tâm Bàlamôn giáo đáng kể thời bấy giờ [146, tr.74-75]. Đến cuối thế kỷ XIII, Phật giáo Tiểu thừa từ người Xiêm truyền sang dần dần phổ cập trong người Khmer, chiếm địa vị độc tôn, đẩy lùi và đi đến xoá nhòa hẳn đạo Bà la môn [150, tr.86].


Hầu hết người Khmer từ khi mở mắt chào đời đã trở thành một tín đồ của đạo Phật. Từ đó đến lúc trưởng thành, rồi về già đến lúc chết, mọi buồn vui đều diễn ra ở chùa. Ngôi chùa là nơi tiêu biểu cho bộ mặt của phum, sóc, là nơi thiêng liêng nhất của cuộc sống người Khmer. Dân sóc sống quây quần chung quanh các ngôi chùa và coi ngôi chùa là không gian thiêng của phum, sóc. Chùa có vị trí rất lớn trong đời sống tâm linh của từng cá nhân và cả cộng đồng người Khmer. Có thể nói, đời sống tinh thần của người Khmer đã gắn chặt với tôn giáo, với ngôi chùa trong suốt cả cuộc đời. Vì ngôi chùa không chỉ là một trung tâm tôn giáo, mà còn là một trung tâm văn hoá khu vực, là nơi học kinh, học chữ, học đạo lý làm người. Một số chùa còn là thư viện cất giữ những thư tịch cổ, là viện bảo tàng, là công trình kiến trúc mỹ thuật và điêu khắc. Chùa còn là nơi tổ chức các hoạt động tín ngưỡng của người Khmer trong sóc. Những tín ngưỡng dân gian như thờ Neak Tà, cầu mưa, cầu được mùa..., đều là những hoạt động và trách nhiệm chung của mỗi thành viên. Đó cũng là những hoạt động cộng đồng về mặt tinh thần của phum sóc. Và, cuối cùng, chùa còn là nơi mà khi con người chết đi hài cốt được vĩnh viễn bảo lưu trong tháp từ đời ông cha đến đời con cháu mãi mãi về sau.


Theo sách Monographie de la pronvince de Chaudoc, thì đến năm 1899 ở Châu Đốc có 44 chùa Phật của người Khmer. Trong đó có 2 chùa chính là chùa Tri Tôn và chùa Vĩnh Trung. Các chùa khác trong vùng lệ thuộc vào hai chùa này. Cũng năm 1899, có 497 nhà sư trong các chùa [156, tr.53]. Cho đến cuối thế kỷ XIX Phật giáo Tiểu thừa ở vùng Châu Đốc có hai giáo phái, giáo phái Mohanikay và giáo phái Thommayutt.


Mohamikay nghĩa là "phái lớn", mấy thế kỷ qua người Khmer Châu Đốc chỉ tu theo phái Mohanikay. Vậy nhưng, cuối thế kỷ XIX-XX, giáo phái Thammayutt (nghĩa là "đúng theo Phật pháp") từ Cao Miên truyền bá sang Nam Bộ. Đặc biệt là chùa nào chịu bỏ phái Mohamikay để chuyển sang Thommayutt sẽ được đầu tư tài chính. Vì vậy, có những chùa phái Mohamikay đã đểi sang Thommayutt, như chùa Prey Veng ở gần quận lỵ Tri Tôn, Châu Đốc vốn đã xây dựng gần 300 năm.


Theo Lê Hương, từ khi phái Thommayutt truyền đến Châu Đốc cho đến 1965, phái này đã thu nạp được ở vùng này 18 ngôi chùa với khoảng 250 vị sư sãi, còn ở những nơi khác của Nam Bộ thì Thommayutt không gây dựng được chùa nào [40, tr.170].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 11 Tháng Bảy, 2021, 06:36:43 pm
- Từ đời sống văn hoá của vùng Châu Đốc, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

+ Đời sống văn hoá của cư dân Châu Đốc là kết quả của quá trình phát triển văn hoá truyền thống và bảo lưu văn hoá cội nguồn của người Việt và các tộc người Khmer, Chăm, Hoa.

Đến vùng đất mới người Việt vẫn lưu giữ và "tái sử dụng" vốn liếng văn hoá cội nguồn từ phóng tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo đến việc ăn, ở, đi lại..., những ký ức văn hoá đọng trong trí nhớ, được tái tạo, sử dụng "có bài bản" như xưa.

Văn hoá Việt gồm nhiều lớp, xuất phát từ một cội nguồn, đến Châu Đốc, qua hệ Bắc Bộ, Trung Bộ, Đồng Nai - Gia Định, là chất kết dính lưu dân Việt ở Châu Đốc với cội nguồn, là yếu tố chủ đạo thể hiện trong quá trình giao lưu văn hoá mà vẫn bảo lưu bản sắc văn hoá Việt truyền thống.


+ Sự giao tiếp văn hoá tạo nên những yếu tố đồng nhất.

Có sự va chạm giữa các nền văn hoá, có yếu tố đồng nhất văn hoá, thậm chí có hiện tượng cưỡng bức văn hoá và phản ứng chống cưỡng bức văn hoá, nhưng nhìn chung sự tiếp xúc giao lưu văn hoá, khoan dung là cơ bản, nên đã tạo ra sự thống nhất.

Mỗi dân tộc Việt, Khmer, Chăm, Hoa có sắc thái văn hoá riêng, hệ tư tưởng riêng, kiểu tổ chức xã hội và tôn giáo tín ngưỡng riêng. Văn hoá Ấn Độ qua người Khmer, văn hoá Hán qua người Hoa, văn hoá Hồi giáo qua người Chăm... Song sự đa dạng được gắn kết, hoà nhập lại trong một nền văn hoá đầy bản sắc và thống nhất.

Biểu hiện: cả bốn tộc người đều ảnh hưởng kiểu làm nhà của nhau cả nhà sàn và nhà đất, chiếc khăn rằn của 4 dân tộc đều dùng là do ảnh hưởng vay mượn của người Khmer, chiếc phảng, cái cà ràng... vốn của người Khmer được người Việt cải tiến thành dụng cụ quen thuộc. Người Khmer, Hoa đều ăn tết như người Việt, ngôn ngữ Hoa, Khmer, Chăm có ảnh hưởng ngôn ngữ của người Việt và ngược lại, phong tục tập quán, tín ngưỡng văn hoá đều có ảnh hưởng lẫn nhau.
   
Động lực của sự liên kết: Người Việt đã đưa cốt cách của nền văn hoá Việt vào vùng đất mới dưới những biểu hiện độc đáo, phát huy được nghề trồng lúa nước cổ truyền. Tổ chức làng xã tuy có biến thái khác Bắc Bộ nhưng vẫn gắn làng với nước, ý thức cộng đồng vẫn được nuôi dưỡng, tư tưởng cởi mở, khoan dung tôn giáo vẫn là truyền thống của người Việt... Vì vậy, văn hoá Việt có sức mạnh, lôi cuốn, tập hợp và tạo nên những yếu tố đồng nhất.


+ Tiếp xúc, giao lưu văn hoá, thụ ứng văn hoá ở Châu Đốc tạo nên những tiếp biến văn hoá, sự cách tân, làm cho văn hoá Châu Đốc có đặc điểm riêng, độc đáo, là khu vực văn hoá đa tôn giáo, tín ngưỡng và đan xen các lớp văn hoá của các tộc người điển hình ở Nam Bộ.

Đó là sự thừa hưởng những thành quả văn hoá của nền văn minh thuở xưa: Pho tượng Bà Chúa Xứ, linga và yôni trong miếu Bà Chúa Xứ. Đó là sự giao lưu đậm đà văn hoá của bốn tộc người. Vùng Châu Đốc là nơi có địa hình "sơn bất tại cao, thuỷ bất tại thâm", "Tiền tam giang, hậu thất lĩnh", "Thất sơn mầu nhiệm", được coi có linh khí, nơi tu luyện của các đạo sĩ và các vị hoạt Phật "Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi"..., là vùng đất mới hoang dã, con người thấy bé nhỏ, bất lực trước đời sống hiện thực..., vì vậy tư tưởng hữu thần có điều kiện phát triển, con người phải tìm tới tôn giáo để tự an ủi, động viên, hy vọng sự bình yên cho đời sống tinh thần.


Bởi vậy, văn hoá Châu Đốc có đặc điểm riêng, là khu vực văn hoá in đậm dấu ấn đa tôn giáo tín ngưỡng, đa tộc người điển hình ở Nam Bộ.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Bảy, 2021, 09:27:30 am
Chương 4
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH BIÊN GIỚI
VÀ CHÍNH SÁCH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
CỦA TRIỀU NGUYỄN Ở VÙNG ĐẤT CHÂU ĐỐC


1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở VÙNG ĐẤT CHÂU ĐỐC

Như phần trên đã trình bày, năm Đinh Sửu (1757) quốc vương Chân Lạp hiến đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn để trả ơn. Vì vậy, về mặt pháp lý vùng đất này thuộc chủ quyền chúa Nguyễn từ năm 1757.


Tuy nhiên, giới hạn địa lý vùng đất Tầm Phong Long thì không thấy thư tịch cũ nói đến. Vì thế, về sau khó hình dung đầy đủ "cố thổ" Tầm Phong Long. Duy chỉ có tác giả Nguyễn Văn Hầu trong bài "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long" [27] đề cập đến giới hạn vùng đất này, tương tự biên giới giữa Châu Đốc - Campuchia hiện nay: ở vùng thượng nguồn sông Tiền, sông Hậu, từ giáp Hà Tiên đến phía bắc sông Tiền; phía bắc vùng Tầm Phong Long kéo dài từ biên giới vùng Đồng Tháp, bắc sông Tiền xuống đến Sa Đéc, Vĩnh Long; phía tây nam, từ biên giới phía tây nam sông Hậu chạy dài đến đất Hà Tiên; phía Đông đến vùng Cần Thơ ngày nay. Tuy nhiên, đây cũng chỉ phỏng định một cách tương đối theo lời sử cũ: Từ cố thổ Tầm Phong Long, chúa Nguyễn lấy đất này đặt Tân Châu đạo, vùng đầu nguồn sông Tiền, Châu Đốc đạo vùng đầu nguồn sông Hậu và Đông Khẩu đạo, tức vùng Sa Đéc về sau [21, tr. 80].


Đất Châu Đốc đạo tồn tại từ năm 1757 đến năm 1832, gọi là Châu Đốc tân cương có ranh giới phía bắc là dòng sông Tiền, phía tây bắc là biên giới Châu Đốc - Cao Miên, phía tây nam giáp đất Hà Tiên và phía đông nam giáp đất Sa Đéc (Đồng Tháp - Cần Thơ ngày nay). Từ năm 1832 đến năm 1867, triều Nguyễn lấy đất Châu Đốc thuộc vào tỉnh An Giang mới lập.


Về ranh giới quốc gia giữa Châu Đốc và Cao Miên từ năm 1757 về sau đã có những biến động.

Trước năm 1824, đất phủ Mật Luật của Cao Miên chưa thuộc chủ quyền chúa Nguyễn. Sách Gia Định thành thông chí ghi "Thủ phủ Mật Luật nước Cao Miên ở bờ Đông sông Châu Đốc, đó là đất giáp giới giữa nước Cao Miên với trấn Vĩnh Thanh" [21, tr.58].


Như vậy, ranh giới giữa Châu Đốc đạo và Chân Lạp nằm giữa ngã ba sông Hậu - sông Châu Đốc, từ ngã ba sông ranh giới hai nước chạy dọc theo sông Châu Đốc lên đến cửa kênh Vĩnh Tế, phía sau đồn Châu Đốc. Điều này được ghi trong sách Gia Định thành thông chí như sau: Huyện Vĩnh Định... phía tây giáp đất ba phủ Nam Vang, Linh Quỳnh, Chân Sâm của nước Cao Miên..., bắt đầu từ cửa trên sông Hậu, qua cửa dưới sông Châu Đốc, sông Vĩnh Tế mới đào đến cửa dưới sông Thụy Hà [21, tr.116]. Như vậy, vùng đất huyện An Phú (tỉnh An Giang nay) vốn là đất phủ Mật Luật của Chân Lạp.


Năm 1824, nước Chân Lạp dâng đất ba phủ Chân Sâm, Mật Luật và Lợi Ý Bát cho triều Nguyễn, sử cũ ghi việc này như sau: Mùa hạ, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), Quốc vương Chân Lạp là Nặc Chăn đưa thư đến quan bảo hộ Chân Lạp Nguyễn Văn Thụy nói rằng: "Nước ấy ông cha cháu con đời đời làm phiên thuộc, trên nhờ triều đình bồi đắp giữ được nhân dân, dưới có Thụy trước sau bảo hộ, trừ nạn nước Xiêm, dẹp yên giặc Kế, kể công gấp mười Mạc Thiên Tứ, xin cắt đất ba phủ Lợi Ỷ Bát, Chân Sâm, Mật Luật đề báo đức của Thụy cũng như việc cũ báo Mạc Thiên Tứ". Nguyễn Văn Thụy đem thư ấy báo cho thành thần Gia Định biết. Thành thần tâu lên, vua hạ lệnh cho đình thần tự suy xét và bàn kỹ. Các quan Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Hữu Thận cho rằng: "Đất đai của Chân Lạp là bờ cõi của triều đình, Thụy dẫu có hiền tài và khó nhọc cũng là phận sự của bầy tôi mà thôi. Chăn! Sao được cắt đất để đền ơn riêng. Thụy! Sao được tự lấy làm công của mình mà nhận báo ơn, không nên cho". Nguyễn Văn Hưng nói: "Đất ấy nên lấy mà không lấy ngay; nay hãy sai thành thần lấy chuyện báo riêng là phi lý mà bẻ, mà mật khiến Thụy bảo Chăn sai sứ trước xin đặt quan để vỗ về, nhân thế "dùng Hạ mà biến Di" rồi sau nhân dân ba phủ ấy cũng sẽ như Uy Viễn ngày nay, đất đai ba phủ ấy cũng sẽ như Trà Vinh, Mân Thít ngày nay, thế là không lấy mà lấy vậy". Phạm Đăng Hưng nói: "Đất ba phủ ấy gần kề Châu Đốc vượt mà lấy được thì cái thế tân cương ngày thêm mạnh, ấy cũng là cơ hội tốt, nhận lấy là phải". Lê Văn Duyệt cho rằng: "Chân Lạp báo ơn Thụy không phải là bản tâm đâu, chỉ vì cớ người Xiêm nuôi nấng em nó cho nên muốn giữ vững sự giúp đỡ của ta mà thôi. Nếu nhận lấy thì hơi tham mà người Xiêm lấy cớ nói được. Từ không lấy cả thì sợ trái với ý trù biên của Thế tổ Cao hoàng đế ta. vả lại, ba phủ ấy thì Lợi Ý Bát hơi xa không nhận cũng phải, còn Chân Sâm và Mật Luật thì Giang Thành, Châu Đốc của ta ở ngay chính giữa, thần xin nhận lấy đất mà trả lại thuế má, để cho họ biết là triều đình ta chỉ vì kế sách bờ cõi chứ không phải vì lợi vậy. Nhân đấy mà vỗ về thương yêu nhân dân, khiến cho dân sâu ngấm ơn ta, vui lòng theo về, ngày sau sẽ có lúc dùng đến. Nếu nay bỏ không lấy, giả sử có việc lôi thôi ở biên giới thì Châu Đốc, Hà Tiên chưa hẳn giữ được, mà hàng rào của Gia Định sẽ yếu vậy".


Trịnh Hoài Đức cho rằng: "Cơ hội không nên bỏ quá, sự biến chẳng biết thế nào là cùng; cơ biến mà lường đo được là ở người sáng suốt. Duyệt giữ trọng khổn đã lâu, biết rõ biên tình, xin châm chước lời của Duyệt mà làm là tốt nhất". Khi các lời bàn dâng lên. Minh Mệnh xuống dụ bảo rằng: "Trẫm xem những lời tâu của các khanh, duy chỉ có lời bàn của Duyệt là hơi vừa ý trẫm... một vài phủ cỏn con đối với triều đình, có hay không cũng chẳng làm gì. Chỉ nghĩ nước Chân Lạp là nước nhỏ ở xen vào giữa hai nước lớn, cái lòng sợ ngoại xâm rất là thiết tha, cho nên cố kết giao tình với bảo hộ (quan bảo hộ Nguyễn Văn Thoại) là ý muốn cho căn bản được bền vững mà thôi. Trẫm xét tấm lòng thành thực không nỡ phụ nguyện vọng của họ. Vậy hạ lệnh cho Nguyễn Văn Thụy, nhận lấy nhân dân hai phủ Chân Sâm và Mật Luật họ hiến mà coi giữ dạy bảo cho biết giới luật để gìn giữ bờ cõi của họ. Còn như lệ thuế thì đều do quốc vương Chân Lạp chiếu quản" [87, tr.41].


Như vậy, triều Nguyễn đã nhận hai phủ Chân Sâm và Mật Luật do Chân Lạp hiến vào năm 1824. Ranh giới quốc gia ở phía tây Gia Định được mở rộng thêm.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Bảy, 2021, 09:28:21 am
Vào năm 1829, sau khi quan bảo hộ Chân Lạp Thoại Ngọc Hầu chết, vua Chân Lạp là Nặc Chăn lại sai người đưa thư đến Gia Định nói rằng: Trước Nguyễn Văn Thụy bảo hộ nước ấy, người nước ấy muốn cảm ơn đức, muốn cắt đất ba phủ Chân Sâm, Mật Luật và Lợi Ý Bát dâng nộp để đền ơn, đã có dụ sai Văn Thụy, chỉ tiếp thu người dân hai phủ Chân Sâm, Mật Luật gần đồn Châu Đốc để quản hạt và huấn luyện, đến như thuế lệ hai phủ và Lợi Y Bát thì giao trả cho Chăn quản lý. Chăn tự nghĩ dân số hai phủ không mấy lại lấy phủ Lợi Y Bát giao riêng cho (Nguyễn Văn Thụy - CTT). Nay Thụy đã chết xin lại đem ba phủ ấy thuộc về đồn Châu Đốc mãi mãi, do viên bảo hộ mới quản lý, thuế lệ thì giao cho đầu mục thu giữ, đề phòng cần đến khi có việc sai phái.


Khi thành thần đem việc đó tâu lên, vua giao xuống đình thần để bàn, các quan đều nói: Chân Lạp khi trước nhỏ yếu bị nước láng giềng áp bức, chỉ nhờ cậy uy đức của triều đình mà bảo vệ được nước, lâu không có mối lo khổ sở lưu ly như thế thì không một thước đất, không một người dân của nước Chân Lạp là không ở trong phạm vi che chở. Vua Phiên dâng nộp đất đai, sửa lễ cống hiến, đời nào cũng giữ đạo phiên phụ. Tự biết là ơn to của nhà vua không thể báo đền được, nhưng thấy viên bảo hộ Nguyễn Văn Thụy giúp đỡ cho là có ơn, xin cắt đất ba phủ để trả ơn.


Thụy đã từng vâng lời dụ rõ ràng, chỉ thu hai phủ, khiến người huấn luyện nhân dân mà giữ đất đai cho họ, thật là ý chí bồi đắp cho nước nhỏ. Nay vua Phiên lại xin nộp đất ba phủ, tuy thành khẩn, song trong đó hai phủ trước đã giao quản thì có lời lẽ rồi, đến như phủ Lợi Ý Bát là đất giao riêng mà viên bảo hộ cũ nhận riêng thì có lẽ nào lại cho là việc cũ mà giao cho viên bảo hộ mới. Xin theo lời dụ trước mà làm. Hạ lệnh cho thành thần tuyên bảo đức ý của triều đình khiến vua Phiên biết lòng vỗ về của triều đình mà càng gắng giữ lâu dài để tỏ cái nghĩa tôn thần. Vua Minh Mệnh khen là phải [89, tr.329].


Vì vậy, đến tháng 12 năm Kỷ Hợi (1839), triều Nguyễn đã xếp đặt lại tổ chức hành chính ở vùng biên giới An Giang, Hà Tiên.

Nguyên trước đó, thự bố chính An Giang là Lê Quang Huyên nói rằng: những phủ huyện mới đặt trong hạt tỉnh lị ấy, như hai phủ huyện Ba Xuyên, Ô Môn, địa giới ở lẫn vào các thôn Hoà Mỹ, An Thái thuộc huyện Vĩnh Định; hai huyện Chân Thành, Ngọc Luật địa giới ở lẫn vào các thôn Toàn Thịnh, Vĩnh Nguyên thuộc huyện Tây Xuyên. Dân Kinh, dân Thổ cùng ở lẫn lộn với nhau. Xin chiếu theo sự liên tiếp mà chia lệ thuộc đế dễ xử trí. Minh Mệnh bèn sai quan đến tận nơi "hội khám", tuỳ theo địa thế mà thiết lập như sau:

Phủ Tuy Biên, trích lấy huyện Ngọc Luật (huyện Thổ cũ từ Mật Luật đổi tên thành) hợp vào với huyện Tây Xuyên làm một huyện. Lại lấy huyện Ô Môn (huyện Thổ cũ) đổi tên là huyện Phong Phú, cho thuộc vào phủ Tuy Biên. Phủ Tân Thành trích lấy ba tổng huyện Vĩnh An đặt riêng làm huyện An Xuyên. Lại lấy huyện Đông Xuyên thuộc phủ Tuy Biên trước lệ thuộc vào phủ Tân Thành.


Lấy 4 tổng về tả ngạn sông Vĩnh Tế của huyện Chân Thành (nguyên huyện Thổ tên Chân Sâm đổi thành), số đinh hơn 1.040 ngươi, điền thổ hơn 1.150 mẫu [99, tr.275] và 8 thôn ở huyện Tây Xuyên [63, tr.39] đặt ra huyện Hà Am. Lại lấy 4 tổng về hữu ngạn sông Vĩnh Tế (đinh số hơn 1.480 người, điền thổ hơn 2.080 mẫu) [99, tr.275] và 10 thôn ở huyện Tây Xuyên [63, tr.39] đặt ra huyện Hà Dương. Đặt ra phủ Tĩnh Biên để "thông trị". Phủ nha kiêm lý huyện Hà Âm, thống hạt huyện Hà Dương và đổi thuộc về quản hạt Hà Tiên [994, tr.275].


Đến tháng 6 năm Nhâm Dần (1842), đổi huyện Hà Dương tỉnh Hà Tiên thuộc vào quản hạt phủ Tĩnh Biên tỉnh An Giang [102, tr.242]. Tháng 8 năm Giáp Thìn (1844), đôi huyện Hà Âm, tỉnh Hà Tiên cho lệ thuộc phủ Tĩnh Biên, tỉnh An Giang [103, tr.118].


Như vậy, đến thời kỳ này, vùng đất Châu Đốc có 4 huyện biên giới: huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành), huyện Tây Xuyên (phủ Tuy Biên), huyện Hà Âm, huyện Hà Dương (phủ Tĩnh Biên).


Đường biên giới thời kỳ này biến động, khác trước vì có thêm đất hai huyện Hà Dương và Hà Âm mới lập, vốn là phần đất hai phủ Chân Sâm (Chân Thành), Mật Luật (Ngọc Luật) quốc vương Chân Lạp đã hiến cho Thoại Ngọc Hầu năm 1824.


Đường ranh giới quốc gia giữa vùng Châu Đốc và Chân Lạp đi từ ngã ba sông Châu Đốc - sông Bình Di chạy thẳng đến đất Vĩnh Điều, Giang Thành (Hà Tiên), cách trung tâm Châu Đốc 28km (nay đường biên giới cách trung tâm Châu Đốc 1,2km).


Vì vậv, trong luận án Tiến sĩ luật học "Biên giới của Campuchia" (Les frontières du Cambodge) bảo vệ tại Pa-ri, 1964, việc Sarin Chhak viện dẫn ý kiến của vua Ang Dương trong thư gửi Nã-phá-luân đệ tam ngày 25-11-1856 nói rằng "Minh Mệnh con trai kế vị vua Gia Long cho đào con kênh (Vĩnh Tế) chia Campuchia ra từ Hà Tiên cho tới Mot Chrut (Châu Đốc) và đặt để trong các tỉnh đã lấy đi nền hành chính và những người An Nam..." [155, tr.152] là thiếu chính xác. Bởi Sarin Chhak có thể không biết việc làm của quốc vương Chân Lạp năm 1824 đã hiến hai phủ Chân Sâm và Mật Luật. Cho nên bên kia kênh Vĩnh Tế thời kỳ này còn có huyện Hà Âm của triều Nguyễn. Có thể, Sarin Chhak không biết rõ lịch sử dân tộc mình hoặc là cố tình không biết?


Cũng vì vậy, năm 1844 quốc vương Cao Miên là Sá Ong Giun ủy cho bọn thổ mục đưa công văn đến tỉnh An Giang xin chuyển lại bảo Bình Di, Khánh An [102, tr.24], cũng như năm 1851, Sá Ong Giun xin trả về các sứ Ô Môn, Thất Sơn, Ba Xuyên, Kiên Giang và mượn đường sông Vĩnh Tế để đi ra biển. Vua Nguyễn truyền rằng không hợp lý nên đã không cho [105, tr.268].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Bảy, 2021, 09:28:59 am
Năm 1852, vua Tự Đức cấp một loạt 13.069 sắc Thần cho cả nước [105, tr.132], với tước hiệu Thành hoàng bản cảnh ở các đình làng Nam Bộ, nghĩa là vị thần Thành hoàng của một vùng đất cụ thể, nơi có đình của một làng, là người đại diện cho "Thiên tử" để bảo hộ cho dân làng. Mục đích của việc phong sắc là nhằm xác định quyền lực của triều đình Trung ương đối với làng xã ở vùng đất mới. Mặt khác, việc phong thần này còn có mục đích chính trị, xác lập chủ quyền của nhà nước Đại Nam trên các vùng đất đai chưa có thần Thành hoàng. Việc cấp sắc cho thần Thành hoàng là một sự công nhận có tính chất chính thức của nhà vua, đã là một bộ phận của quốc vương thuỷ thổ [132, tr.155].


Vì vậy, sau khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Tây Nam Bộ (1867) và sau khi hiệp ước hoạch định biên giới Nam Kỳ - Cao Miên do quốc vương Campuchia ký với nhà nước thuộc địa Nam Kỳ, chính xác hơn là sau khi thực hiện phân giới cắm mốc trên thực địa, nhiều thôn làng Việt Nam đã bị nằm bên kia biên giới. Chứng tích là các đình, chùa, miếu của người Việt và các thôn làng đó vẫn tồn tại cho đến thế kỷ XX. Đặc biệt, có thôn còn giữ được sắc phong của vua Tự Đức (1852) như sắc phong đình thôn Lý Nhân (tổng An Lương, huyện Đông Xuyên)... Điều đó chứng tỏ, trên thực tế, đường biên giới Nam Kỳ - Cao Miên không phân ranh chính xác theo chủ quyền thực tế mà người Việt khai phá và định cư nơi đây.


Cho nên, sau hiệp ước hoạch định biên giới các năm 1870, 1873 giữa Nam Kỳ và Cao Miên và sau khi phân ranh trên thực địa đến đầu thế kỷ XX, vùng Châu Đốc của nước Đại Nam đã mất đi vùng đất huyện Hà Âm bên kia kênh Vĩnh Tế, mà trước năm 1873 vốn là lãnh thổ của triều Nguyễn. Ngoài ra, một số thôn của người Việt đã bị chính quyền thực dân Pháp thực hiện chia cắt có tính cách độc đoán (vì các nước Đông Dương hồi đó đều mất chủ quyền về tay người Pháp) để cho nó nằm về phía đất Cao Miên như thôn Lý Nhân, đối diện với thôn Đồng Đức Thượng, huyện Đông Xuyên, phía Bắc biên giới đầu nguồn sông Hậu.


Về sau, việc qua lại biên giới có những khó khăn, thuế ở Cao Miên cao hơn Nam Kỳ nên một số người Việt trên các làng Việt bị cắt sang phía đất Cao Miên đã quay về đất Châu Đốc sinh sống, một số đình, chùa cũng được chuyển về Châu Đốc như đình Đồng Đức, đình Nhân Hội, đình ở Vĩnh Hội Đông,... Tuy nhiên, một số làng Việt với các đình, chùa Việt vẫn còn tồn tại trên đất Campuchia cho đến ngày nay.


Như vậy, với việc phân ranh biên giới Nam Kỳ - Cao Miên cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trên thực tế một số thôn vùng đất Châu Đốc đã bị cắt sang cho phía Cao Miên và cả một vùng đất rộng lớn, chiều rộng 28km từ bờ kênh Vĩnh Tế đến thôn Nhơn Hội, chiều dài khoảng 50km từ Nhơn Hội đến vùng Giang Thành (Hà Tiên) khoảng 1.400km2.


Tuy nhiên, Sarin Chhak hình như không biết việc này, cho nên trong luận án của ông vẫn nói "Việc hoạch định này đã làm cho Campuchia chịu nhiều thiệt hại. Nó để lại bờ bên kia của kênh Vĩnh Tế rất nhiều tổng Campuchia có những tổ chức hành chính và xã hội riêng của họ không giống chút nào với cái của người An Nam. Tri Tôn nằm đối diện với lãnh thổ Campuchia hiện nay, tiêu biểu cho một kiểu của những tổng đó đang còn giữ cấu trúc xã hội Campuchia" [155, tr.135]. Đây là sự nhìn nhận thiếu chính xác và bất hợp lý của Sarin Chhak.


Như ta biết, đối với vấn đề ranh giới Việt Nam, đất Nam Kỳ bấy giờ là thuộc địa của người Pháp và đã thành lãnh thổ Việt Nam từ lâu nên quốc vương Nô-rô-đôm ký hai bản nghị định phân ranh biên giới Nam Kỳ - Cao Miên vào ngày 9-7-1870 và ngày 15-7-1873.


Nam Bộ Việt Nam bấy giờ do người Pháp chiếm đóng làm thuộc địa gọi là Nam Kỳ (Cochinchine) đã hoàn toàn thuộc về Việt Nam do các đấng tiên vương Cao Miên nhượng cho chúa Nguyễn để đền ơn bảo hộ và che chở ngai vàng. Khi nhờ người Pháp bảo hộ, quốc vương Nô-rô-đôm không thể nêu lý do nào để đòi lại được phải ký nghị định ấn định ranh giới. Trái lại, nước Xiêm vì dùng vũ lực chiếm mấy tỉnh miền Bắc Cao Miên bấy giờ phải hoàn lại. Ngày 9-12-1946, các tỉnh bị người Thái chiếm, được giao lại cho Cao Miên, còn Nam Kỳ thì ngày 4-6-1949 Pháp đã thông qua Luật 49-733 trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam. Mặc dù, chính quyền Campuchia đã tìm mọi cách vận động Chính phủ Pháp giúp thực hiện yêu sách lãnh thổ đối với vùng đất Nam Bộ của Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu này của phía Campuchia đã không được Pháp chấp nhận. Ngày 8-6-1949, Chính phủ Pháp đã gửi một bức thư cho Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, trong đó nêu rõ quan điểm: "Ngoài những lý do thực tiễn, những lý do về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ. Quốc vương hắn cũng biết rằng Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước 1862 và 1874... Chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam... Lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới. Giữa những ví dụ khác, xin phép nhắc lại rằng Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh Vĩnh Tế nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến". Như vậy, một lần nữa Pháp đã nhắc lại cho chính quyền Campuchia thấy rõ những thực tế lịch sử và những cơ sở pháp lý vững chắc về chủ quyền vùng đất Nam Bộ là   của Việt Nam.


Đường biên giới Châu Đốc - Chân Lạp theo Hiệp ước 1873 được chính quyền Nhà nước thực dân Pháp bấy giờ cai trị Nam Kỳ ký với quốc vương Cao Miên gồm có các cột môc từ số 84 đến 120. Sau khi hoạch định phân vạch biên giới từ cuối thế kỷ XIX đến nay, dù trên thực địa và các bản đồ còn có những sai lệch, nhưng trên cơ bản đương biên giới Việt Nam - Campuchia đoạn Châu Đốc vẫn như Hiệp ước 1873.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:19:25 am
2. HỆ THỐNG ĐỒN, BẢO QUẢN LÝ, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN Ở VÙNG ĐẤT BIÊN GIỚI

a- Quá trình hình thành hệ thống đồn, bảo ở vùng biên giới

Sau khi thành lập Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và Đông Khẩu đạo, vùng "tân cương" này cơ bản vẫn là nơi hoang địa mênh mông rừng rậm, thú dữ và chướng khí, lưu dân chưa có, các đạo mới lập mang nặng tính chất quân sự.


Để bảo vệ "chốn địa đầu" biên thùy, chúa Nguyễn đã đem binh dinh Long Hồ để ngăn chặn "những chỗ yếu hại" [21, tr.80]. Kể từ đây, hệ thống đồn, bảo ở vùng đất Châu Đốc được hình thành và tồn tại cho đến năm 1867, khi thực dân Pháp đem quân đến chiếm thành Châu Đốc. Buổi đầu cả vùng đất rộng lớn An Giang về sau chỉ mới đặt một số đồn, bảo và ở những vị trí này quân số thường khá đông.


Sử liệu đầu tiên cho biết, số lượng binh lính, thuyền chiến các đồn thủ đầu nguồn biên giới Phiếm Bái, Dao Chiêu, Rạch Ông Chưởng, thủ Tân Châu, thủ Chiến Sai, thủ Hùng Thắng... là "quân 3 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người". Các thủ ngự ở Hậu Giang, thủ Cường Uy "quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 720 người; chiến thuyền 15 chiếc [20, tr. 197-198]. Năm 1789, chúa Nguyễn mới lập thêm một số thủ: thủ Châu Giang, thủ Vĩnh Hùng, thủ Cường Thành, thủ Đông Xuyên,...


Thời kỳ này các đồn, bảo cách khá xa, chắc hắn nhiệm vụ chủ yếu của những dinh trại và binh thuyền này là ngăn ngừa xâm lăng từ phía tây, quản lý chủ quyền vùng đất mới và bảo vệ lưu dân Việt đến làm ăn sinh sống. Sử triều Nguyễn nhiều lần ghi, chúa Nguyễn sai các võ tướng thay nhau trấn giữ đồn, bảo vùng Tân Châu, Châu Đốc: nàm 1790, Vũ Công Lễ; 1792, Phan Văn Triệu; 1792, Nguyễn Đức Thành; 1793, Nguyễn Khoa Cương; 1794, Nguyễn Đức Thành;...


Thời kỳ này các sở, quan, tấn, nguyên, thủ đặt ra danh sắc các chức cai án, tri bạ, bình luận, thủ hợp, giang quan, cai quan, cổn quan, cai thuộc, cai thu, tuần ty... Các danh sắc này có thấy trong thời Lê và chắc hẳn có sự kết hợp giữa trấn giữ và tuần ty (thu thuế).


Sau năm 1802 trở đi, trước yêu cầu quản lý và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền, vua Gia Long quan tâm đến việc điều binh, chia đồn thú để giữ gìn bờ cõi; Minh Mệnh cũng quan niệm: "Quân là nanh vuốt của quốc gia phải đi tuần thú" [109, tr.238] giữ gìn an ninh, đề phòng việc bất trắc xảy ra.


Từ năm 1804 về sau, Gia Long phân biệt rõ: ở các đầu nguồn cửa biển, những chức tri án, cai hợp, cai án, tri bạ, bình luận, phẩm trật đều tòng thất phẩm, còn ở những nơi đồn thủ thì đặt chức thủ hợp bậc bát phẩm, chức lệnh sử thì tòng cửu phẩm.


Sự thật thì, đầu thời Gia Long, đất nước mới thoát ra từ cuộc nội chiến khốc liệt, kéo dài nhiều năm, cần có nhiều trí, lực để ổn định, sắp đặt một xã hội hoang tàn, nên Gia Long "chưa rỗi để lo việc biên cương". Tuy nhiên, từ năm 1810 trở đi, khi tình hình chính trị, đối ngoại, nhất là ở phía Tây Nam đã có những dấu hiệu phức tạp, cho nên đối với những vùng đất như "Châu Đốc Tân Cương" Gia Long không thể không để tâm lo liệu. Nhận thức được vị trí "trọng địa", cửa ngõ phía tây của Gia Định, Gia Long từng nói: "Châu Đốc - Hà Tiên bờ cõi không kém Bắc thành" [84, tr.317]. Bởi vậy, Gia Long đã sai đắp "bảo hiểm" Châu Đốc (1816) nhằm "giữ nơi trọng trấn của cõi Nam". Để "phòng giữ nghiêm ngặt nơi biên phòng quan yếu", Gia Long còn cho xây đắp thêm các bảo Châu Giang, Tân Châu và Chiến Sai (1819).


Vì tính chất quan trọng của biên thùy Châu Đốc, từ năm 1812 về sau, các viên trấn thủ Vĩnh Thanh không còn trú đóng ở trấn lỵ (thị xã Vĩnh Long ngày nay), mà từ Lưu Phước Tường trở đi, phải đến "án thủ" ở đồn Châu Đốc, để giải quyết biên sự kịp thời, kiêm quản biên vụ Hà Tiên và bảo vệ "Cao Miên quốc ấn".


Đến thời Minh Mệnh, triều đình quy định, phàm lấy cai hợp sung hiệp thủ ở các đồn bảo thì đặt bát phẩm thư lại, nếu sung hiệp thủ thì đổi làm cửu phẩm thư lại sung hiệp thủ. Như các đạo Tân Châu, Chiến Sai, Hùng Ngự vốn trước đã có quản đạo, đến năm 1826, Minh Mệnh cho đặt thêm một chức hiệp thủ. Năm 1827, chức hiệp thủ ở các đồn, bảo được bậc tòng thất phẩm; đồng thời bỏ bớt các tên gọi bình luận, cai thuộc, lệnh sử, cai thu, giang quan, tuần ty, thủ hợp và ký thuộc đã đặt ra từ trước.


Ở các thủ Tân Châu, Chiến Sai, Hùng Ngự, triều đình đều đặt một viên thủ ngữ và phái một quan to quản binh để điều lãnh công việc chung 3 thủ và lấy trấn binh của thành Gia Định đến thú. Tuy nhiên, do đi lại xa, mỗi khi thay đổi lính thú khó khăn nên đến năm 1830, Minh Mệnh cho mộ "dân ngoại tịch" lập thành 3 đội An Châu nhất, nhị, tam để phân phái và cho mộ thêm mỗi thủ 50 người để đủ làm việc [90, tr.317].


Năm 1832, Minh Mệnh bỏ bớt những viên giữ chức hàm hiệp thủ ở các nguyên, hải, tấn, thủ; nơi nào nhiều việc thì đặt một bát phẩm thư lại, nơi ít việc như bảo An Lạc, Chu Giang,... thì chọn lý trưởng hoặc người làm trong làng làm được việc cho theo với viên thủ ngự làm việc.


Theo quy định của triều Nguyễn, ở các quan, tấn, đồn, bảo đều đặt các quan viên đóng giữ, viên chức chuyên trách đóng ở đấy trường kỳ hoặc cắt phiên thay đổi nhau và tuỳ theo công việc nhiều ít mà đặt từ 1 đến 2, 3 viên. Các đồn, bảo, quan tấn ở vùng Châu Đốc có tấn Cường Thắng được đặt phòng thủ úy 1 người, đội trưởng 1 người, ngoại ủy đội trưởng 2 người; tấn Tân Châu đặt 1 tấn thủ, 1 thứ đội trưởng, 2 ngoại ủy đội trưởng...


Năm 1834, triều Nguyễn cho xây đắp ở Châu Đốc 3 đồn: đồn Vĩnh Tế và đồn Vĩnh Nguyên ở hai bên sông Vĩnh Tế, cách đồn Châu Đốc 5km; đồn Chu Phú đắp cạnh đồn Châu Đốc. Cũng năm này, Minh Mệnh cho thủ binh ở các thủ, chiếu theo tên thủ đều đổi thành "đội". Thủ binh ở Tân Châu chia làm hai đội: Tân Châu nhất, nhị; ở An Lạc là đội An Lạc..., mỗi đội 50 người.


Năm 1835, triều Nguyễn đưa quân trú đóng ở Trấn Tây, nên đất An Giang coi như "nội địa". Bởi vậy, dọc tuyến biên giới Châu Đốc chỉ giữ lại những thủ, sở xung yếu: Tân Châu, An Lạc, Chu Giang, Cường Thắng..., còn các thủ, sở Cường Thành, Cường Uy, Thuận Phiếm, Vĩnh Hùng đều cho rút bỏ [94, tr.268].


Đến năm 1837, triều Nguyễn cho đổi tên tất cả các thủ gọi là "tấn". Như thủ Đông Xuyên đổi gọi tấn Đông Xuyên, thủ binh có 21 người đổi là tấn binh; thủ Tân Châu đổi thành tấn Tân Châu, có 53 tấn binh; thủ An Lạc đổi gọi là tấn An Lạc, có 20 tấn binh...


Vào tháng 12 năm Đinh Dậu (1837), Minh Mệnh cho định lại các ngạch lính "cho danh hiệu được chính". Trong đó, các tấn bảo đêu đổi gọi là "đồn". Như đồn Nghi Giang, quân số 4 người; đồn Đông Xuyên, quân số 21 người; đồn Tân Châu, quân số 53 người; đồn An Lạc, quân số 20 người; đồn Chu Giang, quân số 91 người; đồn Cường Thắng, quân số 54 người,...


Từ tháng 8 năm Canh Tý (1840) đến tháng 8 năm Nhâm Dần (1842), Xiêm ngầm mưu khiến Chân Lạp nổi lên chống lại cuộc bảo hộ của nhà Nguyễn, không chỉ ở 10 phủ, 23 huyện tại Trấn Tây mà còn lan tới các tỉnh Nam Kỳ. Sử triều Nguyễn ghi: ở Hà Tiên, Vĩnh Tế, An Giang, Định Tường... "giặc kết hàng trăm, hàng nghìn", "chỗ nào cũng như muỗi tụ", vây quanh các đồn Tân Châu, An Lạc, Hùng Ngự, Thông Bình, phá luôn huyện lỵ Đông Xuyên, lấp cả sông Vĩnh Tế, cắt đứt con đường tư báo vận lương từ Châu Đốc đi Hà Tiên, cô lập Hà Tiên... Trước tình hình căng thẳng đó, triều Nguyễn cho lập thêm các bảo Tiên Nông, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều và lập "trường luỹ" để ngăn giặc. Hơn hai vạn giặc Thổ, giặc Xiêm ở Hà Am theo một dãy "trường luỹ" từ Vĩnh Điều đến Tiên Nông kết liên tiếp 8 đồn, dựa vào "trường luỹ" đắp thành gần các đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thân Nhân, Vĩnh Lạc mưu đồ đánh phá. Thế giặc rất mạnh, chúng lại lập 13 trại trong rừng, mỗi nơi khoảng 2.000 tên...


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:20:05 am
Từ tháng 3 đến tháng 8 năm Nhâm Dần (1842), Thiệu Trị sai các tướng Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn, Đoàn Quang Mật đưa 5.000 quân chia thành 5 đạo ra sức đánh, phá hơn 20 đồn giặc, chém tại trận được những tên đầu mục giặc Thổ và bè lũ chúng "hơn trăm nghìn đầu", "quân Xiêm, Man bị thương, bị chết không sao kể xiết" [102, tr.158]. Thiệu Trị nghe tin thắng lớn khen ngợi và nói: "từ nay bụi sạch".


Sau khi biên giới tạm yên, triều Nguyễn cho đặt thêm các đồn, bảo và đưa quân trấn giữ: bảo Giang Nông (1842) có 51 biền binh; bảo Vĩnh Thành, bảo Tân Châu, bảo An Lạc. Đặt bảo Giồng Tượng sau khi đào kênh Vĩnh An (1844) và trích lấy 50 biền binh ở 2 đồn Tân Châu, An Lạc để đóng giữ; đặt đồn Tắc Suất (1846), Cần Thăng (1841), Bắc Nam (1845), Tiến An (1847), Hưng Nhượng (1847),...


Cuối năm 1845, quân Nguyễn và quân Xiêm ký hoà ước về vấn đề Chân Lạp. Năm 1846, người Cao Man dâng biểu xin vua Nguyễn đến Kinh "xưng làm tôi, nộp lễ công". Thiệu Trị cho sửa sang đồn, bảo biên giới, lưu quân phòng thủ cho bờ cõi ngoài biên được vững, để quân kinh binh và cơ binh được nghỉ ngơi. Những nơi địa đầu quan yếu ở An Giang, Hà Tiên, Thiệu Trị chủ trương đặt đồn có quan to để "giữ được cái lo bất trắc" [104, tr.201]. Trên tuyến biên giới Tây Nam, ở Tiền Giang từ Sách cần cho đến Việt Giang; ở Hậu Giang từ Tầm Vu cho đến Long Sơn các đồn, bảo đều lần lượt được triệt huỷ. Riêng chỉ có An Giang do "tiếp liền với cảnh thổ Chân Lạp" nên lấy Bình Di làm địa đầu sông Hậu, đồn Tiến An làm địa đầu sông Tiền, cùng với đồn trại nguyên đặt ở duyên biên các tỉnh An Giang, Định Tường, Định Biên, sửa rộng ra để lưu quân phòng thủ.


Hệ thống đồn bảo ở vùng biên giới Châu Đốc, những chỗ quan yếu, sát cõi Chân Lạp, năm 1847 được triều Nguyễn phải đặt như sau: bảo Tân Châu, 71 lính; bảo Vĩnh Thành, 31 lính; bảo Cần Thăng, 21 lính; bảo Trung Khoa, 31 lính; bảo Tái Suất, 82 lính; bảo Giáng Sơn, nguyên phái 136 quân, liệu giảm 56, còn lưu lại 80 quân, bảo Bình Thiên nguyên phái 154 quân, liệu giảm 54, còn 100 quân; các bảo ở sông Vĩnh Tế, nguyên phái 285 quân, còn lưu lại 200 quân. Rút bỏ 51 biền binh ở đồn Đa Phúc. Bảo Bình Di ở nơi quan trọng thì trích lưu 100 thú binh và 32 đội binh hương dũng; bảo Tiến An lưu 150 thú binh. Sau bỏ bớt bảo Trung Khoan và 2 bảo Tân Châu, An Lạc, còn các tấn Tân Châu, An Lạc vẫn lưu tấn binh phòng thủ.


Các bảo lớn thì vẫn lưu lại ở Giang Nông 50 quân, Vĩnh Thông, Vĩnh Điều đều 30 quân; Vĩnh Gia 20 quân, ở Vĩnh Thông đặt một quản viên, kiêm quản cả 4 biền binh ấy, còn mỗi sở khác thì đặt một viên suất đội. Về sau, các bảo nhỏ trước đây đã đặt không quan trọng lắm như: Vĩnh Tế, Vĩnh Thịnh, Tĩnh Biên, Thân Nhân, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hoà, Thuyết Nật, Đàm Triết, Vĩnh Gia, gồm 9 bảo đều bỏ bớt [66, tr.409].


Cho đến tháng 12 năm Kỷ Mùi (1859), tổng đốc An Giang - Cao Hữu Bằng tâu: "người Man cùng người Tây dương giao thông, sắp có lòng khác". Vì vậy, để phòng bị các nơi địa đầu quan yếu, Thiệu Trị cho lập thêm đồn, bảo, gọi họp lính đồn và dân dõng "tuỳ thế đóng giữ" để cho việc phòng thủ được nghiêm.


Đầu năm 1860, quân Cao Man đánh vào An Giang, Hà Tiên và khắp tuyến biên giới Tây Nam, quấy rối các đồn, bảo, cắm tre ngăn chặn ở Vĩnh Tế. Tỉnh thần An Giang xin đem số quân chia làm 3 ban, 2 ban lưu lại để đánh giặc 1 ban cho về nghỉ để chờ sai phái. Tuy nhiên, do tình hình biên giới không yên, nên lính ở 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên từ năm 1857 đến năm 1864 "vẫn phải toàn số để chiến đấu và trấn giữ, khó nhọc và mỏi mệt quá lâu. Về sau triều Nguyễn sai 2 tỉnh xét đồn, bảo trong hạt, nơi nào rất quan yếu thì vẫn để quân lại đóng giữ, còn thì liệu lượng cho rút bớt về nghỉ ngơi [108, tr.136]. Hệ thống đồn, bảo này tồn tại cho đến năm 1867, khi thực dân Pháp đem quân chiếm thành Châu Đốc.


Qua quá trình hình thành hệ thống đồn, bảo, thủ, tấn ở vùng đất Châu Đốc, có thể rút ra nhận xét sau đây:

Sự tăng thêm hay giảm bớt số lượng đồn, bao, số quân từng vị trí đồn, bảo vùng biên giới Châu Đốc tùy thuộc vào mối tương quan giữa các quốc gia khu vực trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, về khách quan, nó bị chi phối bởi yếu tố bên ngoài, do tác động bởi chính sách từ phía Chân Lạp và Xiêm La. Về mặt chủ quan, chính sách đối nội, đối ngoại của triều Nguyễn. Đồng thời, nó cũng phản ánh rõ yêu cầu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập có chủ quyền, nhằm ổn định và phát triển đất nước ở nửa đầu thế kỷ XIX. Tình hình thực tế những năm 1771, 1790, 1812, 1813-1835, 1840-1847, 1859-1860 như nêu trên phản ánh khá rõ điều đó.


Ngoài ra, số lượng đồn, bảo, thủ, tấn và đồn binh, bảo binh, thủ binh, tấn binh còn tuỳ thuộc vào tình hình, đặc điểm, vị trí nơi trấn giữ.

Ở những vị trí "chính thủ", "hiểm yếu", như đồn Châu Đốc, Tân Châu, Tiến An, Bình Di, Tái Suất..., là những nơi địa đầu, luôn được xây đắp thành bảo lớn hơn và duy trì quân số khá đông từ 71 đến 150 quân. Các vị trí ít quan trọng hơn chỉ bố trí từ 30-70 lính, những nơi xa biên giới hơn có 20-30 quân, thậm chí có nơi chỉ có 4 lính (thủ Đông Xuyên). 


Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là, với chính diện biên giới khoảng 100km luôn có khoảng 15-16 đồn, bảo trấn giữ. Đâv là một mật độ đồn bảo khá dày đặc so với tuyến biên giới khác.


Về lực lượng canh giữ đồn, bảo: có kinh binh, trấn binh của thành Gia Định, cơ binh các tỉnh và cơ binh của tỉnh An Giang. Ngoài ra, lực lượng binh dũng, dân ngoại tịch, xã nhân, tù phạm dồn bổ cũng được sử dụng, cho theo các viên thủ ngự, tấn thủ, bảo thủ... để sai phái, làm việc.


Đây cũng là một đặc điểm sử dụng lực lượng ba thứ quân dưới thời phong kiến: quân triều đình (kinh binh) + quân địa phương (trấn binh, cơ binh) + hương binh (xã dân, hương dũng...).


Triều Nguyễn thực hiện biền binh ban lệ, chia ban. Lúc bình thường tuỳ theo, thú binh 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm thay đổi một lần. Thường là một ban tại ngũ, 2 ban về làm ruộng. Lúc có biên sự thì 2 ban tại ngũ, 1 ban về nghỉ, thậm chí huy động toàn số. Đó chính là chính sách "Tĩnh vi nông, động vi binh" của triều Nguyễn.


Về quan chế: Mặc dù tư liệu chưa thể hiện thật rõ ràng điều này nhưng bước đầu nhận thấy: Nửa cuối thế kỷ XVIII ở các quan, tấn, nguyên, thủ, chúa Nguyễn đặt ra các danh sắc, các chức: cai án, bình luận, thủ hợp, cai quan, côn quan,... và chưa ban cấp, phẩm hàm. Sang thế kỷ XIX, triều Nguyễn dần dần bỏ hết các danh sắc các chức trên. Thay vào đó là các tên thủ ngự, tấn thủ, thủ bảo, phòng thủ úy, thủ hợp, hiệp thủ, quản thủ, lệnh sử,... Thời Gia Long chức thủ hợp có phẩm hàm là bát phẩm, lệnh sử là tòng cửu phẩm. Thời Minh Mệnh, chức hiệp thủ đặt bát phẩm thư lại, sung hiệp thủ đặt cửu phẩm thư lại. Đến năm 1827, chức hiệp thủ đặt tòng bát phẩm; năm 1832, hiệp thủ đặt bát phẩm thư lại. Ở cấp tỉnh, những nơi có đồn thủ, cửa ải như An Giang đặt chức thành thủ úy, trật tòng tứ phẩm.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:21:06 am
b- Trang bị vũ khí ở các đồn, bảo

Để tìm hiểu cụ thể hơn về các đồn, bảo vùng biên giới Châu Đốc, cần tham khảo thêm tình hình trang bị vũ khí và vũ khí phương tiện chiến đấu như sau:

Vào năm 1834, triều Nguyễn cho đặt ở đồn Châu Đốc các hạng súng là 40 cỗ và 13.000 hòm đạn ngang. Cũng năm đó, sau lại đặt cho đồn Châu Đốc 27 cỗ đại bác. Đồn Vị Giang 8 cỗ đại bác, đồn Chu Phú 4 cỗ, đồn Vĩnh Tế 2 cỗ, đồn Vĩnh Nguyên 2 cỗ. Các đại bác Đại luân xa, Phách Sơn, Hồng Y, mỗi cỗ 100 phát thuốc đạn; súng Quá Sơn mỗi cỗ 300 phát thuốc đạn [69, tr.292-293]. Ngoài ra, ở các đồn, bảo còn trang bị một số thuyền chiến để làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu và vận chuyên binh mã lương thảo,...


Tháng 12 năm Ất Mùi (1835), triều Nguyễn lại chia đặt các cỗ súng lớn cho 6 tỉnh Nam Kỳ. Các đồn, bảo tỉnh Gia Định 70 cỗ, tỉnh thành Biên Hoà 32 cỗ, tỉnh thành Vĩnh Long 36 cỗ, tỉnh thành Định Tường 32 cỗ, tỉnh thành Hà Tiên 80 cỗ, tỉnh thành An Giang 100 cỗ. Chắc hẳn đây là năm triều Nguyễn trang bị các súng lớn nhiều nhất ở Nam Kỳ [95, tr.225].


Ngoài các hạng pháo, ở các đồn, bảo Châu Đốc được cấp các loại vũ khí khác như: tấn Tân Châu được cấp 10 thương dài (năm 1826),...

Năm 1836, triều Nguyễn cho rằng, các tấn bảo trừ chỗ đặt pháo đài có phái lính phòng thủ, ngoài ra còn nơi nào xung yếu mà chỉ có dân binh trú phòng thì phải cấp Bắc cơ điểu sang 10 cây hoặc 5, 7 cây giúp phòng bị. Năm 1837, trừ thủ Mỹ Thanh được cấp 10 cây súng Bắc cơ điểu sang, thủ Trấn Di 7 cây ở vùng biển; ở Châu Đốc có thủ Đông Xuyên được cấp 5 cây, thủ Cường Thắng được cấp 5 cây,...


Nhìn chung, số lượng và chất lượng vũ khí trang bị cho các đồn, bảo vừa ít, vừa thô sơ. Ngay cả các cơ lính ở tỉnh, theo biên chế đủ mỗi cơ 500 người, mà trang bị súng Thạch cơ điểu sang và thương dài chỉ có 200 chiếc, khẩu; 50 dao nhọn chuôi dài; 21 kỳ đao; 5 trống gỗ, chiêng, trống, la đồng, kèn đồng,...


Quy định của triều Nguyễn về vũ khí của các cơ lính ở tỉnh (1834) phản ánh điều trên: tỉnh có 1.000 lính thì cho 400 cầm điểu thương, 400 cầm thương trượng, cònlại thì cho mang cờ trống [92, tr.250].

Như vậy, ngoài việc xây đắp các thành đất (thổ bảo) có cấu trúc và kỹ thuật đơn giản, lạc hậu, khả năng phòng thủ thấp, thì việc trang bị vũ khí thô sơ và ít như ta thấy, cùng với trình độ tác chiến kém, phương tiện chiến đấu thuyền chiến chèo tay là chủ yếu ở vùng sông rạch, đã hạn chế rất nhiều khả năng chiến đấu của các đồn, bảo. Điều này phù hợp với nhận xét của Ang-ghen: "Toàn bộ việc tổ chức và phương pháp chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi và thất bại đều rõ ràng phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào nhân lực và vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của dân cư và cả kỹ thuật nữa" [4, tr.290]. Lực lượng, thành luỹ và vũ khí như trên chỉ đủ đối phó với các đội quân hậu kỳ phong kiến lạc hậu trong khu vực, chứ khó có thể đương đầu với các đội quân của phương Tây tư bản đã tiến bộ hơn nhiều. 


c- Vị trí và cấu trúc các đồn, bảo

- Về vị trí: Hầu hết các đồn, bảo đều đặt gần bờ rạch, ven sông để thuận tiện cơ động giao thông thuỷ là chủ yếu như: bên bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Châu Đốc, Vàm Nao, bờ kênh Vĩnh Tế, bờ rạch Bình Di, kênh Vĩnh An,... Ngoài ra, do các sông rạch tự nhiên hoặc nhân tạo là những thuỷ đạo phân ranh lãnh thổ, cho nên phần lớn các đồn, bảo được bố trí dọc theo chính diện biên giới để làm nhiệm vụ an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, ngăn ngừa và chống xâm lăng, chống nội loạn, hộ tống các trạm chuyển đạt công văn từ Châu Đốc đi Hà Tiên, bảo vệ lưu dân Việt làm ăn khai phá, lập làng, phát triển kinh tế...

- Về cấu trúc các đồn, bảo:

+ Hầu hết các đồn, bảo đều xây đắp bằng thành đất (thổ bảo). Dù có quy mô lớn như thành Châu Đốc cho đến các thổ bảo trung bình hoặc nhỏ hơn đều được cấu trúc đơn giản chủ yếu bằng đất...

+ Có 3 loại cấu trúc: hình lục giác như thành Châu Đốc, hình bán nguyệt như thành Châu Giang và còn lại phần lớn hình vuông.

+ Cao rộng nhất có thành Châu Đốc: cao 9 thước, chu vi 362 trượng. Chu vi thành 60 trượng trở lên có: đồn Hưng Nhượng, Cần Thăng, An Lạc và Vĩnh Thông. Loại thành trung bình, chu vi từ 30-60 trượng có: Thân Nhân, Vĩnh Long (lớn), Giang Nông, Vĩnh Điều, Bình Di (phía tả), Nhân Hội (Tắc Suất). Loại thành nhỏ hơn từ 30 trượng trở xuống có: Vĩnh Tế, Vĩnh Lạc, Vĩnh Long (nhỏ), Tân Châu, Châu Giang, Bình Di (phía hữu), Bắc Nam, Tiên An,...


Như vậy, cấu trúc các đồn bảo ở Châu Đốc thời Nguyễn khá đơn giản, phản ánh điều kiện của nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển. Điều đó, lại một lần nữa thể hiện rõ nhận xét của Ăng-ghen: "Việc tiến hành chiến tranh phải phụ thuộc vào sức sản xuất và phương tiện giao thông ở hậu phương cũng như chiến trường" và "đó là những cái giúp cho bạo lực đạt được thắng lợi" [4, tr.291-292].


Tuy nhiên, dưới thời Nguyễn, hệ thống đồn, bảo ở Châu Đốc nói riêng và ở tuyến Tây Nam nói chung đã có những vị trí nhất định, bước đầu có thể rút ra những nhận xét về vai trò, tác dụng của nó như phần sau.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:21:55 am
d- Vai trò, tác dụng của các đồn, bảo vùng Châu Đốc

Do yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng đất biên thuỳ Tây Nam, hệ thống đồn, bảo hình thành từ năm 1757 và tồn tại cho đến khi thực dân Pháp chiếm thành Châu Đốc giữa năm 1867. Hơn 100 năm tồn tại, các đồn, bảo không chỉ đơn thuần là những đồn binh làm nhiệm vụ quân sự, mà thực chất là những tổ chức hành chính - quân sự, một đồn ải biên phòng ở chốn địa đầu xung yếu. Hoạt động của hệ thống đồn, bảo trong hơn 1 thế kỷ tồn tại thể hiện:

1. Là cơ quan đại diện cho bộ máy quyền lực của chính quyền Nhà nước phong kiến Nguyễn ở vùng đất mới để tảo trừ giặc cướp, ổn định an ninh và trật tự trị an địa bàn biên giới. Nơi vốn toàn là rừng rậm, sông nước, nơi các băng đảng trộm cướp thường xuyên đi về, ẩn náu; vùng đầy rẫy mê tín của người Việt, bùa ngải của người Khmer, Chăm... Các đồn, bảo cũng làm nhiệm vụ ngăn ngừa và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ lãnh thổ ở vùng "cửa ngõ" phía tây của Gia Định, hỗ trợ cho Hà Tiên, Rạch Giá, "tiếp ứng cho Nam Vang".

Là địa bàn quan trọng nên triều Nguyễn thường đưa kinh binh, trấn binh Gia Định và cơ binh các tỉnh đến đóng giữ ở Châu Đốc để tiện khi cần. Nếu ở Hà Tiên hay Nam Vang có việc thì đem lực lượng này đến cho nhanh [93, tr.302].


2. Ngoài nhiệm vụ quân sự, các đồn, bảo Châu Đốc còn thực hiện những chức năng kinh tế - xã hội: chiêu mộ, khuyến khích lưu dân Việt, Khmer, Chăm, Hoa,... đến Châu Đốc lập phố chợ, buôn bán, làm đồ gốm, trồng dâu, nuôi tằm, trồng cây, khai hoang, lập thôn ấp, phát triển kinh tế, tạo cơ sở xã hội cho chính quyền phong kiến Nguyễn. Vì vậy, cuối đời Gia Long mới bắt đầu khuyến khích lưu dân đến Châu Đốc, mà đến năm 1836 đã lập được 91 thôn xã, khai khẩn được hơn 33.000 mẫu ruộng. Các đồn, bảo đại diện cho Nhà nước Nguyễn cho dân vay vốn, giống, ngưu canh điền khí, lương thực, giúp đỡ lưu dân đến làm ăn, cứu đói kém, dịch bệnh, bảo vệ đời sống, sản xuất cho lưu dân, chông tranh chấp ruộng đất.


Binh lính các đồn, bảo là lực lượng "tĩnh vi nông, động vi binh”, trực tiếp khẩn hoang, sản xuất lương thực trong thời bình, kết hợp luyện tập quân sự, tham gia chiến đấu khi có biên sự và khi xảy ra chiến tranh xâm lược.


Năm trăm lính đồn Châu Đốc và 1.000 dân thuộc 4 huyện của tỉnh An Giang đã khai ngòi, đắp đê bảo vệ 250 mẫu ruộng ở tỉnh thành, đắp đường từ tỉnh thành đến đồn Vĩnh Tế 1.472 trượng, từ đầu đồn Vĩnh Tế đến núi Sam 388 trượng. Năm 1840, biền binh khẩn ruộng ở sau tỉnh thành được 770 mẫu, thu được 9.000 hộc thóc, được vua thưởng 600 quan tiền [100, tr.51].


Binh lính các đồn, bảo còn tham gia có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế, xã hội khác: thu thuế khoá ở kho Đốc Tín (đồn Châu Đốc) và ở các tấn thủ Tân Châu, Bình Di, Châu Giang..., bảo đảm lưu thông buôn bán trục Gia Định - Nam Vang. Vì vùng Châu Đốc có sông Tiền, sông Hậu, sông Châu Đốc,... từ Chân Lạp chảy đến, do điều kiện đường thủy liền nhau, sông nước mênh mông nên thuyền dân người Kinh, người Thanh, người Man, người Thổ từ Nam Kỳ đi buôn ở Cao Miên, thuyền người nước Thanh, Thổ từ Cao Miên đến tỉnh An Giang, Gia Định buôn bán [105, tr.227]. Vì vậy, nhà Nguyễn thu được nhiều thuế quan tân ở vùng Châu Đốc: năm 1837 là 10.387 quan; năm 1839: 18.484 quan; năm 1840: 16.120 quan... Ở 4 cửa sông Đông Xuyên, Châu Giang, Tân Châu, An Lạc, nguồn thuế thủy lợi trong 18 năm, từ 1832-1848 và 2 năm 1812; 1830 thu được hơn 1.043.090 quan.

Nếu không bị chiến tranh biên giới xảy ra liên miên, chắc hẳn số thuế quan tân và thủy lợi ở vùng Châu Đốc thu được còn lớn hơn nhiều.

Binh lính các đồn, bảo còn tham gia đào kênh Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế, kênh Vĩnh An, xây đồn, đắp lộ, dựng thành trì phủ, huyện,...

3. Là vùng biên khổn quan trọng, là "đường các thuộc quốc đi lại phải qua", đường sứ Chân Lạp thường đi về, các đồn bảo Châu Đốc, Tân Châu thường đưa đón, hộ tống các sứ đoàn đến Gia Định về Kinh để chầu, cống vua Nguyễn và tống tiễn ra khỏi biên giới.

Từ năm 1791, chúa Nguyễn sắc cho đạo Tân Châu rằng: Từ nay có sứ Chân Lạp đến thì cũng chỉ cho 2 chiếc thuyền chở chánh, phó sứ đi theo sông Tiền tiến vào, còn lại bao nhiêu thì lưu hết ở thủ sở [82, tr.136]. Đến đời Gia Long, từ năm 1816 trở đi, vua Chân Lạp xin vua Nguyễn mỗi năm sang chầu một lần, thường năm cứ tháng 6 thì đến Kinh, tháng 7, 8 thì trở về; các năm 1833, 1847, 1860 đổi định lại, thượng tuần tháng 2 đến An Giang, thượng tuần tháng 4 đến Kinh, lấy các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi, 3 năm 1 lần sang chầu. Theo quy định năm 1874, cho sứ bộ nước Cao Miên: 1 chánh sứ, 1 phó sứ, 1 thông ngôn, 2 thầy thuốc và 9 lính đi theo, lấy 15 người làm hạn. Khi đến Kinh thì chỉ được đi 7 ngươi gồm: chánh, phó sứ, thông ngôn, thầy thuốc, còn những người khác ở lại biên giới tỉnh An Giang [65, tr.466, 468, 500]. Năm 1850, dụ tỉnh An Giang và các tỉnh phải cung đốn vật chất và tiền cho sứ bộ, hộ tống khi đến, khi về An Giang và ra khỏi cõi. Cho đến năm 1860, vì ở Cao Miên sinh sự rắc rối nên thôi việc chầu cống [107, 98].


4. Trong những lần nội bộ triều đình Chân Lạp xảy ra tranh quyền soán ngôi, hoặc các lần Chân Lạp bị phong kiến Xiêm xâm lược (các năm 1807, 1812, 1833)... quốc vương Chân Lạp phải bôn tẩu, lánh nạn sang Nam Bộ, được đồn Châu Đốc, Tân Châu che chở, cưu mang và tâu báo về triều.

Năm 1812, quan hệ Xiêm La - Chân Lạp căng thẳng. Xiêm đem quân xâm lược, đánh chiến thành La Bích của Chân Lạp, quốc vương Chân Lạp bỏ thành La Bích chạy đến Tân Châu cầu cứu nhà Nguyễn. Sau quân Nguyễn sai 13.000 quân đưa vua Chân Lạp về nước. Trước thế mạnh của quân Nguyễn, lực lượng Xiêm La phải rút về [21, tr.83].

Năm 1833, quân Xiêm xâm lược, quốc vương Chân Lạp là Nặc Ông Chân nghe tin hoảng sợ "cưỡi chiếc thuyền nhỏ chạy đến An Giang". Sau triều Nguyễn cho về ở Vĩnh Long, chu cấp ăn nghỉ, rồi sai quân hộ tống quốc vương Chân Lạp về nước,...


5. Từ thế kỷ XV - XIX, những biến động lịch sử đã xô đẩy một bộ phận người Chàm rời bỏ quê hương, đến sinh sống tại Chân Lạp. Tuy nhiên, số phận của họ cũng không được yên ổn. Do sự hiểu lầm, bị kích động cùng với sự kỳ thị, phong kiến Chân Lạp đã xua đuổi người Chàm. Vì vậv, số ngươi Chàm này phải bỏ Chân Lạp, trôi dạt về sinh sống ở vùng Châu Đốc vào những đợt 1840-1841, 1854, 1858-1859... các đồn binh Châu Đốc đã cưu mang giúp đỡ họ. Trong cảnh tha hương, triều Nguyễn đã cho họ định cư lại ở 2 bên bờ sông Hậu và rạch Bình Di trên 7 làng. Họ đã lập nên những đội dân binh Chàm dưới sự chỉ huy của các vị hiệp quản đội những chiếc "khôn" đỏ [50, tr.35] và đã khai phá, góp phần cùng các đồn, bảo đánh giặc bảo vệ toàn vẹn chủ quyền vùng đất biên giới Tây Nam của triều Nguyễn.


Từ ngày đầu thành lập - năm 1757, cho đến năm 1832, do điều kiện vùng đất mới, xã thôn còn ít ỏi, triều Nguyễn chưa thành lập bộ máy hành chính ở đạo Châu Đốc. Vì vậy, các đồn, bảo ở vùng này vừa làm nhiệm vụ quân sự, an ninh, vừa có chức năng hành chính. Năm 1832, khi triều Nguyễn lấy đất đạo Châu Đốc, gộp đất hai huyện Vĩnh An, Vĩnh Định (phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh) lập nên tỉnh An Giang thì đất Châu Đốc trở thành tỉnh lỵ và đồn Châu Đốc trở thành thành tỉnh. Đất Châu Đốc đạo và Tân Châu đạo cũ đổi thành phủ Tuy Biên của tỉnh An Giang mới, gồm 2 huyện: huyện Đông Xuyên (phía đông sông Hậu) và huyện Tây Xuyên (phía tây sông Hậu). Sau năm 1867, đất phủ Tuy Biên lập thành tỉnh Châu Đốc. Mặc dù vậy, ở vùng đất biên ải Tây Nam, tổ chức chính quyền cấp tỉnh, phủ, huyện... vẫn mang đậm dấu ấn của bộ máy hành chính - quân sự trong mọi hoạt động cho đến khi thực dân Pháp đem quân chiếm thành Châu Đốc vào tháng 6 năm Đinh Mão (1867).


Điều đó phản ánh tính chất đa năng của các đồn binh thời Nguyễn. Các đồn, bảo này vừa có chức năng hành chính - quân sự vừa có nhiệm vụ của một đồn ải biên phòng ở vùng cửa ngõ đất Gia Định. Các đồn, bảo vừa thể hiện vai trò tiên phong trong quá trình khẩn hoang, lập thôn ấp, góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy và phát triển kinh tế - xã hội, cố kết cộng đồng, ổn định nhân tâm, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa có cùng số phận lịch sử, chung sống ở vùng đất này. Các đồn, bảo ở vùng Châu Đốc còn là công cụ đắc lực của nhà nước phong kiến Nguyễn để quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, bảo vệ trật tự an toàn địa bàn, chiến đấu chống xâm lược, góp phần phát triển vững chắc vùng đất Châu Đốc trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, không thể tách rời của quốc gia Đại Nam.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:24:58 am
3. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG QUAN LẠI Ở CHÂU ĐỐC CỦA TRIỀU NGUYỄN

Việc đặt quan chia chức "phương bá châu mục" ở các địa phương vốn ra đời từ lâu trong lịch sử và ở mỗi thời kỳ, mỗi triều đại có sự xếp đặt khác nhau. Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, Nhà nước đặt quan ở các địa phương luôn đều có mục đích dùng các quan thay mặt triều đình để giữ nước, trị dân.
Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, các triều đại luôn lấy việc phong tước dựng quan chức là một chính thể lớn của nhà nước. Đặc biệt, đến thời Nguyễn, khi tình hình đối nội, đối ngoại trở nên khó khăn: tình trạng bất an trong xã hội, những cuộc náo động của nông dân, chiến tranh thường xuyên ở vùng Tây Nam, âm mưu cướp nước của chủ nghĩa thực dân phương Tây... đã đặt lên vai nhà Nguyễn một lúc nhiều gánh nặng.


Sau năm 1802, những lực "ly tâm", "cát cứ", địa phương tự trị, "chứng bệnh kinh niên" của lịch sử, đang là một trở ngại lớn cho triều Nguyễn, mâu thuẫn với ý muốn tập trung quyền lực vào tay chính quyền Trung ương.


Đối với các trấn tỉnh, những phên che "quan trọng" ở biên thuỳ, triều Nguyễn bằng nhiều đợt tuyển cử, nhiệm cử, khoa cử... để "tuyển hiền" (tuyển chọn người hiền tài) vào đảm đương chức thú mục ở các địa phương. Bởi vì, triều Nguyễn coi các viên tổng đốc, tuần phủ "là những bậc trọng thần ở nơi biển khổ" [108, tr.43].


Các vua Nguyễn đã rất nhiều lần răn dạy các quan trong ngoài. Vua Tự Đức nói: "Quan giữ việc ngoài biên khổn, họ cho là cửa quan ở xa muôn dặm, cái tệ ấy quá lắm. May mà có người giác ra. Tìm cách trị dần, cũng chẳng qua đáng một hai phần mười thôi. Còn những việc trong lúc tối tăm lại khéo che đậy thì lại chẳng biết gấp bao nhiêu lần nữa" [106, tr.333].


Vì vậy, dưới thời Nguyễn, triều đình rất thận trọng khi kén quan lựa tướng đi làm các chức "thú mục" ở các tỉnh hạt, biên cương. Vua Minh Mệnh từng có lời dụ: "chức đại thần nơi biên cương, kén chọn không thể không cẩn thận". "Trẫm vì kế hay cho tôn miếu xã tắc, muốn được người giỏi nên gia tâm kén chọn, không dám khinh suất làm bậy" [86, tr. 59]. Tuy nhiên, việc kén quan chọn tướng xếp đặt ở từng tỉnh hạt cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đức độ, tài năng... và tình hình cụ thể ở từng địa phương để xếp đặt. Sau đây, thử tìm hiểu việc sử dụng quan lại ở một vùng đất cụ thể, tỉnh An Giang nhà Nguyễn.


Năm 1832, triều Nguyễn xếp đặt lại tổ chức hành chính các tỉnh phía Nam, lập nên tỉnh mới An Giang. Tuy đến năm 1832, Châu Đốc mới là "tỉnh lỵ", nhưng thực tế từ năm 1812 đất Châu Đốc đã thành trấn lỵ khi viên trấn thủ Lưu Phước Tường không còn ở trấn lỵ Vĩnh Thanh, mà theo lệnh triều đình phải đến "án thủ" đồn Châu Đốc, lãnh bảo hộ Cao Miên quốc ấn và kiêm quản việc Hà Tiên trấn biên vụ. Từ đó về sau, trên thực tế đồn Châu Đốc trở thành nơi trấn nhận của viên trấn thủ và là dinh của quan bảo hộ Chân Lạp.


Nhà Nguyễn nhận thức rõ vị trí "hiểm yếu" của đất Châu Đốc, phía Nam giữ yên Chân Lạp, phía Tây khống chế Xiêm La, là phên che lớn của nước. Thiệu Trị đã nói: "tỉnh An Giang là nơi trọng yếu ở biên thuỳ, lại giáp giới nước Xiêm La, công việc điều độ quan hệ không phải là nhỏ" [103, tr. 81]. Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt cũng cho: "Châu Đốc là nơi địa đầu biên viễn, mà Chân Lạp lại là nước phiên phụ, dùng người hay hay dở có quan hệ cho việc biên giới" [89, tr. 255].


Ở vào vị trí "trọng trấn" cõi biên thuỳ, vì vậy dưới triều Nguyễn, Châu Đốc - Hà Tiên là chiến trường chính của các cuộc xâm lược từ phía Xiêm, Chân Lạp. Hơn nữa, là vùng đất mới ở Tây Nam, nhu cầu khẩn hoang mở rộng diện tích canh tác, đẩy mạnh lập thôn ấp, chiêu mộ dân cư, phát triển cơ sở xã hội cho chính quyền phong kiến ở đây luôn được gắn liền với vấn đề quản lý và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. So với các vùng khác ở đất Nam Kỳ vấn đề khai phá và bảo vệ Châu Đốc từ năm 1757 đến năm 1867 là thời kỳ bản lề rất quan trọng đối với sự thống nhất quốc gia dưới triều Nguyễn. Đặc biệt, ở tuyến biên giới Tây Nam.


Vì vậy, khi kén tướng cho đi trấn nhậm vùng đất An Giang, triều Nguyễn rất thận trọng. Dư âm nặng nề về vụ việc trấn thủ Lưu Phước Tường cùng cai bạ Lê Đắc Tần, ký lục Trần Bá Bảo trong thời kỳ "án thủ" ở đồn Châu Đốc (1812-1816) nhũng lạm dân, đã để lại những hậu quả tai hại. Về sau, cuối đời Minh Mệnh, viên thự án sát Nguyễn Nhật Thạnh vì "trị dân phòng giặc không đúng phương pháp" đến nỗi Thổ dân không yên tĩnh, người Thổ ở biên giới nổi lên chống lại triều Nguyễn, triều đình phải rất vất vả mới dẹp yên được. Cho nên, việc đặt quan ở An Giang hay hay dở có quan hệ rất lớn đến tình hình trị loạn ở biên giới. Vua Thiệu Trị nói: "chức đại thần ở nơi biên cương, kén chọn không thể không cẩn thận" [101, tr.285]. Những viên quan chọn bố ở An Giang phải được kén chọn không chỉ có tài làm tướng mà còn phải là người có kinh nghiệm và từng trải. Như năm 1817, đình thần chọn cử ký lục Quảng Đức là Nguyễn Văn Hưng đi làm ký lục trấn Vĩnh Thanh, vua Gia Long không cho vì cho rằng: "Hưng tuổi còn ít, huyết khí đương hăng, nên để ở kinh kỳ không nên đi biên cương xa xôi" sợ không đương nổi chức [84, tr.333].


Năm 1840, khi chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra, người Khmer ở Thất Sơn và ở Chân Lạp bị Xiêm ngầm xúi giục chống lại sự bảo hộ của nhà Nguyễn. Triều đình kén tướng, viên Tả đô ngự sử ở Viện Đô sát là Nguyễn Công Trứ xin đi. Xét thấy Nguyễn Công Trứ là bậc văn võ toàn tài, là một con người "danh bất hủ" [126, tr.3] "người trác lạc, khí hào mại" [114, tr.376], không chỉ quen thạo việc khẩn hoang ở Nam Định, Ninh Bình, "Lĩnh chức điền sứ một năm mà mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành mối lợi vĩnh viễn", mà còn đã từng đánh dẹp cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định (1826), dẹp "giặc" ở Quảng Yên (1838), đánh Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (1833), là một vị tướng thạo việc quân cơ nên triều đình cử Nguyễn Công Trứ đi đánh giặc ở Tây Nam [100, tr.345]. Ông được giữ chức Tán lý cơ vụ, sau lại được nhận chức Tham tán đại thần, rồi làm Tuần phủ An Giang. Dù ông có tài "kinh bang tế thế", "vua biết mặt, chúa biết tên" nhưng vì sự thế khó khăn ở biên giới phía Tây, rồi bị viên tổng đôc An - Hà là Nguyễn Công Nhàn bày mưu hãm hại 2 lần, dù vô tội nhưng ông vẫn bị vua cách tuột sung lính thú ở Quảng Ngãi. Ông nếm mùi vinh lẫn nhục, "lên voi xuống chó" ở mặt trận Tây Nam mấy lần trong ba năm. Đúng là thời đại tạo nên ông và ông cũng chính là nạn nhân của thời đại.


Chiến tranh biên giới Tây Nam kéo dài mãi, binh sĩ "gối giáo nằm mác" nhiều năm mà chưa thôi, nhiều binh tài tướng giỏi triều Nguyễn đều cử đến đây. Ngoài Nguyễn Công Trứ, có Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng, Phạm Văn Điển, Vũ Văn Giải, Lê Văn Đức, "những danh thần túc tướng, trong đám học vấn biết cả văn lẫn võ", đều được sai đi đánh giặc ở Tây Nam.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:25:44 am
Trong số đó, đặc biệt có Nguyễn Tri Phương - Thượng thư Bộ binh, vốn là một văn quan nhưng dũng cảm, khí lược, thạo việc hàng trận. Triều Nguyễn thường cử ông đi những chiến trường nóng bỏng, vì ông được coi là viên đại tướng nổi danh nhất thời bấy giờ, "vị tướng số 1 của nước Việt Nam thế kỷ XIX" [145, tr.113] dũng mãnh và lắm mưu chước, vua Tự Đức cho là "khó kiếm được người như thế". Khi vào từ biệt bệ rồng đi biên giới Tây Nam, vua yên ủi, nói rằng: ngày xưa có câu "không gặp được chỗ gốc vặn thớ quánh, thì không phân biệt đồ dùng sắc bén" [101, tr.154]. Khi đối trận, Nguyễn Tri Phương lấy mưu mà đánh địch, dùng trí lực mà phục được người Ba Đà (phong tục ký người Chân Lạp gọi người Thổ là người Ba Đà), được vua sắc cho "An Tây trí dũng tướng". Năm 1847, khi nghị công các tướng về việc biên thuỳ Tây Nam, vua dụ rằng: An Tây trí dũng tướng Nguyễn Tri Phương mới nhận trách nhiệm ký thác biên khổn, lịch duyệt nơi cương trường, một lần cất quân (mà bình được giặc); hai lần khiến cho tù trưởng Man mất vía, cõi xa quy thành. Thực là văn thần mạnh thay công võ" [104, tr.325]. Vì công huân đó, Nguyễn Tri Phương được phong tước Tráng liệt tử. Sau đó, được cùng cô mệnh lương thần Trương Đăng Quế và đại thần Vũ Văn Giải làm phụ chính đại thần [104, tr.392].


Trong thời kỳ làm tổng đốc An - Hà (1844-1845), sau đi đánh giặc ở Trấn Tây (1845), cũng như mang cờ tiết đến miền Nam làm Kinh lược sứ Nam Kỳ (1853-1858), là người đức độ tài trí, Nguyễn Tri Phương đã "hưng việc lợi trừ việc hại", chỉnh đốn quan lại, họp yên nhân dân, chiêu tập dân làm đồn điền được 24 cơ, An Giang có 4 cơ, lập 124 làng ấp, trong đó An Giang có 23 làng ấp, làm cho biên giới đủ lương thực, khoan dung cho kẻ phạm trốn ra thú, để hết giặc cướp, xử việc hình ngục, xét hỏi kẻ gian, khoan ngạch thuyền, hoãn điều lính, gồm 13 việc, được vua cho là bề tôi giỏi kỳ cựu vốn tỏ ra trung thành thưởng cho gia nhị cấp. Làm cho 6 tỉnh được mùa thóc gạo đầy đủ [104, tr.437].


Năm 1858, khi Pháp đánh Đà Nẵng quyết liệt, Nguyễn Tri Phương được điều ra mặt trận Đà Nẵng. Năm 1861, khi Pháp đánh Nam Kỳ, vua cho là làm tướng cai quản Nam Kỳ không ai bằng Nguyễn Tri Phương, lại sai ông đi. Sau lại đến mặt trận Biên Hoà, Bình Thuận, Tuyên Quang, Tây Bắc, đánh thắng giặc biển ở Cát Bà, Phù Long,...


Nguyễn Tri Phương không chỉ là một đại tướng có tài đánh dẹp và vỗ yên, mà còn là một văn quan, "thuần thần, túc tướng". Năm 1865, khi ông trấn nhậm Hải Yên, nơi đây bị hạn nặng. Nguyễn Tri Phương "đảo vũ" ở Đường Sơn được mưa lớn mấy ngày, khi dâng trình văn khấn, vua nói rằng: "Đọc văn khấn của khanh thấy lòng thành chan chứa, mà ta không ngờ rỏ nước mắt tràn xuống mặt mà khóc nức nở" [104-449].


Vì vậy, năm 1866 xét công vua cho Nguyễn Tri Phương có nhiều công lao gánh vác việc nặng nề, khó kiếm được người như thế, thăng thụ cho điện hàm Vũ hiển điện đại học sĩ và nói rằng, viên ấy là đại thần có công khó nhọc, quân công rõ rệt cho nên đặc biệt ưu đãi [104, tr.452]. Ông được tước thái tử thái bảo Võ hiển điện đại học sĩ, Trí dũng tướng, Tráng liệt bá..., được ban gươm vàng cung ngọc. Tự Đức nói rằng: "khanh là bậc công thần túc tướng, uy phong lừng lẫy, trải thờ 3 triều, đánh hơn trăm trận, trước dẹp phương Nam, nay yên đất Bắc, một lòng yêu nước thương dân, chẳng nài khó nhọc" [145, tr.151]. Tên thật ông là Nguyễn Văn Chương, năm 1850 vua Tự Đức đặt cho tên là Nguyễn Tri Phương, lấy ý theo câu "Dũng thả tri phương", nghĩa là dũng mãnh mà lắm mưu chước [145, tr.73]. Năm 1873, khi thực dân Pháp đánh thành Hà Nội, ông đã tuẫn tiết bỏ mình vì nước.


Trong việc đánh giặc ở biên giới Tây Nam, ngoài Nguyễn Tri Phương, còn có viên tỉnh thần An Giang Hữu tham tri Bộ hô - Doãn Uẩn, được bổ làm Tuần phủ An Giang (1844), năm sau được thăng Thượng thư Bộ binh và năm 1847 được thăng Tổng đốc An - Hà. Khi chọn các tướng Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng nhận lãnh trách nhiệm biên giới An Giang, vua Thiệu Trị nói rằng: Ba người này "tất cả đều là danh thân túc tướng, trẫm đã biết rõ nên mới lựa chọn đặc phái" [103, tr.331]. Vua Thiệu Trị rất khen tài đánh giặc của Doãn Uẩn "cất ngay quân đi làm vang dậy tiếng tăm quân sĩ", "mình ở đội trước lập được công đầu... đều ra lắm mưu lạ, nắm phần thắng, vỗ về biên cảnh, bình định nơi xa".


Trong việc biên giới Tây Nam, Doãn Uẩn là người có bản lĩnh, có công trạng, biết cả văn lẫn võ, nên được triều đình ban tước vinh phong "Tuy tĩnh tử", rồi "Tráng liệt tử", "Mưu lược tướng", được khắc tên vào bia đá, dựng bia vũ miếu, vũ công. Ông cũng là người lập nên chùa Tây An ở núi Sam, Châu Đốc.


Tháng 11 năm Kỷ Dậu (1849), Doãn Uẩn mất ở nơi làm quan. Ông là người lúc còn sống vì nước hết sức khó nhọc, có tiếng là liêm chính và tài năng nên được triều đình truy tặng hàm Hiệp biện đại học sĩ, hậu cấp thêm tiền tuất ngoài lệ là 300 quan, sai vát thuyền hộ đưa linh cữu về nguyên quán ở Nam Định và sai tỉnh thần đến tế. Rồi sau đó, viên tổng đốc An - Hà mới là Cao Hữu Bằng tâu rằng: Doãn Uẩn là người công bằng, trung trực, thanh liêm, cẩn thận, sau khi chết không có một chút tài sản gì, xin đặc cách ra ơn cho. Vua bèn cho thêm 500 quan tiền, 100 phương gạo để chi dùng về việc đưa đám và cho vợ con no đủ hằng ngày, "để khuyến khích người làm quan thanh liêm, nêu lên người làm tôi tài năng" [105, tr.204].


Quan tỉnh An Giang còn có Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng, xuất thân từ chôn quân ngũ, thường đi đánh dẹp, "sức mạnh như gấu", "mình đi trước quân hùng" lập công binh nhung. Được vua khen là "thân trải nơi hàng trận, buộc vết thương để giết giặc, cất nhắc cho người thuộc quyền, đi đầu quân sĩ ra sức đánh khoẻ" được vua phong tước Vũ xá tử [104, tr.307].


Trong số các tỉnh thần An Giang, Trương Minh Giảng cũng là một trường hợp khá đặc biệt. Ông là người lãnh chức tổng đốc An - Hà lâu nhất (1833-1841), mang ấn bảo hộ Cao Miên và tướng quân ở Trấn Tây 8 năm trời, thời kỳ vất vả gian lao vào bậc nhất ở biên giới Tây Nam. Năm 1833, từ Hộ bộ Thượng thư ông được cử làm Binh bộ Thượng thư, lãnh Tổng đốc An - Hà và ấn Bảo hộ Chân Lạp (việc dùng văn thần làm chủ tướng bắt đầu từ Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng). Cuối năm ấy, quân Xiêm xâm lược Chân Lạp và Nam Kỳ, đồn Châu Đốc bị thất thủ. Trương Minh Giảng cùng tướng Nguyễn Xuân đánh bại quân Xiêm một trận vang dội ở Thuận Cảng - tức Vàm Nao (huyện Đông Xuyên) phải bỏ chạy về nước. Do công lao này, ông được tấn phong tước Nam và được thưởng tiền vàng để biểu dương chiến công [91, tr.376].


Năm sau ông được phong tước Bình thành tử, lại thăng thụ Hiệp biện đại học sĩ. Ông là người "gối giáo nằm mác" cùng binh sĩ nơi chiến trường lâu năm, có nhiều công lao đặc biệt, nên được vua tỏ ân vinh đặc biệt, cho về Kinh làm lễ ôm gối (lễ bão tất), để tỏ ra thân ái tin dùng và lễ số khác thường đãi đại thần có công. Vua dụ rằng: Trương Minh Giảng trước đây đi đánh giặc Khôi (Lê Văn Khôi), sau lại dẹp yên giặc Xiêm,... Khi ấy đi đánh chính là lúc khí giặc đương thịnh, thế mà một trận đánh ở biên Hoà, Vĩnh Long, đầu tiên nén được sức mạnh của giặc, đề nghịch tặc từ đó sợ hãi mất vía, giữ cô thành khôn đốn để dễ cho ta đánh giữ. Việc ấy thực là quân công thứ nhất. Sau khi giặc Xiêm đem quân cả nước đến xâm chiếm... Giảng lại đem số quân mấy nghìn, dùng cách lấy ít chống nhiều, ứng biến nghĩ ra mưu lạ, nhiều lần đại thắng trận, bọn giặc sợ trốn, biên giới vỗ yên, thì so với các quan ta đem quân khi trước thực có phần hơn. Vua đặc cách ban cho "con hổ vàng" lấy nghĩa hổ thần mạnh mẽ [98, tr.236]. Sau tấn phong cho Trương Minh Giảng thự Đông các đại học sĩ, gia hàm Thái tử thái bảo và tước Bình thành bá [99, tr.5]. Ngươi đời sau khen ông "tài kiêm văn võ", khi ở quận (ông đỗ cử nhân 1819, người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định) thì đem thiện chính giúp dân, đến khi tại triều thì mưu mô giúp chúa. Khi làm chủ khảo để kén người tài, khi tu Liệt truyện (làm sách Đại Nam liệt truyện) để cho mai hậu, rồi lại đem tài thao lược, dẹp loạn yên dân, bảo hộ nước ngoài, mở mang bờ cõi, công nghiệp ghi tại sử xanh, tên tuổi đứng đầu bia đá [113, tr.381]. Ông là người lao nhọc bao nhiêu năm ở biên ải, sau đau buồn vì chuyện Trấn Tây nên đổ bệnh mà chết. Xét ra trong việc kinh lý biên giới Tây Nam, Trương Minh Giảng là người có công hàng nhất. Sau ông được nghị miễn truy nghị tội, tên được khắc vào bia đá và thờ ở đền Hiển lương [114, tr.385].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 14 Tháng Bảy, 2021, 10:26:47 am
Trường hợp tướng Phạm Văn Điển, khi biên thùy Tây Nam không yên, ông hăng hái xin đi, vua cử làm Tổng đốc An - Hà (1841, tr.1842). Ông là người trung dũng, đi trận có nhiều công, xông pha trận mạc, lập công ở biên thùy. Năm 1842, khi đang đánh giặc ở quân thứ Thất Sơn thì bị bệnh, chết ở An Giang. Vua thương tiếc nói rằng: "Phạm Văn Điển đánh giặc rất giỏi... đang đợi ghi công ăn mừng, ơn vinh còn mãi, ngờ đâu một căn bệnh nặng đã vội từ trần, khiến người thương xót không nguôi". Vua Tự Đức cho gia tặng Tả quân Đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự, sai thuyền hộ tống và cho con là Phạm Văn Huy đi phù cữu về chỗ ở trong Kinh, ban tế 2 đàn "đê thương tiếc người huân cựu" [102, tr.117].


Một trong những viên tỉnh thần có công lớn nhất đối với vùng Châu Đốc. An Giang là quan Thống chế Thoại Ngọc Hầu. Ông sinh năm 1761, là công thần Vọng Các, theo chúa Nguyễn Ánh từ lúc 16 tuổi. Cuộc đời làm quan 52 năm (1777-1829) của ông trải 7 lần sang Xiêm, 2 lần sang Lào, nhiều lần đánh dẹp, quen làm tướng chốn biên thuỳ Lạng Sơn, Định Tường, Chân Lạp, An Giang... Trải 2 triều vua Gia Long, Minh Mệnh, số phận ông gắn chặt với biên thuỳ Tây Nam. Vì thế, năm 1812 khi Gia Long sai ông đi bảo hộ Chân Lạp dụ rằng: "vỗ về phiên thuộc trị yên nơi biên cương, cần phải được người mới có thể tuyên bố oai đức của triều đình để giữ vững bờ cõi của ta, ngươi đối với nước man Xiêm, Lạp nhân vật, phong tục, núi sông chỗ hiểm, chỗ bằng đã quen thuộc lắm, cho nên giao cho ấn Bảo hộ Chân Lạp, coi việc ngoài biên từ lâu đến nay thực cũng xứng chức" [86, tr.75]. Với vùng đất An Giang, khi ông 2 lần làm trấn thủ, 3 lần án thủ đồn Châu Đốc, lãnh Bảo hộ Cao Miên quốc ấn kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, ông đã làm thay đổi lớn lao vùng đất này: Đào kênh Thoại Hà (1817), khơi kênh Vĩnh Tế (1820-1824), lập 5 làng ở cù lao Dài (Vĩnh Long), lập 20 thôn ở vùng Châu Đốc, đắp 2 con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò, sốc Vinh, Chân Lạp, một đường từ Châu Đốc đến núi Sam, làm cầu, khẩn hoang, chiêu tập dân cư, khuyến khích khai phá, giúp đỡ lưu dân, xây lăng, tô tượng, dựng chùa, lập đền, làm miếu thờ tiền nhân Nguyễn Hữu Cảnh, mượn thóc công cho dân vay rồi lấy của nhà đem trả nợ công, bố ân thí đức... làm cho đất biên thuỳ ngày một mở mang, phát triển,...


Do công lao, đức độ của vợ chồng ông, nên triều đình lấy tên ông đặt cho con kênh ông đào là kênh Thoại Hà, núi Sập bên kênh được mang tên ông là Thoại Sơn. Kênh Tuấn ông đốc suất đào được lấy tên vợ ông Châu Thị Vĩnh Tế để đặt tên kênh "Vĩnh Tế", núi Sam ở Châu Đốc được đặt là Vĩnh Tế Sơn, làng bên kênh được đặt là Vĩnh Tế Sơn thôn. Nhân dân Châu Đốc tri ân, tôn ông là Thành hoàng của làng và nhiều nơi đặt bài vị thờ ông: đình thôn Vĩnh Tế, Chu Phú, Vĩnh Ngươn, núi Sập (Thoại Sơn). Vì ơn ông Bảo Hộ, vua Chân Lạp cắt đất ba phủ Chân Sâm, Mật Luật và Lợi Y Bát tặng cho ông... Thành tích kiến quốc, công lao "khai sơn phá thạch" của ông thật lớn đối với nhân dân Châu Đốc, như câu đối ghi ở lăng Thoại Ngọc Hầu "ơn Nam đầy núi sông". Triều đình ban sắc phong cho ông làm Thành hoàng làng Vĩnh Tế. Ông thực sự là người "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, thác làm thần) như bức liễn ở đình Chu Phú cùng thờ ông và Nguyễn Hữu Cảnh đã ghi. Lịch sử đã và sẽ ghi công ông cũng như nhân dân cũng luôn dành cho ông một niềm tôn kính.


Như vậy, là vùng đất mới ở biên giới Tây Nam, Châu Đốc có vị trí chiến lược về kinh tế, xã hội và quốc phòng..., cho nên yêu cầu quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ luôn gắn liền sự phát triển kinh tế, xã hội, phát triển khẩn hoang, lập làng, củng cố cơ sở xã hội của Nhà nước phong kiến. Vì thế, ngoài những tướng tài đánh giặc, những võ quan, triều Nguyễn luôn cử đến An Giang các vị văn quan có tài "kinh bang tế thế" để giữ nước trị dân, phát triển kinh tế - xã hội như Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ... Trong những thời kỳ các vị quan này trấn nhậm 1817-1829, 1830-1840, 1744-1845, 1850-1859... bộ mặt vùng đất Châu Đốc đã có những thay đổi lớn lao, kênh đào được mở mang làm cho tốc độ hình thành thôn ấp, khẩn hoang phát triển mạnh mẽ, dân cư tăng lên nhanh chóng, tạo nên cơ sở xã hội và kinh tế cho chính quyền phong kiến Nguyễn, làm cơ sở nền tảng cho sự củng cố, ổn định xã hội, tác động mạnh mẽ đến chính sách quản lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ vùng biên thuỳ Tây Nam, góp phần an dân, hạn chế những cuộc bạo động chống nhà Nguyễn trong những dịp đói kém, mất mùa, dịch bệnh, tai ương,...


Từ năm 1757 đến năm 1867, An Giang - Hà Tiên cũng như Nam Kỳ, là vùng đất mới của triều Nguyễn, lại ở gần Cao Miên và Xiêm La. Các nước này, lúc cần thì họ cầu cứu triều Nguyễn, nhờ triều Nguyễn giúp đỡ, nhưng lúc họ được yên hoặc bị nước khác xúi giục thì họ kiếm cách phá rối biên thuỳ, gây tình trạng bất ổn định ở Tây Nam, thậm chí làm cho chiến tranh biên giới nhiều lần xảy ra. Vùng dân tộc ít người ở Thất Sơn và các nơi khác ở Nam Kỳ "thiếu tổ chức nhưng không thiếu lòng hiếu chiến", nên cũng thường quấy rối ở vùng biên giới. Thêm vào đó, quan quân triều Nguyễn ở xa có người lạm quyền, tham nhũng, quấy nhiễu nhân dân làm cho lòng dân không yên và dễ cho dân nổi dậy chống lại triều Nguyễn hay làm cớ cho giặc ngoài đến dụ hoặc [145, tr.227]. Vì thế, vùng đất An Giang - Hà Tiên là nơi luôn phải đương đầu với những cuộc chiến liên miên, chủ quyền lãnh thổ quốc gia luôn bị uy hiếp.


Cho nên, triều Nguyễn luôn chọn đến đây những binh hùng tướng mạnh: Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ, Phạm Văn Điển,... để không chỉ chống giặc ngoại xâm, giữ cho được "cổ họng", "cửa ngõ" phía tây của Nam Bộ. Nếu không, một khi hàng rào Hà Tiên, Châu Đốc bị mất, thì nguy cơ cũng sẽ đe dọa đến cả miền Gia Định.


Trong đầu thời Nguyễn, Gia Long khi mới lên ngôi, tạm thời thu dùng những người vũ dũng để giúp nghiệp lớn, làm quan cai trị một thời. Nhưng đến Minh Mệnh, khi thiên hạ đã "bình định" rồi thì tất nhiên không thể tiếp tục giao quyền cho họ, mà nhất thiết phải dùng đến các văn quan (đặc biệt từ thời Minh Mệnh trở đi, chế độ thi cử, tuyển lựa nhân tài đã đi vào quy củ) các vua Nguyễn mới "gối cao nằm yên", vô lo được. Tuy nhiên, đối với vùng đất như biên giới Tây Nam, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội luôn gắn chặt với chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thì triều Nguyễn phải chọn cử những viên quan biết cả văn lẫn võ như Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Công Trứ là những Nho tướng, "thuần thần túc tướng" được chọn mặt gửi vàng cho đi An Giang để gánh vác những trọng trách.


Cho đến năm 1867, dù có những toan tính của ngoại bang, nhưng triều Nguyễn vẫn đã bảo toàn được chủ quyền lãnh thổ của mình ở đất Tây Nam. Vấn đề này liên quan đến sự hy sinh chiến đấu, sự xả thân vì lợi ích quốc gia của những viên tỉnh thần Tây Nam cũng như chính sách sử dụng quan lại của triều Nguyễn thời kỳ này.


Tuy nhiên, sự tập trung quyền lực cao độ vào tay một ông vua, cực quyền, dù được mệnh danh là người "cầm cân nẩy mực", thưởng phạt để đảm bảo sự nghiêm minh của phép nước... tất cả đều phụ thuộc vào một tính cách của một ông vua. Lòng đố kỵ, quá nghiêm khắc và việc giết hại các công thần nguyên huân lập quốc vì những chuyện nhỏ cũng như việc "ân mọn uy to",... đối với những người có công, thân trải tràm trận, đền nợ nước nơi biên cương như Thoại Ngọc Hầu, Trương Minh Giảng... hoặc bị vu oan nhiều lần nhưng vô tội như Nguyễn Công Trứ vẫn bị cách tuột đi thú ở Quảng Ngãi, bị giáng truất như Nguyễn Tri Phương..., dù lúc cụ 74 tuổi vẫn phải đem thân mình ra ngoài trận mạc, cụ đã bị thương, đã chết vì không chịu được cái nhục bại trận mất thành, cụ đã nhịn ăn bỏ thuốc và tuẫn tiết. Những sự đối xử đó của vua Nguyễn cùng với chính sách đãi ngộ, sử dụng quan lại của các địa phương còn nhiều bất cập, gây nên cho xã hội Việt Nam lúc đó cũng như về sau những hậu quả khôn lường.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:25:52 pm
4. CHÍNH SÁCH KINH TẾ - QUỐC PHÒNG Ở VÙNG ĐẤT BIÊN GIỚI

Đến thời Nguyễn, nền kinh tế Việt Nam vẫn là kinh tế nông nghiệp truyền thống mà lúa nước vẫn là cây lương thực chủ yếu. Nhà Nguyễn vì vậy vẫn phải lấy "dĩ nông vi bản", vẫn duy trì "chính sách trọng nông", cho nên các mặt khai hoang, lập đồn điền và đi đôi với nó là việc đào sông, khơi ngòi, làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp được chú ý.


Đến thời Nguyễn, nhà nước phong kiến cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong công tác trị thủy, trình độ nhận thức các mặt về trị thuỷ đã được nâng cao. Nhiều kinh nghiệm quý báu về quản lý công tác thuỷ lợi của các triều đại trước đã truyền kế lại, đất nước hoàn toàn thống nhất, nhà Nguyễn có đủ thuận lợi để thể hiện những công cuộc thuỷ lợi to lớn và toàn diện hơn. Trên phương diện nào đó, vương triều Nguyễn, nhất là Gia Long và Minh Mệnh đã đắp một khối lượng đê nhiều nhất và cũng đã đào một lượng sông đê thoát lũ to lớn nhất. Nói cách khác là vương triều Nguyễn đã có những cố gắng cao nhất cho công cuộc trị thuỷ trên cả nước [44, tr. 267],


Khi mới lên ngôi, Gia Long đã chú trọng phát triển nông nghiệp. Trong 20 năm trị vì của ông vua này, lịch sử đã ghi nhận biết bao nhiêu nỗ lực của nhân dân ta đôi với hai vấn đề lớn quyết định nông nghiệp và phát triển kinh tế, xã hội. Đó là trị thuỷ ở Bắc Hà và đào kênh rạch khai khẩn đồng bằng Nam Bộ. Nghĩa là, đi đôi với công tác trị thuỷ, bảo vệ sản xuất và đời sống ở Bắc Bộ, công tác đào kênh rạch, phát triển dân cư, mở mang nông nghiệp ở Nam Bộ cũng được tập trung cao. Đó là việc đào kênh Bảo Định (1705), kênh Ruột Ngựa (1779), kênh Cái Cỏ (1815), kênh Thụy Hà (1817), kênh Vĩnh Tế (1820-1824), kênh Trà Cú (1829), kênh Vĩnh An (1843-1844),... [77, tr.99].


Công tác đào kênh ở Nam Kỳ được đặc biệt quan tâm ở vùng đất Châu Đốc. Trong đó, công trình trọng điểm có tầm quan trọng chiến lược cũng như có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt nhất là kênh Vĩnh Tế ở vùng Châu Đốc. Kênh này dài gần 100km, nối liền sông Hậu ở đồn binh Châu Đốc với Hà Tiên, dọc theo chính diện biên giới.


Mặc dù, đến đầu năm 1820 kênh Vĩnh Tế mới được khai đào, nhưng công tác chuẩn bị trước đó đã 4 năm. Thể hiện sự quan tâm khá đặc biệt của vua Gia Long. Ngay từ đầu năm 1816, Gia Long có kế hoạch đào kênh này dài hơn nhiều.


Tháng 4 Bính Tý (1816), triều đình nghị bàn việc đào sông Châu Đốc, Gia Long sai Lưu Phước Tường, Nguyễn Đức Sĩ đo đường đất từ Châu Đốc đến Hà Tiên rồi vẽ bản đồ dâng lên [84, tr.286]. Tháng 12 năm Bính Tý (1816); khi xem bản đồ Châu Đốc, Gia Long nói với các thị thần: "Đất này mở đường sông để đi thẳng đến Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn" [112, tr.96].


Theo số liệu đo đạc của triều Nguyễn cho thấy, trên thực tế, kế hoạch đào sông của vua Gia Long không phải chỉ giới hạn từ Hà Tiên đến Châu Đốc mà còn có thêm một đoạn từ sông Hậu (Châu Đốc) kéo dài đến sông Tiền nữa.


Bảng số liệu đo đạc từ sông Tiền - Châu Đốc - Hà Tiên năm 1816 của nhà Nguyễn thể hiện rõ điều này.

(https://i.imgur.com/hN6Fbc4.jpg)
(https://i.imgur.com/ceLgqih.jpg)



Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:26:56 pm
Việc dự định kế hoạch đào sông Vĩnh Tế còn được thể hiện trong chiếu của vua Gia Long ban vào năm 1816, khi xây đắp đồn binh Châu Đốc: "Vua nước Cao Man đời đời giữ phong tước Phiên vương, được triều đình giữ cho yên ổn. Nay sửa sang đồn Châu Đốc, một là để tiếp ứng ủng hộ thành Nam Vang, hai là để giữ mặt sau trấn Hà Tiên. Nhưng từ đồn Châu Đốc đến Hà Tiên đường sông trở tắc. Vậy đặc biệt dụ cho vua nước ấy, liệu bắt quân dân giao cho viên quan Phiên giỏi giang đốc suất. Hẹn tháng này họp đủ ở Châu Đốc. Cứ theo quan giám thành trấn thủ Vĩnh Long1 (Thực tế lúc này tên trấn là Vĩnh Thành, đây ghi theo tên trấn mới đổi thành là Vĩnh Long từ năm 1832) chỉ bảo mà cho chặt đẵn gai góc khai thông dòng kênh. Việc chi cấp tiền gạo, cứ theo thành Gia Định chở đến Châu Đốc mà cấp phát". Sau lại ban sắc rằng: lần này khai thông đường sông, từ đồn Châu Đốc đến cửa Trác Ý Hâm chưa từng đo đạc. Trước đã bắt 1.000 quân Cao Man đến làm. Nên đình bãi cho về làm ăn. Chờ khi đo xong, lại bắt đến đủ để khai đào [68, tr.21]. Đến tháng Giêng Đinh Sửu (1817). Vua bàn muốn lấy quân dân Chân Lạp đào vét đường sông Châu Đốc. Nguyễn Văn Nhân can rằng: Nay dân nước Phiên mới phụ, nếu lấy việc thổ mộc phiền nhọc, thần sợ họ kinh động mà công việc khó thành. Xin hãy tạm thôi. Vua theo lời [84, tr.309].


Thời gian này vua Gia Long nói với thành thần Gia Định: nếu vua Phiên đến thành thì nên lấy điều lợi về đào sông Châu Đốc mà bảo, khiến quy hoạch trước, đợi ngày chiếu văn đến thì phát ngay quân dân ra góp sức đào để chóng xong việc [84, tr.324]. Khi vua Chân Lạp sai sứ sang chầu (1817), Gia Long truyền dụ: "Ta sẽ đào sông Châu Đốc thông với Hà Tiên, tuy là lợi cho nước mày, nhưng cũng lợi chung cho mấy người đi cày và mấy người đi buôn nữa. Về nói với vua mày phải hiểu ý ấy mới được" [112-99].


Năm 1818, để công tác đào sông này được chu đáo vua ban sắc cho trấn Vĩnh Thanh phát giao bản đồ, sai làm việc cắt phát cỏ rả, cho đào thí điểm một khúc sông dài 150 trượng, rộng 3 trượng, sâu 4 thước để chiết toán nhân công xem mỗi người mỗi ngày đào được bao nhiêu trượng thước [68, tr.209]. Trong thời gian chuẩn bị, triều đình lại sai trấn thủ Hà Tiên là Mạc Công Du đi đo đường sông Châu Đốc một lần nữa và vẽ bản đồ dâng lên [84, tr.386]. Khi Chiêu thùy (một chức quan của Chân Lạp) là Đồng Phù sang chầu, vua Gia Long triệu vào hỏi việc đào sông. Đồng Phù nói: "Khai sông ấy thì dân Chân Lạp được nhờ lợi, vua Phiên cũng muốn như thế" [112, tr.104].


Gia Long chiếu dụ dân Vĩnh Thanh (1819) rằng: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thuỳ đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc mà thực có lợi muôn đời. Vậy nên bảo nhau đừng sợ khó nhọc", lại dụ vua Chân Lạp rằng: "Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này không những lợi cho người Hán (Việt) mà còn lợi cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp nhân dân, bảo cho biết ý nhọc một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui làm việc, cho chóng thành công. Quan phiên trở xuống, ai không theo lệnh, cho Đồng Phù trị theo quân pháp" [84, tr.390].


Như vậy, song song với việc xây đắp đồn binh Châu Đốc, Gia Long đã có kế hoạch đào sông Vĩnh Tế từ đầu năm 1816. Tuy nhiên, đây là một công trình lớn, quan trọng, có ý nghĩa chiến lược nhiều mặt, cho nên ngoài chuẩn bị nhân công, vật chất, kế hoạch, Gia Long còn chuẩn bị dư luận và tranh thủ tình hình một cách chu đáo, cặn kẽ. Trong thời kỳ này, có thể để làm thí điểm, rút kinh nghiệm cho công việc đầy quan trọng này Gia Long đã cho khởi công đào kênh Thoại Hà trước.


Tháng 11 Đinh Sửu (1817), Gia Long cho đào sông Tam Khê (Thoại Hà). Sông này bắt đầu từ sông Hậu (Long Xuyên) kéo dài đến Rạch Giá. Sách Thực lục ghi: Sông cách trấn lỵ Vĩnh Thanh (thị xã Vĩnh Long nay) 214 dặm. Phía tây 4 dặm rưỡi đến ngã ba hợp với sông Cần Đăng, phía tây nam 59 dặm đến sông Lạc Dục, từ đấy về nam 57 dặm rưỡi đến Song Khê... Vua sai trấn thủ Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu sửa sang đường sông, điều động dân Hán (Việt), dân Di (Miên) 1.500 người để vét. Hơn một tháng làm xong chiều rộng hơn 10 trượng, chiều sâu 18 thước [84, tr.335].


Tuy nhiên, theo số liệu đo đạc thì có những đoạn "noi theo lối cũ", cho nên đỡ phải đào sửa nhiều. Nơi thực sự phải đào được biết: Từ lạch Lạc Duyên ở Thanh Lung đến lạch Song ở Thanh Lung dài 6.247,5 trượng chia làm hai phần. Một phần từ lạch Lạc Duyên ở Thanh Lung trở vào trong lấy 1.000 dân trấn Vĩnh Thanh để làm. Một phần từ lạch Song ở Thanh Lung trở vào trong bắt dân Kiên Giang và Cao Man 500 người để làm [68, tr.209].


Sau khi khơi xong kênh Tam Khê, vì thấy hiệu ích to lớn của dòng kênh "buôn bán lưu thông mà có thể khống chế được những chỗ hiểm yếu, công tư đều lợi, dân Hán (Việt) và dân Di (Chân Lạp) đều được nhờ, vua khen sông của viên trấn thủ Thoại Ngọc Hầu và đặt tên sông là Thoại Hà để tưởng thương cho công lao của ông. Ở phía đông sông có núi Lạp Sơn (tục danh núi Sập) cũng được đặt tên là Thoại Sơn, cấm dân không được chặt phá cây cối [84, tr.335].


Sau khi đào xong Thoại Hà, thấy rõ lợi ích to lớn của việc đào kênh, cùng với sự chuẩn bị khá đầy đủ cho việc khơi sông Tuấn (Vĩnh Tế), ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Mão (đầu 1819) Gia Long cho khởi công chính thức đào sông Châu Đốc. Triều Nguyễn lấy 5.000 quân dân trấn Vĩnh Thanh chia bổ cho mỗi phiên, theo kỳ khai đào, từ đồn Châu Đốc đến cửa trác Ý Hâm. Hằng tháng thay đổi, hạn cho 3 tháng. Lấy 500 quân đồn Uy Viễn đóng giữ ở đồn Châu Đốc, để cùng đào sông. Vua Gia Long lại ban chiếu cho vua nước Cao Man, lấy 5.000 dân nước ấy, ủy cho số quan phiên 100 người trở lên, chia nhau đốc suất dân Phiên khai đào từ Cây Cờ đến cửa trác Trà Bát. Binh dân Việt được cấp mỗi người mỗi tháng 6 quan 5 tiền và một phương gạo. Binh dân Cao Man mỗi người được cấp 4 quan 5 tiền và một phương gạo.


Như vậy, đợt 1 triều Nguyễn huy động tông cộng 10.500 lượt người thay nhau đào kênh, từ ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Mão (đầu 1819) đến ngày 15 tháng 3 năm Canh Thìn (1820) thì nghỉ [85, tr.83]. Lúc đầu dự định 3 tháng thì xong, nhưng do công việc "thô mộc" vất vả nên chưa thể hoàn thành. Đợt 1 đào được 3.224 trượng, chưa thành sông 9.992 trượng. Những chỗ chưa kịp đào thì mở lạch nhỏ tạm cho thông thương các thuyền con, đợi đến sang năm đào tiếp.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:28:24 pm
Thời kỳ này, ở Nam Kỳ bị dịch lệ nặng nền triều đình cho hoãn việc đào sông đợt 1 [85, tr.83]. Tháng 1 năm Nhâm Ngọ (1822) nhân việc quốc vương Chân Lạp đưa thư đến xin đem binh dân hợp sức tiếp tục đào sông. Vua sai tổng trấn Lê Văn Duyệt lập kế hoạch huy động binh dân chia làm 3 phiên, định đầu mùa xuân năm sau làm để đến đầu hè thì xong. Minh Mệnh dụ Lê Văn Duyệt rằng: "Đường sông Vĩnh Tế liền với một lộ Tân cương, xe thuyền được lợi rất nhiêu, Hoàng khảo thế tổ Cao Hoàng đế ta mưu sâu tính kỹ, để ý đến việc biên cương, buổi đầu đã một lần đào, công việc chưa xong. Trẫm noi theo chí trước dốc lo làm sao một lần khó nhọc để thong thả lâu dài, khanh nên tính toán thế nào, hẹn ngày tâu công, đế xứng với ý trẫm. Vả sông ấy không phải lợi cho Chân Lạp. Vua Phiên xin thế vị tất là do thực tình. Ngày nào dụ đến nơi, họ tất sẽ có lời ngăn trở. Song việc làm quả quyết thì nên, dùng dằng thì hỏng. Trẫm đã định trước họ không đáng kể" [86, tr.107].


Cho đến tháng 4 Quý Mùi (1823) lại đào sông Vĩnh Tế, vua sai tổng trấn Lê Văn Duyệt trông coi công việc. Trước định khởi công từ tháng Giêng, tuy nhiên khi Lê Văn Duyệt nghe tin Hưng Hoá có "giặc nổi" liền dâng sớ xin hoãn. Nhưng Minh Mệnh khuyên không phải lo và dụ: "Khanh nên phát binh dân vét đào sông ấy để xong công việc. Nếu để mất công việc ấy thì khó bảo đảm kỳ sau mà nước Chân Lạp có thể dòm ngó chính lệnh của ta. Trẫm chuyên trông ngóng tâu về mới ăn ngon ngủ yên được". Vì vậy, đến tháng 2 năm Quý Mùi (1823) triều Nguyễn lại điều động binh lính các "cơ quê" ở thành, binh lính đồn Uy Viễn, dân phu các hiệu đồn điên, dân phu 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường, Hà Tiên chia làm 3 phiên, một tháng đổi một lần. Nhân công bao gồm 35.000 binh dân Việt và 10.000 binh dân nước Chân Lạp, binh dân Việt cứ 5.000 người đặt 150 người chức dịch, binh dân Chân Lạp cứ 5.000 người đặt 100 người đầu mục, ốc-nha, bồn-nha [86, tr.143]. Tổng cộng nhân công đợt 2 này huy động 45.000 người để khơi sông [68, tr.211].


Triều Nguyễn thấy rõ, địa đầu trấn Vĩnh Thanh, giáp giới với nước Cao Man từ Châu Đốc đến Hà Tiên đường sá khó khăn trở ngại cần phải có con đường thuỷ chuyển vận thông thương, thời lợi cả đôi đường quốc kế dân sinh. Đó cũng là ý nghĩ về "trẫm lo việc biên giới", "lưu tâm đến kế trị an lâu dài" [64, tr.550].


Sử cũ truyền rằng, việc đào con kênh rất là vất vả, người chết, kẻ bị tai nạn, bệnh tật khá nhiều, người ta đã nói tới 7.000 binh dân đã nằm xuống vĩnh viễn khi đào con sông này [79, tr.16]. Tuy nhiên, vì mục đích to lớn của con kênh, binh dân Việt - Chân Lạp đều đồng tình và tích cực trong việc khai đào, lời dụ của Minh Mệnh (1823) thể hiện một phần điều đó: "Mùa xuân năm nay xuống chỉ cho viên tổng trấn Gia Định đổng lý việc đấy. Vừa nhân được quốc vương Cao Man xin điều động dân nước cố sức cung ứng vào công việc, cho nên mới khởi công khai đào sông ấy từ tuần tháng 2, mà viên tổng trấn ấy khéo vì điều khiển, dưới đến các viên giám tu chuyên biện ở giữa chỗ lội lầy thấp trũng, không từ sự vất vả. Lính và dân làm việc vui vẻ do được sử dụng, kéo đến công trường như con em trở lại nhà. Cho đến cả bọn bồi thần, đầu mục đốc áp ở nước Cao Miên cũng đều cố gắng thực sự tới tấp đến làm việc" [63, tr.321].


Đến tháng 4 năm Quý Mùi (1823), vì đến thời tiết mùa hạ Minh Mệnh sai đình việc đào sông cho binh dân về. Công việc đào chỉ còn 1.700 trượng. Dòng sông đã hiện thành 10.500 trượng, chi tiền hơn 515.200 quan, gạo hơn 99.400 phương. Vua thưởng kỷ lục, bạc lụa cho Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu cùng những người giám tu và vua Chân Lạp. Những người Phiên liêu đốc làm ở đấy cũng cho quần áo, vua lại thưởng cho Lê Văn Duyệt một cái đai ngọc [86, tr.179].


Từ tháng 2 đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824) triều Nguyễn cho đào tiếp kênh Vĩnh Tế. Lần này lấy binh dân các trấn thuộc thành và nước Chân Lạp hơn 24.700 người để làm việc, chi cấp lương tiền như những lần trước. Minh Mệnh dụ rằng: "Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn của Hoàng khảo Thế tổ Cao Hoàng đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế biên trù. Nhưng khai đào mới bắt đầu công việc còn khó, trẫm vâng theo chí trước, năm ngoái đã đào còn lại hơn 1.700 trượng, ấy là còn thiếu cái công một sọt đất. Nay nước nhà nhàn rỗi, chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một lần được rỗi mãi. Khi này, phó tổng trấn Trần Văn Năng, xin để quân dân 2 trấn Phiên An và Biên Hoà lại để đào đá xây thành. Minh Mệnh dụ rằng: "Việc xây thành năm nay chưa tiện, đợi sẽ sang năm còn như sông này, liền với tân cương rất quan hệ đến việc biên phòng so với việc xây thành đằng nào cần hơn? Vua chê kiến thức hẹp hòi. Sai đem cả quân dân đến đào sông. Triều đình phát tiền kho hơn 1.000 quan mua trâu, rượu khao những người làm việc" [87, tr.11]. Đợt trước lòng sông đào rộng 6 trượng, lần này cho đào mở rộng lòng sông đủ 15 trượng [68, tr.212].


Cho đến tháng 5 Giáp Thân (1824), kênh Vĩnh Tế được đào xong. Kênh được bắt đầu đào từ phía sau bên hữu đồn Châu Đốc lên phía Tây qua náo khẩu Ca Âm đến Kỳ Thọ (tục danh Cây Cầy) dài 44.412 tầm1 (Một tầm = 2,12m, dặm = 763,2m), thành 205 dặm rưỡi. Trừ đoạn náo khẩu 4.075 tầm không đào đến, còn thực sự đào là 26.279 tầm, chước lượng thi công khó dễ, nhân lực nặng nhẹ, bắt đầu từ miệng hào đến náo khẩu đất khô ráo có 7.575 tầm là phần việc của dân Kinh, còn đất bùn lầy có 18.740 tầm là phần việc của dân Cao Miên.


Để cho dòng kênh được thẳng, ban đêm người ta đã đốt đuốc trên đầu những con sào rồi ngắm cho thắng mà cắm. Để điều khiển những sào lửa, người ta cầm một "cây rọi" to đứng trên cao phất qua phất lại, ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí [28].


Bằng những dụng cụ thô sơ cuốc thuổng, sào tre, dây thừng,... và sức mạnh cơ bắp (đào tay), hơn tám vạn binh dân Việt - Chân Lạp đã hoàn thành một công việc to lớn, khai thông dòng kênh Vĩnh Tế dài gần 100km. Lợi ích hiện thực của con kênh làm cho triều đình, quan biên và nhân dân phấn khởi, bởi trước khi khai mở kênh Thoại Hà (Long Xuyên - Rạch Giá) và Vĩnh Tế, việc công tư từ Châu Đốc đi Hà Tiên rất chậm trễ. Từ nay việc cơ động lực lượng, chuyển vận binh mã, lương thảo từ Châu Đốc đến vịnh Xiêm La không phải đi vòng ra biển mỗi khi Hà Tiên, Rạch Giá bị xâm lăng bất ngờ. Việc khai thông kênh Vĩnh Tế làm cho tình hình an ninh biên giới giảm thiểu, các quan biên như cất được gánh nặng. Vua Minh Mệnh vô cùng mãn nguyện nói rằng: "Đào con sông ấy thực là để trọn công trước" và "thực là lợi ích muôn năm vô cùng về sau" [87, tr.43]. Sách Đại Nam nhất thống chí nhận xét: "từ đấy đường sông lưu thông, từ kế sách trong nước, phòng giữ ngoài biên, cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng" [80, tr.178].


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 15 Tháng Bảy, 2021, 08:30:10 pm
Kênh Vĩnh Tế không chỉ góp phần thau chua rửa phèn, đưa nước ngọt vào cho ruộng vườn tươi tốt mà sau khi khai thông kênh, tạo nên một làn sóng di dân lập làng hai bên bờ kênh ngày một nhiều. Thoại Ngọc Hầu đã lập nên hơn 20 làng nơi đây, làn sóng khai hoang phát triển đã mở rộng diện tích canh tác, làm cho vùng Châu Đốc trở thành nơi biên địa vững vàng ở cực Tây Nam Kỳ.


Với công lao to lớn của vợ chồng viên trấn thủ Thoại Ngọc Hầu, vua Minh Mệnh đã lấy tên vợ ông Châu Thị Vĩnh Tế để đặt tên cho dòng kênh là Vĩnh Tế Hà, lại lấy núi Sam ở Châu Đốc đổi là Vĩnh Tế Sơn và làng bên bờ sông gọi là Vĩnh Tế Sơn thôn. Vua Minh Mệnh sắc dựng bia ở bờ kênh để ghi nhớ. Từ năm 1835 đến năm 1836, triều đình đúc cửu đỉnh, hình ảnh con kênh được đúc nổi vào Cao đỉnh để ở sân Thế miếu, triều đình Huế.


Kênh Vĩnh Tế thực sự đã trở thành một hào luỹ phân ranh biên giới rất đắc dụng cho triều Nguyễn trong việc quản lý chủ quyền lãnh thổ Tây Nam và đánh giặc ngoại xâm từ phía Tây.

Ngoài 2 kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế, triều Nguyễn còn cho khai đào con kênh thứ ba ở vùng Châu Đốc dưới thời Thiệu Trị đó là kênh Vĩnh An.

Trong thời Nguyễn, hầu hết các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, việc chuyển vận binh mã lương thảo ở vùng sông rạch chủ yếu được cơ động bằng thuyền. Vì vậy, từ Châu Đốc đến Tân Châu tuy đường bộ rất gần (3.695 trượng) mà mỗi lần đi đường thuỷ phải mất 3, 4 ngày đi quanh co, vừa chậm vừa khó. Bởi phải ở Châu Đốc, từ sông Hậu xuống tới sông Vàm Nao mới ra được sông Tiền, rồi lại ngược lên Tân Châu, thật là bất tiện. Vì vậy, để dễ cho "sự khống chế tiếp ứng và mưu tính việc biên phòng", triều Nguyễn đã có kế hoạch đào sông Vĩnh An từ Tân Châu đến Châu Đốc. Triều đình giao cho tổng đốc An Giang Nguyễn Công Nhàn và tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ trù tính được công làm như sau: Nhân công 72.522 công, thuê 1.000 dân phu ở 3 tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và vát 2.000 biền binh các hạng, để làm trong 2 tháng. [102, tr.149].


Sau đó, tháng 11 Quý Mão (1843), triều Nguyễn đã huy động 5.000 dân đào trước một đoạn 550 trượng trong 1 tháng rồi cho về. Đến đầu năm 1844, lại huy động binh dân làm tiếp một tháng nữa thì xong, dùng hết 33.200 đoạn cọc tre, thuê hết 63.021 quan tiền, 21.021 phương gạo [103, tr.51].


Sau khi đào xong kênh Vĩnh An, trên rộng 6 trượng, dưới 3 trượng, sâu trên dưới 9 thước, dài 3.695 trượng. Lúc đầu Thiệu Trị đặt tên kênh là Long An, sau năm 1845 cho đổi là Vĩnh An [68, tr.213] và cho dựng 1 tấm bia thân cao 2 thước 2 phân, rộng 9 tấc 4 phân, dày 2 tấc 7 phân, chân dài 1 thước 6 tấc 1 phân, rộng 1 thước, dày 4 tấc 4 phân, khắc dòng chữ "Sông Vĩnh An" [68, tr.447].


Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã đào được 3 con kênh rất quan trọng Thoại Hà, Vĩnh Tế và Vĩnh An ở vùng Châu Đốc. Đây là những công trình thuỷ lợi có ý nghĩa quyết định trong "quốc kế dân sinh" để khai khẩn, phát triển đất đai, lập thôn ấp, tăng thêm dân số, tạo cơ sở xã hội cho nhà nước và tăng tô thuế cho chính quyển. Đồng thời, những con kênh này cũng là những đường giao thông vận tải thuỷ giúp cho việc giao thương, buôn bán. Đặc biệt, các con kênh này là những thủy đạo quan trọng phục vụ chiến lược an ninh, quốc phòng, phân ranh lãnh thổ khắng định chủ quyền, liên kết và hỗ trợ cho Rạch Giá, Hà Tiên, ngăn ngừa xâm lăng, quản lý bảo vệ vùng biên thuỳ, "cửa ngõ" quan trọng phía tây Gia Định, một vùng đất luôn ẩn chứa những phức tạp về lãnh thổ, tộc người và những vấn đề nhạy cảm về chính trị và đối ngoại, ơ đây thuỷ lợi đã gắn liền với giao thông và quốc phòng.


Giá trị to lớn của các con kênh trên không chỉ dừng lại ở việc đẩy mạnh khai thác vùng "tân cương" Tây Nam và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ như vua Gia Long, Minh Mệnh từng nói và thực tế lịch sử gần 200 năm qua chứng minh, mà tương lai còn ngày càng tỏ rõ giá trị to lớn, hữu ích của nó trong đời sống mọi mặt của vùng đất Tây Nam.


Vào thế kỷ XIX, chính sách đồn điền được nhà Nguyễn quan tâm ở vùng Nam Bộ vì lý do kinh tế, xã hội, nhưng được đặc biệt quan tâm ở vùng Châu Đốc - Hà Tiên vì yêu cầu kinh tế - quốc phòng, quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.


Đồn điền phát triển mạnh ở Châu Đốc - Hà Tiên từ năm 1853 đến năm 1857. An Giang lập được 4 cơ đồn điền và 23 làng, chủ yếu ở vùng Thất Sơn, kênh Vĩnh Tế. Mặc dù, việc phát triển đồn điền khó khăn, quan lại phản đối, lính đồn điền bỏ trốn, hiệu quả kinh tế, xã hội còn hạn chế... Nhưng kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng: Tăng diện tích canh tác, tăng số dân cư, phát triển thôn xã, tăng cường hiệu quả quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.


Nhìn chung lại, từ năm 1802 đến năm 1867, ở vùng đất Châu Đốc, triều Nguyễn đã thường xuyên quan tâm phát triển kinh tế, xã hội, kết hợp củng cố quốc phòng (chính sách đồn điền, giao thông - thuỷ lợi, thiết lập hệ thống đồn, bảo, có chính sách sử dụng quan lại...) đã hỗ trợ tạo điều kiện cho nhau phát triển.


Nhà Nguyễn thực hiện chính sách xã hội, chiêu mộ, khuyến khích, ưu tiên các sắc dân đến vùng biên thuỳ Châu Đốc - Hà Tiên, khẩn hoang, lập thôn ấp, giảm miễn thuế nhiều lần cho người Việt, miễn thuế ruộng đất thời gian dài cho người Khmer, sử dụng lực lượng tại chỗ người Chăm rất hiệu quả... nhằm đẩy nhanh tốc độ khai phá vùng "tân cương" Tây Nam. Mặc dù còn một số hạn chế, tuy nhiên những chính sách của triều Nguyễn như nói trên đã dần dần thay đổi cơ bản bộ mặt vùng đất mới Châu Đốc, mở mang kinh tế, xã hội, văn hoá, tăng cường hiệu lực bộ máy chính quyền, làm cho đất Châu Đốc phát triển khá vững chắc trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời quốc gia Đại Nam trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị khu vực.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:37:59 pm
LỜI KẾT


Một bức tranh toàn cảnh về vùng đất Châu Đốc đã phần nào hiện lên tương đối rõ nét trước mắt chúng ta qua toàn bộ nội dung của cuốn sách. Tuy nhiên, nguồn sử liệu hiện tại khó có thể đủ ánh sáng để soi tỏ tất cả bức tranh chân thực của quá khứ. Vì vậy, Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn không thể tránh khỏi những chỗ đậm nhạt khác nhau. Mặc dù vậy, tất cả mọi nỗ lực của tác giả khi trình bày công trình này nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Lịch sử vùng đất Châu Đốc thể hiện rằng, môi trường địa lý là điều kiện tất yếu và thường xuyên, là chỗ dựa không thể thiếu được cho quá trình hoạt động của cư dân. Trong đó, yếu tố địa hình, vị trí địa lý và khí hậu thời tiết đã ảnh hưởng sâu sắc và thường xuyên đến đời sống kinh tế, xã hội và văn hoá của con người, góp phần quyết định tính cách, lối sống, tín ngưỡng và sinh hoạt tâm linh của cư dân nơi đây.


Là địa bàn biên giới của vùng đất Tây Nam, Châu Đốc trở thành nơi tụ cư không chỉ của lưu dân Việt, mà còn là khu vực cư trú của người Khmer, Chăm, Hoa và sự thiên di của các tộc người này qua nhiều giai đoạn lịch sử do những biến động chính trị, xã hội trong các thế kỷ từ XVII đến XIX. Làm cho đất Châu Đốc trở thành nơi cộng cư tiêu biểu, duy nhất của các tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa ở Nam Bộ.


Để duy trì sinh hoạt cộng đồng, mỗi tộc người đều có bộ máy tổ chức xã hội truyền thống khác nhau. Các phum, sóc của người Khmer quây quần theo hình "vành khăn" quanh chân núi Thất Sơn, có các mê-phum, mê-sóc; các pa-lay Chăm ven bờ sông Hậu với những vị Ha-kim, Ha-dji; cùng các bang nhóm người Hoa là những tổ chức xã hội tự quản, tự trị của họ. Đến vùng đất mới Châu Đốc, thôn ấp của người Việt vẫn tiếp tục duy trì các tổ chức xã hội truyền thống của mình đã được định hình từ miền Trung, miền Bắc. Làng xã được cai quản và đại diện bởi một tập thể những hương dịch - hương chức và dịch mục. Tuy nhiên, làng Việt Châu Đốc cũng giống như làng Việt ở nơi khác về mặt thiết chế quản lý cơ bản ở thế kỷ XIX là vẫn song song tồn tại hai cơ cấu: cơ cấu hành chính Nhà nước và tự trị, tự quản làng xã. Để đảm bảo bộ máy làng xã vận hành tốt, ngoài bộ máy quản lý xã hội, còn có cơ cấu tinh thần làng xã. Ví như, tham gia vào quản lý xã thôn còn có đình. Đình và hệ thống làng xã tượng trưng cho sức mạnh nội tại của xã hội truyền thống Việt, nó góp phần tạo nên một nét sinh hoạt văn hoá, xã hội riêng của người Việt so với các tộc người khác như Khmer, Chăm, Hoa cùng cộng cư ở khu vực này.


Dù thôn ấp người Việt hình thành chậm, tuy nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng Nho giáo đối với nó tương đối rõ nét và mạnh mẽ, có tác dụng tổ chức xã hội khá chặt chẽ so với ảnh hưởng hệ tư tưởng khác. Lần về lịch sử ta thấy, bước sang thời Lý, Nho giáo và giới Nho sĩ ở nước ta mới bắt đầu xuất hiện. Thế nhưng, do nhu cầu của thực tiễn đất nước, của quản lý và tổ chức xã hội người Việt mà dần dần Nhà nước phong kiến đã chọn hệ tư tưởng Nho giáo để làm vũ khí tư tưởng của mình. Vì họ không tìm thấy cơ sở lý luận và kinh nghiệm quản lý Nhà nước, tổ chức xã hội trong giáo lý Phật giáo. Trái lại, Nho giáo đã đem lại cho người Việt những kinh nghiệm chính trị quý báu và cách tổ chức quản lý xã hội khá hiệu quả. Cho nên, Nho giáo dần dần chiếm lĩnh trên vũ đài chính trị Việt Nam.


Tổ chức xã hội người Việt mang đậm dấu ấn tư tưởng Nho giáo đã chứng tỏ sức sống của nó trước tổ chức xã hội theo tư tưởng Phật giáo Tiểu thừa. Nói cách khác, người Việt - một tộc người ảnh hưởng văn hoá Hán đã nắm được cách tổ chức hành chính, một dân tộc nông nghiệp có cơ cấu xã hội chặt chẽ hơn các lân bang phía Nam. Đó là một minh chứng về sự ưu thắng của nền văn minh ảnh hưởng Nho giáo trên văn minh ảnh hưởng Phật giáo Tiểu thừa ở vùng đất phía Nam.


2. Làng xã Việt là những cộng đồng tụ cư tỏ ra thích hợp đối với những người tiểu nông trồng lúa nước. Khác với những người Khmer - quê hương của họ vốn ở vùng trung lưu sông Mê Kông, là những cư dân có tập quán làm ruộng rẫy trên thềm đất cao. Họ cũng là những người săn bắn và là những cư dân gần gũi với rừng hơn với biển. Sự khác biệt về sinh hoạt kinh tế với người Việt đã giải thích một phần lý do tại sao sau khi thôn tính được Phù Nam, nhưng người Khmer không có xu hướng khai khẩn vùng đất phía dưới mà phải quay trở về vùng đất truyền thống của mình ở phía trên và cuối cùng lại lập kinh đô tại vùng rừng núi Đông - Bắc Campuchia xa xôi. Trái lại, người Việt là một tộc người có truyền thống canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng thấp và hiểu biết kỹ thuật làm ruộng nước. Vì vậy, khi chiếm lĩnh được vùng đồng bằng phù sa màu mỡ, người Việt nhanh chóng phát huy tập quán canh tác của mình.


Tuy nhiên, chiếm lĩnh được đất là một việc, còn làm chủ được nó là một việc khác, đó là cả một vấn đề, một chính sách thuộc về khả năng của một dân tộc. Đến Nam Bộ, người Việt đã đem đến đây một hệ thống làng xã - sức mạnh nội tại của tổ chức xã hội truyền thống và cùng với nó là cả một nền kinh tế ưu việt hơn các tộc người khác. Vì vậy, người Việt đã nhanh chóng trở thành chủ nhân thực sự của miền đất này.


Như vậy, cùng với hệ tư tưởng chính trị và tổ chức xã hội, cả về mặt tổ chức hành chính và thiết chế văn hóa, tín ngưỡng, ngươi Việt còn có cả một truyền thống kinh tế ưu việt hơn hẳn so với các tộc người có tập quán canh tác vùng đất cao, chài lưới và săn bắn. Vì thế, người Việt Châu Đốc nói riêng và người Việt Nam Bộ nói chung đã trở thành yếu tố quyết định phát triển kinh tế vùng đồng bằng phù sa thấp ở hạ lưu sông Mê Kông ngay từ những thế kỷ XVII-XIX, khi mới đặt chân đến vùng này.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:38:40 pm
3. Di cư đến phương Nam, người Việt mang theo nền văn hoá đã định hình từ lâu ở vùng đất cội nguồn, vẫn duy trì cách ăn mặc, ở, đi lại, cách tư duy, tín ngưỡng, lễ hội, có ngôn ngữ, phong tục lễ nghi thống nhất, là sự phát triển và kế thừa truyền thống văn hoá cổ xưa của một dân tộc có bề dày lịch sử văn hóa hàng nghìn năm.


Ở vùng đất mới, trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, người Việt đã không ngừng thích nghi, thích ứng một cách chủ động với môi trường tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Sự mềm dẻo, linh động, uyển chuyển của người Việt là một trong những sức mạnh của văn hoá Việt Nam, là phương thức ứng xử đặc biệt của người Việt trước hiện thực, thích nghi, thích ứng nhanh với hoàn cảnh đã được ngươi Việt xưa đúc kết "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài". Mặt khác, vùng đất mới cũng là nơi tụ cư của nhiều tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa. Vì vậy, trong mọi quan hệ, cuộc sống vùng đất mới cũng diễn ra quá trình thích nghi giữa người và người, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Mối quan hệ giữa người với người liên quan chặt chẽ với mối quan hệ giữa người và tự nhiên. Quá trình khai phá vùng đất mới trong thời gian dài đã thúc đẩy quá trình giao lưu, các quan hệ kinh tế, xã hội và văn hoá giữa các tộc người. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, văn hoá và đặc thù tộc người, tiến trình ấy có những nét đặc thù tạo ra sự khác biệt giữa dân tộc này và dân tộc khác trên con đường tiến lên phía trước.


Sự mở rộng không gian và cường độ giao lưu dĩ nhiên đòi hỏi năng lực thích nghi ngày càng lớn, sự hoà nhập và phát triển bền vững trên cơ sở bảo lưu được căn tính của tộc người Việt, một cản tính nguồn gốc của nền văn hoá dân tộc.


Là những lưu dân đi khai phá miền đất mới, buổi đầu người dân không chỉ mang theo mình vốn liếng tư liệu sản xuất, vật dụng, vợ con..., mà còn mang theo cả vốn liếng văn hoá, cả tổ tiên và thần thánh của mình, cả trong ý thức và tiềm thức, đến vùng đất mới, ý thức và tiềm thức văn hoá ấy cùng với sự giao lưu với các tộc người đã phát triển thành vốn văn hoá Việt trên đất Châu Đốc. Tuy nhiên, điều kiện lịch sử, xã hội và khung cảnh địa lý ở Châu Đốc có những nét khác biệt so với vùng đất cội nguồn. Vì vậy, sinh hoạt văn hóa của những người dân Việt nơi đây phải chịu tác động của những điều kiện trên, Người Việt Châu Đốc vừa phải tái tạo vừa sáng tạo vốn văn hoá truyền thống. Bản sắc văn hoá của người Việt dần dần được định hình qua tiếp xúc, giao lưu văn hóa với động thái chủ động tiếp nhận, tương tác, thụ ứng, khoan dung, xử lý cái nội sinh và cái ngoại nhập..., phải có lối ứng xử thông minh và khôn khéo tới mức nào để có thể tiếp thu được những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa ngoại sinh. Bởi vì, ở vùng đất nàv trong quá trình tiếp biến văn hoá (acculturation) cũng đã xảy ra không ít tình huống đan xen phức tạp, không ít chiều hướng chống đối nhau, cưỡng bức nhau, thích nghi hoặc tự nguyện tiếp nhận nhau... Vì vậy, xã hội Châu Đốc nói riêng và xã hội đồng bằng sông Cửu Long nói chung là kết quả của một quá trình pha trộn văn hoá, tập quán, tính cách giữa các cộng đồng, giữa các vùng miền, giữa các nền văn hóa.


Với người Việt, dù những sinh hoạt văn hóa về mặt vật chất cũng như văn hoá tinh thần không còn nguyên mẫu của cố hương nhưng vẫn mang bản sắc của cư dân Việt, không xa rời cội nguồn. Tuy nhiên, điều kiện mới đã tạo ra những nét riêng, tạo ra đặc thù của văn hoá Việt ở vùng Châu Đốc. Điều đó như là một cống hiến văn hóa của vùng đất vào văn hóa Việt Nam, làm đa dạng, phong phú văn hóa truyền thống, vừa biểu hiện sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt ở vùng đất mới, vượt lên, trội hơn các tộc người láng giềng không những về kinh tế, tổ chức xã hội mà cả về bản sắc văn hóa.


4. Do điều kiện địa lý, lịch sử, Châu Đốc trở thành nơi "cửa ngõ" biên giới quan trọng phía Tây của Nam Bộ, có vị trí chiến lược về quốc phòng, kinh tế, văn hóa, tôn giáo và tộc người... Vì vậy, vấn đề quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng "tân cương" luôn gắn chặt với việc phát triển toàn diện, đồng bộ vùng đất này, nhà Nguyễn đã sử dụng các biện pháp: xây dựng hệ thống đồn, bảo, xây dựng các phòng tuyến chống xâm lược bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biện pháp sử dụng quan lại, chính sách văn hóa, chính sách tôn giáo, tộc người, chính sách phát triển kinh tế kết hợp củng cố quốc phòng, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển đồn điền - dinh điền lập ấp, di dân khai phá, tạo cơ sở xã hội cho chính quyên nhà nước... Các chính sách, biện pháp có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, vừa là nên tảng, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực thúc đẩy lẫn nhau phát triển, làm cơ sở cho việc củng cố, ổn định xã hội, tác động mạnh mẽ đến chính sách phòng thủ, quản lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ vùng đất biên thuỳ.


Những biện pháp, chính sách trên của triều Nguyễn đã đạt được những thành công, làm cho vùng đất Châu Đốc phát triển khá nhanh, trở thành nơi biên địa vững vàng, dù có những toan tính của ngoại bang nhưng triều Nguyễn đã bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mình ở vùng đất Tây Nam. Cho đến khi thực dân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, Châu Đốc đã trở thành chủ quyền từ lâu của người Việt, khiến cho khi phân ranh biên giới, vùng đất này không thể tách rời khỏi nước Đại Nam và mãi mãi trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của nước Việt.


Tiêu đề: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc thời Nguyễn
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Bảy, 2021, 07:40:23 pm
TÀI LIỆU THAM KHẢO


TÀI LIỆU CHỮ VIỆT
   1. Phan An (1991), "Một số vấn đề kinh tế xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long", vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Mạc Đường (chủ biên), KHXH, Hà Nội.
   2. Toan Ánh (1999), "Ca dao Châu Đốc", Xưa và Nay, (68b).
   3. Toan Ánh (1996), Phong tục thờ cúng trong gia đình người Việt, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
   4. Ph. Ăng-ghen (1971), Chống Đuy-rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội.
   5. Nguyễn Chí Bền (1994), "Mấy vấn đề lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam", Dân tộc học, (20).
   6. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dôp (1991), Văn hoá Chăm, Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh, Nxb KHXH.
   7. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH, Hà Nội.
   8. Trương Bá Cần (1999), "Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam", Công giáo và dân tộc, (60).
   9. Nguyễn Đổng Chi (1998), "Sự tồn tại quan hệ thân tộc trong lòng xã hội Việt Nam", Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb KHXH, Hà Nội. 
   10. Võ Văn Chi (1998), Cây rau làm thuốc (tái bản), Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp.
   11. Huỳnh Tịnh Của (1998) Đại Nam quốc âm tự vị, Nxb Trẻ.
   12. Dépierre (1999), "Tình hình Giáo hội Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX", Công giáo và dân tộc, (60).
   13. Nguyễn Đình Diệm (1961), "Trương Minh Giảng", Văn hoá nguyệt san, (58).
   14. Dohamide (1962), "Người Chàm Châu Đốc", Bách Khoa, (140).
   15. Phan Văn Dốp, Nguyễn Việt Cường (1991), "Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long", vấn đề dân tộc học ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH, Hà Nội.
   16. Phan Văn Dốp (1993), Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử, Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh.
   17. Nguyễn Đăng Duy (1997), Văn hoá tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
   18. Địa phương chí tỉnh Châu Đốc (1968), (bản in rô-nê-o).
   19. Lê Quý Đôn (1973), Phủ biên tạp lục, tập 2, Lê Xuân Giáo (dịch), Ủy ban dịch thuật Nha Văn hoá Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá xuất bản, Sài Gòn.
   20. Lê Quý Đôn (1973), Phủ biên tạp lục, toàn tập, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
   21. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tĩnh (dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
   22. Fujiwara Riichirô (1974), "Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại Việt Nam", Thiềm Cung (dịch), Việt Nam khảo cổ tập san (8). 
   23. Nguyễn Sĩ Giác (dịch) (1993), Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb TP Hồ Chí Minh.
   24. Nguyễn Kiến Giang (1996), "Thờ cúng tổ tiên trong tâm linh người Việt", Xưa và Nay, (23).
   25. Trần Văn Giàu (chủ biên) (1987), Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Nxb TP Hồ Chí Minh.
   26. Châu Thị Hải (1993), Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
   27. Nguyễn Văn Hầu (1970), "Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long", Sử - Địa, (19-20).
   28. Nguyễn Văn Hầu (1972), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Hương Sen, Sài Gòn.
   29. Nguyễn Xuân Hiển (1980), "Lúa nổi ở vùng các dân tộc Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long", Dân tộc học, (1).
   30. Nguyễn Hữu Hiệp (1997), "Tết xưa ở nông thôn Nam Bộ", Xưa và Nay, (số chuyên đề cuối tháng 1).
   31. Chen-chinh-ho (1962), "Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An", Việt Nam khảo cổ tập san, (1).
   32. Chen-chinh-ho (1962), "Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An", Việt Nam khảo cổ tập san, (3).
   33. Trần Kinh Hoà (1962), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Viện Đại học Huê - Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam.
   34. Ngô Văn Hoà (1983), "Tổ chức quản lý xã thôn và cộng đồng làng xã ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc", Nghiên cứu lịch sử, 5 (212).
   35. Nhật Hồ (2000), "Đẹp xinh chiếc áo bà ba", báo Trà Vinh, Xuân Canh Thìn.
   36. Võ Thị Hồng (1997), Tình hình kinh tế An Giang thời Pháp thuộc (1867-1929), Luận án Phó tiên sĩ khoa học lịch sử, Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh.
   37. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam, tập 1, Hà Văn Tấn (chủ biên), Nxb KHXH, Hà Nội.
   38. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam, tập 2, Hà Văn Tấn (chủ biên), Nxb KHXH, Hà Nội.
   39. Nhiêu Huyền (2000), "Mắm, món ăn đặc sản của đồng bào Nam Bộ", báo An Giang, ngày 15-2.
   40. Lê Hương (1969) Người Việt gốc Miên, tác giả tự xuất bản.
   41. Lê Hương (1970), "Những người Việt tiên phong trên bước đường Nam tiến tại Cao Lãnh, Kiến phong", Sử - Địa, (19-20).
   42. Lê Hương (1970), sử Cao Miên, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.
   43. In Sun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, người dịch: Nguyễn Quang Ngọc, Nxb KHXH, Hà Nội.
   44. Phan Khánh (chủ biên) (1981), Sơ thảo lịch sử thuỷ lợi Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
   45. Nguyễn Bách Khoa (1951), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
   46. Trần Trọng Kim (1951), Việt Nam sử lược, Tân Việt, Hà Nội.
   47. Dương Ky (1949), Việt sử khảo lược, Tiên Hoa xuất bản, Thuận Hoá.
   48. Vũ Tự Lập (1978), Địa lý tự nhiên Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
   49. Trần Hồng Liên (1993), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ XVII đến 1975, Nxb KHXH, Hà Nội.
   50. Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo ở miền Tây Nam phần Việt Nam, Bộ Văn hoá giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn.
   51. Trường Lưu (chủ biên) (1993), Văn hoá Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
   52. Trần Thị Thu Lương, Võ Thành Phương (1991), Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873), Nxb TP Hồ Chí Minh.
   53. Một số vấn đề về khảo cổ học miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
   54. Mah Mod (1975), "Bước đầu tìm hiểu về tôn giáo tín ngưỡng của người Chàm ở Việt Nam", Dân tộc học (4).
   55. Nguyễn Nghị (1995), "Nhà thờ trong làng Việt Nam", Làng xã ở châu A và ở Việt Nam, Mạc Đường - chủ biên, Nxb TP Hồ Chí Minh.
   56. Đỗ Hữu Nghiêm (1995), "Quá trình hình thành làng xã tại đồng bằng sông Cửu Long từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX", Làng xã ở châu A và ở Việt Nam, Mạc Đường - chủ biên, Nxb TP Hồ Chí Minh.
   57. Nguyễn Quang Ngọc... (1994), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia.
   58. Hãn Nguyên (1970), Hà Tiên, chìa khoá Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long, sử - Địa, (19-20).
   59. Đào Trinh Nhất (1924), Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ, Hà Nội.
   60. Lương Ninh (1984), "Văn hoá cổ đồng bằng sông Cửu Long trong quan hệ khu vực tộc người", Văn hoá Óc Eo và các văn hoá cổ đồng bằng sông Cửu Long, sở Văn hoá thông tin An Giang xuất bản, Long Xuyên.
   61. Lương Ninh (1999), "Đạo Hồi và người Chăm ở Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử, (1).
   62. Nội các triều Nguyễn (NCTN) - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 2 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   63. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   64. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   65. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   66. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   67. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   68. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   69. NCTN - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 15 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   70. Tố Oanh (1992), "Lễ phục của các dân tộc Việt Nam", Dân tộc học, (3).
   71. Đinh Công Phong... (1936), Quan hôn tang tế thường dụng, Sai Gon, Imprimerie J. Nguyễn Văn Việt.
   72. Bùi Hải Phong (1998), "Tập tục thờ cúng tổ tiên", Xưa và Nay, (47B).
   73. Cao Xuân Phổ (1984), "Óc Eo trong sự phát triển thương mại ở Đông Nam A”, Văn hoá Óc Eo và các văn hoá cổ đồng bằng sông Cửu Long, Sở Văn hoá thông tin An Giang xuất bản, Long Xuyên.
   74. Trần Thanh Phương (1984), Những trang về An Giang, Văn nghệ An Giang xuất bản.
   75. Thạch Phương... (1992), Văn hoá dân gian người Việt Nam Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.
   76. Thạch Phương, Đoàn Tứ chủ biên (1991), Địa chí Bến Tre, Nxb KHXH, Hà Nội.
   77. Thạch Phương - Lưu Quang Tuyến chủ biên (1989) Địa chí Long An, Nxb Long An - KHXH.
   78. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thô ký, Lê Hương dịch, Kỷ nguyên mới xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn.
   79. Nguyễn Phan Quang, Đặng Huy Vận (1975), "Tìm hiểu chế độ lao dịch và binh dịch dưới triều Gia Long (1802-1819)", Nghiên cứu lịch sử, (80).
   80. Quốc sử quán triều Nguyễn (QSQTN) - Đại Nam nhất thống chí, tập 5 (1997), Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb Thuận Hoá, Huế.
   81. QSQTN - Thực lục, tập 1 (1962), Nxb Sử học, Hà Nội.
   82. QSQTN - Thực lục, tập 2 (1963), Nxb Sử học, Hà Nội.
   83. QSQTN - Thực lục, tập 3 (1963), Nxb Sử học, Hà Nội.
   84. QSQTN - Thực lục, tập 4 (1963), Nxb Sử học, Hà Nội.
   85. QSQTN - Thực lục, tập 5 (1963), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   86. QSQTN - Thực lục, tập 6 (1963), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   87. QSQTN - Thực lục, tập 7 (1964), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   88. QSQTN - Thực lục, tập 8 (1964), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   89. QSQTN - Thực lục, tập 9 (1964), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   90. QSQTN - Thực lục, tập 10 (1964), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   91. QSQTN - Thực lục, tập 13 (1965), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   92. QSQTN - Thực lục, tập 14 (1965), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   93. QSQTN - Thực lục, tập 15 (1965), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   94. QSQTN - Thực lục, tập 16 (1966), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   95. QSQTN - Thực lục, tập 17 (1966), Nxb Khoa học, Hà Nội.
   96. QSQTN - Thực lục, tạp 18 (1967), Nxb KHXH, Hà Nội.
   97. QSQTN - Thực lục, tập 19 (1968), Nxb KHXH, Hà Nội.
   98. QSQTN - Thực lục, tập 20 (1968), Nxb KHXH, Hà Nội.
   99. QSQTN - Thực lục, tập 21 (1968), Nxb KHXH Hà Nội.
   100. QSQTN - Thực lục, tập 22 (1969), Nxb KHXH, Hà Nội.
   101. QSQTN - Thực lục, tập 23 (1970), Nxb KHXH, Hà Nội.
   102. QSQTN - Thực lục, tập 24 (1970), Nxb KHXH, Hà Nội.
   103. QSQTN - Thực lục, tập 25 (1971), Nxb KHXH, Hà Nội.
   104. QSQTN - Thực lục, tập 26 (1972), Nxb KHXH, Hà Nội.
   105. QSQTN - Thực lục, tập 27 (1973), Nxb KHXH Hà Nội.
   106. QSQTN - Thực lục, tập 28 (1973), Nxb KHXH, Hà Nội
   107. QSQTN - Thực lục, tập 29 (1974), Nxb KHXH Hà Nội.
   108. QSQTN - Thực lục, tập 30 (1974), Nxb KHXH Hà Nội
   109. QSQTN - Minh Mệnh chính biên, tập 1 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   110. QSQTN - Minh Mệnh chính biên, tập 2 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huê.
   111. QSQTN - Minh Mệnh chính biên, tập 3 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   112. Quốc triều chính biên toát yếu (1971), Nhóm nghiên cứu Sử - Địa xuất bản, Sài Gòn.
   113. Đại Nam liệt truyện, tập 2 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   114. Đại Nam liệt truyện, tập 3 (1993), Nxb Thuận Hoá, Huế.
   115. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nxb Văn hoá, Hà Nội.
   116. Sở Văn hoá thông tin - TDTT An Giang - Hội khoa học Lịch sử TP Hồ Chí Minh (1994), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Thân thế và sự nghiệp của chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh.
   117. Sở Văn hoá thông tin An Giang - Bảo tàng An Giang (1999), Hồ sơ di tích đình Bình Mỹ.
   118. Sở Văn hoá thông tin An Giang (1990), Di tích lịch sử văn hoá ở An Giang, An Giang.
   119. Phạm Côn Sơn (1996), Gm lễ xưa nay, Nxb Đồng Tháp.
   120. Lê Thanh Sử (1994), "Các lễ tục truyền thống trong chu kỳ đời sống của người Khmer ở Cam-pu-chia", Dân tộc học, (3).
   121. Lâm Tâm (1994), Một số tập tục người Chăm An Giang, Chi hội văn nghệ dân gian An Giang - Hội văn nghệ Châu Đốc - In lần thứ hai.
   122. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hoá dân gian người Việt Nam Bộ (những phác thảo), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
   123. Đỗ Thận (1925), "Quan hôn tang tế", Nam Phong (94).
   124. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
   125. Ngô Đức Thịnh (1999), "Về nếp nghĩ và lối sống của người Việt cổ truyền ở châu thổ Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ", Văn hoá nghệ thuật, 4 (178).
   126. Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, In lần thứ hai, Hà Nội.
   127. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1978), Khí hậu Việt Nam, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
   128. Phạm Ngọc Toàn, (1976), Khí hậu nước ta, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
   129. Huỳnh Văn Tới (1996), Những sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử, Viện Văn hoá và Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
   130. Lâm Thanh Tòng (1997), "Một số đặc điểm cư trú của người Khmer ở Sóc Trăng, Dân tộc học, (4).
   131.   Lãn Ông Lê Hữu Trác (1992), Hải thượng y tông tâm lĩnh quyển nhất, Hoàng Văn Hoà - Hoàng Đình Khoa (dịch), Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.
   132. Huỳnh Ngọc Trảng... (1993), Đình Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ, Nxb TP Hồ Chí Minh.
   133. Bùi Đạt Trâm (1985), Đặc điểm thuỷ văn tỉnh An Giang, Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật An Giang xuất bản.
   134. Lê Ngọc Trụ và Phạm Văn Luật (1951), Nguyễn Cư Trinh với quyển Sãi vải, Tân Việt, Hà Nội.
   135. Lê Hữu Tuấn (1999), "Họ đạo Châu Đốc men trong bột", Công giáo và dân tộc, (1200).
   136. Lục Tùng (1999), "Mắm ruột", Văn hoá nghệ thuật ăn uống, (124).
   137. Đỗ Khắc Tùng (1978), "Vài đặc điểm của thân tộc, hôn nhân và gia đình người Khmer đồng bằng sông Cửu Long", Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 2, Viện KHXH tại TP Ho Chí Minh
   138. Khổng Tử (1969), Xuân - Thu tam truyện tập 1, Hoàng Khôi (dịch), Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
   139. Phan Lạc Tuyên (1991), "Ảnh hưởng của một số đạo giáo trong nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long", Dân tộc học, (2).
   140. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH, Hà Nội.
   141. Phan Thị Yến Tuyết (1999), "Ngày xuân nói chuyện tín ngưỡng ở Nam Bộ", Xưa và Nay, (59B+ 60B).
   142.   Lê Thị Nhâm Tuyết (1976), "Vị trí lịch sử của hội làng", Dân tộc học, (1).
   143.   Trương Ngọc Tường (1998), "Làng xã Nam Bộ qua Minh hương điều ước", Xưa và Nay (58B).
   144.   Đặng Nghiêm Vạn (1996), về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb KHXH, Hà Nội.
   145.   Đào Đăng Vĩ (1974), Nguyễn Tri Phương, Nha Văn hoá, Bộ Văn hoá giáo dục và thanh niên, Sài Gòn.
   146. Viện Dân tộc học, ủy ban KHXH Việt Nam (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb KHXH, Hà Nội.
   147.   Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh, ủy ban KHXH Việt Nam (1978), Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 2 (bản in rô-nê-ô).
   148.   Việt Nam đất nước giàu đẹp, tập 2 (1998), Nxb Sự thật, Hà Nội.
   149.   Khuông Việt (1843), "Lược khảo về chế độ cai trị người Minh hương ở Nam Kỳ", Đại Việt tạp chí, (8).
   150.   Thạch Voi, Hoàng Túc (1998), "Phong tục lễ nghi của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long", Tìm hiểu văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Hậu Giang.
   151.   Mã Xái (1974), Giáo phái miền Tây, Long Xuyên.
   152.   Võ Tòng Xuân (1974), Phát triển tổng hợp kinh tế - xã hội nông thôn qua 7 năm xây dựng và phát triển tỉnh An Giang - Đề tài cấp Nhà nước KX-08-011, Chương trình phát triển nông thôn An Giang.
   153.   YAPHA (1972), Sinh hoạt đồng bào Chàm và những chính sách liên hệ, Luận văn tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chính khoá 1969-1972.


   TÀI LIỆU CHỮ PHÁP
   154. Bau rac, J.C (1894), La Cochinchine et ses habitants (Provinces de Louest, Sai Gon, Imprimerie Commerciale Rey, Curiol &ce.
   155. Chhak, Sarin (1966), Les Frontierses du Cambodge, tome 1, Librairie Dalloz, Paris.
   156. Loui Mérard (1901), Monographie de la province de Chaudoc, Sài Gòn.
   157. Labussìere, M. (1880), Rapport sur les Chams et les Malais de l arrondisment de Chau doc, Excursion et Reconnaissances, N°3, Sai Gon.


   TÀI LIỆU CHỮ HÁN
   Địa bạ tỉnh An Giang - Ký hiệu: DN1 - V59 - Trung tâm Lưu trữ quốc gia I - Hà Nội.
   158. Bình Thịnh đông thôn - Tập số A2.
   159. Hoà Lạc thôn - Tập số A1.
   160. Mỹ Hội đông thôn - Tập số A3.
   161. Nhân An thôn - Tập số A6.
   162. Nhân Lương thôn - Tập số A1.
   163. Tân Hưng thôn - Tập số A6.
   164. Vĩnh Lộc thôn - Tập số A10.
   165. Vĩnh Toàn thôn - Tập số A1.
   166. An Hoà thôn - Tập số A11.
   167. Bình Thành Tây thôn - Tập số A10.
   168. Định An thôn - Tập số A2.
   169. Long Hậu thôn - Tập số A3.
   170. Nhân Hoà thôn - Tập số A10.
   171. Tân Bình thôn - Tập số A5.
   172. Tân Lộc thôn - Tập số A8.
   173. Long Khánh thôn - Tập số A4.
   174. Long Sơn thôn - Tập số A11.
   175. Phú Lâm thôn - Tập số A6.
   176. Tiến An thôn - Tập số A7.
   177. Tiến Thuận thôn - Tập số A10.
   178. Vĩnh Lạc thôn - Tập số A5.
   179. Kiến Long thôn - Tập số A2.
   180. Kiến Thịnh thôn - Tập số A5.
   181. Mỹ Chính thôn - Tập số A11.
   182. Mỹ Hưng thôn - Tập số A4.
   183. Mỹ Long thôn - Tập số A5.
   184. Mỹ Phú thôn - Tập số A4.
   185. Mỹ Đức thôn - Tập số A9.
   186. Toàn Đức Đông thôn - Tập số A1.
   187. Tú Điền thôn - Tập số A3.
   188. An Nông thôn - Tập số B4.
   189. Nhân Hoà thôn - Tập số A10.
   190. Vĩnh Điều thôn - Tập số B8.
   191. Vĩnh Lạc thôn - Tập số B8.
   192. Vĩnh Nguyên thôn - Tập số B6.
   193. Vĩnh Tế thôn - Tập số B7.
   194. Vĩnh Thành thôn - Tập số B1.
   195. Vĩnh Thọ thôn - Tập số B5.
   196. Vĩnh Thông thôn - Tập số B9.
   197. Mỹ Phước thôn - Tập số B7.
   198. Mỹ Thịnh thôn - Tập số B4.
   199. Tân Thuận Đông thôn - Tập số B8.
   200. Thịnh Hoà Trung thôn - Tập số B3.
   201. Thoại Sơn thôn - Tập số B5.
   202. Thái Thuận thôn - Tập số B3.
   203. Vĩnh Chính thôn - Tập số B6.
   204. Vĩnh Phú thôn - Tập số B7.
   205. Vĩnh Trinh thôn - Tập số B1.
   206. Bình Đức thôn - Tập số B9.
   207. Bình Hòa Trung thôn - Tập số B1.
   208. Bình Lâm thôn - Tập số B1.
   209. Bình Mỹ thôn - Tập số B9.
   210. Vĩnh Thịnh Trung thôn - Tập số B7.
   211. Vĩnh Thuận thôn - Tập số B7.