Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 16 Tháng Tư, 2021, 01:46:49 pm



Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Tư, 2021, 01:46:49 pm
Tên sách: Đường tới toàn thắng
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2005
Số hoá: ptlinh, quansuvn

Tổ chức thực hiện:
   - Đại tá ĐỒNG KIM HẢI
   - Đại tá GIÁP VĂN PHÚC

Có sự tham gia của các đồng chí:
   - Đại tá - Nhà văn HÀ BÌNH NHƯỠNG
   - Thượng tá - Nhà văn LAM GIANG (Hồ Sĩ Thành)
   - NGUYỄN QUỐC HOÀN

(https://i.imgur.com/u34IEEN.jpg)


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Tư, 2021, 01:47:38 pm
Lời giới thiệu


Đại thắng mùa Xuân 1975 là đòn tiến công chiến lược cuối cũng kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 21 năm. Theo dòng chảy lịch sử, ta đã có một khoảng lùi xa 30 năm để nhìn lại sự kiện vĩ đại này của thế kỷ XX.


Những sự kiện, những chiến dịch lớn quyết định trong giai đoạn này đã được ghi lại dưới nhiều dạng thức, chuyền tải đến bạn đọc một lượng thông tin rất đa dạng và phong phú về diễn tiến chiến dịch tại chiến trường miền Nam và cả hậu phương lớn miền Bắc.


Đại thắng mùa Xuân 1975 đã huy động vào đây hầu hết những lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến của các quân binh chủng nhằm giải quyết những điểm mốc then chốt, cũng như bố trí cài thế trên bình diện cuộc chiến, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định. Nghệ thuật quân sự đỉnh cao, sự sáng tạo và tổ chức chỉ huy, tinh thần và ý chí của binh sĩ được thể hiện trong chiến dịch vô cùng sôi động kéo dài 55 ngày đêm.


Đối với các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, Đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã khắc sâu vào tâm tưởng những kỷ niệm không bao giờ quên.


Tập sách này, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân quy tụ nhiều tác giả là cán bộ chỉ huy các cấp chiến lược, chiến dịch, các cán bộ quân sự, chính trị, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà khoa học... là những nhân chứng đã từng tham gia chiến dịch, các trận đánh lớn hoặc giai đoạn tiếp quản.


Các tác giả đã biểu đạt các sự kiện gắn với kỷ niệm của mình với độ chính xác đáng tin cậy; đồng thời cập nhật nhiều tư liệu mới và cái nhìn có chiều sâu lịch sử... góp phần tạo nên bức tranh toàn cảnh và hoành tráng của một chiến dịch tầm cỡ, kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt nhất trong lịch sử Việt Nam.


Với những cố gắng của các tác giả và Ban biên soạn, hy vọng tập sách "Đường tới toàn thắng" sẽ giúp bạn đọc hiểu sâu sắc, toàn diện hơn thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm, tròn 30 năm trước.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


NHÀ XUẤT BẢN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Tư, 2021, 01:48:49 pm
VỚI CHIẾN THẮNG GIẢI PHÓNG
MỘT TỈNH ĐẦU TIÊN, QUÂN VÀ DÂN PHƯỚC LONG ĐÃ CHỈ RA
THỜI CƠ VÀ KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM


Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ
Trích kỷ yếu chiến thắng Phước Long của Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh Bộ Tư lệnh B2 (Miền), Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh - Xuân 1975


Quân và dán Phước Long đã làm nên một kỳ tích chiến lược trong chiến tranh chống Mỹ. Đúng như vậy; không có chiến thắng Phước Long thì chưa có Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vì vậy chiến thắng Phước Long không thể đánh giá như một chiến thắng chiến thuật hay chiến dịch mà là một chiến thắng ở tầm chiến lược. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đi vào lịch sử vinh quang nhất của dân tộc phải chăng xuất phát từ ngày 6 tháng 1 năm 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Hãy ghi nhớ công ơn của những người con của dân tộc đã ngã xuống trên miền đất thiêng liêng này, những con người tiếp sáng trí tuệ của những người sống, chỉ ra thời cơ đã chín và khả năng của ta giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Ngay sau khi chiến thắng Phước Long được thông báo trong cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng đến các lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường đang họp tại Hà Nội, đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư đã vui mừng nói: "Thực tế này nói rõ hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”. Về sau đồng chí lại nói: “Chiến thắng này, đã mở ra tiền đề cho cách mạng miền Nam thần tốc tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam”.


Trong chiến tranh, đặc biệt là cuộc chiến tranh chống Mỹ của ta, mà sức lực đôi bên rất không cân xứng. Kẻ địch của ta là một cường quốc thế giới có dư bom đạn vũ khí hiện đại, dư tiền của và có quyết tâm của một chiến lược toàn cầu, nên tình hình diễn biến vô cùng phức tạp trong suốt các quá trình của cuộc chiến. Hiểu rõ địch nhất là những âm mưu, kế hoạch của nó, hiểu rõ ta nhất là những khả năng thực tế đến đâu, hiểu rõ tình hình đôi bên từng giai đoạn trên chiến trường là rất khó. Không thể căn cứ vào hiện tượng nhiều khi không thật, không thể căn cứ vào ý chí của ta. Sự việc thường diễn biến thuận hoặc nghịch lý, luôn vận động phát triển không ngừng, có lúc biểu lộ rõ nét, nhưng bao giờ cũng còn những ẩn số ngầm. Việc nắm bắt được kịp thời và chính xác thực chất của sự vật, chiều hướng phát triển của nó để có chủ trương chiến lược đúng thời cơ là yêu cầu cao nhất của lãnh đạo chỉ đạo chiến lược trong chiến tranh.


Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, sự đánh giá tình hình giữa ta và địch có nhiều ý kiến mâu thuẫn nhau. Hiệp định quy định quân Mỹ rút hết khỏi Việt Nam, nhưng Mỹ không những để hết vũ khí lại cho ngụy, rút về hơn nửa triệu quân tay không, mà còn chở thêm, cả bằng đường không, đường biển, trang bị vũ khí rất nhiều cho ngụy để ngụy giành thắng lợi cuối cùng trong “Việt Nam hóa chiến tranh”. Do đó, có những đánh giá rằng Mỹ cút nhưng ngụy chưa nhào mà còn mạnh lên về mọi mặt; còn ta thì yếu đi nhiều, cần sắp xếp lại thành hai vùng, rút hết quân đội ta từ vùng địch về vùng ta để củng cố nếu không sẽ bị tiêu diệt hết. Tất nhiên như vậy chiến trường sẽ phân tuyến, tự mình xóa thế xen kẽ da beo vô cùng lợi hại của chiến tranh nhân dân. May thay, Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng chấn chỉnh và đề ra đường lối đúng đắn để ta tiếp tục giành thắng lợi. Mùa khô 1974, toàn bộ chiến trường B2 hoạt động đánh địch rất tích cực, đã giành nhiều thắng lợi cả ở đồng bằng và rừng núi. Qua hoạt động thực tế tại chiến trường, ta đã hiểu địch và hiểu ta rõ hơn. Nhờ đó Trung ương Cục đã nhận định trong hội nghị tổng kết tháng 6: “Qua mùa khô này nhân tố mới sẽ xuất hiện rõ: ta đang thắng lợi và phát triển đi lên, địch đang suy sụp đi xuống. Ta không dừng lại, phải tiếp tục giành thắng lợi lớn hơn. Mùa mưa này (1974) ta có rất nhiều thuận lợi hơn bất kỳ mùa mưa nào trước đây, hơn cả mùa khô vừa rồi. Bất chấp thời tiết khó khăn, phải đẩy mạnh hoạt động mọi mặt, tạo thế và lực mới, vật chất và tinh thần cho các quân khu, các tỉnh, các địa phương và cho chủ lực bước vào mùa khô 1974-1975 với khí thế mạnh, sung sức. Năm 1975, nhất là mùa khô 1975, ta có khả năng giành thắng lớn, làm chuyển biến tình hình, tạo ra bước ngoặt, một bước ngoặt có tính chất quyết định”.


Quả thật mùa mưa năm 1974 ta thắng lớn. Lại vượt mọi khó khăn do địch và thời tiết gây ra, vận tải vũ khí và đưa quân số bổ sung được cho đồng bằng sông Cửu Long và các đơn vị sẵn sàng cho mùa khô.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 16 Tháng Tư, 2021, 01:49:30 pm
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn ta - địch qua thực tế cả năm 1974 như vậy, Bộ chỉ huy B2 đặt kế hoạch hoạt động lớn ngay vào đầu mùa khô 1974-1975 cho chiến trường B2. Trong kế hoạch đó, các Quân khu 8, 9 tiêu diệt địch, phá bình định, mở rộng vùng làm chủ, trọng điểm là trung tâm vùng đồng bằng: các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long. Còn chủ lực Miền thì đánh địch trên đường 14, mở đầu bằng diệt chi khu Đồng Xoài, làm chủ ngã tư giao thông quan trọng này để dùng cơ giới tải đạn dược, lương thực qua phía bắc và phía đông Sài Gòn chuẩn bị cho các mũi bắc và đông đánh vào Sài Gòn trong thời gian tới. Nếu điều kiện thuận lợi do địch bị cô lập ở Phước Long hoang mang, ta sẽ giải phóng cả tỉnh. Trung ương Cục đã thông qua kế hoạch, một mặt báo cáo ra Trung ương, một mặt triển khai đánh địch ngay vào đầu tháng 12 năm 1974 của đợt 1 mùa khô và chuẩn bị cho đợt 2 vào tháng 3. Ngoài ra, Trung -ương Cục còn đề nghị có cuộc họp của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và lãnh đạo chỉ huy các chiến trường để nhận định đánh giá đúng tình hình và có những chủ trương kịp thời.


Nhưng Trung ương không chấp thuận kế hoạch của B2; lệnh không được dùng chủ lực và binh chủng xe tăng, pháo xe kéo, trong năm 1975, để dành sức quan trọng cho thời cơ quan trọng năm 1976. Năm 1975 chỉ được đánh nhỏ, chủ yếu hoạt động phá bình định ở đồng bằng Cửu Long. Chủ lực chỉ dùng một bộ phận đánh Đức Lập mở hành lang thông suốt vào miền Đông Nam Bộ để chuẩn bị cho các chiến dịch lớn, thời cơ lớn năm 1976.


Chính vì vậy B2 phải bỏ kế hoạch đánh Đồng Xoài, điều lực lượng Quân đoàn 4 triển khai sẵn ở Đồng Xoài cùng pháo và xe tăng về vị trí cũ; dùng Sư đoàn 3 mới tổ chức cùng địa phương và du kích đánh nhỏ trên đường 14 vào khu vực Bù Đăng và bắc Đồng Xoài.


Điều này chứng tỏ các chiến trường không báo cáo được đầy đủ và kịp thời tình hình thực tế ra Trung ương hoặc báo cáo sai lệch. Không thể có dự kiến cho sắp tới, tiên tri cho tương lai trong khi thiếu những cơ sở thực tế của chiến trường được phản ánh đầy đủ.


Cuộc họp của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương có sự tham dự của lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường toàn Miền từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975 đã bổ sung kịp thời những thiếu sót đó. Tình hình đã rõ, sự đánh giá của ta về địch đúng đã làm cơ sở vững chắc cho kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976. B2 được phép dùng chủ lực Quân đoàn 4 pháo và xe tăng cùng Sư đoàn 3 đánh và đã tiêu diệt gọn Đồng Xoài rồi giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long trong niềm vui sướng của mọi người. Quân ngụy bị rải ra giữ khắp miền Nam để thực hiện mệnh lệnh của Thiệu là không để một xã nào rơi vào tay Việt Cộng. Rút cục không còn lực lượng dự bị nào phản ứng nổi thất bại lớn lao này như nhận định của B2 trước khi đánh. Chúng chỉ đưa được liên đoàn biệt kích dù 81 vẻn vẹn khoảng 200 tên lên phản kích nhưng cũng bị tiêu diệt. Thiệu đành làm trò hề ba ngày toàn quốc để tang cho Phước Long. Còn Mỹ tuy cảm thấy sự kiện Phước Long có quan hệ đến sự sụp đổ của chế độ ngụy, nhưng cũng chỉ đứng ngoài hăm dọa và gây áp lực từ xa như báo động khẩn cấp Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ ở O-ki-na-oa, dọa ném bom trở lại miền Bắc nếu ta tiếp tục tấn công, cho tàu sân bay Interprise từ Phi-líp-pin vào biển Đông, Nam Việt Nam. Mặc dù chính tổng thống Thiệu đã van nài đại sứ Mỹ Ma-tin xin Mỹ can thiệp, Bộ ngoại giao của cái gọi “Cộng hòa Việt Nam” chính thức gửi công hàm, tướng Khuyên - tổng tham mưu trưởng quân ngụy gọi điện cầu cứu khẩn cấp với Xmít, trưởng cơ quan tình báo quân sự Mỹ (DAO), song, Mỹ vẫn làm ngơ. Ngày 9 tháng 1 năm 1975, Đại sứ quán Mỹ báo cho Thiệu biết “Việc yểm trợ bằng máy bay Mỹ lúc này chưa được phép”, rồi ngày 21 tháng 1 năm 1975 tổng thống Pho tuyên bố: “Không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn, sẽ không can thiệp vào Việt Nam mà không thông qua thủ tục hiến pháp và lập pháp” và khi bị Quốc hội Mỹ chất vấn, tàu sân bay Interprise được lệnh rút êm về Ân Độ Dương.


Trong đợt 1 hoạt động mùa khô toàn B2 đã giành thắng lợi lớn. Mặc dù các chiến trường khác chỉ đánh nhỏ, địch vẫn không thể tập trung cao độ đối phó với B2 vì thực sự chúng đã suy yếu nghiêm trọng. Ngoài chiến thắng Phước Long, ta đã giải phóng huyện Tánh Linh và một nửa huyện Hoài Đức thuộc tỉnh Bình Thuận, tiêu diệt và làm chủ đài quan sát và kỹ thuật thông tin ở núi Bà Đen dùng khống chế cả vùng tây bắc miền Đông Nam Bộ. Ở đồng bằng sông Cửu Long ta diệt nhiều chi khu, căn cứ và đồn bốt địch, loại khỏi vòng chiến đấu 2 vạn tên, giải phóng gần 2 triệu dân.


Trong cuộc họp của Bộ Chính trị (mở rộng) kết thúc vào ngày 8 tháng 1 năm 1975, căn cứ vào tình hình phát triển mới nhất, đặc biệt là chiến thắng giải phóng toàn tỉnh Phước Long, hội nghị đã có những kết luận quan trọng:


“Diễn biến cơ bản của tình hình trong gần hai năm qua rõ ràng là ta đang ở thế thắng, thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi. Địch đang thế thua, thế đi xuống, thế bị động và khó khăn... Chúng suy yếu một cách toàn diện với nhịp độ ngày càng tăng. Do hoạt động của ta và do khó khăn nội tại của chúng, địch có thể trải qua những bước xuống dốc nghiêm trọng”...


“So sánh lực lượng địch - ta trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam đã có những chuyển biến cơ bản rõ rệt có lợi cho cách mạng, ta đã mạnh hơn địch”.


“Chúng ta đã đứng trước thời cơ chiến lược lớn”... Chưa bao giờ ta có đầy đủ điều kiện về quân sự và chính trị như hiện nay, thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc...”.


Trên cơ sở nhận định và đánh giá tình hình như vậy mà Bộ Chính trị hạ quyết tâm về kế hoạch hai năm 1975-1976 giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Bộ Chính trị nhấn mạnh vấn đề thời cơ chiến lược: “Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời cơ, tình hình thế giới và nội tại nước Mỹ là thời cơ.

Phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn".

Chiến thắng Phước Long là một thực tế làm lộ rõ tình hình của giai đoạn cuối của chiến tranh giúp ta đánh giá đúng tương quan lực lượng đôi bên. Hiểu rõ khả năng của ngụy nhất là khả năng của Mỹ có tái can thiệp vào Việt Nam hay không. Chiến thắng Phước Long đã tạo thời cơ vô cùng quan trọng trong năm 1975 không được bỏ lỡ để kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Tư, 2021, 03:39:03 pm
NHỚ LẠI CÁNH QUÂN TÂY NAM
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ


Theo lời kể của Trung tướng LÊ VĂN TƯỞNG (LÊ CHÂN)
Nguyên Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Miền; Nguyên Chính ủy Đoàn 232 - cánh quân Tây - Tây Nam
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Xuân 1975


Trước khi nói về cánh quân Tây Nam - một trong năm cánh quân hiệp đồng đánh trận cuối cùng tạo nên chiến tích lẫy lừng làm sụp đổ ngụy quân, ngụy quyền, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ 21 năm đầy gian khổ hy sinh, theo tôi, không thể không nhắc lại mấy sự kiện mang tầm vóc chiến lược trước đó.

1. Không thể không nhắc đến “đòn trinh sát chiến lược Phước Long”

Giữa tháng 11 năm 1974, đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục và đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh B2 lên đường ra Bắc họp theo thư triệu tập của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đồng chí Phan Văn Đáng - Ủy viên Trung ương Đảng, Thường vụ Trung ương Cục cũng đang có mặt tại Hà Nội chờ dự họp.


Các cơ quan Miền bấy giờ đóng ở Tà Thiết thuộc căn cứ Lộc Ninh. Những cơn mưa cuối mùa thỉnh thoảng lại tưới mát cho núi rừng miền Đông, giúp cho cây rừng, ruộng rẫy hoa màu hồi sinh sau bao đợt thuốc khai quang làm cho khô cành trụi lá. Lúc này cả gia đình tôi đều công tác trong vùng căn cứ. Nhắc đến gia đình là vì giữa lúc chiến trường sôi động, con trai đầu lòng của tôi công tác trong một đơn vị quân y được tổ chức và gia đình làm lễ tuyên hôn với một cháu gái cũng là chiến sĩ giải phóng. Vui mừng vì gia đình có thêm một thành viên cùng chiến tuyến, thật là:

Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí, chung câu quân hành
(Thơ Tố Hữu)

Cuộc chiến chống xâm lược của dân tộc trải dài lịch sử chứa đựng biết bao điều kỳ diệu: giữa chiến trường khốc liệt, mạng sống có lúc như chỉ mành treo chuông, thế mà trong tiếng bom thét đạn gầm vẫn có lời ca tiếng hát ngọt ngào và tình yêu, sự sống vẫn ngày ngày sinh sôi, vươn cao, vươn thẳng bất chấp bom đạn của kẻ thù.


Trong khi Bí thư Trung ương Cục và Tư lệnh B2 đi họp Bộ Chính trị mở rộng và trình duyệt kế hoạch quân sự của B2 trong mùa khô 1974-1975 thì tại căn cứ Miền còn lại các Phó tư lệnh, Phó chính ủy Miền và cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần. Trực chỉ huy cơ bản có đồng chí Lê Đức Anh - Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng và tôi - Phó chính ủy Bộ Tư lệnh Miền.


Thực tế đã hai năm nay, Mỹ và ngụy Sài Gòn vẫn rắp tâm phá bỏ Hiệp định Pa-ri, Nguyễn Văn Thiệu vẫn nuôi tham vọng tiêu diệt lực lượng quân sự cách mạng để độc chiếm miền Nam - thể hiện qua lập trường "bốn không" của y. Do đó Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam không còn con đường nào khác phải sử dụng bạo lực cách mạng để đánh lại kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của ngụy; phải tích cực, phản công và tiến công quân địch khi chúng tổ chức hành quân giành dân, lấn đất. Giai đoạn này, ở mặt trận miền Đông, anh Hoàng Cầm là Tư lệnh, anh Bùi Cát Vũ là Phó tư lệnh Quân đoàn 4 đang triển khai thế trận giữ đất, bảo vệ dân, kiên quyết giữ vững căn cứ Lộc Ninh, tiếp tục vây hãm địch ở An Lộc. Ở hướng này trong kế hoạch tác chiến mùa khô năm 1974-1975, Bộ Tư lệnh Miền chủ trương:

“Ngay từ đầu mùa khô (cuối năm 1974) phải giải phóng đường 14 từ Đồng Xoài lên Quảng Đức để mở rộng căn cứ Miền về phía sau giáp Tây Nguyên và nối căn cứ Miền về phía Đông Sài Gòn, tạo điều kiện mở đường và dự trữ vật chất, kỹ thuật sẵn trước cho hướng này. Muốn giải phóng đường 14, thực hiện ý định nói trên thì phải diệt cho được mục tiêu chủ chốt Đồng Xoài và khi đã đạt được thì tỉnh lỵ Phước Long hoàn toàn bị cô lập, ta chỉ cần bao vây địch tại đó, chúng không còn tác dụng gì nữa. Nhưng nếu có điều kiện thì ta giải phóng luôn tỉnh Phước Long làm cho căn cứ hậu phương ta hoàn chỉnh mà còn đạt được một tác động tâm lý và chính trị có lợi cho ta”1 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm" của Thượng tướng Trần Văn Trà, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh).


Dự kiến kế hoạch là như thế nhưng thực tế xảy ra có chậm đi mươi ngày vì lúc đầu Bộ Tổng chưa đồng ý như nội dung điện số 491 của Trung ương do Thiếu tướng Lương Văn Nho (Hai Nhã) từ Hà Nội trực tiếp mang về trao lại cho anh Lê Đức Anh (Sáu Nam) và tôi vào giữa tháng 11 năm 1974. Nội dung bức điện như sau: "... B2 định đánh Đồng Xoài, Phước Long nhưng Bộ không đồng ý mà chỉ cho đánh nhỏ, giải quyết một số điểm nhỏ trên đường 14 thôi. Năm nay đánh nhỏ là để tích lũy lực lượng chờ thời cơ. Không được sử dụng xe tăng, pháo lớn nếu không được Bộ Tổng Tham mưu duyệt từng trường hợp....”1 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm", Sđd).

Do có điện chỉ đạo của Trung ương nên anh Lê Đức Anh và tôi điều chỉnh kế hoạch, không để Quân đoàn 4 đánh Đồng Xoài và Phước Long mà chỉ đánh các điểm nhỏ như Bù Đăng, Bù Na...

Đến khi đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Trần Văn Trà gặp và trình bày chi tiết kế hoạch với đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, chúng tôi mới được lệnh đánh Đồng Xoài và Phước Long như kế hoạch ban đầu, thể hiện qua điện chỉ đạo số 567/ZK ngày 22 tháng 12 năm 1974:

“Sau Bù Đăng, Bù Na cố gắng diệt Đồng Xoài, nó có tác dụng cả về chiến dịch và chiến lược tuy là điểm không lớn. Có thể dùng Sư đoàn 7 đánh Đồng Xoài...”2 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm", Sđd).

Nhận được điện này qua sở chỉ huy cơ bản Miền, anh Hoàng Cầm và anh Bùi Cát Vũ tổ chức triển khai tiếp các trận đánh trên đường 14 rất hiệu quả.

Từ ngày 14 tháng 12 năm 1974 bắt đầu nổ súng đến ngày 26 tháng 12, các đơn vị tham gia chiến dịch Đồng Xoài - Phước Long đã đánh chiếm chi khu Bù Đăng, yếu khu Bù Na, giải phóng Bù Đốp. Đây là những vị trí rất quan trọng, trực tiếp uy hiếp tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở hướng tây bắc Sài Gòn. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, quân ta phát triển thế trận tiến công thị xã Phước Long. Sau khi đánh chiếm chi khu Phước Bình và điểm cao Bà Rá, từ ngày 1 tháng 1 năm 1975, Sư đoàn 9 hình thành thế trận bao vây và đánh chiếm một số mục tiêu trong tỉnh lỵ Phước Long, đến chiều tối ngày 6 tháng 1 năm 1975, quân ta diệt ổ đề kháng cuối cùng của địch thuộc sở chỉ huy trung tâm hành quân của tỉnh. Tỉnh Phước Long, một địa bàn có vị trí chiến lược ở cửa ngõ Sài Gòn đã được giải phóng.


Tin dứt điểm Phước Long đến trong lúc Bộ Chính trị đang họp làm cho mọi người thêm phấn chấn. Đồng chí Lê Duẩn nói: “Lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh được hoàn toàn giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sài Gòn và mở rộng căn cứ ta ở miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy mà nhất là của Mỹ"1 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm", Sđd). Chiến thắng Phước Long có giá trị như một đòn trinh sát chiến lược. Hai ngày sau chiến thắng Phước Long, hội nghị Bộ Chính trị kết thúc (8-1-1975). Trong phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn nói: “Ta phải giáng đòn chiến lược trong năm 1975. ở Nam Bộ phải tạo thế liên hoàn trong toàn Miền, áp sát vào Sài Gòn hơn nữa, làm cho các địa phương có sức bung ra khi có thời cơ. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long ta phải áp sát Mỹ Tho hơn nữa. Chúng ta đồng ý năm nay mở đầu bằng trận đánh Tây Nguyên”1 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm", Sđd).


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Tư, 2021, 03:40:31 pm
2. Phát huy trí tuệ tập thể, chọn đúng mục tiêu chiến lược

Trước hội nghị Bộ Chính trị mở rộng với Thường vụ Trung ương Cục và Tư lệnh các chiến trường, một số cán bộ quân sự có trách nhiệm ở Bộ Tổng Tham mưu đề xuất:

Mở đầu mùa khô năm 1974-1975 dùng chủ lực của B3 và của Bộ đánh chi khu Đức Lập để vừa mở hành lang tiếp vận B2 vừa thu hút viện binh của địch để tiêu diệt lớn sinh lực địch tại đây. Và tiếp theo: “Chúng ta sẽ tập trung lực lượng lớn, ưu thế áp đảo, mở đầu đánh thẳng vào Kon Tum, tiêu diệt địch và giải phóng tỉnh này. Tiếp theo đó ta đánh ngay vào chỉ huy sở của quân đoàn 2 ngụy ở Plây Ku. Ta sẽ diệt cả hai sư đoàn 22, 23 và các lực lượng khác của ngụy ở đây, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên”.

Dự kiến kế hoạch này đã được điều chỉnh, thay đổi rất nhiều sau hội nghị Bộ Chính trị. Như ta đã biết, chiến trường trọng điểm mở đầu cho kế hoạch tác chiến mùa khô 1974-1975 vẫn là Tây Nguyên nhưng mục tiêu chiến lược là thị xã Buôn Ma Thuột chứ không phải là Kon Tum vì lẽ như Thượng tướng Trần Văn Trà nhận xét: “Đánh vào Kon Tum và Plây Ku là đánh vào nơi địch cứng nhất. Chúng đã chuẩn bị phòng thủ từ lâu. Đánh như thế là đánh vỡ đầu địch. Lâu nay, địch luôn phán đoán ta sẽ đánh vào Kon Tum trước nên chúng dồn lực lượng và mọi chú ý vào đây; tuy ta có điều kiện tập trung lực lượng lớn và chuẩn bị mọi mặt thuận lợi nhưng địch đã đề phòng, ta không thể dễ dàng tấn công. Còn đánh vào Buôn Ma Thuột là đánh đòn bất ngờ hoàn toàn đối với địch, đánh vào phía sau không được phòng bị của địch. Chúng sẽ bị tiêu diệt và tan vỡ mau chóng, ta không cần sử dụng lực lượng nhiều. Hậu phương bị chiếm thì quân địch phòng thủ phía trước sẽ hoang mang dao động”1 (Dẫn theo cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm", Sđd)...


Trong quá trình hội nghị Bộ Chính trị vào giai đoạn chót thì một sự kiện mới xảy ra: chiến thắng Phước Long, một tỉnh ở vành đai phòng thủ hướng bắc Sài Gòn. Thắng lợi quan trọng này góp thêm yếu tố khách quan để Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh kết luận dứt khoát vê việc điều chỉnh dự kiến kế hoạch quân sự mùa khô 1974-1975.


3. Nghệ thuật chỉ đạo quân sự tập trung, kiên quyết, tận dụng thời cơ theo diễn tiến từng ngày trên chiến trường

Thực hiện đúng chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh về kế hoạch tác chiến mùa khô 1974-1975, bộ đội Tây Nguyên nổ súng tấn công sân bay Hòa Bình, căn cứ trung đoàn 53 ngụy trong đêm 9 rạng 10 tháng 3 năm 1975, mở đầu trận đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Trận tác chiến hiệp đồng binh chủng ác liệt diễn ra trong ngày 10 tháng 3, tiếp diễn trong đêm, đến trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975 ta hoàn toàn chiếm lĩnh thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, bộ đội Tây Nguyên và lực lượng tăng cường của Bộ tổ chức diệt viện phản kích và khống chế, bao vây, cô lập Plây Ku, Kon Tum.


Đến ngày 15 tháng 3 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu họp với các tướng tá ở Cam Ranh quyết định “rút lui chiến lược” (!) khỏi Kon Tum, Plây Ku về các tỉnh miền biển để bảo toàn lực lượng.

Cuộc tháo chạy rơi ngay vào thế mai phục của ta. Sư đoàn 320 và lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã diệt gọn đoàn quân hỗn loạn này trên đường số 7 ngày 16 tháng 3 năm 1975.

Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận nhận xét: “Trận Buôn Ma Thuột hiểm và mạnh quá, tiếp đến trận diệt viện sư đoàn 23 ngụy ở phía đông Buôn Ma Thuột nhanh và gọn quá làm cho địch hốt hoảng, rối loạn không những ở cấp sư đoàn, ở quân khu mà chính là động đến cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn. Từ sai lầm về chiến thuật, chiến dịch đến sai lầm về chiến lược. Ngụy quyền Sài Gòn hốt hoảng ra lệnh rút chạy khỏi Tây Nguyên. Mà đã sai lầm về chiến lược rồi thì thất bại trong chiến tranh là điều chắc chắn”1 (Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997).


Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng nhớ lại: “Sau thất bại nặng nề tại Buôn Ma Thuột, địch hoang mang và ra lệnh rút chạy khỏi chiến trường Tây Nguyên. Lúc đó Bộ thống soái tối cao nhận định: chiến thắng Buôn Ma Thuột đã trở thành chiến dịch giải phóng miền Nam, phải tập trung lực lượng nhanh chóng hướng về Sài Gòn. Qua tin tình báo, biết địch tập trung quân quyết định co cụm “tử thủ” ở Đà Nẵng, tôi ra lệnh cho Bộ Tư lệnh chiến trường Trị Thiên - Huế chuyển từ “kế hoạch cơ bản” sang “kế hoạch thời cơ”, đánh địch rút chạy, không cho chúng tập trung về Đà Nẵng.


Ngày 29 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta tấn công và giải phóng Đà Nẵng, địch tháo chạy hỗn loạn. Tôi đề nghị Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương chuyển lệnh “Tấn công” thành “Tổng tấn công” và thảo bức điện của Bộ thống soái tối cao gởi đi các chiến trường, trong đó có câu: "Trận Sài Gòn đã bắt đầu”. Một lệnh thần tốc mới đã được ban hành. Trước đây bản mệnh lệnh của Bộ thống soái có 2 chữ “chắc thắng”. Lệnh mới không có 2 chữ chắc thắng mà là: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng hoàn toàn miền Nam, quyết thắng và toàn thắng”1 (Trích trả lời phỏng vấn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tác giả Song Tô, bài đăng trên báo Sài Gòn giải phóng, số Chủ nhật 30-4-2000). Thông qua chừng ấy diễn biến của tháng đầu tiên trong kế hoạch tác chiến toàn Miền đủ minh họa nghệ thuật chỉ đạo quân sự tuyệt vời của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đó là ba vấn đề theo tôi cần nhắc lại trước khi nói về trận quyết chiến cuối cùng".


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Tư, 2021, 03:42:01 pm
Đôi điều nói thêm về cánh quân Tây Nam

Phối hợp với chiến trường chung, trên toàn B2, từ núi rừng Khu 6 đến đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven đô thị; từ quân chủ lực đến địa phương, dân quân du kích đều nhất tề xông lên, nô nức diệt địch. Cả B2 đồng loạt nổi dậy và tiến công.


Trước thắng lợi to lớn và khí thế chung hừng hực như thế ngày 7 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ - Ủy viên Bộ Chính trị đến căn cứ Trung ương Cục. Ngày 8 tháng 5 năm 1975, Trung ương Cục, Quân ủy Miền, Bộ Tư lệnh B2 họp, có đồng chí Lê Đức Thọ phổ biên nghị quyết của Bộ Chính trị (họp ngày 25 tháng 3 năm 1975), nhận định về âm mưu của Mỹ, ngụy, về những thắng lợi rất to lớn của ta trong tháng đầu chiến dịch mùa khô năm 1974-1975, và nhận định về khả năng sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền. Tiếp theo đồng chí nói đến quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và nhấn mạnh quyết tâm đó (quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975). Cuối buổi họp, đồng chí Lê Đức Thọ phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị về việc thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định: Tư lệnh là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Chính ủy là đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục.


Năm cánh quân tiến công đồng thời vào Sài Gòn được Bộ Chỉ huy chiến dịch phân công theo năm hướng, trong đó hướng Tây và Tây Nam do đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh, tôi (Lê Văn Tưởng) làm Chính ủy - mục tiêu là biệt khu thủ đô ngụy, tổng nha cảnh sát, kho xăng Nhà Bè và khống chế làm chủ quốc lộ 4 từ Sài Gòn về miền Tây.

- Địa bàn gồm tỉnh Tây Ninh, Long An, Hậu Nghĩa.

- Lực lượng cánh quân Tây và Tây Nam gồm Đoàn 232 (có Sư đoàn 3 và Sư đoàn 5), các Trung đoàn 24, Trung đoàn 88 của Quân khu 8, Trung đoàn 271 của Miền và lực lượng vũ trang địa phương như Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An cùng các binh chủng phối hợp như xe tăng, pháo binh, công binh, đặc công...


Nhân đây cũng xin được nhắc lại, Đoàn 232 được thành lập từ tháng 2 năm 1975 gồm Sư đoàn 3 (thiếu) do đồng chí Đỗ Quang Hưng làm Sư đoàn trưởng và Sư đoàn 5 do đồng chí Vũ Văn Thược làm Sư đoàn trưởng. Lúc mới thành lập Đoàn 232 do Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) làm Tư lệnh, đại tá Trần Văn Phác (Tám Trần) làm Chính ủy, nhưng khi triển khai Chiến dịch Hồ Chí Minh thì Bộ Chỉ huy chiến dịch, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền bố trí, phân công lại cán bộ: anh Năm Ngà, anh Tám Trần được điều về trợ giúp Trung tướng Đồng Văn Cống chỉ huy các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần tại Sở chỉ huy cơ bản của Miền để phục vụ cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Do vậy Đoàn 232 trở thành lực lượng nòng cốt của cánh quân hướng Tây và Tây Nam do anh Lê Đức Anh và tôi phụ trách cho đến ngày giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Trước lúc tấn công vào nội đô, Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh cũng điều động Sư đoàn 9 từ cánh quân hướng Đông sang tăng cường cho cánh quân Tây Nam để làm lực lượng chủ công, thọc sâu đánh thẳng vào biệt khu thủ đô ngụy từ hướng Tây.


Nhớ lại lúc nghe đồng chí Lê Đức Thọ phổ biến quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, từ trong lòng, tôi mong muốn được tham gia chiến đấu từ mặt trận phía Nam vì đây không những là chiến trường quen thuộc từ thời đánh Pháp mà còn là quê hương của tôi nữa. Do vậy khi được phân công làm Chính ủy cánh quân Tây Nam đúng ước vọng của mình, tôi rất phấn khởi. Trong khi anh Lê Đức Anh (Sáu Nam) ở lại nhận tiếp chỉ thị từ Bộ Chỉ huy chiến dịch thì tôi về Đoàn 232 trước đề làm công tác tổ chức với anh Năm Ngà. Lúc này anh Trần Văn Danh cùng được phân công chỉ huy lực lượng đặc công, biệt động thành với nhiệm vụ chủ yếu là đánh chiếm và giữ cho các cây cầu quan trọng để đảm bảo cho xe tăng7 pháo lớn và phương tiện cơ giới khác tiến vào nội đô. Đồng chí Lê Đức Thọ và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh duyệt lại việc phân công 5 cánh quân ở năm hướng lần cuối vào ngày 18 tháng 4 năm 1975. Từ căn cứ Miền ở Tà Thiết (Lộc Ninh), anh Sáu Nam và tôi vượt sông Sài Gòn vê hướng Tây Ninh, xuống mé Nam Ba Thu để về căn cứ tỉnh đội Long An. Đoạn nào đi xe gắn máy được thì anh em bảo vệ chở chúng tôi đi bằng xe Honda 90. Người chở tôi là Lưu Hùng - một Việt kiều sống tại Phnôm Pênh tham gia Quân giải phóng. Một chiến sĩ khác chở anh Sáu Nam. Trong số bảo vệ có chú Trần Nù - người chiến sĩ dũng cảm, tận tụy cùng đi với tôi khắp chiến trường suốt 11 năm cho đến ngày giải phóng. Nhiều đoạn phải vượt qua rừng tràm, rừng bàng để đi, vùng này là vùng trắng, địch oanh kích tự do, nên dân phải tản cư về gần thị trấn để tránh bom, pháo địch. Qua vùng này tôi hồi tưởng thời thiếu niên tôi đã từng nhổ bàng, xeo gốc tràm lụt để đổi gạo; mẹ tôi rồi kế đến là vợ tôi nhờ đương1 (Đương: (tiếng địa phương) có nghĩa là  đan, kết) đệm, đương bao bàng mà đắp đổi nuôi con vượt qua thời chiến tranh, đói nghèo cơ cực.


Bộ phận tham mưu, chính trị, hậu cần gồm mấy chục người do anh Trần Văn Nghiêm - Tham mưu trưởng điều động đi liền phía sau. Làm việc càng thắng, hành quân liên tục, anh Sáu Nam thấm mệt, những đoạn đường phải đi đêm, anh đi rất khó khăn vì mắt kém. Trên đường hành quân về Mộc Hóa, chúng tôi được tin Nguyễn Văn Thiệu từ chức, giao quyền tổng thống Việt Nam Cộng hòa lại cho Trần Văn Hương sau khi phòng tuyến Xuân Lộc sụp đổ (21 tháng 4 năm 1975). Tình hình chính trị diễn biến từng ngày thậm chí từng giờ vào giai đoạn cuối.


Bộ Chỉ huy cánh quân Tây Nam lệnh cho Sư đoàn 5 không đánh vào Mộc Hóa (tỉnh lỵ Kiến Tường) mà hành quân hỏa tốc về hướng Thủ Thừa, áp sát thị xã Tân An, sẵn sàng cắt đứt lộ 4, không cho địch rút chạy về đồng bằng sông Cửu Long thực hiện ý định co cụm phản công khi ta giải phóng Sài Gòn.


Cùng thời điểm này (27 - 28.4.1975), ở hướng tây, Sư đoàn 3 đánh chiếm tiểu khu Hậu Nghĩa, chi khu Đức Huệ, Đức Hòa bảo đảm hành lang lộ 10 và tuyến sông Vàm Cỏ Đông để công binh làm cầu phà dã chiến cho tăng, pháo và xe cơ giới vượt sông tiến về nội đô.


Cánh quân phía Nam do Thiếu tướng Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) làm Chính ủy, đại tá Huỳnh Văn Mến (Tư Thân) làm Chỉ huy trưởng trên đường hành tiến từ địa bàn tỉnh Mỹ Tho vừa đánh đồn bót giải phóng dân, vừa đánh địch mở đường về hướng Chợ Gạo; từ đó lại ngoặt lên đánh chiếm các chi khu Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc để tiến vào vùng ven Quận 8, chiếm giữ cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, tiếp cận mục tiêu nội đô cho kịp mốc thời gian quy định. Trung đoàn 24 là lực lượng chủ công, Trung đoàn 88 là lực lượng dự bị, tiếp đến là Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 của Long An. Đồng chí Tư Chiểu - Tỉnh đội trưởng Long An là Chỉ huy phó cánh này.


Đồng chí Trần Hàm Ninh - trợ lý tác chiến và là thơ ký của đồng chí Ba Thắng ghi trong nhật ký hành quân:

"- Ngày 22 tháng 4 năm 1975, sở chỉ huy cánh Nam vẫn ở Tân Phước, Thiệu vừa từ chức (21 tháng 4 năm 1975). Bộ chỉ huy có điện số 72/ZN gởi E3, E4 chỉ đạo vừa đẩy mạnh tiến công vừa làm tốt công tác binh địch vận - E3 phát triển thuận lợi ở Cần Giuộc diệt 4 đồn, E4 cũng diệt 4 đồn ở Cần Đước”1 (Trích dẫn từ "Kết thúc cuộc chiến 30 năm", Sđd, E3 tức Trung đoàn 88, E4 tức Trung đoàn 24).


Cùng ngày 22 tháng 4 năm 1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh nhận được điện chỉ đạo của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn:

Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày kịp thời phát động tấn công địch trên các hướng không để chậm. Nêu để chậm thì không có lợi cả về chính trị và quân sự, kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Các anh ra chỉ thị cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hiệp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”.


Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 5 tấn công Sư đoàn 22 ngụy, lần lượt tiêu diệt từng đơn vị mới bổ sung tăng cường co cụm từ cầu Voi đến cầu Bến Lức; không chế, làm chủ quốc lộ 4 từ Tân An lên cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm khu vực cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115, 117 phối thuộc cánh quân Tây Nam đánh chiếm vùng Phú Lâm. Cùng thời điểm này, anh Sáu Nhẫn (Bùi Văn Trữ) - Phó phòng công binh Miền đang chỉ huy cán bộ, chiến sĩ công binh phối hợp với đồng bào địa phương huy động phương tiện tại chỗ để tạo đường dẫn vượt sình lầy và làm cầu phà dã chiến để phương tiện cơ giới, xe tăng và pháo của Đoàn 232 vượt sông Vàm Cỏ Đông rồi tập kết về xã Mỹ Hạnh (Đức Hòa) theo lộ 10 tiến về Sài Gòn.


- Ngày 27 tháng 4 năm 1975, cánh quân phía Nam theo tỉnh lộ 50 từ Cần Giuộc lên đã lập bộ phận tiền trạm xã Bình Đăng quận 8, dự kiến ngày 28 tháng 4 đánh chiếm cầu Chữ Y, ngày 29 tháng 4 chiếm lĩnh trận địa, đợi lệnh tấn công vào mục tiêu.


- Đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, một sự kiện gây thôi động lớn trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền: một phi đoàn 5 chiếc A.37 do phi công Nguyễn Thành Trung dẫn đầu táo bạo, bất ngờ oanh kích sân bay Tân Sơn Nhất phá hỏng đường băng và một số máy bay chiến đấu của địch, làm hạn chế tối đa sức mạnh không quân của địch khi quân ta đồng loạt tiến công Sài Gòn. Cùng ngày 28 tháng 4, Trần Văn Hương sau một tuần nhận chức đã bất lực, đành phải giao chiếc ghế tổng thống lại cho tướng Dương Văn Minh theo mưu đồ của các thế lực chính trị thực dân, đế quốc.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 19 Tháng Tư, 2021, 03:42:53 pm
Ngày 29 tháng 4, anh Sáu Nam và tôi đến căn cứ Tỉnh đội Long An; tôi giăng võng trong hội trường có sẵn hầm tránh bom pháo. Hội trường nằm trong địa hình có nhiều tán cây che khuất. Có chút việc muốn tranh thủ thời gian bàn với anh Sáu nên tôi đề nghị anh cho giăng võng nằm gần tôi để vừa bàn công việc vừa nghỉ lưng. Hai anh em vừa nằm nghỉ thì bất thình lình nghe tiếng máy bay và rồi hàng loạt bom tọa độ nổ liên hồi, khói lửa mịt mù, tôi và anh lăn xuống hầm theo phản xạ ở chiến trường. Khi báo yên chúng tôi nhìn thấy căn nhà tỉnh đội - nơi anh Sáu Nam định giăng võng nằm - bị trúng bom cháy rụi chỉ còn trơ lại mấy cây cột cháy lem nhem. Chiếc xe U-oát cháy, đồng chí lái xe hy sinh; bốn chiến sĩ bảo vệ bị thương, trong đó có đồng chí Hồng đứt hai chân, thật thương tâm! Để có được chiến thắng cuối cùng, ta phải chấp nhận đau thương, hy sinh mất mát, biết làm sao được!


Theo mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, đúng 00 giờ 00 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, đồng loạt cả 5 cánh quân nổ súng tiến công vào nội đô Sài Gòn dũng mãnh, táo bạo tiến chiếm mục tiêu đã phân công. Điều tôi lo nhất lúc bấy giờ là phương tiện cơ giới, tăng, pháo có vượt được sông Vàm Cỏ Đông không? Tôi điện gặp anh Bùi Văn Trữ để nắm tình hình.

Anh Trữ báo:

- Báo cáo để anh Hai yên tâm: dân công và bộ đội công binh đã có phương án khắc phục đường lầy. Tăng, pháo và cơ giới chắc chắn vượt được sông đúng theo kế hoạch. - Nghe anh Trữ báo cáo đầy tự tin, tôi mới yên tâm. Và đúng như anh Trữ báo, sau khi qua sông, Sư đoàn 9 hành quân hỏa tốc về Sài Gòn.


5 giờ sáng ngày 29 tháng 4, Trung đoàn 1 do Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Chia và Chính ủy Lê Văn Dũng chỉ huy cùng Bộ Chỉ huy của Sư đoàn về đến bìa rừng Vĩnh Lộc. Trung đoàn 2 do Trung đoàn trưởng Lê Tấn Cẩm và Chính ủy Lê Giao chỉ huy cùng Sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn hành quân qua Bàu Công. Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Hoàng Thuần và Chính ủy Hồ Giáo chỉ huy diệt một số chốt dã ngoại của địch, đánh tan một tiểu đoàn biệt động quân ngụy, làm chủ lộ 10 từ ngã ba Bà Lác đến cầu Kinh Xáng.


9 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi các binh đoàn thọc sâu các hướng tây bắc, bắc, đông và đông nam hùng dũng tiến vào nội thành đánh chiếm các mục tiêu đã phân công thì ở hướng tây nam, các mũi tiến công của Sư đoàn 9 đã vượt qua tuyến phòng thủ cơ bản của địch vào đến ngã tư Bảy Hiền. 9 giờ 20 phút, trinh sát kỹ thuật của sư đoàn bắt được tin tổng thống ngụy quyền Sài Gòn ra lệnh “ngừng bắn để thương lượng với Chính phủ cách mạng lâm thời”. Thời điểm này, Bộ Chỉ huy cánh quân Tây Nam hành quân từ căn cứ Tỉnh đội Long An về đến Đức Hòa. Đây là vùng thị trấn, dân không tản cư. Tại xã Bình Tả có một số bà con biết tôi nên tìm đến thăm. Cũng ở chặng đường này, Tham mưu trưởng Trần Văn Nghiêm nhận được tin ngụy quyền ra lệnh ngừng bắn để thương lượng, anh báo lại cho tôi và anh Sáu Nam. Khi nhận được điện này, đồng chí Phạm Hùng - Chính ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch nói: - Giờ này phải đầu hàng vô điều kiện. Không thương lượng gì cả! - Sau này, anh kể lại.


Tiếp đó, chúng tôi nhận được điện của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương do Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh chuyển đến. Nội dung: “Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng”.


Như thế, về mặt lịch sử rất rõ ràng. Lệnh ngừng bắn để thương lượng của tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh là quá muộn màng; trong tình thế ngụy quyền sụp đổ đến nơi không còn bất cứ một giải pháp nào khác chứ không phải là chủ trương thiện chí như cách hiểu của một số ít người mà một vài tờ báo có đề cập trong dịp kỷ niệm 29 năm giải phóng vừa qua.


Chỉ một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố ngừng bắn đó, lúc 10 giờ 20 phút, đại đội 2 của Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 tiến qua cổng trại Lê Văn Duyệt - tức biệt khu thủ đô ngụy, bắt tướng Lâm Văn Phát - tư lệnh biệt khu thủ đô và nhiều sĩ quan thuộc quyền của y. Cờ giải phóng được kéo lên cột cờ biệt khu thủ đô ngụy lúc 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Gần như cùng thời điểm này, lúc 10 giờ 30 phút, Trung đoàn 24 của cánh quân phía Nam cũng đã đánh chiếm tổng nha cảnh sát ngụy.


Bộ Chỉ huy cánh quân phía Nam điện báo cáo cho đồng chí Lê Đức Anh và tôi đại ý: 12 giờ Bộ chỉ huy cánh Nam có mặt tại tổng nha cảnh sát ngụy sau lực lượng tiến công (Trung đoàn 24) một tiếng rưỡi.


Đoàn 10 đặc công đã đánh chiếm căn cứ Phước Khánh, cảng hải quân và kho xăng Nhà Bè. Như vậy đến 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cánh quân Tây Nam đã hoàn thành nhiệm vụ, chiếm lĩnh xong các mục tiêu được phân công tại nội đô.


Quân đoàn 2 hướng đông nam đánh chiếm “dinh Độc Lập”, nơi tượng trưng uy quyền cao nhất của chế độ Sài Gòn. Đúng 11 giò 30 phút ngày 30 tháng 4 nặm 1975, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đã kéo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên cột cờ chính ở “dinh Độc Lập”, bắt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ngụy quyền Sài Gòn.


Ngoài mục tiêu nội thành, cánh quân Tây Nam còn một nhiệm vụ chiến lược khác là khống chế chiếm giữ quốc lộ 4, theo dõi chặt chẽ âm mưu co cụm của địch về đồng bằng sông Cửu Long để kịp thời báo cáo với Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đồng thời phối hợp với Quân khu 8 và Quân khu 9 phá tan âm mưu này của địch. Vì vậy, Bộ Chỉ huy cánh quân Tây Nam đã lệnh cho Sư đoàn 5 giữ vững trận địa, tiếp tục chiếm giữ quốc lộ 4, cầu Bến Lức, cầu Tân An, chịu trách nhiệm từ Bến Lức đến nam Long An. Riêng lực lượng vũ trang Mỹ Tho và Khu 8 chịu trách nhiệm từ Trung Lương đến bắc Mỹ Thuận, khống chế và đánh chiếm khu căn cứ Đồng Tâm thuộc xã Bình Đức huyện Châu Thành, Mỹ Tho - nguyên là căn cứ của sư đoàn 9 của Mỹ và bấy giờ là căn cứ của sư đoàn 7 ngụy.


Năm cánh quân ở năm hướng đã hiệp đồng đánh trận quyết chiến chiến lược mạnh mẽ, tuyệt vời, làm sụp đổ dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn - nội các Dương Văn Minh bị bắt, tổng thống Việt Nam cộng hòa phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nên ngụy quân không thể thực hiện âm mưu co cụm về đồng bằng sông Cửu Long. Đến chiều 30 tháng 4 năm 1975 thì quân đoàn 4 ngụy ở Cần Thơ cũng đầu hàng nốt. 


Phút giây nhận được tin quân ta chiếm “dinh Độc Lập”, bắt nội các Dương Văn Minh, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ tại Bộ Chỉ huy cánh quân Tây Nam hân hoan tột độ; chúng tôi cảm thấy như trút hết mọi âu lo đè nặng tâm trí mọi người suốt mấy chục ngày qua.


Giờ phút chiến thắng, mỗi người một tâm trạng nhưng đại đa số đồng bào thành phố đều hân hoan, phấn chấn đúng như ý hai câu thơ cổ diễn tả khí thế người dân kinh thành Thăng Long lúc được đội quân áo vải, cờ đào của Anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ giải phóng khỏi ách thống trị phương Bắc:
   Mây tạnh, mù tan, trời lại sáng
   Đầy thành già trẻ mặt như hoa
(Thơ Ngô Ngọc Du)


Riêng tôi, nửa đời chinh chiến vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc, nay tóc xanh đã ngả màu, tôi cảm thấy mãn nguyện vì lý tưởng ban đầu đã chọn:

Đất nước lâm nguy ra đi cứu nước Quyết tâm diệt thù, giải phóng quê hương.


5-9-2004
Người thể hiện: NĂM DÂN


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:38:12 pm
TỪ ĐỒI ĐỘC LẬP ĐẾN DINH ĐỘC LẬP


Trung tướng LÊ NAM PHONG
Nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn 4


Đông xuân năm 1954 bộ đội ta tiến quân lên Tây Bắc mở chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, đập tan tập đoàn cứ điểm của địch, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Những cán bộ, chiến sĩ can trường, anh dũng của đội quân cách mạng anh hùng vẻ vang ấy lại tiến bước vào mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một lần nữa đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu, để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Lớp người có vinh dự tham gia cả hai cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc, trực tiếp chiến đấu trong cả hai chiến dịch lịch sử ấy nay đều đã là người cao tuổi, tôi may mắn còn được đứng trong hàng ngũ đó.

50 mùa xuân đã qua, nhưng những kỷ niệm sôi động sâu sắc ở mặt trận Điện Biên Phủ vẫn không phai mờ trong tôi.

Ngày 15 tháng 3 năm 1954, tôi cùng đại đội được phân công đánh chiếm cứ điểm Độc Lập; sau những ngày cơm vắt, ngủ hầm, bao vây lấn chiếm.

Cả đại đội đều cạo trọc đầu để xung trận, thề quyết chiến, quyết thắng, đập tan cứ điểm địch. Sau những loạt đạn pháo bắn cấp tập của ta gầm vang đồi núi, cả đại đội chia thành từng mũi ào ạt xốc tới, tiếng “xung phong”, vang trời đất. Phối hợp cùng đơn vị bạn, chúng tôi thọc sâu vào sào huyệt địch, cùng các đơn vị bạn chiếm lĩnh đồi Độc Lập. Trong khói lửa bom đạn mịt mù, được chứng kiến những hành động gan dạ, anh hùng, với tinh thần quật cường, ý chí quyết chiến của cả đại đội “dao nhọn”, tôi vô cùng phấn khích. Ngày nay mỗi khi nghĩ đến Điện Biên Phủ, cảnh tượng của giờ phút đánh chiếm đồi Độc Lập lại hiển hiện trước mắt tôi, thiêng liêng và sinh động.


Các chiến sĩ, đồng đội của tôi ngày ấy có người đã anh dũng hy sinh qua hai cuộc kháng chiến vì nền độc lập tự do của dân tộc. Nhiều người đã trở thành sĩ quan, cán bộ chỉ huy các cấp, là tướng lĩnh trong quân đội... như các đồng chí Vũ Thược, Đại Đồng, Bùi Nam Hà...


“Đại đội đầu trọc” - danh xưng ấy đã trở thành một huyền thoại để bộ đội lưu nhớ kỷ niệm Điện Biên Phủ. Vì vậy sau này trong chiến tranh chống Mỹ, tôi cùng được chia hưởng danh thơm. Các cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở mặt trận miền Đông Nam Bộ thường gọi tôi là “Đại đội Đầu trọc”.


Nhớ mấy năm trước, nhân được gặp gỡ chuyện trò cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi ghi tặng tôi cuốn sách "Điện Biên Phủ”, Đại tướng thân mật, trìu mến hỏi:

- Hồi đánh Điện Biên Phủ nghe nói Nam Phong cùng cả đại đội cạo trọc đầu thề quyết thắng?

Rồi đồng chí cười rất thân thiện, đôn hậu. Tôi xúc động ghi nhận tình cảm và sự quan tâm quý báu ấy. Trong tâm tưởng càng nhớ nhiều đến kỷ niệm về những ngày tháng được tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chiến dịch Điện Biên Phủ - nơi đã nở rộ trăm ngàn tấm gương anh dũng và sự hy sinh tuyệt vời của các anh hùng liệt sĩ, cũng chính là lò lửa cách mạng đã luyện tôi ý chí, hun đúc lập trường, gieo trồng những hạt giống trong lực lượng vũ trang ta để từng bước trưởng thành, bước tới cuộc đọ sức quyết liệt với quân Mỹ-ngụy và chư hầu trên các mặt trận, khắp các chiến trường ở miền Nam những năm sau.

Những tấm gương điển hình về tinh thần hy sinh chiến đấu, xả thân vì nước của chiến sĩ Điện Biên Phủ được Đảng vun đắp nhân lên gấp trăm ngàn lần, có biết bao anh hùng liệt sĩ sau này đã nối bước Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, v.v. làm rạng danh sử sách của một đội quân cách mạng oai hùng bách chiến bách thắng.


Năm nay kỷ niệm 30 năm miền Nam hoàn toàn giải phóng, ôn lại những sự kiện lịch sử quan trọng trên chiến trường mà bản thân tôi được tham dự từ dấu mốc quân ta đánh sụp đổ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy năm 1965, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tôi luôn nhớ đến những năm tháng gian khổ, khốc liệt cùng đồng đội, chiến sĩ đối mặt với quân thù hung hãn trên các chiến trường miền Đông Nam Bộ. Những ngày tháng đánh tan các cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, với các cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, cuộc càn Xê-đa-phôn rồi Gian-xơn Xi-ty, đánh tan một đội quân đông tới 40 vạn tên được trang bị hàng nghìn máy bay, xe tăng, pháo lớn...


Tiếp đến chiến dịch Nguyễn Huệ, cả Sư đoàn 7 chốt giữ đường 13 hơn 100 ngày đêm, lập nên bức tường thép lừng danh giữ vững chốt “Tàu Ô, Xóm Ruộng” được ghi vào lịch sử quân đội, lịch sử Quân đoàn 4 anh hùng. Trong vòng hơn ba tháng, chiến sĩ ta đã đập tan các cuộc phản kích quy mô của địch; đánh bại các sư đoàn (21, 25, 5) bộ binh, hai lữ đoàn dù (1, 3...), ba liên đoàn biệt động (3, 4, 5) và hai trung đoàn thiết giáp ngụy (3, 9); chiến sĩ quân đội ta đã nêu cao khí phách anh hùng, quyết thắng trong những ngày tháng gian khổ đó. Bất chấp tổn thất và hy sinh, đã có lúc tiểu đoàn chỉ còn vài chục tay súng, có những khi có chốt suy yếu chỉ còn 53 chiến sĩ, đạn pháo chi viện hạn chế, chỉ dùng khi tình thế khẩn cấp, nguy nan... Tuy vậy Sư đoàn 7 anh hùng vẫn duy trì chốt chặn và đánh ngăn chặn 800 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, bắn rơi máy bay, 200 xe quân sự (có 128 xe bọc thép).


Phát huy truyền thống kiên cường bất khuất đó, cả Sư đoàn chúng tôi lại cùng bộ đội Quân đoàn 4 và lực lượng miền Đông Nam Bộ tiếp bước vào các trận chiến đấu trong Đông Xuân 1975, mở đầu giải phóng Phước Long, tạo nên cục diện mới trên chiến trường. Ngày 20 tháng 10 năm 1974, lực lượng Trung đoàn 141 Sư đoàn 7, do đồng chí Lê Dương Liễu và Chính ủy Nguyễn Ngọc Doanh tiên đánh Đồng Xoài, Trung đoàn phó Bế Ích Quan chỉ huy mũi tiến công đánh chiếm sở chỉ huy địch, bắt toàn bộ ban chỉ huy quân sự địch, giải phóng chi khu Đồng Xoài.


Sau chiến thắng Đồng Xoài - Bù Đăng bốn ngày, rạng sáng 31 tháng 12 năm 1974 quân ta tiến công chi khu quân sự Phước Bình, Sư đoàn 7 thần tốc tiến đánh thị xã Phước Long.


Đây là trận chiến cực kỳ quyết liệt, sau 25 ngày đêm liên tục chiến đấu, Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 và lực lượng bộ đội địa phương đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


9 giờ 30 phút ngày 6 tháng 1 năm 1975, Trung đoàn 141, Trung đoàn 12, Sư đoàn 7 chiếm lĩnh dinh tỉnh trưởng ngụy. Chiến sĩ Nguyễn Văn Hoan cắm lá cờ quyết thắng lên nóc dinh tỉnh trưởng. Sau đó, anh lại cùng chúng tôi bước vào trận chiến đấu giải phóng Định Quán. Ngày 18 tháng 3 năm 1975, sau 77 ngày chiến đấu liên tục, Nguyễn Văn Hoan đã anh dũng hy sinh ở núi đá Ông Phật, đúng vào ngày quân ta giải phóng Định Quán.


Mãi mãi tôi khắc sâu hình ảnh yêu thương của Hoan vào lòng, mãi mãi không thể nào quên tinh thần chiến đấu anh dũng vô song, tấm gương hy sinh tuyệt vời dũng cảm của người chiến sĩ ấy.


Giải phóng Phước Long là một sự kiện quan trọng trong lịch sử chiến tranh cách mạng, vì đây là lần đầu tiên ở miền Nam quân ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh lớn ở ngay cửa ngõ Sài Gòn, nơi có nhiều vị trí chiến lược quan trọng của Mỹ-ngụy.


Trên đà thắng lợi mới và trên cục diện mới của chiến trường, Sư đoàn 7 chúng tôi cùng các quân đoàn vững bước tiến vào mùa Xuân toàn thắng 1975.

Giải phóng xong Phước Long, Định Quán trong khi đại quân ta đang chuẩn bị công kích Long Khánh - Xuân Lộc.

Sư đoàn 7 chúng tôi được tăng cường hỏa lực, một tiểu đoàn xe thiết giáp, 80 xe cơ giới mở đường lên hướng bắc đường 20 tiến công giải phóng thị xã Lâm Đồng.

Đường 20 từ Lâm Đồng về Túc Trưng được mở thành hành lang chiến lược để cơ động lực lượng sẵn sàng làm bàn đạp đế quân ta tiến công vào Sài Gòn từ hướng đông bắc.

Cùng các binh đoàn, quân đoàn, các binh chủng hợp thành Sư đoàn chúng tôi vinh dự tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến quân giải phóng Sài Gòn - Gia Đinh. Sau chặng đường chiến đấu dài 21 năm, các chiến sĩ Điện Biên năm xưa, những người từng vào sinh ra tử ở Mường Thanh, Him Lam, Hồng Cúm, trên đồi Độc Lập đã góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi trọn vẹn ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Lịch sử như có nhiều điều trùng hợp, ngày 7 tháng 5 năm 1954 giải phóng Điện Biên Phủ thì ngày 7 tháng 5 năm 1975, sau 21 năm tròn, Ủy ban quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định ra mắt đồng bào, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Người vinh dự cắm cờ lên dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng cùng quê Thái Bình với người cắm cờ trên nóc hầm tướng Đờ Cát trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:40:25 pm
TRUNG ĐOÀN BỘ BINH 95 VÀ TRẬN ĐÁNH NGHI BINH CẮT ĐƯỜNG 19 CHIẾN LƯỢC TRONG CHIẾN DỊCH XUÂN HÈ 1975


Theo lời kể của
Trung tướng LÊ AN
Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95,
Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt


Công tác chuẩn bị cắt đường 19 chiến lược Cuối năm 1974, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) chuẩn bị kế hoạch xuân hè Tây Nguyên năm 1975. Nhằm chia cắt, tạo thế chiến lược mới, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã tổ chức một đợt tập huấn cho cán bộ tham mưu tác chiến cấp trung đoàn, sư đoàn và tiểu đoàn chủ yếu. Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên lúc đó là đồng chí Vũ Lăng và Chính ủy là đồng chí Đặng Vũ Hiệp. Trong lần tập huấn này có thực hành diễn tập chỉ huy cơ quan ba cấp (trung đoàn, sư đoàn và cấp chiến dịch), trong đó có nội dung chiến thuật cắt đường 19 chiến lược, trong tưởng định chiến dịch tiến công giải phóng Tây Nguyên, nhằm mở rộng vùng ta kiểm soát Kon Tum và Gia Lai, lấy khung Trung đoàn bộ binh 95 giữ vai trò chủ lực của khung một sư đoàn. Để phục vụ cho diễn tập, Bộ Tư lệnh mặt trận phân công đồng chí Trần Xuân Giá, Phó tham mưu trưởng mặt trận đóng vai Sư đoàn trưởng. Tôi, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 đóng vai Tham mưu trưởng sư đoàn, và một số cán bộ khác của Trung đoàn 95 cùng đi tập huấn tham gia đóng vai khung Trung đoàn 95, thực hiện nhiệm vụ cắt đường 19. Để sát với thực tế, chúng tôi đã đắp sa bàn rồi cùng nhau trao đổi thảo luận rất kỹ, vì nếu chiến dịch diễn ra ở Tây Nguyên, trong bất cứ tình huống nào, bất cứ thời gian không gian nào, đều có nhiệm vụ cắt đường 19 chiến lược, con đường huyết mạch nối liền từ Quy Nhơn lên Plây Ku. Kết thúc đợt tập huấn, tôi kiến nghị với Tư lệnh mặt trận một số vấn đề về biên chế, trang bị, công tác bảo đảm cho trung đoàn, trong đó có xin một chiếc xe con. Nghe xong, đồng chí Đặng Vũ Hiệp nhìn tôi cười, nói: “Các cậu xin làm gì cho mệt, đánh cắt đường 19, lấy xe Jeép của địch sử dụng tiện hơn”. Nghe nói vậy tôi hơi buồn, nhưng không ngờ ngày cuối cùng cơ quan mặt trận đã thông báo: Bộ Tư lệnh quyết định cấp cho Trung đoàn bộ binh 95 một số trang bị vũ khí, đạn, một xe con Bắc Kinh đít vuông và đồng ý sẽ tăng cường thêm lực lượng. Trời đất, còn gì mừng hơn.


Ở mặt trận về, Trung đoàn 95 chuyên vị trí đóng quân đến căn cứ Khu 10, tỉnh Gia Lai, gần trục đường 20 phía bắc đường 19 và tiến hành ngay một đợt tập huấn cho cán bộ cấp cơ sở. Nội dung cắt đường 19, như chúng tôi đã được tập dượt qua đợt học tập ở Bộ Tư lệnh. Tiếp theo, Trung đoàn tổ chức huấn luyện, đồng thời vẫn bảo đảm thường xuyên tác chiến trên trục đường 19, đoạn từ đèo Măng Giang lên tới Lệ Trung (gần sát Plây Ku), quy mô sử dụng là cấp tiểu đoàn. Trung đoàn triển khai xây dựng nhà kho, phân công lực lượng tiếp nhận gạo và quân trang quân dụng, từ mặt trận đưa xuống theo đường hành lang.


Nhưng vất vả và gian khổ nhất là vận chuyển hai khẩu pháo 105mm và hai khẩu ĐKZ 106,7mm cùng cơ số đạn đến hàng trăm quả. Số vũ khí này ta thu được của địch khi đánh đồn Măng Đen. Đường đưa những con voi sắt không thể đi bằng đường bộ vì phải qua nhiều dốc cao, suối sâu, đó là chưa tính đến khả năng trên đường có thể gặp địch. Cuối cùng Trung đoàn chọn phương án chuyển pháo đi bằng đường sông, dùng cây ghép thành bè mảng, tháo rời ra từng bộ phận, rồi chia nhỏ chở trên nhiều bè vừa giảm tải trọng, vừa dễ đi và bảo đảm yếu tố bí mật. Vậy là thành công, mặc dù đoạn đường đi từ Măng Đen xuôi theo sông Đắc Bla để về Trung đoàn nhiều chỗ có vực sâu và nước chảy xiết (sông Đắc Bla là tên gọi của người Kon Tum, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy về). Sau khi có pháo, Trung đoàn tổ chức thành lập đại đội pháo binh, gồm hai khẩu lựu pháo 105mm và một khẩu pháo nòng dài 85mm, một trung đội pháo ĐKZ 106,7mm (đây là loại pháo mới của Mỹ ta vừa thu được), về lực lượng, Tiểu đoàn bộ binh 2 của Trung đoàn, trước đây Bộ Tư lệnh điều cho Tỉnh đội Gia Lai nay được trở lại, với phiên hiệu mới trong đội hình Trung đoàn gọi là Tiểu đoàn bộ binh 4. Nhìn toàn cục, cuối năm 1974 đầu năm 1975, trên thực tế ta có sự chuẩn bị sớm. Mặt trận Tâv Nguyên đã triển khai thế trận, như mở rộng hệ thống đường ô tô sâu xuống các hướng chiến dịch. Đường 20 từ bắc Võ Định - Kon Tum, qua sông Đắc Bla nối vào đường 19 bis (ngã ba Plây Bôn, Đắc Đoa ra đường 14). Xe cơ giới của ta hoạt động liên tục ngày đêm, quân đi tấp nập, khẩn trương, nhưng không mấy ai biết được ý định của chiến dịch là ta chuẩn bị giải phóng Buôn Ma Thuột. Cũng trong thời gian này Bộ Tư lênh Tây Nguyên ra quyết định: điều động đồng chí Ma Thanh Toàn - nguyên là Trung đoàn phó 95, đang chỉ huy Trung đoàn 24 phòng ngự ở Võ Định, bắc Kon Tum và đồng chí Nguyễn Văn Dũng - Phó chính ủy Trung đoàn 24, nguyên là Phó chính ủy Trung đoàn 95 trở về lại Trung đoàn 95. Các đồng chí là những cán bộ trung đoàn có kinh nghiệm, uy tín đối với cán bộ chiến sĩ trung đoàn, nhất là trong chiến đấu đánh cắt đường giao thông.


Trên chiến trường Tây Nguyên mỗi khi mùa khô đến, bọn chỉ huy Mỹ, ngụy, thường chú ý theo dõi sự di chuyển của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 cơ động về hướng nào, thì nơi đó sẽ là nơi đánh lớn. Bộ Tư lệnh mặt trận đã sớm triển khai một kế hoạch nghi binh đánh lừa địch. Khi điều Sư đoàn bộ binh 10 và Sư đoàn bộ binh 320 cơ động vào phía nam Tây Nguyên, đã sử dụng Sư đoàn bộ binh 968 thay thế khu vực hoạt động của hai sư đoàn trên. Duy trì các đài vô tuyến điện 15 oát của các đơn vị cũ, vẫn liên tục phát sóng. Mở đường, xây dựng trận địa pháo binh giả phía đông Kon Tum. Các đơn vị tác chiến vùng sâu, vùng sau lưng địch, như Tiểu đoàn 631, Tiểu đoàn 394, các lực lượng của địa phương liên tục hoạt động trên các hướng đường 19, 14, xung quanh Kon Tum và Plây Ku. Trung đoàn bộ binh 95 chúng tôi vừa tiến hành công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ cắt đứt đường 19 chiến lược, vừa thường xuyên luân phiên nhau từng tiểu đoàn hoạt động trên trục đường 19, có trận ra đánh đoạn sát khu vực Lệ Trung gần thị xã Plây Ku và trên trục đường 14 Plây Ku đi Kon Tum. Do hoạt động nghi binh khôn khéo và tài giỏi của ta nên từ tống thống Nguyễn Văn Thiệu, đến tư lệnh quân đoàn 2 ngụy, tướng Phạm Vàn Phú, đều có những nhận định sai lầm nghiêm trọng, dẫn đến lúng túng và bị sa lầy, báo hiệu một thất bại thảm hại trên chiến trường Tây Nguyên và sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ bù nhìn tay sai bán nước.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:41:05 pm
Bộ Tư lệnh Tây Nguyên giao nhiệm vụ

Ngày 24 tháng 1 năm 1975, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chính thức giao nhiệm vụ cắt đường 19 chiến lược cho Trung đoàn bộ binh 95. Tôi, Lê An - Trung đoàn trưởng, đồng chí Trần Công Kiểu - Chính ủy trung đoàn và một số cán bộ cơ quan về Bộ Tư lệnh mặt trận để nhận nhiệm vụ. Buổi sáng hôm đó, tại văn phòng Bộ Tư lệnh, khi chúng tôi bước vào, đồng chí Vũ Lăng - Tư lệnh và đồng chí Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy đã ngồi ở đó. “Khỏe không An?”, anh Hiệp hỏi và cùng Tư lệnh Vũ Lăng bắt tay từng người chúng tôi. Tác phong cởi mở, chân tình làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Trên bàn có nước trà Ba Đình, loại gói 100 gram, ngày chiến tranh có loại trà đó để dùng là hạng sang, dưới cơ sở chúng tôi chỉ uống thứ nước gạo rang mà thôi. Tôi nâng cốc trà còn nóng hổi, vị thơm có hương hoa nhài thoang thoảng uống một ngụm, rồi đặt cốc xuống, nhìn về phía đồng chí Vũ Lăng chờ đợi. Tư lệnh Vũ Lăng hình như vừa trải qua một cơn sốt rét rừng, nên khuôn mặt gầy, da xanh, nhưng giọng nói rõ và đanh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp Tư lệnh nên có phần e dè. “Sắp tới, mặt trận sẽ mở chiến dịch xuân hè năm 1975 trên chiến trường Tây Nguyên” - Tư lệnh bắt đầu như thế, rồi đồng chí phân tích về xu thế, trạng thái trên chiến trường giữa ta và địch. Đồng chí nói sau Hiệp định Pa-ri, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mặc dù đã thất bại nặng nề nhưng vẫn chưa muốn từ bỏ Việt Nam. Tuy vậy, bắt buộc Mỹ phải xuống thang, điều đó có lợi cho cách mạng Việt Nam, cũng như phong trào yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Trên chiến trường, ta đã chủ động tiến công địch để giành và giữ quyền làm chủ. Chiến dịch xuân hè Tây Nguyên tạo nên thế liên kết giữa Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, với miền Bắc. Khả năng ta sẽ mở rộng vùng kiểm soát, giải phóng được các thành phố vừa và nhỏ. Do đó Bộ Tư lệnh Tây Nguyên giao nhiệm vụ cho Trung đoàn bộ binh 95 đánh cắt đường 19 chiến lược. Dừng một lát, bất chợt Tư lệnh hỏi tôi: “Trung đoàn 95 có cắt đứt được đường không?”. Một thoáng bối rối, tôi trả lời: “Từ trước tới nay Trung đoàn bộ binh 95 từng đánh cắt đường 19 trong nhiều năm, nhưng mới giữ trong một thời gian ngắn, chứ chưa cắt đứt và giữ trong thời gian dài, thưa đồng chí Tư lệnh”. Tôi vừa dứt lời, đồng chí Vũ Lăng nói tiếp: “Trước đây chưa cắt và giữ, bây giờ phải cố gắng mà cắt và giữ. Giao cho Trung đoàn bộ binh 95 nhiệm vụ cắt đường 19 chiến lược, đoạn từ Măng Giang lên đến Plây Ku. Phía đông từ An Khê về Bình Định, đã có lực lượng của đơn vị bạn. Yêu cầu, cắt và phải giữ trong một thời gian dài, khi có điều kiện là cắt hẳn”. Tư lệnh Vũ Lăng nhận định, khi chúng ta cắt đường 19, địch sẽ phản ứng mạnh cả hai đầu nhất là từ hướng Plây Ku xuống, nên phải hết sức chú ý xây dựng công sự đề phòng thương vong, tổn thất lớn. Tiến hành diệt xe tăng địch, đánh máy bay và tiêu diệt quân phản kích giải tỏa mặt đất. Cuối cùng, đồng chí chỉ ra bốn biện pháp cần làm: Một: Trung đoàn bộ binh 95 tổ chức ngay huấn luyện bộ đội theo phương án cắt đường 19 và đánh quân giải tỏa, chú trọng phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai. Hai: cử cán bộ đi chuẩn bị chiến trường, nghiên cứu nắm chắc tình hình địch, giữ bí mật tuyệt đối ý định của ta. Ba: Xây dựng phương án tác chiến của Trung đoàn, khi có lệnh lên báo cáo thông qua Bộ Tư lệnh mặt trận. Bốn: Chuẩn bị kho tàng để tiếp nhận cơ sở vật chất, số vũ khí trang bị mới của mặt trận đưa xuống. Tổ chức biên chê lực lượng được tăng cường, xây dựng và huấn luyện thành một trung đoàn mạnh, tuyệt đối không để địch đánh phá gây tổn thất người và trang bị. Tư lệnh Vũ Lăng còn nói vui: “Các anh không giữ được thì các anh đói và không hoàn thành nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh không có cái bù”. Về công tác đảng, công tác chính trị, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp chỉ thị: Trung đoàn bộ binh 95 cần phải làm tốt công tác tư tưởng đối với bộ đội, cán bộ đảng viên phải thực sự gương mẫu, thực hiện phương châm chỉ đạo của trên là: “Mạnh bạo, chắc thắng, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ”. Hết sức chú ý giữ bí mật ý định tác chiến trong quá trình chuẩn bị chiến đấu. Đồng chí còn nhắc, cán bộ chính trị phải cùng đi chuẩn bị chiến trường với cán bộ quân sự. Sau này tôi mới hiểu sự chỉ đạo trên của Chính ủy là đúng đắn, nhờ cách làm đó nên các đồng chí Chính ủy và chính trị viên các đơn vị, khi xây dựng nghị quyết lãnh đạo, đã nêu lên được những nội dung, biện pháp lãnh đạo cụ thể, sát hợp, không chung chung, góp phần động viên tinh thần quyết tâm chiến đấu cao của toàn đơn vị.


Nhận nhiệm vụ xong, chúng tôi trở về Trung đoàn và việc đầu tiên là triển khai công tác chuẩn bị chiến trường. Phải nói đây là nhiệm vụ rất công phu và vất vả, tuy chiến trường quen thuộc nhưng chúng tôi đã đi lại nhiều lần để nắm tình hình địch, tình hình dân, ở các ấp ven đường. Trung đoàn cũng đã liên hệ được với địa phương nhằm phối hợp trong chiến đấu, nhất là với dân quân du kích và các đội công tác là người của các dân tộc Tây Nguyên. Họ là những người rất thành thạo địa hình địa vật, nắm chắc quy luật hoạt động của địch và trung thành với cách mạng, với Bác Hồ. Thời gian chuẩn bị chiến trường kéo dài hàng tháng mới xong, nhưng rất mừng vì đạt được kết quả tốt. Nội dung xây dựng quyết tâm chiến đấu của trung đoàn cũng được chuẩn bị nhanh chóng và tổ chức hội nghị đảng ủy thảo luận và thông qua quyết tâm chiến đấu, tất cả đều nhất trí cao. Tiếp theo là tổ chức hội nghị cán bộ để quán triệt quyết tâm, dự kiến của Trung đoàn và điện về Bộ Tư lệnh mặt trận xin thời gian thông qua.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:43:05 pm
Thông qua quyết tâm với Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên

Trung tuần tháng 2 năm 1975, tiết trời Tây Nguyên đang còn mùa Xuân; hoa cúc quỳ nở rộ trên các triền đồi và dọc theo hai bên các trục đường lộ. Loài hoa mộc mạc này không quyến rũ như các loài hoa khác, nhưng nhìn từ xa, màu hoa vàng ruộm như một tấm lụa tơ tằm chưa bị màu hóa gió thổi bay bay. Tôi nhận được điện của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, triệu tập chỉ huy Trung đoàn bộ binh 95 lên thông qua quyết tâm tại sở chỉ huy Mặt trận. Chúng tôi lên đường gấp bằng chiếc xe con Bắc Kinh chở năm người, tôi và đồng chí Chính ủy Trung đoàn cùng một cán bộ tác chiến, một chiến sĩ bảo vệ. Để bảo đảm bí mật và an toàn, chúng tôi đêm đi ngày nghỉ, tính ra thời gian hết hai đêm. Ngày đó Bộ Tư lệnh mặt trận còn đóng sát biên giới gần đất bạn, nhưng khi đến nơi hai đồng chí Tư lệnh Vũ Lăng và Chính ủy Đặng Vũ Hiệp đã lên phía trước, nên việc thông qua quyết tâm cũng thay đổi. Bộ Tư lệnh ủy quyền giao cho các đồng chí Phí Triệu Hàm - Phó Chính ủy và đồng chí Hồng Sơn - Phó tham mưu trưởng mặt trận, cùng một số cán bộ thuộc cơ quan Bộ Tư lệnh thông qua. Nhưng lần báo cáo này phương án của Trung đoàn và các đồng chí đó không đạt đến sự thống nhất cao nên đành hoãn lại. Chúng tôi về nhà khách nghỉ và chờ ý kiên của cấp trên. Sáng hôm sau cơ quan văn phòng Bộ Tư lệnh cử người ra mời chúng tôi vào gặp, đồng chí Phí Triệu Hàm nói: “Tôi đã điện báo cáo với đồng chí Tư lệnh, đồng chí quyết định, các đồng chí vào trực tiếp thông qua quyết tâm tại Sở chỉ huy phía trước”. 16 giờ chiều hôm đó đoàn chúng tôi đi luôn, nhưng tâm trạng vừa mừng vừa lo, vì thời gian mỗi ngày càng eo hẹp. "Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, tôi chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật mà lòng xao xuyến lạ. Nhìn con đường rộng, được ngụy trang những đoạn trống trải, trên đường, tiếng động cơ của xe tăng, xe thiết giáp, xe vận tải, xe kéo pháo, xe chở bộ binh, tiếng nói cười của thanh niên xung phong đang sửa đường, tạo không khí thật rộn rã, khẩn trương. Tất cả đều tiến về hướng nam sẵn sàng xung trận...


Hai đêm sau, chúng tôi mới đến được cơ quan tiển phương của Bộ Tư lệnh mặt trận nằm gần sông Sê-rê-pổc, phía tây tỉnh Đắc Lắc. Người ra đón chúng tôi là đồng chí Khuất Duy Tiến - Trưởng phòng tác chiến mặt trận. Gặp  anh tôi lại nhớ đến chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1972 khi đó anh là Trung đoàn trưởng thuộc Sư đoàn bộ binh 320. Chiến công Đường 9 Nam Lào có một ý nghĩa chính trị, quân sự rất lớn, ta đã đánh bại học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-Xơn trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Quân ngụy Sài Gòn lần đầu tiên đươc đưa ra thử lửa ở vùng chiến thuật I, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, nhưng chúng đã bị thất bại nặng nề. Trong chiến dịch đó, Trung đoàn do anh Khuất Duy Tiến chỉ huy đã bắt được tên đại tá Nguyễn Văn Thọ cùng ban tham mưu của chúng. Gặp tôi, anh nói vui: “Đoàn ông An nghỉ đây, Bộ Tư lệnh sẽ sắp xếp thời gian để các ông vào thông qua, vì công việc còn bận nhiều lắm”. Nghe vậy tôi đề nghị anh Tiến: “Nhờ anh báo cáo với Tư lệnh cho Trung đoàn 95 được thông qua càng sớm càng tốt vì chúng tôi ở xa”. Anh Khuất Duy Tiến cho biết: “Ngoài Bộ có ông Lê Ngọc Hiền - Phó tổng tham mưu trưởng mới vào, ông yên tâm, tôi sẽ đề nghị theo yêu cầu của ông”. Thế là trong khi chờ đợi, chúng tôi tranh thủ thời gian xem lại quyết tâm, chuẩn bị thêm nội dung, phương pháp báo cáo sao cho gọn, cho rõ và những ý kiến đề nghị. Đồng chí lái xe và đồng chí bảo vệ dùng lưới xuống sông Sê-rê-pốc bắt cá, bữa chiều hôm đó chúng tôi có được một bữa cơm ngon tuyệt vời. Bao nhiêu năm ngủ rừng, cơm gô, nước suối, gió mưa dầm dề, nhưng thật lạ, đêm đó sao tôi cứ trằn trọc không sao ngủ được. Tôi nghĩ về trận đánh sắp tới, Trung đoàn 95 và đơn vị bạn cắt đường 19 chiến lược, phục vụ cho hướng chủ yếu của chiến dịch là giải phóng hoàn toàn một vùng rộng lớn ở Tây Nguyên, thì lực lượng quân đoàn 2 ngụy ở Plây Ku, chúng sẽ rút chạy theo con đường nào? Và cuộc chiến khi đó sẽ quyết liệt đến mức nào? Cứ thế bao nhiêu câu hỏi khác ùa về. Ngoài kia trời tối mịt mờ, sương giăng dày đặc đọng trên cây lá rơi vào tấm tăng che võng nghe lộp độp mà lòng bâng khuâng. Nhưng rồi đến gần sáng tôi cũng thiếp đi chốc lát, khi vừa thức dậy, đã thấy Bộ Tư lệnh cho người ra báo: “Mời các anh Trung đoàn 95 vào làm việc”. Tôi nghĩ thế là nhanh rồi. Nhưng vào đến nơi, người tiếp và là người chúng tôi gặp đầu tiên lại là đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam - Lê Ngọc Hiên. Thật bất ngờ và rất vui vì lần đầu tiên chúng tôi được gặp đồng chí. Đồng chí mời chúng tôi ăn kẹo Hải Hà, uống trà, hút thuốc lá Trường Sơn. Một lát, đồng chí nói: “Tớ từ Hà Nội mới vào chuẩn bị cho chiến dịch, bây giờ muốn nghe trước công tác chuẩn bị của Trung đoàn 95, thực hiện nhiệm vụ cắt đường 19 chiến lược, nào cậu nói đi”. Tôi giở bản đồ rồi báo cáo khoảng 15 phút, những vấn đề cơ bản và then chốt nhất của nội dung chuẩn bị. Nghe xong, đồng chí Lê Ngọc Hiền im lặng, nét mặt vẻ trầm ngâm, khoảng hai phút sau, đồng chí nói: “Nhiệm vụ chiến đấu cắt đứt đường 19 chiến lược là vấn đề lớn và cuộc chiến sẽ quyết liệt lắm vì nếu đường 19 bị cắt, quân đoàn 2 ngụy sẽ không giữ được Tây Nguyên, nên có một ý nghĩa chính trị rất quan trọng”. Đồng chí còn nói thêm, địch ở đây mạnh, nên thế trận cần bố trí một phương án hợp lý, mới đủ sức đánh bại chúng khi phản kích giải tỏa. Nghe đồng chí nói, tôi đã trình bày thêm: Trung đoàn bộ binh 95 tiến công căn cứ Azun là nhằm tiêu diệt địch, làm chủ căn cứ, ta đã diệt được một chỗ mạnh nhất của địch trên một đoạn đường dài, lực lượng phản kích sẽ chậm lại, ta có thêm thời gian triển khai thế trận đánh quân giải tỏa, trên cơ sở đó ta vừa chuẩn bị vừa tranh thủ mở rộng phạm vi làm chủ một đoạn đường dài hơn". Đồng chí Lê Ngọc Hiền nói tiếp: “Ý tôi là tìm đoạn sơ hở nhất giữa hai căn cứ, ban đêm bí mật tiếp cận, đưa bộ đội ra chốt làm công sự, sáng hôm sau quân ta còn sung sức nếu địch phản kích ta đánh, không cho chúng giải tỏa thông đường”. Tôi báo cáo thêm: “Giữa hai căn cứ Kông Từng và căn cứ Azun, ta ra thì dễ, nhưng trong một đêm không thể hoàn thành việc xây cất công sự vững chắc được? Và sẽ khó khăn hơn khi địch phát hiện chúng sẽ dùng máy bay, xe tăng, pháo binh bắn phá dữ dội, khả năng chúng ta trụ lại được cũng chỉ một thời gian ngắn và nhất định sẽ bị thương vong lớn”. Đồng chí Lê Ngọc Hiền nói tiếp: “Là tớ lo lực lượng của Trung đoàn 95 không đủ sức, vì căn cứ Azun vững chắc, lực lượng địch mạnh, nếu ta chủ trương đánh tiêu diệt và làm chủ ban đêm, tớ sợ không dứt điểm sẽ lùng nhùng, khi đó sẽ gặp nhiều khó khăn”. Thế là lần thứ hai, việc thông qua quyết tâm cũng chỉ dừng đến đó. Đồng chí Lê Ngọc Hiền nhắc tôi ăn kẹo, uống nước rồi nói: “Nghỉ một chút, lát nữa sẽ thông qua Bộ Tư lệnh cùng nghe, tớ chỉ mới nghĩ sơ bộ thế, Trung đoàn 95 là đơn vị có nhiều kinh nghiệm đánh cắt giao thông, các đồng chí cần chuẩn bị thật kỹ phương án quyết tâm đánh cho chắc thắng”. Tôi nhìn đồng hồ lúc đó là 9 giờ, Bộ Tư lệnh giao ban cũng vừa xong và chúng tôi được mời lên thông qua chính thức. Nơi làm việc, đó là ngôi nhà nửa chìm nửa nổi, lợp lá mùn kun, dưới bóng rừng cây cao vút. Không hiểu lá mùn kun có phải là lá trung quân như ở vùng Tây Nam Bộ hay không? Nhưng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ xưa vẫn ưa dùng lá mùn kun để lợp nhà. Ưu điểm lá nhẹ, không cháy và lại bền. Buổi thông qua có đầy đủ các đồng chí Vũ Lăng - Tư lệnh mặt trận, Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy, các Phó tư lệnh, các chủ nhiệm binh chủng và một số đồng chí cán bộ thuộc cơ quan Bộ Tư lệnh cùng dự. Sau lời giới thiệu của Tư lệnh Vũ Lăng, tôi kết hợp bản đồ báo cáo toàn bộ nội dung quyết tâm của Trung đoàn bộ binh 95. Sang phần đề nghị, tôi nêu hai ý kiến:

Một là: Trung đoàn tác chiến ở xa trên một hướng độc lập, xa sự chỉ huy, chỉ đạo của chiến dịch, đề nghị Tư lệnh tăng cường cho trung đoàn một bộ phận cán bộ đốc chiến để theo dõi và giúp đỡ Trung đoàn.

Hai là: đánh cắt đường 19, dứt khoát địch sẽ phản kích mạnh, dùng xe tăng, xe thiết giáp, pháo binh, không quân chi viện, vậy đề nghị Tư lệnh tăng cường cho Trung đoàn một đại đội xe tăng hoặc đại đội xe thiết giáp.


Sau phần báo cáo của tôi, đồng chí Kiểu - Chính ủy báo cáo thêm mấy nội dung chính của công tác đảng, công tác chính trị. Phần báo cáo của chúng tôi đã xong, đồng chí Vũ Lăng nhìn mọi người, rồi hỏi: “Có đồng chí nào ý kiến gì không?”. Chính ủy Đặng Vũ Hiệp nhìn sang tôi khẽ mỉm cười, còn tất cả đều im lặng. Tôi biết, giờ đây không ai khác là chờ đợi đồng chí Vũ Lăng phát biểu. Tư lệnh Vũ Lăng ngồi đối diện với tôi, người hơi đổ về phía trước, một lát đồng chí nói: “Trung đoàn bộ binh 95 cắt đường 19 chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng, tạo thế chia cắt cho chiến dịch và cho cả trên toàn mặt trận Tây Nguyên. Đồng thời Trung đoàn sẽ nổ súng trước chiến dịch, nên kéo sự chú ý của địch trên hướng Kon Tum và Gia Lai. Do đó quân đoàn 2 ngụy sẽ tập trung lực lượng mạnh có xe tăng, thiết giáp, pháo binh và không quân chi viện để phản kích giải tỏa trên hai hướng, nhưng chú ý nhất là hướng địch từ Plây Ku xuống. Cùng với Trung đoàn còn có một số đơn vị khác của ta hoạt động ở hướng bắc Tây Nguyên”. Đồng chí Vũ Lăng nhắc nhở: Trung đoàn bộ binh 95 mặc dù là trung đoàn có kinh nghiệm đánh giao thông, nhưng cần tiếp tục rút kinh nghiệm kể cả những trận đánh thắng và không đánh thắng. Lần này Bộ Tư lệnh yêu cầu trung đoàn đánh đường 19 phải cắt đứt và giữ được ít nhất từ 20 ngày trở lên, khi có thời cơ là cắt đứt luôn. Đồng chí phân tích, giao nhiệm vụ, cụ thể: cắt đường 19, từ An Khê trở xuống có Quân khu 5 đảm nhiệm, Trung đoàn bộ binh 95 chịu trách nhiệm từ An Khê trở lên Plây Ku. Như vậy khi ta tiến công, phản kích của địch từ hướng Plây Ku sẽ nhanh hơn. Plây Ku là đầu não của quân đoàn 2 ngụy, do đó cần có phương án đánh địch phản kích từ phía tây thật tốt, nhưng cũng không được sơ hở hướng An Khê lên. Đồng chí kết luận: “Cơ bản là Bộ Tư lệnh thông qua quyết tâm của Trung đoàn bộ binh 95”, đồng thời động viên: "Trung đoàn đã chuẩn bị tương đối kỹ, tốt và quyết tâm cao. Nếu thực hiện đúng quyết tâm, các đồng chí sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Về đề nghị của Trung đoàn, đồng chí Vũ Lăng yêu cầu các cơ quan nghiên cứu giải quyết và cử ngay một số cán bộ tham mưu tác chiến đi theo dõi, giúp đỡ hướng dân Trung đoàn bộ binh 95. Nói tới đây đồng chí dừng một lát nhìn sang tôi, rồi tiếp: “Giờ đồng chí xin xe tăng không có đâu, hiện đang tập trung cho hướng chủ yếu, hơn nữa trung đoàn không đủ điều kiện bảo đảm kỹ thuật các mặt cho xe tăng hoạt động và cơ động”.


Phần công tác đảng, công tác chính trị, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp nhân mạnh: “Tôi lưu ý trước đây trung đoàn đánh giao thông, giờ cũng đánh giao thông nhưng yêu cầu cắt đứt, nên cần quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ, nhận thức đầy đủ, nếu không sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ. Phải phối hợp với địa phương trong công tác thương binh liệt sĩ và công tác dân vận, địch vận. Cử một Phó chính ủy lo công tác dân vận, tổ chức đưa dân về phía sau khi ta nổ súng tiến công căn cứ và ổn định cuộc sống cho họ”. Đồng chí Đặng Vũ Hiệp nói tiếp: Bước vào chiến dịch, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh mặt trận phát động một cao trào thi đua với khẩu hiệu hành động: “Mừng Đảng mừng xuân, ra quân đánh thắng, quét sạch quân thù, giải phóng nhân dân”. Trung đoàn 95 cần lãnh đạo tốt phong trào thi đua này, giành thắng lợi thật giòn giã, góp phần giành thắng lợi quyết định chung của chiến dịch. Dừng một lát, chợt Chính ủy Đặng Vũ Hiệp hỏi: “Cơ quan tính sao? An đề nghị xin xe tăng thiết giáp, cơ quan giải quyết thế nào?”. Hỏi là vậy, nhưng đồng chí lại quay sang nói với tôi: "Thôi, trung đoàn đánh rồi lấy thiết giáp M.113 địch mà dùng”. Biết là đồng chí nói vui, nhưng tôi vẫn đề nghị: “Nếu không có xe thì cho tôi xin một tiểu đội lái, để bắt được xe là có người sử dụng ngay”. Nghe thế, cả phòng họp cười vang. Bấy giờ đồng chí Kỷ, chủ nhiệm xe tăng mới nói: “Ngày kia, mới có bộ đội lái bổ sung”. Đồng chí Đặng Vũ Hiệp nói tiếp: “Nếu có thì đề nghị anh Lăng cho phép, điều cho Trung đoàn 95 năm đồng chí lái xe tăng”. Tư lệnh Vũ Lăng nhìn tôi cười, rồi nói: “Anh nhớ nhé, xin người anh phải bắt được xe, nếu không là không được với tôi đó”. Buổi thông qua quyết tâm của Trung đoàn kết thúc trong không khí chân tình vui vẻ, chiều đó chúng tôi tiếp nhận luôn năm chiến sĩ lái và đồng chí Đặng Thềm, trợ lý tác chiến được cử đi trước. Sáng hôm sau khi trời còn mờ đất, mười anh em ngồi chen trên chiếc xe Bắc Kinh đít vuông trở về trung đoàn.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:43:58 pm
Tiến công căn cứ Azun, thực hiện chốt giữ cắt đường 19 chiến lược

Để thấy rõ tính chất quan trọng của đường 19, cần nhắc lại thời kỳ năm 1965 để ta hiểu có hệ thống. Khi Mỹ đổ quân vào Tây Nguyên, sư đoàn không vận số 1 của Mỹ đóng ở Tân Tạo, An Khê. Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ đóng ở La Sơn, Hòn Rồng. Do đó Mỹ đã thiết kế một hệ thống phòng thủ chốt dọc hai bên đường 19 rất vững chắc, dùng chất độc hóa học rải phát quang hai bên trục đường sâu vào mỗi bên là 500 mét, có nơi rộng hơn. Ngoài ra địch còn thiết lập một đường ống dẫn dầu từ Quy Nhơn lên Plây Ku, để cung cấp nhiên liệu cho quân đội của chúng. Thiết lập một mạng lưới thông tin hiện đại, để trinh sát và cung cấp tình hình một khi có tình huống xảy ra. Bố trí các trận địa pháo trong thế linh hoạt chi viện cho nhau trên cùng khu vực. Thành lập các cụm xe tăng thiết giáp, cách nhau mỗi cụm trên dưới 10 ki-lô-mét, buổi sáng từng tốp ba chiếc cùng bộ binh chốt rải dọc đường. Trên không máy bay địch cảnh giới bắn phá thường xuyên.


Bước vào năm 1974, lực lượng ngụy quân trên toàn miền Nam còn một triệu ba trăm ngàn quân, trong đó có 495 ngàn quân chủ lực, hai ngàn xe tăng xe bọc thép, một ngàn năm trăm khẩu pháo, sáu sư đoàn chủ lực. Riêng chiến trường quân khu 2, bao gồm cả Tây Nguyên có hai sư đoàn chủ lực, bảy liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn pháo binh (362 khẩu), năm thiết đoàn (mỗi thiết đoàn tương đương một trung đoàn), 13 chi đội xe tăng, xe bọc thép (477 chiếc), hai sư đoàn không quân (250 máy bay). Trên chiến trường Tây Nguyên, địch có quân đoàn bộ quân đoàn 2. Sư đoàn 23 gồm có ba trung đoàn 44, 45 và 53. Bảy liên đoàn biệt động quân (21, 22, 23, 24, 25, 4 và 6). 36 tiểu đoàn bảo an, 380 xe tăng xe bọc thép, 250 khẩu pháo, 150 máy bay. Nhưng do nhận định sai lầm là mùa khô năm 1975 “Việt cộng” sẽ mở chiến dịch đánh vào bắc Tây Nguyên, bao gồm Kon Tum và Plây Ku, do đó địch chỉ bố trí Trung đoàn 53 ở Buôn Ma Thuột còn lại gần như toàn bộ quân chủ lực của chúng đều bố trí ở Plây Ku và Kon Tum. Trên trục đường 19, chúng tăng cường lực lượng cứ khoảng 15 đến 20 ki-lô-mét có một căn cứ cỡ một tiểu đoàn bảo an, một trận địa pháo 155mm hoặc 105mm, một chi đội xe thiết giáp từ 11 đến 12 xe.


Đoạn đường từ Măng Giang đến ngã ba đường 19 và 14 do Trung đoàn 95 đảm nhiệm, địch bố trí:

- Căn cứ Hà Tam (làng Hà Tam): Có một tiểu đoàn bộ binh, một chi đội thiết giáp M.113 (12 xe), một trận địa pháo 105mm.

- Căn cứ Măng Giang (đèo Măng Giang): Có một đại đội bộ binh, một trung tâm thông tin.

- Căn cứ Azun: Có một tiểu đoàn bộ binh, một chi đội xe bọc thép M.113 (12 xe), một trận địa pháo 155mm (hai khẩu).

- Căn cứ Kông Từng: Có một tiểu đoàn bộ binh, một trận địa pháo 105mm (sáu khấu).

- Quận lỵ Lệ Thanh có một trận địa pháo 105mm (sáu khẩu).

- Tại ngã ba đường 19 và 14 cửa ngõ phía tây Plây Ku có một thiết đoàn 3, liên đoàn biệt động số 4 và số 6.

- Hai bên trục đường 19 chúng bố trí những ấp chiến lược bao gồm số dân ở đồng bằng bị dồn lên từ thời Ngô Đình Diệm và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên bị đẩy ra gần đường để làm hàng rào che chắn và tai mắt cho chúng. Ngoài ra sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy do tướng Phạm Văn Phú làm tư lệnh, bố trí ở thị xã Plây Ku gần sân bay Cù Hanh.


Mục tiêu tiến công đầu tiên của Trung đoàn bộ binh 95 là căn cứ Azun. Ngoài lực lượng như đã nêu, địch bố phòng xung quanh căn cứ sáu lớp rào dây kẽm gai, có gài mìn, có hệ thống báo động tinh vi và xây dựng công sự vững chắc. Về phía đông cách 1 ki-lô-mét, có ấp chiến lược ở ngay đầu cầu suối Azun. Dân trong ấp chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Có tổ chức lực lượng bảo vệ cầu, bảo vệ ấp chiến lược, được trang bị súng cối, trung liên và đại liên. Phía tây căn cứ Azun cách gần 2 ki-lô-mét, có ấp chiến lược Plây Bôn, có một lực lượng bảo vệ ấp và cầu Suối Đôi. Trên đỉnh núi cao ở phía bắc đường 19 (cao điểm 1.007 và 1.010), địch bố trí quân chốt giữ.


Về lực lượng của Trung đoàn bộ binh 95: Có bốn tiểu đoàn 1, 2, 3, 4. Một đại đội đặc công, một đại đội trinh sát, một đại đội thông tin, hai khẩu pháo 105mm, một khẩu pháo chống tăng 85mm, một đại đội cối 120mm (hai khẩu), một đại đội cối 82mm (bốn khẩu), một đại đội ĐKZ 75mm (bốn khẩu) và hai khẩu ĐKZ 108,7mm, một bảng chống tăng có điều khiển B72, một đại đội súng máy cao xạ 12,7mm (bổn khẩu), một đại đội vận tải và một đại đội quân y. Trung đoàn còn được sự phối hợp của lực lượng dân quân du kích địa phương, lực lượng công tác quần chúng của huyện và xã trong khu vực hoạt động tác chiến của trung đoàn.


Căn cứ vào tương quan lực lượng giữa ta và địch, trung đoàn quyết định sử dụng lực lượng: dùng Tiểu đoàn bộ binh 3, tiến công hướng chủ yếu từ phía đông đánh vào. Tiểu đoàn bộ binh 2, tiến công trên hướng quan trọng 1 phía tây bắc vào. Tiểu đoàn bộ binh 4, bố trí một lực lượng ở phía nam căn cứ, hướng quan trọng 2 và hai khẩu ĐKZ 106,7mm. Một bảng tên lửa có điều khiển B72. Hỏa lực chi viện chung: Hai khẩu 105 và một khẩu 85mm nòng dài, được tháo đưa lên bình độ cao 800 phía tây và ở cách căn cứ Azun gần 800 mét, để ngắm bắn trực tiếp vào căn cứ. Hai khẩu súng cối 120mm của trung đoàn, làm hỏa lực chi viện chung. ĐKZ75 được tăng cường cho các tiểu đoàn bộ binh. Lực lượng Tiểu đoàn bộ binh 1, làm nhiệm vụ dự bị sẵn sàng tấn công vào căn cứ và đánh địch phản kích. Trung đoàn bố trí một trung đội bộ binh, một trung đội đặc công, một đại đội (thiếu) công binh, một khẩu cối 82mm, một khẩu ĐKZ 75mm. Sử dụng 800 ki-lô-gam thuốc nổ TNT và C4 đánh cầu Azun, mục đích nhằm loại trừ phần lớn lực lượng quân địch phản kích từ Măng Giang lên để trung đoàn tập trung đánh địch phản kích từ Plây Ku xuống là chủ yếu. Riêng cầu Suối Đôi, trung đoàn giao cho Tiểu đoàn bộ binh 4 ở phía nam đảm nhiệm (ở đây không có ý định phá cầu, nhưng sẵn sàng khi có lệnh cũng sẽ đánh sập), nhằm lừa địch vào khu tập trung tiêu diệt khi chúng phản kích.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:45:27 pm
Lệnh nổ súng

Ngày 1 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 968 (thiếu một trung đoàn) từ phía Đức Cơ tây Plây Ku (mang phiên hiệu Sư đoàn 320), đã nổ súng tiến công một số vị trí ở ngoại vi thị xã Plây Ku, uy hiếp quận lỵ Thanh An, Thanh Bình, ven trục lộ 19 bis (Plây Ku đi Đức Cơ). Tư lệnh quân đoàn 2 ngụy Phạm Văn Phú lúng túng và bị động ra lệnh điều trung đoàn 53, sư bộ binh 23 từ Ea Hleo, Đắc Lắc, hành quân vội vã về tăng cường sức chống đỡ hướng Plây Ku. Trên trục đường 19 địch tăng cường lùng sục hai bên đường, rải quân cùng thiết giáp M.113 chốt các vị trí quan trọng trên trục đường, trực thăng quần lượn quan sát liên tục.


Đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng 3 năm 1975.

Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cắt đường 19; đến trưa ngày 4 tháng 3 Trung đoàn 95 đã thực hiện theo phương án được thông qua, tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn căn cứ Azun. Tiêu diệt và bắt nhiều địch, thu toàn bộ vũ khí trang bị trong căn cứ, trong đó có: hai khẩu pháo lựu 155mm, trên 700 viên đạn, xe kéo pháo, xe chỉ huy (xe Jeép), đánh sập cầu Azun, làm chủ ấp Azun. Chớp thời cơ, Tiểu đoàn bộ binh 1 cơ động về phía đông diệt một đại đội bảo an địch, phá banh ấp Phú Yên, đánh sập cầu Phú Yên. Như vậy trong ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95 đã chiến đấu và làm chủ một đoạn đường dài gần 20 ki-lô-mét, từ ngã ba Plây Bôn đến cầu Phú Yên. Cùng ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 đã đánh địch từ cầu Thượng An đến cầu số 13, trên đường 19 khu vực từ đèo An Khê về phía đông, tiêu diệt hai đại đội của tiểu đoàn 1, trung đoàn 47 ngụy. Tin đường số 19 bị cắt đứt, đã nhanh chóng truyền về Oa-sinh-tơn. Đêm 4 tháng 3, hãng thông tấn AP đã loan tin: “Đường số 19, con đường tiếp tế chủ yếu của cao nguyên đã bị cắt đứt. Các trận đánh đã tập trung ở Lệ Trung đông Plây Ku 16 ki-lô-mét và ở Bình Khê tây Quy Nhơn 40 ki-lô-mét, nhiều vị trí bị tiến công và mất liên lạc điện đài. Một số căn cứ pháo binh đã bị Cộng sản đánh chiếm”.


Trước tình thế con đường 19 chiến lược - con đường huyết mạch nối từ Quy Nhơn lên Plây Ku bị cắt đứt, Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã ra lệnh cho liên đoàn biệt động quân số 4 và thiết đoàn kỵ binh 3 ra đông Plây Ku phối hợp với các căn cứ còn lại như Lệ Thanh, Kon Từng, có sự phối hợp của pháo binh và không quân yểm trợ, để phản kích Trung đoàn 95 hòng giải tỏa đường 19.


Sau ngày chiến đấu đầu tiên - ngày 4 tháng 3 thắng lợi lớn nhất của Trung đoàn 95 là cắt đứt được đường 19, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, trong đó có cả pháo 155mm, xe ô tô và nhiều thứ khác. Tuy nhiên, cán bộ chiến sĩ trung đoàn vẫn chưa thỏa mãn là năm đồng chí lái xe tăng do Bộ Tư lệnh chiến dịch tăng cương vẫn chưa có xe để lái, vì số thiết giáp M.113 trong căn cứ Azun bị pháo chống tăng các loại của ta bắn cháy, không còn một chiếc nào nguyên vẹn. Trong điện, Tư lệnh chiến dịch biểu dương tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 95, mở màn cho chiến dịch đã giành thắng lợi giòn giã, chúng tôi rất phấn khởi, nhưng vẫn cứ thấy lo sợ cấp trên hỏi, thu được mấy chiếcc xe tăng, thiết giáp rồi?


Ngày 5 tháng 3 đến ngày 10 tháng 3.

Các Tiểu đoàn 2, 3, 4 và các đơn vị trực thuộc vừa xây dựng công sự chốt chặn, vừa chiến đấu với quân phản kích có pháo binh, không quân của địch bắn phá ác liệt. Tiểu đoàn 1 tiếp tục phát triển đánh chiếm trạm thông tin trên đỉnh đèo Măng Giang, tạo thời cơ và chờ lệnh phát triển xuống An Khê bắt liên lạc với lực lượng Sư đoàn 3 của Quân khu 5. Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3, lực lượng địch ra phản kích giải tỏa từ hướng Plây Ku xuống, gồm một tiểu đoàn biệt động quân của liên đoàn số 4. Một chi đội thiết giáp M.113 có 12 chiếc. Một đại đội pháo lựu 105 có sáu khẩu, lợi dụng căn cứ Kon Từng làm bàn đạp, được trận địa pháo của Kon Từng chi viện và có không quân yểm trợ. Đúng như dự kiến của trung đoàn, toàn bộ lực lượng phản kích lọt vào khu vực tập trung diệt địch ở tây ngã ba Plây Bôn. Tất cả các hướng tiến công đều đồng loạt nổ súng. Hỏa lực pháo binh của trung đoàn gồm cả hai khẩu pháo 155mm ta mới thu được, cùng tham gia với các loại pháo 105, cối 120, cối 82 của các tiểu đoàn bắn dồn dập phủ đầu. Súng cối của Tiểu đoàn 4 và pháo của trung đoàn kèm chặt trận địa pháo Kon Từng khiến chúng không hoạt động được. Trận địa pháo đi cùng tiểu đoàn biệt động quân cũng bị pháo ta phá hủy. ĐKZ, B72, B40, B41, tập trung diệt xe thiết giáp địch. Đặc biệt trên hướng Tiểu đoàn 2, bố trí từ trên dãy núi 1.010 và 1.007 phía bắc đường 19 cùng đặc công, công binh, do Trung đoàn phó Ma Thanh Toàn chỉ huy vừa tiến công diệt gọn hai tiểu đội chốt ở hai điểm cao và tiến đánh thẳng vào sườn của quân biệt động, làm cho chúng không kịp xoay xở đối phó. Súng máy cao xạ của trung đoàn cũng bắn rơi một máy bay A37. Lực lượng Tiểu đoàn 4, bố trí từ phía nam đường 19 tổ chức đánh thẳng vào trận địa pháo và phát triển lên. Bộ phận công binh đánh sập cầu Suối Đôi làm cho địch tiến không được và lùi cũng không xong. Như vậy từ 9 giờ đến 14 giờ ngày 7 tháng 3, ta đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn biệt động quân của liên đoàn biệt động số 4, phá hủy sáu khẩu pháo 105mm, bắn rơi một máy bay A37, đặc biệt là bắt sống được năm xe thiết giáp M.113, số còn lại bị bắn cháy. Năm chiến sĩ lái của ta nhanh chóng chạy ra khu chiến nhận năm chiếc xe tăng còn nguyên vẹn, đầy đủ súng đạn xăng dầu, rồi chỉ qua vài tiếng đồng hồ nghiên cứu anh em đã lái được xe đưa về nơi quy định, kiểm tra chuẩn bị cơ động tham gia chiến đấu. Cả trung đoàn vui mừng phấn khởi gần như quên hết mệt nhọc, hai khẩu pháo 155mm đã phát huy uy lực mạnh, bắn chính xác, là nhờ trung đoàn biết vận động tuyên truyền số tù binh địch ta bắt được ở căn cứ Azun, tình nguyện hướng dẫn kỹ thuật và cùng với chiến sĩ pháo binh của ta sử dụng. Những tù binh đó đã vui sướng và không kìm được xúc động, nói: “Cảm ơn Quân giải phóng, cảm ơn Cách mạng đã cứu cuộc đời tôi”, đó là lời nói chân tình của họ. Trận đánh kết thúc, trung đoàn khẩn trương giải quyết hậu quả chiến trường rất nhanh gọn, địch bị thua đau nên hành động đối phó của chúng chậm lại, trên bầu trời khu chiến lúc này chỉ còn một vài chiếc máy bay A37 quần lượn rất cao và ném bom vu vơ.


Ngày 10 tháng 3 năm 1975.

Quân ta thừa thắng xông lên. Tiểu đoàn bộ binh 1 báo cáo về, đã chiếm lĩnh được đỉnh đèo Măng Giang, diệt một đại đội truyền tin và thu toàn bộ máy móc trang bị của khu thông tin chuyển tiếp, đang xốc lại đội hình, bố trí một đại đội chốt giữ, lực lượng còn lại chuẩn bị cơ động thẳng về thị trấn An Khê. sở chỉ huy chiến dịch thông báo các Sư đoàn 316, 320 và Sư đoàn 10 đã tiến công vào Buôn Ma Thuột, đánh chiếm nhiêu mục tiêu quan trọng và đang tiếp tục phát triển thuận lợi. Trung đoàn cũng nhận được điện của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương khen ngợi cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 95 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cắt đường 19 chiến lược, tạo thế cho chiến dịch đánh chiếm mục tiêu then chốt (Buôn Ma Thuột). Bức điện còn nhắc nhở trung đoàn phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, nắm vững tình hình, chủ động linh hoạt, mưu trí sáng tạo liên tục tiêu diệt địch, không được chủ quan thỏa mãn, làm tốt công tác dân vận, địch vận, kiên quyết giữ vững trục đường 19, không để địch phản kích giải tỏa. Cuối điện ký tên “Tuấn”, cả trung đoàn không biết Tuấn là ai, mãi hai ba ngày sau chúng tôi mới biết đó là tên đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng, hiện đồng chí đang trực tiếp theo dõi và chỉ đạo chiến dịch.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tư, 2021, 02:46:19 pm
Ngày 12, 13, 14 tháng 3 năm 1975.

Trung đoàn bộ binh 95, đã nhanh chóng sử dụng Tiểu đoàn bộ binh 2, theo đường 19 bis qua Đắc Đoa ra đến trục đường 14 đoạn Kon Tum về Plây Ku. Tiểu đoàn bộ binh 1 để một đại đội chốt giữ đỉnh đèo Măng Giang, còn lại cơ động thẳng xuống giáp An Khê bắt liên lạc với đơn vị bạn. Hai Tiểu đoàn 3 và 4, cùng trung đoàn phát triển theo trục đường 19 từ ngã ba Plây Bôn lên Lệ Trung. Bao nhiêu năm ngủ hầm, đi bộ, nay lại được ngồi trên xe Jeép cơ động cùng bộ đội phát triến chiến đấu, tôi và đồng chí Ma Thanh Toàn cùng cán bộ tác chiến, trinh sát, có cả năm xe M.113 và các đơn vị khẩn trương cơ động về hướng Plây Ku thấy lòng náo nức niềm vui khôn tả. Đến Lệ Trung địch đã bỏ chạy, chỉ còn sáu khẩu pháo nhưng chúng đã tháo hết kim hỏa và đổ axít vào nòng pháo. Riêng ở Plây Ku địch còn nhiều, đội hình trung đoàn triển khai chiến đấu, trên khu vực cách ngã ba đường 14 và 19 khoảng năm trăm mét.


Sáng ngày 15 tháng 3.

Từ đài quan sát của trung đoàn báo cáo: Hướng sân bay Cù Hanh và quân đoàn 2 ngụy có lửa cháy, khói bốc lên nghi ngút. Từ Tiểu đoàn bộ binh 2 cũng báo cáo: Địch ở Kon Tum đã có một số tốp chạy bằng xe ô tô, có tốp chạy bộ, về hướng Plây Ku, Tiểu đoàn 2 đã chặn bắt được tên đại tá tỉnh trưởng Kon Tum Nguyễn Minh Hoàng và bộ sậu cơ quan chỉ huy của chúng. Cũng trong ngày đó địch dồn về Plây Ku rất đông, chúng chạy bằng nhiều phương tiện, ô tô, đi bộ, trong đó có cả lính cả dân hỗn loạn. Đồng chí Ma Thanh Toàn trực tiếp lên kiểm tra và triển khai Tiểu đoàn 3 và một bộ phận hỏa lực gồm cối 82, ĐKZ, súng 12,7mm đánh một trận tại khu vực ngã ba đường 14 và đường 19, phía tây thị xã Plây Ku, khu đồn trại của thiết đoàn 3 và liên đoàn biệt động quân số 4, diệt một số còn chủ yếu là bắt gần 400 tên, có cả một số sĩ quan cấp thiếu tá, trung tá.


Ngày 16 và 17 tháng 3.

Chúng tôi nhận được điện của Tư lệnh chiến dịch thông báo. Quân ta đã làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột, tiêu diệt lực lượng sư đoàn 23 ngụy tăng viện phản kích bằng đường không trên khu vực Phước An và sân bay. Quân đoàn 2 ngụy có triệu chứng rút chạy khỏi Tây Nguyên, các đơn vị theo dõi nắm chắc tình hình và thừa thắng xông lên, truy đuổi tiêu diệt địch không cho chúng chạy thoát. Khả năng địch rút chạy theo đường số 7 về Phú Yên. Trung đoàn cho Tiểu đoàn bộ binh 4, cơ động bộ cắt đường từ Lệ Trung về hướng Chư Xê trên trục đường số 7 từ Thạch Mỹ đi Cheo Reo. Tiểu đoàn bộ binh 2, cơ động theo trục đường 14 truy kích địch về hướng Plây Ku. Tiểu đoàn bộ binh 3, cùng các đơn vị trực thuộc ngăn chặn truy bắt tàn quân chạy tán loạn về hướng đường số 7. Đồng chí Ma Thanh Toàn cùng một bộ phận tác chiến, trinh sát, ngồi trên xe M.113 thọc thẳng vào trung tâm thị xã Plây Ku và sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy. Tôi và một số đồng chí cán bộ cơ quan trung đoàn ngồi trên một xe khác, tiên vào nhà tỉnh trưởng Plây Ku. Đến ngày 17 tháng 3 năm 1975, cơ bản Trung đoàn 95 cùng thị đội Plây Ku đã làm chủ hoàn toàn thị xã Plây Ku và sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy. Trung đoàn 95 đã cắm cò Mặt trận Dân tộc giải phóng và cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc lên nóc sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy, nóc nhà tỉnh trưởng Gia Lai, tiến hành quân quản thị xã Plây Ku. Nhân dân trong thị xã hò reo vui mừng đón chào Quân giải phóng, rất nhiều người dân hăng hái chỉ đường cho bộ đội vào kiểm tra nhà của binh lính và sĩ quan ngụy quân ngụy quyền. Từ đó, hàng năm Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai lấy ngày 17 tháng 3 là ngày kỷ niệm giải phóng hoàn toàn tỉnh nhà.


Trong Tổng kết chiến dịch xuân hè nàm 1975, đoạn viết về các nhân vật chóp bu trong dinh tổng thống chế độ Sài Gòn, nói rất rõ tin Buôn Ma Thuột thất thủ, đường 19 chiến lược bị cắt đứt hoàn toàn. Ngày 14 tháng 3 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng đại tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy và trung tướng Đặng Văn Quang, bay từ Sài Gòn ra Cam Ranh để nghe tướng Phạm Văn Phú - tư lệnh quân đoàn 2 Tây Nguyên báo cáo tình hình. Mở đầu cuộc họp tướng Phú báo cáo: “Trình tổng thống, tôi đã cho hai trung đoàn 44 và 45 giải tỏa Buôn Ma Thuột... ở phía đông trên quốc lộ 19, Trung đoàn 95 Cộng sản đánh mạnh vào liên đoàn biệt động quân số 4 và thiết đoàn 3 kỵ binh, đã có 12 thiết giáp bị bắn cháy... Khả năng đường 19 đã bị cắt đứt”. Nghe xong, Thiệu hỏi Phú: “Trước sự kiện đó anh nghĩ sao?”. Phú trả lời: “Tôi sẽ ở lại sống chết với Tây Nguyên để cứu vãn quân khu 2, với điều kiện tổng thống cho quân tăng viện”. Thiệu quay sang hỏi Cao Văn Viên: “Có còn quân trù bị tăng cường cho quân khu 2 không?”. Viên: “Thưa tổng thống không còn”. Dừng hồi lâu, Nguyễn Văn Thiệu nói: “Để bảo toàn lực lượng, phải rút bỏ Cao Nguyên, lấy quân về giữ đồng bằng ven biển”. Thiệu hỏi Viên: “Rút theo đường 19 có được không?”. Viên: “Thưa tổng thống, trong lịch sử chiến tranh ở Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt”. Đúng là quá khứ đã nói lên điều đó, năm 1954 GM-100 của quân đội Pháp từ Nam Triều Tiên đưa về, trong chiến dịch Át Lăng cũng đã rút chạy theo đường 19 từ An Khê về Quy Nhơn đã bị lực lượng vũ trang Quân khu 5 tiêu diệt hoàn toàn, không một tên chạy thoát, ta thu được 250 xe ô tô và thiết giáp các loại. Sau đó Nguyễn Văn Thiệu quyết định cho rút quân theo đường số 7 (Mỹ Thạch - Tuy Hòa).


Ngày 24 tháng 3, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp từ Sở chỉ huy chiến dịch đến Trung đoàn 95 đang làm nhiệm vụ tại Plây Ku để kiểm tra và giao nhiệm vụ tiếp theo cho trung đoàn. Ngày 29 tháng 3, toàn bộ trung đoàn cơ động bằng cơ giới đến khu vực đèo An Khê để hiệp đồng chiến đấu, được Quân khu 5 giao nhiệm vụ đánh sư đoàn 22 ngụy đang chốt chặn tại Núi Một và thị trấn Phú Phong. Sau ba ngày đêm chiến đấu quyết liệt, ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Núi Một và giải phóng hoàn toàn huyện lỵ Phú Phong, tỉnh Bình Định. Trung đoàn tiếp tục cơ động xuống đường số 1 vào Tuy Hòa rồi vào Nha Trang, tiếp tục chiến đấu phối hợp với các đơn vị khác trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Một tiểu đoàn bộ binh đánh chiếm và làm chủ đảo Hòn Tre. Một tiểu đoàn bộ binh vượt biển ra đánh chiếm các đảo phía nam Trường Sa. Một tiểu đoàn bộ binh vượt biển ra giải phóng Cù Lao Thu, cách Phan Thiết hơn một trăm ki-lô-mét, nay là huyện đảo Phú Quý, thuộc tỉnh Bình Thuận.


Trận đánh cắt đường 19 chiến lược của Trung đoàn 95 có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. Việc đánh lạc hướng địch, kéo sự chú ý của chúng về hướng bắc Tây Nguyên là hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum đã tạo điều kiện thuận lợi, góp phần làm nên chiến thắng Buôn Ma Thuột Xuân 1975. Ảnh hưởng của trận đánh như tiếng sấm vang rền trên khắp chiến trường miền Nam, có tác động dây chuyền như những con bài đô-mi-nô kỳ diệu, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn, tất yếu của chế độ Sài Gòn tay sai bán nước và đế quốc Mỹ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Người thể hiện
ĐỖ VIẾT NGHIỆM


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:45:54 am
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA 30 NĂM CHỜ ĐỢI


Thiếu tướng PHÙNG ĐÌNH ẤM (BA CUNG)
Phó trưởng Phòng Dân vận Tiền phương -
Cục chính trị Miền trong Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975


1. Niềm vui tột đỉnh

Tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá tình hình và hạ quyết tâm chiến lược, khẳng định là ta đang đứng trước thời cơ lớn để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà và đề ra kế hoạch chiến lược cơ bản để giành thắng lợi hoàn toàn trong hai năm. Cụ thể: năm 1975, tranh thủ bất ngờ ta tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện đầy đủ để sang năm 1976 thực hành tổng tiến công và tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam (Theo "khu 6 chống Mỹ, cứu nước", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, trang 365).


Căn cứ vào quyết tâm và kế hoạch chiến lược của Bộ Chính trị, được sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu và xây dựng kế hoạch tác chiến năm 1975 ở miền Nam, gồm ba đợt:

Đợt 1: Đẩy mạnh hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và Khu 6.

Đợt 2: Là đợt chủ yếu của toàn Miền, lấy Tây Nguyên làm chiến trường chính.

Đợt 3: Tiếp tục phát triển thắng lợi1 (Theo Khu 6 chống Mỹ, cứu nước, Sđd...).

Đến tháng 12 năm 1974, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền triển khai kế hoạch của Bộ Chính trị, hạ quyết tâm đẩy mạnh đánh phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu mở rộng vùng sông Hậu, đồng thời mở chiến dịch của quân chủ lực phối hợp với địa phương ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và ở miền núi Khu 6. Quyết tâm trên được nhất trí cao trong Hội nghị cán bộ toàn Miền của Trung ương Cục được tổ chức tại căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Từ những chủ trương lớn được thống nhất tại hội nghị này, các kế hoạch hoạt động tiếp tục được đẩy mạnh, làm dấy lên tình hình sôi động khắp chiến trường B2.


Ở Khu 6, chiến dịch Tánh Linh - Hoài Đức được mở ra, dưới sự phối hợp giữa lực lượng chủ lực Khu 6 và Khu 7, do đồng chí Nguyễn Minh Châu - Tham mưu trưởng Miền trực tiếp đốc chiến. Từ 10 tháng 12 năm 1975 đến ngày 5 tháng 1 năm 1975 ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.300 tên địch, gỡ 48 đồn bốt, có một chi khu quân sự, giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh và bốn xã của huyện Hoài Đức với 44.387 dân1 (Theo Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, trang 565).


Cuối tháng 12 năm 1974, ta mở chiến dịch đường 14 - Phước Long liên tục giành thắng lợi. Ngày 14 tháng 12 năm 1974, ta giải phóng Bù Đăng. Ngày 26 tháng 12 nàm 1974, ta giải phóng Đồng Xoài. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, ta đánh chiếm, làm chủ chi khu quân sự Phước Bình. 19 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1975 ta tiêu diệt tiểu khu quân sự Phước Long, lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng bay phấp phối trên nóc dinh tỉnh trưởng. Quân ta giải phóng và hoàn toàn làm chủ tỉnh Phước Long.


Tin Phước Long thất thủ làm cho cả Mỹ lẫn ngụy bàng hoàng, cánh cửa ngăn chặn quân ta ở phía bắc Sài Gòn của Mỹ - ngụy bị đập tan. Một tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng đã động viên sĩ khí của quân dân ta cao độ. Chiến thắng Phước Long là một đòn trinh sát chiến lược, mở ra cho ta một thế mới, lực mới trên con đường tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Sau chiến thắng Phước Long, vùng giải phóng của ta được mở rộng, nhân dân thoát khỏi ách kìm kẹp của địch ngày càng nhiều và gặp những khó khăn ban đầu. Công tác dân vận của các lực lượng vũ trang, nhất là bộ đội địa phương càng thêm nặng nề, từ việc góp phần tuyên truyền giáo dục nhân dân, sắp xếp chỗ ăn ở, phòng chống máy bay oanh tạc, đến vận động kêu gọi chồng, con em là binh sĩ rời bỏ hàng ngũ địch, trở về với cách mạng v.v... Những ngày này, Phòng Dân vận chúng tôi thật bận rộn. Theo sự chỉ đạo của Cục Chính trị Miền, Phòng phân công cán bộ xuống các địa phương vừa được giải phóng để góp ý kiến và cùng tham gia công tác vận động quần chúng ở những nơi khó khăn, cần thiết. Với cương vị Phó trưởng phòng, tôi và đồng chí Hoặc công vụ kiêm lái xe Honda, trực tiếp xuống vùng Thanh An (Bến Cát), Trảng Sa (Tây Ninh),  đến Trung đoàn 16 đơn vị chủ lực của 14, để thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Cục.


Tình hình miền Nam chuyển biến rất nhanh. Sau giải phóng Phước Long, ngày 8 tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược “tiến hành rất khẩn trương, hoàn thành chuẩn bị về mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi giải phóng hoàn toàn miền Nam”.


Thực hiện ý đồ chiến lược nói trên, quân dân ta nỗ lực tiến vào bước hai, mở ra chiến dịch Tây Nguyên là đòn đầu tiên trong kế hoạch cơ bản của cuộc tiến công chiến lược. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột, tiếp tục vây hãm Plây Ku - Kon Tum, ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn hốt hoảng, hoang mang dao động đến cực độ. Thiệu vội vã ra lệnh rút khỏi Tây Nguyên. Cuộc tháo chạy tán loạn, hỗn quân hỗn quan, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy quyền Sài Gòn.


Khác với ý định ban đầu, tình hình diễn biến mau lẹ như các lãnh tụ ta thường nói “một ngày bằng hai mươi năm”. Sau Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung lần lượt được giải phóng. Nắm bắt thời cơ mới, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1976) ngay trong năm 19751 (Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân Đại thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 226). Một cuộc hành quân “thần tốc” của các binh đoàn thiện chiến, quân ta ào ạt tiến về hướng Sài Gòn như vũ bão.


Các đơn vị chủ lực của Miền (B2) cũng lần lượt triển khai áp sát Tây Ninh, đánh chiếm quốc lộ 20 tiến về Xuân Lộc. Các lực lượng vũ trang địa phương toàn B2 với tinh thần nỗ lực vươn lên: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, làm chủ từng vùng, đã liên tục tiến công địch đều khắp. Tình hình trên thôi thúc toàn quân, toàn dân. Công tác đảng, công tác chính trị trên chiến trường B2 đặt lên vai Cục Chính trị Miền hết sức nặng nề. Việc hiệp đồng tác chiến giữa các phòng chuyên môn trong Cục chặt chẽ và sôi nổi hơn bất cứ lúc nào. Tất cả đều nhằm mục tiêu thiêng liêng nhất: “Giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian nhanh nhất”, nhất là sau khi đồng chí Lê Đức Thọ - đại diện Bộ Chính trị bên cạnh Trung ương Cục miền Nam đến thăm Cục Chính trị Miền. Linh tính mách bảo chúng tôi rằng thời cơ hoàn toàn giải phóng miền Nam đã đến rất gần. Riêng Phòng Dân vận chúng tôi lúc bấy giờ hầu như bỏ trống. Đồng chí Thìn - Phó trưởng phòng được phân công ở hậu cứ cùng một số nhân viên nắm tình hình chung, còn tất cả đều bung ra hoạt động. Đồng chí Trưởng phòng Trần Chính, được Bộ Chỉ huy Miền điều ra đơn vị tác chiến, giữ chức Phó chủ nhiệm chính trị Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn). Tôi phụ trách Phòng Dân vận tiền phương, phục vụ chiến dịch giải phóng Sài Gòn (sau này được đặt tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh), cùng các đồng chí trợ lý: Lê Quốc Hùng, Lê Châu Ba, Lê Văn Thuân, Nguyễn Hoàng Giao, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Lập, v.v...


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:46:35 am
Để phục vụ chiến dịch, theo chỉ đạo của Thủ trưởng Cục, tôi tổ chức cuộc hội nghị, phổ biến chỉ thị và công tác dân vận cho các đồng chí trưởng, phó phòng trong Cục để có sự hiệp đồng chặt chẽ trong thời gian chiến dịch. Xong, thủ trưởng Cục phân công tôi xuống Đồng Xoài trực tiếp báo cáo tình hình nhân dân B2 nói chung và nhân dân nội đô Sài Gòn nói riêng, phương hướng công tác dân vận tiếp quản vùng mới giải phóng cho các đơn vị của Bộ mới đến chiến trường B2. Trên đường đi đến Đồng Xoài, chiếc Jeép của tôi và Hoặc như ngập chìm trong làn sóng bụi đường. Dọc quốc lộ 14, từng đoàn xe tăng, thiết giáp, pháo xe kéo, xe vận tải chuyển quân, vũ khí, đạn dược, khí tài nối đuôi nhau chạy về hướng Nam, xe nào cũng kẻ khẩu hiệu bằng sơn trắng: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa”. Câu khẩu hiệu đó theo tôi biết là trích trong điện “mệnh lệnh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; theo tinh thần của bức điện là khẩu hiệu này được quán triệt xuống cho từng người chiến sĩ tham gia chiến dịch.


Lúc này, nhìn đoàn xe trùng trùng tiến về Nam, lòng tôi bồi hồi nhớ lại cách đây 16 năm, từ Hà Nội, Đoàn B90 chúng tôi, lúc đó tôi là Phó trưởng đoàn, nhận lệnh của Bộ Quốc phòng và Ban Thống nhất Trung ương giao cho, trở về miền Nam phối hợp với Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc mở con đường hành lang đoạn cuối dãy Trường Sơn, nối liền hai chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, góp phần xây dựng tuyến chi viện chiến lược Bắc-Nam - đường Hồ Chí Minh - con đường huyền thoại trong kháng chiến chống Mỹ. Hồi đó, ở đây là một vùng trắng, địch kềm kẹp nặng nề, chúng tôi mò mẫm xây dựng từng cơ sở chính trị trong nhân dân, lặng lẽ vạch lá, soi đường, từng bước nhích dần về Nam. Đến giờ, không còn cái cảnh “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” như xưa, mà quân ta đã trùng trùng điệp điệp hiên ngang như trẩy hội trên đường quốc lộ, lòng tôi lâng lâng cái khoan khoái của người chiến thắng. Cuộc ra quân lớn chưa từng thấy ở chiến trường B2.


Đến Đồng Xoài, nơi bộ đội tạm dừng để làm công tác tổ chức. Quân ta nằm chật dưới gốc cao su của các đồn điền, người thì tranh thủ ngủ sau một chặng hành quân đường dài, người đang lau chùi súng đạn, im lặng và nghiêm trang. Tôi đi giữa rừng người và tìm được đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 vừa mới hành quân đến. Chính ủy Hoàng Minh Thi đón tiếp tôi rất niềm nở và hoan nghênh sự có mặt của tôi đúng lúc. Chính ủy chỉ thị cho Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn Thái Bá Nhiệm làm việc với tôi. Đồng chí Chủ nhiệm triệu tập một số cán bộ nghe tôi báo cáo tình hình và phương hướng nhiệm vụ. Chúng tôi làm việc trong không khí hào hứng, phấn khởi, tin tưởng rằng việc đánh chiếm Sài Gòn chỉ còn là vấn đề thời gian.


Ngày 7 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn (về sau là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử) và đặt đại diện Bộ Chính trị bên cạnh Bộ Chỉ huy chiến dịch có các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh. Đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục miền Nam làm Chính ủy. Các đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà - Tư lệnh B2, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Đức Anh làm Phó tư lệnh. Đồng chí Lê Quang Hòa làm Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị. Căn cứ đầu tiên của Bộ Chỉ huy chiến dịch đóng ở sóc Tà Thiết, sau chuyển ra phía trước, đóng ở Căm Xe (Bến Cát). Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Bộ Chỉ huy Miền (B2) để làm việc, phục vụ cho chiến dịch, có tăng cường cán bộ của Bộ, Đoàn A75 vừa ở Tây Nguyên đến và Bộ Tổng tham mưu phái vào.


Hoàn thành nhiệm vụ ở Đồng Xoài, trở về hậu cứ thì Tiền phương Cục Chính trị đã triển khai ra phía trước, tôi và đồng chí Hoặc - chiến sĩ bảo vệ và công vụ cấp tốc hành quân theo bằng xe mô tô. Đến Căm Xe, tôi choáng ngợp trước quy mô của sở chỉ huy chiến dịch. Những đường dây điện thoại chằng chịt như lưới nhện, những khẩu cao xạ sẵn sàng nhả đạn bảo vệ sở chỉ huy. Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi đã sống, chiến đấu và công tác ở một số chỉ huy sở tiền phương của Quân khu, của Miền nhưng chưa từng thấy quy mô của sở chỉ huy nào lớn như lần này, chứng tỏ toàn quân ta đã dốc sức tập trung cho một trận quyết chiến chiến lược để đi đến kết thúc chiến tranh. Theo chỉ dẫn của lực lượng thông tin liên lạc, tôi đến sở chỉ huy của tiền phương Cục Chính trị, gặp đồng chí Nguyễn Văn Tòng - Phó chủ nhiệm Cục Chính trị Miền phụ trách tiền phương. Đồng chí cho tôi biết: chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã được Bộ Chính trị đồng ý đặt tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và ngày 26 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân hùng mạnh của ta đang trên đường tiến công vào Sài Gòn, sẵn sàng cho trận “quyết chiến chiến lược" giải phóng miền Nam, lòng tôi vui như mở hội. Tôi đề nghị anh cho biết tình hình của hai cánh quân chủ lực của B2. Anh nói: theo nghe giao ban cập nhật, tình hình mỗi ngày đều có sự phát triên thuận lợi. Ở hướng mặt trận Xuân Lộc, địch chống cự quyết liệt. Chúng quyết tâm xây dựng “cánh cửa thép” để ngăn chặn quân ta tiến về Sài Gòn. Trước tình thế khó khăn, Bộ Chỉ huy chiến dịch cử đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh B2, Phó tư lệnh chiến dịch xuống tận nơi cùng với Quân đoàn 4 và Quân khu 7 rút kinh nghiệm và thay đổi cách đánh. Lực lượng được tăng cường và bổ sung pháo lớn, thực hiện quyết tâm mới, quân ta đã tiến công tiêu diệt chiến đoàn 52 ngụy và một chi đoàn thiết giáp, đánh chiếm Dầu Giây, Núi Thị, Túc Trưng, đánh và tiêu diệt làm thiệt hại nặng các đơn vị phản kích của địch. Mất Dầu Giây, quốc lộ 1 bị cắt đứt, lực lượng bị tổn thất nghiêm trọng, trong thế bị bao vây uy hiếp, đêm 20 tháng 4 địch phải rút chạy khỏi Xuân Lộc, quân ta đang tiến về Biên Hòa. Ở hướng tây, Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn) do đồng chí Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà)1 (Khi triển khai Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Minh Châu được Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền phân công về Sở Chỉ huy cơ bản của Miền phục vụ chiến dịch. Đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng - Chính ủy cánh quân hướng Tây - Tây Nam do Đoàn 232 làm nòng cốt) và Lê Văn Tưởng (Hai Chân) trực tiếp chỉ huy chuẩn bị đánh chiếm Mộc Hóa và đưa lực lượng xuống cắt đứt đường số 4, kết hợp với chủ lực của Quân khu 8 diệt sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ngụy...


Tình hình phát triển rất thuận lợi, 17 giờ 40 phút ngày 28 tháng 4 năm 1975, một phi đội A37 của ta vừa lấy được của địch ở sân bay Thành Sơn (Phan Rang) do Nguyễn Thành Trung dẫn đường đã ném bom xuống Tân Sơn Nhất. Tối 28 tháng 4 năm 1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh ra lệnh cho các cánh quân tổng công kích, đánh chiếm Sài Gòn, hang ổ cuối cùng của Mỹ - ngụy.


Đồng chí Sáu Tòng cho tôi biết tình hình nội đô Sài Gòn, tinh thần ngụy quân, ngụy quyền dao động cực độ, nhất là sau khi mặt trận Xuân Lộc vỡ, bọn bại binh chạy về gieo thêm nỗi kinh hoàng, ở đó đang diễn ra cuộc di tản của bọn tướng lĩnh, ngụy quyền đầu sỏ và nhân viên đại sứ quán Mỹ, gây ra cảnh rối loạn trong thành phố. Đồng chí chỉ thị tôi điện nhắc các cánh quân đặc biệt chú ý công tác dân vận của bộ đội khi vào vùng mới giải phóng (đã có kế hoạch hướng dẫn trước khi bước vào chiến dịch) và chỉ thị cho tôi đến Thanh An, ở đó đang có nhiều đồng bào nội thành tản cư “ngược” ra vùng giải phóng để tránh bom đạn, khi họ biết rằng chiến tranh đã áp sát nội đô, để nắm chắc tình hình và biết rõ hơn về tâm lý cũng như mặc cảm của họ, những con người nhiều năm bị kềm kẹp trong vùng địch kiểm soát. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, chiếc Honda 90 do đồng chí Hoặc lái chở tôi đến Thanh An. Chúng tôi ghé lại nhà bác Tám - một cơ sở lâu nay tôi thường ở, nghỉ mỗi khi về đây công tác, có lúc cùng tránh máy bay oanh tạc chung hầm với bác. Bác Tám thường theo dõi tin tức ở cả đài phát thanh của ta và của địch, nên biết nhiều tình hình. Tôi thường gọi bác là “ông già thời sự”. Xe chúng tôi vừa vào đến sân, từ trong nhà bác Tám đang dán tai vào chiếc đài bán dẫn, thấy tôi bác kêu to:

- Thằng Ba, mau vào nghe Dương Văn Minh đang tuyên bố sẵn sàng thương lượng với Mặt trận giải phóng đây nè!

Tôi nói với bác:

- Năm cánh quân của ta đang tấn công vào Sài Gòn. Chúng sắp mất hết rồi, còn gì nữa mà thương lượng!

Vừa nói, tôi vừa chạy vào nhà. Bác Tám vẫn khư khư chiếc đài trên tay. Từ đó phát ra lời của Dương Văn Minh - tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn, tay sai Mỹ trịnh trọng tuyên bố đầu hàng cách mạng vô điều kiện, kêu gọi các chiến hữu ở những nơi còn lại nhanh chóng hạ vũ khí, nộp cho quân giải phóng...

- Thắng rồi! Chúng ta thắng rồi, bà con ơi!

Bác Tám ôm chiếc đài ra đứng giữa sân, la to. Rồi ùn ùn như sóng dậy, từ các nhà bên cạnh loan ra cả xóm. Ở đâu cũng nghe tiếng reo hò “Ta thắng rồi!”, “Bọn ngụy đầu hàng rồi!” và không ai bảo ai, đồng bào đổ ra đường ngày một đông, vui mừng chiến thắng. Họ tranh nhau nói, tranh nhau cười và có người sụt sùi khóc, vì quá xúc động trước chiến thắng được mong đợi suốt từ 30 năm nay đã đến. Một niềm vui tột đỉnh trong trái tim mỗi người!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:47:37 am
2. Đường về Sài Gòn

Chia sẻ chớp nhoáng niềm vui với đồng bào Thanh An, chúng tôi bon về Sở chỉ huy chiến dịch. Quang cảnh Sở Chỉ huy chiều hôm ấy vui như ngày hội. Gió rừng nghe như hát. Các chiến sĩ thông tin tất bật thu hồi dây điện thoại, thỉnh thoảng "bắn trộm" vài phát súng chỉ thiên, để chào mừng chiến thắng. Toàn sở chỉ huy được lệnh Bộ Chỉ huy nhanh chóng về Sài Gòn phối hợp với các đơn vị đã đánh chiếm tiếp quản thành phố. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt - Bí thư và Phó bí thư Trung ương Cục đã đưa cơ quan tiển phương Trung ương Cục vào Sài Gòn từ chiều 30 tháng 4. Ôi! Cái ngày đặt chân lên mảnh đất Sài Gòn thân yêu “đi trước về sau” của Tổ quốc đối với chúng tôi không còn là những ước mơ, mà đã trở thành sự thật. Tiếc rằng, là một cán bộ phục vụ ở cơ quan chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, tôi không được cùng các chiến sĩ của đoàn quân “thần tốc, táo bạo” có mặt giữa Sài Gòn, đúng vào cái giờ phút thiêng liêng của chiến thắng lịch sử. Trận quyết chiến chiến lược của Chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đem lại cho chúng tôi niềm vui tột đỉnh. Đêm 30 tháng 4, năm 1975, nhằm vào đêm 20 tháng 3 năm Ất Mão, đối với chúng tôi là một đêm không ngủ, thức trắng cùng ngọn đèn dầu tự tạo leo lét với gió rừng rầm rì thổi, bao nhiêu ký ức của 30 năm chiến tranh đẫm máu và nước mắt cùng với những kỷ niệm buồn, vui trong cuộc sống và chiến đấu giữa lòng dân, khắp chiến trường hiện ra, rồi hình ảnh đồng bào Thanh An cùng với đồng bào Sài Gòn tản cư reo mừng chiến thắng, bất giác mắt tôi nhòa lệ vì niềm vui quá lớn. Cuộc Trường Chinh 30 năm đã đến đích. Chúng tôi mong sao mau đến giờ hành quân.


Và, 5 giờ sáng ngày 1 tháng 5 nàm 1975, với đoàn xe hàng trăm chiếc chở chúng tôi rời Căm Xe, tạm biệt núi rừng đã che chở chúng tôi suốt 30 năm kháng chiến. Qua Dầu Tiếng đến Trảng Bàng, dọc theo quốc lộ 22 tiến về Củ Chi. Đến đâu chúng tôi cũng được đồng bào vẫy chào như đón người thân. Những rừng cờ nền nửa đỏ nửa xanh, sao vàng rực rõ ở những khu đông dân cư, những tiếng hô “Hoan hô quân giải phóng” vang trời dậy đất. Đặc biệt có những chiếc xe đò cùng chiều, chở đầy hành khách, cả ở trên mui xe, nhiều người không mặc áo. Thấy chúng tôi họ vỗ tay hoan hô Quân giải phóng ríu rít. Theo nhân dân cho biết, đó là những toán binh sĩ ngụy quân Sài Gòn đã trút bỏ quần áo lính, tháp tùng xe đò tìm về quê hương, thoát khỏi cuộc chiến tranh phi nghĩa, họ mừng vui ra mặt.


Đến Củ Chi, đoàn xe dừng mấy phút, đồng bào ùa ra bắt tay Quân giải phóng. Họ chỉ lá cờ “nửa đỏ nửa xanh" bay phấp phới trên nóc nhà chi khu và bảo đó là lá cờ do một cán bộ phụ nữ biệt động cắm trước giờ phút Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh và tạm dừng ở Hóc Môn nghỉ trưa. Tôi nghỉ trong nhà một đồng bào không quen biết, nhưng chủ nhà rất mến khách, đã bưng cơm, thức ăn, nước uống ra mời chúng tôi như với người thân đi xa mới về. Một chú bé mân mê chiếc mũ Quân giải phóng và khen:

- Bộ đội giải phóng hiền quá, tốt quá! Đêm qua bộ đội chiếu phim cho đồng bào coi. Phim hay dễ sợ...

Tôi hỏi chú bé phim hay sao lại dễ sợ? Chú bé bẽn lẽn đáp: là phim hay quá xá đó mà!

Đoàn xe tiếp tục đưa chúng tôi vào nội đô Sài Gòn, đến ngã tư Bảy Hiền xe tạm dừng. Mấy chiếc xe xích lô cắm cờ nền nửa đỏ, nửa xanh, sao vàng, người phu xích lô cánh tay đeo băng đỏ, chở đầy một xe cơm vắt, thịt kho và nước, chạy đến dừng xe và tự giới thiệu mình là đại diện ủy ban quân quản, mời chúng tôi với thái độ ân cần niềm nở. Tiếp nhận cơm, thức ăn và nước uống của đồng bào thành phố vừa mới giải phóng, lòng chúng tôi vô cùng xúc động. Ngay trong đêm, bộ phận tiền phương Phòng Dân vận của chúng tôi được cấp trên phân công về tiếp quản cục xã hội của ngụy quân đóng tại Đồn Đất. Ở đó có bộ phận trung đoàn của ta đã đánh chiếm từ trưa 30 tháng 4. Thế là chúng tôi đã ung dung đứng giữa Sài Gòn. Theo chỉ thị Cục Chính trị, chúng tôi tranh thủ nắm chắc tình hình, chuẩn bị cho một cuộc hội nghị công tác dân vận trong tình hình mới, nhiệm vụ mới của chiến trường B2.


Tình hình thành phố những ngày mới giải phóng nảy sinh nhiều vấn đề khá phức tạp. Công tác dân vận thật bận rộn. Một mặt làm công tác đăng ký binh sĩ, sĩ quan, ngụy quyền rã ngũ. Tiếp quản cơ sở vật chất của ngụy quân v.v... Một mặt vận động quần chúng giữ gìn trật tự trị an, vận động thanh niên, sinh viên, học sinh đứng ở các tuyến phố làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự giao thông. Một vấn đề đặt ra lúc bấy giờ là trên đường tháo chạy về Sài Gòn từ Tây Nguyên và các tỉnh ven biển miền Trung, sĩ quan và binh sĩ ngụy mang theo vợ con và hù dọa cưỡng ép đồng bào đi theo hiện nằm la liệt trên các vỉa hè, đường phố, đặc biệt là trên đường Hồng Thập Tự, dày đặc lều chõng của những người chạy loạn. Trước tình hình đó, một ủy ban vận động hồi hương được thành lập, bên cạnh ủy ban Quân quản thành phố. Tôi được Cục Chính trị phân công và giới thiệu làm ủy viên thường trực của ủy ban vận động hồi hương.


Mải cuốn hút theo công việc, một tuần sau tôi mới được tranh thủ về Củ Chi, thăm bà con, họ hàng gia đình bên vợ và gặp lại hai đứa con thân yêu. Vợ tôi là dược tá còn ở hậu cứ tận Lộc Ninh chưa về kịp. Thấy tôi, hai con trai: đứa lớn 7 tuổi, đứa nhỏ 5 tuổi ríu rít gọi “Ba... Ba” và òa khóc. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Vì chiến tranh, các con tôi phải sống xa cha mẹ. Vợ chồng tôi gặp nhau, yêu nhau và tiến đến hôn nhân vào mùa xuân 1966 ở chiến khu, căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Đức, dưới chân núi Nam Nung (Nam Tây Nguyên). Năm 1972, tôi được điều về công tác Cục Chính trị Miền, vợ tôi chuyển nghề theo về làm nhân viên ở Phòng Dân vận, vừa công tác vừa nuôi con. Cha mẹ vợ tôi - ông bà Trần Văn Lao, thương con gái một nách hai con lại phải lo công tác nên bắt cô con gái lớn phải tìm cho được em, để đưa cháu về nuôi. Và chị phải làm theo ý của mẹ. Từ vùng địch, chị lặn lội một mình thân gái dặm trường, vào tận Lộc Ninh. Chị em gặp nhau và chị đã bồng hai đứa cháu về Củ Chi nuôi, để mẹ chúng rảnh rang công tác. Có cháu, ông bà ngoại cũng khuây khỏa nỗi nhớ con và bà thương cháu hết chỗ nói. Tiếc thay, ngày đại thắng huy hoàng của Tổ quốc, mẹ không còn nữa. Bà đã vĩnh viễn đi xa, sau một cơn bạo bệnh. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.


Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Cục Chính trị Miền đã hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử vẻ vang, làm tròn sứ mệnh của cơ quan công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng vũ trang miền Nam (B2) trong đó có Phòng Dân vận đóng góp một phần quan trọng trong truyền thống oai hùng của Quân giải phóng và Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước oanh liệt.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:48:54 am
CHIẾN TRƯỜNG ĐỒNG BẰNG VEN BlỂN KHU 5
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975


Theo lời kể của
Đại tá TRẦN NGỌC QUẾ
Nguyên Bí thư của Đại tướng Chu Huy Mân
thời kỳ chống Mỹ tại chiến trường Khu 5
   

Chiến dịch tiến công tại đồng bằng ven biển Khu 5 trên hướng Tam Kỳ, Quảng Ngãi của một bộ phận chủ lực quân khu và lực lượng vũ trang địa phương ở ba tỉnh Đà - Nam - Ngãi Xuân 1975 lúc đầu mới chỉ trong phạm vi địa phương nhằm giành thắng lợi quân sự cục bộ, với mục tiêu hạn chế, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho các chiến dịch tiến công chiến lược tiếp theo. Nhưng nhờ chiến dịch giành thắng lợi trong thời gian ngắn, đồng thời tranh thủ thời cơ thuận lợi từ chiến dịch tấn công địch ở hướng Tây Nguyên nên đã chuyển thành một hướng quan trọng của chiến dịch tiến công chiến lược Huê - Đà Nẵng - một trong ba đòn tiến công chiến lược Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Từ kế hoạch quân sự hai năm giải phóng miền Nam, rút xuống còn một năm và được thực hiện nhanh gọn trong 49 ngày đêm tấn công liên tục (riêng Khu 5, từ ngày nổ súng tấn công Buôn Ma Thuột (10-3) đến khi giải phóng Nha Trang, Cam Ranh (4-4) chỉ vẻn vẹn 25 ngày đêm) đã làm cả thế giới ngạc nhiên. Chúng tôi1 (Gồm một số cán bộ trong cơ quan Bộ Tham mưu chiến dịch, khi đó đồng chí Trần Ngọc Quế mang hàm thượng tá (NTH)) - những người trong cuộc, cũng không thể dự kiến hết sự phát triển vô cùng nhanh chóng của tình hình. Biết bao sự kiện được coi là ngẫu nhiên đều bị chi phối bởi những quy luật khắt khe của chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng, chiến tranh nhân dân và chiến tranh hiện đại. Nhưng thắng lợi giành được hoàn toàn không phải do ngẫu nhiên mà có, nguyên nhân chủ quan vẫn là nguyên nhân chính quyết định thành, bại của chiến dịch. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn vai trò, vị trí và ý nghĩa của cuộc tiến công và nổi dậy ở chiến trường đồng bằng ven biển Khu 5 trong toàn cục cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và trong chiến dịch tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng, chúng ta cần nhìn lại bối cảnh chung khi đó.


Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết giữa chính phủ và đại diện bốn bên2 (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và đại diện ngụy quyền Sài Gòn). Quân, dân miền Nam nói chung, quân dân Khu 5 nói riêng nghiêm túc chấp hành lệnh ngừng bắn từ khi có hiệu lực theo quy định của Hiệp định Pa-ri từ 7 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” theo công thức “ngụy quân + viện trợ kinh tế, quân sự và cố vấn Mỹ”. Tên Việt gian đầu sỏ Nguyễn Văn Thiệu theo lệnh quan thầy Mỹ, sáng 28 tháng 1 năm 1973 đã tuyên bố không tôn trọng ngừng bắn và ra lệnh cho quân ngụy thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ" trên toàn miền Nam nhằm chiếm vùng giải phóng của ta. Trên chiến trường, chiến tranh vẫn tiếp diễn, “lấn chiếm” và chống “lấn chiếm” giữa địch với ta vẫn đang diễn ra trên diện rộng ngày càng quyết liệt. Vì chưa nhận rõ âm mưu địch, một số địa phương, đơn vị hy vọng vào thiện chí của kẻ địch, mất cảnh giác, buông lỏng tay súng, để địch lấn đất giành dân, gây ra không ít khó khăn, lúng túng.


Tháng 7 năm 1973, sau khi Thường vụ Đảng ủy Khu 5 đưa ra chủ trương: “địch lấn chiếm vùng ta, ta kiên quyết vừa phản công, vừa tấn công lại”, nhiều địa phương, đơn vị đã giữ được đất, giành lại được dân, củng cố vùng giải phóng nhưng vẫn ở thế giằng co với địch.


Tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 ra Nghị quyết chỉ rõ: Địch không thi hành hiệp định, tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh thực chất là chiến tranh thực dân kiểu mới hòng chiếm cả miền Nam. Ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam...”.


Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Khu 5 đã thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo toàn Quân khu “Vừa sử dụng lực lượng cần thiết để đánh bại lấn chiếm, giữ vững vùng giải phóng, vừa tập trung sức chuẩn bị điều kiện và thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn, thực hành nhiều chiến dịch tiến công chiến lược góp phần cùng toàn miền Nam đánh cho ngụy nhào, kết thúc chiến tranh”.


Phương hướng chiến lược đề ra trên là vô cùng đúng đắn nhưng vận dụng cụ thể vào thực tiễn lại vô cùng khó khăn. Bởi nếu không đủ sức làm tốt nhiệm vụ trước mắt sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chuẩn bị cho lâu dài. Hoặc chỉ vì nhiệm vụ trước mắt mà không chuẩn bị tạo thế, tạo lực chuẩn bị cho lâu dài thì khi thời cơ đến, chúng ta sẽ không có cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật cũng như lực lượng cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực ngụy. Thực tế trên chiến trường đồng bằng ven biến Khu 5 cho thấy, từ mùa thu 1972, trên hướng Cấm Dơi, Quế Sơn (tây Quảng Nam) tuy Quân khu đã tổ chức trận đánh hiệp đồng binh chủng, sử dụng vào tấn công một tiểu đoàn pháo nòng dài 130mm, một tiểu đoàn cao xạ 37mm đánh máy bay địch bảo vệ đội hình chiến đấu và một đại đội xe tăng, xe thiết giáp. Nhưng vì thiếu đường giao thông nên không thể cơ động lực lượng đi các hướng được. Rõ ràng là vào giai đoạn quyết định của chiến tranh giải phóng, muốn đánh hiệp đồng binh chủng lớn, có pháo mặt đất xe kéo, có pháo cao xạ, có xe tăng, thiết giáp thì việc mở đường cơ giới là một đòi hỏi cấp bách. Bởi vậy ngay từ đầu năm 1973 Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã chỉ đạo: trong khi tích cực đánh địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng phải đồng thời tích cực khéo léo tập trung sức lực để tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực cơ động của ngụy, đồng thời tập trung lực lượng nhanh chóng mở đường cơ giới.


Chỉ tính riêng năm 1973, cả đồng bằng và Tây Nguyên, ta đã sử dụng 33,5 vạn ngày công của bộ đội và nhân dân vùng giải phóng mở xong 4 trục đường dọc và 11 trục đường ngang với tổng chiểu dài là 977 ki-lô-mét (bằng 1/2 chiểu dài đường bộ xuyên Đông Dương - Hà Nội - Sài Gòn). Đường cơ giới đã nối liền tây bắc Kon Tum đến bắc Buôn Ma Thuột, tây Quảng Đà, tây Quảng Nam, tây Quảng Ngãi xuống đến bắc Bình Định, qua đường bắc Kon Tum - Cô Xia - tây Quảng Nam, nối liền hai chiến trường lớn Tây Nguyên và đồng bằng. Con đường cơ giới vu hồi từ bắc Kon Tum, vòng qua tây thị xã Kon Tum về Đắc Đoa, tiếp giáp với đường 19 cũng được hoàn thành trong thời gian này.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:49:39 am
Có đường cơ giới là có vận chuyển lớn. Cũng trong năm 1973, Trung ương đã chuyển vũ khí và thuốc men cho Khu 5 bằng khối lượng chi viện cả bốn năm (1969-1972) cộng lại, số hàng đó được phân phối xuống tận sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, và đến bắc Bình Định. Hệ thống kho tàng, trạm sửa chữa ô tô, trạm quân khí, các bệnh viện, bệnh xá, trạm phẫu cũng dựa theo các trục đường cơ giới để triển khai trên toàn tuyến chiến dịch. Có mạng đường cơ giới thì lực lượng vận tải bằng gùi, thồ được giải phóng, một số lượng khá lớn tay súng chiến đấu kỳ cựu được bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Nếu như cuối năm 1972, một đại đội bộ binh chiến đấu chỉ có 10-15 tay súng thì đến giai đoạn này đã có 40-45 tay súng, tiểu đoàn bộ binh có 200-250 tay súng, sức chiến đấu tăng lên rõ rệt. Lực lượng binh chủng của Quân khu đến cuối năm 1973 đã có hai trung đoàn pháo binh cơ giới, một trung đoàn tăng, thiết giáp, một trung đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn thông tin, hai trung đoàn công binh được phân chia thành nhiều cụm và triển khai sẵn thế trận trên các hướng bắc, trung, nam.


Một hình ảnh mà chúng tôi khó quên khi trục đường dọc theo sát tây đường quốc lộ 1 xuống bắc Bình Định được mở, đồng chí Chu Huy Mân khi đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 với chiếc compa pháo binh trong tay đứng hàng giờ trước tấm bản đồ quân sự tỷ lệ 1/100.000, suy nghĩ về cách đánh tới trong điều kiện có thể tổ chức những trận đánh hiệp đồng binh chủng. Có lúc vui quá, đồng chí lớn tiếng gọi chúng tôi: “Này các cậu, lại đây xem pháo ta trùm Tam Kỳ, Chu Lai, Quảng Ngãi rồi. Phen này chúng chết với ta”.


Lúc này đường ống dẫn dầu và đường thông tin dây trần, hệ thống thông tin vô tuyến tiếp sức cũng được phát triển. Đầu năm 1975, đường ống dẫn dầu đã đến Bên Giàng (tây Quảng Đà); việc liên lạc bằng thông tin hữu tuyến và vô tuyên tiếp sức từ Khu 5 ra Hà Nội được trực tiếp, cụ thể và thuận lợi hơn.


Sư đoàn 2, Sư đoàn 3, Lữ đoàn 52 của Quân khu được củng cố; sư đoàn có trung đoàn pháo cơ giới và tiểu đoàn cao xạ, đứng sẵn ở các hướng trọng điểm vừa có bộ phận tham gia đánh địch lấn chiếm bảo vệ vùng giải phóng vừa tập trung xây dựng huấn luyện. Sức chiến đấu của các sư đoàn, lữ đoàn tăng gấp 2-3 lần so với trước đây. Hỏa lực của các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh có tiểu đoàn trợ chiến gồm ĐKZ75, cối 120mm và côi 82mm. Tuy phải bổ sung một phần cho chủ lực và bộ đội địa phương tỉnh, huyện, nhưng số lượng du kích toàn quân khu đến cuối năm 1974 tổ chức được 4 vạn 1 ngàn, có 120 trung đội du kích xã, 50 trung đội và 70 tổ du kích đặc công, 120 đội và tổ du kích công binh. Riêng du kích đồng bằng ven biển là 2 vạn rưỡi, phần lớn được trang bị vũ khí.


Đến cuối năm 1974 Quân khu 5 đã hoàn thành tốt chương trình huấn luyện chiến đấu với các chiẽn thuật chủ yếu: vây lấn tiêu diệt địch trong công sự vững chắc và đánh bao vây, tấn công liên tục, tiêu diệt địch ngoài công sự, tấn công hiệp đồng binh chủng lớn, nâng cao một bước trình độ tác chiến của sư đoàn, lữ, trung đoàn. Việc huấn luyện được gắn chặt với thực tiễn. Sau khi huấn luyện các đơn vị đưa bộ đội ra đánh địch lấn chiếm, thu hồi vùng giải phóng, cải thiện thế trận tiến công của ta. Mùa hè năm 1974, lực lượng vũ trang đồng bằng ven biển Khu 5 diệt và bức rút 300 cứ điểm, giải phóng Đức Phú tây Tam Kỳ. Thu 1974, ta tiêu diệt các cụm cứ điểm địch cắm sâu trong vùng giải phóng của ta như Thượng Đức (tây Quảng Đà), Nông Sơn, Trung Phước (tây Quảng Nam), giữ vững các bàn đạp để chuyển sang tấn công ở ba khu vực Châu Sơn, Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài An - An Lão (bắc Bình Định). Qua đợt hoạt động này, trình độ tác chiến đánh tiêu diệt lớn quân chủ lực ngụy của chủ lực ta có bước phát triển rõ: diệt gọn các cụm phòng thủ, chi khu quận lỵ địch và đánh bại từng trung đoàn ngụy đi giải tỏa, ứng cứu và quan trọng hơn, qua đó ta cũng thấy rõ sự hạn chế về khả năng ứng cứu, giải tỏa của địch.


Do chủ động kêt hợp chặt chẽ trước mắt và lâu dài, vừa đánh địch lấn chiếm, vừa tạo thế, tạo lực cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực ngụy. Lúc này, quân dân Khu 5 đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược.


Đầu năm 1975, chủ lực của địch ở quân khu 1 có năm Sư đoàn và bốn lữ đoàn biệt động. Tướng Ngô Quang Trưởng - tư lệnh quân khu 1 và quân đoàn 1 ngụy đã hạ quyết tâm giành ba sư đoàn và ba lữ đoàn biệt động quân để đối phó với hoạt động của chủ lực Quân khu 5 trên hướng Đà - Nam - Ngãi. Trong lúc đó, tập trung hai phần ba chủ lực quân khu trên hướng trọng điểm này ta cũng chỉ có một sư đoàn, một lữ đoàn, một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, một trung đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn tăng, thiết giáp, một trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang địa phương của ba tỉnh trên. So sánh lực lượng tính theo đơn vị bộ binh thì địch hai ta một. Nếu tính binh khí kỹ thuật thì riêng tăng, thiết giáp, pháo của địch là ba đến năm còn ta chỉ có một.


Vấn đề đặt ra cho nghệ thuật chiến dịch ở đây là trong thực tế so sánh lực lượng như vậy, làm thế nào để có ưu thế chiến dịch, nhất là trong các trận đánh then chốt phải có ưu thế lực lượng hơn hẳn địch để đánh thắng địch nhanh gọn.


Nghiên cứu nhiều nguồn thông tin, từ nhiều hướng, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã đánh giá rất đúng tình hình: Khi bị đánh mạnh khắp nơi, khả năng tăng viện của quân ngụy từ nơi khác đến, kể cả lực lượng tổng dự bị là không có. Địch chỉ còn sử dụng được lực lượng hiện có của quân khu 1 và chỉ có thể tập trung vào khu chiến với bôn - năm trung đoàn bộ binh và một đến hai chi đoàn xe bọc thép. Nếu ở Huê bị quân ta đánh mạnh, chúng buộc phải điều sư đoàn dù ra chi viện, khi đó khả năng tập trung lực lượng cho khu chiến của địch còn ít hơn nữa. So sánh lực lượng địch, ta ở khu chiến cao nhất là 1/1. Những để tạo ra ưu thế hơn hắn địch ở hướng chủ yếu của chiến dịch (tây Tam Kỳ), Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ đạo toàn quân khu thực hiện hai biện pháp lớn:


Một là, từ N-7 cho mở các chiến dịch tiến công tổng hợp của chiẽn tranh nhân dân địa phương nhằm nghi binh, kìm chân địch, buộc chủ lực địch phải phân tán, đối phó với hoạt động của các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang ta ngay tại địa bàn đứng chân, tạo thuận lợi cho chủ lực ta tập trung trên hướng chủ yếu và bất ngờ tấn công địch.


Hai là, cũng từ N-7, dùng lực lượng vũ trang địa phương Quảng Ngãi cắt giao thông đoạn dốc sỏi nằm giữa Chu Lai - Quảng Ngãi, chặn đứng lực lượng sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra ứng cứu cho tây Tam Kỳ khi bị ta đánh, đồng thời khi có lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch thì mở ngỏ cho từng trung đoàn ngụy lọt vào khu chiến theo ý định của ta. Lực lượng vũ trang Quảng Nam có nhiệm vụ thọc sâu xuống vùng đông Thăng Bình, diệt địch giành quyền làm chủ, buộc địch phải để một bộ phận lực lượng chủ lực đối phó. Sau này khi có điều kiện nghiên cứu kỹ và bài bản hơn về một số trận đánh tiêu biểu của nhân dân ta, quân đội ta trong chiến tranh giải phóng vừa qua, chúng tôi càng nhận thấy rõ chiến dịch tiến công ở đồng bằng ven biển Khu 5 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là một trong nhiều trận đánh tiêu biểu cho cách đánh đặc trưng của dân tộc ta. Trước hàng loạt các sự kiện thực sự của cuộc chiến, vấn đề quan trọng nhất là tìm ra khâu yếu nhất trong hệ thống tổ chức bố trí thế trận của địch, từ đó dự kiên các phương án tác chiến cho bộ đội, tổ chức một lực lượng “khêu ngòi”, chủ động tổ chức lực lượng khác giăng thế trận, nhử địch tới để “diệt viện” đã được lực lượng vũ trang Quân khu vận dụng hết sức sáng tạo trong thực tiễn cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện vừa qua ở Khu 5.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:51:25 am
Theo đúng kế hoạch vạch ra, ngày 3 tháng 3 năm 1975, đặc công, công binh trên đèo Hải Vân, các đơn vị luồn sâu của Quảng Đà đánh phá khu kho Sủng Mây, bãi xe Xuân Thiều, đánh sập cầu Trắng, cắt giao thông qua đèo.


Lúc này, một bộ phận của Sư đoàn 304 chủ lực vào phối hợp tác chiến, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 2 trung đoàn 56 sư đoàn 3 ngụy và một bộ phận sư đoàn dù ngụy ở vùng B Đại Lộc, kìm chặt sư đoàn dù ngụy ở tây Quảng Đà, một bộ phận Lữ đoàn 52 của Quân khu đánh và kìm sư đoàn 2 ngụy ở tây Nghĩa Hành. Các tiểu đoàn đặc công 403, 406 đánh phá căn cứ Gò Hội và đốt cháy kho xăng tại sân bay Quảng Ngãi.


Các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam đánh mạnh địch ở Trung Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc, vùng A, B Điện Bàn, đông Thăng Bình và đông bắc Tam Kỳ buộc địch phải điều một số tiểu đoàn, trung đoàn ra đối phó.


Nhờ các hoạt động tích cực trên, địch không phán đoán được hướng tấn công chủ yếu của ta, chủ lực ngụy bị kìm giữ tại chỗ, giúp cho việc triển khai lực lượng chiến dịch trên hướng chủ yếu của ta giữ được bí mật, bất ngờ.


Đúng ngày 30 tháng 3 năm 1975, lực lượng vũ trang ta tấn công địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, thì trên hướng tây Tam Kỳ, quân chủ lực cơ động của Quân khu 5 cũng bất ngờ tấn công cụm phòng ngự cơ bản của địch ở Tiên Phước - Phước Lâm. Đây là lá chắn bảo vệ trực tiếp cho thị xã Tam Kỳ có nhiều công sự vững chắc. Toàn cụm có khoảng 3.000 tên địch, sáu tiểu đoàn bảo an, hai đại đội biệt lập, 41 trung đội dân vệ, hai đại đội pháo có 10 khẩu 105 và 155mm đóng trên 77 cứ điểm lớn, nhỏ, kết hợp với một hệ thống kìm kẹp dân gồm 33 ấp chiến lược và 10 khu dồn. Trong trận mở màn này, ta đã tập trung một sư đoàn, một lữ, một trung đoàn và hỏa lực pháo binh mạnh để tiêu diệt dứt điểm. Chỉ trong 12 giờ tiến công, với ưu thế binh, hỏa lực hơn hẳn, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, phá vỡ hoàn toàn hệ thống phòng thủ cơ bản của địch ở tây Tam Kỳ. Kẻ địch hoàn toàn bị động. Bộ đội chủ lực Quân khu 5 khống chế toàn bộ các cao điểm phía tây Tam Kỳ, tổ chức các trận địa sẵn sàng đón lõng các trung đoàn chủ lực ngụy vào ứng cứu. Tam Kỳ bị uy hiếp, bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 2 của ngụy từ Quảng Ngãi vội vã ra Tam Kỳ, chúng tung trung đoàn 5 ngụy ra phản kích ta ở Dương Leo, Dẫy Thám, điều liên đoàn biệt động 12 ở Cẩm Khê và lệnh điều trung đoàn 4 sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra, đồng thời điều trung đoàn 2 sư đoàn 3 ngụy từ Quảng Đà vào hòng lập phòng tuyến ngăn chặn ta ở tây thị xã Tam Kỳ.


Trong thời điểm này Bộ Tư lệnh Quân khu đã xử lý tình huống rất đúng đắn: tập trung lực lượng ưu thế, lợi dụng địa hình có lợi, tiêu diệt hoặc đánh thiệt hại nặng từng trung đoàn chủ lực cơ động của ngụy; chốt chặn Dốc Sỏi có nhiệm vụ điều địch vào khu chiến theo ý định của ta. Chủ trương của Quân khu là tiêu diệt và đánh cạn lực lượng chủ lực cơ động của ngụy đi ứng cứu sẽ tạo ra thời cơ trực tiếp để giải phóng Tam Kỳ, Quảng Ngãi, thực hiện được ý đồ chia cắt địch về chiến lược ở đồng bằng ven biển Khu 5. Trong lúc đó, tình hình chung lại đang phát triển rất thuận lợi. Trên hướng Tây Nguyên, ngày 11 tháng 3 ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 18 tháng 3 toàn bộ sư đoàn 23 ngụy lại bị tiêu diệt, ý đồ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột của địch bị thất bại hoàn toàn. Toàn bộ quân ngụy phòng thủ bắc Tây Nguyên tháo chạy theo đường số 7 và ngày 19 tháng 3 đại bộ phận bị tiêu diệt ở Cheo Reo. Ngày 19 tháng 3 ta giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Ngày 21 tháng 3 từ ba hướng bắc, tây và nam, lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã tiến công, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, bao vây Huế, cắt đứt Huế với Đà Nẵng. Trên hướng tây Tam Kỳ, thời cơ tiêu diệt sư đoàn 2 ngụy, giải phóng Tam Kỳ - Quảng Ngãi càng trở thành hiện thực và cấp bách.


Ngày 21 tháng 3 chủ lực Quân khu trên hướng chủ yếu đã tấn công vào toàn tuyến ngăn chặn của địch từ Chợ Cây Xanh, Dương Huê, Dẫy Thám đến núi Vàng, điểm cao 132, núi Mỹ, sử dụng một sư đoàn, một trung đoàn đánh hai trung đoàn ngụy (so sánh lực lượng ta hai địch một). Đến trưa 21 tháng 3 ta đánh thiệt hại nặng trung đoàn 5, lữ đoàn 12 biệt động quân của ngụy. Địch phải vét hết lực lượng có trong tay ra lập tuyến ngăn chặn mới là Cẩm Khê - Trà Gó - Chóp Chài - Tân Lợi.


Ngày 24 tháng 3, trên hướng chủ yếu, ta tung toàn bộ lực lượng, trên thế áp đảo tiêu diệt lực lượng sư đoàn 2 còn lại của ngụy và đột phá thị xã Tam Kỳ; hai tiểu đoàn 70 và 72 của tỉnh Quảng Nam làm chủ vùng Đông Thăng Bình đã trở thành mũi vu hồi lợi hại đánh mạnh vào Kỳ Phú, phía đông thị xã. Đúng 11 giờ ngày 24 tháng 3 năm 1975 quân ta làm chủ hoàn toàn thị xã Tam Kỳ.


Đến 23 giờ cùng ngày, lực lượng vũ trang Quảng Ngãi đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch co cụm ở bắc Quảng Ngãi chạy về Chu Lai, làm chủ thị xã và toàn tỉnh Quảng Ngãi.


Như vậy, bằng lực lượng tại chỗ, Quân khu lợi dụng thời cơ chung, biết nghi binh căng, kìm địch và điều địch theo ý định, trên hướng tấn công chủ yếu tây Tam Kỳ, từ đầu cho đến cuối chiến dịch, trong các trận then chốt quyết định, ta đều tạo ra được so sánh lực lượng ưu thế hơn hẳn địch và giành thắng lợi ngày càng lớn, từ tiêu diệt và phá vỡ hệ thống phòng thủ phía tây Tam Kỳ đến tiêu diệt và đánh cạn lực lượng chủ lực ngụy đi ứng cứu giải tỏa, tạo ra thời cơ trực tiếp đột phá Tam Kỳ, Quảng Ngãi, thực hiện ý đồ chia cắt địch về chiến lược trên chiến trường đồng bằng ven biển Khu 5, tạo thuận lợi cho chiến dịch tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng thắng lợi.


Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp lớn thứ hai ở miền Nam Việt Nam, có sân bay cấp 1, có bốn cảng lớn, có khu tổng kho chứa hàng vạn tấn bom đạn, là nơi đứng chân của nhiều bộ máy quân sự đầu não Mỹ - ngụy. Đến 25 tháng 3 năm 1975 lực lượng quân sự ngụy ở Đà Nẵng được tăng thêm khoảng 6-7 ngàn tên tàn binh từ Trị - Thiên chạy vào, từ Quảng Nam chạy ra, nâng tổng quân số lên tới 10 vạn, gồm 15 tiểu đoàn cộng hòa, 15 tiểu đoàn bảo an, 240 trung đội dân vệ, khoảng ba vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và cảnh sát, 373 máy bay, 114 khẩu pháo từ 105mm trỏ lên, 70 xe tăng, xe thiết giáp. Lực lượng quân sự của địch đông nhưng ô hợp, sức chiến đấu không đáng kể, tướng tá chỉ lo cứu lấy bản thân và gia đình mình, bỏ mặc lính, tình trạng hỗn loạn ngày càng phát triển.


Nắm được tình hình đó, ngay chiều 24 tháng 3, khi trận tiến công giải phóng Tam Kỳ chữa kết thúc, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã mệnh lệnh sơ bộ cho các đơn vị phát triển hướng tiến công về Đà Nẵng và đêm 24 tháng 3, Bộ Tư lệnh Quân khu đã hạ quyết tâm giải phóng Đà Nẵng theo phương án tiến công phát triển nhanh. Quyết tâm đó hoàn toàn phù hợp với ý định của cấp trên.


Ngày 25 tháng 3 Quân khu nhận được điện của Bộ Tổng Tham mưu: “Tấn công nhanh Đà Nẵng bằng lực lượng tại chỗ có thể huy động được, không chờ lực lượng trên tăng cường. Vấn đề mấu chốt là diệt quân đoàn 1 ngụy và sư đoàn lính thủy đánh bộ không cho chúng rút co cụm về Sài Gòn”.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:52:15 am
Ngày 27 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận Đà Nẵng, chỉ định hai đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh và đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Mặc dù chưa gặp nhau nhưng hai đồng chí đã thống nhất qua điện đài:

Quân đoàn 2 (thiếu) đảm nhiệm hướng chủ yếu từ bắc và tây bắc đánh vào Đà Nẵng. Lực lượng vũ trang Quân khu 5 đảm nhiệm hướng quan trọng từ phía nam đánh ra. Sư đoàn 304 đảm nhiệm hướng phối hợp từ Thượng Đức theo đường 14 đánh xuống. Thời gian tiến công là ngày 28 tháng 3.


Trong thực hành tấn công đã có hai tình huống chiến dịch cần đến sự xử lý kiên quyết và táo bạo. Tình huống thứ nhất là, khi địch thấy lực lượng chủ lực của ta tiến sát sông Thu Bồn, bọn chỉ huy quân ngụy vội vã cho máy bay đánh sập hai cầu Bà Rén và Câu Lâu hòng ngăn cản tốc độ tiến công của ta, xe pháo ta không qua được sông lớn. Quân khu đã xử trí: “Không ỷ lại vào xe, pháo, không được giảm tốc độ tấn công. Dùng pháo, cối mang vác làm hỏa lực đi cùng để phát triển tấn công nhanh”. Nhân dân hai bên bờ sông đã huy động hàng trăm thuyền chở bộ đội qua sông nhanh chóng và an toàn, quân ta cố giữ vững tốc độ tiến công.


Một tình huống lớn nữa là thấy quân ta vượt sông, quân địch hình thành nhiều chốt chặn dọc đường hòng ngăn chặn bước tiến công của ta. Quân khu đã để một bộ phận nhỏ lực lượng đánh địch chốt chặn dọc đường, còn đại bộ phận lực lượng phải vòng và vượt qua các mục tiêu thứ yếu, thọc sâu vào trung tâm Đà Nẵng nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu là chỉ huy sở quân khu 1, sân bay, khu hành chính, cảng Sơn Trà.


Với hành động thọc sâu táo bạo của ta càng làm cho kẻ địch rối loạn, không có cách đối phó, bắn giết lẫn nhau để tẩu thoát ra biển. Nhân dân ở nhiều khu vực trong thành phố, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy đã nổi dậy làm chủ nhiều khu vực và huy động hàng trăm xe ra đón bộ đội vào. Nhờ đó ta đánh chiếm nhanh các mục tiêu chủ yếu; lúc 12 giờ ngày 29 tháng 3 tiểu đoàn 40 của Trung đoàn 1 Ba Gia và Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 31 đã gặp nhau và làm chủ sân bay Đà Nẵng. Cũng 12 giờ trong ngày, Tiểu đoàn 40 của Trung đoàn 1 Ba Gia đã cắm lá cờ chiến thắng của quân ta lên trung tâm chỉ huy của tên tư lệnh quân khu 1 kiêm tư lệnh quân đoàn 1 ngụy. Trong lúc đó Trung đoàn 96 địa phương tỉnh Quảng Đà, Tiểu đoàn 491 đặc công và đại đội biệt động Lê Độ đã đánh chiếm tòa thị chính và đài phát thanh, Trung đoàn bộ binh 97 Quảng Đà đánh chiếm thị xã Hội An, Non Nước, sân bay Nước Mặn. Lực lượng Quân đoàn 2 từ phía bắc đánh vào đã nhanh chóng chiếm Thủy Tú, Nam Ô, cảng Phú Lộc, vượt ngã ba Huế, ngã ba Cai Lan, tiến thẳng qua cầu Trịnh Minh Thế, đánh chiếm các mục tiêu trên bán đảo Sơn Trà. Phía tây, Sư đoàn 304 đánh chiếm Sơn Trà, thị trấn Ái Nghĩa, trường huấn luyện Hòa Cầm, hội quân với Trung đoàn bộ binh 1 Ba Gia tại sân bay Đà Nẵng. Đến 15 giờ cùng ngày, cuộc tấn công giải phóng Đà Nẵng đồng thời cũng là trận then chốt tiêu diệt toàn bộ quân đoàn 1 ngụy kết thúc thắng lợi.


Cho đến hôm nay, nhớ lại và suy nghĩ về những sự kiện lịch sử của Xuân 1975 nói chung và ở Khu 5 nói riêng, chúng tôi thấy những thắng lợi to lớn, trọn vẹn của quân và dân Khu 5 đã giành được trước hết là nhờ có sự lãnh đạo và chỉ đạo vô cùng đúng đắn, sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, sau đó là có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ về nhiều mặt, trên cơ sở thế trận chiến tranh nhân dân đã được quân và dân Khu 5 dày công xây dựng hàng chục năm trước đó để tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn chủ lực ngụy. Nhưng chuẩn bị chu đáo đến đâu cũng chỉ đảm bảo thắng lợi được một phần ba, còn lại là do sự nhạy bén phán đoán tình hình đưa ra quyết định đúng trong đối chọi tình huống ta, địch ở chiến trường của Bộ Chỉ huy và cơ quan tham mưu chiến dịch mà ở đây, chính là nghệ thuật tổ chức chỉ huy nghi binh, căng, kéo, kìm giữ địch, điểu địch theo ý định, là nghệ thuật tạo thế chiến dịch, tạo ưu thế hơn hẳn địch trong từng trận đánh then chốt, là nghệ thuật tranh thủ thời cơ chung, tạo ra thời cơ trực tiếp để phát triển tấn công giành thắng lợi lớn nhất cho chiến dịch của lực lượng vũ trang Quân khu 5.


Người thể hiện
ĐÀM QUANG THÁI


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:55:00 am
KỶ NIỆM KHÓ QUÊN TRONG
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN NĂM 1975


Đại tá VŨ THANG
Nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn 341 Quân đoàn 4


Trung đoàn tôi có đến ba tên gọi, tên gọi nào cũng gắn vào từng giai đoạn lịch sử. Đầu tiên là Trung đoàn 36 vì đợt đó lấy quân ở các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... về huấn luyện ở Trung đoàn 36 Sư đoàn 308. Tháng 11 năm 1972 Bộ quyết định thành lập Sư đoàn 341, Trung đoàn được điều động về đội hình sư đoàn và mang tên Trung đoàn 1. Giai đoạn huấn luyện chuẩn bị đi chiến trường lại mang tên Trung đoàn 273 đứng chân ở đất Quảng Bình, Vĩnh Linh với gió và nắng nóng như câu thơ "Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình" (Tố Hữu). Chuẩn bị cho đơn vị lên đường vào chiến trường, chúng tôi gấp rút huấn luyện đổi súng để chiến sĩ sử dụng thành thạo vũ khí trong phân đội, học tập, quán triệt về tình hình Nam Bộ. Qua đài, báo chí anh em chúng tôi được biết ở miền Đông Nam Bộ Quân đoàn 4 mới giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, quân Mỹ - ngụy không dám phản ứng. Nghe đâu trong đội hình Quân đoàn 4 có Công trường 9 (Sư đoàn 9) do đồng chí Sáu Khâm chỉ huy, năm 1965 tập kích một cụm quân Mỹ ở Trảng Bàng diệt cả ngàn tên Mỹ, bắn cháy mấy chục xe táng. Chúng tôi kháo nhau: Công trường 9 họ có phép lạ lắm, họ đi qua trước mặt quán Mỹ cả tiểu đoàn mà bọn Mỹ không phát hiện được. Họ lúc ẩn lúc hiện ghê lắm, họ là gốc Nam Bộ đấy! Nghe nói Công trường 9 được thành lập là từ ngày 2 tháng 9 năm 1965, do ông Hoàng Cầm làm sư đoàn trưởng đầu tiên. Có phải là ông Hoàng Cầm nghĩ ra bếp anh nuôi giảm khói tránh địch phát hiện không? Không phải! Ông Hoàng Cầm này là Trung đoàn trưởng đánh Điện Biên Phủ, được Bác Hồ khen đấy! Còn ông Lê Chân (Lê Văn Tưởng) là Chính ủy. Các ông đầu đã bạc, đã có mặt từ thời kỳ đầu cuộc chiến tranh cả nên đất trời Việt Nam các ông rành lắm, đánh giặc quen như đi cày cuốc, chúng mình vào Nam Bộ mà được đứng cạnh các ông thì mới sướng.


Điều mơ ước được đi chiến đấu của chúng tôi đã đến, Trung đoàn 273 là đơn vị đi đầu của Sư đoàn 341 vào chiến trường Nam Bộ. Sau ba tuần hành quân bằng cơ giới, đầu tháng 3 năm 1975, chúng tôi đã đến rừng Minh Hòa. Đón chúng tôi là một người đàn ông trán hói, cao to và ba người nữa, người nào cũng mang khẩu AK có hai băng đạn trở đầu và cái võng dù mỏng dính. Sau này chúng tôi mới biết đó là đồng chí Năm Nhạc - Trưởng phòng quân lực Quân đoàn 4, ba người còn lại là Sáu Cọc, Tư Dẹp, Hai Hưng là cán bộ tác chiến Quân đoàn 4 ra đón Trung đoàn 273. Hành quân vào đến nơi, Trung đoàn chúng tôi mỗi tiểu đội đủ chín người, trung đội là 35 người, đại đội là 125 người, trang bị mới 100 phần trăm. Thấy quân số đông, vũ khí mới, đồng chí Nàm Nhạc gật đầu tỏ vẻ phấn khởi. Sau khi nắm lại tình hình, ông ra tín hiệu hành quân. Chúng tôi, quân tư trang mang trên vai, ở trên xe thì chỉ thấy lắc lư, đi bộ mỗi người mang khoảng 28 ki-lô-gam nhưng sao nặng thế? Được cái tinh thần bộ đội hăng hái, mong sớm gặp được Công trường 9 để có thời gian học hỏi kinh nghiệm chiến đấu. Ngày 2 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn nhận nhiệm vụ chốt đường 13, đoạn Chơn Thành - Bầu Bàng thay Trung đoàn 3 Sư đoàn 9. Cơ quan Quân đoàn có đồng chí Ba Bì - Tham mưu phó Quân đoàn, đồng chí Sáu Cọc - cán bộ tác chiến và đồng chí Lê Hải Anh - tác chiến Sư đoàn 341 đi theo dõi giúp đỡ Trung đoàn tổ chức chiến đấu. Đồng chí Ba Bì rất vui vẻ hòa nhã nên gặp ông, anh em hết cả mệt nhọc. Các đồng chí cơ quan Quân đoàn và sư đoàn đã cùng với đồng chí Hoàng Trung Trực - Trung đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Giáp - Trung đoàn phó lần lượt đưa các tiểu đoàn vào chiếm lĩnh. Đồng chí Nguyễn Văn Giáp đi theo Tiểu đoàn 3, có nhiệm vụ đưa đại đội 11 do đồng chí Chính - Đại đội trưởng, đồng chí Vũ Quang Đản - Đại đội phó, đồng chí Nguyễn Văn Phúc - Chính trị viên vào chốt nam Xóm Rót, phía đông đường 13 khoảng 800 mét, thay cho một đại đội của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9. Khi vào nhận bàn giao thì đại đội của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 chỉ còn 17 đồng chí. Bàn giao xong rồi họ trở ra đi ô tô, có đồng chí đi xe đạp, loáng một cái họ đã đi mất tiêu không cần ai dẫn đường. Trong khi đó đại đội 11 của Trung đoàn 273 quân số đông, trang bị nặng nề, cả đêm đào hầm hào dưới tầm pháo bắn cầm canh. Sáng mùng 3 tháng 3 năm 1975, các bộ phận đứng lên thành hào, bị địch chốt ở cầu Xóm Rớt bắn. Thế là cả ngày hôm đó ta và địch bắn tỉa nhau; cứ nhô đầu cao mũ cối để lộ trên thành hào là nó bắn. Tốc độ đào hầm hào tăng nhanh rõ rệt, vũ khí lau chùi sạch sẽ. Đến 15 giờ chiều, pháo địch các nơi bắn vào chốt đại đội 11, địch của chốt ở Xóm Rớt ra tiến công vào trận địa. 18 giờ, địch chiếm được 15 mét hào và ba hầm chiến đấu của đại đội 11. Đồng chí Vũ Quang Đản - Đại đội phó sau khi băng bó cho bốn đồng chí bị thương đã chỉ huy xuất kích nhỏ chiếm lại đoạn hào bị mất. Đồng chí Nguyễn Văn Giáp - Trung đoàn phó theo dõi diễn biến đã lệnh cho đồng chí Tâm - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 cho đại đội 10 gần đó đánh sang, nhưng do dây điện thoại vòng vèo nên khi đại đội 10 do đồng chí chuẩn úy Trúc chỉ huy gồm 21 đồng chí đánh sang đã vào gần quá, bị hỏa lực của đại đội 11 bắn cản, đồng chí Trúc la to: Đản ơi sao mày bắn vào tao? Sau đó mũi tiến công của đồng chí Trúc vòng rộng sát mép suối Xóm Rớt đánh vào sau lưng địch. Do trời tối, tốp của đồng chí Trúc đi mãi, khi đến mục tiêu đã gần 2, 3 giờ sáng, trên trận địa chỉ có pháo sáng và pháo bắn cầm canh, tiếng súng bộ binh đã im bặt, bọn địch lăn ra ngủ do căng thẳng, mệt mỏi. Đồng chí Trúc đi theo lối mòn vào Xóm Rớt thấy hai tên lính gác đang ngủ, đồng chí nổ súng tiêu diệt và chỉ huy bộ đội đánh vào bên trong. Địch ở các hầm tỉnh giấc bắn ra xối xả, đồng chí Trúc tổ chức bộ đội đánh bằng lựu đạn, bắn găm, bắn gần đến khi bị thương, mới tìm đường ra thì đã bị chúng bịt hết lối ra. Bên ngoài, đại đội 11 Tiểu đoàn 3 biết có lực lượng ta nổ súng nhưng không liên lạc được. Một số đồng chí của đại đội 10 mở đường ra; đi lạc gặp đồng chí Giáp, đồng chí Thanh Thản, đồng chí Nguyễn Văn Viện ra đón về. Trong chốt địch còn lại bảy đồng chí bị thương, trong đó có đồng chí Trúc - Đại đội trưởng. Ngày hôm sau địch bỏ chốt và bắt số bị thương của đại đội 10 đi theo về Hố Nai - Cần Thơ, coi như số đó mất tích.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Tư, 2021, 08:55:32 am
Ngày 12 tháng 3 năm 1975, trận chiến đấu ở Dầu Tiếng rất gay go, Quân đoàn điều Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 273 đi làm dự bị cho Sư đoàn 9 tiến công tiêu diệt các ổ đề kháng địch, giải phóng chi khu quân sự Trị Tâm. Ở khu đồn tam giác địch ngoan cố chống cự, Quân đoàn sử dụng ba xe tăng T54 và hai khẩu pháo 85mm chi viện cho Trung đoàn 3 đánh chiếm từng đoạn hào, góc phố, đập tan các đợt phản kích của địch. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 273 được sử dụng tảng cường sức đột kích cho Sư đoàn 9. Thế là chúng tôi có dịp chiến đấu bên cạnh Sư đoàn 9, được phát huy tác dụng huấn luyện khi ở Quảng Bình, của súng đạn mới. Bộ đội đánh rất hăng nhưng các đồng chí Công trường 9 cứ nhắc phải tiết kiệm đạn. Ở một hướng khác của Tiểu đoàn 1 bị một ổ đê kháng địch ngăn chặn, các đồng chí Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 lại nhắc Tiểu đoàn trưởng Hùng: “Tiểu đoàn trưởng sao không cho B41 diệt ngay?". Lúc này Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 mới cho hai khẩu B40, một khẩu B41 tiêu diệt ổ đề kháng và phát triển chiến đấu. Kết thúc trận đánh, Quân đoàn điều Trung đoàn 273 về ngay đoạn Bầu Bàng - Chơn Thành. Khi thu quân, kiểm tra quân số lại mất tích đồng chí giữ B41. Như vậy mới có 15 ngày chiến đấu đã có đến hai vụ mất tích. Chúng tôi cứ kháo nhau: thế mới biết Công trường 9 họ giỏi... Ngày 16 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 273 phối hợp với một tiểu đoàn của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 diệt gọn cánh quân của địch chạy từ hướng Bình Long về, bắt 60 tên, thu 67 súng các loại, ở hướng khác phát hiện địch là chiến đoàn 315 có thiết giáp ở Bầu Xa Mách đang bị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 vây diệt, Trung đoàn 273 được dịp đánh địch tháo chạy, có nơi địch chạy cả vào cả chỗ trú quân của ta. Khi gặp lại các đồng chí Sư đoàn 9 mới biết sự phối hợp của Trung đoàn 273 đã diệt gần hết chiến đoàn này. Ngày 20 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 273 nhận nhiệm vụ tiến công Chơn Thành trên hướng thứ yếu cùng với Công trường 9. Giải phóng Chơn Thành, Trung đoàn 273 được lệnh theo đường 14 về trong đội hình Sư đoàn 341 tiến công Xuân Lộc - Long Khánh. Thế là chúng tôi phải chia tay với Công trường 9, nhưng bù lại về tiến công Xuân Lộc, chúng tôi có dịp sát cánh với Công trường 7 (Sư đoàn 7) do đồng chí Lê Nam Phong chỉ huy. Nghe nói ông Nam Phong cũng là một cán bộ đại đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sư đoàn 7 do ông chỉ huy được thành lập năm 1966, đã tham gia nhiều trận đánh nổi tiếng. Hồi còn ở miền Bắc, chúng tôi được nghe nói đến Sư đoàn 7 chốt chặn Tàu Ô - Xóm Ruộng 150 ngày đêm kiên cường trong chiến dịch Nguyễn Huệ.


Sau gần 12 ngày đêm chiến đấu, Trung đoàn chúng tôi đã cùng với các đơn vị bạn giải phóng Xuân Lộc - Long Khánh. Tiếp sau Xuân Lộc, Trung đoàn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến công giải phóng Trảng Bom, Biên Hòa, Sài Gòn - Gia Định. Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, đơn vị bước vào làm nhiệm vụ quân quản thì tôi được điều động về Quân đoàn bộ. Rời khỏi Sư đoàn trong lòng tôi vẫn canh cánh về những đồng chí mất tích, về Quân đoàn bộ một thời gian, tôi được Quân đoàn điều về Trường Quân chính làm nhiệm vụ đào tạo cán bộ. Một thời gian sau tôi lại được Quân đoàn điều về Trường Hạ sĩ quan làm nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng. Đang làm hiệu trưởng Trường Hạ sĩ quan, tôi lại được Quân đoàn điều về Sư đoàn 7, lúc này Sư đoàn 7 đang vượt phà Niếc Lương để tiến công vào Phnôm Pênh. Cứ như vậy, liên tục những nhiệm vụ tiếp theo, tôi không còn thời gian nào nghĩ tới hai vụ mất tích. Mãi đến năm 1983, tôi mới có dịp gặp lại các anh ở Sư đoàn 341. Anh Nguyễn Sĩ Quê cho biết: “Cậu không được dự tổng kết của Sư đoàn nên không biết, các đồng chí mất tích hồi đó đã về đủ. Đồng chí bắn B41 là Trần Quyết Chiến, quê ở Thái Bình, được khen thưởng về thành tích bắn bốn quả B41 diệt nhiều địch, góp công hoàn thành nhiệm vụ cùng với Sư đoàn 9 ở Dầu Tiếng. Chuyện mất tích vì bị cháy quần do bắn B41, được một cô gái 14 tuổi và gia đình cô ta cứu sống, nuôi dưỡng sau một tháng và đưa về Sài Gòn trả đơn vị”...


Bây giờ những con người ấy đã ở vào tuổi trung niên, tuy đã rời quân ngũ, nhưng những kỷ niệm vẫn còn mãi trong ký ức. Trung đoàn tôi bây giờ có một số anh em ở lại miền Nam lập nghiệp. Số ở Thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4 lại gặp mặt nhau, đi viếng nghĩa trang liệt sĩ. Số ở Đồng Nai thì họp mặt ngày 1 tháng 5, sau Thành phố Hồ Chí Minh một ngày để còn mời hẹn nhau. Năm 2000, tôi và anh Trịnh Hồng Phát đi xe máy về nhà đồng chí Bình bán thuốc bắc ở Tam Hiệp, Biên Hòa để họp mặt. Với tác phong người lính, tôi hỏi ngay: Ở đây có bao nhiêu hộ? Các em trả lời có 37 hộ, rải khắp Long Khánh, Trảng Bom, Biên Hòa. Hỏi có hộ nào đói? Tất cả đều không còn đói nghèo. Hỏi có hộ nào hiếm muộn? Trả lời không! Người nào cũng có hai đến ba con, có cháu vào đại học, chỉ còn một người nay đã 52 tuổi, chưa lấy được vợ. Lòng tôi như chùng xuổng, bởi nhớ đến đồng chí Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân - người đã chữa thành công cho Chính ủy Sư đoàn Trần Nguyên Độ bệnh hiểm con bằng thuốc đông y, nay cả hai đều đi xa rồi.


Sực nhớ đến người mất tích trước đây, tôi hỏi người nào trong trận đánh ở Dầu Tiếng bị cháy quần chạy vào nhà dân? Một người ở dưới bếp lau tay chạy lên: Thưa thủ trưởng em ạ! Tôi hỏi tại sao lại thế? Đồng chí ấy kể lại: Báo cáo thủ trưởng em bắn ba quả B41 điếc tai, trời nóng, em hoa cả mắt, hướng Sư đoàn 9 có một hỏa điểm bắn cản, em thấy gần nơi em nên quay súng sang bắn viên đạn thứ tư, thân người em nằm dọc thân súng, lửa phụt lại em cháy cái mông và cả cái quần Tô Châu hãy còn mới. Em vội chạy vào nhà dân gần đó, thấy cô gái tuổi còn trẻ ngó ra rồi ném cho em cái quần đen. Em che tạm, khi vào nhà em bị sốt, đành ở lại đó, đơn vị đánh qua em không liên lạc được nữa. Tháng sau gia đình cô gái đưa em về đường Tô Hiến Thành gặp thủ trưởng Quế. Tôi mừng quá nhưng cũng gặng, hỏi lại: Thế từ đó đến giờ em ở đâu? Có đi lại tử tế với người ta không? Trả lời: Dạ, báo cáo thủ trưởng, em được giải quyết chính sách về quê 5 năm trời không tìm được việc làm, em buồn, em nhớ đơn vị quá. Khi em vào tìm đơn vị thì đớn vị đang ở Cam-pu-chia. Em tìm đến gia đình đã cứu em thi cô bé ấy đã 19 tuổi, còn em đã 25. Chúng em tìm hiểu rồi cưới nhau và có hai cháu trai, bây giờ một cháu vào đại học, một cháu lớp 10 ạ!


Từ đây trong ký ức tôi đã xóa đi hai từ “mất tích”, chỉ còn lại những tình cảm yêu thương, kính trọng đồng bào, đồng chí khắp hai miền Nam - Bắc. Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Quân đoàn 4 (20.7.1974 - 20.7.2004), kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (30.4.1975 - 30.4.2005) tôi xin kể lại một trong muôn vàn kỷ niệm khi còn là cán bộ, sống chiến đấu trong Quân đoàn 4 anh hùng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:17:28 pm
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA 30 NĂM CHỜ ĐỢI


Thiếu tướng PHÙNG ĐÌNH ẤM (BA CUNG)
Phó trưởng Phòng Dân vận Tiền phương -
Cục chính trị Miền trong Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975


1. Niềm vui tột đỉnh

Tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá tình hình và hạ quyết tâm chiến lược, khẳng định là ta đang đứng trước thời cơ lớn để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà và đề ra kế hoạch chiến lược cơ bản để giành thắng lợi hoàn toàn trong hai năm. Cụ thể: năm 1975, tranh thủ bất ngờ ta tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện đầy đủ để sang năm 1976 thực hành tổng tiến công và tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam (Theo "khu 6 chống Mỹ, cứu nước", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, trang 365).


Căn cứ vào quyết tâm và kế hoạch chiến lược của Bộ Chính trị, được sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu và xây dựng kế hoạch tác chiến năm 1975 ở miền Nam, gồm ba đợt:

Đợt 1: Đẩy mạnh hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và Khu 6.

Đợt 2: Là đợt chủ yếu của toàn Miền, lấy Tây Nguyên làm chiến trường chính.

Đợt 3: Tiếp tục phát triển thắng lợi1 (Theo Khu 6 chống Mỹ, cứu nước, Sđd...).


Đến tháng 12 năm 1974, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền triển khai kế hoạch của Bộ Chính trị, hạ quyết tâm đẩy mạnh đánh phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu mở rộng vùng sông Hậu, đồng thời mở chiến dịch của quân chủ lực phối hợp với địa phương ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và ở miền núi Khu 6. Quyết tâm trên được nhất trí cao trong Hội nghị cán bộ toàn Miền của Trung ương Cục được tổ chức tại căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Từ những chủ trương lớn được thống nhất tại hội nghị này, các kế hoạch hoạt động tiếp tục được đẩy mạnh, làm dấy lên tình hình sôi động khắp chiến trường B2.


Ở Khu 6, chiến dịch Tánh Linh - Hoài Đức được mở ra, dưới sự phối hợp giữa lực lượng chủ lực Khu 6 và Khu 7, do đồng chí Nguyễn Minh Châu - Tham mưu trưởng Miền trực tiếp đốc chiến. Từ 10 tháng 12 năm 1975 đến ngày 5 tháng 1 năm 1975 ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.300 tên địch, gỡ 48 đồn bốt, có một chi khu quân sự, giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh và bốn xã của huyện Hoài Đức với 44.387 dân1 (Theo Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, trang 565).


Cuối tháng 12 năm 1974, ta mở chiến dịch đường 14 - Phước Long liên tục giành thắng lợi. Ngày 14 tháng 12 năm 1974, ta giải phóng Bù Đăng. Ngày 26 tháng 12 nàm 1974, ta giải phóng Đồng Xoài. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, ta đánh chiếm, làm chủ chi khu quân sự Phước Bình. 19 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1975 ta tiêu diệt tiểu khu quân sự Phước Long, lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng bay phấp phối trên nóc dinh tỉnh trưởng. Quân ta giải phóng và hoàn toàn làm chủ tỉnh Phước Long.


Tin Phước Long thất thủ làm cho cả Mỹ lẫn ngụy bàng hoàng, cánh cửa ngăn chặn quân ta ở phía bắc Sài Gòn của Mỹ - ngụy bị đập tan. Một tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng đã động viên sĩ khí của quân dân ta cao độ. Chiến thắng Phước Long là một đòn trinh sát chiến lược, mở ra cho ta một thế mới, lực mới trên con đường tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Sau chiến thắng Phước Long, vùng giải phóng của ta được mở rộng, nhân dân thoát khỏi ách kìm kẹp của địch ngày càng nhiều và gặp những khó khăn ban đầu. Công tác dân vận của các lực lượng vũ trang, nhất là bộ đội địa phương càng thêm nặng nề, từ việc góp phần tuyên truyền giáo dục nhân dân, sắp xếp chỗ ăn ở, phòng chống máy bay oanh tạc, đến vận động kêu gọi chồng, con em là binh sĩ rời bỏ hàng ngũ địch, trở về với cách mạng v.v... Những ngày này, Phòng Dân vận chúng tôi thật bận rộn. Theo sự chỉ đạo của Cục Chính trị Miền, Phòng phân công cán bộ xuống các địa phương vừa được giải phóng để góp ý kiến và cùng tham gia công tác vận động quần chúng ở những nơi khó khăn, cần thiết. Với cương vị Phó trưởng phòng, tôi và đồng chí Hoặc công vụ kiêm lái xe Honda, trực tiếp xuống vùng Thanh An (Bến Cát), Trảng Sa (Tây Ninh),  đến Trung đoàn 16 đơn vị chủ lực của 14, để thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Cục.


Tình hình miền Nam chuyển biến rất nhanh. Sau giải phóng Phước Long, ngày 8 tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược “tiến hành rất khẩn trương, hoàn thành chuẩn bị về mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi giải phóng hoàn toàn miền Nam”.


Thực hiện ý đồ chiến lược nói trên, quân dân ta nỗ lực tiến vào bước hai, mở ra chiến dịch Tây Nguyên là đòn đầu tiên trong kế hoạch cơ bản của cuộc tiến công chiến lược. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột, tiếp tục vây hãm Plây Ku - Kon Tum, ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn hốt hoảng, hoang mang dao động đến cực độ. Thiệu vội vã ra lệnh rút khỏi Tây Nguyên. Cuộc tháo chạy tán loạn, hỗn quân hỗn quan, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy quyền Sài Gòn.


Khác với ý định ban đầu, tình hình diễn biến mau lẹ như các lãnh tụ ta thường nói “một ngày bằng hai mươi năm”. Sau Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung lần lượt được giải phóng. Nắm bắt thời cơ mới, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1976) ngay trong năm 19751 (Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân Đại thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 226). Một cuộc hành quân “thần tốc” của các binh đoàn thiện chiến, quân ta ào ạt tiến về hướng Sài Gòn như vũ bão.


Các đơn vị chủ lực của Miền (B2) cũng lần lượt triển khai áp sát Tây Ninh, đánh chiếm quốc lộ 20 tiến về Xuân Lộc. Các lực lượng vũ trang địa phương toàn B2 với tinh thần nỗ lực vươn lên: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, làm chủ từng vùng, đã liên tục tiến công địch đều khắp. Tình hình trên thôi thúc toàn quân, toàn dân. Công tác đảng, công tác chính trị trên chiến trường B2 đặt lên vai Cục Chính trị Miền hết sức nặng nề. Việc hiệp đồng tác chiến giữa các phòng chuyên môn trong Cục chặt chẽ và sôi nổi hơn bất cứ lúc nào. Tất cả đều nhằm mục tiêu thiêng liêng nhất: “Giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian nhanh nhất”, nhất là sau khi đồng chí Lê Đức Thọ - đại diện Bộ Chính trị bên cạnh Trung ương Cục miền Nam đến thăm Cục Chính trị Miền. Linh tính mách bảo chúng tôi rằng thời cơ hoàn toàn giải phóng miền Nam đã đến rất gần. Riêng Phòng Dân vận chúng tôi lúc bấy giờ hầu như bỏ trống. Đồng chí Thìn - Phó trưởng phòng được phân công ở hậu cứ cùng một số nhân viên nắm tình hình chung, còn tất cả đều bung ra hoạt động. Đồng chí Trưởng phòng Trần Chính, được Bộ Chỉ huy Miền điều ra đơn vị tác chiến, giữ chức Phó chủ nhiệm chính trị Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn). Tôi phụ trách Phòng Dân vận tiền phương, phục vụ chiến dịch giải phóng Sài Gòn (sau này được đặt tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh), cùng các đồng chí trợ lý: Lê Quốc Hùng, Lê Châu Ba, Lê Văn Thuân, Nguyễn Hoàng Giao, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Lập, v.v...


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:19:16 pm
Để phục vụ chiến dịch, theo chỉ đạo của Thủ trưởng Cục, tôi tổ chức cuộc hội nghị, phổ biến chỉ thị và công tác dân vận cho các đồng chí trưởng, phó phòng trong Cục để có sự hiệp đồng chặt chẽ trong thời gian chiến dịch. Xong, thủ trưởng Cục phân công tôi xuống Đồng Xoài trực tiếp báo cáo tình hình nhân dân B2 nói chung và nhân dân nội đô Sài Gòn nói riêng, phương hướng công tác dân vận tiếp quản vùng mới giải phóng cho các đơn vị của Bộ mới đến chiến trường B2. Trên đường đi đến Đồng Xoài, chiếc Jeép của tôi và Hoặc như ngập chìm trong làn sóng bụi đường. Dọc quốc lộ 14, từng đoàn xe tăng, thiết giáp, pháo xe kéo, xe vận tải chuyển quân, vũ khí, đạn dược, khí tài nối đuôi nhau chạy về hướng Nam, xe nào cũng kẻ khẩu hiệu bằng sơn trắng: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa”. Câu khẩu hiệu đó theo tôi biết là trích trong điện “mệnh lệnh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; theo tinh thần của bức điện là khẩu hiệu này được quán triệt xuống cho từng người chiến sĩ tham gia chiến dịch.


Lúc này, nhìn đoàn xe trùng trùng tiến về Nam, lòng tôi bồi hồi nhớ lại cách đây 16 năm, từ Hà Nội, Đoàn B90 chúng tôi, lúc đó tôi là Phó trưởng đoàn, nhận lệnh của Bộ Quốc phòng và Ban Thống nhất Trung ương giao cho, trở về miền Nam phối hợp với Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc mở con đường hành lang đoạn cuối dãy Trường Sơn, nối liền hai chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, góp phần xây dựng tuyến chi viện chiến lược Bắc-Nam - đường Hồ Chí Minh - con đường huyền thoại trong kháng chiến chống Mỹ. Hồi đó, ở đây là một vùng trắng, địch kềm kẹp nặng nề, chúng tôi mò mẫm xây dựng từng cơ sở chính trị trong nhân dân, lặng lẽ vạch lá, soi đường, từng bước nhích dần về Nam. Đến giờ, không còn cái cảnh “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” như xưa, mà quân ta đã trùng trùng điệp điệp hiên ngang như trẩy hội trên đường quốc lộ, lòng tôi lâng lâng cái khoan khoái của người chiến thắng. Cuộc ra quân lớn chưa từng thấy ở chiến trường B2.


Đến Đồng Xoài, nơi bộ đội tạm dừng để làm công tác tổ chức. Quân ta nằm chật dưới gốc cao su của các đồn điền, người thì tranh thủ ngủ sau một chặng hành quân đường dài, người đang lau chùi súng đạn, im lặng và nghiêm trang. Tôi đi giữa rừng người và tìm được đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 vừa mới hành quân đến. Chính ủy Hoàng Minh Thi đón tiếp tôi rất niềm nở và hoan nghênh sự có mặt của tôi đúng lúc. Chính ủy chỉ thị cho Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn Thái Bá Nhiệm làm việc với tôi. Đồng chí Chủ nhiệm triệu tập một số cán bộ nghe tôi báo cáo tình hình và phương hướng nhiệm vụ. Chúng tôi làm việc trong không khí hào hứng, phấn khởi, tin tưởng rằng việc đánh chiếm Sài Gòn chỉ còn là vấn đề thời gian.


Ngày 7 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn (về sau là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử) và đặt đại diện Bộ Chính trị bên cạnh Bộ Chỉ huy chiến dịch có các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh. Đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục miền Nam làm Chính ủy. Các đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà - Tư lệnh B2, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Đức Anh làm Phó tư lệnh. Đồng chí Lê Quang Hòa làm Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị. Căn cứ đầu tiên của Bộ Chỉ huy chiến dịch đóng ở sóc Tà Thiết, sau chuyển ra phía trước, đóng ở Căm Xe (Bến Cát). Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Bộ Chỉ huy Miền (B2) để làm việc, phục vụ cho chiến dịch, có tăng cường cán bộ của Bộ, Đoàn A75 vừa ở Tây Nguyên đến và Bộ Tổng tham mưu phái vào.


Hoàn thành nhiệm vụ ở Đồng Xoài, trở về hậu cứ thì Tiền phương Cục Chính trị đã triển khai ra phía trước, tôi và đồng chí Hoặc - chiến sĩ bảo vệ và công vụ cấp tốc hành quân theo bằng xe mô tô. Đến Căm Xe, tôi choáng ngợp trước quy mô của sở chỉ huy chiến dịch. Những đường dây điện thoại chằng chịt như lưới nhện, những khẩu cao xạ sẵn sàng nhả đạn bảo vệ sở chỉ huy. Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi đã sống, chiến đấu và công tác ở một số chỉ huy sở tiền phương của Quân khu, của Miền nhưng chưa từng thấy quy mô của sở chỉ huy nào lớn như lần này, chứng tỏ toàn quân ta đã dốc sức tập trung cho một trận quyết chiến chiến lược để đi đến kết thúc chiến tranh. Theo chỉ dẫn của lực lượng thông tin liên lạc, tôi đến sở chỉ huy của tiền phương Cục Chính trị, gặp đồng chí Nguyễn Văn Tòng - Phó chủ nhiệm Cục Chính trị Miền phụ trách tiền phương. Đồng chí cho tôi biết: chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã được Bộ Chính trị đồng ý đặt tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và ngày 26 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân hùng mạnh của ta đang trên đường tiến công vào Sài Gòn, sẵn sàng cho trận “quyết chiến chiến lược" giải phóng miền Nam, lòng tôi vui như mở hội. Tôi đề nghị anh cho biết tình hình của hai cánh quân chủ lực của B2. Anh nói: theo nghe giao ban cập nhật, tình hình mỗi ngày đều có sự phát triên thuận lợi. Ở hướng mặt trận Xuân Lộc, địch chống cự quyết liệt. Chúng quyết tâm xây dựng “cánh cửa thép” để ngăn chặn quân ta tiến về Sài Gòn. Trước tình thế khó khăn, Bộ Chỉ huy chiến dịch cử đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh B2, Phó tư lệnh chiến dịch xuống tận nơi cùng với Quân đoàn 4 và Quân khu 7 rút kinh nghiệm và thay đổi cách đánh. Lực lượng được tăng cường và bổ sung pháo lớn, thực hiện quyết tâm mới, quân ta đã tiến công tiêu diệt chiến đoàn 52 ngụy và một chi đoàn thiết giáp, đánh chiếm Dầu Giây, Núi Thị, Túc Trưng, đánh và tiêu diệt làm thiệt hại nặng các đơn vị phản kích của địch. Mất Dầu Giây, quốc lộ 1 bị cắt đứt, lực lượng bị tổn thất nghiêm trọng, trong thế bị bao vây uy hiếp, đêm 20 tháng 4 địch phải rút chạy khỏi Xuân Lộc, quân ta đang tiến về Biên Hòa. Ở hướng tây, Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn) do đồng chí Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà)1 (Khi triển khai Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Minh Châu được Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền phân công về Sở Chỉ huy cơ bản của Miền phục vụ chiến dịch. Đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng - Chính ủy cánh quân hướng Tây - Tây Nam do Đoàn 232 làm nòng cốt) và Lê Văn Tưởng (Hai Chân) trực tiếp chỉ huy chuẩn bị đánh chiếm Mộc Hóa và đưa lực lượng xuống cắt đứt đường số 4, kết hợp với chủ lực của Quân khu 8 diệt sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ngụy...


Tình hình phát triển rất thuận lợi, 17 giờ 40 phút ngày 28 tháng 4 năm 1975, một phi đội A37 của ta vừa lấy được của địch ở sân bay Thành Sơn (Phan Rang) do Nguyễn Thành Trung dẫn đường đã ném bom xuống Tân Sơn Nhất. Tối 28 tháng 4 năm 1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh ra lệnh cho các cánh quân tổng công kích, đánh chiếm Sài Gòn, hang ổ cuối cùng của Mỹ - ngụy.


Đồng chí Sáu Tòng cho tôi biết tình hình nội đô Sài Gòn, tinh thần ngụy quân, ngụy quyền dao động cực độ, nhất là sau khi mặt trận Xuân Lộc vỡ, bọn bại binh chạy về gieo thêm nỗi kinh hoàng, ở đó đang diễn ra cuộc di tản của bọn tướng lĩnh, ngụy quyền đầu sỏ và nhân viên đại sứ quán Mỹ, gây ra cảnh rối loạn trong thành phố. Đồng chí chỉ thị tôi điện nhắc các cánh quân đặc biệt chú ý công tác dân vận của bộ đội khi vào vùng mới giải phóng (đã có kế hoạch hướng dẫn trước khi bước vào chiến dịch) và chỉ thị cho tôi đến Thanh An, ở đó đang có nhiều đồng bào nội thành tản cư “ngược” ra vùng giải phóng để tránh bom đạn, khi họ biết rằng chiến tranh đã áp sát nội đô, để nắm chắc tình hình và biết rõ hơn về tâm lý cũng như mặc cảm của họ, những con người nhiều năm bị kềm kẹp trong vùng địch kiểm soát. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, chiếc Honda 90 do đồng chí Hoặc lái chở tôi đến Thanh An. Chúng tôi ghé lại nhà bác Tám - một cơ sở lâu nay tôi thường ở, nghỉ mỗi khi về đây công tác, có lúc cùng tránh máy bay oanh tạc chung hầm với bác. Bác Tám thường theo dõi tin tức ở cả đài phát thanh của ta và của địch, nên biết nhiều tình hình. Tôi thường gọi bác là “ông già thời sự”. Xe chúng tôi vừa vào đến sân, từ trong nhà bác Tám đang dán tai vào chiếc đài bán dẫn, thấy tôi bác kêu to:

- Thằng Ba, mau vào nghe Dương Văn Minh đang tuyên bố sẵn sàng thương lượng với Mặt trận giải phóng đây nè!

Tôi nói với bác:

- Năm cánh quân của ta đang tấn công vào Sài Gòn. Chúng sắp mất hết rồi, còn gì nữa mà thương lượng!

Vừa nói, tôi vừa chạy vào nhà. Bác Tám vẫn khư khư chiếc đài trên tay. Từ đó phát ra lời của Dương Văn Minh - tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn, tay sai Mỹ trịnh trọng tuyên bố đầu hàng cách mạng vô điều kiện, kêu gọi các chiến hữu ở những nơi còn lại nhanh chóng hạ vũ khí, nộp cho quân giải phóng...

- Thắng rồi! Chúng ta thắng rồi, bà con ơi!

Bác Tám ôm chiếc đài ra đứng giữa sân, la to. Rồi ùn ùn như sóng dậy, từ các nhà bên cạnh loan ra cả xóm. Ở đâu cũng nghe tiếng reo hò “Ta thắng rồi!”, “Bọn ngụy đầu hàng rồi!” và không ai bảo ai, đồng bào đổ ra đường ngày một đông, vui mừng chiến thắng. Họ tranh nhau nói, tranh nhau cười và có người sụt sùi khóc, vì quá xúc động trước chiến thắng được mong đợi suốt từ 30 năm nay đã đến. Một niềm vui tột đỉnh trong trái tim mỗi người!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:20:00 pm
2. Đường về Sài Gòn

Chia sẻ chớp nhoáng niềm vui với đồng bào Thanh An, chúng tôi bon về Sở chỉ huy chiến dịch. Quang cảnh Sở Chỉ huy chiều hôm ấy vui như ngày hội. Gió rừng nghe như hát. Các chiến sĩ thông tin tất bật thu hồi dây điện thoại, thỉnh thoảng "bắn trộm" vài phát súng chỉ thiên, để chào mừng chiến thắng. Toàn sở chỉ huy được lệnh Bộ Chỉ huy nhanh chóng về Sài Gòn phối hợp với các đơn vị đã đánh chiếm tiếp quản thành phố. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt - Bí thư và Phó bí thư Trung ương Cục đã đưa cơ quan tiển phương Trung ương Cục vào Sài Gòn từ chiều 30 tháng 4. Ôi! Cái ngày đặt chân lên mảnh đất Sài Gòn thân yêu “đi trước về sau” của Tổ quốc đối với chúng tôi không còn là những ước mơ, mà đã trở thành sự thật. Tiếc rằng, là một cán bộ phục vụ ở cơ quan chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, tôi không được cùng các chiến sĩ của đoàn quân “thần tốc, táo bạo” có mặt giữa Sài Gòn, đúng vào cái giờ phút thiêng liêng của chiến thắng lịch sử. Trận quyết chiến chiến lược của Chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đem lại cho chúng tôi niềm vui tột đỉnh. Đêm 30 tháng 4, năm 1975, nhằm vào đêm 20 tháng 3 năm Ất Mão, đối với chúng tôi là một đêm không ngủ, thức trắng cùng ngọn đèn dầu tự tạo leo lét với gió rừng rầm rì thổi, bao nhiêu ký ức của 30 năm chiến tranh đẫm máu và nước mắt cùng với những kỷ niệm buồn, vui trong cuộc sống và chiến đấu giữa lòng dân, khắp chiến trường hiện ra, rồi hình ảnh đồng bào Thanh An cùng với đồng bào Sài Gòn tản cư reo mừng chiến thắng, bất giác mắt tôi nhòa lệ vì niềm vui quá lớn. Cuộc Trường Chinh 30 năm đã đến đích. Chúng tôi mong sao mau đến giờ hành quân.


Và, 5 giờ sáng ngày 1 tháng 5 nàm 1975, với đoàn xe hàng trăm chiếc chở chúng tôi rời Căm Xe, tạm biệt núi rừng đã che chở chúng tôi suốt 30 năm kháng chiến. Qua Dầu Tiếng đến Trảng Bàng, dọc theo quốc lộ 22 tiến về Củ Chi. Đến đâu chúng tôi cũng được đồng bào vẫy chào như đón người thân. Những rừng cờ nền nửa đỏ nửa xanh, sao vàng rực rõ ở những khu đông dân cư, những tiếng hô “Hoan hô quân giải phóng” vang trời dậy đất. Đặc biệt có những chiếc xe đò cùng chiều, chở đầy hành khách, cả ở trên mui xe, nhiều người không mặc áo. Thấy chúng tôi họ vỗ tay hoan hô Quân giải phóng ríu rít. Theo nhân dân cho biết, đó là những toán binh sĩ ngụy quân Sài Gòn đã trút bỏ quần áo lính, tháp tùng xe đò tìm về quê hương, thoát khỏi cuộc chiến tranh phi nghĩa, họ mừng vui ra mặt.


Đến Củ Chi, đoàn xe dừng mấy phút, đồng bào ùa ra bắt tay Quân giải phóng. Họ chỉ lá cờ “nửa đỏ nửa xanh" bay phấp phới trên nóc nhà chi khu và bảo đó là lá cờ do một cán bộ phụ nữ biệt động cắm trước giờ phút Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh và tạm dừng ở Hóc Môn nghỉ trưa. Tôi nghỉ trong nhà một đồng bào không quen biết, nhưng chủ nhà rất mến khách, đã bưng cơm, thức ăn, nước uống ra mời chúng tôi như với người thân đi xa mới về. Một chú bé mân mê chiếc mũ Quân giải phóng và khen:

- Bộ đội giải phóng hiền quá, tốt quá! Đêm qua bộ đội chiếu phim cho đồng bào coi. Phim hay dễ sợ...

Tôi hỏi chú bé phim hay sao lại dễ sợ? Chú bé bẽn lẽn đáp: là phim hay quá xá đó mà!

Đoàn xe tiếp tục đưa chúng tôi vào nội đô Sài Gòn, đến ngã tư Bảy Hiền xe tạm dừng. Mấy chiếc xe xích lô cắm cờ nền nửa đỏ, nửa xanh, sao vàng, người phu xích lô cánh tay đeo băng đỏ, chở đầy một xe cơm vắt, thịt kho và nước, chạy đến dừng xe và tự giới thiệu mình là đại diện ủy ban quân quản, mời chúng tôi với thái độ ân cần niềm nở. Tiếp nhận cơm, thức ăn và nước uống của đồng bào thành phố vừa mới giải phóng, lòng chúng tôi vô cùng xúc động. Ngay trong đêm, bộ phận tiền phương Phòng Dân vận của chúng tôi được cấp trên phân công về tiếp quản cục xã hội của ngụy quân đóng tại Đồn Đất. Ở đó có bộ phận trung đoàn của ta đã đánh chiếm từ trưa 30 tháng 4. Thế là chúng tôi đã ung dung đứng giữa Sài Gòn. Theo chỉ thị Cục Chính trị, chúng tôi tranh thủ nắm chắc tình hình, chuẩn bị cho một cuộc hội nghị công tác dân vận trong tình hình mới, nhiệm vụ mới của chiến trường B2.


Tình hình thành phố những ngày mới giải phóng nảy sinh nhiều vấn đề khá phức tạp. Công tác dân vận thật bận rộn. Một mặt làm công tác đăng ký binh sĩ, sĩ quan, ngụy quyền rã ngũ. Tiếp quản cơ sở vật chất của ngụy quân v.v... Một mặt vận động quần chúng giữ gìn trật tự trị an, vận động thanh niên, sinh viên, học sinh đứng ở các tuyến phố làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự giao thông. Một vấn đề đặt ra lúc bấy giờ là trên đường tháo chạy về Sài Gòn từ Tây Nguyên và các tỉnh ven biển miền Trung, sĩ quan và binh sĩ ngụy mang theo vợ con và hù dọa cưỡng ép đồng bào đi theo hiện nằm la liệt trên các vỉa hè, đường phố, đặc biệt là trên đường Hồng Thập Tự, dày đặc lều chõng của những người chạy loạn. Trước tình hình đó, một ủy ban vận động hồi hương được thành lập, bên cạnh ủy ban Quân quản thành phố. Tôi được Cục Chính trị phân công và giới thiệu làm ủy viên thường trực của ủy ban vận động hồi hương.


Mải cuốn hút theo công việc, một tuần sau tôi mới được tranh thủ về Củ Chi, thăm bà con, họ hàng gia đình bên vợ và gặp lại hai đứa con thân yêu. Vợ tôi là dược tá còn ở hậu cứ tận Lộc Ninh chưa về kịp. Thấy tôi, hai con trai: đứa lớn 7 tuổi, đứa nhỏ 5 tuổi ríu rít gọi “Ba... Ba” và òa khóc. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Vì chiến tranh, các con tôi phải sống xa cha mẹ. Vợ chồng tôi gặp nhau, yêu nhau và tiến đến hôn nhân vào mùa xuân 1966 ở chiến khu, căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Đức, dưới chân núi Nam Nung (Nam Tây Nguyên). Năm 1972, tôi được điều về công tác Cục Chính trị Miền, vợ tôi chuyển nghề theo về làm nhân viên ở Phòng Dân vận, vừa công tác vừa nuôi con. Cha mẹ vợ tôi - ông bà Trần Văn Lao, thương con gái một nách hai con lại phải lo công tác nên bắt cô con gái lớn phải tìm cho được em, để đưa cháu về nuôi. Và chị phải làm theo ý của mẹ. Từ vùng địch, chị lặn lội một mình thân gái dặm trường, vào tận Lộc Ninh. Chị em gặp nhau và chị đã bồng hai đứa cháu về Củ Chi nuôi, để mẹ chúng rảnh rang công tác. Có cháu, ông bà ngoại cũng khuây khỏa nỗi nhớ con và bà thương cháu hết chỗ nói. Tiếc thay, ngày đại thắng huy hoàng của Tổ quốc, mẹ không còn nữa. Bà đã vĩnh viễn đi xa, sau một cơn bạo bệnh. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.


Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Cục Chính trị Miền đã hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử vẻ vang, làm tròn sứ mệnh của cơ quan công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng vũ trang miền Nam (B2) trong đó có Phòng Dân vận đóng góp một phần quan trọng trong truyền thống oai hùng của Quân giải phóng và Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước oanh liệt.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:21:28 pm
CHIẾN TRƯỜNG ĐỒNG BẰNG VEN BlỂN KHU 5
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975


Theo lời kể của
Đại tá TRẦN NGỌC QUẾ
Nguyên Bí thư của Đại tướng Chu Huy Mân
thời kỳ chống Mỹ tại chiến trường Khu 5
   

Chiến dịch tiến công tại đồng bằng ven biển Khu 5 trên hướng Tam Kỳ, Quảng Ngãi của một bộ phận chủ lực quân khu và lực lượng vũ trang địa phương ở ba tỉnh Đà - Nam - Ngãi Xuân 1975 lúc đầu mới chỉ trong phạm vi địa phương nhằm giành thắng lợi quân sự cục bộ, với mục tiêu hạn chế, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho các chiến dịch tiến công chiến lược tiếp theo. Nhưng nhờ chiến dịch giành thắng lợi trong thời gian ngắn, đồng thời tranh thủ thời cơ thuận lợi từ chiến dịch tấn công địch ở hướng Tây Nguyên nên đã chuyển thành một hướng quan trọng của chiến dịch tiến công chiến lược Huê - Đà Nẵng - một trong ba đòn tiến công chiến lược Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Từ kế hoạch quân sự hai năm giải phóng miền Nam, rút xuống còn một năm và được thực hiện nhanh gọn trong 49 ngày đêm tấn công liên tục (riêng Khu 5, từ ngày nổ súng tấn công Buôn Ma Thuột (10-3) đến khi giải phóng Nha Trang, Cam Ranh (4-4) chỉ vẻn vẹn 25 ngày đêm) đã làm cả thế giới ngạc nhiên. Chúng tôi1 (Gồm một số cán bộ trong cơ quan Bộ Tham mưu chiến dịch, khi đó đồng chí Trần Ngọc Quế mang hàm thượng tá (NTH)) - những người trong cuộc, cũng không thể dự kiến hết sự phát triển vô cùng nhanh chóng của tình hình. Biết bao sự kiện được coi là ngẫu nhiên đều bị chi phối bởi những quy luật khắt khe của chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng, chiến tranh nhân dân và chiến tranh hiện đại. Nhưng thắng lợi giành được hoàn toàn không phải do ngẫu nhiên mà có, nguyên nhân chủ quan vẫn là nguyên nhân chính quyết định thành, bại của chiến dịch. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn vai trò, vị trí và ý nghĩa của cuộc tiến công và nổi dậy ở chiến trường đồng bằng ven biển Khu 5 trong toàn cục cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và trong chiến dịch tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng, chúng ta cần nhìn lại bối cảnh chung khi đó.


Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết giữa chính phủ và đại diện bốn bên2 (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và đại diện ngụy quyền Sài Gòn). Quân, dân miền Nam nói chung, quân dân Khu 5 nói riêng nghiêm túc chấp hành lệnh ngừng bắn từ khi có hiệu lực theo quy định của Hiệp định Pa-ri từ 7 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” theo công thức “ngụy quân + viện trợ kinh tế, quân sự và cố vấn Mỹ”. Tên Việt gian đầu sỏ Nguyễn Văn Thiệu theo lệnh quan thầy Mỹ, sáng 28 tháng 1 năm 1973 đã tuyên bố không tôn trọng ngừng bắn và ra lệnh cho quân ngụy thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ" trên toàn miền Nam nhằm chiếm vùng giải phóng của ta. Trên chiến trường, chiến tranh vẫn tiếp diễn, “lấn chiếm” và chống “lấn chiếm” giữa địch với ta vẫn đang diễn ra trên diện rộng ngày càng quyết liệt. Vì chưa nhận rõ âm mưu địch, một số địa phương, đơn vị hy vọng vào thiện chí của kẻ địch, mất cảnh giác, buông lỏng tay súng, để địch lấn đất giành dân, gây ra không ít khó khăn, lúng túng.


Tháng 7 năm 1973, sau khi Thường vụ Đảng ủy Khu 5 đưa ra chủ trương: “địch lấn chiếm vùng ta, ta kiên quyết vừa phản công, vừa tấn công lại”, nhiều địa phương, đơn vị đã giữ được đất, giành lại được dân, củng cố vùng giải phóng nhưng vẫn ở thế giằng co với địch.


Tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 ra Nghị quyết chỉ rõ: Địch không thi hành hiệp định, tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh thực chất là chiến tranh thực dân kiểu mới hòng chiếm cả miền Nam. Ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam...”.


Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Khu 5 đã thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo toàn Quân khu “Vừa sử dụng lực lượng cần thiết để đánh bại lấn chiếm, giữ vững vùng giải phóng, vừa tập trung sức chuẩn bị điều kiện và thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn, thực hành nhiều chiến dịch tiến công chiến lược góp phần cùng toàn miền Nam đánh cho ngụy nhào, kết thúc chiến tranh”.


Phương hướng chiến lược đề ra trên là vô cùng đúng đắn nhưng vận dụng cụ thể vào thực tiễn lại vô cùng khó khăn. Bởi nếu không đủ sức làm tốt nhiệm vụ trước mắt sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chuẩn bị cho lâu dài. Hoặc chỉ vì nhiệm vụ trước mắt mà không chuẩn bị tạo thế, tạo lực chuẩn bị cho lâu dài thì khi thời cơ đến, chúng ta sẽ không có cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật cũng như lực lượng cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực ngụy. Thực tế trên chiến trường đồng bằng ven biến Khu 5 cho thấy, từ mùa thu 1972, trên hướng Cấm Dơi, Quế Sơn (tây Quảng Nam) tuy Quân khu đã tổ chức trận đánh hiệp đồng binh chủng, sử dụng vào tấn công một tiểu đoàn pháo nòng dài 130mm, một tiểu đoàn cao xạ 37mm đánh máy bay địch bảo vệ đội hình chiến đấu và một đại đội xe tăng, xe thiết giáp. Nhưng vì thiếu đường giao thông nên không thể cơ động lực lượng đi các hướng được. Rõ ràng là vào giai đoạn quyết định của chiến tranh giải phóng, muốn đánh hiệp đồng binh chủng lớn, có pháo mặt đất xe kéo, có pháo cao xạ, có xe tăng, thiết giáp thì việc mở đường cơ giới là một đòi hỏi cấp bách. Bởi vậy ngay từ đầu năm 1973 Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã chỉ đạo: trong khi tích cực đánh địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng phải đồng thời tích cực khéo léo tập trung sức lực để tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực cơ động của ngụy, đồng thời tập trung lực lượng nhanh chóng mở đường cơ giới.


Chỉ tính riêng năm 1973, cả đồng bằng và Tây Nguyên, ta đã sử dụng 33,5 vạn ngày công của bộ đội và nhân dân vùng giải phóng mở xong 4 trục đường dọc và 11 trục đường ngang với tổng chiểu dài là 977 ki-lô-mét (bằng 1/2 chiểu dài đường bộ xuyên Đông Dương - Hà Nội - Sài Gòn). Đường cơ giới đã nối liền tây bắc Kon Tum đến bắc Buôn Ma Thuột, tây Quảng Đà, tây Quảng Nam, tây Quảng Ngãi xuống đến bắc Bình Định, qua đường bắc Kon Tum - Cô Xia - tây Quảng Nam, nối liền hai chiến trường lớn Tây Nguyên và đồng bằng. Con đường cơ giới vu hồi từ bắc Kon Tum, vòng qua tây thị xã Kon Tum về Đắc Đoa, tiếp giáp với đường 19 cũng được hoàn thành trong thời gian này.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:22:11 pm
Có đường cơ giới là có vận chuyển lớn. Cũng trong năm 1973, Trung ương đã chuyển vũ khí và thuốc men cho Khu 5 bằng khối lượng chi viện cả bốn năm (1969-1972) cộng lại, số hàng đó được phân phối xuống tận sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, và đến bắc Bình Định. Hệ thống kho tàng, trạm sửa chữa ô tô, trạm quân khí, các bệnh viện, bệnh xá, trạm phẫu cũng dựa theo các trục đường cơ giới để triển khai trên toàn tuyến chiến dịch. Có mạng đường cơ giới thì lực lượng vận tải bằng gùi, thồ được giải phóng, một số lượng khá lớn tay súng chiến đấu kỳ cựu được bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Nếu như cuối năm 1972, một đại đội bộ binh chiến đấu chỉ có 10-15 tay súng thì đến giai đoạn này đã có 40-45 tay súng, tiểu đoàn bộ binh có 200-250 tay súng, sức chiến đấu tăng lên rõ rệt. Lực lượng binh chủng của Quân khu đến cuối năm 1973 đã có hai trung đoàn pháo binh cơ giới, một trung đoàn tăng, thiết giáp, một trung đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn thông tin, hai trung đoàn công binh được phân chia thành nhiều cụm và triển khai sẵn thế trận trên các hướng bắc, trung, nam.


Một hình ảnh mà chúng tôi khó quên khi trục đường dọc theo sát tây đường quốc lộ 1 xuống bắc Bình Định được mở, đồng chí Chu Huy Mân khi đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 với chiếc compa pháo binh trong tay đứng hàng giờ trước tấm bản đồ quân sự tỷ lệ 1/100.000, suy nghĩ về cách đánh tới trong điều kiện có thể tổ chức những trận đánh hiệp đồng binh chủng. Có lúc vui quá, đồng chí lớn tiếng gọi chúng tôi: “Này các cậu, lại đây xem pháo ta trùm Tam Kỳ, Chu Lai, Quảng Ngãi rồi. Phen này chúng chết với ta”.


Lúc này đường ống dẫn dầu và đường thông tin dây trần, hệ thống thông tin vô tuyến tiếp sức cũng được phát triển. Đầu năm 1975, đường ống dẫn dầu đã đến Bên Giàng (tây Quảng Đà); việc liên lạc bằng thông tin hữu tuyến và vô tuyên tiếp sức từ Khu 5 ra Hà Nội được trực tiếp, cụ thể và thuận lợi hơn.


Sư đoàn 2, Sư đoàn 3, Lữ đoàn 52 của Quân khu được củng cố; sư đoàn có trung đoàn pháo cơ giới và tiểu đoàn cao xạ, đứng sẵn ở các hướng trọng điểm vừa có bộ phận tham gia đánh địch lấn chiếm bảo vệ vùng giải phóng vừa tập trung xây dựng huấn luyện. Sức chiến đấu của các sư đoàn, lữ đoàn tăng gấp 2-3 lần so với trước đây. Hỏa lực của các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh có tiểu đoàn trợ chiến gồm ĐKZ75, cối 120mm và côi 82mm. Tuy phải bổ sung một phần cho chủ lực và bộ đội địa phương tỉnh, huyện, nhưng số lượng du kích toàn quân khu đến cuối năm 1974 tổ chức được 4 vạn 1 ngàn, có 120 trung đội du kích xã, 50 trung đội và 70 tổ du kích đặc công, 120 đội và tổ du kích công binh. Riêng du kích đồng bằng ven biển là 2 vạn rưỡi, phần lớn được trang bị vũ khí.


Đến cuối năm 1974 Quân khu 5 đã hoàn thành tốt chương trình huấn luyện chiến đấu với các chiẽn thuật chủ yếu: vây lấn tiêu diệt địch trong công sự vững chắc và đánh bao vây, tấn công liên tục, tiêu diệt địch ngoài công sự, tấn công hiệp đồng binh chủng lớn, nâng cao một bước trình độ tác chiến của sư đoàn, lữ, trung đoàn. Việc huấn luyện được gắn chặt với thực tiễn. Sau khi huấn luyện các đơn vị đưa bộ đội ra đánh địch lấn chiếm, thu hồi vùng giải phóng, cải thiện thế trận tiến công của ta. Mùa hè năm 1974, lực lượng vũ trang đồng bằng ven biển Khu 5 diệt và bức rút 300 cứ điểm, giải phóng Đức Phú tây Tam Kỳ. Thu 1974, ta tiêu diệt các cụm cứ điểm địch cắm sâu trong vùng giải phóng của ta như Thượng Đức (tây Quảng Đà), Nông Sơn, Trung Phước (tây Quảng Nam), giữ vững các bàn đạp để chuyển sang tấn công ở ba khu vực Châu Sơn, Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài An - An Lão (bắc Bình Định). Qua đợt hoạt động này, trình độ tác chiến đánh tiêu diệt lớn quân chủ lực ngụy của chủ lực ta có bước phát triển rõ: diệt gọn các cụm phòng thủ, chi khu quận lỵ địch và đánh bại từng trung đoàn ngụy đi giải tỏa, ứng cứu và quan trọng hơn, qua đó ta cũng thấy rõ sự hạn chế về khả năng ứng cứu, giải tỏa của địch.


Do chủ động kêt hợp chặt chẽ trước mắt và lâu dài, vừa đánh địch lấn chiếm, vừa tạo thế, tạo lực cho đánh lớn, diệt lớn quân chủ lực ngụy. Lúc này, quân dân Khu 5 đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược.


Đầu năm 1975, chủ lực của địch ở quân khu 1 có năm Sư đoàn và bốn lữ đoàn biệt động. Tướng Ngô Quang Trưởng - tư lệnh quân khu 1 và quân đoàn 1 ngụy đã hạ quyết tâm giành ba sư đoàn và ba lữ đoàn biệt động quân để đối phó với hoạt động của chủ lực Quân khu 5 trên hướng Đà - Nam - Ngãi. Trong lúc đó, tập trung hai phần ba chủ lực quân khu trên hướng trọng điểm này ta cũng chỉ có một sư đoàn, một lữ đoàn, một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, một trung đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn tăng, thiết giáp, một trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang địa phương của ba tỉnh trên. So sánh lực lượng tính theo đơn vị bộ binh thì địch hai ta một. Nếu tính binh khí kỹ thuật thì riêng tăng, thiết giáp, pháo của địch là ba đến năm còn ta chỉ có một.


Vấn đề đặt ra cho nghệ thuật chiến dịch ở đây là trong thực tế so sánh lực lượng như vậy, làm thế nào để có ưu thế chiến dịch, nhất là trong các trận đánh then chốt phải có ưu thế lực lượng hơn hẳn địch để đánh thắng địch nhanh gọn.


Nghiên cứu nhiều nguồn thông tin, từ nhiều hướng, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã đánh giá rất đúng tình hình: Khi bị đánh mạnh khắp nơi, khả năng tăng viện của quân ngụy từ nơi khác đến, kể cả lực lượng tổng dự bị là không có. Địch chỉ còn sử dụng được lực lượng hiện có của quân khu 1 và chỉ có thể tập trung vào khu chiến với bôn - năm trung đoàn bộ binh và một đến hai chi đoàn xe bọc thép. Nếu ở Huê bị quân ta đánh mạnh, chúng buộc phải điều sư đoàn dù ra chi viện, khi đó khả năng tập trung lực lượng cho khu chiến của địch còn ít hơn nữa. So sánh lực lượng địch, ta ở khu chiến cao nhất là 1/1. Những để tạo ra ưu thế hơn hắn địch ở hướng chủ yếu của chiến dịch (tây Tam Kỳ), Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ đạo toàn quân khu thực hiện hai biện pháp lớn:


Một là, từ N-7 cho mở các chiến dịch tiến công tổng hợp của chiẽn tranh nhân dân địa phương nhằm nghi binh, kìm chân địch, buộc chủ lực địch phải phân tán, đối phó với hoạt động của các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang ta ngay tại địa bàn đứng chân, tạo thuận lợi cho chủ lực ta tập trung trên hướng chủ yếu và bất ngờ tấn công địch.


Hai là, cũng từ N-7, dùng lực lượng vũ trang địa phương Quảng Ngãi cắt giao thông đoạn dốc sỏi nằm giữa Chu Lai - Quảng Ngãi, chặn đứng lực lượng sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra ứng cứu cho tây Tam Kỳ khi bị ta đánh, đồng thời khi có lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch thì mở ngỏ cho từng trung đoàn ngụy lọt vào khu chiến theo ý định của ta. Lực lượng vũ trang Quảng Nam có nhiệm vụ thọc sâu xuống vùng đông Thăng Bình, diệt địch giành quyền làm chủ, buộc địch phải để một bộ phận lực lượng chủ lực đối phó. Sau này khi có điều kiện nghiên cứu kỹ và bài bản hơn về một số trận đánh tiêu biểu của nhân dân ta, quân đội ta trong chiến tranh giải phóng vừa qua, chúng tôi càng nhận thấy rõ chiến dịch tiến công ở đồng bằng ven biển Khu 5 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là một trong nhiều trận đánh tiêu biểu cho cách đánh đặc trưng của dân tộc ta. Trước hàng loạt các sự kiện thực sự của cuộc chiến, vấn đề quan trọng nhất là tìm ra khâu yếu nhất trong hệ thống tổ chức bố trí thế trận của địch, từ đó dự kiên các phương án tác chiến cho bộ đội, tổ chức một lực lượng “khêu ngòi”, chủ động tổ chức lực lượng khác giăng thế trận, nhử địch tới để “diệt viện” đã được lực lượng vũ trang Quân khu vận dụng hết sức sáng tạo trong thực tiễn cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện vừa qua ở Khu 5.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:24:57 pm
Theo đúng kế hoạch vạch ra, ngày 3 tháng 3 năm 1975, đặc công, công binh trên đèo Hải Vân, các đơn vị luồn sâu của Quảng Đà đánh phá khu kho Sủng Mây, bãi xe Xuân Thiều, đánh sập cầu Trắng, cắt giao thông qua đèo.


Lúc này, một bộ phận của Sư đoàn 304 chủ lực vào phối hợp tác chiến, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 2 trung đoàn 56 sư đoàn 3 ngụy và một bộ phận sư đoàn dù ngụy ở vùng B Đại Lộc, kìm chặt sư đoàn dù ngụy ở tây Quảng Đà, một bộ phận Lữ đoàn 52 của Quân khu đánh và kìm sư đoàn 2 ngụy ở tây Nghĩa Hành. Các tiểu đoàn đặc công 403, 406 đánh phá căn cứ Gò Hội và đốt cháy kho xăng tại sân bay Quảng Ngãi.


Các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam đánh mạnh địch ở Trung Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc, vùng A, B Điện Bàn, đông Thăng Bình và đông bắc Tam Kỳ buộc địch phải điều một số tiểu đoàn, trung đoàn ra đối phó.


Nhờ các hoạt động tích cực trên, địch không phán đoán được hướng tấn công chủ yếu của ta, chủ lực ngụy bị kìm giữ tại chỗ, giúp cho việc triển khai lực lượng chiến dịch trên hướng chủ yếu của ta giữ được bí mật, bất ngờ.


Đúng ngày 30 tháng 3 năm 1975, lực lượng vũ trang ta tấn công địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, thì trên hướng tây Tam Kỳ, quân chủ lực cơ động của Quân khu 5 cũng bất ngờ tấn công cụm phòng ngự cơ bản của địch ở Tiên Phước - Phước Lâm. Đây là lá chắn bảo vệ trực tiếp cho thị xã Tam Kỳ có nhiều công sự vững chắc. Toàn cụm có khoảng 3.000 tên địch, sáu tiểu đoàn bảo an, hai đại đội biệt lập, 41 trung đội dân vệ, hai đại đội pháo có 10 khẩu 105 và 155mm đóng trên 77 cứ điểm lớn, nhỏ, kết hợp với một hệ thống kìm kẹp dân gồm 33 ấp chiến lược và 10 khu dồn. Trong trận mở màn này, ta đã tập trung một sư đoàn, một lữ, một trung đoàn và hỏa lực pháo binh mạnh để tiêu diệt dứt điểm. Chỉ trong 12 giờ tiến công, với ưu thế binh, hỏa lực hơn hẳn, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, phá vỡ hoàn toàn hệ thống phòng thủ cơ bản của địch ở tây Tam Kỳ. Kẻ địch hoàn toàn bị động. Bộ đội chủ lực Quân khu 5 khống chế toàn bộ các cao điểm phía tây Tam Kỳ, tổ chức các trận địa sẵn sàng đón lõng các trung đoàn chủ lực ngụy vào ứng cứu. Tam Kỳ bị uy hiếp, bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 2 của ngụy từ Quảng Ngãi vội vã ra Tam Kỳ, chúng tung trung đoàn 5 ngụy ra phản kích ta ở Dương Leo, Dẫy Thám, điều liên đoàn biệt động 12 ở Cẩm Khê và lệnh điều trung đoàn 4 sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra, đồng thời điều trung đoàn 2 sư đoàn 3 ngụy từ Quảng Đà vào hòng lập phòng tuyến ngăn chặn ta ở tây thị xã Tam Kỳ.


Trong thời điểm này Bộ Tư lệnh Quân khu đã xử lý tình huống rất đúng đắn: tập trung lực lượng ưu thế, lợi dụng địa hình có lợi, tiêu diệt hoặc đánh thiệt hại nặng từng trung đoàn chủ lực cơ động của ngụy; chốt chặn Dốc Sỏi có nhiệm vụ điều địch vào khu chiến theo ý định của ta. Chủ trương của Quân khu là tiêu diệt và đánh cạn lực lượng chủ lực cơ động của ngụy đi ứng cứu sẽ tạo ra thời cơ trực tiếp để giải phóng Tam Kỳ, Quảng Ngãi, thực hiện được ý đồ chia cắt địch về chiến lược ở đồng bằng ven biển Khu 5. Trong lúc đó, tình hình chung lại đang phát triển rất thuận lợi. Trên hướng Tây Nguyên, ngày 11 tháng 3 ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 18 tháng 3 toàn bộ sư đoàn 23 ngụy lại bị tiêu diệt, ý đồ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột của địch bị thất bại hoàn toàn. Toàn bộ quân ngụy phòng thủ bắc Tây Nguyên tháo chạy theo đường số 7 và ngày 19 tháng 3 đại bộ phận bị tiêu diệt ở Cheo Reo. Ngày 19 tháng 3 ta giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Ngày 21 tháng 3 từ ba hướng bắc, tây và nam, lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã tiến công, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, bao vây Huế, cắt đứt Huế với Đà Nẵng. Trên hướng tây Tam Kỳ, thời cơ tiêu diệt sư đoàn 2 ngụy, giải phóng Tam Kỳ - Quảng Ngãi càng trở thành hiện thực và cấp bách.


Ngày 21 tháng 3 chủ lực Quân khu trên hướng chủ yếu đã tấn công vào toàn tuyến ngăn chặn của địch từ Chợ Cây Xanh, Dương Huê, Dẫy Thám đến núi Vàng, điểm cao 132, núi Mỹ, sử dụng một sư đoàn, một trung đoàn đánh hai trung đoàn ngụy (so sánh lực lượng ta hai địch một). Đến trưa 21 tháng 3 ta đánh thiệt hại nặng trung đoàn 5, lữ đoàn 12 biệt động quân của ngụy. Địch phải vét hết lực lượng có trong tay ra lập tuyến ngăn chặn mới là Cẩm Khê - Trà Gó - Chóp Chài - Tân Lợi.


Ngày 24 tháng 3, trên hướng chủ yếu, ta tung toàn bộ lực lượng, trên thế áp đảo tiêu diệt lực lượng sư đoàn 2 còn lại của ngụy và đột phá thị xã Tam Kỳ; hai tiểu đoàn 70 và 72 của tỉnh Quảng Nam làm chủ vùng Đông Thăng Bình đã trở thành mũi vu hồi lợi hại đánh mạnh vào Kỳ Phú, phía đông thị xã. Đúng 11 giờ ngày 24 tháng 3 năm 1975 quân ta làm chủ hoàn toàn thị xã Tam Kỳ.


Đến 23 giờ cùng ngày, lực lượng vũ trang Quảng Ngãi đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch co cụm ở bắc Quảng Ngãi chạy về Chu Lai, làm chủ thị xã và toàn tỉnh Quảng Ngãi.


Như vậy, bằng lực lượng tại chỗ, Quân khu lợi dụng thời cơ chung, biết nghi binh căng, kìm địch và điều địch theo ý định, trên hướng tấn công chủ yếu tây Tam Kỳ, từ đầu cho đến cuối chiến dịch, trong các trận then chốt quyết định, ta đều tạo ra được so sánh lực lượng ưu thế hơn hẳn địch và giành thắng lợi ngày càng lớn, từ tiêu diệt và phá vỡ hệ thống phòng thủ phía tây Tam Kỳ đến tiêu diệt và đánh cạn lực lượng chủ lực ngụy đi ứng cứu giải tỏa, tạo ra thời cơ trực tiếp đột phá Tam Kỳ, Quảng Ngãi, thực hiện ý đồ chia cắt địch về chiến lược trên chiến trường đồng bằng ven biển Khu 5, tạo thuận lợi cho chiến dịch tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng thắng lợi.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:25:39 pm
Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp lớn thứ hai ở miền Nam Việt Nam, có sân bay cấp 1, có bốn cảng lớn, có khu tổng kho chứa hàng vạn tấn bom đạn, là nơi đứng chân của nhiều bộ máy quân sự đầu não Mỹ - ngụy. Đến 25 tháng 3 năm 1975 lực lượng quân sự ngụy ở Đà Nẵng được tăng thêm khoảng 6-7 ngàn tên tàn binh từ Trị - Thiên chạy vào, từ Quảng Nam chạy ra, nâng tổng quân số lên tới 10 vạn, gồm 15 tiểu đoàn cộng hòa, 15 tiểu đoàn bảo an, 240 trung đội dân vệ, khoảng ba vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và cảnh sát, 373 máy bay, 114 khẩu pháo từ 105mm trỏ lên, 70 xe tăng, xe thiết giáp. Lực lượng quân sự của địch đông nhưng ô hợp, sức chiến đấu không đáng kể, tướng tá chỉ lo cứu lấy bản thân và gia đình mình, bỏ mặc lính, tình trạng hỗn loạn ngày càng phát triển.


Nắm được tình hình đó, ngay chiều 24 tháng 3, khi trận tiến công giải phóng Tam Kỳ chữa kết thúc, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã mệnh lệnh sơ bộ cho các đơn vị phát triển hướng tiến công về Đà Nẵng và đêm 24 tháng 3, Bộ Tư lệnh Quân khu đã hạ quyết tâm giải phóng Đà Nẵng theo phương án tiến công phát triển nhanh. Quyết tâm đó hoàn toàn phù hợp với ý định của cấp trên.


Ngày 25 tháng 3 Quân khu nhận được điện của Bộ Tổng Tham mưu: “Tấn công nhanh Đà Nẵng bằng lực lượng tại chỗ có thể huy động được, không chờ lực lượng trên tăng cường. Vấn đề mấu chốt là diệt quân đoàn 1 ngụy và sư đoàn lính thủy đánh bộ không cho chúng rút co cụm vê Sài Gòn”.


Ngày 27 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận Đà Nẵng, chỉ định hai đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh và đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Mặc dù chưa gặp nhau nhưng hai đồng chí đã thống nhất qua điện đài:


Quân đoàn 2 (thiếu) đảm nhiệm hướng chủ yếu từ bắc và tây bắc đánh vào Đà Nẵng. Lực lượng vũ trang Quân khu 5 đảm nhiệm hướng quan trọng từ phía nam đánh ra. Sư đoàn 304 đảm nhiệm hướng phối hợp từ Thượng Đức theo đường 14 đánh xuống. Thời gian tiến công là ngày 28 tháng 3.


Trong thực hành tấn công đã có hai tình huống chiến dịch cần đến sự xử lý kiên quyết và táo bạo. Tình huống thứ nhất là, khi địch thấy lực lượng chủ lực của ta tiến sát sông Thu Bồn, bọn chỉ huy quân ngụy vội vã cho máy bay đánh sập hai cầu Bà Rén và Câu Lâu hòng ngăn cản tốc độ tiến công của ta, xe pháo ta không qua được sông lớn. Quân khu đã xử trí: “Không ỷ lại vào xe, pháo, không được giảm tốc độ tấn công. Dùng pháo, cối mang vác làm hỏa lực đi cùng để phát triển tấn công nhanh”. Nhân dân hai bên bờ sông đã huy động hàng trăm thuyền chở bộ đội qua sông nhanh chóng và an toàn, quân ta cố giữ vững tốc độ tiến công.


Một tình huống lớn nữa là thấy quân ta vượt sông, quân địch hình thành nhiều chốt chặn dọc đường hòng ngăn chặn bước tiến công của ta. Quân khu đã để một bộ phận nhỏ lực lượng đánh địch chốt chặn dọc đường, còn đại bộ phận lực lượng phải vòng và vượt qua các mục tiêu thứ yếu, thọc sâu vào trung tâm Đà Nẵng nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu là chỉ huy sở quân khu 1, sân bay, khu hành chính, cảng Sơn Trà.


Với hành động thọc sâu táo bạo của ta càng làm cho kẻ địch rối loạn, không có cách đối phó, bắn giết lẫn nhau để tẩu thoát ra biển. Nhân dân ở nhiều khu vực trong thành phố, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy đã nổi dậy làm chủ nhiều khu vực và huy động hàng trăm xe ra đón bộ đội vào. Nhờ đó ta đánh chiếm nhanh các mục tiêu chủ yếu; lúc 12 giờ ngày 29 tháng 3 tiểu đoàn 40 của Trung đoàn 1 Ba Gia và Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 31 đã gặp nhau và làm chủ sân bay Đà Nẵng. Cũng 12 giờ trong ngày, Tiểu đoàn 40 của Trung đoàn 1 Ba Gia đã cắm lá cờ chiến thắng của quân ta lên trung tâm chỉ huy của tên tư lệnh quân khu 1 kiêm tư lệnh quân đoàn 1 ngụy. Trong lúc đó Trung đoàn 96 địa phương tỉnh Quảng Đà, Tiểu đoàn 491 đặc công và đại đội biệt động Lê Độ đã đánh chiếm tòa thị chính và đài phát thanh, Trung đoàn bộ binh 97 Quảng Đà đánh chiếm thị xã Hội An, Non Nước, sân bay Nước Mặn. Lực lượng Quân đoàn 2 từ phía bắc đánh vào đã nhanh chóng chiếm Thủy Tú, Nam Ô, cảng Phú Lộc, vượt ngã ba Huế, ngã ba Cai Lan, tiến thẳng qua cầu Trịnh Minh Thế, đánh chiếm các mục tiêu trên bán đảo Sơn Trà. Phía tây, Sư đoàn 304 đánh chiếm Sơn Trà, thị trấn Ái Nghĩa, trường huấn luyện Hòa Cầm, hội quân với Trung đoàn bộ binh 1 Ba Gia tại sân bay Đà Nẵng. Đến 15 giờ cùng ngày, cuộc tấn công giải phóng Đà Nẵng đồng thời cũng là trận then chốt tiêu diệt toàn bộ quân đoàn 1 ngụy kết thúc thắng lợi.


Cho đến hôm nay, nhớ lại và suy nghĩ về những sự kiện lịch sử của Xuân 1975 nói chung và ở Khu 5 nói riêng, chúng tôi thấy những thắng lợi to lớn, trọn vẹn của quân và dân Khu 5 đã giành được trước hết là nhờ có sự lãnh đạo và chỉ đạo vô cùng đúng đắn, sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, sau đó là có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ về nhiều mặt, trên cơ sở thế trận chiến tranh nhân dân đã được quân và dân Khu 5 dày công xây dựng hàng chục năm trước đó để tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn chủ lực ngụy. Nhưng chuẩn bị chu đáo đến đâu cũng chỉ đảm bảo thắng lợi được một phần ba, còn lại là do sự nhạy bén phán đoán tình hình đưa ra quyết định đúng trong đối chọi tình huống ta, địch ở chiến trường của Bộ Chỉ huy và cơ quan tham mưu chiến dịch mà ở đây, chính là nghệ thuật tổ chức chỉ huy nghi binh, căng, kéo, kìm giữ địch, điểu địch theo ý định, là nghệ thuật tạo thế chiến dịch, tạo ưu thế hơn hẳn địch trong từng trận đánh then chốt, là nghệ thuật tranh thủ thời cơ chung, tạo ra thời cơ trực tiếp để phát triển tấn công giành thắng lợi lớn nhất cho chiến dịch của lực lượng vũ trang Quân khu 5.


Người thể hiện
ĐÀM QUANG THÁI


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:27:03 pm
KỶ NIỆM KHÓ QUÊN TRONG
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN NĂM 1975


Đại tá VŨ THANG
Nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn 341 Quân đoàn 4


Trung đoàn tôi có đến ba tên gọi, tên gọi nào cũng gắn vào từng giai đoạn lịch sử. Đầu tiên là Trung đoàn 36 vì đợt đó lấy quân ở các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... về huấn luyện ở Trung đoàn 36 Sư đoàn 308. Tháng 11 năm 1972 Bộ quyết định thành lập Sư đoàn 341, Trung đoàn được điều động về đội hình sư đoàn và mang tên Trung đoàn 1. Giai đoạn huấn luyện chuẩn bị đi chiến trường lại mang tên Trung đoàn 273 đứng chân ở đất Quảng Bình, Vĩnh Linh với gió và nắng nóng như câu thơ "Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình" (Tô Hữu). Chuẩn bị cho đơn vị lên đường vào chiến trường, chúng tôi gấp rút huấn luyện đổi súng để chiến sĩ sử dụng thành thạo vũ khí trong phân đội, học tập, quán triệt về tình hình Nam Bộ. Qua đài, báo chí anh em chúng tôi được biết ở miền Đông Nam Bộ Quân đoàn 4 mới giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, quân Mỹ - ngụy không dám phản ứng. Nghe đâu trong đội hình Quân đoàn 4 có Công trường 9 (Sư đoàn 9) do đồng chí Sáu Khâm chỉ huy, năm 1965 tập kích một cụm quân Mỹ ở Trảng Bàng diệt cả ngàn tên Mỹ, bắn cháy mấy chục xe táng. Chúng tôi kháo nhau: Công trường 9 họ có phép lạ lắm, họ đi qua trước mặt quán Mỹ cả tiểu đoàn mà bọn Mỹ không phát hiện được. Họ lúc ẩn lúc hiện ghê lắm, họ là gốc Nam Bộ đấy! Nghe nói Công trường 9 được thành lập là từ ngày 2 tháng 9 năm 1965, do ông Hoàng Cầm làm sư đoàn trưởng đầu tiên. Có phải là ông Hoàng Cầm nghĩ ra bếp anh nuôi giảm khói tránh địch phát hiện không? Không phải! Ông Hoàng Cầm này là Trung đoàn trưởng đánh Điện Biên Phủ, được Bác Hồ khen đấy! Còn ông Lê Chân (Lê Văn Tưởng) là Chính ủy. Các ông đầu đã bạc, đã có mặt từ thời kỳ đầu cuộc chiến tranh cả nên đất trời Việt Nam các ông rành lắm, đánh giặc quen như đi cày cuốc, chúng mình vào Nam Bộ mà được đứng cạnh các ông thì mới sướng.


Điều mơ ước được đi chiến đấu của chúng tôi đã đến, Trung đoàn 273 là đơn vị đi đầu của Sư đoàn 341 vào chiến trường Nam Bộ. Sau ba tuần hành quân bằng cơ giới, đầu tháng 3 năm 1975, chúng tôi đã đến rừng Minh Hòa. Đón chúng tôi là một người đàn ông trán hói, cao to và ba người nữa, người nào cũng mang khẩu AK có hai băng đạn trở đầu và cái võng dù mỏng dính. Sau này chúng tôi mới biết đó là đồng chí Năm Nhạc - Trưởng phòng quân lực Quân đoàn 4, ba người còn lại là Sáu Cọc, Tư Dẹp, Hai Hưng là cán bộ tác chiến Quân đoàn 4 ra đón Trung đoàn 273. Hành quân vào đến nơi, Trung đoàn chúng tôi mỗi tiểu đội đủ chín người, trung đội là 35 người, đại đội là 125 người, trang bị mới 100 phần trăm. Thấy quân số đông, vũ khí mới, đồng chí Nàm Nhạc gật đầu tỏ vẻ phấn khởi. Sau khi nắm lại tình hình, ông ra tín hiệu hành quân. Chúng tôi, quân tư trang mang trên vai, ở trên xe thì chỉ thấy lắc lư, đi bộ mỗi người mang khoảng 28 ki-lô-gam nhưng sao nặng thế? Được cái tinh thần bộ đội hăng hái, mong sớm gặp được Công trường 9 để có thời gian học hỏi kinh nghiệm chiến đấu. Ngày 2 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn nhận nhiệm vụ chốt đường 13, đoạn Chơn Thành - Bầu Bàng thay Trung đoàn 3 Sư đoàn 9. Cơ quan Quân đoàn có đồng chí Ba Bì - Tham mưu phó Quân đoàn, đồng chí Sáu Cọc - cán bộ tác chiến và đồng chí Lê Hải Anh - tác chiến Sư đoàn 341 đi theo dõi giúp đỡ Trung đoàn tổ chức chiến đấu. Đồng chí Ba Bì rất vui vẻ hòa nhã nên gặp ông, anh em hết cả mệt nhọc. Các đồng chí cơ quan Quân đoàn và sư đoàn đã cùng với đồng chí Hoàng Trung Trực - Trung đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Giáp - Trung đoàn phó lần lượt đưa các tiểu đoàn vào chiếm lĩnh. Đồng chí Nguyễn Văn Giáp đi theo Tiểu đoàn 3, có nhiệm vụ đưa đại đội 11 do đồng chí Chính - Đại đội trưởng, đồng chí Vũ Quang Đản - Đại đội phó, đồng chí Nguyễn Văn Phúc - Chính trị viên vào chốt nam Xóm Rót, phía đông đường 13 khoảng 800 mét, thay cho một đại đội của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9. Khi vào nhận bàn giao thì đại đội của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 chỉ còn 17 đồng chí. Bàn giao xong rồi họ trở ra đi ô tô, có đồng chí đi xe đạp, loáng một cái họ đã đi mất tiêu không cần ai dẫn đường. Trong khi đó đại đội 11 của Trung đoàn 273 quân số đông, trang bị nặng nề, cả đêm đào hầm hào dưới tầm pháo bắn cầm canh. Sáng mùng 3 tháng 3 năm 1975, các bộ phận đứng lên thành hào, bị địch chốt ở cầu Xóm Rớt bắn. Thế là cả ngày hôm đó ta và địch bắn tỉa nhau; cứ nhô đầu cao mũ cối để lộ trên thành hào là nó bắn. Tốc độ đào hầm hào tăng nhanh rõ rệt, vũ khí lau chùi sạch sẽ. Đến 15 giờ chiều, pháo địch các nơi bắn vào chốt đại đội 11, địch của chốt ở Xóm Rớt ra tiến công vào trận địa. 18 giờ, địch chiếm được 15 mét hào và ba hầm chiến đấu của đại đội 11. Đồng chí Vũ Quang Đản - Đại đội phó sau khi băng bó cho bốn đồng chí bị thương đã chỉ huy xuất kích nhỏ chiếm lại đoạn hào bị mất. Đồng chí Nguyễn Văn Giáp - Trung đoàn phó theo dõi diễn biến đã lệnh cho đồng chí Tâm - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 cho đại đội 10 gần đó đánh sang, nhưng do dây điện thoại vòng vèo nên khi đại đội 10 do đồng chí chuẩn úy Trúc chỉ huy gồm 21 đồng chí đánh sang đã vào gần quá, bị hỏa lực của đại đội 11 bắn cản, đồng chí Trúc la to: Đản ơi sao mày bắn vào tao? Sau đó mũi tiến công của đồng chí Trúc vòng rộng sát mép suối Xóm Rớt đánh vào sau lưng địch. Do trời tối, tốp của đồng chí Trúc đi mãi, khi đến mục tiêu đã gần 2, 3 giờ sáng, trên trận địa chỉ có pháo sáng và pháo bắn cầm canh, tiếng súng bộ binh đã im bặt, bọn địch lăn ra ngủ do căng thẳng, mệt mỏi. Đồng chí Trúc đi theo lối mòn vào Xóm Rớt thấy hai tên lính gác đang ngủ, đồng chí nổ súng tiêu diệt và chỉ huy bộ đội đánh vào bên trong. Địch ở các hầm tỉnh giấc bắn ra xối xả, đồng chí Trúc tổ chức bộ đội đánh bằng lựu đạn, bắn găm, bắn gần đến khi bị thương, mới tìm đường ra thì đã bị chúng bịt hết lối ra. Bên ngoài, đại đội 11 Tiểu đoàn 3 biết có lực lượng ta nổ súng nhưng không liên lạc được. Một số đồng chí của đại đội 10 mở đường ra; đi lạc gặp đồng chí Giáp, đồng chí Thanh Thản, đồng chí Nguyễn Văn Viện ra đón về. Trong chốt địch còn lại bảy đồng chí bị thương, trong đó có đồng chí Trúc - Đại đội trưởng. Ngày hôm sau địch bỏ chốt và bắt số bị thương của đại đội 10 đi theo về Hố Nai - Cần Thơ, coi như số đó mất tích.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:27:36 pm
Ngày 12 tháng 3 năm 1975, trận chiến đấu ở Dầu Tiếng rất gay go, Quân đoàn điều Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 273 đi làm dự bị cho Sư đoàn 9 tiến công tiêu diệt các ổ đề kháng địch, giải phóng chi khu quân sự Trị Tâm. Ở khu đồn tam giác địch ngoan cố chống cự, Quân đoàn sử dụng ba xe tăng T54 và hai khẩu pháo 85mm chi viện cho Trung đoàn 3 đánh chiếm từng đoạn hào, góc phố, đập tan các đợt phản kích của địch. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 273 được sử dụng tảng cường sức đột kích cho Sư đoàn 9. Thế là chúng tôi có dịp chiến đấu bên cạnh Sư đoàn 9, được phát huy tác dụng huấn luyện khi ở Quảng Bình, của súng đạn mới. Bộ đội đánh rất hăng nhưng các đồng chí Công trường 9 cứ nhắc phải tiết kiệm đạn. Ở một hướng khác của Tiểu đoàn 1 bị một ổ đê kháng địch ngăn chặn, các đồng chí Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 lại nhắc Tiểu đoàn trưởng Hùng: “Tiểu đoàn trưởng sao không cho B41 diệt ngay?". Lúc này Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 mới cho hai khẩu B40, một khẩu B41 tiêu diệt ổ đề kháng và phát triển chiến đấu. Kết thúc trận đánh, Quân đoàn điều Trung đoàn 273 về ngay đoạn Bầu Bàng - Chơn Thành. Khi thu quân, kiểm tra quân số lại mất tích đồng chí giữ B41. Như vậy mới có 15 ngày chiến đấu đã có đến hai vụ mất tích. Chúng tôi cứ kháo nhau: thế mới biết Công trường 9 họ giỏi... Ngày 16 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 273 phối hợp với một tiểu đoàn của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 diệt gọn cánh quân của địch chạy từ hướng Bình Long về, bắt 60 tên, thu 67 súng các loại, ở hướng khác phát hiện địch là chiến đoàn 315 có thiết giáp ở Bầu Xa Mách đang bị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 vây diệt, Trung đoàn 273 được dịp đánh địch tháo chạy, có nơi địch chạy cả vào cả chỗ trú quân của ta. Khi gặp lại các đồng chí Sư đoàn 9 mới biết sự phối hợp của Trung đoàn 273 đã diệt gần hết chiến đoàn này. Ngày 20 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 273 nhận nhiệm vụ tiến công Chơn Thành trên hướng thứ yếu cùng với Công trường 9. Giải phóng Chơn Thành, Trung đoàn 273 được lệnh theo đường 14 về trong đội hình Sư đoàn 341 tiến công Xuân Lộc - Long Khánh. Thế là chúng tôi phải chia tay với Công trường 9, nhưng bù lại về tiến công Xuân Lộc, chúng tôi có dịp sát cánh với Công trường 7 (Sư đoàn 7) do đồng chí Lê Nam Phong chỉ huy. Nghe nói ông Nam Phong cũng là một cán bộ đại đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sư đoàn 7 do ông chỉ huy được thành lập năm 1966, đã tham gia nhiều trận đánh nổi tiếng. Hồi còn ở miền Bắc, chúng tôi được nghe nói đến Sư đoàn 7 chốt chặn Tàu Ô - Xóm Ruộng 150 ngày đêm kiên cường trong chiến dịch Nguyễn Huệ.


Sau gần 12 ngày đêm chiến đấu, Trung đoàn chúng tôi đã cùng với các đơn vị bạn giải phóng Xuân Lộc - Long Khánh. Tiếp sau Xuân Lộc, Trung đoàn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến công giải phóng Trảng Bom, Biên Hòa, Sài Gòn - Gia Định. Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, đơn vị bước vào làm nhiệm vụ quân quản thì tôi được điều động về Quân đoàn bộ. Rời khỏi Sư đoàn trong lòng tôi vẫn canh cánh về những đồng chí mất tích, về Quân đoàn bộ một thời gian, tôi được Quân đoàn điều về Trường Quân chính làm nhiệm vụ đào tạo cán bộ. Một thời gian sau tôi lại được Quân đoàn điều về Trường Hạ sĩ quan làm nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng. Đang làm hiệu trưởng Trường Hạ sĩ quan, tôi lại được Quân đoàn điều về Sư đoàn 7, lúc này Sư đoàn 7 đang vượt phà Niếc Lương để tiến công vào Phnôm Pênh. Cứ như vậy, liên tục những nhiệm vụ tiếp theo, tôi không còn thời gian nào nghĩ tới hai vụ mất tích. Mãi đến năm 1983, tôi mới có dịp gặp lại các anh ở Sư đoàn 341. Anh Nguyễn Sĩ Quê cho biết: “Cậu không được dự tổng kết của Sư đoàn nên không biết, các đồng chí mất tích hồi đó đã về đủ. Đồng chí bắn B41 là Trần Quyết Chiến, quê ở Thái Bình, được khen thưởng về thành tích bắn bốn quả B41 diệt nhiều địch, góp công hoàn thành nhiệm vụ cùng với Sư đoàn 9 ở Dầu Tiếng. Chuyện mất tích vì bị cháy quần do bắn B41, được một cô gái 14 tuổi và gia đình cô ta cứu sống, nuôi dưỡng sau một tháng và đưa về Sài Gòn trả đơn vị”...


Bây giờ những con người ấy đã ở vào tuổi trung niên, tuy đã rời quân ngũ, nhưng những kỷ niệm vẫn còn mãi trong ký ức. Trung đoàn tôi bây giờ có một số anh em ở lại miền Nam lập nghiệp. Số ở Thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4 lại gặp mặt nhau, đi viếng nghĩa trang liệt sĩ. Số ở Đồng Nai thì họp mặt ngày 1 tháng 5, sau Thành phố Hồ Chí Minh một ngày để còn mời hẹn nhau. Năm 2000, tôi và anh Trịnh Hồng Phát đi xe máy về nhà đồng chí Bình bán thuốc bắc ở Tam Hiệp, Biên Hòa để họp mặt. Với tác phong người lính, tôi hỏi ngay: Ở đây có bao nhiêu hộ? Các em trả lời có 37 hộ, rải khắp Long Khánh, Trảng Bom, Biên Hòa. Hỏi có hộ nào đói? Tất cả đều không còn đói nghèo. Hỏi có hộ nào hiếm muộn? Trả lời không! Người nào cũng có hai đến ba con, có cháu vào đại học, chỉ còn một người nay đã 52 tuổi, chưa lấy được vợ. Lòng tôi như chùng xuổng, bởi nhớ đến đồng chí Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân - người đã chữa thành công cho Chính ủy Sư đoàn Trần Nguyên Độ bệnh hiểm con bằng thuốc đông y, nay cả hai đều đi xa rồi.


Sực nhớ đến người mất tích trước đây, tôi hỏi người nào trong trận đánh ở Dầu Tiếng bị cháy quần chạy vào nhà dân? Một người ở dưới bếp lau tay chạy lên: Thưa thủ trưởng em ạ! Tôi hỏi tại sao lại thế? Đồng chí ấy kể lại: Báo cáo thủ trưởng em bắn ba quả B41 điếc tai, trời nóng, em hoa cả mắt, hướng Sư đoàn 9 có một hỏa điểm bắn cản, em thấy gần nơi em nên quay súng sang bắn viên đạn thứ tư, thân người em nằm dọc thân súng, lửa phụt lại em cháy cái mông và cả cái quần Tô Châu hãy còn mới. Em vội chạy vào nhà dân gần đó, thấy cô gái tuổi còn trẻ ngó ra rồi ném cho em cái quần đen. Em che tạm, khi vào nhà em bị sốt, đành ở lại đó, đơn vị đánh qua em không liên lạc được nữa. Tháng sau gia đình cô gái đưa em về đường Tô Hiến Thành gặp thủ trưởng Quế. Tôi mừng quá nhưng cũng gặng, hỏi lại: Thế từ đó đến giờ em ở đâu? Có đi lại tử tế với người ta không? Trả lời: Dạ, báo cáo thủ trưởng, em được giải quyết chính sách về quê 5 năm trời không tìm được việc làm, em buồn, em nhớ đơn vị quá. Khi em vào tìm đơn vị thì đớn vị đang ở Cam-pu-chia. Em tìm đến gia đình đã cứu em thi cô bé ấy đã 19 tuổi, còn em đã 25. Chúng em tìm hiểu rồi cưới nhau và có hai cháu trai, bây giờ một cháu vào đại học, một cháu lớp 10 ạ!


Từ đây trong ký ức tôi đã xóa đi hai từ “mất tích”, chỉ còn lại những tình cảm yêu thương, kính trọng đồng bào, đồng chí khắp hai miền Nam - Bắc. Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Quân đoàn 4 (20.7.1974 - 20.7.2004), kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (30.4.1975 - 30.4.2005) tôi xin kể lại một trong muôn vàn kỷ niệm khi còn là cán bộ, sống chiến đấu trong Quân đoàn 4 anh hùng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:29:28 pm
THEO BƯỚC CHÂN TIẾN QUÂN THẦN TỐC


Đại tá NGUYỄN ĐỨC TOẠI
Nguyên phóng viên báo Quân đội nhân dân


Tin giải phóng Huế làm trang nhất báo Quân đội nhân dân đã xếp chữ phải thay bài, thay ma-két. Khi bước vào Chiến dịch giải phóng miền Nam, tôi được điều về Phòng Thư ký Tòa soạn, làm nhiệm vụ trực xử lý các bài tường thuật của phóng viên gửi từ chiến trường về. Thiếu bài thì phải tường thuật qua tin điện mật của Tổng cục Chính trị, của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, của Bản tin nhanh tham khảo đặc biệt, qua tin ảnh của Thông tấn báo chí phương Tây phát sóng vô tuyến đường không mà ta thu thập được. Để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc quá gắn bó với chiến trường miền Nam, tin chậm là có thể mất bạn đọc mà còn gây nên sự tức giận, phê phán gay gắt.


Báo Quân đội nhân dân phải chấp nhận một hình thức tin thuật qua điện đài, nhưng phải xử lý sao cho kịp thời, có chi tiết thông tin mới mà phải bảo đảm sao cho chính xác, không lộ bí mật! Lộ bí mật có thể bị kỷ luật mất “sao gạch” trên quân hàm như chơi, mà quan trọng hơn là không còn được tiếp tục vào “bệ kiến sân rồng” để xin tư liệu qua điện đài. Vì các bộ phận cho tin này đóng ở khu A “kín cổng cao tường” của Thành cổ Thăng Long, nơi gần cái sân có tượng đá rồng chầu của cung vua chúa cũ.


Thức khuya viết tường thuật, sáng dậy còn ngái ngủ thì nghe có tiếng gọi của anh Công Bằng - Trưởng phòng Thư ký Tòa soạn từ lầu 2 của nhà số 7 Phan Đình Phùng, Hà Nội - nơi giao ban buổi sáng, vọng tới gác xép, nơi tôi ngủ trực đêm.

- Có máy bay đi Huế giải phóng, anh có đi thì qua sân bay Gia Lâm ngay...

Được ra mặt trận theo các mũi tiến quân, lúc đó có một sức hấp dẫn kỳ lạ đối với các phóng viên báo Quân đội nhân dân. Với riêng tôi, được “ân tứ” thoát khỏi cái công việc tường thuật qua con mắt người khác để đi ra chiến trường là một phần thưởng rất lớn của anh Trần Công Mân - lúc đó phụ trách Thường trực Tổng biên tập, đối với tôi.


Anh chị em báo Quân đội nhân dân đã quen cái nếp có lệnh là lên đường ngay. Chợt nhớ việc tối thiểu phải có, tôi liền hỏi:

- Ai chuẩn bị giấy tờ giúp cho tôi?

- Anh phải tự đi sang sân bay mới kịp!

Gặp mấy anh em cùng ở khu tập thể Kim Liên - nơi bà xã nhà tôi là Đặng Thị Minh Đức đang công tác tại Khách sạn chuyên gia Kim Liên, tôi điện nhờ bà xã mang ra sân bay cho thêm ít tiền đi đường. Tôi cũng muốn căn dặn vợ vài điều trước khi lên máy bay đi vào vùng chiến sự. Ai có thể lường trước được cái sự may rủi trên chiến trường! Năm 1968, đi chiến trường Quảng Trị trong Tổng tiến công Mậu Thân, ba anh em phóng viên cùng đi là Lê Đình Dư (tức Hồ Thừa), Ngọc Nhu và tôi. Những sau đó hai anh đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường Quảng Trị. Năm 1972, trong một chuyến đi chiến trường Lào, có năm phóng viên và một lái xe thì lái xe và hai phóng viên Ngô Văn Uyển, Lê Thu bị thương phải vào viện Quân y, còn các anh Tô Ân, Trần Tuấn hy sinh tại chỗ!


Lần này quá gấp vội, chẳng được gặp vợ con trước lúc lên đường, dù chỉ cách nhau trong giây phút.

Ra sân bay nhìn thấy trên đường băng có các anh Lê Văn Tri - Tư lệnh Phòng không - Không quân, anh Nguyễn An - Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần, tôi yên tâm được xét duyệt một chỗ ngồi trên máy bay.


Chiếc IL2 bay từ sân bay Gia Lâm đến sân bay Đồng Hới - Quảng Bình thì hạ cánh, chuyển sang máy bay lên thẳng. Từ đây máy bay lên thẳng bay theo tuyến quốc lộ A1, bay ở độ cao 500 mét - một độ cao rất thấp để cho quân ta làm chủ ở bên dưới nhìn rõ hình lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng sơn đậm ở dưới thân máy bay. Dù đã cẩn thận nhưng vẫn bị đạn súng trường bắn lên, may mà không trúng buồng lái máy bay và khoang để xăng!


Đáp xuống sân bay Phú Bài - Huế, một đồng đội cũ ở Tỉnh đội Quảng Trị nay là chỉ huy đoàn pháo cao xạ, chạy đến ôm chầm lấy tôi:

- Sao mạo hiểm thế này, các trận địa pháo cao xạ 37mm đều hướng nòng về tốp máy bay của các ông, chờ có lệnh là bắn đấy. May mà thấy máy bay bay hiền quá nên mình chưa cho lệnh bắn. Bay thấp quá chỉ một băng đạn 37mm là cũng đủ đi đời cả đoàn!

Huế về đêm, mưa như trút nước. Bài vở gửi về Tòa soạn báo Quân đội nhân dân phải có trước 5 giờ sáng để máy bay cất cánh bay trở lại Hà Nội. Đã quá khuya trong đêm, chỉ còn 3 giờ. Một bạn cũ nay đang công tác tại mặt trận Huế điều một chiếc xe Jeép đưa tôi đi len lỏi qua các nơi để viết xong bài, kịp đến sân bay Phú Bài - Huế trước 5 giờ sáng, để gửi máy bay mang bài về Tòa soạn.


Sau Huế là Đà Nẵng giải phóng. Lần này máy bay không dám mạo hiểm vượt đèo Hải Vân đành phải bám theo xe của bộ đội ta. Nhiều cầu bị phá hủy đang phải làm tạm. May mắn lại gặp Bộ chỉ huy giải phóng Đà Nẵng đang vào Đà Nẵng. Trong số người chỉ huy và khuân vác các tấm gỗ để sửa cầu, có cả Tướng Lê Trọng Tấn. Vào Đà Nẵng giải phóng đã gặp ngay phóng viên báo Quân đội nhân dân đi từ các hướng khác vào đây: anh Mạnh Hùng, anh Hoàng Như Thính. Chỉ mấy hôm sau, một số anh em khác lại vào thêm, tìm đường đi về phía Nam theo bước tiến của quân ta.


Lúc được tin quân ta đang truy kích về giải phóng Quy Nhơn, cũng là lúc tôi nhận được thư của Tòa soạn gọi về. Chắc là ở nhà thiếu người. Nhưng lại về lúc chiến sự đang rộ lên phía trước thì gay go quá. Trong đời làm phóng viên báo Quản đội nhân dân, biết còn dịp nào sôi sục chiến trường thê này để đi lên phía trước. Suy nghĩ và cân nhắc, tôi quyết định tiếp tục chuyến đi, lấy hiệu quả chuyến đi để “tạ tội” với Ban biên tập! Và tôi nói với phóng viên mang “mệnh lệnh thư”: Nếu như anh ủng hộ việc tiếp tục lên phía trước của tôi thì coi như anh chưa gặp để đưa thư cho tôi”.


Lúc này, quân ta đang truy kích địch và tiến về giải phóng Quy Nhơn. Tôi rủ thêm anh Hoàng Như Thính - phóng viên nhiếp ảnh, cùng đi vào Quy Nhơn. Anh ấy đồng ý và từng người bám xe đi riêng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:30:17 pm
Đến Quy Nhơn một đêm, ngày, vừa lấy được một ít tư liệu và chụp ít ảnh thì đã thấy phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí của các báo bạn đi vào.


Chuyến đi vô kỷ luật có thể tạ tội với người chỉ huy ở nhà nếu mang kịp về chút ít tin, ảnh. Phải trở ra Hà Nội ngay trong đêm nay thì tin, ảnh mới có giá trị. Tôi đem mọi chuyện ra trình bày với Tỉnh đội trưởng tỉnh Bình Định lúc đó, muốn xin đi xe ra Đà Nẵng. Là người chỉ huy đã từng cung cấp cho tôi tài liệu viết ký sự nhiều kỳ "Cơn lốc rừng dừa" nói về sự quật khởi phi thường của người dân rừng dừa Bình Định đăng trên báo Quân đội nhân dân tháng 6 năm 1972, rất thông cảm với yêu cầu của tôi. Sau một lúc suy nghĩ, cân nhắc anh nói: “Bây giờ anh cứ vào Phòng Chính trị của Tỉnh đội ngủ cho lại sức, tôi sẽ tổ chức một chuyến xe đi truyền lệnh” đề phòng biệt kích bờ biển, “xe nổ máy tôi sẽ “à, à...” gọi nhà báo ra cho lên xe đi nhờ. Cái lệnh này là giúp anh có nhanh bài, ảnh đưa ra Tòa soạn báo Quân đội nhân dân, nếu có ai phát hiện ra cái sai của tôi thì người ta thương báo Quân đội nhân dân, chắc cũng sẽ không bắt lỗi...”.


Tôi nằm ngủ nhưng thực sự có ngủ được đâu, chỉ chờ nghe cái tiếng “à, à...” "vào gọi cho nhà báo quân đội đi cùng” để ra xe! Mọi việc diễn ra như cách sắp xếp của Tỉnh đội trưởng.


Nhưng chuyến đi không trót lọt. Xe phóng như bay trong đêm. Đến Hoài Nhơn, đồng chí lái xe không kịp phát hiện ra một hào chắn đường của du kích mới đào để chặn biệt kích nên xe bị sập hai bánh trước, hất tung mọi người ra hai bên đường. May mà có người chỉ bị thương nhẹ. Tôi đành vào Huyện đội Hoài Nhơn xin xe đi tiếp; nhưng vào đó thì được chỉ chỗ vào nằm chung với một nhà báo quân đội đang ngủ nhờ ở đó. Vén màn lên thì thấy anh Nguyễn Thanh - phóng viên báo Quân đội nhân dân - được phái đi trước cách ba, bốn tháng nay cũng tìm đường ra Hà Nội.


Sáng hôm sau, hai chúng tôi bám xe đi Đà Nẵng. Vừa tới sân bay Đà Nẵng, rất mừng, nhưng đến gần thì thấy cánh quạt máy bay đang quay tít và máy bay từ từ lăn bánh! Những ý nghĩ thất vọng cứ len lỏi trong đầu làm cho người nhiểu lúc mất thoải mái nhưng vẫn không mất hết hy vọng. Hai anh em với hai khẩu súng cạc bin vác vai đi tìm phương kế mới. Và may thay khi đến một đường băng khác thì tìm thấy một tổ lái, có cả Thiếu tướng Hoàng Phương - Chính ủy Phòng không - Không quân, đang ở đây. Sau khi chúng tôi trình bày việc muốn ra Hà Nội mang kịp bài, ảnh cho báo Quân đội nhân dân, anh Hoàng Phương liền quay lại nói với tổ lái và các chiêu đãi viên đang có mặt ở đó:

- Các anh bay ra nhớ cho các phóng viên Quân đội đi cùng cho kịp tin, ảnh...

Liền sau đó hai chúng tôi trở thành khách quý của buổi liên hoan, và vài giờ sau được lên máy bay trở về Hà Nội.

Chỉ hôm sau, ngồi vào bàn viết đã có bạn đến rỉ tai:

- Cậu vô kỷ luật gớm, đã nhận được ý kiến của cấp trên chưa?

Tôi đã sẵn sàng chịu kỷ luật, hơn nữa đang tập trung hết sức để viết bài cho kịp. Và chỉ một lúc sau đã thấy đại tá Trần Công Mân - Phó Tổng biên tập thường trực, người đã gửi “mệnh lệnh thư” gọi về, đến bên bàn viết, hỏi thăm và thúc giục: “Đi về có khỏe không, tranh thủ viết và làm ảnh nhanh lên...”.


Lỗi của tôi thế là đã qua nhanh, nhưng tôi khá sốt ruột với anh bạn phóng viên Hoàng Như Thính, vì tôi rủ rê mà phải bán cả chiếc đồng hồ đeo tay để có tiền đi đường mà nay chưa thấy về. Anh mà chậm thì tính hiệu quả giảm giá trị. Nhưng chỉ hai hôm sau, anh ta về.

- Sao chậm thế!

Hoàng Như Thính vỗ vỗ vào túi đựng máy ảnh:

- Ảnh Nha Trang, ảnh Cam Ranh giải phóng đây này. Đã có báo nào đưa chưa?

Tôi ôm lấy anh xúc động vì ngươi phóng viên nhiếp ảnh trẻ kế tục được phong cách đội ngũ phóng viên ảnh báo Quân đội nhân dân, nhưng trong đầu tự nhiên hiện lên cái hình ảnh chiếc đồng hồ đeo tay của anh phải bán để có tiền cho chuyến đi...


Cũng chỉ mấy hôm sau thì Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước vừa đi chuyến công tác từ miền Nam ra. Anh gặp tôi và nêu ý kiến:

- Tôi và anh Khánh Vân đang viết nhanh ký sự “Từ núi Bà Đen đến Thành cổ Quảng Trị” nhưng đoạn từ Quy Nhơn đến Đà Nẵng, đường bị phá phải đi lên phía trên, anh viết bổ sung đoạn này cho ký sự rồi muốn đi tiếp giải phóng Sài Gòn thì đi, Sáng 28 tháng 4 lên đường.

Lại nhận được một “ân tứ” mới nhưng có điều kiện!

Thế là viết và viết. Cả con người phóng viên như đang ở phía Nam - Thành đồng Tổ quốc - nhưng tay vẫn viết cho kịp. Vội nhưng phải đạt yêu cầu của ký sự. Và tôi đã hoàn thành đoạn viết với nhiều đêm thức trắng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:31:11 pm
Sáng 28 tháng 4 năm 1975, một chiếc xe Bắc Kinh mới toanh lấy từ kho ra, lốp còn bóng nhẵn, được điều tới Tòa soạn. Anh em ra tiễn khá đông, có Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước, Phó tổng biên tập Trần Công Mân. Trên xe có hai lái xe, nhà báo Phú Bằng, nhà nhiếp ảnh Vũ Ba và tôi.

Vài lời đưa tiễn của Tổng biên tập:

- Các anh đi chuyến này theo “kế hoạch thời cơ”, có hai lái xe thay nhau lái liên tục ngày đêm không nghỉ để đi cho kịp với diễn biến tình hình. Có khả năng giải phóng Sài Gòn vào ngày 7 tháng 5 - ngày giải phóng Điện Biên, nếu chậm là ngày 19 tháng 5 - kỷ niệm sinh nhật Bác.

Đến Thanh Hóa, dừng lại ăn cơm, nửa chừng mờ đài nghe tin “quân ta đã tiến sát Biên Hòa”!

- Thôi, không ăn nữa, lên đường ngay cho kịp...

Bắt đầu từ giờ phút đó, hai lái xe thay nhau đưa chúng tôi đi ngày đêm, chỉ dừng lại ăn dọc đường, có khi mua bánh trái, hoa quả đưa lên xe, ăn trong lúc xe chạy.


Các nhóm phóng viên bám theo các mũi tiến quân đã đi trước, liệu chúng tôi có đến kịp trước lúc Sài Gòn giải phóng? Đoạn đường từ Quảng Ngãi vào Bình Định có nhiều nơi tổ chức đón tiếp bộ đội dọc đường nhưng không dám ghé vào sợ mất thời gian. Một số cầu dọc đường bị đánh mìn nhưng xe chúng tôi được lực lượng vũ trang địa phương và bà con giúp vượt qua kịp thời.


Đến trước cửa ngõ Xuân Lộc, một cầu lớn bị đánh sập, công binh đang sửa chữa, xe cộ bị ùn tắc lại hàng dãy dài. Chúng tôi lên cầu tìm gặp các chiến sĩ công binh và khi biết chúng tôi là nhà báo Quân đội, anh em bắc tạm mấy tấm ghi sắt cho xe chúng tôi qua trước.


Chiều 30 tháng 4 chúng tôi vào tới Biên Hòa đi tiếp đường vào Sài Gòn. Xe đột ngột dừng lại khi xuất hiện một nhóm quân nhân mũ tai bèo đứng ra chắn đường.

- Sài Gòn ra sao rồi các bạn ơi!

- Đã giải phóng lúc trưa nay rồi!

Anh Phú Bằng lấy giấy tờ ra trình bày xin đi tiếp. Tôi sờ túi thấy còn bao thuốc lá lấy ra mời. Một anh cầm lấy xem xem...

- Các bạn ơi! Điện Biên đây rồi... Thuốc lá Điện Biên của Hà Nội đây rồi. Ta xin mỗi người một điếu rồi mời các anh đi cho kịp thời gian...


Đêm 30 tháng 4 - đêm tập kêt phóng viên báo Quân đội tại Dinh Độc Lập, chúng tôi được các sĩ quan tiếp quản dẫn đi các phòng, nơi làm việc của tống thông, nơi tiếp khách, nơi bài trí các tặng vật, các con thú quý hiếm, đầu trâu rừng, ngà voi, đầu ngựa rừng, tê giác.., hộp đựng đá mặt trảng - quà tặng của tổng thống Mỹ gởi tổng thống Thiệu vào lúc còn "tuần trăng mật chính trị". Trên bàn làm việc của Thiệu, bên cạnh cuốn "Kinh thánh Tân ước" của Hội Gi-đê-ôn quốc tế xuất bản, có cuốn "Tóm lược tư tưởng quân sự" của Mao Trạch Đông bìa đỏ và cuốn "Mấy vấn đề chiến lược quân sự” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thì ra viên tổng thống ngụy quyền này cũng có đọc chút đỉnh về nghệ thuật quân sự của đối phương.


Hôm sau, các phóng viên báo Quân đội nhân dân từ các hướng về đây càng nhiều. Có cả những phóng viên “nằm vùng’" từ trước ở các quân khu, các binh đoàn Quân giải phóng miền Nam cũng nhảy vào. Phóng viên trẻ Thiều Quang Biên từ Quân khu 8 cũng có mặt.


Chúng tôi quyết định đi Cà Mau. Cái ý nghĩ cần có bài, ảnh về mảnh đất tận cùng của Tổ quốc có sức hút thời sự, có ý nghĩa chính trị đối với người làm báo. Với đồng bào cả nước, hình ảnh về mảnh đất Cà Mau nói lên sự toàn vẹn, sự toàn thắng của đất nước thống nhất từ Đồng Văn đến mũi Cà Mau.


Thế là, tất cả nhóm phóng viên chúng tôi lên xe rời Sài Gòn trong cái khung cảnh náo nức chưa từng thấy của những ngày đầu Sài Gòn giải phóng.


Đến Cà Mau, nhóm nhà báo chúng tôi được tiếp đón với một tình cảm nồng hậu hết sức đặc biệt. Trong cuộc gặp gỡ, các anh ở đây giới thiệu chúng tôi là “phái đoàn của Trung ương” vào thăm. Chúng tôi đề nghị cải chính nhưng không được. Một anh cán bộ tỉnh phản ứng lại: “Thì các anh chẳng phải là người ở ngoài Trung ương vào đến đây trước tiên hay sao?”.


Theo yêu cầu của chúng tôi muốn được đến Đầm Dơi, Tỉnh đội phó Tỉnh đội đã tự mình đứng ra trực tiếp dẫn đoàn đi. Một tiểu đội đặc công nước đi theo bảo vệ các nhà báo. Toàn tỉnh, chính quyền cũ đã nghiêng ngả, quân ngụy tan rã nhưng nhiều nơi chưa ai tiếp quản, trong đó có Đầm Dơi.

Đây là căn cứ thủy bộ lớn của Mỹ - ngụy ở Cà Mau. Vừa cho tàu cập bến, chúng tôi và Tỉnh đội phó bước lên cầu nổi đã thấy một sĩ quan ngụy quân phục chỉnh tề chạy tới, đứng nghiêm đưa tay lên chào:

- Tôi, đại úy quân đội chính quyền cũ, tình nguyện ở lại bàn giao căn cứ cho cách mạng... Cơ sở, trang bị, vũ khí gồm...

Chính trị viên Tỉnh đội cho phép viên đại úy bỏ tay chào xuống và ra lệnh dẫn chúng tôi đi thăm căn cứ.

Cái ý nghĩ làm sao có được tấm ảnh với lời chú thích “Cờ Tổ quốc đã phần phật bay từ Đồng Văn đến Cà Mau” đã giúp chúng tôi tìm được vị trí chụp ảnh. Tôi mời Tỉnh đội phó leo lên chòi gác, treo lá cờ lên và chụp ảnh, phía bên dưới và xa xa là khung cảnh căn cứ sông nước Đầm Dơi. Đứng ở Đầm Dơi nhưng tôi còn muốn nói đến những mảnh đất xa trên các đảo phía Nam. Tôi đã tìm được tổ điện đài, yêu cầu bắt liên lạc cho được nói chuyện với một đảo xa. Thế là, chờ đến “giờ hẹn liên lạc đất liền và đảo xa”, tôi nói chuyện với các chiến sĩ đang có mặt ở đảo Thổ Chu.


Phóng viên chúng tôi chưa đặt chân đến đảo này nhưng tiếng nói của chiến sĩ ta từ đó vọng về, xác nhận qua tin thuật trên báo là một vùng biển đã trở về trong quyền kiểm soát của cách mạng. Tin và ảnh được đăng lên báo, phản ánh kịp thời về một chiến công, ống kính thông tin thời sự có tác dụng như “chứng nhân một thời điểm lịch sử”. Riêng bức ảnh “Cờ Tổ quốc bay trên mảnh đất Cà Mau” được Hội nhà báo Việt Nam trao tặng giải thưởng.


Khi trở lại Sài Gòn tìm hiểu để có một chuyến đi đảo Phú Quốc thì mới hay là hòn đảo lớn nằm về mạn bờ biển tỉnh Kiên Giang này mới được giải phóng và tàn quân Khơ-me đỏ gồm mấy tiểu đoàn vừa rút chạy khỏi nơi đây. Nhưng một lực lượng của chúng còn chiếm giữ mấy hòn đảo xa.


Lúc này, anh Nghiêm Túc - Phó Tổng biên tập báo Quân đội nhân dân - cũng từ Hà Nội bay vào. Anh Nghiêm Túc và tôi bay ngay về Cần Thơ - Tây Đô. Lúc xuống sân bay Trà Nóc, gặp gỡ một số anh ở Bộ Tổng tham mưu thì được biết trận đánh sắp bắt đầu.


Một sự kỳ lạ đang diễn ra nơi đây. Toàn bộ khung phục vụ sân bay Trà Nóc cũ được gọi trở lại làm việc để bảo đảm các chế độ chăm sóc, ăn uống cho các phi công chế độ cũ tình nguyện trở lại tham gia trận đánh đảo xa. So với bữa ăn của cán bộ, chiến sĩ ta thì đây là những bữa ăn thịnh soạn, các món ăn đặc sản được thay đổi trưa chiều với tài nấu nướng của các đầu bếp có tay nghề. Anh em phi công và khung phục vụ cũ của sân bay được các sĩ quan quân đội ta đi sát động viên, ai cũng bất ngờ và phấn khởi. Cánh sĩ quan ta và nhà báo Quân đội nhân dân tất nhiên cũng được ăn theo chế độ lái máy bay!


Tôi bay ra đảo Phú Quốc trên chiếc máy bay trực thăng trước đây là chuyên cơ dùng cho phó tổng thống Trần Văn Hương và đến ngay sở chỉ huy trận đánh đặt tại căn cứ hải quân Phú Quốc - một căn cứ hải quân lớn của hải quân Mỹ - ngụy trước ngày giải phóng. Từ đây, qua diễn biến trận đánh trình bày trên bản đồ tác chiến và quan sát tàu hải quân ta xuất kích trên biển, máy bay tiêm kích, trực thăng vòng lượn trên bầu trời, cũng có thể hình dung ra trận đánh hiệp đồng quân binh chủng khá ngoạn mục. Sau những đợt tập kích bằng pháo từ hạm tàu, từ máy bay các loại, bộ binh và đặc công nước đã xông lên chiếm đầu cầu trên đảo, từ đây họ dùng hỏa lực xua đuổi lính Khơ-me đỏ, cho đến lúc chúng tháo chạy bằng thuyền.


Gặp lại các tay lái trực thăng sau trận đánh, chúng tôi được biết nhiều anh em có chung tâm sự: “Lái máy bay trực thăng chiến đấu trên biến phải rất thận trọng, bầu trời mặt biển dễ hòa lẫn nhau có thể gây tai họa. Được cách mạng đối xử như vậy mà phụ lòng thì buồn lắm. Có điều càng gần gũi càng hiểu các anh cách mạng hơn. Khi chúng tôi phát hiện và đuổi theo để bắn vào bọn tháo chạy bằng thuyền thì lệnh của cấp chỉ huy không cho bắn mà cho chúng tháo chạy an toàn. Cấp chỉ huy cách mạng rất nhân đạo...”.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:35:13 pm
TỪ ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN
CHÚNG TÔI ĐI VÀO CHIẾN DỊCH Hồ CHÍ MINH


LƯU TRỌNG LÂN
Nguyên Phó phòng Cao xạ, Phó phòng Tác huấn
thuộc Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân


Sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12 năm 1972, từ một trung đoàn trương, tôi được điều lên cơ quan Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân, làm Phó phòng Cao xạ. Ngoài công việc bộn bề trong phạm vi quân chủng, tôi còn được giao thêm nhiệm vụ nắm và theo dõi các lực lượng phòng không ở chiến trường phía Nam. Qua liên hệ với phòng Quân lực và phòng Tác chiến, nhất là với các đoàn công tác ở trong Nam ra, dần dà tôi đã nắm được những điều cơ bản về tình hình lực lượng và hoạt động của các đơn vị cao xạ trên các Mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ và Đoàn 559. Việc có vẻ ít liên quan ấy không ngờ lại trở thành thuận lợi cho tôi, khi tôi được đi B2 (Đi B: đi vào miền Nam) công tác vào năm sau.


Tháng 1 năm 1975, ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, quân ta đánh to thắng lớn. Báo, đài đưa tin: ngày 6 tháng 1, quân giải phóng miền Nam đã làm chủ toàn tỉnh Phước Long. Tôi rất phấn khởi, nhưng thật ra, trong nhận thức khi đó, tôi chưa hiểu được gì nhiều về ý nghĩa của chiến thắng nói trên.


Thế rồi tôi nhận được lệnh chuẩn bị đi B và may mắn làm sao, sáng 25 tháng 1 năm 1975, tại hội trường Quân chủng Phòng không - Không quân, cán bộ trung cao cấp của Quân chủng vinh dự được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thảm và nói chuyện. Hôm ấy, Đại tướng nói không nhiều, nhưng phân tích tình hình rất sâu sắc.


Lắng nghe lời đồng chí Tổng tư lệnh, Bí thư Quân ủy Trung ương, lòng chúng tôi vô cùng phấn chấn. Tối hôm đó đến thăm anh Lê Văn Tri - Tư lệnh Quân chủng Phòng không, tại nhà riêng, tôi được anh nói rõ thêm tình hình và động viên: “Cậu được đi B kỳ này là một vinh dự rất lớn, cũng giống như hồi 1954 cậu được đi chiến dịch Điện Biên Phủ. Chắc chắn cậu sẽ được gặp lại mẹ và các em ở Sài Gòn1 (Bố mẹ tôi vào Sài Gòn làm ăn từ những năm bốn mươi. Năm 1974, bố tôi mất; còn lại mẹ và 3 em. Anh Lê Văn Tri là anh rể tôi) trong một ngày không xa”. Anh giơ hai ngón tay, nói nhỏ: “Hai năm!”.


Sáng 27 tháng 2 năm 1975, đoàn đi B chúng tôi, với đầy đủ thành phần của một sở chỉ huy tiền phương, gồm bốn cơ quan, do đại tá Trần Quang Hùng - Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ huy, lên đường. Riêng bộ phận tác chiến chúng tôi có khoảng 15 anh em, do trung tá Phạm Sơn làm trưởng phòng, và tôi, thiếu tá, làm phó phòng, trực thuộc Bộ tham mứu tiền phương quân chủng, do trung tá tham mưu phó Lê Thanh Cảnh phụ trách.


Sau Tết Ất Mão khoảng nửa tháng, chúng tôi rời Hà Nội. Đoàn xe chúng tôi theo quốc lộ số 1 vào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Đông Hà rồi rẽ phải, theo đường 9 lên hướng Khe Sanh. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị từng là chiến trường ác liệt nhất năm 1972, hôm nay thanh bình quá đỗi. Các đơn vị pháo cao xạ, tên lửa của các sư đoàn phòng không 673 và 377 vẫn luôn luôn trực ban sẵn sàng chiến đấu, nhưng trên bầu trời kia không còn bóng dáng những pháo đài bay B52 của Mỹ đêm ngày đến “rải thảm”, cùng hàng đàn hàng lũ máy bay cường kích A6, F4... thay nhau lồng lộn, bắn phá, ném bom...


Tuy nhiên, đó là dáng vẻ bên ngoài. Mấy hôm sau tôi được biết, bên trong khung cảnh bình yên ấy, vùng giải phóng Quảng Trị đang là một trong những điểm nóng tích cực chuẩn bị cho một trận quyết chiến chiến lược kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm của dân tộc ta. Khắp nơi dưới những tán rừng rậm, trong những kho hậu cần đầy ắp hàng hóa, trùm kín ni lông, đang ẩn mình, đợi chờ đến lượt đi về phương Nam.


Cơ quan Tiền phương Quân chủng tạm thời đặt bên cạnh cơ quan Sư đoàn Phòng không 377, thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi triển khai xong sở chỉ huy, trừ một bộ phận nhỏ trực ban, hầu hết cán bộ chúng tôi được tung đi xuống các đơn vị cao xạ, tên lửa, ra-đa có mặt trong vùng, để nắm lại thực lực và công tác chuan bị hành quân.


Đến Trung đoàn 263, còn gọi là đoàn Quang Trung - đơn vị tên lửa phòng không duy nhất có mặt ở vùng giải phóng lúc đó, chúng tôi được ban chỉ huy trung đoàn chiêu đãi một bữa cơm thật ngon, bằng những món ăn “rau nhà, gà vườn”.


Sau khi làm việc với Ban chỉ huy Trung đoàn, chúng tôi phân công nhau, kẻ xuống Làng Vây; người trở ra Động Toàn, Cam Lộ; ngươi đi ngược lên Tà Cơn, Nguồn Rào để đến với các tiểu đoàn hỏa lực và kỹ thuật tên lửa SAM2.


Ở Tiểu đoàn 43, chúng tôi gặp thượng úy Nguyễn Hải Đăng - một tiểu đoàn trưởng trẻ, đẹp trai. Đăng báo cáo: “Đơn vị hiện có 26 xe các loại, đủ để cơ động toàn tiểu đoàn. Nhưng chúng tôi lo nhất là thiếu phụ tùng thay thế, đặc biệt là lốp dự phòng và càng kéo. Tinh thần cán bộ chiến sĩ rất cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất cứ lúc nào. Có vài chiến sĩ bị sốt rét đang tiếp tục điều trị”.


Chúng tôi còn đến với hai trung đoàn pháo cao xạ 221 và 226. Hai đơn vị này đã nhận được lệnh đi B3 và B21 (B3 là chiến trường Tây Nguyên, B2 là chiến trường Nam Bộ). Ở Trung đoàn 226, tôi gặp trung đoàn trưởng Trần Bảo Lược, bạn chiến đấu cũ, tính tình cởi mở, dễ mến. Anh Lược báo cáo tình hình quân số, vũ khí, xe cộ, khả năng bảo đảm hành quân và những khó khăn của đơn vị.


Những ý kiến đề xuất của các đơn vị lập tức được báo cáo lên Phó tư lệnh Quân chủng. Đại tá Quang Hùng đã chỉ đạo các cơ quan kịp thời giải quyết, về công tác tham mưu, chúng tôi đã tìm đến cơ quan Bộ Tham mưu Đoàn 559 để nhờ giúp đỡ một số việc. Anh Trần Bút - bạn thân của tôi thời Điện Biên Phủ, đã giúp tôi sao chép một số sơ đồ các tuyến đường có liên quan, để cấp cho các đơn vị hành quân. Trong các sơ đồ đều ghi rõ địa chỉ từng cung chặng, khoảng cách mỗi đoạn đường, đặc điểm địa hình, đường sá vị trí các điểm tiếp xăng dầu... rất tỉ mỉ.


Bộ Tư lệnh Đoàn 559 còn cấp cho mỗi đơn vị hành quân chúng tôi một số giấy giới thiệu để liên hệ dọc đường. Phòng thông tin hướng dẫn cho chúng tôi biết một số hệ thống đường dây, để khi đến các điểm dừng, nếu cần, chúng tôi có thể liên lạc được với nhau bằng điện thoại.


Sau khi Tiểu đoàn 43, đơn vị hỏa lực đầu tiên của trung đoàn tên lửa rời Làng Vây, sở chỉ huy tiền phương của chúng tôi cũng “nhổ neo” lên đường. Anh Phạm Sơn được phân công đi cùng Trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi, đi cùng xe với Tham mưu phó Lê Thanh Cảnh, theo hướng đông. Lái xe tên là Chiến, đồng chí công vụ tên là Cường.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:36:10 pm
Xe chúng tôi qua Sa Trầm, Ly Tôn, ngã ba Lan Nam rồi tiến vào A Lưới. Một cảnh tượng nhức nhối đập vào mắt tôi. Lần đầu tiên tôi hiểu được thế nào là chất độc hóa học của Mỹ. Cả một cánh rừng bạt ngàn toàn những cây cao lớn, nhưng trụi lá trơ cành. Những hàng cây chết đứng cứ như chạy trốn về phía sau, khi xe chúng tôi tiến nhanh lên phía trước. Nghe nói vùng này xưa kia sầm uất lắm. Vậy mà dưới bàn tay tàn bạo của giặc Mỹ, cây cối ở đây đang lụi tàn, cảnh vật biến thành một màu đen xám.


Đang miên man suy nghĩ, tôi chợt nghe anh Cảnh quay lại nói như reo: “Ông Lân ơi! Buôn Ma Thuột giải phóng rồi!”. Anh vặn to âm thanh chiếc đài bán dẫn để chúng tôi cùng nghe rõ. Trừ cậu Chiến cầm vô lăng, cả ba chúng tôi cùng vỗ tay đôm đôp: “Trời ơi! Phấn khởi quá!”. Bài xã luận của báo Quân đội nhân dân về chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi trên làn sóng nghe sao rạo rực lòng người. Anh Cảnh nói:

- Chúng mình vào, may ra còn kịp tham gia giải phóng Tây Nguyên. Sau Buôn Ma Thuột còn Kon Tum, Plây Ku, thủ phủ của quân khu 2 và quân đoàn 2 ngụy nữa.

Đến ngã ba đường 73, chúng tôi dừng xe. Một đoàn xe xích kéo những khẩu pháo nòng dài 122mm đang chuẩn bị rẽ vào lối đi Nam Đông. Một vị chỉ huy pháo binh nhìn tôi ngờ ngợ:

- Lưu Trọng Lân phải không?

Tôi chợt nhận ra người bạn cũ hồi ở Việt Bắc năm 1952.

- Hoàng Tuấn hả? Không ngờ gặp cậu ở đây!

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi cho Tuấn biết hiện nay tôi đang công tác ở Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân và đang trên đường vào Tây Nguyên. Tuấn cười, vẫn chiếc răng khểnh dễ thương như ngày nào:

- Đơn vị mình được lệnh hành quân gấp vào hướng Nam Đông, Mũi Trâu, chuẩn bị áp sát phía tây bắc Đà Nẵng. Buôn Ma Thuột thất thủ. Tây Nguyên sắp giải phóng đến nơi. Đà Nẵng chắc đang đợi bọn mình đấy, Lân ạ! Thôi chia tay nhé! Hẹn gặp lại nhau ở Sài Gòn!


Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên chặng đường Trường Sơn Đông. Những địa danh A Sầu, Bù Lạch, Xưởng Giấy, A Vương, Trao, Bung... lần lượt lùi lại phía sau.


Khi sắp qua bến Giàng, chúng tôi gặp một đơn vị pháo cao xạ 37mm đậu sát bên đường. Hỏi ra thì biết đó là Tiểu đoàn 106 thuộc Trung đoàn 545 Sư đoàn 377. Một cán bộ trạc tuổi bốn lăm, khuôn mặt trắng hồng, râu quai nón đang giơ tay chỉ trỏ. Thấy quen quen, tôi nhìn kỹ, hóa ra đó là Hà Văn Lực, người dân tộc Tày, đại đội trưởng cũ của tôi trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi lên tiếng gọi. Anh quay lại, ngỡ ngàng:

- Lân đấy à! Đã lâu lắm bây giờ mới gặp lại nhau. Lâu nay trung đoàn mình bảo vệ bến Giàng. Trung đoàn 227 của Nguyễn Văn Chí ở Bi Hiên, Trung đoàn 528 của ông Tùng “Trố" ở A Lưới. Còn Trung đoàn 594 của cậu Chính, Trung đoàn 218 của cậu Toàn hiện cũng đang di chuyển vào phía trong. - Anh nắm tay tôi thật chặt: - Thôi! Cậu đi mạnh khỏe! Đừng quên tớ nhé!

Tôi cười:

- Quên sao được Hà Văn Lực, đại đội trưởng xuất sắc nhất của Trung đoàn pháo cao xạ 367 trong chiến dịch Điện Biên năm xưa.

Chúng tôi đến Khâm Đức trong một ngày đẹp trời. Tin giải phóng Phước An, Kon Tum, Plây Ku dồn dập bay tới. Rồi tin hàng vạn tên địch kinh hoàng tháo chạy khỏi Tây Nguyên, đang bị quân ta đuổi và chặn đánh ở Cheo Reo, Phú Túc. Niềm hân hoan tràn ngập trên ánh mắt mỗi người. Đâu đâu cũng thấy xe ta đậu kín đường, kín bãi. Các quán ăn tấp nập người vào ra, cả bộ đội, cán bộ dân chính, cả đồng bào Kinh, Thượng, nhìn ai cũng vui như Tết.


Từ Khâm Đức, chúng tôi còn phải đi hơn một trăm ki-lô-mét nữa để đến Đắc Công, ở ngay ki-lô-mét “không” đường 14B. Lẽ ra phải đi hướng Sa Thầy, nhưng do bắc Tây Nguyên đã được giải phóng, chúng tôi chuyển hướng đi Kon Tum. Trên đương nhựa trơn láng của đường 14, xe chúng tôi lướt nhanh qua Đắc Tô, một địa danh nổi tiếng.


Bên đường, chúng tôi thấy một xe tải đổ kềnh, bốn bánh chổng lên trời, bẹp dúm. Được biết đó là chiếc xe từ Khâm Đức vào, đường xấu chuyển sang đường tốt, lái xe cho xe chạy quá nhanh nên mới xảy ra tai nạn. Đây là một kinh nghiệm mà sau đó chúng tôi đã phải phổ biến cho đội ngũ lái xe của mình.


Anh Quang Hùng chỉ thị cho chúng tôi phải liên lạc gấp với các đơn vị đi đầu của Trung đoàn tên lửa 263 từ cánh tây Trường Sơn xuống. Được giao nhiệm vụ này, tôi lập tức tìm đường tắt sang thẳng Sa Thầy. Ở đây là khu vực ngã ba biên giới, đường sá chằng chịt. Đến nam Plây Khốc, khi đang lớ ngớ tìm đường, tôi gặp một cán bộ đứng cạnh một chiếc xe con. Đến gần, tôi đang định hỏi anh đường ra Xê Sụ, thì chợt nhớ ra, tôi mừng rỡ:

- Anh Phan Biên! Chính ủy Binh trạm 31... - Thấy anh còn phân vân, tôi nói tiếp: - Chắc anh quên tôi! Cách đây ba năm, đúng ngày mồng 5 Tết âm lịch, các anh đã chiêu đãi bọn tôi, đoàn cán bộ pháo cao xạ đi tìm trận địa bị lạc đường một bữa bánh chưng no nê ở nam Ka Vát. Anh còn nhớ không? Chính anh đã tặng riêng tôi một lạng cao Canh-ki-na nữa.

- A! Nhớ ra rồi. Hồi đó anh là trung đoàn phó Trung đoàn 227. Bây giờ anh đi đâu đây?

- Tôi đi ngược Trường Sơn Tây, đón đơn vị tên lửa.

- À! Mình vừa ở ngoài đó vào. Tiểu đoàn đi đầu của các ông có lẽ đang qua ngầm Xê Sụ, chuẩn bị vượt đèo Ăm Pun.


Nói rồi, anh Biên hướng dẫn đường đi cho tôi, tỉ mỉ. Được biết: nay anh là chính ủy Sư đoàn xe 471, phụ trách quãng đường này, vào tận B2.


Tôi gặp anh Phạm Sơn và tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 43 Trần Đăng Trạm ở chân đèo AWm Pun lầy lội, sau mấy trận mưa đầu mùa. Phạm Sơn kể cho tôi nghe cuộc hành trình vượt Trường Sơn khá gian nan của tên lửa ta. Đường nói chung tốt, nhưng do khí tài tên lửa vừa cao, vừa dài, vừa nặng, rất cồng kềnh, nên khi vào cua hoặc lên xuống dốc, rất khó khăn.

Tôi nói với Phạm Sơn:

- Anh Quang Hùng chỉ thị: ông về ngay Sở Chỉ huy tiền phương Quân chủng ở Plây Ku để báo cáo tình hình. Trung đoàn 263 không dừng lại ở Tây Nguyên nữa mà vào thẳng B2 luôn. Đoàn nặng đi tiếp đường 14B. Đoàn nhẹ, gồm xe kéo đạn và cơ quan, rẽ Plây Ku đi thẳng đường 14. Hai đoàn sẽ tập kết ở Đức Lập, chờ lệnh mới.


Sau khi truyền đạt mệnh lệnh cho trung đoàn trưởng Tích, anh Phạm Sơn và tôi lên xe về Plây Ku. Sau khi sở Chỉ huy Tiền phương Quân chủng được đặt xong ở căn cứ sư đoàn không quân chiến thuật số 6 của quân ngụy cũ, anh Lê Thanh Cảnh được phân công đi trước vào B2, để liên hệ với cơ quan Tiền phương Bộ ở địa điểm mới.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:37:29 pm
Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ. Quân ta thắng như chẻ tre. Tin vui đến dồn dập.

Phó tư lệnh Trần Quang Hùng bảo chúng tôi:

- Thời cơ mở cuộc đại tiến công vào Sài Gòn sắp đến! Miền Nam sẽ được giải phóng sớm! Không phải kéo dài một năm nữa đâu. Anh Tuấn đã có lệnh cho chúng ta chuẩn bị vào B2.


Sáng ngày 9 tháng 4, đang đi trên đường Vạn Kiếp ở bắc thị trấn Plây Ku, tôi gặp xe của tiểu đoàn 8 ra-đa vừa tới. Tiểu đoàn trưởng Trần Quang Sáng, người cao to mạnh khỏe, nước da ngăm đen, đang tìm đường đến Tiền phương Quân chủng. Tôi dẫn Sáng về sở chỉ huy và nghe anh báo cáo với Phó tư lệnh Quang Hùng:

- Tiểu đoàn 8 gồm bốn đại đội ra-đa trinh sát, xuất phát từ Khe Sanh ngày 31 tháng 3, đi theo tuyến Tây Trường Sơn. Ngày 4 tháng 4 đến Khâm Đức, ngày 9 tháng 4 đến đây, gồm 47 xe, máy, đầy đủ an toàn.

Rồi hồn nhiên, anh hỏi:

- Tây Nguyên giải phóng rồi! Chúng tôi đi đâu bây giờ thủ trưởng?

Anh Quang Hùng nhìn Sáng, cười vui vẻ, nói:

- Mệnh lệnh tám chữ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa truyển đi khắp toàn quân: “Thần tốc - Táo bạo - Bất ngờ - Chắc thắng!”. Trên tinh thần đó, con đường của Tiểu đoàn 8 các cậu là hướng vào Sài Gòn đấy! Vắt chân lên cổ mà chạy! Hôm nay nghỉ ở Plây Ku. Ngày mai đi tiếp, để có mặt ở B2 trước 15 tháng 4.


Vài hôm sau, rời Plây Ku, qua các phố Lý Thái Tổ, Hoàng Diệu, chúng tôi trở lại đường 14, đi thẳng vào Buôn Ma Thuột rồi đi tiếp vào Đức Lập. Ở đây, anh Phạm Sơn cử một trợ lý tên lửa nằm lại chờ Trung đoàn 263, còn tất cả tiếp tục cuộc hành trình. Đến Tuy Đức, chúng tôi bỏ đường 14, rẽ lối Bù Gia Mập - Bù Đốp về thẳng Lộc Ninh. Bù Đốp và Lộc Ninh bạt ngàn rừng cao su. Đồng bào, bộ đội đi lại đông vui, xe cộ ngược xuôi nhộn nhịp. Có khá nhiều xe con, xe Hon-đa, loại xe mà lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy ở Kon Tum tuần lễ trước.


Đến trạm tiếp đón, chúng tôi được hướng dẫn về cơ quan tham mưu phòng không B2 và được bố trí nơi làm việc bên cạnh Sở Chỉ huy Sư đoàn pháo cao xạ 77.

Tối hôm ấy, chúng tôi được nghe phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Anh Phạm Sơn xem những ghi chép mà anh đã được cơ quan Cục Tác chiến hướng dẫn. Thời gian rất gấp rút. Chúng tôi phân công nhau xây dựng “Quyết tâm chiến đấu của lực lượng phòng không trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định”.


Riêng tôi, nhờ đã sơ bộ nắm được toàn bộ lực lượng phòng không phía Nam trước đây, nay được thông tin thêm về những bổ sung mới, những chuyển dịch mới, tôi có thể dễ dàng thể hiện lên sơ đồ tác chiến vị trí các đơn vị phòng không, trong đội hình tiến công của các quân đoàn chủ lực, từ năm hướng, xung quanh Sài Gòn.

Nhớ lại hồi Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng phòng không chúng tôi tham gia chiến dịch chỉ có một trung đoàn pháo cao xạ 37mm và năm tiểu đoàn súng máy 12,7mm.

Vậy mà hôm nay, trong trận đánh tổng lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, lực lượng phòng không của chúng tôi - không tính gần ba chục trung đoàn cao xạ, tên lửa, ra-đa đang làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương miền Bắc và các vùng mới giải phóng từ Cam Ranh trở ra - lên tới: bốn sư đoàn và lữ đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 57mm và 37mm trực tiếp nằm trong đội hình tiến công của các quân đoàn; một sư đoàn pháo cao xạ bảo vệ giao thông chiến dịch. Nếu tính cụ thể, tổng cộng tất cả có tới gần hai chục trung đoàn pháo cao xạ tham gia chiến dịch này.


Đó là chưa kể ở mỗi sư đoàn bộ binh còn có trong biên chế những tiểu đoàn pháo 37mm và nhiều đơn vị súng máy cao xạ 12,7mm riêng.

Tên lửa có một trung đoàn SAM2 bố trí ở bắc Sông Bé và một tiểu đoàn tên lửa vác vai A72 được chia làm nhiều mũi, đi cùng bộ binh và đặc công trên các hướng.

Ra-đa có một tiểu đoàn, gồm bốn đại đội, bố trí từ bắc Sông Bé lên bắc Biên Hòa.

Lực lượng phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn quả thật hùng hậu, thật sung sức. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: “Quân chủng phải gấp rút tăng cường lực lượng tối đa cho miền Nam”.


Về phía không quân địch, tuy ta vẫn phải đề phòng khả năng Mỹ can thiệp bằng máy bay chiến lược B52, nhưng đối tượng tác chiến chủ yếu của bộ đội phòng không trong chiến dịch này là không quân chiến thuật ngụy. Lực lượng chúng có ba sư đoàn với hơn 1.000 máy bay các loại. Số máy bay tiêm kích, cường kích F5, A37 có hơn 100 chiếc, bố trí ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ. So với thời kỳ còn quân Mỹ ở Việt Nam, thật là một trời một vực, nhất là khi tinh thần của bọn phi công đã suy sụp, thì lực lượng so sánh ở mặt trận trên cao rõ ràng là có lợi cho ta rất nhiều. Tuy nhiên ta không thể chủ quan.


Nhiệm vụ của các đơn vị Phòng không - Không quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh được Bộ chỉ huy chiến dich giao cho như sau: Yểm hộ các binh đoàn làm nhiệm vụ bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch ở vòng ngoài. Yểm hộ trực tiếp đội hình của các binh đoàn cơ giới thọc sâu. Bảo vệ các cầu phà quan trọng, trên đường hành tiến của bộ binh. Bảo vệ hậu phương và giao thông chiến dịch trên các hướng. Phối hợp với pháo binh mặt đất khống chế sân bay Biên Hòa và Tấn Sơn Nhất. Sử dụng không quân tập kích những mục tiêu có ý nghĩa chiến dịch đạt yếu tố táo bạo, bất ngờ.

Riêng nhiệm vụ sau cùng, chúng tôi chỉ biết vậy, còn tổ chức thực hiện ra sao thì không được rõ.

Tất cả những tình hình, nhiệm vụ và số liệu trên đây đều được chúng tôi thể hiện tổng quát lên sơ đồ tác chiến chiến dịch.

Xa nhà ai chẳng nhớ quê hương, gia đình, vợ con. Đêm nằm nhớ về Hà Nội, nhất là những ngày tháng này tôi nghĩ ở ngoài kia chắc đồng bào Hà Nội và miền Bắc đang hướng cả về miền Nam. Dịp may đến với tôi thật bất ngờ. Một anh bạn từ Hà Nội vừa vào, trao cho tôi một lá thư nhà. Bóc vội phong thư, tôi đọc ngấu nghiến những dòng chữ thân thương của vợ "... Tình hình ở nhà bình yên. Cả tháng nay Hà Nội vui như Tết. Em mua cho hai con một tấm bản đồ miền Nam, có in sẵn những lá cờ bé xíu ở phía dưới. Mỗi lần nghe tin miền Nam giải phóng đến đâu là chúng tranh nhau cắt cờ, dán cờ. Quân Giải phóng tiến nhanh quá! Chúng dán cờ không kịp... Anh hiện nay đang ở đâu, làm sao em biết ? Ngày thành phố Sài Gòn được giải phóng, chang phải là còn hai năm như anh dặn em trước khi ra đi, mà sắp đến nơi rồi phải không anh? Niềm vui được gặp lại mẹ và các em chắc chang còn xa, anh nhỉ! Chờ mong tin chiến thắng. Chờ mong tin anh mỗi ngày...". Tôi đút lá thư vào túi áo mà lòng dạ cứ nao nao, càng nhớ vợ con da diết, càng mong sao Sài Gòn sớm được giải phóng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:41:23 pm
Một buổi chiếu trong căn lán nhỏ, khi tôi và anh Phạm Sơn đang cùng nhau hoàn chỉnh những chi tiết cuối cùng trên tấm sơ đồ “Quyết tâm chiến đấu”, thì anh Quang Hùng bước vào. Bằng một giọng nghiêm trang, anh nói:

- Tôi vừa ở Bộ Tư lệnh chiến dịch về. Báo các cậu một tin quan trọng: Bộ Chính trị vừa điện vào cho phép chiến dịch này mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Phạm Sơn và tôi đứng bật dậy, nói như reo:

- Thật thế hả anh? Ồi! Thích quá! - Tôi còn nhớ mãi nụ cười rạng rỡ của Phạm Sơn lúc đó.

- Chứ lại không thật à! Chính xác một trăm phần trăm! Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị ký tên đấy! Anh Tuấn trực tiếp phổ biến mà! Thôi! Cậu Lân nét chữ tốt, viết ngay tên lên bản đồ chiến dịch. Còn Phạm Sơn chuẩn bị cùng tôi sáng mai lên Bộ Tổng Tham mưu thông qua kế hoạch tác chiến.


Lòng mừng vui khấp khởi, tôi nắn nót kẻ lên tấm sơ đồ cỡ lớn, một dòng chữ đậm: “Quyết tâm chiến đấu của bộ đội phòng không - Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Tay cầm bút mà lòng tôi như trào dâng một niêm vui khó tả. Ôi! Chiến dịch được mang tên Bác. Thật là hạnh phúc cho những ai được tham gia chiến dịch này. 

Giờ đây thành phố thân yêu đang mong chờ đoàn quân tiến vào giải phóng. Các ba, các má, các anh chị em trong đó, giờ này chắc cũng đang chuẩn bị, sẵn sàng nổi dậy, phối hợp tác chiến với đại quân giành thắng lợi cuối cùng.


Sáng 23 tháng 4, rời Lộc Ninh, Phạm Sơn và tôi mỗi người đi một hướng. Phạm Sơn đi đốc chiến ở Trung đoàn 263 tên lửa. Còn tôi đi hướng Quân đoàn 3.

Theo đường liên tỉnh 17, quẹo sang lộ Trắng, vượt lộ Đỏ, qua suối Bà Chiêm, cầu Võ Tùng, tôi đến núi Ong - nơi trú quân của Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Chủ nhiệm phòng không Quân đoàn 3 là trung tá Nguyễn Cần, vừa gặp tôi liền hỏi ngay:

- Phạm Sơn đâu?

Tôi đáp:

- Phạm Sơn xuống theo dõi Trung đoàn tên lửa 263. Còn mình được phân công sang đây với các cậu.

- Ôi! Thế thì còn gì bằng! Mày với tao sẽ cùng vào Sài Gòn nhé!

Nguyễn Cần, Phạm Sơn và tôi là bạn thân từ hồi ở chiến khu Việt Bắc, khi cùng là học viên dự khóa không quân, Đoàn 33.

Đi vào công việc, Nguyễn Cần rút tấm sơ đồ trong cặp ra, giới thiệu cho tôi biết nhiệm vụ của pháo cao xạ, tên lửa tầm thấp A72 trong đội hình Quân đoàn 3. Các trung đoàn 232, 234, 593 và đại đội tên lửa, vác vai đã sẵn sàng, đang bám sát các Sư đoàn bộ binh 316, 320 và Sư đoàn 10 ở vị trí tập kết. Nguyễn Cần nói thêm: tớ cũng vừa đi thực địa xuống các trung đoàn về đây. Khí thế lắm! 


Nhìn ra, thấy anh Luân và anh Như, hai cán bộ của cơ quan tham mưu quân chủng được tăng cường cho quân đoàn tuần trước, đang đi vào. Chúng tôi bắt tay nhau, chuyện trò vui vẻ. Nguyễn Cần lấy chiếc đài bán dẫn, bật công tắc. Bỗng nhiên vang lên tiếng nói của đài phát thanh ngụy quyền Sài Gòn, nghe oang oang: Mấy ổng biểu tôi làm cái việc mà mấy ổng, với nửa triệu lính, binh hùng tướng mạnh, xài gần 300 tỉ đô-la, trong bảy năm trời, nếu không nói là bị Cộng sản đánh bại thì có thể nói một cách khiêm nhường rằng mấy ổng không có thắng. Vậy mà bây giờ mấy ổng bắt tôi làm cái chuyện đội đá vá trời... Phi lý! Phi lý! Phi lý!... Việt Nam Cộng hòa yêu cầu Hoa Kỳ phải nhanh chóng can thiệp và chi viện cho chúng tôi vũ khí, đạn dược. - Tới tấp! Tối tấp! Tới tấp!...”.

Thì ra là “tổng” Thiệu đang chửi lại quan thầy Mỹ. Bốn chúng tôi phá lên cười thích thú.

Chiều 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Năm cánh quân của các Quân đoàn chủ lực 1-2-3-4 và Binh đoàn 232 dồn dập tiến công quân địch từ năm hướng. Quân đoàn 3 phụ trách hướng tây bắc: Đồng Dù, Củ Chi, Trảng Bàng, Hóc Môn đánh vào Tân Sơn Nhất.


Chiến sự trong hai ngày đầu chiến dịch, qua thông báo của quân đoàn, diễn ra trong thế thắng áp đảo của quân ta trên mọi hướng. Tuy nhiên, ở một số nơi quân ngụy đã chống đỡ khá quyết liệt trước khi bị quân ta đè bẹp, như tại căn cứ Đồng Dù, căn cứ Nước Trong, trên cầu Rạch Chiếc.... Chiều 28 tháng 4, các quân đoàn chủ lực ta cùng với bộ đội địa phương và lực lượng quần chúng nổi dậy đã bao vây chặt Sài Gòn. Tối hôm đó được tin thêm: một phi đội A37 do anh em ta lái đã ném bom khu để máy bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Sau đó là lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận.


Đúng lúc ấy, tôi nhận được điện của anh Quang Hùng từ Sở chỉ huy chiến dịch bên Căm Xe gọi xuống. Anh chỉ thị cho tôi tìm mọi cách bám sát bộ binh, để vào Sài Gòn thật nhanh, tìm địa điểm lập sở chỉ huy mới của quân chủng tại Tân Sơn Nhất.

Tôi chia tay Nguyễn Cần. Cần trao cho tôi một lạng cao ban long và một gói sâm.

- Hôm nào gặp lại bà cụ, mày nói đây là quà của thằng Cần, bạn của con, biếu mẹ! Thôi, hẹn gặp lại ở Sài Gòn nhé!

Tôi cám ơn Cần, rồi lên xe.

Xe chúng tôi chạy về Chơn Thành, rồi rẽ phải, theo quốc lộ 13 đi xuống Bến Cát. Vừa đi được một quãng, chúng tôi bị một cây ba-ri-e sơn màu trắng đỏ, chặn ngang:

- Bến Cát còn địch. Đề nghị các đồng chí quay lại! - Đó là tiếng nói nghiêm túc của một chiến sĩ đội mũ tai bèo, đeo băng cờ Mặt trận. Không lẽ ngồi chờ, tôi đành bảo lái xe quay lại, mở bản đồ1 (Tấm bản đồ tỉ lệ 1/250.000, tôi lấy được ở Bộ tư lệnh quân đoàn 2 ngụy, tại Plây Ku) tìm lối khác. Thôi! Quay sang Đồng Xoài, rồi sẽ liệu.


Đồng Xoài, một ngã năm toàn màu đất đỏ. Cây cối hai bên đường phủ kín một lớp bụi dày, chẳng còn màu xanh nữa. Cạnh ngã năm có cắm một cột mốc to, treo chi chít những mũi tên chỉ đường. Đến bên một chiếc Jeép, tôi hỏi anh cán bộ ngồi trên xe. Anh là người của Quân đoàn 4, có việc trở ra Phước Long. Anh gợi ý tôi nên đi hướng Vĩnh An, gặp đường 20, về tây Xuân Lộc, rồi theo đường 1 về Biên Hòa. Tôi nghĩ bụng lối này xa quá, nhưng chẳng còn đường nào khác, đành quyết định đi theo hướng anh bạn vừa chỉ.


Xe qua Cầu Cây, đường trở nên xấu, vì là đường mới mở phục vụ chiến dịch. Bến phà Vĩnh An phía trước chật cứng hàng trăm xe chờ sang sông.

Tôi bỗng nghe hàng loạt đạn tiểu liên nổ giòn phía sau, tiếp theo là những tiếng hô: “Sài Gòn giải phóng rồi! Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi!”. Tiếng la hét, tiếng reo mừng vang dội. Đạn liên thanh các cỡ nổ rầm trời. Chúng tôi cũng hò reo khản cổ. Những chiếc đài bán dẫn đâu đó vang vang tin chiến dịch toàn thắng.


Chạy khoảng mươi ki-lô-mét, chúng tôi gặp đường 20 ở ngã ba Túc Trưng. Thấy đường tốt, cậu lái xe mừng rơn: Đi lối nào thủ trưởng? Tôi cười: Nếu cậu muốn lên Đà Lạt nghỉ mát thì rẽ trái. Còn nếu muốn về Sài Gòn thì rẽ phải.

- Thủ trưởng tuyệt quá! Đường lạ mà sao thủ trưởng thành thạo thế!

- Cậu nên “khen" thằng Mỹ ấy. Đó là nhờ bản đồ của nó vẽ quá chính xác đấy thôi!

Đường tốt, xe chúng tôi lại bon bon. Đến Dầu Giây, gặp đường số 1, tôi cho xe chạy thẳng đến sân bay Biên Hòa. Đại tá Hoàng Ngọc Diêu - Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không - Không quân, Chủ nhiệm Phòng không - Không quân chiến dịch cũng vừa có mặt ở đây. Theo chỉ thị của anh Diêu, sáng hôm sau, ngày 1 tháng 5, tôi đi tiếp về Sài Gòn.


Xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa rộng thênh thang, có những đường vạch sơn phân tuyến. Thỉnh thoảng có những “con lươn” bằng bê tông chạy dài chính giữa. Xe từ phía ngoài vào vẫn không ngớt. Có nhiều xe chở cán bộ dân chính vào tiếp quản. Xe nào cũng cắm cờ Mặt trận nửa đỏ nửa xanh. Xe tôi cũng cắm cờ. Cánh tay tôi cũng đeo băng xanh đỏ. Cờ giải phóng phần phật tung bay trong gió. Ôi! Náo nức và phấn khởi vô cùng.


Chiến sĩ ta trẻ măng, ngồi trên xe, vẻ mặt ai cũng hân hoan. Một chiếc xe khác, hình như chở đoàn văn công, chạy cùng chiều, cả nam lẫn nữ đều đội mũ tai bèo, nhưng hất tung về phía sau. Những cô văn công xinh đẹp, với mớ tóc dài bồng bềnh bay trong gió, đang hát vang bài ca: "Tiến về Sài Gòn".


Cầu Đồng Nai, cầu Sài Gòn thật đẹp! Và cả cầu Rạch Chiếc, vẫn còn nguyên vẹn cả. Tôi thầm nghĩ không biết có bao nhiêu chiến sĩ đặc công của mình đã ngã xuống những nơi đây, để cho đại quân ta tiến vào thành phố nhanh như cơn lốc? Hai bên xa lộ vắng vẻ. Nhưng trên đường thì đầy rẫy những áo quần, giày mũ của các sắc lính ngụy tháo chạy, vứt bỏ ngổn ngang. Có nhiều xe nhà binh vô chủ, đậu rải rác.


Qua ngã tư Hàng Xanh1 (Hồi đó nơi đây bà con gọi là Ngã tư Xa lộ), chúng tôi thấy người đông hẳn lên. Đồng bào thành phố, ăn mặc đủ kiểu, đứng chật ních trên vỉa hè, vẫy cờ, hoa chào các anh giải phóng. Trên các cổng nhà đều treo cờ, cả cờ Mặt trận và cò đỏ sao vàng. Xen vào dòng xe ôtô của bộ đội là những chiếc xe gắn máy của người dân thành phố chạy ngược xuôi.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 26 Tháng Tư, 2021, 01:43:45 pm
Lẽ ra xe tôi cứ thẳng đường vào Tân Sơn Nhất, nhưng thoáng nghĩ đến dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, nơi tổng thống Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng quân cách mạng, tôi liền bảo lái xe rẽ sang cầu Thị Nghè, qua đường Hồng Thập Tự1 (Nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai). Gặp đường Đinh Tiên Hoàng, xe ngoặt trái, rồi rẽ sang đại lộ Thống Nhất (đại lộ Lê Duẩn ngày nay). Đầu óc tôi bỗng bừng bừng khó tả khi trước mắt tôi hiện ra một tòa nhà đồ sộ. Tôi đoán đó là dinh Độc Lập. Trên đỉnh cột cao, lá cờ giải phóng đang tung bay theo chiều gió. Đẹp đẽ làm sao! Tôi hình dung giữa lá cờ như có hình bóng Bác thân yêu đang giơ tay vẫy vẫy. Nhớ đến Bác, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của Tố Hữu:

"Miền Nam đang thắng mơ ngày hội.
Rước Bác vào thăm thấy Bác cười".

Bây giờ không còn là mơ nữa, cả miền Nam đang trong ngày hội lớn. Cả Sài Gòn như đang đón Bác trở về sau hơn sáu chục năm trời xa cách. Bến Nhà Rồng năm xưa tiễn Bác ra đi, hôm nay như đang được đón Bác trở về, giữa lòng mọi người và trên đài vinh quang chói lọi. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc. Hẳn Bác rất vui lòng.


Hai bên đại lộ và trong sân dinh Độc Lập, xe tăng, xe pháo đậu san sát. Bộ đội ta tràn ngập các vườn cây, bãi cỏ bên ngoài và bên trong dinh. Rải rác có những bếp cơm của anh nuôi đang đỏ lửa. Thấy một đại đội bốn khẩu pháo cao xạ 57mm đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, tôi đến bên thăm hỏi tình hình. Anh pháo thủ cho tôi biết đây là pháo của Tiểu đoàn 7, thuộc Trung đoàn 284, tôi mừng quá, nói lớn:

- Các cậu giỏi thật! Tiểu đoàn 7 cao xạ anh hùng của đường Trường Sơn, giờ đây đã có mặt giữa Sài Gòn.

Các pháo thủ nhao nhao hỏi:

- Sao thủ trưởng biết đơn vị bọn em? - Đúng lúc đó, một cán bộ chỉ huy vừa đến. Nhìn thấy tôi, anh đưa tay chào rồi đến bắt tay rối rít:

- Thủ trưởng Lân! Em là Nguyễn Văn Minh, lính cũ của thủ trưởng hồi chiến dịch Điện Biên đây mà!

- Ôi! Minh đấy à. Không ngờ chúng mình lại gặp nhau tại dinh Độc Lập này.

Minh kể cho tôi nghe chiến công của trung đoàn anh trong những ngày chiến dịch:

- Trung đoàn 284 có nhiệm vụ bảo vệ đội hình thọc sâu của Quân đoàn 2. Dọc đường tiến quân, bọn em đánh tan tác máy bay địch đến ném bom, hạ thấp nòng pháo nã vào những lô cốt, những ụ súng ngầm hai bên đường, để yểm hộ bộ binh hành tiến. Có tiểu đoàn còn chĩa súng bắn bị thương tàu chiến trên sông Đồng Nai nữa. Cũng ác liệt, nhưng thích lắm anh ạ!

Tôi nắm chặt đôi bàn tay rắn chắc của Minh khổng muốn rời.

- Thôi! Mình phải đi gấp. Hẹn ngày gặp lại!

Tôi chào Minh và anh em pháo thủ, rồi lên xe hướng về Tân Sơn Nhất theo đương Lê Văn Duyệt1 (Nay là đường Cách mạng tháng Tám) .

Đường Lê Văn Duyệt quá hẹp, người lại đông. Xe cứ nổ máy, nhích lên từng bước, chậm rì. Mỗi khi xe đứng, tôi tranh thủ nói chuyện với những người ở gần. Ai cũng thích tiếp chuyện với chúng tôi. Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong óc: phải báo tin cho mẹ biết mình đã về. Tôi liền lấy sổ tay xé một mảnh giấy, ghi nhanh mấy chữ: “Thưa mạ2 (Mạ: Tiếng địa phương nghĩa là mẹ), con đã vào Sài Gòn. Sẽ về thăm mạ và các em một ngày gần đây. Con: Lưu Trọng Lân”. Gấp thư lại, tôi nghiêng đầu ra ngoài xe, nói với anh thanh niên đang ngồi trên một chiếc Honda:

- Anh có thể chuyển giúp lá thư này đến gia đình tôi được không?

- Được thôi chú à! - Người thanh niên sốt sắng đáp. Vậy nhà chú ở đâu?

- Số nhà 212/92 hẻm xóm Chùa, đường Trần Quang Khải, quận Một3 (Tôi biết được địa chỉ của gia đình là nhờ một người bà con ở Pháp viết bức thư báo tin, lúc tôi ở Hà Nội).

- Ôi! Thế thì con sẽ đưa cho chú ngay chiều nay thôi.

- Cám ơn cháu nhiều. Chào cháu!

Tân Sơn Nhất trước mặt rồi, nhưng vào cổng nào đây? Sau một lúc hỏi thăm đường, chúng tôi rời ngã tư Bảy Hiển rẽ về Lăng Cha Cả, để vào sân bay bằng cổng số 5 mà bà con gọi là cổng Phi Long. Nhìn sang hai bên đường tôi thấy mấy chiếc xe tăng T.54 của quân ta bị bắn cháy.


Tôi lặng người, chạnh nghĩ: cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, trước giờ toàn thắng, vẫn còn những đồng đội của tôi tiếp tục ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc!


Trình giấy, qua ba-ri-e do các chiến sĩ ta đứng gác, chúng tôi đi thẳng vào căn cứ sư đoàn 5 không quân ngụy nghiên cứu vị trí đặt sở chỉ huy tiền phương Quân chủng. Sau khi đến xem xét, các anh Quang Hùng, Ngọc Diêu đã quyết định cho đặt Sở chỉ huy tạm thời của Tiền phương Quân chủng tại đây.


Mấy hôm sau, tôi xin phép thủ trưởng Bộ Tham mưu cho về thăm gia đình. Chiếc xe con cắm cờ Mặt trận, chầm chậm đi vào con hẻm nhỏ, dừng lại trước căn nhà số 212/92. Bà con lối xóm ùa ra.

- Bà Lai ơi! Có chú giải phóng hỏi nhà bà đây nè.

Cửa mở. Hai em gái tôi chạy ra trước tiên, ngỡ ngàng. Ngày xa nhau cách đây 27 năm, khi mẹ tôi dắt díu hai em vào vùng tạm chiếm, theo một số đồng bào tìm đường vào Nam gặp cha tôi, thì hai em gái tôi còn quá nhỏ, còn tôi đã ở tuổi 18. Giờ đây, tôi đã ngoài ba mươi, các em khó nhận ra tôi là phải. Tôi vội vàng lên tiếng:

- Diệu Liên, Diệu Minh hả? Anh Lân đây!

Cô em út miệng cười tươi như hoa:

- Thư anh gửi, mạ và bọn em đã nhận được ngay chiều mồng 1 tháng 5. Ngày nào mạ và chúng em cũng mong anh về.

Cô chị thì rối rít gọi vào trong:

- Mạ ơi! Anh Lân về. Mạ ơi! Anh Lân về. - Sau đó không quên chạy ra đường mời chú lái xe vào nhà chơi.

Tôi bước vào nhà, ôm chầm lấy mẹ tôi. Mẹ tôi đã quá già. Gần ba mươi năm rồi còn gì. Ngước mặt nhìn con, mẹ tôi nghẹn ngào:

- Con ơi! Ba con đã ra đi từ năm ngoái. Ba đi quá sớm, không đợi được ngày về của con. - Lời nói của mẹ làm tim tôi thắt lại.

- Thưa mạ! Con đã được tin ba con mất, do một cán bộ làm việc ở phòng lưu trữ của Thư viện Quốc gia - Hà Nội, tình cờ đọc được lời cáo phó trong một tờ báo từ miền Nam gửi ra, báo lại cho con.

Mẹ tôi lau nước mắt rồi hỏi han tình hình bà con mình ngoài Bắc, tình hình con gái, con rể, con dâu, nhất là các cháu nội, ngoại của bà. Tôi rút ví, lấy tấm ảnh hai vợ chồng tôi chụp với hai con, đưa cho bà xem. Nét mặt mẹ tôi hiện lên niểm vui rạng rõ:

- Ôi! Hai cháu Quang và Lan Phương của bà dễ thương quá!

Chuyện trò đã lâu, tôi xin phép mẹ cho trở về đơn vị, hẹn hôm nào thư thả công việc, sẽ ở nhà với mẹ được lâu hơn.

Tối hôm ấy, một mình tôi leo lên lầu thượng của tòa nhà Sở chỉ huy. Đứng trên tầm cao, tôi phóng mắt nhìn quang cảnh Sài Gòn về đêm, ngập tràn ánh điện. Lòng tôi lâng lâng tự hào, với vinh dự được có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng thành phố.

Hướng về phía tây bắc, xuyên qua màn đêm, tôi hình dung lại chặng đường hành quân vừa qua, dọc theo chiều dài đất nước, trên dãy Trường Sơn hùng vĩ.

Đường Trường Sơn, con đường mang tên Bác kính yêu, đưa chúng con vào trận đánh cuối cùng của cuộc trường chinh ba mươi năm, sẽ mãi mãi đi vào lịch sử quang vinh của dân tộc, mãi mãi là niềm tự hào của Tổ quốc Việt Nam.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:28:46 am
PHI ĐỘI QUYẾT THẮNG VỚI ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN


Theo lời kể của
Thiếu tướng NGUYỄN HỒNG NHỊ
Anh hùng LLVTND


Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, Không quân nhân dân là lực lượng luôn luôn sẵn sàng chi viện cho chiến trường bất cứ tình huống nào, kể cả những thời điểm mà không quân Mỹ đánh phá thủ đô Hà Nội dã man nhất. Bộ đội không quân vẫn dành một phần lực lượng tinh nhuệ nhất để tham gia chiến đấu bảo vệ hành lang vận chuyển tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Đặc biệt đầu năm 1975, khi chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột mở màn thì sân bay Đồng Hới trở thành sân bay đầu cầu quan trọng nhất của không quân ta. Ngày cũng như đêm máy bay vận tải tấp nập vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men và bộ đội vào chiến trường. Song vì lý do đảm bảo kỹ thuật và một số lý do khác, không quân chiến đấu vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương là chính, chưa có lệnh cơ động vào chiến trường, mặc dù lúc này quân ta đã chiếm được một số căn cứ không quân lớn của địch.


Tôi được Bộ Tư lệnh Binh chủng giao nhiệm vụ tổ chức chỉ huy ở Sở chỉ huy tiền phương của không quân ta ở sân bay Đồng Hới, vừa tổ chức hiệp đồng chỉ huy tác chiến với quân binh chủng bạn bảo vệ hậu phương, vừa đồng thời sẵn sàng cơ động theo các mũi tiến công của quân ta khi có lệnh.


Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1975, mới có lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân là: “Chuẩn bị cho không quân tham gia chiến dịch: phi công ta sẽ sử dụng máy bay A-37 lấy được của dịch ở sân bay Đà Nẵng và sân bay Phù Cát để đánh địch...”. Lập tức một số phi công được chọn thuộc Phi đội 4 Trung đoàn 923 cấp tốc điều từ Thọ Xuân vào Đà Nẵng. Các đồng chí Trần Mạnh, Phạm Ngọc Lan xây dựng kế hoạch huấn luyện và chỉ đạo các phi công chuyển loại. Trực tiếp phụ trách các đồng chí phi công này là đại úy Nguyễn Văn Thọ phụ trách về quân sự và Phạm Bổn phụ trách về chính trị. Đồng thời trên cũng giao cho đồng chí thiếu tá Hồ Thanh Minh tổ chức một đoàn cán bộ kỹ thuật vào khai thác máy bay A-37 để phục vụ chuyển loại cho phi công ta vào làm nhiệm vụ. Thời gian quá gấp rút, máy bay lại khác hệ, trên máy bay sử dụng toàn tiếng Anh, phi công ta quen sử dụng tiếng Nga nên gặp không ít khó khăn trong quá trình chuyển loại. Nhưng anh em lúc này khí thế chiến đấu rất cao, mong sớm được tham gia chiến dịch lịch sử giải phóng miền Nam, hơn nữa lực lượng Không quân được Đảng, Bác Hồ rất quan tâm, chăm sóc, nên mọi người mong mỏi lập công để xứng đáng với niềm tin yêu ấy.


Ngày 21 tháng 4, quân ta giải phóng Xuân Lộc; các quân đoàn đã áp sát Sài Gòn trên các hướng. Tình hình diễn biến rất nhanh, nếu không khẩn trương sẽ không kịp tham gia chiến đấu. Ngày 24 tháng 4, chỉ sau hai ngày học tập, phi công Từ Đễ bay chuyến đầu tiên, ngày hôm sau các phi công Nguyễn Văn Lục, Mai Xuân Vượng, Hán Văn Quảng, Trần Cao Thăng lần lượt bay tập thành công. Phi công Nguyễn Thành Trung sau khi ném bom dinh Độc lập đã bay về sân bay Phước Long an toàn và trở thành phi công Quân giải phóng. Ngày 26 tháng 4, anh được Bộ Tư lệnh chiến dịch điều ra Đà Nẵng bổ sung cho Phi đội Quyết Thắng và làm giáo viên huấn luyện cho Phi đội.


Sáng ngày 26 tháng 4, tôi cùng kíp chỉ huy sở tiền phương lên trực thăng Mi-8 bay từ sân bay Phù Cát vào Phan Rang. Trên đường bay qua Nha Trang, bộ đội ta tưởng máy bay địch, thế là các loại súng tập trung bắn lên. Máy bay bốc cháy rơi xuống cạnh sân bay Nha Trang, chúng tôi kịp nhảy ra ngoài. May không ai bị thương, nhưng máy bay bị hỏng, phải bỏ lại. Chúng tôi vội vào thành phố Nha Trang kiếm một chiếc xe ô tô của quân ngụy bỏ lại và bắt một lính ngụy lái về sân bay Phan Rang cho kịp ngày để tổ chức tiếp thu máy bay ta vào tham gia chiến dịch. Trên xe, cảnh vệ gí súng vào lưng tên lính lái xe để dọa nó đi cho nhanh vào sân bay Phan Rang. Chiều tối đến sân bay Thành Sơn, tất cả vội lao vào công việc chuẩn bị tiếp đón máy bay ta.


Ngày hôm sau chúng tôi tổ chức quét dọn sân bay, sửa chữa máy thông tin đối không, củng cố sở Chỉ huy và tiếp thu máy bay An-26 chở Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri và các đồng chí Hoàng Ngọc Diêu, Trần Mạnh, Trần Hanh... cùng vào. Cũng trong ngày hôm ấy Phi đội Quyết Thắng được thành lập ở sân bay Phù Cát, gồm các phi công Nguyễn Văn Lục - chỉ huy Phi đội, Từ Đễ, Hán Văn Quảng, Nguyễn Thành Trung, Mai Xuân Vượng và một phi công ngụy đã được giáo dục cải tạo.


9 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, Phi đội Quyết Thắng được lệnh cất cánh rời sân bay Phù Cát và một giờ sau hạ cánh xuống sân bay Thành Sơn an toàn. Các thợ máy khẩn trương kiểm tra kỹ thuật, lắp cho mỗi máy bay bốn quả bom và bốn thùng dầu phụ. Tư lệnh Lê Văn Tri trực tiếp giao nhiệm vụ cho Phi đội. Mục tiêu oanh tạc là khu vực để máy bay chiến đấu lực lượng không quân ngụy trên sân bay Tân Sơn Nhất. Đánh trúng mục tiêu này là một đòn rất hiểm, nhất là Mỹ, ngụy chỉ còn một đường hàng không duy nhất để di tản.


16 giờ 25 phút ngày 28 tháng 4, Phi đội Quyết Thắng gồm năm chiếc A-37 xuất kích theo thứ tự: Nguyễn Thành Trung - số 1, Từ Đễ - số 2, Nguyễn Văn Lục - số 3, Mai Xuân Vượng - số 4, Hán Văn Quảng - số 5. Trong quá trình bay, để bảo đảm bí mật, các phi công không sử dụng máy vô tuyến đối không. Các phi công đã thống nhất phương án: trên đường đến mục tiêu, nếu máy bay hỏng nhẹ vẫn bám đội hình chiến đấu, nếu hỏng nặng thì tự quay về hoặc hạ cánh bắt buộc. Nếu lạc đội hình thì quay ra hướng đông, bay dọc bờ biển trở về căn cứ...


Chúng tôi ngồi trong sở chỉ huy hồi hộp theo dõi. Lúc này hệ thống ra đa chưa có, nên chỉ còn tin tưởng vào tinh thần dũng cảm mưu trí của các phi công trên bầu trời. Thật là thần tốc, chỉ hơn một tuần chuyển loại, phi công ta đã nhanh chóng sử dụng thành thạo máy bay địch để đánh địch. Địch hoàn toàn bất ngờ, không quân và pháo cao xạ bảo vệ sân bay của chúng không kịp phản ứng. Từng loạt bom chính xác đã đánh trúng các máy bay địch làm chúng kinh hoàng khiếp sợ. 24 máy bay địch bị phá hủy, hàng trăm sĩ quan binh lính của lực lượng không quân địch bị tiêu diệt. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ oanh tạc mục tiêu, Phi đội Quyết Thắng trở về sân bay Phan Rang hạ cánh an toàn. Lúc đó là 18 giờ 15 phút ngày 28 tháng 4 năm 1975. Trời đã nhập nhoạng tối.


Trận đánh của không quân ta dùng máy bay địch đánh thẳng vào căn cứ quân sự lớn có vị trí rất quan trọng của địch là sân bay Tân Sơn Nhất đã gây chấn động lớn. Lúc này năm cánh quân của ta đang tiến vào thành phố. Chiến thắng của không quân là đòn phối hợp rất nhịp nhàng, có hiệu quả, góp phần vào thắng lợi nhanh chóng của chiến dịch, góp phần làm cho ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, suy sụp về tinh thần, thúc đẩy quá trình tan rã hoàn toàn của chúng. Về mục tiêu trận đánh của không quân ta vào Tân Sơn Nhất đã chọn đúng khu vực có vị trí rất quan trọng, góp phần cùng bộ đội pháo binh làm tê liệt cầu hàng không bằng máy bay có cánh cố định của địch. Ngày 29 tháng 4, Mỹ buộc phải tổ chức chiến dịch di tản mang tên “Người liều mạng” bằng máy bay lên thang để đưa những người Mỹ cuối cùng và một số tay sai ra khỏi Sài Gòn.


Sau chiến thắng 28 tháng 4 năm 1975, Phi đội Quyết Thắng tiếp tục phát huy truyền thống luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vùng trời, vùng biên, biên giới Tây Nam Tổ quốc. Sau này cứ đến dịp 28 tháng 4. Tư lệnh Lê Văn Tri thường tổ chức cuộc gặp anh em phi công phi đội Quyết Thắng và những người tham gia trận đánh để ôn lại kỷ niệm hào hùng có một không hai của Không quân ta.


Người thể hiện
ĐOÀN HOÀI TRUNG


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:30:01 am
PHÍA SAU MỘT CHIẾN CÔNG


Theo lời kể của
Thiếu tướng HỒ THANH MINH
Nguyên Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân


Tháng Tư về! Cây bằng lăng trước cổng Quân chủng Phòng không - Không quân nở hoa tím ngắt một góc trời; cây ngọc lan tỏa hương thơm ngát. Tiếng chim hót hòa cùng tiếng ve râm ran gọi hè. Tháng tư thật nhiều cảm xúc, tháng tư cũng thật nhiều kỷ niệm với bộ đội không quân. 38 năm trước Không quân đánh thắng trận đầu vào tháng tư và 10 năm sau đó vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, Phi đội Quyết Thắng đánh trận cuối cùng vào sân bay Tân Sơn Nhất góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Tôi đã tìm đến Thiếu tướng, Phó giáo sư, tiến sĩ kỹ thuật hàng không Hồ Thanh Minh - nguyên là Phó trưởng phòng máy bay Cục Kỹ thuật Phòng không - Không quân, tổ trưởng tổ đặc nhiệm để thực hiện nhiệm vụ “Lấy máy bay địch đánh địch” những ngày ấy. Qua bao năm trận mạc xông pha và qua tìm tòi nghiên cứu về các trận đánh của cha ông ta, Thiếu tướng đã đúc rút ra được những điều tâm đắc: “Không có một chiến thắng nào mà không có sự dày công chuẩn bị. Không có một chiến công nào mà không có tổn thất và thương vong. Không có một toàn thắng nào không để lại sự kinh ngạc cho quân thù".


Riêng với trận Phi đội Quyết Thắng ném bom sân bay Tân Sơn Nhất thì Thiếu tướng cho rằng là một trận đánh nằm ngoài đúc kết đã nêu. Đó là một chiến công lịch sử mà không có một thương vong và tổn thất nào. Chiến công xuất sắc của Phi đội Quyết Thắng góp phần cùng bộ đội pháo binh chặt đứt cầu hàng không cuối cùng của Mỹ - ngụy, mà chỉ 6 tiếng đồng hồ sau trận đánh, tổng thống Mỹ phải lập tức ra lệnh cho không quân Mỹ tổ chức chiến dịch di tản mang tên “Người liều mạng” bằng hàng trăm máy bay trực thăng để đưa những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn.

Với chất giọng miền Trung đầm ấm, nhẹ nhàng, Thiếu tướng Hồ Thanh Minh kể lại:

Ngay trong những năm chiến tranh ác liệt, tôi đã được cử đi nghiên cứu sinh về động cơ máy bay, trong đó có cả các loại động cơ máy bay quân sự của Mỹ đang sử dụng ở miền Nam. Sau này phi công Hồ Duy Hùng được cài trong hàng ngũ của không quân ngụy Sài Gòn đã lấy được máy bay trực thăng UH-1 ra miền Bắc. Chúng tôi đã lắp ráp lại, rồi phi công ta nghiên cứu cách sử dụng máy bay do Mỹ sản xuất. Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và Huê - Đà Nẵng cuối tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã khẳng định thời cơ chiến lược để tổng tiến công, nổi dậy giải phóng miền Nam đã đến và phải huy động hết khả năng đã có. Ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung của ta cài trong hàng ngũ địch đã lái chiếc F-5E cất cánh từ sân bay Biên Hòa ném bom dinh Độc Lập và hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long tạo thuận lợi cho Không quân ta sau này tổ chức đánh vào Tân Sơn Nhất. Đầu tháng 4, ở Quân chủng đã có chuẩn bị phương án dùng máy bay địch đánh địch. Ngày 19 tháng 4, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị sẵn sàng tham gia chiến đấu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Tư lệnh Không quân quyết định sử dụng máy bay địch đánh địch. Đây là một quyết định hết sức táo bạo, mạo hiểm, thần tốc nhưng hoàn toàn chính xác. Bơi vì nếu sử dụng MIG-17, hoặc MIG-21 thì bất lợi về nhiều mặt. Các phương tiện bảo đảm như xăng dầu, máy điện khí, xe tra nạp bom đạn... vận chuyển vào sẽ không kịp. Máy bay ta lại mang ít bom và không thể bay xa được... Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Mạnh - Tham mưu phó Quân chủng chịu trách nhiệm về cách đánh; đồng chí Phạm Ngọc Lan lo việc chuyển loại máy bay cho người lái; tôi chịu trách nhiệm khôi phục, sửa chữa máy bay vừa thu được của địch. Cùng tổ đặc nhiệm với tôi có các đồng chí: Kỹ sư đặc thiết Nguyễn Văn Soạn, kỹ sư vũ khí hàng không Nguyễn Đình Thủy, kỹ sư động cơ máy bay Nguyễn Anh Tuấn và 12 thượng sĩ của sư đoàn 1 không quân ngụy Sài Gòn. Lúc này ở sân bay Đà Nẵng có 15 chiếc A-37, nhưng 13 chiếc bị hỏng, chỉ có hai chiếc chưa kịp cất cánh đã bị ta bắn chết phi công, máy bay xịt lốp nằm chình ình ở bên đường băng. Chúng tôi bắt tay vào khôi phục được hai chiếc máy bay này để cho anh em phi công đã lái MIG-17 do Liên Xô sản xuất, luyện tập chuyển sang bay loại máy bay A-37 do Mỹ sản xuất.


Sáng ngày 21 tháng 4, máy bay trực thăng đưa chúng tôi cùng 12 nhân viên kỹ thuật chế độ cũ vào vùng mới giải phóng sân bay Phù Cát. Ở đây quân ngụy rút chạy không kịp di tản máy bay. Trước yêu cầu nhiệm vụ phải khẩn trương khôi phục máy bay, chúng tôi quên cả nguy hiểm rình rập bởi đám tàn quân ngụy còn lẩn khuất trong các công sự, hầm ngầm trong khu vực sân bay, lao vào chuẩn bị máy bay. Một điều đặc biệt là các nhân viên kỹ thuật của chế độ cũ được cải huấn hết sức tích cực làm việc. Ban đầu họ còn chưa tin anh em chúng tôi, nhưng sau một thời gian làm việc với các kỹ sư ta, họ nể phục, bởi trình độ nhanh nhậy, thông minh, sự hiểu biết kỹ thuật hàng không của các anh em ta. Chúng tôi tự phân công nhau canh gác, tự nấu ăn, đồng thời nhanh chóng triển khai kiểm tra sửa chữa những chiếc A-37 có trên sân bay.


Chiều ngày 25 tháng 4 năm 1975, chúng tôi được gặp Thượng tướng Chu Huy Mân và được thông báo: “Bộ Chính trị đã đồng ý cho Không quân ta ném bom vào sào huyệt địch ở Sài Gòn, nhưng chỉ dùng máy bay địch đánh địch. Thời gian phải đúng ngày 28 tháng 4 năm 1975”. Nhận được lệnh, ai cũng nức lòng, nhưng cũng rất lo lắng. Nhiệm vụ đã rõ ràng, nhưng quá nặng nề, vì thời gian quá gấp gáp. Chúng tôi chỉ còn làm việc quên ngày quên đêm... Trong quá trình làm việc với các nhân viên kỹ thuật, chúng tôi hiểu do điều kiện sống trong chế độ ngụy quyền, họ bắt buộc phải bị đi lính. Họ cũng hiểu được sự phi nghĩa của cuộc chiến tranh, nhận ra lẽ phải, nhưng không biết phải làm thế nào để thoát ra khỏi cuộc sông hàng ngày. Thêm nữa, những chiếc loa tâm lý chiến ngụy quyền Sài Gòn luôn vẽ méo mó hình ảnh những người cộng sản, nên họ hoang mang lo sợ sự trả thù... Chúng tôi gần gũi, giải thích và tin tưởng họ. Anh em kỹ thuật viên chế độ cũ như tìm được niềm tin cuộc sông, mong muốn lập công chuộc tội nên họ tích cực làm công việc được phân công bằng chính lòng yêu nước được khơi dậy. Họ cũng mong muốn được góp phần tham gia trận đánh lịch sử. Như vậy là ta không những chỉ dùng máy bay địch đánh địch, mà còn cảm hóa được người lầm đường quay trở lại đánh địch. Suốt ngày đêm ngày 25, 26 tháng 4 chúng tôi tổng kiểm tra được chín chiếc A-37 đủ tiêu chuẩn kỹ thuật bay thử.


Sáng ngày 27 tháng 4, các phi công của ta từ Đà Nẵng vào Phù Cát, Phi đội Quyết Thắng được thành lập. Chỉ có mấy ngày mà phi công MIG-21 ta đã chuyển loại bay A-37 và chỉ có mấy ngày các thành phần kỹ thuật đã lo bảo đảm máy bay tốt, kiểm tra chất lượng xăng dầu, chuẩn bị vũ khí, các phương tiện thoát hiểm đảm bảo cho chuyến bay, điều đó thật là phi thường, thần tốc. Gặp nhau phi công và thợ máy tay bắt mặt mừng tưởng như xa nhau lâu ngày mới gặp lại. Nhìn những máy bay A-37 đang nổ máy trong tư thế sẵn sàng, các phi công xiết chặt tay chúng tôi: “Cảm ơn tất cả các đồng chí đã chuẩn bị đầy đủ cho phi đội”. Chúng tôi cũng sung sướng trào nước mắt khi thấy những chiếc máy bay cường kích A-37 bay thử tốt và được Phi đội Quyết Thắng tiếp nhận, nhưng lòng đầy hồi hộp lo âu về chuyến bay chiến đấu có một không hai sắp tới.


Gần trữa ngày 28 tháng 4, Phi đội Quyết Thắng gồm các phi công: Nguyễn Văn Lục, Từ Đễ, Hán Văn Quảng, Nguyễn Thành Trung, Mai Xuân Vượng và một phi công đã có giáo dục cải tạo cất cánh từ sân bay Phù Cát đến sân bay Thành Sơn - Phan Rang. Tổ đặc nhiệm chúng tôi cũng lên trực thăng Mi-6 vào sân bay phục vụ cho phi đội...


16 giờ 25 phút ngày 28 tháng 4, Phi đội Quyết Thắng gồm năm chiếc A-37 xuất kích từ Thành Sơn tiến về Sài Gòn. Địch hoàn toàn bất ngờ, không quân và pháo cao xạ bảo vệ sân bay của chúng không kịp phản ứng. Từng loạt bom chính xác dội xuống sân bay Tân Sơn Nhất, đã phá hủy 24 máy bay địch. Kẻ thù hoang mang khiếp sợ, cả đô thành Sài Gòn rung chuyển...


Đã 28 năm trôi qua, các thành viên của tổ đặc nhiệm chưa lần nào được gặp nhau đầy đủ vì mỗi người một ngả, nhưng những kỷ niệm về bảy ngày xoay trần, miệt mài, gan lỳ và hồi hộp đầy lo âu với những chiếc máy bay A-37 lấy được của địch trên sân bay Đà Nẵng, Phù Cát, Phan Rang như chỉ vừa xảy ra hôm qua. Trận đánh, chiến công ngày 28 tháng 4 năm 1975 của Không quân nhân dân Việt Nam đã đi vào lịch sử. Phía sau chiến công ấy, lịch sử cũng mãi khắc ghi thêm chiến công thầm lặng của những người lính kỹ thuật không quân trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 của toàn dân tộc.


Người thể hiện
ĐOÀN HOÀI TRUNG


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:34:31 am
KỶ NIỆM MIỀN ĐÔNG


Theo lời kể của
Đồng chí ĐỖ VĂN NINH
Anh hùng LLVTND
Nguyên Trung đoàn trưởng 113 - Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công


... Chiến thắng Phước Long như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi vươn tới, hoàn thành xuất sắc kế hoạch hoạt động quân sự quý I năm 1975 với hai nhiệm vụ: đánh phá bình định phải được coi là trọng tâm nhưng không quên tổ chức tốt lực lượng đánh vào ba mục tiêu: Hốc Bà Thức, kho bom Bình Ý và sân bay Biên Hòa.


... Trong những ngày tháng 3 năm 1975, đất nước đang ở vào thời điểm sôi động, thì Trung đoàn 113 chúng tôi cũng đang tìm cách để trả lời câu hỏi: phải làm gì để hỗ trợ cho các mặt trận; bằng cách nào để phối hợp có hiệu quả với các chiến thắng liên tiếp xảy ra ở Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; ở Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Tuyên Đức, Lâm Đồng...


Ngày 5 tháng 4 năm 1975, một cuộc họp cán bộ toàn Trung đoàn được triệu tập để quán triệt nhiệm vụ trên giao:

1. Đánh và chiếm giữ cho được cầu Ghềnh (tức cầu Biên Hòa) và cầu Mới (tức cầu Hóa An).

2. Đánh phá căn cứ của thiết đoàn 15 ngụy ở Hốc Bà Thức.

3. Đánh chiếm một đoạn xa lộ từ Xóm Chợ đến ấp Xuân Thôn không để địch biến đoạn xa lộ này thành sân bay dã chiến để phản kích ngăn chặn lực lượng ta tiến công từ phía bắc xuống, phía đông sang áp sát Sài Gòn.

4. Đánh phá từ hướng tây và sân bay Biên Hòa, khống chế các trận địa pháo địch quanh khu vực đứng chân của Trung đoàn.

5. Hướng đánh địch của Trung đoàn phát triển về phía Thủ Đức.


Tuy không được giải thích cụ thể, nhưng qua nhiệm vụ được giao, chúng tôi đã thấy rõ tình thế đang phát triển có lợi cho ta, vùng giải phóng của ta được mở rộng từ Quảng Trị qua Tây Nguyên vào gần tới Long Khánh, Bà Rịa. Lực ta mạnh, thế ta vững, đủ điều kiện đánh chiếm, chốt giữ chứ không đánh rồi rút như trước nữa.


Một không khí hào hứng, phấn khởi lan tỏa khắp cuộc họp. Những nước da vàng, môi thâm vì sốt rét khiến cho người ta già trước tuổi, nay hồng lên, nom hoạt bát như trẻ lại. Nét mặt mọi người hớn hở, nói cười râm ran...


Không một ai “cò kè” gì về nhiệm vụ, mặc dầu so sánh khả năng thực tế về quân số, vũ khí hiện có của Trung đoàn với nhiệm vụ được giao là một quãng cách khá xa. Nếu là ngày thường, có thể có ý kiến thêm bớt mũi này, hướng kia, còn hôm nay thì trái lại, chúng tôi chụm đầu vào nhau, hăng say bàn bạc tìm cách khắc phục.


Không ngại khó khăn gian khổ là bản chất của quân đội cách mạng, nhưng không nêu khó khăn đó là gì, biện pháp khắc phục khó khăn đó ra sao thì cũng là sai lầm, sẽ dẫn tới bị động và lúng túng. Phàm trong quân sự, cái gì đã không chủ động được thì sẽ dẫn tới khó khăn càng nhiều hơn, và như thế khó giành được thắng lợi, nếu không nói là thất bại.


Càng gần thắng lợi càng nhiều khó khăn, khó khăn trong thế đi lên. Câu nói xem ra có vẻ công thức lại rất đúng với hoàn cảnh của chúng tôi hiện nay. Cái khó trước đây là làm thế nào tạo ra bàn đạp, bám trụ ở giữa vòng vây quân thù để từ đó tổ chức những trận tiến công bằng “pháo lủi”, bằng kỹ thuật đặc công vào các căn cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng nhằm phá hủy các phương tiện chiến tranh mà địch tồn chứa ở đấy. Còn bây giờ, tình thế mới, đòi hỏi phải bung ra, đạp bằng các căn cứ, các đồn bót địch mà tiến về phía trước, sáp vô Sài Gòn, tiêu diệt tận gốc sào huyệt quân thù, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, vì vậy đòi hỏi phải có phương thức mà chúng tôi chưa quen làm bao giờ:

- Từ phá cầu nay phải giữ cầu. Mà phá bao giờ cũng dễ hơn xây, hơn giữ.

- Từ dùng mật tập mà tiến công căn cứ địch, găm lượng nổ ở đó rồi rút ra chờ giờ hẹn nổ, là xem như có thể tính sổ chiến thắng, nay phải đánh vận động, phải chốt, phải giữ, phải dàn quân ra mà đối đầu với địch một cách công khai để góp phần cản địch, tạo thế cho đại quân tiến vào Sài Gòn.

Thế có nghĩa là từ đánh các mục tiêu tự do lựa chọn, nay đánh các mục tiêu bắt buộc do trên giao.

Rõ ràng thật là khó!

Nhưng cái khó phải vượt qua hôm nay để ngày mai là chiến công.

Như thế là chúng tôi đã thắng keo đầu, đánh bật cái khó ra khỏi đầu óc mình. Thắng trong nhận thức khiến chúng tôi sống trong thanh thản mặc dầu trước mắt biết bao nhiêu công việc phải làm, việc nào cũng đòi hỏi phải có quyết tâm cao, kèm theo là những biện pháp cụ thể.


Cũng chính vì thế nên chúng tôi không bị lúng túng, trái lại, vẫn minh mẫn, biết chọn ra những cái gì là quan trọng nhất, chủ yếu nhất cần phải tập trung công suất mà giải quyết; việc chính làm trước, việc phụ làm sau, có khi song song cùng tiến hành.


Năm tháng quần nhau với quân thù ở cửa ngõ phía bắc Sài Gòn này, chúng tôi đã hiểu nơi đâu là hiểm yếu cần phải ém quân, “lót ổ” sẵn lực lượng của mình, để có thể phát huy tác dụng uy hiếp địch, kéo căng, dàn mỏng thế trận phòng ngự của địch, để đại quân ta có điều kiện nâng cao tốc độ tiến công; cũng chính năm tháng đối mặt với quân thù đó đã là trường học thực tế sinh động, dạy cho chúng tôi biết cách sử dụng lực lượng, biết dùng phương thức đánh địch như thế nào là lợi nhất để thắng chúng.


Chúng tôi đã nhanh chóng tìm ra cho mình một phương án tác chiến phù hợp:

- Tiểu đoàn 23 có nhiệm vụ đánh chiếm, chốt giữ cầu Ghềnh và cầu Mới; bằng bất cứ giá nào cũng không thể để cho địch chiếm lại cầu và phá cầu. Đồng thời tổ chức một lực lượng mạnh đánh mở rộng về hướng cầu Xa Lộ, chiếm và giữ hai ấp sát cầu Ghềnh để làm bàn đạp tiến công khi địch phản kích, tạo điều kiện vững chắc giữ cầu không cho địch phá, để đảm bảo cho các binh đoàn chủ lực của ta vượt sông Đồng Nai bằng cơ giới, nhanh chóng tiến vào hợp vây Sài Gòn.

- Tiểu đoàn 9 có nhiệm vụ bao vây tiêu diệt căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức, không cho địch dùng căn cứ này làm bàn đạp phản kích, đánh vào đội hình tiến công của các binh đoàn chủ lực ta ở hướng đông bắc theo đường 1A phát triển vào các mục tiêu trong nội đô thành phố Sài Gòn. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Tiểu đoàn 9 phái một lực lượng sang phối hợp với một bộ phận lực lượng của Tiểu đoàn 23 đánh chiếm và giữ cầu Xa Lộ, đoạn từ Xóm Chợ đến ấp Xuân Thôn, không cho địch lợi dụng đoạn đường này làm sân bay dã chiến, chốt chặn không cho địch từ Thủ Đức lên chi viện cho chi khu quân sự Dĩ An, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 23 giữ cầu.

- Tiểu đoàn 174 chia làm hai bộ phận: một đại đội dùng “pháo lủi” từ hướng tây đánh vào sân bay Biên Hoà, các chi khu quân sự Dĩ An, Tân Uyên, điểm cao Châu Thới, kiềm chế hỏa lực pháo địch từ nhiều hướng bắn tạt sườn vào đội hình tiến công của quân ta; hai đại đội còn lại, phối hợp với Tiểu đoàn 23 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ cầu.

- Đại đội 53 trinh sát tiếp tục đánh kho bom Bình Ý, đồng thời có lực lượng phối hợp với Tiểu đoàn 9 đánh Hốc Bà Thức.


Như thế là chúng tôi đã tìm đúng chỗ để đánh, buộc địch phải phân tán, tạo thế sơ hở lớn của chúng ở vùng bắc Sài Gòn, bởi vì những nơi chúng tôi chọn đánh này địch không thể rút lực lượng đi chi viện nơi khác, trái lại một khi bị tiến công, buộc chúng phải đưa quân đến ứng cứu.


Thời cơ lớn tạo ra sự nhạy cảm cho người chiến sĩ! Đang trăm công nghìn việc, vậy mà chúng tôi đã gỡ rối rất nhanh, hình thành thế bố trí hiểm, giao nhiệm vụ cho các đơn vị vừa cụ thể vừa thể hiện tính liên hoàn kín với các quy định hiệp đồng chiến đấu khi tình huống nổ ra.


Bài học mà chúng tôi rút ra cũng chính là đây. Trong chiến đấu, công việc quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến mọi diễn biến tiếp sau, đến thắng lợi của trận đánh là việc hình thành cho được thế trận hiểm, thì quân ít mà hóa đông, rộng mà vẫn kín; địch nhiều mà hóa ít, không phát huy được hiệu lực chiến đấu, đành chấp nhận sự thất bại.


Đó là ý định của chúng tôi. Nhưng mong muốn chủ quan đó trở thành hiện thực không phải đi trên con đường thẳng, thênh thang. Kẻ địch càng đến ngày tận số, chúng càng điên cuồng chống trả quyết liệt.

Mất Huế, địch hy vọng còn Đà Nẵng!

Mất Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, địch lấy Bình Thuận, Ninh Thuận làm vành đai phòng thủ tuyến ngoài và lập sở chỉ huy tiền phương quân đoàn 3 ở đây để điều hành công việc “tử thủ” bảo vệ đất còn lại của cái gọi là Việt Nam cộng hòa.

Khi tuyến “tử thủ” này bị chọc thủng, tên trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh bộ chỉ huy tiền phương bị bắt tại sân bay Thành Sơn (thị xã Phan Rang) thì Mỹ lại ra lệnh cho quân ngụy Sài Gòn: - Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ cho được ba tỉnh Long Khánh - Biên Hoà - Bà Rịa!


Thực hiện lệnh này, Phạm Quốc Thuần - tư lệnh quân đoàn 3 ngụy, như một cái máy, lệnh tiếp cho các đơn vị dưới quyền: - Bằng mọi giá, các ông phải chặn đứng các mũi tiến công của Cộng quân từ Ninh Thuận vào, từ Phước Long xuống!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:35:10 am
Đúng là đã đến bước đường cùng. Điều an ủi chúng đã hết. Không giữ cho được ba tỉnh miền Đông này thì Sài Gòn bị uy hiếp, ngụy quân và ngụy quyền trung ương của Mỹ hết nơi ẩn náu.


Đông Nam Bộ bởi thể mà trở nên ngột ngạt vì mật độ binh lính địch quá dày. Đi bất cứ đâu cũng đụng phải lính là lính: lính thất trận từ Đà Nằng vào, từ Tây Nguyên xuống, từ Sài Gòn bị đẩy ra để làm nhiệm vụ “tử thủ”. Đông Nam Bộ vào thời điểm này như một cái túi khổng lồ đựng đủ loại lính thất trận từ các nơi kéo về, càng gây ra cảnh hỗn loạn: lính bắn lính, lính bắn sĩ quan, lính bắn dân để cướp của kiếm cái sống...

Không khí chiến tranh càng trở nên ngột ngạt.

Chiến sự cũng trở nên sôi động.

Điểm nóng của tình hình tập trung tại Xuân Lộc - nơi đầu mối của đường 1A và đường 20 - Sài Gòn - Đà Lạt.

Sư đoàn 18 do tên chuẩn tướng Lê Minh Đảo (được xem là người hùng của quân lực Việt Nam cộng hòa, được Ma-tin, đại sứ Mỹ ở Việt Nam lúc đó tin dùng) chỉ huy, làm nhiệm vụ biến nơi đây thành vành đai phòng thủ cuối cùng của Sài Gòn. Vì thế Xuân Lộc suốt ngày đêm ầm ầm, bầu trời lúc nào cũng một màu vẩn đục bởi khói bom và đạn đại bác cày xới.


Ngày 21 tháng 4 năm 1975, thị xã Xuân Lộc được giải phóng, vòng vây của quân ta càng áp sát vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Âm thanh chiến tranh càng bị dồn nén rất căng, đụng vào đâu, dù chỉ là lực lượng nhỏ cũng có thể gây ra nhũng tiếng nổ lớn.


Giữa lúc chúng tôi đang triển khai thực hiện kế hoạch đã vạch, thì điện của Sư đoàn lệnh cho toàn Trung đoàn 113 bàn giao địa bàn cho đơn vị bạn, hành quân cấp tốc sang hướng tây, hướng Tân Uyên (thuộc tỉnh Bình Dương) để nhận nhiệm vụ mới.


Quãng đường bình thường phải đi mất bốn, năm ngày đến nay rút ngắn, chỉ hai ngày đêm đã có mặt ở nơi quy định. Phía trước - thành phố Sài Gòn giục giã chúng tôi nâng cao tốc độ hành quân.


Trong hai ngày 22 và 23 tháng 4, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ nắm địch, đợi lệnh là thực hành tiến công vào các mục tiêu vừa được giao, thì ngày 24, Sư đoàn lại điện xuống lệnh cho Trung đoàn phải nhanh chóng đưa một lực lượng về lại hướng đông đánh chiếm Hốc Bà Thức...


Ngay sau khi nhận điện, Đảng ủy Trung đoàn họp quán triệt và quyết nghị cử tôi phụ trách Tiểu đoàn 9 trở lại hướng đông vì chúng tôi rất quen thuộc địa bàn này. Ở đó chúng tôi thuộc đường đi lối lại như chính nhân dân địa phương vậy. Nhưng đường trở lại hướng đông không dễ dàng như trước nữa, vì địch tăng cường lực lượng, ngăn chặn hoạt động chuyển quân của ta.

Đi theo con đường nào ? Đó là câu hỏi được nêu ra.

Hồi những người dự họp cũng trả lời rất nhanh: Không có đâu là an toàn tuyệt đối, nêu cầu toàn thì lỡ thời cơ. Tất nhiên cần tránh những tổn thất không cần thiết. Nhưng khi cần, nếu phải đổ máu vì chiến thắng chung thì sẵn sàng chấp nhận. Không thể tính toán thiệt hơn với Tổ quốc lúc này!


Ngày 26 tháng 4, đội hình hành quân của Tiểu đoàn 9 đã về tới Bùng Binh, vượt thời gian quy định là hai ngày. Đành rằng bất cứ nơi nào của vùng đất miền Đông này đều có những gắn bó, những kỷ niệm khó quên, nhưng với chúng tôi Bùng Binh vẫn được xem như nơi chôn nhau cắt rốn trong cuộc đời bám trụ chiến đấu của mình. Trở lại Bùng Binh chúng tôi thấy tình cảm mình ấm hẳn lên, thanh thản hẳn lên, nỗi nhớ mong da diết coi như được giải quyết. Bộ phận ở lại trụ bám Bùng Binh thấy chúng tôi trở về thì reo vui, tay bắt mặt mừng ùa ra đón chúng tôi, ôm nhau, bắt tay nhau, dành cho nhau những nụ cười hết cỡ và kèm theo cả giọt nước mắt vì quá xúc động, như gặp lại người thân đi xa lâu ngày, nay mới trở về. Tất cả chủ và “khách” chuyện trò râm ran, vang động cả khu rừng:

- Ngày nào chúng tôi cũng nhắc cũng mong Tiểu đoàn 9 chóng xong nhiệm vụ về lại quê hương!

- Biết mà, nhất định các ông dù thế nào rồi cũng phải về lại ngôi nhà này, chớ đi sao đặng?

Tôi cũng hòa theo cái vui của anh em:

- Các cậu làm như vợ chồng Ngâu không bằng, mới có mấy ngày mà cứ như xa nhau hàng năm!

Cái vui gặp gỡ nhau lắng xuống, nhường chỗ cho công việc chuẩn bị chiến đấu tuy diễn ra thật khẩn trương mà cũng thật là vui. Công việc ra trận hôm nay sao thiêng liêng đến thế! Tất cả như chất men say, thôi thúc lòng người vượt lên mọi gian lao và vất vả, quên cả ăn, ngủ để lao vào công việc.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:36:33 am
Đánh chiếm Hốc Bà Thức

Đây là căn cứ của thiết đoàn 15 ngụy có diện tích trên 24 ki-lô-mét vuông, nằm án ngữ giữa đường 1A và đường 24.

Nhổ được căn cứ này là chọc thủng một mắt xích rất quan trọng trong dải phòng ngự bắc Sài Gòn của địch, và cũng là làm sạch địa bàn cho chủ lực ta tiến vào tập kết, xốc lại đội hình trước khi tiến vào sào huyệt cuối cùng của xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai.


Thắng lợi của trận đánh sẽ gây nên phản ứng dây chuyền, hệ thống đồn bốt địch quanh vùng bị lung lay, các trận địa pháo phía sau của địch bị uy hiếp, và sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy đặt ở Biên Hòa bị đe dọa nghiêm trọng...


Mãi sau này khi tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh, mọi người mới thấy tiến công vào Hốc Bà Thức là trận chiến đấu có ý nghĩa tạo thế, còn lúc ấy bằng vốn sống thực tế chiến đấu của mình, thấy rằng nếu thắng địch ở đây sẽ gây cho chúng nhiều xáo động, vì vậy mà ai nấy đã dồn công sức của mình vào làm tốt công việc phục vụ cho trận đánh.


Ngoài yêu cầu chung của chiến dịch thôi thúc, đối với Trung đoàn 113 đặc công còn có cái “hậu” riêng bức xúc nữa. Chính cái căn cứ này đã gây cho chúng tôi không biết bao nhiêu khó khăn, thậm chí cả đổ máu nữa trong những năm tháng đứng chân ở đây. Đặt căn cứ ở Hốc Bà Thức, địch có thể thường xuyên uy hiếp vùng giải phóng của ta, đồng thời là hàng rào vững chắc ngăn chặn không cho ta thâm nhập vào vùng chúng tạm thời kiểm soát. Đặc biệt, về mùa mùa căn cứ này rất lợi thế, chung quanh là trảng trống, sình lầy, ta đột nhập vào cũng khó, ngược lại chúng có thể từ đây quan sát khống chế ta trong phạm vi xa, ngăn cản không cho ta di chuyển từ trong ra, từ ngoài vào.


Với vị trí có tầm lợi hại như thế, nên sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, địch càng chú ý tăng cường sức mạnh cho nó. Ngoài thiết đoàn 15 thường xuyên có mặt, địch còn điều thêm về đây liên đoàn 374 biệt động quân, hai đại đội biệt kích thuộc lữ đoàn 81 Biên Hòa.


Vì vậy khi nhận nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ này, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9 ai nấy đều phấn khởi, thở phào nhẹ nhõm; thế là thời cơ rửa hận đã đến!


Đánh như thế nào và đánh bằng cách nào? Đó là một câu hỏi chung mà tất cả chúng tôi đều có nhiệm vụ phải trả lời đúng và nhanh, không cho phép kéo dài trong việc tranh luận. Mọi người đều có quyền hiến kế nhưng phải ngắn gọn, rõ, cụ thể, không được hô hào chung chung, không được lấy tư tưởng, nhận thức thay cho biện pháp.

Với tinh thần ấy, chúng tôi tìm được cách đánh phù hợp dưới đây:

Một, lực lượng đánh chia thành bốn mũi, theo bốn hướng, dùng kỹ thuật binh chủng mà đột nhập (mật tập chứ không cường tập), giải quyết gọn trong đêm.

Hai, tổ chức một số tổ hỏa lực tiến công “lai rai” về mọi hướng khác, nhằm đánh lạc sự phán đoán của địch về hướng đột nhập của ta, gây cho địch những ngộ nhận, cho rằng lực lượng đối phương đông, đâu đâu cũng tiến công, uy hiếp chúng.

Ba, tổ chức một lực lượng đánh địch phản kích định chiếm lại mục tiêu đã mất.

Bốn, trong khi đại bộ phận Tiểu đoàn 9 tiến công Hốc Bà Thức, thì đội vũ trang tuyên truyền của Trung đoán và một bộ phận của đại đội 53 trinh sát cùng phối hợp nổ súng, đánh chiếm ấp Bình Trị, mở rộng địa bàn ra phía sau, bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn.

Lễ xuất phát bước vào trận đánh được tổ chức đơn giản nhưng rất trang nghiêm tại bìa rừng Bùng Binh.

Đồng chí Hai Thoạn - Chính ủy sư đoàn trao cờ Quyết thắng cho đơn vị vào cắm trên nóc căn cứ Hốc Bà Thức.

Mỗi chúng tôi trào dâng lên một cảm xúc khó nói nên lời. Ai cũng phấn khởi nhưng rất nghẹn ngào vì được biết chiến dịch cuối cùng này là chiến dịch mang tên Bác.

Thế là mỗi chúng tôi lại nghĩ về Bác với một tình cảm trân trọng thiêng liêng bội phần.

Trong đội ngũ những người vào trận đêm nay tuổi đời còn rất trẻ, gần như không ai có vinh dự được gặp Bác, mà chỉ được biết cuộc đời của Bác, những mẩu chuyện về đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Bác qua những ngươi anh, người cha kể lại, qua đọc sách, báo, qua nghe đài truyền thanh. Mỗi người bằng trí tưởng tượng của mình, đều hình dung hình ảnh Bác về dự lễ thành lập Binh chủng (19 tháng 3 năm 1967) và chính mình như được nghe Bác huấn thị:

“Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt”.

Giờ đây chúng tôi mang theo lời Bác dạy đi vào trận đánh hiệp đồng chính thức với đại quân ta trong chiến dịch mang tên Người với một tình cảm bồi hồi nhớ Bác, nhưng cũng rất lạc quan, rất vững tin vì vẫn có Bác - “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”.


Đêm nay, 28 tháng 4, chúng tôi hành quân dưới làn pháo cỡ lớn của quân ta đang bắn dữ dội vào sân bay Biên Hoà, vào sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy. Mặt đất rung lên từng hồi và bầu trời chao đảo. Sau những tiếng nổ dữ dội là những ánh chớp xanh, đỏ tung toé, đan vào nhau, tất cả đều chụp xuống các đồn bốt địch.


Đêm 28 tháng 4 là “Đêm chiến tranh”! Đúng là như thế! Không gian của miền Đông Nam Bộ, ở vùng cửa ngõ bắc Sài Gòn này đan dày những tiếng nổ! Vậy mà chúng tôi không hề có cảm giác là ác liệt! Ngược lại thấy mình đang sống trong tâm trạng phấn chấn và náo nức.


Đội hình hành quân đến cách mục tiêu chưa đầy một ki-lô-mét thì dừng lại triển khai sở chỉ huy và dồn lực lượng làm công tác chuẩn bị lần cuối trước khi các mũi thực hành đột nhập. Vừa lúc ấy đội vũ trang tuyên truyền cũng hoàn thành nhiệm vụ kịp thời trở về phối thuộc với Tiểu đoàn 9 đảm nhận công việc bảo vệ sở chỉ huy.

Đồng chí Nguyễn Văn Tuyến - Tiểu đoàn phó chỉ huy trận đánh.

Ở Sở chỉ huy, chúng tôi theo dõi đến từng phút về phía mục tiêu, nghe ngóng động tĩnh.

Kim đồng hồ chỉ 24 giờ. Lúc này tiếng súng chung quanh im hẳn, chỉ thoáng nghe tiếng đại bác cầm canh từ xa vọng lại. Địch thầm đoán có thể sắp qua một đêm hãi hùng. Chúng mong trời sáng đến từng giây. Nhưng chính lúc không gian có vẻ yên ắng là lúc các binh đoàn chủ lực của ta đang ầm ầm chuyển động, báo hiệu một ngày căng thẳng mới bắt đầu. Số phận bi thảm của đội quân đánh thuê cho Mỹ đã bị rút ngắn, chờ giờ cáo chung.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:38:10 am
Đúng vào lúc 2 giờ sáng, từ đầu dây bên kia, đồng chí Phùng Truyền - Chính trị viên gọi điện báo cáo:

- Các mũi đã lọt vào trong căn cứ.

- Động viên các đơn vị bí mật khẩn trương triển khai đến từng mục tiêu đã được phân công cho kịp giờ nổ súng! - Tôi ra lệnh tiếp.

Bỗng có tiếng súng nổ!

Súng nổ trước giờ quy định một tiếng. Rõ ràng là bị lộ!

Rồi tiếng nổ dồn dập hơn!

Sở chỉ huy chuyển động, ai cũng đổ dồn vào câu hỏi: Tại sao súng nổ sớm? Nếu lộ thì đối phó thế nào? Có dùng mật tập nữa hay phải dùng cường tập, và như vậy thì lấy đâu ra lực lượng?

Hàng loạt câu hỏi cứ đặt ra trước mắt chúng tôi...

Riêng tôi đứng ngồi không yên. Mặc dầu đồng chí Tuyến và Truyền chưa có báo cáo cụ thể, nhưng tôi trở nên hơi lúng túng. Đánh trước giờ quy định đối với bộ đội đặc công là tối kỵ. Như vậy sẽ có thương vong! Thế có nghĩa là người chỉ huy đã không làm tròn trách nhiệm vì không dự kiến trước tình huống này có thể xảy ra để có kế hoạch chủ động đối phó...!


Tôi như đang lên cơn sốt, đầu nóng ran, trán lấm tấm mồ hôi, ngực như có vật gì đè nặng; tôi chộp lấy máy điện thoại định gọi xuống Tiểu đoàn 9 xem sự thể ra sao thì vừa lúc chuông réo đổ hồi, nghe inh cả tai.


Không chờ tiếng nói từ đầu dây bên kia, tôi nói như thét trong máy mặc dầu biết rằng có thét to thì máy điện thoại cũng vẫn giữ âm lượng đủ nghe:

- Làm sao! Làm sao lại có súng nổ trước giờ quy định?

- Báo cáo thủ trưởng! Cánh quân đột nhập vào hướng nam bị lộ.

- Bị lộ? - Tôi hỏi lại như sợ mình nghe nhầm.

- Rõ! - Tiếng đồng chí Truyền khẳng định.

Tôi như gắt lên:

- Phải vượt khó khăn, xốc lên mà đánh! Chần chừ lúc này là chết! Rõ chưa! Rõ chư...a!...

Rồi chợt nghĩ thấy mình gắt là vô lý. Dù sao thì việc đã rồi, lúc này đừng làm cái gì gây rối cho cấp dưới, như thế càng rối thêm, sẽ mất bình tĩnh, mất sáng suốt đối phó... Thế là tôi vội hạ giọng, cổ trấn tĩnh lại, ôn tồn nói:

- Đồng chí Phùng Truyền đâu? Nghe rõ tôi nói không? -Rõ!

- Cố gắng động viên anh em đánh thật tốt. Bằng giá nào cũng phải chiếm cho được Hốc Bà Thức! Đây là trận đánh có quan hệ đến diễn biến chung của chiến dịch.

Tôi nghe rõ tiếng nói chậm rãi, tự tin của đồng chí Phùng Truyền từ đầu dây bên kia:

- Thủ trưởng cứ yên tâm! Bộ đội đang bám chắc từng góc chiến hào để triển khai đội hình chiến đấu.


Tôi ngồi xuống cạnh máy điện thoại một cách nặng nề, tay vẫn không rời máy nghe. Toàn thân vẫn nóng ran như đang lên cơn sốt. Đầu óc tôi lúc này như sợi dây đàn đang căng lên hết cỡ. Tiếng anh Thịnh - Chính ủy Trung đoàn như văng vẳng đâu đây, nghe sao mỉa mai chứ không phải là lời chúc mừng chân thành trong buổi chia tay nhau trước khi đi vào trận đánh: “Ráng lên Ninh nhé! Bọn mình tin tưởng ở Ninh đấy. Cả Trung đoàn hiện nay số người có kinh nghiệm tổ chức đánh đặc công như Ninh không còn nhiều đâu. Ninh gắng hoàn thành nốt những công việc cuối cùng của trận đánh...”.


Nghĩ đến đây, người tôi tự nhiên run lên bần bật. Chả nhẽ thần sốt rét lại lợi dụng lúc này để hoành hành cơ thể mình hay sao? Rồi tôi tự trách sự thiếu bình tĩnh của chính mình.


Trong lúc ở căn cứ Hốc Bà Thức tiếng súng mỗi lúc một rộ lên, thì ở sở chỉ huy lại lắng xuống. Ai cũng lộ rõ trên khuôn mặt vẻ lo lắng, đứng ngồi không yên. Riêng tôi buồn đến mức không đánh diêm hút thuốc nữa! Miệng tôi đắng ngắt, cổ như tắc nghẹn lại.

Tất cả mọi người hồi hộp mong tin kết quả chiến đấu.

Tôi lại quay một vòng điện thoại, gọi:

- Phùng Truyền đâu! Tình hình thế nào rồi, mũi hướng nam đã vào được bên trong căn cứ chưa?

- Báo cáo! Các mũi đánh tốt, có nhiều triển vọng kết thúc thắng lợi trước lúc trời sáng.

- Nhưng tôi muốn biết mũi hướng nam hiện nay ra sao?

Khoảng 30 phút sau, tiếng súng thưa dần, rồi lặng đi, không gian gần như trở lại yên tĩnh. Hồi chuông điện thoại réo lên bất ngờ. Tôi cầm vội ống nghe:

- Ba Ninh đâu! Anh Ninh đâu! Báo cáo anh, quân ta đã hoàn toàn làm chủ căn cứ!   ị

Tôi đặt ống nghe xuống máy và thở phào nhẹ nhõm, như trút được một gánh nặng, người thanh thản, lâng lâng. Sau này khi nhắc lại, anh Phùng Truyền đã làm mấy câu thơ nhạo tôi:

Trăm trận dư bình tĩnh
Trận cuối cùng bỗng "run"
Tiếng "thở phào" bên ấy
Bên này tưởng là "bom”!


Gọi điện giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 9 xong, chúng tôi tranh thủ xuống tổ chức lại lực lượng làm nhiệm vụ chiếm giữ căn cứ. Đây cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của người chỉ huy lúc này, cần phải tập trung mọi cố gắng tối đa để làm cho tốt. Bởi vì đánh đã khó, giữ càng khó hơn. Trong giữ có đánh, đánh quân địch phản kích lấy lại, chống lại phi pháo địch với âm mưu "không ăn thì đạp đổ", dùng bom đạn tới mức cao nhất để hủy diệt căn cứ và hủy diệt cả lực lượng đối phương đánh chiếm giữ căn cứ đó. Thành ra chỉ huy chiếm giữ là rất phức tạp, phải lo chống đỡ với mọi tình huống ác liệt có thể xảy ra.


Trước hết chúng tôi quyết định di chuyển sở chỉ huy vào trong căn cứ để nắm tình hình nhanh và cụ thể hơn; để kịp thời chỉ huy các mũi, các hướng đối phó với mọi diễn 1 biến mà kẻ địch ngoan cố gây ra.


Sở chỉ huy vào đến địa điểm mới thì trời đã tang tảng sáng, chưa rõ mặt người. Phía chân trời xa ở hướng đông, một vầng hồng nhạt đã dâng lên, báo hiệu một ngày nắng đẹp, nhưng như thế đối với chúng tôi lại chẳng hay ho gì, vì địch dễ quan sát hơn, các phi vụ bắn phá vào nơi chúng tôi dừng chân, đang trụ bám này sẽ chính xác hơn, bơi vì không có mây mù che khuất.


Tôi hội ý với các đồng chí cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và chỉ huy các mũi để nhận định, phán đoán âm mưu thủ đoạn địch sẽ dùng trong ngày, biện pháp đối phó của ta.

- Địch nhất định sẽ phản kích.

- Điều đó khỏi bàn, nhưng địch phản kích như thế nào, bằng lực lượng gì? - Tôi hỏi lại.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:39:40 am
Đúng là trong quân sự, nhất là lĩnh vực chiến đấu, ở vào tình huống như hiện nay, không thể cho phép tác phong làm việc đại khái, không thể chỉ đưa ra những nhận định chung với những biện pháp cũng rất chung với lời lẽ hô hào phải quyết tâm, phải anh dũng tiến lên... Nhất nhất tất cả các vấn đề phải cụ thể. Chiến đấu là một trạng thái thiên biến vạn hoá, tưởng như không có quy luật, vì vậy muốn điều khiển được nó, muốn bắt nó diễn biến theo chiều hướng có lợi cho ta, thì phải có biện pháp xử trí cụ thể. Không thể lấy ý chí thay cho biện pháp được!


Chúng tôi thống nhất nhận định: địch sẽ dùng xe tăng cùng với tàn quân biệt kích còn sống sót từ hướng đông tiến ra phản kích chiếm lại căn cứ. Biện pháp đối phó của ta là:

- Các mũi nhanh chóng ổn định lại tổ chức, bố trí lực lượng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, có khả năng đánh địch phản kích từ mọi hướng; tranh thủ cải tạo công sự, làm mới một số hầm hào phục vụ chiến đấu bảo vệ căn cứ.

- Đội vũ trang tuyên truyền và một đại đội của Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ chốt giữ ở hướng chính theo trục đường từ sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy vào Hốc Bà Thức.


Mặt khác chúng tôi tập hợp kết quả trận đánh rồi thông báo kịp thời xuống các mũi, để động viên khí thế bộ đội, phát huy tinh thần dũng cảm chiến đấu, đánh thắng mọi đợt phản kích của địch, giữ vững căn cứ, không cho địch chiếm lại. Theo con số tập hợp bước đầu, trận đánh đêm qua, ta diệt tại chỗ 60 tên; bắt 7 tên, trong đó có tên đại tá thiết đoàn trưởng...


Để tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ, tôi điện đề nghị lực lượng pháo Quân đoàn 1 của ta bắn chế áp trận địa pháo ở dốc Ông Hoàng, đảm bảo cho Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ chốt giữ căn cứ, tạo thế cho chủ lực của ta nâng cao tốc độ tiến công, trước mắt là đánh chiếm sân bay Biên Hoà và thị xã Biên Hoà, làm bàn đạp triển khai lực lượng hoàn thành nhiệm vụ tiếp sau.


Sở chỉ huy của chúng tôi đặt ở căn hầm nằm phía đông nam căn cứ. Hầm hình chữ nhật, khá rộng, có lỗ châu mai quan sát ra chung quanh rất tốt, tiện cho việc chỉ huy bộ đội. Bằng thắng lợi này, Tiểu đoàn 9 đã góp phần nhỏ bé của mình tạo thế cho chiến dịch, ngược lại các cánh quân của chiến dịch cũng đang tạo thế cho các chiến sĩ Trung đoàn 113 đặc công hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm nhiệm vụ chốt giữ căn cứ Hốc Bà Thức, chúng tôi có điều kiện được biết các cánh quân của chiến dịch đang hiệp đồng ăn ý qua âm thanh của các loại súng vọng về mà chúng tôi nghe được. Phía bên trái, Quân đoàn 2 đang vượt qua căn cứ Nước Trong; bên phải, chúng tôi nghe rất rõ pháo 130mm của Quân đoàn 1 đang nổ, chi viện cho bộ binh đang tiến quân trên đường 16 về hướng Tân Uyên, Lái Thiêu... Trời càng nắng, không khí chiến đấu càng khẩn trương. Tiếng súng hiệp đồng của các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 trên vùng đất miền Đông phát ra một âm thanh hài hoà nghe náo nức lòng người, có sức thôi thúc những bàn chân người chiến sĩ đi nhanh, thật nhanh về phía trước.


Tranh thủ giữa hai trận đánh, chúng tôi ngắm lại quang cảnh nơi đơn vị đang dừng chân. Cái căn cứ mà địch vẫn cho là “bất khả xâm phạm” này đã hết thiêng. Giờ đây chúng tôi đã đi vào trong lòng nó, trước mắt mọi người nó không còn gì là oai phong lẫm liệt nữa. Nó như con thú mang thương tích đầy mình; lác đác vài chiếc nhà cháy dở hoặc sập hẳn xuống, mấy chiếc xe 113 bị trúng đạn hôm qua vẫn âm ỉ cháy, thỉnh thoảng một tràng đạn nhỏ ở trong xe nổ lẹt đẹt nghe đến lạc lõng.


Không gian yên tĩnh xảy ra không lâu. Biết như thế nên chúng tôi đã ở tư thế sẵn sàng. Phấn khởi với thắng lợi nhưng không quá say sưa mà quên nhiệm vụ tiếp sau của mình. Đúng 6 giờ 15 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, địch mở đầu cuộc phản kích bằng một loạt pháo dồn dập vào đội hình Tiểu đoàn 9, kéo dài hai giờ đồng hồ. Đạn pháo các cỡ 100, 105 và 155mm trùm lên căn cứ, tạo thành những cột khói bay lên toả ra vẩn đục bầu trời. Nhà cửa lại đổ thêm, những vạt cỏ hiếm hoi bị cháy và trốc luôn cả gốc bay vật vờ trước khói bụi.


Sau đợt pháo bắn dọn đường là bộ binh địch có xe tăng yểm trợ chia làm ba mũi tiến vào căn cứ. Không gian càng bị dồn nén bởi có thêm tiếng xe tăng địch gầm rú, địch muốn bằng tiếng gầm rú đó uy hiếp đối phương trước giờ giãy chết của chúng.


Về phía ta, vẫn im ắng, cái im ắng khiến địch cũng phải sợ. Chúng vừa tiến vừa rụt rè nghe ngóng. Bởi đây không phải là trận địa không người. Các mũi của ta đã ở trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh.

Tôi cầm ống nói, gọi trực tiếp xuống các hướng nhắc lại nhiệm vụ đã giao, và nhấn mạnh:

- Chờ địch đến thật gần mới nổ súng! Phải tiết kiệm đạn và nước uống để đánh địch được lâu hơn.

Như trên đã kể, căn cứ Hốc Bà Thức dài và rộng, trong khi lực lượng của chúng tôi chỉ có một tiểu đoàn, không đủ quân mà rải khắp được. Vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến mất còn của địa bàn mà chúng tôi vừa mới giành được là phán đoán chính xác hướng tiến công chủ yếu của địch để tập trung lực lượng bảo vệ; phải tỉnh táo và cảnh giác không để địch nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của ta.


Chúng tôi đã thành công trong việc này, đồng thời cũng thành công cả việc đánh lạc hướng địch, nghi binh khéo, làm cho chúng không biết lực lượng cụ thể của ta. Ta ít địch tưởng nhiều, vì vậy chúng tiến quân rất dè dặt.

Trên tất cả các hướng, chúng tôi chờ địch vào cách 10 mét mới nổ súng.

Bị đánh bất ngờ, xác địch nằm ngổn ngang ngay trước mặt các chiến sĩ; số sống sót lùi ra xa gọi pháo bắn vào trận địa ta. Tiếp sau, bộ binh địch lại bị những tên ác ôn hò hét, thúc lưng buộc phải tiến lên.

Trận đánh cứ giằng co rất ác liệt trước mép trận địa của các chiến sĩ ta. Mãi cho đến 9 giờ 15 phút mới kết thúc.

Thế là những chiến sĩ đặc công chúng tôi từ chỉ quen tiến công địch bằng phương thức mật tập với lực lượng nhỏ lẻ nay lần đầu tiên đánh địch đi theo lối dàn trận giữa ban ngày với nhiệm vụ chốt giữ không phá hủy rồi rút như trước đây.

Khí thế cán bộ chiến sĩ lên rất cao sau khi đã đánh lùi đợt phản kích thứ nhất của địch định chiếm lại căn cứ Hốc Bà Thức.

Chúng tôi củng cố trận địa, sửa chữa lại hầm hào và xốc lại đội hình chuẩn bị đánh địch phản kích tiếp theo. Một giờ sau đó địch lại bắt đầu tiến công.

Thoạt đầu địch bắn cối 81mm vào cổng chính của căn cứ. Cối chuyển làn, hai tiểu đoàn địch xông lên. Xe tăng địch từ hướng sở chỉ huy quân đoàn 3 nguỵ vận động ra vừa gầm rú vừa bắn xối xả đạn vào đội hình quân ta trợ oai cho bộ binh địch chiếm lại mục tiêu đã mất. Kho đạn của địch trong căn cứ trúng đạn pháo của địch nổ theo...

Đầu óc chúng tôi ong ong lên vì tiếng đạn pháo của ta và của địch nổ liên hồi.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:43:33 am
Căn cứ Hốc Bà Thức phút chốc lại chìm trong đạn khói.

Đúng như phán đoán của chúng tôi, lần phản kích thứ hai, địch vẫn tập trung lực lượng đánh vào hướng cổng chính. Vì vậy ở đây đã diễn ra cuộc đọ sức giữa một bên là địch ngoan cố theo kiểu “chó cùng cắn dậu”, còn ta thì với tư thế chiến thắng, đánh địch rất đàng hoàng, mưu trí và cũng rất anh dũng.


Tôi nhắc đồng chí Khuê phụ trách chốt giữ hướng cổng chính luôn luôn liên lạc bằng điện thoại về sở chỉ huy, báo cáo mọi diễn biến phức tạp xảy ra để kịp thời xử trí.

Đường dây liên lạc giữa sở chỉ huy và mũi do đồng chí Khuê chỉ huy vẫn thông suốt, nhờ đó mà chúng tôi nắm được đầy đủ những gì đã diễn ra ở đây:

Trận đánh bắt đầu và mức độ ác liệt cũng xảy ra ngay từ đầu. Đồng chí Nguyễn Đức Hoà, y tá đại đội liên tục bắn bảy quả đạn B40 vào đội hình quân địch đang uy hiếp sườn trái đại đội đồng chí Xuân. Hết đạn, đồng chí Hòa nhảy lên đỉnh lô cốt dùng đại liên của địch đặt sẵn ở đây bắn lại địch. Bị đòn bất ngờ, đội hình phản kích của địch bị xáo trộn và buộc chúng phải rút ra xa, gọi pháo tiếp tục bắn chế áp vào trận địa của ta. Nhưng ở hướng khác, địch đã cùng một lúc bắn 15 quả đạn M72 vào khu vực đồng chí Hòa chốt giữ để cứu nguy cho đồng bọn đang bị quân ta uy hiếp. Một mảnh đạn bay vào mắt trái Hòa; đồng chí Khuê lao lên bế Hòa xuống và nói như ra lệnh:

- Hòa lui về phía sau!

Mắt phải Hòa vẫn mở to nhìn về phía trước - phía có địch. Mặt Hòa đen sạm vì khói đạn địch, nhưng vẫn rạng rỡ niềm phấn khởi, lạc quan, trả lời:

- Không việc gì đâu anh Khuê ạ! Còn một mắt vẫn nhìn thấy địch...

Bộ binh địch được xe tăng dẫn đường nhưng vẫn không nhích thêm được bước nào. Chúng lùi ra và lại gọi pháo bắn thị oai vào phía cổng chính.


Một chiến sĩ có mặt ở khoảng không gian đầy ác liệt này đã nhận xét hóm hỉnh sau mỗi lần pháo địch bắn thị oai: “Sức lực của địch như một cơn mưa rào ào ào trút nước rồi tạnh hẳn, không đủ nước để làm thấm rễ cây”!

Trời về trưa. Tiếng súng thưa dần và tắt hẳn. Các mũi tranh thủ củng cố hầm hào và rút kinh nghiệm trận đánh.

Mũi ở hướng cổng chính theo đồng chí Khuê và đồng chí Xuân báo cáo: đạn đã hết!

Chúng tôi hội ý chớp nhoáng và thống nhất xử trí: điêu lực lượng và dồn đạn ở hướng khác, hướng nam sang chi viện cho hướng cổng chính, chỉ để lại ở đây một lượng đạn rất ít, đủ để làm nhiệm vụ phân tán địch.

Xong việc, tôi tranh thủ xuống thăm đại đội đồng chí Xuân đang làm nhiệm vụ chốt giữ ở hướng này.

Trời nóng. Không khí oi bức. Đạn nổ. Lửa cháy. Đủ các thứ mùi bốc lên nồng nặc. Nước uống cạn dần, nhiều đồng chí yêu cầu chi viện nước. Đầu óc mọi người căng thẳng vì phải dồn trí lực vào việc đối phó với quân thù.

Địch lại tập trung dội pháo vào căn cứ. Pháo dứt, một chiến sĩ liển chửi đổng:

- Đ. mẹ! Không còn gì chịu chơi hơn là pháo à. Thử làm trò khác đi cho đỡ buồn nghen!

Câu nói vui ấy trở nên có duyên, nhiều tiếng cười hưởng ứng rộ lên, kéo không khí chùng xuống, bớt căng thẳng.


Một đồng chí mặt đen nhẻm, vừa lắp băng đạn mới vào khẩu AK, vừa cười để lộ hàm răng cải mả nhem nhuốc như người nghiện trầu, đọc liền bốn câu thơ rất trôi chảy, vần điệu như bài thơ “con kiến mà leo cành đa”:

Bọn địch muốn zô Hốc Bà Thức
Chúng zô không được nên đành phải ra
Chúng ra rồi chúng lại zô
Chúng zô không được chúng thời lại ra.


Liền đó là một trận cười thỏa thích. Mấy chiến sĩ vừa đấm vào lưng đồng chí đọc thơ vừa nói chọc:

- Thơ con cóc!

- Thơ thẩn.

Xuân - Đại đội trương lúc này cũng đang ở cùng hầm với nhóm chiến sĩ trẻ đang làm nhiệm vụ, nhìn tôi, cười: rồi quay ra nói với mọi người:

- Cậu Lân dám múa rìu qua mắt thợ! Cậu không thấy “cụ Đỗ Phủ” Ninh - nhà thơ lớn của trung đoàn xuống thăm chúng ta à? - Bỗng Xuân hạ thấp giọng, nghiêm chỉnh giới thiệu - Báo cáo anh, đây là đồng chí Lân quê ở Lạng Sơn mới từ bộ binh chuyển sang.

Lân quay lại nhìn tôi, cười nói rất thân mật và tự nhiên:

- Đã nghe tiếng từ lâu, nay em mới biết thủ trưởng là thủ trưởng Ninh - Ngừng một lát như quên một điều gì, Lân lấy giọng nói tiếp - À quên, nhà thơ "Đỗ Phủ" Ninh ạ í Thê mà em lại dám bạo phổi...

Mọi người lại cười rộ lên, quên hết mệt nhọc.

Chuyến đi thăm ngắn ngủi ấy đã để lại trong tôi ấn tượng thật sâu sắc. Khi trở lại sở chỉ huy làm nhiệm vụ, đợt phản kích tiếp theo của quân địch lại bắt đầu, không khí chiến trường căng trở lại, nhưng hình ảnh các chiến sĩ vui chơi, ngâm thơ xen giữa hai trận chiến đấu cứ hiện ra trước mắt tôi, cổ vũ, động viên tôi.

Lúc này đạn dự trữ cạn dần. Nước uống cũng thiếu!

Phải làm gì để khắc phục khó khăn này? Tôi đang suy nghĩ và tìm lời giải thì một luồng hơi nóng phả vào mặt tôi, tai ù đi, thì ra một viên đạn cỡ lớn rơi vào sở chỉ huy. Đồng chí Rảnh - liên lạc của tiểu đoàn bị thương nặng.

Sau khi chuyển Rảnh cho đồng chí y sĩ băng bó, tất cả nhanh chóng rời khỏi nơi này lập sở chỉ huy mới.

Về chiều, hơi nóng của mặt trời từ mặt đất bốc lên, của những đám cháy toả ra, hòa với mùi thuốc súng và khói bom cay nồng, gây nên cảm giác ngột ngạt khó chịu. Đạn pháo địch vẫn rít vèo vèo, nổ choáng tai nhức óc. Cổ họng chúng tôi khô rát và kèm theo cả đói nữa!


Tiểu đoàn 9 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch ở căn cứ Hốc Bà Thức và đã một ngày chiến đấu liên tục, đánh lui tất cả các đợt phản kích của địch định chiếm lại căn cứ này.

Với tình hình cụ thể lúc đó, chúng tôi có thể rút khỏi Hốc Bà Thức vì đạn dược, lương thực đã cạn. Vả lại nhiệm vụ tiêu diệt địch thì đã hoàn thành. Nếu địch có chiếm lại, chúng cũng không còn hơi sức đâu cản ngăn được bước tiến công của các binh đoàn chủ lực của ta.

Nhưng ý nghĩ trên chỉ thoáng qua giây lát trong đầu chúng tôi rồi tan biến vào không gian đầy khí thế xốc tới từ các nơi dội về. Hơn lúc nào hết, làm bất cứ việc gì, dù là nhỏ bé góp vào chiến thắng lớn thì ta cần làm, tự giác mà làm. Kiên trì chốt giữ căn cứ Hốc Bà Thức lúc này là chiếm giữ cửa mở, tạo cho các mũi thọc sâu của chiến dịch rảnh tay, không phải dừng lại giải quyết "sự cố dọc đường”, để tiếp tục phát triển nhanh vào đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Nhanh, chậm trong lúc này có ý nghĩa rất quan trọng, có tác dụng làm chuyển biến lớn tình hình hoặc ngược lại.


Với mong muốn “góp gió thành bão” đó, chúng tôi đã xác định quyết tâm chốt giữ Hốc Bà Thức và khẩn trương tổ chức thực hiện quyết tâm đó. Tất cả các mũi, các hướng nhanh chóng củng cố lại trận địa, lau lại súng, kiểm lại đạn, nước uống,... Nhưng kiếm được nước cũng không phải dễ dàng, vì kẻ địch tìm mọi cách phong tỏa các đường đi tới nguồn nước. Hai đồng chí liên lạc thay nhau hành tiến, người nọ yểm hộ cho người kia, vượt qua làn đạn địch mỗi đưa được về một bi đông và một túi nilông nước chỉ đủ cho nhu cầu tối thiểu ở sở chỉ huy.


Súng đạn, lương thực, nước uống rất thiếu, nếu đánh sang ngày thứ hai là gặp nhiều khó khăn!

Biết là như thế nhưng chẳng ai bận tâm về những thứ đó. Tất cả chúng tôi lúc này đều có chung một ý nghĩ, một mong muốn - giữ tốt cửa mở để đón đại quân tiến vào!

Thời gian đã chiều lòng người ra trận. Giữa lúc chúng tôi mới chỉ bắt đầu mong mỏi thì cũng là lúc các binh đoàn chủ lực của ta nổ súng tiến công. Tàn quân địch từ Xuân Lộc rút về để cùng với lực lượng tại chỗ ở Hố Nai chưa kịp triển khai tuyến “tử thủ” mới đã bị xe tăng và bộ binh ta tràn qua. Pháo ta ở hướng Đồng Nai bắn cấp tập vào sân bay Biên Hoà và sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy.


Chúng tôi - những người chốt giữ Hốc Bà Thức reo lên, tay này giơ súng, tay kia giơ mũ cố nâng thật cao vẫy chào đoàn quân trùng điệp tiến về hướng Biên Hoà... Bọn địch nằm ngoài hàng rào căn cứ đang chuẩn bị đợt phản kích mới, hoảng loạn tháo chạy, quan bỏ lính, lính xô đẩy nhau chửi quan loạn xị.

Lúc đó là 16 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975.

Tôi cho treo cờ lên đỉnh nóc căn cứ để đón đại quân!

Lá cờ cách mạng phần phật tung bay trước gió, như vẫy chào, như thúc giục đoàn quân tiến nhanh về phía trước!

Đoàn quân lần lượt đi qua trước mặt chúng tôi, đã dành cho chúng tôi nụ cười và cái nhìn trìu mến, giơ tay chào với một lời chúc ngắn gọn:

- Cám ơn các đồng chí đi trước!

Chúng tôi đón nhận lời chúc đó với một tình cảm xúc động và tự hào, nhưng vẫn thấy còn phải vươn lên nữa, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trong đánh ra, ngoài đánh vào, đánh chiếm và chốt giữ các cầu trên những trục lộ chính đi tới Sài Gòn...


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:45:23 am
Đánh kho bom Bình Ý

Trong điện giao nhiệm vụ, Sư đoàn nhấn mạnh: Trung đoàn 113 phải khẩn trương tổ chức lực lượng pháo kích vào sân bay Biên Hoà, đồng thời dùng hai tiểu đoàn tiến công phá hủy kho bom Bình Ý.

Như thế là phá hủy phương tiện chiến tranh của địch vẫn là một trong những nhiệm vụ chính của bộ đội đặc công trong chiến dịch này. Thái độ ngoan cố của địch, sự đối phó điên cuồng của chúng, tức là mức độ ác liệt của chiến sự diễn ra như thế nào, một phần phụ thuộc vào số lượng các phương tiện chiến tranh mà địch còn tàng trữ được. Một khi máy bay và bom đạn bị phá hủy, xăng dầu bị thiêu cháy... thì địch có muốn kéo dài và đẩy mạnh chiến tranh cũng đành chịu.

Chúng tôi đã hiểu như thế qua đọc bức điện giao nhiệm vụ của Sư đoàn.

Nhưng khi triển khai thực hiện thì cũng lắm vấn đề phải bàn. Pháo kích vào sân bay Biên Hòa tuy khó nhưng có nhiều thuận lợi, vì mục tiêu đã đánh nhiều lần, các trận địa đặt pháo ta đã tính toán đo đạc từ trước, tất nhiên là địch sẽ đối phó, những ta vẫn có cách khắc phục để hoàn thành nhiệm vụ.


Đánh kho bom Bình Ý ai cũng thấy là cần, một khi kho bom nàv bị phá, chắc chắn các phi vụ ném bom để cản phá đội hình quân ta sẽ giảm đi rất nhiều. Nghĩa là không có vấn đề gì thuộc về quyết tâm cả. Nhưng lại có vấn đề thuộc về cách đánh - đánh như thế nào chắc thắng mà ta ít tổn thất nhất?

Trong cuộc họp cán bộ chỉ huy hạ quyết tâm tiến công, có ý kiến nêu ra:

- Có nên dùng cả hai tiểu đoàn cùng một lúc đánh kho Bình Ý không?

Ý kiến chưa khẳng định, nhưng tôi cũng thấy là không nên. Dùng như thế là lãng phí, có thể chính vì vậy mà gây thương vong không cần thiết.


Ngày 22 tháng 4 tại suối Ông Đông, Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn họp để thông qua quyết tâm lần cuối. Qua ý kiến của quần chúng, căn cứ vào thực tiễn lúc đó, thường vụ quyết định: bằng bất cứ giá nào ta cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của sư đoàn, tiến công phá hủy kho bom Bình Ý. Nhưng lực lượng sử dụng không cần nhiều.


Trong cuộc họp này, tôi không ngờ được gặp lại anh Hai Thịnh. Theo quyết định của trên, anh Hai Thịnh được ra Bắc an dưỡng vì sức khỏe của anh sút giảm trông thấy. Tôi rất tiếc vì công việc quá bận rộn nên không được về tạm biệt anh trước lúc lên đường. Tưởng rằng khó có điều kiện gặp lại nào ngờ anh vẫn nặng tình nặng nghĩa với đơn vị.


Thoạt thấy, từ xa tôi chạy lại ôm chầm lấy anh rồi đẩy anh ra xa; nhìn thẳng vào mắt anh, tôi xúc động nói:

- Tưởng anh đang trên đường ra Bắc rồi, nào ngờ lại được gặp anh Hai ở đây?

Đưa hai tay bóp mạnh vào hai bả vai tôi, anh Hai Thịnh với một giọng đầy thân mật, tình cảm:

- Thì thằng Hai này không gặp được thằng Ba thì đi sao đặng!

Giữa hai đợt tiến công vẫn có một khoảng không gian yên tĩnh, vẫn có chút thời gian gọi là nhàn rỗi. Hai chúng tôi tranh thủ dạo chơi dưới tán lá rừng thoáng mát, rồi dừng lại ngồi đối diện dưới lòng con suối đã dốc hết nước, chỉ còn trơ lại những hòn sỏi nhẵn thín với đủ màu sắc và kích thước nằm lổn nhổn.

Mãi năm phút sau anh Hai Thịnh mới tâm sự:

- Thế là mình phải xa Ba Ninh rồi. Cũng đành phải thế thôi! Với khung xương và một dúm thịt này mình biết không đủ sức để theo chiến dịch nữa... - Nói đến đây hai đây mắt anh ngấn nước, cố chớp để không cho nó thành giọt, rồi anh tâm sự tiếp, giọng ngắt quãng - Mình tiếc quá Ba Ninh ạ! Chiến đấu cả đời người, đến giờ phút thiêng liêng nhất thì lại vắng mặt... Ninh ráng lên nhé! Mình tin ở Ninh đấy...


Hai Thịnh nắm tay tôi kéo dậy, rồi gục đầu vào vai tôi nức nở. Những giọt nước mắt nóng hổi nặng tình đồng chí anh em ấy thấm trên vai áo tôi. Tôi xúc động không nói được lời nào để động viên, an ủi anh.

Suốt cuộc đời chiến đấu, cho đến hôm nay, tôi đã có không ít các cuộc chia tay với bao đồng đội, đồng chí mình, nhưng đây là lần chia tay mang nhiều kỷ niệm sâu đậm.

Tôi và anh Hai Thịnh đến với nhau trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn. Đó là thời gian hơn nửa năm địch đánh phá ác liệt, bao vây rất nghiệt ngã, các đơn vị của Trung đoàn không đánh được một trận nào; cán bộ chiến sĩ phát sinh tư tưởng bi quan, kém phấn khởi vì không hoàn thành được nhiệm vụ trên giao.


Giữa lúc ấy, anh Hai Thịnh có quyết định về thay anh Mai Văn Thoạn làm Chính ủy, tôi từ Trường Quân chính Miền về, nhận nhiệm vụ Trung đoàn phó. Tuy mới biết nhau nhưng chúng tôi nhanh chóng thông cảm trong cá tính, rất “ăn ý” trong việc lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Việc đầu tiên là chúng tôi bàn biện pháp đưa Trung đoàn tiến lên cho xứng với những lời khen: Trung đoàn 113 đặc công đã làm quân địch ở vùng Long Khánh - Biên Hoà phải khiếp vía kinh hồn!


Càng gần nhau chúng tôi càng thông hiểu và thương nhau. Với trên 50 tuổi đời, có hơn 30 năm đi suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hầu như anh Hai Thịnh chưa một lần kịp nghĩ đến đời tư bao giờ, bởi lẽ công việc chiến đấu đã lôi cuốn anh, và cũng bởi chính anh đã say mê với công việc đó. Trong những năm dài hoạt động ở gần quê hương nhưng anh không một lần nghĩ đến việc tranh thủ gặp vợ, mặc dầu vợ anh chưa có một mụn con nào. Không phải vì tính anh cứng nhắc, khô khan, mà trái lại anh sống rất tình cảm với đồng đội, với bà con cô bác. Những lúc rỗi rãi giữa hai trận đánh, mắc võng nằm châu đầu vào nhau, anh thường kể rất nhiều về chuyện quê hương, những ngày thơ ấu, đến tuổi trưởng thành và chuyện yêu chị Ba, khi tình yêu chín muồi là tổ chức cưới liền, với những tuần trăng mật thật đẹp đã để lại trong anh những dấu ấn không thể phai mò.


Đã có chiến đấu là có hy sinh. Không như thế thì không có thắng lợi, không như thế thì không có độc lập tự do. Cái hy sinh dễ thấy là hy sinh tính mạng và tài sản. Nhưng trong cuộc chiến đấu vĩ đại này, cái hy sinh khó thấy là hy sinh về tình cảm - một sự hy sinh cũng rất to lớn, khó có một dân tộc nào như dân tộc chúng ta đã chịu đựng suốt 30 năm ròng cảnh con xa bố mẹ, anh xa em, vợ xa chồng... Anh Hai Thịnh là một trong số hàng vạn, hàng triệu người đã tham gia vào cái hy sinh rất đáng ngợi ca này. Sự hy sinh của anh khiến tôi xúc động.


Tạm biệt anh Hai Thịnh, tôi gặp ngay Sinh, Quỳnh, Lương là những tay trinh sát có kinh nghiệm để giao nhiệm vụ đánh kho bom Bình Ý.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:47:03 am
Kho bom Bình Ý nằm sâu trong vùng địch chiếm, được xây dựng gần với tổng kho Long Bình. Tất nhiên không quy mô bằng Long Bình, nhưng vào được đến đó, phải qua 16 lốp rào kẽm gai và bãi mìn khác nhau, chưa kể một loạt hệ thống đồn bốt dày đặc bao quanh.


Là một trong những kho quan trọng, nên ngay từ nàm 1968, đặc công Tỉnh đội Biên Hoà đã đặt vấn đề tiến công phá hủy mục tiêu này. Nhưng vì địch phòng thủ khá cẩn mật, việc nắm địch của ta gặp nhiều khó khăn vì thế mà kế hoạch đánh rồi lại hoãn, hoãn rồi lại đánh, cứ thế hoãn liên tục kéo dài trong 5 năm liền. Trong suốt thời gian đó bộ đội đặc công tỉnh Biên Hòa đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Bùi bám địch để nắm địch. Theo các đồng chí Tỉnh đội Biên Hòa kể lại, Bùi vừa cần mẫn, dũng cảm và mưu trí tìm cách thực hiện bằng được nhiệm vụ trên giao. Có lúc hàng tháng trời đồng chí Bùi nằm giữa rừng chồi, có lúc nằm giữa bãi mía rậm rạp ngứa ngáy khó chịu, nhưng nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thành. Không hề nản chí, đồng chí Bùi lại nghĩ kế khác, trồng dây leo kết thành tán trên cây cao để làm chòi canh quan sát địch, nhưng như thế mới chỉ thấy được hình thù bên ngoài của mục tiêu, còn bên trong nó bố trí cụ thể ra sao: khu nào để bom, đạn, khu nào để xăng nhớt và đâu là sở chỉ huy bảo vệ kho... thì vẫn chưa nắm được. Cuối cùng đồng chí Bùi đóng vai cán bộ dân vận, tuyên truyền giáo dục gây cơ sở chính trị trong quần chúng, từ đó mới có điều kiện nắm địch một cách cụ thể.


Sự kiên trì bám địch ấy của đồng chí Bùi đã mang lại kết quả, nhờ đó mà ngày 3 tháng 6 năm 1972, một bộ phận của tiểu đoàn đặc công Tỉnh đội Biên Hòa do đồng chí Thanh phụ trách đã bí mật đột nhập vào kho bom Bình Ý gây tiếng nổ dữ dội trước sự kinh ngạc của kẻ địch: “đặc công Cộng sản có phép xuất quỷ nhập thần!”.


Ba năm trôi qua, tình hình đã có nhiều thay đổi, kế hoạch đánh kho bom Bình Ý lần này tất nhiên có nhiều điểm khác, nhưng số liệu ban đầu về mục tiêu này chúng tôi vẫn phải dựa vào kết quả nắm địch trước đây của đồng chí Bùi. Và đồng chí Bùi vẫn là người góp công đầu vào chiến thắng hôm nay của chúng tôi. 


Đánh kho bom Bình Ý do đại đội 53 trinh sát của Trung đoàn đảm nhiệm, nhưng lực lượng đánh trực tiếp chí cần một tổ ba người do đồng chí Hồ Văn Sinh chỉ huy (đồng chí Sinh sau này được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) chứ không dùng tới hai tiểu đoàn như lúc đầu sư đoàn giao cho Trung đoàn. Đánh kho, nhất là trong điều kiện đó, phương thức hiệu nghiệm nhất vẫn là dùng mật tập, bằng kỹ thuật đặc công. Lối đánh này tiết kiệm được rất nhiêu lực lượng mà lúc ấy lực lượng càng dôi ra nhiều càng tốt vì khối lượng công việc rất lớn.


Trên cơ sở nắm chắc địch tình và địa hình, tổ trinh sát ba người: Sinh, Quỳnh, Lương lại làm nên chuyện bất ngờ trong lúc quân địch đang hoang mang, bối rối. Tiếng nổ của các đồng chí đã đánh chí tử vào chỗ mạnh của địch là vũ khí. 250.000 tấn bom đạn bị nổ, những bồn xăng bị cháy sáng rực một góc trời. Cú đánh bồi này gây hiệu quả rất lớn, càng dồn quân địch vào thế bí vốn đã rất bí.


Riêng với chúng tôi, bài học rút ra ở chiến thắng này chính là một lần nữa khẳng định: đã là bộ đội đặc công thì phải thực hiện nghiêm túc phương thức chiến đấu của binh chủng mình - ít mà tinh, dùng lực lượng nhỏ đột nhập vào căn cứ của địch bằng kỹ thuật đặc công, gây thiệt hại lớn cho địch, nếu khác đi, thì không còn gọi là đặc công nữa. Thực hành “cường tập” đòi hỏi phải có sức mạnh ưu thế. Điều ấy với đặc công hoạt động sau lưng địch, nằm giữa vòng vây của quân địch phải hết sức tránh nếu điều kiện chưa cần thiết.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:48:31 am
Thời điểm lịch sử đã đến!

Thời điểm phải đánh chiếm, chốt giữ các cầu trên trục lộ lớn, đón các binh đoàn chủ lực của ta tiến vào đánh chiếm mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã đên.


Chính vì thế trong mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch có nhấn mạnh: các lực lượng đặc công miền Đông Nam Bộ bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm và giữ được cầu...


Cái thiêng liêng của thời điểm, cái nghiêm túc của nhiệm vụ đã nâng trách nhiệm trong chúng tôi lên, có sức thôi thúc chúng tôi phải ráng hết sức mình mà vươn tới!


Đây vừa là trách nhiệm vừa là vinh dự đối với lực lượng đặc công.

Trong cuộc họp Đảng ủy Trung đoàn, không ai có ý so sánh nặng nhọc giữa các nhiệm vụ, nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng đánh chiếm và chốt giữ cầu là mục tiêu then chốt. Quyết tâm của Đảng ủy và ban chỉ huy Trung đoàn là: cần phải đánh chiếm cầu sớm hơn, ngăn chặn không để địch phá cầu xảy ra đồng thời với việc các binh đoàn chủ lực của ta vừa vận động tới, như vậy đội hình sẽ ùn tắc lúc này là ảnh hưởng đến tốc độ tiến công, đến kế hoạch hợp điểm chung của chiến dịch.


Đây là một quyết tâm mang tư tưởng tiến công rất cao, một ý thức trách nhiệm rất nghiêm túc, vượt rất xa khả năng thực tế của Trung đoàn lúc đó, bởi vì các cầu của địch đều nằm trong lưới lửa dày đặc, lọt vào giữa vành đai phòng thủ có trọng điểm của chúng. Mặt khác chốt giữ không phải là lối đánh sở trường của đặc công, lực lượng để làm nhiệm vụ này cũng quá ít, cả về người và vũ khí.   


Đã là mục tiêu then chốt thì phải tập trung lực lượng cho nó. Dàn mỏng sẽ hỏng việc, mà hỏng việc giữ cầu là ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của chiến dịch, vẫn biết đó là nguyên tắc của việc sử dụng lực lượng, nhưng đi vào cụ thể cũng có nhiều ý kiến khác nhau, chỗ này co chỗ kia kéo, thành ra lại bị phân tán. Vấn đề là phải vì lợi ích chung.


Cuối cùng Trung đoàn quyết định: Tiểu đoàn 23 được tăng cường hai đại đội của tiểu đoàn pháo binh có nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ cầu Ghềnh (cầu Biên Hòa) và cầu Mới (tức là cầu Hóa An).

Đồng chí Đoàn Tập - Chính ủy, thay mặt Đảng ủy và Ban Chỉ huy Trung đoàn gặp các cán bộ phụ trách Tiểu đoàn 23 động viên và giao nhiệm vụ. Giống như các lần giao nhiệm vụ trước vừa thân mật vừa nghiêm túc, vừa thuyết phục vừa ra lệnh, nhưng lần này có cái gì trang nghiêm khác thường:

- Trước đây các đồng chí làm nhiệm vụ phá cầu, không hoàn thành nhiệm vụ thì bị kỷ luật. Nay thì khác - đồng chí Đoàn Tập như tăng âm lượng, miệng cười tươi nói tiếp - Nay ngược lại, không giữ được cầu cũng bị kỷ luật, nhưng nhớ là kỷ luật còn nặng hơn!

Bằng một giọng ấm áp, vừa dứt khoát mà cũng rất tình cảm, pha đôi chút dí dỏm, đồng chí Đoàn Tập so sánh:

- Cùng một chiếc cầu, thời gian phải phá, phá bằng được; thời gian phải giữ, giữ bằng được! Nhưng phá hay giữ cũng đều vì mục đích: đánh thắng kẻ thù!


Nhiệm vụ thông suốt. Phía trước - phía đang có tiếng súng như một nam châm có sức hút mọi người phấn khởi lên đường. Nhưng sử dụng lực lượng ở hướng này cũng chưa thật thống nhất. Có ý kiến cho rằng chia đôi lực lượng, mỗi bộ phận chịu trách nhiệm một cầu.


Thoạt nghe tưởng hợp lý nhưng phân tích kỹ lại thấy làm như vậy sẽ khó có điều kiện hiệp đồng, hỗ trợ nhau trong quá trình chiến đấu, mà hai cầu lại cách nhau không xa.


Dựa vào đặc điểm địa hình và địch tình cụ thể, Ban chỉ huy Trung đoàn đã quyết định tổ chức lực lượng và tổ chức chỉ huy trận đánh như sau:

- Một, sẽ tổ chức thành hai lực lượng chính làm nhiệm vụ đánh chiếm cầu; chiếm xong phải khẩn trương triển khai bố trí chốt giữ, không cho địch phản kích lấy lại.

- Hai, tổ chức một lực lượng chuyên làm nhiệm vụ dọn đường, tiễu trừ bọn thám báo, bọn phục kích hoạt động lẻ.

- Ba, để đảm bảo hiệp đồng hỗ trợ cho nhau trong quá trình chiến đấu, ngoài sở Chỉ huy chung, còn lập thêm sở Chỉ huy tiểu đoàn tăng cường, chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ huy ba lực lượng chiến đấu...


Trong những ngày này chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt và khẩn trương, việc chỉ huy thật sát sao xuống các đơn vị có bị hạn chế. Các mũi, các hướng sau khi đã có kế hoạch thống nhất của Trung đoàn, đều phát huy tinh thần làm chủ mà đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện tốt mệnh lệnh được giao.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:51:10 am
Tối ngày 1 tháng 5, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng ở căn cứ Hốc Bà Thức để nghe các mũi, các hướng báo cáo diễn biến cụ thể về địa bàn mình đảm nhiệm.

Tiểu đoàn 9 đánh chiếm căn cứ Hốc Bà Thức.

Đại đội 53 trinh sát của Trung đoàn đánh phá kho bom Bình Ý.

Diễn biến cụ thể về hai trận đánh này tôi đã kể ở phần trên.

Dưới đây xin kể tiếp về các trận đánh chiếm và chốt giữ cầu Biên Hoà và cầu Hòa An.

Đồng chí Đoàn Tập là người trực tiếp chỉ huy ở hướng này, nhưng trong cuộc họp Đảng ủy hôm nay, đồng chí đã giới thiệu đồng chí Dĩ - một cán bộ tiểu đoàn duy nhất còn lại sau trận đó kể lại với hội nghị.


Tất cả chúng tôi đều hướng về phía Dĩ với tấm lòng cảm phục và chờ đợi. Còn Dĩ, trông anh hôm nay rạng rõ một niềm tụ hào về đồng chí, đồng đội mình, nhưng rất khiêm tốn và phảng phất của nét buồn thương những đồng đội mình đã ngã xuống, không có mặt ở đây để đón chào chiến thắng chung của dân tộc.


Dĩ rụt rè đưa mắt nhìn anh Đoàn Tập như muốn nhường anh kể lại mới đúng cương vị, vì anh theo dõi chung, nắm đầy đủ các mũi. Hiểu ý Dĩ, anh Đoàn Tập chủ động:

- Đồng chí Dĩ xứng đáng kể lại trận đánh hôm qua cho chúng ta nghe.

- Nhất trí! Đề nghị đồng chí Dĩ bắt đầu - Một đồng chí cán bộ ngồi gần anh Đoàn Tập hưởng ứng.


Đồng chí Dĩ bắt đầu kể. Không cần sách vở, không cần đề cương, nhưng chuyện Dĩ kể lại đã thu hút người nghe. Không khí cuộc họp trật tự và yên lặng, chỉ còn có tiếng đồng chí với giọng trầm ấm:

- ... Sau khi Trung đoàn duyệt quyết tâm chiến đấu lần cuối, đêm 24 rạng 25 tháng 4, chúng tôi rời hậu cứ, hành quân vượt sông Đồng Nai sang phía nam thị xã Biên Hòa. Toàn bộ đội hình dừng lại ở một làng nhỏ cách hai cầu khoảng 1 ki-lô-mét. Tại đây các đơn vị sơ bộ đào công sự, triển khai sẵn sàng chiến đấu. Và để thuận tiện cho việc điều hành trận đánh, chúng tôi quyết định lấy nơi đây để đặt Sở chỉ huy, tạo thành đội hình chiến đấu theo hình tam giác. Nhân dân ở đây thật tốt, sau những phút niềm nở đón tiếp ban đầu, bà con cô bác liền đưa gỗ, cuốc xẻng cho bộ đội đào công sự; có gia đình tháo cả cánh cửa của mình ủng hộ bộ đội lát hầm...


Thực hiện mệnh lệnh chiến đấu của Trung đoàn, chúng tôi phân chia cụ thể lực lượng như sau:

- Ba đại đội của Tiểu đoàn 23 đảm nhiệm đánh chiếm cầu và chốt giữ cầu: đại đội 1 đảm nhiệm cầu Ghềnh; đại đội 3 đảm nhiệm cầu Mới; đại đội 2 đảm nhiệm khu Nhà Ga và ngã ba đường số 1 và đường 22, có nhiệm vụ đánh địch từ Thủ Đức lên, tạo thuận lợi cho hai đại đội 1 và 3 giữ cầu.

- Hai đại đội pháo đảm nhận bảo vệ sở chỉ huy, đồng thời làm nhiệm vụ chính của mình là đánh địch phản kích chiếm lại cầu.


Như thế là chúng tôi đã hình thành đủ ba lực lượng: lực lượng tiến công - chốt giữ, lực lượng chốt giữ kiêm đánh viện, lực lượng đánh địch phản kích. Biết rằng chiếm cầu tuy khó nhưng có thể làm được, nhưng giữ cầu thì khó, bởi kẻ địch không cam chịu mất mục tiêu then chốt, vì thế chúng tôi đã để gần 50 phần trăm lực lượng làm nhiệm vụ đánh địch phản kích.

Thế bố trí như vậy là hiểm và kín.

Tất cả cán bộ chiến sĩ rất phấn khởi và sẵn sàng chờ đến giờ được nổ súng.

Bản thân chúng tôi - những người chỉ huy càng vững tin ở mình, ở đồng đội và ở thế trận đã bày.

Đứng giữa nơi bốn bề đang ầm ầm tiếng súng, tiếng động cơ xe các loại và tiếng xe tăng, xe bọc thép gầm rú mà chúng tôi thấy mình thanh thản, không vấn vương một cái gì.

04 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, trận chiến đấu bắt đầu!

Mũi đại đội 1, bí mật “lót ổ” sát cầu trước, bất ngờ tập kích vào lực lượng địch phòng giữ ở đấy. Bọn địch hốt hoảng bỏ chạy, không kịp chống trả.

Mũi đại đội 3, gặp địch ngay từ Khu Chợ (cách cầu khoảng 500 mét) nổ súng tiến công đánh thốc lên.

Thế là chỉ trong vòng 30 phút, các mũi đã chiếm xong cầu. Địch không ngờ ta đánh sớm như thế!

Giai đoạn chiếm cầu kết thúc nhanh gọn, nhưng đúng như ta nhận định - giai đoạn giữ cầu mới thật gay go. Toàn bộ sức lực và trí tuệ của chúng tôi đều dồn cho giai đoạn này. Đổ máu và hy sinh đã xảy ra - nhưng chúng tôi cho đó là tất nhiên nên vui vẻ chấp nhận, miễn là giữ được cầu.


Bốn giờ sau đó, địch bắt đầu phản kích. Thoạt đầu là pháo - địch coi đây là át chủ bài để giải quyết tình huống gay cấn. Pháo từ Thủ Đức bắn lên, từ Châu Thới bắn sang, từ Biên Hoà - Long Bình bắn tới, rải dọc đường số 1, kéo dài gần tiếng đồng hồ. Sau đó là bộ binh địch từ nhiều hướng đánh vào, đạn các cỡ bắn loạn xạ. Hai tiểu đoàn biệt động đánh vào sườn trái sở chỉ huy. Dọc đường 22 từ Dĩ An lên, hai tiểu đoàn khác có xe tăng dẫn đi trước đánh thẳng vào đội hình của ta đang làm nhiệm vụ giữ cầu, hòng chiếm lại hai mục tiêu này.

Nhưng sau gần hai tiếng đồng hồ, các lực lượng phòng ngự của ta đã chiến đấu rất anh dũng, đánh bại đợt phản kích của địch.

Vừa tiến công vừa thăm dò lực lượng ta, địch cho máy bay L19 rà rà quan sát, hy vọng phát hiện được trận địa phòng ngự của ta để có biện pháp đánh phá. Nhưng dưới cánh bay trinh sát ấy là vạt cỏ cháy trụi, đất cày lên lở loét do chính bom đạn chúng gây nên.


Tiếng máy bay L19 vừa dứt thì một đợt pháo khác lại rộ lên. Pháo cỡ lớn từ xa bắn tới, cối 81, 61, M79 của địch ở tầm gần bắn vào cả ba mục tiêu ta đang chốt giữ... cả ngày 27 ta đã đánh thắng bốn lần địch phản kích. Đêm buông xuống. Tiếng súng tạm thời yên. Thần kinh chúng tôi bớt căng, các chiến thắng do chúng tôi tạo nên và tiếng súng chiến thắng của các cánh quân chiến dịch cứ mỗi lúc xích gần có sức cổ vũ mạnh mẽ, khiến chúng tôi quên đói và quên khát. Tranh thủ chút thời gian yên tĩnh quý báu này, toàn đơn vị xốc lại đội hình bố trí, củng cố công sự, lau chùi sửa chữa vũ khí để đón nhận những thử thách không xa, chỉ ngày mai thôi, khi mặt trời ló rạng là có thể ập tới...   


Không khí cuộc họp vẫn rất trật tự. Thời gian càng trôi, đêm càng chuyển vào chiều sâu của yên lặng. Ánh sáng điện sau chiến thắng từ thị xã Biên Hoà, từ Sài Gòn hắt lên, hòa vào nhau tạo thành khoảng sáng rộng, soi rõ không gian nơi chúng tôi đang họp.


Tất cả chúng tôi, ở nơi con tim mình bỗng đập lên những nhịp đập hồi hộp chờ nghe câu chuyện kể về giai đoạn giữ cầu.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:54:07 am
Còn đồng chí Dĩ, vẫn nhớ đến từng chi tiết diễn biến, nhưng giọng sôi nổi hẳn lên:

- Ngày 28 mới mờ mờ sáng, năm máy bay lên thắng của địch từ phía Sài Gòn lao tới phóng tên lửa và xối đạn 12,8mm xuống các trận địa chốt của ta. Không gian sôi động từ đấy. Tiếp sau lại là trận mưa pháo từ các trận địa pháo quen thuộc của địch dội xuống. Mặt đất rung chuyển, nhà cửa, cây cỏ lại bị cày tung và bốc cháy. Lửa khói quyện vào nhau, làm vẩn đục một khoảng không gian rất rộng. Đợt phản kích này, địch kết hợp không phải chỉ là bộ ba (pháo tầm xa, xe tăng và bộ binh) mà thêm cả máy bay nữa. Nhưng chúng tiến quân rất dè dặt, vừa đi vừa nghe ngóng; số lính sống sót hôm qua, hôm nay tiếp tục bị đẩy đi thì lơ láo, sợ sệt, luôn ở tư thế “sẵn sàng chạy” nếu có tiếng nổ từ phía trước mặt. Đến 10 giờ địch mới mở đợt phản kích quyết liệt vào cả ba mục tiêu, đặc biệt là chúng tập trung đánh vào sở chỉ huy của ta.


Đúng là kẻ địch đã nhằm vào mục tiêu then chốt của ta mà tiến công. Mất sở chỉ huy rõ ràng là công việc điều hành trận đánh có ảnh hưởng. Chính vì thế, chúng tôi động viên nhau kiên quyết bám trụ, đảm bảo trận chiến đấu bảo vệ cầu không bị gián đoạn; mặt khác, rút một phần lực lượng chốt giữ cầu về tăng cường cho đơn vị đang làm nhiệm vụ bảo vệ sở chỉ huy.


Hai đại đội pháo, rút kinh nghiệm hôm trước, đã kịp thay đổi cách đánh. Một đại đội ngắm bắn trực tiếp, chờ địch vào gần mới nổ súng. Một đại đội lùi lại phía sau rồi dùng súng cối 82mm dập vào cuối đội hình địch. Bị đánh bất ngờ ở hai đầu, địch bỏ chạy tán loạn, để lại nhiều xác chết, ta thu được tại chỗ 20 khẩu súng. Số lượng tuy ít nhưng đối với chúng tôi, rất quý vì lúc này nguồn vũ khí đưa từ hậu cứ ra rất khó khăn.


Ngay đêm hôm đó (28 tháng 4) các lực lượng giữ cầu của Tiểu đoàn 23 lại bí mật luồn sát vào mục tiêu, bất thần nổ súng tiến công chiếm lại cầu vừa bị địch phản kích lấy lại hồi chiều.


Được tin này cả sở chỉ huy vô cùng phấn khởi. Chúng tôi như trút được gánh nặng đè lên vai, người thấy nhẹ nhõm, khoan khoái vì để mất cầu lúc này thì rất gay go, thời gian tổng công kích sắp đến rồi, đại quân ùn tắc bên kia cầu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch hiệp đồng giữa các cánh quân lớn của chiến dịch. Nhưng chúng tôi cũng nhận định rằng địch chưa chịu từ bỏ hai mục tiêu này, trận chiến đấu sẽ còn xảy ra và còn ác liệt, địch vẫn tiếp tục phản kích, vì vậy cả đêm nay các cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 23 gần như thức trắng để củng cố hầm hào, chuẩn bị súng đạn đối phó với những trận phản kích nhất định sẽ xảy ra ngày mai.


Đúng như dự đoán của sở chỉ huy, 7 giờ sáng ngày 29 tháng 4 địch bắn pháo kéo dài một tiếng đồng hồ vào trận địa chốt của ta; tiếp đến có hai máy bay lên thẳng sà xuống thật thấp cố phát hiện lực lượng đối phương. Về phía ta, qua hai ngày quần nhau với địch, anh em thấm mệt nhưng khí thế vẫn giữ ở mức tốt. So với địch, lực lương ta rất hạn chế, người đã ít, súng đạn cũng không đủ. Trước tình hình đó, một mặt chúng tôi động viên anh em xốc tới, nếu không hoàn thành nhiệm vụ là lỡ đến kế hoạch lớn, nhưng mặt khác chúng tôi thay đổi cách đánh, đảm bảo đủ sức để chốt giữ dài ngày...


Khoảng 9 giờ 30 phút, địch huy động tổng lực đến 30 xe tăng gầm rú dắt bộ binh theo sau, chia thành hai mũi tiến đánh, quyết chiếm lại hai cầu, để sau đó tùy theo tình hình mà chúng giữ hay phá. Đại đội 1 giữ cầu Ghềnh đã lùi ra xa cách cầu 200 mét, nơi địa hình có lợi để đánh địch từ xa. Một đồng chí chiến sĩ của đại đội này đã bắn cháy tại chỗ năm xe tăng địch. Ban chỉ huy đại đội bị địch bao vây, chúng hò nhau bắt sống. Nhưng ở dưới hầm, các đồng chí đã chiến đấu hết sức ngoan cường, chia nhau đánh nhiều chỗ, nhiều hướng nghi binh lừa địch, kéo dài cuộc đọ sức giữa một bên có ba tay súng, một bên là tiểu đoàn địch có xe tăng yểm trợ. Cuộc chiến đấu cứ thế kéo dài cho đến lúc bóp cò, đạn không còn để nổ nữa đã đồng thanh hô to: “Kiên quyết không để sa vào tay địch!”.

Đến đây bỗng dưng đồng chí Dĩ nghẹn ngào không nói được nữa vì xúc động.

Phòng họp cũng trở nên trang nghiêm. Tất cả chúng tôi đều yên lặng và linh cảm thấy rằng một cái gì mất mát đã xảy ra!

Với giọng trầm xuống, đồng chí Dĩ tiếp tục kể:

- Sau tiếng hô kiên quyết đó, ba đồng chí trong Ban Chỉ huy đại đội 1 đã dùng quả lựu đạn cuối cùng còn lại để dành cho mình... Tiếng nổ và khói từ hầm bốc lên, làm cho đội hình quân địch lúc ấy đã vây sát phải chững lại. Từ xa nhìn, chúng tôi cứ ngỡ địch bị vấp mìn. Nhưng không, địch chững lại vì sửng sốt, vì thán phục sự chấp nhận hy sinh của các đồng chí trong Ban chỉ huy đại đội 1.


Cả đại đội chỉ còn lại bốn đồng chí ngoan cường chiến đấu, chống lại quyết liệt với địch. Các đồng chí đã nêu khẩu hiệu: “Còn người thì còn cầu!”. Với tinh thần dũng cảm và mưu trí, các đồng chí đó đã giữ được cầu.


Đại đội 3 chốt giữ cầu Mới, cũng chiến đấu giành từng tấc đất với địch để bảo vệ cầu, không cho chúng phá. Vì thế ở đây cũng diễn ra những trận đánh ác liệt.


Để tạo ra một đòn đánh quyết định chiếm lại cầu, địch dùng lực lượng lớn tiến công sở chỉ huy tiểu đoàn. Chúng thúc xe tăng vừa tiến vừa bắn từng loạt đạn ngắn về bốn phía để kiềm chế và thăm dò lực lượng ta suốt từ 11 giờ trưa đến 3 giờ chiều.


Về phần ta, lúc đầu im lặng, chờ địch vào thật gần. Nhưng cách khoảng 500 mét thì tự nhiên đội hình địch chững lại. Chớp thời cơ, ta dùng DKZ75, cối 82mm bắn vào giữa đội hình chúng. Đại đội 2 bắn cháy tại chỗ bốn xe tăng địch. Khi địch còn cách trận địa ta 100 mét, đồng chí Bảy, Trung đội trưởng và đồng chí Lê dùng B40, B41 tiến sát đón đầu, bắn hai phát diệt luôn hai xe tăng. Các xe còn lại hoảng hốt lùi về phía sau, dùng súng trên xe hạ thấp tầm, bắn xối xả vào đội hình quân ta. Quân ta tụt xuống hầm tránh đạn nhưng vẫn có bộ phận theo dõi địch. Tưởng ta hết sức chiến đấu, địch lại tiến vào nhưng lò dò từng bước, vừa đi vừa nghe ngóng động tĩnh. Đến 4 giờ chiều ngày 29, khi địch vào chỉ còn cách Sở chỉ huy 50 mét, quân ta mới nhất loạt nổ súng...


Đồng chí Dĩ chưa kịp nói tiêp, Chính ủy Đoàn Tập xen vào:

- Đây là trận quyết chiến cuối cùng trong ngày 29 và cũng là trận đánh hiệp đồng cuối cùng của bộ đội đặc công trong chiến dịch mang tên Bác.

Lời nhận xét của đồng chí Đoàn Tập càng làm tăng sự chăm chú của người nghe về trận đánh quan trọng này. Không ai muốn nghỉ giải lao, ai cũng thấy mình hứng khởi, muốn biết các đồng chí Tiểu đoàn 23 đã kết thúc trận đánh đó như thế nào.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:55:18 am
Tất cả chúng tôi lại nhìn về đồng chí Dĩ.

Vẫn dáng vẻ khiêm tốn, nhưng giọng nói trở nên sôi nổi, hùng hồn, như muốn trút hết tình cảm của mình để ngợi ca những người đồng đội. Anh nói tiếp:

- Báo cáo với các đồng chí là từ giờ phút này trận đánh càng trở nên ác liệt. Trước mặt chúng tôi chỉ thấy đất đá tung lên, những đám cháy, những đụn khói đùn lên mờ mịt cả khoảng trời. Đạn các cỡ của địch thi nhau nổ, xen lẫn những tiếng nổ của các chiến sĩ ta tuy thưa nhưng là những tiếng nổ thận trọng, có cân nhắc, tính toán. Mỗi chiến sĩ ở hai đại đội pháo như những xạ thủ “lành nghề”, cùng lúc sử dụng được nhiều loại súng để đánh địch. Đồng chí Vũ Đức Huyền, chiến sĩ số 1 của cối 82mm, sau khi cùng đồng đội dùng súng bộ binh bắn gục nhiều tên địch hung hăng, liền đó dùng ĐKZ bắn cháy hai xe tăng địch. Sau đó mặc dầu đồng chí Huyền bị thương, nhưng vẫn vận động sang trái đón bắn cháy một xe nữa. Ở khẩu đội khác, khẩu đội trưởng Lã Văn Điều mới có một tuổi quân, chỉ còn lại một mình, bị vết thương vào trán chưa kịp băng bó, máu chảy tràn xuống sống mũi, đã nhảy khỏi công sự, hiên ngang kê khẩu ĐKZ lên vai, bình tĩnh bắn bốn phát cháy bốn xe tăng địch. Viên đạn thứ năm Điều lắp vào chưa kịp bắn đã bị trúng đạn địch nổ ngay trong nòng. Đồng chí Điều hy sinh trong một tư thế thật đẹp - tư thế ngẩng cao đầu, đối mặt với kẻ thù và nhìn về phía trước.


Sự anh dũng và mưu trí của các chiến sĩ hai đại đội pháo đã cản ngăn được đợt tiến công quyết liệt của kẻ địch. Chúng tôi đã thắng địch trong một điều kiện không cân xứng về cả lực lượng và thế trận cụ thể.


Địch đã thất bại. Cho đến khi mặt trời lặn, màn đêm đã xuống dần, chúng vẫn không thực hiện được âm mưu phản kích đánh chiếm sở chỉ huy đối phương. Biết đêm là của ta, nhưng cũng liền trong hai đêm 28 và 29 tháng 4, địch liều lĩnh cho máy bay đến Long Bình chở bọn sĩ quan cao cấp làm việc ở sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và chuyển một số hàng chiến lược quý về Sài Gòn.


Đêm 29 trời đổ mưa. Mưa không to nhưng kéo dài, làm cho không khí thoáng mát, dễ chịu. Nhưng tiếng súng tiến công của quân ta ở các nơi dội về vẫn nghe rõ - nổ đều và nổ rộ. Những tiếng súng làm ấm lòng chúng tôi, những người giữ cầu, như nhắc nhở chúng tôi phải giữ vững tinh thần chiến đấu đến mức cao nhất để giữ lấy cầu.

Chúng tôi vui mừng, khấp khỏi chờ đón đại quân vượt qua cầu này để tiến về Sài Gòn!

Đêm nay sao cảm thấy dài ghê! Chỉ mong trời chóng sáng! Bởi lẽ lúc đó chúng tôi nghĩ không phải chỉ có đêm mới là của ta mà ngày cũng là của ta.

Sự mong đợi của chúng tôi đã thành sự thật.

Sáng 30 tháng 4, khi mặt trời mới ló rạng, tiếng súng tiến công của các binh đoàn chủ lực tham gia chiến dịch từ bốn hướng nổ rất nhịp nhàng và mỗi lúc mỗi gần.

Cả đại đội 1 chốt giữ cầu Ghềnh chỉ còn lại bốn đồng chí!

Thật là căng thẳng và gay cấn. Bốn người liệu có giữ nổi cầu không? Đến bây giờ mới là thời điểm cần phải trả lời dứt khoát, không được chần chừ do dự.

- Phải giữ!

- Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ, thà hy sinh tất cả chứ không để địch phá cầu.

7 giờ 30 phút, đồng chí Minh được giao nhiệm vụ cảnh giới ở ngay lô cốt đầu cầu. Bỗng đồng chí thấy những khối đen ngạo nghễ bám lên đầu cầu bên kia rồi nối đuôi nhau vượt lên.

Theo đồng chí Minh kể lại, mồ hôi đồng chí vã ra, đầu óc căng nhão vì câu hỏi:

- Đơn vị giữ đầu cầu bên kia không hoàn thành nhiệm vụ hay sao?

- Nhưng tại sao xe địch đã đến cầu mà không thấy chúng phá cầu? Chúng vẫn còn hy vọng đánh thắng chúng ta hay sao?

Đầu óc Minh cứ luẩn quẩn với những câu hỏi đó, phần vì mải chăm chú theo dõi hành động địch ở bên kia cầu. Mãi khi xe tăng đi đầu vào gần đến giữa cầu, đồng chí Minh mới nhố đến nhiệm vụ của mình, vội báo cho ba đồng chí phía sau chuẩn bị chiến đấu. Hai tay Minh cầm hai quả lựu đạn sẵn sàng...
Như không tin ở mắt mình, Minh chớp liền mấy chớp và giương to, rồi reo lên:

- Xe tăng ta các cậu ơi!

- Phải cảnh giác đấy! - Có tiếng từ phía sau vọng lên.

- Không, thật mà! Xe tăng ta đang đi, có in hình cờ đỏ sao vàng.

Xe dừng lại, một chiến sĩ ra khỏi buồng lái, nét mặt tươi tỉnh đi về phía Minh với dáng điệu khẩn trương, phấn khởi:

- Cảm ơn các đồng chí!

- Xe tăng của ta các đồng chí ơi! - Minh reo to và ngoái lại phía sau như gọi tất cả những người sống sót làm nhiệm vụ giữ cầu lên mà đón chào, mà mừng vui.

Giây phút gặp nhau trên cầu đầy xúc động, ai cũng khóc vì được gặp mặt nhau sau những năm tháng dài mong chờ. Các chiến sĩ lái xe tăng ôm ghì các chiến sĩ đặc công, các chiến sĩ đặc công cầm tay các chiến sĩ lái xe tăng lắc mạnh, nhìn chằm chặp vào những khuôn mặt lấm bụi dường và thuốc súng mà không nói nên lời.


Minh đứng sững bên thành cầu, hai tay vẫn nắm chặt hai quả lựu đạn giơ lên cao vẫy chào đoàn xe đi qua...


Trong những giây phút thật yên tĩnh này, tôi lại chong mắt không sao ngủ được vì xúc động. Tôi nghĩ đến sông Đồng Nai, một dòng sông quen thuộc như dòng sông Cầu quê tôi, nó đã gắn bó thiết tha từ ngày đặt chân lên đất miền Đông; nghĩ đến thác Trị An ngày đêm tung bọt trắng xóa như vẫy chào chúng tôi trong mọi cuộc hành quân; nghĩ đến những cuộc chiến đấu đầy gian khổ mà lạc quan trên dòng sông này... Mỗi khúc sông đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong tâm khảm những chiến sĩ đặc công chúng tôi. Đã có một đêm trăng hành quân qua một đoạn của dòng sông này, cảnh vật thật đẹp giữa bốn bề là đồn bốt giặc đã thúc giục tình cảm tôi nảy ra mấy vần thờ:

Đồng Nai ơi! Dòng sông bất khuất
Bao chiến công hiển hách còn ghi...

Làm xong nhiệm vụ ém quân “lót ổ", thực hiện từ trong đánh ra phối hợp với từ ngoài đánh vào, Trung đoàn 113 được Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ tiếp quản thị xã Biên Hoà và một số địa bàn xung quanh.

Biên Hòa! Cái tên thân thương và gần gũi ấy đã gắn liền với cuộc đời của các chiến sĩ đặc công Trung đoàn 113.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:55:52 am
Từ Hốc Bà Thức tiến vào Biên Hòa

Đi trên đường phố nằm trên hai bên bờ sông Đồng Nai với rừng cờ sao đỏ rực vào một sáng tháng Năm mà chúng tôi vẫn cứ ngỡ ngàng, tất cả vẫn cứ tưởng như mình đang sống trong mơ! Nhưng không phải mơ mà thật! Từng dòng người gồm đủ trẻ, già, trai, gái trong bộ quần áo mới đủ màu sắc với nét mặt rạng rỡ đang vẫy chào đoàn quân chiến thắng trở về...


Trong niềm cảm xúc không bò bến này “tâm hồn thơ” của tôi bỗng từ cõi lòng sâu kín dâng lên. Nhưng lúc này đâu phải lúc làm thơ? Làm thơ không thể kịp! Tôi không đủ tài năng để sắp xếp ngôn ngữ, không thể dùng từ chính xác để thể hiện sự kiện vĩ đại này của dân tộc, sự hy sinh cao cả và những công việc phi thường mà đồng đội đã làm... mà chỉ còn kịp đọc mấy vần thơ của Tố Hữu:

   "... Các anh chị, các em ơi, có phải
   Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh
   Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh...''.

Đó là mấy câu thơ trong bài "Sáng tháng Năm" ông đã viết từ năm 1951. Nhẩm đọc, ta thấy tiếc: giá lúc này Bác còn sống? Ừ, nếu Bác còn sống, Bác biết một trung đoàn đặc công hoạt động ở miền Đông, nơi cửa ngõ phía bắc Sài Gòn này đã làm được những việc mà Bác hằng mong muốn, căn dặn chúng cháu trong ngày chính thức thành lập binh chủng. Không, Bác có mất đâu! Bác vẫn đang sống! Bác biết tất cả những việc chúng cháu làm, Bác vẫn đang cùng chúng cháu hành quân; chúng cháu đang theo chân Bác đi cùng trời cuối đất để cùng Bác thực hiện ước mơ: Độc lập, tự do cho dân tộc mình!


Năm tháng sẽ qua đi, mỗi chúng tôi, do nhu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tô quốc xã hội chủ nghĩa, đã và sẽ chuyển đi đơn vị khác sang mặt trận chiến đấu mới, nhưng chẳng ai có thể quên được Trung đoàn 113 đặc công miền Đông, nơi mình đã tham gia chiến đấu và trưởng thành ở đó. Mỗi chúng tôi mãi mãi có quyền tự hào về Trung đoàn mình đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Mỗi chiến sĩ đặc công của Trung đoàn 113 chúng tôi đều có nhiều kỷ niệm trong cuộc đời chiến đấu của mình, nhưng miền Đông Nam Bộ vẫn là nơi đọng lại nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất. Chính ở nơi ấy chúng tôi đã trưởng thành, đã lớn lên về mọi mặt cả trong chiến đấu và xây dựng. Truyền thống tốt đẹp cùng những kinh nghiệm chiến đấu xây dựng của Trung đoàn đặc công 113 vẫn còn nguyên giá trị trong nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị và lực lượng vũ trang nhân dân ta hiện nay.


NGUYỄN THÀNH TOÁN ghi


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:57:25 am
BIÊN HÒA - MỘT THỜI KỶ NIỆM


NGUYỄN THÀNH LỘC
Nguyên Trung đoàn trưởng Đoàn đặc công 113 - đại tá, nay đã nghi hưu


Từ những năm 1968 đến tháng 10 năm 1971, tôi là Tỉnh đội phó Tỉnh đội Biên Hòa, anh Hai Cà (Trần Công An) - Tỉnh đội trưởng, chúng tôi đã cùng với các đồng chí trong Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, bám sát chiến trường nắm vững tình hình địch để phối hợp các lực lượng đẩy mạnh tiến công cách mạng. Khoảng cuối tháng 10 năm 1971, tôi được gọi về Miền chờ công tác ở Bộ Tham mưu. Sau đó ít lâu được bổ nhiệm làm Phó trung đoàn trưởng Đoàn Đặc công 113, tham gia kế hoạch “Chồm lên”.


Thời kỳ ấy, anh Nguyễn Thanh Tùng - Trung đoàn trưởng, xuống địa bàn cùng đơn vị trực tiếp chỉ đạo thực hiện kế hoạch “Chồm lên”, còn tôi trực ở sở chỉ huy tại cứ đóng ở Bàu Hàm. Hiệp định Pa-ri là một thắng lợi có ý nghĩa vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nhưng chưa phải là thắng lợi cuối cùng. Bởi vì kẻ thù còn nhiều mưu sâu kê hiểm tìm mọi cách để phá hoại. Nhận rõ dã tâm của chúng, các lực lượng vũ trang giải phóng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu để đánh bại kẻ thù, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hoại nhiều phương tiện chiến tranh của chúng ngay từ trong căn cứ, hậu cứ mà chúng không thể chống đỡ.


Để làm được điều đó, Đảng ủy - Ban Chỉ huy Trung đoàn lãnh đạo học tập về chính trị, quán triệt sâu sắc cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ về tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam. Mặt khác, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ từ phân đội, đại đội đến tiểu đoàn thay phiên nhau từ một tháng rưỡi đến ba tháng tại bên kia sông Đồng Nai, gần khu vực đường Lệ Xuân. Đồng thời Đoàn cử cán bộ cùng trinh sát đi chuẩn bị chiến trường hướng đông - bắc sân bay Biên Hòa, kho bom Bình Ý và tổng kho Long Bình... Sau khi chuẩn bị cơ bản xong các mục tiêu, khoảng tháng 4 năm 1973 có lệnh điều anh Nguyễn Thanh Tùng - Trung đoàn trưởng lên làm Sư đoàn phó Sư đoàn 2 đặc công Miền; anh Mai Văn Thoạn làm Chủ nhiệm chính trị sư đoàn này; anh Đỗ Văn Ninh, anh Vũ Quớ - Trung đoàn phó. Các anh Đỗ Thịnh - Chính ủy, Bí thư Đảng ủy; anh Trương Bá Triệt - Phó chính ủy. Sau khi nhận các cương vị công tác, ổn định tổ chức, tháng 7 năm 1973 chúng tôi tổ chức một tổ đặc công đánh kho bom Bình Ý. Tổ đánh này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết hợp với những chiến công cả trước và sau này, tổ có 2 đồng chí được tuyên dương danh hiệu Anh hùng đó là Hồ Văn Sinh và Ngô Văn Sơn. Sau đó chúng tôi chuyển về đóng cứ ở Hiếu Liêm, nơi ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai. Trong thời gian này vừa tập trung xây dựng căn cứ ở đây và một bộ phận bám sát chuẩn bị chiến trường, chủ yếu vẫn là sân bay Biên Hòa, trận địa pháo, địa điểm ém quân và tập kết quân. Đoàn ém quân dựa vào trục lộ 24 nhưng chủ yếu là hai khu vực Bùng Binh (Thiện Tân - Vĩnh Cửu) và Nhà Nai, Tân Uyên chờ thời cơ mới. Đến tháng 5 năm 1973, Đoàn cử tôi báo cáo về trận đánh phân khu 53, tổng kho Long Bình do Bộ Tư lệnh Đặc công tổ chức ở Hà Nội. Đây là một trận đánh mật tập theo chiến thuật đặc công, sử dụng lực lượng đông trên 60 người, vào một căn cứ lớn, canh phòng cẩn mật, đạt hiệu suất chiến đấu rất cao. Được đại biểu nhiệt liệt hoan nghênh và nghiên cứu, học tập. Đến tháng 2 năm 1975, tôi mới trở lại Miền rồi về công tác ở Sư đoàn 2 đặc công.


Trong thời gian tôi ra Bắc, anh Ba Ninh - quyền Trung đoàn trưởng; anh Trương Bá Triệt - Chính ủy thay anh Đỗ Thịnh ra Bắc dưỡng bệnh; anh Đinh Xuân Nghiêm - Trung đoàn phó và anh Tư Trang - Phó chính ủy.


Tại hội nghị tổng kết ở miền Bắc, tôi đã được gặp nhiều đại biểu ưu tú từ các chiến trường ba nước Đông Dương. Sau khi trực tiếp nghe các trận đánh điển hình, đạt hiệu quả cao, những tấm gương dũng cảm trong chiến đấu càng thêm yêu mến, cảm phục và học tập ở bạn nhiều điều quý giá. Đặc biệt có dịp tiếp xúc gặp gỡ với các đồng chí Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Đặc công, tôi rất phấn khởi tin tưởng. Kết thúc hội nghị, tôi càng nôn nóng được vào nhanh tới chiến trường để sát cánh cùng anh em đơn vị. Vào thời điểm ấy, không khí trên miền Bắc cũng thật rộn ràng náo nức mỗi khi nghe tin chiến thắng dồn dập từ miền Nam. Tuy nhiên tôi tiếc mãi vì không có dịp tiếp xúc nhiều với những người mẹ, người chị có chồng, con đang ở tuyến đầu chống Mỹ đã lâu lắm bặt tin. Trong số đó, chắc hẳn có người vì hoạt động, chiến đấu bận rộn, lại ở chiến trường xung yếu khó có dịp gửi thư. Nhưng chắc chắn không ít người đã ngã xuống trên các chiến trường! Nghĩ đến đó tôi như thấy mình còn mắc nợ các mẹ, các chị quá lớn. Cái nợ ấy, có lẽ không bao giờ chúng tôi trả được... Tổ quốc, nhân dân mãi mãi ghi nhớ ơn nặng, nghĩa dày với những người con trung hiếu ấy bằng những việc làm cụ thể, thiết thực nhằm bù đắp lại phần nào nhỏ nhoi cho người thân của họ vậy.


Tiễn tôi trở lại Trung đoàn, lúc ấy anh Chín Mây - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 đặc công vừa thay anh Đặng Ngọc Sĩ lên làm Phó tư lệnh Quân khu; anh Tống Viết Dương - Sư đoàn phó, anh Bảy Dũng - Chính ủy, anh Lê Bá Ước - Phó chính ủy bắt tay tôi tỏ vẻ phấn chấn và căn dặn:

- Chiến trường đang chuyển biến mau lẹ, có thể tính từng ngày, từng tuần. Về phải bắt tay ngay để hành động đấy “Bọ” nhé! “Bọ” có nghĩa là Bố - các anh đùa vui, vì tôi là dân Can Lộc, Hà Tĩnh mà. Tất cả được một trận cười vang đầy chất hài hước của lính. Tuy bọn tôi đều trải hai mùa kháng chiến, nhưng cái chất trẻ trung gần như còn nguyên vẹn.


Đúng như các anh căn dặn, khi tôi bước chân về tới cứ Trung đoàn bắt gặp những ánh mắt, nụ cười của mọi người tươi trẻ lạ. Họ vui vì mấy tháng xa nhau, giờ gặp lại, hỏi thăm đủ chuyện trên miền Bắc trăm mến ngàn thương. Và một cái vui hiện hữu là khí thế chiến trường đang dồn dập nở hoa chiến thắng. Tất cả đã ở trên “Bệ phóng”, đội hình Trung đoàn đã vào tư thế, các mục tiêu, lực lượng đều đã xong xuôi. Đầu tháng 4 năm 1975, ta đã khỏi đánh Xuân Lộc, địch đang điên cuồng chống cự, tình hình sôi động khác thường.


Lúc này căn cứ Trung đoàn vẫn ở đường Lệ Xuân, Hiếu Liêm. Một buổi chiều, như mọi buổi chiếu, trời vừa nhạt nắng, những vầng sáng sót lại nhuộm thẫm những cánh rừng. Chim ríu ran gọi nhau về tổ. Nếu không có những tiếng bom rền, đạn nổ từ xa vọng lại thì nơi đây quả là chốn yên bình.

- Báo cáo thủ trưởng, có điện!

Tôi đang vui chuyện trên bàn trà ghép bằng cây rừng với anh em cơ quan, nghe báo cáo ngoái lại tiếp nhận bức điện “Thượng khẩn” từ tay anh cơ yếu. Nội dung ghi:

- Trung đoàn Đặc công 113 tăng cường cho Quân đoàn 4 để sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ!

Tôi đọc đi đọc lại mấy lần, rồi chuyển bức điện cho các anh trong Ban Chỉ huy đọc để nhận định tình hình.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tư, 2021, 09:58:50 am
Kể từ ngày thành lập, mấy năm qua Trung đoàn hoạt động theo phương thức đánh sâu, đánh hiểm kể cả xung lực, hoặc hỏa lực pháo binh, sử dụng lực lượng gọn. Đánh lớn như mở đầu bằng pháo kích vào sân bay Biên Hòa đầu tháng 8 năm 1972 của Tiểu đoàn pháo 174, tính ra lực lượng phục vụ khá đông. Nhưng lúc trực tiếp tác chiến cũng chỉ gọn nhẹ mà đạt hiệu quả rất cao. Nay huy động toàn Trung đoàn ra quân, chắc đánh lớn đây? Tôi nhận định thế nhưng còn cụ thể... thú thực chưa nắm chắc được, vì còn chờ chủ trương của trên.


Sáng hôm sau, tôi - Trung đoàn trưởng; anh Vũ Quớ - Trung đoàn phó cùng tiểu đội trinh sát "khăn gói quả mướp" lên đường. Tắt rừng, nhiều chặng theo lối mòn nhưng đều phải cảnh giác biệt kích, thám báo phục kích hoặc cài mìn. Chiều tối tới thượng nguồn sông La Ngà, vào trạm khách Quân đoàn 4. Cơm nước, tắm rửa thật khoan khoái, ngủ đêm sáng hôm sau vào gặp đồng chí Hoàng Cầm - Tư lệnh Quân đoàn 4 nhận nhiệm vụ.


Qua một ngày lội bộ đường rừng khá mệt, đáng ra phải được chìm sâu vào giấc ngủ ngon lành, song với tôi thì ngược lại, giấc ngủ chập chờn bởi theo linh cảm của một người lính trận mạc, người chỉ huy cấp chiến thuật, qua diễn biến của chiến trường có thể phán đoán ngày thắng lợi đã tới gần. Trong thời khắc lịch sử ấy, mỗi người lính ngã xuống trước giờ toàn thắng thì niềm đau thân nhân họ theo cấp số nhân, và... ai dám khẳng định điều sẽ xảy ra... Miên man suy nghĩ đưa tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Tôi chợt tỉnh bởi giòn giã những chú tắc kè đua nhau lên tiếng râm ran cả cánh rừng.


Mãi tới khi bước vào làm việc với Tư lệnh Quân đoàn, những gì dồn nén trong tôi mới được hóa giải. Trung đoàn Đặc công 113 được giao nhiệm vụ:

Một là, đánh chiếm, bảo vệ cầu Ghềnh và cầu Hóa An (cầu Mới) chốt giữ để Sư đoàn 7 cùng Quân đoàn 4 tiến về giải phóng Sài Gòn.

Hai là, đánh chiếm căn cứ chiến đoàn 15 thiết giáp Hốc Bà Thức để mở cửa cho Sư đoàn 7 tiến công sân bay Biên Hòa và bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy. Sau khi đánh chiếm cầu, đón đại quân tiến vào Sài Gòn, đơn vị vẫn tiếp tục chốt giữ căn cứ Hốc Bà Thức và giữ vững hai cầu.


Nhiệm vụ cụ thể là vậy, nhưng giờ “G” và ngày “N” đều chưa được trên cho hay, nên bản thân tôi vẫn băn khoăn.

Đây là lần đầu tiên trong đời cầm quân của mình tôi cảm thấy vừa phấn chấn xen lẫn sự hồi hộp trước một sự kiện sắp diễn ra mang nhiều ý nghĩa đến như vậy.

Sau khi nhận nhiệm vụ, cũng trên chặng đường ấy, nhưng lúc trở về chúng tôi thấy quãng đường như ngắn lại, chỉ hơn nửa ngày là tới cứ. Đến nơi, chúng tôi tiến hành họp Đảng ủy trung đoàn ngay để triển khai lãnh đạo. Tiếp đó, một hội nghị quân chính cũng được tiến hành.


Tiểu đoàn 9, đại đội trinh sát 53 cùng một bộ phận cơ quan Trung đoàn tham gia đánh chiếm căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức; Tiểu đoàn 23 đặc công và Tiểu đoàn pháo binh 174 - bố trí trận địa gần bãi khai thác đá Hóa An để hỗ trợ đánh chiếm cầu Ghềnh và cầu Mới. Phân công chỉ huy gồm: anh Ninh - Trung đoàn phó; anh Ba Triệt - Chính ủy đi với Tiểu đoàn 9 đánh chiếm Hốc Bà Thức; Tôi Nguyễn Thành Lộc - Trung đoàn trưởng; anh Hai Nghiêm - Tham mưu trưởng; anh Tư Trang - Phó chính ủy đi với Tiểu đoàn 23 và Tiểu đoàn 174 hướng cầu Mới và cầu Ghềnh.


Ngày 22 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 9, đại đội 53 cùng bộ phận Trung đoàn bộ từ căn cứ Tân Uyên hành quân tới căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân, Vĩnh cửu để ém quân. Còn Tiểu đoàn 23 và 174 vẫn ỏ vị trí cũ. Sau khi tập kết xong đội hình, ngày 26 tháng 4 năm 1975 mới được phổ biến thời gian cụ thể là: sáng ngày 26 rạng 27 tháng 4, các đơn vị tập kết xong lực lượng. Đúng 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 chờ lệnh. 4 giờ 30 phút sáng nổ súng chiến đấu.


Đây không phải lần đầu tiên vào trận, sao hôm nay có cái gì đó vừa hồi hộp, bồn chồn, vừa rạo rực tin tưởng trong sự chờ đợi theo nhịp đập của thời gian.

Đến giờ quy định, các mũi xung lực ở cả cầu Mới và cầu Ghềnh đột nhập, chiếm lĩnh khá dễ dàng. Bị bất ngờ, bọn lính bảo vệ chống cự yếu ớt và bị đánh bật khỏi cầu mà chưa cần tới hỏa lực pháo chi viện.

Song, như chúng ta đã biết, cả cầu Ghềnh và cầu Mới nằm ngay trung tâm thị xã Biên Hòa, có vị trí cực kỳ quan trọng với địch cả về giao thông cũng như cơ động binh khí, kỹ thuật nên không dễ gì địch để rơi vào tay đối phương. Vì vậy, từ khoảng 10 giờ sáng ngày 27 tháng 4, một chiến đoàn thuộc sư đoàn 18 ngụy tổ chức phản kích chính diện để lấy lại cầu. Anh em dùng B40 - B41, lựu đạn, súng trang bị tự có, lợi dụng địa hình, địa vật chống trả quyết liệt. Ta vẫn giữ vững hai cầu, địch bị chết rất nhiều. Tối hôm ấy, ta tranh thủ tăng cường đạn dược, củng cố ý chí quyết tâm chiến đấu và lường trước những khó khăn ác liệt bội phần. Đúng vậy, tiếp đó ngày 28 và 29 tháng 4, một tiểu đoàn của sư đoàn 18 được tăng cường thêm một tiểu đoàn dù ở sau cầu Hang chia làm hai hướng đánh vào Sở chỉ huy Tiểu đoàn 23 của ta, đặt tại làng gốm Bửu Hòa. Với cuộc đọ sức khá chênh lệch về người và phương tiện, địch tưởng sẽ đè bẹp đối phương và làm chủ tình thế. Nhưng, một mặt anh em lợi dụng địa hình, tiêu diệt những tốp lính gần nhất. Mặt khác, pháo binh ta đặt cách đó vài ba cây số bắn trực tiếp xuống đội hình và kiềm chế trận địa pháo địch đặt ở núi Châu Thới. Đội hình địch rối loạn, nhiều tên bỏ mạng. Tuy vậy, sáng ngày 29, lực lượng Tiểu đoàn 23 tổn thất nặng nề, có đại đội cả Ban chỉ huy ba đồng chí đều hy sinh. Tới trưa, trận địa ta bị địch chọc thủng và cầu Mới bị chúng phá sập hai nhịp (trước đây hai nhịp cầu này đã bị tổ đặc công ta đánh sập, địch bắc lại nhưng chưa chắc chắn). Riêng cầu Ghềnh ta vẫn bám trụ và giữ vững cho đến ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975. Tối 27 và 28, số anh em thương binh được đưa về trạm phẫu Trung đoàn đặt tại lô cao su giáp giữa Dĩ An và Tân Uyên cấp cứu, để sáng ngày 29, anh Ba Triệt dùng xe ô tô của dân đưa về bệnh viện Biên Hòa.


Do cầu Hóa An bị sập hai nhịp, cầu Ghềnh yếu, xe tăng loại T54 không đi được, nên Sư đoàn 7 chỉ tổ chức một số bộ phận cùng với xe tải nhẹ hành quân qua hướng Thủ Đức và cầu Bình Phước. Hai sư đoàn còn lại của Quân đoàn 4 cùng xe tăng theo xa lộ qua cầu Sài Gòn và tiếp tục đánh chiếm các mục tiêu được phân công như bộ quốc phòng ngụy cùng một số địa điểm khác dọc đường tiến quân cho tới dinh Độc Lập, tòa Bố chánh Sài Gòn.


Trong những ngày chiến đấu ở đây, mặc dù bom đạn, hy sinh, nhưng đêm đêm cán bộ, chiến sĩ vẫn nhận được tiếp tế cơm, nước của nhân dân địa phương. Tôi còn nhớ có một thanh niên còn khá trẻ trực tiếp tới cung cấp những thông tin về địch để đơn vị nắm và có phương án đối phó. Đặc biệt, số liệt sĩ cũng nhờ cô bác chôn cất để sau này có điều kiện quy tập về nghĩa trang cùng đồng đội yên nghỉ đời đời.


Sau khi Biên Hòa được hoàn toàn giải phóng, Trung đoàn triển khai làm nhiệm vụ quân quản tại đây. Ít lâu sau được lệnh hành quân về thành Quan Năm ở huyện Hóc Môn, Sài Gòn truy quét bọn tàn quân, và lần lượt làm nhiệm vụ khác.


Trước không khí chiến thắng với niềm vui tràn ngập, ngày 8 tháng 9 năm 1975, Trung đoàn tổ chức đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ nhất. Và tháng 10 năm ấy, theo lệnh của Bộ, Tiểu đoàn 9, đại đội trinh sát 53, đại đội thông tin lại bổ sung về các đơn vị, và tôi xa Trung đoàn từ đó.


Trải qua những năm tháng chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ trên mảnh đất Biên Hòa, được Đảng bộ, nhân dân tỉnh nhà che chở, đùm bọc Trung đoàn như con em ruột thịt. Tình cảm sâu nặng ấy chúng tôi không bao giờ quên được...


Năm tháng sẽ qua đi, song trang sử vàng truyền thống của Trung đoàn 113 đặc công - đơn vị ba lần Anh hùng, sẽ mãi mãi gắn với lịch sử đấu tranh cách mạng của Biên Hoà - Đồng Nai như một nét son thắm đỏ. Được biết, qua phát hiện và đề nghị của anh Phan Văn Trang - nguyên Bí thư Tỉnh ủy U1 (Biên Hòa) và Bí thư tỉnh ủy Đồng Nai khóa 5 cùng Ban Liên lạc truyền thống Trung đoàn, đề nghị với lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo thành phố Biên Hòa, sẽ khảo sát, xây dựng một bia tưởng niệm tại đầu cầu Ghềnh để khắc ghi tên, tuổi 52 liệt sĩ của Tiểu đoàn 23 đặc công của Trung đoàn đã anh dũng ngã xuống trước giờ toàn thắng.


Làm được điều đó, hồn thiêng các anh hẳn ngậm cười, và chúng tôi - những đồng đội thân yêu cũng lấy làm mãn nguyện. Để một ngày nào đó dòng sông Đồng Nai trong xanh nước biếc soi bóng những Anh hùng.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 06:45:11 am
NGHĨ CÀNG THÊM NHỚ


TRƯƠNG BÁ TRIỆT
Nguyên Chủ nhiệm chính trị đầu tiên Đoàn Đặc công 113,
đại tá nay đã nghỉ hưu



Trong mấy mươi năm cuộc đời quân ngũ, có ai chỉ ở trong một cơ quan hay một đơn vị. Vậy mà trong tâm tưởng của tôi luôn dành một khoảng đáng kể để nhớ về Trung đoàn Đặc công 113 mà tôi hằng yêu mến dù chỉ ở mấy năm.


Ngày 3 tháng 6 năm 1972, Trung đoàn Đặc công 113 được thành lập ở suối Bà Hào, tôi được cấp trên phân công làm Chủ nhiệm chính trị - Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn. Trước đó tôi đã là chính trị viên Tiểu đoàn 10, Đoàn Đặc công 429 cơ động của Miền. Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, anh Tư Lập - Chính ủy Trung đoàn về Sư đoàn 2 đặc công, tôi nhận nhiệm vụ của anh, đồng thời là Bí thư Đảng ủy Trung đoàn.


Những kỷ niệm tôi còn nhớ mãi trong những ngày đầu thành lập đơn vị đó là nhận chỉ thị cấp trên chỉ qua bức điện ngắn mà cán bộ các hướng từ Phân khu 4, Phân khu 5 ở mãi Thủ Dầu Một kịp thời có mặt tại ngã ba suối Bà Hào, bất chấp khó khăn nguy hiểm.


Thứ nữa là, năng lực công tác tổ chức của Ban Chỉ huy Trung đoàn như Trung đoàn trưởng Nguyễn Thanh Tùng và Chính ủy Mai Văn Thoạn cùng ở cơ quan chuyên trách. Tinh thần, ý thức tổ chức kỷ luật chấp hành mệnh lệnh của cán bộ, chiến sĩ thật là tuyệt vời.


Phát huy truyền thống quý báu của Binh chủng Đặc công anh hùng, đơn vị thích ứng nhanh khi đặt chân tới một địa bàn mới, khai thác triệt để kinh nghiệm của tập thể, cá nhân từ các chiến trường hợp thành. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đặc công U1 (Biên Hòa), bổ sung về đơn vị, là những người từ nhiều năm trước đã bám trụ thông thạo địa hình, nắm chắc đối phương nên phục vụ đắc lực, kịp thời cho Trung đoàn triển khai tác chiến được ngay, mà không mất nhiều thời gian làm quen tìm hiểu ở một hướng chiến trường mới.


Đoàn đã quan hệ tốt với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, huyện và các cơ sở vùng sâu, vùng xa nơi phong trào cách mạng còn mỏng và yếu. Ngay từ khi đến và trải suốt quá trình bám trụ, hoạt động chiến đấu, lúc nào đơn vị cũng nhận được sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của ban lãnh đạo từ Tỉnh ủy Biên Hòa (U1) cơ quan Tỉnh ủy, các cơ sở cách mạng cả về tinh thần và vật chất. Điển hình nhất là lãnh đạo tỉnh đã huy động một lực lượng đáng kể anh chị em cán bộ cơ quan tham gia vận chuyển hàng trăm quả đạn pháo ĐKB để kịp thời phục vụ cho đơn vị mở đầu trận đánh lớn vào sân bay Biên Hòa, đêm 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1972 đạt hiệu suất cao. Đây là đòn giáng trả đích đáng của một đơn vị đặc công vừa mới thành lập đã lập được chiến công vang dội theo cách đánh mới “nối dài cánh tay đặc công”.


Đơn vị đã xây dựng được căn cứ vững chắc giữa lòng dân mà kẻ thù không sao phá vỡ nổi. Căn cứ Bùng Binh của Tiểu đoàn 9 là một minh chứng. Sát các căn cứ của địch là một “vùng lõm” được xây dựng đủ cho vài ba đại đội sinh hoạt nhiều ngày liền. Lương thực, thực phẩm, thuốc nổ, đạn dược được tập kết an toàn đáp ứng kịp thời cho các cuộc tiến công địch mà không tốn thời gian phải tiếp cận từ xa tới.


Trận đánh chiếm cầu Ghềnh và cầu Hoá An như một dấu ấn tạc vào tâm trí, không thể nào phai nhạt trong tôi. Đó là sáng ngày 27 tháng 4 năm 1975, lực lượng ta nổ súng tiến công đánh chiếm cầu. Bị bất ngờ, địch toán loạn tháo chạy. Nhưng khi hoàn hồn, chúng tập trung mọi lực lượng pháo binh, máy bay chi viện liều lĩnh xông lên. “Ba đánh một không chột cũng què”, đằng này mình một, địch có thể gấp hàng chục lần, ta lại ở vào thế bất lợi. Qua ngày đầu chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ ta rất kiên cường nhưng khả năng thì có hạn, nên hy sinh là điều khó tránh. Ngày 28 tháng 4 nhờ hoả lực ĐKB, ĐKZ Trung đoàn tăng cường chi viện có hiệu quả, phần nào đó giảm áp lực quân địch tập trung từ Biên Hoà đánh ra, Sóng Thần, Dĩ An đánh về, tôi đề nghị anh Ba Lộc - Trung đoàn trưởng để tôi cùng mấy anh em trinh sát trực tiếp xuống trận địa cầu Hang để thăm hỏi, động viên bộ đội.


Gặp tôi, anh em mừng rỡ hết chỗ nói nhưng bản thân mình không nén nổi xúc động khi đại đội giữ cầu Ghềnh đã anh dũng hy sinh gần hết trước sự phản kích điên cuồng của địch. Lòng tôi như se lại khi lực lượng còn lại rất mỏng mà nhiệm vụ tiếp theo khá nặng nề. Song nhiều dấu hiệu cho thấy địch đang có biểu hiện nao núng. Qua máy điện đàm, tôi trực tiếp báo cho anh Ba Lộc ở chỉ huy sở. Anh nói lại: rất có thể là như vậy, và khả năng còn tồi tệ hơn nhiều. Đúng thế, sáng ngày 29 tháng 4, địch thất thủ Biên Hòa, nhốn nháo, nhiều tên lột hết quần áo, vứt súng tháo chạy thoát thân. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại quân ta tràn về thành phố Sài Gòn, báo hiệu giờ cáo chung của chế độ bán nước.


Giữa trận địa còn vương mùi khói đạn, bom khét lẹt, bản thân tôi cùng một số anh em, dùng xe ô tô của dân thu gom số thương binh đưa đi cấp cứu, điều trị tại nhà thương Biên Hòa. Còn tử sĩ được cô bác địa phương đưa vào yên nghỉ tại khu nghĩa trang nhân dân ấp Tân Bản, xã Bửu Hòa dưới chân núi Châu Thới.


Đất nước đã hoàn toàn giải phóng gần 30 năm. Ngần ấy thời gian đủ cho một thế hệ trưởng thành và vững vàng trong sự nghiệp cống hiến sức lực, tài năng cho đất nước. Còn thế hệ chúng tôi cũng như bản thân mình lùi về chốn yên bình, lo toan tuổi già. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn như thế, còn vương vấn như một duyên nợ chưa thể trả, nói đúng hơn là không thể nào trả cho đặng.


Nhớ lại, lúc khói đạn còn khét lẹt, tôi gặp anh Lê Bá Ước - Phó chính ủy Sư đoàn 2 đặc công nói rằng:

- Anh Bảy, sau ngày đất nước sạch bóng quân thù, non sông liền một dải hát khúc khải hoàn. Nơi đây cần dựng bia kỷ niệm các liệt sĩ đã ngã xuống trước ngày toàn thắng, như một nghĩa cử để các thế hệ đời đời nhớ ơn và tri ân họ vậy.

Anh Bảy ước rất đồng tình với ý nguyện ấy của tôi.

Nghe nói, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Trang, một đồng chí lãnh đạo đã có nhiều công lao đóng góp với phong trào cách mạng địa phương, rất gần gũi gắn bó với Trung đoàn đặc công 113 từ khi mới thành lập và đi suốt cuộc kháng chiến cứu nước đã nhắc nhiều lần ý tưởng cao đẹp này.


Mong sao ý tưởng ấy của anh Năm Trang, của tôi và đông đảo cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đặc công 113 quý mến sớm trở thành hiện thực. Đó cũng là biểu hiện sự tri ân các Anh hùng liệt sĩ hy sinh cho dân tộc trường tồn.


TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2003


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 06:46:36 am
CÓ NGÔI MIẾU THỜ CÁC LIỆT SĨ ĐẶC CÔNG
TẠI DINH BÀ CHÚA XỨ


Theo lời kể của ông
HUỲNH QUANG SAO


Nét mặt phúc hậu, người tầm thước, nước da hồng hào, giọng nói nhỏ nhẹ gợi cảm, dẫu lần đầu mới gặp cũng đã thấy gần gũi và dễ mến... Đó là ông Huỳnh Quang Sao, nhà ở làng Mỹ Khánh xưa, nay là ấp Tân Mỹ, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - đã có công kế thừa, chăm sóc, tôn tạo ngôi miếu để hương khói các liệt sĩ bộ đội đặc công đã anh dũng hy sinh tại nơi này. Mỗi lần có dịp nhắc lại sự kiện này, với riêng tôi và chắc mỗi người chúng ta không khỏi rưng rưng cảm động.


Một buổi sáng cuối tháng 3 năm 2003, sau nhiều lần tìm kiếm, tôi may mắn gặp được ông Huỳnh Quang Sao (Sáu Sao) đang phụ giúp vợ bán hàng trang trí nội thất tại đường Nguyễn Trãi, chợ Biên Hòa. Sau khi nghe tôi trình bày lý do tìm gặp, ông Sáu Sao lần lượt kể lại đầu đuôi sự kiện của gần 30 năm về trước, ông nói:

- Tôi nguyên là một công nhân của Nhà máy BIF Tân Mai (nay là Nhà máy gỗ Tân Mai). Cơ sở sản xuất công nghiệp nay có từ thời Pháp thuộc. Nhà tôi từ mấy đời nay đều ở làng Mỹ Khánh. Sau giải phóng, Nhà nước đổi tên là ấp Tân Mỹ, thuộc xã Bửu Hòa (nay là phường Bửu Hòa - thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Sinh ra và lớn lên ở đây từ thuở nhỏ, bởi vậy, địa hình nơi đây tôi thuộc làu như lòng bàn tay. Vào một ngày cuối tháng 4 năm 1975, trên đường từ nhà máy trở về nhà, lúc đó trời vừa mờ sáng. Dinh Bà chúa xứ, cách nhà tôi khoảng một trăm thước. Khác với vẻ tĩnh mịch mọi ngày, chỉ vọng ra tiếng chim chích ríu ran gọi nhau rời khỏi tổ đi tìm mồi. Nhưng hôm nay thật khác thường chưa từng thấy bao giờ.


Là một công nhân chân chính, chỉ biết làm ăn để nuôi đàn con nhỏ. Hơn nữa với môi trường lao động có dịp tiếp xúc với nhiều đối tượng, phần nào đó giúp tôi hiểu biết về những người hoạt động cách mạng và cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của họ. Khi đi qua Dinh Bà, bất chợt thấy người thấp thoáng ở quanh đó, linh cảm tôi mách bảo: có thể sự kiện gì sắp diễn ra ở đây chăng? Tôi dừng chốc lát để trấn tĩnh lại mình rồi từ từ tiến lại gần thì thấy không chỉ một người mà cả một tốp bán tiểu đội súng ống, trang phục đầy mình hướng dần về phía tôi - tất cả đều hoàn toàn xa lạ. Một anh lại gần cất tiếng hỏi vừa đủ để tôi nghe:

- Xin lỗi, ông đi đâu về vào thời gian này?

Tôi chưa trả lời ngay nội dung câu hỏi, mà thật bình tĩnh nói một câu để các anh ấy an lòng, không bận tâm e ngại đến mức phải bối rối giữa lúc tranh tối tranh sáng này, tôi chậm rãi nói:

- Tôi là người dân làm ăn lương thiện, nhưng biết các ông là ai rồi. Xin anh em hãy nghe tôi - Tôi đổi cách xưng hô có vẻ nhẹ nhàng hơn "anh em" thay vì "các ông" như lúc đầu. Tôi hối thúc:

- Các anh nên phân tán ra, tập trung như thế này nguy hiểm lắm, trời lại sáng rõ rồi. Quanh đây lính quốc gia rần rần, tôi sợ... cho các anh lắm đó.


Biết được tâm trạng của một người “khách” không mời mà tối như thế này nhưng dù sao cũng đã có chút lòng tin, một anh thật thà biểu lộ:

- Bọn tôi về đây để giúp dân cướp chính quyền. Trước mắt là đánh chiếm và bảo vệ cầu Ghềnh nên phải ở lại, không thể khác được, cảm ơn ông đã chỉ bảo những gì chúng tôi chưa biết.

- Nhiệm vụ của các anh tôi không có ý kiến. Nhưng theo tôi, các anh nên nghe tôi tản ra đi tìm nơi ẩn nấp cho kín đáo. Tốt nhất xuống dọc mé sông, có đụng độ lính quốc gia còn có đường thoát hiểm.

Nói đoạn, xét thấy mình ở lại không giúp gì được hơn cho họ và còn nguy hiểm nữa nên tôi chào từ biệt, ra về. Tắm rửa, ăn sáng xong tính đi nghỉ nhưng, tôi không thể nào chợp mắt, lòng dạ cứ bồn chồn khi nghĩ tới số phận các anh sẽ ra sao khi quân lính quốc gia, súng đạn rần rần phát hiện? Bất chợt lại thấy mình như người có lỗi, bởi chẳng còn cách nào khác để kéo các anh ra khỏi vòng tử chiến cực kỳ nguy hiểm có thể ập đến lúc nào! Sự nhận định của tôi quả không sai. Ngay sáng hôm ấy, bọn chó săn quanh đó đã cung cấp mọi động thái mà chúng thu thập được báo tiểu khu Biên Hòa. Lập tức bọn quân cảnh, lính dù, sư đoàn 18 kéo đến bao vây toàn bộ khu vực miếu, ở hai đầu cầu Ghềnh anh em đã đánh chiếm hồi hôm đang giữ hai bốt gác cũng bị máy bay trực thăng vũ trang phóng rốc-két và xả đại liên như mưa giông. Cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức ấy, mặc dầũ anh em ta đã kiên quyết chống trả, nhưng cuối cùng lần lượt hy sinh một cách đau đớn. Giữa lúc bom rơi đạn lạc không ai dám đến tận hiện trường để thị sát nên thực hư thế nào chẳng biết được. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi phía ngoài bị ta tấn công, địch thất thủ nhốn nháo dao động thành dây chuyền nên cả quan lẫn lính chủ yếu tìm mạng sống. Chiều hôm ấy, được tin cho hay, đội mai táng Thánh thất Cao Đài phường Bửu Hòa xuống khâm liệm tử thi và đưa đi an táng tại nghĩa địa ấp Tân Bản. Sau năm 1980, khi tỉnh Đồng Nai xây dựng nghĩa trang liệt sĩ, Phòng Lao động Thương binh - Xã hội thành phố Biên Hòa đã tổ chức đưa hài cốt anh em về tập trung cùng đồng chí của mình.


Cảnh thương tâm là 14 anh em hy sinh ngay tại Dinh Bà và quanh khu vực trong tổng số 47 người của đơn vị này (Tiểu đoàn 23 Trung đoàn đặc công 113). Nghe nói tính cả ở mạn cầu Hóa An thì có tới 52 cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại mảnh đất này trước ngày toàn thắng.


Ông Sáu Sao kể trong nước mắt: Xót thương anh em không để đâu cho hết. Chỉ ngày một, ngày hai là đất nước sạch bóng quân thù. Vậy mà những trai trẻ này không còn nhìn thấy ngọn cờ sao vàng tung bay trong nắng mới. Những ngày sau đó, Ban quý tế đền Nguyễn Tri Phương lập nên một cái miếu tại nơi anh em ngã xuống, có lư hương để bái vọng. Bước đầu miếu cũng đơn sơ thôi, chỉ một tấm tôn gấp lại, tránh mưa gió. Sau này tôi kiếm thêm vật liệu, được anh chị em Ban quý tế giúp sức, mới tôn tạo khá hơn. Gần đây phường Bửu Hòa dựng bia ghi danh 150 liệt sĩ địa phương qua các thời kỳ chống Pháp, Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Theo chỉ đạo của chính quyền, Ban tổ chức rước lư hương và linh hồn anh em cùng về trên đó nên mới tháo gỡ ngôi miếu này, nhưng tôi thấy bài “TRUY NIỆM CHIẾN SĨ TRẬN VONG” còn ngay ngắn quá nên để làm lưu niệm - như anh thấy đó.


Nghĩ giây lát, ông Sáu Sao kể tiếp: từ ngày lập ngôi miếu, sáng tối nào khói hương cũng nghi ngút. Đó là chưa kể mỗi năm có hai lần dân làng tổ chức tế lễ lớn là ngày 16 tháng Giêng và 23 tháng Ba cúng vía bà Ngũ Hành, cỗ bàn đề huề lắm. Cả hai lễ trọng này, Ban quý tế dành đầy đủ lễ vật để dâng hương hồn các liệt sĩ. Và không riêng gì số liệt sĩ đặc công quê miền Bắc, cha mẹ, người thân ở xa ít có điều kiện đến thăm viếng mà cả những người mẹ, người vợ tại địa phương có chồng con ngã xuống trên khắp các chiến trường, họ như thấy trong ngôi miếu này có cả linh hồn người thân của mình vậy. Nhiều bà mẹ tới đây khóc thương đến nao lòng...


Năm nay tôi đã 70 tuổi, song nhờ ơn phúc đức vẫn mạnh khỏe, tỉnh táo, lại là trưởng Ban quý tế với 14 - 15 vị đều hết sức tâm huyết với công việc. Mỗi lần ra dâng hương Dinh Bà, tôi như thấy hình ảnh các anh hiện về trước ngày toàn thắng của 30 năm trước.


NGUYỄN QUỐC HOÀN ghi


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:53:48 pm
TƯ THẾ ĐẶC CÔNG


VĂN DĨ - VŨ CHIẾN
Văn Dĩ - nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 23, Vũ Chiến - đại tá nghỉ hưu


Tháng 4 năm 1975, đội hình Trung đoàn 113 ở khu vực Chiến khu Đ bắc sân bay Biên Hòa. Tiểu đoàn pháo 174 đảm nhiệm bắn phá sân bay Biên Hòa, khống chế đường băng không cho máy bay địch lên xuống. Trên các mặt trận ta đang thắng lớn. Phía đông bắc Sài Gòn mặt trận Xuân Lộc là một điểm nóng. Được lệnh của trên bàn giao nhiệm vụ kiềm chế sân bay cho đơn vị bạn, chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới, cán bộ chiến sĩ đều náo nức chờ đón nhiệm vụ mới. Trong buổi giao nhiệm vụ cho các đơn vị, đồng chí Nguyễn Thành Lộc - Trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 9 lật cánh sang hướng đông sân bay. Tiếp sau là nhiệm vụ của chúng tôi, anh nói:

- Đây là nhiệm vụ mà Tiểu đoàn 23 (đặc công nước) và Tiểu đoàn 174 (pháo) phải làm bằng được với bất cứ giá nào. Đó là: đánh chiếm và chốt giữ cầu Mới (Hóa An) và cầu Ghềnh bảo đảm cho đại quân ta cơ động. Đây là trận đánh có ý nghĩa lịch sử. Với giọng rất truyền cảm, sâu lắng anh nói tiếp:

- Trước đây khi giao nhiệm vụ cho các đồng chí phá cầu, không hoàn thành nhiệm vụ thì bị kỷ luật. Nhưng giờ đây không phá, mà phải giữ bằng được! Nếu không sẽ ảnh hưởng lớn. - Và đến đây giọng anh trầm xuống gần như tâm sự với chính mình, anh nói: - Là những người lính không gì khổ tâm bằng khi không hoàn thành nhiệm vụ, và nhất là nhiệm vụ quan trọng trong thời điểm lịch sử. Do đó chúng ta phải tập trung mọi khả năng để hoàn thành bằng được!

Chia tay nhau, trên đường về cứ anh Dĩ nói vui với tôi như sau:

- Bọn mình đánh ở dưới nước nay lên cạn, còn các bạn sở trường đánh từ xa, nay đánh thiệt gần. Dù khó khăn, ác liệt thế nào chúng mình cũng không ngán. Cứ xáp vô, miễn là “chí cốt” phải không? - Chúng tôi cười vang và xiết chặt tay nhau.


Về tới đơn vị sau khi hội ý cấp ủy và Ban Chỉ huy xong, chúng tôi quán triệt nhiệm vụ cho anh em. Một mặt tiến hành giao số súng ĐKB (hỏa tiễn 122mm) về kho quân giới, đồng thời lĩnh vũ khí mới gồm: ĐKZ 82mm, cối 82mm, cối 60, súng chống tăng B40, B41, trọng liên 12,7mm, trung liên, thủ pháo, lựu đạn ...


Đi đối với việc huấn luyện cấp tốc để anh em nắm vững kỹ thuật sử dụng loại vũ khí trang bị mới, chúng tôi tranh thủ tổ chức sinh hoạt chính trị, quán triệt nhiệm vụ mới vì từ trước đến nay đơn vị quen sử dụng pháo ĐKB bắn ở cự ly xa tuy gay go ác liệt, nhưng lần này cùng đơn vị bạn đánh chiếm và chốt giữ cầu, mặt đối mặt với kẻ thù anh em không khỏi băn khoăn.


Vấn đề đặt ra là phải động viên giải thích để mọi người đều thông suốt. Qua bàn bạc dân chủ anh em đều thống nhất: dù phải hy sinh cả tính mạng nhưng anh em chỉ bàn cách khắc phục, không có ý kiến bàn lùi.

Đợt huấn luyện 5 ngày đạt kết quả tốt, ai nấy đã sử dụng thành thục các loại trang bị mới. Sẵn sàng bước vào trận đánh.

Trận đánh trước buổi bình minh của ngày toàn thắng.

Ngày 25 tháng 4 năm 1975, chúng tôi rời hậu cứ gần trảng Nhà Nai (Chiến khu Đ) bắc thị trấn Tân Uyên hành quân ra mặt trận; đêm 26 tháng 4, vượt lộ 16 tiếp tục tiến về hướng mục tiêu.

Tiếng súng của các mặt trận dồn dập dội về, như giục giã chúng tôi bước gấp (sau này được biết là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu). Đến địa điểm quy định đã gần nửa đêm, gió từ sông Đồng Nai thổi về mát rượi, bên kia sông là thành phố Biên Hòa có căn cứ của quân đoàn 3 và quân khu 3 ngụy và căn cứ không quân chiến lược Biên Hòa, ánh điện vẫn sáng rực ...


Toàn bộ đội hình dừng lại ở khu vực phía đông ấp Tân Bản (nay thuộc phường Bửu Hòa), Chỉ huy sở trận đánh cũng ở đây, cách hai cầu khoảng một cây số. Đơn vị tôi bố trí ven ấp gần ngã ba cầu Hang. Theo phương án tác chiến, nhiệm vụ cụ thể các đơn vị như sau:

- Đại đội 1 Tiểu đoàn 23 và Đại đội 14 Tiểu đoàn 174 đánh chiếm cầu Ghềnh.

- Đại đội 3 Tiểu đoàn 23 và Đại đội 13 Tiểu đoàn 174 đánh chiếm cầu Hóa An.

- Các đơn vị còn lại bố trí gần sở chỉ huy làm lực lượng dự bị, đồng thời có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng Thủ Đức, Dĩ An đánh lên.

- Hỏa lực chi viện trực tiếp cho các đơn vị đánh chiếm hai cầu bố trí gần cầu Hang.

- Đại đội 8 bố trí phía sau sử dụng bổn khẩu ĐKB chi viện cho các lực lượng phía trước.


Về vị trí và tầm quan trọng của hai cầu Ghềnh và cầu Hóa An mà chúng tôi có nhiệm vụ chiếm giữ.

- Cầu Ghềnh là cầu sắt có từ hồi Pháp thuộc, bắc qua sông Đồng Nai ở đầu Cù Lao Phố, cầu tuy hẹp nhưng vẫn dùng cho xe lửa và xe hơi qua lại.

- Cầu Hóa An (cầu Mới) dài 800 mét ở phía thượng nguồn cách cầu Ghềnh 1 ki-lô-mét, là cầu bê tông kiên cố. Hồi tháng 10 năm 1974 bị một tổ của Tiểu đoàn đặc công 23 đánh sập hai nhịp, địch đã sửa lại, xe vận tải có thể qua lại được.

Đánh chiếm, chốt giữ hai cầu này hết sức quan trọng:

Một là, không cho địch rút về co cụm ở Sài Gòn.

Hai là, bảo đảm đường cơ động cho các binh đoàn chủ lực ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Sau khi nghiên cứu địa hình, chúng tôi triển khai cho đơn vị đào công sự chiến đấu.

Đêm đã khuya bà con trong xóm vẫn chưa ngủ. Giữa lúc này một thanh niên đến gặp chúng tôi cho biết tên anh là Tân, anh nói:

- Xã này đã thành lập ủy ban khởi nghĩa do cô Hai (tức chị Hai Não) và chị Tám (Tám Huệ) lãnh đạo phái em đến để liên lạc với đằng mình, cần gì các anh cứ nói. Các anh về tụi em mừng quá trời.

- Thế thì hay quá - Tôi nói - Anh đến thật đúng lúc, đề nghị anh cho biết tình hình ở khu vực này.

Sau khi nói một số tình hình, anh chỉ tay về phía trước mặt nói tiếp:

- Hồi hôm ở xóm Chùa cách đây khoảng 1.000 mét có lính và cả xe tăng mới đến, nhưng số lượng bao nhiêu thì chưa rõ.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:54:44 pm
Tôi nghĩ sơ bộ như vậy là quý lắm rồi. Thấy bộ đội đào công sự mấy bác trong xóm đem trà nước cho anh em uống, một bác nhỏ nhẹ nói:

- Nói thiệt với mấy chú, tụi tôi thấy các chú đến mừng lắm. Nhưng thế nào cũng đánh nhau to, mà đánh nhau thì...

Bác ngừng lời, tôi nhẹ nhàng nói:

- Có gì bác cứ nói, đừng ngại.

Một lát sau bác tiếp lời:

- Nói các chú đừng buồn, ý bà con muốn giao lại nhà cửa vườn tược cho các chú, để đưa sắp nhỏ lánh xa làn tên mũi đạn.

- Bà con định đi đâu? - Tôi hỏi.

- Vô trỏng chứ còn đi đâu nữa mấy chú!

- Tức là vô Biên Hòa hay xuống Sài Gòn?

Các bác không ai trả lời mà chỉ thở dài... Tôi lại nói:

- Không ổn rồi! Cô bác ơi! Những chỗ ấy bộ đội mình nay mai cũng tiến về đó cả thôi.


Cuộc trao đổi tạm ngưng vì tôi phải nhận lệnh của Ban Chỉ huy trận đánh là khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị trước 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4. Sau khi phổ biến mệnh lệnh trên cho đơn vị, chúng tôi trao đối với nhau: trước tình hình nhân dân lo lắng nên cử cán bộ cùng anh em du kích đến từng nhà động viên bà con bình tĩnh ở lại bám đất, nổi dậy làm chủ xóm ấp. Cần có kế hoạch sơ tán số người già yếu và các cháu nhỏ về phía sau, số còn lại thì đào hầm ngay trong nhà, ngoài vườn để ẩn nấp.


Khi đã hiểu ra, bà con cô bác không những tự đào hầm cho mình mà còn giúp đỡ anh em làm công sự chiến đấu. Có nhiều gia đình tháo cả cánh cửa, ván nằm đưa cho chúng tôi làm nắp công sự chiến đấu.


Tuy đất rắn nhưng với nỗ lực của anh em lại được bà con giúp đỡ, 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 chúng tôi đã hoàn thành mọi công việc chuẩn bị chiến đấu. Đúng 4 giờ 30 phút trận chiến bắt đầu.


Tại cầu Ghềnh, một mũi của ta bí mật tiếp cận ém sát mục tiêu, bất ngờ tập kích vào lực lượng địch canh giữ cầu. Bọn chúng trở tay không kịp hốt hoảng bỏ chạy, ta chiếm cầu và tổ chức lực lượng chốt giữ.


Tại cầu Hóa An khi ta tiến quân, gặp địch chốt tại ngã tư Tân Mỹ cách cầu 500 mét, buộc ta phải nổ súng đánh thốc lên chiếm cầu.

Chỉ trong vòng 30 phút, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm hai cầu, về phía ta không ai thương vong.

Nhưng nhiệm vụ tiếp sau là giữ cầu mới thực sự diễn ra vô cùng quyết liệt. 8 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, địch tổ chức phản kích chiếm lại cầu.


Mở đầu, pháo của chúng từ Thủ Đức bắn lên, từ Long Bình, Biên Hòa bắn tới, Châu Thới bắn qua. Đứng ở sở chỉ huy quan sát thấy từng cụm khói bốc cao, lẫn trong tiếng nổ vang rền. Tuy đã quen với cảnh tượng này nhưng tim tôi như thắt lại với nỗi lo: Liệu anh em mình có sao không? Có trụ vững không?


Nhưng cái gì thế kia? Những tiếng nổ đanh dồn dập của đạn B40, B41, ĐKZ 82, xen lẫn những tràng tiểu liên, trung liên, trọng liên 12,7mm của hai cánh quân ta, đánh thẳng vào đội hình của địch, chặn đứng bọn biệt động quân và lính dù ngụy có xe tăng yểm trợ phản kích hòng chiếm lại cầu. Bị giáng trả quyết liệt, bọn phía trước không tiên lên được, đội hình phía sau ùn lại. Tận dụng thời cơ, trận địa cối 82 của chúng tôi bắn cấp tập vào đội hình địch, gây cho chúng tổn thất nặng nề, một số chết, một số bị thương, số còn lại chạy nhốn nháo. Nhìn cảnh tượng ấy có đồng chí bỗng thốt lên:

- Đánh cừ lắm! Rất bài bản.

Như để trả lời đồng chí ấy, tôi nói: Đúng bài bản đấy! Nhưng bọn chúng lại xông lên bây giờ đấy mà, chuẩn bị đi thì vừa.

Quả đúng vậy! Tiếng súng lại rộ lên từ phía hai cầu xen lẫn tiếng súng của ta và địch. Còn nghe rõ tiếng động cơ xe tăng địch gầm rú, không gian như vỡ ra, đợt phản kích thứ hai của địch lại bắt đầu.

Cứ như vậy, suốt ngày 27 tháng 4 qua bốn đợt dùng xung lực, dưới sự yểm trợ tối đa của pháo và xe tăng, tấn công quyết liệt nhằm đánh bật ta ra khỏi cầu, nhưng đều thất bại.


Ngày 28 tháng 4, mới mờ sáng các trận địa pháo của địch bắn liên tiếp vào các chốt của ta. Sau đó năm trực thăng vũ trang của chúng từ hướng sân bay Tân Sơn Nhất tới bắn hỏa tiễn và đạn 12,8mm xuống trận địa của ta, mở đầu cho các đợt tấn công của bộ binh kết hợp với xe tăng nhằm chiếm lại cầu.



Hồi 10 giờ sáng cùng lúc với việc đánh chiếm hai cầu, địch còn dùng một tiểu đoàn đánh vào sở chỉ huy của ta.

Được du kích phối hợp, nhân dân lo cơm nước, cứu chữa chăm sóc thương binh, lực lượng ta bám trụ kiên cường, giáng trả địch quyết liệt tiêu diệt nhiều tên, thu 20 súng buộc chúng phải tháo chạy.

Ở hướng cầu Ghềnh hôm đó do lực lượng không cân sức, địch tạm thời chiêm được cầu. Nhưng ngay đêm hôm đó (28-4) ta tổ chức lực lượng phản kích chiếm lại cầu.


Suốt đêm hôm đó tất cả các bộ phận lại củng cố công sự, chuẩn bị vũ khí, giải quyết hậu quả, sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công của địch. Ngày 29 tháng 4, sau nhiều lần dùng máy bay L19 trinh sát thăm dò lực lượng ta, vẫn theo nếp cũ, pháo địch lại bắn phá điên cuồng vào các chốt của ta: lần này chúng sử dụng hai tiểu đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào hai cầu và chốt của ta ở cầu Hang.


Hướng cầu Ghềnh, Đại đội 1 Tiểu đoàn 23 và Đại đội pháo 174 chiếm lĩnh địa hình có lợi, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch diệt hàng trăm tên, bắn cháy năm xe tăng. Ba đồng chí trong Ban Chỉ huy đại đội 1 trong một lần tiến công của địch bị chúng bao vây chia cắt đội hình, không liên lạc được với anh em. Các đồng chí không nao núng, chiến đấu rất kiên cường, mưu trí, vừa nghi binh đánh lừa địch, vừa chiến đấu diệt nhiều tên, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay nhằm kéo dài cuộc chiến đấu không cân sức với hàng trăm tên lính ngụy. Các đồng chí đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh tại trận địa.


Tại cầu Hóa An, các chiến sĩ ta ngoan cường giành đi giật lại từng tấc đất với địch để giữ cầu.

Ngoài lực lượng địch đánh chiếm hai cầu, chúng còn dùng lực lượng mạnh nhằm đánh bật chốt ở cầu Hang do đại đội pháo chiếm giữ.

Đây là một vị trí quan trọng vì không những chi viện trực tiếp cho lực lượng chốt giữ cầu, mà còn là một vị trí “yết hầu” nhằm án ngữ không cho địch rút chạy về Sài Gòn, đồng thời ngăn chặn các lực lượng của chúng từ Thủ Đức, Dĩ An lên chi viện cho lực lượng chúng đánh chiếm cầu.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:55:29 pm
Trời vừa mờ sáng (ngày 29 tháng 4 năm 1975) tổ cảnh giới báo cáo: bộ binh địch từ hướng cầu Hóa An theo trục lộ tiến về phía ta. Khi tốp đi đầu cách trận địa ta 100 mét rồi 50 mét, lập tức các cỡ súng AK, trung liên, B40 nổ đồng loạt. Xác địch liên tiếp đổ xuống mặt lộ và rải rác ở các thửa ruộng ven lộ, số còn lại chạy toán loạn. Bị một đòn phủ đầu choáng váng, chúng không dám tiến lên nữa. Lợi dụng các bờ ruộng, mương cạn ẩn nấp, gọi pháo bắn vào chốt của ta.


Loạt pháo cuối cùng của chúng vừa dứt, trên trục lộ xuất hiện sáu xe tăng nối đuôi nhau chạy về hướng chúng tôi. Tiếng xích sắt và động cơ ầm ầm, mặt đất như rung chuyển. Chiếc đi đầu vừa chạy vừa bắn xối xả vào phía chốt. Lợi dụng các thửa ruộng khô hai bên lộ, chúng triển khai đội hình cách trận địa ta khoảng 300 mét.


Khẩu đội ĐKZ 82 của đồng chí Nghị ở gần chiếc đi đầu nhất, pháo thủ số 1 - Lã Văn Điều đề nghị khẩu đội trưởng cho bắn, nhưng đồng chí Nghị nhắc Điều cứ để thật gần mới bắn. Khi khối thép di động còn cách trận địa 100 mét thì khẩu ĐKZ chồm lên kèm theo hai tiếng nổ hầu như cùng một lúc, chiếc M41 trúng đạn bốc cháy. Chiếc thứ hai của chúng vượt lên thì cũng chịu chung số phận. Bốn chiếc còn lại bắn xối xả về phía ta và tiếp tục xông lên. Đồng chí Nghị hạ lệnh nạp đạn tiếp. Nhưng lúc này chân pháo bị mảnh đạn của địch tiện gãy. Khẩu đội trưởng hy sinh, một số đồng chí khác bị thương, đồng chí Điều cũng bị thương vào trán máu chảy tràn xuống sống mũi và một bên mắt chưa kịp băng bó. Chúng tôi định cho khẩu đội ngưng bắn lui về phía sau!


Nhưng thật bất ngờ! Đồng chí Điều bật khỏi công sự, đứng thẳng tư thế hiên ngang với nòng pháo còn nóng bỏng trên vai, động tác chính xác, dứt khoát giật cò. Chiếc xe tăng thứ 3 của địch bốc cháy, những chiếc còn lại đứng tại chỗ không dám tiến lên chỉ dùng hỏa lực bắn xối xả vào chốt của ta. Điều nạp tiếp quả đạn thứ 4. Nhưng... chưa kịp giật cò, thì đạn của địch trúng nòng pháo của Điều, quả đạn trong nòng nổ! Đồng chí Điều hy sinh trong tư thế ngẩng cao đầu “Nhằm thẳng quân thù bắn!”. Noi gương Điều, các khẩu khác tới tấp nã đạn vào quân địch. Những chiếc xe tăng còn lại quay đầu bỏ chạy, bộ binh của chúng hoảng sợ, bám theo xe tăng chạy thục mạng về hướng Xóm Chùa.


Ở một hướng khác, Nguyễn Tiến Huân - trinh sát viên của tiểu đoàn tăng cường cho đơn vị, khi xạ thủ B41 bị thương, Huân xin thay thế, đã bắn cháy hai xe tăng địch. Khi bị thương vẫn không rời trận địa đã cùng đại đội đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên.


Khoảng 12 giờ trưa địch chuyển hướng tiến công từ chính diện sang tiến công cạnh sườn, chúng sử dụng chín xe tăng kết hợp với bộ binh tiến công phía sườn trái chúng tôi.

Xe tăng của chúng chạy băng băng trên các thửa ruộng tiến lên chiếm lĩnh dãy đồi cao cách chúng tôi 800 mét (nay là khu khai thác đá) dùng pháo trên xe bắn xối xả vào đội hình của ta. Hướng chính diện chúng dùng xe kéo hai khẩu pháo 105mm đặt ngay trên lộ bắn thẳng vào chốt của chúng tôi. Trận địa cối 106,7mm trên núi Châu Thới cũng bắn dồn dập vào đội hình phía sau và trận địa cối 82mm của ta. Đợt tập kích hỏa lực của chúng làm sập một số công sự, một số đồng chí ta hy sinh và bị thương. Trước tình hình đó chúng tôi hội ý cán bộ hạ quyết tâm: bất luận tình huống nào cũng phải giữ vững trận địa, với khẩu hiệu hành động là: “Còn người còn trận địa”. Một mặt điều chỉnh binh hỏa lực, củng cố công sự, bố trí đội hình hợp lý. Mặt khác cán bộ đi đến từng tổ chiến đấu động viên anh em, củng cố quyết tâm... Qua mạng thông tin báo cáo tình hình lên cấp trên và xin chi viện hỏa lực.


Từ sở chỉ huy, đồng chí Đinh Xuân Nghiêm - Tham mưu trưởng Trung đoàn động viên chúng tôi phải giữ được trận địa bằng mọi giá. Trung đoàn sẽ chi viện cho các đồng chí, cần hiệp đồng chặt chẽ với đại đội 8 quan sát hiệu chỉnh bắn cho tốt, sau cùng anh thông báo:

- Đại quân ta đã tiến gần tới chỗ các đồng chí rồi đấy! Thông báo cho anh em. Cần giữ vững quyết tâm. Chúc các đồng chí thắng lợi!

Chúng tôi phổ biến ngay lệnh của Trung đoàn và tin đại quân ta đang đến. Anh em rất phấn khởi như được tiếp thêm sức mạnh.

Sau khi hiệu chỉnh chính xác đạn bắn thử, thì từ trận địa phía sau, từng loạt, từng loạt hỏa tiễn ĐKB của đại đội 8 bắn cấp tập vào cụm bộ binh và xe tăng, trận địa cối của địch trên núi Châu Thới. Phối hợp với trận địa ĐKB, trận địa cối 82 của chúng tôi tới tấp nhả đạn vào hai khẩu pháo của địch đặt trên lộ. Đạn pháo và cối của ta trùm lên các mục tiêu của địch, phá hủy một khẩu pháo 105mm, trận địa cối trên núi Châu Thới phải câm họng, số còn lại phải bỏ chạy. Khi loạt đạn cuối cùng của ta vừa dứt, bộ binh và xe tăng địch chạy nhốn nháo.


Từ phía Tân Uyên, các cỡ súng nổ dồn dập (sau này được biết là cánh quân Quân đoàn 1 của ta đang đánh địch ở hướng đó).

Đội hình của địch lúc này càng nhốn nháo, cuối cùng chúng phải tháo chạy bỏ dở cuộc tiến công.

Mặt trời đã khuất sau rặng núi phía xa, những tia nắng cuối cùng tắt hẳn. Không gian như dịu lại khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sơ bộ tổng hợp tình hình: Trong ngày đơn vị đã đánh lui năm đợt phản kích của địch, diệt hàng trăm tên; bắn cháy bảy xe tăng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng nhiệm vụ tiếp theo vẫn còn phải cố gắng nhiều. Chúng tôi lại bắt tay vào công việc chuẩn bị cho ngày mai...


Đến đây chúng tôi muốn nói về tấm lòng của nhân dân đối với đơn vị qua những ngày chiến đấu. Trong lúc anh em du kích phối hợp chiến đấu, thì một số bà con lo cơm nước cho chúng tôi.


Đối với người lính, trong công tác và chiến đấu, cảnh đói cơm khát nước là chuyện thường. Nhưng hoàn cảnh của chúng tôi lúc bấy giờ thật vô cùng khó khăn. Thời tiết vào cuối mùa khô, mặt trời như đổ lửa, mình phơi dưới cái nắng như nung, cộng thêm khói lửa mịt mù của mưa bom bão đạn. Không khí càng bị nung nóng thêm, ngột ngạt vô cùng. Áo quần ai nấy đều bê bết đẫm mồ hôi, khói bụi - mặt mũi sạm đen, môi nứt nẻ, cổ họng rát bỏng vì khát! Khát đến cực độ thì bà con cô bác bất chấp nguy hiểm, đem tới tận chiến hào cho chúng tôi những bình trà, ca nước. Lúc này quý giá biết chừng nào!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:56:33 pm
Trên các khu vực xảy ra chiến sự, bom pháo địch bắn bừa bãi bất chấp khu dân cư, mà nhiều nhất là ở khu chợ Đồn, Tân Bản nhiều nhà cửa bị sập, bị cháy. Ở Tân Bửu chiều 29 tháng 4, pháo địch bắn trúng nhà của các bác Sáu Tây, Hai Căn, Chín Thăm, lửa bốc cháy ngùn ngụt, chúng tôi điều động một số anh em đi cứu chữa tài sản cho dân, nhưng bà con ngăn lại và nói:

- Trước sau gì thì nhà cũng cháy rồi, may mà còn người. Các chú cứ lo đánh tụi nó đi (ý nói địch) nay mai yên bình rồi làm lại mấy hồi.

Tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng, với các chiến sĩ thân yêu thật quý giá biết nhường nào! Việc chăm sóc thương binh, khâm liệm, mai táng tử sĩ được các bác Tư Minh, Hai Sớt, Năm Được, Tư Nhị và nhiều bà con cô bác làm rất chu đáo, tận tình. Họ làm mà nước mắt lưng tròng, nhiều người khóc ròng, trước tình cảm đó chúng tôi vô cùng xúc động. Tình cảm thân thương trìu mến mà bà con cô bác dành cho chúng tôi - những người đang sống cũng như người đã khuất, mãi mãi in sâu vào tâm trí chúng tôi.


Trên 60 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn đã ngã xuống bên bờ sông Phố và ven sông Đồng Nai trước ngày toàn thắng, đã được nhân dân mai táng chu đáo, và đã trang trọng ghi tên các anh vào danh sách liệt sĩ của địa phương mình.


Hàng năm cứ đến dịp kỷ niệm chiến thắng 30 tháng 4 và 27 tháng 7, cấp ủy và chính quyền địa phương đều gởi thư thăm hỏi gia đình các liệt sĩ.

Nhân đây cũng xin nói thêm một kỷ niệm về các đồng chí lãnh đạo địa phương đối với đơn vị trong những ngày này.


Chiều 1 tháng 5 năm 1975, sau khi nắm tình hình giải quyết một số công việc cho các địa phương ở hướng tây, chúng tôi đi trên chiếc xe Jeép chiến lợi phẩm để qua căn cứ Hốc Bà Thức (đông thành phố) do Tiểu đoàn 9 chiếm giữ.

Xe chúng tôi đến cầu Ghềnh thì chốt cầu gồm bốn đồng chí còn lại của Đại đội 1 Tiểu đoàn 23 đón chúng tôi. Mặc dù rất mệt nhưng ánh mắt các đồng chí vẫn sáng ngời, với nụ cười rạng rỡ trong niềm vui chiến thắng. Đó cũng là những người đầu tiên đón chúng tôi. Dọc đường xe chúng tôi chạy qua ngổn ngang các thứ vũ khí, quân trang, quân dụng của địch bỏ lại làm cản trở giao thông.

Xe chúng tôi ghé qua tòa thị chính (dinh tỉnh trưởng ngụy) nay là trụ sở ủy ban nhân dân tỉnh gặp anh Năm Trang (Phan Văn Trang) và các anh trong Ban Quân quản. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, trong không khí của ngày vui toàn thắng. Chúng tôi báo cáo tình hình và kết quả chiến đấu của đơn vị, các anh rất vui, anh Năm lại hỏi:

- Anh em mình thương vong có nhiều không? - Nén xúc động chúng tôi báo cáo tiếp:

- Số hy sinh nắm chưa đầy đủ nhưng khoảng 60 đồng chí. Số bị thương cũng gần như vậy!

Tất cả đều lặng đi. Lát sau bằng một giọng trầm hẳn xuống anh Năm hỏi tiếp:

- Số anh em bị thương giờ nằm ở đâu?

Đồng chí Nguyễn Thanh Lộc báo cáo:

- Đơn vị được bà con giúp đỡ đã đưa anh em về nhà thương Biên Hòa hồi chiều 30 tháng 4, chút nữa chúng tôi ghé thăm anh em.

Suy nghĩ giây lát và sau khi trao đổi với các anh lãnh đạo, anh nói:

- Tuy rất bận nhưng chúng tôi sẽ cùng các anh đến thăm anh em. Tôi sẽ làm “giao liên” vì tôi rành đường lắm.

Bệnh viện Biên Hòa tiếp nhận hầu hết thương binh của các đơn vị chiến đấu ở địa bàn thị xã và phụ cận, nhưng nhiều nhất vẫn là thương binh của Đoàn Đặc công 113. Anh em được các y bác sĩ giải phóng cùng với một số nhân viên y tế chế độ cũ tận tình cứu chữa.


Chúng tôi dành nhiều thời gian để thăm hỏi động viên anh em. Các đồng chí lãnh đạo địa phương còn muốn ở lại thêm nữa với anh em, nhưng công việc rất bận nên tạm chia tay.

Xe chúng tôi đến căn cứ Hốc Bà Thức, đây là căn cứ, hậu cứ của lữ đoàn kỵ binh thiết giáp số 15 ngụy và liên đoàn biệt kích 81 ngụy. Đêm 29 tháng 4 Tiểu đoàn 9 đã bí mật tập kích đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn căn cứ này để bảo đảm thông đường tiến quân cho các cánh quân đánh chiếm sân bay Biên Hòa, bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy, giải phóng thành phố Biên Hòa.


Tại sở chỉ huy tiểu đoàn (trước đây là bản doanh của chuẩn tướng Lê Quang Khôi - lữ trưởng lữ 15 ngụy), đồng chí Đỗ Văn Ninh - Trung đoàn phó, người chỉ huy đánh căn cứ Hốc Bà Thức và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 9 vui mừng chào đón chúng tôi.


Mới xa nhau mấy ngày mà ai cũng tưởng như hàng năm mới gặp. Chúng tôi kể cho nhau nghe diễn biến chiến đấu của từng cánh, gương chiến đấu dũng cảm mưu trí của những tập thể và cá nhân các đơn vị, trong niềm tự hào nhưng không khỏi xót xa khi nghĩ đến nhiều đồng chí không còn nữa để chung vui ngày toàn thắng.


Kể về sự giúp đỡ của nhân dân trong đợt chiến đấu vừa qua, mọi người đều chung ý nghĩ, nếu như không được dân giúp đỡ thì nhiệm vụ của chúng tôi sẽ khó khăn biết chừng nào!

Sau câu chuyện hàn huyên, chúng tôi lại tiếp tục bàn kế hoạch triển khai công việc. Thắng lợi rồi nhưng chưa phải lúc nghỉ ngơi. Nhiệm vụ mới đang chờ!

Đã nhiều năm trôi qua, thời gian đã làm cho ai đó phai nhạt đi nhiều kỷ niệm và nhiều hình ảnh thân thương. Nhưng với chúng tôi, những cán bộ chiến sĩ Đoàn đặc công 113 quên làm sao được? Mỗi khi qua cầu Mới, cầu Ghềnh, nhìn những nhịp cầu soi bóng xuống dòng sông, và những dòng người, những đoàn xe tấp nập qua lại, lòng chúng tôi vô cùng xúc động nhớ lại bao kỷ niệm. Chính nơi đây qua ba ngày đêm, cán bộ chiến sĩ chúng tôi đã dũng cảm, mưu trí chịu đựng mọi thủ thách gay go, ác liệt, lập nên những chiến công hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ cầu, diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy xe tăng, phá hủy và phá hỏng nhiêu khẩu pháo của địch. Chúng tôi không thể nào quên nơi đây trên 60 đồng chí đã ngã xuống và đã thấm máu biết bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ thân yêu. Trận địa cầu Mới, cầu Ghềnh đã tô thắm thêm truyền thống của Trung đoàn 113. Và mãi mãi thắm đượm tình nghĩa quân, dân cá nước.


Qua bài viết này, xin nêu lên đôi điều cảm nghĩ của chúng tôi, mà cũng là cảm nghĩ của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn đặc công 113 về mảnh đất Biên Hòa với những tên làng, tên núi, tên sông, đều gắn liền với chiến công của đơn vị. Thân thương biết mấy, khi nhắc tới Thiện Tân, Đại An, Hưng Nghĩa, Bàu Hàm, Bình Sơn, An Viễn, Tân Hiệp, Tân Vạn, Bửu Hòa, Tân Phong, Tân Mai, Tân Bửu, Hóa An, Hiệp Hòa... Tuy nghèo nhưng giàu lòng yêu nước, chắt chiu từng lon gạo, hạt muối nuôi quân. Chăm lo cho các chiến sĩ như con em ruột thịt của mình. Từ lòng đất núi Bùng Binh, Giang Tới, Ông Tạ là áo giáp chở che cho đoàn quân tinh nhuệ. Và đây nữa những dòng sông quê mẹ Đồng Nai, sông Bé, sông Buông... đã bao lần đưa đón các đoàn quân xuôi ngược, từng chứng kiến những chiến công của quân ta trên sông nước của cảng Long Bình Tân, cầu Mới, cầu Ghềnh.


Sân bay chiến lược Biên Hòa, tổng kho liên hợp Long Bình - “mục tiêu điểm của chiến trường trọng điểm” bị đánh đi đánh lại nhiểu lần bằng những đòn đánh hiểm, những đòn sấm sét làm cho kẻ thù choáng váng, hoang mang.


Những tháng năm chiến đấu hào hùng, Đoàn Đặc công 113 chúng tôi sinh ra và lớn nhanh như Phù Đổng, mà cái nôi là mảnh đất Biên Hòa “miền Đông gian lao mà anh dũng” hun đúc bồi đắp hào khí Đồng Nai. Đảng bộ địa phương chăm sóc, nhân dân yêu thương đùm bọc, tạo điều kiện cho chúng tôi làm nên những chiến thắng diệu kỳ.


Ngày nay trong hòa bình, Đảng bộ và nhân dân đã dựng lên những tượng đài chiến thắng và dành vị trí trang trọng ghi tên những đơn vị đã từng chiến đấu trên mảnh đất Biên Hòa, trong đó có Đoàn Đặc công 113 chúng tôi.


Về phần mình, cán bộ, chiến sĩ các thế hệ của Trung đoàn từ vị tướng tới binh nhì dù còn tại ngũ hay đã về với đời thường, từ trái tim mình luôn luôn ghi nhớ những tình cảm mà Đảng bộ và nhân dân dành cho đơn vị. Xin nguyện giữ gìn và phát huy truyền thống của bộ đội đặc công: “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời. Mưu trí sáng tạo, đánh hiểm thắng lớn” và Đoàn Đặc công 113 ba lần được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Mãi mãi xứng đáng với niềm tin của Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai trăm quý ngàn thương.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:58:50 pm
ĐÊM TRƯỚC NGÀY TOÀN THẮNG


NGUYỄN LONG HƯNG
Nguyên cán bộ mũi trưởng Tiểu đoàn 9 -
trung tá công an Thành phố Hồ Chí Minh


Ngày họp mặt truyền thống các cựu chiến binh Đoàn đặc công 113, mặc dù địa bàn rộng gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, vậy mà mới 8 giờ sáng, khuôn viên Bảo tàng lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã khá đông đại biểu, tiếng cười nói rộn ràng, tay bắt, mặt mừng, nhìn ai cũng thấy trẻ trung, hồn hậu, tựa như lúc ở căn cứ đóng quân trong ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 vậy.


Gặp lại bạn bè tóc đã điểm màu thời gian, lớp đàn anh nhiều ngươi đã bạc trắng, tất cả kỷ niệm xưa lại òa vào trong tôi và lần lượt hiển hiện như những thước phim tái hiện hình ảnh 28 năm về trước.

Ngồi cùng với Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tùng - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Trung đoàn trưởng đầu tiên Đoàn đặc công 113, cùng các anh Nguyễn Quốc Hoàn, Đàm Chu Văn từ Đồng Nai lên, lòng tôi rộn ràng, xao xuyến nhớ lại cái không khí náo nức của đêm bước vào trận đánh cuối cùng để đi tới ngày bình minh toàn thắng.


Đó là đêm 29 tháng 4 năm 1975, bầu trời đầy sao, trăng sáng lắm (dường như 14 hay rằm tháng 3 thì phải). Tiểu đoàn 9 đặc công chúng tôi được chia làm hai mũi, xuất phát từ căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu. Nhiệm vụ của đơn vị là đánh theo yêu cầu (không có điều nghiên chuẩn bị trước) tập kích và đánh chiếm căn cứ lữ đoàn thiết giáp số 15 và lữ đoàn dù 81 của ngụy ở Hốc Bà Thức. Tôi có vinh dự được cấp trên tin tưởng phân công chỉ huy trung đội mũi nhọn, có nhiệm vụ mở cửa cho tiểu đoàn bí mật đột nhập vào căn cứ. Bên cạnh tôi là Hồng - tổ trưởng và Lợi - xạ thủ B40 cùng tham gia cắt rào. Dưới ánh trăng, sao, căn cứ thiết đoàn 15 hiện ra khá rõ với năm hàng rào kẽm gai và bờ đê bao quanh khá cao để bảo vệ. Mặt đê chúng đặt các bót canh, thân đê với hệ thống lô cốt đen ngòm các lỗ châu mai sẵn sàng nhả đạn. Khoảng cách từ chân hàng rào thứ nhất đến bờ đê tầm 300 mét. Đèn pha trên căn cứ quét lia lịa. Pháo sáng từ phi trường Biên Hòa hắt lên làm cho mọi vật đều thấy rõ mồn một.


Lệnh nổ súng vào đúng 24 giờ, song vào thời điểm ấy cả đội hình mới qua được hai hàng rào. Hàng rào cũi lợn rộng khoảng 40 mét và hàng rào chữ A, xen giữa là hàng rào lưỡi lam với các loại mìn được bố trí cài cắm dày đặc.


Nhìn đồng hồ đeo tay các chữ số màu dạ quang nổi lên chỉ rõ thời gian đã qua khá xa mà chướng ngại hãy còn nhiều, lòng tôi như lửa đốt, quên hết mọi hiểm nguy. Khi chỉ còn hàng rào cuối cùng là lọt được vào bên trong căn cứ thì bất chợt tên lính gác trên đê phát hiện. Lập tức chúng xả súng bắn về phía đội hình và nhảy xuống thân đê chui vào lô cốt. Tình thế thật cấp bách, để cứu toàn đội hình đang nằm kẹt giữa các chướng ngại, tổ đầu cầu vụt dậy nhảy qua lớp rào cuối cùng áp sát chân đê và dựa vào đê làm lá chắn, ném thủ pháo, lựu đạn vào lỗ châu mai. Khẩu súng B40 cũng kịp thời phóng được mấy quả vào phía trong đội hình địch.


Do tác động chung của toàn chiến trường, đặc biệt tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở Xuân Lộc, Dầu Giây và nhiều nơi khác chúng đã nao núng, hoang mang. Khi xuất hiện những tiếng nổ lạ và đanh, biết chúng bị tấn công, sẵn đà cả căn cứ Hốc Bà Thức náo loạn, một số xe nổ máy theo trục đường chạy thoát thân. Nhưng để tránh sự truy kích của đối phương và bị tiêu diệt, nên chúng quay súng bắn xối xả ra phía sau và cả hai bên đường. Khoảng 4 giờ sáng, lực lượng ta đã chiếm lĩnh và làm chủ toàn bộ căn cứ. Nhưng cũng vừa lúc máy bay trực thăng võ trang địch từng tốp, từng tốp thay nhau tới bắn xối xả xuống căn cứ. Lợi dụng địa hình địa vật để bảo toàn lực lượng, nên ta hạn chế được thương vong.


Khoảng 8 giờ sáng, xe tăng và bộ binh của đại quân ta tiến qua Hố Nai để về giải phóng Sài Gòn, bọn địch ở khu vực căn cứ Hốc Bà Thức cũng nháo nhác vứt bỏ mọi thứ tìm đường chạy thoát thân, một cảnh tượng diễn ra chưa từng thấy của đội quân bại trận. Quá trình lùng sục tảo trừ, anh em phát hiện và bắt được một tên địch ngay tại căn cứ. Tên này tướng mạo ngon lành nhưng rất ngoan cố, không khai cương vị gì. Bởi như nó nói: các ông làm gì mà chiếm được Sài Gòn! Hóa ra nó ngạo mạn và mù quáng đến như vậy. Tới khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chúng mới hay toàn bộ chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn sụp đổ. Ngay lúc ấy tên này mới khai: hắn là trung tá, lữ đoàn trưởng chiến đoàn 15 ngụy, xin cúi đầu nhận hết tội lỗi và tha chết cho nó. Lá cờ cách mạng được giương cao tung bay trong nắng mới trên căn cứ thiết giáp của quân thù còn vương mùi thuốc súng.


Trong trận này, anh Tam - cán bộ đại đội hy sinh, vết thương tuy không nặng nhưng bị nhiễm vi trùng uốn ván. Hình ảnh hy sinh của anh trước giờ toàn thắng, làm cho tất cả đơn vị ngậm ngùi thương tiếc. Ngay sau đó, chúng tôi tiếp tục nhận lệnh triển khai bảo vệ căn cứ, đề phòng tàn quân địch bắn lén nhằm trả thù.

Những kỷ niệm không thể nào quên

Trưa hôm ấy, cả tiểu đoàn dường như không ngủ được, nhìn cảnh ngổn ngang xe pháo địch vứt lại. Có những chiếc xe tăng còn khởi động nổ máy chúng chưa kịp tắt. Những chiếc xe Hon-đa của bọn chỉ huy còn nguyên nước sơn. Anh Tuyến, Tiểu đoàn phó hăm hở khởi động máy đi thử một chiếc để chạy quanh căn cứ, đắc chí lắm. Nhưng khốn nỗi không biết thao tác điều khiển nên xe cứ như chú ngựa bất kham. Bí quá anh nảy ra một “sáng kiến” cho xe chồm vào ụ mối, thế là cả người và xe ngã lăn ra. Khi lồm cồm dậy chỉ xây xát đôi chút, miệng cười như để chữa thẹn mà rằng:

- May quá, không bận gì, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ.

Nhân sự kiện ấy, anh em đơn vị đàm tiếu rằng: phi công khi thất thủ phải nhảy dù từ máy bay trên bầu trời bao la, còn anh Tuyến nhà ta, đi xe Hon-đa bí quá “nhảy dù” vào ụ mối, thật là một phát kiến kỳ diệu ...


Kể từ giờ phút ấy, anh chưa dám dùng xe máy nhưng quyết tâm tập cho kỳ được để sử dụng nó. Buổi chiều ấy, tôi với anh hai người hai xe đạp phóng dọc lộ 24 trở về thăm bà con cô bác ở xã Thiện Tân. Gặp nhau giữa ngày toàn thắng, niêm vui không thể nói nên lời. Câu hỏi đầu tiên của những người thân quen tại đây là:

- Trận đánh sau cùng đêm qua, anh em có ai hy sinh? Ai bị thương?

Khi nghe tin anh Tam không còn cơ hội gặp lại người thân giữa ngày vui sum họp, nhiều mẹ, nhiều chị đã bật thành tiếng khóc thương xót cho anh như chính là thân nhân của mình.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 01:59:23 pm
Nhớ lại những năm tháng bám trụ tại căn cứ Bùng Binh bốn bề là giặc, bom pháo rần rần, sống chết đến với mình từng giây, từng phút. Thế mà luôn lạc quan yêu đời bởi niềm tin tất thắng. Bên cạnh đơn vị còn có lãnh đạo địa phương, cô bác, anh chị sẵn sàng chia sẻ từng hạt gạo, củ khoai, mọi thứ sinh hoạt khác. Dân che chở yêu thương đùm bọc, nên kẻ thù dù có quỷ quyệt tàn bạo tới đâu cũng hoàn toàn bị bất lực.


Một lần khác đi trinh sát sân bay Biên Hòa, cả nhóm năm người gồm: Hưng, Chinh, Bảo, Khiêm (gù) dưới sự chỉ huy của anh Lũy - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9. Từ căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân - chúng tôi ra đi do Bảo dẫn đường. Hướng đột kích là dọc suối Dầu, bởi con suối này dầu mỡ từ sân bay chảy ra rất nhiều. Tới khu vực tập kết, Bảo chỉ hướng, tôi chống rào và khắc phục mìn, cắm lỗ tiêu, Chinh, Khiêm tổ viên. Bảo cho biết chỗ này có năm hàng rào, một đường xe tuần tra cơ giới. Khu vực sân bay ban đêm ngoài hệ thống đèn cao áp, còn có pháo sáng từ máy bay và mặt đất bắn lên sáng rực. Bên cạnh các tốp lính đi tuần tra, chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể bị phát hiện. Tổ chúng tôi vượt qua ba hàng rào êm xuôi, chuẩn bị vượt hàng rào thứ tư, bỗng phát ra tiếng nổ rầm ở phía sau đội hình. Tất cả như nín thở để nghe ngóng động tĩnh. Nếu bị lộ thì chỉ có thể chấp nhận sự hy sinh, bởi lúc này chẳng khác nào những con chim đang bị nhốt trong lồng sắt vậy. Nhưng may thay, cái giây phút có thể đổi bằng cả sinh mạng ấy cũng qua đi. Chúng tôi lần lượt xóa dấu vết lui ra. Đến một quãng không xa thì gặp anh Lũy đang trong trạng thái hết sức nguy kịch. Một bàn chân bị nát vụn do dẫm phải quả mìn dip M14, chỉ còn dính chút da. Chúng tôi dùng dao găm cắt luôn và ga rô cầm máu, đưa anh ra ngoài. Lúc này mới sực nhớ là chỗ anh Lũy bị thương, vết máu và các mẩu thịt còn vương lại chưa được xóa dấu vết. Để vậy, hôm sau địch phát hiện, có thể rất nguy hiểm cho các đợt đi trinh sát sau này. Thế rồi tôi trở vào lần lượt làm mọi động tác để trả lại nguyên trạng ban đầu. Sau đó thay nhau cõng anh Lũy trở về căn cứ. Đến đây mới biết cả mấy anh em vẫn còn sống để tìm một cơ hội khác cho kế hoạch. Dọc đường tôi hỏi anh Lũy: nhiệm vụ anh là chỉ tới hàng rào ngoài cùng, điểm tập kết đầu tiên, cớ chi anh lại tự động chui vào lệch hướng để dẫm phải mìn, nó “xin” mất một bàn chân? Trong cơn đau vì vết thương lại cả phần thương anh em vất vả với mình, anh Lũy cho biết:

- Ở ngoài thấy bọn bay tiếp cận ngon lành quá. Tao cứ nghĩ vào thêm ít hàng rào rồi cùng ra với nhau khi công việc hoàn thành. Ngờ đâu sai một ly đi một dặm, nghiệt ngã thật. Anh còn tỏ ra ân hận: thế là từ nay tao không còn cơ hội cùng với tụi bay, với đơn vị đi tới ngày toàn thắng.


Nghe anh nói trong cơn đau rỉ máu mà chúng tôi thấy nghẹn ngào. Bởi anh là một cán bộ Tiểu đoàn có uy tín, biết thương yêu cấp dưới, đồng cam cộng khổ. Anh bị thương cũng chỉ vì trách nhiệm cao cả của người chỉ huy, chớ ai lại vào chỗ chết người mà làm gì...


Kể cũng lạ, một tiếng nổ khá giòn như thế mà bọn lính gác gần đó và cả lũ tuần tra không hề hay biết. Bởi lúc ấy gió thôi rào rào, trong sân bay nhiều âm thanh hỗn hợp cộng với tiếng động cơ máy bay nên chúng đánh bạt trộn lẫn tiếng mìn vậy. Lúc này tôi sực nhớ ra cái bàn chân nát vụn của anh Lũy được tôi gói vào trong chiếc xà líp đặc công thường dùng để đưa ra ngoài chưa kịp chôn cất, trở nên lạnh toát đến rợn người. Ôi phần thi thể mà tạo hóa ban tặng cho anh từ nay xa lìa thân chủ, mất mát này sẽ không thể bù đắp được, anh Lũy ơi. Chúng tôi dìu anh về tới căn cứ Bùng Binh, được y sĩ Nhu dùng lưỡi dao lam cắt bỏ phần dập nát và chăm sóc vết thương rồi chuyển tiếp về tuyến sau điều trị. Tưởng rằng chỉ dừng lại chừng đó, sự mất mát trong chiến tranh khó tránh đối với người lính, dần dần sẽ được bù đắp. Không ngờ chân anh bị hoại tử, hai lần bị cắt bỏ tháo khớp lên tới háng. Nay anh là một thương binh nặng, có tổ ấm gia đình, anh sống với vợ con tại quê hương Vụ Bản, tỉnh Nam Định.


Hơn một tháng sau, Bảo và Khiêm vào trinh sát trở lại. Lúc ấy tôi đang ở trên R để huấn luyện kỹ thuật đặc công cho số quân từ miền Bắc mới vào. Quỷ quyệt hơn, kẻ thù tăng cường cài mìn, cạm bẫy dày đặc. Một quả mìn định hướng phát nổ. Bảo - một chiến sĩ trinh sát của tiểu đoàn khá dày dạn kinh nghiệm đã anh dũng hy sinh, còn Khiêm bị thương nặng không còn khả năng chiến đấu.


Trước khi đi trinh sát lần đầu cách đó bốn ngày, vì trăng sáng quá, địch gác lại dày không thể vào được, đành tạm hoãn chờ dịp khác. Trên đường trở về qua cánh đồng Tân Phong phía đông sân bay, tình cờ gặp một bóng người hớt hải chạy qua. Với phản ứng mau lẹ của mình, tôi, Bảo, Khiêm, Bình hình thành thế bao vây. Trong chốc lát, bóng đen bị bắt, bị khóa chặt tay và giải về phía sau. Qua khai thác biết được, đó là viên trung úy phi công ngụy. Trong một buổi rời khỏi doanh trại, đi tranh gái với đám thanh niên ngoài phố, hắn bị truy đuổi chạy tạt qua đây để thoát nạn. Không thể ngờ rằng lại bị đối phương tóm cổ. Hắn được giải đi và giao cho Phòng Địch vận Miền.


Vào thời điểm đầu mùa mưa năm 1974, tôi bị một cơn sốt rét ác tính quật ngã. Được đơn vị chuyển dần lên điều trị tại trạm quân y Đoàn 841 Cục Hậu cần, nằm trên thượng nguồn sông Đồng Nai. Bị sốt cao, dẫn tới hôn mê và coi như đã bị chết về mặt lâm sàng. Một bộ phận làm công tác chính sách cử người ra đào huyệt để chuẩn bị chôn cất. Song, qua nhiều tháng nắng hạn, đất sỏi đá quá cứng, anh em chưa đào được bao nhiêu, vả lại lúc ấy trời đổ cơn mưa giông rất to nên ai nấy vứt cuốc xẻng tại chỗ để chạy lánh mưa. Với dụng ý, sau cơn mưa sẽ tiếp tục đào nốt phần còn lại để đặt thi thể tôi xuống đó cho mồ yên, mả đẹp. Nhưng, thật tình cờ một người trong số họ lật tấm đắp để nhìn mặt tôi lần cuối cùng mới khâm liệm cho tôi để về chốn cửu tuyền. Thế rồi không biết có phép màu nhiệm nào, làm cho con tim tôi đập trở lại. Nhịp thở từ thoi thóp yếu ớt đến tăng dần, cơ thể ấm lên. Mọi người xúm lại, các y bác sĩ tiếp tục xoa bóp với các thủ thuật của chuyên môn. Thế là tôi hoàn toàn thoát khỏi bàn tay tử thần trong giây lát. Tôi từ từ mở mắt, người quay cuồng sau một cơn mê lịm khá dài. Định thần lại biết mình vẫn còn sống, nước mắt giàn giụa lăn dài nóng hổi trên hai má. Chuyện thật mười mươi mà tôi cứ ngỡ như là mơ vậy.


Hơn 30 năm đã trôi qua, bao biến cố thăng trầm đến với dân tộc ta cũng như với mỗi con người. Bản thân tôi cũng thế thôi, từ một chàng trai tỉnh lẻ huyện Ý Yên, Nam Định rời cây bút để cầm súng diệt quân thù theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Trưởng thành nhờ sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, của quân đội, nay là một sĩ quan cấp trung tá công an nhân dân. Từ sâu thẳm lòng mình, tôi tri ân bội phần tình dân, nghĩa Đảng, đồng chí anh em đã cho tôi một cuộc đời, một trái tim nhân hậu của người lính Cụ Hồ, người chiến sĩ của Đoàn đặc công 113 mà tôi hằng yêu quý.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:00:15 pm
NHỚ VỀ TRẬN QUYẾT CHIẾN GIỮ CẦU GHỀNH, CẦU MỚI


Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, Tiểu đoàn 23 đặc công chúng tôi nằm trong đội hình Trung đoàn 113 đánh chiếm, bảo vệ cầu Ghềnh và cầu Hóa An ở thị xã Biên Hòa. Lực lượng gồm hai đại đội 13 và 14. Lúc ấy tôi là Chính trị viên - Bí thư chi bộ đại đội 13.


Xuất phát từ căn cứ đóng quân cách đó không xa, từ ngày 20 đến 23 tháng 4 toàn đơn vị tập kết tại Nhà Nai, Tân Uyên tỉnh Biên Hòa. Đêm 25 tháng 4, đơn vị được lệnh hành quân tiếp cận làm công tác chuẩn bị. Chính thức đêm 26 rạng sáng 27 thì tiếp cận mục tiêu, xây dựng công sự để chuẩn bị chiến đấu. Đến khoảng 8 giờ sáng ngày 27 tháng 4 đã đánh nhau kịch liệt với địch.


Trong bối cảnh lực lượng của địch trong thị xã Biên Hòa và khu vực phụ cận gần như còn nguyên vẹn, mà xuất hiện một đơn vị của đối phương thì tất nhiên địch không để yên. Đúng vậy! Và ngay từ ngày đầu, địch huy động một trung đoàn của lực lượng dã chiến và tăng cường các loại hỏa lực pháo binh, xe tăng, máy bay trực thăng vũ trang yểm trợ bao vây như để “nuốt chửng” chúng tôi. Lúc này cả hai cầu, chúng tôi đều đã đánh bật địch và chiếm giữ được các mục tiêu. Đặc biệt, địch đã huy động bốn giàn pháo lớn ở bốn căn cứ: Hốc Bà Thức (Biên Hòa), căn cứ Nước Trong (Long Thành), Long Bình và trận địa pháo hỗn hợp dốc Ông Hoàng ở vành đai Biên Hòa tới tấp giã vào trận địa, nhằm đẩy chúng tôi ra khỏi khu vực để lực lượng chúng dồn về Sài Gòn khi bị thất thủ. Mặc dù bộ binh, pháo binh tập trung ở mức rất cao nhưng suốt ngày 27 tháng 4, tuy chúng có gây cho ta những tổn thất, song trận địa ta vẫn giữ vững, làm cho chúng thêm điên cuồng.


Tôi còn nhớ rất rõ, tiểu đoàn cùng với đại đội tôi chiếm giữ một quả đồi cạnh Cầu Hang để khống chế con đường từ Biên Hòa đi Thủ Đức. Đây là cái “đinh” như một sự trêu ngươi nên địch quyết tâm nhổ với bất cứ giá nào!


Qua hai ngày chiến đấu, ta thu được hơn 100 khẩu súng đã phản ảnh được phần nào số địch bị tiêu diệt. Suốt ngày 28 chúng tăng cường đánh phá các khu dân cư gần đó, vì chúng đoán quân ta lợi dụng địa hình làng mạc để ẩn nấp. Song trước đó, dân đã sơ tán nên sự tổn thất về người có phần hạn chế. Ngày 28, có thể nói là một ngày máu lửa đối với chúng tôi.


Khoảng 8 giờ sáng, một đoàn xe tăng nối đuôi nhau chuyển động ầm ầm, mặt đất như rung chuyển, cây cối ngả nghiêng. Tôi nép mình bên thành công sự đếm được trên dưới 30 chiếc bao gồm xe tăng, xe thiết giáp M113. Sau khi chiếm lĩnh triển khai đội hình trên những thửa ruộng cánh đồng ấp Tân Mỹ và Tân Bản xã Bửu Hòa, một số chiếc đột kích vào trận địa đại đội 13 và đại đội 14 chúng tôi. Nhưng một số chiếc lại bị trúng đạn chống tăng DKZ và B41 của ta, đã bốc cháy, làm cho đồng bọn cũng phải dè chừng. Song, bị bọn sĩ quan thúc ép, địch dựa vào thế đông và vũ khí mạnh đã bắn bừa bãi vào phía trận địa ta, mức độ thương vong lại tăng vọt lên.


Sáng ngày 29 tháng 4, dòng người di tản nối nhau nườm nượp, trong đó có những sĩ quan, binh lính địch mặc thường phục trà trộn nên chúng tôi không thể phát huy được hỏa lực mà chỉ bắn tỉa nếu xác định đó là sĩ quan hoặc cảnh sát ngụy tháo chạy. Mặc dầu đã đến ngày tàn, nhưng với bản chất ngoan cố, địch vẫn ra sức kháng cự. Tuy biết trận địa của chúng tôi cách 700 - 800 mét nhưng chúng chỉ nã pháo từ xe tăng chứ bộ binh không dám bén mảng vào. Chiều ngày 29, chúng mở đợt công kích cuối cùng vào đại đội 13 xung lực. Còn đại đội 14 hỏa lực 12,7mm phòng không thì còn rất dè chừng. Giằng co đến 5 giờ chiều thì gặp lúc trời đổ cơn mưa giông khá lớn, cũng là lúc chúng lui quân theo hướng Dĩ An và Sóng Thần. Trận địa trở lại yên ắng.


Qua mấy ngày giằng co quyết liệt, có lúc địch tạm thời chiếm được cầu nhưng ban đêm ta tổ chức tập kích đẩy chúng ra khỏi mục tiêu. Tuy nhiên, do bộc lộ lực lượng sớm, trong lúc đại quân ta còn ở xa nên địch đã tập trung đối phó rất quyết liệt, gây cho Tiểu đoàn 23 tổn thất nặng nề, nhiều anh em đã ngã xuống trước ngày toàn thắng.


Hàng chục năm đã đi qua, song giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn thấy buốt nhói con tim và càng nhớ thương đồng đội vô ngần.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:01:28 pm
BẠN TÔI - NGƯỜI LÍNH, NGƯỜI THẦY


Theo lời kể của đồng chí
NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn đặc công 23


Nguyễn Văn Chương, quê ở xã Hậu Bổng, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ - nơi bạt ngàn rừng cọ, đồi chè... Tháng 5 năm 1971, vừa học xong cấp III anh cùng bạn bè tòng quân lên đường chống Mỹ, cứu nước. Đơn vị đầu tiên của anh là đại đội 6 Tiểu đoàn 29 Trung đoàn 62, Bộ Tư lệnh Đặc công.


Những ngày nắng nóng như đổ lửa trên thao trường của huyện Ba Vì, Hà Tây. Ngày ấy có làm mất đi cái dáng vẻ bề ngoài của cậu học trò với vóc người mảnh khảnh, hao gầy. Được bù lại là sự rắn rỏi cứng cáp của một anh lính đặc công thực thụ, với tinh thần hướng về tiền tuyến lớn miền Nam giết giặc lập công. Và ngày ấy cũng đã tới. Sau ba tháng vừa hành quân bằng cơ giới, vừa đi bộ hối hả trên tuyến đường Trường Sơn. Chặng cuối, đi thuyền trên sông Sê Công và Mê Công tới tỉnh Công Pông Chàm nước bạn Cam-pu-chia, đơn vị tạm dừng chân và tìm hiểu, làm quen với chiến trường. Song, khí thế chiến thắng đây đó cứ dồn dập cổ vũ. Quân thù càng thất bại càng điên cuồng phản kích quyết liệt; phía trước đang từng ngày từng giờ chờ tăng viện sức người, sức của. Tháng 3 năm 1973, anh cùng đồng đội tiếp tục hành quân về hướng đông bắc, tới điểm tập kết ở cứ Dâu Gia - nơi ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai tiếp giáp với xã Bàu Hàm, huyện Trảng Bom, tỉnh Biên Hòa, cũng là nơi có nhiều căn cứ quân sự lớn của Mỹ - ngụy. Lúc này, đơn vị anh chính thức được mang phiên hiệu đại đội 3 Tiểu đoàn 23, nằm trong đội hình Trung đoàn đặc công 113 - đơn vị đã lập nhiều chiến công vẻ vang kể từ ngày thành lập (3-6-1972), do đồng chí Nguyễn Thanh Tùng làm Trung đoàn trưởng.


Nhờ được huấn luyện kỹ trên miền Bắc, và khi vào chiến trường được anh em cũ dìu dắt, lại được truyền thống vẻ vang của đơn vị cổ vũ, số chiến sĩ mới vừa được bổ sung làm quen rất nhanh với cuộc sống chiến đấu. Vốn tính thông minh, lanh lợi, qua những lần thử thách, anh được chỉ huy đơn vị chọn làm trinh sát tiểu đoàn. Có tới vài ba lần vào, ra điều nghiên sân bay Biên Hòa, anh đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Điều đó đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của chàng trai học trò quê hương đất Tổ - Vua Hùng và người lính đặc công Nguyễn Văn Chương.


Hồi ấy, tôi ở cơ quan chính trị Trung đoàn, không thể nào nhớ hết từng cán bộ, chiến sĩ. Song, biết khá rõ những cán bộ, chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong số đó, có Nguyễn Văn Chương. Hơn 28 năm đã đi qua, cuộc chiến tranh đã lùi sâu vào quá khứ. Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, đơn vị làm nhiệm vụ quân quản ở thị xã Biên Hòa, rồi thành phố Sài Gòn. Ít lâu sau lại trở ra miền Bắc, nhiều anh em được giải quyết chính sách trở về sum họp gia đình. Số còn lại, biên chế tổ chức, bổ sung thêm quân số, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Đồng đội một thời chung chiến hào, giờ đây trở về muôn nẻo quê hương tạo lập cuộc sống; có nhớ tới nhau chỉ là trong tâm tưởng, ký ức, mấy ai tới thăm được nhau trên quãng đường hàng trăm hay hàng ngàn cây số. Vì lẽ đó mà tôi thực sự không tin vào mắt mình, khi trước mắt tôi là một Nguyễn Văn Chương bằng xương bằng thịt. Hiện anh là giáo viên dạy toán trường phổ thông trung học Nam Hà thuộc Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Đồng Nai - đóng tại xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa - nơi đã diễn ra trận đánh khốc liệt cuối cùng vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 giữa một đơn vị đặc công bảo vệ cầu Ghềnh với một bên là đủ loại sắc lính và phương tiện chiến tranh hiện đại của địch, nơi được coi là “hậu phương” của chúng. Trận ấy, Chương là một tay súng cừ khôi còn may mắn trở về.


Trò chuyện với Chương tại nhà riêng vừa mới được xây dựng khá khang trang ở khu phố 9, phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa, tôi “chất vấn” Chương: duyên cớ nào đã “nhảy” về quê nơi chè thơm gió lộng Hạ Hòa, Phú Thọ, lại còn “nhảy” vào Đồng Nai, bỏ lại đằng sau những 2.000 cây số?


Chương cười, nhìn ra xa xăm, mắt rớm lệ, như ẩn hiện một điểu gì đó thẳm sâu đã lâu lắm mới có bạn đồng ngũ để giãi bày...

- Nếu anh hỏi duyên cớ nào thì cũng xin nói thật: tôi quá nhiều duyên nợ với mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai.

Nơi mà một thời trai trẻ của mình từng gắn bó. Song, đó chỉ là điều nhỏ nhoi, có gì đáng nói. Cái thiêng liêng hơn là bao sinh linh đồng đội Tiểu đoàn 23, Trung đoàn đặc công 113 thân yêu đã từng kề vai chiến đấu. Vậy mà... các anh đã ngã xuống trước giờ phút bình minh của chiến thắng ở hai đầu cầu Ghềnh, giữa thị xã Biên Hòa. Chỉ sau đó ít giờ đồng hồ là đại quân tiến về giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn. Cả bầu trời rợp cờ hoa chiến thắng! - Lắng lại một lúc cho qua cơn xúc động, Chương kể tiếp: - Lúc ấy, cô bác hai bên cầu Ghềnh gồm xã Bửu Hòa và Cù Lao Phố cùng anh em đơn vị đi gom thi hài các liệt sĩ. Phải nhận dạng từng người rồi mới nhập áo quan để đi an táng tại chân núi Châu Thới. Nhìn thi thể đồng chí, đồng đội mà lòng dạ mình thắt lại. Da dẻ người nào cũng đen nhẻm vì khói đạn và cả lẫn thuốc ngụy trang. Toàn thân trần trụi độc chỉ chiếc quần xà lỏn. Anh Ba Thính - Đại đội trưởng; Hải - đội viên; anh Yên nguyên là giáo viên cấp I cũng quê Phú Thọ, có vợ, một con đều hy sinh ngay trên đất Cù Lao Phố. Cả tiểu đoàn khi xuất quân tối ngày 27 tháng 4 năm 1975, mờ sáng ngày 28 tháng 4 năm 1975 thì chiếm được cầu Ghềnh, làm chủ cả hai đầu cầu. Nhưng khi lực lượng ta xuất hiện, địch bu lại như ong. Trong lúc đại quân ta chưa vào tới, cứ vậy hơn một ngày quần nhau với giặc gồm: bộ binh, pháo binh, trực thăng vũ trang, bảo an, dân vệ. Ta quyết giữ chặt cầu, địch quyết đẩy ta ra, chiến trận khốc liệt không thể tưởng tượng nổi. Và... trên 50 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trước giờ bình minh chiến thắng như thế đó. Điển hình, có cậu Tuân - y tá, quê Bắc Ninh, từ bên này xã Bửu Hòa chạy qua cầu để băng bó cho thương binh. Tuân bị trúng đạn địch, cả người và túi thuốc rơi xuống giữa dòng sông Đồng Nai nước chảy xiết. Thế nên khi soát xét lại số hy sinh không ai tìm thấy Tuân đâu cả. Và... như anh biết đấy, cả tiểu đoàn vừa hy sinh, vừa bị thương hết hai phần ba quân số; một phần ba còn lại mấy ngày sau, tai vẫn điếc đặc, nói với nhau chỉ bằng động tác ra hiệu.


Lúc ấy dù tôi không trực tiếp tại chỗ, nhưng vẫn theo dõi sát sao diễn biến của trận đánh. Ấy vậy mà giờ nghe Chương thuật lại, tôi như thấy quang cảnh chiến đấu đang tái hiện, hình ảnh đồng đội vun vút xông lên tiêu diệt quân thù.


Thế rồi ngay năm 1976, Chương được đơn vị cho đi trại an dưỡng và giải quyết chính sách. Chiến tranh tuy đã kết thúc nhưng sự nghiệp xây dựng kiến thiết đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đang bắt đầu. Nhận thức được điều hệ trọng ấy, nên Chương lao vào đèn sách ôn thi vào đại học Sư phạm. Sau bốn năm ở giảng đường đại học Sư phạm Việt Bắc tại thành phố Thái Nguyên, anh gác mọi riêng tư dành toàn tâm cho học hành. Kết quả, tốt nghiệp đạt loại ưu. Tiếp đó đã được Trường cấp III Đoan Hùng, Phú Thọ tiếp nhận, ở đây, vừa là giáo viên dạy bộ môn toán vừa là Bí thư đoàn trường, anh hoạt động nhiệt tình, sôi nổi. Hàng năm, thi đồng diễn thể dục và các loại hình khác do ngành giáo dục tỉnh tổ chức. Trường cấp III Đoan Hùng đều đoạt giải cao.


Vui thì vui vậy, nhưng nhiều khi tâm tưởng người thầy còn mang đầy chất lính ở trong Chương muốn trở về nơi vùng đất mình chiến đấu, nơi đồng đội đã hy sinh. Ý tưởng ấy như lớn dần, lớn dần theo thời gian. Thế rồi, hè năm 1985 anh quyết định đi phép để có dịp vào Nam thăm lại cô bác ngày ấy tại xã Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa. Vẫn như ngày nào, cô bác đón anh như thân nhân gia đình vậy. Chương nhờ cô bác hướng dẫn ra chân núi Châu Thới tìm mộ đồng đội, để thắp nhang tưởng niệm. Nhưng nghe nói cơ quan chính sách Bộ Tư lệnh Đặc công và sở Lao động - Thương binh xã hội tỉnh Đồng Nai đã quy tập về nghĩa trang liệt sĩ. Thôi, thế cũng yên lòng các anh rồi. Được Đảng bộ, chính quyền thường xuyên hương khói, hương hồn các anh cũng đỡ phần lạnh lẽo.


Nếu không ở lại chịu tang mẹ thì anh đã xin chuyển trường từ năm ấy. Tiếp đến lại người cha qua đời. Mãi tới tháng 11 năm 1985, ý tưởng trở về nơi mình chiến đấu để dạy học hay làm một việc gì đó để được gần đồng đội hơn trong Chương mới trở thành hiện thực. Lãnh đạo ngành giáo dục tỉnh Đồng Nai sẵn sàng đón nhận anh, không có điều gì trở ngại cả.


Hiện nay trên cương vị là một giáo viên dạy toán, tuy đã ngoài 50 tuổi, Nguyễn Văn Chương vẫn đảm đương công tác Đoàn trường, hoạt động sôi nổi, hào hứng.

Điều lý thú với anh là: Trường phổ thông trung học Nam Hà, nơi anh đang giảng dạy nằm bên cạnh cầu Ghềnh, trên Cù Lao Phố - xã Hiệp Hòa, đơn vị Anh hùng của thành phố Biên Hòa.

Ngoài bộ môn chính của mình, giờ sinh hoạt ngoại khóa, hoạt động Đoàn trường, thầy Nguyễn Văn Chương còn kể mãi những câu chuyện cảm động về những người lính đặc công quả cảm đã ngã xuống trước giờ toàn thắng để các em có cuộc sống hòa bình tươi đẹp như hôm nay.


Người thể hiện
NGUYỄN QUỐC HOÀN


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:02:51 pm
HÃY XỨNG ĐÁNG LÀ TRAI ĐẤT TỔ - VUA HÙNG


NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
(Trân trọng kính tặng các đồng chí Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 113 Anh hùng
và các liệt sĩ đã hy sinh trong trận đánh ngày 27 tháng 4 năm 1975)


Chiến tranh đã trôi qua gần 30 năm, nhưng hôm nay những hình ảnh về những năm tháng gian khổ, sống và chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc của các cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 113 vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi và những đồng đội của mình.


Cuối tháng 4 năm 1975, Đài Tiếng nói Việt Nam liên tục thông báo tin thắng lợi của quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam. Sự thất bại của chế độ ngụy Sài Gòn đã đến gần, càng làm chúng tôi náo nức được góp phần vào chiến thắng chung của quân dân ta giành độc lập tự do cho Tổ quốc.


Chính trong thời điểm này, ngày 26 tháng 4 năm 1975 chúng tôi được lệnh "Cả tiểu đoàn chuẩn bị đi chiến đấu". Không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều hiểu rằng có lẽ đây sẽ là trận đánh cuối cùng của đời lính đặc công. Trận đánh này sẽ vô cùng gay go và tính chất ác liệt của nó chưa xác định được. Cả tiểu đoàn tập trung nghe Tiểu đoàn trưởng Ba Trạch và Chính trị viên trưởng Tư Dĩ phổ biến tình hình, nhiệm vụ cho các đại đội và các bộ phận. Điểm mà đơn vị chúng tôi phải đến là cầu Ghềnh giữa lòng thành phố Biên Hòa. Nhiệm vụ chúng tôi phải thực hiện là chiếm lĩnh và giữ bằng được cây cầu, đảm bảo đường cho các đơn vị quân chủng bạn đi qua cùng với các con đường khác cùng tiến về giải phóng Sài Gòn.


Đêm 25 tháng 4, hầu như chúng tôi không ai ngủ được, mỗi người một việc ai nấy đều hăm hở bắt tay chuẩn bị cho trận đánh. Bộ ba Hải (Minh Côi, Hạ Hoà), Đát (Bản Nguyên, Lâm Thao) và tôi cùng quê Phú Thọ, sau khi chôn giấu toàn bộ hành trang gồm quần áo, sổ sách, thư từ trong chiếc hòm đạn đại liên, chúng tôi ngồi bên nhau ôn lại kỷ niệm những năm tháng đã qua và nói với nhau lời chia tay, bởi không biết ai còn ai mất trong cuộc chiến ác liệt này. Chúng tôi ôm nhau và thầm hứa với nhau hãy chiến đấu xứng đáng là trai đất Tổ - Vua Hùng.


Ngày 26 tháng 4 năm 1975, từ sáng sớm cả căn cứ như sôi động, tất cả mọi công việc chuẩn bị được tiến hành một cách chu đáo, mỗi người được trang bị một khẩu AK với ba cơ số đạn, năm trái thủ pháo cầm tay, theo tinh thần được quán triệt của cán bộ tiểu đoàn thì chúng tôi chỉ cố gắng giữ cầu Ghềnh qua đêm 27 tháng 4 và sáng 28 tháng 4, đại quân của ta sẽ từ Xuân Lộc kéo qua giải phóng thành phố Biên Hoà, như vậy sự tổn thất của tiểu đoàn sẽ không đáng kể. Mọi người phấn khởi bước vào trận đánh đầy lạc quan, tin tưởng chiến thắng đã đến gần, rất gần. 


Mười bảy giờ (5 giờ chiều) chúng tôi vội vã ăn cơm và tất cả tiểu đoàn tập trung chuẩn bị xuất phát. Tiểu đoàn trưởng Ba Trạch nhắc lại lần cuối phương án nhiệm vụ của từng đơn vị, từng bộ phận. Chính trị viên Tư Dĩ động viên tư tưởng, toàn thể ai nấy thông suốt và hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, với một khí thế náo nức lạ thường.


Màn đêm buông xuống nhưng không có vẻ yên tĩnh như thường ngày. Xa xa tiếng súng, tiếng pháo ngày một nhiều vọng về và trong chiến khu giữa đất trời miền Đông Nam Bộ đã thấy xuất hiện bóng dáng của các khẩu pháo lớn của Quân đoàn 1 đang di chuyển, chuẩn bị công kích sân bay Biên Hòa, càng làm chúng tôi nôn nóng.


Khẩu lệnh: "Xuất phát!" được truyền đi lặng lẽ. Tiểu đoàn 23 chúng tôi cùng với Tiểu đoàn pháo 174 người nọ nối người kia từ từ di chuyển ra khỏi căn cứ để lại sau lưng những kỷ niệm của những năm tháng ngủ rừng, mưa hầm, cơm vắt; để lại sau lưng những cánh rừng bạt ngàn của miền Đông Nam Bộ đã che chở và nuôi sống chúng tôi trong những năm tháng qua. Không ai nói gì nhưng chúng tôi đều hiểu rằng có lẽ chưa chắc sẽ có dịp quay trở lại. Mọi suy nghĩ đều dành cho trận đánh đêm nay.


Tiểu đội trinh sát chúng tôi bảy người được chia xuống các đại đội. Tôi xuống cùng đại đội anh Thính người Bạch Hạc, Việt Trì, phía sau tôi là Yên người Hà Lộc, Phú Thọ. Toàn tiểu đoàn như con rắn trườn đi nhẹ nhàng trong đêm, vượt qua nhiều cánh đồng lúa đang phơi màu, qua nhiều xóm, ấp, thỉnh thoảng nghe những tiếng chó sủa. Tự nhiên thấy hình ảnh quê hương hiện về và lại trôi qua thật nhanh. Đáp lại với cảnh vật ấy, chúng tôi phải căng mắt ra bám vào người phía trước, giữ đúng cự ly. Cứ thế, dần dần thì ánh điện thành phố Biên Hòa cũng đã hiện ra trước mắt phần nào cũng giúp chúng tôi nhìn rõ đường đi hơn và đâu đó một vài loạt súng AR15, tiếng đạn M79 rời rạc cùng với ánh sáng của pháo dù bắn lên từ các đồn địch làm tốc độ di chuyển của chúng tôi cũng nhanh hơn. Phải nhanh chóng tiếp cận mục tiêu.


Cầu Ghềnh - cái tên nghe vừa lạ vừa quen, tôi cố hình dung nhưng cũng không hiểu hình hài nó ra sao, chỉ biết rằng phải giữ nó không được để quân địch phá, sẽ ngăn cản bước tiến của quân ta. Kim đồng hồ đã chỉ 1 giờ sáng, Tiểu đoàn 174 đã tách khỏi đội hình đi về phía cầu Mới - cây cầu mà trước đây bốn chiến sĩ Thường, Thiết, Thưởng, Đệ của đại đội đặc công nước của tiểu đoàn tôi đã đánh sập hai nhịp, và nhiệm vụ của họ cũng phải bảo vệ bằng được nó. Chúng tôi đã đi vào giữa con đường dẫn tới cầu Ghềnh. Khi bước qua đoạn đường sắt cũng là lúc tôi hiểu chúng tôi đã đến mục tiêu, cây cầu đã hiện ra trước mắt huyền ảo lung linh in hình xuống dòng sông thơ mộng. Chúng tôi từ từ ém sát các chốt đầu cầu phía bên Chợ Đồn. Tôi chia tay anh Thính, Hải và một bộ phận bơi qua sông sang đầu cầu bên kia nằm giữa Cù Lao Phố như một hòn đảo nhỏ. Tôi cùng Yên nằm lại hồi hộp chờ giờ nổ súng. Đã nhiều lần vào trận nhưng có lẽ đây là trận đánh mà chúng tôi cảm thấy căng thẳng nhất. Có thể tôi hoặc đồng đội của mình sẽ ngã xuống trước ngày toàn thắng nhưng có hề chi. Chúng ta cùng tự hào vì đã anh dũng hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc.


Đúng 2 giờ 30 phút sáng, một tiếng nổ của khẩu ĐKZ của Tiểu đoàn 174 làm hiệu lệnh mở đầu cho trận đánh. Tiếng nổ đã đánh thức toàn thành phố. Chúng tôi nhanh chóng phong toả các mục tiêu đã được phân công, những ánh chớp của các quả thủ pháo bùng lên và những tiếng nổ dồn dập khắp hai bên đầu cầu và cả phía trên kia nơi Tiểu đoàn 174 chiếm giữ. Tôi hiểu chúng tôi đã đạt yêu cầu ban đầu hiệp đồng với các đơn vị bạn. Trong trận này hầu như chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chúng tôi nằm lại chờ trời sáng, chờ tin thắng lợi của các đơn vị.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:03:36 pm
Chiến tranh vẫn tiếp diễn không lường hết, sau khi im tiếng súng, chúng tôi chờ tiếng pháo vào sân bay Biên Hòa nhưng chưa thấy đâu, mà chỉ có tiếng những động cơ máy bay lên xuống ngày càng nhiều hơn và đã có tiếng rít của đạn pháo địch rơi xuống lòng sông nơi chúng tôi đang chiếm giữ. Xung quanh nhiều tiếng la, tiếng gọi nhau của nhân dân hốt hoảng chạy xa nơi chiến sự. Lệnh của tiểu đoàn - bằng mọi giá phải ở lại giữ cầu. Đoán có sự chẳng lành, chúng tôi cùng tìm chỗ ẩn nấp để chuẩn bị đối đầu với cuộc chiến đấu mới.


Đúng như dự đoán, mọi kế hoạch không suôn sẻ như chúng tôi tưởng. Khi mặt trời ló rạng, cả vùng ấp Chợ Đồn vắng lặng, một sự im lặng đáng sợ của chiến tranh, báo hiệu tính chất ác liệt của cuộc chiến đang đến gần. Chúng tôi bình thản chờ đợi, mọi sự sắp xếp chuẩn bị đối đầu với lực lượng ngụy quân đang cố giãy giụa trước ngày sụp đổ. Tôi nhìn quanh, hầu như đồng đội của tôi vẫn nguyên vẹn như khi bắt đầu ra trận, mọi người đều nhìn phía bên kia cầu, bộ phận tiền duyên cũng đang đón chờ cuộc chiến đấu mới.    - Xe tăng! - Một tiếng kêu của ai đó.

- Chuẩn bị chiến đấu!

Chúng tôi đã nghe tiếng gầm rú của xe tăng phía bên kia cầu và tiếng máy bay rít trên bầu trời quần đảo nơi chúng tôi đang chiếm giữ. Tôi nhìn thấy rất nhiều bóng những sắc phục lính ngụy bên cù lao, rồi tiếng đạn pháo, đạn xe tăng xen lẫn tiếng súng AR15, M79 của địch liên tục hướng về phía chúng tôi. Có lẽ chúng đang cố đánh bật bộ phận anh Thính phía bên kia. Chúng tôi tựa vào nhau kiên quyết chống trả những trận phản công của địch hòng chiếm lại cây cầu. Xung quanh tôi bụi mù mịt vì khói súng và bụi đất, đôi tai dần dần như không còn nghe thấy gì, chỉ thấy mặt đất rung từng đợt. Tiếng súng AK của chúng tôi lọt thỏm giữa không gian của trận chiến ác liệt. Một số đồng đội của tôi mặt mũi nhọ nhem, thỉnh thoảng ra hiệu cho nhau di chuyển vị trí tìm nơi thuận lợi có thể ngăn cản các đợt tấn công của địch, không cho chúng vượt sang bên này cầu. Cứ như vậy đôi bên giằng co trận địa dưới những làn đạn pháo, đạn máy bay của địch.


Mặt trời lên cao dần, trận đánh cũng giảm bớt nhịp độ, tôi đổi vị trí cho Yên lùi một chút về phía sau. Xung quanh tôi có một số đồng đội đã nằm yên. Tôi đoán chắc họ đã hy sinh, lòng cảm hận trào dâng, tự nhủ phải cố gắng bảo vệ cầu và bảo vệ danh dự người chiến sĩ, không lùi bước trước những hy sinh của đồng đội. Phải chiến đấu để trả thù cho bạn và kìa, hình ảnh của Tuân - y tá quê Hà Bắc ôm súng vượt qua cầu nhưng anh chưa kịp qua cầu bỗng khựng lại chói với trước làn đạn của địch. Anh hy sinh trước mắt tôi mà không thể cứu được. Tôi kêu lên một tiếng: Tuân ơi!


Lệnh của Tiểu đoàn: Phải giữ gìn lực lượng không manh động qua cầu khi chưa có lệnh. Tôi lùi lại nắm vai Yên thì người anh đã mềm nhũn từ khi nào, máu chảy dài trên khuôn mặt anh. Tôi ôm lấy anh mà thấy tim mình buốt nhói trước sự hy sinh thầm lặng của anh cùng với những đồng đội của tôi đã ngã xuống khi thắng lợi đang đến gần.


Mặt trời đã xế bóng, chiến sự không còn ác liệt như buổi sáng; tiếng đạn pháo, tiếng máy bay thưa dần, phía bên kia cầu không còn tiếng súng, không biết bộ phận của ta bên ấy ra sao? Chúng tôi vẫn không được lệnh qua cầu, tôi nhìn quanh chỉ còn một vài đồng đội như anh Bạng (người Hà Tây) - Trung đội trưởng, anh Đát (Bản Nguyên, Lâm Thao) và một số người bị thương đang được chuyển về phía sau.


Khoảng 4 giờ chiều, toàn trận địa im hẳn tiếng súng, tiếng máy bay, tiếng xe tăng. Một sự im lặng đáng sợ. Không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, chúng tôi lại căng thẳng chờ đợi không kịp nghĩ đến cái nóng, cái khát, cái đói trong suốt một ngày chiến đấu. Có một vài người dân mạnh dạn mang nước uống và thức ăn cho chúng tôi và giúp chúng tôi đi tìm những đồng đội đã hy sinh. Xa xa, phía Hố Nai tiếng súng, tiếng pháo lại nổi lên từng chập có lẽ cũng có những đụng độ quyết liệt của quân ta với quân ngụy đang cố thủ. Chúng tôi vẫn trong trạng thái căng thẳng cảnh giác. Thời gian cứ trôi và bóng tối đã trùm xuống thành phố. Chúng tôi, những người sống sót đang tìm nhau, tôi chỉ bị xây xước nhẹ. Những đồng đội bị thương đang được các y tá, y sĩ của tiểu đoàn sơ cứu, có nhiều tiếng rên trong đêm. Người vô cùng mệt mỏi, tôi ôm súng căng mắt nhìn về phía cầu, cùng một số đồng chí còn lành lặn sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Có nhiều người dân trong ấp ra trận địa giúp chúng tôi chăm sóc các thương binh và tiếp tế thuốc men, thức ăn, đồ uống. Tôi cầm chiếc bánh trong tay mà miệng đắng ngắt, nước mắt tuôn trào vì sự hy sinh của rất nhiều đồng đội.


Đêm dần trôi. Bỗng Biên Hòa rung động bởi những loạt pháo vang dậy phía sân bay, liên tục trong một khoảng thời gian dài, chúng tôi gọi nhau mừng rỡ vì chắc chắn đây là những loạt đạn của quân ta đang đánh chiếm Biên Hoà theo như hợp đồng tác chiến.

Lệnh của tiểu đoàn: Chuẩn bị đánh địch rút chạy.

Chúng tôi tập hợp lực lượng còn lại khoảng hơn 20 người và số đạn ít ỏi nằm phục bên đầu cầu. Tiếng pháo xen lẫn tiếng súng các cỡ của quân ta vẫn vang dội phía thành phố, không có tiếng máy bay lên xuống. Mọi kháng cự của địch hầu như thưa thớt, ít ỏi và tuyệt vọng. Chúng tôi hiểu căn cứ Biên Hòa của địch đang thất thủ trước sự tấn công của quân ta. Rất nhiều nơi trong và ngoài thành phố chiến sự vẫn đang tiếp diễn, những ánh chớp của đạn pháo, của tiếng súng làm chúng tôi hồi hộp chờ giờ giải phóng miền Nam thân yêu. Chúng tôi chờ đợi quân địch rút chạy, nhưng không có động tĩnh gì.


Bình minh lên trong tiếng súng của quân ta chiến đấu giải phóng Biên Hoà. Hàng đoàn người chạy qua cầu hỗn loạn, chúng tôi cầm súng đứng canh cầu và hướng dẫn cho họ sơ tán nhanh ra khỏi nơi chiến sự. Có thể trong số đó có cả những tên lính ngụy đã trút bỏ bộ đồ vấy máu nhân dân để trốn chạy, quần áo ngụy quân vứt rải rác báo hiệu chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ.


12 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, cờ Giải phóng đã tung bay khắp nơi trong và ngoài thành phố Biên Hòa. Nhân dân đổ ra đường hò reo chiến thắng và chào đón đoàn quân của ta từ các hướng tiến về Sài Gòn. Chúng tôi nhanh chóng triển khai làm công tác thương binh liệt sĩ, những đồng đội bị thương được nhân dân giúp đỡ cho đi bệnh viện cứu chữa, và đi thu lượm những thân thể đồng đội đã hy sinh, có người không nguyên vẹn. Những chiếc quan tài được đưa đến, chúng tôi ngậm ngùi đưa tiễn những người đồng chí, người bạn yêu quý đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sự hy sinh vô cùng anh dũng trước ngày toàn thắng của dân tộc, của những ngươi lính mãi mãi ghi trong sổ vàng của Trung đoàn 113. Tiểu đoàn 23 hy sinh 47 người, số bị thương cũng khá nhiều, còn lại tương đối lành lặn khoảng hơn 20 người. Nhân dân vây quanh chúng tôi trầm trồ thán phục. Họ nhìn chúng tôi ngỡ ngàng, người lính Cụ Hồ trước mắt họ cũng chỉ là những người bình thường nhưng đã làm nên những chiến công hiển hách.


11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cờ Giải phóng đã tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hàng triệu người đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ quốc, trong đó chốt thép cầu Ghềnh luôn là niềm tự hào của chúng tôi, những chiến sĩ Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 113 Anh hùng.


Hôm nay, bên cầu Ghềnh, tôi bùi ngùi nhìn lại trận địa xưa, hình bóng của những đồng đội năm ấy vẫn theo tôi trong kỷ niệm thời chiến tranh, và trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Các anh đã ngã xuống cho mầm xanh hạnh phúc muôn đời mai sau. Kính cẩn nghiêng mình trước những hương hồn bất diệt!


Biên Hòa, ngày 27 tháng 7 năm 2002


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:04:41 pm
TRẬN CHIẾN ĐẤU ÁC LIỆT BẢO VỆ CẦU RẠCH CHIẾC


HỒ SĨ THÀNH


Trên năm hướng tiến công vào Sài Gòn thì hướng đông là xung yếu nhất đối với địch, bởi đây là tuyến quốc lộ 1 chạy thẳng vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy, tập trung số đông lực lượng của ta.

Sau khi “cánh cửa thép” Xuân Lộc của địch bị đập tan (ngày 21 tháng 4), quân ta đã tiến rất gần Sài Gòn. Trên trục đường số 1 là hướng tiến quân của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2. Từ Biên Hòa tới Sài Gòn có ba cầu quan trọng, cần phải bảo vệ bằng mọi giá cho xe tăng và binh khí kỹ thuật nặng của quân ta hành tiến là cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc và cầu Sài Gòn (còn gọi là cầu Tân Cảng). Trong số này, cầu Rạch Chiếc nhỏ và ngắn, dễ bị phá hỏng, nên Bộ Chỉ huy chiến dịch cử lực lượng tinh nhuệ tới đánh chiếm và bảo vệ, quyết không cho địch đánh phá trong giai đoạn quyết định của chiến dịch.


Trước đây, khi khởi đầu Tổng tiến công mùa Xuân 1975, theo chỉ thị của cấp trên, các lực lượng vũ trang địa phương có nhiệm vụ dàn mỏng căng kéo lực lượng địch, đồng thời tăng cường phá hoại giao thông, cầu cống để cản trở, chia cắt, cầm chân chúng, thì giờ đây, việc tối quan trọng là phải bảo vệ được các cầu trên những tuyến đường chính dẫn vào Sài Gòn như cầu Hóa An, Bình Triệu, Đồng Nai, Tân Cảng (phía bắc và phía đông), cầu Bông, cầu Xáng (phía tây bắc), cầu Bến Lức, An Lạc (phía tây nam), cầu An Hạ (phía tâv)... Nếu các cầu này bị địch chiếm giữ hoặc đánh sập sẽ gây nhiều bất lợi cho ta và làm chậm tốc độ tiến công.


Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Lữ đoàn đặc công 316 và một đại đội của Trung đoàn đặc công - biệt động 116, cấp tốc điều quân tái đánh bọn địch cố thủ ở hai đầu cầu Rạch Chiếc. Bộ đội địa phương huyện Thủ Đức có nhiệm vụ đánh chiếm và giữ cầu Sài Gòn (còn gọi là cầu Tân Cảng).


Địch cố thủ trên cầu Rạch Chiếc khoảng hai trung đội trước đây, nay được tăng cường lực lượng gấp ba và được lệnh “tử thủ” ngăn chặn quân chủ lực ta. Đây được coi như một “nút chặn” sau cùng, hy vọng bảo vệ “thủ đô” Sài Gòn của chúng. Các căn cứ địch ở xung quanh sẵn sàng chi viện ứng cứu khi Rạch Chiếc bị tấn công, vị trí này cách trung tâm Sài Gòn khoảng trên 10 ki-lô-mét.


Các đơn vị đặc công - biệt động nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu với khí thế và quyết tâm rất cao. Trong thời gian chờ lệnh nổ súng tiến công, cán bộ, chiến sĩ phải trú ém giữa đồng trống, dưới bưng sình, chịu đựng cái nắng như thiêu đốt và nhịn khát vì thiếu nước ngọt. Nếu không được đồng bào trong ấp chiến lược tiếp tế lương thực, nước uống thì việc bám trụ, giữ bí mật đội hình và thực hành tác chiến sẽ gặp khó khăn hơn nhiều.


Đêm 27 rạng 28 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, khi Tiểu đoàn 4 Thủ Đức bắt đầu đánh chiếm cầu Sài Gòn thì Lữ đoàn 316 nổ súng mãnh liệt tấn công chốt địch trên cầu Rạch Chiếc. Địch phản ứng quyết liệt bằng tất cả các loại súng... Pháo, cối ở một số bốt xung quanh cũng cấp tập bắn vào trận địa để ứng cứu đồng bọn. Nhưng với lối đánh sở trường thọc sâu, chia cắt, các chiến sĩ đặc công đã tiêu diệt, bắt tù binh và đánh tan rã bọn lính chốt cầu, làm chủ trận địa sau hơn một giờ chiến đấu liên tục.


Mờ sáng ngày 28 tháng 4, được máy bay, tàu chiến và xe tăng yểm trợ, quân ngụy tổ chức tái chiếm cầu Rạch Chiếc từ ba hướng. Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt. Ở phía đông cầu, Z22 và Z23 đặc công - biệt động đánh bật nhiều đợt phản kích của xe tăng và bộ binh địch. Nhưng nhờ vào sự tăng viện của liên trường Thủ Đức, lại có xe tăng dẫn đầu đột phá, địch phản kích rất mạnh hòng chiếm lại trận địa. Do súng đạn bị hư hỏng, tiêu hao, các chiến sĩ ta phải dùng cả vũ khí thu được của địch để chiến đấu. Nhiều chiến sĩ bị thương vong do súng hết đạn. Trước sự phản kích điên cuồng của địch, một mũi tiến công của ta tạm phải rút lui. Khi vượt qua bãi trống và băng sông dưới tầm hỏa lực của địch, hàng chục cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh.


Dưới chân cầu Rạch Chiếc, một bộ phận của Tiểu đoàn 81 làm nhiệm vụ chốt giữ cầu phải đẩy lùi nhiều đợt phản kích của xe tăng, bộ binh địch, có tàu chiến dưới sông yểm trợ. Nhiều toán địch cố vượt qua điểm chốt chặn của Z22, Z23, lao lên mặt cầu. Dưới sông, ca nô địch dùng hỏa lực khống chế cho bộ binh xông lên chiếm lô cốt đầu cầu phía đông. Trận chiến giằng co trong khói lửa mù mịt tràn ra cả mặt sông. Nhiều chiến sĩ ta leo lên lô cốt dùng lựu đạn, thủ pháo ném tới tấp vào đội hình địch rồi xông lên đánh “giáp lá cà” với chúng. Hàng chục tên địch bị diệt tại chỗ, nhưng số còn lại vẫn cố sống cố chết bám trên cầu. Địch tiếp tục cho xe tăng bắn mạnh, chế áp hỏa lực của ta cho bọn bộ binh tiến lên cầu, nhưng các đợt phản kích của chúng đều bị đánh bật trở lại...


Đến trưa 28 tháng 4, do bị thương vong nặng, đơn vị giữ cầu buộc phải rút khỏi trận địa, dưới tầm oanh kích dày đặc của địch. Mặc dù vậy, anh em vẫn cố gắng đưa thương binh và vũ khí ra khỏi khu vực cầu Rạch Chiếc. Bộ phận chốt chặn ở ngã ba Cát Lái cũng rút về rạch Ruột Ngựa để củng cố. Lúc này đã có hơn 40 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, hàng chục đồng chí bị thương, vũ khí hao hụt, nhưng tinh thần anh em vẫn giữ vững. Tin các đơn vị chủ lực trên các hướng đang thần tốc tiến về Sài Gòn, làm mọi người thêm phấn chấn, quyết tâm hoàn thành trọng trách trong giờ phút lịch sử của dân tộc. Sau khi hội ý rút kinh nghiệm và để thực hiện quyết tâm của trên, đêm 28 tháng 4, hơn 100 cán bộ, chiến sĩ còn lại của Lữ đoàn 316 và Trung đoàn 116, tổ chức tiến công chiếm lại cầu Rạch Chiếc. Trong đêm tối, các chiến sĩ đặc công dùng hỏa lực B40, B41, thủ pháo... bí mật tiếp cận, bất ngờ nổ súng đánh bật xe tăng và bộ binh ngụy khỏi mặt cầu. Địch hoảng loạn tháo chạy về phía đông Rạch Chiếc, bỏ lại nhiều xác đồng bọn và xác xe tăng. Đơn vị nhanh chóng làm chủ toàn bộ trận địa, chốt giữ và bám trụ, tiếp tục đánh lui nhiều đợt phản kích mới của địch.


Lúc này tàn quân địch ở Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa... rút chạy về Sài Gòn đều bị chặn lại ở phía đông cầu Rạch Chiếc.

Sáng 30 tháng 4, địch cố gắng phản kích lần cuối hòng tìm lối thoát một cách tuyệt vọng trước sức chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ đặc công - biệt động cảm tử. Chúng trút bỏ quân trang, vứt súng đạn, chạy tán loạn vào hai bên đường số 1. Trong lúc đó, phía tây cầu, Tiểu đoàn 81 đánh bật nhiều đợt xung phong của địch từ cầu Đen lên và từ giang đoàn 306 kéo tới, giữ vững trận địa đến cùng.


Ở phía Sài Gòn, lực lượng địa phương Thủ Đức cũng đã chiếm được cầu Tân Cảng sau nhiều trận đánh giành đi giật lại với địch.

Vào thời điểm này, bộ đội chủ lực cũng đã đánh dứt điểm các căn cứ địch ở Hố Nai, Biên Hòa, Tam Hiệp... tiến về cầu Đồng Nai, Rạch Chiếc.

Như vậy, sau gần ba ngày đêm chiến đấu cực kỳ dũng cảm, các đơn vị đặc công - biệt động của Miền đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ nguyên vẹn cầu Rạch Chiếc, tạo điều kiện thuận lợi cho cánh quân phía đông tiến thẳng vào Sài Gòn. Trong trận đánh ác liệt này, 52 chiến sĩ, cán bộ đã anh dũng hy sinh trước giờ toàn thắng. Trong trận quyết chiến chiến lược giải phóng thành phố Sài Gòn, đây là tập thể hy sinh lớn nhất trước cửa ngõ thành phố. Chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn những chiến sĩ đã ngã xuống cầu Rạch Chiếc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Tư, 2021, 02:07:22 pm
“ỐC ĐẢO” ĐA-VÍT - THẾ ĐỨNG CÁCH MẠNG GIỮA SÀI GÒN


MINH AN


Theo một điều khoản của Hiệp định Pa-ri ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 nhằm lập lại hòa bình ở Việt Nam, có một phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) trong Ủy ban Liên hiệp quân sự bốn bên, đóng ở Sài Gòn để giám sát việc thi hành hiệp định của các bên. Do sợ ta gây ảnh hưởng chính trị giữa thủ đô ngụy quyền Sài Gòn nên chúng bố trí “trụ sở” của phái đoàn ta trong sân bay Tân Sơn Nhất để cô lập với thế giới bên ngoài, nhất là đối với nhân dân Sài Gòn. Nơi ở của phái đoàn ta là một khu nhà xoàng xĩnh, có tên gọi là trại Đa-vít (Davis). Đã thế, địch còn chăng dây thép gai bao bọc để dễ bề kiểm soát.


Phái đoàn quân sự của ta lúc đầu do Thiếu tướng Hồ Xuân Anh phụ trách.

Tính đến đầu năm 1975, phái đoàn ta sống, làm việc giữa vòng vây quân địch đã gần ba năm. Các đồng chí vẫn giữ vững lập trường đấu tranh, không khoan nhượng với kẻ thù; chấp hành nghiêm túc và nhanh chóng các chỉ thị của cấp trên; đồng thời báo cáo về ta những tin tức, dư luận của các giới đồng bào và địch đã nắm được, kể cả quan sát bằng mắt thường. Thấy máy bay địch dồn về Tân Sơn Nhất nhiều quá, đậu gần cả khu nhà ở của phái đoàn các đồng chí trong trại điện ra đề nghị bắn pháo vào sân bay. Bức điện có đoạn viết:

"Chúng tôi sẽ đào hầm và giữ vị trí chiến đấu tại đây. Nếu địch ngoan cố, pháo binh ta cứ bắn thật mãnh liệt, đừng lo cho chúng tôi ở trong này. Chúng tôi rất lấy làm vinh dự sẵn sàng nhận sự hy sinh để chiến dịch toàn thắng, sự nghiệp cách mạng toàn thắng”.


Khu nhà phái đoàn ta ở, nền đất, tường ván, xung quanh rào dây thép gai. Tình huống hiện tại rất khó khăn trong việc đào công sự, giao thông hào. Cán bộ, chiến sĩ phải đào hầm ban đêm, dùng xẻng, cuốc, cọc dây thép gai và cả dao găm để đào. Đất đào lên không chuyển đi đâu được, phải ép xuống nền nhà hoặc cho vào bao tải chất vào kho. Trước ngày ta Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, trong trại Đa-vít, ta vẫn duy trì nền nếp sinh hoạt bình thường: giao ban sáng, tập trung công việc cho hai diễn đàn còn lại là diễn đàn của Ủy ban quốc tế và diễn đàn dư luận. Anh chị em luôn vững vàng; các bãi thể thao, tăng gia vẫn đông người.


Đầu năm 1975, phái đoàn ta nhận được điện khẩn của Bộ Chỉ huy Miền thông báo sẽ có một đơn vị đặc công vào để đưa tất cả cán bộ, chiến sĩ ra vùng giải phóng. Đảng ủy Đoàn đã họp và lãnh đạo đi đến thống nhất ở lại chiến đấu, tham gia trận đánh cuối cùng, đó là một vinh dự cho người cầm súng.


Quyết tâm của Đoàn được cấp trên chấp thuận. Từ ngày 18 tháng 4, toàn trại Đa-vít bắt tay vào công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu. Công sự từng nhà được nối liền với nhau qua hào giao thông; có cả hầm chỉ huy và hầm quân y... tạo thành một khu vực chiến đấu hoàn chỉnh. Việc ta đào hầm hào trong trại Đa-vít, địch không phát hiện được, mặc dù xung quanh có tới 10 chòi canh và lính canh gác ngày đêm.


Nhân dịp có việc trao đổi một số nhân viên Ban Liên hiệp quân sự bị mắc kẹt hôm ta đánh Buôn Ma Thuột, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương đưa ra mấy đồng chí thật cần thiết, còn anh em vẫn ở lại, trong đó có đồng chí Trưởng đoàn. Và khi làm kế hoạch cho pháo bắn vào Tân Sơn Nhất, Bộ Chỉ huy nhiều lần dặn các đồng chí phụ trách pháo binh bảo đảm an toàn cho khu vực phái đoàn ta.


Khi pháo của ta bắn chuẩn bị phần tử đầu tiên, một số đạn theo quy luật tản mát đã rơi vào trại Đa-vít, khiến 2 đồng chí cảnh vệ hy sinh, 2 sĩ quan bị thương.


Trong thế trận chung rộng lớn đã hình thành chuẩn bị bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, phái đoàn quân sự của ta ở Tân Sơn Nhất có thế đứng riêng của mình hiên ngang giữa lòng địch. Thế đứng tiêu biểu cho cách mạng, cho “đại nghĩa thắng hung tàn”, góp phần thắng lợi cho chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn.


Chuyện phái đoàn quân sự của ta trú đóng trong trại Đa-vít tưởng chỉ có thế, ai dè trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 lại trở nên “quan trọng” như vậy.

Trước đây Thiệu ra sức cô lập trại Đa-vít vốn đã “thất thế" về nhân hòa địa lợi. Đã thế chúng còn giở những trò bỉ ổi như bao vây, khiêu khích, gây nhiều khó khăn cho phái đoàn ta trong công tác và sinh hoạt như cắt điện nước, không cho tiếp xúc với bên ngoài...


Thế nhưng những ngày này, khi “sa cơ thất thế", chúng lại mò đến đây cầu cạnh với hy vọng mong manh cứu vớt được chế độ “Việt Nam cộng hòa”. Đại sứ Ma-tin, nhân vật quan trọng nhất lúc này của Mỹ xin được gặp đại diện phái đoàn ta, nhưng bị từ chối. Chúng còn xin phép được bay ra Hà Nội để "thương lượng” ngừng bắn (!), thật trơ tráo hết chỗ nói.


Trong ngày 29 tháng 4, trại Đa-vít phải tiếp ba đoàn của ngụy quyền Sài Gòn đến “làm việc”: khoảng 12 giờ là tổng trưởng Nguyễn Văn Diệp, nhà thầu Nguyễn Văn Hạnh và kỹ sư Tô Văn Cang; khoảng 15 giờ là linh mục Chân Tín và giáo sư Châu Tâm Luân; khoảng 16 giờ, ngoài hai vị này còn có thêm luật sư Trần Ngọc Liễng. Hầu hết là những nhân vật có "máu mặt" của chính trường Sài Gòn lâu nay.


Đối với phái đoàn đầu tiên, Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn ủy nhiệm đại úy Tài ra gặp trao bản tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ra ngày 26-4-1975) và cho biết phái đoàn không có chức năng gặp và thảo luận với các “sứ giả”; đề nghị phía Sài Gòn hành động như tuyên bố của Chính phủ cách mạng... Đối với đoàn thứ hai, thứ ba, phó đoàn tiếp với nội dung tương tự, nêu rõ quan điểm lập trường của ta... Dù sao ta cũng rất lịch sự, đàng hoàng với kẻ đang thua trận.


Các “sứ giả” xin ra về. Ta nói pháo Quân giải phóng đang bắn mạnh vào sân bay, rất nguy hiểm, không nên về.


Cuối cùng cả ba người đồng ý ở lại trong hầm tránh pháo của Đoàn. Các “sứ giả” trước còn được Đoàn mời ăn chuối, sản phẩm lao động của anh em trong những ngày “trụ bám” ở trại Đa-vít...

Trước lập trường kiên quyết và cứng rắn của phái đoàn quân sự ta tại trại Đa-vít, ngụy quyền Sài Gòn không thực hiện được ý định "thương lượng" để "ngừng bắn" nhằm cứu vớt chế độ "Việt Nam cộng hòa" đang trong cơn hấp hối.


Cùng thời gian đó, trước sức tấn công như vũ bão của đại quân ta từ năm hướng tiến vào nội đô Sài Gòn, quan quân Mỹ - ngụy phải hoảng loạn tháo chạy. Đúng 11 giờ 30 phút, lá cờ của Quân giải phóng tung bay trên nóc dinh Độc Lập báo hiệu giờ toàn thắng!


Và cũng từ giờ phút ấy, nhiệm vụ của phái đoàn quân sự ta ở trại Đa-vít đã kết thúc một cách tốt đẹp. Câu chuyện của các “sứ giả” Việt Nam cộng hòa đã khép lại chương cuối của một cuộc chiến tranh. “Ốc đảo” Đa-vít đã trở thành ký ức của những chiến sĩ quân đội cách mạng kiên cương hiên ngang trong lòng địch, như một khoảng trầm trong bản hòa ca Đại thắng mùa Xuân 1975.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:25:58 pm
ĐÓN XE TĂNG


Nhà văn HÀN THẾ KHƯƠNG
Nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam (năm 1975)


Ba Đỗ, một sĩ quan ngụy vừa làm binh biến dẫn tôi và Tám Minh, cán bộ binh vận, vào một ngôi nhà gạch cách lộ 22 chừng năm mươi thước. Quanh nhà trồng những cây quý như sao, gõ, giá ti... Có một ít cây ăn trái. Chúng tôi bước qua cổng. Từ ngoài đã thấy một chiếc xe Jeép lùn, sơn trắng đậu ở sân. Chủ nhà có ở nhà. Ông mập, đen, tóc húi cua. Ba Đỗ lên tiếng:

- Chào Tư Sang nghen!

Chủ nhà bước ra cửa đón, bắt tay anh Ba:

- Sao Việt cộng đánh lung tung mà đi đâu đây? Anh đào ngũ rồi à?

Ba Đỗ nói:

- Không đào ngũ mà đem nguyên tiểu đoàn trù bị của sư đoàn hai lăm giao cho Việt cộng.

- Sao không đánh mà giao? - Tư Sang hỏi.

Anh Ba cười:

- Quân khu 1, quân khu 2, quân khu 3 đi đứt rồi. Việt cộng sắp kéo quân vô dinh Độc Lập mà còn đánh chác gì. Ê! Cho tôi mượn chiếc xe Jeép chở hai ông Việt cộng này vô Sài Gòn trước coi.

- Tình hình lộn xộn, tụi nó lấy chiếc xe của tôi đó.

Ba Đỗ thở ra:

- Mất chiếc xe này thì còn xe khác. Thầy Tư đâu hết xe mà sợ. Phải không?

Tư Sang cười:

- Thôi! Vô lấy đi!

- Đủ xăng chớ?

- Bình xăng đầy. - Tư Sang móc tiền đưa cho Ba Đỗ: - Nếu thiếu thì ghé trạm xăng mua thêm. Tiền đây!

Ba Đỗ cầm tiền:

- Anh Tư chơi ngon hén!

Ba Đỗ vào ga-ra lùi xe và chạy ra cổng. Chúng tôi chào và cám ơn chủ nhà, lên xe Jeep chạy ra quốc lộ một.


Tiếng súng ở căn cứ Đồng Dù vẫn nổ. Nhưng chỉ một lúc sau thưa dần rồi êm luôn. Ba Đỗ lái xe phóng nhanh tới Củ Chi. Ồ! Trước chi cảnh sát và quận lỵ đã phấp phới hai lá cờ nửa xanh nửa đỏ sao vàng to tướng. Ai treo cờ vậy? Chẳng lẽ Quân đoàn 3 đã đến đây. Chúng tôi dừng xe. Bà con xung quanh bu lại. Tám Minh hỏi:

- Bộ đội đã đến đây chưa mà bà con dám treo cờ? Không sợ à?

Một người đàn ông đứng cạnh xe gắn máy bên lề đường chỉ một phụ nữ đi phía trước:

- Má Bảy đó! Hồi nãy má kéo bà con ra đây đông lắm. Tụi quốc gia sợ bỏ chạy, má với mấy chị treo cờ lên đó.

Ba Đỗ hỏi tiếp:

- Hồi sáng tối giờ hai bên đánh nhau. Anh có nghe căn cứ Đồng Dù ra sao không?

- Ồ! - Người đàn ông nói, kéo dài giọng: - Đánh chác gì. Chỉ bắn nhau một lúc là bị Việt cộng tràn ngập tóm cổ luôn sư trưởng Lý Tòng Bá.

Ba Đỗ cười nói với Tám Minh:

- Đã quá! Sư trưởng bị bắt làm tù binh rồi. - Anh hỏi anh Tám: - Tiếp tục đi nghen. Qua Hóc Môn đến sân bay Tân Sơn Nhất.

- Đi chớ! - Tám Minh nói gọn.

Chúng tôi chào bà con. Xe rồ máy phóng nhanh lên phía trước.


Đường nhựa êm ru. Ba Đỗ cho xe chạy tốc độ cao phóng gần một giờ mới tới Hóc Môn. Tụi chi khu cảnh sát và trường huấn luyện Quang Trung đã bỏ chạy. Bà con đã treo cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lên các công sở của địch. Nhiều nhà ở hai bên quốc lộ cũng treo cờ đỏ sao vàng hoặc nửa xanh nửa đỏ sao vàng.


Xe chạy tiếp vào Sài Gòn. Ngã tư An Sương im ắng. Gần tới cầu Tham Lương thấy một số người đàn ông mặc quần cụt ở trần đi lẫn với bà con trên xa lộ Đại Hàn. Ba Đỗ hỏi Tám Minh:

- Anh Tám có biết mấy cha đó là ai không?

- Ai vậy?

- Lính tuột quần áo chạy trốn.

Quả vậy. Xe đi một lúc, chúng tôi thấy nhiều bộ quần áo rằn ri bỏ bên lề đường. Chẳng ai buồn lượm.

Bỗng ở phía sân bay Tân Sơn Nhất súng nổ rộ lên. Chủ yếu là tiếng súng nhỏ. Chốc chốc xen vào những tiếng nổ to. Ba Đỗ thắng xe lại nói:

- Sân bay Tân Sơn Nhất nằm sát quốc lộ 1. Ở đó còn đánh nhau, sợ không qua được. Để tôi lái sang đường khác tới Bà Quẹo.

Tám Minh nói:

- Anh coi được thì cứ đi.

Xe chạy tới đầu một con đường đá đỏ. Ba Đỗ nói:

- Ta quẹo vô đường này.

Anh vừa xoay vô lăng thì một loạt đạn từ phía bên kia đường bắn sang. Tôi cảm thấy thùng xe bị trúng đạn nhưng không ai bị thương. Ba Đỗ nhấn ga. Xe vọt sâu vào con đường đá đỏ.


Ba Đỗ lái xe chạy đường tắt qua Tân Quy rồi đi thẳng về Bà Quẹo. Ở đây cuộc chiến đấu giữa ta và địch còn tiếp diễn. Người đi thưa thớt hơn vùng ngoài. Nhưng một số nơi đã treo cờ nửa đỏ nửa xanh, sao vàng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Những đồ đạc lính ngụy cởi ra bỏ chạy đầy đường: quần áo rằn ri, nón sắt, dây nịt, bi đông...


Trời đã về chiếu. Ánh nắng chiếu trên đường phố đã dịu lại. Bóng những cây cao ven phố trải dài trên mặt đường xe đang chạy, Ba Đỗ đạp thắng dừng lại trước một ngôi nhà to, đóng kín cổng. Anh nói:

- Chưa biết tình hình ở trung tâm Sài Gòn ra sao? Ghé nhà ông bạn tôi hỏi thăm cái đã.

Anh bước xuống đến cổng bấm chuông. Một lúc sau một người phụ nữ bước ra mở cổng. Chị đẫy đà, xinh xắn.

- Chị Năm! Anh Năm Thảo có ở nhà không? - Ba Đỗ hỏi.

- Có chớ! - Chị nói: - Bây giờ còn đi đâu được. Việt cộng đánh khắp nơi. Việt Nam cộng hòa sắp tiêu rồi. Mời anh Ba và các anh vào nhà!

Chị Năm mở to cổng. Ba Đỗ lên xe chạy vào cái sân rộng. Trên sân ngổn ngang gạch, cát, xi măng, sắt cây. Xe đậu bên hông nhà. Năm Thảo ra tận hàng ba đón khách:

- Chào anh Ba! Ở đâu mà có xe ngon vậy. Việt cộng rượt tóe khói rồi phải không?

Anh Ba chỉ tôi và Tám Minh:

- Việt cộng đây!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:28:04 pm
Anh Năm chủ nhà dè dặt bắt tay chúng tôi. Chúng tôi vào nhà, ngồi chung quanh bàn. Cả ghê và bàn đều cẩn xà cừ. Chị Năm sai người giúp việc đem trà và thuốc lá ra tiếp khách.

Anh Năm rót nước mời chúng tôi. Ba Đỗ bỏ vào túi hai gói salem. Anh cầm tách lên uống nước rồi nói:

- Tiểu đoàn của tụi này đã làm binh biến, quay về với cách mạng. Hai anh đây là cán bộ binh vận. Chúng tôi vào Sài Gòn trước, nắm tình hình. Đại quân sắp vô tới sân bay Tân Sơn Nhất.

Anh Năm cười:

- Vậy cha theo Việt cộng rồi à? Hồi trước tôi đã nghi cha là Việt cộng nằm vùng rồi. Trung úy đại đội trưởng gì mà không biết nhậu, không đi gái, không ăn hiếp lính, giống như mấy cha thầy chùa.

Ba Đô hỏi:

- Bây giờ biết tôi là Việt cộng thì tính sao đây?

Anh Năm lại cười:

- Đãi một bữa cơm được không?

- Ô kê! - Ba Đỗ nói.

Năm Thảo quay ra sau nhà gọi vợ:

- Mình ơi! Làm một bữa cơm thật ngon đãi mấy cha Việt cộng này nghen!

Ba Đỗ hỏi:

- Anh có nắm được tình hình Sài Gòn đến hôm nay ra sao không?

Anh Năm nói:

- Quân Việt cộng chưa tới, ba thằng cha cộng hòa đã chạy mất hết rồi. Bây giờ Việt cộng nằm vùng như anh đều khắp, anh không thấy bà con treo cờ Việt cộng khắp nơi sao? Anh nghe ra-đi-ô coi. Bắt đài Giải phóng hay đài Hà Nội cũng được. Thường thường tối họ nói tin trong ngày.

Ba Đỗ cười:

- Xúi dại vậy cha? Sĩ quan Việt Nam cộng hòa mà đi nghe đài Cộng sản.

Năm Thảo trề môi:

- Ba thằng sĩ quan như anh ngu lắm. Tối ngày nghe mấy thằng Mỹ với mấy thằng tâm lý chiến nói: “Nào Mỹ thắng! Thiệu thắng! Rút lui chiến lược! Tử thủ”. Rốt cuộc Việt cộng đánh tới bên đít, nhảy không kịp, bị bắt sống như sư trưởng Lý Tòng Bá của anh đó! Rồi cái thằng tướng trẻ gì của anh nữa đi ra tử thủ đâu ở Nam Trung Bộ cũng bị Việt cộng thộp cổ. Họ đuổi tướng Việt Nam cộng hòa chạy như đuổi vịt, còn bắt tướng Việt Nam cộng hòa như bắt ếch xỏ xâu.

Ba Đỗ thở ra:

- Ôi tướng tá gì, thây kệ mẹ tụi nó. Thằng nào chưa bị bắt thì dông theo Mỹ hết rồi. Ô kê! Anh Tám! Lấy cái ra-đi-ô nghe đài ta thử coi tình hình đến đâu rồi.

Sẵn có mang theo ra-đi-ô, tôi đưa cho Minh.

- Anh Tám nghe đài rồi tóm tắt cho anh em biết.

Tám Minh cầm ra-đi-ô mở vô-lum, đưa lên tai nghe. Chị Năm từ trong nhà bước ra:

- Anh Năm ơi! Dọn trà đi! Để đem cơm ra.

Năm Thảo tự tay dọn trà vào góc bàn. Người giúp việc mang khăn trải lên bàn rồi mang cơm và thức ăn ra. Chị Năm bới cơm:

- Giặc giã, đồ ăn khan hiếm, kiếm không ra thứ ngon.

Chị Năm than. Nhưng đối với chúng tôi ở trong rừng mới về nó như bữa tiệc rồi. Cơm gạo thơm, bốn năm món thức ăn. Tám Minh nói to:

- Khoan ăn. Để tôi nghe hết bản tin đài Hà Nội. Một chút nữa thôi. À! Được rồi. - Anh để ra-đi-ô xuống: - Này nghen! Quân đoàn mình đã chiếm Tân Uyên, đang trên đường đi tới Lái Thiêu để đánh chiếm khu các binh chủng ngụy ở Gò Vấp. Đó là hướng bắc nghen! Còn hướng tây bắc của mình thì Quân đoàn 3 đã chiếm Đồng Dù của Ba Đô rồi nghen! Sư hai mươi lăm tan rã. Quân đoàn chuẩn bị đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và bộ tổng tham mưu ngụy.

Năm Thảo và Ba Đỗ vỗ tay rôm rốp.

- Hoan hô hướng tây bắc của ta!

- Hoan hô!

- Mấy cha làm mất trật tự quá. - Tám Minh nói to: - Nè! Nghe nè! Còn nữa. Ở hướng tây nam nghen. Binh đoàn 232 đã chiếm thị xã Hậu Nghĩa, diệt Đức Hòa, bức rút Đức Huệ. Lực lượng thọc sâu đã vượt qua sông Vàm Cỏ Đông tiến chiếm Bà Hom. Ôi! Nhiều lắm không nhớ hết. Tóm lại trong ngày hôm nay, ta đã tiêu diệt và làm tan rã hầu hết các sư đoàn ngụy đóng ở vòng ngoài, chiếm hết các cầu quan trọng, chuẩn bị đồng loạt tiến vô nội đô.

Ba Đỗ nói:

- Như vậy là hết mẹ nó rồi. Anh Năm đem sâm banh ra đi.

Năm Thảo đứng lên:

- Có ngay, có ngay!

Anh Năm quay ra mở tủ kiếng phía sau bàn lấy ra chai sâm banh và ly. Rượu vọt ra phóng vô mặt Tám Minh. Anh Tám vuốt rượu trên mặt, cười nói:

- Mấy cha tếu quá! Chưa kết thúc chiến tranh mà ăn mừng rồi.

Ba Đỗ rót sâm banh ra ly:

- Tôi với anh cá nè! Nội ngày mai là dứt điểm.

Tám Minh cười:

- Chuyện đã biết rồi. Ai thèm cá.

Năm Thảo đưa ly rượu lên:

- Nào! Chúc mừng Việt cộng đè bẹp Việt Nam cộng hòa.

Chúng tôi cụng ly và uống rượu. Anh Năm để ly rượu xuống hỏi:

- Còn tụi Mỹ thế nào? Thấy trực thăng bay quá trời vậy?

- À! Quên chớ! - Tám Minh cười: - Đài Hà Nội cho biết Mỹ đã có lệnh tập trung trực thăng di tản hết tụi Mỹ và bọn tay sai cỡ bự ra khỏi Sài Gòn.

Ba Đỗ hỏi:

- Còn cỡ nhỏ không cho đi à?

- Chỗ đâu mà chở cho hết!

- Chúng bám càng trực thăng thì sao?

- Đạp xuống.

Năm Thảo nói:

- Nghe nói tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh Mỹ phải rút ra hết khỏi Sài Gòn mà!

Ba Đỗ cười ha hả:

- Cái lệnh đó mới buồn cười. Không mở đường cho hươu chạy để chúng nó nằm ấp trong nhà tù của Việt cộng hết à!

Anh Năm rót sâm banh ra các ly rồi cầm ly giơ lên:

- Nào! Một lần nữa mừng Việt cộng đè bẹp Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:30:17 pm
Chúng tôi uống rượu. Sau đó ăn cơm. Đêm đã đến từ lâu. Từ phía trung tâm Sài Gòn, tiếng máy bay trực thăng vọng lại không dứt. Và xung quanh thành phố các loại súng nổ liên hồi, lúc ở hướng này lúc ở hướng kia. Pháo tầm xa của ta không biết đặt ở đâu bắn liên tiếp về sân bay Tân Sơn Nhất.


Tám Minh sốt ruột rủ Ba Đỗ lên xe đi nữa. Nhưng Năm Thảo nói:

- Đi thì coi chừng nghen! Có khi chết ở hai phía đó. Việt cộng bắn lầm, lính Việt Nam cộng hòa làm loạn bắn trả thù.

Tám Minh hỏi Ba Đỗ:

- Anh có biết đường đi tắt đến đại lộ Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) không?

Ba Đỗ cười:

- Thổ địa đây! Anh muốn đến chỗ nào tôi cũng có cách lũi. Nhưng sáng mai mới đi được. Đêm nay tạm ngủ nhà anh Năm.

Tám Minh đành chịu:

- Được!

Tôi hỏi anh:

- Đến đại lộ Phan Thanh Giản làm gì?

- Xe tăng của Quân đoàn 2 có thể theo hướng này đến dinh Độc Lập.

Chúng tôi ở nhà Năm Thảo. Anh chị Năm sắp xếp giường, nhưng chúng tôi bảo trải chiếu dưới đất giăng mùng ngủ. Ngủ dưới đất vừa mát vừa đề phòng bất trắc.

Trời vừa sáng. Ở sân bay Tân Sơn Nhất, súng nổ dữ dội. Chúng tôi ngồi dậy. Một lúc sau súng lại nổ ở căn cứ lính dù Hoàng Hoa Thám. Tám Minh nói:

- Quân đoàn 3 đánh hai nơi: căn cứ Hoàng Hoa Thám và sân bay Tân Sơn Nhất, ở sân bay Tân Sơn Nhất chắc địch có phản kích, súng mới nổ dữ vậy. - Anh vỗ vai Ba Đỗ - Ta đi anh Ba!

Chúng tôi lên xe. Chị Năm đưa một gói đồ bọc trong giấy báo:

- Bánh mì thịt. Giặc giã thế này, không ai bán gì đâu. Đem theo mà ăn kẻo đói.

Ba Đỗ nhận lấy gói bánh:.

- Cám ơn chị Năm nhiều lắm.

Năm Thảo mở cổng. Xe rồ máy chạy thẳng ra đường, ở phía sân bay Tân Sơn Nhất, súng vẫn nổ dữ dội. Từng cột khói đen bốc lên cao, tỏa ra mù mịt. Nhưng bầu trời vẫn im ắng. Chẳng thấy một chiếc máy bay nào trên không, kể cả trực thăng. Tám Minh nói:

- Bị tên lửa tầm nhiệt của ta dằn mặt hết rồi!

Ba Đỗ chỉ tay về phía sân bay:

- Máy bay đậu ở trong sân bay nhiều lắm. Chiếm xong thế nào ta cũng hốt được bộn.

Ba Đỗ cho xe vọt nhanh qua ngã ba Hoàng Hoa Thám định đến ngã tư Bảy Hiền. Nhưng bất ngờ anh đạp thắng làm tôi và Tám Minh chúi mũi.

- Có chuyện gì vậy? - Tám Minh vừa chống tay lên lưng ghế xe phía trước để ngồi lại, vừa hỏi.

Ba Đỗ nói nhanh:

- Có ai ở trong hẻm kêu mình kìa.

- Ở đâu?

Ba Đỗ lùi xe. Một người đàn ông, tóc lâm râm bạc ở trong hẻm đi ra nói:

- Bộ các anh muốn chết sao mà đến ngã tư Bảy Hiền?

- Có việc gì vậy bác? - Ba Đỗ hỏi.

- Không thấy ba thằng lính rằn ri ở đó sao?

- Vậy à! - Ba Đỗ thở ra.

Người đàn ông nổi cáu:

- Còn ở đó mà vậy à. Kiếm đường khác chạy đi. - Ông chỉ tay ra phía trái: - Lùi xe lại một chút thì có đường đi tắt tránh được ngã tư Bảy Hiền.

Ba Đỗ nói:

- Cám ơn anh nhiều lắm.

Ba Đỗ lùi xe lại, quay vào đường nhỏ. Chạy một lúc lọt ra đường Phạm Hồng Thái (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) cạnh bệnh viện “Vì dân”. Vừa chạy lên được vài trăm thước thì từ phía bên kia đường có một tốp lính ngụy ra cản đầu xe. Tám Minh lẩm bẩm:

- Bỏ mẹ rồi! Tránh ngã tư Bảy Hiền lại gặp cái đám chết dịch này.

Ba Đỗ đạp thắng. Xe dừng lại.

- Đừng lo! Tôi có đủ giấy tò ngụy... - Anh nói nhỏ.

Tên đứng đầu tốp giơ cao súng lên:

- Ê! Việt cộng phải không? Nhận đầu hàng đi! - Anh ta nói to và chỉ vào một đống súng xếp ở góc phố: - Chúng tôi gom súng lại rồi đó.

Ba Đỗ ngồi trên xe nói xuống:

- Chúng tôi là dân đi công việc. Một lát Việt cộng tới, mấy ông giao súng cho mấy ổng!

- Việt cộng làm sao lọt qua được ngã tư Bảy Hiền?

- Cả cái Đồng Dù, Việt cộng còn tràn ngập, huống hồ ngã tư Bảy Hiên.

Tên lính lên cò súng:

- Tâng bốc Việt cộng phải không? Bắn!

Hắn làm bộ chĩa súng vào chúng tôi nhưng lại cất đầu súng bắn một loạt tiểu liên lên trời.

Ba Đỗ móc túi áo liệng cho tên lính hai gói Salem.

- Cho đi nghen mấy cha! - Anh nói: - Mấy cha làm tụi này són đái.

Tên lính tránh ra. Ba Đỗ nổ máy. Trước khi chạy anh nhắc:

- Một lát nữa Việt cộng tới, giao súng cho mấy ổng nghen!

Xe vừa chạy, tôi nói:

- Không biết tụi này là lính nào. Ở ngã tư Bảy Hiền phục kích còn ở đây đầu hàng. Thiệt là lộn xộn. - Tôi vỗ vai Ba Đỗ: - Đi thẳng đường này gặp biệt khu Thủ đô. Làm sao qua được.

Ba Đỗ cười:

- Tụi biệt khu Thủ đô chắc giờ này chạy mất hết rồi. Nhưng tôi sẽ đi đường khác ra đường Công Lý (đoạn trên này là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) không qua biệt khu Thủ đô.

Ba Đỗ cho xe chạy tới một đoạn nữa rồi rẽ vào đường Thoại Ngọc Hầu (nay là đương Phạm Văn Hai) qua một đường nữa (nay là đường Nguyễn Trọng Tuyển) đâm thẳng ra đường Công Lý (đoạn dưới này là đường Nguyễn Văn Trỗi).

Phố xá im lìm. Lạnh xương sống thật. Có thể ăn tiểu liên của ba thằng lính ngụy như chơi. Ba Đỗ nói:

- Ta liều nghen! Năm ăn năm thua. Ráng trân mình chịu nghen!

Anh tăng ga phóng qua cầu Công Lý, gần đến đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu) thì rẽ vào đường Nguyễn Đình Chiểu (nay là Trần Quốc Toản). Đến một bãi đất trống phía tay trái, sẵn cổng mở anh vọt luôn vào. Ba Đỗ dừng xe thở phào:

- Hết chết rồi! - Anh nói: - Tôi có một thằng cháu làm ở chỗ này, để tôi kiếm coi.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:34:02 pm
Anh xuống xe, đi vào một dãy nhà trệt phía bên trái bãi đất trống. Đến một cánh cửa hé mở, anh gọi:

- Bình ơi! Bình!

Một thanh niên từ sau cửa, ló đầu ra. Vừa thấy Ba Đỗ em khựng lại nói:

- Trời ơi! Cậu Ba! Giờ này mà cậu chưa chạy à?

- Chạy đi đâu?

- Cậu không sợ Việt cộng à!

- Tao là Việt cộng nằm vùng ở sư đoàn hai mười lăm đây. Hai anh ngồi ngoài xe kia cũng là Việt cộng.

- Bây giờ cậu đi đâu đây?

- Dẫn hai ông bạn đi coi quân nhà đánh chiếm dinh Độc Lập chơi.

- Cậu liều quá! - Anh thanh niên nói: - Cậu đưa xe sát vào nhà cho khuất, ở ngoài dòm vô không thấy. Rồi mời hai cậu ngồi ngoài xe vô nhà luôn.


Ba Đỗ trở lại lên xe chạy sát vầo nhà. Chúng tôi xuống xe vào căn phòng anh thanh niên. Căn phòng rộng chừng mười thước vuông, có chiếc giường, cái bàn và hai cái ghế. Vợ còn ngủ trong mùng, thấy chúng tôi, chị ta vội vã ngồi dậy, vuốt lại tóc.

- Dạ! Chào mấy cậu.

Ba Đỗ nói với anh thanh niên:

- Bây giờ cháu cho cậu gởi cái xe Jeép ở đây. Mấy cậu đi tới chiều trở lại lấy. Được không?

- Dạ được. - Anh thanh niên nói lễ phép và hỏi: - Vậy ba cậu đi bộ à?

- Ờ! Đi bộ dễ lủi.

Ba Đỗ nói với tôi và Tám Minh:

- Sẵn có bánh mì thịt của chị Năm, ta ăn rồi hãy đi.

Chúng tôi ăn một phần bánh mì còn lại chia cho hai vợ chồng anh thanh niên. Ba Đỗ vừa nhai bánh mì vừa nói:

- Xe tăng mình vô đường nào, dứt khoát cũng phải qua nhà thờ Đức Bà rồi mới đâm thẳng vô dinh Độc Lập. Nên ta phải ra đường Duy Tân (nay là đường Phạm Ngọc Thạch) đi lên.

Tôi nói:

- Vô tới đây tụi tôi như thằng mù. Anh Ba dẫn đâu đi đó.

- Nè! - Anh thanh niên nói: - Ba cậu coi chừng bọn hôi của nghen. Hôm qua, trực thăng Mỹ đậu trên nóc nhà một trăm chín mươi hai Công Lý. Tụi Mỹ ở bên một trăm chín mươi qua cùng đi với bọn này. Trực thăng vừa cất lên, người ta nhảy vô hôi của quá trời. Đấm đá nhau ỏm tỏi. Dạ! Còn chuyện này nữa chớ. Trực thăng tới chở Mỹ, ba thằng lính Sài Gòn đâu có được đi. Tụi nó dùng tiêu liên bắn nát tường hai nhà một trăm chín mươi và một trăm chín mươi hai. Nói tóm lại, tình hình lộn xộn lắm. Ba cậu ra đường phải dòm trước ngó sau.

Ba Đỗ ăn bánh mì xong nói:

- Cám ơn cháu nhiều! Mấy cậu sẽ chú ý.

Chúng tôi ra đường, phóng nhanh qua Viện Pasteur, đi dọc theo hàng rào. Trên đường Pasteur và đường Hiền Vương chỉ có vài người đi bộ. Theo đường Hiền Vương chúng tôi ra đường Duy Tân. Đến đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) không dừng lại mà đi luôn ra nhà thờ Đức Bà. Người đi lại thưa thớt. Tôi cảm thấy hình như người của ta mới dám ra đường. Ba Đỗ nói:

- Anh Tám nghe ra-đi-ô coi có gì mới không?

Tám Minh ngồi xuống, dựa vào hàng rào một ngôi nhà cạnh Viện Đại học, bắt ra-đi-ô nghe. Một lúc, anh đứng dậy:

- Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn chờ Mặt trận dân tộc thống nhất tới giao chánh quyền rồi.

Tin này chắc cũng tới nhiều gia đình, ở phía bên kia đường, vài người mở cửa bước ra rồi trở vào ngay, từ trong hàng rào quan sát bên ngoài. Vài người nước ngoài mang đồ đạc lỉnh kỉnh chạy qua mặt chúng tôi. Ba Đỗ nói tiếng Anh với họ. Chúng tôi chỉ nghe được hai tiếng Thị Nghè, Thị Nghè. Họ đi, Ba Đỗ quay lại nói:

- Phóng viên của hãng Roi-tơ. Họ nói: hôm qua sứ quán Mỹ mời họ đến nói, trực thăng đã sẵn, tất cả phóng viên nước ngoài phải rời ngay khỏi Sài Gòn. Nhưng không ai đi. Ở lại quay phim chụp hình mới hốt bạc chớ.

Tôi hỏi:

- Còn họ nói gì Thị Nghè, Thị Nghè...

- À quên! - Ba Đỗ vỗ đùi nói - Tụi nó nói xe tăng của ta đã qua cầu Thị Nghè rồi, một lúc sẽ đến đây.

Tôi mở to đôi mắt.

- Thiệt à?

Ba Đỗ nói:

- Chắc họ đúng. Họ có tin lẹ hơn ta.

Tôi hỏi:

- Vậy mình đón xe tăng ở đâu?

Ba Đỗ chỉ tay ra phía trước:

- Thì ở đây thấy nhà thờ Đức Bà đó! Đại lộ Thống nhất ở ngay phía sau, đâm thẳng vô dinh Độc Lập. Xe tăng sẽ đi qua đó!

Tôi sốt ruột:

- Vậy ta ra đó đi!

Ba Đỗ nói:

- Ở đó còn vắng quá! Chờ một chút nữa coi. - Anh bỗng chép miệng: - A! Hay là ta đi theo đường của tụi phóng viên Roi-tơ.

Tám Minh giục:

- Ta đi đi!

Ba Đỗ dắt chúng tôi theo đường của phóng viên hãng Roi-tơ. Qua đường tắt đến hông đại sứ quán Pháp và đi nép vào tường sứ quán ra đại lộ Thống Nhất. Các anh phóng viên còn đứng ở cổng sau sứ quán. Ba Đỗ bỗng nói:

- Hai anh nghe coi! Hình như có tiếng xe tăng của ta chạy tới kìa!

Chúng tôi vừa lắng nghe vừa nhìn về phía có tiếng xe tăng vọng lại. Ở phía tây bắc vẫn còn tiếng súng quân ta thanh toán địch ở sân bay Tân Sơn Nhất và bộ tổng tham mưu.

Chỉ một lúc sau là xe tăng của ta xuất hiện.

Xe tăng vượt qua cầu Thị Nghè, theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đến cổng Thảo cầm viên. Một chiếc rồi hai chiếc... Cả đoàn xe tăng kéo ra đại lộ. Sau vài chiếc xe tăng đi đầu có xe Jeép của Ban Chỉ huy. Tất cả treo cờ nửa đỏ nửa xanh ngôi sao vàng của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Trên mỗi chiếc xe tăng đều có chiến sĩ bộ binh và đặc công. Tiếng động cơ ầm ĩ. Tiếng bánh xe xích lăn trên đường vọng ra những âm thanh dữ dội.


Tôi nhìn đoàn xe mà tưởng mình nằm mơ. Hồi nào chúng còn trên rừng Lộc Ninh, nấp sau những bụi rậm. Chúng tôi phải thồ đến từng can dầu cho chúng. Rồi đến chiến dịch Nguyễn Huệ, xe tăng của ta đã vào thị xã Bình Long nhưng phải lùi ra. Bây giờ chúng đang chạy dũng mãnh và oai vệ trên đại lộ Thống nhất giữa thành phố Sài Gòn. Màu xanh lá cây của những chiếc xe tăng, in rõ nét trên bờ tường vàng bên kia đường. Trải qua bao nhiêu năm gian lao mới có ngày hôm nay. Bao nhiêu thế hệ đã đứng lên đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc. Thế hệ này ngã xuống thế hệ khác đứng lên...


Xe tăng đã xông thẳng vào dinh Độc Lập. Một lúc sau lá cờ nửa xanh nửa đỏ, ngôi sao vàng của Mặt trận Dân tộc giải phóng tung bay trên cao. Từ các đường phố nhân dân ào tới chào mừng Quân giải phóng.

Ôi! Hạnh phúc và sung sướng biết bao nhiêu!...


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:36:31 pm
“LÁ CHẮN” PHAN RANG VÀ “CỬA THÉP” XUÂN LỘC BỊ ĐẬP TAN,
HY VỌNG CỦA THIỆU TAN LUÔN THEO KHÓl SÚNG


LÝ BÌNH MINH


Sau khi mất toàn bộ Tây Nguyên và hàng loạt tỉnh miền Trung, Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn chóp bu Sài Gòn quyết định lập hai phòng tuyến có tính sống còn ở Phan Rang và Xuân Lộc, với cự ly phòng thủ từ xa khả dĩ bảo vệ được Sài Gòn.


Ở vào thế cùng lực tận, để có sức mạnh vật chất dồn sức vào những “nút chặn” hy vọng có thể cứu vãn tình hình, Thiệu “hạ mình” cầu xin chủ Mỹ.


Hai bức điện cuối cùng của Thiệu

Ngày 24 tháng 3 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu vội vã gửi tổng thống Pho bức điện khẩn cấp với nội dung như sau: “Trong lúc tôi viết bức điện này gởi đến ngài thì tình hình chiến sự Nam Việt Nam rất nghiêm trọng và càng xấu đi. Vào giờ quyết định này, khi Nam Việt Nam đang lâm nguy và hòa bình đang bị đe dọa nghiêm trọng, tôi - với lẽ đó, trân trọng khẩn cầu chính phủ Hoa Kỳ hãy thực hiện lời hứa. Cụ thể là tôi xin khẩn thiết đề nghị quý ngài cho tiến hành ngay biện pháp cần thiết; đó là cho không lực oanh tạc bằng máy bay B52, tập trung vào những điểm tập kết, đội hình chuyển quân và căn cứ hậu cần của Cộng sản để ngăn chặn và đẩy lùi cuộc tấn công của chúng với biện pháp quyết liệt tức thời”.


Lời lẽ khẩn thiết như vậy, nhưng từ sau khi Phước Long bị thất thủ ngày 6 tháng 1 và tiếp đến mất luôn thị xã Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, người Mỹ đã buộc phải nói công khai với Sài Gòn rằng “Mỹ sẽ không bao giờ trở lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam nữa - dù trên không, trên biển hay đất liền”. Do vậy, lời khẩn cầu của Thiệu chẳng ai ở Nhà Trắng để ý cả, vì nó chỉ nằm im trong hồ sơ mật của Nhà Trắng.


Đến ngày 16 tháng 4 (thời điểm ta tiến công giải phóng Phan Rang), Nguyễn Văn Thiệu lại gửi tiếp một bức điện nữa cho tổng thống Mỹ để cầu xin vay tiền: “Tôi tha thiết đề nghị ngài và Quốc hội Hoa Kỳ cho chúng tôi vay 3 tỷ đô la, kỳ hạn hoàn trả là 10 năm với mức lãi suất do Quốc hội và ngài quyết định. Tiềm năng về dầu khí và nguồn lợi về nông nghiệp của chúng tôi sẽ thế chấp món nợ này. Đây là lần cầu xin cuối cùng của chúng tôi - một người bạn đồng minh của Mỹ gởi đến nhân dân Mỹ vì nền tự do của Việt Nam cộng hòa”.


Nhưng rồi bức điện cực kỳ khẩn thiết này cũng chỉ để xếp lại trong “hồ sơ mật” của Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam ở Bộ ngoại giao Hoa Kỳ.


Giải phóng Phan Rang

Hai bức điện của Thiệu rơi vào không trung. Vì đến hết tháng 3 năm 1975, ta đã tiêu diệt và làm tan rã 35 phần trăm sinh lực địch, hơn 40 phần trăm binh khí kỹ thuật hiện đại của chúng bị mất. 12 tỉnh, thành phố đã được giải phóng, phần kiểm soát của địch còn lại chủ yếu là miền Đông và miền Tây Nam Bộ, nhưng cũng bị ta đánh chiếm và giải phóng nhiều nơi. Trên thực tế, địch đang bị dồn đến chân tường.

Trong cuộc họp ngày 31 tháng 3, Bộ Chính trị kết luận:

“Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa vào sào huyệt địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu...


Cần nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực hiện Tổng công kích - tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm.


... Sẵn sàng có nắm đấm thật mạnh của quân chủ lực, kể cả binh khí kỹ thuật, để lúc thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh thẳng vào những mục tiêu hiểm yếu và quan trọng nhất ở ngay trung tâm thành phố Sài Gòn”.


Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, từ đầu tháng 4, trên tất cả các nẻo đường đất nước đều vô cùng sôi động, nhộn nhịp hướng về phía nam, mà mục tiêu chính là Sài Gòn. Các quân đoàn, binh đoàn chủ lực của Bộ ngày đêm hành quân thần tốc về phía Sài Gòn.


Quân đoàn 2 dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, với 200 xe vượt chặng đường 900 ki-lô-mét, ngày 13 tháng 4 đã tới sát Phan Rang, nơi địch đang hò hét “tử thủ”.


Phan Rang quả là vị trí sống chết của ngụy lúc này. Nó là tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa, nằm trên quốc lộ 1 cách Sài Gòn 342 ki-lô-mét. Tại đây có ngã ba đi Đà Lạt Mất Phan Rang, coi như Sài Gòn bị uy hiếp trông thấy. Vì thế khi một loạt tỉnh miền Trung bị mất, ngày 2 tháng 4 Cao Văn Viên - tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy, gào thét “quyết tâm giữ phần đất còn lại, cố thủ từ Phan Rang trở vào” và lập ra bộ tư lệnh tiền phương quân khu 3, đóng sở chỉ huy tại Phan Rang do trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy.


Trong cuộc họp của bộ tổng tham mưu ngụy, chúng được phổ biến: “Theo lệnh của ông Thiệu, bằng bất cứ giá nào cũng phải cố thủ từ Ninh Thuận trở vào, nếu cần sẽ đem hết lực lượng đánh xả láng tại đó”.


Bọn chỉ huy tăng cường cho mặt trận Phan Rang một lữ đoàn dù, một liên đoàn biệt động quân, một số đơn vị thiết giáp, pháo binh. Ngoài khơi có một chiến hạm sẵn sàng yểm trợ hỏa lực pháo hạm theo yêu cầu, không quân cũng được ưu tiên việc yểm trợ giữ Phan Rang.


Địch ra lệnh cho tất cả các mặt trận cố giữ đến mùa mưa, lúc đó xe tăng ta không cơ động được, chúng có cơ hội khôi phục lại một số sư đoàn đã bị ta tiêu diệt, để gượng dậy chống trả, ngăn chặn bước tiến của quân ta.


Những nỗ lực của địch lập phòng tuyến Phan Rang có gây khó khăn cho ta, nhưng hoàn toàn không thể cản được đà tiến công thần tốc của quân ta hướng về Sài Gòn, mục tiêu cuối cùng của cuộc Tổng công kích lớn nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh.


Ngày 14 tháng 4, Sư đoàn 3 Quân khu 5 được tăng cường Trung đoàn 25 Mặt trận Tây Nguyên đã nổ súng tiến công Phan Rang - cụm phòng thủ đầu tiên của quân đoàn 3 ngụy. Sau hai ngày chiến đấu quyết liệt, quân ta mới chiếm được một số vị trí ngoại vi. Địch cho máy bay oanh tạc dữ dội và bộ binh chống cự quyết liệt. Trước tình hình đó, các đồng chí Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hòa chỉ huy cánh quân “Duyên Hải” quyết định tăng cường một bộ phận lực lượng Quân đoàn 2 để tăng thêm sức đột kích.


Ngày 16 tháng 4, dưới sự chi viện mạnh mẽ của hỏa lực pháo binh, một bộ phận của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 được tăng cường xe tăng, thiết giáp cùng Sư đoàn 3 và Trung đoàn 25 từ ba hướng tiến công vào trung tâm thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn. Trước sức tấn công mãnh liệt của quân ta, quân địch hoảng loạn bỏ chạy. Ta tiêu diệt bộ tư lệnh tiền phương quân đoàn 3, bộ tư lệnh sư đoàn 6 không quân... bắt trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang và nhiều sĩ quan cao cấp của địch, thu gần 40 máy bay còn nguyên vẹn.


Sau khi đập tan phòng tuyến Phan Rang, Quân đoàn 2 tiến theo đường số 1, vừa hành tiến vừa chiến đấu quét địch trên đường, đánh cả tàu chiến dưới biển và máy bay trên trời; rồi thừa thắng phối hợp với bộ đội Khu 6 tiến đánh Phan Thiết và giải phóng luôn Hàm Tân.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:37:28 pm
Đập tan “Cánh cửa thép” Xuân Lộc

Trong khi lập tuyến phòng thủ Phan Rang, Thiệu đã tính đến “lá chắn” Xuân Lộc - Long Khánh, nút chặn yết hầu trên vòng cung phòng thủ phía đông - đông bắc và tây bắc, gồm: Bà Rịa, Vũng Tàu, Long Khánh, Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Trong đó Xuân Lộc - Long Khánh nằm trên quốc lộ 1, cách Sài Gòn 80 ki-lô-mét, là vị trí “cốt tử” được coi như “cánh cửa thép” bảo vệ Sài Gòn trên hướng xung yếu nhất.


Với tầm quan trọng đó, thị xã Xuân Lộc trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975 trở thành một khu vực phòng ngự trọng yếu của địch ở quân khu 3. Địch cố giữ Xuân Lộc để ngăn chặn hai đường tiến quân của ta về Sài Gòn: đường số 1 và đường 20. Trên quốc lộ 1, lúc này quân ta đã tiến đến gần Phan Rang; còn trên đường 20, sau khi giải phóng Lâm Đồng, Đà Lạt, Tuyên Đức, quân ta đã tiến xuống gần Kiệm Tân. Địch cố giữ đường 15 đi Vũng Tàu để nhận hàng viện trợ của Mỹ vào Sài Gòn theo đường biển, cũng là đường rút chạy của địch ra biển.


Giữ được Xuân Lộc - Long Khánh thì tuyến Biên Hòa - Nhơn Trạch - Bà Rịa - Vũng Tàu chưa trực tiếp bị uy hiếp, sân bay Biên Hòa và cả sân bay Tân Sơn Nhất còn hoạt động được. Do tính chất cực kỳ quan trọng đó mà tướng Uây-en, tham mưu trưởng lục quân Mỹ xác định với Nguyễn Văn Thiệu: “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”. Lực lượng địch tại đây có sư đoàn 18 (đủ ba chiến đoàn), tám tiểu đoàn bảo an, 20 đại đội địa phương quân. Lực lượng cơ động ứng cứu có lữ đoàn dù số 1, lữ đoàn 3 thiết giáp, liên đoàn 7 biệt động quân và các trung đoàn bộ binh, các đơn vị binh chủng của hai quân khu 3 và 4. Như thế chưa đủ. Địch còn huy động mức cao nhất không quân còn lại ở Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ vào cuộc và huy động cả một bộ máy tuyên truyền chiến tranh tâm lý trong nước và phương Tây đến Sài Gòn, Xuân Lộc để “lên dây cót tinh thần” cho quân ngụy. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, sư đoàn trưởng sư đoàn 18 tuyên bố huênh hoang: “sẽ đánh một trận oai hùng cho thế giới biết để Mỹ cho thêm viện trợ”.


Thời cơ quyết tâm không cho phép ta hành động chậm, Bộ Tư lệnh Miền quyết định sử dụng lực lượng Quân đoàn 4, Trung đoàn độc lập 95B và lực lượng địa phương Long Khánh giải phóng Xuân Lộc.


5 giờ 40 phút ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 do Tư lệnh Hoàng Cầm chỉ huy, nổ súng tiến công Xuân Lộc bằng những cơn bão lửa của pháo binh. Sau một giờ chiến đấu, ta chiếm được căn cứ biệt động quân, trụ sở tình báo CIA, cắm cờ lên dinh tỉnh trưởng Long Khánh. Tướng Lê Minh Đảo và tỉnh trưởng Phạm Văn Phúc bỏ chạy khỏi thị xã.


Sau ngày chiến đấu đầu tiên, ta chiếm được phân nửa thị xã Xuân Lộc gồm khu hành chính và tiểu khu.

Ngày 10 tháng 4, cuộc chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt hơn. Sau một ngày bị đòn phủ đầu, địch tổ chức phản kích liên tục, chiếm lại các mục tiêu đã mất, đẩy các lực lượng ta ra khỏi thị xã. Sư đoàn 341 quyết định tăng thêm lực lượng, đánh chiếm sân bay, nhưng bốn lần xung phong đều bị địch đánh bật trở lại. Các mũi tấn công vào trại Lê Lợi, chiến đoàn 43 diễn ra quyết liệt. Ta và địch giằng co nhau từng góc phố, công sự. Các lực lượng ta trong thị xã bị chia cắt, có đơn vị bị bao vây cô lập. Tình thế rất khó khăn nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn chiến đấu cực kỳ anh dũng.

Ngày 11 tháng 4, chiến sự diễn ra quyết liệt ở bên trong và ngoài thị xã.

Ngày 12 tháng 4 và những ngày tiếp theo, địch tăng cường lực lượng lớn gồm 50 phần trăm bộ binh, 60 phần trăm pháo binh, hầu hết xe tăng - thiết giáp của quân đoàn 3, lực lượng tổng trù bị và lực lượng không quân từ sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất được huy động với mức độ cao, từ 80 - 125 lần chiếc trong một ngày, chi viện cho các mũi phản kích.


Qua ba ngày chiến đấu, ta vẫn giữ được một số mục tiêu quan trọng, nhưng quân số bị tổn thất lớn: Sư đoàn 7 thương vong gần 300, Sư đoàn 341 thương vong nặng nhất gần 1.200; xe tăng, pháo binh bị hư hỏng nhiều, đạn dược không tiếp tế kịp... Trước tình hình đó, đồng chí Trần Văn Trà - Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định ngưng cuộc tấn công để thay đổi cách đánh, tổ chức lại lực lượng chiếm giữ các bàn đạp, cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đứt đường số 1, chặn quân địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích và đánh chiếm Tân Phong, cắt đường số 2 đi Bà Rịa, Vũng Tàu.


Trong khi ta chuyển thế trận và đổi cách đánh, địch lại tưởng là đẩy lui được cuộc tiến công của quân ta ra khỏi Xuân Lộc. Nguyễn Văn Thiệu liền tuyên truyền rùm beng chiến thắng Xuân Lộc để xin Mỹ viện trợ và củng cố tinh thần quân ngụy đang rệu rã. Mỹ thì mong có được một thắng lợi để mặc cả với ta trong một cuộc hội đàm, nếu có. Tướng Lê Minh Đảo - tư lệnh sư đoàn 18 được dịp khoác lác: “Việt cộng có thêm mấy sư đoàn nữa cũng không chiếm được Long Khánh - “cánh cửa thép” bất khả xâm phạm”.


Nhưng bọn địch hí hửng không được lâu, chút hy vọng lóe lên liên bị dập tắt. Trong khi cánh quân Duyên Hải của ta đập nát “lá chắn” Phan Rang, giải phóng hoàn toàn tỉnh Ninh Thuận và nhanh chóng tiến vào giải phóng


Bình Thuận thì ngay trong đêm 14 rạng 15 tháng 4, pháo binh ta cấp tập bắn vào Biên Hòa, đồng thời bộ binh tiến công địch ở ngã ba Dầu Giây, tiêu diệt chiến đoàn 52 ngụy. Địch tập trung xe tăng và phi pháo phản kích nhưng bị thảm bại. Trong khi đó, ở Xuân Lộc, ta liên tục tiến công đánh tan tác hai chiến đoàn 43 và 48; diệt một bộ phận quân dù. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, tối 20 tháng 4, địch bỏ Xuân Lộc rút chạy. Bộ trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn phải cay đắng thốt lên: “Quốc gia đang trong tình trạng nguy ngập thật sự, sống còn chỉ tính từng tuần, từng ngày, không thể tính từng tháng...”.


Thấy trước ngày diệt vong, tối 21 tháng 4, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu lên vô tuyến truyền hình và đài phát thanh đọc một bài diễn văn dài xin từ chức tổng thổng. Từ giọng lâm li, tiếc nuối đến tức tôi chửi đổng với lời lẽ “hàng tôm hàng cá” rằng “Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc cho "Việt Nam cộng hòa" đánh một mình thì làm sao ăn... có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa...”.

Tổng thống Hoa Kỳ cũng công khai thừa nhận: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc đối với Mỹ”.

Gần 12 ngày đêm chiến đấu vô cùng ác liệt dưới tầm hủy diệt của hàng vạn tấn bom pháo, kể cả bom khí đốt CBU, lực lượng ta đã tiêu diệt 2.056 tên địch, bắt 2.785 tên, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18 và sư đoàn 5 ngụy. Ta hy sinh khoảng 1.400 cán bộ, chiến sĩ.


“Lá chắn” Phan Rang bị đập tan, giờ đây “cánh cửa thép” Xuân Lộc bị phá võ, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự còn lại của địch xung quanh Sài Gòn, suy sụp thêm tinh thần quân ngụy đang hoang mang cực độ.


Chiến thắng Xuân Lộc - Long Khánh đã tạo ra một thế trận mới cho ta, đồng thời là hồi chuông báo tử cho chế đô ngụy quyền Sài Gòn.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:38:17 pm
Xuân Lộc - nhìn từ hai phía

Trận Xuân Lộc có ý nghĩa rất lớn đối với ta và rất quyết định đối với địch. Ta chiến thắng, nhưng cũng rút ra những bài học xương máu.

Trong tập sách “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” Thượng tướng Trần Văn Trà viết: “Tại sở chỉ huy Miền chúng tôi chăm chú theo dõi từng diễn biến của trận đánh... Ngày 9 và 10 có nhiều phấn khởi, các mũi tiến công tốt, ta chiếm được nhiều mục tiêu. Nhưng vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng... Tôi đề nghị cho đến tận nơi nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh thắng lợi. Các anh đồng ý...


Sau khi nghe tất cả các ý kiến, tôi đã phân tích một số điểm và kết luận dứt khoát: Xuân Lộc là điểm then chốt hết sức quan trọng trong tuyến phòng thủ của địch nên chúng đã tập trung nhiều lực lượng cơ giới. Hiện nay lực lượng của chúng đã chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không có lợi.


Ta có được con đường 20 cho đến Túc Trưng là rất có thế. Địch từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây không mạnh. Ta phải tận dụng lợi thế và sơ hở này của địch ở khu vực Dầu Giây. Nếu ta chiếm được Dầu Giây thì địch ở Xuân Lộc mất hết tác dụng của một cứ điểm then chốt, còn Biên Hòa thì lập tức bị uy hiếp...


Trong tập sách “Chặng đường mười nghìn ngày” Thượng tướng Hoàng Cầm viết: “Ngày 2 tháng 4 năm 1975, anh Trần Văn Trà xuống sở chỉ huy giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4, Quân khu 7 phối hợp tiến công thị xã Long Khánh... Vậy mà hôm nay trong giờ phút trận quyết chiến chiến lược đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch đã bắt đầu... lại có ý kiến tranh luận không bình thường: Cử Sư đoàn 9 nhưng lại giao nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc sớm, Sư đoàn 7 đang từ Bảo Lộc phát triển lên Di Linh, Đà Lạt. Sao không chờ chủ lực của Bộ vào phối hợp cùng đánh bảo đảm chắc thắng?


Anh Trà lắng nghe với sự cảm thông rồi nói như vừa nhắc nhở vừa chỉ thị vừa động viên: “Bộ điện vào nhắc tụi mình cần chủ động, không trông chờ...”.

Trận đánh Xuân Lộc nổ ra muộn, vào lúc địch gượng lại, chúng tăng cường phòng thủ khá mạnh... Trận đánh muộn kéo theo những khuyết điểm không đáng có. Việc chuẩn bị trận đánh quá gấp, xác định hướng chủ yếu đánh vào từ đông bắc là không chính xác...


Thiếu tướng Bùi Cát Vũ với bài viết “Quân đoàn 4 đánh Xuân Lộc trước là cần thiết hay không cần thiết” có đoạn: “Tôi nghĩ rằng Quân đoàn 4 và các lực lượng Quân khu 7 đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Xuân Lộc trong điều kiện hết sức khó khăn. Địch bỏ Xuân Lộc vì bản thân nó bị thiệt hại và bị cô lập, lại có nguy cơ mới từ hướng Phan Thiết vào. Không lẽ địch dốc sức lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc hòng ngăn chặn đối phương cấp quân đoàn từ Bắc vào để rồi bỏ chạy khi tuyến phòng thủ Phan Rang bị phá vỡ, trong lúc lực lượng quân đoàn 3 và quân đoàn 4 của chúng vẫn còn nguyên? Đánh Xuân Lộc là cần thiết vì nếu không đánh thì Quân đoàn 2 của ta vào phải đột phá mới mở thông được đường số 1, đường số 2 và đường 20. Như vậy sẽ chậm và mất sức...”.


Trong sách "Việt Nam những trận đánh quyết định" J. Prinlott viết: “Quân Bắc Việt Nam triệt để lợi dụng tình thế để triển khai các sư đoàn ở Tây Nguyên, mở ngay một cuộc tiến công về Sài Gòn, gọi là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Một số đơn vị Việt Nam Cộng hòa còn đứng vững. Sư đoàn 18 giữ Xuân Lộc, phía đông Sài Gòn, đến ngày 18 tháng 4, nhưng tình hình đã trở nên tuyệt vọng”.


Hãng UPI, ngày 12, 13, 14 tháng 4 đưa tin: Quân Cộng sản có xe tăng dẫn đầu đã chọc thủng khu vực phòng thủ bắc Xuân Lộc... Toàn bộ lữ đoàn dù 3.000 quân đã bị ghìm chân tại chỗ ở một đồn điền cao su gần Xuân Lộc, mặc dù lữ đoàn này phải tới cho được thị xã nhưng bị tổn thất nghiêm trọng... Một ngày sau quân dù bị ghìm chân tại chỗ, chết dần, chết mòn mà không thể rút ra khỏi cái bẫy nguy hiểm này. Đến tối ngày 14 tháng 4, lữ đoàn này bị thương vong rất nặng...


Đài BBC, ngày 14 tháng 4 đưa tin: Các đoàn máy bay lên thẳng tiếp tế cho Xuân Lộc đã gặp phải hỏa lực phòng không dày đặc của cộng sản. Các đơn vị Việt cộng còn thành công trong việc cắt đứt đường số 1 ở Trảng Bom. Trong lúc quân chính phủ cố thủ nhiều nơi trong thị xã thì bị quân Cộng sản tiếp tục bao vây chặt xung quanh...


Hãng Roi-tơ, ngày 20 tháng 4 đưa tin: Quân Cộng sản tăng cường lực lượng của họ ở hai bên đường về Biên Hòa, mỗi ngày quân chính phủ phải lùi thêm. Họ đã mắc vào gọng kìm của Cộng sản. Lữ đoàn dù cứu viện đã bị cô lập và mắc kẹt. Những cố gắng liên tiếp nhằm tiếp tế cho quân dù đều bị thất bại...


Hãng AFP, ngày 21 tháng 4 đưa tin: Rạng sáng ngày 21 tháng 4, quân Cộng sản tiến mạnh vào Xuân Lộc, họ nhằm vào sở chỉ huy của tướng Đảo. Bộ chỉ huy Sài Gòn đã mất liên lạc với quân bảo vệ Xuân Lộc và trận tuyến phòng thủ hiện nay của họ chỉ còn cách Sài Gòn chưa đầy 42 ki-lô-mét. Tình hình ở mặt trận này quá nghiêm trọng, việc thất thủ Xuân Lộc càng tệ hại...


Báo Pháp Lơ Phi-ga-rô ngày 24 tháng 4 viết: tướng Thiệu đã thua cuộc, cả Hoa Kỳ cũng đã thua cuộc, thế giới tự do cũng đã thua cuộc nốt. Sự sụp đổ là hoàn toàn có thật và dù họ có khua môi múa mép thế nào thì cũng không thay đổi được nữa.


... Quốc hội Mỹ đã từ chối mọi viện trợ cho Việt Nam (chính quyền Thiệu). Hoa Kỳ đang cò kè vài trăm triệu đô-la nữa, nhưng một ngàn xe tăng hay đại bác thêm, cũng chẳng cứu nổi Nam Việt Nam mà chỉ kéo dài cơn hấp hối của một kẻ sắp chết mà thôi.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:39:07 pm
Phan Rang - Xuân Lộc, cơn ác mộng của Thiệu

Phan Rang bị mất, mặt trận Xuân Lộc bị vỡ, hy vọng mong manh cuối cùng của Thiệu tan theo khói súng. Tổng thống chế độ Sài Gòn vô cùng hoảng loạn. Một ký giả phương Tây đã mô tả như sau: “Suốt ngày 20 tháng 4 năm 1975, Thiệu vẫn ngồi lỳ một mình trong hầm dưới dinh Độc Lập. Đến xế trưa, một chiếc trực thăng đáp xuống sân cỏ khuôn viên Thiệu đang ở. Người ta thấy từ trong trực thăng bước ra là tướng bốn sao Cao Văn Viên - tổng tham mưu trưởng và tướng ba sao Nguyễn Văn Toàn - tư lệnh quân đoàn 3. Khi vừa đến gặp Thiệu, tướng Toàn nói ngay:

- Thưa tổng thống, cuộc chiến kể như an bài, thất bại hoàn toàn là không thể tránh khỏi. Phan Rang - Ninh Thuận tiêu rồi, Ninh Chữ cũng đã lọt vào tay Cộng sản. Tướng Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang đã bị quân Bắc Việt bắt làm tù binh.

Tay chân Thiệu vốn đang run rẩy, thoáng nghe Toàn nói điều đó như một cơn ác mộng thực sự, mặt mày Thiệu càng trở nên trắng bệch. Thiệu ngồi phịch xuống ghế, lạnh lùng như tượng gỗ, không nói điều gì suốt cả ngày hôm đó, ngoài một câu dặn người hầu cận: “Không tiếp ai cả”. Vì lúc này Thiệu đang bị đe dọa bởi sự ám ảnh về cái chết của anh em Diệm - Nhu do chính CIA bật đèn xanh cho đám tay chân sát hại ngay trong xe bọc thép để Mỹ thay ngựa giữa dòng năm 1963 - vì đã cản trở ý đồ của họ. Quả thật lúc này Thiệu đang lo sợ CIA thuê tay chân ám sát.


Rồi ngày thứ bảy, cả ngày chủ nhật và sáng thứ hai, Thiệu rút vào cuộc sống đơn độc trong hoảng loạn, không ăn uống gì và cũng chẳng buồn hỏi han ai, bởi lẽ Thiệu biết rằng ở đây đầy rẫy “rệp điện tử” mà CIA cài đặt để bí mật nghe trộm. Sau một đêm thức trắng, Thiệu quyết định triệu tập khẩn cấp tả hữu tướng lĩnh thân cận còn lại không đầy nửa tá; và ra lệnh triệu đại sứ Ma-tin một giờ nữa có mặt ở dinh tổng thống để đại sứ chứng kiến lời từ biệt trong nước mắt của Thiệu trước giờ cáo chung của chế độ Sài Gòn - bào thai của Mỹ. Bài diễn văn từ nhiệm của Thiệu lời lẽ quyết liệt, nó được đưa lên đài truyền hình lúc 8 giờ tối hôm đó - 21 tháng 4. Sau khi lên án Mỹ, tổng thống Thiệu ngừng lại như để cắn môi với tất cả sự bực tức và để cầm nước mắt... Rồi Thiệu nói tiếp: “Người Mỹ không chịu cho tôi viện trợ như đã hứa, tức là không ủng hộ tôi nữa. Thế thì được rồi, tôi sẽ ra đi. Người Mỹ không giúp tôi nữa, họ hãy cút đi, để họ nuốt lời hứa của họ đi”. Sau đó, Thiệu đổi giọng và trịnh trọng tuyên bố từ chức tổng thống để trao lại cho Trần Văn Hương”.


Trong tình thế nước sôi lửa bỏng, để mất Xuân Lộc, Thiệu phải ra đi, kết thúc cuộc đời chính trị xấu xa của một tên Việt gian làm tay sai cho Mỹ.

Thiệu đổ là sự tan vỡ một ảo tưởng của Mỹ toan dùng tập đoàn Thiệu làm công cụ tiếp tục thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thiệu đổ không phải vì năm 1975 là năm con mèo (Ất Mão), y cầm tinh con chuột, cũng không phải do sét đánh đổ tảng đá nhọn như dao ở núi Đá Chồng Phan Rang, gần ngôi chùa lộng lẫy trên lưng chừng núi mà y đã dùng một tiểu đoàn công binh để xây dựng và một đại đội bảo an thường xuyên canh gác cho mẹ y ở đó “tu nhân tích đức”(!) Thiệu đổ vì chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ hoàn toàn đi ngược lại ý chí giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Tư, 2021, 07:40:50 pm
NHÀ TRẮNG TRONG CƠN HẤP HỐI
CỦA CHẾ ĐỘ NGỤY QUYỀN SÀI GÒN


VÂN HỒ


Ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi quân ta mở đợt tổng công kích vào trung tâm Sài Gòn - nơi chế độ ngụy quyền đang hấp hối thì tại Oa-sinh-tơn, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phải thực hiện đợt cuối cùng kế hoạch di tản liều mạng rút khỏi Việt Nam. Tình cảnh của Nhà Trắng được các phóng viên hãng UPI có mặt tại Sài Gòn và Oa-sinh-tơn ghi lại như sau: Lúc này là chiều tối ở Oa-sinh-tơn... bỗng thấy tướng Pre-xcôp, phó cố vấn an ninh quốc phòng của tổng thống lách vào đưa cho tổng thống mảnh giấy nhỏ: “Sài Gòn đang hấp hối”.

6 giờ 10 phút:
Chưa hết kinh hoàng vì trận ném bom của Bắc Việt Nam xuống sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28 tháng 4 thì tổng thống lại nhận được tin mới: Sài Gòn đang rung chuyển vì pháo 130mm của Cộng sản nã vào và họ đang bắn chế áp cắt đứt “cầu hàng không” di tản bằng máy bay có cánh.

6 giờ 30 phút:
Tổng thống cho Kít-xinh-giơ triệu tập hội đồng an ninh quốc gia họp khẩn cấp.

7 giờ:
Hội đồng an ninh quốc gia - có cơ quan chuyên trách về việc gây chiến tranh - đủ mặt: Kít-xinh-giơ và In-gô-xơn thứ trưởng ngoại giao cùng cục trưởng CIA Con-bi, Bộ trưởng quốc phòng Xơ-le-xin-giơ, thứ trưởng Cơ-lê-men và chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân Brao. Cuộc họp kết thúc nhanh vì “cầu hàng không” di tản tê liệt. Khẩn cấp thực hiện “phương án 4” - chiến dịch di tản bằng máy bay lên thẳng.

7 giờ 30 phút:
Brao khẩn cấp điện cho tham mưu trưởng không quân, ra lệnh lấy thêm hai chiếc C-130 nữa ở Phi-líp-pin bổ sung vào đội hình 13 chiếc đã được phái đi trước, tìm mọi cách hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất, vì có chừng 5.000 người di tản đang kẹt ở đó.

8 giờ:
Một “cầu hàng không” gần 15 chiếc C-130, hơn 80 máy bay lên thẳng được lập, đi đón các ngoại giao sứ quán Mỹ và những người Mỹ dân sự cùng các nhà báo phương Tây chạy ra các tàu sân bay đã đợi sẵn ngoài biển.

Xơ-le-xin-giơ và Brao phải thức suốt đêm để chỉ huy cuộc di tản khẩn cấp này, đã đặt cho nó cái tên “Chiến dịch móng quặp chặt”.

8 giờ 30 phút:
Buổi tối, tổng thống về nhà riêng, chưa kịp ăn uống gì thì Kít-xinh-giơ lại vào báo cáo, hai C-130 đã lên đường, cố gắng hạ cánh xuống Sài Gòn sau vài giờ nữa. Tổng thống tỏ ra lo lắng vì chậm quá. Lúc đó, nhân viên nhiếp ảnh của Nhà Trắng đến đề nghị chụp bức ảnh tổng thống cho ra vẻ nhà lãnh đạo quốc gia, chứ đừng tỏ ra lo âu quá...

9 giờ 35 phút:
“Hai chiếc C-130 đang bay đến trên bầu trời Tân Sơn Nhất...”, ở Nhà Trắng, Pho và Kít-xinh-giơ lo âu đang dõi theo, được thông báo qua làn sóng điện. Khi chỉ còn 4 phút nữa là xuống sân bay thì tướng Xmít gọi trong điện đài bảo họ đừng hạ cánh nữa... Có khoảng 2 trung đội Bắc Việt Nam đã tới cách hàng rào sân bay chỉ chừng 500 thước...

12 giờ 25 phút:
Đã nửa đêm, tổng thống lên giường đã lâu, nhưng vẫn không ngủ được. Phòng báo chí Nhà Trắng thông báo: Sài Gòn đang hỗn loạn, ở tòa đại sứ cũng náo loạn...

13 giờ 15 phút:
Kít-xinh-giơ cũng chẳng được ngủ, rời Nhà Trắng 1 giờ 15 phút sáng, đi bộ dọc đường Pen-xin-va-ni cùng vợ là Nen-xi. Kít-xinh-giơ trả lời cho mấy nhà báo bám theo săn tin: “Hy vọng sắp có tin đấy”. Một nhà báo hỏi lại:

- Tin hay thật ư, ông ngoại giao trưởng?

- Vâng, thưa ông bạn, tin hay!

Kít-xinh-giơ đáp, nụ cười trên miệng tắt dần.

20 giờ 30 phút:
Oa-sinh-tơn đã bắt đầu ngày làm việc. Kít-xinh-giơ gọi điện cho tổng thống báo tin cuộc di tản khỏi Tân Sơn Nhất đã “hoàn thành”, tuy có điều còn lo lắng về những người kẹt trong sứ quán. Kít-xinh-giơ đề nghị tổng thống ra lệnh cho Ma-tin (đại sứ quán ở Sài Gòn) “cuốn gói”. Tổng thống đồng ý và yêu cầu Kít-xinh-giơ xem qua dự thảo bài diễn văn phát biểu cho toàn quốc về vấn đề “kết thúc chiến tranh ở Việt Nam”. Nội dung là lời kêu gọi người Mỹ sát cánh lại với nhau và hãy quên Việt Nam đi...

24 giờ:
Lúc này buổi trưa ở Oa-sinh-tơn, Kít-xinh-giơ đứng trong phòng họp của Bộ ngoại giao nói rằng người Mỹ buộc phải bỏ chạy khỏi một đất nước mà Mỹ đã chiến đấu suốt 21 năm trời. Ông ta chỉ cho nhà báo hỏi vài câu lấy lệ rồi vội lủi đi mất. Cũng tại diễn đàn này, hơn hai năm trước, ông ta từ Pa-ri về với “thắng lợi vĩ đại nhất” tuyên bố là “hòa bình đã ở trong tầm tay”, “hòa bình trong danh dự” (!) Hôm nay, cả hòa bình lẫn thất bại thực sự đã ở trong tầm tay.

2 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4:
Kít-xinh-giơ gọi điện cho Ma-tin đốc phải kết thúc cuộc di tản đúng 3 giờ 45 phút. Ma-tin đề nghị kéo dài thêm 45 phút mới kịp.

4 giờ 30 phút:
“Phu nhân chủ bài 09 đã lên không trung với mã 2” (đại sứ Ma-tin): Thông báo vắn tắt đó trên làn sóng điện về Nhà Trắng, cũng có nghĩa là 21 năm có mặt của Mỹ ở Đông Dương đã chính thức chấm dứt, không có cách gì cưỡng lại được.

Máy bay bay qua quốc lộ 1, đường chính từ đông bắc vào Sài Gòn, Ma-tin nhìn xuống thấy lấp lóa ánh đèn pha của những chiếc xe tải chở quân đội Bắc Việt đang rầm rập tiến vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:32:33 am
MŨI TIẾN CÔNG BINH VẬN TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975


MAI TRANG


Ngay từ khi Bộ Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập (8-4-1975)1 (Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị điện cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, đồng ý lấy tên là "Chiến dịch Hồ Chí Minh"), phần lớn các đội công tác của Ban Binh vận Trung ương Cục đều tập trung ở địa bàn Sài Gòn - Gia Định, kết hợp với các đội công tác của thành phố, tổ chức tiếp cận các mục tiêu đã chuẩn bị: Lực lượng binh vận ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và Khu 6 cũng được tập trung cao độ để phối hợp với chiến trường Sài Gòn - Gia Định.


Nhiệm vụ của mũi tiến công binh vận trong Tổng công kích - tổng khởi nghĩa là phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công, thực hiện cao trào công nông liên hiệp, góp phần làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn nông thôn và thành thị.


Tháng 4 năm 1975, trong tình thế cực kỳ nguy ngập, Mỹ - ngụy ra sức củng cố lại quân ngụy và dùng chiến thuật co cụm tổ chức thế phòng ngự mới. Chúng gom tàn quân của quân đoàn 1 và quân đoàn 2, bổ sung và huấn luyện cấp tốc tăng cường ngay cho lực lượng phòng thủ của quân đoàn 3 và Sài Gòn - Gia Định; tập trung các liên đoàn biệt động quân để xây dựng lại lực lượng tổng trù bị, xâv dựng thêm tám sư đoàn bộ binh mới. Tổng quân số ngụy gom lại trên toàn chiến trường B2 còn xấp xỉ 800 ngàn quân các loại.


Số lượng địch nhìn vào tuy còn lớn nhưng tinh thần đã sụp đổ. Cơ cấu ngụy quân, ngụy quyền từ trên xuống dưới có nguy cơ tan rã.

Ban Binh vận Trung ương Cục và của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định nhận nhiệm vụ chuẩn bị một số vụ hoạt động của cơ sở nội tuyến có tầm chiến lược tạo điều kiện thuận lợi cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa dứt điểm Sài Gòn - Gia Định, đồng thời chủ động kết hợp ba mũi giáp công tại chỗ đánh sụp các sư đoàn bộ binh và lực lượng tổng trù bị phòng thủ Sài Gòn, làm sụp đổ các quân, binh chủng chiến lược, các quân trường... của địch. Các khu, tỉnh cũng triển khai nhanh các bộ phận công tác tấn công các đối tượng và mục tiêu trọng điểm ở thành phố, thị xã...


Ở Sài Gòn - Gia Định, chỉ thị khởi nghĩa được các cấp cơ sở tích cực chuẩn bị từ ngày 15 tháng 4. Nhiều nơi đã thành lập ban chỉ đạo khởi nghĩa và tổ chức lực lượng xung kích. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch, ở nội thành, lực lượng “ba mũi” đã đứng chân ở các "lõm" chính trị, chủ động phối hợp phát động quần chúng nổi dậy, trương băng, cờ, khẩu hiệu, công bố chính sách của Mặt trận, chỉ đạo cơ sở nội tuyến hoạt động, phá rã ngụy quân, ngụy quyền, lập chính quyền cách mạng từ ngày 27, 28, 29 tháng 4.


Ở miền Đông, miền Tây và Nam Trung Bộ, trước đây nhiều vùng chưa có phong trào binh vận quần chúng và gia đình binh sĩ, đã vùng lên mạnh mẽ, giải quyết gọn một số mục tiêu trước khi bộ đội chủ lực tới.


Trên toàn B2 đã chỉ đạo 580 vụ hoạt động của cơ sở nội tuyến, trong đó các đội công tác thuộc Ban Binh vận Trung ương Cục thực hiện 246 vụ, phần lớn tập trung ở vùng trọng điểm Sài Gòn - Gia Định. Miền Đông Nam Bộ 13 vụ, miền Trung Nam Bộ 175 vụ, miền Tây Nam Bộ 129 vụ, miền Nam Trung Bộ sáu vụ, dẫn đến thúc đẩy địch đầu hàng, khởi nghĩa, phá rã hậu cứ, kho tàng, bức rút hàng trăm đồn bốt, giải phóng nông thôn...


Trong chiến dịch, cơ sở binh vận Trung ương Cục đã tổ chức và chỉ đạo thành công một số vụ điển hình như: nội tuyến Nguyễn Thành Trung ở sân bay Biên Hòa lái máy bay ném bom dinh Độc Lập (ngày 8 tháng 4) và ném bom sân bay Tân Sơn Nhất (ngày 28 tháng 4), gây tác động lớn trong thời điểm địch hoang mang dao động lớn về chiến lược; nội tuyến trong Bộ tư lệnh hải quân đã đánh hỏng hai tàu địch tại bến Bạch Đằng, một tàu ở Tân Cảng, một tàu trên đường ra Côn Đảo... kêu gọi 40 tàu ngoài khơi trở về; trong sư đoàn 25 ngụy, cơ sở tiểu đoàn 1, trung đoàn 50 khởi nghĩa làm tan rã thiết đoàn 10...


Ban Binh vận miền Tây Nam Bộ chỉ đạo cơ sở đưa cán bộ binh vận Khu vào thuyết phục thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 chiến thuật ra lệnh cho toàn bộ binh sĩ thuộc quyền đầu hàng, góp phần cùng lực lượng vũ trang và quần chúng nổi dậy giải phóng nhanh gọn thành phố Cần Thơ và vùng đồng bằng sông Cửu Long.


Lực lượng binh vận các cấp đã chỉ đạo cơ sở nội tuyến làm tê liệt đến tan rã, thúc đẩy địch đầu hàng từng đơn vị làm cho địch không điều khiển được lực lượng đề kháng chống lại sức tiến công của quân ta. Đặc biệt ở Sài Gòn, đã chỉ đạo cơ sở nội tuyến tham gia cùng lực lượng vũ trang tại chỗ, làm nòng cốt cho quần chúng khởi nghĩa chiếm giữ các căn cứ, kho tàng, công sở, đồn bốt, như các khu vực: kho đạn Gò Vấp, Trần Quốc Toản, ty cảnh sát Gia Định, bót Hàng Keo, bộ cựu chiến binh, tòa án Sài Gòn, nha động viên, khu truyền tin Thủ Đức, đài Vi Ba, đài Nội báo, nhà máy Nước, cư xá Hỏa Xa, nhà máy BGI, hải quân công xưởng Ba Son, tổng nha cảnh sát... Riêng ở quân trường Quang Trung, 20 cơ sở nội tuyến của ta, nhân lúc quân đoàn 3 tiến qua, đã tác động binh sĩ, làm rã ngũ gần hết 15.000 tên trú đóng ở đây. Trước đó, cơ sở binh vận đã gọi hàng 1.000 tên ở quân trường Quang Trung ra nộp súng. Ta làm chủ hoàn toàn khu vực chợ Cầu, xã Đông Hưng Thuận (Hóc Môn) từ ngày 29 tháng 4.


Tính chung ở nội thành, lực lượng “ba mũi giáp công” đã giải phóng 40 phần trăm tổng số phường, khóm, 60 phần trăm còn lại, trước khí thế tiến công của mũi vũ trang, kết hợp với cao trào quần chúng và gia đình binh sĩ, lực lượng địch tại chỗ đã tan rã hoàn toàn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Mũi tấn công binh vận đã hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu, mục tiêu đề ra trong trận quyết chiến cuối cùng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Chính sách đúng đắn của


Đảng đã trở thành một thứ vũ khí sắc bén, thấm sâu vào lòng người, thành sức mạnh vật chất, góp gió vào bão lớn quét sạch quân thù trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:34:05 am
LỰC LƯỢNG TẠI CHỖ NỔI DẬY PHỐI HỢP VỚI ĐÒN TIẾN CÔNG CỦA CÁC BINH ĐOÀN CHỦ LỰC TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH


HỒ SĨ THÀNH


Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, thành phố Sài Gòn - Gia Định với truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, luôn là lò lửa đấu tranh của các tầng lớp nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Sài Gòn, đấu tranh chính trị luôn kết hợp với đấu tranh vũ trang, nhưng lấy đấu tranh chính trị làm chính và lúc nào cũng nắm chắc quan điểm bạo lực tấn công, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ và thống nhất toàn vẹn đất nước.


Trên cơ sở kinh nghiệm đấu tranh chính trị nhiều năm, Sài Gòn - Gia Định đã tạo được lực lượng tổng hợp nổi dậy trong mùa Xuân 1975, đặc biệt là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Phối hợp với các mũi tiến công của binh đoàn chủ lực, lực lượng nổi dậy tại chỗ đã thực hiện thành công phương thức “ba mũi giáp công” trên khắp địa bàn nội ngoại thành bằng lực lượng tổng hợp, kể cả “lực lượng thứ ba” tại nội thành Sài Gòn.


Khi ta mở chiến dịch tiến công mùa Xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, phong trào của các giới ở nội đô và vùng ven Sài Gòn - Gia Định nổ ra liên tục và mạnh mẽ, dần dần hình thành một thế trận rộng khắp trên toàn thành phố, vừa kết hợp với lực lượng vũ trang và binh vận tiến công địch, vừa xây dựng lực lượng, sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ.


Tháng 4 năm 1975, ở nội thành Sài Gòn - Gia Định đã có trên 700 cán bộ được tăng cường vào, trên 1.000 đảng viên, đoàn viên tại chỗ với hàng ngàn quần chúng nòng cốt; 400 tổ chức công khai và nửa công khai, “biến tướng” do ta nắm với 25.000 người, 230 tự vệ mật, hàng ngàn du kích vùng ven, 40 "lõm" chính trị với 7.000 quần chúng.


Hầu hết các đồng chí lãnh đạo Thành ủy đã vào nội thành, chỉ đạo trực tiếp các lực lượng. Phân ban của Thành ủy bao gồm các đồng chí nắm những cơ sở mạnh nhất ở nội đô, đã được thành lập để chuẩn bị cho hành động nổi dậy thống nhất bên trong. Thành ủy điều chỉnh lực lượng tổng hợp địa bàn hai cánh A và B. Cánh A do đồng chí Mai Chí Thọ phụ trách hàng trăm cán bộ trung sơ cấp các ban, ngành, đoàn thể làm nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy ở nội thành và Bình Chánh, Nhà Bè. Cánh B do đồng chí Nguyễn Thành Thơ - Phó Bí thư Thành ủy phụ trách, có 500 cán bộ thuộc cơ quan xung quanh Thành ủy, lực lượng an ninh và các ban ngành còn lại...


Khí thế của quần chúng vô cùng sôi nổi, mạnh mẽ, một yếu tố quan trọng có tính chất quyết định cuộc nổi dậy, làm rung động bộ máy ngụy quyền.


Trong ngày 29 và đêm 29 rạng 30 tháng 4, trước khi đại quân ta tiến vào, đã có tất cả 107 điểm nổi dậy của quần chúng (31 điểm ở ngoại thành, 76 điểm ở nội thành). Cấc điểm nổi dậy chủ yếu giành chính quyền cơ sở, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch, phối hợp với các lực lượng vũ trang tại chỗ phá gỡ đồn bốt, đánh chiếm các căn cứ, chi khu như Củ Chi, Quận 3, 5, 7, 8, 10, 11, tòa hành chính tỉnh Gia Định, kho xăng Nhà Bè, nhà máy điện, nhà máy nước Thủ Đức... chiếm giữ, bảo vệ nguyên vẹn các nhà máy Vimytex, Vinatexco... bao vây, hù dọa, gọi hàng, góp phần làm trên nửa triệu ngụy quân, ngụy quyên hoang mang rệu rã, khiến địch mất sức đề kháng khi quân ta tiến vào nội đô.


Lực lượng nổi dậy còn vận động quần chúng cắm cờ Mặt trận, chuẩn bị tiếp đón bộ đội, tham gia hướng dẫn các cánh quân, truy bắt bọn ác ôn và tàn binh địch, xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở, giữ gìn trật tự an ninh...


Nhờ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa tiến công và nổi dậy, nên khi quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn thì thành phố hầu như còn nguyên vẹn, các cơ sở quan trọng được bảo vệ an toàn, đặc biệt là điện và nước thành phố không một giây phút nào gián đoạn. Một thành phố lớn gần bốn triệu dân nhanh chóng trở lại sinh hoạt bình thường. Đó là điều kỳ diệu, đập tan luận điệu hiểm độc của kẻ thù là sẽ có những cuộc trả thù “tắm máu” khủng khiếp khi Cộng sản chiếm được thành phố...


Để góp phần bảo đảm nguyên vẹn thành phố vốn là thủ đô Trung ương đầu não của kẻ thù, một bộ phận lực lượng cách mạng không chỉ có mặt trong lòng địch trong những ngày giờ quyết định, mà đã “lót ổ” từ nhiều năm trước.


Nổi dậy ở vùng nông thôn ngoại thành

Ngày 10 tháng 4 năm 1975, khi tổ chức nghiên cứu Nghị quyết Bộ Chính trị và Nghị quyết đặc biệt của Trung ương Cục, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã đề ra nghị quyết nhằm chuẩn bị lực lượng cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố. Thường trực phân ban Thành ủy cánh B đã chỉ thị cho các huyện ngoại thành chuẩn bị lực lượng tổng hợp vũ trang, chính trị binh vận tiến công và nổi dậy trên địa bàn địa phương mình.      


Phân ban nông thôn Thành ủy đã khẩn trương dùng lực lượng tập trung củ Chi và lực lượng bảo vệ Thành ủy thành lập Trung đoàn Gia Định 2; tập hợp cán bộ chính trị cơ quan xây dựng 6 đội vũ trang, tăng cường cho các mũi tiến công vừa góp phần giải phóng địa phương vừa mở mũi tiến công áp sát đô thị, sẵn sàng có mặt tại địa bàn được phân công khi có lệnh tổng tiến công.


Mục tiêu được phân công cho nông thôn Sài Gòn - Gia Định là toàn tỉnh Gia Định bao gồm các huyện nông thôn, tiếp quản tỉnh lỵ và các cơ quan ngụy quyền, căn cứ ngụy quân...


Từ ngày 26 tháng 4, lực lượng bộ đội tập trung của Thành đội nổ súng tấn công địch ở vùng ngoại thành đã tạo điều kiện cho lực lượng nổi dậy vùng lên giành chính quyền ở khắp nơi.


Ở Củ Chi, ngày 29 tháng 4, Quân đoàn 3 tiến công tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy tại căn cứ Đồng Dù; được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương, đồng bào đã nổi dậy đánh chiếm trụ sở tề ngụy, truy lùng ác ôn, giải tán phòng vệ dân sự. Nhiều xã, địch bỏ chạy, quần chúng xông vào chiếm giữ trụ sở... 17 giờ cùng ngày, toàn huyện được giải phóng.


Ở Hóc Môn, sau khi dinh quận, chi khu, phân chi khu Xuân Thới Thượng, Thới Tam Thôn, Xuân Thới Sơn... bị lực lượng vũ trang đánh chiếm, lực lượng khởi nghĩa đã nổi dậy cướp công sở địch ỏ các xã trong ngày 29 tháng 4, giải phóng toàn bộ xã ấp.


Lực lượng địch trong quân trường Quang Trung rất đông, hoảng sợ bỏ chạy. Lực lượng Binh vận Miền và quần chúng nhân dân tiến vào làm chủ. Lực lượng vũ trang và nhân dân tiến vào giải phóng thị trấn Hóc Môn, gần như không gặp một trở ngại nào. Đến 6 giờ sáng ngày 30 tháng 4, toàn bộ chính quyền địch ở Hóc Môn tan rã.


Ở Gò Vấp, ngày 27 tháng 4, chi bộ xã Hạnh Thông Tây phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, truy lùng bọn ác ôn. Ngày 29 tháng 4, khi quân chủ lực đánh chiếm các căn cứ quân sự quan trọng như thành pháo binh, thiết giáp, công binh... lực lượng địch trong vùng tự tan rã. Chi bộ các xã phát động quần chúng vùng lên cướp chính quyền địch. Đến 6 giờ sáng ngày 30 tháng 4, xã cuối cùng An Nhơn - Xóm Mới được giải phóng. Nhân dân tích cực tham gia bảo vệ kho tàng và giữ gìn trật tự thị trấn.


Ở Thủ Đức, trước sức tấn công như vũ bão của Quân giải phóng, đồng bào đã đồng loạt nổi dậy cướp chính quyền địch từ ngày 29 tháng 4, sau đó xông vào chiếm các căn cứ quân sự, công sở ở dinh quận. Công nhân triển khai lực lượng bảo vệ nhà máy dệt, nhà máy điện, nước. Hàng trăm phụ nữ kéo vào liên trường Thủ Đức gọi địch đầu hàng. 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4, lực lượng khởi nghĩa tập kết tại chợ Thủ Đức rồi cùng lực lượng vũ trang tiến vào dinh quận. Toàn bộ ngụy quyền sợ hãi bỏ chạy.


Ở Bình Chánh, khi quân ta đánh chiếm khu thông tin Ra-đa Phú Lâm, lực lượng khởi nghĩa ở các xã Tân Tạo, Tân Nhựt, Tân Kiên phát động quần chúng nổi dậy diệt ác ôn, giành chính quyền. Từ ngày 29 đên trưa 30 tháng 4 địch ở các xã bỏ chạy, nhân dân lần lượt giành quyền làm chủ, chiếm giữ các công sở, kho tàng...


Ở Nhà Bè, Cần Giờ, được bộ đội địa phương và Đoàn 10 đặc công hỗ trợ, nhân dân các xã nổi dậy giành chính quyền, đến trưa 30 tháng 4 đã làm chủ hoàn toàn huyện lỵ.


Tại Gia Định, lực lượng học sinh đã cắm cờ cách mạng trên dinh tỉnh lỵ lúc 10 giờ ngày 30 tháng 4. Sau đó ban cán sự cánh B vào tiếp quản nguyên vẹn cơ sở vật chất tại đây.


Hòa cùng tiếng súng tiến công của các lực lượng vũ trang, quần chúng nông thôn ngoại thành dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, đã tranh thủ thời cơ vùng lên khởi nghĩa giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Trong đó hai phần ba các xã nổi dậy giành chính quyền trước khi bộ đội tiến vào, 90 phần trăm các ấp nổi dậy giành chính quyền bằng bạo lực quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:36:05 am
"Đội quân tóc dài" trong Chiến dịch Hồ Chí Minh

Thực hiện chủ trương của Thành ủy, nhanh chóng đưa lực lượng áp sát vùng sâu vào trong lòng địch, chuẩn bị đón thời cơ mới, đầu năm 1975, các ngành, các cánh đã xây dựng được 40 căn cứ chính trị rải khắp các quận nội thành và vùng ven; trong đó có nhiều "lõm" chính trị, do cán bộ phụ nữ xây dựng ở Hàng Xanh, Thị Nghè, Bảy Hiền, Lò Siêu, Bình Tiên, Bàn Cờ, Hanh Thông...


Trong phong trào đấu tranh chính trị của thành phố, lực lượng đông đảo nhất, kiên trì nhất là phụ nữ. "Đội quân tóc dài" này đã phối hợp với lực lượng vũ trang, đặc công biệt động, liên tục tiến công địch, thúc đẩy quá trình suy sụp về tinh thần tư tưởng của địch, tạo khí thế cho quần chúng đi vào Tổng công kích - tổng khởi nghĩa.


Trong số gần 2.000 cán bộ tăng cường cho nội đô và vùng ven, có nhiều nữ cán bộ, đảng viên từ căn cứ núi rừng, từ nhà tù địch trao trả sau Hiệp định Pa-ri, các tỉnh điều về và rất nhiều chị đã bám từ trước ở nội thành như Tám Chánh, Chín Trang, Mười Vân. Số tăng cường từ giữa tháng 4 năm 1975, có các chị Đỗ Duy Liên, Tư Liêm, Chín Ngân... là cán bộ chỉ đạo, tuyên truyền, tổ chức quần chúng khởi nghĩa. Các huyện Củ Chi, Thủ Đức... đều có phụ nữ tham gia các Ban khởi nghĩa ở cấp xã. Khắp nơi, các mẹ, các chị là lực lượng chủ yếu dự trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men, chuẩn bị trạm cứu thương, may cờ, vận chuyên hàng triệu truyền đơn và 10 điểm chính sách của mặt trận. “Cơ quan chỉ huy” của lực lượng khởi nghĩa trong nhiều xóm lao động trung tâm thành phố như Bàn Cờ, Tân Định, Phú Nhuận, Thạnh Mỹ Tây, An Đông, Lò Siêu, Minh Phụng... được các mẹ, các chị em che chở, canh gác, thông báo tin... Hàng ngàn máy may được huy động may hàng triệu lá cờ cách mạng.


Khi các binh đoàn chủ lực của ta từ nhiều mũi tiến về Sài Gòn, phụ nữ các huyện ngoại thành đã hăng hái phối hợp chiến đấu. Ở Củ Chi, khi Quân đoàn 3 nổ súng tiến công căn cứ Đồng Dù, những người mẹ, người chị của “đất thép thành đồng” đã đi đầu trong nổi dậy chiếm lĩnh các cơ sơ địch ở xã, ấp. Má Nguyễn Thị Rành - người có tám con và hai cháu nội là liệt sĩ, đã treo lá cờ đỏ sao vàng trên cây điệp đầu ấp Phước Hòa, xã Phước Hiệp, mở đầu cho cuộc nổi dậy của quần chúng xã nhà.


Trưa ngày 29 tháng 4, má Nguyễn Thị Lánh và chị Nguyễn Thị Nương cắm cờ trên chi khu cảnh sát Tân An Hội... 65 tổ phụ nữ Củ Chi làm công tác binh vận, đã bám địch ngày đêm, tác động từng giờ góp phần làm rã ngũ hàng ngàn lính chủ lực, bảo an, dân vệ trong quận.


Ngày 30 tháng 4, chị Võ Thị Bê cùng cơ sở chiếm trại Nguyễn Như Luông - trung tâm huấn luyện Quang Trung, bảo quản được kho xăng và kho lương thực tại đây. Chị Đỗ Thị Bê cùng tổ hội phụ nữ Hóc Môn vận động 294 lính ngụy đầu hàng. Chị Nguyễn Thị Đại cùng chị em kêu gọi cả đơn vị ngụy đầu hàng, thu trên 100 súng, chiếm lĩnh trụ sở xã Xuân Thới Sơn, trước khi bộ đội vào giải phóng.


Các chị Cao Thị Quý, Phạm Thị Duyên và nhiều chị em xông vào dinh quận Thủ Đức trong lúc địch còn cầm súng “tử thủ”, kêu gọi binh lính hạ vũ khí và treo cờ cách mạng lên dinh quận; sau đó cùng cơ sở cắm cờ trên cổng liên trường sĩ quan Thủ Đức và chợ Nhỏ...


Chị em phụ nữ Bình Chánh dùng ghe xuồng đưa Tiểu đoàn 301 của ta qua sông và dùng ghe đuôi tôm chở du kích ra chiếm đồn Thái Văn Minh. Chị Tư Thương là người hạ cờ ba sọc và kéo cờ Mặt trận giải phóng lên nóc đồn. Bốn chị đã chặn đường thuyết phục 2 Tiểu đoàn địch chạy từ Hậu Nghĩa về Tân Tạo, nộp vũ khí, đầu hàng...


Tại Gò Vấp, chị Hai Bằng phụ trách các má, các chị từ ấp 1 đến ấp 8 khu vực chợ Cầu - Xóm Mới, kéo tới binh vận một đơn vị xe tăng địch đầu hàng trưa 30 tháng 4.


Tại khu vực Bảy Hiền, các chị Thân Thị Thơ, Hồ Thị Toàn, Nguyễn Thị Hoài 10 năm bám trụ xây dựng "lõm" căn cứ, đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy treo cờ đón Quân giải phóng tiến vào từ hướng tây bắc thành phố.


Chị Phan Thanh Kiều xông lên cắm cờ cho quần chúng chiếm trụ sở hội đồng xã Thạnh Mỹ Tây; chị Nguyễn Thị Phương, tay bồng con vận động nhiều lính ngụy ra trình diện cách mạng; chị Nguyễn Thị Văn chỉ huy đội tự vệ tiến chiếm dinh quận 2, nha cảnh sát đô thành trước khi bộ đội vào tiếp quản. Các chị Nguyễn Thị Tốt, Hồ Thị Mười và má Lê Thị Mỹ lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa treo cờ ở chợ Bến Thành, cư xá Đô Thành, tòa hành chính và ty cảnh sát quận 3.


Chị Nguyễn Thị Bình và con gái Thiếu Thị Tạo đã vận động và lãnh đạo quần chúng chiếm lĩnh chợ An Đông, tước súng bọn phòng vệ dân sự bốt Nguyễn Ngọc Thạch... Dưới sự lãnh đạo của Ban khởi nghĩa quận 5, các chị Sáu Lê, Năm Hiệu, Bảy Nghĩa đã hướng dẫn đồng bào chiếm lĩnh các phường An Đông, Chợ Quán, Trang Tử... Trong các mũi bao vây tiến công địch ở quận 6, các chị Tám Chánh, Chín Trang, Mười Vân tham gia đánh chiếm bốt Bình Tiên, Phú Lâm, Phú Định, Bình Tây, tòa hành chính quận 6. Lực lượng khởi nghĩa, trong đó có rất đông chị em người Hoa đã chiếm đồn Cây Mai, bảo vệ nhà máy rượu Bình Tây và kho lương thực ở bến Lê Quang Liêm.


Các chị Trần Thị Thương, Nguyễn Thị Nghĩa, Trương Thị Thanh Thảo, Tô Thị Kia... đã phát động quần chúng binh vận nhiều lính ngụy, cướp chính quyền ở nhiều ấp và cắm cờ trên trụ sở hội đồng xã Phú Nhuận.


32 điểm nổi dậy của quần chúng do cán bộ phụ nữ chỉ đạo chỉ là một phần trong hàng trăm chiến công của phụ nữ thành phố, góp phần vào chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn. Trong lực lượng biệt động, tự vệ vũ trang, an ninh, công nhân còn biết bao những hành động dũng cảm: dẫn xe tăng chiếm lĩnh mục tiêu, bí mật cắm cờ, bảo quản nhà máy, tài sản cách mạng, giữ gìn cơ sở văn hóa... của "đội quân tóc dài" đầy khí thế cách mạng, quyết tâm giải phóng và làm chủ thành phố, làm chủ quê hương của mình.


Trong ba mũi giáp công, "đội quân tóc dài" của thành phố đã góp phần xuất sắc vào mũi chính trị và binh vận, làm nên cơn bão táp mùa Xuân 1975, quét sạch quấn thù. Vai trò của phụ nữ thành phố còn đóng góp rất quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khắc phục những hậu quả, di hại do chế độ cũ để lại sau 30 năm chiến tranh.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:37:29 am
Nổi dậy của công nhân và lao động thành phố

Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đã chứng minh muốn khởi nghĩa thắng lợi phải có lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho toàn dân nổi dậy, chủ yếu phải dựa vào quần chúng đông đảo, trước hết là quần chúng công nhân và lao động.


Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, sự đóng góp của lực lượng công nhân và lao động thành phố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là lực lượng nổi dậy phối hợp với các giới cướp chính quyền vừa là lực lượng chủ yếu bảo vệ nhà máy xí nghiệp, cơ sở vật chất tiếp quản của địch.


Ở nội thành Sài Gòn, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, lực lượng đoàn thể, quần chúng sôi nổi vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Ngay từ đầu tháng 4 năm 1975, Đảng ủy và Ban Công vận nội thành Sài Gòn đã tích cực chuân bị kế hoạch khởi nghĩa của công nhân lao động trên các địa bàn và vạch rõ phương hướng hoạt động cho công nhân lao động thành phố: đồng loạt nổi dậy chiếm lĩnh các xí nghiệp và bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ cho kỳ được nhà máy, không để cho địch phá hoại. Trong trường hợp địch thiết quân luật thì ngoài nhiệm vụ tham gia khởi nghĩa ở đường phố, cần bố trí sẵn một lực lượng công nhân thường trực ở xí nghiệp đề vừa có thể chiến đấu vừa bảo vệ được cơ sở vật chất, chống địch ngoan cố phá hoại.


Do có phương hướng lãnh đạo đúng và kịp thời, việc bảo vệ nhà máy, xí nghiệp đã nhanh chóng trở thành một phong trào rộng lớn trong công nhân lao động Sài Gòn - Gia Định. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, công nhân đã có kế hoạch khởi nghĩa trước khi quân chủ lực tiến vào thành phố. Các âm mưu phá hoại, tẩu tán tài sản của địch trước khi rút chạy đều được ngăn chặn. Ta giữ được nguyên vẹn nhiều tài sản, hàng hóa, kho tàng, phương tiện có giá trị...


Tại ngã bảy Lý Thái Tố quận 10, khí thế nổi dậy của công nhân và quần chúng lao động vô cùng sôi nổi từ những ngày mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh. 6 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4, anh Bùi Thành Chung cùng một tốp công nhân treo một lá cờ lớn tại bùng binh Ngã Bảy trước đông đảo quần chúng vùng Ngã Bảy Vườn Lài, Ngã Sáu... Một tổ vũ trang phối hợp với anh em công nhân cư xá Hỏa xa bao vây bức hàng lực lượng cảnh sát, dân vệ ở đây. Quần chúng đổ vào chiếm các trụ sở đồn bốt địch và hân hoan đón chào bộ đội, cán bộ cách mạng vào thành phố. Một rừng cờ Giải phóng bay rợp phố phường. Công nhân Hỏa xa chiếm bốt cảnh sát quận 10, thu gom cả ngàn khẩu súng...


15 giờ 30 phút, đội tự vệ vũ trang gồm 32 công nhân và lao động được trang bị vũ khí ra mắt chính quyền cách mạng cơ sở. Đông đảo công nhân và tự vệ tước vũ khí của địch, làm chủ hoàn toàn cơ xưởng tại Chí Hòa... 9 giờ sáng ngày 1 tháng 5, hàng ngàn công nhân các nơi đổ về chiếm trụ sở Tổng liên đoàn lao động, mít tinh tại chỗ tuyên truyền chiến thắng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Hỏa xa, ngày 2 tháng 5, công nhân có mặt đầy đủ bắt tay vào phục hồi sản xuất, bàn kế hoạch khôi phục đường sắt và cầu Bình Lợi.


Những xóm công nhân và lao động làm nghề xe buýt, xe lam, xích lô máy, bốc vác, buôn gánh bán bưng... ở Bàn Cờ, cư xá Đô Thành, chợ Vườn Chuối... trọng điểm khu vực khởi nghĩa, có chi bộ lãnh đạo, công nhân đã tích cực vận động, đưa lực lượng quần chúng khởi nghĩa đến phối hợp với khu vực Ngã Bảy cướp chính quyền ở cư xá Đô Thành. Anh Nguyễn Văn Hai giương lá cờ Giải phóng lớn đi thẳng vào tụ điểm quần chúng, kéo theo hàng ngàn người nổi dậy phất cờ, giương khẩu hiệu, hò reo khắp xóm, khu phố. Bọn địch hốt hoảng trút bỏ quân phục, súng đạn đầy đường, chạy trốn. Các đảng viên hướng dẫn quần chúng đổ ra đường càng lúc càng đông, trấn áp, chiếm lĩnh bốt cảnh sát Vườn Chuối nổi tiếng ác ôn và các trụ sở địch trong các khóm phố. Ủy ban nhân dân cách mạng cư xá Đô Thành ra mắt đồng bào...


Tại quận 5, ban Công vận và Hoa vận lập nhiều ban khởi nghĩa, trong các ngày 27, 28 tháng 4, đã dùng xe cứu thương chuyển vũ khí đến các điểm khởi nghĩa, bí mật vận động quần chúng may cờ, kẻ biểu ngữ. Sáng 30 tháng 4, đã cùng với công nhân xuống đường chiếm đồn bốt, công sở địch. Quần chúng, công nhân lao động ở Chợ Quán, An Đông, Khổng Tử... chặn nhiều xe địch, bắt địch đầu hàng, thu nhiều vũ khí, xe cộ...


Tại Khánh Hội (quận 4), trong những ngày cuối tháng 4, công nhân cảng Sài Gòn, không bốc dỡ đồ đạc, hàng hóa cho bọn địch trốn chạy ra nước ngoài; tổ chức nhiều đội tự vệ chiếm giữ kho tàng, máy móc... trên thực tế đã làm chủ cảng Sài Gòn từ ngày 29 tháng 4, đồng thời phối hợp với bộ đội chiếm tòa hành chính quận 4 và các kho, bãi trong khu vực từ sáng 30 tháng 4.


Nhà máy điện Chợ Quán là nơi công nhân có truyền thống đấu tranh, số công nhân tích cực đã bàn bạc kế hoạch nổi dậy, chiếm giữ và bảo vệ dòng điện thành phố; giáo dục các đội lính bảo an giải tán về nhà để anh em công nhân quản lý. Từ 9 giờ ngày 30 tháng 4, công nhân đã treo cờ giải phóng và biểu ngữ trước cổng nhà máy, đồng thời phối hợp với công nhân trong khu cư xá nổi dậy chiếm lĩnh khu phố, khu vực cầu Chữ Y và bảo vệ chặt chẽ khu vực Nhà Đèn... Các công nhân lâu năm, lành nghề đã tích cực phối hợp với ban quân quản tiếp quản nhà máy và duy trì dòng điện liên tục cho sinh hoạt và sản xuất sau khi giải phóng thành phố.


Tại nhà máy điện Thủ Đức, khi địch ra lệnh giới nghiêm, chỉ còn 50 công nhân vận hành máy. Từ ngày 29 tháng 4, số công nhân là cơ sở cách mạng đã cùng quần chúng thành lập ủy ban bảo vệ nhà máy, phân công canh gác và liên hệ với công nhân tìm cách đến xí nghiệp để tham gia khởi nghĩa, kiên quyết bảo vệ nguồn điện cho cả thành phố. Từ 6 giờ sáng ngày 30 tháng 4, trước cổng nhà máy đã trương cao khẩu hiệu “Nhiệt liệt chào mừng quân giải phóng”, “Công nhân kiên quyết bảo vệ nhà máy an toàn”. Từ đó, lực lượng công nhân đã chiếm lĩnh và làm chủ nhà máy trong khí thế mới, có lãnh đạo phân công canh giữ, vận hành máy, giữ cho dòng điện được liên tục không hề gián đoạn, góp công lớn cho lực lượng cách mạng vãn hồi trật tự thành phố.


Tại nhà máy dệt Liên Phương, giữa tháng 4 năm 1975, một số thanh niên công nhân được cơ sở bí mật chọn ra căn cứ Bưng Sáu Xã học tập, chuẩn bị khởi nghĩa, trở về hoạt động rất tích cực. Từ ngày 20 tháng 4, các tổ tự vệ bí mật được xây dựng với 20 công nhân có nhiệm vụ theo dõi, nhằm đối phó với địch âm mưu tẩu tán tài sản hoặc phá hoại nhà máy. Ban lãnh đạo đã tổ chức liên hệ được với cụm nhà máy dệt xung quanh như Visafasa, Vinaton, Tô Châu bàn kế hoạch hỗ trợ nhau khởi nghĩa. Ngày 2 tháng 5 bọn chủ đột ngột đóng cửa nhà máy, vội vã trốn theo địch. Lực lượng tự vệ túc trực bên ngoài đã vận động công nhân làm việc và bảo vệ chặt chẽ quanh nhà máy. Ngày 29 tháng 4, cơ sở cách mạng nắm gần hết các lực lượng công nhân cụm nhà máy dệt Liên Phương - Thủ Đức, lãnh đạo công nhân nổi dậy làm chủ các nhà máy và đổ về chiếm tổng liên đoàn lao động tay sai Trần Quốc Bửu ở đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám).


Khắp nơi nội ngoại thành, các nhà máy Ba Son, Lục quân công xương, nhà máy điện Bà Quẹo, các hãng dệt Vimytex, Vinatexco, bột ngọt Thiên Hương, nhà máy thuốc lá Mis, rượu Bình Tây, pin Con Ó... đã nổi dậy làm chủ, chủ động bảo vệ hoặc liên hệ với lực lượng quân quản để phục hồi sản xuất.


Sáng ngày 1 tháng 5, hàng vạn công nhân lao động thành phố Sài Gòn - Gia Định dự mít tinh ở trụ sở tổng liên đoàn lao động trong bầu không khí hân hoan phấn khởi tột độ mừng thành phố hoàn toàn giải phóng và ngày Quốc tế lao động đầu tiên nước nhà được thống nhất. Công nhân lao động thành phố rất tự hào góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của dân tộc, bảo vệ toàn vẹn nhà máy, xí nghiệp, tài sản của nhân dân và năng nổ đứng ra điều hành quản lý cho nhà máy hoạt động liên tục, nhất là cung cấp điện, nước cho thành phố không một giờ phút gián đoạn.


Sự đóng góp của công nhân lao động thành phố vào thắng lợi toàn vẹn của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn - hang ổ cuối cùng của Mỹ - ngụy càng nói lên truyền thống kiên cường của giai cấp công nhân Nam Bộ nói chung, của đội ngũ công nhân lao động Sài Gòn - Gia Định nói riêng, đúng như khẳng định của Thượng tướng Trần Văn Trà - Chủ tịch ủy ban Quân quản thành phố, trong buổi lễ ra mắt Ủy ban Quân quản ngày 7 tháng 5 năm 1975: “Đặc biệt cả nước nhiệt liệt biểu dương tinh thần vùng lên làm chủ toàn thể giai cấp công nhân bao gồm cả lao động chân tay và trí óc, đã dũng cảm kiên cường đấu tranh bảo vệ xí nghiệp, kho tàng, công sở trường học, trao cho chính quyền cách mạng và tự mình quản lý mọi công việc cho guồng máy sinh hoạt của cả thành phố lớn này chạy liên tục, bình thường, không hề gián đoạn”.


Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh trong tập sách "Đại thắng mùa Xuân" đã đánh giá rất cao sức mạnh và tác dụng cuộc nổi dậy của công nhân lao động và nhân dân thành phố:

“Quần chúng đã vào trận quyết chiến đúng lúc, không quá sớm mà cũng không muộn quá. Hành động yêu nước của nhân dân tạo ra khí thế cách mạng trên các đường phố, có sức mạnh to lớn. Đây là cái quý nhất của phong trào quần chúng Sài Gòn - Gia Định, và đây cũng là kết quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức và rèn luyện trong đấu tranh qua nhiều năm của Đảng bộ thành phố.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:39:32 am
CĂN CỨ LỘC NINH - NGÀY TOÀN THẮNG


CAO NGỌC QUẾ
Nguyên Trưởng ban đón tiếp dân chính miền Nam
Nguyên Chuyên viên Ban Tổ chức Trung ương (1975-1985)
Nguyên Giám đốc Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ


Cuộc sống thật lạ kỳ. Trong đời, đôi lúc, một biến cố, một sự kiện đã trôi qua rất lâu nhưng dư âm vẫn còn đọng lại mãi. Một thời tuổi trẻ của chúng tôi đã trôi qua như thế, trong những ngày Sài Gòn rực lửa đấu tranh chống đế quốc Mỹ.


Năm tháng cứ thế trôi đi. Hôm nay, khi tuổi tám mươi gần đến, đôi lúc tôi vẫn ngỡ như chiến thắng đó, chiến thắng vĩ đại của mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử như vừa mới xảy ra hôm qua thôi. Và khu căn cứ Lộc Ninh thân thương nằm khiêm nhường trong cánh rừng kia, nơi chúng tôi đã sống bên nhau cho đến những ngày cuối cùng của chiến dịch lịch sử mang tên Bác vẫn hiện rõ mồn một trước mắt tôi, tưởng chừng như có thể chạm được từng gốc cây, ngọn cỏ, từng lá rau tàu bay đã đồng hành cùng chúng tôi trong những ngày ác liệt nhưng rất đỗi hào hùng đó.


Ngày ấy, ngay từ đầu Xuân 1975, qua tình hình chiến sự, tuy không nói ra nhưng tất cả chúng tôi đều tin chắc rằng “đằng mình” sẽ chiến thắng bởi lẽ sau hàng loạt chiến thắng dồn dập của ta ở Phước Long, Buôn Ma Thuột tinh thần ngụy quân càng lúc càng rệu rã. Dễ dàng nhận ra rằng giặc đã rã trong tư tưởng từ nhiều tháng trước đó. Nhiệm vụ của chúng ta lúc bấy giờ chỉ là chuẩn bị kỹ càng rồi chớp thời cơ đánh thẳng vào Sài Gòn, cơ quan đầu não của chúng. Sài Gòn thất thủ đồng nghĩa với thất bại hoàn toàn của địch. Vào thời điểm đó, tôi giữ chức vụ Trưởng K9 rồi K3 tức Trưởng ban đón tiếp dân chính miền Nam. Đơn vị tôi đóng trong một cánh rừng ở xã Lộc Tấn, Lộc Ninh, Tây Ninh, gần cửa khẩu Xa Mát (Cam-pu-chia). Tổng số cán bộ, chiến sĩ của đơn vị lúc đó vượt quá con số 100, được chia thành nhiều bộ phận: văn phòng, cấp dưỡng, xây dựng, sản xuất... Khi ấy, tất cả chúng tôi từ cán bộ đến chiến sĩ đều có cùng niềm háo hức được về Sài Gòn chiến đấu cho dù phải hy sinh vì trong thâm tâm, tất cả đều biết rằng chiến thắng đã cận kề. Hơn bao giờ hết, chúng tôi quá hiểu sự quyết liệt của chiến dịch mang ý nghĩa một mất một còn này. Bao nhiêu năm chiến đấu gian khổ còn không sao huống hồ giờ đây chiến thắng đã cận kề sá gì lại chùn bước là tâm tư chung của anh em lúc đó. Niềm khát khao ra trận, niềm khát khao được trực tiếp cầm súng chiến đấu vào những giờ phút quyết định cứ cháy mãi trong từng con người ở cánh rừng heo hút này. Có tận mắt chứng kiến, có sống cùng chúng tôi những tháng ngày nóng bỏng đó mới cảm nhận được tinh thần của anh em lúc bấy giờ. Khi đó, không chỉ anh em trong đơn vị mà có lẽ cả miền Nam đều ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu giành chiến thắng. Năm 1975 cũng là năm tôi gần 50 tuổi. Chưa đến 50 nhưng tính đến thời điểm trên, tôi đã phải nếm trải cả chục năm trong các nhà tù của Pháp, Mỹ với hàng chục vết thương trên người, chất chồng vì “ngoan cố” (theo lời bọn cai tù) của tôi. Điểm qua các nhà tù từng bị địch giam giữ nhiều năm ròng, mới thấy kỳ lạ và không hiểu sức mạnh nào đã giúp mình vượt qua những tháng ngày đầy sóng gió đó, những tháng ngày chưa bao giờ chúng tôi thấy thanh thản trong tâm hồn vì nỗi khát khao được sống, được chiến đấu cùng đồng đội bên ngoài cứ cháy lên trong lòng. Bốt Catinat, Gia Định, Phú Lợi, Thủ Đức, Tân Hiệp, Chí Hòa, tổng nha cảnh sát Sài Gòn, nơi nào cũng khét tiếng một thời vì có một đội ngũ ác ôn dường như mất hẳn tính người. Vậy mà chúng tôi đã ở trong đó hàng bao năm trời, cùng roi vọt đòn tra. Tinh thần đấu tranh vẫn sôi sục trong tôi và bao đồng chí khác dù không còn trẻ nữa. Như mọi người, tôi cũng tha thiết được có mặt trong đoàn quân giải phóng Sài Gòn, được là thành viên của một trong năm cánh quân tiến về giải phóng “Hòn ngọc Viễn Đông”, nơi gắn liền những tháng năm hoạt động của tôi từ năm 1954 đến thời điểm lịch sử vô cùng trọng đại này. Thế nhưng, tâm nguyện của tôi sau rốt lại không thành vì nhiều lý do. Trong đó, lý do lớn nhất là vì tổ chức muốn đảm bảo an toàn cho tôi bởi theo anh em thì tôi “đã từng vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần, nay tổ chức rất cần đồng chí ở cương vị hiện tại này...”. Và vì thế, tôi phải ở lại để tiếp tục giải quyết những công việc còn tồn đọng chuẩn bị bàn giao cho chính quyền địa phương khi miền Nam hoàn toàn giải phóng.


Theo sự phân công của tổ chức, lẽ ra ngày 26 tháng 4 năm 1975, đoàn xe chúng tôi sẽ lên đường thẳng hướng Sài Gòn để làm nhiệm vụ đón tiếp anh chị em bị địch bắt trong chiến tranh vừa được trao trả, nhưng cuối cùng chuyến đi đành tạm hoãn vì vấn đề nhiên liệu. Xăng lúc đó được lệnh ưu tiên cho tiền tuyện. Tất cả đều ưu tiên cho trận đánh quyết định sắp tới.


Là người ở cứ nhưng chúng tôi lúc nào cũng hướng về các anh em đang chiến đấu ngoài mặt trận. Ngoài nhiệm vụ chính của từng người, mọi quan tâm đều dồn về tin tức chiến sự. Thật lạ, dường như tình hình mỗi ngày lúc đó thay đổi đến chóng mặt. Tin chiến thắng cứ dồn dập đổ về. Mọi người trong đơn vị thường an ủi nhau: “Không đánh giặc trực tiếp được thì ta tham gia gián tiếp qua tin tức thu được mỗi ngày từ đài vậy”. Thành lệ, chiều chiều chúng tôi cơm nước thật sớm để rồi khoảng 6 đên 7 giờ tối lại kéo nhau lên hội trường - phòng hội nghị chờ nghe tin tức chiến sự trong ngày. Tin tức ấy có thể được phát ra từ đài cũng có khi được chính anh em từ vùng chiến sự vượt qua bao hiểm nguy mang về nên lúc nào cũng nóng hổi và chứa chan tình cảm. Là cán bộ, tôi cũng được cấp cho một chiếc đài bán dẫn nhưng nằm nhà nghe tin tức một mình sao thú vị bằng được nghe và chia sẻ cùng anh em niềm vui chiến thắng. Vậy là í ới rủ nhau đi để được cùng nghe, được cầm tay nhau, cùng tìm thấy niềm vui chung trong mắt nhau. Không khí lúc đó vui như hội. Cả hội trường lúc nào cũng chật như nêm. Có hề gì khi tất cả đều có chung một mối quan tâm, một niềm tự hào. Tiếng cười nói râm ran cứ thế kéo dài suốt chặng đường về, xé tan màn đêm đen kịt. “Thắng”, “thắng” và “thắng”, từ ấy cứ vang mãi trong tôi như muốn nghẹt trái tim tôi bằng nỗi hân hoan vô bờ.


Từ ngày 26 tháng 4, tin chiến thắng dồn dập đổ về. Và rồi ngày ấy cũng đến. Dù đã chuẩn bị từ trước nhưng chúng tôi tất thảy đều bất ngờ trước tin chiến thắng. Nhanh đến vậy sao? Đây có phải là sự thật hay chỉ là một trong muôn vàn giấc mơ? Một thoáng ngạc nhiên đến sũng sờ. Một thoáng bồi hồi xúc động. Một thoáng rưng rưng. Tất cả lặng đi trong giây lát rồi niềm vui, nỗi hân hoan cứ thế tuôn trào. Chúng tôi cười, chúng tôi nói và chúng tôi khóc cho một niềm hạnh phúc quá lớn, cho một ước mơ và nhất là cho một quyết tâm nay đã trở thành sự thật.


Tôi đi như chạy về căn lán của mình, căn lán bé nhỏ, đơn sơ được lợp bằng tranh và lá trung quân nên vóc nên hình từ bàn tay của anh em từ trước khi tôi đến. Trong căn lán ấy, bao đêm tôi đã thức trắng nhìn màn đêm đen kịt trong nỗi mong chờ ngày chiến thắng. Ngày ấy, sống và làm việc tại Tây Ninh nhưng tâm hồn tôi đã gởi trọn ở Sài Gòn - nơi đồng đội tôi ngày đêm chiến đấu và giành thắng lợi từng ngày, từng giờ. Nơi đó, trong một căn nhà nhỏ trên đường Phạm Ngũ Lão, tôi biết đứa con gái nhỏ bé, yếu đuối của tôi vẫn ngóng trông ngày trở về của mẹ nó từng phút, từng giây. Trong giờ phút thiêng liêng đó, tôi đứng lặng đưa mắt nhìn bao quát căn lán thân quen này bởi tôi biết chẳng bao lâu nữa mình sẽ chia tay với nó không biết bao giờ sẽ trở lại. Ôi, sao kỳ vậy nè: bị roi đòn tra tấn bao lần vẫn chẳng hề rơi nước mắt vậy mà giờ đây tôi lại rưng rưng vì một cuộc chia tay với căn lán vô tri?


Đêm 30 tháng 4, chúng tôi thức trắng bên nhau cùng tận hưởng niềm vui chiến thắng, ở rừng, ngày hai bữa cơm rau, làm gì có thịt cá nên đêm liên hoan diễn ra thật đơn giản, gọn nhẹ. Tin chiến thắng một thứ gia vị kỳ diệu nên hôm ấy dù thực đơn chính vẫn gồm ba món cơm rau và muối nhưng chúng tôi thấy ngon miệng hẳn. Tối đó, niềm vui một lần nữa được thổi bùng qua hàng loạt khúc ca hùng tráng mà thiết tha về người lính, về cuộc chiến đấu. Chúng tôi hát như chưa bao giờ được hát. Xúc động nhất là lúc cả đơn vị cùng ca bài Kết đoàn. Giữa niềm hân hoan chiến thắng, ai đó chợt thốt lên: “Giá mà Bác còn sống để chứng kiến ngày trọng đại này nhỉ!”. Chỉ một câu nói thôi cũng khiên mọi người rưng rưng, ừ, phải rồi, giá mà Bác còn sống để tận hưởng niềm vui chung của dân tộc thì... Nhiều lúc đang hát, tôi cứ lặng đi vì nỗi xúc động trào dâng. Men chiến thắng làm chúng tôi lâng lâng như say không chỉ ngày hôm ấy mà còn kéo dài đến nhiều ngày sau đó, ngay cả khi đã về lại Sài Gòn.


Suốt đêm 30 tháng 4, đầu tôi cứ rối lên vì bao dự định: sau khi về Sài Gòn gặp lại người thân cùng đồng chí, đồng đội sẽ thu xếp để về quê hương Mỹ Tho thăm hỏi họ hàng cùng bà con chòm xóm sau đó sẽ ra thăm lăng Bác, sẽ tìm đến nhà những đồng đội đã ngã xuống, thắp một nén nhang, sẽ... và sẽ...


Ngày 3 tháng 5 năm 1975, chúng tôi về đến Sài Gòn. Ba ngày đã trôi qua nhưng niềm vui chiến thắng vẫn tràn ngập suốt những chặng đường chúng tôi qua, nhất là tại Sài Gòn, nơi cách đây vài ngày còn là trung tâm đầu não của địch. Đoàn xe chúng tôi với lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam dẫn đầu, mỗi xe cứ thế nối đuôi nhau tiến vào thành phố. Dọc đường chúng tôi đi, súng các loại cùng quân phục, xác máy bay, xe hơi, xe nhà binh - những tàn tích của quân đội Mỹ, ngụy vẫn còn vương vãi đó đây. Những tràng pháo tay, những ánh mắt thiết tha, những nụ cười sáng bừng trên khuôn mặt người dân hai bên đường cứ níu chân chúng tôi cho đến khi xe khuất hẳn. Trên xe, tôi cứ xôn xang mãi. Bao nhiêu gương mặt, bao nhiêu kỷ niệm về những đồng chí, đồng đội cứ xô nhau ùa về trong tôi. Chút nữa thôi, chỉ một chút nữa thôi là mình sẽ gặp lại bạn bè, đồng đội. Ai còn, ai mất, chỉ vài khoảnh khắc nữa thôi là rõ. “Đừng hồi hộp thế! Bình tĩnh đi nào”, cứ thế tôi tự trấn an mình nhưng dường như bất lực. Trái tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi xe dừng hẳn tại điểm tập kết. Đó là bệnh viện dã chiến Mỹ (nằm trên đường Hoàng Văn Thụ ngày nay). Cái mùi đặc trưng của quân xâm lược, giết người không gớm tay như vẫn còn vương vãi đâu đây. Hành trang về lại Sài Gòn của tôi chỉ vẻn vẹn một cái xắc-cốt nhỏ, một cái võng dã chiến, hai bộ bà ba đen đã sờn vì năm tháng (tính luôn cả bộ đang mặc trên người), một cái khăn rằn trên cổ và một đôi dép râu cũ mòn đang mang dưới chân. Chỉ vậy thôi mà tôi có cảm giác mình giàu, giàu lắm. Tôi có cả một bầu trời tự do cao xanh vời vợi trên đầu; tôi có cả mặt đất bao la, hiền hòa nhưng không kém phần anh dũng dưới chân, nơi biết bao đồng chí, đồng đội và cả hai người anh (anh Ba và anh Tư) thân yêu của tôi đã ngã xuống.


Năm tháng cứ trôi qua, nhưng hình ảnh ngôi nhà tranh bé nhỏ đơn sơ vùng căn cứ Lộc Ninh, nơi tôi đã sống những tháng năm tuyệt vời vẫn in mãi trong ký ức tôi, nhắc tôi nhớ về kỷ niệm những ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến vô cùng vĩ đại của dân tộc, cuộc kháng chiến mà những người cùng thời với tôi chắc hẳn sẽ chẳng thể nào quên. Hệt như tôi.


Đôi lúc tôi tự hỏi không hiểu vì sao chúng tôi có thể chịu đựng được những gian khổ, những thiếu thốn và cả những mất mát không gì bù đắp nổi trong ngần ấy năm để sống cho trọn vẹn một chữ “sống”. Một chữ “sống” học được từ cả cuộc đời!


Người thể hiện
PHƯƠNG TRANG


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:42:35 am
VÀO CỬA TÂY THÀNH PHỐ


Thượng tá, nhà văn LAM GIANG


Từ bàn đạp cuối cùng

Chúng tôi rời khỏi kênh nước mặn vào lúc 8 giờ sáng. Cả đoàn quân súng đạn cồng kềnh chuyển động như một con nhím khổng lồ xù lông thức dậy. “Xin tạm biệt!”. Câu nói gần như đồng thanh trút ra một cách khoái trá thắng bước tiến vào con đường lớn của trận đánh cuối cùng đầy hào hứng. Lẽ tất nhiên là ai cũng bâng khuâng khi rời khỏi vạt đất dưới võng đã ôm tròn bao giấc ngủ. Nhưng cái gian nan của những ngày trên kinh nước mặn thật xứng đáng được nhắc tới; dù chỉ mấy giờ nữa chúng tôi đã ung dung trên ngoại vi Sài Gòn. Cha! Những dòng kinh sủi màu rêu cua mặn chát, lọc ra hai tầng than củi còn mặn. Gạo trắng mấy, nấu ra, cơm cũng cứ xanh ngoét như lên men. Pháo địch căn ke một ngày mấy hiệp. Vậy mà ai nấy đều phải ráng chịu trong những chiếc công sự nửa đào nửa đắp ẽo ợt bằng cây tràm, cả một binh đoàn dồn lên cái “bàn đạp” cuối cùng làm cho mặt đất vốn sình lầy như sắp bị phá vỡ ra tất cả. Chúng tôi ngồi thum nôn nao đếm từng ngày một, miệng cháy khát một ngụm nước ngọt trong ấp ngày mai.


Đoàn quân chuyển nhanh vào phía Sài Gòn. Chúng tôi để nguyên cả quần áo lội ngang kênh rạch. Tại các bến, xuồng con tấp nập đã chờ sẵn để chở súng đạn qua dòng. Mọi dự kiến đã thực hiện suôn sẻ theo quyết tâm. Các bốt bảo an án ngự trên lộ 10 (từ Long An) vào đã được quét sạch trước đó mấy chục phút để bộ đội vượt qua.


Khoảnh khắc, những rạch tràm đã mất hút vĩnh viễn sau lưng. Dòng quân cuồn cuộn đổ qua cánh đồng ngút mắt trong nắng chiều. Trước mặt, bên phải, bên trái những đám khói oằn oại dựng lên nhiều hình thù kỳ quái, và tiếng súng nổ khi lác đác, khi giật cục làm nẩy ra bao điều phán đoán trong hàng quân. Nhưng có điều chắc chắn những nơi đó đã bị ta “dứt điếm”.


Chưa bao giờ tầm mắt chúng tôi lại bao quát một vùng rộng lớn như thế. Cuối tầm nhìn, Sài Gòn hiện ra một vệt xanh mờ trên đỉnh vành cung. Tiếng súng từ Phú Lâm, Thành Quan Năm, Tân Sơn Nhất xoáy lên vòm trời háo hức, cuốn mạnh bước chân mọi người. Dài theo hai bên đường mòn, những đồ đạc bị bỏ lại, chứng tỏ rằng: đã có hàng ngàn người xuất phát trước không lâu. Họ đã quyết không quay lại nữa. Bây giờ đã là nửa ngày rồi. Ai cũng thấy thời gian đang bị mất đi một cách vô cớ, đáng tiếc. Và như thế cái bết bát nặng nhọc không còn đáng kể gì nữa khi Sài Gòn đang từng phút nhích lại gần.


Cơn mưa chiều

Những đám mây màu chì hội tụ lại rất nhanh rồi một trận mưa bắt đầu quất xuống ào ạt. Trận mưa lớn như giật đổ cả bầu trời nghiêng xuống. Những vùng mưa trắng lóa, sàng sảy điên đảo trên trảng cỏ như muốn ghìm chúng tôi lại. Mặc, đoàn người cứ đội mưa rạp mình băng tới. Tội nghiệp mấy cô gái bị giông đánh bật ra khỏi hàng quân mấy thước lại bươn bả chạy vào tiếp tục đuổi theo. Mưa càng lúc càng dữ dằn. Bất giác tôi nhớ cũng vào giờ này hôm qua Sài Gòn mưa tầm tã. Phát thanh viên ngụy quyền tường thuật tại chỗ buổi lễ “hoán vị” tổng thống “Việt Nam cộng hòa” nói như rên rỉ, như khóc, tả lại bầu trời u ám như cái vận hạn “quốc gia” đã đến giờ vong mạt. Tôi nghĩ thầm đây có lẽ là trận mưa rửa sạch rác rưởi để Sài Gòn đón chúng tôi về với thành phố thân yêu.


Như một sự bất ngờ, cơn mưa đưa chúng tôi lên con lộ lớn - lộ số 9 - găm thẳng vào hướng tây thành phố. Lúc đó tôi thấy tim mình đập rộn lên: Sài Gòn đã rất gần! Trời đã tối lúc nào không ai hay. Cách chừng một trăm thước, một chùm pháo sáng vút lên soi tỏ những lô cốt và dây thép gai làm chúng tôi chói mắt và lo ngại, bước dè dặt. Có người nói vọng lại:

- Cứ đi, du kích dọng pháo sáng để đón xe tăng tới...

Chúng tôi nhanh chóng vượt qua cầu Lớn và thoáng thấy những lá cờ trắng nhoi lên trên nóc tua. Bọn địch ở đây đã ra hàng lúc 3 giờ chiều trong khi xe tăng đang bắn phá mục tiêu ở Đức Hòa. Đường nhựa phẳng lỳ, loang loáng. Chúng tôi chạy ào lên như một cơn gió mạnh.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:43:54 am
Đường vào Xuân Thới Thượng

Có lẽ đã gần sát mặt trận. Không khí chuyển đổi hẳn đi kỳ lạ. Một mảng trời cháy rực, rung động. Chúng tôi đoán là quân trường “Quang Trung”, ở đó những chớp lửa xanh chốc chốc giật lên và tiếng nổ ập ùng vang lại càng rõ. Lũ trực thăng lên cứu nguy và thực hiện các cuộc di tản, bật đèn hiệu đỏ lừ bay nhốn nháo làm tăng thêm sự náo loạn trên vùng trời chiến sự. Khắp bốn bề vẫn sôi bỏng. Từ các đồn bốt liên tiếp vọt lên trời pháo hiệu đỏ như đang kêu cứu tuyệt vọng. Lúc đó các cụm phòng không của ta tung lửa lên vây chặt lấy chiếc C.130 đang quần dai dắng như hóa dại trên vành đai phòng thủ. Chúng tôi càng yên lòng vì biết cả đội hình ta đã lèn chặt trên các hướng và đang tiếp tục quét địch, mở đường vào thành phố.


Đoàn quân rẽ vào Xuân Thới Thượng. Tín hiệu an toàn nhấp nháy đầu ấp đón chúng tôi. Một cái gì ngỡ ngàng xa lạ ùa tới trong cảm giác đầu tiên. Ôi, vùng đất mà chúng tôi chỉ biết tên trên bản đồ và day dứt nhiều về câu hỏi: đến bao giờ thì mình sẽ được đặt chân lên đấy, đêm nay đã thực sự thuộc về ta. Chỉ một khoảng cách ngắn này thôi, mà chúng tôi đã phải đi suốt những tháng năm dài ác liệt bây giờ mới tới nơi, cảm động quá, vui sướng quá! Tự nhiên, Tiến - xạ thủ B.40 cao hứng cất giọng:

Sài Gòn ơi ta đã về đây, ta đã về đây...
Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù
Tiến về Sài Gòn, trận cuối là trận này...

Rồi chợt cậu ta quay lại hỏi tôi:

- Sắp vào Sài Gòn, anh có cảm xúc gì không? Hãy viết một bài thơ liến đi!

Có lệnh tạm dừng. Chúng tôi mở bồng lấy cơm nắm ra ăn. Nhưng nào có ăn được. Lòng bồn chồn: biết bao đơn vị đã vào trước rồi. Chỉ lát nữa thôi sẽ ăn cơm chung với dân thì tội gì mà ngồi đây ăn cơm nắm. Có người liệng hết chén đũa xuống lề đường không như là một lần   trút bỏ hành lý nữa cho nhẹ bớt mà vì phấn khởi, tin tưởng quá.


Những đám lửa cứ phụt lên nung đỏ bầu trời, nhưng cơn lạnh đã thấm sau khi mưa dứt hồi lâu. Mấy cậu lính trẻ gối đầu lên súng ngủ ngon lành trong lúc những đoàn quân không rõ là binh chủng nào nối đuôi nhau xủng xoảng tiến qua.


Chuyện tán gẫu vẫn sôi lên dọc hàng quân. Có tiếng một đồng chí lớn tuổi gọi cô gái nào đó tên là Nhung. Và sau đó cô gái bước lại. Tôi mới hay đơn vị ngồi kế trước là biệt động. Lạ thế, không hiểu vì sao tôi lại dám chắc đó là Nhung trong phim “Chị Nhung” kể chuyện một cô gái Sài Gòn với chiến công tuyệt diệu trong mùa Xuân lịch sử Mậu Thân. Phải chăng những nhân vật độc đáo của Sài Gòn cách đây sáu năm đang cùng chúng tôi trở lại thành phố đêm nay.

- Đề nghị các đồng chí dẹp sang hai bên để xe tăng vào.

Đoàn người đang ngồi bị khua dậy sau lời yêu cầu như thế của đơn vị bộ binh đi đầu trinh sát cho xe tăng. Chúng tôi đứng cả dậy, rộn lên, thả mắt cả về phía cầu Lớn, háo hức trông chờ. Vì thực ra trong chúng tôi nhiều người chỉ nghe thôi chứ chưa bao giờ thấy xe tăng ta. Trong chốc lát, tốp xe tăng hạng nặng dẫn đầu tràn qua. Mặt đường rung lên như sấm, dìm ngập chúng tôi vào một cơn xoáy lốc. Cờ Giải phóng gắn trên ăng-ten bay phần phật hùng dũng. Lính xe tăng nhoài ra hỏi thăm chúng tôi, nhưng tiếng động cơ át cả đi, chỉ còn lại những cặp mắt nhìn theo lưu luyến, cảm phục. Đoàn tăng đang hành tiến khẩn trương vào mục tiêu gợi lên trong tôi hình ảnh những nòng pháo oai vệ kia sẽ gầm lên đập nát quân địch trong nội đô.


Chúng tôi tiếp tục hành quân, cắt ngang đoàn bộ binh đi hộ tống xe tăng, xuyên vào Xuân Thới Thượng. Từ đây chúng tôi sẽ tiến về Tham Lương hoặc theo đường 13 vào ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ. Nghe tiếng xe tăng, đồng bào thức dậy, ra đứng dài hai bên đường vui mừng đón bộ đội. Giữa đêm, tiếng đài bán dẫn vẫn rang rảng truyền đi những bản tin chiến thắng dồn dập của ngày 29 tháng 4. Chúng tôi biết chắc trung đoàn Củ Chi đã qua cầu Bông vào Tân Sơn Nhất, bởi các cứ điểm Củ Chi, Đồng Dù, Trung Hòa đã không còn từ lúc 12 giờ trưa. Dải đất mà đồng bào đang đứng, chúng tôi đang đi thật đặc biệt: mới giải phóng hồi 4 giờ chiều nay. Cả một bộ máy kìm kẹp của địch tan rã nhanh không thế tưởng được khi Trung đoàn Gia Định 1 tiến qua. Giờ thì đơn vị đã vào sâu và thôn ấp hoàn toàn yên tĩnh, thoải mái. Tại giờ khắc này, tuy giặc ở Sài Gòn chưa bị quét sạch, nhưng đồng bào đã tin là bọn địch không bao giờ quay trở lại. Chúng đã chết, đã đầu hàng và vứt bỏ súng đạn chạy tháo thân chỉ để lại một cơ đồ ngổn ngang thảm bại sau mấy chục năm trời tác oai tác quái ở đây.


Đêm đầu giải phóng

Đêm nay - một đêm tròn không chợp mắt. Chúng tôi đã ở giữa lòng dân. Nhà nhà đèn nến sáng trưng, rộn rịp. Các má, các cô, các bác, các chị, các em... vây chặt chúng tôi tíu tít thăm hỏi, chúc mừng. Bao nhiêu chuyện, bao nhiêu câu hỏi âm thầm tích nén bấy nay, giờ bật tung ra tất cả. Đi đường còn mệt và tình hình hết sức khẩn trương, nhưng chúng tôi trân trọng đón nhận và ân cần giải đáp hết cho đồng bào, bơi chúng tôi hiểu chỉ từ nay những người thân mới thực sự cất tiếng nói của lòng mình.


Đêm càng khuya, chuyện càng lan ra mãi. Những cặp mắt long lanh ngấn lệ, những giọng cười sảng khoái hòa vào nhau làm chúng tôi có cảm tưởng như đang về giữa gia đình ruột thịt. Mệt mỏi, đã mấy lần tôi ngả lưng xuống ván, nhưng rồi lại phải bật dậy theo dõi, trả lời hoặc tham gia vào những câu chuyện mới mẻ. Chuyện đồng bào vừa thoát ra khỏi ách kìm kẹp ngột ngạt mấy mươi năm của bọn ngụy quyền phản động, dần dà đi vào chiều sâu. Đại loại là: nhà có con đi lính “quốc gia” mai đây ra sao? Người có nhiều tội ác, cách mạng có tha cho không. Rồi chuyện xã hội, chuyện kinh tế... Chuyện nào cũng đem ra luận bàn sôi nổi. Đến lúc khó có thể ai nghe ai nói nữa, bác chủ nhà phải đứng lên ổn định trật tự bằng cách đưa ra một ý kiến chủ quan của mình:

- Thôi, tôi đề nghị chuyện rắc rối ấy dẹp đi đã, bây giờ hãy nói chuyện Củ Chi, Đồng Dù, Lái Thiêu... chuyện Sài Gòn ta thắng to ngày hôm nay đi đã. Ngày mai bà con có gì úy lạo bộ đội không?

Tiếng cười lại bốc lên chật nhà, nhưng rồi chỉ trật tự được một lát, đâu lại vào đấy. Mỗi câu chuyện như trào ra, xoáy tròn rồi lắng lại trong những câu nói thận trọng cặn kẽ tâm tình. Tôi để ý một bà má có đôi mắt rất sáng đang nói về Cụ Hồ. Có lẽ bà theo đạo Phật. Bà nói về Bác Hồ với vẻ vừa cung kính vừa thần bí bằng một đoạn dài trong kinh Phật. Bà nói về một vị anh hùng đức tài như vị thánh, chính là nói về Bác Hồ. Sau tôi mới biết bà có con là thiếu tá ở một đơn vị đặc công mà suốt mười năm nay bà không dám nhắc tới một cách công khai, ai có thể biết lòng má đang khấp khởi với niềm vui sắp được gặp con mình trong đoàn quân điệp trùng tiến về giải phóng Sài Gòn hôm nay.


Trong nhóm chúng tôi, Năm Thân là người may mắn hơn cả, bởi anh là con rể xã này. Anh bị dựng dậy từ đầu và ngồi như thế suốt đêm. Những người đến trước truyền nhau giới thiệu anh cho người sau với vẻ rất tự hào:

- Thằng Năm chồng con Thắm con ông Hai Huê đó, cán bộ giải phóng, giỏi lắm...

Năm Thân ngồi thế, nhưng anh đang mong cho trời mau sáng để tới thăm gia đình vợ anh. Vì cả nhà chưa hề ai biết mặt. Năm năm trước, đơn vị tổ chức lễ “tuyên bố” cho anh ở trên rừng.

Và không phải chỉ Năm Thân độc nhất có niềm vui hạnh phúc, mà nhiều người trong đơn vị đang cảm thấy sắp gặp lại gia đình trong gang tấc nữa thôi. Phía ngoài, mấy con chim trên cây sa-pu-chê thức giấc, ríu rít. Vầng đông đã ửng lên. Ngày đang đến.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:44:35 am
Một ngày mới bắt đầu

Thủ trưởng đơn vị hội ý chúng tôi cấp bách, phổ biến: chưa hành quân ngay, phải tạm thời dừng chân để làm công tác quân quản cùng chính quyền địa phương. Nghe vậy, chúng tôi hơi thất vọng vì sợ vào Sài Gòn chậm nhất, nhưng đều hăng hái bắt tay ngay vào công việc mới đột xuất này. Giờ đây nhiệm vụ nào cũng quan trọng và cần thiết.


Mọi người khẩn trương thắt băng đỏ vào tay, mang súng đi tiếp quản cơ sở của địch, ôi, thật là vui! Xuân Thới Thượng hôm nay như ngày hội. Xe đò, xe lam, ta-xi, xe gắn máy... chạy kín đường. Người tỏa ra đường phố với áo trắng, áo màu, xen vào đó là những bộ quân phục màu xanh là lạ. Đồng bào không còn lạ lẫm nhìn chúng tôi mà xáp lại chuyện trò và hỏi han đủ thứ về cách mạng. Các tốp nam, nữ thanh niên tay đeo băng đỏ đã tập trung trước trụ sở tề xã cũ chờ chúng tôi giao nhiệm vụ. Họ bắt đầu đi phân phát các bản 10 chính sách của Mặt trận đối với vùng mới giải phóng, 7 chính sách dành cho quân đội ngụy và viết khẩu hiệu. Anh học sinh trung học leo lên viết ngay dòng chữ lớn “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trên một bức tường cao. Tất cả những khẩu hiệu phản động và cờ ngụy ba sọc lập tức bị phá sạch sau đó. Tại khu trung tâm hành chính, lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng tung bay trên nóc trụ sở. Bên trong, bộ đội đang cùng cán bộ địa phương phụ trách cho binh lính, sĩ quan và nhân viên ngụy quyền trình diện, nộp vũ khí. Khắp các cơ sở công cộng ngập ngụa giấy tờ, sách báo, tranh ảnh đang bị thanh niên gom lại thành đống hốt hủy.


Thấy chúng tôi đi bộ, bác xe lam chạy qua, mời lên cùng đi. Vừa chạy, bác vừa say sưa kể chuyện bộ đội đánh vào Sài Gòn. Bác vừa ở nội thành ra tức thì. Lá cờ Giải phóng bắt gió bay trên nóc xe hãnh diện như nét mặt hoan hỉ rạng rỡ của bác. Chúng tôi chia tay bác xe lam nơi ngã ba. Ở đây cảnh tượng thật là náo nhiệt. Đồng bào từ các ngõ tuôn ra đường đầy nghẹt. Mặt đất còn hằn lên chằng chịt vết xích xe tăng và lốp ô-tô. Từng cụm, từng cụm người râm ran bàn tin chiến sự. Nhánh đường đi Tham Lương, xe cơ giới chở đầy bộ đội, xe Jeép của Bộ Tư lệnh, xe thông tin chở máy bộ đàm sắp hàng nườm nượp chuẩn bị nối tiếp vào trung tâm thành phố. Lúc đó đoàn bộ binh dài khoảng 5 cây số tiến qua vẫn chưa dứt đuôi. Chúng tôi tiến lại một đám trẻ con xúm xít thì hóa ra các em đang xem xác mấy thằng cảnh sát dã chiến ngoan cố bị bắn chết chiều qua. Giờ thì bộ quần áo rằn ri hiện lên trước mắt các em không còn là vẻ sợ sệt mà là sự hể hả đáng đời cho bọn ác ôn tay sai. Còn gì thế kia? Ai đi đâu mà trần trụi hàng dài như vậy. À, bọn tù binh từ Hậu Nghĩa lên, bị tóm gọn ngoài bưng đang nhăn nhó bước thấp bước cao đi vào. Đầu óc um tùm, mình mẩy xăm đầy mực tàu như lũ ma chứ không phải là người. Chúng đã đói lả, vừa đi vừa ngấu nghiên nhai bánh mì, khoai lang dân cho, nom thật thảm hại. Cái vẻ tàn ác, lỳ lợm không còn lưu lại một chút nào trên bộ mặt bơ phò, xám xịt của chúng. Và sau đó thì có đến ba ngàn rưởi tên nữa thuộc sư đoàn 25 tan rã chạy về đây chịu bị bắt, làm cho không khí càng thêm náo động.


Chúng tôi đi giữa rộn ràng huyên náo, đến đâu liền bị bao vây và lại phải trả lời liên tiếp những câu hỏi đồng bào nêu ra. Có người chen sâu vào, không phải để nghe mà là để ngắm nhìn cho thật rõ, ý như khẳng định rằng: giải phóng khác xa với “lính quốc gia”. Họ đàng hoàng, hiền hòa, mạnh khỏe và dễ thương chứ không như lời tuyên truyền của “chính phủ”. Trong khoảnh khắc ấy tôi thấy mình vui ngây ngất và như lạc vào một cơn mơ nào, đến lạ. Ánh nắng trải trên những tán lá xanh đầu hạ làm lung linh khuôn mặt phố xá. Hoa điệp đã chúm chím màu vàng trên cao. Nhà cửa hai bên đường bừng lên dưới màu cò xanh đỏ. Một em bé gái từ đâu nắm lấy tay tôi:

- Chú ơi, chỉ giùm chỗ ba cháu cho cháu với!

Bất ngờ quá, tôi nói đại:

- Được, nhưng chú có biết ba cháu là ai đâu.

Em vẫn rịt chặt tay tôi, phân trần:

- Ba cháu về đánh Sài Gòn mà, nhất định các chú biết!

Em bé gái thật thà và ngây thơ quá làm chúng tôi phì cười. Giữa lúc đó, người hai bên đường bỗng la lên ồn ã. Dương Văn Minh đã lên đài tuyên bố đầu hàng. Tim tôi như ngừng đập. Chúng tôi sững người, trố mắt nhìn nhau không nói được gì. Nước mắt rơm rớm trào ra nóng hổi. Em gái ngơ ngác ngước nhìn chúng tôi. Và, hầu như không còn để tâm đến câu chuyện em bé trước mặt, tôi giơ tay lên nói lớn: “Hòa bình rồi, bọn giặc đã đầu hàng. Chiến tranh đã kết thúc, hòa bình rồi!”.


Bỏ lại một đám đông, chúng tôi chạy bổ về nhà, lòng bàng hoàng, chân bước ríu vào nhau. Tiếng la cười ồn ã ngoài đường. Bác trai rót rượu, nâng ly lên cao, chúng tôi mỗi ngươi một ly đồng chạm vào nhau chúc mừng chiến thắng.

Chúng tôi lên xe, tiếng của bác chủ nhà còn vọng theo:

- Dương Văn Minh đầu hàng rồi. Vào Sài Gòn lẹ đi mấy con!


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:45:43 am
Vào Sài Gòn

Lại một đêm không ngủ, lính ta vẫn giữ thói quen ở rừng, mắc võng tràn lan trong các ngôi nhà căn cứ thông tin quân ngụy (đối diện với trường Đại học Y khoa bây giờ), nơi một bộ phận sở chỉ huy tiền phương Thành đội Sài Gòn - Gia Định vừa tiếp quản, mặc cho ở đó dư dả giường ghế. Nhưng nào ai có chợp mắt được một phút trong cái cảnh nửa mơ nửa thực đó. Và hình như Sài Gòn cũng không ngủ. Trong những ngày dài nhất không đêm không ngày này, cảm giác thời gian được xác định khi ánh nắng bình minh chảy tràn trên màu bông điệp rực rỡ. Hòa vào màu hoa là những rừng cờ tươi thắm. Chúng tôi chìm ngập vào bầu không khí náo nhiệt của Sài Gòn giải phóng.


Sáng ra, đơn vị triển khai ngay công tác quân quản khu vực này. Bộ đội vừa ra ngoài đường phố, lập tức bị lọt vào giữa những vòng vây người. Quanh chúng tôi những gương mặt tươi vui trìu mến pha chút tò mò của nhiều lớp tuổi tác. Chúng tôi ai cũng bận quân phục xanh, đầu đội mũ tai bèo và đeo súng, “bộ cánh” nguyên thủy mang từ chiến khu về. Các em nhỏ cố chen vào bên trong như được để tận mắt trông thấy các chiến sĩ bằng xương bằng thịt, những con người không có gì ghê gớm cả nhưng đã làm cho hơn một triệu quân “quốc gia” sụp đổ thua chạy không còn mảnh giáp, trút bỏ lại ngổn ngang những súng ống, xe cộ, máy móc... Với các chị em, các chiến sĩ Giải phóng quân từ đây là “thần tượng” chiến thắng. Họ trẻ trung, hiền lành, giản dị và gần gũi thân thương với mọi người. Có nhiều tiếng nói lao xao:

- Thế này mà phe của ông Thiệu rêu rao là bảy người Việt cộng đeo một cành đu đủ không gãy.

- Toàn nói dóc không sách vở!

Mọi người đều cười một cách khoái trá, cởi mở. Rõ ràng luận điệu chiến tranh tâm lý sặc mùi phản động của chính quyền Thiệu “Việt cộng sẽ vào tắm máu” là nói láo. Đồng bào không những không hề sợ sệt khi thấy bóng dáng bộ đội mà còn xáp lại với những cử chỉ mạnh dạn thân tình và mến mộ. Một em bé trai chừng tám tuổi tự nhiên vén tay áo tôi lên:

- Xin lỗi chú, cháu coi có chữ “sinh Bắc, tử Nam” không?

Tất cả lại cười rộ lên. Tôi cảm thấy xót xa: Kẻ thù đã không từ một thủ đoạn nào trong việc đầu độc dân chúng. Chúng đã vẽ vời biết bao chuyện hoang đường độc ác về cách mạng.

Nhiều em đi theo sát chúng tôi, đưa tay sờ vào khẩu súng, bao đạn với vẻ hết sức thích thú, hãnh diện.

Nhóm chúng tôi tách khỏi đám đông để đi làm nhiệm vụ quân quản, công việc quan trọng hàng đầu lúc này. Con lộ Hùng Vương - nơi chúng tôi đang đi, dòng xe người chảy xiết, muốn lách qua đường phải chờ ít lắm cũng vài phút. Một ta-xi dừng lại, bác tài vẫy tay vồn vã:

- Lên đây, lên đây mấy chú Giải phóng, ngộ chở đi. Đi bộ cực quá!

“Ngộ” là gì, mới đầu chúng tôi không hiểu, nhưng không thể từ chối lòng tốt của bác tài xế. Chỉ một đoạn đường ngắn thôi nhưng bác nói thật nhiều về Sài Gòn giải phóng. Bác trầm trồ khen bộ đội giải phóng hết lời. Bác nói một cách tự hào rằng hai hôm nay bác đã chở rất nhiều bộ đội vào thành phố mà không lấy một cắc bạc. Bác tin tưởng là chính quyền Sài Gòn tan rã thực sự và không bao giờ quay trở lại. Lát sau chúng tôi hiểu bác là một người dân lao động người Hoa ở Chợ Lớn. Người Hoa cũng rất tích cực ủng hộ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ. Họ là một lực lượng đấu tranh quyết liệt không khoan nhượng với chế độ Sài Gòn thôi nát, tay sai đế quốc Mỹ.


Chúng tôi xuống xe và gặp ngay phải cảnh khó xử. Một chị đẩy chiếc xe nhỏ đi qua bỗng nhiên dừng lại “bắt” anh em chúng tôi mỗi người phải uống một ly nước dừa. Đi dưới nắng tháng Năm, lại phải liên tục trả lời và giải thích những câu hỏi của đồng bào, ai cũng khát nước, nhưng nghĩ tới kỷ luật dân vận, chúng tôi một mực từ chối. Tuy thế chị đã nạo cơm dừa đầy ly nước, bỏ đá vào nói thật ngọt:

- Các anh không uống là em buồn lắm đó.

Nhìn vẻ mặt thiết tha của chị, chúng tôi đành nhượng bộ. Đúng là ly nước dừa vừa ngọt vừa mát như lòng người Sài Gòn vậy. Vừa rời khỏi xe nước đá, tôi có cảm giác như bị ai đó níu lấy. Ngoảnh lại thì đối diện ngay với một thanh niên. Anh mỉm cười rồi hỏi một câu thật đột ngột:

- Các anh là Bộ đội Cụ Hồ?

Danh từ này ở đây còn hiếm lắm, sao anh ta lại biết? Tôi nghĩ vậy nhưng vẫn nghiêm trang đáp:

- Vâng, chúng tôi là Bộ đội Cụ Hồ.

Anh thanh niên trở nên nhanh nhảu, hoạt bát:

- Vậy thì chắc các anh phải có hình Bác Hồ.

Chúng tôi lúng túng nhìn nhau. Chợt nhớ trong ví có tấm ảnh Bác đứng vẫy tay (cỡ 6x9) một anh bạn tặng hồi còn ở Lộc Ninh, tôi trả lời:

- Có, nhưng không thể cho được vì tấm ảnh này là vật kỷ niệm của tôi.

- Cho tôi mượn chút xíu thôi.

Anh ta vừa nói vừa rút máy ảnh ra. Tôi trao tấm ảnh Bác, anh liền đón lấy, nhẹ nhàng đặt lên gờ xi-măng vỉa hè giơ máy ảnh chụp lia lịa. Một lát anh rút ra nhiều tấm ảnh Bác Hồ đem tặng chúng tôi và những người đang đứng vây quanh. Mọi người tranh nhau xin ảnh Bác. Các em nhỏ nhanh tay hơn đón được, chạy ra la lớn: “Bác Hồ! Bác Hồ”. Bà con xúm lại càng đông đảo hơn. Tôi cực kỳ xúc động trước cảnh tượng đó và chợt nhớ câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:

Dù ai rào dậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ

Các tốp thanh niên, thiếu nhi đi theo nhiều toán bộ đội dọn dẹp pa-nô, bảng hiệu của chính quyền cũ và thay vào đó những khẩu hiệu cách mạng viết vội vàng nhưng có sức thu hút mọi người. Tại một bức tường lớn chạy dài, mấy anh thanh niên tóc phủ kín gáy đang cặm cụi viết lời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi ngắm nghía và phát hiện ra hai chỗ chưa đúng: Thiếu chữ “có” trong nhóm từ “không có gì” và thừa chữ “và” nằm giữa hai từ ghép “độc lập” “tự do”. Tôi mạnh dạn góp ý, các anh vui vẻ nhận thiếu sót và liền kì cọ viết lại.


Càng đi chúng tôi càng bắt gặp thêm biết bao hình ảnh cảm động như thế. Nó tương phản với cảnh hoảng loạn, tan rã của quân thù phơi bày qua hàng đống quần áo rằn ri của lính ngụy, những núi công văn giấy tờ vương vãi trong các công sở. Những hình ảnh thảm bại đó đang lùi lại phía sau. Trước mắt, là những đoàn người cùng với cờ hoa náo nức chào đón những đoàn quân. Trong đó có biết bao người mẹ, người chị đã thức thâu đêm may cờ cho cuộc nổi dậy giành quyền làm chủ hôm nay. Các cô gái, chàng trai từng dẫn đường cho các cánh quân tiến vào thành phố và vận động làm binh biến tan rã quân địch trong những ngày sục sôi Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đoàn quân không súng ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho anh Bộ đội Cụ Hồ làm nên chiến thắng hôm nay.


Kỷ niệm của những ngày đầu giải phóng thành phố Sài Gòn không thể tả bằng lời. Một cái gì thiêng liêng đọng mãi trong ký ức của những người lính từng vượt qua bao nhiêu chặng đường máu lửa, hy sinh đi tối ngày toàn thắng của đất nước.


Và mỗi độ tháng Tư về, khi những bông điệp thắp lên cái màu vàng rực rỡ tinh khôi, lòng tôi lại vang lên khúc hát "Sài Gòn ơi ta đã về đây, ta đã về đây..." như một tráng khúc oai hùng, mà điểm tựa của bài ca chiến thắng lẫy lừng ấy là Nhân dân.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:49:33 am
PHI ĐỘI QUYẾT THẮNG


Đại tá nhà văn HÀ BÌNH NHƯỠNG


30 năm đã trôi qua. Đến nay đồng chí Trung tướng Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri - người trực tiếp chỉ huy PHI ĐỘI QUYẾT THẮNG ngày ấy đã vượt quá tuổi "cổ lai hy". Các phi công trong Phi đội trừ Hoàng Mai Vượng đã hy sinh, tất cả đều đã thâm niên mang hàm Đại tá, giữ các trọng trách trong Quân chủng và đều đã và sắp là ông nội, ông ngoại, nhưng nhớ lại hào khí trong PHI ĐỘI QUYẾT THẮNG ngày đó đều thấy mình như đang còn rất sôi nổi trẻ trung.


Cuối tháng 12 năm 1974, đoàn không quân Yên Thế được lệnh chuyển về các sân bay phía Nam luyện tập. Việc chuyển trường chưa từng có ấy với Nguyễn Văn Lục đã như chim én bay về báo hiệu mùa xuân. Niềm hy vọng, vui sướng tràn ngập lòng anh. Lục náo nức cảm thấy có cái gì đấy rất mới và trọng đại lắm sắp mở ra...


Lục là một đại đội trưởng trẻ tuổi. Năm nay anh vừa tròn 28 tuổi. Vào bộ đội một thời gian, Lục được chọn đi học trường không quân và tốt nghiệp lái máy bay MIC.17. Năm 1968, sau ngày ra trường về đơn vị, trong trận đánh đầu tiên Lục đã bắn hạ chiếc máy bay không ngươi lái của giặc Mỹ khi nó vừa xâm phạm vùng trời miền Bắc. Đến ngày 6 tháng 5 năm 1972, anh đã cùng với Nguyễn Văn Bảy cất cánh trong một biên đội hai chiếc. Lần này tình huống quyết liệt hơn, nhưng Lục đã tỏ ra rất mưu trí dũng cảm, bắn tan xác một máy bay F.4 của Mỹ trên bầu trời Thanh Hóa.


Thế rồi Hiệp định Pa-ri ký kết. Lục tưởng rằng còn lâu mới có cơ hội lập công. Nào ngờ giữa lúc cả đơn vị đang náo nức say mê luyện tập thì Lục cùng mấy anh em khác được thủ trưởng đoàn gọi lên giao nhiệm vụ đột xuất: cấp tốc học lái máy bay A.37 ta mới thu được của địch để đánh địch.


Suốt đời Lục sẽ không bao giờ quên được những ngày lịch sử vĩ đại này. Đó là những ngày mà chiến sự của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 đang diễn ra rầm rộ và nhanh chóng chưa từng thấy. Khi Lục được giao nhiệm vụ đột xuất này, thì quân ta đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh từ Quảng Trị tới Phan Rang, Phan Thiết... Địch đang bị dồn tới tận sào huyệt cuối cùng của chúng là Sài Gòn, Gia Định. Cấp trên quyết định mở chiến dịch lớn cuối cùng mang tên Bác Hồ vĩ đại, nhằm tiêu diệt hoàn toàn kẻ thù để giải phóng Tổ quốc.


Sau mấy ngày luyện tập căng thẳng, vất vả tại sân bay ứng dụng, ngày 24 tháng 4 năm 1975 cấp trên quyết định thành lập một phi đội đặc biệt lấy tên là “Phi đội Quyết Thắng”. Phi đội nằm trong đại đội 4, đơn vị anh hùng thuộc đoàn Yên Thế cùng là đơn vị anh hùng. Với truyền thống ấy, cấp trên đã giao nhiệm vụ và rất tin tưởng vào “Phi đội Quyết Thắng". Phi đội gồm có: Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Thành Trung, Từ Đễ, Hán Văn Quảng, Hoàng Mai Vượng. Tất cả đều là những phi công trẻ, tuổi đời chưa quá 30. Họ là những cánh chim đại bàng đại diện cho bộ đội Không quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này.


Nguyễn Thành Trung - cơ sở nội tuyến của ta cài trong hàng ngũ địch, sau khi ném bom dinh “Độc Lập” trở về vùng giải phóng, được lệnh tham gia “Phi đội Quyết Thắng”, đã sung sướng đến ứa nước mắt. Anh bồi hồi trên đương đi tới Đà Nẵríg. Tại đây hiện có một số phi công của ngụy mà trong khi hốt hoảng sợ hãi tột độ, tên chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh - sư trương sư đoàn 1 không quân ngụy cuốn gói chạy trốn đã bỏ lại. Nguyễn Thành Trung đến sân bay này. Anh gặp lại Trần Văn On và Trần Ngọc Sanh, hai phi công cùng học lái loại máy bay A.37 ở Mỹ với anh trước đây. Sanh và On đã được cách mạng chọn vào sân bay làm việc để có dịp đới tội lập công. Riêng On còn vinh dự hơn, được tham gia vào “Phi đội Quyết Thắng”, được cùng ngồi chung một máy bay với Hoàng Mai Vượng. On xuất thân từ một gia đình nông dân quê ở Gò Công, người nhỏ nhắn, ít nói. Ngay từ khi còn đi học với nhau và sau này về nước, Trung biết On bị bắt buộc phải đi lính. Khánh bỏ chạy, On và Sanh đã ra trình diện sớm nhất với cách mạng. Được gặp Trung, lại vinh dự cùng ở phi đội với Trung, On rất mừng. Nguyễn Thành Trung còn sung sướng hơn, từ bao năm ao ước, giờ đây đã thực sự được sống cùng với các phi công cách mạng, những người đồng chí của mình. Đó là Từ Đễ - một thư sinh đã lớn lên ở Thủ đô có chiều cao vượt tiêu chuẩn phi công và phong cách rất Hà Nội. Đề là con trai Giáo Sừ, đại tá quân y Từ Giấy. Anh được cử đi học đại học ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp phổ thông, nhưng đã tình nguyện xin vào bộ đội. Đễ không ngờ mình được đào tạo thành chiến sĩ không quân lái máy bay MIC. 17, và nhất là không thể ngờ có vinh dự tham gia chiến dịch vĩ đại này. Cùng lớp học với Đễ có nhiều đồng chí đã lập công, có đồng chí đã trở thành Anh hùng quân đội như Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Đức Soát. Anh ở đơn vị bay đêm, nên chưa có dịp thử sức mình. Vì thế, được chọn vào “Phi đội Quyết Thắng” lần này, Đễ sung sướng như bay trong khát vọng.


Vượng cũng vậy. Là một “cánh bay” rất đĩnh đạc, bản lĩnh, nhưng sống xuề xòa dễ tính, nói chuyện rất có duyên và mủm mỉm cười nụ suốt ngày. Vượng đồng cảnh và cùng một tâm tư như Từ Đễ, nên khi được chọn vào “Phi đội Quyết Thắng”, anh vỗ tay nhảy lên reo vui vì sung sướng.


Quảng, chàng trai quê ở Phú Thọ lại có dáng vóc đậm đà lúc nào cũng tươi tỉnh hòa nhã, ai mới gặp cũng dễ mến. Mỗi lần bay trên bầu trời Tổ quốc, qua rừng cọ, đồi chè, qua dòng sông Lô và cầu Việt Trì của quê hương, nhất là qua đất Tổ, Đền Hùng, Quảng lại mong mình là nhà thơ để nói lên được hết cảm xúc của mình. Anh đã làm thơ, nhưng thơ của anh không sao diễn tả hết được những điều anh muốn nói.


Một chiếc máy bay trực thăng được lệnh chở “Phi đội Quyết Thắng” tới một sân bay phía Nam mà ta mới chiếm được của địch. Vừa bước xuống đường băng, các chiến sĩ đã nhìn thấy ngay một chiếc A.37 đỗ sừng sững. Họ bắt tay ngay vào làm quen với máy bay mới, rồi luyện tập luôn. Thời gian lúc này đối với họ vô cùng quý giá. Lãng phí một phút, lơ là để lỡ thời cơ là có tội với Tổ quốc.


Theo chỉ thị của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Không quân ta chỉ được đánh vào chiều 28 tháng 4. Sớm nữa, chưa phải thời cơ tốt nhất. Không đánh được sẽ không còn ngày nào khác. Thời điểm đó đã được tính toán chi li, và đây là trận đánh mang ý nghĩa tầm vóc lớn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Như vậy chỉ còn ba ngày. Vì thế các chiến sĩ ta đã miệt mài quên ăn, quên nghỉ để thực hiện ý đồ tác chiến của trên, và cũng là nguyện vọng nóng bỏng của cả phi đội.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:53:17 am
Nắng chang chang như đổ lửa xuống đường băng, hắt hơi nóng hầm hập. Mặc nắng. Mặc nóng. Ai cũng sợ lỡ thời cơ. Vừa bay xong, mồ hôi đang còn nhễ nhại ướt đẫm, các chiến sĩ “Phi đội Quyết Thắng” lại xin được tiếp ngay bài bay mới. Một ngày phải hoàn thành mấy bài bay: bay đơn, bay không vực, bay bổ nhào, ném bom... Không đủ trình độ như thế làm sao chiến đấu được?


Bình thường những khối kiến thức ấy phải học, phải tập luyện hàng mấy tháng. Bây giờ chỉ rút xuống ba ngày. Trong ba ngày, phải sử dụng thành thạo loại máy bay ném bom hiện đại A.37 này. Đó là mệnh lệnh, là trách nhiệm mà Tổ quốc đã tin cậy trao cho. Vinh dự hết sức vẻ vang, nhưng trách nhiệm vô cùng nặng nề. Bởi A.37 là loại máy bay cấu tạo phức tạp. Đặc biệt hệ thống đồng hồ của A.37 bố trí không gọn, nó trải ra cả hai bên khoang lái. Các ký hiệu trên đó toàn bằng tiếng Anh. Điều mới nữa, A.37 là loại máy bay ném bom, nên riêng hệ thống điều khiển bom cũng phức tạp. Có rất nhiều nấc trên một trụ xoay. Nấc dự bị, nấc một quả, nấc hai quả, nấc bốn quả, nấc khẩn cấp. Ở mỗi nấc lại có một kiểu xoay... tất cả sự cấu tạo phức tạp ấy đòi hỏi các phi công ta phải học thuộc, phải sử dụng thật thành thạo. Đấy là chưa kể việc nhào lượn, xác định đúng mục tiêu và ném bom mà trận đánh này phải ném bom thật chính xác. Đó không những là yêu cầu về mặt quân sự mà còn có ý nghĩa rất lớn về chính trị.


Những chiến sĩ thợ máy ở đại đội 12 của Lại Trọng Kha và Nguyễn Quang Phảng cũng chỉ được có thời gian cấp tốc ba ngày như thế. Ba ngày, đang từ làm nhiệm vụ bảo quản, sửa chữa máy bay MIC. 17 phải đảm bảo cho các phi công ta bay bằng máy bay A.37. Họ phải làm quen nhanh với cách cấu tạo, bố trí máy và ký hiệu hoàn toàn bằng tiếng Anh. Mọi phương tiện phục vụ cho một chuyến bay không đầy đủ, có nền nếp như ở sân bay căn cứ của mình. Địch tháo chạy, vứt lung tung. Tuy có được bổ sung một số nhân viên kỹ thuật ngụy, dưới sự điều khiển hướng dẫn của phó tiến sĩ Hồ Thanh Minh - một cán bộ kỹ thuật của không quân ta, nhưng mọi việc từ bơm dầu, mắc bom... các chiến sĩ đại đội 12 hoàn toàn phải làm chủ.


Trong khi các chiến sĩ khẩn trương say mê luyện tập thì tại cơ quan tham mưu, những mái tóc đã hoa râm chụm lại, đăm chiêu, suy nghĩ, bàn bạc xác định phương án chiến đấu. Một câu hỏi đặt ra: đánh vào đâu? Biết bao nhiêu mục tiêu quan trọng cần tiêu diệt: kho bom Nhà Bè, bộ tổng tham mưu, dinh “Độc Lập”, bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia, sân bay Tân Sơn Nhất... Cuối cùng, theo gợi ý ở trên, phương án chiến đấu được quyết định nhằm vào khu vực để máy bay tại sân bav Tân Sơn Nhất. Cây chì đỏ trong tay đồng chí Tư lệnh Quân chủng khoanh một vòng tròn ở vị trí quan trọng ấy. Nhưng một khó khăn vô cùng lớn, mục tiêu oanh kích chỉ cách nơi ở của hai phái đoàn quân sự ta khoảng 300 mét. Bằng mọi cách, phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các đồng chí ấy.


Đúng 2 giờ chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, cả phi đội được tập trung trong một căn nhà nhỏ tại sân bay. Đồng chí Tư lệnh Quân chủng mái tóc đã bạc quá nửa, da sạm nắng, lanh lẹ bước vào. Mọi người đứng dậy. Trong không khí trang nghiêm, đồng chí Tham mưu trưởng trải lên mặt bàn tấm bản đồ lớn nhiều ký hiệu đã được đánh dâu trên đó. Tư lệnh gọi các phi công lại gần. Tất cả đều yên lặng, chăm chú nghe phổ biến phương án chiến đấu, nhận rõ đường bay, trận địa cao xạ, tên lửa của ta và hỏa lực phòng không của địch. Tham mưu trưởng chỉ đường bay xong, liền phổ biến những quy định nghiêm ngặt trong khi bay để đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ cho trận đánh.


Không khí mỗi lúc một trang nghiêm, xúc động. Đồng chí Lê Văn Tri - Tư lệnh Quân chủng, người trực tiếp tổ chức chỉ huy trận tấn công lịch sử này, đứng lên. Ông lặng lẽ nhìn kỹ từng gương mặt các chiến sĩ thân yêu của mình rồi dõng dạc ra lệnh. Giọng ông sang sảng:

- Các đồng chí! Theo tinh thần mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, tiếng bom của không quân ta ở Tân Sơn Nhất sẽ là hiệu lệnh tổng công kích cho đại quân ta đồng loạt nổ súng tiến công giải phóng Sài Gòn. Đây là trận đánh hiệp đồng quân, binh chủng lớn nhất từ trước đến nay của quân ta. Tôi ra lệnh cho các đồng chí cất cánh đi ném bom trúng khu để máy bay của địch ở Tân Sơn Nhất!

Các đồng chí hãy quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang này, chúc các đồng chí thành công!

Nghe tiếng nói giọng Quảng Bình, tuy dõng dạc nhưng đầy xúc động của Tư lệnh, các chiến sĩ trong “Phi đội Quyết Thắng” đều thấy lòng mình bừng bừng. Hơn lúc nào hết, giờ đây từng người càng hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình: đại diện cho quyết tâm, ý chí của toàn binh chủng. Đôi mắt Nguyễn Thành Trung mở to, chớp chớp. Anh đứng nghiêm thay mặt phi đội hứa trước đồng chí Tư lệnh: bằng bất cứ giá nào "Phi đội Quyết Thắng” cũng hoàn thành nhiệm vụ trở về. Cả phi đội cùng xúc động. Nhịp đập của những trái tim đều rung theo tiếng nói của Trung, coi đó là lời thề thiêng liêng của mình trước Tổ quốc.


Đúng 16 giờ 15 phút, từ đài chỉ huy, hai phát pháo hiệu đỏ vút lên. Giờ thiêng liêng đã đến: năm chiếc A.37 lướt trên đường băng rồi lao vút lên không trung.

Bầu trời rộng bao la, phía trước là những đám mây khổng lồ tím sẫm cuồn cuộn đùn lên.

Lên tới độ cao quy định, phi đội tập hợp theo phương án: Nguyễn Thành Trung bay số 1, Từ Đễ bay số 2, Nguyễn Văn Lục bay số 3, Hoàng Mai Vượng và Trần Văn On bay số 4 và Hán Văn Quảng bay số 5.

Đây là một phi đội lớn, tổ chức hành quân chiến đấu trong điều kiện đặc biệt. Có thể coi đó là những chiến sĩ đặc công rất tinh nhuệ hoạt động trên bầu trời. Bởi thông thường trong những trận chiến đấu mà các chiến sĩ phi công đã tham gia trước đây, việc chỉ huy, liên lạc từ mặt đất và trên không là hoàn toàn thông suốt liên tục. Họ thường xuyên nhận được chỉ thị từ mặt đất điện lên. Đồng thời các phi công cũng luôn trao đối với nhau phối hợp, xử trí những tình huống phức tạp. Nhưng trong trận này, ta sử dụng máy bay địch để đánh địch, nên không thể lấy cùng hệ thống vô tuyến điện trong không quân của chúng. Bởi thế, để giữ được bí mật, trên bầu trời bao la, cả phi đội đều âm thầm lặng lẽ, không ai được nói một lời nào.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 06:54:07 am
Cả phi đội bám sát theo máy bay Nguyễn Thành Trung. Mây mưa đùn lên mỗi lúc một dày đặc với những tia chớp lằng nhằng. Có người băn khoăn. Nhưng không, phải lợi dụng ngay những đám mây này. Trong khi tất cả mọi phi tuần của địch được lệnh ngừng hoạt động vì thời tiết xấu, thì đúng lúc ấy ta sẽ tiến công. Quả đấm bất ngờ bao giờ cũng khủng khiếp và có sức mạnh gấp bội. Nguyễn Thành Trung nhìn thấy những đám mây ấy có một lỗ hổng. Anh quyết định phải chui vào lỗ hổng hiếm hoi đó. Cả phi đội theo Trung từ hướng Y bay qua B rồi tiến thẳng về Tân Sơn Nhất. Tất cả đều im lặng, nhưng lòng mỗi người đều cồn cào. Họ bay dọc theo quốc lộ 1 nườm nượp từng binh đoàn ta tiến quân như nước chảy trong vùng giải phóng. Vùng giải phóng trải dài theo cánh bay, phấp phối rợp trời cờ cách mạng. Và đây rồi: Sài Gòn rộng mênh mông với những dãy phố, những tòa nhà, những con sông uốn lượn quanh co. Ôi Sài Gòn thân yêu! Chúng tôi đang đến đây!...


Cả phi đội đã tới vùng B. Tiếng nói của quân địch đang điều khiển máy bay từ Tân Sơn Nhất đã dội lên lao xao trong ống nghe. Hơn lúc nào, các phi công của ta tập trung hết nghị lực và trí tuệ chuẩn bị cho trận tấn công này. Họ khéo léo lẩn tránh những đám mây giông, và trong chốc lát cả phi đội đều nhận rõ ám hiệu của Trung báo cho biết đường băng sân bay Tân Sơn Nhất đang ở ngay phía trước.


Tất cả đều rất tỉnh táo thận trọng, kiểm tra lại mục tiêu oanh kích cho thật chính xác. Phía bên kia, bên phải cánh tay là khu nhà nơi hai phái đoàn ta trong Ban liên hiệp quân sự đang ở. Phải xác định thật đúng đường bay, bảo đảm an toàn cho các đồng chí trong phái đoàn quân sự ta...


Bỗng trong tai nghe các chiến sĩ ta vọng lên giọng nói dồn dập của viên sĩ quan ngụy phụ trách đài chỉ huy sân bay:

- A.37 của phi đoàn nào? A.37 của phi đoàn nào?...

Cả phi đoàn vẫn ung dung lặng lẽ bay qua và nhanh chóng chuyển sang đội hình tập kích. Lòng căm thù địch sục sôi trong tim họ. Dưới cánh bay, trên đường băng Tân Sơn Nhất kia đã hiện lên những chiếc máy bay Mỹ nằm xếp hàng dài. Chính những chiếc máy bay này đã đem bom đi giết hại bao nhiêu đồng bào ta, tàn phá quê hương ta...


Nguyễn Thành Trung lên cao, lấy đà nhào xuống cắt bom. Từ Đễ nhào theo, vừa cắt bom vừa quát lên trả lời bọn ngụy:

- Máy bay A.37 của Mỹ chế tạo đây!

Tiếp theo đó là Lục, Vượng rồi Quảng... từng cột khói đen kịt dựng lên. Tiếng nổ dây chuyền nối tiếp nhau. Lửa bốc cháy dữ dội. Những chiếc máy bay quân sự Mỹ tung ra từng mảnh. Tiếng la hét hoảng loạn của bọn tướng tá ngụy từ dưới gọi chỉ huy sân bay dội vào ống nghe: “Chết cha rồi! Việt cộng oanh kích! Việt cộng oanh kích!”.


Khi người cuối cùng trong phi đội hoàn thành nhiệm vụ, Nguyễn Thành Trung ra hiệu tập hợp đội hình, thì sân bay Tân Sơn Nhất đã ngùn ngụt lửa khói. Bấy giờ từ phía dưới, bọn lính phòng không bảo vệ sân bay mới vội vã bắn được mấy loạt đạn. Nguyễn Thành Trung vòng lại, trút nốt quả bom cuối cùng lên đầu chúng, rồi làm nhiệm vụ bay phía sau yểm hộ cho "Phi đội Quyết Thắng” trở về...


Cũng trong lúc ấy, tại sân bay căn cứ, từ đồng chí Tư lệnh quân chủng tới các đồng chí sĩ quan tham mưu chính trị, chiến sĩ, thợ máy và rất đông cán bộ, chiến sĩ các binh chủng khác đang sống trong giờ phút căng thắng. Bởi theo dự kiến thì 18 giờ 40 phút các chiến sĩ ta đã về sân bay xuất phát. Vậy mà đồng chí trợ lý tác chiến cứ sau mấy giây lại hỏi một lần: “Sao Băng đâu? Sao Băng đâu? Bắc Đẩu gọi, nghe rõ, trả lời!...”.


Nhưng trong máy nói cao không, vẫn hoàn toàn im lặng. Tư lệnh Lê Văn Tri thấy người nóng ran. Đồng chí chắp tay sau lưng bước những bước dài trở đi trở lại.

Để đỡ bồn chồn, Tư lệnh quay sang hỏi chuyện đồng chí Trần Mạnh và Trần Hanh - hai cán bộ chỉ huy của không quân đã từng lặn lội với những chiến sĩ “Phi đội Quyết Thắng” từ mấy hôm nay. Nhưng chỉ một đôi câu, đồng chí lại bước đi những bước dài trên sàn lầu chỉ huy.

Thực ra, các chiến sĩ ta chỉ im lặng khi chưa đến mục tiêu. Họ đã reo vui trong vô tuyến điện khi thấy cảnh hỗn loạn của kẻ thù. Và khi ấy Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục đã gọi điện báo: các anh đang trên đường về. Nhưng vì bay thấp, thời tiết lại xấu quá, Bắc Đẩu vẫn không nghe được tiếng Sao Băng.


Mãi tới lúc cả phi đội bay về tới gần sân bay căn cứ, liên lạc giữa mặt đất và trên không mới được thông suốt.

Lúc này, mặt đồng chí trợ lý tác chiến bỗng tươi rói:

- Báo cáo thủ trưởng, đã thấy Sao Băng!

- Sao Băng đâu? Bắc Đẩu gọi!

- Sao Băng đây! Sao Băng đây!

Cả đội Sao Băng lần lượt đáp tiếng gọi của Bắc Đẩu.

Từ chân trời phía Nam một chấm rồi hai chấm nhỏ xuất hiện. Những chấm đen rõ dần thành những cánh chim. Số 1, số 2 rồi cả năm cánh chim đại bàng làm xốn xang cả bầu trời. Từng con “chim đại bàng” lần lượt lướt trên đường băng...


Mọi người sung sướng chạy ùa tới, máy bay vừa dừng lại. Trước lúc ấy, Tư lệnh đặt tay xuống mặt bàn như đập quân cờ cuối cùng, kết thúc một ván cò thắng lợi. Ông chạy vội xuống cầu thang ra đầu sân bay, và vô cùng cảm động lần lượt ôm hôn rất lâu từng “con chim đại bàng”, khi họ vừa từ trên buồng lái bước xuống. Không chỉ có anh em trong không quân, cả chiến sĩ bộ binh với bao con mắt, nụ cười, bàn tay... đổ dồn, xô đến, quây lấy các chiến sĩ "Phi đội Quyết Thắng”. Nhiều người rưng rưng nước mắt.


Sau đó không lâu, đồng chí Tư lệnh Quân chủng nhận được bức điện báo của cấp trên khen ngợi và cho biết: Cuộc oanh kích do "Phi đội Quyết Thắng” thực hiện rất chính xác, hiệu quả chiến đấu rất cao và bảo đảm an toàn tuyệt đối cho phái đoàn quân sự ta. Tin ấy làm cho các chiến sĩ trong phi đội càng thêm sung sướng, xúc động, tự hào.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:07:36 am
CUỘC “GẶP GỠ” BẤT NGỜ


Đại tá, nhà văn THÁI HẢI AN


Trận tiến công của không quân ta bằng máy bay A.37 vừa đoạt được của địch ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử. Nó đã được gọi là “Hiệu lệnh tổng công kích” cho đại quân ta Tổng tiến công giải phóng Sài Gòn.


Tầm vóc của chiến công lớn này không phải qua miêu tả trực tiếp sự chỉ đạo tài giỏi của các cấp chỉ huy từ Bộ Tổng tư lệnh trở xuống trong việc lấy máy bay địch đánh địch bất ngờ, đúng thời cơ. Cũng không phải là sự phản ánh, tái hiện lại sự thông minh, mưu trí quả cảm của các chiến sĩ không quân ta đã vượt qua vô vàn khó khăn, nhất là trong khi chỉ có 5 ngày vừa thu lượm máy bay vừa tự huấn luyện chuyển loại - một kỷ lục chưa từng có để chiều 28 tháng 4 năm 1975, đúng ngày giờ quy định của Bộ Chỉ huy đã từ Phan Rang bay đi ném bom chính xác vào mục tiêu đã định ở sân bay Tân Sơn Nhất. Sự kiện được thể hiện qua chính những sĩ quan cao cấp của không quân Sài Gòn mô tả và bái phục trong cuộc “gặp gỡ” giữa họ với các phi công trong Phi đội Quyết Thắng, trong đó có Nguyễn Thành Trung - người chiến sĩ nội tuyến mà cách đó ít ngày còn là “chiến hữu” của họ.


Nguyễn Thành Trung kết thúc thắng lợi trận tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất của Phi đội Quyết Thắng bằng bốn trái bom của mình. Anh lệnh cho Hán Văn Quảng đang ở phía trước dẫn đầu phi đội bay về sân bay căn cứ còn mình bay lại sau cùng bảo vệ phi đội. Dưới đôi cánh bay của anh, ngọn lửa ở phi trường vẫn rừng rực bốc cao; Qua khỏi vùng trời Sài Gòn, Trung lại bay lên phía trước dẫn đầu phi đội. Khi gần tới sân bay Thành Sơn - căn cứ xuất phát cũng là nơi phi đội hạ cánh - nỗi lo lắng bỗng cồn cào trong lòng anh. Nhìn đồng hồ chỉ số liệu dầu trước mặt, Trung biết cả phi đội đã cạn dầu, trong đó Từ Đễ là người đang ở trong tình trạng khẩn cấp nhất. Anh lệnh cho Đễ tắt bớt một động cơ và nhường cho Đễ vào hạ cánh trước, cả phi đội vô cùng mừng rỡ khi nghe thấy tiếng gọi dồn dập của “Sao Băng”:

- Số 2 vào hạ cánh trước. Nhớ bật đèn pha nghe!

Đễ rất cảm động, bởi biết Trung đang lo lắng cho mình. Anh nhìn hết lượt núm nút trước mặt, nhưng vẫn không tìm thấy chiếc công tắc đèn ở đâu. Với 5 ngày học chuyển loại gấp, thật ra cả phi đội chẳng ai để ý tới cái nút này. Nhưng không sao - Đễ tự bảo mình - qua khoang lái vẫn còn nhìn rõ đường băng, chỉ cần bình tĩnh giữ cần lái cho thật chính xác, hướng thẳng vào vệt đường trắng lờ mờ để cho máy bay tiếp đất là được.

- Số 2 nhớ bật đèn pha nghe! - Trung nhắc Đễ một lần nữa, vì anh vẫn chưa thấy vệt sáng trước máy bay của Đễ.

- Rõ! - Đễ đáp gọn. Anh cũng chỉ đáp được thế, bởi lúc này đang tập trung trí lực vào việc tiếp đất. Chỉ sớm muộn một hai giây, hay một động tác nhỏ không chính xác là có thể dẫn đến tai họa.

Hai mắt Đễ căng ra. Mồ hôi càng ướt đầm trong mũ bay, tới lúc hai bánh xe phía trước chun chút siết trên đường băng tưởng như tiếng mẹ hôn con, toàn bộ hệ thống thần kinh của anh mới chùng xuống. Chiếc máy bay khu trục A.37 theo đà tiếp tục lướt về cuối sân. Nhưng vừa đến gần hết đường băng, nó đã nằm ịch ra không chịu sự điều khiển của anh nữa.


Thật thót tim! Nó mà nằm ì ra trước đây một phút thì... Sau Đễ đến Quảng, Lục, Vượng, rồi cuối cùng Trung mới hạ cánh. Vừa ra khỏi máy bay, anh cũng như tất cả anh em trong phi đội liền bị xiết chặt trong những vòng tay đến nghẹt thở. Xúc động quá, nhiều người nước mắt rưng rưng...


Cũng như những phút giây được gặp lại các đồng chí, đồng đội ở sân bay Phước Long ngày 8 tháng 4 sau khi ném bom xuống dinh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước đây, những giây phút này mãi mãi ghi sâu vào ký ức của Trung.


Ba ngày sau, cùng cả phi đội được trở lại nhìn tận mắt chiến công của mình, khi Sài Gòn và cả miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, Trung cũng xúc động không kém.


Các đồng chí trong phái đoàn quân sự của ta nắm chặt tay các anh rất lâu, cảm ơn, khen ngợi không quân ta đã ném bom rất chính xác, không một trái bom nào rơi vào nhà ở của phái đoàn ta, mặc dầu khoảng cách rất gần. Các anh còn hể hả kể về sự hoảng loạn đến cực độ của lũ Mỹ - ngụy sau trận tiến công. Trước mắt Trung và các đồng chí trong phi đội của anh, bên cạnh hai mươi bốn chiếc máy bay Mỹ - ngụy bị trúng bom tan tành là hàng trăm chiếc xe du lịch đậu ngổn ngang. Đấy là dấu ấn cuối cùng của sự hoảng loạn cùng đường của lũ chóp bu tướng tá ngụy quyền Sài Gòn. Chiếc xe con chở phi đội của Trung phải đi len lỏi trong bãi “tha ma” xe du lịch đó để đến xem Đại sứ quán Mỹ, nơi Ma-tin tổ chức cho bọn chúng di tản bằng máy bay lên thẳng, vì sợ Tân Sơn Nhất còn tiếp tục bị bom nữa.


Từ nơi đây trở về, một cuộc “gặp gỡ” bất ngờ đã diễn ra với phi đội các anh.

Đó là “cuộc gặp gỡ” giữa các anh với mấy viên đại tá trong không quân ngụy ở một trường học cạnh sân bay Tân Sơn Nhất - nơi các sĩ quan cấp tá của ngụy quyên Sài Gòn ra trình diện với cách mạng.


Hai sĩ quan không quân ngụy mà Trung và anh em phi đội gặp mặt đầu tiên là Nguyễn Anh Tuấn - đại tá tham mưu phó sư đoàn 5 và Chu Ngọc Thành - đại tá sĩ quan hành quân trong bộ tham mưu không quân ngụy.


Hai viên đại tá vốn là phi công đã từng thét ra lửa với hạ cấp, được gọi đến gặp các sĩ quan của ta. Tưởng là còn vấn đề gì khai báo chưa rõ phải thẩm vấn lại nên Tuấn và Thành rất lo. Cả hai mặt mày đều xanh tái khi đứng trước các anh. Nhưng rồi có lẽ do linh cảm nghề nghiệp, Tuấn và Thành nhận ra những sĩ quan đang ngồi trước mặt mình là phi công của ta nên cả hai có phần đỡ lo sợ hơn.

- Giới thiệu với các anh, đây là các đồng chí phi công trong không quân chúng tôi - Đồng chí cán bộ quân quản nhìn về phía anh em trong phi đội của Trung, nói.

- Dạ, thưa quý ông, mới nhìn chúng tôi cũng đoán ra như vậy - Tuấn nói - Mấy ông hoa tiêu1 (Trong không quân ngụy thường gọi phi công là hoa tiêu) của cách mạng, ông nào cũng khỏe, đẹp, cân đối chứ không như chúng tôi...

Nghe viên đại tá ngụy nói vậy, Từ Đễ và Hán Văn Quảng cười. Quảng nghĩ: “Tên này giở cái bài nịnh quen thuộc với quan thầy Mỹ ra đây”. Nhưng điều ấy qua mấy ngày đầu gặp Sanh và On ở Đà Nẵng, các anh đã rõ. Khi đồng chí sĩ quan quân quản của ta dẫn Sanh và On đến giới thiệu: “Đây là hai hoa tiêu chúng tôi chọn trong trại Phi Hổ đến hướng dẫn thêm mấy anh về máy bay A.37 để họ có thời cơ lập công chuộc tội”, Quảng đã thấy rất lạ. “Hoa tiêu với phi công gì mà cả hai đứa đều như hai bộ xương thế kia!”. Sau đấy khi tiếp xúc với hai hoa tiêu đó, các anh mới rõ. Thì ra việc nuôi dưỡng bọn chúng hoàn toàn thả lỏng. Cứ phát lương và cả phụ cấp bay hàng tháng, muốn ăn đâu thì ăn, ở cư xá hay gia đình cũng tùy ý. Không những thế chúng còn tha hồ trác táng “đỏ đen” sát phạt nhau. Vì thế, nhiều tên chỉ nửa tháng đầu đã nhẵn túi phải “thổi ác-mô-ni-ca” trước khi bay. Nghe Sanh nói, bọn chúng vừa đi đến sân bay vừa “thổi ác-mô-ni-ca”, lúc đầu anh em trong phi đội Quảng đều thấy lạ, tưởng rằng bọn này yêu văn nghệ lắm. Có lẽ những tên chỉ huy bày trò cho bọn chúng thổi kèn để ra vẻ là quân chủng trí thức như bọn chúng vẫn thường vỗ ngực với các sắc lính khác trong quân ngụy hoặc để lên dây cót tinh thần theo cách của đám sĩ quan chiến tranh tâm lý. Nhưng khi hiểu rõ thực chất của lũ lính công tử, con cưng này phải “thổi ác-mô-ni-ca”, tức là vì trác táng hoặc quá đông con nên đã tiêu pha hết tiền, kể cả phụ cấp bay, ngay từ đầu tháng, phải vừa ăn bánh mì vừa đi đến sân bay đê thi hành công vụ, thì Quảng và Vượng cười phá lên. “Cha mẹ ơi! Bọn này dùng hình tượng văn nghệ để mỉa mai cuộc đời làm lính đánh thuê của mình cũng khá hay đấy chứ!”.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:09:42 am
Quảng thầm nghĩ như vậy và bây giờ, trước mặt các anh là hai viên sĩ quan cỡ bự, những kẻ từng vơ vét viện trợ Mỹ nặng túi và ăn bớt cả khẩu phần của cấp dưới nên cả hai đều đẫy đà, không như hai hoa tiêu Sanh và On. Tuy vậy, qua các anh, chúng không những khen để lấy lòng mà còn có sự so sánh. Thực ra, sự so sánh ấy đã có và là một ấn tượng rất mạnh mẽ từ trận Phi đội Quyết Thắng của ta ném bom sân bay Tân Sơn Nhất mà Tuấn và Thành là những tên sĩ quan không quân ngụy thực sự ngấm đòn nhất.


Chính vì thế nên khi nghe đồng chí sĩ quan ta nói: “Đây chính là những phi công đã ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất chiều ngày 28 tháng 4 vừa rồi” thì sự sửng sốt và kính nể thể hiện rất rõ trên mặt hai viên đại tá không quân ngụy.

- Thưa các ông, chúng tôi có nghĩ đến khả năng bị tấn công từ trên không, khi sân bay Đà Nẵng đã trong tay các ông. Nhưng chỉ nghĩ đến máy bay MIC, chứ không ngò rằng các ông lại dùng chính những chiếc máy bay A.37 của chúng tôi để oanh kích. Cho nên trận tấn công đó thật bất ngờ và khủng khiếp đối với chúng tôi - Chu Ngọc Thành nói - Vâng! Thưa các ông, đó là lần đầu tiên mà...

- Và cũng là lần cuối cùng đối với không lực Việt Nam Cộng hòa nữa chứ? - Từ Đễ mỉm cười hỏi lại.

- Dạ, đúng thế - Tuấn nhanh nhẩu đáp.

Và anh ta cảm thấy mấy ông phi công cách mạng này cũng độ lượng, dễ dàng tiếp chuyện nên tiếp tục kể lại sự kiện ấy với vẻ tự nhiên hơn.


Tuấn kể: “Lúc ấy là 6 giờ 30 phút chiều. Sài Gòn đang có cơn mưa. Những khối mây đen ùn ùn kéo tới. Vì thời tiết xấu nên chúng tôi được lệnh ngừng tất cả mọi chuyến bay. Ngay khi đó bỗng xuất hiện ba, rồi năm chiếc A.37 không biết từ đâu bay tới. Đây là loại máy bay ném bom của không quân chúng tôi. Nhưng loại này hiện giờ chỉ còn có ở sân bay Trà Nóc, Cần Thơ. Cần Thơ lại cách xa Tân Sơn Nhất gần 200 ki-lô-mét. Thông thường, các máy bay A.37 ở sư đoàn rất ít bay tới đây. Bây giờ tại sao chúng lại đột nhiên bay đến mà không thông báo? Nghi ngờ, tôi gọi điện cho sân bay Cần Thơ và các sân bay còn lại. Tất cả trả lời “Không có phi tuần A.37 nào cất cánh!”. Cùng lúc ấy điện cũng tới tấp gọi lên không trung:

- Máy bay A.37 của phi đoàn nào bay vào Sài Gòn, trả lời ngay!

- Máy bay A.37 của phi đoàn nào?

- Phi đoàn nào? Phi đoàn nào?

Lần thứ nhất không thấy trả lòi. Lần thứ hai vẫn im lặng. Tới lần thứ ba, cùng với tiếng bom nổ mới có tiếng đáp:

- Máy bay của phi đoàn A-mê-ri-ca chúng mày đấy!

Ngay sau đấy là những trái bom liên tiếp vun vút lao xuống và từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên cao. Tiếng nổ hỗn loạn, lửa bốc lên ngùn ngụt. Mặt đất rung chuyển. Một cảnh náo động chưa từng có diễn ra khắp sân bay. Những tiếng kêu thất thanh “Oanh kích! Việt cộng oanh kích!” bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh rối rít trong vô tuyến điện. Người Mỹ lúc ấy càng cuống quýt hơn. “Oanh kích! Đang bị oanh kích! Hãy bay xa Tân Sơn Nhất! Bay xa, bay xa Tân Sơn Nhất!”. Họ vội vã thông báo cho những chiếc máy bay đang lao tới làm nhiệm vụ di tản. Họ có hệ thống chỉ huy riêng mà.


Khi ở trong tay chúng tôi, những chiếc A.37 này nhỏ bé, bình thường. Nhưng giờ đây, sao chúng có uy lực thật ghê sợ vô cùng, cả năm chiếc bay theo đúng đội hình chiến đấu, hùng dũng lao xuống cắt bom. Bom rơi rất trúng, rất tập trung vào khu vực để máy bay của chúng tôi. Mỗi lần máy bay bổ nhào, tiếng nổ càng dữ dội hơn, liên hồi hơn. Những cột lửa màu đỏ rực lại bốc lên cao hơn. Bom lao trúng vào những chiếc máy bay vận tải C.119, C.130 chứa đầy dầu, vào những chiếc A.37, F.5 đang mang bom đậu thành một dãy dài gây nên một dây chuyền nổ thật khủng khiếp.


Cả sân bay rung chuyển. Điện thoại bị cắt đứt. Hàng loạt đèn nê-ông trong phòng làm việc rơi xuống, vỡ tan trên các mặt bàn. Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, sư trưởng của chúng tôi, như điên lên, ông gào to trong máy điện thoại. Ông lệnh cho tôi gọi điện tới các đơn vị phòng không của sân bay yêu cầu bắn trả mãnh liệt hơn. Ông kêu gọi các phi đoàn F.5 của chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính đang đỗ tại đây nhanh chóng cất cánh lên đánh lại để cứu nguy. Nhưng mọi mệnh lệnh của tướng Tiên - và ngay cả lệnh của trung tướng Trần Văn Minh - tư lệnh không quân, truyền xuống lúc này đểu vô hiệu, vả lại, khi đó, chính cả tướng Tiên và các sĩ quan trong bộ tư lệnh sư đoàn 5 cũng khiếp sợ. Tướng Huỳnh Bá Tính chẳng hiểu chuồn đâu biệt tăm, không thấy trả lời. Tất cả các sĩ quan, binh lính, mạnh ai nấy chạy. Xô lên nhau chạy tán loạn. Nơi nào tránh được bom là nhào tới. Các hoa tiêu trực cũng bỏ máy bay mà chạy. Mãi tới phút chót của cuộc oanh kích, pháo phòng không mới bắn lên được mấy loạt rời rạc thì những chiếc A.37 kia đã vượt qua phủ tổng thống bay xa...”.

- “Dậy” hậu quả của trận bom đối với mấy ông thế nào?

Nghe giọng Nam Bộ của Nguyễn Thành Trung, cả Thành và Tuấn đều ngước mắt lên với cái nhìn ngờ ngợ.

- Các anh biết đó là ai không? - Hán Văn Quảng hỏi - Đồng chí Nguyễn Thành Trung, người dẫn đầu phi đội của chúng tôi, một phi công mà cách đây gần một tháng còn ở trong đội ngũ các anh đấy.

- Ủa, ra đây là ông Trung! Chúng tôi đã biết rõ tên tuổi ông từ sau vụ ông đáp bom xuống dinh tổng thống, nhưng thưa các ông, vì tôi không cùng sư đoàn nên không rành mặt. Chỉ thầm khâm phục ông Trung đã ẩn mình rất tài giỏi để rồi đã làm nên chuyện động trời ấy, làm náo động cả không quân chúng tôi.


Trung mỉm cười. Còn Tuấn và Thành đều sửng sốt, và tiếp đó là sự mặc cảm hiện lên rất rõ trong mắt của hai viên đại tá ngụy. Thành tiếp lời Tuấn kể qua mấy câu chuyện về ảnh hưởng của vụ “phản chiến” của Trung trong không quân ngụy. Sau đó Tuấn lại nói tiếp để trả lời câu hỏi ban nãy của Trung: “Kết quả trận oanh kích của các ông rất tốt. Tôi tưởng tham gia trận tấn công ấy là hoa tiêu của chúng tôi đã quy phục các ông như ông Trung. Nhưng gần đây, mới biết, đấy hầu hết lại là hoa tiêu của Giải phóng mà chắc chắn mới chỉ làm quen với loại máy bay A.37 này chừng mấy ngày, quả thật là tài tình và dũng cảm. Bom trúng tất cả vào khu vực để máy bay, 14 chiếc F.5, A.37 và hàng chục máy bay vận tải, máy bay trực thăng bị phá hủy”.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:10:37 am
Tuấn dừng lại uống nước trước khi kể tiếp về sự ghê sợ và hoang mang rệu rã của sư đoàn 5 cùng tất cả các sĩ quan, binh lính ngụy ở sân bay Tân Sơn Nhất sau vụ oanh kích đó.

... Sớm hôm sau, qua một đêm hoàn toàn không ngủ, Tuấn tới phòng làm việc của tướng Tiên. Qua hàng hiên, Tuấn đã thấy những bộ mặt tái nhợt của những sĩ quan. Sắc mặt của Tuấn cũng không hơn họ lúc này. Nhưng khi mở cửa bước vào, Tuấn càng xanh xám hơn bởi thấy sự biến sắc đến kỳ lạ ở tướng Tiên và đại tá phó tư lệnh Đinh Thành On. Tuấn vẫn thường khen Tiên tóc tuy bạc nhưng có nước da hồng hào của một người yêu thể thao. Vậy mà giờ đây, cả hai ngồi đó đều như kẻ mất hồn, không ai nói với ai, mái đầu của Tiên như trắng hết và bù xù rũ xuống bộ mặt nhợt nhạt, trông càng thảm hại hơn.


Thấy Tuấn, mãi một lúc sau, Tiên mới buồn rầu hỏi:

- Ông đã thống kê được hết số máy bay và các thiết bị khác bị phá hủy vì trận oanh kích chiều qua và cả trận pháo kích đêm qua chưa?

- Dạ, chưa. Mấy ông sĩ quan được giao làm việc đó đã bỏ chạy hết. Họ sợ những trái bom còn nằm trong máy bay của ta chuẩn bị đi ném bom, bị đánh văng ra sẽ tiếp tục nổ nên không ai dám đến gần. Họ sợ đang trên đường đi lại bị oanh kích, bị pháo kích. Họ chạy về lo cho vợ con di tản. Vì thế tôi chẳng chỉ huy được ai.

Tuấn miễn cưỡng phải nói ra điều đó. Nói xong Tuấn hồi hộp chờ đợi một trận “bão lửa” vốn có của Tiên dội lên đầu. Nhưng khác với mọi lần, hôm nay Tiên ngồi im không nóng nẩy, ngược lại còn tỏ sự đồng cảm với Tuấn:

- Tình hình như thế đòi hỏi làm ngay cũng khó. Mà có thống kê bây giờ mình cũng không có kế gì giải quyết được. Ông đã biết tin thêm về Biên Hòa chưa?

- Dạ biết, nhưng chưa rành rọt.

Đinh Thành On tiếp lời Tuấn. On định nói thêm về sự khủng khiếp từ trận bom chiều qua, nhưng kìm lại được, chuyển sang hỏi về chuyến di tản của vợ con Tuấn. Giữa lúc ấy chuông điện thoại đổ dồn. Tiên chồm tối cầm lấy Ống nghe. Trong máy nói gì không rõ, nhưng sau đó, Tuấn thấy mặt mày viên tư lệnh tươi tỉnh hẳn lên, quay ra bảo Tuấn:

- Ông Tuấn ở nhà nhé, có điện gọi tôi và ông On lên bộ tư lệnh không quân họp. Mọi việc của sư đoàn ông toàn quyền giải quyết.

Nói xong Tiên và On vội vã ra đi. Trước lúc lên xe, Tiên còn quay lại:

- Chắc là họp nhanh thôi, chừng một, hai giờ là nhiều, chúng tôi sẽ về.

Nhưng một giờ, hai giờ rồi ba giờ trôi qua, trong khi cả sư đoàn mỗi lúc một hỗn loạn, Tuấn đợi mãi cũng chẳng thấy tư lệnh và phó tư lệnh về. Bọn sĩ quan, binh lính chửi bới nhau và tranh cướp máy bay để chạy trốn.


Sau trận đánh chiều qua, tất cả các máy bay F.5 còn lại của sư đoàn 5 như một bầy quạ bị đánh tan tác cùng lúc vội vã cất cánh bay đi. Lũ hoa tiêu của tên tướng Huỳnh Bá Tính cũng chẳng cần chỉ huy. Chúng chen nhau trên đường băng, miễn sao chuồn nhanh được tới Thái Lan hoặc ít nhất tới Cần Thơ.


Bọn tàn quân của sư đoàn 1 và cả sư đoàn 2 mà tư lệnh của chúng là chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang bị ta bắt ở Phan Rang, được lệnh chờ bọn F.5 bay hết mới được di tản. Nhưng chẳng cần chờ, tên nào chen được trên đường băng là cất cánh.


Cái cảnh ấy lại diễn ra sáng nay với mức độ hỗn loạn cao hơn khi chúng bị tiếp thêm một trận pháo kích khủng khiếp chưa từng thấy hồi đêm. Hàng trăm quả pháo 130mm từ nhiều hướng dồn dập nã xuống trúng khu để máy bay. Những xác lính ngụy chết do trận bom chiều qua còn nằm ngổn ngang, lại tiếp thêm bao tên khác phải chịu chung số phận của kẻ đánh thuê. Lửa khói rừng rực, mỗi lúc một cao hơn. Sân bay Tân Sơn Nhất đỏ như một biển lửa.


Kể đến đây, cả Nguyễn Anh Tuấn và Chu Ngọc Thành cùng kêu lên: “Thật khủng khiếp! Khủng khiếp, ghê rợn quá trời, thưa các ông!”. Với Thành, vì ở Bộ Tư lệnh không quân ngụy nên có dịp chứng kiến rõ hơn tình trạng hoảng loạn của bọn chóp bu cầm đầu quân ngụy. Chúng tìm mọi cách tháo chạy sao cho nhanh hơn.


Đâu chỉ có Tiên và On mà cả Huỳnh Bá Tính cũng cướp một chiếc trực thăng UH-1A, số hiệu 536, chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng lúc ấy, Trần Văn Minh - tư lệnh không quân ngụy, cũng lủi ra khỏi bộ tư lệnh, chạy trốn bằng một chiếc máy bay riêng. Không như Cao Văn Viên trước đây còn gài bốn ngôi sao cấp đại tướng lên máy bay, Trần Văn Minh giấu biệt tấm biển in ba ngôi sao của hắn xuống dưới đệm ngồi bởi sợ quân lính biết sẽ theo hắn. Rồi sau đó là Võ Xuân Lành, thiếu tướng, cũng ba chân bổn cẳng chạy lên máy bay “tùy nghi di tản”.


Khi vội vã lên máy bay, bọn lính thấy trong lũ tướng lục quân nhốn nháo ở sân bay có cả Vĩnh Lộc, vừa mới được chỉ định thay Cao Văn Viên làm tổng tham mưu trưởng. Nhưng mặc thây bọn Lộc, bọn Minh lờ đi, vì bây giờ Lộc chẳng còn chỉ huy được ai, vả lại chúng cũng chẳng dại gì nán thêm một phút ở cái chốn đầy nguy hiểm này, không biết sẽ bị ném bom, pháo kích bất cứ lúc nào.


Thì ra cái lý do tổng tham mưu trưởng Vĩnh Lộc “vắng mặt” mà hai hôm sau chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một viên tướng có năng lực, nhưng bị Nguyễn Văn Thiệu ghét và nghi là có cảm tình với Việt cộng buộc phải về hưu non, mới từ Cần Thơ vượt lộ 4 ra đã phải thay hắn kêu gọi tư lệnh các quân khu hạ súng đầu hàng là như thế. Mới chỉ cách đấy hai hôm, khi Lê Nguyên Khang - tổng tham mưu phó, bỏ chạy, Lộc còn gân cổ lên chửi lũ tướng tá hèn nhát theo chân Thiệu, theo chân Khang là “lũ chuột”. Bây giờ đến lượt hắn thì hắn lại câm miệng hến giống y Nguyễn Cao Kỳ. Cũng chỉ cách đây mấy hôm thôi, Kỳ còn huênh hoang rằng hắn sẽ chọn một cái chết anh hùng. Y khoác lác: “Chạy ra nước ngoài làm gì? Để làm thuê, làm đĩ hay làm đầu bếp cho ngoại bang?”.


Vậy mà, bây giờ cũng hết vểnh “ria trê” và chẳng còn “tư cách” hơn Khang và Lộc. Cũng sợ mất mạng, y đã vội vã lao lên một máy bay trực thăng, hốt hoảng chuồn khỏi Sài Gòn, bay ra hướng biển để rồi bị một viên sĩ quan Mỹ làm nhục khi y hạ cánh xuống tàu US Midway của Hoa Kỳ. Có điều nỗi nhục này chưa bằng những tên tướng ngụy khác phải van vỉ, cố sống, cố chết bám theo được mụ vợ của Ma-tin để lên máy bay trực thăng của Mỹ mà “sân bay” là nóc tòa nhà Đại sứ Hoa Kỳ. Cái “cầu hàng không” chưa từng có trong lịch sử với Mỹ ấy, Ma-tin vừa mới cấp tốc thiết lập để cấp tốc di tản người Mỹ theo lệnh của tổng thống Pho.


Bởi vậy, cái “sân bay” mới này, sau trận Tân Sơn Nhất bị ném bom, cũng ầm ĩ như chợ vỡ. Không có chuyên nào là không diễn ra cảnh sĩ quan đội lốt dân sự và nhân viên tòa Đại sứ Mỹ đánh lộn trên máy bay.


Tình hình khu hàng không quốc tế của sân bay Tân Sơn Nhất cũng tệ hại không kém. Tại đây, những gia đình và những sĩ quan cấp tướng ngụy ở Bộ Tổng tham mưu, ở tổng cục chiến tranh chính trị, những tổng trưởng, thứ trưởng và những tên có nhiều nợ máu với nhân dân cũng chen chúc tháo chạy. Chúng xô đẩy, đánh lộn nhau để tranh lên máy bay. Tổng thống Pho lệnh cho Ma-tin phải đưa toàn bộ các phi công lái máy bay quân sự và các sĩ quan từ cấp tá của ngụy di tản sang Mỹ là để thực hiện ý đồ nham hiểm của chúng sau này. Nhưng đến bây giờ, cả đến cấp tướng cũng bị bỏ lại. Xung quanh sân bay quốc tế trở thành một ga-ra khổng lồ, lộn xộn, ngổn ngang đủ các loại xe: Nào Pho, Méc-xê-đéc, Pơ-giô, Đát-xun, nào xe mang nhãn hiệu “con chim xanh”, “con chim trắng”... Nhiều tên cho xe chạy được đến đó là sấn sổ chen lên máy bay, mặc xe ì ầm nổ máy cho đến lúc hết xăng...


Cuộc “gặp gỡ” giữa phi đội Quyết Thắng của Nguyễn Thành Trung với mấy viên đại tá không quân ngụy đã diễn ra rất thú vị, trong khung cảnh và không khí rất nhộn nhịp, mới mẻ của những ngày đầu Sài Gòn vừa được giải phóng như thế, ở một trường học gần khu chợ Lăng Cha Cả, quận Tân Bình. Có lẽ cuộc “gặp gỡ” đó cũng là một kỷ niệm rất khó quên trong bước ngoặt cuộc đời của họ. Bởi hôm ấy, trong số hàng ngàn sĩ quan ngụy tấp nập đên trình diện với cách mạng ở nhiều điểm khác nhau trong khắp thành phố Sài Gòn - Gia Định này, họ là người may mắn nhất.


Còn Trung, khi ở vùng giải phóng về Đà Nẵng rồi vinh dự được dẫn đầu Phi đội Quyết Thắng cất cánh bay đi, đúng là anh chưa hình dung hết kết quả này. Với anh, đây là một kỷ niệm đẹp đẽ và sâu sắc nhất kể từ sau ngày được “sổ lồng” tung cánh bay về với “Mẹ”. Người đảng viên, chiến sĩ nội tuyến ấy suốt bao năm giấu mình hoạt động trong lòng địch ngước nhìn lên bầu trời trong nhịp đập bồi hồi của trái tim mình. Đã mấy ngày rồi anh vẫn chưa hết xúc động trước rừng cờ cách mạng trên bầu trời thành phố Sài Gòn - thành phố sau này chính thức được mang tên Bác Hồ kính yêu - và cả miền Nam thân yêu.


Qua những giờ phút xúc động và cuộc “gặp gỡ” giữa các anh - những người chiến thắng - với những kẻ chiến bại, Trung càng thấy rõ hơn ý nghĩa, giá trị trận tấn công của phi đội mình. Đấy cũng là cuộc “gặp gỡ” thật thú vị giữa anh với những kẻ mà chỉ một tháng trước, anh còn phải gọi là “chiến hữu”, là thượng cấp.


Với anh, cuộc “gặp gỡ” ấy là một kỷ niệm mãi mãi không quên. Anh tin rằng nó cũng như sự sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn tái diễn, mà chỉ còn có những cuộc gặp gỡ của những người con Việt Nam một lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh, tươi đẹp hơn.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:13:21 am
ĐƯỜNG VÀO CHIẾN DỊCH Hồ CHÍ MINH


Theo lời kể của
Đại tá HUỲNH VĂN TÁM


Đồng chí đại tá Huỳnh Văn Tám (Tám Quyết) - nguyên Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng Tỉnh đội Đồng Nai vừa qua một cơn bạo bệnh, người còn yếu lắm. Thực tình chúng tôi không muốn làm phiền, bởi ông lúc này đang rất cần sự nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Nhưng, khi biết mục đích biên soạn một cuốn sách có liên quan tới nhiều nhân chứng lịch sử, thế là, dường như ông được khỏe ra. Bao ký ức của một người lính - người chỉ huy dạn dày trận mạc lại dào dạt hiện về, đặc biệt là những diễn biến ở một hướng chiến trường quan trọng như Biên Hòa - Long Thành - Nhơn Trạch mà ông tận mắt chứng kiến. Phấn chấn là thế, nhưng vẫn biết rất rõ sức khỏe của mình, ông phải chủ động “tăng tốc” mấy lát sâm Cao Ly để lấy lại phong độ rồi lần lượt vào câu chuyện.


"... Cuối năm 1974 và những tháng đầu năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã bước sang một giai đoạn mới. Tình thế cách mạng nói chung và tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường miền Nam đã xuất hiện những thời cơ mới cần phải chớp lấy để giành thắng lợi quyết định. Đặc biệt là chiến dịch Tây Nguyên ta đã phá vỡ địa bàn chiến lược quan trọng của địch. Tiếp đến, ta giải phóng Huế, Đà Nẵng và duyên hải miền Trung. Địch co cụm về lập phòng tuyến ở Phan Thiết, Phan Rang trong một tình thế bị động. Quân lính thì bạc nhược, mất hết tinh thần chiến đấu, có chiều hướng tan rã hàng mảng lớn, nếu bị ta tiến công dồn dập, mãnh liệt sẽ thất bại liên tiếp.


Trước tình thế mới rất có lợi cho cách mạng nước ta, theo chỉ thị của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền: Quân và dân tỉnh Biên Hòa nói chung, cụ thể là quân và dân hai huyện Long Thành - Nhơn Trạch, địa bàn mà đại quân đi qua sẽ chuẩn bị một lực lượng về lương thực, thực phẩm, chiếm giữ một số tuyến đường huyết mạch; huy động ghe thuyền cho bộ đội vượt sông để làm nhiệm vụ chiến lược.


Lúc ấy tôi là Tham mưu trưởng Tỉnh đội Biên Hòa, được Ban chỉ huy phân công trực tiếp đốc chiến các huyện đội Long Thành, Nhơn Trạch, phối hợp chặt chẽ giữa quân dân, chính, đảng để thực hiện nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng ngàn năm có một này.


Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa của cơ hội ấy, Huyện ủy Long Thành cử một cán bộ là ủy viên Thường vụ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo các xã huy động trên một trăm dân công, trong đó hầu hết là nữ thanh niên và các chị ở độ tuổi trung niên còn khỏe mạnh chuẩn bị mấy chục thùng phi và thùng nhựa có dung tích từ 200 lít trở lên, đựng đầy nước ngọt giấu hai bên đường 10 để bộ đội hành quân qua có nước uống. Hết tới đâu bổ sung tới đó, không được để bộ đội thiếu nước uống dọc đường hành quân qua địa bàn mình phụ trách. Tuyến đường 25B từ ngã ba Dầu Giây vể tiếp giáp với Long Thành, đoạn đi qua những lô cao su, ta phải huy động lực lượng cưa cây. Nhưng không phải cưa đứt, cây ngã ngổn ngang sẽ bị lộ ý đồ lớn, mà chỉ cưa hai phần ba thân cây. Như vậy nó vẫn còn sống được. Nhưng khi xe tăng trong đội hình hành tiến, chỉ cần xô nhẹ là cây có thể đổ và cứ thế giữ vững nhịp độ tiến quân của ta. Cùng với những công việc ấy, Long Thành còn phải chuẩn bị trên một trăm tấn lương thực. Xin thưa, một trăm tấn lương thực - chủ yếu là gạo, đâu phải là ít? Đặc biệt quá trình chuẩn bị phải hết sức giữ bí mật. Vậy mà từ trong nhân dân các ấp, các xã lần lượt được huy động. Không những đủ số lượng mà còn vượt cả chỉ tiêu, trước sự ngỡ ngàng và thán phục của các cán bộ hậu cần quân đội tiếp nhận mặt hàng quan trọng này.


Còn huyện Nhơn Trạch, số lượng chuẩn bị còn nhiều hơn thế, với 200 tấn gạo và huy động các mẹ, các chị đông vượt trội cả Long Thành để nấu, nắm hàng ngàn vắt cơm đặt các trạm dọc đường trao tận tay bộ đội đi qua. Được chứng kiến hình ảnh hết sức hào hùng và sôi động của những đoàn quân trùng trùng ra trận mà có các má, các chị em động viên tinh thần, vật chất thật như đi trẩy hội vậy. Chính các má, các chị tay thoăn thoắt đưa cơm cho bộ đội mà ánh mắt chan chứa ân tình rộn lên một niềm vui khó tả. Những người phụ nữ thủy chung, nhân hậu còn ân cần động viên:

- Anh em cứ ăn no mà đánh thắng quân thù. Được chứng kiến ngày vinh quang Tổ quốc toàn thắng thì có... chết cũng sướng rơn à.

Có những má, những chị bất chợt gặp chồng con mình trong đoàn quân ra trận ấy mà chưa kịp chào hỏi trọn câu thì đã hòa vào dòng người rộn bước vào chiến trận rồi.


Với phương châm: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Để thực hiện phương châm ấy, các địa phương triệt để phát huy: hai chân, ba mũi, ba lực lượng. Đặc biệt là hết sức khôn khéo, linh hoạt áp dụng mũi binh vận nhằm nhanh chóng làm tan rã hàng ngũ địch, tránh đổ máu hy sinh vào thời điểm lịch sử này.


Cùng phối hợp với cánh quân chủ lực hùng mạnh đang tiến về, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa, từ nhiều năm nay là một đơn vị lực lượng vũ trang địa phương, bám trụ kiên cường, anh dũng chiến đấu một mất, một còn với địch tại địa bàn. Đồng thời tuyên truyền giác ngộ quần chúng, gây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân. Nay đón thời cơ mới, ai nấy hết sức xao xuyến và náo nức đến cháy bỏng.


Nhiệm vụ cụ thể của Tiểu đoàn 240 là đánh chiếm cầu Phước Thiền, trên tuyến tỉnh lộ 17, kiên quyết tiêu diệt địch bảo vệ cầu để giữ vững hành lang. Cùng thời điểm ngày 27 tháng 4, một bộ phận lực lượng võ trang tỉnh sau khi giải phóng huyện lỵ Long Thành, thọc xuống chi viện cho Nhơn Trạch để đánh cụm pháo 105mm ở xã Phước Thiền. Địch hạ nòng pháo bắn sát mặt đất, nhưng bị anh em ta đánh úp, một số tên ngoan cố bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy. Ta thu nguyên vẹn ba khẩu pháo. Nhờ vậy đơn vị pháo 130mm phát triển xuống nhằm chiếm lĩnh trận địa đêm 26 tháng 4 năm 1975 để sang các ngày 27-28 tháng 4 phát hỏa khống chế sân bay Tân Sơn Nhất và Tiểu đoàn 240 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chính vì vậy, các cỗ pháo như những chú voi thép dập dờn trong cành lá ngụy trang lần lượt vào vị trí dưới sự điều khiển của những người lính. Thế rồi vun vút giáng xuống đầu thù những đòn sấm sét ngay giữa sào huyệt của chúng. Trong thời khắc lịch sử ấy, các anh đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của đồng chí Tông Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng: - Bằng mọi giá, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1975, pháo 130mm của ta phải chiếm lĩnh cho được trận địa tại huyện Nhơn Trạch để khống chế sân bay Tân Sơn Nhất.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:14:04 am
Miền Đông Nam Bộ (không kể các sân bay loại nhỏ, sân bay dã chiến) thì có hai sân bay chiến lược vào loại lớn tầm cỡ Đông Nam Á lúc bấy giờ là sân bay quân sự Biên Hòa và sân bay Tân Sơn Nhất phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Vào thời điểm sắp đến hồi kết của cuộc chiến đầy tàn bạo của quan thầy chúng, thì phi trường Biên Hòa từ chỗ bị không chế từng thời điểm, đến khống chế mạnh mẽ làm tê liệt hoàn toàn bằng những trận mưa pháo của quân giải phóng. Riêng sân bay Tân Sơn Nhất khi những cỗ pháo 130mm chiếm lĩnh trận địa ở huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa thì thật là một tai họa khôn lường đối với chúng. Những trận sấm sét liên tiếp giáng xuống sân bay không chỉ khống chế những con quạ sắt đi gây tội ác, mà làm rung chuyến cả một chế độ bán nước, hại dân. Trước tình thế vô cùng nguy ngập ấy, chúng đã cuống cuồng dùng máy bay trực thăng đưa đám cố vấn Mỹ, bọn quan chức cao cấp Sài Gòn cùng gia đình vợ con tướng tá di tản xuống sân bay Trà Nóc, Cần Thơ để rồi lại đi tiếp ra biển Đông nơi các hạm tàu đang chờ sẵn.


Trước tình thế tiến công như vũ bão của đại quân ta, ngụy quyền Sài Gòn hoảng loạn. Những diễn biến mau lẹ trên chiến trường báo hiệu giờ cáo chung của chúng chỉ còn tính từng ngày, từng giờ.

Để kịp thời giúp cấp dưới xử lý một khối lượng công việc khá lớn và kịp thời, hiệu quả, Tỉnh đội Biên Hòa tăng cường thêm hai cán bộ cho Tiểu đoàn 240. Tỉnh ủy Biên Hòa còn chỉ đạo huyện ủy Nhơn Trạch huy động trên một trăm xuồng ghe để kịp thời đáp ứng cho Sư đoàn 325 vượt sông Cát Lái tiến về Sài Gòn...".


Đã từng là một người lính qua thời trận mạc, nhưng giờ ngồi nghe ông kể chuyện kỷ niệm một thời chiến đấu, tôi thấy thật thích thú, sống động. Trước mắt như cả một không khí hào hùng ngày ấy hiện về. Tôi cứ tưởng cựu đại tá Huỳnh Văn Tám đã thấm mệt, tạm dừng để hôm sau tiếp tục. Nhưng chính ông lại cổ vũ tôi:

- Ta cứ tiếp tục cho xong, để dở chừng “cụt hứng” lắm.

Chiều lòng ông, tôi tiếp tục ghi nhận những điều tâm sự quý giá từ một con người đã trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cả trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Trong niềm xúc động, ông kể tiếp:

- Tôi là một người có may mắn, hạnh phúc gắn bó nhiều năm với mảnh đất đầy máu lửa này. Vào những năm 1970, 1971, 1972 địch dùng xe tăng, xe bọc thép, xe ủi - càn quét triệt hạ những cánh rừng nghi có lực lượng bộ đội và du kích trú quân. Đạn địch dày đặc như mưa rào. Cán bộ, bộ đội và nhân dân tổn thất, hy sinh rất nhiều. Nhưng dân vẫn một lòng theo Đảng, tin vào chính nghĩa sẽ thắng nên sẵn sàng nghe và làm theo. Tình hình cách mạng ở một địa bàn trọng yếu như Nhơn Trạch dần dần phát triên đi lên cùng với sự tiến bộ chung của tỉnh Biên Hòa. Giờ đây vào thời điểm sắp tới đỉnh cao toàn thắng, niềm tin ấy như nhân lên bội phần. Chính vì vậy chỉ trong thời gian ngắn tuyên truyền vận động chủ trương của cách mạng, vậy là lòng dân phơi phới tham gia. Một cảnh tượng hết sức náo nức là huy động được trên một trăm chiếc xuồng, ghe từ trong dân lần lượt đưa ra phục vụ bộ đội. Có gia đình đóng góp nhũng hai, ba chiếc cả người và phương tiện tích cực phục vụ bộ đội. Chính vì vậy mà chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, một lực lượng khá lớn của Sư đoàn 325 vượt sông Cát Lái an toàn, kịp thời hợp điểm với các cánh quân bạn, đánh chiếm Sài Gòn, buộc chính quyền ngụy đầu hàng vô điều kiện.


Những con thuyền nhỏ bé xinh xinh, phương tiện cần thiết cho người dân buông chài thả lưới, vì kế sinh nhai nhưng khi cách mạng cần, nó biến thành phương tiện đưa đón những đoàn quân qua sông diệt thù. Tinh thần ấy bắt nguồn từ lòng căm thù giặc sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng tình yêu quê hương, đất nước nhen nhóm từ bao lâu nay, giờ mới có cơ hội trỗi dậy như hào khí mùa xuân Quang Trung - Nguyễn Huệ tiến vào thành Thăng Long thuở nào, đánh bại gần ba mươi vạn quân Thanh kiêu căng và ngạo mạn.


Tự hào xen lẫn cảm xúc trước một không khí sông động ấy, đồng chí Nguyễn Văn Thông - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa đã viết lên những dòng để ca ngợi rằng:

Chiều hai mươi chín vui mừng
Vượt phà Cát Lái, chuyển từng cánh quân
Xe tăng lội nước ùn ùn
Triển khai kế hoạch đánh vùng mục tiêu
Xông lên như gió đẩy diều
Giặc tan!
Thương lắm một chiều quê hương...


Để dọn sạch địa bàn tại chỗ cho đại quân triển khai đội hình, xây dựng trận địa pháo chuẩn bị cho tấn công, Tiểu đoàn 240 có nhiệm vụ hết sức nặng nề. Từ sáng ngày 28 tháng 4, Tiểu đoàn cùng với lực lượng du kích các xã Long Tân, Phú Thạnh tiến công chi khu Nhơn Trạch. Địch ngoan cố chống trả lại khá quyết liệt. Tuy nhiên, chúng không thể chịu đựng nổi trước phong trào “Hai chân - Ba mũi” của ta. Chiều hôm ấy, địch thúc nhau bỏ chạy về phà Cát Lái để thoát thân. Huyện ủy Nhơn Trạch kịp thời chỉ đạo bố trí lực lượng tiếp quản trong điều kiện chi khu tan hoang. Sáng ngày 29 tháng 4, bộ đội ta tiếp tục phát triển đánh chiếm yếu khu kho bom Thành Tuy Hạ và trưa hôm ấy địch hốt hoảng tháo chạy bằng tàu để thoát thân. Cùng chiều 29 tháng 4, anh Trần On - Tỉnh đội trưởng trực tiếp chỉ huy lực lượng bộ đội và du kích tiến ra giải phóng các xã vùng Duyên Hải (Cần Giờ) lúc ấy còn thuộc tỉnh Biên Hòa.


Trưa 30 tháng 4 năm 1975, cờ cách mạng đã tung bay trên nóc phủ tổng thống ngụy Sài Gòn, báo hiệu giờ phút khải hoàn toàn thắng của toàn dân tộc.

Giờ hồi tưởng lại toàn cảnh của không khí cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 30 năm về trước trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, lòng tôi vẫn cảm thấy đầy náo nức, tự hào xen lẫn niềm thương nhớ bâng khuâng những anh  em đồng chí, đồng đội, có người đi suốt hai cuộc trường chinh của dân tộc, có người tuổi đời còn rất trẻ đã nằm xuống trên con đường sắp tới đỉnh vinh quang...".


Người thể hiện
NGUYỄN QUỐC HOÀN


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:23:24 am
NGƯỜI TREO CỜ TRÊN DINH ĐỘC LẬP


Đại tá, nhà văn HÀ BÌNH NHƯỠNG


Lịch sử không lặp lại, nhưng đôi khi có chuyện tương đồng thật thú vị. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thần thánh của dân tộc, nhân dân Thái Bình - quê tôi tự hào bởi đã có hai người con cắm cờ ở hai thời điểm lịch sử chói lọi của đất nước.


Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã dẫn đầu tổ xung kích bắt sống tướng Pháp Đờ Cát-xtơ-ri, phất cao lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Quân đội ta trên nóc hầm của y ngày 7 tháng 5 năm 1954, báo hiệu chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng. Còn Đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã cùng với chính trị viên Vũ Đăng Toàn dẫn đầu đoàn xe tăng Quân giải phóng húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập, mở đường cho quân ta tràn vào buộc tổng thống Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện và chính anh, người con của Thái Bình đó đã kéo cao lá cờ Giải phóng trên nóc dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975, báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng.


Anh Tạ Quốc Luật tôi đã gặp đôi lần. Còn Bùi Quang Thận phải tới dịp kỷ niệm 100 năm thành lập tỉnh Thái Bình, năm 1990 tôi mới gặp anh.

Qua anh cùng những điều mắt thấy tai nghe còn nóng hổi trong “Phủ Đầu rồng” và Sài Gòn dạo đó, rồi thú vị hơn, qua cuộc hội ngộ sau 20 năm ở chính dinh Độc Lập, nơi các chiến sĩ đã có mặt đầu tiên ở đây từ lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm ấy, trong đó có cả cấp trên và nhiều đồng đội cùng Đại đội 4 của Thận, tôi càng có thêm thông tin để hệ thống đầy đủ và chính xác giờ phút lịch sử này.


Bùi Quang Thận là Đại đội trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn thiết giáp 203 của Quân đoàn 2, nhưng khi đó anh đã trực tiếp làm xe trưởng xe tăng số 843 do Lữ Văn Hỏa lái. Với Thận, từ khi xa quê hương “tiếng trống năm ba mươi”1 (Lời một bài hát ca ngợi truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Thái Bình) đi cứu nước, chưa bao giờ anh được chiến đấu trong đội hình lớn, tiến quân “Thần tốc” thắng địch tựa chẻ tre như lần này.


Ngày 25 tháng 3 sau khi vừa tiêu diệt sư đoàn 1 bộ binh ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên địch, giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên - Huế, Quân đoàn 2 của anh lại tiếp tục cùng với quân và dân Quân khu 5 tiến công, bao vây, truy quét tiêu diệt quân đoàn 1 ngụy... để đến ngày 29 tháng 3 giải phóng tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.


Từ đây sau khi truyền nhau nội dung bản nhật lệnh của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng", khí thế của Quân đoàn ngày càng như triều dâng, thác đổ.


Địch co cụm lại lập tuyến phòng thủ ở Phan Rang quyết chặn đứng quân ta dừng lại ở đây để giữ được Sài Gòn từ xa. Cuộc tăng đấu tăng, pháo đấu pháo giữa ta và địch tại đây đã diễn ra vô cùng quyết liệt. Nhưng với quyết tâm “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” để còn “đảm nhiệm" một hướng tiến quân quan trọng cùng các cánh quân khác giải phóng Sài Gòn, mà Bộ Tổng tư lệnh đã trao, Quân đoàn đã không chỉ phá tan được “lá chắn” Phan Rang còn giải phóng tiếp Phan Thiết, Tuy Phong, Hàm Tân... đảm bảo đúng 3 giờ sáng ngày 24 tháng 4, toàn Quân đoàn đã có mặt ở vị trí tập kết cùng hướng nòng súng về phía sào huyệt cuối cùng của địch.


Trong đợt tiến quân “thần tốc” này mỗi ngày lữ đoàn xe tăng của Thận đã đi được tới 180 ki-lô-mét. Đấy là tốc độ kỷ lục đối với loại xe tăng hạng nặng chạy bằng xích sắt.

Với sức đột phá cực mạnh và tốc độ kỷ lục đó mà ngày 23 tháng 4 tại Suối Cát, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 của anh đã được Quân đoàn trao cho nhiệm vụ trọng yếu: “Bộ binh sẽ đánh chiếm cầu xa lộ Long Bình. Sau đó toàn Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 thành đội hình tập trung làm mũi xung kích chủ yếu của Quân đoàn đánh thẳng từ Biên Hòa vào tới dinh Độc Lập, Sài Gòn”.


Khi nghe chính ủy Lữ đoàn Bùi Văn Tùng truyền đạt lại mệnh lệnh đó của Quân đoàn, Bùi Quang Thận và cán bộ chiến sĩ trong đại đội anh đã mừng vui hết nói. Trong đợt tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng của địch với những người lính còn gì hạnh phúc, vinh quang hơn là được đánh thẳng vào cơ quan đầu não, cắm một nhát dao vào trái tim của chúng.


Nhưng để có được niềm vinh quang đó, bao khó khăn thử thách ở phía trước đang chờ. Bởi thế ngày 26 tháng 4, quyết tâm của các anh càng được củng cố bằng nghị quyết của Đảng ủy Lữ đoàn: “Dù bộ binh chưa chiếm được cầu Long Thành, xe tăng cũng kiên quyết vượt lên phá vỡ phòng tuyến địch, chọc thẳng vào Sài Gòn, chiếm dinh Độc Lập”.


Song rất may mắn cho các anh. Đêm 26 tháng 4, khi Quân đoàn đồng loạt nổ súng tấn công ba cứ điểm lớn Nước Trong, Long Thành, Bà Rịa, các chiến sĩ của Trung đoàn 116 đặc công đã chiến đấu cực kỳ tài trí và anh dũng lúc mà địch còn đang phòng thủ dày đặc để chiếm được cầu Long Bình rồi tiếp đêm sau chiếm được cả cầu Sài Gòn. Địch đã dùng cả xe tăng phản kích điên cuồng giành giật lại trong mấy ngày liền. Nhưng các chiến sĩ đoàn 116 vẫn kiên cường chiến đấu giữ được cầu để đến sáng 30 tháng 4, từ ngã tư Thủ Đức, toàn bộ đội hình hơn 100 xe tăng, xe thiết giáp, pháo cao xạ, pháo mặt đất... của Lữ đoàn đã thành một hàng dọc vừa đi vừa đánh địch mà tiến thẳng vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Đường tới toàn thắng
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Tư, 2021, 07:24:06 am
Cuộc chiến đã diễn ra quyết liệt bên cầu Sài Gòn. Sau khi đã chọc thủng, phá tan các tuyến phòng thủ của địch trên đường mà hai xe tăng của ta đã bị địch bắn cháy, bảy chiếc xe tăng thuộc đại đội 1 của Bùi Quang Thận đã được lệnh vượt lên dẫn đầu đội hình. Cũng như anh em trong Lữ đoàn, ngồi trên xe tăng của mình, Thận và cán bộ, chiến sĩ trong đại đội anh đều thuộc lòng một lời chỉ dẫn vắn tắt: “Vượt qua cầu Thị Nghè, đi thẳng theo đường Hồng Thập Tự, đến ngã tư thứ bảy rẽ sang trái thì đến dinh Độc Lập!”.


Cầu Thị Nghè đây rồi! Nhưng để tới được đây, từ sáng đến giờ, riêng Tiểu đoàn 1 của Thận đã phải đánh trả bao đợt phản công, bắn cháy 10 xe tăng, xe thiết giáp của địch. Nhiều đồng chí trong đó có thượng úy Ngô Quang Nhỡ - Tiểu đoàn trưởng của anh đã ngã xuống khi chỉ còn vài giờ nữa là thắng lợi hoàn toàn.


Qua cầu Thị Nghè, ba xe tăng đi đầu trong đại đội của Thận, chiếc thứ nhất mang số hiệu 843 do Thận trực tiếp là xe trưởng, chiếc thứ hai mang số hiệu 390 do chính trị viên Vũ Đăng Toàn trực tiếp chỉ huy, chiếc thứ ba mang số hiệu 387 do trung đội trưởng Lê Tiến Hưng làm xe trưởng, cả ba cùng rầm rầm lăn xích trên đường Hồng Thập Tự. Tưởng đến đây các anh chỉ còn qua bảy ngã tư nữa là đến dinh Độc Lập. Nhưng không, bọn địch vẫn rất ngoan cố chống trả, mặc dù trên đài Sài Gòn đang phát đi lời kêu gọi ngừng bắn để “thương thuyết (!)” của tổng thống Việt Nam cộng hòa. Hai xe M.41 điên dại lao ra bắn loạn xạ. Một chiếc bị xe tăng của chính trị viên Vũ Đăng Toàn bắn cháy. Chiếc thứ hai cũng bị tan xác ngay trước nòng pháo xe tăng của Bùi Quang Thận.


Đi được một quãng, Thận cho xe dừng lại hỏi hai tên lính ngụy mặc quần áo rằn ri đang chạv trên đường:

“Các anh biết dinh Độc Lập ở đâu không?” - Một tên trả lời: - “Em biết!”. Anh cho tên này lên xe dẫn đường. Tuy vậy ở trên xe Thận vẫn cất tiếng hỏi dồn dập những toán người đang chạy ngược chiều với xe các anh: “Dinh Độc Lập ở đâu? Dinh Độc Lập ở đâu?”. Một cô gái trong số đó đã ngước nhìn anh bằng ánh mắt long lanh, dịu hiền, nhanh nhảu đáp:

- Các anh đang đi tới gần dinh Độc Lập rồi đó. Từ đây rẽ sang trái tới đại lộ Thống nhất, đi đến cuối lộ là cổng dinh Độc Lập!


Thận cảm ơn cô gái. Anh cho tên lính ngụy xuống. Khi đó đồng chí Tu chỉ huy chiếc xe tăng 879 dẫn đầu một bộ phận ngoặt luôn, còn xe của Thận và xe của Toàn tiến thẳng vào phía cổng chỉnh tạo thành hai mũi tấn công như hai gọng kìm đột thẳng vào dinh Độc Lập.


Đây rồi! Trước mặt Thận là một tòa nhà lớn nhiều lầu, màu trắng toát, ngự trị trong một khuôn viên rộng mênh mông được bao bằng một hàng rào màu trắng. Trên nóc tòa nhà, bên cạnh những dàn ăng-ten là một cột cờ ở chính giữa và ở trên đó là cờ ba que đang vật vờ như bóng ma nhơ nhuốc.


Thận nhận ngay ra đó là dinh Độc Lập. Hai chiếc xe tăng 843 và 390 nối nhau rầm rầm tiến thẳng vào trước cổng. Khi xe đến cách cổng chừng 10 mét, Thận thấy rất rõ ngay những lời cảnh báo “Khu quân sự, vượt rào, lính nổ súng!” treo la liệt xung quanh dinh, cần chi phải vượt rào, chiếc xe tăng của Thận liền húc thẳng vào cổng phụ bên trái. Nhưng xe của anh chưa tiến ngay được vào sân dinh. Thấy thế, Vũ Đăng Toàn lệnh cho Nguyễn Văn Tập nhấn ga rồ máy, húc bật hai cánh cổng sắt cổng chính đang khép kín, lao vào giữa sân, để chiếc xe tăng mang số hiệu 390 được ghi dấu ấn trong lịch sử là chiếc xe tăng đầu tiên của quân đội ta tiến vào dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng mang số hiệu 843 của Thận bám sát tiếp sau. Và khi xe vừa lọt qua cổng, Bùi Quang Thận liền rút cần ăng-ten có lá cờ cách mạng vẫn cắm trên đầu xe tăng của anh rồi nhảy lẹ xuống khỏi xe chạy thẳng vào tòa nhà lón trước mặt. Nhiều Ống kính máy chụp hình, quay phim của các phóng viên trong và ngoài nước trong đó có Francoise Demulder, nữ ký giả nổi tiếng người Pháp đã ghi lại hình ảnh của lịch sử về những chiếc xe tăng và các anh lúc này. Ở đây, khi bước lên tiền sảnh, người đầu tiên gặp anh là một viên chuẩn tướng. Sau này anh mới biết viên chuẩn tướng có vóc dáng cao lớn ấy là ông Nguyễn Hữu Hạnh - một “cơ sở” trong hàng ngũ địch mà binh vận ta móc nối được đã góp phần làm rã từ “đầu não” địch trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn này. Phía sau Hạnh là tổng thống ngụy Dương Văn Minh và cùng 30 người khác. Đó là phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu cùng “nội các” của Mẫu. Họ có mặt khá đầy đủ ở đây để theo như kế hoạch 10 giờ 30 phút sáng nay “nội các” của Vũ Văn Mẫu sẽ ra mắt. Nhưng “lễ ra mắt” của họ đã biến thành “lễ tiếp đón” Quân giải phóng.

Thận nhìn suốt một lượt bọn họ, rồi hỏi:

- Ai là Dương Văn Minh?

- Thưa ông, tôi đã ra lệnh cho quân đội của chúng tôi buông súng và đang sẵn sàng đón các ông.

Không cần dừng lại ở đây lâu, bởi vì “nói chuyện” với “bộ phận đầu não này” đã có các đồng chí trong Bộ Chỉ huy Quân đoàn và lữ đoàn đang sắp vào tối dinh. Bùi Quang Thận dõng dạc bảo tướng Minh:

- Ông cho người đưa ngay tôi lên tầng gác cao nhất để cắm cờ!

- Dạ, thưa ông, chúng tôi có người đưa ngay! - Dương Văn Minh sốt sắng đáp và cử ngay người làm việc này.


Bùi Quang Thận thoăn thoắt bước lên các bậc cầu thang. Khi lên đến nóc tầng cao nhất của dinh Độc Lập, anh giật phắt lá cờ úa vàng ba que xuống. Diềm cờ nhùng nhằng. Anh dùng răng cắn đứt, vứt lá cờ xuốhg và đạp lên như đạp một thứ rác rưởi dưới chân mình. Xong, anh liền rút chiếc bút máy ở túi ngực viết lên góc lá cờ Giải phóng đã từng phấp phới bay trên đầu xe tăng của anh trong suốt quá trình tham gia chiến dịch đang còn đầy cát bụi trường chinh một dòng chữ vắn tắt: “11 giờ 15 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Thận treo cờ!”. Anh thận trọng buộc chặt hai đầu vào mấu rồi trương lá cờ Giải phóng trên nóc dinh Độc Lập.


Đây là lá cờ Giải phóng đầu tiên và được treo ở vị trí cao nhất trên nóc dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngọn cờ được gió thổi lồng lộng tung bay trong nắng Sài Gòn. Thận và các đồng chí trong đại đội xe tăng của anh có mặt lúc này cùng đứng nghiêm, xúc động ngước nhìn lên lá cờ vinh quang đã dẫn đương cho các anh đi đến ngày toàn thắng mà thấy nơi khóe mắt mình cay cay. Hình ảnh Tiểu đoàn trưởng Nhỡ ban sáng cùng biết bao đồng bào, đồng chí đã ngã xuống đang như hiện lên trước mắt anh. Và hiện lên rõ hơn tất cả là bóng dáng và khuôn mặt hiển hậu của Bác Hồ kính yêu, Người đã đưa đường cho cả dân tộc Việt Nam ta tới đích hôm nay, lúc này như đang tươi cười, giơ tay chào vẫy các anh, chào vẫy đồng bào cả nước...


Lúc này là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lịch sử đã sang trang. Sài Gòn - “hòn ngọc Viễn đông” như bừng lên rực rỡ. Cả thành phố mà sau đó không lâu đã vinh dự được mang tên Bác Hồ kính yêu. Xung quanh dinh Độc Lập bây giờ không chỉ còn có những xe tăng, bệ pháo và đồng đội của Bùi Quang Thận. Anh cảm giác như cả thành phố Sài Gòn đang đổ cả về đây với những nụ cười và bàn tay chào vẫy. Bà con quây tròn lấy các anh xiết đỗi mừng vui. Và, chẳng ai bảo ai tất cả đều cùng ngước mắt nhìn lên lá cờ Tổ quốc đang phần phật bay trên nóc dinh Độc Lập với bao nỗi khát khao giờ đây mới hả dạ, thỏa lòng.


Thành phố Hồ Chí Minh Xuân 2005